Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 27 TN-C Bài 1-50 Xin thêm lòng tin cho chúng con ---------------------------------- Phúc Âm: Lc 17, 5-10: "Nếu các con có lòng tin".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Chúa liền phán rằng: "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: 'Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển', nó liền vâng lời các con. "Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về, liền bảo nó rằng: 'Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa', mà trái lại không bảo nó rằng: 'Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống'. Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng: Không. Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: 'Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm'". - Ðó là lời Chúa. --------------------------------------
Trong phạm vi đời sống tự nhiên cũng như siêu nhiên, tôi nhận thấy có nhiều người quá tự tin, luôn ỷ lại vào sức riêng của mình. Họ cho rằng những nhân đức hay những thành công họ gặt hái được, hoàn toàn do sức lực và tài năng riêng của họ, để rồi họ vênh vang tự đắc, coi trời bằng nửa con mắt.
Dĩ nhiên, tôi không phủ nhận rằng: tin tưởng vào sức lực và tài năng riêng của mình là điều tốt trong một phạm vi nào đó. Vì tục ngữ tây phương vốn thường bảo:
- Vouloir c’est pouvoir. Muốn là được.
Một khi mình đã dứt khoát lập trường và tiến hành không nghi ngại, thì kể như đã giải quyết được một nửa vấn đề. Vì thế, người xưa đã bảo:
- Thành như quả quyết, bại như do dự.
Hơn thế nữa, kinh nghiệm cũng cho thấy:
- Hãy tự cứu lấy mình, rồi trời sẽ cứu.
Bụng đói mà cứ nằm chờ cho sung rụng vào miệng, thì đến bao giờ một nhận được một trái.
Tuy nhiên, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy: tài năng và sức lực riêng của mình là điều cần, nhưng không phải là điều quyết định. Yếu tố căn bản cho mọi thành công, đó là tình thương và sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể.
Chẳng hạn trong đời sống tự nhiên, chúng ta ra sức cày sâu cuốc bẩm, vất vả đổ mồ hôi xuống trên ruộng đồng, nhưng nếu Chúa không cho mưa thuận gió hòa, thì mùa màng lúa thóc của chúng ta cũng khó mà trúng được. Vì thế, thánh Phaolô đã quả quyết:
- Phaolô trồng, Apollô tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là đấng làm cho đâm bông kết trái.
Chẳng hạn trong đời sống trí thức, chúng ta chăm chỉ căm cụi học hành để được thi đỗ, để được trau dồi thêm những kiến thức cần thiết, làm giàu cho bản thân và làm đẹp cho cuộc đời, nhưng nếu Chúa không ban cho khỏe mạnh, nay yếu mai đau, thì công việc học hành của chúng ta cũng sẽ bị cản trở.
Chẳng hạn trong đời sống siêu nhiên, chúng ta muốn khử trừ một nết xấu, nhưng nếu không có ơn Chúa trợ giúp, thì điều chúng ta dốc quyết chưa chắc đã được ba bảy hai mươi mốt ngày, để rồi cuối cùng bị rơi vào quên lãng, mèo vẫn hoàn mèo, chó đen vẫn giữ mực và chúng ta vẫn chứng nào tật ấy.
Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa đã phán:
- Không có Thầy, các con không thể làm gì được.
Hay như lời tục ngữ Việt Nam cũng đã xác quyết:
- Mưu sụ tại nhân, thành sự tại thiên.
- Không thầy đố mày làm nên.
Trong mọi hoàn cảnh, hãy khiêm nhường và tin tưởng vào Chúa. Đồng thời, cùng với sự trợ giúp của Chúa, chúng ta dù tài năng thấp kém cũng có thể làm được những việc kỳ diệu.
Năm 1683, đoàn quân Thổ Nhĩ Kỳ tiến đến kinh thành Vienne, đe dọa toàn thể thế giới công giáo. Tình hình đen tối. Phương tiện lại thiếu thốn. Mặc dầu vậy, Đức thánh cha Innôcentê XI, một mặt kêu gọi mọi người cầu nguyện, nhất là lần hạt mân côi. Một mặt hoài giải những bất đồng giữa các vua chúa, kêu gọi họ sát cánh bên nhau để chiến đấu, cũng như tin tưởng Chúa sẽ phù trợ.
Khắp nơi đều vang lên những tiếng khẩn cầu tha thiết. Và sự gì phải đến, đã đến. Đoàn quân công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lépante, giải thoát toàn thể Âu Châu khỏi sự tàn phá của Thổ Nhĩ Kỳ.
Chúng ta đừng bao giờ quên rằng:
- Không có Chúa, chúng ta không thể làm gì được. Nhưng với Chúa, chúng ta có thể làm được mọi sự.
Hãy tin tưởng và phó thác vào Chúa, như lời khuyên của thánh Phanxicô Salêsiô:
- Chúng ta có thể hái những bông hoa bên vệ đường, miễn là bàn tay phải nắm chặt lấy Chúa.
Cũng vậy, trong khi thu lượm những thành quả trần thế, hãy giơ một bàn tay cho Chúa, đừng bao giờ rời xa Ngài, vì nếu Ngài không gìn giữ chở che, chắc chắn chúng ta sẽ té ngã.
Hãy làm việc như chỉ có mình chúng ta. Đồng thời hãy tin tưởng như kết quả chỉ do một mình Thiên Chúa ban mà thôi.
Có một vị ẩn tu nổi tiếng bên Ai Cập trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, ngài là một con người luôn lấy sự khiêm nhượng làm nền tảng cho tòa nhà tu đức. Một hôm, ngài và một số đệ tử cùng đi dạo trong sa mạc, thình lình có một con rắn lớn xuất hiện như muốn cản đường họ. Với phản ứng tự nhiên, tất cả mọi người kể cả vị thánh đều bỏ chạy.
Vài năm sau, vị ẩn tu đang hấp hối trên giường bệnh, các đệ tử hỏi ngài như sau:
- Thưa cha, hẳn cha còn nhớ ngày nọ khi chúng ta gặp một con rắn rất lớn, tất cả mọi người đều sợ hãi và bỏ chạy. Chúng con không hiểu tại sao cha cũng bỏ chạy. Phải chăng cha cũng run sợ như chúng con.
Con người thánh thiện ấy trả lời như sau:
- Không ! Cha không hề sợ hãi trước con vật ấy. Thế tại sao cha cũng bỏ chạy như chúng con.
Vị ẩn tu đang hấp hối giải thích như sau:
- Lúc ấy cha nghĩ rằng, thà bỏ chạy còn hơn là dung dưỡng cho tính kiêu ngạo sẽ chồi lên trong cha sau này.
Kitô giáo đề cao sự khiêm nhượng như một trong những nhân đức nền tảng mà người tín hữu Kitô phải luôn trang bị cho mình. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ đề cao cảnh giác trước tính kiêu ngạo của những người biệt phái và luật sĩ. Họ quan niệm Thiên Chúa như một chủ chăn hà khắc, chi li, thưởng phạt tùy theo công đức của mỗi người. Chính vì thế mà họ coi những việc lành phúc đức như ăn chay, cầu nguyện, hãm mình, bố thí… là những việc lành mà Thiên Chúa ân thưởng bội hậu cho họ.
Sự giàu có và địa vị cao trọng của họ trong xã hội được họ xem như là một thứ ân thưởng rất công bình và hợp lý mà Thiên Chúa dành cho họ. Đánh giá như thế về công nghiệp của mình nên những người biệt phái và giàu có sẽ nhìn những người nghèo khổ bần cùng trong xã hội như những người tội lỗi bị bàn tay công thẳng của Thiên Chúa đang đè nặng trên họ.
Đối lại với những tính toán khôn lường và khôn ngoan ấy của những người biệt phái và giàu có, Chúa Giêsu đề ra lòng tin tưởng vô điều kiện mà con người phải có đối với Thiên Chúa. Qua hình ảnh của người đầy tớ sau khi đã vất vả nhọc nhằn suốt ngày ở đồng áng, để rồi khi về nhà còn phải hầu hạ phục vụ ông chủ, Chúa Giêsu có ý nói rằng, tương quan giữa con người và Thiên Chúa là một tương quan chủ tớ.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho chúng ta là một người Cha yêu thương, nhân từ. Một Thiên Chúa là Cha yêu thương chỉ muốn con người luôn đặt tin tưởng phó thác nơi Ngài mà thôi. Sau khi đã làm hết phận sự của mình, người đầy tớ chỉ có thể thốt lên: “Tôi chỉ là một đầy tớ vô dụng”.
Hình ảnh của người đầy tớ tự cho mình là người vô dụng mà Chúa Giêsu sử dụng trong mạch văn này có ý nói rằng, con người không có bất cứ quyền nại đến công nghiệp nào của mình để buộc Thiên Chúa ban ơn cho mình. Thiên Chúa ban ơn cho con người một cách nhưng không, và để đáp lại ân huệ của Ngài, con người chỉ có thể nói lên lòng tri ân và phó thác mà thôi. Tất cả cuộc sống của mình, tất cả những gì mình làm được, con người chỉ có thể và dâng lên Thiên Chúa như một đáp đền và phó thác.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta điều chỉnh lại quan niệm về Thiên Chúa mà chúng ta đang có, cũng như cách diễn tả niềm tin của chúng ta. Phải chăng chúng ta đã không tính toán so đo với Chúa trên cách sống đạo của chúng ta. Phải chăng chúng ta đã không giơ tay cầu nguyện, xin lễ, ăn chay, hãm mình, còn làm bao nhiêu những việc lành phúc đức khác để cốt Thiên Chúa trả công và chúc lành cho những công việc làm ăn và cuộc sống của chúng ta. Phải chăng có những lúc chúng ta tự phụ rằng, những thành công và may mắn chúng ta đang có là một ân thưởng mà Thiên Chúa đã ban tặng vì công nghiệp và hy sinh của chúng ta.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi vào mối tương quan yêu thương với Thiên Chúa. Tình yêu đích thực không bao giờ so đo tính toán hơn thiệt. Tình yêu đích thực luôn mời gọi niềm tin tưởng và phó thác. Qua đó, con người mới thể hiện được chính lòng khiêm nhượng đích thực của Kitô giáo. Cùng với thánh Phaolô, chúng ta hãy luôn tâm niệm: “Nếu phải vênh vang thì tôi chỉ vênh vang về những yếu hèn của tôi mà thôi, nhưng nhờ đó mà quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện”.
Linh mục văn sĩ Marlin Dòng Tên mời gọi những ai đọc đoạn Tin Mừng trên hãy thực hiện hai việc làm tưởng tượng sau đây để có thể hiểu thêm phần nào về đoạn Phúc âm mà chúng ta vừa nghe. Việc tưởng tượng thứ nhất là lùi về quá khứ 200 năm. Tác giả đề nghị chúng ta cầm lấy một nhật báo vừa xuất bản trong ngày, rồi lùi vào trong quá khứ 200 năm, giải thích những gì được in trong trang đầu tiên của tờ báo mà thôi cho những con người chúng ta gặp. Thử hỏi những con người đó sống cách chúng ta 200 năm về trước có tin được chúng ta hay không ? Có biết bao điều mà những con người đó không thể nào thực hiện được, những điều mà đối với chúng ta hôm nay xem ra như quá tầm thường. Chẳng hạn chiếc Radio, chiếc máy truyền hình v.v…, chúng ta có giải thích cách mấy đi nữa về chiếc truyền hình như là một kỹ thuật để giúp ta nhìn thấy và nghe được những gì xảy ra cách ta hàng ngàn dặm. Họ cũng sẽ trả lời chúng ta rằng, thông thường theo sự hiểu biết của chúng tôi thì chuyện đó không thể nào có được. Đó là nếu lùi vào quá khứ chỉ cách chúng ta 200 năm mà thôi, và càng lùi xa hơn nữa thì còn nhiều chuyện khó tin hơn nữa.
Rồi tác giả Marlin mời chúng ta đi nhanh về tương lai phía trước chúng ta 200 năm. Hãy tưởng tượng như có một người xa lạ nào đó sống trước chúng ta 200 năm trở lại nói với chúng ta hôm nay đây rằng, họ đang sống trong thế giới thật là hòa bình, không hận thù, không chiến tranh, không khổ cực, liệu chúng ta có tin người đó hay không ? Hay chúng ta cũng chỉ trả lời giống như câu trả lời chúng ta nghe trong trường hợp thứ nhất là nghe thường tình mà nói thì làm sao có chuyện đó được. Vì thường tình chúng ta đang giận ghét nhau, đang đánh giặc với nhau, đang mưu mô ám hại nhau… Thường tình chúng ta cảm nhận là như thế thì làm sao có thể tin vào điều khác được.
Quả thật, giữa con người với nhau trong cùng một thế giới vật chất hữu hình mà đã là khó tin nhau rồi thì thử hỏi làm sao ta có thể tin vào một người đến từ thế giới khác để nói cho chúng ta biết những sự thật khác với sự thật chúng ta thường biết. Điều này hướng dẫn chúng ta hiểu thêm tâm trạng của các tông đồ khi các ông tha thiết khẩn xin Chúa: “Lạy Thầy, xin thêm đức tin cho chúng con” mà chúng ta vừa đọc nơi câu đầu của bài Phúc âm hôm nay.
Trước đó, Chúa Giêsu vừa nói cho các ông về những sự thật của một cuộc sống cao thượng hơn, một cuộc sống có triển vọng được triển nở vào trong cõi đời đời. Đừng sống ích kỷ như người giàu có đối với Ladarô, đừng làm gương mù gương xấu, đừng làm tội, nhưng hãy tha thứ cho nhau. Đó là những chuyện, những điều dạy khác thường, ngoại thường không thể tưởng tượng được của một số người sống xa cách Chúa, không tin có Chúa. Thường tình làm sao có được những chuyện đó.
“Lạy Chúa xin thêm đức tin cho chúng con”. Có thể các tông đồ đã nhìn thấy những điểm này và các ngài cảm thấy khó tin vào những lời Chúa dạy, nên các ngài đã xin Chúa thêm đức tin cho. Để tin Chúa và tin những gì Chúa dạy bảo, Chúa không đòi hỏi chúng ta một đức tin trọn vẹn ngay từ đầu, nhưng một đức tin có thể nói một thiện chí nhỏ ngay từ đầu, dù nhỏ như hạt cải. Xét về chiều kích vật chất thì hạt cải là nhỏ, nhưng về tinh thần và sức sống trong hạt cải thì điều đó chắc chắn là không nhỏ. Sự sống đó đến từ Thiên Chúa, đến từ Đấng Tạo hóa. Chúa chỉ cần chúng ta mở ra cho Ngài, và như vậy bước đầu tiên là cần một chút thiện chí cố gắng nơi mỗi người chúng ta để tin vào Ngài, để rồi từ đó Ngài sẽ khai triển đức tin chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn, vững mạnh hơn.
Lời cầu nguyện của các tông đồ: “Lậy Thày, xin thêm đức tin cho chúng con”. Chúng con đang sống giữa cảnh đời với nhiều thách thức, làm cho chúng con có thể bị lung lay ; lung lay trong đức tin hay lạc mất đức tin.
Bài Phúc âm hôm nay nơi phần hai gợi lại cho chúng ta một bí quyết thêm nữa, đó là để phát triển đức tin cần phải có sự khiêm tốn. Khiêm tốn trước nhan Chúa, kể mình như không có công trạng gì để khoe với Chúa hay để đòi buộc Ngài phải làm điều này điều nọ cho chúng ta. Nhưng như là người đầy tớ trung tín khiêm nhượng, chu toàn những bổn phận Chúa trao phó cho chúng ta và nhìn nhận rằng, tất cả trong đời sống chúng ta đều là ân sủng của Chúa. Chúng ta khiêm tốn đón nhận, dù với những khuyết điểm. Chúng ta có đón nhận mọi hồng ân Chúa ban cho chúng ta, để rồi từ đó nhờ ơn Chúa chúng ta phát triển đức tin thêm lên mãi.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con được vững mạnh hơn trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
Có lẽ chúng ta bỡ ngỡ và thắc mắc: Tại sao Chúa Giêsu lại so sánh đức tin với hạt cải ? Hạt cải đây không phải là cải bẹ, cải bắp hay cải hoa, mà là một thứ cải đặc biệt ở xứ Palestin, nhỏ hơn hạt quả trứng cá, mà cây thì tương đương với cây trứng cá cao khoảng 4 – 5 thước. Hạt cải nhỏ bé như vậy mà chẳng lẽ người tín hữu Chúa lại không có được một lòng tin nhỏ bé như thế sao ? Nếu có, thì tại sao họ không thực hiện được những việc vĩ đại kỳ lạ như Chúa đã hứa ? Vậy, hoặc là họ không có một chút đức tin nào, dù chỉ bằng hạt cải. Hoặc là lời Chúa phải có ý nghĩa khác?
Đúng vậy, khi lấy hạt cải làm thí dụ, Chúa không có ý dạy rằng đức tin có thể đo lường được, vì không những đức tin thuộc lãnh vực tinh thần, thiêng liêng mà còn là một yếu tố siêu nhiên, siêu phàm mà chúng ta chỉ lãnh hội được qua dấu hiệu hay việc làm bên ngoài thôi. Thực vậy, người ta không thể nhìn thấy đức tin, vì nó không phải là vật chất. Nó là một cái gì có thật, nhưng thuộc thế giới tính thần. Người ta không thể thấy được nó, nhưng có thể biết nó có, nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Thí dụ: tôi có đức tin không, chẳng ai biết nhưng khi thấy tôi đi lễ, thấy tôi đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được tôi là người có đức tin. Vì tin có Chúa, tôi mới đi lễ để thờ phượng Ngài, tôi mới nghiêm trang để tôn kính Ngài. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ, mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa.
Tuy nhiên, đức tin không phải là một năng lực diệu kỳ ban cho chúng ta để chúng ta làm những chuyện động trời, giật gân như những nhà ảo thuật, pháp sư hay phù thủy cao tay ấn hầu trình diễn cho mọi người giải trí. Vì thế, khi Chúa Giêsu nói đức tin bằng hạt cải có năng lực chuyển núi rời non, truyền khiến cho cây khô héo, hoặc tự bứng đi xuống sống dưới biển, Ngài chỉ có ý đề cập tới sức mạnh siêu phàm của đức tin mà thôi. Cũng như người ta không thể đo lường đức tin như đo lường hạt cải, thì đức tin cũng không phải dùng để làm trò ảo thuật. Việc chuyển núi rời non không phải chỉ tùy thuộc vào đức tin mà còn tùy ở nhiều yếu tố khác nữa.
Chúng ta có đức tin không ? Chúng ta cần phân biệt niềm tin và đức tin. Niềm tin thì ai ai cũng có. Còn đức tin thì chỉ những ai đã lãnh bí tích rửa tội mới có mà thôi. Vậy tất cả chúng ta đều có đức tin. Nhưng hiện giờ đức tin của chúng ta thế nào ? Có lẽ vẫn còn rất yếu kém phải không ? Có bao giờ chúng ta noi gương các tông đồ xin Chúa gia tăng đức tin cho chúng ta không ? Các tông đồ xin Chúa gia tăng đức tin, có nghĩa là các ngài đã có đức tin, nhưng còn yếu kém, chúng ta cũng vậy, chúng ta đã có đức tin, nhưng còn yếu kém, chúng ta phải xin Chúa gia tăng đức tin để chúng ta sống và hành động theo đức tin.
Người ta kể rằng: tại một giáo xứ kia, người ta tụ họp nhau rất đông trong nhà thờ để cầu xin Chúa cho trời đổ mưa, vì trời hạn hán quá lâu rồi, trong khi mọi người đến nhà thờ cầu nguyện thì có một em thiếu niên cũng đến và đem theo một cái dù. Mọi người thấy em cầm cây dù tới nhà thờ thì xì xào với nhau: “Thật là dở hơi, trời đang hạn hán ai mà lại mang dù đến thế kia”. Cậu bé trả lời: “Ông bà cầu xin Chúa cho mưa, ông bà tin như thế phải không ? Chắc chắn là Chúa sẽ cho mưa, nên tôi phải đem dù theo để lát nữa còn về được”. Quả thật, Chúa liền cho một trận mưa thật lớn sau giờ cầu xin của mọi người. Nhưng có lẽ không phải vì đức tin của những người khác mà là do đức tin vững chắc của em thiếu niên đem theo cây dù kia.
Tôi xin nói thêm một chút nữa: cũng giống như mọi tài năng khác nơi con người, đức tin cần phải được triển nở, cần phải được sinh lợi. Năng khiếu không được rèn luyện sẽ mai một với thời gian, một đức tin không được vun trồng cũng sẽ chết dần chết mòn. Chúng ta diễn tả đức tin bằng những việc đạo đức, và chúng ta còn phải nuôi dưỡng đức tin bằng nhiều cố gắng khác nữa, nhất là sống quảng đại, vị tha và yêu thương.
Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta không ngừng ra khỏi cái nhìn gò bó, hẹp hòi của chúng ta, và không ngừng nhận ra Ngài vẫn luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta. Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta biết đón nhận Ngài trong những biến cố bất ngờ và nghịch thường nhất. Xin Ngài ban thêm đức tin để chúng ta biết đón nhận Ngài trong mọi người anh em, nhất là nơi những người thấp hèn, những người bất hạnh, và ngay cả nơi những người thù ghét chúng ta.
Người Kitô hữu tin vào tình yêu Chúa Kitô, tin vào bản thân Ngài. Đức tin ấy không chỉ là hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một đức tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta cần phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là tình yêu mà chúng ta tin, có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.
Người Kitô hữu luôn được mời gọi lớn lên trong đời sống đức tin của mình. Đức tin là một mầm sống phải không ngừng được triển nở và lớn lên mãi. Người Kitô hữu cần được lớn lên mỗi ngày. Nhưng giữa những thực tế của cuộc đời, biết bao bóng tối có thể bủa vây chúng ta, có thể làm chúng ta sợ hãi. Những lúc ấy đức tin non yếu của chúng ta dễ dàng bị lung lay. Chính vì thế chúng ta luôn phải cầu xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta.
Thử thách đau khổ là điều chúng ta không thích lắm. Vậy mà chúng ta vẫn gặp trong cuộc đời. Thế nhưng nếu biết tín thác vào Thiên Chúa, vươn lên bằng một sức mạnh của niềm tin. Sứ điệp lời Chúa hôm nay sẽ giúp chúng ta củng cố và khám phá lại xem niềm tin của mình lãnh nhận từ đâu ? Và chúng ta đón nhận sức mạnh niềm tin đó bằng cách nào và thể hiện niềm tin đó ra sao trong môi trường sống của mình.
Tôi đã chấp nhận điều mình không thấy dựa vào lời chứng của người khác đáng tín nhiệm hơn. Thiên Chúa luôn đi bước trước đến với con người trong việc thể hiện niềm tin, nếu Ngài không giúp, không ban sức mạnh, chúng ta không thể dấn thân và hướng về Ngài được. Bởi vậy, đức tin trước hết là một hồng ân, một món quà chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa một cách nhưng không, nhưng rất có giá trị. Vì thế, người Kitô hữu không được tự mãn với giá trị đó nhưng phải khao khát tìm kiếm như các tông đồ hôm nay trong bài Tin Mừng này, tìm Ngài xin Ngài hướng đi.
Trong những năm tháng đi theo Thầy, sống bên Thầy, học cùng Thầy, các tông đồ vẫn chưa đặt trọn cả con tim, tấm lòng của mình vào Thầy, bởi thế đứng trước những khó khăn, điều khiển cộng đoàn, các ông cảm thấy chưa đủ can đảm để chu toàn bổn phận cao cả ấy, nên đã chạy đến cầu cứu Thầy gia tăng sức mạnh để gánh vác cộng đoàn. Tại sao các ông lại khao khát đến thế ? Bởi vì các ông đang cần, đang thiếu nên mới xin Thầy ban cho, ban thêm đức tin cho mình.
Trong khi các ông đang khao khát một lòng tin vững mạnh thì Thầy lại ban cho một hạt đức tin bé nhỏ như hạt cải. Trước lời cầu xin đó Chúa mời gọi các ông ý thức lại tầm quan trọng và giá trị của niềm tin mình. Bằng cách hãy rời bỏ chỗ đứng của mình chuyển sang chỗ đứng đức tin, rời xa tầm nhìn của mình chuyển đến tầm nhìn đức tin. Ngày nay khi khoa học ngày càng phát triển, người ta tin vào nỗ lực tri thức mình hơn là tin Chúa. Theo bạn nghĩ gì về vấn đề này ? Như thế để có được sức mạnh của niềm tin người tông đồ phải làm gì ? Thiết nghĩ rằng cần mở lòng đón nhận qua sự gặp gỡ và cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống mình.
Cảm nhận sự hiện diện Thiên Chúa sẽ giúp người ta đón nhận được niềm tin đối diện với thử thách trong việc lựa chọn: dấn thân hay lùi bước, củng cố niềm tin hay đành đánh mất niềm tin. Cần sống tích cực hơn để tránh rơi vào tình trạng ngã lòng, kêu trách Thiên Chúa như dân Cựu ước năm xưa mà ngôn sứ Habacúc trong bài đọc I vừa nêu lên cho chúng ta. Cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa còn là tin Chúa, để Chúa lôi kéo, dẫn đi, biến đổi và gia tăng sức mạnh giúp người tông đồ can đảm chịu đựng đau khổ, không hổ thẹn làm chứng cho Tin Mừng như bài đọc II trong thư thứ 2 thánh Phaolô tông đồ gửi cho Timothê vừa nhắn gửi chúng ta tư tưởng này. Vì thế đón nhận niềm tin là dịp để chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa và tín thác vào Ngài.
Gặp gỡ Thiên Chúa là tín thác vào Ngài để lãnh nhận một sức mạnh mới thôi thúc người tông đồ dám mạo hiểm trong cách nghĩ, dám hành động trong cách làm ngay cả những công việc vượt sức con người. Gặp gỡ Chúa trong niềm tin giúp người ta dễ dàng qui hướng về Chúa, vượt ra khỏi sự hiểu biết hạn hẹp nơi mình. Lúc đó, người ta mới có đủ sức mạnh để chuyển núi dời non… mới phát sinh hiệu quả kỳ diệu trong cuộc sống và thể hiện hoa trái của niềm tin.
Sống đức tin đòi người ta phải hành động như lời thánh Giacôbê: “Đức tin không hành động là đức tin chết”. Hành động ở đây là hành động vô vị lợi, phục vụ nhưng không. Cách phục vụ này ngoài đời rất khó gặp, bởi vì không ai làm công không cho người khác bao giờ. Để đức tin sinh ơn ích, người Kitô phải sống như người đầy tớ tầm thường trước mặt Chúa, phải hành động như người làm công vô dụng, vô dụng không phải là vô tích sự nhưng có nghĩa là chu toàn bổn phận những công việc hàng ngày một cách khiêm nhường không cần ai biết đến, không tìm quyền lợi cho mình. Đó là cách trao ban niềm tin, phục vụ niềm tin cho người khác.
Đã đón nhận thì phải có trao ban, trao ban với tinh thần trách nhiệm: Không đòi Chúa trả công, bắt người ta đền ơn mình. Vì đức tin chúng ta lãnh nhận nhưng không từ Thiên Chúa thì giờ đây chúng ta phải trả lại nhưng không trong việc trao ban tình thương, chia sẻ tình bác ái cho tha nhân.
Là người Kitô hữu: không phải lúc nào niềm tin của chúng ta cũng vững mạnh cả đâu: có những lúc tôi cảm thấy có Chúa, tin Chúa, yêu Chúa bởi vì tôi gặp điều tốt lành, nhận nhiều hồng ân…
Có những lúc tôi cảm thấy không có Chúa, chán Chúa, đâm ra nghi ngờ không tin Chúa nữa bởi vì tôi gặp nhiều bất hạnh đau khổ, thử thách: cháy nhà, gặp tai nạn, thiên tai, lũ lụt, mất mùa, mất nhà, mất của mất người thân, hoặc thất nghiệp, thất bại, thất tình… Những lúc đó chúng ta đừng quá bi quan nhưng cần phải bình tĩnh suy nghĩ lại cho dù ta có đay nghiến ông trời, nguyền rủa Thiên Chúa, than thân trách phận, chúng ta cũng không tránh khỏi những đau khổ thử thách. Cho bằng chúng ta:
. Hãy lắng nghe tiếng Chúa, ý Chúa muốn tôi trong hoàn cảnh nào ?
. Cầu nguyện, đón nhận, phó thác, tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa.
Niềm tin luôn là một ân huệ Chúa ban: nên để có được sức mạnh niềm tin mình, người tông đồ cần phải biết mở lòng đón nhận, khao khát tìm kiếm ơn Chúa và thể hiện trong cuộc sống để niềm tin chúng ta mỗi ngày càng sinh nhiều hoa trái. Hoa trái này cần phải cụ thể bằng một quyết tâm cho mình: “Sống điều mình tin bằng việc yêu thương, giúp đỡ, nâng đỡ anh em đang gặp thử thách bên chúng ta”.
Maurice là một người nghiện rượu. Khi một linh mục đến thăm anh thì anh sống trong tầng hầm với con chó trong khi vợ anh sống trên căn gác. Về pháp lý, họ đã ly dị và chờ bán xong căn nhà để rồi chia tay.
Anh ta đã có một cuộc sống gian khổ. Hầu hết những rối loạn của anh bắt nguồn từ việc uống rượu mạnh. Anh nói hiện giờ anh uống chừng mực – nhưng nhiều người nghiện rượu vẫn nói thế. Có lần trong một cơn tuyệt vọng, anh đặt đầu súng vào miệng mình, nhưng khi nhìn thấy trên ngón tay mình chiếc nhẫn Mân Côi mà em gái anh cho anh, anh không thể bóp cò.
“Con vẫn còn tin Thiên Chúa” anh nói. Rồi nước mắt chảy trên khuôn mặt, anh nói tiếp “Nhưng con ao ước có được đức tin mà con đã có khi còn trẻ”.
“Điều gì làm cho đức tin ấy đẹp đến thế ?”linh mục hỏi.
“Khi con còn trẻ, con đã tin tưởng mọi việc – rất nhiều việc. Con đã chắc chắn về mọi sự. Nhưng thứ đức tin ấy không kéo dài. Giờ đây, con không tin chắc điều con phải tin. Con tra hỏi mọi việc. “ Anh ngừng lại sau đó buồn bã nói tiếp: “Có thể vợ con và con sẽ sống chung trở lại. Nhưng con đã làm mất tình cảm mà con đã có với cô ấy”.
“Anh đã đau khổ nhiều phải không Maurice ?” linh mục nói.
“Cha khỏi phải nói điều đó”, anh đáp.
“Anh có cảm thấy Thiên Chúa ở với anh trong suốt những năm anh say sưa ?” linh mục hỏi.
“Con cảm thấy điều đó, có lẽ trừ lúc con định tự tử. Con đã cảm thấy bị bỏ rơi đến tận cùng”.
Ở đây, người ta có thể cảm nhận phần nào nỗi cô đơn và đau buồn xé ruột nằm sâu trong mỗi con người mà đức tin đã mất. Tuy nhiên, đức tin của Maurice không hoàn toàn mất. Một vài sự vật bên ngoài đã bị cắt xén. Nhưng vẫn còn cái lời bên trong, đó là niềm xác tín rằng Thiên Chúa hiện hữu và chăm sóc anh ta.
Vì thế, anh bám chặt lấy đức tin thời niên thiếu. Bấy giờ, mọi vật đơn giản, rõ ràng và chắc chắn. Anh không nhận thấy rằng những thay đổi lớn lao đã xảy ra trong anh. Một vực thẳm đã ngăn cách anh với tuổi thơ của anh ngày trước.
Chúng ta không thể không cảm thấy có thiện cảm với anh. Nhiều người bám chặt lấy đức tin có khi còn thơ ấu. Và cũng đúng thôi – nó là cái gì đẹp. Nhà thơ Emily Dickinson nói:
Chúng ta bắt đầu hiểu rằng chúng ta đã tin có một lần và trọn vẹn.
Niềm tin không hợp lắm khi thường hay biến đổi.
Chúng ta thẹn đỏ mặt, nếu chúng ta thực hiện được thiên đàng, một biến cố khôn tả.
Chúng ta hẳn đã tránh xa, thậm chí xấu hổ và nhận được phép lạ.
Chúng ta cứ mãi nắm lại ý nghĩa tôn giáo của thế giới thơ ấu đã qua của chúng ta. Nhưng tất cả chúng ta phải để lại tuổi thơ đàng sau mình và cùng với nó một thế giới của những điều chắc chắn. Đức tin tuổi thơ đi qua hoặc ít nhất đã đổi thay. Tuy nhiên, không phải Thiên Chúa đổi thay mà chính chúng ta thay đổi. Tuy nhiên, cảm thấy như Maurice cảm thấy không có nghĩa là chúng ta đã mất đức tin. Tất cả điều ấy có nghĩa là chúng ta đang chiến đấu với đức tin.
Đức tin thơ mộng của tuổi thơ không thể bám giữ mãi được. Đức Giêsu nói chúng ta phải vào Nước Trời như một trẻ nhỏ, nhưng Người không nói chúng ta phải có đức tin của đứa trẻ. Đức tin của chúng ta phải là một đức tin trưởng thành, một đức tin đã vượt qua những sự phức tạp và mơ hồ của đời sống.
Mọi người chúng ta có thể lấy lại lời cầu nguyện của các tông đồ: “Lạy Chúa, xin tăng thêm đức tin cho chúng con”, bởi vì giữ gìn đức tin chưa đủ ; chúng ta phải trưởng thành trong đức tin. Đức tin trưởng thành khi nó thực hành. Đức tin cũng trưởng thành nhờ được nuôi dưỡng đều đặn. Chúng ta nuôi dưỡng đức tin như thế nào ? Bằng việc cầu nguyện và tiếp xúc với cộng đoàn đức tin.
Trong số những người có đạo, có một xu hướng nghĩ rằng Thiên Chúa phải ban cho họ một điều gì đó. Họ tưởng tượng Thiên Chúa như một ông chủ điển hình. Nếu chúng ta thực hiện xong công việc thì theo lẽ công bằng, ông chủ trả tiền lương cho chúng ta. Thiên Chúa ban cho chúng ta phần thưởng thiên đàng vì chúng ta đã trung tín phục vụ Người khi ở trần gian. Đây là thái độ rất dễ hiểu. Nhưng nó đưa ra một thái độ làm thuê, vụ lợi vào điều mà chủ yếu phải được xem là một việc làm yêu thương giữa Thiên Chúa và chúng ta. Mặt khác, nó hoàn toàn không giống với Tin Mừng.
Sự thật nổi bật là: chúng ta không bao giờ có thể đặt Thiên Chúa trong tư thế mắc nợ chúng ta. Đức Giêsu nói rằng dù khi chúng ta đã làm hết mọi việc mà chúng ta hy vọng làm được (và ai trong ta dám liều lĩnh xác nhận điều đó ?) Chúng ta cũng không thể đưa ra bất cứ đòi hỏi nào với Thiên Chúa. Trong thời đại của Đức Giêsu, đạo Do thái đã bị ý tưởng công nghiệp chi phối. Đức Giêsu đã đối đầu với thái độ đó.
Chân lý nền tảng về Kitô giáo là chúng ta có một tôn giáo của ân sủng chứ không phải một tôn giáo của công nghiệp. Sự cứu chuộc không thể kiếm được. Chúng ta không bao giờ có thể cho rằng Thiên Chúa mắc nợ chúng ta. Nhưng chúng ta cũng không nên có quan niệm đó. Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chúng ta là con cái của Người. Con cái không thực hiện ý muốn của cha mình để được thưởng công. Chúng làm điều đó bởi vì chúng muốn cố gắng đáp lại tình yêu thương của người cha dành cho chúng.
Quả là một niềm vui lớn khi chúng ta khám phá rằng không phải chúng ta không cần chứng tỏ mình với Thiên Chúa. Không phải chúng ta kiếm được tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta từ lâu trước khi chúng ta có thể làm một điều gì đó xứng đáng với tình yêu đó. Và Người yêu thương chúng ta cả khi chúng ta là những tội nhân. Nhiệm vụ của chúng ta là đáp lại tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta không giữ các giới răn để Thiên Chúa sẽ yêu thương chúng ta ; chúng ta giữ các giới răn bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tin Mừng có thể được tóm tắt như sau: Một Thiên Chúa quảng đại muốn các môn đệ phục vụ Người vì yêu thương không phải vì bổn phận. Vì thế, đức tin không đủ ; chúng ta cũng cần có tình yêu. Trong khi đức tin làm cho mọi việc có thể, tình yêu làm cho mọi việc dễ dàng.
Các công việc quảng đại nhất và anh hùng nhất trong đời sống là những công việc hoàn thành, không phải trong đường lối của bổn phận hoặc với niềm hy vọng có được tiền bạc hoặc những phần thưởng nào khác, nhưng chỉ thuần túy vì tình yêu. Chúng ta hãy xem xét tấm gương sau đây.
Buổi chiều muộn của một ngày mùa đông giá rét. Mọi người đều vội vã trở về nhà. Thình lình một tiếng kêu vang lên: “Có một người dưới lòng sông”. Người ta chạy đến bờ hè và nhìn xuống dòng nước đầy bùn, dơ bẩn. Đúng là có một người đàn ông đang dập dềnh trong nước đen. Tiếng kêu cứu tuyệt vọng đến những người đứng nhìn trong tiếng ồn ào của xe cộ.
Rồi với một tiếng két của thắng xe, một chiếc xe hơi quẹo ra khỏi luồng xe và cặp vào chỗ đậu xe sát lề đường. Một thanh niên nhảy ra khỏi xe, cởi áo và giày rồi leo lên chỗ bờ hè, quan sát thật nhanh và lao xuống nước bùn. Sau một vài nỗ lực không thành công, anh ta đã túm được người bị nạn và đưa người này đến chỗ an toàn.
Trên lề đường, một đám đông tụ tập xung quanh người bị nạn và chờ cho xe cứu thương đến. Ngay lúc đó, xe cứu thương đến và đưa người ấy đến bệnh viện. Ít lâu sau người ấy khỏe hẳn sau cơn thử thách. Một phóng viên đi qua, thấy câu chuyện có thể được khai thác, bắt đầu tìm kiếm thông tin. Nhưng thay vì tìm kiếm sự tôn vinh và tán thưởng của dân chúng, người cứu nạn đã biến mất.
Điều Thiên Chúa muốn chúng ta làm là chúng ta phải đến với Người như con cái đến với Cha mình, Người muốn chúng ta xử sự một cách vinh dự, không phải vì hy vọng được thưởng, mà vì yêu thương Người và nhiệt thành phục vụ Người.
Sự cứu chuộc là một ơn huệ chứ không phải là một phần thưởng. Một phần thưởng là một vật to lớn, nhưng nó không thể so sánh với niềm vui của một người cảm thấy khi nhận được một ân huệ.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Luca ghi lại 2 điều Chúa Giêsu căn dặn những kẻ muốn làm môn đệ Ngài.
Điều thứ nhất về đức tin: Câu chuyện khởi đầu với lời xin của các tông đồ “Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con”. Ta hãy chú ý họ là các tông đồ chứ không phải chỉ là môn đệ thường. Họ đã từng sống với Chúa Giêsu một thời gian dài, nghe biết bao điều Ngài giảng dạy, thấy biết bao điều Ngài làm. Họ là thành phần ưu tú được chọn riêng ra trong số 72 môn đệ. Thế mà họ vẫn cảm thấy mình thiếu đức tin.
Các tông đồ mà còn cảm thấy thiếu đức tin, thì huống chi chúng ta ! Nhiều khi chúng ta quỳ chầu trước Thánh Thể mà hình như không tin có Chúa đang ngự trong nhà tạm. Nhiều khi chúng ta rước lễ mà hình như không tin có Chúa đang thực sự ở trong lòng ta. Và nhiều khi đứng trước một hoàn cảnh khó khăn, chúng ta hình như không tin lời Chúa dạy “Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”. Mặc dù chúng ta đã học giáo lý nhiều, đã đọc Thánh Kinh nhiều, nhưng tại sao chúng ta không vững đức tin ? Như thế đủ biết đức tin không phải là kết quả của học hỏi, của kiến thức. Đức tin chính là một ơn ban. Tại sao rất nhiều bậc thông thái không có đức tin. Còn chúng ta không thông thái gì, thế mà có đức tin. Rõ ràng vì Chúa thương chúng ta nên ban đức tin cho chúng ta. Và chính vì đức tin là một ơn ban, cho nên chúng ta phải xin như các tông đồ ngày xưa: “Lạy Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con”.
Đức tin không phải là kết quả của học hỏi và của kiến thức. Ngược lại nhiều khi càng học biết nhiều thì càng khó mà tin. Tại sao thế ? Thưa tại vì trong đức tin luôn có một phần mờ tối, khi ta tin thì luôn có một phần mạo hiểm. Nếu tất cả đều sáng tỏ hết rồi ta mới tin thì đấy không phải là đức tin. Nếu tất cả đều chắc chắn rồi ta mới dấn thân thì đấy cũng không phải là một hành vi đức tin. Đức tin luôn có phần mờ tối, tin luôn đòi ta mạo hiểm dấn thân. Nhưng nói thế không phải là chúng ta tin cách mù quáng, trái lại chính vì chúng ta yêu. Xin lấy một thí dụ trong đời thường: ở một vùng kinh tế mới nọ, có một thanh niên và một thiếu nữ quen nhau. Mỗi người họ đến từ một miền khác nhau. Quen nhau một thời gian rồi họ yêu nhau. Và một hôm người thanh niên ngỏ lời xin cưới cô gái. Cô gái ưng thuận ngay. Người thanh niên mới hỏi: Em không biết gốc gác của anh, không biết gia đình anh, em không sợ bị anh gạt hay sao mà dám giao phó cuộc đời cho anh ? Cô gái đáp: không. Anh chàng hỏi thêm: Tại sao ? Và cô gái trả lời rất gọn: vì em yêu anh.
Người con gái ấy vì yêu nên đã tin người thanh niên nọ. Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta yêu Chúa thì chúng ta mới tin Chúa được, yêu càng nhiều thì tin càng mạnh. Cho nên ngoài việc xin Chúa ban thêm đức tin, chúng ta cũng cần xin Chúa ban thêm lòng yêu mến cho chúng ta.
Điều thứ hai Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là: người môn đệ Chúa phải biết phục vụ, và phục vụ cách vô vụ lợi. Giống như một người đầy tớ, sau khi đã đi cày, sau khi đã chăn chiên rồi về nhà còn phải dọn cơm cho chủ, đứng đó hầu hạ chủ, rồi dọn dẹp. Xong xuôi hết thì nói “Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng”. Nhiều chuyên viên Thánh Kinh nói rằng dịch chữ vô dụng không được đúng lắm. Ý nghĩa của nó là “Tôi chỉ là một người đầy tớ mà thôi, không hơn không kém”. Người đầy tớ thì đương nhiên phải phục vụ, phục vụ là bổn phận của người đầy tớ. Cho nên dù có phục vụ nhiều thì cũng không có gì là công lao để đòi chủ biết ơn.
Khi Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ để làm bài học cho các môn đệ, Ngài muốn nhắc chúng ta rằng làm môn đệ, làm tông đồ chính là làm đầy tớ. Bởi thế Đức Giáo Hoàng xưng mình là “Đầy tớ của các đầy tớ”.
Có một điểm rất sâu sắc về từ ngữ: trong Thánh Kinh, chữ “phục vụ” vừa chỉ việc làm của một người đầy tớ đối với chủ, vừa chỉ việc làm của người tín hữu phụng thờ Chúa. Tế lễ là phục vụ Chúa. Như thế, khi chúng ta phục vụ người ta thì cũng có nghĩa là chúng ta đang phụng thờ Chúa. Và nếu như suốt ngày chúng ta lo phục vụ anh em thì điều đó có nghĩa trọn ngày hôm đó của chúng ta là một thánh lễ nối dài.
