Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 16-C Bài 101-150 Maria chọn phần tốt nhất --------------------------------------- Phúc Âm: Lc 10, 38-42: "Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu vào một làng kia và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với". Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất". - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------
Đức Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a, nơi nhà Mác-ta và Ma-ri-a, là những người rất mến mộ Ngài. Đây là một dịp tốt để hai chị em tỏ lòng yêu thương và quí mến Ngài. Tinh thần hiếu khách như hai chị em này là một trong những đặc điểm của người Á Đông, mà cũng phải là đặc điểm của mọi Ki-tô hữu, vì đó là một khía cạnh quan trọng và cụ thể của tình yêu thương vốn là nền tảng của Ki-tô giáo. Trong bài đọc I, A-bra-ham đã tỏ ra thật hiếu khách. Không ngờ lần này khách đến lại là sứ giả của Thiên Chúa. Nếu bình thường ông không hiếu khách, thì khi thiên sứ đến bất ngờ dưới dạng người thường, làm sao ông tỏ ra hiếu khách với các vị ấy được? Điều này giúp chúng ta ý thức lại: mọi người khách đến với gia đình ta đều là hình ảnh của Thiên Chúa, và phần nào là hiện thân của chính Đấng mà ta đang tôn thờ và muốn yêu mến hết lòng. Như thế, quí mến khách cũng là một cách tỏ lòng quí mến Chúa.
2. Cần có sự phân công hợp lý trong gia đình, trong tập thể
Để tiếp đón Ngài cho phải lẽ và làm hài lòng Ngài, phải có người tiếp chuyện Ngài, vì nếu để Ngài ngồi không một mình thì quả là bất lịch sự. Nhưng cũng phải có người lo chuyện nước nôi và những món ăn tiếp đãi khách chứ! Vì nếu tới bữa ăn mà để cho khách ra về bụng đói, hoặc cho khách ăn một bữa cơm quá thanh đạm, xoàng xĩnh, thì còn gì là quí mến khách nữa? Vì thế, hai chị em không ai nói với ai, đã tự phân công: một người hầu chuyện Ngài, một người lo chuyện phục vụ Ngài, điều ấy thật hợp lý. Nếu cả hai cùng tiếp chuyện Ngài, thì ai lo nấu ăn? Hay nếu cả hai đều lo nấu ăn, thì ai tiếp chuyện Ngài?
3. Cần quan tâm đến nhau và tìm cách làm cho nhau hạnh phúc
Ưu điểm của Mác-ta là tinh thần năng động, cô biểu lộ tình yêu và sự quí mến của mình bằng việc phục vụ, quan tâm tới nhu cầu cụ thể của người khác. Thật là một đức tính tốt! Nhưng điều không hay nơi Mác-ta là ganh tị với em: thấy em ngồi nói chuyện với Đức Giê-su, có vẻ nhàn nhã quá, để mình phải vất vả cực nhọc, thì đâm ra buồn phiền. Cô không thể dấu trong bụng sự tị nạnh đó, mà phải bộc lộ ra, đến độ có vẻ như trách móc Đức Giê-su: «Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!». Có vẻ như cô cảm thấy không được ai chú ý tới, nhất là không ai biết tới sự khó nhọc của mình. Cái thiếu sót này rất đáng thông cảm vì tâm lý chung mọi người đều như vậy!
Cái hay của Ma-ri-a là biểu lộ tình yêu và lòng quí mến của mình bằng cách chăm chú nghe và ghi nhận, học hỏi những điều hay từ Đức Giê-su. Điều này sẽ rất ích lợi cho cô, nhất là về mặt tâm linh. Nhưng cái thiếu sót của Ma-ri-a là dành độc quyền nói chuyện với khách, mà không nghĩ gì tới sự khó nhọc vất vả của chị mình để tìm cách chia sẻ công việc với chị. Chẳng hạn, thỉnh thoảng cô có thể mời chị lên tiếp chuyện với Thầy và làm bếp thay thế chị một chút. Hai chị em thay phiên nhau, vừa tiếp Thầy, vừa lo chuyện phục vụ Thầy thì đẹp hơn biết mấy!
Trong cuộc sống chung của gia đình hay tập thể, nếu chúng ta biết quan tâm đến nhau, đến niềm vui, nỗi khổ, đến những nhu cầu, lo lắng, bận tâm của nhau, thì cuộc sống chung trở nên hạnh phúc biết bao! Sự quan tâm ấy thể hiện cụ thể tình yêu thương của ta đối với nhau. Nếu không có tình yêu thương, nếu ai cũng chỉ nghĩ đến mình, đến niềm vui và nỗi khổ, nhu cầu và lo lắng của mình, thì cuộc sống chung sẽ trở thành hỏa ngục.
3. Cần ưu tiên cho đời sống tâm linh.
Cách trả lời của Đức Giê-su: «Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi», khiến cho nhiều người nghĩ rằng Đức Giê-su đã coi việc tiếp chuyện Ngài là quan trọng và đẹp lòng Ngài hơn chuyện lo chăm sóc bữa ăn cho Ngài. Từ đó họ suy ra rằng việc cầu nguyện thì đáng quí và làm hài lòng Chúa hơn việc hoạt động. Nhưng ta thử đặt vấn đề: nếu cả hai chị em đều lo ngồi hầu chuyện Đức Giê-su, mà chẳng ai lo bữa ăn chu đáo cho Ngài, thì Ngài có hài lòng lắm không?
Là người hướng dẫn tâm linh, Ngài thấy đời sống tâm linh quan trọng hơn thể chất rất nhiều, nhân đó Ngài muốn, bằng câu nói trên, cho hai chị em một bài học: cần phải đặt nặng và lo cho đời sống tâm linh hơn thể chất. Tại sao? Vì người đời thường có khuynh hướng lãng quên đời sống tâm linh, mà chỉ chú tâm đến đời sống thể chất. Họ dành rất nhiều thì giờ và năng lực vào chuyện cơm ăn áo mặc, chuyện tiện nghi vật chất, chuyện quyền lực địa vị, chuyện tranh đua để hơn người khác, tóm lại là những chuyện liên quan đến đời sống tạm bợ ở trần gian. Đa số ít quan tâm, hoặc ít người quan tâm đầu tư cho đời sống tâm linh của mình, là điều chẳng những đem lại hạnh phúc thanh tao ở đời này, mà còn đem lại hạnh phúc lâu dài đời sau.
4. Cần có sự điều hòa và quân bình giữa tâm linh và thể chất, giữa cầu nguyện và hành động
Trong thực tế, hai khía cạnh của sự sống - tâm linh và thể chất - liên quan đến nhau, hỗ trợ nhau. Khía cạnh này tốt đẹp và lành mạnh thì cũng sẽ ảnh hưởng tốt đẹp lên khía cạnh kia. Tuy nhiên, quá quan tâm đến khía cạnh này thì sẽ bỏ bê đồng thời làm hại cho khía cạnh kia. Do đó, hai khía cạnh ấy của sự sống cần phải được quan tâm một cách điều hòa và quân bình: không nên quá quan tâm đến khía cạnh này mà bỏ bê khía cạnh kia, nhất là đối với giáo dân, là những người sống giữa trần gian.
Cũng tương tự như thế, cần phải có sự điều hòa và quân bình giữa sự cầu nguyện và hành động. Cầu nguyện nhiều mà không cảm thấy có sức mạnh nào thúc đẩy mình đi đến hành động thực tế, thì sự cầu nguyện ấy hẳn nhiên không phải là cầu nguyện đích thực, nghĩa là không thật sự gặp gỡ Thiên Chúa. Rất nhiều Ki-tô hữu hiện nay ở trong tình trạng này. Họ cảm thấy an tâm, tự cho mình là người đạo đức, chỉ vì họ đã dành rất nhiều thì giờ để cầu nguyện. Nhưng sự cầu nguyện của họ chẳng dẫn họ đến hành động để thể hiện cụ thể tình yêu thương mà đáng lẽ họ phải đạt được khi cầu nguyện đích thực. Vì thế, rất nhiều việc đáng lẽ họ nên làm hoặc phải làm, nhưng họ đã không làm. Và hiện nay cũng có nhiều nhà hướng dẫn tu đức chỉ hoặc quá nhấn mạnh đến cầu nguyện, mà không quan tâm hoặc không nhắc nhở gì đến bổn phận phải hành động.
Tuy nhiên, năng hành động mà không năng cầu nguyện thì ta dễ đi đến chỗ hành động chỉ vì lợi ích riêng của mình, chứ không phải vì Thiên Chúa hay tha nhân. Hành động như thế xét về mặt tâm linh thì không mấy giá trị và ít đem lại lợi ích thiêng liêng. Người hành động nhiều mà không cầu nguyện giống như người hành trình vào một vùng đất lạ, chỉ biết đi tới mà không biết phải lâu lâu dừng lại xem bản đồ để biết mình đang ở đâu, và biết phải đi đường nào để tới nơi mình muốn. Vì thế, có rất nhiều khả năng là họ sẽ lạc đường. Hoặc như người hành trình không biết dừng lại để ăn uống, hay để đổ xăng, hầu tiếp sức cho chính bản thân hoặc tiếp nhiên liệu cho phương tiện di chuyển. Họ sẽ không đủ sức và phương tiện để đi hết cuộc hành trình. Vậy, cầu nguyện và hành động đều rất cần thiết cho đời sống Ki-tô hữu mà chúng ta cần phải thực hiện một cách quân bình và điều hòa trong cuộc sống.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, bất kỳ một nhân đức nào trong đời sống cũng đòi hỏi phải được bổ túc bằng một nhân đức đối nghịch với nó thì nhân đức ấy mới thật sự là nhân đức. Vì thế, xin hãy cho con ơn khôn ngoan và khiêm nhượng đi đôi với lòng can đảm, cho con hiền lành mà cương quyết, năng cầu nguyện nhưng dám hành động, v.v... Tóm lại, cho con vừa biết lắng nghe lời Chúa như Ma-ri-a, nhưng cũng vừa biết săn tay lên để làm việc như Mác-ta. Amen.
Mẹ tôi sinh ra trong một gia đình có chín người con. Ông ngoại tôi là một người lao động chân tay; bà ngoại tôi thì làm việc quần quật suốt cả ngày và kiêm luôn việc nhà. Còn mẹ tôi, mẹ đã nuôi nấng chúng tôi mà không hề có máy giặt, máy sấy hay máy rửa chén. Mẹ phải làm việc quần quật suốt cả ngày như thế. Tôi không nhớ là mẹ có bao giờ đi tĩnh tâm hay không. Mẹ tôi không đọc Kinh thánh nhiều lắm, nhưng một Chúa nhật nọ, sau khi nghe câu chuyện về cô Mácta và Maria như hôm nay tại nhà thờ, thì mẹ về nhà và nói: "Nếu mẹ xé đi một trang Kinh thánh thì Maria và Mácta sẽ thế nào nhỉ !" Với lịch làm việc rất bận rộn, mẹ sẽ đứng về phía Mácta và cho rằng Maria là một đứa em gái hư hỏng.
Câu chuyện Phúc âm này chỉ có trong Tin mừng theo thánh Luca, và được dùng để so sánh đời sống hoạt động của người Kitô hữu (Mácta) với đời sống chiêm niệm (Maria). Như thế, hình thức của đời sống Kitô hữu này được đặt tương phản với hình thức kia. (Thêm nữa, dường như dùng một phụ nữ để đem ra so sánh với người khác, hoặc hai chị em tranh cãi với nhau về công việc nhà, không phải là một hình ảnh lấy làm hãnh diện về người phụ nữ trong Tin mừng). Cách hiểu vội vàng có lẽ sẽ cho rằng việc lắng nghe Lời Chúa thì có giá trị hơn là hoạt động. Tuy nhiên, trong toàn bộ Tin mừng, các môn đệ đều hội tụ cả việc lắng nghe lẫn hành động (6,47; 11,28).
Cũng như trình thuật Tin mừng này đã từng chọc giận mẹ tôi, thì nó cũng xảy ra tương tự như thế với những phụ nữ hiện đại nữa, những người coi vai trò của cô Mácta như một ví dụ điển hình về các yêu cầu đưa ra cho họ khi cố gắng để cân bằng trách nhiệm giữa công việc trong gia đình với việc bên ngoài. Có vẻ Đức Giêsu không khen ngợi những người "băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện", vì họ muốn phải được trở thành như thế này như thế nọ.
Nguyên nhân nào dẫn đến người ta chỉ trích Đức Giêsu? Có phải là do thái độ phục vụ của cô Mácta không? Đó có phải là một lời phê bình các Kitô hữu trong cộng đoàn của thánh Luca, và xa hơn nữa, là những người đang phục vụ người khác ở bên ngoài, nhưng lại không làm việc với cả tấm lòng hay không? Hoặc chỉ đơn giản là do cô Mácta đã chuẩn bị bữa ăn với nhiều món quá thịnh soạn cầu kỳ, trong khi đó, nếu một bữa ăn đạm bạc hơn sẽ giúp cô có cơ hội cùng với em gái của mình, giống như một người môn đệ, ngồi dưới chân Chúa mà lắng nghe lời Người?
Một số nhà chú giải cho rằng câu chuyện về Mácta và Maria không phản ánh được thái độ của Đức Giêsu, nhưng đã có một cuộc xung đột xảy ra sau đó trong Hội thánh tiên khởi về vai trò của phụ nữ trong công tác tông đồ. Ủng hộ cho quan điểm này, chúng tôi lưu ý rằng Mácta đã gọi Đức Giêsu là "Chúa", tước hiệu này chỉ có sau ngày Đức Giêsu phục sinh. Điều này cho thấy đây là một bối cảnh và tranh luận diễn ra sau này. Ngoài ra, hạn từ "diakonia" cũng được dùng để nói về việc phục vụ của cô Mácta và ám chỉ đến công tác tông đồ.
Trong nhiều bối cảnh Tân ước, phụ nữ đóng nhiều vai trò quan trọng như: giảng dạy, truyền giáo, và lãnh đạo. Chẳng hạn như Hội thánh ở Kenkhơrê có chị Phêrê là một "nữ trợ tá" (Rm 16,1). Nhưng trong Giáo hội tiên khởi, không phải tất cả mọi người đều đồng ý về vai trò của phụ nữ. Trong khi đó, thánh Phaolô đã tán thành vai trò hỗ tương của người nam và người nữ trong cuộc hội họp phụng vụ (1 Cr 11,3-4), chèn vào tiếp sau đó là bản văn hướng dẫn người phụ nữ phải biết giữ thinh lặng (1 Cr 14,3-4). Dường như tình tiết trong câu chuyện về cô Mácta và Maria cho thấy một cuộc xung đột tương tự đang diễn ra trong cộng đoàn của tác giả Luca. Liệu câu chuyện về cô Mácta và Maria có phản ánh nỗ lực của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đang muốn bịt miệng phụ nữ lại hay không?
Cũng nên lưu ý: có một quan niệm khác về cô Maria và Mácta trong Tin mừng theo thánh Gioan. Khi em trai của hai cô này là Ladarô qua đời, cô Mácta đã nổi bật như một trọng tâm và đã thốt lên cùng một lời tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu (11,25-27) như ông Phêrô đã tuyên xưng trong ba Tin mừng nhất lãm [Mátthêu, Máccô và Luca]. Người ta cũng có thể tìm thấy luận cứ để chứng tỏ rằng những phụ nữ trong Tin mừng theo thánh Gioan thì mạnh mẽ và nổi bật hơn trong Tin mừng theo thánh Luca.
Phần mở đầu tình tiết câu chuyện hôm nay cho thấy Đức Giêsu đang đi trên hành trình. Từ (9,51), Người đã lên đường đi Giêrusalem. Thánh Luca cũng đã nói cho chúng ta những sự cố xảy ra trên đường đi; mỗi câu chuyện là một lời nhắc nhở về những đòi hỏi đối với những người trung thành bước theo Đức Giêsu. Hôm nay, chúng ta được nhắc nhở về những khó khăn phải chịu hầu giữ được cân bằng trong cuộc sống giữa hành động và sự suy tư, lắng nghe Lời Chúa và đem Lời ấy ra thực hành. Đối với người môn đệ thì sự cân bằng giữa chiêm niệm và hoạt động là điều cần thiết khi chúng ta diễn tả việc phục vụ tha nhân.
Đoạn mở đầu câu chuyện chính là kiểu mẫu cho một đời sống phát triển không ngừng của Giáo hội. Chúng ta nghe nói rằng cô Mácta đã đón tiếp Đức Giêsu. Cô đang thực hiện một nhiệm vụ quan trọng ở vùng Trung Đông, nơi có nhiều lễ nghi; nhiều nghi thức tẩy rửa tay chân; có dầu dùng để xức trên đầu và dùng trong chế biến thực phẩm. Nhưng trổi vượt hơn phong tục ấy, cô Mácta đang "phục vụ" Chúa, đây cũng là nhiệm vụ của mỗi người Kitô hữu. "Phục vụ" là một từ ngữ thiêng liêng đối với các Kitô hữu; từ này diễn tả ơn gọi của chúng ta như những thừa tác viên của Tin mừng, chúng ta "phục vụ" Chúa qua việc phục vụ tha nhân.
Trong câu chuyện cô Mácta và Maria, chúng ta có được sự hướng dẫn để làm một người Kitô hữu. Hãy lưu ý đến bối cảnh của câu chuyện, câu chuyện không xảy ra trong Đền thờ. Đức Giêsu đến thăm và giảng dạy ngay trong một gia đình. Thật ra, hầu hết những hoạt động và việc giảng dạy của Đức Giêsu đều diễn ra ở bên ngoài Đền thờ. Đó là cuộc sống thường nhật của chúng ta, nơi đó ta tìm thấy, học hỏi và có thể phục vụ Thiên Chúa. Chúng ta có xu hướng tạo ra sự phân chia rạch ròi giữa "nơi thánh thiêng" và "chốn thế tục". Đức Giêsu giảng dạy ngay trong nhà cô Mácta và Maria, và đó cũng là nơi hai người phụ nữ này tìm thấy những nghĩa vụ của người môn đệ phải thực thi, đó là: phục vụ và lắng nghe Lời. Việc Đức Giêsu sửa lỗi cho cô Mácta không phải là một bản án, nhưng là một lời mời gọi: trong lúc phục vụ, chúng ta cần được bén rễ trong Lời của Người.
Cũng như cô Mácta, chúng ta có những mối bận tâm chính đáng thúc bách hằng ngày. Chúng ta sẽ giống như cô Mácta nếu lo tiếp đón và phục vụ Chúa trong nhà mình và những nơi khác nữa. Ta lại sẽ bắt chước như cô Maria một khi chăm chú lắng nghe và tìm kiếm sự hướng dẫn phát ra từ môi miệng Thiên Chúa.
Chính Đức Giêsu cũng bận rộn trăm bề. Bối cảnh câu chuyện hôm nay rất quan trọng. Tình tiết câu chuyện về cô Maria và Mácta diễn ra sau dụ ngôn người Samari Nhân hậu, câu chuyện nói về những việc tốt lành mà Đức Giêsu đã dạy bảo với lời kết: "Hãy đi và làm như vậy". Tiếp sau đó là phần lắng nghe và học hỏi hôm nay. Ngay sau bối cảnh này, Đức Giêsu cầu nguyện và đáp ứng yêu cầu của các môn đệ khi dạy các ông cầu nguyện với "Kinh Lạy Cha". Hãy lưu ý tới trình tự của những câu chuyện này: trước tiên là hướng dẫn cho việc phục vụ để đáp ứng nhu cầu của người thân cận, và tiếp sau đó là việc dạy cầu nguyện. Chèn vào giữa hai câu chuyện này là câu chuyện hôm nay nhằm kết nối tầm quan trọng của việc phục vụ được nuôi dưỡng qua việc lắng nghe Lời.
Đức Giêsu cũng có thừa tác vụ hoạt động của mình, nhưng Người vẫn dành thời gian để cầu nguyện và Người hằng kỳ vọng các môn đệ cũng làm như vậy. Trong Tin mừng theo thánh Luca, Đức Giêsu thường xuyên cầu nguyện để xin ơn Chúa Thánh Thần trước khi làm việc. Chúng ta không phải chỉ đơn thuần được kêu gọi để trở nên như cô Mácta không ngớt lo việc phục vụ, hay nên như cô Maria chỉ biết ở yên một chỗ để lắng nghe Lời, nhưng phải là cả hai. Chúng ta được kêu gọi lắng nghe Lời Chúa và tiếp sau đó là đem ra thực hành trong những hoạt động tích cực.
Chúng ta nhớ đến thánh Catarina Siena (1347-1380), người chị em Đaminh của chúng ta. Thánh nữ sống trong thời hỗn loạn xảy ra bệnh dịch hạch và chiến tranh do các đoàn quân đánh thuê đánh chiếm nhiều nơi. Đức giáo hoàng đã để lại sự hỗn loạn cho Rôma và đi đến Avignon, Pháp. Những viên giám quản triều đình thì lại bỏ mặc cho Rôma điều khiển Giáo hội.
Thánh nữ Catarina đã dâng hiến chính mình cho Chúa Kitô và đón nhận tu phục người giáo dân Đaminh ("Dòng ba"). Thánh nhân bắt đầu sống đời chiêm niệm ngay trong nhà mình, dành ra ba năm cầu nguyện và chiêm niệm chuyên chăm trong một căn phòng nhỏ bé dưới gầm cầu thang. Sau đó, thánh nữ nghe Đức Kitô mời gọi ra khỏi căn phòng kín ấy để đi phục vụ tha nhân. Ngài dành ra một năm sau đó để phục vụ bệnh nhân, bố thí cho người nghèo, thăm viếng các tù nhân và nạn nhân của bệnh dịch hạch. Ngài cũng phục vụ trong vai trò một sứ giả hòa bình giữa các gia đình thù hằn với nhau ở Siena và các tiểu bang thành phố dọc khắp Italia. Thánh Catarina Siena đến Avignon, gặp Giáo hoàng Gregory XI đang phải sống lưu vong, và thuyết phục ngài trở về Rôma. Năm 1970, thánh Catarina Siena đã được tuyên phong tiến sĩ Hội thánh.
Mặc dù thánh nữ Catarina khởi đầu "phục vụ" Thiên Chúa qua việc dành ra ba năm sống trong cô tịch, và tiếp sau đó là hoạt động với lòng tràn đầy nhiệt huyết. Thậm chí trong những thời gian bận rộn nhất, thánh nữ vẫn cầu nguyện và tìm kiếm sự hướng dẫn của Chúa. Cũng giống như cả những Kitô hữu lừng danh hay bình dị, thánh Catarina đã kết hợp tài tình giữa Maria và Mácta trong cuộc sống. Chúng ta, những người Đaminh, có một phương châm kết hợp cả hai khía cạnh minh họa cho trình thuật Tin mừng hôm nay: "Chia sẻ cho tha nhân những thành quả chiêm niệm của mình."
Có những điều chúng ta muốn và có những điều chúng ta cần. Những gì cần thì quan trọng hơn là muốn bởi vì muốn có nghĩa là có cũng được mà không có cũng chẳng sao. Quá quắt lắm muốn mà không được thì cãi nhau một trận, giận nhau một thời gian, rồi thôi. Nếu giận mãi, giận hoài sẽ trở thành quá khích mà quá khích thì khó chiều.
Điều cần là điều không thể thiếu. Nếu thiếu mà chấp nhận được, điều đó có thể nằm giữa cần và muốn. Điều cần là điều không thể thiếu vì nó cần thiết cho cuộc sống. Điều chúng ta muốn nếu có sẽ làm cho cuộc sống bảnh hơn trong khi điều cần mang lại sự sống cho con người vì thế điều cần là điều không thể thiếu vì nó liên quan đến sống còn.
Những điều chúng ta cần cũng thay đổi tùy hoàn cảnh cuộc sống. Hôm nay tôi cần có thời gian thinh lặng một mình, ngày mai tôi lại cần có bạn. Hôm nay tôi cần lắng nghe bạn và rất có thể ngày mai lại cần bạn lắng nghe tôi tâm sự. Hôm nay tôi cần bạn chia sẻ niềm vui ngày mai tôi cần bạn cùng tôi suy gẫm sự đời. Tình cảm con người lạ lắm. Cũng là tình cảm nhưng mỗi loại khác nhau. Niềm vui chia sẻ làm tăng niềm vui, tâm sự buồn chia sẻ làm vơi nỗi sầu. Cơn nóng giận tăng lên nếu có người châm dầu trong khi lời an ủi làm tươi làn môi.
Có điều cần liên quan đến bản thân, có điều cần liên quan đến tâm lí, có điều cần liên quan đến tâm linh con người. Những điều liên quan đến bản thân dễ nhận ra; điều cần liên quan đến tâm lí hơi khó nhận biết, đôi khi cần có người trợ giúp để nhận biết. Điều cần liên quan đến tâm linh rất khó nhận ra vì nó không gây áp lực mãnh liệt trong cuộc sống nhưng bàn bạc khi ẩn, khi hiện, khi mãnh liệt, lúc lại nhẹ nhàng. Dấu chỉ nhận biết nhu cầu tâm linh lệ thuộc vào đời sống nội tâm. Đời sống nội tâm không nhìn được chỉ cảm nhận được. Người cảm nhận mãnh liệt nhất chính là đương sự. Nếu đương sự không quan tâm để í vấn đề còn khó hơn nữa. Cảm thấy chán nản trong cuộc sống, bình an nội tâm thiếu vắng, mất í nghĩa cuộc đời, tương lai mù mờ, đời vô vị, mất nghị lực làm việc. Những dấu chỉ đó cho thấy tâm hồn đói khát tâm linh. Thân xác có thể no đủ nhưng tâm linh đói khát. Tâm linh mạnh khoẻ mang lại bình an nội tâm, hướng tâm hồn về tương lai trong tình yêu hy vọng. Không giống nhu cầu thân xác khi đói khát nó đòi hỏi rất mãnh liệt trong khi nhu cầu tâm linh đòi hỏi nhẹ nhàng, thoang quảng trong cuộc sống. Mất bình an nội tâm, cô đơn và mất hy vọng là những dấu chỉ rõ nhất. Một số tìm niềm vui nơi chốn đông hy vọng lấp khoả trống vắng tâm hồn, số khác trốn cô đơn qua rượu và thuốc. Tất cả những thứ đó làm dịu nhu cầu đang thiếu, thoả mãn nhu cầu tâm linh cách giả tạo. Tâm linh muốn những gì lâu dài, trường cửu. Vật chất trần thế có giới hạn riêng của nó, nên không thể tìm niềm vui vĩnh cửu nơi trần thế mà phải tìm niềm vui đó nơi Đức Kitô vì Người là nguồn tình yêu vô tận.
Trốn tránh cô đơn trong vật chất biến ta thành con người ích kỉ, chỉ biết đến mình, mong thoả mãn nhu cầu riêng mình, quên nhu cầu tha nhân. Kinh thánh hôm nay nhắc chúng ta một điều quan trọng. Đó là không cần phải đi tận chân trời, góc biển tìm kiếm bình an nội tâm. Tìm ngay trong gia đình, nơi người mình đang chung sống, nơi cộng đoàn mình đang sinh hoạt vì những nơi đó Lời Chúa được thể hiện, được mang ra thực hành. Điều rõ ràng là cô Martha bận rộn liên tục nhưng tâm bất an; trong khi cô Maria ngồi dưới chân Đức Kitô và cô tìm được bình an nội tâm. Những ai lắng nghe Lời Chúa sẽ tìm được bình an nội tâm. Dùng Lời Chúa biện hộ khi tranh luận là tỏ ra có kiến thức nhưng trong họ không có ơn khôn ngoan. Lời Chúa phải được thực hiện qua hành động bác ái, yêu thương, mà không dùng để nói lí lẽ.
Đọc câu chuyện của Maria và Martha ở làng Bêtania, có lẽ mỗi người chúng ta đều có nhiều suy nghĩ, nhiều cảm nghiệm khác nhau. Bởi vì, gia đình Bêtania là gia đình rất mến thương Chúa Giêsu. Đã nhiều lần Chúa Giêsu và các tông đồ qua những chuyến đi công tác, qua những lần đi rao giảng Tin Mừng, đã ghé thăm và dùng cơm tại gia đình của Maria, Martha, Lagiarô.Hôm nay Tin Mừng của thánh Luca cho chúng ta thấy hai thái độ của hai chị em Maria và Martha. Cô Martha thì lăng xăng, lo chuẩn bị, lo nấu các món ăn cho Chúa Giêsu, và các tông đồ khi tỏ ta rất hiếu khách. Còn Maria ngồi bên chân Chúa để lắng nghe Chúa nói, lắng nghe Chúa dạy bảo...
Thái độ cần mẫn, tận tụy phục vụ của Martha là một điều rất tốt, rất cần thiết để đón tiếp Chúa Giêsu. Tuy nhiên, còn một điều cũng rất cần phải tiến tới trong đường tu đức,trên con đường theo chân Chúa. Tin Mừng của thánh Luca cho thấy, Martha đã thưa với Chúa Giêsu:" Thưa Thầy, Thầy không quan tâm, không lưu ý tới con sao khi em con không giúp con mà để con làm việc một mình". Lời than vãn, kêu trách của Martha đã nói lên nhiều tâm trạng lẫn lộn: hoặc Martha cảm thấy mình bị bỏ quên nên tỏ ra bực bội, hoặc là Martha thấy Chúa Giêsu và Maria thật tâm đầu ý hợp, nên tỏ ra ghen tỵ, hoặc là Martha nhắc khéo để kể công trạng của mình.Chúa không trách công việc phục vụ của Martha, nhưng cái sai là Martha đã tự đưa mình vào thái độ tự kiêu, tự mãn.
Chúa đã nói với Martha:" Martha, Martha ơi! Con lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một điều cần thiết mà thôi.Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không sợ bị mất đi " ( Lc 10, 41-42 ). Và phần tốt nhất là được ở bên Chúa, lắng nghe lời Chúa, nguyện cầu với Chúa. Martha đã thiếu một điều quan trọng là quên chính mình đi. Maria đã đón Chúa với hai bàn tay trắng, với tâm hồn rộng mở, để sẵng sàng đón nghe lời Chúa và như thế không sợ ai lấy mất được.
Chúa Giêsu đánh giá cao sự hy sinh, phục vụ bận rộn của Martha. Đây là biểu hiệu lòng mến cao độ của Martha.Còn qua tâm tình của Maria, Chúa đã đánh giá cao thái độ và cử chỉ của Maria. Đó là chọn chỗ nhất trong đời sống của mình, lắng nghe và chọn Chúa làm tất cả. Chúa muốn đề cao vai trò của Maria và mong muốn con người chọn Ngài làm lẽ sống, làm gia nghiệp và là trọng tâm của đời mình .
Qua hành động và thái độ của Martha và Maria, chúng ta có thể hiểu được rằng đời sống cầu nguyện, âm thầm và đời sống hoạt động tông đồ luôn luôn phải bổ túc cho nhau. Hoạt động bề ngoài xem ra rất rầm rộ, hoành tráng mà quên đi chiều sâu là phải cầu nguyện thì một cách nào đó, đời sống của người phục vụ vẫn chưa quân bình. Ở đời, có những cám dỗ chúng ta khó có thể vượt thắng. Nhiều lúc chúng ta tưởng phục vụ Chúa, nhưng thực ra chúng ta đang phục vụ chính mình.Nhìn Martha lăng xăng, bôn chôn phục vụ chúng ta nhận ra hình ảnh của chúng ta. Có thể, một cách nào đó, chúng ta làm việc này việc nọ để được khen ngợi, để phô trương, để vênh vang công đức vv...:"...Xin Thầy bảo em con giúp con một tay ". Chúng ta mời gọi kẻ khác cộng tác, cũng là để phục vụ cho những dự định của chính mình.Có những lúc chúng ta cầu nguyện nhưng muốn để Chúa ủng hộ mình để mình được vinh quang, để mình thành công. Chúng ta không chấp nhận những hạn chế của mình, không chấp nhận thất bại vv...Do đó, chúng ta tự mãn với những công việc mình đã làm được.
Xin được mượn lời của tác giả Vincent Cabanac để kết luận bài suy niệm này:" ...Lắng nghe lời của Chúa là thái độ tốt nhất chúng ta cần phải có.Vì lắng nghe là cách nhanh nhất để chúng ta tìm thấy sức mạnh và lòng can đảm trong lúc chúng ta cảm thấy mệt mỏi và khó khăn khi cầu nguyện.Với hình ảnh của Maria và Martha, Chúa Giêsu muốn ta hãy học cách lắng nghe trước khi muốn biết mình phải làm gì. Nhưng điều đó cũng sẽ là sai lầm nếu chúng ta tin rằng sự chiêm niệm của chúng ta là đủ.Lời nhắn hủ của Chúa Giêsu giúp chúng ta biết được, đâu là điều cần thiết để có thể từ bỏ những điều làm ta ham thích cũng như làm cho ta cảm thấy hài lòng.Hạnh phúc của chúng ta chính là khi chúng ta biết cùng lúc lắng nghe tiếng Chúa và phục vụ anh em mình ".
Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết lắng nghe và thực lời Chúa trong đời sống của chúng con. Amen.
Hiếu khách là một đức tính tốt. Một người hiếu khách là người có tính xã hội. Họ dám mở cửa lòng đối diện với đời và với tha nhân. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy trong bất cứ lãnh vực nào như mở tiệm buôn bán, Công ty xí nghiệp, Trường học, Hội đường, Chùa chiền, Nhà thờ, tư gia...càng có nhiều người tham gia, sinh hoạt, và thăm viếng thì càng sầm uất và thành công sinh hoa lợi. Người ta thường nói: Đa khách đáo, đa ngân vào. Đúng thế mở một cửa tiệm hay một dịch vụ mà khách ra vào tấp nập thì làm ăn sẽ mau khấm khá. Một trong những yếu tố quan trọng là vấn đề nhân sự. Chủ nhân hay tiếp thị phải là những người hiếu khách luôn tươi cười và niềm nở. Vui lòng khách đến vừa lòng khách đi.
Nhân cách con người đi theo với sinh hoạt cuộc sống. Tính tình thể hiện qua cách xử thế, gọi là giao tế nhân sự. Câu truyện trong sách Sáng Thế Ký kể rằng có ba vị khách đi ngang qua nhà ông Abraham. Ông đã vui vẻ chào đón khách một cách niềm nở, ông thưa: Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài (Stk 18, 3). Thái độ của Abraham bày tỏ lòng thành kính và hiếu khách. Ông biết thương người và đáp ứng đúng nhu cầu cần thiết. Ông tiếp rước khách một cách rất tận tình: Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây! Khách trả lời: "Xin cứ làm như ông vừa nói" (Stk 18, 5).
Một phần thưởng ngoài sức tưởng tượng của cả hai ông bà. Ông bà đã nhận được một hồng ân quí báu trong lúc tuổi già. Ông bà sẽ sinh một cậu con trai nối dòng. Đây là lời cầu chúc tốt đẹp nhất của ba vị khách: Người nói: "Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai". Bà Sara bấy giờ đang nghe ở cửa lều, phía sau (Stk 18, 10). Thiên Chúa đã gọi Abraham rời bỏ quê hương xứ sở để đến miền đất hứa. Lòng thành tín của Abraham đưa dẫn ông trở thành cha của một dân tộc. Cha của những kẻ tin. Ông đã biết đón nhận và cho đi. Ông đã tuân theo đường lối của Chúa nhưng ông cũng đã trải qua muôn vàn khó khăn, đắng cay và thử thách. Ông đã đi đến cùng đường và giữ vững lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa.
Mở cửa đón khách cũng giống như mở lòng với tha nhân. Nếu tư gia của chúng ta có mở cửa đón mời anh chị em và bạn bè, nhà sẽ vui nhộn tiếng cười. Phòng khách sẽ ấm cúng với mối tình thân. Nhà bếp cũng được ấm lên nhờ nấu nướng những món ăn mỹ vị đãi khách. Niềm vui sẽ trào dâng trong lòng mọi người. Càng có đông khách và bạn bè, cuộc sống càng nới rộng tình thương mến. Mở cửa như mở lòng. Chúng ta biết rằng ai có lòng quảng đại giúp đỡ tha nhân, họ sẽ được đáp trả mối ân tình. Có qua có lại mới toại lòng nhau. Đón tiếp anh chị em bạn bè đến với gia đình, niềm vui của chúng ta sẽ được nhân lên. Nếu chúng ta chỉ biết đón nhận mà không biết cho đi, cuộc sống sẽ bị đóng khung hạn hẹp. Cảm nghiệm đời sống, chúng ta đóng cửa nhà và cửa lòng vì sợ bà con làm phiền, cuộc sống sẽ buồn tênh.
Cũng không ngoại lệ, khi Chúa Giêsu đến thăm nhà chị em Marta và Maria. Hai chị em đón tiếp Chúa, mỗi người một cách, làm cho Chúa rất hài lòng. Câu truyện được lưu truyền kể lại trong Phúc âm. Marta lo nấu nướng phục vụ và Maria ngồi bên chân Chúa để nghe lời Người giảng dậy. Cả hai việc đều tốt nhưng việc ngồi bên và lắng nghe lời Chúa thì tốt hơn: Cô có người em gái tên là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dậy (Lc 10, 39). Chúa Giêsu đã biến đổi cả hai tâm hồn nên thánh thiện. Chúa nhìn thấu tỏ tâm hồn của Marta và Maria, hai chị em trở thành những chứng nhân đích thực cho Chúa Kitô phục sinh. Trong Giáo Hội đã có những vị dõi theo bước của Marta, lo phục vụ. Có những người đi theo đường lối của Maria, lắng nghe, suy niệm và chiêm niệm trong các dòng tu. Chúa Giêsu đã xác nhận Maria đã chọn phần tốt nhất: Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi (Lc 10, 42). Giáo Hội đã tuyên phong cả hai chị em lên bậc hiển thánh: Thánh Marta và thánh Maria.
Như Abraham đã đón tiếp các vị khách và được phước lộc có con cháu nối dõi hoàn thành sứ mệnh. Marta và Maria đón rước Chúa vào nhà, các bà đã trở nên môn đệ và sinh hoa kết qủa trong vườn nho của Chúa. Thiên Chúa rộng lượng ban phát mọi ơn lành cho những ai đón rước Chúa. Chúng ta đọc câu truyện về hai Biển hồ ở Palestine, biển Galilê và biển chết. Biển hồ Galilê có nguồn nước trong xanh tươi mát. Trong hồ có đủ các loại tôm cá sinh sống. Có những vườn cây xanh tốt nhờ nguồn nước. Nhà cửa dân cư sống rất sầm uất. Biển thứ hai là Biển chết. Biển chết vì nước mặn và không có loại cua cá nào sống nổi. Trơ trọi không có cây xanh tươi. Chúng ta biết cả hai Biển hồ đều nhận nguồn nước từ sông Jordan. Nước chảy vào biển hồ Galilê và tiếp tục chảy tràn lan qua các hồ nhỏ, nhờ vậy mà nguồn nước luôn lưu chuyển trong lành. Còn Biển chết cũng đón nhận nguồn nước nhưng bị tù đọng vì không chia sẻ, nước trở nên mặn chát. Sinh vật không thể sống được. Cuộc sống con người cũng thế, nếu chỉ biết khư khư giữ lại tất cả kho tàng cho riêng mình, thì sự sống cũng dần lụi tàn.
Thánh Phaolô đã nhận lãnh sứ điệp Tin mừng từ chính Chúa Kitô phục sinh. Ngài đã hăng say nhiệt tình truyền rao lời chân lý. Phaolô đã thiết lập nhiều cộng đoàn tín hữu và đặt căn bản giáo lý trong các sinh hoạt sống đạo: Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã ủy thác cho tôi, liên quan đến anh em: Đó là tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn (Col 1, 25). Phaolô trở thành chứng nhân đích thực xông pha trong mọi lãnh vực, cốt là để vinh danh Chúa Kitô. Tin mừng đã lãnh nhận như một kho tàng, Ngài đã đem ra rao truyền và phân phát một cách nhưng không để lôi kéo mọi người về với Chúa.
Thánh Phaolô đã đến với dân ngoại, nơi có một cánh đồng truyền giáo bao la. Ngài rao giảng, thuyết phục và làm nhân chứng sống động. Ngài chấp nhận bị xua trừ, tẩy chay, đánh đập, tù đầy và bị thiệt thòi danh phận để danh Chúa được cả sáng. Phaolô rao truyền Tin mừng một cách nhiệt thành sứ vụ được Chúa Kitô trao: Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: Đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang (Col 1, 27). Tất cả đều chung qui về Chúa Kitô phục sinh. Bất cứ sự gì ngài đã lãnh nhận nhưng không, thì ngài đã cho nhưng không. Không giữ lại điều gì làm của riêng để được vui hưởng một mình.
Cuộc sống của chúng ta phát triển không ngừng. Mỗi ngày, chúng ta hãy cố gắng làm một việc tốt, dù nhỏ, nó sẽ sinh hoa kết qủa tốt. Một lời nói nhẹ nhàng êm dịu, có thể cải hóa được lòng người. Một cử chỉ đón tiếp ân cần, có thể làm vui mảnh hồn cô đơn giá lạnh. Một hành động bác ái nhỏ như cho đi một ly nước vì danh Chúa, sẽ không mất phần thưởng, Một ngọn lửa dù bé nhỏ, có thể tỏa lan ánh sáng và sưởi ấm lòng người. Một bàn tay rộng mở, ân phước ngập tràn niềm vui. Chúng ta hãy cùng mở rộng tấm lòng đón nhận và mở cửa nhà chào đón anh chị em, cuộc sống gia đình của chúng ta sẽ thêm phúc lộc đầy tràn.
Lạy Chúa, Chúa rộng lượng từ bi và nhân hậu với hết mọi loài. Xin cho chúng con biết mở lòng quảng đại với tha nhân. Chúng con nhận lãnh quá nhiều hồng ân, nhưng cho đi chẳng bao nhiêu. Xin cho chúng con biết nhận lãnh và biết tiếp tục trao ban.
Phúc âm theo thánh Luca hôm nay được trích ở phần thứ 4 trong lược đồ, có tên "Hành trình lên Jêrusalem" (9:51-19:28). Đoạn phúc âm về phần thứ 4 được trình bày từ chủ nhật thứ 13, khi Luca cho chúng ta biết là Chúa Giêsu "Quyết định lên Jêrusalem (9:51). Những câu chuyện trong phần thứ 4 này được trình bày trên đường đi; trong khi ấy những thánh sử khác không nói đến diễn trình này. Nhưng, việc đi lên Jêrusalem vẫn là tiêu chí chính của câu chuyện. Theo đó ngày hôm nay Chúa Giêsu nghỉ chân tại nhà bà Maria và Marta.
Trong khi soạn bài giảng này, có những vấn đề tôi phải thận trọng. Đây là câu chuyện chúng ta thường nghe, và nhiều người nghĩ rằng sẽ dể có những kết luận tức khắc. Chúng ta hãy thử nghe lại bài phúc âm này với một cảm nhận mới xem. Thử ví dụ chúng ta hãy đặt mình vào hoàn cảnh của bà Mar-ta trong khung cảnh đang quá lo lắng đủ mọi thứ, bực mình vì làm quá nhiều việc, nên không có thì giờ nghĩ đến Chúa Giêsu. Ai cũng nghĩ câu chuyện ấy hẳn sẽ làm cho họ cảm thấy mình có lỗi, vì trong văn hoá chúng ta, nhiều người trong chúng ta tự coi mình giống như Mar-ta, quá lo lắng công việc làm ăn. Nhưng, có thể là chúng ta không thể làm gì được vì đời sống quá bận rộn, tất bật với gia đình. Có cách nào để bà Mar-ta nói lại cho chúng ta hiểu là làm sao sống được đời Kitô Hữu trong thế giới bận rộn này? Chúng ta sẽ cố gắng trong việc rao giảng thì dễ dàng hơn là làm cho người khác nhận biết mình có lỗi vì làm việc quá nhiều và lo lắng nhiều cho gia đình và bạn hữu.
Hãy tưởng tượng, một bà mẹ sống một mình nuôi con, hay một cặp vợ chồng trong một gia đình không khá giả, phải lo lắng bận rộn nuôi nấng gia đình. Khi họ nghe bài phúc âm hôm nay họ ao ước được có một đời sống khá giả, để ngồi dưới chân Chúa Giêsu nghe lời Chúa dạy. Chúng ta cũng không muốn loại những người làm ăn khó nhọc ra khỏi câu chuyện tin mừng ngày hôm nay. Các cha giảng nên trình bày hình ảnh bà Mar-ta với sự cảm thông dành cho những chị em phụ nữ đang phải bận rộn việc nhà hay bận rộn về kế sinh nhai ngoài chợ. Các phụ nữ ấy hy sinh đời sống họ vì con cái hay các cháu. Có người là goá phụ, bà Mar-ta có goá phụ hay không nhỉ?
Theo những con số thống kê hiện nay thì phụ nữ vẫn không có thu nhập cao bằng phái nam trong cùng một việc làm. Ngoài những việc làm ăn hàng ngày, phụ nữ còn làm việc tình nguyện trong nhà thờ để giúp những người khác trong cộng đoàn. Họ là những "người Samaritano tốt", như Mar-ta và Maria, đã nghe lời Chúa Giêsu giảng dạy và sống theo lời Chúa: Chúng ta đón nhận Chúa Giêsu, nghe lời Ngài dạy và chứng tỏ sự giúp đỡ của Kitô Hữu từng chỗ, và luôn cố gắng sống trở nên người thân cận như được mô tả trong dụ ngôn.
Nói về từ ngữ: có bản dịch tiếng Anh trình bày là bà Mar-ta "đón tiếp" Chúa Giêsu vào nhà bà. Chính Chúa Giêsu và bà Mar-ta là tâm điểm của câu chuyện. Trong câu chuyện này, bà Maria thực sự không nói gì. Bà Mar-ta theo phong tục của những gia đình miền Trung đông đón tiếp người lữ khách. Chúng ta cũng thấy câu chuyện tương tự trong sách Sáng Thế về chuyện ông Abraham và bà Sara đón ba người lữ khách. Hãy để ý xem, chúng ta thấy ông Abraham hối hả bảo bà Sara làm bánh và nhanh nhẹn chạy ra tìm con bê cho người giúp việc làm thịt. Trong bài đọc thứ nhất có nhiều tất bật trong việc đón khách, và Abraham đâu có lợi lộc gì trong việc này. Ông chỉ làm theo phong tục của người Trung Đông thương làm để đón lữ khách. Bà Mar-ta cũng theo thói quen đó. Cả hai câu chuyện đều có một điểm chung là tiếp đón lữ khách xa lạ như người bạn. Sự đón tiếp của Abraham và Sara đã được chúc phúc, vì Chúa đã thực hiện lời hứa là con cháu họ sẽ trở nên một dân tộc lớn lao (St 12:1-4).
Ráp hai câu chuyện trong sách Sáng Thế và trong phúc âm Luca với nhau như hai câu chuyện song song. Chúng ta hãy nhìn vào câu chuyện hai gia đình. Abraham và Sara sẽ được lời hứa có nhiều con cháu, nhưng sự thật con cháu họ là những con cháu thiêng liêng tin tưởng vào Thiên Chúa của Abraham và Sara, Thiên Chúa của lời giao ước, Thiên Chúa sẽ cùng đi với dân tộc Ngài trên con đường đức tin. Đối với Maria và Mar-ta cũng vậy; chúng ta là những con cháu của họ chúng ta cũng cố gắng mở lòng, mở trí để nghe và chào đón họ vào trong đời sống chúng ta. Thường những lữ khách đó là người dân bình thường được chúng ta đưa lên để trở nên người ngang hàng với chúng ta. Thay vào đó, hàng tuần chúng ta được nghe những đoạn phúc âm của thánh Luca như chuyện bà Maria ngồi "dưới chân Chúa"; để nghe lời Chúa dạy dỗ. Đó chính là cách để "tiếp đón" Chúa vào trong đời sống chúng ta.
Chủ Nhật vừa qua chúng ta nghe câu chuyện về người Samaritano giúp người bị nạn (10:25-37). Trong câu chuyện đó chúng ta nên như bà Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu nghe Ngài dạy là phải đón tiếp người lữ khách là người cần được giúp đỡ. Thánh Luca không phải ngẫu nhiên mà đặt câu chuyện hôm nay liền kề theo câu chuyện tuần trước. Ông muốn chúng ta hãy tiếp tục nghe lời Chúa Giêsu dạy. Chúa Giêsu có những điều dạy chúng ta về sự sống để chúng ta cũng như người thông luật, hỏi Chúa Giêsu "Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" (10:25). Thánh Luca dẫn đưa câu chuyện bà Maria và Mar-ta để giúp chúng ta biết "đón tiếp Chúa Giêsu vào trong đời sống, lắng nghe lời Ngài dạy dỗ để biết thương yêu người thân cận và như thế chúng ta sẽ biết đi đến sự sống đời đời."
Trả lời câu hỏi "Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?"của Chúa Giêsu. Người thông luật nói làm hai phần:- Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, - và yêu mến người thân cận như chính mình. Dụ ngôn "Người Samaritano nhân hậu" đã trả lời phần yêu mến người thân cận. Còn câu chuyện hôm nay nói về yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và trí khôn, là chăm chú nghe lời Thiên Chúa dạy. Cả hau câu chuyện đều tiếp dẫn nhau. Trong dụ ngôn người "Samaritano" thấy người bị nạn vì kẻ cướp; còn bà Maria là người ngồi nghe Chúa dạy. Trong xã hội Do Thái vị thế nười phụ nữ không quan trọng và người Samaritano cũng thế, đối với người Do Thái họ là người ngoại. Hai giới người thấp hèn, một người Samaritano và một phụ nữ. Đây chính là hình ảnh cụ thể về những người mà Chúa Giêsu khen là họ nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành (8:21).
