Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 17-C Bài 51-100 Anh em cứ xin thì sẽ được --------------------------------------- Phúc Âm: Lc 11, 1-13: "Các ngươi hãy xin thì sẽ được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông". Người nói với các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói: 'Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ'". Và Người còn bảo các ông rằng: "Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: 'Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy'. Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: 'Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được'. Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần. "Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. "Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá, lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy, nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người". - Ðó là lời Chúa. --------------------------------------
Nhà thần bí Hồi Giáo tên là Farid, đến kinh đô Delhi để xin hoàng đế Akbar ban cho dân: TN 17-C51
Nhà thần bí Hồi Giáo tên là Farid, đến kinh đô Delhi để xin hoàng đế Akbar ban cho dân làng một ân huệ. Farid đến cung điện và gặp lúc Akbar đang đắm mình cầu nguyện.
Khi hoàng đế cầu nguyện xong, Farid hỏi: “Nhà vua vừa cầu nguyện như thế nào?”
Nhà vua đáp: “Ta cầu xin Đấng nhân từ ban cho ta sự thành công, giàu có và được sống lâu.
Vừa nghe xong, Farid liền quay lưng lại và bỏ đi. Vừa đi ông vừa nói: “Ta đến gặp một vị vua. Thế mà ta lại gặp một kẻ ăn xin, không khác gì những hạng người khác!”.
Thật vậy, cầu nguyện không chỉ là cầu xin, cũng không phải là bảng liệt kê ước muốn mà cầu nguyện chính là tôn thờ, thống hối, cảm tạ và xin ơn. Trong kinh Lạy Cha, Chúa dạy chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay bao gồm bốn tâm tình đó.
Chúng ta thờ phượng, ca ngợi, tôn vinh Chúa trong câu đầu tiên: “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến” (Lc 11,2).
Sau đó chúng ta bày tỏ tâm tình thống hối bằng lời xin lỗi: “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” (Lc 11,4).
Rồi chúng ta cảm tạ Chúa ngay trong tâm tình thờ phượng, vì khi ca ngợi tôn vinh Chúa thì đồng thời chúng ta cũng mặc nhiên cảm tạ những hồng ân Người ban.
Cuối cùng, tâm tình cầu xin được biểu lộ trong câu: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy” (Lc 11,3), và “xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11,4).
Như thế, Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời, vì đã đặt sự cao trọng, vinh danh, và thánh ý Chúa trên hết, sau đó mới xin cho các nhu cầu của chúng ta, nên rất được Chúa Cha ưa thích.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời, vì chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, còn chúng ta là con cái của Người; chúng ta xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; chúng ta xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa chước cám dỗ ở tương lai, nên chắc chắn sẽ được Chúa Cha đón nhận.
Sau khi đã dạy chúng ta lời kinh tuyệt vời đó, Người còn khuyên chúng ta hãy kiên nhẫn và trông cậy mà cầu nguyện.
* Phải kiên nhẫn trong khi cầu nguyện là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy tình nhân ái.
* Phải trông cậy trong khi cầu nguyện vì Chúa đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Mẹ Têrêxa Calcutta đã chia sẻ kinh nghiệm này như sau: “Chúng tôi có hơn một ngàn tu sĩ, và còn phải nuôi ăn hàng chục ngàn người. Thế mà, chưa bao giờ chúng tôi phải từ chối bất cứ một ai đến xin giúp đỡ. Chúa luôn can thiệp kịp thời để cho chúng tôi thấy rằng Người không bao giờ làm ngơ trước lời cầu nguyện của chúng ta”.
Lạy Chúa, xin nhắc chúng con siêng năng dùng Kinh Lạy Cha mà cầu nguyện với Cha trên trời. Nhất là xin Chúa mở rộng tâm hồn hẹp hòi ích kỷ của chúng con, để biết cầu nguyện cho các nhà truyền giáo, những người nghèo khổ, những kẻ tội lỗi và những người thân yêu của chúng con. Amen.
Đối với thánh Luca, Kinh Lạy Cha phát xuất từ việc các môn đệ nhìn Chúa Giêsu cầu nguyện: TN 17-C52
Đối với thánh Luca, Kinh Lạy Cha phát xuất từ việc các môn đệ nhìn Chúa Giêsu cầu nguyện: “Khi Ngài cầu nguyện xong, một trong các môn đệ thưa Ngài: Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện”.
Theo chiều hướng đó, chúng ta có thể tái khám phá Kinh Lạy Cha trong bài suy niệm này, bằng cách xem Chúa Giêsu cầu nguyện như thế nào, bằng cách kết hợp với nhiệt tình bên trong hướng về Chúa Cha của Ngài, bằng cách tiếp nhận mỗi lời nói từ chính Chúa Giêsu.
“Lạy Cha chúng con”
Chúa Giêsu, ngay từ những lời nói đầu tiên, “Lạy Cha chúng con”, Cha đã kéo con ra khỏi sự co cụm lại, Cha nhắc nhở con rằng mọi kinh nguyện mở con hướng ra hai thế giới. Trong khi tìm cách tiếp xúc với Cha, con đi vào trong mầu nhiệm Ba Ngôi. Trong khi nói “chúng con”, con cầu nguyện cùng với các anh em và cho các anh em của con.
“Lạy Cha chúng con ở trên trời”
Lạy Cha, Cha ở khắp mọi nơi, nhưng là ở trong một thế giới khác với thế giới hữu hình của chúng con, không phải ở bên trên, cũng không phải ở bên cạnh, ở một nơi mà con không nhận thấy. Cha ở rất xa khi con suy nghĩ bình thường, và rất gần khi con lắng nghe Chúa Giêsu: “Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9). Lạy Cha, Cha “ở trên trời”, nhưng Cha đúng là Cha chúng con. Con sống trong sự hiện diện của Cha, và Chúa Giêsu nói với con rằng đây là một sự hiện diện tình yêu. Con ở trong Cha và Cha ở trong con. “Nếu ai yêu mến Thầy Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến ở cùng người ấy” (Ga 14,23). Con hiểu điều này khi con nói với Cha: Lạy Cha.
“Xin cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện”.
Danh Cha, chính là Cha. Con muốn tất cả mọi người đều biết Cha. Con muốn họ biết Ngài thánh thiện đến độ nào và Cha là Cha. Con muốn họ có thể phân biệt được hành động, công bằng và vinh quang của Cha. Con muốn cuộc sống của con nói lên danh Cha.
Nước Cha, chỉ có Cha mới có thể thể hiện Nước đó một cách hoàn toàn cùng với những cuộc đời của chúng con khi các cuộc đời này không nổi loạn, đãng trí cũng như gò bó. Xin hãy mở rộng các tư tưởng của chúng con cho đến thời cánh chung khi chúng con sẽ là dân chúng đông đảo của Cha. Xin hãy làm cho Nước của Cha đến qua điều mà con người trên thế giới đang sống. Điều đó là máu và nước mắt, những nỗi thất vọng, những niềm vui, những hoạt động công bằng và những chuyện tình đẹp. Xin cho máy truyền hình, nếu con biết xem cho tốt, luôn luôn đổi mới sự lo lắng của con về Nước Trời và kinh nguyện của con về Nước Trời.
Con không muốn nói với Cha “xin cho ý Cha thể hiện” vì một sự cam chịu đơn giản, con muốn đi vào trong ý muốn của Cha càng tích cực càng tốt bởi vì con biết rằng điều Cha muốn là thánh thiện, công bằng và đầy tình yêu thương.
Nhưng đôi khi tất cả đều đen tối đối với chúng con. Xin cho đừng có chén đắng!... Tuy vậy, nếu phải uống chén đắng, xin cho chúng con có thể hợp với ý của Cha nhiều nhất.
“Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
Xin hãy cho chúng con điều cần thiết để sống một cách mãnh liệt ngày hôm nay. Không phải hôm qua cũng không phải ngày mai, nhưng bây giờ đây. Mỗi lần con xin Cha lương thực ngày hôm nay, hãy đặt con lại trong hiện tại, trong điều mà con phải sống. Xin tách con ra khỏi những lo lắng làm con xa Cha. Con không thể nói với Cha là Cha nếu con không tin rằng Cha muốn ban cho con điều gì đó để sống ngày hôm nay.
“Xin tha tội chúng con như chúng con cũng tha”
Cho đến Kinh Lạy Cha cuối cùng của con con sẽ còn xin Cha tha thứ. Con sẽ luôn luôn có những sai lầm với Cha, con biết, nhưng nhờ Chúa Giêsu con sẽ không bao giờ nghi ngờ Cha, Cha là người cha của đứa con hoang đàng. Nhưng xin cho con không quên điều kiện mà nếu không có nó Cha sẽ không thể tha thứ cho con: con phải tha thứ. Không phải tha thứ cho anh em của con nói chung, đây là điều quá dễ. Vào lúc này đây con phải tha thứ cho X… ngay tức thì. Nếu không, tại sao lại đọc Kinh Lạy Cha? Sự tha thứ của Cha không thể được ban cho một tâm lòng đóng kín với chỉ một trong những người anh em của họ. “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” Con không xin Cha cho con được rút lui khỏi cuộc chiến đấu, nhưng để làm vinh danh Cha khi mọi sự trở nên khó khăn. Vào giờ phút tồi tệ, lạy Cha, xin giúp con. Xin giúp chúng con.
Rapbi Do Thái thường dạy môn đệ một bài cầu nguyện đơn sơ. Gioan đã làm như thế cho môn: TN 17-C53
Rapbi Do Thái thường dạy môn đệ một bài cầu nguyện đơn sơ. Gioan đã làm như thế cho môn đệ của ông và bây giờ các môn đệ của Chúa Giêsu cũng đến xin thầy mình dạy cầu nguyện. Đây là bài cầu nguyện Chúa Giêsu dạy, được Luca ghi lại. Bài này ngắn hơn bài của Matthêu nhưng cũng đầy đủ những điều mà chúng ta cần biết phải cầu nguyện thế nào và phải cầu nguyện gì.
1. Nó bắt đầu bằng sự xưng nhận Thiên Chúa là Cha, lời mà mọi Kitô hữu thưa với Chúa (xem Gl 4,6; Rm 8,15; 1Phêrô 1-17). Chính lời đầu tiên này dạy chúng ta rằng, trong khi cầu nguyện, chúng ta không đến với một Đấng phải miễn cưỡng ban ơn cho chúng ta, song đến với một người hằng vui thích thoả mãn mọi nhu cầu của con cái Ngài.
2. Trong tiếng Do Thái, chữ “tên” hay “danh” có ý nghĩa sâu sắc hơn là tên gọi của một người. Chữ “danh” gồm tất cả đặc tính của người mà chúng ta quen biết. Thánh Vịnh 9,10 nói: “Phàm ai biết Danh Ngài sẽ để lòng trông cậy nơi Ngài”. Câu đó có nghĩa sâu hơn chứ không biết tên Thiên Chúa là Giavê. Nó có nghĩa là người nào thấu hiểu điều tư tưởng, ý muốn và tấm lòng của Chúa sẽ vui lòng đặt hết niềm tin cậy vào Ngài.
3. Chúng ta chú ý đặc biệt đến thứ tự các lời cầu nguyện Chúa Giêsu đã dạy. Trước khi xin bất cứ điều gì cho chính mình, chúng ta phải đặt Chúa, sự vinh hiển và tôn trọng Ngài lên hàng đầu. Chỉ sau khi dành cho Chúa chỗ của Ngài, bấy giờ các điều khác mới có chỗ xứng hợp.
4. Bài cầu nguyện bao quát cả cuộc đời.
a. Nó bao trùm các nhu cầu hiện tại. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu xin lương thực cho chúng ta mỗi ngày. Nên nhớ bánh đủ ăn từng ngày là điều chúng ta cầu xin. Điều này nhắc lại câu chuyện xưa về manna trong đồng vắng (Xh 16,11-21). Dân Chúa chỉ được lượm manna đủ ăn trong một ngày mà thôi. Chúng ta đừng lo một tương lai không rõ, nhưng ngày nào lo cho ngày ấy.
b. Nó bao trùm tội lỗi đã qua. Khi cầu nguyện, chúng ta không thể làm gì hơn là xin ơn tha thứ, vì dù con người tốt nhất trong chúng ta cũng chỉ là một tội nhân đến trước Thiên Chúa vô cùng thánh thiện.
c. Nó bao trùm các thử thách trong tương lai. Từ “cám dỗ” trong Tân Ước có nghĩa là bất cứ hoàn cảnh thử thách nào. Nó không chỉ có nghĩa là quyến rũ phạm tội mà còn bao gồm mọi hoàn cảnh khiến con người bị thử thách về đức độ, thanh liêm, lòng tín trung. Chúng ta chỉ có thể thắng nó nhờ ơn Chúa ban.
Có người nói: Bài cầu nguyện của Chúa có hai lợi ích lớn cho giờ cầu nguyện riêng của chúng ta. Nếu chúng ta dùng để bắt đầu giờ cầu nguyện thì nó khơi dậy những ước muốn tốt đẹp giúp chúng ta cầu nguyện một cách xứng đáng. Nếu chúng ta dùng để kết thúc giờ cầu nguyện thì nó tóm tắt mọi điều chúng ta phải cầu xin Chúa.
CẦU XIN THÌ SẼ ĐƯỢC (11, 5-13)
Trong xứ Palestine, khách bộ hành thường lên đường vào buổi chiều hầu tránh cái nóng bức buổi trưa. Trong câu chuyện Chúa Giêsu kể, có một người khách như vậy đã tới nhà bạn mình lúc nửa đêm. Bên phương Đông, tiếp khách là một bổn phận thiêng liêng. Chỉ cho khách ăn vừa đủ no thôi thì không được, cần cho khách ăn dư dật. Trong các làng quê, người ta làm bánh mì tại nhà và chỉ nướng bánh đủ ăn nội trong một ngày, vì nếu giữ lại, bánh sẽ bị cũ đi và không ai muốn ăn.
Vị khách nói trên đã đến muộn quá khiến chủ nhà bối rối, vì thức ăn đã hết, chủ nhà không thể làm tròn bổn phận thiêng liêng là tiếp khách. Và dù đêm đã khuya, chủ nhà cũng đã đi tới nhà bạn vay bánh. Cửa nhà người bạn đã đóng. Bên phương Đông, không ai muốn gõ cửa nhà đã đóng, trừ khi cấp bách lắm. Buổi sáng, cửa nhà được mở ra và cứ mở suốt ngày, nhưng nếu cửa đóng lại, đó là dấu hiệu chủ nhà không muốn bị quấy rầy. Nhưng người đi vay bánh đã không e ngại, ông gõ cửa và cứ gõ mãi.
Căn nhà nghèo ở xứ Palestine chỉ có một căn phòng với cửa sổ nhỏ. Nếu nhà bằng đất phủ che khô và cành khô. Căn phòng chia làm hai phần, không phải bằng vách ngăn mà bằng đất. Hai phần ba phòng thì nền đất thấp, phần ba kia thì nền cao hơn một chút. Trên phần cao đó có bếp than ủ cháy suốt đêm, và cả gia đình nằm ngủ quanh bếp đó, họ không nằm giường cao, nhưng trên những tấm chiếu. Các gia đình thường đông người và nằm cạnh nhau cho ấm. Khi một người thức dậy thì tất nhiên làm phiền cả gia đình. Hơn nữa, tại làng quê, buổi tối người ta đem gia súc, gà, dê vào trong nhà. Không lạ gì, trong cảnh đó, một người đã đi ngủ thì không muốn dậy nữa. Không lạ gì, trong cảnh đó, người vay bánh quyết tâm cứ gõ mãi, “gõ hoài không biết xấu hổ” –đó là ý nghĩa của từ Hy Lạp được dùng- cho tới khi chủ nhà đành dậy để cho người kia mọi nhu cầu, dù sao cả gia đình cũng bị quấy rối.
Chúa Giêsu nói: “Câu chuyện này dạy các ngươi về cầu nguyện”. Bài học trong dụ ngôn này không phải dạy chúng ta cứ mãi mãi nài xin, không phải chúng ta cứ phải đập vào cửa cho đến khi ép buộc được Chúa cực chẳng đã, đành ban cho chúng ta điều chúng ta muốn, cho đến khi chúng ta cưỡng bách được Chúa trả lời chúng ta. Một dụ ngôn nói nôm na là một điều gì đó đặt bên cạnh. Nó cho ta thấy sự tương đồng hay tương phản giữa hai sự việc. Chúa Giêsu ngụ ý như sau: “Nếu một người chủ nhà khó tính và thiếu thiện chí, mà cuối cùng có thể bị cưỡng ép bởi một quyết tâm của người bạn trì chí, để phải cho người đó mọi điều mong muốn, huống chi Chúa là Cha Từ Ái sẽ tiếp trợ mọi nhu cầu cho con cái Ngài hơn biết dường nào!” Chúa Giêsu phán “Nếu các ngươi vốn là xấu mà còn biết mình có bổn phận tiếp trợ nhu cầu cho con cái, huống chi Thiên Chúa”.
Điều này không làm chúng ta giảm bớt hăng say và sốt sắng cầu nguyện. Dù sao chúng ta chỉ có thể tỏ lòng ước muốn thành thực bởi sốt sắng và kiên trì cầu nguyện. Điều đó không có nghĩa là chúng ta phải giành giựt các ơn huệ từ tay một Thiên Chúa không thiện chí, nhưng chúng ta đến với một Đấng biết rõ mọi nhu cầu của chúng ta hơn chính chúng ta và Ngài là Đấng có lòng yêu thương và rộng rãi đối với chúng ta. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, không phải vì Chúa không sẵn lòng ban ơn cho ta, nhưng vì Ngài có ơn phúc tốt hơn để dành cho chúng ta. Không hề có vấn đề mà chúng ta gọi là lời-cầu-nguyện-không-được-nhậm. Sự trả lời của Chúa có thể không đúng theo điều chúng ta ước muốn hoặc trông đợi. Dù Chúa từ chối điều mong muốn của ta, thì đó vẫn là sự trả lời bởi tình thương và khôn ngoan của chính Thiên Chúa là Cha Từ Ái.
Từ lời kinh ngợi khen Chúa Giêsu dâng lên Cha (10,21-22), chương 10 đã minh hoạ, bằng nhiều: TN 17-C54
Từ lời kinh ngợi khen Chúa Giêsu dâng lên Cha (10,21-22), chương 10 đã minh hoạ, bằng nhiều cách khác nhau, thái độ mà người môn đệ phải có đối với Thiên Chúa. Sự kiện Chúa Giêsu cầu nguyện, rất thường được Luca nhắc đến, ở đây được dùng làm điểm xuất phát cho một lời yêu cầu. Giáo huấn Chúa Giêsu ban gồm ba phần: Kinh Lạy Cha, dụ ngôn người bạn quấy rầy và việc áp dụng dụ ngôn.
1. KINH LẠY CHA (11, 1-4)
Đây không phải là vấn đề cầu nguyện nói chung, cũng không phải cách thức cầu nguyện để lắng nghe một Đấng khác. Một môn đệ xin Chúa Giêsu một bản kinh để thêm vào những kinh chính thức của đời sống Do Thái và là lời kinh đặc điểm của nhóm các môn đệ giống như kinh mà chúng ta không biết rõ- vị Tẩy Giả dùng trong nhóm của ông. Ở Qumran, Luật Cộng đoàn của những người Esséniens có một thánh thi dùng cho nghi thức đón nhận những phần tử mới, vào dịp lễ Ngũ tuần (1QS, cột XI, hàng 2-15).
Bản Kinh Lạy Cha mà Luca có được ngắn hơn Mt 6,9-13; Nó gồm một lời khẩn cầu, hai ước mong và ba lời thỉnh nguyện. Trước hết, người môn đệ được mời gọi, được quyền xưng hô với Thiên Chúa bằng cách dùng cũng một ngôn ngữ mà Chúa Giêsu dùng trong lời nguyện của Ngài: “Lạy Cha” (x. 10,21); quan hệ thẳm sâu giữa họ với Chúa phải chăng đã không được mặc khải rồi sao (x.10,22)? Tiếp theo là hai lời ước nguyện cũng có trong kinh nguyện Do Thái Qaddish: sự hiển thánh tôn Danh (xin Thiên Chúa đích thân can thiệp và tự mặc khải như Thiên Chúa cách tỏ tường, xin Ngài tỏ mình ra!) và việc Vương quốc đến (xin Chúa thân hành đến và bày tỏ sự hiện diện cao cả và hoạt động của Ngài!). Dưới hai hình thức khác nhau, cũng một lời khẩn cầu thống thiết được nói lên: “Lạy Cha, xin hãy đến!”; Thiên Chúa là “đối tượng” duy nhất của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa (c.2).
Chỉ trong giai đoạn hai các môn đệ mới nêu lên ba lời thỉnh cầu cho họ, với tư cách là cộng đoàn (việc dùng tiếng chúng con, các câu 3-4). Thỉnh cầu thứ nhất nói đến lương thực cho họ cần hằng ngày để sống trên đời. Ở đây có một ám chỉ về manna, thứ bánh từ trời đã nuôi dân Chúa trong cuộc xuất hành và, theo như sự mong đợi của người Do Thái, sẽ lại được ban làm thực phẩm cho cộng đoàn của thời đại cuối cùng. Trong Tin Mừng Luca, bánh sự sống này, các tín hữu được mời gọi kêu xin cho mỗi ngày. Thỉnh cầu thứ hai, xin Chúa đoái thương tha tội chúng ta! Đó là điều tuyệt đối cần thiết để chúng ta có thể gặp gỡ Chúa đang đến, mà không bị chết ngay vì sự thánh thiện chói sáng của Ngài. Sự tha thứ của Chúa là một hồng ân nhưng không mà chẳng bao giờ có ai xứng đáng lãnh nhận; nhưng ít ra phải có khả năng để đón nhận. Mà từ chối tha thứ cho kẻ khác, phải chăng không là nguy cơ làm cho thiếu khả năng đón nhận được ơn Chúa tha tội? Một lời xin cuối cùng xin cho chúng ta khỏi bị cám dỗ chối bỏ, khước từ Chúa Giêsu Kitô (x. 8,12; 22,40).
Điều đáng ngạc nhiên nhất trong kinh Lạy Cha là: Khi đặt tất cả chú ý về Cha như trung tâm, nó không nói một tiếng về Con mà Cha đã sai đến. Không nói gì đến Chúa Kitô ở đây là một trong những điều có ý nghĩa hơn cả: tránh bỏ hết mọi quan tâm đến bản thân, Chúa Giêsu luôn hướng nhìn về Cha. Chúng ta cũng để ý một sự thinh lặng khác nữa. Trong khi mà lời kinh có tính phổ quát nhất trong các kinh nguyện của người Do Thái, kinh Qaddish, nhắc đến “nhà Israel”, đôi khi “thành Giêrusalem”, “Thánh điện” và “Đất” thánh, thì ở đây không có một ghi chú nào về địa lý. Các nơi Thánh không còn hiện hữu nữa; mọi dân tộc có đọc kinh này.
2. DỤ NGÔN NGƯỜI BẠN QUẤY RẦY (11, 5-8)
Qua dụ ngôn này thánh sử đưa ra ánh sáng một khía cạnh của kinh Lạy Cha: đó là một lời cầu nguyện xin ơn. Mà trong lĩnh vực này, phải biết tỏ ra kiên trì đối với Thiên Chúa, điều này rất quan trọng dưới cặp mắt của Luca, và ông sẽ lặp lại giáo huấn này ở 18,1tt bằng một dụ ngôn khác.
Vấn nạn ban đầu bắt buộc thính giả phải có một phương diện cá nhân, trong khi chính Chúa Giêsu sẽ nói rõ rệt về việc áp dụng dụ ngôn (xc.8). Toàn bộ trình thuật cho thấy rõ những tương quan của con người đối với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Sẽ sai lầm khi tách rời từng yếu tố và, chẳng hạn tưởng tượng rằng lời cầu nguyện của con người thức tỉnh Thiên Chúa hoặc là Thiên Chúa chỉ đáp lại để khỏi bị quấy rầy. Dụ ngôn nói đến ba nhân vật. Anh chàng lì lợm có hai người bạn không quen biết nhau. Nếu anh ta đến gõ cửa nhà một trong hai người vào giữa đêm tối để mượn bánh, có nghĩa là người kia ở xa vừa đến nhà anh ta bất ngờ và xin tạm trú. Người lữ hành này đi đường vào buổi chiều và một phần ban đêm để tránh cái nóng ban ngày. Hãy để ý: anh bạn mà người đang ngủ bị đánh thức dậy muốn đuổi khéo không xin gì cho anh ta cả, và chính anh ta mới là kẻ bị người khác đến bất ngờ gây rắc rối nhất! Anh ta kêu gọi nhân danh tình bạn để được ba ổ bánh, nhưng người kia từ chối giúp đỡ anh ta, không gọi anh ta là”bạn” và không muốn làm cho con cái phải thức giấc. Kết luận của Chúa Giêsu đi từ chính việc từ chối hành động vì tình bạn, hơn một lý do khác khiến người đang ngủ cho điều mà người kia cần: đó là tính cách lì lợm của kẻ đi xin. Sự kiên trì đã được trả giá.
3. ÁP DỤNG DỤ NGÔN (11, 9-13)
Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn một cách long trọng (c.9a) bằng cách mở rộng phạm vi của cầu nguyện kể trong dụ ngôn. Giáo huấn ở đây được lấy từ Nguồn các lời. Ngài mời gọi các môn đệ cầu nguyện (c.8) khởi đi từ một giả định về sự khôn ngoan nhân loại (c.9). “Tìm” là một từ được dùng trong Kinh Thánh để gợi lên sự cầu nguyện (x. Thánh vịnh 24,6; 27,8). Như cách làm của một hiền nhân, Chúa Giêsu gợi lên ba hình thức cầu xin: xin, tìm, gõ rồi kết quả của từng việc đó. Tuy nhiên Ngài không nhấn mạnh đến sự kiên trì của con người nhưng đến hồng ân của Thiên Chúa; ba động từ ở thể thụ động quy chiếu về hành động của Chúa: thì sẽ được ban cho anh em (chứ không phải “anh em sẽ nhận được”) thì sẽ mở cho (hai lần), con người phải tin cậy và Đấng cho và mở.
Hai minh hoạ được đưa ra để biện minh cho một lòng tin cậy như thế (c. 11-12). Như trong dụ ngôn, một câu hỏi hùng biện được dùng để trực tiếp chất vấn thính giả: Người cha nào trong anh em…? Từ liên hệ giữa bạn hữu mà dụ ngôn vừa mô tả Chúa Giêsu nói tới liên kết giữa một người cha với đứa con của ông. Cái lý luận tiên thiên, dẫn từ một cách cư xử mâu thuẫn với cách cư xử của kẻ có ý thức, dựa vào giống nhau bề ngoài giữa con rắn và và con cá, giữa con bò cạp và quả trứng. Và lại không có người cha nào trên đời làm con mình thất vọng khi chơi cái trò dối gạt đó. Phải chăng đó không là kinh nghiệm thường ngày của từng người?
Phải rút ra bài học (c.13) bằng cách giải thích việc so sánh giữa Cha trên trời và một người cha trần thế. Không thể có mức độ giống nhau giữa lòng nhân từ của Thiên Chúa và lòng tốt của cha mẹ trần gian. Như vậy, ta phải kết luận rằng những hồng ân của Ngài vô cùng cao quý hơn. Trong khi Nguồn các lời, mà thánh sử dùng cho các câu 9-13, khẳng định: “Chúa sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7,11), thì hồng ân tối hảo mà Chúa Cha ban cho con cái Ngài được Luca xác định rõ: đấy là Thánh Thần. Thực ra, Chúa Thánh Thần sẽ xuất hiện trong Công vụ, như một hồng ân đặc biệt của việc Thiên Chúa vào thời cuối cùng (Cv 2,33-38).
Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong: TN 17-C55
Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông
Khi nhìn thấy Người cầu nguyện... họ chờ đợi bên Người, và không quấy rầy Người. Phần chúng ta, chúng ta không có cái may mắn nhìn thấy Đức Giêsu đang cầu nguyện. Tuy nhiên chúng ta có thể thử làm cho trí tưởng tượng của chúng ta hoạt động... và, bằng tâm trí, nhìn ngắm Đức Giêsu đang cầu nguyện. Đức Giêsu thường cầu nguyện lâu! Người là “vị thầy của sự cầu nguyện” không chỉ vì Người cho những lời khuyên mà còn vì Người nêu gương cầu nguyện.
Ngày nay, có một sự phục hồi việc cầu nguyện ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, phần lớn con người ngày nay, nam cũng như nữ đều có khó khăn khi cầu nguyện. Vô số những lời phê phán của tâm thức hiện tại ảnh hưởng đến tất cả chúng ta một cách vô thức: cầu nguyện là đào nhiệm; đừng xin Chúa làm thay cho bạn, bạn hãy xắn tay áo mình lên... cầu nguyện là một hành động ma thuật của những người sơ khai không biết những quy luật chính xác của tự nhiên... cầu nguyện là một sự tha hoá; bạn hãy đảm nhận tầm vóc của con người... không Chúa, không Thầy... bạn hãy gạt bỏ những điều mê tín tối tăm...
Lạy Đức Giêsu, xin dạy cho chúng con biết cầu nguyện? Xin dạy cho chúng con biết rằng sự cầu nguyện Kitô giáo không phải là bất cứ sự cầu nguyện nào. Chúng con phải thanh luyện sự cầu nguyện của chúng con và học cách cầu nguyện.
Người bảo các ông: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: “Lạy Cha…”
Dân Do Thái đã gọi Thiên Chúa bằng “Cha” như nhiều tôn giáo khác (Hô sê 11,3; Giêrêmia 3,19; Isaia 63,16; Khôn Ngoan 5,5 v.v...).
Tuy nhiên Đức Giêsu đã đổi mới từ này, khi Người dám thưa cùng Thiên Chúa: “Abba”! “ba ơi”.., từ ngữ chỉ sự thân mật mà trước Người ít khi người ta dùng đến. Chính khi các môn đệ nhận thức được kinh nghiệm độc nhất của Đức Giêsu, họ mới khẳng định Người là “Con Thiên Chúa” trong một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Khi chúng ta lặp lại lời “cầu nguyện của Đức Giêsu, đến lượt mình, chúng ta dám nghĩ rằng “Chúa Cha yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Người yêu mến Con Một của Người” (Gioan 20,17).
Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển...
Trong Kinh Thánh, “danh” là để biểu hiện ngôi vị…Sự “thánh thiện” là điều làm cho Thiên Chúa, bởi sự siêu việt lửa tình yêu và quyền năng, trở thành Đấng Hoàn Toàn Khác (Tha Thể Tuyệt Đối).
Vậy trước khi nói với Thiên Chúa các nhu cầu của chúng ta, chúng ta phải theo Đức Giêsu cầu nguyện tôn vinh chính Chúa Cha. Không có gì là ma thuật, tha hoá trong lời cầu nguyện hoàn toàn vô tư và vô vị lợi này.
“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” có thể được diễn tả bởi: Xin Cha hãy thể hiền sự toàn năng của Cha là lòng nhân hậu vô cùng, tình phụ tử vô biên... xin Cha chỉ cho chúng con biết Cha là Chúa Cha... vô cùng và tuyệt đối là “Cha”... một người Cha hoàn toàn khác chúng con, cha hơn chúng con vô cùng. Nếu người ta có thể đặt vào một tấm lòng tình yêu thương vốn đã tuyệt vời của tất cả các ông bà và bà má của trần gian, thì người ta chỉ có được một phần nhỏ nhoi và thấp kém của Chúa Cha “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3,15).
Triều Đại Cha mau đến...
Lời cầu xin thứ hai hầu như đồng nghĩa với lời cầu xin thứ nhất. Triều đại Cha mau đến. Xin Thiên Chúa hoạt động bên trong mọi tạo vật. Người vốn là Tình Yêu (1 Ga4,7 đến 21) Xin Tình Yêu lên ngôi vua! Xin Tình Yêu ngự trị!
Chủ đề “Triều đại của Thiên Chúa” hiện diện thường xuyên trong Cựu ước! Sử biên niên 16,30-33; Tôbia 13,1, Thánh. Vịnh 21,28-28.,67,33-36-97-102,19; Isaia 11,1-9, - 33,17-24 - 54,7-12; Đanien 8,23): Trong tư tưởng của ít-ra-en các vua trần thế chỉ là các “đại diện”, vương quyền thuộc về một mình Thiên Chúa. Và khi tuân thủ Luật của Thiên Chúa mà ít-ra-en làm cho Thiên Chúa thực sự trị vì.
Vào thời của Đức Giêsu đã từ lâu, không còn vua ở Giêrusalem như vào thời của vua Đavít hoặc Salômôn. Như thế, do sự xâm chiếm của nước ngoài, sự chờ.đợi. Đấng Mêsia đã nổi lên mạnh mẽ và được diễn tả trong kinh cầu Qaddish của người Do Thái: xin làm cho Danh cao cả của Người được thánh hoá trong thế gian mà Người đã tạo dựng theo ý chí của Người, xin Người làm cho Triều Đại Người được hiển trị và sự giải thoát được nẩy mầm, Đấng Mêsia của Người đến gần”.
Đức Giêsu công bố rằng Triều Đại của Thiên Chúa đến rất gần nó đã hình thành ở đó rồi, nhưng không phải một cách huy hoàng... như một ít men, như một hạt giống vùi sâu trong lòng người (Mt 3,2-4-17-10,7 - 13,24-31,36-50).
Vì thế rõ ràng chúng ta không thể thực hiện lời cầu nguyện ấy mà chính chúng ta không làm việc cho triều đại ấy lớn lên trong sự chắc chắn của Ngày cánh chung, ngày mà dự án của Chúa Cha sẽ thể hiện sử thành công trọn vẹn, sự hoàn tất.
Ở đây chúng ta hãy ghi nhận ràng Luca không thuật lại cho chúng ta “Kinh Lạy Cha” được toàn thể Giáo Hội đọc và đó là Kinh Lạy Cha trong Tin Mừng của Mát-thêu. Có lẽ Luca đã rút gọn lại, bỏ bớt hai lời xin (ý Cha thể hiện và... nhưng cứu chúng con khói mọi sự dữ). Không một thánh sử nào quan niệm phải theo sát từng lời của Đức Giêsu mà truyền thống nhận được. Các ngài quan niệm Kinh Lạy Cha như một định hướng tổng quát về sự cầu nguyện hơn là một định thức bất biến. Đức Giêsu không xơ cứng điều gì, không biến điều gì thành nghi thức. Và Giáo Hội, ngay từ những thời kỳ đầu, đã luôn luôn sử dụng nhiều công thức khác nhau trong phụng vụ... trên nền tảng một sự thống nhất chung.
Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy
Trước hết, sau khi đã lấy các “dự án của Chúa Cha” làm dự án của chúng ta giờ đây chúng ta có thể trình bày những ước muốn của chúng ta. Đức Giêsu gợi ý cho chúng ta ba điều: lương thực... sự tha thứ... sự tự do đối diện với cái chết...
Ở đây cũng vậy, Luca đã thay đổi bản văn của Mát-thêu. Vị thánh sử này nói: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Luca có lẽ sống với một cộng đoàn Kitô hữu quá nghèo khổ nên đã thêm vào một sắc thái, và nhấn mạnh: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy... “ Lời cầu nguyện này rất khiêm nhường, mặc dù không có về gì nhưng đã cáo giác tâm thức của những Người giàu có chúng ta. Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh để chúng ta không nên lo lắng quá về ngày mai (Lc 12,22-32; Mt 6,34). Trong cuộc xuất hành qua sa mạc, dân Chúa không thể tích trữ lương thực man-na trước cho nhiều ngày (Xh 16,4). Từ ngữ Hy Lạp “épiousios” mà người ta đã dịch là '“mà chúng con cần” chỉ được dùng ở đây trong toàn bộ Kính Thánh. Nó nhắc đến một từ Do Thái, cũng hiếm khi gặp, được dùng trong sách Châm ngôn: 30,8: “Xin đừng để con nghèo túng, cũng đừng cho con giàu có; xin cho con cơm bánh cần dùng!”.
Lời cầu nguyện này khó thực hiện trong những xã hội dư thừa của chúng ta.
Lời cầu nguyện này là của mọi người chỉ sống ngày qua ngày. Nhưng từ “chúng con” mà chúng ta đọc, tiếp nối Đức Giêsu, rõ ràng phải buộc chúng ta bao gồm trong kinh nguyện này mọi người đang thiếu thốn lương thực mỗi ngày. Tôi không có quyền đọc “Kinh Lạy Cha” chỉ cho tôi: Xin Cha cho chúng con lương thực... Và nếu lời cầu nguyện của tôi chân thật, thì nó phải khiến tôi chia sẻ lương thực với những người đang đói.
Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con
So với công thức của Mát-thêu, Luca đã xác định từ “lỗi” khi dịch ra bang từ “tội”: Thật vậy, vì tội là trở ngại lớn nhất cho Triều Đại của Thiên Chúa cũng như cho sự chia sẻ lương thực trong tình huynh đệ? Hơn thế nữa, Luca đã thêm từ “tất cả”, để chỉ sự phổ quát của sự tha thứ ấy mà chúng ta thực hiện với những người khác nếu chính chúng ta muốn được Thiên Chúa tha thứ.
Ôi! sự tha thứ ấy là điều chủ yếu của các Kitô hữu vì Đức Giêsu thường xuyên nói về điều đó (Lc 23,34 - 6,36; Mt 11,19-26,28 - 6,14-18 - 22~5; Mc 1.1.,25; Gc 2,13). Niềm vui mà Thiên Chúa cảm thấy khi tha thứ cho kẻ tội lỗi như thế phải trở thành viên đá thử vàng mọi hành động của Kitô hữu. Một cô bé đã nói với thầy dạy giáo lý của cô: Một Kitô hữu chính là một người tha thứ. Trước khi đi xa hơn trong kinh nguyện của tôi... tôi dừng lại một chốc để tôi thật lòng tha thứ cho “tất cả những người đã có lỗi với tôi”. Và chúng ta đừng bao giờ nói rằng sự cầu nguyện là ma thuật, vụ lợi, đào nhiệm. Đúng ra nó là một sự dấn thân quảng đại, một yêu sách phi thường, gần như siêu phàm.
Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ
Nhiều nhà chú giải nghĩ rằng đây là sự cám dỗ lớn! Cơn cám dỗ rất đáng sợ ấy: là “đánh mất Đức tin”, “bỏ rời Đức Giêsu”. Thử thách to lớn ấy đã khiến Đức Giêsu phải nói: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8). Trong khi kể lại cơn hấp hối của Đức Giêsu trong vườn Ghếtsêmani, Tin Mừng của Luca đã hai lần nhắc lại lời Đức Giêsu khuyến cáo các bạn hữu của Người (22,40 và 22,46): Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dữ… Phải, cơn cám dỗ lớn nhất chính là bỏ rơi Đức Giêsu trong dụ ngôn người gieo hạt giống, Đức Giêsu nhắc chúng ta phải cảnh giác: Có những người, tin trong một thời gian nào đó và đến giờ thử thách, và bị cám dỗ, họ đã chồi bỏ đức tin (Lc 8,13) Vậy mỗi ngày chúng ta phải chiến đấu chống lại sự ác, để chinh phục tự do... và khiêm nhường xin Chúa ban cho ân sủng không bị “khuất phục”, bị trói buộc và tha hoá!
Người còn nói với các ông: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: `Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả'; mà người kia từ trong nhà lại đáp: `Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được.'? Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó. “Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”
Đây là kho tàng duy nhất mà chúng ta phải xin Thiên Chúa: Thần Khí của Người!
Khác hẳn với cô Matta, Maria nhận ra rằng phải có những khoảnh khắc đặc biệt dành riêng để: TN 17-C56
Khác hẳn với cô Matta, Maria nhận ra rằng phải có những khoảnh khắc đặc biệt dành riêng để lắng nghe Chúa nói và thân thưa với Ngài. Đó là thời giờ cầu nguyện. Ở đây, ta thấy Đức Giêsu giảng giải cách thực hành về chủ đề ấy.
Trong Tin mừng theo Th. Mathêu, chủ đề ấy đặt liền với bài giảng trên núi; Thực tế chúng ta không biết Chúa đã dạy kinh Lạy Cha vào lúc nào, nhưng điểm đó không quan trọng cho lắm, điểm cốt yếu chắc hẳn phải là chính nội dung nòng cốt của Kinh Lạy Cha.
Kinh Lạy Cha được Thánh Luca ghi lại đơn giản, vắn tắt hơn nơi Th. Mathêu. Nơi Thánh Luca, lời cầu xin thứ ba và thứ bảy không có. Dĩ nhiên thánh ký phải nhận rằng, khi hoàn tất cả hai phần của kinh đó, thì hai lời cầu xin bị bỏ kia đều ngậm thực sự trong những lời cầu xin trên. Khi ghi lại kinh lạy Cha, thánh sử cố tìm sự đơn giản tối đa; nên chúng ta càng phải tìm hiểu những ý tưởng cô đọng ấy, những ý tưởng tập trung, ẩn tàng dưới vẻ ngắn gọn của những lời cầu xin này.
‘Chúng con nguyện danh Cha cả sáng’.
Đây không phải là một yêu sách, một quyết ý mà chỉ là một lời cầu xin. Thiên Chúa phải làm cho danh Ngài cả sáng tức là làm cho loài người nhận rõ sự thánh thiện của Ngài hơn nữa và khiến cho sự thánh thiện ấy chiếu tỏ rạng ngời.
Mọi cái thuộc về nhân loại và trần thế phải được Thiên Chúa chiếu sáng. Vĩnh cửu soi rọi cho tạm bợ, hằng hữu cho mau qua, bất biến thay cho biến đổi. Trời cao sẽ thống trị trái đất, tuyệt đối sẽ làm chủ tương đối, tất yếu sẽ đứng trên bất tất, con người tự do thay cho phận nô lệ, thánh nhân thế chỗ tội nhân, người thanh sạch thế kẻ nhơ uế, người được thương xót thế tội phạm; nhất là những gì còn bấp bênh và không bền vững sẽ được thay thế bằng cái kiên vững tối hảo, những gì là bất an sẽ được thay thế bằng bình an rất mực, hạn hữu sẽ được thay thế bằng vô biên.
Danh Ngài và qua Danh Ngài là chính Ngài tỏ hiện rõ ràng nơi Đức Giêsu Kitô. Chúa Con là mặc khải của Chúa Cha. Danh tánh Đức Giêsu có nghĩa là: Đức-Giavê là nguồn cứu độ. Như thế có nghĩa: nhờ Đức Giêsu, danh Thiên Chúa cứu độ và thánh hoá được loan truyền.
Thiên Chúa là Đức Chúa. Đức Giêsu nhận biết điều ấy trong một cuộc đời luôn vâng phục hoàn toàn, vâng phục Ngài như bậc Thầy Tối cao và lại công bố như thế cho loài người tệ bạc. Đức Giêsu đã sống trong tình yêu Cha mình và đã chứng tỏ cho mọi người biết Thiên Chúa là tình yêu.
Do đó, lời cầu xin ‘cho Danh Cha được hiển thánh’ trên môi Ngài phải có một âm vang đặc biệt.
‘Nước Cha trị đến’. Theo Thánh Luca, lời nguyện xin này hàm ẩn cả lời nguyện xin thứ ba: ‘Ý Cha được thể hiện’. Như vậy, Nước Cha được hình dung là vương quyền tối cao của Thiên Chúa; nên ý Cha phải được thể hiện khắp mọi nơi, vì ý Cha là khôn ngoan và yêu thương. Nơi nào ý Cha chủ trị, thị mọi sự đều ổn thoả theo sự khôn ngoan Ngài và tràn ngập tình yêu Ngài.
Đó là một vương quốc hoà bình, vì hoà bình chẳng qua là yên hàn trong trật tự. Và đó là một vương quốc tình thương vì quyền uy và thế lực tối cao không phải chiếm được bằng bạo lực nhưng là bằng sự nhận biết cách vui vẻ. Mỗi một việc phục vụ –khi nhắm phục vụ Thiên Chúa- đều hoàn thành với sự tự do vương giả.
Và theo lối nói xưa của sách Khải Huyền, tất cả những ai thuộc về vương quốc của Thiên Chúa, đều là những vị hoàng vương tư tế, những vị tư tế (hoàng vương).
Nước Thiên Chúa là ước mơ cao nhất của nhân loại, là sự thể hiện mọi lý tưởng, vượt quá mọi thế lực chính trị, xã hội và Kinh tế. Nhưng sự hiểu thánh danh Thiên Chúa cách trọn vẹn và việc thiết lập vững bền Nước Thiên Chúa là những giá trị có tính cách cánh chung. Những giá trị này chỉ thành toàn khi Chúa lại đến, khi bản tính Thiên Chúa tỏ hiện rõ ràng trong vinh quang Ngài và khi Nước Thiên Chúa đạt đến sự viên mãn.
‘Xin cho chúng con lương thực hằng ngày’. Giữa hai lời nguyện xin về bản tính ‘siêu nhiên’ của chính Bản thể Thiên Chúa về nước Thiên Chúa và hai lời nguyện xin sau nói về ‘hạ nhiên’ (infra naturel) (tội và cám dỗ), là một lời cầu xin về lương thực xét trên bình diện hoàn toàn có tính cách phàm nhân. Bánh được coi là thứ lương thực hàng đầu trong số những thực phẩm trần thế. Con người, vì là Con Thiên Chúa, không thể bị cơn đói dằn vặt và cũng không được sống trong sự quá dư thừa. Do đó cũng cần phải xin Cha cho được lương thực cần thiết mỗi ngày. Một khi con người cứ phải đương đầu với cơn đói, thì hẳn là chẳng còn hơi sức đâu, thời gian nào để nghĩ tưởng đến những thực tại trên cao.
Con người có thể liều mình sa vào hố thất vọng và có nguy cơ tráo trở với Thiên Chúa. Nhưng nếu con người đắm chìm trong của ăn thức uống, thì cái bản ngã tuyệt hảo của hắn sẽ chết ngạt trong chủ nghĩa tôn thờ vật chất. Con người sẽ héo hắt vì thiếu của ăn áo mặc, đang khi đó sự dư thừa lại cản ngăn con người sống tự do về mặt thiêng liêng. Giữa hai thái cực đói kém và dư thừa, một chỗ đứng thích hợp nhất phải là sự điều hoà cân xứng và chỉ có như vậy, con người mới có thể sống đạo đức được.
Đó là lý do tại sao lại có lời nguyện xin này, một lời cầu đề cập đến sự an toàn trong khuôn khổ và không gian, thuộc về trần thế và trong môi trường.
Lời cầu nguyện ấy cũng có thể bao hàm một ý nghĩa bao quát hơn, thuộc lãnh vực tinh thần. Lời Thiên Chúa trở nên lương thực nuôi tâm hồn, nên của ăn tinh thần. Con người khẩn cầu Thiên Chúa ban cho Lời hằng sống ấy. Con người xin Thiên Chúa ngỏ lời với thụ tạo và con người xin cho mình cũng hiểu được lời đáng nghe của Thiên Chúa phát ra tự đáy lòng, thứ lời đã được ghi chép trong Thánh kinh và con người xin cho được sống bằng lời ấy. Bởi vì ‘con người không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra’ (Mt 4,4)
Bánh còn có nghĩa về mầu nhiệm Thánh Thể ‘Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống’. Con người rất cần thứ bánh nhiệm mầu ấy để khỏi bị chết ngạt bởi những lo âu về kinh tế.
Sau hết, Bánh đây chính là Đức Kitô. ‘Ta là Bánh sự sống’. Bởi thế, lời cầu xin này tuy phát xuất do những nhu cầu thiêng liêng và siêu nhiên, để rồi sau cùng lại gán cho chính Chúa.
Nó là giả thiết một thần học về bánh, bởi vì với nhãn quan người Kitô hữu, mọi sự đều được thánh hiến và thánh hoá cách đạo hạnh.
‘Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con’. Trước Thiên Chúa, con người là kẻ mắc nợ. Đối với người đạo đức, tội lỗi là một gánh nặng chèn ép họ. Nó làm cho họ phải xa rời Thiên Chúa, dựng lên một bức tường ngăn cách họ với Thiên Chúa, phá huỷ những mảnh vườn đầy hoa tươi nở, làm tan hoang bình địa mọi công trình xây dựng.
Tội khiến đời sống trở nên mù tối, và làm cho con người nên như trò cười đáng mỉa mai. Hình ảnh Thiên Chúa bị bôi nhọ và đền thánh bị tục hoá. ‘Ích gì cho con người chiếm được cả thế giới mà để mất linh hồn’. Dĩ nhiên, tội làm thương tổn linh hồn, tệ hơn nữa, nó còn làm mất đời sống siêu nhiên mà Thiên Chúa ban cho con người, và như thế, tội còn làm cho con người không được dự phần vào chính Thiên Chúa. Tội phá huỷ mọi niềm hy vọng vĩnh cửu, tội ngăn chặn mọi nẻo đường dẫn đến tương lai.