Một thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một người trong bọn họ nói: “Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói: “Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham”. Người thứ ba nói: “Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người thứ tư châm vào: “Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Môsê và thầy mà thôi”.
Vị Rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi:
Ông có nghe họ ca tụng ông không ?
- Có.
- Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như thế ?
Vị Rabbi than phiền:
- Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi ?
Mong người ta ca ngợi sự khiêm tốn của mình thì chẳng còn khiêm tốn ! Cho dù thầy Rabbi có khôn ngoan như Salomon, đức tin ngang ngửa với Abraham, kiên nhẫn như ông Gióp và thân mật với Chúa như Môsê mà không có lòng khiêm tốn thì tất cả các nhân đức ấy cũng chỉ đổ sông đổ biển mà thôi. Nếu người ta thực hành các nhân đức, chu toàn các việc đạo, làm nhiều việc thiện, nhưng để tự mãn và khoe khoang công trạng thì ngay lúc đó họ không còn thánh thiện nữa.
Vì khiêm tốn là nền tảng của mọi nhân đức, nên hôm nay Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”. Thật vậy, chúng ta là những đầy tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm những gì phải làm. Cho dù là Đức Thánh Cha cũng luôn luôn nhận mình là “Đầy tớ của các đầy tớ Chúa”. Đã là đầy tớ thì phải vâng lệnh chủ, làm tất cả những gì ông sai bảo mà không được kể công, cũng không buộc ông phải nhớ ơn. Đó là chuyện hết sức bình thường, chuyện bổn phận. Có rất nhiều bổn phận phải chu toàn như bổn phận “Mến Chúa yêu người”, có ai dám nhận mình không hề thiếu sót. Cho dù họ có làm được điều gì tôn vinh Thiên Chúa hay phục vụ anh em đồng loại, thì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa ban cho.
Kẻ kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy mình cần Chúa, họ luôn tự mãn với thành quả mình đã đạt được, luôn cho rằng thành công là do mình tạo nên. Đó là nỗi bi đát cố hữu của những kẻ kiêu ngạo, của nhóm Pharisêu, và cũng là cám dỗ thường xuyên của mỗi người chúng ta.
Người khiêm tốn trái lại, luôn hãnh diện về những thiếu sót của mình, chính vì thiếu sót nên họ càng phải cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Thế nên, khi được thành công thì họ rất vui mừng cho rằng đó là món quà bất ngờ Chúa ban. Đó là lý do tại sao Chúa lại yêu thích những con người khiêm tốn như thế.
Nếu đã ý thức mình là thân phận nhỏ bé, là “đầy tớ vô dụng”, thì cho dù khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ nhưng kiêu căng một chút đã quá nhiều. Vì thế, chỉ có những ai thấu hiểu thân phận yếu đuối của mình, mới chứa nổi Đấng mạnh mẽ vô song. Chỉ có những kẻ xóa mình ra không mới có chỗ cho Đấng Vô Cùng. Chỉ có những chiếc bình trống rỗng mới có thể đón nhận tràn đầy hồng ân.
Người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên suốt ngày. Khi chiều về, anh còn phải lo cơm nước cho: TN 27-C10
Người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên suốt ngày. Khi chiều về, anh còn phải lo cơm nước cho chủ. Anh chỉ được ăn uống nghỉ ngơi khi chủ đã ăn xong. Đó là chuyện hết sức bình thường và tự nhiên đối với một người làm công được ông chủ mướn. Chủ không cần phải tỏ lòng biết ơn anh đầy tớ vì anh đã vâng phục mọi lệnh truyền của ông.
Chúng ta có thể là một Kitô hữu đạo đức, có thể đã vất vả nhọc nhằn phụng sự Chúa suốt đời. Nhưng Thiên Chúa không phải chịu ơn hay mắc nợ chúng ta, và chúng ta không có quyền đòi Ngài phải trả công cho xứng. Đơn giản chúng ta là tôi tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm điều phải làm.
Khó biết chừng nào khi làm được nhiều điều tốt đẹp mà vẫn giữ tấm lòng khiêm nhu.
Những việc đạo đức chúng ta làm có thể khiến chúng ta tự mãn trước Thiên Chúa. Đó là sa ngã của một số người Pharisêu và đó vẫn là cám dỗ thường xuyên của chúng ta.
Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện, mà thực ra là khoe công trạng của mình (x. Lc 18,9-14).
Công trạng, công đức, công nghiệp có thể thành vật cản khiến tôi chỉ thấy sự thánh thiện của tôi mà không thấy, cũng chẳng cần tình thương của Chúa.
Việc tốt tôi làm có thể làm tôi tự tôn trước anh em.
Người anh cả chỉ thấy những năm dài phục vụ cha, không khi nào trái lệnh, nên anh chẳng muốn đón nhận người em út.
Làm thế nào để chúng ta thật sự khiêm hạ trước Thiên Chúa, trước tha nhân và trước cả lòng mình.
Nhận mình chỉ là đầy tớ bình thường, không gì nổi bật, mình chỉ cố làm tròn bổn phận được giao.
Có nhiều bổn phận ta phải chu toàn.
Bổn phận của một thụ tạo trước Thiên Chúa Chí Thánh.
Bổn phận là con cái của Cha trên trời.
Bổn phận là môn đệ trung tín của Đức Kitô.
Bổn phận là anh em của mọi người.
Yêu mến, phụng sự, tôn kính, ca ngợi Thiên Chúa: đó là điều ta chẳng dám tự hào mình đã vuông tròn.
Giả như ta có làm được điều gì sáng danh Chúa thì cũng là nhờ ơn Chúa đỡ nâng.
Cả một ước muốn tốt lành nơi ta cũng đến từ Chúa.
Thiên đàng không phải là sự trả công của Thiên Chúa. Ngài không ký hợp đồng với người sống đạo đức để rồi Ngài buộc phải cho họ thiên đàng.
Thiên đàng là một quà tặng bất ngờ, ngỡ ngàng, không do công của tôi, nhưng do lòng tốt của Thiên Chúa.
Thiên đàng hạnh phúc vì tôi được gần Chúa hơn bao giờ.
Chúng ta không chọn Chúa để được thiên đàng.
Chúng ta mong thiên đàng để được gần Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, dám hy sinh hạnh phúc đời này để được hạnh phúc đời sau, đó có phải là một tính toán vụ lợi không? Con người có quyền tìm cho mình hạnh phúc thực sự không?
Con người khao khát hạnh phúc thực sự và lâu bền. Bạn nghĩ mình có thể tìm được hạnh phúc đó ở đâu? Ở thiên đàng có thứ hạnh phúc đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hàng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
Cây dâu là một loại cây tương đối lớn ở đất Israel, nó có bộ rễ rất to và khỏe. Còn hạt cải là: TN 27-C11
Cây dâu là một loại cây tương đối lớn ở đất Israel, nó có bộ rễ rất to và khỏe. Còn hạt cải là thứ hạt nhỏ xíu như đầu kim. Đức Giêsu dùng một hình ảnh rất sinh động để nói lên sức mạnh của lòng tin: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, anh em có thể ra lệnh cho cây dâu bật rễ lên, mọc dưới biển, nó sẽ vâng lời anh em."
Để làm bật rễ một cây dâu thật to, chỉ cần một chút đức tin bé nhỏ, nhưng phải là một thứ đức tin vững vàng mạnh mẽ.
Có nhiều thứ bám rễ trong đời tôi: những khuynh hướng xấu, những thói quen do môi trường, lối nhìn, lối nghĩ, lối đánh giá tha nhân, lối sống đạo theo thói quen, hình thức... Rễ chằng chịt khiến tôi khó gỡ ra để ném tất cả xuống lòng biển.
Chỉ khi có lòng tin vào quyền năng Thiên Chúa, tôi mới có thể gỡ mình khỏi những ràng buộc, mới làm được những điều tưởng như không sao làm nổi.
Với lòng tin đơn sơ, kiên vững, các ngư phủ đầu tiên của Hội Thánh chẳng những đã chuyển được núi, dời được non, mà còn làm chuyển rung cả thế giới.
"Xin thêm lòng tin cho chúng con":
Lời nài xin của các tông đồ cũng là của chúng ta, những người có đức tin nhỏ hơn hạt cải.
Tin là nghe theo lời Chúa, bước ra khỏi thuyền, đi trên sóng gió và tin mặt nước sẽ cứng như đá.
Tin như thế là dấn thân, là buông mình trọn vẹn, là thắng vượt được nỗi sợ và lý luận tự nhiên.
Tin là thái độ can đảm của người trưởng thành, chứ không phải là thái độ dựa dẫm của người ấu trĩ.
Người có lòng tin thì làm được những việc lớn lao, vì người đó đón lấy sức mạnh của Thiên Chúa và để cho sức mạnh ấy tự do hoạt động nơi mình.
Thế giới hôm nay có vẻ từ chối niềm tin, thật ra nó đang tìm kiếm một niềm tin nào đó.
Có biết bao giáo phái đủ loại xuất hiện khắp nơi.
Một số thanh niên Nhật tìm lẽ sống nơi giáo chủ Asahara.
Khi thanh niên Singapore có nhà, có xe và thẻ tín dụng, thì họ lại thấy thiếu một cái gì đó rất sâu.
Con người còn khắc khoải hoài cho đến khi gặp được Đấng Tuyệt Đối.
Chúng ta xin Chúa ban thêm lòng tin cho ta, để cuộc sống của ta bừng tỏa ánh sáng cho những người đang tìm kiếm Chân Lý cứu độ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngày nay, nhiều bạn trẻ đánh mất niềm tin vào cuộc sống và không thấy cuộc sống có ý nghĩa. Theo bạn, đâu là những nguyên nhân dẫn đến thái độ chán nản trên đây?
Có những bạn trẻ không tin vào Thiên Chúa, nhưng lại tin vào những nỗ lực của mình. Họ cố xây dựng cuộc đời bằng đôi tay và khối óc. Bạn nghĩ gì về họ? Đức Tin có giúp gì cho bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, để con làm bật rễ khỏi lòng con những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt để con thấy được thế giới mà mắt phàm không thấy, thấy được Đấng Vô Hình, nhưng rất gần gũi thân thương, thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh, dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân, dám tiến bước trong bóng đêm chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa, dám lội ngược dòng với thế gian và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi, hạnh phúc vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường, sung sướng vì biết mình được yêu ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp qua những cọ sát đau thương của phận người, để dù bao thăng trầm dâu bể, con cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người.
Trong một lần đi chia sẻ với các em sinh viên tại bờ hồ cạnh ký túc xá Tân Phú Thủ Đức, một em: TN 27-C12
Trong một lần đi chia sẻ với các em sinh viên tại bờ hồ cạnh ký túc xá Tân Phú Thủ Đức, một em sinh viên khi chia sẻ trả lời câu hỏi “Là ki-tô hữu, bạn được gì?” nói: “người bạn trong phòng của em thấy em thường cầu nguyện ban tối trước khi ngủ cũng như đi lễ Chúa Nhật, có lần đã nói với em: bạn có đạo, bạn hạnh phúc hơn mình, vì bạn có Chúa. Khi bạn buồn bạn có Chúa để nói, còn mình không có Chúa và bạn thân không ở gần, nên khi có điều buồn chẳng biết chia sẻ cùng ai”. Đức tin không vô bổ như có một số người hay “rêu rao”. Đức tin giúp con người vượt qua những khủng hoảng trong cuộc sống, giúp người ta sống an bình và chấp nhận cuộc đời.
Nhờ tin, được sống
Đức tin cứu độ không chỉ là tin có Thiên Chúa. Vì tin có Thiên Chúa, ngay cả ma quỷ cũng tin có Thiên Chúa (Gc.2, 19). Tin có Thiên Chúa, chưa đủ để giúp con người vượt qua những khó khăn và được bình an trong cuộc sống. Đức tin cứu độ, là tin tuyệt đối rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và Ngài đang làm những điều tốt nhất cho mình.
Đức tin cũng là hồng ân Thiên Chúa ban cho con người. Không có ơn Thánh Thần, con người không thể tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Chính đức tin tuyệt đối vào Thiên Chúa này, mà con người xin Thiên Chúa “gia tăng lòng tin của chúng con”. Đức tin, cũng bao hàm thái độ phó thác tất cả nơi Thiên Chúa. Thái độ phó thác chỉ có, khi tin tuyệt đối rằng Thiên Chúa yêu thương mình. Chính thái độ tin này, làm con người bình an ngay trong nghịch cảnh, ngay khi những điều trái ý đang xảy ra với mình, ngay cả khi dưới con mắt nhân loại đó là tuyệt vọng.
Trong cuộc sống, ai lại không gặp những khó khăn. Có những lúc, ngay cả những người thân yêu cũng như thể chẳng hiểu mình, như thể mình cô độc trên đời. Tin vào Thiên Chúa là Đấng yêu thương mình, Ngài sẽ giúp mình vượt qua sự cô độc đó. Có nhiều trường hợp gặp quá nhiều khủng hoảng, một người muốn tự tử để “được giải thoát” khỏi tất cả. Tuy vậy, vì tin rằng Thiên Chúa yêu thương và Ngài tạo dựng mình, Ngài yêu thương mình, và nếu có ai làm hại mình thì Thiên Chúa vẫn có thể lèo lái để ngay cả điều hại cũng thành tốt cho mình, nên người đó đã vượt qua khủng hoảng kinh khiếp đó. Cũng có thể mình và gia đình mình gặp gian nan thử thách như thể không thể vượt qua, tin vào Thiên Chúa yêu thương và phó thác tất cả cho Ngài, sẽ giúp mình và gia đình vượt qua những gian nan thử thách.
Kinh Thánh Cựu Ước có rất nhiều trình thuật cho thấy lòng tin của con người đối với Thiên Chúa. Chẳng hạn ông Nô-ê đóng tàu trong một hoàn cảnh không có gì đe dọa, và cam chịu những tiếng cười chê khinh bỉ (St.6, 5tt). Khi lụt hồng thủy đến, ông và gia đình đã sống nhờ chiếc tàu. Chính nhờ tin và vâng lời Thiên Chúa, mà ông và gia đình đã được cứu.
Đức Maria- người tin tuyệt đối vào Thiên Chúa
Hôm nay là lễ Mân Côi (07.10.01), cũng là dịp chúng ta nhìn lên Đức Mẹ, để thấy Mẹ tin vào Thiên Chúa như thế nào. Nhiều người Công Giáo chịu ảnh hưởng bởi quan niệm Đức Maria được Thiên Chúa yêu thương và được chuẩn bị cho là Mẹ Thiên Chúa, nên nhìn Đức Maria như thể rất xa vời với mình, bởi vậy khó nhận ra Đức Mẹ có những điểm giống mình và mình được mời gọi nhìn lên Mẹ để noi gương bắt chước.
Hãy nhìn Mẹ trước biến cố truyền tin, như bất kỳ một cô gái nhà quê nào khác ở Nazarét. Maria đã yêu Yuse và muốn lập gia đình với Yuse như chuyện thế gian thường tình. Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp, và Maria đã chấp nhận đề nghị của Thiên Chúa bất chấp: Nguy cơ mất người mình yêu mến là Yuse, vì làm sao Yuse có thể hiểu “tự nhiên” mà Maria có thai; Nguy hiểm đến tính mạng, vì chỉ cần Yuse nói sự thật, cái thai đó không phải của Yuse, thì tính mạng Maria vô cùng nguy hiểm. Luật Do Thái truyền ném đá những người ngoại tình;
Danh tiếng gia đình bị ô nhơ, vì con gái “không chồng mà có con”.
Với tất cả những điều này, Maria vẫn thưa tiếng xin vâng, nghĩa là, Maria chọn Thiên Chúa trên tất cả, trên cả tình yêu riêng của mình, trên cả danh giá gia đình, trên cả mạng sống của mình. Maria chỉ có thể thưa tiếng xin vâng, khi Maria tin tuyệt đối rằng Thiên Chúa sẽ lo tất cả cho mình.
Mẹ Maria tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, và sẵn sàng để Thiên Chúa làm tất cả những gì Ngài muốn trên cuộc đời mình. Chính điều này, làm Mẹ trở thành người tuyệt vời. Thái độ này không chỉ xảy ra một lần trong cả đời của Mẹ, nhưng đã liên tục xảy ra suốt đời của Mẹ, chẳng hạn như lúc sinh hạ Con trong chuồng chiên cừu, khi Đức Giêsu cố tình ở lại đền thờ, khi Mẹ đứng dưới chân thập giá. Cuộc đời của Mẹ, có lẽ còn nhiều gian nan và thập giá hơn cuộc đời mỗi người chúng ta. Chúng ta được mời gọi, để có thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa như Mẹ.
Nếu có đức tin bằng hạt cải
Đức Giêsu nói: “Nếu anh em có đức tin bằng hạt cải, anh em có thể nói với cây dâu này, nhổ rễ và chuyển xuống biển mà mọc, thì nó sẽ vâng lời”. Không ai đã làm như vậy, hoặc vì không ai có đức tin bằng hạt cải, hoặc vì những điều “lạ thường” đó vẫn đang xảy ra mà con người không nhận ra thôi. Chính Đức Giêsu cũng không chuyển núi dời non, nhưng Ngài đã làm những điều rất “không bình thường” trong cuộc sống: Ngài đã chấp nhận cái chết, cái chết ô nhục trên thập giá, vì yêu.
Xin Chúa cho chúng ta có đức tin “bằng hạt cải”, hầu có thể khiêm tốn và kiên nhẫn phục vụ anh em trong cuộc sống thường ngày. Xin cho chúng ta có đức tin tuyệt đối vào Thiên Chúa tình yêu, hầu chúng ta sống hạnh phúc không chỉ ở đời sau, nhưng ngay ở đời này và ở đây, giây phút này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Để có thể phục vụ cách khiêm tốn, có cần đức tin không? Tại sao? 2. Không đức tin, con người có thể sống hạnh phúc không? Tại sao? 3. Với kinh nghiệm bản thân, đức tin (tin vào Thiên Chúa) giúp gì cho bạn?
Có một câu chuyện hay về một bác nông dân đi tản bộ trên đường. Ông gặp một cậu bé đang: TN 27-C13
Có một câu chuyện hay về một bác nông dân đi tản bộ trên đường. Ông gặp một cậu bé đang nhìn chán nản vào một bó cỏ khô rơi từ chiếc xe ngựa của cậu. Bác nông dân thương xót cậu bé và nó với cậu, "Cậu trẻ, tôi đang trên đường đi ăn trưa, đi với tôi. Sau khi đã ăn uống nghỉ ngơi rồi, tôi sẻ trở lại đây với cậu rồi chúng ta hợp sức đưa bó cỏ này lên xe của cậu." Cậu bé trả lời, "Con không nghĩ là ba con muốn con làm như thế." Thế nhưng ý chí của bác nông dân sau cùng cũng thuyết phục và cậu bé đã đi ăn trưa với bác nông dân. Hai tiếng đồng hồ sau, sau khi đã nghỉ ngơi và khoẻ mạnh lại, họ đã trở lại chỗ chiếc xe ngựa. Trong khi họ ra sức đưa bó cỏ lên xe, bác nông dân thầm nghĩ rằng tại sao một cậu bé lại chịu một trách nhiệm di chuyển một bó cỏ nặng này. Ông liền hỏi cậu bé, "Ba con đâu?" Cậu bé trả lời, "Ba con đang bị đè dưới bó cỏ!" Tôi xin mạo muội nói rằng có rất nhiều lúc chúng ta cảm thấy cả một gánh nặng đang đổ ập trên chúng ta và chúng ta cần Chúa Giêsu đến để giải thoát chúng ta.
Sau khi đã suy niệm kỹ càng về những nghi vấn này, nhà tâm lý học Carl Jung đã viết, "Tôi chỉ còn mong ước mọi Kitô hữu ngày nay có thể nhìn thấy rằng những gì mà họ nắm giữ thật sự không phải là Kitô Giáo tý nào cả mà là một tôn giáo theo chủ nghĩa hợp pháp của một Thiên Chúa kinh khiếp." Nói đơn giản, nó có nghĩa là nhiều người đang muốn sống một đời sống Kitô giáo và ra sức ủng hộ Giáo Hội của Chúa Kitô, thì lại đi lầm đường lạc lối. Họ đang đi trên đường của một "tôn giáo theo chủ nghĩa hợp pháp về một Thiên Chúa kinh khiếp" Đó chính là điều mà Chúa Giêsu đã đến để giải thoát họ.
Nhìn lại kinh nghiệm Cựu Ước giúp chúng ta hiểu được luận đề này. Dân Israel thấu hiểu được chính họ có một mối liên hệ Giao Ước với Thiên Chúa. Họ đã nhận biết Giao Ước chính là một bản hợp đồng giữa hai phe không bằng nhau: Thiên Chúa và Dân Ngài Chọn. Theo những điều kế ước của bản Giao Ước, Thiên Chúa sẽ là người bảo hộ và che chở Dân Ngài và đưa dân Israel đến hoàn hảo trọn vẹn. Còn về phần họ, dân Ngài phải luôn trung tín với Ngài và vâng giữ những lề luật của Ngài. Như thế, "một tôn giáo theo chủ nghĩa hợp pháp" - tôn giáo mà trong đó con người kiếm được ân huệ của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa chính là phần thưởng cho tín hữu còn vâng phục với Lề Luật. Đây chính là phương thức mà Thánh Phaolô đã nhìn thấy, trước khi ông trở lại với Đức Kitô.
Thánh Phaolô đã theo chủ nghĩa hợp pháp chân chính và nhiệm nhặt. Ông đã gọi chính mình là "Biệt phái của những người Biệt phái." Biến cố Đamát đã hoàn toàn biến đổi cách sống của ông. Đức Kitô Phục Sinh chính là sứ điệp, câu chuyện, bài ca, giáo huấn, và giảng dạy của ông. Thánh Phaolô muốn cho toàn thể thế giới nhìn thấy Đức Giêsu y như ông đã thấy Ngài. Cái cảm nghiệm làm nguyên nhân cho sự biến đổi cuộc sống của ông cũng làm cho ông đổi tên từ Saolô thành Phaolô như ta đều biết: "Tôi trở nên người mới. Tôi không còn là người như trước nữa. Quan điểm của tôi về Đức Giêsu đã biến đổi tôi triệt để." Thánh Phaolô nói rằng giờ đây ông đã thấu hiểu rằng chúng ta không cần phải tìm kiếm để đạt được những ân huệ của Thiên Chúa qua việc đi Nhà Thờ hay cho tha nhân ăn hoặc chỉ biết tuân phục những lề luật. Thiên Chúa ưu đãi chúng ta, yêu thương chúng ta, trước cả khi chúng ta làm những việc này. Tất cả chúng ta chỉ cần làm một việc để lãnh nhận tình yêu của Thiên Chúa chính là nhận lãnh nó, nhận biết nó, chấp nhận nó như là ơn huệ tuyệt đối. Đây chính là cảm nghiệm giải thoát cho những người thực tập một tôn giáo theo chủ nghĩa hợp pháp. Các bạn có thể cảm nghiệm được cái gánh nặng của lề luật đang trượt khỏi vai của các bạn và các bạn cảm nghiệm được một cuộc giải phóng mới trong đời sống của các bạn.
Thánh Phaolô đã hy hiến trót cuộc sống của ông kêu gọi dân chúng chấp nhận món quà Tình Yêu vĩ đại trong Đức Tin mà Thiên Chúa hằng luôn luôn ban phát. Chúng ta không thể cố gắng để xứng đạt được. Chúng ta không thể cố gắng giành được nó! Chúng ta không thể mang cái gánh nặng ấy được. Thánh Phaolô đã chỉ rõ cho chúng ta biết rằng mọi Kitô hữu được kêu mời làm một quyết định Đức Tin để tin cậy vào lòng Nhân Hậu của Thiên Chúa, lòng Khoan Dung của Thiên Chúa, lòng Thương Xót của Thiên Chúa, và vào Tình Thương của Thiên Chúa. Quyết định này có thể xảy ra trong những trường hợp gây sâu sắc như đã xảy ra cho Thánh Phaolô, hay trong những trường hợp thật là bình thường, giống như đã và đang xảy ra cho chúng ta. Và chúng ta thật là lầm lạc khi nghĩ rằng hành động duy nhất của Đức Tin thì kém chân thật bởi vì chúng ta không được nghe thấy ca đoàn thiên thần ca hát hay vì chúng ta không bị kinh sợ và hãi hùng như cảm nghiệm của Thánh Tông Đồ Phaolô. Cái cốt yếu chính là sẽ có lúc chúng ta phải thưa, "Vâng! Chính nó! Tôi thấy! Tôi hiểu. Tôi sẽ xin thưa 'Vâng!' với Thiên Chúa trong phương thức mới. Tôi sẽ thôi không sống trong phương thức của chủ nghĩa hợp pháp cũ nữa. Tôi sẽ thôi khiếp sợ rằng Thiên Chúa sẽ đánh phạt tôi nếu tôi không làm cái này hay cái nọ. Tôi sẽ thôi không còn nghĩ rằng tôi phải đi Nhà Thờ nữa. Trong chính thâm tâm sâu thẳm của tôi, tôi biết rằng từ muôn đời tôi đã được sủng ái bởi Thiên Chúa và yêu mến bởi Ngài. Tôi sẽ nhận biết rằng có một chân lý đã giải thoát tôi. Tôi sẽ biết rằng Chúa Giêsu đang nâng cái gánh nặng của tôn giáo theo chủ nghĩa hợp pháp khỏi vai tôi khi tôi chấp nhận thực tại này."
Nhiều người đã hiểu sai lời Thánh Tin Mừng hôm nay. Tôi nói đến những người nghe Tin Mừng hôm nay rồi nói, "Tôi không còn phải tuân giữ những giới răn nữa. Tôi không còn lo lắng về "Chớ ngoại tình", "Chớ ăn cắp", và về Tám Mối Phúc Thật nữa. Tôi được giải thoát khỏi những ràng buộc đấy rồi bởi vì tôi đã làm một việc Đức Tin, tin vào Thiên Chúa thương xót và yêu thương mà thôi." Có đúng không? ... Sai! Các bạn đã nhận sai vấn đề! Đức Tin không việc làm là đức tin chết. Các bạn cần phải biết rằng sự tuân phục kỷ luật, và những việc lành thật là quan trọng cốt yếu, thế nhưng chúng chỉ là những phương thức mà chúng ta nói với Thiên Chúa, "Con xin cảm tạ Chúa vì yêu thương chúng con!" Chúng chỉ là những phương thức bày tỏ rằng đức tin của chúng ta thì đích thực. Chúng ta trở nên những Kitô hữu trung thành không chỉ gắng chiếm lấy tình yêu Chúa nhưng qua việc chấp nhận tình yêu Ngài, rồi sau đó, phản chiếu theo cách thức chúng ta sống và theo cách thức chúng ta yêu! Không thể nào thành thực chấp nhận Tình Yêu Chúa mà không phản chiếu nó trong lòng yêu tha nhân.
Những bài giảng cuối cùng của Đức Giêsu trước khi chịu nạn, trong chương 17 và 18 của Luca: TN 27-C14
Những bài giảng cuối cùng của Đức Giêsu trước khi chịu nạn, trong chương 17 và 18 của Luca, nhấn mạnh tới cuộc sống đức tin.
(c.6) Cây dâu có rễ chằng chịt, rất khó nhổ và cũng không sống dưới nước được. Tuy nhiên, một tí xíu đức tin thôi cũng đủ để cải biến chúng ta đến độ chúng ta có thể thay đổi cách nhìn cũng như cải biến mọi vật chung quanh một cách dị thường.
Câu trả lời của Chúa cho thấy là các môn đệ, dù đã theo sống và học với Chúa trong nhiều năm, và nay đưa Chúa lên Jerusalem chịu nạn, vẫn chưa có tí đức tin nào.
(c.7) Thời đó khoảng hai phần ba dân chúng còn là nô lệ hay mới được tự do.
Chúng ta là những "đầy tớ vô dụng" không phải vì chúng ta không làm được gì cho Chúa hay là Chúa không ban gì cho chúng ta. Những gì ta làm thì ta cứ phải làm vì đó là nhiệm vụ. Những gì Chúa ban không phải vì ta đáng công nhưng vì Chúa thương ban cho ta cách nhưng không. Có nhiêù nhà lãnh đạo Do Thái hồi đó nghĩ rằng cứ sống đúng lề luật thì sẽ được Chúa thưởng (18:9-12).
Một ơn cao quý mà Chúa ban là ta được thuộc về gia quyến Ngài.
Hai ý tương có vẻ rời rạc trong phúc âm hôm nay, là sức mạnh của đức tin và người đầy tớ vô dụng, lại liên hệ mật thiết với nhau: với đức tin ta làm được những việc diệu kỳ nhưng dó chỉ là nhiệm vụ của ta, đừng vì thế mà nghĩ là Chúa mắc nợ ta điều gì hay là ta có thể kênh kiệu với người khác.
Một Điểm Chính
Với đức tin, ta có thể thấy và làm được những việc cao trọng cho Chúa, nhưng công trạng thuộc về Chúa và những ơn huệ Chúa ban là vì Chúa thương chứ không phải vì ta đáng công. Một ơn cao trọng là được thuộc về nhà Chúa.
Suy Niệm
Những suy niệm tuần này trích từ bài của Cha Dennis Hamm, SJ, trong báo America:
Bạn dã có bao giờ vui vẻ đóng một vai trò tầm thường trong một tổ chức mà bạn quý trọng không? Kinh nghiệm đó có giúp bạn hiểu thêm dụ ngôn ngày hôm nay không?
Bạn có cảm thấy min`h thuộc về gia quyến của Chúa không?
Làm sao bạn có thể giúp người khác cảm thấy được Giáo Hội là gia đình của họ?
Nếu bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVI Mùa Thường Niên Năm C tuần trước, đối với các người: TN 27-C15
Nếu bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVI Mùa Thường Niên Năm C tuần trước, đối với các người Pharisiêu không tin lời Người khẳng định với các môn đệ rằng “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ... Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn người phú hộ và Lazarô để cảnh giác họ là vấn đề công chính không phải chỉ ở tại việc giữ cặn kẽ luật Chúa mà còn hệ tại việc giữ nghĩa với tha nhân nữa, vì lề luật được trọn vẹn nơi đức bác ái. Cũng trong bài chia sẻ tuần trước, chúng ta đã đề cập đến lý do sâu xa tại sao người phú hộ bị hư đi đời đời, không phải chỉ vì ông ta không chịu làm việc bác ái khi có thể mà còn chính vì bởi ông thiếu đức tin, một đức tin cứu rỗi chẳng những cần cho người phú hộ mà còn cần cho cả Lazarô bần cùng khốn khổ nữa. Chính vì hiểu được tầm mức tối hệ trọng của một đức tin cứu độ như thế, các tông đồ, trong bài Phúc Âm hôm nay, đã tha thiết nài xin Thày của mình: “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” hay “Xin Thày hãy làm cho đức tin của chúng con tăng tiến”. Ở đây, chúng ta thấy các tông đồ không xin Chúa Giêsu ban cho các vị đức tin, mà là “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con”, một đức tin các vị đã có. Tức là, các vị thâm tín được rằng, dù các vị đã thực sự tin vào Người: “Thày là Đức Kitô của Thiên Chúa”, như bài Phúc Âm Thánh Luca ở Chúa Nhật XII cách đây 15 tuần thuật lại, song đức tin ấy vẫn còn yếu kém, chưa hoàn toàn, cần phải vững mạnh hơn nữa. Tại sao? Nếu không phải tại vì các vị đã cảm nghiệm thấm thía dụ ngôn Chúa Giêsu nói với các vị ở bài Phúc Âm hai tuần trước, về trách nhiệm của các vị đối với những gì được Người ủy thác cho, dụ ngôn về người quản gia phải thanh toán với chủ vì người quản gia này đã làm thiệt hại chủ của mình. Thế nhưng, vấn đề ở đây là Chúa Giêsu có đáp ứng lời các môn đệ khẩn thiết kêu nài “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” hay chăng? Nếu không thì tại sao và nếu có thì như thế nào??
Đọc kỹ bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu hình như không đáp ứng lời yêu cầu chính đáng của các môn đệ gì cả. Bởi vì, trong khi các vị “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con”, thay vì Người để tay lên đầu các vị để nhờ đó các vị được đầy Thần Linh, cũng nhờ đó các vị được thêm đức tin tỏ tường ngay lập tức, thì Người lại vòng vo nói với các vị rằng: “Nếu các con có đức tin bằng cỡ hạt cải thì các con có thể nói với cây sung này rằng ‘Hãy bật rễ lên xuống biển mà mọc’ thì nó sẽ tuân lệnh các con”. Chưa hết, sau khi khẳng định như thế rồi, Người còn dạy các vị một dụ ngôn khác nữa, về vai trò của một người đầy tớ, người đầy tớ mà cho dù đã hết mình phục vụ chủ, chứ không phải như người quản gia bê bối của dụ ngôn trong bài Phúc Âm hai tuần trước, cuối cùng phải thành thực thú nhận: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi”. Qua thái độ và câu trả lời của Chúa Giêsu trong việc Người tỏ ra đáp ứng lời các môn đệ khẩn nài “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” như thế, chúng ta thấy như thế nào? Hình như Người muốn đẩy trách nhiệm phát triển đức tin, tăng tiến đức tin cho chính các vị, thành phần đã lãnh nhận đức tin từ Người, hay nói cách khác, thành phần đã được Người ban cho đức tin, bằng việc Người đã tỏ mình ra cho các vị. Đó là lý do, theo bài Phúc Âm cách đây 15 tuần, sau một thời gian tỏ mình ra cho các môn đệ, thành phần được Người tuyển chọn theo Người để sau này làm chứng nhân cho Người, Người đã muốn các vị tự trắc nghiệm xem các vị đã tin vào Người tới đâu, đã hiểu Người thế nào, bằng câu hỏi “Phần các con, các con nghĩ Thày là ai?”.
Đúng thế, đối tượng của “đức tin tuân phục” (Rm 1:5) chính là mạc khải thần linh, và nếu mạc khải thần linh được Thiên Chúa thực hiện như “một người gieo giống tốt trong ruộng của mình” (Mt 13:24), thì đức tin tuân phục cần phải được con người tỏ bày ra như một mảnh đất tốt, để hạt giống mạc khải thần linh có thể trọn vẹn trổ sinh tối đa tầm vóc cứu độ của mình. Như thế, việc đức tin tăng triển hay lớn lên thực sự là trách nhiệm của mảnh đất nhận được hạt giống mạc khải thần linh, đến nỗi, chính Chúa Giêsu đã đồng hóa hạt giống mạc khải thần linh với mảnh đất nhận lãnh hạt giống này, khi Người dẫn giải về số phận của các hạt giống rơi vào bốn môi trường khác nhau trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 13, câu 18, 20, 22 và 23 như sau: “Hạt rơi trên vệ đường là người… hạt rơi trên đá sỏi là người… hạt rơi vào bụi gai là người… hạt rơi xuống đất tốt là người”. Chúng ta hãy để ý là, trước khi rơi xuống các loại đất, nghĩa là khi còn trong lòng bàn tay của người gieo giống, hay trong dự án cứu độ của Thiên Chúa, thì hạt giống đây là biểu hiệu cho mạc khải thần linh Thiên Chúa muốn tỏ cho loài người biết về Ngài để họ tin mà được sống, thế nhưng, một khi đã tỏ cho loài người rồi, nghĩa là một khi hạt giống mạc khải thần linh đã được gieo xuống đất rồi, thì hạt giống mạc khải thần linh liền bị đồng hóa với loài người, với các loại đất, chẳng khác gì như đã xẩy ra nơi mầu nhiệm và biến cố “Lời đã hóa thành nhục thể” được Phúc Âm Thánh Gioan chân nhận ở đoạn 1 câu 14. Do đó, như vừa nhận định, Chúa Giêsu mới đồng hóa “Hạt rơi trên vệ đường là người… hạt rơi trên đá sỏi là người… hạt rơi vào bụi gai là người… hạt rơi xuống đất tốt là người”.
Tuy nhiên, dù bị đồng hóa với môi trường, hay bị lệ thuộc vào môi trường để có thể tồn tại và phát triển như thế, không có nghĩa là hạt giống mạc khải thần linh tự mình không thể nẩy mầm, phát triển và trổ sinh hoa trái. Trái lại, sự kiện đất tự mình không thể trổ sinh hoa trái nếu thiếu hạt giống chính là dấu chứng tỏ hạt giống tự mình có thể tự nẩy mầm, phát triển và trổ sinh hoa trái, miễn là gặp môi trường tốt đất. Vậy trách nhiệm của mảnh đất chất chứa hạt giống chỉ là trách nhiệm của một người quản gia mà thôi, trách nhiệm chẳng những gìn giữ những gì mình có, phải bảo toàn những gì được ủy thác cho mình, mà còn phải phát triển những gì mình có, còn phải sinh lợi những gì được ủy thác cho mình nữa. Chính vì không trực tiếp dính dáng gì đến khả năng tự mình nẩy mầm, phát triển và trổ sinh hoa trái của hạt giống mạc khải thần linh nơi mình, với thân phận chỉ là một mảnh đất quản gia như thế, mà mảnh đất nhân tính con người chỉ đóng vai trò như một người đầy tớ trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi”. Đến đây, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa sâu xa của phản ứng Chúa Giêsu tỏ ra, khi các môn đệ khẩn nài Người “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con”, bằng việc Người khẳng định với các vị rằng: “Nếu các con có đức tin bằng cỡ hạt cải thì các con có thể nói với cây sung này rằng ‘Hãy bật rễ lên xuống biển mà mọc’ thì nó sẽ tuân lệnh các con”. Đúng thế, qua lời khẳng định này, Chúa Giêsu ngầm chỉ cho các môn đệ biết bí quyết làm cho đức tin các vị đã có được tăng phát, theo lòng ước mong của các vị.
Phải, “hạt cải là hạt nhỏ nhất trong các hạt giống”, như lời Chúa Giêsu cắt nghĩa trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 13 câu 32. “Nếu các con có đức tin bằng cỡ hạt cải”, nghĩa là có đức tin ở cỡ nhỏ nhất, thì câu này nghĩa là gì, nếu không phải nghĩa là “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi”. Vậy bí quyết Chúa Giêsu dạy các môn đệ để có thể tạo môi trường thuận lợi cho hạt giống đức tin nơi các vị có thể tăng phát đây chính là việc các vị “hãy hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ”, như Người khuyên các vị ở Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 18 câu 3, một lời khuyên Người muốn đề ra để giải quyết vấn đề tranh chấp giữa các vị về ngôi thứ được các vị đặt ra với Người: “Ai là kẻ lớn nhất trong Vương Quốc của Thiên Chúa?”. Nếu “Vương Quốc của Thiên Chúa” đã được Chúa Kitô, Lời Nhập Thể, thiết lập trên thế gian bằng chính cuộc Vượt Qua của mình, và Vương Quốc này còn cần phải được “trị đến” (Mt 6:10) “cho đến tận cùng trái đất” (Acts 1:8), tức cho đến khi được hoàn toàn tỏ hiện trong ngày cánh chung, hay cho đến khi Người đến trong vinh quang, thì quả thực thành phần được Người sai đi sau khi Người phục sinh từ trong cõi chết (x Mt 28:19; Mk 16:15) phải có trách nhiệm là những vị quản gia “trung thành và khôn ngoan” (Mt 24:45), một quản gia với tinh thần của một người tôi tớ xin vâng như Mẹ Maria (x Lk 1:38), thành phần bao giờ cũng thâm tín và tuyên nhận: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Theo lời Chúa Giêsu khuyên các môn đệ là thành phần theo Người trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVII Mùa Thường Niên Năm C hôm nay “Sau khi các con làm xong tất cả những gì các con được lệnh làm thì các con hãy nói rằng ‘Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi’”, chúng ta có thể áp dụng vào trường hợp đừng tự phụ khi chúng ta làm được một việc gì lành, nhất là khi đóng góp hữu hiệu vào việc chung, đến nỗi đừng có tự đắc là nếu không cò mình thì không ai có thể làm được việc đó. Bởi vì, nếu thực sự là việc của Chúa thì Ngài có thể hoàn thành bằng bất cứ cách nào và qua bất cứ ai. Thế nhưng, trên thực tế, nếu quả thực chúng ta cố gắng chu toàn phần vụ của mình, thì tại sao Chúa Giêsu lại dạy chúng ta phải phủ nhận công trạng của mình, cho rằng mình là đồ vô dụng? Nếu vậy phần rỗi đời đời của chúng ta hoàn toàn là do ơn Chúa, chứ chúng ta chẳng có công gì hay sao?
Hôm nay, kính mời bà con cô bác cùng làm một chuyến du hành. Chúng ta hãy ngồi vào máy: TN 27-C16
Hôm nay, kính mời bà con cô bác cùng làm một chuyến du hành.
Chúng ta hãy ngồi vào máy điện toán thời gian, và đi giựt lùi trở lại vào lịch sử. Đi đến năm 1776, trong tay không quên mang theo một tờ nhựt báo hôm nay.
Đến nơi rồi, chúng ta hãy dâng tặng cho tổ tiên của chúng ta tờ báo mang theo. Chúng ta thấy các ngài mới vừa đọc là đã chau mày lại, vì có nhiều danh từ trên tờ bác các Ngài không hiểu nổi. Ví dụ: xe hơi, máy bay, phi hành gia, radio, TV, vân vân...
- Nầy các cháu, xe hơi nghĩa là gì? các ngài hỏi.
- Kính thưa tiên tổ, xe hơi là thứ xe chạy bằng dầu, bằng xăng, hay một thứ nhiên liệu nào khác, không cần người đẩy hoặc ngựa kéo.
- Xe mà không cần ngựa hoặc người kéo hay đẩy, làm sao có thể chạy được? Chứ máy bay nghĩa là gì?. Tiên tổ hỏi tiếp.
- Thưa tiên tổ, máy bay là một thứ máy xe hay tàu, ngồi lên là nó nổ ầm ầm, rồi cất mình bay bổng lên thượng tầng không khí, mang hành khách đi thật mau, thật xe, nước nầy sang nước khác, châu họ sang châu kia.
- Xe hay tàu, bay sao được? Bay là phải có cánh. Chim nhờ có cánh mới bay, chứ xe, hay tàu, làm thế nào mà bay? Các cháu khùng rồi. Chứ TV nghĩa là gì?
- Thưa, TV là một cái máy truyền hình. Người ta ngồi ở nhà mà có thể xem được và nghe được những việc đang xảy đến cách xa ngàn vạn dậm, như bên Tàu chẳng hạn. - Thôi! Thôi! Tổ tiên các cháu hiểu cả rồi. Các cháu khùng khùng hạng nặng! Xe không người đẩy, không ngựa kéo mà có thể chạy được. Tàu mà có thể bay được, máy mà có thể chiếu hình sống động xa từ bên Trung Quốc, chiếu vào tận trong nhà được! Quả thực, các cháu đau bệnh thần kinh nặng lắm. Nghe nói ở VN có những nhà thương Dưỡng Trí tại tỉnh Biên Hoà, hay chỡ Rẫy gì đó. Các cháu nên đến ghi tên vào gấp trước khi quá trễ.
Thấy ông bà tổ tiên chẳng ai hiểu được chúng ta, đi tới đâu chúng ta cũng bị các ngài mắng cho là điên là khùng, chúng ta buồn rầu, lại ngồi vào máy thời gian, trở về với vị trí hiện thời của chúng ta.
Bấy giờ chúng ta thấy rõ rằng những điều mà người một thế hệ coi là tầm thường thì người của thế hệ khác lại cho là lạ lùng không thể có được. Điều mà người của thế kỷ kia không bao giờ dám mơ tưởng đến thì người của thế hệ này lại coi như dĩ nhiên.