Bài phúc âm hôm nay gọi Đức Giêsu là Chúa đó là dấu hiệu sau ngày sống lại. Thánh Luca dùng từ "Chúa" để đặt bài phúc âm hôm nay vào hoàn cảnh các giáo hội tiên khởi. Đây là một câu chuyện về việc đón tiếp và lắng nghe lời Chúa sống lại giữa chúng ta. Cũng nên chú trọng đến từ "phục vụ" (diakonia) trong câu 40 để chỉ việc phục vụ trong giáo hội. Có sự bàn tán việc địa vị phụ nữ trong giáo hội tiên khởi. Và có thể có sự bàn tán "việc phụ nữ phục vụ" trong cộng đoàn như trong giáo hội chúng ta hôm nay. Trong thời thánh Luca, phụ nữ phục vụ nhiều việc, như việc giảng dạy, việc lãnh đạo, việc đọc phúc âm v.v... (Rm 16:1,3-5; 12:1; ICr 16:19; Phl 4:3). Nhưng, các thơ thánh Phao-lo và các bài sách đọc hôm nay chúng ta có điều bất đồng ý kiến về địa vị của phụ nữ. Hình như có người muốn phụ nữ giữ địa vị phục tùng và ý kiến đó đi đôi với ý Chúa Giêsu nói về bà Maria. Luca trong câu chuyện diễn tả người phụ nữ yên lặng được "phần tốt hơn". Vậy thánh Luca có ý muốn phụ nữ giữ địa vị yên lặng phải không? Tôi nghĩ quý cha có thể nhắc đến công việc các phụ nữ đã làm để đối chiếu với địa vị yên lặng của phụ nữ trong phúc âm. Chúng ta cũng nên để ý trong câu chuyện thánh Luca bà Maria ngồi dưới chân thầy, đó là nơi chỉ có phải nam. Chúa Giêsu không để phong tục tập quán thời đó hẹp hòi với những người muốn nghe lời Chúa dạy và muốn trở nên môn đệ của Ngài.
Địa vị của Mar-ta là đón tiếp và phục vụ là việc rất quan trọng trong giáo hội như chúng ta đón tiếp Chúa là lữ khách và người cần được giúp đỡ. Trong giáo hội tiên khởi có rất nhiều tài năng cho các phụ nữ: có người như Maria, là đệ tử yên lặng lắng nghe lời Chúa Kitô dạy bảo; có người hoạt động. Cả hai người Maria và Mar-ta, đều đón tiếp Chúa Kitô, mọi người đều nghe lời Chúa dạy và đều chứng tỏ tình yêu mến Thiên Chúa và phục vụ người thân cận.
Tôi nghĩ quý cha khi giảng nên khôn ngoan chỉ rõ cả phái nam và phái nữ đều có tài năng riêng để phục vụ kẻ khác. Tất cả Kitô Hữu đều được mời gọi để lắng nghe lời Chúa, và làm việc gì cho tất cả cộng đoàn cùng đến dự phụng vụ thánh thể hôm nay để nghe lời giảng dạy. Chúng ta cũng được gọi phục vụ người thân cận sau khi chúng ta nghe lời Chúa và trở về với đời sống bận rộn hàng ngày.
Có ba hình ảnh ngồi dưới chân Chúa. Hình ảnh thứ nhất cô Maria ngồi dưới chân Chúa nghe giảng - Luca 10
Hình ảnh thứ hai cô Maria ngồi dưới chân Chúa lấy thuốc thơm mà sức, lấy tóc mà lau - Mathew 26: 6-13
Hình ảnh thứ ba Mẹ Maria và mấy bà đạo đức ngồi dưới chân Chúa, dưới chân thập tự, mắt đẫm lệ nhìn Chúa - Gioan 19,25
Cả ba hình ảnh ngồi dưới chân đều do phái nữ chủ xướng. Đây là hình ảnh quen thuộc trong kinh thánh. Trước khi nuôi năm ngàn người ăn trong phép lạ hoá bánh ra nhiều Đức Kitô bảo các môn đệ hãy cho đám đông ngồi xuống - Gioan 6. Hình ảnh ngồi để được cho ăn, nuôi sống.
Khiêm nhường
Đức Kitô ghé thăm nhà chị em Maria and Martha. Maria chọn ngồi dưới chân Chúa để nghe Ngài giảng. Cô chị tiếp khách kiểu khác, lo nấu nướng chuẩn bị thực phẩm nuôi thân. Cô em chọn tiếp khách bằng cách ngồi dưới chân. Cô không ngồi ngang hàng tiếp khách - chủ khách ngang nhau- nhưng cô chọn thái độ ngồi dưới chân. Một thái độ khiêm nhường. Một hành động tự nguyện, khiêm nhu, quí mến, tỏ ra rất gần, thân thiết với khách mà vẫn biểu tỏ lòng tôn kính.
Ngồi dưới chân để nghe giảng nói lên tinh thần hiếu học, ham học hỏi Lời Chúa. Maria không những yêu mến Đức Kitô, kính trọng Ngài mà còn yêu mến ngay cả lời giảng dạy, giáo huấn của Ngài. Người do Thái khuyên phụ nữ đừng đi học. Đức Kitô trái lại khuyến khích phụ nữ học, lắng nghe.
Thống hối
Hình ảnh thứ hai là hình ảnh Maria ngồi dưới chân Chúa khóc lóc, tỏ lòng thống hối, ăn năn. Sự việc xảy ra tại nhà ông Simon, người mời Đức Kitô dự tiệc với các tông đồ. Cả chủ nhà lẫn tông đồ đều chê trách hành động của người phụ nữ. Đức Kitô lên tiếng bảo họ hãy để cho cô ta chuẩn bị cho ngày an táng Ngài. Qua cái chết của Ngài kẻ thống hối, tội dù nhiều vẫn được thứ tha. Hình ảnh khóc dưới chân Chúa không mang ý nghĩa nỗi buồn bất tận mà là giờ của mừng vui. Vui vì tội dù nhiều nhưng vẫn được tha vì trong lòng yêu mến nhiều.
Maria khóc vì vui mừng. Tai được nghe Chúa thứ tha. Nhận được lời Chúa an ủi, bênh đỡ, khuyến khích. Việc làm khiêm nhường bị người đời lên án, chê trách. Chúa thưởng công, âm vang ngàn năm vì Maria làm với tâm tình yêu mến chân thành, tạ ơn tha thiết.
Hiệp thông
Hình ảnh các bà ngồi dưới chân thập tự khóc lóc tỏ lòng hiệp thông. Tự biết mình bất lực không làm gì được kẻ có quyền, có thế. Lên tiếng phản đối không ai nghe; gào thét ai thèm đáp trả; phản đối mấy ai quan tâm. Muốn yên thân hãy câm nín, ngoảnh mặt làm ngơ, tránh đường, nhường lối cho bạo quyền hành động. Bao nhiêu người sợ đứng nhìn qua khe cửa. Các bà cũng run sợ trước bạo quyền mà không lẩn trốn. Để nước mắt lăn dài trên má biểu tượng của cảm thông, chia sẻ nỗi đau khổ của Đức Kitô treo trên thập tự. Cảm xúc đau đớn là biểu lộ hiệp thông rõ ràng hơn cả. Lệ nhoà, lăn dài trên má, biểu lộ cảm thông chia sẻ niềm đau mãnh liệt hơn ngàn câu an ủi, lời than van. Mắt nhìn thân Chúa da nát, thịt tan, đầu đội mạo gai, chân lơ lửng giữa đất trời biểu tỏ lòng mẹ chơi vơi nhìn con trên thập tự. Ngồi dưới chân thập tự thông cảm niềm đau người mẹ mất con. Người bạn mất bạn.
Phần Chúng ta
Ngồi dưới chân Chúa hay dưới chân thập tự là hình ảnh gần gũi, quen thuộc, của mỗi người trong chúng ta. Bao lần chúng ta ngồi trong thánh đường. Cũng ngồi dưới chân Chúa nghe lại các bài đọc được công bố, lời Chúa giảng năm xưa, nay được lập lại trong thánh đường, trong các phiên họp, các buổi cầu kinh, tụ họp và Lời Chúa được chia sẻ trong các bài giảng, nhảy nhót theo cung điệu nốt nhạc. Chúng ta lắng nghe với tâm tình lúc thắm thiết, lúc chán nản, lúc hoài nghi.
Ngồi dưới chân Chúa trong thánh đường là hình ảnh quen thuộc khi chúng ta thầm thĩ kêu xin, giãi bày tâm sự, nói lên cái thống khổ, đau xót của thân phận làm người. Nhiều lần chúng ta cũng khóc lóc van xin ơn tha thứ. Chúng ta cũng để giòng lệ tuôn dài khi thấy gánh nặng vơi đi, bình an nội tâm trở lại, và hy vọng một tương lai tươi sáng loé lên trong khoé mắt. Giọt nước mắt u sầu thành giọt lệ reo vui. Những lần như thế chúng ta ngồi dưới chân thập tự tâm tư tràn ngập niềm vui, miệng luôn cao rao lời cảm tạ. Vui mừng đến chảy nước mắt vì cảm thấy Chúa yêu thương tha thứ như chính Maria cảm thấy được Chúa yêu thương, thống hối đến dưới bàn thờ Chúa dâng lời tạ ơn.
Bao lần chúng ta cũng ngồi dưới chân thập tự khi trong thánh đường, lúc ngoài nghĩa trang. Lòng đau như cắt, tâm tư tan nát. Giọt nước mắt vơi đầy thương nhớ người thân. Chúng ta ngồi dưới chân thánh giá nói không nên lời, tư tưởng đứt đoạn vì người thân ra đi, câm nín trong quan tài cô đơn giữa nơi thánh đường đông người thân quen. Người nằm đó mà xa cách ngàn trùng. Cách nhau một lớp gỗ mỏng mà lòng thấy vĩnh biệt. Cũng bản nhạc này sao nay u buồn thế. Cũng lời kinh nọ nay cất lên tang thương nhiều hơn hy vọng.
Hình ảnh ngồi dưới chân Chúa hay dưới chân thập tự là hình ảnh của người đặt niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, Đấng đến xoá tan u tối. Đấng đến mang lại ánh sáng chiếu dọi tâm hồn. Đấng đến mở đường dẫn về nhà Cha sau cuộc hành trình dương thế.
Hãy mở cửa tâm hồn đón Chúa vào nhà để được ngồi dưới chân Ngài.
Cứ mỗi lần nghe trích đọc bài Tin Mừng thánh sử Luca kể chuyện hai chị em nhà Bêtania, thì người ta dễ liên tưởng đến việc so sánh hơn kém giữa đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động. Mọi sự thường có nguyên do. Đã một thời các nhà tu đức căn cứ vào đoạn tin mừng này để đề cao đời sống chiêm niệm. Không riêng gì Kitô hữu mà anh chị em lương dân và bà con khác đạo vốn kính trọng những con người như là "xuất thế" trong các đan viện. Chính vì thế ít có ai thắc mắc khi hình ảnh cô Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu để nghe Người tâm sự được ví với đời sống chiêm niệm thì được đề cao hơn đời sống hoạt động qua hình ảnh cô Matta bận rộn với chuyện nấu nướng.
Thế nhưng nếu đọc kỷ lời Chúa Giêsu nói với Matta thì chúng ta sẽ thấy lối so sánh và áp dụng ở trên có phần khập khiểng và khiên cưỡng cách nào đó. "Matta! Matta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy đi" (Lc 10,42). Khi khẳng định rằng Maria đã chọn phần tốt nhất thì Chúa Giêsu cũng hàm ý rằng cô chị Matta cũng chọn phần tốt nhưng chưa tốt nhất, mà nói nôm na là tốt nhì, tốt ba hay tốt tư...
Chọn điều tốt để cho mình hay để dâng? Câu hỏi dường như đã có câu trả lời cụ thể qua hành vi của cô chị Matta. Matta chọn điều tốt không phải cho mình mà để dâng cho Chúa Giêsu. Đó là các món thức ăn mà chị đang tất bật nấu nướng. Và có thể nói rằng đó không chỉ là món ngon mà còn nhiều đến nỗi cô chị phải cầu cứu Chúa Giêsu biểu cô em phụ giúp một tay. Chọn các món ăn để kính dâng Chúa là một hành vi tốt đẹp. Dâng trao cho ai đó cái mà chúng ta có, tuy tốt đẹp nhưng vẫn còn hạn chế, vì những cái chúng ta có, nếu làm bản liệt kê thì quá nhiều không sao kể xiết và có lẽ chúng ta không thể dâng tất cả được. Trái lại khi dâng trao cái chúng ta là, thì chúng ta đã dâng trao trọn vẹn con người chúng ta.
Matta dù cố gắng đến bao nhiêu cũng không thể kính dâng tất cả những gì cô có cho Chúa Giêsu. Bằng chứng là mới chỉ có chuyện cơm nước, cô đã tất bật đủ bề mà vẫn như chẳng xuể. Một nhận định thực tế, đó là những gì Matta chọn để dâng cho Chúa Giêsu thì "sẽ bị những ai đó lấy mất", nghĩa là Chúa Giêsu không thể tự mình dùng tất cả những thức ăn Matta dâng. Xin đừng quên sự hiện diện của các tông đồ. Trái lại phần của Maria dâng cho Chúa Giêsu thì sẽ không bị ai lấy mất vì Maria đã dâng cho Thầy Chí thánh cái mình là, đó là con người của chị. Khi ta thật tình chăm chú lắng nghe một ai đó tâm sự, thì một cách nào đó ta đã dâng trao trọn tấm lòng của mình cho người ấy.
Một nghịch lý của tình yêu: Chính khi trao ban là lúc lãnh nhận và có thể lãnh nhận lại gấp bội so với phần đã hiến dâng. Bài đọc thứ nhất trích Sách Sáng Thế tường thuật tấm lòng hiếu khách của Abraham dành cho ba sứ thần của Thiên Chúa đã được đền đáp. Một chút nước để các vị rửa chân, một ít bánh, chút thịt bê cũng như chút sữa chua kính dâng các vị ấy dùng có thấm vào đâu với phần mà Abraham lãnh nhận lại. "Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Xara vợ ông sẽ có một con trai" (St 18,10). Chắc hẳn Abraham và bà Sara phải rất đỗi kinh ngạc trước phần mình sẽ lãnh nhận. Có được một đứa con trai làm người thừa tự trong cảnh hai ông bà đã cao niên mà còn son sẻ quả là một hạnh phúc vượt quá mọi niềm mơ ước.
Khi Maria dâng trao cho Thầy Giêsu tấm lòng của mình như là một người môn đệ ngồi dưới chân Người mà lắng nghe thì Maria đâu có ngờ rằng cô không chỉ được đón nhận một vị Thầy, một Vị Chúa mà còn đón nhận được một người bạn. "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã tỏ cho anh em biết"(Ga 15,15). Chúng ta có thể đoán chắc rằng trong cuộc nói chuyện hôm ấy, Chúa Giêsu ít nhiều đã tỏ cho cô Maria biết về hành trình lên Giêrusalem của Người cũng như cuộc khổ nạn Người sắp chịu. Tin Mừng thánh Gioan tường thuật sự kiện cô Maria đã lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá mà xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mà lau, cả nhà nức mùi thơm khiến cho ông Giuđa Iscariô phải chép miệng tiếc rẻ. Và chính Chúa Giêsu đã phân minh cho cô Maria rằng cô ấy đã dùng số dầu thơm hảo hạng ấy để làm trước việc mai táng mình (x.Ga 12,1-8).
Chuyện kể rằng có một vị vua thuộc hàng "minh quân lẫn thánh quân" trong một lần kia đi thị sát vương quốc mình bỗng gặp một ông lão hành khất ngồi bên vệ đường. Xuống xa giá, vua đến bên người hành khất. Người hành khất kia khấp khởi mừng, chìa bàn tay ra trong im lặng và chờ đợi ân lộc vua ban. Nhưng người hành khất kinh ngạc vì đức vua không ban gì mà lại ngửa bàn tay trước mặt mình. Hai bên nhìn nhau một lúc, người hành khất cho tay vào bị lấy ra ba hạt lúa bỏ vào bàn tay đức vua. Đức vua nắm tay lại, cám ơn, rồi lên xa giá tiếp tục hành trình. Dù lẩm bẩm kêu trách "sự keo kiệt" của vị vua vốn được dân tôn xưng là minh quân, thánh quân", người hành khất vẫn tiếp tục việc ăn xin. Ngày hôm ấy cũng có nhiều người hảo tâm đổ vào bị ông ta nhiều bát lúa. Tối đến, người ăn xin đổ bị lúa ăn xin ra để đong đếm thành quả. Bỗng nhiên ông thấy lấp lánh ba hạt lúa bằng vàng to bằng đầu ngón tay ở giữa nhúm lúa ăn xin hôm ấy. Nhớ lại chuyện gặp đức vua hôm nay, ông lão hành khất đoán ra sự việc và cười sung sướng. Bỗng nhiên ông ta lại khóc to tiếng với lời rủa thầm trong lòng: tiếc quá, giá như sáng nay mình dâng cho đức vua hết cả bị lúa này.
"Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy" (Lc 6,38).
Biết lấy gì để dâng lên Thiên Chúa, vì mọi sự đều là của Người. Thiên Chúa không cần chúng ta dâng gì cho Người, nhưng Người lại muốn chúng ta trao dâng cho nhau, nhất là cho những người anh em bé mọn những gì tốt nhất của mình. Chắc hẳn cái tốt nhất của chúng ta, cái mà không ai có thể lấy mất được đó chính là con người chúng ta, tấm lòng của chúng ta, một tấm lòng huynh đệ thủ túc, một tấm lòng bằng hữu nghĩa thiết. Và dù nhiều khi chúng ta không biết thì Thiên Chúa vẫn nhận đó là đã làm cho chính Người (x.Mt 25,31-46).
Tôi không bênh vực cho những người giàu có, nhưng thiết nghĩ, trong Tin Mừng theo Thánh Luca 16,19-31 hôm nay, Chúa Giêsu không lên án người phú hộ, nhưng lên án lòng ích kỷ, không bác ái, không thương người của người phú hộ. Ngài có thương những người giàu có đấy chứ. Vì thương, Ngài mới dùng dụ ngôn để cảnh cáo họ, để dạy họ cách sống bác ái để được sống đời đời trong lòng tổ phụ Abraham, theo cách người Do Thái thường suy nghĩ.
Tiên tri Amos cũng đã từng được Thiên Chúa sai đến miền Bắc nước Do Thái, lên tiếng cảnh cáo một xã hội phân hóa trầm trọng giữa giàu và nghèo, mà những người giàu có toa rập với những người có chức có quyền "đang nằm trên giường ngà, thõng thượt trên sạp gụ" "ăn chiên cừu bê để sẵn, nghêu ngao theo cung điệu Davit, uống rượu tô, xức dầu thượng hạng thơm nức". (Am 6,4-6). Họ đang sống cảnh phong lưu sa đọa mà như một thứ tôn giáo trá hình, thứ tôn giáo mượn danh nghĩa ích nước lợi dân để thu quén bao thành quả của dân nghèo vào tay những ông to ông lớn và ông tư sản. Cái cho đi của họ là một thứ đạo bác ái cho dân nước theo kiểu "hòn đất ném đi hòn chì ném lại", hoặc "thả con tép bắt con tôm". Thực ra, Tiên tri Amos trách họ chẳng màng đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc, của đồng bào nhân dân. Họ chỉ biết tiệc tùng say xỉn "chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ" (Am 6,6). Lời cảnh cáo của Amos thật nặng nề dành cho những kẻ giàu có và quyền chức ăn chơi "Chúng sẽ bị lưu đày, đi đầu những kẻ lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phe phởn".Lời cảnh cáo của Tiên tri Amos, như vẫn còn nghe đâu đây trong thế giới hôm nay:"ngàn năm mây trắng vẫn bay, mấy ngài lãnh đạo có ngày lãnh đao". Người giàu có hôm nay cũng giống như thời tiên tri Amos, tập trung hầu hết vào những người có chức có quyền. Bởi vậy ngàn xưa đã có câu: "nhất thế, nhì thân, tam cần, tứ đức". Giàu nhờ cậy quyền cậy thế nhiều hơn giàu nhờ đức.
Nhưng, dù thế nào đi nữa, thì tôi vẫn cho rằng, đây là những lời tình từ lòng yêu thương của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa không muốn mất đi một con người nào. Thiên Chúa muốn con người làm giàu cách chân chính, vì những cách làm giàu bất lương, giàu trên xương máu, mồ hôi của kẻ khốn cùng là thứ giàu có tội lỗi, là con đường dẫn đến diệt vong. Người làm giàu chân chính thì cảm thông với người cùng khổ. Còn người làm giàu bất lương, thì tự họ đã bất lương trước khi làm giàu. Nói như Thánh Nicolas: "họ có thể đốt nhà bạn để luộc cho mình một quả trứng", cũng vậy, "họ có thể hy sinh một dân tộc, miễn là họ được an thân". Chúa yêu cầu người giàu thay đổi cách sống: bỏ đi tính ích kỷ nhỏ nhoi, hướng đến tha nhân với tương quan đồng vị, cùng sống với cuộc sống của tha nhân trong bất cứ tình huống nào.
Quả vậy, trong dụ ngôn Tin Mừng, không lẽ người giàu "lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc", có mắt mà không thấy "Lazaro nghèo khó,mụn nhọt đầy mình nằm trước cổng nhà ông" ấy sao? Con chó nhà ông còn trông thấy chạy đến liếm ghẻ chốc cho anh ta kia mà! Quả thực người giàu có có thấy, nhưng không động lòng trắc ẩn, vì ông không có lòng trắc ẩn để động. Người nghèo không "khóc than kêu cứu" hay "làm đơn xin" gì cả, nhưng anh ta chỉ nằm đó thôi, đã đủ là một lời xin thống thiết; anh ta cũng không gõ cửa hay kêu gào, nhưng người giàu nếu giàu lòng quảng đại bác ái, giàu lòng trắc ẩn thì đã thấy cảnh tượng thương tâm, đã nghe tiếng gõ nhức nhối tận thâm sâu cõi lòng.
Vậy tôi có thể kính thưa với những người giàu có hôm nay rằng: Chúa không bỏ các bạn đâu, Chúa muốn các bạn làm giàu chân chính. Chúa không kết án các bạn đâu, nhưng qua lời Tiên tri Amos và dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, Chúa đang cho các bạn một cơ hội để mở mắt nhìn những bạn hữu nghèo khó của Thiên Chúa, để mở tai nghe nỗi đau của họ đang kêu gào mà nghẹn ngào không thành tiếng, để mở lòng đón nhận họ như đón nhận chính Đức Kitô, để mở bàn tay ra mà chia sẻ cho họ một cuộc sống đồng nhân vị ở đời nầy, để chính họ sẽ chia cho bạn một chỗ trong lòng tổ phụ Abraham và trong lòng Thiên Chúa mai sau.
Chúa cứu người nghèo
Với những người nghèo, nghe đoạn Tin Mừng hôm nay, những người nghèo khổ túng thiếu trong cuộc đời, những cái bang, hiệp khách ăn mày, những người ở đất nước nghèo đội sổ như chúng tôi, thường phấn khởi lắm- phấn khởi vì được Chúa ủi an, nhưng cũng không thiếu cái phấn khởi do tâm lý thỏa mãn lòng ganh ghét bấy lâu nay với những người giàu có, quyền lực. Vì thế, tôi nghĩ trong dụ ngôn nầy, không chỉ những người giàu, mà cả những người nghèo cũng cần phải cảnh giác. Vì điểm chính của Lời Chúa dạy, không phải là giàu hay nghèo, mà là biết chia sẻ hay không biết chia sẻ, quảng đại hay ích kỷ, bác ái vị tha hay hà tiện vị kỷ.
Cái thói quen trả thù của người nghèo cơm áo gạo tiền, nghèo chữ nghĩa "thấy ai hoạn nạn thì vui mừng", nhất là những người giàu có, quyền thế, thiếu đạo đức gặp hoạn nạn thì càng mừng hơn- cho là "ông trời có mắt", "lưới trời lồng lộng" hoặc "Chúa phạt nhãn tiền" là không hợp với tinh thần bác ái Kitô Giáo. Hơn nữa, dụ ngôn Người Phú Hộ và Lazaro nghèo khó hôm nay, rất dễ đẩy chúng ta vào một xu hướng lạc đề: "chấp nhận cảnh nghèo khổ túng thiếu ở đời nầy để được hạnh phúc ở đời sau", mà quên một điều quan trọng là: "chính trong cảnh nghèo khổ túng thiếu ấy, chúng ta cũng có bổn phận phải chia sẻ cho nhau". Không đợi người giàu thực thi đức bác ái, mà chính người nghèo phải giúp đỡ người nghèo, người khuyết tật giúp cho người khuyết tật, người tù lo cho người tù, người ổ chuột thương người ổ chuột... như thế mới là đúng tinh thần dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Người giàu có, có cách chia sẻ của người giàu có, người nghèo khổ cũng có cách giúp đỡ chia sẻ cho nhau; miễn là có một tấm lòng nghĩ đến tha nhân. Một điểm tâm lý khôi hài nữa là: ai cũng nghĩ mình nghèo, không thể giúp đỡ người khác. Họ chỉ có thể giúp đỡ tha nhân khi họ cảm thấy họ dư thừa. Đối với Chúa thì không phải như thế: đồng bạc cuối cùng của bà góa là đồng bạc giá trị. Vì bà đã cho đi chính sự sống còn của bà, và giao phó sự sống còn của bà cho Thiên Chúa. Vì những suy tư trên đây, tôi nghĩ, chúng ta nên sợ cảnh "nghèo lòng bác ái", vì nghèo lòng bác ái cũng đồng nghĩa với nghèo ba nhân đức quan trọng "Tin Cậy Mến".
Từ "Lazaro" tiếng Do Thái có nghĩa là "Thiên Chúa cứu giúp". Nhân vật Lazaro là nhân vật hư cấu trong dụ ngôn, đại diện cho những người nghèo khổ, túng thiếu. Nhưng, qua hình ảnh Lazaro, không nên lầm tưởng rằng người nghèo được vui mừng hả dạ vì mấy người giàu "khó vào nước trời" hoặc bị phạt xuống hỏa ngục đời đời.. Ngược lại, là những người nghèo, hãy tạ ơn Chúa cho chúng ta sống trong cảnh nghèo khổ khốn khó, có cơ hội dễ cảm thông và sẻ chia với những người nghèo khổ khốn khó, có cơ hội nhận ra chính chúng ta và những con người nầy là Bạn Hữu Của Thiên Chúa. Hãy chia sẻ với các bạn của Chúa, như Đức Kitô đã chia sẻ đến tận cùng cuộc sống mình. Và khi không còn gì để chia sẻ, chúng ta sẽ là một Lazaro được "Thiên Chúa cứu giúp", được ngồi gần các tổ phụ, giữa lòng Abraham và trong cung lòng của Thiên Chúa. "Thiên Chúa cứu giúp người nghèo"- không phải những người nghèo vì họ nghèo- nhưng là những người nghèo vì họ đã cho đi tất cả những gì mình có. Những người cho đi tất cả là Bạn Hữu của Thiên Chúa, được "Chúa thương cứu giúp", được Thiên Chúa đền bù xứng đáng trong Nước Vinh Hiển của Người.
Chúa Giêsu và các tông đồ tiếp tục đi lên Giêrusalem. Dọc đường, các ngài gặp nhiều nhóm người khác nhau: Đám đông dân chúng vì tò mò hoặc vì nhu cầu cấp thiết như khỏi bệnh, tìm kiếm sự sống đời đời... Nhóm Pharisêu, thượng tế, luật sĩ tranh luận về giáo lý rồi dần dần đối kháng, hận thù; nhóm phong cùi, hành khất; nhóm môn đệ theo Ngài nhưng bối rối về cuộc khổ nạn sắp tới. Chúa nhật tuần trước, chúng ta nghe kể chuyện thầy luật sĩ thắc mắc về thân cận của mình. Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn người Samaritanô nhân lành. Tuần này, hai chị em Mátta và Maria. Chủ ý của phụng vụ là nêu câu hỏi: Liệu ai là kẻ lắng nghe Lời Chúa để được cứu rỗi: Maria hay Mátta, Pharisêu hay các môn đệ? Còn chúng ta, thuộc về hạng người nào?
Truyện hai chị em Mátta và Maria chỉ có trong Phúc Âm Luca. Vậy đây là đặc điểm của ông và người ta chờ đợi trong đó nội dung quan trọng hoặc hòan cảnh gương tốt, việc tốt để noi theo. Thí dụ, chúng ta được học về hai mẫu người: phục vụ và lắng nghe Lời Chúa Giêsu nói, nói cách khác, hành động và cầu nguyện. Tác giả Philip Toynbee đưa ra nhận xét: ngày nay trong thế giới Công giáo, cứ 100 cô Mátta mới có một cô Maria. Vậy, câu chuyện chị em Mátta và Maria phải chăng là một lời cảnh tỉnh? Nhất là những linh hồn ưa chăm chỉ việc xác, nhếch nhác việc hồn. Câu chuyện người Samaritanô nhân hậu tóm lược lý tưởng bác ái Kitô giáo. Câu chuyện hai chị em Mátta trình bày cách sống ấy, tức thân tình với Thiên Chúa trước khi với tha nhân. Cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa đến trước việc họat động bên ngòai. Thực tế các họat động bên ngòai đối với người môn đệ đích thực là hiệu quả của cuộc sống nội tâm. Làm ngược lại là mắc mưu ma quỉ, kẻ luôn chủ trương phân tán linh hồn bằng những họat động vô bổ, rỗng tuếch. Liệu Lời Chúa dạy hôm nay có đựơc chúng ta lắng nghe? Liệu lời cầu nguyện kiểu Maria có giúp đỡ chúng ta đừng tránh sang bên kia đường mà đi? Như vậy, câu chuyện người Samaritanô và câu chuyện hai chị em cô Mátta liên kết chặt chẽ với nhau trong giáo lý của Phúc Âm. Chúng chỉ có một nội dung: "First things first" (điều quan trọng ưu tiên hơn cái không quan trọng).
Thật vui thích cho Chúa biết bao khi được Mátta phục vụ chu đáo! (trong Phúc Am Luca, Mátta chỉ xuất hiện lần duy nhất này). Nhưng Chúa Giêsu lại hài lòng hơn khi Maria chỉ ngồi dưới chân mà nghe Lời Ngài giảng. Phong tục thời ấy, ngồi dưới chân ai được coi là môn sinh của người đó. Như vậy chứng tỏ Maria coi Chúa là Thầy, là ngôn sứ rao giảng Lời Thiên Chúa. Ngược lại, Phúc Am mô tả Mátta: "tất bật lo việc phục vụ". Cô tỏ ra mình là bà chủ, lăng xăng việc tiếp đón. Rõ ràng một bên là môn đệ, một bên là chủ nhân đối với vị khách quí và thân tình. Thái độ của Mátta "tất bật" cho người ta cảm nghĩ Chúa Giêsu đã tới gần thành thánh, cô lo nhiều chuyện quá nên cảm thấy mình bị bỏ rơi! Tác giả Timothy Johnson giải thích thái độ của hai chị em như sau: từ "tất bật" trong ngôn ngữ gốc có nghĩa là "bồn chồn", tức vướng mắc vào cuộc sống thế tục quá đáng, náo động nếp sống phẳng lặng hàng ngày, cho nên Chúa Giêsu khuyên chỉ cần một điều mà thôi. Nhiều người giải nghĩa điều cần là đĩa thức ăn hoặc chút ít cũng được. Johnson lại cho điều cần là lòng hiếu khách: chú ý đến sự hiện diện của khách là quan trọng, các thứ khác tuỳ tùng. Nếu vậy thì lựa chọn của Maria là chính xác, còn Mátta thì trệch đường. Maria chú ý vào đấng tiên tri trong nhà mình, tức sự tiếp đãi khách tốt hơn cả. Ngoài ra, cô còn "lắng nghe" lời khách nói. Vị khách nói toàn Lời Thiên Chúa. Phải chăng đó là điều cần thiết?
Dầu thế nào đi nữa, chúng ta ngày nay cũng phải tự hỏi: "Tôi đã tiếp đãi Chúa Giêsu ra sao? Liệu tôi mở lòng ra để đón nhận Ngài hay lăng xăng nhiều chuyện khác?" Cuộc sống hàng ngày cho chúng ta nhiều cơ hội gặp "khách", đủ mọi loại, đủ mọi thứ. Liệu chúng ta lắng nghe họ hay chỉ biết huyên thuyên sự "thông thái" của mình? Bịt tai trước ý kiến khác: "biết rồi, khổ lắm, nói mãi!". Biết đâu vị khách đó lại từ thiên giới đem bình an và ơn cứu rỗi cho nhân loại! Biết đâu là bất cứ cá nhân nào mà sự hiện diện của họ phá tan những thành kiến, những sai lầm cố hữu của não trạng kiêu căng nơi chúng ta? Hàng ngàn, hàng vạn "khả năng" khác hữu ích cho cuộc sống tẻ nhạt này? Chẳng ai nói trước được? Cho nên thái độ kiêu căng là vô lý. Nhưng xưa nay chúng ta lại thường mắc phải.
Vậy, đúng đắn nhất là đức tin, kính trọng, cậy nhờ vào Thần khí của Chúa Giêsu cư ngụ trong mỗi linh hồn. Chú ý vào những điều chúng ta nghe được, xem thấy và suy tư về chúng. Giống như Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu, nghe Lời Người dạy bảo, bỏ dần độc tài, võ đoán, hoặc chỉ nghe tiếng nói quen thuộc của "phe ta", cộng đoàn ta. Cái gì cũng hay nhất, đúng nhất. Nhiều khi trên thực tế, chỉ là lố bịch. Biết đâu những điều chúng ta nghe thấy, kinh nghiệm được lại là những kho báu cho cuộc sống riêng ta và cộng đoàn? Biết đâu mình đang tiếp rước, "chuyện trò" với một ngôn sứ Thiên Chúa gởi đến vì lợi ích chúng ta? Vậy trước khi bịt tai, đóng cửa, rút cầu thì hãy mở trái tim ra cho những mới lạ và thực hành lòng hiếu khách đối với tha nhân, người khác chính kiến với mình, với tu viện mình, với phe nhóm mình, và ngay cả tôn giáo mình. Lịch sử đã chứng minh, hàng ngàn hàng vạn lần người ta đã bỏ lỡ cơ hội tốt để canh tân, thăng tiến chỉ vì thái độ đóng cửa, rút cầu để rồi sau này, hối hận cũng vô ích.
Thiên Chúa kêu gọi chúng ta yêu mến và phục vụ Ngài, yêu mến và phục vụ tha nhân. Nhưng yêu mến phải là ưu tiên. Yêu mến Thiên Chúa và tha nhân được diễn tả cách cụ thể bằng lời cầu nguyện. Cầu nguyện là dâng hiến cho Ngài lòng hiếu thảo của mình. Chúa Giêsu dạy bảo chúng ta phải liên lỉ cầu nguyện, chứ không phải liên lỉ phục vụ. Chính vì thế mà Phúc Am mô tả Chúa Giêsu cầu nguyện cùng Cha Ngài không ngừng, ngay cả trong giờ tử nạn. Thánh Thomas tiến sĩ đã đặt đời sống chiêm niệm lên trên đời sống hoạt động (xc Summa Theologica 2a2ae 179). Chẳng lẽ, chân lý đó sai? Hay não trạng ngày nay không còn chấp nhận, cho là cổ hủ, chậm tiến?
Cuộc đời, nhất là của các tu sĩ, linh mục, không có tình yêu thì quả trống rỗng, thê lương buồn thảm, thậm chí tự sát. Nhưng tình yêu trước hết là thi hành kết hiệp với Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện. Vì vậy, Chúa Giêsu tuyên bố: "Hỡi những ai khó nhọc và gánh vác nặng nề, hãy đến cùng Ta. Hãy mang lấy ách của Ta, vì Ta khiêm nhường và dịu dàng trong lòng, bởi vì ách của Ta thì êm ái, gánh của Ta thì nhẹ nhàng". Chẳng có ách nào, gánh nào lại nhẹ nhàng, êm ái, nếu không phải là ách của tình yêu. Cho nên, ý nghĩa của bài Phúc Am hôm nay thật sâu sắc và thấm thía: người ta phải yếu mến và phục vụ trong đường lối cân bằng. Đừng lấy cớ phục vụ để trốn tránh cầu nguyện, và cũng đừng vì cầu nguyện mà sao lãng phục vụ.
Bài đọc thứ hai, trích thư Côlôsê, chỉ rõ tính cân bằng ấy: "Thưa anh em, giờ đây, tôi vui mừng vì được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội thánh". Những lời nói thật lạ lùng nếu chúng ta không nhìn theo hướng tình yêu mến Chúa Kitô. Đại ý, thánh nhân tuyên bố ngài phải kết hiệp với Đức Kitô trong đau khổ. Ngài mang lấy đau khổ của Chúa bằng những gian truân, khốn khó hiện tại. Vậy thì làm thế nào chúng ta kết hiệp với Chúa bằng nhung lụa, tiện nghi, vui chơi, ăn sung mặc sướng, nhà lầu xe hơi? Chẳng hoá ra xưa nay chúng ta chỉ là những tay lừa đảo? Rao giảng một đàng, ăn ở một nẻo, rồi đưa ra biện minh: Để phục vụ tốt hơn, hợp thời hơn. Đọc kỹ bài đọc hai, thánh Phaolô không hề nói như vậy: "Đó là tôi phải rao giảng Lời của Người cho trọn vẹn". Tức rao giảng cả bằng đời sống khổ đau để bày tỏ mầu nhiệm Nước Trời cho thiên hạ. Thánh nhân nhắc nhớ các tín hữu rằng, chúng ta phải kinh nghiệm những khổ đau mà Đức Kitô đã phải chịu trước khi Ngài Phục sinh. Chúng ta nên chịu đựng hy sinh hãm mình vì lợi ích của Hội thánh, vì công cuộc truyền giáo, rao giảng Tin mừng cho dân ngoại. Thánh Phaolô viết rõ: "Vì lợi ích cho thân thể Người". Tại sao vậy? Cũng thánh nhân trả lời: Ngõ hầu việc rao giảng Lời Chúa được trọn vẹn. Không chi rõ ràng hơn!
Như vậy, chúng ta tự nguyện hy sinh hãm mình, hoặc bất cứ đau khổ, bách hại cỡ nào, đều trở nên việc công bố Tin Mừng bằng đời sống. Do đó, thánh nhân cảm nghiệm vui mừng khi chịu đau đớn. Hơn nữa, thánh Phaolô còn thêm: "Rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ". Nhưng nay đang được tỏ bày qua đời sống của những con cái "thánh thiện" Giáo hội. Nghĩa là qua đời sống hy sinh, đau khổ, nhọc nhằn, khó khăn, vất vả, thiết thốn, các môn đệ mạc khải chính Chúa Kitô. Thánh Phaolô "vui mừng" trong gian nan vì ông thâm tín rằng mình đang phục vụ Đức Kitô trong thân thể Ngài là Hội thánh. Chúng ta cũng phải biết mình làm được như thánh nhân qua những khốn khó bản thân. Nếu không, chẳng có chi làm bằng chứng. Danh từ "impostor" (hàng nhái) ngày nay xuất hiện rất nhiều trong thương mại, chẳng lẽ không có trong các môn đệ rao giảng của Giáo hội? Đặt câu hỏi tức là trả lời rồi. Bởi lẽ, quyền lực ma quỉ vẫn còn đang đè nặng nhân loại, kể cả những linh hồn khao khát thánh thiện. Nếu không tỉnh thức, khắc bị lừa dối dễ dàng, với lý lẽ thật hợp pháp thí dụ: sức khoẻ tinh thần thể xác, truyền giáo hữu hiệu. Nhưng những môn đệ của Chúa Giêsu luôn có khí giới "ánh sáng" cầm sẵn trong tay, tức tinh thần tỉnh thức, ăn chay, cầu nguyện, thi hành bái ái của Đức Kitô. Vậy mà còn phải vất vả lắm mới đứng vững trong đường lối trung thành với ơn Chúa kêu gọi. Làm thế nào Triều đại Đức Kitô được công bố cho toàn thế giới? Chỉ có thể do các môn đệ được Thần khí của Ngài dẫn dắt, ban quyền năng và sự sống.
Bởi lẽ: "Lời Ngài là ngọn đèn soi cho con tiến bước, là ánh sáng dẫn đường con đi". Chúng ta thường đọc đi đọc lại lời ấy, nhưng có lẽ không hiểu thấu ý nghĩa, vì không đem Lời Chúa ra thực hành. Chỉ khi nào thực hành, mới có thể nắm bắt được được ý nghĩa, vì lúc ấy Lời Chúa mới thấm nhập xương cốt. Giống như thời thánh Phaolô, làm tín hữu lúc này không phải dễ, nhất là trong hoàn cảnh đảo điên hiện nay, với bao nhiêu tiếng nói trái ngược nhau. Người này bảo thế này mới là tinh thần Đức Kitô, kẻ khác nói: không phải, thế kia mới chính xác Phúc Âm. Nhưng môn đệ của Chúa chỉ có một tinh thần, một người hướng dẫn: "Anh em không biết rằng Đức Kitô chẳng phải chịu khổ hình như thế rồi mới được vinh hiển sao?" (Ga 16,26). Nguyện xin Thiên Chúa soi sáng chúng ta lượng định đúng đâu là công việc Mátta, đâu là công việc của Maria trong cuộc sống hàng ngày. Amen.
Hạnh phúc là điều ai cũng mong muốn. Tất cả đời sống của con người là cuộc lên đường để tìm kiếm hạnh phúc. Đối với tôi hạnh phúc là " cái này", còn đối với anh với chị hạnh phúc là "cái kia".
Dù vậy trong cuốc sống chúng ta đừng quá mãi mê tìm kiếm những thứ hạnh phúc trên trần gian, vì hạnh phúc trên trần gian có lúc sẽ qua đi, không tồn tại. Có một hạnh phúc chúng ta phải kiếm tìm cho mình đó là chính Chúa, vì Chúa rất cần thiết cho cuộc sống của ta.Vậy làm thế nào để chúng ta tìm gặp Chúa là Nguồn Vui của mình?.
Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay sẽ là phương thế giúp chúng ta gặp được Chúa là hạnh phúc vững bền cho kiếp sống.
1/ Bài đọc I:
Cử chỉ Abraham sụp xuống đất lạy Đức Chúa và nói: " Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài" (St 18, 2-3), đó là Abraham đã thể hiện một tâm hồn khiêm tốn trước Thiên Chúa và khao khát đón rước Ngài.
Quả thật, có khiêm tốn thì mới khao khát. Mặc dù Abraham đã già, nhưng tâm hồn ông không khép kín, Abaraham khiêm tốn tìm mọi cách mở lối để Chúa vào viếng thăm gia đình ông. Mặc dù Abraham đã cao niên, nhưng ông đã chứng tỏ sự năng động của con người bằng những việc làm thật chân tình và chu đáo khi được Chúa đến viếng thăm gia đình ông.
Chắc chắn sự hiện diện của Thiên Chúa trong nhà Abraham, đã làm cho gia đình ông được no đầy ân phúc. Đây chính là hạnh phúc mà Abraham đã khiêm tốn mong chờ, và Chúa đã đáp lời ông.
Như vậy thái độ khiêm tốn và khao khát gặp Chúa, sẽ là con đường để Chúa đến với chúng ta. Khi khiêm tốn đó là lúc chúng ta dẹp các tự mãn để thể hiện sự thiếu thốn ơn thánh của Chúa. Hơn nữa khi ta khao khát thì chúng ta mới tìm kiếm Chúa để được thoả mãn cho những khát mong của mình. Chỉ khi nào chúng ta có những tâm tình như thế thì lúc đó chúng ta mới gặp được Chúa là hạnh phúc của con người.
2/ Bài Tin mừng:
Khiêm tốn khao khát gặp được Chúa là điều chính đáng. Nhưng gặp được Chúa mà lòng ta không siêu thoát thì sự gặp gỡ đó chỉ mang hình thức mà thôi. Vì thế Chúng ta không gì ngạc nhiên trước lời Chúa nói với Mácta trong bài Tin mừng hôm nay khi Chúa đến viếng thăm gia đình của chị: "Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy đi" (Luca10,41-42).
Siêu thoát là điều cơ bản để chúng ta đón nhận Lời Chúa. Một tâm hồn còn mải mê tiền của, danh vọng, địa vị, quyền lực và lạc thú, thì chắn chắn sẽ không có thời giơ, tâm trí, sự tinh tế cần thiết để đón nhận tiếng Chúa kêu mời.
Như vậy muốn gặp được Chúa thì chúng ta phải có tâm hồn tự do, không bị lệ thuộc trước những rào cản của những thứ dối trá nay còn mai mất trên trần gian. Lời Chúa sau đây thật đúng cho những ai khao khát kiếm tìm Ngài: " Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa" ( Mt 5,8).
Từ những ý nghĩa được rút ra trong những bài Sách thánh hôm nay, chúng ta hãy tự đặt câu hỏi:
3/ Sự hiện diện của Chúa có cần thiết cho cuộc sống con người hay không?
Câu hỏi thật khó nhưng cũng thật dễ.
Khó cho những ai không dám can đảm sống theo tiếng Chúa. Vì cuộc sống của họ đã bị cái gian dối ngụy biện ăn sâu vào con người, cái cậy dựa vào quyền thế để che lấp sự thật, cái lạm dụng vào sức mạnh của thế lực để tước lấy sự tự do của cá nhân và tập thể. Tất cả những gì họ đang có đều mang lại lợi nhuận nhất thời cho bản thân và cho gia đình của họ. Từ đó họ cảm thấy sự hiên diện của Thiên Chúa là con số không trong cuộc sống. Vì họ thiếu khiêm tốn để chấp nhận lời Chúa, thiếu siêu thoát khi phải từ bỏ những thứ dối trá mà họ đang có để sống như Chúa. Vì " chúa" của họ là sự gian dối, quyền lực, địa vị, lợi nhuận...
Ngược lại khi đặt câu hỏi về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống, thì đó cũng là câu hỏi thật dễ cho những tâm hồn khiêm tốn.
Những tâm hồn khiêm tốn là những người luôn cảm nghiệm Chúa là Sự Thiện tuyệt đối, là Sự Thật toàn vẹn. Tâm hồn họ luôn hướng về Chúa, sẵn sàng từ bỏ tất cả, chấp nhận những thiệt thòi mất mát để sống theo tiếng lương tâm, theo ánh sáng Lơì Chúa. Nhờ vậy mỗi ngày họ được nên hoàn thiện như Chúa là Đấng hoàn thiện (x Mt 5,48 ).
Những tâm hồn khiêm tốn là những người không tìm thứ hạnh phúc dối trá như những người không muốn đón nhận Chúa. Hạnh phúc của những người khiêm tốn là chính Chúa, là sống theo Lời Chúa, cho dẫu có lúc phải bị trả giá bằng những thử thách và khổ đau.
Những tâm hồn như thế chính là những người có phúc, vì họ được thuộc về gia đình của Chúa. Vì Chúa Giêsu đã nói những người có phúc là " biết lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa" (Lc 11,27). Đây là những người không ngoan, vì họ biết " chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi" (Lc 10,42).
Mỗi người chúng ta tự hỏi: Chúa còn cần thiết cho ta nữa không ?. Chúng ta có khiêm tốn khao khát đón nhận Ngài với tâm hồn siếu thoát chưa ?
Nếu cảm thấy Chúa không cần thiết, không khao khát đón nhận Chúa với tâm hồn siêu thoát, là vì chúng ta chưa xác tín đủ Chúa chính là hạnh phúc vĩnh cửu của bản thân. Từ đó chúng ta thích sống kiêu căng, luôn tìm mọi cách để chiếm đoạt những điều dối trá nơi trần gian, không muốn để Lời Chúa sửa dạy chúng ta. Và khi gặp những trở ngại, chúng ta hay buồn chán, thất vọng, lo lắng, mệt mỏi, hoài nghi...
Nếu chúng ta đang sống trong tâm trạng thờ ơ với Chúa như thế, chúng ta hãy khiêm tốn xin Mẹ Maria giúp chúng ta có một tình yêu mặn nồng với Chúa: Luôn khao khát tiếp nhận Ngài, lắng nghe lời Ngài, sẵn sàng hy sinh từ bỏ tất cả để sống cuộc đời như Mẹ. Vì tất cả mọi thứ hạnh phúc trên trần gian rồi sẽ qua đi. Chỉ có Chúa là hạnh phúc vững bền mới tồn tại. Như vậy bằng mọi cách chúng ta hãy ra sức kiếm tìm, đón rước Chúa để mai sau được sống với Ngài.
Trên đường lên Giêrusalem cùng với các môn đệ, Chúa Giêsu ghé thăm gia đình chị em Mácta, Maria và Ladarô tại làng Bêtania. Nếu dụ ngôn người Samari nhân hậu giúp chúng ta hiểu rằng hành trình theo chân Chúa lên Giêrusalem nhất thiết phải là hành trình của tình yêu, là con đường "yêu thương đồng loại như chính mình", thì hôm nay, Tin mừng sẽ cho chúng ta biết hành trình đó sẽ không thể tách rời con đường chăm chú lắng nghe Lời Chúa. Hay nói một cách khác, người môn đệ khi đã lắng nghe Lời Chúa thì cũng sẽ đi đến những hiệu quả tất yếu trong việc thực thi công bình, bác ái như Lời Chúa dạy.