Và vì thế, lời cầu xin tha thứ là một lời khẩn cầu cấp bách. Những ai đã được tha thứ, thì chính mình cũng phải biết thứ tha. Đã hưởng lòng Chúa xót thương, con người không thể cứng lòng với tha nhân. Kẻ có nợ được chủ nợ tha cho hoàn toàn, thì chính kẻ ấy cũng không thể là một chủ nợ nghiêm khắc.
Ở đây lời nguyện xin trở thành một yêu sách, một đòi hỏi.
‘Chớ để chúng tôi sa chước cám dỗ’. Theo Thánh Luca, lời nguyện xin này bao gồm cả lời nguyện xin giải thoát khỏi sự dữ và Satan. Cơn cám dỗ là con đường của vực thẳm, là lối đi dẫn tới hoả ngục,là khu vực của quỉ ma, là sự gần kề đầy doạ nạt của địa ngục, của những bóng đen ghê rợn quái ác luôn rình mò lượn quanh con người.
Ân sủng là khí giới, là sự bảo đảm chở che… Ánh sáng từ trời xuống đánh tan những bóng tối dữ tợn. Và tiếng nói từ trên cao càng vang dội mạnh bao nhiêu, thì tiếng gầm thét của vực thẳm càng cố vươn lên bấy nhiêu. Chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới gìn giữ canh chừng con người thoát khỏi rơi vào nguy hiểm, vào vực thẳm. Chỉ nơi Ngài, đời sống đầy chông gai thách thức mới tìm được sự an toàn đảm bảo.
Như vậy, theo Thánh Luca, năm lời cầu xin cấu thành một toàn bộ trọn vẹn, ôm lấy hết toàn thể đời sống con người, đang bị phân rẽ giữa hạ giới và thiên thượng, giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và tăm tối, giữa sự sống và sự chết.
Đó là giải pháp mà Chúa Giêsu trả lời cho môn đệ khi họ xin. ‘Lạy Thầy, xin dậy chúng con cầu nguyện’.
Cầu nguyện là một việc mà con người khó thực hiện. Vì thế phải luyện tập. Chính Thánh Gioan Tẩy giả đã dạy các đồ đệ cầu nguyện. Nhưng Giáo huấn của Chúa Kitô thật khác lạ; Chỉ bằng vài lời, đã nói lên được tất cả, một sự sung mãn phong phú qui kết vào 5 lời nguyện xin chi phối toàn bộ đời sống và hướng về Thiên Chúa Duy Nhất, là Cha hết mọi người.
CẦU NGUYỆN THỰC SỰ (11, 5-13)
Trong việc dạy họ cầu nguyện, Đức Giêsu đã nói lên cái ‘cốt cách’ của việc cầu nguyện, bằng cách nhấn mạnh những đặc tính hết sức quan trọng, là sự kiên trì và tín thác.
1. Kiên trì
Dụ ngôn sau đây tỏ rõ cho thấy thế nào là kiên trì. Đây là một vài nét chính: một người kia, bổn tính không hay giúp đỡ nhưng sau cùng phải thua tính cố nài nẵng của người xin.
Lòng kiên tâm cầu nguyện cho thấy hoàn cảnh chung quanh cũng phải tuỳ thuộc và như là một chủ đề cốt tuỷ. Một người Cha trong một gia đình kia, giữa đêm trường, đang ngủ yên, cửa đóng then cài, lối vào cũng đầy những đồ đạc lỉnh kỉnh; ở gian trong, cả nhà ngon giấc, hết thảy, chồng, vợ, con cái đều yên giấc. Nếu phải mở cửa, ông phải chỗi dậy, khó nhọc lắm mới thắp nổi ngọn đèn ở dưới đấu và đặt trên giá đèn, không khéo lại va vào chân đám trẻ, lấy bánh ra, mở then, mở chốt, đẩy cửa kẽo kẹt,…. Nói tắt rằng, ai nấy đều bị thức giấc, và mọi cái đều lộn xộn xáo trộn.
Như thế, ta hiểu ngay lý do tại sao ông ta từ chối. Tuy nhiên, mọi trở ngại đều bị thắng vượt, không còn nghĩ tới nghĩ lui gì nữa, chỉ còn lo sao để thoả mãn người ăn xin đang quấy nhiễu nài nỉ luôn miệng không thôi. Áp dụng vào thật quá rõ. Người van xin phải nài nỉ không biết mệt mỏi: có như thế mới được điều mình xin, cửa sẽ mở cho vào, tìm thì sẽ thấy.
Tuy nhiên, một vấn nạn khiến ta lo ngại: Tại sao Thiên Chúa lại để cho con người phải đợi chờ? Chỉ cần Ngài nhận lời là mọi trở ngại sẽ mất đi, không còn quấy nhiễu gì nữa…
Có thể giải đáp thế này: không thể đổ lỗi kỳ hạn cho Thiên Chúa, như trong dụ ngôn người cha nọ cứ để cho người xin kia phải chờ đợi cho đến khi ông ta sẵn lòng. Ở đây hẳn là không như thế, việc nhận lời có bị trì hoãn là do chính người xin, chính ông này phải biết gia tăng cầu nguyện ráo riết hơn nữa. Khẩn cầu liên lỉ liên kết người ấy với Thiên Chúa cách khắng khít hơn, khiến họ phải ý thức hơn về tình trạng bất lực riêng mình, nhận rõ hơn việc phải hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa và do đó, sau khi Ngài nhận lời, người ấy sẽ nhận biết Ngài. Việc dạy cầu nguyện bao hàm thái độ chờ đợi kiên nhẫn ấy. Chờ đợi hẳn là một đặc ân của con người. Không nên đánh giá tôn giáo như làm một việc lạ lùng, và cũng không nên coi cầu nguyện van xin như một thứ nút điện đơn giản cứ ấn xuống là được. Mà là một hành vi của ngôi vị, một sự đi sâu đầy khí lực của một thái độ trước Thiên Chúa, chiêm ngắm Ngài, tâm sự với Ngài và vươn tới Ngài.
Bởi thế, lời cầu xin -kiên trì cầu xin- phải mang một dấu hiệu nói lên ý nghĩa đạo đức đích thực.
2. Tín thác
Cái lối lý luận trên được thực hiện theo kiểu ‘huống nữa là…’ một kiểu so sánh từ cái nhỏ đến cái lớn (a minore ad majorem). Con người vốn hẹp hòi và tầm thường. Đức Giêsu quả quyết điều này: ‘Vậy nếu các ngươi là những kẻ ác…’ Tuy con người thật đê tiện, hẹp hòi, vụ lợi, và cứng lòng mà còn không chối từ, lời của người van xin, nhất nữa lại là con mình, xin bánh, cá hay trứng. Giống vật cũng chẳng làm như vậy khi cho con cái đang đói hòn đá, rắn độc hay bò cạp. Vậy nếu điều ấy khó coi đối với con người, vốn tính xấu xa, thì đối với Thiên Chúa nói làm sao đây!.
Thiên Chúa không ác độc xấu xa, nhưng đầy thiện hảo tốt lành; Ngài không hẹp hòi tư kỷ, nhưng hay thương xót. Ngài không nghiêm khắc cứng cỏi, song hiền từ lân tuất, thì Ngài càng phải nhận lời nhân loại kêu xin gấp bội phần.
Nhưng lại một vấn nạn đặt ra cho chúng ta: kinh nghiệm cho ta thấy một điều trái nghịch. Vì dù con người vẫn luôn kiên trì cầu nguyện và luôn tín thác, mà họ vẫn phải thất vọng –và thực sự thất vọng hoàn toàn!- Vì trong cuộc sống họ thấy những hy vọng được nhận lời đã tan theo mây khói: điều người ta mong tồn tại thì lại tiêu tan, cái người ta mong thành đạt thì không được thoả mãn. Đức Giêsu trả lời như sau khiến ta khó có thể lãnh hội ý nghĩa: ‘Huống hồ Cha các ngươi tự trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Người’. Ở đây ta lại gặp cái lối lý luận ‘huống nữa là…’.
Chúng ta thường xin với những ý định tầm thường quá: nào là nhu cầu thể xác, nào là mục tiêu vật chất, của cải phù vân, thậm chí còn xin cả những cái gây lầm lạc cho mình nữa.
Thiên Chúa thoả mãn ta bằng những điều thiện hảo rất cao quý; Ngài ban Thánh Thần cho ta, mà Thánh Thần Thánh hoá nội tâm. Bởi vậy, không có lời cầu xin nào bị bỏ qua mà không được nhận lời. Ta chẳng thể nhìn thấy việc Ngài nhận lời ta, như Thánh Thần thánh hoá làm sao ta thấy được.
Thực ra, khi con người nhận lấy Thánh Thần thì nhận được những sự phong phú rất cao quý chứ không phải chỉ những của cải vật chất. Vì vậy, càng cầu xin kiên trì và tín thác bao nhiêu, thì càng chất chứa đầy Thánh Thần nơi tâm hồn bấy nhiêu.
Bởi vậy hai yếu tố hoà trộn mật thiết với nhau khi cầu nguyện phải là: kiên trì và tín thác. Với hai yếu tố ấy, con người được tràn đầy Thiên Chúa, luôn thêm mãi và sâu đậm hơn. Đó mới là điều thiện hảo tối cao Thiên Chúa ban cho con người và con người nhận được cách rõ rệt.
Chúng ta không được mệt mỏi trong việc kiếm tìm, nguyện xin và gõ cửa. Và chúng ta cũng sẽ không hề biết mỏi mệt khi chúng ta hiểu được điều từ miệng Đức Giêsu thốt ra trong giờ phút sau cùng: chúng ta thuộc về Chúa.
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI CON THẢO NƠI CÁC MÔN ĐỆ ĐỨC KITÔ VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Như chúng ta đã học biết nơi Đấng Cứu Thế.
Tin Mừng theo thánh Luca, mở đầu bằng lời cầu nguyện của người Do Thái trong Đền Thờ và kết: TN 17-C57
Tin Mừng theo thánh Luca, mở đầu bằng lời cầu nguyện của người Do Thái trong Đền Thờ và kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ “không ngừng chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ”, dành một vị trí ưu tiên cho cầu nguyện của Đức Giêsu.
+ Một lời cầu nguyện mà từ ngày chịu phép rửa ở sông Giôdan đánh dấu tất cả những thời điểm quan trọng trong sứ vụ của Ngài.
+ Một lời cầu nguyện của con cái, dâng lên Thiên Chúa với sự đơn sơ và thân thiết của trẻ thơ: “Abba”, nghĩa là: “Lạy Cha”.
+ Một lời cầu nguyện, mà các môn đệ đã là những nhân chứng, không chỉ bằng mắt thấy, mà còn bằng tai nghe, vào thời đó, người ta không biết cầu nguyện nhỏ tiếng, và ‘cầu nguyện’, theo tiếng Do Thái, có nghĩa là ‘nêu lên’. Cha George viết: “Các môn đệ đã phải nghe Đức Giêsu cầu nguyện lớn tiếng, và chính trong các biến cố quan trọng, mà các ông đã có thể hình thành cho mình một ý tưởng cầu nguyện riêng.
Đức Giêsu muốn người ta nghe Người cầu nguyện, Người muốn xác định lời cầu nguyện của chúng ta bắt nguồn từ lời nguyện của Người (Cahiers-Evangiles, số 5, trg 43).
Trong khi thánh Matthêu thuật việc truyền lại kinh “Lạy Cha” trong khuôn khổ Bài Giảng Trên Núi, thì thánh Luca lại đặt nó trong khuôn khổ của cuộc hành trình về Giêrusalem, thành phố mà ở đó, Đức Giêsu sẽ trút hơi thở cuối cùng trong lời nguyện sau cùng. Đức Giêsu, “ở một nơi nào đó”, “đang cầu nguyện”, và, khi Người đã cầu nguyện xong, một trong các môn đệ xin Người: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện. Đây không phải là vấn đề cầu nguyện chung chung, mà là lời cầu nguyện, thêm vào những lời cầu nguyện chính thức của niềm tin Do thái sẽ nêu rõ nét đặc trưng nhóm các môn đệ của Người, theo cách thức - mà chúng ta không biết - mà “Gioan Baotixita dạy các môn đệ ông”. Một lời cầu nguyện tập trung vào điểm chính yếu của sứ điệp Người và xây dựng cộng đoàn các môn đệ chung quanh Người.
Đức Giêsu đáp lại lời cầu xin của ông bằng một lời cầu-nguyện-kiểu-mẫu. Một lời cầu nguyện mà từ nay, căn cứ vào đó, tất cả các lời cầu nguyện Kitô giáo sẽ phải rập theo, cách này hay cách khác: đó là kinh “Lạy Cha”.
Louis Monloubou nhận xét: “Những hoàn cảnh; trong đó lời cầu-nguyện-kiểu-mẫu được phát biểu rất đặc biệt. Chúng giúp các Kitô-hữu hiểu rằng, lời cầu nguyện của họ là sự nối dài lời cầu nguyện của Đức Giêsu; lời cầu nguyện đó phải là sự bắt chước, phản ảnh... Các môn đệ đã nhìn thấy Chúa cầu nguyện, nên đã xin Người hướng dẫn họ cầu nguyện; nói khác đi đưa dẫn họ vào lời cầu nguyện của Người. Đức Giêsu đồng ý bằng cách công bố kinh Lạy Cha. Khi cầu nguyện bằng kinh nầy, và khi hiểu thấu những tình cảm hay ý hướng nó diễn tả, các Kitô-hữu cầu nguyện như Đức Giêsu: “Nhờ người, với Người, trong Người” là một công thức về sau sẽ diễn tả điều mà thánh Luca gợi ý (L'évangile de Luc Salvator, trg 194-195).
2. Chúng con dám nguyện rằng: “Lạy Cha”
Khác với thánh Matthêu, “kinh lạy Cha“ của thánh Luca ngắn hơn, bao gồm một lời cầu khẩn, hai ước nguyện và ba lời xin ơn.
Một lời cầu khẩn. Để thưa với Thiên Chúa, kinh này lấy lại từ ngữ mà Đức Giêsu, ngôi Con, dùng trong lời nguyện của riêng ngài: “Lạy Cha” (“Lạy Cha chúng con” trong thánh Mátthêu). Lập tức, lời này mạc khải cho chúng ta chiều sâu của mối liên hệ giữa Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa.
Jean-Luc Vesco cắt nghĩa: “Lời cầu nguyện Kitô giáo, giúp môn đệ Đức Giêsu bước vào sự thân mật duy nhất liên kết Chúa Con với Chúa Cha. Trong lời cầu nguyện của Người con thảo, người Kitô hữu có thể lấy lại lời cầu khẩn này của Đức Kitô: “Lạy Cha” (Gl. 4, 6; Rm. 8, 15). Tiếng kêu Cha đó có tính cách năng biệt, cá nhân. Nó diễn tả một sắc thái thân mật và cũng muốn nhấn mạnh là, mối liên hệ duy nhất và đặc biệt mà Chúa Con có với Chúa Cha cũng là mối liên hệ nối kết tất cả các Kitô hữu với Thiên Chúa”. (“Jérusalem et son prophète”, trg 72).
- Hai ước nguyện, cùng có song song trong lời nguyện Do Thái Qaddish.
+ Sự thánh hoá Danh Thiên Chúa: chớ gì Thiên Chúa can thiệp và tỏ rõ mình là Thiên Chúa, ước mong người được mọi người nhận biết?
+ Nước Ngài trị đến: chớ gì Thiên Chúa đích thân ngự đến và tỏ lộ ra sự hiện diện cao cả và năng động của Ngài!
Như thế, H. Cousin nhận xét: “Lạy Cha, xin ngự đến” đã được làm thành công thức dưới hai hình thức khác nhau; Thiên Chúa là “đối tượng” duy nhất của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa (L’evangile de Luc, Centurion, trg 162).
- Ba lời xin ơn, được diễn tả, không phải ở ngôi thứ nhất số ít: “Con”, nhưng ở ngôi thứ nhất số nhiều: “Chúng con”, các môn đệ thân thưa với Thiên Chúa cho chính họ với tư cách là một cộng đoàn.
+ Lời xin ơn thứ nhất hướng về “cơm bánh mà chúng con cần mỗi ngày” để tiếp tục cuộc hành trình. H. Cousin nhận xét: “Trước tiên ở đó, có sự ám chỉ đến manna, bánh từ trời đã hồi phục dân Thiên Chúa trong thời kỳ xuất Hành, và theo sự mong đợi của dân Do Thái, bánh này sẽ lại được trao ban như là lương thực cho cộng đoàn của thời sau hết. Nơi thánh Luca, các tín hữu được mời gọi cầu xin Bánh hằng sống nầy hằng ngày”. (Sđd).
+ Lời cầu xin thứ hai nhắm đến “sự tha thứ tội lỗi của chúng con”. Ơn tha thứ là ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa, không có ơn tha thứ, chúng ta sẽ không thể nào sống trong tình thân với thiên Chúa, vì chúng ta là những con nợ không có gì để trả. Ơn tha thứ đó cần thiết cho chúng ta còn hơn là cơm bánh. Hơn nữa, chúng ta còn phải tha thứ cho các con nợ của chúng ta, nếu không, Thiện Chúa sẽ không thứ tha cho chúng ta.
+ Sau cùng, lời xin ơn thứ ba liên hệ đến sự trợ giúp trong “cơn cám dỗ”. Một lời cầu xin mà bản tiếng Pháp dịch là: “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ“ có ý nghĩa mơ hồ. Chúng ta không xin cho chúng ta được miễn trừ khỏi cơn cám dỗ hay thử thách: Chính Đức Giêsu đã chẳng được Thánh Thần đưa đến hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ đó sao (Luc 4)? Chúng ta cầu xin đừng sa chước cám dỗ, theo ý nghĩa của lời cầu cho Phêrô, trong 22,32: “Thầy cầu nguyện cho con, để con không mất đức tin”. Chúng ta cầu xin cho thử thách không làm chúng ta ngã quỵ cho chúng ta đừng sa vào kế hoạch của Tên Cám Dỗ.
3. Trong một lời nguyện tin tưởng và kiên trì:
Rồi, Đức Giêsu tiếp nối bằng một dụ ngôn và những lời cắt nghĩa.
- Dụ ngôn là dụ ngôn người bạn quấy rầy, nhân danh tình bạn, không sợ làm phiền một trong những người bạn của mình, ngay “lúc giữa đêm”, và không ngại năn nỉ đến độ “sỗ sàng”, để giúp đỡ một người bạn khác, đường xa mới đến. Cũng chính với sự tin tưởng, sự kiên trì, táo bạo, làm nền tảng cho tình yêu của Người mà chúng ta dám thân thưa với Thiên Chúa: Đức Giêsu nhấn mạnh, các con hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ thấy; hãy gõ, thì cửa sẽ mở cho các con.
Là người cha tốt lành, Thiên Chúa không thể không lắng nghe lời cầu nguyện của con cái Người. Tốt lành hơn mọi người cha trên trái đất, Chúa Cha trên trời sẽ trao ban cho những ai cầu xin Người ơn huệ tuyệt hảo: Chúa Thánh Thần. Cách nay hai tuần, khi đọc dụ ngôn Người Samaritanô Nhân Hậu, chúng ta biết rằng, để đi theo Đức Giêsu lên Giêrusalem, chúng ta phải bước qua con đường tình yêu tha nhân, một tình yêu vượt trên tất cả mọi thứ lề luật. Chúa Nhật vừa qua, trong nhà của Mátta và Maria, chúng ta khám phá ra rằng con đường nầy là con đường lắng nghe Lời Chúa. Hôm nay, chúng ta được báo cho biết, con đường nầy cũng là “con đường của lời cầu nguyện khiêm nhường, tin tưởng và kiên trì, con đường trao ban Thánh Thần và sẽ được Người tác động” (J.L. Vesco, sđd, trg 75).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. “Vượt ra khỏi những thói quen của những kẻ xin xỏ tầm thường”
Ở đây không phải những nhu cầu của con người là giai đoạn đầu tiên của hành trình tôn giáo. Chính Thiên Chúa đã trao cho Abram một lời yêu cầu: “Ngươi hãy đi khỏi xứ sở của ngươi và đi đến xứ sở mà Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Vai trò của con người trong tôn giáo mới nầy, rõ ràng là đón nhận lời Thiên Chúa; lắng nghe lời yêu cầu của Ngài và vui lòng đáp lại. Điều đó thay đổi tất cả. Thiên Chúa không còn được kêu cầu để phục dịch con người nữa. Ngược lại, con người tìm đến phụng sự Thiên Chúa...
Lời cầu nguyện Kitô giáo, rất có thể là lời xin ơn, nhưng không bao giờ bắt đầu từ chúng ta vã những nhu cầu của chúng ta. Nó luôn luôn bắt đầu từ Thiên Chúa. Gọi Thiên Chúa là Cha, là nhìn nhận sự hiện hữu của Người cũng vững chắc như sự hiện hữu của một người cha bình thường của tất cả mọi người... Gọi Thiên Chúa là Cha, có nghĩa là, chúng ta từ chối làm cho đức tin chúng ta tuỳ thuộc vào cách thức chúng ta được nhậm lời. Nói với Người, chớ gì ý cha được thể hiện, cũng có nghĩa là, nhìn nhận rằng, ngay cả khi không thấy Người nhậm lời như mong muốn, chúng la vẫn chắc chắn rằng, ý muốn của Người luôn luôn là tốt lành và có thể là chúng ta không hiểu biết hết điều chúng ta cầu xin..
Chúng ta đừng xấu hổ vì những lời xin ơn. Chúng ta hãy dám khẩn khoản Thiên Chúa cho những nhu cầu riêng tư của chúng ta, và những nhu cầu, cho dù rất ghê gớm, của anh em nhân loại. Đơn giản là chúng ta đừng làm điều đó theo cách thế của dân ngoại. Khi lời cầu xin của chúng ta hình như không được nhậm lời, chính lúc ấy, thái độ bên trong sẽ giúp chúng ta biết mình có phải là người có đức tin hay không, tình yêu của mình: đối với Chúa có hoàn toàn dính liền với những lợi lộc hy vọng có được từ mối liên hệ nầy hay không, hoặc sự tin tưởng có vượt lên trên nổi thất vọng hay không.
2. Lời cầu nguyện: mặt khác của mầu nhiệm Thiên Chúa
Cầu Nguyện! đó là một từ ngữ của đức tin. Một tín hữu mà không cầu nguyện thì còn có nghĩa gì nữa!
Thế nhưng, phải nhận là điều đó không dễ dàng gì. Cầu nguyện là một thử thách, nhất là khi lời cầu nguyện không được phụng vụ hoặc một cộng đoàn nâng đỡ cầu nguyện, như là mặt khác của mầu nhiệm Thiên Chúa, mất nhiệm của Thiên Chúa sống động trống con người. Một dấu vết mờ nhạt và nóng bỏng.
Thiên Chúa là Đấng Thánh, đó là lời nguyện chúc tụng. Thiên Chúa là Đấng Tốt Lành, đó là lời nguyện cầu xin.
Không cần phải nhấn mạnh đến lời chức tụng. Nó nằm trong kinh Lạy Cha: nguyện Danh cha được hiển thánh. Yêu mến ai, là nói với người ấy tất cả những từ ngữ tỏ lòng trân trọng. Huống chi là đối với Thiên Chúa.
Thế nhưng lời nguyện xin ơn, có thể gây ra vấn đề. Trước hết, những người tinh thần mạnh mẽ thì cho rằng, thật là vô ích và ấu trĩ khi cầu xin Thiên Chúa điều mà Người biết rõ hơn chúng ta.
Đó cũng là cơn cám dỗ của những người yếu đuối, tôi muốn nói những người cầu xin Thiên Chúa những ơn lành một cách vụng về hay hiển nhiên lệch lạc. Làm gì đây?.
Trước hết, đừng bao giờ xem Thiên Chúa như là một người phân phát ơn huệ một cách máy móc. Hay là theo kiểu đổi chác: “Tôi cho Ngài, Ngài cho tôi”. Tệ hơn nữa: đừng bao giờ đặt Thiên Chúa trước một tối hậu thư. Không đổi chác, không tối hậu thư, lời cầu xin đích thực trước hết chấp nhận chúng ta sẽ không được nhậm lời như chúng ta hiểu biết hay mong muốn. Như thế, không được điều mình cầu xin cũng có thể là một ơn huệ. Bởi vì Thiên Chúa luôn luôn ban cho chúng ta điều Người đã hứa: Thánh Thần của Người. Trong tất cả những gì anh em cầu xin, hãy cầu xin Thiên Chúa và Thánh Linh của Người, và anh em sẽ được tràn đầy.
Bởi vì Người biết và luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bởi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng: TN 17-C58
Bởi vì Người biết và luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bởi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng đích của đời sống chúng ta, Đức Giêsu có thể dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thiên Chúa hơn bất cứ ai trước Người.
1.- Ngữ cảnh
Trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem, tác giả Luca ghép vào một giai thoại trong đó Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện, vì các ông xin Người.
Hình thức của Kinh Lạy Cha ăn khớp với ngữ cảnh này, vì bản văn được đặt sau lời kinh Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha (10,21-22), cũng như sau “ví dụ” của Người về tình thương đối với người thân cận (10,29-37) và việc Người nhấn mạnh trên việc lắng nghe Lời như điều cần thiết duy nhất (10,38-42). Toàn khối các giai thoại này giới thiệu cho biết thái độ và những tâm tình người Kitô hữu phải có đối với Thiên Chúa.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh (11,1); 2) Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (11,2-4); 3) Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng hai dụ ngôn (11,5-13):
- Dụ ngôn Người bạn quấy rầy (cc. 5-8), - Sáu khẳng định (cc. 9-10), - Dụ ngôn Người cha và đứa con (cc. 11-13).
3.- Vài điểm chú giải
- Lạy Cha (2): Tác giả chỉ dùng hô-cách Hy-lạp đơn giản: pater (x. 10,21), tương đương với từ A-ram ’abbâ’. Do chỗ từ này được lưu giữ trong Mc 14,36 (x. Gl 4,6; Rm 8,15), có thể cho rằng kiểu thưa gửi trong bản văn Lc thì “gốc” hơn kiểu trong Mt (với công thức “Lạy Cha chúng con, Đấng ngự trên trời”).
Một số tác giả như Kittel, Jeremias và Marchel nghĩ rằng đây rất có thể là một từ ngữ của các em bé (G. Kittel, VAbba/, GLNT, vol. I, col. 15-18; J. Jeremias, Abba. Studien zu neutestamentlichen Theologie und Zeitgeschichte (Gưttingen 1966) 15-67; W. Marchel, Abba, Père (Roma 1963, 1971). Còn Pitta thì cho rằng không phải chỉ có các em bé mới dùng từ này mà thưa với cha, nhưng cả người lớn cũng dùng để ngỏ lời với cha (A. Pitta, Lettera ai Romani. Nuova versione, introduzione e commento (I Libri biblici – Nuovo Testamento 6; Figlie di San Paolo; Milano 2001) 298.). Dù sao, vào thế kỷ I, từ này không chỉ được dành cho trẻ em.
Gọi Thiên Chúa là “Cha” không phải là chuyện lạ lùng. Danh xưng “cha” đã có nơi các tôn giáo rất khác nhau, từ dạng thô sơ nhất đến dạng phát triển nhất, của người Hy-lạp, Rô-ma và Sê-mít. Nhưng điều lạ là sử dụng một danh xưng thân mật để thưa với Thiên Chúa. Theo các nghiên cứu của Jeremias và Marchel, ’abbâ’ là một danh xưng thân mật, nên không bao giờ được người Do-thái dùng mà thưa với Thiên Chúa. Đôi khi, cũng rất hiếm, từ này được dùng để nói về Thiên Chúa, chứ không bao giờ để thưa với Thiên Chúa. Và ngay cả nói về Thiên Chúa, các bản Targumim (= Bản dịch và diễn giải) cũng rất ngại áp dụng danh hiệu “cha” cho Ngài. Ngược lại, theo chứng từ của Mc 14,36, được củng cố gián tiếp bởi Gl 4,6, Đức Giêsu là người đầu tiên thưa với Thiên Chúa bằng tiếng gọi thân mật Abba, và như thế Người tỏ cho thấy quan hệ thân tình như là người con với Thiên Chúa, một thứ quan hệ kiểu mới mẻ và duy nhất, vô song (Cf. Jeremias, Abba, 58-67). Quan hệ này được diễn tả rõ ràng trong một vài bản văn Tin Mừng, đặc biệt trong Mt 11,27 // Lc 10,22. Tin Mừng IV triển khai các phương diện khác nhau của quan hệ hỗ tương này, một quan hệ được vén mở cho thấy không những bằng các lời nói, mà hơn nữa còn bằng công trình chung giữa Chúa Cha và Chúa Con; và công trình chung này đạt tới đỉnh cao khi Đức Giêsu hiến mình trên Núi Sọ.
Tin Mừng làm chứng về hai điều: 1) Quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa là quan hệ có một không hai, không thể so sánh với bất cứ kiểu tương quan nào; quan hệ này hoàn hảo, thâm sâu, hỗ tương; theo nghĩa này, quan hệ này chuyên nhất (x. Ga 10,30); 2) Tuy nhiên, theo một nghĩa khác, quan hệ này không độc chiếm, nhưng lại có khả năng thông ban, thông dự vào (x. Ga 6,57; 10,27-28). Đức Giêsu đến chỉ nhắm một mục tiêu là đưa loài người vào trong tương quan cha con với Thiên Chúa. Và bởi vì quan hệ này không phải là một tương quan bên ngoài như một liên hệ pháp lý, mà là một thực tại thâm sâu, người ta không thể thông dự vào đó nếu không được một sự thông truyền tinh thần. Vậy toàn thể cuộc sống của Đức Giêsu, sứ vụ, cái chết, sự sống lại của Người chỉ có một mục đích là thông ban Thánh Thần trong tư cách là Thần Khí của Con (x. Gl 4,6). Quả thật, Đức Giêsu là người đầu tiên cầu nguyện với Thiên Chúa bằng danh hiệu này. Nhưng bây giờ, nhờ Thần Khí của Con, mỗi tín hữu cũng có thể làm như thế: là con (x. Gl 3,26; 4,6.7), người tín hữu thông dự vào lời cầu nguyện của Chúa Con.
- xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển (2): dịch sát là “Ước gì Danh Cha được hiển thánh”. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, câu này không có nghĩa là Thiên Chúa phải bận tâm làm cho loài người coi Danh của Ngài là thánh và không làm ô nhục Danh Ngài. Câu này có nghĩa là chính Thiên Chúa phải thánh hoá Danh Ngài; chính Ngài phải hành động cách nào để loài người nhận biết và tuyên xưng đúng như Tên Ngài, tức là như Thiên Chúa và như Cha. Như thế, là xin Thiên Chúa mạc khải bản thân Ngài ra vĩnh viễn và cho người ta được thấy Ngài và đến được với Ngài cách chắc chắn.
-[xin làm cho] Triều Đại Cha mau đến (2): Đây là nội dung chính của lời Đức Giêsu loan báo. Người loan báo Tin Mừng về Triều Đại Thiên Chúa, về quyền chúa tể của Thiên Chúa (4,43; 8,1; 10,9.11): Thiên Chúa là Chúa Tể duy nhất và tốt lành, sẽ thực hiện công khai vương quyền của Ngài. Lời xin này cầu mong mau đến lúc Thiên Chúa sẽ hiển trị trên tất cả mọi sự cách công khai và hữu hình; Đấng là Cha sẽ là Chúa Tể duy nhất.
- ngày nào có lương thực ngày ấy (3): dịch sát là “Xin ban cho chúng con mỗi ngày (to kath’ hêmeran)”, hiểu theo nghĩa phân phối.
- xin tha tội (4): Tác giả Lc đã thay từ opheilêmata, “các món nợ”, bằng hamartias, “các tội”, có lẽ để cho độc giả Kitô hữu gốc Dân ngoại dễ hiểu lời xin này hơn.
- bạn (5): Từ ngữ philos được dùng nhiều lần khiến chúng ta nhớ đến bối cảnh là lòng hiếu khách của người dân Cận Đông. “Bạn” vừa có nghĩa là người láng giềng và người khách.
- anh ta cứ lì ra đó (8): Anaideia, “sự trâng tráo, lì lợm”. Có tác giả nghĩ rằng từ này áp dụng cho người bạn bị quấy rầy, nên phải dịch là “thể diện” (Xem Bản dịch Kinh Thánh Tân Ước của Nhóm Phiên Dịch CGKPV 1995). Nhưng giải thích như thế không đúng, vì: cả câu 8 dịch sát là: “dẫu anh không dậy để cho người này (autô) vì là bạn của người này (autou), thì cũng vì sự lì lợm của người này (autou), anh sẽ dậy để cho người này (autô) tất cả những gì người này cần”. Bởi vì đại từ sở hữu autô và tính từ sở hữu autou (Ở chủ-cách là autos) được dùng để chỉ người đến quấy rầy, nên phải hiểu anaideia áp dụng cho người quấy rầy.
- tất cả những gì anh ta cần (8): nghĩa là không phải chỉ cho những gì anh ta xin mà thôi.
- anh em cứ xin thì sẽ được (9): Đây là một thái bị động thay tên Thiên Chúa, nên có nghĩa là: “Anh em cứ xin, thì sẽ được Thiên Chúa ban cho”.
- cứ tìm thì sẽ thấy (9): Do câu này song song với câu trên, ta hiểu là “sẽ thấy, với sự trợ giúp của Thiên Chúa”.
- thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó (11): Hiểu là có sự giống nhau về bề ngoài giữa con cá và con rắn. Thỉnh thoảng các ngư phủ trên Hồ Ghennêxarét dùng cá nhỏ mà câu rắn nước.
- xin trứng lại cho nó bò cạp (12): Một con bò cạp cuộn càng và đuôi lại thì giống với một quả trứng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh (1)
Trước mắt các môn đệ, hẳn là Đức Giêsu xuất hiện ra như là vị thầy về cầu nguyện. Còn trước mặt Người, các ông quả là những người đang chập chững tập cầu nguyện. Do đó, các ông đã xin Người dạy cầu nguyện. Đàng khác, vào thời Đức Giêsu, các nhóm tôn giáo được phân biệt nhờ có một kiểu cầu nguyện riêng. Lời xin của các môn đệ Đức Giêsu cho thấy các ông ý thức mình là một cộng đoàn.
* Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (2-4)
Đức Giêsu đã ban cho các ông bản văn một kiểu mẫu cầu nguyện. Điều này không có nghĩa là các ông phải luôn luôn dùng những lời này mà thôi. Nhưng với người nào dùng lời kinh này, người ấy được xác định cho biết bầu khí phải quan tâm khi cầu nguyện và được nhắc đến những lời thỉnh cầu phải coi là quan trọng nhất.
Trong lời kinh, chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa và trình cho Ngài các lời thỉnh cầu của chúng ta. Chúng ta không thấy Ngài và tự mình không thể biết là Ngài đang tương quan với chúng ta thế nào. Ngài vô hình, xa cách, rất lạ với ta, ta không thể hiểu Ngài và khám phá Ngài cặn kẽ. Trong cầu nguyện, quan trọng nhất là biết bản chất của tương quan giữa Thiên Chúa và loài người. Phải chăng Thiên Chúa là một Chúa tể quyền lực, có thể nhậm lời ta cầu xin, nhưng Ngài không hề quan tâm đến ta? Lời xin đầu tiên và căn bản nhận được câu trả lời nơi lời đầu tiên của Đức Giêsu: chúng ta phải ngỏ lời với Thiên Chúa như với một “Người Cha”. Thiên Chúa không phải là một Chúa tể xa cách, xa lạ, quyền lực, không muốn biết gì về chúng ta. Ngài đã giao tiếp với chúng ta với mối quan tâm, tình yêu và sự chăm sóc, như một người cha đích thực.
Đức Giêsu đã phác ra những nét chính để dạy chúng ta biết phải cầu nguyện với Thiên Chúa thế nào. Theo kiểu mẫu của Người, chúng ta thấy có hai khối lời cầu xin. Khối thứ nhất liên hệ trực tiếp đến Thiên Chúa, khối thứ hai liên hệ đến chúng ta và các nhu cầu của chúng ta. Lời cầu “xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”, là xin Thiên Chúa cho chúng ta được đi từ hoàn cảnh đức tin sang hoàn cảnh hưởng kiến. Lời cầu thứ hai xin Thiên Chúa là Cha tỏ quyền Chúa Tể trên mọi sự. Nói chung, hai lầu cầu đầu tiên xin cho có cuộc đảo lộn các tương quan hiện hữu, trong đó Thiên Chúa dường như vắng mặt hoặc ẩn mình. Chúng ta xin Ngài trở nên hữu hình và tỏ ra là Chúa Tể duy nhất mãi mãi.
Khối lời thỉnh cầu thứ hai liên hệ đến các nhu cầu cấp bách nhất của chúng ta: các nhu cầu vật chất (cái ăn cái uống, y phục, nhà cửa). Bên cạnh các nhu cầu vật chất, là các nhu cầu thiêng liêng: “xin tha tội cho chúng con”. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trách nhiệm, nhưng chúng ta thường xuyên sống vô trách nhiệm, trở thành có lỗi trước mạt Thiên Chúa, chúng ta phạm những thiếu sót đối với người thân cận. Chúng ta không thể tự mình tha các lỗi cho mình. Chúng ta lệ thuộc sự tha thứ của Thiên Chúa nên phải xin Ngài ban cho. Thêm vào lời cầu xin này, Đức Giêsu nối câu: “vì chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”. Người nhắc chúng ta nhớ rằng chúng ta không thể nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa nếu chúng ta có một tâm hồn đầy cay đắng và hiềm khích (x. Mt 18,23-35).
Cuối cùng, chúng ta xin Thiên Chúa chiếu cố đến sự yếu đuối và mỏng dòn của chúng ta. Trước nhan Thiên Chúa, chúng ta nhìn nhận mình không có sức để đứng vững trong thử thách để trung thành với Ngài. Do đó, chúng ta khiêm tốn xin Ngài trợ giúp, đồng thời diễn tả ước muốn được mãi mãi liên kết với Ngài.
* Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng hai dụ ngôn (5-13)
Sau đó, bằng hai dụ ngôn và sáu khẳng định, Đức Giêsu còn muốn thuyết phục các môn đệ rằng họ có thể cậy dựa vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, tức là tin rằng Ngài sẽ nhận lời họ cầu xin. Với hai dụ ngôn, Đức Giêsu vận dụng các hoàn cảnh và kinh nghiệm của loài người để dạy dỗ.
Dụ ngôn thứ nhất vận dụng những tương quan hàng xóm láng giềng ở miền quê: Nếu một người hàng xóm bị quấy rầy còn sẵn sàng giúp đỡ người bạn, chẳng lẽ Thiên Chúa vô cùng tốt lành và không hề có giờ nào không thuận tiện lại không nghe lời con cái Ngài kêu xin?
Trong dụ ngôn thứ hai, Đức Giêsu vận dụng cách thức xử sự của người cha trần thế với con cái: Nếu ngay trong lãnh vực con người, một người cha, tuy có những khiếm khuyết, còn biết cho con cái những của tốt lành, chẳng lẽ Thiên Chúa là “Cha”, Đấng có mọi tình phụ tử, lại không xử sự hơn thế sao?
Cách thức Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện cho hiểu rằng Người biết và luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Dựa trên cái nhìn này, Đức Giêsu mời chúng ta cầu nguyện tha thiết, Người hứa với chúng ta rằng chắc chắn chúng ta sẽ được nhận lời (cc. 9-10). Cho tất cả những ai xin bất cứ điều gì, Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần. Ân ban này độc lập với nội dung của từng lời cầu nguyện. Thánh Thần là Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Ngài là Thần Khí làm cho chúng ta thành con Thiên Chúa và giúp chúng ta có thể kêu lên “Cha ơi!”.
+ Kết luận
Bởi vì Người biết và luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bởi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng đích của đời sống chúng ta, Đức Giêsu có thể dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thiên Chúa hơn bất cứ ai trước Người. Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cung cấp cho chúng ta không những một bản văn kinh nguyện, mà còn cho một kiểu mẫu về các nội dung của lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta được gọi Thiên Chúa là “Cha”: tương quan của Thiên Chúa với chúng ta là như tương quan của một người cha với các con mình. Và chúng ta hoàn toàn có thể tin cậy vào lòng nhân lành của Thiên Chúa. Trong lời cầu nguyện, chúng ta chứng tỏ mình có một hình ảnh về Thiên Chúa và cảm nghiệm thế nào về Ngài. Trong lời cầu nguyện, chúng ta thể hiện tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Trong khi cầu nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là “Cha” (10,21; 22,42; 23,34-46), bởi vì Người biết Cha như thế. Lời dạy về cầu nguyện cũng đồng thời là một lời dạy về đức tin. Chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa là Cha chúng ta và Ngài quan hệ với chúng ta với tất cả sự quan tâm và yêu thương. Chúng ta phải ngỏ lời với Ngài và dâng lên Ngài những lời thỉnh cầu với đức tin này. Nếu chúng ta có một ý tưởng đúng về Ngài, chúng ta sẽ trình với Ngài những lời thỉnh cầu đầy tin tưởng và hy vọng và cậy vào sự giúp đỡ của Ngài.
2. Đức Giêsu dạy chúng ta phải và có thể cầu xin cho có những nhu cầu vật chất. Người không bảo chúng ta xin cho có dư thừa. Lời cầu nguyện Người dạy cũng không thu hẹp lại theo kiểu ích kỷ, Người dạy xin cho “chúng con”, tức là tất cả những ai đang cầu nguyện.
3. Thiên Chúa không đẩy chúng ta vào cám dỗ với mục đích làm cho chúng ta rơi vào tội lỗi. Nhưng Ngài có thể thử thách chúng ta, có thể thử sự bền vững và chắc chắn của chúng ta. Với lời xin cuối cùng, chúng ta được mời gọi loại trừ mọi cao ngạo và tự phụ.
4. Như người bạn đến xin người láng giềng giúp cho một nhu cầu, chúng ta cũng phải ngỏ lời với Thiên Chúa không phải vì những chuyện phù phiếm, nhưng là để trình bày với Ngài những nhu cầu thực tế của chúng ta và của người khác. Đứng trước Thiên Chúa, chúng ta không cần phải tìm kiếm hoặc tính toán so đo về các lời lẽ, nhưng chúng ta có thể nói thẳng ra với Ngài. Và khi cầu nguyện, chúng ta không được mệt mỏi hoặc nản chí. Chúng ta không được bỏ Ngài, không mong được Ngài giúp đỡ, để rồi đi theo đường mình cách cam chịu hoặc tự phụ. Chúng ta cứ phải liên kết với Ngài bằng một lời cầu nguyện kiên nhẫn, đầy niềm tin tưởng và đơn sơ, lặp đi lặp lại và không mỏi mệt.
5. Đức Giêsu cam kết rằng nếu chúng ta tha thiết cầu nguyện, chúng ta sẽ được Thiên Chúa nhận lời. Tuy nhiên, dường như điều này không đúng với kinh nghiệm chúng ta? Thật ra Đức Giêsu bảo đảm rằng Thiên Chúa chỉ ban những của tốt lành, nhưng Người không hề bảo đảm là lời cầu nguyện của chúng ta luôn luôn có nội dung là những ân ban mà chúng ta thấy là tốt lành. Người cha không đưa con rắn cho đứa con xin cá. Nhưng nếu người con xin một con rắn mà nghĩ rằng đó là điều tốt, thì người cha, chính vì ông tốt, ông sẽ không nhận lời xin này. Vậy chính Thiên Chúa phán đoán về các lời thỉnh cầu của chúng ta. Chúng ta không thể qui định cho Ngài cách thức Ngài phải theo mà nhận lời chúng ta. Chỉ có một điều là chúng ta chắc chắn rằng Ngài sẽ nhận lời vào lúc tốt nhất cho chúng ta.
6. Không có gì lạ nếu khi dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là “Cha”, Đức Giêsu lại hứa là những ai ngỏ lời với Thiên Chúa sẽ được Ngài ban Thánh Thần. Nếu chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa trong đức tin, chúng ta đã đang cầu nguyện trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần rồi. Và khi cầu nguyện như thế, chúng ta đã sẵn sàng để cho mình được thấm nhuần sâu xa hơn bởi Thần Khí này, để cho Ngài trở nên sống động trong ta, và càng ngỏ lời với Thiên Chúa như là Cha chúng ta trong niềm tin tưởng trọn vẹn hơn. Điều quan trọng hơn mỗi lời xin và mỗi sự nhận lời, đó là tương quan chúng ta thiết lập với Thiên Chúa trong cầu nguyện. Lời kinh dâng lên với đức tin đã là một sự nhận lời rồi, bởi vì khi đó dây liên kết chúng ta với Thiên Chúa được đào sâu thêm và tăng trưởng hơn: Thiên Chúa ban Thánh Thần cho những ai cầu nguyện và đón tiếp họ vào trong sự hiệp thông ngày càng sống động và thân tình hơn với Ngài.
Cầu nguyện là một đề tài lớn trong giáo lý của Chúa Giê-su. Nó liên kết con người với Thiên Chúa: TN 17-C59
Cầu nguyện là một đề tài lớn trong giáo lý của Chúa Giê-su. Nó liên kết con người với Thiên Chúa, tựa như chị Ma-ri-a đã để hết tâm hồn lắng nghe tiếng Chúa. Chúa Giê-su không chỉ giảng giải về việc cầu nguyện, mà Người còn soạn sẵn cho ta một kinh nguyện để ta sống mối quan hệ với Thiên Chúa và quan tâm đến nhu cầu con người của ta. Kinh “Lạy Cha” trong Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca có một chút khác nhau về nội dung và hoàn cảnh Chúa dạy môn đệ kinh ấy. Mát-thêu để kinh “Lạy Cha” như một phần của cả bài giảng trên núi, còn Lu-ca thì đặt kinh “Lạy Cha” trong dịp một môn đệ xin Chúa Giê-su dạy họ phải cầu nguyện như thế nào. Có lẽ Lu-ca muốn cho Ki-tô hữu gốc dân ngoại nhận ra đặc nét của việc cầu nguyện trong Ki-tô giáo khác biệt với kinh nghiệm cầu nguyện họ đã có trước kia và muốn mời gọi họ hãy nhìn lên Chúa Giê-su như gương mẫu cầu nguyện.
a) “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện”
Dạy cầu nguyện là việc làm không phải dễ đâu. Người mẹ có đứa con nhỏ và bà muốn dạy nó cầu nguyện. Ngày này qua ngày khác, mỗi ngày một chút, bà chỉ bảo nó từng tí một. Nào là chắp tay làm sao, ngước mắt lên trời thế nào. Nào là học thuộc lời kinh, từng tiếng một, từng câu một. Tuy nhiên đó mới là những hình thức bên ngoài. Làm sao cầu nguyện phải biểu lộ được những gì trong tâm hồn. Điểm này thật là khó. Bà phải dạy nó bằng chính kinh nghiệm của mình, chia sẻ những gì chính mình đã cảm nhận để đứa bé làm quen và ngày nào đó chính em sẽ tự mình nói lên những gì em muốn cầu nguyện. Bài học cầu nguyện đòi hỏi thời gian và kinh nghiệm.