Và đây là bài học của chuyến du hành đi về quá khứ.
Sống trên đời, nếu chúng ta có được thái độ tin tưởng rằng một việc nào đó có thể thực hiện được, chúng ta sẽ có cơ may thành công. Trái lại, nếu chúng ta giữ cái thái độ chủ bại, hoài nghi rằng việc đó không thể thực hiện được, thì hầu như chắc chắn là chúng ta sẽ thất bại.
Bây giờ mời bà con cô bác lại tiếp tục cuộc thử nghiệm của chúng ta.
Nầy đây có một đứa chắt chút của chúng ta từ năm 3000 cũng ngồi máy thời gian trở về thăm chúng ta là những người đang sống trên quả đất nầy hôm nay. Khi ngồi máy thời gian trở về, người chắt chút nầy cũng mang theo trong tay một tờ nhựt báo biếu cho chúng ta. Khi đọc, chúng ta tuyệt nhiên không thấy có một chỗ nào nói đến nạn cao bồi du đãng, ma túy nghiệm ngập, cướp của giết người. Không có chỗ nào nói đến nghèo khổ, giặc giã chiến tranh giữa phe nầy với phái khác, giữa nước nọ với nước kia. Không có những chuyện đau thương, hỗn loạn như chúng ta đang mục kích trong thế kỷ 21 nầy. Tờ nhựt báo chỉ nói toàn những chuyện an bình thịnh vượng, tương trợ, tương ái, tương thân.
Đọc qua tờ báo, chúng ta có cảm tưởng như thế nào?
Hẳn chúng ta sẽ nói với người cháu chắt chút từ năm 3000 trở về thăm chúng ta là tổ tiên rằng:
- Này cháu, những gì nói trong tờ báo của cháu đây toàn là chuyện hoang đường, đầy luận điệu tuyên truyền cho những người của thế kỷ 21. Một thế giới an bình thịnh vượng, và người người được lạc nghiệp an cư, trong yêu thương thân thiện... thế giới đó chỉ có trong giấc mơ mà thôi, cháu ạ. Một người có chút lương tri thấy rõ như ban ngày rằng, ở đâu có con người, thì ở đó có giàu nghèo, có tranh chấp; ở đâu có nước nầy nước nọ thì ở đó có bạo động, giặc giã chiến tranh...
Thấy chúng ta là tổ tiên, không hiểu nổi những chuyện viết trên tờ nhựt báo, người chắt chút của chúng ta buồn rầu từ giã ra về với thế giới năm 3000. Còn chúng ta ở lại với thế giới năm 2000, trí lòng đầy suy tư...
Sau hai cuộc thử nghiệm trên, chúg ta nhận thấy rằng những việc mà tổ tiên chúng ta của năm 1776 cho là hão huyền, như xe hơi, máy bay, radio, TV, thì chúng ta, con cháu của năm 2000 nầy thấy đó là sự thật.
Vậy những điều người chắt chút của năm 3000 nói về một thế giới an bình, thịnh vượng, mọi người đều tương trợ, tương ái tương thân, hôm nay chúng ta cho là chuyện hoang đường, biết đâu ngày mai sẽ thành sự thật?
Bài học quan trọng của hai cuộc thử nghiệm trên là đây:
Trước hết, nếu chúng ta sống với tâm trạng này rằng hòa bình trên quả đất hôm nay không thể có được, chúng ta sẽ thất bại trong công việc kiến tạo hòa bình trên quả đất.
Thứ hai, nếu chúng ta sống với tâm trạng nầy rằng thiên hạ chung quanh chúng ta toàn là người vô tâm vô tình, vị kỷ, khó thương. Chúng ta sẽ thất bại trong công việc xây dựng một xã hội tận tình, vị tha, dễ thương dễ mến.
Sau cùng, nếu chúng ta sống với thái độ nầy rằng các nước thiên hạ, ngàn đời, cha truyền con nối, tiếp tục bạo động, hận thù ghen ghét nhau, chúng ta sẽ thất bại trong cố gắng hòa giải. Và Liên Hiệp Quốc vẫn bị mang tiếng xưa nay là con chó chết mà thôi.
Vậy, chúng ta phải kết luận rằng:
- Hoà bình trên quả đất nầy có thể có được.
- Tình tương thân tương ái giữa những người chung quanh chúng ta có thể thành sự được. - Sự thuận an giữa các quốc gia có thể kiến tạo được. Lý do khiến những viễn tượng trên đây có thể thành sự thật là vì Chúa Yêsu đã đến với chúng ta, đang ở giữa chúng ta, đang dạy bảo chúng ta phải ăn ở như thế nào cho hợp đạo làm người.
Lý do khiến giấc mơ hòa yêu thương giữa loài người nói chung, giữa những người chung quanh chúng ta nói riêng, có thể thành tựu được là vì chính Chúa đã hứa với chúng ta như vậy. Bằng không, Ngài đã chẳng hề dạy chúng ta cầu xin trong kinh “Lạy Cha” rằng: Xin cho Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời vậy. Ngài đã chết để làm cho “Nước Cha trị đến” được thành sự thật. Ngài đã sống lại để khiến cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Đây cũng là chính điều Chúa Yêsu dạy chúng ta trong bài Phúc âm hôm nay.
“Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dầu có bảo cây dâu này: hãy bật gốc lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời.”
Tin Mừng của Phúc Âm hôm nay là đây: “Nhờ đức tin, quyền lực của Thiên Chúa ở trong tay chúng ta.” Do đó, không còn việc gì gọi là không thể thực hiện được nữa. Dầu là một thế giới trong đó không còn chiến tranh nữa, không còn đói khổ nữa, không còn hận thù nữa.
Chúng ta hãy nhớ lại cuộc du hành không gian. Những điều mà người thế kỷ trước coi như không thể có, thì người thế kỷ sau cho là tầm thường. Và ngay trong cùng một thế kỷ, điều mà người nầy cho là không có thể làm, thì ngươi khác lại làm được. Thánh Grê-go-ri-ô đã chuyển một hòn núi đi nơi khác, lấy chỗ mà làm nhà thờ. Thánh Raymond Pennafort lần kia đã lấy áo làm thuyền đi qua mặt biển...
Chỉ vì các Ngài đã có lòng tin kiên vững vào lời Chúa phán trong ngày hôm nay: “Nếu các con có đức tin lớn bằng hạt cải thôi...”
Vậy trong tất cả mọi sự, làm được hay không làm được, và làm được thì làm đến mức nào, tất cả đều do nơi lòng tin của chúng ta mạnh hay yếu mà thôi. Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Chúa thêm đức tin cho con. Nếu không lớn bằng hạt cải, thì bằng nửa hạt cải cũng tạm được cho con hôm nay.
Ngôn sứ Khabacúc rao giảng cùng thời với ngôn sứ Giêrêmia. Ông than thở và chất vấn Thiên: TN 27-C17
Ngôn sứ Khabacúc rao giảng cùng thời với ngôn sứ Giêrêmia. Ông than thở và chất vấn Thiên Chúa vì Chúa để cho dân hung ác đe dọa Dân Chúa:
“Lạy Chúa, tôi kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Tôi phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu tôi sao? Cớ sao Chúa tỏ cho tôi thấy sự gian ác và lao khổ, cướp bóc và bất lương trước mặt tôi? Dù có công lý, nhưng kẻ đối nghịch vẫn thắng.”
Thiên Chúa đã trả lời Ông: “Người công chính sẽ được sống nhờ lòng trung tín.” Tiếng kêu của ngôn sứ Khabacúc cũng là những nỗi lòng ai oán của con người trước cuộc sống đầy bất công và phi lý. Thi hào Nguyễn Du đã diễn tả nỗi niềm bi thương ấy qua hai vần thơ sau:
"Trải qua những cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng."
Ai trong chúng ta mà không phẫn uất trước cái chết tức tưởi oan trái của bao nhiêu nạn nhân trong các tai nạn máy bay, trong các thiên tai, hạn hán, động đất khủng khiếp vẫn hằng xẩy ra đó đây trên thế giới? Hàng trăm ngàn trẻ em vô tội bị sát hại trong những cuộc chiến đẫm máu. Hàng ngàn vạn những thuyền nhân Việt Nam vượt biển tìm tự do đã bị chôn vùi xuống lòng đại dương... Bút mực nào ghi hết cảnh khốn cùng của cuộc sống, những ngang trái đoạn trường mà mỗi người chúng ta cảm nghiệm được.
Phản ứng tự nhiên của mỗi người chúng ta trước những gian truân thử thách là những lời than vắn thở dài hoặc kêu trách Thiên Chúa. Đức tin chúng ta lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội bị lung lay. Những nghi vấn về sự hiện hữu và lòng nhân lành của Thiên Chúa bắt đầu xuất hiện trong tâm trí chúng ta. Dần dần, người tín hữu bỏ đọc kinh cầu nguyện, lơ là việc chịu phép bí tích, mất niềm tin vào Chúa!
Tìm đâu ra lối thoát cho cơn khủng hoảng đức tin ấy, nếu không phải là chính Lời Chúa và ân thánh của Người. Timôthê, người môn đệ thân tín của thánh Phaolô, sắp bị ngã quỵ vì thử thách và thất vọng, đã bừng tỉnh lại nhờ những lời khuyên của Phaolô:
“Cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của Cha. Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần trí nhát sợ, mà là thần trí dũng mãnh, bác ái và tiết độ. Con hãy lấy những lời lành lẽ phải con đã nghe Cha nói, làm mẫu mực trong đức tin và lòng mến nơi Đức Giêsu Kitô. Con hãy cậy nhờ Thánh Thần là Đấng ngự trong chúng ta mà gìn giữ kho tàng tốt đẹp.”
Lời khuyên cũng như gương sáng của những người công chính sẽ nâng đỡ những tâm hồn đang bị thử thách: Chị ngã em nâng. Bởi đó, lúc bị thử thách gian truân, chúng ta đừng khép kín, đừng thất vọng. Lời cầu nguyện cũng như đức tin của cộng đoàn, của Hội Thánh là những chiếc phao trong cơn bão tố, khi chiếc tàu hòng chìm xuống. Các tông đồ đã thưa với Chúa: “Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con.” Trong bất cứ thử thách và đau khổ nào, chúng ta đừng bao giờ bỏ cầu nguyện. Vì đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta khi lãnh nhận bí tích rửa tội. Nếu đức tin bị thử thách, thì chính ân Chúa sẽ là sức mạnh củng cố chúng ta. Cũng như nguồn nước tuôn chảy xuống thung lũng để làm cho đất thêm phì nhiêu và cây cối xanh tươi, ân thánh Chúa sẽ tràn đổ xuống tâm hồn khiêm nhường: “phần các con, khi các đã làm xong mọi điều đã truyền dậy các con, thì các con hãy nói rằng: chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm những điều chúng tôi phải làm.”
Lời Chúa đến với chúng ta hôm nay gồm hai phần: Đức tin (17:5-6) và Đầy tớ vô ích (17:7-10): TN 27-C18
Lời Chúa đến với chúng ta hôm nay gồm hai phần: Đức tin (17:5-6) và Đầy tớ vô ích (17:7-10). Cả hai phần đều nói đến Đức tin Chúa muốn các môn đệ Ngài phải có.
Phần thứ nhất, qua dụ ngôn hạt cải, Chúa nói rõ với các môn đệ là Chúa không cần lượng cho bằng phẩm. Chúa không muốn các môn đệ có thêm Đức tin hay nhiều đức tin, nhưng điều Chúa muốn là Đức tin của các môn đệ phải vững mạnh, và tinh ròng. Có nghĩa là tin không chút hồ nghi, tin hoàn toàn, tin tuyệt đối.
Khi nghe nói đến đức tin bé bằng hạt cải mà lại có sức chuyển núi dời non, chúng ta thấy cũng tựa như kiểu nói lạc đà chui qua lỗ kim vậy. Xét ra đây là cách ví von người ta muốn nói đến những chuyện không hề có thể xảy ra. Tuy nhiên, với ơn Chúa, chúng ta tin không gì là không có thể cả.
Nói đến đây chúng ta liên tưởng đến một vài trường hợp liên quan đến đức tin Chúa đề cập đến trong Phúc âm. Trường hợp thứ nhất, Chúa đi trên mặt biển đến với các môn đệ vào lúc ban đêm biển động. Phêrô, với lòng đơn thành, xin Chúa cho được đi trên mặt biển đến với Chúa. Chúa cho, và ông tỉnh bơ đi đến với Chúa. Nhưng vừa khi chợt hoài nghi, thiếu tin tưởng, thì ông liền hụt chân, chìm xuống nước, và kêu cứu (Mt 14:22-33)
Trường hợp thứ hai, Chúa nói về sự cứng lòng tin của Thánh Tôma. Ông không tin Chúa đã sống lại vì chính ông không được mắt thấy tai nghe, tay thọc vào cạnh sườn Chúa, và ngón tay xỏ vào lỗ đinh nơi chân tay Chúa (Jn 20:24-29). Thánh Tôma muốn thấy, muốn biết rõ đã, rồi mới tin. Nhưng, như chúng ta đã biết, nếu đã thấy rồi thì đâu còn là tin nữa vì sự thật đã hiển nhiên rồi. Trong thư gửi tín hữu Do thái có nói rõ “Đức Tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Hb 11:1)
Tóm lại, qua phần này, chúng ta ghi nhận được hai điểm: thứ nhất, Chúa quả quyết chắc chắn rằng Đức tin có một mãnh lực vô song, tuy chỉ bé bằng hạt cải mà thôi, nhưng cũng đủ làm xảy ra nhiều việc lạ lùng. Thứ hai, Chúa mặc nhiên nói rằng Đức tin của các môn đệ chưa bằng hạt cải. Nghiệm về điều nầy chắc mỗi người chúng ta cũng chẳng lấy làm lạ cho lắm vì trong lịch sử loài người đâu mấy khi thấy hiện tượng “cây cối tự bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển” xảy ra đâu mà.
Tuy nhiên cũng có những trường hợp Thánh Kinh ghi lại là chính Chúa cũng phải ngạc nhiên và cảm phục đức tin mãnh liệt của một số người. Thí dụ, như trường hợp người đàn bà thành Canaan xin Chúa chữa con bà khỏi bị quỷ ám (Mt 15: 21-28), hoặc viên sĩ quan xin Chúa chữa người đầy tớ của ông (Mt 8:5-13). Chính đức tin sống động, mãnh liệt này đã làm cho Chúa phải thốt: “Này bà, đức tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì được vậy.” (Mt 15:28), và “Ta chưa hề thấy ai trong Israel có được đức tin mạnh như thế.” (Mt 8:10). Và kết quả là phép lạ đã xảy ra – con của bà goá thành Canaan cũng như người đầy tớ của viên sĩ quan đều được lành.
Sang phần thứ hai, qua dụ ngôn người đầy tớ vô ích, Chúa muốn dạy các môn đệ luôn nghĩ đến sự bất lực của mình và hoàn toàn cậy trông nơi ơn Chúa. Chúa muốn các môn đệ luôn thâm tín rằng cho dầu đức tin của mình có tinh ròng thế nào đi nữa, có bảo cây nhổ lên rồi đi trồng dưới biển và cây liền vâng theo, thì cũng chớ tự hào là do tài sức riêng mình; nhưng chính là nhờ ơn Chúa. Hay nói một cách cụ thể hơn là việc chúng ta chu toàn bổn phận làm Kitô hữu không hẳn bảo đảm phần rỗi cho chúng ta, nhưng chúng ta phải luôn chân nhận rằng vận mệnh đời đời của chúng ta là do chính ơn Chúa ban, do tình Chúa yêu thương.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một Đức tin can trường, một đức mến nồng nàn, và một đức cậy vững vàng, hầu chúng con luôn chân nhận phận mình là những đầy tớ vô ích, và luôn tin tưởng, cậy trông tuyệt đối vào lòng thương yêu bao la hải hà của Chúa luôn dành cho từng người chúng con. Amen.
Mọi tôn giáo đều được đặt nền trên một niềm tin, dù niềm tin ấy rõ ràng hay mơ hồ, có hệ: TN 27-C19
Mọi tôn giáo đều được đặt nền trên một niềm tin, dù niềm tin ấy rõ ràng hay mơ hồ, có hệ thống hay chắp nối góp nhặt. Không có niềm tin, sẽ không có tôn giáo. Chính vì thế, những người chấp nhận và bước theo một tôn giáo được gọi là tín đồ hay tín hữu. Vì tin vào Đức Kitô, chúng ta trở thành những tín đồ Kitô giáo. Niềm tin Kitô này mỗi ngày thêm mạnh mẽ cứng cát hay yếu kém mong manh, phần lớn tùy thuộc vào sự cộng tác của mỗi tín hữu đối với ơn Chúa. Chính qua sức mạnh của lòng tin, chúng ta có thể thực hiện được những công việc lạ lùng, vượt trên khả năng và lý luận của con người như Chúa Giêsu đã nói: “Nếu chúng con có đức tin bằng hạt cải, chúng con có thể nói với cây dâu: hãy bứng rễ lên và đi trồng dưới biển, nó liền nghe lời chúng con”. Ở đây, chúng ta nhắc lại một số phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện liên quan đến đức tin:
- Khi người đàn bà bị băng huyết đến xin Chúa chữa lành, Chúa nói: “Này bà, cứ an tâm, đức tin của bà đã cứu chữa bà” (Mt 9:22).
- Khi gặp những người nhà của ông trưởng hội đường có đứa con gái vừa chết, Chúa nói: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5:39), và Người đã làm cho em bé gái sống lại.
- Khi những người mang đứa con trai bị bệnh kinh phong tới Chúa Giêsu và nói: “Thầy có thể làm được gì thì xin thương cứu giúp chúng tôi”, Ngài đáp: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Đối với một người tin, điều gì cũng có thể...” (Mc 9:23), và Chúa Giêsu cầm tay đứa bé, chữa lành.
- Không thể mang bệnh nhân vào trong nhà qua cửa được vì quá đông người, người ta phải dỡ mái nhà rồi thả bệnh nhân xuống trước mắt Chúa Giêsu. Nhìn vào thái độ và hành động của họ, Luca nói: “Thấy họ có lòng tin như thế, Chúa Giêsu bảo “Này Anh, Anh đã được tha tội rồi” (Lc 5:20)
- Trước khi cho Lazarô sống lại, Chúa đã ‘khảo sát’ đức tin của Matta. Khi đã thấy rõ niềm tin của cô, Chúa mới thực hiện một phép lạ lớn lao: cho Lazarô sống lại (Gio 11:26-27).
Tất cả phép lạ đều được thực hiện do quyền năng và lòng nhân hậu của Chúa, đúng vậy. Nhưng đối với Chúa, “hình như ” các phép lạ không tùy thuộc vào Ngài cho bằng tùy thuộc vào lòng tin nơi con người, nên trước khi thực hiện một phép lạ, Chúa Giêsu thường nói: “Đức tin của con đã cứu con”. Nói thế, Chúa muốn nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của con người trong lãnh vực đức tin. Đàng khác, khi nói đến đức tin, chúng ta cũng không chỉ hiểu đó như một sự chấp nhận các tín điều lý thuyết, trong tư tưởng, hoặc việc đọc thuộc lòng một công thức nào đó như kinh Tin Kính, kinh Tin Cậy Mến mà thôi, nhưng hơn thế, đức tin còn phải được thực hành qua cuộc sống hằng ngày. Chính qua việc thực hành và những thử thách hy sinh, mà đức tin trở nên mạnh mẽ, sống động. Không vậy, đức tin sẽ chẳng tồn tại. Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Tuy nhiên, trong cuộc sống hằng ngày, việc thực hành này không dễ dàng, vì đức tin luôn hướng tới những điều cao siêu, thánh thiện, trong khi con người lại yếu đuối, hạn hẹp và dễ dàng lầm lạc. Do đó, ước gì chúng ta luôn biết bắt chước các tông đồ cầu nguyện với Chúa: “Lạy Thầy, xin ban thêm lòng tin cho chúng con.”
"Lạy Chúa, xin tăng thêm lòng tin cho chúng tôi" (Lc 17:5).
Khi trở thành người Công giáo cũng có nghĩa là dám mất đi tất cả. Đây là tựa đề bài phóng sự: TN 27-C20
Khi trở thành người Công giáo cũng có nghĩa là dám mất đi tất cả. Đây là tựa đề bài phóng sự của ký giả Tim Drake trên tờ National Catholic Register, số ra tháng 2 năm 2001, nói về những khó khăn mà một số các vị mục sư phải đương đầu khi trở lại với niềm tin Công giáo. Chẳng hạn, mục sư tiến sĩ Kenneth Howell, thuộc phái Tin lành Trưởng lão (Presbytarian church), đã tâm sự: "Sau khi nghiên cứu và học hỏi về Bí tích Thánh Thể, tôi nhận ra rằng các giáo phụ thời Giáo hội sơ khai đã cùng đồng nhất trong niềm tin vào Mình và Máu Đức Kitô." Việc nhận biết này kèm với những khám phá về nền tảng của thiên chức linh mục và tinh thần hiệp nhất Kitô hữu đã khiến Kenneth tiếp cận thân thiết hơn với đạo. Tuy nhiên vì có những khác biệt trong thực hành nên phải đến bốn năm sau Kenneth mới thật sự trở lại.
Nói đến trở lại là nói đến những tác động khủng khiếp trên đời sống, nghề nghiệp, hôn nhân, gia đình, bạn bè, thân hữu. Có những người từng là mục sư lâu năm như Kenneth, bây giờ trở thành người Công giáo, ông ta sẽ làm gì để sống? Có ai trọng dụng tài năng của ông? Làm thế nào để trợ cấp cho gia đình? Việc chịu chức của họ trong các giáo hội trước đây có còn ý nghĩa gì nữa chăng?
Biết bao vấn đề được nêu lên. Nhưng vấn đề lớn nhất là sự thiếu cảm thông trong gia đình và nơi bạn bè. Maricus Grodi, 59 tuổi, một cựu mục sư phái Tin lành Trưởng lão tâm sự: có lắm điều mà vợ con hay giáo hữu của mình không thể chấp nhận, có khi vì thành kiến với Đạo, nhưng cũng có khi vì họ thiếu cơ hội nghiên cứu học hỏi. Họ không thấy được những gì mình được thấy.
Ngoài những thách đố trong niềm tin và liên hệ gia đình, còn có thách đố về nghề nghiệp sinh sống. Như Kenneth từng dạy tại một chủng viện Trưởng Lão suốt 7 năm. Bắt đầu mỗi niên học, các giáo sư thường được yêu cầu ký vào bản tuyên xưng niềm tin căn bản của Giáo hội Trưởng lão. Nhưng đến một ngày, Kenneth đã không thể làm điều đó và quyết định nghỉ việc. Nghỉ việc là phải đương đầu với bao khó khăn tài chánh gia đình.
Khi đọc qua những thách đố mà bao vị mục sư đã gặp phải khi trở lại với niềm tin Công giáo, tôi tự hỏi: động lực nào đã khiến họ dám đánh đổi tất cả cho niềm tin Công giáo như vậy? Họ nhận được gì, khi mà dưới cái nhìn khách quan thì dường như họ đang mất đi rất nhiều: mất nghề nghiệp, giáo dân, bạn bè, và có khi còn mất cả tình cảm cha mẹ, vợ con?
Phải chăng vì những con người đó đang có cùng một tâm tư như Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại: "Tôi coi mọi sự hết thảy là thua lỗ bất lợi cả, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô, và được thuộc về Ngài" (Phil 3:8-9).
Lợi được Đức Kitô, và là một Đức Kitô đang hiện hữu trọn vẹn trong Bí tích Thánh Thể, được thuộc về Đức Kitô, và là thuộc về một Đức Kitô hiệp nhất, không bị xé mảnh, không bị phân tán hay méo mó, đó là con đường giải thoát chân chính mà Thánh Phaolô đã khám phá và không ngừng viết đi viết lại vì lợi ích của các Kitô hữu.
Thánh Phaolô là người đã khám phá dung mạo tuyệt vời của Đức Kitô để sau đó làm một cuộc trở lại, tiên phong cho bao cuộc trở lại khác. Việc trở lại của Phaolô, trước hết là một sự hoán đổi cái nhìn về Đạo. Sự kiện mắt ông bị loà không thấy được gì trên đường đi Đamas, để rồi sau đó được chữa lành và tiếp nhận một khả năng nhìn mới, đã khẳng định: cái nhìn của Phaolô về Đạo đã được đổi thay, và từ đây một đời sống mới bắt đầu.
Ngày hôm nay, được chứng kiến bao cuộc trở lại, tôi tự hỏi: Có nhiều người thấy được những giá trị vô biên của niềm tin Công giáo, của Bí tích Thánh Thể, của sứ mạng hiệp nhất Kitô hữu, và đã dám đánh đổi những gì đáng yêu nhất trên thế gian hầu có được những điều họ vừa tìm gặp. Phần tôi, người mang danh có Đạo, liệu tôi có thật sự trân quí niềm tin của mình và nhiệt tâm chia sẻ sức sống múc được từ niềm tin đó cho kẻ khác không? Tôi có dám đánh đổi chút gì trong đời để giữ gìn và làm tăng trưởng niềm tin, nhất là niềm tin vào Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể… hay tôi đã đánh mất tất cả từ lâu rồi?
"Lạy Chúa, xin củng cố đức tin còn đang yếu kém của chúng con." Xin cho chúng con gặp được Chúa như Thánh Phaolô đã gặp trên đường Đamas. Xin cho chúng con luôn biết trở lại mỗi ngày trong tâm tình yêu mến Thánh Thể và Giáo hội. Để nhờ đó đời chúng con luôn tràn đầy sức sống của trời cao và không ngừng trao ban tình Chúa cho mọi người. Xin Chúa Thánh Thần kiện toàn đời sống và lời nguyện xin của chúng con. Amen.
Trên đường lên Giêrusalem, không ít lần Chúa Giêsu dạy dỗ và hướng dẫn riêng cho các Tông: TN 27-C21
Trên đường lên Giêrusalem, không ít lần Chúa Giêsu dạy dỗ và hướng dẫn riêng cho các Tông đồ. Lần này cũng vậy. Người hướng dẫn cho các ông một số vấn đề liên quan đến đời sống cộng đoàn như những thói hư tật xấu dễ gây nên gương mù gương xấu hay luận về sự tha thứ cho người lỗi phạm đến mình. Tuy nhiên, với các Tông đồ, điều khiến các ngài trăn trở không chỉ trên bình diện đời sống cộng đoàn mà còn trên bình diện đời sống tâm linh nữa. Chính vì thế, các ngài đã mạnh dạn đến thưa với Chúa Giêsu điều trăn trở đó để có thể củng cố đời sống cộng đoàn: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Chúa Giêsu đã hướng dẫn các ông hai vấn đề liên quan đến đức tin và sự phục vụ tha nhân. Từ Đức tin chỉ bằng hạt cải…
Theo thói quen, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp những trăn trở của môn đệ, Người dùng hình ảnh thật ngộ nghĩnh của cây dâu đất vốn chỉ biết bám vào mặt đất để sống, lại sẵn sàng vâng lời người có đức tin - dù chỉ bằng hạt cải- để mọc trên biển cả - nơi không thể xảy ra được trong thực tế. Đức tin là thế. Nó có thể làm được những điều mà con người cho là không thể. Thế nhưng đức tin là gì? Và đâu là ý nghĩa đích thực của nó?
Trước hết, đức tin không phải là kết quả được mang lại do quá trình học hỏi hay hấp thụ những kiến thức sẵn có, mà là ơn Chúa ban nhưng không cho con người. Nhưng đồng thời, đức tin còn là việc con người đáp trả lại sáng kiến đó của Thiên Chúa. Chúng ta để ý cụm từ “đáp trả lại sáng kiến của Thiên Chúa” chứ không phải là bắt Thiên Chúa làm theo ý muốn của mình như đã xảy ra rất nhiều trong tâm thức của người tín hữu.
Vâng, nhiều khi chúng ta viện đến đức tin để “ép buộc” Thiên Chúa làm phép lạ theo sở thích của riêng mình. Vì không nằm trên bình diện tri thức khoa học, đức tin đôi khi không rõ ràng sáng sủa, dễ nhận thấy mà có phần không chắc chắn xen lẫn sự mờ tối. Đức tin đòi hỏi sự dấn thân và mạo hiểm của con người.Về ý nghĩa của đức tin, theo thánh Syrilô, có hai ý nghĩa, một liên quan đến những điều Chúa Giêsu giảng dạy, đến các tín điều trong giáo hội và một liên quan đến ân sủng do Chúa Giêsu mang đến.
Lời Chúa Giêsu rao giảng và tín điều do giáo hội tuyên tín là những thực tại đức tin đem đến cho người tín hữu những lợi ích thiêng liêng đích thực. Thật thế, đời sống đức tin của chúng ta được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, bằng những giáo huấn của giáo hội. Sức mạnh của Lời Chúa được sánh ví như ngọn đèn, như ánh sáng trong đêm đen để soi đường dẫn lối cho con người (x. Tv 118,105). Tin vào Chúa Kytô, bước theo đường lối của Người, chắc chắn chúng ta sẽ được Người dẫn đưa vào đời sống vĩnh cửu.
Còn theo nghĩa ân sủng, đức tin do Chúa Thánh Thần ban tặng cho con người không chỉ liên quan những điều phải tin, mà còn thực hiện những điều vượt quá sức lực con người. Đây cũng chính là đức tin mà Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ hôm nay. Cây dâu đất sẽ phải bật rễ, xuống biển đơm hoa kết trái theo lệnh truyền của người có đức tin dù nhỏ bé. Đức tin được sánh ví như hạt cải, dù nhỏ bé, nhưng nó cũng có thể lớn mạnh, toả bóng cho chim trời đến ẩn náu. Người có đức tin cũng vậy, có thể làm được những việc phi thường, họ có thể chiêm ngắm hình ảnh sống động của Thiên Chúa cũng như nhìn ngắm những ánh hào quang vinh hiển của Người. … đến Phục vụ như những đầy tớ vô dụng.
Hiệu quả do đức tin mang lại được đánh dấu bằng hành động, bằng cách thức phục vụ tha nhân. Nếu thánh Giacôbê cho rằng “đức tin không hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17), Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay lại hướng các môn đệ đến cách thức phục vụ tha nhân như là hiệu quả của lòng tin, trong tinh thần khiêm tốn: “Chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng”. Thật ra chữ “vô dụng” được dịch ở đây, theo các nhà Kinh thánh không được chính xác lắm vì không lột tả hết ý nghĩa của nó.
Chúng ta có thể hiểu thế này. Được cất nhắc lên để phục vụ tha nhân, thi hành chức vụ, người được cất nhắc không lấy đó để vênh vang, để hạch sách kẻ khác, trái lại chỉ xem mình như những người đầy tớ bình thường, người đầy tớ như những đầy tớ khác không hơn không kém. Đã là người đầy tớ, thì dù có làm việc thành công đến đâu, có tài năng đến mấy thì trước mắt ông chủ, cũng chẳng có công trạng gì để bắt ông chủ mang ơn.
Chúa Giêsu muốn khuyên dạy các Tông đồ bài học này, đồng thời Người cũng muốn nhắc nhở chúng ta ý thức về vai trò khiêm tốn và tự hạ trong nước Thiên Chúa, theo đó trở nên người môn đệ Chúa chính là trở thành tôi tớ phục vụ mọi người.
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”, lời cầu xin của các tông đồ cũng chính là lời cầu xin của mỗi người chúng ta. Xin Chúa thêm lòng tin và tình mến để chúng ta trở nên những đầy tớ tín trung hầu có thể yêu mến, phục vụ Chúa và tha nhân cho xứng hợp.
Một buổi chiều nọ, nhà khảo cổ học Gene Savoy và các bạn đồng nghiệp bị lạc lối trong một TN 27-C22
Một buổi chiều nọ, nhà khảo cổ học Gene Savoy và các bạn đồng nghiệp bị lạc lối trong một khu rừng ở nước Peru. Họ cảm thấy lo sợ vì nếu họ không tìm được doanh trại của họ thì sẽ phải chết trong khu rừng này. Họ chạy toán loạn đi tìm con đường mòn đã dẫn họ đi vào rừng. Thình lình họ nhận thấy rằng sự hỗn loạn đi tìm con đường mòn chỉ làm tăng thêm sự mệt mỏi vô ích. Họ lấy lại bình tĩnh và đứng yên lặng suy nghĩ. Một tia sáng đã bừng lên trong trí óc. Savoy ghi lại điều đó: “Tôi đưa mắt nhìn vào một thế giới đẹp đẽ của những cánh hoa xinh xắn, mùi hương thơm từ những cánh hoa nở rộ, và những con chim hót líu lo. Đúng thế, Thiên Chúa ở đây. Tâm hồn tôi trầm tĩnh. Tôi bình tĩnh bước vài bước về bên trái và tôi tìm thấy con đường mòn.”
Câu chuyện trên ăn khớp với các bài đọc hôm nay. Trước hết, nó minh chứng những lời trong sách Khabacúc, “Người công chính sẽ sống được nhờ trung tín.” Thứ đến, nó minh chứng cho những lời Chúa Giêsu đã phán trong bài Phúc Âm, “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiếu cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển’ nó liền vâng lời các con.”
Đây là điểm thường làm cho chúng ta phải lo lắng, liệu đức tin của chúng ta có bằng được hạt cải? Cho dù đức tin của chúng ta rất mạnh mẽ đến đâu, thì cũng có lúc nó mịt mù yếu ớt. Điều mà hôm nay trong sáng, mai lại có thể tối tăm mù mịt. Giống như mặt trời có lúc ẩn sau đám mây, rồi lại hiện ra trong sáng.
Đức tin chúng ta tăm tối thường thì bởi ba lý do sau: Bản tính con người, chính chúng ta, hoặc Thiên Chúa.
Trước hết, nó có thể là do bởi bản tính con người nghĩ là có lúc “hứng cao” lúc “cụt hứng”. Nói cách khác, đức tin của chúng ta bị ảnh hưởng bởi tâm trạng hoặc mất hứng trong con người.
Một tác giả đã viết về cảm nghiệm này như sau: “Một ngày kia, cuộc sống thật đẹp đẽ, chúng ta cảm kích mọi sự và mọi người. Cái ngày như thế thật là khó khăn để nghĩ đến những gian truân đau khổ trong cuộc đời. Một ngày khác, cuộc sống thật đen tối, đó là lúc chúng ta có thể đếm được rất nhiều kẻ thù, tìm ra được khuyết điểm của mọi người. Cái ngày như thế thật là khó khăn để nghĩ đến những lúc vui vẻ trong cuộc đời” (Anthony Padovano, Belief in Human life).
Thứ hai, nguyên nhân đức tin chúng ta trong đêm tối là bởi do chính chúng ta. Chúng ta có thể coi trọng thân xác bên ngoài hơn là linh hồn bên trong. Nghĩa là, chúng ta để cho đời sống đức tin yếu dần đi do bởi vì chúng ta phạm tội và không dùng những của ăn thiêng liêng. Cũng giống như thân xác không ăn uống gì, lại còn thêm bệnh tật nữa thì chết dần chết mòn.
Thứ ba, đức tin trong đêm tối có thể là do chính Chúa an bài như thế. Nghĩa là, Thiên Chúa để cho xảy ra như vậy để chúng ta đào sâu và tăng cường hơn trong đời sống đức tin. Thiên Chúa dùng đêm tối này để giúp chúng ta trưởng thành hơn trong đời sống đức tin, như Ngài đã từng thử thách Abraham khi Ngài nói phải sát tế người con duy nhất.
Trong những hoàn cảnh này, chúng ta hãy biết chấp nhận và dùng nó như là điều mà Chúa đã an bài cho chúng ta. Đó là sứ điệp mà chúng ta nhận được qua bài đọc hôm nay.
Có bao giờ chúng ta nhìn thấy một hạt cải hay chưa ? Hạt cải là một loại hạt giống thật nhỏ, còn nhỏ hơn cả một hạt tấm. Thế nhưng, bên trong nó lại chất chứa một sức sống mãnh liệt. Nếu chúng ta gieo nó xuống một miếng đất, nó sẽ nảy mầm và lớn lên. Nếu được chăm sóc cẩn thận, nó sẽ trở thành một cây rau mỡ màng với những chiếc lá xanh tươi.
Chắc hẳn Chúa Giêsu đã nhằm một mục đích nào đó khi sánh ví đức tin của chúng ta với một hạt cải nhỏ bé. Đức tin là một cái gì thiêng liêng, chúng ta không đo được chiều dài và chiều ngang, cũng không thể cân xem nó nặng bao nhiêu. Vì thế, điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh chính là sức sống của đức tin. Phải, đức tin của chúng ta cũng phải có được một sức sống mãnh liệt tự bên trong như sức sống của một hạt cải nhỏ bé. Vậy trước hết tin là gì ?
Trong ngôn ngữ thường ngày, tin là chấp nhận lời người khác nói là đúng sự thật. Tôi đang sống ở năm 2001, nhưng tôi tin rằng có một vua Quang Trung đã chiến thắng lừng lẫy, bởi vì lịch sử đã cho tôi biết như vậy. Tôi đang sống ở Long xuyên, nhưng tôi tin rằng vừa mới xảy ra một cơn lũ lớn ở Tuyên Quang, bởi vì báo chí đã nói cho tôi hay.
Từ đó, chúng ta có thể áp dụng vào lãnh vực tôn giáo: Tin là chấp nhận những gì Thiên Chúa tỏ lộ và Giáo hội dạy bảo là đúng sự thật.
Thế nhưng, chấp nhận mà thôi chưa đủ, điều quan trọng đó là chúng ta còn phải sống đức tin. Thực vậy, rất nhiều người trong chúng ta sẵn sàng tin theo Chúa, nhưng lại không dám bước theo Chúa, bởi vì họ sợ phải hy sinh, phải từ bỏ.
Họ giống như chàng thanh niên giàu có đã cúi mặt bỏ đi khi nghe Chúa nói:
- Hãy về bán tất cả, bố thí cho người nghèo, rồi hãy đến và theo Ta.
Họ giống như chú bé đi xem xiếc: chú bé há hốc miệng nhìn nhìn người biểu diễn với vẻ đầy kinh ngạc và thánh phục: Anh ta vác một người khác và đi trên một sợi dây được căng trên cao. Thế nhưng, khi anh ta đến bên chú bé và hỏi:
- Nếu chú muốn, tôi sẽ vác chú đi trên dây nhé.
Thế nhưng, chú bé đã sợ hãi và từ chối.
SỐNG ĐỨC TIN
Chúng ta thường tự hào là con nhà có đạo. Vậy phải chăng có đạo cũng giống như có một đồ vật ?
Không phải là như thế, bởi vì khi có một đồ vật, nhất là một đồ vật quí giá, chúng ta thường phải cất dấu để dùng riêng, hay để kẻ khác khỏi ăn trộm ăn cắp mà lấy đi. Trong khi đó, có đạo thì hoàn toàn khác, bởi vì đức tin không phải là một cái gì ở ngoài chúng ta, nhưng nó ở trong chúng ta, nó bén rễ sâu vào tâm hồn cũng như vào cuộc đời chúng ta, nó xác định hướng đi và ảnh hưởng trên từng tư tưởng, từng lời nói và từng việc làm của chúng ta, nó biến đổi chúng ta thành một con người mới.
Có đạo là có một con đường, vậy chúng ta phải tiến bước trên con đường ấy nếu muốn đạt tới cuộc sống vĩnh cửu. Có đức tin là có một nhân đức, vậy chúng ta phải sống nhân đức ấy nếu muốn thực sự trở nên con cái Thiên Chúa, thực sự trở nên người Kitô hữu.
Đối tượng của đức tin không phải là một mớ những màu nhiệm phải tin hay một mớ những giới luật phải giữ, nhưng là chính Đức Kitô, một con người cụ thể, đã sống giữa chúng ta, đã yêu thương chúng ta và đã chết vì chúng ta. Như thế sống đạo, sống đức tin cũng chính là sống gắn bó mật thiết với Đức Kitô.
Tuy nhiên, để biểu lộ sự gắn bó mật thiết với Đức Kitô không gì bằng là hãy thực thi những điều Ngài truyền dạy, bởi vì:
- Không phải những ai nói rằng lạy Chúa tôi mà được vào Nước trời, nhưng là những ai tuân giữ điều Ta truyền dạy.
Hơn thế nữa:
- Đức tin không có việc làm, thì chỉ là một đức tin đã chết.
Chính trong chiều hướng này, đức tin không phải chỉ là một thái độ chấp nhận thụ động, nhưng còn là một thái độ hiện sinh, một thái độ chọn lựa:
- Chúng ta phải cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới. Chúng ta phải từ bỏ ma quỉ và tội lỗi để thuộc hẳn về Chúa.
Ngày xưa người ta thường rửa tội bằng cách dìm người tân tòng xuống giếng nước. Lần kia, có một tân tòng bước xuống giếng rửa tội, thế nhưng anh ta nhất định giơ một tay lên khỏi nước, vị linh mục hỏi tại sao, thì anh ta trả lời:
- Con muốn hoàn toàn thuộc về Chúa, nhưng chỉ xin giữ lại bàn tay này, để khi bàn tay ăn trộm ăn cắp, nó sẽ không mắc tội bởi vì nó không phải là bàn tay đã theo Chúa.
Trong đức tin không thể nào chấp nhận một sự thỏa hiệp giữa Thiên Chúa và tội lỗi, bởi vì như lời Chúa đã phán:
- Không nóng không lạnh, dở dở ương ương thì Ta sẽ mửa mi ra.
Với một đức tin sống động như thế, thì ngay cả những công việc nhỏ bé và tầm thường nhất cũng có được một giá trị thiêng liêng to lớn trước mặt Chúa. Thế nhưng, liệu chúng ta có dám liều, dám hy sinh để bước theo Chúa và thuộc hẳn về Chúa, cũng như để được sống gắn bó mật thiết với Chúa hay không ?
Có một ông nhà giàu rất khô khan nguội lạnh nên tâm hồn không được yên ổn, hạnh phúc. Vì thế, ông ta đến gặp một nhà hiền triết khôn ngoan để xin một lời khuyên bảo. Sau khi nghe ông ta tâm sự, nhà hiền triết liền bảo: “Ông hãy đến bên cửa sổ, rồi nhìn qua kính cửa sổ, rồi ông nói cho tôi biết là ông đã thấy những gì ?”. Vâng lời làm theo và ông nhà giàu trả lời ngay: “Tôi thấy Người ta qua lại ngoài đường”. Tiếp đó nhà hiền triết đưa cho ông thấy gì ?”. Ông nhà giàu liền nói: “Tôi chỉ thấy người khác nữa sao ?”. “Không, tôi chỉ thấy tôi mà thôi”. Bây giờ nhà hiền triết mới trịnh trọng giải thích: “Thế thì ông hãy biết rằng kính cửa sổ và gương soi cả hai đều là thủy tinh. Nhưng gương soi được bôi lên một lớp sơn bằng bạc nên khi nhìn vào đó ông chỉ thấy ông. Trái lại ông thấy nhiều người khác khi nhìn qua lớp kính cửa sổ. Cũng vậy, khi con mắt ông trong sáng, lòng trí khiêm tốn biết điều, tâm hồn ông nhân ái rộng lượng thì ông sẽ thấy mọi người chung quanh thật khả ái và dễ thân tình với họ. Còn khi ông quét lên mình một lớp sơn kiêu căng hợm hĩnh, nhỏ nhen ích kỷ thì ông chỉ thấy ông mà thôi. Cho nên, muốn có hạnh phúc thì ông hãy vất bỏ cái tôi kiêu căng nhỏ nhen đi”.
