Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 17-C Bài 1-50 Anh em cứ xin thì sẽ được --------------------------------------- Phúc Âm: Lc 11, 1-13: "Các ngươi hãy xin thì sẽ được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông". Người nói với các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói: 'Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ'". Và Người còn bảo các ông rằng: "Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: 'Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy'. Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: 'Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được'. Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần. "Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. "Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá, lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy, nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người". - Ðó là lời Chúa. --------------------------------------
Có một nhà văn vô thần. Ông ta không biết đến Thiên Chúa, đến linh hồn, đến đời sau. Ong ta: TN 17-C1
Có một nhà văn vô thần. Ông ta không biết đến Thiên Chúa, đến linh hồn, đến đời sau. Ông ta bị đau nặng, được đưa vào bệnh viện và đang ở trong tình trạng hấp hối.
Nhìn thấy một nữ tu đến giúp đỡ ông nhưng tay lại cầm cỗ tràng hạt, ông ta bèn lên tiếng hỏi:
- Chị làm gì thế ?
Vị nữ tu trả lời:
- Tôi đang cầu nguyện để ông được giảm bớt những cơn đau.
- Vậy chị cầu nguyện như thế nào ?
Vị nữ tu bèn đọc thật chậm và sốt sắng lời kinh Chúa dạy:
- Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng…
Ông ta phát biểu:
- Lời kinh thật đẹp, chị hãy đọc tiếp nữa đi.
- Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Rồi sao nữa:
- Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Sau khi đã nghe đọc hết kinh Lạy Cha, ông ta nói:
- Tôi muốn chị dạy cho tôi lời kinh bất hủ ấy.
Và sau cùng, một người vô thần đã nhận biết Thiên Chúa nhờ lời kinh Lạy Cha.
Trong phần tìm hiểu sáng hôm nay, tôi chỉ muốn dừng lại và phân tích bốn chữ vắn gọn: Lạy Cha chúng con.
Trước hết là hai chữ “Lạy Cha”.
Trong đời sống chúng ta có thể gọi Thiên Chúa bằng nhiều danh hiệu khác nhau: nào là Thiên Chúa vĩnh cửu, nào là Thiên Chúa quyền năng, nào là Thiên Chúa tạo dựng, nào là Thiên Chúa thánh thiện. Mỗi danh hiệu đều nói lên một góc cạnh, một đặc tính nào đó của Thiên Chúa.
Nhưng theo tôi nghĩ, không một danh hiệu nào lại đậm đà, lại trìu mến, lại ý nghĩa, lại hy vọng cho bằng danh hiệu là Cha. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta mỗi khi cầu nguyện hãy thưa lên:
- Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Thiên Chúa là một người Cha tuyệt vời và đúng nghĩa nhất, bởi vì Ngài đã trao ban cho chúng ta sự sống phần xác, ngày chúng ta mở mắt chào đời, cũng như sự sống phần hồn ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Danh hiệu này cũng đã đem lại cho chúng ta chiếc chìa khóa để giải quyết vấn đề thân phận con người:
- Chúng ta bởi đâu mà đến và rồi chúng ta sẽ đi về đâu ?
Tôi xin thưa:
- Chúng ta từ Thiên Chúa mà đến và rồi sẽ trở về cùng Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Tiếp đến là hai chữ “chúng con”.
Chúng ta không đọc: Lạy Cha con, mà đọc Lạy Cha chúng con. Như thế lời kinh tuyệt vời này không phải chỉ nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với Thiên Chúa, mà còn nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với nhau.
Thiên Chúa là Cha, cho nên tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. Như thế lời kinh này không phải chỉ tỏ lộ cho chúng ta tình phụ tử, mà còn tỏ lộ cho chúng ta tình huynh đệ.
Đã là anh em thì chúng ta có bổn phận phải yêu thương, phải tha thứ, phải hòa giải cùng nhau, vì thế không lạ gì khi thấy Chúa bảo chúng ta cầu nguyện:
- Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta hãy gắn bó mật thiết với Ngài. Đồng thời là anh em với nhau, nên chúng ta phải yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.
Đó chính là những sứ điệp mà bốn chữ đầu của kinh lạy Cha muốn gửi đến mỗi người chúng ta.
Hãy cầu nguyện luôn, hãy cầu nguyện với hết lòng tin tưởng vào tình yêu thương quan phòng: TN 17-C2
Hãy cầu nguyện luôn, hãy cầu nguyện với hết lòng tin tưởng vào tình yêu thương quan phòng của Chúa, đặc biệt cầu nguyện với lời kinh Lạy Cha mà Chúa đã dạy các đồ đệ: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Lời kinh Lạy Cha mà chúng ta thường dùng để cầu nguyện là một tập hợp chung lại của hai bản văn Phúc âm theo thánh Luca và theo thánh Matthêu. Bản văn của thánh Luca ngắn gọn hơn và chỉ có bảy lời cầu: “Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
Như vừa đọc trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ lời cầu nguyện này theo lời yêu cầu của các ông và sau khi đã nhìn thấy Chúa cầu nguyện. Trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhiều lần tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đã cầu nguyện như thế nào ? Thật khó mà đoán hết nội dung lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, nhưng căn cứ vào những lời Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ chúng ta có thể nói rằng, lời cầu nguyện Ngài dạy cho các tông đồ phản chiếu phần nào lời cầu nguyện của chính Ngài với Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu nêu gương cho các đồ đệ trong mọi sự. Chắc chắn trong việc cầu nguyện cũng thế, Ngài muốn cho các đồ đệ của Ngài cầu nguyện và sống lời cầu nguyện như chính Ngài đã làm gương. Trước hết, lời cầu nguyện hướng về Thiên Chúa là Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Hơn ai hết, Chúa Giêsu ý thức mối tương quan mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, giữa Ngài và Thiên Chúa Cha. Ngài là Con Một Thiên Chúa, Ngài luôn luôn đối thoại và sống kết hiệp với Thiên Chúa Cha. Khi dạy các tông đồ cầu nguyện: “Lạy Cha”, Ngài chia sẻ tình phụ tử, hay đúng hơn Ngài đưa các đồ đệ, đưa con người vào trong tình phụ tử với Thiên Chúa Cha. Sứ mạng cứu chuộc của Ngài là hòa giải con người với Thiên Chúa, làm cho con người được phục hồi phẩm giá làm con cái Thiên Chúa.
Đọc lời kinh Lạy Cha, mỗi người chúng ta hôm nay hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Giêsu với Thiên Chúa Cha. Từ ngữ mặc lấy không diễn tả hết thực tại mới mẻ mà người Kitô lãnh nhận được trong Bí tích Rửa tội. Từ ngữ mặc lấy có thể gợi lên trong chúng ta hình ảnh hời hợt trùm lên bên ngoài mà bên trong chẳng có gì thay đổi cả. Thật sự đối với người Kitô không phải như vậy, thực thể người Kitô đã được ơn Chúa biến đổi trong Bí tích Rửa tội. Thực tại con người đã được biến đổi trở nên con người mới, một thực tại mới, được ân sủng Thiên Chúa tái tạo, biến đổi. Thực tại mới này không phải do công trạng của con người, của mỗi người chúng ta, nhưng đó là ân ban của Thiên Chúa nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta được làm con Thiên Chúa trong Con Một Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Vậy khi cầu nguyện với lời kinh Lạy Cha, mỗi người Kitô chúng ta cần phải ý thức rằng, mình cần phải trở nên Chúa Kitô hơn, cần phải được biến đổi để trở nên giống Chúa Giêsu Kitô để có thể bước vào trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa Cha, như Chúa Kitô đã nêu gương và muốn chúng ta thực hiện như vậy. Do đó, một kết luận thực hành cho đời sống đạo của chúng ta là chúng ta không thể nào cầu nguyện thực sự lời kinh Lạy Cha, nếu tâm hồn chúng ta không được biến đổi trở nên giống Chúa Giêsu. Khi tâm hồn chúng ta không biến đổi, khi cuộc sống chúng ta không trở thành Kitô đích thực thì lời kinh chúng ta đọc: “Lạy Cha chúng con ở trên trời” chỉ là một lời hời hợt bên ngoài trên môi trên miệng mà thôi.
Chúa Giêsu Kitô đã thực hiện ơn cứu rỗi cho con người. Mỗi người Kitô chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội đã được ơn Chúa biến đổi để có thể cầu nguyện kinh Lạy Cha thật sự. Nhưng sự biến đổi đó chưa hoàn toàn kết thúc, vì bao lâu chúng ta còn sống trên trần gian này thì bấy lâu con người chúng ta còn phải chiến đấu với những tật xấu, những khuynh hướng tội lỗi nơi bản thân. Mỗi ngày chúng ta đều được mời gọi cộng tác với ơn Chúa để thanh tẩy, để trở nên giống Chúa Giêsu Kitô mỗi ngày một hơn, để cầu nguyện kinh Lạy Cha mỗi ngày một xứng đáng hơn.
Lời kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện nói lên thực thể căn bản của người Kitô là con cái Thiên Chúa Cha trong Chúa Giêsu Kitô. Lời kinh Lạy Cha còn là lời kinh gia tăng sức mạnh để giúp mỗi người chúng ta hằng ngày trở nên con cái Thiên Chúa Cha nhiều hơn nhờ ơn Chúa Giêsu Kitô.
Nguyện xin Chúa ban ơn cho mỗi người chúng ta càng ngày càng trở nên xứng đáng hơn để cầu nguyện lời kinh Lạy Cha như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Amen
Một giai thoại được kể lại như sau: Một thương gia kia cần một triệu đôla để giải quyết một: TN 17-C3
Một giai thoại được kể lại như sau: Một thương gia kia cần một triệu đôla để giải quyết một việc hệ trọng, ông tới nhà thờ cầu nguyện xin cho có được số tiền đó. Tình cờ ông quì ngay cạnh một người đàn ông, người đàn ông này cùng cầu nguyện với những lời nhỏ nhẹ, nhưng ông thương gia kia vẫn nghe biết ông ta đang xin. Ông cầu xin cho có được 100 đôla để trả một món nợ gấp. Vị thương gia liền rút từ ví của mình 100 đôla và đặt vào tay người kia. Quá đỗi vui mừng, người đàn ông đứng lên và ra khỏi nhà thờ ngay tức thì. Vị thương gia giờ đây nhắm mắt lại và bắt đầu cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, giờ đây hẳn Ngài không còn phải bị phân tâm nữa, xin hãy lắng nghe con cầu xin”.
Câu chuyện của hai người đàn ông cho chúng ta thấy điều tích cực là dù ở trong tình trạng thang bậc nào trong xã hội họ vẫn chân thành cầu nguyện. Tuy nhiên, cách nào đó họ đã làm nổi bật vấn đề mà bài Tin Mừng hôm nay nhắm tới, đó là cách cầu nguyện của người Kitô hữu. Trong cả hai trường hợp, Chúa trở thành hay được coi như là ông chủ một nhà tỷ phú. Phải chăng, đó là lối cầu nguyện và cách nhìn phù hợp của người Kitô hữu chúng ta.
Lời các môn đệ thưa với Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện”, có thể được hiểu như là một khát vọng chính đáng của biết bao nhiêu người Kitô hữu về cách cầu nguyện. Lời đáp lại của Đức Giêsu cũng có thể được tóm gọn trong một câu như sau: Lời cầu nguyện của người Kitô hữu phải là lời của một người con đối với cha của mình. Ngài nói: “Khi anh em cầu nguyện hãy nói, Lạy Cha… Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt, của lành phương chi Cha anh em ở trên trời…” Chúng ta có thể thấy ngay được rằng, cầu nguyện theo Đức Giêsu là vấn đề giữa người cha và người con. Nói cách khác, cầu nguyện là một vấn đề nội bộ trong gia đình, đặt trên nền tảng của hiểu biết, thông cảm và yêu thương. Đức Giêsu dùng hình ảnh người cha ở đây để tả lại hình ảnh mà người ta thường gán cho Thiên Chúa, một ông chủ hay một ông vua, những người thường được người khác sợ hơn là mến.
Chúng ta có thể coi Thiên Chúa như là Cha và cũng có thể coi Ngài như là Mẹ. Cả hai hình ảnh này đều nói với chúng ta về mối tương quan dựa trên tình thương và huyết thống, chứ không phải quyền lực hay chức vụ.
Cầu nguyện của người Kitô hữu là tự đặt mình vào trong mối tương quan này, coi Thiên Chúa như là Cha hoặc Mẹ, thưa chuyện với Ngài, kể chúng ta là con cái. Khi con trẻ thưa chuyện với cha mẹ, việc quan trọng không phải là đúng cách hay sai cách, chúng chỉ đơn thuần tập trung vào một điều là dùng tất cả lời nói, cử chỉ để diễn tả lòng mình. Cũng vậy, trước mặt Chúa, người Cha nhân từ khi chúng ta cầu nguyện mà công thức, thủ tục đều là chuyện thứ yếu, nếu chúng ta không muốn nói là thường. Con cái tin tưởng rằng, cha mẹ luôn luôn làm những gì là tốt nhất cho mình. Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nói: “Ai trong anh em là một người cha mà khi con xin cá thay vì cá lại lấy con rắn mà cho nó, hoặc nó xin trứng lại cho nó con bọ cạp”. Cũng vậy, con cái Thiên Chúa đến với Ngài với thái độ tin tưởng, hy vọng, biết rằng Ngài sẽ dành cho họ tất cả những gì là tốt nhất. Khi nói về cầu nguyện, chúng ta cũng cần nhìn tới về một khía cạnh khác, đó là sự kiên trì, giống như người bạn lúc nửa đêm trong bài Tin Mừng. Con cái chẳng lấy gì chấp nhận câu trả lời không, nếu cha mẹ có trả lời là không thì điều chắc chắn là ngày hôm sau và có thể hôm sau, hôm sau nữa chúng vẫn trở lại với cùng một điều xin. Đức Giêsu dạy chúng ta, con cái của Thiên Chúa cần phải biết kiên trì trong cầu nguyện. Coi cầu nguyện như là việc giữa cha và con, điều này cũng nhắc cho chúng ta biết cầu nguyện là một hành vi phát xuất từ một mối tương quan. Chúng ta có thể coi việc cầu nguyện tốt hơn, nhưng chúng ta cũng có thể trở thành những con người tốt hơn của cầu nguyện, khi mối tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa trở nên thân mật gần gũi hơn như là một mối liên hệ giữa cha và con.
Vậy, nếu anh chị em muốn cải thiện việc cầu nguyện của mình, hãy tập trung vào mối tương quan thân mật giữa cha và con, giữa Thiên Chúa và con cái.
Đề tài của bài Tin Mừng thật rõ ràng, nói về vấn đề cầu nguyện. Nội dung gồm ba phần: Phần: TN 17-C4
Đề tài của bài Tin Mừng thật rõ ràng, nói về vấn đề cầu nguyện. Nội dung gồm ba phần: Phần thứ nhất là những điều Chúa dạy phải cầu xin mỗi khi cầu nguyện. Phần thứ hai là lời khuyên hãy kiên trì trong khi cầu nguyện. Phần thứ ba là hiệu nghiệm của lời xin đích thực.
Trước hết, một môn đệ đã thay mặt cho anh em xin Chúa Giêsu dạy cho bài học về sự cầu nguyện. Chúng ta có thể nêu lên hai lý do khiến các ông muốn xin Chúa dạy cầu nguyện: Lý do thứ nhất, vì các ông thấy Chúa thường cầu nguyện và các ông cũng muốn cầu nguyện như Ngài. Lý do thứ hai, vì các ông cũng thấy Gioan Tiền hô dạy các môn đệ của ông cầu nguyện. Vì thế, theo lời xin của các môn đệ, Chúa Giêsu đã dạy các ông những điều phải cầu nguyện. Những điều này chúng ta vẫn gọi là kinh Lạy Cha. Như vậy, kinh Lạy Cha là kinh chính Chúa Giêsu đã trực tiếp dạy cho chúng ta, nên chúng ta phải coi đây là kinh mẫu, kinh quí giá nhất, quan trọng nhất, hoàn hảo nhất mà mọi tín hữu phải ưa chuộng hơn cả, phải năng đọc hơn các kinh khác, và phải đọc với niềm mến yêu tin tưởng, đọc với ý thức tương quan và bổn phận của chúng ta đối với Cha trên trời và đối với nhau. Sau khi đã dạy phải cầu xin những gì, Chúa Giêsu lại dạy thái độ cần phải có khi cầu nguyện, đó là kiên trì.
Chúa đã dùng dụ ngôn “người bạn quấy rầy” để minh họa cho chúng ta thấy rõ sự cần thiết và hiệu quả của sự kiên trì khi cầu nguyện. Dụ ngôn này nói về người trong nhà đang ngủ, dù rất khó chịu bực mình khi bị quấy rầy vào nửa đêm, nhưng cũng đành chỗi dậy cho mượn bánh, nếu không vì tình nghĩa thì ít là được bình an ngủ tiếp. Người đời còn đối xử với nhau như thế huống chi là Chúa. Ngài đâu đến độ cứng lòng như người bạn bị quấy rầy này. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ nản lòng cầu nguyện. Nếu xin mãi mà chưa được cũng đừng bao giờ bỏ cuộc, cứ cầu nguyện tiếp. Thiên Chúa làm thinh giả điếc để chúng ta được lợi thêm. Ngài muốn bị quấy rầy ít lâu để tăng thêm lòng ao ước, lòng tin cậy của chúng ta hơn.
Trước khi kết thúc bài học về cầu nguyện. Chúa Giêsu còn nói về sự hiệu nghiệm của lời cầu xin chính đáng. Chúa khẳng định như một lời hứa bảo đảm: “Hãy xin thì sẽ được”. Rồi Chúa đưa ra một thí dụ để chúng ta hiểu rõ hơn và xác tín hơn: người cha người mẹ trần gian, không mấy tốt lành mà còn muốn dành phần tốt nhất cho con cái, thì huống chi Thiên Chúa lại không biết chọn phần hơn cho con cái mình hay sao ? Miễn là những điều chúng ta cầu xin là những điều thích hợp. Xin điều gì tốt thì nhất định sẽ được Chúa nhận lời.
Lời Chúa hôm nay là một bài học rất hữu ích, nhắc nhở chúng ta hãy kiểm điểm lại việc cầu nguyện. Trước hết, chúng ta có cầu nguyện không ? Có người cho rằng: cần gì phải cầu nguyện, vì Chúa biết rõ những gì chúng ta cần thiếu. Chắc chắn Chúa biết mọi sự chúng ta cần thiếu. Nhưng biết là một chuyện, ban ơn lại là chuyện khác, nên chúng ta rất thiệt thòi nếu dám kết luận là được miễn cầu nguyện. Thiên Chúa không cần lời cầu của chúng ta. Đúng lắm. Những cầu nguyện và thờ lạy của chúng ta không thay đổi gì hạnh phúc vĩnh cửu của Chúa. Nhưng Chúa buộc chúng ta phải thờ lạy, tạ ơn và cầu xin, vì chúng ta là tạo vật của Chúa, bổn phận của chúng ta đòi buộc chúng ta dâng lên Chúa những cử chỉ đó. Chúa biết mọi sự chúng ta cần thiếu, nhưng chúng ta phải trình bày để luôn nhớ mình là bất lực. Chúa dạy cầu nguyện vì lợi ích cho chúng ta chứ không phải vì Chúa. Nên chúng ta phải cầu nguyện và cầu nguyện luôn.
Thứ hai, chúng ta xin những điều thiết yếu như cơm no áo ấm, ăn ngon mặc đẹp, bình an, khỏe mạnh, thành công, may mắn… là những điều cần thiết mà sao ít khi được hay chẳng bao giờ được như ý, có phải tại nhiều người xin quá không ? Có phải Chúa ngủ quên chăng ? Chúng ta thường có khuynh hướng xin những gì chúng ta muốn trước mắt, ít khi chúng ta suy xét đến những hậu quả và những thay đổi của hoàn cảnh. Chúng ta cho rằng những điều chúng ta xin là tốt đẹp, là cần thiết, chúng ta đòi Chúa phải nhận lời ngay. Nhưng chúng ta có khôn ngoan và hiểu biết bằng Chúa không ? Chúng ta phải tin rằng Chúa nhìn xa trông rộng, thông minh vô cùng, Ngài biết những gì tốt và cần cho chúng ta.
Do đó, nếu vì yêu thương, Chúa đáp ứng lời chúng ta cầu xin, thì trái lại, cũng vì yêu thương mà nhiều khi Ngài phải từ chối. Trong cả hai trường hợp, chúng ta đều phải xin vâng và cảm tạ Ngài. Sau hết, chúng ta phải kiên trì cầu nguyện. Thiên Chúa muốn chúng ta kiên trì. Ngài muốn nghe lời van xin kiên nhẫn của chúng ta. Chúa muốn thì tại sao chúng ta lại không muốn ? Kiên trì là một đức tính tối cần cho thành công: “Có công mài sắt có ngày nên kim”. “Kiến tha lâu đầy tổ”, “Nước chảy đá mòn”, “Không có gì là quá sức, miễn là chúng ta bền gan”. Từ đó chúng ta hiểu: kiên trì cầu nguyện là một cách cầu nguyện bảo đảm sẽ được Chúa nghe và nhận lời. Thánh nữ Monica, mẹ thánh Âu tinh, đã không uổng công mất thời giờ trong 16 năm cầu nguyện và khóc lóc, sau cùng bà đã được như ý. Con bà đã trở lại đạo và nên thánh tiến sĩ thời danh của Giáo Hội. Đúng như lời thánh Amrôxiô đã an ủi bà khi bà than thở với ngài là cầu nguyện mãi mà chưa được: “Bà cứ yên tâm, đứa con của bao nhiêu nước mắt không thể nào hư đi được”. Thánh Phanxicô đờ San rất nóng tính, ngài rất buồn vì tật xấu này, ngài đã cầu nguyện trong 22 năm để được ơn hiền lành, và ngài đã được xưng tụng là vị thánh gương mẫu về hiền lành. Đó là những gương sáng về kiên trì cầu nguyện.
Tóm lại, là người tín hữu Chúa Kitô, chúng ta phải coi việc cầu nguyện là một vấn đề cần thiết cho đời sống. Tinh thần cầu nguyện của chúng ta phải giống như việc lên giây chiếc đồng hồ: lên giây một lần không đủ, mặc dầu biết rằng lên giây ngày hôm nay để rồi ngày mai phải lên giây lại, chúng ta cũng cứ đều đặn làm công việc đó mỗi ngày, thì cầu nguyện cũng vậy, chúng ta phải cầu nguyện đều đặn mỗi ngày, cầu nguyện với lòng tin tưởng và dù được hay không những điều chúng ta cầu xin, chúng ta cũng luôn vâng theo ý Chúa.
Thế giới chúng ta đang sống ngày nay đầy những thông điệp được chuyển trao cho nhau, người: TN 17-C5
Thế giới chúng ta đang sống ngày nay đầy những thông điệp được chuyển trao cho nhau, người ta trao đổi nhau những thông tin qua mạng Internet, qua thư tín. Những cánh thiệp chuyển tải bao lời chúc nồng nàn. Email, điện thoại cho người ở đây và người ở kia có thể gặp gỡ nhau… Luôn luôn và không ngừng chúng ta gởi đi và tiếp nhận những thông điệp. Thế nhưng, giữa lòng cuộc sống nhộn nhịp và quá bận bịu ấy, có lẽ ít khi chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa cũng luôn gởi đến những thông điệp tình yêu, cùng sự quan tâm chăm sóc của Người. Đối lại, khi tiếp nhận ân ban từ trời, ta cũng gởi về Người những thông điệp gói ghém đầy tâm tư và khắc khoải của kiếp sống nhân sinh. Như thế, có thể nói những gì chúng ta gởi trao thường xuyên sẽ gắn kết giữa Thiên Chúa và con người một mối dây hiệp thông bền chặt. Hay nói cách khác, mối tình hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người đó vẫn được chúng ta xây dựng qua mỗi phút sống trong đời cầu nguyện. Như vậy, phải chăng cầu nguyện là sống mối tình hiệp thông ?
Vâng ! Cầu nguyện trước hết là sống hiệp thông với Thiên Chúa, điều này được biểu lộ nơi kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha vừa được đọc lên trong đoạn Tin Mừng có lẽ không xa lạ gì với chúng ta, ít nhiều trong đời Kitô hữu có mấy ai lại không một lần thốt lên lời kinh ấy. Lời kinh được Chúa Kitô truyền dạy rất súc tích và đầy ý nghĩa cho phép chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, cho phép ta được gắn kết với vị Cha chung giàu lòng nhân hậu hằng yêu thương chăm sóc ta, đến nỗi đã trao nộp cả Con Một mình. Nên khi cầu nguyện với người Cha như thế là ta đang được nối kết với nguồn mạch yêu thương duy nhất, là ta được mời gọi sống mối tình hiệp thông khăng khít với Thiên Chúa.
Đẹp biết bao khi ta nguyện xin cho “danh Cha được hiển sáng”, nếu thực sự chúng ta sung sướng được làm con ngoan của Chúa Cha, thì có lẽ nào điều quan tâm trước tiên của người con lại không là danh thơm tiếng tốt của Cha mình ? Vả lại ước nguyện này cũng hàm ẩn một điều nhắc nhở người Kitô hữu phải có bổn phận sống sao cho đẹp lòng Cha, sống sao cho danh Cha không bị tổn thương mà sẽ sáng mãi nơi lòng nhân thế. Như thế thì ý nguyện tiếp theo chắc chắn sẽ sáng tỏ như một tất yếu: “mong cho ý Cha thể hiện trên trời cao cũng như nơi đất thấp”. Vâng ! một mong ước hết sức giản dị, tự nhiên, nhưng biểu lộ mối tương quan kết nối bền chặt mà chúng ta vẫn hằng dệt nên mỗi khi cất lời cầu xin đó. Để từ đây, đất với trời được nối kết bằng bài ca giao duyên, và con người găp được Thiên Chúa qua mối tình hiệp thông.
Nhưng mối tình ấy không chỉ dừng lại ở đây. Vâng ! nếu tiếp tục vâng lời Đức Kitô để cất lên lời kinh ấy, chúng ta sẽ nhận ra rằng cầu nguyện không chỉ là gặp gỡ, đối thoại thân tình với Chúa Cha, mà còn là sống hiệp thông với mọi người chung quanh. Điều này được minh họa rõ nét trong bài đọc I, khi Abraham cầu xin với Thiên Chúa cho Sôđôma như một cuộc mặc cả, với số người công chính mỗi lúc mỗi giảm đến độ thê thảm, nhưng trong hình thức so kè ấy, lại toát lên mối bận tâm của Thiên Chúa đối với số phận con người, và đồng thời cũng cho thấy khi cầu nguyện, con người liên đới với nhau cách mật thiết. Quả thực, như một nét đẹp được vẽ nên khi Abraham xin Chúa tha cho Sôđôma nếu tận cùng bằng số ông chỉ tìm thấy một người công chính. Tương tự như vậy, khi thốt lên kinh Lạy Cha, chúng ta xin Chúa tha thứ cho mình nếu ta cũng tha thứ cho anh em mình.
Như thế, cầu nguyện không còn là chuyện cá nhân nữa, mà mỗi lời kinh dâng lên Thiên Chúa chính là tâm tình làm thành một vòng tròn rộng lớn nối kết tất cả mọi người, bởi lẽ đó đây lời cầu của người này có thể là quà tặng bất ngờ cho người kia, trong khi lời cầu của người kia có thể là sức mạnh trợ lực cho cả tôi lẫn những người khác nữa. Để rồi cứ thế, vòng tròn mãi vần xoay khi mỗi người chúng ta nhận được sức sống của Thiên Chúa qua lời kinh bất tận của mối tình hiệp thông, một sức sống làm cho kẻ xa xôi trở nên gần gũi, cho người xa lạ trở thành thân quen, cho người đói ăn có đủ lương thực, để người với người thứ tha cho nhau, để lòng mở lòng đón nhận ai đó lỡ xa lìa có dịp trở về. Như vậy, mỗi lời kinh vang lên giữa lòng cuộc sống luôn có khả năng nối kết mình với kẻ khác và gắn kết mọi người vào đời sống của Thiên Chúa.
Đến đây mỗi người chúng ta tự hỏi: để sống tinh thần hiệp thông, chúng ta phải cầu nguyện như thế nào ? Thực ra, nhận định về việc cầu nguyện dưới khía cạnh hiệp thông không mới mẻ gì. Nhưng vấn đề sẽ không thừa khi thực tế cuộc sống vẫn còn đó lối sống khép kín, ích kỷ nhỏ nhen. Cho nên, thiết tưởng cần phải có một cung cách cầu nguyện sao cho mỗi tâm tình được khơi lên sẽ là mỗi hành vi hiệp thông: hiệp thông với Thiên Chúa, hiệp thông với tha nhân trong Chúa Kitô. Và sẽ càng đẹp hơn nữa khi mỗi lời kinh được cất lên luôn đặt hiệp thông như mục đích phải hướng đến, như một trách nhiệm phải chu toàn. Trách nhiệm ấy đòi hỏi mỗi người chúng ta góp phần xóa đi lối sống cá nhân chủ nghĩa, xua tan những sai lệch có thể có trong đời sống Kitô hữu, vốn coi cầu nguyện đi liền với sự xin xỏ theo ý mình, dễ có nguy cơ dẫn đến mâu thuẫn giữa ý nguyện của người này và của người khác.
Như thế, có thể nói mục đích cuối cùng của cầu nguyện không phải để báo cáo cho Thiên Chúa biết các nhu cầu của chúng ta, vì Ngài còn biết rõ hơn chúng ta. Và mục tiêu của cầu nguyện cũng không phải là xin Ngài vui lòng thỏa mãn các nhu cầu ấy, vì lòng nhân từ vô biên của Ngài luôn muốn điều lành cho chúng ta. Mà cầu nguyện chính là làm cho ý chúng ta khớp với thánh ý Ngài, ngõ hầu tình yêu của Thiên Chúa tìm thấy trong tình yêu của chúng ta một lời đáp trả ngày càng hoàn hảo hơn. Thế nhưng thực tế phũ phàng vẫn còn nhiều lấn cấn: làm sao gắn kết ý mình với ý Thiên Chúa được khi mà những lời cầu trong cơn khốn cùng xem ra không được Ngài đáp lời, nhiều khi ta gõ hoài mà cửa chẳng mở, tìm hoài mà chẳng thấy. Có thể vì lời nài xin còn nhiều ích kỷ ? Có khi điều ta xin còn nhiều cặn bẩn ? Lắm khi chúng ta xin rắn mà không hay. Xin hãy ra khỏi bận tâm hẹp hòi của chính mình mà đồng cảm với mối bận tâm của Thiên Chúa, chắc chắn Ngài không nuông chiều con cái nhưng sẽ ban cho ta những ơn lành cần thiết, và ơn lành lớn lao nhất là Thánh Thần – Đấng chính là tình yêu hiệp thông.
Trong thánh lễ hôm nay, cùng với việc đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy sống tâm tình hiệp thông, xin tiếp tục gởi trao về Thiên Chúa những Email tình yêu, đồng thời cũng đón nhận mọi biến cố mà Người gởi đến, bởi lẽ mọi biến cố trong đời đều có thể là quà tặng yêu thương.
Ngày kia, thánh Clément Hofbauer đi xin đồ viện trợ cho các cô nhi. Ngài vào một quán ăn: TN 17-C6
Ngày kia, thánh Clément Hofbauer đi xin đồ viện trợ cho các cô nhi. Ngài vào một quán ăn, có ba người đang đánh bạc, xin họ góp phần vào công việc từ thiện. Một người chửi bới, rồi nhổ vào mặt ngài.
Thánh nhân lặng lẽ rút khăn tay lau mặt và nhẹ nhàng nói: “Đó là phần ông cho tôi. Còn phần cho các cô nhi của tôi đâu ?”
Tay cờ bạc kinh ngạc đến thẹn thùng, rồi dốc túi đưa hết cho Ngài.
Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta hãy xin, hãy tìm và hãy gõ cửa. Nghĩa là đức tin của chúng ta phải là một hành động tích cực chứ không phải là một thái độ thụ động chỉ biết đợi chờ.
Tuy nhiên lắm khi vì tự phụ mà chúng ta không xin, nên chúng ta không nhận được, lắm khi vì chúng ta lười biếng mà không tìm, nên chúng ta không gặp ; lắm khi vì chúng ta nhút nhát mà không gõ cửa nên không được mở cho.
Đừng thụ động ngồi chờ ơn Chúa như những quả sung từ trời rụng xuống. Hãy khiêm tốn, siêng năng và bạo dạn mà xin, mà tìm và gõ cửa. Nếu điều đó tốt cho chúng ta thì chắc chắn Thiên Chúa là Cha nhân hậu sẽ ban cho chúng ta.
Kinh Lạy Cha là kinh đầu tiên và cao trọng nhất trong các kinh nguyện Kitô giáo (Tôi đan: TN 17-C7
Kinh Lạy Cha là kinh đầu tiên và cao trọng nhất trong các kinh nguyện Kitô giáo (Tôi đang nghĩ đến bản kinh của thánh Matthêu). Những câu ngắn gọn và đơn giản của nó bao hàm mọi tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa. Nó không chỉ nói với chúng ta phải cầu nguyện điều gì mà còn cầu nguyện điều ấy như thế nào.
Tuy nhiên, người ta có xu hướng đọc kinh ấy quá vội vàng và thiếu suy gẫm đến nỗi làm mất ý nghĩa của nó. Đó là một điều đáng tiếc. Bởi vì, hiểu một cách chính xác, kinh Lạy Cha chứa đựng một chương trình toàn bộ cho đời sống Kitô hữu. Nếu chúng ta sống theo những điều chứa đựng trong đó, chúng ta sẽ trở nên hoàn hảo theo tinh thần của Đức Kitô, bởi vì không chút nghi ngờ đây là cách mà chính Người đã cầu nguyện và đã sống.
Phần đầu tiên đề cập đến Thiên Chúa
Chúng ta bắt đầu sự hiểu biết hiện hữu của Thiên Chúa, và gọi Người là Cha. Thiên Chúa là cội nguồn của chúng ta và chúng ta là con cái của Người. Một đôi khi, Người hành động như một người cha, và một đôi khi như một người mẹ.
Kế đó chúng ta ca tụng danh Người. Bằng việc ca tụng danh Người, chúng ta cầu nguyện chính Người.
Chúng ta cầu nguyện cho Nước của Người mau đến – một vương quốc của sự thật và sự sống, sự thánh thiện và ân sủng, công lý, tình yêu và hòa bình. Chúng ta đóng góp phần mình để làm cho vương quốc của Người thành hiện thực. Chúng ta cầu nguyện để ý muốn của Người được thực hiện trên mặt đất. “Trên mặt đất” cũng có nghĩa là trong đời sống của chúng ta. Ý muốn của Thiên Chúa không phải lúc nào cũng là điều dễ làm nhất, nhưng nó luôn luôn là điều tốt nhất.
Phần thứ hai đề cập đến chúng ta và các nhu cầu của chúng ta.
Chúng ta bắt đầu bằng công việc cầu xin lương thực hàng ngày. “lương thực” thay cho mọi nhu cầu vật chất. Tuy nhiên, mọi nhu cầu thật sự cần thiết của chúng ta có đủ cho ngày hôm nay.
Chúng ta cầu xin tha thứ các tội lỗi của chúng ta, và xin ơn có thể tha thứ cho những người đã phạm tội chống lại chúng ta. Không thể tha thứ cho người khác sẽ không thể nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa.
Chúng ta cầu xin không sa chước cám dỗ. Thiên Chúa không đặt sự cám dỗ trong đường lối của chúng ta nhưng cuộc đời làm điều ấy. Và chính chúng ta đôi lúc bước vào cám dỗ với sự đồng tình. Chúng ta xin Thiên Chúa giúp chúng ta đương đầu với sự cám dỗ tự ý đến với chúng ta, và tránh xa những cám dỗ mà chính chúng ta chọn lựa.
Sau cùng, chúng ta cầu xin được cứu khỏi mọi sự dữ, cả sự dữ vật chất lẫn tinh thần. Chúng ta không mong bao giờ gặp sự dữ. Điều mà chúng ta cầu xin Thiên Chúa là có được ân sủng chiến thắng mọi sự dữ, đặc biệt là sự dữ tinh thần.
Hãy ghi nhận rằng toàn bộ kinh Lạy Cha được diễn tả bằng từ ngữ ở số nhiều. Điều ấy cho thấy chúng ta là một gia đình dưới quyền Thiên Chúa, và do đó không thể có sự cứu chuộc chúng ta độc lập với sự cứu chuộc những người khác.
Hình ảnh của Abraham mặc cả với Thiên Chúa để cứu Xơđôm và Gômôra là hình ảnh hấp dẫn: TN 17-C8
Hình ảnh của Abraham mặc cả với Thiên Chúa để cứu Xơđôm và Gômôra là hình ảnh hấp dẫn. Ý tưởng mà chúng ta bắt gặp ở đây là Thiên Chúa sẽ không trừng phạt một số đông người vô tội lỗi nếu đồng thời một số ít người công chính cũng bị trừng phạt. Chúng ta thường có thái độ hoàn toàn trái ngược. Chúng ta rất muốn trừng phạt một số đông người vô tội cùng với một số ít người vô tội cũng bị phạt. Hãy lấy một ít ví dụ.
Khi các chính phủ đánh quân du kích, người ta không ngần ngại tiêu diệt cả một ngôi làng gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con. Điều đó xảy ra ở Việt Nam, ở Achentina (trong suốt những cuộc chiến tranh được gọi là “chiến tranh bẩn thỉu”) và ở nhiều nơi khác. Các quân du kích cũng không ngần ngại sử dụng chiến thuật tương tự.
Một đôi khi sự việc tương tự có thể xảy ra trong trường học. Thầy giáo ra khỏi lớp một phút. Khi ông trở lại lớp học, ông thấy cái ghế đã bị bẻ gãy. Thuyết phục hoặc đe dọa cũng vô ích, kẻ phạm tội không thú nhận, những học sinh khác không nói tên thủ phạm. Thế là thầy giáo phạt cả lớp. Cả lớp phải ở lại sau giờ học !
Cũng sự việc ấy xảy ra ở nhà. Một vài đồ vật bị ngã đổ vương vãi khi bà mẹ vừa quay lưng đi. Không một ai thú nhận. Vậy tất cả con cái bị trừng phạt. Không được xem tivi buổi tối !
Điều đó xu hướng trở thành phương thế đầu tiên của chúng ta, và chúng ta coi đó là rất khôn ngoan và công bằng. Nhưng có phải như thế không ? Trừng phạt 99 người vô tội chỉ vì một người có tội như vậy có đúng không ? Dĩ nhiên là không. Điều đó bất công. Bị trừng phạt vì một điều mà bạn không làm thật là khủng khiếp. Nó để lại trong lòng bạn một cảm giác vô cùng cay đắng.
Dù có vẻ hấp dẫn, đó không phải là một giải pháp của Kitô giáo cũng không phải là một giải pháp nhân bản. Thiên Chúa không bao giờ dùng phương thế đó. Bài đọc I nói với chúng ta điều đó. Đức Giêsu cũng dạy chúng ta bài học ấy trong dụ ngôn lúa mì và cỏ lùng. Người gieo hạt sẽ không nhổ những chùm cỏ lùng vì như thế sẽ làm lúa mì cũng bật rễ.
Vấn đề quan trọng nhất trong thời đại chúng ta là làm thế nào vượt qua điều ác mà không gây thêm điều ác. Người ta phải kháng cự điều ác. Nhưng chúng ta phải làm cách nào để trong quá trình đó, chúng ta không gây ra thêm điều ác. Điều ác không thể bị vượt qua bằng điều ác, mà chỉ bị vượt qua bằng điều thiện.
Lời Chúa hôm nay cho thấy lời cầu nguyện có giá trị như thế nào! Và không chỉ thế, Thiên Chúa: TN 17-C9
Lời Chúa hôm nay cho thấy lời cầu nguyện có giá trị như thế nào! Và không chỉ thế, Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần cho tất cả những ai cầu xin Ngài.
Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần
Đức Yêsu dạy các tông đồ cầu nguyện. Qua đó Ngài cũng dạy tất cả chúng ta.
“Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”. Danh Thiên Chúa cả sáng khi con người tin Thiên Chúa, và để Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn mình. Nước Thiên Chúa là vương quốc của tình yêu. Khi con người sống yêu thương nhau, Nước Thiên Chúa đang hiện diện.
“Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến” không phải là chuyện con người có thể làm được. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm cho con người tin nhận Ngài và sống theo luật tình yêu. Đó là lý do tại sao chúng ta nài xin.
“Xin cho chúng con lương thực hằng ngày”. Cơm bánh hằng ngày, là những điều rất bình thường nơi người ta no đầy sung túc, và người ta tưởng đó là những điều tự nhiên, và không cần tạ ơn Chúa; nhưng ở những nơi đói kém, con người dễ nhận ra “cơm bánh” mình ăn hằng ngày, là những hồng ân đặc biệt Thiên Chúa ban. Nếu không nhận biết “cơm bánh” hằng ngày là ơn, con người đã hành xử như người vô ơn.
“Xin tha tội chúng con, để chúng con cũng tha lỗi cho những người xúc phạm đến chúng con”. Xin cho chúng con cảm nhận lòng từ bi nhân hậu của Chúa, để chúng con cũng giúp người khác cảm nhận tình yêu tha thứ của Chúa, qua việc chúng con tha thứ lỗi lầm cho họ.
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Con người mỏng dòn, mong manh, dễ vỡ! Ai dám nói mình không bao giờ sa ngã? Bây giờ tôi rất mạnh, nhưng lúc khác có thể tôi rất yếu. Không sa ngã phạm tội, đó là hồng ân vô cùng lớn mà nhiều lần tôi đã không ý thức để tạ ơn Thiên Chúa. Ở trong tình nghĩa với Chúa, là một ơn mà mỗi tối khi xét mình, chúng ta cần nhận ra để tạ ơn Chúa.
Người đời, những con người bất toàn và ích kỷ, mà còn không thể dửng dưng trước những lời van xin của đồng loại, huống chi Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người vô cùng. Nếu con người còn biết cho con cái mình những điều tốt, huống chi là Thiên Chúa, chẳng lẽ Ngài không ban điều tốt cho con người sao? Quả thực, Thiên Chúa đã ban “Thánh Thần” cho con người. Thánh Thần là quà tặng quý nhất mà Thiên Chúa và Đức Yêsu ban cho con người. Khi người ta tặng quà ai, món quà càng giá trị càng diễn tả tình yêu. Món quà quý nhất mà Thiên Chúa trao tặng con người, là chính Thiên Chúa, Chúa Con và Thánh Thần.
Được Thiên Chúa, được Thánh Thần, chúng ta được tất cả những điều khác.
Thiên Chúa nhân từ hơn con người tưởng
Cuộc “trao đổi” giữa Abraham và Thiên Chúa, làm người ta lầm tưởng Abraham nhân từ hơn Thiên Chúa. Thực ra đoạn Lời Chúa cho thấy Thiên Chúa là Đấng nhân hậu, và Ngài sẵn sàng làm tất cả những gì Abraham nài xin. Abraham xin gì, Thiên Chúa cũng ban. Ngài sẵn sàng bớt từ 50, đến 40, 30, 20 và 10. Tại sao Abraham không rút xuống nữa? Có lẽ vì lòng nhân từ của con người “có hạn”, hay tại Abrahm chưa đủ lòng tin rằng Thiên Chúa nhân từ, chứ nếu Abraham có đủ can đảm và lòng tin xin rút xuống nữa, chắc chắn Thiên Chúa cũng ban cho.
Sôđôma, là mẫu gương để con người xa tránh tội lỗi. Thật không đúng nếu nói Thiên Chúa không thương những người ở Sodoma. Đức Yêsu nói: Sodoma còn được xét xử khoan dung hơn nhiều thành ở Israel (x. Mt.10, 15).
Hình ảnh của Abraham trong St.18, 20-32 rất đẹp. Lòng nhân từ và thương xót, làm con người trở nên xinh đẹp, vì điều đó làm con người giống Thiên Chúa hơn.
Chỉ cần mười người công chính, đủ để cứu cả thành. Chỉ cần là người công chính, là đã làm được bao nhiêu điều mà những người tài giỏi, quyền thế, giầu sang, không thể làm được. Ước gì mỗi người chúng ta đều có khao khát trở nên người công chính. Để với sự công chính Thiên Chúa ban, chúng ta có thể cứu được những người khác, chẳng hạn qua gương sáng đời sống đạo đức, chúng ta có thể giúp người khác trở lại, hoặc cố gắng vươn lên.