Giống như một em bé muốn học cầu nguyện, người môn đệ đến với Chúa Giê-su, một người dày kinh nghiệm về cầu nguyện, để xin Người dạy cho biết phải cầu nguyện thế nào. Không phải hễ trưởng thành là ta không cần học cầu nguyện. Nhưng trái lại, về phương diện này thường thường ta cũng không hơn gì em bé kia, vẫn còn hết sức ấu trĩ trong việc cầu nguyện. Kinh nào ta cũng thuộc, ta đọc rang rảng, nhiều khi át cả nhiều người trong nhà thờ (!), nhưng chưa chắc ta đã biết cầu nguyện thực sự. Muốn học cầu nguyện, ta phải đến với Chúa Giê-su. Người môn đệ trong đoạn Tin Mừng đã thấy ông Gio-an dạy môn đệ ông cầu nguyện. Nhưng có lẽ người môn đệ ấy chưa thỏa mãn với cách cầu nguyện của ông Gio-an và đã nhận thấy đặc điểm nào đó trong cách cầu nguyện của Chúa Giê-su, nên anh ta mới đến xin Chúa dạy. Ghi lại chi tiết về hoàn cảnh người môn đệ đến xin Chúa dạy anh cầu nguyện, thánh Lu-ca muốn ta ý thức chân lý này là chỉ có Chúa Giê-su mới là Thầy Dạy đích thực sẽ dạy ta phải cầu nguyện như thế nào. Người dạy ta cầu nguyện bằng lời lẽ như bà mẹ “mớm” lời nguyện cho đứa bé, nhưng nhất là Người còn dạy ta cầu nguyện bằng chính kinh nghiệm bản thân về mối quan hệ mật thiết giữa Người với Chúa Cha và lòng cảm thương của Người với những nhu cầu của anh chị em đồng loại.
b) Cầu nguyện là sống mối quan hệ với Thiên Chúa
Phần đầu kinh “Lạy Cha” của Tin Mừng Lu-ca ngắn gọn hơn. Tuy nhiên, khác với vẻ trịnh trọng của kinh “Lạy Cha” trong Tin Mừng Mát-thêu, Lu-ca muốn giúp ta cảm nhận một cách trực tiếp, cá nhân và thân mật qua cách xưng hô: Lạy Cha. Đúng là cảm nghiệm bản thân của Chúa Giê-su và Người truyền lại cho ta. Chính Người đã xưng hô với Chúa Cha như vậy trong mỗi lần cầu nguyện. Người trực tiếp thưa với Chúa Cha: lạy Cha, Cha ơi! (22:42; 23:46, 10:21). Người thưa một cách tự nhiên, với tất cả tâm tình của người con thảo. Lời thưa diễn tả sự gần gũi, nói lên sự hiện diện sống động của hai Cha Con.
Khi ta sống mối quan hệ với ai, ta chỉ nghĩ về người ấy và cố gắng biết người ấy muốn gì. Mọi sự cho người ấy. Mà ước muốn của Chúa Cha là gì nếu không phải là tình yêu vô điều kiện của Người sẽ được rao giảng, được nhân loại tiếp nhận? Triều Đại của Cha là triều đại của tình yêu và lòng thương xót được tỏ ra cho mọi người, cũng là điều mà các thiên thần đã cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa trong ngày Chúa Giê-su Cứu Thế giáng sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14). Biết Cha muốn điều gì chưa đủ, mà còn phải giúp cho điều Cha muốn được thực hiện. Chính vì thế, Chúa Giê-su đã đem tất cả con người mình để giúp cho “Triều Đại Cha mau đến”, cho dù Người phải hy sinh mạng sống mình.
c) Cầu nguyện là chia sẻ nhu cầu của mình và của anh chị em
Dạy ta phần thứ hai của kinh “Lạy Cha”, Chúa Giê-su cảm thông với những nhu cầu vật chất cũng như tinh thần của ta. Chính Người đã kinh nghiệm thế nào là đói khi Người ở trong sa mạc, thế nào là bị từ chối xua đuổi, bị phản bội và bỏ rơi. Người đã thương cho thân phận yếu đuối của những người tội lỗi, bị Xa-tan trói buộc nơi những kẻ bị quỷ ám, đau đớn khi mất đi người thân yêu, tình trạng bị cám dỗ, bị “sàng sẩy” như trường hợp ông Phê-rô, tinh thần cố chấp không tha thứ của người con cả trong dụ ngôn người cha nhân hậu... Tất cả những nhu cầu đó của nhân loại, Chúa Giê-su đã đưa vào trong phần thứ hai của kinh “Lạy Cha.” Khi xướng lên, ta thấy đó không chỉ là những điều ta xin cho mình, nhưng cũng xin cho anh chị em nữa.
d) Thái độ khi cầu nguyện
Tin Mừng Mát-thêu (6:7) nhấn mạnh đến thái độ đơn sơ, đi thẳng vào vấn đề, tựa như con thưa với Cha, chứ không phải như người dân đến xin xỏ quan lớn nên bẩm thưa và nói xa nói gần, gãi đầu gãi tai... Người dân ngoại thường đến với các thần linh của họ, nhưng vì không bền tâm và tin tưởng lắm vào các thần linh, bởi thế họ mới “lải nhải” mà trong lòng vẫn chẳng hy vọng mình sẽ được nhận lời. Còn thánh Lu-ca, viết sách Tin Mừng cho Ki-tô hữu gốc dân ngoại, ngài muốn sửa sai thái độ cầu nguyện của dân ngoại. Điều quan trọng khi cầu nguyện xin ơn là phải bền tâm và hoàn toàn tín thác vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa là Cha. Cầu nguyện phải đặt trên nền tảng là tình yêu, tình yêu giữa Cha con, chứ không phải trên sợ hãi, lo lắng. Nói khác đi, nền tảng của cầu nguyện chính là Thánh Thần, Tình Yêu Thiên Chúa.
e) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi đã thực sự cầu nguyện hay chỉ đọc kinh?
Trước mỗi giờ cầu nguyện, có bao giờ tôi lắng đọng tâm hồn, hình dung ra Chúa Giê-su cầu nguyện, xin Người giúp tôi bắt chước Người mà cầu nguyện không? Khung cảnh Tin Mừng nào giúp tôi tưởng tượng ra cảnh Chúa Giê-su cầu nguyện?
Trong kinh Lạy Cha, thánh Lu-ca viết: xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con. Tại sao ngài viết “vì” thay vì “như” như trong Mát-thêu?
Thánh Phao-lô viết: “Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8:15). Vậy mỗi khi cầu nguyện, tôi có ý thức vai trò của Chúa Thánh Thần giúp tôi cầu nguyện với tính cách là con cầu nguyện với Cha trên trời không?
Cầu nguyện:
“Lạy Thầy Giê-su, Thầy không gọi chúng con là tôi tớ, Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ. Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy, vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con những điều riêng tư thầm kín nhất trong tương quan giữa Thầy với Cha. Hơn nữa, sau phục sinh, Thầy đã gọi các môn đệ là anh em. Mặc nhiên Thầy tự nhận là Anh Trưởng đứng đầu một đoàn em đông đúc. Xin cho chúng con luôn thi hành ý muốn của Cha để trở nên những người em cùng huyết nhục với Thầy. Lạy Thầy Giê-su, Thầy đã nâng chúng con lên làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy. Còn Thầy lại hạ mình xuống phục vụ chúng con như người tôi tớ, rửa chân chúng con như một nô lệ và chết thay cho chúng con trên thập giá. Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy và sống yêu thương mọi người như anh em. A-men.”
Lời Chúa hôm nay khơi dậy trong chúng ta MỘT NIỀM HY VỌNG mãnh liệt nơi Thiên Chúa: TN 17-C60
Lời Chúa hôm nay khơi dậy trong chúng ta MỘT NIỀM HY VỌNG mãnh liệt nơi Thiên Chúa, ĐẤNG GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong thời đại chúng ta hôm nay: một thời đại đang đứng trước muôn vàn thử thách và khó khăn, thời của những khủng hoảng và xáo trộn toàn cầu.
Thiên Chúa ngay từ lúc kêu gọi con người, khi kêu gọi Abraham, đã chứng thực Ngài là Thiên Chúa "chậm bất bình và đầy lòng khoan dung", khi Ngài, nhân danh TÌNH NGHĨA THIẾT với những người lành: dù là 50, 40, 30, 20 thậm chí chỉ là 10 người thôi, cũng sa#n lòng bỏ qua cho cả một thành phố tội lỗi đã quá nặng nề. Cho dù Sôđôma và Gômôra cuối cùng cũng bị thiêu hủy vì không có được số người tối thiểu ấy, nhưng câu chuyện đã khẳng định một chân lý, một mầu nhiệm của sứ mạng làm người: "MẦU NHIỆM CÁC THÁNH CÙNG THÔNG CÔNG, một chiều kích của phẩm giá con người đã bị lãng quên hay bị chối bỏ trong cuộc sống. Vì chiều kích ấy, gia đình của Lot đã được giải thoát.
Thánh Phaolô dường như cũng muốn khơi lại niềm tin vào chân lý ấy khi Ngài nói tới phép cắt bì, một dấu chỉ được thuộc về DÂN ĐẶC TUYỂN "Trước kia, anh em là những kẻ chết, vì anh em đã phạm tội, và vì thân xác anh em không được cắt bì...". Chiều kích hiệp thông giờ đây được củng cố nhờ phép Rửa Tội là bí tích cho người Kitô hữu "được cùng sống với Đức Kitô".
Nền tảng của sự Hiệp Thông được chính Chúa Giêsu trình bày trong đoạn Tin Mừng, mà chính bối cảnh của nó cũng đã gợi lên:
Vào thời của Chúa Giêsu, có nhiều nhóm người hình thành một lối sống khác biệt trong nỗ lực chuẩn bị thời buổi Thiên Sai, trong đó nổi bật là nhóm Gioan Tiền Hô. Dấu chỉ của nhóm chính là những lời kinh cầu nguyện của họ. Điều ấy thúc đẩy một người trong nhóm môn đệ của Chúa Giêsu xin Người dạy họ cầu nguyện: một dấu chỉ hữu hình riêng biệt cho sự hình thành và tồn tại của nhóm, là hướng đi và định chế của hiệp thông.
Và Chúa Giêsu đã đáp ứng ý nguyện của môn đệ khi dạy họ KINH LẠY CHA. Mà nội dung kinh nguyện trọng tâm này thực sự là dấu chỉ, là định hướng và là định chế của DÂN ĐẶC TUYỂN mà Người có sứ vụ quy tụ cho Thiên Chúa.
Trước hết khi kêu cầu Thiên Chúa là CHA, người môn đệ đã xác tín phẩm giá là "con" của họ, một phẩm giá họ nhận được từ "NGƯỜI CON MỘT". Phẩm giá ấy theo Thánh Phaolô không phải chỉ là việc trao ban một danh xưng, một chứng minh thư, một căn cước, nhưng là một quá trình đi theo Đức Kitô như nhóm môn đệ Người để "cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được phục sinh với Người", quá trình "đóng đinh" "cái sổ nợ bất lợi" là mọi tội lỗi của chúng ta "vào thập giá".
Khi khẩn cầu cho "DANH CHA CẢ SÁNG", người môn đệ đã sa#n sàng ký thác đời mình phục vụ những công trình kỳ diệu của Thiên Chúa, những công trình tuôn đổ LÒNG THƯƠNG XÓT vô biên của Người, mà theo Gioan tột đỉnh của LÒNG THƯƠNG XÓT ấy chính là "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một". Người môn đệ từ đấy dành tất cả sức lực phục vụ Đức Kitô.
Khi kêu xin cho "NƯỚC CHA TRỊ ĐẾN", người môn đệ xác tín họ không thuộc về nước trần gian, họ không thể dùng những phương tiện thế gian, bởi vì vương quyền của Thiên Chúa "không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Thánh I-rê-nê có một phát biểu thời danh "Vinh quang của Thiên Chúa là con người sống, và sự sống của con người là được nhìn thấy Thiên Chúa". Điều đó cũng khẳng định mục đích đời sống người môn đệ không nhằm theo đuổi sự giàu sang trần thế, họ chỉ cần "LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY", điều họ theo đuổi chính là "XÓA CÁI NỢ TỘI LỖI" như thánh Phaolô đã nói. Mầu nhiệm tội lỗi trong lịch sữ con người cũng chính là nguồn gốc của mọi khủng hoảng và xáo trộn. Đức Giêsu Kitô là giải pháp duy nhất, bởi chỉ từ "Thân Xác bị đâm thâu" trên Thánh Giá, mà giòng nước Thánh Thần mới được khơi ra và tuôn đổ xuống lòng những kẻ tin để thanh tẩy họ và ban cho họ khả năng để tha thứ. Điều mà chính Người nói tới trong lời kết của đoạn Tin Mừng "Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người hay sao".
Những suy nghĩ trên đây khiến tôi nhớ lại một lời khác của Thánh Phalô "Thánh Thần được đổ xuống lòng chúng ta, để từ trong thân xác ta, Người kêu lên "Abba". Kinh nguyện là một khẳng định lại phẩm giá là con trong Người Con Một khi LÃNH NHẬN THÁNH THẦN NGHĨA TỬ, là theo đuổi chương trình kế hoạch của Người Con ấy: thiết lập VƯƠNG QUỐC CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT VÀ THA THỨ.
· St 18, 20-32: (32) A-bra-ham nói với Chúa: Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần này nữa thôi: Giả như tìm được mười người thì sao? Chúa đáp: Vì mười người đó, Ta sẽ không phá huỷ Xơ-đôm.
· Cl 2, 12-14: (13) Trước kia, anh em là những kẻ chết vì anh em đã sa ngã, và vì thân xác anh em không được cắt bì, nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Ki-tô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta.
· TIN MỪNG: Lc 11, 1-13
Kinh Lạy Cha (// Mat 6: 9-13)
(1) Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông. (2) Người bảo các ông: Khi cầu nguyện, anh em hãy nói:
"Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, (3) xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; (4) xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ".
Người bạn quấy rầy
(5) Người còn nói với các ông: Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: "Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, (6) vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả"; (7) mà người kia từ trong nhà lại đáp: "Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được". (8) Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.
Cứ xin thì sẽ được (// Mat 7: 7-11)
(9) Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. (10) Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. (11) Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? (12) Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? (13) Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?.
Suy niệm
Câu hỏi gợi ý:
Khi cầu nguyện, nên gọi Thiên Chúa bằng Cha hay bằng Chúa? Cách nào hợp lý va: TN 17-C61
1. Khi cầu nguyện, nên gọi Thiên Chúa bằng Cha hay bằng Chúa? Cách nào hợp lý và đúng với tinh thần của Tân Ước hơn? Tại sao?
2. Thiên Chúa muốn ta nói gì với Ngài khi ta cầu nguyện? Muốn ta ca tụng ngợi khen Ngài, xin xỏ Ngài đủ điều, hay muốn ta tâm sự với Ngài như hai cha con hoặc như hai người bạn tâm giao nói chuyện với nhau?
3. Thiên Chúa có luôn luôn chiều ý ta, nghĩa là luôn luôn ban cho ta những điều ta cầu xin không? Nếu để ta xin gì được nấy thì điều ấy có ích lợi cho sự trưởng thành của đời sống tâm linh ta không?
Suy tư gợi ý:
1. Khi cầu nguyện, hãy gọi Thiên Chúa là Cha
Đức Giê-su đã dạy các môn đệ cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha, trong đó Ngài muốn các ông gọi Thiên Chúa bằng Cha (Abba). Đây quả là một đổi mới táo bạo, một cuộc cách mạng của Đức Giê-su trong cách nhận thức về Thiên Chúa, đánh dấu sự chuyển đổi từ Cựu Ước sang Tân Ước. Cựu Ước quan niệm Thiên Chúa là chủ tể của vũ trụ, nghĩ đến điều đó thì thật là khủng khiếp, nhất là trong thời đại phong kiến như thời Cựu Ước. Ông vua chỉ một nước nhỏ thôi cũng đã oai phong lẫm liệt như thế nào: giàu sang, quyền thế, nắm quyền sinh sát người dân trong tay. Thế mà Thiên Chúa lại là vua của cả thế giới, hơn nữa, cả vũ trụ. Vì thế, trong Cựu Ước, Thiên Chúa cao cả đến nỗi chỉ cần nhìn thấy Thiên Chúa thì cũng đã phải chết (xem Xh 33,20), thậm chí tới gần nhà tạm của Thiên Chúa cũng đủ để phải chết rồi! (xem Ds 17,28).
Thế nhưng Đức Giê-su đã dạy ta gọi Thiên Chúa là Cha, vì Ngài là người sinh ra ta theo nghĩa đích thực nhất. Còn cha mẹ ở trần gian chỉ là người cộng tác với Ngài trong việc sáng tạo nên bản thân ta. Tình yêu của cha mẹ ta chỉ là hình ảnh tình yêu phụ tử của Ngài đối với ta. Ngài cũng chính là người yêu thương ta nhất, vì tất cả những gì ta có, ta được, dù là tinh thần hay vật chất, đều là là do Ngài thương ban cho ta, nhưng thường gián tiếp qua tay một số người nào đó. Những người này dù có cho hay giúp ta điều gì, thì xét cho cùng không phải chính họ cho hay giúp ta, mà là Thiên Chúa, Cha ta, đã cho, đã giúp qua bàn tay của họ. Mọi tình yêu mà ta cảm nhận được trên đời đều bắt nguồn từ tình yêu vô biên của Ngài. Người giác ngộ sâu về tâm linh đều cảm nghiệm một cách sâu sắc chính Thiên Chúa mới là Cha của mình theo nghĩa đích thực và căn bản nhất. Chính vì cảm nghiệm rất rõ điều đó, nên Đức Giê-su đã dạy các tông đồ và chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha.
Đương nhiên Thiên Chúa vẫn là Chúa tể của vũ trụ và của ta, nhưng thuộc tính Chúa Tể không căn bản và không diễn tả quan hệ giữa Thiên Chúa và chúng ta đúng bằng thuộc tính Cha. Một vị Chúa tể có thể không sinh ra, và cũng không yêu thương con dân của mình, nhưng một người cha thì không những sinh ra và còn yêu thương con cái mình hơn tất cả mọi người khác. Nhất là khi bản chất của người cha ấy lại là tình thương, là nguồn yêu thương phát xuất ra tất cả những tình cảm yêu thương của mọi người. Vì thế, gọi Ngài là Cha nghe có tình nghĩa và thân mật hơn gọi là Chúa. Thật vậy, có ông vua nào lại muốn con cái mình gọi mình là hoàng thượng, hay bệ hạ mà không phải là cha? Trừ trường hợp ông vua đó nghèo nàn tình cảm, và chỉ ham thích quyền bính. Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa đầy tình yêu thương, chắc chắn Ngài muốn chúng ta coi Ngài là Cha hơn là Chúa.
Nếu Đức Giê-su đã dạy ta gọi Thiên Chúa là Cha khi cầu nguyện, thì ta nên làm theo ý Ngài. Đây là một điểm mới của thời Tân Ước. Chúng ta đã bước vào thời Tân Ước đã 2000 năm, nhưng nhiều khi chúng ta vẫn cứ sống theo kiểu Cựu Ước trong quan niệm, tinh thần và trong cách hành xử. Giáo Hội đã đổi lại cách xưng hô với Thiên Chúa là Cha trong phần lễ qui, là phần quan trọng nhất của thánh lễ. Thiết tưởng cũng nên thống nhất cách xưng hô với Ngài là Cha trong toàn bộ phụng vụ của Giáo Hội. Và người Ki-tô hữu cũng nên coi Ngài là Cha hơn là Chúa qua cách xưng hô với Ngài, nhất là khi cầu nguyện.
2. Hãy cầu nguyện như nói chuyện với một người cha
Trong tinh thần coi Thiên Chúa là người cha rất yêu thương, gần gũi, thân thiết với mình, và ở ngay trong tâm hồn mình, chúng ta cảm thấy dễ cầu nguyện hay nói chuyện với Ngài hơn. Chúng ta nói chuyện, tâm sự, kể lể, bàn hỏi, thậm chí nói chuyện phiếm với cha mẹ mình hay bạn tâm giao của mình thế nào, thì cũng hãy nói với Thiên Chúa như vậy. Ngài muốn nghe chúng ta nói những chuyện thực tế của đời sống như thế, chứ không thích nghe những chuyện xa rời cuộc sống, hoặc chẳng ăn nhập gì với đời sống thực của chúng ta như thứ ngôn ngữ của những kinh nguyện làm sa#n (Những kinh nguyện này chỉ để giúp ta cầu nguyện khi ta không biết cầu nguyện thế nào, hoặc dùng để cầu nguyện chung trong cộng đoàn). Ngài chắc hẳn không muốn nghe chúng ta nói với Ngài bằng thứ ngôn ngữ hay tư tưởng xa lạ, khác với ngôn ngữ và tư tưởng thường ngày của chúng ta.
Khi cầu nguyện với Ngài, không nhất thiết là cứ phải luôn miệng ca tụng, tôn vinh Ngài, nhất là không nên nói những lời nịnh nọt không xuất phát từ tâm hồn mình. Khi nói chuyện với cha mẹ ta, ta có làm như thế đâu! Và cũng không phải cứ mở miệng ra là phải xin Ngài ơn nọ ơn kia. Thật ra Ngài đã biết hết và biết rất rõ ta cần và mong muốn những gì (x. Mt 6,8). Hãy nói những gì tâm hồn mình muốn nói, những gì mà tình cảm, lòng yêu thương hoặc lòng biết ơn thúc đẩy mình nói. Hãy trình bày cho Ngài những niềm vui, nỗi khổ mình đang có, những thuận lợi hay khó khăn mình đang gặp, những dự định, ước muốn, nhu cầu, sáng kiến, những tư tưởng mới, v.v. Hãy tâm sự, bàn hỏi, và xin ý kiến Ngài.
Cầu nguyện không nhất thiết cứ phải luôn miệng nói với Ngài. Nếu không biết phải nói gì với Ngài, thì cứ im lặng đặt mình trước mặt Ngài với lòng đơn sơ tin tưởng vào sự hiện diện của Ngài nơi bản thân mình, hãy nghĩ rằng Ngài đang nhìn mình với ánh mắt trìu mến đầy tình thương của một người Cha, một người Bạn, sa#n sàng nghe ta mà cũng sa#n sàng nói với ta. Hoặc hãy im lặng lắng nghe Ngài nói. Nếu ta yêu cầu Ngài nói và lắng nghe, chắc chắn ta sẽ nghe thấy tiếng Ngài vang vọng trong tâm trí, trong đáy lòng ta. Càng im lặng một cách thâm sâu, thì tiếng Ngài càng rõ nét. Chắc chắn nghe Ngài nói thì có lợi cho ta hơn nói với Ngài. Ngài sẽ chỉ dạy cho ta sự khôn ngoan của Ngài, cách Ngài hành xử thế nào nếu gặp hoàn cảnh như ta, v.v. Cần phải tập nghe tiếng Ngài!
3. Cầu nguyện không nhất thiết là xin ơn
Khi có nhu cầu gì cần được Ngài giúp đỡ, thêm sức, ta cứ việc trình bày với Ngài. Nhưng đừng nghĩ Ngài là một vị thần chuyên môn thỏa mãn những nhu cầu của ta khi ta yêu cầu, giống như vị thần trong câu chuyện cổ tích Cây Đèn Thần của A-la-đin, vốn là người đầy tớ luôn làm theo lệnh chủ mình. Không phải bất cứ điều gì ta xin, Ngài cũng cho. Nếu Ngài chiều ta như thế, chắc chắn ta sẽ hư đi, giống như một đứa con được cha mẹ chiều chuộng quá mức. Những cha mẹ khôn ngoan, ngoài việc giúp đỡ và cho con cái những gì thật sự cần thiết cho chúng, còn biết tạo cho chúng tinh thần tự chủ, tự tin, tự lập, có óc sáng tạo, biết nỗ lực, không quá lệ thuộc, bám cứng vào cha mẹ. Thiên Chúa chắc chắn cũng muốn ta trưởng thành lên, nên nhiều khi Ngài để ta tự giải quyết một mình những khó khăn của ta. Vả lại, để giúp ta tiến triển về tâm linh, Ngài phải tập cho ta làm theo ý Ngài, chứ không phải là Ngài làm theo ý ta.
Càng yêu thương ta, Ngài càng rèn luyện, thử thách ta bằng đau khổ: (6) Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. (7) Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy? (8) Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người, thì khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức (Dt 12,6-8). Các vị thánh đều cảm nhận được sự rèn luyện và thử thách này một cách rất rõ ràng. Vì thế, ta đừng nản lòng nếu cầu xin mà không được Thiên Chúa nhận lời. Có thể vì yêu thương và muốn ta trưởng thành trong đức tin mà Ngài thử thách ta đấy!
Cầu nguyện
Lạy Cha, con vui mừng và hạnh phúc biết bao khi nhận ra Cha là người cha đích thực nhất của con. Cha vừa vừa là Thiên Chúa mà cũng vừa là Cha của con. Con tin chắc chắn Cha là người yêu thương con nhất trên đời, vì thế, con xin phó thác tất cả cuộc đời con cho tình yêu của Cha. Xin cho con biết đáp lại tình yêu vô biên của Cha bằng lòng hiếu thảo đích thực của một người con, và bằng tình yêu chân thành đối với tất cả mọi người là anh chị em với con, vì họ đều là con cái Cha, cùng gọi Cha là Cha như con. Amen.
· St 18,20-32: (Khi cầu nguyện, Ápraham mặc cả với Chúa nhiều lần để xin Chúa tha phạt cho thành Xơđôm tội lỗi).
· Cl 2,12-14: (13) Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta. (14) Người đã xoá sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã huỷ bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá.
· TIN MỪNG: Lc 11,1-13
Kinh «Lạy Cha»
(1) Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: «Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông». (2) Người bảo các ông: «Khi cầu nguyện, anh em hãy nói:
Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, (3) xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; (4) xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ».
Người bạn quấy rầy
(5) Người còn nói với các ông: «Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: «Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, (6) vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả»; (7) mà người kia từ trong nhà lại đáp: «Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được?» (8) Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.
Cứ xin thì sẽ được
(9) «Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. (10) Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. (11) Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? (12) Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? (13) Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?»
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Trong kinh Lạy Cha, câu «Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày» có ý nghĩa gì? Có: TN 17-C62
1. Trong kinh Lạy Cha, câu «Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày» có ý nghĩa gì? Có phải mỗi lần đọc là ta xin Chúa ban cho ta được đầy đủ lương thực trong mọi ngày suốt đời ta không?
2. Ta xin Chúa cho ta được đủ dùng. Nhưng thế nào là đủ? Những người giàu có trong xã hội đã tự cho mình là đủ chưa? Theo quan điểm của ta thì Chúa đã ban cho ta đủ những điều cần thiết chưa? hay cần phải xin thêm cho đủ?
3. Được dư thừa của cải trong đời sống có phải là điều tốt không? Nó có thể đem lại nguy cơ gì? Cần làm gì khi ta được Chúa ban cho giàu có?
Suy tư gợi ý:
1. Kinh Lạy Cha, một công thức để cầu nguyện
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học sơ đẳng về cầu nguyện, chủ yếu là khẩu nguyện (bằng miệng), hay cầu nguyện theo công thức có sẵn. Ngoài cầu nguyện bằng miệng theo công thức có sẵn, còn có nhiều cách cầu nguyện khác cao hơn, như cầu nguyện tự phát, cầu nguyện bằng tư tưởng, bằng tâm tình, bằng hành động, bằng ý thức, chiêm niệm, kết hợp thần bí, v.v… Kinh «Lạy Cha» là một công thức làm sẵn do chính Đức Giêsu lập nên để giúp ta cầu nguyện.
2. Ngày nào xin lương thực cho ngày nấy và chỉ xin đủ dùng
Có nhiều ý tưởng tuyệt vời trong kinh Lạy Cha. Nhưng bài chia sẻ này chỉ bàn đến một ý tưởng trong kinh đó là: ngày nào thì xin lương thực đủ cho ngày nấy. Ý tưởng này trong bản kinh cũ (do các cố Tây dịch) là: «Xin cho chúng con được hằng ngày dùng đủ», và trong bản kinh phụng vụ hiện nay là: «Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày». Tôi nghĩ, để dịch cho thật sát nghĩa câu «Panem nostrum quotidianum da nobis hodie» trong kinh Pater noster bằng La ngữ, thiết tưởng có thể dịch là «Hôm nay, xin ban cho chúng con bánh của mỗi (= từng, một) ngày». Tinh thần của câu này là: ngày hôm nay, ta chỉ xin Chúa ban cho ta đủ lương thực của ngày hôm nay mà thôi. Không xin cho ngày mai hay tuần sau, vì ngày mai ta sẽ lại xin đủ dùng cho ngày mai. Nghĩa là ngày nào xin cho ngày nấy và chỉ xin đủ dùng cho ngày nấy, chứ không xin một lần cho suốt cả cuộc đời. Khi đọc kinh Lạy Cha hằng ngày, thiết tưởng ta nên thấm nhuần và thực hành nhuần nhuyễn ý tưởng này.
Khi đọc câu trên trong kinh Lạy Cha, nếu tinh ý ta sẽ nhận ra ngay tinh thần phải có là phó thác cho Thiên Chúa những nhu cầu riêng của mình từng ngày một. Đương nhiên Thiên Chúa cũng đòi hỏi ta phải cộng tác trong việc thỏa mãn những nhu cầu ấy, bằng việc làm ăn sinh sống, bằng sự cật lực làm việc, chứ không phải «há miệng chờ sung». Thông thường, lòng tham khiến ta muốn xin «một lần cho tất cả», xin cho được đầy đủ suốt cả đời, và cũng muốn xin cho được dư dật chứ không chỉ đủ dùng.
3. «Biết đủ» thì mới có thể hạnh phúc
Thật ra muốn hạnh phúc, ta phải có tinh thần «biết đủ», tương tự như tinh thần của Nguyễn Công Trứ: «Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc?» (=biết đủ thì đã đủ rồi, chờ cho đủ thì biết đến bao giờ mới đủ?) Thiên Chúa thường ban cho ta khá đầy đủ, nhưng vì ta không có tinh thần «biết đủ», nên ta vẫn thấy thiếu, chẳng mấy khi thấy đủ. Một khi cho rằng mình thiếu thì ta chẳng hạnh phúc mà chỉ thấy đau khổ. Chỉ khi cho rằng mình đã đủ, ta mới cảm thấy hạnh phúc.
Viết tới đây, tôi nghĩ tới câu chuyện một ông vua kia, tuy rất giàu có nhưng vẫn thấy mình thiếu thốn và đau khổ. Ông cầu xin vị thần của ông cho ông được hạnh phúc. Vị thần nói: Nếu ông tìm được chiếc áo lót của người nào tự cho rằng mình hạnh phúc nhất đời mà mặc vào, thì ông sẽ hạnh phúc. Ông bèn ra lệnh cho các quan tìm cho ra người ấy. Nhưng những người có sứ mệnh đi tìm, đã hỏi thăm đủ mọi người – từ ông tể tướng đến những người dân quèn, từ những thương gia giàu nhất nước đến những phường khố rách áo ôm – ai ai cũng đều than rằng đời mình chẳng mấy khi hạnh phúc, mà có quá nhiều đau khổ. Sau nhiều tháng ròng rã tìm kiếm, cuối cùng quân lính tình cờ thấy một nông dân nghèo, dáng vẻ thanh thản và vui tươi, hát nghêu ngao mấy câu đại ý cho rằng mình là người sung sướng nhất đời. Thế là họ đè ngay anh ta ra để lột lấy chiếc áo lót. Nhưng tiếc thay, anh ta nghèo đến nỗi không có áo lót! – Như vậy, ông vua tuy giàu có nhất nước nhưng không «biết đủ», nên vẫn thấy mình thiếu và đau khổ. Còn anh nông dân kia tuy rất nghèo, nhưng tự cho rằng mình được Trời ban như hiện nay là đã quá đủ, nên anh luôn luôn thấy mình hạnh phúc.
Vì thế, khi đọc kinh Lạy Cha đến câu «Xin cho chúng con được hằng ngày dùng đủ», tâm trí tôi thường thầm nguyện rằng: «Xin cho con biết cho là đủ những gì Cha ban cho con». Và trong thực tế, tôi thường thấy rằng Ngài đã ban cho tôi nhiều hơn mức mà tôi cho là đủ. Thật vậy, nếu so sánh cuộc sống của tôi với vô số những người nghèo khổ hơn, tôi thấy mình đầy đủ hơn họ nhiều. Đó là lý do khiến tôi thường hạnh phúc.
4. Đừng ham dư: dư thừa thường có hại hơn thiếu thốn
Vì của cải vật chất có hạn, nên khi ta dư dả hơn mức trung bình thì điều đó có nghĩa là phải có người vì ta dư dả mà họ bị thiếu thốn. Nói cụ thể cho dễ hiểu: nếu 10 người có tất cả 10 triệu, thì trung bình mỗi người có 1 triệu, và với 1 triệu thì ai cũng đủ. Nếu ta có 2 triệu, thì 9 người còn lại chỉ có 8 triệu (tức mỗi người 8/9 triệu, ít hơn mức trung bình một chút, nên hơi thiếu). Nếu trong 9 người ấy có người có tới 3 triệu, thì ắt 8 người còn lại chỉ có 5 triệu (tức mỗi người 5/8 triệu, nghĩa là dưới mức trung bình rất nhiều, nên rất thiếu thốn). Do đó, ta càng dư giả thì tất nhiên càng có người thiếu thốn. Vì thế, người có tình thương đích thực không ham dư dả trên mức trung bình, mà chỉ cần vừa đủ dùng cho mình. Nên khi đọc kinh Lạy Cha, họ chỉ xin cho mình được đủ dùng mà thôi.
Người ham muốn được dư dả thường cố gắng vun vén hay tập trung của cải về cho mình, có thể bằng những phương tiện chính đáng, nhưng họ sẽ thường bị cám dỗ sử dụng những phương tiện không chính đáng. Nếu ham giàu quá mức, họ dễ trở thành người coi vật chất trọng hơn tình cảm, tiền bạc hơn con người, lương tâm sẽ trở nên lệch lạc, đời sống tâm linh bị thiệt hại nặng nề. Người có đời sống tâm linh cao thường đã từ bỏ được ham muốn này, vì nó trái ngược với đức thanh bần và tinh thần siêu thoát mà một người thánh thiện luôn luôn phải có.
Đừng ham muốn dư dả về vật chất, vì khi quá dư dả vật chất, như đã nói trên, ta có thể vô tình khiến có những người trở nên thiếu thốn. Hiện nay, trong lãnh vực y tế và sức khỏe, người ta khám phá ra rằng nếu ăn quá nhiều đến mức dư thừa chất bổ, chất bổ ấy sẽ biến thành chất độc làm cơ thể suy yếu hoặc bệnh tật. Trong lãnh vực tâm linh cũng tương tự như vậy: của cải dư thừa quá có thể làm hại tâm hồn con người, làm tâm hồn con người suy yếu và bệnh hoạn.
Tuy nhiên, sự dư dả không tác hại trên con người cho bằng tính ham dư dả. Người ham dư dả, ham giầu có thì nghèo cũng khổ mà giầu cũng khổ. Nghèo thì buồn bực vì lòng ham muốn không thành. Còn giàu thì lo gìn giữ của cải, sợ bị mất, khiến cho lòng không thanh thản, và một khi bị mất thì vô cùng đau khổ. Người có nhiều tiền tuy về mặt xã hội thường trở nên mạnh mẽ hơn như người ta vẫn nói: «mạnh vì gạo, bạo vì tiền», nhưng về mặt tâm linh sẽ trở nên yếu hơn rất nhiều. Vì phải lo bảo vệ những gì mình đang có, nhiều khi họ trở nên hèn nhát, sẵn sàng im lặng trước bất công, không dám bênh vực cho lẽ phải, cho sự thật. Sự tai hại của sự dư dả vật chất đã được Đức Giêsu xác quyết: «Người giàu có khó vào Nước Trời. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa» (Mt 19,23-24). Vì thế, là người theo Đức Giêsu, chúng ta chỉ cần đủ, không nên ham được dư thừa. Hãy tập biết chia sẻ để những người thiếu thốn cũng được đầy đủ. Nhờ đó tâm linh ta mới mạnh mẽ lên.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con vẫn xin Cha ban cho con được «hằng ngày dùng đủ», nhưng con lại rất vô tình trước sự thiếu thốn của những người nghèo khổ chung quanh con. Xin cho con khi đọc kinh Lạy Cha, khi xin cho mình được «dùng đủ», thì cũng sẵn sàng hy sinh và cộng tác với Cha để đem lại sự «dùng đủ» cho mọi người.
Bất cứ một tôn giáo nào cũng có một hình thức cầu nguyện nào đó. Và lời kinh là phương thế để: TN 17-C63
Bất cứ một tôn giáo nào cũng có một hình thức cầu nguyện nào đó. Và lời kinh là phương thế để các tín hữu, tín đồ dùng để cầu nguyện, để họ đi vào liên lạc mật thiết với Đấng họ tôn thờ, yêu mến. Các môn đệ và tông đồ của Chúa Giêsu sau những năm đi theo Chúa, vẫn không biết phải cầu nguyện làm sao. Do đó, họ khẩn khỏan nài xin Chúa Giêsu dậy họ cầu nguyện. Chúa Giêsu đã dậy họ kinh lạy Cha.
CÁC MÔN ĐỆ CHẲNG BIẾT PHẢI CẦU NGUYỆN THẾ NÀO ?:
Vẫn biết cầu nguyện là điều cần thiết tromg cuộc đời của mình khi các môn đệ dấn thân đi theo Chúa Giêsu, nhưng ông vẫn chưa biết phải cầu nguyện thế nào? Tuy, các ông đã được chiêm ngắm Chúa Giêsu cầu nguyện và Chúa Giêsu luôn đặt ưu tiên đời sống của Ngài: “ cầu nguyện “. Chúa Giêsu đã vào sa mạc 40 đêm ngày để ăn chay, cầu nguyện và tạ ơn Thiên Chúa Cha. Chúa đã dành nhiều giờ để vào nơi thanh vắng cầu nguyện và tâm sự với Cha của Ngài sau mỗi lần rao giảng, làm phép lạ. Chúa đã thức thâu đêm cầu nguyện và hỏi ý Chúa Cha trước khi tuyển chọn các môn đệ. Trong ba năm rao giảng, rầy đây mai đó, Chúa Giesu đã dành rất nhiều thời giờ để trò chuyện, thân tình tâm sự với Thiên Chúa Cha bằng lời cầu nguyện. Các môn đệ đã chứng kiến Thầy mình luôn yêu thích cầu nguyện, luôn tỏ ra việc tối quan trọng trong đời sống là cầu nguyện.
Chính vì thế, một bữa kia các ông đã mạnh dạn xin Chúa Giêsu dậy các ông cầu nguyện. Chúa Giêsu đã dậy các môn đệ kinh lạy Cha. Chúa không ngần ngừ và không dậy bất cứ một lời kinh cầu nguyện nào nữa ngọai trừ kinh lạy Cha. Trong kinh lạy Cha, Chúa dậy các môn đệ thưa với Thiên Chúa là Cha của mình. Lời thưa với Thiên Chúa” Abba” là Cha chứng tỏ Thiên Chúa nhân từ và đầy lòng xót thương. Danh xưng Thiên Chúa là Cha không chỉ phổ thông trong dân tộc Do Thái. Vì trong Cựu Ước, nhờ giáo huấn của các ngôn sứ, dân Do Thái gọi Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa là Cha của mọi người, của tòan dân. Các dân tộc vùng Tiểu Á cũng gọi các thần linh của họ là Cha. Tuy nhiên, danh xưng Thiên Chúa là Cha mà Chúa Giêsu đã dậy cho các môn đệ trong kinh lạy Cha, hoàn toàn khác biệt với dân Do Thái gọi các thần linh của họ là Cha. Đây là tiếng thông dụng trẻ Do Thái thường gọi Cha của mình. Nên, tiếng Abba trong kinh lạy Cha:” Cha, ba ơi “ là mạc khải của Chúa Giêsu cho các môn đệ và nhân lọai và là lời tuuên tín của các môn đệ, của người Kitô hữu, của Hội Thánh do Chúa Giêsu thiết lập, kêu lên với Thiên Chúa.
LỜI KINH LẠY CHA CÓ Ý NGHĨA GÌ ĐỐI VỚI CÁC MÔN ĐỆ VÀ ĐỐI VỚI HỘI THÁNH, ĐỐI VỚI CHÚNG TA:
Được Chúa Giêsu dậy kinh lạy Cha. Các môn đệ đã sốt sắng cầu nguyện hằng ngày và suốt cuộc hành trình truyền giáo của mình bằng kinh lạy Cha. Các Ngài coi đó là kim chỉ nam cho đời sống Kitô của mình, đời sống tông đồ của mình. Hội Thánh luôn dùng kinh lạy Cha như là hơi thở của lời cầu nguyện. Chúng ta đã cầu nguyện, đã đọc kinh lạy Cha nhiều lần và có thể hằng ngày đọc kinh lạy Cha, nhưng chúng ta đã có thái độ thế nào ? Chúng ta đọc một cách máy móc hay đã cầu nguyện hết mình, hết tâm tình như Chúa Giêsu? Chúng ta đã cầu nguyện có hồn hay lơ là ? Chúng ta đã đặt hết tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha, đã đi vào quan hệ mật thiết với Chúa Cha như người con ngoan hiền đi tới với cha của mình để trình bầy, để tâm sự, để giải tỏ những nỗi niềm của mình hay chưa ? Kinh lạy Cha do Chúa Giêsu dậy, giúp chúng ta phải cầu nguyện thế nào, cầu nguyện làm sao ? Chúng ta phải xin điều gì trước, điều gì sau. Chúng ta nên làm những điều gì và nên tránh những điều gì ?
Chúa luôn dậy chúng ta khi cầu nguyện phải kiên trì và tin tưởng . Tin Mừng hôm nay ngoài việc Chúa dậy các môn đệ cầu nguyện bằng kinh lạy Cha, Chúa Giêsu lại đưa ra dụ ngôn:” Xin bánh ban đêm “ để dậy chúng ta phải có thái độ kiên trì, nhẫn nại trong khi cầu nguyện. Sở dĩ Chúa muốn như thế vì Ngài muốn củng cố đức tin và xem đức tin chúng ta ra sao ? Đức tin của chúng ta có vững chắc hay hời hợt, thiếu kiên trì, thiếu kiên nhẫn. Khi chúng ta cầu xin, Chúa luôn nghe lời chúng ta, nhưng ban lại là cách khác của Ngài. Chúa thấy điều gì cần Ngài sẽ ban cho chúng ta theo ý định của Ngài. Do đó, điều chúng ta xin mà không được không phải Chúa không nhậm lời nhưng Ngài thấy điều gì cần hơn, Ngài ban cho trước. Điều quan trọng nhất là khi chúng ta cầu nguyện chúng ta luôn luôn phải tin tưởng, cậy trông và phó thác cho tình thương quan phòng của Chúa.
Xin Chúa củng cố đức tin cho chúng ta để chúng ta biết sống và cầu nguyện, biết kiên trì, cậy trông và phó thác vào tình yêu vô biên cao vời của Thiên Chúa. Amen.
Cầu nguyện là một nhu cầu đặc biệt. Tôn giáo được lập ra để đáp ứng nhu cầu căn bản và lớn: TN 17-C64
Cầu nguyện là một nhu cầu đặc biệt. Tôn giáo được lập ra để đáp ứng nhu cầu căn bản và lớn lao đó. Cầu nguyện là một hành vi cao cả nhất của con người và đặc tính xác định bản chất và giá trị con người. Tất cả tinh túy Kitô giáo đều tìm thấy trong lời kinh “Lạy Cha …” (Lc 11:2)
CẦU NGUYỆN LÀ LẼ SỐNG.
Đức Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện. Nói khác, chính Chúa đã dẫn các môn đệ đi vào tương giao sâu xa với Chúa Cha. Khi đã bắt được tương quan sâu xa đó, họ sẽ không còn thấy một cản trở nào và cũng chẳng cần một trung gian nào nữa. Sự thánh thiện không làm Chúa xa lạ với những nhu cầu con người. Quyền năng tuyệt đối không khiến Người độc đoán và cao ngạo trước số kiếp lầm than của nhân loại. Vấn đề là con người có dám thưa “lạy Cha” với Đấng Tạo Hóa hay không. Càng gần Thiên Chúa, con người càng thánh thiện vì “danh Người thật chí thánh chí tôn.” (Lc 1:49) Sự thánh thiện của tín hữu làm vinh danh Thiên Chúa, vì phản ánh vinh quang Thiên Chúa. Chính vinh quang đó đã chiếu tỏa mãnh liệt trên dung nhan Đức Giêsu, Đấng khai mạc triều đại Thiên Chúa. Bởi vậy, xin cho “Triều Đại Cha mau đến,” (Lc 11:2b) nghĩa là xin cho ơn cứu độ mau thành tựu nơi nhiệm thể Đức Giêsu.
Đó là chiều kích cánh chung của kinh “Lạy Cha”. Chiều kích cánh chung phải gắn liền với chiều kích “hôm nay” (Lc 19:9 tt) với những nhu cầu rất thực tiễn của cuộc sống cộng đoàn và cá nhân. Quả thế, thực tế chừng nào khi Chúa dạy chúng ta “xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy.” (Lc 11:3) Lời cầu nguyện phát xuất từ niềm tin. Niềm tin không xa rời thực tế để chỉ cắm chặt vào những thực tại trên trời. Trái lại, niềm tin cho thấy ngay cả những nhu cầu hiện tại con người cũng tùy thuộc vào lòng từ bi và quyền năng Cha trên trời. Bởi thế, cầu xin Cha ban cho lương thực hằng ngày là điều hợp lý.
Phải chăng lương thực hằng ngày chỉ đáp ứng cho những nhu cầu cấp bách ? Nếu thế, làm sao con người bắt kịp tốc độ triều đại Chúa đang đến ? Quả thực, cần phải có một thứ lương thực tương lai, tức là Thánh Thể, để con người có thể nếm trước và nhập tiệc cánh chung với Chúa. Cả hai thứ lương thực trần gian và thiên quốc đều cần thiết cho cuộc sống hiện tại và tương lai. Tình yêu Thiên Chúa tràn ngập trong những lương thực này. Thiên Chúa lo lắng cho cuộc sống con người. Người muốn con người thực sự hạnh phúc ngay trong phút giây hiện tại. Hạnh phúc đó không dừng lại trong hiện tại và phải vượt qua ranh giới cánh chung, để tìm đến hạnh phúc đích thực trong Thiên Chúa. Chỉ có lương thực tương lai mới bảo đảm những bước tiến đó mà thôi. Không có lương thực tương lai, lương thực hiện tại hoàn toàn bất lực trong việc chuẩn bị con người nhập tiệc vui với Chúa.
Căn cứ vào đâu biết Thiên Chúa lo lắng đến tương lai chúng ta ? Nếu Người không lo lắng đến hạnh phúc con người, chắc chắn không bao giờ Người được gọi là “Cha”. Đúng hơn, Người vượt trên mọi người cha trần gian trong việc thi thố tình yêu đối với con cái. Đức Giêsu quả quyết: “Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao ?” (Lc 11:13) Chỉ những người có đức tin mới có thể thấy được sức nặng của lời quả quyết đó. Quả thực, đức tin mạc khải rõ Cha quan tâm sâu xa đến nhu cầu đời sống hằng ngày của mỗi người chúng ta.
Nhưng tình yêu Thiên Chúa không chỉ thể hiện qua lương thực hằng ngày, dù là vật chất hay thiêng liêng. Tình yêu Chúa chính là sức mạnh cứu độ. Cứu độ có nghĩa là tha thứ. Chính vì thế, Đức Giêsu không quên dạy chúng ta xin Cha “tha tội cho chúng con.” (Lc 11:4) Đây là một lời cầu xin quan trọng. Vì nếu không được tha thứ, chúng ta vẫn còn là thù địch của Thiên Chúa. Như thế, làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc ? Không có Chúa, chúng ta sẽ hoàn toàn mất bình an. Chính vì thế “Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta.” (Cl 2:13) Một bằng chứng rõ ràng là “Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Kitô.” (Cl 2:13) Nói khác, Thiên Chúa đã giao hòa với chúng ta trong Con Một Chí Aùi Người.
Nhưng cuộc giao hòa này không chỉ có một chiều. Nói khác, không thể xin Cha tha thứ nếu chính chúng ta không tha thứ cho anh em. Bởi vậy, sau khi “xin tha tội cho chúng con”, chúng ta phải thưa ngay: “vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con.” (Lc 11:4) Cuộc sống hằng ngày với những tương quan chằng chịt lại có sức tạo một nền tảng vững chắc cho lời cầu xin tha thứ tự trời cao. Hai chiều ngang dọc liên đới với nhau trong một huyền nhiệm tình yêu tuyệt vời. Tinh thần Kitô hữu không thể rời xa mối liên đới sâu xa đó.
Sau cùng, trước những hiểm nguy tiến về nhà Cha, con người không thể không cần đến sức mạnh cứu độ của Chúa. Đức Giêsu chính là sức mạnh đó. Thực tế, chúng ta “đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi đậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết,” (Cl 2:12) Chỗi dậy với Người tức là thoát ách tử thần mà bước vào cõi hằng sống. Đó là cơn thử thách lớn nhất con người không thể vượt qua được nếu không nhờ sức mạnh Chúa Thánh thần. Chính vì thế, Đức Giêsu mới quả quyết Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người (Lc 11:13) . Thánh Thần là bảo đảm lớn nhất và vững chắc nhất cho những ai đang đặt tất cả niềm hi vọng nơi Thiên Chúa.