Như người ta thường nói “nhìn xa trông rộng” thì bao giờ cũng sáng suốt hơn, khôn ngoan hơn, biết mình biết người hơn những kẻ chỉ thiển cận vị kỷ. Do đó, trong trường đời, nếu chúng ta biết chấp nhận người khác, tôn trọng và yêu thương họ thì ta đâu có cô đơn, tủi thân, trái lại nếu chỉ biết có mình, chỉ lo cho mình chắc chắn đời ta rơi vào tình trạng buồn thảm, chán nản.
Cũng thế, trong con đường đạo đức, việc chúng ta tin nơi Chúa và phụng sự Ngài đòi hỏi mỗi người chúng ta phải có cái nhìn vượt ra khỏi con người mình và vượt lên trên những suy nghĩ nông cạn, thấp kém, mới có thể trung thành theo Chúa đến cùng. Do vậy, bao lâu chúng ta cứ cố chấp theo ý riêng mình, cứ mang nặng mặc cảm tự tôn tự mãn khi tin và yêu Chúa thì mãi mãi ta vẫn đi trong sự mê muội mù quáng, vẫn bất an, ray rứt khốn khổ. Vậy qua bài Phúc âm hôm nay Chúa muốn dạy ta sự gì ?
Đầu tiên phải nhận thức rằng việc chúng ta nhận biết và tôn thờ Chúa là một hồng ân Chúa ban, nghĩa là đức tin chúng ta có được là do Chúa ban bằng cách Ngài soi sáng, hướng dẫn, thúc đẩy lòng trí chúng ta nhận ra đâu là sự thật đâu là giả dối. Còn chúng ta khi đã nhận biết Chúa nhờ đức tin thì chúng ta vận dụng sự khôn ngoan, lòng can đảm để tự do lựa chọn mà dấn thân cách quyết liệt và đầy tin tưởng. Có thể tóm gọn lại rằng đức tin có được trong sáng, chân chính, mạnh mẽ phần lớn do Chúa ban, còn lại do nơi ơn Chúa giúp đỡ.
Như thế, cái nhìn của đức tin là cái nhìn luôn luôn qui hướng về Chúa, vượt ra khỏi sự hiểu biết hạn hẹp của con người, mới có đủ sức mạnh chuyển núi dời non, mới phán sinh hiệu quả kỳ diệu. Nhưng khốn thay, đức tin của chúng ta thường mang tính quá chủ quan, nặng cái tôi kiêu căng: nghĩa là để tin và chấp nhận được chúng ta hay đòi hỏi đức tin phải hợp tình hợp lý, phải rõ ràng minh bạch, phải đúng như lòng trí ta suy tưởng. Thế thì ta coi cái tôi, ý riêng mình quan trọng hơn ý Chúa, làm sao có thể gọi đó là đức tin chân chính được.
Và một khi đức tin của chúng ta quá mang nặng cái tôi thì bao giờ trong các công việc yêu mến và phụng thờ Chúa, chúng ta ít hay nhiều đều nhuộm sắc thái của óc vụ lợi, kể công trạng. Do đó, chúng ta cứ nuôi trong mình cái ý nghĩ mù quáng rằng: việc tin và yêu Chúa xưa nay là do công sức của chúng ta, cho nên chúng ta có quyền đòi hỏi Chúa phải biết điều, phải công bằng, phải nể trọng vì những việc đạo đức chúng ta đã làm cho Chúa. Thật là ngạo mạn và sai lầm vì việc tin yêu Chúa là một hạnh phúc, một vinh dự lớn lao cho chúng ta là loài thụ tạo, còn nỗ lực cố gắng của chúng ta khi tôn thờ Chúa chẳng là gì so với những hồng ân mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta.
Tóm lại, bao lâu chúng ta tin và yêu Chúa mà không nhìn vào Chúa như cùng đích của đời mỗi người, màlại nhìn vào tấm gương phản chiếu cái tôi của mình thì bấy lâu chúng ta mãi mãi là những kẻ khốn khổ và bất hạnh nhất trên đời. Vì ai có Chúa là có tất cả, mất Chúa là mất tất cả.
Các phương tiện truyền thống đại chúng càng tiến bộ thì báo chí truyền thanh và truyền hình càng mau lẹ, nó mang vào bốn bức tường của gia đình những tin tức sốt dẻo diễn ra hằng ngày trên khắp thế giới, nhưng chúng ta phải gọi đa số những tin tức này là tin buồn hơn là tin vui, tin dữ hơn là Tin Mừng.
Vâng ! Đúng thế, hằng ngày lương tâm nhân loại hình như bị những căng thẳng, những bạo động chiến tranh, những nỗi thống khổ chết chóc xảy ra khắp nơi trên thế giới làm dày vò con người, khiến cho đầu tóc ta phải suy nghĩ và những con tim còn nhậy cảm không khỏi không cảm thấy lo lắng và đau lòng. Vâng ! Không lo lắng sao được khi nghe thấy tin tức về những cuộc bạo động của một số giới trẻ Đức quá khích chống lại những người nước ngoài đang xin tị nạn, hay về các cuộc đụng độ đẫm máu vì sự kỳ thị chủng tộc tại Nam Phi, hay về quá trình tái tập hòa bình tiến bộ quá chậm chạp ở nước láng giềng campuchia. Vâng ! Không đau lòng sao được trước những tin tức về cuộc tranh chấp vũ khí dẫn đến nạn diệt chủng của một số sắc dân ở Bosnia, Hezegovina, về nạn đói khủng khiếp đang diễn ra tại Somali, về nạn lụt ở Pakistan…
Ngụp lặn tưởng chừng như muốn ngộp thở dưới những làn sóng tin buồn trong những biến chuyển của thời thế, Lời Chúa hôn nay thật sự mang đến cho chúng ta một Tin Mừng, với lời cầu xin của các môn đệ rất hợp với tâm tình và những nhu cầu mà thời đại chúng ta đang sống: “Xin Thầy ban thêm đức tin cho chúng con”, vì thực sự cả các tín hữu ngày nay cũng cần và rất cần phải có đức tin mạnh hơn để xuyên qua những đám mây mù của những tin dữ , một sự tiến bộ tuy chập chạp của thực tại nước Thiên Chúa trong lòng xã hội.
Vì thế như các môn đệ xưa, chúng ta hãy chung lời cầu xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta, nhưng trong lúc chung lời cầu khẩn: “Xin ban thêm lòng tin cho chúng con” chúng ta hãy thận trọng để khỏi rơi vào vết xe cũ của các môn đệ là xin ơn đức tin như là chỉ xin thêm ơn nghị lực tinh thần, xin thêm sức mạnh nội tâm. Xem ra thì giống như công nhân xin tăng thêm tiền lương để có thể đương đầu với nạn vật giá leo thang. Nhưng Đức Giêsu trả lời như thách đố họ: “Đức tin ư ? Nếu anh em có đức tin bằng hạt cải”. Đức Giêsu muốn thách đố họ như thế, vì Ngài muốn sửa sai hình ảnh các ông.
Còn đức tin đối với chúng ta: Trước hết, đức tin không phải là một tín điều đối tượng của một mớ giáo lý mà những ai muốn gia nhập Giáo Hội phải học cho biết. Đức tin trước tiên cũng không phải là một niềm xác tín nào đó mà chúng ta có thể nghi ngờ hôm nay để tìm lại và xác tín ngày mai. Đức tin cũng không phải chỉ là một niềm cậy trông bất chấp những khó khăn, thử thách và những đau khổ trong cuộc sống. Bởi lẽ đức tin trước tiên không khởi sự với chính chúng ta như Đức Giêsu tuyên bố trong bài Tin Mừng hôm nay: “Khi anh em làm xong mọi điều đã truyền, anh em hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng”.
Vậy, đức tin trước tiên là đón nhận, đón nhận món quà đức tin do Thiên Chúa ban cho. Bởi thế đức tin luôn là một khởi đầu, một khai sinh, một sáng tạo. Vâng ! đúng thế, đức tin là khởi đầu một mối dây liên hệ mới cho phép chúng ta không còn xem Thiên Chúa là Đấng ngàn trùng xa cách nhưng là một người Cha rất gần gũi với chúng ta để hằng ngày dâng lên Ngài câu kinh: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Đức tin là khai sinh một mối giây quan hệ mới cho phép chúng ta đáp lại lời mời gọi chung mâm, chung bàn với Thầy Chí Thánh Giêsu, để được Ngài gọi là: “ những bạn hữu” mà đức tin là Sáng Tạo.
Vì đức tin dẫn chúng ta vào một thế giới mới, trong đó các điều răn không còn là một bản kê khai những luật cấm nhưng là một bản hiến chương của một nếp sống mới, sống để yêu thương, sống để thực thi điều răn mới: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Sống trong mối quan hệ mới và áp dụng giới răn mới trong một thế giới mới, những lời cầu xin của chúng ta phải hoàn toàn khác với những sự mặc cả hay trao đổi với Thiên Chúa, nhưng là những lời cảm tạ tri ân phát xuất từ đáy con tim của những người có Thiên Chúa là Cha và có Đức Giêsu là anh em. Vì thế, những lời cám ơn trong kinh nguyện phải luôn được nối tiếp bằng những dấn thân trong cuộc sống để chung tay đẩy mạnh sự thể hiện của thực tại Nước Thiên Chúa. Trong nước này mọi người sẽ nhận Thiên Chúa là Cha, vì thế mọi người đều là anh em với nhau. Trong Nước Thiên Chúa mọi người đều có Đức Giêsu là bạn bằng cách quyết tâm áp dụng điều răn yêu thương mới Ngài đã truyền.
Chúng ta cảm thấy có nhu cầu khẩn trương phải nối dài lời cầu xin: “ Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”, vì chúng con đang sống giữa lòng xã hội mà Thiên Chúa trao phó cho chúng con trách nhiệm chung tay để biến xã hội trần thế thành Nước Trời. Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con, vì trải qua 2000 năm, mặc dù Giáo Hội và mỗi người chúng con đều cầu nguyện hằng ngày để xin cho danh Cha được cả sáng, như Cha trị đến, nhưng xem ra nước Thiên Chúa vẫn chưa trở thành thực tại giữa lòng xã hội mà chúng con đang sống. Nhưng chúng con vẫn tiếp tục cầu xin, tiếp tục hoạt động, vẫn tiếp tục đợi chờ.
Vậy qua Tin Mừng dành cho Chúa nhật hôm nay, Thiên Chúa phúc đám những lời cầu xin của chúng ta qua câu xác quyết của Đức Giêsu: “Nếu anh em có đức tin dù nhỏ bé như hạt cải, anh em có thể di chuyển cả một cây to lớn”. Vâng ! Nếu chúng ta có đức tin dù bé nhỏ như hạt cải, chúng ta có thể chia sẻ sáng tạo với Thiên Chúa như khi Ngài phán: “Hãy có ánh sáng” thì ánh sáng đã có. Nếu chúng ta có đức tin dù chỉ nhỏ bé bằng hạt cải thì những người ăn xin sẽ có cơm ăn áo mặc, các nhà độc tài, những tên gian tham sẽ bị lưu đầy và tài nguyên của thế giới sẽ được phân chia đồng đều cho mọi người. Nếu chúng ta có đức tin nhỏ bé bằng hạt cải thì sa mạc sẽ trở thành vườn rau xanh tươi, đồng ruộng sẽ nặng trĩu những bông lúa vàng và nhiều trẻ thơ sẽ không phải chết đói nữa. Nếu chúng ta có đức tin dù nhỏ bé thì gươm giáo, khí giới, tàu chiến, xe tăng, máy bay sẽ được nấu chảy để tái biến thành lưỡi cày, giới trẻ sẽ không còn phải huấn luyện để giết hại lẫn nhau, trái lại họ sẽ được huấn luyện để sản xuất, để phục vụ, để xây dựng công lý và hòa bình. Bởi lẽ nếu chúng ta có đức tin dù nhỏ bé bằng hạt cải thì những nỗi thất vọng sẽ trở thành hy vọng, những oán hờn nhường chỗ cho tha thứ, những ích kỷ sẽ trở thành quảng đại, những gian dối xảo trá sẽ nhường chỗ cho chân lý, những ghen ghét hận thù sẽ trở thành tình thương. Qua đó, chúng ta có thể chuyển núi dời non để thay đổi bộ mặt của địa cầu, để thay đổi bộ mặt của xã hội không phải bằng chính sức mạnh của chúng ta nhưng bằng sức mạnh đức tin, một sức mạnh của sáng tạo, khiến cho những người đầy tớ vô dụng thông thường có thể hoàn thành những công việc hữu dụng phi thường.
Chúng ta hãy xin Thiên Chúa ban thêm đức tin ấy qua lời tuyên xưng đức tin trong kinh Tin kính.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Có qua có lại mới toại lòng nhau”, hoặc “Ông ném khoanh giò: TN 27-C26
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Có qua có lại mới toại lòng nhau”, hoặc “Ông ném khoanh giò, bà thò chai rượu”. Những câu tục ngữ này diễn tả một cách xử thế ở đời. Thật vậy, để mối quan hệ giữa anh và tôi được lâu bền thì tôi cho anh cái này, anh phải bù lại cho tôi cái khác. Tôi giúp anh việc này việc nọ, anh phải trả công cho tôi. Điều đó cũng hợp lý thôi. Tuy nhiên, có những điều đáng ngại:
- Điều đáng ngại là: khi mối quan hệ giữa người với người chỉ dừng lại ở chỗ mua bán, đổi chác, qua lại như vậy thì nó sẽ giết chết tình yêu. Nghĩa là tình yêu không có chỗ đứng trong mối quan hệ giữa người và người. Nhiều người trong xã hội hôm nay bị loại trừ, bị bỏ rơi vì không có gì để đổi chác, để qua lại với những người khác.
- Điều đáng ngại hơn nữa đó là: chúng ta áp dụng chính kiểu sống đổi chác qua lại ấy với Thiên Chúa. Ta thường nghĩ rằng: Tôi giữ đạo, tôi làm việc này, việc kia cho Chúa, cho Giáo Hội thì Chúa và Giáo Hội phải trả công cho tôi. Thật ra, Chúa ban cho ta rất nhiều ân huệ, và người ban ơn cho ta chỉ vì Người yêu thương ta chứ không phải vì công nghiệp của ta mà Chúa phải trả công. Công lênh của ta có đáng là gì so với những ân huệ mà Người đã ban. Cũng như cha mẹ không mắc nợ gì con cái, chính con cái mới mắc nợ cha mẹ. Thiên Chúa không bao giờ là con nợ của ta, trái lại, chính ta là con nợ của Người. vì vậy, việc phụng sự Chúa là một bổn phận ta phải làm. Chúa Giêsu đã dạy: “Khi anh em đã làm tất cả những gì phải làm thì hãy nói: Chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chỉ làm những bổn phận của chúng tôi đấy thôi”.
Trong xã hội hôm nay, vật chất đang chiếm một vị trí khá quan trọng. Nó cũng đang làm chủ trong nhiều lãnh vực. Nắm bắt được tình hình này, nhiều giáo phái đã và đang nổi lên để chiêu mộ dân chúng với những lời hứa hẹn về danh, về lợi. Những ai đi theo họ sẽ được điều này, điều khác…Nhiều người đã đánh mất đức tin vì những lời hứa hẹn đó. Và rất có thể đức tin của chúng ta cũng sẽ bị lung lạc, nếu chúng ta vẫn giữ não trạng mau bán, đổi chác trong đời sống đạo.
Như các tông đồ, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta. Một đức tin biết tín thác, biết cậy dựa hoàn toàn vào Thiên Chúa yêu thương, biết dấn thân phục vụ Chúa, phục vụ Hội Thánh mà không tính toán, không đòi trả công. Chỉ cần một điều là biết rằng ta đã thực thi thánh ý Thiên Chúa, đã làm tròn những việc phải làm.
Sau khi nghe Đức Giêsu nói một loạt những dụ ngôn như: Men trong bột, muối đất, con chiên lạc, người cha nhân hậu với đứa con phung phá, quản lý bất trung, ông phú hộ…và những lời khiển trách Pharisiêu ham tiền, cảnh cáo kẻ gây cớ cho người ta và nhất là kẻ bé nhỏ vấp ngã sẽ bị cối đá buộc vào cổ ném xuống biển. Đức Giêsu khuyên các mô đệ tha thứ cho nhau, đặc biệt khuyến khích các ông từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người. Các tông đồ đã xin Đức Giêsu: “Thưa Thầy xin them lòng tin cho chúng con”.
Người kêu gọi các ông phải có đức tin chỉ lớn bằng hạt cải thôi, cũng có một sức mạnh chuyển núi dời non để có tinh thần khiêm tốn phục vụ như một đầy tớ hết lòng chu toàn mọi việc cho chủ mà vẫn thấy mình vô dụng.
Đức Giêsu đòi các tông đồ, các môn đệ và mọi tín hữu phải có đức tin như thế. Biết bao nhiêu vị Thánh đã đáp lại lời khuyên đó.
Vị tông đồ vĩ đại như Phaolô, đức tin mạnh mẽ như sắt đá, không sức mạnh nào khuất phục được, dù binh hùng tướng mạnh của đế quốc Rôma, dù cực hình, dù biển cả, dù sự chết cũng không làm Ngài chùng bước phụng sự Chúa và đi cứu hành triệu các linh hồn thuộc hành chục quốc gia về cho Chúa. Thế mà Ngài chỉ thấy mình như một đứa trẻ sinh sau đẻ muộn, thiếu ngày tháng, luôn luôn nhận mình tội lỗi nhất. Ngài viết: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đó là Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ số một là tôi”. Thánh Phaolô viến thư này trong tù để khuyến khích Timôthêu tin tưởng mạnh mẽ vào việc loan báo Tin mừng. “Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người”. Như vậy, Thánh Phaolô muốn thúc giục Timôthêu và chúng ta tin mạnh mẽ vào Đức Giêsu, dù chúng ta gặp bất cứ khốn khó nào, cũng được Người cho chúng ta chiến thắng và đầy tràn ân sủng.
Tiên tri Habacúc sống 600 năm trước Đức Giêsu, khi thấy dân Chúa bị quân Babilon chiến thắng, bạo tàn, phá hủy vương quốc Giuda, ông đã kêu gọi họ tin tưởng nhẫn nại chờ ngày Thiên Chúa đến cứu dộ đúng kỳ Chúa hẹn. Nhiều lần Đức Giêsu đã nói: “Đức tin của con đã cứu chữa con”. Theo bài Tin mừng hôm nay, Người còn nói mạnh mẽ hơn: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: hãy bật rễ lên xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Nhưng dù làm được việc lạ lùng như thế, “thì hãy nói: Chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng”.
Quả thực, chính đức tin cho chúng ta làm được những việc lạ lùng và đồng thời cho biết: Chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng, vì không có ơn Chúa, chúng ta chẳng làm được gì.
Thánh Phaxicô Salê lúc 19 tuổi bị bệnh nặng, nghĩ mình sắp chết và thấy mình thật vô dụng. Ngài đã nói với thầy dậy y khoa rằng: “Khi con chết, xin thầy lấy xác con để cho sinh viên học tập mổ sẻ”. Thời đó, năm 1587, mổ xẻ xác người, ăn cắp xác người chết là thứ tội gớm ghiếc. Vì thế, trường y khoa buộc lòng phải ra nghĩa địa ăn trộm xác về cho sinh viên học tập. Nên ông thầy trả lời: “Chắc gia đình sẽ kết án thầy”. Vị thánh trẻ nài van: “ Điều đó rất an ủi con khi con chết. Con nghĩ rằng khi còn sống, con chỉ là đầy tớ vô dụng. Con muốn ít nhất sau khi chết, còn có cái gì tốt”. Sau này ngài đã làm Giám mục thành Giơnevơ. Vua Louis IV phải công nhận rằng: “ Giám mục Geneve có tất cả mọi nhân đức và không hề lầm lỗi ! Ngài đã làm bao nhiêu việc tông đồ lớn lao và giúp giáo phái Calvin trở lại. Thế mà ngài vẫn luôn luôn nói: “Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng”
Ngày nay, trong thế giới văn minh hiện đại này, không ai không biến đến một bà già qua đời năm 87 tuổi (-1997). Bà không một địa vị, chức quyền trong xã hội. Thế mà từ Tổng thống, Chủ tịch các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Ấn Độ, đến các nước nhỏ bé như Việt Nam, Lào, Cam Bốt đều mời bà đến viếng thăm, đó là Mẹ Têrêxa Calcutta. Mẹ chỉ là một chị Dòng Bác Ái. Năm 1948, Mẹ nhìn thấy một bà đói ăn nằm bên đống rác, một trẻ sơ sinh bị vát vào sọt rác, lòng mến Chúa và thương người mạnh mẽ của Mẹ đã khiến Mẹ xúc động vô cùng đau xót. Mẹ nhìn thấy những người đau khổ đó như Đức Giêsu bị bỏ rơi. Từ đó mẹ đã hiến cả cuộc đời cho những người phong cùi, đau ốm, cùng khổ đang hấp hối nằm hè phố, ở ổ chuột, nơi cống rãnh để đưa về phục vụ họ như ông chủ của mình, như Chúa của mình, Mẹ đã lập gần 300 nhà dòng trên khắp thế giới và nhất là Ấn Độ để nuôi dưỡng, chăm sóc các người đau khổ, neo đơn, bệnh tật, cô nhi. Và có lẽ không ai trên thế giới này đã được tặng nhiếu giải thưởng cao quý bằng mẹ. Ấn Độ tặm Mẹ giải thưởng Bông Huệ tuyệt vời năm 1963. Phi Luật Tân tặng Mẹ giải thưởng Massaysay. Rôma tặng Mẹ giải Hòa Bình Gioan 23 năm 1974 và Mẹ được tặng giải Nobel Hòa Bình thế giới năm 1979. Thế mà mẹ luôn coi mình là cây bút chì nằm trong tay Thiên Chúa, không dám coi mình là đầy tớ vô dụng nữa.
Cho đi để được cho lại, làm để mong được trả công, đã vẫn luôn là nguyên tắc hướng dẫn mọi hoạt động của con người. Tuy nhiên, cứ nhìn vào phần thưởng, vào sự đền đáp, lắm khi người ta quên đi chỗ đứng của mình, để rồi trở nên đòi hỏi, yêu sách. Đó cũng là điều Chúa muốn đề cập đến qua Tin mừng hôm nay.
Sau những giờ phút vất vả mệt nhọc ở đồng áng, tâm trạng của người đầy tớ trên đường về nhà là mơ ước được chủ bù đắp bồi dưỡng cho. Nhưng đó chỉ là mơ ước, vì anh ta chỉ là một người đầy tớ, mà đã là đầy tớ, thì dù có mệt nhọc, chán nản, anh cũng phải tiếp tục làm tròn bổn phận hầu hạ chủ, mà không buộc chủ phải mang ơn. Trong bổn phận không có sự hàm ơn. Sự biết ơn chỉ có nơi người khác, do đó, biết ơn hay không là tùy ở họ, người thi hành bổn phận không có quyền đòi hỏi.
Chúa Kitô là Thiên Chúa, nhưng Người đã mang lấy thân phận tội lỗi, để dạy con người biến bổn phận của mình chỉ là người tôi tớ của Thiên Chúa. Tất cả những gì Chúa Giêsu làm đều thể hiện thánh ý của Thiên Chúa, và qua Ngài, con người biết được nhiều điều Thiên Chúa muốn.
Tất cả đều phát xuất từ ý định của Thiên Chúa và đều là ân sủng Thiên Chúa ban. Con người chỉ là đầy tớ vô dụng, lẽ ra đã hư mất, nhưng nhờ tình thương vô biên của Thiên Chúa, con người được tự do và phục hồi trong địa vị làm con cái Chúa. Những gì con người có được đều đã lãnh nhận một cách nhưng không, do đó,con người chẳng có thể dựa vào đâu để đòi hỏi Thiên Chúa phải đáp trả công lao của mình. Và nếu xét theo công bằng, thì con người chắc chắn bị phạt nhiều hơn là được thưởng. Chính vì vậy, lời cầu xin thích hợp với con người vẫn là: “Lạy Chúa ! Xin mở lượng từ bi hải hà của Chúa để chúng con được sống”.
Ước gì đó cũng là lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta, khi cố gắng chu toàn bổn phận của mình và ý thức mình chỉ là đầy tớ vô dụng.
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, Chúa Giêsu muốn quở trách tính tự mãn kiêu căng, thích ca tụng khen thưởng thường thấy nơi những kẻ theo Ngài. Ngài dạy rằng những công tác của loài người dầu có hoàn hảo đến đâu cũng không thể khoe khoang trước mặt Thiên Chúa. Chữ vô dụng ở đây không được hiểu là vô giá trị mà được hiểu một không dễ đi quá bổn phận của mình, Chúa cho biết không bao giờ có thể nói mình đã làm quá nhiều cho Thiên Chúa, để về sau đòi hỏi Ngài ban lại cho điều này điều kia. Khi chúng ta đã làm hết sức mình, đó là bổn phận chúng ta phải làm, và một người làm tròn bổn phận mình, đó chỉ là làm xong việc mình không thể làm mà thôi. Chúng ta có thể làm thỏa mãn được những đòi hỏi của luật pháp, nhưng hễ ai thực sự yêu điều biết rằng mình không bao giờ có thể là gì đủ hầu thỏa mãn những đòi hỏi của tình yêu. Đức Maria đã hiện thực lời Chúa Giêsu dạy: “Này đây tôi là nữ tỳ của Chúa”, trước đề nghị của Thiên Chúa.
Pete là một giáo sư đại học, ông vừa hoàn thành một cuốn sách biên khai công phu sau ba năm nghiên cứu, được mọi người khen hay, và ông lấy làm hãnh diện, vì hai ông bà đều thực hiện thiền định và cố gắng tâm linh hóa cuộc sống hằng ngày. Ông gặp trăn trở vì biết hãnh diện chì là gia tăng bản ngã và tự bảo mình không nên đi vào con đường kiêu hãnh viển vông này, nhưng bà vợ lại cho rằng kiêu hãnh chân chính vẫn không thuộc về bản ngã. Hai người đưa vẫn đề đến hỏi đạo sư Darshani. Đạo sư đã phân tách và chỉ cho thấy lòng kiêu hãnh bắt nguồn từ việc coi hành động của mình như là do tác nhận độc lập, một thực thể riêng rẽ, và điều đó là hư ảo ; đằng sau các thể hiện đúng đắn, chính Đấng Tối Cao đã tác động. Khi ông xin một phương pháp để giúp ông kiểm sót được lòng kiêu hãnh này mỗi khi nổi lên, đạo sư gợi ý ông đọc cuốn “Gương Chúa Giêsu” của Thomas. A. kempis, trong đó bàn về việc chúng ta không được kiêu hãnh vì đã làm việc tốt đã viết câu này: “Liệu đất sét có được tôn vinh hơn người đã sáng lập ra nó hay sao ?” Và khi ông muốn bàn thêm, vị đạo sĩ đã nhắc lại một câu chuyện của một học giả người Âu với một đạo sĩ Đông phương. Học giả này mới hoàn tất một quyển bách khoa từ điển lớn, các bạn của ông xúm lại khen tặng rằng đó là một công trình lớn lao phi thường. Trong chuyến viếng thăm Ấn Độ, học giả hỏi đạo sư xem liệu ông ta có xứng đáng được hưởng những danh dự đó không, thì được đạo sư hỏi: “Ông dùng phương tiện nào để viết: bút, máy chữ hay điện toán. Ông cho biết ông luôn sử dụng bút. Đạo sư nói ngay: “Khi viết xong cuốn sách, ông có thường cám ơn cây bút mà ông đã dùng không ? Đó là câu trả lời cho mỗi người chúng ta khi thấy mình làm được một việc lành nào. Có nhiều đặc sủng khác nhau chỉ có một Thần Khí. Có nhiểu việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau nhưng chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người.
chiếc máy bay cất cánh bỏ phi trường Monte Video của nước: TN 27-C30
Trưa ngày 12.10.1972 một chiếc máy bay cất cánh bỏ phi trường Monte Video của nước Uruguay để đi Santiago nước Chilê. Khi băng qua dãy núi An-dê, chiếc máy bay ấy bị trục trặc. Nó bất ngờ mất thăng bằng và lao mình trên đỉnh cao phủ đầy tuyết. Toàn thể chiếc máy bay bị vỡ tan tành.
Thật rất khó tin là trong số 45 hành khách 28 người vẫn còn sống! Tất cả đều thuộc đội banh bầu dục nước Uruguay. Không một ai trong đội banh được trang bị để đối phó với thời tiết dưới Zêrô độ cả. Cũng may họ tìm thấy một số vali đựng quần áo mà họ có thể mặc tạm.
28 người sống sót
Khi màn đêm buông xuống, 28 hành khách chụm lại với nhau trong một mảnh máy bay vỡ. Vào ngày thứ 8, các đoàn tìm kiếm từ 3 nước Chilê, Uruguay và Argentina tuyên bố họ không tìm ra nơi máy bay bị rớt. Tin đó đến qua máy thu thanh trên máy bay mà một cậu thanh niên phục hồi lại được. Thế là cả nhóm thấy rõ họ phải tự cứu lấy mình vì không ai đi tìm cứu họ nữa.
Còn lại 16 người chụm lại cầu nguyện
Những ngày kế tiếp con số những người sống sót giảm xuống, từ 28 còn 16 người. Trong cảnh cùng cực họ quyết định sẽ cùng nhau cầu nguyện mỗi buổi tối trong mảnh vỡ của máy bay. Đó là lúc mọi người đều ở lặng nhường lời cho một người trong nhóm đứng lên hướng dẫn cả nhóm cầu nguyện với chuỗi Mân Côi. Cầu nguyện là nguồn lực duy nhất cho họ. Cả những cậu thanh niên khô đạo nhất nay cũng bắt đầu cảm nghiệm được sâu sắc rằng Chúa luôn hiện diện. Trong số những thanh niên khô đạo nhất trong nhóm phải kể đến chàng An-Đô (Arturô). Buổi tối hôm đó cả nhóm đều sửng sốt khi thấy An-Đô yêu cầu nhóm cho chàng đứng lên hướng dẫn nhóm cầu nguyện. An-Đô đã thốt lên niềm cảm nghiệm thâm sâu từ đáy lòng mình khiến mọi người nghe đều xúc động. An-Đô từng là một con người khép kín, xa cách cả đối với những người thân yêu trong gia đình. Nay An-Đô khác hẳn, được mọi người trong nhóm trìu mến. An-Đô cầu nguyện xong, mọi người đều yên lặng nghe tiếng nức nở của chính An-Đô. Một bạn trẻ hỏi An-Đô: "Tại sao bồ lại khóc?" An-Đô đáp: "Tại vì mình thấy được gần gụi Chúa quá sức!"
Ngày qua ngày, vào tuần lễ thứ tám, thời tiết bắt đầu bớt băng giá. Hai thanh niên khoẻ nhất trong nhóm đồng ý thử leo xuống núi tìm người đến cứu. Cuộc hành trình vô cùng khó khăn. Hai bạn này được cột vào nhau bằng một sợi dây ni-lông. Chỉ cần xẩy chân một chút cả hai sẽ nhào xuống vực thẳm. Một trong hai người thấy cần phải củng cố nhau bằng lời cầu nguyện. Anh này thưa với Chúa rằng: "Lạy Chúa, Chúa có thể làm cho cuộc hành trình này trở nên gai góc nhưng xin đừng để cho nó trở nên vô vọng."
Quả thật sau 9 ngày trèo xuống núi đầy thử thách, hai người đã tiếp xúc được với những người có thể cứu cả nhóm. Chỉ trong vòng hai giờ đồng hồ những chiếc trực thăng quân đội đã bay lên đỉnh núi để cứu vớt 14 thanh niên sống sót còn lại.
Bốn điều về Nước Thiên Chúa
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đặt chúng ta vào một cuộc hành trình. Luca cho biết đây là cuộc xuất hành mới do Đức Giêsu là Môsê Mới lãnh đạo (Lc 9,51). Ngay từ bước khởi hành, Đức Giêsu đã đòi hỏi môn đệ phải bỏ mọi sự (Lc 9,57-62). Người tiếp tục huấn luyện các môn đệ trong suốt cuộc hành trình lên Giêrusalem bằng lời nói, việc làm và gương sáng của Người. Bài Tin Mừng hôm nay nằm giữa dụ ngôn người giàu có và La-da-rô (Lc 16,19-31) và biến cố Chúa chữa lành mười người bệnh phong (Lc 17,11-19). Đức Giêsu lần lượt dạy các môn đệ bốn điều sau đây thuộc về Nước Thiên Chúa:
+ "Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã" (Lc 17,1). Do đó phải quyết tâm thà chết còn hơn trở nên cớ khiến cho người khác vấp ngã. Đó là điều Đức Giêsu có ý nói khi dạy các môn đệ rằng "Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong kẻ bé nhỏ này vấp ngã" (Lc 17,2).
+ Đàng khác, Đức Giêsu còn dạy các môn đệ cách đối xử với những người gây cớ vấp ngã theo con đường sửa chữa và tha thứ tới bảy lần (Lc 17,3-4). Con số tượng trưng bảy lần chỉ về mọi lần.
+ Nghe vậy, mười hai môn đệ đã được Thầy Giêsu chọn làm tông đồ (Lc 6,13) bị dội liền thưa: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con" (Lc 17,5). Với câu nói "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em" (c.6). Đức Giêsu dùng một hình ảnh có vẻ phóng đại nhưng sống động giúp các tông đồ đặt nghi vấn là chưa hẳn các ông đã có niềm tin dù chỉ bằng hạt cải mà thôi! (c.6). Có khi các ông quá tự tin về việc các ông đang tháp tùng Thầy Giêsu lên Giêrusalem.
+ Chính để giúp các môn đệ tránh ảo tưởng về mình, Đức Giêsu đã dạy các ông phải ý thức mình là ai đối với Thiên Chúa trong Nước của Người (Lc 17,7-10). Các ông cũng giống như những người tôi tớ trong xã hội các ông đang sống. Với họ, việc cày bừa hay chăn chiên ở ngoài đồng cũng như việc dọn cơm và hầu bàn ở trong nhà, đó là những chuyện hết sức bình thường. Không người tôi tớ nào vào thời Đức Giêsu lại dám nghĩ tới việc chủ phải cám ơn mình về những việc bổn phận đó. Phương chi là các môn đệ của Đức Giêsu trong tương quan với Thiên Chúa trong Nước của Người. Họ càng phải tỏ ra khiêm tốn hơn biết chừng nào đối với những việc bổn phận họ đã làm. Dù là bổn phận đề phòng để tránh không nên cớ vấp phạm cho người khác (Lc 17,3-4; 11,4).
Vấn đề vô dụng và hữu ích
Nhưng tại sao Đức Giêsu lại khuyến cáo các môn đệ thưa với Chúa: "Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi" (Lc 17,10)? Tại sao nói là những đầy tớ vô dụng khi những đầy tớ ấy chu toàn bổn phận khiến cho công việc xuôi chảy?
Có lẽ câu chuyện tai nạn máy bay nói trên có thể phần nào giúp ta trả lời câu hỏi vừa nêu.
Trước hết về tự nhiên, câu chuyện gợi ý cho thấy sự bất lực hoàn toàn của những hành khách sống sót không thể tự cứu lấy mình trong hoàn cảnh bị nạn. Trong thực tế, rõ ràng 14 người được cứu là do sự can thiệp từ bên ngoài, không từ bên trong nhóm. Chỉ có 2 người đã can đảm trèo xuống chân núi và kể như đã tự cứu sống. Nhưng lòng can đảm đó họ có được là do biết bao nhiêu buổi cầu nguyện và bao nhiêu lời khích lệ của cả nhóm.
Nhưng quan trọng hơn là ý nghĩa siêu nhiên áp dụng với Nước của Thiên Chúa như Đức Giêsu có ý dạy các môn đệ trong cuộc hành trình lên Giêrusalem.
Trong cuộc hành trình ấy Đức Giêsu đòi các môn đệ phải gắn bó với một mình Người mà thôi. Người đòi họ không những phải dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em nhưng "cả mạng sống mình nữa" (Lc 14,26). Không những phải dứt bỏ cả mạng sống mình, mà còn phải đảm nhận lấy hiện hữu như được trao ban cho mình hầu theo sát gót bước Đức Giêsu. Nghĩa là: "Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được." (Lc 14,27).
Như vậy tình trạng hoàn toàn bất lực của các môn đệ không thể tự cứu (không thể tự mình đạt được ơn cứu độ, tức là vô dụng đối với ơn cứu độ) được hiểu ngầm rồi trong cuộc hành trình lên Giêrusalem.
Còn về cuối cuộc hành trình, khi đã tới đích là Giêrusalem, chính Đức Giêsu đã tự hiến để thế cho tất cả những điều các môn đệ được yêu cầu từ bỏ. Đó là lúc Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em." (Lc 22,19). Tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: "Chén này là Giao Ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em." (Lc 22,20).
Cuộc hành trình lên Giêrusalem thực ra không chỉ kết thúc ở cuộc hiến tế vừa nói. Chính ở Giêrusalem, Đức Giêsu sẽ chết và ngày thứ ba sẽ sống lại (Lc 18,33). Hơn nữa, Người còn lên trời để mang mọi sự mà các môn đệ đã từ bỏ về cùng đích (x. Cv 1,11).
Chính nhằm mục đích ấy các môn đệ sẽ nhận được "sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất." (Cv 1,8). Quả thật, chính nhờ gắn bó với Đức Giêsu trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, các môn đệ cuối cùng đã trở nên những con người rất hữu ích trong Nước của Thiên Chúa.
Một số câu hỏi gợi ý
1. So sánh những người sống sót trong tai nạn máy bay bị rớt với các môn đệ của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, bạn nhận thấy vấn đề "vô dụng" và "hữu ích" được đặt ra như thế nào? Bạn có thể cắt nghĩa bài Tin Mừng hôm nay cho con em trong gia đình bạn không?
2. Trong 4 điều Chúa Giêsu dạy các môn đệ về Nước Thiên Chúa (Lc 17,1-10), bạn tâm đắc điều gì hơn cả: phải quyết tâm thà chết còn hơn trở nên cớ vấp phạm cho người khác vấp ngã (Lc 17,1-3)? Với những ai gây cớ vấp phạm, ta có bổn phận sửa chữa họ tuy phải luôn tha thứ cho họ (Lc 17,3-4)? Cần phải theo gương các tông đồ xin Chúa thêm lòng tin cho ta (Lc 17,5-6)? Vì không thể tự mình đạt được ơn cứu độ, ta đúng là những đầy tớ "vô dụng" (c.10) nhưng một khi nhận được sức mạnh của Thánh Thần, ta sẽ là những con người rất hữu ích trong Nước Thiên Chúa (Cv 1,8)?
Kể từ ngày 11/9/2001, ngày mà toà tháp đôi Trung Tâm thương mại thế giới ở thành phố Newyork: TN 27-C31
Lòng tin
Kể từ ngày 11/9/2001, ngày mà toà tháp đôi Trung Tâm thương mại thế giới ở thành phố Newyork, Mỹ bị bọn khủng bố tấn công khiến cho khoảng 3000 chết đến nay, thế giới đã không có một phút nào yên. Thật vậy, trong suốt ba năm qua, mặc cho những cố gắng của các chính phủ, nạn khủng bố vẫn không ngừng gia tăng trên một diện rộng chưa từng thấy. Đó là vụ đánh bom đảo du lịch Bali (Inđônêxia) làm 202 người chết hồi tháng 2/2002, vụ đánh bon nhà ga xe lửa ở Madrid (Tây Ban Nha) hồi tháng 3/2004 làm 191 người chết, rồi hàng loạt vụ đánh bom chung cư ở Nga khiến 300 người thiệt mạng. Và gần đây nhất là vụ bắt cóc con tin tại một trường học ở Beslan (Nga) hồi đầu tháng 9/2004 gây ra cái chết cho 326 người, và làm bị thương 727 con tin, và vụ đánh bom toà đại sứ Úc ở Jakarta (Inđônêxia) hồi thượng tuần tháng 9/2004 vừa qua đã khiến cho 9 người chết và 170 người bị thương (x. Phạm Hồng Phước, Bài học 3 năm vẫn còn nóng hổi, Báo Công An, ngày 14/9/2004).
Tất cả những điều đó cho thấy hình như các thế lực sự dữ ngày càng hùng mạnh hơn, và không ai có thể kiểm soát được. Thế nhưng, lời Chúa hôm nay lại cho chúng ta thấy rằng, sức mạnh của sự dữ không phải là tuyệt đối, cuối cùng chân lý cũng sẽ chiến thắng.
1. Mầu nhiệm sự dữ:Băn khoăn, khắc khoải trước sức mạnh của sự dữ trong thế giới hiện tại luôn là nỗi khắc khoải lớn nhất của con người thuộc mọi thời đại: Tại sao sự dữ lại tồn tại? Hơn nữa, trước mắt hình như những người sống công chính luôn phải chịu nhiều thiệt thòi, thua lỗ, còn những kẻ sống bất công hình như luôn thắng thế! Đó cũng chính là nỗi ưu tư của ngôn sứ Habacúc. Lúc bấy giờ dân Chúa đang ngày càng xa dần với những giáo huấn của Thiên Chúa. Ở phương Đông đế quốc Babilon ngày càng hùng mạnh. Và với cái nhìn của các ngôn sứ, đế quốc này chính là “cây roi” mà Thiên Chúa dùng để sửa dạy dân Người.
Thiên Chúa sửa dạy dân Người, vì họ đã bỏ Người để thờ thần ngoại bang là điều hợp lý. Thế nhưng, vấn đề làm cho vị ngôn sứ vẫn chưa yên tâm, đó là đời sống luân lý của dân Babilon cũng đâu có tốt gì hơn dân Chúa đâu. Thế thì tại sao Thiên Chúa lại dùng bàn tay kẻ dữ này để phạt một kẻ dữ kia? Và như thế, hoá ra Thiên Chúa cũng đang trợ giúp cho sự dữ sao? (x. Lm. Ignatio Nguyễn Ngọc Rao OP., Tìm hiểu sách các ngôn sứ, 1995, trang 196-197). Chính trong tâm tình đó, vị ngôn sứ đã kêu lên: “Lạy Chúa, tôi kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Tôi phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu tôi sao? Cớ sao Chúa tỏ cho tôi thấy sự gian ác và lao khổ, cướp bóc và bất lương trước mặt tôi? Dù có công lý, nhưng kẻ đối nghịch vẫn thắng”.
Không chỉ là những sự dữ từ bên ngoài, mỗi người chúng ta còn phải đối diện với những sự dữ khác tấn công chúng ta ngay từ bên trong, đó là chính những dục vọng, những đam mê, những yếu đuối của chính chúng ta. Và tôi thiết nghĩ, đó mới là những sự dữ đáng sợ nhất. Nó đáng sợ, vì nó tấn công chúng ta rất nhẹ nhàng, kín đáo. Hơn nữa, nó còn làm thoả mãn dục vọng của bản năng nơi mỗi người chúng ta. Đồng thời, vì tấn công từ bên trong, nên nó biết rõ đâu là điểm yếu của chúng ta. Vì thế, chúng ta rất dễ bị bại trận trước những tấn công của chúng. Chính thánh Phaolô cũng đã từng thú nhận: “Sự lành tôi muốn, tôi lại không làm, còn sự dữ không muốn, tôi lại thi hành” (Rm 7, 19). Và thánh nhân đã phải kêu lên: “Vô phúc thay con người tôi! Ai sẽ cứu tôi khỏi cái xác chết này?” (Rm 7, 24).
