Người thi ơn không đòi phải biết ơn, không đòi phải có đáp đền, nhưng người nhận ơn không tỏ lòng biết ơn thì thua con chó người ta nuôi trong nhà !
Người nhận ơn phải tỏ cử chỉ biết ơn vì:
- Giá trị kinh tế vật càng đắt thì ơn càng nặng.
- Nhận quà tặng là cắt xén một phần sự sống nơi người thi ơn. Ví dụ: Tôi nhận của một bà cụ một chục trứng, là bà phải nhịn ăn, bớt khoẻ, bớt sống !
- Người nhận ơn phải biết là mình được chọn trong muôn người. Vì tại sao người khác còn khổ hơn tôi mà họ không có người giúp còn tôi?
Chính Thánh Phaolô đã nhận ra giá trị này khi ông nói: “Tôi là người thứ nhất được Chúa cứu độ” (I Tm. 1,15), “Chúa đã yêu tôi, liều chết vì tôi” (Gal. 2,20), chứ không phải chỉ vì Chúa thương mọi người mà thôi !
Tuy nhiên Thiên Chúa không cần người ta phải tỏ lòng biết ơn Ngài như người đời, vì lời tạ ơn của ta không thêm gì cho Chúa. Nhưng phải tạ ơn theo ý Chúa dạy để đem lại ơn cứu độ cho ta. MỤC ĐÍCH CHÚA BAN ƠN Có quyền nói ngay: Chúa ban ơn cho thể xác để thăng tiến Đức tin và nhất là để được ơn cứu độ: 1/ Được ơn thể xác để thăng tiến Đức tin: Naaman về làm theo lời ngôn sứ Elysê, ông được ơn khỏi cùi, nhờ đó Đức tin ông thăng tiến: a. Chỉ nhận Giavê là Chúa: Naaman là người ngoại Giáo, sau khi được khỏi cùi, ông tuyên xưng Đức tin trước mặt mọi người: “Khắp cả và Thiên hạ, không đâu có Thiên Chúa, trừ phi là ở Israel, và cụ thể từ nay tôi không dâng thượng hiến và lễ tế thần linh cho một Đấng nào khác ngoài Chúa”(2 V.5,15.17b) Không biết những người việt chúng ta nghĩ sang ngoại quốc sống là một ơn Chúa, thì khi ở nước ngoài có đạo đức, có thăng tiến Đức tin hơn khi còn ở Việt Nam hay không ? Hay ngược lại?
b. Nhận ra chỉ có đất Israel là Đất Thánh:
Vì ơn cứu độ phát xuất từ Do Thái (Ga 4,22), hay ơn cứu độ bung lên từ Giêrusalem đi khắp thế giới. Tư tưởng này tác giả Luca đã diễn tả trong Tin Mừng hôm nay: “Đức Giêsu lên Giêrusalem Ngài đã ngang qua Samari và Galilê” (Lc 17,11). Như thế là đi ngược tuyến đường sao? Vì theo nhất lãm, đời công khai trong 3 năm của Chúa chỉ có một lộ trình từ Galilê đến Samari tới Giêrusalem.
Naaman đã nhận ra Giá trị đất Israel, đất Giêrusalem, nơi xuất phát ơn cứu độ, cho nên khi ông về Syria quê ông sinh sống, ông cũng chỉ muốn sinh hoạt tôn giáo của ông trên đất Israel, do đó ông xin Elysê ít đất bằng hai con la trở về nhà để ông lập bàn thờ kính Chúa.
Niềm vui tôn giáo này của Naaman chứng tỏ ông không còn là người ngoại, mà là người Israel mới, vì người Do Thái xác tín rằng: Bài ca kính Chúa trời, làm sao ta hát nổi. Nơi đất khách quê người (ở Babylon hay ở Syria). Giêrusalem hỡi lòng này nếu quên ngươi, thì ta gãy đàn thành tê bại !(Tv 136 4-5)
Biết bao người ngoại Giáo được ơn Chúa, hỏi sau đó được mấy người vào Hội Thánh là đất Israel mới để ca tụng Chúa?
2/ Chúa cứu thể xác phải là dấu chỉ Chúa cứu Linh hồn:
Mục đích Chúa Cha ban tặng con một Ngài cho thế gian, nhờ Đức Giêsu Kitô, con người được sống đời đời là chứng nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất và Chân thật, và Đấng Cha đã sai, Giêsu Kitô”(Ga 17,3)
Như thế ơn thể xác chỉ là sự sống biểu kiến ; nhận ra Thiên Chúa độc nhất như ông Naaman là người đang đi đến sự sống đời đời; chỉ có 1/10 người khỏi cùi nhận ra Đức Giêsu Kitô, Đấng Cha đã sai, và tôn thờ Ngài là Chúa duy nhất, người cùi Samari này mới đạt được sự sống đời đời và như thế chỉ có người này mới đạt được trọn vẹn mục đích Chúa ban ơn, được cứu cả xác lẫn hồn (người Do Thái xưa không lạy ai trừ Thiên Chúa mà người cùi Samari này đã làm).
B. LỜI TẠ ƠN CHÚA CHỈ ĐƯỢC HOÀN TẤT TRONG ĐỨC GIÊSU KITÔ:
Tại sao chín người Do Thái khỏi cùi kéo nhau lên Giêrusalem để trình diện với hàng tư tế và dâng lễ tạ ơn theo luật dạy (Lv 14,2-20), mà Đức Giêsu không chấm giá trị, Ngài hỏi người cùi Samari: “Không phải là cả 10 người được khỏi cùi sao? 9 người kia đâu, sao không thấy họ trở lại mà chúc vinh Thiên Chúa, trừ phi con người dị chủng này?” (Lc 17,17-18).
Câu hỏi này chính là Đức Kitô muốn tuyên bố nghi thức phụng vụ của Do Thái Giáo đã đến lúc phải chấm dứt, vì đó chỉ là hình bóng của phục vụ Thiên quốc, chỉ có phụng vụ “Chính nhờ Giêsu, với Giêsu và trong Giêsu, mọi chúc tụng và vinh quang đều quy về Thiên Chúa là Cha, cùng với Chúa Thánh thần” (lời kết kinh nguyện Thánh Thể). Đây mới là phụng vụ Thiên Chúa chấp nhận, như lời Chúa Giêsu đã nói và chỉ phụ nữ Samari: “Này bà hãy tin Ta, sẽ đến giờ không phải trên núi Saridim hay tại Giêrusalem, mà các ngươi thờ phượng Cha ! Nhưng giờ sẽ đến - và là ngay bây giờ - những kẻ thờ phượng Thiên Chúa đích thực sẽ thờ phượng Cha trong Thần Khí và Sự Thật, vì Cha chỉ muốn gặp thấy những kẻ thờ phượng Người như thế”(Ga 4, 21.23).
“Thờ phượng Cha trong Thần Khí và Sự Thật”, theo thư Do Thái, Thánh Phaolô nói: “Phụng vụ Chúa Giêsu thiết lập cho Hội Thánh đã thay thế cho phụng vụ Do Thái Giáo”.
Vậy người ta không được nói trống: Chúa ở khắp mọi nơi, thờ Chúa ở đâu cũng được dù trong Lời Chúa cũng biết, cũng đủ rồi ! Mà phải xác tín rằng: ai thờ Chúa đích thực họ phải:
- Thuộc về Hội Thánh qua Bí tích Thánh Tẩy.
- Tôn thờ Thiên Chúa trong Phụng vụ của Hội Thánh, nhất là dâng lễ (Thánh Thể)
Như thế, khi người ta coi thường Phụng vụ của Hội Thánh: không dự kinh Phụng vụ, không lãnh nhận Bí tích; đi lễ không nghe Lời Chúa, không rước lễ mà lại sốt sắng làm các việc đạo đức khác, thì cùng lắm họ chỉ như chín người cùi lên đền thờ trong Tin Mừng hôm nay. Mà ta biết, cả người phàm như Elysê còn không muốn nhận lễ vật vàng bạc, Châu báu của Naaman (xem 2V; 5,15-16), huống hồ Thiên Chúa làm chủ muôn vật lại thèm khát báu vật dâng ngoài phục vụ của Hội Thánh sao?
Tuy nhiên lời tạ ơn Chúa cũng không chỉ dừng lại trong phụng vụ, mà cả đời chịu ơn Chúa phải gắn liền với Đức Kitô như mẫu người của Phaolô trong bài đọc II hôm nay: Tôi bị xiềng xích bởi Tin Mừng vì các kẻ được chọn lãnh phúc trong Đức Kitô (2tm, 2,9-10)
Bị Tin Mừng xiềng xích là sao? Đó là kẻ tin Chúa nhất cử nhất động, từ tư tưởng, lời nói, việc làm của họ phải do Tin Mừng cho phép, thúc đẩy, phù hợp ý Chúa.
Một người sống như thế khi họ dâng lễ, chính đời họ là của lẽ kết hợp với của lễ Đức Giêsu Kitô đang dâng lên Chúa Cha tuyệt hảo nhất
Trong Thánh Lễ mỗi ngày ta tham dự, nếu chưa sống được thế, ta hãy sám hối và xin Chúa ban ơn giúp thực hiện được niềm tin đi vào mầu nhiệm ơn cứ độ đã được Giáo lý hôm nay dạy.
Tháng 9 năm 1973 hai ông bà Dan Matile ở bang Cansas xin vị linh mục dâng lễ tạ ơn cho: hai con là Ghene và Joe được thành công và an toàn trong trận đấu chung kết vô địch của trường cao đẳng quốc gia Rodeo tổ chức tại Ogden, bang Utah. Hai con của hai ông bà đạt giải nhất đồng đội quyền anh. Sau khi thắng trận đấu, ông bà Matiles xin linh mục dâng thánh lễ tạ ơn.
Ong bà Matiles đã tỏ lòng biết ơn một cách hoàn hảo – trong và qua thánh lễ. Họ giống người phong cùi biết ơn trong bài Tin Mừng hôm nay, anh trở lại để cám ơn Chúa Giêsu đã chữa anh khỏi bệnh. Có rất nhiều người giống như 9 người vô ơn kia, họ đã được chữa lành mà không biết tỏ lòng biết ơn.
Từ lễ Chúa nhật trước tới giờ bạn đã cám ơn Chúa được bao nhiêu lần ? Ngay cả khi dự lễ, bạn có thường nghĩ đến việc tạ ơn Chúa không ? Bạn phải nhớ: vì thánh lễ là cách thức hoàn hảo cảm tạ Thiên Chúa vì muôn ơn lành Thiên Chúa đã ban: hoặc là thắng trận hoặc là khỏi bệnh cùi.
Thánh lễ còn được gọi là lễ tạ ơn. Mục đích trước hết của lễ hy sinh là tôn vinh Thiên Chúa nối kết với lời tán dương là cảm tạ. Bạn nhớ cách thức người phong cùi trở lại với Chúa Kitô, Đấng chữa anh khỏi bệnh: “Lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa và cúi mình dưới chân Chúa Giêsu, cảm tạ Người “. Đó là điều chúng ta làm trong thánh lễ.
Hãy để ý bao nhiêu lần danh từ: “cảm tạ” được dùng trong thánh lễ. Trong kinh vinh danh: “Chúng con cảm tạ Chúa... vì vinh quang Chúa. Thường lời mở đầu một bài cầu nguyện có chữ “cám ơn” cho ngày lễ hay mầu nhiệm chúng ta cử hành. Bài ca tiền tụng khởi đầu: “Cảm tạ Chúa mọi nơi, mọi lúc là nhiệm vụ và là sự cứu rỗi chúng con”. Ngay trước khi truyền phép, vị linh mục nhắc lại: Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn cha trên trời... cùng cách thức, khi Người cầm chén” chúng con cảm tạ cha vì đã kể chúng con xứng đáng đứng trước tôn nhan Cha và phụng sự Cha”. Khi chúng ta rước lễ, chúng ta phải tán tụng và thờ lạy Chúa chúng ta, nhưng chúng ta cũng phải cảm tạ người như lời nguyện hiệp lễ của Chúa nhật thứ 7 phục sinh: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con luôn biết ơn vì những hồng ân bí tích chúng con vừa lãnh nhận”.
Vâng, lạy Chúa, xin làm cho chúng con luôn biết ơn vì mọi hồng ân của Chúa: thiêng liêng cũng như vật chất. Lạy Chúa, xin làm cho chúng con luôn bày tỏ sự cảm tạ như Chúa Giêsu đã làm. Lạy Chúa, xin làm cho chúng con có tinh thần biết ơn được bày tỏ nơi gia đình trong câu chuyện và nơi người phong cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Lạy Chúa xin cho chúng con biết bày tỏ lòng biết ơn trong và qua thánh lễ, một phương cách hoàn hảo để nói: “Cảm tạ Chúa”.
Theo lề luật Do thái, bệnh phong hủi phải được một tư tế kiểm chứng và kẻ bất hạnh bị tuyên bố là ‘ô uế’, bị gạt ra ngoài lề xã hội, nói với ai phải đứng đàng xa. Tên bệnh ấy thời xưa chỉ nhiều chứng bệnh ngoài da. Lâu lâu có người khỏi bệnh, họ cũng phải được một tư tế kiểm chứng, sau đó được trở về sinh hoạt bình thường. Như vậy, chúng ta hiểu tại sao Đức Giêsu dạy mười kẻ tật phong hãy đi trình diện các tư tế để được nhìn nhận lành bệnh. Trong số mười bệnh nhân, chỉ có mỗi một kẻ trở lại tạ ơn Thiên Chúa. Sau khi nêu rõ sự vô ơn của chín bệnh nhân kia, Chúa nhấn vào ba điểm: Kẻ biết ơn quê xứ Samaria, nghĩa là một kẻ ngoại giáo đối với người Do thái –kẻ ấy công khai tôn vinh Thiên Chúa– và được chữa lành vì có đức tin. Một số người nghĩ rằng, Chúa giải thích như vậy, phải chăng Người muốn gián tiếp xác nhận thần tính của Người. Dẫu sao chúng ta có thể nêu ra hiểm họa tội vô ơn nấp trong lòng người ta, nó là hình thức gớm ghiếc nhất của tính ích kỷ. Chúng ta cũng nhấn thêm vào bổn phận cảm tạ Thiên Chúa.
1) Tại sao chín kẻ phong hủi không nghĩ đến việc phải làm trước hết là trở lại tạ ơn Đức Giêsu?
Chắc hẳn họ hấp tấp muốn được xác nhận khỏi bệnh thật sự để sớm trở về trong xã hội. Họ quan tâm trước nhất đến việc đó, họ chỉ biết nghe theo tư lợi mà quên bẵng việc tạ ơn, hoặc giả nghĩ rằng tạ ơn sau cũng được, nghĩa là sẽ tạ ơn vào lúc quá muộn. Giữa một bên là quyền lợi về mặt xã hội vì khỏi bệnh, bên kia là tâm tình muốn tạ ơn tức khắc, họ đặt ưu tiên cho quyền lợi của họ. Đức Giêsu tỏ thái độ bằng cách lên án chủ nghĩa hình thức, nó bóp nghẹt tâm hồn. Chúa còn lên án như vậy nhiều lần nữa, nhất là khi nói đến ngày Hưu lễ. Không bao giờ Chúa coi rẻ Lề Luật, nhưng Người cho biết tín hữu nào tuân thủ Lề Luật mà thiếu đức tin sống động thì chẳng còn giữ được tình nghĩa con người. Chúng ta kết luận: Nếu vì tuân thủ Lề Luật, dẫu là Lề Luật Kitô giáo, mà quên mất những đức tính tự nhiên hoặc không nhớ đến sự khẩn thiết trước tiên của đời sống nội tâm –con người lúc đó không còn giữ được tinh thần tuân thủ đích thực.
2) Bổn phận tạ ơn.
Theo định nghĩa tôn giáo; tạ ơn là tâm tình biết ơn, thán phục, tôn vinh, sùng kính, dâng lên Thiên Chúa. Phúc Âm và Tân Ước trình bày Đức Giêsu là hiện thân của sự tạ ơn. Phúc Âm cho thấy con người ít có xu hướng tạ ơn không vị lợi, trong khi Đức Giêsu thì thường xuyên trong trạng thái tạ ơn Cha Người. Theo lời khuyên của thánh Phaolô, thái độ gương mẫu của Đức Giêsu phải là thái độ tất nhiên của người Kitô hữu. “Anh em hãy để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ” (Cl 2,7) – vì nhiều lẽ: vì ân huệ đức tin, vì ơn cứu chuộc, vì đức ái của Đức Kitô tràn đầy tâm hồn, vì Thánh Thần ngự trong Kitô hữu. Sống kết hợp với Đức Kitô là sống trong niềm tạ ơn Thiên Chúa.
Mười người phong đón gặp Đức Giêsu. Họ chỉ dám đứng xa, nài xin Ngài thương xót. Đức Giêsu không chữa cho họ ngay, Ngài muốn thử thách lòng tin của họ. Ngài bảo họ hãy đi trình diện với các tư tế như thể họ đã được khỏi bệnh rồi. Mười người phong đã vâng phục lên đường, và chính trên đường đi, tất cả được khỏi bệnh.
Niềm vui bất ngờ ùa vào lòng mọi người. Cả nhóm tiếp tục cuộc hành trình, trừ một người phong ở vùng Samari.
Lòng biết ơn đối với Đức Giêsu khiến anh quay lại, sấp mình dưới chân Ngài mà tạ ơn.
Chín người kia đâu?
Đức Giêsu ngạc nhiên đặt câu hỏi.
Chắc họ đã đi trình diện các tư tế như lời Đức Giêsu, nhưng họ quên Đấng mới ban ơn cho họ.
Họ vui mừng ngừng lại ở quà tặng, nhưng không vươn tới người tặng quà.
Họ đã có lòng tin nên được khỏi bệnh, nhưng họ lại thiếu lòng biết ơn cần thiết.
Lòng biết ơn khiến lòng tin trở nên sâu xa hơn, vì là gặp lại chính Đấng đã ban tặng.
Chín người kia đâu?
Đức Giêsu không làm phép lạ để được biết ơn. Ngài mong những người kia trở lại để gặp họ, và trao cho họ chính con người Ngài. Điều này còn quý hơn cả ơn được khỏi bệnh.
Ơn lành bệnh chỉ là nhịp cầu để ta gặp gỡ Đấng ban ơn, và lớn lên trong niềm tin cậy mến.
Chín người kia đâu?
Có khi tôi thường thuộc về nhóm chín người. Tôi quá quen với những ơn Chúa ban, đến độ thấy đó là chuyện bình thường, đến độ không thấy cần phải tỏ lòng biết ơn.
Thật ra, biết ơn phải là tâm tình chủ yếu chi phối lời cầu nguyện và cuộc sống của tôi.
Toàn bộ đời tôi là một hồng ân, một quà tặng. Tôi muốn sống đời tôi như một lời tạ ơn không ngừng.
Tạ ơn là mãn nguyện về những gì đã lãnh nhận, là thấy mình được bao bọc bởi Tình Yêu, và muốn làm mọi sự để đáp lại Tình Yêu đó.
Người phong vùng Samari đã trở lại tôn vinh Thiên Chúa, vì Ngài đã chữa anh lành bệnh qua Đức Giêsu. Chúng ta cũng đã nhận được biết bao ơn Chúa từ tay những người xa lạ hay thân quen.
Xin cám ơn cuộc đời, cám on mọi người.
Đời tôi là quà tặng của Chúa cho tôi. Ước gì nó thành quà tặng của tôi cho mọi người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngày nay người ta nói nhiều về lòng biết ơn đối với thầy cô, cha mẹ. Theo bạn, tại sao nhiều bạn trẻ vẫn sống một cách lãnh đạm, vô ơn?
Có khi nào bạn tạ ơn Chúa vì những khó khăn và vấp ngã trong cuộc sống không? Bạn có thấy những mảng tối trong đời bạn cũng có thể là một ơn không?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha đã ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem để chịu khổ hình, hoàn thành việc cứu độ. Chính lúc đi ngang qua Samaria, nhất là qua việc cứu chữa mười bệnh nhân phong, Chúa cho thấy một vài đặc điểm của ơn cứu độ.
Ơn cứu độ là phổ quát.
Chúa muốn cứu độ hết mọi người không loại trừ ai. Nên Chúa đi qua Samaria. Samaria là vùng đất cấm kỵ đối với người Do Thái. Đó là vùng đất ngoại đạo. Đó là vùng đất ô uế. Người Do Thái và người Samaria không giao thiệp với nhau. Nhưng Chúa đã vượt qua ranh giới cấm kỵ đó. Chúa muốn đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Tại Samaria Chúa còn gặp gỡ mười người phong cùi. Lại một cấm kỵ nữa. Người phong cùi vốn bị coi là hạng người tội lỗi, ô uế. Ai gặp họ đều trở nên ô uế. Họ bị loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Tại Samaria, những người phong cùi là những người ở tầng lớp cuối cùng của xã hội. Chúa đem ơn cứu độ cho mọi người, kể cả những người bị khinh miệt nhất, bị quên lãng nhất, bị hất hủi nhất. Ơn cứu độ Chúa ban cho tất cả mọi người. Trước mặt Chúa mọi người đều bình đẳng.
Ơn cứu độ là nhưng không.
Không ai dám nghĩ đến việc mời Chúa xuống trần gian. Không ai có công trạng gì khiến Chúa phải xuống trần gian để tưởng thưởng hay để đền đáp. Chúa xuống trần gian hoàn toàn do lòng nhân từ yêu thương của Chúa. Cũng thế, người Samaria hoàn toàn bất ngờ khi Chúa đến miền đất của họ. Những người phong cùi lại càng không bao giờ dám mơ tưởng tới. Bản thân họ đã bị lên án, bị loại trừ rồi. Ngay việc gặp một người bình thường đã không được phép, huống chi là gặp gỡ Chúa. Nhưng Chúa đã đến gặp gỡ họ, ban ơn cứu chữa họ. Hoàn toàn nhưng không. Họ chẳng có công gì. Họ chẳng có quyền đòi hỏi gì. Họ chỉ có nỗi đau khổ tột cùng. Chính nỗi đau khổ đó đã khơi dậy lòng yêu thương của Chúa. Vì Chúa là tình yêu thương.
Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm tin.
Tuy ơn cứu độ được ban rộng rãi và nhưng không, nhưng để đón nhận đòi phải có niềm tin. Những người phong cùi hôm nay đã bày tỏ niềm tin qua hai thái độ. Thái độ thứ nhất là đồng thanh lớn tiếng kêu cầu danh Chúa Giêsu: “Lạy Thày Giêsu, xin cứu chúng tôi”. Danh Thánh Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Từ cùng tận nỗi đau khổ, những người phong cùi đã kêu van bằng tất cả tấm lòng tha thiết và với niềm tin vững chắc. Chỉ có Chúa mới thương xót họ. Chỉ có Chúa mới đủ quyền năng cứu chữa họ. Thái độ thứ hai là đi trình diện với thày tư tế. Chúa không chữa họ ngay nhưng bảo họ đi trình diện với thày tư tế. Dù chưa được khỏi, nhưng họ vẫn tin tưởng lên đường. Đang khi đi đường thì họ được khỏi. Đức tin đã chữa họ.
Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm vui.
Đây là niềm vui trong mối tương giao giữa Thiên Chúa với con người. Cốt lõi của ơn cứu độ là thiết lập mối tương giao, cho con người được trở nên con cái Thiên Chúa, đồng hưởng hạnh phúc với Chúa. Đó là cội rễ của niềm vui, niềm hạnh phúc. Chín người bệnh không trở lại chỉ có niềm vui được khỏi bệnh, nhưng không có niềm vui trong mối tương giao với Thiên Chúa. Họ có đức tin cầu xin nhưng thiếu đức tin gặp gỡ với Thiên Chúa. Niềm vui được khỏi bệnh rồi cũng sẽ nhạt phai. Chỉ có một người trở lại tạ ơn. Anh trở lại vì mối tương giao. Anh nhận biết nguồn gốc niềm vui của mình. Anh sụp lạy Chúa vì biết nguồn gốc hiện hữu của mình. Anh đã tìm thấy nguồn cội ý nghĩa đời mình. Niềm vui của anh sẽ còn mãi mãi. Đời anh sẽ là một đời tạ ơn không ngừng.
Lạy Chúa, xin cho con biết tìm đến gặp gỡ Chúa để tạ ơn Chúa. Chính niềm vui tạ ơn này đem đến cho con hạnh phúc suốt đời con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Vì sao Chúa ban ơn cứu độ cho ta và ta phải đón nhận với thái độ thế nào?
2) Đức tin cầu xin và đức tin gặp gỡ Chúa khác nhau thế nào? Bạn đã tiến đến đâu trong đời sống đức tin?
3) Có những miền đất, những con người nào mà bạn coi là cấm kỵ khiến bạn chưa dám tiếp cận không? Với gương Chúa Giêsu hôm nay, bạn sẽ làm gì?
4) Biết ơn rất cần trong đời sống tự nhiên. Bạn có biết ơn trong đời sống siêu nhiên không?
Khi đến xin ơn khỏi bệnh phong thì cả nhóm mười người cùng đi, cùng chờ đợi, nhưng khi được ơn rồi thì mạnh ai nấy về, có lẽ mừng qúa nên chín người kia quên, quên một điều cơ bản của con người là cám ơn. Chúng ta thường bảo: họ thiếu nhân bản.
Ngay từ nhỏ, các em thuộc lớp tuổi nhà trẻ đã được dậy về lễ phép: cách xưng hô và nhất là biết cám ơn khi nhận được ân huệ. Trẻ em lễ phép chúng ta bảo trẻ ngoan, trẻ có nhân bản.
Một lần đi đến một giáo xứ, thấy cảnh tượng tưng bừng quá, dừng lại hỏi thăm, giáo dân cho biết hôm nay đón cha mới. Các ông, các bà chức việc, người lo tiệc tùng, người lo lễ nghi nhất là phụng vụ, thật là tấp nập vô cùng.
Trong bài diễn văn ông chủ tịch ban hành giáo cám ơn Đức Cha ba bốn lần vì đã đoái thương cho giáo xứ chúng con được một cha mới và hứa chúng con hết lòng vâng phục Đức cha...
Nhưng 13 năm sau, Đức Cha có lệnh đổi, trong ngày lễ nhận nhiệm sở của cha xứ mới các Cha và qúy khách được mời phải một phen hú vía, vì những hành động chống đối của nhóm người muốn giữ cha xứ cũ. Những lời cám ơn và lời hứa khi xưa, nay họ quên sạch.
Tôi suy nghĩ, tại sao vậy nhỉ? Làm việc đó để làm chi? Tôi tự nói với mình: Linh mục là cánh tay của Giám Mục, khi lãnh chức Linh Mục, vị nào cũng cám ơn Đức Giám Mục và hứa vâng phục khi ĐGM hỏi, thế mà nay phải đổi chỗ thì lại lập phe nhóm để phản đối, với lý do: Nhà thờ, nhà xứ do mình làm ra mà chưa được hưởng. Nhưng thực sự việc làm đó cũng chỉ vì bổn phận phải làm và khi làm cũng bằng tiền của giáo dân khắp nơi, chứ mình bỏ ra được đồng nào đâu, có chăng là sự điều hành và đâu phải một mình tôi biết xây nhà thờ, linh mục nào cũng làm được cả.
Nhân theo dõi world cup, tôi ví linh mục giống như cầu thủ trên sân cỏ biết nhận banh thì cũng phải biết nhả banh, có vậy thì toàn đội mới thắng lợi. Ung hộ các linh mục trong việc phục vụ Chúa và các linh hồn thì tốt, nhưng bị lôi kéo để đi đến gây chia rẽ trong việc sắp xếp nhân sự là một sai phạm lớn và chứng tỏ sự vô ơn đấy. Hơn nữa còn dậy cho trẻ em làm những việc này thì sau này phải lãnh hậu qủa đấy.
Không chỉ biết ơn trong lời nói mà cả bằng việc làm nữa. Biết ơn Chúa, không phải chỉ nói mà còn phải biết tuân phục thánh ý nữa. Biết ơn không chỉ những lúc được như ý mà cả khi không tọai nguyện. Biết ơn cũng là thái độ biết chuẩn bị để lãnh nhiều ơn khác.
Lạy Chúa dù trong nghịch cảnh, xin giúp con vẫn nhận biết ra: Đó là hồng ân Chúa ban.
Đọc Phúc Âm hôm nay khiến tôi nhớ đến chuyện gia đình sáu năm về trước. Thời ấy vào mùa Giáng Sinh tôi về thăm, cha tôi 95 tuổi đau nặng. Khi tôi có mặt ở nhà, ông mắc sốt rét. Chúng tôi giúp đỡ ông ăn vận sạch sẽ và đưa đến bệnh viện bằng xe lăn. Khi bác sĩ khám bệnh, ông bỗng nhiên hỏi tôi: “Ta sẽ mạnh lại chứ?”. Tôi cam đoan sẽ mạnh giỏi. Tôi sực nhớ tôi cũng hỏi cha tôi như vậy khi còn bé, và cha tôi trả lời đúng câu của tôi. Hoàn cảnh tương tự, chỉ khác người hỏi và đáp. Cha tôi và tôi đổi vị trí cho nhau. Khi còn bé, tôi hỏi cha và người âu yếm trả lời, lúc này người hỏi và tôi trả lời đầy thương yêu và kính trọng.
Về nhà, bà Mẹ đưa tôi xem tấm hình chụp cha tôi nhiều năm về trước. Lúc ấy ông khoảng ba mươi tuổi, làm nghề đưa thư ở vùng Brooklyn, cha tôi có nụ cười tươi, rộng, bước đi tự tin với cái túi đựng thơ trên vai. Trong túi đủ mọi thứ hàng hoá thuộc nghề nghiệp của ông: tạp chí, nhật trình, thơ từ, bưu phẩm, nặng cả bên vai. Tôi chăm chú nhìn vào tấm hình và nhớ lại lần đi bệnh viện vừa qua và câu ông hỏi tôi từ chiếc ghế xe lăn: “Liệu Cha khoẻ lại được không?”. Người đưa thơ đã trải qua một hành trình dài trong cuộc đời.
Người ta thường mô tả cuộc đời là một hành trình. Đúng vậy khi còn trẻ chúng ta đi học, chơi thể thao, kết bạn bè, lập gia đình và lên kế hoạch cho tương lai. Có những thành công và thất bại, hò hẹn, yêu đương, nghề nghiệp, con cái, lao động cực nhọc, trung thành, phản bội. Rồi đến thời kỳ già yếu, hưu trí, chắu chắt, bệnh hoạn và qua đời. Mỗi giai đoạn đều có đặc tính riêng, không thay thế được. Có những vui buồn sướng khổ, hỉ nộ, ái ố không giống nhau. Chẳng giai đoạn nào tốt hơn giai đoạn nào xét về tình cảm và công nghiệp, niềm vui và thách đố, cơ hội và ý nghĩa.
Dĩ nhiên dọc theo dòng chảy của cuộc sống, chúng ta để lại các dấu chân và khi nhìn lại sẽ thấy chúng khác nhau tuỳ vào từng giai đoạn. Có những lúc nhẹ nhàng và đầy tự tin giống như cha tôi với túi thơ trên vai. Nhưng cũng có lúc nặng nề và sâu đậm khi gặp khó khăn thử thách. Hơn nữa còn dấu vết của vấp ngãm trỗi dậy hoặc lê gối trên mặt cát. Một vài dấu lạc hướng hoặc sai đường mà nhìn lại chỉ thấy ân hận: “Tại sao tôi đã hành động như vậy? Tôi đã nghĩ chi vào lúa ấy? Nếu nhận ra tôi chẳng hề làm như vậy …”. Lúc này trước Thánh Thể chúng ta hỏi lương tâm như vậy.
Vậy hành trình của chúng ta không luôn tốt đẹp và thuận lợi. Nó thay đổi tuỳ vào hoàn cảnh và thời gian. Nhưng nó tỏ bày bản chất của mình. Bản chất luôn trôi nổi nếu không có bàn tay Thiên Chúa dẫn dắt. Phúc Am hôm nay có điều chi nói với chúng ta về chuyện này? Đức Giêsu cũng đang làm cuộc hành trình và hành trình về Giêrusalem. Ngài luôn biết rõ mình ở đâu và đi đâu. Đó là cuộc hành trình đầy khó khăn. Người trông thấy trước những gì đang chờ mình. Vậy mà không thối chí quay lại, trì hoãn. Người nhất quyết đi lên Giêrusalem vì nhân loại: “Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu vượt qua biên giới Galilea và Samaria. Lúc vào một làng kia thì có mười người phong cùi gặp Người. Họ dừng lại đàng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thày Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi”. Phúc Am kể có đám đông cùng đi với Người. Một số là môn đệ, số khác vì tò mò. Vậy theo Chúa không nhất thiết biến người ta thành môn đệ Chúa. Riêng những người phong cùi thì không biết mình đi đâu, ngoài việc chạy đến với Đức Giêsu để kêu xin Ngài. Nếu không, hành trình của họ là vô định và tuyệt vọng. Và chúng ta thì sao? Cứ nhìn vào cách sống của chúng ta khắc rõ, không cần bình luận.
Những kẻ phong hủi này đi đâu? Bất cứ nơi đâu họ cũng bị coi là nhơ uế và bẩn thỉu. Chẳng ai tiếp đón họ, chẳng ai mong muốn họ. Họ không được về gia đình, cũng không được phép trú ngụ ở thành thánh, hoặc cầu nguyện ở đền thờ. Người ta xua đuổi họ. Số phận họ thật đau xót và bi thảm. Tôi được nghe một nhà truyền giáo dòng Maryknoll ở Triều Tiên kể về số phận của các người cùi tại nước ấy. Linh mục truyền giáo cho họ tới 40 năm. Họ bắt buộc phải sống cô đơn, biệt lập khỏi các khu dân cư. Mỗi năm gia đình đến thăm một lần. Trước ngày thăm, người ta sửa soạn cho họ một cánh đồng, có dây chăng cách xa chừng 50 mét. Gia đình đứng ở ngoài gọi to tên thân nhân của mình. Các bệnh nhân cũng nói chuyện với họ hàng như vậy. Đó là cuộc gặp gỡ hàng năm.
Nhìn vào những người phong cùi hôm nay, chúng ta thấy họ không đồng chủng, có người Do Thái và có người Samaritanô, hai giống người vốn thù ghét nhau, nay họp thành một nhóm. Bệnh tật và đau khổ đã nối kết họ nên một. Một vài triết gia đã nhận xét: “Dù cấp bậc xã hội thế nào đi nữa, thì người ta cũng đổ nước mắt giống nhau”. Khi bạn ở nấc thang cuối cùng của xã hội, như những người phong cùi hôm nay, thì tôn giáo, học thức, giàu sang, dòng giống còn có ý nghĩa chi? Nếu chúng ta đồng hoá mình với các kẻ phong cùi trước mặt Thiên Chúa, chúng ta có thể phân biệt đối xử với nhau không? Sở dĩ chúng ta phân cấp là vì chúng ta coi mình thanh sạch, ông nọ bà kia, mà thực chất không phải như vậy. Chúng ta còn hơn cả phong cùi vì còn kiêu căng quá đáng.
Cho nên Phúc Âm hôm nay dạy chúng ta bài học sâu sắc, nhất là biết cầu nguyện ra sao. Tâm hồn tín hữu luôn cảm nghiệm nhu cầu về Đấng Tối Cao trợ giúp, và chỉ mình Ngài thoả mãn được điều này. Tất cả mọi người đều bước những bước sai lầm, đều cảm thấy ân hận và tách mình khỏi người khác. Vậy trong bất cứ giai đoạn nào của cuộc sống, chúng ta phải kêu lên cùng Chúa Giêsu: “Lạy Thày, xin thương xót chúng con”. Ngày nay vì kiêu ngạo, từ thương xót xem ra chói tai. Chúng ta không muốn nhờ lòng thương hại của ai. Đấy là điều chúng ta phải học từ những người phong cùi, Họ là những người không có gì để tự phu5, Họ gặp ai có thể giúp họ được là họ kêu đến người đó. Nên khi họ trông thấy Đức Giêsu trước mặt là giãi bày nhu cầu của mình Nhưng họ không được lành sạch ngay tức thời. Họ phải đi trình diện với các tư tế.
Thánh Luca kể: “Đang khi di đường, thì họ thấy mình được thanh sạch”. Họ được Đức Giêsu hoàn lại nhân phẩm và địa vị trong xã hội. Không còn bị phân biệt đối xử và loại trừ. Một cuộc sống mới khởi sự. Họ tiếp tục cuộc hành trình mà không còn tự ty, họ có thể quên đi những dấu chân quá khứ. Tôi tưởng tượng họ bước đi trên đường, tới gặp các tư tế. Trước hết là nặng nề chậm chạp, những dấu lê bước chứng tỏ cuộc đời không mục tiêu, rồi dần dần nhanh nhẹn, đều đặn hơn, cuối cùng vững vàng và tự tin. Chỉ có mỗi mình người Samaritanô thấy mình được sạch, ngỡ ngàng và quay lại tạ ơn thày Giêsu. Tuy chẳng đạo đức gì hơn các đồng bạn cùi mà lại là người ngoại, nhưng anh đã nhận ra nguồn mạch chữa mình là Đức Giêsu. Chúng ta hãy bắt chước anh ta. Chúng ta là những người cùng đi chung với nhau trên một quảng đường đời. Nhiều lần chúng ta đã vấp ngã cần được chữa trị và cứu giúp; nhờ Chúa Giêsu chúng ta mới được hoàn toàn lành mạnh ngay cả khi gần lìa đời chúng ta lại càng cân Chúa giúp đỡ nhiều hơn và cũng như những người cùi chúng ta cân được chữa trị khi:
Có người anh em nhắc nhở chúng ta tự vấn lương tâm về cuộc sống chưa tốt hiện tại.
Chúng ta sắp thực hiện một hành vi quan trọng đối với tha nhân trong quan hệ xã hội.
Cha mẹ dạy chúng ta cách quên mình phục vụ tha nhân trong những trường hợp đầy gian nan trắc trở, mồ hôi và nước mắt.
Chúng ta bị “lực bất tòng tâm” cân lời khuyên bảo, an ủi để tìm đến hy vọng tương lai.
Chúng ta sa ngã cần được nâng đỡ trợ giúp.
Bị buồn phiền vì có người thân hay bạn bè thân thiết qua đời.
Chúng ta được chữa lành, được thêm sức, được can đãm trong hy vọng một cách đặc biệt nhờ đó chúng ta sẽ mừng rở hân hoan. Hãy nhớ đến người cùi Samaritanô; anh ta đang đi trên đường bổng thấy mình được lành bệnh và biết ngay là Chúa Giêsu đã chữa cho anh. Có thể vì là dân ngoại, nên Anh khâm phục và kính trọng quyền năng của Đức Chúa Trời, anh không có đền thờ nào khác để dâng lễ vật, nên bắt buộc phải trở lại tạ ơn vị ân nhân của mình. Phúc Am kể: “Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn”. Đó là thái độ tôn thờ. Chính Đức Giêsu tuyên bố: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”. Đức tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Giêsu đã chửa bệnh cho chúng ta. Đức tin giúp chúng ta nhớ là chúng ta không sống cô độc trong những gian nan của cuộc sống vì có Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta, Ngài đang nâng đở và phụ giúp chúng ta đương đầu với nghịch cảnh cho tới khi chúng ta được bình an và thanh sạch tội lỗi
Người Samaritanô thực sự nhận ra quyền phép của Đức Giêsu và quay trở lại tạ ơn Người. Chúng ta nên khiêm tốn noi gương ông. Đừng tự cao tự đại cho rằng mình là bổn đạo gốc, quá quen thuộc với ân huệ Thiên Chúa. Các tín hữu cũng sẽ được cảm nghiệm niềm vui ấy, nếu thực sự nhận ra mình cùi hủi trước mặt Thiên Chúa và kêu xin Ngài cứu chữa. Amen.
TẠ ƠN CHÚA là một công việc rất quan trọng và vô cùng cần thiết. Người ta đã dùng rất nhiều cách và rất nhiều kiểu khác nhau để TẠ ƠN THIÊN CHÚA.
• Khi tiến dâng hy lễ tạ ơn, thì cùng với hy lễ tạ ơn, người Do Thái đã tiến dâng bánh ngọt không men nhào với dầu, bánh tráng không men phết dầu và tinh bột trộn kỹ làm thành bánh nhào với dầu. Cùng với bánh ngọt đó, [họ] dâng bánh có men làm lễ tiến, kèm theo lễ kỳ an. [Họ]tiến dâng một phần lấy từ mọi lễ tiến làm phần trích dâng ĐỨC CHÚA (Lv 7:12-14)..
• Khi lên Đền Thánh Giê-ru-sa-lem để hiến dâng con trẻ, khi tạ ơn Thiên Chúa, thánh Giuse, và Mẹ Maria cũng đã dâng cúng đôi chim gáy theo như luật Mô-sê quy định (Lv 12:6-8).
• Bà góa nghèo khổ, trong ngày lên Đền Thờ để tạ ơn Thiên Chúa, bà cũng đã tỏ lòng biết ơn chân thành của bà đối với Chúa bằng cách dâng cúng hai đồng xu nhỏ (Lc 21: 1-4).
Thế nhưng, trong những mẫu gương TẠ ƠN của các nhân vật trong Kinh Thánh, tôi thấy có ba phương cách TẠ ƠN này rất đáng lưu ý:
• Thứ nhất, khi được Chúa Giê-su ghé nhà của ông dùng cơm, ông Gia-kêu đã tạ ơn Thiên Chúa bằng cách đem phân nửa tài sản [của ông] … cho người nghèo; và [dám tuyên bố sẽ] đền gấp bốn cho [những người ông] đã chiếm đoạt (Lc 19:8).
• Thứ hai, khi được khỏi bệnh phong cùi, quan Na-a-man đã tạ ơn Thiên Chúa bằng cách mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, [và] không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài ĐỨC CHÚA (2 V 5:17).
• Thứ ba, khi được khỏi bịnh phong cùi, người Sa-ma-ri đã tạ ơn Thiên Chúa bằng cách lớn tiếng tôn vinh … [và] sấp mình dưới chân Đức Giê-su (Lc 17:15-16).
Bạn có thấy nét độc đáo trong lời tạ ơn của ông Gia-kêu, ông Na-a-man và người Sa-ma-ri không? Nét độc đáo ấy là: Họ đã biểu lộ lòng biết ơn qua những HÀNH ĐỘNG RẤT CỤ THỂ và rất THIẾT THỰC.
• Ông Gia-kêu đã tình nguyện và vui vẻ đem gia tài của ông ra chia cho người nghèo và đền bù những thiệt hại mà ông đã lỡ lầm gây ra cho tha nhân. Lời tạ ơn kèm theo việc bố thí và đền bù.
• Ông quan Na-a-man đã đem về nước một ít đất của Ít-ra-en, tuyên bố rõ ràng và dứt khoát sẽ không bao giờ thờ lạy bụt thần và chỉ cúi đầu thờ lạy một mình Thiên Chúa của dân Ít-ra-en mà thôi. Lời tạ ơn kèm theo sự hy sinh và từ bỏ.
• Người Sa-ma-ri đã quay trở lại, diện đối diện với Chúa Giê-su, sấp mình xuống dưới chân Ngài mà lớn tiếng ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa. Lời tạ ơn kèm theo hành động khiêm tốn.
Bạn thấy không? Nói lên hai tiếng CÁM ƠN không thôi thì chưa đủ. Cả ông Gia-kêu, Na-a-man và người Sa-ma-ri đều kèm theo lời tạ ơn của họ bằng những hành động rất cụ thể và thiết thực như bố thí, hy sinh từ bỏ và lòng khiêm tốn.
Thế còn tôi và bạn thì sao? Khi tạ ơn Chúa, chúng mình có biểu hiện qua lời nói chân thành và bằng những việc làm cụ thể và thiết thực hay không? Nếu chúng mình chỉ cám ơn bằng cái miệng mà không hề có những hành động gì sất thì … kẹt lắm đấy! Thật vậy!
• Nếu tôi chỉ mở miệng nói với Chúa hai tiếng CÁM ƠN vì Ngài đã ban cho tôi trí khôn, bằng cấp, job thơm, nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con khôn, gia đình hạnh phúc, chồng con khoẻ mạnh … mà thôi thì đó chưa phải là một lời cám ơn chân thành đâu! Tôi phải bắt chước ông Gia-kêu, phải làm một việc cụ thể mới được! Ví dụ như ký check, gửi tiền giúp đỡ cho các viện mồ côi, các trẻ em tàn tật, trại cùi, nạn nhân bão lụt … Hoặc tham gia vào các hội đoàn giúp đỡ cho những công việc trong giáo xứ, cho các lớp giáo lý, cho các em thiếu nhi …
• Nếu tôi chỉ mở miệng CÁM ƠN Chúa, xin lễ TẠ ƠN Ngài nhưng khi đi ra khỏi nhà thờ, khi đi khuất khỏi tôn nhan Ngài … tôi lại cúi gập mình xuống thờ lạy bụt thần, thờ thần tài, thờ thần xác thịt, thờ thần danh vọng … thì lời TẠ ƠN của tôi thật vô ích! Tôi phải đặt Thiên Chúa lên trên hết mọi sự, trên tiền tài, danh vọng và trên tất cả những thú vui xác thịt … lúc đó thì mới gọi là lời CÁM ƠN chân thành.