Chân dung hai chị em Mácta và Maria được thánh sử Luca phác hoạ nhằm làm nổi bật hai cách thức đón tiếp Chúa. Hai cách thức này không đối chọi nhưng bổ túc cho nhau. Chúng ta thấy Mácta dường như có mặt khắp nơi trong suốt trình thuật. Đầu tiên đó là việc cô mời Chúa vào nhà. Lo lắng tất bật để lo phục vụ Chúa theo đúng lòng hiếu khách vẫn thường có của dân miền Trung Đông. Và cuối cùng là vẻ mặt bối rối của cô khi xin Chúa can thiệp để Maria giúp mình một tay trong việc đón tiếp Chúa. Còn hình ảnh Maria trong suốt trình thuật lại là sự im lặng, ngồi bên chân Chúa trong tư thế của một người môn đệ thực thụ để lắng nghe Lời Chúa dạy.
Mácta đã đón tiếp Chúa như thế nào? Thái độ lăng xăng bận rộn nhiều chuyện của chị đã khiến Chúa không vui. Chúng ta biết nhiều lần chính Chúa đã từng cảnh báo những người theo Chúa đừng để cho những lo lắng về cuộc sống, những bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt hạt giống Lời Chúa, khiến cho nó chết ngộp mà không trưởng thành (x. Lc 8, 14); Người còn khuyên nhủ các môn đệ đừng quá lo toan về "cơm, áo, gạo tiền" (x. 12, 22-26); rồi khi bị bách hại thì cũng đừng lo phải trả lời làm sao (x. 21, 14.15). Như thế là, không phải Chúa không quý trọng, không biết ơn, không đánh giá đúng mức lòng hiếu khách của Mácta. Điều đó là quan trọng và cần thiết trong tất cả mối quan hệ. Nhưng, điều Chúa cần ở đây chính là muốn chị khám phá thêm một điều nữa còn quý trọng hơn, khẩn thiết hơn vào loại bậc nhất mà chị cách nào đó đã quên mất, đó chính là lắng nghe Lời Chúa- điều mà cô em Maria đã tỏ ra mình chính là môn đệ hoàn hảo nhất.
Còn cô em Maria thì sao? Chúng ta có thể thấy khuôn mẫu của người môn đệ lắng nghe Lời Chúa nơi con người Maria. Thật thế, ngay khi Chúa vào nhà, cô liền sà ngay vào chân Chúa, dường như quên hết mọi sự. Và, trong tư thế của người môn đệ đối với Thầy, Maria không làm gì, không nói gì, chỉ biết ngồi và lắng nghe. Có thể nói dường như Maria đã quên chính con người của mình để tất cả các giác quan, các cơ năng đều tập trung vào Chúa, ghi nhớ tất cả lời của Chúa. Hệ quả tất yếu chúng ta có thể thấy là, đàng sau sự say mê ngồi bên chân Chúa để nghe lời Người, để tâm sự với Người, Maria chắc chắn sẽ làm theo những gì Chúa truyền dạy. Chị sẽ trở nên một môn đệ nhiệt thành, ra đi làm chứng cho Thầy mình.
Khi chúng ta cho rằng thái độ đón tiếp Chúa của hai chị em Mácta và Maria luôn đối chọi nhau và nghĩ rằng chỉ có một người đón tiếp Chúa với cách thế đúng nhất, e rằng quá vội vàng và phiến diện. Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy hai chị em mỗi người một vẻ, họ đều có chung một tình yêu đối với Chúa là muốn làm sao để giữ Chúa dừng lại nơi gia đình mình càng lâu càng tốt trước khi Người tiếp tục hành trình lên Giêrusalem. Với cách thức phục vụ, Máta đã làm hết sức mình những gì có thể để cho Chúa vui; còn Maria thì không ngừng ghi nhớ, nuốt lấy từng lời nói, từng cử chỉ của Chúa hầu có thể sống sao cho phù hợp ý Người.
Mácta và Maria là những mẫu gương sống động, là hình ảnh của người Kytô hữu trưởng thành. Có thể nói lắng nghe Lời Chúa và thực thi lời Chúa có mối tương quan mật thiết hỗ tương, không thể có điều này và mất điều kia hay ngược lại. Cả hai đều đưa ta đến gặp gỡ Thiên Chúa, đưa ta đến với tha nhân để yêu thương và phục vụ. Nói như P. Graef: "Hoạt động mà không cầu nguyện là thiếu nguyên tắc cơ bản; ngược lại, cầu nguyện mà không hoạt động là thiếu đất để gieo trồng". Lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành chính là những nguyên tắc cơ bản nhất và cũng là mảnh đất mầu mỡ để hạt giống lời Chúa sinh hoa kết quả nơi tâm hồn của mỗi người chúng ta.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những thái độ của Macta và Maria TN 16-C113
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những thái độ của Macta và Maria. Trước hết là thái độ bận rộn và lắng nghe.
Thái độ của Macta là thái độ bận rộn, vồn vã để tiếp đãi Chúa Giêsu cho thật thịnh soạn, chứng tỏ một tấm lòng hiếu khách. Còn Maria thì lại biểu lộ cũng tâm tình ấy bằng cách ngồi dưới chân Chúa mà lắng nghe lời Người. Hai thái độ, nhưng cùng chung một tâm tình, cùng chung một đối tượng. Chỉ có điều là Chúa Giêsu đã từng coi những mối bận rộn là như một bụi gai làm nghẹt sức sống của Lời Chúa, hay có thể biến thành một ông chủ thống trị trong trái tim con người, chống lại chính Thiên Chúa tình thương, hoặc tệ hơn nữa là làm cho lòng con người ra nặng nề, đến độ không còn nhạy bén để đón chớ Chúa đến.
Trong khi Lời Chúa mà Maria đã chọn để lắng nghe là một ưu tiên tuyệt đối. Được coi là mẹ và anh em thật của Chúa Giêsu chính là những ai nghe và tuân giữ Lời Chúa. Khi quá bận rộn vì vừa phải lo phục vụ vật chất, lại vừa phải rao giảng trong cộng đoàn, các tông đồ đã ưu tiên chọn việc rao giảng Lời Chúa.
Tiếp đến là ý mình và ý khách. Macta đón tiếp Chúa Giêsu là để thiết đãi Người theo sở thích của cô, như một bà chủ nhà có dịp trổ tài nội trợ và bày tỏ tấm lòng hiếu khách, mà chả cần hiểu khách đang mong đợi điều gì. Trong thâm tâm của bà chủ nhà đó, niềm vui không phải là vì người khách, nhưng là vì tự mãn, tự thấy mình tài khéo và đức độ.
Điểm khác biệt còn rõ nét hơn nữa trong thái độ của Macta so sánh với tinh thần của Chúa Giêsu, và đã bắt Người phải can thiệp, chính là vì cô đã đánh giá, và đã lên tiếng phiền trách Maria và cả Chúa Giêsu sao lại không thấy việc cô làm mới là đúng, mới là quan trọng. Cô như muốn nói với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, Thầy không thấy rằng em tôi để mặc tôi một mình lo phục vụ là sai quấy hay sao? Xin Thầy bảo nó giúp tôi với.
Thực ra vẫn có những cách tiếp đón làm cho chúng ta không còn gặp gỡ được Chúa Giêsu và tha nhân. Chẳng hạn Giáo Hội Do Thái thời đó với những chuyên viên về tôn giáo, với những tín đồ sùng mộ, lại đang thiết tha mong đợi Đấng Cứu Thế, nhưng họ đã không gặp được Người suốt hơn ba mươi năm trời Người sống giữa họ. Chẳng hạn hai môn đệ trên đường về Emmaus đã cùng đi với Người cả một ngày đàng mà vẫn không gặp gỡ được con người thật của Người. Phải chăng vì trong những trường hợp đó, mặc dù hình ảnh Chúa đang chiếm ngự tâm hồn họ, nhưng lại là hình ảnh do họ tư vẽ ra theo những ước vọng của bản thân họ mà thôi.
Điều kiện và quy luật cho mọi cuộc gặp gỡ đích thực với Thiên Chúa, đó là phải từ bỏ chính bản thân mình, để ngồi dưới chân Chúa, và lắng nghe Lời Người như Maria ngày xưa.
Bước vào Chúa nhật XVI thường niên C, thánh sử Luca thuật lại cho chúng ta chuyện gia đình TN 16-C114
Bước vào Chúa nhật XVI thường niên C, thánh sử Luca thuật lại cho chúng ta chuyện gia đình của Matta và Maria. Gia đình hai cô hàng ngày ra sao chúng ta không hay biết, chỉ khi cô chị Matta rước Chúa Giêsu vào nhà và tất bật làm cơm thiết đãi Chúa, còn cô em thì ngồi bên chân nghe Chúa và nghe lời Người chúng ta mới có chuyện (Lc 10,38-42). Gia đình Matta và Maria còn có cậu em trai là Lazarô không thấy nói tới.
Chúng ta thử tưởng tượng quang cảnh diễn ra trong nhà: người chị chạy lên chạy xuống, còn người em ra như bị lôi cuốn vào việc chuyện trò với Khách. Một lúc sau, người chị Matta, chắc cảm thấy mệt nhọc, nên đã đứng lại và lên tiếng nói với vị Khách: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình, mà không quan tâm sao sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với?" Xem ra cô chị Matta không những bất bình với cô em là Maria mà còn cả với Khách mời nữa. Nhưng Chúa Giêsu bình tĩnh đáp lại: "Matta, Matta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất" (10,41-42).
Thái độ cần phải có
Chính câu nói này của Chúa Giêsu làm nảy sinh những khuynh hướng khác nhau. Có người cảm thấy tiếc cho Matta, vì Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc cho Matta, trong lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giêsu, khi Matta đến phàn nàn, Chúa Giêsu lại nói: "Matta, Matta con lo lắng nhiều chuyện, Maria đã chọn phần tốt nhất". Vậy là việc cô làm chưa phải là tốt nhất.
Khuynh hướng khác cho rằng, Chúa Giêsu không có ý phê phán thái độ hiếu khách của Matta khi Ngài nêu bật hành vi của Maria "ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người." Tuy nhiên, khi phải chọn lựa thì Chúa Giêsu vẫn thích người "nghe" lời Người hơn là loay hoay chuyện rót nước, dọn cơm... Ngài cũng cho biết đây là "phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy mất. "
Hẳn Chúa Giêsu không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của Matta tất bật với việc tiếp đãi Khách, và một của Maria ngồi bên chân Khách để trò chuyện. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu khách được biểu lộ cụ thể và tích cực qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được thể hiện không kém qua sự hàn huyên tâm sự. Chúa Giêsu đề cao thái độ của Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Matta. Chúa không chê hoạt động, lại càng không trách sự tiếp đón quảng đại, Ngài chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria đang ngồi dưới chân Ngài để nói lên thái độ cơ bản con người phải có đối với Thiên Chúa, đó là thái độ lắng nghe lời Chúa. Lời Chúa thì vững bền và mang lại ý nghĩa cho các hoạt động hằng ngày của chúng ta.
Gương của Matta và Maria
Matta và Maria trong Tin Mừng hôm nay nêu gương cho chúng ta và bảo chúng ta rằng nhân đức không chỉ có một mặt, vì trong việc tông đồ, người này làm việc tích cực, hết sức mình, người kia quan tâm đến việc rao giảng Lời Chúa. Nếu sự quan tâm này kết hợp sâu xa với đức tin, thì sẽ rất tốt cho công việc: “Maria đã chọn phần tốt nhất”.
Chúng ta cũng thế, chúng ta cần phải cố gắng, để có được điều mà không ai có thể lấy mất được, nên cần phải lằng nghe. Lắng nghe ở đây không phải là đãng trí, nhưng là chú ý; vì ngay cả hạt giống lời Chúa từ trời xuống cũng bị lấy mất, nếu hạt giống đó gieo bên vệ đường, không được gieo vào đất tốt, tức là nghe những không được đón nhận (Lc 8, 5.12)
Lắng nghe lời Chúa như cô Maria là khôn ngoan, vì đây là việc làm cao cả và hoàn hảo nhất. Lo lắng phục vụ là cần thiết, nhưng làm sao để những lo lắng phục vụ không cản trở ta đón nhận Lời Chúa từ trời xuống. Hãy khoan đừng có chỉ chích phê bình hay kết án những sự nhàn rỗi, những người mà chúng ta sẽ thấy họ làm việc tất bật để có được sự khôn ngoan, như Salomon, một con người hiền hòa, đã nài xin Chúa gửi Đức khôn ngoan của Ngài tới cự ngụ nơi nhà ông, khi thưa: "Lạy Chúa, xin gửi Đức không ngoan Ngài tới, để phù trì và đồng lao cộng khổ với con" (Kn 9, 10). Tuy nhiên đấy không phải là lời trách móc những việc Matta làm: Maria được Đức Giêsu thích hơn vì Maria đã chọn phần tốt nhất. Đức Giêsu là Đấng giầu có, và Ngài trao ban cho cả hai cô Matta và Maria cách quảng đại; Maria là người nữ khôn ngoan, vì cô biết nhận ra và chọn lựa điều quan trọng nhất.
Các Tông Đồ cũng cho rằng: "Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải” (Tđcv 6,2). Khi đứng giữa hai điều, một là rao giảng Lời Chúa, hai là phục vụ, tất cả đểu là việc khôn ngoan: Stéphanô cùng với Philipphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, đã chọn việc phục vụ, với tư cách là thầy phó tế, và các ngài đã hoàn thành cách thật khôn ngoan (Tđcv 6,5.8)... Như thế, Giáo hội là một thân thể, các bộ phận tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể: "Vậy mắt không có thể bảo tay: "Tao không cần đến mày"; đầu cũng không thể bảo hai chân: "Tao không cần chúng mày". (1 Cr 12, 21)... Nếu có một vài chi thể quan trọng nhất, thì các bộ phận khác cũng không kém phần quan trọng. Sự khôn ngoan ở trong đầu, còn hoạt động thể hiện nơi những bàn tay.
Lời Chúa trong cuộc đời
Sống trong một thế giới đang đánh mất dần ý thức về thần linh, trong một thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất. Người Kitô hữu phải lấy việc lắng nghe Lời Chúa là điều quan trọng nhất. Chúng ta có thể lắng nghe tiếng Ngài, bằng cách suy niệm Kinh Thánh với đức tin, bằng cách tĩnh tâm cầu nguyện riêng cá nhân cũng như cộng đoàn, bằng việc im lặng mặc niệm trước Thánh Thể; từ Nhà Tạm, Chúa Kitô nói với chúng ta về tình yêu của Người. Đặc biệt vào ngày Chúa Nhật, những người kitô được mời gọi đến gặp gỡ và lắng nghe Chúa. Điều này được thực hiện cách trọn vẹn, nhờ qua việc tham dự vào Thánh Lễ, trong đó Chúa Kitô dọn ra cho các tín hữu bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Bánh ban sự sống. Tuy nhiên, những giây phút cầu nguyện và suy tư, những giây phút nghỉ ngơi và sống tình huynh đệ, cũng có thể góp phần hữu ích vào việc thánh hóa ngày của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, xin Mẹ giúp chúng con gắn bó cùng Chúa cho đến trọn đời. Amen.
Khi Chúa Giê-su đến thăm nhà, cô Mác-ta đã dành cho Người một cuộc tiếp đón rất nồng nhiệt. TN 16-C115
Khi Chúa Giê-su đến thăm nhà, cô Mác-ta đã dành cho Người một cuộc tiếp đón rất nồng nhiệt. Cô "tất bật lo việc phục vụ" Chúa thật chu đáo, Cô "băn khoăn lo lắng nhiều chuyện"... để cho Chúa được vui lòng. Thế mà chẳng được Chúa khen, lại còn bị trách là: "Sao con băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!" Thế có oan không chứ?
Thật ra, Chúa Giê-su không có ý trách Mác-ta về việc phục vụ hầu hạ tận tình của cô. Chúa chỉ muốn lưu ý Mác-ta rằng: Điều cần thiết hơn cả là lắng nghe, là đón nhận lời Người. Cô Maria đã khôn ngoan chọn làm việc nầy (tức lắng nghe Lời Chúa) và Chúa Giê-su cho đó là chọn phần tốt nhất.
Maria đã chọn phần tốt nhất vì lắng nghe lời Chúa là việc làm hệ trọng nhất trên đời, là khai thác một kho tàng vô giá không có gì trên cõi đời nầy có thể sánh được, là nắm lấy bí quyết để được sống hạnh phúc muôn đời. ..
***
Hôm nay, Chúa Giê-su cũng lại đến nhà chúng ta và trao gởi cho chúng ta những tâm tình, những lời châu ngọc, những giáo huấn khôn ngoan... như Người đã trao ban cho cô Maria hôm xưa. Đó là cuốn Tin Mừng.
Để có thể trao tặng cho chúng ta cuốn Tin Mừng như chúng ta hiện có hôm nay, Chúa Giê-su đã phải 'biên soạn' rất công phu. Người đã phải mất đến ba mươi ba năm mới hoàn thành tác phẩm rất vĩ đại nầy.
Thật ra, Chúa Giê-su không viết Tin Mừng nhưng Người đã dệt nên Tin Mừng bằng ba mươi ba năm cuộc sống.
Tin Mừng của Chúa Giê-su được dệt bằng chính cuộc sống dương gian của Người, kể từ lúc đầu thai trong lòng Đức Maria, sinh ra trong chuồng bò, trốn lánh sang Ai Cập, trở về sống đời niên thiếu ở Na-da-rét, rồi lớn lên trong phấn đấu nhọc nhằn, đổ mồ hôi lao động đổi lấy áo cơm...
Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô được tiếp tục dệt bằng ba năm thao thức rao giảng trên các nẻo đường Do-Thái, dệt bằng lòng yêu thương người tội lỗi, dệt bằng lòng thương xót các bệnh nhân và người đau khổ, dệt bằng lòng thứ tha vô hạn, bằng tình yêu không biên giới...
Tin Mừng Đức Giê-su được đan dệt bằng nước mắt và mồ hôi máu cùng nỗi buồn sầu quá đỗi trong vườn Cây Dầu, bằng roi đòn tươm máu, bằng vác thập giá đau thương, bằng những giọt máu cuối cùng vọt ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên thập giá...
Tin Mừng Đức Giê-su được thành hình như thế đó, không phải bằng chữ viết mà bằng cả cuộc đời, một cuộc đời sống cho tình yêu, chết cho tình yêu, yêu cho đến cùng...
Để trao tặng cho chúng ta một cuốn Tin Mừng, Đức Giê-su đã phải trả giá như vậy đó ! Vậy thì Tác Phẩm nầy đắt giá biết bao !
Tin Mừng Đức Giê-su cũng là kho tàng khôn ngoan siêu đẳng của Thiên Chúa, được Đức Giê-su đem từ trời xuống ban tặng cho thế gian để nhờ Tin Mừng của Người, loài người học được sự khôn ngoan của Thiên Chúa, được sống trong an bình và được vui hưởng hạnh phúc muôn đời trên thiên quốc.
So với sự khôn ngoan được Chúa Giê-su bày tỏ trong Tin Mừng, thì sự khôn ngoan của thế gian nầy chỉ là rơm rạ, cỏ rác!
Tóm lại, Tin Mừng là kho tàng trên hết mọi kho tàng, là nguồn mạch khôn ngoan trổi vượt khôn ngoan thế gian, là nguồn phát sinh hạnh phúc và sự sống, là con đường đưa tới sự sống đời đời. Đây là một công trình vĩ đại được hình thành suốt ba mươi ba năm dương thế của Thiên Chúa Ngôi Hai với sự chỉ đạo của Chúa Cha và sự cộng tác của Chúa Thánh Thần.
Công trình vĩ đại nầy, quà tặng vô giá nầy, kho tàng quý báu nầy được Thiên Chúa trân trọng trao vào tay chúng ta. Vậy mà chúng ta không muốn nhận. Chúng ta quá thờ ơ hờ hững với tặng phẩm cao quý nầy; như thế là xúc phạm đến Đấng đã trao ban.
Có lẽ cũng như Mác-ta ngày xưa, chúng ta "lo lắng băn khoăn về nhiều chuyện quá" nên chẳng còn tâm trí đâu mà nghĩ tới Tin Mừng; cõi lòng chúng ta đầy ắp những tham vọng trần thế, những ham muốn phàm trần nên không còn chỗ cho Tin Mừng của Chúa bén rễ. Đáng tiếc thay!
***
Hôm xưa, khi Chúa Giê-su đang giảng giữa đám đông, một phụ nữ thán phục Người quá đỗi nên đã cất tiếng ca tụng: "Phúc thay người Mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm !" Nhưng Chúa Giê-su trả lời người ấy rằng: "Đúng hơn phải nói rằng: "Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa". (Lc 11, 27-28)
Ước gì hôm nay chúng ta trân trọng đón nhận quà tặng vô giá Chúa ban là Tin Mừng sự sống và sốt sắng lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa, để mai ngày đáng được Thiên Chúa liệt vào hàng ngũ những người được hưởng phúc đời đời.
Chỉ còn ba cây số, Đức Giêsu và các môn đệ sẽ đến trung tâm Giêrusalem, Người đã dừng lại tại TN 16-C116
Chỉ còn ba cây số, Đức Giêsu và các môn đệ sẽ đến trung tâm Giêrusalem, Người đã dừng lại tại làng Bêtania, vào nhà Mácta, Maria và Ladarô, ngôi nhà Người quen biết. Các sách Tin Mừng nói về họ ba lần. Gioan trong một câu ngắn ngủi, đã kể lại: "Đức Giêsu quý mến cô Macta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô" (Ga 11,5). Macta, một người hoạt động; Maria, một người trầm lặng. Như thế, Đức Giêsu đã có những người bạn hữu.
Hôm nay, khi Đức Giêsu vào nhà, Macta phục vụ bữa ăn, Maria ngồi dưới chân Chúa. Đức Giêsu nói chuyện với Maria... cô lắng nghe. Hai người cùng nhau nói điều gì? Chắc Đức Giêsu sẽ tâm sự với Maria về cái chết và sự Phục sinh của Người, Người lên Giêrusalem là vì việc đó. Nó chiếm trọn tâm hồn Người. Đã nhiều lần Người chia sẻ với các môn đệ, nhưng xem ra họ không hiểu. Với Maria, cô có hiểu không? Về câu chuyện tâm sự đó, há chẳng có một sự đồng cảm mầu nhiệm và tuyệt vời của tình bạn cởi mở đó sao?
Dẫu sao, nhờ Maccô và Gioan, ta biết người phụ nữ trực cảm này đã hiểu rõ hơn những người khác mầu nhiệm cái chết, sự mai táng và sự sống lại của Đức Giêsu. Đức Giêsu sẽ trở lại Bêtania trong nhà cô, những ngày trước Lễ Vượt Qua. Một cách dịu dàng, Maria sẽ thực hiện trước việc ướp xác bằng dầu thơm cho Người, một việc mà các phụ nữ khác không thể thực hiện được, khi họ đến mộ "ngày đầu tiên trong tuần", bởi mộ trống. Maria đã làm việc đó với sự tinh tế tuyệt diệu. Đức Giêsu hiểu điều đó: "Điều gì làm được, cô ấy đã làm. Cô đã lấy dầu thơm ướp xác Tôi, để chuẩn bị ngày mai táng" (Mc 14,8 & Ga 12,2-8).
Đang khi Maria tâm sự với Đức Giêsu, Macta tất bật lo việc phục vụ, đã nói: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Thầy bảo nó giúp con một tay". Hẳn ta có thể mong đợi Đức Giêsu kêu gọi Maria phải ngoan ngoãn giúp chị. Trong nhiều tình huống, Đức Giêsu yêu cầu ta phải phục vụ, phải yêu thương. Tuy nhiên, câu trả lời của Đức Giêsu lại ngược hẳn: "Macta! Macta, con băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một điều cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất".
Vâng, Macta lo lắng, dao động quá nhiều. Đây là một đề tài được Đức Giêsu ưa thích. Người đã nói, "những lo lắng về đời sống có thể bóp nghẹt Lời Chúa đã được gieo vào lòng người" (Lc 8,14). Người yêu cầu các Tông đồ không nên bận tâm về của ăn và áo mặc (Lc 12, 22-26). Người cũng bảo chớ để lòng mình ra nặng nề vì lo lắng sự đời, trong lúc chờ đợi Con Người lại đến (Lc 21,34). Đức Giêsu không trách Mácta về công việc cũng như sự nhiệt tình tiếp đón tích cực của cô, nhưng trách sự căng thẳng, sự dao động thái quá mà dường như cô đặt vào công việc. Rõ ràng là một sự bực bội nào đó, làm cho cô co quắp lại với chính mình.
Phần chúng ta, có lẽ nhiều khi cũng giống như Mácta, lúc nào cũng chạy phi nước đại, bận trăm công nghìn việc. Cuộc sống thường ngày của chúng ta được cấu thành bởi hàng loạt những việc mọn và bổn phận, chia làm hai hạng: Cấp bách và chính yếu. Rất nhiều việc chúng ta làm được gọi là cấp bách, nhưng chỉ có ít việc là thực sự chính yếu. Chúng ta cần phân biệt giữa hai hạng đó. Như Mácta, chúng ta có xu hướng coi trọng việc cấp bách. Việc chính yếu, việc cần thiết lại bị coi là thứ yếu và để lại làm sau. Nhưng khi được làm, nó được làm cách vội vàng, chiếu lệ.
Làm sao chúng ta có thể biết đâu là việc chính yếu, việc hàng đầu của mình? Cách tốt nhất để nhận ra nó, là phải suy nghĩ theo cách cư xử thông thường của mình. Điều gì làm cho chúng ta tốn thời gian nhất? Điều gì làm ta phải bỏ nhiều năng lực nhất? Đích thực đó là việc chính yếu của ta.
Maria đã làm điều chính yếu: "Ngồi bên chân Chúa, nghe lời Người dạy". Khi khẳng định đó là điều cần thiết duy nhất của con người, bằng một phương thế triệt để và mạnh mẽ, Đức Giêsu đã thực hiện một mạc khải: Lời Chúa phải được ưu tiên hơn mọi lo lắng trần gian. Đức Giêsu cũng đã đưa ra cùng một yêu sách như thế trong những dịp khác: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh mà còn bằng Lời từ miệng Chúa phán ra" (Lc 4,4), "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn Đấng đã sai Thầy" (Ga 3,34). Đức Giêsu không đánh giá thấp sự phục vụ mà Macta đem lại, khi bận rộn với việc nội trợ và bếp núc. Nhưng để đi theo Đức Giêsu, ngay cả những gì có giá trị nhân bản nhất cũng phải buông bỏ (Lc 5,11-18; 22,9). Hãy lắng nghe lời Chúa, đó là bổn phận đầu tiên của con người. Giảng dạy lời Chúa là bổn phận trước hết của nhà truyền giáo. Đức Giêsu nói đó là sự cần thiết duy nhất, tuyệt đối, triệt để. Đây không phải là lần đầu tiên cũng không phải lần cuối cùng, Đức Giêsu khẳng định điều đó. Không lắng nghe lời Chúa, chính là xây nhà trên cát (Lc 6,47-49), lắng nghe lời Chúa chính là trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc chân thật và duy nhất của Đức Maria không phải vì là Mẹ của Chúa, song vì Mẹ đã "lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành" (Lc 11,27-28).
Lòng chúng ta yêu thích lắng nghe Lời Chúa như thế nào? Có phải đó là phần tốt nhất của chúng ta? Chúng ta có ưu tiên không? Điều nào là điều chính yếu?
Hóa ra một món quà tặng không quan trọng bằng sự hiện diện bên nhau. Vì món quá có thể mua được, TN 16-C117
Hóa ra một món quà tặng không quan trọng bằng sự hiện diện bên nhau. Vì món quá có thể mua được, có thể thay thế được, nhưng không thay thế một người trong trái tim một ai đó. Có lẽ vì thế mà nhiều người cảm thấy cô đơn khi thiếu sự chia sẻ, sự hiện diện của người mình yêu. Họ được chu cấp tiền. Họ có thể đang ngồi trên nhung lụa nhưng vẫn không hạnh phúc cho bằng có người mình yêu bên cạnh.
Thế nhưng, vẫn còn đó những người chồng bỏ rơi vợ con chỉ vì quá chú trọng đến công việc để kiếm tiền. Vẫn còn đó những người cha người mẹ chỉ mải mê công việc mà thiếu quan tâm đến con cái. Vẫn còn đó những người con nại vào nhiều lý do để trì hoãn việc về thăm gia đình, thăm cha mẹ. Họ đã vì công việc, vì đồng tiền mà để cho những người thân của mình sống trong cô đơn. Họ đâu hiểu rằng: tình người quan trọng hơn đồng tiền. Ai cũng cần được quan tâm, được hỏi han, được chia sẻ, nhưng đôi khi chúng ta lại tưởng chỉ cần hàng tháng mang về ít tiền là đủ rồi! Đây là một sai lầm khiến cho biết bao gia đình tan vỡ.
Chúa Giê-su trong thân phận con người, Ngài cũng đề cao tình người. Mân cao cỗ đầy là tốt, nhưng tốt hơn vẫn là thời giờ dành cho nhau. Ngài đã trách Matta lo lắng nhiều chuyện. Ngài trách Matta lấy phụ thành chính. Ngài đề cao Maria, biết chọn phần tốt nhất là dành thời giờ cho Chúa và bên Chúa. Bữa ăn biểu lộ lòng hiếu khách nhưng bữa ăn sẽ mất ngon nếu thiếu những câu chuyện, những lời nói rộn ràng với nhau. Maria đã chọn phần tốt hơn. Khi cô không vì công việc mà bỏ bê khách. Cô ân cần, chu đáo ngồi bên Chúa để lắng nghe và tâm sự với Chúa.
Ngày hôm nay, thế giới càng văn minh, con người càng vội vã, bận rộn. Người ta có trăm ngàn công việc để quan tâm nên tình người bị xao nhãng. Người ta mải mê với công danh sự nghiệp mà quên đi tình người. Điều đáng sợ cho con người hôm nay là không còn thời giờ bên Chúa. Họ đi lễ vội vàng. Họ đến muộn nhưng về sớm. Họ đi lễ nhưng không gặp Chúa vì chỉ tranh thủ đi lễ cho xong. Họ có thể ngồi hàng giờ bên quán cafe để tán ngẫu với nhau nhưng lại không thể ngồi yên đến năm phút để tưởng nhớ đến Chúa. Họ bận rộn công việc làm ăn buôn bán mà quên rằng có một Đấng luôn chúc phúc cho việc làm ăn của mình. Họ quên sự hiện diện của Chúa. Họ quên cám ơn Chúa. Họ mải mê với công việc và vui chơi giải trí mà quên rằng cuộc đời của họ được như vậy là bởi ơn trời ban xuống.
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy quảng đại dành thời giờ cho Chúa. Chúa vẫn viếng thăm chúng ta. Chúa vẫn đang lặng lẽ viếng thăm hồn ta. Hãy mở rộng lòng đón nhận Chúa. Hãy ngồi lại bên Chúa để tạ ơn về những ơn lành Chúa ban, để thưa chuyện với Chúa về những khó khăn mà chúng ta đang trải qua.
Việc chúng ta dành thời giờ cho Chúa xem ra có ích cho chúng ta hơn là cho Chúa. Vì qua thời giờ bên Chúa ta kín múc được muôn vàn ơn thánh của Chúa. Ta cầu xin ơn trên ban xuống cho cuộc đời chúng ta. Ta phó dâng vào sự quan phòng của Chúa những ưu tư khó khăn trong cuộc đời chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta biết ưu tiên cho việc thờ phượng Chúa và biết dành thời giờ cho nhau. Ước gì chúng ta đừng phung phí thời giờ trong những giải trí vô bổ, những đam mê bất chính. Amen.
Có nhiều cách phục vụ khác nhau. Tuỳ theo hoàn cảnh, khả năng và ý thích mà ta co thể chọn lựa TN 16-C118
Có nhiều cách phục vụ khác nhau. Tuỳ theo hoàn cảnh, khả năng và ý thích mà ta co thể chọn lựa phương cách phục vụ thích hợp. Đức Kitô đến thăm nhà hai chị em Maria và Martha. Hai cô rất vui mừng vì được Chúa đến thăm. Mỗi người tự nguyện chọn phương thế khác nhau tiếp thượng khách. Cô em Maria tiếp khách bằng cách ngồi bên lắng nghe tiếp chuyện. Cô chị Martha có lẽ giỏi về gia chánh hơn nên nhận việc nấu ăn cho cả nhà.
Không biết cô nấu món gì? Có lẽ là món cô thích nhất, nấu ngon nhất ngặt một điều món này khá phức tạp cần nhiều thời gian chuẩn bị. Sau thời gian làm việc cô cảm thấy khách đói, chờ đã lâu. Trễ lắm rồi mà bữa ăn chuẩn bị chưa xong, còn nhiều việc phải làm cô đành lên tiếng kêu cứu. Martha than phiền với Chúa.
Than phiền
Than phiền do nhiều yếu tố hợp lại. Một là do công việc đa đoan làm không xuể, đầu tắt mặt tối việc vẫn bề bộn. Hai là thời gian cấp bách, gấp rút lắm rồi, bấn súc xích lên mà công việc vẫn ì ra đó. Thời giờ cấp bách, việc nhiều tạo căng thẳng, lo lắng, bất an dễ đổ quạo, than phiền. Ba là quá chú trọng vào thành quả công việc, sợ thực phẩm không ngon, không vừa ý. Chính cái sợ là nguyên nhân gây nên phàn nàn, bất bình. Bốn là cảm thấy bị quên lãng. Năm là không hài lòng việc đã chọn. Cái hăm hở lúc đầu chìm xuống không còn thích như trước nữa. Nhiều người trong chúng ta có kinh nghiệm này. Khi mới bắt đầu có việc cảm thấy rất vui, làm một thời gian bắt đầu nhàm chán. Rồi 'Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin thầy bảo nó giúp con một tay'.
Đức Giêsu đáp: 'Martha, Matha ơi, chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một điều cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy đi’.
Điều cần
Lời Chúa là của ăn nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Thực phẩm nuôi dưỡng thể xác cũng quan trọng, cần thiết để sống còn. Lời Chúa nuôi dưỡng tâm hồn, thực phẩm nuôi dưỡng thể chất. Cả hai đều cần thiết. Chúa biết rõ điều này nên Chúa ra lệnh cho các tông đồ nuôi dân chúng sau khi họ đã nghe Chúa giảng. Các ông lo lắng không biết lấy gì cho họ ăn vì nơi đó là đồng hoang, hơn nữa nuôi tới năm ngàn người quả là tốn kém ngoài khả năng. Tài chánh đâu ra mua thực phẩm cho từng đó người. Chúa yêu cầu làm điều ngoài khả năng của các tông đồ. Các ông xoay xở không được trở lại với Chúa mặt nhăn nhó. Khó quá Thầy ơi! Chúng con lo không nổi. Chúa làm phép lạ nuôi năm ngàn người ăn no bằng năm chiếc bánh và hai con cá (Gioan 6). Đám dân được Chúa nuôi dưỡng cả hồn lẫn xác và còn dư tới 12 thúng đầy bánh vụn. Nuôi sống cả hồn lẫn xác là việc quan trọng và cần thiết. Chúa nuôi phần hồn trước sau đó lo cho đám đông phần xác. Cả hai công việc đều do Chúa lo.
Xem thế không thể kết luận ngồi lắng nghe lời Chúa quan trọng hơn nấu ăn đãi khách. Chúa hài lòng với sinh hoạt gia đình và chỉ lên tiếng khi có bất bình. Việc lắng nghe lời Chúa được tuyên dương nếu đem ra thực hành lời Chúa mới thực sự sinh hoa kết trái tốt lành, còn nghe cho biết, không thực hành bị coi là khờ dại. 'Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ tan tành’ (Mt 7,24-27)
Việc cần
Ngày phán xét không phải kẻ ngồi nghe lời Chúa được tuyên dương công phúc mà kẻ phục vụ được thưởng công. ‘Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập điạ. Vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khác các ngươi cho Ta uống. Ta là khách lạ, các ngươi tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi cho mặc. Ta đau yếu, các ngươi thăm nom. (Mt 24,34-37)
Cựu Ước cũng coi trọng bác ái, hiếu khách, nuôi khách. Chuyện Abraham trong bài đọc I hôm nay nêu rõ điểm đó. Gia đình ông có con vì ông đã mời ba người khách lạ vào nhà thiết đãi và ông đã nhận được lời hứa ‘sang năm tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sarah vợ ông sẽ có một con trai’.
Phần tốt
Maria đã chọn phần tốt nhất vì cô lắng nghe Lời Chúa để học hỏi, đây cũng là cách cô chọn để thiết đãi khách, chào đón và làm cho khách cảm thấy được săn đón và tự nhiên. Như thế cả chủ lẫn khách đền tìm thấy ấm cúng, vồn vã và thân mật.
Chọn phần tốt nhất vì chọn lựa đó đem lại bình an, hạnh phúc ngập tràn không còn ước mong gì khác. Chọn lựa đó đem lại nguồn vui sung mãn,
Maria chọn phần tốt nhất vì điều cô chọn mang đến bình an thực sự bắt đầu nội tâm tuôn trào ra bên ngoài.
"Trong cuộc đời, chúng ta cần thời gian thinh lặng cầu nguyện nếu chúng muốn quân bình và biết nhìn xa."
Vào buổi tối kia, một người cha đến dự phiên họp giữa thầy cô và phụ huynh trong một trường trung TN 16-C119
Vào buổi tối kia, một người cha đến dự phiên họp giữa thầy cô và phụ huynh trong một trường trung học ở Chicago. Trong bài nói chuyện của một thầy giáo, người cha này đã bật khóc nức nở.
Sau khi lấy lại bình tĩnh, người cha xin lỗi và nói: "Con tôi không còn sống với tôi nữa. Nhưng tôi vẫn yêu thương cháu và tôi muốn biết việc học hành của cháu như thế nào."
Sau đó, người cha cho biết vợ ông và 4 đứa con đã bỏ ông chiều hôm đó.
Ông là một thầu khoán xây cất và nhiều khi làm việc đến 16 giờ một ngày. Đương nhiên, ông ít gặp gia đình hơn và dần dà họ càng xa ông hơn nữa.
Sau đó, người cha nói lên một điều thật buồn thảm. Ông nói: "Tôi muốn mua cho vợ con tôi những gì mà tôi hằng mơ ước mua cho họ. Nhưng rồi tôi quá bận tâm làm ăn đến độ tôi quên đi điều mà gia đình tôi cần đến nhất: đó là một người cha có mặt trong gia đình hàng đêm để yêu thương và nâng đỡ vợ con."
Câu chuyện có thật này cho thấy điểm quan trọng của bài Phúc Âm hôm nay. Đó là:
Chúng ta có thể quá bận tâm làm việc đến độ quên đi lý do tại sao chúng ta làm việc. Chúng ta có thể quá bận tâm đến đời sống đến độ quên đi mục đích của đời sống. Chúng ta có thể quá bận tâm theo đuổi những gì có thể mua được bằng tiền bạc mà quên đi những gì tiền bạc không thể mua được.
Đó là một loại sai lầm mà cô Martha đã vấp phạm trong bài Phúc Âm hôm nay. Cô quá bận tâm đến việc nấu nướng cho Chúa Giêsu đến độ cô quên đi lý do tại sao Chúa đến nhà cô. Người đến không vì miếng ăn; Người đến vì tình bạn.
Giả như khi chúng ta còn nhỏ, sống với cha mẹ và nếu Đức Giêsu cho biết Người sẽ đến thăm gia đình, chúng ta biết các bà mẹ sẽ làm gì. Họ sẽ động viên toàn thể nhân lực trong gia đình từ nhiều ngày trước để dọn dẹp, lau chùi nhà cửa. Họ sẽ sai con cái đi chợ mua thứ này thứ kia. Nói tóm, họ sẽ hành động giống như cô Máctha.
Nhưng mẹ chúng ta cũng giống như cô Maria. Họ luôn dặn dò để biết chắc là con cái ăn mặc đàng hoàng tử tế, đến ngồi chung quanh Đức Giêsu, chú ý đến những gì Người nói. Mẹ chúng ta sẽ quân bình giữa sự lưu tâm đến miếng ăn cho Đức Giêsu và lưu tâm đến tình cảm mà gia đình dành cho Người.
Đó là những người mẹ có tài giữ quân bình mọi sự, từ việc cơm nước trong nhà đến việc giặt giũ lau chùi. Nhưng các bà mẹ còn cần đến các người làm cha có khả năng quân bình mọi sự, từ việc kiếm tiền cho đời sống vật chất đến việc giáo dục con cái, nâng cao giá trị tinh thần của đời sống.
Ngày nay, không may, chúng ta sống trong một thế giới thật khác biệt.
Thật dễ để đánh mất sự quân bình trong thế giới ngày nay. Thật dễ để đánh mất cái nhìn xa trông rộng. Thật dễ để xáo trộn những gì là ưu tiên. Thật dễ để đánh mất khả năng nhận ra những gì cần làm và tại sao chúng ta làm công việc ấy.
Trong Thế chiến II, một người lính trẻ trấn đóng ở hòn đảo Saipan thuộc Nam Thái Bình Dương cho biết trong thời gian nghỉ ngơi, anh và bạn hữu đến bơi ở một chỗ vắng vẻ kín đáo, ngay ở mé hòn đảo. Đó là một nơi thật đẹp có núi đá bao quanh.
Khi đến nơi, họ thấy nước thật trong đến nỗi có thể nhìn thấy cá bơi lội sâu dưới nước cả 10 feet. Tuy nhiên, sau khi họ bơi lội chừng một tiếng đồng hồ, nước trở nên đục ngầu vì cát bị khuấy động, họ không còn thấy được dưới đáy dù chỉ cách có một feet.
Nhưng hôm sau, khi họ trở lại, cát đã lắng đọng. Nước lại trong trẻo như trước.
Tâm trí chúng ta cũng như vũng nước đó. Nó cũng có thể vẩn đục vì những biến động trong cuộc sống hằng ngày khiến chúng ta không còn nhìn thấy rõ ràng. Chúng ta mất khả năng nhìn thấy mọi sự: quan điểm của chúng ta trở nên mù mờ; những ưu tiên của chúng ta trở nên hỗn độn; sự quân bình của chúng ta đã bị mất.
Khi điều này xảy ra, điều chúng ta cần thi hành là tạm ngừng và để nước đục của tâm trí trở nên trong trẻo lại. Chúng ta cần thi hành điều mà cô Maria đã làm trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúng ta cần ngồi dưới chân Đức Giêsu trong sự thinh lặng cầu nguyện. Chúng ta cần để Người dạy chúng ta biết điều gì là quan trọng và điều gì không đáng kể.
Bài Phúc Âm hôm nay là một lời mời gọi chúng ta mỗi ngày hãy dừng lại ở dưới chân Đức Giêsu trong sự cầu nguyện, cũng như cô Maria đã làm trong Phúc Âm.
Điều này nêu lên một câu hỏi. Nếu chúng ta quá bận rộn đến độ mất cả thói quen cầu nguyện thì sao? Nếu chúng ta không biết thinh lặng cầu nguyện dưới chân Đức Giêsu thì sao? Chúng ta có thể làm gì để biết cách cầu nguyện?
Thật may mắn là có chúng ta có thể thi hành vài điều gì đó. Và chúng ta có thể bắt đầu ngay tối nay. Chúng ta có thể áp dụng phương pháp cầu nguyện đơn giản đã từng giúp đỡ nhiều người như chúng ta làm lại thói quen cầu nguyện và biết được nghệ thuật cầu nguyện.
Mỗi đêm trước khi đi ngủ, chúng ta cần 3 phút để làm 3 điều.
Trong phút thứ nhất, chúng ta thinh lặng và nhớ lại những gì xảy ra trong ngày. Chúng ta nhớ đến các điều tốt đẹp khiến chúng ta vui sướng, tỉ như nhận được thư của người bạn cũ. Sau đó, chúng ta thành thật nói với Đức Giêsu về điều đó. Sau cùng, chúng ta cảm tạ Đức Giêsu vì lá thư ấy.
Trong phút thứ hai, chúng ta cũng nhớ đến những gì xảy ra trong ngày. Lần này, chúng ta nhớ đến điều không tốt, những điều làm chúng ta hối hận, tỉ như la hét cha mẹ, vợ chồng hay con cái. Chúng ta nói với Đức Giêsu về khuyết điểm này và xin Người tha thứ, chữa lành cho chúng ta.
Sau cùng, trong phút thứ ba, chúng ta nhìn đến ngày hôm sau, nghĩ đến một số điều quan trọng phải thi hành, tỉ như việc nói chuyện ôn hoà với cha mẹ, vợ chồng hay con cái về một vấn đề đã xảy ra. Chúng ta nói với Đức Giêsu về điều đó và xin Người soi sáng, thêm sức để chúng ta có thể thi hành cách tốt đẹp.
Phương cách cầu nguyện đơn giản này đã giúp nhiều người lấy lại thói quen cầu nguyện và học được nghệ thuật cầu nguyện. Điểm tuyệt vời của phương cách cầu nguyện này là không những giúp chúng ta quan hệ đến đời sống thực tế mà còn giữ liên lạc với Đức Giêsu.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng quá bận tâm đến đời sống mà quên đi lý do tại sao Ngài đã ban sự sống cho chúng con.
Xin giữ chúng con quá bận tâm đến đời sống mà quên đi mục đích của nó.
Xin giữ chúng con đừng quá theo đuổi những gì mà tiền bạc có thể mua được rồi quên đi những gì tiền bạc không thể mua được.
Trong cuộc đời công khai giảng dạy, Chúa Giêsu được nhiều người thương mến và giúp đỡ. Trong số TN 16-C120
Trong cuộc đời công khai giảng dạy, Chúa Giêsu được nhiều người thương mến và giúp đỡ. Trong số đó không thiếu những người phụ nữ đi theo Chúa, cách đặc biệt một gia đình mà Chúa thường đến thăm và quan tâm tận tình: gia đình của chị em bà Matta và Maria. Các Tin mừng ghi nhận ít là ba lần Chúa đến nhà chị em này (Ga 11, 1-45; 12, 1-11; Lc 10, 38-42).
Làng Bêtania
Nói đến gia đình Matta và Maria chúng ta không thể nào không nhắc đến một địa danh lịch sử, gắn liền với tên tuổi của hai Thánh nữ. Bêtania một làng nằm ở phía đông nam núi Cây dầu, thuộc vùng phụ cận Giêrusalem, trên đường nối liền với Giêricô. Nơi ở của Lazarô, Mátta và Maria (Ga 11,1). Là nơi Chúa cho Lazarô sống lại (Ga 11). Bêtania bây giờ là El-Azariyeh, “nhà của Lazarô”. Nhìn từ xa, làng Bêtania được mô tả như là “nơi tốt đẹp đáng ghi nhớ, nơi ẩn náu của sự bình yên, của nguồn yêu thương”. Bây giờ cũng chỉ là một làng nhỏ. Dân số hiện nay khoảng 5000 người. Bêtania ngày nay là vùng đất tự do, chẳng thuộc quản lý của Israel hay của Palestine. Từ Giêrusalem về Bêtania xe hơi chạy khỏang một giờ đồng hồ”.
Mátta và Maria
Câu chuyện Chúa Giêsu vào nhà Mátta và Maria nghỉ ngơi, khi cùng với các môn đệ đang trên đường rao giảng Tin mừng, cho chúng ta một nét đẹp trong chân dung của người Tông đồ phục vụ anh chị em mình. Trong khi cô em là Maria đang ngồi lắng nghe lời chúa, thì Mátta tất bật với công việc một người nội trợ thật tuyệt vời. Chúa Giêsu không có ý xem nhẹ, thái độ đón tiếp của bà. Bởi Chúa cũng cần lắm những cộng sự viên năng nổ, năng động như Mátta. Nếu làm một cuộc so sánh hai chị em thì chúng ta phải khẳng định rằng: Maria là người thiên về đời sống nội tâm, còn Mátta thì hướng đến sự chia sẻ và trao ban. Cả hai đều là những cách thế thể hiện một tình yêu đón nhận từ Thiên Chúa và tặng ban cho con người. Vả lại, Maria là người em nên có khi hơi ỷ lại một chút, công việc bếp núc cũng có phần nặng nhọc và cần đến sự khéo léo và tài tình, nên dành cho người chị thì có lẻ tốt hơn.
Một lần khác, khi ra chào đón Chúa Giêsu vào thăm trong hòan cảnh người em mới qua đời, Mátta bộc bạch cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy” (Ga 11,21). Lazarô đã chết, thế nhưng Mátta vẫn tin rằng Chúa Giêsu là sự sống vĩnh cửu của con người. Nói cách khác Mátta tin nhận Thầy Giêsu là Đấng Thiên sai, Đấng Messia mà thiên Chúa tặng ban cho nhân loại.
Lắng nghe và thực thi Lời Chúa dạy
Tin mừng dù ghi nhận sự khác biệt của hai chị em Maria và Mát-ta trong việc đón nhận lời Chúa, một bên là tĩnh lặng của tâm hồn, một bên là xao động của từng đường gân thớ thịt. Thế nhưng không ai có thể phủ nhận con tim của cả hai đang dạt dào tình yêu mến Thiên Chúa một cách vô bờ bến, trong con người của Mát-ta và Maria.
Kết hợp những nét đẹp rạng ngời của cả hai chị em, mỗi người sẽ thấy được việc lắng nghe và thực thi lời Chúa, chỉ là hai cách thế diễn tả của một tình yêu Giêsu.
Bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật hôm nay đề cập đến vấn đề đón tiếp. Abraham được Thiên Chúa TN 16-C121
Bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật hôm nay đề cập đến vấn đề đón tiếp. Abraham được Thiên Chúa viếng thăm dưới hình ảnh ba người khách. Ông đã thể hiện sự hiếu khách của mình trong việc làm tất cả bao nhiêu có thể để làm hài lòng những vị khách đặc biệt ấy. Trước tiên, ông lấy nước để cho họ rửa tay chân, tiếp đến sai đầy tờ làm thịt bê, và nói với vợ mình Sara lấy bột để làm bánh. Một sự tiếp đón hết sức chu đáo. Điều này đã làm hài lòng ba vị khách. Nhờ thế, gia đình ông được chúc lành và được đón nhận trước một tin vui là chừng này năm sau hai ông bà sẽ có được một cậu con trai mặc cho đang ở độ tuổi cao niên.
Tiếp đón là phần không thể thiếu trong việc xây dựng các mối tương giao trong nhân loại. Tất cả các việc chuẩn bị chu đáo như các món ăn, bày bố trang trí bàn ăn đẹp mắt, tạo bầu khí dễ chịu thân thiện…nhằm mục đích làm hài lòng người được mời. Một bữa ăn không dừng lại ở vấn đề thỏa mãn cơn đói khát, mà còn vươn tới nét đẹp văn hóa ẩm thực mà chúng ta biết mỗi miền và mỗi quốc gia đều có những món ăn đặc trưng riêng của mình. Bữa ăn giúp xây dựng tình bạn ngày thêm sâu đậm. Khi cùng nhau chia sẻ bữa ăn là muốn nói cho người đồng bàn biết họ là quan trọng, là muốn cho họ được sống một cách triển nở, là muốn xây dựng một tình bằng hữu chân thực. Cũng chính trong bầu khí của bữa ăn, người ta có thể mở lòng ra để lắng nghe và chia sẻ nhiều điều với người đồng bàn. Qua đó mỗi bên nhận được những hoa trái bổ ích và có được nhiều kiến thức cũng như hiểu biết nhau hơn.
Cuộc viếng thăm của Thiên Chúa dành cho Abraham và lòng hiếu khách của ông dành cho Ngài là điều cần thiết nhất trong cuộc sống của mỗi Kitô hữu. Điều này lại được Đức Giêsu một lần nữa khẳng định khi nói về sự chọn lựa giữa lắng nghe Chúa và bên kia là công việc. Tin Mừng Thánh Luca kể về cuộc thăm viếng của Đức Giêsu đối với ba chị em trong một gia đình tại Bêtania. Đây là một gia đình có mối liên hệ gần gũi với Ngài. Có thể nói nơi đây là điểm dừng chân sau những chặng đường rao giảng của Đức Giêsu. Ba chị em của gia đình tại Bêtania cũng còn được các sách Tin Mừng khác nói đến, như Tin Mừng theo thánh Gioan có kể về việc Đức Giêsu cho ông Lazarô chết bốn ngày và đã an táng trong huyệt mộ được sống lại. Trong cuộc viếng thăm đang nói ở trên, hai thái độ hoàn toàn khác nhau được thể hiện nơi Martha và Maria. Trong khi cô chị Martha tất bật bận rộn với công việc bếp núc, thì cô em Maria lại cứ ngồi bên chân Chúa để lắng nghe Ngài. Không những thế, cô em lại còn được Đức Giêsu khen là đã biết chọn phần nhất, đồng thời cô chị lại bị trách cứ là « lo lắng bối rối về nhiều chuyện » nữa.
Thực ra, hình ảnh lắng nghe Chúa của Maria và bận tâm nhiều việc của Martha không thể tách rời. Đây chỉ là hai mặt của một vấn đề. Trước hết cần phải lắng nghe Chúa thì sau đó mới có thể bước đi đúng hướng, cũng như dẫn đến hành động để làm những việc cần làm. Điều quan trọng là biết dành thời gian cần thiết và có con tim nhạy bén để nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa. Đó chính là cuộc gặp gỡ mật thiết với Ngài trong cầu nguyện. Chỉ trong khung cảnh ấy người tín hữu mới có thể đón nhận thánh ý Chúa để rồi chấp nhận bỏ ý riêng của mình, để cuộc đời của mình được bước đi trong sự tín thác. Điều này khác hoàn toàn với việc xin Thiên Chúa thực hiện nơi cuộc đời của mình những tiêu chuẩn theo cái nhìn của người đời, và những gì mà chính bản thân muốn được như ý của mình vậy. Dành thời gian để lắng nghe Chúa nói, hơn là nói thật nhiều với Ngài, trở nên tối cần thiết và được coi như hơi thở của mỗi Kitô hữu.
Cuộc đời quanh ta vẫn tấp nập tiếp diễn hết ngày này tháng khác. Đôi khi, con người bị cuốn hút vào nhịp độ với áp lực thật cao dẫn đến cuộc sống bị mất quân bình. Tuy nhiên, có khi đạt được thành công lại là lúc người ta chủ quan cho rằng khả năng của mình quyết định yếu tố thành công ấy. Từ đó, sẽ làm cho ý nghĩa của cuộc đời mất đi điều chính yếu. Cuộc sống nhân loại được kết hợp bởi nhiều mảng khác nhau như vật chất, tinh thần, đời sống tâm linh, nghề nghiệp, gia đình, cộng đoàn, xã hội…Vượt lên trên tất cả, có Đấng là Chủ thể của thời gian và không gian, là nguyên lý tối hậu của muôn loài muôn vật. Nhờ Ngài mà chúng được tồn tại. Đấng đó chính là Thiên Chúa, Người cho chúng ta sự sống và chỉ cho mỗi người thấy ý nghĩa đích thực. Điều tất yếu, người tín hữu cần phải thiết lập mối mối tương quan chặt chẽ với Ngài, vì khi tách ra khỏi Ngài, con người sẽ trở nên hư vô. Như thế, mới thấy lời khuyên của Đức Giêsu hôm nay dành cho Martha thật sâu sắc. Khi chọn phần tốt nhất là dành thời gian để nghe Chúa, thì các mảng khác trong cuộc sống của con người mới được triển nở và mới đạt tới như lòng Chúa mong muốn.
Mỗi Chúa Nhật, người tín hữu được quy tụ trong bầu khí bữa tiệc được chính Đức Giêsu dọn ra để cho chúng ta được bồi bổ sức mạnh và đời sống được thăng hoa. Ngài mời gọi chúng ta lắng nghe Lời Ngài và muốn chúng được đem ra thực hành nhằm trổ sinh hoa trái. Ngài cũng cho chúng ta thưởng thức lương thực là chính mình của Ngài, để cho đời sống đức tin chúng ta được củng cố và tăng triển không ngừng.
Xin cho chúng ta có tâm hồn lắng nghe Lời Chúa như Mẹ Maria, để trong mọi hoàn cảnh chúng ta biết gẫm suy Lời Chúa trước khi đem ra thực hành. Khi chọn phần tốt nhất chính là lúc thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện nơi chúng ta và trong suốt cả cuộc đời.
Martha, Maria và Ladarô là ba chị em ở làng Bêtania. Đây là một gia đình quen thuộc, thân TN 16-C122
Martha, Maria và Ladarô là ba chị em ở làng Bêtania. Đây là một gia đình quen thuộc, thân tình mà mỗi khi lên Giêrusalem, Chúa Giêsu thường ghé qua nghỉ ngơi. Một hôm, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa đến cùng với các môn đệ, cả hai chị em Martha và Maria đón tiếp Chúa nhưng theo hai cách thức khác nhau. Martha đón tiếp Chúa bằng bữa ăn thịnh soạn. Còn Ma-ri-a thì chọn cách thưa chuyện với Chúa. Chúa đã đánh giá cao hành vi của Maria: lắng nghe Lời Chúa phải là ưu tiên hơn cả, là thái độ Chúa muốn thấy nơi mọi người.
Trong cuộc sống hàng ngày, giữa những bận tâm về cuộc sống. Chúa muốn chúng ta đừng quên một điều cần: lắng nghe Lời Chúa. Vì chính nhờ việc này, chúng ta tìm được thánh ý Chúa, và biết cách tốt nhất để phục vụ Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu thích những tâm hồn lắng nghe và thực hành Lời Chúa, vì đó là tiêu chuẩn cụ thể cho thấy chúng con thuộc về gia đình của Chúa. Xin cho chúng con ý thức điều cần thiết này, để nhờ việc lắng nghe Lời Chúa, chúng con học được cách ứng xử chu đáo, cách phục vụ Chúa và anh chị em cách thiết thực trong cuộc sống chúng con. Amen.
Đức Hồng y Fx. Nguyễn Văn Thuận bị chính quyền cộng sản bắt khi ngài đang tiến hành những TN 16-C123
Đức Hồng y Fx. Nguyễn Văn Thuận bị chính quyền cộng sản bắt khi ngài đang tiến hành những công việc của Giáo phận như mở Đại Chủng viện, các Dòng tu, các khoá huấn luyện… Ai sẽ là người kế nhiệm để lo những công việc mục vụ quan trọng này?. Ở trong tù, ngài lo lắng và ưu tư từ ngày này qua ngày khác. Rồi đến một ngày, ngài nhận ra rằng: “Tất cả những gì tôi đang lo lắng là việc của Chúa. Còn lúc này đây, Chúa muốn cho tôi tìm chính ý Chúa. Tôi đang làm việc cho Chúa thì tại sao lại lo lắng những công việc của Chúa. Nếu đã đạt được ý Chúa thì công việc của Chúa khắc có người lo”. Và từ lúc ấy, ngài tìm được bình an. Ngài chỉ tìm ý Chúa, còn công việc của Chúa thì người này lo, người khác lo và Chúa quan phòng luôn tiếp tục. Ngài nhận định: “Không phải Maria ngồi yên dưới chân Chúa vì làm biếng. Phúc Âm không phong thánh cho người làm biếng. Maria chọn phần tốt nhất: nghe Chúa nói, để Lời Chúa thấm tận tâm can, lay chuyển mình, làm việc trong mình. Có gì hoạt động bằng sự lột xác, sự biến đổi ấy?” (ĐHV 147).
Tin mừng hôm nay kể chuyện hai chị em Matta và Maria đón tiếp Chúa Giêsu, mỗi người mỗi cách.
Maria ngồi bên chân Chúa với tâm thế lắng nghe. Cô không làm gì, không nói gì, chỉ ngồi nghe. Cô đón tiếp Chúa Giêsu với một phong cách tốt nhất.
Matta lo việc bếp núc, phục vụ ăn uống. Có lẽ Matta ganh tị với em nên khiếu nại với Chúa: "Thưa Thầy, em con để một mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay". Matta trách em, nhưng cũng là một cách kể công và khoe mình quan trọng và có thể coi đó như một lời trách khéo đối với Chúa Giêsu.
Nhưng Chúa nhẹ nhàng đáp lại: "Matta, Matta ơi, con lo lắng bận rộn nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất ". Chúa đã khen Maria biết chọn phần tốt nhất. Chọn phần tốt nhất không phải là chọn làm nhiều, nhưng là biết nghe, hiểu và làm theo ý Chúa. Việc lắng nghe để nhận ra thánh ý Chúa nhiều khi đòi hỏi người ta phải biết cầu nguyện, phải giữ một tâm hồn thanh tĩnh và phải biết tập trung cao độ để nhận ra được thánh ý Chúa.
Người ta thường giải thích câu nói của Chúa Giêsu như một sự đề cao chiêm niệm trên hoạt động. Matta tiêu biểu cho đời sống hoạt động, lo lắng về những nhu cầu vật chất. Maria tiêu biểu cho đời sống chiêm niệm, lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện. Trên thiên đàng người ta chỉ còn chiêm ngắm Thiên Chúa trong niềm hạnh phúc vĩnh cữu. Như thế, Maria đã đạt tới cùng đích của đời sống Kitô hữu. "Phần hơn" của cô là ở chỗ đó. Có Chúa rồi, "chiếm hữu" được Chúa rồi thì còn gì hơn nữa!
Chúa Giêsu đón nhận sự phục vụ ân cần của Matta và đưa ra bậc thang giá trị, cần “chọn phần tốt nhất”. Chọn Lời Chúa và lắng nghe. Đó chính là “phần tốt nhất” như lời Tv 119: “Lạy Chúa, con đã nói, phần của con là tuân giữ Lời Ngài ”. Lắng nghe Lời chính là xây dựng nhà mình trên đá (Lc 6,47-49). Lắng nghe Lời giúp tâm hồn trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc của Đức Maria là “lắng nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 11,27-28).
Đối với Chúa Giêsu, cả hai cách phục vụ của Matta và Maria đều cần thiết và bổ túc cho nhau. Ðiều Chúa muốn nhắc cho Matta là: việc cốt yếu đối với người môn đệ là “nghe Lời Chúa và đem ra thực hành”. Nhiều lần, Chúa nói về điều cốt yếu ấy: "Phúc cho ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" (Lc 11,28); "Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" (Lc 8,21; Mt 12, 46-50; Mc 3, 31-35). Điều cốt yếu ở đây không phải là ưu tiên về thời gian (làm cái này trước rồi làm cái kia sau) hay số lượng (làm "việc Chúa" nhiều, làm "việc đời" ít)... nhưng ưu tiên về giá trị. Khi làm việc gì, nếu mình tận tình làm việc cho đẹp lòng Chúa, như Chúa muốn, thì mình vẫn đang chọn phần tốt nhất như cô Maria bởi vì mình vẫn đang qui chiếu về Chúa, đang lắng nghe lời Chúa và thi hành thánh ý Chúa về đời mình. Thánh Phaolô dạy: "Dù ăn, dù uống, dù làm bất cứ việc gì, anh chị em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa" (1 Cr 10,31).
Hoạt động và cầu nguyện là nhịp sống đời Kitô hữu. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. Cầu nguyện làm nền tảng cho mọi hoạt động.Nhờ cầu nguyện nên việc phục vụ tha nhân được tốt hơn. Mẹ Têrêxa Calcutta và các Nữ tu dù bận rộn công việc hằng ngày vẫn luôn dành thời giờ tham dự Thánh lễ, chầu Thánh Thể. Mẹ luôn là gương sáng cho các Nữ tu, cầu nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày dành một giờ chầu Mình Thánh Chúa, sau đó mới đến các nơi nghèo nàn ở Calcutta để chăm sóc những người nghèo khổ hoặc đi vào trong các căn nhà tồi tàn giúp những người hấp hối được chết lành.
Tham dự Thánh lễ chính là lúc chúng ta như Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu lắng nghe Lời Ngài. Đến với Chúa, xin đừng dè sẻn cò kè thời giờ, đừng lật đật vội vã đến trễ về trước, xin đừng dự lễ kiểu “đạo gốc cây”, “đạo vòng vòng” ở ngoài sân nhà thờ. Xin đừng đến với Chúa chỉ vì bắt buộc, miễn cưỡng, sợ tội. Hãy đến với Chúa như một người con thảo, đến để gặp Chúa, lắng nghe Lời Chúa, đến là vì lòng yêu mến Chúa và muốn sống hiếu thảo với Ngài mà thôi.
Thánh lễ cũng chính là lúc Chúa đến thăm và ban ơn sủng cho chúng ta. Hãy quý trọng sự hiện diện của Chúa. Hãy tham dự tích cực, linh động, cầu nguyện sốt mến, thưa chuyện với Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể ban thêm cho chúng ta đức tin, tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ để chúng ta dấn thân phục vụ anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa. Amen.(Mana)
Có những nguồn dư luận vô căn cứ, đúng hơn chỉ phát xuất từ thiên kiến suy ra của con người cho TN 16-C124
Có những nguồn dư luận vô căn cứ, đúng hơn chỉ phát xuất từ thiên kiến suy ra của con người cho rằng Maria em Martha hoặc Maria Mađalena là những người yêu hay người tình của Đức Giêsu! Thậm chí người ta còn làm những phim ảnh ám chỉ điều đó nữa. Thực ra việc Chúa Giêsu thân tình với gia đình Martha, Maria và Lazarô chỉ nói lên tình bằng hữu thâm sâu giữa Đức Giêsu và những người bạn thân này. Đặc biệt một tuần lễ trước khi chịu chết trên thập giá ở Giêsurusalem, Đức Giêsu đã tìm về gia đình này như nơi nghỉ ngơi và tâm sự về chương trình cứu chuộc của Người (Mt. 2:1,7; 26:2. Mc 11:11. Lc 19:29. Ga 11:1-18). Thánh Gioan ít nhất nhắc tới ba lần Đức Giêsu thăm viếng gia đình này: "Đức Giêsu quí mến cô Martha, cùng hai người em cô là Maria và Lazarô (Ga. 11:5). Trong dịp tang gia tiếp theo là phép lạ cải từ hoàn sinh cho Lazaro, Đức Giêsu đã khóc. Và trong phúc âm tuần này Martha nói với Đức Giêsu về việc cô em Maria không giúp đỡ mình, nhưng "cứ ngồi bên chân Chúa" (Ga 12:2-3).
Đọc kỹ Tin Mừng, chúng ta có thể nhận ra sự đồng cảm giữa Đức Giêsu và Maria hơn là Martha và các môn đệ của Người. Điều đó được chứng minh qua việc ngồi bên chân Đức Giêsu của Maria để lắng nghe lời Người. Chúng ta thắc mắc Đức Giêsu đã nói gì với cô? Dĩ nhiên trong Tin Mừng không thấy nói đến việc này, nhưng trực giác cho biết chuyến đi sau cùng lên Giêrusalem của Đức Giêsu là để hoàn tất chương trình cứu chuộc nhân loại mà Chúa Cha trao phó, cho biết những lời Người tâm sự với với Maria là về sự chết, việc mai tang và sống lại của Người. Có mấy lần Người đã báo cho các tông đồ, nhưng họ xem ra chẳng hiểu gì cả, ngược lại còn ngăn cản nữa! Người phụ nữ trực cảm này đã hiểu mầu nhiệm công cuộc cứu chuộc của Đức Giêsu do việc chăm chú nghe lời Người. Chính cô trước đó đã xức dầu thơm quí giá trên đầu và lau chân Đức Giêsu trong bữa tiệc tại nhà một người Pharisiêu tên Simon mời Người dự tiệc (Lc 7:36-48), để như thay cho việc ướp xác Người "ngày đầu tuần" khi vừa chịu chết. Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: "Cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi để chuẩn bị ngày mai táng (Mc 14:8); và "Cô ấy giữ lại dầu thơm này cho ngày mai táng thầy; còn thầy anh em không có mãi đâu. (Ga 12:7-8)
Tất cả các hành động của Maria đã chứng minh lý do ngồi bên chân Đức Giêsu để nghe lời Người. Và việc này đã được Người khen tặng: "Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi." Đối với Đức Giêsu, việc lắng nghe lời Chúa quan trọng hơn tất cả các việc khác ở trần gian như ăn uống: "Người ta sống không nguyên bởi bánh" (Lc 4:4;Mt 4:4b); hoặc "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy". (Ga 4:34); hoặc là con đường dẫn đến sự sống đời đời: "Lắng nghe lời Chúa trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (nước trời)" (Lc 6:47-49); hoặc mang trên mình giá trị tuyệt đối thuộc về gia đình Thiên Chúa khi "Lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành." (Lc 1: 1, 27-28)
Đối với các Kitô hữu, việc lắng nghe lời Chúa trong đời sống đạo do đó phải trở nên ưu tiên nhất trong các hoạt động của cuộc sống. Như Maria, chỉ những ai lắng nghe lời Chúa mới hiểu biết và tham dự được vào ơn cứu chuộc đời đời mà Đức Giêsu đã thực hiện. Hằng ngày và hằng tuần trong các Thánh Lễ, người Kitô hữu có dịp đặc biệt cùng nhau lắng nghe lời Chúa. Đây là những cơ hội mời gọi họ gạt bỏ những xáo động lắng lo cuộc đời cùng với nhiều nhu cầu khác sang một bên, để có thể hòa mình vào lời Chúa và kết hiệp mật thiết với Ngài. Nó cũng chính là việc cầu nguyện cao cả nhất của người Kitô hữu. Vì thế hình thức cầu nguyện cao nhất là biết hòa mình vào lời Chúa trong thinh lặng để lắng nghe tiếng Người. Các hình thức kinh nguyện tốt đó, nhưng rất nhiều khi biến chúng ta trở thành cái máy phát âm vô hồn. Đến nhà thờ do đó rất nhiều khi chỉ là những thói quen máy móc biến chúng ta thành vô cảm.
Việc Maria ngồi bên chân Chúa lắng nghe lời Người đang mời gọi người Kitô hữu chúng ta trở về sống thân tình với Chúa qua việc lắng nghe, suy gẫm và thực hành lời Người. Thiết tưởng đây chính là con đường duy nhất của Đạo để diễn tả tình yêu giữa chúng ta với Thiên Chúa đó.
Phần duy nhất cần thiết” của đời môn đệ Đức Giêsu là: lắng nghe giáo huấn của Người, và là TN 16-C125
“Phần duy nhất cần thiết” của đời môn đệ Đức Giêsu là: lắng nghe giáo huấn của Người, và là để cho Người tiếp tục hướng dẫn.
1.- NGỮ CẢNH
Chúng ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên Giêrusalem. Vì có lý để nghĩ rằng hai chị em Mácta và Maria chính là những nhân vật của Ga 11,1tt, tức ở Bêtania, gần Giêrusalem, chúng ta phải tự hỏi tại sao tác giả Luca lại đặt truyện này ở đây, vì đến lúc này truyện vẫn gần với Galilê hơn Giêrusalem. Hơn nữa, ngài lại bỏ tên Bêtania đi, mà chẳng lẽ ngài lại không biết? Như thế, hẳn ngài có ý gì đó khi đặt truyện này ở đây chứ không phải ở chỗ khác (chẳng hạn ở ch. 19 hoặc 20). Chúng ta xem truyện này liên hệ với các bản văn trước thế nào. Maria được mô tả như người “lắng nghe lời” Đức Giêsu. Đức Giêsu công bố rằng chính việc “lắng nghe lời” này sẽ không bị lấy mất. Trước đó, Đức Giêsu mới nói đến quan hệ sâu sắc, duy nhất, Người có với Chúa Cha (10,22). Quan hệ này được nói đến vì nó liên hệ đến các môn đệ Đức Giêsu: họ được chúc phúc bởi vì họ được Người mạc khải Chúa Cha cho; họ được nghe và thấy những điều Người biết về Chúa Cha. Như thế, các môn đệ có một đặc quyền lớn lao là được thấy và nghe những điều mà thậm chí các ngôn sứ và các vua chúa ước ao hết sức mà không được. Ở đây, tác giả Lc nhắc lại đặc quyền đó. Ngài mô tả Maria trong tư thế tốt đẹp nhất: lắng nghe lời dạy của Đức Giêsu. Khi lắng nghe Người, Maria nghe Người mạc khải về Chúa Cha. Chính vì thế, tác giả đã nhắc lại động từ “lắng nghe” (cc. 24.39) như để nối kết các ý tưởng của hai đoạn văn.
Sau đó, Lc trình bày cuộc đối thoại về “điều răn lớn” (10,25-37), với câu kết: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37). Mục đích của ngài khi bố trí truyện Mácta-Maria ở đây là để nêu bật tầm quan trọng tối hậu của giáo huấn của Đức Giêsu trong Lc 10,25-37: giáo huấn này là một mạc khải mà “các vua chúa và ngôn sứ” không được đón nhận.
Truyện Mácta-Maria cũng có thể được đặt ở đây để điều chỉnh một sự hiểu lầm có thể có đối với dụ ngôn Người Samari nhân hậu. Ông này đã “chạnh lòng thương” (esplanchnisthê): vậy, hành vi luân lý của chúng ta rất có thể được hướng dẫn bởi các tình cảm của con người! Lc muốn sửa lại: chính giáo huấn của Đức Giêsu mới điều hành hành vi luân lý.
2.- BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Khung cảnh và các nhân vật (10,38-40a);
2) Đối thoại giữa Mácta và Đức Giêsu (10,40b-42).
3.- VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
– một làng kia (38): Trong TM III, làng này không có tên (x. 9,56). Cứ theo bản văn, “làng” này còn gần Galilê hơn là Giêrusalem. Theo Ga 11,1; 12,1-3, ta biết rằng Mácta và Maria, hai chi của Ladarô, ở tại Bêtania, một làng gần Giêrusalem.
– Maria (39): Cô này cũng được xác định là em gái của Mácta trong Ga 11,1. Không được đồng hóa cô này với Maria Mácđala ở 8,2.
– ngồi bên chân Chúa (39): Đây là tư thế của người môn đệ đang lắng nghe (x. 8,35).
– Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi (42): dịch sát: “Chỉ cần một điều mà thôi”. Lời Đức Giêsu đáp lại yêu cầu của Mácta dường như lúc đầu nhằm trấn an cô, bằng cách bảo cô rằng cô chỉ cần dọn một món thôi. Nhưng khi nghe trọn câu nói của Đức Giêsu, ta mới hiểu ra rằng “một điều” không chỉ là “một món” mà còn có ý nghĩa khác. “Một điều” đây chính là “phần tốt nhất” (= lắng nghe lời Chúa). Và Đấng là thành phần của “phần tốt nhất” ấy bảo đảm là Maria sẽ không bị lấy mất.
4.- Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Khung cảnh và các nhân vật (38-40a)
Chúng ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên Giêrusalem. Đức Giêsu đã dừng lại tại một làng kia (hẳn là Bêtania?), để thăm gia đình những người bạn thân. Cô chủ Mácta đón Người vào và tất bật phục vụ. Còn cô em Maria thì cứ bình thản ngồi bên chân Đức Giêsu mà nghe Người giảng dạy. Theo truyền thống của các kinh sư, chỉ phái nam mới được ban cho những lời giảng dạy và những huấn thị; các phụ nữ bị loại ra bên ngoài. Nhưng Đức Giêsu nhìn nhận các phụ nữ có cùng một phẩm giá như phái nam, nên Người ngỏ lời cả với phụ nữ. Ở đây tác giả đã không ngần ngại mô tả một người nữ như là môn đệ ngồi bên chân Đức Giêsu. Thái độ của Đức Giêsu khiến chúng ta nhớ đến Cn 31,26.
* Đối thoại giữa Mácta và Đức Giêsu (40b-42)
Bấy giờ Mácta mới lên tiếng nhận định về Maria và về bản thân mình. Lời trách của cô có lý, vì hoàn cảnh quá rõ: một người khách quí vừa đến nhà. Phải làm mọi sự để đón tiếp người ấy cho chu đáo; thật ra còn cả đoàn môn đệ của Đức Giêsu nữa! Nhà chỉ có hai chị em; thế mà Maria cứ để cho chị phải xoay sở một mình. Mácta có lý khi yêu cầu em giúp mình.
Mácta có lý, nếu vấn đề là phải tiếp đãi người khách cho tươm tất. Nhưng nhận định của Đức Giêsu khiến chúng ta phải tự hỏi: vấn đề phải chăng là như thế? Người khách phải chăng chỉ muốn được tiếp đãi ân cần chu đáo? Đối với Người, điều gì quan trọng nhất? Những câu hỏi này, Mácta không hề đặt ra cho mình. Ngay từ đầu, hầu như là do thói quen, cô tưởng là mình biết tình thế cần cái gì. Không hề tự hỏi là người khách thật sự muốn gì, cô áp đặt cho người khách ấy điều cô nghĩ là hợp lý hơn, cần thiết hơn, vào lúc này. Chắc chắn Mácta có hảo ý. Nhưng cô không mấy quan tâm đến các sở thích và ý hướng của người khách. Đức Giêsu giúp cô hiểu rằng trước tiên Người không muốn được đón tiếp, nhưng muốn một điều quan trọng hơn nhiều.
Maria lắng nghe Ngài. Đây là điều duy nhất cần thiết và là điều luôn luôn đúng: lắng nghe Chúa. Đức Giêsu đến nhà Mácta và Maria trước hết không phải để được đón tiếp, nhưng là để được lắng nghe. Với tất cả thiện chí, Mácta đã sao nhãng ý muốn này của Đức Giêsu. Chỉ có Maria là đã gắn bó với điều Đức Giêsu muốn. Trước hết, Người muốn cống hiến, chứ không muốn đón nhận. Trước hết, Người không muốn có một sinh hoạt chuyên chăm cần cù, qua đó người ta chứng tỏ người ta luôn biết điều gì là đúng và điều gì phải làm; nhưng Người muốn người ta suy nghĩ và ở yên để lắng nghe, suy tư và để cho Đấng khác nói với mình điều thật sự quan trọng và điều thật sự mình phải làm.
+ Kết luận
Khi viết 10,38-42, tác giả Lc không hề muốn phân biệt giữa đời sống tu trì chiêm niệm và đời sống tu trì hoạt động, cũng không hề coi thường việc phục vụ người khác. Ngài chỉ muốn nhấn mạnh đến “phần duy nhất cần thiết” là: làm môn đệ Đức Giêsu, là lắng nghe giáo huấn của Người, để Người tiếp tục hướng dẫn.
Nhìn lại ngữ cảnh rộng, chúng ta có thể cho rằng Lc đặt bản văn 10,38-42 ở đây nhắm nêu bật giáo huấn của Đức Giêsu ở 10,25-37 (Điều răn lớn) như là đáng để mọi người lưu ý, như là thuộc về “điều duy nhất cần thiết”, và như mạc khải về Chúa Cha, Đấng mà không ai biết như Đức Giêsu, đồng thời để dạy rằng động lực của mọi hành vi luân lý Kitô hữu phải tuyệt đối là giáo huấn của Đức Giêsu.
5.- GỢI Ý SUY NIỆM
Đối với Mácta, tiếp khách là chuyện quan trọng nhất. Thường thường chúng ta gặp nguy cơ bị thu hút bởi mối bận tâm đối với các nhu cầu vật chất, đối với đồ ăn thức uống, chuyện ăn mặc, nhà cửa trú ngụ, những tiện nghi, và chúng ta dùng hết năng lực và thì giờ cho những chuyện ấy. Dĩ nhiên, cần phải quan tâm đến những điều ấy. Nhưng cũng phải thấy rằng chỉ lo chừng ấy chuyện thì chưa đủ. Phải có một bậc thang các giá trị để đi theo.
Các Kitô hữu cần thường xuyên xét lại hệ thống các xác tín và các thói quen của mình để sẵn sàng điều chỉnh. Người tín hữu cần được thanh thoát, không bị ràng buộc bởi những thói quen cá nhân, khuynh hướng hưởng thụ, mức sống. Không phải chỉ đơn giản chấp nhận những gì môi trường chung quanh coi là thông thường, cần thiết và đúng đắn, là đã đủ. Người Kitô hữu còn cần phải suy nghĩ về những gì là thật sự cần thiết và đúng đắn. Đức Giêsu đặt việc lắng nghe lời Người vào chỗ nhất. Như thế, Kitô hữu chúng ta cần có một thời gian yên tĩnh và suy tư để cầu nguyện. Chúng ta cần phải thường xuyên lắng nghe Đức Giêsu và để Người chỉ đường. Khi đó, chúng ta không được tránh né cố gắng và thậm chí đau khổ để có thể tái định hướng và thay đổi.
Trong đời sống chung (cộng đoàn tu trì, gia đình, giáo xứ…), cần biết thường xuyên đặt câu hỏi: “Những người khác đang muốn gì? Họ đang cần gì, ngoài những của cải vật chất?”. Khi đó, hẳn là ta sẽ thấy rằng những người ấy đang đặc biệt cần được chúng ta quan tâm và cần có thì giờ của chúng ta. Các em bé không chỉ cần được ăn cái gì mà thôi. Các cha mẹ phải có giờ cho chúng, để chơi với chúng, để trả lời những câu hỏi của chúng, để giúp chúng kể những kinh nghiệm của chúng. Những người già cũng muốn xin chúng ta có thì giờ cho họ, muốn chúng ta lắng nghe họ, chúng ta hiệp thông vào các suy tư, các mối bận tâm, và cả những kỷ niệm của họ. Những người thợ trong một hãng xưởng không chỉ cần một đồng lương hậu hĩ; họ cũng cần được quan tâm và nhìn nhận, cần một lời khen và một lời nói nhân ái. Giúp đỡ về vật chất mà thôi thì chưa thỏa mãn được nhu cầu số một là có giờ cho nhau, lắng nghe nhau trong kiên nhẫn và yêu thương và sống cho nhau.
Trên đường” lên Giêrusalem “cùng với các môn đệ”, Đức Giêsu vào một làng kia. Người được “một TN 16-C126
“Trên đường” lên Giêrusalem “cùng với các môn đệ”, Đức Giêsu vào một làng kia. Người được “một phụ nữ tên là Mácta” mời vào nhà, Người thực thi điều đã dạy các môn đệ: “Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em” (Tin Mừng Chúa nhật XIV).
Trình thuật về câu chuyện này tiếp liền với Dụ ngôn người Samaria nhân hậu, mà ta vừa đọc trong Chúa nhật trước, tạo nên một kết cấu hai mặt, một bộ tranh gồm hai bức. Như vậy nếu có ai nêu bản văn Tin Mừng này như lý lẽ làm chứng rằng đời chiêm niệm cao trọng hơn đời hoạt động, thì mạch văn mà Luca sử đụng sẽ thuyết phục họ từ bỏ ý định đó. Nếu sự việc hôm nay soi tỏ giới răn yêu mến Thiên Chúa, thì tấm gương của người Samaria nhân hậu cũng soi tỏ tuyệt vời giới răn thương người thân cận. Nó tỏ cho thấy, người môn đệ lắng nghe Lời Chúa sẽ đi đến những kết luận thực hành nào.
*2. Hai hình thức đón tiếp của Đức Giêsu bổ túc lẫn nhau.
Chân dung hai chị em Mácta và Maria mà Luca phác họa nêu bật hai thái độ, hai cách đón tiếp Đức Giêsu trái ngược nhau.
– Mácta có mặt khắp nơi trong trình thuật vắn vỏi này. Trước hết, cô có mặt bằng sáng kiến của mình, Mácta mời Chúa vào nhà mình. Rồi cô có mặt bằng sự tất bật lo việc phục vụ. Và sau cùng, cô có mặt bằng vẻ bối rối xin Chúa can thiệp.
– Còn về Maria, cô luôn im lặng. “Cô ngồi bên chân Chúa” trong tư thế một đồ đệ thực thụ (Lc 7,38 và 8,35) “cô lắng nghe lời Chúa dạy”.
Cấu trúc văn chương cũng rất gợi ý. Trong khi Maria hướng cái nhìn về Chúa (ngồi dưới chân, nghe lời Chúa) thì Mácta là người mời Chúa nên thực sự cô phải bận tâm đến việc phục vụ. Mácta tất bật lo lắng nhiều chuyện quá, đến độ muốn “lấy đi” phần tốt nhất mà cô em đã chọn.
*3. Thái độ lăng xăng không được lấn lướt thái độ lắng nghe.
Trước phản ứng tức tối của Mácta: “Em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao?”, câu trả lời của Đức Giêsu là đỉnh cao của trình thuật này. Ở đây, khi trách Mácta lo lắng và lăng xăng, Đức Giêsu nhắc lại đề tài đã nói nhiều trong Tin Mừng thứ ba: Khi Người mời gọi các nhà truyền giáo không nên lo lắng biện hộ cho mình trước tòa án của kẻ bách hại (11, 12); khi Người khuyên nhủ các môn đệ đừng quá lo về của ăn, áo mặc (12,22-26); khi Người cảnh giác những kẻ theo Người đừng để những “lo lắng về cuộc sống” bóp nghẹt hạt giống Lời Chúa (8,14).
Tuy Đức Giêsu chấp nhận lòng hiếu khách của Mácta với lòng biết ơn, và đánh giá đúng mức những cố gắng cô thực hiện để tiếp khách cho tốt đẹp, nhưng dù sao Người cũng muốn cô khám phá một điều còn quan trọng hơn, một điều khẩn thiết bậc nhất và duy nhất, mà cô liều mình quên mất: đó là lắng nghe Lời Chúa. Và, vì đã bỏ tất cả để chỉ giữ “một chuyện cần thiết”, mà Maria, em cô, đã tỏ mình là một môn đệ gương mẫu hoàn hảo nhất.
Meynet chú giải thêm: Mácta tiếp đón Đức Giêsu vào nhà. Chúa vừa bước vào, thì cô đã bỏ người đó, để lo trăm nghìn chuyện. Vịn cớ phục vụ Người, cô tất bật, cô lo lắng mọi sự chỉ trừ Chúa ra. Việc phục vụ của cô lấn lướt cả vị khách của cô. Cô lăng xăng, lo lắng, sợ rằng mình không tiếp đãi đúng mức với vị khách quí. Về phần Maria, cô giữ một thái độ xứng hợp nhất, ngồi bên chân Đức Giêsu, trong tư thế của người môn đệ. Cô không làm gì, không nói gì, cô chỉ ngồi và nghe. Cô đã quên tất cả mọi sư, ngoài Chúa. Cô quên chính mình. Cô dành cả con mắt, lỗ tai để nhìn và nghe lời Người. Cô cũng đón tiếp Đức Giêsu hơn ai hết, với phong cách tốt nhất. Nhìn cô, người ta dám nói rằng: chính cô được Người tiếp đón mới đúng. (Sđd, tr.125).
Chúa nhật vừa qua, khi đọc Dụ ngôn người Samaria nhân hậu, ta học biết rằng con đường lên Giêrusalem, theo chân Đức Giêsu, phải đi qua tình yêu thương người thân cận, đó mới là giới luật vượt trội mọi giới luật. Hôm nay, ta học biết thêm rằng con đường này không thể tách rời con đường lắng nghe lời Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC THÊM:
*1. Lắng nghe lời Chúa: thái độ tất yếu của người môn đệ.
Tiếp nối câu chuyện về người Samaria nhân hậu, câu chuyện về Macta và Maria trong Tin Mừng được trình bày trong bối cảnh của giới luật yêu mến Thiên Chúa, và câu chuyện cho ta thấy người môn đệ đón nhận Lời Chúa sẽ rút ra những kết luận thực tiễn nào.
Đặt thái độ của Mácta và Maria đối chọi nhau và nghĩ rằng chỉ có một phía đúng, là quá vội vàng. Maria lắng nghe lời Chúa, còn Mácta tất bật lo phục vụ Chúa. Mỗi cô mỗi cách, họ đều muốn giữ chân Chúa nghỉ lại, trên đường lên Giêrusalem. Cô này bằng cách phục vụ, thì làm tất cả những gì có thể làm cho Người; cô kia bằng cách lắng nghe lời Chúa, thì cố gắng ghi nhớ lời Người, lời của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống của người môn đệ. có lúc “tất bật”, và có lúc “lắng nghe”. Tuy nhiên, không thể có hoạt động tốt nếu không lắng nghe tốt. Maria đã thành công khi tạo cho mình thái độ không thể thiếu của một môn đệ: là ngồi dưới chân Đức Giêsu, cô quên mọi sự khác, để toàn tâm chú ý vào Chúa và lời Người… nhưng sau đó, có lẽ cô sẽ là một tông đồ hoạt động vì Thầy mình.
Hết mọi tín hữu đều phải chọn lắng nghe. Trước hết, chính vì có biết lắng nghe lời Chúa một cách sâu sắc các môn đệ mới có thể đổi mới thế giới.
*2. Maria và người Samaria nhân hậu: hai thái độ cùng minh họa huấn lệnh kép về yêu mến Thiên Chúa và yêu người thân cận
Chính trong dụ ngôn người Samaria nhân hậu, ta thấy thái độ bổ xung cho thái độ của Maria. Một người gặp một nạn nhân bị thương nằm ở vệ đường. Ông săn sóc, đưa về quán trọ và xuất tiền túi để trả mọi chi phí. Người này thực thi giới luật thứ hai là “Ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình “. Đây là dung mạo đẹp đẽ của người Kitô hữu mà Luca đặt đối diện với một dung mạo đẹp đẽ khác là Maria.
Thay vì đặt thái độ của người hao tốn sức lực để phục vụ anh em đối nghịch với thái độ của người ngồi dưới chân Đức Giêsu để nghe lời Người, hai trình thuật này bảo ra rằng Đức Giêsu phê chuẩn cả hai thái độ. Đúng là cả hai cùng minh họa Lề Luật. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi… Ngươi phải yêu người thân cận”. Ta phải phân biệt hai giới luật này như hai lối sống được đề ra. Tuy nhiên, nếu phân biệt là điều cần thì không phải để tách biệt hoặc đối nghịch nhau. Hai giới luật này chỉ là một. Trong cuộc sống cụ thể của người tín hữu, nếu người ấy không nỗ lực nối kết hai giới răn ấy với nhau, thì đời sống của người ấy sẽ ra sao? Cầu nguyện ư, đúng, nhưng là để giúp đỡ và phục vụ. Đào sâu ý nghĩa của việc phục vụ trong lúc cầu nguyện. Giáo Hội sẽ ra sao, nếu Giáo Hội chỉ có chiêm niệm? Giáo Hội sẽ ra sao, nếu Giáo Hội chỉ gồm những tín hữu tự cho là “hoạt động?“ Dĩ nhiên, là tùy theo tính khí và lịch sử của từng người, người này thì cảm thấy thích hợp hơn với đời sống nghiêng về chiêm niệm, người kia thích hợp hơn với đời sống hướng về hoạt động.
Tuy nhiên, dựa trên lời Đức Giêsu khen người Samaria nhân hậu, thì tất cả những ai tận hiến hoặc nghiêng về cầu nguyện, cần phải nhớ rằng phục vụ con người có tầm quan trọng rất lớn. Phần họ, họ cũng phải sống ơn gọi cầu nguyện của mình như là một việc phục vụ con người. Và người ta thấy có những đan viện mở cửa cơ sở, nhà thờ, cộng đoàn của mình để tiếp đón những người hoạt động ngoài xã hội đến bồi dưỡng trong cầu nguyện, tĩnh tâm và trong thinh lặng của chiêm niệm.
Nhưng dựa trên lời Đức Giêsu khen ngợi Maria, những ai sống ơn gọi được coi là hoạt động, phải coi đó như lời mời gọi họ tiên liệu một thời gian xả hơi trong thời biểu của mình, xóa đi trong nhật ký công việc một số trang, để có được một lúc đến ngồi dưới chân Đức Giêsu.
Đối với nhóm người này cũng như với nhóm người kia, việc tiên liệu những giờ phút bổ túc cho nhau như thế, sẽ cho phép họ nhận thức được rằng cuộc sống của họ không đơn thuần phó thác mặc cho sự tự phát của tính tình, nhưng cuộc sống phải được thực hiện như một lời đáp lại tiếng Chúa gọi.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XVI Thường Niên Năm C, đặc biệt Bài Đọc I và Tin Mừng, nêu TN 16-C127
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XVI Thường Niên Năm C, đặc biệt Bài Đọc I và Tin Mừng, nêu bật quyền ưu tiên trong việc tiếp đón Chúa và lắng nghe Lời Ngài. St 18: 1-10 Sách Sáng Thế tường thuật ba vị khách bí nhiệm viếng thăm ông Áp-ra-ham. Vị tổ phụ tiếp đãi Các Ngài một cách hậu hĩnh. Để đáp lại, Các Ngài đoan hứa với ông Áp-ra-ham rằng sang năm vào độ này bà Xa-ra, vợ ông, sẽ sinh hạ một quý tử. Cl 1: 24-28
Thánh Phao-lô nêu lên cho các tín hữu Cô-lô-xê những đau khổ tù đày của ngài mà ngài dâng hiến cho họ để họ giữ trọn niềm tin vẹn toàn của mình. Bởi vì ơn cứu độ được thực hiện qua gian nan thử thách và được thành toàn chỉ trong và qua Chúa Ki-tô.
Lc 10: 38-42
Tin Mừng tường thuật tấm lòng hiếu khách mà hai chị em, cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, tiếp đón Chúa Giê-su. Việc đón tiếp phải ưu tiên dành cho việc lắng nghe Lời Chúa. Đó là chuyện cần thiết bậc nhất.
BÀI ĐỌC I (St 18: 1-10)
Chuyện tích nổi tiếng này thuộc chứng liệu Gia-vít (thế kỷ thứ mười trước Công Nguyên, thời vua Sa-lô-mon). Theo chứng liệu này, Thiên Chúa, luôn luôn được gọi dưới danh xưng “Đức Chúa” (Gia-vê), rất thân cận với con người, nói chuyện với con người, hành xử như một con người. Các chuyện tích về vườn địa đàng, sự thử thách và sa ngã có cùng một tác giả.
Ngay từ dòng đầu tiên giới thiệu các chương 18 và 19 sách Sáng Thế, tác giả báo trước cho chúng ta rằng chính Đức Chúa hiện ra với ông Áp-ra-ham: “Một hôm, Đức Chúa hiện ra với ông Áp-ra-ham tại cụm sồi Mam-rê”; ấy vậy, trong câu chuyện, ông Áp-ra-ham đón tiếp không chỉ một mà đến ba vị khách. Xa hơn, tác giả xác định rằng hai trong ba vị khách này là hai sứ thần (19: 1). Quả thật, sự ngần ngại của bản văn giữa số ít và số nhiều gây bối rối cho độc giả. Vài Giáo Phụ đã giải thích ba vị khách này tiên trưng Ba Ngôi Thiên Chúa. Truyền thống Ki-tô giáo sau này sẽ theo cùng một giải thích này, bằng chứng rõ ràng nhất là tượng thánh về Ba Ngôi Thiên Chúa của tu sĩ Nga là André Roublev, được thực hiện ở Moscou vào năm 1425, bức tượng thánh này rất phong phú về biểu tượng.
*1.Cụm sồi Mam-rê:
Ông Áp-ra-ham đã dựng lều của mình tại cụm sồi Mam-rê, cách thành Khép-rôn khoảng ba cây số về hướng bắc đất Pa-lét-tin. Cụm sồi Man-rê là nơi dân bản địa Ca-na-an cúng tế thần linh của mình, đến lượt mình, ông Áp-ra-ham xem cụm sồi này là thánh địa của mình khi dựng một bàn thờ để kính Đức Chúa tại đó (St 13: 18). Vì thế, đây là nơi thuận tiện cho cuộc Thần Hiển. Ngài hiện ra với ông trong khi ông Áp-ra-ham đang ngồi ở cửa lều, vào lúc trời nóng nực nhất trong ngày.
*2.Những nghi thức bày tỏ lòng hiếu khách:
Khi ba vị khách vừa xuất hiện, tổ phụ Áp-ra-ham, mặc dầu cao tuổi, chạy ra đón họ. Ông ngỏ lời với họ lúc thì số ít lúc thì số nhiều; nhưng dường như ông phân biệt trong ba vị đó một nhân vật chính và phủ phục trước vị khách này. Đây không là cử chỉ thờ lạy, nhưng bày tỏ lòng tôn kính theo tập tục Đông Phương.
Sau đó, ông thể hiện lòng hiếu khách theo các nghi thức cổ truyền: nước để làm mát chân và tẩy bụi đường; một bữa ăn được chuẩn bị… Truyền thống Á-rập đã duy trì tập tục này, theo đó người ta đàm luận với nhau trong bữa ăn và tặng quà cho nhau.
“Ông Áp-ra-ham lật đật vào lều tìm bà Xa-ra”. Lúc đó bà Xa-ra hoặc ở trong một lều riêng hay ở trong cùng một lều có bức màn ngăn cách, nơi ở của người phụ nữ. Bữa ăn đã được chuẩn bị xong; các món ăn được dọn ra trước các vị khách. Theo phong tục tỏ lòng kính trọng khách thời đó, ông Áp-ra-ham không ngồi đồng bàn với khách, nhưng đứng hầu bên cạnh để đáp ứng nhu cầu của khách.
*3.Quà tặng của ba vị khách:
Đây là đoạn văn Cựu Ước duy nhất ở đó Đức Chúa chấp nhận dùng bữa ăn mà con người dọn ra. Chuyện kể thật sống động và ý nhị, có thể được sánh ví với nhiều chuyện tích khuyến thiện nêu bật tấm lòng hiếu khách. Nhưng câu chuyện này có một dáng vẻ đặc biệt. Ở Đông Phương, xưa và nay, người khách không bao giờ hỏi thăm vợ của gia chủ. Đó là điều cấm kỵ, bất lịch sự và không phải phép. Nhưng những nhân vật mà ông Áp-ra-ham đón tiếp không là những vị khách bình thường: họ chẳng những biết tên vợ của vị tổ phụ mà còn biết cả cảnh ngộ son sẻ của vợ ông. Chân tính mầu nhiệm của ba vị khách bắt đầu được vén mở. Để tri ân tấm lòng chân thành và hậu hĩnh đón tiếp của gia chủ, họ tặng cho gia chủ một món quà đẹp nhất, quá mức mong đợi: “Sang năm vào độ này, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Xa-ra vợ ông sẽ có một con trai”.