Còn các tông đồ trong bài Tin mừng hôm nay, sau khi nghe đòi hỏi của Đức Giêsu về sự tha thứ. Một sự tha thứ không phải một lần, hai lần, nhưng là tha thứ mọi lúc, tha thứ luôn luôn, sẵn sàng tha thứ mỗi khi anh em hối lỗi “Cho dẫu nó xúc phạm đến ngươi bảy lần một ngày, và bảy lần nó trở lại với ngươi mà nói: “Tôi xin chừa cải”, thì ngươi phải tha thứ cho nó” (Lc 17, 4). Đây quả là một sự tha thứ vượt quá sức của con người tự nhiên, bởi vì từ trong sâu thẳm của chúng ta vẫn còn đó mầm mống của sự dữ mầm mống của tội lỗi, khiến chúng ta không đủ tình yêu và lòng bao dung để tha thứ. Ý thức rõ sự bất lực của mình, các tông đồ đã đến thưa với Chúa: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”.
Như thế, dù là bên trong hay bên ngoài, sức mạnh của sự dữ cũng không phải là tuyệt đối, bởi vì cho dù bản tính yếu đuối của chúng ta vô phương chống cự, nhưng với sức mạnh của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô, thì mọi sự đều là có thể. Xác tín điều đó, sau khi đã thú nhận yếu đuối và sự bất lực của bản thân, liền đó, thánh Phaolô cũng đã tuyên xưng lòng tin của mình: “Đội ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (Rm 7, 25). Vâng, chính lòng tin vào Đức Giêsu Kitô sẽ giúp chúng ta vượt qua được rào cản của sự dữ để đạt đến cùng đích của mình.
2. Chân lý sẽ thắng:Trước những khắc khoải của con người nói chung và của vị ngôn sứ nói riêng, chắc chắn sẽ không có câu trả lời ngay trước mắt, nhưng Thiên Chúa quả quyết: “Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người công chính sẽ sống nhờ trung tín”. Thật vậy, đường lối Thiên Chúa tuy khó hiểu, nhưng cuối cùng công lý sẽ toàn thắng, đó cũng chính là kinh nghiệm của cha ông chúng ta khi nói: “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”, “Lưới Trời lồng lộng tuy thưa, nhưng khó thoát”.
Chân lý cuối cùng sẽ chiến thắng. Tuy nhiên, đây không phải là chiến thắng trong ngày một, ngày hai, một chiến thắng có thể thấy ngay tức khắc. Chiến thắng của chân lý là một chiến thắng chung cuộc, một chiến thắng chỉ dành cho những người can đảm, và bền đỗ đến cùng. Chính vì thế, để có thể kiên trì bước sống theo đòi hỏi của Tin mừng, mỗi người chúng ta cần có một niềm tin, vì chỉ có niềm tin mới có thể giúp chúng ta đủ sức mạnh để đương đầu với sức mạnh của sự dữ. Một niềm tin, cho dù là nhỏ bé đi chăng nữa, nhưng nếu đó là niềm tin vào Thiên Chúa, thì sẽ có một sức mạnh vô biên, có thể dời chuyển cả núi non, như lời khẳng định của Đức Giêsu trong bài Tin mừng: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: “Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển”. Nó liền vâng lời các con”.
Xác tín vào sự toàn thắng của chân lý trước sự dữ, thánh Phaolô trong bài đọc hai đã nhắc bảo Timôthê và cũng là lời nhắn gởi đến mỗi người chúng ta: “Vậy con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người… Con hãy lấy những lời lành, lẽ phải con đã nghe cha nói làm mẫu mực trong đức tin và lòng mến nơi Đức Giêsu Kitô”. Vâng, cho dù phải lội dòng nước ngược, cho dù phải chứng kiến một sức mạnh có vẻ như tuyệt đối của sự dữ, cho dù phải chịu thua thiệt đến đâu đi chăng nữa, mỗi người chúng ta cũng không được phép nản lòng. Chúng ta cần can đảm và trung tín đặt trọn niềm tín thác của mình nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã từng bị đóng đinh trên thập giá, nhưng nay đã Phục Sinh và với sự Phục Sinh của mình, Đức Giêsu tiêu diệt thế lực mạnh nhất của sự dữ là sự chết (x. 1 Cr 15, 26).
Ngày hôm nay, mỗi lần cử hành Thánh Lễ, mỗi lần tưởng niệm lại hy tế của Đức Giêsu trên bàn thờ đây là mỗi lần chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của Đức Giêsu trước các thế lực sự dữ. Giờ đây, chúng ta cùng hiệp ý với nhau, sốt sắng dâng lời khẩn nguyện lên Đức Giêsu, Đấng đã tiêu diệt thần chết, xin Ngài ban ơn trợ lực, để mỗi người chúng ta luôn can đảm đặt trọn niềm tín thác nơi Ngài, cho dù cuộc đời chúng ta vẫn đang gặp nhiều khó khăn, thử thách. Nhờ đó, chúng ta có thể làm chứng cho mọi người biết rằng, chân lý cuối cùng sẽ toàn thắng. Amen. Lm Trần Thanh Sơn
Đoạn Tin Mừng này gồm 2 giáo huấn của Đức Giêsu: 1/ Về sức mạnh của Đức tin ; 2/ Về việc phục vụ cách khiêm tốn.
1. Đức tin: Những người trong tập thể Giáo Hội hãy cố gắng củng cố lòng tin của mình. Nếu có lòng tin thì sẽ làm được nhiều điều phi thường.
2. Phục vụ: Chúa Giêsu dạy muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm tốn, khiêm tốn đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi ta đã tự coi mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ không ngại phục vụ người khác, hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho người khác ta đều là bổn phận.
B. ... nẩy mầm.
1. Đức tin: một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào thiên đàng ; một đức tin lớn sẽ đưa thiên đàng vào linh hồn bạn (H. Spurgeon).
2. “Đầy tớ vô dụng”: Thánh Phaolô đã viết: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh ?” (1Cr 4,7 ) Nếu xét cho kỹ thì tất cả những gì ta cho là tài ba hay công lao “của mình” đều không phải là của mình thực:
- Trí óc ta thông minh ư ? Đó là nhờ Chúa sinh ra ta như thế. Nhiều người khác mới sinh ra đã đần độn.
- Sức khoẻ ta dồi dào ư ? Cũng nhờ Chúa sinh ta ra sẵn như vậy. Nhiều kẻ sinh ra đã sẵn èo ọt.
- Ta có nhiều năng khiếu ư ? Cũng do Chúa sinh ra ta như vậy.
- Ta đẹp ư ?: cũng thế.
- Ta làm nhiều việc thành công ư ? Đó là nhờ ta có sẵn thông minh, sức khoẻ, năng khiếu.
Bởi vậy dù ta làm được gì thì ta cũng là đầy tớ vô dụng thôi.
3. Trong một tập thể, nếu ai cũng coi mình là đầy tớ của người khác thì việc chung sẽ chạy đều. Còn nếu ai cũng muốn làm kẻ chỉ huy thì sẽ thế nào ?
4. Quan niệm ‘sống đạo để lập công’: quan niệm của Pharisêu, của người con cả trong dụ ngôn Người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng. Đây là kiểu sống không có tình; chỉ có tính thương mại. ‘Mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày’.
5. Ta sống tốt chỉ có giá trị nhằm gợi lên lòng thương xót và sự nhân hậu của Chúa, ta không có quyền đòi hỏi gì; hoặc nếu có đòi, thì hãy đòi trong tâm tình của đứa con nhỏ vòi vĩnh trong tình thương. - Thân phận ta, về một khía cạnh nào đó, có thể ví như thân phận người đang chờ án tử hình, nay vì tin vào lòng nhân hậu Chúa, ta làm tốt để cố vớt vát lấy lòng Chúa và cố đền bù những thiệt hại tan hoang mình đã gây ra.
6. Người ta hỏi Thánh Phanxicô Assisi nhờ đâu và bằng cách nào mà ngài làm được nhiều việc như thế. Thánh nhân đáp:
- Thiên Chúa ở trên Thiên đàng nhìn xuống dưới đất. Ngài tự hỏi: “Tìm đâu ra một người yếu đuối nhất, nhỏ bé nhất và hèn hạ nhất đây ?” Thế rồi Thiên Chúa tìm thấy tôi. Ngài lại tự nhủ: “Ta đã tìm được nó rồi. Qua nó, Ta sẽ làm những việc Ta muốn. Nó sẽ không tự phụ được với những việc đó, bởi vì nó biết rằng Ta xử dụng nó chỉ vì sự yếu đuối, nhỏ bé và hèn hạ của nó thôi” (Christian Herald).
7. “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chỉ làm việc theo bổn phận ấy thôi” (Lc 17,10b)
Một nhân viên gác cầu quay có nhiệm vụ quay cây cầu lên cao mỗi khi có tàu thuỷ qua lại phía dưới. Một ngày kia, cậu con trai ông đi qua phía cầu để chơi và xem cha mình làm việc. Thình lình cậu bé trượt chân té. Thấy con bị té, người cha hốt hoảng định kéo con lên. Nhưng ngay lúc đó một chuyến tàu chở đầy hành khách đang lao tới trong tiếng còi văng vẳng từ xa vọng lại. Ông phải nâng cầu lên cho con tàu đi qua và như vậy con trai yêu quý của ông sẽ chết. Tâm trí bấn loạn… nhưng ông cũng đã hoàn tất nhiệm vụ, để rồi phải nhìn chiếc tàu đi qua với những hành khách nhộn nhịp cười nói mà lòng quặn đau…
Trong cuộc đời, có lần nào tôi đã dám hy sinh vì anh em mà không tính toán, dám phục vụ mà không nghĩ thiệt hơn ?
Lạy Chúa, xin cho con biết phục vụ một cách vô vị lợi, vì đó là bổn phận của con. (Hosanna).
Các bài đọc hôm nay đều nói về Đức tin, mỗi bài đề cập đến đức tin dưới một khía cạnh:
- Bài đọc I: Tin là kiên nhẫn chờ đợi chương trình của Thiên Chúa được thực hiện.
- Tin Mừng: Đức tin là nguồn sức mạnh giúp ta làm được những việc phi thường.
- Bài đọc II: Tin là dựa vào sức mạnh của Chúa để hoàn thành sứ mạng Ngài giao.
Ngoài ra, phần thứ hai của bài Tin Mừng cũng đề cập đến thái độ phục vụ khiêm tốn như một người đầy tớ.
Minh họa
- Mille images 134 E
- "Hãy bật rễ đi" (Lc 17,6)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta vẫn nói rằng mình là tín hữu, nghĩa là người có đức tin. Nhưng thực ra đức tin của chúng ta còn rất yếu, và chúng ta chưa thực sự sống đức tin của mình.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy thưa với Chúa như các tông đồ xưa "Thưa Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con".
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta giao động không muốn tin nữa khi gặp phải những khó khăn trong đời sống.
- Chúng ta chưa thể hiện đức tin mình ra bằng một cách sống siêu nhiên phó thác nơi Chúa quan phòng.
- Chúng ta không khiêm tốn phục vụ mọi người như một người tôi tớ.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Kb 1,2-3 ; 2,2-4)
Ngôn sứ Kha-ba-cúc than thở với Chúa về những cảnh bất công cứ tồn tại và những người ác cứ nhởn nhơ. Đáp lại, Thiên Chúa bảo ông hãy giữ vững lòng tin và đừng nản lòng, vì khi đến thời của Ngài, Ngài sẽ ra tay tái lập sự công chính.
2. Đáp ca (Tv 94)
Tiếp nối tư tưởng của đoạn sách trên, Thánh vịnh 94 kêu gọi đừng khép kín cõi lòng, nhưng hãy biết lắng nghe tiếng Chúa để biết được ý định của Ngài trong những lúc gian truân thử thách.
3. Tin Mừng (Lc 17,5-10)
Đoạn Tin Mừng này gồm 2 giáo huấn của Đức Giêsu: a/ Về sức mạnh của Đức tin ; b/ Về việc phục vụ cách khiêm tốn.
a. Đức tin: Những người trong tập thể Giáo Hội hãy cố gắng củng cố lòng tin của mình. Nếu có lòng tin thì sẽ làm được nhiều điều phi thường.
b. Phục vụ: Chúa Giêsu dạy muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm tốn, khiêm tốn đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi ta đã tự coi mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ không ngại phục vụ người khác, hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho người khác ta đều là bổn phận.
4. Bài đọc II (2 Tm 1,6-8.13-14)
Thánh Phaolô kêu gọi Timôtêô đừng ngả lòng trước những khó khăn mục vụ, trái lại hãy củng cố đức tin bằng cách khơi dậy đặc sủng của Thánh Thần mà Timôtêô đã nhận được khi được đặt tay trao sứ mạng, và hãy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa để tiếp tục nhiệm vụ mình.
IV. Gợi ý giảng
1. Đức tin - phục vụ
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca ghi lại 2 điều Chúa Giêsu căn dặn những kẻ muốn làm môn đệ Ngài.
a. Điều thứ nhất là về đức tin: Câu chuyện khởi đầu với lời xin của các tông đồ "Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con". Ta hãy chú ý họ là các tông đồ chứ không phải chỉ là môn đệ thường. Họ đã từng sống với Chúa Giêsu một thời gian dài, nghe biết bao điều Ngài giảng dạy, thấy biết bao điều Ngài làm. Họ là thành phần ưu tú được chọn riêng ra trong số 72 môn đệ. Thế mà họ vẫn cảm thấy mình thiếu đức tin.
Các tông đồ mà còn cảm thấy thiếu đức tin, thì huống chi chúng ta ! Nhiều khi chúng ta quỳ chầu trước Thánh Thể mà hình như không tin có Chúa đang ngự trong Nhà tạm. Nhiều khi chúng ta rước lễ mà hình như không tin có Chúa đang thực sự ở trong lòng ta. Và nhiều khi đứng trước một hoàn cảnh khó khăn, chúng ta hình như không tin lời Chúa dạy "Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian". Mặc dù chúng ta đã học giáo lý nhiều, đã đọc Thánh Kinh nhiều, nhưng tại sao chúng ta không vững đức tin ? Như thế đủ biết Đức tin không phải là kết quả của học hỏi, của kiến thức. Nhiều khi ngược lại, càng học nhiều, càng biết nhiều thì lại càng khó mà tin. Đức tin chính là một ơn ban. Tại sao rất nhiều bậc thông thái không có đức tin, còn chúng ta không thông thái gì, thế mà có đức tin. Rõ ràng vì Chúa thương chúng ta nên ban đức tin cho chúng ta. Và chính vì đức tin là một ơn ban, cho nên chúng ta phải xin như các tông đồ ngày xưa: "Lạy Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con".
Đức tin không phải là kết quả của học hỏi và của kiến thức. Ngược lại nhiều khi càng học biết nhiều thì càng khó mà tin. Tại sao thế ? Thưa tại vì trong đức tin luôn có một phần mờ tối, khi ta tin thì luôn có một phần mạo hiểm. Nếu tất cả đều sáng tỏ hết rồi ta mới tin thì đấy không phải là đức tin. Nếu tất cả đều chắc chắn rồi ta mới dấn thân thỉ đấy cũng không phải là một hành vi đức tin. Đức tin luôn có phần mờ tối, tin luôn đòi ta mạo hiểm dấn thân. Nhưng nói thế không phải là chúng ta tin cách mù quáng, trái lại chính vì chúng ta yêu. Xin lấy một thí dụ trong đời thường: ở một vùng kinh tế mới nọ, có một thanh niên và một thiếu nữ quen nhau. Mỗi người họ đến từ một miền khác nhau. Quen nhau một thời gian rồi họ yêu nhau. Và một hôm người thanh niên ngõ lời xin cưới cô gái. Cô gái ưng thuận ngay. Người thanh niên mới hỏi: Em không biết gốc gác của anh, không biết gia đình anh, em không sợ bị anh gạt hay sao mà dám giao phó cuộc đời cho anh ? Cô gái đáp: không. Anh chàng hỏi thêm: Tại sao ? Và cô gái trả lời rất gọn: vì em yêu anh.
Người con gái ấy vì yêu nên đã tin người thanh niên nọ. Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta yêu Chúa thì chúng ta mới tin Chúa được, yêu càng nhiều thì tin càng mạnh. Cho nên ngoài việc xin Chúa ban thêm đức tin, chúng ta cũng cần xin Chúa ban thêm lòng yêu mến cho chúng ta.
b. Điều thứ hai Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là: người môn đệ Chúa phải biết phục vụ, và phục vụ cách vô vụ lợi. Giống như một người đầy tớ, sau khi đã đi cày, sau khi đã chăn chiên rồi về nhà còn phải dọn cơm cho chủ, đứng đó hầu hạ chủ, rồi dọn dẹp. Xong xuôi hết thì nói "Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng". Nhiều chuyên viên Thánh Kinh nói rằng dịch chữ vô dụng không được đúng lắm. Ý nghĩa của nó là "Tôi chỉ là một người đầy tớ mà thôi, không hơn không kém". Người đầy tớ thì đương nhiên phải phục vụ, phục vụ là bổn phận của người đầy tớ. Cho nên dù có phục vụ nhiều thì cũng không có gì là công lao để đòi chủ biết ơn.
Khi Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ để làm bài học cho các môn đệ, Ngài muốn nhắc chúng ta rằng làm môn đệ, làm tông đồ chính là làm đầy tớ. Bởi thế ĐGH xưng mình là "Đầy tớ của các đầy tớ".
Có một điểm rất sâu sắc về từ ngữ: trong Thánh Kinh, chữ "phục vụ" vừa chỉ việc làm của một người đầy tớ đối với chủ, vừa chỉ việc làm của người tín hữu phụng thờ Chúa. Tế lễ là phục vụ Chúa. Như thế, khi chúng ta phục vụ người ta thì cũng có nghĩa là chúng ta đang phụng thờ Chúa. Và nếu như suốt ngày chúng ta lo phục vụ anh em thì điều đó có nghĩa trọn ngày hôm đó của chúng ta là một Thánh lễ nối dài.
2. Chiếc bình trống rỗng
Một thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một người trong bọn họ nói: "Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy". Người khác nói: "Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham". Người thứ ba nói: "Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp". Người thứ tư châm vào: "Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Môsê và thầy mà thôi".
Vị Rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi:
Ông có nghe họ ca tụng ông không ?
- Có.
- Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như thế ?
Vị Rabbi than phiền:
- Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi ?
****
Mong người ta ca ngợi sự khiêm tốn của mình thì chẳng còn khiêm tốn ! Cho dù thầy Rabbi có khôn ngoan như Salomon, đức tin ngang ngửa với Abraham, kiên nhẫn như ông Gióp và thân mật với Chúa như Môsê mà không có lòng khiêm tốn thì tất cả các nhân đức ấy cũng chỉ đổ sông đổ biển mà thôi. Nếu người ta thực hành các nhân đức, chu toàn các việc đạo, làm nhiều việc thiện, nhưng để tự mãn và khoe khoang công trạng thì ngay lúc đó họ không còn thánh thiện nữa.
Vì khiêm tốn là nền tảng của mọi nhân đức, nên hôm nay Đức Giêsu đã dạy các Tông đồ: "Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: "Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi" (Lc 17,10). Thật vậy, chúng ta là những đầy tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm những gì phải làm. Cho dù là đức Thánh Cha cũng luôn luôn nhận mình là "đầy tớ của các đầy tớ Chúa". Đã là đầy tớ thì phải vâng lệnh chủ, làm tất cả những gì ông sai bảo mà không được kể công, cũng không buộc ông phải nhớ ơn. Đó là chuyện hết sức bình thường, chuyện bổn phận. Có rất nhiều bổn phận phải chu toàn như bổn phận "mến Chúa yêu người", có ai đám nhận mình không hề thiếu sót. Cho dù họ có làm được điều gì tôn vinh Thiên Chúa hay phục vụ anh em đồng loại, thì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa ban cho.
Kẻ kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy mình cần Chúa, họ luôn tự mãn với thành quả mình đã đạt được, luôn cho rằng thành công là do mình tạo nên. Đó là nỗi bi đát cố hữu của những kẻ kiêu ngạo, của nhóm Pharisêu, và cũng là cám dỗ thường xuyên của mỗi người chúng ta.
Người khiêm tốn trái lại, luôn hãnh diện về những thiếu sót của mình, chính vì thiếu sót nên họ càng phải cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Thế nên, khi được thành công thì họ rất vui mừng cho rằng đó là món quà bất ngờ Chúa ban. Đó là lý do tại sao Chúa lại yêu thích những con người khiêm tốn như thế.
Nếu đã ý thức mình là thân phận nhỏ bé, là "đầy tớ vô dụng", thì cho dù khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ nhưng kiêu căng một chút đã quá nhiều. Vì thế, chỉ có những ai thấu hiểu thân phận yếu đuối của mình, mới chứa nổi Đấng mạnh mẽ vô song. Chỉ có những kẻ xoá mình ra không mới có chỗ cho Đấng Vô Cùng. Chỉ có những chiếc bình trống rỗng mới có thể đón nhận tràn đầy hồng ân.
*****
Lạy Chúa, có một ân huệ nào chúng con đã nhận lãnh mà không phải do Chúa thương ban, có một điều thiện nào chúng con thực hiện mà chẳng do Chúa tác thành.
Xin tiếp tục đổ đầy vào tâm hồn nhỏ bé, yếu đuối và bất toàn của chúng con những điều tốt lành mà Chúa đã khởi sự cho chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu", năm C)
3. Phục vụ trong tình yêu
Nhiều người xem Chúa như một ông chủ thuê người làm việc và con người là những người được thuê ấy. Bởi thế, sau khi làm được một việc gì, họ nghĩ rằng Chúa phải ban ơn cho họ, như một cách trả tiền công.
Suy nghĩ trên hoàn toàn sai. Và rất may là suy nghĩ đó sai, bởi vì nếu Chúa thực sự đối xử với ta như một ông chủ đối xử với người làm thì chắc chúng ta chẳng nhận được bao nhiêu từ tay Ngài, bởi vì công lao của chúng ta chẳng có là bao.
Qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy chúng ta biết rằng tương quan của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta là tương quan ân sủng và tình yêu, bởi vì Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con. Con cái làm việc theo ý Cha đâu phải để được Cha trả lương ; và Cha ban gì cho con đâu phải vì trả nợ.
Vả lại Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và ban rất nhiều ơn cho chúng ta trước khi chúng ta làm được việc gì xứng đáng với tình yêu của Ngài. Thánh Phaolô nói rằng Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội nhân. Vì thế tất cả những gì chúng ta làm bây giờ chỉ là để đáp lại tình yêu của Ngài.
Còn nữa, chúng ta tuân giữ những điều răn của Chúa không phải để được Ngài yêu thương, nhưng chúng ta tuân giữ các điều răn Chúa bởi vì Ngài yêu thương chúng ta.
Toàn bộ Tin Mừng của Chúa Giêsu có thể được diễn tả thế này: Chúa nhân từ kêu gọi các môn đệ hãy phục vụ Ngài vì tình yêu chứ không phải vì bổn phận. Vì vậy, chỉ đức tin thôi chưa đủ, còn phải có tình yêu nữa. Trong khi đức tin khiến cho mọi sự trở thành có thể, thì tình yêu khiến cho mọi sự trở thành dễ dàng. (Flor McCarthy)
4. Chuyện minh họa
a/ Đức tin lớn lao
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:
- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?
- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
b/ Tin người đáng tin
Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tàu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng biết tàu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra hỏi một người đứng kế bên:
- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không ?
- Phải đó bà.
Nhưng bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi:
- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không ?
- Phải đó bà.
Nhưng bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hoả xa, bà hỏi:
- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không ?
- Phải, thưa bà.
Thế là bà an tâm bước lên tàu. Bà đã tin người đáng tin. Đức tin là thế ! c/ Phục vụ là hạnh phúc
Tại văn phòng của một Cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự: "Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi "sụ" nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên". Nhà Cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể: chồng tôi đã chết, cách nay 3 tháng con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả, tôi không ngủ được, tôi không muốn ăn uống, tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình ; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc". Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).
5. Mảnh suy tư
Đức tin làm cho cuộc đời có ý nghĩa: vì một cuộc đời không có niềm tin cũng giống như một đêm tối không ánh sao.
Đức tin ban cho cuộc đời tinh thần hăng hái và niềm hy vọng: vì chúng ta cần hy vọng cũng như cuộc sống cần lương thực. Nhưng muốn hy vọng thì phải có đức tin, và đức tin sẽ mang đến niềm vui.
Nhưng chúng ta đừng mong rằng đức tin sẽ soi tỏ hết mọi vấn đề, bởi vì đức tin là trông cậy chứ không phải là sự hiển nhiên chắc chắn.
Đức tin không phải là một sự vật mà là một mối tương quan, tương quan với Chúa.
Người ta không nhận được đức tin trọn vẹn trong ngày rửa tội, nhưng phải nuôi lớn đức tin hằng ngày.
Đức tin lớn dần lên qua việc tập sống đức tin.
V. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta không phải là đầy tớ của Chúa, mà là con của Ngài. Vậy chúng ta hãy hân hoan trìu mến cùng dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha.
VI. Giải tán
Trong Thánh lễ hôm nay, Chúa đã nhắc chúng ta rằng Ngài là Cha của chúng ta và tha nhân là anh em của chúng ta. Vậy trong tuần này chúng ta hãy sống với Thiên Chúa trong tin yêu như con cái đối với Cha, và hãy phục vụ tha nhân như anh em phục vụ nhau.
Người ta muốn liên kết cc.5-6 với các phần trước, như thế các tông đồ, vì cảm thấy khó thi: TN 27-C34
1. Người ta muốn liên kết cc.5-6 với các phần trước, như thế các tông đồ, vì cảm thấy khó thi hành toàn vẹn việc tha thứ các điều xúc phạm đến mình, đã xin CGS thêm đức tin để vượt thắng khó khăn đó. Nhưng không chắc là có tương quan đó và cũng không chắc là tác giả phúc âm bàn đến chủ đề mới mà không có câu chuyển mạch. Chữ và (kai) ở đầu c. xem ra khẳng quyết ý tưởng đó.
2. “Xin thêm lòng tin cho các con”. Về phía các tông đồ, là những người có sứ mệnh mở rộng Nước TC, lời cầu xin này rất hợp thời (cũng xin rất hợp thời đối với tất cả mọi tông đồ hiện đại và mọi Kitô hữu). Đức tin mà các Ngài ao ước hằng tăng trưởng không phải chỉ là một liên kết thuần tri thức vào sứ điệp cứu rỗi CGS mang đến, nhưng là niềm xác tín đặc biệt và tin tưởng vững mạnh vào TC, Đấng sẽ ban cho nó sứ mệnh loan truyền tin mừng trong thế giới qua việc rao giảng và làm phép lạ. Đó là đức tin toàn diện, là ân huệ căn bản của ơn cứu độ.
Câu CGS trả lời có thể hiểu hai cách:
a/ Khi xin thêm lòng tin, các tông đồ đã nói đến bằng các từ ngữ chỉ lượng tính điều phải được định giá bằng phẩm tính. Có lẽ CGS muốn sửa sai cái nhìn đó: khi có đức tin đích thực, toàn diện, thì vấn đề lượng tính không quan trọng; nhưng nếu chỉ có một số lượng đức tin nhỏ nhoi như hạt cải, người ta cũng đủ năng lực để hoàn tất các công việc xem ra không thể làm được.
b/ Khi xin thêm lòng tin, các tông đo nhắm đến niềm tin - phó thác hoàn toàn của một tín hữu hoàn thiện. Câu CGS trả lời có lẽ cho thấy các Ngài đã có lý khi nghĩ rằng một đức tin như thế thật đáng ước ao chừng nào vì đức tin đó thật mạnh mẽ, quyền uy. “Nếu các con có đức tin lớn như hạt cải”, nếu các con có được một chút đức tin toàn thiện mà các con cầu xin, điều đó đã đủ để cây dâu tróc rễ, xuống mọc dưới biển, theo lệnh các con truyền... Vì không có gì mà TC không làm được.
Khó mà theo cách chú giải nào. Dù sao, hình như tác giả muốn nhấn mạnh đến phẩm tính của đức tin hơn là lượng tính, vì ông đã cố ý lựa một hình ảnh thật qua đáng (hạt cải chỉ lớn bằng đầu cái kim). Một sự phó thác dù nhỏ mọn đến đâu, miễn là được thể hiện trong đức tin, có thể chiếm hữu được nhiều điều lớn lao do TC ban. Cây dâu là một cây đại thụ: rễ rất lớn, có thể sống tới 600 năm. Nhưng chỉ một lời phát xuất từ niềm tín thác đích thực vào TC cũng có thể bứng cây dâu này khỏi đất để mọc trong lòng biển Galilea.
Mt 17,20 và Mc 11,23 diễn tả cùng một giáo huấn này, bằng nhiều câu khác biệt, ví dụ thay dâu dâu bằng hình ảnh một ngọn núi tróc chân và xuống mọc dưới biển. Tuy nhiên những lời đó không có nghĩa theo lối tả chân đó. Phải hiểu chúng trong một nghĩa rộng rãi hơn. Những lời đó cho thấy phép lạ vĩ đại nhất của lòng tin sẽ được thể hiện nhờ vào sức mạnh chinh phục của Phúc âm, phép lạ đó không những chỉ dời cây dâu hay ngọn núi, nhưng toàn thế giới. Dù sức mạnh ấy chỉ ở trong con người, và con người chỉ ở trong một góc bé nhỏ của vũ trụ, sức mạnh của đức tin sẽ chiếu sáng bằng những chuỗi công trình kỳ diệu. Một Kitô hữu đích thực bất cứ ở đâu cũng là một sức mạnh. Môi trường của người Kitô hữu đó sẽ thế nào nếu người đó là một vị thánh ? Vì thế cha sở xứ Ars đã nói với Đức Giám mục của Ngài: để biến đổi toàn giáo phận, chỉ cần đặt ở mỗi xứ một cha sở thánh thiện là đủ.
3. Lc đặt dụ ngôn về “người tôi tớ hèn mọn” trong một loạt câu chuyện xem ra không liên hệ gì với nhau. Các câu chuyện này tản mác nhiều chỗ trong Mt và Mc.
“Nào ai trong các ông ...” là câu hỏi đưa ra cách tổng quát một sự kiện thường có trong cuộc sống hàng ngày, trong đó có nhiều điểm để so sánh. Lý chứng cho thấy câu chuyện CGS nói không phải là một ẩn dụ, nằm trong câu áp dụng ("các ông cũng thế..."). Rõ ràng là CGS so sánh hai toàn cảnh, chứ không lấy một thực tại này thay thế một thực tại kia. Trình thuật đưa ra trường hợp của ông chủ, còn việc áp dụng dựa trên các sự kiện thái độ của người tôi tớ: hình ảnh xem ra không được cân đối, nhưng có thể hiêu được nhờ một lý do tâm lý. Cử tọa đang nghe CGS rất có thể gồm những người nuôi tôi tớ, hơn là gồm chính những người tôi tớ. Vì thế ngài bắt đầu bằng câu: “Ai trong các ông, có một người tôi tớ”, chứ không nói: “Ai trong các ông là nông dân hay mục đồng...”
Dụ ngôn giới thiệu một ông chủ đã hai lần gặp thấy tôi tớ mình chu toàn tốt nhiệm vụ. Lần thứ nhất, khi người tôi tớ đi cày ruộng về hay dẫn gia súc của chủ từ đồng cỏ về. Phải chăng ông sẽ quên ai là chủ ai là tớ ? Không, ông chủ sẽ đòi người tôi tớ tiếp tục phục dịch ông. Do đó người tôi tớ sẽ lo dọn bữa cho chủ trước khi nghĩ đến bản thân mình. Sau đó, người tôi tớ sẽ có quyền đòi thay đổi địa vị ? Không, chủ luôn luôn xem y như là tôi tớ của ông.
Người ta chờ câu áp dụng cho TC và câu áp dụng tương phản, như các dụ ngôn khác đã làm. Ông chủ trần thế đã xử sự như thế, còn Cha các con trên trời sẽ hành động khác. “Ông chủ sẽ làm gì ? Thật, Ta nói thật chủ sẽ thắt lưng, sẽ đặt người tôi tớ vào bàn tiệc, và đi lại hầu hạ nó” (theo cách nói của Lc 12,37).
Nhưng ở đây CGS không muốn đưa ra bài học về cách thức mà Cha trên trời tưởng thưởng các tôi tớ Ngài. Ngài muốn dạy các tôi tớ phải phục vụ trong tâm tình khiêm tốn nào ? Như thế CGS đi từ việc quan sát ông chủ, đến việc chú ý đến người tôi tớ và so sánh dựa trên lối cư xử của người tôi tớ.
Theo tập tục thời đó, tôi tớ không được thuê làm ban ngày, nhưng vẫn ở nhà, thì không được tự do xử dụng thì giờ theo ý mình, ông luôn luôn bị đặt dưới sự xử dụng của chủ. Khi làm xong một công việc chủ trao người tôi tớ phải sắp sẵn để làm một việc khác. Ông luôn luôn là một tùy viên không khi nào vượt qua khỏi thân phận tôi đòi của mình.
Dù làm nổi bật ông chủ, dụ ngôn cũng mô tả vừa đủ thân phận người tôi tớ để đưa ra một cách áp dụng dựa trên thân phận đó. CGS dạy chúng ta đừng bao giờ vênh vang trước mặt TC như thể chúng ta có quyền đòi TC đặc biệt tưởng thưởng, sau khi đã làm xong một vài công việc; trái lại Ngài cho thấy chúng ta phải luôn ý thức thân phận tôi tớ của mình, và khi đã làm xong một việc gì, chúng ta phải vui lòng chấp nhận việc Chúa sẽ gởi công việc khác cho chúng ta thi hành. Dụ ngôn hoàn toàn không nhắm đến hậu kết của thái độ như thế (như trong Lc 12,37). Đây không phải là giáo huấn về thưởng phạt, nhưng là bài học khiêm tốn.
Bài học khiêm tốn này còn rõ ràng hơn nếu chúng ta dịch đúng tĩnh từ axhreios là chữ được ghép cho ácc tôi tớ trong bài học mà CGS rút từ c.10. Đa số các bài chú giải đều dựa trên bản dịch: “chúng tôi đều là những tôi tớ vô dụng”, và khai triển ý tưởng đó cho rằng các điều chúng ta làm đều vô ích trước mặt TC. Đây là một ý tưởng đúng về mặt siêu hình, nhưng không được dụ ngôn trực tiếp gợi ý. Vì trong dụ ngôn, người tôi tớ không phải là vô dụng đối với chủ. Làm sao có thể tuyên bố là vô dụng, một người tôi tớ sửa soạn bữa ăn, mang thức ăn của uống theo lệnh chủ ? Người ta sẽ cho rằng tĩnh từ achreios chỉ áp dụng cho người tôi tớ của TC, vì với TC không ai là người hữu dụng thực sự; đúng thế, nhưng vì người tôi tớ đó của TC ở đây được so sánh với người tôi tớ trong dụ ngôn đâu có vô dụng.
Do đó, tĩnh từ achreios không có nghĩa là “vô dụng” mà còn có nghĩa “bản thân hèn kém, vô nghĩa, không đáng kể...”. Cho nên người tôi tớ, vì chỉ thực hành lệnh của chủ, nên không có tham vọng được chủ biết ơn hay tưởng thưởng: vì ông đơn thuần chỉ là một người tôi tớ; ông không làm gì hơn, ngoài việc bổn phận tôi tớ của mình. Đối với TC, con người không phải là người đồng hàng có thể tự do ký kết với Ngài các thỏa ước hay giao dịch trao đổi; cũng không phải là kẻ ngang hàng đã phục vụ Ngài vì tình bằng hữu, nên có quyền chờ đáp trả, vì con người chỉ là tôi tớ TC.
KẾT LUẬN
Người tông đồ phải phục vụ TC với tinh thần khiêm tốn như người tôi tớ, sau khi đã chu toàn ý của chủ, không nghĩ rằng mình làm một công việc phi thường. Các môn đệ CGS phải giữ mình đừng kiêu ngạo vì những công việc tông đồ của mình, và phải tự xưng mình chỉ là tôi tớ: điều này không muốn nói họ là những tôi tớ không làm được gì, vì TC xử dụng họ, nhưng là những tôi tớ không mấy kết quả, vì thế đừng vênh mặt vì các công việc mình đã làm như thể các công việc đó là những kỳ công tầy trời. Dù có làm được gì họ phải luôn nói: “Chúng tôi đã chỉ làm điều chúng tôi phải làm”.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Lời cầu xin của các tông đồ “xin thêm lòng tin cho chúng con” cũng phải là lời cầu xin của chúng ta vào thời thử thách xao xuyến, như thời chúng ta đang sống cũng như trong bất cứ thời nào. Các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại làm chúng ta tiếp xúc nhiều với biết bao sự dữ và đau khổ, khiến chúng ta phải có một đức tin dồi dào, mới có thể nhìn thấy qua tất cả các sự kiện đó Nước TC đang từ từ được kiến tạo. Cũng như các tông đồ ngày xưa, chúng ta hãy xin Chúa thêm sức mạnh nội tâm cho chúng ta hôm nay.
2. Qua việc so sánh với hạt cải, CGS không còn cách nào tuyệt hảo hơn nói lên tầm quan trọng và hiệu năng của đức tin. Nếu bạn có đức tin, dù rất khiêm tốn, như một hạt giống nhỏ bé nhất, một đức tin không có gì đáng kể, nhưng chỉ một tiếng bạn có thể làm trốc rễ một cây đại thụ và đem trồng dưới biển. Không còn cách nói nào hay hơn để mô tả sức sáng tạo và quyền thống trị của con người trên vạn vật, nhờ đức tin. Như thế đức tin làm cho con người được thông vào một quyền năng siêu nhiên. Quả thực, sau khi lời cầu xin của các tông đồ được chấp thuận do việc Thánh linh biến đổi nội tâm các Ngài dịp lễ hiện xuống, các Ngài đã làm chứng có một đức tin không những chỉ lay chuyển các cây cối, rừng rú, mà toàn thế giới.
3. Dụ ngôn người tôi tớ chấm dứt bài phúc âm hôm nay. Không nhằm vẽ chân dung TC, nhưng muốn nói lên thái độ con người đối với Ngài. Phục vụ TC, chính là công việc của người tôi tớ. TC ra lệnh con người phải tuân nghe. Luật buộc phải vâng lời như là món nợ phải của con nợ. TC không mắc nợ ai, chính con người mới mắc nợ TC. Con người không có quyền đòi buộc TC gì hết, vì con người là kẻ mắc nợ. TC không phải trả lương, không cần biết ơn con người. Ngay cả khi người tôi tớ hoàn tất tốt mọi điều chủ đã ra, nó cũng chỉ làm việc nó phải làm. Tôi tớ là tôi tớ. Nếu vì lòng tốt TC muốn tưởng thưởng tôi tớ, điều đó chỉ lòng tốt của Ngài mà thôi; tôi tớ không có quyền đòi được thưởng công, vì nó chỉ làm điều nó phải trong thân phận tôi tớ.
4. Các người Biệt phái (và ai trong chúng ta lại không có một chút đặc tính của người biệt phái trong tâm hồn mình ?) quan niệm mối tương quan giữa TC và con người dưới hình thức một khế ước: ăn miếng trả miếng, hòn đất ném đi hòn chì ném lại. Khi hoàn tất lề luật, khi chu toàn điều TC dạy, bấy giờ chúng ta đòi tưởng thưởng, được trả công. Dụ ngôn CGS loại bỏ cách suy nghĩ đó. TC không mắc nợ chúng ta, ngay cả lòng biết ơn. Con người chỉ là một tôi tớ hèn mọn. Trong bản văn Lc, dụ ngôn này, được kể cho các tông đồ nghe - dù các Ngài đã bỏ mọi sự mà theo CGS (5,11) các Ngài đã vui lòng thực hiện các yêu sách tận căn đó. các tông đồ dù đã bỏ tất cả cũng chỉ có thể thưa lên: chúng con đã chỉ làm điều chúng con phải làm để trả nợ. Khi phục vụ TC, các Ngài là những tôi tớ hèn mọn, làm điều phải làm. Mọi Kitô hữu cũng phải bắt chước như thế, phải làm trọn bổn phận Kitô hữu của mình tốt hết sức có thể. Dĩ nhiên, một ngày kia họ sẽ được tưởng thưởng (và ngay đời này bằng sự bình an tâm hồn), nhưng họ biết rằng họ chả có quyền được hưởng như thế: phần thưởng chỉ do lòng tốt của TC mà thôi.
Bài Tin Mừng hôm nay gồm có hai phần chính như sau: Phần 1: Nhân dịp các Tông Đồ cầu xin thầy: TN 27-C35
1) Ý CHÍNH: Bài Tin Mừng hôm nay gồm có hai phần chính như sau:
Phần 1: Nhân dịp các Tông Đồ cầu xin thầy ban thêm lòng tin, Đức Giêsu đã nói về sức mạnh của đức tin đích thực.
Phần 2: Dụ ngôn về một người đầy tớ luôn vâng lời chủ: sau khi làm việc vất vả ngoài đồng trở về, anh ta lại tiếp tục lo dọn bữa ăn cho chủ, mà không đòi chủ phải trả ơn cho mình. Qua đó, Đức Giêsu dạy các môn đệ cũng phải có thái độ khiêm hạ và vô vụ lợi sau khi đã thi hành sứ mệnh rao giảng tin mừng được Người trao cho.
2) CHÚ THÍCH:
- Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Chúa đáp: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em (Lc 17,5-6):
+ Tông đồ: Ở đây Đức Giêsu nói với các Tông Đồ chứ không nói chung các môn đệ. Tông Đồ là tước hiệu dành riêng cho những người được Đức Giêsu tuyển chọn từ số 72 môn đệ (x. Lc 10,1; 6,12-13). Các ông còn phải từ bỏ mọi sự mà đi theo Đức Giêsu và sau này được Người trao quyền lãnh đạo đoàn chiên và sai đi rao giảng Tin Mừng.
+ Xin thêm lòng tin cho chúng con: Đứng trước những đòi hỏi của Luật mới (x. Lc 17,1-4) và sứ mệnh mở rộng Nước Thiên Chúa, các Tông Đồ cảm thấy mình bất lực. Các ông đã xin Đức Giêsu ban thêm lòng tin. Lòng tin mà trước đó các ông đã bị Người trách là yếu kém (x. Lc 8,25). Các ông xin Người mở rộng tâm hồn để đón nhận ánh sáng đức tin.
+ “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải”: Hạt cải là loại hạt giống nhỏ nhất (x. Mt 13,32). Đức Giêsu so sánh lòng tin với hạt cải, là có ý nhấn mạnh về mặt phẩm chất hơn là về số lượng của đức tin. Một sự phó thác dù nhỏ bé đến đâu, nếu được thực hiện trong đức tin, thì vẫn có thể làm được những điều lớn lao kỳ diệu. Vì bấy giờ người ta làm không phải do sức riêng của mình, nhưng nhờ quyền năng của Thiên Chúa.
+ “Thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia là mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em”: Cây dâu là một cây đại thụ, rễ rất lớn, có thể sống tới 600 năm. Nhưng chỉ một lời phát xuất từ niềm tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, thì cũng có thể bứng cây đó khỏi đất để xuống mọc trong lòng biển Galilê (x. Mt 17,20). Ở đây Đức Giêsu không khuyên người ta cầu xin những phép lạ giật gân. Chắc chắn Người không khi nào thực hiện việc dời cây dâu trồng xuống biển. Nhiều lần Người đã từ chối làm các phép lạ để chứng minh Người là con Thiên Chúa như các đầu mục yêu cầu. Tóm lại: Đây là một kiểu nói chỉ nhằm để đề cao sức mạnh của lòng tin mà thôi.
- “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: ‘Mau vào ăn cơm đi !’, chứ không bảo: ‘Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau !’ (Lc 17,7-8):
+ “Ai trong anh em”: Kiểu nói diễn tả tổng quát một sự kiện thường xảy ra trong cuộc sống hằng ngày, khiến cho người nghe dễ nhận thức được bài học.