Thái độ của con người trước Thiên Chúa
Abraham xin với Thiên Chúa như một người “ăn xin”, ý thức những điều mình xin tuỳ thuộc Thiên Chúa đồng ý hay không. Con người tuy dù được Thiên Chúa yêu những tự bản chất chỉ là tạo vật, là hư không đối với Thiên Chúa. Con người đâu phải ngang bằng với Thiên Chúa mà đòi hỏi điều này điều kia. Thái độ khiêm tốn, chấp nhận những gì được ban như hiện tại, cảm tạ Thiên Chúa, là thái độ cần thiết của tạo vật trước Thiên Chúa.
Thiên Chúa không cần chúng ta nài xin, Ngài cũng ban những điều cần thiết cho chúng ta. Khi chúng ta thấy những gì cần cho chúng ta và nài xin Ngài, Ngài sẵn sàng ban để chúng ta nhận biết “Ngài là tình yêu” hơn nữa. Thiên Chúa đã ban Đức Yêsu cho chúng ta, nhờ Ngài chúng ta là tạo vật mới, và chúng ta được tất cả nhờ Đức Yêsu Kitô.
Đức Yêsu vì yêu thương đã coi chúng ta là bạn hữu với Ngài. Tuy dù được yêu thương, nhưng khi ngỏ lời với Thiên Chúa, Abraham rất kính cẩn. Đây cũng là bài học cho chúng ta, để mỗi khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta phải có thái độ như thế nào đối với Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có hay “xin” Thiên Chúa điều này điều kia không? Điều nào quan trọng nhất trong đời mà bạn đã xin? Bạn có được điều đó không? Xin chia sẻ nếu được.
2. Lời nào trong kinh Lạy Cha bạn thích nhất? Tại sao?
3. Có khi nào bạn cầu nguyện một điều rất chính đáng mà không được không? Bạn phản ứng ra sao với Thiên Chúa trong trường hợp đó? Phản ứng đó đúng hay sai? Tại sao?
Có một thời ở thành phố Kentucky có hai nhà thờ và một hãng chế rượu. Dân chúng trong thành: TN 17-C10
Có một thời ở thành phố Kentucky có hai nhà thờ và một hãng chế rượu. Dân chúng trong thành này cứ than phiền là cái hãng chế rượu này làm cho cộng đoàn có một ấn tượng xấu. Bên cạnh đó, chủ hãng rượu lại là một người vô thần. Họ đã cố làm tất cả những gì có thể để dẹp cái hãng rượu này nhưng vẫn không thành công. Sau cùng, tất cả mọi người đều bàn với nhau để tụ họp lại và cầu nguyện xin Chúa can thiệp. Thế là tối hôm đó, một cơn bão đổ xuống và sấm sét đã đánh trúng cái hãng rượu và làm cho nó cháy rụi hết cả. Sáng hôm sau, cả hai nhà thờ, đều bàn đến năng lực của việc cầu nguyện. Hãng bảo hiểm hỏa hoạn đã nói với ông chủ hãng rượu là họ sẽ không có đền tiền cho ông bởi vì trong điều khoản của hợp đồng không có nói là nếu là việc làm của Chúa thì phải đền. Thế rồi ông chủ hãng rượu đã đi thưa tất cả mọi người là họ đã kêu cầu Chúa phá hủy tài sản của ông. Khi ra tòa, mọi người đều chối là họ đã làm bất cứ chuyện gì để phá tiệm rượu của ông. Sau một hồi suy nghĩ, quan tòa đã phán như sau, "Tôi nhận thấy rằng đây là một trường hợp khó xử. Một đàng thì ông chủ rượu vô thần này đã chứng minh năng lực của lời cầu nguyện, còn những người giáo hữu thì lại chối bỏ năng lực của lời cầu nguyện."
Có lẽ nhiều người trong chúng ta phải đồng ý với ý tưởng của quan tòa trên. Chúng ta nói rất nhiều về vấn đề cầu nguyện: sự cần thiết, tầm quan trọng, hiệu lực của nó, và các loại cầu nguyện nữa. Chúng ta cũng thường cầu nguyện sáng, trưa, và tối. Mỗi Chúa nhật, chúng ta tụ họp lại nơi đây để cầu nguyện. Niềm tin và sự hy vọng của chúng ta đặt trong lời cầu nguyện như là một phương pháp tối hảo để giải quyết các vấn đề. Thế nhưng, một điều cũng thật là trong khi chúng ta cầu nguyện, thì việc cầu nguyện lại trở nên một vấn đề. Một đôi lúc chúng ta làm cho nó trở nên khó khăn, và chúng ta thấy mình cầu nguyện để làm sao biết cầu nguyện.
Một lý do mà chúng ta gặp khó khăn trong vấn đề cầu nguyện chính là chúng ta mong chờ Chúa trả lời theo cách chúng ta xin. Khi chúng ta cầu nguyện mà không được Chúa trả lời thì chúng ta đâm ra nghi ngờ. Chúng ta có thể đối diện với vấn đề này bằng cách trở lại câu số một cùng chương khi các môn đệ hỏi Chúa Giêsu dạy họ cầu nguyện. Chúa Giêsu đã dạy họ lời cầu nguyện tuyệt hảo, Kinh Lạy Cha, mà chúng ta vẫn thường đọc đi đọc lại.
Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta nhận thấy có 5 ý nguyện dâng lên Chúa Cha. Ý nguyện thứ nhất là quan trọng nhất mà tất cả những ý nguyện khác đều phụ thuộc vào ý nguyện này, "Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng." Khi chúng ta cầu nguyện câu này, chúng ta cần phải hiểu về phong tục của người Do thái. Chữ "Danh" hoặc là chữ "Tên" có một ý nghĩa thâm sâu bởi vì nó tượng trưng cho cả con người của ai đó. Khi chúng ta cầu nguyện cho Danh Chúa được cả sáng không có nghĩa là Thiên Chúa được cả sáng bởi vì Ngài là Chúa, tự Ngài đã được cả sáng mà không cần có chúng ta. Danh Chúa được cả sáng ở đây có nghĩa là nhiều người được nhận biết Ngài.
Khi xét về câu đầu tiên này trong Kinh Lạy Cha theo mạch văn Thánh Kinh, chúng ta nhận thấy rằng Thiên Chúa dựng nên con người để con người nhận biết Ngài là Chúa, và chúng ta không phải là Chúa. Ngay trong phần đầu của Thánh Kinh, câu truyện Ađam và Evà đã cho chúng ta thấy rằng nếu chúng ta muốn sống và muốn nhận biết khả năng của mình, chúng ta cần phải nhận biết Chúa là Thiên Chúa của chúng ta, và chúng ta không phải là Chúa. Khi chúng ta thi hành điều này thì ơn phúc sẽ đổ xuống trên chúng ta và cho người khác nữa. Khi chúng ta chối bỏ cái chân lý đó, thì chúng ta cắt bỏ nguồn sự sống trong chúng ta và như thế chúng ta sẽ tự hủy diệt chính mình. Chúng ta sẽ bị chết về mặt tinh thần. Cho đến khi nào mà chúng ta hiểu được ý nguyện thứ nhất này trong Kinh Lạy Cha, cho đến khi nào chúng ta đọc nó với lòng thành tâm, thì chúng ta sẽ cảm thấy rằng lời nguyện đó quá đầy đủ.
Tất cả mọi người chúng ta ai cũng những khuyết điểm mà chúng ta không tôn vinh Danh Chúa. Khuyết điểm đó có thể là mối liên hệ của chúng ta với anh chị em mình hoặc là giữa vợ chồng, cha mẹ với con cái, hoặc là hàng xóm láng giềng. Đó là những khuyết điểm mà chúng ta muốn làm theo ý mình mà không làm theo ý Chúa để Danh Ngài được rạng danh. Làm như vậy, chúng ta cắt bỏ nguồn mạch sự sống để rồi tự tiêu diệt mình hoặc là đưa đến chỗ ly dị, thù ghét, bỏ nhà ra đi, còn tệ hơn nữa là bỏ luôn cả nhà thờ.
Tôi xin đề nghị với các bạn hãy dùng một ít phút mỗi ngày để suy ngắm câu "Nguyện Danh Cha Cả Sáng." Các bạn hãy tự hỏi mình xem coi cuộc sống của các bạn có làm vinh danh Chúa không hay là vinh danh bản thân mình? Các bạn hãy cầu nguyện để tất cả mọi suy nghĩ, hành động, lời nói của mình đều qui về vinh danh Chúa mà thôi.
Có nhiều định nghĩa về con người. Con người là con vật biết sử dụng các dụng cụ. Con người: TN 17-C11
Có nhiều định nghĩa về con người.
Con người là con vật biết sử dụng các dụng cụ. Con người là con vật biết suy nghĩ đắn đo. Nhưng như thế vẫn chưa đủ.
Phải định nghĩa con người là con vật biết cầu nguyện, nghĩa là có khả năng lắng nghe và đáp lời Thiên Chúa. Con người là sinh vật biết chuyện trò với Tạo Hoá.
Cầu nguyện không phải là nói với một sự vật, một ý tưởng, nhưng là nói với một Đấng siêu vượt tôi, mà lại rất gần gũi thân thương và biết tôi. Đấng ấy nói với tôi và nghe được lời tôi nói.
Có nhiều tâm tình khi ta cầu nguyện: thống hối, tri ân, ca ngợi, thờ lạy, dâng hiến, nài xin.
Nài xin chẳng phải là điều hạ giá con người. Con người cảm nghiệm được thân phận mong manh, nên khiêm hạ đi tìm sự nâng đỡ.
Xin cho chúng con bánh cần dùng mỗi ngày. Bánh vật chất, bánh tinh thần, Bánh Thánh Thể. Bánh cho chúng con sự sống.
Xin tha thứ tội chúng con, để chúng con được sống bình an sau những va vấp.
Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ. Cơn cám dỗ lớn nhất là chỉ sống cho mình, và khép lại trước Thiên Chúa và anh em.
Quỳ xuống cầu xin là thái độ của người biết mình, biết những gì mình có thể làm được, và biết những gì nằm ngoài tầm tay của mình.
Khi tương quan giữa Mỹ và I-rắc căng thẳng cực độ, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đã tới Bagdad để thuyết phục phía I-rắc ký vào bản thoả thuận.
Lúc trở về, ông nói: "Tôi đặc biệt đã cầu nguyện nhiều. Đừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh của sự cầu nguyện."
Chẳng phải chỉ cầu nguyện khi gặp chuyện khó. Để hít thở bình thường cũng cần đến ơn trên.
Cần có thái độ kiên trì khi cầu nguyện. Hãy cứ gõ cửa nhà Chúa trong đêm mịt mù. Cần tập đứng đợi, tập quấy rầy Chúa. Thế nào Ngài cũng mở cửa và cho mọi sự ta cần.
Hãy để Ngài tự do cho vào lúc và theo cách Ngài muốn, dù điều đó không hợp với ước mơ của ta.
Lắm khi ta có cảm tưởng Ngài không nhận lời. Có thể vì lời nài xin của ta đầy tính ích kỷ, hay vì Ngài muốn dành cho ta một ơn lớn hơn.
Xin Đức Giêsu dạy ta biết cách cầu xin, đưa ta ra khỏi những bận tâm hẹp hòi về chính mình, để thấy những nhu cầu lớn lao của Hội Thánh.
Ơn cao cả nhất mà chắc chắn Cha muốn ban cho ta đó là Chúa Thánh Thần. Có Thánh Thần là có niềm vui, sức mạnh, ánh sáng, sự sống.
Có khi nào ta nài xin Cha ban Thánh Thần chưa?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa là Cha tốt lành. Ngài chỉ cho ta điều tốt. Có khi nào bạn gặp thất bại khổ đau mà bạn thấy lòng tốt của Thiên Chúa không?
Nếu Chúa cho bạn chọn 3 điều ước, bạn sẽ chọn những điều nào?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
Một thách đố lớn đối với đức tin của người Kitô hữu đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa. Gặp: TN 17-C12
Một thách đố lớn đối với đức tin của người Kitô hữu đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa.
Gặp cơn cùng khốn, con người cầu cứu Ngài nhưng không nghe thấy tiếng đáp lại.
Người lành bị trù dập, kẻ vô tội bị hàm oan, nỗi đau khổ thể xác tinh thần vây bọc lấy đời người.
Con người quằn quại, rên xiết, gào thét, nổi loạn.
"Chúng tôi tố cáo Thiên Chúa vì Ngài vắng mặt."
Ngài không được quyền vắng mặt và thinh lặng. Nếu Ngài là Thiên Chúa quyền năng, Ngài phải tiêu diệt sự dữ và kẻ dữ. Nếu Ngài là Cha yêu thương, Ngài không thể quay lưng trước nỗi khổ của con người. Có nhiều người đã lý luận như thế và kết luận: "Vì có đau khổ, nên không có Thiên Chúa."
Có lúc người ta tưởng đau khổ là một vấn đề có thể đem ra mổ xẻ, giải quyết. Nhưng rồi người ta thấy đó là một mầu nhiệm. Chỉ ai tin mới đến gần được mầu nhiệm ấy, và đón nhận nó trong bình an.
Đức Giêsu đã không trình bày con đường diệt đau khổ, nhưng Ngài mang lấy đau khổ vào thân. Trên thập giá, Ngài nghe được sự thinh lặng của Thiên Chúa, và thấy được sự vắng mặt của Người. "Lạy Thiên Chúa của tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?"
Như ta, Ngài cũng bước đi trong bóng tối của lòng tin, dù bị thử thách, vẫn một niềm tín thác: "Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha."
Thiên Chúa vẫn là Đấng toàn năng và yêu thương, nhưng Ngài hành động không giống điều ta nghĩ.
Ngài không đưa Đức Giêsu xuống khỏi thập giá nhưng đưa Con của Ngài ra khỏi nấm mồ, điều đó khó hơn nhiều.
Hôm nay Đức Giêsu mời chúng ta cứ xin, cứ tìm, cứ gõ và tin chắc sẽ được, sẽ thấy, sẽ mở cho.
Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu, Ngài chỉ ban cho ta những điều tốt lành, những điều có lợi thực sự cho ta, những điều làm ta trưởng thành và triển nở, những điều đưa ta gặp hạnh phúc đích thực, thứ hạnh phúc không chỉ hạn hẹp ở đời này.
Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu, nhưng Ngài không nuông chiều con cái, Ngài dám cắt tỉa để chúng ta sai trái hơn.
Bạn hãy cứ cầu xin nhưng hãy để cho Ngài định liệu, vì Ngài biết rõ điều gì là tốt hơn cho bạn trong hoàn cảnh này, ở đây, bây giờ.
Cần cầu nguyện nhiều, bạn mới biết điều bạn phải xin, vì những điều chúng ta xin còn mang nhiều cặn bẩn.
Lắm khi chúng ta xin rắn mà không hay. Cũng có khi ta tưởng Chúa cho chúng ta bọ cạp. Cần có đức tin mới nhận ra rằng Chúa đã nhận lời mình rồi, nhưng theo một kiểu khác với kiểu ta muốn.
Cần đợi đến một lúc nào đó bạn mới thấy mọi biến cố trong đời đều là quà tặng yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn đã từng cầu xin và thấy Chúa thinh lặng trước nỗi khổ của bạn. Bạn đã sống kinh nghiệm đó như thế nào?
Có khi nào bạn tạ ơn Chúa vì những gì Chúa đã không ban cho bạn theo như ý bạn xin?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
Trước mỗi biến cố quan trọng (như rửa tội, biến hình, chịu nạn), Thánh Luca luôn nhắc tới một: TN 17-C13
(c.1) Trước mỗi biến cố quan trọng (như rửa tội, biến hình, chịu nạn), Thánh Luca luôn nhắc tới một buổi cầu nguyện. Ở đây không những có buổi cầu nguyện mà còn dạy về cầu nguyện nữa.
Kinh cầu nguyện đánh dấu một cộng thể, như người Công Giáo có kinh Kính Mừng. Kinh còn dạy cho chúng ta cách sống.
Cầu nguyện & quyền lực: dân quê Do Thái thời đó bị nhiều giới cai trị: chủ vườn, thu thuế, thời tiết, và trên cùng hết là Thượng Đế. Nếu lời cầu có thể ảnh hưởng được tới Chúa thì may ra họ xin được những thứ cần thiết.
(c.2) "Cha" cho con không phải chỉ vì công sức hay tài năng. Mọi người có cùng Cha, vậy tất cả là anh chị em.
"Danh Cha cả sáng" khi những tạo vật của Ngài không còn bị sự dữ làm ô nhiễm, nhất là trong tim và óc con người.
"Nước Cha" hiệp nhất mọi người bất kể chủng tộc, giai cấp, phái tính, v.v.
"Lương thực hàng ngày" ta cần xin Thượng đế để nuôi cả xác lẫn hồn.
"Tội" của con người, kể cả của các môn đệ theo Thày, cũng được tha.
"Cám dỗ" theo thánh Luca không có kết quả gì hay, không làm ta mạnh sức lên.
(cc.5-8) Theo phong tục thời đó dân làng phải tiếp kẻ qua đường. Kẻ ngủ mà không dạy ph.u tiếp khách sẽ bị người chung quanh khinh rẻ, nên ông ta đành dạy để giúp.
(cc.9-13) Chúa cũng giữ danh tiếng Ngài bằng cánh chăm nom cho con cái của Ngài.
Một Điểm Chính
Đức Giêsu dạy ta cách cầu nguyện và sống theo luật tình thương của Ngài.
Suy Niệm
Tôi có cần Thượng Đế không? Hay tôi tự mãn, tự đủ nên không thấy cần phải cầu nguyện làm gì?
Kinh Lạy Cha có dạy cho tôi biết tôi là ai và phải sống thế nào không? Sách Giáo Lý Công Giáo mới có 1 phần khá dài về kinh Lạy Cha.
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XVII Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, về tinh thần, tiếp tục bài: TN 17-C14
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XVII Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, về tinh thần, tiếp tục bài Phúc Âm của Chúa Nhật XVI cũng Năm C tuần trước. Thật vậy, bài Phúc Âm tuần trước Chúa Giêsu đã đề cao việc làm của Maria là người đã “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người”, và trách Matta “lo lắng bối rối về nhiều chuyện”, đến nỗi, Matta đã không giữ được bình an nội tâm nên đã phải bật miệng trách móc: “Lạy Thày, em con để con hầu hạ một mình mà Thày không quan tâm đến hay sao. Xin Thày bảo em con giúp con với”, chính vì thế Chúa Giêsu mới thức tỉnh Matta bằng cách mời gọi Matta hãy trở về với nguồn mạch là đời sống nội tâm, đời sống gắn bó với Người như Maria em chị: “Chỉ có một điều cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt hơn và nó sẽ không bị mất đi phần tốt hơn này”. Bài Phúc Âm hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm tuần trước, trong đó, như Thánh Ký Luca thuật lại, Chúa Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện để đáp lời một trong các vị ngỏ ý: “Lạy Thày, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy các môn đệ của ông ấy”.
Qua bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay đây, chúng ta thấy Chúa Giêsu chẳng những đã dạy cho các môn đệ mẫu thức cầu nguyện mà còn cả tinh thần cầu nguyện nữa, một mẫu thức cầu nguyện và tinh thần cầu nguyện chắc chắn sẽ mang lại thành quả cầu nguyện như lòng ước vọng. Mẫu thức cầu nguyện Chúa Giêsu dạy đây chính là lời Kinh Lạy Cha, tinh thần Người dạy cầu nguyện đây chính là lòng tin tưởng, và thành quả cầu nguyện phát sinh từ mẫu thức cầu nguyện và tinh thần cầu nguyện đây, như lời Người bảo đảm, đó là “xin sẽ được, tìm sẽ thấy, gõ sẽ mở. Vì ai xin sẽ được, ai tìm sẽ thấy, và ai gõ sẽ mở cho... Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Ngài”.
Trước hết, về mẫu thức cầu nguyện là Kinh Lạy Cha. Nếu so sánh với Kinh Lạy Cha trong Phúc Âm Thánh Mathêu ở Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu, thì Kinh Lạy Cha trong bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay ngắn hơn 2 ước nguyện, đó là ước nguyện “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, và ước nguyện “xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ”. Ngoài ra, ngay ở lời mở đầu, chỉ có lời xưng tụng vỏn vẹn “Lạy Cha” mà thôi, chứ không có chi tiết “của chúng con” và “ở trên trời”. Tuy Kinh Lạy Cha trong Phúc Âm Thánh Luca hôm nay ngắn hơn Kinh Lạy Cha trong Phúc Âm Thánh Mathêu như thế, song không phải vì thế mà Kinh Lạy Cha ngắn này bị thiếu hụt những gì quan trọng, trái lại, phải hiểu là Kinh Lạy Cha ngắn này đã chất chứa đủ những gì tối thiểu cần thiết cho một mẫu thức cầu nguyện theo Chúa dạy. Cũng như lời tuyên xưng của Thánh Phêrô trong Phúc Âm Thánh Luca của Chúa Nhật XII Thường Niên “Thày là Đức Kitô của Thiên Chúa”, tuy ngắn nhưng vẫn không thiếu những yếu tố căn bản cho niềm tin làm nên Giáo Hội của Người này, so với cũng lời tuyên xưng ấy ở Phúc Âm Thánh Mathêu trong Lễ Trọng Kính Hai Thánh Phêrô và Phaolô 29/6 hằng năm: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Ở đây chúng ta nên để ý đến một yếu tố khác liên quan đến hai Kinh Lạy Cha ngắn và dài này. Đó là, Kinh Lạy Cha dài ở Phúc Âm Thánh Mathêu được lồng trong Bài Giảng Trên Núi, khi Chúa Giêsu dạy về việc cầu nguyện, và sau khi Người nói đến cách thức cầu nguyện cần phải kín đáo và ngắn gọn; còn Kinh Lạy Cha ngắn ở Phúc Âm Thánh Luca hôm nay lại được xuất hiện trong trường hợp môn đệ yêu cầu Chúa Giêsu dạy các vị cầu nguyện, và Chúa đã dạy các vị mẫu thức cầu nguyện này trước khi nói đến tinh thần cầu nguyện và thành quả cầu nguyện. Vậy tại sao Chúa Giêsu không dạy các môn đệ tinh thần cầu nguyện trước khi dạy cho các vị biết mẫu thức cầu nguyện? Nếu không phải Người muốn dạy cho các môn đệ biết bản chất cầu nguyện ngay trong chính mẫu thức cầu nguyện, một bản chất mà thiếu nó hay không có nó thì chỉ là một việc bôi bác bề ngoài, như Người đã dùng lời tiên tri Isaia đoạn 29 câu 13 mà nói: “Dân này thờ kính Ta ngoài môi mép, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mt 15:8).
Đúng thế, bản chất làm nên việc cầu nguyện đây chính là lòng muốn của con người. Đó là lý do Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 2562 mới ý thức và xác nhận: “Chính con tim cầu nguyện. Nếu lòng chúng ta xa cách Thiên Chúa thì những lời cầu nguyện chẳng là gì ”. Căn cứ vào bản chất làm nên cầu nguyện là tấm lòng của con người này chúng ta mới thấy được nguyên nhân thường làm và dễ làm cho chúng ta chia trí khi đọc kinh cầu nguyện, đó là tại lòng chúng ta chưa hoàn toàn gắn bó với Thiên Chúa, tức lòng chúng ta còn bị các tạo vật lôi kéo hay ngoại cảnh chi phối, không thể nào liên lỉ và hoàn toàn cầm trí được. Bởi vậy chúng ta mới hay nghe nói chia lòng trước rồi mới chia trí sau, tức là “chia lòng chia trí” vậy. Và vì bản chất làm nên việc cầu nguyện là lòng muốn như thế, mà trong mẫu thức cầu nguyện Chúa dạy ở Phúc Âm Thánh Luca hôm nay mới có 5 ước nguyện: thứ nhất là ước nguyện cho danh Cha cả sáng nơi niềm tin tưởng nhận biết Thiên Chúa thực sự là Cha trên trời của mình; thứ hai là ước nguyện mong cho nước Cha trị đến trên thế gian bằng đời sống hay công cuộc tông đồ làm chứng nhân cho Chúa Kitô của mình; thứ ba là ước nguyện được có lương thực hằng ngày là chu toàn ý muốn của Cha (xem Jn 4:34); thứ bốn là ước nguyện được Cha thứ tha tội lỗi của mình trong việc mình sống theo ý riêng của mình hơn là làm theo ý Cha; và thứ năm là ước nguyện được Cha cứu khỏi các chước cám dỗ có thể làm mất lòng Cha của mình.
Sau khi dạy cho các môn đệ mẫu thức cầu nguyện là Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu liền dạy các vị về tinh thần cầu nguyện là lòng tin tưởng, tin tưởng những gì mình xin chắc chắn sẽ được. Đó là lý do Người đã dùng dụ ngôn có người đi vay bánh đãi khách giữa lúc đêm khuya và thực sự đã được toại nguyện, dù ngỏ lời xin vào giờ bất tiện nhất và làm phiền người cho nhất. Thật vậy, cầu xin cũng là cầu nguyện. Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 2559 đã lập lại định nghĩa của Thánh Gioan Đamascênô như sau: “Cầu nguyện là nâng lòng trí lên cùng Thiên Chúa hay xin Thiên Chúa những điều tốt lành”. Đúng thế, nếu bản chất của cầu nguyện là lòng muốn, được tỏ ra bằng những ước nguyện, như trong mẫu thức cầu nguyện là Kinh Lạy Cha, thì cầu xin với một lòng tin tưởng tuyệt đối chứng tỏ con người cầu xin đã lên đến tuyệt đỉnh của đời sống cầu nguyện, nếu không muốn nói đã được thần hiệp với Thiên Chúa, đến nỗi, ý của họ là ý của Chúa và ý của Chúa là ý của họ rồi vậy. Điển hình là lời Mẹ Maria cầu xin Con Mẹ ra tay cứu vãn tình trạng thiếu rượu của tiệc cưới Cana, và dù chưa tới giờ của mình, Chúa Giêsu cũng đã làm phép lạ như lời Mẹ cầu xin. Trường hợp Mẹ Maria cầu xin Con Mẹ cho tiệc cưới Cana đây cũng tương tự như trường hợp người kia đi vay bánh đãi khách giữa lúc đêm khuya ở bốn điều sau đây. Thứ nhất, Mẹ Maria xin cho người khác, người cầu xin trong dụ ngôn cũng xin cho người khác; thứ hai, Mẹ Maria xin vào lúc chưa tới giờ của Con Mẹ, còn người cầu xin trong dụ ngôn thì vào nửa đêm là giờ bất tiện nhất; thứ ba, Mẹ Maria làm phiền Con Mẹ: “Việc này có can chi tới Tôi và bà” (Jn 2:4), người cầu xin trong dụ ngôn cũng làm người cho bị phiền toái: “Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh đâu”; thứ bốn, Mẹ Maria được Con Mẹ thỏa nguyện, người cầu xin trong dụ ngôn cũng được toại nguyện.
Trường hợp người xin bánh đãi khách giữa đêm khuya trong dụ ngôn Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay được hiện thân sống động nơi hành động Mẹ Maria cầu xin Con Mẹ cho tiệc cưới Cana như thế cho chúng ta thấy rằng, nếu thực sự cầu xin với lòng tin tưởng vững vàng thì thành quả cầu nguyện chắc chắn sẽ xẩy ra đúng như lời Chúa Giêsu quả quyết trong bài Phúc Âm hôm nay: “xin sẽ được, tìm sẽ thấy, gõ sẽ mở. Vì ai xin sẽ được, ai tìm sẽ thấy, và ai gõ sẽ mở cho”. Bởi vì, trong khi người cầu xin Chúa với lòng tin tưởng mãnh liệt hoàn toàn thú nhận trước nhan Ngài rằng họ là người bần cùng thiếu thốn, hoàn toàn trông đợi mọi sự ở nơi Ngài, đến nỗi, không có Ngài họ không thể làm gì được, mà Thiên Chúa lại là Đấng vô cùng viên mãn và tốt lành, Đấng chỉ muốn ban phát, thậm chí “đã không dung tha cho Con riêng mình thì Ngài còn tiếc bất cứ điều gì nữa”, như Thánh Phaolô cảm nhận trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma đoạn 8 câu 32, thì điều tuyệt nhất Ngài ban cho họ đó là Thánh Thần của Ngài, như chính lời Chúa Giêsu cuối bài Phúc Âm hôm nay khẳng định: “Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Ngài”. Đúng thế, chỉ khi nào nhận được Vị Thánh Thần này, con người cầu nguyện mới có thể được hoàn toàn thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi để nhờ đó họ cũng mới có thể thông ban Sự Sống Thần Linh là Chúa Kitô (xem Jn 14:6, 11:25; 1Jn 5:11-12) cho những ai họ được sai đến như một chứng tá Thần Linh.
Nếu tinh thần cầu nguyện là tin tưởng, mà “ai xin sẽ được” và được “Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần cho”, thì quả thực, đúng như lời Chúa Kitô xác quyết trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 7 câu 39: “Ai tin tưởng nơi Tôi hãy uống. Thánh Kinh đã viết: ‘Từ nơi họ tuôn ra những giòng sông chảy nước hằng sống’. (Ở đây Người có ý nói đến Thần Linh mà những ai tin vào Người được lãnh nhận)”. Như thế, con người cầu nguyện sâu xa chính là nhà truyền giáo đích thực, và ngược lại, vị thừa sai thành đạt phải là con người cầu nguyện sâu xa vậy. Đó là ý nghĩa của việc cầu nguyện theo bài Phúc Âm hôm nay cho Chúa Nhật XVII Mùa Thường Niên Năm C Hậu Phục Sinh, một thời điểm Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô tiếp tục tỏ mình ra trên thế gian qua chứng từ Giáo Hội cho đến khi Người lại đến trong vinh quang.
Vấn đề thực hành sống đạo: Nếu con người cầu nguyện thực sự cũng là một con người truyền giáo, thì ngược lại con người truyền giáo trước hết và trên hết phải là một con người cầu nguyện. Thế nhưng, thực tế cho thấy, không phải ai cũng biết cầu nguyện và có thể cầu nguyện. Do đó, các môn đệ mới xin Chúa Giêsu dạy cho mình biết cầu nguyện. Và cũng chính vì thế có nhiều tâm hồn đã chán và bỏ đời sống cầu nguyện. Tuy nhiên, chính khi con người ngày nay đang sống trong một thế giới đầy năng động và theo xu hướng hưởng thụ này, họ lại có phong trào tìm kiếm tĩnh lặng, như thực hành phương pháp Thiền hay Zoga. Thế nhưng, kinh nghiệm cũng cho thấy, khi con người bắt đầu cầm trí và thinh lặng cũng là lúc con người bắt đầu chia trí. Vậy làm sao để có thể cầu nguyện?
Ví như xác không hồn là xác chết. Cũng thế, linh hồn không siêng năng cầu nguyện thì linh hồn: TN 17-C15
Ví như xác không hồn là xác chết. Cũng thế, linh hồn không siêng năng cầu nguyện thì linh hồn cũng chẳng sống được. Thánh Gioan Kim Khẩu xác quyết như vậy. Thế nhưng đối với nhiều Kitô hữu, dường như cầu nguyện vẫn chưa là “hơi thở của linh hồn” theo ý nghĩa thường xuyên và cần thiết. Có lẽ vì bị chi phối bởi một tâm thức xem Chúa như “Ông thủ kho” và nỗi đợi chờ theo kiểu “mì ăn liền” nên cầu nguyện đã trở thành gánh nặng thiếu sức sống nơi nhiều tâm hồn tín hữu.
Không ít người sớm thất vọng vì nài nẵng hoài mà không được. Có người chán nản vì bị yếu tố thời gian chi phối quá mạnh. Cũng có người cảm thấy khô khan, thiếu hứng thú, mất thời giờ khi cầu nguyện. Những hoạt động hay tiếp xúc với thế giới hữu hình vẫn luôn là hấp dẫn hơn so với thế giới hữu hình. Thành thử đời cầu nguyện cứ càng ngày càng mờ phai.
Nhưng dù sao, Lời Chúa vẫn luôn kêu mời: Hãy kiên trì cầu nguyện, đừng nhàm chán (Lc 18:1).
Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và tổ phụ Abraham đã nên như lời nhắc nhở và mẫu gương của đời sống nguyện cầu. Trong đời sống đó phải có kiên tâm bền chí, khiêm nhưỡng cậy trông, và mở lòng với tha nhân.
Vì muốn cứu hai thành phố đồi trụy Sôđôma và Gômôra, Abraham đã dám “mặc cả” với Chúa. Ông không khởi sự bằng việc xin đưa người lành ra khỏi thành trước khi lửa trời rơi xuống. Ông không dừng lại ở điểm công bình, nhưng đã đi xa hơn: vươn lên tới đức bác ái. Mục tiêu cầu khẩn của Abraham là cho người tội lỗi. Song, để cứu được người tội lỗi lại cần phải có người lành. Ông bắt đầu lý luận với Giavê: “Chẳng lẽ Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó hay sao?” Một loạt các câu hỏi được nêu ra đề rồi cuối cùng đúc kết bằng một lời thỉnh cầu: “Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại người công chính cùng với kẻ dữ ! Xin đừng làm thế!!”
Lời thỉnh cầu đó trở nên tha thiết, chân tình, và đầy lòng khiêm tốn: “Dù tôi chỉ là tro bụi, tôi cũng xin thưa cùng Chúa: nếu trong số năm mươi người công chính còn đó lại thiếu mất năm người thì sao?”
Nhưng e rằng 45 người công chính cũng là một con số khó tìm, Abraham đã dịu dàng và kính cẩn thưa thêm: “Nếu chỉ có bốn mươi người thôi thì Chúa sẽ làm gì?”
Tưởng rằng “quá tam bận”: mặc cả với Chúa ba lần rồi thôi. Đàng này Abraham còn bạo phổi nài nẵng Chúa đến ba lần nữa: “Lạy Chúa, nếu tôi lên tiếng, xin đừng nổi giận. Nếu ở đây tìm được ba mươi người công chính thì sao? ...Nếu trong thành tìm được hai mươi người thì sao?... Lạy Chúa, xin đừng nổi giận. Tôi chỉ xin thưa lần nầy nữa thôi. Nếu tìm được mười người công chính ở đó thôi thì sao?”
Cuộc “mặc cả” đã đi từ con số 50 người lành, xuống đến 45, rồi 40, 30, 20, và cuối cùng là 10. Chỉ cần 10 người công chính thôi, tất cả sẽ được tha thứ. Tiếc là mười người mà cũng chẳng tìm ra !
Không hiểu sao Abraham không tiếp tục van xin Chúa thứ tha cho dân thành nếu như không tìm thấy được 10 người công chính. Phải chăng vì ông cho rằng đây là con số nhỏ quá rồi so với con số quá lớn của những người tội lỗi? Hay Abraham chưa hiểu thấu được chiều kích vô biên của lời cầu nguyện cũng như lòng thương xót bao la của Thiên Chúa ?
Thật thế, Thiên Chúa luôn vui lòng lui bước trước lời nguyện cầu chân thành, bền bĩ, và đầy lòng kính sợ của con người. Chính Giavê đã phán trong sách Êzêkien và Giêrêmia: nếu chỉ tìm được ở Giêrusalem một người biết giữ công lý, biết tìm sự thật, thì Người cũng sẽ tha tội cho thành (Ex 22:30 ; Gr 5:1). Lời khẳng định này thúc dục ta cố gắng sống đời tốt lành để cầu xin và mang lại lợi ích thiêng liêng cho gia đình con cái, thân bằng quyến thuộc, và quê hương xứ sở.
Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho (Lc 11:9). Chắc hẳn lời đoan hứa của Chúa Giêsu đã làm các thánh vui sướng đến phát khóc. Nhưng đây không phải là lời đoan hứa dành riêng cho các thánh, mà là cho mọi người. Thiên Chúa yêu thương và muốn ban mọi sự tốt lành cho tất cả, không phải vì tất cả đều tốt, song vì tất cả là con cái của Ngài. Đức Giêsu đã mạc khải cho bạn và tôi như thế: các ngươi còn biết cho con mình những điều lành, huống chi là Cha các ngươi ở trên trời (Lc 11:13)
Được làm con Thiên Chúa, được gọi Đấng tác thành vũ trụ là Cha, đó là nhờ công nghiệp của Đức Giêsu và Thần khí của Ngài. Nhưng vấn đề không hệ tại ở đặc ân được kêu Thiên Chúa: “Abba, Lạy Cha,” song là làm sao để sống xứng hợp với hồng phúc cao cả đó.
Quan hệ Cha-con trở nên thân thiết nhờ sự cầu nguyện. Cầu nguyện là một cuộc đối thoại. Khác với độc thoại, đối thoại là nói và nghe. Vì thế, không phải chỉ đến với Chúa và “bắt” Ngài phải nghe tất cả những nhu cầu tôi liệt kê, song vẫn cần lắm một thái độ kính cẩn lắng nghe tiếng Chúa và sống theo ý Ngài.
Cầu nguyện không phải là để sở thích và đam mê của tôi được thỏa mãn, nhưng là để “danh Cha cả sáng và ý Cha thể hiện khắp nơi”. Đức Giêsu không nài cho được khỏi uống chén đắng, nhưng xin cho ý Cha thành sự. Đây là lối sống đầy tin tưởng, khiêm nhường, yêu mến và hoàn toàn phó thác của người con ngoan.
Là Kitô hữu, tôi được mời gọi để sống mỗi ngày mỗi nên giống Đức Kitô hơn: giống Ngài trong đời sống cầu nguyện, trong tinh thần và thái độ liên kết với tha nhân – không chỉ xin cho mình, nhưng là cho “chúng con” – và giống Ngài với trọn niềm tín thác vào tình thương của Cha, Đấng sẵn sàng ban Thánh Thần cho những ai khẩn cầu.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được ơn bền đỗ cầu nguyện. Vì chúng con biết rằng hễ ai bền đỗ trong điều đó cho đến cùng, chắc chắn sẽ được ơn cứu độ. Xin Mẹ Maria phù giúp cho chúng con luôn được trung kiên trong cuộc chiến này
Khi nói đến đời sống tôn giáo, người ta không thể không nói đến việc cầu nguyện. Thật vậy: TN 17-C16
Khi nói đến đời sống tôn giáo, người ta không thể không nói đến việc cầu nguyện. Thật vậy, cho dù theo bất cứ một tôn giáo nào, thì việc cầu nguyện luôn là một việc quan trọng nhất trong sinh hoạt tôn giáo của người tín đồ. Nhờ cầu nguyện, người tín đồ có thể thiết lập mối liên hệ của mình với Đấng mà mình tôn thờ.
Đặc biệt với đạo Công Giáo chúng ta, thì việc cầu nguyện còn được nhấn mạnh hơn nữa. Các nhà tu đức coi việc cầu nguyện như là hơi thở của linh hồn, hay nói một cách khác, linh hồn chúng ta, đời sống thiêng liêng của chúng ta chỉ có thể sống và phát triển cách sung mãn nếu chúng được nuôi dưỡng bởi một đời sống cầu nguyện liên lỉ.
Nhưng cho dù việc cầu nguyện cần thiết như thế, nhiều người trong chúng ta vẫn cảm thấy khó khăn và xa lạ với việc cầu nguyện. Do đó, trong giờ phụng vụ Lời Chúa này, chúng ta cùng lắng nghe lời Chúa dạy chúng ta về cách cầu nguyện.
1. MỘT CUỘC ĐỐI THOẠI THÂN TÌNH:
Trở lại với bài đọc một, lúc ấy sau khi đã dùng bữa với Abraham, người của Thiên Chúa báo cho ông biết tin hai thành phố Sôđôma và Gômôra sắp bị tiêu diệt vì tội lỗi họ quá nặng nề. Lập tức Abraham thưa: “Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có 50 người công chính trong thành, họ cũng chết chung sao?”. Và thế là bắt đầu một cuộc đối thoại thật thân tình giữa Abraham và người của Thiên Chúa. trong cuộc đối thoại này, vị tổ phụ của chúng ta đã làm một việc xem ra khá “phạm thượng” theo cái nhìn tự nhiên của chúng ta, đó là dám “trả giá” với Thiên Chúa. Ông đã trả giá với Chúa từ con số 50 người giảm xuống 45, 40, 30, 20 và cuối cùng là 10 người công chính để cầu xin Thiên Chúa tha cho hai thành Sôđôma và Gômôra. Điều đó cho thấy mối tương quan thân thiết, gần gũi, thân tình của Abraham đối với Thiên Chúa. Mối tương quan này thân thiết đến nỗi, nó không còn bị gò bó bởi một công thức cứng nhắc nào, nhưng là phát xuất từ đáy lòng. Ông thành thật thưa với Chúa những điều ông cảm nghĩ, những nỗi băn khoăn, khắc khoải của ông. Và đó chính là lời cầu nguyện mà Thiên Chúa ưa thích nhất. Tới đây, tôi nhớ có một câu chuyện kể rằng:
Vào một buổi chiều đã muộn, có một người nông dân trên đường trở về nhà, bỗng không tìm thấy cuốn sách kinh đâu cả. Tệ hơn, tới giữa rừng, chiếc xe bò của ông lại hư một bánh, chắc chắn là không về kịp nhà trong đêm nay. Ông ta rất buồn vì không có sách kinh để cầu nguyện trước khi trời tối. Vì thế, ông thưa với Chúa: “Chúa ơi, con đã làm một điều thật đáng trách: sáng nay con đi chợ mà không mang theo sách kinh, mà trí nhớ con lại quá kém, tới độ con chẳng nhớ một kinh nào trong sách. Vậy con sẽ làm thế này: con sẽ đọc bản mẫu tự 5 lần rất chậm và Chúa, Chúa thuộc tất cả các kinh, xin Chúa ghép các chữ lại với nhau thành những lời kinh mà con không nhớ được”.
Nghe thế, Chúa mới bảo các thiên thần:
“Trong tất cả các lời kinh mà Ta đã nghe hôm nay, chắc chắn đây là lời kinh hay nhất, bởi vì nó phát xuất từ một con tim đơn sơ và chân thành”. (Lời kinh - Mẫu tự, Chuyện hay Đông Tây, tập 1, trang 95).
Vâng, lời cầu nguyện đẹp nhất là lời cầu nguyện phát xuất từ tận đáy lòng, như lời của con trẻ nói với mẹ, hay lời tâm sự của hai người đang yêu nhau. Lời cầu nguyện hay nhất chính là lời thưa với trọn vẹn lòng tin tưởng, cậy trông. Và đây không phải là một sự cậy trông hão huyền, nhưng là lòng cậy trông dựa vào chính tình yêu của Thiên Chúa, Đấng “đã ân xá mọi tội lỗi chúng ta, đã huỷ bỏ văn tự bất lợi cho chúng ta… Người đã huỷ bỏ văn tự đó bằng cách đóng đinh nó vào thập giá”.
Tuy nhiên, có điều quan trọng mà chúng ta cũng cần lưu ý, đó là khi cầu xin cho hai thành phố Sôđôma và Gômara, Abraham chỉ thưa với Chúa: “Nếu có 40 người công chính thì Chúa sẽ làm gì?” hay “Nếu ở đây tìm được 30 người công chính thì sao?”. Abraham đã không bảo Chúa phải làm thế này, hay thế khác. Ông chỉ trình bày lên Chúa một nỗi niềm, một ưu tư của ông, còn quyết định thì ông vẫn để cho Thiên Chúa. Và chính điều đó làm nên nét đẹp trong lời cầu nguyện của ông.
2. TINH THẦN LIÊN ĐỚI VỚI THA NHÂN:
Kế đến, lời cầu nguyện đẹp lòng Thiên Chúa là lời cầu nguyện vượt ra khỏi chính bản thân mình, để hướng tới sự liên đới với tha nhân. Thông thường, khi cầu nguyện, tôi và quý OBACE vẫn thường có thói quen xin Chúa cho bản thân mình, hay gia đình chúng ta được điều này, điều nọ. Chúng ta rất ít khi nghĩ đến việc cầu nguyện cho người khác.