Nhưng muốn lãnh nhận được Thánh Thần, cần phải kiên trì cầu nguyện hằng ngày. Lời cầu xin hằng ngày cũng là một thách đố lớn. Không phải lúc nào cũng đón nhận kết quả mau lẹ như ý muốn. Nhiều khi kéo dài hằng mấy chục năm. Điển hình là trường hợp thánh nữ Monica. Nhờ ơn Chúa, thánh nữ đã vượt qua thử thách đó và đã chứng kiến sức mạnh lời cầu nguyện nơi Augustinô. Chắc chắn thánh nữ đã hiểu rõ dụ ngôn về người bạn quấy rầy và lì lợm trong Tin Mừng Lc 11:5-8. Chúa quá yêu thương chúng ta, không thể cầm lòng nổi trước tiếng nài van khẩn thiết của đoàn con bé mọn. Khác hẳn với các người cha trần gian, Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng. Tình yêu đó đã hoạt động mãnh liệt ngay từ Giáo hội tiên khởi. Thánh Thần là một bảo chứng lớn lao của tình yêu đó và là một tặng phẩm tuyệt vời Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội.
Giáo hội tiên khởi may mắn được Mẹ Maria hợp lực nài xin Chúa sai Thánh Thần. Các tông đồ đã xác tín tuyệt đối vào lời Chúa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho.” (Lc 11:9) Chúa đã nhận lời Đức Mẹ và các tông đồ vì các ngài là những người công chính. Sự công chính là một sức mạnh kéo Thiên Chúa chú ý đến lời cầu nguyện. Từ xưa, Abraham cũng đã được Chúa lắng nghe vì là người công chính. Lời cầu nguyện của ông giống như một sự mặc cả. Từ con số năm mươi người lành, ông đã rút dần xuống mười người để cứu vãn thành Xơđôm. Thật là đơn sơ và chân thành ! Không ngờ Chúa cũng chấp nhận tất cả những đề nghị của ông Abraham. Ngày nay, nếu có phải “mặc cả”, chúng ta không mất công “cò kè bớt một thêm hai” như kiểu Abraham. Chúng ta đã có một thế lực rất lớn là giá máu Thánh Tử Chí Aùi là Đức Giêsu. Đức Giêsu là người công chính. Người công chính nói gì Chúa cũng lắng nghe. Bao lâu sống bất chính và bất công, chúng ta không xứng đáng dâng lên Chúa một lời nguyện nào, chứ đừng nói đến chuyện được Chúa chấp nhận. Thánh Phaolô đã vạch trần sự thật: “trước kia, anh em là những kẻ chết vì anh em đã sa ngã.” (Cl 2:13) Nhưng giờ đây “Người đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta. Người đã hủy bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá.” (Cl 2:14) Thế là chúng ta an tâm khi dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa.
CỘNG ĐỒNG CẦU NGUYỆN.
Lời cầu nguyện được thốt lên từ lòng người và trong cộng đồng. Con người được kêu gọi để làm thành những cộng đồng cầu nguyện, tức là tôn giáo. Càng cầu nguyện, càng thấy mình phải hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Cá nhân hay tập thể đều thấy mức độ lệ thuộc lớn lao đó. Đứng trước nhan Chúa, cá nhân có những ưu thế hơn tập thể, vì có thể chìm sâu trong tương quan vô tận với Thiên Chúa. Nhưng cá nhân vẫn cảm thấy thiếu thốn và cần đến chiều kích cộng đồng trong lời cầu nguyện. Bởi đấy, trong lời kinh Lạy Cha, Đức Giêsu đã dạy chúng ta phải cầu nguyện trong thế liên kết với anh em. Nói khác, người ta không thể đọc kinh Lạy Cha trong tư thế cá nhân. Cầu nguyện Kitô giáo luôn mang tính cộng đồng. Dù cầu nguyện một mình, người tín hữu cũng đọc: “Lạy Cha chúng con …” Đúng hơn, Giáo hội là một cộng đồng cầu nguyện với Thiên Chúa. Cộng đồng có nhiều cách sống niềm tin. Nhưng cầu nguyện là cách thể hiện niềm tin mãnh liệt nhất của cộng đồng.
Ngày nay cộng đồng niềm tin đang bị cản trở cầu nguyện dưới mọi hình thức. Khi không tôn trọng tự do tôn giáo, các chính quyền độc tài đã khinh thường và chà đạp nhân phẩm con người. Tôn giáo là cao điểm của mọi hoạt động nhân loại. Tôn giáo nâng cao con người trên vạn vật. Chỉ con người mới có tôn giáo. Nói khác, nếu không có tôn giáo, con người hoàn toàn giống con vật với những nhu cầu trước mắt mà thôi. Bởi thế, “tự do tôn giáo là một trong những cách diễn tả cao độ nhất lòng kính trọng nhân phẩm con người.” (CWNews 23/7/2001) Không tôn trọng tự do tôn giáo, các giá trị khác sẽ bị đe dọa trầm trọng.
Tôn giáo không tách rời khỏi cuộc sống và không phải là một cản trở bước tiến nhân loại. Trái lại, càng sống niềm tin tôn giáo, người ta càng cảm thấy liên đới và thấy rõ hướng tiến của nền văn minh. Thực vậy, có lẽ vì thấm nhuần tinh thần Kinh Lạy Cha, “Hoa Kỳ đã nêu gương trong việc xóa nợ cho 18 nước Phi châu.” (Tổng thống Abdoulaye Wade, Senegal, CWNews 24/7/2001) Theo Tổng thống Wade, “các nước giàu đang bắt đầu lắng nghe những đòi hỏi thúc bách của những nước nghèo. Đến lượt mình, các nước trong thế giới thứ ba phải có những cam kết cụ thể nhập cuộc vào tiến trình toàn cầu hóa.” (CWNews 24/7/2001) Tiến trình toàn cầu hóa phải làm cho mọi người liên đới với nhau trong trách nhiệm và quyền lợi như Kinh Lạy Cha đã vạch ra. Nếu không liên đới như thế, nhân loại sẽ không tránh được tai họa tự hủy diệt. Đó là sự dữ lớn nhất chúng ta phải cầu xin hằng ngày.
Con đường dẫn tới sự dữ đó chính là cám dỗ đang vây bọc quanh ta. Bởi đấy chúng ta không ngừng thưa với Chúa: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.” (Lc 11:4) Cám dỗ là sản phẩm của “văn minh sự chết”, đối nghịch với “văn minh sự sống”. Trước những cám dỗ thời đại như việc tạo sinh vô tính con người hay cuộc nghiên cưú lấy tế bào gốc từ phôi thai người, chúng ta phải cầu nguyện cùng Cha trên trời ban cho nhân loại khả năng liên đới với nhau để xây dựng “nền văn minh sự sống”. Hiện tại, “nền văn minh sự sống” đang gặp nhiều vấn đề. Trong niềm tin, Kitô hữu xác tín rằng “Đức Giêsu Kitô là giải pháp duy nhất giải quyết những vấn đề thế giới hôm nay. Tin Mừng là liều thuốc chữa trị những khủng hoảng của một xã hội đầy ‘tự mãn và thất vọng’, và đó cũng là nguồn gốc phát sinh một ‘cuộc cách mạng văn hóa’ cần thiết cho việc phát triển các dân tộc Miền Nam thế giới.” (CWNews 24/7/2001) Nhưng giải pháp duy nhất đó chỉ đến với nhân loại khi tất cả đều nhất trí cầu nguyện: “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến” (Lc 11:2) nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ duy nhất của toàn thể nhân loại. Maranatha ! Lạy Chúa, xin mau đến !
Để cố gắng giúp những người hiểu cầu nguyện một cách thích đáng hơn, người ta thường đưa ra: TN 17-C65
Để cố gắng giúp những người hiểu cầu nguyện một cách thích đáng hơn, người ta thường đưa ra lời khuyên: đừng nghĩ cầu nguyện chỉ có nghĩa là xin xỏ, nhưng cầu nguyện là chúc tụng, tạ ơn, xin tha thứ tội lỗi và xin ơn. Tuy nhiên, theo mạch văn của bài Tin Mừng hôm nay, ta có cảm tưởng Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh đến một khía cạnh rất “bình dân” của cầu nguyện: cầu nguyện là cứ xin sẽ được!
1) “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện”
Ta không lấy làm lạ khi thấy môn đệ tới xin Chúa dạy cho biết cách cầu nguyện. Thánh Lu-ca ghi lại rằng trước khi môn đệ ấy đến, thì “có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia”. Có quá nhiều lần và quá nhiều nơi Chúa đã cầu nguyện, do đó thánh sử không sao nhớ nổi nên mới viết “có một lần” và “ở nơi kia”. Đối với Chúa, cầu nguyện lúc nào và ở đâu không còn là vấn đề, vì đó là lẽ sống của Người. Nhưng đối với người môn đệ, lần này và ở đây rất quan trọng, là thời điểm để anh ta quyết định thay mặt tất cả anh em môn đệ đến thưa với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện.” Anh xin Chúa điều ấy sau khi đã chứng kiến Chúa cầu nguyện. Có thể anh không nghe được Chúa đã nói lên điều gì khi cầu nguyện, nhưng chắc chắn phong thái của Chúa khi Người cầu nguyện đã làm cho anh phải suy nghĩ, so sánh với những kinh nghiệm cầu nguyện anh đã học được hoặc nghe được từ đâu đó và anh đã khám phá thấy có một điều gì vô cùng đặc biệt về việc cầu nguyện của Chúa Giê-su.
Tin Mừng thánh Gio-an đã cho ta một vài dịp nghe những lời cầu nguyện của Chúa Giê-su dâng lên Chúa Cha (Ga 11:41-42; 12:27-28) và nhất là chương 17 mà các học giả Kinh Thánh không ngần ngại gọi đó là kinh Lạy Cha mẫu dài. Những lời cầu nguyện của Chúa Giê-su nói lên quan hệ mật thiết giữa Người với Thiên Chúa và nhân loại. Kinh Lạy Cha Người dạy các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay cũng mang cùng một hình thức là nói lên quan hệ mật thiết giữa ta với Thiên Chúa và tha nhân. Trong quan hệ với Thiên Chúa là Cha, trước hết ta nói với Thiên Chúa về những gì thuộc về Người. Là con thảo, ta cũng phải để tâm tới những gì Cha mình quan tâm, như danh thánh Người được rạng sáng hơn và vương quốc tình yêu của Người được rộng mở hơn. Rồi ta cũng nhìn về mình, nói với Cha về mình và về những nhu cầu mình có. Nhu cầu vật chất như “lương thực hằng ngày”, nhu cầu phần hồn như ơn tha thứ cho tội lỗi ta và việc ta cần phải tha thứ cho tha nhân, nhất là được sức mạnh để thắng vượt thử thách cám dỗ. Trong quan hệ với anh chị em, ta lưu ý tới một điểm quan trọng nhất, đó là làm sao duy trì được tình yêu thương đối với nhau. Do đó, ta lấy gương mẫu của Thiên Chúa tha thứ cho ta để sống mà tha thứ cho anh chị em.
Đã là mối quan hệ đích thực thì bao giờ cũng sống động và có thể biểu lộ dễ dàng. Vì thế nếu cầu nguyện là sống chính mối quan hệ ấy, thì việc cầu nguyện không còn phải là điều gượng ép hay tùy trường hợp nữa, mà là một dòng sống luân lưu giữa ta với Chúa và với tha nhân. Ta lấy thí dụ từ Tin Mừng Gio-an 12:27-28 để hiểu cầu nguyện là một điều tự nhiên trào dâng tự tâm hồn. Đang nói với các môn đệ thì Chúa Giê-su hướng về Chúa Cha và cầu nguyện: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”.
2) Cầu nguyện như “người bạn quấy rầy”
Chúa Giê-su đã dạy ta phải nói gì khi cầu nguyện, nhưng Người cũng chỉ cho ta một phương thức cầu nguyện: quấy rầy Thiên Chúa. Cách sắp đặt hai đoạn kế tiếp kinh Lạy Cha, tấm gương người bạn quấy rầy và lời khuyên cứ xin thì sẽ được, khiến ta hiểu đây là những phân đoạn của bài học về cầu nguyện.
Chúa Giê-su dạy bằng thí dụ thực tế. Người không thích những mỹ từ như kiên trì, khiêm tốn, vô vị lợi... để mô tả những cách thức ta phải có khi cầu nguyện. Nhưng Người lấy một hình ảnh cụ thể từ kinh nghiệm sống thường ngày: một người bạn quấy rầy. Ta cứ lấy kinh nghiệm cá nhân để hiểu quấy rầy là gì. Ta vừa mới chợp mắt, điện thoại kêu reng reng. Đầu giây đằng kia là một người bạn cần hỏi ta điều gì đó. Ta bực mình vì bị quấy rầy, nhưng cũng ráng mà trả lời kẻo người bạn ấy lại kêu nữa.
Nhưng đã gọi là bạn, thì quấy rầy không còn phải là quấy rầy nữa, trái lại quấy rầy chỉ là một trong những cách biểu lộ tình bạn. Trong thí dụ Chúa Giê-su kể, ta thấy ai cũng là bạn cả. Người bị quấy rầy và người bạn quấy rầy là bạn với nhau. Người bạn quấy rầy lại có thêm một người bạn lỡ đường nữa. Thế là qua người bạn quấy rầy, người bạn lỡ đường đã nghiễm nhiên là bạn của người bị quấy rầy! Tình bạn nào cũng ràng buộc con người lại với nhau để chia sẻ giúp đỡ nhau. Câu truyện đơn sơ của Chúa Giê-su diễn tả sâu xa mối quan hệ giữa Thiên Chúa với ta và với anh chị em. Cầu nguyện phải dựa trên mối quan hệ ấy và phải nói lên được mối quan hệ ấy.
3) Thiên Chúa nhận lời cầu xin của ta
Khi đã đặt cầu nguyện trên nền tảng là mối quan hệ rồi, ta không còn phải lo lắng gì về hiệu quả của cầu nguyện nữa. Cho dù cầu nguyện có là cầu xin đi nữa thì Thiên Chúa cũng sẵn sàng nhậm lời, nếu ta thực sự sống mối quan hệ cha con và mối quan hệ ấy không bị thương tổn do những xin xỏ không hợp lý. Trong quan hệ ấy, chính ta có thể ý thức được đâu là những nhu cầu thực và đâu là những nhu cầu giả. Cũng trong quan hệ ấy, Chúa thấy điều gì ta xin thực sự có ích cho ta và điều gì có hại cho ta. Một khi lấy mối quan hệ làm tiêu chuẩn để xét thực giả, có ích có hại, ta sẽ hiểu được lòng yêu thương của Cha và sẽ không bao giờ kêu trách Cha là không nhậm lời ta cầu xin. Trái lại, ta có thể nhận ra thay vì cho ta điều ta xin, Cha còn cho ta điều tốt nhất, hơn cả điều ta xin, đó là Thánh Thần, ân huệ tuyệt hảo của Thiên Chúa.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi đã nghe và học hỏi nhiều về cầu nguyện. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay đem lại ánh sáng nào cho tôi về cầu nguyện?
Tôi đã cầu nguyện trong mối quan hệ, tức là về cả hai phía giữa tôi với Chúa và tha nhân, hay chỉ đơn phương về phía tôi?
Đôi khi tôi cầu nguyện như một người quấy rầy “dễ thương” theo gương ông Áp-ra-ham (St 18:20-32), hay như một người quấy rầy khó chịu?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa, con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ đi vào sa mạc để ở bên Chúa và trò truyện với Ngài. Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con. Chỉ cần một chút cố gắng của tình yêu là con có thể tạo ra sa mạc. Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất: Khi chờ một người bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư, chờ món hàng đang được gói. Khi lên cầu thang, khi đến nơi làm việc, khi kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ. Thay vì bực bội hay nóng ruột con lại thấy mình sống an bình trong sự hiện diện của Chúa. Lạy Chúa, những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày giúp con tỉnh thức để nhạy cảm với Chúa. Xin cho con yêu mến Chúa hơn để tìm ra những sa mạc mới và vui vẻ bước vào.” (gợi hứng từ Madeleine Delbrêt)
Đoạn Kinh Thánh trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nằm ở giữa một đoạn thư (2:4-23) mà: TN 17-C66
Đoạn Kinh Thánh trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nằm ở giữa một đoạn thư (2:4-23) mà thánh Phao-lô khuyến cáo tín hữu Cô-lô-xê đừng để mình bị lôi cuốn do bất cứ giáo lý sai lạc nào. Chính bối cảnh ấy sẽ là lý do để ngài muốn nhấn mạnh đến vai trò của bí tích Rửa tội và việc Chúa Giê-su kết thúc chế đọâ Lề Luật.
Thánh Phao-lô bắt đầu với lời cảnh cáo tín hữu Cô-lô-xê đừng để mình bị lôi cuốn do một thứ giáo lý xây dựng trên nền tảng "những yếu tố của vũ trụ" (2:8), nhưng phải lớn lên bằng giáo lý xây dựng trên nền tảng là Đức Giê-su Ki-tô (1:4-8). Vậy những yếu tố của vũ trụ nghĩa là gì? Có thể thánh Phao-lô muốn nói tới những quyền lực thần thiêng được nhắc đến trong câu 15, bởi vì nếu theo giáo lý ấy, thì người ta sẽ đặt Đức Ki-tô xuống dưới những yếu tố vũ trụ. Đây là cách nhập đề Phao-lô sử dụng để chuyển sang vấn đề cốt yếu, đó là ngài phải giúp cho tín hữu Cô-lô-xê (và cả chúng ta nữa) hiểu vai trò của Đức Ki-tô: qua bí tích Rửa tội, "phép cắt bì của Đức Ki-tô," chúng ta có một đời sống mới.
Vậy sau khi đã cảnh cáo tín hữu Cô-lô-xê như thế, thánh Phao-lô nhắc nhở họ về con người và việc làm của Đức Ki-tô (2:9-15). Ngài dạy rằng bản tính Thiên Chúa có trọn vẹn nơi Đức Ki-tô và Đức Ki-tô có quyền trên mọi quyền lực thần thiêng. Tín hữu Cô-lô-xê được cắt bì bằng "phép cắt bì của Đức Ki-tô" (2:11) khi họ được mai táng và chỗi dậy với Người trong bí tích Rửa tội. Chính trong bí tích Rửa tội, họ được chia sẻ với chiến thắng của Người trên thập giá, tức chiến thắng mà Người đã "truất phế các quyền lực thần thiêng" (2:15). Nhưng các "quyền lực thần thiêng này" lại thường cám dỗ tín hữu Cô-lô-xê quy phục chúng! Và đây là nhược điểm của tín hữu Cô-lô-xê và cũng là điều thánh Phao-lô cảnh cáo họ và khuyên họ hãy nắm vững giáo lý Chúa Ki-tô.
Tiếp theo, ngài cảnh cáo họ hãy đề phòng lối sống khắc khổ (2:16-23). Đó là lối sống nào? Chúng ta không biết rõ. Nhưng nhiều người nghĩ rằng lối sống ấy là do một số người cổ võ tín hữu Cô-lô-xê hãy sống tùy thuộc vào những quyền lực thần thiêng của vũ trụ. Dù sao đi nữa, lời khuyên của thánh Phao-lô quá rõ ràng: đừng theo lối sống ấy, vì nếu "anh em đã chết cùng Đức Ki-tô và được giải thoát khỏi các yếu tố của vũ trụ rồi, thì tại sao anh em lại rập theo những quy luật, như thể anh em còn sống lệ thuộc vào thế gian?" (2:20).
Tất cả văn mạch của đoạn thư 2:4-23 có lẽ giúp chúng ta nhận ra đề tài dễ dàng hơn. Nhưng Phụng vụ Lời Chúa muốn gì khi chỉ giới hạn bài đọc trong các câu 12-14? Thiết nghĩ Phụng vụ Lời Chúa muốn chúng ta chú ý tới chủ đề bí tích Rửa tội như một tiến trình được mai táng và được sống lại với Đức Ki-tô. Tuy nhiên, mạch văn của bài đọc cho chúng ta thấy thánh Phao-lô đã nhìn bí tích Rửa tội dưới ánh sáng của công việc Đức Ki-tô cứu chuộc chúng ta. Bí tích Rửa tội là việc tham dự vào cái chết của Đức Ki-tô trên thập giá, cái chết đã đem lại chiến thắng có chiều kích toàn diện vũ trụ, đối với bất cứ quyền lực nào, dưới đất cũng như trên trời. Vậy những ai chịu phép rửa trong Chúa Ki-tô thì cũng được tham dự vào cuộc chiến thắng vũ trụ của Người, tức là được dự phần vào cuộc hòa giải giữa muôn loài muôn vật với Thiên Chúa.
Thường chúng ta vẫn chỉ coi bí tích Rửa tội như một Nghi thức không hơn không kém, tựa như cây đũa thần biến chúng ta thành con cái Chúa và "bảo đảm" chúng ta sẽ "được lên thiên đàng"! Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải sống bí tích Rửa tội, phải tham dự tích cực vào tiến trình hòa giải mà bí tích Rửa tội chỉ là khởi đầu, để qua việc "mai táng" và "chỗi dậy" hằng ngày, chúng ta sẽ được kết hiệp mật thiết với Chúa Ki-tô trong chiến thắng của Người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Trình bày giáo lý về bí tích Rửa tội, thánh Phao-lô giúp tôi nhận ra vai trò của Chúa Ki-tô như thế nào?
"Hãy bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nần tảng là Đức Ki-tô"(2:7) có phải là lý tưởng và đường tu đức của tôi không? Nếu có, tôi đã và đang lớn lên trong đường tu đức ấy như thế nào? Những phương thức nào giúp tôi "bén rễ sâu" nơi Chúa Ki-tô?
Mỗi ngày tôi đã "đóng đinh vào thập giá" hoặc "mai táng" những gì với Đức Ki-tô và được "chỗi dậy" trong những mới mẻ nào?
Được rửa tội, chúng ta may mắn được làm con cái Chúa và môn đệ Đức Ki-tô. Trong viễn tượng truyền giáo, chúng ta sẽ làm gì cho những anh chị em chưa được rửa tội? Tôi và nhóm có thể làm gì đóng góp vào việc truyền giáo?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm có thể đọc một kinh nguyện thích hợp, hoặc cùng hát "Chính vì yêu" (CNLT 36) hay "Chúa không lầm" (CNLT 30).
Đài truyền hình vĩnh long vừa chiếu xong bộ phim Công Chúa Trang Cơ. Trong phim trình chiếu: TN 17-C67
Đài truyền hình vĩnh long vừa chiếu xong bộ phim Công Chúa Trang Cơ. Trong phim trình chiếu cho người xem gương kiên trì, quyết chí sẽ đạt được thành công.
Trước tiên là nhân vật Đồ Ngạn Cổ. Anh ta kiên trì, vượt qua tất cả mọi chướng ngại để trả thù cho cha, đồng thời cũng đạt được đỉnh cao danh vọng. Nhờ kiên trì mà anh ta đã đạt được ý nguyện.
Tiếp đến là Triệu Sóc. Anh ta cũng kiên trì, vượt qua bản thân mình, vượt qua những trở ngại của cuộc sống để lấy lại danh dự cho gia đình. Nhờ kiên trì mà anh ta đã đạt được ý nguyện.
Tất cả mọi ý nguyện, mọi ước muốn, cho dù tốt hay xấu, nếu bền chí, kiên trì không nản lòng thì sẽ thành công. Nếu việc tốt sẽ làm cho con người thăng tiến. Còn nếu việc xấu sẽ làm cho con người trở nên tệ hại hơn.
Các môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cho cầu nguyện. Ngài đã chỉ cho một công thức cầu nguyện. Cầu nguyện để con người được sung túc tốt lành hơn, cầu nguyện để con người trở nên hoàn thiện hơn. Cầu nguyện để tất cả qui về một Cha trên trời. Cầu nguyện để trở nên những người con tốt của Chúa. Ngài còn nhấn mạnh hơn về cách cầu nguyện: đó là sự bền chí, kiên trì. Cầu nguyện luôn không được nãn lòng.
"Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho".
Mang thân phận con người, tất cả đều đã từng cầu nguyện van xin và cũng đã từng đạt được rất nhiều ước nguyện. Ngày nào còn mang kiếp người, đó là những chuổi ngày van xin cầu khẩn không ngơi: cầu cho sự bình an bản thân, cầu cho công việc làm ăn được thuận lợi, cầu cho phát tài, cầu cho người thân. . . biết bao nhiêu điều để cầu xin.
Mỗi người trong chúng ta cũng đã từng cầu xin và cầu xin rất nhiều. Có những lúc chúng ta vui mừng vì đạt được điều mình nguyện xin. Nhưng cũng có lúc chúng ta buồn phiền trách móc, vì cứ xin mà không đạt được. Cũng có lúc chúng ta bỏ cuộc và thất vọng vì dường như Thiên Chúa không còn lắng nghe lời nguyện xin của mình nữa.
Chúng ta thử suy nghĩ và nhớ lại. Chúng ta chưa bao giờ van xin, nhưng chỉ biết đèo bòng, ra lệnh, khi không được như ý muốn, chúng ta bực tức, khó chịu, có khi còn nỗi nóng vô cớ.
Chúng ta cũng chưa bao giờ xin Chúa dạy cho mình biết cầu nguyện, cầu nguyện theo Thánh Ý Chúa, cầu nguyện để mỗi ngày trở nên tốt hơn. Công thức cầu nguyện chúng ta đã thuộc nằm lòng, đã lập đi lập lại hằng ngày, từ thuở bé cho đến giờ nầy và cũng sẽ lập lại mãi cho đến chết. Thế nhưng chúng ta không muốn cầu nguyện theo phương cách đó. Chúng ta chỉ muốn được cho bản thân mình, còn người khác không cần thiết, ngay cả Thiên Chúa mà chúng ta van xin cũng thế. Chúng ta chỉ muốn đạt được điều mình cần bằng tất cả mọi phương cách. Đó là những lúc chúng ta muốn đạt được ý nguyện như Đồ Ngạn Cổ. Chúng ta khó chấp nhận sự kiên trì, bền chí như nhân vật Triệu Sóc được không? Vì đó là cả một sự khổ luyện. Khổ luyện để đạt được mục đích, để thành người, để biết tha thứ, biết thông cảm và chấp nhận cuộc sống.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết cầu nguyện, cầu nguyện trong kiên trì, cầu nguyện theo Thánh Ý Chúa, cầu nguyện để con người chúng ta mỗi ngày được tốt hơn.
Chút nữa đây trong thánh lễ, xin Chúa cho mỗi người chúng ta ý thức hơn khi đọc kinh Lạy Cha, để chúng ta biết sống lời nguyện mà chính Chúa Giêsu đã dạy.
Hướng về Đấng Tối Cao, xin những ơn cần thiết trong cuộc sống đó là điều chúng ta thường gặp: TN 17-C68
1. Hướng về Đấng Tối Cao, xin những ơn cần thiết trong cuộc sống đó là điều chúng ta thường gặp nơi tín đồ các tôn giáo, và ngay cả những người cho rằng mình là vô thần nhưng họ cũng có những biểu hiện như thế. Tuy nhiên, chỉ nơi Kitô giáo, qua lời dạy cầu nguyện của Đức Giêsu, kinh Lạy Cha (Mt 6,9-13// Lc 11,1-3), cho chúng ta thấy Thiên Chúa chính là Đấng Tối Cao, nhưng lại rất yêu thương, gần gũi với con người và qua lời kinh nầy, Đức Giêsu cũng dạy chúng ta phải cầu xin như thế nào để có thể đẹp lòng Thiên Chúa.
2. Lời kinh “Lạy Cha”, theo thánh Mátthêu thì được ghi đầy đủ hơn, đó là lời kinh mà chúng ta vẫn thường đọc, còn trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe theo thánh Luca, ngài cũng ghi lại, tuy ngắn gọn hơn nhưng vẫn giữ được những nét cơ bản của lời kinh.
“Lạy Cha”, “Abba”, tên của lời kinh cũng là cụm từ mở đầu cho lời kinh. “Abba”, nguyên ngữ Do thái ( Aram ) là tiếng của đứa bé gọi cha của nó, giống như tiếng Việt: Baba, một lời gọi rất thân mật. Không có lời nguyện nào trong Cựu Ước dám gọi Thiên Chúa là Cha, Thiên Chúa dường như rất xa cách với con người. Thời Tân Ước, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha và dạy chúng ta cũng kêu xin như thế. Như vậy, đây là lời dạy, mạc khải quan trọng, tuy Thiên Chúa là Đấng cao sang, quyền phép, nhưng Ngài rất yêu thương rất gần gũi với con người.
3. Chắc hẳn người Cha luôn biết nhu cầu của người con, nhưng Cha cũng muốn con có một tương quan mật thiết với Cha qua lời cầu xin. Lời cầu xin càng tha thiết chừng nào thì ơn được lãnh nhận càng được trân trọng chừng ấy. Theo Luca lời kinh rất ngắn gọn cho nên những điều được trình bầy trong đó có thể nói là những điều mà Kitô hữu quan tâm nhất:
Đối với Chúa, làm sao cho người ta được biết Chúa “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển ”; làm sao cho nhiều người gia nhập Nước Chúa “triều đại Cha mau đến ”. Đối với chính bản thân mình: có lương thực hằng ngày tiêu biểu cho những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, được Cha tha thứ tội lỗi và mình cũng biết tha thứ cho người khác, đồng thời cũng xin đừng để sa chước cám dỗ.
Chúng ta thường cầu nguyện cho những nhu cầu của bản thân mình, điều nầy đúng chứ không sai, nhưng chưa đủ. Người con hiếu thảo cần phải cầu xin sao cho đẹp lòng Cha của mình trước, rồi mới đến những nhu cầu của mình. Chính Đức Giêsu cũng đã dạy “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
4. Một điều mà chúng ta cũng có thể nhận thấy qua lời kinh nầy đó là tâm tình rộng mở, đón nhận tất cả những ai là con cái Thiên Chúa thì cũng là anh em với nhau. Mátthêu ghi rõ “Lạy Cha chúng con” (Mt 6,9). Và cả Matthêu cũng như Luca đều ghi trong những lời xin là “cho chúng con”, chứ không là “cho con”. Cầu xin trong tâm tình Thiên Chúa là Cha chung và tất cả mọi người đều là anh em với nhau.
5. Lời Chúa hôm nay cũng dạy chúng ta cách cầu nguyện sao để được Thiên Chúa nhận lời. Đó là cầu nguyện cách kiên trì. Để minh họa, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn về người bạn quấy rầy. Việc chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do: cho để khỏi bị quấy rầy nữa ; cho vì tình bạn. Theo cách diễn tả của dụ ngôn thì người đó đã làm vì lý do thứ nhất. Nếu làm vì lý do thứ hai thì việc cho sẽ có ý nghĩa hơn. Nhưng dù sao thì cuối cùng anh bạn đứng ngoài đã đạt được điều mình xin, và lý do là nhờ anh kiên trì.
Lắm khi trong cuộc sống của chúng ta thấy mình cầu nguyện mãi mà Chúa chưa ban. Có khi Chúa đã ban bằng một phương thức khác, có khi thấy việc ban không có lợi cho chúng ta, có khi Ngài muốn thử thách lòng tin của chúng ta… Nếu lời cầu xin đó đẹp lòng Thiên Chúa, chắc hẳn Ngài sẽ ban cho ta như lời Ngài hứa “hãy xin thì sẽ được”. Nhưng trước khi ban, có khi Ngài xem ta có kiên trì, tha thiết với điều mình xin hay không ? Hạnh các thánh có ghi lại, Bà Mônica đã cầu nguyện khóc lóc cách liên lỉ mười sáu năm trời, kết quả Augustinô, con bà được ơn trở lại và Augustinô lại là một vị thánh lớn của Giáo Hội.
6. Là người con hiếu thảo của Cha trên trời, chúng ta phải coi việc cầu nguyện là một vấn đề không thể thiếu trong đời sống. Cầu nguyện để tạo một liên hệ Cha – con, để múc lấy sức sống từ Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng lời cầu xin của ta sẽ được Thiên Chúa nhậm lời nếu ta biết kiên trì, tin tưởng “hãy xin thì sẽ được”; nhưng trên hết xin cho mọi người chúng ta biết vâng theo thánh ý Thiên Chúa, biết ước muốn điều đẹp lòng Ngài.
Một người bên lương, hiền lành tử tế nữa, lại rất thích đạo Công giáo, anh ta nói: tôi rất thích: TN 17-C69
Một người bên lương, hiền lành tử tế nữa, lại rất thích đạo Công giáo, anh ta nói: tôi rất thích đạo Công giáo, nhưng…tôi sợ đạo Công giáo cái vụ…đọc kinh quá! Bên Phật giáo, thì ớn… vụ tụng kinh; nhưng bên Công giáo, lại sợ…sợ vụ đọc kinh nữa. Xem ra cũng đúng, nhưng đàng khác cũng đúng nữa đó là: anh ta chưa hiểu gì về đạo Công giáo cả…. Người Tin Lành cũng chê trách người Công giáo về chuyện đọc kinh, vì họ chỉ chú trọng đọc và học hỏi Kinh Thánh mà thôi. Ta phải hiểu Lời kinh, hay việc cầu nguyện như thế nào? Bài TM hôm nay muốn ta chia sẻ về chủ đề này…
a/. Kinh nguyện (hay đọc kinh) là hành vi sáng suốt và cần thiết của con người: Chúa nói: “ai trong anh em nhờ lo lắng mà có thể kéo dài đời mình thêm ra được một gang một tấc không?” (Mt 6, 27) “không có Thầy, chúng con không thể làm được điều gì.” Đúng như lời Chúa nói: trên đời này, con người không tự mình lo cho mình được; luôn luôn con người cần ơn sủng của Thiên Chúa, vì Người là sự sống, là hạnh phúc của nhân loại… Nếu con người không cầu xin Thiên Chúa, làm sao Thiên Chúa có thể ban ơn, có thể yểm trợ cho con người? Có người nói: Nếu Thiên Chúa biết nhu cầu đời sống của chúng ta, tại sao chúng ta phải cầu nguyện? – Tại vì chính Chúa dạy chúng ta cầu nguyện, như lời Chúa nói: Ai xin thì sẽ được, ai gỏ cửa sẽ mở cho..(Lc 11, 9)
b/. Kinh nguyện là thể hiện tấm lòng của người con:
Thiên Chúa là Cha tình thương, thực ra nếu ta không cầu xin, Thiên Chúa vẫn ban ơn cần thiết cho ta. Hình ảnh một người con trong gia đình mà tôi muốn gợi lên: đứa con nào trong các con, sẽ làm đẹp lòng cha mẹ hơn, có phải là đứa con luôn nhớ đến cha mẹ, luôn nài xin, luôn quấn quít bên cha mẹ không? Có phải đứa con tự thấy mình không lo cho mình được, chỉ biết trông cậy nơi cha mẹ không? Có phải là đứa con luôn nhận ra, trên đời này không ai đáng tin hơn chính cha mình không? Tình yêu sẽ là điều chính yếu thể hiện tình cảm của người con. Thật vậy, nếu chúng ta luôn sống trong tâm tình của một người con luôn muốn nói lên tình hiếu thảo với Thiên Chúa là cha của mình, thì còn gì hơn? Tâm tình đó chính là kinh nguyện đó…
c/. Kinh nguyện chính là hình thức, là phương tiện dẫn người kitô hữu đến gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của mình. Đến một lúc nào đó trong cuộc sống của người kitô hữu, kinh đọc bên ngoài không còn là phương tiện tốt nữa, nó sẽ được thay thế bằng tâm nguyện, hoặc bằng việc chiêm nguyện. Đó là những phương tiện, là lời kinh tối hảo của người kitô hữu, của các thánh. Trên cơ bản, tất cả những mẫu kinh đó vẫn được gọi là kinh nguyện Kitô giáo. Người ta thường hiểu lầm kinh nguyện Kitô giáo chỉ thu hẹp ở một số lời kinh được in ra trên giấy, hay trong sách vỡ. Thực tế, đó chỉ là số ít và cũng không phong phú. Ngoài ra, chúng ta cũng chưa từng thấy vị thánh nào coi thường việc cầu nguyện cả; mà phải nói ngược lại, các ngài còn đề cao và còn kêu gọi mọi người đi đến với những lời kinh đích thật, những lời kinh phong phú phát xuất tự đáy tâm hồn mình nữa muốn dâng lên TC.
d/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện với Chúa Cha, để xin cho mọi nhu cầu của con người. Lâu nay ta hiểu thế nào? Ta có xem cầu nguyện là điều không thể thiếu cho linh hồn, như cơm bánh cần cho thân xác không? Ta có xem cầu nguyện là phương tiện dẫn đưa ta tới với Chúa Cha như lời Chúa Giêsu dạy? Ta có xem cầu nguyện là cách tỏ tình rất chân thật với Thiên Chúa là Người Cha dạt dào tình cảm, dù Người Cha đó là Vua trời đất, đầy uy quyền, là Chúa mọi loài, nhưng lại sẵn sàng lắng nghe để yêu thương chúng ta không?
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu dạy ta cầu nguyện bằng lời Kinh Lạy: TN 17-C70
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay thuật lại việc Ðức Giêsu dạy ta cầu nguyện bằng lời Kinh Lạy Cha. Người muốn ta gọi Thiên Chúa là Cha, sống tâm tình của người con thảo và tin tưởng phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Người muốn ta cầu nguyện cho vinh danh Thiên Chúa và cho những nhu cầu cơ bản trong đời sống của ta.
Mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy cùng nhau dành ra đôi ba phút mỗi ngày để cầu nguyện theo lời kinh mà Đức Giêsu đã khuyên dạy:
Nguyện cho danh Cha cả sáng, lời nguyện đầu tiên xin cho Thiên Chúa được mọi người nhận biết, tôn thờ Thiên Chúa là Cha, và mọi người là anh chị em với nhau.
Nguyện cho Nước Cha trị đến, lời nguyện thứ hai xin cho Nước Cha, "nước công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần" (Rm 14,17). Nơi nào có công chính, có bình an, có hoan lạc trong Thánh Thần, nơi đó là Nước Thiên Chúa. Công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần càng lan rộng thì con người lại càng được hạnh phúc.
Nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, lời nguyện thứ ba xin cho ý Thiên Chúa được thực hiện. Thiên Chúa muốn mọi người được bình an, hạnh phúc và nhất là được cứu độ, được hưởng cuộc sống hạnh phúc đời đời. Ý muốn của chúng ta thường hay hẹp hòi, ích kỷ, vì chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều. Nhưng Thiên Chúa thì khác. Hơn nữa, Thiên Chúa biết chúng ta cần thiết những gì.
Xin cho chúng con hôm nay có cơm ăn áo mặc mỗi ngày là lời nguyện thứ tư. Giàu có tiền bạc nhiều quá hoặc nghèo khó quá là hai thái cực. Cha ông chúng ta đã chẳng từng nói "no nê sinh dâm dật, túng bấn sinh đạo tặc" đó sao? Ðức Giêsu muốn tránh cho ta những nguy hiểm tiềm ẩn. Người muốn ta thanh thoát, đừng quá lo toan vật chất mà hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước nhất.
Xin tha nợ chúng con là lời nguyện thứ năm. Con người ở đời không ai hoàn hảo cả, không lỗi này thì lỗi khác, không tội lớn thì tội nhỏ. Như thế, con người mang gánh nặng, mang nợ, mang lỗi lầm … Con người cần Thiên Chúa tha thứ. Nhưng điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ là con người cũng phải biết tha thứ cho anh chị em mình "như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ là lời nguyện thứ sáu. Cám dỗ là một thực tế trong đời người. Bao lâu con người còn sống, bấy lâu còn bị cám dỗ. Cám dỗ đến từ bên ngoài, do người khác, do hoàn cảnh… cám dỗ đến từ bên trong, do chính nội tâm, thâm sâu trong mỗi người.
Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ là lời nguyện thứ bảy. Sự dữ là những gì không tốt đẹp xảy đến trong đời sống của con người, thí dụ như bị tai nạn, bị thiệt hại, bị hãm hại... Cũng có sự dữ xảy đến trong đời sống thiêng liêng, đó là sự dữ ghê gớm nhất vì nó làm ta xa Chúa, làm ta mất sự sống đời đời… Xin Chúa gìn giữ ta luôn bình an hồn xác .
Kinh Lạy Cha là lời kinh duy nhất mà Chúa Giêsu dạy ta mỗi khi cầu nguyện. Ước gì ta siêng năng đọc lời kinh này, và mỗi khi đọc, ta luôn đọc trong tâm tình của người con thảo, đọc một cách chậm rãi để lời kinh đi vào tim óc của ta, nhờ đó ta được đến gần với Chúa mỗi ngày mỗi hơn.
***
Lạy Cha! Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha đã ban cho con, những ơn con nhìn thấy được, và những ơn con không nhận ra.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con. Con thường nghi ngờ tình yêu thương nâng đỡ của Cha và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban cho con bởi lẽ điều đó có hại cho con, hoặc vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu thương của Cha, dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con. Amen.
Vụ công ty Vedan rành rành hai năm rõ mười, ấy thế mà kéo rê hơn hai năm trời, vẫn chưa đi: TN 17-C71
Vụ công ty Vedan rành rành hai năm rõ mười, ấy thế mà kéo rê hơn hai năm trời, vẫn chưa đi đến đâu, không chừng hết thời hiệu khởi kiện (vào tháng chín),rồi huề cả làng; rốt cuộc, người dân nghèo thiệt đầu thiệt đuôi! Chiến thuật “để lâu cứt trâu hoá bùn”, kèm theo những đồng tiền hối lộ và tinh thần “cha chung chẳng ai khóc”, vô trách nhiệm của các ban ngành nhà nước, khiến vụ việc động trời,gây thiệt hại to lớn cho người dân nghèo, teo tóp lại dần, để đến cuối cùng,có may lắm thì Vedan cũng sẽ bố thí dăm ba đồng làm phúc cho đám dân thấp hơi bé giọng ấy. Kêu ai bậy giờ: Trời cao đất thấp, khó lòng gặp nhau. Người bạn trong Tin Mừng không ngại quấy rầy đêm hôm, để vay cho bằng được mấy cái bánh mà anh cần. Bà goá bất chấp tình khí khó chịu của viên quan toà bất công, cứ tiếp tục dai dẵng khiếu kiện, đến khi viên quan phải đầu hàng mà xử cho Bà. Trước bất công, người có lương tri nào mà chẳng bất bình!
Cơn bão số 1 Conson đã qua. Có lẽ đây là lần đầu tiên có một dân tộc như Việt-Nam,vốn luôn khốn đốn vì bão, lại háo hức chờ bão, khấn vái cho bão vào đất Việt,chứ đừng trệch hướng sang hết Trung Quốc. Chỉ vì hàng triệu người đang chết khát,hàng trăm ngàn hecta ruộng lúa đang chết khát. Bao nhiêu nước cho đủ đầy những giếng nước,ao hồ. bao nhiêu nước cho đủ thấm vào đất đai khô cằn,nứt nẻ mấy tháng nay. Những lúc nầy,tự nhiên nhớ lại cảnh người người ra đồng,nhà nhà ra đồng,ngành ngành ra đồng, biểu ngữ cờ xí rợp trời, nắm đấm chỉ về trời và ngạo mạn hô vang:” Thằng Trời đứng qua một bên; để ông thủy lợi đứng lên làm Trời”. Dân Việt chính tông không ngạo mạn như thế. Những lời cầu khẩn rất chất phác,rất thực tế và không hề ỷ lại: Lạy trời mưa xuống. Không xin cơm no áo ấm, không xin cả những tiện nghi đời sống căn bản nhất. Chỉ xin trời cho mưa thuận gió hoà, trong “quyền năng” và tình thương của Tạo Hoá; còn những thứ khác, sau khi trời đã ban mưa rồi, tất có nước uống, có nước để cày và cấy lúa. Cây lúa tốt tươi do công khó con người,sẽ cho cơm,gạo, mà lòng biết ơn thể hiện qua tiếng gọi “ngọc thực”. Có cái để đun và nếp là thứ để thưởng thức trong những dịp lễ tết,hội hè, đình đám. Bởi vậy,người dân Việt thuần phác luôn đầy tâm tình biết ơn Trời: khi được ai hỏi han điều gì, luôn mở đầu câu trả lời bằng cụm từ “nhờ Giời”,”cám ơn Trời”. Xem ra mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, Kitô hữu phải nhìn lại thái độ thật tham lam,nhưng lại ít tin và rất ít biết ơn của mình.
Thứ nhất,chúng ta đọc kinh Lạy Cha một cách máy móc (đúng ra,như một cái máy),trong Thánh Lễ, trong lần hạt. Người ta không còn biết mình đang lẩm bẩm điều gì. Kinh Lạy Cha là kinh của mọi kinh, nhưng khi nó không còn gợi lên trong tâm hồn chúng ta một chút tâm tình tin cậy mến nào nữa, thì các lời cầu nguyện khác cũng chỉ được làm theo hình thức, không còn mang ý nghĩa gì nữa và cũng không nâng chúng ta hướng về Đấng, mà như Thánh Phaolô dạy chúng ta gọi là “Abba”, - Bố ơi – Cha ơi! Tình Phụ Tử thắm thiết mới chính là điều mà Chúa Giêsu muốn chúng ta có đối với Chúa Cha,nhờ cầu nguyện kinh Lạy Cha. Có người ngụy biện cho việc làm máy móc nầy, bằng cách so sánh nó với việc tỏ tình của những cặp đang yêu nhau: những người nầy, theo họ, đâu cần phân tich căn cơ ý nghĩa câu “anh yêu em”,’em yêu anh” , mà chỉ cần tỏ ra cho và dù phải nhịn ăn nhịn uống để lập đi lập lại cả ngày chỉ một câu ấy thôi, cũng không thấy chán. Đúng vậy! Vấn đề là có giữ mãi được tình yêu thắm thiết hoặc “cơm lành canh ngọt” chăng? Ta hãy nhớ lời Chúa nói với chúng ta:” “Ta trách ngươi điều nầy: ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu” (Kh 2,4). Nhà thơ Thế-Lữ nói: “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy,Ngàn năm hồ dễ đã ai quên". Nhưng chúng ta thì quên thật rồi!
Kế đến, kinh Lạy Cha là một kinh “xin”: xin cho mình và xin cho người.Nhưng chúng ta thường chỉ nhớ đến mình, xin cho mình, chuyển ngôi thứ nhất số nhiều (chúng tôi) thành số ít (tôi). Và khi từ tính chất tập thể,vị tha bị biến thành tính cá nhân,vị kỷ, thì những lời cầu xin cũng trở thành tham vọng, ích kỷ, nhiều khi còn đi ngược với Tin Mừng. Kinh Lạy Cha là kinh của An Bình - Hiệp Nhất –Yêu Thương,nhưng chúng ta “miệng nam mô, bụng một bồ dao găm”, cầu xin cho Nước Cha trị đến bằng việc cho những “quân dữ” dám tịch thu, chiếm cứ đất đai nhà thờ,nhà xứ,dòng tu phải bị tru di tam tộc,cửu tộc hoặc tuyệt tự tuyệt tôn. Với chúng ta, Danh Cha cả sáng đồng nghĩa với việc bọn vô thần ác ôn dám triệt phá thánh giá,nhà thờ, phải bị phạt nhãn tiền. Và với những suy nghĩ,tâm tình đầy hận thù,máu lửa ấy, chúng ta muốn ý Cha thể hiện theo ý chúng ta. Và vì đọc mãi,cầu mãi mà chẳng như ý, lòng tin chúng ta theo đó mà nhạt phai. Chúng ta quên hình ảnh Một Người run rẫy,kinh hoàng trong Vườn Cây Dầu,lạy xin cho khỏi uống chén đắng khủng khiếp mà Người Ấy không chỉ dự cảm,mà thấy rõ, nhưng vẫn “ xin đừng theo ý Con,một theo Ý Cha” (Lc 22,42). Ý Chúa Cha ra sao, thì không ai không biết! Chúng ta chỉ trích Chúa Cha là bất lực, là để cho quân Giu-dêu lộng hành, coi thường và chà đạp Đạo Chúa,muốn bắt ai,giết ai, cũng được, có mỗi một Đứa Con mà cũng không bảo vệ được, để đến nỗi Con Một mà cũng phải kêu lên: “Chúa Trời ơi, sao lại bỏ rơi con?” (Mt 27,46;Tv 21,1). Chúng ta đấu tranh cho Sự Thật, cho Công Lý. Chúa Cha cũng “đấu tranh” cho Sự Thật và Công Lý: bằng cái chết của Người Con Vô Tội và là Thiên Chúa. Chúa Giêsu khẳng định Người là Đường ( Công Lý), là Sự Thật và là Sự Sống ( x. Ga 14,6), nhưng Ý Cha cao hơn Sự Thật và Công Lý, là tình yêu vô biên. Oan oan tương báo,di hận miên miên. Cái mà tội Adong-Eva để lại,không chỉ là đau khổ chết chóc, mà là hận thù miên man. “Oan oan tương báo”: Nếu cứ đấu tranh cho Sự Thật và Công Lý theo luật Talion (ăn miếng trả miếng; mắt đền mắt,răng thế răng), thì “di hân miên miên”. Người tát má trái của kẻ chìa má cho tát để hoá giải hận thù,không bao giờ mạnh hơn và thắng được kẻ chìa má ra (x. Lc 6,29). Mahatma Gandhi đã chấm dứt bạo lực bằng bất bạo động (bất bạo lực – non violence) và cái chết bị ám sát càng củng cố siức mạnh chủ trương của ông. Chúa Giêsu đã chịu khổ nạn và chịu chết ô nhục, để chặt đứt mối hận thù, mà Satan gieo rắc, xúi giục và trói buộc con người. Là đứa đã phản bội tình thương, không bao giờ có yêu thương, không bao giờ biết yêu thương, mà không ăn được thì phải đạp đổ, Satan muốn con người chìm trong hận thù bằng mọi cách,dưới mọi hình thức.