+ “có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên…”: Theo tập tục thời đó, người đầy tớ không được tự do làm việc theo ý mình, nhưng phải luôn làm theo ý chủ. Ở đây, người đầy tớ vừa cày ngoài ruộng về nhà, hay dẫn chiên từ đồng cỏ trở về. Ong chủ đòi anh ta phải tiếp tục phục vụ ông ăn bữa tối trước đã. Bổn phận của người đầy tớ là làm theo ý chủ dạy, làm hết việc này sang việc khác mà không có quyền đòi chủ phải biết ơn.
- Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao ? Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,9-10):
+ “Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao ?”: Qua hình ảnh đầy tớ, Đức Giêsu muốn dạy người Tông Đồ đừng bao giờ vênh vang như thể mình có quyền đòi hỏi Chúa phải biết ơn sau khi mình đã làm xong việc bổn phận. Trái lại, họ cần ý thức thân phận tôi tớ để sẵn sàng bắt tay vào việc khác theo lệnh Chúa truyền.
+ “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”: “Đầy tớ vô dụng” không có nghĩa là không làm được gì. Các Tông Đồ cũng đã làm cho nhiều người tin theo Chúa. Tuy nhiên ở đây, “đầy tớ vô dụng” chỉ là một kiểu nói có tính cường điệu và có nghĩa là “thân phận hèn kém”. Người Tông Đồ cần tránh thái độ “công thần”. Vì các thành quả tuy do các ông làm, nhưng đều nhờ Chúa ban ơn trợ giúp, như lời Người phán: “Không có Thầy, anh em không làm được gì” (Ga 15,5). Thánh Phaolô cũng khiêm tốn nhận rằng: “Tôi trồng A-pô-lô tưới, nhưng Chúa mới làm cho cây mọc lên”. Tóm lại, khi rao giảng Tin Mừng ta cần noi gương khiêm tốn của Đức Giêsu (x. Pl 2,6-8).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
CHỦ ĐỀ I: ĐỨC TIN
1) LỜI CHÚA: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).
2) CÂU CHUYỆN
Ngày nay, trên thế giới ít có người không biết đến tên Têrêsa Can-Quýt-Ta, Mẹ là một nữ tu đã được tặng nhiều giải thưởng cao quý nhất: Năm 1963, An độ đã tặng Mẹ giải thưởng “Bông Huệ Tuyệt Vời”, Phi-líp-pin thì tặng giải thưởng Mas-say-say; Năm 1974 Rôma tặng Mẹ giải “Hòa Bình Gioan 23” và đến năm 1979, Mẹ được tặng giải No-ben Hòa Bình thế giới. Mẹ đã qua đời vào năm 1997 hưởng thọ 87 tuổi. Dù chỉ là một nữ tu không chút địa vị quyền hành, không có bao nhiêu tiền bạc hay thế lực…thế mà khi qua đời, Mẹ đã được nhiều vị đứng đầu quốc gia như Tổng Thống, Chủ Tịch Nhà Nước của các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Hoa Kỳ, An Độ…hay các nước nhỏ như Việt Nam, Lào, Campuchia… hiện diện hay cử đại biểu đến dự lễ an táng, tiễn đưa Mẹ đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Vào năm 1948. Mẹ nhìn thấy một người đàn bà đang đói ăn và đứa con nhỏ mới sinh, đang nằm bên một đống rác hôi thối và bị ruồi nhặng bu chung quanh. Cảnh ấy đã làm Mẹ xúc động như nhìn thấy Đức Giêsu đang bị bỏ rơi. Từ đó Mẹ đã hiến cả cuộc đời phục vụ những kẻ cùng khổ. Họ bị bệnh hoạn, đói rách và đang nằm ở các hè phố hay bãi rác công cộng chờ chết. Mẹ đem họ về nhà dòng và phục vụ thật chu đáo, cho đến khi họ chết. Nhờ lời cầu nguyện và sự giúp đỡ của nhiều người hảo tâm, Mẹ và các nữ tu Thừa Sai Bác Ái đã lập được gần 300 nhà hấp hối như thế. Cuộc đời và công việc của Mẹ Têrêsa chính là một phép lạ phi thường, minh chứng cho lời Chúa dạy hôm nay: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em”(Lc 17,6). Vậy đức tin là gì ? Tại sao ta phải xin Chúa ban thêm đức tin cho ta ?
3) SUY NIỆM:
- Đức tin không phải chỉ là chấp nhận tin theo một số tín điều như Giáo Hội dạy mà thôi. Đức tin là cái làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa Cha và nên môn đệ Chúa Giêsu. Nhờ mối liên hệ Cha con, Thầy trò mới này, các điều răn Thiên Chúa và lề luật Hội Thánh sẽ không chỉ là một bản liệt kê những điều phải làm hay cấm làm, nhưng là bản hướng dẫn chúng ta trở nên con người mới, thực hành giới răn mới yêu thương như Chúa Giêsu đã dạy: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35).
- Đức tin là điều ta phải khiêm tốn cầu xin Chúa như thánh Phaolô: Tuy đức tin của ngài vững vàng như đá tảng mà không thế lực nào trên trần gian có thể khuất phục được: Dù là roi đòn của người Do thái, nhà tù của đế quốc Rôma, phong ba biển cả, đói khát, rét mướt, trần trụi và cuối cùng cả sự chết…cũng không làm cho ngài ngừng rao giảng Tin Mừng. Thế mà ngài lại luôn nhận mình là kẻ yếu đuối, như một con trẻ sinh sau đẻ muộn, một kẻ tội lỗi. Trong thư gửi đồ đệ Ti-mô-thêu, ngài viết: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đó là Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi” (1 Tm 1,15).
- Đức tin là điều chúng ta cần phải cầu xin, vì có nhiều điều ta không thể lý giải được như: Tại sao người lương thiện thì ngày càng nghèo đi, đang khi những kẻ tham nhũng, làm điều bất chính như bọn con buôn sì ke ma túy…thì ngày càng giàu thêm ? Tại sao những trẻ em vô tội và những người tử tế lại mắc các chứng bệnh quái ác như ung thư, lây nhiễm vi-rút HIV-AIDS… tại sao những cuộc chiến tranh trên thế giới ngày một leo thang, các dân tộc không ngừng gây chiến với nhau, gây ra bao người bị thương và chết chóc, làm cho bao gia đình phải ly tán… Tại sao lại có động đất, hạn hán, lụt lội…cùng những tai nạn khác như rớt máy bay, đắm tàu giết hại nhiều người vô tội ?
- Tuy vậy, lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay làm cho chúng ta an tâm và hy vọng: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Bởi lẻ nếu chúng ta có đức tin, thì những nỗi thất vọng sẽ biến thành hy vọng; những oán hờn ganh ghét ích kỷ…sẽ nhường chỗ cho tha thứ quảng đại và vị tha bác ái. Nhờ đức tin, chúng ta sẽ làm được những điều lớn lao như: đưa nhiều tội nhân hồi tâm trở về, làm cho nhiều người lương dân nhận biết và tin thờ Chúa…Khi ấy, nhờ sức mạnh sáng tạo quan phòng của Thiên Chúa, dù chúng ta chỉ là “đầy tớ vô dụng”, nhưng ta vẫn có thể làm được những việc phi thường.
4) THẢO LUẬN: Khi làm việc tông đồ mà tự nhiên bạn cảm thấy chán nản, muốn buông xuôi, thường là do những nguyên nhân nào ? Bạn phải làm gì để tiếp tục hăng say phục vụ như trước ?
CHỦ ĐỀ II: KHIÊM NHƯỜNG PHỤC VỤ
1) LỜI CHÚA: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
2) CÂU CHUYỆN:
- TÌNH THƯƠNG VÀ NHIỆM VỤ:
Một nhân viên gác cầu quay có nhiệm vụ quay cầu lên cao mỗi khi có tàu bè qua lại dưới sông. Một ngày kia, cậu con trai của ông đến thăm và quan sát Cha làm việc. Thình lình cậu bé trượt chân té xuống sông nước chảy cuồn cuộn. Thấy con bị té, người Cha hốt hoảng định lao xuống sông cứu con vì nó không biết bơi. Nhưng ngay lúc đó một chiếc tàu chứa đầy hành khách đang lao tới trong tiếng còi văng vẳng từ xa vọng lại. Nhiệm vụ của người này là phải ấn nút nâng một phần cầu lên cao cho tàu đi qua, nếu không con tàu sẽ đâm sầm vào cầu và sẽ gây ra tai nạn khôn lường. Nhưng nếu làm theo nhiệm vụ như vậy thì đứa con thân yêu của ông ta sẽ bị chết đuối. Lúc đó tâm trí ông bị bấn loạn không biết phải làm gì…Nhưng rồi cuối cùng ông cũng đã chọn chu toàn nhiệm vụ là ấn nút cho nâng cầu lên. Sau đó ông phải đau khổ đứng nhìn xuống sông tìm kiếm đứa con mất tích, trong khi con tàu từ từ đi qua cầu, trên boong đầy những hành khách đang nói cười vui vẻ. Không ai biết và cảm thông với tâm trạng của một người cha, vì thi hành nhiệm vụ mà đành bị mất đứa con yêu quí.
- KHIÊM TỐN GIẢ:
Một thầy Ráp-bi già bị đau bệnh phải nằm liệt giường lâu ngày. Các đồ đệ của ông đến thăm và thì thầm nói chuyện bên giường nhằm giúp ông được vui. Họ thi nhau ca tụng các nhân đức tốt lành của thầy, nhân đức thầy có và cả các nhân đức thầy không có nữa.
Một người trong bọn nói: “Từ thời Salômôn đến giờ, chưa từng thấy ai khôn ngoan và có kiến thức rộng như thầy”. Người khác nói: “Đức tin của thầy là thứ đức tin chuyển núi dời non, không thua kém đức tin của tổ phụ Ápraham”. Người thứ ba nói: “Chắc chắn sự kiên trì chịu đựng đau khổ của thầy không thua gì các thử thách mà thánh Gióp đã trải qua”. Người thứ tư thêm: “Về sự cầu nguyện thì ngoài Môsê ra không ai kết hợp mật thiết với Chúa được bằng thầy”.
Khi các đồ đệ đã ra về rồi, bà vợ thấy nét mặt của chồng vẫn không mấy vui vẻ liền hỏi: “Ong có nghe các chú ấy vừa ca tụng ông không”?. Ong đáp: “Dĩ nhiên là nghe”. Bà hỏi tiếp: “Thế thì tại sao ông vẫn chưa hài lòng ?” Bấy giờ vị Ráp-bi mới than phiền rằng: “Tôi chờ mãi mà chẳng thấy đứa nào đề cập đến sự khiêm nhường tuyện vời của tôi cả !”.
3) SUY NIỆM:
- Câu trả lời của vị Ráp-bi muốn các đồ đệ ca tụng sự khiêm tốn của ông cho thấy ông chẳng khiêm tốn chút nào. Vì nếu người ta làm việc tốt với thái độ khoe khoang thành tích như người biệt phái đã làm trong đền thờ, thì họ thực sự không phải là người khiêm tốn ! Kẻ kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy cần tới Chúa. Họ luôn tự mãn với thành quả đã đạt được, luôn cho rằng thành công là do công khó của họ. Trái lại người khiêm tốn luôn hãnh diện về những thiếu sót và lầm lỗi của mình. Vì ý thức mình còn thiếu sót nên họ lại càng cậy nhờ vào ơn Chúa trợ giúp. Do đó, khi được thành công thì họ coi đó là món quà Chúa ban, chứ không nghĩ là do công lao tài sức của mình.
- Có người hỏi thánh Phanxicô Assisi nhờ đâu và bằng cách nào mà ngài đã làm được những việc to lớn như thế ? Thánh nhân trả lời: “Thiên Chúa ở trên Thiên đàng nhìn xuống cõi trần và tự hỏi: ‘Ta tìm đâu ra một người yếu đuối, nhỏ bé và hèn hạ nhất để Ta sai làm việc đây ?’ Thế rồi Thiên Chúa đã tìm thấy tôi. Người lại tự nhủ: ‘Ta đã tìm được đứa đó rồi. Qua nó, Ta sẽ làm những việc Ta muốn. Nó sẽ không thể tự phụ với những việc đã làm, vì nó biết rằng: Sở dĩ Ta dùng nó chỉ vì nó là đứa yếu đuối nhỏ bé và hèn hạ mà thôi!’”.
- Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy bài học khiêm tốn cho các Tông Đồ và những ai muốn góp phần loan báo Tin Mừng. Thật vậy, mỗi tín hữu chúng ta đều là đầy tớ của Thiên Chúa. Đã là đầy tớ thì chúng ta phải vâng lệnh Chúa truyền, phải làm tất cả những gì Chúa muốn. Rồi khi đã làm xong việc, chúng ta không được kể công, đòi Chúa phải biết ơn ta, vì như lời Đức Giêsu: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi !” (Lc 17,10).
4) THẢO LUẬN: Sau khi được bà Elisabét ca tụng là người có phúc, Đức Maria đã biểu lộ đức khiêm nhường qua việc dâng lời ngợi khen cảm tạ hồng ân của Đức Chúa (x. Lc 1,39-55). Vậy để noi gương khiêm nhường của Đức Mẹ, khi được người khác khen ngợi về một điều tốt có thực nơi mình, chúng ta nên đáp lại thế nào ? Khi bị người khác phê bình khuyết điểm hay thói hư tật xấu nào, chúng ta nên phản ứng lại thế nào ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) LẠY CHÚA GIÊSU, xin ban cho con một đức tin như hạt cải, để con đánh bật rễ các thói xấu ích kỷ khỏi lòng con. Xin cho con một đức tin can đảm, để con không sợ bị thiệt khi dâng hiến, sẵn sàng từ bỏ những cái con vốn cậy dựa xưa nay. Xin cho con một đức tin sáng suốt, để con nhìn thấy Chúa đang hoạt động trong vũ trụ và trên thế giới, thấy Chúa đang hiện thân trong những người nghèo khổ chung quanh con. Xin cho con một đức tin quảng đại, dám hy sinh bản thân vì Chúa và tha nhân. Xin cho con một đức tin liều lĩnh, dám lội ngược dòng và khước từ những cám dỗ của thế gian. Xin cho con một đức tin vui tươi, vì biết những gì đang chờ đợi con ở cuối đường, sung sướng vì biết mình được yêu. Cuối cùng, xin cho con một đức tin trưởng thành, để con luôn vững vàng khi gặp khó khăn đau khổ, để dù trải qua bao thăng trầm cuộc đời, con vẫn luôn cậy trông phó thác vào Thiên Chúa Tình Yêu.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) LẠY MẸ MARIA, qua bài Tin Mừng hôm nay, con hiểu rằng đức tin là một ơn của Chúa, nên con cần phải cầu xin Chúa ban như các Tông Đồ xưa đã xin Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5). Con biết rằng: đức tin không được đo lường bằng số lần dự lễ hay đọc kinh…Nhưng bằng thái độ ứng xử phù hợp trong cuộc sống. Lòng tin sẽ giúp con can đảm đương đầu với những gian nan thử thách. Lòng tin sẽ giúp con bền tâm vững chí khi gặp thất bại đau thương. Lòng tin sẽ giúp con sẵn lòng tha thứ những xúc phạm của kẻ khác, điều mà con khó lòng thực hiện được với sức riêng mình.
LẠY MẸ, bình thường khi gặp một thữ thách thất bại, người ta hay chán nản buông xuôi. Nhưng khi con tin vào Thiên Chúa là Cha hằng yêu thương con và là Đấng toàn năng chỉ phán một lời là làm nên mọi sự, thì con sẽ không thất vọng nữa. Bình thường con dễ có thái độ thù ghét và xa lánh những ai xử tệ với con. Nhưng nhờ đức tin, con có thể tiếp tục yêu thương và cầu xin điều lành cho họ. Lạy Mẹ, xin cầu bàu cùng Chúa ban thêm đức tin cho con để con can đảm chịu đựng những nỗi khổ đau, đủ sức vác gánh nặng bổn phận và tìm thấy thánh ý Chúa trong cuộc sống đời thường của con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN C / 27th Sunday in Ordinary Time
Lời Chúa cho hôm nay: SỨC MẠNH CỦA ĐỨC TIN
* The Power of Faith *
* Lời cuả Chúa tồn tại đến muôn đời; đó là lời đã ban cho anh: Tin Mừng (1 Pt 1, 25)
Ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống… / The rash: TN 27-C36
BÀI ĐỌC1: Kha-ba-cúc: 1, 2-3; 2, 2-4= Ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống… / The rash man has no integrity; but the just man, because of his faith, shall live.
BÀI ĐỌC 2: 2 Tm 1, 6-8; 13-14= Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo tòan, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta./ Guards the rich deposit of faith with the help of the Holy Spirit who dwells within us.
TIN MỪNG (Gospel): Luca 17,5-10= Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi./ We are useless servants. We have done more than our duty.
A- Bạn và tôi cùng Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share)
1/ Bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói về sức mạnh của lòng tin, khi các Tông đồ xin Ngài ban thêm niềm tin cho ho. Chuá đáp: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, dù anh bảo cây dâu này: hãy bật rễ lên, xuống dưới biển mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh.” (Lc 17, 6) Khi lấy hạt cải làm ví dụ, Chúa muốn cho tôi biết đức tin là món quà Chúa ban không thể đo lường được, vì nó thuộc lãnh vực thần linh, thiêng liêng, siêu phàm mà tôi có thể nhận được qua hành động một cách phi thường. (Học đạo)
2/ Thánh Gia-cô-bê nói: “Đức tin không có hành động quả là đức tin chết.”( Gc 2, 17) Đúng vậy, người ta không nhìn thấy đức tin, nó thuộc thế giới siêu hình, bạn có thể biết nó qua hành động bên ngoài. Thí dụ: tôi thấy anh dơ tay cầu nguyện, tôi thấy anh giúp đỡ một người bị tai nạn, thấy anh vào nhà thờ dâng lễ sốt sắng…Như thế, đức tin phải được biểu lộ qua hành động bên ngoài, bằng những việc làm cụ thể cho tha nhân nữa. Tôi có thể chia sẻ trong nhóm về một, hai việc làm cho anh em. (Hành đạo)
3/ Trong bài đọc 1, sách Kha-ba-cúc nói về lòng tin như sau: Ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ gục ngã, còn người công chính sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình.”(Kb 2, 4) Vâng, đức tin của bạn cần phải được triển nở và sinh hoa trái, muốn vậy phải vun trồng, đều đặn, nếu không sẽ bi khô héo. Bạn cần tham dự những buổi học hỏi, cầu nguyện chung với kẻ tin, sống luôn quảng đaị, vị tha. Như vậy sức sống mới sẽ được triển nở trong bạn và đến tha nhân.Bạn cho một kinh nghiệm về sống đức tin. (Sùng đạo)
4/ Mói đến sức mạnh của đức tin, thánh Phalô đã viết thư gởi Ti-mô-thê: “Anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, ngưới tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa.” (2 Tm 1, 8) Thật vậy, đức tin của người Tín hữu Kitô không phải là hạt giống gieo vào lòng tôi rồi nằm đấy; nhưng phải được làm chứng cho Chúa đến mọi người chung quanh với sức mạnh của Thánh Thần, không nhút nhát sợ sệt; nhưng can đảm, vững mạnh và nhiều tình thương. (Sống đạo)
B- Câu Kinh Thánh đánh động tôi chọn làm châm ngôn Sống tuần này: (The Best God’s Word)
ANH EM ĐỪNG HỔ THẸN VÌ PHẢI LÀM CHỨNG CHO CHÚA CHÚNG TA. (2Tm 1, 8)
Never be ashamed of your testimony to our Lord
C-Ngay bây giờ tôi phải làm gì: (So what am I doing / For Action)
1/ Khi làm xong việc gì đừng muốn ai xin ai trả công bội hậu cho mình, mà chỉ nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng…” Vì tôi làm được việc gì là bởi ơn Chúa ban, tôi không xứng đáng, chỉ xin Chúa ban thêm ơn cho tôi.
2/ Bạn có thể chọn 1 trong 4 Gơị ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành vào đời sống.
D- Bạn và tôi cùng cầu nguyện với Lời Chúa: (Pray and practice/ Pray in Action)
Lạy Cha, thánh Phaolô đã dạy: anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta. Xin cho con một lòng tin vững mạnh và can đảm để phục vụ tha nhân bằng những việc làm yêu thương cụ thể.
Hoa thơm cỏ lạ:
ĐỨC TIN LÀ QÙA TẶNG MÀ MỖI NGƯỜI ĐỀU CÓ THỂ MỞ RA The Faith is a Gift that anyone can open
Trong đời sống hằng ngày, ta có thể gặp những người rất dễ tin vào lời nói của người khác. Kết quả: TN 27-C37
Trong đời sống hằng ngày, ta có thể gặp những người rất dễ tin vào lời nói của người khác. Kết quả là họ hay bị lừa bịp và lợi dụng. Đàng khác có những người lại hay đa nghi và ngờ vực lời nói của người khác. Kết quả là họ khó tìm đến với tha nhân. Trong phúc âm hôm nay khi các tông đồ xin Chúa Giêsu thêm nhân đức tin, các ông nghĩ rằng nếu có thêm đức tin, thì mọi sự sẽ được xuôi chảy mà không còn vấn đề. Chúa liền chỉ cho họ thấy là họ đã hiểu lầm về đức tin. Vấn đề ở đây là không phải người ta cần có thêm đức tin, nhưng là cần cái phẩm chất của đức tin, nghĩa là cần có đức tin vững mạnh và kiên trì. Người có đức tin vững mạnh vào Chúa thì không tin nhảm nhí, không tin vào bói quẻ, vào tướng số, vào ngày lành tháng tốt. Người có đức tin vững mạnh vào Chúa cũng không vội vã tin và tìm đến viếng những nơi mà người ta đồn thổi vừa có phép lạ xẩy ra, nhưng chờ đợi xem thực hư thế nào.
Hôm nay Chúa khuyên các tông đồ nên dùng cái đức tin nhỏ bé sẵn có để đối phó với những thử thách của cuộc sống và làm những việc vĩ đại: Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: hãy bật dễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em (Lc 17:6). Những người có đức tin mạnh cũng đã làm được những việc tương tự cả thể. Chẳng hạn thánh Grêgoriô đã có lần di chuyển núi non để xây nhà thờ. Thánh Rêmonđô có lần lấy áo làm thuyền vượt qua biển cả. Thánh Bênađô đã truyền cho quả đồi di chuyển để xây nhà dòng. Còn thánh Phêrô đã vâng lệnh Chúa đi trên biển. Ông ta chỉ chìm xuống khi bắt đầu hồ nghi mà thôi.
Tin là chấp nhận cuộc sống với những trắc trở mà mình không lường trước được. Có bao giờ ta cảm thấy như là Chúa đi vắng hay ngủ quên khi những bất công và tội ác tràn lan trong xã hội? Có bao giờ ta cảm thấy như là Chúa bỏ rơi khi ta phải mang bệnh tật nan trị, khi ta bị vu oan cách vô cớ. Trong bài trích sách Khabacúc, vị ngôn sứ dạy ta về hiệu lực của đức tin: Người công chính thì sẽ được sống nhờ lòng thành tín của mình (Kb 2:4). Còn thánh Phaolô trong thư gửi Timothêô căn dặn ta phải canh giữ đức tin và bền vững trong việc tuân giữ lời hứa khi chịu Phép Rửa tội. Tin vào Chúa là sẵn sàng làm theo ý Chúa, để Chúa làm chủ đời sống và tìm vinh danh Chúa. Tuy nhiên trong thực tế ta thường giữ đạo theo lối tính toán: có đi có lại. Đó là những khi ta mặc cả hoặc đòi điều kiện với Chúa như khi nói: Nếu con phụng sự Chúa, nếu con làm việc nọ việc kia cho Chúa, thì con sẽ được phần thưởng gì? Người ngoại giáo trong đế quốc La mã thời xưa tôn thờ, khấn vái chư thần của họ trong lối mặc cả có đi có lại ‘do ut des’. Còn bổn phận người con hiếu thảo với Chúa không thể nằm trong cái lối mặc cả ti tiện đó. Nếu cha mẹ không thích lối mặc cả của những đứa con khi làm việc nọ việc kia như quét nhà, đổ rác để được phần thưởng, thì Thiên Chúa cũng không ưa gì lối mặc cả đó của ta. Cha mẹ nào mà thí dỗ con làm việc để lãnh phần thưởng, có thể sẽ tạo ra những đứa con sau này cũng mặc cả ngay cả với Chúa khi làm việc phụng sự Chúa và phục vụ đồng loại.
Nếu ta sống trọn niềm tin thì khi làm việc phụng sự Chúa hay phục vụ đồng loại, ta không được nghĩ rằng ta làm ơn cho Chúa, mà chỉ tâm niệm rằng mình đang làm bổn phận người con thảo như Chúa bảo các tông đồ: Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm việc bổn phận đấy thôi (Lc 17:10). Bổn phận người con thảo là không cần mặc cả, cũng không đặt điều kiện. Nếu người cha ruột thịt thương và lo liệu săn sóc cho đứa con hiếu đễ, thì Thiên Chúa cũng thường lo liệu, săn sóc cho những người con hiếu thảo và quảng đại. Thánh Phêrô có lần thưa với Chúa: Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bò mọi sự mà theo Thày. Vậy chúng con sẽ được gì? (Mt 19:27). Lời phát biểu của thánh Phêrô không phải để mặc cả với Chúa, vì các tông đồ đã đi theo Chúa rồi mà không đặt điều kiện, cũng không phải để kể công, nhưng chỉ nói lên một sự kiện, nhân khi Chúa bảo người thanh niên giàu có bán gia tài đi mà theo Chúa. Rồi Chúa trả lời thắc mắc của Phêrô: Anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Ítraen (Mt 19:28).
Chủ đề: Thiên Chúa dùng quyền năng của mình để biến tất cả mọi sự thành có thể cho những ai có đức tin.
Chúng ta hãy chơi một chút nhé. Giả sử bạn được chui vào một cỗ máy thời gian và du hành ngược dòng: TN 27-C38
Chúng ta hãy chơi một chút nhé. Giả sử bạn được chui vào một cỗ máy thời gian và du hành ngược dòng lịch sử về năm 1793 và bạn cầm theo một tờ Tin tức sáng nay. Rồi thì bạn đến với những người của năm 1793, và bạn đưa tờ báo cho một số người để họ thử đọc. Họ sẽ hiểu được bao nhiêu phần trăm tờ báo ấy? Đa số chuyên gia cho rằng có lẽ họ không thể hiểu được ý nghĩa tờ báo, vì tờ báo ấy chẳng khác gì được viết bằng một ngôn ngữ xa lạ đối với họ. Chúng ta chỉ cần nêu ra một số từ mà đám dân sống vào năm 1793 không tài nào hiểu được, chẳng hạn xe hơi tự động, máy bay, phi hành gia, siêu xa lộ, siêu thị, máy điều hoà không khí, thị trường chứng khoán, cây gậy chơi dã cầu, thuyền lướt ván, thâu thanh, truyền hình, tàu vũ trụ, đổ bộ mặt trăng, hoả tiễn hạch nhân tầm xa…
Bây giờ, giả sử họ hỏi bạn truyền hình là gì? Chắc hẳn bạn sẽ nói rằng đó là một phương cách nhìn xem một chuyện gì đó ở tận Trung Hoa đúng lúc nó đang thực sự xảy ra tại đó. Giả sử họ hỏi bạn hoả tiễn hạch nhân tầm xa là gì? Chắn hẳn bạn sẽ trả lời đó là một trái đạn khổng lồ bắn tại Mỹ, nhưng lại tiêu diệt được bất cứ thành phố nào ở Nga mà bạn muốn. Giả sử họ lại hỏi bạn đổ bộ lên mặt trăng là sao thì hẳn bạn sẽ diễn tả cho họ là có người trên mặt đất leo vào phi thuyền không gian bay tới mặt trăng rồi đi bộ ở trên đó. Chà! Bạn thử nghĩ xem dân chúng sống ở năm 1793 đó sẽ nói gì với bạn? Chỉ cần hiểu biết chút ít thì họ cũng đã cho bạn là điên cuồng, mất trí rồi, vì bất cứ người nào còn tỉnh táo đều cho rằng bạn không thể nào ngồi tại một phòng khách ở New York mà lại thấy được mọi chuyện nào đó đang xảy ra ở Trung Hoa. Bất cứ ai khờ mấy thì cũng cho rằng một trái đạn bắn từ Mỹ thì dù to bự đến đâu cũng không thể nào tiêu hủy toàn thành phố Maxcơva được. Và họ cũng cho rằng bạn không thế nào bay được như một con chim lên tới tận mặt trăng trong một phi thuyền giống như cỗ xe ngựa kéo, rồi bước ra đi bộ vòng vòng sau đó lại quay trở về mặt đất được!
Chủ điểm của trò chơi trên cho thấy điều mà dân thế kỷ này cho và vô nghĩa và bất khả, thì đối với dân thế kỷ khác lại là chuyện đương nhiên và bình thường, điều mà dân thế kỷ này không bao giờ dám mơ ước thì đối với dân ở thế kỷ khác lại là chuyện rất bình thường.
Bài học này thực quan trọng! Nếu chúng ta tiếp cận sự sống với thái độ cho rằng một việc nào đó có thể làm được, thì có lẽ chúng ta sẽ làm được việc đó. Ngược lại nếu chúng ta cho rằng việc đó không thể làm được, thì chắc hẳn chúng ta không thể làm được việc ấy, bởi vì dân của thế kỷ này sẽ phán đoán một cách nghèo nàn ngu dốt không biết một việc gì đó có thể hay không có thể đối với một thế kỷ khác.
Và bây giờ chúng ta thử một trò chơi khác nữa. Giả sử có người nào đó sống vào khoảng năm 3000 đến trái đất chúng ta hôm nay trong một cỗ máy thời gian. Và trong tay người ấy có một tờ báo, không tường trình một câu chuyện nào liên quan đến bạo lực, nghèo đói hay chiến tranh giữa các dân tộc, mà chỉ toàn là những chuyện nói về tình yêu, sự thịnh vượng hoà bình và thân hữu. Bạn sẽ nói gì khi đọc tờ báo này? Nếu tỉnh táo một chút, chắc hẳn bạn sẽ nói rằng một thế giới như thế thì không thể có được, một thế gjới như thế hoàn toàn là không thực, tờ báo ấy chỉ là một thứ quảng cáo nhằm gây ấn tượng cho đám dân thế kỷ 20 mà thôi.
Tại sao bạn lại nghĩ như thế? Bởi vì bất cứ ai có chút hiểu biết đều rõ rằng đâu có loài người thì ở đó có bạo lực và thù nghịch, đâu có loài người thì đương nhiên sẽ có kẻ giàu người nghèo, đâu có các quốc gia thì ở đó sẽ hiếp đáp và chiến tranh.
Như thế, ở đây còn có bài học quan trọng thứ hai là nếu chúng ta tiếp xúc cuộc sống với thái độ tin chắc rằng bình an trên trái đất là điều không thể có thì chắc hẳn chúng ta sẽ không thành công trong việc thực hiện nó. Nếu chúng ta cho rằng tận thâm sâu con người là vô tâm và ích kỷ, thì chắc hẳn chúng ta không thể nào tạo ra được một xã hội từ tâm và vô vị lợi, nếu chúng ta tin chắc rằng nơi các dân tộc đương nhiên phải có bạo lực và thù nghịch, thì làm sao chúng ta có thể thành công trong việc xây dựng một thế giới hoà bình?
Và điều này dẫn chúng ta đến chủ điểm quan trọng hơn hết thảy, đó là chúng ta phải nhìn nhận rằng có thể có bình an trên trái đất, có tình yêu giữa loài người, và có thể có sự hoà điệu giữa các dân tộc.
Đó là những điều có thể xảy ra, bởi vì Chúa Giêsu đã đến giữa chúng ta và dạy chúng ta cách sống, dạy chúng ta rằng những điều ấy có thể thành hiện thực. Đây chính là điều Chúa Giêsu ám chỉ khi Ngài dạy chúng ta Kinh Lay Cha: “Xin cho Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Và lý do khiến những điều nói trên có thể thành hiện thực là vì Chúa Giêsu đã chịu chết và Phục sinh.
Tóm lại, đây chính là điều Chúa Giêsu muốn truyền dạy chúng ta trong bài Phúc Âm hôm nay:
“Nếu ngươi có đức tin bằng hạt cải, ngươi cứ nói với cây dâu này: Hãy nhổ gốc lên và xuống mọc dưới biển, nó sẽ nghe lời ngươi”. Tin Mừng của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy nhờ đức tin mà chúng ta có được quyền năng Chúa nằm nơi tầm tay của mình. Từ đó, không có điều gì là không thể được - kể cả một thế giới không còn chiến tranh, không còn nghèo đói, không còn hận thù.
Xin hãy nhớ rằng điều mà dân chúng thuộc thế kỷ này cho là không thể được thì đối với dân chúng thuộc thế kỷ khác lại là điều bình thường, phổ biến. Đây chỉ là vấn đề tiên liệu và tin tưởng. Đây chỉ là do tin vào lời Chúa Giêsu: “Nếu các ngươi có đức tin bằng hạt cải thì các ngươi cứ bảo cây dâu này: Hãy nhổ rễ lên và xuống mọc dưới biển, nó sẽ vâng lời các ngươi cho xem”.
Khi Thánh Phanxicô đệ Salê mười chín tuổi. Ngài bị bệnh nặng, lúc đó, 1587, sinh viên y khoa: TN 27-C39
Khi Thánh Phanxicô đệ Salê mười chín tuổi. Ngài bị bệnh nặng, lúc đó, 1587, sinh viên y khoa thực tập với những xác chết lấy trộm từ nghĩa trang, nghĩ mình sắp chết, Phanxicô nói với người Thầy thân tín: “Thưa Thầy, cứ tổ chức đám xác con như thường lệ, con chỉ xin thày sau đám xác con như thường lệ, con chỉ xin thày sau đám xác, xin hiến xác con cho các sinh viên y khoa”. Ông Thầy trả lời: “Nhưng trái ý gia đình em”. vị thánh trẻ nài van: “Điều đó rất an ủi con khi con chết; con nghĩ rằng nếu con là một đầy tớ vô dụng khi còn sống, con muốn ít nhất, sau khi chết còn một cái gì tốt”.
Đây là một vị Thánh trẻ và học cao, ngài cảm thấy không hoàn thành được việc gì. Mọi vị thánh đều như vậy. Các ngài tự coi mình bằng từ ngữ của bài Tin mừng hôm nay: “Người đầy tớ vô dụng, người đầy tớ bất xứng”
Bài Tin mừng hôm nay áp dụng thế nào cho bạn và tôi? Tất cả chúng ta là đầy tớ của Chúa. Chúng ta làm điều được chỉ định – vì vâng phục. Nhưng nếu chúng ta thật sự yêu Chúa như các vị thánh, chúng ta phải tiến xa hơn bổn phận đòi hỏi, chúng ta sẽ cố gắng vượt mức để làm điều đẹp ý Thiên Chúa.
Xung quanh chúng ta là những tín hữu bình thường họ chỉ làm những gì phải làm mà thôi. Chúng ta cần những tấm gương của các tín hữu anh hùng - được phong thánh hay không – các ngài làm hơn những gì được đòi hỏi. Tìm đâu được người như vậy.
Mở Kinh thánh, bạn sẽ tìm thấy vô số nam, nữ môn đệ của Chúa, họ thi hành quá bổn phận đòi hỏi, mà vẫn tự coi mình là đầy tớ bất xứng. Bạn hãy đọc truyện của Thánh Phêrô. Bạn hãy theo Thánh Phaolô trên hành trình truyền giáo.
Bạn hãy đọc đời sống các vị thánh, những người phục vụ Chúa một cách anh hùng, mà mỗi vị đều cảm thấy mình là đầy tớ vô dụng. Bạn đọc sách Công Giáo chúng ta thấy nhiều giáo dân thi hành nhiều công việc trổi vượt cho Chúa Kitô và cho gia đình Thiên Chúa. Họ cũng luôn nhớ mình là đầy tớ vô dụng.
Bạn hãy coi nhiều người trong họ đạo, họ sốt sắng phục vụ Chúa và gia đình của Chúa, nơi đây và trên khắp thế giới. Họ yêu Chúa và họ muốn bày tỏ tình yêu ấy.
Chúa Giêsu nói Dụ ngôn hôm nay cho các Tông đồ. Người muốn các ngài đặc biệt trổi vượt trong việc phục vụ Người. Các tông đồ đã lãnh nhận Tin mừng, các Ngài dâng hiến cuộc đời cho Chúa Kitô.
Hôm nay Chúa Giêsu đang mời gọi bạn và tôi cố gắng đặc biệt để phục vụ Người. Người giúp chúng ta làm việc đó. Người có thể cứu chúng ta bằng con đường dễ dàng hơn. Người chọn con đường dài của tình yêu - bằng hy sinh đời sống. Sự đau khổ và cái chết của Người tái diễn nơi đây, trên bàn thờ này là sự khuyến khích và sức mạnh để chúng ta cố gắng.
Hãy cầu nguyện sốt sắng: xin Chúa củng cố trong đức tin và yêu Giáo Hội lữ hành trên mặt đất của Chúa. Xin Người cho chúng ta lớn lên trong tình yêu.
“Các Tông Đồ thưa với Chúa Giê-su rằng: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con." Chúa đáp: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: 'Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc', nó cũng sẽ vâng lời anh em.
"Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: 'Mau vào ăn cơm đi', 8chứ không bảo: 'Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau !' ? Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao ? Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi."
***
Với dụ ngôn người giàu và La-da-rô nghèo, Chúa quở trách những ai dùng của cải cách ích kỷ: TN 27-C40
Với dụ ngôn người giàu và La-da-rô nghèo, Chúa quở trách những ai dùng của cải cách ích kỷ, sau đó Lu-ca ghi lại bốn điều Chúa cảnh giác các môn đệ.
Điều thứ nhất: Chúa cảnh cáo về hiểm họa gây phạm tội cho kẻ khác, thế giới này đầy những tội lỗi, nhưng khốn cho ai gây ra cơ hội vấp phạm. Điều thứ hai Ngài khuyên các môn đệ phải sống bác ái, sống trong một thế giới đầy những dịp lôi cuốn vào tội ác, chắc chắn sẽ có người vi phạm, nhưng nếu thật lòng ăn năn, hãy tha thứ, dầu trong ngày tha đến bảy lần."
Mười hai môn đệ có lẽ vì cảm thấy trách nhiệm nặng nề nên xin Chúa ban thêm đức tin cho. Câu trả lời của chúa ngụ ý một lời cảnh cáo long trọng, Ngài cho biết điều họ xin thêm đó là cần thiết, cần thiết hơn họ tưởng nhiều lắm. Tuy nhiên trong câu trả lời dấu ẩn một lời hứa nhân từ. Ngài cho biết đức tin là sức mạnh lớn nhất ở thế gian này. Ngôn ngữ Đông phương vốn linh động, có tính cách thật mạnh mẽ. Các câu nói của Chúa có nghĩa rằng dầu những việc coi như không có thể càng trở thành có thể nếu chúng ta có đức tin. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến con số lớn lao về những khám phá lạ lùng trong lãnh vực khoa học, về những thành công trong ngành giải phẫu, về những kỷ lục mà thế giới ngày nay đã đạt được, thì năm mươi năm trước đây các việc đó kể như không thể có được. Nếu ta đề cập đến một việc nào và nói rằng "việc này không thể nào làm được thì việc đó sẽ không xảy ra, song nếu chúng ta nói "việc này phải xảy ra" thì việc đó có khả năng xảy ra. Cần nhớ rằng chúng ta không làm việc một mình, nhưng còn có Chúa và tất cả quyền năng Ngài ở với chúng ta. Mà với Chúa mọi sự đều có thể.
Mẹ Basilea, người sáng lập dòng Đức Mẹ Truyền Giáo tại Đức sau thế chiến thứ II. Mục tiêu của dòng nhằm sống đời thờ phượng, tin cậy Ngài lo liệu cho mọi nhu cầu của họ. Với phần lớn các nữ tu trẻ, họ đã mua được bất động sản đầu tiên tại Darmstadt. Họ tin cậy Chúa về khoản thu nhập để xây dựng dần dần ; trước hết là một nhà nguyện, rồi sau đó đến các nhà khác để tiếp đón những ai muốn tới để tĩnh tâm. Các chị đã mua được tất cả các mảnh đất ở chung quanh, chỉ trừ một mảnh nhỏ kế bên nhà của họ, các chị tin rằng bằng sự cầu nguyện kiên trì thì rồi ra các chị cũng mua được mảnh đất đó để làm nơi hội thảo về Chúa Giê-su.
Mảnh đất đó thuộc về một bà cao tuổi, bà từ chối bán hay đổi cho bất cứ một miếng đất nào khác, vì lý do độc nhất đây là của ông bà cha mẹ để lại, bà không thể để lại cho ai. Một lần kia, xơ Eulalia đến thăm với hy vọng thuyết phục được bà cụ. Bà cụ vắng nhà, nhưng có người cháu. Anh ta dẫn nữ tu vào căn phòng của bà dì. Chỉ cần nhìn qua, xơ cũng thấy rằng bà cụ sẽ không từ bỏ bất cứ vật sở hữu nào bao lâu còn sống. Phòng chất đầy đồ đạc, đủ để trang trí cho cả tòa nhà lớn, hầu hết đều đã ọp ẹp, cũ kỹ. Sau đó người cháu chỉ cho khách xem cái thang mà bà dì dùng để leo vào giường, cái giường của bà là một chồng nệm được thừa hưởng của tiền nhân, cái này chồng lên cái kia. Rõ ràng bà già này không hề bỏ đi một thứ nào trong số các đồ bà thừa kế. Khi mẹ Eulalia thuật lại cho các chị điều đã thấy, các chị em đều đi đến quyết định muốn giải phóng cho một người quá bị ràng buộc vào những thứ thuộc về thế giới vật chất này, chỉ còn cách duy nhất là cầu nguyện rất sốt sắng, cảm thông sâu sắc và không ngưng nghỉ. Lý do của trận chiến này không phải là một mảnh đất để xây dựng một nơi thờ phượng, nhưng là một linh hồn bị trói buộc.
Các chị quyết định ăn chay vì nhớ tới lời Chúa: "Thứ quỷ này không ăn chay và cầu nguyện thì không trừ được nó." (Mt 17,21). Thêm vào hai điều trên các chị còn từ bỏ một số điều có liên quan mật thiết đến tình trạng nô lệ của bà cụ. Các chị em dòng vốn đã sống đơn giản rồi, các chị không có nhiều tiền, và không có bất cứ tài sản riêng nào. Nhưng các chị em đều tìm cầu Chúa, xin Chúa cho mình thấy bất cứ điều gì đã gắn bó mình hơn mình gắn bó với Chúa. Sự gắn bó của người này có thể là cây thánh giá bằng gỗ, người kia là một bưu thiếp có hình ảnh đẹp … Giá trị tiền bạc không quan trọng, điều quan trọng là thái độ lệ thuộc của ta với việc hay người ấy. Sau "một tuần lễ đầu phục", chị em cử một chị tới thăm bà cụ hàng xóm.
Chị đặc phái viên không thể tin ở tai mình khi nghe bà cụ bảo: "Tôi không tiếc mảnh đất lắm, nhưng tôi tiếc mấy cây mận, tôi thật không muốn mất mấy cây mận đó !" Bà cụ bằng lòng bán đất, nhưng chỉ tiếc mấy cây mận. Thật Chúa đã làm một phép lạ !
Hai bên bèn thảo tờ cam kết mua bán, quy định rằng mọi vật ở trên các cây mận đều thuộc về bà cụ. Và sau đó, hằng năm, các chị đều gởi số mận đó cho bà cụ cho tới khi bà qua đời.