Thế nhưng, khi nghe tin thành Sôđôma và Gômôra sắp bị tiêu diệt, thì cho dù chẳng liên hệ gì đến mình, nhưng Abraham vẫn lên tiếng cầu xin sự tha thứ cho họ. Điều đó cho thấy việc cầu nguyện không chỉ là cho mình, nhưng còn là lúc mỗi người chúng ta thể hiện tình liên đới với tha nhân, những người đang sống chung quanh chúng ta, bởi lẽ không ai trong chúng ta có thể sống một mình, mỗi người chúng ta luôn “sống vì, sống với và sống cho” người khác. Chính vì thế, trong lời cầu nguyện mà Đức Giêsu dạy cho các môn đệ hôm nay, Ngài luôn nhắc các ông là “Xin Cha cho chúng con… và tha nợ chúng con”. Đức Giêsu đã không nói “Xin Cha cho con… hay tha nợ con”, nhưng là “chúng con”, nghĩa là trong lời cầu nguyện của mình, chúng ta không được phép chỉ nghĩ đến mình mà còn phải nghĩ đến anh em. Thậm chí, Thiên Chúa còn muốn chúng ta phải cầu nguyện cho cả những người thù địch, những người mà chúng ta không thích, những người đã từng xúc phạm đến chúng ta (x. Mt 6, 44).
Như thế, mỗi khi chúng ta cầu nguyện, không chỉ là lúc chúng ta thiết lập mối tương quan với Thiên Chúa, nhưng còn là lúc chúng ta tái lập mối tương quan với anh chị em và sống trọn vẹn giới răn “yêu người như mình ta vậy”.
KẾT
Lắng nghe lời Chúa hôm nay, có lẽ mỗi người chúng ta cần xem lại cách chúng ta cầu nguyện. Lời cầu nguyện của chúng ta không phải chỉ là một mớ những nghi thức phụng vụ, hoặc là một chuỗi những kinh hạt lê thê với những công thức cứng nhắc, nhưng lời cầu nguyện của chúng ta phải là những lời thốt ra tận đáy lòng của mình. Chúng ta hãy nói cho Chúa biết những yếu đuối, những thiếu sót, giới hạn và cả những nhu cầu của chúng ta. Chúng ta hãy thành tâm trình bày với Chúa mọi biến cố vui buồn trong cuộc sống hàng ngày của mình. Và không chỉ là một lời cầu nguyện cho bản thân, và gia đình của mình, mỗi người chúng ta hãy mở lòng mình ra để rồi thêm vào lời cầu nguyện của chúng ta một lời cầu nguyện cho tha nhân, kể cả những người mà chúng ta không thích, những người đang xúc phạm đến chúng ta. Mặt khác, chúng ta cũng không thể chỉ giới hạn lời cầu nguyện của chúng ta nơi nhà thờ, hoặc trong những giờ đọc kinh sáng tối, nhưng lời cầu nguyện của chúng ta cần được trải dài trong suốt cuộc sống của mình. Chúng ta hãy dâng lên Chúa cả cuộc sống của chúng ta, để rồi chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Dù ăn, dù uống, dù làm bất cứ việc gì, anh chị em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10, 31). Amen.
Kinh Lạy Cha- một lời kinh tuyệt vời và phong phú vì chất chứa bao điều huyền nhiệm- được: TN 17-C17
Kinh Lạy Cha- một lời kinh tuyệt vời và phong phú vì chất chứa bao điều huyền nhiệm- được thánh sử Luca đặt trong bối cảnh hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu cùng với các môn đệ, nơi mà ở đó, chính Người sẽ trút hơi thở sau hết cùng với lời nguyện cầu dâng lên Chúa Cha. Chúng ta cùng nhau suy chiêm về lời kinh nhiệm mầu này.
Không phải đến thời Chúa Giêsu, việc cầu nguyện mới hình thành mà nó đã có từ rất lâu trong truyền thống Dothái giáo. Ngoài những lời nguyện xuất phát trong truyền thống Dothái, chúng ta còn thấy có những nhóm, những thầy dạy cũng soạn ra những lời nguyện để hướng dẫn cho cộng đoàn cũng như cho các môn sinh, như Luca đã đề cập về trường hợp của Gioan Tẩy Giả. Chúa Giêsu cũng không ngoại lệ. Có điều ở đây chúng ta thấy, các môn đệ khi theo Người chắc chắn đã nhiều lần chứng kiến Thầy mình cầu nguyện. Thế nhưng cách thức cầu nguyện thế nào thì các ông chưa đuợc biết ngoại trừ những cách thức sẵn có trong Dothái giáo. Vì muốn biết rõ nét đặc trưng lời cầu nguyện của nhóm mình, mà một môn đệ đến xin Chúa Giêsu dạy cho các ông biết cách thức phải cầu nguyện thế nào. Kinh Lạy Cha ra đời từ đây và là một lời kinh kiểu mẫu mà từ đó tất cả các lời nguyện Kytô giáo sẽ phải quy chiếu cách này hay cách khác.
Không giống như Tin mừng Mátthêu, kinh Lạy Cha trong Tin mừng Luca ngắn hơn, rõ ràng, bao gồm một lời thân thưa, hai lời nguyện ước và ba lời cầu xin.
Lời thân thưa mở đầu “Lạy Cha” mà Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ vốn là từ ngữ riêng mà Người hay dùng để trò chuyện cùng với Chúa Cha trong những giờ cầu nguyện. Lời đó không chỉ mạc khải mối liên hệ chiều sâu giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha, mà còn diễn tả một chiều kích duy nhất mà ở đó các môn đệ sẽ được đi vào đời sống thân mật, liên kết với Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người lấy lại lời thân thưa này, biến nó trở thành mối liên hệ duy nhất nối kết tất cả các tín hữu với Thiên Chúa. Từ đây, lời mở đầu thân thương này luôn vang vọng mãi nơi môi miệng của người Kytô hữu, gắn kết họ với Thiên Chúa, giúp họ khám phá ra mối quan hệ cha-con không gì có thể thay đổi trong cuộc sống của mình. Đây chính là một hồng ân cao quý mà Chúa muốn ban cho nhân loại. Bởi theo thánh Síprianô, “không ai trong chúng ta dám động đến danh xưng Thiên Chúa là Cha nếu chính Chúa Kytô không cho phép cầu nguyện như thế”.
“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” và “Triều đại Cha mau đến” là hai lời nguyện ước của những người con thảo hướng về Cha mình. Khi cầu nguyện như thế, không phải Thiên Chúa cần đến lời chúng ta cầu nguyện để nhờ đó danh Người và triều đại Người mới được hiển thánh, được tôn vinh. Vì thật ra, tự bản chất, Thiên Chúa không cần đến những lời cầu xin của chúng ta, có hay không, danh Người mãi mãi vẫn rạng ngời vinh hiển. Vậy thì chúng ta cầu nguyện như thế để làm gì? Chắc một điều đó là vì phần ơn ích cho chúng ta. Thật thế, hai lời nguyện ước mà Chúa Giêsu muốn chúng ta dâng lên Thiên Chúa không gì khác hơn là xin cho danh Thiên Chúa được hiển thánh nơi chính con người chúng ta. Điều này không có gì xa lạ trong truyền thống Dothái giáo và nay, được Chúa Giêsu thổi thêm luồng sinh khí mới. Thiên Chúa là Đấng Thánh, điều đó thật hiển nhiên. Phần chúng ta, chúng ta là con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, và vì thế, để xứng đáng thân thưa với Chúa, không gì thích hợp hơn là xin Cha thánh hoá, xin Cha kiện toàn mỗi ngày để chúng ta cũng được nên thánh, tham dự vào cuộc sống thần linh với Thiên Chúa.
Ba lời cầu xin liên quan đến lương thực hằng ngày, xin tha thứ và ơn trợ giúp trong cơn cám dỗ vốn được xem là những lời cầu xin rất thiết thực đối với sự sống còn của nhân loại. Lời cầu xin cho có cơm bánh hằng ngày đều rất thiết thực và hữu ích cả trên bình diện thiêng liêng lẫn cuộc sống đời thường. Bởi ngoài nhu cầu thiết yếu của con người là cơm bánh ra, người môn đệ Chúa Kytô cần đến một thứ thần lương tuyệt vời khác chính là Đức kytô, chính thân thể Người là lương thực cho hết những ai thuộc về Thiên Chúa.
Ơn tha thứ cần thiết cho chúng ta, vì trước mặt Thiên Chúa, chúng ta là những con nợ không có gì để trả. Vì thế, điều Chúa muốn là đến lượt chúng ta, cũng hãy tha thứ cho anh em mình, vì nếu không, chắc chắn Thiên Chúa cũng sẽ không tha thứ cho chúng ta.
Trong cuộc sống nhân sinh, chúng ta khó thoát khỏi cạm bẫy cám dỗ và những hệ lụy của tội lỗi. Chính Chúa Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà còn phải chịu cơn cám dỗ, huống nữa là chúng ta, là môn đệ của Người. Vấn đề ở chỗ chúng ta có tỉnh thức hay không trước mọi cơn cám dỗ mà ma quỷ giăng ra hòng tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Trong mọi thử thách, điều chúng ta muốn là làm sao những cạm bẫy, những mưu mô của thế lực ác thần không làm cho chúng ta sa ngã, không làm cho chúng ta rơi vào tay của chúng. Để được thế, chúng ta không ngừng chạy đến với Chúa để xin ơn trợ lực, giúp chúng ta vượt qua.
Kinh lạy Cha là lời kinh tuyệt vời và huyền nhiệm nối kết con người với Thiên Chúa. Đây là lời kinh đến từ Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Chính vì thế, Thiên Chúa ưa thích và không ngừng ban muôn ơn cho con người thông qua lời kinh thân thương, đơn giản và dễ hiểu này. Ước mong mỗi người chúng ta biết tận dụng món quà quý giá này, để không ngừng chạy đến với Chúa, trò chuyện, chia sẻ với Người. Chắc một điều, Chúa sẽ không quên chúng ta và không ngừng thi ân giáng phúc cho hết những ai chạy đến với Người.
Thiên Chúa hằng nghe lời ta cầu xin, vì Người là Cha rất nhân từ, thương xót và hết sức khoan: TN 17-C18
Thiên Chúa hằng nghe lời ta cầu xin, vì Người là Cha rất nhân từ, thương xót và hết sức khoan dung. Câu chuyện sau đây cho thấy điều đó:
- Câu chuyện: Thánh Cot-to-len-go (1786-1842) trông coi một cô nhi viện trên 700 em. Một hôm gần đến giờ cơm trưa mà trong nhà bếp vẫn nguội tanh không nấu nướng gì, vì tu viện hết sạch tiền. Bấy giờ, bà phước quản lý nhà bếp chạy đến hỏi Cha Bề Trên Cot-to-len-go xem phải làm gì ? Cha bảo bà cứ cho các em cô nhi xếp hàng đi vào nhà cơm như mọi khi. Rồi ngài vào trong nhà nguyện cầu nguyện với Chúa. Bỗng có tiếng chuông reo vang ngoài cổng. Tu sĩ trực mở cổng thì thấy có ba người lính nấu ăn của tiểu đoàn đóng quân gần đó đến thưa rằng: Xin cha bề trên ra nhận cho các em cô nhi được ăn phần cơm của tiểu đoàn vì đi hành quân xa không về kịp.
- Suy niệm: Về vấn đề này, Mẹ Têrêsa Can-quýt-ta đã chia sẻ kinh nghiệm của mình như: “Chúng tôi có hơn một ngàn tu sĩ, và phải nuôi ăn hàng chục ngàn người nghèo khổ. Thế mà chưa bao giờ chúng tôi phải từ chối bất cứ ai đến xin giúp đỡ. Chúa luôn can thiệp kịp thời để chứng tỏ cho chúng ta thấy người không bao giờ làm lơ trước lời cầu xin của chúng ta”.
CHỦ ĐỀ 2: Kinh Lạy cha.
Theo đề nghị của môn đệ, Đức giêsu đã dạy các ông cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha.
- CÂU CHUYỆN:
Có một bà già quê mùa kia được nhiều người khen là có lòng đạo đức thánh thiện nhất làng. Bà thường quì gối lâu giờ trước gian cung thánh trong nhà thờ với cặp môi mấp máy và khuôn mặt đầm đìa nước mắt. Tiếng lành đồn xa: Đức Giám Mục giáo phận nghe nói nhiều về sự thánh thiện của bà nên tìm dịp đến thăm, Người nói với bà rằng: “Này bà, bà được nhiều người đánh giá là rất đạo đức. Vậy bà thường suy gẫm theo sách thiêng liêng nào vậy ?” Người đàn bà thưa: “Thưa đức cha, con thật dốt nát đến nỗi không biết đọc biết viết!” Người lại hỏi: “Vậy thì bà cầu nguyện như thế nào ?” Bà trả lời: “Thưa đức cha, con chỉ đọc thuộc lòng kinh Lạy Cha, Kính Mừng Sáng Danh và kinh Tin Kính. Mỗi ngày con cố gắng đọc các kinh đó 10 lần. Nhưng ít khi nào con đọc đủ được như vậy. Vì khi con đọc đến câu “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, thì con không thể tiếp tục đọc thêm được nữa. Con cảm thấy Chúa thật tốt lành vô cùng, đến nỗi đã cho một mụ già quê mùa khốn nạn như con, được phép gọi Người là Cha. Con nghĩ như thế rồi tự nhiên nước mắt con trào ra làm con không thể đọc tiếp được nữa cho tới hết giờ kinh”. Đức Cha ngạc nhiên nói với bà rằng: “Này bà, chỉ cần một lời cầu nguyện của bà như vậy cũng có giá trị bằng tất cả những lời cầu nguyện của chúng tôi đó !”
- SUY NIỆM:
Đọc kinh Lạy Cha là cầu nguyện theo Đức Giêsu dạy. Kinh này mở đầu bằng một lời chào thân thương: “Ap-ba Lạy Cha”. Tiếp theo là phần thứ nhất, đề cập đến ba ước nguyện về Chúa Cha như: nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Phần thứ hai xin bốn điều cho mình: xin lương thực hằng ngày, xin tha nợ, xin chớ để sa chước cám dỗ, xin cứu cho khỏi sự dữ.
CHỦ ĐỀ 3: Phải kiên trì vững tâm cầu xin.
- CÂU CHUYỆN:
Có một bác sĩ công giáo, nhưng đã bỏ không cầu nguyện, không đến nhà thờ dự lễ từ năm 10 tuổi đến nay. Một hôm bệnh viện của ông tiếp nhận một cô bé 8 tuổi mắc bệnh đau ruột thừa cần phải mổ cấp thời. Trước khi đưa em lên bàn mổ, viên bác sĩ căn dặn em rằng: “Này em, bệnh em cần phải mổ mới khỏi được. Em sẽ phải uống một liều thuốc mê để thiếp ngủ trong lúc tôi giải phẫu cho em”. Em bé này từ nhỏ đã được bà mẹ đạo đức huấn luyện có thói quen cầu nguyện: Mỗi tối trước khi đi ngủ, em đều quì gối trên giường đọc một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng và một kinh Sáng Danh. Rồi kết thúc bằng một lời nguyện tự phát cầu xin Chúa chúc lành cho cha mẹ và cho em qua đêm bằng yên. Do đó, khi nghe bác sĩ nói em sắp đi ngủ, em liền xin bác sĩ cho phép em được quì gối cầu nguyện và cuối cùng kết thúc bằng lời cầu tự phát như sau: “Xin Chúa chúc lành cho bác sĩ, cho con sớm được khỏi bệnh”. Vị bác sĩ giải phẫu cho em thuật lại rằng: chiều hôm đó ông đã cầu nguyện với Chúa thật sốt sắng, một việc mà sau ba mươi năm lãng quên nay mới lặp lại.
- SUY NIỆM:
+ Hôm nay Đức Giêsu mời chúng ta cứ xin, cứ tìm, cứ gõ và tin chắc rằng Chúa sẽ cho ta được toại nguyện, được nhìn thấy, sẽ mở cửa Nước Trời cho ta được vào. Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Người chỉ ban cho ta những điều tốt lành, những điều ích lợi thực sự cho ta và giúp ta được hạnh phúc đời đời. Thiên Chúa là Cha, nhưng Người không nuông chiều con cái, mà Người cắt tỉa cho chúng ta được nhiều hoa trái hơn.
+ Bạn cứ cầu xin, nhưng hãy để cho Người định liệu. Vì chỉ Người mới biết rõ điều nào tốt hơn cho ta. Nhiều khi chúng ta xin rắn mà không hay biết. Cũng có khi chúng ta tưởng Chúa cho chúng ta con bọ cạp. Cần có đức tin mới nhận ra rằng: Khi ta cầu xin là Chúa đã nhận lời ta, nhưng theo kiểu khác với điều ta nghĩ. Sau một thời gian, ta sẽ nhận ra mọi biến cố xảy tới trong đời ta đều là hồng ân Thánh Thần, đều đem lại ích lợi phần rỗi đời đời cho ta.
THẢO LUẬN: Gặp một người đau khổ, bạn nên khuyên giải họ dưới lăng kính đức tin như thế nào ? Khi bạn cầu xin những điều chính đáng mà Chúa lại không ban. Như vậy phải chăng không có thiên Chúa ? Trong hoàn cảnh tuyệt vọng, bạn sẽ cầu xin Cha thế nào noi gương Đức Giêsu trong vườn cây dầu (x. Lc 22,420 và trên thập giá (x. Lc 23, 46) ?
HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. Con xin thú thật là con rất ít cầu nguyện. Con chưa cảm nghiệm được giá trị của cầu nguyện và thường tỏ ra ngần ngại khi phải đến nhà thờ dự lễ đọc kinh.
Lạy Chúa, Xin cho con noi gương Chúa: luôn sống trong tâm tình của một người con hiếu thảo. Con sẽ thích được hầu chuyện với Cha, sẽ lắng nghe lời Cha và vâng theo thánh ý Cha, chứ không lợi dụng Cha. Con sẽ cầu nguyện luôn chứ không chỉ đến với Cha trong khi quẫn bách. Xin cho con luôn cộng tác làm cho Nước Cha mau đến. Con sẽ cầu nguyện và phó thác cậy trông Cha ban ơn lành hồn xác cho con, nhất là ơn Thánh Thần, giúp con được hạnh phúc đời sau.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, Xin Mẹ giúp con luôn dâng lời cảm tạ Cha vì muôn ơn lành Cha đã ban cho con. Những ơn con thấy được và những ơn con chưa nhận ra. Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng. Con thường tỏ ra đau khổ khi cầu xin mà không được Chúa ban theo ý con, và quên rằng đời con luôn được bao bọc bằng ân sủng của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết dâng lời tạ ơn Chúa vì những ơn lành hồn xác Người đã thương ban. Xin cho con cũng biết tạ ơn Chúa những khi con xin mà Chúa vẫn làm ngơ. Trong trường hợp ấy, xin cho con nhận ra tình thương của Chúa: không muốn ban những gì có hại cho phần rỗi đời đời của con. Cũng có thể Chúa không ban vì muốn ban cho những ơn lớn lao hơn mà con chưa nhận ra. Xin cho con luôn vững tin vào tình thương của Chúa như đứa con thơ cậy trông phó thác dưới sự bao bọc chở che của cha mẹ.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Nội dung phải cầu nguyện: Kinh Lạy Cha: Thời Chúa Giêsu, mỗi nhóm tín ngưỡng có một bài: TN 17-C19
1. Nội dung phải cầu nguyện: Kinh Lạy Cha: Thời Chúa Giêsu, mỗi nhóm tín ngưỡng có một bài kinh riêng, đặc trưng của nhóm mình. Bài kinh mà Chúa Giêsu sắp dạy cũng là đặc trưng của Kitô giáo. Nét đặc trưng rõ nhất được thấy trong một từ chìa khoá lắp đi lặp lại rất nhiều lần, từ "Cha": kitô hữu được làm con Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha.
Vì là một bài kinh rất ngắn gọn cho nên những điều được nói trong đó đều là những điều then chốt nhất. Nói cách khác, những lời xin trong bài kinh này cho ta biết những điều mà kitô hữu cần quan tâm nhất là gì:
a/ Đối với Chúa: sao cho người ta được biết Chúa ("Xin làm cho danh Cha vinh hiển"); sao cho nhiều người gia nhập Nước Chúa ("triều đại Cha mau đến")
b/ Đối với chính bản thân mình: có lương thực hằng ngày, được Cha tha thứ và mình cũng biết tha thứ cho người khác, đừng sa chước cám dỗ.
2. Thái độ khi cầu nguyện: Phải kiên trì
Để minh họa cho thái độ kiên trì, Đức Giêsu đưa dụ ngôn về "người bạn quấy rầy"
- "Quấy rầy" vì đến gõ cửa ban đêm để vay bánh: việc này khiến chủ nhà bị mất ngủ. Và nếu chủ nhà thức dậy thắp đèn lên, rồi lấy bánh, rồi mở cửa, rồi nói chuyện... thì sẽ làm cho vợ con của ông cũng mất ngủ luôn. Bởi thế, chủ nhà đã nói vọng ra lời từ chối. Nhưng người bên ngoài cứ vừa gõ cửa vừa kêu mãi.
- Nhưng người đứng bên ngoài ấy lại là một "người bạn". Bạn bè thì phải thương yêu nhau và tương thân tương trợ nhau, nhất là trong những khi gặp khó như trường hợp này.
Việc chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do: cho để khỏi bị quấy rầy nữa; cho vì tình bạn. Theo cách diễn tả của dụ ngôn thì người đó đã làm vì lý do thứ nhất. Nếu làm vì lý do thứ hai thì việc cho sẽ có ý nghĩa hơn. Nhưng dù sao thì cuối cùng anh bạn đứng ngoài đã đạt được điều mình xin, và lý do là nhờ anh kiên trì.
Sau khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu lý luận theo kiều a fortiori (huống chi): người đời dù quen hành động theo lý do ích kỷ (để khỏi bị quấy rầy) thế mà cũng phải chịu thua sự kiên trì của người xin. Huống chi Thiên Chúa vốn tốt lành quen đối xử với chúng ta theo tình thương. Bởi thế nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.
B.... nẩy mầm.
1. Văn mạch: Tin Mừng Mt ghi Kinh Lạy Cha trong văn mạch Chúa Giêsu đang dạy cho các môn đệ mình cách thi hành những việc đạo đức (làm việc đạo đức cách kín đáo, đừng phô trương). Còn Tin Mừng Lc ghi kinh này sau khi một môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cho nhóm môn đệ mình một bài kinh riêng của nhóm, để phân biệt với các nhóm tín ngưỡng khác. Như thế Kinh Lạy Cha là kinh nguyện độc đáo của Kitô giáo. Tìm hiểu Kinh Lạy Cha, ta có thể biết những điểm độc đáo của sự cầu nguyện Kitô giáo là gì. Điểm độc đáo đầu tiên là Kitô hữu được gọi Thiên Chúa là Cha (Abba) một cách rất thân thương gần gũi.
2. Một cậu bé bệnh nặng sắp chết. Cha cậu bé hỏi:
- Con sợ chết không con?
- Thưa ba, không, nếu như Thiên Chúa cũng giống như ba, cậu đáp ("Sunday school Times")
3. 2 Sam 18,33: Thái tử Absalom nổi loạn định lật đổ cha là Đavít. Nhưng quân đội của Đavít đã phản công và giết chết Absalom. Khi một người lính từ chiến trường trở về vui mừng báo tin cái chết của kẻ phản loạn, Đavít đã xé áo mình ra và kêu lên thảm thiết "Absalom con ơi, Absalom con ơi. Phải chi cha được chết thay cho con!"
4. "Người con gái của Karl Marx có lần tâm sự với một người bạn: "Tôi lớn lên mà không hề biết đến bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng Thiên Chúa. Thế rồi tình cờ tôi đọc được một quyển sách trong đó có lời kinh khác lạ. Tôi đọc hết lời kinh ấy và tự nhủ: nếu quả thật Thiên Chúa của lời kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng tôi có thể tin Ngài được". Người bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người con gái của Karl Marx mới từ từ đọc lại Kinh Lạy Cha (...) Tình cha con và tình anh em được Chúa Giêsu mặc khải qua kinh Lạy Cha. Sống với Cha trong tình phó thác, với anh em trong tình bác ái" (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
5. "Cả đời Chúa Giêsu chỉ xoay quanh một nguyên tắc này "Ta đến để làm theo ý Cha Ta"... Chúng ta hãy thử xem chúng ta có để cho ý Chúa được nên một với chúng ta không? Chúng ta có cố tình lầm lẫn ý của chúng ta thay cho ý Chúa không? Chúng ta hãy nhớ câu chuyện Giona (bài sách thánh hôm nay)... " (trích "TMCGK ngày trong tuần")
6. "Chúng ta không thể cầu nguyện Kinh Lạy Cha mà chúng ta không có đóng góp gì vào vinh quang Nước Chúa trị đến. Cũng như chúng ta không thể xin cho cơm bánh hằng ngày dùng đủ mà lại cứ ngồi há miệng chờ sung. Kinh nguyện là hành động của lòng tin. Ta phải minh chứng bằng việc làm" (Trích "TMCGK ngày trong tuần")
7. Một bác chèo đò chở một thanh niên trên chiếc thuyền của mình. Chiếc thuyền có hai mái chèo. Trên một mái chèo có chữ "cầu nguyện", trên mái chèo kia có chữ "làm việc". Chàng thanh niên nói với giọng châm biếm:
- Nếu đã làm việc thì cần gì phải cầu nguyện nữa.
Bác lái đò chẳng nói gì, buông tay không chèo mái "cầu nguyện" nữa, chỉ chèo bằng mái chèo "làm việc". Chiếc thuyền cứ quay vòng vòng chẳng tiến được chút nào cả. Khi ấy chàng thanh niên hiểu rằng ngoài mái chèo "làm việc" còn cần thêm mái chèo "cầu nguyện" nữa thì thuyền đời mới tiến được. (Đức Cha Tihamer Toth).
8. Một lần kia cùng dự Thánh lễ với một nhóm sinh viên, tôi cấm lòng cầm trí đọc chung Kinh Lạy Cha với họ, và bỗng cảm thấy những điều Chúa Giêsu bảo tôi xin chứa đựng rất nhiều ý nghĩa:
- Lạy Cha chúng con…: tất cả chúng tôi đang ở đây đều có một người Cha chung.
- Nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đền, ý Cha thể hiện…: nhưng chỉ có một nhóm nhỏ này được biết Cha, còn biết bao nhiêu sinh viên học sinh khác nữa…
- Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày: tôi nghĩ đến những bạn chung quanh. Họ ăn cơm tháng, mỗi tháng chỉ hơn 100 ngàn, đồ ăn rất dặm bạc, buổi sáng thường nhịn đói.
- Và tha nợ chúng con: họ là những người trẻ, nhiều sai sót lỗi lầm, nhiều tội..
- Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ: có biết bao cám dỗ vây quanh họ, trong trường học, ngoài xã hội, ở chợ đời…
9. Chúa Giêsu bảo các môn đệ: khi cầu nguyện anh em hãy nói: "Lạy Cha, xin hãy làm cho danh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến." (Lc 11,2)
Lạy Cha, con biết rằng danh Cha vinh hiển thì mọi sự thế gian này sẽ tốt hơn! Con biết rằng Cha dựng nên con nhằm để con làm sáng danh Cha.
Để làm sáng danh Cha tôi phải làm gì đây? Phải chăng chỉ lặp lại suông lời nguyện Chúa day tôi? Không, tôi phải sống chính lời nguyện ấy. Tôi phải dùng những gì Chúa ban mỗi ngày để danh Cha cả sáng, dùng của cải vật chất, danh vị, quyền lợi, dùng kiến thức hiểu biết... Danh của tôi phải nằm trong danh Thiên Chúa. Nếu như danh Cha cả sáng thì mọi sự tốt đẹp hơn! Tôi tin như thế và tôi sẽ cố gắng.
Lạy Cha, xin cho con biết dùng lời nguyện của Cha như là kim chỉ nam để sống mỗi ngày tốt đẹp hơn. (Hosanna)
10. Tại sao Chúa muốn chúng ta cầu xin cách kiên trì? Vì "Chúa muốn chúng ta ý thức của Ngài cho hay sẽ cho phải được tiếp nhận xứng đáng với tấm lòng. Của cho phải tương xứng với tấm lòng (...) Hơn thế nữa, Chúa muốn tăng đức tin của người cầu xin" (Trích "TMCGK ngày trong tuần")
11. "Một đứa bé nọ có thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày kia bị bệnh nặng phải vào nhà thương. Các bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc phẫu thuật. Trước khi cho thuốc mê, các bác sĩ cho em biết em sẽ ngủ một giấc dài. Nghe đến ngủ, em bé đã xin quỳ gối cầu nguyện và kết thúc bằng lời "Xin Chúa cho con chóng lành bệnh". Sau đó em nằm xuống và xin bác sĩ tiến hành giải phẫu.. Hôm sau thức dậy câu hỏi đầu tiên của em là "Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không?" Bác sĩ nhìn em bé cảm động nói "Cháu hãy để cho Chúa liệu.... Điều bác tin chắc là lời cầu nguyện của cháu có hiệu nghiệm: cháu đã cứu được một người là chính bác. Từ lâu bác không còn đến nhà thờ, không nhớ đến Chúa. Nhưng hôm qua khi cháu cầu nguyện sốt sắng, Chúa đã đánh động bác. Sáng nay bác đã đến nhà thờ xưng tội, rước lễ..." (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
12. "Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì hãy được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho ". (Lc 11,9)
Nhiều lần tôi cầu nguyện với Chúa. Và nhiều lần cảm thất trống vắng. Bao mơ ước với lời cầu không được nhận lời. Nhiều biến cố trong cuộc đời là những thất bại. Và tôi thầm nghĩ: Chúa thật xa vời. Hình như Ngài đã bỏ tôi. Nhưng hôm nay ngồi nhìn lại chính mình. Tôi cảm nhận Chúa luôn ở với tôi. Điều tôi tưởng như là thất bại, chỉ vì tôi:
Chưa đặt niềm tin nơi Ngài; chưa kiên nhẫn với việc Ngài trao;
chưa kiên trì gõ cửa và tìm kiếm ý Ngài trong đời tôi.
Vì tôi, chỉ thấy thành quả đạt được là của bản thân hơn là Hồng Ân của Ngài.
Lạy Chúa, Chúa thật kiên nhẫn với con. Xin cho con đừng bao giờ nản lòng trước những thất bại, nhưng biết kiên nhẫn tìm kiếm và gõ cửa cho đến khi được Hồng Ân của Ngài. Amen. (Hosanna)
Sau nhiều tìm kiếm, ngày 14 tháng 7 vừa qua, tôi được một người bạn xếp đặt để đi thăm bức tranh mắc tiền nhất thế giới, trị giá 49 triệu tiền Mỹ, đã được nhà tỷ phú Paul Getty mua về để tại trung tâm Paul Getty (Paul Getty Center) ở Los Angeles, California. Đó là bức Irises (Hoa Cầu Vồng) của họa sĩ Vincent Van Gogh gốc người Hòa Lan.
Điều buồn cười là người bạn này ở không xa trung tâm Paul Getty bao nhiêu, thế mà chẳng hề nghe nói tới, cho đến khi kẻ mãi ở xa đến hỏi thì mới bắt đầu đi dò tìm. Mà đi thăm bức tranh này cũng thật công phu vất vả. Phải gọi điện thoại giữ chỗ trước. Rồi phải đậu xe ở xa thật xa để lên xe của tổ chức chở tới trạm xe điện dưới chân đồi ở phía tây Los Angeles. Từ đây, xe điện mới chuyển du khách lên đỉnh đồi, trườn mình chạy quanh co tạo cảm giác đi vào một thế giới khác như tâm tình của Từ Thức ngày xưa được dẫn vào động Thiên Thai.
Bước chân vào trung tâm Paul Getty, chúng tôi hỏi ngay "bức tranh Irises hiện đang ở đâu?" Đây rồi, bức tranh treo giữa phòng triển lãm hội họa của những họa sĩ nổi tiếng như Monet, Renoir, Degas... Cảm tưởng đầu tiên cũng giống như ba nhà đạo sĩ là chỉ thấy một đứa bé mới sinh bọc trong khăn vải thô để trong máng chuồng chiên: Vậy mà đứa bé này là Đấng Cứu Thế sao? Vậy mà bức tranh này trị giá 49 triệu à?
Người ta tấp nập ngó tới ngó lui, ngồi xuống đứng lên, nét mặt ra chiều đăm chiêu thưởng ngoạn, nhưng trong bụng thì vẫn chưa nắm bắt được bao nhiêu! Mình đã từng xem những bức tranh nổi tiếng của Vincent Van Gogh, như bức Đêm Sao (Starry Night) trong Bảo Tàng Viện Nghệ Thuật Tân Thời (MOMA) ở phố New York, như bức bác sĩ Gachet, Hoa Hướng Dương tại Bảo Tàng Viện Orsay ở Paris. Mình cũng đi tìm vết chân của nhà hội họa kỳ lạ này từ "Ga Lyon đèn vàng" lấy xe lửa TGV tốc hành đi Arles rồi St Rémy miền nam nước Pháp, nơi Vincent Van Gogh đã vẽ những bức tranh nổi tiếng nhất thế giới vào năm 1888-1889. Rồi lộn lại Paris tìm lên Auvers-sur-Oise phía bắc nơi ông ta sống những ngày cuối đời bên cạnh cánh đồng lúa vàng. Đây, ngôi mộ của họa sĩ Vincent Van Gogh với biết bao bó hướng dương do du khách vẫn tới thăm mang theo để tỏ lòng ái mộ nhà nghệ sĩ tài danh nhưng mệnh yểu. Ông sống nghèo nàn, cả đời chỉ bán được một bức tranh mấy chục Mỹ kim, nên phải cậy dựa vào người em giúp đỡ. Vậy mà bây giờ sau hơn một trăm năm, người ta đưa những bức tranh của ông ra bán, bức nào cũng cả mấy chục triệu Mỹ Kim. Điều gì lạ vậy?!
DẤU CHỈ TỪ NHỮNG NGƯỜI ĂN KHOAI
Paul Getty cũng như người mua bức tranh Hoa Hướng Dương 42 triệu Mỹ kim không khoe của phách lối đâu. Cả đời bon chen bòn tiền làm tỷ phú rồi cuối cùng Paul Getty cũng nhận ra rằng một bông hoa trong vườn nhà mình cũng đáng giá 49 triệu. Đó là cái nhìn và cái thấy của Vincent Van Gogh. Thế ra xem tranh lại chẳng phải là xem tranh mà là đi xem mắt. Bức tranh Irises giá trị vì biểu hiện được hướng nhìn đó, làm cho mọi vật hiện lên nét đẹp tự thân, thành một bài ca vũ trụ như của thánh Phan Sinh với anh mặt trời em mặt trăng.
Ông ta theo hướng nhìn của một họa sĩ khác cũng người Hòa Lan là Rembrandt. Đang khi thời đó người ta chỉ biết đề cao những nét giầu sang nơi hàng quan quyền, chỉ vẽ hình những vị hoàng đế, hoàng hậu hay công chúa, thì Rembrandt vẽ một bức tranh gây trào lưu cách mạng: một tảng thịt bò treo lủng lẳng. Tại sao chỉ có nhà vua mới quí? Một đứa bé nhà quê, một đùi thịt cũng đẹp cũng quí vậy. Cái gì được tạo dựng cũng cao đẹp, cũng quí báu. Ông vẽ những bức chân dung với một lối chơi ánh sáng mới: ánh sáng từ bên trong tâm hồn, từ nét đẹp nội tâm hơn cái ánh sáng bên ngòai. Vì thế những ai học về nghệ thuật chụp hình ngày nay đều phải qua một bài về vẽ bằng ánh sáng, gọi là ánh sáng Rembrandt.
Vincent Van Gogh lớn lên với ý định làm thầy giảng đạo. Ông đã được phái đi thực tập làm tuyên úy cho đám phu hầm mỏ nghèo khổ thấp cổ bé miệng tại vùng Borinage bên Bỉ. Ở đây ông chứng kiến những cảnh cùng khổ nên bắt đầu vẽ những bức đầu tiên về những người lao động vất vả đen đủi chân tay nhưng đẹp đẽ tâm hồn. Ông đề cao những gì mà người đương thời hay ngay cả tôn giáo của ông vẫn coi thường. Tin Vui ông loan báo là tin vui đích thực cho người nghèo khổ, nhưng dễ gây xáo trộn đẳng cấp, chính vì thế mà ông bị sa thải không được phép giảng đạo nữa.
Thế là Vincent Van Gogh đi tìm phương cách khác: diễn đạt cái nhìn và cái thấy bằng nét vẽ. Ông học vẽ và bắt đầu vẽ với một cái nhìn quá khác nên tranh của ông chẳng ai thèm ngó và mua. Có một câu truyện vui là một hôm ông bị lên cơn bệnh bất thường phải vào nhà thương ở Arles vào tháng12 năm 1888 và được bác sĩ Félix Rey tận tâm chữa trị. Sau khi xuất viện, ông đã vẽ bức tranh chân dung bác sĩ Rey để cảm ơn ông. Bác sĩ Rey thấy bức tranh có vẻ buồn cười thì không biết treo đâu, bèn đưa về chắn chuồng gà cho mẹ. Vậy mà bây giờ bức tranh chắn chuồng gà này cũng được moi ra bán với giá kỷ lục.
Bức tranh Những Người Ăn Khoai đã ghi mốc cho việc chuyển đạt Tin Vui của Đạo bằng hội họa. Ông vẽ một gia đình nông dân nghèo nàn mộc mạc đang ngồi ăn bữa tối quanh cái bàn ọp ẹp với ngọn đèn leo lét. Khuôn mặt của những người này có vẻ thô kệch với những bàn tay xương xẩu sứt sẹo. Nhưng ông diễn được nét đẹp lật ngược: họ vẫn đẹp, với cái đẹp thực. Củ khoai do chính tay họ trồng và đào lên với mồ hôi, với da cằn lại. Nhưng đẹp thực, đẹp quá. Cái đẹp không giả tạo ước định như nhiều cái đẹp đương thời.
TIN VUI GỬI NGƯỜI BỊ VÍT TRONG HẦM
Không được làm thầy giảng đạo bằng môi miệng, Vincent Van Gogh vẫn tiếp tục bằng nét vẽ. Ông đã chuyển đạt Tin Vui của Đạo cho những người làm hầm mỏ thấp cổ bé miệng, cho những người lao động lam lũ, cho những người bị vít nhãn quan trong hầm tối, để thấy được vẻ đẹp và hạnh phúc giản đơn chân thực. Chính vì thế mà tranh của ông bây giờ được mua với giá thật cao. Đúng là dấu chỉ của thời đại chuyển mình vào ngàn năm mới, khi người ta bắt đầu tìm về những gì quí trọng mà Chúa Trời Đất đã trao ban sẵn sàng: một nụ cười, một bông hoa, một cử chỉ yêu thương, bác ái... tất cả đều quí hơn bất cứ chiếc nhẫn kim cương nào, đâu có phải bon chen chèn cựa vất vả biến xã hội thành phức tạp một cách ghệ rợn như hiện tại.
Henri Nouwen, một nhà tu đức nổi tiếng gốc người Hòa Lan dạy đề tài "Việc truyền đạo của Van Gogh" tại đại học Yale, đã chứng nghiệm được sức cảm hóa lòng người của những bức tranh Van Gogh. Henri Nouwen đã nói rõ trong lời đề tựa cho cuốn "Van Gogh and God" của Cliff Edwards (Loyola University Press):
"Tôi chắc chắn rằng những lớp dạy về Van Gogh này đã ảnh hưởng sâu đậm trên các sinh viên hơn bất cứ khóa nào tôi đã dạy. Tôi đã dùng nhiều sách tu đức hiện đại như của Thomas Merton, nhưng tôi chưa từng thấy những sinh viên bị hút hồn về cả đầu óc và con tim, như trong khóa này khi nhìn kỹ những bức tranh của Van Gogh. Tôi còn nhớ, chúng tôi đã để cả mấy giờ cùng với nhau trong thinh lặng, chỉ để nhìn ngắm những bức dương bản của tác phẩm Van Gogh. Tôi không phải cố gắng giải nghĩa hay phân tích gì cả. Tôi chỉ muốn các sinh viên hãy cảm nghiệm trực tiếp những hút hồn và những quằn quại của họa sĩ này đang cố đi tìm ý nghĩa cuộc sống... Thiên Chúa của Van Gogh rất thật, rất trực diện, sờ thấy được nơi thiên nhiên và con người, rất từ bi thương cảm, vì đã từng rất yếu đuối bị thương tích tư bề. Chính vị Chúa này mà tất cả chúng ta muốn đến gần"
PHÚT CẢM NHẬN
Đúng thế. Chính vị Chúa này đã cho phép mỗi người chúng ta được gọi ngài là Bố, là Ba. Tiếng gọi "bố ơi" nghe đậm tình làm sao! Nhận ra Bố mình giầu có đầy quyền năng luôn có mặt yêu thương săn sóc bên cạnh mình, là một khám phá mới nhất, vẫn gọi là khám phá của con mắt niềm tin, bật sáng từ hầm tối tù mù. Chính vì thế mà mở đầu cho mọi lời cầu nguyện, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến Kinh Lạy Cha, là bày tỏ được thái độ căn bản tình nghĩa Cha-Con, tin tưởng tuyệt đối vào tình Chúa: "Cứ xin thì các con sẽ được; cứ tìm thì các con sẽ thấy; cứ gõ cửa thì sẽ mở cho các con vào. Vì bát luận ai xin, cũng sẽ được; ai tìm cũng sẽ thấy; ai gõ thì cửa sẽ mở cho mà vào. Trong các con, có người cha nào nỡ cho con mình hòn đá khi con xin bánh? Hay đưa cho nó con rắn khi nó xin con cá? HƠoặc đưa cho nó con bọ cạp khi nó xin quả trứng? Nếu các ngươi, những kẻ bất thiện là thế, mà còn biết cấp cho con cái mình những quà tốt, phương chi Cha trên TRời lại sẽ không ban Thánh Linh cho những ai kêu cầu ngài hay sao?" (Luca 11:9-13)
Mọi sự đã được Chúa Trời Đất là Bố mình trao ban, bỗng trở thành quí báu, từ cái bút đang cầm, căn phòng đang ở, cái ghế đang ngồi, hơi thở đang lãnh nhận mỗi phút giây... và niềm sung mãn của người được làm con của Chúa, được sinh ra trên trái đất này. "Chính trong Ngài mà chúng ta được sống, cử động và tồn hữu" (TĐCV 17:28). Chính cái nhìn và cái thấy như vậy đã khiến cho những bức tranh của họa sĩ Vincent Van Gogh mắc tiền làphải. Và mỗi người bỗng dưng nhận ra mình thật giầu có, thành triệu phú, tỷ phú, thành hoàng tử hay công chúa của vua hoàn vũ.
Với nhãn quan này, con bắt đầu thực tập bằng lời cảm ơn cho mỗi hơi thở được trao ban để con được sống.
Khi các môn đệ thấy Đức Giêsu cần nguyện với Cha Người, các ông cảm thèm khát vô cùng tình Cha Con lạ lùng cao cả mà Thầy đang được hưởng: Sự kết hợp của Cha Con duy nhất nên một, Cha toàn năng vinh hiển, cực thánh, cực nhân, thượng trí, khôn ngoan vô cùng, thì con cầu nguyện cùng Cha cùng được hiệp thông với Cha như thế. Con cầu nguyện với Cha bằng ngôn ngữ linh thánh huyền diệu chan chứa yêu thương thảo mến, chất đầy tình con chí hiếu, hiến dâng trọn vẹn cuộc đời con cho sứ mệnh cứu thế mà Cha đã se định.
Lời nguyện từ miệng Con thốt ra có sức mạnh lạ lùng làm cho các môn đệ rung cảm mãnh liệt, khiến các ông tha thiết đến xin Thầy dạy cầu nguyện, và Thầy đã dạy: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: “ Lạy Cha,...”
Kinh Lạy Cha có một hình thức giáo dục tuyệt đẹp, và một nội dung chân lý vô cùng phong phú.