• Nếu tôi chỉ ngồi ở nhà và nói với Chúa hai chữ TẠ ƠN, không bước tới nhà thờ, không đến viêếg thăm Ngài … thì chắc chắn lời TẠ ƠN của tôi không thể gọi là chân tình được? Tôi phải bắt chước người Sa-ma-ri! Phải khiêm tốn, sấp mình xuống trước mặt Chúa, phải đến trước Ngài diện đối diện, qua việc tham dự thánh lễ, tham dự các giờ Chầu Thánh Thể, ở đó tôi sẽ cùng với cộng đoàn mở miệng ca khen, thờ lạy và tôn vinh Thiên Chúa thì lúc đó lời cám ơn của tôi mới gọi là trọn vẹn được.
Bạn đừng bao giờ quên rằng chỉ cám ơn xuông bằng môi miệng không mà thôi thì không ổn đâu! Phải kèm thêm một vài hành động cụ thể, những việc làm thật là cụ thể và thật thiết thực thì mới được!
Bạn nghĩ sao? Cám ơn kiểu này có dễ không? Khó lắm chứ không phải là dễ đâu nhé! Tại vì khó như vậy cho nên chỉ có duy nhất một người quay lại tạ ơn Chúa mà thôi, chứ nếu dễ thì cả chín người kia cũng quay lại rồi, phải không?
Nhưng mà bạn đừng lo, chỉ cần bạn và tôi quyết tâm và cậy dựa vào ơn Chúa thì việc gì, dầu có khó mấy đi chăng nữa … cũng sẽ xong cả thôi bởi vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được (Lc 1:37). Bạn tin không?
Là người, ai cũng nhờ ơn. Tôi cũng vậy: ơn Cha Mẹ sinh thành dưỡng dục trong suốt một cuộc đời lam lũ nghèo khó; ơn giáo hội qua các bí tích để tôi được gọi là Thiên Chúa là Cha, và tôi là nghĩa tử của Ngài; ơn Thầy cô miệt mài hun đúc tôi từ chữ đến nghĩa, từ học đến hành; ơn người thân-bà con, anh em- thương yêu đùm bọc nâng niu giúp đỡ; ơn người dưng nước lã cho tôi nghĩa tình quê hương, nhân loại; ơn người đạo đức mỗi ngày cầu nguyện hy sinh cho mọi người, trong đó có tôi, được bình an; ơn người lành cho tôi bao bài học phải giữ; ơn kẻ dữ cho tôi bao bài học phải tránh; ơn người trung tín, ơn người phản bội, ơn người yêu, ơn người ghét, ơn người dối trá, ơn người thành thật, ơn người có đạo, ơn người vô thần, ơn người cho vay, ơn người đòi nợ, ơn người mắng nhiếc sỉ nhục, ơn người an ủi cảm thông, ơn ốm đau bệnh tật, ơn tai nạn bất ngờ, kể cả sự chết… làm sao kể hết những ơn lộc mà tôi đã nhận được qua những con người, những biến cố.
Vì thế, có thể nói, mỗi người quanh tôi, gần tôi, xa tôi, người biết tôi, chưa biết tôi, người ở Texas, có người ở Cali, có người ở tận châu Phi, có người ở Sài gòn, có người Hà Nội…có người giàu có, cũng có người nghèo khó… tất cả đều là ân nhân của tôi một cách nào đó. Mỗi người trở nên một phần trong cuộc sống của nhau, không thể thiếu. Mỗi biến cố cũng vậy, dù tốt hay xấu, dù có lợi hay không có lợi, tôi cũng nhận được một ơn đặc biệt. “Thất bại là mẹ thành công” chẳng hạn. Nếu không có một cái nhìn mới mẻ dưới ánh sáng đức tin, thì tôi không thể chấp nhận sự thua thiệt, cảnh tang thương hay thất bại là một ân huệ. Và đợi đến lúc tôi cảm nghiệm được rằng: tôi đã nhờ ơn đau khổ mà thành nhơn, thì tôi không còn đủ thời gian để xin lỗi những đau khổ vì đã nặng lời trách móc.Vì thế, tôi muốn xác tín rằng: mỗi con người đang là cánh tay của Thiên Chúa nối dài để thi ân; mỗi biến cố là công cụ, là phương cách Chúa đã dùng để ban ơn cho tôi, cho mọi người.
Quả thật đời sống con người cần có nhau để tô đẹp cho nhau và cho cuộc đời, như có người nói: “Nói với lá rằng hoa chưa đẹp nhất, nếu không chen vào giữa lá nhung xanh, nói với anh rằng em chưa đẹp nhất, nếu không chen vào giữa trái tim anh”. Hoa đẹp nhờ có lá, tôi đẹp nhờ có người xấu, tôi biết tôi giàu nhờ có người nghèo quanh tôi, tôi biết tôi mạnh khỏe nhờ có người đau yếu… Hãy mở lòng ra để đón nhận nhau, chấp nhận nhờ ơn nhau, như một người cần có trái tim để sống.
Bác Trần Duy Nhiên trong thư gửi các cháu mổ tim có đoạn “một trái tim bị mổ, ngàn trái tim mở ra, ngàn trái tim mở ra, vì có Một Trái Tim đã mở toang ra vì yêu nhân loại”. Vâng, sống trong cuộc sống là sống với, sống vì, sống cho người khác sống. Tôi có thể cảm nhận trái tim tôi đập được là nhờ trái tim của nhiều người khác.Vâng, tất cả chúng ta đang “nhờ ơn” mà thành “nhơn”. Nguồn ơn ấy, chính là sự quan phòng tuyệt vời của Thiên Chúa tình yêu.
Biết ơn
Biết mình cần “nhờ ơn” người khác là một điều đã khó; biết ơn người khác lại là một điều khó hơn. Để biết ơn, phải cảm nhận được ơn mình đã nhận. Và đối với tín hữu của Chúa, để cảm nhận được ân huệ của Thiên Chúa qua các biến cố, qua tha nhân, nhất thiết người thọ ơn phải có lòng khiêm tốn sâu xa và một đức tin chân thành mà sâu sắc.
Tướng Naaman trong sách các vua 5,14-17 và mười người phung hủi trong Tin Mừng Lc 17,11-14, quả thật đã có một lòng khiêm tốn sâu thẳm, nên mới có được một niềm xác tín vững chắc để nghe lời của Tiên tri Elise mà đi dìm mình bảy lần trong sông Giodan, cũng như nghe lời Đức Giêsu mà đi trình diện các tư tế. Cả một đất nước Aram không có con sông nào sạch sao và chắc gì sông Giodan sạch bằng? Hoặc có thầy thuốc nào bảo chỉ cần đi trình diện với ông nầy ông kia thì sẽ được khỏi bệnh? Quả là một điều lý trí không thể chấp nhận được. Nhưng điều lý trí không chấp nhận được ấy lại là đức tin. Như vậy sự khiêm tốn ở đây chính là bằng lòng hy sinh lý trí, hy sinh cái suy luận theo tài năng hiểu biết của mình, để đón nhận điều sẽ xảy ra với lòng tin tưởng tuyệt đối. Việc chấp nhận dìm mình trong song Giodan của Naaman cũng như chuyện chấp nhận thực hiện điều trái ý, chấp nhận điều chẳng lành trong cuộc đời, không dễ dàng tí nào, đối với người không có đức tin.
Việc chấp nhận đến với Giodan còn mang một ý nghĩakhác, là chấp nhận đến với Đất Nước của Thiên Chúa, đến với Giáo Hội. Cũng vậy, “đi trình diện với các tư tế” trong trình thuật Luca 17,11-19 cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận đến với những người của Thiên Chúa, trong Giáo Hội. Và khi đến, phải khiêm tốn và xác tín rằng, tôi đến là tôi sẽ được nhận ơn. “Trong khi đi trình diện với các tư tế, họ đã được sạch phung hủi”. Điểm nầy, tôi liên tưởng đến người có lòng khao khát được sạch những vết phung hủi của tâm hồn do tội lỗi, trên đường đi đến tòa cáo giải với lòng khiêm tốn và đức tin, thiết nghĩ, họ đã được sạch tội rồi nếu họ chết khi chưa kịp xưng thú các tội. Chấp nhận dìm mình trong dòng sông Giodan hay đến với Đức Giêsu để nhận được ơn sự sống đòi hỏi một đức tin cao nhất, như Thánh Phaolô xác quyết: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta cùng kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người” (2Tm 2,11-12)
Rất tiếc, vẫn còn có nhiều người luôn khẳng định: “Từ nhỏ đến giờ tôi chẳng nhờ ơn ai cả, tôi tự lập mà nên”. Có người không chấp nhận nhờ vả vì sĩ diện. Không chấp nhận nhờ ơn thì làm gì nói đến chuyện biết ơn. Ngay cả đối với sự hiện hữu tốt đẹp của chính mình trên trần gian, có người theo chủ nghĩa duy vật vô thần không đủ khiêm tốn để chấp nhận đó là một ơn huệ, còn to tiếng phủ nhận; và cho là một việc tự nhiên do chuyện giải trí của cha mẹ mà có! Thế thì làm gì có lòng biết ơn ai! Rồi từ đó, kéo theo một thế hệ con cháu vô ơn với trời đất, với tổ tiên, với nòi giống. Cái chủ nghĩa duy vật dạy cho họ cuộc sống con người bắt đầu từ con vật, sống và lớn lên như con vật, rồi chết đi như con vật. Và khái niệm đó đóng khung lý trí của họ như một chân lý. Họ không thể khiêm tốn hy sinh cái lý trí què quặt ấy để đón nhận ánh sáng của đức tin. Họ không chấp nhận dìm mình trong dòng sông cứu rỗi mà người của Thiên Chúa giới thiệu. Họ cố tình không biết những ơn cao trọng mà dòng sông cứu rỗi mang lại. Chẳng trách gì mà họ không những không khiêm tốn đến với Chúa Giêsu mà còn không muốn ai đến với Ngài.
Rất tiếc hơn nữa, những con cái của Chúa cũng không thiếu những con người vô ơn như vậy. Khi cuộc sống vất vả, đau yếu, bệnh tật, nghèo túng thì sốt sằng tìm đến Chúa để kêu la cầu cứu; đến khi có của ăn của để, nhà cao cửa rộng, phương tiện tiện nghi đầy đủ thì xem tất cả những gì mình có là do sức mình, rồi tỏ ra bất cần đến Thiên Chúa nữa, bất cần đến ơn cao trọng hơn cả là ơn cứu rỗi, tự gieo mình vào một cuộc sống mỗi ngày thêm sa đọa. Chúa Giêsu nói: “không phải cả mười người đều được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”(Lc.17,17-18)
Với tôi, bài học của tướng Naaman và mười người phung hủi, cho thấy sự cần thiết của lòng khiêm tốn, của một đức tin vững chắc để đón nhận và biết ơn Thiên Chúa đang tràn lan trong đời mình qua mọi người và qua mọi biến cố. Hãy khiêm tốn đến với dòng sông Bí tích, dòng sông Giodan ngày xưa, và dòng sông của Đức Giêsu hôm nay, trong dó có dòng sông của bí tích hòa giải với xác tín chính Chúa Giêsu cũng đang nói với ta “Đức tin con đã chữa con” mọi thứ bệnh trầm kha nhất của tâm hồn. Và rồi, hãy thể hiện lòng biết ơn cách cụ thể qua việc đền đáp công ơn của Người.
Đền ơn
Người Việt Nam thường nói đến lòng biết ơn là đã đủ sống với đạo làm người, vì có những ơn Trời ban mà con người không bao giờ đáp đền cho cân xứng. Với chúng ta, sống tâm tình biết ơn, thiết nghĩ, là chưa đủ. Phải thiết thực đáp đền ơn Chúa bằng việc thờ phượng tôn vinh Thiên Chúa cho xứng đáng. Biết việc đền ơn không phải là lễ vật như “món quà”của Naaman dâng cho Thiên Chúa qua Elise, Naaman đã chọn cách đền ơn bằng việc “chở một ít đất ở Giodan về mà lập bàn thờ Thiên Chúa trên đất ấy”.(2V 5,15-17). Cũng như người Samari “thấy mình được khỏi, liền quay trở lại mà lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn” (Lc 17,15-16).
Với tôi, đáp đền ơn Thiên Chúa là tôn vinh Thiên Chúa bằng cách:
-sống trọn tình con thảo trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa quan phòng, tin tưởng vào Chúa Giêsu và Giáo Hội của Ngài: “hãy trình diện với các tư tế”. Về điểm nầy, tôi không đồng tình với quan điểm “Giêsu-Yes”, “Giáo Hội- No”. Vì như thế là chúng ta tự mâu thuẩn với đức tin của mình. Chúng ta đã nhận muôn ơn Chúa qua Giáo Hội. Phủ nhận Giáo hội cũng chính là phủ nhận đức tin vào Thiên Chúa. Ta vẫn tuyên tín “ tôi tin Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” kia mà. Hãy tin tưởng vào Giáo Hội của Chúa. Không vì một vài phần tử bội tín hoặc phá phách trong giáo hội mà ta phủ nhận sự thánh thiện của Giáo hội, rồi trở thành người vô ơn một cách oan uổng. Hãy tin tưởng Giáo Hội.
-sống và trở nên nguồn sống cho tha nhân-nguồn sống ấy có thể là một nụ cười, một niềm vui, một chia sẻ như làm cánh tay nối dài của Thiên Chúa. Ta vẫn thường nhận ơn của một người và không bao giờ đáp trả nỗi, nhưng ta lại thi ân cho người khác như một nghĩa cử đền đáp cho người mình đã nhận. Hãy sống chứng nhân tôn vinh thờ phượng Chúa bằng đức bác ái.
Để kết
Tôi có nghe các em mổ tim nhờ Hội Bác ái Phanxicô hổ trợ- sau khi mổ tim thành công, hát mấy câu trọn vẹn ba ý nghĩa: nhờ ơn, biết ơn và đền ơn, như sau:
“Em có một trái tim nhưng là trái tim của nhiều người / Em sống nhờ trái tim, nhờ tình yêu thương người mọi nơi / Em suốt đời biết ơn người cho em sự sống nầy / Sẽ sống và sẻ chia tình yêu thương cho muôn người.”
Lạy Chúa xin cho chúng con lòng khiêm tốn và đức tin vững chắc, để đón nhận tất cả là hồng ân Chúa. Và xin cho chúng con biết sẻ chia sự sống cho tha nhân. A men.
Nhận ơn và ban ơn là hai thực thể trong cuộc sống. Ai cũng có kinh nghiệm ban ơn và thọ ơn. Trong sáng tạo thực thể ban và nhận ơn thường xảy ra cùng lúc, cùng cộng tác thì việc ban ơn và nhận ơn mang lại kết quả tốt. Thiếu một trong hai yếu tố cho-nhận thì sự việc đi vào hư vô. Người thọ ơn có trách nhiệm coi sóc ơn nhận được.
CHO CHÍNH LÀ NHẬN
Ban ơn và nhận ơn ngộ lắm bởi vì trong tình yêu sáng tạo cho đi để được nhận lãnh. Cho đi tình yêu sẽ nhận được món quà tình yêu khác. Đây không phải là đổi chác, mà là sáng tạo trong tình yêu. Tình yêu cho đi không rơi vào hư vô, quên lãng nhưng sinh hoa kết trái dưới dạng khác. Nhìn vào cội nguồn của sáng tạo thấy rõ đất trời tạo thành do tình yêu Chúa.
Yêu ích kỉ lại dẫn đến đau khổ.Trái lại yêu chân thành ban sức sống, niềm tin. Nhờ yêu chân thành mà vũ trũ được khai sinh, nhân loại được tồn tại. Đây là luật tự nhiên. Luật này do Chúa đặt vào thiên nhiên khi Ngài sáng tạo đất trời.
Trong Kinh Thánh sáng tạo có nghĩa là tạo từ hư không. Biến chế những vật chất có sẵn trong vũ trụ thành sản phẩm mới không đồng nghĩa với sáng tạo mà chính là tái tạo. Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền sáng tạo. Chúa cho con người quyền tái tạo. Thành quả của khoa học đều là tái tạo, biến chế vật chất có sẵn trong thiên nhiên tạo ra vật chất mới. Khoa học không thể chế biến bất cứ thứ gì từ hư vô.
ĐẶC SỦNG
Lời ta tạ ơn không sinh gì choThiên Chúa nhưng sinh ích cho ta vì mọi ơn đều phát sinh từ Đấng Sáng tạo. Ca tụng Thiên Chúa là một đặc ân dành riêng cho con cái vì thế Chúa Jesu ngăn cấm ma quỷ chúc tụng Ngài ( Lc 4,35). Ca tụng Thiên Chúa làm cho niềm vui được tràn đầy. Hạnh phúc thay người có niềm vui và có Chúa để chia sẻ niềm vui. Khi đau khổ có Chúa để thổ lộ tâm tư. Tạ ơn Thiên Chúa chính là thổ lộ tâm tư, vui buồn và ngay cả dự tính cho tương lai.
NAAM CẢM TẠ CHÚA
Tướng Naam lúc đầu từ chối tắm 7 lần trong dòng sông Gioađan theo lời chỉ dậy của tiên tri Elisa. Vì thế bệnh cùi của ông không khỏi. Naam nghe lời phân giải của người đầy tớ trung tín, đổi ý dìm mình xuống sông 7 lần và ông được khỏi cùi. Nhận được ơn dù không hiểu Naam bắt lí trí ông quy phục Thiên Chúa.
Ông cho chúng ta ba bài học.
Nhờ khỏi bệnh ông nhận biết có Thiên Chúa.
Thứ hai niềm tin vượt lên trên mọi lí luận.
Thứ ba ta hoàn toàn tự do nhận hay chối ơn Chúa.
Trong sáng tạo ta không có tự do chọn lựa; trong tái tạo ta có tự do hoặc chọn hoặc từ chối. Trước khi tạo dựng nên ta thì chưa có ta. Sau khi dựng nên ta Chúa lại ban cho ta quyền tự do nhờ đó Naam chọn con đường sống, con đường tin, tôn thờ Chúa.
HỌC NGƯỜI CÙI
Một trong những ưu điểm của đau khổ là hoà đồng, cảm thông, gắn bó. Phá bỏ bức tường giai cấp, ngăn cách. Đau khổ cùng cảnh ngộ nối kết tình thân. Người cùi Samarita và người cùi Do Thái trở thành thân hữu; trong khi khỏe mạnh hai sắc dân này là thù địch, không đội trời chung.
Không đến tạ ơn.
Rất có thể vì những lí do sau.
Một là quá vui mừng người ta quên Chúa.
Ai lại không nhảy mừng ca múa khi được cứu sống. Sống sót về sau cơn sóng thần, về bình yên trên chuyến bay có không tặc, được họp mặt sau trận chiến. Tất cả những hình ảnh vui mừng đến phát khóc dư thừa ôm hôn, rộn tiếng cười và tiệc mừng cụng li say tuý luý. Mấy ai nhớ tới tạ ơn Chúa. Các người cùi có thể mang tâm trạng.
Hai là có thể họ nhờ các tư tế thay họ dâng lời tạ ơn.
Nếu suy đoán này đúng chúng ta cần xét lại cách sống đạo thời nay. Xin cha dâng lễ tạ ơn cho gia đình còn mình ở nhà làm việc khác. Cuộc sống hôm nay khổ sở, bận rộn đến độ không có giờ dâng lời tạ ơn. Khoán trắng việc tạ ơn cho linh mục là hiểu sai việc làm tốt lành của mình. Điều này xảy ra nơi những tâm hồn có tình yêu hời hợt, chuộng hình thức.
Thứ ba có thể họ hiểu lầm tạ ơn các tư tế là đủ.
Tạ ơn thầy thuốc chữa bệnh không chưa đủ còn phải tạ ơn người tạo dựng nên thầy thuốc nữa. Chính Thiên Chúa là Đấng chữa lành lại không cám ơn nhưng lại tạ ơn các tư tế, kẻ trung gian, ban phát ơn Chúa.
NGỘ NHẬN
Ngộ nhận trong việc tạ ơn Thiên Chúa là một căn bệnh lớn của xã hội tiêu thụ. Người ta tôn thờ các tài tử điện ảnh. Phủ phục tài năng các thể thao gia. Hết lời khen ngợi, tìm hiểu đời tư và thích được gần họ nhưng lại quên không tôn vinh Thiên Chúa Đấng tạo dựng nên họ. Tôn thờ thần tượng không chưa đủ mà còn phải tôn thờ Đấng dựng nên thần tượng nữa.
Chúng ta cám ơn nhau nhiều lần trong ngày là điều rất tốt. Thử hỏi trong số những lần đó bao nhiêu lần dành riêng cho Chúa. Nhớ cám ơn người giúp nhưng quên cám ơn Đấng đưa người đến giúp, hay tạo cơ hội để họ giúp. Đây chính là điều Chúa Giêsu nhắc nhở.
Sau một trận động đất dữ dội hoặc một vụ khủng bố tựa như đã xảy ra tại Trung Tâm Thương Mại Newyork tháng 11 năm 2001, một số người bị vùi dưới hàng khối bê tông và gạch đá, nhưng không bị chết ngay vì được nằm lọt vào một khoang trống. Trong khoảng không gian chật khít người, vừa tối tăm vừa ngột ngạt đó, họ dùng điện thoại di động gọi về gia đình, gọi cho nhân viên cứu hộ đến cứu giúp. Mạng sống của họ chỉ được tính từng giây!
Trong những giờ phút kinh hoàng như thế, người ta cảm nhận rằng được sống thêm mươi phút nữa, dù chỉ thêm mươi phút nữa thôi, cho đến khi toán cấp cứu đến kịp, là cả một hồng ân vô cùng lớn lao. Và đang lúc gần như bị chôn sống dưới cả một núi bê tông như thế, họ nghiệm thấy rằng được tự do hít thở như bao nhiêu người khác bên ngoài là một ân huệ vô cùng quý báu; được uống vài ngụm nước lúc nầy thì thật sung sướng không gì bằng…
Mươi phút sống… một chút không khí trong lành… mấy ngụm nước…là những gì mà những người lâm nạn hết lòng khao khát và ước mơ, nhưng những ước mơ giản dị đó đã không đến được với nhiều nạn nhân bị chôn vùi ở nhiều nơi vì tai nạn hầm mỏ, vì nạn khủng bố hay động đất… nhưng những ân huệ đó đang ở trong tầm tay chúng ta cách dồi dào và dư dật. Chúng ta có thừa những gì mà những người lâm nạn đang mơ ước. Thế mà chúng ta không xem đó là ân huệ, mà chỉ xem đó là chuyện thường tình.
Nước, không khí, ánh nắng mặt trời… chỉ là một vài trong vô vàn ân huệ Thiên Chúa rộng ban cho mọi người. Đếm sao cho xiết những ân huệ Chúa ban. Vậy mà số người nhận ra và tỏ lòng tri ân Thiên Chúa thì vô cùng khan hiếm.
***
Khi Chúa Giê-su đi qua biên giới Samaria thì gặp mười người phong cùi. Họ là những người mang số phận bi đát. Vì mắc bệnh truyền nhiễm đáng sợ, họ bị xã hội Do-thái thời bấy giờ xua ra khỏi gia đình, làng mạc, cách ly với tất cả mọi người. Những con người bất hạnh nầy tụ tập với nhau, sống trong các hang hốc ngoài đồi núi, áo quần tả tơi, đầu tóc bù xù và buộc phải để đầu trần, đi đâu phải lấy tay che miệng và hô lên báo hiệu cho người qua lại biết mà lánh xa.
Vì thế, họ không được phép lại gần Chúa Giê-su để xin Ngài cứu chữa. Họ phải đứng đằng xa kêu lên: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi”.
Theo luật quy định, nếu có người nào mắc bệnh phong có cơ duyên lành bệnh, thì phải đến trình diện với các tư tế, để khám xét lại. Nếu thực sự được lành bệnh thì họ mới được cho hoà nhập với cộng đồng.
Chúa Giê-su bảo mười người phong đến trình diện với các tư tế là vì lý do đó. Họ đã đi trình diện, đã được chứng nhận là khỏi bệnh, nhưng chỉ có một người xứ Samari, người được xem là thuộc phường rối đạo, biết quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa và cảm tạ Chúa Giê-su. Còn chín người kia thì không. Chưa được ơn thì van vái cầu xin, được ơn rồi thì nín thinh như hến.
***
Chuyện kể rằng có hai thiên thần được Thiên Chúa sai xuống trần, một vị có nhiệm vụ thu gom những lời cầu khẩn van xin của con người; còn vị kia thì đi thu nhặt những lời tạ ơn người ta dâng lên Chúa.
Chỉ vài giờ sau, vị thiên thần có nhiệm vụ thu gom lời cầu nguyện van xin của nhân loại vội vã trở về vì hai va-li lớn của ngài đầy cứng và nặng trịch vì những lời cầu khẩn, khiến ngài hầu như không cất cánh nổi để bay về.
Chờ mãi không thấy thiên thần kia trở lại, Thiên Chúa lại sai một vị thiên thần khác xuống thế kiếm tìm, thì mới hay là thiên thần thứ hai đang rảo khắp phố phường, khắp hang cùng ngõ hẻm suốt cả tháng trời mà chẳng gom góp được bao nhiêu lời tạ ơn nên còn phải lặn lội đến những nơi xa xôi hiểm trở may ra có thể kiếm thêm được ít gì nữa chăng!
Dấu hiệu để nhận ra người có văn hoá là biết nói tiếng cám ơn. Trong xã hội văn minh, dường như hai tiếng cám ơn liên tục được phát ra làm ấm lòng người nghe và làm tăng thêm giá trị của người nói. Người biết nói tiếng cám ơn, khi được người khác làm ơn cho mình, cả trong những điều nhỏ nhặt, được đánh giá là người văn hoá, văn minh.
Ước gì trong tương quan với Chúa, mỗi người chúng ta cũng không thua kém những người khác trong xã hội thế trần, biết nhận ra hồng ân Thiên Chúa bao phủ đời mình và luôn dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì hồng ân Ngài tuôn ban trong suốt dòng lịch sử đời mình. Và lời tạ ơn đẹp nhất, xứng hợp nhất, là cùng với Chúa Giê-su dâng hy tế tạ ơn Thiên Chúa Cha qua mỗi thánh lễ hằng tuần.
Chúa Giêsu đã nói:” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Chúa Giêsu đã minh chứng cho nhân lọai, cho con người, cho mỗi biết tình yêu cao vời, tình yêu vô vị lợi của Người. Đây là tình yêu tự hiến, tình yêu xả kỷ, tình yêu từ bỏ để làm đẹp lòng người mình yêu. Các thánh noi gương bắt chước Chúa, đã sống tình yêu tuyệt vời để chia sẻ tình yêu ấy cho tha nhân, cho nhân loại. Có nhiều vị đã sống phục vụ những người nghèo, các bệnh nhân những người bị bệnh phong cùi. Nhiều nữ tu đã hy sinh cuộc đời mình để giúp đỡ các bệnh nhân mắc bệnh phong. Gương hy sinh của họ thật cảm động biết chừng nào. Tin Mừng Chúa Nhật 28 Thường niên, năm C nói lên lòng nhân từ, thương xót của Chúa Giêsu, Người chỉ phán một lời căn bệnh quái ác ấy biến sạch. Chúa đã đem lại niềm tin, nhân phẩm cho những con người xấu số bị xã hội ruồng bỏ, khinh chê…
LỀ LUẬT TRÓI BUỘC CON NGƯỜI:
Lòng Chúa bao la. Tình thương Chúa dạt dào sao kể cho xiết. Dân Do Thái trong suốt nhiều thế kỷ đã phải lao động cật lực, đã phải còng lưng dưới sức nặng của khổ sai, của lao động không công cho người Ai Cập. Môsê theo lệnh Chúa đã giải thoát dân Do Thái ra khỏi ách nô lệ của người Ai Cập. Để ghi nhớ ngày ấy, Thiên Chúa đã thiết lập ngày hưu lễ. Do đó, dân Do Thái rất trân trọng ngày hưu lễ. Đây là biểu tượng của sự tự do vì dân Ai Cập bắt người Do Thái phải lao động bảy ngày trên bảy ngày trong tuần.Thay vì là biểu tượng của sự tự do, những nhà thần học Do Thái đã biến ngày hưu lễ thành gánh nặng cho dân bằng những kê khai tỉ mỉ, rất chi tiết mà người Do Thái phải giữ trong ngày hưu lễ. Họ đã thay đổi tất cả thay vì được tự do, họ biến sự tự do thành nô lệ và thay vì gần gũi Thiên Chúa, họ biến con người xa dần Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã đánh đổ quan niệm và tâm thức này…
PHÉP LẠ CỦA CHÚA GIÊSU GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI:
Tin Mừng Lc 17, 11-19 thuật lại phép lạ Chúa Chữa lành mười người phong cùi. 9 người là người Do Thái luôn phải sống dưới ách lề luật khắt khe của những nhà thông luật Do Thái. Luật lệ họ trưng ra không vì con người, không giải phóng con người, mà trở thành gánh nặng đè bẹp con người:” con người chú tâm thi hành luật hơn là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân”. Cái trớ trêu của lề luật Do Thái vẫn coi những người bệnh họan, tật nguyền do tội lỗi họ gây ra và Chúa phạt họ, đặc biệt là bệnh phong cùi, ai mắc vào bệnh nan y này, đều ghê tởm và khiếp sợ. Những người phong cùi không những bị đau về thể xác mà tâm hồn họ còn đau khổ không ít. Họ bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi, xa mọi người, xa người thân. Họ phải mặc áo rách rưới, đầu để trần, miệng bịt lại và phải hô to mình đã bị bệnh truyền nhiễm để cho mọi người biết mà tránh xa. Đó là cái bi đát của cuộc đời những người bệnh, đặc biệt những người phong cùi thời Chúa Giêsu. Tuy nhiên, chỉ một lời của Chúa Giêsu:” Hãy đi trình diện với các tư tế “. Đang khi đi thì họ được sạch ( Lc 17, 15 ). Một lời của Đức Giêsu, cả mười người bị bệnh phong đều được chữa lành. Họ được chữa lành về một chứng bệnh nan y, một chứng bệnh nhục nhã, ê chề, đau khổ thân xác và đau khổ tâm hồn. Những người cùi này nhờ vào quyền năng và lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa mà họ tưởng như đã chết nay được sống lại, họ vui mừng đến không còn nhớ lại sự ê chề họ đã chịu đựng. Chúa Giêsu đã giải phóng họ, đã đem lại sự sống mới cho họ như người con hoang đàng đã tìm lại sự sống tốt đẹp mà Cha của anh đem lại cho anh.
LỜI CẢM ƠN CỦA NGƯỜI SAMARI LUÔN LÀ LỜI CÓ GIÁ TRỊ:
Cả mười người đều được chữa lành. 9 người phong cùi là dân Do Thái. 9 người này sống trong sự cản trở của lề luật, bởi đó, họ chỉ mong sao sớm đi trình diện hàng tư tế để họ được phép trở về đời sống bình thường, hòa nhập với xã hội. Họ không biết cảm ơn và tôn vinh Chúa. Người Samari là người ngoại giáo, họ không bị cản trở bởi lề luật, nên anh được tự do để nói lên tình cảm chân thành, tình cảm thật người của mình. Anh đã trở lại cám ơn Chúa khi thấy mình được lành sạch. 9 người Do thái được lành sạch, họ vẫn tự hào là dân Chúa chọn nhưng họ lại sống thật vô ơn đến nỗi Chúa phải thốt lên:” Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngọai bang này ?”( Lc 17, 17-18 ). Người Samari trở lại cám ơn Chúa đã ban cho anh ơn phần xác thì Chúa lại ban cho anh ơn phần hồn, củng cố đức tin cho anh và xác nhận niềm tin tôn giáo của anh:” Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh “ ( Lc 17, 10 ). Do đó, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.
TẤT CẢ ĐỀU LÀ HỒNG ÂN:
cuộc đời của mỗi người là một chuỗi những ơn huệ cao quí Thiên Chúa tặng ban. Ơn huệ là hồng ân tuyệt vời Thiên Chúa trao ban cho mỗi con người. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, nhưng có những ơn đến tự con người. Tất cả đều là hồng ân. Con người luôn phải biết nói lên lời cảm tạ tri ân. Đời của Chúa Giêsu là lời tạ ơn Thiên Chúa Cha không ngừng. Thánh Phaolô cũng luôn nói lên tấm lòng cảm mến của Người đối với Thiên Chúa:” Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô “ ( 1 Co 1, 4 ).
Lạy Chúa xin cho chúng con luôn biết nói lên lời “ cảm tạ “. Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi ( Tv 88 ).
Đọc nơi Phúc Âm, chúng ta thấy mục đích cuộc đời cũng như sứ vụ của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Trời như đã được chép, “Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi. Nhưng Người nói với họ: 'Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó'"(Lc. 4:42-43).
Sứ vụ này của Ngài được nhắc nhở đến nhiều lần nơi Phúc Âm, “Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có nhóm mười hai” (Mt. 4:23; 9:35; Mc.1:14; Lc. 8:1; 9:60). Đồng thời mục đích Ngài sai các môn đồ ra đi cũng chỉ để rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Tin Mừng Nước Thiên Chúa, “Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người nói: "Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo. Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và từ đó mà ra đi. Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành, anh em hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ"(Lc. 9:2-5).
Điểm chính yếu Chúa Giêsu dặn các môn đồ phải nhắc nhở cho dân chúng biết, đó là “Nước Thiên Chúa đã đến trên các ông, giữa các ông, và ở trong các ông” (Mt. 3:2; 4:17; 10:7; 12:28; Mc. 1:15: Lk. 10:9-; 11:20: 17:21; 21:31). Ngài dạy cho chúng ta biết điểm thiết yếu và quan trọng nhất nơi cuộc đời con người đó là “Tiên và hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người” (Mt. 6:33; Lc. 12:31).
Thiên Chúa là cội nguồn mọi sự hiện hữu. Nói cách khác, Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu hiện diện và hoạt động nơi mọi loài, mọi vật, từ vô hình đến hữu hình. Như vậy thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Xét như thế, Nước Thiên Chúa, Nước Trời chính là Thiên Chúa. Qua Phúc Âm, Chúa Giêsu nhắc nhở, “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được: 'Này ở đây' hay 'ở đó' vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:21). Vì Nước Thiên Chúa là chính Ngài, “Nước Thiên Chúa ở trong các ông” tất nhiên Thiên Chúa ở trong các ông. Và như vậy, Tin Mừng Nước Trời chính là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt. 1:23), và vì thế danh hiệu của Chúa Giêsu được gọi Emmanuel.
Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Thiên Chúa hiện diện và hoạt động nơi tạo vật. Thiên Chúa ở cùng chúng ta thế nên đức tin chính là quyền lực của Thiên Chúa nơi tạo vật, nơi mọi người. Qua những sự kiện được chữa lành, Phúc Âm ghi lại Chúa Giêsu đều dạy, “Đức tin con đã cứu chữa con” (Mt. 9:22; Mc. 5:34; 10:52; Lc. 7:49; 8:48; 17:19). Ngài không bao giờ nói Ngài chữa hoặc Chúa chữa, mà mọi sự đều là đức tin.
Đoạn Phúc Âm tuần này nhắc đến sự kiện mười người phong cùi được chữa lành nhưng chỉ một người xứ Samarita trở lại cảm ơn Chúa Giêsu và chúc tụng Thiên Chúa. Phúc Âm nêu lên vấn đề tại sao chín người khác không trở lại; đồng thời Chúa Giêsu nói với người được chữa lành, “Ngươi hãy đứng dậy mà về vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi” (Lc. 17:19).
Câu trả lời về lý do chín người kia chưa hoặc không trở lại chính vì họ đang phải đi gặp để trình diện với các tư tế theo lời Chúa Giê su đã bảo họ. Theo luật Do Thái, một số bệnh tật nếu ai mắc phải chẳng hạn bệnh phong cùi, hoặc một số con vật nếu ai đụng đến, chẳng hạn loài heo, hay bất cứ người hoặc thú vật nào chết ngoài trời đều bị coi là nhơ uế. Người nào rơi vào trường hợp bị lề luật nêu lên là nhơ uế, sau khi được chữa lành, người đó phải thực hiện nghi thức thanh tẩy và trình diện vị tư tế đương nhiệm để được giảo nghiệm và tuyên bố thanh sạch thì mới được gọi là sạch hay chữa lành.
Qua bài Phúc Âm chúng ta nhận thấy, sự chữa lành do chính hoạt động quyền lực của Thiên Chúa nơi người được chữa lành được gọi là đức tin chứ không phải do bất cứ nghi thức hay tục lệ nào. Lời Chúa tuần này nhắc nhở chúng ta nên để ý suy nghiệm về sự thể được gọi là đức tin hay lòng tin theo Phúc Âm sao cho lời dạy, “Đức Tin con cứu chữa con” được thể nghiệm ngay chính cuộc đời của mình.
Chúng ta đang được Chúa Kitô Phục sinh qui tụ lại nơi đây để cùng với Ngài dâng lên Chúa Cha Lời Tạ Ơn tuyệt vời nhất là chính Hy Tế Thập Giá của Ngài. Trong Hy Tế Tạ Ơn nầy, chúng ta cảm nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa dành cho mỗi người, khi Người chữa lành chúng ta khỏi mọi vết nhơ tội lỗi nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô. Vì thế, sống đức tin chính là không ngừng biểu tỏ tâm tình và thái độ tạ ơn Thiên Chúa. Đó cũng chính là trọng tâm sứ điệp Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay.
Giờ đây, chúng ta thành tâm sám hối để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.
Giảng Lời Chúa:
1. Phung cùi hay tội lỗi đều có chỗ trong mái nhà Thiên Chúa:
Nơi đâu và thời nào cũng có những con người bị xã hội ruồng rẫy, rẽ khinh và vứt bỏ bên lề cuộc sống mà không một chút xót thương. Vào thời Chúa Giê-su, đại biểu cho những nhóm người bạt phận đó chính là những người phung hủi, những người sống mà như đã chết, lang thang quờ quạng trong hoang mạc cách ly, kéo lê cuộc đời trong nỗi cô độc bị gạt bỏ khỏi thế giới loài người. Người nào chạm tới họ lập tức trở thành ô uế, mang tội vào thân.
Mà không phải chỉ vào thời của Chúa Giê-su, những người phong cùi mới bị đối xử như thế. Thời nay, những trường hợp bi đát vẫn xảy ra trên thân phận những người cùi, như câu chuyện sau đây của Raoul Follreau, vị đại ân nhân của người phong cùi trên thế giới:
Trong một thị trấn nhỏ nọ, một người đàn ông lâm bệnh nặng. Sau khi khám nghiệm, các bác sĩ nghi ngờ anh ta đã mắc bệnh phong hủi... Tuy không là một phán quyết dứt khoát, nhưng kể từ đó người ta không còn thấy anh ra khỏi nhà nữa. Gia đình anh mỗi lúc lại càng xác tín hơn về bệnh tình của anh. Thế là để che dấu con người mà họ coi như một sự xấu hổ chung, những người thân của anh đã giam anh trong một cái mùng lớn. Người đàn ông đáng thương chỉ còn sống vất vưởng nhờ lương thực tiếp tế mỗi ngày. Vũ trụ của anh chỉ còn là khung mùng phủ kín bốn chân giường. Ngậm đắng nuốt cay từng giờ từng phút, người đàn ông chỉ còn mỗi một hy vọng: đó là trốn thoát được chính nhà giam của anh... Ngày nọ, anh đã trốn ra khỏi khuôn mùng và gia đình của anh. Nhưng chẳng may, người ta đã chận bắt được anh. Lần nay, người đàn ông khốn khổ dường như không còn một hy vọng nào nữa. Anh chỉ còn muốn tìm sự giải thoát qua cái chết...
Lần thứ hai, anh trốn khỏi vũ trụ tối tăm của anh. Nhưng lang thang mãi mà vẫn không tìm được sự tin tưởng và giúp đỡ của những người khác, anh đã tìm đến cái chết như một lời biện hộ cuối cùng. Người đàn ông đã mua thuốc ngủ và tự vận trước mặt mọi người. Cái chết của anh đã gây chấn động trong dư luận. Người ta yêu cầu cho khám nghiệm tử thi. Kết quả đã làm cho mọi người sửng sốt: anh đã không bao giờ mắc bệnh phong cùi...
Chính trong cái nổi bi đát khốn cùng của kiếp phận sống dỡ chết dỡ đó, mà bệnh phong cùi đã được các Thánh ký dùng làm biểu trưng của “thân phận tội lỗi” của con người. Tội lỗi chính là một thứ “cùi hủi tâm linh”, một tình trạng bi đát khiến con người bị đẩy vào tình trạng xa cách Thiên Chúa và anh em đồng loại. Đặc biệt trong ngữ cảnh của Tin Mừng Luca hôm nay, mười người phung cùi lang thang đi tìm Đấng Cứu Thế với lời van xin tha thiết: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương xót chúng tôi”, chúng ta như nghe vọng về những lời nguyện xin của những tâm hồn tội lỗi nài xin lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa:
- Người thu thuế đấm ngực thân thưa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là người tội lỗi” (Lc 18,13)
- Người con hoang trở về thưa cha: “Thưa cha, con đã đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa” (Lc 15,21)
- Kẻ trộm bị đóng đinh sám hối: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”. (Lc 23,42).
Và Thiên Chúa đã đón đợi từ lâu để “chữa lành” những thân phận con người “phung cùi đáng thương đó. Lịch sử cứu rỗi phải chăng là một thiên tình ca về lòng yêu thương và sự chữa lành của Thiên Chúa dành cho thân phận tội lỗi cùi hủi của loài người. Niềm tin nầy hôm nay Phụng vụ một lần nữa muốn kiên cố lại nơi tâm hồn chúng ta qua lời tuyên tín của ông quan Naaman, một người phung hủi xứ Syria được sứ ngôn Ê-li-sê chữa lành sau khi trầm mình 7 lần dưới dòng sông Gio-đa-nô: “Không có Chúa nào khác trên thế gian nầy ngoài Chúa của Ít-ra-en”. Và Vị Thiên Chúa đó lại là Thiên Chúa của lòng thương xót, Thiên Chúa của khoan dung và tha thứ, Thiên Chúa của tình yêu.
Dòng nước sông Gio-đa-nô đã tẩy sạch bệnh phung cùi cho Na-a-man, phải chăng là hình bóng tiên trưng về dòng nước của bí tích Thánh Tẩy sẽ tẩy sạch chúng ta khỏi mọi vết nhơ tội lỗi. Vì thế, chúng ta sẽ không lấy làm lạ, khi Đức Kitô chữa lành 10 người phung cùi, thì điều đầu tiên Ngài lệnh cho họ là phải đi trình diện với các tư tế. Điều đó muốn nói lên rằng, một khi đã được chữa lành khỏi vết nhơ tội lỗi, con người sẽ được hội nhập vào cộng đoàn dân thánh, sẽ được ngẫng cao đầu đĩnh đạc tiến vào mái nhà của Thiên Chúa mà không sợ ánh mắt nào đố kỵ, rẽ khinh. Quả thật, một khi con người nhận ra và đáp trả tình yêu Thiên Chúa, thì không có con bệnh nan y nào mà không được chữa lành, không có thứ tội lỗi ghê gớm nào mà không được tha thứ, như chính lời khẳng quyết của Thiên Chúa: “Tội các ngươi dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông” (Is 1,18). Quả thật, phung cùi hay tội lỗi đều có chỗ trong mái nhà Thiên Chúa.
2. Tri ân – cảm tạ: hành vi cao cả của niềm tin.
Làm sao con người có thể vô tình vô ơn khi lãnh nhận hồng ân cứu độ cao cả như thế ! Chính vì thế, sứ điệp phụng vụ hôm nay còn gọi mời chúng ta phải luôn biết sống tâm tình tri ân cảm tạ vì muôn vạn hồng ân đã nhận được từ bàn tay yêu thương của Thiên Chúa. Đó chính là thái độ của vị quan Naaman thời ngôn sứ Ê-li-sê hay của một trong số mười người phung được Đức Kitô chữa lành đã quay lại để dâng lên tâm tình tri ân cảm tạ đối với Đấng đã thi ân giáng phúc.
Mà xét cho cùng, hành vi cốt lỏi của đức tin con người chính là tâm tình và thái độ tạ ơn. Chính vì thế, từ ngữ “Tạ Ơn” gần như là câu điệp khúc của toàn bộ Sách Thánh: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 107,1). Như thế, thái độ không biết tạ ơn Thiên Chúa, không cần phải cám ơn Thiên Chúa, chính là thái độ vô thần, vô tôn giáo, vô tín ngưỡng. Đó là thái độ tự mãn, kiêu căng, lấy mình làm đủ, coi mình bằng trời. (Bàn tay ta làm nên tất cả, với sức người sỏi đá cũng thành cơm !...hay Ông trời dẹp lại một bên, để cho nông hội đứng lên làm trời…).
Không ai trong chúng ta lại rơi vào thái độ ngông cuồng đó. Tuy nhiên, thái độ dửng dưng, coi mọi sự là đương nhiên: miếng cơm manh áo là do tiền lương của sức lao động, sức khỏe là do siêng tập thể dục, nhà cửa, xe cộ là do tiết kiệm, tích lũy, học hành thành đạt là do chăm chỉ…V…V…mọi sự đương nhiên là phải như thế, có gì đâu mà phải tạ ơn với cám ơn. Đợi khi nào trúng số độc đắc hay khỏi bệnh ung thư thì mới xin lễ tạ ơn…Có lẽ 9 người phung cùi sau khi được khỏi bệnh cũng lý luận như thế: tình cờ gặp may khỏi bệnh, nào Chúa có can thiệp gì đâu, mắc mớ gì phải trở lại tạ ơn cái anh chàng Giê-su thợ mộc đến từ làng quê Na-da-rét ! Chính với cái não trạng “đương nhiên” đầy tự mãn đó, đã xô đẩy bao con người xa dần mối quan hệ với Thiên Chúa để rồi mất đức tin lúc nào không hay.