Lời cảnh cáo thứ bốn được ghi lại ở đây là quở trách tính tự mãn kiêu căng, thích ca tụng khen thưởng thường thấy nơi những kẻ theo Chúa Ki-tô. Chúa Giê-su dạy rằng những công tác của loài người dầu có hoàn hảo đến đâu cũng không thể khoe khoang trước mặt Thiên Chúa. Chữ vô dụng ở đây không được hiểu là vô giá trị mà được hiểu một người không dễ đi quá bổn phận của mình. Chúa cho biết không bao giờ có thể nói mình đã làm quá nhiều cho Thiên Chúa, để về sau đòi hỏi Ngài ban lại cho điều này điều kia. Khi chúng ta đã làm hết sức mình, đó là bổn phận chúng ta phải làm, và một người làm tròn bổn phậm mình, đó chỉ là làm xong việc mình không thể không làm mà thôi. chúng ta có thể làm thỏa mãn được những đòi hỏi của luật pháp, nhưng hễ ai thực sự yêu điều biết rằng mình không bao giờ có thể là gì đủ hầu thỏa mãn những đòi hỏi của tình yêu. Đức Ma-ri-a đã hiện thực lời Chúa Giê-su dạy: " Này đây tôi là nữ tỳ của Chúa." (Lc 1,38) trước đề nghị của Thiên Chúa.
Pete là một giáo sư đại học, ông vừa hoàn thành một cuốn sách biên khai công phu sau ba năm nghiên cứu, được mọi người khen hay, và ông lấy làm hãnh diện, vì hai ông bà đều thực hiện thiền định và cố gắng tâm linh hóa cuộc sống hằng ngày. Ông gặp trăn trở vì biết hãnh diện chỉ là gia tăng bản ngã và tự bảo mình không nên đi vào con đường kiêu hãnh viển vông này, nhưng bà vợ lại cho rằng kiêu hãnh chân chính vẫn không thuộc về bản ngã. Hai người đưa vấn đề đến hỏi đạo sư Darshani. Đạo sư đã phân tách và chỉ cho thấy lòng kiêu hãnh bắt nguồn từ việc coi hành động của mình như là do tác nhân độc lập, một thực thể riêng rẽ, và điều đó là hư ảo ; đằng sau các thể hiện đúng đắn, chính Đấng Tối Cao đã tác động. Khi ông xin một phương pháp để giúp ông kiểm soát được lòng kiêu hãnh này mỗi khi nổi lên, đạo sư gợi ý ông đọc cuốn "Gương Chúa Giê-su" (Gương phúc) của Thomas. A. Kempis, trong đó bàn về việc chúng ta không được kiêu hãnh vì đã làm việc tốt đã viết câu này: "Liệu đất sét có được tôn vinh hơn người đã sáng lập ra nó hay sao ?"
Và khi ông muốn bàn thêm, vị đạo sĩ đã nhắc lại một câu chuyện của một học giả người Âu với một đạo sĩ Đông phương. Học giả này mới hoàn tất một quyển bách khoa từ điển lớn, các bạn của ông xúm lại khen tặng rằng đó là một công trình lớn lao phi thường. Trong chuyến viếng thăm Ấn độ, học giả hỏi đạo sư xem liệu ông ta có xứng đáng được hưởng những danh dự đó không, thì được đạo sư hỏi: "Ông dùng phương tiện nào để viết: bút, máy chữ hay điện toán. Ông cho biết ông luôn sử dụng bút.
Đạo sư nói ngay: "Khi viết xong cuốn sách, ông có thường cám ơn cây bút mà ông đã dùng không ?
Đó là câu trả lời cho mỗi người chúng ta khi thấy mình làm được một việc lành nào.
Có nhiều đặc sủng khác nhau nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Chúa. có nhiều hoạt động khác nhau nhưng chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người (1 Cr 12,4-6).
Dầu trong thí dụ này Chúa Giê-su quở trách sự kiêu hãnh, cắt bỏ tất cả các công đức của việc làm thì trong nhiều dụ ngôn khác Chúa lại dạy cách quả quyết vè những phần thưởng Ngài sẽ ban cho các đầy tớ trung thành, không phải Ngài bắt buộc phải làm, nhưng là chứng tỏ ân điển từ ái của Ngài.
Người tông đồ nào của Chúa mà không phấn khởi khi nghe Đấng toàn năng hứa: “Kẻ gian ác sẽl TN 27-C41
Người tông đồ nào của Chúa mà không phấn khởi khi nghe Đấng toàn năng hứa: “Kẻ gian ác sẽ lụn bại, còn người công chính sẽ được sống”(Hab 2,4).
Nhưng nhìn vào thế giới này, dường như thấy ngược lại: “Người công chính bị trù dập, còn kẻ ác cứ phây phẩy…!!”
Vì thế người công chính thường cất lời than: “Lạy Chúa, tôi van Ngài, Ngài không nghe sao? Tôi gào lên Ngài: “Bạo tàn” mà Ngài chẳng cứu tôi? Nhân sao Ngài lại để tôi thấy ác quái, phải mục kích gian dối, cướp giựt, bạo tàn giãi ra trước mắt tôi. Xảy ra kiện cáo, dựng đứng tụng điều” (Hab 1,2-3).
Cụ thể như tông đồ Phaolô (trong bài II) nhiệt tình hết sức vì công lý, vì hạnh phúc đồng loại, thế mà ông vẫn bị kẻ ác thắng ông, tống ông vào ngục. Ngồi trong tù Phaolô còn viết thư nâng đỡ niềm tin Timôthê: “Thiên Chúa không ban cho ta một thần khí đơn hèn, mà là thần khí dũng mãnh”. Do đó, Phaolô cấm Timôthê không được hổ thẹn vì việc Phaolô bị xiềng xích trong tù. Tại sao thế? Thưa vì dựa vào quyền năng Thiên Chúa cho ta ba niềm hy vọng sau đây:
1/ ĐẶT NIỀM HY VỌNG NƠI CHÚA TRONG THẾ GIỚI PHỤC SINH
Người tông đồ của Chúa chỉ có thể thấy được giá trị hoạt động của mình, thấy được sự thiện thắng sự ác trong thế giới Phục Sinh. Đan cử: Nếu ta chỉ nhìn Chúa Giêsu kết thúc đời Ngài trên Thập Giá, thì làm sao ta thấy được sự chiến thắng của Đấng toàn năng? Nhưng ta biết: Ngày thứ sáu tuần Thánh là ngày của quyền lực sự ác, còn ngày Chúa Phục Sinh mới là ngày của Thiên Chúa, ngày khai mào chiến thắng của sự thiện trở thành ngày thứ nhất trong tuần !
Kìa bà Mônica kêu khóc ròng rã hơn 30 năm, chỉ xin Chúa cho con trở lại đạo, mãi đến giờ chết, bà mới thấy được ơn bà xin, nhưng trong thế giới Phục Sinh, bà mới thấy con mình làm Giám mục, làm Thánh tiến sĩ của Hội Thánh, điều này quả Chúa ban quá ước mơ của bà !
Bởi thế Thánh tông đồ nói: “Nếu chúng ta chỉ đặt hy vọng vào Đức Kitô vỏn vẹn ở đời này thôi thì chúng ta theo Chúa là những kẻ khốn nạn nhất trên đời” (I Cr 15,19_.
2/ HOẠT ĐỘNG CỦA MỖI TÔNG ĐỒ CHÚA CHỈ BIẾT GIỚI HẠN MỘT TRONG 3 LỘ TRÌNH CỨU ĐỘ
Thánh Phaolô nói: “Tôi trồng, Apôlô tưới, Thiên Chúa làm cho mọc lên” (I Cr3,6)
Bởi thế hoạt động tông đồ mỗi người chỉ giới hạn:
Hoặc là chỉ làm công tác trồng Hoặc chỉ làm công tác tưới bón Hoặc lại được hân hoan gặt hái kết quả do Thiên Chúa làm mọc lên.
Thật đúng như lời Chúa nói: “Người này gieo, kẻ khác gặt, ta sai các người đi gặt điều các ngươi không vất vả làm ra, có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các ngươi thừa hưởng công lao của họ, nhưng kẻ gieo người gặt đều hoan hỷ” (Ga 4,36-38).
3/ CHÚA KHÔNG XỬ VỚI TA NHƯ MỘT ĐẦY TỚ VÔ ÍCH
Mặc dầu trong Tin Mừng Chúa đưa ra mọt ví dụ: người đầy tớ đã lao động suốt ngày ngoài đồng dưới nắng, về đến nhà, bụng đói còn phải vâng lệnh chủ: dọn cơm chủ ăn trước ! Đầy tớ hữu ích cho chủ như vậy mà nó đâu được quyền đòi chủ phải biết ơn nó? Nó vẫn phải làm vì nó là thân phận tôi tớ.
Trong tình yêu, Chúa đòi chúng ta không được thua tinh thần của đầy tớ ấy, dù lắm lúc cảm thấy mình là đầy tớ vô dụng, không muốn làm nữa thì cũng là “việc đã ký thác cho ta phải chu toàn” (I Cr 9,17). Khi xong việc Chúa đã trao, Ngài không phải như người đời, vô ơn đầy tớ, bắt làm việc phụ trội: dọn bàn ăn hầu hạ chủ, nhưng ngược lại: “Chúa sẽ đặt đầy tớ ấy vào bàn ăn, mà qua lại hầu hạ nó”(Lc 12,37).
Người tông đồ đi phục vụ có được 3 xác tín trên chính là họ nhờ Đức tin của Hội Thánh, mà Chúa gọi đó là: “Đức tin bằng hạt cải” được thể hiện qua lời cầu trong phục vụ: “Xin Chúa đừng xét đoán theo công trạng chúng con nhưng xin nhìn đến Đức tin của Hội Thánh Chúa (hạt cải) mà ban cho Hội Thánh ơn hiệp nhất và bình an”. Vì “Nước Trời ví như hạt cải gieo xuống đất” (xem Mt 13,31-32). Đức tin ấy đưa đến kết quả phi thường: chuyển núi dời non hoặc bứng cả gốc cây dâu xuống mọc dưới biển !
Truyện kể: Thầy Gioan Vianey khi được Cha Giáo khảo bài, thầy Vianey quá dốt, Cha Giáo trách:
- Dốt như lừa sao làm Linh mục Chúa nhờ được?
Vianey vui vẻ đáp:
- Thưa Cha, xưa Samson dùng một hàm lừa giết cả 1.000 quân thù. Sao Chúa không dùng cả con lừa Vianey để được vinh danh?!(xem thẩm phán 15,9t)
Vậy tin là cách chiếm hữu những điều còn trong hy vọng, là phương nhận thức các thực tại người ta không thấy !(Dt 11,1).
Vì thế: Ơn cứu độ đã đến cho ta như một hy vọng. Hy vọng mà thấy được thì hết là hy vọng, vì điều thấy được ai mà hy vọng nữa ! Nhưng thực ta hy vọng điều ta không thấy thì ta kiên nhẫn đợi trông”(Rm 8,24-25).
Hình như chọn đoạn Phúc Âm hôm nay Giáo Hội chủ ý đặt một tương quan giữa sức mạnh đức: TN 27-C42
Hình như chọn đoạn Phúc Âm hôm nay Giáo Hội chủ ý đặt một tương quan giữa sức mạnh đức tin và phục vụ không vị lợi vì đức tin. Đức tin làm được những việc phi thường, nhưng xong việc người ta không có quyền chờ mong ân thưởng. Hành động theo đức tin của mình, người tín hữu không được cho là mình có công trạng đặc biệt, nhưng phải nghĩ rằng hành động như vậy là bình thường, là tất nhiên, thế thôi –cũng như người nội trợ chu tất công việc gia đình là điều bình thường, không cần gì khen ngợi. Dụ ngôn mang cái tựa hơi lạ ‘những người đầy tớ vô dụng’, do một sự phiên dịch dễ gây hiểu lầm. Nói đúng ra, đầy tớ nào cũng hữu dụng. ‘Đầy tớ vô dụng’ ở đây có nghĩa đầy tớ làm bổn phận cách bình thường. Chúng ta suy niệm về thái độ người có đức tin.
1) Trước hết chúng ta ý thức rằng đức tin là một ân huệ.
Khi các tông đồ nài xin Chúa: Xin Thầy ban thêm đức tin cho chúng con, chắc chắn các ông được Chúa Thánh Linh thần ứng. Thật vậy, đức tin phát sinh và lớn mạnh là trực tiếp nhờ ơn Thiên Chúa. Cũng như cuộc sống hồn xác của chúng ta tùy thuộc một hành vi sáng tạo thiên nhiên, đời sống đức tin của chúng ta tùy thuộc một hành vi yêu thương nâng chúng ta lên tầm cao đời sống siêu nhiên. Trong cả hai hành vi, ân huệ Thiên Chúa tuyệt đối không vị lợi, sáng kiến hoàn toàn là của Thiên Chúa. Có ý thức được như thế mới không dám nghĩ đến đòi hỏi yêu sách Thiên Chúa, mới có được tâm tình thực tiễn vui sướng, thờ kính cảm tạ. Vả lại tinh thần Phúc Âm của chúng ta nhờ đó được tiếp sức sinh động bằng những việc nhận và cho không vị lợi, bởi lẽ chúng ta nhận được đức tin Thiên Chúa cho không và chúng ta cảm tạ Thiên Chúa mà không đòi hỏi Người trả công, ban thưởng.
2) Đức tin phải ở trong thế hành động
Nhân danh đức tin mình, Kitô hữu là một người đầy tớ. Đầy tớ làm việc và phục dịch. Công việc cơ bản người Kitô hữu phải chu tất là ngợi khen Thiên Chúa và phục vụ đồng loại. Hai việc ấy dính liền mật thiết trong một hành vi bác ái duy nhất. Ngợi khen là bày tỏ niềm xác tín và cảm biết Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối hoàn toàn hay thương xót, vì vậy Người có quyền đòi hỏi con người thờ kính, vâng phục, cảm tạ. Phục vụ đồng loại là biểu lộ niềm xác tín rằng họ có quyền đòi hỏi chúng ta phục vụ họ. Con người đối với nhau trong tư cách anh em, đối với Thiên Chúa trong tư cách con cái. Vậy thì thờ kính, ngợi khen là gì? Đó là hình thái cao nhất của cầu nguyện. Phục vụ, bác ái là gì? Đó là sự biểu lộ tình yêu thương của Thiên Chúa sống động trong con người, là thực hành những điều cảm biết được nhờ cầu nguyện, tức là nhờ việc thờ phụng Thiên Chúa và thực thi bác ái. Đức tin thêm sức mạnh vì ở trong thế hành động. Sức mạnh tăng thêm cho đức tin, đó là phần thưởng vậy.
Bài Tin Mừng hôm nay đã rõ ràng muốn nhắn gửi đến chúng ta một điều quan trọng: Các con đừng: Caùc con: TN 27-C43
Bài Tin Mừng hôm nay đã rõ ràng muốn nhắn gửi đến chúng ta một điều quan trọng: Các con đừng quá tự mãn! Các con đừng quá tự đắc về đời sống đức tin của mình ! Đức tin của các con chưa mạnh và sâu xa đủ như các con cứ tưởng đâu ! Các con sẽ thấy ngay đức tin của các con còn yếu đuối non nớt ra sao, nếu các con thử ra lệnh truyền cho cây dâu kia bật rễ và xuống dưới biển mà mọc: Các con sẽ không có được may mắn đó đâu, bởi vì đức tin của các con hãy còn yếu đuối lắm.
Quả thực lời chê trách của Đức Giêsu không phải là vô lý và bất công, vì đó là sự thật. Vâng, người ta chỉ cần để ý quan sát một chút là đức tin của chúng ta đã có được ảnh hưởng cụ thể nào trong cuộc sống hằng ngày của chính mình, ví dụ:
• Chúng ta thường nghĩ và thường nói rằng chúng ta tin tưởng phó thác vào Chúa. Thế nhưng trong thực tế - để cho cuộc sống, sức khõe, tương lai và cả cuộc sống của chúng ta được bảo đảm chắc chắn – chúng ta lại thích đặt nhiều tin tưởng vào các công ty hay các dịch vụ bảo hiểm của nhân loại hơn.
• Chúng ta tin rằng chỉ Thiên Chúa mới có thể cứu rỗi con người chúng ta, Người đã hoàn toàn chiến thắng sự thống trị của thần chết. Nhưng trong thực tế, chúng ta lại lập tức khiếp đảm và sợ hãi khi phải đứng trước các quyền lực nhân loại và tỏ ra hoàn toàn hoảng hốt khi phải trực diện với nguy cơ của bom nguyên tử.
• Chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa luôn đầy lòng nhân hậu và đại lượng với con người. Nhưng chúng ta lại thường đối xử với người khác bằng thái độ bất khoan dung hơn là nhân hậu, thù hằn hơn là thân ái.
• Chúng ta xưng nhận Đức Kitô là vua của chúng ta. Nhưng trong thực tế chúng ta lại chọn các loại vua chúa khác làm chỗ nương tựa vững chắc cho đời mình.
• Chúng ta ca tụng lòng tha thứ vô bờ bến của Thiên Chúa. Nhưng trong cuộc sống hằng ngày chúng ta lại rất khó thông cảm và tha thứ cho những lỗi lầm của người đồng loại. Còn về các yếu đuối và sai lỗi của chính mình, chúng ta lại ít khi muốn biết đến và cứ cho mình là vô tội, nên không cần đến lòng nhân hậu khoan dung của Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, với những kinh nghiệm chúng ta vừa nêu lên không muốn nói rằng, từ nay vì để sống theo đức tin, nên dứt khoát phải loại bỏ tất cả mọi kinh nghiệm hợp lý cụ thể trong cuộc sống hằng ngày; hay vì để sống tin tưởng phó thác vào Chúa, nên coi thường và từ chối mọi bảo hiểm đúng đắn và cần thiết của xã hội
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trí khôn và lý trí, để chúng ta sử dụng chúng và sử dụng một cách hợp lý. Tự bản chất, các khả năng của con người cũng như các tổ chức hợp lý trong xã hội đều tốt và cần thiết, và vì thế chúng không hề là cản trở cho cuộc sống đức tin của chúng ta. Cản trở hay không đều hoàn toàn tùy thuộc vào quan niệm và thái độ xử sự của chúng ta. Đức tin không bao giờ muốn tách rời chúng ta ra khỏi thực tại cụ thể của cuộc sống; trái lại đức tin chỉ muốn hoàn thiện và thánh hóa thực tại trần thế đó mà thôi.
Còn thực tại đích thực của người tín hữu hoàn toàn khác hẳn. Vâng, đối với người tín hữu, vũ trụ này không phải là thực tại sau cùng và có tính cách quyết định trên cuộc sống và sự hạnh phúc đích thực của con người. Anh luôn xác tín rằng anh không hề hiện hữu lẻ loi cô độc một mình trên cõi đời này, dù cho ngoài anh ra không còn gì khác hiện hữu nữa. Anh cũng có thể an tâm một cách chắc chắn rằng không có bất cứ tạo vật nào nắm quyền quyết định về sự sống hay sự chết của anh cả. Bởi vì chỉ một mình Thiên Chúa là Chúa trên sự sống và sự chết của mỗi người. Chính Người an bài mọi sự theo thượng trí và tình thương vô biên của Người.
Đúng vậy, đối với một người có đức tin thì lịch sử của nhân loại, của chính mình hay của cả vũ trụ không hề là một dãy những tương quan ngẫu nhiên mù quáng, và cũng không phải là kết quả của những nỗ lực bản thân; Trái lại, đối với anh: quá khứ, hiện tại, và tương lai là ơn huệ của Thiên Chúa từ nhân, Đấng luôn muốn cho anh được sống, được hạnh phúc và được cứu rỗi.
Dĩ nhiên, điều xác tín đó không hề miễn trừ hay chuẩn chước cho chúng ta khỏi tất cả những cố gắng hay những nỗ lực thiết thực, ví dụ:
• Một sự bảo đảm chắc chắn cho nền hòa bình thịnh vượng;
• Một đường lối chính trị về năng lượng bảo vệ môi sinh;
• Một sự phân phối hợp lý và công bằng giữa các nước về những tài nguyên thiên nhiên;
• Một sự tương quan nhân bản và tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc.
• v.v…
Trong những vấn nạn cụ thể như thế, một đàng, người tín hữu không được phép thụ động ngồi chờ thời cơ hay chỉ chờ những dấu hiệu cụ thể đến từ Thiên Chúa; đàng khác, người tín hữu cũng phải xác tín rằng mọi nỗ lực nhân loại của mình không nhất định là động lực chính dẫn tới thành công. Nói tắt, con người phải chủ động trong mọi vấn đề của cuộc sống, nhưng để đạt được thành công, con người cần phải có sự trợ lực của Thiên Chúa, bởi vì không có sự trợ lực của Thiên Chúa thì con người sẽ không làm gì được (x. Ga 15,5). Cũng vì thế, người Pháp mới có câu phương ngôn rất hợp lý: «Aide toi toi-même, Dieu t’aidera» - Anh hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp anh!
Tuy nhiên, khi một người có đức tin sâu xa, người đó sẽ cảm thấy cuộc sống mình nhẹ nhàng thanh thoát hơn, cũng như an vui và lạc quan hơn. Người đó có thể sống thanh thoát cởi mỡ, bởi vì anh biết mình luôn được bàn tay đầy quyền năng của Thiên Chúa vô hình che chở đỡ nâng; và như thế, đời anh chắc chắn sẽ không bao giờ bị lạc đường, nhưng sẽ đạt tới hạnh phúc chân thật.
Nhưng đồng thời, cũng chính ở chỗ đó còn chứa đựng một nguy hiểm, nếu người tín hữu không biết tự cảnh giác đủ, đó là: Sự tự tín hay sự ỷ lại vào chính mình quá độ. Hẳn đây chính là mối nguy hiểm mà bài Tin Mừng hôm nay muốn nhắc tới với những lời đầy chân thành: Các con đừng tự đắc và kiêu kỳ làm gì! Các con cứ nhìn thẳng vào đức tin của mình thì sẽ thấy rõ là nó hãy còn yếu ớt lắm. Vâng, thực ra:
* đời chúng con vẫn còn chưa thanh thoát đủ, chưa được tự do đủ và chưa hoàn toàn được giải phóng;
* lòng phó thác tin tưởng của chúng con vào chúa vẫn còn non nớt lắm;
* những nỗ lực cố gắng của chúng con hãy còn vấn vương nhiều nghi ngờ;
* Chúng con còn quá cậy vào sức lực riêng của mình, và vì thế, nhiều khi Thiên Chúa trở nên dưa thừa, không cần thiết trong cuộc sống của chúng con.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng đã chứng kiến được rằng chính các môn đệ cũng đã chân thành nhìn nhận đức tin của các ngài hãy còn yếu đuối non nớt. Bởi thế, các ngài đã thành khẩn xin Chúa củng cố thêm đức tin cho họ.
Nhưng một điều rất đáng ngạc nhiên ở đây là Đức Giêsu đã không trả lời trực tiếp cho nguyện vọng của các môn đệ. Người chỉ gián tiếp chứng thực lời thú nhận của các môn đệ mà thôi: Vâng, đúng thế, đức tin của các con còn yếu ớt lắm.
Tiếp ngay sau đó, để nhấn mạnh thêm, Người còn kể câu chuyện dụ ngôn về người đầy tớ giúp việc trong nhà, một người không hề có quyền chờ đợi một sự thưởng công đặc biệt của ông chủ khi anh chu toàn các bổn phận đã được giao phó, ngoài tiền lương đã được qui định. Đó cũng chính là trường hợp của người môn đệ Đức Kitô, xưa kia cũng như ngày nay.
Đó là một sự thật cụ thể mà Đức Giêsu cho rằng các môn đệ của Người không thể phủ nhận được. Vâng, đó là một sự thật hiển nhiên, và sự thật đó sẽ không thể khác được, nếu như người môn đệ, nếu như con người tự thành thật với chính mình. Nói cách khác, nếu con người không tự dối mình và không còn đóng kịch trước mặt người khác, nhưng là nhìn nhận sự yếu đuối và bất toàn của mình. Và hành động nhìn nhận chân thành sự yếu đuối của mình là một điều người môn đệ có thể và cần phải làm, vì anh luôn xác tín rằng: Thiên Chúa luôn đồng hành với anh và nâng đỡ anh, kể cả khi anh yếu đuối và kể cả khi anh yếu đuối trong đức tin.
Tiên tri Kha-ba-cúc sống ở thời đế quốc Babylon chiếm đóng Palestine những thế kỷ thứ VII hoặc: TN 27-C44
Tiên tri Kha-ba-cúc sống ở thời đế quốc Babylon chiếm đóng Palestine những thế kỷ thứ VII hoặc VI trước công nguyên. Xã hội lúc ấy đầy dẫy nhiễu nhương lộn xộn. Tuyển dân không chịu nổi một cổ ba bốn tròng: áp bức từ phía quan chức đế quốc, độc ác từ lãnh chúa địa phương, kìm kẹp của lãnh đạo tôn giáo. Cho nên vị tiên tri phải kêu lên: “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, chúng con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe. Chúng con la to: “Bạo tàn” mà Ngài không cứu vớt?”. Nghe như vị ngôn sứ than vãn trong bối cảnh hôm nay trên thế giới: Zimbabue, Darfur, Iraq, Afghanistan, Myanma, Guatemala, North Korea, … nhân dân trong nhiều quốc gia kêu lên cùng với vị tiên tri: “Sao Ngài bắt chúng con phải chứng kiến tội ác hoài, còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau? Trước mắt chúng con toàn là cảnh phá phách, bạo tàn. Chỗ nào cũng thấy tranh chấp và cãi cọ”. Tôi nghe như tiếng cầu nguyện trong các tâm hồn đạo đức, trong các thánh đường giáo xứ, trong các tu viện nghiêm ngặt của thời đại hôm nay.
Nói như vậy không ngoa vì thử nhìn sâu vào đường phố, các con hẻm, những nơi xã hội đen hoạt động, hộp đêm, chích choác, đĩ điếm, lừa đảo, bóc lột và ngay cả các cộng đồng “anh em”, khắc nhận ra tình hình và sự thật. Nhưng ngôn từ của vị tiên tri khá liều lĩnh: Chúng là ai mà dám đối xử với Thiên Chúa như vậy? Chúng ta chẳng qua chỉ là sâu bọ, những thứ nhơ nhớp trước mặt Ngài? Nhưng các tiên tri, các thánh, những tâm hồn thánh thiện nhiều khi dùng ngôn từ táo bạo. Họ tin cậy, tín thác vào lòng nhân lành của Đức Chúa Trời đến độ coi Ngài như bạn hữu thân thiết. Họ khiêm nhường và lương thiện, không sợ Thiên Chúa phật ý và trừng phạt, vì dầu sao Ngài nhân ái và hay xót thương như một người Cha trong gia đình. Còn hơn người cha thế gian bội phần. Họ có thể nêu lên Ngài những phàn nàn mạnh mẽ nhất.
Thật vậy, theo tâm lý thông thường, bạn hữu bày tỏ với nhau những ý nghĩ sâu thẳm về hỉ nộ ái ố mà không cần dè dặt. Như vậy mới là thân tình thật sự, bạn hữu chí thiết. Còn như so đo tính toán thì vẫn đứng ở tiền đường ngôi nhà tình yêu. Nếu bạn yêu mến Chúa thật sự, bạn có thể bày tỏ cảm nghĩ của lòng mình như vị tiên tri. Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta gặp hoàn cảnh bế tắc, chẳng biết cầu cứu nơi đâu. Thì Thiên Chúa là Đấng cứu giúp duy nhất. Đấng vẫn sẵn sàng nghe chúng ta không những cầu nguyện mà cả phàn nàn nữa. Nào ai khác có quyền năng thay đổi tình thế? Giống như Kha-ba-cúc, chúng ta nhìn vào những cay đắng của thế giới với đôi mắt van xin: “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, chúng con cầu cứu mà Ngài chẳng đoái thương?”.
Đọc lịch sử Do Thái, chúng ta hiểu biết những đe doạ mà tiên tri Kha-ba-cúc phải đối diện, nhiều nhất là từ nội bộ tôn giáo, xã hội, chứ không riêng gì ngoại bang áp bức. Cái chết của vua chủ trương cải cách Giosia khiến quốc gia rơi vào hỗn loạn. Vua con Giêojakim hư hỏng, làm tan hoang chương trình của vua cha, dẫn đất nước vào cảnh nô lệ, xã hội suy đồi. Kha-ba-cúc la lớn chống lại lãnh đạo thối nát và cảnh cáo họ rằng Thiên Chúa sẽ dùng bàn tay sắt của Babylon trừng phạt dân riêng. Thật buồn thảm khi nhìn xem quần chúng bị áp bức bởi chính lực lượng chính trị, quân sự, tôn giáo của tuyển dân. Xấu hổ và đau xót biết mấy. Lương tâm ngay chính chịu làm sao nổi? Ai có khả năng cứu vớt tình hình nếu không phải là Thiên Chúa các đạo binh? Ai có thể làm giảm bớt những đau khổ hiện tại? Dân chúng lại không có quyền lực, lãnh đạo thì thối nát. Tiên tri chỉ còn cậy nhờ vào Đức Chúa Trời: “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa?”. Tiếng kêu thảm thiết nhưng có lý. Đây cũng là hoàn cảnh của chúng ta. Nếu không có những tâm hồn đạo đức như Kha-ba-cúc thì vô phương chữa chạy.
Sau khi đã vạch rõ nỗi cực lòng của tuyển dân, tiên tri Kha-ba-cúc bước sang phần thứ hai của bài đọc, cũng là bổn phận chính yếu của một ngôn sứ (kêu gọi hy vọng và tin tưởng vào Đức Chúa Trời, hoán cải xã hội và nếp sống cá nhân). Xem ra Đức Chúa đã bỏ mặc dân riêng trong nỗi đau khổ, tuyệt vọng. Nhưng ngôn sứ được Thiên Chúa trả lời: “Hãy viết lại thị kiến và khắc vào tấm bia cho ai nấy đọc được xuôi chảy: đó là thị kiến sẽ xảy ra vào thời ấn định. Nó đang tiến nhanh đến chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng”. Nghĩa là đang có giải pháp và tuyển dân có quyền hy vọng.
Nhưng còn chúng ta hôm nay thế nào? Ý định cứu vớt của Đức Chúa Trời có được trân trọng? Nếu căn cứ vào thái độ của nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân, thì câu trả lời là “không”, vì cách ăn nết ở chẳng kéo được lòng thương xót của Đức Chúa Trời. Ngày ngày yến tiệc linh đình, dã ngoại, du lịch, tiện nghi tùm lum như Phúc Âm tuần trước mô tả, thì làm sao tranh thủ được lòng thương xót? Theo vị ngôn sứ, trái tim của Đức Chúa nằm ở những nơi đau khổ, thiếu thốn, cô thân cô thế, không kẻ giúp đỡ.
Khi hiểu rõ như vậy, phản ứng của tín hữu phải làm gì cộng tác với Ngài để giảm nhẹ tình trạng ấy? Suy gẫm suông chẳng giúp ích được chi như câu ca dao: dù xây chín cấp phù đồ, chẳng bằng làm phúc giúp cho một người. Hoặc đơn giản hơn: “tội nghiệp suông không bằng tiền buông chút ít”. Chúng ta có ngàn vạn phương cách để dấn thân giúp đỡ họ: ăn ở công bình, khử trừ tệ đoan, cứu giúp nạn nhân, yên ủi người sầu khổ, tranh đấu chống bất công. Hoặc tối thiểu đừng gây thiệt hại cho ai. Viễn tượng của vị tiên tri luôn thúc đẩy tín hữu làm chi đó cho xã hội, thăng tiến con người: “Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính sẽ được sống nhờ lòng thành tín của mình”. Một nhà đạo đức đã viết: “Đức tin không có công lý là đức tin giả hiệu”. Vậy xét mình xem chúng ta sống công lý thế nào, để đức tin của mình chân thật? Và nhờ đó thế giới được cải thiện. Thu vén cho mình mọi tiện nghi bằng cái giá thiệt thòi của thiên hạ. Chắc chắn không phải là đức tin chân chính, dù bào chữa thế nào đi nữa. Nên bài đọc Kha-ba-cúc day tín hữu đừng ngưng nghỉ sống công chính hoặc thối chí làm việc, tranh đấu cho một xã hội tốt hơn, trong sạch thánh thiện hơn, ngõ hầu Thiên Chúa tưới gội Hồng Ân hạnh phúc và thoát ách nô lệ Satan, tội lỗi. Bao lâu còn bất trung với ơn gọi của Thiên Chúa, bấy lâu còn lầm than như dân Do Thái xưa. Phần thứ nhất của bài đọc Kha-ba-cúc như một lời cầu nguyện van xin, thì phần thứ hai khuyến khích sống ngay lành, thi hành ơn gọi tranh đấu cho công bình bác ái.
Phúc âm khai triển cùng ý tưởng ấy. Các tông đồ xin Chúa tăng thêm đức tin: “Lạy Thày, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Điều này khiến chúng ta suy nghĩ. Tại sao lại yêu cầu như vậy? Đức tin của họ chưa đủ để hoạt động sao? Xin nhớ là Chúa vừa giáo huấn các môn đệ về hậu quả nghiêm trọng khi gây gương mù, gương xấu (thà buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển). Rồi phải tha thứ cho nhau 490 lần một ngày. Vậy thì các ông không đủ khả năng sống lời Chúa dạy, để tiếp tục theo Ngài. Do đó các ông xin thêm đức tin. Tự nhiên là như vậy.
Nhưng Đức Giêsu giải quyết cách khác: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em bảo cây dâu này: hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Chúa không nói đến số lượng mà chất lượng. Nếu các tông đồ có chất lượng đức tin tốt, thì dù số lượng chỉ bằng hạt cải cũng có thể làm được nhiều điềm thiêng dấu lạ. Hoá ra xưa nay chúng ta đã lầm to khi chỉ đòi hỏi khối lượng. Đức Hồng Y Fulton J. Sheen nhận xét: nên thánh không cần thời gian mà chỉ cần tình yêu. Đức tin cũng vậy, chỉ cần chất lượng tốt là đủ. Cây dâu trong Tin Mừng là một đại thụ rễ sâu và nhiều, chằng chịt khắp mặt đất, ăn quanh các tảng đá lớn, khó lòng mà nhổ lên được, vậy mà chỉ cần đức tin bằng hạt cải. Liệu chúng ta có đức tin đó chưa? Để truyền giáo, thu hút linh hồn thiên hạ, gặt hái những mẻ lưới to? Câu nói trên quả là chân lý: Faith without justice is not true faith. Tư tưởng của Kha-ba-cúc thật là hữu ích. Đức Giêsu dạy các tông đồ không nên cậy dựa vào số lượng. Họ có đủ rồi, chỉ nên suy nghĩ về số lượng đó và hành động.
Ngày nay chúng ta quên sự thật này. Làm chi cũng đòi công lênh, tính toán thành tích, báo cáo kết quả. Thật tai hại. Nó đi ngược lại tinh thần của Đức Kitô. Làm bất cứ điều chi, người ta cũng đòi trả công, chẳng có việc chi không đòi trả tiền, kể cả các bí tích. Tôi còn nhớ như in một linh mục sau khi rửa tội cho con trẻ trong lễ fiesta của xóm chài nghèo khó, cứ đi đi lại lại trước một mái hiên của một gia đình. Tôi ngạc nhiên, hỏi nhỏ anh bạn người địa phương tại sao như vậy? Anh ta ghé sát vào tai tôi và nói: “Đòi tiền rửa tội”. Chao ôi, đó là sự thật sao? Xét cho cùng, chúng ta đều như thế. Hình thức này hay hình thức khác. Chúng ta quên bẵng rằng hành động anh hùng, quảng đại nhất là việc của tình yêu và đức tin tinh ròng, không tính toán lương bổng, hơn thiệt. Thí dụ cha mẹ nuôi nấng con cái, liệt sĩ vì quê hương, tử đạo vì đức tin. Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ (Mt 5, 3). Nếu chúng ta làm việc vì công lênh, chúng ta đánh mất nước Thiên Đàng. Cho nên hành động với đức tin tinh ròng là cần thiết để trở nên môn đệ đích thực của Đức Kitô. Dụ ngôn người tôi tớ vô dụng minh hoạ điều đó: “Đối với anh em cũng vậy: khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”. Suy nghĩ về dụ ngôn này, cha Thomas Merton viết: “Even if I had done some good works to trust in I would not want to trust in them” (Ngay cả khi tôi thực hiện được vài công việc tốt có thể tin cậy được, thì tôi cũng không muốn tin tưởng vào chúng) (Seven storey mountain). Còn tác giả Catherine Doherty viết: Let us never try to sweeten Christ’s teaching (không nên bao giờ bỏ đường vào Lời Chúa). Ngày nay vì ảnh hưởng vật chất, chúng ta có tinh thần ngược lại, nhất là giới trẻ. Lý tưởng cao thượng chẳng còn giá trị nào.
Đức Giêsu mời gọi các tông đồ hãy đặt cậy trông vào niềm tin mà họ đang có, rồi hành động trên niềm tin đó. Đừng phàn nàn vì không đủ đức tin, rồi sinh ra ươn lười, trì hoãn, viện cớ để bất động, thiếu sáng kiến và không tin tưởng vào ước mong của Thiên Chúa muốn hành động qua nỗ lực của chúng ta.
Người cần chúng ta dám sửa chữa những bất công xã hội. Não trạng cầu an chẳng ích lợi chi. Nhưng sức riêng của chúng ta chẳng có khả năng nhổ rễ được điều xấu. Với ơn Chúa trợ giúp thì đức tin bằng hạt cải có thể lấp biển dời non. Điều này không phải đại ngôn mà là sự thật. Làm môn đệ Chúa, dù được trang bị đức tin bằng hạt cải, thì vẫn phải làm việc, bất chấp khó khăn, theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Linh, gạt bỏ mọi tư duy lợi lộc hay phần thưởng. Đặc biệt đối với các linh hồn lao động trong vườn nho của Thiên Chúa, linh mục, tu sĩ, những linh hồn tận hiến. Chúng ta phải cố gắng lao động không công, chỉ vì tình yêu thúc bách. Đừng quá nặng về tiền bạc, tiếng tăm hay thành công. Nếu nghĩ mình quan trọng, không ai thay thế được, là chúng ta đã đi lệch đường: Bene curris sed etra viam (chạy tốt nhưng lạc đường). Lời Chúa luôn phải là kim chỉ nam cho chúng ta hành động: “Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói chúng tôi là những đầy tớ vô dụng”.
Đấy mới là thái độ đúng đắn của các môn đệ Chúa Kitô, ngược lại với Pharisêu, thượng tế, luật sĩ. Chủ thuyết của họ nghĩ rằng khi cặn kẽ tuân giữ lề luật Môisê thì Thiên Chúa mắc nợ họ. Lầm biết bao, vì không bao giờ Thiên Chúa mắc nợ ai cả, cho dù chúng ta chịu chết vì Ngài. Tuy nhiên, Người là cha nhân từ, chứ không phải ông chủ đối với các nô lệ. Ngài sẽ thưởng cho ai nấy tuỳ công việc họ làm. Đức Giêsu tuyên bố như vậy, và thánh Phaolô nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Như những người con trong gia đình, chúng ta hành động hoàn toàn vì tình yêu, không tính đến công lênh. Chúng ta làm việc chỉ để đáp lại tình yêu hải hả của Thiên Chúa. Ước mong mọi tín hữu đều ý thức được như vậy. Amen.
Giả sử như chúng ta có được một cỗ máy thời gian đi ngược dòng lịch sử trở về trước một thế: TN 27-C45
Giả sử như chúng ta có được một cỗ máy thời gian đi ngược dòng lịch sử trở về trước một thế kỷ. Khi gặp gỡ những người của năm 1895 và đưa cho họ tờ nhật báo hôm nay, chắc hẳn tờ nhật báo ấy là một cái gì xa lạ và họ chẳng hiểu được bao nhiêu. Chỉ cần nêu ra một số từ ngữ, chẳng hạn như phi thuyền, siêu thị, chứng khoán, vi tính...
Nếu như họ hỏi: Truyền hình là gì? Hẳn chúng ta sẽ không ngần ngại trả lời đó là một chiếc máy giúp chúng ta nhìn thấy sự việc xảy ra ở bên Pháp, bên Mỹ, bên Tàu đúng lúc nó đang thực sự xảy ra ở những nơi ấy. Giả sử họ hỏi: Hoả tiễn hạch tâm tầm xa là gì? Hẳn chúng ta sẽ sẵn sàng trả lời đó là một trái đạn khổng lồ được bắn đi có thể tiêu diệt bất kỳ thành phố nào cách xa hàng ngàn cây số. Giả sử họ hỏi: đổ bộ mặt trăng là gì? Chúng ta sẽ mau mắn cắt nghĩa đó là việc con người dùng phi thuyền bay lên và đáp xuống mặt trăng.
Trước những câu trả lời này, dân chúng của thế kỷ trước sẽ nghĩ gì về chúng ta? Chắc hẳn họ sẽ cho chúng ta là những kẻ điên khùng, bởi vì một người tỉnh táo thời bấy giờ sẽ cho rằng chúng ta không thể ngồi ở Việt Nam mà lại biết được những việc đang xảy ra ở bên Pháp, bên Mỹ và bên Tàu. Và họ cũng cho rằng chúng ta không thể nào bay được như một con chim để lên tới mặt trăng. Câu chuyện khoa học giả tưởng trên cho chúng ta thấy: điều mà dân thế kỷ này cho là vô nghĩa và bất khả, thì đối với dân thế kỷ khác lại là chuyện đương nhiên và bình thường. Điều mà dân thế kỳ này không bao giờ dám mơ ước thì đối với dân thế kỷ khác lại là chuyện bình thường.
Và bây giờ cùng với cỗ máy thời gian ấy, chúng ta đi vào tương lai, tới năm 3000. Trên những tờ báo lúc bấy giờ không còn đăng tải những tin tức về bạo lực, nghèo đói và chiến tranh, mà chỉ có tình yêu, sự thịnh vượng, hoà bình và thân hữu. Chắc hẳn chúng ta sẽ nghĩ thầm rằng một thế giới như vậy chỉ là chuyện mơ tưởng, không thực, bởi vì ở đâu có loài người thì ở đó có bạo lực, có hận thù, có bóc lột và giàu nghèo.
Thế nhưng, từ đó chúng ta đi tới một kết luận: Nếu chúng ta tin rằng hoà bình không thể có trên mặt đất, thì làm sao chúng ta thành công trong việc xây dựng nó. Nếu chúng ta cho rằng tự cõi lòng con người vốn ích kỷ, thì chắc hẳn chúng ta không thể tạo được một xã hội công bằng.
Tuy nhiên với đức tin, chúng ta phải nhìn nhận rằng có thể có bình an trên mặt đất, có tình yêu giữa con người và có sự hoà điệu giữa các dân tộc. Sở dĩ như vậy là vì Đức Kitô đã đến giữa chúng ta, dạy cho chúng ta cách sống, cách thực hiện những điều trên. Đây chính là sứ điệp Ngài muốn gởi gắm chúng ta qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay.
Nếu các ngươi có được một đức tin bằng hạt cải, các ngươi có thể chuyển núi dời sông. Nhờ đức tin mà chúng ta có được quyền năng của Thiên Chúa trong tầm tay của mình. Và với quyền năng ấy, không gì là không có thể, kể cả một thế giới không còn chiến tranh, hận thù và nghèo đói.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Chúng ta sống trong một thế giới đầy bạo lực và oán ghét. Đó là một thế giới được điều khiển bởi: TN 27-C46
Chúng ta sống trong một thế giới đầy bạo lực và oán ghét. Đó là một thế giới được điều khiển bởi những kẻ sát nhân và điên cuồng. Đó là một thế giới mà những đứa trẻ đã bị phá thai, những trẻ nhỏ đã bị lạm dụng tình dục và bị giết chết bởi cha mẹ chúng. Đó là một thế giới mà chính trị, kinh tế đã hư đốn. Có phải sự xấu ở nơi thế giới bây giờ đã hình thành từ nhiều thế hệ, hoặc đó là phương tiện truyền thông đã làm cho chúng ta ý thức hơn về những gì đang xảy ra?