Về hình thức: Khi Lạy Cha mở đầu bằng lời chào rất thân yêu kính mến. Ngày nay, trong các hội nghị, chúng ta thường thấy các đại biểu bắt chước mở đầu bài phát biểu của mình bằng một lời chào nồng nhiệt, và toàn thể hội nghị đều vỗ tay phấn khởi. Tiếp đến phần chính trong kinh Lạy Cha, là phần thưa chuyện gồm hai vấn đề. Vấn đề trước: thưa ba điều về Cha. Vấn đề sau: thưa bốn điều về con. Thưa về Cha trước là tỏ ra con luôn luôn quan tâm đến Cha, tỏ lòng hiếu thảo, kính trọng, yêu mến Cha hơn con. Sau mới thưa đến việc con là tỏ lòng khiêm tốn, xả kỷ, quên mình.
Người lịch sự, lễ phép, khiêm tốn và có giáo dục, khi viết thư hay tiếp chuyện, bao giờ cũng tỏ ra biết để ý đề cập đến việc người trước việc mình. Kẻ vô tâm, thất lễ, ích kỷ, kiêu căng chỉ biết nghĩ đến mình, nói về mình, lo cho mình trước người.
Qua Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu đã giáo dục nhân loại từ hai nghìn năm nay biết đi vào con đường lễ giáo, khiêm tốn, nhân từ tuyệt vời đó.
Về nội dung: Kinh Lạy Cha chất đầy những vấn đề vô cùng phong phú và quan trọng.
Chỉ suy niệm về lời chào “Lạy Cha chúng con ở trên trời” đã làm cho các ông cảm động run lên vì sung sướng. Các ông lấy làm vinh hạnh vô cùng và được gọi Cha Đức Giêsu là cha mình. Các ông được Chúa cho thông phần nghĩa tử của người. Ôi! hạnh phúc biết bao, từ nay các ông được sống bằng sức thần linh của Chúa Con, được quyền rao giảng Tin Mừng, được quyền tha tội, trừ quỷ, chữa lành bệnh nhân cả hồn xác, được quyền ban sự sống, ơn thánh và tình yêu chí thánh của Chúa Thánh Thần. Sau các môn đệ, còn biết bao nhiêu người cũng được diễm phúc cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha như vậy.
“Một bà già quê mùa được thưa chuyện với Chúa trời đất vô cùng cao sang, bằng lời chào: Lạy Cha, làm bà nhiều lần xúc động khóc nức nở. Một hôm, Đức Giám Mục hỏi bà:
- Bà nổi tiếng cầu nguyện gương mẫu nhất làng, vậy bà thường suy gẫm sách đạo đức nào nhất ?
- Thưa Đức Cha, con không biết đọc.
- Vậy bà cầu nguyện thế nào?
- Thưa Đức Cha, con chỉ biết cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng và kinh Tin kính. Mỗi ngày, con bắt đầu đến mười lần, nhưng thường con chỉ đọc một câu: “Lạy Cha chúng con...” thì con cảm thấy Chúa tốt lành vô cùng, đến nỗi cho một bà già khốn khó như con được gọi Ngài là Cha. Con nghĩ thế rồi con khóc, không thể đọc tiếp được nữa.”
Đức giám mục ngạc nhiên nói với bà: “Chỉ một lời nguyện đó của bà có giá trị bằng tất cả lời cầu nguyện của chúng tôi rồi đó.” (Sống, tr 294)
Quả thực, chỉ một lời chào “Lạy Cha chúng con...” đã làm cho bao tâm hồn được Chúa Thánh Thần soi sáng, cho cảm thấy được hưởng những ơn thiêng lạ lùng, khiến lòng tin mến họ dạt dào đến thổn thức muôn đời.
“Lạy Cha”, tiếng chào mừng vô vàn tôn kính mến yêu, tiếng cầu khẩn đầy tin tưởng cậy trông của những người con chí hiếu.
Phải tôn thờ Cha, vì Cha là Đấng sáng tạo mọi sự, muôn loài sống, sinh sôi nẩy nở, phát triển, tồn tại đều bởi Cha ban.
Phải trìu mến Cha vì Cha ban cho mọi sự đều tốt đẹp: hoa cỏ đồng nội, chim trời, cá biển, muôn vàn tinh tú, muôn dân các nước, từ văn minh đến mọi rợ, đều đầy vẻ xinh tươi, duyên dáng, hào hùng, không một vườn bông nào, một sở thú nào, một triển lãm nào, một hội chợ nào sánh kịp với những kỳ công của Cha.
Phải cầu khẩn Cha, vì “mọi sự của Cha là của Con, mọi sự Cha ban cho Con, Con lại ban cho chúng để chúng được sống đời đời và nhận biết Cha đang gìn giữ chúng khỏi sự dữ. Phải tin tưởnt Cha, vì Cha đã thánh hoá chúng trong sự thật, ban cho chúng vinh quang mà Cha đã ban cho Con. Cha đã yêu mến chúng để chúng yêu nhau, hợp nhất nên một như Cha Con ta là một, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, để Con ở đâu chúng ở đó để được chiêm ngưỡng vinh quang Cha”. (Ga 17...)
“Lay Cha” phải là tiếng kêu đầu tiên và sau cùng trên mọi môi miệng, mọi con tim khối óc và toàn diện con người chúng ta, để chúng ta được sống tốt lành, được chết êm ái và được sống lại vinh hiển với Cha trên trời.
1. Kinh Lạy Cha có tầm quan trọng như thế nào đối với các môn đệ Đức Giêsu xưa và với chúng ta ngày nay?
2. Tại sao chúng ta có thể tin tưởng Thiên Chúa khi chúng ta cầu xin Người? Suy tư gợi ý:
1. Tầm quan trọng của Kinh Lạy Cha đối với các môn đệ Đức Giêsu xưa và với chúng ta ngày nay:
Ngày xưa (cũng như ngày nay), mỗi nhóm tôn giáo có một kinh riêng. Kinh ấy vừa là nội dung cầu nguyện, vừa là hiến chương hay qui luật sống của nhóm người ấy. Nên nhìn vào kinh riêng của một nhóm, một cộng đoàn chúng ta hiểu được tôn chỉ, mục đích, tinh thần của nhóm người, của cộng đoàn ấy. Chính vì thế mà các môn đệ Gioan có kinh riêng. Cũng chính vì thế mà các môn đệ Đức Giêsu muốn xin Người ban cho họ một kinh riêng, để khi đọc kinh đó lên thì người ta biết họ là môn đệ Đức Giêsu. Chiều lòng các môn đệ Đức Giêsu đã dậy họ Kinh Lạy Cha.
1.1 Lạy Cha: Abba, (Lạy Cha chúng con ở trên trời):
Được gọi Thiên Chúa là Cha: Abba! Tức được làm con cái của Thiên Chúa: đó là tư cách riêng, rất riêng của những ai là môn đệ Đức Giêsu. Ơn gọi làm con là ơn gọi căn bản nhất, lớn lao cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Đức Giêsu. Vì thế chúng ta phải sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha và huynh đệ với tha nhân là anh chị em. Vì chưng toàn thể nhân loại chỉ có một Cha và tất cả đều là anh em chị em của nhau.
1.2 Xin làm cho Danh Cha vinh hiển, Triều đại Cha mau đến, (Ý Cha được thực hiện):
Đã là con thì phải hiếu thảo, vì chỉ hiếu thảo mới xứng danh là con. Con hiếu thảo thì trước tiên phải biết quan tâm, chăm lo đến những công việc thuộc về Cha của mình. Là con của Cha trên trời thì chúng ta phải làm sao (tức phải cầu xin và hoạt động) cho Danh Cha được cả sáng! (tức được nhìn nhận và ca tụng!) Nước Cha trị đến! (tức được đón nhận và hiển trị!) Ý Cha được thực hiện! (tức được vâng nghe và thực thi!).
Chắc chắn Cha chúng ta sẽ rất vui, sẽ mát lòng mát dạ khi có những người con biết sống hiếu thảo như thế.
1.3 Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ (cứu chúng con khỏi mọi sự dữ):
Sau khi đã cầu xin và đã ra sức thực hiện những công việc thuộc về Cha thì chúng ta có “quyền” tỏ bầy với Cha những nhu cầu chính đáng của chúng ta: lương thực hằng ngày (cho phần xác), ơn thứ tha tội lỗi, ơn vượt thắng cám dỗ và ơn thoát khỏi sự dữ (cho phần hồn). Không có cơm bánh lương thực, chúng ta không thể sống về mặt thể lý. Không có ơn thánh sủng, chúng ta cũng không thể sống về mặt tâm linh, vì chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi. Không được Chúa hỗ trợ phù giúp, chúng ta không tự mình thoát khỏi cạm bẫy của ma quỉ, thế gian, xác thịt. Không có ơn Chúa chúng ta không thể thoát khỏi thế giới đen tối của ác thần xa-tan, ma quỉ.
Được Cha yêu thương chăm sóc và thứ tha các lỗi lầm, thì chúng ta cũng phải biết noi gương Cha sống yêu thương tha thứ cho anh em đồng loại của mình. Thế mới trọn tình con thảo hiếu của Cha.
2. Chúng ta có thể tin tưởng Thiên Chúa khi chúng ta cầu xin Người:
Sau khi đã dậy các môn đệ cầu nguyện với Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu còn quan tâm nhấn mạnh đến lòng tin tưởng cậy trông là điều hết sức cần thiết trong đời sống cầu nguyện. Người đã dùng dụ ngôn hai người bạn và đã dùng lý luận rất khít khao, lô gíc để thuyết phục chúng ta.
Lý do chính khiến chúng ta vững lòng tin vào lời cầu nguyện của mình là vì Thiên Chúa là Cha của chúng ta, một người Cha đầy yêu thương và quyền năng (bài đọc 1). Là con cái của một người Cha như thế thì chúng ta chẳng có gì phải lo khi chúng ta cầu xin Người!
Nếu chúng ta không hoặc chưa được toại nguyện thì có lẽ chúng ta nên xem lại mình: Phải chăng xưa rầy chúng ta chỉ biết quan tâm tới bản thân, mà chẳng hề quan tâm đến những gì thuộc về Cha chúng ta? Phải chăng xưa rầy chúng ta toàn xin những ơn đâu đâu, không ăn nhập gì với nhu cầu chính đáng thuộc phần hồn hay phần xác của chúng ta?
Chúng ta cũng đừng quên rằng: có nhiều khi chúng ta xin Chúa ơn này thì Người lại không ban cho chúng ta ơn ấy, nhưng lại ban cho chúng ta ơn khác, còn lớn lao cao trọng hơn ơn chúng ta ước ao cầu xin bội phần. Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tất cả, nên Người biết chúng ta cần gì, thiếu gì, biết ơn nào ích lợi cho chúng ta hơn. Chúng ta chỉ cần vững lòng tin vào Người, kiên nhẫn chờ đợi và thanh luyện động cơ trong đời sống cầu nguyện của chúng ta.
Nguyện
Abba! Lạy Cha yêu dấu của con!
Con sung sướng được làm con của Cha! Con hãnh diện được có Cha là Cha của con! Con cảm tạ ơn Cha! Con chúc tụng ngợi khen Cha! Con yêu mến Cha! Xin Cha dậy con đức hiếu thảo, để con biết sống đẹp lòng Cha, biết lo toan những công việc của Nhà Cha, biết làm rạng danh Cha giữa muôn người.
Xin Cha ban cho con những ơn cần thiết phần hồn phần xác, để con đủ sức chống trả mọi âm mưu cám dỗ của kẻ thù; để con không phải hổ thẹn trước những kẻ không tin có Thiên Chúa và trước những kẻ nghi ngờ lòng thương yêu và quyền năng của Thiên Chúa. Chúng con xin Cha tất cả các ơn ấy, vì công nghiệp Đức Giêsu Kitô là Con Yêu Dấu của Cha và là Cứu Chúa duy nhất của chúng con. Amen.
Vào trong nhà thờ, một em bé nhìn thấy người thì đang quỳ, kẻ thì đang ngồi gục đầu trên hai tay, em liền hỏi mẹ: "những người đó đang làm gì?". Mẹ em trả lời: "những người đó đang cầu nguyện" - "Vậy cầu nguyện là gì?" - "Cầu nguyện là thưa chuyện với Chúa, là nói những gì mình muốn nói như tâm sự với một người bạn, hoặc nói lên những gì mình ngại không dám nói với người khác. Thông thường thì họ cầu nguyện trong tâm tình tin tưởng, nhưng nhiều khi cũng tràn đầy thất vọng hoặc với một tâm tư phẫn uất" - "Nếu họ xin thì Chúa có cho không?"— "Cũng tùy, chưa hẳn là lúc nào cũng được điều mình xin"— "Vậy thì đọc kinh làm chi?".
Cuộc đối thoại trên đây có thể làm chúng ta bối rối khi đề cập đến vấn đề "cầu nguyện". Vả lại, trong đoạn kết của bài Phúc Âm hôm nay, Đức Kitô có nói: "nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?". Tất nhiên sẽ có nhiều người phản ứng: "Nhưng mà tôi đâu có xin Thánh Thần, điều tôi muốn xin là sự chữa lành cơn bệnh cho người nhà tôi, việc buôn bán được phát đạt, cũng như nguyện ước cho đứa lớn năm nay ra trường tìm được việc làm... Thế mà Chúa lại ban cho tôi Thánh Thần, thật là kỳ lạ!".
Trong xã hội tiêu thụ ngày nay, khi mà những nhu cầu của con người cần phải được thoả đáp ngay tức khắc, khi mà tất cả phải có sinh lợi trong thời hạn ngắn, thì việc cầu nguyện có vẻ như chẳng ích lợi gì đối với đa số ngày nay. Vì cách chung, "cầu nguyện" là xin ơn, xin các thứ, xin cho tai qua nạn khỏi, v.v... Trong tình cảnh đó, ta sẽ không lạ gì khi thấy Thiên Chúa được xem như một nhà ảo thuật, vì ai ai cũng ước muốn Ngài giải quyết cho mọi vấn đề: sức khỏe, tiền bạc, tình yêu, công danh, sự nghiệp, v.v...
Nhưng làm sao Thiên Chúa có thể khấng nhậm toàn bộ những điều ta xin? Cứ nhìn cách chúng ta đối xử với con cái trong gia đình thì sẽ hiểu: ta thương yêu con cái, vậy khi chúng còn nhỏ dại ta có cho tất cả các bánh kẹo mà chúng nó đòi không? khi chúng lớn khôn, ta có thỏa đáp tất cả ý muốn của chúng không? ta có cho chúng chiếc xe gắn máy ngay sau khi chúng xin không?
Đương nhiên ta sẽ dò xét suy tính để quyết định... tức nhiên ta cũng biết từ chối mỗi khi con cái xin. Vậy thì Thiên Chúa cũng không thể nào khấng ban tất cả những gì ta xin. Thí dụ một học sinh cầu nguyện như thế này: "xin Chúa cho Oslo biến thành thủ đô Quốc gia Thụy Điển, bởi vì con đã lỡ viết như vậy trong bài luận vừa rồi". Dĩ nhiên ta biết Thiên Chúa không thể đáp lời này được.
Vì thế "cầu nguyện" không phải là một hành động để biến đổi Thiên Chúa, mà ngược lại thay đổi chính con người chúng ta, giúp chúng ta sống đúng vai trò của mình cũng như biết sống phó thác theo thánh ý Ngài. Nhưng phải hiểu thế nào là thánh ý Thiên Chúa? Biết bao lần ta đã từng nghe những câu: "Thôi! đành chịu vậy, vì đó là ý Chúa!... tại Trời muốn vậy, biết sao hơn!...". Thử hỏi, Thiên Chúa là Cha, mà có người cha nào muốn con cái mình phải khổ sở khốn đốn bao giờ chăng? Cũng như khi đề cập đến vấn đề thiên mệnh hoặc sự Quan Phòng của Chúa, ta nên thận trọng trong ngôn ngữ của chúng ta, bởi nếu ta tạ ơn Chúa vì những ngày trời nắng đẹp, chẳng lẽ ta lại trù ẻo những ngày mưa tầm tã? Vì nếu những ngày nắng nóng cứ kéo dài mãi rất phù hợp với các cuộc du ngoạn đó đây, nhưng biết đâu sẽ là thảm họa cho những nhà nông!
Vậy thì "cầu nguyện" không phải là ép buộc Thiên Chúa thực hiện điều ta xin, nhưng ta cầu nguyện bởi vì Chúa đang hành động, đang hướng lòng ta cũng như đưa những ước nguyện của chúng ta phù hợp với ý định của Ngài, như Đức Kitô đã dạy chúng ta trong kinh "Lạy Cha": "nguyện danh Cha cả sáng, ý Cha được thể hiện..." Thánh ý Thiên Chúa là muốn tất cả nhìn nhận Ngài như một người Cha tràn đầy thương yêu, cũng như Ngài muốn tất cả biết yêu thương nhau như anh em. Trước những điều ác tội lỗi, những cảnh chia ly tang tóc vì chiến tranh, trước những bệnh tật nghèo đói... Thiên Chúa muốn chúng ta thực hiện điều chúng ta cầu xin, có nghĩa là ta phải trở nên "kẻ quan phòng" cho những người khác, bởi vì lời cầu nguyện suông không giải quyết những nỗi bất hạnh, nhưng con người cần phải hành động, và Thiên Chúa cũng không thực hiện thay thế chúng ta trong việc kiến tạo hạnh phúc ấm no, công lý hoà bình.Vì nếu Thiên Chúa làm tất cả mọi thứ cho chúng ta thì còn đâu là sự tự do của con người và lúc đó nhân loại hoàn toàn trở nên người máy.
Tóm lại, muốn hiểu thế nào là "cầu nguyện" và việc xin ơn có được Thiên Chúa khấng ban hay không, ta cứ đọc chậm rãi kinh "Lạy Cha", vừa đọc vừa suy niệm ta sẽ hiểu rõ vai trò của chúng ta trong việc cầu nguyện.
Lúc chúng ta đọc "xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày", mỗi người chúng ta không cầu nguyện một cách riêng rẽ, mà xin cho mọi người có lương thực hằng ngày, và nếu lời kinh của chúng ta xuất phát từ đáy tim một cách trung thực thì chúng ta sẽ cảm thấy phải chia sẻ với những người không có.
Lúc chúng ta đọc "như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con", chúng ta xin được biết "tha thư" để từ đó mối liên hệ giữa chúng ta với kẻ khác được biến đổi, từ ganh tỵ oán ghét đi đến sự hiệp thông thương yêu.
Vậy cùng với các môn đệ, chúng ta xin Chúa dạy chúng ta biết cầu nguyện để "thánh ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời".
Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Chúa Giêsu cầu nguyện. Có lẽ khi Người cầu nguyện, có một cái gì đó thật TN 17-C24 FB
Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Chúa Giêsu cầu nguyện. Có lẽ khi Người cầu nguyện, có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn toả ra. Vì thế, các Tông đồ xin Người dạy cách cầu nguyện. Và Người đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha mạc khải cho ta hai điều quan trọng.
1. Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Có lẽ vì đã đọc thuộc lòng Kinh Lạy Cha một cách máy móc nên ít khi ta cảm nhận được hết ý nghĩa thâm sâu nằm trong từ ngữ “Cha”.
Một người bạn có đứa con đầu lòng tâm sự: “Lần đầu tiên khi nghe đứa con gọi “Ba ơi”, tôi bủn rủn cả tay chân. Một luồng điện cực mạnh chạy khắp thân thể. Tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng”. Quả thực, mối liên hệ Cha-Con là một mối liên hệ rất thâm sâu, huyền bí và thân thiết.
Gọi ai là Cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ Cha, ta nhận được món quà tặng quí giá nhất đó là sự sống. Có những người cha không chỉ sinh con về mặt thể xác mà còn cho con một đời sống tinh thần. Đó là những người Cha có nhân cách lớn, kiên trì đúc nặn nên những đứa con có tâm hồn cao đẹp, có lý tưởng, có tư cách làm người.
Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Nói tóm lại, từ ngữ “Cha” gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm không bút nào tả xiết được.
Khi mạc khải cho biết Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh về Thiên Chúa hoàn toàn khác với hình ảnh các vị thần của các tôn giáo khác. Không những Người cho ta thấy Thiên Chúa Cha yêu thương ta vô cùng, mà còn muốn ta đi vào tình nghĩa thâm sâu, tha thiết với Cha. Vì thế, Người đã dạy ta tiếng “Abba” là tiếng gọi “Ba ơi” rất thân thương của một đứa trẻ vừa nũng nịu, vừa tin tưởng, phó thác mọi sự trong tay Cha.
2. Mọi người là anh em
Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện: Lạy Cha chúng con... Xin Cha cho chúng con... Chứ không dạy ta đọc: Lạy Cha của con... Xin Cha cho con... Nghĩa là tất cả mọi người có cùng một Cha. Mọi người đều thuộc về một gia đình Thiên Chúa. Là anh em nên phải có tình yêu thương đoàn kết, liên đới với nhau. Liên đới trong đời sống, liên đới trong cả lời cầu nguyện.
Một lần dâng lễ chung với những người bạn Mỹ, tôi đã hỏi họ trong giờ chia sẻ: Hằng ngày các bạn vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Vậy khi đọc câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày” các bạn cầu xin điều gì? Vì ở Mỹ tôi thấy lương thực dư thừa, không ai phải chết đói. Họ trả lời: Chúng tôi vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Và với câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày” chúng tôi vẫn cầu xin tha thiết. Vì tuy chúng tôi đã đủ ăn đủ mặc, chúng tôi vẫn nhớ đến những anh em bên Phi châu, bên Àu châu đang phải đói khát khổ sở.
Câu trả lời thật chính xác. Vâng, chúng ta là anh em nên phải liên đới, có trách nhiệm về nhau. Trong bài đọc 1 hôm nay, tổ phục Abraham đã nêu gương liên đới khi tha thiết cầu nguyện cho thành Sođoma khỏi bị phạt.
Nếu trong gia đình đứa em út yếu đuối bệnh tật luôn được thương yêu cưng chiều, thì trong kinh nguyện, ta cũng phải ưu tiên cầu nguyện cho những anh em bé nhỏ trước hết.
Nếu lời cầu nguyện của ta là lời của đứa con nhỏ nói với Cha, và là tâm tình liên đới yêu thương với mọi anh em trên khắp thế giới, lời cầu nguyện ấy sẽ rất đẹp và Thiên Chúa sẽ hài lòng.
Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin thương xót chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có thực sự cảm thấy Chúa là Cha và sống với Người như người con hiếu thảo không? 2- Thiên Chúa là Cha tốt lành. Người chỉ ban cho ta những điều tốt. Có khi nào Bạn gặp thất bại khổ đau mà bạn thấy lòng tốt của Thiên Chúa không? 3- Bạn cầu nguyện cho người kém may mắn, nhưng bạn có sẵn sàng chia sẻ với họ không?
Tin Mừng tuần trước đã cho thấy sự cần thiết và tương quan hỗ tương giữa cầu nguyện và hoạt động: cầu nguyện là cội rễ của hoạt động và hoạt động là hoa quả của sự cầu nguyện. Tuần này, phụng vụ Lời Chúa nhấn mạnh đến vai trò của cầu nguyện trong đời sống kitô hữu.
1. Mong ước hay cầu nguyện
Sống trên đời ai lại chẳng có những lúc cầu mong một điều gì đó, nhất là khi điều mong ước đó vượt quá sức con người. Hôm rồi đọc báo PNCN (số 26, ngày 15-7-2001), tôi bắt gặp ước mong của một bạn trai 16 tuổi: “Nếu ông Tiên cho con một điều ước, con sẽ ước rằng ba con luôn ở bên mẹ và con, để những giấc mơ trong đêm không hành hạ mẹ nữa”. Và cũng trên cùng số báo ấy tôi đọc thấy điều cầu mong của một cô gái sắp đi lấy chồng: “Cầu mong thời gian hãy đừng chóng qua mau, để tôi được gần bên mẹ, thấm nhuần đức hạnh của mẹ, và để mẹ tôi tận hưởng những tháng ngày còn lại thật thanh thản sau một đời hy sinh vất vả!”. Nếu những nguyện ước kia được xem như một ước mơ, thì lời cầu nguyện cũng có khác gì một ước mơ, nhưng ước mơ ấy đã được con người nâng hồn lên để gởi gắm trọn vào một đối tượng siêu việt là Thiên Chúa, Đấng ngàn trùng cao cả. Hơn nữa, cầu nguyện đâu chỉ nhằm đến bản thân con người, mà trước hết là tìm vinh danh Chúa. Vì thế, nhiều khi con người cảm thấy lúng túng không biết cầu nguyện thế nào cho phải lẽ.
Phải nhìn nhận rằng ngày hôm nay có nhiều người cho cầu nguyện là một thứ xa xỉ, một việc làm mất thời giờ và vô ích; nhưng cũng đừng quên con người là một hữu thể vẹn toàn gồm hai chiều kích: thân xác và tâm linh. Chặt bỏ hay chỉ chấp nhận một nửa, con người sẽ trở nên què quặt. Chỉ quan tâm đến những nhu cầu vật chất mà không chăm lo bồi bổ tâm linh thì qủa là một thiếu sót đáng tiếc. Quì xuống cầu xin chính là cách xử sự của người biết mình, biết mình là ai và những gì mình có thể làm được, cũng như biết cả những gì nằm ngoài tầm tay của mình. Cầu nguyện với một thái độ khiêm tốn là con người đang hiện thực hóa những ước mơ chính đáng.
“Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện”. Như các môn đệ, người tín hữu chúng ta phải khát khao cầu nguyện và không ngừng xin Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết cầu nguyện. Cầu nguyện là một trường học mà con người sẽ không bao giờ hoàn tất được khóa học, bởi vì cầu nguyện là cả cuộc sống xin vâng phó thác.
2. Tâm tình và nội dung cầu nguyện
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dạy các môn đệ bắt đầu bằng một tiếng gọi thân mật đến độ sửng sốt: “Abba, lạy Cha”. Thật lạ lùng! Thân phận con người đâu chỉ có lom khom lết bết đối mặt với đất, mà còn có thể ngẩng cao đầu để gọi Trời Cao bằng tiếng gọi thân thương: Lạy Cha. Đó là lời thưa gói ghém tất cả tâm tình của một người con hiếu thảo.
Khi dạy các môn đệ gọi Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu cho thấy tất cả sự chân thành âu yếm, sự gần gũi của Thiên Chúa đối với con người. Đấng cao cả ngàn trùng bỗng trở nên thật gần, khiến con người có thể dễ dàng tỏ bày tâm can. Đồng thời, Chúa Giêsu cũng cho thấy chúng ta chỉ có thể đến với Thiên Chúa Cha với tư cách người con nhờ Người, cùng Người và trong Người. Điều đó có nghĩa cầu nguyện là sống lại cuộc sống của Chúa Giêsu, là đi vào tâm tình của Người. Bởi vì chỉ có Chúa Giêsu mới biết rõ Chúa Cha và chỉ có Chúa Giêsu mới cho chúng ta biết phải đi vào quan hệ với Thiên Chúa Cha như thế nào cho phải đạo. Khi chú giải “Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu”, thánh Cyprianô nói: “Khi chúng ta cầu nguyện, ước gì Chúa Cha nhận ra lời của Chúa Con”.
Tuy nhiên, đây không phải là một công thức bó buộc phải đọc y nguyên, cách máy móc. Kinh Lạy Cha dạy cho chúng ta biết đâu là điều cốt yếu khi cầu nguyện, phải bắt đầu từ đâu, cầu theo ý hướng nào và giúp ta có thể tự cầu nguyện. Kinh Lạy Cha tóm lược rõ ràng những điều cần thiết mà người con phải xin cùng cha, đó là mong cho mọi người khác biết và yêu mến Cha; kế đó là xin cho đời sống vật chất và tinh thần của con được đầy đủ và bình an. Người con nào đến với cha chỉ để xin xỏ những nhu cầu riêng tư mà chẳng màng đến việc “xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” thì người con ấy quả là không có tế nhị hay “đắc nhân tâm” một chút nào. Ấy vậy mà vẫn có rất nhiều người thường làm như thế.
Mong cho mọi người nhận biết Cha nói lên tấm lòng hiếu thảo của người con luôn quan tâm, chăm lo đến những công việc thuộc về cha của mình. Một người con hiếu thảo như thế sẽ không ngần ngại bày tỏ với cha những nhu cầu chính đáng về phần xác cũng như phần hồn. Cơm bánh là lương thực nuôi thân xác, ân sủng mới đem lại sức sống tâm linh. Chính những lúc nép mình bên cha để tìm sự ấm áp nâng đỡ, người con mới thấy mình có đủ nghị lực để đối mặt với bao khó khăn trong đời. Chỉ từ nơi Cha, con người mới nhận được sức sống dồi dào, bởi được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa.
Chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ xưng với Chúa Cha bằng đại từ số nhiều chứ không phải số ít: chúng con. Điều này cho thấy con người không chỉ có Thiên Chúa là Cha mà còn được mời gọi liên kết với nhau trong mối dây huynh đệ. Được ngẩng cao đầu nhìn trời, con người cũng phải vươn cái nhìn của mình để nhận ra hình ảnh của Cha đang ẩn giấu trong những người chung quanh. Khi thưa “Lạy Cha” mỗi người cần phải ý thức rằng “người trong bốn bể đều là anh em”, vì họ cũng là con cái Thiên Chúa. Trong xã hội phát triển ngày nay, khi cuộc sống được nâng cao thì hình như con người càng xa cách nhau hơn. Ai cũng chỉ nghĩ đến bản thân mình hay gia đình mình mà quên đi trách nhiệm liên đới với người khác. Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã mang lấy tất cả tội lỗi chúng ta, muốn rằng mỗi người đều cầu nguyện cho tất cả. Dưới cái nhìn của Chúa, mỗi người phải đứng trong mọi người và mọi người ở trong mỗi người.
3. Cứ xin, cứ tìm, cứ gõ
Tiếp theo, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hai người bạn để nhấn mạnh lòng tin tưởng cậy trông là hết sức cần thiết trong đời sống cầu nguyện của người tín hữu. “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Người muốn chúng ta phải có thái độ kiên trì khi cầu nguyện: hãy cứ gõ cửa nhà Chúa, hãy tập đứng đợi, tập quấy rầy. Chắc chắn Chúa sẽ mở cửa và đáp trả lời cầu xin của ta theo những cách thế tốt nhất, dù có thể đó là thứ không hợp với ước mơ hay sở thích của ta.
Điều làm cho chúng ta tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa và kiên trì trong lời cầu nguyện của mình chính là vì Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Người luôn vui lòng nhường bước trước lời cầu xin chân thành, bền bỉ và đầy lòng kính trọng của con cái. Người là Cha đầy yêu thương và quyền năng, luôn thấu suốt tất cả mọi nhu cầu của con cái trần gian, luôn ban những điều tốt lành và có lợi thực sự cho ta, làm cho ta trưởng thành và triển nở, đưa ta đến hạnh phúc đích thực.
“Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người”, hẳn có người đặt vấn đề: Tại sao ta xin ơn này ơn kia mà lại chỉ được Thánh Thần? Có lần, một bà mẹ hớt ha hớt hải chạy đến nói với tôi: “Con nhỏ nhà con nó bỏ nhà đi rồi, xin cha cầu nguyện cho nó biết quay về”. Lần khác cũng một bà mẹ xin: “Cháu nó nghe tin sắp bị đổi đi dạy ở vùng xa, cha cầu nguyện cho cháu được ở lại”. Thế đó, khi cầu nguyện người ta thường muốn áp đặt cho Thiên Chúa, muốn biến đổi Người, mà lại không nghĩ rằng chính mình cần phải thay đổi. Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi cách nghĩ, cách sống của chúng ta, giúp chúng ta biết lựa chọn và dâng lên những ước nguyện phù hợp với ý đinh của Thiên Chúa, và nhận ra tất cả những gì ta đang có từ bát cơm, tấm áo đến cây viết, quyển tập... đều là quí báu vì do Cha ban tặng, để rồi biết sống hoàn toàn phó thác theo thánh ý Người.
*****
Nói tóm lại, muốn canh tân cuộc đời, muốn thay đổi thế giới, mỗi chúng ta cần phải cầu nguyện và trở thành những con người biết cầu nguyện. Cầu nguyện cá nhân hay cầu nguyện chung với cộng đoàn. Cầu nguyện cho mình và cầu nguyện cho người khác. Cầu nguyện một cách thân mật và kiên trì như tổ phụ Abraham. Thiên Chúa đã kiên nhẫn lắng nghe và đáp trả lời nài xin của Abraham sau sáu lần ông kì kèo trả giá: từ 50 xuống còn 10 người lành để dân thành Sôđôma được dung thứ. Abraham đã hiện thực ơn gọi của mình (x. St 12,3) là trở thành phúc lành cho người khác trong lời cầu nguyện và qua lời cầu nguyện, nhờ lòng liên đới với mọi người kể cả những người tội lỗi. Ơn gọi kitô hữu cũng vậy, khi sống trung thực ơn gọi làm người và làm con cái Chúa của mình nhờ đời sống cầu nguyện, chúng ta sẽ kéo được muôn vàn ơn lành của Chúa cho bao người khác và tránh cho thế giới khỏi các tai ương, do chính cuộc sống ích kỷ gian dối của con người gây ra.
CẦU NGUYỆN:
Lạy Cha,
Được gọi cha bằng hai tiếng: “Abba, Cha ơi!”
là niềm hạnh phúc tuyệt vời cho chúng con.
Sự yếu đuối lại gặp Đấng uy hùng,
thụ tạo thấp hèn được nâng lên cùng Tạo Hóa.
Chúng con sung sướng vì được làm con cái Cha. Tạ ơn Cha vì bao ân huệ Cha đã ban tặng:
những ơn con thấy được cũng như những ơn con không nhận thấy,
những điều con chờ đợi và cả những thứ con chẳng mong chờ.
Tất cả đều tốt lành cho con, vì Cha biết thế.
Xin cho con vững tin vào tình yêu của Cha,
biết sống hiếu thảo và huynh đệ:
luôn tìm điều đẹp ý Cha
và yêu thương phục vụ mọi người,
để triều đại Cha mãi hiển trị giữa chúng con. Amen
Trong cuộc chiến tranh ác liệt giữa nước Pháp và nước Đức năm 1870, tại một bệnh viện Pháp, có một thương binh vốn là một sĩ quan người Đức đang bị bắt làm tù binh, một hôm bác sĩ báo tin buồn cho ông ta biết: có lẽ ông sẽ không còn sống được bao lâu nữa vì vết thương ngày càng trầm trọng. Viên sĩ quan tỏ ra bất cần một cách ngạo nghễ và can đảm chờ đợi cái chết.
Thế rồi, có một chị nữ tu y tá Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh-sơn vốn chăm sóc anh ta đã lâu, ân cần ngỏ ý khuyên anh ta nên xin gặp một linh mục để dọn mình trước khi chết. Anh thú nhận mình là người công giáo nhưng đã bỏ đạo từ lâu nên một mực từ chối lời đề nghị chân thành này.
Thế nhưng chị nữ tu vẫn dịu dàng nói: “Nếu vậy, tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông mau hồi tâm trở về với Chúa.” Viên sĩ quan tỏ vẻ thương hại mỉa mai: “Tôi nghĩ là chị sẽ chỉ cực nhọc vô ích mà thôi...” Chị nữ tu vẫn kiên nhẫn thuyết phục: “Tại sao ông lại hoài nghi về lời cầu nguyện ? Tôi xin thú thật với ông rằng: đã 16 năm nay, các chị em trong Dòng chúng tôi vẫn đang cầu nguyện cho một người được ơn trở lại cùng Chúa...”
Viên sĩ quan ngạc nhiên hỏi lại chị: “16 năm rồi cơ à ? Thế người được các chị cầu nguyện cho ấy có lẽ là một ân nhân của Nhà Dòng hoặc là một người thân của chị?”
Chị nữ tu trả lời: “Không ông ạ ! Cho đến nay chúng tôi vẫn chưa hề gặp mặt người ấy bao giờ. Trước đây rất lâu, mẹ tôi là người hầu cho một nữ nam tước người Đức. Trong một lần tôi tới thăm mẹ tôi, bà nam tước biết tôi là nữ tu nên đã khẩn khoản nhờ tôi cầu nguyện cho con trai của bà ấy. Anh ta đã mất lòng tin vào Chúa, sống một cuộc đời vô tín ngưỡng, phóng túng, đam mê danh vọng và quyền lực... Đã 16 năm trôi qua, tôi và cả Nhà Dòng vẫn kiên trì tin vào sự quan phòng yêu thương của Chúa mà cầu nguyện cho anh ta không ngừng. Mới đây, tôi nhận được tin của nữ nam tước cho biết anh ta hiện đang tham gia vào cuộc chiến phi nghĩa và man rợ này...”
Người sĩ quan nghe chuyện, cúi gục đầu thinh lặng. Rồi bất giác, anh ngửng lên gặng hỏi chị nữ tu: “Chị ơi, thế mẹ của chị có phải là bà Béate không?” Chị nữ tu vô cùng ngạc nhiên: “Nhưng tại sao ông lại biết tên mẹ tôi?” Đến đây thì viên sĩ quan nghẹn ngào thú nhận tất cả: “Thưa chị, tôi chính là nam tước Charles, con trai của nữ nam tước mà mẹ chị đã tận tụy hầu hạ bấy lâu nay. Và như thế, tôi cũng chính là người mà chị và cả Nhà Dòng đã cầu nguyện cho trong suốt 16 năm nay mà không biết. Khi tôi lên đường ra trận, biết tôi có tham vọng sẽ trở thành một viên tướng lừng danh, mẹ tôi đã tỏ ra thương xót tôi và thiết tha mong tôi sẽ thay đổi cuộc sống ảo tưởng mà quay trở về với Chúa như mẹ tôi đã từng khuyên nhủ bao lần. Lúc đó, tôi đã cười lớn mà chế nhạo sự ngu ngơ của mẹ tôi, cho đó chỉ là một sự mê tín dị đoan ấu trĩ. Nhưng... bây giờ thì tôi thật sự muốn khóc, khóc vì ân hận dầy vò...”
Và quả thật, viên sĩ quan đã khóc như một đứa trẻ, để rồi sau đó là những ngày cuối cùng thật hạnh phúc. Người con hoang đàng ấy đã trở về với Thiên Chúa là Cha nhân từ giàu lòng xót thương...
Chủ đề"Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện" (Lc 11,1)
Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc I: Abraham cầu xin Chúa cho thành Sôđôma - Đáp ca: Ca tụng Chúa đã nhậm lời cầu xin - Tin Mừng: Chúa Giêsu dạy các môn đệ cầu xin.
Minh họa
- Mille images 133 E - "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện" (Lc 11,1)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo "Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì gặp, ai gõ cửa thì: TN 17-C26
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo "Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì gặp, ai gõ cửa thì sẽ được mở cho". Chúa nói thế để khuyến khích chúng ta khi cần điều gì thì hãy cầu xin cùng Thiên Chúa một cách mạnh dạn, tin tưởng và kiên trì.
Trước hết chúng ta hãy xin Chúa tha thứ những tội lỗi của chúng ta, để chúng ta xứng đáng dâng Thánh lễ này lên Chúa.
II. Gợi ý sám hối
- Xin Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng con đã không kính mến Chúa cho đủ.
- Xin Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng ta đã nhiều lần lỗi đức bác ái với người khác.
- Xin Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng con chưa chu toàn bổn phận của chúng con.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (St 18,20-32)
Vì dân thành Sôđôma phạm tội quá nhiều, Thiên Chúa cho Abraham biết Ngài sẽ cho lửa từ trời xuống thiêu huỷ thành này. Abraham đã mặc cả với Chúa rằng nếu trong thành có một số người công chính thì xin Chúa tha cho cả thành. Chúa đồng ý, và Abraham đã hạ dần con số những người công chính: từ 50 xuống 45, rồi 40, 30, 20 và 10. Rất tiếc là Abraham đã dừng lại ở đó, không dám xuống nữa.
Câu chuyện cho ta thấy 2 điều quan trọng: a/ Lòng thương xót của Chúa vì những người công chính mà sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi ; b/ Thiên Chúa sẵn sàng nghe lời cầu xin của con người.
2. Đáp ca (Tv 137)
Ca tụng Thiên Chúa đã nghe lời cầu xin của con người.
3. Tin Mừng (Lc 11,1-13)
Đức Giêsu dạy về cầu nguyện:
1. Nội dung phải cầu nguyện: Kinh Lạy Cha: Thời Chúa Giêsu, mỗi nhóm tín ngưỡng có một bài kinh riêng, đặc trưng của nhóm mình. Bài kinh mà Chúa Giêsu sắp dạy cũng là đặc trưng của Kitô giáo. Nét đặc trưng rõ nhất được thấy trong một từ chìa khoá lắp đi lặp lại rất nhiều lần, từ "Cha": kitô hữu được làm con Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha.
Vì là một bài kinh rất ngắn gọn cho nên những điều được nói trong đó đều là những điều then chốt nhất. Nói cách khác, những lời xin trong bài kinh này cho ta biết những điều mà kitô hữu cần quan tâm nhất là gì:
a/ Đối với Chúa: sao cho người ta được biết Chúa ("Xin làm cho danh Cha vinh hiển") ; sao cho nhiều người gia nhập Nước Chúa ("triều đại Cha mau đến")
b/ Đối với chính bản thân mình: có lương thực hằng ngày, được Cha tha thứ và mình cũng biết tha thứ cho người khác, đừng sa chước cám dỗ.
2. Thái độ khi cầu nguyện: Phải kiên trì
Để minh họa cho thái độ kiên trì, Đức Giêsu đưa dụ ngôn về "người bạn quấy rầy"
- "Quấy rầy" vì đến gõ cửa ban đêm để vay bánh: việc này khiến chủ nhà bị mất ngủ. Và nếu chủ nhà thức dậy thắp đèn lên, rồi lấy bánh, rồi mở cửa, rồi nói chuyện... thì sẽ làm cho vợ con của ông cũng mất ngủ luôn. Bởi thế, chủ nhà đã nói vọng ra lời từ chối. Nhưng người bên ngoài cứ vừa gõ cửa vừa kêu mãi.
- Nhưng người đứng bên ngoài ấy lại là một "người bạn". Bạn bè thì phải thương yêu nhau và tương thân tương trợ nhau, nhất là trong những khi gặp khó như trường hợp này.
Việc chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do: cho để khỏi bị quấy rầy nữa ; cho vì tình bạn. Theo cách diễn tả của dụ ngôn thì người đó đã làm vì lý do thứ nhất. Nếu làm vì lý do thứ hai thì việc cho sẽ có ý nghĩa hơn. Nhưng dù sao thì cuối cùng anh bạn đứng ngoài đã đạt được điều mình xin, và lý do là nhờ anh kiên trì.
Sau khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu lý luận theo kiều a fortiori (huống chi): người đời dù quen hành động theo lý do ích kỷ (để khỏi bị quấy rầy) thế mà cũng phải chịu thua sự kiên trì của người xin. Huống chi Thiên Chúa vốn tốt lành quen đối xử với chúng ta theo tình thương. Bởi thế nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.
4. Bài đọc II (Cl 2,12-14) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô giải thích những hiệu quả của bí tích Rửa tội:
- Giúp chúng ta chết đi cho con người cũ yếu hèn để sống lại thành con người mới kết hợp với Đức Kitô.
- Tha thứ mọi tội lỗi trước đây của chúng ta.
IV. Gợi ý giảng
1. Lời cầu xin của Abraham
Lời cầu xin của Abraham có nhiều điểm hay đáng chúng ta bắt chước:
- Ông không cầu xin cho bản thân mình, mà cho người khác, những người không phải là bà con hay bạn bè thân thích gì của ông cả.
- Ông không cầu xin cho những người đạo đức công chính, mà xin cho những người tội lỗi.
- Ông đã nại vào lòng thương xót của Chúa và vào "uy tín" của một số người công chính.
Nhưng có một điểm mà Abraham chưa làm gương cho chúng ta được. Đó là xem ra ông chưa tin tưởng hoàn toàn vào Chúa cho nên đã dừng lại ở con số 10 người công chính chứ không dám tiến xa hơn vào lòng thương xót vô biên của Chúa.
2. Xin, tìm và gõ
Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta hãy xin, hãy tìm và hãy gõ cửa. Nghĩa là đức tin của chúng ta phải là một hành động tích cực chứ không phải là một thái độ thụ động chỉ biết đợi chờ. Tuy nhiên lắm khi vì tự phụ mà chúng ta không xin, nên chúng ta không nhận được ; lắm khi vì chúng ta lười biếng mà không tìm, nên chúng ta không gặp ; lắm khi vì chúng ta nhút nhát mà không gõ cửa nên không được mở cho.