Sứ điệp Phụng vụ hôm nay nhắc nhở chúng ta luôn biết khám phá muôn vạn hồng ân Thiên Chúa giăng mắc trên đường đời, để không ngừng dâng lên Ngài những tâm tình và nghĩa cử của lòng tri ân cảm tạ.
Trong tháng Mân Côi nầy, chúng ta có thể dõi mắt nhìn lên Đức Trinh Nữ Maria để tiếp bước theo Ngài trong tâm tình tri ân và cảm tạ đầy khiêm nhu thánh đức phần nào được biểu hiện qua lời kinh Magnificat:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi….
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả
Danh Người thật chí thánh chí tôn !
Gửi thiệp thăm hỏi là cách thế cho thân nhân và bạn hữu biết rằng mình không quên họ. Nhận được thiệp thăm hỏi của một người quen biết là một kinh nghiệm vui thích. Có nhiều loại thiệp cho nhiều dịp khác nhau: thiệp chúc tết, thiệp chúc mừng Giáng sinh, thiệp mừng sinh nhật, thiệp cưới hỏi, thiệp cám ơn.. Việc mua bán thiệp là một dịch vụ thương mại đáng kể. Nói lời cám ơn hay gửi thiệp cám ơn là cách bày tỏ lòng biết ơn của mình. Nhận được lời cám ơn hay thiệp cám ơn là một kinh nghiệm hài lòng.
Phong cùi là một bệnh đã gây ra mối lo sợ cho loài người, tương tự như mối lo sợ của người đời nay về những bệnh nan trị như ung thư, si-đa... Ngoài việc phải phấn đấu với chứng bệnh huỷ hoại thân thể, người phong cùi còn phải chịu một hình phạt thấm thía hơn về tinh thần: đó là bị người đời xa tránh. Người phong cùi thời Thánh kinh Cựu ước phải sống tách biệt khỏi người lành mạnh. Sách Lêvi ghi lại: Người ấy phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại (Lv 13:46). Nếu gặp người lành mạnh ngoài đường, họ phải hô hoán lên: Ô uế (Lv 13:45) cho người ta biết mà đề phòng. Ngoài ra người phong cùi không được phép đến nơi thờ phượng công cộng vì bệnh phong cùi bị coi là nhơ bẩn.
Bài trích sách các Vua II ghi lại khi tướng Naman, tư lệnh quân đội A-ram (Syria) được ngôn sứ Êlisa chữa khỏi bệnh phong cùi, phản ứng trước hết của ông là dâng lễ vật tạ ơn người của Thiên Chúa. Khi ngôn sứ Êlisa từ chối không nhận lễ vật, thì tướng Naaman mới xin chở một ít đất ở nơi ông được chữa khỏi bệnh đem về xứ sở của ông để nhắc nhở cho ông về lòng biết ơn đối với Thiên Chúa của người Ítraen. Ông còn hứa là ông sẽ: Không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Thiên Chúa (2V 5:17). Khi mười người phong cùi xin Chúa thương xót đến họ, Chúa bảo họ: Hãy đi trình diện với các tư tế (Lc 17:14). Ðiều khiến cho ta thắc mắc ở đây là nếu Chúa chữa họ thì cứ việc chữa, còn không thì thôi, chứ sao lại bảo họ phải đi trình diện với các tư tế. Vậy đi gặp tư tế để làm gì? Theo luật Lêvi thì đi gặp tư tế là để được khám nghiệm và cấp chứng chỉ được khỏi bệnh. Như vậy việc bảo đi gặp tư tế ám chỉ rằng Chúa sắp chữa họ và họ sắp được lành bệnh trên đường đi đến gặp tư tế.
Trên đường đi, họ được lành sạch. Tuy nhiên chỉ có người Samari trong nhóm họ trở lại cảm tạ Chúa. Khi người Samari trở lại cảm tạ Chúa, ông còn nhận được ơn tha tội nữa. Không những ông được ơn chữa khỏi bệnh phần xác, mà còn được chữa lành phần hồn. Khi tỏ ra biết ơn đối với những ân huệ nhận được nơi người khác là người ta sửa soạn cho mình đón nhận thêm những ân huệ kế tiếp. Cũng thế khi tỏ ra biết ơn đối vỡi những ân huệ nhận được nơi Thiên Chúa, ta cũng sửa soạn cho mình đón nhận thêm hồng ân của Thiên Chúa.
Trái lại khi ta tỏ ra vô ơn, ta tự đóng cửa lòng lại, tự cắt đứt liên lạc với người đã làm ơn cho mình và làm ngăn cản những ân huệ có thể đến trong tương lai. Có lẽ chín người phong cùi được chữa lành mà không trở lại cảm tạ Chúa vì họ nghĩ rằng bổn phận của Chúa Giêsu là phải chữa lành họ vì họ là dân được chọn. Xét đến những đau khổ và thiệt thòi về thể chất cũng như tinh thần mà chín người phong cùi phải gánh chịu, mà khi được chữa khỏi, không ai trở lại nói lời cám ơn, thì kể là cũng không biết điều, không biết xử sự và còn đáng trách nữa.
Có lẽ cũng đã có những lần ta suy nghĩ và hành động như chín người phong cùi được chữa lành mà không biết cảm tạ kia. Khi ta coi việc của một số người khác làm cho ta là bổn phận của họ phải làm như bổn phận nhân viên y tế là phải cứu giúp khi người ta bị thương; bổn phận nhân viên cứu thương là phải giúp đỡ khi người ta gặp hoạn nạn; bổn phận giáo sĩ là phải săn sóc phần thiêng liêng của người tín hữu, ta sẽ đánh giá nhẹ việc họ làm cho mình. Lại còn có những ân huệ và hồng ân mà ta không ý thức được hay coi là ngẫu nhiên cho tới khi có người nhắc nhở cho ta như công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ.
Biết ơn ai về sự vật nhận được có nghĩa là người ta muốn nhớ người đã làm ơn cho mình. Biết ơn là dấu chì của lòng khiêm tốn, muốn nhận ân huệ người khác đã làm cho mình. Sống trong một xã hội mà văn hoá của xã hội đó khiến cho người ta ý thức về lời cám ơn và đánh giá lời cám ơn, mà khi không nghe thấy lời cám ơn cho việc làm ơn, người ta cảm thấy thiếu vắng một điều gì đó. Biết ơn ai mà cứ để trong lòng, không cho người làm ơn biết, cũng là một thiếu sót. Tuy nhiên lời cám ơn có thể chỉ là do môi miệng bề ngoài, hay theo phong tục tập quán, nếu không phát xuất từ tâm tình biết ơn bên trong.
Khi ta biết ơn Chúa về một sự vật hay một ân huệ gì: lớn hoặc nhỏ, ta muốn nhớ đến Chúa, muốn tuỳ thuộc vào Chúa trong mọi sự. Mỗi ngày sống của người tín hữu phải bao gồm lời cảm tạ dâng lên Thiên Chúa về những ân huệ và hồng ơn mà ta nhận được. Lời cám ơn sẽ trở thành hiện thực khi ta biết đem ra thực hành bằng cách chia sẻ những hồng ân Thiên Chúa ban tặng với người thiếu thốn. Thánh lễ theo nguyên tự Hi Lạp Eucharistos có nghĩa là tạ ơn. Người tín hữu thời Giáo hội sơ khai, khi đi dâng lễ, họ mang trong tâm tư ý niệm và tâm tình tạ ơn. Ðối với người tín hữu, đến nhà thờ dâng lễ là cách thế tốt nhất để bầy tỏ tâm tình tạ ơn. Vậy tạ ơn Thiên Chúa mà không đến nhà thờ dâng thánh lễ tạ ơn, là một thiếu sót lớn, làm mất đi nhiều ý nghĩa của việc tạ ơn vậy.
Lời cầu nguyện xin cho được ghi nhớ ơn huệ mà Chúa đã ban:
Lạy Thiên Chúa là Ðấng ban phát mọi sự.
Xin tha thứ những lần con tỏ ra vô ơn, bội bạc,
lại thêm những lần con nổi ghen,
khi thấy người khác được trổi vượt hơn con.
Và xin thứ tha những lần con phàn nàn kêu trách Chúa.
Xin cho con biết luôn ghi nhớ rằng sống tâm tình biết ơn
hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây
phải là tâm niệm của kẻ thụ ơn. Amen.
Trên đường lên Jerusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê. Lúc Người vào một làng kia, thì có 10 người phung hủi đón gặp Người. Họ đứng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!”. Thấy vậy Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.”
Đang khi đi 10 người phung khám phá mình được chữa lành cách lạ lùng. Bài đọc thứ nhứt cũng nói về một sự chữa lành lạ lùng cho một người phung: sự chữa lành cho ông Naaman người Syrian nhờ tiên tri Elisha. Ý của phụng vụ rõ ràng là muốn mời chúng ta suy tư về ý nghĩa những phép lạ và cách riêng những phép lạ chữa lành một cơn bịnh.
Chúng ta hãy nói rằng đặc quyền làm phép lạ là một trong những đặc quyền được chứng thực hơn hết trong đời sống Chúa Giêsu. Có lẽ ý niệm nổi nhất mà dân chúng có về Chúa Giêsu trong đời sống của Người, nổi hơn ý niệm về một tiên tri, là ý niệm về một người làm phép lạ. Chính Chúa Giêsu trình bày sự kiện này như bằng chứng tích đích thực Thiên Sai của sứ vụ Người: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại” (x. Mt 11:5). Những phép lạ không thể bị loại trừ khỏi đời sống Chúa Giêsu mà không phá hủy mảnh đất nhỏ của toàn diện Tin Mừng.
Cùng với những tường thuật về các phép lạ, Kinh Thánh cống hiến chúng ta những tiêu chuẩn để đoán xét tính đích thực và mục đích của chúng. Trong sách Thánh, các phép lạ không bao giờ kết thúc tự chúng; ít nói đến chúng được giả thiết nâng cao con người thực hiện chúng và chứng tỏ những quyền năng lạ lùng của người, không như hầu hết là trường hợp những người chữa lành và những kẻ làm sự lạ tự quảng cao chính mình. Hay nói đúng hơn những phép lạ là một sự khích lệ cho và là một phần hưởng của đức tin. Đó là một dấu chỉ và phải phục vụ lôi cuốn sự chú ý tới điều đức tin cho biết. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu buồn sau khi lúc hóa bánh ra nhiều, Người thấy người ta không hiểu sự đó là một dấu chỉ cho cái gì( x.Mark 6:51).
Trong chính Tin Mừng, những phép lạ có lưỡng nghĩa ( tính mơ hồ). Thỉnh hoảng những phép lạ được nhìn thấy cách tích cực và thỉnh thoảng cách tiêu cực—cách tích cực, khi những phép lạ được đón nhận với lòng biết ơn và niềm vui, khi chúng đánh thức đức tin trong Chúa Kitô và niềm hy vọng trong một thế giới tương lai hết bịnh tật và sự chết; cách tiêu cực, khi những phép lạ được yêu cầu hay đòi hỏi vì đức tin. “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?” (Ga 6:30). Sự mơ hồ này tiêp tục cách khác trong thế gới ngày nay. Một bên, có những kẻ tìm kiếm những phép lạ bằng mọi giá; luôn luôn đó là một sự tìm kiếm sự lạ, và người ta dừng lại tại tính hữu dụng trực tiếp của những phép lạ.
Nhưng mặt khác có những kẻ chối bỏ hoàn toàn những phép lạ; trên thực tế, họ nhìn xem những phép lạ một cách tức tối, dường như đó là một sự biểu lộ lòng đạo thoái hoá, mà không công nhận rằng khi làm như vậy họ giả vờ dạy chính Thiên Chúa cái gì thật là lòng đạo và cái gì không.
Một số tranh cãi mới đây nẩy lên xung quanh hiện tượng Padre Pio, đã chứng tỏ sự lẫn lộn vẫn còn nhiều ngày nay xung quanh những phép lạ. Ví dụ, không phải Giáo Hội xem mọi biến cố không thể giải thích là một phép lạ (chúng ta biết thế giới y khoa có nhiều đến sự này!} Giáo Hội chỉ nhận là những phép lạ, những sự kiện không thể giải thích nhưng, vì những hoàn cảnh trong đó xảy ra những phép lạ (được xác minh nghiêm nhặt), có đặc điểm của một dấu thần linh, nghĩa là, những sự kiện đó xác nhận cho ai đó hay là ban một câu trả lời cho một kinh nguyện. Nếu một người nữ, không có con qua sự sinh, bắt đầu thấy tại một điểm nào đó đang khi còn không có con, điều này có thể được liệt kê như là một sự kiện không thể giải thích. Nhưng nếu điều này xảy ra khi người nữ đó xưng tội với Padre Pio, như trên thực tế đã xảy ra, lúc đó không còn có thể nói cách đơn giản về một sự kiện không thể giải thích.
Những người bạn vô thần của chúng ta với thái độ phê phán của họ về các phép lạ, góp phần cho chính đức tin bởi vì họ bảo chúng ta chú ý tới những sự giả tạo trong lãnh vực này. Nhưng họ cũng phải giữ thế về một thái độ không phê phán. Đúng là luôn có sự sai lầm là tin bất cứ điều gì được rêu rao là một phép lạ cũng như luôn luôn từ chối tin mà không nhìn vào sự hiển nhiên. Có thể là nhẹ tin mà cũng có thể là …cứng tin, là điều không khác biệt lắm.
Sống ở đời, mọi người đều mắc nợ nhau, cho nên lòng biết ơn là một món quà đẹp mà chúng ta trao tặng cho nhau, đó cũng là một ân huệ mà Thiên Chúa ban cho những ai có tâm hồn quảng đại.
Chúa Giê-su ngạc nhiên khi chỉ có một người ngoại bang được Ngài chữa lành bệnh trở lại cám ơn Ngài, Ngài ngạc nhiên là phải thôi, bởi vì người ngoại bang ấy là người không biết Thiên Chúa là ai, không biết lề luật Mô-se là gì, và nhất là ông ta bị người Do Thái coi là quân ngoại đạo ! Có rất nhiều lần trong cuộc sống chúng ta bày tỏ lòng vô ơn đối với Thiên Chúa, mà sự vô ơn lớn nhất là chúng ta coi thường những ân huệ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta:
- Thời giờ là của Chúa: nhưng chúng ta không dùng thời giờ của mình để đi thăm hỏi người bất hạnh, không dùng thời giờ của mình để làm việc bác ái, để chu toàn bổn phận, bởi vì quan tâm đến người khác là lòng biết ơn của mỉnh đối với Thiên Chúa.
- Tiền bạc, danh vọng, chức quyền là của Chúa: nhưng chúng ta chỉ bắt người chịu ơn mình nói lời cám ơn để nở mặt nở mày với thiên hạ, nhưng bản thân mình thì chưa một lần cám ơn Thiên Chúa đã ban cho mình những ơn lành...
Bạn thấn mến,
Bạn sẽ lấy làm khó chịu khi một ai đó không biết nói cám ơn khi bạn ra tay giúp đỡ họ; bạn cũng thường luôn nhắc nhở các em bé lễ phép cám ơn những người đã cho em bé quà, bởi vì lòng biết ơn chính là phép lịch sự tối thiểu giữa con người với nhau.
Trao cho nhau lòng biết ơn chân thành là chúng ta cảm tạ Thiên Chúa, vì qua tha nhân, mà Thiên Chúa ban ân huệ của Ngài cho chúng ta. Tuy nhiên lòng biết ơn đẹp lòng Thiên Chúa nhất chính là yêu thương và phục vụ lẩn nhau trong Chúa Ki-tô.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai http://360.yahoo.com/jmtaiby Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Chúng ta đang ở biên giới giữa hai miền Samari và Galilê trong hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu và các môn đệ. Nói đến Samari và Galilê, những người Dothái miền Giuđa thường dè môi khinh bỉ. Lý do là vì Samari vốn được coi là xứ sở của những giống nòi lai căng không chỉ ở chỗ pha trộn các sắc tộc dân ngoại mà còn pha trộn cả về lãnh vực tôn giáo nữa kể từ sau biến cố lưu đày năm 722 BC. Còn Galilê là miền biên giới, cũng là nơi người Dothái và dân ngoại chung sống lẫn lộn. Thế mà chính tại nơi miền đất bị khinh khi và bị loại bỏ ấy, Chúa Giêsu lại ra tay chữa lành cho đám người mắc bệnh phong cùi – một căn bệnh vốn được người Dothái xem là dơ bẩn, đáng xa lánh không chỉ trên bình diện thể lý mà còn trên bình diện tinh thần nữa. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa Lời Chúa hôm nay.
Chuyện xảy ra tại một ngôi làng gần biên giới hai miền Samari và Galilê. Một nhóm gồm 10 người phong cùi khốn khổ đứng từ xa để van nài Chúa rủ lòng thương cứu giúp. Trong Thánh kinh, con số 10 là một con số tượng trưng có ý nghĩa để chỉ con số tối thiểu có thể thành lập một cộng đoàn. Mười bệnh nhân phong củi cũng là con số để tượng trưng cho cả một dân tộc, cho toàn thể nhân loại bị ách tội lỗi thống trị bằng những căn bệnh hiểm nghèo. Mang căn bệnh này trong người, con bệnh phần lớn bị người đời khinh miệt, xa lánh. Đau đớn không chỉ phần xác, con bệnh thời Chúa Giêsu còn bị ràng buộc bởi luật lệ tôn giáo. Thật vậy, luật Dothái quy định rất khắt khe đối với những người chẳng may bị bệnh quái ác này. Khi vị tư tế khám và xác nhận bị bệnh phong cùi, tức thì người bệnh trở thành người ô uế. Có những dấu để phân biệt như ăn mặc rách rưới, xoã tóc, để râu và gặp ai từ xa phải lắc chuông hoặc kêu to “ô uế, ô uế” để mọi người xa tránh. Người bệnh phải sống tách biệt khỏi cộng đoàn và các sinh hoạt cộng đồng cũng như bị loại khỏi đền thờ (x. Lv 13, 45tt).
Trước lời cầu khẩn nài van của những bệnh nhân phong, Chúa Giêsu, như ngôn sứ Êlisê xưa, muốn thử thách lòng tin của họ. Ngày xưa, ngôn sứ Êlisê đã sai môn đệ mình đến với vị tướng chỉ huy quân đội của vua Aram là Naaman và nói với ông nếu muốn hết bệnh cùi, hãy xuống sông Giođan tắm 7 lần thì sẽ khỏi. Ông đã dìm mình xuống dòng sông Giođan và căn bệnh phong cùi khốn khổ của ông được lành. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đáp lại lời nài van của đám người bệnh kia bằng một lời hứa ngầm hiểu thật đơn giản: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Như đã nói, tư tế có quyền kiểm tra, tuyên bố người bị bệnh cũng như có quyền lên tiếng cách chính thức để nhận người ấy trở lại cộng đồng khi xác thực họ đã khỏi bệnh. Những người bệnh này vâng lệnh Chúa ra đi và được sạch. Họ đã được chữa lành do quyền năng của Chúa. Thế nhưng trong số họ, chỉ có duy nhất một người Samari biết trở lại để tri ân Chúa Giêsu- người đã cứu chữa mình.
Như viên tướng Naaman xưa, sau khi nghe lời khuyên của ngôn sứ Êlisê và được khỏi bệnh, ông mang nhiều lễ vật đến tạ ơn ngôn sứ; đồng thời lớn tiếng tôn vinh danh thánh Giavê. Người Samari trong Tin mừng hôm nay cũng vậy. Trong khi cùng với đoàn người kia đi trình diện tư tế, đang khi đi, anh được lành bệnh, anh vội vàng quay trở lại để gặp Đấng vừa chữa lành cho anh để tạ ơn và tôn vinh Người. Cử chỉ anh sấp mình dưới chân Chúa mà tạ ơn là một cử chỉ được cử hành trong phụng vụ dùng để tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa. Anh không biết Chúa Giêsu là ai, nhưng anh biết người chữa lành bệnh cho anh, làm cho anh được sạch và vì thế cử chỉ anh sấp mình xuống dưới chân người chữa lành cho anh như sấp mình dưới chân Giavê Thiên Chúa. Chính vì lòng biết ơn và lòng tin vào người đã cứu mình, người Samari không chỉ lành về phần xác, anh còn lành cả về phần hồn vì được Chúa thương cứu độ.
Còn 9 người Dothái không biết đến hai tiếng “cám ơn” thì sao? Có lẽ những người này chỉ đơn giản nghĩ rằng trước đây họ bị bệnh như những bệnh da liễu thông thường, nay được Chúa chữa khỏi, đi trình diện tư tế theo đúng luật, thế là xong. Họ vui mừng trở về với nếp sống trước đây để ăn chơi, để tận hưởng những thú vui trần gian bù lại những tháng năm bị cách ly khỏi cộng đồng xã hội. Họ nhanh chóng quên đi thân phận khốn khổ bệnh hoạn trước đây của mình, vô ơn bạc nghĩa với Chúa Giêsu- người họ chạy đến van nài nhờ vả xin được chữa lành. Chính thái độ vô ơn này, những người Dothái kia chỉ khỏi căn bệnh thể xác, còn phần trọng yếu để có thể cứu chữa toàn thể con người họ, đáng tiếc, họ lại đánh mất.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta tự vấn, suy xét xem đã bao lần chúng ta quên tạ ơn Thiên Chúa, quên cám ơn đồng loại khi đón nhận những hồng ân của Thiên Chúa cũng như sự giúp đỡ từ phía người anh em. Chúng ta biết là trong tương quan với con người, hai tiếng cám ơn – tự bản chất, chả thêm được gì cho người ban ơn, nhưng nó làm tăng giá trị nhân bản của người thụ ơn. Trong tương quan với Thiên Chúa cũng vậy. Việc con người tạ ơn và tán tụng thánh danh Thiên Chúa không làm cho danh thánh Chúa được tôn vinh hay “oai” hơn, nhưng chính nhờ đó, con người được cứu độ. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta ghi khắc điều cốt yếu này để không ngừng chúc tụng, tạ ơn Thiên Chúa hầu mang đến cho chúng ta niềm vui cứu độ.
Người thanh niên 18 tuổi Hoàng Kha mắc bệnh loạn dưỡng cơ, căn bệnh khiến người bệnh bị: TN 28-C69
Người thanh niên 18 tuổi Hoàng Kha mắc bệnh loạn dưỡng cơ, căn bệnh khiến người bệnh bị liệt dần từ chân lên, cuối cùng sẽ chết vì tim ngừng đập. Người bị mắc bệnh này thường không sống quá 18 tuổi. Một đài truyền hình biết chuyện này đã đưa tin về Hoàng Kha. Ngay sau khi bản tin kết thúc, điện thoại nhà Kha bắt đầu reo lên không ngừng. Những khán giả trong nước cũng như Hoa kiều ở nước ngoài gọi đến để hỏi địa chỉ nhà Kha và khích lệ em.
Chỉ trong vài tháng tiếp theo, các mạnh thường quân đã gửi đến nhà Kha 500 khoản tiền với tổng số hơn 80.000 nhân dân tệ ( 10.000 USD ). Năm 2003, Kha đề xuất tâm nguyện cuối cùng với cha là đi gặp những nhà hảo tâm đã âm thầm gửi tiền giúp mình, để nói một tiếng cảm ơn. Kể từ lúc đó, hai cha con đã mất khoảng hai tháng mỗi năm rong ruổi trên chiếc xe máy tái chế đi tìm ân nhân.
Chiều 29.7.2006, Hoàng Kha đến một khu chung cư ở tỉnh Liêu Ninh. Kha cầm bó hoa bằng đôi tay yếu ớt của mình và tặng bà Tôn Tố Cần: "Bà ạ, cảm ơn bà đã quan tâm và khích lệ cháu sáu năm trước. Lòng hảo tâm của bà đã giúp cháu và cha cháu vượt qua tuyệt vọng. Hôm nay cháu và cha cháu đến đây để nói cảm ơn trước mặt bà". Câu nói chưa dứt mà cả ân nhân lẫn người cảm ơn đều đã nước mắt lưng tròng.
Chuyến đi của hai cha con Hoàng Kha thật là khó khăn. Mỗi ngày chiếc xe chỉ có thể đi được quãng đường 100km. Hoàng Kha ngồi trong thùng xe nhỏ cũng không thoải mái, cứ một hai giờ họ phải dừng lại nghỉ một chút. Nhưng họ không bao giờ muốn ngừng lại. Suốt ba năm nay họ đã đến được mấy chục thành phố, đi được quãng đường dài hơn 13.000km và đã nói lời tri ân với 300 ân nhân. Chỉ còn 600km nữa anh và cha sẽ kết thúc hành trình cảm ơn của mình.
Hoàng Kha cho biết với những người không thể đến gặp mặt trực tiếp thì anh sẽ cảm ơn họ trong lòng. Anh cũng mong muốn sau này khi qua đời sẽ hiến giác mạc của mình cho người cần thay giác mạc.
Câu chuyện trên một tờ báo Bắc Kinh được báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật đăng lại ngày 13.8.2006, khiến ta phải suy nghĩ nhiều: biết ơn và tạ ơn không chỉ và không thể là việc của một lần, một dịp cụ thể, mà phải là một chuỗi tháng ngày không ngừng thấy mình mang ơn, ơn đời, ơn người, ơn “Trời”.
Rất nhiều những ơn ta có thể bình tâm nhìn lại và nhẩm đếm mỗi ngày, song cũng vô số những ơn hoặc ta không nhớ hết hoặc không biết đến, vì đơn giản là chúng không tên: những kẻ giữ cho xã hội bình yên, có khi bằng giá mạng sống; những kẻ tạo những khoảng xanh công viên bồn hoa tươi đẹp; những người chăn nuôi trồng trọt; những lao công quét dọn vệ sinh đường phố; những người phát minh chế tạo các tiện nghi phục vụ đời sống và thăng tiến con người v.v...
Vì thế, tạ ơn phải là một hành trình, không chỉ ở đời nầy, không phải đứt đoạn khi lìa đời, cũng không chấm dứt ngày tận thế, mà mãi tới thiên thu. Cũng chính vì thế mà trong Tin Mừng hôm nay, khi chứng kiến anh kẻ ngoại phủ phục thờ lạy Người để “èv kharistô” ( cám ơn ), Chúa Giê-su đã hỏi: “Thế chín người kia đâu cả rồi ?”
Những lúc đi hành hương tới các Linh Địa Thánh Mẫu hoặc những chốn nổi tiếng như mộ Cha Trương Bữu Diệp, nhìn những tấm biển tạ ơn gắn kín các mặt bằng hang đá, bức tường, ta thấy đa phần là những người ngoài Ki-tô Giáo: họ quay lại để cám ơn.
Không nhiều lắm những tấm biển tạ ơn của người Công Giáo: có thể vì xin mà chẳng được ơn, nhưng cũng có thể được ơn nhưng nghĩ rằng việc cha mẹ ban ơn cho con cái là chuyện đương nhiên và suy nghĩ ấy dẫn chúng ta gia nhập vào số 90% những kẻ vô ơn – những người “có đạo” ! Khi ấy, vô ơn không chỉ trở thành một thói xấu, mà là một bệnh !
Thánh I-nha-ti-ô coi lòng vô ơn như cội rễ của mọi thứ tồi tệ. Trong bức thư gửi một anh em trong Dòng là Simon Rodiguez, ngài viết: “Nếu người ta suy nghĩ về những điều tốt lành của Thiên Chúa, thì trong những điều lầm lỡ tồi tệ nhất phải kể đến là lòng vô ơn với những điều tốt lành đáng trân trọng trước Đấng Tạo Hóa, là Chủ và trước những tạo vật được dựng nên vì Danh Thánh vĩnh cửu của Thiên Chúa. Lòng vô ơn là chính sự vô tâm trước những món quà và hồng ân nhận được. Lòng vô ơn là nguyên do và là khởi đầu của tội lỗi và mọi điều tồi tệ”.
Cha ông Việt Nam chúng ta dạy con cháu ghê tởm thói vô ơn, như kiểu “ăn cháo đá bát”, “qua cầu rút ván”, “được cá quên nơm”, ... và phải luôn sống xứng đáng với con người hiếu thảo, biết ơn. Đạo lý ấy tóm gọn trong hai câu: uống nước nhớ nguồn ( những gì hưởng từ thiên nhiên ); ăn quả nhớ người trồng cây ( hưởng thành quả từ công lao của người khác ) ! Cha ông ta ngửa mặt lên khi công việc thuận buồm xuôi gió để “tạ ơn trời Phật !” hoặc “tạ ơn trời đất” ! Một cái “lễ” cho ông bà tổ tiên, như tấm lòng biết ơn vì đã bầu cử cho cháu con !
Ở các quốc gia như Hoa Kỳ, vào thứ năm tuần thứ tư của tháng 11, và ở Canada là thứ hai tuần thứ hai của tháng 10, người ta tổ chức Lễ Tạ Ơn ( Thanksgiving Day ). Đó là một ngày Tạ Ơn Thiên Chúa với tất lòng biết ơn sâu xa. Một người trong nhóm di dân đến từ Anh vào đầu thế kỷ XVII, sống sót qua bao tai nạn, dịch bệnh, lại còn gặp được nhiều điều tốt lành, đã viết thư cho bạn bè kể lại rằng: “Chưa bao giờ chúng tôi được no đủ vui thích như trong lúc này, đó là nhờ lòng quảng đại của Thiên Chúa. Chúng tôi muốn chia sẽ niềm vui và của ăn đồi dào với kẻ khác”.
Nhà du hành vũ trụ Hoa Kỳ đầu tiên Shepard, phải thốt lên khi phi thuyền ông điều khiển – chiếc phi thuyền đầu tiên có người lái của Mỹ – bay vào quỹ đạo trái đất ngày 5.5.1961: ”Tôi tin kính một Thiên Chúa Toàn Năng”, khác biết bao với câu nói đáng thương của phi hành gia Xô-viết Nga Yuri Gagarine cũng bay vào qũy đạo trước đó, ngày 12.4.1961: ”Tôi đã nhìn khắp nơi, mà chẳng hề thấy Thiên Chúa đâu cả !”
Cũng thế, khi phi thuyền Appolo đổ bộ lên mặt trăng, thì cử chỉ đầu tiên của phi hành gia Neil Amstrong ( và tất nhiên là của nước Mỹ ) là đặt lên bề mặt hành tinh vừa bị chinh phục một cuốn Kinh Thánh, rồi sau đó mới đến quốc kỳ và quốc huy nước Mỹ. Đó là đức tin kết tinh từ lòng tri ân đối với Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giê-su, những người thích xem phim Hàn Quốc nhận thấy những bộ phim rất dài về tình cảm tuyệt nhiên không sử dụng đến những màn hôn hít có vẻ say đắm, những đoạn trút bỏ y phục sống sượng dâm ô để diễn tả tình yêu và để phim hấp dẫn ăn khách. Điều dễ dàng nghe thấy ở bất kỳ bộ phim nào, đó là hai câu thật đơn sơ, nhẹ nhàng, nhưng giúp hoá giải mọi hận thù, khúc mắc trong các tình tiết giữa các nhân vật: “Con sai rồi” ( em sai rồi; bố sai rồi... ) và “cám ơn”.
Hai câu “xin lỗi” và “cám ơn” ngắn ngủi đơn giản nầy, đất nước Hàn Quốc đã phải vận động người dân... học tập và thực hành cả hai năm trời, trước ngày khai mạc Thế Vận Hội Séoul 1988. Đó cũng phải là hai câu con dùng suốt đời đối với Chúa và với anh em, là hành trình tạ ơn mà con phải thực hiện đến muôn đời, đơn giản bởi vì TẠ ƠN CHÚA “thật là công bình, chính đáng và hữu ích cho phần rỗi ” ( Kinh Tiền Tụng ).
Bất kể đã tham quan nước Hy lạp hay chưa, phải biết rằng Èv kharisto có nghĩa là cám ơn. Cám: TN 28-C70
Bất kể đã tham quan nước Hy lạp hay chưa, phải biết rằng Èv kharisto có nghĩa là cám ơn. Cám ơn nhiều. Như trong tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha: grazie tante – muchas gracias. Hơn nữa, hành vi tạ ơn tốt nhất của các Kitô hữu, chính là Thánh Lễ. Đó là chủ đề chính của Phúc Âm hôm nay.
Trong hành trình tiến về Giêrusalem của Người, Chúa Giêsu đã chọn đi qua xứ sở những người bị loại trừ - Samaria – nơi 10 người phong cùi - những kẻ bị loại trừ trong những người bị loại trừ - đến gặp Người. Họ nhìn nhận họ mang trong mình dấu ấn bệnh phong cùi và tội lỗi và đó là sự chuẩn bị thống hối:”Lạy Thầy, xin thương xót chúng con”. Họ cũng gọi Chúa Giêsu bằng tên Người, bằng tiếng Aram: “Yéshuah”,”Thiên Chúa cứu độ”. Chính vì điều đó là Người đi lên Giêrusalem.
Theo thói quen, Người động lòng thương trước các nạn nhân bệnh tật và tội lỗi. Lời đầu tiên của Người nhắm tái hoà nhập những người phong cùi nầy vào lại cộng đồng của họ, điều mà các linh mục sẽ làm khi ban bí tích chữa lành. Nhưng chính quyền năng của Lời trong hành trình đức tin đã chữa họ lành:”Dọc đường”, họ được sạch. Sau đó là Sư Tôn Vinh Chúa:” Một người trong bọn, thấy mình được chữa lành, quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Danh Chúa”.
Sau khi đã nhận được nơi thân thể mình sức mạnh của Lời, một người phong cùi được sạch phủ phục sát đất, một cử chỉ mà trong Kinh Thánh, chỉ được thực hiện trước Thiên Chúa mà thôi: Đó là cái nhìn thấy tỏ tường và sốt sắng nhất trong kinh tin kính. Cử chỉ nầy tuyên xưng rằng Chúa Giêsu là Đấng Messia, Con Thiên Chúa, đáng được thờ lạy ngang với Chúa Cha.
Chứng kiến lời tạ ơn của người nầy, Chúa Giêsu hỏi: “Chín người kia ở đâu rồi?”. Những người con được gột sạch và được cứu chuộc của dân tộc đầu tiên của Giao Ước sẽ dự phần vào lễ hội cộng đồng Kitô giáo chăng? “Sao chỉ có người ngoại quốc nầy…”. Sau khi Thánh Têphanô qua đời, trong sách Công Vụ Tông Đồ, những người dân Samaria sẽ là những người ngoại quốc đầu tiên gia nhập cộng đoàn Hội Thánh.
Người phong cùi được chữa lành thờ lạy Chúa Giêsu “ và tạ ơn”: eukharistôn, theo bản văn Hy Lạp: Như khi phân phát bánh và trong cụ hai môn đệ Emmaus, trình thuật nầy dẫn chúng ta đến việc cử hành bí tích Thánh Thể. Chính nhờ sức mạnh của Chúa Giêsu mà một người phong cùi được sạch cử hành hành vi tạ ơn nầy.
Tất cả kết thúc với việc chúc đi bình an, trong hiệp thông với toàn thể tội nhân được tha thứ và được cứu chuộc: “Hãy đứng dậy và đi về. Lòng tin của anh đã cứu anh”.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Thánh Lễ lớn lao là hành động trung tâm tôn giáo của chúng ta là những người Công giáo. Bởi vì: TN 28-C71
Thánh Lễ lớn lao là hành động trung tâm tôn giáo của chúng ta là những người Công giáo. Bởi vì Thánh Lễ là hành động của Đức Kitô Thượng Tế và Thân Thể Ngài là Giáo Hội, đó là một tác động thánh vượt trên hết cả mọi cái khác. Không có gì có thể ngang với sức mạnh quyền năng của Thánh Lễ, có thể thay thế sự quan trọng của Thánh Lễ (x. Hiến chế về phụng vụ, đoạn 7).
Thánh Lễ thì giàu có phong phú mà chúng ta không có thể nào lưu lại hoặc nghĩ về trong một dấu hiệu đơn độc. Thánh Lễ là một hy tế không đổ máu của thánh giá, đó là bữa ăn tối của chúng ta, đó là việc tưởng nhớ sống động về mầu nhiệm Vượt Qua, và bí tích của sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, đó là Thân Mình thật của Ngài đã được tuôn đổ vì chúng ta, đó là bữa tiệc thánh mà trong đó Đức Kitô đã tiêu hủy Mình hoàn toàn, đó là những lời nài xin và lời hứa từ sự Phục Sinh và cuộc sống đời đời. Giữa những chỉ định rực rỡ này của Thánh Lễ, nhiều vị tư tế và dân chúng kể từ Công đồng Vatican II đã thường sử dụng một từ, từ đó là”hy tế Thánh Thể, Euchris”.
Euchris là một từ Hy lạp được dùng trong Tân Ước mà chúng ta đã chuyển dịch sang là: “Dâng lời tạ ơn”. Dâng lời tạ ơn có liên quan đến sự biết ơn mà chúng ta mắc nợ trong thời gian nơi bạn bè, cũng như nơi liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa; vì lý do này vị linh mục đọc: “Hãy để chúng ta dâng lời tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta”. Đáp lại: “Thật chính đáng để dâng lên Ngài lời tạ ơn và ngợi khen” và thêm lời”ngợi khen” là để chúng ta biết mình phải dâng lời tạ ơn lên Thiên Chúa. Chúng ta nhận biết rằng quan hệ của chúng ta với Cha trên trời, Đấng là Chúa và là Thiên Chúa chúng ta.
Hãy nhớ dâng lời tạ ơn là việc tốt đẹp, đừng để cho việc đó trở nên xấu xa. Khi một người trong mười người bị bệnh hủi đã được chữa lành trở lại ngợi khen Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã hỏi: “Còn chín người kia đâu?”. Chúng ta hầu như có thể nghe lại câu hỏi thất vọng của Ngài. Chúng ta cũng không cần làm thất vọng Chúa Giêsu và Cha của Người. Hãy nhớ rằng Thánh Lễ là hy tế tạ ơn của chúng ta là lời tạ ơn của chúng ta dâng cho Thiên Chúa.
Tất cả chúng ta đều có lý do để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa trong Thánh Lễ. Hôm nay chúng ta có thể ước ao cám ơn Chúa vì đặc ân sự sống nơi một em bé sơ sinh, hoặc chúc sức khỏe đã được phục hồi nơi một người già lão bệnh hoạn. Chúng ta cũng có thể dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về công việc sau một thời gian dài thất nghiệp, cho một giải pháp nơi một gia đình đang tranh cãi, hoặc cho một sự độ lượng của một người bạn tốt. Mỗi Chúa Nhật chúng ta cần hồi tâm lại về những động lực cá nhân của chúng ta để dâng lời cám ơn. Tiếp đó, chúng ta hãy nhớ rằng luôn luôn ở mọi nơi, mọi lúc là phải tạ ơn Thiên Chúa, đơn giản bởi vì Chúa là Thiên Chúa của chúng ta. Dâng lời tạ ơn diễn tả quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa.
Tạ ơn là một điều mà Naaman người Syria đã muốn dâng lên Thiên Chúa. Ông đã được tẩy sạch bệnh phong cùi sau khi đã tắm bảy lần trong dòng nước của sông Giođan. Ông đã yêu cầu lấy hai thúng đất của Israel để xây nên một Đền Thờ trên Syria, nơi quê hương của ông, để từ nơi đó ông có thể dâng lời tạ ơn với Thiên Chúa. Kinh nghiệm của ông như là một dấu hiệu của phép rửa chúng ta. Chúng ta đã rửa sạch trong phép rửa và đã được thông dự vào chức tư tế của Đức Kitô. Phép rửa kêu gọi chúng ta trở thành một dân thờ lạy Thiên Chúa, dâng cho Ngài lời tạ ơn và ngợi khen. Nhưng chúng ta không cần đất đặc biệt, không cần một vị trí đặc biệt, để dâng lời tạ ơn cho Thiên Chúa. Bất cứ khi nào Thánh Lễ cử hành, đó là lễ dâng đẹp nhất của lời cám ơn và ngợi khen Thiên Chúa. Đối với chúng ta luôn luôn mọi nơi và mọi lúc đều có thể dâng lời cám ơn Thiên Chúa và chúng ta làm điều đó khi cử hành hy tế Thánh Thể.
Đầu tháng 10 năm 1962, chiếc phi cơ hàng không Panam (Mỹ), chở mấy trăm Giám mục người: TN 28-C72
Đầu tháng 10 năm 1962, chiếc phi cơ hàng không Panam (Mỹ), chở mấy trăm Giám mục người Mỹ đi họp Công Đồng chung Vatican II. Trong hai cô tiếp viên hàng không phục vụ hành khách, có một cô kiều diễm tuyệt vời. Đức Cha Fulton Sheen, Tổng Giám Mục giáo phận New York đồng thời là một nhà văn và một nhà hùng biện nổi tiếng Nước Mỹ, đã lưu ý đến sắc đẹp của cô tiếp viên nầy.
Thế rồi, khi phi cơ hạ cánh, hai cô đứng bên cửa xuống cầu thang chào từ biệt và hành khách đáp lại hai tiếng cám ơn. Nhưng đến lượt Đức Cha Fulton Sheen, người ta thấy ngài đưa miệng ghé vào tay cô tiếp viên xinh đẹp kia mà nói nhỏ một câu gì không ai nghe được.
Bốn tháng sau, khi khóa I Công Đồng chung Vatican II kết thúc, các Giám Mục được về nước nghỉ. Một hôm, cô chiêu đãi viên xinh đẹp nọ tìm đến gặp Đức Cha Fulton Sheen: “Thưa Đức Cha, Đức Cha còn nhớ con là ai không?” – “Tôi còn nhớ lắm, Đức Cha còn đáp. Cô là tiếp viên trên chiếc hàng không đưa chúng tôi đến Rôma”. – “Nhưng Đức Cha còn nhớ Đức Cha đã nói gì với con không?” – “Tôi đã nói: có khi nào cô đã tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho cô sắc đẹp tuyệt vời không?” – “Thưa Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà hôm nay con đến hầu chuyện Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà Cha nghĩ con phải làm gì để tạ ơn Chúa?”. Trước câu hỏi đột ngột, Đức Cha Fulton Sheen lúng túng không biết trả lời làm sao. Ngài trấn tỉnh, chấp tay lên ngực, rồi ngước mắt lên trời như thể xin ơn soi sáng. Trong chốc lát, ngài nói: “Cha vừa mới được một tin từ Việt Nam: đó là Đức Cha Jean Cassaigne, một người Pháp đang là Giám Mục giáo phận Sài Gòn, đã xin từ chức để đi phục vụ một trại phong cùi ở miền núi Di Linh – Lâm Đồng. Nhưng người phong cùi ở đó khốn khổ lắm con ạ! Họ đang chờ cái chết đến với họ. Vậy theo ý cha, cách tạ ơn Chúa đẹp lòng Ngài hơn cả và có ý nghĩa hơn cả là con hãy hy sinh một thời gian, đem nụ cười xinh tươi, đem tiếng nói dịu dàng, đem duyên sắc mặn mà của con để an ủi họ”. Mặt cô tiếp viên tái dần đi. Cô đứng lặng yên trong mấy phút. Đột nhiên cô cúi đầu tạm biệt không nói một lời. Rồi từ đó không biết hai người còn gặp nhau hay thư từ liên hệ gì nữa chăng. Nhưng đầu năm 1963, đài phát thanh cũng như báo chí ở Sài Gòn loan tin: “Một nữ tiếp viên rất xinh đẹp của hãng hàng không Panam tình nguyện đến Di Linh – Lâm Đồng để sống với những người phong cùi trong sáu tháng”.
Thưa anh chị em,
Cái nhìn đức tin thúc đẩy chúng ta tạ ơn Chúa là như thế đó. Nhận được ơn thì phải biết chia sẻ cho người khác, để nói với Thiên Chúa và anh em mình rằng: “Tất cả đều là hồng ân”. Biết bao ơn lành lớn nhỏ Chúa tuôn đổ xuống trên cuộc đời chúng ta. Có bao giờ chúng ta nhận ra những hồng ân ấy để dâng lên những lời cảm tạ mỗi ngày không? Những điều chúng ta đang có tưởng rằng tầm thường, nhưng thật ra lại rất phi thường. Đừng đợi khi mắt mù, tai điếc, cụt tay, què chân chúng ta mới nhận ra có thân thể lành lặn là quý giá vô cùng. Nếu chúng ta biết cám ơn những gì mình đang có, chúng ta sẽ biết cám ơn suốt đời vì tất cả những gì Ngài đã ban cho.
Chúa Giêsu đã hỏi: “Không phải cả mười người được khỏi phong cùi sao? Thế thì chín người kia đâu, sao không trở lại tạ ơn Chúa, mà chỉ có một người ngoại giáo nầy thôi?” Đối với người Do Thái, người bị phong cùi được coi như bị Thiên Chúa chúc dữ và còn bị luật coi là người mắc ô uế nhơ bẩn, bị xã hội khai trừ, phải sống biệt lập trong bãi tha ma, đi đâu thì phải lắc chuông lên tiếng báo động cho người ta xa tránh.