Ở đây cũng vậy, chúng ta có ấn tượng là mình đang sống trong một câu chuyện thần tiên, ở đó một vị thần linh loan báo cho vua hay hoàng hậu việc chào đời của một hoàng tử hay cô công chúa. Tuy nhiên, phải vượt qua những điểm tương đồng của thể loại văn chương này. Trong những bản văn được biên soạn chín thế kỷ sau khi những biến cố đã xảy ra, chúng ta phải tính đến truyền thống chính truyền, tùy theo mức độ chúng lưu truyền đến chúng ta, đến nghệ thuật kể chuyện và ý định thần học của tác giả linh hứng. Ý định thần học này mới là điểm cốt lõi của chuyện tích này. Vì thế, không được tách riêng chương 18 và chương 19 ra khỏi mạch văn của sách Sáng Thế; hai chương này hình thành nên toàn bộ câu chuyện. Đức Chúa đã thân hành ngự xuống trần gian không chỉ để nói chuyện với ông Áp-ra-ham và lập lại lời hứa ban con trai trước đó với ông một cách chính xác hơn, nhưng còn để trừng phạt những thành phố tội lỗi: thành Xơ-đôm và thành Gô-mô-ra. Trước khi tấn thảm kịch này xảy ra, kinh nghiệm tôn giáo của ông Áp-ra-ham đã trở nên sâu xa – đây là điểm nhắm của bản văn này; kinh nghiệm này sắp giúp cho vị tổ phụ có đủ bạo dạn để can thiệp vào công việc của Thiên Chúa, mà chúng ta sẽ đọc vào Chúa Nhật tới.
BÀI ĐỌC II (Cl 1: 24-28)
Chúng ta tiếp tục đọc Thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-lô-xê, đây là một trong những bức thư được viết khi thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma giữa năm 60-62. Cung giọng thật thống thiết.
Với nhiều cảm xúc, thánh Phao-lô ngỏ lời với các tín hữu Cô-lô-xê về niềm tin của họ có nguy cơ bị biến chất trước mối đe dọa của những giáo thuyết sai lạc. Những đau khổ tù đày cùng với tất cả mọi hoạt động truyền giáo đầy gian nan thử thách của thánh nhân được định vị vào trong cùng cung bậc với cuộc Khổ Nạn của Đức Ki-tô.
*1.Những đau khổ sinh nhiều ơn ích:
“Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân, cho đủ mức. Như thế là vì lợi ích cho thân thể Người, là Hội Thánh”. Thánh Phao-lô không muốn nói rằng những đau khổ sinh ơn cứu độ của Đức Ki-tô còn thiếu sót. Hy tế của Đức Ki-tô đã là hoàn hảo và hoàn toàn hữu hiệu. Đức Giê-su đã chịu đau khổ để khai sinh Nước Trời; nhưng vương quốc này phải được xây dựng và tăng trưởng không ngừng. Được kêu gọi loan báo Tin Mừng cho muôn dân, thánh nhân mang một nỗi ưu tư đặc biệt đến công việc này. Sứ vụ tông đồ đòi hỏi những nỗi nặng nhọc vất vả. Thánh nhân biết rõ điều này hơn ai hết.
*2. “Đức Ki-tô đang ở giữa anh em”:
Đây là câu chủ đạo tóm gọn lời loan báo Tin Mừng: mặc khải về sự hiện diện của Đức Ki-tô Phục Sinh, ở nơi Ngài Thiên Chúa đã tỏ mình ra một cách hữu hình. Thánh Phao-lô nhắc lại những khía cạnh cốt yếu giáo huấn của thánh nhân bằng ba động từ: “Chính Người là Đấng chúng tôi ‘loan báo’, khi ‘khuyên bảo’ mọi người và dạy dỗ mọi người, với tất cả sự khôn ngoan Thiên Chúa ban, để giúp mỗi người ‘nên hoàn thiện’ trong Đức Ki-tô, trước mặt Thiên Chúa”. Những lời này nhắm đến những giáo lý sai lạc mà những nhà giảng thuyết mạo danh ở Cô-lô-xê đề xướng: vài người đòi hỏi phải nên hoàn thiện bằng việc tuân giữ luật Mô-sê, còn những người khác thì nhấn mạnh hành động cứu độ đến từ các thiên thần. Thánh Phao-lô cải chính: sự hoàn thiện và ơn cứu độ chỉ được gặp thấy ở nơi Đức Ki-tô. Chỉ mình Ngài mới có thể “ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang”.
*3.Hiệp thông các thánh:
Trong đoạn trích thư này, chúng ta có một bức phác họa về thần học “Nhiệm Thể của Đức Ki-tô”, mà thánh Phao-lô sẽ khai triển trong Thư gởi tín hữu Ê-phê-xô (cả hai bức thư được viết cùng một thời kỳ). Có một mối liên đới mật thiết giữa các chi thể và Đầu là Đức Ki-tô. Thần học về sự đau khổ được ghi khắc ở nơi sự liên đới này, sẽ được gọi “sự hiệp thông của các thánh”. Từ đó, niềm vui nội tại có thể được liên kết với sự đau khổ.
TIN MỪNG (Lc 10: 38-42)
Câu chuyện ngắn về hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, cả hai đều bày tỏ tấm lòng quý mến Chúa Giê-su bằng hai cách thế khác nhau. Câu chuyện này là một trong những hạt ngọc của Tin Mừng Lu-ca.
*1.Bối cảnh:
Thánh Gioan cho chúng ta biết cô Mác-ta và cô Ma-ri-a là hai người chị của anh La-da-rô. Thánh Gioan còn mô tả hai cách tiếp đón Chúa Giê-su của hai chị em tương tự như thánh Lu-ca: trong bữa ăn thiết đãi Đức Giê-su ở làng Bê-ta-ni-a, cô Mác-ta lo hầu bàn, còn cô Ma-ri-a ngồi bên chân Chúa Giê-su, lấy dầu thơm quý giá mà xức chân Ngài (Ga 12: 2-3). Thánh Gioan còn cho chúng ta thêm thông tin về gia đình ba chị em này: sau những lần thi hành sứ vụ tại Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su hay ghé thăm gia đình này, họ là những người bạn thân của Ngài ở làng Bê-ta-ni-a cách thành đô Giê-ru-sa-lem không xa: “Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô” (Ga 11: 5, 33; 12: 1-3).
Thánh Lu-ca không ghi rõ địa danh nơi câu chuyện này xảy ra. Về phương diện địa lý, câu chuyện này không thể xảy ra vào lúc khởi đầu cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Chúa Giê-su được vì làng Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem khoảng chừng 3 cây số. Nhưng ý định của tác giả thì rõ ràng, nhằm đưa ra một giáo huấn bổ túc cho dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành”. Ở dụ ngôn này, Chúa Giê-su mở rộng huấn lệnh “yêu người” khi đảo ngược câu hỏi của kinh sư, không phải “ai là người thân cận của tôi”, mà “tôi phải là người thân cận của bất kỳ ai cần đến sự cứu giúp của tôi”. Tại nhà cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, Chúa Giê-su muốn cho hiểu rằng “mến Chúa” phải đặt ưu tiên hàng đầu trong tất cả mối bận lòng của con người.
*2.Hai cách đón tiếp với trọn một tấm lòng:
Trong câu chuyện này, chúng ta không thấy nói tới cha mẹ của họ, nếu có họ phải là gia chủ ra chào hỏi khách. Vì thế, chúng ta có thể hiểu hoàn cảnh của gia đình này, cha mẹ đã qua đời sớm, ba chị em đùm bọc nhau. Với tư cách là chị cả, cô Mác-ta quán xuyến mọi việc trong gia đình; vì thế trong việc đón tiếp Chúa Giê-su, cô bận rộn lo toan đủ mọi thứ hầu bày tỏ tấm lòng quý mến của cô đối với Chúa Giê-su, Ngài không chỉ là khách mời mà còn là một người bạn quý của gia đình. Từ lúc Chúa Giê-su bước vào nhà, cô em là Ma-ri-a “cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy”. Thái độ như vậy xem ra không phù hợp với phong tục tập quán vào thời đó cho lắm, vì phụ nữ không được phép dự phần vào giáo huấn của các kinh sư. Chúng ta chẳng có gì phải ngạc nhiên khi gặp thấy nét bút này của thánh Lu-ca, thánh ký rất quan tâm đến sự hiện diện của các người phụ nữ trong vòng thân cận với Chúa Giê-su trong công cuộc truyền giáo của Ngài bằng cách góp công góp của vào sứ vụ của Ngài (Lc 8: 1-3).
Cô Mác-ta tất bật lo việc phục vụ Chúa với một bữa ăn, còn cô Ma-ri-a thì ngồi bên chân Chúa mà lắng nghe lời Ngài. Vì thế, cô Mác-ta nóng ruột thưa với Chúa bằng giọng hờn trách: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo em con giúp một tay”. Cô tin rằng Chúa cũng đồng ý với cô; ấy vậy, Chúa Giê-su chẳng những trách khéo cô mà còn bênh vực cô Ma-ri-a nữa: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Cô Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.
*3.Phục vụ và lắng nghe:
Với lối chủ giải ẩn dụ đặc thù của mình, các Giáo Phụ đã đọc thấy nơi công việc phục vụ của cô Mác-ta và nơi việc lắng nghe lời Ngài của cô Ma-ri-a hai cách thế hiện diện không thể thiếu của Giáo Hội trong cuộc sống tại thế: đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động. Trong hai công việc đó, việc“Ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Ngài” phải là ưu tiên, bởi vì việc lắng nghe Lời Chúa khơi nguồn và định hướng cho mọi công việc phục vụ của Giáo Hội. Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca thường ghi nhận rằng ngay từ sáng sớm Chúa Giê-su một mình đi vào nơi thanh vắng để trò chuyện với Chúa Cha trước khi bắt đầu một ngày mới bận rộn với sứ vụ của mình.
Tuy nhiên, Đức Giê-su cũng đã không bao giờ coi thường công việc phục vụ. Khi các môn đệ tranh cãi với nhau xem ai trong nhóm họ là người lớn nhất, Chúa Giê-su căn dặn các ông: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22: 24-27).
Điều Đức Giê-su quở trách cô Mác-ta không phải vì cô lo lắng phục vụ Ngài cho thật chu đáo và nồng hậu, nhưng vì cô để hết cả tâm trí vào việc phục vụ đến mức xao lãng một hình thức tiếp đón khác: ngồi hầu chuyện với khách mời của mình, đó mới là điều quan trọng bậc nhất trong trường hợp này, bởi vì lời mà cô Ma-ri-a lắng nghe chính là Lời Thiên Chúa. Việc lắng nghe Lời Chúa quan trọng đến mức mà chỉ một lúc sau đó chỉ một mình thánh Lu-ca ghi lại câu chuyện về một người phụ nữ trong đám đông ca ngợi công sinh thành của mẹ Ngài: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”, Chúa Giê-su trả lời cho người phụ nữ này và cho cả đám đông nữa: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11: 27-28). Phải đặt ưu tiên cho một chuyện cần thiết bậc nhất: lắng nghe Lời Chúa. Có lắng nghe Lời Chúa mới biết Chúa muốn chúng ta làm gì trong giây phút hiện tại và dấn thân phục vụ Ngài ở nơi anh chị em mà chúng ta găp gỡ trong cuộc sống hằng ngày.
Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng muốn được người ta tôn trọng và đón tiếp, ai cũng ca tụng TN 16-C128
Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng muốn được người ta tôn trọng và đón tiếp, ai cũng ca tụng tính hiếu khách vì hiếu khách là một đức tính tốt, và người hiếu khách là người có tinh thần bác ái. Sách Sáng thế cho biết ông Abraham là một người hiếu khách, ông đã mời ba người khách lạ vào lều và hầu hạ họ như tôi tớ. Đáp lại tấm thịnh tình của ông, ba vị sứ giả của Thiên Chúa loan báo cho ông biết là ông sẽ có con trai trong tuổi già (Bài đọc 1). Martha và Maria cũng là người hiếu khách, hai chị em đã đón tiếp Đức Giêsu vào nhà và đã phục vụ Ngài một cách tận tình, tuy mỗi người có một cách phục vụ khác nhau (Tin mừng).
Trong cách tương giao, câu chuyện giữa chủ và khách là một cuộc đối thoại chứ không phải là độc thoại. Theo tâm lý chung, ai cũng thích nói, muốn bộc lộ hết tâm tư cho người kia, nhưng người sành tâm lý và được người ta ưa chuộng là người biết lắng nghe, tạo cơ hội cho người kia bộc bạch hết tâm tình của mình. Trong cuộc đón tiếp Đức Giêsu vào nhà, Martha chỉ bận rộn cho bữa ăn mà bỏ quên Ngài, còn Maria thì biết tạo cơ hội cho Ngài thổ lộ tâm tình và được hiểu biết những chân lý mà Ngài muốn mạc khải cho. Trong hai cách phục vụ thì Chúa thích lối phục vụ của Maria hơn, đó là biết lắng nghe:”Maria đã chọn phần tốt nhất”. Trong cuộc sống Kitô hữu, nhất là trong cuộc sống tông đồ, sinh hoạt để làm sáng danh Chúa là một điều tốt, nhưng những sinh hoạt ấy chỉ đem lại lợi ích nếu nó được đan dệt bằng sự cầu nguyện, bằng suy niệm và bằng sự thinh lặng trong sự hiện diện của Chúa. Chúng ta đừng đặt câu hỏi: Chúa có nói với chúng ta không, mà phải hỏi ngược lại: chúng ta có thinh lặng và yên tĩnh đủ để nghe Ngài hay không ?
*B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: St 18,1-10a. Bài đọc 1 hôm nay nói lên lòng hiếu khách của ông Abraham. Câu chuyện ấy như sau: Trong một bữa trưa nóng bức, Abraham đang ở trong lều thấy có ba người khách lạ đang đứng ở ngoài lều. Ông vội vàng mời ba người khách lạ vào nhà và tiếp đãi một cách rất nồng hậu: lấy nước cho họ rửa chân, lấy bột làm bánh, lấy con bê béo tốt làm thịt đãi khách. Ông không ngờ đây là ba vị sứ giả của Thiên Chúa.
Đáp lại lòng hiếu khác và quảng đại của Abraham, ba vị sứ giả đã loan báo cho ông: Thiên Chúa sẽ ban cho ông một đứa con trai đầu lòng mà ông hằng mơ ước, mặc dầu hai ông bà đều già quá tuổi sinh con.
+ Bài đọc 2: Cl 1,24-28.
Mầu nhiệm được giữ kín nơi Thiên Chúa, nay được vén mở: đó là bản thân Đức Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Là những người được hưởng nhờ mầu nhiệm này, chúng ta cũng phải chia sẻ cho người khác biết.
Thánh Phaolô đã hiểu được mầu nhiệm này, ngài cũng muốn chia sẻ cho người khác khi Ngài thi hành sứ mạng tông đồ. Vì thế, ngài vui sướng vì được chịu đau khổ, biến những đau khổ ấy thành niềm vui. Sở dĩ có được tinh thần ấy vì ngài ý thức rằng nhờ đó mà ngài được bổ khuyết nơi thân xác mình những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô.
+ Bài Tin mừng: Lc 10,38-42.
Khi Đức Giêsu đến viếng thăm Martha và Maria, ta thấy mỗi người có một cung cách tiếp khách: Martha thì cho, còn Maria thì nhận . Martha thì bận rộn lo đủ mọi chuyện để dâng cho Đức Giêsu một bữa cơm ngon miệng. Cô bận rộn đến nỗi phải xin Ngài bảo em giúp mình một tay. Còn Maria thì không làm gì cả, cô chỉ cung kính lắng nghe những lời Ngài dạy.
Câu chuyện này dạy cho chúng ta một bài học: điều Thiên Chúa muốn, không phải là chúng ta làm cho Ngài điều này điều nọ mà là để Ngài giáo huấn chúng ta , để chúng ta được biến đổi nhờ những lời giáo huấn ấy. Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi: biết lắng nghe Lời Chúa.
*C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lắng nghe Lời Chúa.
Truyện mở đầu: Vị vua đến thăm.
Ngày xưa có một vị vua muốn tìm cách giúp cho dân nước ấm no và hạnh phúc. Vua dự tính đi thăm viếng dân làng và hỏi ý kiến họ về tình hình đất nước. Nhà vua gửi sứ giả đến trước gặp hai gia đình ngài muốn thăm viếng để hỏi họ về những niềm hy vọng và ước mơ cho quê hương xứ sở.
Ngày đầu tiên vua đến với gia đình thứ nhất. Vì muốn làm cho vua vui lòng bằng một bữa tiệc với những đồ ăn ngon quí giá chưa từng có, nên khi vua đến nơi, gia đình chủ nhà vẫn còn đang bận rộn vất vả dọn tiệc linh đình. Nhà vua và các quan cận thần phải ngồi ở sân trước nhà để chờ đợi họ sửa soạn bữa ăn. Bữa ăn rất ngon, nhưng khi dọn lên thì mọi người trong gia đình đã quá mỏi mệt, không còn thì giờ và hứng thú để nói chuyện với vua về những điều vua muốn biết. Vua ra về và không mấy hài lòng.
Ngày hôm sau, vua đến thăm nhà thứ hai. Cả nhà ra đón tiếp vua một cách niềm nở. Mặc dù họ chỉ chuẩn bị một bữa ăn rất đơn sơ đạm bạc, nhưng buổi tối hôm đó mọi người trong gia đình đều ngồi quây quần bên vua, chia sẻ cởi mở những uớc mơ và niềm hy vọng của gia đình và dân làng. Họ rất phấn khởi khi vua cho họ biết những dự tính muốn thực hiện cho đất nước. Mặc dù không ăn uống thịnh soạn như tối hôm trước, nhưng khi ra về vua rất hài lòng với buổi gặp gỡ đúng như ý ngài muốn.
Bài Tin mừng hôm nay (Lc 10, 38-42) cũng mang một nội dung như vậy: chị em Martha và Maria tiếp đón Đức Giêsu vào nhà mình, mỗi người có một cung cách tiếp đón. Vậy Đức Giêsu thích cách tiếp đón nào ? Của Martha hay của Maria ?
*I. CÂU CHUYỆN NGƯỜI TIẾP ĐÃI KHÁCH.
*1. Ông Abraham tiếp đón khách.
Bài sách Sáng thế ghi lại việc ông Abraham tiếp đãi sứ giả của Thiên Chúa một cách nồng hậu. Abraham đang ngồi hóng mát trước cửa lều trong buổi trưa nóng bức. Ông thấy ba người khách lạ đi ngang qua. Ông vội chạy ra mời họ quá bộ vào nghỉ mát, bưng nước cho khách rửa chân, dẫn khách nằm nghỉ dưới bóng cây. Ông bắt con bê béo làm thịt. Bà nhồi bột làm bánh. Ông hầu hạ khách như mình là tôi tớ. Đáp lại lòng hiếu khách của ông, sứ giả nói với ông:”Sang năm vào độ này, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai”.
*2. Martha và Maria đón tiếp Đức Giêsu.
Trên đường tiến về Giêrusalem, Đức Giêsu ghé vào nhà chị em Martha , Maria và Lazarô ở làng Bêtania, cách Giêrusalem ba cây số. Martha đón rước Đức Giêsu vào nhà. Cô là chủ nhà và chưa có gia đình vì cô đón tiếp khách. Nếu có chồng thì chồng sẽ tiếp đón khách. Cách đón tiếp của Martha đã chứng tỏ rằng gia đình này đã từng quen biết Ngài và đã có nhiều lần Ngài đến nhà như người quen biết thân mật (Ga 11,1-14).
Hai chị em có hai tính tình khác nhau: Martha là một người hoạt động, còn Maria là một người trầm lặng. Cô Maria cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Ngài. Còn cô Martha thì lăng xăng lo lắng đón tiếp Chúa, một vị khách quí mà cô muốn bầy tỏ hết lòng kính trọng. Martha cảm thấy khó chịu vì cô em không giúp mình một tay, sợ trễ giờ, đến nỗi phải xin Chúa can thiệp, với một giọng trách móc:”Xin Thầy bảo em con giúp con với”.
Không biết câu trả lời của Đức Giês có làm cho Martha buồn không:”Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không ai lấy mất”(Lc 10,42).
*II. CÂU CHUYỆN NGƯỜI PHỤC VỤ VÀ LẮNG NGHE.
Như vậy, Martha và Maria xuất hiện ở đây như hai hai môn đệ nhiệt thành đón tiếp Đức Giêsu Thầy mình, nhưng Maria chỉ lắng nghe Lời Thầy, còn Martha lo dành riêng cho Thầy một sự đón tiếp nồng hậu.
*1. Một Martha năng động.
Martha là con người rất yêu mến Đức Giêsu, biết quan tâm tới sức khỏe của Ngài. Trên cuộc hành trình đi vào làng, Ngài mệt mỏi, đói bụng, phải được ăn uống bồi dưỡng để tiếp tục đi rao giảng Tin mừng. Sự lo lắng cho sức khỏe của người khác là nét tinh tế của người phụ nữ. Vì yêu Chúa nhiều, Martha mới lo lắng và lăng xăng như thế. Trong khi đó Ngài lại trách yêu Martha:”Martha, Martha, con lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá”(Lc 10,42). Nói như vậy, phải chăng là Ngài phê bình Martha chỉ đặt trọng tâm vào việc ăn uống ?
Căn cứ vào sự kiện Martha hối thúc nói với Maria giúp cô, một học giả Rachel Conrad Wehberg giải thích với một nét nhân từ hơn: Người ta phải suy luận rằng đây là công việc trong bếp hai người đã quen làm. Maria vẫn thường phụ giúp Martha. Nếu họ đã phân chia công tác: Martha nấu ăn, Maria tiếp khách, thì chẳng có vấn đề gì, vì mỗi người đều chấp nhận và kính trọng nhau. Nhưng ở đây, theo thói quen, cả hai chị em cùng làm công việc nấu nướng. Nếu cả hai cùng làm, sẽ mau có bữa ăn hơn, và cả hai chị em đều có cơ hội ngồi tâm sự với Chúa lâu giờ hơn. Do đó, Martha than phiền không phải vì bà chỉ bận tâm đến việc ăn uống, cũng không phải vì ghen tương, nhưng vì trái tim bà hối thúc muốn được cùng lắng nghe Lời Chúa, cùng ở bên Chúa với Maria. Đó là lý do Martha đã than phiền (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa lòng đời, năm C, tr 255-256).
Tuy nhiên, Đức Giêsu đang trong lúc bồn chồn lo lắng chuẩn bị cho cuộc tử nạn, Ngài muốn có người biết chia sẻ tâm tình hơn để làm vơi nỗi lòng mình, còn việc ăn uống lúc này thì chỉ là phụ thuộc, không cần thiết mấy. Maria đã đáp ứng đúng tâm trạng của Đức Giêsu.
Truyện: Thèm lòng chứ không thèm thịt.
Một người cha có thói quen, sau giờ làm việc, đi dạo chung với cô con gái. Ông cảm thấy rất hạnh phúc được chuyện trò với con. Thình lình, cô gái bắt đầu cáo lỗi vì không thể đi dạo hằng ngày với cha được. Người cha cảm thấy đau khổ nhưng không nói ra. Sau cùng vào ngày sinh nhật của ông, cô con gái mang đến tặng cha một cái áo len mà cô mới đan. Người cha đã nhận thấy rằng cô con gái đã đan áo len trong lúc ông đi dạo một mình. Ông nói với con:”Martha. Martha, Ba rất quí chiếc áo này. Nhưng Ba thích con đi dạo với Ba hơn. Một cái áo len Ba có thể mua ở bất cứ tiệm bán quần áo nào. Nhưng con gái cưng của Ba, Ba không thể mua được. Con làm ơn đừng bao giờ bỏ rơi Ba nữa nhé”.
*2. Một Maria trầm lặng.
Cả hai chị em đều có đức tính đáng khen, cả hai đều yêu kính Thầy và ước ao được làm vui lòng Thầy. Nhưng trong dịp này vì lòng nhiệt thành phục vụ, Martha đã làm quá nhiều để sửa soạn một bữa ăn ngon lành. Còn Maria thì trực giác hơn được điều Chúa muốn, nên cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe Lời Ngài dạy. Cô biết Ngài mong ước được mạc khải chính mình, muốn ban cho họ những sứ điệp từ trời, không phải vì lợi ích cho Ngài, mà vì phần rỗi của nhân loại. Bởi vậy, theo nghệ thuật tiếp khách, cô phải để ý đến ý muốn của vị khách trước, phải lắng nghe người khác nói. Trong việc tiếp đãi Thầy, cô đã làm được việc lớn hơn chị cô.
Bà Carnegie viết rất nhiều sách học làm người nổi tiếng. Trong cuốn “Đắc nhân tâm”, bà viết:”Cách làm cho khách vui lòng nhấùt là lắng nghe khách nói, lắng nghe ước muốn, nguyện vọng, tâm tư của người khác. Như vậy, tỏ ra mình kính trọng, quan tâm đến người để hiểu biết, thông cảm, chia sẻ những tâm tình, những kiến thức, những yêu cầu thiết thực của người, quí hơn cả cơm ăn, áo mặc”.
Truyện: Tổng thống Abraham Lincoln chia sẻ.
Trong lịch sử nước Mỹ, trong những ngày đen tối nhất của cuộc nội chiến Nam Bắc, Lincoln viết thư mời ông bạn cũ ở Illinois tới Washington để thảo luận vài vấn đề. Ông bạn tới Bạch cung là Lincoln nói với ông trong mấy tiếng đồng hồ về tờ thông báo ông định công bố để thủ tiêu chế độ nô lệ. Tổng thống ôn lại tất cả các lý lẽ bênh vực cho các đạo luật ấy và những lý lẽ phi bác lập trường đối nghịch. Ông lại đọc cả những bức thư và bài báo về vấn đề đó, trong đó nhiều người trách ông chần chừ chưa phế bỏ chế độ nô lệ, lại có những bài chỉ trích vì ông có ý tiến hành việc ủng hộ chế độ nô lệ. Sau khi hăng hái nói một hồi lâu, Lincoln bắt tay ông bạn già, chúc ông ta bình an và tiễn ông ta trở về Illinois, chẳng hỏi ý kiến gì hết. Lincoln đã nói, đã trút bỏ những nỗi suy nghĩ đang đè nặng trong lòng ông, như vậy đầu óc ông được sáng suốt. Ông bạn già kể lại: “Khi Lincoln nói xong rồi, ông ấy bình tĩnh hơn”. Lincoln chỉ cần một người bạn thân thiết biết nghe ông nói và hiểu lòng ông để ông trút bầu tâm sự của ông thôi.
*3. Một sự cần thiết mà thôi.
Đức Giêsu trả lời cho Martha:”Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không ai lấy mất”. Câu trả lời của Đức Giêsu đã gây nên nhiều tranh luận và tùy cách hiểu mà dịch ra khác nhau.
Một cách theo như nghĩa trong truyện thì cô Martha lo lắng cho nhiều làm chi, một món ăn là đủ rồi.
Một cách khác theo như bản Phổ thông lấy theo nghĩa thiêng liêng. Đối nghịch với những bận rộn đón tiếp của cô Martha, chỉ có một sự cần thiết là lắng nghe Lời Chúa.
Ở đây thực ra không có ý so sánh những của đời này với của duy nhất trên trời, mà là lấy làm hơn thái độ của Maria chăm chú nghe Chúa, cô Martha chia trí lo lắng quá nhiều sự. Vì thế, Đức Giêsu đã tuyên bố Maria đã chọn phần nhất là nghe Lời Chúa.
*III.CÂU CHUYỆN NGƯỜI TÔNG ĐỒ BIẾT LẮNG NGHE.
*1. Lạc giáo hoạt động (Hérésie de l’action).
Ngày nay, trong Giáo hội, có phong trào tư tưởng cho rằng Giáo hội phải lăn xả vào công việc xã hội nhiều hơn, phải đi đến với người nghèo trước đã. Đạo có chiều dọc và chiều ngang. Hàng dọc hướng về Thiên Chúa, hàng ngang hướng về anh em. Tư tưởng dấn thân trước tiên cho kẻ khác được cổ võ mạnh. Môn Thần học Giải phóng muốn đặt lại căn bản Đức tin: Mến Chúa yêu người, nhưng cứu người trước đã. Từ ngữ “giải phóng” được đem thay thế từ ngữ “cứu rỗi” của Thần học, vì “nó minh bạch và sáng sủa hơn”(Seguido – Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm C, tr 99).
*2. Hoạt động và lắng nghe.
Tuy Đức Giêsu chấp nhận lòng hiếu khách của Martha với lòng biết ơn, và đánh giá đúng mức những cố gắng cô thực hiện để tiếp khách cho tốt đẹp, Nhưng dù sao Ngài cũng muốn cô khám phá một điều còn quan trọng hơn, một điều khẩn thiết bậc nhất và duy nhất, mà cô liều mình quên mất: đó là lắng nghe Lời Chúa. Và, vì đã bỏ tất cả để chỉ giữ “một chuyện cần thiết”, mà Maria, em cô, đã tỏ mình là một môn đệ gương mẫu hoàn hảo nhất.
Meynet chú giải thêm:”Martha đón tiếp Đức Giêsu vào nhà. Chúa vừa bước vào, thì cô đã bỏ Ngài đó, để lo trăm nghìn chuyện. Vịn cớ phục vụ Ngài, cô tất bật, cô lo lắng mọi sự chỉ trừ Chúa ra. Việc phục vụ của cô lấn lướt cả vị khách của cô. Cô lăng xăng, lo lắng, sợ rằng mình không tiếp đãi đúng mức với vị khách quí. Về phần Maria cô giữ một thái độ xứng hợp nhất, ngồi bên chân Đức Giêsu, trong tư thế của người môn đệ. Cô không làm gì, không nói gì, cô chỉ ngồi và nghe. Cô đã quên tất cả mọi sự, ngoài Chúa. Cô quên chính mình. Cô dành cả con mắt, lỗ tai để nhìn và nghe Lời Chúa. Cô cũng đón tiếp Đức Giêsu hơn ai hết, với phong cách tốt nhất. Nhìn cô, người ta dám nói rằng: chính cô được Ngài tiếp đón mới đúng (Fiches dominicales, năm C, tr 253-154).
Ngày nay, người đàn bà danh tiếng nhất thế giới là một nữ tu bác ái, một Martha thời đại: chân phước Têrêsa Calcutta. Bà đã hiểu và truyền lại cho con cái thiêng liêng của Bà tinh thần bài Tin mừng hôm nay. Cầu nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày để ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa trước khi xuống “địa ngục Calcutta” để săn sóc kẻ nghèo hoặc đi vào trong các “nhà chết”.
Trong khi tiếp xúc với Chúa chúng ta phải biết trao đổi như người ta nói:”Có đi có lại mới toại lòng nhau”, nghĩa là phải biết nói và biết nghe, biết cho và biết nhận. Nhiều khi chúng ta rất hào phóng chỉ biết cho Chúa mà không biết nhận. Trong lúc Chúa muốn cho chúng ta tạo điều kiện để Chúa có cơ hội ban cho chúng ta nhiều ơn, để chúng ta tiếp nhận, nhưng tiếc thay, Ngài không có cơ hội.
Câu chuyện trong Tin mừng cho chúng ta thấy sự khác biệt chủ yếu giữa Martha và Maria. Martha không có khả năng nhận, trong khi Maria thì có. Maria cho Chúa món quà là một tâm trí mở rộng và một tâm hồn mẫn cảm. Còn Martha, trong lúc rất tốt, rất hào phóng khi cho, lại rất nghèo khi nhận. Cả Chúa cũng không thể cho cô điều gì.
*3. Quân bình trong hoạt động và lắng nghe
Đặt thái độ của Martha và Maria đối chọi nhau và nghĩ rằng chỉ có một phía đúng, là quá vội vàng. Maria lắng nghe Lời Chúa, còn Martha tất bật lo phục vụ Chúa. Mỗi cô mỗi cách, họ đều muốn giữ chân Chúa nghỉ lại, trên đường lên Giêrusalem. Cô này bằng cách phục vụ, thì làm tất cả những gì có thể làm cho Ngài; cô kia bằng cách lắng nghe lời Chúa, thì cố gắng ghi nhớ lời Ngài, lời của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống của người môn đệ, có lúc “tất bật”, và có lúc “lắng nghe”. Tuy nhiên, không thể có hoạt động tốt nếu không lắng nghe tốt. Maria đã thành công khi tạo cho mình một thái độ không thể thiếu của một môn đệ: là ngồi dưới chân Đức Giêsu, cô quên mọi sự khác, để toàn tâm chú ý vào Chúa và lời Ngài… Nhưng sau đó, có lẽ cô sẽ là một tông đồ hoạt động vì Thầy mình (Fiches dominicales).
Các triết gia Tây phương có khuynh hướng hoạt động cho rằng Chúa không làm gì, con người làm hết. Các triết gia Đông phương trái lại ưa thích thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con người không làm gì. Nhưng khuôn vàng thước ngọc của chúng ta là:”Cầu nguyện và hoạt động”. Martha phải đi đôi vơi Maria. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện.
Graef nói một câu rất thâm thúy:”Hoạt động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo hạt”.
Một nhà tâm lý trị liệu và nhà văn Mỹ, ông Thomas Moore nói:“Không còn nghi ngờ việc một số người có thể tiết kiệm chi phí và tránh cho mình sự phiền toái về tâm lý trị liệu chỉ vì họ đã dành mỗi ngày ít phút để nguyện ngắm. Hành động đơn giản này cung cấp cho họ điều họ thiếu trong cuộc sống – một thời gian bất động chủ yếu là để nuôi dưỡng linh hồn”.
Truyện: Bác học Ampère cầu nguyện
Frédéric Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là sinh viên đại học.
Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quìø cầu nguyện cách sốt sắng ở dẫy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.
Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học lên tiếng hỏi: – Anh bạn trẻ, anh cần gì đó ? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào khng ? Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ:
– Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép giáo sư cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin !
Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn:
– Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm.
Chàng sinh viên liền hỏi:
– Thưa giáo sư, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không ?
Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh vên, và với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:
– Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi.
*4. Sống dưới sự hiện diện của Thiên Chúa.
Đời sống Kitô hữu phải được đan dệt bằng hoạt động và cầu nguyện. Các tu sĩ sống đời chiêm niệm không phải chỉ có cầu nguyện mà còn phải làm việc; còn các tu sĩ sống đời hoạt động cũng phải cầu nguyện chứ không phải chỉ có hoạt động. Cha Don Marmion nói:”Sự cầu nguyện hỗ trợ cho công việc tông đồ là linh hồn của mọi sứ vụ truyền giáo”.
Người Kitô hữu sống ở trần gian, nhiều lúc phải tất bật với những công việc, nhưng không thể thiếu được sự cầu nguyện. Đối với nhiều người, cầu nguyện chủ yếu là đọc kinh, nhưng đọc kinh chỉ là một trong những hình thức cầu nguyện. Cốt yếu của sự cầu nguyện là kết hợp với Chúa. Nhiều khi chúng ta không đọc kinh, chỉ thinh lặng trước sự hiện diện của Chúa cũng là một cách cầu nguyện rất hay. Thinh lặng cũng là một cách cầu nguyện.
Có lẽ kinh nguyện có lợi nhất là ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, không làm gì cả. Chỉ ngồi trong sự hiện diện của Thiên Chúa, như Maria ngồi trong sự hiện diện của Đức Giêsu. Nếu chúng ta dành một số thời giờ cho việc cầu nguyện và suy niệm, hoặc chỉ cần ngồi thinh lặng trong sự hiện diện của Thiên Chúa, thì không phải là thời gian lãng phí mà là thời gian được sử dụng tốt. Mỗi ngày chúng ta phải cố gắng, dù trong một thời gian ngắn, tìm kiếm khuôn mặt của Thiên Chúa.
Với cái nhìn nông cạn, nhiều người cho là phần việc của Maria có vẻ dễ dàng vì chỉ có ngồi đó, còn phần việc của Martha thì khó khăn hơn. Nhưng nếu suy cho kỹ, chúng ta có thể thấy ít nhất đôi khi, phần việc của Maria khó khăn hơn nhiều trong hai phần việc ấy. Gạt bỏ công việc của mình và chú trọng hoàn toàn vào người khác không dễ dàng. Đem sự chú tâm trọn vẹn ấy vào Thiên Chúa lại càng khó khăn hơn. Nhưng đó là linh đạo sinh lợi ích rất lớn lao.
Truyện: Dưới sự hiện diện của Thiên Chúa.
Tổng Giám mục Anthony Bloom kể lại rằng người đầu tiên đến xin Ngài một lời khuyên khi ngài được truyền chức thánh là một bà cụ. Bà nói:
– Thưa cha, con đã cầu nguyện hầu như không ngừng suốt bốn mươi năm, và con chưa bao giờ có cảm giác gì về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Ngài hỏi:
– Con có để cho Thiên Chúa có cơ hội lên tiếng không ?
Bà nói:
– Ồ không ! Con đã nói với Người suốt thời gian ấy. Như thế không phải là cầu nguyện sao ?
Ngài nói:
– Không. Cha không nghĩ như thế. Bây giờ cha gợi ý thế này: con hãy dành riêng mười lăm phút để chỉ ngồi trước mặt Thiên Chúa.
Và bà đã làm như thế. Kết quả là gì ? Không lâu sau, bà trở lại và nói:
– Thật lạ lùng, khi con cầu nguyện cùng Thiên Chúa, nói cách khác, khi con nói với Người, con không thấy điều gì. Nhưng khi con ngồi thinh ặng, yên tĩnh mặt đối mặt với Người, con cảm thấy được bao trùm trong sự hiện diện của Ngươi.
(Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr 514-515)
Để kết thúc bài chia sẻ hôm nay, trong cuộc sống hằng ngày chúng ta cần xác tín rằng:”Câu hỏi thường đặt ra không phải Thiên Chúa có nói với chúng ta hay không, nhưng là chúng ta có thinh lặng và yên tĩnh đủ để lắng nghe Ngài hay không”.
Các bài đọc hôm nay làm nổi bật thái độ của con người trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Lòng TN 16-C129
Các bài đọc hôm nay làm nổi bật thái độ của con người trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Lòng mến khách và sự ưu ái được bộc lộ trong khung cảnh gia đình ấm cúng. Nhưng đâu là thái độ mà Thiên Chúa muốn ở nơi mỗi chúng ta khi chúng ta tiếp rước Chúa vào nhà mình, vào tâm hồn mình?
Trong bài đọc 1 trích từ sách Sáng Thế (St 18, 1-10a), vợ chồng ông Abraham và bà Sara đã đón ba vị khách vào nhà mình. Trong truyền thống của Giáo hội, hình ảnh ba vị khách trong câu chuyện này được miêu tả là hình ảnh của một Thiên Chúa Ba Ngôi Vị. Ông bà Abraham và Sara đã đón Chúa vào nhà mình. Ông bà đã tiếp đãi khách thật chu đáo, thịnh soạn, và cũng rất lễ phép. Truyền thống văn hóa Á Đông được hiện lên rõ nét ở đây: đàn ông tiếp khách còn phụ nữ thì ở trong nhà lo nấu nướng. Nhưng tất cả đó chỉ là khung cảnh của câu chuyện.
Cốt lõi của cuộc gặp gỡ là câu nói tiết lộ thánh ý của Thiên Chúa cho ông bà nghe: bằng rầy sang năm ông bà sẽ có con. Bà Sara đã cười thầm. Mà làm sao không buồn cười được khi hai ông bà già đã ngoài 80 mà được bảo là sẽ có con. Nhưng đấy là thánh ý Thiên Chúa. Đôi khi người ta nhận thấy Ý Chúa thật ngọt ngào; đôi khi Ý Chúa là chén đắng phải uống; và đôi khi Ý Chúa thật buồn cười vì nó chẳng theo cái lý sự ở đời này.
Cái cười của bà Sara đã bị phát giác. Bà thì biện minh theo lý lẽ thường tình: đến ham muốn còn chẳng còn thì nói chi đến có con. Nhưng vị khách lại khẳng định với ông bà theo lý khác: Đối với Thiên Chúa thì có gì khó đâu.
Câu chuyện trong bài Tin Mừng đưa ta đến với ý muốn của Thiên Chúa nơi chính mỗi người chúng ta. Gia đình chị em Mattha và Maria đã đón Chúa Giêsu vào nhà mình. Mattha thì lo thu xếp nhà cửa, nấu nướng đồ ăn để thiết đãi khách quý cho phải phép theo lẽ thường tình. Maria thì ngồi dưới chân Chúa Giêsu để nghe Ngài nói. Xung đột đã xảy ra. Mattha đã gián tiếp trách em mình khi nói với Chúa Giêsu: “Xin Thầy bảo em con giúp con với” (Lc 10,40).
Hình ảnh Maria ngồi dưới chân Chúa để nghe Ngài giảng nói lên nhiều điều. Tư thế ngồi nghe như vậy nói lên tư cách người môn đệ. Mặc dù với Do Thái giáo thời đó, chỉ người nam mới có tư cách đón nhận giáo huấn như thế. Nhưng ở đây Chúa Giêsu đã đón nhận cả Maria. Điều đó nói lên sự bình đẳng và rộng khắp của sứ điệp Lời Chúa. Càng mạnh hơn khi nhìn vào Bài đọc 1 ta chỉ thấy người nam mới được tiếp đãi trực tiếp và trò chuyện với khách, còn ở đây chị em Mattha và Maria đã đứng ở vị thế của người nam. Vượt qua rào cản của văn hóa như vậy đủ để cho chúng ta thấy được sự tự do của Lời Chúa. Thánh ý Thiên Chúa không bị gò bó, lệ thuộc vào bất cứ một khuôn phép hay thể chế nào của con con người. Lời Chúa luôn là đèn soi dẫn cho tất cả mọi người nhận ra và tiến về miền Chân Lý.
Câu trả lời của Chúa Giêsu với Mattha: “Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất" (Lc 10,42). Ắt hẳn Chúa không có ý khinh chê công việc phục vụ mà Mattha đang làm. Bởi chính Ngài đã nói: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ" (Mt 22,28). Thế nhưng trong cuộc đời hiến thân phục vụ đến hy sinh cả mạng sống ấy, Giesu luôn tâm niệm một điều: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy" (Ga 4,34 ). Ngài luôn lắng nghe Chúa Cha và thực thi theo thánh ý Chúa Cha.
Điều Chúa muốn nói với Mattha hôm nay cũng chính là nói với mỗi người chúng ta: dù có làm việc gì thì đừng quên điều tối quan trọng là tìm biết thánh ý Thiên Chúa. Chúng ta không làm việc theo chỉ dẫn của loài người nhưng là theo chỉ dẫn của Thiên Chúa. Đón Chúa vào nhà không phải để có cơ hội để phục vụ Chúa, mà là để có cơ hội lắng nghe thánh ý Chúa.
Chúng ta dễ dàng sửa soạn lễ vật, trang hoàng bàn thờ để tiến dâng lễ tế. Nhưng để có một khoảng thời gian thinh lặng lắng nghe Lời Chúa lại là chuyện khó, và càng khó hơn khi quyết định thực thi theo thánh ý của Chúa.
Đôi khi ta thấy Lời Chúa thật nhẹ nhàng, êm ái, và dễ thực hiện; đôi khi ta thấy Lời Chúa khô khan và thật khó thực hiện; hay như bà Sara, thấy Lời Chúa thật buồn cười, vô lý. Nhưng chỉ những ai thi hành thánh ý Chúa mới thấy được sự kỳ diệu trong lối dẫn dắt của Ngài. Chỉ khi đi vào con đường theo thánh ý Chúa ta mới cảm nhận được lòng yêu thương và tận tình của Thiên Chúa dành cho ta.
Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho con, để con biết lắng nghe Lời Chúa, biết đón nhận Lời Chúa, và biết thực thi theo Lời Chúa chỉ dẫn trong chính cuộc đời con.
Thiên Chúa là Đấng vô hình. Để gặp gỡ Ngài, chúng ta phải có đức tin. Nói cách khác, chỉ có TN 16-C130
Thiên Chúa là Đấng vô hình. Để gặp gỡ Ngài, chúng ta phải có đức tin. Nói cách khác, chỉ có đức tin mới giúp chúng ta gặp gỡ Chúa, để rồi giữa cuộc sống trần gian, chúng ta vẫn “như thấy Đấng vô hình” (x. Dt 11,27). Cuộc gặp gỡ thiêng liêng này giúp ta cảm nhận sự hiện diện của Chúa, tâm sự với Ngài để giãi bày những nỗi niềm buồn vui của cuộc sống. Đức tin cũng giúp chúng ta gặp gỡ Chúa nơi tha nhân, tức là qua những con người cụ thể, chúng ta được gặp gỡ Đấng tối cao.
Ông Abraham là người kính sợ Chúa. Ông đã nghe lời Chúa gọi bỏ quê hương xứ sở đến một nơi Chúa sẽ chỉ cho, tức là ông chưa biết đó là nơi nào. Sự dứt khoát lên đường của Abraham được coi như mẫu mực của lòng tin và lòng phó thác cho mọi thế hệ sau này. Một buổi trưa nọ, vào lúc thời tiết nóng bức, Đức Chúa đã đến và gặp gỡ ông, dưới hình thức “ba người đàn ông”. Tác giả ghi lại sự mến khách, lòng nhiệt thành và hy sinh của ông cùng với vợ mình là bà Sara trong việc tiếp đón và phục vụ vị khách đến đột xuất. Lòng mến khách của ông đã được đáp đền. Vị khách hứa vào năm sau bà Sara sẽ có con trai. Qua sự tiếp đón niềm nở của Abraham và vợ ông, ông bà đã được gặp Chúa và được ngài ban cho điều đang mong đợi, đó là có được một mụn con vào lúc tuổi đã xế chiều.
Một cuộc đón tiếp khác được nhắc tới trong Tin Mừng hôm nay, đó là cuộc đón tiếp của hai chị em ở Bêtania dành cho Chúa Giêsu. Đây là gia đình Đức Giêsu lui tới thường xuyên, giống như những gia đình giáo dân đạo đức quảng đại hiện nay. Hai người phụ nữ với hai công việc khác nhau: một người lo dọn bữa, một người lắng nghe Chúa nói. Câu nói của Matta không thể hiện sự ghen tỵ cho bằng mối tương quan thân thiết giữa gia đình này với Đức Giêsu. Qua câu nói này, Matta có vẻ như gợi ý để được Chúa quan tâm, cũng là cách nói lên tình quý mến trân trọng. Để trả lời cho thắc mắc của Matta, Chúa Giêsu đã đánh giá việc lắng nghe Lời Chúa chiếm phần ưu tiên. Câu trả lời xem ra khó hiểu, vì nếu không có sự lo toan bận rộn của Matta, thì việc đón tiếp cũng sẽ trở nên buồn tẻ. Chuẩn bị bữa ăn để đón khách là việc ông Abraham và bà Sara đã làm để thể hiện lòng mến khách. Nay bà Matta cũng đang làm như thế và cũng xuất phát từ lòng mến khách. Khi tuyên bố: “Maria đã chọn phần tốt nhất”, thực ra Chúa Giêsu không phê phán hay coi thường việc dọn bữa. Người vừa coi trọng người chuẩn bị bàn ăn để đón tiếp Người, vừa khen ngợi tâm tình lắng nghe Lời Chúa của bà Maria. Khi khẳng định việc lắng nghe Lời Chúa của Maria là “phần tốt nhất”, Chúa muốn nhắc lại điều Người đã nói trước đó, trong trình thuật về việc Người chịu cám dỗ trong hoang địa: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Qua đó, Người cũng muốn nhắc chúng ta: việc lắng nghe Lời Chúa phải dành phần ưu tiên trong cuộc đời.
Trong Cựu ước, Thiên Chúa viếng thăm con người dưới hình thức “ba người đàn ông”, tức là những con người bằng xương bằng thịt. Thời Tân ước, Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể đã đích thân đến để gặp gỡ con người. Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện giữa chúng ta, khác với thời Cựu ước và thời Tân ước, mà đó là sự hiện diện huyền nhiệm thiêng liêng. Thánh Phaolô khẳng định: Thiên Chúa muốn cho mọi người nhận ra chân lý cao siêu này, đó là Đức Kitô đang hiện diện giữa chúng ta. Đây là một “mầu nhiệm được ẩn giấu từ thời xa xưa và nay được tỏ hiện”. Người là niềm hy vọng và là vinh quang của chúng ta. Rao giảng Đức Kitô là sứ mạng Chúa Cha đã trao phó cho chúng ta, nhằm mục đích dẫn đưa con người đạt tới sự hoàn thiện trong Đức Kitô (Bài đọc II). Như thế, mỗi người được mời gọi đón nhận Chúa Giêsu, không phải như một con người trần thế, mà là Thiên Chúa vô hình đang hiện diện trong cuộc đời, nơi tha nhân, nhất là nơi những người cùng khổ bần hàn. Chính khi đón tiếp và cứu giúp những người bất hạnh mà chúng ta được đón tiếp Chúa (x. Mt 25).
Dưới đây là một trong những gợi ý suy tư và cầu nguyện của Cộng đoàn Taizé cho năm 2019: “Sự hiếu khách của Thiên Chúa đối với chúng ta là một lời mời gọi. Chúng ta có thể đón nhận người khác, không phải như cách chúng ta muốn họ là ai, mà là đón nhận chính con người thật của họ được không? Chúng ta có thể để chính bản thân mình được họ chào đón theo cách của họ, mà không phải cách của ta hay không? Chúng ta hãy trở nên những người nồng hậu, dành thời gian để lắng nghe ai đó, mời gọi họ một bữa tối, tiếp cận những người nghèo khổ, nói những lời nói tử tế với người mình gặp mặt...”.
"Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết" (Dt 13, 2). Quả vậy, đón tiếp tha nhân là cơ hội tốt để đón tiếp Chúa. Gặp gỡ tha nhân sẽ giúp chúng ta gặp gỡ Đức Kitô, Đấng đang sống và đang hoạt động giữa chúng ta.
Phụng vụ Lời Chúa, Chúa Nhật 16 Thường Niên Năm C, đặc biệt Bài Đọc I và Tin Mừng, nêu bật TN 16-C131
Phụng vụ Lời Chúa, Chúa Nhật 16 Thường Niên Năm C, đặc biệt Bài Đọc I và Tin Mừng, nêu bật quyền ưu tiên trong việc tiếp đón Chúa và lắng nghe Lời Ngài.