Đừng thụ động ngồi chờ ơn Chúa như những quả sung từ trời rụng xuống. Hãy khiêm tốn, siêng năng và bạo dạn mà xin, mà tìm và gõ cửa. Nếu điều đó tốt cho chúng ta thì chắc chắn Thiên Chúa là Cha nhân hậu sẽ ban cho chúng ta.
3. Tại sao phải cầu xin cách kiên trì ?
Phải kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chùng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy tình nhân ái.
4. Và chúa nói không
- Tôi xin Người lấy niềm kiêu hãnh của tôi đi. Và Người nói "không". Người nói việc lấy đi không phải do Người mà là tôi phải từ bỏ nó.
- Tôi xin Người làm cho đứa bé tật nguyền của tôi được lành lặn. Và Người nói không. Người nói tinh thần của tôi mới là tất cả, còn thể xác chỉ là nhất thời thôi.
- Tôi xin Người ban cho tôi sự kiên nhẫn. Và Người nói không. Người nói kiên nhẫn là một phó sản của nỗi gian nan khổ cực, không ban được mà phải tự kếm lấy.
- Tôi xin Người ban cho tôi hạnh phúc. Và Người nói không. Người nói Người ban cho tôi những lời chúc lành, hạnh phúc tuỳ thuộc nơi tôi.
- Tôi xin Người vứt bỏ nỗi đớn đau. Và Người nói không. Người nói
khổ đau sẽ đưa con ra khỏi những lo toan trần thế và đưa con lại gần Ta hơn.
- Tôi xin Người làm cho tinh thần tôi phát triển. Và Người nói không. Người nói sẽ cho tôi sự sống để tôi vui hưởng tất cả mọi thứ.
- Tôi xin Người giúp tôi yêu thương những người khác nhiều như Người yêu tôi. Và Người nói: À, cuối cùng thì con cũng có một ý tưởng hay. (Tài liệu nước ngoài. Hải Lý dịch. Đăng trong tuần báo CgvDt, số 1147, ngày 1.3.1998)
5. Xin điều này được điều khác
Tôi xin Chúa cho tôi sức khoẻ để tôi có thể làm được những việc lớn lao - Ngài lại ban cho tôi sự yếu đuối để tôi làm mọi việc cách tốt hơn.
Tôi xin Chúa cho tôi giàu sang để tôi có thể sống hạnh phúc hơn - Ngài lại ban cho tôi sự nghèo nàn để tôi sống khôn ngoan hơn.
Tôi xin Chúa ban cho tôi quyền lực để được người đời xưng tụng - Ngài lại ban cho tôi sự mọn hèn để tôi ý thức cần đến Ngài hơn.
Tôi xin Chúa ban cho tôi mọi sự, nhờ đó tôi tận hưởng thú vui cuộc sống - Ngài lại ban cho tôi cuộc sống để nhờ đó tôi tận hưởng mọi sự.
Tuy tôi chẳng được tất cả những điều tôi xin, nhưng lại nhận được mọi thứ tôi cần. (Anon)
6. Chuyện minh họa
a/ Kiên trì
Một người đưa tin đến một lâu đài cũ kỹ và anh lấy búa gõ cửa. Không ai trả lời. Anh lại gõ và chỉ có tiếng vang dội lại. Nhưng anh biết có người trong nhà, anh nhìn thấy họ qua cửa sổ. Giận sôi lên, anh cầm búa và lấy hết sức giáng mạnh vào cửa hai ba chục lần.
Một khuôn mặt cau có ngó qua lỗ then cửa và lịch sự hỏi xem người khách muốn vào không.
Vị khách nói như mê sảng: "Này ông, tôi vào được không ? Chẳng lẽ ai muốn vào cũng phải gõ như tôi ?".
- Ồ, ông biết đấy: Có nhiều trẻ ở xung quanh đến đây, chúng gõ cửa một vài lần rồi bỏ chạy, nên chúng tôi biết là không cần để ý đến chúng. Nhưng khi nghe ông gõ cửa, tôi thực sự thấy ông muốn vào. Vì thế tôi ra mở cửa.
b/ Khiêm tốn
Ngày kia, thánh Clément Hofbauer đi xin đồ viện trợ cho các cô nhi. Ngài vào một quán ăn, có ba người đang đánh bạc, xin họ góp phần vào công việc từ thiện. Một người chửi bới, rồi nhổ vào mặt ngài.
Thánh nhân lặng lẽ rút khăn tay lau mặt và nhẹ nhàng nói: "Đó là phần ông cho tôi. Còn phần cho các cô nhi của tôi đâu ?"
Tay cờ bạc kinh ngạc đến thẹn thùng, rồi dốc túi đưa hết cho ngài.
V. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi các môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cầu nguyện, Ngài đã dạy họ Kinh Lạy Cha. Chúng ta hãy kết hợp tâm tình với các môn đệ mà cầu nguyện bằng chính lời kinh Chúa dạy.
VI. Giải tán
Trong tuần này, mỗi khi có điều gì cần, chúng ta hãy cầu xin với Chúa cách khiêm tốn, kiên trì và tin tưởng, bởi vì chính Ngài đã hứa: "Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì gặp, ai gõ cửa thì sẽ được mở cho".
Lc cho biết CGS đã dạy kinh Lạy Cha cho các môn đệ trong một dịp rõ ràng: sự kiện một môn đệ: TN 17-C27
1. Lc cho biết CGS đã dạy kinh Lạy Cha cho các môn đệ trong một dịp rõ ràng: sự kiện một môn đệ vô danh nào đó nhắc đến kinh của Gioan tẩy giả không phải là không có lợi để giúp hiểu thêm kinh Lạy Cha: thời CGS có nhiều nhóm tu đạo, khác nhau bởi hình thức hay qui luật kinh kệ của họ, vì thế mà có nhóm Pharisêu, nhóm Esséno, và đoản văn Lc hôm nay cho thấy có nhóm môn đệ Gioan tẩy giả nữa. Cách cầu nguyện riêng của mỗi nhóm diễn tả mối liên hệ đặc biệt với TC là mối dây hiệp nhất của nhóm. Việc các môn đệ CGS xin có một kinh nguyện riêng minh chứng họ muốn thành lập một cộng đoàn thiên sai: kinh ấy sẽ là mối liên hệ và dấu hiệu riêng của họ, và kinh ấy sẽ biểu lộ điều họ giữ kín lòng. Vì thế kinh Lạy Cha là bản tóm lược trong sáng nhất và hàm súc nhất của sứ điệp CGS.
2. “Lạy Cha”. Để phẩm bình nguồn gốc và giá trị tiếng kêu này, tưởng cần tóm lược lại việc kêu danh Chúa là Cha lịch sử. Vào khoảng 2000 năm trước Đức Kitô và cả 3000 năm trước, đã có nhiều dân tộc phương đông coi thần linh như là cha. Trước thời Môisen, người ta coi thêm tước vị “Cha” ở trong các kinh nguyện xứ Sumérie: “Ôi TC, Đấng có lòng nhân hậu như người Cha dịu hiền”.
Để chống lại nguy cơ hạ giá TC xuống mức độ con người, CƯ thường rất họa hiếm kêu TC như là “Cha” (14 đoạn nói đến mà thôi). Trước tiên TC là “Cha của Israel”, dân mà Ngài đã tuyển chọn, giải phóng và cứu độ (Đnl 32,6; Is 63,16; 64,7; Giêr 3,4.19; Ml 1,6; 2,10). Sau lưu đày, thỉnh thoảng CƯ trình bày TC là “Cha” của các cá nhân (Kn 14,3; Si 23,1.4; Tv 13,4).
Nhưng văn chương Do thái đương thời và sau Đức Kitô còn kéo dài và nhấn mạnh đến khuynh hướng đề cao siêu việt tính của TC. Và người ta cũng không thể tìm thấy một bản kinh nào trong đó cá nhân cầu khẩn TC như khẩn cầu với một người “Cha”. Đi ngược với môi trường Do thái ấy, CGS khẩn cầu với TC như khẩn cầu với một người “Cha” trong kinh nguyện của Ngài, như các tác giả Phúc âm đã ghi lại (chỉ trừ tiếng kêu trút hơi thở tàn trên thập giá ở Mc 15,34 - nhưng đó chỉ là một lời trích dẫn, chứ không phải là lời kinh nguyện mà cá nhân CGS đã sáng tác).
Nhưng xét về phương diện ấy CGS còn đi xa hơn 14 đoạn văn CƯ hay các mẫu kinh lương dân trong đó TC được gọi là “Cha”. Với CGS chúng ta đi thẳng vào một điều mới mẻ hoàn toàn, đó là tiếng “Abba”, “Ba ơi”. Lời kinh trong vườn Giêtsimani nơi Mc 14,36 cho biết CGS dùng tiếng ấy để nói với TC; không những Rm 8,15 và Gal 4,6, ngay cả tiếng gọi “Cha” trong bản văn Hy lạp của các phúc âm cũng quả quyết điều đó; mà chỉ cách giải thích đầy đủ là: “Abba” luôn có mặt trong nguyên bản tiếng araméen. Cuộc nghiên cứu sơ sài kho tàng văn chương vĩ đại và giàu có về kinh nguyện Do thái, đưa đến kết luận: việc kêu cầu danh TC bằng tiếng “Abba” không nơi nào nói đến. Giải thích thế nào đây ? Các giáo phụ, Chysostome, Theodore de Mopsueste và Theodoret de Kyr, các vị thành Anttokia và các vú nuôi nói tiếng Syrien-occidental de l'araméen, đều nhất trí minh chứng rằng “Abba” là tiếng trẻ con dùng để gọi cha mình. Và sách Talmund xác quyết: “Khi một đứa trẻ ăn được lúa mì (nghĩa là khi nó thôi bú), thì nó bập bẹ nói “abba” và “imma” (ba ơi, má ơi). “Abba”, “imma” là những tiếng đầu tiên trẻ con nói bập bẹ (những tiếng mà trẻ con khi trưởng thành vẫn tiếp tục dùng, như ở Pháp người lớn vẫn kêu ông già mình bằng tiếng “papa"). Vì tính cách dịu hiền và thân tình của danh từ ấy, nên không ai dám nói: “Abba” với TC. Còn CGS vẫn luôn dùng tiếng ấy trong mọi kinh nguyện mà Ngài đã truyền lại cho chúng ta. Ngài đã nói với TC như một đứa con nói chuyện với Cha, cách đơn sơ thân tình và tín thác.
Nhưng ở câu 27 của Mt 11 - “Mọi sự đều đã được Cha trao phó cho con và không ai biết được Cha, nếu không phải là con và kẻ được con muốn mạc khải cho” - Cho chúng ta thấy CGS coi sự kêu xin kiểu trẻ con ấy như là cách duy nhất để nhận biết TC và uy quyền viên mãn của người con. Tiếng “Abba” biểu lộ cách viên mãn mầu nhiệm sứ mệnh của Ngài: ai được Cha cho biết TC cách sung mãn thì được uy quyền gọi TC một cách thân tình như vậy như con gọi cha. Tiếng “Abba” chính thực là tiếng của CGS, là tiếng xác quyết sứ mạnh và trọng tâm của sứ điệp Ngài.
Vì vậy, qua kinh Lạy Cha, CGS thông ban cho môn đệ Ngài quyền kêu “Abba” như Ngài. Ngài ban cho những người theo Ngài được quyền làm con, và vì họ là môn đệ của Ngài, nên có thể trò chuyện với Cha trên trời cách tin tưởng như một đứa bé. Đến nỗi xác quyết rằng mối tương quan mới mẻ giữa Con và Cha mới mở được cửa nước Trời (Mt 18,3) “Thật, tôi bảo các anh, nếu các anh không trở nên như trẻ nhỏ, các anh không thể vào được Nước Trời”. Vì trẻ em biết nói “Abba”. Để tìm ra đường vào nước trời cần phải tin tưởng như đứa bé lúc gọi “ba ơi”. Thánh Phaolô am hiểu sâu xa tiếng ấy khi Ngài 2 lần xác quyết tiếng kêu “Abba, ba ơi” là dấu chỉ được làm con và dấu chỉ được Thánh Thần chiếm hữu (Rm 8,15 và Gal 4,6). Như vậy, từ tiếng đầu tiên này, chúng ta hãy phỏng đoán xem tại sao theo tâm tình của Giáo hội sơ khai, khi đọc kinh Lạy Cha lại không có vẻ tự nhiên và tại sao giáo hội lại thốt lên với bao vẻ sợ sệt và khúm núm: Lạy Chúa xin nghe lời chúng con, chúng con mới dám vui vẻ và không ái ngại gọi Chúa là Cha, là TC trên trời và nói: “Lạy Cha chúng con”.
3. Hai lời cầu xin đầu tiên (c.2) song song có nội dung giống nhau. Và rất giống kinh Quddish là kinh xin thánh hóa của Do thái, đọc lúc kết thúc mỗi buổi lễ ở hội đường: xin cho danh tiếng lẫy lừng của Ngài được thánh hóa trong hoàn vũ nơi Ngài đã tạo dựng theo ý Ngài, xin mau mau dựng xây nước Ngài trong suốt cuộc đời chúng con. Amen.
Hai lời cầu xin của kinh Quddish và kinh lạy cha đều chất chứa một nhãn quan cánh chung. Đàng khác người ta gợi đến giờ mà danh TC đã từng bị tục hóa sẽ được thánh hóa mãi (Kh 11,15). Đó là mẫu kinh rất giống với mẫu kinh của giáo hội, Maranatha, “Lạy Chúa, xin hãy đến” (1Cor 16,22; Kh 22,20).
Nhưng khi đọc kinh Quddish, người Do thái không biết nước TC đã hiện diện trong vũ trụ từ khi Đức Kitô đến, họ chỉ xin cho nước Chúa được hoàn hảo và kiện toàn viên mãn.
4. Xin cho danh Chúa được thánh hóa. Danh của TC là một từ ngữ truyền thống của Thánh kinh diễn tả cách tín cẩn hữu thể Ngài, nhất là trong bản văn phụng vụ. “Thánh hóa TC hay Danh Ngài” là một kiểu nói xưa cũ trong thánh kinh và Do thái giáo. Vì TC là một Đấng thánh tuyệt vời, người ta không thể thêm gì nữa cho sự thánh thiện của Ngài, nhưng kiểu nói ấy có nghĩa là nhận biết, biểu lộ và tôn vinh Ngài như Ngài đang hiện hữu (như ở Gio 12,28 phải là một cái gì tương đương với lối cầu xin ấy).
Kinh thánh và Do thái giáo có hai cách thành hóa TC hay danh Ngài: các luật sĩ và các thày Rabbi trong các bài giảng của họ, thường kêu mời tín hữu thánh hóa TC bằng sự thần phục các giới răn của Ngài và như thế công nhện uy quyền của Ngài trên mình (Lv 22,32; Ds 27,14; Đnl 32, 51; Is 8,13. 29,13). trong các bài sấm về sự cứu độ sắp đến, các tiên tri thường loan báo TC sắp thánh hoá mình bằng cách biểu lộ ra như Đấng cứu thế (Is 5,16 và nhất là trong Ez 20,41; 28,22.25; 36,23; 38,16.23; 39,27).
Trong kinh nguyện hiện nay, thường hay nói đến sự can thiệp cứu độ (kiểu nói ở thể thụ động “được thánh hóa” thường dùng được bản văn chương Do thái để chỉ cách bí mật hoạt động của TC mà không nêu danh Ngài ra Mt 5,6.7.9; 7,1.2.7.8...) Chỉ TC mới có thể biểu lộ như Ngài đang ở trong uy quyền và vinh quang trong công chính cứu độ và ân sủng của Ngài. Đối với CGS (cũng như đối với Ezékiel, trong những bản văn kể ra ở trên kia), sự biểu lộ ấy tỏ ra cho hết mọi người (bản dịch TOB dịch cách táo bạo, nhưng rất hợp thời: xin làm cho nhận biết Ngài như TC). Xin TC tự biểu lộ cho thế gian như là vị thày duy nhất, có liên hệ đến tình trạng hiện thời, còn bất toàn và đang tiến triển của lịch sử; nhưng nhất là lời cầu xin nhắm đến sự kiện toàn dứt khoát và hoàn hảo mà lịch sử cứu độ nhắm đến. Khi đến hạn định thì sự hiệp nhất giữa TC và giáo hội của Đức Kitô (nghĩa là “Israel đích thật của TC": Gal 6,16; Rm 9,6-8) sẽ được hoàn tất: Ngài sẽ là TC của các thánh nhân Ngài và họ sẽ là dân Ngài, vì bấy giờ TC sẽ là tất cả trong mọi sự (1Cor 15,28).
5. Xin cho Nước Ngài trị đến. Lời cầu xin thứ hai có cùng đối tượng và nhãn quan như lời cầu xin trước. Sự đồng nhất này rất xứng hợp với tính cách song đối của người Semit, họ thích lấy lại một ý tưởng dưới hai hình thức khác nhau.
Nước TC đến quả thực là đề tài căn bản mà CGS thường dạy, như Mt 4.17 và Mc 1,15 đã chứng minh. Nhấn mạnh đến vương quốc TC như thế là lạ lắm, vì CƯ rất ít khi dùng kiểu nói này. Dĩ niên dân CƯ tin Giave là vua của họ. Tuy nhiên vương quốc của Giavê không hướng về sự hoàn tất cánh chung. Dân được tuyển chọn hy vọng đến việc thiết lập vương quốc hoàn hảo và dứt khoát trong thời thiên sai, niềm hy vọng này được truyền thống khải huyền khai thác nhiều nhất. CGS nhắc đến đề tài vương quốc, vì đề tài này trong thời Ngài đáp ứng các ước vọng mãnh liệt nhất của người đồng hương. Nhưng Ngài đã sửa sai bổ túc và loại bỏ các ý niệm hạn hẹp có tính cách quốc gia về giáo thuyết Vương quốc (Lc 13,29; Mt 8,11). Hai dạng thức mới của vương quốc được nhắc nhở nơi đây liên hệ với kinh Lạy Cha: Vương quốc đang hiện diện, Vương quốc là món quà của TC.
Đức Kitô khẳng định rằng, qua sự kiện Ngài đến vương quốc đang trên đường thực hiện: Vương cuốc thực sự có đó, và đang kiện toàn viên mãn và dứt khoát; nó vừa là hiện tại và tương lai, nhưng ở đây CGS tập trung sự chú ý của thính giả vào khía cạnh tương lai nhiều hơn. Chiều hướng hy vọng Kitô giáo được tiềm ẩn trong nhiều kinh Lạy Cha. Người Kitô hữu phải hy vọng vào Vương cuốc nhưng họ không thể thiết lập, cũng như hối thúc Vương cuốc đến mau, như người Zélotes thời CGS đã làm; Vương cuốc là một món quà nhưng không của Chúa Cha (Lc 12,32). Chính TC sẽ thiết lập như Ngài muốn và lúc Ngài muốn (Cvsđ 1,6t; Mc 12,32); giáo hội chỉ có thể mong ước và chuẩn bị đón nhận Vương quốc ấy bằng lòng thống hối, bằng đức tin thức tỉnh và đời cầu nguyện.
6. Xin cho chúng con lương thực hàng ngày. Không thể nào xác định cách chắc chắn ý nghĩa đích thật của lời thỉnh cầu này. Vì thứ bánh chúng ta xin, được xác định bằng hình dung từ épiousios (BJ dịch “hàng ngày” quotidien), là một chữ Hy lạp ít được dùng tới. Một người thông thái như Origène (De orat 27,7) thú nhận rằng ông chưa hề gặp tiếng ấy trong văn chương Hy lạp cũng như trong ngôn ngữ nhân gian. Năm 1915, trong một bản papyrus tìm thấy ở miền thượng Ai cập, người ta tìm thấy chữ tắt épiousi và theo bản văn ấy thì hình như có nghĩa là “cổ phần hàng ngày”. Nhưng làm sao một bản văn thuộc thế kỷ thứ V (sau công nguyên) lại có thể giúp ta hiểu một câu được viết ra từ thế kỷ thứ nhất.
Vậy chỉ còn cách là tìm các chứng cứ giải thích trong hai nguồn tài liệu là: nguyên ngữ và các lối chú giải xa xưa nhất. Nếu tách giới từ epi (sur) và động từ eimai (être) khỏi chữ épiousios, hình dung từ ấy bây giờ nói lên tính cách nội tại của bánh: đó là bánh “cần thiết” hay “căn bản” (hãy nhớ rằng chữ “essentialis” do động từ esse), “substantiel” (tiếng Hy lạpousia) hay “super-substantiel” (ám chỉ đến Thánh Thể nơi người Latin. Có thể chữ épiousios do động từ einai (aller), nhấn mạnh đến khía cạnh tạm thời: bánh “của ngày đang bắt đầu, “hàng ngày” hoặc “của ngày mai”. Các giáo phụ thì chú giải rất khác nhau: chính thánh Jérome khi thì dịch chữ épiousios bằng supersubstantialis (Mt 6,11) khi thì bằng cotidiannus (Lc 11,3).
Dù sao, Lc vẫn xác nhận rằng bánh được xin (dù bản chất của nó như thế nào) thì được xin để dùng “mỗi ngày”. Sự xác định ấy là việc Lc quan tâm đến hoàn cảnh của các Kitô hữu (ví dụ xem lối chú giải tám mối phúc thật về phương diện xã hội) giúp ta tin rằng bánh épiousios, được xin có lẽ là bánh vật chất mà người Kitô hữu cần đến mỗi ngày, dĩ nhiên là không loại bỏ lời mặc nhiên xin bánh Thánh Thể thiêng liêng hay mọi thứ trợ giúp thiêng liêng mà người Kitô hữu cần có để sống mỗi ngày cuộc dấn thân theo Đức Kitô.
Xin tha tội chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho người mắc nợ chúng con. Lời khấn xin này là lời duy nhất trong kinh lạy Cha liên hệ đến con người. CGS đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng đó. Kẻ nào cầu nguyện thì phải nhớ đến bổn phận tha thứ. CGS luôn nói: không thể xin TC tha lỗi nếu người xin không sẵn sàng thứ tha. “Và khi đứng cầu nguyện, nếu anh có điều gì bất bình với người nào, anh hãy thứ tha để cha anh ở trên trời cũng tha thứ cho anh” (Mc 11,25). Nơi Mt 5,23 chính CGS cũng đòi hỏi các môn đệ: đình chỉ việc dâng lễ để tha thứ và làm hòa với anh em trước khi thi hành nhiệm vụ thánh. CGS muốn nói rằng lời xin tha tội sẽ không thành thật và sẽ không được TC chấp nâhn, nếu người cầu nguyện không chịu giải hòa với anh em mình. Đối với môn đệ CGS sẵn sàng tha thứ một cách nào đó là đã đưa tay ra xin TC tha thứ. Trong bản văn Lc, động từ ở thì hiện tại “hãy tha thứ” nói lên thái độ chung là phải tha thứ luôn. Chữ “Panti”, cho ai mắc nợ chúng tôi (hợp với khuynh hướng của Lc là tổng quát hóa các thái độ tiêu biểu của người Kitô hữu), xác quyết đó là thái độ nội tâm.
8. Và đừng để chúng tôi sa chước cám dỗ. Động từ ở thì actif đây không ám chỉ hoạt động của TC cám dỗ các Kitô hữu. Có lẽ Giacôbê đã hiểu lời cầu xin cuối cùng của kinh Lạy Cha, khi bỏ lối giải thích sai lầm: “Khi bị cám dỗ thì đừng ai nói: TC cám dỗ tôi, vì TC không thể bị cám dỗ và chính Ngài cũng không cám dỗ ai” (Giac 1,13). Đứng hơn lời cầu xin ấy có nghĩa: “Xin đừng để chúng tôi thất bại vì cám dỗ”. Động từ ở chỗ hoạt động gợi lên một kiểu nói thánh kinh xa xưa, ở cái thời mà mọi cơn cám dỗ đều đổ dồn cho TC mà chẳng phân biệt gì cả; vì người ta muốn xác quyết đến sự thống trị vạn vật của TC và không tạo ra ngụy tín vào nhị nguyên tín (dualité) của các thần minh.
“Cơn cám dỗ”. không nhằm nói đến sự cám dỗ nhỏ mọn hàng ngày nhưng nói đến thử thách vĩ đại cuối cùng ở cửa nhà chúng ta và sẽ xảy ra trong thế gian này: vén màn bí mật sự dữ, phản Kitô xuất hiện, tàn phá ghê sợ (Mc 13,14) bắt bớ cuối cùng và thanh lọc lần chót các thánh của TC do các tiên tri giả chủ xướng. Cơn cám dỗ cuối cùng đó là phản đạo. Ai có thể thoát ?
Lời cầu xin cuối cùng của kinh Lạy Cha muốn nói rằng: “Lạy Chúa xin giữ chúng con cho khỏi bỏ đạo”. Truyền thống Mt đã hiểu như thế và còn xin giải thoát dứt khoát khỏi quyền lực của thần dữ đang tìm cách hối thúc con người đi vào cõi chết đời đời: “Nhưng xin cứu chúng tôi khỏi thần dữ”. Tuy vậy người Kitô hữu không thể để thời gian cuối cùng đó làm tê liệt mà quên mà quên mất hiện tại. Vì đối với mỗi người hiện tại mật thiết gắn liền với giờ cuối cùng của cuộc đời: những cơn cám dỗ hàng ngày loan báo cơn cám dỗ cuối cùng, và những quyết định hàng ngày sửa soạn việc chọn lựa cuối cùng cho mình, nó sẽ đánh dấu đoạn đường vượt qua từ vũ trụ này đến thế giới bên kia.
9. Sau khi các môn đệ phải cầu nguyện như thế nào, CGS còn dạy họ biết lời họ khẩn nài sẽ được chấp nhận với điều kiện nào. Dụ ngôn người bạn quấy rầy mà chỉ mình Lc ghi lại, có mục đích minh chứng hiệu quả của lời nguyện cầu khẩn thiết bền tâm đó.
Ở Palestine thời CGS, căn nhà chỉ có một phòng. Cánh cửa đóng lại có xà lớn làm then cửa. Giường chiếu là một tấm nệm thật lớn trải trên nền nhà. Con cái ngủ gần cha mẹ. Để mở cửa thì phải mệt nhọc lắm và rất rộn ràng, khiến mọi người phải thức dậy. Trong những điều kiện như vậy, người ta mới hiểu sự tức tối của kẻ bị đánh thức lúc nửa đêm để giúp đỡ bạn bè. Tuy nhiên, phải chăng để cuối cùng được bình an, khỏi bị quấy rầy, người ta mới chào thua và chiều theo lời khẩn khoản của bạn. Đó là ý nghĩa một cảnh nhỏ xảy ra hàng ngày mà CGS dùng để dạy. Như thế, khi nghĩ đến hạnh kiểm của mình, người môn đệ mới lưu ý đến cách thức hoạt động của TC đối với mình. Cuối cùng người bạn phải nhượng bộ lời cầu xin rên rỉ, thì đối với TC cũng thế, Ngài sẽ nghe lời kẻ liên lỉ cầu xin Ngài.
Tất cả những lời giáo huấn của CGS đều dựa trên một luận chứng a fortiori (phương chi là...). Nếu con người cuối cùng cũng phải nhượng bộ lời cầu xin nài nẵng thì phương chi là TC Đấng thật tốt lành cũng phải chào thua. Như một thày thông luật nói: “người ngu xuẩn thắng được sự dữ, thì đối với TC tốt lành anh ta lại càng đễ dàng chiến thắng hơn” - (Billerbeck, I,656). Lời kinh nguyện dai dẳng và đầy tin tưởng, không biết chán, dù không được Chúa nhận lời tức khắc, thì rồi cũng sẽ được Chúa nhận lời. TC tốt lành trên hết mọi người tốt lành: Ngài không chỉ trao ban những gì theo con người khấn xin, nhưng sẽ còn ban tất cả những gì cần cho con người. CGS đã hành động cách tương tự như vậy đối với người đàn bà xứ Syro-Phénicie (Mt 15,21 ss) và đối với người mà thành Giericô (Lc 18,35 ss), cũng kiểu lý luận a fortiori này đã được áp dụng cho lời người con xin cha cơm bánh.
KẾT LUẬN
Tất cả đoạn văn này (kết thúc cũng như lúc bắt đầu, đều nói đến tình phụ tử của TC Cha, là động từ sâu sắc của lời kinh đầy tin tưởng của người Kitô hữu. Vì người Kitô hữu, theo lệnh truyền và gương lành của CGS, có thể kêu lên “Abba - Ba ơi” đối với TC, họ rất hy vọng nhận được nơi TC những gì mà họ cần để sống - ngay cả ơn huệ cao cả là Thánh Thần. “Vì tất cả những ai được Thánh Thần TC đưa dẫn đều là Con TC. Như thế, không phải thứ Thần khí của hàng nô lệ là điều anh em đã nhận lấy để sợ hãi, nhưng anh em đã lãnh lấy thần khí của hàng nghĩa tử, nhờ đó được kêu “Abba” (Rm 8,14-15).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Sau khi cầu nguyện, CGS mới dạy chúng ta kinh Lạy Cha. Vậy kinh này phát sinh từ việc nguyện gẫm riêng của Ngài. Nó phản ảnh lập trường riêng của đứa con yêu dấu đối với Cha trên trời. Đồng thời cũng dạy cho chính chúng ta biết cư xử với TC chúng ta như thế nào: như những người con yêu mến dâng lời kinh nguyện đầy lòng tin lên cha mình.
2. Các tác giả phúc âm ghi chú CGS cầu nguyện rất đặc biệt trước mỗi một hoạt động quan trọng của Ngài. Nếu Lc đã lưu ý nói lên rằng CGS đã cầu nguyện trước khi dạy kinh Lạy Cha, dĩ nhiên ông muốn cho thấy tầm quan trọng ưu việt của kinh nguyện do CGS trực tiếp nói ra.
3. CGS không những chỉ dạy cho chúng ta dâng lời kinh lên TC như người cha. Vì đứa con dầu sao cũng có thể sợ cha; có nhiều đứa con sợ cha mình đến nỗi không dám xin cha cách phó thác và tin tưởng. Để cho chúng ta thấy cần phải có tâm tình nào, khi dâng lời kinh lên TC, CGS dùng một tiếng rất thân tình của trẻ con, tiếng mà người Do thái thời Ngài không bao giờ dám dùng đối với TC: “Abba”, “Ba ơi”. Qua tiếng ấy, CGS chỉ cho chúng ta thấy phải có tinh thần nào khi dâng lời kinh nguyện lên TC: như những em bé đầy lòng tin tưởng vào sự tốt lành trìu mến của Cha mình.
4. Hai nguyện vọng đầu tiên của kinh Lạy Cha nói đến sự vinh thắng của TC. Vì sự thánh hóa Danh Ngài, là nói lên rằng mọi người đều nhận biết TC là TC, là thày và Cha hết mọi người. Một cách khác để công thức hóa lời cầu xin ấy, là ước vọng nước TC trị đến, ước mong TC thật sự được mọi người nhận biết là vua rất tốt lành mà người ta sung sướng được phụng sự Ngài và yêu mến Ngài hết lòng. Nếu đọc kinh ấy lên, chúng ta xác tín rằng sẽ không có công bằng, hòa bình và hạnh phúc trên mặt đất này bao lâu có nhiều người chưa nhận biết TC là Cha của họ và họ là anh em với nhau.
5. Nhưng trong lời kinh này, CGS cũng mong muốn chúng ta đừng xấu hổ khi cầu nguyện về những của cải vật chất chúng ta cần. Cha chúng ta trên trời để ý mọi khía cạnh cụ thể của cuộc sống chúng ta.
6. Cũng như các chỗ khác trong phúc âm, CGS nhắc chúng ta rằng để được tha tội, thì chính mình cũng biết tha thứ mọi lỗi lầm kẻ khác xúc phạm đến mình. Chúng ta chỉ có một con tim: làm sao con tim ấy lại đóng lại trước tha nhân, đồng thời mở ra trước TC ?
7. Nguyện vọng cuối cùng không nhằm đến việc làm cho chúng ta tránh khỏi cơn cám dỗ (làm sao chúng ta có thể xin được điều đó khi mà chính CGS cũng phải bị thử thách), nhưng để xin được sự chở che của Cha chúng ta cho khỏi sa ngã trong những cơn thử thách lớn nhỏ cuộc đời.
8. Dụ ngôn người bạn bị quấy rầy cho chúng ta thấy rằng nếu TC lấy tình bạn tốt đối với chúng ta, sẵn sàng nghe lời chúng ta kêu xin, không phải Ngài nghe lời chúng ta ngay lần xin đầu tiên đâu. TC muốn bị quấy rầy vì lời khẩn khoản của chúng ta, điều ấy đem lại cho chúng ta cảm giác nhân từ, khi Ngài dùng sự đổi mới và kéo dài ra để gia tăng cường độ lòng muốn và lời kinh của chúng ta. Có thể có khi chúng ta xin những điều không ích lợi mà còn có hại cho phần rỗi của chúng ta: một lời kinh lâu dài sẽ thanh tẩy và điều chỉnh dần dần những ước muốn chúng ta và tuần tự buộc chặt ước muốn của chúng ta vào ước muốn của TC. Nếu trước đây chúng ta cầu xin TC những hòn đá thay vì xin bánh, xin con rắn thay vì xin con cá, thì Cha chúng ta sẽ làm một cách nào đó để biến đổi lời kinh chúng ta và là Ngài muốn nhận lời ban cho chúng ta một điều thiện lớn hơn và một hạnh phúc chắc chắn hơn. Nhưng lời cầu xin tuyệt hảo nhất mà chúng ta có thể dâng lên TC Cha luôn luôn nhận lời (là vì lời ấy đáp trả được ước muốn vĩ đại của Ngài và là điều tốt to lớn của ta), đó là lời cầu xin Chúa Thánh Thần, vì chính Thánh Thần ấy mới có thể biến đổi chúng ta một cách sâu xa là trở nên con cái yêu dấu của Cha rất tốt lành.
Chúa Giêsu nói với chúng ta điều Người đã nói với các môn đệ: “Hễ ai xin thì nhận được, ai: TN 17-C28
Chúa Giêsu nói với chúng ta điều Người đã nói với các môn đệ: “Hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho.” Với những lời này, Chúa mời gọi chúng ta trông cậy vào Chúa với niềm tin tưởng và kiên trì trong mọi nhu cầu cần thiết của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa ban cho chúng con ơn tha thứ những lỗi lầm của chúng con.
Chúa ban cho chúng con niềm vui giữa cảnh huyên náo của cuộc sống.
Chúa mời gọi chúng con tiến vào cửa Nước Trời.
Dẫn vào các bài đọc
Bài đọc 1: St 18,20-32
Abraham can thiệp với Thiên Chúa, nhân danh thành Sôđôma, một thành phố sống trong tội lỗi.
Bài đọc 2 : Cl 2,12-14
Qua bí tích Rửa Tội, người Kitô hữu chết cho tội lỗi và được chỗi dậy trong sự sống mới.
Tin Mừng: Lc 11,1-13
Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ cầu xin với Thiên Chúa những nhu cầu tâm linh và thể lý, với tâm tình tin tưởng của trẻ thơ.
Bài giảng 1
KINH NGUYỆN CỦA CHÚA GIÊSU
Kinh Lạy Cha là kinh nguyện Kitô giáo đầu tiên và cao quý nhất (Tôi đang đề cập đến bản văn theo thánh Mátthêu). Những câu ngắn gọn và đơn giản lại chứa đựng tất cả những mối tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa. Không chỉ hướng dẫn chúng ta biết cầu xin những nhu cầu gì, kinh Lạy Cha còn dạy cho ta cách thức cầu nguyện như thế nào nữa. Tuy nhiên, kinh Lạy Cha lại thường bị người ta đọc rất vội vã và vô ý thức, khiến đánh mất đi ý nghĩa của lời kinh. Đây thật là điều đáng tiếc. Bởi vì, hiểu một cách đúng đắn, kinh Lạy Cha chứa đựng trọn vẹn chương trình sống của người Kitô hữu. Nếu chúng ta thật sự sống theo điều chứa đựng trong lời kinh, chúng ta sẽ được hoàn toàn hoà hợp với tinh thần của Đức Kitô, bởi vì rõ ràng đây là cách thức Chúa Giêsu đã cầu nguyện và đã sống. Phần đầu của kinh Lạy Cha liên quan tới Thiên Chúa Chúng ta bắt đầu bằng việc nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa, và gọi Người là "Cha". Thiên Chúa là cha mẹ của chúng ta, và chúng ta là con cái của Người. Thỉnh thoảng Người hành động như một người cha, và đôi khi lại như một người mẹ. Vì thế chúng ta cầu khẩn danh Người. Trong khi cầu khẩn danh Người là chúng ta cầu khẩn với Người. Chúng ta cầu nguyện cho Vương quốc Người trị đến - vương quốc của sự thật và sự sống, thánh thiện và ân sủng, công chính, yêu thương và bình an. Chúng ta phải góp phần mình vào công cuộc thực hiện cho Vương quốc Người trở thành thực tại. Chúng ta cầu nguyện cho thánh ý Người được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. "Dưới đất" cũng có nghĩa là trong chính cuộc sống của ta. Thánh ý Chúa không phải luôn dễ dàng để thực hiện, nhưng lại luôn là điều tốt nhất. Phần thứ hai của kinh Lạy Cha liên quan tới chúng ta và những nhu cầu cần thiết Chúng ta bắt đầu bằng việc cầu xin lương thực hằng ngày của chúng ta. "Lương thực" tượng trưng cho tất cả những nhu cầu vật chất của ta. Tất cả đều thật sự cần thiết, tuy nhiên, chỉ cần đủ cho ngày hôm nay. Chúng ta cầu xin ơn tha thứ cho những tội lỗi của chúng ta, và xin được ân huệ để có thể sẵn sàng tha thứ cho những người có lỗi với ta. Không có khả năng tha thứ cho người khác sẽ khiến ta không thể nào đón nhận được ơn tha thứ của Chúa. Chúng ta cầu nguyện đừng để sa chước cám dỗ. Chúa không bao giờ đặt cơn cám dỗ trên bước đường của ta mà cuộc sống vẫn diễn ra. Và bản thân chúng ta đôi khi lại sa vào cơn cám dỗ của chính ý muốn chúng ta. Chúng ta cầu xin Chúa giúp ta đối phó với những cơn cám dỗ mà chúng tự ý đến, và để ngăn ngừa những chọn lựa theo ý riêng của ta. Cuối cùng, chúng ta cầu xin được thoát khỏi tất cả sự dữ, kể cả thể lý và luân lý. Chúng ta đừng trông mong không bao giờ phải đụng độ với sự dữ. Điều mà chúng ta nài xin Chúa là ban cho chúng ta ân sủng để chiến thắng vượt qua mọi sự dữ, đặc biệt là những sự dữ luân lý. Chú ý rằng toàn bộ kinh Lạy Cha được trải dài trong văn phong số nhiều. Điều này cho thấy chúng ta là một gia đình trong Chúa, và vì thế ta sẽ không được hưởng ơn cứu độ nếu ta loại trừ người anh chị em của ta.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Chúng ta cùng cầu nguyện với Chúa trong tinh thần của kinh nguyện cao quý mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta.
Xướng: Xin cho những người bước theo Chúa Giêsu được nhận ra và thi hành thánh ý Thiên Chúa. Xướng: Xin cho những ai có trách nhiệm trong các tổ chức xã hội biết làm việc phục vụ cho những giá trị của Nước Trời. Xướng: Xin cho những ai đang đói được có cơm bánh hăng ngày. Xướng: Xin cho mỗi người chúng ta biết tha thứ cho những ai đã lỗi phạm đến mình.
Chủ tế: Lạy Cha trên trời, xin dạy chúng con giữ mãi sự tự tin trong lời cầu xin, niềm vui trong tìm kiếm, và hy vọng trong khi gõ cửa, để tất cả những gì tốt đẹp Chúa ban tặng cho chúng con trở thành hiện thực. Chúng con cầu xin …
Kinh Lạy Cha là một kinh cổ truyền và quen thuộc. Chúng ta đã thuộc lòng từ ngày còn trên gối: TN 17-C29
Kinh Lạy Cha là một kinh cổ truyền và quen thuộc. Chúng ta đã thuộc lòng từ ngày còn trên gối mẹ và đọc đi đọc lại hằng ngày. Chúng ta dã quá quen ý nghĩa từ thời thơ ấu. Nhưng với thời gian, chúng ta có dần dần hiểu được ý nghĩa tượng trưng của lời kinh không? Thánh Phao-lô khuyên tín hữu Cô-rin-tô: "Hãy cầu nguyện cách khôn ngoan" (I Cr 14,15)
Khi chú giải "lời cầu nguyện của Chúa Giê-su, thánh Cyprianô nói: "Anh em thân mến, anh em hãy cầu nguyện như Chúa Giê-su, Thầy chúng ta đã dạy. Đó là lời cầu nguyện quý yêu và thân mật, khi vang lên, Thiên Chúa nghe như là Đức Ki-tô cầu nguyện. Khi chúng ta cầu nguyện, ước gì Chúa Cha nhận ra lời của Chúa Con; hãy cầu nguyện cách đơn sơ, nghĩ gì trong lòng, hãy nói ra như vậy,
Từ ngữ "lời cầu nguyện của Chúa Giê-su” không có nghĩa là Chúa Giê-su cầu nguyện cho chính mình, xin tha tội cho Ngài vì Ngài không có tội lỗi gì, nhưng có nghĩa là lời cầu nguyện Chúa Giê-su dạy chúng ta. Tuy nhiên, đó không phải là một công thức bó buộc phải dọc y nguyên, cách máy móc. Kinh Lạy Cha dạy cho tín hữu biết đâu là điều cốt yếu khi cầu nguyện, phải bắt đầu từ dâu, cầu theo ý hướng nào và giúp họ tự mình cầu nguyện. Kinh Lạy Cha tóm lược rõ ràng những điều ki-tô hữu phải mong ước: là Thiên Chúa được rạng danh, là con người được tham dự sự sống của Chúa.
"Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su” có tính cách cộng đồng. Thánh Cyprianô còn nói: "Chúa Giê-su là Thầy sự hiệp nhất, Ngài không muốn chúng ta cầu nguyện lẻ loi cô độc, chỉ cầu nguyện cho mình, nên không dạy chúng ta đọc: "Lạy Cha của con ở trên trời..." hay "cho con lương thực hằng ngày"...
Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện công khai và cộng đồng: trong đó chúng ta không chỉ cầu nguyện cho một người, nhưng cho toàn thể dân Chúa, vì toàn thể dân Chúa làm thành một thân thể trong đó có mỗi người chúng ta. Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã mang lấy tất cả tội lỗi chúng ta, muốn rằng mỗi người đều cầu nguyện cho tất cả
Lời cầu nguyện Chúa dạy thật ngắn gọn, đơn sơ, vừa tầm hiểu biết của mọi người. Nhưng chính sự đơn sơ đó chứa đựng những điều thật cao cả. Chính cái ngắn gọn đó chứa một kho tàng phong phú biết bao! Và do Chúa an bài. Lời kinh xúc tích, nhịp nhàng đó đã trở thành lời kinh của Phụng vụ. Kinh Lạy Cha luôn giữ địa vị đặc biệt trong Giáo Hội: được dùng trong phần Thường nguyện của thánh lễ và trong hầu hết các giờ phụng vụ. Ngay thời Giáo Hội sơ khai, sách Đi-đa-khê, quen gọi là "Giáo huấn của mười hai tông đồ", dã khuyên: "Trong Phúc âm, Chúa đã dạy chúng ta kinh Lạy Cha. Vậy anh em hãy cầu nguyện như thế mỗi ngày 3 lần."
Kinh Lạy Cha còn là lời cầu nguyện phổ quát, chung cho mọi người. Do Chúa dạy, lại có tính cách nhân bản sâu xa, nên những ai tin tưởng nơi Thượng đế, dù không phải là ki-tô hữu đều có thể đọc. Do đó, kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện đại đồng tuyệt hảo nhất.
Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và câu nguyện cùng Cha của anh, đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh. "Vậy anh em hãy cầu nguyện như thế này: lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh chính Cha vinh hiển. " (Mt 6, 6-9) Theo ông Tertullianô, kinh Lạy Cha là "Phúc âm rút gọn" vì lời kêu cầu mở đầu nói lên tâm điểm của Ki-giáo: Thiên Chúa là Cha. Ki-tô giáo sẽ mai một nếu loại bỏ niềm tin nòng cốt này: Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Có lẽ Cựu ước đã gọi Thiên Chúa là Cha, nhưng ý nghĩa không rõ ràng: đại ý chỉ nói Thiên Chúa cư xử với Ít-ra-en như là một người Cha và Ngài quan phòng hướng dẫn vũ trụ. Chúa Giê-su đến mặc khải dứt khoát: Thiên Chúa thực sự là Cha chúng ta; vì thực tế "chúng ta là con của Ngài (1 Ga 3,I).
"Những ai dón nhận Ngài, thì Ngài ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Ga 1,12), và Thánh Thần ngự nơi chúng ta, làm cho chúng ta được gọi Thiên Chúa là “Cha, Abba" (Gl 4,6 ; Mc 14,35)
Đúng nghĩa, "Abba" có nghĩa là "ba". Khi liên kết tiếng aram này với tiếng "Pater" của Hy ngữ, Mác-cô và Phao-lô không nhằm sắc thái ngôn ngữ dịa phương, nhưng muốn nói lên nỗi ngạc nhiên của các ngài trước mối thân tình hàm chứa trong từ ngữ. Phải, Thiên Chúa thật sự là "ba" chúng ta như Chúa Giê-su vẫn gọi Cha Ngài.
Có lẽ các môn đệ cũng ngạc nhiên khi Chúa Giê-su dạy các ông gọi Thiên Chúa là Cha. Các ông không dám gọi như thế nếu Thầy không chỉ dạy rõ ràng. Kinh nguyện trong thánh lễ nói lên điều đó: "Vâng lệnh Chúa Cứu thế và theo thể thức Người dạy, chúng ta dám nguyện rằng... Lạy Cha chúng con ở trên trời..."
Đoạn ván của Mát-thêu "Lạy Cha chúng con ở trên trời", hơi khác với đoạn văn của Lu-ca chỉ ghi đơn sơ: "Lạy Cha". Có lẽ bản văn thứ nhất dược rút ra từ một kinh nguyện dùng trong phụng vụ. Còn Lu-ca ghi lại cách đơn sơ trực tiếp, nên có lẽ gần với những lời nói thực sự của Đức Ki-tô hơn. Bởi vì không phải hai tác giả viết lại kinh Lạy Cha như họ nghe được từ miệng Chúa Giê-su, nhưng là ghi lại lời kinh người ta thường đọc trong các cộng đoàn ki-tô hữu sơ khai.
Một trong những diều người ta dòi hỏi trước tiên nơi một vị Giáo chủ là giáo huấn của ông về sự cầu nguyện. Giáo huấn dó phải nói lên tư tưởng nền tảng của tôn giáo, nguyên tắc ông hành động và đời sống bí nhiệm của ông.
Trả lời cho các môn đệ, Chúa Giê-su không trình bày một đề án về vấn đề cầu nguyện, nhưng Ngài dạy một tâm tình cần có khi đối diện với Thiên Chúa.
Đó là tâm tình của người con hiếu thảo, được biểu lộ qua tiếng gọi thân mật đến độ sửng sốt: "Ab-ba, lạy Cha".
Tiếng Cha cho thấy con người ý thức sâu xa và rõ ràng mình là con của Thiên Chúa.
Tiếng Cha cũng nói lên lòng phó thác tuyệt dối với Thiên Chúa, phó thác đơn sơ, không đặt vấn dề.
Đối với tôi, tôi có lấy niềm tin nơi Chúa Cha làm nền tảng cho lời cầu nguyện, làm bí quyết cho đời sống tôn giáo của tôi không?
Lời cầu nguyện của tôi có thấm nhuần sự tin tưởng chắc chắn nơi Chúa Cha không?
Hãy nhớ dộng lực Ki-tô giáo phát xuất từ câu này: "Ai lại không yêu mến Chúa Cha là Đấng đã yêu thương ta trước hết."
"Không ai biết Chúa Cha, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho" (Lc l0,22).
“Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông." Người bảo các ông: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy ; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người có lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.
Người còn nói với các ông: "Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: 'Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nha, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả' ; mà người kia từ trong nhà lại đáp: 'Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được ?' Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh cần, vì thể diện.
"Thế nên Thầy bảo thật anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó ? Hoặc nó xin trứng, mà lại cho nó con bọ cạp ? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người ?"
*****
Khi các môn đệ đến với Thầy với lời kêu xin: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện" thì: TN 17-C30
Khi các môn đệ đến với Thầy với lời kêu xin: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện" thì các ông đã được ở với Đức Giê-su trong trường cầu nguyện một thời gian rồi, các ông đã cảm kích vì những bài học cụ thể giá trị nhất, ấy là tấm gương của chính Đấng Ki-tô. Nếu tâm trí chúng ta từng nổi lên nhiều hoài nghi về thực tế và hiệu năng của lời cầu nguyện, chúng ta chỉ cần quay về với sách Tin Mừng của thánh Lu-ca để được nhắc nhở rằng Chúa Giê-su đã dành nhiều thời giờ để cầu nguyện, và Ngài cầu nguyện ở mỗi biến động của đời sống Ngài. Chắc chắn chúng ta không lạc được khi theo bước chân Ngài.
Tuy nhiên, điều các môn đệ muốn có là một công thức cầu nguyện đặc biệt, như Gio-an Tẩy giả hình như có cho các người theo ông. Chúa Giê-su đáp ứng lời cầu xin ấy và ban cho các ông một kiểu mẫu độc nhất vô nhị, rồi khích lệ với lời hứa bảo đảm rằng lời cầu nguyện sẽ được nghe. Bài cầu nguyện được Lu-ca ghi lại có ngắn hơn của Mát-thêu nhưng cũng chứa đủ những điều mà chúng ta cần biết phải cầu nguyện thế nào và phải cầu nguyện những gì.
Lời cầu nguyện bắt đầu bằng xưng nhận Thiên Chúa là Cha. Đó là đặc tính của mọi lời ki-tô hữu thưa với Chúa. chính lời đầu tiên dạy chúng ta rằng, trong khi cầu nguyện chúng ta không đến với một Đấng phải miễn cưỡng ban ơn cho chúng ta, nhưng đến với một Cha hằng vui thích làm thỏa mãn mọi nhu cầu của con cái Ngài.
Trong tiếng Do-thái, chữ "tên" hay "danh" có ý nghĩa sâu sắc hơn là tên gọi của một người. Chữ "danh" gồm tất cả đặc tính của người mà chúng ta quen biết. Thánh vịnh 9,11 nói: "Người nhận biết Thánh Danh, sẽ một niềm tin cậy." Câu đó có ý nghĩa sâu sắc hơn chứ không chỉ biết tên Thiên Chúa Gia-vê. Nó có nghĩa là người nào thấu hiểu được tư tưởng, ý muốn và tấm lòng của Thiên Chúa sẽ vui lòng đặt hết niềm tin cậy vào Ngài.
Chúng ta nên chú ý đặc biệt đến thứ tự các lời cầu nguyện Chúa Giê-su dạy trước khi cầu xin bất cứ điều gì cho chính mình, chúng ta phải đặt Thiên Chúa, sự vinh hiển và tôn trọng của Ngài lên hàng đầu. Chỉ sau khi dành cho Chúa chỗ của Ngài, bấy giờ các điều khác mới có chỗ xứng hợp.
Bài cầu nguyện bao quát cả cuộc đời .
Nó bao hàm các nhu cầu hiện tại. Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu xin vật thực cho chúng ta mỗi ngày. Nên nhớ bánh đủ ăn từng ngày là điều chúng ta cầu xin. Điều này nhắc lại câu chuyện xưa về man-na trong sa mạc. Dân Chúa chỉ được lượm man-na đủ ăn trong một ngày mà th6i. Chúng ta đừng lo cho một tương lai không rõ, nhưng ngày nào lo cho ngày ấy.
Nó bao hàm tội lỗi đã qua. Khi cầu nguyện chúng ta không thể làm gì hơn là xin ơn th thứ, vì dù con người tốt nhất trong chúng ta cũng chỉ là một tội nhân trước sự thánh thiện của Thiên Chúa.
Nó bao trùm các thử thách trong tương lai. Từ ngữ "cám dỗ" trong Tân Ước có nghĩa là bất cứ hoàn cảnh thử thách nào. nó không chỉ có nghĩa là quyến rũ phạm tội mà còn bao gồm mọi hoàn cảnh khiến con người bị thử thách về đức độ, thanh liêm, lòng tín trung. Chúng ta không thể trốn tránh những hoàn cảnh đó, nhưng chúng ta có thể thắng nó nhờ ơn Chúa ban. Có người nhận định rất đúng rằng: bài cầu nguyện Chúa Giê-su dạy – mà chúng ta gọi là Kinh Lạy Cha – có hai ích lợi lớn cho giờ cầu nguyện của chúng ta. Nếu chúng ta dùng để bắt đầu giờ cầu nguyện thì nó khơi dậy những ước muốn tốt đẹp giúp chúng ta biết cầu nguyện cho xứng đáng. Nếu chúng ta dùng để kết thúc giờ cầu nguyện thì nó tóm tắt mọi điều chúng ta phải cầu xin trước mặt Thiên Chúa.
Để khuyến khích các môn đệ trong những lời khẩn cầu ấy Ngài kể cho họ nghe câu chuyện về một người kêu xin không ngừng, hầu như là lì lợm nên đã được ban cho bánh cần dùng. Trong xứ Pa-lét-tin, khách bộ hành thường lên đường vào buổi chiều hầu tránh cái nóng bức của buổi trưa. Trong câu chuyện Chúa Giê-su kể, có một người khách như vậy đã tới nhà bạn mình lúc nửa đêm. Bên Đông phương tiếp khách là một bổn phận thiêng liêng. Chỉ cho khách ăn vừa đủ no thôi thì không được, cần cho khách ăn dư dật. Trong các làng quê, người ta làm bánh mì tại nhà và chỉ nướng bánh đủ ăn nội trong một ngày, vì nếu giữ lại, bánh sẽ cũ đi không ai muốn ăn. Vị khách nói trên đến muộn quá khiến chủ nhà bối rối vì thức ăn đã hết nhẵn, chủ nhà không thể làm tròn bổn phận thiêng liêng là tiếp khách. Và dầu đêm đã khuya, chủ nhà cũng tới nhà bạn để vay bánh. Cửa nhà người bạn đã đóng. Bên Đông phương, không ai muốn gõ cửa nhà đã đóng, trừ khi cấp bách lắm. Buổi sáng cửa nhà được mở ra và cứ mở suốt ngày, nhưng nếu cửa đóng lại, đó là dấu chủ nhà không muốn bị quấy rầy. Nhưng người chủ nhà đi tìm bánh đã không e ngại ông gõ cửa và cứ gõ mãi …
Căn nhà nghèo ở xứ Pa-lét-tin chỉ có một căn phòng với một cửa sổ nhỏ. Nền nhà làm bằng đất nện phủ tre khô và cành khô. Căn phòng chia làm hai phần, không phải bằng vách ngăn mà bằng mặt đất thấp hơn. Hai phần ba phòng thì nền đất thấp, phần ba kia thì nền cao hơn một chút. Trên phần cao đó có bếp than ủ cháy suốt đêm, và cả gia đình nằm ngủ quanh bếp đó, họ không nằm nơi giường cao, nhưng trên những tấm chiếu. Các gia đình thường đông người và họ thường nằm sát nhau cho ấm.
Khi một người chỗi dậy thì tất nhiên làm phiền cả gia đình. Hơn nữa, tại làng quê, buổi tối người ta đem gia súc, gà, dê vào trong nhà. Không lạ gì, trong hoàn cảnh đó, một người đã đi ngủ thì không muốn dậy nữa. Nhưng người vay bánh quyết tâm này cứ gõ mãi, "gõ mãi mà không biết xấu hổ" theo đúng nghĩa của từ ngữ Hi-lạp được dùng-cho tới khi chủ nhà đành chỗi dậy cho người kia mọi điều xin, vì dầu sao gia đình cũng bị quấy rầy rồi. Chúa Giê-su có ý bảo: "Câu chuyện này dậy các ngươi về việc cầu nguyện." Bài học trong dụ ngôn này không phải dạy chúng ta cứ mãi mãi nài xin, không phải chúng ta cứ phải đập vào cửa Thiên Chúa cho đến khi ép buộc Ngài cực chẳng đã phải ban cho chúng ta điều chúng ta muốn, cho đến khi chúng ta cưỡng ép được Thiên Chúa không sẵn lòng chịu trả lời cho chúng ta, một dụ ngôn nói nôm na là một điều gì đó đặt bên cạnh. Nó cho ta thấy sự tương đồng hay tương phản giữa hai sự việc. Chúa Giê-su ngụ ý như sau: "Nếu một người chủ nhà khó tính và thiếu thiện chí mà cuối cùng có thể bị cưỡng ép bởi quyết tâm của một người bạn trì chí, để phải cho người đó mọi điều mong muốn, huống chi Thiên Chúa là Cha Từ Ái sẽ tiếp trợ mọi nhu cầu cho con cái Ngài hơn biết dường nào ! Chúa Giê-su phán: "Nếu các ngươi vốn xấu mà còn biết rằng mình có bổn phận cung cấp nhu cầu cho con cái, huống chi Cha trên trời …"
Điều này không làm chúng ta giảm bớt sự hăng say và sốt sắng cầu nguyện. Dầu sao chúng ta chỉ có thể tỏ lòng ước muốn thành thực bởi sốt sắng và kiên trì cầu nguyện. Điều đó không có nghĩa rằng chúng ta phải giành giật các ơn phúc từ tay một Thiên Chúa không thiện chí, nhưng chúng ta đến với một Đấng biết rõ mọi nhu cầu của chúng ta hơn chính chúng ta, và Ngài là Đấng có lòng yêu thương và rộng rãi đối với chúng ta. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, không phải vì Thiên Chúa không sẵn lòng ban ơn cho ta, nhưng vì Ngài có ơn phúc tốt hơn, để dành cho chúng ta. Và không hề có vấn đề mà chúng ta gọi là lời cầu nguyện không được nhận. Sự trả lời của Chúa có thể không đúng theo điều chúng ta ước muốn hoặc trông đợi, dầu khi Chúa từ chối điều mong muốn của ta, thì đó vẫn là sự trả lời bởi tình thương và khôn ngoan của chính Thiên Chúa là Cha Từ Ái.
Để kết luận chúng ta ghi lại đây tâm sự của tướng Douglas mac Arthur: "Tôi là một chiến binh chuyên nghiệp. Và tôi rất hãnh diện về điều ấy, nhưng tôi còn vô cùng hãnh diện hơn vì được làm một ông bố. Tôi hy vọng rằng một mai khi tôi qua đời, đứa con trai của tôi sẽ không nhớ đến tôi như một chiến binh lúc nào cũng ở trận địa, mà là một ông bố hiện diện trong gia đình đang cùng nó đọc lời kinh nguyện đơn sơ hàng ngày: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng …… Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…"
Người ta thường lẫn lộn cầu nguyện giống như cầu xin: Thực ra cầu xin chỉ là một phần trong: TN 17-C31
Người ta thường lẫn lộn cầu nguyện giống như cầu xin:
Thực ra cầu xin chỉ là một phần trong cầu nguyện. Vì cầu nguyện nhằm 4 mục đích này:
Nhận biết Chúa Khám phá ra tội lỗi của mình và sám hối . Cảm tạ và ca tụng Chúa về những sự lành Chúa đã ban cho . Sau cùng mới xin ơn Chúa (cầu xin ).
Nhưmg ta không thể cầu nguyện đẹp lòng Chúa, nếu ta không xin Chúa ban cho ta Thánh Thần. Vì thế, để kết thúc giáo huấn cầu nguyện, Chúa Giêsu nói: “Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần cho những ai hằng kêu xin người” (Lc 11, 13). Thánh Phaolô còn cho biết: “Thánh Thần đỡ đần tình cảnh yếu hèn của ta, vì cầu xin thế nào cho phải, ta nào có biết, song chính Thánh Thần chuyển cầu cho ta rập theo ý thiên Chúa”(Rm.8, 26-27).
Cụ thể Thánh Thần giúp ta:
Hiểu biết về Thiên Chúa là Cha. Điều kiện mình phải có khi cầu xin. Điều phải cầu xin.
I. THÁNH THẦN DẠY TA BIẾT THIÊN CHÚA LÀ CHA (ABBA):
“Phàm ai được Thánh Thần dẫn đưa, thì họ là con cái Thiên Chúa. Quả thế, không phải thứ thần khí của hàng nô lệ là điều ta đã phải chịu lấy để rồi sợ hãi. Nhưng ta đã chịu lấy Thần khí của hàng nghĩa tử, nhờ đó ta kêu lên: Abba –Lạy Cha – chính Thần khí chứng thực cho phần hồn ta rằng: Ta là con cái Thiên Chúa, mà nếu là con, thì cũng là kẻ thừa tự, thừa tự của Thiên Chúa, và đồng thời thừa tự với Đức Kitô, một khi ta cùng cam chịu khổ với Ngài, để rồi cũng được chia phần vinh hiển với Ngài”(Rm.8, 14-17).
Ta còn biết tiếng kêu “Abba- Lạy Cha” là ngôn ngữ của một đứa bé từ khi sinh ra vẫn được cha mẹ cho bú mớm, nâng niu vỗ về, mà nó không biết người chăm sóc nó có liên hệ gì với nó, nhưng đến một ngày trí khôn bé chớm nở, em mới nhận ra đó là người yêu thương em, bé bập bẹ tiếng kêu đầu tiên: “Abba”, đây chính là giây phút sung sướng nhất của người sinh dưỡng bé, vì từ đây họ được có người gọi là cha mẹ. Khi một đứa bé còn nằm nôi, còn bú mớm, chưa giúp gì được cho ai, nhưng chính lúc này nó lại làm vua trong nhà. Hết mọi người ai cũng phải lo cho bé còn hơn khi bé mở miệng xin gì .
Để chăm lo cho người biết gọi mình là "Abba - Cha" thì không những người Cha Mẹ phục vụ con vì thương, mà còn vì danh dự của cha mẹ nữa! Do đó, người con có quyền nói: "Lạy Cha, vì danh dự của Cha, xin cho con được sống" (xem Tv 142/143,11), và người con yêu sách với Cha: "Lạy Cha, nếu Cha không đưa con ra khỏi âm phủ, thì còn có ai ca tụng Cha?" (xem Ia 38,18-19).
THÁNH THẦN GIÚP TA CÓ ĐIỀU KIỆN ĐỂ NHẬN ƠN
1/ Biết chăm lo cho mọi người: Ngài không dạy ta “Xin cho con” , mà là “Xin cho chúng con”. Vì mỗi người chỉ thực sự hạnh phúc, khi họ sống giữa những người đầy tràn hạnh phúc. Như thế, chăm lo cho người mới chính là chăm lo cho mình. Thánh Phanxicô nói: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (kinh hòa bình).
Biết xin cho mọi người, còn là làm cho họ nhận biết Thiên Chúa là Cha chung, mọi người được bình đẳng trong tình anh em một nhà, và như thế Thiên Chúa được nhận biết là Cha vô cùng giàu có, đầy tình thương sẵn sàng lan phát.
2/ Kiên nhẫn tin tưởng tuyệt đối nơi Cha: Người chủ nhà trong Tin Mừng cho người láng giềng vay ba chiếc bánh, hành động ấy không phát xuất từ tình thương, mà chỉ vì ông không muốn bị quấy rầy. Thế mà người bạn xin bánh vẫn kiên trì, dù đã nghe tiếng chủ nhà khước từ: “Tôi không thể dạy cho anh được, con cái tôi đã ngủ cả, cửa nhà đã khoá chặt”.
Rõ ràng ông chủ nhà nói không, rồi lại có cách miễn cưỡng. Trái lại nơi Thiên Chúa luôn luôn là Cha hằng có, nơi Ngài không hề thay đổi (xem Gac 1,17). Nghĩa là không phải ta cứ kêu ráo riết, thì dù Ngài không thương, không muốn cho nhưng cuối cùng cũng phải đổi ý mà cho. Vì thế Chúa nói: “Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ thấy; hãy gõ cửa thì sẽ mở cho”. Trong các ngươi ai là Cha, có con xin cá há lại cho con rắn ? Hay nó xin trứng lại cho nó bọ cạp ?. Các người Cha phàm trần thuộc loại ác mà còn biết cho con mình của tốt lành, huống chi Cha tình thương trên trời (xem Lc 11, 9-13 ). Tình thương của thiên Chúa trổi vượt hơn tình của các người làm mẹ. Ngài nói: “Có khi nào người mẹ lại quên đứa con mình cưu mang? Cho dù người mẹ có quên con, thì ta chẳng quên ngươi bao giờ .” (Is 49, 15 ). Vì vậy Chúa dạy: “Khi con cầu xin bất cứ điều gì, cứ tin là đã được, và các con sẽ thấy thành”(x Mc 11,24).
Ta cứ xem gương cầu xin của bà Mônica cho Augustinô theo đạo, bà đã cầu nguyện suốt 30 năm, đến khi gần chết, bà mới được Chúa cho thấy con mình được lãnh bí tích Thánh Tẩy. Sau Augustinô làm linh mục, giám mục , rồi làm tiến sĩ hội thánh, cả hai mẹ con cùng làm thánh. Như thế ai kiên nhẫn, tin tưởng cầu xin thì ta biết chắc rằng: “điều xin thì dường như không thấy, điều được lại vượt quá ước mơ’.
3/ Thánh Thần cho ta biết tha thứ : Bởi vì Cha trên trời sẵn sàng tha tội cho người dù trong một ngày họ phạm đến 7 lần mà biết sám hối, Ngài vẫn làm cho họ nên công chính (xem Cn .24,16). Nhưng Ngài dứt khoát không tha thứ một lỗi nào (một đồng xu: Mt 5, 26) cho kẻ không biết tha thứ lỗi lầm cho người xúc phạm đến mình (xem Lc 11, 4). Mà kẻ không được Cha tha tội, thì họ cũng chẳng được ơn cứu độ. Giả như Cha có ban ơn, nó cũng chẳng được hưởng phúc đời đời.
III. THÁNH THẦN BAN BÁNH SỤ SỐNG CHO KẺ XIN CHA:
Người đi xin cho bạn ba tấm bánh, thiết tưởng ta cũng xin cho mọi người được lãnh Bí Tích Khai Tâm:
1/ Được ơn sinh lại trong Chúa (Bí Tích Thánh Tẩy ) là mai táng tội lỗi mình trong sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu (bài II: Col. 2,12 – 14).
2/ Ơn biết lo cho người khác được Chúa cứu độ ( Bí Tích Thêm Sức ), như Abraham xin Chúa tha phạt cho Sôđôma vì người công chính ( Bài đọc I: St 18, 20-32).
3/ Được tham dự thánh lễ (Bí Tích Thánh Thể). Vì nhờ dự lễ ta được 5 Bánh sự sống này:
a/ Được thêm đức tin. Vì người công chính sống bởi đức tin (Rm.1,17).
b/ Được hiểu biết lời Chúa, vì người ta sống không bởi vì bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra (Mt 4 ,4).
c/ Được rước Thánh Thể để được sống bằng chính sự sống của ba Ngôi Thiên Chúa (Ga 6, 57).
d/ Được biết cách thi hành Ý Chúa là của ăn hơn vật chất (Ga 4, 34).
e/ Sau hết chỉ nhờ Chúa sống trong ta, ta được đồng hóa với Chúa (Gal.2,20), mà chỉ nhờ Ngài mới giúp ta của cải vật chất: không thiếu, để không đi ăn cắp làm mất mặt Chúa; không dư, để của cải không lấp mắt rồi phủ nhận Chúa .(Cn. 30, 8).
Tưởng rằng khi Chúa dùng 5 bánh nuôi dân (5.000 người đàn ông) ăn no mà còn dư, là báo trước Chúa sẽ ban 5 Bánh như trên để ta được sống và sống cách dồi dào (Ga 10, 10).
Xưa Abraham xin Chúa tới 6 lần, vì người công chính mà Chúa tha mạng cho Sođoma. Ông đặt sự công bằng với Chúa: “Không lẽ Chúa lại giận cá băm thớt ? Vì kẻ có tội mà mười người công chính cũng bị chết oan ?”(Bài I)
Thực ra ông không hiểu rằng: “Chỉ cần một người công chính trong thành Giêrusalem, Chúa cũng tha phạt cho cả thành” (Ger 5,1). Người công chính ấy là chính Đức Giêsu. Do đó cả đời Ngài – người công chính trong thành Giêrusalem- xin với Chúa cha 6 lần cho kẻ có tội được sống .
1. Ga 12,27: Xin cha cứu con khỏi giờ này. 2. Lc 22,42: Xin Cha cất chén đắng khỏi con. 3. Ga 12,28: Xin Cha làm vinh hiển con . 4. Lc 23,34: Xin cha tha cho chúng . 5. Mt 27,46: Xin cha đừng bỏ con . 6. Lc 23,46: Xin Cha đón nhận hồn con .
Vậy Lời Chúa hứa qua miệng Giêrêmia (5,1) trong thánh lễ mỗi ngày Chúa đã thực hiện cho ta.
Một họa sĩ vẽ một bức tranh tuyệt đẹp, hấp dẫn: Chúa Giêsu đang đứng trước cửa một ngôi nhà đóng kín. Ngài gõ mãi mà cửa vẫn không mở. Người xem tranh phê bình: họa sĩ không phải là kiến trúc sư, nên vẽ cửa nhà mà không có “nắm đấm” bên ngoài cánh cửa. Người vẽ tranh trả lời: Cửa nhà ấy chính là cửa linh hồn người ta, vì thế “nắm đấm” phải nằm bên trong.
Thế ra, nay không còn phải là “con gõ cửa nhà Cha xin Bánh Hằng Sống, mà chính Cha đến gõ cửa nhà con mang theo Bánh Hằng Sống đến cho con, mà con vẫn yên lặng và cửa nhà vẫn im lìm.?”.
Một người giàu có ở Milwankee có đứa con trai duy nhất mười hai tuổi. Thường ông cho mọi: TN 17-C32
Một người giàu có ở Milwankee có đứa con trai duy nhất mười hai tuổi. Thường ông cho mọi cái nó muốn. Có một điều người con ao ước hơn hết, là có một người anh em cùng lứa tuổi để chia sẻ, để cùng chơi. Người cha quyết định nuôi một bé trai nghèo nhỏ hơn con trai ông sáu tháng. Cả hai đứa trẻ đều sung sướng: đứa con nuôi có những món đồ mà chưa bao giờ nó biết đến.
Một bữa nọ, hai đứa trẻ đang thảy banh qua lại trong sân, đứa con nuôi ngỏ ý: “Gee, em ước mong Kenny có một trái banh như thế này. Nó thích đá banh lắm, nhưng cha mẹ nó không thể mua cho nó một trái banh như thế này” và em tiếp tục nói về Kenny, một người bạn lối xóm cũ. Người con ruột nói: “Sao em không xin ba cho nó một trái banh ? Người con nuôi trả lời: “Ba đã quá tốt với em rồi, em không dám làm phiền Người nữa”. Nhưng người con ruột nài nỉ: “Em đừng quên Ba anh là Ba em. Người cho anh mọi cái anh xin, Người cũng làm cho em như vậy. Nếu người cho rằng: cái đó không tốt cho em, người sẽ nói nhiều khi Người cho em những cái tốt hơn nữa, hãy xin đi, Kenny sẽ có trái banh”.
Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta như vậy trong Tin Mừng hôm nay: “Hãy xin, thì sẽ được”. Bạn và tôi, chúng ta là những đứa con nuôi, là anh em, chị em với Chúa Giêsu, Cha chúng ta, như Chúa Giêsu đã gọi, muốn chúng ta chia sẻ hạnh phúc và hồng ân với Chúa Giêsu, Chúa Giêsu muốn anh chị em của Người chia sẻ lòng nhân hậu của Cha Người.
Cha trên trời đã sắp đặt nhận bạn và tôi làm con. Người còn làm cho chúng ta tham dự vào sự sống của Người – sự sống của Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta trong bí tích Rửa tội. Như người con nuôi trong câu chuyện chúng ta hạnh phúc không lời nào diễn tả vì cuộc sống cao vời của người con Chúa, anh chị em với Chúa Kitô. Nhưng chưa hết Chúa Giêsu nói rằng: chúng ta còn nhận được nhiều hồng ân khác nữa của cha chúng ta, cho chúng ta và cho nhiều người khác nữa, “Hãy xin thì sẽ được”. Bạn để ý, nhiều lần Chúa chúng ta cầu nguyện cùng Cha Người hầu như luôn luôn cầu nguyện cho chúng ta.
Y tưởng này là chủ để của thánh lễ hôm nay. Trong bài đọc thứ nhất Abraham nài nỉ với Chúa khoan nhân cho những người tội lỗi thành Sodoma và Gomora. Trong bài đáp ca chúng ta kêu cầu: “Lạy Chúa, đêm ngày con kêu cứu, Chúa đã đáp lời con... Chúa đã nghe tiếng miệng con kêu xin”. Bài đọc thứ hai khích lệ chúng ta: “Thiên Chúa ban cho anh em đời sống mới trong Chúa Kitô”.
Lời cầu nguyện của cộng đoàn hay cá nhân sẽ có ý nghĩa hơn khi chúng ta ý thức rằng: như một người con. Chúng ta thân thưa cùng người cha đang lắng nghe và yêu thương, Chúng ta nên thường cầu nguyện bằng những lời nguyện tự phát, bạn nhớ cách thức của đứa con thân thưa với cha mình và kiên trì nài xin. Đó là điều Chúa Giêsu muốn chúng ta làm khi Người dạy chúng ta cầu xin. Bạn nhớ kêu xin những điều người khác cần và ước mong cũng như những điều bạn cần và ước muốn, và đừng quên lời cảm tạ. Cầu nguyện cá nhân và riêng tư giúp chúng ta tham dự đầy đủ hơn việc phụng tự cộng đoàn như thánh lễ hôm nay.
Chủ đề: Cầu nguyện giúp chúng ta tham dự vào quyền năng của Chúa.
Jim Johnson được giao nhiệm vụ cứu vớt một khách sạn nọ đang suy thoái. Nhiều vị giám đốc: TN 17-C33
Jim Johnson được giao nhiệm vụ cứu vớt một khách sạn nọ đang suy thoái. Nhiều vị giám đốc đã cố gắng nhưng đều không thành công. Khách sạn giờ đây ở trong tình trạng nếu không được chỉnh đốn lại thì kể như tiêu luôn. Và Jim đã quyết định thử một phương án khác. Đêm nào anh cũng lái xe lên một ngọn đồi cao nhìn xuống cả khách sạn và thành phố. Anh dừng xe lại, ngồi suốt 20 phút để cầu nguyện. Anh cầu nguyện cho các khách khứa đang nghỉ ngơi giải trí đằng sau các khung cửa sáng trong khách sạn, anh cầu nguyện cho các nhân viên làm việc trong khách sạn và cả gia đình họ nữa. Rồi anh cầu nguyện cho mọi người làm ăn chung với khách sạn, cuối cùng anh cầu nguyện cho toàn thành phố và dân cư trong đó. Đêm này qua đêm nọ, Jim chuyên cần lái xe lên đỉnh đồi lập đi lập lại những lời cầu nguyện đó. Thế là chẳng bao lâu tình trạng khách sạn bắt đầu được cải tiến. Niềm tin cậy mới mẻ lan toả ra từ các nhân viên làm việc. Các tân khách đều được nồng nhiệt đón tiếp hơn trước. Một tinh thần mới thấm nhuần mọi công việc điều hành. Khách sạn như đang chứng kiến một sự phục sinh kỳ diệu.
Người kể lại câu chuỵên này, ông Norman Vincent Peale đã cho rằng sự hồi sinh khách sạn là do những lời cầu nguyện hằng đêm của Jim Johnson. Ông kết thúc câu chuyện với một tư tưởng đầy lôi cuốn: “Nếu lời cầu nguyện của một người có thể biến đổi cả một khách sạn như thế thì hỏi lời cầu nguyện của cả một dân tộc còn có thể biến đổi thế giới như thế nào!”.
Câu chuyện có thật trên nêu bật được tinh thần các bài đọc Thánh Kinh hôm nay, đồng thời nó nêu ra cho chúng ta vài câu hỏi: “Việc cầu nguyện có chỗ đứng nào trong đời sống riêng của chúng ta? Phúc Âm nói gì về việc cầu nguyện? Chúa Giêsu nói gì về vấn đề cầu nguyện?”
Chúng ta thấy có bốn hình thái cầu nguyện khác nhau được mô tả trong Phúc Âm. Để dễ nhớ, ta lấy 4 chữ cái đầu của mỗi hình thái đó và ta được chữ TACX. T là tôn thờ, thờ lạy. A là ăn năn, hối hận. C là cám ơn, cảm tạ. X là xin ơn, cầu xin. (Tiếng Anh là chữ ACTS: A là Adoration, C là Contrition, T là Thanks giving, S là Supplication).
Trong lời cầu nguyện tôn thờ, chúng ta nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa. Chẳng hạn trong Phúc Âm thánh Gioan, chúng ta tìm thấy thánh Tôma quì gối xuống thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa là Thiên Chúa Con!” (Ga 20: 28)
Trong lời cầu nguyện ăn năn thống hối, chúng ta nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình cần được Chúa xót thương.
Trong lời cầu nguyện cảm tạ, chúng ta cám ơn Chúa về những hồng ân Ngài ban cho ta, giống như chính Chúa Giêsu đã từng cầu nguyện: “Lạy cha, là Chúa trời đất, Con cảm tạ Cha…” (Lc 10: 21)
Cuối cùng, trong lời cầu nguyện khấn xin, chúng ta nhìn nhận mình cần được Chúa giúp đỡ, giống như Chúa Giêsu đã từng dạy các môn đệ Ngài: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ được mở cho” (Lc 11: 9)
Thật là đầy ý nghĩa việc các môn đệ, xin Chúa Giêsu dạy cho cầu nguyện và Ngài đã dạy cho họ kinh Lạy Cha. Lời kinh này bao gồm cả bốn hình thái cầu nguyện.
Chúng ta thờ phượng Chúa trong câu mở đầu: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng”
Và để bày tỏ lòng sám hối, chúng ta đọc: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Kể cũng khá lạ, Kinh Lạy Cha không chứa đựng câu nào minh nhiên nói đến việc cảm tạ Chúa. Các nhà kinh viện khi cắt nghĩa về điểm này đã nói rằng người Do Thái xem lời cầu nguyện tôn thờ cũng là lời cầu cảm tạ, họ lý luận rằng khi chúng ta tôn thờ Chúa, tức chúng ta nhìn nhận Ngài là Chúa và nhìn nhận những điều này có mặc nhiên bao hàm lòng biết ơn của chúng ta về uy quyền của Ngài và ân huệ Ngài ban cho chúng ta.
Cuối cùng, lời cầu nguyện xin ơn là lời chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta những điều cần thiết, giống như chúng ta vẫn thường đọc trong kinh Lạy Cha “xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
Đôi khi có người nêu ra câu hỏi: “Việc xin Chúa ban cho mình điều này điều nọ hoặc làm cho mình điều này điều kia chẳng phải là chúng ta thuyết phục Ngài thay đổi ý trong vấn đề thực hiện một số sự việc hay sao?” Câu trả lời hẳn nhiên là hoàn toàn không đúng như thế. Chúa chả cần sự thông thái của loài người chỉ dẫn cho Ngài, cũng chẳng cần đến lời thuyết phục của loài người để khiến Ngài làm điều gì tốt, điều gì đúng.
Nhưng nếu thế thì tại sao chúng ta lại phải cầu xin điều này điều nọ?
Blaise Pascal, nhà toán học người pháp nổi tiếng sống vào thế kỷ 17 đã trả lời câu hỏi trên như sau:
“Cầu nguyện là một trong những phương cách Chúa chọn để chia xẻ quyền năng vô biên của Ngài với chúng ta. Giống như ơn hiểu biết của Chúa đã ban quyền năng cho mỗi người chúng ta thế nào thì lời cầu nguyện cũng ban quyền năng cho mỗi người chúng ta như thế. Nói cách khác, Chúa đã sắp xếp vũ trụ theo một cách thức mà chúng ta có thể gây được ảnh hưởng trên vũ trụ không phải chỉ bằng việc sử dụng cả sức mạnh do lời cầu nguyện của mình nữa.
Không phải ai cũng có thể gây ảnh hưởng đến đời sống con người bằng quyền năng của trí thông minh mình, nhưng trái lại dù ngu dốt mấy ai cũng có thể ảnh hưởng đến đời sống con người bằng sức mạnh của lời cầu nguyện, sức mạnh do chính Chúa chia xẻ cho chúng ta.
Chúa đã tạo dựng chúng ta không phải để chúng ta làm khán giả đứng ngắm nhìn quyền năng tạo dựng của Ngài, mà trái lại Ngài cho chúng ta thông phần vào quyền năng tạo dựng ấy. Đây chính là một phần ý nghĩa của câu “con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa”. Alexis Carrel, nhà giải phẫu được lãnh giải Nobel, đã tóm lược quyền lực và vai trò của lời cầu nguyện như sau:
“Cầu nguyện là một hoạt động trưởng thành không thể thiếu được để phát triển nhân cách con người một cách trọn vẹn. Chỉ bằng cách cầu nguyện chúng ta mới có thể làm cho thể xác, tâm trí và tinh thần hoà hợp với nhau một cách nhịp nhàng trọn vẹn. Nhờ vậy chúng ta mới có được cái sức mạnh không thể bẻ gãy được dẫu chúng ta vẫn chỉ là những “cây sậy yếu đuối”.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời khẩn nài lên cùng Chúa Giêsu:
Ôi giọng nói Chúa Giêsu, Xin hãy kêu gọi chúng con mỗi khi chúng con sai đường lạc lối. Ôi đôi mắt Chúa Giêsu, xin đoái nhìn chúng con khi chúng con cần được khích lệ. Ôi khuôn mặt Chúa Giêsu, Xin hãy mỉm cười với chúng con Khi chúng con cần được trấn an. Ôi đôi tay Chúa Giêsu, Xin xức dầu cho chúng con Khi chúng con yếu nhược. Ôi cánh tay Chúa Giêsu. Xin nâng chúng con dậy khi chúng con vấp ngã. Ôi máu huyết Chúa Giêsu, Xin tẩy sạch chúng con khi chúng con dơ bẩn. Ôi thân xác Chúa Giêsu, Xin nuôi dưỡng chúng con khi chúng con đói khát Ôi trái tim Chúa Giêsu, Xin giúp chúng con biết yêu thương lẫn nhau Như Ngài đã yêu thương chúng con.
Cầu xin là một trong những yếu tố quan trọng của việc cầu nguyện. Và đây cũng là một trong những: TN 17-C34
Cầu xin là một trong những yếu tố quan trọng của việc cầu nguyện. Và đây cũng là một trong những hình thức cầu nguyện dễ được nhiều người thực hiện. Xin Chúa điều này điều nọ không phải là chuyện vô lý, vì có cần thì ta mới xin; Và ta biết là Chúa có thể đáp ứng cho thì ta mới xin. Nhưng vấn đề là xin gì, xin như thế nào, xin cho ai… là những cái mà ta cần lưu ý.
Khi xin ai cái gì thì người xin ý thức rằng mình không có, còn người kia có hay có khả năng có. Ta xin Chúa điều chi đó bởi vì ta không có điều đó, còn Chúa thì có thể đáp ứng được điều ta cầu mong. Xin Chúa điều này điều nọ là ta tin tưởng vào quyền năng của Chúa. Chắc chắn chỉ có người tin Chúa thì mới cầu xin Ngài. Xin Chúa cũng nói lên sự hiện hữu của Ngài.
Cầu xin cũng nói lên lòng khiêm tốn của con người, ý thức sự nhỏ bé của mình và luôn nương tựa nơi Đấng vô biên. Người Việt Nam ta có câu: “Con có khóc, mẹ mới cho bú”. Cầu xin là thái độ thường tình của người dưới. Tất nhiên Thiên Chúa không như một người mẹ chỉ khi nào con mình khóc mới cho bú mớm, mà Ngài đã ban cho chúng ta nhiều điều mà chúng ta chẳng xin hay không biết mà xin. Cuộc đời mỗi người chúng ta đã nhận được biết bao ơn lành từ Thiên Chúa. Nhiều khi ta cũng chẳng ý thức là Chúa ban cho.
Hơn nữa, khi xin, ta phải biết mình xin gì, cho mình hay cho tha nhân. Chúng ta hay xin cho mình, ít khi xin cho người khác. Điều quan trọng là không phải xin cho mình mà là xin cho người khác. Xin cho nhiều người biết Chúa ‘Nước Cha trị đến’. Nước Chúa mở rộng đồng nghĩa với việc Thiên Chúa được tôn vinh và con người được cứu độ. Lời Kinh Lậy Cha mà Chúa Giê-su dạy chúng ta là bản mẫu của mọi lời cầu nguyện của con người. Khi cầu nguyện, người Ki-tô hữu đọc Kinh Lậy Cha hay cầu nguyện theo tinh thần của Kinh Lậy Cha là cách cầu nguyện đẹp lòng Chúa. Nhiều khi chúng ta không biết cách cầu nguyện, nên cách cầu nguyện dễ dàng là dựa vào Lời Chúa. Mà không lời nào thâm thuý cho bằng Kinh Lậy Cha.
Chúng ta là những con người hữu hạn, nên cái nhìn của chúng ta thiển cận, và lời cầu nguyện còn hạn hẹp. Chỉ có Chúa mới biết rõ mọi sự, biết cái gì thực sự cần thiết cho ta. Ta xin mà không được vì ta xin không đúng (x. Gc 4,3). Chúa sẽ ban những gì có lợi cho ta về cả cuộc đời, về hạnh phúc cuối cùng. Chẳng hạn như ta nghèo một chút nhưng biết đâu nếu giàu có sẽ sinh ra kiêu ngạo chơi bời trác táng dẫn đến nguy cơ mất hạnh phúc đời. Khi cầu xin Chúa điều gì, ta nghĩ là đúng, nhưng xét về toàn cục chưa chắc đã tốt cho ta. Giống như như một em bé xin mẹ nó con dao để chơi, đối với nó là tốt, nhưng mẹ của em bé biết rằng nếu để chúng ‘chơi dao’ sẽ có ngày ‘đứt tay’. Vì người mẹ hiểu biết rộng hơn và lường trước được các tình huống tốt hơn một em nhỏ. Cũng vậy, chỉ có Chúa mới biết rõ những gì cần thiết cho ta và những gì không có lợi cho ta. Chắc chắn Chúa chỉ ban những gì giá trị và lợi lộc cho ta mà thôi ! Cha mẹ trần gian còn biết cho con cái những của tốt lành, thì chắc chắn Cha trên trời còn ban cho chúng ta những của tốt lành gấp bội là chính Thánh Thần Thiên Chúa (x. Lc 11,13).
Cầu nguyện là sức sống của linh hồn. Sống mà không cầu nguyện giống như sống mà không ăn. Không ăn uống dần dần con người sẽ chết, không cầu nguyện linh hồn sẽ khô héo. Nhưng có cái là thân xác chết thì ai cũng thấy, còn linh hồn khô héo thì khó nhận ra !
Cầu nguyện không những mang lại sức sống mà còn là sức mạnh của người tìn hữu. Tôi biết có những linh mục, tu sĩ làm việc rất hăng hái và hiệu quả. Không biết các vị đó lấy sức mạnh ở đâu mà làm việc phi thường như vậy. Hỏi ra mới biết, sức mạnh đó là của Chúa. Con người có được là do cầu nguyện. Con người mình như cái bình ắc-quy muốn phóng điện thì phải có thời gian xạc điện. Xạc điện chính là khi ta cầu nguyện.