Nhưng Chúa Giêsu không xa tránh họ. Họ đã đến với Chúa như Chúa đến với họ. Vì Ngài là tình thương cứu chữa. Chỉ có tình thương mới tìm đến với những con người bị bỏ rơi, bị loại trừ. Trên đất nước chúng ta có hàng chục trại phong cùi. Một số trại do các tu sĩ, nữ tu đảm nhận điều hành, chăm sóc các bệnh nhân. Nếu ở Việt Nam tên tuổi của Đức Cha Jean Cassaigne gắn liền với trại phong cùi Di Linh thì danh tiếng của Đức Cha Đamien còn vang vọng giữa hải đảo Milokai – Thái Bình Dương, người mà nhà ái quốc Gandhi đã ca ngợi và nói: “Nên tìm hiểu đâu là nguyên do phát sinh một cuộc sống anh hùng như vậy”. Nguyên do của cuộc đời hy sinh ấy là tình yêu mến Chúa như Chúa đã yêu thương chúng ta cho đến tận cùng.
Vậy khi chúng ta được Chúa ban ơn, được mọi ơn lành hồn xác thì đừng quên cám ơn Chúa và đừng kiêu hãnh khinh miệt kẻ khác. Thánh Inhaxiô nói: “Tội lớn lao hơn cả là tội vô ơn”. Trong nhóm 10 người phong cùi được Chúa chữa lành, chỉ có một người đã trở lại cám ơn Chúa và người đó lại là người ngoại giáo. Nhiều khi chúng ta được ơn Chúa, nhưng không biết cám ơn Chúa. Khi hoạn nạn thì khấn vái bốn phương, khi được như ý thì quên lời đã nguyện hứa. Tệ hơn nữa, còn tự kiêu tự phụ khinh miệt những người xấu số, bệnh tật, nghèo khó, phong cùi.
Cám ơn là dấu chỉ của lòng tin. Chúa nói với người phong cùi biết ơn đang sụp lạy dưới chân Ngài: “Anh hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Chính lòng tin đã thúc giục người Samari phong cùi trở lại tạ ơn Chúa trước hết, đang khi chín người Do Thái kia lo đi trình diện các tư tế để được xác nhận và được hội nhập vào cộng đoàn. Trong bài đọc I hôm nay, quan Naaman sau khi dược lành sạch phong cùi, cũng vì lòng tin đã tìm đến Ngôn sứ Êlizê và tuyên xưng lòng tin vào Thiên Chúa: “Thật tôi biết, không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vụ ngoài một Thiên Chúa của Israel”.
Anh chị em thân mến,
Tạ ơn Chúa là dấu chỉ của niềm tin. Tạ ơn Chúa không chỉ là chuyện lễ nghĩa, nhưng là nét đặc trưng của những tâm tình mà con người phải có trước các ơn thiêng đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Việc bẻ bánh ngày xưa cũng như Thánh lễ ngày nay là gì? Phải chăng là tâm tình tạ ơn mà người Kitô hữu khiêm tốn và hân hoan dâng lên Thiên Chúa là Cha vì hồng ân Ngài đã ban cho chúng ta trong Đức Giêsu? Phải chăng là phương thế tuyệt hảo để chúng ta nhận thức lại sự phong phú đích thực của mình và tìm lại bình an của niềm tin giữa những lắng lo cuộc sống?
Cũng chính trong tâm tình tạ ơn đó, chúng ta họp nhau chung quanh Bàn Tiệc Thánh nầy để cử hành Thánh Thể – Bí Tích Tạ Ơn. Ước chi lễ tế tạ ơn nầy đem lại cho chúng ta bình an và niềm vui sướng vô hạn. Bình an và niềm vui của một đức tin đã gặp được Đấng Cứu Độ.
Vào thời đại của Đức Giêsu, bệnh phong hủi không có thuốc chữa. Khi một người mắc phải: TN 28-C73
Vào thời đại của Đức Giêsu, bệnh phong hủi không có thuốc chữa. Khi một người mắc phải bệnh ấy, có sống cũng như chết. Thế mà tại sao chín người phong hủi đã không trở lại để cám ơn Đức Giêsu vì Người đã chữa lành cho họ? Chúng ta không lạm dụng trí tưởng tượng của chúng ta khi vẽ lại những gì đã xảy ra. Chúng ta giả sử điều đó xảy ra trong thời đại của mình.
Người thứ nhất là Miriam, vợ của một người bán hàng. Khi về lại nhà, bà thấy nhà mình bừa bãi, lộn xộn. Không phải do lỗi của chồng bà. Ông phải tất bật với công việc. Trở lại gặp Chúa không còn là vấn đề nữa – ít ra là trong lúc này.
Người thứ hai là Aaron, một nông dân. Mùa hè này là một mùa tồi tệ, và toàn thể mùa màng có nguy cơ bị mất trắng. May mà dự báo thời tiết đã nói rằng thời tiết tốt, có mưa nhiều đúng vào những ngày ông có thể trở lại.
Người thứ ba là Saul. Khi ông ta trở lại nhà, gia đình ông đã mở tiệc mừng ông. Họ không muốn nghe ông nói đi đến nơi nào đó. Ông đã không xa nhà đủ rồi hay sao? Chính họ đã ngăn cản ông trở lại gặp Chúa.
Martha là người thứ tư. Khi chị trở về nhà thì chương trình Tivi chị ưa thích vẫn còn, trong thời gian sống cách ly vì bệnh phong hủi, chị luôn thèm khát được xem chương trình đó. Giờ đây chị mải mê với chương trình ấy. Chị muốn ngày mai trở lại gặp Chúa. Nhưng ngày mai không bao giờ đến.
Người thứ năm là Daniel. Trước khi ông bị phong hủi, ông rất thành công trong kinh doanh, khi ông về đến nhà, ông thấy việc kinh doanh hoàn toàn suy sụp. Trở lại gặp Đức Giêsu không nằm trong các ưu tiên của ông. Chẳng bao lâu sau, ông hoàn toàn quên việc đó.
Amos, người thứ sáu không có nhà để về. Anh đã cảm thấy rất cay đắng về căn bệnh phong hủi của mình và về cuộc sống chung. Khi anh trở về, anh gom góp được ít tiền bạc mà người ta cho anh, về đến thành phố, anh uống rượu. Việc trở lại không bao giờ có trong đầu anh.
Peter là người thứ bảy. Khi anh về nhà, anh không có việc làm. Vì thế khi nghe nói về một cuộc phỏng vấn để được nhận vào một chỗ làm tốt, anh đến ngay. Trong lúc này, anh không thể trở lại.
Anna là người thứ tám. Lúc đó nhiên liệu đang bị khan hiếm. Chị hiện đang trên đường về nhà thì thấy một trạm xăng còn mở cửa. Chị phải xếp hàng ba giờ liền để được đổ đầy bình xăng. Sau đó chị đi thẳng về nhà. Thật đáng thương khi muốn phung phí xăng cho một cuộc hành trình thật sự không cần thiết.
Người thứ chín là Joseph. Khi ông ta về nhà, ông ta quyết định bán câu chuyện của ông ta cho một tờ báo. Không để mất thời gian. Một người khác có thể có cùng ý tưởng ấy và sẽ phỗng tay trên. Quay lại không có chỗ trong kế hoạch của ông.
Sau cùng, đó là Simon. Ông có mấy lý do để không quay trở lại. Một lý do đặc biệt thuyết phục. Ông là người Samari lại được một người Do Thái chữa lành. Một người Samari cám ơn một người Do Thái không phải là chuyện dễ. Nhưng là một người nhân ái, ông gạt bỏ những lý lẽ ấy và quay lại để cám ơn.
Xin lỗi! Những lý lẽ ấy xem ra nguỵ biện, đê tiện, trơ trẽn và rác rưởi. Nhưng có hiệu lực trong chín trên mười trường hợp. Chúng ngăn cản chín người ấy làm một việc mà có lên trời người ta cũng phải làm.
“Chúng ta viết trên cát những ơn ích mà chúng ta nhận được, nhưng viết trên đá cẩm thạch những tổn thất” (Thomas More).
Chín người phong hủi không thể diễn tả lòng biết ơn. Sự vô ơn ấy nói với chúng ta điều gì? Điều đó nói lên rằng họ chỉ lành lặn ở ngoài da. Bệnh phong hủi đã hết, nhưng không có gì khác nơi họ đã thay đổi. Sau kinh nghiệm cay đắng ấy, họ trở về với những thái độ cũ, những tập quán, mục tiêu của họ và sự nông cạn của cuộc đời. Họ đã không học được gì từ đau khổ của họ. Đây là một bi kịch thật sự.
Nhưng rõ ràng người Samari đã học được từ kinh nghiệm đau thương của mình. Kể từ đó, ông đã trở thành một con người hoàn toàn đổi khác, như Naaman sau khi được Êlisa chữa lành phần xác. Naaman và người Samari được chữa lành cả xác lẫn hồn.
Trong những lúc tốt đẹp, chúng ta quên mất Thiên Chúa, dù rằng chúng ta vẫn tiếp tục phục vụ Người bằng môi miệng. Nhưng rồi một cơn bệnh đến bắt chúng ta phải quỳ gối xuống, và bất ngờ chúng ta đối diện với sự nghèo nàn, yếu đuối và tính dễ chết của chúng ta. Tuy nhiên, nếu điều ấy đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn và làm cho chúng ta sống tâm linh hơn thì nó đúng là một ơn lành trong bộ áo cải trang. Dường như trong mười người phong hủi, chỉ có một người được đưa đến gần Thiên Chúa hơn qua bệnh tật và sự bình phục của người ấy.
TRONG MƯỜI NGƯỜI PHONG CÙI ĐƯỢC CHỮA LÀNH, CHỈ MỘT NGƯỜI SAMARI BIẾT ƠN
Lần thứ ba, một điệp khúc về cuộc hành trình lên Giêrusalem làm giai đoạn trình thuật (c.11): TN 28-C74
Lần thứ ba, một điệp khúc về cuộc hành trình lên Giêrusalem làm giai đoạn trình thuật (c.11). Thay vì tiếp tục con đường xuống phiá Nam, dường như Chúa Giêsu rẽ qua hướng Đông, giữa Galilê và Samari, để đến thung lũng sông Giođan. Ghi chú này làm cho dễ chấp nhận việc có mặt của một người Samari trong nhóm người Do Thái bị phong cùi.
Trình thuật về việc chữa lành (cc. 12-14) rất ngắn và giống với 5,12-16, trong đó lần đầu tiên Chúa Giêsu đối diện với một trong những kẻ tiện dân bị loại khỏi cộng đoàn. Chắc hẳn ở đây họ không phục lạy nhưng họ chào kính Chúa Giêsu như một vị Thầy –như các môn đệ gọi Ngài. Họ kêu xin Ngài, mà không xin rõ được chữa lành (so sánh với 5,12) cũng không xin của bố thí. Chúa Giêsu báo họ đi đến các tư tế, là những người đúng theo luật lệ của Lv 14,1tt, có nhiệm vụ nhận xét về việc lành bệnh. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không làm một cử chỉ gì để chữa bệnh và như thế việc lành không xảy ra ngay tức khắc (so sánh với 5,13).
Khi nghe lời Chúa Giêsu chỉ dạy, mười người này chứng tỏ có lòng tin tưởng, một niềm tin trái ngược với niềm tin của đại tướng Naaman người Syri (x.4,27), thoạt tiên ông này từ chối làm theo lời báo của của ngôn sứ Êlisê (2V 5,10-12). Như vậy, việc chữa lành xảy ra từ xa.
Cho tới đây, trình thuật đề cao quyền lực lớn lao của lời Chúa Giêsu và, do đó, chuẩn bị cho câu giải đáp mà Ngài sắp nói với các người Pharisêu (17,21). Nhưng cao điểm của lời giải đáp này nằm ở những gì xảy ra sau khi chữa lành và sẽ minh hoạ khoảng cách giữa việc chữa bệnh và ơn cứu độ. Trong các câu 15-19, một trong các người phung cùi được chữa lành quay trở lại ngay cả trước khi vâng lệnh Chúa Giêsu và Lề Luật: vừa tôn vinh Thiên Chúa, anh vừa sấp mình –điều đã bị bỏ ở các câu 12-13, và nhất là tạ ơn Chúa Giêsu. Và điều đáng ngạc nhiên là chỉ tới đây, một khi thái độ của anh gây ấn tượng tốt cho ta, ta mới biết anh thuộc về chủng tộc nào: đó là một người Samari. Sự tương phản giữa lòng biết ơn của người này và sự vô ơn của chín người khác vẽ nên một đường ranh phân biệt giữa những người Do Thái và người mà chính Chúa Giêsu nói đến như một người ngoại bang (người Samari cũng như người Do Thái nhìn nhận uy thế của Luật Môsê, và như vậy nhìn nhận uy thế của những quy luật trong sách Lêvi về bệnh phong). Như trong dụ ngôn về người Samari tốt lành (10,30tt) và khi rao giảng ở Nagiaret (4,24-27). Trình thuật nhấn mạnh đến tình yêu mà các người ngoại bang bày tỏ. Do đó, Chúa Giêsu bác bỏ cái nhìn theo chủ nghĩa dân tộc quá khích, theo đó Thiên Chúa chỉ tỏ mình ra cho người biết trong các thể chế văn hoá: chính bên cạnh Chúa Giêsu mà người ta tôn vinh Thiên Chúa.
Lúc nào cũng nghĩ đến Thiên Chúa trong những mối bận tâm của mình nên Chúa Giêsu trách cứ chín người tật phong khác vì đã không tôn vinh Thiên Chúa. Nhưng chính lời Chúa Giêsu nói về đức tin (c.19) mới là đỉnh cao của trình thuật. Mười người phong cùi được chữa lành, nhưng duy nhất chỉ có người Samari biết ơn mới được tuyên bố là được cứu độ. Như vậy ơn cứu độ là điều cao quý hơn việc chữa lành thể xác. Và niềm tin trọn vẹn của kẻ quay trở lại thì cao quý hơn niềm tin tưởng đã thúc đẩy cả mười người đi trình diện với các tư tế trước khi được chữa lành. Việc chữa lành chỉ khai mở cho ơn cứu độ trọn vẹn khi con người nhận ra sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa đối với mình và nếu họ đáp lại bằng cách dấn thân vào một liên hệ thật sự với Chúa Giêsu: đó là niềm tin trọn vẹn.
Một lần nữa, Luca nhắc chúng ta biến cố đang được chuẩn bị. Đức Giêsu đang sống những tuần lễ: TN 28-C75
Một lần nữa, Luca nhắc chúng ta biến cố đang được chuẩn bị. Đức Giêsu đang sống những tuần lễ cuối cùng. Trước tiên tôi cần dành thời gian để dừng lại trên từng chữ đó: Đức Giêsu... đi... lên... Giêrusalem. Chúng ta hãy thử hình dung cảnh tượng. Hãy thử tưởng tượng những tư tưởng của Đức Giêsu lúc Người đang tiến bước. Giêrusalem! Mục tiêu của cuộc hành trình sau cùng.
Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê
Luca nhấn mạnh rằng Đức Giêsu đi qua miền Samari. Người không theo các quan điểm về chủng tộc của những người đồng thời: Người không ngần ngại đi qua miền đất ấy mà người dân ở Giêrusalem đã tuyệt thông. "Quả thế, người Do Thái không được giao thiệp với Người Samari" (Ga 4,9).
Khi vương quốc ở miền Bắc sụp đổ và dân bị đi đày năm 722 trước công nguyên. Quân đội chiến thắng Át-xi-ri đã đưa những đám nô lệ về định cư lại trên miền Samari. Những đoàn dân ấy thuộc mọi chủng tộc từ mọi miền chuyển về tạo thành một sự pha trộn về chủng tộc và tôn giáo. Các hội đoàn tôn giáo ở Giêrusalem vẫn coi họ như những người dị giáo.
Quan điểm phóng khoáng của Đức Giêsu phải tra vấn chúng ta. Chúng ta đã không giữ lại những hơi hướng khinh thị đối với một số hạng Người, một số chủng tộc, một số môi tường đó sao?
Điều lý thú mà Luca mang lại cho miền Samari là nó chứa đựng một ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: Chính trong tỉnh này mà "sứ vụ Tin Mừng hóa" đã thực hiện những bước đầu tiên bên ngoài vùng Giu-đê. Khúc dạo đầu của việc phát triển to lớn của Giáo Hội trong những vùng đất của dân ngoại.
Đối với những Kitô hữu, phải có những con người khác ngoài con đường mà Đức Giêsu đã mở đầu. Ngày hôm nay, có phải tôi tránh xa những "miền Samari".
Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người.
Trong miền đất bị chúc dữ này; đây là những người bị chúc dữ nhiều nhất. Ở đây cũng vậy, tôi phải dám tưởng tượng ra cảnh tượng đó. Dưới từ ngữ "phong hủi", trong tâm thức của Kinh Thánh (Lv 13 và 14); người ta gọi chung mọi bệnh tật trên da thịt, bề ngoài rất ghê tởm và không chỉ bệnh phong hủi theo nghĩa y học hiện đại.
Hơn thế nữa, Kinh Thánh nhìn trong bệnh phong hủi một hình phạt của Thiên Chúa, hình ảnh của chính tội lỗi làm hư hỏng con người.
Còn Đức Giêsu, Người không sợ. Là sự dịu dàng của Thiên Chúa. Người đã đến vì những người nghèo hèn nhất. Ngày hôm nay cũng thế, Đức Giêsu đã không ghê tởm tội lỗi của tôi, tội lỗi của những người gớm ghiếc nhất. Đức Giêsu đã đến vì điều đó để cứu chuộc, để chữa lành.
Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng.
Tôi tưởng tượng tiếng kêu của mười cái cổ họng ấy.
Ngay khi họ nhận ra có người nào đó ở đằng xa, họ có thói quen kêu lớn tiếng, một điều bắt buộc. Luật của Môsê thật hà khắc nhằm đóng khung dịch bệnh lan truyền: "Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên; "ô uế! ô uế!" (Lv 13,45). Không cần phải nói thêm rằng họ đương nhiên phải bị cấm đến ở những nơi có dân cư, và hoàn toàn bị đuổi ra khỏi những nơi thờ phụng. Những người nghèo ấy thuộc về hạng nghèo nhất.
Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!
Họ gọi Đức Giêsu bằng tên Người, một sự kiện tương đối hiếm thấy trong các sách Tin Mừng. Trong ngôn ngữ Aramêen, Jéshouah có nghĩa là “Thiên Chúa cứu”. Kitô hữu Phương Đông gọi "kinh cầu Chúa Giêsu” chính là lời cầu xin ấy được lặp lại nhiều lần: Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót. Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót. Chúng ta, cũng rất thường lăp lại kinh này trong thánh lễ: Kyrie eleison. Lạy Chúa, xin thương xót!
Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế.
Cũng theo Luật (Lv 14,2). Các tư tế là những Người duy nhất có tư cách xác nhận sự lành bệnh. Vậy mệnh lệnh này của Đức Giêsu phải được họ hiểu như một lời hứa chữa lành.
Người ta không khỏi ngạc nhiên bới sứ cứng rắn bề ngoài của Đức Giêsu. Thay vì chữa lành họ ngay tức khắc, người đòi hỏi những người tội nghiệp khẳn khổ ấy ra đi như thế. Và chúng ta thấy họ ra đi, vẫn còn chứng bệnh phong hủi gớm ghiếc ở trên người.
Mọi sự xảy ra như thể Đức Giêsu muốn thử thách Đức tin của họ, có thể nói như thế. Và chúng ta nghĩ đến cùng một thử thách đức tin mà ngôn sứ Êlisê bắt ông Na-a-man, gốc Xyri phải chịu khi yêu cầu ông này phải tự mình thực hiện một biện pháp; điều này làm ông Na-a-man nổi giận!
Ngày nay đối với chúng ta cũng thế, đức tin thường là một thử thách đi qua đêm tối và không thấy, không hiểu chúng ta phải trông cậy vào lời Người. Chúng ta cầu xin Chúa để được giải thoát. Người hứa một ngày nào đó sẽ giải thoát chúng ta. Và chúng ta phải tiếp tục đi theo con đường của chúng ta với chỉ lời hứa của Người.
Đang khi đi thì họ được sạch
Một lần nữa, phép lạ hoàn thành trong sự kín đáo, ở một khoảng cách xa Đức Giêsu. Khía cạnh "giật gân” lạ lùng mà chúng ta rất thích đã cố tình bị làm cho mờ nhạt.
Chúng ta cũng ghi nhận những cộng hưởng tôn giáo của việc chữa lành này, một việc chữa lành không được mô tả dưới khía cạnh y học: Đấy là một sự "thanh luyện". Lời cầu xin của các bệnh nhân hầu như là lời phụng vụ: “Xin thương xót chúng con". Đức Giêsu đã yêu cầu họ "trình diện với các tư tế".
Xuyên qua sự chữa lành đặc biệt này, chúng ta được mời gọi nhận ra một dấu chỉ. Đức Giêsu có thể thanh luyện tôi. Đức Giêsu có thể cứu tôi nữa.
Trước tiên chúng ta chớ xin Người những lợi ích vật chất "Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin hãy chữa lành tâm hồn con người hôm nay bằng Mình và Máu Chúa".
Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn
“Vinh quang của Thiên Chúa! Hãy "cao giọng lên để" ca ngợi vinh quang của Thiên Chúa!”
“Sấp mình xuống dưới chân"! Một cử chỉ mà những Người phương Tây no nê không bao giờ làm nữa, trừ một vài người trẻ tuổi. Chúng ta có cái bụng quá căng khó mà sấp mình sát đất được. Chúng ta tưởng rằng chúng ta chỉ mang ơn chính mình, khả năng và công việc của mình, những tài sản mà chúng ta thừa mứa. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy những người Hồi giáo có thể gập mình làm đôi đến độ trán họ chạm vào mặt đất đó sao? Một ngày nào đó, bạn hãy thử làm ở nhà bạn không cần ai thấy. Và trong tư thế đó của thân thể, hóa ra không, bạn hãy để cho tư tưởng của bạn thoát đi đến những điều mà tư thế ấy hầu như bắt buộc bạn thực hiện: Con không là gì cả con đã nhận tất cả. Lạy Chúa, con đang ở trước mặt Chúa. Con chỉ là một kẻ quê mùa bẩn thỉu, một “Ađam". Con chỉ là cát bụi trên mặt đất cát bụi này.
Trong Kinh Thánh, sự sấp mình xuống tận đất là một cử chỉ mà người ta chỉ làm trước Thiên Chúa. Ở đây, người phong hủi được chữa lành đã sấp mình sát đất "trước mặt Đức Giêsu”. Đức Giêsu tham dự vào vinh quang và sự vô cùng của Thiên Chúa: Một mầu nhiệm còn ẩn giấu đằng sau nhân tính rất người của Đức Giêsu!
"Mà tạ ơn!" "eucharistôn!", "trong khi tham dự vào Thánh Thể "…
Ngày nay cũng thế, trong tiếng Hy Lạp hiện đại, "cám ơn" thì nói "efkaristo". Thật là tai hại khi sự chuyển thể của ngôn ngữ đã làm chúng ta mất dần ý nghĩa của các từ. Ai trong chúng ta khi nói "tôi đến với Thánh Thể" thì một cách tự phát nghĩ rằng "tôi đến tạ ơn"... tôi sẽ nói lời tạ ơn Thiên Chúa! Thánh lễ trước hết chính là Giáo Hội bước vào một hành động cao cả, "hành động tạ ơn" Đức Giêsu khi "Người ra khỏi thế gian này để về với Chúa Cha".
"Người cầm lấy bánh, người cầm lấy rượu, tạ ơn và nói: “này là Mình Ta, này là Máu Ta, chịu nộp vì các con". Mọi bữa ăn của người Do Thái và đặc biệt là bữa ăn lễ Vượt qua đều bắt đầu bằng một bài "berakha" "kinh tạ ơn". Đức Giêsu được đào tạo trong tín ngưỡng của dân tộc Người, đã không ngừng tạ ơn Thiên Chúa vì sự dịu dàng và lòng nhân hậu của Người dựng nên thế giới bao la và xinh đẹp và cho chúng ta biết bao điều tốt lành đặc biệt là lương thực để sống: (bánh và rượu). Người còn giải thoát và cứu chuộc chúng ta. Chúng ta hãy biết ơn Người. Chúng ta không còn biết cám ơn Thiên Chúa.. Chúng ta luôn miệng nói tiếng cám ơn vì lịch sự về mọi việc, do thói quen mà không cần suy nghĩ ở bàn ăn, cửa hàng, trên đường phố; cũng không để nó tạo ra một quan hệ với một ai. Vả lại việc nói cám ơn phải làm chúng ta hiệp thông với một con người: thật ra, đó là một lời bộc lộ tình yêu thương. Nói cám ơn, thông thường phải nhìn thẳng vào người đã làm cho chúng ta hạnh phúc? Người phong hủi tội nghiệp của Tin Mừng, khi nhận được hạnh phúc của mình, đã đi được một khoảng xa. Trong sự vui mừng ngây ngất, người ấy muốn tìm lại khuôn mặt của Đức Giêsu. Anh ta đi ngược trở lại con đường. Anh trở về với Người để nói với Người lời cám ơn! Và giờ đây, tôi thử tưởng tương những cử chỉ, giọng nói và khuôn mặt của anh ta.
Anh ta lại là người Sa-ma-ri.
Vậy ra Người ngoại quốc, người dị giáo, người đáng khinh nhất đó đã có cử chỉ nhân bản nhất, tự nhiên nhất.
Đức Giêsu mới nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?" Rồi Người nói với anh ta: "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.
Đối với Đức Giêsu, phép lạ này là một thất bại; bởi vì nó không tạo ra hiệu quả mà Người có quyền chờ đợi: Đối với chín Người kia, phép lạ này không tạo ra "đức tin". Điều thật sự đáng kể đối với Người. Và vì thế Đức Giêsu rất buồn.
Người Kitô hữu thật sự phân biệt với tất cả các "tín đồ khác không phải vì họ cầu nguyện, họ xin ơn và họ được ơn. Mà chính vì họ "cảm tạ" Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô. Cần phải đi từ đức tin sơ đẳng chỉ biết cầu xin đến đức tin phát triển biết hướng về Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối) để gặp gỡ thật sự Khuôn Mặt của Người.
Mười người phong cùi hình như đã có một niềm tin lớn lao. Họ nghe nói về Đức Kitô và tin: TN 28-C76
Mười người phong cùi hình như đã có một niềm tin lớn lao. Họ nghe nói về Đức Kitô và tin rằng Ngài có thể chữa lành họ. Chính vì niềm tin đó, mà họ đã vượt qua những luật lệ cưỡng bách họ sống tách biệt.
Họ đến một làng nhỏ, tiến gần đến Đức Giêsu và xin Ngài thương họ. Họ đã thất vọng hoàn toàn đối với khả năng của con người, chỉ còn tin tưởng vào sự cứu giúp của Đức Kitô thôi.
Niềm tin đó đã bị thử thách và rồi được giữ vững, vì Chúa Giêsu không chữa cho họ ngay, Ngài gửi họ tới trình diện với các tư tế, đó là lệ thường đối với những người được chữa khỏi: nhưng đây họ đâu đã được khỏi. Do đó, người ta có thể đoán được rằng họ sẽ đứng im, không nhúc nhích cho tới khi Chúa giải thoát họ khỏi cơn bệnh ghê tởm.
Thế mà, họ lại đã tin, chỉ dựa vào có một lời của Ngài thôi. Và rồi đang khi đi, họ thấy mình được khỏi, họ có niềm tin đích thật, dầu vậy, đó cũng chỉ là niềm tin bất toàn. Họ còn bám víu vào ngoại cảnh, nhắm vào tật bệnh và sự lành lặn của họ.
Vì thế, họ không khám phá được Đấng chữa lành họ là ai. Họ chưa đi sâu vào cái chính yếu. Ngoài sức khoẻ thể xác, Ngài còn ban cho họ sức khoẻ của tâm hồn.
2. Đức tin hoàn toàn.
Chỉ có một người, lại là người ngoại quay lại tìm gặp Chúa Giêsu, tuyên xưng đức tin vào Thiên tính của Ngài và phục lạy để tỏ lòng cảm tạ tri ân.
Chỉ có người này có được đức tin hoàn toàn. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nói với anh ta: ‘Hãy chỗi dậy mà về, lòng tin của anh đã chữa anh’. Cả xác lẫn hồn được giải phóng, được chữa bệnh và thánh hoá một lượt.
Anh ta không còn bị bận trí vì cái thân xác phong cùi vây hãm. Đức tin hoàn toàn không dừng lại ở việc chữa trị mà phải dừng lại ở người chữa mình; không phải ở công việc mà là ở tác giả của công việc đó. Đức tin chân thực vượt lên trên mọi dấu chỉ, để được gặp gỡ Thiên Chúa hằng hữu.
NOI GƯƠNG NGƯỜI SAMARIA TRONG TIN MỪNG, HÃY BIẾT QUAY LẠI CẢM TẠ ĐẤNG CỨU ĐỘ TA
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Từ Việc lành bệnh do lời cửa Đức Giêsu phán…
Đức Giêsu đang đi lên Giêrusalem". Lời nhắc nhở đó như một thứ điệp khúc mà Luca đặt ở: TN 28-C77
“Đức Giêsu đang đi lên Giêrusalem". Lời nhắc nhở đó như một thứ điệp khúc mà Luca đặt ở đầu mỗi chương. Người đi theo lộ trình dẫn Người về với Chúa Cha và cũng là con đường đưa ta tới ơn cứu độ nhờ Người. Thánh sử còn xác định rằng "Người đi qua Samaria và Galilê", cả hai miền đều bị miền Giuđê khinh rẻ; Samaria là xứ sớ của những chi tộc đã ly giáo, còn Galilê là miền biên giới, nơi người Do Thái và người ngoại giáo sống lẫn lộn. Vậy. mà, ở miền đất bị khinh khi, ở cái thế giới bị khai trừ ấy, Đức Giêsu thực hiện phép lạ chữa lành một đám người mắc bệnh phong cùi, thứ bệnh thời đó bị coi là cấm kỵ hết sức nghiêm ngặt. Cấm kỵ không chỉ vì lý do phòng bệnh, để tránh lây nhiễm, mà còn vì lý do tôn giáo; vì bệnh cùi là dấu chỉ tội lỗi làm biến dạng con người, nên những ai mắc bệnh ấy phải sống tách biệt khỏi cộng đồng và bị loại khỏi những nơi thờ phượng.
Sự việc xảy ra ở lối vào một làng kia. Một nhóm người phong cùi khốn khổ đón gặp Đức Giêsu. "Mười": con số nhỏ nhất để họp thành một cộng đoàn hội đường; "Mười người tượng trưng cho cả một dân tộc, tượng trưng toàn thể nhân loại bị tội lỗi làm cho bệnh hoạn.
Họ cùng mang thương tật của một thứ bệnh, chịu đựng cùng hình phạt khai trừ, họ tiến lên đồng tâm nhất trí, không phân biệt chủng tộc. "Dừng lại đàng xa", đúng theo Luật truyền, họ hô lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin đủ lòng thương chúng tôi".
Thay vì chữa họ lành ngay tức khắc, Đức Giêsu muốn thử thách lòng tin của họ. Cũng như ngày xưa, ngôn sứ Êlisêô sai môn đệ nói với quan Naaman, người Siri rằng: "Quan hãy đi tắm ở sông Giođan bảy lần", Đức Giêsu chỉ đáp lại bằng một câu đơn giản, như một lời hứa sẽ chữa lành: "Hãy đi trình diện với các tư tế. Thật vậy, vào thời đó, các thầy tư tế có quyền chẩn đoán bệnh phong cùi và công bố người mắc bệnh ấy là "không sạch", thì họ cũng có quyền kiểm tra khi người ấy khỏi bệnh (Lv 14;3) và công bố chính thức người ấy được tái hội nhập vào cộng đoàn.
Khác với vị tướng lãnh Siri, lúc đầu đã từ chối thi hành điều người của Chúa truyền dạy, mười người phong cùi ở đây tức tốc thi hành, không mảy may chần chừ.
Vậy "đang khi đi thì họ được sạch”. Một việc chữa bệnh từ xa, được Luca tường thuật cách hết sức kín đáo, làm nổi bật quyền năng của lời Đức Gịêsu nói.
2.... đến ơn cứu độ do tin vào Đức Giêsu Kitô.
Đến đây trình thuật làm nẩy sinh một vấn đề mới. Thật vậy trong khi 9 người tiếp tục đi "trình diện với các tư tế, thì riêng có một người, thay vì vâng lệnh Chúa và Luật dạy, "đến quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa". Thật ngạc nhiên, chỉ đến lúc này, lúc mà cách xử sự của anh đã gây ấn tượng tốt nơi chúng ta, thì chúng ta mới biết anh thuộc dòng tộc nào: anh là người Samaria. Đối với anh, tuy đã khỏi bệnh cùi, nhưng vẫn phải mang thân phận của người bị khinh khi vì lạc đạo, nên không có vấn đề đi đến Đền thờ. Hơn nữa, anh đã gặp Đấng Thiên Sai trên đường, Đấng vừa cứu chữa anh, như rồi đây ta sẽ thấy: chính nơi Đức Giêsu mà ta tôn vinh Thiên Chúa.
- Cử chỉ anh làm là một cử chỉ trong phục vụ, “anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn". Anh nghĩ chắc chắn đó là cách tuyên xưng công khai Đức Giêsu là người gần gũi với Thiên Chúa. Rolanđ Meynet chú giải.: "Người Samaria vừa khỏi bệnh đã kết hợp Thiên Chúa với Đức Giêsu trong cùng một lời ngơi khen vì tạ ơn. Ơn cứu độ vừa đón nhận được anh công bố cho mọi người biết, đó là công trình của Thiên Chúa và của Đức Giêsu. Lòng tin của anh không phân biệt hai đấng ấy và anh sấp mình dưới chân Đấng đã làm cho anh nên sạch, như sấp mình dưới chân Đức Chúa (L’Evangile selon saint Luc, analyse rhétorique", cuốn 2, Cerf, trg 171).
Đức Giêsu hỏi: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì 9 người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?". Như vậy để nhấn mạnh nét tương phản giữa sự vô ơn của chín người kia, là người Do Thái, và lòng biết ơn của người Samaria độc nhất này, Đức Giêsu gọi anh là người "ngoại bang". Dưới ngòi bút của Luca, anh được coi như chứng tá sống động của ơn cứu độ được ban cho hết mọi người, vượt mọi biên giới; anh được coi như biểu tượng của những người ngoại giáo được vào Nước Thiên Chúa trước những người Do Thái, bới vì những người này đã biết nhìn nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa.
"Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh", Đức Giêsu kết thúc bằng một câu đầy ý nghĩa, mà Luca muốn đặt làm chóp đỉnh của trình thuật.
+ "Hãy đứng dậy": động từ này rất thường được Luca sử dụng không chỉ để động viên lòng can đảm trong chiến đấu (như trong cảnh hấp hối: "hãy dậy mà cầu nguyện" (Lc 22,45), mà cũng để chỉ việc sống lại chỗi dậy từ cõi chết) nữa.
+ "Hãy đi": Luca sử dụng động từ này nhiều lần để chỉ việc Đức Giêsu lên Giêrusalem. Étienne Charpentier giải thích: "Luca định nghĩa Kitô giáo như một con đường... ở đây, đang trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu nói với người được chữa lành: "Hãy chỗi dậy, lên đường!". Và bởi vì trong toàn bối cảnh đi lên Gíêrusalem, ta đã dịch động từ này là "đi lên", nên, nếu ta cho đặt vào môi miệng Đức Giêsu câu nói: "Hãy chỗi dậy, hãy cùng ta lên thập giá và vinh quang", thiết tưởng cũng hợp với tư tưởng của Luca. (Assemblée du Seigneur, số 59, trg77)
+ "Đức tin con đã cứu chữa con": mười người phong cùi vì tin vào lời Đức Giêsu, nên đã được chữa lành; nhưng chính người Samaria mới sống phép lạ như một cơ hội để tiến tới. một đức tin sâu sắc hơn, một đức tin sẽ mang lại cho anh một kết quả hoàn toàn khác, đó là ơn cứu độ.
H. Cousin kết luận: "Vì lúc nào Thiên Chúa cũng phải được quan tâm trên hết, nên Đức Giêsu tỏ ra bất bình với chín người. phong cùi đã không đến tôn vinh Thiên Chúa. Nhưng lời Chúa nói về lòng tin mới là chóp đỉnh của trình thuật tất cả mười người phong cùi đều được khỏi bệnh, nhưng chỉ có người Samaria biết ơn Chúa mới công bố là được cứu. Vậy thì ơn cứu độ còn quan trọng hơn ơn chữa lành phần xác. Và đức tin trọn vẹn của người quay trở lại tạ ơn thì mạnh hơn lòng tin tưởng đã thúc đẩy mười người ra đi trình diện với tư tế ngay cả trước khi họ được lành bệnh. Việc lành bệnh chỉ mở ra ơn cứu độ toàn diện cho con người, nếu họ nhìn nhận sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa đối với mình, và nếu họ đáp trả bằng cách dấn thân vào mối tương quan thực sự với Đức Giêsu: như thế mới là đức tin trọn vẹn". ("L' Evangile de Luc", Centurion, trg 228-229).
Nhờ đức tin, dù là thuốc dân tộc nào, chúng ta đều được cứu độ. Vậy đến lượt chúng ta hãy lên đường theo chân Đức Giêsu. Không bao lâu sau, Đức Giêsu sẽ nói ở Lc 18,31 "Nào chúng ta lên Giêrusalem". Lần này hiển nhiên bao gồm các môn đệ trong cuộc hành trình của người tiến về cuộc Khổ nạn Phục sinh.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Đường trở về dẫn đến lời tạ ơn:
(Đức cha Daloz, trong "Dieu a visité son peuple" DDB, trg l30).
Câu chuyện mười người phong cùi được Đức Giêsu chữa lành mà chỉ có một người trở lại tạ ơn, cũng chính là hình ảnh thường xảy ra với chúng ta, khi lâm cảnh túng cực, chúng ta biết tìm đến sự cầu nguyện: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi". Đức Giêsu tiếp đón mười người phong cùi đứng đàng xa lớn tiếng van xin người. Người sai họ đi trình diện với các tư tế và họ đón nhận lời Người với lòng tin. Họ được khỏi bệnh đang lúc đi đường. Nhưng họ mới đi được nửa con đường họ phải đi. Tất cả mười người đều được khỏi bệnh, nhưng chỉ một người duy nhất nghe được câu nói khiến anh khám phá ra Đức Giêsu "Hãy đứng dậy, lòng tin của anh đã cứu anh". Anh đã biết quay trở lại con đường cũ. Con đường ấy đã dẫn anh đến lời tạ ơn.
Như vậy, có nhiều con đường dẫn đến Đức Giêsu: có con đường đưa ta đến với Người khi ta lâm cơn quẫn bách, và có con đường dẫn ta quay trở lại với Người để nhận biết Người. Rất nhiều kẻ chỉ đi con đường thứ nhất. Họ không bị khước từ và được dẫn đường từ chuyến đi ấy. Đó mới là bước đầu. Thiên Chúa không keo kiệt khi ban ân huệ của Người: Người không cân đo lòng biết ơn của ta. Nên có những kẻ tiến xa hơn và trở nên môn đệ. Họ được hưởng ân huệ quý giá hơn nhiều, đó là được mạc khải một đức tin cứu độ: "Lòng tin của anh đã cứu anh". Họ cảm nhận được một điều gì đó thuộc về mầu nhiệm Đức Giêsu; họ tiến vào mối quan hệ hỗ tương với Người, mối tương quan của lời tạ ơn. Ước chi chúng ta thuộc về những người không dừng lại giữa đường!
2. Đức Giêsu, Người chữa lành hay Đấng cứu Độ?
Đức Giêsu đã chữa lành nhiều người, đó là điều không thể hồ nghi. Mỗi trang sách Tin Mừng đều chứng thực điều đó. Ngoài ra, làm sao Đức Giêsu có thể làm cho người ta tin phục mình là Đấng Mêsia, nếu Người đã không chữa bệnh? Vì đó là điều kiện cần thiết, phải có ở thời buổi của Người, điều mà người ta còn gặp thay nơi tất cả các vị lãnh đạo tôn giáo thời nay. Vậy phải chăng Đức Giêsu chỉ là người chữa bệnh? Chắc chắn không phải như vậy? Đức Giêsu đến không phải để chữa bệnh, mà để cứu độ. Có thể nói rằng khi Người chữa bệnh là dấu chỉ người cứu độ. Người không nói: "Lòng tin của anh dã chữa anh lành", nhưng nói: "Lòng tin của anh đã cứu anh".
Vậy ơn cứu độ chính là khả năng sống cuộc sống của Đức Kitô, dù ta có yếu đau hay khỏe mạnh, sau khi chết cũng như trước khi chết. Việc chữa bệnh là một thứ dụ ngôn về sự sống lại. Một nhà chú giải Kinh Thánh đường thời đã có một nhận xét mà về phần tôi, đã soi sáng tôi nhiều. ông nói: ngay từ thời Giáo hội sơ khai, trong phụng vụ, người ta đã không bao giờ đọc một đoạn Tin Mừng về việc Chúa chữa bệnh để xin Người chữa các bệnh nhân có vẻ phù phép, nhưng chỉ đọc để loan báo việc Chúa sống lại.
Những bài Thánh Kinh hôm nay ít nhiều đều đề cập tới một tâm tình tự nhiên của con người: lòng: TN 28-C78
Những bài Thánh Kinh hôm nay ít nhiều đều đề cập tới một tâm tình tự nhiên của con người: lòng biết ơn. Tướng Naaman sau khi được khỏi bệnh đã quay trở lại gặp người của Thiên Chúa với một lễ vật tạ ơn. Người phong hủi Samaria thấy mình được khỏi bệnh liền quay trở lại tạ ơn Đức Giêsu. Những câu chuyện như thế không có gì đáng nói, vì là lẽ thường tình trong xã hội. Nhưng ở đây tâm tình biết ơn có một điểm nổi bật khiến cho Đức Giêsu phải ngạc nhiên và trân trọng: sự biết ơn phát xuất từ lòng tin và là lời diễn tả lòng tin.
Trong một chỗ khác trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã nói về Naaman "Cũng thế, trong thời tiên tri Eâlisêô có nhiều người bị phong cùi trong Israel, nhưng không ai trong họ được chữa lành, chỉ có Naaman, người dân ngoại.", để ca ngợi lòng tin của viên sỹ quan A-ram này. Cũng như ở đây, Đức Giêsu không khỏi đau đớn khi lên tiếng hỏi "Không phải cả mười người đều được khỏi bệnh sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại quốc này?" Và Người dã đưa ra kết luận "Đứng dậy và đi! Lòng tin của con đã cứu con". Rõ ràng, lòng biết ơn là điều thường tình, nhưng biết ơn bởi lòng tin thì là một điều thật họa hiếm. Sự biết ơn trong cuộc sống xã hội thường chỉ phát xuất từ quyền lợi bản thân: muốn người làm ơn có một cái nhìn thiện cảm và vui lòng. Ngay cả trong tôn giáo, thường cũng chỉ gặp được những lời tạ ơn như thế.
Tiên tri Eâlisêô, và cả Đức Giêsu nữa khi bắt người bệnh của mình phải đi tắm ở sông Giođan hay đi trình diện với các tư tề là để họ phải đặt mình trước ngưỡng cửa đức tin. Naaman, và người phong hủi thời Đức Giêsu qủa thực đã phải đấu tranh với bản thân mình để có sự vâng phục trong đức tin. Đức tin không cắt đứt người tin khỏi những tương quan trong cuộc sống, nhưng giúp con người biết nhìn mỗi tương quan ấy trong cái nhìn của Thiên Chúa. Naaman muốn dâng lễ vật cho Eâlisêô, điều đó sẽ làm cho đức tin vừa chớm nở nơi Naaman bị tổn thương, nên người của Thiên Chúa đã trả lời "Trước mặt Đức Chúa hằng sống là Đấng tôi phục vụ, tôi thề sẽ không nhận gì cả". Naaman đã hiểu để tạ ơn ông phải làm cho chính trọn vẹn đời sống trở thành Lễ Tế cho Thiên Chúa. Người phong hủi Samaria cũng nhận được một lệnh truyền tương tự "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu anh." Lời tạ ơn phải là cả hành trình đời sống thường ngày trong lòng tin.
Chúng ta sẽ không hiểu đúng tâm tình tạ ơn theo đức tin, nếu không cùng thánh Phaolô chiêm ngưỡng Lễ Tạ Ơn của chính Đức Giêsu. Bằng một gợi nhớ thật vắn gọn, nhưng thánh Phaolô đã cho thấy Lời Tạ Ơn của Đức Giêsu xuất phát từ đâu, và đi về đâu "Con hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chỗi dậy từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đavít." Lời Tạ Ơn đi từ nhập thể, ngang qua sự chết và sống lại vinh hiển. Đó là sự VÂNG PHỤC ĐỨC TIN toàn hảo của Đức Giêsu đối với LÒNG TRUNG TÍN tuyệt đối của THIÊN CHÚA trong GIAO ƯỚC của Ngài "Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ lời hứa của mình." Lời tạ ơn như thế, đòi hỏi người tin "cùng chết với Người" "cùng kiên tâm chịu đựng với Người". Lễ Tạ Ơn bắt nguồn và hình thành trong chính cuộc sống.
Người Kitô hữu chúng ta ngày nay thường muốn đóng khung lễ tạ ơn của mình trong nhà thờ, nơi đền đài. ở đó họ đôi khi cũng rất quảng đại, nhưng cuộc sống của họ lại là nơi của những thần tượng khác. Thật đau lòng thay.