Là con cái Chúa, con cái Hội Thánh, chúng ta không thể nào chấp nhận “sống chung hoà bình”, thoả hiệp với Gian Dối và Bất Công và phải đấu tranh cho Sự Thật và Công Lý, nhưng không phải theo kiểu mẫu của Satan, không thể hành động giống như những kẻ làm trái Sự Thật và Công Lý, vì như thế,ta nào khác gì họ (x. Mt 5, 38 – 48). Hãy nghe lời Đức Thánh Cha Biển-Đức XVI dạy:
”AI THAM DỰ VÀO SỨ MỆNH CỦA CHÚA KITÔ, ĐỀU KHÔNG TRÁNH KHỎI PHẢI ĐƯỜNG ĐẦU VỚI THỬ THÁCH,NHỮNG BẤT HOÀ VÀ NHỮNG ĐAU KHỔ, BỞI VÌ NGƯỜI ẤY ĐƯƠNG ĐẦU VỚI NHỮNG CHỐNG CỰ VÀ QUYỀN LỰC CỦA THẾ GIAN NẦY. BÁCH HẠI CŨNG LÀ BẰNG CHỨNG CHO SỰ XÁC THỰC CỦA SỨ MỆNH TÔNG ĐỒ CỦA CHÚNG TA” VÀ NHƯ LỜI THÁNH PHAOLÔ,”VŨ KHÍ CỦA CHÚNG TA LÀ LỜI CHÚA KITÔ VÀ THÁNH GIÁ CỦA NGƯỜI” (x. I Cor 1, 22 – 25) (Đức Thánh Cha Biển-Đức XVI,ngày 21.05.2010)
Xin trích dẫn những lời Đức Mẹ Mễ Du nói với chúng ta qua các thị nhân: - với Ivanka Ivankovic – Elez: “Người ta có biết được mình có sống theo Thánh Ý Chúa hay không chính là ở sự bình an mà họ có được nhiều hay ít. Nếu họ không được bình an trong tâm hồn, tức là họ đã không làm điều phải. Ai làm theo Thánh Ý Chúa sẽ có được bình an.”
- với Ivan Dragicevic: “Mọi lời cầu nguyện đều làm cho Thiên Chúa được hài lòng. Chỉ có Satan mới là đứa luôn nói với chúng ta rằng lời cầu nguyện của chúng ta vẫn chưa đủ, chúng ta chưa đủ tốt lành. Lời cầu nguyện vắn tắt nhất lại là cầu nguyện rất nhiều.”
- Với Jakov Colo: “Chúng ta cần học hỏi tạ ơn Thiên Chúa như thế nào, vì Người đã ban ơn cho chúng ta quá nhiều, mà chúng ta lại chưa nhận biết được điều đó. Thế mà chúng ta lại đang đòi hỏi nhiều hơn.”
Lạy Cha của chúng con, Là Đấng đang sống giữa triệu triệu người đói khổ trên thế giới này: TN 17-C72
Lạy Cha của chúng con
Là Đấng đang sống giữa triệu triệu người đói khổ trên thế giới này
Là Đấng đang hiện diện trong tim của những người đang kiếm tìm sự công chi##nh Vì ho# yêu mến tha nhân và muốn phục vụ Cha trong những người đau khổ, phục vụ bằng cách đấu tranh cho những người thiếu ăn, thiếu mặc, không nơi chốn nương thân.
Xin làm danh Cha vinh hiển
Trong những người đang cố gắng bảo vệ sự sống cho những người bất hạnh
Trong khó nghèo và khiêm hạ, họ vẫn tin tưởng vào Cha,
và vì đức tin này, họ tiếp tục chiến đấu cho nhân phẩm của những người cùng khốn.
Xin nước Cha trị đến giữa chúng con
Nước của tự do và tình yêu, của đoàn kết và công chính
Của quyền được sống, của sự thật không giả trá.
Thánh ý Cha được thực hiện
Khi Ý Cha phá vỡ mọi rào cản, mọi gánh nặng đang đàn áp những con người yếu đuối, thế cô
Khi Ý Cha là công bố Tin Mừng cho người nghèo
Nâng đỡ người đau yếu, tự do cho người bị giam cầm,
Sức mạnh cho người bị tra tấn, ban tự do và sự sống cho những người bị bạo lực đàn áp
Xin cho chúng con bánh hàng ngày
Bánh của sự bình đẳng, Bánh của niềm vui đích thực Bánh của Lời Hằng Sống Bánh của nhà ở cho những người thiếu an ninh và tiện nghi vì không có một nơi để gối đầu Bánh của những bình sữa cho các trẻ em bị đói khát vì thiế#u đồ ăn thức uống Bánh của y tế cho những người đau yếu bệnh tật Bánh của đất đai cho những người sống dưới sự áp bức Bánh của đồng lương đủ sống cho những người lao động cực nhọc lâu dài vì nhận đồng lương chết đói
Xin Cha tha tội chúng con
Vì chúng con đã và đang không biết chia sẻ bánh Cha ban cho chúng con Vì chúng con tách mình ra khỏi những người bị bỏ rơi Vì chúng con không biết hiện diện và chia sẻ, vì giữ khoảng cách với người anh em Vì chúng con thiếu lòng thương xót Vì chúng con thiếu lòng tin yêu Và đừng để chúng con sa chước cám dỗ
Cơn cám dỗ đầu hàng do mất hy vọng, do lười biếng không làm gì Cơn cám dỗ để cho người khác làm Cơn cám dỗ để mất ý hướng, vì chỉ để thoả mãn nhu cầu cá nhân của mình
Nhưng cứu chúng con khỏi sự dữ Sự dữ đè nặng con tim chúng con Sự dữ giả hình, giả dối, bạo lực và lòng thù hận Vì vinh quang và uy quyền là của Cha Đã đến trong cuộc đời này và đã kinh qua những đau khổ của nhân gian Lạy Chúa, là Cha và Mẹ của tất cả chúng con. Amen!
Vào cuối thập niên 80, tại Rumani,một trận động đất lớn đã xảy ra làm hơn 10 ngàn người chết: TN 17-C73
Vào cuối thập niên 80, tại Rumani,một trận động đất lớn đã xảy ra làm hơn 10 ngàn người chết. Ngay sau trận động đất, một người cha đã chạy đến nhà trường tìm đứa con trai của mình.
Ngôi trường nhiều tầng đã sập đổ, nhưng người cha cố đào bới trong đống gạch vụn để tìm con. Những người cứu hộ và cảnh sát bảo ông hãy về nhà và đừng đào bới nữa vì rất nguy hiểm. Nhưng ông không nghe và cứ tiếp tục đào bới.
Ông đào bới trong suốt 12 tiếng đồng hồ cũng chẳng thấy tăm hơi người con đâu. Ông vừa đào bới vừa nghĩ: “Mình đã hứa thì phải thực hiện lời hứa, biết đâu nó còn sống trong đống gạch này thì sao?”
Nghĩ thế rồi, ông lại tiếp tục đào bới, 24 tiếng rồi 48 tiếng đồng hồ trôi qua . .. ông chợt nghe tiếng động. Ông gọi tên người con và ông nghe thấy tiếng kêu rất nhỏ từ xa vọng lại: “Ba ơi”. Nước mắt ông tuôn trào và ông hăng hái đào tiếp đến tận phòng của đứa con.
Thằng bé còn sống cùng với 20 đứa khác trong một góc phòng chưa bị sập. Nó ôm chầm lấy người cha và nói: “Con đã bảo với các bạn của con rồi: “ba tôi đã nói, dù thế nào ba cũng đến đón tôi. Các bạn cứ yên tâm đi, chắc chắn ba tôi sẽ đến”.
Tiếng kêu ba ơi của đứa bé nghe như âm vang lời kinh Lạy Cha chúng ta đọc hằng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Lời kinh Lạy Cha, là điệp khúc được lập lại nhiều nhất trong cuộc đời người tín hữu. Lời kinh này chúng ta có thể thốt lên bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu. Khi vui, khi buồn. Khi thành công hay khi thất bại. Khi ở nhà hay hành hương nơi xa. Tất cả trong mọi hoàn cảnh chúng ta đều có thể thưa lên Lạy cha chúng con ở trên trời. Đây là điệp khúc được lập đi lập lại mà không bao giờ nhàm chán. Vì lời đó là gạch nối cho tình cha con luôn gần gũi đậm đà yêu thương, là nhịp cầu cho tình con người vươn lên làm con Thiên Chúa.
Thực vậy, Thiên Chúa của kytô giáo không phải là vị thần ở chốn xa xôi nào đó, càng không phải là một vị thần chỉ để con người đóng khung và “kính nhi viễn chi”, mà là một người cha luôn ân cần chăm sóc người con. Dù người con có hoang đàng tội lỗi cha vẫn thứ tha. Dù người con mải mê thế trần cha vẫn kiên nhẫn tìm con trở về. Một người cha thật đại lượng bao dung đến nỗi cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành người dữ. Một người Cha hết lòng vì loài thụ tạo đến nỗi đã ban Con Một cho trần gian để cứu chuộc trần gian. Một người cha luôn lo lắng cho con cái đến nỗi còn quan tâm đến sự sinh tồn của từng sợi tóc của con người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống trong tình con thảo với Cha trên trời. Một người con thảo hiếu luôn sống với Cha trong tình phó thác và với anh em trong tình bác ái. Chính Chúa Giêsu đã sống điều đó. Ngài đã phó thác cuộc đời trong tay Cha đến nỗi chỉ mong ước một điều là tim kiếm ý Cha và làm vinh danh Cha. Ngài đã sống với nhân loại trong tình bao dung và độ lượng. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu là chết cho người mình yêu. Ngài đã đi đến tận cùng của việc quên mình là tha thứ cho kẻ đã hành hạ và kết án mình. Ngài đã dùng tình yêu để đẩy lùi sự dữ. Ngài đã dùng tình yêu để hoán cải những người lầm lỗi và tạo điều kiện cho kẻ lầm đường lạc lối trở về.
Vâng, cuộc đời chúng ta có vui có buồn. Có những lúc thành công và có những khi thất bại. Có đau khổ và hạnh phúc. Điều đó nói lên sự bấp bênh của giòng đời. Con ngừơi luôn mang yếu tố bất định, chúng ta chẳng biết ngày mai sẽ ra sao. Vì thế, kẻ khôn ngoan là biết phó thác mọi sự cho Chúa là Cha. Chính người sẽ lo liệu những gì tốt đẹp nhất cho cuộc đời chúng ta. Không một người Cha nào lại bỏ rơi con cái thì Thiên Chúa cũng định liệu và an bài mọi sự cho chúng ta, miễn là chúng ta hãy sống hết mình trong tình con thảo với Cha và hết mình sống yêu thương và phục vụ anh em đồng loại. Khi chúng ta sống phó thác cho Chúa là lúc chúng ta tìm được an bình trong thánh ý Thiên Chúa. Cho dù cuộc đời có những lúc nổi trôi, có những trái ngang trắc trở, chúng ta vẫn tràn đầy niềm hy vọng vì có Chúa luôn phù trợ chúng ta. Vì ai bền đỗ đến cùng thì người đó sẽ được ơn cứu thoát. Amen
Chúa Nhật hôm nay nói đến sức mạnh của sự cầu nguyện, đặc biệt của những người công chính: TN 17-C74
Chúa Nhật hôm nay nói đến sức mạnh của sự cầu nguyện, đặc biệt của những người công chính, của những tâm hồn thành tâm thiện chí. Bài Đọc I (Sáng Thế 18:20-32): Ông Abraham bầu cử nhiều lần cho thành Sôđôma và Gômôra để khỏi bị thiêu hủy, và chỉ cần có những người công chính trong thành, Chúa sẽ không thiêu hủy thành. Bài đọc II (Côlôsê 2:12-14): Chính Chúa Gêsu đã chịu đóng đinh vào Thánh Giá để cứu chuộc tội lỗi chúng ta. Qua Phép Rửa Tội, Chúa ban ơn thanh tẩy chúng ta khỏi tội lỗi và làm cho chúng ta trở nên những con người mới, những người con của Chúa. Bài Phúc Âm (Luca 11: 1-13): Qua kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa như với Cha nhân lành. Đồng thời Chúa Giêsu cũng kể thêm các dụ ngôn để nhấn mạnh “Các con hãy xin thì sẽ được.”
Có câu chuyện kể là khi một người thiểu số được dạy để đọc kinh Lạy Cha, bà đã khóc vì cảm động quá. Khi được hỏi lý do, bà đã tâm sự, đối với bà và đồng hương của bà, khi nghĩ đến Ông Trời, đến các Thần, là người ta nghĩ ngay đến những vị vô cùng cao cả, xa vời, và đáng sợ hãi, và vì thế người ta phải thờ đủ thứ thần, như thần mưa, thần bão, thần sấm sét… Bây giờ học hiểu về Giáo Lý Công Giáo, bà mới nhận ra những ý nghĩ sai lầm trước đây của bà về Thiên Chúa và về các Thánh; nhất là bây giờ, khi đọc KINH LẠY CHA, bà lại được cầu nguyện với Chúa không phải như một vị thần đáng sợ hãi mà như là một người Cha nhân từ, nên bà rất cảm động.
Có lần tôi cũng được nghe câu chuyện một người y tá làm tại một văn phòng bác sĩ ở miền ngoại ô Sàigòn, kể rằng: Một bà bế đứa con đau nặng đến một bác sĩ để xin chữa bịnh cho con; khi gặp bác sĩ , bà khóc nức nở và nói với bác sĩ: Xin bác sĩ thương chữa cháu…Tội nghiệp, Chúa “bắt tội’ cháu, cháu đau ốm quá!...Vị bác sĩ mở rộng đôi mắt và nói với bà: Sao bà lại nói Chúa ‘bắt tội’ cháu, cháu còn nhỏ như thế này, đã phạm tội gì mà Chúa bắt tội cháu…Chúa ác như vậy sao!
Nhiều khi nghỉ đến Thiên Chúa là chúng ta hay lo lắng sợ hãi, có cảm tưởng như Thiên Chúa là một vị Thần chỉ rình mò để phạt tội chúng ta; rồi làm cho động đất, bão tố, sấm sét, chiến tranh, bịnh tật để phạt tội chúng ta. Vì ‘Sợ Chúa” như sợ một vị quan án nghiêm khắc, nên ít khi nào chúng ta được niềm vui ấp ủ trong tình thương của Chúa “như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh ” (Luca 13:34), như người Cha luôn yêu thương và chăm sóc con cái, và quảng đại tha thứ lỗi lầm (Luca 15:11-32).
Trong bài Phúc Âm hôm nay, các Tông Đồ hỏi Chúa Giêsu “Vậy xin Thầy dạy chúng con biết phải cầu nguyện làm sao?” Và Chúa đã dạy lời cầu nguyện thật tuyệt vời “KINH LẠY CHA.” Nhiều Thánh Giáo Phụ, như Thánh Cyprianô (200-258) đã diễn giải về Kinh Lạy Cha rất hay.
Chúng ta thường đọc kinh Lạy Cha nhiều lần trong ngày; đặc biệt khi dâng Thánh Lễ, lúc mở đầu phần Hiệp Lễ, chúng ta cùng nhau sốt sắng cầu nguyện với Chúa là Cha. Mỗi khi đọc Kinh lạy Cha, chúng ta thường giơ hai tay ra, hướng mắt về trời và đọc thong thả cùng với tâm hồn an bình trong tình thương của Chúa là Cha chúng ta: “Lạy Cha chúng con…” Vừa đọc, chúng ta vừa suy ngẫm những điểm đặc biệt trong đó, như Thánh Cypriano bảo chúng ta.
Trước hết chúng ta không đọc Lạy Cha “của tôi”, nhưng Lạy Cha “chúng con”. Lời cầu nguyện đầu tiên là xin cho chúng ta luôn biết chúc tụng Danh Chúa như con cái trong cùng một gia đình ca ngợi cha mẹ mình; rồi chúng ta xin cho nhiều người được biết đến và thờ phượng và yêu mến Chúa như Cha; sau đó chúng ta xin cho chúng ta luôn biết nhận ra thánh ý Chúa luôn rất tốt lành , và cho chúng ta hiểu được đìều đó để chúng ta vui mừng thực hiện ý Chúa; dù nhiều khi ý Chúa lại đi ngược lại với ý muốn tầm thường của chúng ta; vì cầu nguyện không phải là để thay đổi ý Chúa theo ý chúng ta, nhưng để “ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời!”. Chúng ta cũng xin được của nuôi phần hồn, phần xác. Rồi xin Chúa là Cha nhân từ thứ tha lỗi lầm của chúng ta, và giúp chúng ta biết vui vẻ tha thứ lỗi lầm người khác gây ra cho chúng ta. Hơn nữa, vì phải sống giữa trần gian có biết bao những cám dỗ xấu xa tội lỗi, chúng ta cầu nguyện “để khỏi sa chước cám dỗ!”
Chúng ta hãy cầu nguyện chung cho nhau: Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tin tưởng cầu nguyện và phó thác mọi sự trong sự quan phòng kỳ diệu của Chúa là Cha chúng ta (Luca 12:22-32). Xin cho chúng ta làm điều lành, giữ các Giới Răn Chúa và những Điều Răn Giáo Hội dạy, chỉ vì yêu mến Chúa là Cha và yêu thương nhau như anh em trong một gia đình nhân loại. Xin cho chúng ta đi dâng Thánh Lễ cuối tuần như những người con yêu mến Cha, chứ không phải chỉ để chu toàn lề luật, hoặc chỉ vì sợ Chúa phạt xuống hỏa ngục! Xin cho chúng ta xa tránh tội lỗi không phải sợ Chúa phạt, nhưng để sống xứng đáng những người con ngoan của Chúa là Cha chúng ta.
Xin Chúa là Cha nhân từ chúc lành cho mọi người chúng ta và luôn ấp ủ chúng ta trong tình thương của Chúa.
Quan sát đức Giê-su cầu nguyện, các môn đệ đã nhận ra một điều gì khác lạ, rất đặc trưng. Nét: TN 17-C75
Quan sát đức Giê-su cầu nguyện, các môn đệ đã nhận ra một điều gì khác lạ, rất đặc trưng. Nét này không thấy có trong thói tục của người Do Thái (dựa vào thánh vịnh, lời tiên tri hay đọc luật…), khác cả lối cầu nguyện mà Gio-an tẩy giả và nhóm ông thường làm (?). Do đó một đại diện trong số họ khẩn khoản xin đức Giê-su dạy cho biết cầu nguyện, theo cách thức của ngài.
Chắc chắn, điều họ mong đợi, không phải là Thầy dạy một công thức cầu nguyện (chúng ta quen gọi là kinh đọc). Người Do Thái thời đức Giê-su quen sử dụng các thánh vịnh như công thức căn bản. Tuy nhiên xét cho cùng, thánh vịnh không phải là ‘kinh’ theo nội dung người công giáo quen thuộc, mà là những tâm tình rất ‘Cựu Ước’, trong tương quan thường ngày với Gia-vê. Gio-an tẩy giả thì không thấy lưu truyền một công thức nào, nhưng nếu căn cứ vào nghiên cứu khảo cổ Qum-ram, thì cầu nguyện của ông phải mang đậm nội dung thống hối thanh tẩy, rất đặc trưng của nhóm ‘ẩn sĩ’ Es-sê-ni.
Vậy đâu là nét đặc trưng của cầu nguyện Ki-tô hữu? Tôi thiết nghĩ chắc chắn không phải là công thức diễn đạt mới: ‘kinh Lạy Cha’ (tiêu đề sau này mới được thêm vào). Nếu ta đọc: “Khi cầu nguyện anh em hãy thưa (thay vì nói): ‘Lạy Cha, nguyện (xin làm) cho danh cha vinh hiển…’, ta sẽ thấy nổi cộm ngay một tâm tình phó thác. Ngay cả các điều ‘xin’ của phần sau cũng toát ra niềm tín thác sâu đậm. Chính cái tâm tình này mới là chất tố căn bản của lối cầu nguyện mà đức Ki-tô rất muốn thông truyền.
Mọi lời cầu nguyện, đương nhiên, đều phải ít nhiều mang tâm tình này. Trong mọi tôn giáo, khi tín đồ khấn vái, họ cơ bản tin tưởng thần thánh của họ. Vấn đề là, dựa trên cơ sở nào họ đặt niềm tin tưởng phó thác đó. Người Do thái có cơ sở của Cựu Ước: một giao ước sòng phẳng với Gia-vê. Gio-an trên nền tảng thống hối và lãnh phép rửa để được tha tội (xem Lc 3, 3-18), lương dân nói chung, dựa trên qui luật ‘có đi có lại’ của giao tế xã hội… Vậy thì Ki-tô hữu dựa trên cơ sở nào?
Đức Giê-su dùng hai hình ảnh để quảng diễn cơ sở của lòng tín thác Ki-tô hữu trong cầu nguyện: người bạn và người cha. Hai hình ảnh này có tác dụng trước hết là triệt tiêu cả ba cơ sở nói trên. Nếu là ‘nguyện xin’ với bạn và cha, sẽ không còn sự sòng phẳng của giao kèo ký kết, không còn sự xa cách trên dưới, và không còn lễ vật quà cáp lót đường. Chỉ còn một điều duy nhất là tin tưởng hầu như mù quáng, cố chấp tới độ gây phiền hà. Câu chuyện gõ cửa nhà bạn vay bánh giữa đêm khuya, hay xin ‘bố’ của ăn, phải chăng là để nêu rõ thái độ rất ‘độc’ này?
Và điều này không chỉ đơn thuần là lý thuyết. Có lẽ vào thời điểm đức Giê-su trả lời câu hỏi của mộn đệ, nó còn có vẻ lý thuyết xa vời, ngược ngạo nữa là khác: Thiên Chúa mà là cha và là bạn sao được! Thế nhưng sau biến cố thập giá và phục sinh, thì nó đã trở thành một thực tế hiển nhiên. Thực vậy, niềm tin vào thập giá và phục sinh trở thành cơ bản trong tương quan (giao ước mới) của người môn đệ với Thiên Chúa của đức Giê-su Ki-tô. Họ đã nắm bắt được bằng chứng không thể chối cãi về một Thiên Chúa từ nhân tới độ không tiếc bất cứ điều gì đối với những ai kêu cầu; ngay cả hy sinh tới Người Con yêu quí nhất, Ngài cũng chẳng từ. Bất cứ ai tự cho mình là môn đệ đức Giê-su, mà không biết chất tố này khi cầu nguyện, thì chưa có thể là Ki-tô hữu chân chính.
Như vậy, tin tưởng tuyệt đối trong cầu nguyện có thể được coi như thước đo niềm tin? Thánh Phao-lô xác quyết: chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải lẽ, nếu Thần Khí không rên siết trong ta (xem Rm 8,18-27). Phải chăng đức Giê-su cũng có ý tương tự, khi nói ‘Cha trên trời ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người’? Thế thì, một chút chiêm ngắm thập giá, một chút đi vào sâu hơn vào tình yêu nhân ái của Thiên Chúa, là điều cần thiết cho mọi cầu nguyện Ki-tô hữu. Không may,‘cái chút’ này, trong thực tế, vẫn còn là thiếu trong cầu nguyện của chính tôi, và có lẽ của nhiều người nữa.
Lạy Thầy, xin dạy con cầu nguyện. Xin dạy con cầu nguyện với một Thiên Chúa không tiếc xót với con bất cứ điều gì, kể cả Người Con yêu quí. Xin cho con biết, mỗi khi cầu nguyện, dành chút thời giờ cho việc chiêm ngắm tinh yêu nhân ái và lòng thương xót Chúa. Xin cho con nhớ rằng, dấu Thánh Giá con làm trước cầu nguyện, là để giúp đưa con vào tâm tình cơ bản và thiết yếu này. Amen
Trong thời gian gần đây, hai câu lạc bộ hàng đầu thế giới Man United và Real Marid không: TN 17-C76
Trong thời gian gần đây, hai câu lạc bộ hàng đầu thế giới Man United và Real Marid không ngừng đưa ra muôn vàn phương kế để chiêu dụ “Viên ngọc quý” bóng đá Cristiano Ronaldo. Cầu thủ 23 tuổi này hiện đang là ngôi sao của Man United, nhưng Real Marid không ngừng lôi kéo bằng nhiều hình thức, hứa hẹn với mức lương kỷ lục, khuyến mãi xe con … Tất cả những điều họ làm chỉ nhằm kiếm được “viên ngọc quý” của bóng đá về cho mình. Cả hai câu lạc bộ đều đủ biết để làm được điều đó họ phải ép mình thực hành đủ những điều kiện mà trước đây họ vẫn chưa làm.
Hôm nay Đức Giêsu cũng nói về một viên ngọc quý, mà để chiêu mộ viên ngọc quý này không thể dùng tiền hay quyền lực, nhưng bất cứ người nào cũng có thể mua được khi họ đáp ứng đủ những điều kiện sau:
Để đạt được Nước Trời tôi phải có lựa chọn, lựa chọn là một sự thách đố, đòi hỏi phải có một suy nghĩ thật kỹ, một sự khẳng định dứt khoát. Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận một sự lựa chọn nửa vời “dở dở ương ương Ta sẽ ói ngươi ra”. Giống người lái buôn hôm nay khi đã quyết định mua viên ngọc, thì quyết tâm mua cho bằng được, vì anh ta đã chọn, đã lựa đó cũng là điều anh muốn. Từ ban đầu khi tạo thành vũ trụ Thiên Chúa đã cho con người được tự do, qua việc đặt con người trước “cây biết lành biết dữ”. Sự lựa chọn là một thử thách cam go đòi hỏi con người phải chọn dứt khoát: tốt hoặc xấu. Là người Kitô hữu chúng ta phải biết lựa chon những giá trị tốt, vứt bỏ cái xấu, phải có cái nhìn sâu xa biết cả những giá trị thực của viên ngọc còn tiềm ẩn sâu bên trong mà thực chất với cái nhìn hiện nay ta không thể biết đến.
Để đạt được Nước Trời đòi hỏi ta phải đáp trả trọn vẹn. Trong tục ngữ Việt Nam có câu “lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Điều kiện đáp trả lời mời gọi đó chính là “lửa” để xem sự nhiệt thành sự khao khát tìm viên ngọc quý của ta thế nào. Qua giòng lịch sử Giáo Hội có rất nhiều người đi tìm nhưng không phải ai cũng tìm thấy, vì họ chưa thật sự đáp trả trọn vẹn, chưa dấn thân nhiệt tình. Sự đáp trả không phải chỉ bằng lời nói suôn, nhưng phải được thể hiện qua hành động cụ thể. Mỗi người có môt sự đáp trả khác nhau Thiên Chúa không cào bằng tất cả mọi người, cũng không đòi buộc mọi người phải đáp trả như nhau.Vì có người thì được ban cho năm nén, có người ba nén. Nhưng đạt được viên ngọc quý đòi hỏi mỗi người phải đáp trả hết khả năng mình có ba nén phải làm lời ba nén, có năm nén phải là lời cho được năm nén khác.
Để đạt đượcNước Trời đòi buộc tôi phải dấn thân hoàn toàn. Muốn chiến thắng thì phải nhảy vào cuộc chiến, có thể cuộc chiến đó một còn một mất, nhưng khi đã chiến đấu vì Nước Trời cộng với ơn Chúa thì ta không bao giờ là người chiến bại mà luôn là người chiến thắng. Giống như người buôn hôm nay chắc chắn gia tài của ông ta rất nhiều, rất giàu có, bao nhiêu năm ra công buôn bán chỉ nhằm vun đắp cho gia tài đó. Nhưng gia tài đó chẳng là gì khi biết được giá trị Nước Trời, ông quyết tâm theo đuổi đến cùng, bằng mọi cách kể cả bán gia tài mình đang có bán hết chứ không phải chỉ bán một phần. Điều đó thể hiện sự dấn thân trọn vẹn, một sự ham mê tuyệt vời, một sự khao khát, một nỗ lực tuyệt diệu cho người ra công tìm kiếm Nước Trời.
Để đạt Nước Trời đòi hỏi tôi phải trưng dụng tất cả, gia tài có thể là mồ hôi nước mắt của người, đó có thể là công sức của cả đời. Nhưng để mua được viên ngọc quý đòi hỏi ông ta phải hy sinh. Tuy dẫu biết rằng hy sinh là chấp nhận mất mát nhưng hy sinh cái tạm thời lại mua được cái vĩnh cữu, thì mất mát có đáng chi. Vĩnh cữu thì rất xứng đáng. Người lái buôn hy sinh gia tài chỉ là một góc của muôn vàn sự hy sinh. Có những sự hy sinh còn cao cả hơn nhiều. Họ hy sinh cả bản thân, chấp nhận đau khổ để mua viên ngoc qúy bằng con đường dâng hiến phục vụ tha nhân, phục vụ người nghèo, người đau khổ bệnh tật…
Giá trị của Nước Trời rất quý và đòi hỏi của nước ấy rất quyết liệt do đó tôi phải nỗ lực hết mình đáp trả bằng những điều kiện và ơn Chúa ban chắc chắn tôi sẽ làm được. và dụ ngôn hôm nay như một động lực thúc đẩy tôi hãy đi tìm kiếm Nước Chúa bằng con tim, bằng sự chân thành và lòng quyết tâm.
Trong cuộc sống đời người, mọi người lo tìm kiếm, nhưng không biết tìm kiếm điều gì, nhưng thỉnh: TN 17-C77
Trong cuộc sống đời người, mọi người lo tìm kiếm, nhưng không biết tìm kiếm điều gì, nhưng thỉnh thoảng lại nghe thông báo, toà án xét xử và kết án: có bản án tử hình, án tù chung thân và cũng có những người lãnh án nhiều năm bị giam trong nhà giam.
Họ tìm kiếm điều gì mà đánh đổi cả mạng sống mình, hay đánh đổi một cuộc đời như thế. Có phải họ tìm được được cái gì quý giá hơn mạng sống mình, hơn cả cuộc đời, nên họ hy sinh như thế?
Hay họ vẫn biết điều họ tìm kiếm là không chính đáng. Họ cũng biết điều gì nên tìm và điều gì không nên, nhưng họ bỏ ngoài tai tất cả, họ lao vào những cuộc tìm kiếm để rồi họ phải đứng trước toà án và nhận lãnh lời phán quyết nghiêm khắc mà chính họ cũng không muốn như thế. Sự hối hận của họ giờ đây đã muộn mất rồi.
Nước Trời giống như kho báu được chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, anh ta bán đi tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng đó. Cũng thế đối với viên ngọc quý, anh ta cũng bán đi tất cả để có thể chiếm được viên ngọc quý đó. Những người tìm được cái quý báu thì không còn ngần ngại hy sinh những gì mình có để chiếm cho được cái mà mình tìm kiếm. Bán đi tất cả những gì mình có, nghĩa là những gì mình có thì không đáng gì so với kho báu hay ngọc quý mà anh ta tìm được, nên không ngần ngại để trao đổi. Người tìm được kho báu sẵn sàng hành động và ngay tức khắc, thời gian không chờ đợi họ. Sẵn sàng trao đổi để có cái quý giá nhất mà họ tìm đựơc.
Đời sống của một người công giáo, điều gì quý giá nhất? Đó là sự sống đời đời. Tất cả những gì của hiện tại, đều hướng đến cuộc sống mai sau. Nhưng có khi con người chỉ dừng lại ở hiện tại mà quên đi mục đích của mình. Con người đang chọn lựa, nhưng có khi không biết mình chọn lựa điều gì. Con người đang tìm kiếm, nhưng không biết mình đang tìm kiếm điều gì. Mặc dù đang sống nhưng con người cũng không biết là mình đang sống, vì con người mãi lao vào những cuộc tranh chấp hơn thua để rồi khi nhìn lại thì không biết mình đang làm gì.
Chúng ta thì sao, là những người công giáo, những người đang lắng nghe lời Chúa, chúng ta đang chọn lựa điều quý giá nhất cho mình, chúng ta cũng đang tìm kiếm sự sống cho mình như thế nào? Mỗi người chúng ta nhìn vào chính mình, nhìn vào những việc làm, những lời nói và kể cả những toan tính, chúng ta dễ dàng nhận ra điều quý giá nhất mà mình đang tìm kiếm.
Có người nhìn thấy tiền bạc là quý nhất, nên cố làm sao để cho có thật nhiều tiền. Suốt cuộc đời họ chỉ biết có tiền, còn mọi thứ khác không có giá trị gì cho họ: những cái đẹp, cái danh dự, những người thân yêu, bạn bè kể cả cha mẹ và con cái, họ không biết yêu thương là gì, nếu tình yêu không mang tiền đến cho họ thì họ cũng không cần biết. Họ chỉ biết cố kiếm thật nhiều và chỉ có thế. Họ quên đi sự sống của hiện tại và cả tương lai. Vô phúc thay.
Có người chỉ biết có danh dự chức quyền, nên họ giẫm bừa lên người khác mà bước đi trên con đường danh vọng. Họ bất chấp những thủ đoạn, để ngoài tai những lời kêu than thống thiết, bất chấp những lời ngay thẳng khuyên can, họ chỉ cần biết làm sao để thoả mãn khát vọng của họ mà thôi. Họ cũng quên đi mục đích sống của một con người.
Có người chỉ biết có hiện tại, họ chỉ biết làm ăn và hưởng thụ mà không biết đến mai sau sẽ ra sao?
Còn chúng ta nếu chúng ta nhận ra được mục đích của cuộc đời, nếu chúng ta biết lắng nghe lời Chúa, để chu toàn trách nhiệm của mình trong hiện tại, trách nhiệm trong gia đình, trách nhiệm của một người trong xã hội. Nếu chúng ta nhìn thấy được những việc cần thiết phải làm và không ngần ngại, nếu chúng ta lắng nghe được những lời van xin và đáp ứng kiệp thời với tấm lòng quảng đại và con tim yêu thương, nếu chúng ta nhìn thấy những người khốn khó, con tim chúng ta thổn thức và hành động để đem niềm vui cho người khác; những lúc đó, chúng ta đang bán đi những gì mình có mà mua lấy viên ngọc quý và kho báu. Nhưng còn hơn cả kho báu nữa mà là sự sống đời đời. Như thế thật hạnh phúc cho chúng ta.
Xin Chúa soi sáng cho chúng ta nhận ra được điếu quý giá nhất của cuộc đời để biết chọn lựa cho xứng đáng.
Thánh Phanxicô Xavier, (1506-1552) là con gia đình quí tộc Xavier thành Pamplune, nước: TN 17-C78
Thánh Phanxicô Xavier, (1506-1552) là con gia đình quí tộc Xavier thành Pamplune, nước Tây Ban Nha. Lớn lên được theo học bên Pháp, là bạn cùng lớp với thánh Ignatiô Loyola. Một hôm đi tham dự thánh lễ, Phanxicô nghe đọc Lời Chúa: “Lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn, nào được ích gì?” Câu Kinh thánh này đã ảnh hưởng sâu xa suốt cuộc đời trai trẻ của thánh nhân, cũng như sau này nữa. Cũng chính vì câu nói đó thánh nhân đã bỏ hết mọi sự, để chỉ tìm một mình Chúa. Ngài đã gia nhập dòng Tên do thánh Ignatiô mới thành lập, đã vâng lời thánh Ignatiô đi truyền giáo ở Ấn độ. Sau đó, ngài dự định đi Trung Hoa, nhưng chưa kịp, ngài đã chết trên hòn đảo Sancian, mặt quay nhìn lên đất Trung Hoa.. Câu chuyện của bài Tin mừng hôm nay cũng một chủ đề tương tự như thế…
a/. Sau đây, chúng ta tìm hiểu vài câu nói trong bài Tin mừng:
Nước Trời được ví như người đi tìm kho báu, như người buôn ngọc quí: anh này khi gặp được ngọc quí, đã sẵn sàng bán tất cả gia sản để mua cho bằng được viên ngọc quí đó. Hay như người tìm kho báu, khi được rồi, ông ta cũng làm một cách tương tự như người buôn ngọc quí ở trên.
Nước Trời cũng giống như chiếc lưới bắt cá…Khi kéo lên bờ người ta sẽ chọn cá tốt, cá xấu thì bỏ đi: người Kitô hữu cũng phải biết chọn lựa Nước Trời hay trần gian tương tự như thế. Dĩ nhiên không được bắt cá hai tay, mà chỉ được chọn một mà thôi….
b/. Giá trị Nước Trời là vô song: chính vì thế Chúa dạy ta phải hi sinh tất cả để chiếm hữu cho được. Nước Trời, với người không hiểu, sẽ chẳng giá trị gì, nhưng với người tìm ra điều bí nhiệm của Nước Trời, họ thấy quí giá vô cùng và họ bị thôi thúc chiếm cho bằng được để làm sở hữu. Hai anh buôn ngọc và tìm kho báu trong Phúc âm, đã dám liều mình bán tất cả để mua được ngọc, để chiếm cho được kho báu. Người ta thường nói: trên đời, không liều, sẽ không làm giàu. Trong đạo cũng có thể nói: không liều, cũng không làm thánh được…
Trong một ngôi chùa nọ bên nước Nhật, lúc nửa đêm, vị thiền sư đang tụng giờ kinh đêm một mình. Bỗng ông thoáng thấy một bóng người vụt qua, vừa lúc nghe có tiếng sau lưng: – Tiền đâu? Đưa đây? Nhà sư định thần ra là tên trộm, ông thong thả trả lời: - Thiện tai thiện tai; chùa nghèo làm gì có tiền! – Chùa lớn thế này mà không có tiền à? Nhà sư vẫn tụng kinh, vừa trả lời: À mà quên! Trong học tủ bên trái, ta còn ít tiền. Nếu muốn cứ lấy; nhưng nhớ chừa lại cho ta ít trăm để mai ta còn tiền đi đóng thuế cho nhà nước. Rồi nhà sư tiếp tục tụng kinh. Tên trộm thấy ít tiền quá, nên cởi luôn chiếc cà sa nhà sư đang mặc. Ông chỉ còn độc chiếc quần xà lỏn mà vẫn tụng kinh. Khi tên trộm bỏ đi, ông nhìn theo mỉm cười: nghiệp chướng nặng quá! Nghiệp chướng!..
Câu chuyện trên đây muốn nói: vị thiền sư đã dám liều bỏ tất cả vinh hoa trần gian, để được giác ngộ, để tu cho đắc đạo. Nói một cách vắn tắt, ông đã coi thường của cải, phù vân trần gian, chỉ vì đạo. Nhìn lại lịch sử Hội thánh công giáo, ta thấy các thánh cũng đã sống tương tự như thế. Mẹ Têrêsa Calcutta đã dám liều bỏ cộng đoàn Loretta Mẹ đang tu ở đó, để đi theo ơn gọi mình vừa nhận được, là lo cho người nghèo khổ và sống chung với họ. Kết quả thế nào, ngày hôm nay thế giới dư biết việc Mẹ đã làm.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: là người Kitô hữu, khi hiểu được Nước Trời là quý giá, ta có dám liều bỏ mọi sự để mua cho bằng được không? Ta có dám làm theo lời Chúa Giêsu dạy? Ta có dám theo gương hai người đi tìm ngọc, tìm kho báu, vì nghỉ rằng chỉ có Nước Trời là quý giá? Hay ta vẫn còn bắt cá hai tay, vừa theo Chúa vừa chạy theo tiền của, danh vọng trần gian? Ta chọn cách nào?
Nước Thiên Chúa là vương quốc hạnh phúc, ai được vào là có phúc lớn vì Nước Thiên Chúa: TN 17-C79
Nước Thiên Chúa là vương quốc hạnh phúc, ai được vào là có phúc lớn vì Nước Thiên Chúa quý hơn mọi kho báu. Thật diễm phúc cho loài người vì Chúa sẵn sàng ban cho Nước Trời, không giới hạn số lượng, không phân biệt màu da, sắc tộc, thời đại, ai đủ điều kiện đều được nhận vào. Tất cả những ai sống đúng lệnh truyền của Chúa đều được ban cho hạnh phúc vô cùng vô tận bên Ngài.
Thiên Chúa quả là hào phóng và quãng đại với loài người biết bao. Ngài là Đấng quãng đại, giàu lòng thương xót và không tiếc gì với chúng ta: hạnh phúc của Ngài, Ngài cho chúng ta được thông phần vào; tình yêu của Ngài, Ngài thông ban cho, người ngay được Chúa phù trì che chở, thanh luyện cho giống Chúa hơn, ngườI tội lỗi được Chúa bảo ban, cho nhiều cơ hội để ăn năn thống hối…
Thiên Chúa không tính toán với loài người, để đáp lại ơn ấy, chúng ta cũng không tính toán với Chúa. Chúng ta hãy đổi lấy của cải vật chất đời này để Chúa ban cho thửa ruộng có ngọc quý. Nước Trời như ngọc quý thượng thặng, đáng cho chúng ta bỏ hết công sức, của cải để đón lấy. Như vậy, để được Nước Chúa, chúng ta phải biết chọn lựa và từ bỏ. chúng ta không kiệt sức, vì Chúa luôn tìm cách trợ giúp, Chúa đòi tấm lòng chân thành tìm kiếm và tin theo, ai thành tâm tìm thì sẽ gặp được kho báu Chúa chuẩn bị để ban cho. Chúng ta có một niềm hy vọng lớn lao vì không phải chỉ có vài người tìm được Nước Trời nhưng tất cả đều có thể tìm thấy nhờ ơn soi dẫn và sự trợ giúp của Ngài.
Đối với một kho báu nay còn mai có thể mất vì trộm cắp mà còn đáng cho chúng ta bán hết những gì mình có để chiếm lấy, huống chi là Nước Trời. Nếu vào được Nước Chúa, nơi hạnh phúc vô biên và vĩnh tồn thì hy sinh của cải đời này, hy sinh những tham vọng trần thế để đổi lấy cũng là quá lời. Do đó, chúng ta phải lưu ý về cách sống của chúng ta: chúng ta mong Nước Trời nhưng lại muốn tất cả mọi thứ ở đời này: tiền bạc, danh vọng, quyền lực trần thế… chúng ta vừa muốn sở hữu vật chất trần gian vừa muốn có Nước Trời. Tôi có sống phù hợp với Nước Chúa không, tôi có tìm những sự thuộc về Thiên Chúa chưa hay chỉ để lòng tìm của cải vật chất, tôi có tập cho trái tim mình có được tình yêu Agape giống Chúa hay còn ích kỷ, thù ghét, giận hờn, kiêu căng… Nước Chúa mở sẵn rồi nhưng ai mong thực hành niềm vui thanh cao mới xứng đáng sống trong nước hạnh phúc ấy.
Nếu tôi theo Chúa mà lòng còn nặng nề, lệ thuộc vật chất thì làm sao vào ở với Chúa là Đấng Cao Sang siêu vượt thời gian, vượt xa thế giới trần tục này. Như vậy, chúng ta phải biết khôn ngoan, hàng ngày gạt bỏ những cái xấu ra khỏi con người mình và tập tính tốt, làm điều tốt, phục vụ cho Chúa và mọi người. Khi đã thanh lọc con người mình nên giống Chúa ngày một hơn thì việc lên ở với Chúa là điều ở trong tầm tay, nhờ ơn Chúa.
Nếu chúng ta mỗi ngày mỗi khác Chúa, xa Chúa thì mai sau vương quốc của chúng ta sẽ là nơi khóc lóc, hổ ngươi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết bỏ những thói hư tật xấu mỗi ngày và tập những tính tốt bù vào để ngày một xứng đáng là môn đệ Chúa hơn và ngày sau được gia nhập vào hàng ngũ các thánh như Chúa đã hứa.
Người ta thường nói: “con người hơn nhau ở cái đầu”. Quả đúng là như vậy. Cái đầu giúp ta: TN 17-C80
Người ta thường nói: “con người hơn nhau ở cái đầu”. Quả đúng là như vậy. Cái đầu giúp ta biết tính toán, biết lên chương trình hành động, biết rào trước cản sau, biết có những mưu kế và diệu kế . . . Đó là sự khôn ngoan thông thường và tự nhiên của con người.
Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay cho chúng ta một cái nhìn khác hơn về sự khôn ngoan: sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa và được thông ban cho con người. Khôn Ngoan đích thực là biết chọn lựa. Bài đọc 1 được trích từ sách các vua quyền thứ nhất cho chúng ta thấy rằng: Chúa hứa là sẽ ban cho Salômôn bất cứ những gì ông xin, và Chúa bảo ông cứ xin đi. Salômôn suy nghĩ và cân nhắc. Cuối cùng ông xin cho mình được khôn ngoan để phân biệt được phải trái mà cai trị dân Chúa. Điều ông xin đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, bởi đó là điều đáng quí trước mặt Chúa. Ông đã biết chọn lựa cái đáng chọn lựa.
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy giá trị cao quý của Nước Trời. Đó chính là kho báu, là viên ngọc quí mà con người nếu biết chọn lựa sẽ không thể bỏ qua. Dụ ngôn chiếc lưới được quăng xuống biết cho chúng ta thấy cách thức Thiên Chúa sẽ hành động trong ngày sau hết. Trong ngày phán xét, Thiên Chúa sẽ tách biệt kẻ lành ra khỏi kẻ dữ. Người lành sẽ được Thiên Chúa đón nhận và ân thưởng Nước Trời cho họ như một hạnh phúc viên mãn và vĩnh cửu cho họ.; còn kẻ dữ sẽ phải lui vào bóng tối để chịu khổ hình muôn kiếp.
Hạnh phúc là điều ai cũng mơ ước và khao khát sở hữu nó. Cách này hay cách khác, tất cả chúng ta là những người đi tìm kho báu, đi tìm điều gì đó mang lại cho chúng ta hạnh phúc lâu dài và trọn hảo. Khát vọng đó hoàn toàn chính đáng. Nhưng vấn đề là hạnh phúc chân thật đó ở đâu? Làm cách nào để có được nó? Đó là vấn đề chúng ta cùng nhau suy gẫm.
Hạnh phúc khởi đi với những người biết tìm kiếm. Đi tìm là thoát ra khỏi chính mình để hướng tới một mục tiêu mà mình đã chọn. Đức Giêsu luôn khuyến khích chúng ta đi tìm hạnh phúc chân thật.Chính Đức Giêsu đã kêu mời anh thanh niên giàu có đi tìm hạnh phúc đích thực mà anh cũng có ý định kiếm tìm ấy. Nhưng cuối cùng anh đã không vượt qua khỏi chính mình được. Ngài luôn yêu mến những con người biết tìm kiếm hạnh phúc và luôn đồng hành với họ để soi dẫn họ: “phc cho ai bit khao kht điu chính trực, vì h s được Thin Cha cho thỏ lng” (Mt5,6).