St 18: 1-10
Sách Sáng Thế tường thuật ba vị khách bí nhiệm viếng thăm ông Áp-ra-ham. Vị tổ phụ tiếp đãi Các Ngài một cách hậu hĩnh. Để đáp lại, Các Ngài đoan hứa với ông Áp-ra-ham rằng sang năm vào độ này bà Xa-ra, vợ ông, sẽ sinh hạ một quý tử.
Cl 1: 24-28
Thánh Phao-lô nêu lên cho các tín hữu Cô-lô-xê những đau khổ tù đày của ngài mà ngài dâng hiến cho họ để họ giữ trọn niềm tin vẹn toàn của mình. Bởi vì ơn cứu độ được thực hiện qua gian nan thử thách và được thành toàn chỉ trong và qua Chúa Ki-tô.
Lc 10: 38-42
Tin Mừng tường thuật tấm lòng hiếu khách mà hai chị em, cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, tiếp đón Chúa Giê-su. Việc đón tiếp phải ưu tiên dành cho việc lắng nghe Lời Chúa. Đó là chuyện cần thiết bậc nhất.
BÀI ĐỌC I (St 18: 1-10)
Chuyện tích nổi tiếng này thuộc chứng liệu Gia-vít (thế kỷ thứ mười trước Công Nguyên, thời vua Sa-lô-mon). Theo chứng liệu này, Thiên Chúa, luôn luôn được gọi dưới danh xưng “Đức Chúa” (Gia-vê), rất thân cận với con người, nói chuyện với con người, hành xử như một con người. Các chuyện tích về vườn địa đàng, sự thử thách và sa ngã có cùng một tác giả.
Ngay từ dòng đầu tiên giới thiệu các chương 18 và 19 sách Sáng Thế, tác giả báo trước cho chúng ta rằng chính Đức Chúa hiện ra với ông Áp-ra-ham: “Một hôm, Đức Chúa hiện ra với ông Áp-ra-ham tại cụm sồi Mam-rê”; ấy vậy, trong câu chuyện, ông Áp-ra-ham đón tiếp không chỉ một mà đến ba vị khách. Xa hơn, tác giả xác định rằng hai trong ba vị khách này là hai sứ thần (19: 1). Quả thật, sự ngần ngại của bản văn giữa số ít và số nhiều gây bối rối cho độc giả. Vài Giáo Phụ đã giải thích ba vị khách này tượng trưng Ba Ngôi Thiên Chúa. Truyền thống Ki-tô giáo sau này sẽ theo cùng một giải thích này, bằng chứng rõ ràng nhất là tượng thánh về Ba Ngôi Thiên Chúa của tu sĩ Nga là André Roublev, được thực hiện ở Moscou vào năm 1425, bức tượng thánh này rất phong phú về biểu tượng.
1. Cụm sồi Mam-rê
Ông Áp-ra-ham đã dựng lều của mình tại cụm sồi Mam-rê, cách thành Khép-rôn khoảng ba cây số về hướng bắc đất Pa-lét-tin. Cụm sồi Mam-rê là nơi dân bản địa Ca-na-an cúng tế thần linh của mình, đến lượt mình, ông Áp-ra-ham xem cụm sồi này là thánh địa của mình khi dựng một bàn thờ để kính Đức Chúa tại đó (St 13: 18). Vì thế, đây là nơi thuận tiện cho cuộc Thần Hiển. Ngài hiện ra với ông trong khi ông Áp-ra-ham đang ngồi ở cửa lều, vào lúc trời nóng nực nhất trong ngày.
2. Những nghi thức bày tỏ lòng hiếu khách
Khi ba vị khách vừa xuất hiện, tổ phụ Áp-ra-ham, mặc dầu cao tuổi, chạy ra đón họ. Ông ngỏ lời với họ lúc thì số ít lúc thì số nhiều; nhưng dường như ông phân biệt trong ba vị đó một nhân vật chính và phủ phục trước vị khách này. Đây không là cử chỉ thờ lạy, nhưng bày tỏ lòng tôn kính theo tập tục Đông Phương.
Sau đó, ông thể hiện lòng hiếu khách theo các nghi thức cổ truyền: nước để làm mát chân và tẩy bụi đường; một bữa ăn được chuẩn bị… Truyền thống Á-rập đã duy trì tập tục này, theo đó người ta đàm luận với nhau trong bữa ăn và tặng quà cho nhau.
“Ông Áp-ra-ham lật đật vào lều tìm bà Xa-ra”. Lúc đó bà Xa-ra hoặc ở trong một lều riêng hay ở trong cùng một lều có bức màn ngăn cách, nơi ở của người phụ nữ. Bữa ăn đã được chuẩn bị xong; các món ăn được dọn ra trước các vị khách. Theo phong tục tỏ lòng kính trọng khách thời đó, ông Áp-ra-ham không ngồi đồng bàn với khách, nhưng đứng hầu bên cạnh để đáp ứng nhu cầu của khách.
3. Quà tặng của ba vị khách
Đây là đoạn văn Cựu Ước duy nhất ở đó Đức Chúa chấp nhận dùng bữa ăn mà con người dọn ra. Chuyện kể thật sống động và ý nhị, có thể được sánh ví với nhiều chuyện tích khuyến thiện nêu bật tấm lòng hiếu khách. Nhưng câu chuyện này có một dáng vẻ đặc biệt. Ở Đông Phương, xưa và nay, người khách không bao giờ hỏi thăm vợ của gia chủ. Đó là điều cấm kỵ, bất lịch sự và không phải phép. Nhưng những nhân vật mà ông Áp-ra-ham đón tiếp không là những vị khách bình thường: họ chẳng những biết tên vợ của vị tổ phụ mà còn biết cả cảnh ngộ son sẻ của vợ ông. Chân tính mầu nhiệm của ba vị khách bắt đầu được vén mở. Để tri ân tấm lòng chân thành và hậu hĩnh đón tiếp của gia chủ, họ tặng cho gia chủ một món quà đẹp nhất, quá mức mong đợi: “Sang năm vào độ này, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Xa-ra vợ ông sẽ có một con trai”.
Ở đây cũng vậy, chúng ta có ấn tượng là mình đang sống trong một câu chuyện thần tiên, ở đó một vị thần linh loan báo cho vua hay hoàng hậu việc chào đời của một hoàng tử hay cô công chúa. Tuy nhiên, phải vượt qua những điểm tương đồng của thể loại văn chương này. Trong những bản văn được biên soạn chín thế kỷ sau khi những biến cố đã xảy ra, chúng ta phải tính đến truyền thống chính truyền, tùy theo mức độ chúng lưu truyền đến chúng ta, đến nghệ thuật kể chuyện và ý định thần học của tác giả linh hứng. Ý định thần học này mới là điểm cốt lõi của chuyện tích này. Vì thế, không được tách riêng chương 18 và chương 19 ra khỏi mạch văn của sách Sáng Thế; hai chương này hình thành nên toàn bộ câu chuyện. Đức Chúa đã thân hành ngự xuống trần gian không chỉ để nói chuyện với ông Áp-ra-ham và lập lại lời hứa ban con trai trước đó với ông một cách chính xác hơn, nhưng còn để trừng phạt những thành phố tội lỗi: thành Xơ-đôm và thành Gô-mô-ra. Trước khi tấn thảm kịch này xảy ra, kinh nghiệm tôn giáo của ông Áp-ra-ham đã trở nên sâu xa – đây là điểm nhắm của bản văn này; kinh nghiệm này sắp giúp cho vị tổ phụ có đủ bạo dạn để can thiệp vào công việc của Thiên Chúa, mà chúng ta sẽ đọc vào Chúa Nhật tới.
BÀI ĐỌC II (Cl 1: 24-28)
Chúng ta tiếp tục đọc Thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-lô-xê, đây là một trong những bức thư được viết khi thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma giữa năm 60-62. Cung giọng thật thống thiết.
Với nhiều cảm xúc, thánh Phao-lô ngỏ lời với các tín hữu Cô-lô-xê về niềm tin của họ có nguy cơ bị biến chất trước mối đe dọa của những giáo thuyết sai lạc. Những đau khổ tù đày cùng với tất cả mọi hoạt động truyền giáo đầy gian nan thử thách của thánh nhân được định vị vào trong cùng cung bậc với cuộc Khổ Nạn của Đức Ki-tô.
1. Những đau khổ sinh nhiều ơn ích
“Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân, cho đủ mức. Như thế là vì lợi ích cho thân thể Người, là Hội Thánh”. Thánh Phao-lô không muốn nói rằng những đau khổ sinh ơn cứu độ của Đức Ki-tô còn thiếu sót. Hy tế của Đức Ki-tô đã là hoàn hảo và hoàn toàn hữu hiệu. Đức Giê-su đã chịu đau khổ để khai sinh Nước Trời; nhưng vương quốc này phải được xây dựng và tăng trưởng không ngừng. Được kêu gọi loan báo Tin Mừng cho muôn dân, thánh nhân mang một nỗi ưu tư đặc biệt đến công việc này. Sứ vụ tông đồ đòi hỏi những nỗi nặng nhọc vất vả. Thánh nhân biết rõ điều này hơn ai hết.
2. “Đức Ki-tô đang ở giữa anh em”
Đây là câu chủ đạo tóm gọn lời loan báo Tin Mừng: mặc khải về sự hiện diện của Đức Ki-tô Phục Sinh, ở nơi Ngài Thiên Chúa đã tỏ mình ra một cách hữu hình. Thánh Phao-lô nhắc lại những khía cạnh cốt yếu giáo huấn của thánh nhân bằng ba động từ: “Chính Người là Đấng chúng tôi ‘loan báo’, khi ‘khuyên bảo’ mọi người và dạy dỗ mọi người, với tất cả sự khôn ngoan Thiên Chúa ban, để giúp mỗi người ‘nên hoàn thiện’ trong Đức Ki-tô, trước mặt Thiên Chúa”. Những lời này nhắm đến những giáo lý sai lạc mà những nhà giảng thuyết mạo danh ở Cô-lô-xê đề xướng: vài người đòi hỏi phải nên hoàn thiện bằng việc tuân giữ luật Mô-sê, còn những người khác thì nhấn mạnh hành động cứu độ đến từ các thiên thần. Thánh Phao-lô cải chính: sự hoàn thiện và ơn cứu độ chỉ được gặp thấy ở nơi Đức Ki-tô. Chỉ mình Ngài mới có thể “ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang”.
3. Hiệp thông các thánh
Trong đoạn trích thư này, chúng ta có một bức phác họa về thần học “Nhiệm Thể của Đức Ki-tô”, mà thánh Phao-lô sẽ khai triển trong Thư gửi tín hữu Ê-phê-xô (cả hai bức thư được viết cùng một thời kỳ). Có một mối liên đới mật thiết giữa các chi thể và Đầu là Đức Ki-tô. Thần học về sự đau khổ được ghi khắc ở nơi sự liên đới này, sẽ được gọi “sự hiệp thông của các thánh”. Từ đó, niềm vui nội tại có thể được liên kết với sự đau khổ.
TIN MỪNG (Lc 10: 38-42)
Câu chuyện ngắn về hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, cả hai đều bày tỏ tấm lòng quý mến Chúa Giê-su bằng hai cách thế khác nhau. Câu chuyện này là một trong những hạt ngọc của Tin Mừng Lu-ca.
1. Bối cảnh
Thánh Gioan cho chúng ta biết cô Mác-ta và cô Ma-ri-a là hai người chị của anh La-da-rô. Thánh Gioan còn mô tả hai cách tiếp đón Chúa Giê-su của hai chị em tương tự như thánh Lu-ca: trong bữa ăn thiết đãi Đức Giê-su ở làng Bê-ta-ni-a, cô Mác-ta lo hầu bàn, còn cô Ma-ri-a ngồi bên chân Chúa Giê-su, lấy dầu thơm quý giá mà xức chân Ngài (Ga 12: 2-3). Thánh Gioan còn cho chúng ta thêm thông tin về gia đình ba chị em này: sau những lần thi hành sứ vụ tại Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su hay ghé thăm gia đình này, họ là những người bạn thân của Ngài ở làng Bê-ta-ni-a cách thành đô Giê-ru-sa-lem không xa: “Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô” (Ga 11: 5, 33; 12: 1-3).
Thánh Lu-ca không ghi rõ địa danh nơi câu chuyện này xảy ra. Về phương diện địa lý, câu chuyện này không thể xảy ra vào lúc khởi đầu cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Chúa Giê-su được vì làng Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem khoảng chừng 3 cây số. Nhưng ý định của tác giả thì rõ ràng, nhằm đưa ra một giáo huấn bổ túc cho dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành”. Ở dụ ngôn này, Chúa Giê-su mở rộng huấn lệnh “yêu người” khi đảo ngược câu hỏi của kinh sư, không phải “ai là người thân cận của tôi”, mà “tôi phải là người thân cận của bất kỳ ai cần đến sự cứu giúp của tôi”. Tại nhà cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, Chúa Giê-su muốn cho hiểu rằng “mến Chúa” phải đặt ưu tiên hàng đầu trong tất cả mối bận lòng của con người.
2. Hai cách đón tiếp với trọn một tấm lòng
Trong câu chuyện này, chúng ta không thấy nói tới cha mẹ của họ, nếu có họ phải là gia chủ ra chào hỏi khách. Vì thế, chúng ta có thể hiểu hoàn cảnh của gia đình này, cha mẹ đã qua đời sớm, ba chị em đùm bọc nhau. Với tư cách là chị cả, cô Mác-ta quán xuyến mọi việc trong gia đình; vì thế trong việc đón tiếp Chúa Giê-su, cô bận rộn lo toan đủ mọi thứ hầu bày tỏ tấm lòng quý mến của cô đối với Chúa Giê-su, Ngài không chỉ là khách mời mà còn là một người bạn quý của gia đình.
Từ lúc Chúa Giê-su bước vào nhà, cô em là Ma-ri-a “cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy”. Thái độ như vậy xem ra không phù hợp với phong tục tập quán vào thời đó cho lắm, vì phụ nữ không được phép dự phần vào giáo huấn của các kinh sư. Chúng ta chẳng có gì phải ngạc nhiên khi gặp thấy nét bút này của thánh Lu-ca, thánh ký rất quan tâm đến sự hiện diện của các người phụ nữ trong vòng thân cận với Chúa Giê-su trong công cuộc truyền giáo của Ngài bằng cách góp công góp của vào sứ vụ của Ngài (Lc 8: 1-3).
Cô Mác-ta tất bật lo việc phục vụ Chúa với một bữa ăn, còn cô Ma-ri-a thì ngồi bên chân Chúa mà lắng nghe lời Ngài. Vì thế, cô Mác-ta nóng ruột thưa với Chúa bằng giọng hờn trách: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo em con giúp một tay”. Cô tin rằng Chúa cũng đồng ý với cô; ấy vậy, Chúa Giê-su chẳng những trách khéo cô mà còn bênh vực cô Ma-ri-a nữa: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Cô Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.
3. Phục vụ và lắng nghe
Với lối chú giải ẩn dụ đặc thù của mình, các Giáo Phụ đã đọc thấy nơi công việc phục vụ của cô Mác-ta và nơi việc lắng nghe lời Ngài của cô Ma-ri-a hai cách thế hiện diện không thể thiếu của Giáo Hội trong cuộc sống tại thế: đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động. Trong hai công việc đó, việc“Ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Ngài” phải là ưu tiên, bởi vì việc lắng nghe Lời Chúa khơi nguồn và định hướng cho mọi công việc phục vụ của Giáo Hội. Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca thường ghi nhận rằng ngay từ sáng sớm Chúa Giê-su một mình đi vào nơi thanh vắng để trò chuyện với Chúa Cha trước khi bắt đầu một ngày mới bận rộn với sứ vụ của mình.
Tuy nhiên, Đức Giê-su cũng đã không bao giờ coi thường công việc phục vụ. Khi các môn đệ tranh cãi với nhau xem ai trong nhóm họ là người lớn nhất, Chúa Giê-su căn dặn các ông: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22: 24-27).
Điều Đức Giê-su quở trách cô Mác-ta không phải vì cô lo lắng phục vụ Ngài cho thật chu đáo và nồng hậu, nhưng vì cô để hết cả tâm trí vào việc phục vụ đến mức xao lãng một hình thức tiếp đón khác: ngồi hầu chuyện với khách mời của mình, đó mới là điều quan trọng bậc nhất trong trường hợp này, bởi vì lời mà cô Ma-ri-a lắng nghe chính là Lời Thiên Chúa. Việc lắng nghe Lời Chúa quan trọng đến mức mà chỉ một lúc sau đó chỉ một mình thánh Lu-ca ghi lại câu chuyện về một người phụ nữ trong đám đông ca ngợi công sinh thành của mẹ Ngài: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”, Chúa Giê-su trả lời cho người phụ nữ này và cho cả đám đông nữa: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11: 27-28). Phải đặt ưu tiên cho một chuyện cần thiết bậc nhất: lắng nghe Lời Chúa. Có lắng nghe Lời Chúa mới biết Chúa muốn chúng ta làm gì trong giây phút hiện tại và dấn thân phục vụ Ngài ở nơi anh chị em mà chúng ta găp gỡ trong cuộc sống hằng ngày.
Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô là ba chị em ở Bê-ta-ni-a, đây là một gia đình quen thuộc, thân tình TN 16-C132
Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô là ba chị em ở Bê-ta-ni-a, đây là một gia đình quen thuộc, thân tình, nghĩa thiết mà mỗi khi lên Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su thường ghé qua nghỉ ngơi như quán trọ. Rồi một hôm, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa đến cùng với các môn đệ, cả hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a đón tiếp Chúa, nhưng theo hai cách thức khác nhau: Mác-ta cho rằng phải lo tiếp đãi cho khách ăn uống đàng hoàng mới làm hài lòng khách, nhất là đối với Chúa Giê-su, là khách quý của gia đình. Có lẽ nhiều người chúng ta cũng nghĩ như thế. Còn Ma-ri-a thì lại nghĩ khác, cô có một cái nhìn sâu sắc hơn, cao hơn: lâu lâu Chúa mới đến thăm nhà một lần, chắc có nhiều điều muốn nói, và như Chúa đã từng nói: Ngài không đến để được phục vụ mà đến để rao giảng tin mừng nước trời, nên điều quan trọng là phải tiếp chuyện Chúa. Quả thực, Ma-ri-a đã đoán đúng ý Chúa và Chúa đã cho biết Chúa ưng cách tiếp đón của Ma-ri-a hơn: chỉ có một điều cần mà thôi, đó là lắng nghe lời Chúa.
Không phải cô Mác-ta không nghe lời Chúa, nhưng cô đã đặt lộn giá trị, cho việc nghe lời Chúa xuống hàng thứ hai sau việc nội trợ. Còn cô Ma-ri-a cũng không phải là không nghĩ tới chuyện ăn uống cho Chúa và các tông đồ lúc ấy, nhưng cô đã đặt đúng địa vị nghe lời Chúa là ưu tiên. Lời Chúa là lời hằng sống, là ánh sáng, là lời cứu rỗi, là sự sống, linh nghiệm sắc bén hơn gươm hai lưỡi, hơn cả các thực phẩm trần gian: “Người ta sống không chỉ bằng cơm bánh mà còn sống bởi lời Thiên Chúa”. Lời Chúa cao quý và giá trị như thế, nên Chúa bảo: Hãy lắng nghe lời Chúa. Đó cũng là lời Chúa nhắn nhủ chúng ta.
Biết lắng nghe, đó là một nghệ thuật khó hơn người ta tưởng, rất ít người biết lắng nghe thật sự, bởi vì người ta thích nói hơn là thích nghe. Đa số chúng ta đều mắc phải một lầm lẫn lớn là trong mọi việc giao thiệp, thảo luận với mọi người, chúng ta thích nói mà quên mất người đối thoại, chúng ta quên mất một điều là chúng ta có hai tai và một miệng, như vậy, đáng lẽ chúng ta phải nghe nhiều hơn nói. Nhưng sự thực thì phần đông chúng ta đều nói nhiều hơn nghe, nhất là chúng ta không biết nghe. Biết nghe là cả một nghệ thuật, vừa tế nhị vừa khó khăn, mà chỉ những người nào đã từng sống, từng kinh nghiệm mới thấu triệt được.
Ở nước Mỹ, trong nhiều tiểu bang, người ta mở phòng làm việc mệnh danh là “phòng nghe giùm tâm sự” với lời quảng cáo như sau: “Chúng tôi sẽ cung cấp cho thân chủ những người biết nghe chuyện, có khả năng lão luyện để nghe các bạn nói, lâu bao nhiêu tùy ý, mà không làm gián đoạn lời nói của các bạn, số tiền thù lao rất phải chăng”. Ở tiểu bang Phờ-lo-ri-đa, có một bà trở nên triệu phú với cái nghề nghe tâm sự của người khác, và bà tính tiền thù lao rất mắc, thế mà người ta vẫn đổ xô đến để giãi bày nỗi niềm với bà. Người ta nói rằng: ở các tòa soạn báo chí, người nhận được nhiều thư nhất của độc giả là người nghe tâm sự của độc giả, là những người phụ trách mục “gỡ rối tơ lòng” hoặc “tâm tình của bạn”.
Để chứng minh “biết nghe” là bí quyết quan trọng đắc nhân tâm và thành công trên đường đời, sau đây là một trường hợp: Ông Al-len, người duy nhất đã liên tiếp làm cố vấn riêng cho hai vị tổng thống thuộc hai đảng đối lập ở Mỹ: đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ. Ông Al-len không quen biết gì tổng thống Rô-sơ-veo, nhưng ông đã được tổng thống mời làm cố vấn riêng, không phải vì ông đã khoe tài, khoe khôn với tổng thống, nhưng chính vì ông đã biết nghe hơn là biết nói. Khi ông Tru-man, thuộc đảng Dân chủ, kế vị ông Rô-sơ-veo tại tòa bạch ốc, người ta tưởng ông Al-len sẽ phải về vườn, vì thường thường một vị tổng thống bao giờ cũng tìm người thân tín của mình, người “đồng chí” thuộc đảng mình làm cố vấn, chứ không bao giờ chọn một người đã từng làm cố vấn cho vị tổng thống thuộc đảng đối lập. Vậy mà sau 30 phút tiếp chuyện với ông Al-len, tổng thống Tru-man lại mời ông Al-len làm cố vấn. Một phóng viên đã hỏi ông Al-len tại sao tối nào tổng thống cũng mời ông tới bạch cung nói chuyện trong khi các ông tai to mặt lớn khác thì phải chầu chực mà vẫn không được tiếp? Ông Al-len trả lời: “Tôi biết nghe”. Tóm lại, muốn thành công, muốn chiếm được cảm tình của người khác, chúng ta cần biết nghe hơn là biết nói.
Trong phạm vi siêu nhiên cũng vậy, nhiều khi chúng ta không nhận ra được sự hướng dẫn của Chúa, không nghe được tiếng nói của Chúa, chỉ vì chúng ta thiếu sự yên lặng lắng nghe cần thiết. Chúng ta khó mà nghĩ rằng Thiên Chúa nói với chúng ta, thế mà Ngài vẫn không ngừng nói với chúng ta đấy. Thế thì tại sao chúng ta lại không nghe ra tiếng của Ngài? Chỉ vì chúng ta không ở trong tư thế sẵn sàng lắng nghe. Nếu cái máy của chúng ta không mở, làm gì chúng ta nghe được chút nhạc nào trong phòng, nhưng căn phòng của chúng ta vẫn đang đầy ắp nhạc, chỉ cần mở máy ra là thu được ngay. Chúng ta phải thu lấy tiếng nói của Chúa, Ngài đang ngỏ lời với chúng ta qua Kinh Thánh và qua cuộc sống. Nhưng để nghe được tiếng Ngài giữa những âm thanh ồn ào đang làm rối tiếng Ngài nói, chúng ta phải lắng nghe theo một làn sóng thuộc về riêng Ngài. Làn sóng ấy Ngài sẽ chỉ cho ai biết xin Ngài và biết lắng nghe Ngài trong sự lặng lẽ âm thầm.
Nói rõ hơn, cuộc sống có quá nhiều bận rộn và ồn ào khiến chúng ta không nghe được tiếng nói và không nhận ra được sự hiện diện của Chúa. Có những ồn ào của những bận tâm thái quá cho danh vọng, cho tiền của, cho tương lai; có những ồn ào của tham lam giành giựt, không đếm xỉa đến người khác; có những ồn ào của sôi sục thù hận. Tuy nhiên, dù hằng ngày phải vật lộn với cuộc sống, chạy lo cơm áo, vất vả với đủ thứ công việc; dù hằng ngày luôn phải sống trong bồn chồn lo lắng và giữa muôn vàn tiếng động, chúng ta vẫn phải cố dành ra ít phút thinh lặng cho riêng mình. Bởi vì có thinh lặng chúng ta mới nghe được tiếng thì thầm mời gọi của Chúa, có thinh lặng chúng ta mới nghe được lời an ủi, đỡ nâng của Ngài, có thinh lặng chúng ta mới nghe được tiếng dội của lương tâm kêu gọi, nhắc nhở, thôi thúc sống có ý nghĩa hơn và sống đúng tính cách một người tín hữu của Chúa hơn.
Tin mừng chúa nhật 16 thường niên C là trình thuật Đức Giêsu đến một làng kia và vào thăm nhà TN 16-C133
Tin mừng chúa nhật 16 thường niên C là trình thuật Đức Giêsu đến một làng kia và vào thăm nhà của chị em Martha, Maria và Lazarô. Vào lúc này, Đức Giêsu đang lên đường đi Giêrusalem. Thánh Luca đã tập hợp các lời giảng của Đức Giêsu cho các môn đệ về sứ vụ, quyền lợi và trách nhiệm của họ. Trong đoạn Tin mừng hôm nay, thánh Luca muốn nói đến điều quan trọng nhất của người môn đệ đích thực là biết lắng nghe lời của Đức Giêsu. Maria đã tiếp đón Đức Giêsu bằng cách ngồi dưới chân Người, lắng nghe lời Người như một môn đệ trước Thầy của mình. Maria đã đặt toàn tâm toàn ý của mình trước Thầy để học biết cách sống. Như thế, tiếp đón một người tức là để cho người đó nói lên và mở lòng đón nhận những gì được ban phát.
Tương phản với hình ảnh của Maria là Martha. Martha lo lắng, bận rộn với việc tiếp đón Đức Giêsu. Bà muốn lòng hiếu khách của mình phải được đánh giá tốt. Bà muốn được sự giúp đỡ: "Lạy Thầy, em tôi để tôi hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em tôi giúp tôi với" (c.40). Martha tìm cách để Đức Giêsu và cô em Maria nhìn nhận sự hy sinh của mình. Dường như Martha muốn nói "Thưa Thầy, Thầy không thấy sao, Thầy không nhận ra những gì tôi đã làm cho Thầy sao, Thầy chẳng cảm thông với những lo lắng của tôi sao?"
Maria là hình ảnh của người lắng nghe lời Chúa. Martha là hình ảnh của người phục vụ Thiên Chúa, nhưng theo cung cách riêng của mình. Và câu kết luận của Đức Giêsu đã làm cho mọi việc được rõ ràng "Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị ai lấy mất" (c.43).
Người môn đệ đích thực là người lắng nghe lời Chúa để học biết cách sống ở đời. Tin mừng không thuật lại Đức Giêsu nói gì với Maria. Trong bối cảnh đơn giản và thân tình như thế, có lẽ Đức Giêsu đã dạy Maria làm thế nào để sống ở đời? Khi viết lại câu chuyện này, thánh sử Luca đã không lưu tâm đến nội dung cuộc trò chuyện, nhưng sự hiện diện của Đức Giêsu và sự đón tiếp theo cung cách của Maria mới là điều quan trọng. Đức Giêsu hiện diện như một quà tặng của Thiên Chúa, như một ân sủng và lời của Người là một Tin mừng. Người môn đệ đích thực phải nhận ra điều này. Trong khi Maria đón tiếp Đức Giêsu bằng cách ngồi dưới chân và lắng nghe lời Người thì Martha đã đón tiếp Người bằng cách "bận rộn với việc thiết đãi" (c.39). Martha cũng đã làm một điều tốt, nhưng một điều tốt muốn được đánh giá, muốn được nhìn nhận, muốn được gọi tên, thì điều tốt đó sẽ chẳng còn tốt nữa. Những người Pharisêu vào thời Đức Giêsu đã chẳng muốn người khác nhìn nhận sự công chính, cống hiến của mình đó sao? Phản ứng của Martha cũng là một phản ứng tự nhiên và "hết sức con người". Có lẽ chúng ta cũng thế thôi: Muốn được người khác nhìn nhận, đánh giá những cống hiến của mình. Chúng ta muốn "phần thưởng ngay" và như thế đánh mất phần thưởng mà Cha trên trời hứa ban cho (Mt 6,-13). Dường như trong thái độ của Martha có một chút ghen tương. Bà sợ Maria được Đức Giêsu quan tâm hơn, và Bà muốn Maria phục vụ Đức Giêsu theo cung cách của mình, dưới sự chỉ đạo của mình. Có lẽ chúng ta cũng thế thôi! Chúng ta khó chấp nhận người khác khi họ không theo cung cách phục vụ của chúng ta. Đây quả là một cám dỗ lớn cho những người muốn phục vụ Thiên Chúa và anh chị em mình.
Như thế, nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu, lắng nghe lời Người, đón tiếp và phục vụ Người là điều người môn đệ đích thực phải làm.
Lạy Chúa, Lúc nào Chúa cũng hiện diện ở đó, trong cuộc sống con. Nhưng tiếng ồn ào của những đam mê khiến con không còn nhận ra lời mời gọi của Chúa. Xin tha thứ cho con, và xin ban cho con có đôi tai luôn biết mở rộng để nghe được tiếng Chúa đang mời gọi. Xin ban cho con có đôi mắt luôn trong sáng để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong từng phút giây của cuộc sống. Amen.
Trên đường đi Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu ghé vào nhà một người quen. Hai chị em Mácta và Maria TN 16-C134
Trên đường đi Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu ghé vào nhà một người quen. Hai chị em Mácta và Maria đón tiếp Đức Giêsu, nhưng mỗi người một cách. Thái độ của Maria đúng là thái độ của các môn đệ trước Thầy mình (Lc 8,35; Cv 22,3; Lc 7,38; 8,41; 17,16). Đó cũng là bổn phận đầu tiên của người môn đệ đích thực (Lc 6,47; 8,43; 15,21). Trong khi đó, Mácta lăng xăng lo tiếp đón: là chủ nhà, cô muốn tiếp đón Đức Giêsu cách chu đáo, để bày tỏ lòng kính trọng. Cô đã lấy phương tiện làm mục đích: chú ý nhiều đến việc tiếp đón hơn là thái độ tiếp đón. Người khách đến nhà chỉ là cái cớ để cô tỏ hiện, làm nổi lên cách sắp xếp công việc của mình. Ở đây, có thể nói thêm rằng đó chính là cách thế duy nhất mà xã hội nhường cho người phụ nữ để họ tự khẳng định chính mình.
Chính vì ý nghĩ ấy, cô không thể hiểu được thái độ vô vi của cô em, vì cô này không chịu tham gia vào công việc người chị đang quan tâm. Đàng sau phản ứng này, người ta có thể nhìn thấy một thái độ nhằm lôi kéo sự chú ý của người khác. Mácta lên tiếng nhằm hướng sự chú ý của Đức Giêsu vào vũ trụ của mình, vào thế giới đóng kín của mình mà dường như Đức Giêsu không quan tâm. Đức Giêsu đang ở trong nhà của cô, nhưng lại không nói điều gì với cô. Do đó, không hẳn cô chỉ mong muốn cô em đứng dậy, không ngồi bên cạnh Đức Giêsu nữa, mà đứng dậy, lo dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa ăn. Cô quá chắc chắn về phán đoán của mình, đến nỗi đã nói với giọng điệu trách móc, và cô nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ ủng hộ ý kiến của mình. Cô đòi một thứ quân bình: cô đang cô độc, và cô mong muốn cô em phải chia sẻ tình trạng ấy của mình.
Đúng ra là được tiếp đón
Nhưng Mácta đã lầm. Đức Giêsu đã không bảo Maria đi giúp Mácta, mà lại còn cho thấy việc làmcủa Maria là đúng: "Mácta, Mácta ơi! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy đi." Thế đấy, cái vất vả lăng xăng của Mácta từ nãy đến giờ, tưởng rằng có giá trị thì lại thua kém thái độ yên lặng của Maria. Lời nói nhẹ nhàng nhưng đầy trách móc của Đức Giêsu có thể làm Mácta hờn dỗi, buồn phiền. Thật ra, những lời này chỉ có thể hiểu được khi đặt vào trong tương quan mật thiết với chủ đề Tin Mừng Lên Đường - Lên đường đi Giê-ru-sa-lem, lên đường tìm Nước Thiên Chúa, lên đường hướng về Nước Trời.
Khi quở trách Mácta lo lắng xôn xao nhiều chuyện, Đức Giêsu lấy lại đề tài đã được trình bày nhiều lần trong các bài giảng dạy của Người về sự lo lắng: lo lắng bênh vực khi bị bắt (Lc 12,11; Mt 10,19), lo lắng về của ăn áo mặc (Lc 12,22-26; Mt 6,25-34), lo âu làm chết ngạt hạt giống Lời Chúa (Lc 8,14; Mt 13,22; Mc 4,19) và lòng trí nặng nề (Lc 21,34). Sự lo lắng ấy bị lên án vì làm tín hữu quên mất điều chính yếu: tuyên xưng đức tin vào Con Người (Lc 12,7-9), tìm kiếm Nước Thiên Chúa (Lc 12,31), đón nhận Lời (Lc 8,11-15), trông đợi ngày của Con Người (Lc 21,34-36).
Tuy thế, điều quan trọng không phải là việc Đức Giêsu quở trách thái độ ghen tị của Mácta, hay kiểu tiếp khách không lịch sự của cô. Không phải vấn đề lịch sự (cách thức), và còn hơn cả sự ân cần (tấm lòng), mà chính là một tương quan cứu độ. Không phải là vấn đề có phục vụ Chúa hết mình không, nhưng là có để cho Chúa phục vụ mình không, có lắng nghe được tiếng Chúa mời mọc, có được đón nhận trong tình yêu thương của Người không. Trong việc tiếp đón này, có một sự trao đổi ý nghĩa, người tiếp đón trở nên được tiếp đón, người phục vụ trở nên được phục vụ, bởi vì "Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và đổ máu ra làm giá cứu chuộc cho muôn người."
Trong việc tiếp đón này, không được tự hào vì mình đã cho điều gì quý giá, nhưng là cảm ơn vì điều mình đã nhận còn quý giá hơn nhiều. Đó có thể là mối liên hệ ngọt ngào giữa con người với nhau, đó có thể là tình yêu bắt đầu từ đôi mắt, đó có thể là... nhưng nói chung, đó chính là ân sủng tình yêu và cứu độ của Thiên Chúa.
Nói thế, không có nghĩa là Đức Giêsu coi thường việc tiếp đón có tính cách vật chất, nhưng nồng hậu của Mácta, nhưng Người muốn xếp lại giá trị, mà quan trọng nhất là lắng nghe Lời Chúa như Maria đã làm.
Phần tốt nhất
"Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy đi." Phải chăng Đức Giêsu muốn đề cao đời sống chiêm niệm hơn là đời sống hoạt động? Có người muốn giải thích câu Tin Mừng này theo nghĩa này. Tác giả Tin Mừng không có ý đó, và người đọc cũng không nên phân biệt như thế.
Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng giải thích cách đơn giản: "Tôi biết rằng nếu những bông hoa nhỏ muốn trở thành những bông hồng, thì thiên nhiên sẽ chẳng còn vẻ huy hoàng... Tôi hiểu rằng Thiên Chúa bày tỏ cho người đơn sơ cũng như cho những tâm hồn cao cả."
Trong một thế giới mà đời sống được đồng hóa với sự hiệu năng, làm được coi như vượt lên trên hiện diện. Người ta xét đoán nhau dựa trên việc làm hơn là sự có mặt. Người ta không thể hiểu nổi tại sao có nhiều bạn trẻ ở bên nhau, nói với nhau, lắng nghe nhau. Chuyện gì mà nhiều vậy?
Như vậy, phần tốt nhất, đích thực nhất là để cho Thiên Chúa đón tiếp, để cho người khác bày tỏ mình. Không hẳn chỉ là làm việc, nhưng còn là đón nhận, là sống với người khác.
Đàng khác, cũng có thể áp dụng bài Tin Mừng vào trong đời sống đạo của chúng ta. Phản ứng tự nhiên của Mácta thường cũng là phản ứng của chúng ta. Chúng ta tìm cách làm tăng giá trị của mình trước mặt người khác bằng cách phô bày những hành động của mình. Một lần nào đó, chúng ta cố gắng làm cho mình nổi bật bằng việc phục vụ Chúa để rồi nghĩ rằng mình hơn người khác và người khác phải noi gương ghen tương trong thái độ cư xử: chúng ta sợ Chúa để ý đến người khác mà quên để ý đến chúng ta: chúng ta muốn kéo Chúa về phía mình. Chúa đâu tầm thường vậy, Người thấy hết và hiểu hết, đồng thời Người yêu thương tất cả mọi người.
Dầu sao, bài Tin Mừng này vẫn muốn cho ta hiểu rằng:chỉ có một điều cần, một điều cấp thiết là: lắng nghe Lời Chúa. Lắng nghe Chúa và để Chúa tiếp đón; đó là phần tuyệt hảo, không có gì sánh bằng.
Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con trước khi chúng con yêu mến Chúa.
Buổi sáng, ngay khi thức dậy, con hướng tâm hồn lên cùng Chúa và cầu nguyện, thì Chúa đã có đó và đã yêu thương con.
Khi con bỏ cuộc vui chơi giải trí và lắng tâm hồn lại, để nghĩ đến Chúa, thì Chúa đã yêu thương con rồi.
Trên đường hướng về Giêrusalem, cách thành Thánh ba cây số, Chúa Giêsu ghé lại Bêtania, nơi ở TN 16-C135
Trên đường hướng về Giêrusalem, cách thành Thánh ba cây số, Chúa Giêsu ghé lại Bêtania, nơi ở của Mácta, Maria và Lagiarô, một gia đình mà Ngài rất quen thân và vẫn thường lui về nghỉ ngơi trong những dịp thi hành chức vụ tại thủ đô. Không có nơi nào tính cách nhân loại mà Luca chủ trương phác hoạ được diễn tả trọn vẹn nơi đây, trong khung cảnh đầm ấm của gia đình, mà cũng khó gặp được một bức hoạ tâm lý sống động hơn. Có người tưởng tượng rằng Mácta là người khô khan nhưng cương nghị và đắc lực, còn Maria thì đôn hậu, đa cảm và lười. Thật ra cả hai chị em đều có những đức tính đáng khen, cả hai đều yêu kính Thày và ước ao làm vui lòng Thầy. Nhưng trong dịp này vì lòng nhiệt thành phục vụ, Mácta đã làm việc quá nhiều để sửa soạn một bữa ăn ngon lành. Còn Maria vì trực giác hơn được điều Chúa muốn nên cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Nàng biết Ngài mong ước được mạc khải chính mình, muốn ban cho họ những sứ điệp từ trời, không phải vì lợi ích cho Ngài, mà vì phần rỗi của nhân loại. Bởi vậy, theo nghệ thuật tiếp khách, nàng phải để ý đến ý muốn của vị khách trước. Trong việc tiếp đãi Thầy, nàng đã làm được việc lớn hơn chị nàng.
“Mácta tất bật lo việc phục vụ.” Nàng bù đầu với nhiều công việc mình muốn làm. Một kẻ theo Chúa có thể cố gắng thái quá, đôi khi điều đó bị thúc đẩy do cảm giác tự tôn và kiêu hãnh. Điều đó đã khiến cho người ta cáu kỉnh như Mácta khi nàng chỉ trích em mình, làm giảm giá em mình trước mặt vị khách của cả hai, vì câu nàng nói với Chúa ngụ ý trách cả Chúa nữa: “Em con để con một mình phục vụ Thầy mà Thầy không quan tâm sao?”
Đáp lại Chúa tỏ lòng ưu ái bằng cách thân mật gọi tên nàng, nhưng trách nhẹ tinh thần của nàng và bày tỏ nguồn gốc của tinh thần ấy: “Mácta! Mácta! Chị băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã không chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” Ý Ngài muốn nói: không cần phải một bữa ăn thịnh soạn, một và món cũng đủ rồi, nhưng có một điều cần thiết, điều ấy Maria đã chọn.
Chúng ta thử tìm hiểu những bài học nơi đây:
1) Nó bày tỏ sự va chạm giữa những tính tình khác biêt.
Có người thì tự nhiên hăng hái hoạt động, lại có người khác ưa trầm tĩnh. Thật khó cho một người năng nổ hiểu một người chỉ thích ngồi yên để trầm tư mặc tưởng, ngược lại người trầm tư mặc tưởng lại thường khinh dể những người cứ luôn tay luôn chân. Không có vấn đề phải trái ở đây, Thiên Chúa đã không dựng nên mọi người giống nhau. Thiên Chúa cần có những người như Maria, nhưng Ngài cũng cần những người như Mácta, và cả hai người đó đều phục vụ Chúa. Không ai được độc quyền phục vụ Chúa hay chủ trương rằng chỉ có cách mình phục vụ chính đáng.
Trong một cuộc lễ trọng, trên bàn thờ chưng đầy hoa nến, một cây nến được cắm giữa chậu hoa, đến cuối lễ, cây nến cháy hao dần và sức nóng toả ra làm các cánh hoa rũ rượi cụp xuống. Hoa than thở với nến! Chị và chúng em cùng phụng thờ Chúa, sao chị lại đốt rụi chúng em!
2) Nhưng ở đây còn có một bài học nữa: Bài học về một thứ lòng tốt sai lầm.
Hãy nghĩ đến chỗ Chúa Giêsu đang đi đến khi chuyện này xảy ra. Ngài đang trên đường đến Giê-ru-sa-lem. Toàn thể hồn xác Chúa đang lâm vào một cuộc chiến đấu nội tâm để làm cho ý muốn của Ngài hiệp nhất với ý muốn của Thiên Chúa. Khi Chúa Giêsu tới gia đình này, đó là một ngày trọng đại cho họ, để mừng ngày trọng đại này Mácta rất muốn thực hiện một điều tốt nhất gia đình có thể thực hiện. Vì thế nàng chạy ngược chạy xuôi, nấu nướng, và đó chính là điều Chúa Giêsu không muốn. Ngài chỉ muốn một điều là được yên tĩnh. Với hình ảnh thập giá ở trước mắt cùng một sự căng thẳng trong tâm hồn, Ngài đã rẽ bước về Bêtania để tìm một chỗ lặng lẽ nghỉ ngơi, dầu chỉ được một hai tiếng đồng hồ, để tránh xa đám quần chúng quá nôn nao đòi hỏi, và để có thể chia sẻ tâm tình với bạn thân để lòng vơi đi nỗi căng thẳng. Đó là điều Maria đã đem đến cho Ngài và đó cũng là điều mà Mácta vì lòng tốt đã làm hết sức để phá đi. “Chỉ một việc cần” câu ấy có thể có ý “Ta không muốn một bàn đầy thức ăn, Ta chỉ cần một món thật đơn giản.” Maria hiểu, còn Mácta thì không hiểu được. Đây là một trong những khó khăn của cuộc đời. Thường thì chúng ta muốn tử tế với mọi người, nhưng tử tế theo cách của chúng ta. Nếu cách thế của chúng ta không được thừa nhận, chúng ta cảm thấy dễ phận lòng tưởng rằng người ta không trọng mình.
Nếu chúng ta đang cố gắng ăn ở tốt với người khác, trước hết chúng ta phải hiểu ý của người mà mình muốn giúp đỡ, rồi chúng ta phải quên những chương trình của mình và chỉ nghĩ đến điều mà người đó đang cần.
Trong lịch sử nước Mỹ, trong những ngày đen tối nhất của cuộc nội chiến Nam Bắc, Lincoln viết thư mời ông bạn cũ ở xứ Illinois tới Washington để thảo luận vài vấn đề. Ông bạn tới bạch cung và Lincoln nói với ông trong mấy tiếng đồng hồ về tờ thông báo ông định công bố để thủ tiêu chế độ nô lệ. Tổng thống ôn lại tất cả các lý lẽ bênh vực cho các đạo luật ấy và những lý lẽ phi bác lập trường đối nghịch. Ông lại đọc cả những bức thư và bài báo về vấn đề đó, trong đó có nhiều người trách ông chần chừ chưa phế bỏ chế độ nô lệ, lại có những bài chỉ trích vì ông có ý tiến hành việc ủng hộ chế độ nô lệ. Sau khi hăng hái nói một hồi lâu Lincoln bắt tay ông bạn già chúc ông ta bình an và tiễn ông ta trở về Illinois, chẳng hỏi ý kiến gì hết. Lincoln đã nói, đã chút bỏ những nỗi suy nghĩ đang đè nặng trong lòng ông, như vậy đầu óc ông được sáng suốt. Ông bạn già kể lại: “Khi Lincoln nói xong rồi, ông ấy bình tĩnh hơn.” Lincoln chỉ cần một người bạn thân biết nghe ông nói và hiểu lòng ông để ông trút bầu tâm sự của ông thôi.
Chúa Giêsu yêu thương Mácta và Mácta cũng yêu mến Chúa, thế nhưng khi Mácta tỏ lòng tốt, thì lại chỉ tốt theo cách của nàng, điều mà thực sự không tốt với Đấng mà tâm hồn đang khao khát sự yên tịnh, sự thân mật. Chúa Giêsu yêu Maria vì Maria yêu Chúa, Maria cũng hiểu biết Chúa nữa.
Một cha sở miền quê có bà bếp tên là Matta. Mỗi lần bà nghe bài Phúc Âm mà chúng ta vừa TN 16-C136
Một cha sở miền quê có bà bếp tên là Matta. Mỗi lần bà nghe bài Phúc Âm mà chúng ta vừa nghe, bà lại lẩm bẩm: “Phải rồi, Maria đúng, Matta sai. Nhưng ai đã lau nhà, nấu ăn, rửa chén ? Ai đã đi chợ, giặt giũ, quét sân ? Nếu tôi không làm, ai làm đây? Nếu tôi chỉ việc ngồi, nghĩ, bàn những điều thiêng liêng rồi vào nhà thờ cầu nguyện riêng thì cứ đến giờ ăn mà đói meo !” Ý nghĩ của bà Matta nào đó lại không phải là ý nghĩ của nhiều người trong chúng ta sao ? Phải giải thích thế nào cho bà Matta đó, khi bà nghe đoạn Lời Chúa hôm nay ?
A- Những giải thích trước đây (dựa theo truyền thống):
1. Con lo lắng nhiều quá. Chỉ cần một mà thôi.
Chúa trách Matta lo phục vụ nhiều quá. Chúa chỉ cần… đơn giản và thanh đạm, phù hợp với thói quen và lời chúc phúc “nghèo khó” của Ngài. Tóm lại, đơn giản thôi, đừng bày vẽ gì nhiều. Cũng trong chiều hướng này, có bản dịch đã chuyển ngữ cách nói của Chúa như sau: Con lo nhiều món quá, chỉ cần một món là đủ. Cơm canh là đủ. Vậy thì mình con làm được rồi. Đâu cần gọi thêm Maria.
2. Tượng trưng cho hai đời sống
Nhưng chắc chắn bài học của Chúa đâu chỉ giản đơn như vậy. Vì sau khi phê phán Matta, Chúa Giêsu còn nêu Maria như mẫu gương phải theo: “Cô ta chọn phần tốt nhất”. Bởi thế Origène (185-245) đã giải thích như sau (và lời giải thích này ảnh hưởng trên truyền thống tu đức của Tây Phương đến bây giờ): Matta tượng trưng cho đời hoạt động. Maria tượng trưng cho đời chiêm niệm. Mầu nhiệm Tình yêu không còn trong đời sống hoạt động nữa, nếu lời dạy và huấn đức không đưa tới việc chiêm niệm … Đối với Origène, hai chị em tượng trưng cho hai thái độ mà một môn đệ trọn lành không thể tách rời. Nhưng hoạt động phải hướng về chiêm niệm, cầu nguyện. Chúng ta sẽ phải trở lại với lời giải thích của Origène.
3. Thánh Augustino giải thích bằng cách ví von: Matta và Maria đón Chúa trong nhà mình, nhà như là Giáo hội. Matta là Giáo hội chiến đấu. Maria là Giáo hội khải hoàn. Giống hệt như Augustinô giải thích về Phêrô và Gioan tông đồ.
B- Giải thích cho hôm nay
Lời giải thích của Origène vẫn còn giá trị. Tức là:
1. Hoạt động, phục vụ vẫn có giá trị.
-Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cũng hiểu như vậy. Nếu bài đọc I trong các Chúa nhật Thường Niên thường dùng để giải thích cho Bài Tin Mừng, thì Bài đọc I hôm nay Giáo hội cho đọc sách Sáng Thế thuật chuyện Abraham đón tiếp khách: mời khách vào nhà, lấy bột làm bánh, bắt dê làm thịt, đứng hầu quạt khách. Một thái độ phục vụ chẳng khác gì Matta. Nếu xem chỉ chiêm niệm là giá trị thì Bài Đọc I phải là bài Elia lên núi Khoreb gặp Chúa chứ ! Rồi không phải chỉ Abraham, chính Chúa Giêsu cũng nêu gương phục vụ: Ngài hoá bánh ra nhiều, chữa lành bệnh tật, dẹp yên bão tố, xua trừ ma quỉ…, tất cả đều là phục vụ, chứ đâu phải suốt ngày lên núi cầu nguyện một mình. Vì thế phục vụ vẫn có giá trị của nó.