Cuộc sống hôm nay thật qúa nhiều khó khăn: nhiều gia đình phải bươn trải từng ngày cũng không đủ sống. Lại thêm bị ám ảnh chiến tranh, người ta bắt đầu có khuynh hướng thu gom và tích trữ, và dường như cố quên đi những mảnh đời đau khổ. Lời Tạ Ơn không còn là "cùng cam chịu chết, cùng cam chịu đựng". Đức Giêsu "hôm qua,hôm nay và mãi mãi" vẫn là "đồng hình đồng dạng" với những con người lam lũ đễ làm thốt lên trong lòng họ NIỀM TIN vào lòng Thương Xót của Thiên Chúa, và biến cuộc đời những con người cùng khổ thành Lời Tạ Ơn và Chúc Tụng, bằng sự hiến thân đến cùng cho họ. Lễ tạ ơn của chúng ta phải là "lễ tạ ơn" của những con người đang bị khủng bố, bị bom đạn dày xéo, bị lũ lụt cuốn trôi. Chính trong thời điểm khó khăn của chính mình, sự hiến tặng tình thương của mỗi người mới là của lễ mà Thiên Chúa chờ đợi.
Từ quan điểm ấy, một lần nữa tôi tha thiết mời gọi sự giúp đỡ đặc biệt cho anh em bị lũ lụt của chúng ta. Sự khó khăn của chúng ta không thể là lý do để chúng ta khép lại Tình Thương Trung Tín của Thiên Chúa.
Biết ơn không phải chỉ là phép lịch sự trong việc xã giao, trong sự giao tế giữa con người với: TN 28-C79
Biết ơn không phải chỉ là phép lịch sự trong việc xã giao, trong sự giao tế giữa con người với nhau, nhưng nó còn đi xa hơn nữa, là một thái độ của tinh thần trách nhiệm, một cử chỉ của lòng thương mến. Vị tướng Na-a-man trong bài đọc I không chỉ nói suông, nhưng Ông đã tự nguyện dấn thân, thờ lạy và dâng lễ vật cho Thiên Chúa sau khi Ông được người của Thiên Chúa hướng dẫn, chỉ bảo và Ông đã dìm mình xuống dòng sông Giođan bảy lần và Ông đã khỏi bệnh phong cùi. Phụng vụ Chúa Nhật 27 thường niên, năm C, đặc biệt là bài Tin Mừng của thánh Luca nhắc nhở cho con người, cho nhân loại về lòng biết ơn: Chúa đề cao lòng biết ơn của người phong cùi Samari, ngoại giáo, được chữa lành và Ngài phê phán chín người đồng hương, có đạo cũng được Chúa chữa khỏi bệnh phong cùi, nhưng lại vô ơn bội bạc đối với tấm lòng bao la hải hà của Chúa Giêsu…
MỘT QUAN NIỆM. MỘT SUY NGHĨ SAI LỆCH:
Đối với người Do Thái và cả người ngoại đạo thời Chúa Giêsu, bệnh phong cùi là căn bệnh nguy hiểm, căn bệnh truyền nhiễm và đáng phải loại trừ. Thật vậy, vào thời Chúa Giêsu, người mắc bệnh phong là người phải loại ra mọi sinh hoạt của xã hội, của cộng đoàn vì hai lý do: vệ sinh và thiêng liêng. Bệnh cùi làm cho con người dơ dáy, hôi hám và khó coi, người cùi bị đuổi ra khỏi cộng đoàn tôn giáo, xã hội là hợp lý. Bởi vì, người Do Thái tưởng rằng người mắc bệnh cùi là người phạm tội cá nhân, khiến y bị Thiên Chúa phạt và chúc dữ làm cho họ bị bệnh hoạn. Quan niệm này được rút ra từ một đoạn Sách Đệ Nhị Luật đoạn 28,15.35:” Nếu ngươi không nghe lời Giavê, Thiên Chúa của ngươi, mà tuân hành mọi giới luật Ngài ban…Giavê sẽ giáng xuống ngươi bệnh lở lói kinh khủng nơi đầu gối và chân, ăn từ bàn chân tới đỉnh đầu không sao chữa nổi”. Với một quan niệm như thế, người Do Thái thời Chúa Giêsu đã có cái nhìn sai lệch về những người mắc bệnh phong cùi, họ kết án và làm cho những người phong hoàn toàn bị mất phẩm giá của con người và mất tư cách làm con của Thiên Chúa.
LÒNG NHÂN TỪ CỦA CHÚA GIÊSU ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI PHONG CÙI:
Tin Mừng Luca 17, 11-18 thuật lại:” Mười người mắc bệnh phong cùi đón gặp Chúa Giêsu ở một làng kia, lúc Ngài đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilê “( Lc 17, 11 ). Thấy mười người phong cùi kêu van, Chúa Giêsu bảo họ:” Hãy đi trình diện với các tư tế”( Lc 17, 14 ). Những người phong cùi này khi đi trình diện các tư tế, họ sẽ chính thức cho mọi người hay rằng họ đã được sạch, được hoàn toàn khỏi bệnh, họ không còn bị Thiên Chúa phạt nữa, họ đã được giao hòa với Thiên Chúa và trở lại hòa nhập với cộng đoàn. Chúa chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền, chữa lành nhiều người. Điều ấy nói lên tấm lòng nhân hậu, chạnh thương của Chúa, Ngài yêu thương mọi người, không phân biệt người có đạo và không có đạo, người Israen hay người ngoại bang. Chương trình cứu chuộc của Chúa Giêsu nhằm làm cho mọi người trở nên con cái Thiên Chúa và là anh em với nhau.
LÒNG BIẾT ƠN CỦA NGƯỜI SAMARITANÔ:
Với chỉ một lời truyền:” Hãy đi trình diện…”, cả mười người phong đều được khỏi bệnh. Tuy nhiên, chỉ có một người ngoại Samaritanô trở lại cảm tạ Thiên Chúa vì anh đã nhận ra Chúa Giêsu. Anh đã được khỏi, Chúa Giêsu không nói với anh” Hãy khỏi bệnh mà Ngài nói: Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”( Lc 17, 19 ).
Anh đã nhận ra Đức Kitô trong Thiên Chúa, Ngài đã yêu thương, cứu chữa anh. Do đó, anh phải cảm tạ tri ân Chúa. Anh đã sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn( Lc 17, 15 ). Đây là cử chỉ khiêm nhượng của con người nhỏ bé. Anh muốn đáp trả tình thương của Chúa, anh đã trả lại cho Chúa tình yêu sống động anh đã nhận được nơi Chúa Giêsu. Còn chín người phong cùi được chữa lành khác, không trở lại tôn vinh Thiên Chúa vì họ không biết đáp trả lại tình yêu của Chúa, họ ích kỷ giữ riêng ơn Chúa mà họ đã lãnh nhận cho riêng mình. Họ được Chúa thương yêu, nhưng thực sự họ không sinh hoa kết quả vì họ khư khư giữ riêng ơn Chúa cho họ mà thôi.
THÁI ĐỘ CỦA CON NGƯỜI CHÚNG TA:
Được lãnh nhận biết bao hồng ân của Chúa. Thử hỏi đã bao lần chúng ta biết tới phủ phục dưới chân Chúa Giêsu để cảm tạ tri ân Ngài ? Chúng ta có máy móc giữ đạo mà không thực thi lời Chúa bằng đời sống hy sinh, bác ái và chia sẻ ? Chúng ta có biết mở lòng để ơn Chúa đổ tràn trên ta hay ta đóng lòng lại, ích kỷ giữ lấy ơn huệ cho riêng mình như chín người phong cùi được chữa lành, nhưng không biết mở ra để dâng lại cho Chúa. Do đó, thái độ của mọi người chúng ta phải là thái độ cảm tạ tri ân vì muôn ơn huệ Chúa đổ xuống trên cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một con tim biết rộng mở để chúng con đón nhận ơn Chúa, đặc biệt biết sốt sắng lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Tại sao Chúa không nói với người phong cùi Samaritanô:” Ta cứu ngươi mà lại nói Hãy đi trình diện với các tư tế” ? Bạn cảm nghiệm thế nào về phép lạ Chúa chữa lành 10 người phong cùi ? Bạn phải có thái độ nào trước lòng nhân từ của Chúa ?
Còn niềm vui nào bằng tấm lòng tri ân cảm tạ Thiên Chúa ? Vì thương xót con người, Thiên: TN 28-C80
Còn niềm vui nào bằng tấm lòng tri ân cảm tạ Thiên Chúa ? Vì thương xót con người, Thiên Chúa đã thi ân giáng phúc. Con người cũng làm ơn cho nhau. Nhưng tại sao nhiều khi làm ơn mắc oán ? Nhìn kỹ vào việc Đức Giêsu làm ơn cho người bị bệnh phong cùi hôm nay mới có thể học cách Chúa đối xử với những người chịu ơn ra sao.
MỘT CÁI NHÌN SÂU SẮC.
Từ xưa đến nay những người phong cùi vẫn bị tách biệt khỏi hoàn cảnh sống chung quanh. Nhất là người Samaria phong cùi hôm nay bị cô lập gấp đôi chín người kia, vì thành kiến của người Do thái. Nhưng tất cả đều chung một số phận. Tình trạng khốn khổ đến nỗi tất cả đều kêu lên: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi !” (Lc 17:13) Như vậy, tất cả đều đặt niềm hi vọng nơi Chúa. Khi gặp bước khốn cùng con người đều có chung một khát vọng. Khát vọng đó là mong được cứu thoát. Đức Giêsu xuất hiện kịp thời như hiện thân lòng xót thương của Thiên Chúa.
Nghe thấy tiếng kêu thảm thiết đó, chắc chắn Đức Giêsu phải động lòng trắc ẩn. Người lợi dụng ngay cơ hội này để thi thố tất cả quyền năng Thiên Chúa trong việc cứu độ con người. Người sai cả mười người đến trình diện các tư tế (Lc 17:14), để họ được trở lại với cộng đồng. Nhưng dù trình diện, người Samaria cũng chẳng bao giờ được diễm phúc ấy. Thế nhưng khi ông ta “thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa,” (Lc 17:15) Đấng đã thi thố quyền năng nơi Đức Giêsu Kitô. Đây chính là dịp Chúa muốn cho thấy chiều kích phổ quát của ơn cứu độ. Bởi thế Người mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” (Lc 17:17) Không có gì có thể ngăn cản quyền năng cứu độ của Thiên Chúa. Quyền năng đó không phải chỉ để chữa lành, nhưng còn để cứu độ. Đằng sau những phúc lộc trần gian, Thiên Chúa muốn che dấu một hồng ân trọng đại hơn. Đó là hồng ân cứu độ. Chỉ những con mắt tinh đời mới thấy được ! Bởi thế Chúa mới nói: “Phúc cho mắt nào được thấy điều anh em thấy !” (Lc 10:23) Từ việc cảm nghiệm hồng ân, “anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn.” (Lc 17:16) Hành vi này đã quyết định cả vận mệnh cuộc đời anh. Anh đã được cứu độ, chứ không phải chỉ được chữa lành. Tuy không được nhận vào cộng đồng Do thái với những tập tục và luật lệ chằng chịt, nhưng anh được giải thoát và gia nhập cộng đồng Dân Chúa.
Số ít được cứu độ (Lc 13:23-24) không phải vì Thiên Chúa muốn thế. Bằng chứng khi chữa lành cho mười người, Đức Giêsu đã không đối xử phân biệt. Trái lại, Người tôn trọng mười người như nhau. Trong khi họ bị gạt ra bên lề xã hội và bởi đấy mất tất cả quyền làm người, Đức Giêsu vẫn coi họ là người: “Không phải cả mười người được sạch sao ?” (Lc 17:17) Thánh Luca cũng tế nhị gọi họ là “mười người phong hủi” (Lc 17:12), chứ không gọi là bọn phong cùi. Dù bị bại liệt (Lc 5:18) hay bi quỉ ám (Lc 8: 27), họ vẫn luôn được gọi là người. Nhân phẩm vẫn còn nơi những người bị gạt ra ngoài lề xã hội đó. Nhưng hơn nữa, giá trị của họ còn là chính niềm tin nơi Thiên Chúa. Bởi đấy Chúa nói: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” (Lc 17:19) Chỉ một mình Chúa mới nhận ra giá trị tuyệt đối đó mà thôi.
Chính vì được Chúa tôn trọng, người Samaria mới cảm thấy lớn lên trong tình yêu Thiên Chúa và đủ khả năng tôn vinh Thiên Chúa và tạ ơn Người. Đồng cảnh ngộ, tướng Naaman nước Aram cũng nghiệm thấy sự thật lớn lao đó sau khi được ngôn sứ Eâlia chữa khỏi bệnh phong hủi: “Tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.” (2 V 5:17) Nếu Đức Giêsu cũng có một thái độ như mọi người, chắc chắn không bao giờ được ghi ơn như thế. Người rất thấu hiểu tâm lý con người. Người không muốn con người bị lệ thuộc đến nỗi phải đánh đổi nhân cách lấy lợi lộc vật chất. Nói khác, Người muốn dùng hồng ân để giúp con người lớn lên, chứ không muốn đè bẹp con người. Thế mới biết của cho không bằng cách cho !
GIEO GIÓ GẶT BÃO.
Đức Giêsu đã dạy một bài học rất sâu sắc về mối tương quan giữa người và người. Tiền của đã chia nhân loại thành hai hạng người thi ân và thụ ân. Những người thi ân nhiều khi không phải vì thương những người nghèo khổ, nhưng chỉ vì ham danh lợi. Họ có thể tạo ra những bất công lớn lao ngay khi làm những việc bác ái, một thứ bác ái chỉ nhằm khoe cái tôi ! Chính sách viện trợ nhân đạo của Mỹ là một điển hình.
Dân Mỹ nổi tiếng vì đã viện trợ các nước nghèo trên thế giới. Thế nhưng tại sao họ vẫn bị nhiều dân tộc căm thù ? Biến cố 11/9/2001 chỉ cụ thể hóa lòng căm ghét đến tột độ đó mà thôi. Biến cố này là một cơ hội lớn cho người Mỹ nhìn lại chính sách bất công của mình. Cần phải có một cuộc cách mạng văn hóa thay đổi não trạng những người Aâu Mỹ. Chính sách bất công cũng bắt nguồn từ cái nhìn và lối sống cao ngạo của người Tây Phương trước những dân tộc khác. Chính Thủ tướng Ý cho rằng văn minh Kitô giáo cao hơn Hồi giáo.
Có phải đó là cách giải thích hay nhất chính sách “cái gậy và củ cà rốt” Mỹ đang áp dụng trong cuộc chiên Afganistan không ? Theo Đức Thượng Phụ Nasrallah Sfeir thuộc Nghi Lễ Đông phương Maronite, “cuộc tấn công quân sự có lẽ không ổn định được tình hình quốc tế. Sẽ có nhiều cuộc khủng bố cho tới khi nào đưa ra những cội rễ phát sinh bạo động. Cuộc chiến này chỉ có một lý do duy nhất: sự bất công trong hoàn cảnh Palestine và Israel.” (CWNews 12/10/2001) Nhiều khi Hoa Kỳ quá thiên vị Israel, bất chấp cả lương tri, chỉ nhắm tới quyền lợi riêng.
Đức Giêsu không bao giờ thủ lợi. Cả khi cứu chữa mười người phong cùi, Người cũng quên chính mình. Người không hề đòi hỏi phải nhìn nhận quyền bính tối cao nơi mình. Trái lại, Người cho đó chỉ là do sức mạnh của niềm tin mà thôi. Đường lối của Hoa Kỳ khác hẳn. Họ bắt mọi người phải cúi đầu khi nhận lãnh viện trợ. Có phải vì thế mà tại Peru, “trong thời kỳ Tổng thống Alberto Fujimori, hơn 300,000 phụ nữ, phần đông là nông thôn đã bị buộc phải triệt sản thông qua một chương trình giải phẫu triệt sản tự nguyện, thực tế là một chương trình bắt buộc. Giờ đây những phụ nữ này là những người vô cùng đau khổ. Đa số những ông chồng của những người đàn bà không có khả năng sinh sản này ruồng rẫy họ để kết hôn với người khác. Những phụ nữ này còn chịu nhiều bệnh tật và gia đình họ phải tốn tiền chạy chữa” (VietCatholic 10/10/2001) ? Từ đó, bao nhiêu vấn đề gia đình và xã hội đang phá hủy hạnh phúc con người ! Ai đã dính líu trong việc triệt sản này ? Chỉ biết “dưới áp lực của chính phủ Clinton và của Liên Hiệp Quốc, các khoản viện trợ kinh tế cho các nước thường đi kèm với những điều kiện kế hoạch hóa gia đình.” (VietCatholic 10/10/2001)
Chắc chắn chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ không thể tránh khỏi áp lực những tay tài phiệt. Họ đặt quyền lợi lên trên tất cả. Chủ nghĩa Duy Lợi này đã khuynh đảo đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ, tạo ra nhiều kẻ thù chưa từng thấy. Cụ thể, Pax Christi Hoa Kỳ đã can đảm “đưa ra danh sách những siêu thế lực dân sự đáng bị tiêu diệt trong xã hội Hoa Kỳ.” (VietCatholic 10/10/2001) Ngày nào còn bị các tay tài phiệt đó chi phối, ngày đó còn bất công, nghèo đói và loạn lạc khắp nơi. Chẳng hạn, “vì quyền lợi dầu hỏa, Hoa Kỳ xúi giục Iraq tấn công Iran và cố duy trì cuộc chiến của hai nước này bằng cách bán vũ khí cho cả hai nước để họ đánh nhau đến kiệt quệ. Cũng vì quyền lợi mà Hoa Kỳ đã tiếp tay với các nhóm Hồi giáo cực đoan tại Trung Á để in ra hàng mấy chục triệu cuốn Kinh Koran và các tài liệu cực đoan trong thời gian chống Liên Sô.” (VietCatholic 10/10/2001) Đúng là gieo gió gặt bão !
Tiếp nối chủ đề "hãy đồng lao cộng khổ như một người lính giỏi của Đức Ki-tô Giê-su" (2:3, x. 1:8): TN 28-C81
Tiếp nối chủ đề "hãy đồng lao cộng khổ như một người lính giỏi của Đức Ki-tô Giê-su" (2:3, x. 1:8), bài đọc hôm nay đưa chúng ta tới nguyên lý quan trọng nhất cho việc làm chứng và rao giảng Tin Mừng về Đức Giê-su Ki-tô.
Để giúp chúng ta nhận thức nguyên lý ấy, trước hết thánh Phao-lô đưa ra một số hình ảnh cụ thể: người lính chiến, lực sĩ điền kinh và người nông dân. Cả ba đều nhắm mục đích chính trong cuộc sống của mình. Người lính chiến muốn hy sinh mọi vướng mắc nhi nữ thường tình để làm "đẹp lòng người tuyển mộ." Lực sĩ điền kinh cố gắng tập luyện theo những đòi hỏi của thể thao để "đoạt giải." Người nông dân chấp nhận lam lũ vất vả để "được hưởng phần hoa lợi." Vậy đâu là những hy sinh và mục đích cuộc đời "người lính giỏi của Đức Ki-tô Giê-su"? Bài đọc Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta câu trả lời rất rõ ràng về a) bổn phận rao giảng Tin Mừng, b) thái độ phải có khi rao giảng Tin Mừng, và c) phần thưởng cho người rao giảng Tin Mừng.
Đầu tiên, thánh Phao-lô nhắc nhở Ti-mô-thê về bổn phận của người chiến sĩ Tin Mừng, đó là "hãy nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô." Nhớ đến Đức Ki-tô không chỉ là một hành vi của ký ức, nhưng là ôm ấp, nghiền ngẫm và sống Tin Mừng về Đức Ki-tô. Giáo huấn về Tin Mừng này Ti-mô-thê đã lãnh nhận trực tiếp từ những người thân cận của ông, như thân mẫu và bà ngoại của ông, ông Bác-na-bê (2:2), nhất là từ Phao-lô. Ông đã lãnh nhận thừa tác vụ giám mục và giờ đây có bổn phận phải rao giảng lại cho người khác. Nhớ đến Đức Ki-tô còn là kiểu tuyên xưng đức tin vào sự Phục Sinh của Chúa, đặc biệt thịnh hành nơi những cộng đoàn Ki-tô hữu gốc Do-thái.
Tiếp đến Phao-lô chia sẻ với ông Ti-mô-thê những kinh nghiệm cá nhân về việc rao giảng Tin Mừng. Ngài dùng một hình ảnh tương phản đầy ý nghĩa để nói lên sức mạnh của Tin Mừng: khi người chiến sĩ Tin Mừng bị xiềng xích vì rao giảng Tin Mừng thì đó lại là lúc Tin Mừng biểu lộ sức mạnh phá xiềng xích để đến với "những người Thiên Chúa đã chọn." Nhận thức chân lý ấy sẽ giúp cho người chiến sĩ Tin Mừng "cam chịu mọi sự" và trung thành trong sứ vụ của mình. Không có con đường nào khác để Tin Mừng được rao giảng, ngoài con đường người chiến sĩ Tin Mừng phải chấp nhận gian khổ, bị xiềng xích, bị đối xử như một tên gian phi.
Trước khi nói đến điểm cốt yếu của nguyên lý làm chứng và rao giảng Tin Mừng, thánh Phao-lô sử dụng kiểu nói: "Đây là lời đáng tin cậy," một kiểu nói thường gặp trong các Thư Mục vụ (x. 1 Tm 3:1;4:9 và Tt 3:8). Vậy "lời đáng tin cậy" gồm có bốn ý tưởng, ba ý đầu theo cùng một khuôn mẫu và ý thứ bốn theo một khuôn mẫu riêng.
"Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người.
Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người.
Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta.
Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình."
Ba ý tưởng đầu thật rõ ràng. Nguyên lý càng rõ ràng thì chúng ta càng dễ nhận ra ý nghĩa và bổn phận. Bổn phận rao giảng Tin Mừng đưa chúng ta tới thái độ chọn lựa dứt khoát, không thể đi nước đôi. Nếu ba ý tưởng đầu soi sáng bổn phận của người rao giảng Tin Mừng, thì ý tưởng thứ bốn lại đề cao hình ảnh của Đức Ki-tô, Đấng chúng ta phải rao giảng. Bất trung là thường tình của con người chúng ta. Cả lịch sử dân Chúa đã phản ảnh sự bất trung ấy. Nhưng trái lại, trung tín là bản chất của Thiên Chúa. Ở đây thánh Phao-lô muốn tôn vinh sự trung tín của Đức Ki-tô, Đấng đã trung thành với Chúa Cha và với nhân loại chúng ta, đồng thời ngài cũng ngụ ý mời gọi người chiến sĩ Tin Mừng hãy trung thành với sứ vụ làm chứng cho Đức Ki-tô và rao giảng Tin Mừng của Người. Đối với Phao-lô, Đức Ki-tô , một con người như chúng ta, "Đấng xuất thân từ dòng dõi Đa-vít," luôn luôn là một "mẫu gương" cho mọi người. Do đó, Đức Ki-tô đã trung tín thế nào, chúng ta cũng phải trung tín như vậy.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Từ trước tới nay, tôi đã "nhớ đến" Đức Ki-tô như thế nào? Tin Mừng của Người có thấm nhập vào cuộc sống tôi và biến đổi con người của tôi không? Hay chỉ là "nhìn hình ảnh trong gương rồi quên đi ngay"?
"Lời Chúa đâu bị xiềng xích!" Vậy mà tôi đã xiềng xích Lời Chúa lại qua những gì trong lối sống của tôi? Thay vào đó, tôi phải làm gì để xiềng xích những "quyến luyến vô trật tự"của tôi lại, để cho Lời Chúa được tự do và đến với người khác?
Qua kinh nghiệm cá nhân, tôi có thể chia sẻ với nhóm điều gì về lòng trung tín của Thiên Chúa?
Bài đọc này có đòi tôi phải đặt lại vấn đề về việc rao giảng Tin Mừng như một bổn phận thiết yếu không? Tôi sẽ có những quyết định thích hợp nào để giúp mình ý thức và thực thi bổn phận này?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm có thể hát "Lời nguyện truyền giáo" hoặc "Con hãy nhớ rằng" (Thánh Vịnh Huyền ca, trang 106). Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Chúa gọi ta làm môn đệ Người, nhưng trong những điều kiện nào? Tuy mỗi người một hoàn cảnh: TN 28-C82
Chúa gọi ta làm môn đệ Người, nhưng trong những điều kiện nào? Tuy mỗi người một hoàn cảnh riêng biệt, một tài năng khác nhau, nhưng có điểm nào là mẫu số chung cho tất cả mọi người không? Được Chúa gọi làm môn đệ không phải là vì ta xứng đáng, nhưng là ân huệ Chúa ban cho mỗi người (Ga 15:16). Do đó, ta luôn luôn phải cảm tạ Chúa về ân huệ đó. Đề tài làm môn đệ Chúa dường như vẫn được tiếp tục qua bài Tin Mừng hôm nay với câu truyện Chúa Giê-su chữa mười người phong hủi trên đường Người đi lên Giê-ru-sa-lem. Họ xuất thân từ hai dân tộc khác nhau, nhưng cùng chung sống với nhau trong trạng thái bệnh tật thể xác. Họ đều được Chúa Giê-su chữa lành, nhưng lại chỉ có một người biết cảm tạ hồng ân Người ban cho mình.
a) Chúa gọi ta làm môn đệ Người ngay trong chính thân phận yếu đuối và tội lỗi của ta
Trong Tin Mừng Lu-ca, đường từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem là con đường Thầy Giê-su kêu gọi và đào tạo các môn đệ. Qua những việc Người làm và những lời giảng dạy, Chúa đã cho ta thấy tất cả những chiều kích khác nhau của việc làm môn đệ, từ những điều kiện phải có như dứt bỏ mọi sự và hoàn toàn tin vào Người cho đến sẵn sàng chấp nhận thiệt thòi, bách hại và cả đến cái chết để làm chứng cho Người. Chương trình đào tạo môn đệ của Chúa được thực hiện qua những giai đoạn tiêu biểu: từ Ga-li-lê, họ được Chúa kêu gọi bỏ lại mọi sự để theo Người (Mc 1:16-20); từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem, họ được lắng nghe lời giảng, chiêm ngưỡng Chúa biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa qua những phép lạ, chứng kiến lối sống Ki-tô đối với những người nghèo khổ và bị xã hội khinh miệt, nhất là để họ quyết tâm gắn bó với Chúa và chuẩn bị kết hiệp với Người trong cuộc Thương Khó sắp tới; tại Giê-ru-sa-lem, họ phải chia sẻ những đau khổ của Người và hoàn toàn trút bỏ con người cũ để được mặc lấy con người phục sinh của Chúa, trở thành một người sẵn sàng lên đường thi hành sứ mệnh được sai đi giống như Người đã được Chúa Cha sai đi (Mt 28:19; Mc 16:15).
Với mẫu mực ấy, Chúa Giê-su hôm nay cũng gọi ta làm môn đệ Người, ngay trong hoàn cảnh sống và điều kiện cá nhân của ta. Mười người phong hủi (chín người Do-thái và một người ngoại bang) đón đường Chúa lên Giê-ru-sa-lem để được gặp Người. Danh tiếng Người đã lôi kéo họ đến. Trong hoàn cảnh khốn khổ bệnh tật thể xác, họ quên đi tất cả những cách biệt về chủng tộc để chia sẻ với nhau trong cuộc sống hằng ngày. Không còn là Sa-ma-ri hoặc Ga-li-lê nữa. Họ có chung một khắc khoải ưu tư, một nỗi đau khổ và một thân phận giống nhau: mắc bệnh phong hủi. Gặp được Chúa, họ tôn vinh Chúa là Thầy: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Hình ảnh này biểu tượng cho tình trạng chung của mọi người được kêu gọi làm môn đệ Chúa. Bệnh phong hủi là hình ảnh thân phận tội lỗi của con người. Nhưng Chúa lại mời gọi ta hãy nhìn nhận Người là Thầy (đây là trường hợp duy nhất Tin Mừng Lu-ca kể lại những người không phải là môn đệ Chúa Giê-su đã gọi Người bằng tước hiệu “Thầy”). Do đó, ta bắt đầu học làm môn đệ Chúa ngay từ thân phận tội lỗi của mình. Đó là kế hoạch của Thiên Chúa, là ý của Chúa Giê-su: “Tôi muốn, anh hãy sạch đi!” (Mc 1:41). Từ nay, hành trình làm môn đệ sẽ cải hóa con người của ta, làm tan biến đi những vết cùi hủi tội lỗi để lại trên hình ảnh ta và dần dần trả lại cho ta hình ảnh đích thực của con người Thiên Chúa đã dựng nên trước khi tổ tông loài người phạm tội.
b) Được chữa lành là khởi đầu cho hành trình làm môn đệ
Theo luật Do-thái, người bị bệnh phong hủi hoặc da liễu sau khi được sạch thì phải đi trình diện vị tư tế nơi mình sống và được nhận trở lại vào cộng đồng. Chúa Giê-su truyền lệnh cho họ đi làm như thế và đang khi đi họ được khỏi bệnh. Việc chữa lành đã được thực hiện là nhờ họ vâng lời Chúa Giê-su và là dấu chỉ để họ nhận biết Người thực sự là Đấng nào để họ tin vào Người. Rõ ràng qua việc chữa lành họ đã được mời gọi đến với Chúa, không phải vì tình trạng bệnh tật thể chất mà vì tình trạng bệnh tật thiêng liêng. Họ được cứu thể xác, nhưng họ cần phải được cứu cả phần hồn nữa. Được cứu phần hồn sẽ được thể hiện dần dần trong hành trình làm môn đệ Chúa. Cho nên họ cần phải trở lại với Chúa Giê-su để tiếp tục cuộc cứu chữa thứ hai.
Trong số mười người được khỏi, chỉ có một người ngoại bang trở lại tạ ơn Chúa. Tạ ơn không chỉ có nghĩa là nói một vài lời xã giao theo thói đời, nhưng là nhận biết và tuyên xưng Chúa Giê-su là ai. Lời tuyên xưng “lạy Thầy” người phong hủi được chữa lành nói lúc đầu có lẽ chỉ là do nghe người khác nói. Giờ đây, anh ta không nói bằng lời xưng hô tầm thường nữa, mà đích thân nói bằng cử chỉ sấp mình thờ lạy Chúa, một cử chỉ dành cho thụ tạo thờ lạy Thiên Chúa.
Được gọi làm môn đệ luôn luôn là một ân huệ Chúa ban. Do đó, người môn đệ biểu lộ lòng biết ơn bằng cách cố gắng sống ơn gọi của mình, nhìn lên Thầy Giê-su như gương mẫu để noi theo lối sống của Người và nhất là để được kết hiệp với Người, vì duy nơi Người ta mới có ơn cứu rỗi.
c) Con đường làm môn đệ Chúa hôm qua và hôm nay
Làm môn đệ Chúa là ơn gọi không bao giờ thay đổi mọi thời mọi nơi. Ơn gọi ấy khởi đầu từ tình trạng tội lỗi của con người và đưa chúng ta qua một tiến trình Ki-tô hóa, tức là mỗi ngày một trở nên giống như Chúa Ki-tô hơn. Chúa nói với người phong hủi được chữa lành: “Đứng dậy, về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh!” Chắc chắn anh ta sẽ làm theo lời Chúa dạy, giống như anh đã nghe lời Chúa, đi trình diện với các tư tế mặc dù anh không phải là người Do-thái. Anh sẽ đứng lên với con người mới. Anh sẽ về với môi trường sống quen thuộc của anh, với làng xóm, với gia đình, để làm chứng cho Đấng đã thương chữa lành và gọi anh làm môn đệ Người. Hôm nay, Chúa Giê-su cũng nói với ta cùng những lời nói ấy, để ta biết quảng đại đáp lại lời gọi của Người và sống làm môn đệ của Người ở tại đây và trong lúc này.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi đã có lần thoái thác không muốn làm môn đệ Chúa. Lý do nào khiến tôi ngần ngại đáp lại lời gọi của Chúa?
Cảm tạ Chúa là điều dĩ nhiên, vì tôi đã lãnh nhận biết bao ơn lành hồn xác Người ban. Nhưng tôi có hay cảm tạ Chúa vì Người đã cho tôi được làm con cái Người không? Tại sao tôi hay quên điều này? Làm thế nào để tôi dễ nhớ?
Làm môn đệ Chúa Ki-tô là mặc lấy lối sống của Người. Tôi sẽ làm gì để sống giống như Chúa mỗi ngày một hơn?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Si-mon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội. Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa. Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu. Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài. Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó. Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Si-mon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. A-men.”
Chúa nhật hôm nay diễn tả quyền năng tuyệt vời của Đức Giêsu. Chúa đến trần gian, Ngài: TN 28-C83
Chúa nhật hôm nay diễn tả quyền năng tuyệt vời của Đức Giêsu. Chúa đến trần gian, Ngài luôn cảm thông với những nỗi khốn khổ của nhân loại. Một trong những đau khổ là bệnh hoạn. Con người sẽ không hạnh phúc khi họ bị đau ốm. Bệnh kéo theo cái chết, đó là nỗi tuyệt vọng của con người. Thời Chúa Giêsu bệnh phong cùi là một bệnh nan y, một bệnh được coi là ô uế và bị xã hội ruồng bỏ. Chúa thương con người và trước những đau khổ, thử thách của con người, Ngài tỏ lòng từ bi thương xót, chỉ một lời của Ngài thốt ra từ đầu môi thương yêu của Ngài thì mọi bệnh hoạn tật nguyền dù thể xác, dù tinh thần cũng đều phải tan biên mất…
Ba bài đọc sáng nay giúp chúng ta hiểu rõ quyền năng và lòng nhân từ, đầy yêu thương của Thiên Chúa. Bằng chứng trước mười người phong cùi đang đau khổ vì họ phải sống cách ly khỏi xã hội, đi đâu cũng phải la to lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành bệnh biết mà tránh xa ( Lv 13, 1-44 ). Tuy nhiên, hôm nay thì hoàn toàn khác, mười người phong cùi nghe tin Đức Giêsu đi qua vùng đó, họ đã đón gặp Ngài, nhưng thực tế, họ không dám đến gần mà chỉ đứng xa xa và kêu lớn tiếng:” Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi “ ( Lc 17, 13 ). Chúa Giêsu động lòng trắc ẩn, Đức Giêsu bảo họ:” Hãy đi trình diện với các tư tế “. Đang khi đi thì họ được sạch ( Lc 17, 14 ). Vâng, chỉ một lời phán ra từ môi miệng của Chúa thì vết thương của thể xác và nỗi đau trong tâm hồn của họ bao năm bị đè nặng bỗng tan biến hết. Căn bệnh quái ác, căn bệnh truyền nhiễm, nan y và ô nhục họ tưởng sẽ phải mang cả cuộc đời, thì nay được hoàn toàn tẩy xóa, rửa sạch. Tất cả là nhờ quyền năng và lòng nhân từ thương xót của Chúa mà họ như chết nay được hồi sinh, như mất đi nay lại được thấy.
Tin Mừng thuật lại, cả mười người phung cùi đều được lành sạch, tuy nhiên, trớ trêu thay chỉ có một người trở lại gặp Đức Giêsu để tạ ơn, mà người đó lại là người Samari ngoại đạo. Còn chín người kia vẫn mang danh là người của Chúa mà lại thật vô ơn. Đức Giêsu đã phải thốt lên một câu xem ra thật chua xót:” Không phải cả mười nguồi đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” ( Lc 17, 17-18 ). Chúa xem trọng lòng biết ơn của người Samari, nên Ngài đã củng cố lòng tin cho anh ta và xác định tư cách tôn giáo của anh. Ngài nói:” Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh “( Lc 17, 19 ).
Biết ơn là điều phải đạo đối với mọi người. Bởi vì, sống ở đời ai cũng hàm ơn người khác. Một tiếng cám ơn chân thành sẽ làm cho người khác vui, hạnh phúc và tâm hồn của người thụ ơn cũng an bình. Cuộc đời này là mot# chuỗi những ân huệ nối tiếp nhau. Vô ơn là điều chua xót nhưng không phải là không xẩy ra trong cuộc đời. Người biết ơn thì ít mà người vô ơn lại nhiều. Do đó, cử chỉ của người Samari ngoại đạo trở lại cảm tạ tri ân Chúa nói lên ân nghĩa của người được Chúa chữa lành. Chúa Giêsu đã làm gương cho nhân loại, cho con người, cho mỗi người chúng ta về lòng biết ơn của Ngài đối với Thiên Chúa Cha. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là bài ca cảm tạ. Bất cứ một biến cố nào xẩy đến trong cuộc đời của Chúa, bất cứ phải quyết định, phải làm công việc gì Chúa đều cầu nguyện và tạ ơn Chúa Cha.Đặc biệt trong các biến cố quan trọng như cho Lazaro chết sống lại, khi làm phép lạ cho bánh, cá hóa nhiều, khi lập bí tích Thánh Thể, Chúa đều cầu nguyện và tạ ơn chân thành Chúa Cha. Chúa không những cám ơn Chúa Cha nhưng còn dạy con người phải biết cám ơn. Chúa phán:” Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy “. Cả Hội Thánh luôn dâng lễ tạ ơn để tái diễn lại hy lễ tạ ơn của Chúa và cùng với Chúa Giêsu tạ ơn Thiên Chúa Cha. Thánh Phaolo cũng luôn đề cập tới vấn đề cám ơn và luôn dâng lên Thiên Chúa lời cám ơn. Chúng ta hãy lật giở từng trang Tin mừng và thơ thánh Phaolo, chúng ta sẽ thấy Chúa và thánh Phaolo đã thực hiện lời tạ ơn như thế nào và dạy chúng ta phải tạ ơn ra làm sao ?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết tạ ơn Chúa và cám ơn những ai đã làm ơn cho chúng con. Amen.
(2Vua 5,14-17; 2 Timôthê 2,8-13; Tin Mừng Luca 17,11-19)
Phúc Âm: Lc 17, 11-19
"Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này".
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia, thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria.
Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
Suy Niệm:
Để chuẩn bị khánh nhật truyền giáo cử hành vào Chúa nhật sau, chúng ta sung sướng được: TN 28-C84
Để chuẩn bị khánh nhật truyền giáo cử hành vào Chúa nhật sau, chúng ta sung sướng được nghe những bài Kinh Thánh hôm nay. Bài đọc sách Các Vua và bài Tin Mừng Luca rõ ràng nói đến hai người lương dân đã nhận được ơn của Chúa; còn trong bài thư Phaolô, chúng ta phải chắc chắn công nhận có lời tạ ơn Thiên Chúa đã ban Tin Mừng cứu độ cho lương dân.
Nhưng nếu Chúa muốn dùng chúng ta để cho lương dân nhận biết Người, thì Người cũng muốn dùng họ để thêm lòng tin cậy mến cho chúng ta. Thế nên những bài Kinh Thánh hôm nay không phải chỉ nói lên hành động của Chúa đối với dân ngoại; mà cũng muốn dạy bảo chúng ta thêm nhờ những hành động này. Bởi vì trước mặt Chúa mọi người đều liên đới và phải bổ khuyết cho nhau để làm nên thân thể hoàn toàn của Đức Giêsu Kitô.
Chúng ta hãy lần lược đọc các bài Kinh Thánh để đón nhận mọi giáo huấn của Chúa.
1. Một Người Được Đức Tin
Câu chuyện Naaman, người xứ Syri, đã được nhiều người biết. Thiết tưởng chẳng cần phải dài dòng thuật lại rằng: Ông là vị tướng chỉ huy toàn thể quân lực Syri, được vua Syri tín cẩn, nhưng lại mắc bệnh phong cùi. Nghe tin ở đất Giuđa có vị tiên tri nổi danh làm phép lạ. Ông xin thư vua Syri đến đất Do Thái để gặp nhà tiên tri. Êlisê bảo ông cứ xuống sông Hòa Giang tắm 7 lần thì sẽ được khỏi bệnh. Thoạt đầu ông không muốn nghe vì nghĩ sông Hòa Giang của Do Thái có gì sạch hơn sông ở Syri. Nhưng, sau nghĩ lại, ông đã vâng lời xuống sông tắm 7 lần và đã được sạch... đang khi ấy ở đất Do Thái có biết bao người bị phong cùi mà không được chữa khỏi như ông. Trường hợp của ông nói lên lòng thương - và phải nói là ưu ái nữa - của Thiên Chúa đối với lương dân.
Bài học hôm nay chỉ nhắc sơ đến việc Naaman được chữa lành. Những gì xảy ra sau đó mới là trọng tâm. Chúng ta thấy Naaman được sạch rồi đã cùng đoàn tùy tùng trở lại gặp nhà tiên tri. Ông nói: bây giờ tôi đã biết: trên khắp cả mặt đất chẳng có chúa nào khác ngoài Chúa của Israel.
Naaman đã bỏ tà thần để suy phục Thiên Chúa. Ông đã được đức tin sau khi được lành bệnh. Từ nay ông trở thành dân của Chúa. Và chắc chắn đức tin của ông dứt khoát, mạnh mẽ hơn nhiều người Do Thái. Để chứng tỏ niềm tin này, trước hết ông xin phép dâng chút lễ mọn cho nhà tiên tri, tức là người của Chúa, theo thông lệ thời bấy giờ. Không phải ông muốn cám ơn Êlisê vì đã chữa ông khỏi bệnh. Ý nghĩa gói ghém trong việc muốn dâng tặng lễ vật là để nói lên niềm tin Êlisê là tiên tri, tức là người của Chúa. Naaman muốn cư xử như mọi tín hữu. Những người này khi đến với các tiên tri vẫn dâng cho các ngài một chút lễ mọn để nói lên niềm tin công nhận và tôn trọng những người được Chúa chọn.
Êlisê từ chối. Có lẽ vì tế nhị, hoặc vì muốn người tân tòng hiểu đạo một cách thuần túy. Cũng có thể Êlisê muốn thử đức tin của Naaman, vì theo lời nói tiếp sau của ông này, chúng ta thấy Naaman có vẻ sợ nhà tiên tri chưa coi mình như là một tín hữu thường. Ông nói: "Nếu không, thì xin cho tôi chở về một xe đất cặp la kéo được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ cho một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa, Chúa của Israen". Bởi vì theo quan niệm thời bấy giờ, đất nước nào thì thần linh ấy. Naaman đã tin Chúa của Israen thì phải thờ Ngài trên đất của Ngài. Đất cát xứ Syri không xứng đáng với Ngài nữa vì là đất của dân ngoại và đã ra nhơ nhớp vì tà thần. Nay trở về quê quán, Naaman phải đem một ít đất Do Thái về để dựng bàn thờ mới trên đất ấy mà thờ phượng Thiên Chúa. Nếu Êlisê cho phép làm như vậy, Naaman mới chắc chắn nhà tiên tri đã tin mình và coi mình như tín hữu. Và vì thế lời xin của Naaman còn là một lời tuyên xưng đức tin chân chính.
Chúng ta phải cảm phục ông, cũng như chúng ta thường cảm phục đức tin của những người mới trở lại. Chúng ta thấy họ sau khi đã nhận biết Chúa thì thành khẩn muốn theo Chúa cho đến cùng. Họ muốn là những tín hữu một trăm phần trăm, khiến chúng ta, những người "đạo cũ, đạo dòng" phải suy nghĩ.
Câu chuyện Naaman và đức tin của ông đã được Đức Giêsu nhắc lại để nêu gương cho môn đệ của Người. Chúng ta còn phải đọc đi đọc lại cũng với nhiều gương sáng khác để thấm thía những bài học mà Chúa muốn dùng lương dân để nói với chúng ta. Cũng trong chiều hướng đó, phụng vụ hôm nay còn muốn chúng ta đọc thêm đoạn Tin Mừng Luca.
2. Một Đức Tin Tiến Bộ
Hôm ấy, Đức Giêsu đang trên đàng đi lên Giêrusalem. Đối với tác giả Luca, đây là cuộc hành trình đầy ý nghĩa. Đức Giêsu đi lên Giêrusalem không phải chỉ để chịu chết mà đồng thời cũng là được vinh thăng. Do đó từ ngữ "đi lên" Giêrusalem đã được lựa chọn một cách tính toán và hữu ý. Đây là một cuộc đi lên. Và như chính Đức Giêsu nói, khi nào được "đưa lên", Người cũng kéo tất cả lên với Người. Con đường đi lên Giêrusalem vì thế vừa là đàng để Chúa đi lên, và đồng thời cũng là đàng để chúng ta đi lên với Chúa là sự thật và là sự sống. Đó là con đường của Kitô giáo, của hết thảy chúng ta khi muốn sống đạo.
Tác giả Luca còn xác định thêm, khi đã lên Giêrusalem, Đức Giêsu và môn đệ của Người "đã ngang qua Samari và Galilê". Nói rõ ra, thì Người đã không chọn một trong hai con đường thời bấy giờ dẫn từ Galilê xuống Giuđêa và đi qua Samari. Người đi con đường riêng khác với mọi người và lần theo bờ sông Hòa Giang; bởi vì Người muốn xuống Giuđêa trước rồi mới đi bọc lên để sau này Gioan có thể viết rằng: "Ơn giải thoát khơi nguồn tự Do Thái" (4,22). Nhưng Luca vẫn nhấn mạnh điều này, là khi còn sống, Đức Giêsu đã tiếp xúc với dân Samari. Hơn nữa, Người còn ban đức tin cho dân này, dân mà Do Thái vẫn coi như dân ngoại và không đáng được vào sổ dân Chúa. Và như vậy Luca làm như vậy để phản đối mọi khuynh hướng chỉ muốn giữ đức tin cho người Do Thái. Theo người, chính Do Thái phải mở mắt ra mà xem công việc của Chúa làm nơi lương dân như câu chuyện người sắp kể.