Một lần đang đi trên đường, xe của tôi bị hỏng, liền vào một tiệm sửa xe. Trong khi tôi ngồi chờ cho anh thợ làm việc, anh ta vừa làm vừa nói chuyện. Qua câu chuyện, tôi được biết cuộc sống của anh rất khó khăn, ốm đau liên miên, làm ăn không được, thế mà anh ta vẫn vui vẻ sống. Vì không biết tôi là người Công Giáo nên anh chia sẻ rằng: Mình sống thì phải có niềm tin vào Ông Trời, rồi hằng ngày cầu nguyện với Ngài. Anh ta kể tiếp: Tối nào, dù mệt mỏi đến đâu tôi cũng dành ít phút để đọc kinh, dâng mọi khó khăn cũng như thuận lợi, thành công cũng như thất bại cho Ông Trời rồi Ngài sẽ lo cho mình tất cả! Chỉ có như thế tôi mới có thể sống và sống bình an.
Có lẽ người Ki-tô hữu trưởng thành là người có sống đời cầu nguyện. Còn cầu nguyện như thế nào thì cũng rất đa dạng, có thể là đọc kinh, tham dự các lễ nghi phụng vụ, thánh hoá công việc làm ăn, dâng cuộc sống cho Chúa hay là ý thức sự hiện diện của Chúa … thì cũng là cầu nguyện. Giới trẻ ngày nay rất ngại đọc kinh, tham dự các nghi thức tôn giáo kéo dài. Nhưng khi hướng dẫn cho họ cách cầu nguyện đơn sơ như đọc lời nguyện tắt, thánh hoá cuộc sống, ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa, tham dự thánh lễ cách có ý thức… thì họ thấy việc cầu nguyện nhẹ nhõm và dễ dàng thực hiện.
Chúng ta là những con người thiếu thốn của cải thiêng, nên cần cầu nguyện mỗi ngày một hơn. Và chắc chắn là Chúa sẽ ban cho ta những điều ta đang xin và cả những điều ta không biết mà xin vì chính Chúa Giê-su đã dạy “ Cứ xin thì sẽ được”.
Có lẽ chính tại trên núi câu dầu khi Chúa Giêsu đang cầu nguyện thì các tông đồ xin Chúa dạy họ: TN 17-C35
Có lẽ chính tại trên núi câu dầu khi Chúa Giêsu đang cầu nguyện thì các tông đồ xin Chúa dạy họ cầu nguyện. Chúa dạy họ cầu nguyện vắn tắt và dùng từ ngữ thân mật để xưng hô với Thiên Chúa là Cha.Từ ngữ ‘cha’ không bao giờ được người Do thái dùng để gọi Thiên Chúa của họ, cũng là Thiên Chúa chúng ta. Như vậy Chúa Giêsu muốn chỉ cho họ cái lòng tín cẩn mà các tông đồ phải có khi cầu nguyện bất kể tuổi tác hay học vấn của mỗi người.
Sở dĩ có việc cầu nguyện là người ta chấp nhận cái thiếu thốn của mình. Khi cầu nguyện là ta chấp nhận mình tuỳ thuộc vào Chúa và quyền năng của Người. Trong Phúc âm hôm nay Chúa hứa ban cho loài người điều họ xin. Tuy nhiên trên thực tế nhiều người xin mà không được hay chưa được là vì những lý do sau đây:
1) Chúa hứa ban điều người ta xin, nhưng không nhất thiết phải theo đường lối của loài người, mà là theo đường lối của Chúa. Vì thế cho nên đôi khi ta xin ơn chữa lành phần xác, mà Chúa lại ban ơn cho khỏi bệnh phần hồn vì lợi ích thiêng liêng cho ta.
2) Chúa có thể trì hoãn việc ban ân huệ để thử lòng kiên nhẫn của ta. Ở đây ta cần noi gương tổ phụ Abraham đã năn nỉ xin Chúa cứu thành Sôđôma và Gômôra nếu tìm được năm mươi người công chính trong thành. Sau cùng ông mặc cả với Chúa để giảm xuống chỉ còn mười người công chính. Và rồi Chúa cũng cho cứu thành.
3) Chúa hứa ban điều ta xin, nhưng ta cũng phải biết cách xin và biết mình xin gì. Ở đây ta nhớ lại câu chuyện khi ông Giacôbê và Gioan xin Chúa để một người được ngồi bên tả và một người bên hữu trong Nước Chúa, Chúa bảo họ rằng họ không biết điều họ xin. Còn khi người Biệt phái xin Chúa làm phép lạ, Chúa đã từ chối vì họ chỉ muốn thử thách Chúa. Có người hỏi một linh mục xin cha cầu nguyện cho con trúng số độc đắc để con giúp việc xây nhà thờ. Việc xin trúng số độc đắc để xây nhà thờ thì chưa chắc Chúa chấp nhận vì xây nhà thờ phải là do công lao của giáo dân làm ra thì mới qúi.
4) Chúa hưá ban điều ta xin, nhưng ta cũng phải biết xin cho nguòi khác như trong kinh Lạy Cha Chúa dạy. Một trong những khuyết điểm của việc ta xin là ta xin quá nhiều cho cá nhân và cho gia đình, không lo xin cho danh Chúa được cả sáng và cho Nưóc Chúa trị đến. Làm sao ta mong Chúa quảng đại trong việc ban ơn khi ta tỏ ra ích kỷ? Khi ta xin Chúa điều gì, Chúa cũng có thể muốn ta làm điều gì trước đã để tỏ ra ta có đức tin và có thiện chí. Chúa có thể muốn ta dành nhiều thời giờ hơn cho việc cầu nguyện và thờ phưọng, nhiều thời giờ hơn cho gia đình, nhiều thời giờ hơn cho việc hoạt động tông đồ, cho việc bác ái xã hội.
5) Một trong những yếu điểm khi cầu nguyện là ta xin xỏ quá nhiều cho cá nhân và cho gia đình mà không phục vụ giúp đỡ tha nhân. Làm sao ta mong Chúa quảng đại ban ơn, khi ta chỉ quan tâm dến mình?
Chúa dạy ta phải kiên nhẫn cầu nguyện, nhưng không nhất thiết là lúc nào ta cũng phải cầu nguyện theo một cách thế với những kinh nguyện giống nhau. Muốn cho lời cầu nguyện sống động và chân thành, ta phải nhận thức rằng có những kinh nguyện đánh động tâm hồn ta lúc này, mà lúc khác ta lại cảm thấy khô khan. Vậy để cho lời cầu nguyện được sống động, ta cần thay đổi cách thế cầu nguyện. Có khi ta cần lần chuỗi, cần đọc những kinh có sẵn trong sách kinh, có khi ta cần cầu nguyện riêng một mình, có lúc ta cầu nguyện với gia đình, có khi ta cầu nguyện với cộng đoàn dân Chúa nơi thánh đường. Có khi ta cầu nguyện nhỏ tiếng, có khi ta cầu nguyện lớn tiếng, có khi ta chỉ cần ngồi đó chiêm ngắm, hay để cho nước mắt trào ra. Đó cũng là cách cầu nguyện. Phúc âm nay dạy ta xin cho được trở thành những người có tâm hồn cầu nguyện. Vậy ta hãy cùng các môn đệ xưa xin Chúa dạy ta cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện, để lời cầu nguyện của chúng con được như hương thơm bay lên trước toà Chúa, làm đẹp lòng Chúa và được Chúa chấp nhận.
CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN C / 17th Sunday in Ordinary Time
Lời Chúa cho hôm nay: ANH CỨ GÕ THÌ SẼ MỞ
* Knock ! will be opened to you *
* Luật của Thần Khí ban sự Sống trong Đức Kitô Giêsu, đã giải thóat tôi khỏi luật của tội và sự chết. (Rom. 8, 2)
Đức Chúa phán: “ Tiếng kêu trách Xơ-đôm và Gô-rô-ma thật quá lớn! Tội lỗi của chúng qúa nặng nề.: TN 17-C36
- BÀI ĐỌC 1: Sáng thế 18, 20-32= Đức Chúa phán: “ Tiếng kêu trách Xơ-đôm và Gô-rô-ma thật quá lớn! Tội lỗi của chúng qúa nặng nề.”/ The Lord said: “The outcry against Sodom and Gomorrah is so great, and their sin so grave.!
- BÀI ĐỌC 2: Côlôsê 2, 12-14= Nay Thiên Chúa cho anh được cùng sống lại với Đức Kitô, Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ moị sa ngã, lỗi lầm./ He brought you to life along with Him, having forgiven us all our transgressions. Obliterating…
- TIN MỪNG (Gospel): Luca 11, 1-13= Thầy bảo anh: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho./ I tell you, ask and you will receive; seek and you will find; knock and the door will be opened to you.
A- Bạn và tôi cùng Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: (Reflections, live out and share)
1/ Đức Giêsu luôn làm gương mẫu cầu nguyện ở nhiều nơi khác nhau. Nên các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, đó là đọc kinh Lạy Cha là ngăn gọn và đầy đủ nhất. “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến.” (Lc 11, 2) Bạn và tôi thường đọc kinh này một cách chiếu 1ệ để xin ơn, ít khi nghĩ đây là một lệnh Chúa truyền daỵ hay một cuốn Phúc âm đơn giản tôi phải làm theo, bằng cách mời Chúa đến làm chủ tâm hồn tôi trong mọi ý nghĩ, để sống rộng rãi với tha nhân, tiết độ với mình để thắng cám dỗ. Tôi chia sẻ một trường hợp tha thứ cho người khác? (Hành đạo)
2/ Trong bài đọc 1, ông Áp-ra-ham xin Đức Chúa đừng phá hủy thành Xơ-đôm nếu tìm được từ năm mươi người lành… xuống đến còn hai mươi người lành thì Chúa có tha không? và cuối cùng giả như tìm được mười người thì sao? Chúa đáp: “Vì mười người đó, Ta sẽ không phá hủy Xô-đôm.” (St 18, 32). Chúa muốn nói với bạn tình thương cuả Ngài thật vô bờ bến, nếu bạn kiên tâm sống lành thánh, không sa ngã trước những cuả cải, xác thịt. Dẫn chứng quyết tâm cuả bạn trước cạm bẫy hiện taị? (Sùng đạo)
3/ Thánh Phaolô nói về con người đã được mai táng qua phép Rửa, chết vì sa ngã và không được cắt bì như như sau: “Trước kia anh em là những kẻ đã chết vì sa ngã và vì thân xác không được cắt bì…”. Ông có ý nói bạn và tôi cần lột bỏ con người xác thịt, tội lỗi. Dìm xuống nước biểu tương cho sự mai táng, lên khỏi nước là Phục sinh, sống trong ân sủng. Phép cắt bì (Col 2,12-13) của Chúa Kitô là phép Thanh Tẩy. Các Lề luât ngăn cấm của Môsê đã trở thành dịp tội mang theo án sự chết chứ không giúp cho người ta sức mạnh để lướt thắng. Kể một việc làm dứt khoát với tật xấu để sống lại? (Học đạo)
B- Câu Kinh Thánh đánh động tôi chọn Sống tuần này: (The Best God’s Word)
CHÍNH CHÚNG CON THA CHO MỌI NGƯỜI MẮC LỖI VỚI CHÚNG CON. (Lc 11, 4)
We ourselves forgive everyone in debt to us
C-Ngay bây giờ tôi làm gì? (so what am I doing/For Action)
Tôi chọn 1 trong ba gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống.
Thực tập nhẫn nhục: Nhẫn nhục là một hoa quả cực kỳ quan trọng của Thánh Thần hoạt động nơi bạn (Gal 5,22). Sự thực tập nhẫn nhục là kết quả của lòng khiêm tốn thật sự và tin tưởng hòan tòan vào quyền năng cuả Thiên Chúa. Chúa hài lòng,và bạn chinh phục được người khác. Chính lúc naỳ người được bạn nhịn nhục sẽ nhận ra Thượng Đế đang yêu họ qua bạn và dần dần họ sẽ thay đổi. Như vậy bình an, hạnh phúc và sức sống mới đến với bạn ngay..
D- Cầu nguyện với Lời Chúa: Lạy Cha, Đức Kitô đã dạy: Chính chúng con tha cho moị người mắc lỗi với chúng con. Xin giúp con luôn sống tha thứ cho người khác bằng hoa qua của Thánh Thần là mến yêu, nhẫn nhục, nhân hậu, tốt lành, tín trực, hiền từ…
Lời hay ý đẹp: GIỐNG ĐỨC KITÔ THÌ LUÔN LUÔN LÀ HỢP THỜI TRANG Christlikeness is always in season
VỚI CHÚA GIÊSU CHÚNG TA CẦU NGUYỆN “LẠY CHA” – “ABBA”
Lời cầu nguyện của Chúa “Kinh Lạy Cha” là một lời nguyện riêng nổi bật trong khi dâng Thánh: TN 17-C37
Lời cầu nguyện của Chúa “Kinh Lạy Cha” là một lời nguyện riêng nổi bật trong khi dâng Thánh Lễ. Một nguyên nhân của việc đó là chúng ta hãy cám ơn những sự thay đổi đã diễn ra trong Công đồng Vatican II, đó là tất cả chúng ta có thể nói hoặc hát lời linh này bằng chính ngôn ngữ của mình. (Thật là khó để nhận ra trước đây được gọi là Thánh Lễ theo Công đồng Tridentino, chỉ một mình linh mục được đọc lời nguyện này và ngài đã đọc nói bằng tiếng Latin; không một người nào được phép đọc chung với vị linh mục). Mọi người dâng lời kinh này khi đứng đôi khi họ dang tay, thỉnh thoảng họ hướng mắt lên trời, đôi khi họ nắm tay với những người lân cận, nhưng luôn luôn có vẻ như là lời kinh này có một sự chú ý đặc biệt.
Lời cầu nguyện của Chúa mà chúng ta nghe trong Phúc Âm Thánh Luca có một điểm khác với lời kinh chúng ta dùng trong Thánh Lễ, lời kinh này chúng ta đọc theo đoạn Phúc Âm của Thánh Mathêu (6,9-12) chúng ta sẽ không ngạc nhiên về sự khác nhau này. Thứ nhất, cầu nguyện thì rất quan trọng nên chúng ta giả thiết là Chúa Giêsu đã dạy nó trong nhiều dịp và không luôn luôn chính xác cùng một lời đó. Thứ hai lời nguyện đó đã là một phần của phụng vụ cho hơn một thế hệ trước khi những cuốn Phúc Âm được viết ra. Lời cầu nguyện đó đã được ghi lại theo trí nhớ và kết quả là có những sự khác nhau không đáng kể cho đến khi Thánh Luca và Thánh Mathêu đã viết ra lời kinh chung được đọc trong những cộng đoàn riêng biệt của các ngài.
Tất cả những điều này dẫn đến một kết luận quan trọng. Cái điều mới và đặc biệt trong lời kinh nguyện này thì không phải là bản tính hoặc là số lời cầu xin trong kinh nguyện. Sau hết, người Do Thái thường cầu nguyện rằng, danh của Thiên Chúa phải được thần thánh hoá và ý muốn Ngài phải được thực hiện. Thánh Vịnh 51 từ Cựu Ước là một lời kinh nguyện nồng nhiệt và hùng biện về sự tha thứ đã không “thấm tháp gì” kinh nguyện tha thứ trong kinh Lạy Cha.
Điều đặc biệt của kinh nguyện là cung cách độc nhất mà Chúa Giêsu đã diễn tả về Thiên Chúa. Ngài đã kêu lên Chúa, Đấng quyền năng, Đấng Sáng Tạo nên trời và đất, Đấng phán xét kẻ sống và kẻ chết như là “Cha” không chính xác như là “Cha” nhưng là “Abba” cha ơi, chữ này có nghĩa thân mật hơn như là “papa” hoặc “Daddy”, đó chính là cách mà các trẻ nhỏ gọi cha của mình với một tình yêu thân mật và sự quen thân trong sáng, khi muốn nói với cha của mình. Trong tất cả những lời nói của Chúa Giêsu đã được ghi chép lại trong Phúc Âm thì chắc chắn chữ “Abba” cha ơi là một trong những chữ thánh thiêng nhất.
Hãy suy nghĩ về lời cầu nguyện của Abraham và của Chúa Giêsu khác nhau như thế nào. Abraham, cha của dân tộc được chọn, tổ phụ của chúng ta trong đức tin đã dám đến gần Chúa, nài xin Ngài tha thứ cho dân Sodoma và Gomora. Ông đã không ngại ngùng trả giá với Thiên Chúa. Nhưng ông không dám gọi Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã gọi, ông sẽ không bao giờ dám nói: “Được rồi, Cha ơi, Cha hãy thương tình và đối xử nhẹ nhàng với Sodoma và Gomora”. Không một người nào dám gọi Thiên Chúa là “Abba”, “Daddy” (Cha ơi), như Chúa Giêsu đã làm.
Và tất cả chúng ta đều được mời gọi thật sự, để nói về và gọi Thiên Chúa là “Abba”, người Cha thân yêu của mỗi chúng ta. Lý do mà chúng ta có thể làm như vậy, là Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta một đời sống mới thông hiệp với Đức Kitô. Đó là một gia đình sự sống của Ba Ngôi ân phúc, sự sống mà chúng ta đã lãnh nhận nơi phép rửa, khi mà chúng ta trở nên những chi thể của Giáo Hội, gia đình của Thiên Chúa ở đây trên mặt đất này.
Bất kỳ thái độ hay cử chỉ nào mà chúng ta có trong lời kinh của Chúa nơi Thánh Lễ, thì chúng ta cũng phải biết là chúng ta được hạnh phúc biết bao vì được gọi Thiên Chúa là “Abba” cha ơi, như Chúa Giêsu đã gọi, đó là tên gọi của Người “Abba” Cha ơi.
Một buổi sáng kia, một cô giáo dạy vườn trẻ chưng một bình hoa thuỷ tiên thật đẹp trên chiếc bàn: TN 17-C38
Một buổi sáng kia, một cô giáo dạy vườn trẻ chưng một bình hoa thuỷ tiên thật đẹp trên chiếc bàn đặt ở giữa phòng. Khi các em bé nhỏ thơ ngây tung tăng tiến vào phòng học, có một em tròn xoe đôi mắt nhìn ngắm những cánh hoa màu vàng lợt và em nói với cô giáo:
“Thưa cô, có phải Chúa đã làm ra những bông hoa nầy không cô? Em muốn gọi điện thoại để cám ơn Chúa đã cho chúng ta những cánh hoa đẹp như thế nầy!”
Nếu đất với trời được nối kết với nhau bằng dây điện thoại, thiết nghĩ Thiên Chúa sẽ phải đặt ra hai đường dây: một đường dây cho những lời cầu xin và một đường dây dành cho những lời cám ơn. Và người ta sẽ thấy một đường điện thoại luôn luôn bận rộn, trong khi đường dây kia thỉnh thoảng mới được dùng đến, như một chuyện ngụ ngôn kia thuật lại như sau:
Hai thiên thần được sai xuống trần gian, mỗi vị mang theo một chiếc giỏ. Họ chia tay nhau để đi khắp hang cùng ngõ hẻm, đến nhà các người giàu có cũng như nhà những người nghèo khổ, thăm các trẻ em cầu nguyện tại tư gia cũng như tất cả nam phụ lão ấu cầu nguyện tại các nhà thờ.
Sau một thời gian, hai thiên thần gặp nhau đúng thời điểm đã hẹn để trở về trời. Chiếc giỏ của một thiên thần nặng như chì, còn chiếc giỏ của thiên thần kia có vẻ như đựng toàn bông gòn.
- “Ông mang gì mà nặng nề thế?”, một thiên thần hỏi. Thiên thần mang giỏ nặng trả lời:
- “Tôi được sai đến để thu nhận tất cả những lời cầu xin của nhân loại. Còn ông, cái giỏ của ông xem ra nhẹ nhàng thế?”
- “À, tôi được sai đến để góp nhặt những lời thiên hạ cám ơn Chúa vì những ơn lành Ngài luôn ban cho họ”.
Thì ra, chiếc giỏ thu nhận lời cầu xin luôn nặng hơn chiếc giỏ thu nhận lời cám ơn. Cũng thế, đường dây điện thoại để xin ơn thì luôn bận rộn, còn đường dây để cám ơn thì không mấy khi có người gọi.
Phải, thưa anh chị em, thường thì chúng ta chỉ biết cầu xin hơn là cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện luôn bao gồm cả lời chúc tụng tôn vinh và cảm tạ tri ân Thiên Chúa. Hôm nay, Chúa dạy chúng ta cầu nguyện. Cầu nguyện là thưa chuyện với Chúa như con cái nói chuyện với cha mẹ. Cầu nguyện chủ yếu là một cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu khi còn sống ở trần gian cũng đã cầu nguyện, và Ngài đã dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn. Cũng chính Ngài đã đưa ra một “kinh nghiệm mẫu” mà chúng ta gọi là “Kinh Lạy Cha” – đúng hơn là “Kinh nguyện của Chúa” để cho chúng ta biết phải cầu xin những điều gì và cầu nguyện như thế nào.
Vậy chúng ta phải cầu xin những điều gì?
Nói một cách vắn gọn, chúng ta phải cầu xin những gì phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Ý muốn của Thiên Chúa trước hết là cho mọi người nhận biết Ngài là Cha của tất cả mọi người, và trong Ngài, tất cả mọi người đều nhận ra nhau là anh em. Những gì là chia rẽ, hận thù, bóc lột, chém giết nhau đều đi ngược lại ý muốn của Cha trên trời. Bởi vì, làm sao có thể mở miệng gọi Thiên Chúa là Cha của chúng ta được khi chúng ta không muốn yêu thương người khác như anh chị em của mình; và ngược lại, khi chúng ta không nhìn nhận có một Cha chung của chúng ta ở trên trời: “Lạy Cha, con là Đấng ngự trên trời”.
Ý muốn của Thiên Chúa còn là “cho chúng ta hôm nay lương thực hằng ngày”, có nghĩa là Thiên Chúa muốn cho mọi người trên trái đất, không phân biệt chủng tộc, màu sau, tiếng nói đều có đủ cơm ăn áo mặc, cũng như được hưởng tiện nghi của nền văn minh hiện đại, chứ không phải chỉ một số rất ít người chiếm hữu hết tài sản trên thế giới, đang khi đại đa số còn lại chỉ được hưởng một phần quá nhỏ trong cảnh lệ thuộc. Ngài cũng chẳng muốn cho một thiểu số sống xa hoa lãng phí, trong khi đồng loại phải thiếu nhà ở, thiếu cơm bánh, áo quần, thuốc men; phải đói khát, dốt nát, ăn xin, nằm đường xó chợ… Nói chung là thiếu những điều kiện tối thiểu để sống cho ra con người.
Ý muốn của Thiên Chúa còn là chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì chính bản thân chúng ta cũng là kẻ có tội cần được tha thứ. “Xin Cha tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Như vậy, cầu nguyện là đồng hoá ý muốn của mình với ý muốn của Thiên Chúa và phải hành động để ý muốn của Chúa được thể hiện trên mặt đất nầy: “Xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Thế nhưng, chúng ta thường chỉ biết cầu xin hơn là cầu nguyện, và có những lời cầu xin hết sức vụ lợi, ích kỷ. Chẳng hạn xin cho “trúng tuyển, trúng số, trúng mánh…”. Hoặc chúng ta chỉ nghĩ đến Chúa khi chán nản, thất vọng, để than thở, kể lể, như bắt Chúa phải thông cảm những nỗi ấm ức trong lòng mình. Còn gì vô lý và sai lầm hơn khi chúng ta cứ coi Thiên Chúa như một “Thần Tài”, như một “thủ kho” để xin Ngài những nhu cầu mà đúng ra, với tự do, khối óc và hai bàn tay Chúa ban cho, chúng ta phải tự làm lấy, tự xoay xở lấy với sự trợ giúp của Chúa và dưới ánh mắt yêu thương của Ngài. Nếu chỉ cầu xin bằng môi miệng mà chẳng chịu làm gì cả, thì lời cầu xin đó có khác gì những bùa chú, phù phép của hạng người mê tín dị đoan: Xin cho có lương thực hằng ngày mà mình cứ ngồi không, hoặc nằm ngửa chờ sung rụng, thì làm sao có lương thực được? Hoặc xin cho mọi người được ấm no hạnh phúc, mà mình cứ áp bức, bóc lột, làm điều bất công, hay là cứ để cho những chuyện bất công ấy lan tràn mà không chịu tranh đấu để đòi hỏi công bình, đòi quyền sống của con người, thì làm sao có ấm no, hạnh phúc, hoà bình được? Chính vì thái độ nầy mà nhiều khi tôn giáo bị mang tiếng là mê tín, là thuốc phiện ru ngủ dân chúng!
Vậy, thưa anh chị em, chúng ta phải cầu xin như thế nào?
Nếu phải cầu xin thì chúng ta phải cầu xin một cách kiên trì với một xác tín, tin tưởng vào tình thương của Cha trên trời, Ngài tốt lành, nhân hậu hơn cha chúng ta ở dưới đất vô cùng. Vì người đời mà còn cho bạn bè vay mượn khi bạn bè năn nỉ, khuấy rầy, huống chi là Thiên Chúa. Ngài là người Cha yêu thương mọi người, con cái, chắc chắn sẽ ban cho ta điều chúng ta cầu xin: “Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ thấy; hãy gõ, sẽ mở”. Người cha nào mà không giúp đỡ con cái khi cần thiết, không cung cấp những điều thích hợp khi chúng đã xin. Cha là Cha nhân từ, Ngài cũng không thể làm khác được, nhất là chẳng bao giờ cho cái gì sinh nguy hại cho con cái. Bởi vậy, điều chúng ta xin Thiên Chúa phải là điều thích hợp, vì Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta “bánh” chứ không cho “hòn đá”; muốn ban “cá” chứ không cho “con rắn”, muốn ban “trứng” chứ không cho “bọ cạp”. “Hãy xin thì sẽ được”, nhưng với điều kiện là xin những gì thực sự giúp đời sống thêm tốt đẹp, tìm những gì dẫn đến ơn cứu độ, đạt đến cứu cánh tuyệt đối của con người, đồng thời phải kết hợp giữa sự giúp đỡ của ơn Chúa với việc làm trong khả năng Chúa đã ban cho mỗi người.
Cuối cùng, ơn đặc biệt mà Chúa sẽ ban cho những ai xin Ngài đó là Thánh Thần, vì Thánh Thần sẽ là Đấng cầu xin trong chúng ta, bảo đảm lời cầu xin là xác đáng, và cũng chính Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết, vì Ngài là ơn huệ của Thiên Chúa ban cho loài người.
Anh chị em thân mến, phụng vụ Thánh lễ là dịp tốt nhất giúp chúng ta cầu nguyện có hiệu lực. Vì chúng ta cầu nguyện chung với cả Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện theo lời Chúa truyền dạy, chúng ta cầu nguyện nhờ công ơn vô cùng của Chúa Kitô, với Người và trong Người. Xin cho chúng ta biết cầu nguyện và xin Chúa nhận lời cầu xin của chúng ta và của tất cả mọi người.
“Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho.” (Lc 11,10) Suy niệm:
Xem ra hôm nay Lời Chúa thật hấp dẫn với ước muốn của mọi người: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm TN 17-C39
Xem ra hôm nay Lời Chúa thật hấp dẫn với ước muốn của mọi người: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho.” Thế nhưng thực tế lại không như vậy. Ngày nay vẫn còn nhiều người quan niệm Thiên Chúa như vị thần của Alibaba, chỉ cần đọc câu thần chú “Vừng ơi! Mở cửa!” là tự khắc cánh cửa kho tàng sẽ mở ra cho họ. Có những người xin mà không được, tìm mà không thấy, gõ mà không cánh cửa nào mở ra cho họ. Thực ra khi chúng ta cầu xin, Chúa luôn luôn đáp lời và ban cho chúng ta điều tốt nhất “hơn cả những gì lòng người dám ước mong” (Lời nguyện Chúa Nhật XX Thường niên); Chúa không chỉ “mở cửa” khi chúng ta gõ mà hơn thế nữa, Ngài còn đứng ngoài cửa tâm hồn chúng ta gõ (x. Kh 3,20) mong chúng ta tỉnh thức mở cửa đón Ngài (x. Lc 12,36tt) để Ngài vào ân thưởng cho chúng ta, những người tôi trung của Ngài.
Mời Bạn: Bạn rất vui khi có được điều mình mong muốn, nhưng đồng thời lại thật buồn khi không được như ý. Phải chăng bạn cầu xin được như ý bạn chứ không phải cầu xin cho “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”? Phải chăng bạn đòi Chúa phải theo ý Bạn thay vì Bạn phó thác để Ngài dẫn dắt?
Chia sẻ: Người ta hay nói: “Trong cái rủi có cái may.” Bạn có thấy mình gặp may khi đối diện với rủi ro không?
Sống Lời Chúa: Cố gắng tìm thánh ý Thiên Chúa trong mọi biến cố vui buồn của ngày sống, để biết rằng Chúa luôn có mặt khắp mọi nơi và mọi lúc.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tin Chúa đang hiện diện trong cuộc đời con, xin thêm đức tin cho con để con nhận ra thánh ý Chúa và quyết tâm thi hành.
Trong bài Tin Mừng Luca hôm nay, theo lời đề nghị của môn đệ, Đức Giêsu đã dạy các ông cầu nguyện với 3 TN 17-C40
1) Ý CHÍNH: Trong bài Tin Mừng Luca hôm nay, theo lời đề nghị của môn đệ, Đức Giêsu đã dạy các ông cầu nguyện với 3 ý chính như sau:
- Ý thứ nhất: Lời cầu nguyện mẫu vừa vắn gọn vừa phong phú là kinh Lạy Cha. Trong kinh này, Đức Giêsu dạy môn đệ cầu xin với Thiên Chúa là Cha những điều liên quan tới Triều Đại Nước Thiên Chúa và những ơn ích thể xác và tinh thần cho người xin.
-Ý thứ hai: Các môn đệ cần phải kiên trì cầu xin thì sẽ được nhậm lời, như trường hợp trong bài dụ ngôn “Người bạn quấy rầy”.
- Ý thứ ba: Hãy vững tâm cầu xin vì Thiên Chúa là một người Cha từ bi nhân hậu gấp nhiều lần các người cha thế gian. Người sẽ ban ơn huệ tuyệt hảo là Thánh Thần cho những ai cầu xin Người.
2) CHÚ THÍCH:
- Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông”. Người bảo các ông: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói” (Lc 11,1-2a):
+ Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia: Thánh Mátthêu đặt Kinh Lạy Cha trong khung cảnh “Bài Giảng Trên Núi” (x. Mt 6,5-15). Còn ở đây thánh Luca không nói về thời gian và nơi chốn khi Đức Giêsu đã dạy Kinh Lạy Cha. Luca chỉ muốn cho thấy có sự liên quan giữa gương cầu nguyện của Người với việc Người dạy các môn đệ cầu nguyện.
+ “Xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông”: Nhân lúc thấy Đức Giêsu cầu nguyện cách sốt sắng và thấy Gioan Tẩy Giả dạy môn đệ ông ta cầu nguyện, nên một người trong nhóm môn đệ Đức Giêsu đã xin Người dạy về sự cầu nguyện cho họ. Thời đó có nhiều nhóm tu đạo khác nhau do hình thức hay kinh kệ của họ, đặc biệt là nhóm Gioan Tẩy Giả (x. Lc 5,33).
- “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến. Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy. Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con. Và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11,2b-4):
+ Lạy Cha: Lời xưng hô mở đầu đơn giản hơn Mátthêu. Xưng danh Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta khẩn cầu với Thiên Chúa như với một người Cha gần gũi thân thương. Vậy khi cầu nguyện, chúng ta hãy thưa với Thiên Chúa cách đơn sơ và tín thác, như Đức Giêsu đã thưa với Chúa Cha là “Ap-ba: Ba ơi” (x. Mc 14,36; Mt 26,39).
+ Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển: Xin cho danh Cha được nhìn nhận là thánh, vì Cha là Đấng Thánh. Đây là lời ước nguyện sao cho hết mọi người được nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa.
+ Triều đại Cha mau đến: Triều Đại là một từ Hy Lạp có nhiều nghĩa như: Vương Quyền, Vương Quốc hoặc Nước, ám chỉ Hội Thánh trần thế hữu hình. Ở đây xin cho Giáo Hội được lan truyền khắp nơi, cho vương quốc của Chúa được mọi người đón nhận.
+ Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy: Xin lương thực là thực phẩm ta cần ăn hàng ngày. Của ăn nuôi thể xác như cơm ăn áo mặc và của nuôi linh hồn là Lời Chúa, Mình Thánh Chúa và Thánh ý Chúa Cha (x. Ga 6,34).
+ Xin tha tội cho chúng con: Luca đổi chữ “lỗi” trong Mátthêu (x. 6,12) thành chữ “tội”. Hai từ “tội, lỗi” tiếng Hy lạp còn có nghĩa là “nợ”. Tội là trở ngại lớn nhất cho triều đại của Thiên Chúa cũng như cho sự chia sẻ yêu thương, nên cần xin Cha tha thứ.
+ Vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con: Tha thứ cho người mắc lỗi với mình là điều kiện để xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho mình. Tha thứ là điều rất quan trọng, đòi ta phải thực hành suốt đời. Đức Giêsu nhiều lần nhắc đến sự tha thứ này: “Xin Cha tha cho chúng” (Lc 23,34); “Nếu anh em tha lỗi cho người ta” (Mt 6,14); “Thì hãy tha thứ cho họ” (Mc 11,25)…
+ Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ: Người môn đệ phải xin Cha cho mình khỏi sa vào chước cám dỗ của Xa-tan (x. Lc 4,2-3). Cơn cám dỗ lớn nhất là xúi ta chối bỏ đức tin. Do đó Đức Giêsu kêu gọi “Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22,40). Nguy cơ các tín hữu bị cám dỗ đánh mất đức tin là điều có thể xảy ra, như Người phán: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?” (Lc 18,8).
- Người còn nói với các ông: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: ‘Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’. Mà người kia từ trong nhà đáp lại: ‘Xin anh đừng quấy rầy tôi: Cửa đã đóng rồi. Các cháu lại ngủ cùng giường với tôi. Tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được’. Thầy nói cho anh biết: Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh cần, vì thể diện” (Lc 11,5-8):
+ Người còn nói với các ông: “Ai trong anh em có một người bạn…”: Đức Giêsu dùng dụ ngôn về người bạn quấy rầy để dạy cho các môn đệ biết: Muốn có được điều mình xin là phải biết kiên nhẫn nài xin. Đừng bao giờ ngã lòng vì thấy xin mà không được. Kiên trì xin đi xin lại là điều kiện để lời cầu của ta được Cha chấp nhận. Cha không như người chủ nhà trong bài dụ ngôn: cho để tránh bị quấy rấy. Nên biết rằng khi không ban ngay điều ta xin là Cha cho ta có dịp biểu lộ lòng cậy trông phó thác nơi Người.
+ Vì thể diện: Nhưng trong mấy nhân vật trên, ai là người sợ mất thể diện ? Câu chuyện dụ ngôn xoay quanh ba nhân vật như sau: Nhân có một anh bạn A lỡ đường ghé lại trọ tại nhà của bạn mình là B. Anh B liền chạy sang nhà anh C là bạn để xin vay ba cái bánh về nhà đãi khách. Anh C khi ấy đã vào giường ngủ rồi và rất ngại phải ra khỏi giường lấy bánh cho bạn. Nhưng vì anh B cứ kêu nài mãi nên cuối cùng anh C đành phải ra khỏi giường thỏa mãn tất cả những gì anh B cần với lý do: dù không phải do tình thân hữu thúc đẩy thì cũng vì sợ bị mất thể diện, sợ mang tiếng xấu là đã không thương giúp người gặp khó khăn. Từ đó Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến thái độ của Thiên Chúa: Người là Đấng Công Chính và là Cha trên trời, sẽ ban ơn thực sự tốt lành và cần thiết là Thánh Thần, cho những kẻ biết thành khẩn và kiên trì cầu xin với Người.
- Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó ? Hoặc nó xin trứng, mà lại cho nó bọ cạp ? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời. Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người ?” (Lc 11, 9-13):
+ Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho…: Đức Giêsu nói đến công hiệu của lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện là điều cần thiết để được Chúa ban ơn: “Cứ xin thì sẽ được”. Phần sau của các câu này đều không có chủ từ và ở dạng thụ động, kín đáo ám chỉ người làm việc ban ơn, cho gặp mặt, mở cửa là chính Thiên Chúa.
+ Ai trong anh em là một người cha mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó ?: Đức Giêsu cho biết Thiên Chúa sẽ chấp nhận lời cầu nguyện của chúng ta, vì Người là Cha nhân hậu và hay thương xót.
+ Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời: Đức Giêsu so sánh cha mẹ thế gian vốn là người xấu mà còn biết tránh cho con cái mình cái gì có hại cho nó, như cho rắn thay vì cá, cho bọ cạp thay vì trứng. Phương chi Thiên Chúa là Cha thánh thiện tốt lành của chúng ta trên trời.
+ Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người: Ơn Thiên Chúa ban cho những kẻ kêu xin Người là “Thánh Thần”, tương đương với “những của tốt lành” trong Tin Mừng Mátthêu (Mt 7,11). Thánh Phaolô viết trong thư Rôma như sau: “Thánh Thần làm cho chúng ta nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên “Ap-ba ! Cha ơi !” (Rm 8,15).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) LỜI CHÚA:
- “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9).
2) CHỦ ĐỀ 1: Cầu nguyện là một việc cần và hữu ích.
Thiên Chúa hằng nghe lời ta cầu xin, vì Người là Cha rất nhân từ, thương xót và hết sức khoan dung. Câu chuyện sau đây cho thấy điều đó:
- Câu chuyện: Thánh Cot-to-len-go (1786-1842) trông coi một cô nhi viện trên 700 em. Một hôm gần đến giờ cơm trưa mà trong nhà bếp vẫn nguội tanh không nấu nướng gì, vì tu viện hết sạch tiền. Bấy giờ, bà phước quản lý nhà bếp chạy đến hỏi Cha Bề Trên Cot-to-len-go xem phải làm gì ? Cha bảo bà cứ cho các em cô nhi xếp hàng đi vào nhà cơm như mọi khi. Rồi ngài vào trong nhà nguyện cầu nguyện với Chúa. Bỗng có tiếng chuông reo vang ngoài cổng. Tu sĩ trực mở cổng thì thấy có ba người lính nấu ăn của tiểu đoàn đóng quân gần đó đến thưa rằng: Xin cha bề trên ra nhận cho các em cô nhi được ăn phần cơm của tiểu đoàn vì đi hành quân xa không về kịp.
- Suy niệm: Về vấn đề này, Mẹ Têrêsa Can-quýt-ta đã chia sẻ kinh nghiệm của mình như: “Chúng tôi có hơn một ngàn tu sĩ, và phải nuôi ăn hàng chục ngàn người nghèo khổ. Thế mà chưa bao giờ chúng tôi phải từ chối bất cứ ai đến xin giúp đỡ. Chúa luôn can thiệp kịp thời để chứng tỏ cho chúng ta thấy người không bao giờ làm lơ trước lời cầu xin của chúng ta”.
3) CHỦ ĐỀ 2: Kinh Lạy cha.
Theo đề nghị của môn đệ, Đức giêsu đã dạy các ông cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha.
- CÂU CHUYỆN: Có một bà già quê mùa kia được nhiều người khen là có lòng đạo đức thánh thiện nhất làng. Bà thường quì gối lâu giờ trước gian cung thánh trong nhà thờ với cặp môi mấp máy và khuôn mặt đầm đìa nước mắt. Tiếng lành đồn xa: Đức Giám Mục giáo phận nghe nói nhiều về sự thánh thiện của bà nên tìm dịp đến thăm, Người nói với bà rằng: “Này bà, bà được nhiều người đánh giá là rất đạo đức. Vậy bà thường suy gẫm theo sách thiêng liêng nào vậy ?” Người đàn bà thưa: “Thưa đức cha, con thật dốt nát đến nỗi không biết đọc biết viết !” Người lại hỏi: “Vậy thì bà cầu nguyện như thế nào ?” Bà trả lời: “Thưa đức cha, con chỉ đọc thuộc lòng kinh Lạy Cha, Kính Mừng Sáng Danh và kinh Tin Kính. Mỗi ngày con cố gắng đọc các kinh đó 10 lần. Nhưng ít khi nào con đọc đủ được như vậy. Vì khi con đọc đến câu “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, thì con không thể tiếp tục đọc thêm được nữa. Con cảm thấy Chúa thật tốt lành vô cùng, đến nỗi đã cho một mụ già quê mùa khốn nạn như con, được phép gọi Người là Cha. Con nghĩ như thế rồi tự nhiên nước mắt con trào ra làm con không thể đọc tiếp được nữa cho tới hết giờ kinh”. Đức Cha ngạc nhiên nói với bà rằng: “Này bà, chỉ cần một lời cầu nguyện của bà như vậy cũng có giá trị bằng tất cả những lời cầu nguyện của chúng tôi đó !”
- SUY NIỆM: Đọc kinh Lạy Cha là cầu nguyện theo Đức Giêsu dạy. Kinh này mở đầu bằng một lời chào thân thương: “Ap-ba Lạy Cha”. Tiếp theo là phần thứ nhất, đề cập đến ba ước nguyện về Chúa Cha như: nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Phần thứ hai xin bốn điều cho mình: xin lương thực hằng ngày, xin tha nợ, xin chớ để sa chước cám dỗ, xin cứu cho khỏi sự dữ.
4) CHỦ ĐỀ 3: Phải kiên trì vững tâm cầu xin.
- CÂU CHUYỆN:
Có một bác sĩ công giáo, nhưng đã bỏ không cầu nguyện, không đến nhà thờ dự lễ từ năm 10 tuổi đến nay. Một hôm bệnh viện của ông tiếp nhận một cô bé 8 tuổi mắc bệnh đau ruột thừa cần phải mổ cấp thời. Trước khi đưa em lên bàn mổ, viên bác sĩ căn dặn em rằng: “Này em, bệnh em cần phải mổ mới khỏi được. Em sẽ phải uống một liều thuốc mê để thiếp ngủ trong lúc tôi giải phẫu cho em”. Em bé này từ nhỏ đã được bà mẹ đạo đức huấn luyện có thói quen cầu nguyện: Mỗi tối trước khi đi ngủ, em đều quì gối trên giường đọc một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng và một kinh Sáng Danh. Rồi kết thúc bằng một lời nguyện tự phát cầu xin Chúa chúc lành cho cha mẹ và cho em qua đêm bằng yên. Do đó, khi nghe bác sĩ nói em sắp đi ngủ, em liền xin bác sĩ cho phép em được quì gối cầu nguyện và cuối cùng kết thúc bằng lời cầu tự phát như sau: “Xin Chúa chúc lành cho bác sĩ, cho con sớm được khỏi bệnh”. Vị bác sĩ giải phẫu cho em thuật lại rằng: chiều hôm đó ông đã cầu nguyện với Chúa thật sốt sắng, một việc mà sau ba mươi năm lãng quên nay mới lặp lại.
- SUY NIỆM:
+ Hôm nay Đức Giêsu mời chúng ta cứ xin, cứ tìm, cứ gõ và tin chắc rằng Chúa sẽ cho ta được toại nguyện, được nhìn thấy, sẽ mở cửa Nước Trời cho ta được vào. Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Người chỉ ban cho ta những điều tốt lành, những điều ích lợi thực sự cho ta và giúp ta được hạnh phúc đời đời. Thiên Chúa là Cha, nhưng Người không nuông chiều con cái, mà Người cắt tỉa cho chúng ta được nhiều hoa trái hơn.
+ Bạn cứ cầu xin, nhưng hãy để cho Người định liệu. Vì chỉ Người mới biết rõ điều nào tốt hơn cho ta. Nhiều khi chúng ta xin rắn mà không hay biết. Cũng có khi chúng ta tưởng Chúa cho chúng ta con bọ cạp. Cần có đức tin mới nhận ra rằng: Khi ta cầu xin là Chúa đã nhận lời ta, nhưng theo kiểu khác với điều ta nghĩ. Sau một thời gian, ta sẽ nhận ra mọi biến cố xảy tới trong đời ta đều là hồng ân Thánh Thần, đều đem lại ích lợi phần rỗi đời đời cho ta.
5) THẢO LUẬN: Gặp một người đau khổ, bạn nên khuyên giải họ dưới lăng kính đức tin như thế nào ? Khi bạn cầu xin những điều chính đáng mà Chúa lại không ban. Như vậy phải chăng không có thiên Chúa ? Trong hoàn cảnh tuyệt vọng, bạn sẽ cầu xin Cha thế nào noi gương Đức Giêsu trong vườn cây dầu (x. Lc 22,420 và trên thập giá (x. Lc 23, 46) ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. Con xin thú thật là con rất ít cầu nguyện. Con chưa cảm nghiệm được giá trị của cầu nguyện và thường tỏ ra ngần ngại khi phải đến nhà thờ dự lễ đọc kinh.