-Một cha xứ kia ghi nhận trên Tờ Thông Tin: Mỗi xứ đạo chỉ cần một Matta thôi sao ? Phải thay đổi điều này. Cần 100 Matta. Phải xắn tay áo lên và hãy sẵn sàng. Nhờ có những Matta mà ngân sách của họ đạo ổn định, nhà thờ nhà xứ được sửa sang, sạch sẽ…, trẻ em bò trên nền nhà vẫn không dơ bẩn. Bạn không nhớ ơn những Matta cho đến khi Matta biến mất, và nhà thờ chỉ còn lại những Maria đọc kinh. Bấy giờ các Maria sẽ bắt đầu rối lên đi tìm chìa khoá, chổi quét, khăn lau, tắt đèn, tắt quạt. Phải. Những Matta là những người năng nổ của xứ Đạo. Họ giữ cho xứ Đạo sinh hoạt sống động mỗi ngày.
Nhưng Matta cũng phải có lúc là Maria: đó là lúc cầu nguyện, lúc nghỉ ngơi.
2. Nhưng trên phục vụ, phải là cầu nguyện: cầu nguyện trên hết.
-Một sĩ quan Pháp trong trận giao tranh trên đất Phi Châu, bị bắt làm tù binh. Mỗi lần nhìn viên sĩ quan Pháp này, người cai Ả Rập luôn mắng chửi thô lỗ: “Đồ con chó !” Một hôm, chịu không nổi, viên sĩ quan cãi lại: Tại sao gọi tôi là đồ chó ? Tôi là tù nhân của ông. Đúng, nhưng tôi cũng là người như ông vậy.
–Mày, mày mà là con người ư ? Mày là tù nhân của tao từ sáu tháng nay thế mà tao chưa thấy mày cầu nguyện bao giờ. Làm sao tao gọi mày là người được. Mày chỉ là một con chó.
Đúng thế, viên sĩ quan tù binh này thức dậy, ăn, hùng hục làm, đầu cúi xuống, không ngước nhìn trời, sao không giống con chó được ?
Cầu nguyện là trên hết. Chính vì thế trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu nói: Maria đã chọn phần tốt nhất, không ai cướp lấy được.
3. Vậy chúng ta xử lý ra sao
Phục vụ thì tốt. Ngồi bên Chúa và nghe lời Ngài thì tốt hơn. Nhưng giải thích của chúng ta không phải là chọn cái này, bỏ cái kia, mà là chọn cả hai. Cả phục vụ, cả nguyện cầu, và cho việc cầu nguyện chỉ huy.
Thực tế cuộc sống của chúng ta rất bận rộn. Ta không có thời giờ đâu để ngồi lâu dưới chân Chúa, thì hãy để Chúa ngồi lâu trong đầu mình. Không ngồi lâu dưới chân Chúa được thì để Chúa ngồi lâu trong đầu mình bằng các cách sau đây:
-Lặp đi lặp lại những lời nguyện tắt, như: “Lạy Cha” “Lạy Chúa xin thương xót con” “Giêsu, con yêu mến Chúa” v.v…
-Khởi đầu một ngày mới hãy dâng lên Chúa trọn cả ngày: lời Kinh Dâng Mình vẫn đọc “mọi sự con nài xin, mọi việc con làm, mọi sự khó con chịu trong ngày hôm nay” là một khởi đầu tốt. Ý hướng đầu ngày là ý hướng chỉ huy (chỉ huy là không làm gì hết mà làm hết mọi sự). Rồi trong ngày những tiếng nói âm thanh, những bóng dáng của Chúa đi qua lại nhắc ta nhớ tới Chúa. Những tiếng nói âm thanh, như tiếng chuông, tiếng còi cứu thương, tiếng kêu “Chúa ơi” của ai đó…. Những bóng dáng như tháp chuông, thánh giá ai đó mang trên ngực, trên vành tai. Những khi ăn khi uống ta làm dấu… nhất nhất đều nhắc ta nhớ đến Chúa. Như thế không phải là để Chúa ngồi lâu trong đầu mình sao ? Thánh Phaolô thì nói: Dù khi anh em ăn, dù khi anh em ngủ, khi anh làm việc, hãy làm vì danh Chúa Giêsu (x. Cl 3,17).
Các vị thánh là những người bận rộn; với các ngài cái búa, cái cưa, cái mai, cái xẻng, cây chổi, giẻ lau... cũng được dâng hiến như chén thánh trên bàn thờ. Thánh Bênêdictô ra luật cho các thầy dòng phụ trách các dụng cụ lao động phải gìn giữ cẩn thận các dụng cụ đó như các bình thánh trên bàn thờ. Tại sao vậy ? Vì các dụng cụ đó là những dụng cụ để các môn sinh của người tôn vinh Thiên Chúa. Điều chính yếu trong đời sống thiêng liêng là có tinh thần phục vụ Chúa “mọi nơi và mọi lúc” như chúng ta cầu xin trong lời nhập để của kinh tiền tụng.
Xin Chúa giúp chúng con nhớ đến Chúa khi làm việc phục vụ, hoặc tệ lắm thì thức dậy dâng ngay cả ngày cho Chúa, để khi không ngồi lâu dưới chân Chúa được, thì để Chúa ngồi lâu trong đầu mình. Amen
Bình an của Đức Kitô có ngự trị trong gia đình và trong cuộc đời của bạn không? Đức Giêsu thích TN 16-C137
Bình an của Đức Kitô có ngự trị trong gia đình và trong cuộc đời của bạn không? Đức Giêsu thích viếng thăm gia đình của Mátta và Maria và vui hưởng lòng hiếu khách quảng đại của họ. Trong câu chuyện ngắn ngủi này, chúng ta thấy có hai tính tình khác biệt giữa Maria và Mátta. Mátta thích phục vụ, nhưng với tính tình lo lắng phục vụ Đức Giêsu, đã khiến cô lăng xăng. Maria, với tính tình đơn sơ và tin tưởng, phục vụ Đức Giêsu bằng cách ngồi chăm chú dưới chân Người. Theo bản năng, cô biết rằng điều mà Chúa và Thầy muốn nhất lúc này là sự hiện diện ân cần của cô.
Hãy có những sự quan tâm và lo lắng về Chúa
Lo lắng và bối rối ngăn cản chúng ta không chịu lắng nghe và không cho chúng ta dâng cho Chúa sự chăm chú say sưa của chúng ta. Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy dâng cho Người những ưu tư lo lắng, bởi vì Người đáng tin cậy và có thể đáp ứng bất cứ những gì chúng ta thiếu thốn. Ơn sủng của Người giải thoát chúng ta khỏi những lo lắng và bận tâm không cần thiết. Bạn có tìm kiếm Chúa một cách tha thiết không? Thiên Chúa có được đón tiếp nồng hậu và được kính trọng trong gia đình của bạn không?
Luôn chào mừng Chúa vào nhà và tâm hồn của bạn
Chúa Giêsu muốn rằng chúng ta dành một chỗ cho Người, không chỉ trong tâm hồn, nhưng trong gia đình và trong mọi tình huống hằng ngày của đời sống chúng ta nữa. Chúng ta tôn kính Chúa khi chúng ta dâng cho Người mọi sự chúng ta có và mọi việc chúng ta làm. Bởi chưng, mọi thứ chúng ta có đều là ơn ban của Thiên Chúa (1Sb 29,14). Thánh Phaolô Tông đồ thúc giục chúng ta đem lại cho Người vinh quang trong mọi sự: “Bất cứ việc gì anh em làm, trong lời nói hay trong việc làm, hãy làm mọi sự vì danh Chúa Giêsu. Nhờ Người mà chúng ta tạ ơn Chúa Cha” (Col 3,17).
Khi bạn ngồi, ăn uống, ngủ nghỉ, và khi bạn tiếp đón bạn bè và khách, hãy nhớ rằng Chúa Giêsu cũng là vị khách của gia đình bạn. Kinh thánh kể rằng khi ông Abraham mở cửa nhà và đón tiếp 3 vị khách vô danh, ông đã tiếp đón Thiên Chúa, Đấng đã chúc lành cho ông cách quảng đại về sự tiếp đón nồng hậu của ông (St 18,1-10; Hr 13,2). Thiên Chúa muốn chúng ta đem lại cho Người vinh quang trong cách chúng ta đối xử với người khác và sử dụng các ơn huệ Người đã ban cho chúng ta cách quảng đại. Về phần Thiên Chúa, Người chúc lành cho chúng ta với sự hiện diện khoan dung và lấp đầy lòng chúng ta niềm vui khôn tả.
Lạy Chúa Giêsu, sự hiện diện của Chúa là sự sống và niềm vui của con. Xin Chúa giải thoát con khỏi những lo lắng băn khoăn không cần thiết, để con có thể dâng hiến Chúa tình yêu và sự chăm chú của con.
Tác giả: Don Schwager (http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/) Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ
Chuyện lạ ở đời là chẳng ai thích người khác săm soi chuyện của mình, nhưng đáng tiếc là họ TN 16-C138
Chuyện lạ ở đời là chẳng ai thích người khác săm soi chuyện của mình, nhưng đáng tiếc là họ lại thích săm soi chuyện người khác dẫn đến biết bao điều thị phi. Đây là loại người thích “sống hộ” cuộc sống người khác, nghĩa là không lo cho tròn việc của mình mà chỉ dành thời gian săm soi để rồi bình phẩm, phán xét những người xung quanh mình.
Mỗi người chúng ta ít nhiều cũng từng là đề tài của người khác khi mà họ sống hộ cho chúng ta. Tôi nhớ khi đó tôi đã 23-24 tuổi rồi mà vẫn chưa một mảnh tình vắt vai, bà hàng xóm nhìn tôi chép miệng than thở “hai mấy tuổi đời rồi mà chưa có nọ kia gì hả cháu?”,và không lâu sau, hầu như các mẹ trong xóm gặp tôi đều nói câu tương tự khiến chẳng muốn trả lời ai!
Năm 2019 là thời đại của mạng xã hội, của Facebook. Người người nhà nhà đều sử dụng Facebook, già trẻ lớn bé dường như đều có tài khoản Facebook. Tuy nhiên, thay vì là nơi để trò chuyện, kết bạn, chia sẻ buồn vui như mục đích ban đầu, thì Facebook giờ đây chẳng khác nào cái “chợ” thị phi để người Việt săm soi, bới móc, bình phẩm cuộc sống người khác. Họ vào facebook để săn tin, để “rình” xem có gì hay, có gì lạ để mà nhảy vào bình luận, phán xét, có khi chửi rủa chẳng tiếc lời. . . Theo tôi thì lực lượng này rất đông và hung hãn!!!
Chúng ta chỉ cần đăng một thứ gì đó mà họ cho là không đúng, không ổn thì chắc chắn chúng ta sẽ nhận một cơn mưa lời chê bai, trách móc, thậm chí “một xe gạch đủ để xây nhà” như cư dân mạng thường hay bảo.Thí dụ, một bác sĩ gác chân lên ghế khi khám bệnh liền bị các thánh soi và chửi đến nỗi phải nghỉ việc, hoặc một người mẫu ngủ trên máy bay vô tình gác chân trên ghế cũng bị ném gạch dư để xây nhà . . .!
Lời Chúa hôm nay cho ta thấy một câu chuyện rất đời thường. Khi Matta tất bật nấu nướng đãi khách, còn Maria lại ngồi hàn huyên với Chúa. Xem ra Matta không để mắt rời xa Maria. Bà vừa làm vừa liếc, vừa săm soi và xem ra chẳng vừa lòng cô em chút nào. Khi sự chịu đựng đã không còn, bà liền lên tiếng trách móc cả cô em và cả vị khách đáng quý. “Thầy coi , em con để một mình con hầu hạ Thầy?”, nhưng Chúa Giê-su đã nhắc nhở Matta: “Matta, Matta con lo lắng bối rối về nhiều chuyện quá”. Con hãy làm tốt việc của con đừng quan tâm việc của Maria. Maria cũng đang làm việc, và “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”.
Mỗi người đều có những việc cần làm, và họ nghĩ việc này quan trọng hơn. Thế nên, chúng ta đừng bao giờ lấy suy nghĩ của mình để áp đặt người khác và nhất là đòi người khác phải sống theo ý mình.
Những người thích soi mói chuyện người khác người ta gọi đó là “thánh soi”. Có những chuyện rất riêng của người này người khác nhưng rồi người ta cứ thoải mái soi để đưa lên mạng bình luận, câu “like”. Đời tư của mỗi cá nhân cần và rất cần được tôn trọng và bảo vệ nhưng dường như các “thánh soi” lại rất thích tìm kiếm chuyện người khác, việc người đời để mổ xẻ và kết án.
Đây là việc lỗi công bằng và bác ái với tha nhân. Lỗi công bằng vì những lời ném đá của chúng ta đã gây nên tổn thương tâm lý và có khi tổn thất cả danh dự và tiền bạc của người bị hại. Lỗi bác ái vì chúng ta đã thiếu yêu thương khi toa rập với nhau ném đá anh em.
Thích soi mói chuyện người khác còn làm cho mình trở thành thù nghịch vô cớ với anh em, khi mà họ chẳng làm gì tới mình, họ chỉ lo chuyện của họ mà cũng bị ta kết án tẩy chay.
Ước gì chúng ta đừng săm soi chuyện người khác mà chỉ biết làm tốt bổn phận của mình và dành thời giờ cho Chúa thì Chúa sẽ chúc phúc cho chúng ta.Amen
Người việt chúng ta có tính hiếu khách, mỗi khi khách đến chơi dù thân hay lạ, người Việt dù TN 16-C139
Người việt chúng ta có tính hiếu khách, mỗi khi khách đến chơi dù thân hay lạ, người Việt dù nghèo đến đâu cũng cố gắng tiếp đón chu đáo và thân tình. Cha ông chúng ta thường bày tỏ tâm tình này qua câu nói: “ nhịn miệng đãi khách” hay câu rất quen thuộc trên môi miệng người dân quê chất phác: “Đói năm không bằng đói bữa.” Dù nghèo đến đâu người Việt vẫn cố gắng làm cơm gà canh gỏi để tiếp khách. Bài thơ: “Bạn đến chơi nhà” của nhà thơ Nguyễn Khuyến cho ta thấy nét văn hóa đặc biệt này. Mang tính hiếu khách này nên chúng ta dễ hiểu việc tiếp đón của Matta và Maria khi Chúa đến thăm nhà. Mỗi người có cách đón khác nhau để biểu lộ lòng yêu mến Thầy.
Tôi còn nhớ mãi câu chuyện tiếp khách của cộng đoàn chúng tôi thời bao cấp: Cộng đoàn của chúng tôi ở vùng sâu vùng xa so với thời đó. Mỗi lần có một chị em ở nhà Dòng đến thăm chúng tôi mừng như mẹ về chợ. Ngày hôm đó chúng tôi nghỉ việc nương rẫy, bày ra đủ món ăn chơi bằng khoai mì, bắp đỏ, bắp trắng và các loại đậu chúng tôi trồng được. Chúng tôi xào xáo lẫn lộn để nó trở thành nhiều món hấp dẫn.Thế mà các Bề trên cũng như chị em đến với chúng tôi đều hài lòng với cách tiếp đón của chúng tôi, mặc dù thiếu tiện nghi, không có những món cao lương mĩ vị hay phong cảnh nên thơ. Chúng tôi tâm đắc với sự niềm nở đón tiếp của mình. Một ngày kia, khi chị em chúng tôi đang chuẩn bị ra đồng thì Đức Víp Vồ đến, Ngài đến quá bất ngờ, quá sự mong ước của chúng tôi. Chị em chúng tôi cuống quýt bỏ Ngài đứng đó một mình, ai nấy luống cuống đi thay đồ vì quần áo lên nương của chúng tôi không giống ai và càng không được phép trình diện trước Đấng Đại diện Chúa đến thăm. Ngài đi một vòng xuống chuồng heo gặp chị Cả 70t quần ống thấp ống cao đang tắm heo. Chị Cả thấy Đức Cha kêu thất thanh: “Lạy Chúa, con lạy Đức Cha”. Rồi chị cũng bước thấp bước cao ra khỏi chuồng heo và vội tìm chỗ sửa lại quần áo lao động cho nghiêm chỉnh. Sau khi đã tươm tất với bộ đồ ăn nói của mình, chúng tôi cuống quýt người tìm chanh, người tìm đường, tìm dao vì thời đó mỏi mắt mới tìm được một muỗng đường. Đức cha đứng đó nhìn chúng tôi chạy ngược chạy xuôi, Ngài lên tiếng: “Các con ơi, cha đến thăm chúng con chứ có phải đến uống nước đâu. Lên đây đi!”. Chúng tôi thẹn đỏ mặt và khúm núm lên tiếp chuyện Đức Cha. Cơn thẹn chưa nguôi ngoai thì chị quản lý lên tiếng: “Thưa Đức Cha, Đức Cha ở lại dùng bữa với chúng con vì bây giờ về Tòa Giám Mục trễ rồi. Đức Cha lại nhắc lại điệp khúc cũ: Cha không ăn mà chúng con còn vất vả như thế, nếu Cha ăn thì chắc chúng con để Cha ngồi một mình”. Cha đến thăm chúng con thôi chứ không phải đến để ăn.
Khi đọc bài Tin Mừng hôm nay tôi lại nhớ lại câu chuyện hôm ấy xảy ra ở cộng đoàn tôi. Câu nói của Chúa Giêsu với Matta: Cha đến thăm chúng con chứ không phải đến ăn, sao con tất bật quá vậy. Cho dù Matta là chị cả trong nhà phải quán xuyến mọi việc và khách đến nhà cô phải tiếp đãi tử tế để “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, đó là phong tục hiếu khách của xứ sở cô. Chúa không phiền trách Matta, nếu Matta không nhờ Chúa can thiệp. Chúa trân trọng cách tiếp đãi của cô vì nếu ai cũng như Maria thì Chúa và các môn đệ sẽ đói sau một cuộc hành trình dài. Nếu cô cứ để Maria hầu truyện Chúa, lắng nghe Chúa tâm sự về câu truyện truyền giáo, và nhất là để Chúa dạy dỗ em mình qua những sứ điệp Chúa muốn chuyển trao, vì chắc Maria rất cần để gặp gỡ Chúa và càng rất cần để lắng nghe Chúa dạy bảo trong cuộc sống của mình thì mọi sự đều lắng dịu tốt đẹp.
Matta tận tâm phục vụ Chúa rất tốt nhưng Maria thì phủ phục lắng nghe. Lắng nghe là tư thế của người môn đệ. Đó cũng là bổn phận đầu tiên của người môn đệ đích thực. Thái độ của Maria là thái độ để Chúa uốn nắn mình, một thái độ lắng nghe đích thực. Maria chấp nhận để Chúa làm cho mình. Còn Matta mẫu người môn đệ muốn mình làm cho Chúa và muốn cả Chúa lẫn đồng môn phải làm theo yêu cầu của mình. Cô khó chịu với em vì không làm như mình và cũng khó chịu cả với Chúa vì không nhìn ra sự việc: “Thầy xem em con để con làm việc tất bật một mình. Hãy bảo nó giúp con một tay chứ!”
Thương cho Matta chỉ nghĩ đến việc làm cho khách mà quên chính ngôi vị khách, Chúa nhẹ nhàng bảo: Matta ơi, con lo lắng nhiều chuyện quá, cha đến thăm chúng con chứ không phải Cha đến ăn đâu mà con lo lắng quá! Em con đã chọn phần tốt hơn rồi. Tin mừng không diễn tả phản ứng của Matta khi nghe Chúa nói như thế nhưng chúng ta cũng hiểu phần nào khi phục vụ Matta sẽ nghĩ cô làm cho Chúa và mãn nguyện về việc phục vụ của mình. Cô sẽ nghĩ cô làm cho Chúa và như thế là Chúa mắc nợ cô.
Còn Maria kẻ đón nhận và không có gì để cho nên cô hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa. Cô khiêm tốn nhận mình là không trước mặt Chúa. Khi Chúa ra đi, Matta có thể hãnh diện vì mình đã hết mình với Thầy, còn Maria sẽ cảm thấy mình thiếu cái gì đó khi không tiếp Thầy chu đáo.
Chúng ta có thể có nhiều cái để cho nhưng lại nghèo nàn khi nhận. Tin Mừng cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa Matta và Maria. Matta không thể nhận còn Maria lại khác Maria dâng cho Chúa quà tặng của việc mở trí mở lòng để đón nhận lời Chúa.
Matta là mẫu người đam mê công việc nên trở thành kẻ rất bận rộn luôn luôn lo lắng, lo âu, kẻ nô lệ cho công việc. Chúng ta dễ bị cám dỗ lao đầu vào công việc mà quên Chúa. Chúa dạy: “Hãy tìm nước Chúa trước rồi mọi sự khác Chúa sẽ ban cho” (Lc 12, 29 -31).
Chúng ta thường lầm lẫn giữa việc khẩn cấp và chính yếu. Chúng ta có khuynh hướng ưu tiên cho việc khẩn cấp còn việc chính yếu rất cần chúng ta lại chậm trễ. Chúng ta dồn thời gian, sức lực cho việc khẩn cấp còn phần linh hồn chúng ta bê trễ. Có thể chúng ta thành công về mọi mặt nhưng phần hồn chúng ta không quan tâm. Một bà Hoàng hậu nọ khi gần chết bà sai người hầu để những hạt Kim cương hột soàn trên một chiếc nệm trắng và bà thảng hốt kêu lên:”Ôi tôi phải bỏ tất cả những cái này lại ư? Tôi đã dành nhiều thời gian để nâng niu, trau chuốt nó, giờ đây tôi phải giã từ nó”.
Người dành thời giờ cho Thiên Chúa cuộc sống sẽ bình an, hạnh phúc, là người giàu có nhất vì họ có tất cả những gì mà người khác không có. Mọi sự đều trở nên hữu ích cho họ, những người yêu mến Chúa.
Lao động và chiêm niệm không trái ngược nhau, cả hai đều cần thiết nhưng nó phải được tháp nhập hài hòa vào cuộc sống để đạt đến đích điểm của nó là lao động trong chiêm niệm. Tuy nhiên hình thức cao nhất của việc thờ phượng vẫn là trầm lắng để lắng nghe, lắng nghe Chúa dạy bảo như Maria: “ Maria đã chọn phần tốt hơn”. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết những gì đẹp ý Chúa nhất. Biết ngồi dưới chân Chúa để trong sâu thẳm tâm hồn chúng ta lắng nghe Chúa dạy bảo.
Con người là một huyền nhiệm, được Thiên Chúa dựng nên có hồn và xác. Con người phải làm TN 16-C140
Con người là một huyền nhiệm, được Thiên Chúa dựng nên có hồn và xác. Con người phải làm việc để có của ăn nuôi thân xác, nhưng chúng ta cũng cần cầu nguyện để có lương thực nuôi linh hồn. ‘Làm việc và cầu nguyện’ (Orare et laborare) là châm ngôn sống của Thánh Biển Đức, đồng thời cũng là sứ điệp mà lời Chúa nhắn gửi chúng ta hôm nay, đặc biệt qua 2 hình ảnh Mat-ta và Maria được phác vẽ trong Tin mừng.
Hai vị thánh với 2 dung mạo khác nhau.
Sự thánh thiện của Mat-ta và Maria được biểu tỏ qua 2 dạng thức. Matta thì lăng xăng phục vụ Chúa qua những bận rộn bên ngoài, còn Maria thì ngồi thinh lặng bên chân Chúa để nghe những lời Ngài ngỏ trao. Chúa Giêsu nói: “Mat-ta, con băn khoăn lo lắng nhiều chuyện. Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”. Không phải Chúa chê trách Mat-ta về những bận rộn bên ngoài, nhưng Chúa mời gọi tất cả chúng ta phải quy hướng mọi việc trong cuộc sống về với Chúa để diễn bày tình yêu đối với Ngài. Những hoạt động để phục vụ thì rất tốt, nhưng nếu không khởi nguồn từ tình yêu quy hướng về Chúa, thì đó chỉ là những công việc từ thiện, thuần túy mang chiều kích xã hội bề ngoài mà thôi. Đức Thánh Cha Piô 12 gọi đó là lạc giáo (hérésie de l’action), một loại chủ nghĩa duy hoạt động, thiếu vắng chiều kích linh thánh bên trong. Mẹ Têrêsa Calcutta dạy các con cái mình mỗi ngày phải dành ít nhất một tiếng đồng hồ để nguyện ngắm, hầu kín múc sức mạnh nơi tình yêu Thiên Chúa trước khi bắt tay vào công việc dấn thân phục vụ người nghèo.
Sa mạc hóa tâm hồn: Thinh lặng để lắng nghe.
Hình ảnh của Maria được Chúa Giêsu đánh giá rất cao hôm nay. Maria đã rút lui vào trong cô tịch của sa mạc tâm hồn để nghe Chúa nói. Trong Thánh kinh, sa mạc là nơi Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người và cũng là nơi con người đến gặp gỡ Thiên Chúa. Trong sa mạc, Thiên Chúa ngỏ trao sứ mạng. Cũng trong sa mạc, con người được Thiên Chúa giáo dục và hướng dẫn. Đó là cách thế để chúng ta tìm lại cho mình sự bình an và sức mạnh vươn tới, giữa những bươn chải và chộn rộn của cuộc sống hằng ngày. Ngày xưa, Araham đã đi vào sa mạc Ả Rập để gặp Đức Chúa Giavê và đón nhận sứ mạng trở nên tổ phụ một dân tộc đông đúc. Môise cũng đi vào sa mạc Sua để được Chúa ban chỉ lệnh đưa dẫn đoàn dân ra khỏi Ai cập. Trước khi tiến vào đất hứa, dân Israel cũng phải kinh qua cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc để được Thiên Chúa sửa dậy. Giữa những lo toan của cuộc sống đời thường hôm nay, Chúa cũng muốn chúng ta biến tâm hồn mình thành sa mạc để trong tĩnh lặng, chúng ta nghe được tiếng Chúa và được nuôi dưỡng bằng chính lời hằng sống của Ngài. Trong tĩnh lặng giữa đêm khuya, Samuel đã nghe thấy tiếng Chúa đang gọi ông. Cũng giữa đêm trường vắng lặng, Thánh Giuse đã nghe tiếng Chúa mời gọi để đón nhận Maria về nhà và sau đó dẫn đưa gia đình Nazareth trốn sang Ai Cập. Sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống, đặc biệt những lo toan về tiền bạc, về chức quyền, là những tiếng động ầm ĩ cản che đôi tai của cõi lòng, khiến chúng ta không thể nào nghe được những điều Thiên Chúa đang nói với chúng ta.
Cầu nguyện trước hết là biết nghe tiếng Chúa.
Một nhà tu đức nọ đã phân định việc cầu nguyện gồm 4 cấp độ. Cấp độ sơ đẳng đầu tiên: Tôi nói Chúa nghe. Cấp độ cao hơn: Chúa nói tôi nghe. Cấp độ thứ 3: Không ai nói, cả 2 đều nghe. Và đỉnh cao của việc cầu nguyện là ở cấp độ sau cùng, chúng ta đến gặp Chúa, không ai nói, chẳng ai nghe, tất cả thinh lặng hoàn toàn để đi vào sự hiệp thông một cách trọn vẹn. Khi đến nhà thờ cầu nguyện, chúng ta vẫn thường đọc các câu kinh, lắm khi giống như một cái máy vô hồn, nhưng chúng ta dễ quên mất điều quan trọng là cần tập sống thinh lặng để nghe những điều Chúa muốn nói với chúng ta. Maria là hình mẫu tuyệt hảo về việc cầu nguyện. Cô đã gác lại nhưng chộn rộn vướng bận bên ngoài, không phải vì lười biếng hay thích đùn đẩy công việc cho người khác. Nhưng, lý do duy nhất như Chúa Giêsu đã nói, chính là: “Chỉ có một chuyện cần thiết hơn. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bao giờ bị lấy đi”. Ông Mahatma Gandhi đã từng bộc bạch: “Tôi không phải là một ẩn sỹ hay một khoa học gia nhưng tôi tự hào là một người biết cầu nguyện. Chính cầu nguyện đã cứu thoát đời tôi”.
Kết luận
Nơi các vị thánh lớn, chúng ta luôn thấy có sự kết hợp hài hòa giữa làm việc và cầu nguyện. DonBosco vẫn được mệnh danh là con người ‘chiêm niệm trong hoạt động’. Trở nên một nhà thần bí (mystic) không phải chỉ là suốt ngày ngồi đọc kinh hay ngất trí trong nhà thờ, nhưng quan trọng hơn cả là biết kín múc tình yêu từ nơi Thiên Chúa trong chiêm nghiệm và đem tình yêu ấy dàn trải trong mọi hoạt động tông đồ hằng ngày. Maria và Matta mà bài Tin mừng hôm nay nói tới đã trở nên mẫu gương cho tất cả mọi người chúng ta ngày hôm nay.
(38) Trong khi Thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. (39) Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. (40) Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !” (41) Chúa đáp: “Mác-ta ! Mác-ta ơi ! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều việc quá ! (42) Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.
2. Ý CHÍNH:
Câu chuyện trong Tin mừng hôm nay có 3 nhân vật chính: Đức Giê-su và hai chị em Mác-ta Ma-ri-a TN 16-C141
Câu chuyện trong Tin mừng hôm nay có 3 nhân vật chính: Đức Giê-su và hai chị em Mác-ta Ma-ri-a. Hai chị em này phục vụ Đức Giê-su mỗi người một cách: Mác-ta thì bận rộn lo việc cơm nước, đang khi Ma-ri-a lại ngồi bên chân Thầy và nghe Lời Người. Mác-ta khó chịu với cô em và xin Thầy can thiệp bảo Ma-ri-a giúp đỡ mình. Nhưng Người lại cho biết việc nghe Lời Chúa mà Ma-ri-a đang làm mới là điều quan trọng và cần thiết hơn cả.
3. CHÚ THÍCH:
- C 38-39:
+ Trong khi Thầy trò đi đườngvào làng kia: Đức Giê-su vào làng Bê-ta-ni-a, cách Thủ đô Giê-ru-sa-lem 3 cây số.
+ Có một người phụ nữ tên là Mác-ta: Đây là chị cả trong một gia đình có ba chị em. Mác-ta chưa lập gia đình, vì nếu đã có chồng thì người chồng đã phải đứng ra tiếp đón Đức Giê-su. Là chị cả nên Mác-ta phải đảm đương mọi việc. Bà lo dọn bữa ăn phục vụ Đức Giê-su và các môn đệ.
+ Đón Người vào nhà: Người Do thái vốn hiếu khách. Đức Giê-su không những là khách mà còn là bạn thân của gia đình (x. Ga 11,5). Thái độ tiếp đón này trái với thái độ dân làng Sa-ma-ri trước đó đã từ chối đón tiếp Người (x. Lc 9,53). Trong thời điểm những ngày cuối đời, việc đón tiếp Đức Giê-su của Mácta còn là hành động can đảm. Vì khi ấy Người đang bị các đầu mục Do thái theo dõi, ai đón tiếp Người sẽ bị coi là đồng đảng và có thể bị khai trừ ra khỏi hội đường nữa (x. Ga 9,22 ; 12,10.42).
+ Người em gái tên là Ma-ri-a:Đây là Ma-ri-a làng Bê-ta-ni-a, khác với Ma-ri-a làng Mác-đa-la (x. Lc 8,2), cũng không phải là Ma-ri-a thân mẫu Gia-cô-bê và Giô-sép (x. Mt 27,56), không phải Ma-ri-a mẹ của Gio-an (x. Cv 12,12). Cô Ma-ri-a là em của Mác-ta, là chị của La-da-rô. Chính cô Ma-ri-a này đã hy sinh bình dầu đắt tiền để xức chân Đức Giê-su (x Ga 12,3). Cần phân biệt cô Ma-ri-a này với người phụ nữ tội lỗi cũng xức dầu thơm trên chân Đức Giê-su (x Lc 7,38). Cả 3 chị em nhà này đều được Đức Giê-su yêu mến (x. Ga 11,5). + Ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Người dạy:Trong Lu-ca, ngồi dưới chân là thái độ của người môn đệ (x. Lc 8,35 ; Cv 22,3)
- C 40-42:
+ Em con để mình con phục vụ...: Mác-ta luôn tỏ lòng quí mến Đức Giê-su và quan tâm phục vụ Người (x. Ga 12,2). Cô không hài lòng khi thấy cô em Ma-ri-a nhàn nhã ngồi bên chân và nghe Thầy dạy đang khi cô phải vất vả lo làm bữa cho Người. Do đó cô đã yêu cầu Đức Giê-su cho Ma-ri-a xuống bếp giúp cô một tay.
+ Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi: Chuyện cần thiết duy nhất này là gì ? Đó là điều cô em Ma-ri-a đang làm: “Ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy”. Đức Giê-su không đánh giá thấp việc bếp núc của Mác-ta. Nhưng việc tìm biết thánh ý Thiên Chúa lại là điều duy nhất cần thiết. Hơn nữa, Lời Chúa là của ăn tinh thần nên có giá trị cao hơn của ăn vật chất như Người đã nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4) và “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34).
4. CÂU HỎI:
1) Tin mừng đã kể ra mấy phụ nữ tên Ma-ri-a và các bà này liên quan thế nào với Đức Giê-su ? 2) Có mấy người phụ nữ đã xức dầu thơm cho chân Đức Giê-su ? 3) Đức Giê-su đã cho biết quan điểm thế nào giữa hai việc phục vụ: Một là phục vụ bàn ăn của Mác-ta và hai là ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Người của Ma-ri-a?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Cô Ma-ri-a cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Người dạy. Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ” (Lc 10,39-40).
2. CÂU CHUYỆN:
1) GƯƠNG CẦU NGUYỆN CỦA MỘT NHÀ BÁC HỌC.
PHÊ-ĐÊ-RIC Ô-DA-NAM (Federic Ozanam), một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo hội Pháp vào cuối thế kỷ 19, khi còn là sinh viên đại học đã trải qua một cơn khủng hoảng về đức tin. Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh vào một ngôi thánh đường ở Pa-ri. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện ở hàng ghế đầu gần gian cung thánh. Đến gần, chàng sinh viên nhận ra đó không ai khác hơn là nhà bác học ĂM-PE (Ampère), vị giáo sư của anh, một nhân vật nổi tiếng lúc bấy giờ. Anh đứng lặng lẽ một hồi để quan sát nhà bác học khi ông đang cầu nguyện rất sốt sắng. Sau đó, anh theo gót thầy trở về phòng làm việc của ông. Thấy chàng sinh viên đứng thập thò ngòai cửa, nhà bác học liền mở lời hỏi: “Này anh bạn trẻ, anh cần gì ? Tôi có thể giúp gì được cho anh đây ?” Chàng thanh niên nhỏ nhẹ thưa: “Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm. Hôm nay con xin hỏi thầy một vấn đề về đức tin !” Nhà bác học mỉm cười khiêm tốn đáp: “Anh lầm rồi. Đức tin là môn yếu nhất của tôi đấy. Nhưng nếu giúp được anh điều gì thì tôi cũng sẵn sàng”. Chàng sinh viên liền hỏi: “Thưa giáo sư, người ta có thể vừa là một nhà bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu đạo đức siêng năng cầu nguyện hay không?” Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh học trò. Sau một lát im lặng, ông trả lời bằng một giọng run run đầy cảm xúc: “Con ơi ! Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi !”.
2) GƯƠNG CẦU NGUYỆN CỦA MỘT VỊ TỔNG THỐNG:
Trong tác phẩm SỐNG HẠNH PHÚC của Tổng Gíam Mục Fulton J. Sheen có một nhân chứng đương thời với Tổng thống Hoa Kỳ Áp-bra-ham Lanh-côn, kể lại rằng ông ta đã có thời gian ba tuần sống chung với A. Lincoln sau khi trận đánh Bull Rull kết thúc:
“Đêm ấy tôi không ngủ được. Tôi bèn thử dợt lại những gì sẽ phải nói trước công chúng vào sáng hôm sau. Bấy giờ đã quá nửa đêm, hay đúng hơn là gần đến hừng đông. Và tôi nghe có tiếng thầm thì trong phòng ngủ của Tổng Thống. Cửa phòng còn hé mở. Tôi bước lại gần và thấy một cảnh không thể nào quên được. Tôi thấy Tổng Thống quì bên một cuốn Kinh Thánh đang mở. Ánh sáng trong phòng chỉ vừa đủ. Ngài quay lưng về phía tôi. Tôi đứng lặng một lúc quá đỗi bàng hoàng và kinh ngạc. Rồi tôi nghe Tổng Thống cầu nguyện:
“Lạy Chúa, Chúa đã nghe lời cầu khấn của Sa-lô-mon trong đêm khuya, để xin được ơn khôn ngoan. Xin Chúa nhậm lời con đây, con không thể dẫn dắt dân tộc này nếu Chúa không ra tay giúp đỡ con. Con là kẻ nghèo hèn và tội lỗi. Lạy Chúa, Chúa đã nhậm lời cầu xin của Sa-lô-mon, xin hãy nghe lời con nài van mà cứu lấy đất nước này!”
3) TẦM QUAN TRỌNG CỦA LỜI CẦU NGUYỆN KHI GẶP GIAN NGUY:
Trong cuộc khảo thí tại trường sĩ quan trẻ, vị Thiếu tá giám khảo hỏi một chuẩn uý:
- Trong một cuộc hành quân, đơn vị do anh chỉ huy rơi vào tình huống này: Phía trước và hai bên đơn vị của anh đều bị quân địch vây chặt, chúng chặn cả lối rút lui của anh, có nghĩa là đơn vị anh bị bao vây gọn, lúc đó anh sẽ xử trí thế nào?
Mọi con mắt của Ban Giám Khảo đều đổ dồn về phía anh sĩ quan trẻ, anh suy nghĩ một lát rồi đứng nghiêm trả lời:
- Thưa Thiếu tá và Ban Giám Khảo, tôi sẽ hạ lệnh: “Cầu nguyện”.
Tất cả Ban Giám Khảo nhìn nhau bỡ ngỡ, vì không ai nghĩ tới một câu trả lời như thế. Viên Thiếu tá liền vỗ vai anh sĩ quan trẻ và nói:
- Anh hãy nhớ xử lý đúng như lời anh vừa nói nhé !
3.THẢO LUẬN: 1) Qua Lời Chúa dạy hôm nay, bạn thấy cầu nguyện có cần không ? Mỗi ngày bạn thường cầu nguyện vào những lúc nào ? Bạn thường cầu nguyện như thế nào ? 2) Có khi nào bạn cầu nguyện bằng cách đọc một đoạn Tin mừng, sau đó suy nghĩ và cầu nguyện dựa theo ý tưởng mà Lời Chúa gợi ra hay không ? 3) Bạn có thể dùng cách nào để biến các việc làm hằng ngày trở thành lời cầu nguyện liên lỉ dâng lên Thiên Chúa không ?
4. SUY NIỆM:
1)TẦM QUAN TRỌNGCỦA LỜI CẦU NGUYỆN TRONG CUỘC SỐNG:
Trong cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem chịu khổ nạn, Đức Giê-suđã ghé làng Bê-ta-ni-a và vào trọ trong nhà người bạn thân là anh La-gia-rô (x Lc 13,22).Chính trong ngôi nhà này Đức Giê-su đã cho thấy tầm quan trọng của sự cầu nguyện, là noi gương Ma-ria ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Người.
- “Thầy không để ý tới sao ?”:Mác-ta đã tỏ thái độ không hài lòng trước sự thờ ơ của Đức Giê-su và của cô em Ma-ri-a khi để mặc cô phải phục vụ nấu ăn một mình.Cô nhờ Đức Giê-su nhắccho Ma-ri-a hãy xuống bếp phụ giúp cô.Trong câu trả lời, Đức Giê-su không bác bỏ việc vất vả làm bữa phục vụ Người của Mác-ta, nhưng Người muốn cô nhận ra đâu là điều tốt nhất và cần nhất để có Nước Trời làm gia nghiệp. Khi nhận xét về thái độ của Mác-ta, Đức Giê-su dùng từ “nhiều chuyện”, nghĩa là quá chú trọng về món ăn vật chất mà quên đi sự cần thiết của món ăn tinh thần là Lời Chúa.
-“Chỉ có một chuyện cần mà thôi”:Đức Giê-su không chê thái độ phục vụ của Mác-ta, vì đó là cách biểu lộ lòng mến cô dành cho Người.Nhưng Người lại đánh giá cao tâm tình của Ma-ri-a, khi cô đặt Người làm trung tâm cuộc đời của cô. Qua đó, Người muốn dạy chúng ta rằng:Tuy hằng ngày phải vất vả lo toan tìm kiếm cái ăn cái mặc như Mác-ta, nhưng chúng ta cũng cần dành ra thời giờ để cầu nguyện, lắng nghe lời Chúa và tâm sự với Người như Ma-ri-a.
2) GƯƠNG CẦU NGUYỆN CỦA ĐỨC GIÊ-SU:
Sách Tin Mừng đã ghi nhận gương Đức Giê-su cầu nguyện với Chúa Cha như sau:
- Sau khi chịu phép rửa tại sông Gio-đan, Đức Giê-su đã khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng bằng cách lên núi ăn chay và cầu nguyện suốt 40 ngày đêm (x. Mt 4,2b), để xin Cha chúc lành cho công việc Người sắp thực hiện. Người cũng dạy môn đệ tránh thái độ phô trương, nhưng hãy cầu nguyện nơi kín đáo (x. Mt 5,4-6). Tránh cầu nguyện dài dòng như dân ngoại nhưng hãy nói vắn gọn như trong kinh Lạy Cha (x. Mt 4,7-14).
- Đức Giê-su đã nêu gương cầu nguyện với Chúa Cha trước khi làm phép lạ nhân bánh ra nhiều: “Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông” (Mt 14,19). Người khuyên các môn đệ hãy hiệp thông với nhau trong lời cầu nguyện: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp nhau lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,19-20).
- Trước cuộc tử nạn, Đức Giê-su đã cầu nguyện với Chúa Cha (x. Mt 26,36-46). Tin Mừng Gio-an đã ghi lại lời cầu nguyện của Đức Giê-su gồm 26 câu trong đoạn 17. Trong vườn ghết-sê-ma-ni Người đã cầu xin Chúa Cha: “ Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42).Trên thánh giá trước khi tắt thở, Đức Giê-su đã cầu nguyện: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34)…
3) TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI TÍN HỮU:
- Các mẫu gương cầu nguyện:Đầu tiên là nhà bác học AM-PE, tên đầy đủ là André Marie Ampère (1775–1836), một nhà vật lýlừng danh người Pháp, đã để lại nhiều thành quả nghiên cứu khoa học như điện học, nam châm điện... mang lại ích lợi cho nền văn minh nhân loại. Thế nhưng, Am-pe không coi những thành quả đó là lớn lao khi nói với một anh sinh viên rằng: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi cầu nguyện mà thôi”. Tiếp đến là Thánh TÊ-RÊ-SA thành Can-quýt-ta, một nữ tu sống thánh thiện giữa đời thường. Mỗi ngày trước khi bước xuống “địa ngục Can-quýt-ta” để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đến “nhà hấp hối” để an ủi những kẻ đau liệt, Mẹ Tê-rê-sa đều cùng chị em trong cộng đoàn đến quì chầu Thánh Thể tại nhà nguyện một giờ đồng hồ.
- Ích lợi của sự cầu nguyện:Ngày nay, trong một thế giới thực dụng coi trọng hiệu quả bề ngoài, Hội thánh đang có nhiều Mác-ta nhưng lại có ít Ma-ri-a. Nhiều người đã coi việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện là việc vô ích vì mất thời giờ và thụ động.
Nhưng thực ra có hành động nào hiệu quả cho bằng nghe và thực hành Lời Chúa ? Làm việc tông đồ là mang Chúa đến cho tha nhân. Vậy tại sao chúng ta lại không múc đầy tình yêu nơi Chúa Giê-su là suối nguồn yêu thương vô tận. Hãy ý thức tầm quan trọng của sự kết hiệp với Chúa như lời Người dạy: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Đôi tay của cô Mác-ta lo bữa ăn cho Đức Giê-su là một việc quan trọng và không thể thiếu về phần thể xác. Nhưng đôi chân quì bên Chúa và đôi tai lắng nghe Lời Người của Ma-ri-a lại càng quan trọng và cần thiết hơn như Lời Chúa đã khẳng định: “Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất”(Lc 10,42).
4) THÁI ĐỘ QUÂN BÌNH GIỮA CẦU NGUYỆN VÀ PHỤC VỤ:
Trong một ngày, chúng ta thường chỉ dành ít phút buổi sáng cho việc cầu nguyện dâng lễ, còn phần lớn thời gian còn lại là dành cho các sinh hoạt khác. Tuy vậy, chúng ta vẫn có thể biến mọi sinh hoạt đời thường như: ăn uống, ngủ nghỉ, học tập, làm việc... trở thành lời cầu nguyện, bằng cách dâng ngày mỗi sáng khi vừa thức giấc. Rồi trong ngày hãy năng thưa với Chúa lời nguyện tắt trước mỗi công việc “Lạy Chúa, con làm việc này để biểu lộ lòng con yêu mến Chúa,… để cầu xin cho một người đang lạc xa Chúa được sớm trở về với Chúa”… Nhờ đó, chúng ta sẽ biến những việc làm hằng ngày của mình trở thành lễ vật, kết hiệp với lễ vật cao trọng là Mình Máu Chúa Giê-su luôn được dâng trên các bàn thờ khắp nơi trên thế giới. Một tín hữu sẽ có nếp sống đạo đức quân bình khi vừa lo chu tòan việc bổn phận phục vụ Chúa và tha nhân như Mác-ta, nhưng đồng thời không quên kết hiệp với Chúa như Ma-ri-a. Đừng đợi đến khi xong việc mới nhớ đến Chúa. Vì chính khi đang bận rộn phục vụ tha nhân, là lúc chúng ta cần được Chúa ban ơn trợ giúp bằng sự cầu nguyện.
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Khi con bị bao vây bởi những tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng bên Chúa. Khi con vất vả với trăm công nghìn việc, xin cho con biết quý trọng những phút giây được an nghỉ bên lòng Chúa. Khi con bị kéo ghì bởi những đam mê dục vọng, xin cho con được ơn giải thoát và hướng lòng trí lên cao nhờ kêu cầu Danh Thánh Chúa. Ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần trong cuộc sống đời thường của con, để con có thể cầu nguyện không ngừng như lời dạy của thánh Phao-lô: "Vậy, dù ăn, dù uống, hay bất cứ làm việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
Có những quan niệm sòng phẳng: rượu ngon phải có bạn hiền, vì nếu “lai rai” một mình, họ sẽ TN 16-C142
Có những quan niệm sòng phẳng: rượu ngon phải có bạn hiền, vì nếu “lai rai” một mình, họ sẽ gọi là đang uống rượu phạt. Có những ý tưởng nói rằng, người sành điệu phải là người biết ăn xài, biết chi tiêu, nếu không, có lắm tiền nhiều của vẫn bị xếp loại “quê mùa” mà thôi. Và cũng vì quan tâm đến cụm từ “đẳng cấp”, biết bao người trẻ chủ trương: ăn ngon mặc đẹp ; học không chơi phí đời tuổi trẻ, chơi không học bán rẻ tương lai. Chỉ có một việc cần, đó là sống đúng, sống đẹp, dù vị thế giầu nghèo, hoàn cảnh sung túc hay cô đơn lẻ bĩng, thiên thời có thuận, hay gia cảnh đềy khổ đau, người ta vẫn thể hiện được phong cách thư thái của người quân tử: chết trong hơn sống đục.
Bậc cha mẹ mơ ước con cháu chăm ngoan, nên người hữu ích, thầy cô hạnh phúc vì trò hiểu bài, xã hội lớn mạnh nhờ mỗi người công dân biết đồng lòng đồng ý, cùng xây dựng quê hương đất nước. Giáo hội tồn tại không phải nhờ một số đối tượng tài giỏi, nhưng nhờ ý thức có Đức Giêsu hiện diện, đó phải là điều cần thiết hơn cả. Cha ông chúng ta để lại kinh nghiệm cho hậu thế: khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng đủ, kiêu căng một chút đã là thừa. Người trẻ có câu đầy khúc triết: thức đêm mới biết đêm dài, yêu người mới biết những ngày chờ trông. Suy nghĩ tích cực của chị Mácta phục vụ Thầy Giêsu bao nhiêu cũng không cân xứng, và chị muốn mong em chị hiểu và cùng giúp chị phục vụ Thầy chu đáo hơn. Tấm lòng yêu mến của người em Maria đã để lại bận tâm cho người chị: sao em vô tình đến độ chỉ biết đến mình, quên cả việc bổn phận: dù em khôn lớn cũng là em chị, dù chị thấp bé cũng là chị em.
“Chỉ có một việc cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị ai lấy mất”. Câu trả lời đó đã trở thành câu tâm niệm cho Mácta, cho muôn muôn thế hệ đang “lăn tăn” muốn biết đâu là việc chính, điểm phụ, khi tin và sống giáo huấn của Đức Giêsu ! Người ta dùng chìa khoá để mở cửa, mở két sắt, và không ai lại đưa chìa khoá cho kẻ trộm, kẻ xấu. Chị Mácta sẽ không than phiền với kẻ xa lạ, do đó chị không hoang mang về tinh thần phục vụ và tấm lòng yêu mến mà chị em họ đã và đang dành trọn vẹn cho Thầy Giêsu. Chọn điều tốt nhất là gì ? Như chị em Mácta, chẳng ai muốn chọn vẻ đẹp hào nhoáng bên ngoài, cũng không phải chọn người lắm tiền nhiều của, mà là chọn Đấng yêu thương mình, Đấng, chúng ta gọi là Thầy là Chúa.