Vậy, trên đường đi lên Giêrusalem, Đức Giêsu vào một làng kia. Mười người phung cùi muốn đón gặp nhưng theo luật dạy chỉ dám đứng lại đàng xa. Họ là thành phần ô uế của xã hội, không được đến gần ai kẻo làm dơ nhớp người ấy. Nhưng họ tin Đức Giêsu. Họ nghĩ Người có thể chữa họ khỏi bệnh. Thế nên họ cất tiếng thưa: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Đối với họ, danh từ "Thầy" rất phong phú. Họ không nghĩ đến khả năng giáo huấn của Đức Giêsu đâu. Họ trông chờ quyền năng ở nơi Người. Họ đã nghe nói Người làm nhiều phép lạ. Người là Thầy theo nghĩa ấy. Người là tiên tri của Chúa như Naaman đã nghĩ như vậy về Êlisê.
Ở đây, mười người phong cùi còn xưng đích danh Đức Giêsu. Họ không sợ "phạm húy". Họ muốn nói lên lòng tín nhiệm muốn kéo Người lại gần mình, như người trộm lành sau này cũng kêu tên Đức Giêsu như thế để được chia phần số phận với Người, vì thực ra âm thầm họ ý thức được bệnh tình của họ chỉ có lòng thương xót của Thiên Chúa mới chữa được. Họ như nói lên niềm tin của dân Chúa đang trông chờ ơn cứu độ lòng Chúa thương xót, tức là nhờ Chúa là Đấng thương xót.
Chắc chắn Đức Giêsu đã coi lời họ xin là biểu thị lòng tin, nên bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế". Người bị bệnh phong cùi chỉ đi trình diện các tư tế khi đã khỏi bệnh để được các bậc nắm giữ pháp luật xác nhận là đã lành sạch. Bảo họ đi trình diện tức là Đức Giêsu đã cam kết chữa họ. Thế mà Người chỉ làm phép lạ khi thấy lòng tin của người ta. Do đó Người đã chắc chắn về lòng tin của 10 bệnh nhân này.
Và quả thực, họ tin Người đến nỗi lập tức đã ra đi trình diện khi chưa thấy mình sạch. Đó là niềm tin có thể dời núi chuyển non, như Lời Chúa đã hứa. Và thật vậy, trong khi họ đi họ đã được "sạch", tức là được khỏi bệnh. Chúng ta cảm phục lòng tin của họ; nhưng thiết tưởng chúng ta phải kính yêu Chúa Giêsu hơn nữa. Người đã chữa 10 kẻ phong cùi khỏi bệnh dễ dàng như vậy và nhất là khiêm tốn như thế. Khác hẳn với những tên tự xưng là cao tay làm phép lạ nhưng thật sự chỉ là những tên bịp bợm. Nhưng chúng ta hãy trở về với 10 người phong cùi.
Cả bọn đã được sạch bệnh. Nhưng chỉ có một người lập tức quay đầu trở lại gặp Đức Giêsu. Anh ta lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh gục mặt dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh làm một hành vi thờ phượng. Anh công nhận Ngài là Chúa. Trong khi 9 người kia đi đâu? Nghĩ rằng họ đã trở về nhà mình thì tệ quá. Tác giả Luca để cho chúng ta đoán. Tôi nghĩ họ đã tiếp tục đi trình diện các tư tế. Họ tiếp tục làm bổn phận của mình. Họ có đức vâng lời "tối mặt".
Đó là những ý nghĩ tốt nhất cho họ. Nhưng ở đây, những ý nghĩ đó vẫn không bào chữa được cho họ. Họ ích kỷ vì chỉ nghĩ đến mình, muốn cho mình được công nhận ngay để được sống như mọi người; đang khi lẽ ra thấy mình được sạch như vậy, họ phải nhận ra ơn Chúa, phải tạ ơn Người, phải trở lại nguồn mạch đã ban ơn cho mình. Há Chúa đã chẳng cho thấy Ngài mang ơn cứu độ đến sao? Ngài không đáng tìm đến hơn các tư tế vô vị kia sao?
Chỉ có một người đã nhận ra như vậy. Người ấy thấy rằng ơn cứu độ bây giờ ở nơi Đức Giêsu. Người ấy trở lại thờ lạy Người. Đền thờ Chúa chân thật từ nay không còn nằm nơi có tư tế đạo cũ nữa. Đền thờ ấy bây giờ là chính Chúa Giêsu. Thành ra đã thực hiện Lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ xứ Samaria trong sách Tin Mừng Gioan: Ơn giải thoát khơi nguồn tự Do Thái... nhưng sẽ đến giờ - và là ngay bây giờ -, những kẻ thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Cha trong Thần Khí và Sự Thật.
Việc một người trong số 10 người được khỏi bệnh trở lại thờ lạy Đức Giêsu phải chăng muốn ám chỉ những điều ấy? Và người ấy lại là một người Samaria dị chủng duy nhất. Tác giả Luca đợi đến lúc này mới nói lên quốc tịch của người ấy. Chín người kia là Do Thái. Chúa Giêsu nói: "Không phải là cả 10 người được sạch ư? Chín người kia đâu?". Có một màu sắc đau xót và phiền trách trong câu hỏi này. Nó nói lên lòng của tác giả Luca khi thấy Chúa mang ơn cứu độ đến cho cả Do Thái lẫn Hy Lạp, thế mà kìa xem dường như chỉ có dân ngoại chen vào nhà Chúa.
Chúa Giêsu bảo người kia để kết luận: "Hãy chỗi dậy mà đi. Lòng tin của ngươi đã cứu ngươi". Chúng ta tự nhiên muốn hỏi, phải chăng lời này ám chỉ rằng những người kia không được khỏi bệnh? Không chắc. Tôi dám nghĩ Chúa Giêsu đâu có hẹp hòi gì! Người chẳng cần rút lại một ơn đã ban. Nhưng có thân thể lành mạnh mà không được vào Nước Trời thì nào ích gì? Điều cốt yếu mà người Samaria kia đã được là "được cứu", tức là được ơn cứu độ, được tình thương của Chúa cứu thế. Người bảo anh ta: Hãy chỗi dậy mà đi đi. Những từ ngữ này gợi đến mầu nhiệm phục sinh sống lại, chỗi dậy khỏi sự chết và đời sống cũ; và nhắc chúng ta nhớ đến việc Đức Giêsu đang đi lên Giêrusalem để được vinh hiển. Đó là con đường mà người Samari, tức là lương dân từ nay sẽ đi để sống đạo, sống đời sống Kitô hữu để theo Đức Kitô đến vinh quang.
Tất cả những tư tưởng dồi dào này, chúng ta cần suy niệm thêm để thấy mình nơi người Samari có phúc kia. Chúng ta đã có đức tin. Nhưng đức tin này cần tiến bộ, mới cứu được chúng ta. Chín người Do Thái kia cũng đã có lòng tin khi kêu xin Chúa chữa và vâng lời đi trình diện các tư tế. Nhưng rồi đức tin của họ đã đi vào tập quán, suy nghĩ theo thói quen và không tỉnh thức nhận ra mạc khải mới của Chúa. Họ dùng đức tin để phục vụ mình nên họ đã quên và bỏ Chúa. Những người như họ cần đọc lại bài Tin Mừng hôm nay; và cũng có thể đọc thêm bài thư Phaolô, để dễ thấm thía thâm tín hơn.
3. Một Sự Tiến Bộ Không Nản Chí
Quả vậy, trong bài thư này thánh Phaolô nói đến lòng tin của người. Không những người đã tin Đức Giêsu Kitô phục sinh từ kẻ chết và người hằng rao giảng Tin Mừng ấy cho lương dân để họ cũng được cứu chuộc; nhưng ngay lúc này đây, đang khi bị giam cầm tù tội như một kẻ gian phi, người vẫn không bớt niềm tin ấy. Ngược lại, lòng tin của người vẫn mạnh, vẫn tiến. Người chịu đựng tất cả những đau khổ hiện tại cho phần rỗi của những người được Chúa chọn. Tức là đang khi bị cầm tù, người vẫn làm tông đồ, người vẫn rao giảng đức tin bằng chính cách chịu đau khổ. Do đó người có thể viết: người bị cầm tù nhưng Tin Mừng của Đức Kitô, lời cứu độ của Thiên Chúa chẳng hề bị cầm chân. Người nêu gương cho tất cả chúng ta luôn phải đưa đức tin đi xa hơn, làm cho đức tin ấy tiến bộ, ngay cả khi bị thử thách và chúng ta sẽ có thể nói như Phaolô ở một đoạn khác: tôi biết tôi đã tin vào ai?
Không phải chúng ta chỉ tin vào Thiên Chúa duy nhất như Naaman trong bài sách Các Vua; và cũng không phải chúng ta chỉ tin vào Đức Giêsu có quyền làm phép lạ như 10 người bị bệnh phong cùi trong bài Tin Mừng, chúng ta tin Đức Giêsu là Thiên Chúa như người Samari kia, và nhất là chúng ta tin Đức Giêsu đã chết và sống lại vì ta như thánh Phaolô nói trong bài thư hôm nay. Do đó, dù khi có bệnh hay không có bệnh, dù được khỏi hay không được khỏi bệnh, dù bị rơi vào bất cứ hoàn cảnh rủi ro nào, chúng ta vẫn tin và vẫn rao giảng Chúa Giêsu Kitô. Người kết hiệp với chúng ta trong thánh lễ này. Người đưa chúng ta vào đường lối của Người để như Người đã đi lên mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh thế nào, chúng ta cũng chỗi dậy và đi với Người cho đến hạnh phúc muôn đời.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Có lần tôi chứng kiến một đúa bé và một người mẹ. Hai người đang ở bên nhau trông rất thấm: TN 28-C85
Có lần tôi chứng kiến một đúa bé và một người mẹ. Hai người đang ở bên nhau trông rất thấm thiết. Đứa bé đang có trong tay mấy cái kẹo, tôi nghe người mẹ xin bé một cái, bé nhìn rồi cũng chọn cho mẹ một cái. Người mẹ cầm kẹo rồi vui mừng hôn con. Nhưng đứa bé đẩy mẹ nó ra và nói ngay: sao mẹ không cám ơn con? Khi đó người mẹ mới giật mình, xin lỗi con và nói lời cám ơn. Khi đó đứa bé mới chịu ngã vào vòng tay của mẹ và chấp nhận những cử chỉ âu yếm.
Tôi chợt suy nghĩ: đứa bé đã được giáo dục tốt, đã được dạy nói lời cám ơn trong những tiếng nói đầu tiên. Những điều tốt đẹp đã in sâu vào trong trí khôn nhỏ bé của nó vì: nhân chi sơ tánh bản thiện. Nên nó không chấp nhận được những gì khác với điều nó hiểu biết. Thế mà người dạy nó nhiều khi quên đi những gì mình đã dạy. Tôi cũng suy nghĩ tiếp: có lẽ người lớn cho rằng, những người nhỏ mới là người chịu ơn và cần phải cám ơn, còn những người lớn là người có quyền đòi hỏi nên không cần phải nhớ đến việc cám ơn. Còn đứa bé nó nghĩ đơn sơ hơn: tất cả những gì người khác làm cho mình đều phải có lời cám ơn để tỏ lòng chân thành.
Chúa Giêsu cũng phiền trách những người không biết nói lời cám ơn, khi họ van xin Ngài làm ơn cho họ. Họ đã nhận được ơn như lòng họ mong ước và họ ra đi mất dạng. Mười người cùng nhận được ơn như nhau, nhưng chỉ có một người biết quay trở lại nói lời cám ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Con số một phần mười quá ít oi. Chúa Giêsu gần như chờ đợi họ đến nói lời cám ơn để chúc phúc cho họ. Người cám ơn lại là một người ngoại giáo, một người không bị ràn buộc bởi lề luật, một người bị những người Do Thái khinh dể, vậy mà họ biết sống xứng đáng là một người thật sự. Còn những người kia, có lẽ là những người hiểu biết lề luật, những người được xã hội Do Thái ưu đãi hơn. Nhưng cái hiểu biết đó không giúp cho họ thành người thật sự được. Họ đã thiếu đi cái tầm thường nhất để làm nên con người. Họ đã thiếu đi lòng biết ơn.
"Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại nầy".
Chúng ta cũng đang khó chịu với những người đã nhận ơn mà ra đi cách vô ơn của ngày xưa, của những ngày tháng hơn 2000 năm trước. Chúng ta ngỡ rằng, đó chỉ là những chuyện của ngày xưa, những chuyện của thời dĩ vãng. Thật ra nó không thuộc vào dĩ vãng, mà lại là những chuyện của hiện tại, câu chuyện đời thường của mỗi người.
Những lúc khốn khó, những khi nãn chí, những lúc thất vọng mỗi người cũng đã chạy đến van xin Thiên Chúa với những lời cầu xin thống thiết. Nhưng khi cuộc sống được bình an, thuận lợi, được những điều may mắn, hoàn cảnh sống tốt đẹp. Chúng ta có biết nói lên lời cảm tạ Chúa, chúng ta có biết sống bằng lời cám ơn cho xứng đáng không? Chúng ta có khi nào biết quay nhìn trở lại quá khứ, với những gì mình đã trải qua, đã van xin và cũng đã nhận được, để sống trong sự vui mừng, để thực hành lòng biết ơn, để biết tôn vinh Thiên Chúa.
Hay chúng ta cũng cho rằng: việc cám ơn chỉ là việc của trẻ con, còn mình đã lớn khôn, đã làm được nhiều việc, thì điều dó không còn cần thiết nữa. Thế cho nên chúng ta vẫn cứ đòi hỏi, vẫn cứ khó chịu, vẫn cứ thiếu thốn, vì chúng ta không thấy mình nhận được điều gì, chúng ta không thấy mình cần phải nói lên lời cám ơn ai hết. Cho dù cuộc sống quanh ta vẫn đầy đủ, nhưng vẫn không cảm nhận được.
Mỗi người nhìn vào chính mình, nhìn vào cách sống, để chúng ta tự cho mình là con số một trong mười người đã van xin Chúa Giêsu như thế nào? Một trong mười người, biết quay trở lại cám ơn và tôn vinh Thiên Chúa, vì nhận thấy những gì mình đã nhận được, nên không thể ngồi yên mà phải quay trở lại cám ơn Thiên Chúa. Hay một trong mười người, mà là con số mà Chúa Giêsu phải thốt lên với chúng ta:" còn chín người kia đâu?"
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho mỗi người biết sáng suốt nhận ra được những hồng ân Chúa ban trong đời sống, để biết nói lên lời cám ơn và tôn vinh Thiên Chúa bằng chính đời sống tốt đẹp của mình.
Cđ: “Không có vị tiên tri nào được chấp nhận nơi quê hương mình..” (Lc 3, 24)
Anh chị em thân mến,
Cách đây mười mấy năm, khi tôi còn ở họ đạo An Điền, Ba Tri, Bến Tre. Hôm đó vào sau lễ: TN 28-C86
Cách đây mười mấy năm, khi tôi còn ở họ đạo An Điền, Ba Tri, Bến Tre. Hôm đó vào sau lễ chiều Chúa Nhật. Trời nhá nhem tối. Tôi về đến ngã ba vào An Điền. Nghe tiếng lao xao, có người bệnh nặng được cán võng ra đây chờ kiếm xe ôm đưa đi mà không có. Tôi nói ngay: tôi cho mượn xe đây. Hãy đưa bệnh nhân đi ngay… Hai phút sau, người ta đưa bệnh nhân đi xuống bệnh viện Ba Tri. Qua hôm sau, người ta trả xe; tôi không gặp mặt. Không có một lời cám ơn nào cả. Tôi cười….Gia đình bệnh nhân là người công giáo đấy! Câu chuyện Phúc âm cũng tương tợ như thế. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Chúng ta hãy trở lại với câu chuyện của bài Tin Mừng ngày Chúa Nhật hôm nay: Chúa Giêsu đi ngang qua một làng Samaria, là làng dân ngoại. Có 10 người phung cùi nghe tiếng Chúa, nên chạy theo van xin Chúa chữa cho họ. Chúa bảo: hãy đi trình diện với các tư tế theo lề luật. Trong khi họ đi đường, họ được lành sạch. Vậy mà chỉ có một người thấy vậy, đã quay trở lại tạ ơn Chúa Giêsu. Còn 9 người kia không rõ lý do gì không trở lại. Chắc chắn không phải vì họ bận việc đi trình diện tư tế…Trớ trêu thay, người trở lại tạ ơn lại là người Samaria, dân ngoại, không phải là người Do thái…Chúa nói thêm với anh dân ngoại: chính lòng tin của anh đã cứu chữa anh, hãy về bình an…
b/. Thời Cựu Ước và cả thời Chúa Giêsu, bệnh cùi rất đáng sợ. Theo Luật Môisen, bệnh cùi còn bị coi là dơ bẩn chiếu theo luật, là hình phạt của Thiên Chúa; nên người bệnh bị khai trừ khỏi cộng đoàn. Nếu sau này, vì lý do nào đó khỏi bệnh, họ phải đi trình diện các tư tế, để được xác nhận, rồi dâng lễ chuộc tội mới được gia nhập lại cộng đoàn (Lv 13-14). Bài Cựu Ước của Chúa Nhật hôm nay, cũng kể lại: ông Naaman, tướng chỉ huy quân đội của Aram, dân ngoại, đã nghe lời tiên tri Êlisêô đi tắm bảy lần trong sông Giodan, và đã lành bệnh cùi. Ông liền quay trở lại tạ ơn vị tiên tri và hứa từ nay sẽ không tế lễ cho vị thần nào khác, ngoài Chúa của tiên tri Êlisêô.
c/. Lòng biết ơn là chuyện bình thường. đối với con người, đó là chuyện có đi có lại. Nhận ơn của kẻ khác, thì ai cũng cảm thấy phải đáp trả; đó là việc hiển nhiên. Dù vậy, cũng có những người khi nhận ơn rồi lại không nhớ đến người thi ơn cho mình. Điều đó không hại cho người làm ơn, nhưng lại hại cho người nhận ơn, vì họ tự phá vỡ mối tương quan giữa họ và người làm ơn… Đó là mối tương quan giữa người với nhau.
Ở đây, tôi muốn nói đến mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người trên bình diện: Thiên Chúa Đấng ban ơn và con người, người nhận ơn. So sánh ở đây sẽ cho ta thấy hố sâu cách biệt vô cùng to lớn: Thiên Chúa tạo dựng con người: con người có quyền gì để đòi Thiên Chúa dựng nên mình? - Rồi Thiên Chúa cho con người được làm con cái Thiên Chúa: con người lấy quyền nào để đòi được quyền này? – Khi con người sa ngã, phạm tội, Thiên Chúa ban Đấng Cứu Thế chuộc lại lỗi lầm đó: quyền nào để con người được cứu chuộc, được tha thứ? Nghỉ đến đây: càng thấy hố sâu cách biệt giữa con người và Thiên Chúa, lẻ ra con người càng thấy phải đáp trả càng lớn. Vậy mà thực tế con người không muốn đáp trả lại với tình yêu vô biên của Thiên Chúa y như câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay: không phải cả 10 người đều lành bệnh cả sao? Còn 9 người kia đâu, sao không thấy trở lại tạ ơn Thiên Chúa?
d/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Có người nói: Biết ơn nhiều nhất là con người, nhưng vô ơn nhiều nhất cũng là con người. Vế sau nói về vô ơn thì đúng lắm, nhưg về chuyện biết ơn chưa chắc lắm đâu. Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nhắc nhở cho ta điều đó. Còn ta bây giờ? Ta là hạng người nào đây? Vô ơn hay cũng còn biết ơn Thiên Chúa chút đỉnh?
Lòng biết ơn là một trong những nét lễ nghĩa mang đậm chất nhân bản mà không thể thiếu trong: TN 28-C87
Lòng biết ơn là một trong những nét lễ nghĩa mang đậm chất nhân bản mà không thể thiếu trong cuộc sống giữa người với người. Chính vì thế, để con cháu nhớ ơn những người đã có công sinh thành dưỡng dục mình trong cuộc sống mà ông bà ta dạy: “ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng; công cha nặng lắm ai ơi, nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang…”. Qua đó cũng đủ thấy rằng truyền thống cha ông rất quan tâm đến thái độ biết ơn của con người trong xã hội.
Hôm nay Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho mười người phong cùi nhưng chỉ có một người trong nhóm trở lại tạ ơn. Chúng ta hãy tìm lại những giá trị đích thực mà lòng biết ơn mang lại cũng như sự cần thiết của hai tiếng “cám ơn” mà Chúa Giêsu đòi hỏi.
Trong quyển nói với chính mình của đức cha Bùi Tuần có viết: “Tôi thích chó. Lý do là vì cho rất biết ơn…Nhiều người không biết ơn bằng chó”. Cả ngàn người được Chúa thi ân nhưng khi Chúa vác thánh giá chỉ có một người bằng lòng vác đỡ, người đó lại là người ngoại. Cả một dân tộc chịu ơn Chúa, nhưng khi Chúa chịu đóng đinh trên thập giá, chỉ có một người dám công khai lên tiếng xưng tụng Chúa là người vô tội. Người đó lại là người ăn trộm…Còn hôm nay, cả mười người cùi được Chúa chữa lành, nhưng chỉ có một người quay lại tạ ơn. Người đó cũng lại là người ngoại…
Dẫu biết rằng đã là con người thì không nhiều cũng ít điều cảm kích trước những hành động giúp đỡ của người khác. Nhưng tại sao vẫn có những con người thờ ơ hay tỏ ra vô ơn trước những gì mình nhận được. Phải chăng thái độ sống ích kỹ, lối sống chỉ biết nghĩ đến mình khiến cho họ cảm thấy cuộc sống này chẳng ai tốt lành, chẳng ai có thể giúp đỡ một cách nhưng không. Và ngay cả bản thân họ cũng chưa bao giờ làm một điều gì hoàn toàn vì người khác. Nên họ nghĩ chẳng có gì cần phải cám ơn vì mình có nhận cái gì đâu.
Đây cũng là lối suy nghĩ của chín người cùi trong Tin Mừng Chúa Giêsu vừa kể. Khi được lành bệnh họ liền tìm cách để trả ơn Chúa. Họ nghĩ rằng những việc của họ làm có thể trả lại đầy đủ với những gì Chúa ban cho họ. Nên họ đâu có được tâm tình tạ ơn, cảm kích trước việc lạ lùng này. Tôn giáo với họ chỉ là một dịch vụ trao đổi không hơn không kém. Nhưng chúng ta biết lấy gì đền đáp cho xứng với ơn lành Chúa ban.
Tâm tình tôn giáo này rất phổ biến nơi các dân tộc. Cách thức tôn thờ thần linh như là một dịch vụ trao đổi. Ta nhận thấy điều này rõ ràng qua hình ảnh Naaman. Ông chưa có cái nhìn về một Thiên Chúa đầy lòng thương xót, sẵn sàng ban phát ân huệ một cách nhưng không cho những ai tin vào Người. Hành vi trả lễ của ông nói lên điều đó. Nhưng như thấu hiểu được tâm trạng của ông, nên Elisê khước từ tất cả những của lễ như là việc đền bù hay trao đổi. Nhà tiên tri muốn cho Naaman thấy rằng không có gì có thể đền đáp xứng đáng với ân huệ và tình thương của Thiên Chúa. Và quả thật, Elisê đã làm cho Naaman phải thay đổi cái nhìn của ông về Thiên Chúa. Từ đó ông tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa của Elisê cũng chính là Thiên Chúa của ông. Và ông thể hiện lòng biết ơn của mình băng sự hoán cải chân thành qua việc xin đất của Israel về quê hương để làm bàn thờ tế lễ cho Chúa. Từ nay, ông không còn tế lễ cho bất cứ thần nào ngoại trừ Chúa. Đây mới là cách thể hiện lòng biết ơn sâu sắc và đúng đắn nhất mà Chúa mong muốn.
Vì thật ra, Chúa cần gì những lời tạ ơn có tính cách sáo ngữ của chúng ta? Nhưng điều Chúa muốn là khi chúng ta nhận ra được tình thương mà Ngài luôn che chở, bao bọc chúng ta để từ đó chúng ta quyết tâm sửa đổi đời sống theo giáo huấn Chúa dạy.
Vì thế, điều quan trọng là nhận ra ơn Chúa trong cuộc đời mình. Nếu không cảm nhận được điều này thì tất cả những hành vi thờ phượng của chúng ta chỉ là việc mê tín. Khi đó chúng ta chỉ thấy những gì mình làm cho Chúa mà thôi. Để rồi nghĩ rằng mình có quyền đòi hỏi Thiên Chúa phải đáp lại. Nhận ra và cảm tạ những ơn lành của Chúa đã là khó. Nhưng cảm tạ Chúa với những điều trái ý trong cuộc sống càng khó hơn.
Nhưng chúng ta có thể làm được nếu như chúng ta có những phút hồi tâm để nhìn lại quảng đời đã qua của mình. Vì thông thường những gì xảy ra không theo ý muốn thì chúng ta cho đó là điều dữ. Nhưng khi nhìn lại chúng trong suốt những chặng đường chúng ta đã đi qua, khi đó chúng ta mới nhận ra chính những biến cố đó như thể điều nằm trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Như câu chuyện trong Tin Mừng.
Trong lịch sử, người Do thái và người Samaria không được thuận thảo với nhau nếu không muốn nói là thù nghịch. Nhưng trong nhóm muời người cùi lại có một người Samaria . Phải chăng bệnh tật điều mà người ta nghĩ chúng là sự dữ, đau khổ. Thì giờ đây nhờ nó mà con người dễ dàng thông cảm và có thể bỏ qua những gì kỳ thị không tốt trong quá khứ để xích lại gần hơn và yêu thương nhau hơn.
Cũng như trường hợp của tướng Naaman người Syria . Ông là một con người có quyền lực và thế giá trong cuộc sống. Có thể nói ông đang đứng trên đỉnh cao của sự thành công, một vị trí mà chúng ta ngày nay đang nỗ lực tìm kiếm. Trên đỉnh thành công đó, ông có bao giờ nghĩ đến Thiên Chúa. Tôn giáo và tín ngưỡng không có chỗ trong đầu và trong cuộc sống của ông. Nhưng bệnh cùi đã là tiêu tan hết tất cả mọi hy vọng, mọi dự tính cũng như chôn và vùi tất cả vinh hoa phú quý mà ông đã một đời vất vả xây dựng. Chúng tiêu tan trong phút chốc và đẩy cuộc đời ông vào vực thẳm bế tắt. Nhưng khi được ơn chửa lành của Chúa qua tiên tri Elisê, ông đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời mình. Ông nhận ra tất cả vinh hoa phú quý mà ông đang đeo bám chỉ là phù vân, là thứ nay còn mai mất ... Giờ đây, đối với ông, Thiên Chúa là quan trọng hơn hết. Vì thế, ông dốc quyết từ bây giờ cho đến cuối đời chỉ lo tôn thờ, tìm thực thi thánh ý Chúa.
Qua thái độ của Naaman và người cùi xứ Samaria , chúng ta hãy suy nghĩ về đời sống đức tin của mình. Chúng ta có nhận ra tất cả những gì xảy ra trong đời mình đều không nằm ngoài bàn tay quan phòng đầy yêu thương của Thiên Chúa? Chúa cho chúng ta có đôi mắt để chiêm ngưỡng nét đẹp của cuộc đời, cho ta có đôi tai để có thể thưởng thức những âm thanh làm chúng ta ngây ngất, cho ta có con tim để có thể cảm nhận được những giá trị đáng yêu của cuộc sống ... nhưng chúng ta có bao giờ biết ta ơn Chúa chưa? Hay chúng ta đợi đến khi ta mù, ta điếc. Lúc đó, chúng ta mới thấy được giá trị thật của đôi mắt, đôi tai. Hãy biết tạ ơn Chúa qua mỗi biến cố đời thường trong cuộc sống. Như một ai đó đã nói: "Cám ơn đời mỗi sáng mai thức dậy; ta có thêm ngày mới để yêu thương" .
Lạy Chúa, Xin cho con nhận ra mọi ơn lành Chúa ban qua từng phút giây trong cuộc sống để chúng con biết tạ ơn Chúa hầu sống xứng với ơn lành đã nhận. Amen.
Ca dao, tục ngữ Việt nam có dạy: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay “Uống nước nhớ người khơi: TN 28-C88
Ca dao, tục ngữ Việt nam có dạy: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay “Uống nước nhớ người khơi nguồn”. Như thế, một trong những nét đẹp của một con người cách riêng của người Việt nam là sống biết ơn những người làm ơn cho mình. Cuộc sống sẽ vui tươi ấm áp nếu mọi người sống biết ơn nhau. Đối với người có đức tin thì lòng biết ơn sẽ giúp cho các tín hữu sống khiêm tốn hơn.
Đoạn Tin mừng Giáo hội cho chúng ta suy niệm hôm nay cho thấy rõ điều đó. Ngày kia, trên đường lên Giêrusalem Chúa Giêsu đã gặp mười người mắc bệnh phong cùi. Họ đã van xin Người chữa lành họ. Động lòng thương, Chúa Giêsu đã chữa cho họ được lành sạch. Điều đáng nói ở đây chỉ có một người mà người đó lại là người Samaria trở lại tôn vinh Thiên Chúa. “Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn”. Một cử chỉ hết sức cao đẹp và đáng biểu dương.
Trong khi đó, chín người kia là người Do thái mà họ chẳng trở lại. Cho nên Chúa Giêsu đã nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”. Theo cách nói bình dân, chín người này đúng là “ăn cháo đá bát” hay “vô ơn bạc nghĩa”.
Có phải Chúa Giêsu cần chín người kia phải trở lại để cám ơn Người chăng? Hay Thiên Chúa ban ơn cho người này kẻ nọ để rồi trông chờ họ cám ơn chăng? Trong một Kinh Tiền Tụng Giáo hội đã thưa với Chúa: “ ... Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ...”.
Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng. Vả lại chính Người là nguồn mạch mọi ân sủng. Vì thế, biết ơn là bổn phận cần phại có của chúng ta.
Kinh Cám ơn chúng ta thường đọc: “Con cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng, chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời, mà lại sinh ra con, cho con đặng làm người, cùng hằng gìn giữ con, hằng che chở con ; lại cho Ngôi Hai xuống thế làm người, chuộc tội chịu chết trên cây Thánh giá vì con, lại cho con đặng đạo thánh Đức Chúa Trời, cùng chịu nhiều ơn nhiều phép Hội thánh nữa...”. Có thể nói được là từng giây từng phút trong cuộc sống chúng ta đang ngụp lặn trong ân sủng Chúa. Chỉ trong cái nhìn đức tin chúng ta mới có thể nhận ra được những điều đó.
Hãy xin Chúa cho chúng ta nhận ra được rất nhiều ơn lành mà Người đang ban cho mình. Từ đó, chúng ta cũng hãy tỏ lòng biết ơn Người. Tham dự Thánh lễ sốt sắng là cơ hội tốt nhất để chúng ta biết ơn Người. Đồng thời, chúng ta cũng hãy cố gắng gìn giữ cho tâm hồn mình luôn được thanh sạch.
Vào thời Đức Chúa Giêsu, bệnh phong hủi được xem là bệnh an y và nhơ nhớp. Vì theo luật: TN 28-C89
Vào thời Đức Chúa Giêsu, bệnh phong hủi được xem là bệnh an y và nhơ nhớp. Vì theo luật Môi-sen, sau khi được các tê tế đã xác nhận, thì những ai bị bệnh phải sống tách biệt với người khỏe mạnh, mặc áo rách để đầu trần, lấy áo che miệng và hô lên mình có bệnh truyền nhiễm, để cho người lành biết mà tránh xa. Vì thế mười người phong cùi đã đón gặp Đức Chúa Giêsu từ đàng xa mà thưa người rằng: “Lạy thầy Giêsu xin thương xót chúng tôi”. Chắc chắn những người bệnh hôm nay đã nghe nhiều về Đức Giêsu và nhất là các phép lạ người đã làm.
Bản thân những người phong hủi luôn bị xã hội lên án và loại trừ. Ngay cả việc tiếp xúc với một người bình thường họ cũng không được nói chuyện, huống chi là gặp Đức Giêsu một người rất nổi tiếng lúc bấy giờ. Nhưng ông Giêsu không như những gì họ nghĩ , Ngài rất thân thiện không như những người Do thái khác kỳ thị, tránh xa. Nhưng Ngài đến với họ bằng một tình thương nhưng không. Ngài không đòi gì họ, vì Ngài đã nhìn thấy được niềm tin họ qua lời kêu xin. Họ đã hoàn toàn phó thác vào Chúa, và cho rằng Chúa mới có thể chữa họ hết bệnh. Chắc chắc họ đã đợi rất lâu, khao khát rất nhiều. Cho nên lời tuyên xưng của họ là ở tận đáy lòng, như một lời cầu nguyện van xin tha thiết.
Để được ơn cứu độ con người cũng phải cộng tác với Thiên Chúa, để chứng thực niềm tin con người phải trãi qua thử thách như: Áp- ra -ham xưa Thiên Chúa đã thử thách bằng cách kêu ông sát tề con là Isaac. Mười người phong cùi hôm nay, Thiên Chúa đã bảo họ: “hãy đi trình diện với các tư tế” Họ tin người đến nỗi lập tức đi ngay mà lúc đó họ vẫn chưa thấy mình khỏi bệnh. Niềm tin khi đã phát xuất tự con tim, tự đáy lòng thì không còn tính vị kỷ mà nó được thi vị hóa lên thành tình yêu giữa con người với Thiên Chúa. Giờ đây, chỉ cần biết vâng nghe theo Lời Thiên Chúa thì con người không còn thấy thiếu thốn nữa, mà đã cảm nhận được hạnh phúc.
Cốt lõi của bài Tin Mừng hôm nay chúng ta dễ dàng thấy đựơc chính là cách đối xử “kỳ lạ” của mười người được chữa lành. “Kỳ lạ” thứ nhất là trong mười người chỉ có một người trở lại để cám ơn người đã chữa lành cho mình là một người ngoài cuộc - một người Samari. Điều “kỳ lạ” thứ hai cả chín người kia đều không quay lại cám ơn là những người Do Thái. Từ hai thái độ trên, nếu suy nghĩ sâu xa chúng ta cũng không mấy làm lạ lắm. (Vì người Samaria vẫn nghĩ mình là người ngoài cuộc) người Do Thái được gọi là người trong cuộc cho rằng mình đương nhiên được hưởng. Trái lại, còn người Samaria là người ngoài cuộc nhìn những điều được ban là một ân huệ quá lớn lao đã nhanh chóng quay lại cám ơn.
Tục ngữ Pháp có câu: “Lòng biết ơn là ký ức của tâm hồn”. Hay trong đời sống thường ngày, người ta vẫn hay định nghĩa về người lịch sự là người luôn biết nói câu “xin lỗi” và “cám ơn” trên môi. Làm ơn mà muốn người khác trả ơn cho mình đó chỉ là người bình thường và tầm thường, nếu không muốn nói là xấu, còn tính toán, lộ ra lòng ích kỷ hẹp hòi chưa có tính vị tha. Nhưng khi làm ơn cho người khác mà không cần trả nghĩa thì đó mới là người có tấm lòng đáng qúy, cao thượng.
Khi mang ơn người khác mà biết bày tỏ lòng cám ơn đó là một việc rất quan trọng. Trước tiên điều đó tốt cho ta, vì nhờ biết ơn mà ta nhớ mình còn nợ, còn thiếu người khác. Lòng tri ân tất nhiên cũng tốt cho người làm ơn, vì nhờ nó mà họ thấy được những điều mình làm có giá trị và xứng đáng. Còn đối với Thiên Chúa Ngài cũng không cần lời cám ơn của chúng ta, vì những việc ta làm không đem lại gì cho Ngài. Nhưng chúng ta cần phải cám ơn Thiên Chúa vì đó là bổn phận. tất cả những gì chúng ta đang có ở giấy pháu hiện tại này là do Thiên Chúa. Vì thế trong suốt cuộc đời chúng ta phải là một chuỗi tạ ơn; tạ ơn Chúa đã cho chúng ta cuộc sống hiện tại này, tạ ơn Chúa đã cho chúng con biết Chúa và giữ vững niềm tin vào Ngài. Nhất là tạ ơn Chúa đã cho chúng ta được làm con Chúa.
Lạy Chúa, cảm ta Chúa vì muôn hồng ân mà chúng con đã lãnh nhận. Xin đừng để chúng con trở thành những kẻ vô ơn: vô ơn đối với bản thân, vô ơn đối với tha nhân, và nhất là vô ơn đối với tình yêu của Chúa.
Một trong những câu nói luôn có trên môi của người lịch sự là "cám ơn". Hai tiếng này tuy đơn: TN 28-C90
Một trong những câu nói luôn có trên môi của người lịch sự là "cám ơn". Hai tiếng này tuy đơn giản nhưng mang một ý nghĩa quan trọng. Nó không đơn thuần là phép tắc xã giao mà nó còn là một biểu hiện của đức công bằng. Kẻ chịu ơn biết ơn với người đã làm ơn cho mình.
Có mười người phong hủi đón gặp Chúa Giêsu khi Người đi ngang qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilêa. Chúa Giêsu đã dủ lòng thương chữa cho mười người này được sạch. Tuy vậy, chỉ có một người ngoại giáo trở lại tạ ơn Chúa Giêsu mà thôi.
Chín người kia không biết phép lịch sự hay họ vì quá mừng mà quên luôn việc cám ơn Chúa Giêsu, hay họ không có được thói quen tốt này ? Xem ra thì họ bất nghĩa quá! Dẫu lý do gì thì hành động của họ thiếu lễ phép thật. Đành rằng họ không cám ơn thì bệnh phong không lập tức quay trở lại với họ, hay họ có tạ ơn thì cũng không thêm được gì cho Chúa Giêsu. Nếu có thêm là cho chính họ, họ sẽ xứng đáng hơn để nhận tiếp những ơn khác.
Tiếc cho chín người phong hủi vô ơn, cũng là tiếc cho chính mình. Đã bao lần ta quên tạ ơn Chúa vì những ơn lành Người ban? Chỉ việc Người ban cho ta sự sống và chấp nhận cái chết để cứu chuộc chúng ta cũng đủ để ta tạ ơn mỗi ngày rồi. Tiếp đó là vô ơn đối với cha mẹ, thầy cô, bạn bè, vợ chồng... Đó là những người đã làm ơn cho ta mà cả đời ta có lẽ cũng không trả hết. Thiết tưởng không cần kể ra đây những gì họ đã làm cho chúng ta.
"Làm ơn há để trông người trả ơn" (Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu). Nhưng bổn phận của người chịu ơn, ta phải biết cám ơn. Đó là lẽ công bằng, "hòn đất ném đi, hòn chì ném lại". Biết ơn biểu lộ tâm hồn ta trọng nhân vị của tha nhân. Hơn thế, với Chúa, chính việc tạ ơn của ta là lúc ta tôn vinh Ngài. Chính Chúa Giêsu đã thắc mắc: "Sao không thấy họ trở lại mà tôn vinh Thiên Chúa?" (Lc 17,18). Và Thánh Phêrô đã từng khuyên: "Trong mọi việc chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô" (1 Pr 4,11).
Hãy tạ ơn Chúa trong mọi nơi mọi lúc. Và giờ đây, ơn mà chúng ta cầu xin Chúa không gì khác hơn là xin cho con biết nhận ra ơn Chúa!
Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho mười người: TN 28-C91
Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho mười người phong cùi. Chín trong số mười người phong cùi được chữa lành là người Do thái, chỉ có một người là dân ngoại - người Samaria . Nhưng chính người Samaria này đã nhận ra được tình thương và ân ban nhưng không của Chúa dành cho mình, nên đã vui mừng trở lại để tạ ơn Chúa và nói lên lòng biết ơn chân thành của mình.
Điều gì đã thúc đẩy cho người Samaria dân ngoại này quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa? Lý do chính yếu là vì anh ta nghĩ rằng mình đã nhận lãnh một ân huệ lớn lao mà mình không có quyền đòi hỏi hay dám nghĩ tới. Anh ta tự cho rằng mình là người bất xứng, là người ngoài thì làm sao có thể hưởng nhờ được ân huệ của Thiên Chúa được. Nhưng Thiên Chúa đã làm mọi sự tốt đẹp và bất ngờ cho anh. Chính vì thế mà anh cảm thấy quá hạnh phúc và không gì có thể ngăn cản bước chân anh quay lại để tạ ơn Thiên Chúa và bày tỏ lòng tin yêu vào một vị Thiên Chúa Tình yêu.
Còn 9 người Do thái kia, họ nghĩ rằng mình được Thiên Chúa cứu chữa và ban ơn là điều tất nhiên thôi. Đó là quyền lợi mà họ đáng được hưởng và Thiên Chúa có bổn phận phải cứu chữa và ban ơn cho họ, vì họ là Dân được Thiên Chúa tuyển chọn.
Thật ra, Thiên Chúa không hề mắc nợ ai cả. Thiên Chúa có ban cho ai đó hay dân tộc nào đó ơn này ơn kia là do tình thương nhưng không và do lòng quảng đại của Ngài. Vì “ Ai đã cho Thiên Chúa trước để Ngài phải trả lại sau? Mọi sự đều là của Chúa và do Ngài tạo dựng nên ” . Vì thế, tâm tình xứng hợp khi con người đến với Thiên Chúa và tiếp cận với Ngài là tâm tình tạ ơn, tạ ơn bây giờ và mãi mãi.
Lòng biết ơn nói lên sự trưởng thành nơi con người. Ta hãy nghĩ mà xem: chúng ta được như ngày hôm nay là nhờ biết bao sự giúp đỡ của những người chung quanh ta. Đời chúng ta không gì hơn là một tiếng “ kêu cứu ” không ngừng. Ta đã “ kêu cứu ” ngay từ khi lọt lòng mẹ, và cho tới bây giờ, chúng ta vẫn không ngừng kêu cứu. Ta kêu cứu bác nông dân để có lúa gạo mà dùng; ta kêu cứu thầy thuốc để được chữa trị những căn bệnh hiểm nghèo; ta kêu cứu người kỹ sư để cho ta bóng đèn thắp sáng . . .Và chính Thiên Chúa hiện diện nơi tất cả những người ta kêu cứu để ban cho họ có đủ những khả năng cần thiết tạo ra những điều cần thiết cho cuộc sống của chúng ta.. Vì thế, chúng ta phải: tạ ơn Trời, tạ ơn người và tạ ơn đời đã cho ta được sống và sống đúng với nhân phẩm của một con người và nhất là nhân phẩm của người con cái Thiên Chúa.
Nhưng trong thực tế, có được mấy người trong chúng ta sống tâm tình biết ơn đó? Có mấy người và được mấy lần trong ngày chúng ta cám tạ Chúa đã ban cho chúng ta hơi thở và những hoàn cảnh để chúng ta sinh sống? Bạn hãy cùng tôi sống tâm tình tạ ơn ngay từ bây giờ đi bạn: Tạ ơn Trời, tạ ơn người và tạ ơn đời. Tạ ơn chính là thái độ của một người trưởng thành và biết sống.
Lòng biết ơn còn là cửa ngõ dẫn ta vào biết bao chân trời mới lạ và tốt đẹp. Có lẽ chân trời tốt đẹp nhất trong số đó là Đức tin . Người phong cùi sứ Samaria trong Tin mừng hôm nay nhờ lòng biết ơn của anh đối với Chúa Giêsu mà anh đã được dẫn tới Niềm tin vào Ngài. Để chính nhờ đức tin mà anh được cứu chữa: “ Lòng tin của anh đã cứu chữa anh ” .
Bộ phim “ Bố Chân Dài ” (Daddy Long Legs) kể câu chuyện về một cô gái mồ côi chịu ơn của một người vô danh. Nàng lớn lên từ thưở thiếu thời, qua đến giai đoạn thiếu nữ và trở thành thiếu phụ nhờ vào sự giúp đỡ của một ân nhân bí mật. Nàng cố sức hình dung để biết người ấy là ai, ra sao, nhưng không biết ý nghĩ của nàng về người ấy có đúng không.
Rồi có một ngày , nàng khám phá ra hình tích của vị ân nhân đó và có dịp trực diện tỏ lòng biết ơn về những gì nàng đã nhận được. Câu chuyện đang tiếp diễn thì có lẽ bạn nghĩ thầm: “ tội nghiệp cho nàng thiếu phụ ấy đã đi qua cuộc đời mà không được dịp biết mặt ân nhân của mình để cảm ơn ” .
Chuyện Phim cũng chính là một dụ ngôn của Chúa và mỗi người chúng ta. Thiên Chúa trao cho chúng ta món quà đời sống và vẫn tiếp tục gia ân cho chúng ta suốt cuộc đời. Tiếc thay nhiều người trong chúng ta đi qua cuộc đời mà chưa hề biết cảm tạ Chúa , ngoại trừ vài trường hợp hiếm hoi. Chúng ta đã quá xem thường những ơn ban này.