Habacuc, một tiên tri Do Thái đã sống sáu thế kỷ trước Chúa Kitô. Đó là một thời gian thật sự tồi tệ như thời đại của chúng ta bây giờ. Ở Giuđa, sự nhầy nhụa của chính trị đã lan rộng, nền luân lý hư hỏng, xã hội bất công, sự khinh bỉ những người nghèo, và việc thờ lạy ngẫu tượng đã lờ đi Thiên Chúa của Abraham, của Isaac, của Giacop. Thiên Chúa đã cứu Israel ra khỏi ách nô lệ của Ai cập, đưa dân vào đất hứa, đám dân mà Người đã làm Giao Ước quan trọng đối với họ.
Habacuc là một vị tiên tri bị chán ghét, hầu hết mọi người không ai để ý tới, hoặc là ước mong thống hối và canh tân. Habacuc đã nói một cách rõ ràng không úp mở. Ông ta đã trở lại với Thiên Chúa trong cầu nguyện nhưng không phải trong cách lịch sự của lời kinh cầu, có vẻ thích hợp với oai nghi của Thiên Chúa. Habacuc đã phàn nàn một cách cay đắng với Thiên Chúa. Sự kiên nhẫn của ông đã đến chỗ tận cùng, ông ta đã cầu nguyện: “Ôi Lạy Chúa còn bao lâu nữa? Con đã kêu khóc để cầu xin sự giúp đỡ nhưng Ngài đã không lắng nghe. Con đã kêu lên Chúa. Ôi sự dữ! Nhưng Ngài đã không can thiệp”.
Những người khác có thể đã cầu nguyện với Thiên Chúa theo cách này trước Habacuc trong Thánh Kinh như hầu như không ai chú ý tới những điều đó. Habacuc có vẻ như là một tiếng vang mới đã can đảm nói thẳng lên với Thiên Chúa. Sự nhấn mạnh của ông với Thiên Chúa đã được chú ý tới, nhưng sự đáp trả của Thiên Chúa thì đáng chú ý hơn. Ngài đã không ra lời sấm sét để khiển trách những tạo vật nhỏ bé của Ngài. Thiên Chúa không hỏi: “Tại sao con dám nói với Ta cách như thế”. Đúng hơn Thiên Chúa đã yêu cầu Habacuc kiên nhẫn, tiếp đó Ngài thêm: “Người công chính, bởi vì đức tin của ngươi sẽ được sống”.
Habacuc là một con người của đức tin. Ông tin rằng Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo phải có trách nhiệm với những tạo vật của Người. Ông ta kêu lên Thiên Chúa, Đấng đã làm một Giao Ước với dân Người hãy nhớ lại sự trung thành của Người, tình yêu của Người đối với họ. Habacuc đã phàn nàn đó là sự thật, nhưng ông đã phàn nàn như một người công chính với một Thiên Chúa thật, Đấng có thể tẩy rửa sự xấu xa nơi thế gian này. Ông đã tin rằng Thiên Chúa là Người duy nhất có thể thay đổi. Habacuc là một người có đức tin lớn lao.
Đức tin là một đặc ân. Các tông đồ sợ rằng đức tin của họ đã không mạnh đủ, có lẽ họ nghĩ rằng một điều gì đó giống như Habacuc khi họ hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa xin tăng thêm đức tin cho chúng con”. Lời nài xin này làm lớn đức tin của họ cách chắc chắn và cần thiết cho chính chúng ta khi chúng ta cầu nguyện nơi Thánh Lễ, đặc biệt là lời cầu nguyện sau khi hiệp lễ, chúng ta xin Chúa sửa lại những điều sai trái trong xã hội của chúng ta.
Sự cầu nguyện của chúng ta sẽ được tràn đầy với sự can đảm, điều đó sẽ đến từ đức tin. Thánh Phaolô đã bảo đảm với Timôthêô;”Thánh Thần của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta không phải là một sự hèn nhát nhưng đúng hơn đã làm cho chúng ta mạnh sức, yêu thương và khôn ngoan”. Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép rửa. Thánh Thần đó sẽ thúc đẩy chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa với sự trông đợi nhưng cũng với sự khẩn nài không chỉ trong Thánh Lễ và bất cứ nơi nào mà chúng ta cầu nguyện. Khi nào chúng ta cầu nguyện, một người cầu nguyện là một người khôn ngoan, yêu mến và mạnh mẽ để nhận biết rằng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Đấng công chính bởi vì Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể thay đổi.
Tại một cộng hoà thuộc Liên Xô cũ, trong một cuộc mít tinh nọ, một giáo sư muốn chứng: TN 27-C47
Tại một cộng hoà thuộc Liên Xô cũ, trong một cuộc mít tinh nọ, một giáo sư muốn chứng minh cho cử tọa thấy rằng Chúa Giêsu chỉ là một tên phù thủy lừa bịp. Ông lấy một ly nước, đổ vào đó một ít bột, nước liền đổi ra màu đỏ. Ông tuyên bố với cử tọa như sau:
“Thưa quý vị, tôi vừa mới làm một phép lạ. Ngày xưa Ông Giêsu cũng chỉ làm như tôi vừa làm mà thôi. Ông Giêsu đã biến nước thành rượu theo cách thế tôi vừa làm đó. Nhưng quý vị hãy xem tôi còn làm được điều ngoạn mục hơn nữa”. Nói xong, ông lấy một thứ bột khác cho vào nước. Nước từ từ đổi màu, rồi trở lại nguyên trạng.
Trong đám cử tọa, một người đứng lên phát biểu: “Thưa ông, ông quả thực là người tài ba nhưng liệu ông có dám uống thử thứ rượu mà ông vừa chế biến hay không?” Quả thực, ông giáo sư biết mình đang làm trò bịp. Nước mà ông đã cho đổi màu ấy chỉ là một hóa chất độc hại. Thấy ông giáo sư chần chừ, người vừa lên tiếng phát biểu mới quay xuống đám đông và bình tĩnh giải thích như sau:
“Thưa quý vị, đây là sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và ông giáosư nầy: với rượu nho của Ngài, Chúa Giêsu đã rót cho chúng tôi hai ngàn năm hoan lạc rồi. Còn với thứ rượu mà vị giáo sư nầy chế biến, nhân loại hẳn sẽ bị đầu độc”.
Anh chị em thân mến,
Hai ngàn năm qua, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục làm phép lạ trong cuộc sống của mọi con người, đặc biệt là trong cuộc sống của những ai tin vào Chúa. Mỗi cuộc đời Kitô hữu là một phép lạ phi thường của Chúa Giêsu. Trong phép lạ lớn lao ấy còn hàm ẩn biết bao phép lạ khác nữa. Chúa Giêsu hôm nay đã nói: “Nếu anh em có lòng tin nhỏ xíu bằng hạt cải thôi, anh em có thể truyền lệnh cho cây dâu nầy bật gốc lên, xuống mọc dưới biển kia cũng được”. Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn nói rằng đức tin có khả năng làm phép lạ như một sức mạnh phù phép, bùa chú, hiểu theo nghĩa đen là “chuyển núi dời non”, “bứng rừng trồng xuống biển”. Nhưng Ngài muốn nói: đức tin là một động lực thúc đẩy chúng ta dám nghĩ, dám làm những việc to lớn, phi thường mà nếu không có lòng tin, chúng ta không dám hành động. Bởi vì, người có lòng tin thì hành động bằng quyền năng của Thiên Chúa, chứ không phải bằng khả năng giới hạn của mình. Do đó, người có lòng tin có thể làm được những việc mà chỉ có quyền năng vô biên của Thiên Chúa mới làm được. Thực ra, không phải là người ấy hành động nữa mà là chính Thiên Chúa hành động trong người ấy và qua người ấy.
Nhờ đức tin thúc đẩy, chúng ta dám khởi công bắt ta vào việc xây dựng cuộc sống cho mình, cho anh chị em mình, rồi Chúa sẽ tiếp tay giúp sức chúng ta bằng quyền năng vô biên của Ngài, để hướng dẫn và biến đổi công việc nhỏ bé của chúng ta trở thành công trình to lớn, vĩ đại, phi thường. Nếu chúng ta không bắt tay vào việc là dấu chứng tỏ chúng ta chưa tin, hoặc không tin. Có tin, chúng ta mới dám làm, chưa làm hay không làm là vì chưa tin hay không tin. Đức tin đòi phải có hành động. Thánh Giacôbê tông đồ đã nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin đã chết rồi” (Gc 2,17). Ngài lấy ví dụ: “Nào có ích gì, nếu người nào rêu rao mình có đức tin trong khi chẳng chịu làm gì cả? Nếu có anh chị em nào thiếu ăn thiếu mặc mà một người nào trong anh chị em lại nói với họ: ‘chúc anh chị em đi bình an, ăn no mặc ấm’, mà không cho họ những gì cần thiết để ăn mặc, thì nào có ích gì? Đức tin đó có cứu được người ấy không? Cũng vậy, đức tin không có việc làm là đức tin đã chết mất rồi” (Gc 2,14-17). Bởi vì đức tin sống bằng đức ái. Đức tin phải được biểu lộ trong sự thông cảm, tha thứ, chia sẻ cho nhau cái ăn cái mặc, và nhất là biểu hiện trong sự phục vụ, làm tôi tớ lẫn nhau một cách vô điều kiện.
Thưa anh chị em,
Sống đức tin là sống phục vụ. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng một câu chuyện bình dân trong chế độ xã hội phong kiến ở thời đại Ngài mà dạy chúng ta bài học phục vụ. Chế độ phong kiến là chế độ có chủ có tớ, có địa chủ và nông nô. Tớ phải hầu hạ chủ như là chuyện đương nhiên. Chủ không bao giờ mang ơn tớ, cũng là chuyện coi như đương nhiên. Nhưng Chúa Giêsu công bố một đạo lý Tin Mừng khác hẳn quan điểm phong kiến đó. Chính Ngài đã “đến không phải để được hầu hạ, nhưng để làm tôi tớ mọi người” (Mt 20,28), và Ngài đòi hỏi: “Ai lớn nhất trong anh em phải làm tôi tớ mọi người” (Mc 9,35). Tin Chúa, theo Chúa là đem cả cuộc đời mình hiến thân phục vụ anh em như một chuyện đương nhiên, không đòi hỏi được đền ơn, đáp nghĩa, được biểu dương hay khen thưởng. Tin Chúa, theo Chúa không để chi lo cho phận riêng mình cách ích kỷ, không chạy theo lợi lộc, không tìm thăng quan tiến chức, nhưng để phục vụ mọi người như lẽ sống đời mình. Thái độ phục vụ không kể công, không vụ lợi là một yếu tố quan trọng đối với đời sống cộng đồng Giáo Hội cũng như xã hội. Sự đòi hỏi người khác biết ơn và đền ơn, đó là hành động của ước muốn thống trị và là bước đầu đưa tới thống trị trên người khác. Muốn cho tương quan trong cộng đồng xã hội mãi mãi trong sáng là tương quan huynh đệ, Chúa Giêsu đã dạy cách phục vụ không vụ lợi, không kể công. Có làm được điều gì tốt lành thì đó là việc phải làm chứ chẳng có gì để mà vênh vang tự đắc, nghĩa là mình có quyền đòi Chúa hay mọi người biết ơn. Do đó, mỗi khi hoàn thành nhiệm vụ, mỗi người phải khiêm tốn tự nhận mình chỉ là “người tôi tớ tầm thường, vì đã làm việc bổn phận đấy thôi.”
Anh chị em thân mến,
Nếu nhờ đức tin, mọi người đều lấy mình làm tôi tớ lẫn nhau thì chắc chắn đức tin ấy sẽ làm được những việc phi thường. Đó là phép lạ của đức tin có hành động. Và cũng chính hành động nầy sẽ kiểm tra chất lượng đức tin của chúng ta xem nó bằng bao nhiêu sánh với hạt cải bé nhỏ. Vì nếu chúng ta có được lòng tin nhỏ bé bằng hạt cải thôi, chúng ta có thể “chuyển núi dời non”, “bứng rừng trồng xuống biển” cũng được. Đức tin có một sức bật kỳ diệu như vậy. Nhà vật lý Archimède đã nói: “Nếu có thể tìm được một điểm tựa bên ngoài vũ trụ, thì với một đòn bẫy, người ta có thể nâng bổng cả vũ trụ lên”. Và văn hào Kierkegaard đã nói: “Điểm tựa ấy chính là đức tin”. Đức tin có cả một sức bật như vậy, nó có khả năng biến đổi cả xã hội, cả thế giới đầy những bất công, bạo lực, chia rẽ, chiến tranh nầy thành một vương quốc của tình yêu, thành một “Trời Mới Đất Mới” trong ngày Cánh Chung.
Thánh Luca vẫn luôn tả lại “cuộc hành trình cao cả và sau cùng” lên Giêrusalem của Đức Giêsu: TN 27-C48
Thánh Luca vẫn luôn tả lại “cuộc hành trình cao cả và sau cùng” lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Ơ đây, Luca dùng một công thức trịnh trọng để dẫn nhập vào câu chuyện sắp kể.
Sau khi đã nói với những người Pharisêu (Lc 16,1-31) kế đó với các môn đệ (Lc 17,14), Đức Giêsu nói với các “Tông đồ”. Trong các Tin Mừng khác, danh hiệu này chỉ dành cho nhóm Mười Hai và chỉ nói một lần. Còn Luca dùng sáu lần trong Tin Mừng của ngài và hai mươi tám lần trong sách Công vụ Tông đồ. Dưới ngòi bút của ngài, chỉ Nhóm Mười Hai mới có quyền có danh hiệu ấy: Họ là chứng nhân chính thức của Tin Mừng của Đấng Phục sinh cho đến tận cùng trái đất. “Apostoloi” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “những người được sai đi”.
Trong đời sống hằng ngày, tông đồ là một vai trò nặng nề trách nhiệm: Không ai có thể tự ban cho mình chức vụ đó. Trong Giáo Hội tiên khởi, người ta không thể không ý thức về đặc quyền không thể chuyển giao và không thể tuyền lại được đặt trên Nhóm Mười Hai: Tính chất chính thống của “sứ vụ” và của việc “sai đi” do đích thân Đức Giêsu ban cho. Chính Người đã chọn họ và đã sai họ đi. Họ là các “chứng nhân” của Người. Họ dã nghe lời Người giảng dạy. Họ có thể nói lại: Những lời ấy đến trực tiếp từ Người. Họ có những cử chỉ của Người. Họ có thể lặp lại những cử chỉ ấy. Vẫn luôn là những cử chỉ của Người. Nhất là họ thấy Người sống động sau khi đã sống lại: Họ không thể không cao rao điều đó cho đến tận cùng trời cuối đất.
Theo một ý nghĩa loại suy, Giáo Hội ngày nay yêu cầu mọi Kitô hữu trở thành các “tông đồ”. Nhưng những yêu sách của tính chất chính thống còn mãi trong sự súc tích của chúng: Tôi cũng thế, tôi được đích thân Đức Giêsu sai đi... để trở thành chứng nhân của Người, của tư tưởng, lời nói, cử chỉ, sự cứu chuộc và tình yêu của Người.
Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”
Danh xưng “Chúa” chỉ xuất hiện một lần trong Matthêu và Maccô để chỉ Đức Giêsu khi còn sống. Luca dùng danh xưng ấy mười chín lần trong Tin Mừng ngài. Nhưng từ này không được sử dụng bởi tình cờ: Ngài luôn luôn muốn chỉ đến vinh quang của Đấng Phục sinh.
Hơn nữa, lời cầu xin của các tông đồ cũng không tầm thường. Đây là lần duy nhất mà người ta thấy bạn hữu của Đức Giêsu nói với Người một lời “cầu xin”, “như thể” Người là Thiên Chúa. Bằng một sự tham dự trước, họ cầu xin Đức Kitô trong vinh quang Tin Mừng, với Đấng mà sau này họ đã khám phá sự đồng nhất mầu nhiệm với Đức Chúa. Chúng ta chớ quên rằng Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, sự kết thúc đến gần.
“Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con”.
Trở thành tông đồ, không đơn giản là một quyết định của con người.
Trở thành chứng nhân của sự sống lại trước tiên không do bởi một sự hiển nhiên duy lý áp đặt như khi người ta đơn giản thừa nhận một sự kiện lịch sử bắt buộc.
Chỉ có đức tin mới mở ra cho những thực tại thánh thiêng ấy và do đó siêu nhiên, bên trên mọi thứ duy lý của khoa học. Và đức tin là một “ơn của nhiên Chúa” “Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con!”
Vậy thì ai, nếu không phải là chính Thiên Chúa đã có thể biến đổi các tông đồ sau sự bỏ trốn và chối bỏ thảm hại của họ?
Vậy thì ai nếu không phải là Thiên Chúa, đã làm họ trở thành những “chứng nhân can đảm” đến độ chịu tử đạo? Không, đức tin không phải là một điều hiển nhiên, một điều chinh phục được, một sự căng thẳng của trí tuệ và ý chí con người. Đức tin là sự đón nhận khiêm tốn một ân huệ, một ân sủng. Điều đó không có nghĩa con người không làm gì cả: “đón nhận” là một hành động tích cực cao độ của con người. Bạn không phải là ánh sáng. Nhưng nếu bạn khép cửa lại thì mặt trời muốn vào nhà bạn để chiếu sáng sẽ không bao giờ có thể vào được. Đức tin là một mặt trời. Một “ơn” luôn luôn được ban tặng cho tất cả mọi người. Nhưng phải mở cõi lòng mình ra. “Ơn của Thiên Chúa”, sáng kiến không mất tiền và siêu nhiên nên đức tin phải được “cầu xin”: Lời cầu nguyện là cánh cửa sổ của đức tin; phải được mở ra để đón nhận ơn Thiên Chúa. “Lạy Chúa, xin cho con đức tin. Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con...”
Chúa đáp: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em
Một hình ảnh khó quên theo đúng kiểu mẫu Palestine, và rất đạt trong văn phong dùng nghịch lý của Đức Giêsu. Hạt cải là loài “nhỏ nhất trong các loại hạt” (Mc 4,31). Còn cây dâu là cây rất khó bật rễ, theo các câu nói của những giáo trưởng Do Thái. Dĩ nhiên, Đức Giêsu ở đây không khuyên người ta cầu xin những phép lạ giật gân: Người không bao giờ dời cây dâu xuống biển; và nhiều lần, Người đã từ chối các “dấu chỉ” kỳ diệu mà người ta yêu cầu Người. Nhưng bằng hình ảnh này, Người mạnh mẽ nói với chúng ta rằng đức tin mở chúng ta cho điều bất khả, cho Thiên Chúa.
Một đức tin nhỏ nhất còn mạnh hơn mọi cộng việc của con Người bởi vì sự tham gia vào chính sức mạnh của Thiên Chúa là một việc lớn lao. Thật vậy, sau khi Chúa sống lại, hiệu quả đức tin của các Tông đồ không cân xứng với khả năng nghèo nàn của con người họ. Vốn là những người không có ảnh hưởng, quyền lực, phương tiện tài chính, tổ chức, báo chí, truyền hình, tóm lại không gì cả... thế mà họ đã thay đổi dòng lịch sử. Ngày nay, bởi sự kiện lịch sử này và bởi lời của Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi từ bỏ các phương tiện của quyền lực, không trông cậy vào các phương pháp về phương tiện tông đồ tinh xảo nhất và được chương trình hóa tốt nhất... để chỉ dựa vào đức tin và mở lòng ra với đức tin bằng lời cầu nguyện.
“Các bạn hãy nhìn xem: Một trinh nữ sinh con, một người được sinh ra từ Thiên Chúa; thiên đàng ở giữa chúng ta; chỉ còn một dân tộc... Chỉ cần một chút đức tin và các bạn sẽ thấy cây mọc trong biển, những người ăn mày trở thành những ông vua, những kẻ có quyền thế bị lật đổ, người ta chia sẻ các kho tàng... Các bạn hãy nhìn: nước biến thành rượu và rươụ trở thành máu, bánh hóa ra nhiều và dân chúng không còn đói nữa... chỉ cần một chút đức tin và các bạn sẽ thấy cây mọc trong biển, các sa mạc đầy hoa, người ta gặt lúa vào mùa đông và kho lẫm đầy tràn...”. Chỉ cần một chút đức tin, nhỏ như một hạt cải để thấy những người chán nản lấy lại niềm hy vọng, những người tội lỗi đứng dậy, những con đường không lối thoát được mở ra, chiến tranh chấm dứt, tình yêu được tái sinh... vâng, cây mọc trong biển, núi dời chỗ. Những ngọn núi của sự sợ hãi, ích kỷ và đê tiện. Thế giới đang khủng hoảng! Giáo Hội đang khủng hoảng? Chỉ cần một chút Đức tin... Gia đình đang khủng hoảng! Học đường đang khủng hoảng. Kinh tế đang khủng hoảng? Sự chết chiến thắng, thập giá trống rỗng và trần trụi, nhưng mộ Người trống rỗng, mở ra và Người đứng đó, bên kia biển! Và “cây cối nhảy múa vui mừng” (Thánh Vịnh 95).
Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: ‘Mau vào ăn cơm đi’, chứ không bảo: ‘Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau
Trước tiên chúng ta cứ để cho mình công phẫn vì sự nghiêm khắc đó. Dĩ nhiên hoàn cảnh của nô lệ ở Palestine vào thời Đức Giêsu ít khắc nghiệt hơn ở trong thế giới La Hy vào thời của Thánh Luca nơi mà một hoàn cảnh lệ thuộc của những nô lệ thật bi đát đến nỗi chúng ta khó mà tưởng tượng tình hình đó lại phổ biến như thế. Người nô lệ là “vật sở hữu” của ông chủ mà ông chủ không phải trả lương, cũng không biết ơn.
Cần phải nói thêm rằng chúng ta không có quyền dựa vào những lời nào đó của Đức Giêsu để biện minh cho những thái độ chống đối lại xã hội ngày hôm nay. Những đoạn Tin Mừng biện hộ cho tình yêu thương, sự chia sẻ, sự tôn trọng người khác có quá đủ.
Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?
Lạy Chúa, phải đấy. Phải biết ơn. Chúa cũng biết vậy mà: Nhưng Chúa có ý đinh nói với chúng con một chân lý rất quan trọng và để nói với chúng con điều ấy, Chúa dùng những hình ảnh nghịch lý hầu như khó bênh vực được theo những chuẩn mực của con người như chúng con.
Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm
Lạy Chúa, Chúa muốn nói về điểm này. Vấn đề không phải là một bài học về các quan hệ xã hội! mà là một bài học về các quan hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa: Đức Giêsu là con người hướng về Thiên Chúa hoàn toàn và triệt để Người phá bỏ những thói tự phụ nực cười của chúng ta. Người đặt mọi vật trở về vị trí chân thật của chúng ta. Lừa phỉnh mình làm gì cho vô ích. Thiên Chúa là tất cả. Tôi không là gì cả trước mặt Người.
Hơn bao giờ hết, ngày hôm nay chúng ta phải lắng nghe sự thật hiển nhiên đó. Thiên Chúa là “ông chủ”! Hình ảnh này khắc khổ nhưng chân chính và chúng ta không nên đặt nó đối lập với nhiều hình ảnh khác qua đó Đức Giêsu nói về Thiên Chúa như một “người cha”, một “người chồng”, kể cả một “người phục vụ”: “Chủ nhà sẽ làm gì? Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ “ (Lc 12,37). Chúng ta phải chấp nhận những mâu thuẫn bên ngoài đó.
Vâng, lạy Chúa, con chấp nhận đặt mình trước mặt Chúa như một người đầy tớ hoàn toàn nhỏ bé, chăm lo thực hiện với lòng trung tín tất cả những gì mà Chúa đã truyền cho con. Như Đức Maria, như biết bao vị thánh sẵn sàng để “phục vụ”. Thánh nữ Jeanne d’Arc đã nói: “Phải phục vụ Thiên Chúa trước tiên”. Đức Maria đã nói: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa”.
Hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi
Trước khi yêu cầu chúng ta, Đức Giêsu đã sống điều đó: Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa nhưng mặc lấy thân nô lệ vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl. 2,6).
Những người Pharisêu sau cùng đã tưởng rằng họ đáng hưởng thiên đàng bới những công phúc của họ: Có qua có lại mà. Vả lại Thiên Chúa là Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng không tính công để trả lại cho chúng ta, Đấng mà không một ai có thể sai khiến. Tự phụ rằng mình có một quyền năng đủ là ma thuật hay không là ở trước mặt một “thần tượng” chứ không phải trước mặt Thiên Chúa.
Thái độ chân thật duy nhất trước Thiên Chúa là tuyệt đối không đòi tính công, là hoàn toàn vô tư. Trở thành người đầy tớ theo cách của Đức Giêsu không phải là nhục nhã: Phục vụ, chính là thống trị!
1. Với đức tin, có thể làm được những việc không ai nghĩ tới.
Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu vừa mới giảng cho các môn đệ về đởi sống huynh đệ:: TN 27-C49
Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu vừa mới giảng cho các môn đệ về đởi sống huynh đệ: Người nói đến cớ vấp ngã cho những anh em yếu đuối (l7, 1-4), đến sự tha thứ lỗi lầm. Là những người gánh trách nhiệm của cộng đoàn, “các tông đồ” trăn trở về cách thế để thực hiện đời sống huynh đệ này, nên các ông cầu xin: “Xin thêm lòng tin cho chúng con”.
Như thường lệ, Đức Giêsu không trực tiếp trả lời, mà sử dụng một hình ảnh dường như không thể có - hình ảnh cây dâu vâng theo lời truyền của kẻ có lòng tin tự bật rễ, xuống dưới biển mà mọc. Người xác quyết rằng đức tin, “dù nhỏ bé bằng hạt cải”, cũng đủ để thực hiện việc coi như không có thể. H. Cousin giải thích: Hình ảnh ngộ nghĩnh về ‘cây dâu vâng lời’, là đi mọc dưới biển, có nói đức tin có thể làm được những việc không ai làm được. Tác giả còn nêu rõ: đã hẳn cần phải hiểu đức tin là việc con người đáp lại sáng kiến của Thiên Chúa, chứ không phải là cách phù phép nào đó bắt ép Chúa phải thực hiện những điều kỳ diệu (“L’Evangile de Luc”, Centurion, trg 226).
2. Là những đầy tớ cần thiết, nhưng vô dụng.
Dụ ngôn sau đó nói tiếp bài học về đức tin và đặt ưu tiên cho sáng kiến của Thiên Chúa. Trong một bài viết, đăng ở tạp chí Kinh Thánh số tháng 4, 1992, Pierre Houzet nêu lên rằng: dịch thuộc từ chỉ phàm chất người đầy tớ là “vô dụng” hay “tầm thường” như trong sách Bài đọc, dịch như thế là sai và hạ thấp giá trị của nó. Nên thay thế bằng từ “bình thường”: những đầy tớ bình thường”.
Phải cảm ơn Pierre Houzet đã lưu ý chúng ta trong bài viết rất sáng sủa của ông. Ông còn trình bày lại cách Đức Giêsu lập luận để đáp lời cầu xin của các tông đồ như sau. “Nếu với đức tin yếu kém đáng phàn nàn, mà anh em còn có thể làm được diều coi như không có thể, (thì càng có lý tin rằng: cũng với đức tin yếu kém ấy) anh em cũng có thể chu toàn ơn gọi làm đầy tớ của mình bằng cách cảm thấp hài lòng trong khi thi hành chức vụ, mà không cần ông chủ phải bày tỏ lòng ưu ái đạc biệt”. Rồi tác giả kết luận: “Chúng ta là những đầy tớ bình thường, sung sướng được thi hành chức vụ và hạnh phúc được chu toàn chức vụ ấy, dưới ánh mắt của Chúa, mà vinh quang của Người không đòi hỏi điều gì nơi ta ở trên trời, nhưng chỉ muốn con người ở dưới thế lấy việc phục vụ nhau mà ca tụng vinh quang ấy” (Sđd. trg 364 và 372).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Đức tin, cái nhìn mới sức mạnh mới
(“Dieu a visité son peuple” DDB, trg 128).
“Xin thêm lòng tin cho chúng con”. Thánh sử Luca thuật lại khá dài những giáo huấn của Đức Giêsu liên quan đến mọi phương diện của đời sống mới, mà Người muốn đưa ta vào.
Người mở cho ta thấy thực tại của một thế giới khác, mặt trái của các sự vật, mà mắt người phàm không thể thấy được. Đức tin mở cánh cửa của thế giới mới ấy, thế giới của Thiên Chúa. Đức tin trở nên nguồn sức mạnh khiến cho kẻ có lòng tin thực hiện được điều không có thể đối với sức người phàm. “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, dù anh em có bảo cây sung này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em“. Đức tin làm nẩy sinh hoa quả của Nước Trời. Đức tin là cái nhìn mới và sức mạnh mới. Chúng ta thường đóng khung trong giới hạn sự khôn ngoan và trong khả năng quá ư phàm trần của ta. Giống như các tông đồ, ta cần phải không ngừng van xin: “Xin thêm lòng tin cho chúng con”.
2. “Một cọng cỏ dại”
(B. Bessière trong “Dieu si proche”, DDB, trg 155-156).
Tôi biết một người nhờ một cọng cỏ mà sống. Tai họa đã dồn dập đổ trên người ấy, mọi sự chỉ là đen tối, nhiều phen người ấy muốn kết liễu đời mình cho xong.
Đang lê bước chân vô định trên lề đường, cô chợt trông thấy, một cọng cỏ vươn lên trong kẽ nứt lề bê tông. Sự sống, nhỏ nhoi, xanh tươi, mạnh mẽ hơn cả tấm “thảm” bằng xi măng nặng phịch đang ra dấu cho cô. Cô lấy lại can đảm để đương đầu với những năm tháng lê thê đầy khó khăn. Hỏi rằng trong số nhan nhản những người qua đường, có bao nhiêu người đã trông thấy cọng cỏ ấy. Chắc hẳn chỉ có cô là người duy nhất nhận ra sứ điệp. Lời tâm sự khiêm tốn này luôn khích lệ tôi. Tôi luôn chăm chú nhìn trên lề đường và trên những bức tường, công trình can đảm của cây cỏ. Và trong cuộc sống con người, tôi cũng thích quan tâm đến biết bao sáng kiến nhỏ nhoi bất ngờ. Hạt cải... Đức Giêsu thật là khéo khôi hài. Các tông đồ khổ sở muốn được “thêm” đức tin, muốn đo đếm được nó, muốn cảm thấy nó dư dật theo lòng sốt sắng của các ông. Vậy mà Đức Giêsu lại hướng chú ý của họ vào một hạt giống bé xíu rồi lại đặt nó đối chọi với một cây lớn! “nếu anh em chỉ có đức tin lớn bằng hạt cải thì dù anh em bảo cây to kia. Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó sẽ vâng lời anh em”. Cọng cỏ và nền bê tông, Đavít và Goliát, cùng bà Sara cao niên hiếm muộn mà sinh đẻ trong nụ cười...
Đức Giêsu thường nói về cái hạt giống bé nhỏ, được gieo vào các loại đất khác nhau, xem như bị chết héo nhưng vẫn sinh hoa kết trái. Như vậy, Thiên Chúa gieo vung vãi, giống như một đứa trẻ đùa nghịch, và người mời gọi ta hãy đón nhận để rồi lại đi gieo nhưng không. Đức tin, là một giọt nhựa trong cây, một hạt giống vô hình, một ngọn lửa âm ỉ trong ánh mắt. Nhưng đủ để thay đổi cả cuộc đời, để chuyển núi dời non. Tin thiết tưởng là chấp nhận một sự bất cân xứng không thể tưởng tượng nổi giữa sự ù lì của con người và năng lực siêu phàm của Thiên Chúa vốn mời gọi ta biến đổi tất cả, mời gọi ta hãy sáng tạo dù không ai nhận ra. Hãy làm như Chúa. Có lẽ các bạn sẽ cười nhạo tính ngây thơ của tôi, vì tôi chỉ trông thấy những thuận lợi. Nhưng xin các bạn hãy để ý coi... Có biết bao người, nam cũng như nữ, đang làm như Thiên Chúa. Họ ở khắp mặt đất. Thế mà nhiều người có hay biết đâu.
Nếu bạn nói cho họ biết điều ấy, họ sẽ hết sức ngạc nhiên và chính họ sẽ đơn giản đáp rằng: “Chúng tôi chỉ làm việc bổn phận của chúng tôi. Việc phục vụ là hoàn toàn nhưng không”.
· Kb 1,2-3.2,2-4: (4) Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình.
· 2Tm 1,6-8.13-14: (7) Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ. · TIN MỪNG: Lc 17,5-10
Sức mạnh của lòng tin
(5) Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: «Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con». (6) Chúa đáp: «Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc”, nó cũng sẽ vâng lời anh em».
Phục vụ cách khiêm tốn
(7) «Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: “Mau vào ăn cơm đi”, (8) chứ không bảo: “Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau!”? (9) Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao? (10) Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Một Kitô hữu tuyên xưng rất mạnh mẽ một tín điều nào đó, rao giảng rất hùng hồn tín điều: TN 27-C50
1. Một Kitô hữu tuyên xưng rất mạnh mẽ một tín điều nào đó, rao giảng rất hùng hồn tín điều ấy, ta có thể dựa vào đó để đoan chắc rằng người ấy tin vững mạnh tín điều ấy chăng?
2. Đức tin đích thực là gì? Dựa vào những sự kiện gì để có thể biết được ta có đức tin đích thực hay không? Phải dựa vào những điều ta nói, ta tuyên xưng, ta rao giảng, hay vào những việc làm thực tế của ta?
3. Đức Giêsu nói: «Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc”, nó cũng sẽ vâng lời anh em». Ngài nói thật hay nói đùa vậy?
Suy tư gợi ý:
1. Đức tin cần thiết cho đời sống
Nói đến đức tin, rất nhiều Kitô hữu nghĩ đến một số những tín điều mình đang chấp nhận là đúng. Đức tin thật sự không phải là kết quả của việc chấp nhận xuông một số tín điều nào đó là đúng, hoặc là tuyên xưng những tín điều ấy ra một cách thật mạnh mẽ, rao giảng những tín điều ấy thật hùng hồn, như rất nhiều Kitô hữu đang làm. Rất nhiều Kitô hữu có thứ đức tin kiểu ấy. Nhưng đó không phải là đức tin đích thực. Đức tin đích thật phải là một lực mạnh mẽ từ nội tâm, thúc đẩy người tin phải hành động, bất chấp hy sinh hay đau khổ. Thánh Giacôbê nói: «Đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2,26). Nghĩa là đức tin đích thực thì tự nó phải hướng đến việc làm, nếu không có việc làm thì đó chỉ là thứ đức tin giả hiệu. Nhiều người tưởng mình có đức tin, nhưng thật ra đức tin của họ là đồ giả, vì nó chẳng đem lại một lợi ích thực tế nào cho đời sống của họ. Nghĩa là chẳng làm họ hạnh phúc hơn, mạnh mẽ hơn, yêu thương tha nhân hơn… Nếu có đức tin hay không có đức tin, đời sống của ta cũng chẳng thay đổi bao nhiêu, thì thứ đức tin ấy chỉ là đức tin giả hiệu ấy. Nếu ta có đức tin đích thực, đức tin ấy sẽ làm đời sống ta thay đổi lớn lao.
Ta thử tưởng tượng một anh chàng chuyên môn ăn trộm. Khi có người nói cho anh biết gần nhà anh có một người rất giàu có với một gia tài kếch xù, và gia tài ấy đang được để trong một cái tủ chắc chắn trong nhà người ấy. Anh trộm ấy sẽ không hành động gì nếu anh cho rằng thông tin đó chỉ xác thực được 30, 40%. Nhưng nếu anh biết nguồn tin đó là xác thực, có thể đúng tới 80, 90%, thì anh bắt đầu ăn ngủ không yên. Lòng trí của anh không thể không tính toán xem có cách nào chiếm đoạt được kho tàng ấy. Và sau khi suy nghĩ ra kế hoạch an toàn nhất để xâm nhập nhà đó, anh ta không thể không hành động. Chắc chắn anh ta phải thực hiện dự tính của mình. – Cũng thế, chúng ta không thể không hành động nếu chúng ta có đức tin thật sự.
2. Tác dụng của đức tin đích thực
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cho thấy hiệu lực rõ rệt của đức tin đích thực. Nếu là đức tin đích thực, thì dù chỉ là một chút, cũng có tác dụng to lớn: «Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc”, nó cũng sẽ vâng lời anh em» (Lc 17,6). Đương nhiên chúng ta không nên hiểu lời Kinh Thánh này theo nghĩa đen, vì Thánh Kinh hay dùng những hình ảnh cụ thể để diễn tả những thực tại trừu tượng. Câu trên có nghĩa: đức tin đích thực, dù chỉ nhỏ bé, cũng có tác dụng thật sự, khiến người có đức tin có được một năng lực hay sức mạnh tinh thần lớn lao để thực hiện được những việc mình muốn.
Không có đức tin, không cậy dựa vào Thiên Chúa, chúng ta không thể làm được gì, đúng như Đức Giêsu nói: «Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được» (Ga 15,5). Nhưng nếu tin vào Thiên Chúa, ta sẽ có năng lực để làm được tất cả mọi sự, như thánh Phaolô đã từng cảm nghiệm: «Tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13). Vì lúc đó, năng lực mà tôi sử dụng không phải đến từ bản thân bất lực của tôi, mà đến từ Thiên Chúa, nguồn của mọi sức mạnh trong vũ trụ, là Đấng «không có gì là không thể làm được» (Lc 1,37). Lời Chúa rõ ràng như vậy, nên nếu ta không có đủ năng lực, chính là vì ta chưa có đức tin đích thực, mà chỉ có đức tin trên lý thuyết. Nghĩa là ta chỉ chấp nhận là đúng những gì Chúa hay Giáo Hội dạy, và ta chỉ tuyên xưng những điều đó ra ngoài miệng mà thôi, chứ chưa xác tín thật sự từ trong đáy lòng. Chỉ cần một chút thử thách là ta có thể nghi ngờ những điều đó ngay.
3. Những sự kiện trong Kinh Thánh về đức tin
Một vài sự kiện trong Kinh Thánh đáng chúng ta lưu ý suy gẫm:
a. Khi về Nazarét, Đức Giêsu không làm được nhiều phép lạ nào. Tin Mừng Matthêu nêu rõ lý do: «vì họ không tin» (Mt 13,58). Như vậy, điều kiện để phép lạ có thể xảy ra là phải có đức tin.
b. Khi chữa lành bệnh cho ai, Đức Giêsu không nói rằng «Tôi đã cứu anh», mà nói: «Đức tin của anh đã cứu anh» (Mt 9,22; Mc 5,34; Lc 8,48; Lc 17,19). Như vậy, đức tin là yếu tố chủ quan chính yếu nhất để ta được cứu hay làm được chuyện này việc kia.
c. Đức Maria được bà Êlizabét khen: «Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em» (Lc 1,45). Như vậy, điều khiến cho Đức Maria có phúc chính là Mẹ đã dám tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta cũng có phúc nếu chúng ta dám thật sự tin vào Thiên Chúa như Mẹ.
d. Khi Phêrô thấy Đức Giêsu đi trên mặt biển, ông tin rằng ông cũng có thể đi trên mặt biển đến với Ngài, và với niềm tin ấy, ông đã đi trên mặt nước không khác gì đi trên mặt đất. Nhưng khi thấy gió thổi mạnh thì ông đâm ra nghi ngờ, đức tin của ông bị chao đảo. Chính vì thế ông bị chìm xuống (x. Mt 14,22-33). Điều đó cho thấy việc Phêrô đi được trên mặt nước hay bị chìm xuống là do đức tin của ông có mạnh mẽ hay không. Trường hợp này có thể nói: ông đi trên đức tin của ông, hay đức tin của ông chính là mặt đất nâng đỡ bước chân ông đi, cũng như nâng đỡ toàn bộ cuộc đời ông. Cũng vậy, khi đức tin ta vững vàng, đời sống nội tâm của ta luôn luôn an bình hạnh phúc bất chấp nghịch cảnh. Nhưng khi đức tin của ta bị chao đảo, đời sống của ta cũng bị chao đảo theo.
Phân tích những sự kiện Kinh Thánh trên, ta thấy: để thành tựu được một phép lạ, phải có hai yếu tố quan trọng: (1) quyền năng của Thiên Chúa và (2) lòng tin của con người vào quyền năng của Ngài. Thiếu một trong hai thì phép lạ không thể thành tựu được. Tuy nhiên, quyền năng của Thiên Chúa thì bao giờ cũng có, lúc nào cũng sẵn sàng tác động, không bao giờ thay đổi hay mất đi. Nên yếu tố thường hằng ấy không cần xét tới nữa. Vấn đề còn lại chỉ là lòng tin của con người. Phép lạ hay điều ta cầu xin Thiên Chúa có xảy ra hay không, hoàn toàn do ta: do ta có thật sự tin vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa hay không.
4. Hãy tự xét xem mình có đức tin đích thực không
Khi nói về đức tin, người Kitô hữu nào cũng đều tưởng rằng mình có đức tin. Nhưng trong thực tế, chỉ cần trải qua một vài thử thách nho nhỏ là ta có thể chứng tỏ mình có đức tin thật sự hay không. Lúc đó, nếu hồi tâm phản tỉnh, nhiều người sẽ khám phá ra mình hành xử chẳng khác gì người không có đức tin. Thông thường, người Kitô hữu nào cũng tuyên xưng mạnh mẽ vào sự quan phòng đầy tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, thậm chí rao giảng rất hùng hồn về niềm tin ấy. Chính vì tuyên xưng và rao giảng như thế, ta cứ ngỡ rằng mình tin rất vững vào sự quan phòng của Ngài. Nhưng khi tình yêu hay lương tâm ta đòi buộc phải hành động, phải hy sinh, phải chấp nhận nguy hiểm, hay khi gặp những giông tố của cuộc đời, bấy giờ ta mới thấy ta lo sợ đủ thứ và hành động y hệt như những kẻ không tin. Ta không dám phó thác vận mệnh của mình trong tay Thiên Chúa để có thể an tâm làm theo đòi hỏi của tình yêu hay lương tâm mình. Lúc ấy ta mới thấy niềm tin của ta rất mong manh, chỉ mong nó lớn «bằng hạt cải» thôi cũng không chắc đã được.
Nếu «ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?» (Nguyễn Công Trứ), thì cũng vậy, nếu không có những thử thách, khó khăn trong cuộc sống, người có đức tin và người không có đức tin chẳng khác nhau bao nhiêu. Nhưng chính trong những thử thách, giống tố của cuộc đời, người có đức tin đích thực sẽ chứng tỏ được đức tin của mình.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin Cha ban đức tin cho con, thứ đức tin thật sự được thể hiện thành hành động; chứ không phải thứ đức tin tuyên xưng hay rao giảng ngoài miệng, là thứ đức tin không đem lại ích lợi gì. Vì như thánh Giacôbê nói: «Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?» (Gc 2,14). Xin ban cho con thứ đức tin đích thực, thứ đức tin quí giá như thánh Phêrô nói: «Đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội» (1Pr 1,7). Xin hãy ban đức tin đích thực cho con nếu con chưa có, hoặc hãy củng cố đức tin của con nếu nó còn non yếu. Joan Nguyễn Chính Kết