Chỉ có một việc cần, đó là hãy chọn phần tốt nhất, chọn Đức Giêsu đang hiện diện sống động trong cuộc đời của mình, Đấng sẽ giúp chúng ta biết yêu, biết nhận ra thánh ý Chúa, và biết quên mình phục vụ vì Chúa, vì tha nhân. Chỉ có một chuyện cần là tin Đức Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa Cha, hãy tìm gặp Chúa, nghe Chúa và thực hành lời Chúa theo như “nén bạc” mà mỗi người đang có. Chỉ có một việc cần là tín thác vào tình yêu Chúa, Ngài không hứa sẽ cho chúng ta cuộc sống an toàn và không phải đau khổ ở đời này, nhưng Ngài hứa sẽ nâng đỡ bổ sức cho tất cả những ai đang hiệp thông, sống đức ái Kitô. Chỉ có một việc cần là nhận ra mình là ai, hãy để tình yêu Đức Kitô biến đổi, cho dẫu cuộc đời đầy gian nan bất trắc, vì Chúa thấu biết chúng ta tội lỗi, bất xứng !
Xưa và nay, tất cả những ai theo Đức Giêsu, đi con đường của Ngài đều phải từ bỏ cái tôi ích kỷ của mình, phải đối nghịch với thế gian, phải mang vác thập giá đi trọn hành trình đời người, dù sức lực chúng ta giới hạn. Dù là linh mục tu sĩ, là một tín hữu bình thường, chúng ta vẫn được ơn ban để hiểu: đau đớn đã là điều đáng sợ rồi, nhưng khiếp sợ hơn, là mang vác khổ đau thập giá trên đường đời mà bên cạnh không có người thân nào ! Đời người chớ trêu, đứng núi này trông núi kia, thực ra, không phải tất cả các vết thương đều chảy máu, cũng không phải khi vết thương rỉ máu mới đau. Đức Giêsu đã đi trọn hành trình đời người, Ngài thấu biết tâm tư và cảm thông với nỗi thống khổ của kiếp người, hãy tin vào tình yêu của Ngài.
Đức Giêsu năm xưa hiện diện tại gia đình chị em Mácta không phải để được phục vụ, không có ý dò xét đúng sai, hẳn cũng không có ý khen chê cách tiếp đón của Maria và Mácta. Ngài đã mang tới một sứ điệp: chỉ có một việc cần mà thôi, hãy tin Chúa, hãy trân trọng giá trị thông hiệp bên tình yêu Chúa và anh chị em của mình. Chúa không nói chỉ cần ngồi bên bàn thờ gia đình cầu nguyện, nhưng hãy chọn phần tốt nhất, nghĩa là lao động, cầu nguyện, mỗi người hãy làm, hãy sống tận lực, tận tâm, với nén bạc được giao phó. Chỉ có một việc cần, đó là có Chúa, có tình yêu và sức mạnh của Chúa trong hành trình đời người, chúng ta sẽ được biến đổi và sống trọn vẹn thánh ý của Chúa. Amen.
Người Việt Nam có câu nói sau để tỏ lòng hiếu khách mỗi khi có dịp tiếp khách: “Khách đến nhà TN 16-C143
Người Việt Nam có câu nói sau để tỏ lòng hiếu khách mỗi khi có dịp tiếp khách: “Khách đến nhà không gà thì vịt”. Khách đến nhà chơi, chủ nhà nào cũng muốn tiếp đón khách thật tử tế. Đáng quý hơn là ở tấm lòng mừng vui của chủ nhà dành cho vị khách của mình. Ngày xưa, Nguyễn Khuyến đã chẳng có gà để thết đãi bạn tri kỷ, cũng chẳng có một mớ rau ngon nhưng ông tỏ tấm lòng mình với bạn: “Bạn đến chơi đây, ta với ta”.
Hôm nay, Chúa Giêsu vào một làng kia và ghé thăm gia đình chị em cô Mácta. Hẳn là các cô rất đỗi vui mừng khi được Thầy Giêsu viếng thăm. Cô Mácta đã ra đón Người vào nhà mình. Càng yêu quý ai bao nhiêu, người ta càng muốn bày tỏ tình yêu thương, sự quý mến dành cho người ấy. Hai chị em Mácta đều muốn dành tình yêu thương đối với Thầy Giêsu, mỗi người mỗi cách. Cô Mácta tất bật lo việc phục vụ. Cô tỏ ra là một người phụ nữ rất đảm đang và khéo léo. Còn cô em Maria thì cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy (x. Lc 10, 38-40). Cô say sưa nghe lời Thầy dạy và dường như quên cả những gì đang diễn ra xung quanh. Ở dưới bếp, cô Mácta đã thấm mệt và nhận ra mình cần sự giúp đỡ của em, cô tiến lại thưa với Thầy Giêsu: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” (Lc 10, 40b). Thầy Giêsu đáp: “Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10, 41- 42). Dường như Thầy Giêsu đã không thông cảm với nỗi mệt nhọc của cô Mácta. Nghe Thầy Giêsu trả lời, cô Mácta đã cảm thấy như thế nào? Tổn thương hay trân trọng lời dạy của Thầy? Một tâm hồn nhạy cảm trước lời dạy của Thầy sẽ đọc ra được tình thương chân thành của Thầy dành cho mình. Thầy rất thương cô và Thầy không muốn nhìn thấy cô phải vất vả, mệt nhọc. Tình thương yêu là điều đáng trân quý, điều quan trọng là ta dùng cách thức nào để bày tỏ tình thương ấy. Đã bao giờ ta trải qua kinh nghiệm rằng sự hiện diện với người ta thương quan trọng hơn là làm cho họ một điều gì đó?
Đâu là thái độ ta cần phải có khi đón Chúa vào nhà mình? Phải chăng là mau mắn phục vụ như cô Mácta hay đơn giản chỉ là ở bên để lắng nghe lời Thầy dạy như cô Maria? Phục vụ là một điều tốt nhưng quan trọng hơn là ta phải luôn ý thức ta đang phục vụ vì ai và vì điều gì. Đó là động lực để ta dấn thân cách quảng đại và vui tươi. Phục vụ là một hành trình quên đi chính mình để yêu thương người khác và nó cũng là một cách đào luyện tình yêu của ta thêm tinh tuyền hơn. Nếu ta cầu nguyện vì muốn tỏ ra là một người thánh thiện và yêu mến Chúa vì chính mình thì điều đó chẳng đẹp lòng Chúa. Ở lại bên Chúa vì yêu Chúa, phục vụ anh chị em vì yêu Chúa và yêu thương họ cách chân thành, đó mới là thái độ ta cần phải có. Bình an đích thực là hoa quả ta nhận được từ những chọn lựa trong Chúa.
Lạy Chúa Giêsu! Đã bao lần con tự hỏi: đâu là phần tốt nhất mà Chúa muốn con chọn? Ở lại bên Chúa hay mau mắn phục vụ anh chị em mình? Xin Chúa thanh luyện trái tim con, uốn nắn trí tuệ và soi sáng cho con để mỗi ngày, con biết chọn điều đẹp lòng Chúa và rảo bước trên con đường của Đức Ái. Amen.
Có hai thành phần trong Lời Chúa, đó là lắng nghe và thực hành. Hoạt động của Matta và Maria TN 16-C144
Có hai thành phần trong Lời Chúa, đó là lắng nghe và thực hành. Hoạt động của Matta và Maria là hai yếu tố cần thiết, nhưng có sự càn thiết hơn trước khi hành động là lắng nghe.
Trong Thiền luận, với phương pháp chỉ thẳng, phát biểu về chân lý thiền là chân lý thực hiện, nghĩa là sống thực chứ không chỉ dừng ở suy tưởng. Trong đời sống, thường người ta sống cái thực tại đã được định hình từ trong nội tâm, tiềm thức. Người ta không sống vì những lý luận, những lý thuyết, đơn giản người ta sống theo những chuẩn mực đã được đào luyện trước thành thói quen, tuỳ độ sâu rộng.
Chúa khen Maria chọn phần tốt nhất, còn Matta chọn phần khác, không phải xấu mà là thiếu. Theo nguyên tắc chú tâm của việc làm mới quyết định: Nghe để tâm nghe, chỉ một việc, không sao nhãng chuyện khác. Chuẩn bị bữa ăn, để tâm nấu ăn, không sao nhãng việc nấu ăn.
Có người sánh ví, cuộc sống và thời gian như bút vẽ trên bức tranh thuỷ mặc. Một nét bút buông xuống trong khoảng thời gian trên bức tranh để vẽ lên, nét mực không còn tẩy xoá. Nó là vĩnh viễn, cái gì đã sống thì đã là quá khứ. Một nét tẩy trên bức tranh thuỷ mặc là bộc lộ một bức tranh bị lỗi, bị tước bỏ khỏi sự hoàn hảo của bức tranh.
Cái gì đã qua là đã qua, không thể sửa đổi. Từ một thực tế đó, nghe lại lời khen của Chúa đối với Maria, mới hiểu điều cơ bản của hành động cần dựa trên nền tảng “nghe và hiểu”. Tập chú vào điều nghe nên gọi là “lắng”, lắng nghe tiếng gió nhẹ thì thầm, lắng nghe mặt nước lay động nhẹ trên mặt hồ. Lắng nghe Chúa Thánh Thần nói trong gió nhẹ, trong làn sương mỏng buổi sớm, tiếng gợn nhẹ mặt
hồ nước, lắng trong tâm để thấm vào sâu tận tâm can, trở thành máu thịt.
Chúa Giêsu khen Maria, như để mời gọi người nghe Chúa, cần để tâm thật tịnh, lắng thật sâu, có thể chạm tới tận nguồn sống. Để rồi như Matta nấu ăn, như thể nghe tiếng xèo của dầu chiên, nghe tiếng xôi của nồi nấu, nghe mùi thơm của cơm, tận cùng sâu lắng của nguồn thực phẩm thơm ngon đang tuôn trào nguồn nuôi dưỡng. Thết đãi Chúa với hết linh hồn, hết trí khôn, hết lòng, hết sức. Đó là cội nguồn sự sống đang dạt dào thể hiện đời sống bằng hành động “sống đúng là đang sống”.
Trong cuộc sống hôm nay, con người bị trộn lẫn nhiều thứ, chịu chi phối nhiều mặt, làm mất đi ý nghĩa đời sống. Cần trở lại với điều cơ bản nhất, ý thức mình đang sống, sống sự sống dồi dào, từ việc tập lắng nghe và hành động hết lòng và hết sức.
Dòng chảy cuộc sống vẫn đang chảy. Xin Chúa dạy chúng con biết lắng nghe, biết thẩm thấu tận sâu thẳm và để được kín múc tận nguồn sống, để sống đời sống một cách phong phú nhất với điều Chúa ban tặng.
Đọc trang Tin Mừng của thánh Luca hôm nay, chắc chắn mỗi người chúng ta đều có nhiều suy TN 16-C145
Đọc trang Tin Mừng của thánh Luca hôm nay, chắc chắn mỗi người chúng ta đều có nhiều suy nghĩ. Thực tế, đoạn Phúc Âm này gợi cho chúng ta nhiều ấn tượng về hai chị em Mácta và Maria. Bởi vì mỗi người một cung cách, mỗi người một nét, một vẻ, nhưng hai chị em bổ túc cho nhau, làm nên một vẻ đẹp, một bản hòa âm nhạc tuyệt diệu. Mácta hăng say bếp núc, phục vụ Chúa và các môn đệ của Người một bữa ăn ngon. Maria ngồi dưới chân Chúa, lắng nghe lời của Người giảng dạy. Mácta và Maria đã nêu cho mỗi người chúng ta bài học “ Phục vụ để yêu thương “ và “Lắng nghe để yêu thương “.
Vâng, nếu đem so sánh hai thái độ và khi nghe Mácta nhắc khéo Chúa, xin để Maria giúp con với vì con phải tất bật, lo lắng làm cơm để thết đãi Chúa và các môn đệ của Người, chắc có người sẽ nghiêng bênh vực Mácta vì cô đang vất vả, có khi phải đổ mồ hôi để lo phục vụ Chúa và các môn đệ. Maria vẫn lắng đọng, ngồi chăm chú lắng nghe Chúa, làm cho Mácta khó chịu. Nhưng Chúa đã trả lời Mácta:” Mácta! Mácta ơi! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi.Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi “ ( Lc 10,41-42 ). Việc Mácta nói lên với Chúa cho thấy cô đang phục vụ mà Chúa và Maria cứ ngồi nói chuyện. Tuy nhiên Chúa Giêsu cho Mácta cũng như mọi người biết rằng:” Mácta thết đãi là phục vụ “, nhưng “ Maria đang lắng nghe cũng là một cách thết đãi và phục vụ “.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới có nhiều đổi thay, khoa học kỹ thuật lên cao tới tột đỉnh.Con người tất bật tìm kiếm lợi nhuận. Người ta đua tranh quảng cáo để tìm những mối lợi cho các mặt hàng mình đang thụ đắc .Phải chăng đang có nhiều Mácta hơn là Maria ? Tuy vậy, mình Mácta chưa đủ mà cần cả Maria nữa! Bởi vì, con người sau những phút náo động, ồn ào, huyên náo vẫn cần những lúc lắng đọng tâm hồn, thảnh thơi, nghỉ ngơi để nghe con tim thỏ thẻ. Thường trong lúc ồn ào nhất người ta vẫn cần những phút im lặng. Sự thành công của con người không phải lúc nào củng huyên náo. Tại sao các Dòng tu, các Tu hội lại luôn có những giờ kinh nguyện được qui định rõ ràng. Đời sống hoạt động và chiêm niệm luôn cần có sự cân đối để bổ túc cho nhau. Tâm niệm của một số Đan viện là “ Làm việc và Cầu nguyện “. Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta đã bầy cho chúng ta bí quyết thành công của Mẹ là cầu nguyện. Do đó, mẫu gương của Mácta và Maria luôn được Hội Thánh nêu cao ! Chúa muốn mỗi người chúng ta phải biết quân bình đời sống, quân bình công việc. Làm nhiều mệt mỏi rồi trách Chúa như thế chúng ta chưa thực hành ý Chúa. Cầu nguyện, lắng nghe nhưng cũng không phải cứ ngồi đó rồi chờ Chúa ban, Chúa tặng mà không chịu làm việc như thế cũng chưa làm đẹp ý Chúa.
Vâng, cả Mácta và Maria đều cần thiết trong đời sống vì cả hai thái độ, hai cách biểu lộ đều đẹp miễn con người biết làm cho nó cân đối: Lao động và Cầu nguyện. Mácta cũng là thái độ của mỗi người chúng ta khi chúng ta tưởng rằng phục vụ Chúa, nhưng kỳ thực chúng ta muốn mình thành công và muốn mọi người ca tụng, khen ngợi cá nhân mình. Làm sao chúng ta làm đẹp lòng Chúa, làm theo ý Chúa và yêu Chúa cách chân thành, trong suốt như Maria ?
Chúng ta đang sống trong Giáo Hội do Chúa thiết lập. Chúa muốn chúng ta tìm ý Chúa chứ không phải tìm ý riêng mình. Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã chỉ cho ta hiểu:” Chúng ta tìm ý Chúa hơn là tìm công việc của Chúa “ .
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy các môn đệ và nhân loại cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, xin cho chúng con biết tìm ý của Chúa Cha và chỉ muốn cho Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CẦU NGUYỆN: 1.Mácta có thái độ nào khi phục vụ Chúa ? 2.Maria đã làm gì khi Mácta tát bật phục vụ ? 3.Cầu nguyện có cần để gặp Chúa không ? 4.Đời sống hoạt động và đời sống chiêm niệm khác nhau thế nào ?
Cầu nguyện và hoạt động là hai bổn phận chính yếu của người Kitô hữu, là hai nhịp sống của một TN 16-C146
Cầu nguyện và hoạt động là hai bổn phận chính yếu của người Kitô hữu, là hai nhịp sống của một sứ vụ Tông Đồ. Tin Mừng của Chúa Nhật XVI giới thiệu với chúng ta hai khuôn mặt nổi bật đại diện cho hai khuynh hướng này. Maria đại diện cho cầu nguyện, chiêm niệm, và lắng nghe Lời Chúa, còn Mácta đại diện cho hoạt động và phục vụ. Cả hai không tách biệt, cũng không loại trừ lẫn nhau, nhưng là bổ túc và thăng tiến cho nhau.
1- Maria, người của cầu nguyện
Thánh Luca kể cho chúng ta câu chuyện thật dễ thương về việc đón tiếp Chúa Giêsu tại nhà hai chị em Mácta và Maria. Mácta thì tất bật bếp núc, còn Maria thì chỉ lo ngồi tiếp chuyện với Chúa. Mỗi người một cách thế để thể hiện lòng hiếu khách, mỗi người có một thái độ để bày tỏ tình yêu mến với Chúa. Thánh Luca tường thuật: “Maria ngồi dưới chân Chúa mà nghe Lời Người dạy.”
Ở đây, chúng ta để ý tới từ ngữ: “Ngồi dưới chân Chúa” và “nghe lời Chúa.” Ngồi dưới chân Chúa có nghĩa là ở với Chúa, ở bên Chúa, đối thoại với Chúa, sống thân tình và mật thiết trong sự hiện diện của Chúa. Và việc ở bên Chúa như thế là để nghe Lời Chúa, nghe Chúa nói với mình và nhất là tìm ý Chúa muốn.
Chính vì thế, cầu nguyện có nghĩa là ở với Chúa, nghe Chúa nói, chứ không phải chỉ để xin xỏ điều nọ điều kia. Và theo cách của Maria, cầu nguyện trước hết không phải là lôi kéo Thiên Chúa xuống với những nhu cầu, ý muốn và tính toán của mình, mà trái lại là để Thiên Chúa nâng ta lên với thế giới của Người, để nhận biết thánh ý Chúa, để có những tầm nhìn, tâm tư và lối hành xử giống Người.
2- Mácta, người của phục vụ
Nếu Maria đại diện cho việc cầu nguyện, thì Mácta là hình ảnh của hoạt động và phục vụ. Chỉ có cầu nguyện thôi chưa đủ, chúng ta còn phải biết phục vụ trong tinh thần cầu nguyện.
Hình ảnh một Mácta trong Tin Mừng lo lắng bận rộn với việc bếp núc nói lên lòng hiếu khách, lòng nhiệt thành của Mácta đối với Chúa Giêsu. Việc làm của Mácta là tốt, cần thiết và đáng trân trọng. Vì “khách đến nhà không gà thì vịt,” phải có gì ăn chứ! Như người Pháp nói rằng: “Chính bữa ăn làm cho người ta trở nên gần gũi với nhau” (on se tache par le repas). Hay như người Việt Nam ta vẫn thường nói: “Khách đến nhà, không gà thì vịt.”
Hiểu như thế thì không cho phép chúng ta nói rằng: Chúa Giêsu coi thường việc phục vụ của Mácta. Người không bao giờ đánh giá thấp việc phục vụ như đã có lần Chúa nói: “Ta đến để phục vụ.” Và nhiều lần Chúa cũng đón nhận sự đón tiếp của những người khác mời Chúa tới nhà dùng bữa. Vì đối với Chúa, phục vụ là một điều cao quý và ý nghĩa, phục vụ là một niềm vui.
3- Maria đã chọn phần tốt nhất
Nhưng giữa cầu nguyện và hoạt động, việc nào cần ưu tiên trước? Chúng ta tìm thấy lời giải đáp cho câu hỏi này ở cuối bài Tin Mừng, khi Chúa nói với Mácta: “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất.”
Ở đây Chúa nhắc nhở Mácta và tất cả chúng ta: Cầu nguyện và hoạt động là cần thiết, nhưng việc cầu nguyện chiếm chỗ đầu hết, trước hết. Cầu nguyện trước khi hoạt động, trước khi phục vụ.
Các Tông Đồ trước khi đi loan báo Tin Mừng đã sống bên Chúa, để có những kinh nghiệm cá nhân với Chúa rồi từ đó mới có thể rao giảng về Chúa. Điều Chúa nhắc bảo giúp chúng ta tránh một nguy cơ rất dễ xảy ra trong đời sống của chúng ta hôm nay. Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có một phân biệt rất tinh tế, đó là: “Con chọn Chúa hay công việc của Chúa.” Nhiều khi chúng ta làm những công việc của Thiên Chúa nhưng lại quên chính Thiên Chúa. Cha Antony de Mello ví von điều đó giống như cô gái bán nước bên dòng sông mà quên đi chính dòng sông. Phải cầu nguyện trước khi hoạt động và hoạt động trong cầu nguyện. Như thế công việc của chúng ta mới đẹp ý Chúa, mới có thể đưa tới sự thành công. Mẹ Têrêxa Calcutta là mẫu gương cho chúng ta về điều đó. Mẹ cầu nguyện hàng giờ trước Thánh Thể trước khi đi phục vụ người nghèo.
Thành thử ra, điểm then chốt của câu chuyện hôm nay không phải là mời gọi chúng ta chọn Maria hoặc chọn Mácta. Người môn đệ đích thực của Chúa Kitô cần cả hai thái độ của Maria và Mácta. Nhưng trong hai thái độ sống đó, chúng ta được mời gọi dành ưu tiên trước hết cho việc cầu nguyện, cho việc ở lại với Chúa, biết Chúa, sống tương quan mật thiết, hiệp thông với Chúa; rồi từ đó dẫn chúng ta tới việc phục vụ Chúa và tha nhân, việc phục vụ này như là hậu quả của việc cầu nguyện. Amen!
Phúc ai được Chúa ghé thăm, Gia đình êm ấm, tháng năm mong chờ. Mar-tha đón Chúa đơn sơ, TN 16-C147
Phúc ai được Chúa ghé thăm, Gia đình êm ấm, tháng năm mong chờ. Mar-tha đón Chúa đơn sơ, Nấu ăn bận rộn, chẳng nhờ được ai. Ma-ri-a mải ngồi dai, Kề bên chân Chúa, mở khai tâm hồn. Lắng nghe Lời Chúa học khôn, Mải mê hầu chuyện, kính tôn vua trời. Mar-tha kêu cứu đôi lời, Xin Thầy nhắc bảo, kêu mời giúp cho. Chúa rằng mọi việc đừng lo, Của ăn đích thực, là kho ân tình. Lặng ngồi nghe Chúa một mình, Ma-ry hiếu thấu, tâm tình tri ân. Chúa thương chỉ dậy ân cần, Tình yêu cao quý, tinh thần phó dâng. Chọn phần tốt nhất xin vâng, Cậy nhờ ơn Chúa, đỡ nâng suốt đời. Chúa ban ân huệ cao vời, Thực hành lời Chúa, tuyệt vời biết bao.
Chúa Giêsu đến thăm gia đình Martha và Maria. Thật vui khi được Chúa ghé thăm. Chị thì lo việc bếp núc và người em thì lo ngồi hầu chuyện với Chúa. Mỗi người một bổn phận và một cách tỏ lòng hiếu khách. Chúa Giêsu lại có cơ hội dạy cho chúng ta một bài học. Mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh, Chúa Giêsu luôn dậy chúng ta những bài học liên quan đến sự khao khát Nước Trời.
Chúa đến nhà, Martha quá vui, bà tất bật lo cơm nước tiếp đãi Chúa. Đây là việc rất tốt. Bà Martha quá bận bịu và bà cũng hơi ganh tị với Maria, nên bà nhờ Chúa nhắc khéo, bà nói: Lạy Thầy, em tôi để tôi hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Lời trách cứ rất dễ thương. Chúa Giêsu lại không bênh đỡ Martha mà Chúa lấy dịp này đưa ra một lời khuyên. Chỉ có một sự cần, Maria đã chọn phần tốt nhất. Phần đó chính là ở bên Chúa và lắng nghe lời Chúa.
Có Chúa, chúng ta sẽ có tất cả. Mấy khi chúng ta được ở bên Chúa thực sự. Có khi nào chúng ta đến gần bên Chúa trong Nhà Tạm để tâm sự với Chúa không? Bao lâu chúng ta qùy trước Chúa Giêsu Thánh Thể mỗi ngày, mỗi tháng hay mỗi năm? Chúng ta thường đến với Chúa như là khách vãng lai, mau mau thi hành xong bổn phận buộc giữ ngày Chúa Nhật là chúng ta ra về ngay. Nhiều khi chúng ta không biết Nhà Tạm ở nơi đâu để kính viếng.
Maria đã chọn phần tốt nhất. Maria đã chăm chú lắng nghe lời Chúa dậy. Chúng ta nghe lời Chúa hàng tuần nhưng mấy khi chúng ta thực sự lắng nghe. Chúng ta đến nhà thờ để nói cho Chúa nghe nhiều hơn là lắng nghe tiếng Chúa. Chúng ta đâu cho Chúa cơ hội nói truyện riêng với chúng ta. Chúng ta lo đọc kinh, hát xướng và tham dự thánh lễ chung và kết thúc ra về. Chúng ta nghĩ rằng đó là đã xong bổn phận kính thờ Thiên Chúa.
Truyện kể: Có một ông phú hộ đón Chúa vào nhà. Ông dành cho Chúa một phòng tiện nghi. Trao chìa khóa phòng. Đêm thứ nhất, phú hộ nghe có tiếng đập cửa, ông bước xuống, thấy ba anh qủy muốn vào. Ông đã xua đuổi chúng đi. Đêm thứ hai cũng thế, mấy anh qủy lại đến quấy rầy, ông nghĩ tại sao Chúa không giúp ông? Ông đã dành cho Chúa một phòng ngủ mà. Sao Chúa làm ngơ. Ngày hôm sau, ông quyết định gặp Chúa và trình bày sự việc. Chúa nói: Ông đón tôi vào nhà và trao cho tôi một phòng, còn các phòng khác khóa cửa. Tôi đâu có quyền trong nhà. Ông nói: Lậy Chúa, xin tha cho con, giờ đây con trao cho Chúa tất cả. Đây là chìa khóa căn nhà. Đêm kế, lại có tiếng đập cửa. Chúa và ông xuống, qủy nhìn thấy Chúa và nói: Xin lỗi, chúng tôi đến nhầm nhà.
Hãy lắng động tâm hồn tìm về bên Chúa. Ngài sẽ nâng đỡ bổ sức cho chúng ta. Về bên Chúa là về với nguồn suối mát và chỗ nghỉ ngơi. Lạy Chúa xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn đón Chúa vào nhà chúng con. Xin Chúa ở lại với chúng con vì trời đã tối rồi.
Phụng vụ Lời Chúa tuần trước đã trình bày Chúa Giê-su, Lề Luật được kiện toàn của Thiên Chúa TN 16-C148
Phụng vụ Lời Chúa tuần trước đã trình bày Chúa Giê-su, Lề Luật được kiện toàn của Thiên Chúa, đã đến ở giữa chúng ta để làm mẫu gương về sự hoàn thiện. Đón nhận Chúa Giê-su là đón nhận Lề Luật Thiên Chúa và sống theo gương Người là cách chúng ta trở nên hoàn thiện. Lời Chúa hôm nay tiếp tục khai triển đề tài này, đặc biệt qua câu chuyện Chúa đến thăm chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a tại nhà các cô. Để giúp chúng ta biết quý trọng sự viếng thăm của Chúa, Phụng vụ Lời Chúa lấy lại câu chuyện Đức Chúa ghé thăm ông Áp-ra-ham đang ngồi ở cửa lều tại cụm sồi Mam-rê. Tiếp đến là suy niệm của thánh Phao-lô về mầu nhiệm Chúa Ki-tô: “Chính Đức Ki-tô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang”.
Trước hết là sự kiện Thiên Chúa ghé thăm ông Áp-ra-ham. Từ sau khi được Thiên Chúa kêu gọi đi tới nơi Người chỉ định, ông Áp-ra-ham mỗi ngày một phát huy đức tin của ông vào Người. Mối tương quan giữa ông với Thiên Chúa đã thêm thắm thiết. Một ngày kia, Thiên Chúa đã giả dạng ba người khách lạ đến gặp ông. Chính vì sự gần gũi với Thiên Chúa nên ông đã không ngần ngại thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài”. Chúa không từ chối lời mời, vào trong lều của ông và để cho ông phục vụ Người. Ông đã tiếp đón Người với tất cả lòng hiếu khách: ông bảo Xa-ra vợ ông lấy tinh bột mà làm bánh, chính tay ông bắt một con bê béo giao cho đầy tớ làm thịt, ông mời Người dùng thịt bê, sữa chua và sữa tươi, còn ông thì đứng hầu dưới gốc cây. Cách tiếp đón của ông đủ cho ta thấy ông trân trọng việc Đức Chúa viếng thăm là dường nào. Đổi lại, Thiên Chúa đã trọng thưởng ông vì việc tiếp đãi nồng hậu ấy, đó là lời Người hứa: “Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Xa-ra vợ ông sẽ có một con trai”. Chúa đến với chúng ta qua lời của Người. Vậy chúng ta đã đón nhận thế nào?
Nhiều câu chuyện Cựu Ước đã kể lại Thiên Chúa đến thăm cá nhân hoặc cộng đồng. Tuy nhiên tột đỉnh của việc Thiên Chúa viếng thăm nhân loại vẫn là thực tại Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi, hay “Đức Ki-tô đang ở giữa anh em”, như thánh Phao-lô khẳng định. Đối với ngài, sự kiện Thiên Chúa đến ở với chúng ta qua Đức Ki-tô là một “mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại”. Mầu nhiệm ấy được tỏ ra cho dân thánh khi Ngôi Hai xuống thế làm người phàm. Sau đó, trước khi về trời, Chúa Giê-su đã sai các môn đệ Người đi rao giảng mầu nhiệm ấy cho muôn dân, “để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Ki-tô”. Mục đích cuối cùng của việc Chúa Ki-tô đến sống giữa nhân loại là để “ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang”. Đúng vậy, tội nguyên tổ và tội riêng chúng ta đã làm ta xa dần Thiên Chúa và trở thành kẻ thù của Người. Giờ đây chính Chúa Ki-tô đến dẫn chúng ta trở về nhà Cha để chung hưởng vinh quang Thiên Chúa. Riêng với thánh Phao-lô, ngài ý thức sứ mệnh của ngài là rao giảng cho dân ngoại mầu nhiệm “phong phú và hiển hách” này. Nhìn vào những nỗ lực của Phao-lô rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, chúng ta phải khâm phục lòng nhiệt thành vì Đức Ki-tô đã thúc bách ngài, bởi ngài xác tín vào kế hoạch Thiên Chúa đã ủy thác cho ngài.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay mô tả cuộc tiếp đón Thiên Chúa của hai chị em cô Mác-ta. Ngày xưa ông Áp-ra-ham tiếp đón Đức Chúa như một vị khách ghé thăm ông tại lều ở cụm sồi Mam-rê. Hôm nay chị em Mác-ta và Ma-ri-a tiếp đón Con Thiên Chúa đến nhà các cô. Chúa Giê-su được tiếp đãi nồng hậu qua thức ăn ngon do cô Mác-ta nấu nướng. Dĩ nhiên thái độ tất bật lo thức ăn thức uống của cô Mác-ta cũng làm cho Chúa cảm động chứ, nhưng qua lời Chúa nhắc nhở về “một chuyện cần thiết” khi tiếp đón Chúa, thì “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy” vẫn là “phần tốt nhất”! Lời nhắc nhở này chắc chắn làm chúng ta suy nghĩ nhiều về cách sống đức tin của mình. Thứ nhất là thái độ của chúng ta khi lắng nghe Lời Chúa. Cách Chúa đến với ta rõ ràng nhất, đó là qua Lời Người. Chúng ta không được diễm phúc như ông Áp-ra-ham hoặc chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a, nhưng chúng ta lại có lợi thế là lúc nào cũng có thể đón nhận Lời Chúa: trong Thánh lễ, khi đọc và suy niệm Kinh Thánh lúc cầu nguyện riêng, khi nghe giảng dạy và chia sẻ Lời Chúa, tham dự những buổi cầu nguyện nhóm… Thứ hai, hình ảnh cô Mác-ta và Ma-ri-a cũng làm chúng ta nghĩ đến việc đi dự Thánh lễ Chúa Nhật. Nhiều người đi lễ chỉ để “giữ ngày Chúa Nhật”, chứ không phải đi tiếp đón Chúa. Rất nhiều người chỉ lo mặc áo này áo nọ, đeo bông tai nào, xách cái ví nào…, nghĩa là “tất bật” đủ thứ, còn chuyện cần thiết hoặc chọn phần tốt nhất là chuẩn bị tâm hồn thì lại không mấy quan tâm. Dù có phải để ý chuẩn bị bề ngoài thì ít ra chúng ta cũng phải có chút lòng yêu mến của cô Mác-ta đối với Chúa chứ! Nhưng lòng yêu mến ấy chúng ta chẳng có hoặc quá yếu ớt. Chẳng lẽ chúng ta lạnh lùng, không một chút tình cảm dành cho Chúa hay sao?
Mục đích cuộc sống chúng ta là phụng sự Thiên Chúa và phục vụ anh chị em. Để đạt mục đích này, ta cần giữ quân bình giữa hoạt động và cầu nguyện. Quan trọng hơn nữa, đó là duy trì được tính cách hỗ tương: cầu nguyện là động lực để hoạt động và hoạt động để biểu lộ cầu nguyện.
Chúa Giê-su đến thăm nhà, cô Mác-ta đã dành cho Ngài một cuộc tiếp đón nồng hậu. Cô “tất TN 16-C149
Chúa Giê-su đến thăm nhà, cô Mác-ta đã dành cho Ngài một cuộc tiếp đón nồng hậu. Cô “tất bật lo việc phục vụ” Chúa thật chu đáo. Cô “băn khoăn lo lắng nhiều chuyện…” để cho Chúa được vui lòng. Thế mà chẳng được Chúa khen, lại còn bị trách: “Sao con băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!” Thế có oan không chứ?
Thật ra, Chúa Giê-su không có ý trách Mác-ta về việc phục vụ hầu hạ tận tình của cô. Chúa chỉ muốn lưu ý Mác-ta rằng: Điều cần thiết hơn cả là lắng nghe, là đón nhận lời Ngài. Cô Maria đã khôn ngoan chọn làm việc nầy (tức lắng nghe Lời Chúa) và Chúa Giê-su cho đó là chọn phần tốt nhất.
Hôm nay, Chúa Giê-su cũng đến nhà chúng ta và trao gởi cho chúng ta những tâm tình, những lời châu ngọc, những giáo huấn khôn ngoan… như Ngài đã trao ban cho cô Maria hôm xưa. Tất cả được gói ghém trong cuốn Tin mừng.
Để có thể trao tặng cho chúng ta cuốn Tin mừng như chúng ta hiện có, Chúa Giê-su đã phải ‘biên soạn’ rất công phu. Ngài đã mất đến ba mươi ba năm mới hoàn thành kiệt tác vĩ đại nầy.
Thật ra, Chúa Giê-su không viết Tin mừng nhưng Ngài đã dệt nên Tin mừng bằng ba mươi ba năm cuộc sống.
Tin mừng của Chúa Giê-su được dệt bằng chính cuộc sống dương gian của Ngài, kể từ lúc đầu thai trong lòng Trinh nữ Maria, được sinh ra trong chuồng bò, trốn lánh sang Ai Cập, trở về sống đời niên thiếu ở Na-da-rét, rồi lớn lên trong phấn đấu nhọc nhằn, đổ mồ hôi lao động đổi lấy áo cơm…
Tin mừng của Chúa Giê-su Ki-tô được tiếp tục dệt bằng ba năm thao thức rao giảng trên các nẻo đường Do-Thái, dệt bằng lòng yêu thương người tội lỗi, bằng lòng thương xót các bệnh nhân và người đau khổ, dệt bằng lòng thứ tha vô hạn, bằng tình yêu không biên giới…
Tin mừng Chúa Giê-su được đan dệt bằng nước mắt và mồ hôi máu cùng nỗi buồn sầu quá đỗi trong vườn Cây Dầu, bằng roi đòn tươm máu, bằng vác thập giá đau thương, bằng những giọt máu cuối cùng chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên thập giá…
Tin mừng Chúa Giê-su được thành hình như thế đó, không phải bằng chữ viết mà bằng cả cuộc đời, một đời sống cho tình yêu, chết cho tình yêu, yêu cho đến cùng…
Để trao tặng cho chúng ta một cuốn Tin mừng, Chúa Giê-su đã phải trả giá như vậy đó! Vậy thì kiệt tác nầy quý giá biết bao!
Tin mừng Chúa Giê-su cũng là kho tàng khôn ngoan siêu đẳng của Thiên Chúa, được Chúa Giê-su đem từ trời xuống ban tặng cho thế gian để nhờ Tin mừng của Ngài, loài người học biết sự khôn ngoan của Thiên Chúa, được sống trong bình an và được vui hưởng hạnh phúc muôn đời trên thiên quốc.
So với sự khôn ngoan được Chúa Giê-su bày tỏ trong Tin mừng, thì sự khôn ngoan của thế gian nầy chỉ là rơm rạ, cỏ rác!
Tóm lại, Tin mừng là kho tàng cao quý hơn hết mọi kho tàng, là nguồn mạch khôn ngoan trổi vượt khôn ngoan thế gian, là nguồn phát sinh hạnh phúc và sự sống, là con đường đưa tới sự sống đời đời. Đây là một công trình vĩ đại được hình thành suốt ba mươi ba năm dương thế của Thiên Chúa Ngôi Hai với sự chỉ đạo của Chúa Cha và sự cộng tác của Chúa Thánh Thần.
Công trình vĩ đại nầy, quà tặng vô giá nầy, kho tàng quý báu nầy được Thiên Chúa trân trọng trao vào tay chúng ta. Vậy mà có người không muốn nhận, hoặc thờ ơ, hờ hững với tặng phẩm cao quý nầy. Làm như thế là xúc phạm đến Đấng đã trao ban.
Có lẽ cũng như Mác-ta ngày xưa, chúng ta “lo lắng băn khoăn về nhiều chuyện quá” nên chẳng còn tâm trí đâu mà nghĩ tới Tin mừng; cõi lòng chúng ta đầy ắp những tham vọng trần thế, những ham muốn phàm trần nên không còn chỗ cho Tin mừng của Chúa bén rễ. Đáng tiếc thay!
Lạy Chúa Giê-su, Hôm xưa, khi Chúa đang giảng giữa đám đông, một phụ nữ thán phục Ngài quá đỗi nên cất tiếng ca tụng rằng: “Phúc thay người Mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!” Bấy giờ Chúa đáp: “Đúng hơn phải nói rằng: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11, 27-28).
Xin giúp chúng con luôn luôn trân trọng đón nhận quà tặng vô giá Chúa ban là Tin mừng sự sống để suy gẫm ngày đêm và đem ra thực hành, nhờ đó, mai sau đáng được Chúa liệt vào hàng ngũ những người được hưởng phúc muôn đời.
Giống như người Việt Nam, người Do Thái rất có lòng hiếu khách. Ở những vùng quê, mỗi khi TN 16-C150
Giống như người Việt Nam, người Do Thái rất có lòng hiếu khách. Ở những vùng quê, mỗi khi gia đình có khách giống như ngày hội cho gia đình và cho xóm giềng. Có dịp về thăm quê miền Bắc, chúng ta cũng cảm nhận được sự hiếu khách của người miền quê Việt Nam. Dù quen thân hoặc chỉ quen sơ sơ, người miền quê thể hiện tấm lòng của mình bằng việc làm thịt gà, vịt và mời khách ở lại ăn cơm. Gia đình nào thường xuyên có khách từ xa về thăm, gia đình đó được xóm giềng nhìn với vẻ tôn trọng, nhất là khi những vị khách là những người nổi tiếng hay có địa vị xã hội, thì việc tiếp đón còn là niềm tự hào cho gia đình.
Hôm nay Lời Chúa kể về những gia đình đã niềm nở đón tiếp Chúa như thượng khách của gia đình. Khi đến thăm gia đình nào, Chúa không bao giờ để cho gia đình đó phải thất vọng, nhưng Ngài luôn ban phúc lành xuống trên gia đình đó. Bài đọc một kể lại câu chuyện của Abraham, trong một buổi trưa hè nóng bức, ông ra ngồi hóng gió tại cửa lều dưới gốc cây sồi Mambre thì thấy có ba người khách lạ. Mặc dù chưa biết là ai, nhưng khi vừa thấy các vị khách ông đã chạy ra đón và sụp lạy các Ngài. Ông lên tiếng mời các vị khách: “Nếu đẹp lòng các Ngài, xin dừng chân ở lại thăm chúng tôi”.Sau đó ông tất bật bắt con bê non làm thịt, sai vợ lấy bột làm bánh, lấy nước cho khách rửa chân, lấy sữa tươi cho khách uống. Còn ông đứng hầu các vị khách trong khi họ dùng bữa. Các vị khách đó chính là sứ thần của Thiên Chúa. Các Ngài đã thấy được lòng hiếu khách và sự quảng đại của Abraham nên đã chúc lành cho ông và gia đình.
Trước khi chia tay, ba vị khách còn để lại cho Abraham một lời hứa: Sang năm khi trở lai thăm ông, Sara vợ ông sẽ có một con trai. Lời hứa này quả là niềm hy vọng lớn lao cho Abraham, vì ông bà dã cao niên mà chưa có con nối dõi. Lời hứa này đã chạm đến sự khao khát sâu thẳm trong tâm hồn ông bà. Điều này cho thấy Thiên Chúa nhìn thấu suốt tâm hồn và khát vọng con người, ai đón Chúa vào tâm hồn và gia đình, Chúa sẽ giải gỡ những khó khăn của gia đình và sẽ đáp lại những khát vọng sâu thẳm trong tâm hồn mỗi người.
Bài Tin Mừng kể lại cuộc đón tiếp Chúa Giêsu của chị em cô Matta và Maria. Tin Mừng cho biết, gia đình Matta là nơi Chúa Giêsu thường ghé thăm, Lazarô được coi như một người bạn của Chúa. Nếu như khi Abraham đón tiếp ba vị khách lạ, ông đã đứng hầu trong khi ba vị đó dùng bữa, thì trong cuộc đón tiếp này, Chúa Giêsu lại quan tâm đến thái độ của cô Maria đó là: ngồi bên chân Chúa để nghe lời Người dạy. Tin Mừng nhắc đến sự hiếu khách của gia đình khi kể lại: Có những lần nghe tin Chúa Giêsu đến, thì Matta đã ra tận đầu làng để đón Chúa; lần này cô Matta cũng ra đón Người vào nhà mình. Khi Chúa Giêsu vào nhà, hai chị em cô có hai thái độ khác nhau: Cô Matta lo chuẩn bị cơm nước và thức ăn để đãi Chúa, còn cô Maria thì ngồi bên chân Chúa. Chúa Giêsu rất trân trọng sự đón tiếp của gia đình.
Cô Matta phục vụ cho những nhu cầu ăn uống là điều cần thiết, nhưng cô lại tỏ ra khó chịu khi thấy cô Maria chỉ ngồi nghe Chúa. Cô lên tiếng như trách Chúa: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo em con giúp con một tay”.Chúa Giêsu không chê bỏ sự hiếu khách và tinh thần phục vụ của Matta, nhưng Chúa chỉ cho thấy đâu là việc cần thiết và quan trọng nhất: “Matta! Con lo lắng về nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.Qua câu trả lời này, Chúa cho thấy thái độ cần thiết nhất vẫn phải là thái độ lắng nghe Lời Chúa. Khi Chúa vào nhà, cô Maria không ngồi đồng bàn để tiếp chuyện Chúa, nhưng cô lại ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người giảng. Ngồi dưới chân là thái độ của một môn đệ khiêm tốn trước thầy của mình, ngồi dưới chân Chúa và lắng nghe là thái độ đón nhận, là vị trí của người môn đệ thân tín. Như vậy khi nhắc cô Matta, Chúa cũng muốn nhắc cho mỗi chúng ta phải biết biến mình trở thành những môn đệ của Chúa và phải là những môn đệ sẵn sàng lắng nghe và suy gẫm, để cho Lời Chúa đi vào trong tâm hồn và biến đổi cuộc đời. Hơn nữa phải đặt mình dưới chân Chúa, nghĩa là có một tương quan riêng tư thân thiết với Chúa. Tương quan thân thiết này là phần tốt nhất và không ai có thể lấy mất được như thánh Phaolô đã chia sẻ: “Không ai có thể tách chúng tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng tôi”.
Thánh Phaolô trong thư Côlôsê đã cho thấy, một khi đón Chúa vào trong tâm hồn, chúng ta sẽ có niềm vui và bình an cùng sức mạnh giúp vượt qua thử thách. Mời Chúa vào tâm hồn, có Chúa hiện diện trong gia đình không có nghĩa là Chúa miễn trừ cho chúng ta khỏi những khó khăn, thử thách, nhưng trái lại, dù có khó khăn xảy đến Chúa luôn ở bên nâng đỡ, giải gỡ và trợ giúp chúng ta. Vì thế thánh Phaolô mới có thể nói: “Tôi vui mừng vì được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh”.
Cũng theo thánh Phaolô, sự phục vụ mà Thiên Chúa muốn không dừng lại ở những việc tông đồ, bác ái, cho dù đó là điều cần thiết. Nhưng tất cả sự phục vụ của các tín hữu đều nhắm trước tiên đến việc xây dựng sự hiệp thông hiệp nhất trong Hội Thánh. Vì thế, tất cả các hoạt động tông đồ dù có hiệu quả đến đâu mà không xây dựng được sự hiệp thông hiệp nhất thì cũng trở thành vô giá trị. Đàng khác, điều quan trọng hơn nữa đó là các hoạt động phục vụ trong Hội Thánh phải ưu tiên cho việc phục vụ Lời Chúa, đem Lời Chúa đến cho nhân loại, vì phần rỗi của mọi người: “Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em, đó là tôi phải rao giảng Lời của Người cho trọn vẹn”.
Hình ảnh cô Matta lo việc cơm nước, cô Maria ngồi bên chân Chúa còn muốn nói đến hai nếp sống đạo: Đó là đời sống cầu nguyện và hoạt động tông đồ. Đã có nhiều khi Giáo Hội và nhiều người nhắm đến những hoạt động tông đồ đến độ xem nhẹ đời sống cầu nguyện và suy gẫm Lời Chúa. Việc hoạt động tông đồ một khi mất đi động lực và giá trị đạo đức bên trong sẽ khiến cho các hoạt động mất đi chiều sâu và sức sống, biến các hoạt động tông đồ trở thành công tác xã hội. Đàng khác có nhiều người, nhiều nhóm rất hăng say hoạt động tông đồ bác ái, đi phục vụ bác ái rất nhiều nơi mà lại không quan tâm đến việc tốt nhất đó là lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Không có đời sống gắn bó cách mật thiết riêng tư với Chúa, việc bác ái phục vụ như thế chỉ còn là những hình thức bên ngoài.
Lời Chúa hôm nay là lời cảnh tỉnh cho tất cả chúng ta từ linh mục, tu sĩ đến giáo dân cần xem xét lại và điều chỉnh các hoạt động tông đồ và đời sống của mỗi người cho đúng hướng. Có thể các linh mục, tu sĩ đang bị cuốn hút vào các hoạt động tông đồ và bác ái phục vụ đến độ để cho đời sống đạo của mình mất thăng bằng, thiếu vắng Chúa. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cảnh báo các linh mục tu sĩ đừng biến hoạt động phục vụ bác ái của mình thành công tác xã hội, cũng đừng biến mình chỉ còn là chuyên viên từ thiện xã hội. Các linh mục tu sĩ được mời gọi trở về bên chân Chúa như cô Maria để khiêm tốn lắng nghe sự hướng dẫn dạy bảo của Chúa và lấy Chúa làm động lực cho mọi hoạt động của mình.
Các tín hữu ngày nay bị cuốn hút vào công việc và sức lôi cuốn của vật chất, khiến cho nhiều người ngại ngùng không muốn mời Chúa vào trong tâm hồn và gia đình. Họ lấy lý do bận rộn, vất vả với cơm áo để bỏ qua việc tiếp đón và phục vụ Chúa; Các bạn trẻ lấy lý do học hành, đi làm để từ chối gặp Chúa. Có rất nhiều người siêng đến nhà thờ, nhưng không muốn phục vụ, không làm việc tông đồ. Nhiều tín hữu đã đánh mất ý thức làm việc tông đồ, xây dựng cộng đoàn Giáo Hội, họ sống cách hờ hững với cộng đoàn giáo xứ và với các anh chị em khác. Cả hai thái độ đó đều khiến cho đời sống đức tin mất cân bằng.
Giờ kinh sớm tối mỗi ngày là lúc thuận tiện nhất để gia đình cùng nhau ngồi bên chân Chúa, lắng nghe tiếng Chúa nói và cùng nhau tâm sự kể chuyện gia đình mình cho Chúa nghe. Chắc chắn, Chúa không bao giờ vô tâm hoặc vô cảm trước những hoàn cảnh và những câu chuyện đang xảy ra trong gia đình. Chúa sẽ là người bạn thân với các gia đình, Chúa sẽ can thiệp đúng lúc để trợ giúp và an ủi gia đình chúng ta.
Xin cho chúng ta dù đang vất vả bận rộn với cuộc sống vẫn biết tìm cho mình những thời giờ ở bên Chúa để được nghe Chúa hướng dẫn và sống thân tình như những môn đệ của Chúa. Amen.