Như vậy hạnh phúc là có định hướng đúng đắn cho cuộc đời này, là biết được ý nghĩa của cuộc đời này và sống ý nghĩa đó cách tròn đầy. Hạnh phúc thật không phải là thành đạt điều này điều nọ, cũng không phải là có được mọi thứ của cải vật chất ở đời này. Nhưng hạnh phúc là sống tròn đầy giây phút hiện tại, sống đúng mực và vui tươi với những chọn lựa cơ bản của mình. Chọn lựa then chốt và nền tảng chính là chọn lựa Thiên Chúa, chọn lựa Nước Trời. Nước Trời được trình bày như một kho tàng, một viên ngọc quí mà tình cờ người đi tìm tìm thấy được nó. Nhưng khi tìm kiếm được rồi thì cần phải biết khôn ngoan để làm sao có được nó và sở hữu nó mãi. Có rất nhiều người đã tới được ngưỡng cửa của hạnh phúc thật nhưng rồi không thể vượt qua nổi. Những phương thế mà chúng ta có thể dùng để sở hữu Nước Trời đôi khi rất khờ khạo đối với người đời nhưng chúng ta đừng sợ miệng đời và dự luận,. Chúng ta chỉ cần tìm kiếm những gì hợp với thánh ý của Thiên Chúa và đẹp lòng Thiên Chúa là đủ cho chúng ta. Những phương thế để sở hữu Nước Trời là tha thứ, là cho đi, là yêu thương, là nhân hậu với mọi người, là hiền hoà, chấp nhận anh em mình, là cậy trông vào Thiên Chúa tình yêu. . .
Tại Chùa Tô Châu bên Tàu có một nhà sư tên gọi là Viên Thủ Trung, nổi tiếng là nhà tu hành đắc đạo. Nhà sư thường bày trên trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài nhỏ làm bằng gỗ bạch đàn, dài độ 3 tấc, có nắp đậy, mở ra được. Khách đến chơi trông thấy thường tò mò tra hỏi, nhà sư trả lời: “người ta sống tất có chết, mà chết là vào ngay cái này. Tôi thật lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời, chẳng biết đến cái chết là gì . . . Mỗi khi có việc không được như ý, tôi liền lấy cái quan tài này mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên ổn ngay.
Con người sở dĩ chạy theo tiền tài danh vọng đến độ chà đạp lên người khác là bởi vì con người không nghĩ đến cái chết đang rình rập sau lưng mình. Khi Thần chết xuất hiện, thì con người không còn kịp mang theo bất cứ tài sản nào. Cái chết chỉ trở thành đáng sợ khi con người còn quá nhiều dính bén đối với thế trần này. Trái lại, được ôm ấp mỗi ngày, cái chết sẽ trở thành bạn đồng hành giúp con người vượt qua được mọi chán chường, bận tâm thái quá . . . Trong tất cả mọi sự, người khôn ngoan đích thực luôn nghĩ đến cùng đích .
Có nhiều chọn lựa xem ra rất ngớ ngẩn đối với người đời. Nhưng chính những chọn lựa ấy làm cho tâm hồn con người được thanh thoát và bình an để dần dần có thể tiến đến nguồn của mọi hạnh phúc chính là Thiên Chúa. Chọn lựa khôn ngoan là chọn Chúa, là sống thân tình với Ngài, lấy Ngài làm niềm vui. Chính Ngài là chỗ ẩn náu an toàn nhất cho ta. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể đong đầy những gì chúng ta còn thiếu thốn và khao khát trong cuộc tràn này. Tìm gặp Thiên Chúa là tìm gặp tất cả.
Ước gì chúng ta biết dùng mọi khả năng Chúa ban để biết chọn lựa những điều khôn ngoan và hoàn hảo, những điều mang tính vĩnh cửu à vững bền. Xin Thánh Thần Chúa ban cho chúng ta có được sự khôn ngoan của Ngài để chúng ta biết chọ chính Chúa là gia nghiệp của đời sống chúng ta hôm nay và mãi mãi. Amen.
Ngày nọ tôi đến thăm người bạn thân đã lâu không gặp. Sau một lúc trò chuyện, người bạn ấy: TN 17-C81
Ngày nọ tôi đến thăm người bạn thân đã lâu không gặp. Sau một lúc trò chuyện, người bạn ấy mới buông tiếng thở dài than về người vợ của mình. Anh ta nói mình đã lầm khi lấy cô ta. Sự thật là lúc cưới nhau do anh tưởng rằng tài sản, của cải có thể làm cho gia đình hạnh phúc. Cho nên anh đã nhắm mắt làm liều để cưới cô ta. Không ngờ rằng sau khi lấy nhau, những người trong gia đình bên vợ và thậm chí cả người vợ cũng xem anh không hơn gì một đứa ở!!! Chỉ vì thiếu khôn ngoan trong lựa chọn nên bạn tôi đã chuốc lấy hậu quả hết sức ê chề.
Phụng vụ Lời Chúa Chúa nhật hôm nay, Giáo hội muốn cho chúng ta biết khôn ngoan là điều quý nhất của con người. Vua Salomon đã không xin Chúa cho mình được sang giàu hay sống lâu. Ông chỉ xin cho mình được khôn ngoan sáng suốt. Chính vì được khôn ngoan nên ông đã biết khôn phân xử những vụ án thật khéo léo cũng như xây dựng đất nước thật phồn thịnh.
Nhờ có khôn ngoan người tín hữu chúng ta mới có thể biết chọn lựa đâu là những giá trị của nước trời. Những giá trị của nước trời thì vĩnh cửu và chắc chắn. Ngoài ra các giá trị khác như tiền bạc, quyền lực, danh vọng chỉ là hư vô, chóng qua, tạm bợ.
Bởi lẽ: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
“Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. 46 Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy”. (Mt 13, 44 – 46).
Vậy đâu là những giá trị của nước trời? Đó là gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu và sống theo những gì Người dạy. Muốn được như thế đòi hỏi mỗi người chúng ta cần phải nỗ lực hết sức mình. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi can đảm dứt khoát để từ bỏ những gì không thích hợp với giá trị của Nước Trời. Đây chính là sự lựa chọn khôn ngoan nhất. Cái lầm của người bạn tôi sẽ qua đi nhưng cái lầm vì thiếu khôn ngoan để chọn lựa các giá trị của Nước Trời sẽ không thể nào có cơ hội làm lại.
Dân gian Việt Nam có câu “một người tính bằng chín người làm” để nói lên sự cần thiết của: TN 17-C82
Dân gian Việt Nam có câu “một người tính bằng chín người làm” để nói lên sự cần thiết của sự khôn ngoan trong hành động, người khôn ngoan là người được đánh giá cao trong mối quan hệ của cuộc sống. Nhưng khôn ngoan là thế nào? Người như thế nào được gọi là người khôn ngoan?
Khôn ngoan thật, theo định nghĩa của Thánh Kinh là biết xử sự ở đời. Khôn ngoan thật không phải là ta biết bao nhiêu nhưng là ta áp dụng những hiểu biết của mình vào đời sống như thế nào. Khôn ngoan là biết áp dụng vào trong đời sống của mình đúng lúc, đúng thời điểm, đúng hoàn cảnh, đúng tâm trạng … vào trong hành động cũng như cách cử xử của mình trong xã hội. Người khôn ngoan trong kinh doanh là người biết chọn lựa việc đầu tư, biết chọn đúng thời điểm, biết chọn đúng địa điểm để kinh doanh và biết chọn đúng ngành nghề để kinh doanh…đặc biệt là biết “bỏ con tép bắt con tôm”.
Trong bài Tin Mừng Giáo hội cho chúng ta suy niệm hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta thấy hình ảnh của một con người khôn ngoan. Người khôn ngoan trong dụ ngôn là người khi tìm thấy được kho báu trong ruộng thì sẳn sàng bán lấy tất cả để mua thửa ruộng ấy, hay cũng giống như người đi buôn ngọc, tìm được viên ngọc quý thì ông cũng sẳn sàng bán lấy tất cả tài sản mình để mua cho bằng được viên ngọc quý.
Đối với những người không hiểu biết thì có thể cho rằng những con người này là dại. Dại vì đánh đổi tất cả những gì mình có chỉ để mua một mảnh ruộng, dại vì đánh đổi tất cả để mua một viên ngọc mà đôi khi bên ngoài nó không được bóng đẹp như bao viên ngọc khác. Nhưng với những ai hiểu được giá trị của mảnh ruộng, của viên ngọc thì chắc hẳn sẽ không cho rằng những con người này là dại mà họ thật là những người khôn ngoan, biết là tất cả để được kho báu, để được viên ngọc quý.
Mầu nhiệm Nước trời được Chúa Giêsu sánh ví như thế. Những ai sống hết lòng vì nước trời có thể bị cho là dại trong trần gian này bởi vì theo trần gian “nhịn là nhục”, “thẳng thắn thật thà thường thua thiệt, lương lẹo lắc léo lại lên lương”. Nên ai sống theo sự công chính của Thiên Chúa là những con người ngu dại. Lại nữa, mầu nhiệm nước trời ngay tại thế này thường không được đánh bóng bằng những mỹ từ “đao to búa lớn”, không được làm đẹp bằng những sự kiện giật gân… như viên ngọc quý mặc vẻ bên ngoài không được đẹp.
Nhưng thực tế mầu nhiệm Nước Thiên Chúa thật là cao cả, chỉ những ai khôn ngoan mới có thế nhận ra, và khi nhận ra thì sẳn sàng đánh đổi. Bởi tất cả những gì mà con người ta giành giật nhau ở trần gian này đều tạm bợ và chóng qua. Chỉ có Chúa và ơn của Người là vĩnh cửu. Chọn Người và hành động theo Lời Người thì thật là khôn ngoan vì đã chọn giá trị trường cửu, là chọn Đấng là nguồn mạch mọi ơn lành. Thật ra, Chúa không đòi hỏi chúng ta quá khắt khe đến độ quá sức chúng ta đâu, nhưng Chúa muốn dạy chúng ta phải biết chọn lựa đâu là chính yếu đâu là thứ yếu. Khi đã có sự lựa chọn thì ta phải chọn cái chính yếu và bỏ đi cái thứ yếu. Đó mới đích thực là khôn ngoan.
Nhưng sự khôn ngoan có được là do đâu? Trong bài đọc I bài Trích sách các Vua quyển thứ nhất dạy ta sự khôn ngoan có từ đâu. Thưa có từ nơi Thiên Chúa. Chúa chính là Đấng khôn ngoan toàn mỹ. Chọn Chúa là nhận ra được giá trị vĩnh cửu, chọn Chúa là nhận được sự khôn ngoan từ nơi Chúa, chọn Chúa là múc lấy được kho tàng mà chỉ có những ai thành tâm tìm kiếm trong ơn Chúa mới có thể nhận được. Kho tàng đó là chính Chúa, được kết hợp trong Chúa.
Thiên Đàng Hỏa Ngục hai quê. Ai khôn thì về, ai vụng thì sa. Đêm nằm nhớ Chúa nhớ Cha: TN 17-C83
“Thiên Đàng Hỏa Ngục hai quê. Ai khôn thì về, ai vụng thì sa. Đêm nằm nhớ Chúa nhớ Cha. D0ọc kinh lần hột kẻo sa linh hồn”. Trò chơi thuở nhỏ, chọn thiên đàng hay hoả ngục, trong khi đọc những câu thơ có vần dễ nhớ như trên, khiến chúng ta không khỏi thán phục những ai đã có sáng kiến nghĩ ra trò chơi cho con trẻ có nội dung đạo đức và đầy tính giáo dục như vậy.
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải có một chọn lựa dứt khoát, giống như khi Chúa bảo người thanh niên giàu có: “Hy đi bn những gì anh c m cho k ngho v anh s được mt kho tng trn trời, đọn hy đến theo Ta” (Mt 19, 21). Nước Trời ở đây là chính Chúa Kitô, được diễn tả như kho báu, như viên ngọc quý mà khi tìm gặp thì thái độ của chúng ta phải dứt khoát, hoặc là chọn Chúa hoặc là không và kết quả là ngày tận thế, kết cục sẽ tỏ tường chúng ta được Thiên Chúa đón nhận hay bị loại bỏ.
Chọn lựa nào cũng đòi hy sinh. Chọn lựa dứt khoát, thì hy sinh quyết liệt. Nước Trời là một kho báu đòi ta phải bỏ tất cả những gì mình có, kể cả bản thân để tậu cho được. Điều đó cũng chứng tỏ ta đã yêu thương Nước Trời hơn bất cứ điều gì khác trên đời. Thật vậy, ai có Thiên Chúa là có tất cả, vì chỉ mình Ngài là đủ. Người ấy nghiệm ra rằng sự bình an và niêm vui chân chính, sự mãn nguyện trong tâm hồn chỉ có được, khi có Thiên Chúa và như thế là đủ cho họ rồi!
Không gì có thể níu chân thời gian. Vạn vật rồi sẽ qua đi, con người cũng thế. Ai là là bạn hữu của Chúa, thuộc về Chúa, ngay từ đời nầy, thì cũng sẽ thuộc về Chúa trong cõi đời đời. Và thuộc về Chúa thì thật hạnh phúc vì luôn được sống trong tình yêu, được tình yêu Thiên Chúa chiếm hữu, lấp đầy.
Xin cho chúng con biết quên đi những đăm mê trần thế, quyết sống theo đòi hỏi của Tin Mừng, để thuộc trọn về Chúa, bây giờ và mãi mãi. Amen.
(Khởi nguyên 18,20-32; Thư Côlôsê 2,12-14; Tin Mừng Luca 11,1-13) Phúc Âm: Lc 11, 1-13
"Các ngươi hãy xin thì sẽ được".
Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông". Người nói với các ông:
"Khi các con cầu nguyện, hãy nói: 'Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ'".
Và Người còn bảo các ông rằng: "Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: 'Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy'. Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: 'Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được'. Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.
"Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho.
"Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá, lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy, nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người".
Suy Niệm:
Rõ ràng Lời Chúa hôm nay muốn dạy chúng ta về việc cầu nguyện. Bài sách Khởi nguyên cho: TN 17-C84
Rõ ràng Lời Chúa hôm nay muốn dạy chúng ta về việc cầu nguyện. Bài sách Khởi nguyên cho chúng ta thấy gương cầu nguyện nơi Abraham. Thánh Luca trong bài Tin Mừng ghi lại giáo huấn của Chúa về sự cầu nguyện. Còn bài thư Phaolô khẳng định Thiên Chúa đã chấp nhận chúng ta nên chúng ta không còn lý do gì để ái ngại khi cầu nguyện. Chúng ta hãy suy nghĩ những bài Kinh Thánh hôm nay để đổi mới việc cầu nguyện của chúng ta.
1. Abraham Cầu Nguyện
Chúng ta hẳn còn nhớ chuyện Abraham tiếp khách. Ông đã tỏ ra quảng đại khiêm cung lạ thường. Ông mời khách vào nhà, nhào bột làm bánh, bắt dê làm thịt và đứng hầu hạ khách. Xong rồi ông lại tiếp khách lên đường. Chính đang lúc khách đi về phía Sôđôma đã xảy ra câu chuyện hôm nay.
Khách đây là chính Chúa. Người nói cho Abraham biết: có tiếng cáo tội Sôđôma vang đến tai Người. Người muốn đến tận nơi xem có đúng như vậy không?
Sự thật thì Chúa đâu cần phải đi quan sát như vậy? Có gì che dấu được mắt Người, ngay cả những uẩn khúc đen tối nhất của lòng người mà ca dao tục ngữ các dân tộc vẫn bảo là không thể dò thấu? Ðối với Chúa, chẳng có gì che dấu được. Nhưng sở dĩ tác giả sách Khởi nguyên viết rằng: Chúa muốn đến tận Sôđôma để biết sự thật thế nào là để mạc khải sự thật đó cho Abraham, và nhất là để gợi lên ý tưởng Chúa còn để thời gian cho Abraham có thể thỉnh cầu Người cho dân thành tội lỗi.
Abraham hiểu như vậy. Hơn nữa tác giả sách Khởi nguyên vừa nhắc (18,18) ơn gọi phổ cập của ông. Chúa đã chọn ông để mọi dân tộc được chúc phúc. Thế nên hạnh phúc của Sôđôma, bề ngoài như không dính dáng gì tới ông, nhưng thật sự cũng đang tùy ở ông.
Abraham đã đóng vai trò là cha muôn dân của mình. Ông mạnh dạn thưa với Chúa: "Phải chăng Người sẽ tiêu diệt kẻ lành làm một với người dữ?". Ông muốn nại đến công bình và công lý sao? Không, ông đã đi xa hơn nữa. Vì nếu chỉ muốn nói đến công lý và công bình thì ông sẽ xin Chúa đưa người lành ra khỏi thành trước khi giáng phạt Sôđôma. Công việc tất nhiên Chúa sẽ làm. Không ai phải nhắc Người điều ấy. Và Abraham cũng chẳng có giá trị gì khi xin một ơn như thế. Nhưng sự thật ông đã không muốn nói đến công lý và công bình. Ông đã đi xa hơn để đóng đúng vai trò trở thành nguồn hạnh phúc cứu độ của muôn dân. Ông thỉnh cầu cho chính dân thành tội lỗi, cho chính những kẻ lẽ ra sẽ bị phạt... Ông muốn xin Chúa, vì sự hiện diện của những người lành, tha thứ cho kẻ tội lỗi.
Lời cầu xin của Abraham vì thế là lời cầu bầu. Ông là vị trung gian bầu chữa cho kẻ có tội. Những người này chẳng thuộc gia đình dòng dõi ông, thành ra Abraham ở đây là người của mọi người và của mọi dân tộc. Ông đang đóng vai trò tổ phụ muôn dân. Ông đang thực hiện Lời Chúa hứa làm cho ông trở nên nơi chúc phúc cho các dân tộc.
Chúng ta không thể nào không mến phục ông khi thấy ông vừa kính trọng công lý của Chúa nhưng đồng thời vừa tha thiết với sự rỗi của mọi người. Mỗi khi ông xin Chúa giảm con số những người công chính từ 50 xuống 45, 40, 30 rồi 20, chúng ta thấy rõ hai tâm tình ấy. Kiểu cách ông xin cũng tỏ ra rất tế nhị và không thiếu những ám chỉ thần học. Lúc thì ông thú nhận mình chỉ là tro bụi trước mặt Chúa, lúc thì ông lại xin Chúa nghĩ xem nếu để kẻ lành bị phạt lây với một kẻ dữ há chẳng bất công hơn là tha thứ cho một số đông người có tội, vì sự hiện diện của những người lành kia sao? Có lẽ điểm thần học đáng lưu ý nhất trong câu chuyện này là sự có mặt của người công chính ở giữa tội nhân có thể là một sự che chở cho những người này. Nói đúng hơn, xã hội loài người nhiều khi còn được hưởng sự khoan dung của Chúa, là vì trong xã hội ấy còn có một số ít người công chính.
Và điều này là một khích lệ đối với chúng ta, những người có niềm tin. Chúng ta giúp ích cho xã hội trước hết bằng nỗ lực sống thánh thiện. Nếu nơi nào có một số những con người cố gắng nên thánh, Chúa còn có thể khoan dung đối với xã hội nơi ấy, cho dù ở đó có nhiều kẻ tội lỗi muốn lôi kéo sự trừng phạt của Chúa công minh. Nhất là khi những nơi ấy lại có những con người nguyện giúp cầu thay cho kẻ tội lỗi, tiếp nối thái độ cầu bầu của Abraham trong câu chuyện này.
Và đây cũng là lý do vì sao trong tôn giáo chúng ta luôn luôn có việc thúc đẩy nhau cầu nguyện cho mọi hạng người, kể cả những người xa lạ với chúng ta.
Chỉ có điều tiếc trong câu chuyện này là Abraham đã không dám tiếp tục nài xin Chúa thương tha cho dân thành tội lỗi, nếu không tìm được 10 người công chính. Ông đã dừng lại nơi con số này vì ông tưởng đó là con số tối thiểu có thể sánh bằng được với con số đông đảo những kẻ tội lỗi. Ông chưa hiểu hết lòng Chúa. Người sẽ phán trong sách Giêrêmia rằng: nếu tìm được ở Giêrusalem một người mà thôi biết giữ công lý, Người cũng sẽ tha tội cho cả thành (5,1). Và trong sách Êzêkien, Người cũng nói: nếu tìm được người nào đứng trước nhan Người để bầu chữa cho xứ sở, Người cũng sẽ ngưng trút thịnh nộ xuống (22,30). Những lời khẳng định ấy phải làm chúng ta phấn khởi hơn nữa trong nỗ lực nên thánh và cầu nguyện cho xã hội...
Nhưng cũng chính những lời này có lẽ lại biện minh cho thái độ của Abraham. Có thể tìm được một người công chính trong thành Sôđôma không? Vẫn biết Chúa sẽ cứu ông Lot với gia đình ông, nhưng có thể vì Abraham hơn là vì Lot là "người công chính". Không chỗ nào trong Kinh Thánh, Lot được tuyên dương như vậy. Bởi vì nói cho cùng mọi xác phàm đều là tội lỗi. Người công chính duy nhất có thể cứu được loài người tội lỗi và có khả năng giúp cầu thay cho mọi người, là người tôi tớ Thiên Chúa trong sách của Isaia (53,5-10). Nhưng đó là nhân vật mầu nhiệm, chưa rõ rệt trong sách Cựu Ước. Phải đợi đến khi Ðức Giêsu Kitô chịu chết trên thập giá và cầu xin Thiên Chúa "tha tội cho chúng vì chúng lầm chẳng biết", bấy giờ nhân loại mới có người công chính thật và người cầu bầu có thế lực. Lúc ấy câu chuyện Abraham hôm nay mới được hoàn toàn; và chúng ta mới thấy hết ý nghĩa của nó.
Dù sao câu chuyện này cũng rất sống động và ý nghĩa. Nó khiến chúng ta thêm lòng cảm mến vị tổ phụ và kính yêu Thiên Chúa nhân lành nhiều hơn. Nó thúc đẩy chúng ta cố gắng nên thánh hơn nữa cho xã hội và cầu nguyện nhiều hơn cho mọi người nhất là cho kẻ tội lỗi. Lời cầu nguyện của chúng ta có cơ may hiệu nghiệm nhiều hơn lời cầu xin của Abraham, nếu chúng ta được phép so sánh như vậy, bởi vì chúng ta đã được chính Ðức Giêsu Kitô dạy cho biết phải cầu nguyện thê nào, như trong bài Tin Mừng chúng ta đã nghe đọc.
2. Chúng Ta Phải Cầu Nguyện
Tác giả Luca không cho chúng ta biết rõ lần ấy là lần nào và đã xảy ra ở đâu. Nhưng những lời đầu tiên Người đã viết ra rất là ý nghĩa. Người nói hôm ấy Ðức Giêsu vừa cầu nguyện xong không những Người muốn nhắc nhở chúng ta nhớ rằng: Ðức Giêsu là con người cầu nguyện. Ngài hay đi cầu nguyện nơi vắng vẻ; Ngài thường cầu nguyện lúc đêm khuya; Ngài cầu nguyện thiết tha đặc biệt trước khi làm những công việc ý nghĩa trọng đại và trong những trường hợp hơi khác thường. Nhưng tác giả Luca còn muốn làm chứng rằng: luôn luôn Ðức Giêsu làm và dạy. Ngài làm trước và dạy sau. Ngài cầu nguyện và dạy chúng ta cầu nguyện.
Ở đây, Luca nói rằng các môn đệ đến xin Ngài dạy họ cầu nguyện như Gioan đã dạy các môn đệ của ông. Vì sao họ phải nại đến Gioan? Cách Chúa cầu nguyện không đủ lôi kéo họ muốn cầu nguyện sao? Có lẽ không phải như vậy. Ðúng hơn khi thêm chi tiết, Gioan đã dạy môn đồ ông cầu nguyện, Luca có ý làm chứng rằng câu chuyện các môn đệ xin Chúa dạy họ cầu nguyện là có thật vì có chi tiết lịch sử kia làm chứng và kinh Chúa dạy hôm nay có một nguồn gốc chắc chắn; nhưng đồng thời Luca cũng muốn ám chỉ rằng cầu nguyện là một yếu tố không thể thiếu trong bất cứ tôn giáo và phong trào đạo đức nào. Ðến như nhóm Gioan còn có cách cầu nguyện riêng, huống nữa là chúng ta, các môn đệ của Ðức Giêsu.
Vậy khi cầu nguyện, chúng ta hãy nói: Lạy Cha...
Tác giả Luca bỏ chữ "chúng con" hay chúng tôi trong bản văn của Matthêu. Cũng như Người không viết thêm: "Cha chúng con ở trên trời". Dường như Người muốn để câu kinh được trực tiếp và gần gũi; Người muốn nó như thật là lời nguyện thoát ra từ môi miệng Ðức Giêsu... Bản văn của Matthêu có màu sắc Do Thái hơn vì nói đến Thiên Chúa là Ðấng ngự trên trời và là Cha của mọi loài. Bản văn của Luca đưa chúng ta vào đạo nhập thể nhiều hơn vì Con Chúa Trời sinh ra làm người, Ngài vẫn đang ở giữa chúng ta và dạy chúng ta cầu nguyện như Ngài vẫn cầu nguyện.
Rồi chúng ta cũng thấy Luca bỏ câu "xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời". Theo ý người tư tưởng này đã được bao hàm trong hai lời xin cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến. Việc rút gọn này khiến chúng ta phải để ý đến tính cách tổng hợp đầy đủ của phần đầu kinh Lạy Cha, chứ không phân tách và trải rộng ra quá nhiều khía cạnh khiến làm mất sức mạnh và sự chú ý của sự cầu nguyện. Theo ý Luca, đối tượng cầu nguyện của chúng ta là sự hiển thánh của Danh Thiên Chúa, thể hiện trong việc Nước Cha trị đến (và Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời). Tức là chúng ta phải cầu xin cho Nước Chúa lan rộng, cho Danh Người được thể hiện. Tất cả những điều đó chỉ là một, diễn tả theo ba lối khác nhau.
Và như vậy khi cầu nguyện chúng ta phải lập tức đặt mình vào quan điểm của lịch sử cứu độ. Và cầu nguyện là kết hợp ngay với Thiên Chúa đang muốn cứu độ loài người thêm nữa. Cầu nguyện là tiến bộ, và tiến bộ trong phạm vi đạo đức, là muốn lịch sử tiến lên, lịch sử Thiên Chúa cứu độ loài người.
Không có một chút quan điểm cá nhân ích kỷ nào trong lời cầu nguyện như thế. Phải có tinh thần cứu thế mới xứng đáng đọc lời cầu nguyện này. Và tinh thần cứu thế ấy bao trùm tất cả hạnh phúc loài người, cả phần hồn và phần xác. Nó là nguyện ước và khát vọng đạo đức vì quan niệm hạnh phúc kia nằm trong tình yêu của Chúa và đang ở trong tay Người.
Ước gì khi cầu nguyện và khi đọc câu đầu của kinh Lạy Cha, không những chúng ta có lòng sốt sắng kính mến Chúa, nhưng cũng phải chan chứa tinh thần yêu thương loài người, tha thiết cho nhân loại được hạnh phúc trong ơn nghĩa của Chúa. Một lời cầu xin như thế vừa cao cả lại vừa phổ quát hơn lời cầu nguyện của Abraham hôm nay, vì trong khi vị tổ phụ chỉ quan tâm đến xã hội hiện tại của một thành Sôđôma, chúng ta mỗi khi đọc kinh Lạy Cha lại trực tiếp muốn đưa lịch sử của tất cả loài người đến chỗ tốt đẹp hơn.
Như vậy phần sau của kinh Lạy Cha này có vẻ không còn đẹp nữa sao? Chúng ta xin cho được lương thực hằng ngày, được ơn tha tội, được thoát cơn thử thách. Thật ra đây là những lời xin cụ thể và cần thiết để áp dụng lời cầu nguyện trên và làm cho lời cầu xin này không phải chỉ là ước nguyện suông. Ở trên chúng ta đã cầu nguyện để lịch sử cứu độ tiến lên, thì giờ đây chúng ta phải muốn điều ấy thực hiện trong đời sống cụ thể của mọi người. Và ở đây chúng ta thấy bản văn của Luca có nhiều nét khác bản văn của Mátthêu.
Luca không xin cho "hôm nay" có của ăn nuôi sống mình, nhưng nguyện rằng mỗi ngày trong đời sống được Chúa nuôi dưỡng. Người ta có thể tự hỏi cả hai tác giả muốn nói đến thức ăn phần xác hay lương thực phần hồn tức là Lời Chúa và Thánh Thể? Nhưng tại sao chúng ta lại không nghĩ đến cả hai, bởi vì con người hằng ngày vẫn cần cả hai thứ lương thực hồn xác để được đầy đủ. Tuy nhiên điều đáng chú trọng hơn nữa trong lời xin này chính là thái độ và tư cách đạo đức. Xin cho hằng ngày dùng đủ là gì nếu chẳng phải là ước nguyện không rơi vào những thái cực hoặc giàu có hoặc nghèo nàn vì cả hai theo truyền thống của Kinh Thánh đều không tốt. Ðàng khác thái độ hằng ngày phải cầu xin cho được dùng đủ là tư cách đạo đức của những thành phần mà Kinh Thánh gọi là "những nghèo khó của Thiên Chúa", tức là những người được Ngài quan tâm ưu ái nhất. Và như vậy, đây là lời xin để cho mình luôn được kể trong hàng ngũ những người được Chúa chọn và dưỡng nuôi, những kẻ khó nghèo được rao giảng Tin Mừng và sống hoàn toàn cậy dựa vào tình thương của Chúa.
Thế mà điều cản trở người ta ở trong dân Người chính là tội lỗi. Cũng như điều kiện để Danh Cha hiển thánh là Nước Cha trị đến. Do đó người ta phải lập tức xin ơn tha thứ tội lỗi. Và ở đây Luca cũng muốn trải rộng lời xin này ra khắp cả đời sống bởi vì khác với Mátthêu nói đến những lời "đã" xúc phạm đến chúng ta, Luca viết chúng ta tha cho mọi kẻ có nợ với mình để tỏ ra mình đang khao khát ơn được tha thứ.
Luca cũng không nhắc đến việc xin cho khỏi quỷ dữ mà chỉ kết thúc kinh Lạy Cha bằng câu xin cho khỏi sa cơn thử thách; vì Người đã hiểu rằng mọi thử thách có hại cho người đạo đức đều đến bởi Satan, nên câu của Người có tính cách tổng hợp. Nó cũng có tính cách phổ cập vì cơn thử thách mà Người nói ở đây là bất cứ thử thách nào có hại cho Nước Trời, chứ không tất nhiên chỉ là những thử thách lớn lao thời thế mạt thường được nhắc đến trong tác phẩm của Mátthêu.
Chúng ta có thể kết luận, bản kinh "Lạy Cha" trong cái nhìn của Luca, là lời cầu nguyện cho Nưới Cha được trị đến, khởi sự từ chính nơi mỗi người, đem kết quả là ân sủng và đặc biệt là ơn tha thứ đến cho mỗi người và xa tránh hết mọi thử thách có hại cho ơn cứu độ. Lời cầu nguyện như vậy rõ ràng vừa phổ quát nhưng đồng thời lại có ý nghĩa dấn thân, xin cho ơn cứu độ phổ quát đến với mọi người, biến mọi người nên thành phần dân Chúa luôn được hưởng ân huệ và sự bảo hộ của Người.
Ý nghĩa của lời kinh này được hai ví dụ sau xác định: dĩ nhiên câu chuyện người bạn xin bánh và người con xin cá trực tiếp muốn nói lên lời khuyên phải cầu nguyện kiên trì và tin tưởng. Nhưng câu kết luận của hai câu chuyện ấy và của bài Tin Mừng hôm nay rõ ràng khẳng định là lời cầu nguyện của chúng ta phải nằm trong viễn tượng Nước Trời. Tác giả Luca viết: Cha các ngươi sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Người. Ðiều này dường như muốn đáp lại một lời khác của Chúa, là "các ngươi hãy tìm Nước Thiên Chúa trước và mọi sự khác sẽ được thêm cho".
Chúng ta có đủ lý do để kiểm điểm lại việc cầu nguyện của mình. Và ước gì bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta đổi mới được việc cầu nguyện! Nhất nữa theo thư Phaolô hôm nay, chúng ta còn có tư thế hơn Abraham ngày trước nếu chúng ta có thể nói được như vậy.
3. Tư Thế Của Chúng Ta
Vị tổ phục không dám nài xin Thiên Chúa cho đến cùng để dân thành Sôđôma khỏi bị phạt, là vì một đàng Người còn sợ đức công minh của Chúa, và đàng khác Người không chắc chắn chúng ta ngày nay có một tư thế khác. Thánh Phaolô khuyên ta suy nghĩ về ơn gọi của mình. Há phép Rửa đã không biến đổi chúng ta nên những người con mới sao? Chúng ta đã cùng được mai táng với Ðức Kitô và đã cùng được sống lại với Người. Phép Rửa đã làm cho chúng ta công việc ấy. Và như vậy chúng ta đã chết cho tội lỗi và đã hồi sinh trong Ðức Kitô. Ân sủng do mầu nhiệm thánh giá của Người đã ân xá cho ta mọi điều sa ngã, đã thủ tiêu văn khế tội nợ của ta. Chúng ta đã được trở nên công chính và trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa. Ðiều cần duy nhất là chúng ta phải ở lại luôn mãi trong tư thế ấy để luôn luôn nhận được lòng thương xót của Chúa. Nhưng giả như chúng ta không chắc chắn về ân sủng nơi mình chúng ta vẫn phải tin tưởng chắc chắn vào ân sủng nơi thánh giá Ðức Kitô. Người đã trở nên của lễ đền tội đời đời cho nhân loại, để Hội Thánh không ngừng có thể được ơn tha thứ tội lỗi. Như thư Hipri viết: Chúng ta đã có Ðấng cầu bầu đảm bảo ở trước mặt Thiên Chúa... Thế nên chúng ta hãy dạn dĩ tiến gần đến ngai ân sủng...
Chúng ta hãy dạn dĩ cầu nguyện, và cầu nguyện không ngừng. Hãy cầu nguyện cho mình và cho xã hội. Hãy cầu nguyện như Chúa đã dạy trong kinh Lạy Cha và hãy cầu nguyện tin tưởng như thư Phaolô khuyên bảo. Chúng ta có tư thế mà trước đây Abraham không có. Không những chúng ta có Ðấng cầu bầu bảo đảm là Ðức Giêsu Kitô. Chính chúng ta cũng có khả năng để được Chúa nghe lời vì chúng ta đã trở nên nghĩa tử của Người và được cầu nguyện bằng chính lời của Con yêu dấu Người... Giờ đây tham dự thánh lễ chúng ta lại được đổi mới tâm hồn và được đồng hóa với Ðức Giêsu Kitô nhiều hơn. Ðể làm gì nếu không phải một phần nào để trở nên tư tế của các dân tộc, luôn luôn cầu nguyện cho thế giới được ơn cứu độ? Chúng ta hãy suy nghĩ về nhiệm vụ cầu nguyện của mình để không ngừng đổi mới công việc ấy nhờ giáo huấn của Lời Chúa hôm nay.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Cuộc đời của Chúa Giêsu là một bài ca tuyệt vời “ Tình Thương Chúa đời đời con ca ngợi “:TN 17-C85
Cuộc đời của Chúa Giêsu là một bài ca tuyệt vời “ Tình Thương Chúa đời đời con ca ngợi “ (Tv 88 ). Cả đời sống của Chúa Giêsu là một lời kinh liên lỉ, lời kinh không dứt, không ngừng. Bất cứ làm công việc gì, đi đâu hay phải quyết định những gì quan trọng, Chúa Giêsu đều cầu nguyện và tham khảo ý Chúa Cha. Trong những năm đi giảng, Chúa Giêsu chỉ dạy cho các tông đồ một kinh duy nhất là kinh Lạy Cha.
Chúa Giêsu đã dạy cho các tông đồ và cho nhân loại kinh Lạy Cha để nói cho mọi người hay cầu nguyện không có nghĩa là chỉ xin ơn và cũng chẳng có nghĩa là liệt kê những ước muốn, những kỳ vọng, những điều mà mình muốn xin. Cầu nguyện là tôn thờ, thống hối, tạ ơn và xin ơn. Chúa dạy mọi người qua kinh Lạy Cha phải có bốn tâm tình rõ ràng như thế.” Lạy Cha, xin làm cho Danh Thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến “ ( Lc 11,2 ). Đây là câu chúc tụng, tôn vinh của kinh Lạy Cha. Rồi mọi người chúng ta tỏ lòng ăn năn sám hối, thống hối lỗi mình bằng lời xin lỗi:” Xin tha tội cho chúng con, như cũng con cũng tha kẻ có tội mắc lỗi với chúng con “ ( Lc 11, 4). Sau đó, chúng ta cảm tạ những hồng ân Chúa đã tuôn đổ trên chúng ta. Và rồi, tâm tình cầu xin của chúng ta được biểu lộ trong câu:” Xin Cha chúng con hôm nay lương thực hằng ngày “ ( Lc 11, 3 ), và “ xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ “ Lc 11, 4 ).
Lời kinh Lạy Cha là lời kinh của Chúa Giêsu. Đây là lời kinh tuyệt vời, hoàn hảo Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ của Ngài. Chúa không dạy các môn đệ, không dạy nhân loại, loài người nhiều kinh, Ngài chỉ dạy có một kinh Lạy Cha nhưng bao gồm tất cả lời cầu nguyện của Ngài. Do đó, lời kinh Lạy Cha là lời kinh hoàn hảo nhất, tuyệt vời nhất.Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha, là Abba “ Cha ơi “. Chúng ta là con của Chúa, chúng ta cũng gọi Cha Ngài là Cha của chúng ta. Xưa Abraham là Cha của các kẻ tin, nhưng cầu của Abraham và của Chúa Giêsu hoàn toàn khác nhau.Abraham đã yêu thương dân của Chúa, Ông đã dám đến gần Thiên Chúa để nài van Ngài tha thứ cho dân thành Sođoma và Gomora. Abraham đã không ngại ngùng trả giá với Thiên Chúa.Nhưng Ông đã không dám gọi Thiên Chúa là Cha một cách thật thân thương và thân mật như Chúa Giêsu đã gọi Thiên Chúa là Cha của Ngài. Chính vì thế, chúng ta chưa thấy một người nào dám gọi Thiên Chúa là Abba “ Cha ơi “ như Chúa Giêsu đã làm.
Chúa Giêsu sau khi đã dạy các môn đệ và mọi người kinh Lạy Cha, Ngài lại còn khuyên mọi người và chúng ta hãy kiên nhẫn và cậy trông để cầu nguyện. Phải kiên nhẫn cầu nguyện vì có những điều chúng ta cầu xin chúng ta không được đáp ứng, như thế, không phải vì Chúa không muốn cho chúng ta những ơn ấy nhưng vì có lẽ đối với Chúa, ơn ấy không cần thiết cho linh hồn chúng ta, Ngài muốn dành cho chúng ta ơn khác lớn hơn, cần hơn. Chúa luôn yêu thương và tỏ lòng nhân hậu với chúng ta như một người cha đầy lòng nhân hậu. Chúng ta phải trông cậy vì Chúa đã hứa:” Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho “ ( Lc 11, 9)
Tất cả mọi Kitô hữu đều được mời gọi thưa với Thiên Chúa là Cha. Bởi vì chúng ta được hiệp thông trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, sự sống mới mà chúng ta lãnh nhận khi chúng ta được rửa tội. Qua Bí tích rửa tội chúng ta được trở nên chi thể của Hội Thánh, thuộc về gia đình của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lời thân thưa của Chúa Giêsu với Thiên Chúa là Cha “ Abba” luôn phải là lời thưa của mỗi người chúng ta hằng ngày vì mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, chúng ta luôn được diễm phúc thưa với Thiên Chúa “ Abba “, Cha ơi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết siêng năng dùng kinh Lạy Cha để cầu nguyện và xin cho chúng con luôn biết cầu nguyện như Chúa Giêsu. Amen. Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Lc 11:1-4: 1 Lần kia, Ngài cầu nguyện ở một nơi nọ; Ngài xong rồi, thì một môn đồ thưa Ngài: "Lạy Ngài, xin dạy chúng tôi cầu nguyện, như Yoan đã dạy các môn đồ của ông". 2 Ngài nói với họ: "Khi cầu nguyện, các ngươi hãy nói:
Lạy Cha ước gì Danh Cha hiển thánh, Nước Cha trị đến. 3 Xin cho chúng tôi mỗi ngày có bánh ngày này; 4 Xin tha tội cho chúng tôi, vì chúng tôi cũng tha cho mọi khách nợ; và chớ để chúng tôi sa cơn thử thách".
5 Và Ngài nói cùng họ: "Trong các ngươi, giả sử một người có bạn thân, đi gặp bạn lúc nửa đêm và nói: Này bạn cho tôi vay ba chiếc bánh, 6 vì có người bạn ngang đường ghé lại với tôi, mà tôi lại không có gì mà đãi cả: 7 và người kia bên trong đáp lại bảo rằng: Ðừng làm rầy tôi; cửa đã khóa rồi, con cái tôi lại nằm cùng giường với tôi; tôi không thể dậy mà cho anh được; - 8 Ta bảo các ngươi: dẫu nó không muốn dậy mà cho anh ta vì bạn thân, thì cũng vì anh ta mặt dày mày dạn mà cũng phải chỗi dậy cho anh ta những gì anh ta cần đến".
9 "Và Ta bão các ngươi: Hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho, 10 Vì phàm ai xin thì lĩnh; ai tìm thì gặp; và ai gõ thì sẽ mở cho. 11 Trong các ngươi ai là cha, có con xin cá, há lại lấy rắn thay cá mà cho nó ư? 12 Hay là: nó xin trứng, há lại cho nó bò cạp ư? 13 Vậy nếu các ngươi, tuy là ác, còn biết lấy của lành làm quà cho con, thì huống hồ là Cha các ngươi, tự trời, Người sẽ ban thánh thần cho những ai xin Người".
Chỉ có Matthêô và Luca ghi lại Kinh Lạy Cha. Matthêô đặt kinh nầy ở trung tâm của Bài giảng: TN 17-C86
Chỉ có Matthêô và Luca ghi lại Kinh Lạy Cha. Matthêô đặt kinh nầy ở trung tâm của Bài giảng trên núi, trong khi Luca trong dịp đi lên Giêrusalem, khi các môn đệ yêu cầu Người. Hai bản nầy khác nhau đáng kể về hình thức. Liên kết hài hòa với đoạn trước nói về Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu để lắng nghe lời Người, đoạn nầy bắt đầu bằng sự kiện các môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cầu nguyện. Một loạt ba trình thuật liên quan đến việc cầu nguyện được đưa ra ở đây: Kinh Lạy Cha (11:1-4); Người bạn đến nửa đêm (11:5-8); và Lời khuyên kiên trì cầu nguyện (11:9-13). Kết cấu của Kinh Lạy Cha gồm: - Dẫn nhập (c. 1); - Một lời ngỏ với “Cha” (c.2a); - Hai lời cầu xin liên quan đến Danh và Nước của Cha (c. 2bc); - Ba lời cầu hướng đến “chúng tôi” (cc.3-4).
Khác với Matthêô, Luca cung cấp một câu dẫn nhập tường thuật (c.1), trong đó, ông trình bày Chúa Giêsu như là mẫu gương của việc cầu nguyện. “Ở một nơi” Luca không xác định nơi Người cầu nguyện, nhưng chắc chắn đó là nơi yên tĩnh, như Người thường làm (5:16; 6:12; 9:18.28). Tính cách không xác định của nơi chỗ nầy còn ngụ ý là Người cầu nguyện thường xuyên, không có một chỗ nhất định nào qui định Người phải cầu nguyện trong đó. Trong 10:1, Luca cũng đã dùng chữ “nơi chỗ” nầy không có mạo từ xác định, để chỉ tính phổ quát của sứ vụ của 72 môn đệ. Chúa Giêsu trở nên mẫu gương cầu nguyện; do đó, các môn đệ đến xin Người dạy họ làm như Người, dựa trên mẫu gương của Gioan (x. 5:33). Cầu nguyện mà các môn đệ xin Chúa Giêsu dạy là “proseuchomai”, khác với “déomai” mà Gioan dạy cho các môn đệ của ông (5:33). Déomai là xin Thiên Chúa trợ giúp về một chuyện riêng biệt nào đó (x. 1:13; 5:12; 8:28.38; 9:38.40; 10:2); trong khi đó, proseuchomai là lời nguyện cầu, như một hành vi thờ phượng, ngỏ trực tiếp với Thiên Chúa, “cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6:12; x. 1:10; 3:21; 5:16; 9:28, 29; 11:1.2; 18:1.10; 22:41). “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói” là công thức dẫn vào việc cầu nguyện.
Luca dùng lời xưng hô ngắn gọn “Lạy Cha!” (c. 2a), thay vì “Lạy Cha chúng con ở trên trời” của Matthêô. “Lạy Cha!” đầu tiên được dùng trong lời tán tụng Chúa Giêsu ngỏ với Chúa Cha về những mạc khải Người tỏ ra cho những kẻ bé mọn. “Cha” được gọi là “Chúa của trời và đất” (10:21). Những lần cuối cùng Chúa Giêsu gọi “Lạy Cha!” khi Người ở trong những giây phút quyết định của cuộc thương khó (22:42; 23:34.36). Tất cả những lần trên đây, Chúa Giêsu nói có tính cách cá nhân với Thiên Chúa trong tương quan Cha-Con. Lần nầy (11:2), Người đặt người môn đệ trong tương quan với Thiên Chúa như là Cha của họ; điều nầy cũng có nghĩa là Người nâng họ ngang hàng với Người trước mặt Chúa Cha. Và tất cả đều có thể gọi Thiên Chúa là Cha của mình (x. 6:35).
Phần thứ nhất của Kinh Lạy Cha hướng về Thiên Chúa (11:2bc). “Danh” là hiện thân của một người; chứ không chỉ là một cái tên (x. 9:48.49). “Danh” của Người có quyền năng và uy lực như chính bản thân Người. Người dùng “danh” của Người mà trừ quỉ có hiệu quả như chính Người làm (9:49); các môn đệ cũng nhân danh của Người mà khuất phục ma quỉ (10:17); Đấng đến nhân danh Thiên Chúa, chính là người của Thiên Chúa (13:35; 19:38); bị loại trừ bởi danh Chúa nghĩa là vì người ta ghét Chúa Giêsu mới đối xử như thế cho các môn đệ (21:12.17). Vậy, “danh của Người” chính là “Cha”. “Xin Danh Cha được thánh hóa”. Hagiazô, “làm nên thánh”, đặt riêng ra dành cho Thiên Chúa.
Động từ ở passivum divinum có Thiên Chúa làm chủ ngữ của hành động thánh hoá, và đối tượng là “danh của Người”. Như thế, không phải con người phải thánh hoá danh Thiên Chúa (x. Is 29:23), mà chính Thiên Chúa làm việc nầy. Đối nghĩa với “thánh hoá” là “tục hoá”. Ngôn sứ Êzêkiel nói đến việc Thiên Chúa thánh hoá danh của Người (Ez 26:23), vì danh Người bị dân Israel tục hóa bởi cách sống vô luân, và hành động thờ ngẫu tượng trong thời kỳ lưu đày (x. Ezk 36:17-21; 20:39; x. Lv 18:21; 20:3). Cuộc sống của họ ở những nơi họ đến đã làm ô danh của Người. Do đó, Người quyết định thánh hóa danh của Người; nghĩa là phục hồi lại tiếng tăm và uy tín của Người, để các dân tộc khác tán dương và tôn vinh Người. Vậy, “xin danh Cha được thánh hóa” là xin Thiên Chúa canh chừng để cho mọi người tôn kính Người như là Đấng Thánh và làm vinh quang Người. Để làm điều nầy, Êzêkiel loan báo một kế hoạch thánh hoá dân chúng: thay một con tim bằng thịt vào con tim bằng đá (36:24-32). Như thế, danh Thiên Chúa được thánh hoá cũng chính là con người được phục hồi và cứu chuộc. Trong những trường hợp đã trích dẫn trên, danh của Chúa Giêsu được dùng để chữa lành và cứu vớt, đồng thời danh ấy cũng được tôn vinh.
Lời cầu tiếp theo “xin cho Nước Cha đến” (c. 2c) liên hệ chặt chẽ với lời cầu trước. Để cho danh Người được thánh hoá, quyền bính và ý muốn của Thiên Chúa phải được thiết lập trên mọi dân tộc. “Nước Thiên Chúa” là trung tâm lời rao giảng của Chúa Giêsu (4:43; 8:1; 9:11), của nhóm Mười Hai (9:2), của các môn đệ (9:60; 10:9.11). Nước Thiên Chúa có thể hiểu là “nơi” Thiên Chúa cai trị và điều khiển, “nơi” mà quyền bính và ý muốn của Người được thi hành cách hoàn hảo. Việc khi nào Nước Trời đến không phải là trọng tâm của Luca, vì Nước Thiên Chúa đã đến trong bản thân Chúa Giêsu (x. Cv 28:31), nghĩa là Nước Trời đã được thiết lập đồng thời với việc Chúa Giêsu đến trần gian. Thấy Chúa Giêsu là đã thấy Nước Trời (x. 9:27). “Nước Trời kề bên” (10:9.11; 11:20) nghĩa là Nước Trời ấy đã hiện diện và người ta chưa nhận ra, và chưa tin vào. Trong câu trả lời cho những người Pharisêô, Chúa Giêsu đã không trả lời cho câu hỏi “khi nào” (17:20a), mà “như thế nào” là “Nước Thiên Chúa không đến để được xem thấy” (17:20b). Luca quan tâm hơn đến cách thể hiện của Nước ấy một khi đã đến trần gian. Các dụ ngôn về Nước Trời minh họa điều nầy.