Khi thi ân gián phúc cho con người, Chúa không cần chúng ta phải nhớ ơn Ngài vì Ngài yêu thương chúng ta, nhưng điều kiện để chúng ta hưởng nhờ hiệu quả của ơn phúc mà Thiên Chúa ban chính là đức tin của chúng ta. Chúng ta cần phải có lòng tin vào Thiên Chúa thì chúng ta mới được cứu chữa và được sống trong Chúa. Lòng tin của người phong cùi không những cứu chữa được thân xác của anh mà còn chữa trị tâm hồn của anh nữa. Để từ đây, anh được sống trong tình yêu của Chúa và được ơn Trời nâng đỡ cho anh. Có lẽ 9 người phong cùi Do thái kia cũng được sạch về thân xác, nhưng họ không nhận được ơn tha thứ cho tâm hồn, vì họ không có tâm tình xứng hợp với Thiên Chúa của họ
Chúng ta có thể nhận ra được điều Chúa muốn dạy chúng ta là: khi cầu xin Chúa điều gì, thì đòi buộc chúng ta phải hết lòng tin yêu và phó thác vào Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Khởi điểm của lòng tin và phó thác vào Thiên Chúa chính là lòng biết ơn Thiên Chúa. Nhìn vào tấm gương của anh cùi sứ Samaria hôm nay, chúng ta phải nỗ lực sống niềm tin của mình: Tin yêu trong cầu nguyện và thực hành niềm tin bằng đời sống vâng phục Thánh ý Thiên Chúa và không ngừng tạ ơn Ngài. Amen.
Là con người, ai cũng sợ bệnh tật. Những căn bệnh có thể chữa trị được dễ dàng, nhưng cũng: TN 28-C92
Là con người, ai cũng sợ bệnh tật. Những căn bệnh có thể chữa trị được dễ dàng, nhưng cũng có những căn bệnh khó chữa trị hơn, như những căn bệnh nan y, mãn tính, … dù tốn nhiều tiền của nhưng không thể chữa trị hết, thậm chí “ tiền mất mà tật vẫn còn mang ” ,
Tin Mừng Lc17,11-19 hôm nay cho thấy vào thời Chúa Giêsu có một thứ bệnh phong cùi, một thứ bệnh đáng ghê sợ nhất cho con người lúc bấy giờ. Vì đối với hoàn cảnh lúc ấy, những ai mắc thứ bệnh này, người ta cho rằng trước tiên là do tội của người đó đã phạm đến Chúa nên đã bị Chúa phạt để cho phải mang bệnh như vậy. Từ cái nhìn trên, người ta cấm không cho ai được giao tiếp, đến gần những người phong cùi. Các người bệnh bị đưa ra một nơi cách xa làng, và bị loại khỏi cộng đoàn xã hội. Nói cách khác, họ bị xã hội bỏ rơi, bị mọi người khinh dễ, xa lánh, trốn chạy. Hoàn cảnh của họ thật thảm thương! Nếu họ chết được thì có lẽ họ đã chết còn hơn là sống.
Trong viễn ảnh đen tối đó, Chúa Kitô đã đến với họ. Ngài quan tâm đến họ. Ngài chữa lành mười người phong cùi. Lòng thương xót của chúa Giêsu thật bao la. Ngài không phân biệt ai dù là ngừơi Do thái hay dân ngoại. Tất cả đều đã gặp nơi Ngài một lương y, một Thầy thuốc tài ba và giàu lòng thương xót. Ngài không chỉ đem lại cho họ niềm tin vào cuộc sống mới mà còn thực sự mang lại cho họ niềm vui giải thoát khi quan tâm và sẳn sàng chữa lành mọi vết thương xác hồn, đã từng xâu xé, dằn vặt mà nó đem lại cho họ biết bao đau khổ.
Hơn nữa, Ngài trả lại cho họ địa vị làm con người và khi đó Ngài truyền cho họ đi trình diện với Thầy tư tế ( Lc17,14 ). Họ đã đi và làm theo lời Chúa bảo. Đây là một bằng chứng xác nhận họ được lành bệnh thật sự, để từ nay họ trở về với đời sống con người, sum họp gia đình và có thể sinh hoạt với cộng đoàn xã hội … Chúa Giêsu đã cải tử hoàn sinh, thắp sáng niềm tin và chỉ ra cho họ một tương lai mới, tươi sáng và hạnh phúc hơn.
Đứng trước tấm lòng xót thương và nhân hậu của Chúa Giêsu, thì một người trong số họ ( Lc 17, 16 ) là người Samaria đã trở lại cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa. Lời cảm tạ và tôn vinh của một kẻ ý thức hồng ân lớn lao đã được ban nhưng không cho mình và Đấng đầy lòng nhân ái đã yêu thương và chữa lành cho mình. Hơn nữa nó còn biểu lộ tâm tình tôn vinh chân thành và đích thực nơi anh ta. Kể từ nay, cuộc đời của anh hoàn toàn mới. Chắc chắn từ nay anh sẽ sống khác hơn trứoc kia, là một người sống tâm tình tạ ơn, anh sẽ gắn liền cuộc đời mình với Chúa Giêsu, Đấng đã tái sinh anh trong tình thương. Anh sẽ dùng thời gian còn lại của cuộc đời mình để tôn vinh Thiên Chúa, và dù không nói ra nhưng chắc chắn anh sẽ xa lánh tội lỗi, sẽ không bao giờ muốn rơi vào tình trạng bi đát như hôm qua.
Chúa Giêsu đã chữa lành cho mười người phong cùi khi xưa và ngày nay Ngài cũng đang thực hiện cho chúng ta một cách cụ thể qua Nhiệm Thể Ngài là Giáo Hội.Tiếp nối công việc mà Chúa Giêsu đã làm, từ lâu có nhiều người trong Giáo Hội đã phục vụ trong các trại phong, nhà thương, trại tế bần … Không muốn dừng lại ở đó, Giáo Hội còn muốn đi xa hơn nữa, thực hiện lệnh truyền của Chúa Giêsu: ra đi rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật nơi tâm hồn nhiều người đang cần, chữa lành cho bao tội nhân, giao hoà họ lại với Chúa, đem họ trở về sống hưởng hạnh phúc trong nhà Thiên Chúa trong tâm tình của người con có hiếu. Tất cả đã được Chúa thứ tha, đón tiếp và chữa trị qua bí tích Rửa Tội và Giải Tội. Hơn nữa, sống trong nhà Chúa, chúng ta còn hạnh phúc được Chúa nuôi dưỡng qua ân sủng của các Bí tích nhất là bí tích Thánh Thể mà ta lảnh nhận chích Chúa Giêsu mỗi ngày qua Thánh Lễ . Chín người kia đâu? Sao không thấy trở lại tôn vinh Thiên Chúa ( Lc 17, 17 ). Thái độ vô ơn của chín người kia là diều đáng trách, không xứng đáng nhận hồng ân từ Đấng đã yêu thương và chữa trị cho mình. Không nhận ra tình thương và hồng ân của Chúa ban, họ sẽ vô tình tiếp tục con đường cũ, để lại một lần nữa mang lên mình căn bệnh đáng ghê tởm kia. Chắc chắn hậu quả sẽ còn tệ hại hơn trước.
Xét mình lại, ít nhiều chúng ta có phần nào đó cũng giống như chín người kia, biết bao lần chúng ta đã được Chúa yêu thương tha thứ, chữa lành. Nhưng rồi từ không ý thức được ơn Chúa, nên chúng ta chưa biết tôn vinh Thiên Chúa bằng tất cả con người của mình, không cộng tác vào ơn thánh Chúa, ta luôn bước đi trong tội lỗi, đắm chìm trong các đam mê dục vọng, và không biết mình đang sa xuống hố sâu của sự chết.
Ứơc gì noi gương người Samaria , chúng ta biết nhìn ra ân huệ và tình thương của Thiên chúa dành cho mình, để chúng ta cảm tạ tri ân thiên Chúa, và bằng tâm tình biết ơn qua việc sống đạo là luôn cộng tác với ơn thánh Chúa, xa lánh tội lỗi. Hơn nữa chúng ta biết bước đi trong ánh sáng của Chúa, sống gắn liền với các Bí tích, và trung thành giữ các giới răn. Đó là cách chúng ta tôn vinh Thiên Chúa cách tốt đẹp nhất mà Ngài muồn chúng ta thực hiện.
Và nên nhớ là, nhận ra mình được Chúa thương, không phải để ta lên mặt, khinh dễ với những ai yếu đuối, tội lỗi. Trái lại chúng ta cũng phải biết yêu thương, thông cảm tha thứ và tìm cách động viên để đưa dẫn họ trở về với ThiênChúa.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết nhận ra tình thương của Chúa để ta sống tâm tình tạ ơn của người con hiếu thảo đối với Thiên chúa và yêu thưong anh em đồng loại. Xin Mẹ Maria dạy chúng con biết sống tâm tình tạ ơn như Mẹ. Amen.
Để chuẩn bị cho Olympic Séoul 1988, ngoài việc khuyên dân chúng hạn chế và bỏ đi món “quốc: TN 28-C93
Để chuẩn bị cho Olympic Séoul 1988, ngoài việc khuyên dân chúng hạn chế và bỏ đi món “quốc hồn quốc túy” là thịt chó, Hàn Quốc đã phải tung ra một chiến dịch văn hoá kéo dài hơn hai năm, từ 1986, để tập cho người dân biết nói hai tiếng “cám ơn”. Một đất nước phát triển phải biết nói lời “cám ơn”. Văn hoá cám ơn ,vì thế,biểu thị cho trình độ văn minh của một dân tộc.
Trong thời Hán Sở tranh hùng, có một nhân vật tên Hàn Tín. Thuở còn hàn vi, Hàn Tín là ngưòi đi câu cá ở các sông rạch đem bán đi để độ nhật qua ngày. Muà Đông rét mưót, Hàn Tín không đi câu đưọc, đói khổ... Bấy giờ, có một bà lão tên Phiếu Mẫu động lòng trước cảnh của chàng trai, kêu chàng đến nhà, nấu cho Hàn Tín cùng ăn. Ông hứa sẽ trả ơn cho Bà khi công thành danh toại. Bà Phiếu Mẫu trả lời:” Ta thấy ngươi đói khát, nên chia sẻ miếng cơm giọt nước với ngươi, chứ đâu cần ngươi sẽ trả ơn sau này. Đàn ông gì như ngươi , tự nuôi thân không nổi thì nói chi đến quyền cao chức trọng sau này”. Hàn Tín hổ thẹn vì lời chê trách, không dám tìm qua nhà Phiếu Mẫu kiếm cơm nữa. Bà già thương người cùng khổ, ngày ngày đem cơm đặt trước căn lều của Hàn Tín. Người trong làng xóm biết chuyện, gọi đó là "Bát cơm Phiếu Mẫu".Về sau, Hàn Tín trở nên vị tướng lãnh lỗi lạc, quyền uy hiển hách, giầu sang phú qúy, nhưng vẫn không quên ơn bà Phiếu Mẫu đã cho mình những bát cơm dưa... Trở về quê,Hàn Tín thân hành đến tận nhà bà Phiếu Mẫu thăm viếng tạ ơn.
Cuối tháng chín năm nay, các nhà khoa học thuộc Viện Carnegie ở Washington, Mỹ, đã phát hiện một hành tinh mới có tên Gliese 581g rất giống trái đất. Theo các nhà khoa học, hành tinh này có kích thước gấp 3-4 lần trái đất và quay quanh một ngôi sao rất gần nó, với quỹ đạo quay nhỏ hơn 37 ngày. Các nhà khoa học cũng khám phá ra rằng trên bề mặt của hành tinh này có nước- dấu vết của sự sống. Đây là hành tinh giống trái đất nhất trong các nghiên cứu từ trước đến nay. Gliese 581g nằm trong chùm sao Libra. Một mặt của hành tinh luôn luôn sáng còn mặt kia thì lại chìm trong bóng tối vĩnh viễn. Ước tính nhiệt độ bề mặt trung bình của hành tinh này là từ -31 đến -12 độ C.Một câu hỏi được đặt ra là liệu chúng ta có thể dùng tàu vũ trụ để bay tới hành tinh 581g hay không. Câu trả lời là: không thể. Hành tinh này nằm cách trái đất khoảng 20,5 năm ánh sáng (tương đương gần 200 ngàn tỉ km). Giả sử chúng ta có tàu vũ trụ bay với vận tốc 100 ngàn km/giờ thì cũng phải mất 2 tỉ giờ (khoảng 228 .000 năm) mới tới nơi. Loài người chưa chế được thiết bị bay với vận tốc 100 ngàn km/giờ và đời người cũng không thể dài 228 ngàn năm. Thế nhưng điều đáng nói là thay vì nhìn những điều kỳ diệu, mà trí khôn con người (khoa học) mới chỉ có thể khám phá - chứ không phải phát minh - một phần hết sức nhỏ nhoi vô nghĩa, để ca ngợi Đấng Tạo Hoá, thì những người vô thần lại nghĩ ngay tới viễn cảnh một ngày nào đó có thể vui sướng hô vang: muôn vật tự sinh và không có Thiên Chúa!.
Không biết cho đến khi chết một cách bí mật (người ta cho là vì ông quá nỗi tiếng), nhà du hành vũ trụ Nga Xô Viết Yuri Gagarine có suy nghĩ về câu nói ngô nghê của ông, khi mới bay đúng một vòng quanh trái đất trong chuyến bay chỉ kéo dài đúng 108 phút: ”tôi đã nhìn khắp nơi mà không thấy Thiên Chúa đâu hết” hay không. Trái ngược với nhà du hành Mỹ Alan Shepard khi vừa ra khỏi bầu khí quyển, nhìn thấy bầu trời chung quanh, nhìn thấy trái đất nhỏ bé xinh đẹp, đã lập tức tuyên xưng: “Tôi tin kính một Thiên Chuá Toàn Năng, Đấng tạo thành trời đất”. Con người thấy mình thật bé nhỏ, tội lỗi, bất xứng với những kỳ công và muôn ơn lành Thiên Chúa nhân từ ban phát. Con người chỉ biết cúi đầu cảm tạ. Vì thế, con người vô ơn là con quái vật đáng tởm nhất. Thực tế chứng minh cho thấy không có gì vô ơn hơn…con ngưòi! Jean de la Fontaine,tác giả thơ ngụ ngôn Pháp, nói: “Nếu phải lên án kết tội tất cả những kẻ vô ơn ở thế gian nầy, thì còn ai để mà tha thứ?”.
Biết ơn thôi, chưa đủ,mà phải tạ ơn,nghĩa là biểu hiện lòng biết ơn qua tâm tình,lời nói và việc làm. Đó là ý nghĩa của Thánh Lễ - hành vi tạ ơn. Cuộc đời con người trên trần gian phải là một bài ca tạ ơn, đối với Chúa, đối với mọi người, cũng có nghĩa là cuộc sống con người là một “thánh lễ”, mà lễ vật dâng chính là những gì Chúa ban,không có chút gì từ hoặc của con người. Bởi vậy, nếu bỏ đi tâm tình biết ơn và hành vi tạ ơn, thì con người chẳng còn gì nữa. Không có lòng biết ơn, con người nên ích kỷ và kiêu ngạo: Luxifer đã vì vô ơn, mà muốn “được ngang với Thượng Đế”. Y đã phải chịu phạt muôn đời. Và từ đó, y tìm mọi cách để làm cho loài người ra vô ơn: Adong và Evà đã quên đi mọi ơn lành của Thiên Chúa, nghi ngờ lòng nhân từ vô biên của Người và đã bắt chước sự vô ơn của Satan. Sống trong sự tri ân, loài người có tất cả. Sống trong vô ơn, con người mất tất cả . Con người phạm tội và mất sự sống vĩnh cửu. Tội lỗi,tiên vàn, là sự vô ơn và phản bội, nghe theo cám dỗ của ma qủy và phủ nhận tình thương và ân sủng hải hà của Thiên Chúa,và xa hơn nữa, muốn “ngang bằng với Thiên Chúa”. Do đó, sống thánh,nên thánh, tức là sống tâm tình và hành vi tạ ơn trọn vẹn từng phút giây. Hành vi tạ ơn nầy được biểu lộ không chỉ với Thiên Chúa, mà với tất cả mọi người. Chúng ta mang nợ Chúa và mang nợ mọi người, không phải chỉ khi chúng ta được người khác giúp đỡ một việc gì, mà cả khi chúng ta thụ hưởng những của cải vật chất và tinh thần, bởi vì chúng ta đang hưởng phần của người khác, có thể kém may mắn hơn chúng ta. Đó là những nén bạc Chúa giao nhiều hơn cho chúng ta và giao ít hơn cho anh em khác. Người vô ơn chính là những kẻ cho mình quyền “ăn trên ngồi trốc”, bo bo hưởng thụ mà không nhớ đến người khác. Bác ái, vì thế, là thái độ và hành vi của những người biết ơn Thiên Chúa, biết ơn tha nhân, nhất là những người nghèo đói bất hạnh, để đem chia sẻ tấm lòng và ít nhiều của cải vật chất theo khả năng (bởi đó, không có chuyện “làm phúc bố thí”, mà là “chia sẻ”). Phục vụ cũng chính là biểu hiện lòng biết ơn, vì khi phục vụ tha nhân, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn của chúng ta đối với Thiên Chúa, qua những con người ấy. Chúng ta chỉ trả một phần lãi từ những nén bạc Chúa giao mà thôi.
“..Chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa,mà chỉ có người ngoại bang nầy?” (Lc 17,18). Tâm tình biết ơn và hành vi tạ ơn không phải bẩm sinh, mà do giáo dục và gương sáng từ gia đình, từ người lớn. Dạy Giáo Lý chính là dạy người ta làm những con người sống có chung có thủy, hằng ngày hằng giờ nhớ đến tình thương vô biên và những ơn lành Chúa ban, và tìm mọi cách để thể hiện lòng biết ơn ấy, mà trước nhất là sống xứng đáng với những ân huệ ấy và cho mọi người nhận biết tình yêu Thiên Chúa. Không khó để nhận ra Kitô hữu thuộc nhóm “chín người” trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta coi ân huệ là chuyện đương nhiên. Chúng ta coi đó là những điều kiện để làm Kitô hữu, nghĩa là chúng ta làm ơn cho Chúa và Giáo Hội. Việc đạo đức, tôn thờ Chúa qua phụng vụ, qua cầu nguyện, qua chuỗi hạt Mân Côi, cũng là những hình thức “làm ơn” cho Chúa và Giáo Hội! Không lạ gì khi làm được chút gì – như đi dự lễ, đọc kinh, làm việc từ thiện – chúng ta thấy mình vĩ đại,đầy công đức và muốn Chúa phải ghi ơn và trả công.
Kinh Magnificat của Mẹ Maria là một lời tạ ơn đẹp nhất loài người dâng lên Chúa. Xin Mẹ Maria trong tháng Mân Côi nầy, dạy chúng con biết sống tâm tình biết ơn đối với Chúa và từng giây phút cuộc đời, biết thể hiện qua hành vi tạ ơn, không phải để được lên thiên đàng, mà chỉ vì cảm mến trước tình yêu vô biên và muôn vàn ân phúc Chúa đã khấng ban, mà ơn cao trọng nhất là nhập thể và cứu chuộc chúng con, trả lại cho chúng con con người sống ơn nghĩa mật thiết với Chúa: con người biết ơn và đền đáp công ơn!
Trong một thị trấn kia, sáng dậy, dân chúng ngạc nhiên thấy một tấm bảng ghi “Thượng Ðế đã chết: TN 28-C94
Trong một thị trấn kia, sáng dậy, dân chúng ngạc nhiên thấy một tấm bảng ghi “Thượng Ðế đã chết. Ký tên: Nietzche.” Hôm sau, dân chúng còn sững sờ hơn nữa khi một bảng mới xuất hiện ngay bên cạnh: “Nietzche đã chết. Ký tên: Thượng Ðế.”
Một giai thoại vắn gọn, nhưng cũng đủ nói lên tình trạng mâu thuẫn trước một thực tại lớn lao giữa Thiên Chúa và con người. Không tin Thiên Chúa, con người làm được gì ? Lằn ranh rất rõ giữa vô thần và hữu thần. Nhưng liệu giữa những người hữu thần, có vấn đề gì không ? Ðâu là khác biệt giữa những người cùng tin Thiên Chúa ?
TÍN NGƯỠNG HAY TÔN GIÁO
Vấn đề đức tin nổi cộm trong phép lạ Chúa cứu mười người phong cùi hôm nay. Cuối câu truyện, thánh Luca ghi lại vắn tắt lời Chúa: “Ðức tin của con đã cứu con !” (Lc 17:19) Chúa quả quyết về quyền năng của lòng tin, đồng thời ca ngợi người phong cùi Samaria. Nhưng phải chăng trong số mười người, chỉ có người này mới có đức tin ?
Thực tế, cả mười người đều có đức tin. Nếu không, họ đã không đồng thanh kêu lên: “Lạy con vua Ðavít, xin thương xót chúng tôi !” (Lc 17:11) Ðức tin của họ tỏ ra mãnh liệt khi tất cả đều vâng lời Chúa đi trình diện các tư tế. Nếu không có đức tin, chắc chắn họ đã không đón nhận phép lạ từ quyền năng Thiên Chúa. Thế nhưng, tại sao Chúa chỉ ca ngợi đức tin của người Samaria ?
Chính tại đây, chúng ta mới thấy rõ sự khác biệt giữa những người tin. Ðức tin của chín người kia dừng lại ở biên giới trần gian. Họ đặt hy vọng vào Chúa trong những nhu cầu trần thế. Họ kêu cầu Chúa khi cần. Chúa trở thành một nhu cầu cho những người tin bằng một con mắt trần tục. Khi cuộc sống không còn thiếu thốn nữa, Thiên Chúa trở thành một thứ xa xỉ phẩm hay như một thứ thuốc phiện ru ngủ quần chúng.
Trái lại, dù khi đã được hoàn lại đầy đủ khả năng và quyền làm người, người Samaria vẫn trở lại tạ ơn Chúa. Không những ông thấy điểm nối kết giữa quyền năng Thiên Chúa và việc chữa bệnh của Chúa Giêsu, nhưng còn thấy cần thờ phượng Thiên Chúa ngay giữa lúc hạnh phúc. Quả thế, cảm tạ là đỉnh cao trong việc thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có một đức tin trọn vẹn mới đẩy con người lên đỉnh cao như thế. Ðức tin của ông đã vượt qua những nhu cầu vật chất. Chúa không phải là một thủ kho, chỉ biết phân phát thực phẩm. Ông đến với Chúa không phải chỉ để cầu xin cho khỏi bệnh tật, nhưng còn để thỏa mãn nhu cầu tôn giáo trong ông. Chỉ những ai “thờ phượng Thiên Chúa trong Thần khí và sự thật” mới đạt tới đỉnh cao như thế. Quả thực, cả cuộc đời Chúa Giêsu cũng chỉ là một lời cảm tạ Thiên Chúa Cha không ngừng.
Trong số những người tin Thiên Chúa, hỏi mấy ai được như người Samaria ? Mấy ai có một niềm tin trọn vẹn và siêu thoát như ông ? Ông là số ít còn sót trong nhân loại vươn tới đỉnh cao niềm tin vào Thiên Chúa. Bao giờ cũng chỉ là số ít. Chúa Giêsu muốn chúng ta nhìn vào phẩm chất của đức tin hơn số lượng người tín hữu tập trung trong nhà thờ hay nối đuôi nhau trong các cuộc rước kiệu. Khi đạt tới đỉnh cao như thế, đức tin trở thành một sức mạnh giải thoát toàn diện, cả linh hồn lẫn thể xác. Ðó là lý do tại sao Chúa ca ngợi lòng tin của người Samaria. Chỉ có đức tin như thế mới là đức tin đầy quyền năng thực sự. Ðức tin sâu xa và trọn vẹn không những đã biến đổi con người, nhưng còn cả cuộc đời ông. Chín người kia trở về cuộc sống tầm thường. Không có gì thay đổi sâu xa. Nhưng nơi ông, một cuộc biến đổi vô cùng lớn lao tận trong thâm tâm và lan tỏa cuộc sống. Từ nay, ông trở thành người rao giảng đức tin bằng tiếng ca ngợi Chúa không ngừng. Một lời cảm tạ mạnh hơn ngàn lời cầu xin. Cầu xin là dấu chứng tỏ một tâm hồn còn yếu đuối, chưa vươn tới mức trưởng thành. Vì sợ hãi, con người mới phải cầu xin một thần lực mạnh hơn mình. Ðó là lý do tại sao những người vô thần chủ trương tôn giáo phát sinh từ sự sợ hãi.
Ðứng trước cảnh người Samaria phủ phục dưới chân Chúa mà dâng lời cảm tạ, người vô thần có lẽ sẽ thấy rõ vấn đề họ đặt ra cho tôn giáo không còn đứng vững nữa. Lập luận của họ chỉ đúng cho chín người không trở lại tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa. Khi không còn cơn bệnh hoành hành và tác hại, chín người đó đã thoát cơn sợ hãi và không còn cảm thấy cần phải tin nữa. Tôn giáo cũng không còn là một nhu cầu trong cuộc sống. Trái lại, người Samaria vẫn cho thấy tôn giáo là một nhu cầu tâm linh thực sự của một con người trưởng thành. Tôn giáo đem lại ích lợi vì làm cho con người trở thành người thực sự. Tôn giáo mới nắm bắt trọn vẹn thực tại con người và giúp họ đạt tới chiều kích sung mãn về nhân vị. Quả thế, “chính Thiên Chúa chỉ cho nhân loại biết con đường, để khi phụng thờ Người, con người có thể được cứu rỗi và hạnh phúc trong Chúa Kitô.”[1]
QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO
Tự bản chất, con người hướng về chân lý, nhất là chân lý về tôn giáo. Khi đã tìm thấy chân lý, họ có bổn phận tin theo những điều đã nhận biết và sống theo những đòi hỏi của chân lý. Người Samaria là một chứng minh hùng hồn cho thực tế đó. Tôn giáo phải có một địa vị rõ ràng trong đời sống cá nhân và xã hội. Phủ nhận hay dẹp bỏ tôn giáo, con người và xã hội không thể đạt tới sự phát triển và tiến bộ đích thực. Thực tế, “‘quyền tự do cá nhân và đoàn thể trong các lãnh vực tôn giáo là quyền tự do xã hội và dân sự. Không ai được đặt ngăn trở nào trên con đường thực thi quyền tự do đó theo ý Thiên Chúa đã khắc sâu vào lòng người, vì ‘sự thật chỉ thể áp đặt bằng sức mạnh của chính mình.’[2] Phẩm giá con người và chính bản chất việc tìm kiếm Thiên Chúa đòi hỏi mọi người không thể bị bất cứ thứ gì ràng buộc trong lãnh vực tôn giáo. Xã hội và Nhà nước không được ép buộc con người hành động trái với lương tâm hay ngăn cản họ hành động theo lương tâm.”[3]
Tự bản chất, con người là một hữu thể tôn giáo. Loại bỏ tôn giáo, con người chỉ còn hiện diện như cỏ cây và súc vật. Khi không còn được tự do sống đạo, con người bị tước đoạt quyền tự do cơ bản, cao cả và lớn lao nhất. Bởi vậy, “quyền tự do tôn giáo phải được nhìn nhận trong hệ thống pháp luật và coi như một quyền dân sự,”[4] chứ không phải là một thứ ân huệ của Nhà nước. Nhà nước có bổn phận bảo vệ và tôn trọng quyền tự do đó. Nếu không, xã hội không thể đạt tới công ích và sống trong trật tự hòa bình. Quả thế, “tự do cá nhân và cộng đoàn trong việc tuyên xưng và thực thi tôn giáo là một yếu tố then chốt giúp con người sống chung hòa bình.”[5] “Không có tôn giáo, nhân loại không thể sống chung trong trật tự và công lý đích thực, cũng như không thể giữ cho mọi người sống đạo đức.[6] Chỉ có tôn giáo mới giúp con người sống theo lương tâm, một lãnh vực Nhà Nước không thể kiểm soát. Khi không thể kiểm soát, Nhà Nước tạo ra rất nhiều lỗ hổng và lối thoát cho đủ mọi thứ tội phạm. Công lý không thể thiết lập. Hòa bình bị đe dọa trầm trọng. Xã hội không bao giờ ổn định.
Tình trạng càng thêm khó khăn khi nhân loại bước sang thời kỳ toàn cầu hóa. “Ðể có tình liên đới tương xứng trong thời kỳ toàn cầu hóa, mọi người phải bảo vệ nhân quyền.”[7] Không liên đới, không thể tạo nổi sức mạnh toàn cầu và không đủ điều kiện cần thiết cho việc hội nhập. Thực tế, “chúng ta đang chứng kiến một khoảng cách đáng báo động giữa nhiều ‘qưyền’ mới được cổ xúy trong các nước tiên tiến và các quyền làm người căn bản vẫn chưa được tôn trọng, nhất là trong hoàn cảnh các nước kém phát triển,”[8] như Việt Nam. Bởi đấy, muốn phát triển, trước hết cần cải tiến tình trạng nhân quyền, nhất là tôn trọng tự do tôn giáo. Không có nhân quyền, không thể thoát khỏi tình trạng chậm tiến và lạc hậu.
ÐỨC TIN TRONG THỜI KỲ TOÀN CẦU HÓA
Ðâu là thái độ GHVN cần phải có để giúp cho Việt nam chóng hội nhập với thế giới ? Trước hết, cần liên đới với các tôn giáo bạn và những người thiện chí trong việc tranh đấu cho công lý. Về mặt xã hội cần sát cánh tranh đấu cho tự do tôn giáo. Nếu chỉ biết vơ vào cho mình đủ mọi thứ đặc quyền, không những chúng ta sa bẫy trần gian mà còn bị các tôn giáo bạn đánh giá thấp.
Hơn nữa, cần đẩy mạnh và đào sâu đời sống đức tin hơn nữa. Canh tân não trạng, và lối sống, nhất là phương cách lãnh đạo, là những việc làm khẩn thiết. “Cần đổi mới ý thức về những đòi hỏi Tin Mừng, Giáo hội mới phục vụ mọi người, giúp họ nắm bắt những vấn đề nghiêm trọng trong mọi chiều kích, và thuyết phục họ tin rằng sự liên đới trong hành động trong thời điểm xoay chuyển lịch sử nhân loại này là một vấn đề khẩn thiết.”[9] Giáo hội nhắc nhở: “Hoàn cảnh hôm nay càng cho thấy phải cấp bách đào luyện giáo hữu về giáo lý, không phải chỉ để cho họ hiểu biết hơn theo đòi hỏi tự nhiên của đức tin, nhưng còn khiến họ ‘thấy lý do tại sao phải hy vọng’ khi nhìn vào thế giới và những vấn đề nghiêm trọng và phức tạp của nó ... Ðiều đó càng đúng đặc biệt đối với các tín hữu đang nắm trọng trách trong những lãnh vực khác nhau trong xã hội và cuộc sống quần chúng. Trên hết, họ cần phải có sự hiểu biết chính xác hơn, để có thể trình bày học thuyết xã hội của Giáo hội một cách rộng rãi và rõ ràng hơn.”[10] Ðặc biệt, trong thời kỳ toàn cầu hóa cần gấp rút đào luyện giáo hữu sống theo tình liên đới, thành thật và lương tâm trách nhiệm. Biết bao hàng hóa đã bị các nước trả lại chỉ vì thiếu tiêu chuẩn. Thói quen gian dối đã gây thiệt hại khôn lường.
Trong cuộc sống Giáo hội, cũng nên bớt đi những việc xây cất có tính cách phô trương hay lưu danh muôn thuở. Xây cất theo kiểu này không những làm cho Giáo hội bị mang tiếng, nhưng còn làm cho quốc tế ngộ nhận về tình trạng tự do tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam. Vô tình đồng tiền hải ngoại đã góp phần vào việc phô trương thanh thế và củng cố chế độ hiện tại. Các vị lãnh đạo đừng ngộ nhận về các cộng đoàn Công giáo hải ngoại qua những bài viết hay các thái độ chống đối. Cộng đoàn hải ngoại không bao giờ quên nguồn gốc và tỏ ra bất kính đối với những vị lãnh đạo GHVN. Nếu thực tình ngoảnh mặt làm ngơ trước những sinh hoạt của Giáo hội quê nhà, cộng đoàn hải ngoại không bao giờ đóng góp ý kiến. Tất cả chỉ vì muốn các vị lãnh đạo hãy thực tế và biết lắng nghe. Không phải mọi giám mục hay linh mục đều bị chống đối. Nhưng những con sâu làm rầu nồi canh không nên tiếp tục hiện hữu.
Cứ tiếp tục sống quan liêu, liệu GHVN có đủ khả năng canh tân để chống lại những tiêu cực trong hoàn cảnh hôm nay không ? Quả thực, theo thánh ý Thiên Chúa và “được Giáo hội khuyến khích, đời sống Kitô hữu phải chống lại mọi cội nguồn lừa đảo, gây ô nhiễm hay giới hạn tự do của họ.”[11] Thái độ thiếu nhất quán trong đời sống là một ngăn trở lớn lao nhất cho chứng từ Kitô. Nhiều người không thể chấp nhận Tin Mừng chỉ vì nhìn thấy những phản chứng tệ hại này. Ở nhà thì sống như một lãnh chúa, đầy kẻ hầu người hạ trong dinh thự nguy nga. Ra ngoài thì ra vẻ tội nghiệp như một “giám mục ăn xin.” Nhất là không nên có thái độ thiếu thành thực. Cần tôn trọng lời hứa. Không nên mượn đầu heo nấu cháo. Cần chú trọng đến thái độ tín ngưỡng hơn là thói quen tôn giáo.
Nhìn lại người Samaria, chúng ta phải khâm phục thái độ biết điều của ông. Chúa không hề bó buộc ông phải trở lại cảm tạ Chúa. Ông đã tuân hành lệnh trình diện tư tế như chín người bạn kia. Ðó là một thái độ tôn giáo rất đáng khen. Nhưng vượt lên đồng bạn, ông đã có một thái độ tín ngưỡng sâu xa. Ông sống theo tiếng lương tâm và nhìn thấy con đường mình phải đi tới, dù phải chấp nhận cô đơn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con một niềm tin sâu xa như người Samaria để có thể biến cả cuộc đời thành một lời cảm tạ và phục vụ không ngừng cho công cuộc cứu độ và hạnh phúc nhân loại. Amen.
đỗ lực 14.10.2007
[1] Dignitatis Humanae [2] Hiến Chế Dignitatis Humanae, 1:AAS 58 (1966), 929. [3] Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội, 421. [4] x. Hiến Chế Dignitatis Humanae, 1:AAS 58 (1966), 930-931; Giáo lý Công giáo, 2108. [5] Sứ Ðiệp Ngày Hòa Bình Thế giới, 1988, 1. [6] ibid. [7] Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội, 365. [8] ibid. [9] Octogesima Adveniens, 5. [10] Christifideles Laici, 60. [11] Ecclesiam Suam, 42.
Lòng biết ơn biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn của mọi sự. Biết ơn là một: TN 28-C95
Lòng biết ơn biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn của mọi sự. Biết ơn là một trong những đức tính tốt đẹp của con người đối với Đấng Tạo Hoá. Vì Ngài đã ban muôn vàn phúc lộc cho chúng ta: từ không khí để ta hít thở, mặt trời để soi sáng ta, cho nước để ta uống, cho muôn loài muôn vật để ta sử dụng và làm thức ăn. Ngài luôn quan phòng, giữ gìn ta trong mọi nơi, mọi lúc… Thiên Chúa còn ban cho ta biết bao điều cao cả qua cha mẹ, qua anh chị, qua thầy cô, qua bạn hữu, qua tất cả những người đã giúp đỡ và làm ơn cho ta… Thể hiện lòng biết ơn là một nghĩa vụ hàng đầu trong cuộc sống con người.
Tạ ơn là tâm tình của Chúa Giêsu, của Mẹ Maria, và của các tông đồ, tâm tình đó đã lấp đầy những trang Tin Mừng.
Chúa Giêsu luôn là mẫu mực của lòng tri ân. Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một bài ca tạ ơn liên lỉ dâng lên Thiên Chúa: Ngài tạ ơn Chúa Cha trước khi hồi sinh Ladarô, Ngài tạ ơn Chúa Cha khi nhân bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Khi lập bí tích Thánh Thể, Ngài đã cầm bánh và rượu dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Chính vì thế, Chúa Giêsu rất coi trọng lòng biết ơn trong cuộc sống của con người.
Hôm nay, Thánh Luca nhắc cho ta nhớ lại phép lạ Chúa Giêsu chữa lành mười người phong hủi, tất cả đều được khỏi bệnh. Nhưng chỉ có một người đến tạ ơn và ca tụng Thiên Chúa. Chúa Giêsu không khỏi buồn lòng trước sự vô ơn của con người, nên Ngài đã thốt lên: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”? (Lc 17, 17-18).
Lời kinh “Magnificat” là lời tạ ơn trọn hảo của Đức Maria dâng lên Thiên Chúa. Đây cũng là lời kinh ca ngợi đẹp lòng Thiên Chúa “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi…” (Lc 1, 47-56).
Trong các thư của Thánh Phaolô, thánh nhân cũng nhấn mạnh đến lời tạ ơn. Hơn nữa, ngài luôn sống trong tâm tình tạ ơn. Ngài nói: “Tôi luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa” (Plm 1, 4). Ngài còn nhắc nhở mọi người “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn” (1 Tx 5, 18).
“Cảm ơn” là tỏ lòng biết ơn với người đã làm điều tốt cho mình. Mỗi khi ta nhận được một ơn huệ gì, thì ta phải biết tạ ơn Chúa và cảm ơn những người làm ơn cho ta. “Cảm ơn” ấy là hai từ mà ta vẫn nói hàng ngày. “Cảm ơn”, lời nói cửa miệng tưởng như có thể nói với bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào, nhưng nhiều khi ta không biết nói lời cảm ơn.
Trong câu chuyện Lamartine đã kể lại một giấc mơ có nội dung như sau: lần kia có người thợ giày đến nói với ông: “Từ nay xin ông tự đóng lấy giày mà đi”. Kế đó, người thợ bánh mì cũng đến nói với ông: “Tôi nghĩ đã đến lúc ông hãy tự làm bánh mì mà ăn”. Sau đó, người bán thịt cũng lên tiếng: “Tôi cũng nghĩ ông hãy nuôi heo giết lấy thịt mà ăn”. Ngay cả người giúp việc cho ông cũng thưa: “Từ nay xin ông tự dọn bữa, quét nhà, giặt quần áo, tôi xin nghỉ việc”. Khi ông hỏi lý do thì mọi người đều nói, vì ông đã nhận được rất nhiều điều mọi người đã phục vụ ông, mà không bao giờ ông biết nói lời “cảm ơn”. Lamartine sợ toát mồ hôi và kêu lên: “Trời ơi! Nếu mọi người đều nghỉ việc thì tôi chết mất”. Chính lúc đó ông tỉnh giấc, sực nhớ đây chỉ là một giấc chiêm bao, ông vô cùng mừng rỡ. Dù sao giấc mơ cũng là một lời nhắc nhở cho ông rằng, tất cả những điều ông nhận được đều là “hồng ân”, tất cả mọi người đều là “ân nhân” của ông. Ông đã mắc mợ mọi người. Ông đã hiểu ra rằng “người không biết cảm ơn thì không đáng được nhận ơn”. Vì vậy, ông luôn phải biết cảm ơn mọi người về những gì họ đã làm cho ông.
Trong xã hội ngày nay, con số những người biết ơn Chúa, tôn thờ Chúa, vẫn còn là một con số rất khiêm tốn. Còn những kẻ vô ơn thì nhiều vô kể. Chúa luôn ban ơn cho người lành cũng như kẻ dữ, cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Thế mà con người ngày càng kiêu ngạo, vô ơn đã loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Hỏi rằng trong chúng ta có mấy người biết cảm tạ Chúa và cảm ơn anh em? Biết bao nhiêu lần chúng ta than vãn, kêu la, trách móc hết việc này đến việc khác, hết người này đến người kia, Hơn thế nữa, nhiều người còn oán trách cả Thiên Chúa. Vậy, Lời Chúa hôm nay dạy mỗi người chúng ta hãy biết nói lời cảm ơn từ những chuyện nhỏ nhất, bởi vì chúng ta đã nhận được biết bao nhiêu hồng ân Chúa ban cho ta qua vũ trụ vạn vật, qua mọi người trên trái đất này và nhất là qua những người thân cận, những người xung quanh ta.
Lạy Chúa, chúng con đã lãnh nhận biết bao hồng ân mà Chúa đã ban cho chúng con, vì “tất cả đều là hồng ân của Chúa”. Chúng con được biết Chúa, gần Chúa, được Chúa dạy dỗ. Đáng lẽ chúng con phải biết cảm ơn Chúa nhiều hơn. Nhưng chúng con lại là những kẻ vong ân bội nghĩa, chỉ biết nhận ơn mà không biết cảm ơn. Xin cho chúng con có lòng biết ơn, để chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh.
Đứa con trai hai tuổi của cháu gái tôi thèm ăn bánh ngọt. Nó nói với mẹ: “Má, bánh ngọt”. Mẹ nó trả: TN 28-C96
Đứa con trai hai tuổi của cháu gái tôi thèm ăn bánh ngọt. Nó nói với mẹ: “Má, bánh ngọt”. Mẹ nó trả lời: “Thế còn lời lịch sự con nói sao là?” Đứa trẻ thưa ngay: “Làm ơn”. Sau khi đã trao cho con chiếc bánh, cháu tôi thêm: “Gì nữa nào?” đứa bé hai tuổi mừng rỡ buông miệng: “Cám ơn má”. phải chăng câu chuyện trên là đường lối thông thường dạy trẻ con học lịch sự? Chúng ta dạy nó biểu lộ yêu cầu và tỏ lòng biết ơn bằng những từ ngữ lễ phép. Các cụ ngày xưa đã chả¨ng từng đặt ra thành ngữ “tiên học lễ, hậu học văn” để dạy con cháu muôn thuở biết ăn ở ngoan ngoãn. Bởi nó là niềm vui cho gia đình. Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay khen ngợi người Samaritanô phong cùi cũng là vì anh ta lịch sư. Khi thấy mình được sạch thì anh ta quay lại cảm ơn Chúa Giêsu. Thánh Luca kí thuật: “Đang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn”. Tôi nghĩ câu chuyện còn súc tích hơn nhiều, chứ chẳng phải đơn giản là lịch sự. Cử chỉ của anh ta bao gồm lòng biết ơn sâu xa và lòng cảm tạ chân thành. Nó diễn tả cuộc đời anh như nạn nhân của bệnh tật và thái độ kinh tởm của xã hội.
Trong văn hoá Do Thái, cùi hủi là tên chung cho mọi bệnh ngoài da. Nhưng theo khoa học ngày nay, chỉ số ít là thực sự có vi trùng hausen, vi trùng cùi, nó ăn mòn da thịt con người, còn phần đông là bệnh ngoài da khác, như ban sởi, lở loét chẳng hạn. Nhưng đối với người Do Thái khi da thịt nổi mụn nhọt thì lập tức được gọi là cùi hủi. Nạn nhân bị cách ly khỏi xã hội. Sách Lêvi ký ghi: “Nếu nhọt ở vết thương, có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu, hoặc trán thì người ấy bị phong hủi. Tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế, người phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên ô uế, ô uế. Bao lâu còn mắc bệnh thì nói ô uế, nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên lều ngoài trại” (13-14). Như vậy về mặt xã hội và tôn giáo, người củi hủi hoàn toàn bị cách ly. Thường thường khi nạn nhân ngã bệnh nặng, thân nhân mới được thăm viếng. Thuốc men thì trong tay các thầy lang chuyên biệt. Họ chữa trị và làm giảm đau. Nếu không qua khỏi được, thì chỉ ít sự hiện diện của thân nhân cũng góp phần an ủi bệnh nhân.
Chúng ta thử tưởng tượng trường hợp của ông Naaman, người Siria trong bài đọc thứ nhất. Mặc dù là người giầu có và ảnh hưởng nơi triều đình, nhưng hiệu quả căn bệnh phong cùi trên cuộc đời ông thật nặng nề. Ông phải kinh nghiệm sự cô đơn và những cái nhìn tẩy chay của bề tôi đến nỗi phải nhờ một thầy lang ngoại bang cứu chữa. Số phận của 10 người phong cùi của Tin Mừng hôm nay thảm hại hơn. Chắc chắn họ không thuộc hạng giàu sang quyền quý, họ chỉ là một nhóm ngoài lề khốn khổ. Họ họp lại với nhau vì bệnh tật và nghèo đói. Căn bệnh khủng khiếp đã hoá giải mọi ghen tị, hận thù nòi giống, tôn giáo và thúc đẩy họ trở thành thân thiết, bạn hữu với nhau trong nỗi đau khổ chung. Họ không còn là cá nhân, có tên riêng, màu da, tếng nói riêng, tổ quốc riêng mà là một loại người có biệt hiệu “mười kẻ phong cùi”. Số phận họ cực kỳ khốn đốn: Làm thế nào có của ăn, áo mặc? Làm thế nào có phương tiện sống? Làm thế nào cho hết nỗi cô đơn, bởi lẽ trong xã hội không ai dám tiến đến gần những kẻ ấy. Hơn nữa người ta còn coi họ là những tội nhân. Nghi ngờ họ đã phạm những lỗi lầm ghê tởm đến nỗi Thiên Chúa phải phạt họ mang bệnh phong cùi. Ai sẽ thương xót họ? Ai sẽ đủ can đảm đến cứu giúp họ? Thánh Luca kể: Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilêa. Lúc người vào một làng kia, thì có 10 người phong hủi đón gặp người. Họ dừng lại đàng xa và kêu lớn tiên: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi”. Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế”, đang khi họ đi thì đi thì được sạch. Đức Giêsu đã chú ý đến thân phận họ. Người muốn cho họ được lành, làm chiếc cầu nối nhịp giữa họ và xã hội. Trả lại niềm vui nhân phẩm và danh dự cho họ. Họ sẽ được sống giữa bà con, thân thuộc, xóm làng, sẽ được bước lên Đền thánh Thiên Chúa dâng lời tạ ơn chúc tụng! Thánh Luca đặt trên môi miệng các người phong cùi danh xưng “Lạy Thầy Giêsu” để gọi Chúa Giêsu. Từ này các môn đệ thường dùng ý hẳn thánh nhân muốn gợi lên cho độc giả hay phần họ, họ đã có đức tin vào Chúa Giêsu và đã tỏ lộ đức tin ấy khi vâng lời Thầy đi trình diện cùng tư tế, mặc dù chưa cảm nghiệm sự chữa lành tức thời nơi thân thể mình.