Hạt cải, nhúm men bé nhỏ không đáng kể và không dễ thấy, nhưng hiệu quả của chúng rất lớn. Những điều kiện để Nước Trời đến, hoặc để có thể đến trong Nước Trời là đón nhận Nước Trời như một trẻ nhỏ (18:16-17); không là người giàu có (18:25); từ bỏ những liên hệ thân thiết nhất của gia đình (18:29). Điều nầy làm liên tưởng đến quyết định của Thiên Chúa muốn phục hồi lại danh thánh của Người: Người làm mọi cách cho dân của Người thay đổi và trở về đường công chính (36:24-32). Nước Thiên Chúa đã đến trong tâm hồn các môn đệ, khi Chúa Cha mạc khải cho họ những điều thuộc về Nước Trời (x. 8:10; 10:21). Phần thứ hai liên quan đến những nhu cầu của con người “chúng tôi” (11:3-4). Những lời cầu xin trong phần nầy không tách lìa khỏi hai lời cầu xin trước; trái lại gắn chặt với nhau. Những nhu cầu con người đặt trong tương quan với việc làm hiển thánh Danh Cha, và việc Nước Trời đến.
Lời cầu trước tiên liên quan đến “bánh chúng tôi”, nghĩa là việc nuôi sống (c. 3a). Trong khi Matthêô xin bánh cho “ngày hôm nay” tức thời (Mt 6:11), Luca nghĩ đến bánh “mỗi ngày”, cụm từ quen thuộc của Luca (9:23; 16:19; 22:53; Cv 2:46-47; 3:2; 16:5; 17:11). Mỗi ngày nói lên tính cách lâu dài của cuộc sống. Động từ “cho” ở thì hiện tại có tính lập lại, liên tục và kéo dài. “Cho” còn nói thêm là bánh là ân huệ Thiên Chúa ban. Đây là xác tín: Thiên Chúa nuôi dân Người từ khi Người tạo dựng nên họ (12:30). Người nuôi họ trong sa mạc bằng manna, phép lạ hoá bánh cá ra nhiều (9:10b-17), và Người căn dặn chớ lo lắng cho mạng sống (12:22-32). Thiên Chúa bảo đảm cho họ mọi thứ họ cần để nuôi sống. Việc họ phải làm là tìm kiếm Nước Thiên Chúa (x. 12:31), nghĩa là làm hiển thánh danh Thiên Chúa và làm cho Nước Người ngự đến.
Nhưng là bánh gì? Tính từ epiousios là từ hiếm, chỉ thấy trong Mt 6:11 và Lc 11:3. Ý nghĩa của nó đang bàn cãi; nguồn gốc của từ không rõ rệt; các giáo phụ chú giải rất khác nhau. Có thể tóm tắt một số cách giải thích. Epiousios có thể hiểu nó xuất phát từ động từ ienai “đến” hay einai “là”. “Epi” diễn tả sự liên tục trong thời gian. Nếu cho rằng tính từ nầy phát xuất từ ienai, “đến”, epiousios có nghĩa là đang đến; và cụm từ trên có nghĩa là bánh cho ngày đang đến, ngày nầy tiếp ngày kia (x. Cv 16:11; 20:15; 21:18; 7:26; 23:11). Nếu cho rằng tính từ nầy bởi einai, “là”, cụm từ có nghĩa là bánh thiết yếu. Nếu xét bản văn nầy trong văn mạch, có thể sẽ thấy rõ hơn. Các môn đệ được Chúa Giêsu mời gọi bỏ tất cả, không chỉ những quan hệ gia đình thân thiết nhất (9:59-62), mà cả những bảo đảm của cuộc sống, như nơi ở (9:58), phương tiện (10:4). Của ăn nuôi sống của họ tùy thuộc vào nơi họ đến và lòng hiếu khách của người khác (10:7). Và họ cũng đã chứng kiến việc Chúa Giêsu làm bánh và cá nên nhiều để nuôi dân chúng trong hoàn cảnh không thể đối với họ. Như thế, Người muốn họ tin tưởng vào Người, và chỉ cầu xin bánh của từng ngày đang đến.
Lời cầu xin tha tội (10:4). Sau khi đã cầu xin Cha như là Đấng Tạo Hoá, nuôi sống phần xác, người môn đệ cầu xin Người như là Đấng Cứu Độ, giải thoát phần hồn. Luca dùng “harmatia” “tội lỗi”, thay vì “opheilçma” “nợ” (Mt 6:12). “Tha thứ” và “tội lỗi” hai từ thường đi đôi với nhau và rất quen thuộc trong Luca. Theo Luca, Chúa Giêsu đến mở ra thời kỳ cứu độ của Thiên Chúa, trong đó con người sẽ được tha thứ qua Người Con nầy (x. 5:20-21.23-24; 7:47-49; 24:47; Cv 2:38; 3:19; 5:31; 13:38). Đối với ông, sự tha thứ liên kết với việc hoán cải và chịu phép rửa (Cv 2:38), nghĩa là từng cá nhân phải dấn thân vào để sự tha thứ có thể nên hiệu quả trong họ. Bởi đó, sự cứu độ của Thiên Chúa cần được loan báo cho mọi người (1:77), sự tha thứ cần được rao giảng (24:47), và lời cầu xin “tha tội” phải làm mỗi ngày.
Trong phần thứ hai của lời cầu xin tha tội, hành vi tha thứ của “chúng tôi” được so sánh như hành động tha thứ của Thiên Chúa (c. 4b). Luca không xem đây như là một điều kiện như trong Matthêô (18:35). Ông muốn diễn tả sự tương đồng trong cách hành động giữa Thiên Chúa và các môn đệ. Điều đòi hỏi căn bản và rõ ràng nhất Chúa Giêsu nhắc đến để có thể lãnh nhận sự tha thứ là lòng hối cải (metanoia) (5:32; 10:13; 11:32; 13:3.5; 15:7.10). Người cầu xin sự tha thứ, giả thiết họ đã hối cải (c. 4a). Và bởi họ hiểu lòng hoán cải là cần thiết, họ cũng tha thứ cho những người có lòng hối cải. Chúa Giêsu dạy các môn đệ điều nầy là tha thứ cho anh em, nếu như họ nói “Tôi hối cải” (17:3-4). Hành động tha thứ nầy (ở thì hiện tại) phải thực hiện ngày mỗi ngày. Như thế, có sự liên kết chặt chẽ giữa sự tha thứ của Thiên Chúa và “chúng tôi” (6:37).
Lời cầu xin sau cùng “xin đừng đưa chúng tôi vào trong cám dỗ” (c. 4c). Eispherô, nghĩa là “mang vào bên trong”, như người ta tìm cách mang người bại liệt vào trong nhà (5:18.19; 12:11). Peirasmos, “thử thách”, “cám dỗ”, muốn kéo con người đi ra ngoài ý muốn của Thiên Chúa (4:13; 8:13; 22:28). “Cám dỗ”, không có mạo từ xác định, chỉ thử thách cách chung và không xác định, có thể là lo lắng cuộc sống, giàu có, thú vui…(8:14). Có “thời cám dỗ” sẽ đến (8:13). Ma quỉ thường chịu trách nhiệm việc cám dỗ nầy (4:2). Tuy nhiên, nhiều bản văn của Cựu ước nói đến việc Thiên Chúa thử thách/cám dỗ dân Người. Khẳng định trước là Thiên Chúa không bao giờ cám dỗ con người làm điều xấu (x. Giac 1:13). Trái lai, mục đích việc cám dỗ của Người là để làm cho họ kính sợ Người và không phạm tội (x. Xh 20:20; x. 16:4), để dò xét tâm hồn và xem có tuân giữ giới răn của Người hay không (Đnl 8:2), để xem biết tình yêu đối với Người (Đnl 13:3; Quan án 2:22). Trong Luca, không thấy Thiên Chúa cám dỗ ai, mà Người để Chúa Giêsu chịu cám dỗ (4:1-13), các môn đệ (22:28). Việc dùng thức cầu khẩn thời bất định (aorist subjuntive) ở ngôi thứ hai với “mç” diễn tả một lệnh cấm về một loại hạng nhất định nào đó. Nên tốt hơn là hiểu “xin đừng đưa chúng tôi vào trong cám dỗ” như là đừng cho phép cám dỗ xảy ra, hơn là Thiên Chúa là nguyên nhân của hành động. Vậy, vì nguy cơ sa vào cám dỗ rất lớn (8:13; 22:40.46), người môn đệ phải xin điều nầy mỗi ngày.
Vinh quang của Thiên Chúa và sự cứu độ của con người gắn liền nhau.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 11:1-13)
Các sách Tin Mừng kể lại nhiều sinh hoạt của Chúa Giê-su với các môn đệ, nhưng đa phần là: TN 17-C87
Các sách Tin Mừng kể lại nhiều sinh hoạt của Chúa Giê-su với các môn đệ, nhưng đa phần là những lời dạy dỗ Thầy Giê-su căn dặn môn đệ và những việc Người làm vì lợi ích cho họ. Có lẽ đây là lần đầu tiên mới có một môn đệ lên tiếng xin Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện”. Và có lẽ cũng là lần đầu tiên Chúa Giê-su đã trả lời ngay tức khắc, để đáp lại thỉnh cầu của môn đệ. Những điều này hẳn phải nói lên tầm quan trọng của vấn đề cầu nguyện. Chúa Giê-su không đưa ra những phương pháp tu đức về việc cầu nguyện như chúng ta đọc trong sách vở ngày nay, nhưng Người bảo: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói”. Thực ra phương pháp cầu nguyện cũng quan trọng, nhưng cầu nguyện điều gì còn quan trọng hơn nữa. Cho nên chúng ta mới có kinh Lạy Cha là kinh Chúa Giê-su đích thân dạy chúng ta. Kinh Lạy Cha không chỉ là một mẫu cầu nguyện, nhưng là nội dung việc cầu nguyện của chúng ta. Khi cầu nguyện, chúng ta cứ “nói” với Cha trên trời, như con cái nói với cha mẹ. Nghĩa là tất cả những điều chúng ta phải “nói với Cha trên trời” trong mọi nơi mọi lúc đều nằm trong danh sách điều cầu xin của kinh Lạy Cha.
Sau khi dạy chúng ta phải “xin” những điều gì khi cầu nguyện, Chúa Giê-su còn đặc biệt lưu ý chúng ta phải xin như thế nào. Người lấy thí dụ một người vào lúc nửa đêm đến nhà bạn mình để chỉ “vay ba cái bánh” thôi. Người bảo chúng ta hãy bắt chước thái độ của người ấy: “Vì anh ta cứ lì ra đó”. Rồi Người so sánh cái lì trước người bạn với cái lì của chúng ta trước Thiên Chúa và đi tới kết luận tất nhiên: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời?” Một thái độ thật đơn giản, nhưng cũng cốt yếu khi chúng ta cầu nguyện là “cứ lì ra đó” trước mặt Chúa.
Chẳng lẽ bài học về cầu nguyện đơn giản như thế sao? Đúng vậy. Chúng ta xin Chúa cho chúng ta trở nên dụng cụ để giúp cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện. Chúng ta xin Chúa ban cho những nhu cầu của chúng ta: lương thực hằng ngày, ơn tha thứ tội lỗi, khỏi sa chước cám dỗ, được cứu khỏi sự dữ. Chúng ta xin những điều trên với thái độ của con cái cứ lì ra với Đấng chúng ta gọi là Cha. Và đương nhiên kết quả của cầu nguyện là cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy và cứ gõ cửa thì sẽ mở cho.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha là điều chúng ta được dạy từ khi còn nhỏ mới biết nói. Rồi chúng ta “đọc” kinh Lạy Cha rất thường xuyên, khi lần hạt, trong Thánh lễ, trước khi ăn cơm… Nhưng liệu chúng ta có thực sự “nói” với Cha bằng tất cả con tim hay chỉ kể lể và xin xỏ? Chúng ta có quan tâm đến mối tương quan Cha-con giữa Chúa và chúng ta bằng cách phục vụ cho danh Cha, Nước Cha và ý Cha không, hay chỉ ích kỷ nghĩ đến mình thôi? Chúng ta có xác tín nhu cầu vật chất của chúng ta là sự đầy đủ đúng mức hay còn giữ lòng tham lam không đáy? Đặc biệt nhu cầu thiêng liêng, xin được ơn tha thứ tội lỗi mình và biết đối xử nhân ái với anh chị em, có là điều chúng ta cần phải xin và sống hằng ngày không? Sau hết, đứng trước những cạm bẫy của tội lỗi ma quỷ, chúng ta có xin Cha bảo vệ và giúp chúng ta thắng vượt không?
Ước mong khi cầu nguyện kinh Lạy Cha là chúng ta sống mối tương quan với Chúa trong hoàn cảnh sống hằng ngày, để thái độ “cứ lì ra” của chúng ta trước mặt Chúa sẽ là dấu chỉ nói lên rằng hết thảy chúng ta là con một Cha và anh chị em với nhau.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đặc biệt là bài đọc thứ nhất và bài Tin Mừng, nhấn mạnh chủ đề: TN 17-C88
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đặc biệt là bài đọc thứ nhất và bài Tin Mừng, nhấn mạnh chủ đề cầu nguyện.
Trong bài đọc I (St 18,20-32), chúng ta thấy ông Aùp-ra-ham đã cầu bầu cùng Thiên Chúa cho dân thành Xơ-đôm, một thành đầy tội lỗi. Câu truyện này làm nổi bật tầm quan trọng của sự cầu nguyện cho người khác, cũng như tỏ lộ lòng nhân từ của Thiên Chúa.
Trong bài Tin Mừng, thánh sử Lu-ca trình bày Chúa Giê-su là khuôn mẫu và thầy dạy sự cầu nguyện. Cầu nguyện là một trong những đề tài quan trọng trong Tin Mừng thứ ba. Chúng ta thấy Chúa Giê-su cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh, nhất là khi đứng trước các biến cố quan trọng (Lc 5,16; 6,12; 9,18;10,21…). Người thường vào nơi thanh vắng để cầu nguyện, để đối thoại thân tình với Chúa Cha. Người cũng hay thức suốt đêm để cầu nguyện. Cách cầu nguyện của Chúa Giê-su rất ấn tượng như vậy - nên một hôm, một trong số các môn đệ đã xin Người dạy cầu nguyện, và Người đã dạy các ông biết cách cầu nguyện.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giê-su đã dạy về sự cầu nguyện với hai khía cạnh: nội dung phải cầu nguyện và thái độ khi cầu nguyện.
1. Nội dung phải cầu nguyện
Trước hết, Chúa dạy các môn đệ cầu nguyện với Kinh Lạy Cha. Đây là Kinh đặc trưng và quan trọng nhất trong đạo chúng ta. Kinh Lạy Cha là một bản tóm kết trọn vẹn cả Tin Mừng của Chúa Giêsu, một bản toát lược khoa thần học, một bản giáo lý về đời sống Ki-tô và là một trường dạy về cầu nguyện.
Vào thời Chúa Giê-su, người Do Thái không dám đối thoại thân mật với Thiên Chúa và gọi Ngài là Cha - vì sợ xúc phạm đến uy linh Thiên Chúa. Trái lại, Chúa Giêsu đã mặc khải Thiên Chúa là Cha, chúng ta là con Thiên Chúa, và Người dạy chúng ta cầu nguyện với Cha trong tư cách người con. Từ "Cha" được lặp lại nhiều lần trong Kinh Lạy Cha - đó là nét đặc trưng của Kinh này.
Trong Kinh Lạy Cha, có năm điều chúng ta phải cầu xin. Trước hết, chúng ta phải hướng lên Cha với hai lời nguyện xin: đó là xin cho danh Cha được vinh hiển - nghĩa là xin cho mọi người nhận biết và tôn vinh Cha; và xin cho triều đại Cha mau đến - nghĩa là xin cho mọi người gia nhập Nước Chúa. Tiếp đến là ba điều chúng ta xin cho chính mình: trong đó, một điều liên quan đến vật chất - đó là xin cho có đủ lương thực hằng ngày; và hai điều liên quan đến tinh thần - đó là xin được Cha tha thứ và chính mình cũng biết thứ tha cho người khác, cũng như xin đừng sa chước cám dỗ. Qua thứ tự những lời cầu xin, ta thấy trong lời cầu nguyện của chúng ta: Thiên Chúa phải quan trọng hơn chúng ta, và tinh thần phải quan trọng hơn vật chất.
2. Thái độ khi cầu nguyện
Chúa Giê-su dạy chúng ta phải kiên trì và tin tưởng trong cầu nguyện. Để minh họa cho thái độ này, Chúa đã kể dụ ngôn "Người bạn bị quấy rầy". Trong đó, sự kiên trì của người bạn đi vay bánh ban đêm đã chinh phục được chủ nhà. Chúa khẳng định: người đời dù quen hành động theo lý do ích kỷ (để khỏi bị quấy rầy) thế mà cũng phải chịu thua sự kiên trì của người xin. Huống chi Thiên Chúa vốn tốt lành, luôn đối xử với chúng ta theo tình thương. Vì thế, nếu chúng ta kiên trì và tin tưởng cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhận lời. Để tăng thêm xác tín lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được chấp nhận, Chúa đã lặp lại hai lần câu "xin thì sẽ được, tìm thì sẽ thấy, gõ cửa thì sẽ mở cho".
3. Chúng ta cầu nguyện như Chúa dạy
Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, nên chúng ta cần siêng năng và sốt sắng cầu nguyện theo gương Chúa Giêsu và theo tinh thần Người dạy.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, trước hết Người dạy chúng ta hãy ý thức và tin tưởng vào Cha. Chúng ta cũng là con Thiên Chúa, là thành viên trong gia đình của Ngài, do đó chúng ta có thể hướng tâm hồn lên Cha, cầu nguyện cùng Cha với niềm tin tưởng giống như em bé hướng lên cha mình với một sự chắc chắn em sẽ nhận được từ cha mình tất cả mọi điều em cần.
Là những người tin vào Chúa Giê-su, muốn đi theo Người và cầu nguyện như Người, chúng ta hãy đặt Thiên Chúa vào vị trí thứ nhất trong đời sống và trong kinh nguyện của chúng ta: nhận biết Ngài là Thiên Chúa, Ngài đã mặc khải khuôn mặt và ý muốn của Ngài nơi Đức Ki-tô.
Chúng ta cần quan tâm cầu nguyện cho chương trình và công việc của Chúa và Giáo Hội, cũng như cho thế giới nhận biết và tin tưởng vào Chúa. Nói cách khác, lời cầu nguyện của chúng ta phải phổ quát, rộng mở để ôm ấp mọi nhu cầu của mình và mọi người - theo bậc thang giá trị mà Chúa Giê-su đã dạy trong Kinh Lạy Cha.
Chúa cũng dạy chúng ta kiên trì cầu nguyện. Điều này không có nghĩa là chúng ta phải nói nhiều. Những người ngoại nghĩ rằng họ sẽ được nhận lời nhờ vào sức mạnh của sự dài lời. Thực ra, Chúa không cần nhiều lời. Ngài chỉ cần tấm lòng đơn thành, tin tưởng của chúng ta. Cụ già nông dân ở họ Ars bên Pháp đã hiểu được điều này, nên có thể ngồi thinh lặng cầu nguyện một mình lâu giờ trong nhà thờ mà chỉ cần "con nhìn Chúa và Chúa nhìn con" là đủ. Thậm chí, cả khi chúng ta không có khả năng để làm bất cứ điều gì, thì chúng ta cũng luôn xác tín rằng: Chúa Thánh Thần đang ngự trong chúng ta, Ngài không ngừng dâng lên Chúa Cha những lời khẩn nguyện, còn chúng ta chỉ cần đáp "Amen".
Ông là một bác sĩ, và vợ ông cũng là một bác sĩ. Em gái ông là một y tá . Nhưng tai họa đã xẩy ra: TN 17-C89
1. Ông là một bác sĩ, và vợ ông cũng là một bác sĩ. Em gái ông là một y tá . Nhưng tai họa đã xẩy ra cho người cha già của họ, đó là không ai trong hai anh em chấp nhận cho cha mình ở với mình.
Khi biết ý định của hai con là sẽ đưa mình vào viện dưỡng lão, ông đã lần lượt đến quỳ xuống trước mặt mỗi đứa con, khóc lóc và xin đừng đưa mình vào nhà dưỡng lão. Nhưng kết quả là không một ai trong hai người con ấy chấp nhận để ông sống chung với gia đình của họ nữa.
2. Chị là con út trong gia đình, và cũng là người duy nhất định cư tại Hoa Kỳ. Ngoài căn bệnh tâm thần, mẹ chị còn phải gánh chịu những tàn phá ghê gớm do chứng tiểu đường. Bà phải ngồi xe lăn và di chuyển rất đau đớn, vất vả. Nhưng rồi, bà cũng bị bỏ vào viện dưỡng lão nơi có những bệnh nhân tâm thần, mặc dù bà không hề biết một câu tiếng Anh.
3. Bà là một bác sĩ nổi tiếng, nhưng ông chú bà bị tâm thần và suy thoái trí nhớ. Tuy ông vẫn có thể sống một mình một cách hết sức vất vả với sự giúp đỡ của những người do cơ quan y tế cử đến săn sóc và giúp đỡ. Nhưng khi nghe ai đó đề cập đến người chú của bà, thì bà lờ đi như không biết gì!!!
Bạn nghĩ gì về 3 mẩu truyện trên? Và bạn nghĩ gì, nhận định gì về những cách cư xử của những người đó đối với cha mẹ và thân nhân của họ? Bạn bảo họ là những đứa con, đứa cháu vô ơn và bất hiếu? Nhưng tôi lại muốn dùng những mẩu truyện trên để nhắc nhở chính tôi về mối tương quan với đấng mà tôi gọi là “Cha”, Thiên Chúa Cha ngự trên trời.
Thánh sử Luca đã ghi lại lời kinh nguyện mà Chúa Giêsu đã dậy tôi. Là người anh cả, và cũng là người hiểu và biết Cha tường tận, chính Chúa Giêsu đã chỉ vẽ cho tôi về mối tương quan cha con ấy. Cũng như Mẹ Maria trong Kinh Ngợi Khen (Magnificat), Chúa Giêsu trong Kinh Lậy Cha (Lời tâm sự giữa Chúa và tôi), đã nói với tôi về một người Cha rất mực nhân từ, xót thương, và luôn luôn quan tâm, lo lắng đến mọi nhu cầu dù rất nhỏ mọn của tôi.
Lời trần tình ngọt ngào:
Hãy nghe Chúa Giêsu dậy tôi gọi Thiên Chúa là “cha”: “Lậy Cha chúng con ở trên trời”. Để nghe tâm tư của người Cha được thoát ra từ những tâm tư kinh nguyện ấy. Ở đấy tôi tìm được hình ảnh của một Thiên Chúa đầy quyền năng, nhưng cũng là một người cha rất mực yêu thương, chăm lo săn sóc cho từng người con không những mọi sự về tinh thần, mà còn cả thể chất nữa.
Tôi chưa thấy Chúa nào, thần nào lo cho tôi từ miếng cơm, manh áo, như Chúa tôi, cha tôi. Chúa Giêsu bảo tôi hãy xin: “Cha cho chúng con hằng ngày dùng đủ” (Luc 11: 3).
Cơm bánh, áo quần, những nhu cầu cần thiết cho cuộc sống thể lý tuy cần, nhưng cần hơn là sức sống tâm linh. Và đây là những nhu cầu mà Chúa Giêsu cũng dậy tôi cần thiết phải thưa với Cha mình: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Luc 11:4).
Nhưng nhất là Chúa tôi, Cha tôi không muốn chính tôi phải đối đầu, phải đau khổ vì những sự xấu xa, những nỗi đau kinh hoàng. Ngài dậy tôi hãy thưa với ngài: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Mt 6:13). Sự dữ thân xác, sự dữ tâm hồn, sự dữ tâm lý, mà sự dữ lớn nhất, kinh khủng nhất là tội lỗi. Vì tội lỗi sẽ làm cho tôi cắt đứt mối giây giao hảo, và sự mật thiết giữa tôi và Cha, như cành cây bị cắt lìa khỏi cây.
Duy chỉ nghĩ đến việc được gọi Thiên Chúa là Cha mà thôi cũng đã làm cho nhiều thánh nhân cảm thấy xúc động và không cầm nổi nước mắt. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã khóc khi nhìn thấy đàn gà con được mẹ chúng ủ dưới cánh. Và qua hình ảnh ấy, Thánh nữ đã liên tưởng đến sự ấu yếm, chở che của Cha trên trời.
Thiên Chúa là Cha:
Thiên Chúa là Cha tôi không còn là một điều khiến tôi phải hồ nghi, mà trái lại, đó chính là điều khiến tôi phải suy nghĩ. Vì làm cách nào mà tôi có thể sống đúng với danh nghĩa con của một Cha trên trời, và nhất là làm cách nào để tôi có thể sống đẹp lòng Người.
Không lẽ tôi cũng đối xử với cha tôi... T.s. Trần Quang Huy Khanh
Không xác định nơi chốn, thánh Lu-ca mô tả Ðức Giêsu đang cầu nguyện, có các môn đệ vâ: TN 17-C90
Không xác định nơi chốn, thánh Lu-ca mô tả Ðức Giêsu đang cầu nguyện, có các môn đệ vây quanh. Ðâu là lời cầu nguyện đích thực của Vị Thầy? Khác với lời cầu nguyện của nhà khỗ chế Gio-an Tẩy Giả trong sa mạc, vị ngôn sứ rao giảng sự sám hối, lời cầu nguyện của Ðức Giêsu bày tỏ bí mật thâm sâu trong mối tương giao thân mật của Người với Chúa Cha. Ngoài việc tuân thủ nghi thức và thói quen của người Do-thái, Ðức Giêsu cho thấy lời cầu nguyện còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều.
Ðức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha rất lâu giờ và cũng tràn đầy tình yêu mến. Sau cả ngày mệt nhọc với những hành trình rao giảng, chữa bệnh, Ðức Giêsu vẫn thường rút lui vào chốn thinh lặng để cầu nguyện. Dường như Người có thể bỏ việc này việc khác, nhưng không thể bỏ việc cầu nguyện. Ðó là những thời khắc Người tiếp xúc thân mật, tiếp xúc rất riêng tư với Chúa Cha ; trong đó Người thông hiệp trọn vẹn với Chúa Cha, đi sâu vào chương trình huyền nhiệm, và gắn bó trọn vẹn với thánh ý của Chúa Cha. Có lần, dân chúng và cả các môn đệ, đi tìm Ðức Giêsu. Các ông gặp thấy Người trong trạng thái đầy vui mừng, hân hoan... Các ông không dám đến gần, không dám lên tiếng... nhưng cuối cùng các ông cũng xin Người chỉ cho cách thức cầu nguyện.
Một tư cách mới, một ý nghĩa mới
Lời cầu nguyện Ðức Giêsu đưa các ông vượt khỏi suy nghĩ bình thường của các ông. Lời cầu nguyện có vẻ như cao ngạo, gây gương mù: Ðức Giêsu truyền cho các ông gọi Thiên Chúa là Cha, Ðấng mà xưa nay họ vẫn hết mực tôn kính, ngay cả việc gọi tên, các ông cũng không dám.
Từ nay trở đi, người nào liên kết với tiếng kêu đầy yêu thương của Ðức Giêsu, hướng về Chúa Cha, người đó đã làm cho Nước Thiên Chúa được thực hiện. Họ cũng làm cho danh Thiên Chúa được hiển thánh khi họ biết trao đổi với Thiên Chúa trong tình yêu, một cuộc trao đổi đưa họ vào chính trung tâm của lòng thương xót được tặng ban cho hết mọi người.
Bài suy niệm này không đề cập đến các lời cầu xin trong lời kinh Ðức Giêsu dạy cho các môn đệ, mặc dù những lời cầu xin ấy có nhiều ý nghĩa. Ðiều muốn nói đến ở đây là một mối tương giao, một tinh thần mới giữa con người và Thiên Chúa. Trong Ðức Giêsu, con người được biết Thiên Chúa là Cha của mình, và họ phải đến với Thiên Chúa trong tâm tình của một người con. Trong Ðức Giêsu, Ðấng nhập thể làm người, nhân loại được gọi Thiên Chúa là Cha, Cha của tất cả mọi người. Ðầy cũng là mặc khải mấu chốt trong sứ điệp của Ðức Giêsu, là chìa khoá cho tất cả cuộc đời và hoạt động của Người. Trong mặc khải này, lề luật của Ít-ra-en được hoàn tất và nảy sinh một giao ước mới: Thiên Chúa trở thành người Cha thân yêu của tất cả mọi người.
Như vậy, so với Cựu Ước, lời kinh của Ðức Giêsu mở ra một viễn tượng lớn lao, hoàn toàn mới mẻ. Thiên Chúa đến với con người không phải để dò xét, để trừng phạt, nhưng là để đem ơn cứu độ, đem ơn tha thứ và tình yêu thương. Ngược lại, con người đến với Thiên Chúa không phải với tâm tình sợ hãi, e dè, cũng không phải là để tìm lợi ích cho riêng cá nhân mình, nhưng là hiện diện trước Thiên Chúa với tâm tình của một người con, sẵn sàng trình bày với người Cha tất cả những gì liên quan đến mình. Và hơn thế nữa, con người hiện diện trước Thiên Chúa để tìm hiểu chương trình của Người, sẵn sàng tuân phục và cộng tác để thánh ý của Thiên Chúa được thể hiện. Sự hiện diện như thế vượt lên trên mọi suy tính cá nhân, ích kỷ, để thở thành một sự hiện diện trong quan điểm của lịch sử cứu độ, trong tương quan mật thiết với Thiên Chúa đang muốn cứu độ tất cả mọi người.
Ngày nay, sau hai mươi thế kỷ, vẫn có những người quan niệm Thiên Chúa theo kiểu Cựu Ước, vẫn có những người tìm đến Thiên Chúa mà chỉ mong tìm lợi cho mình. Lời kinh Lạy Cha vẫn được đọc lên nhưng không thấm sâu, không làm thay đổi cái nhìn của con người về Thiên Chúa. Người ta không cảm thấy vinh hạnh, không cảm thấy sung sướng khi mình được gọi Thiên Chúa là Cha, khi mình là con Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha - loài người là con: đó không phải là kiêu ngạo, nhưng là ý nghĩa đích thực và sâu xa nhất của Ki-tô giáo.
Trong kiên trì và tín thác
Tiếp đó, Ðức Giêsu nói lên điều cốt yếu của việc cầu nguyện. Người nhấn mạnh những đặc tính hết sức quan trọng là kiên trì và tín thác.
Thiên Chúa biết rõ mọi nhu cầu của con người. Không cần họ phải lên tiếng, Thiên Chúa cũng đã thấu suốt mọi điều họ xin. Nhưng tại sao Thiên Chúa lại để cho người ta phải cầu nguyện, phải năn nỉ?
Thật ra, dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay chỉ là một hình ảnh. Việc cầu nguyện liên lỉ nối kết con người với Thiên Chúa cách sâu xa hơn, khiến họ ý thức rõ hơn về sự thiếu thốn, sự bất lực của mình. Khi đó họ sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa và sau khi được Thiên Chúa nhận lời, họ nhận biết Người cách rõ ràng hơn. Bởi đó, việc cầu nguyện liên lỉ, việc chờ đợi không phải là điều đau khỗ, nhưng lại là một hổng ân lớn lao, một sự vươn tới Thiên Chúa cách quyết liệt và cũng là một tâm tình đích thực.
Ngoài ra, Thiên Chúa là Ðấng thông suốt, Người cũng biết con người cần gì. Lòng thương xót của Người thật vô biên, nhưng Người lại muốn con người phải hoàn toàn tín thác, trông cậy nơi Người. Tại sao vậy?
Thiên Chúa không chỉ đáp ứng những nhu cầu vật chất của con người - trong thực tế, lời cầu nguyện của con người thường chỉ có những điều này. Nếu con người hiện diện trước Thiên Chúa một cách đích thực, nếu mối tương giao của họ với Thiên Chúa không phải để tìm lợi ích cá nhân, thì hẳn việc cầu nguyện chân thành sẽ phải là để cho Thiên Chúa hoạt động, là mở lòng đón nhận Thiên Chúa, hơn là buộc Thiên Chúa phải chiều theo những suy nghĩ, những tính toán tầm thường của mình. Nếu Người có làm thinh như không nghe thấy, chính là để con người đạt tới một điều rất cần thiết, một hổng ân lớn lao mà Ðức Giêsu hứa ban, đó là Chúa Thánh Thần. Hổng ân này vượt lên trên cả nhu cầu về bánh ăn cũng như mọi nhu cầu tinh thần khác.
Mở rộng tâm hồn và sẵn sàng
Hãy xin thì sẽ được - không phải lúc nào cũng như thế.
Việc cầu nguyện khởi đi từ những nhu cầu cụ thể, nhưng sẽ hướng tới điều bất ngờ, hướng tới sự vô biên của Thiên Chúa. Theo thánh Augustino, "Việc cầu xin không nhằm thông báo cho Thiên Chúa, nhưng là huấn luyện con người." Khi cầu xin, chúng ta thú nhận sự bất lực của mình và công nhận Thiên Chúa là Ðấng Toàn Năng, là Ðấng Chí Ái. Một lời cầu xin với Chúa Cha bao hàm hai cuộc hoán cải.
Thứ nhất, với lời cầu xin cho lợi ích của Nước Thiên Chúa, chúng ta thấy rằng không thể xem xét những điều đó theo quan điểm của mình. Vậy, khi cầu xin, tức là để cho thánh ý Thiên Chúa được thể hiện.
Thứ hai, vì ý thức rõ ràng về lời cầu xin của mình với Thiên Chúa, người Ki-tô hữu khám phá ra một khát vọng nền tảng: gặp gỡ Thiên Chúa tình yêu. Lúc ấy, từ những nhu cầu, chúng ta chuyển sang khát vọng, một cuộc chuyển dịch dần dần và đau đớn.
Người cầu xin là người có thái độ của "kẻ đứng trên con tàu, nắm chắc sợi dây cột tàu vào bờ. Họ không kéo tảng đá về phía mình, nhưng mình tiến dần tới tảng đá, họ và con tàu" (Denys l'Arépagite).
Cầu nguyện, đó không phải là áp đặt ý muốn của mình trên Thiên Chúa, nhưng là xin Thiên Chúa cho chúng ta sẵn sàng tuân theo thánh ý, theo kế hoạch cứu độ của Người đối với thế giới.
Cầu nguyện, đó không phải là làm Thiên Chúa thay đổi, nhưng là xin Thiên Chúa thay đổi chúng ta, và biến tâm hổn chúng ta thành tâm hổn của người con.
Nếu chúng ta kiên trì, chúng ta sẽ được, sẽ tìm thấy và cánh cửa sẽ mở ra. Vì thế, chúng ta không được quyền nản chí. Cầu nguyện, trước hết là kiên trì.
Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với tâm tình của: TN 17-C91
Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với tâm tình của người con tin tưởng vào quyền năng tuyệt đối và tình yêu vô điều kiện của Cha. Người quả quyết rằng: Thiên Chúa thực sự là Cha chúng ta, yêu thương và đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta, nhất là những điều tốt lành chúng ta muốn thực hiện cho anh em, bạn hữu của mình.
1. Thiên Chúa là Cha yêu thương.
“Khi cầu nguyện anh em hãy nói: “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy ; xin tha tội cho chúng con, như chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”. Qua lời kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy Cha là tình yêu và Nước của Cha là Nước Tình yêu, trong đó, tất cả mọi người đều được no thỏa, yêu thương tha thứ cho nhau và được Cha gìn giữ khỏi mọi điều nguy hại.
Khi cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha, chúng ta ở trong tương quan gia đình, nơi mỗi người đều có kinh nghiệm được sinh ra trong tình yêu và được nuôi dưỡng trong tình yêu hoàn toàn vô vị lợi của cha mẹ. Đây chính là điểm độc đáo của kinh nguyện Kitô giáo: chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha (Abba) một cách rất thân thương gần gũi. Vì thế, nếu sống trong tinh thần kinh Lạy Cha, chúng ta rất hạnh phúc và bình an như câu chuyện về một cậu bé bệnh nặng sắp chết trong Sunday School Times. Ba cậu bé hỏi: “Con sợ chết không con?” Cậu bé thưa với ba: “Thưa ba, không, nếu Thiên Chúa cũng giống như ba”.
Câu chuyện khác về một người con gái của Karl Marx cũng thế, có lần cô tâm sự với một người bạn: "Tôi lớn lên mà không hề biết đến bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng Thiên Chúa. Thế rồi tình cờ tôi đọc được một quyển sách trong đó có lời kinh khác lạ. Tôi đọc hết lời kinh ấy và tự nhủ: nếu quả thật Thiên Chúa của lời kinh ấy hiện hữu, tôi nghĩ rằng tôi có thể tin Ngài được”. Người bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người con gái của Karl Marx mới từ từ đọc lại Kinh Lạy Cha. (x. Mỗi ngày một tin vui).
2. Cầu nguyện là ở trong tình yêu của Cha
Theo Giáo Lý Công Giáo, mỗi khi cầu nguyện chúng ta được ở trong mối tương quan sống động và thân tình với Thiên Chúa. Quả thật, cầu nguyện là sống đức tin, và tin là mở lòng ta để đón nhận một sự thật vô cùng cao quí. Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta được gọi là con Thiên Chúa. Với niềm xác tín như thế, chúng ta có thể tự đặt mình trong câu chuyện kể của Đức Giêsu, mỗi khi chúng ta đối diện với những bất lực của bản thân. Cụ thể như khi chúng ta có một người bạn đến thăm lúc đêm khuya, bị trúng gió phải đi bệnh viện cấp cứu mà trong nhà không có đủ tiền để phục vụ. Khi đó, chúng ta có thể tự nhủ: Tôi nên làm gì đây? đến nhà Cha tôi trong giờ này ư? Tôi có làm phiền Ngài không? Nhưng khi đối diện vấn đề sự sống của người bạn, tôi đã hít một hơi thật sâu và can đảm tới gõ cửa nhà Cha tôi. Tôi rất ngạc nhiên vì khi tôi vừa gõ cửa. Cha tôi đã mở ngay và sau khi nghe tôi trình bày, Ngài đã sẵn sàng đáp ứng ngay điều tôi đang cần. Ngài rất hài lòng khi tôi biết sống yêu thương anh em và tin tưởng chạy đến với ngài xin giúp đỡ.
Quả thật, tình cha con và tình anh em được Chúa Giêsu mặc khải qua kinh Lạy Cha. Sống với cha trong tình phó thác, với anh em trong tình bác ái, Vì thế, khi cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, chúng ta càng ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương, chúng ta càng ước nguyện và sẵn sàng loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa qua thái độ sống chia cơm sẻ áo, cảm thông tha thứ của chúng ta. Trong ý nghĩa này rất nhiều bệnh nhân ung thư trong giai đoạn cuối đời đã được ơn đức tin khi được dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Cụ thể như một phụ nữ đơn thân đang điều trị tại Bệnh viện Ung bướu, chị nằm chung với một cụ già cũng đơn thân trên một giường bệnh. Khi chị chứng kiến cụ già sau khi được rửa tội đã ra đi rất an bình như một giấc ngủ trong tình yêu săn sóc của các sơ, chị đã xin dạy chị cầu nguyện. Khi chị đã cảm nghiệm ý nghĩa của Kinh Lạy Cha chị đã xin rửa tội và trong cơn hấp hối chị đã nói: “Giờ đây em đang đi một mình vào đêm tối, nhưng em không sợ hãi gì vì đã có Cha yêu thương và dẫn dắt”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã bảo đảm cho chúng con rằng: “Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kè kêu xin Người sao?" Xin Chúa dạy con biết cầu nguyện với Cha, ở trong tình yêu thương của Cha, và dành cả cuộc đời con để loan báo về Nước Tình yêu của Cha cho những người sống chung quanh con. Nt. Têrêsa Phạm Thị Oanh, Dòng Đaminh Tam Hiệp
Chúa Giêsu đã cầu nguyện và Ngài cũng dạy các môn đệ cầu nguyện. Điều đó cho chúng ta thấy: TN 17-C92
Chúa Giêsu đã cầu nguyện và Ngài cũng dạy các môn đệ cầu nguyện. Điều đó cho chúng ta thấy “cầu nguyện là một nhu cầu thiết yếu". Và Kinh Lạy Cha trở thành lời cầu nguyện thật tâm tình của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Được gọi Thiên Chúa là Cha. Một tiếng gọi thân thương dấu ái đầy kính tin yêu mến. Một lời thốt lên từ con tim, diễn tả một tấm lòng. Môt lời nói chào kính là ân huệ nhưng không ngà ngọc. Một bày tỏ khởi đầu với ý nghĩa thâm sâu từ tâm tình con thảo.
Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển và triều đại Cha dành cho. Sống cho danh thánh Cha, là tôn vinh Cha bằng những cố gắng và hy sinh của chúng ta. Sống cho danh thánh Cha, là nỗ lực sống tốt đời mình mỗi ngày để danh Cha luôn rạng rỡ vinh quang.
Khi sống, chúng ta phải sống thế nào để triều đại Cha mau đến?
Để triều đại Cha mau đến, chúng ta hãy sống với Chúa bằng tình con thảo, bằng tất cả lòng mến yêu. Với tha nhân, chúng ta hãy thể hiện yêu thương một cách cụ thể. Với tha nhân, chúng ta hãy làm những gì mang lại lợi ích phần rỗi cho họ. Chúng ta hãy làm cho xã hội mà chúng ta đang hiện diện luôn có được bình an, công bằng, chân lý và hạnh phúc thật sự.
Để triều đại Cha mau đến, mỗi người phải trả giá không ít. Giá phải trả càng cao thì việc làm đó luôn có giá trị càng lớn.
Tuy nhiên, chúng ta cũng không quên cầu xin lương thực mỗi ngày, xin tha tội chúng ta và cũng xin cho mỗi người chúng ta cũng biết tha lỗi cho người khác, cuối cùng xin đừng để chúng ta sa chước cám dỗ.
Thực ra, những điều chúng ta xin chính đáng. Dầu vậy, mỗi chúng ta phải nỗ lực và cố gắng làm ra lương thực và của cải vật chất, biết đón nhận ơn tha thứ của Chúa thật lòng và cũng biết tha thứ cho người khác. Bởi vì biết đón nhận thì phải biết cho đi. Và điều kiện để được tha thứ thì phải biết thứ tha. Hơn nữa, trong cuộc đời, cạm bẫy và chước cám dỗ thì đầy dẫy! Vượt qua và không bị sa lầy là nhờ ơn Chúa giúp.
Hãy tin vào Chúa vì Ngài là Cha yêu thương. Hãy tựa vào Chúa vì Ngài là nguồn hy vọng. Hãy yêu mến Ngài bằng việc yêu mến tha nhân. Hãy ra sức sống tốt và không ngừng cầu nguyện.
Cầu nguyện liên lỉ và kiên trì, đó là thái độ của mỗi Kitô hữu chúng ta. Cầu nguyện liên lỉ và kiên trì, đó là lời mời gọi của Tin Mừng.
Vì Thiên Chúa là Cha yêu thương, nên chúng ta hãy cầu nguyện với Ngài như chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Cầu nguyện là nâng hồn lên cùng Chúa, là gặp gỡ Chúa với bày tỏ thực trạng đời mình, là hồng ân Chúa ban. Chính Chúa gặp gỡ mình hơn là mình gặp gỡ Chúa. Cầu nguyện là một kết ước, là tương giao sống động với Thiên Chúa, là đáp lại tình thương của Chúa, là lắng nghe Chúa nói, là kề sát lòng bên cạnh lòng Chúa, là đi tìm dung nhan Chúa, là yên lặng và vâng phục đức tin, là hợp tác với sự quan phòng của Thiên Chúa, là nói với Chúa bằng lời của Chúa.
Cứ xin thì sẽ được. Cứ tìm thì sẽ thấy. Cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Lời Chúa nói đã trở thành một xác quyết cho chúng ta. Chính vì vậy: Xin thì phải tin. Xin thì phải tin với cả tấm lòng. Xin thì phải phó thác và hy vọng. Bởi lẽ Thiên Chúa là Chúa của tình thương, nên Ngài luôn muốn nhiều điều tốt lành cho con cái mình. Tin tưởng vào Chúa. Hy vọng nơi Ngài, để rồi cũng cầu xin Thiên Chúa cho mỗi người chúng ta biết bày tỏ lòng tin yêu Chúa qua việc cầu nguyện và qua cách phục vụ tha nhân tận tâm tận tình của chúng ta.
Cách đây mấy năm, tôi được một người bạn xếp đặt để đi thăm bức tranh mắc tiền nhất thế: TN 17-C93
Cách đây mấy năm, tôi được một người bạn xếp đặt để đi thăm bức tranh mắc tiền nhất thế giới, trị giá 53 triệu tiền Mỹ, đã được nhà tỷ phú Paul Getty mua về để tại trung tâm Paul Getty (Paul Getty Center) ở Los Angeles, California. Đó là bức Irises (Hoa Cầu Vồng) của họa sĩ Vincent van Gogh gốc người Hòa Lan.
Điều buồn cười là người bạn này ở không xa trung tâm Paul Getty bao nhiêu, thế mà chẳng hề nghe nói tới, cho đến khi người mãi ở xa đến hỏi thì mới bắt đầu đi dò tìm. Mà đi thăm bức tranh này cũng thật công phu vất vả. Phải gọi điện thoại giữ chỗ trước. Rồi phải đậu xe ở xa thật xa để lên xe của trung tâm chở tới trạm xe điện dưới chân đồi ở phía tây Los Angeles. Từ đây, xe điện mới chuyển du khách lên đỉnh đồi, trườn mình chạy quanh co tạo cảm giác đi vào một thế giới khác như tâm tình của Từ Thức ngày xưa được dẫn vào động Thiên Thai.
Bước chân vào trung tâm Paul Getty, chúng tôi hỏi ngay "bức tranh Irises hiện đang ở đâu?" Đi vòng vòng mãi mới thấy đây rồi, bức tranh treo giữa phòng triển lãm hội họa của những họa sĩ nổi tiếng như Monet, Renoir, Degas... Cảm tưởng đầu tiên cũng giống như ba nhà đạo sĩ trong câu truyện đi tìm Chúa Hài Nhi là chỉ thấy một đứa bé mới sinh bọc trong khăn vải thô để trong máng chuồng chiên: Vậy mà đứa bé này là Đấng Cứu Thế sao? Vậy mà bức tranh này trị giá 53 triệu à?
Người ta tấp nập ngó tới ngó lui, ngồi xuống đứng lên, nét mặt ra chiều đăm chiêu thưởng ngoạn, nhưng trong bụng thì vẫn chưa nắm bắt được bao nhiêu! Mình đã từng xem những bức tranh nổi tiếng của Vincent van Gogh, như bức Đêm Sao (Starry Night) trong Bảo Tàng Viện Nghệ Thuật Tân Thời (MOMA) ở phố New York, như bức bác sĩ Gachet, Hoa Hướng Dương tại Bảo Tàng Viện Orsay ở Paris. Mình cũng đi tìm vết chân của nhà hội họa kỳ lạ này từ "Ga Lyon đèn vàng" lấy xe lửa TGV tốc hành đi Arles rồi St Rémy miền nam nước Pháp, nơi Vincent van Gogh đã vẽ những bức tranh nổi tiếng nhất thế giới vào năm 1888-1889. Rồi lộn lại Paris tìm lên Auvers-sur-Oise phía bắc nơi ông ta sống những ngày cuối đời bên cạnh cánh đồng lúa vàng. Đây, ngôi mộ của họa sĩ Vincent van Gogh với biết bao bó hướng dương do du khách vẫn tới thăm mang theo để tỏ lòng ái mộ nhà nghệ sĩ tài danh nhưng mệnh yểu. Ông sống nghèo nàn, cả đời chỉ bán được một bức tranh mấy chục Mỹ kim, nên phải cậy dựa vào người em giúp đỡ. Vậy mà bây giờ, sau hơn một trăm năm, người ta đưa những bức tranh của ông ra bán, bức nào cũng cả mấy chục triệu Mỹ Kim. Điều gì lạ vậy?!
DẤU CHỈ TỪ NHỮNG NGƯỜI ĂN KHOAI
Paul Getty cũng như người mua bức tranh Hoa Hướng Dương 42 triệu Mỹ kim không khoe của phách lối đâu. Cả đời bon chen bòn tiền làm tỷ phú rồi cuối cùng Paul Getty cũng nhận ra rằng một bông hoa trong vườn nhà mình cũng đáng giá 53 triệu. Đó là cái nhìn và cái thấy của Vincent van Gogh. Thế ra xem tranh lại chẳng phải là xem tranh mà là đi xem mắt. Bức tranh Irises giá trị vì biểu hiện được hướng nhìn đó, làm cho mọi vật hiện lên nét đẹp tự thân, thành một bài ca vũ trụ như của thánh Phan Sinh với anh mặt trời, em mặt trăng.
Ông ta theo hướng nhìn của một họa sĩ khác cũng người Hòa Lan là Rembrandt. Đang khi thời đó người ta chỉ biết đề cao những nét giầu sang nơi hàng quan quyền, chỉ vẽ hình những vị hoàng đế, hoàng hậu hay công chúa, thì Rembrandt vẽ một bức tranh gây trào lưu cách mạng: một tảng thịt bò treo lủng lẳng. Tại sao chỉ có nhà vua mới đáng quí trọng? Một đứa bé nhà quê, một đùi thịt cũng đẹp cũng quí vậy. Cái gì được tạo dựng cũng cao đẹp, cũng quí báu. Ông vẽ những bức chân dung với một lối chơi ánh sáng mới: ánh sáng từ bên trong tâm hồn, từ nét đẹp nội tâm hơn cái ánh sáng bên ngòai. Vì thế những ai học về nghệ thuật chụp hình ngày nay đều phải qua một bài về vẽ bằng ánh sáng, gọi là ánh sáng Rembrandt.
Vincent van Gogh lớn lên với ý định làm thầy giảng đạo. Ông đã được phái đi thực tập làm tuyên úy cho đám phu hầm mỏ nghèo khổ thấp cổ bé miệng tại vùng Borinage bên Bỉ. Ở đây ông chứng kiến những cảnh cùng khổ nên bắt đầu vẽ những bức đầu tiên về những người lao động vất vả đen đủi chân tay nhưng đẹp đẽ tâm hồn. Ông đề cao những gì mà người đương thời hay ngay cả tôn giáo của ông vẫn coi thường. Tin Vui ông loan báo là tin vui đích thực cho người nghèo khổ, nhưng dễ gây xáo trộn đẳng cấp, chính vì thế mà ông bị sa thải không được phép giảng đạo nữa.
Thế là Vincent van Gogh đi tìm phương cách khác: diễn đạt cái nhìn và cái thấy bằng nét vẽ. Ông học vẽ và bắt đầu vẽ với một cái nhìn quá khác nên tranh của ông chẳng ai thèm ngó và mua. Có một câu truyện vui là một hôm ông bị lên cơn bệnh bất thường phải vào nhà thương ở Arles vào tháng12 năm 1888 và được bác sĩ Félix Rey tận tâm chữa trị. Sau khi xuất viện, ông đã vẽ bức tranh chân dung bác sĩ Rey để cảm ơn ông. Bác sĩ Rey thấy bức tranh có vẻ buồn cười thì không biết treo đâu, bèn đưa về chắn chuồng gà cho mẹ. Vậy mà bây giờ bức tranh chắn chuồng gà này cũng được moi ra bán với giá kỷ lục.
Bức tranh Những Người Ăn Khoai đã ghi mốc cho việc chuyển đạt Tin Vui của Đạo bằng hội họa. Ông vẽ một gia đình nông dân nghèo nàn mộc mạc đang ngồi ăn bữa tối quanh cái bàn ọp ẹp với ngọn đèn leo lét. Khuôn mặt của những người này có vẻ thô kệch với những bàn tay xương xẩu sứt sẹo. Nhưng ông diễn được nét đẹp lật ngược: họ vẫn đẹp, với cái đẹp thực. Củ khoai do chính tay họ trồng và đào lên với mồ hôi, với da cằn lại. Nhưng đẹp thực, đẹp quá. Cái đẹp không giả tạo ước định như nhiều cái đẹp đương thời.
TIN VUI GỬI NGƯỜI BỊ VÍT TRONG HẦM
Không được làm thầy giảng đạo bằng môi miệng, Vincent van Gogh vẫn tiếp tục bằng nét vẽ. Ông đã chuyển đạt Tin Vui của Đạo cho những người làm hầm mỏ thấp cổ bé miệng, cho những người lao động lam lũ, cho những người bị vít nhãn quan trong hầm tối, để thấy được vẻ đẹp và hạnh phúc giản đơn chân thực. Chính vì thế mà tranh của ông bây giờ được mua với giá thật cao. Đúng là dấu chỉ của thời đại, khi người ta bắt đầu tìm về những gì quí trọng mà Chúa Trời Đất đã trao ban sẵn sàng: một nụ cười, một bông hoa, một cử chỉ yêu thương, bác ái... tất cả đều quí hơn bất cứ chiếc nhẫn kim cương nào, đâu có phải bon chen chèn cựa vất vả biến xã hội thành phức tạp một cách ghệ rợn như hiện tại.
Henri Nouwen, một nhà tu đức nổi tiếng gốc người Hòa Lan dạy đề tài “Việc truyền đạo của van Gogh” tại đại học Yale, đã chứng nghiệm được sức cảm hóa lòng người của những bức tranh van Gogh. Henri Nouwen đã nói rõ trong lời đề tựa cho cuốn “van Gogh and God” của Cliff Edwards (Loyola University Press):
“Tôi chắc chắn rằng những lớp dạy về van Gogh này đã ảnh hưởng sâu đậm trên các sinh viên hơn bất cứ khóa nào tôi đã dạy. Tôi đã dùng nhiều sách tu đức hiện đại như của Thomas Merton, nhưng tôi chưa từng thấy những sinh viên bị hút hồn về cả đầu óc và con tim, như trong khóa này khi nhìn kỹ những bức tranh của van Gogh. Tôi còn nhớ, chúng tôi đã để cả mấy giờ cùng với nhau trong thinh lặng, chỉ để nhìn ngắm những bức dương bản của tác phẩm Van Gogh. Tôi không phải cố gắng giải nghĩa hay phân tích gì cả. Tôi chỉ muốn các sinh viên hãy cảm nghiệm trực tiếp những hút hồn và những quằn quại của họa sĩ này đang cố đi tìm ý nghĩa cuộc sống... Thiên Chúa của Van Gogh rất thật, rất trực diện, sờ thấy được nơi thiên nhiên và con người, rất từ bi thương cảm, vì đã từng rất yếu đuối bị thương tích tư bề. Chính vị Chúa này mà tất cả chúng ta muốn đến gần.”
PHÚT TỊNH TÂM
Đúng thế. Chính vị Chúa này đã cho phép mỗi người chúng ta được gọi ngài là Bố, là Ba. Tiếng gọi "bố ơi" nghe đậm tình làm sao! Nhận ra Bố mình giầu có đầy quyền năng luôn có mặt yêu thương săn sóc bên cạnh mình, là một khám phá mới nhất, vẫn gọi là khám phá của con mắt niềm tin, bật sáng từ hầm tối tù mù. Chính vì thế mà mở đầu cho mọi lời cầu nguyện, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến Kinh Lạy Cha, là bày tỏ được thái độ căn bản tình nghĩa Cha-Con, tin tưởng tuyệt đối vào tình Chúa: "Cứ xin thì các con sẽ được; cứ tìm thì các con sẽ thấy; cứ gõ cửa thì sẽ mở cho các con vào. Vì bất luận ai xin, cũng sẽ được; ai tìm cũng sẽ thấy; ai gõ thì cửa sẽ mở cho mà vào. Trong các con, có người cha nào nỡ cho con mình hòn đá khi con xin bánh? Hay đưa cho nó con rắn khi nó xin con cá? HƠoặc đưa cho nó con bọ cạp khi nó xin quả trứng? Nếu các ngươi, những kẻ bất thiện là thế, mà còn biết cấp cho con cái mình những quà tốt, phương chi Cha trên Trời lại sẽ không ban Thánh Linh cho những ai kêu cầu ngài hay sao?" (Luca 11:9-13)
Mọi sự đã được Chúa Trời Đất là Bố mình trao ban, bỗng trở thành quí báu, từ cái bút đang cầm, căn phòng đang ở, cái ghế đang ngồi, hơi thở đang lãnh nhận mỗi phút giây... và niềm sung mãn của người được làm con của Chúa, được sinh ra trên trái đất này. "Chính trong Ngài mà chúng ta được sống, cử động và tồn hữu." (TĐCV 17:28).
Chính cái nhìn và cái thấy như vậy đã khiến cho những bức tranh của họa sĩ Vincent Van Gogh mắc tiền làphải. Và mỗi người bỗng dưng nhận ra mình thật giầu có, thành triệu phú, tỷ phú, thành hoàng tử hay công chúa của vua hoàn vũ.
Với nhãn quan này, con bắt đầu thực tập bằng lời cảm ơn cho mỗi hơi thở được trao ban để con được sống.
Đọc bài Tin Mừng, chúng ta dễ dàng nhận ra đề tài Chúa Giêsu dạy là vấn đề cầu nguyện: TN 17-C94
Đọc bài Tin Mừng, chúng ta dễ dàng nhận ra đề tài Chúa Giêsu dạy là vấn đề cầu nguyện, đây cũng là điều chúng ta tìm hiểu. Trước hết là một hình ảnh, muốn đi từ bên đây sang bên kia sông, chúng ta phải qua một chiếc cầu, cầu là phương tiện nối hai bờ sông lại, sông càng lớn, cầu càng phải chắc và dài. Nếu bắc một chiếc cầu dài và chắc qua một con sông lớn, chắc chắn sẽ phải tốn phí rất nhiều, thí dụ như cầu Sài Gòn hay cầu Mỹ Thuận, vì hai bờ quá xa nhau. Cũng vậy, giữa con người với Thiên Chúa cũng có một khoảng xa phân cách, khoảng phân cách đó rộng hơn hai bờ bể xa hút ngàn trùng. Để đến với Chúa, con người cũng phải đi trên một chiếc cầu, chiếc cầu ấy mỗi người có thể tự bắc lấy, không tốn kém gì, không phải là cầu gỗ, cầu sắt hay cầu bê tông, nhưng là cầu nguyện, chiếc cầu làm bằng kinh nguyện. Đây là một việc không xa lạ gì đối với chúng ta, nhưng vì quá quen thuộc mà đôi khi chúng ta cần xem xét lại, kẻo nó trở thành việc máy móc, hoặc khi làm khi bỏ.
Chúng ta đều biết cầu nguyện là gặp gỡ thân mật với Chúa. Gặp gỡ ai là đầu tiên phải thấy người đó, gặp Chúa là nhìn thấy Chúa, không phải bằng mắt xác thịt nhưng bằng mắt linh hồn, mắt đức tin. Nhìn thấy Chúa ở đâu? Ở khắp nơi, nhưng cách riêng ở ba nơi sau: trên trời, phép Mình Thánh và trong chúng ta. Nhìn lên trời để cầu nguyện, đó là cử chỉ rất quen thuộc của Chúa Giêsu, nhìn lên trời, đó là thái độ hướng lòng lên Chúa. Nhìn vào phép Thánh Thể để cầu nguyện, đó là cử chỉ của chúng ta khi vào nhà thờ, vì dưới hình bánh trong nhà tạm có thực chính Chúa Giêsu. Thu lòng trí trở vào chính mình, chúng ta cũng sẽ tìm thấy Chúa, vì Chúa thích ngự đó hơn ở trong bình vàng để trong nhà tạm. Tóm lại, Chúa ở trên trời, Chúa ở nhà tạm, Chúa ở lòng chúng ta, đâu đâu Chúa cũng nhìn chúng ta, cũng đợi chúng ta, nhưng nếu chúng ta không nhìn lại, thì không bao giờ có sự gặp gỡ giữa đôi bên.
Nhưng gặp gỡ thân mật để làm gì? Để nói chuyện với Chúa, nói chuyện thì phải dùng lời: lời nói trên môi hay lời nói âm thầm trong lòng trí. Đối với Chúa, chúng ta có thể dùng cả hai cách, vì Chúa thấu suốt tận đáy tâm hồn. Nhưng chúng ta sẽ nói gì với Chúa? Chúng ta có gì, chúng ta muốn gì, chúng ta là ai, tâm hồn chúng ta thế nào, thì chúng ta cứ nói với Chúa như vậy. Nói về dĩ vãng, hiện tại, tương lai, nói về mình, về người khác, về Chúa… bộc lộ cả những âu lo, những niềm vui, những điều sầu muộn… giãi bày lòng mình với Chúa. Tất cả hãy tâm sự với Chúa, tâm sự tất cả với tấm lòng trên môi miệng, nói như con nói với cha, như kẻ thiếu thốn nói với người giàu có. Tâm sự như thế là một việc tin yêu: tin ở sự có mặt của Chúa đang nhìn chúng ta, nghe chúng ta và sẵn lòng đón nhận chúng ta. Tin nhận sự yếu hèn tội lỗi của mình, tin ở quyền năng và tình thương bao la của Chúa, tin ở sự khôn ngoan vô cùng của Chúa luôn biết sự gì tốt cho chúng ta. Cầu nguyện là như thế.
Chúng ta có thể cầu nguyện không? Nói không thể cầu nguyện được, là vì sao? Phải chăng vì không có thời giờ? Mỗi ngày có 24 giờ, tức 1440 phút, trong đó chúng ta có giờ ngủ, giờ ăn, giờ làm việc, giờ giải trí, có giờ để nói với người trong nhà, trong nơi làm việc, ngoài đường, nhỏ nhặt như việc xỉa răng cũng có thời giờ: sáng hai phút, trưa hai phút, tối hai phút, là sáu phút. Chỉ có việc cầu nguyện thì không có thời giờ. Như thế Chúa là một kẻ ăn xin sao? như thể cầu nguyện là một việc bố thí cho Chúa, dư giờ và tiện thì làm, không có giờ thì làm ngơ, thái độ đó có xứng đáng cho một người chịu ơn Chúa, gọi Chúa là cha, là Chúa, do Chúa sinh ra, và một ngày kia trở về với Chúa không? Không cần trả lời, ai cũng quá biết.
Có người lại chữa mình rằng: không thể cầu nguyện, vì không thể đi nhà thờ được, hay vì không thuộc kinh. Những lý do đó không đứng vững, nếu người ta hiểu cầu nguyện là gì như đã nói ở trên. Chúa ở trong nhà tạm, nhưng cũng ở trên trời và ở trong lòng ta, ở bên ta. Như thế, cầu nguyện ở đâu cũng được, ở đâu cũng có thể cầu nguện được. Đàng khác, cầu nguyện không lệ thuộc vào kinh, kinh in trong sách, kinh đọc nơi chung rất ích lợi để gợi ý gợi tình, giúp trí lòng chúng ta dễ cầu nguyện. Nên nhớ chỉ giúp cầu nguyện mà thôi, chứ không làm nên sự cầu nguyện. Sự làm nên việc cầu nguyện phát xuất tự lòng chúng ta. Gặp và nói chuyện với Chúa, đó là cầu nguyện: nói như con nói với cha, như bạn thân nói với kẻ mình thương yêu tin tưởng. Dễ như thế thì ai cũng có thể cầu nguyện được.
Nói rõ hơn, về cầu nguyện, chúng ta hãy nhớ hai điều: Thứ nhất, chúng ta đừng bao giờ coi cầu nguyện một số lúc nào đó là đủ, đừng nghĩ chỉ khi nào đến nhà thờ mới là cầu nguyện. Chúng ta đang ở nhà và đang làm việc vất vả ư? Hãy hướng tâm hồn lên với Chúa, hãy ngước mắt nhìn Ngài, như thế cũng đã là cầu nguyện rồi. Chúng ta đang đi đường ư? Hãy cùng đi với Chúa. Chúng ta đang vui ư? Hãy vui với Chúa. Chúng ta đang buồn khổ hay đang gặp khó khăn ư? Hãy trình bày với Chúa… Nói chung, trong mọi môi trường, mọi hoàn cảnh, mọi việc làm… chúng ta đều có thể cầu nguyện.
Một điều quan trọng nữa, là những điều chúng ta cầu xin Chúa, dù được hay không được, đó là quyền của Chúa, đó là ý Chúa. Chúng ta cho rằng những điều chúng ta cầu xin là tốt đẹp, là cần thiết, chúng ta muốn Chúa nhận lời hay ban cho chúng ta. Nhưng chúng ta có khôn ngoan và hiểu biết bằng Chúa không? Chúng ta phải tin rằng Chúa nhìn xa trông rộng, thông minh vô cùng, Ngài biết những gì tốt và cần cho chúng ta, do đó, nếu vì thương, Chúa đáp ứng lời chúng ta cầu xin , thì trái lại, cũng vì thương mà nhiều khi Ngài từ chối. Cả hai trường hợp, chúng ta đều phải xin vâng và cảm tạ Ngài.
Tóm lại, cầu nguyện là việc rất cần, nhưng cũng là việc rất dễ, ai cũng có thể làm được và cần làm thường xuyên, cho cả đời chúng ta thành một lời cầu nguyện liên lỉ, một cuộc sống thân mật với Chúa mỗi ngày, nhờ đó, như chiếc cầu linh thiêng, chúng ta đến với Chúa, gặp gỡ Chúa, tâm tình, tâm sự với Chúa.
Giữa đêm khuya, một căn nhà ở nơi hẻo lánh bỗng bốc cháy. Trong cơn hoảng hốt, vợ chồng: TN 17-C95
Giữa đêm khuya, một căn nhà ở nơi hẻo lánh bỗng bốc cháy. Trong cơn hoảng hốt, vợ chồng con cái đều thoát ra ngoài và bất lực đứng nhìn ngọn lửa. Rồi mọi người sực nhớ đứa con trai út mới lên năm vẫn còn bị kẹt trên gác. Phải làm gì đây? Không ai có thể đi vào được. Giữa lúc mọi người đang bấn loạn thì từ cánh cửa sổ trên gác, cậu bé thò đầu ra và kêu la thất thánh. Từ phía dưới, người cha nói với cậu: Con hãy nhảy xuống đi. Nhưng làm sao cậu bé dám làm theo lời cha, bởi vì nhìn xuống, cậu chỉ thấy khói và lửa. Cậu bé thốt lên trong tuyệt vọng: Làm sao con dám nhảy xuống vì không thấy ba. Thế nhưng người cha đã trấn an: Con không thấy ba nhưng ba thấy con. Con cứ nhảy xuống đi. Thế là với tất cả tin tưởng, cậu bé nhảy từ trên gác xuống và nằm gọn trong cánh tay của người cha.
Là con cái của Thiên Chúa, cho dầu chúng ta có rơi vào hoàn cảnh nào chăng nữa, chúng ta vẫn luôn rơi vào vòng tay của Thiên Chúa, đó là tất cả Tin Mừng Chúa Giêsu đã đem đến trong thế gian.
Thiên Chúa luôn yêu thương con người, dù con người không biết Ngài, dù con người có khước từ và phản bội tình yêu của Ngài, Ngài vẫn một mực yêu thương. Đó là tất cả những gì Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua cuộc sống của Ngài. Cách cư xử và cái chết của Ngài đã cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta.
Đồng thời Chúa Giêsu cũng dạy cho chúng ta cách thức đáp trả tình yêu của Thiên Chúa, đó là hãy chu toàn thánh ý của Thiên Chúa. Lời kinh Lạy Cha Ngài để lại cho Giáo Hội chính là chương trình sống của Ngài, chính là tiếng xin vâng của Ngài đối với Chúa Cha. Từ sáng đến chiều, xuyên qua những giao tiếp và giảng dạy, Ngài luôn để lộ một cử chỉ duy nhất, đó là thuộc trọn về Chúa Cha, tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Chúa Cha. Để lại cho chúng ta kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu không chỉ truyền lại một công thức, mà là cả cuộc sống xin vâng của Ngài.
Do đó, cầu nguyện không có nghĩa là đọc lại một câu kinh, mà chính đi vào tâm tình và cuộc sống của Chúa Giêsu. Một người tín hữu luôn chu toàn thánh ý Thiên Chúa và luôn sống với hai chữ xin vâng hằng sẽ không ngừng kêu lên: Tôi đã cầu xin được khoẻ mạnh để làm những điều vĩ đại, thế nhưng Chúa lại ban cho tôi những bệnh tật để tôi làm những việc tốt hơn. Tôi đã xin giàu sang để được hạnh phúc, thế nhưng Chúa đã ban cho tôi sự nghèo khó để tôi được khôn ngoan hơn. Tôi đã không nhận được điều tôi kêu cầu, nhưng tôi nhận được niềm hy vọng. Những lời cầu xin mà tôi chưa từng thốt lên, tất cả đều được nhận lời. Bởi vì tất cả đều là hồng ân của Chúa.
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Trên đời có nhiều giá trị vật chất hoặc tinh thần rất cao đẹp, rất quý báu nên ai ai cũng đều khao: TN 17-C96.
Trên đời có nhiều giá trị vật chất hoặc tinh thần rất cao đẹp, rất quý báu nên ai ai cũng đều khao khát ước mơ. Tuy mọi người đều mơ ước, khao khát những giá trị đó nhưng rồi họ cảm thấy khả năng của mình có giới hạn, phương tiện của mình còn thiếu thốn, nên chẳng mấy ai tìm cách chiếm hữu được những giá trị cao quý ấy. Thế là những giá trị cao quý đó chỉ xuất hiện trong ước mơ của mọi người một thời gian rồi tan biến.
Trong câu chuyện cổ Ali Baba và bốn mươi tên cướp, chàng Ali Baba nghèo khổ vào rừng kiếm củi kiếm sống qua ngày, vô tình phát hiện bốn mươi tên cướp mang tài sản cướp được về cất giấu trong kho tàng bí mật. Khi một người trong bọn đứng trước một tảng đá lớn đọc câu thần chú: "Vừng ơi! mở ra", thì lạ lùng thay, một cánh cửa bí mật mở ra dẫn lối cho lũ cướp đem của cải cướp được vào kho báu nằm chìm trong hang.
Chờ cho bọn cướp ra đi, Ali Baba tiến lại khung cửa thần bí và đọc lại câu thần chú đó. Thật nhiệm mầu, tấm cửa đá nặng nề mở ra, đưa anh vào một kho tàng chứa đầy báu vật và nhờ đó, Ali Baba chiếm hữu được nhiều báu vật trong kho tàng.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cho chúng ta một một bí quyết quan trọng giúp ta khám phá và chiếm hữu những kho báu lớn lao, kho báu vật chất cũng như kho báu tinh thần. Đây không phải là câu "Vừng ơi! mở ra" để đưa chúng ta vào kho báu huyền thoại, nhưng là câu: "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho".
Bí quyết nầy giúp mở ra nhiều kho tàng vật chất cũng như tinh thần, tự nhiên cũng như siêu nhiên. Bí quyết được tóm lại trong ba điều rất đơn giản: "xin - tìm - gõ".
Thật là điều khó tin! Làm sao mà chỉ cần ba hành động đơn giản là xin, tìm, gõ lại có thể giúp người ta đạt được những giá trị lớn lao và cao quý?
Chúa Giêsu cũng biết những thính giả của Ngài đầy ngờ vực khi nghe những lời dạy ấy nên Ngài mới thuyết phục thêm: "Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?".
Thế ra lâu nay chúng ta không chiếm hữu được những giá trị cao quý là vì chúng ta chưa xin, chưa tìm, chưa gõ đó thôi. Còn ai liên lỉ xin, kiên quyết tìm, nhẫn nại gõ thì thế nào cũng đạt được giá trị cao đẹp mình mong muốn.
Cả ngàn ngôi thánh đường cao lớn mọc lên nhanh chóng từ vài chục năm trở lại đây trên đất nước Việt Nam chúng ta, những thánh đường mà trước đây nhiều người giáo dân nghèo chỉ dám ước mơ chứ không dám tin là sẽ có, đã trở thành hiện thực giữa những xóm đạo rất nghèo, cũng là nhờ vào bí quyết "xin-tìm-gõ" mà thành.
Con số linh mục vượt trội lên trong những năm tháng qua trên quê nhà Việt Nam, điều mà trước đây vài chục năm chỉ là điều nằm trong mơ ước, nay cũng đã thành hiện thực nhờ bí quyết "xin-tìm-gõ" đó thôi.
* * *
Cuốn "Góp nhặt cát đá" của thiền sư Muju (dịch giả Đỗ Đình Đồng, nhà xuất bản Lá Bối, xuất bản năm 1972) có ghi lại mẩu chuyện sau đây liên quan đến lời dạy của Chúa Giêsu hôm nay.
Một sinh viên đến viếng Thiền sư Gasan và hỏi: "Thầy đã đọc Thánh Kinh Kitô chưa?"
Gasan bảo: "Chưa. Hãy đọc tôi nghe!"
Sinh viên mở sách ra và đọc một đoạn sách thánh (Mt 6, 28-29): "Còn về áo mặc, các ngươi lo lắng làm chi? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào: chẳng làm khó nhọc cũng không kéo chỉ; nhưng Ta bảo các ngươi, dẫu vua Salômon sang trọng đến đâu, cũng không mặc được áo tốt như như một hoa nào trong giống đó... Vậy chớ lo lắng chi ngày mai, vì ngày mai sẽ lo về việc ngày mai."
Gasan nói: "Ai nói những lời đó, tôi cho là một người đã giác ngộ."
Sinh viên đọc tiếp: "Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp hãy gõ sẽ mở cho. Bởi vì hễ ai xin thì được; ai tìm thì gặp; ai gõ thì được mở." (Mt 7, 7-8)
Gasan phê bình: "Thật là tuyệt! Ai nói điều đó không xa Phật tánh." * * *
Từ đây, nắm được bí quyết quan trọng để đạt được những giá trị cao quý trên đời, chúng ta không dại khờ ngồi ước mơ suông, nhưng phải ra công thực hiện, vì phương tiện sẵn có trong tầm tay. Chỉ cần liên lỉ xin, kiên quyết tìm và nhẫn nại gõ thì chúng ta sẽ thủ đắc được những giá trị cao quý mà lâu nay chỉ có trong mơ. Với bí quyết nầy, chúng ta có thể biến những ước mơ thành hiện thực.
Trong việc dạy họ cầu nguyện, Đức Giêsu đã nói lên cái ‘cốt cách’ của việc cầu nguyện, bằng: TN 17-C97
Trong việc dạy họ cầu nguyện, Đức Giêsu đã nói lên cái ‘cốt cách’ của việc cầu nguyện, bằng cách nhấn mạnh những đặc tính hết sức quan trọng, là sự kiên trì và tín thác.
1. Kiên trì
Dụ ngôn sau đây tỏ rõ cho thấy thế nào là kiên trì. Đây là một vài nét chính: một người kia, bổn tính không hay giúp đỡ nhưng sau cùng phải thua tính cố nài nẵng của người xin.
Lòng kiên tâm cầu nguyện cho thấy hoàn cảnh chung quanh cũng phải tuỳ thuộc và như là một chủ đề cốt tuỷ. Một người Cha trong một gia đình kia, giữa đêm trường, đang ngủ yên, cửa đóng then cài, lối vào cũng đầy những đồ đạc lỉnh kỉnh; ở gian trong, cả nhà ngon giấc, hết thảy, chồng, vợ, con cái đều yên giấc. Nếu phải mở cửa, ông phải chỗi dậy, khó nhọc lắm mới thắp nổi ngọn đèn ở dưới đấu và đặt trên giá đèn, không khéo lại va vào chân đám trẻ, lấy bánh ra, mở then, mở chốt, đẩy cửa kẽo kẹt,…. Nói tắt rằng, ai nấy đều bị thức giấc, và mọi cái đều lộn xộn xáo trộn.
Như thế, ta hiểu ngay lý do tại sao ông ta từ chối. Tuy nhiên, mọi trở ngại đều bị thắng vượt, không còn nghĩ tới nghĩ lui gì nữa, chỉ còn lo sao để thoả mãn người ăn xin đang quấy nhiễu nài nỉ luôn miệng không thôi. Áp dụng vào thật quá rõ. Người van xin phải nài nỉ không biết mệt mỏi: có như thế mới được điều mình xin, cửa sẽ mở cho vào, tìm thì sẽ thấy.
Tuy nhiên, một vấn nạn khiến ta lo ngại: Tại sao Thiên Chúa lại để cho con người phải đợi chờ? Chỉ cần Ngài nhận lời là mọi trở ngại sẽ mất đi, không còn quấy nhiễu gì nữa…
Có thể giải đáp thế này: không thể đổ lỗi kỳ hạn cho Thiên Chúa, như trong dụ ngôn người cha nọ cứ để cho người xin kia phải chờ đợi cho đến khi ông ta sẵn lòng. Ở đây hẳn là không như thế, việc nhận lời có bị trì hoãn là do chính người xin, chính ông này phải biết gia tăng cầu nguyện ráo riết hơn nữa. Khẩn cầu liên lỉ liên kết người ấy với Thiên Chúa cách khắng khít hơn, khiến họ phải ý thức hơn về tình trạng bất lực riêng mình, nhận rõ hơn việc phải hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa và do đó, sau khi Ngài nhận lời, người ấy sẽ nhận biết Ngài.
Việc dạy cầu nguyện bao hàm thái độ chờ đợi kiên nhẫn ấy. Chờ đợi hẳn là một đặc ân của con người. Không nên đánh giá tôn giáo như làm một việc lạ lùng, và cũng không nên coi cầu nguyện van xin như một thứ nút điện đơn giản cứ ấn xuống là được. Mà là một hành vi của ngôi vị, một sự đi sâu đầy khí lực của một thái độ trước Thiên Chúa, chiêm ngắm Ngài, tâm sự với Ngài và vươn tới Ngài.
Bởi thế, lời cầu xin -kiên trì cầu xin- phải mang một dấu hiệu nói lên ý nghĩa đạo đức đích thực.
2. Tín thác
Cái lối lý luận trên được thực hiện theo kiểu ‘huống nữa là…’ một kiểu so sánh từ cái nhỏ đến cái lớn (a minore ad majorem). Con người vốn hẹp hòi và tầm thường. Đức Giêsu quả quyết điều này: ‘Vậy nếu các ngươi là những kẻ ác…’ Tuy con người thật đê tiện, hẹp hòi, vụ lợi, và cứng lòng mà còn không chối từ, lời của người van xin, nhất nữa lại là con mình, xin bánh, cá hay trứng. Giống vật cũng chẳng làm như vậy khi cho con cái đang đói hòn đá, rắn độc hay bò cạp. Vậy nếu điều ấy khó coi đối với con người, vốn tính xấu xa, thì đối với Thiên Chúa nói làm sao đây!.
Thiên Chúa không ác độc xấu xa, nhưng đầy thiện hảo tốt lành; Ngài không hẹp hòi tư kỷ, nhưng hay thương xót. Ngài không nghiêm khắc cứng cỏi, song hiền từ lân tuất, thì Ngài càng phải nhận lời nhân loại kêu xin gấp bội phần.
Nhưng lại một vấn nạn đặt ra cho chúng ta: kinh nghiệm cho ta thấy một điều trái nghịch. Vì dù con người vẫn luôn kiên trì cầu nguyện và luôn tín thác, mà họ vẫn phải thất vọng –và thực sự thất vọng hoàn toàn!- Vì trong cuộc sống họ thấy những hy vọng được nhận lời đã tan theo mây khói: điều người ta mong tồn tại thì lại tiêu tan, cái người ta mong thành đạt thì không được thoả mãn.
Đức Giêsu trả lời như sau khiến ta khó có thể lãnh hội ý nghĩa: ‘Huống hồ Cha các ngươi tự trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Người’. Ở đây ta lại gặp cái lối lý luận ‘huống nữa là…’.
Chúng ta thường xin với những ý định tầm thường quá: nào là nhu cầu thể xác, nào là mục tiêu vật chất, của cải phù vân, thậm chí còn xin cả những cái gây lầm lạc cho mình nữa.
Thiên Chúa thoả mãn ta bằng những điều thiện hảo rất cao quý; Ngài ban Thánh Thần cho ta, mà Thánh Thần Thánh hoá nội tâm. Bởi vậy, không có lời cầu xin nào bị bỏ qua mà không được nhận lời. Ta chẳng thể nhìn thấy việc Ngài nhận lời ta, như Thánh Thần thánh hoá làm sao ta thấy được.
Thực ra, khi con người nhận lấy Thánh Thần thì nhận được những sự phong phú rất cao quý chứ không phải chỉ những của cải vật chất. Vì vậy, càng cầu xin kiên trì và tín thác bao nhiêu, thì càng chất chứa đầy Thánh Thần nơi tâm hồn bấy nhiêu.
Bởi vậy hai yếu tố hoà trộn mật thiết với nhau khi cầu nguyện phải là: kiên trì và tín thác. Với hai yếu tố ấy, con người được tràn đầy Thiên Chúa, luôn thêm mãi và sâu đậm hơn. Đó mới là điều thiện hảo tối cao Thiên Chúa ban cho con người và con người nhận được cách rõ rệt.
Chúng ta không được mệt mỏi trong việc kiếm tìm, nguyện xin và gõ cửa. Và chúng ta cũng sẽ không hề biết mỏi mệt khi chúng ta hiểu được điều từ miệng Đức Giêsu thốt ra trong giờ phút sau cùng: chúng ta thuộc về Chúa.
"Có công mài sắt có ngày nên kim",
"Mưa dầm thấm sâu, mưa lâu thối đất".
"Ngựa chạy đường dài, mới biết ngựa hay".
"Dục tốc bất đạt"
Ðây là những câu nói lên kinh nghiệm xương máu của ông cha ta về sự kiên trì. Làm bất cứ công: TN 17-C98
Ðây là những câu nói lên kinh nghiệm xương máu của ông cha ta về sự kiên trì. Làm bất cứ công việc gì nếu không có sự kiên trì có lẽ khó mà có được kết quả tốt. Cũng vậy, đối với đời sống của người kitô hữu việc cầu nguyện cũng cần có sự kiên trì.
Mở đầu đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ cũng như cho chúng ta cầu nguyện bằng lời kinh Lạy Cha - lời kinh hết sức quen thuộc với mỗi người chúng ta. Ðiều đầu tiên chúng ta thấy Chúa Giêsu mở cho chúng ta một tương quan hết sức thân thiện và gần gũi với Thiên Chúa. Một tương quan cha - con.
Kế đến, Chúa Giêsu nêu lên một tình huống của một người đến vay mượn bạn mình ba cái bánh để tiếp khách lỡ đường nửa đêm. Mặc dù là biết là phá rối giấc ngủ của anh bạn nhưng anh ta vẫn kiên trì vì không còn cách nào khác. Và Chúa Giêsu đã nói: "Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó". (Lc 11, 8)
Và rồi Chúa Giêsu ban một giáo huấn dạy chúng ta kiên trì trong việc cầu nguyện:
"Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. " (Lc 11, 9 - 10a)
Trong thế giới chúng ta đang sống vì ảnh hưởng bởi lối sống thực dụng nên người ta luôn muốn cái gì đó nhanh, gọn, lẹ, kết quả tức thì nên có lẽ lời kêu gọi này của Chúa Giêsu xem ra vô ích. Thế nhưng, xét kỷ chúng ta sẽ thấy không phải những gì là nhanh, gọn, lẹ đều mang đến kết quả tốt. Có những việc làm xem ra trước mắt vô ích nhưng với thời gian người ta sẽ thấy được hiệu quả hết sức cao đẹp. Câu chuyện sau đây sẽ minh họa cho chúng ta điều này.
"Lần kia, có một chàng thanh niên tìm đến một vị ẩn tu ở trên một ngọn núi cao. Khi gặp vị ẩn tu, chàng thanh niên quỳ gối xin: Xin sư phụ dạy con cách cầu nguyện! Bấy giờ vị ẩn tu nói: Con hãy cầm cái rổ đầy bùn đất kia, đi xuống suối nước ở dưới chân núi kia và múc nước về cho ta đã, rồi ta sẽ dạy cho con cách cầu nguyện. Nghe tếh, chàng thanh niên bèn hí hửng cầm chiếc rổ xuống suối múc nước. Nhưng khi chàng leo lên đến đỉnh núi, thì chẳng còn một giọt nước nào trong rổ cả. Thế mà sao mỗi lần về đến nơi như thế, vị ẩn tu lại bảo chàng cứ xuống suối múc nước tiếp. Sau nhiều lần làm một công việc xem ra hoàn toàn vừa vô lý vừa vô ích, chàng thanh niên bàn thành thật thưa với vị ẩn tu: Thưa sư phụ, ngài thấy đó, là cả buổi nay con làm một việc vô ích, vì có ai đi múc nước bằng rổ đâu. Con chẳng múc được cho ngài một giọt nước nào cả. Bấy giờ vị ẩn tu mĩm cười và ôn tồn bảo chàng chàng thanh niên: con đã không hề làm một việc vô ích như con nghĩ đâu. Tuy con không múc nước được về cho ta, nhưng kìa con xem, cái rổ lấm bùn đất dơ bẩn trước kia nay đã sạch bóng. Sự cầu nguyện của chúng ta cũng thế: bề ngoài nhiều khi xem ra vô ích, không mnag lại kết quả trông thấy nào cả; nhưng thực sự nó đã thanh luyện và thánh hóa tâm hồn chúng ta nên hoàn hảo". (Sưu tầm)
Do đó, những Thánh lễ chúng ta tham dự và những kinh hôm kinh mai chúng ta đọc hằng ngày xem ra vô ích nhưng đó lại là những cơ hội giúp chúng ta gần Chúa mỗi ngày một hơn.
"Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cho"
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta "Kinh Lạy Cha" .Thánh Luca viết cho các: TN 17-C99
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta "Kinh Lạy Cha" .Thánh Luca viết cho các độc giả Kitô gốc dân ngoại. Họ không biết gì Thánh Kinh Do Thái cả. Đa số là những người nghèo đói và những thành phần bị bỏ rơi trong xã hội. Do đó nó có vẻ ít chi tiết hơn, ít lời hơn, và dễ hiểu hơn. Hơn nữa, nó có vẻ gần gũi và chính xác với những lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Nó nhấn mạnh đến tình yêu thương của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người, không phân biệt là Do Thái hay dân ngoại, tất cả mọi người đều được Thiên Chúa yêu thương. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta gọi Thiên Chúa Cha là Abba (Rm 8, 14-15; Gl 4, 6). Đây là giới răn thứ nhất trong Mười Điều Răn, kính mến và thờ phượng Đức Chúa Trời với tình yêu thương của người con thảo. Nhờ phép Rửa tội, người Kitô hữu được làm con trong Thiên Chúa, là anh chị em của nhau. Chúng ta tìm thấy các tâm tình cầu nguyện như sau:
Thứ nhất là tâm tình Thờ phượng và Tạ ơn: khi chúng ta cầu nguyện "Lạy Cha chúng con ở trên trời", chúng ta nhìn nhận Thiên Chúa là Cha, là Đấng Tối Cao, chúng ta được gọi là con, được trở nên thành viên trong gia đình của Thiên Chúa do tình yêu vô điều kiện của Chúa dành cho ta. Vì thế tâm tình của ta phải là tâm tình biết ơn và cảm tạ Chúa. Thánh Phaolô thường nhấn mạnh điều này khi bắt đầu các thư gửi cho các giáo đoàn (Rm 1, 8; 1Cr 1, 4; 2Cr 1, 11; Ep 5, 20; Pl 1, 3; Cl 1, 3).
Thứ hai là tâm tình Cầu xin. Đối tượng cầu xin của chúng ta được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên. Trước hết, "danh cha cả sáng, nước cha trị đến" thứ đến "ý Cha thể hiện" và sau cùng là: "hôm nay lương thực hằng ngày".
Thứ ba là tâm tình sám hối và tha thứ. Chúng ta nhìn nhận những thiếu sót, tội lỗi của mình và cần đến lòng thương xót nhân từ của Thiên Chúa: "Và tha tội chúng con". Đồng thời chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm cho người khác như một điều kiện để Thiên Chúa cũng tha thứ cho chúng ta, "Như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" (Mt 6, 12; Lc 6, 36; 17, 4; Ep 4, 32; Cl 3, 13).
Thứ ba là tâm tình xa tránh tội lỗi. "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ" (Lc 11, 4; Mt 6, 13) Tâm tình cầu nguyện đích thực phải dẫn tới sự canh tân đời sống, sửa đổi tính hư nết xấu để trở nên tốt hơn, như thánh nữ tiến sĩ hội thánh Têrêsa Avila đã nhắn nhủ: "Cầu nguyện mà không dẫn đến sự thay đổi đời sống thì chưa phải là một lời cầu nguyện thành thật".
Ngoài ra, Chúa còn dạy chúng ta một nguyên tắc căn bản, phải cầu nguyện kiên trì liên tục (Lc 6, 12;1 8, 1) với niềm tin tưởng: "Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy cứ gõ cửa thì sẽ mở cho" (Lc 11, 9). Xưa kia, khi thánh Gioan Vianney đã nói: "Tôi biết có một quyền lực nào đó còn mạnh hơn cả Thiên Chúa; một người cầu nguyện làm cho Thiên Chúa phải nói "Yes", khi Ngài đã nói "No". Và thánh Gioan Chrysostom đã nói về sức mạnh của sự cầu nguyện bằng những từ này: "Thiên Chúa điều khiển thế giới, nhưng cầu nguyện điều khiển Thiên Chúa"
Sự quan trọng của việc cầu nguyện được Giáo Hội nhấn mạnh khi dùng nguyên phần thứ tư của Sách Giáo Lý Công Giáo, từ số 1558 đến 2865, để nói về "Việc Cầu Nguyện Kitô giáo" Càng cầu nguyện, càng có sức mạnh (Lc 21, 46; Mt 26, 41). Càng ít cầu nguyện, càng ít sức mạnh. Và không cầu nguyện thì chẳng có chút sức mạnh nào! Thánh Phaolô khuyên chúng ta: "Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi sự hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu" (Pl 4, 6-7).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Chúa. Amen.
T ự bản tính con người là " một con vật xã hội" nghĩa là sống có tổ chức thành tập thể, thành cộng: TN 17-C100
T ự bản tính con người là " một con vật xã hội" nghĩa là sống có tổ chức thành tập thể, thành cộng đồng và liên đới với nhau về mọi phương diện. Sống, đối với con người luôn luôn là sống với, là ở trong tương quan với người khác. Từ khi lọt lòng mẹ cho đến khi lìa đời, con người luôn luôn cần đến người khác mới có thể sống, từ lòng mẹ cưu mang từ bàn tay cô đỡ đưa ra khỏi lòng mẹ, từ bầu sữa mẹ cho đến chén cơm do mồ hôi nước mắt cha mình làm ra, cho đến bao nhiêu công khó của một xã hội mới làm ra con người, và sau bao nhiêu công khó của cả một xã hội mới làm ra con người, và sau hết cũng bàn tay tha nhân khép mắt cho ta và đưa ta vào nghỉ yêu trong lòng đất. Như vậy ta luôn sống nhờ người khác và ngược lại ta cũng phải biết để cho người khác sống nhờ ta. Sống do đó còn có nghĩa chia sẻ và hiệp thông.
Nhưng phần đông chúng ta lại không sống với ý thức đó, mỗi người thường chỉ lo cho mình. Chúng ta luôn luôn sống nhờ người khác nhưng lại không thích để người khác sống nhờ mình. Mối tương giao thường chỉ có một chiều, tha nhân thường bị lợi dụng biến thành bàn đạp, thành bệ kê chân thành những bậc thang để ta bước lên. Con người luôn luôn sẵn sàng chà đạp tha nhân là chà đạp chính mình, bởi vì người khác, người ta cũng chính là mình: trong người có ta, trong ta có người. Các bậc vĩ nhân các bậc thánh hiền luôn ý thức điều đó. Bởi vì Ápraham đã không chỉ sống cho mình. Môisê cũng thế, không sống cho mình mà là sống cho toàn dân. Trong số con cái loài người thì Đức Kitô là con người sống trọn vẹn cho mọi người "Người đến không phải để được kẻ hầu người ha,nhưng ngài đến để làm giá chuộc cho muôn dân". Người đã đến trong trần gian, đã sống hoàn toàn vì chúng ta và cho chúng ta. Cuối cùng chịu chết vì chúng ta. Và sau khi Phục Sinh Người cũng luôn ở cùng chúng ta, luôn là Đấng Trung Gian cầu thay cho anh em nhân loại của Người.
Người chính là người bạn tốt đang đêm khuya đến gõ cửa nhà Cha để xin bánh cho chúng ta là những kẻ lỡ đường. Người đã cho chúng ta tất cả cuộc đời cả mạng sống. Tương tự bài dụ ngôn hôm nay, cũng được gọi là "người bạn quấy rầy" bài dụ ngôn này không có ý hướng chúng ta vào người bạn đứng ngoài cửa,mà lưu ý đến người cha đang nằm ngủ chung giường với con cái trong nhà. Nếu dụ ngôn dạy chúng ta cứ kiên trì cầu nguyện vì " cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho "(Lc 11,9). Thật ra kết quả xin được không phải do công trạng chúng ta "lải nhải" mà là vì Chúa Cha là người chủ nhà nhân hậu. Vì chính Đức Giêsu cũng đã từng cảnh cáo chúng ta đừng có "lải nhải" khi cầu nguyện . Vấn đề ở đây là tin vào tình Cha nhân hậu chứ không phải là chuyện gan lì. Mặc dù câu kết của dụ ngôn có thể khiến chúng ta nghĩ ngược lại.
Người môn đệ bước theo Đức Kitô nghĩa là phải sống như Đức Kitô. Mà sống như Đức Kitô chính là sống cho mọi người, là trở thành gạch nối trung thành giữa Thiên Chúa và anh em. Về phương diện lý thuyết điều đó không khó hiểu, và có lẽ cũng có nhiều người biết đến. Nhưng về phương diện thực hành thì không phải luôn luôn như thế.Nếu đi theo chỉ mong sao được thưởng công, được ngồi chỗ cao trong Nước Chúa ở trần gian này hay ở trên trời thì ai cũng thích làm, kể cả các Tông đồ hồi mới đi theo đức Giêsu cũng ảo tưởng như thế. Hoặc giả như đi theo Chúa mà có phải "vào sinh ra tử" cũng cam, miễn sao đi theo Chúa vẫn là theo Chúa, phục vụ Chúa vẫn là phục vụ chứ không phải là ai khác. Phục vụ Chúa là một công việc "đầu tư" có lợi, một mối lợi lớn lao hơn mọi lợi lộc trần gian đó là Nước Thiên Đàng. Bởi đó người ta sẵn sàng đi lễ, đi nhà thờ, đi đàng thánh giá, ăn chay hãm mình, sẵn sàng bố thí, giúp đỡ làm nhà thờ để chỉ nhằm tìm được kho báu trên Nước trời.
Người Do Thái xưa, không đón nhận Đức Kitô không phải họ không muốn, nhưng là do chính Người không đến như là Chúa mà họ suy nghĩ mà lại đến như một con Người, một con người ghét bỏ sự xa hoa của đền thờ, từ chối sự thánh thiện có tính kỳ thị, phân chia để sống thân mật gần gũi với cả những người tội lỗi, đến nỗi bị mang tiếng là "bạn bè của quân tội lỗi"
Nếu Chúa đến trần gian là vì mình và cho mình, nếu người đến trong tư thế là Đức Chúa, thì chắc hẳn người đã được đón rước linh đình, sẽ chẳng bao giờ thiếu thốn bất cứ điều chi, và chắc chắn Người không bao giờ bị giết. Nhưng Người đã đến vì chúng ta, đã sống đã chết cũng vì chúng ta để cứu độ chúng ta. Là Thiên Chúa đáng lẽ Ngài không thể đói, không thể khát và cũng không thể chết với chúng ta, để chúng ta từ nay thấy được Chúa đói, Chúa khát, Chúa chết trong những người anh em xung quanh chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho triều đại Chúa mau đến để mọi người được tự do no ấm và hạnh phúc. Đó là lời cầu nguyện mà mỗi ngày chúng ta phải đọc và phải ra sức phấn đấu để lời nguyện đó thành hiện thực trong xã hội chúng ta đang sống. Amen