Trong quá trình sống, 10 người phong cùi đã từng được nghe về Chúa Giêsu và quyền năng chữa lành của Ngài. Họ hằng khao khát được gặp Ngài và dịp may đã tới. Không bỏ lỡ cơ hội, họ kéo nhau ra đón Ngài và tin tưởng vào lòng tốt của Ngài, một thầy thuốc cao tay, đi gieo vãi tình thương khắp nơi. Ngày nay trong thời đại tân thời chúng ta cũng có lòng tin vào thuốc men. Ví dụ khi có một căn bệnh nào đó, chúng ta ngoan ngoãn theo chỉ dẫn của một bác sĩ, uống thuốc trong một thời gian nhất định, bụng bảo dạ mình sẽ được phục hồi sức khoẻ. Tuy nhiên, khi bệnh hết chúng ta không thực hiện như người Samitanô, trở lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa và “sấp mình dưới chân bác sỹ mà tạ ơn”. Vậy thì người Samitanô phải cảm nghiệm được điều chi khác thường trong tâm hồn mình. Ông đã được Thương đế ban ơn để nhận ra rằng việc chữa lành của mình là một phép lạ từ tay Thiên Chúa nhân lành đầy mến yêu và Đức Giêsu là máng chuyển ơn lành đó. Thiên chúa đã xót thương và bao bọc ông, cho nên ông cảm thấy bó buộc phải lớn tiếng cao danh Ngài và phủ phục dươới chân Chúa mà tạ ơn. Suy rộng ra giáo xứ chúng ta, mỗi cuộc đời người tín hữu, cũng hằng được Đức Chúa Trời ban ơn như vậy. Chúng ta đã phạm tội, mắc bệnh phong cùi về đời sống thiêng liêng. Nhưng hằng được chữa lành và tha thứ nhờ thần khí Chúa ngự giữa và hoạt động trong chúng ta. Cho nên hằng ngày và từng giây phút phải lớn tiếng ca ngợi Thiên Chúa và tạ ơn Chúa Giêsu, giống như người Samari. Thực tế thì chúng ta chỉ biết thụ ơn và rất hà tiện lời cảm ơn, rồi viện ra trăm ngàn lý do để tự biện minh: nào là công tác xã hội, hành trình bác ái, sức khoẻ, mệt mỏi, nghỉ ngơi, tin tức, giải trí…
Thời Chúa giêsu, não trạng liên kết bệnh tật, nghèo đói với tội lỗi rất nặng nề. Người phong cùi và kẻ tội lỗi là một. Nghèo dđói, bệnh tật là vì đã phạm tội chống lại lề luật và Giavê. Cho nên việc chữa lành có hậu quả lớn hơn việc khỏi bệnh của chúng ta ngày nay. Nạn nhân không những được phục hồi phần xác, mà còn được giải phóng về mặt tôn giáo, xã hội. Sau các nghi thức thanh tẩy, họ sẽ sống tự do với gia đình, bạn bè và được lui tới những nơi thờ phượng. Đối với người Samaritanô vẫn bị coi là lạc giáo, không còn liên lạc với đền thờ, cho nên ông không có tư tế để trình diện, ông phải quay lại với Chúa Giêsu như đền thờ của Thiên Chúa mà lớn tiếng ngợi khen Ngài. Đây là điểm chúng ta cần suy nghĩ. bởi lẽ chúng ta thường có khuynh hướng bảo thủ, khép kín, tẩy chay. Không coông nhận những ơn lành Chúa ban cho kẻ khác. Độc tôn trong đạo mình. Chúng ta mù loà ương ngạnh trong quan điểm tôn giáo, xã hội. Không thấy những đổi thay trên thế gian, nhất là về đành thiêng liêng. Một cử chỉ nhân ái, một cuộc sống lương thiện đáng lý phải được chúng ta khâm phục và cộng tác. Nhưng nươc lại nếu không thuộc phe ta, nhất định sẽ bị nghi ngờ, chê bai, dđả kích. Xin nhớ một người sống ngay lành đã là phép lạ của Thiên Chúa. Sự ngạc niên của Chúa Giêsu về 9 người kia không trở lại cho chúng ta hay Chúa đau lòng biết bao về sự bội bạc của nhân loại. Chẳng lẽ chúng ta cũng được kể vào số đó? Do đó, sự cảm tạ Chúa về các ơn lành người thương ban là đặc tính của một Kitô hữu. Thiếu đặc tíh này thì chẳng khác người vô đạo, có khi tệ hơn. Bởi lẽ chung ta dạy con cháu ngôn ngữ lịch sự: “còn gì nữa con”; “cảm ơn mẹ” vì một chiếc bánh ngọt. Nhưng vô số ơn lành của Thiên Chúa chúng ta làm ngơ.
Cho nên câu chuện người Samaritanô trở lại tạ ơn Thiên Chúa phải là điểm chính cho chúng ta suy nghĩ hôm nay. Chúa Giêsu không chỉ là bác sỹ chữa lành cùi hủi, mở mắt, mở tai, gẫy xương, trừ quỷ mà chính yếu Ngài bày tỏ lòng thương cảm đối với nạn nhân của đau khổ, bệnh tật, chết chóc phần xác cũng như phần hồn. Ngài cam đoan với nhân loại Thiên Chúa thấu rõ những nỗi khổ của họ. Ngài sẽ giảt thoát và nâng đỡ mọi người. Nếu như mỗi người nhận ra và đón tiếp những ơn lành Thiên Chúa thực hiện nơi mình. Khi ấy chúng ta sẽ sống cuộc đời hoàn toàn đổi khác. Cuộc đơi cuủa chính Đức Kitô trong chúng ta, đầy yêu thương và thông cảm, không còn hận thù, ghen ghét, tẩy chay, loại trừ… chúng ta sẽ rời bỏ nếp sống tội lỗi và quay về với đường lối chính trực Thiên Chúa đã chỉ vẽ cho loài người qua Đức Kitô. Chúng ta sẽ diễn tả lòng tri ân Thiên chúa bằng những hình thức đặc biệt như ăn chay, phat xác, bố thí, cầu nguyện, nghe đọc sách thánh và chấp nận cac câu chuyeện knh thánh như ám chỉ về mình. Đầy lòng tạ ơn chúng ta sẽ sống khiêm nhường, thánh thiện và hạnh phúc.
Bữa tiệc Thánh thể chúng ta sắp cử hành, gợi nhớ lại chúa Giêsu luôn hiện diện và nghĩ đến với mỗi kinh hồn, thúc giục chúng ta đón nhận và phục vụ tha nhân không loại trừ, không kì thị bất chấp những khác biệt về văn hoá, tôn giáo, tính tình.bởi chúng ta những đặc điểm tự nhiên của xã hội loài người. Chúng ta không thể độc tài ép buộc mọi người theo ý riêng của mình. Xin nhớ lời khuyên của các Tông đồ xin thêm đức tin. Chúa Giêsu trả lời họ rằng họ đã được ban cho đủ đức tin để sống cuộc đời theo Ngài. Chỉ cần tinh luyện đức tin đó cho tinh ròng, gột rửa hết các hình thức ích kỷ, đam mê, dục vọng, giả hình, tham lam thì họ có thể làm phép lạ, khiến cây dâu nhổ rễ đi mọc giữa biển cả! Bây giờ chúng ta cũng vậy, Chúa đòi hỏi mọi kẻ theo Ngài phải hành động trên đức tin ấy. Thế giới sẽ không còn chiến tranh, chia rẽ. Chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm cuủa mình. Sỡ dĩ nhân loại còn chém giết nhau là vì môn đệ Chúa chưa chu toàn ổn phận. Chưa có đức tin tinh tuyền, nhiên hậu chưa phải là người công chính thật. Liệu chúng ta đã giống như Ngài đón nhận 10 người phong cùi và chuữa lành họ? Liệu chung ta dám mở lòng ra cho thiên hạ lui tới hay ngược lại, lập thêm hàng rào để ngăn cản “sự dữ” vào phá phách mình. Phụng vụ sau công đồng Vaticanô II đề nghị rõ bỏ rào cản (communion rail) giữa giáo dân và gian cung thánh, tượng trưng sự gần gũi giữa Chúa Giêsu và cộng đồng tín hữu. Nhưng thực tế hàng trăm rào cản khác đã được dựng nên giữa giáo dân, tu sĩ, giáo sĩ, hàng giáo phẩm. Buồn thay.
Trở lại với đề tài hôm nay, người Samaritanô, một trong 10 kẻ cùi hủi, bị xã hội ruồng bỏ lại trở thành bài học cho chúng ta. Ông đã dạy mọi người hãy biết lòng bày tỏ ngợi khen Thiên Chúa và tạ ơn Đức Giêsu. Trong bí tích Thánh thể này chúng ta nên noi gương theo ông, biết ơn và tán tạ tình thương Thiên Chúa tưới gội trên mỗi linh hồn. Ơn của Ngài thật vĩ đại, dạt dào, rộng mở ôm lấy nhân loại. Tất cả chúng ta đều là những kẻ cùi hủi được Đức Kitô chữa lành. Hiện nay chúng ta đang được Lời Ngài thâu gom lại, hình thành một cộng đoàn Thánh thể, để bày tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa, yêu thương nhau và sống am hợp với phúc âm. Đó là ý nghĩa của từ Eucharistia trong tiếng Latinh. Ước chi trong mỗi cộng đồng giáo xứ là một cộng đồng “lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Chúa mà tạ ơn”. Amen.
Tiếp theo truyện Naaman: ông thấy mình được chữa lành thì trở lại tạ ơn Thiên Chúa của Israel và tiên tri Elisa. Rồi dâng lễ vật. Tiên tri không nhận. Ông xin hai bao đất về để thờ phượng Giavê. Tiên tri đồng ý và chúc lành cho ông đi bằng an. Được một quãng đường, tiểu đồng của Elisa là Giêkhađi tiếc rẻ, đuổi theo xe Naaman đòi tiền. Naaman cho nó 60kg bạc và hai bộ quần áo. Tiên tri Elisa biết chuyện nguyền rủa nó, nói: “Mày đã nhận tiền bạc, nhưng bệnh phong cùi của ông Naaman sẽ mãi mãi bám lấy mày và dòng dõi mày”. Giêkhađi rời Elisa, mắc bệnh phong hủi, mốc thếch như tuyết.
Một gia đình quý tộc giàu có nước Anh về miền quê nghỉ mát. Trong khi nô đùa, tai nạn đã xảy ra, cậu: TN 28-C97
Một gia đình quý tộc giàu có nước Anh về miền quê nghỉ mát. Trong khi nô đùa, tai nạn đã xảy ra, cậu con trai nhỏ của họ sa chân ngã xuống vực nước sâu. Thế rồi, từ xa, nghe tiếng kêu thất thanh, một chú bé nhem nhuốc, con của một nông dân nghèo trong vùng đã chạy đến tiếp cứu. Nhà quý tộc đã hết sức biết ơn cậu bé nhà nghèo. Thay vì chỉ nói lời cảm ơn và kèm theo một ít tiền hậu tạ, ông ân cần hỏi cậu bé:
- Khi lớn lên, cháu muốn làm gì ? Cậu bé nhỏ nhẹ thưa:
- Thưa ông, chắc cháu sẽ tiếp tục nghề làm ruộng của cha cháu.
- Thế cháu không còn ước mơ nào lớn hơn nữa sao ?
- Dạ thưa bác, nhà cháu nghèo thế này thì cháu còn biết ước mơ điều gì nữa đây ?
- Nhưng bác muốn biết, nếu cháu được phép mơ ước thì cháu sẽ ước mơ điều gì ?
- Thưa bác, cháu muốn được đi học, cháu muốn trở thành một bác sĩ ! Nhưng gia đình cháu rất nghèo. Nhà quý tộc tiếp lời:
- Đừng bận tâm cháu ạ. Hãy giữ vững ước mơ, lên kế hoạch cho bản thân và bác sẽ chi trả mọi chi phí học tập.
Sau này, cậu bé ngày xưa không biết bơi được cứu sống đã trở thành một vĩ nhân, đã làm cho cả nước Anh hãnh diện tự hào, đó là Thủ Tướng Winston Churchill. Còn cậu bé quê nhà nghèo đã trở thành một bác sĩ lừng danh thế giới, cũng đồng thời là ân nhân của cả nhân loại khi tìm ra được thần dược penicillin. Tên của ông là Alexander Fleming. Không ai ngờ rằng đến thủ tướng nước Anh lâm bệnh trầm trọng, cả vương quốc Anh đã đi tìm những vị danh y lẫy lừng để cố cứu sống nhà lãnh đạo tối cao của mình. Tất cả đã bó tay. Thế rồi bác sĩ Alexander Fleming ( Ảnh kèm theo bên trái ) đã tự ý tìm đến và ông đã cứu sống, một lần nữa, người mà ông từng cứu năm xưa.
Tin Mừng theo Thánh Luca thuật lại mười người bịnh phung được Đức Giêsu chữa lành, mà chỉ một mình người Samari liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.
Xin ân
Cậu bé Winston Churchill không gào lên kêu cứu, chắc nước Anh đã chẳng có một Thủ Tướng lẫy lừng ( Ảnh kèm theo bên phải ). Cũng thế, cậu bé Alexander Fleming không nhanh chân chạy đến cứu bé Winston, thì thế giới cũng chẳng có thần dược Penicilline. Nợ đồng lần thiên hạ trả vay, vay trả. Nhưng có món nợ chỉ vay, mà không thể trả nổi, như trường hợp mười người phung được chữa lành, biết lấy chi đền trả cho Chúa ?
Trong cuộc lữ hành vất vả dương thế, chẳng ai không cần đến sự cứu nguy, chẳng ai mãi cứ an nhiên tự tại, mãi yên ổn, chẳng ai có thể tự hào nắm tay thâu đêm đến sáng, cũng lắm khi sa chân lỡ bước, gian nan, hiểm nguy, phải cầu cứu, mong được thoát nạn.
Như thế, tuy lời xin ơn vô cùng đa dạng, muôn cảnh, muôn tình huống, nhưng đều giống nhau ở thái độ chân thành hạ mình, nài van, khiêm nhường nguyện cầu. Tuy thế, vẫn có những thái độ xin ơn bất xứng, kênh kiệu, cao ngạo, như đặt cược, đặt điều kiện với Thiên Chúa. Chẳng hạn như “Nếu Chúa cho con điều này, thì con sẽ đóng góp vào Nhà Thờ…”
Thông thường, nhiều lời cầu xin nghiêng về quyền lợi vật chất, của cải, danh lợi, phục vụ cho bản thân, phần xác hơn là mưu ích cho phần rỗi linh hồn. Thay vì cầu xin nhân đức Tin Cậy Mến, thì lại xin làm ăn phát đạt, trúng mùa, trúng số, lên chức, lên lương. Thay vì xin theo Thánh Ý Chúa, thì xin theo ý riêng ích kỷ hẹp hòi của mình. Thay vì xin cho Danh Chúa cả sáng, thì lại xin cho mình sáng danh.
Thiên Chúa thấu đáo mọi sự, biết nhu cầu cấp bách từng người. Tuy Ngài luôn ban nhưng không, nhưng còn tùy theo sự tự do cá nhân, có muốn lãnh nhận hay không, tùy theo lòng thành khẩn của mỗi người, tùy theo lòng tin cậy vững chãi hay không.
Chúa Giêsu đã ân cần khuyến khích tin cậy vào Chúa Quan Phòng: "Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” ( Lc 11, 9 – 10 ).
Gia ân
Trong Tin Mừng, biết bao người đến xin Chúa Giêsu chữa những chứng bệnh hiểm nghèo, họ thảy đều toại nguyện. Mẫu số chung cho lời ban ơn cho người bệnh tật, Người đều khẳng định như hôm nay là: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”
Như thế, tiên quyết cần dốc lòng tin cậy vững chãi vào Chúa, tin tưởng vào quyền năng vô hạn của Chúa, nếu muốn lãnh nhận được ơn thiêng. Như khi cứu chữa bà kia băng huyết 12 năm, Người cũng phán: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” ( Lc 8, 48 ).
Người cũng an ủi, cứu giúp ông Giaia, trưởng hội đường, dù được biết đứa con gái của ông đã chết: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi, là con gái ông sẽ được cứu” ( Lc 8, 50 ).
Nhân được lời cầu xin chân thành, tin cậy, Thiên Chúa quảng đại ban ơn cho con người điều tốt lành nhất, hữu ích nhất, trên cả mong đợi. Vì người cha thế gian còn biết điều gì tốt lành ban cho con cái, huống chi Người Cha Đại Từ Bi Nhân Hậu.
“Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư ? Hay nó xin cá, lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư ? Vậy, nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người" (Lc 11, 11 – 13 ).
Ngài ban Chúa Thánh Thần với bảy ơn trọn vẹn tuyệt đỉnh, không gì sánh nổi: Khôn Ngoan, Thông Minh, Biết Lo Liệu, Dũng Cảm, Hiểu Biết, Đạo Đức, Kính Sợ Chúa. Tóm lại, Thiên Chúa chính là Đấng Bảo Hiểm trọn đời, cả đời này lẫn đời sau.
Tạ ân
Phận làm con, luôn nhớ ơn sinh thành và dưỡng dục như trời cao, bể rộng của các đấng phụ mẫu. Vậy càng cần ngợi khen, chúc tụng và tạ ơn hơn nữa, với Đấng tạo nên vạn vật, vũ trụ và con người. Tuy nhiên, tầm nhìn của con người quá thiển cận và mù quáng, thường chỉ nhìn thấy cái trước mắt, mà không thấy cái tiềm ẩn phía sau.
Trong trích thuật Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, Mười người phung được chữa lành, mà chỉ duy nhất một người, trở lại cảm tạ ân sư, Đức Giêsu. Hơn nữa, người ấy lại là người Samari, dân ngoại, chứ không phải phe ta, dân riêng của Chúa. Qua cầu rút ván hay ăn cháo đá bát, vốn chẳng hiếm hoi trong xã hội. Thái độ vô ơn, bạc nghĩa luôn hiện hữu nơi những ai vô tình, vị kỷ, tưởng mình là cái rốn vũ trụ, mới dám kiêu căng, hoang tưởng, cho rằng ai cũng phải cúc cung, tận tụy phục vụ mình.
Trong thư gửi tín hữu thành Côlôxê, Thánh Phaolô đã khẩn khoản nhắn nhủ lòng biết ơn chân thành với Thiên Chúa: “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng” ( Cl 3, 16 ).
"Khi đau khổ cực độ, con hãy nhìn lên Thánh Giá, ôm choàng lấy Thánh Giá, và con sẽ thinh lặng đứng vững như Đức Mẹ" ( Đường Hy Vọng, số 694 ).
Lạy Chúa Giêsu, Đấng cứu chữa các trọng bệnh, xin giải thoát chúng con khỏi chứng phong cùi linh hồn, để chúng con có thể hân hoan trở về với Chúa luôn mãi.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy cho chúng con luôn biết cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Thiên Chúa, vì biết bao hồng ân lãnh nhận hằng ngày. Nhất là ân phúc được nhận biết Ơn Cứu độ, để được sống viên mãn. Amen.
Có vẻ như chữ “nhơn” do chữ “nhờ ơn” mà thành. Là người, ai cũng nhờ ơn: - ơn cha mẹ sinh: TN 28-C98
Có vẻ như chữ “nhơn” do chữ “nhờ ơn” mà thành. Là người, ai cũng nhờ ơn:
- ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dục trong suốt một cuộc đời lam lũ nghèo khó;
- ơn Giáo Hội qua các Bí Tích để tôi được gọi là Thiên Chúa là Cha, và tôi là nghĩa tử của Ngài;
- ơn Thầy cô miệt mài hun đúc tôi từ chữ đến nghĩa, từ học đến hành;
- ơn người thân, bà con, anh em thương yêu đùm bọc nâng niu giúp đỡ;
- ơn người dưng nước lã cho tôi nghĩa tình quê hương, nhân loại;
- ơn người đạo đức mỗi ngày cầu nguyện hy sinh cho mọi người, trong đó có tôi, được bình an;
- ơn người lành cho tôi bao bài học phải giữ;
- ơn kẻ dữ cho tôi bao bài học phải tránh;
- ơn người trung tín, ơn người phản bội, ơn người yêu, ơn người ghét, ơn người dối trá, ơn người thành thật, ơn người có đạo, ơn người vô thần, ơn người cho vay, ơn người đòi nợ, ơn người mắng nhiếc sỉ nhục, ơn người an ủi cảm thông, ơn ốm đau bệnh tật, ơn tai nạn bất ngờ, kể cả sự chết…
Làm sao kể hết những ơn lộc mà tôi đã nhận được qua những con người, những biến cố. Vì thế, có thể nói, mỗi người quanh tôi, gần tôi, xa tôi, người biết tôi, chưa biết tôi, người ở Texas, người ở Cali, người ở tận châu Phi, có người ở Sàigòn, có người Hà Nội… có người giàu có, cũng có người nghèo khó… tất cả đều là ân nhân của tôi một cách nào đó.
Mỗi người trở nên một phần trong cuộc sống của nhau, không thể thiếu.
Mỗi biến cố cũng vậy, dù tốt hay xấu, dù có lợi hay không có lợi, tôi cũng nhận được một ơn đặc biệt. “Thất bại là mẹ thành công”. Chẳng hạn, nếu không có một cái nhìn mới mẻ dưới ánh sáng đức tin, thì tôi không thể chấp nhận sự thua thiệt, cảnh tang thương hay thất bại là một ân huệ. Và đợi đến lúc tôi cảm nghiệm được rằng: tôi đã nhờ ơn đau khổ mà thành nhơn, thì tôi không còn đủ thời gian để xin lỗi những đau khổ vì đã nặng lời trách móc.
Vì thế, tôi muốn xác tín rằng: mỗi con người đang là cánh tay của Thiên Chúa nối dài để thi ân; mỗi biến cố là công cụ, là phương cách Chúa đã dùng để ban ơn cho tôi, cho mọi người.
Quả thật đời sống con người cần có nhau để tô đẹp cho nhau và cho cuộc đời, như có người nói:
“Nói với lá rằng hoa chưa đẹp nhất, nếu không chen vào giữa lá nhung xanh, nói với anh rằng em chưa đẹp nhất, nếu không chen vào giữa trái tim anh”.
Hoa đẹp nhờ có lá, tôi đẹp nhờ có người xấu. Tôi biết tôi giàu nhờ có người nghèo quanh tôi. Tôi biết tôi mạnh khỏe nhờ có người đau yếu…
Hãy mở lòng ra để đón nhận nhau, chấp nhận nhờ ơn nhau, như một người cần có trái tim để sống.
Bác Trần Duy Nhiên trong thư gửi các cháu mổ tim có đoạn “một trái tim bị mổ, ngàn trái tim mở ra. Ngàn trái tim mở ra, vì có một Trái Tim đã mở toang ra vì yêu nhân loại”.
Vâng, sống trong cuộc sống là sống với, sống vì, sống cho người khác sống. Tôi có thể cảm nhận trái tim tôi đập được là nhờ trái tim của nhiều người khác.Vâng, tất cả chúng ta đang “nhờ ơn” mà thành “nhơn”.
Nguồn ơn ấy, chính là sự quan phòng tuyệt vời của Thiên Chúa tình yêu. Biết ơn
Biết mình cần “nhờ ơn” người khác là một điều đã khó; biết ơn người khác lại là một điều khó hơn. Để biết ơn, phải cảm nhận được ơn mình đã nhận. Và đối với tín hữu của Chúa, để cảm nhận được ân huệ của Thiên Chúa qua các biến cố, qua tha nhân, nhất thiết người thọ ơn phải có lòng khiêm tốn sâu xa và một đức tin chân thành mà sâu sắc.
Tướng Naaman trong sách các vua 5, 14 – 17 quả thật đã có một niềm tin khiêm tốn sâu thẳm, nên mới có được một niềm xác tín vững chắc để nghe lời của Ngôn Sứ Elisê mà đi dìm mình bảy lần trong sông Giođan Cũng vậy, mười người phung hủi trong Tin Mừng Lc 17, 11 – 14 có niềm tin khiêm tốn sâu thẳm, nghe lời Đức Giêsu mà đi trình diện các tư tế.
Cả một đất nước Aram không có con sông nào sạch sao và chắc gì sông Giođan sạch bằng ? Hoặc có thầy thuốc nào bảo chỉ cần đi trình diện với ông nầy ông kia thì sẽ được khỏi bệnh ? Quả là một điều lý trí không thể chấp nhận được. Nhưng điều lý trí không chấp nhận được ấy lại là đức tin. Như vậy sự khiêm tốn ở đây chính là bằng lòng hy sinh lý trí, hy sinh cái suy luận theo tài năng hiểu biết của mình, để đón nhận điều sẽ xảy ra với lòng tin tưởng tuyệt đối. Việc chấp nhận dìm mình trong song Giođan của Naaman cũng như chuyện chấp nhận thực hiện điều trái ý, chấp nhận điều chẳng lành trong cuộc đời, không dễ dàng tí nào đối với người không có Đức Tin. Việc chấp nhận đến với Giođan còn mang một ý nghĩa khác, là chấp nhận đến với Đất Nước của Thiên Chúa, đến với Giáo Hội. Cũng vậy, “đi trình diện với các tư tế” trong trình thuật Luca 17, 11 – 19 cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận đến với những người của Thiên Chúa, trong Giáo Hội. Và khi đến, phải khiêm tốn và xác tín rằng, tôi đến là tôi sẽ được nhận ơn. “Trong khi đi trình diện với các tư tế, họ đã được sạch phung hủi”. Điểm nầy, tôi liên tưởng đến người có lòng khao khát được sạch những vết phung hủi của tâm hồn do tội lỗi, trên đường đi đến tòa cáo giải với lòng khiêm tốn và đức tin, thiết nghĩ, họ đã được sạch tội rồi nếu họ chết khi chưa kịp xưng thú các tội.
Chấp nhận dìm mình trong dòng sông Giođan hay đến với Đức Giêsu để nhận được ơn sự sống đòi hỏi một đức tin cao nhất, như Thánh Phaolô xác quyết: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta cùng kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người” ( 2Tm 2, 11 – 12 )
Rất tiếc, rất tiếc, vẫn còn có nhiều người luôn tuyên bố: “Từ nhỏ đến giờ tôi chẳng nhờ ơn ai cả, tôi tự lập mà nên”. Có người không chấp nhận nhờ vả vì sỉ diện, một cách tránh né do lòng kiêu ngạo. Vậy, không chấp nhận nhờ ơn thì làm gì nói đến chuyện biết ơn.
Ngay cả đối với sự hiện hữu tốt đẹp của chính mình trên trần gian, có người theo chủ nghĩa duy vật vô thần không đủ khiêm tốn để chấp nhận đó là một ơn huệ, còn to tiếng phủ nhận; và cho là một việc tự nhiên do chuyện giải trí của cha mẹ mà có! Thế thì làm gì có lòng biết ơn ai! Rồi từ đó, kéo theo một thế hệ con cháu vô ơn với trời đất, với tổ tiên, với nòi giống. Cái chủ nghĩa duy vật dạy cho họ cuộc sống con người bắt đầu từ con vật, sống và lớn lên như con vật, rồi chết đi như con vật.
Và khái niệm đó đóng khung lý trí của họ mà họ xem như một chân lý. Họ không thể khiêm tốn hy sinh cái lý trí què quặt ấy để đón nhận ánh sáng của đức tin. Họ không chấp nhận dìm mình trong dòng sông cứu rỗi mà người của Thiên Chúa giới thiệu. Họ cố tình không biết những ơn cao trọng mà dòng sông cứu rỗi mang lại. Chẳng trách gì mà họ không những không khiêm tốn đến với Chúa Giêsu mà còn không muốn ai đến với Ngài.
Rất tiếc hơn nữa, những con cái của Chúa cũng không thiếu những con người vô ơn như vậy. Khi cuộc sống vất vả, đau yếu, bệnh tật, nghèo túng thì sốt sằng tìm đến Chúa để kêu la cầu cứu; đến khi có của ăn của để, nhà cao cửa rộng, phương tiện tiện nghi đầy đủ thì xem tất cả những gì mình có là do sức mình, rồi tỏ ra bất cần đến Thiên Chúa nữa, bất cần đến ơn cao trọng hơn cả là ơn cứu rỗi, tự gieo mình vào một cuộc sống mỗi ngày thêm sa đọa. Chúa Giêsu nói: “không phải cả mười người đều được sạch cả sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” ( Lc 17, 17 – 18 ).
Với tôi, bài học của tướng Naaman và mười người phung hủi, cho thấy sự cần thiết của lòng khiêm tốn, của một đức tin vững chắc để đón nhận và biết ơn Thiên Chúa đang tràn lan trong đời mình qua mọi người và qua mọi biến cố.
Hãy khiêm tốn đến với dòng sông Bí Tích, dòng sông Giođan ngày xưa, và dòng sông của Đức Giêsu hôm nay, trong dó có dòng sông của bí tích hòa giải với xác tín chính Chúa Giêsu cũng đang nói với ta “Đức tin con đã chữa con” mọi thứ bệnh trầm kha nhất của tâm hồn. Và rồi, hãy thể hiện lòng biết ơn cách cụ thể qua việc đền đáp công ơn của Người.
Đền ơn
Đối với người Việt Nam, có thể nói có lòng biết ơn là đã đủ sống với đạo làm người, vì có những ơn Trời ban mà con người không bao giờ đáp đền cho cân xứng.
Với chúng ta, sống tâm tình biết ơn, thiết nghĩ, là chưa đủ. Phải thiết thực đáp đền ơn Chúa bằng việc thờ phượng tôn vinh Thiên Chúa cho xứng đáng. Biết việc đền ơn không phải là lễ vật như “món quà” của Naaman dâng cho Thiên Chúa qua Elisê. Naaman đã chọn cách đền ơn bằng việc “chở một ít đất ở Giođan về mà lập bàn thờ Thiên Chúa trên đất ấy” ( 2V 5, 15 – 17 ). Cũng như người Samari “thấy mình được khỏi, liền quay trở lại mà lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn” ( Lc 17, 15 – 16 ).
Như vậy, đáp đền ơn Thiên Chúa là tôn vinh Thiên Chúa bằng cách:
- sống trọn tình con thảo trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa quan phòng, tin tưởng vào Chúa Giêsu và Giáo Hội của Ngài: “hãy trình diện với các tư tế”.
Về điểm nầy, tôi không đồng tình với quan điểm “Giêsu-Yes”, “Giáo Hội-No”. Vì như thế là chúng ta tự mâu thuẫn với đức tin của mình. Chúng ta đã nhận muôn ơn Chúa qua Giáo Hội. Phủ nhận Giáo hội cũng chính là phủ nhận đức tin vào Thiên Chúa. Ta vẫn tuyên tín “ tôi tin Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” kia mà. Hãy tin tưởng vào Giáo Hội của Chúa. Không vì một vài phần tử bội tín hoặc phá phách trong giáo hội mà ta phủ nhận sự thánh thiện của Giáo Hội, rồi trở thành người vô ơn một cách oan uổng. Hãy tin tưởng Giáo Hội.
- sống và trở nên nguồn sống cho tha nhân – nguồn sống ấy có thể là một nụ cười, một niềm vui, một chia sẻ như làm cánh tay nối dài của Thiên Chúa. Ta vẫn thường nhận ơn của một người và không bao giờ đáp trả nổi, nhưng ta lại thi ân cho người khác như một nghĩa cử đền đáp cho người mình đã nhận. Hãy sống chứng nhân tôn vinh thờ phượng Chúa bằng đức bác ái.
Để kết
Tôi có nghe các em mổ tim nhờ Hội Bác Ái Phanxicô hỗ trợ, sau khi mổ tim thành công, hát mấy câu trọn vẹn ba ý nghĩa: nhờ ơn, biết ơn và đền ơn, như sau:
“Em có một trái tim nhưng là trái tim của nhiều người Em sống nhờ trái tim, nhờ tình yêu thương người mọi nơi Em suốt đời biết ơn người cho em sự sống nầy Sẽ sống và sẻ chia tình yêu thương cho muôn người.”
Lạy Chúa xin cho chúng con lòng khiêm tốn và đức tin vững chắc, để đón nhận tất cả là hồng ân Chúa. Và xin cho chúng con biết sẻ chia sự sống cho tha nhân. Amen.
Chúng ta vẫn còn nhớ vào ngày 11.3.2012, kỷ niệm tròn một năm thảm họa Sóng Thần ập đến: TN 28-C99
Chúng ta vẫn còn nhớ vào ngày 11.3.2012, kỷ niệm tròn một năm thảm họa Sóng Thần ập đến với nhân dân Nhật Bản. Sau đại họa đó, Nhật Bản đã hồi sinh nhanh chóng, một phần nhờ vào sự tương trợ của các nước trên thế giới. Vì thế, nhân dịp kỷ niệm này, khoảng 500 em học sinh từ thành phố Ishinomaki thuộc tỉnh Miyagi đã đồng ca bài hát mang tên “Arigato” ( Cảm ơn ) để tri ân thế giới. Hành động này đã làm cho thế giới nghiêng mình kính phục trước hệ thống giáo dục của nước Nhật.
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu chữa lành mười người phong cùi, tuy nhiên, sau đó chỉ có một người quay lại để tạ ơn Chúa mà thôi. Vậy, tại sao lại có sự chữa lành đó và thái độ tạ ơn của người Samari đã đem lại cho anh ta những gì ?
Ý Nghĩa Lời Chúa
Trước tiên, chúng ta tìm hiểu về quan niệm của người Do Thái đối với người bị bệnh phong cùi:
Theo lối suy nghĩ của người Do Thái thời bấy giờ, bệnh phong cùi là một thứ bệnh dơ bẩn, ô uế. Vì thế, người mắc bệnh này chắc chắn bị cô lập. Họ không được sống một cuộc sống bình thường như mọi người, và lẽ đương nhiên bị người cùng thời khinh bỉ. Cuộc sống của họ thường ở ngoại ô, hay nơi vùng sâu vùng xa, nơi ít người qua lại. Nhưng có lẽ khổ tâm hơn cả, chính là họ bị mọi người coi mình như là dấu chỉ bị Thiên Chúa trừng phạt. Những ai mắc bệnh này thì kể như là kẻ bị chúc dữ.
Quả thật sách Lêvi cũng đã trình bày sự phân biệt và kỳ thị đối với người bị bệnh phong thời bấy giờ như sau: “Người phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế ! Ô uế !’ Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó còn ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” ( Lv 13, 45 – 46 ).
Tuy nhiên, hôm nay Đức Giêsu đã làm cho mọi người phải ngỡ ngàng vì Ngài có một trái tim rộng lớn, Ngài đã “chạnh lòng thương” để vượt lên trên lề luật, ra khỏi quan niệm của dân chúng để cứu giúp những người đau khổ.
Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu đi đến một làng kia, và có mười người phong cùi biết tin Ngài đi qua, nên đã đến để xin Ngài chữa lành cho mình: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi !” ( Lc 17, 13 ). Câu nói này thể hiện niềm tin của họ vào Đức Giêsu cách tuyệt đối. Vì tin, nên những người bệnh này cũng đã phá tan hàng rào kỳ thị của dân chúng xưa nay cũng như lòng tự ti của chính mình để miễn sao gặp được Chúa và mong ước được Chúa yêu thương, chữa lành. Và, khi nghe thấy họ kêu xin mình như vậy, Đức Giêsu đã “chạnh lòng thương” và, Ngài đã ra tay cứu giúp khi nói: “Hãy đi trình diện với các tư tế. Ðang khi đi thì họ đã được sạch” ( Lc 17, 14 ). Qua hành vi chữa lành bệnh tật này, Đức Giêsu thể hiện lòng thương xót, nhân từ của Thiên Chúa cho nhân loại.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả chính là Đức Giêsu đã giải thoát họ về mặt tinh thần. Từ nay họ không còn bị xã hội xa lánh, khinh miệt và nguyền rủa nữa. Cũng kể từ nay, họ được hòa nhập với xã hội và người thân. Đây có lẽ là điều hạnh phúc nhất của họ.
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong bài Tin Mừng hôm nay đó là đức tin và lòng biết ơn:
Trước tiên, vì tin, những người phong cùi mới kêu lên: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi !” ( Lc 17, 14 ). Vì tin, họ mới nghe lời Đức Giêsu để đến trình diện tư tế khi chưa lành bệnh. Và, kết quả là nhờ lòng tin, họ đã được lành sạch khi đang trên đường đi trình diện các Tư Tế.
Thứ đến, là lòng biết ơn. Tất cả mười người đều được lành sạch cả, nhưng chỉ có một người trong nhóm họ đến tạ ơn Đức Giêsu mà thôi. Thật chớ trêu thay, người đó lại là người Samari dân ngoại, còn những người Do Thái thì có những thái độ ngược lại. Thấy vậy, Đức Giêsu mới hỏi: "Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?" ( Lc 17, 18 – 19 ).
Câu hỏi này vừa nói lên sự ngỡ ngàng và chua chát của Đức Giêsu với người Do Thái, vốn được coi là dân riêng của Thiên Chúa, nhưng đã không hề chân nhận những ơn lành mà Ngài đã thi ân. Thái độ này của họ đã được Đức Giêsu cảnh báo: “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Cuối cùng, nhờ lòng biết ơn, người Samari này đã sinh hoa trái về đàng thiêng liêng cho chính mình. Người này được sạch cả bên trong lẫn bên ngoài, còn những người Do Thái thì tuy bên ngoài đã sạch, nhưng tâm hồn của họ vẫn bị thứ bệnh phong cùi vô hình làm cho họ mất cảm thức về ơn cứu độ.
Sống Lời Chúa Hôm Nay
Hôm nay chúng ta được nghe tường thuật bài Tin Mừng Chúa chữa mười người phong cùi về mặt thể lý, và điểm then chốt mà sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn nhấn mạnh đó là cần phải có niềm tin và lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. Đồng thời cũng muốn cho mỗi chúng ta ý thức được mình cũng là người tội lỗi cần được Chúa thứ tha.
Đã nhiều lần ta nghe đâu đó, hay chính chúng ta đã hứa với Chúa: “Lạy Chúa, xin cho gia đình con được bình an, hạnh phúc, được nhiều người giúp đỡ. Con cái ngoan hiền, thi cử đỗ đạt, gia đình có công ăn việc làm, buôn bán được thuận lợi”, rồi sau đó hứa với Chúa là sẽ thay đổi như: bỏ rượu, cờ bạc, trai gái và chăm chỉ đi lễ Nhà Thờ, lần hạt, chia sẻ bác ái… Nhưng khi đạt được rồi thì bỏ luôn không còn nhớ gì hay nếu có nhớ thì cũng làm ngơ không để ý đến lời thề của mình với Chúa, Đức Mẹ và các Thánh nữa. Vẫn còn đó câu ngạn ngữ: “Hết rên, quên thầy”; “được chim bẻ ná, được cá quăng nơm”; “chắp tay lạy Đức Chúa Trời, cho con lấy vợ con thôi Nhà Thờ”.
Mong thay, mỗi người chúng ta hãy có một Đức Tin mạnh mẽ và luôn mang trong mình tâm tình tạ ơn Chúa để được cứu độ. Hồng ân này đã được kinh Tiền Tụng Thánh Thể IV diễn tả: “Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh Ơn Cứu Độ cho chúng con nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được ca tụng Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời”.
Lạy Chúa, xin cho con biết tin tưởng vào Chúa như những người phong cùi khi xưa, và xin cho con có thái độ biết ơn như người Samari trong bài Tin Mừng hôm nay. Ước gì lời tạ ơn của chúng con được Chúa chúc lành và ban ơn cứu độ. Amen.
Nói đến lòng biết ơn và việc phụ ơn có lẽ không ngòi bút nào viết cho hết. Mỗi thời, con người: TN 28-C100
Nói đến lòng biết ơn và việc phụ ơn có lẽ không ngòi bút nào viết cho hết. Mỗi thời, con người có cách suy nghĩ và hành xử về lòng biết ơn khác nhau. Nhưng có một điểm chung nhất, đó là dường như người ta thích nhận ơn nhưng lại rất dễ quên ơn. Biết làm sao được, vì sự biết ơn là một trong những đức tính nhân bản của con người. Giả như con người không còn nhân tính thì lấy gì mà có lòng biết ơn ?
Có nhiều nguyên nhân để dẫn đến những thực trạng đau lòng đó, nhưng trên cả vẫn là tham vọng của con người. Lòng tham nhân loại vô đáy, càng ngày con người càng sống thực dụng. Khi nhu cầu vật chất được đặt lên hàng thiết yếu, thì mọi giá trị còn lại bị đẩy lùi, ngay cả Thiên Chúa. Nhân loại có thể làm bất cứ những gì họ muốn, chỉ cần thỏa mãn tham vọng. Cho nên, việc phủi tay, trở mặt với người đã làm ơn cho mình vì đụng chạm đến lợi ích cá nhân cũng là chuyện thường tình dễ hiểu.
Con người làm ơn cho nhau, cho nhau ơn nghĩa và cũng nhận lại sự giúp đỡ của nhau là chuyện dễ hiểu vì mọi người đều cần đến nhau. Con người tráo trở, phủi tay trước những nghĩa cử cao đẹp của đồng loại cũng là việc thường thấy. Thế nhưng, việc con người phủi tay trước ân huệ của Thiên Chúa mới là điều cần kíp phải thay đổi.
Ơn nghĩa con người trao cho nhau đó chỉ là sự tương trợ, là chia sẻ ân huệ Thiên Chúa trao ban. Thiên Chúa là Đấng toàn năng chính Ngài đã trao ban cho nhân loại Sự Sống và cả thế giới. Nếu không có Ngài, tất cả đều trở thành hư vô. Sự tồn tại của con người và thế giới đều là hồng ân của Thiên Chúa. Vậy mà có mấy ai biết nhận ra ?
Con người cao ngạo, mù quáng chẳng cần biết đến Thiên Chúa là ai, chẳng cần tìm hiểu xem sự tồn tại của vũ trụ chung quanh mình do đâu mà có. Ngược lại, thế giới chỉ biết sống hưởng thụ và tàn phá, nếu không muốn nói đến thành phần những con người xem thường Thiên Chúa, loại bỏ sự hiện diện của Ngài ra khỏi tâm thức.
Bao giờ cũng vậy, khi ở trong những tình cảnh khó khăn, thử thách, con người biết sống khiêm tốn và tùy thuộc vào Thiên Chúa, nhưng một khi đã công thành danh toại, thêm chức thêm quyền, có tiền có bạc… là bắt đầu trở mặt như trở bàn tay, bỏ qua, cào bằng tất cả.
Câu chuyện mười người phong hủi được Đức Giêsu chữa lành hôm nay là một trong những thí dụ điển hình về những kẻ vô ơn. Khi còn ở trong tình trạng thảm thiết của bệnh tật, mười người họ đã nài xin bấu víu vào Thiên Chúa thật thảm thiết: “Lạy Thầy Giêsu xin dủ lòng thương chúng tôi” ( Lc 17, 13 ). Nhưng khi đã được lành lặn, khỏi bệnh, thì lại quên béng đi người đã ra tay cứu giúp mình, làm ơn cho mình, để rồi chỉ duy nhất một người ngoại biết quay trở lại cảm ơn: “Không phải cả mười người được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này ?” ( Lc 17, 18 ).
Sự thật phũ phàng thế đấy, kẻ càng nhận được nhiều ơn lại càng dễ phủi ơn. Như vậy việc biết ơn hay vô ơn đều hệ tại ở Niềm Tin và Lòng Mến. Chính sự tin nhận vào quyền năng của Thiên Chúa đã giúp người cùi thuộc dân ngoại được khỏi bệnh. Người mang danh Kitô nhưng xem thường ân huệ Thiên Chúa thì cũng trở thành kẻ vô ơn bất hạnh.
Lạy Chúa, ngay từ lúc bắt đầu làm người, con đã là kẻ chịu ơn và cả cuộc đời này con cũng chỉ sống để trả mọi ân huệ ấy. Thế nhưng có sống hết đời con cũng không thể nào trả hết mọi ân sủng Thiên Chúa ban tặng cùng với những sự chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ của bao người sống xung quanh.
Xin giúp con biết sống thế nào, để đừng phải trở thành kẻ vô ơn bất hạnh đáng bị nguyền rủa. Ước gì con luôn ý thức tất cả những gì con đang có đều là ân huệ nhưng-không của Chúa, để có phải san sẻ hay mất đi cũng sẽ không làm con đớn đau, buồn bã. Cho dù có trải qua khó khăn gì cũng đừng bao giờ để con sống và hành xử như một kẻ vô ơn !