Lạy Chúa, Xin cho con noi gương Chúa: luôn sống trong tâm tình của một người con hiếu thảo. Con sẽ thích được hầu chuyện với Cha, sẽ lắng nghe lời Cha và vâng theo thánh ý Cha, chứ không lợi dụng Cha. Con sẽ cầu nguyện luôn chứ không chỉ đến với Cha trong khi quẫn bách. Xin cho con luôn cộng tác làm cho Nước Cha mau đến. Con sẽ cầu nguyện và phó thác cậy trông Cha ban ơn lành hồn xác cho con, nhất là ơn Thánh Thần, giúp con được hạnh phúc đời sau.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, Xin Mẹ giúp con luôn dâng lời cảm tạ Cha vì muôn ơn lành Cha đã ban cho con. Những ơn con thấy được và những ơn con chưa nhận ra. Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng. Con thường tỏ ra đau khổ khi cầu xin mà không được Chúa ban theo ý con, và quên rằng đời con luôn được bao bọc bằng ân sủng của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết dâng lời tạ ơn Chúa vì những ơn lành hồn xác Người đã thương ban. Xin cho con cũng biết tạ ơn Chúa những khi con xin mà Chúa vẫn làm ngơ. Trong trường hợp ấy, xin cho con nhận ra tình thương của Chúa: không muốn ban những gì có hại cho phần rỗi đời đời của con. Cũng có thể Chúa không ban vì muốn ban cho những ơn lớn lao hơn mà con chưa nhận ra. Xin cho con luôn vững tin vào tình thương của Chúa như đứa con thơ cậy trông phó thác dưới sự bao bọc chở che của cha mẹ.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Các môn đệ của Chúa Giêsu đã đi theo Chúa nhiều năm, các Ngài vẫn lúng túng trong việc cầu: TN 17-C41
Các môn đệ của Chúa Giêsu đã đi theo Chúa nhiều năm, các Ngài vẫn lúng túng trong việc cầu nguyện. Phải cầu nguyện làm sao ? Phải thưa với Bề Trên mình như thế nào ? Cầu nguyện có cần thiết không và tại sao phải cầu nguyện ? Những vấn nạn này, các môn đệ vẫn không sao giải đáp được. Do đó, một bữa kia, các Ngài xin Chúa Giêsu dậy các Ngài cầu nguyện. Chúng ta hãy lắng nghe Chúa Giêsu dậy các môn đệ của Ngài cầu nguyện, Chúa Giêsu khởi đầu bằng câu: ” Lạy Cha chúng con…”. Chúa đã xác lập mối tương quan giữa Ngài và Thiên Chúa Cha. Đây là mối tương giao giữa Cha và Con. Và đây cũng là tâm tình của người con thảo thân thưa, hàn huyên, trò chuyện cùng Thiên Cha: Đấng là Cha của mình.
MỐI TƯƠNG GIAO GIỮA BA NGÔI THIÊN CHÚA:
Đã nhiều lần Chúa Giêsu đi vào nơi vắng vẻ để cầu nguyện. Tin Mừng nhất lãm và Tin Mừng của thánh Gioan đã thuật lại những lần Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng, tĩnh lặng để cầu nguyện. Chúng ta không biết Ngài nói gì, nhưng có một điều chúng ta cảm nghiệm, Ngài trò chuyện thân mật cùng Cha của mình. Chúa Giêsu không đưa ra một mẫu, một mô thức nào về cầu nguyện. Nhưng chỉ nhìn các môn đệ, lắng nghe các Ngài cầu nguyện, chúng ta hình dung được lời cầu nguyện của Chúa Giêsu vì các môn đệ là phản ảnh lại con người của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu luôn muốn các môn đệ của Ngài cầu nguyện và sống lời cầu nguyện như chính Ngài đã sống. Chúa Giêsu luôn sống mối tình thâm giao với Chúa Cha, Ngài sống mật thiết với Chúa Ba Ngôi, Ngài dậy các môn đệ về mối tình phụ tử của Ngài với Thiên Chúa Cha và Ngài cũng đưa các môn đệ vào tình thân với Thiên Chúa Cha. Cha là nguồn sự sống, tuôn trào ơn huệ đến người con. Do đó, Chúa Giêsu không chỉ dậy: ” Xin cho danh Cha cả sáng, nước cha trị đến…” mà cả những nhu cầu rất thực tế, rất đời thường: ”Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Như thế, con người không chỉ xin cho được lương thực cần dùng hằng ngày, mà còn chia sẻ nhu cầu tâm linh, siêu nhiên:” Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
Lời dậy bảo, hướng dẫn của Chúa Giêsu cho các môn đệ cầu nguyện với kinh lạy cha đượm tình con thảo và hết sức thực tế, cụ thể cho mỗi người: tình phụ tử và tình người.
Chúa Giêsu quả thực sống rất nhân từ, hiền lành và khiêm tốn. Ngài luôn luôn muốn sự lành cho con cái, cho mỗi người. Vì thế, khi người con xin cá, chả lẽ người cha lại bắt rắn mà cho con sao ? Đối với Chúa Giêsu, Ngài là người cha nhân hậu, chạnh lòng nhân nghĩa vì thế lúc nào Ngài cũng ban sự lành cho con người, cho nhân loại.
LỜI CẦU CỦA KINH LẠY CHA BIẾN ĐỔI CON NGƯỜI:
Người kitô hữu được Chúa biến đổi qua bí tích rửa tội. Chúa mang ơn cứu rỗi cho loài người cho từng người. Thực tế, người Kitô hữu đã được biến đổi nhưng chưa hoàn hảo, họ cần phải cố gắng hằng ngày vì bao lâu con người còn sống ở trần gian, họ vẫn còn phải chiến đấu, chống lại cám dỗ, chống lại thử thách, gian nan và khó khăn do bảnchất yếu đuối, tội lỗi của con người. Chúa luôn mời gọi con người cộng tác với ơn Chúa để tẩy xóa con người, để thánh hoá bản thân, để càng ngày càng nên giống Chúa, để xứng đáng cầu nguyện kinh lạy cha mỗi ngày một tác dụng, mỗi ngày một tốt, một đẹp hơn. Lời kinh lạy cha của Chúa Giêsu dậy các môn đệ xưa và dậy cả nhân loại luôn có sức mạnh làm cho con người, làm cho nhân loại mỗi ngày một nên giống Thiên Chúa Cha nhờ Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu không muốn con người cầu nguyện chỉ dừng lại nơi những lời cầu xin, nhận lãnh mà Chúa còn xác lập mối tương quan Cha Con trên nền tảng căn bản của lòng mến. Chỉ trên tương quan tình yêu, lòng mến, người Kitô hữu mới có thể mạnh dạn, sốt sắng và tin tưởng đọc kinh lạy cha với tất cả đức tin sâu xa của mình.
Lạy Chúa, xin tiếp tục dậy chúng con kinh lạy Cha như Chúa đã dậy các môn đệ xưa.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Cầu nguyện là gì ?
2.Bạn hiểu gì về kinh lạy Cha ?
3.Abba, Cha ơi, nghĩa là làm sao ?
Năm 1998, khi tương quan Mỹ và Irac căng thẳng cực độ, Tổng thư ký Liên hợp quốc Koffi Anna đã: TN 17-C42
Năm 1998, khi tương quan Mỹ và Irac căng thẳng cực độ, Tổng thư ký Liên hợp quốc Koffi Anna đã tới Bagđad để thuyết phục Irac ký vào thoả ước hoà bình. Ong đã thành công, chiến tranh không xảy ra ở vùng Trung Đông. Khi trở về, phóng viên báo chí hỏi: Ông đã làm gì trước chuyến đi ? Ông trả lời rất chân thật: Tôi cầu nguyện suốt đêm.
Thân xác cần hơi thở để sống. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Qua đời sống cầu nguyện, sẽ có một cuộc gặp gỡ thân mật gần gũi giữa cá nhân với Chúa.
Không ít người sớm thất vọng vì cầu xin hoài mà không được. Có người cảm thấy chán nản, khó khăn, thiếu hứng thú, mất thời giờ khi cầu nguyện. Những hoạt động, những tiếp xúc với thế giới hữu hình vẫn luôn hấp dẫn so với thế giới vô hình, thành thử đời sống cầu nguyện ngày càng mờ nhạt.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện và cầu nguyện với tâm tình lắng nghe, đừng nhàm chán.
1. LỜI CẦU CỦA ABRAHAM.
Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và Tổ phụ Abraham như là lời nhắc nhở và mẫu gương của đời sống cầu nguyện: kiên tâm bền chí, khiêm nhường cậy trông và mở lòng với tha nhân. Vì muốn cứu hai thành phố đồi truỵ Sôđôma và Gômôra, Abraham đã dám mặc cả với Thiên Chúa. Ông khởi sự bằng việc xin đưa người lành ra khỏi thành trước khi lửa Trời rơi xuống.
Lời cầu của Abraham là cho người tội lỗi, để cứu người tội lỗi cần có người lành. Ông bắt đầu lý luận với Thiên Chúa: Chẳng lẽ Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao. Nếu có 50 người công chính trong thành họ cũng chết chung sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì 50 người công chính đang ở đó hay sao?
Một loạt câu hỏi được nêu lên để rồi cuối cùng đã kết bằng một lời thỉnh cầu: Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại người công chính cùng với kẻ dữ. Lời thỉnh cầu đó trở nên tha thiết, chân tình và đầy lòng khiêm tốn: Dù tôi chỉ là tro bụi tôi cũng xin thưa cùng Chúa, nếu trong số 50 người công chính đó lại thiếu vắng 5 người thì sao? Cuộc mặc cả đã đi từ con số 50 người lành xuống đến 45 rồi 40, 30, 20 và cuối cùng là 10. Chỉ cần 10 người công chính thôi tất cả mọi người sẽ được tha thứ, tiếc là 10 người cũng chẳng tìm ra !!!
Không hiểu sao Abraham không tiếp tục xin Chúa tha thứ cho dân thành nếu như không tìm được 10 công chính. Phải chăng vì ông cho rằng đây là con số nhỏ quá rồi so với con số quá lớn những người tội lỗi? Hay Abraham chưa hiểu thấu được chiều kích vô biên của lời cầu nguyện cũng như lòng thương xót bao la của Thiên Chúa?
Thiên Chúa luôn vui lòng trước lời cầu nguyện chân thành, bền bỉ và đầy lòng kính sợ của con người. Thiên Chúa thua con người với cầu nguyện. Chính Thiên Chúa đã phán trong sách Edêkien và Giêrêmia: nếu chỉ tìm được ở Giêrusalem một người biết giữ công lý, biết tìm sự thật, thì Người cũng sẽ tha tội cho thành. Lời khẳng định này thúc dục chúng ta cố gắng sống đời tốt lành để cầu xin và mang lại lợi ích thiêng liêng cho gia đình, cho quê hương, cho những người tội lỗi.
Hãy xin thì sẽ được, tìm sẽ gặp, gõ sẽ mở cho. Lời đoan hứa của Chúa Giêsu đã làm các Thánh vui sướng đến phát khóc. Đây là lời đoan hứa không phải riêng cho các Thánh mà là cho mọi người. Thiên Chúa yêu thương muốn ban mọi sự tốt lành cho tất cả, không phải vì tất cả đều tốt nhưng tất cả là con cái Ngài. Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta như thế: Các ngươi còn biết cho con mình những điều lành huống chi Cha các ngươi trên Trời !
2. ABBA, CHA ƠI !
Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Chúa Giêsu cầu nguyện. Có lẽ khi Người cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn toả ra, vì thế các ông cũng xin Người dạy cách cầu nguyện. Người đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, kinh duy nhất Chúa Giêsu dạy mà chúng ta đọc mỗi ngày nhiều lần. Kinh Lạy Cha mặc khải cho chúng ta điều quan trọng. Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Một người bạn có đứa con đầu lòng tâm sư: lần đầu tiên khi nghe đứa con gọi: Bố ơi, tôi bủn rủn cả chân tay, một luồng điện cực mạnh chạy khắp cơ thể, tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Quả thật. Mối liên hệ Cha - Con là một mối liên hệ rất thâm sâu huyền bí và thân thiết.
Gọi ai là cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ cha ta nhận được món quà tặng quý giá nhất đó là sự sống. Có những người cha không chỉ giúp con về mặt thể xác mà còn cho con một đời sống tinh thần. Đó là những người cha có nhân cách lớn, kiên trì đúc nặn nên những đứa con có tâm hồn cao đẹp, có lý tưởng, có tư cách làm người.
Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là cánh tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Từ ngữ “Cha” gợi lên một trời yêu thương vừa thân thiết, vừa huyền diệu.
Khi mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là Cha, Cha nhân loại, Đức Giêsu cho thấy:Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta vô cùng, muốn chúng ta đi vào tình nghĩa thâm sâu tha thiết với Cha. Vì thế, Người đã dạy tiếng “Abba” là tiếng gọi “Cha ơi”, rất thân thương của một đứa trẻ, vừa nũng nịu vừa tin tưởng phó thác mọi sự trong tay cha.
Mối quan hệ Cha - Con trở nên thân thiết chình là nhờ đời sống cầu nguyện. Cầu nguyện là một cuộc đối thoại, là nói và nghe. Vì thế, khi chúng ta đến với Chúa không phải bắt Chúa nghe những nhu cầu mình liệt kê mà cần một thái độ lắng nghe tiếng Chúa và sống theo ý Ngài.
Cầu nguyện không chỉ là cầu xin mà còn là tôn thờ, cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng. Chỉ có con người mới biết cầu nguyện như là lắng nghe và đáp lời Thiên Chúa. Được nói chuyện với một Đấng Siêu Việt mà lại gần gũi thân thương trong tình Cha Con thì thật là hạnh phúc lớn lao. Đó là nhờ cầu nguyện.
Cầu nguyện là việc rất cần và là việc rất dễ. Ước mong cuộc đời chúng ta là một lời cầu nguyện liên lỉ, kiên trì, một cuộc sống thân mật với Chúa mỗi ngày mỗi thắm đượm để nhờ đó nhịp cầu cầu nguyện nối chúng ta và Thiên Chúa thêm gần gũi trong tin yêu và hy vọng.
Con người ta càng ngày càng có nhiều nhu cầu, càng có nhiều phát minh để đáp ứng nhu cầu, nhưng: TN 17-C43
Con người ta càng ngày càng có nhiều nhu cầu, càng có nhiều phát minh để đáp ứng nhu cầu, nhưng tất cả những nhu cầu ấy đều phải giúp cho cuộc sống tâm linh của chúng ta tiến triển, bằng không, những nhu cầu ấy như những cây gai rậm rạp che khuất và làm ngộp thở đức tin của chúng ta.
Có những người nghèo đến gõ cửa người nhà giàu nhưng cánh cửa vẫn vô tri vô giác không nhúc nhích, mặc dù chủ nhân của nó là người có địa vị cao trong xã hội; có những người bệnh nghèo đến gõ cửa bệnh viện nhưng được câu trả lời của cô y tá phòng trực: hôm nay bác sĩ bận tiếp khách; có những em bé nghèo đi gõ từng bàn ăn của thực khách trong quán để xin miếng cơm thừa nhưng bị chủ quán cầm roi quát mắng đuổi đi… đó là những thực tại có thật xảy ra hằng ngày trong cuộc sống.
Và có những lúc chúng ta -người Kitô hữu- gõ cửa mà Chúa Giêsu không mở cửa, bởi vì chúng ta đã không mở cửa cho anh em; có những lúc chúng ta cầu xin mà không được là bởi vì chúng ta không mở cửa cho tha nhân; có những lúc chúng ta tìm mà không gặp vì chúng ta không mở cửa cho người hoạn nạn.v.v…
Gõ cửa là dấu hiệu có người đến nhà và cũng là tiếng của Chúa Giêsu gọi chúng ta, Ngài, vị Thiên Chúa mà chúng ta đang tiếp đón trong thân phận người ăn mày gõ cửa, sẽ làm cho hành động mở cửa của chúng ta có giá trị hơn, đó là không những Ngài bước vào trong nhà mà còn bước vào trong tâm hồn của chúng ta, để trong thân phận người nghèo, người bệnh hoạn, Ngài xin chúng ta rộng lòng giúp đỡ, và trong thân phận của một vị Thiên Chúa, Ngài ban ơn cho chúng ta.
Gõ cửa là hành động của hy vọng và tín nhiệm, khi cầu xin với Thiên Chúa là chúng ta đã gõ cửa lòng nhân ái của Ngài với tình yêu và tin tưởng của chúng ta. Cũng vậy, khi người nghèo, người bất hạnh, người cô thế hoặc bất cứ người nào chăng nữa, khi họ gõ cửa nhà chúng ta là họ đã tin và hy vọng rằng chúng ta sẽ giúp đỡ họ trong cơn hoạn nạn.
Thiên Chúa sẽ không mở cửa thiên đàng cho chúng ta nếu chúng ta không mở cửa nhà tiếp đón tha nhân, Thiên Chúa cũng sẽ không mở kho tàng ân sủng cho chúng ta nếu chúng ta không chia sẻ với tha nhân những gì mình đã nhận được từ Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
Mỗi ngày trong cuộc sống, chúng ta đã mở cửa nhà ban sáng và đóng lại vào ban đêm, chúng ta mở cửa để bắt đầu hòa vào cuộc sống với mọi người trong xã hội: người đi làm, kẻ thì đi học, người khác lại đi chơi. Nhà chúng ta cửa đã mở, nhưng tâm hồn chúng ta vẫn chưa mở ra để đón nhận tha nhân vào một ngăn nào đó trong tâm hồn của mình như Thiên Chúa đã đón nhận chúng ta vào trong tình yêu của Ngài.
Chúng ta gõ cửa kêu cầu với Thiên Chúa nhưng lại không mở cửa với tha nhân, chúng ta tìm Thiên Chúa khắp nơi nhưng Ngài đang đứng trước trước mặt và đứng bên cạnh chúng ta mà chúng ta không muốn thấy, chúng ta lớn tiếng đọc kinh cầu nguyện để Thiên Chúa nghe được lòng thành của mình nhưng lại giả điếc trước lời kêu cứu của người nghèo…
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mở lòng mình trước với tha nhân rồi sau đó hãy đến gõ cửa với Ngài, đó là ý chính của bài Tin Mừng hôm nay vậy…
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 17 thường niên tại nhà thờ Phục Sinh-Taiwan.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
“Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” Lc 11, 1-13
Trong kinh Lạy Cha, chính Chúa Giêsu đã dậy các môn đệ: “lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả: TN 17-C44
Trong kinh Lạy Cha, chính Chúa Giêsu đã dậy các môn đệ: “lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến.” Thật là một mẫu cầu nguyện mà chúng ta nhắc lại nhiều lần trong một ngày không những chỉ để xin ơn mà còn biết ca ngợi Cha nữa. Sau những lời tôn vinh, ca ngợi là gõ cửa nhà Cha để Cha ban cho lương thực thể xác đủ dùng kẻo “không có thực làm sao vực được đạo”?
Nhất là phần cầu xin là tin sẽ được, tìm sẽ gặp, hãy gõ sẽ mở cho, phải bền vững với điều mình xin. Không phải chúng ta xin một lần là bắt buộc Chúa phải cho, mà Chúa đưa ra ví dụ người đi vay mượn bánh ban đêm, hay hơn hết là đặc tính của Cha “con các là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người”.
Lời nguyện:
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, vì lời cầu của Chúa Giêsu trung gian ơn thánh, xin hãy ban Thánh Thần cho chúng con để luôn xin tuân hợp Thánh ý Chúa. Xin Chúa hãy rộng ban cho Giáo Hội của Chúa những ơn cần thiết để luôn luôn tuân hợp Chúa Thánh Thần tác động. Lạy Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, xin ban cho chúng con ơn siêng năng cầu nguyện: “vâng ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
Sau khi Chúa Giê-su cầu nguyện, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa Cha, Ngài đã dạy các: TN 17-C45
Sau khi Chúa Giê-su cầu nguyện, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa Cha, Ngài đã dạy các môn đệ và nhân loại Kinh Lạy Cha. Do đó, lời kinh nguyện mà Chúa Giê-su dạy mọi người phát xuất từ việc nguyện ngắm, chiêm niệm của Ngài. Đây là lời thân thưa của người con thảo, người Con Một yêu dấu đối với Cha trên Trời. Chúa không rào trước, đón sau, Chúa không đi từ những sự kiện này tới sự việc khác, khởi đầu Ngài nói với các môn đệ và thế giới hãy cất to lên câu: ”Lạy Cha chúng con...”
Chúa đã thiết lập mối tương quan giữa Ngài và Thiên Chúa Cha. Đây là mối giây vô cùng thắm thiết giữa Cha và Con. Và đây cũng là tâm tình của những người con ngoan hiền thân thưa, thân mật trò truyện, hàn huyên cùng Thiên Chúa Cha: Đấng là Cha của mình, Đấng là Abba, một tiếng gọi trìu mến, dễ thương và hết sức mật thiết của người con thảo đối với cha của mình. Điều này cũng rất thích hợp với anh chị em Dân Tộc Cơho khi họ dùng tiếng ”Bàp”: Cha đối với Cha ruột của họ, đối với Đấng thiêng liêng đã tạo dựng nên họ, đối với các vị lãnh đạo tôn giáo, những người đã giúp họ về mặt tâm linh.
LỜI KINH CẦU NGUYỆN CỦA CHÚA GIÊ-SU
Đọc lại Tin Mừng Nhất Lãm và Tin Mừng của Thánh Gio-an, chúng ta bắt gặp nhiều đoạn thuật lại việc Chúa Giê-su đi vào một nơi vắng vẻ, tĩnh mịch để cầu nguyện. Trước một biến cố quan trọng như chọn các môn đệ, làm phép lạ, trừ quỉ, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, Chúa Giê-su đều tạ ơn Thiên Chúa Cha và cầu nguyện, thân mật hỏi ý Thiên Chúa Cha. Đã có rất nhiều lần, Chúa Giê-su đi cầu nguyện, người ta không biết Ngài nói gì hay thưa gì với Thiên Chúa Cha, nhưng chỉ có một điều con người nghiệm ra được là Chúa kết hợp mật thiết với Cha của Ngài. Các môn đệ của Gio-an Tẩy Giả đã học cách cầu nguyện của Thầy mình. Và mỗi tôn giáo đều có cách cầu nguyện riêng.
Lời cầu nguyện giúp liên kết con người với Đấng mình tin tưởng. Do đó, các môn đệ xin Chúa Giê-su chỉ cách cho họ cầu nguyện vì sống bên Chúa họ chẳng biết phải cầu nguyện làm sao. Khi các môn đệ xin Chúa Giê-su chỉ cho họ cách cầu nguyện, Ngài dạy Kinh Lạy Cha cho ho, Ngài nói: ”Các con hãy cầu nguyện như thế này...” Chúa Giê-su không nói đến cách Ngài cầu nguyện, nhưng Ngài giới thiệu cho họ một lời nguyện cộng đoàn. Vì quả thực, không một người Do Thái nào thời Chúa Giê-su dám bạo dạn, dám liều lĩnh thưa với Thiên chúa Cha là ”Abba”, theo kiểu những trẻ nhỏ thưa với cha của các em là ”Bố ơi; Cha ơi !” Nếu bạo miệng lắm họ chỉ dám thưa: ”Abbi” nghĩa là “Thưa Cha“ hoặc ”Abbinou”, nghĩa là “Kính Cha chúng con”.
Họ chỉ có thể thưa như thế và chỉ dám thưa như thế. Tuy nhiên, Chúa phục sinh, Ngài ban Thần khí của Ngài cho nhân loại và cho mọi người được gọi Chúa là Cha, “Abba – Cha ơi !” Tiếng thưa ngọt ngào với Chúa là “Abba” muốn nói lên tất cả tấm lòng của người con thảo đối với Cha của mình. Lời Kinh Lạy Cha được Chúa Giê-su cất lên, các môn đệ và nhân loại lập lại sẽ không đi ra ngoài lòng ao ước: ”Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời” ( Lc 11, 2 và Mt 6, 9 – 10 ). Lời Kinh Lạy Cha tạo trong tâm hồn mọi người trái tim người con ngoan hiền, luôn đặt Chúa là mẫu mực, là trung tâm của mọi sự thánh thiện, luôn chú tâm đến sự tuyệt thánh của Cha hơn là lợi ích riêng của từng cá nhân.
KINH LẠY CHA VẪN LÀ LỜI CẦU NGUYỆN TUYỆT VỜI NHẤT
Kinh Lạy Cha luôn giúp con người hướng lòng lên Chúa. Từ khi Chúa Giê-su sống lại, lời Kinh Lạy Cha được đổi mới vì Nước Thiên Chúa đã có đó rồi, Chúa Giê-su luôn sống động, luôn hiện diện một cách thiêng liêng giữa nhân loại, giữa lòng thế giới, giữa mọi người. Do đó, khi sống với anh chị em Cơho, tôi có cảm nghiệm thật sâu sắc về Kinh Lạy Cha. Người Dân Tộc khi đã nhận biết Chúa, họ sống rất tốt, rất thực với Đạo họ đã tin theo. Xưa chưa tin vào Chúa, người Dân Tộc tin vào nhiều thần, đối với họ tất cả đều là thần, nhưng Vị Thần lớn nhất, cao nhất là Xơrơđèn – Thần Mặt Trời. Họ cúng tế là để kêu cầu thần đổ muôn ơn lành xuống cho họ. Tin vào Chúa rồi, người Dân Tộc say sưa cầu nguyện và có lòng tin đơn sơ, nhưng đầy lửa, cứ xem họ cầu nguyện với Kinh Lạy Cha – Ơ Bàp: “Ơ Bàp bol kòn, Đi ơm tăm trồ ( Lạy Cha chúng con, ở trên Trời )”.
Khi cầu nguyện, thái độ cung kính và cử chỉ khiêm tốn của người Dân Tộc gây ấn tượng rất mạnh nơi những người tham dự: mắt họ sáng quắc, hai tay chắp lại hoặc giơ tay cao lên trời, họ đọc to tiếng ”Ơ Bàp”, “Abba – Cha ơi”. Người Dân Tộc tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng dựng nên họ, Đấng luôn yêu thương họ. Nên, lời cầu nguyện của Chúa Giê-su xưa luôn được người Dân Tộc nằm lòng trên môi với tất cả lòng tin, cậy, mến. ”Đăn sơnđăn Đi geh pơniăm-goh,-gơnôăr Đi tus-nùs-kỡn Đi đê gơlik-gơs đơ tiăh bê tăm trồ” ( Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến ).
Một hôm, tôi dự một buổi cầu nguyện với người Dân Tộc, tôi hết sức cảm động và ngạc nhiên khi một cụ bà đọc lên lời cầu này: ”Lạy Cha là Cha chúng con ở trên cõi trời cao xanh, lâu nay chúng con sống trong u tối của bóng đêm bao trùm, mắt chúng con như bị mù lòa, giờ đây, chúng con được biết Cha, Đấng chúng con yêu mến như Ông tổ Xơrơđèn đã mến thương Dân Tộc chúng con, Cha đã đưa chúng con ra khỏi tối tăm, mù lòa mà ban cho chúng con ánh sáng của mặt trời để chúng con nhìn thấy mọi sự... Cha yêu chúng con còn hơn cả Thần Mặt Trời nữa, xin Cha hãy tiếp tục yêu thương chúng con”.
Tôi thật sự xúc động về lời cầu nguyện bộc phát của bà cụ già. Và tôi hiểu tiếng Cha quả mang lại một mối giây thật thân mật, thật thân thương giữa người con với người Cha hiền lành, nhân ái của mình. Tôi lại nghĩ tới lời Thánh Phao-lô xác quyết: ”Thần khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: ”Abba ! Cha ơi !” ( Rm 8, 15 ).
Với lời cầu nguyện trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su không chỉ dạy các môn đệ, nhân loại, mỗi người một cách xa rời thực tế, nhưng Ngài còn đi vào những việc rất thực tế đời thường: “...Lương thực hằng ngày”. Con người không chỉ xin Cha trên Trời ban cho lương thực hằng ngày, mà còn xin Cha chia sẻ cả những nhu cầu thiêng liêng, tâm linh: ”Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” ( Lc 11, 3 – 4 ).
Lời Kinh Lạy Cha của Chúa Giê-su đượm tình con thảo và hết sức thực tế, cụ thể cho mỗi người: tình phụ tử và tình người. Chúa Giê-su đã nói: ”Nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình của tốt, của lành, phương chi cha của anh em, Đấng ngự trên Trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người hay sao ?” ( Lc 11, 13 ). Vì thế, khi người con xin cá, chả lẽ người cha lại bắt rắn mà cho con sao ? Đối với Chúa Giê-su, Ngài là người Cha tốt lành, người mục tử nhân ái , do đó, lúc nào Ngài cũng ban sự lành cho mỗi người, cho mọi người và cho nhân loại. Lời Kinh Lạy Cha luôn là lời kinh tuyệt vời nhất vì nó phát xuất từ trái tim nhân hậu của Chúa Giê-su.
KINH LẠY CHA BIẾN ĐỔI CON NGƯỜI
Đọc kinh Lạy Cha tức là để Chúa Giê-su kêu lên ”Abba – Cha ơi !” trong lòng con người với sự thúc đẩy và tác động của Chúa Thánh Thần. Lời kinh Lạy Cha có sức biến đổi con người vì quả thực con người vẫn còn phải chiến đấu với ba thù để càng ngày càng trở nên hoàn thiện hơn nhờ ơn thánh của Chúa. Cầu nguyện với lời lẽ của Chúa Giê-su sẽ giúp con người được đổi mới, sẽ giúp mỗi người càng ngày càng trở nên giống Thiên Chúa Cha nhờ Chúa Giê-su Ki-tô. Điều này càng làm cho tôi xác tín hơn về cung cách và niềm tin của người Dân Tộc Cơho khi họ hoàn toàn tín thác vào Chúa, khi họ gọi Thiên Chúa là Cha của mình.
Tôi còn nhớ rất rõ một hôm trong lớp học Giáo Ly, một bé trai hỏi tôi: ”Thưa Cha ( Ơ Bàp ), sao Đạo Chúa lại gọi Chúa là Cha ?” Tôi ôn tồn trả lời em: “Đạo Công Giáo gọi Chúa là Cha vì Thiên Chúa yêu thương con người giống như người cha đối với đứa con ngoan hiền của mình. Chúng ta gọi Chúa là Cha vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho Dân Thánh theo đúng ý Thiên Chúa” ( Rm 8, 27 ). Rồi tôi nói em và cả lớp cùng đọc kinh Lạy Cha.
Sau đó, một em gái trạc 15 tuổi đã cầu nguyện tự phát như sau: ”Lạy Thiên Chúa ở trên cao, xa vời, chúng con không thấy Người được bằng mắt, không ngửi được bằng mũi, không sờ được bằng tay, nhưng chúng con tin Người ở gần chúng con và chúng con được gọi Người là Cha ( Ơ Bàp ) theo truyền thống người Dân Tộc chúng con, Cha gần gũi, cùng ăn cùng ở, cùng ngủ một giường, một sàn với chúng con. Cha đã làm cho chúng con trở nên men, muối cho mọi người. Cha đã cho chúng con lương thực là lúa gạo, khoai, mì, là cá, là mắm và cho chúng con trở nên những người con ngoan của núi rừng trùng điệp mà Cha đã dựng nên... Cha đã ban cho chúng con nhiều lúa, bắp để chúng con làm rượu cần mà uống để tưởng nhớ tổ tiên, tưởng nhớ Thần Mặt Trời là Đấng ban ánh sáng cho chúng con”.
Lời cầu nguyện bộc phát của bé gái Cơho có một cái gì đó thật gần gũi với lời cầu của Chúa Giê-su khi Ngài gọi Thiên Chúa là Cha của mình. Vâng, chỉ có tình yêu, lòng tin cậy thâm sâu vào con người của Chúa Giê-su, Đấng đầy lòng nhân ái, hay chạnh thương tha thứ mới thúc đẩy con người dạn dĩ thân thưa với Thiên Chúa ”Abba – Cha ơi” và xác lập mối tương quan Cha – Con trong lòng mến. Người Dân Tộc Cơho có lý khi họ gọi Thiên Chúa là Bàp Yàng ( Cha của thần ), gọi bố của họ là Bàp ( Cha ) và các Linh Mục ( bol Bàp, các cha ). Với tiếng Bàp ( Cha ), người Cơho một cách nào đó đã rất gần gũi với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên vũ trụ và dựng nên con người. Lạy Chúa Giê-su, xin tiếp tục dậy chúng con kinh “ Lạy Cha “ như Chúa đã dậy các môn đệ xưa.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ về sự cầu nguyện: TN 17-C46
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ về sự cầu nguyện. Vậy trước hết cầu nguyện là gì?
Như chúng ta đã biết cầu nguyện là dừng lại trong giây lát mọi băn khoăn lo lắng, để thưa chuyện với Chúa, để nâng tâm hồn lên hầu thờ lạy và cảm tạ Ngài, đồng thời kêu xin những ơn lành hồn xác.
Từ câu định nghĩa này chúng ta thấy cầu nguyện không phải chỉ là cầu xin, mà trước hết phải là chu toàn những bổn phận của con người đối với Thiên Chúa. Thế nhưng tại sao chúng ta lại phải cầu nguyện?
Trước hết, bởi vì chúng ta chỉ là những tạo vật của Thiên Chúa. Không có Ngài chúng ta không thể tồn tại. Hơn thế nữa, mục đích cuối cùng chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống hiện tại là tìm về quê hương Nước Trời. Muốn đạt tới mục đích cuối cùng ấy, thì ngay từ bây giờ chúng ta phải phụng sự và tôn vinh Ngài.
Đưa mắt nhìn vào vũ trụ, chúng ta nhận thấy từ một giọt sương mai cho đến các vì tinh tú, tất cả đều nói lên quyền năng Thiên Chúa khi tôn trọng những luật lệ mà Thiên Chúa đã an bài sắp xếp. Bởi đó người ta thường nói: Thiên nhiên là một cuốn sách mà mỗi trang của nó đều cho chúng ta được biết về Thiên Chúa. Và như vậy con người chúng ta, một tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa, lại càng phải ca tụng Ngài hơn nữa. Thế nhưng với trí khôn và ý muốn Thiên Chúa đã trao ban, tại sao chúng ta lại không nhận biết Ngài, lại không ca tụng Ngài?
Tiếp đến sở dĩ chúng ta phải cầu nguyện bởi vì Thiên Chúa là Cha chúng ta. Đây là điều mà chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ. Ngài nói: Khi cầu nguyện, các con hãy thưa lên: Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Thiên Chúa là một người Cha nhân từ, hằng yêu thương chăm sóc chúng ta. Nhờ Ngài, chúng ta mới có được những phương tiện vật chất; nhờ Ngài, chúng ta mới có được những khả năng phần hồn; nhờ Ngài, chúng ta mới có được ơn cứu độ... Vậy tại sao chúng ta lại không biết ơn và cảm tạ Ngài? Thiên Chúa lạ vị ân nhân vĩ đại. Ngài chờ đón nơi chúng ta một câu nói tuyệt vời: Lạy Chúa con yêu mến Chúa. Như vậy khi cầu nguyện, chúng ta bày tỏ niềm biết ơn cũng như tình yêu đậm đà của chúng ta đối với Ngài.
Người ta kể lại trong cuộc chiến tranh tại Algérie, có một viên sĩ quan người Pháp bị bắt làm tù bình. Suốt thời gian bị giam giữ, viên sĩ quan ấy luôn bị một tên lính Ả Rập rủa xả là đồ chó. Bực tức trước lời rủa xả ấy, viên sĩ quan đã lên tiếng:
- Tại sao ngươi lại chửi ta là đồ chó. Ta là một tù binh, điều đó đúng lắm, nhưng ta cũng là người như ngươi.
Tên lính Ả Rập nhìn viên sĩ quan một cách khinh bỉ và nói:
- Ngươi mà cũng đòi là người ư? Đã sáu tháng rồi, ta không hề thấy ngươi cầu nguyện, thế mà ngươi cũng dám mở miệng tự xưng là người hay sao? Là người mà không cầu nguyện cùng Thiên Chúa, thì cũng chỉ là đồ chó mà thôi.
Câu trả lời thật cứng cỏi nhưng cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ. Bởi vì người là một con vật có trí khôn. Với trí khôn chúng ta nhận biết có Thiên Chúa. Và một khi đã nhận biết có Thiên Chúa thì tại sao chúng ta lại không ca tụng Ngài.
Để kết luận tôi xin mượn lời sau đây của thánh nữ Jeanne d'Arc: Thiên Chúa phải được phục vụ trước nhất, có nghĩa là bổn phận cầu nguyện phải là bổn phận hàng đầu trong cuộc sống chúng ta.
Tục truyền rằng Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ Kinh Lạy Cha, Kinh của Chúa, trên núi cây: TN 17-C47
Tục truyền rằng Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ Kinh Lạy Cha, Kinh của Chúa, trên núi cây dầu. Tại đó ngày nay trong nguyện đường gọi là nguyện đường Kinh Lạy Cha, có bản kinh ghi khắc của các ngôn ngữ. Có bản kinh bằng tiếng Việt do tổng thống Ngô đình Diệm đã truyền cho ông đại sứ Việt Nam tại Ả-rập Sa-út thực hiện.
Phúc Âm để lại cho chúng ta hai bản Kinh Lạy Cha có ít chi tiết khác nhau; sự kiện này nói lên sự tự do của các thánh sử trong việc soạn thảo. Mỗi vị có cái nhìn riêng.
Thánh Mátthêu viết cho cộng đồng Do thái quen với lối cầu kinh chung, nên bản kinh (6,9-13) có tính cách cộng đoàn hơn, có âm điệu và đầy đủ hơn.
Thánh Luca viết cho dân ngoại dưới hình thức lời cầu nguyện cá nhân và tóm tắt hơn.
Tuy nhiên, cả hai bản kinh đều nêu lên hai ý tưởng chính sau đây: Chúa là Cha, Chúa hằng nhận lời con cầu xin, nên đừng ngã lòng, hãy trông cậy. Sau đó, Chúa dạy cho các môn đệ và cho chúng ta biết những đặc tính phải có trong khi cầu nguyện để được nhận lời.
Một là hãy cầu nguyện siêng năng và bền đỗ. Như thói quen, Chúa dùng dụ ngôn mô tả một người bạn đến quấy rầy một người bạn khác giữa đêm hôm, “con cái đã ngủ, cửa đã cài”. Nếu không vì tình bạn mà cho điều họ xin, thì ít là cho để khỏi bị quấy rầy.
Hai là hãy cầu nguyện với tất cả lòng trông cậy. Vì Thiên Chúa là Cha “và không ai có tâm tình một người Cha cho bằng Thiên Chúa” (Tertulianô). Chúa phán: “Hãy xin, hãy tìm, hãy gõ”, ba động từ như ba lệnh truyền lập đi lập lại. Đành rằng Chúa thông biết mọi sự, cần gì phải xin, phải tìm, phải gõ. Thánh Augustinô giải thích: “Hãy xin, Ngài sẽ cho. Nhưng điều Ngài cho, Ngài chưa cho ngay để càng làm tăng thêm ước muốn của chúng ta và làm tăng giá trị của Ngài ban cho”.
Đức tin làm nên phép lạ, lời cầu trông cậy phó thác có sức như một lệnh truyền. Thánh Cottolengo (1786-1842) trông coi một cô nhi viện trên 700 em. Giờ cơm trưa gần đến mà trong bếp nguội tanh không nấu nướng gì, vì ‘hết tiền, không có gì để nấu nướng’. Giờ gần đến, bà phước phụ trách đi hỏi thánh nhân. Cha Cottolengo bảo: Cho xếp hàng vào như thường lệ. Rồi Ngài đi cầu nguyện, báo động với Chúa. Bỗng dưng, có tiếng chuông phòng khách reo vang. Ba chú lính hỏa đầu quân của một tiểu đoàn hớt hả đến thưa: Xin cha nhận cho các em phần ăn của tiểu đoàn đi hành quân trắc trở không về kịp đúng hẹn!
“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
Và Chúa kết luận rằng Thiên Chúa hằng nghe lời ta xin, vì Người là Cha nhân từ, nên chúng ta có thể cầu xin với lòng trông cậy và bền đỗ. Lời cầu của chúng ta không làm cho Chúa phiền hà, trái lại Ngài vui mừng như “người cha già đón tiếp người con trở về”.
Trong mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người, điều nổi bất nhất là con người không ngừng lỗi: TN 17-C48
Trong mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người, điều nổi bất nhất là con người không ngừng lỗi phạm đến Thiên Chúa và Thiên Chúa không ngừng thứ tha cho con người. Nhưng suy nghĩ kỹ hơn, chúng ta có thể nói: cũng nhờ sự lỗi phạm ấy mà con người biết rõ hơn về Thiên Chúa và về chính bản thân mình: mình thì hết sức mỏng dòn và Thiên Chúa thì thật gần gũi và luôn thứ tha. Ước gì kinh nghiệm tâm linh này giúp mỗi người sống khiêm nhường, tin cậy phó thác hơn vào Thiên Chúa và và kiên trì hơn trong cầu nguyện. Trong lãnh vực quan trọng này, chúng ta có một vị tôn sư tuyệt vời là chính Chúa Giê-su. Hãy học với Người để biết cách cầu nguyện đẹp lòng Thiên Chúa và ích lợi cho bản thân mình.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: St 18,20-32: Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp.
20 Khi ấy ĐỨC CHÚA phán: "Tiếng kêu trách Xơ-đôm và Gô-mô-ra thật quá lớn! Tội lỗi của chúng quá nặng nề! 21 Ta phải xuống xem thật sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết."
22 Hai người kia bỏ nơi đó mà đi về phía Xơ-đôm, nhưng ĐỨC CHÚA còn đứng lại với ông Áp-ra-ham. 23 Ông lại gần và thưa: "Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? 24 Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao? 25 Ngài làm như vậy, chắc không được đâu! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao? " 26 ĐỨC CHÚA đáp: "Nếu Ta tìm được trong thành Xơ-đôm năm mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó."
27 Ông Áp-ra-ham lại nói: "Mặc dầu con chỉ là thân tro bụi, con cũng xin mạn phép thưa với Chúa: 28 Giả như trong số năm mươi người lành lại thiếu mất năm, vì năm người đó, Ngài sẽ phá huỷ cả thành sao? " Chúa đáp: "Không! Ta sẽ không phá huỷ, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người." 29 Ông lại thưa một lần nữa: "Giả như trong thành tìm được bốn mươi người thì sao? " Chúa đáp: "Vì bốn mươi người đó, Ta sẽ không làm."
30 Ông nói: "Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp: Giả như ở đó có ba mươi người thì sao? " Chúa đáp: "Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không làm." 31 Ông nói: Con xin mạn phép thưa với Chúa: "Giả như tìm được hai mươi người thì sao? " Chúa đáp: "Vì hai mươi người đó, Ta sẽ không phá huỷ." 32 Ông nói: "Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần này nữa thôi: Giả như tìm được mười người thì sao? " Chúa đáp: "Vì mười người đó, Ta sẽ không phá huỷ Xơ-đôm."
(2) Bài đọc 2: Cl 2,12-14: Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Chúa Ki-tô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta.
12 Thưa anh em, anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. 13 Trước kia, anh em là những kẻ chết vì anh em đã sa ngã, và vì thân xác anh em không được cắt bì, nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Ki-tô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta.
14 Người đã xoá sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã hủy bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá.”
(3) Bài Tin Mừng: Lc 11,1-13: Anh em cứ xin thì sẽ được.
1 Một hôm Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông." 2 Người bảo các ông: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: "Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, 3 xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; 4 xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ."
5 Người còn nói với các ông: "Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: "Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, 6 vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả"; 7 mà người kia từ trong nhà lại đáp: "Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được? 8 Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.
9 "Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. 10 Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. 11 Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? 12 Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? 13 Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao? "
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (St 18,20-32) là tường thuật về một cuộc “điều đình” rất sống động của tổ phụ Áp-ra-ham với Thiên Chúa để cứu thành Xô-đô-ma tội lỗi. Tác giả Thánh Kinh Híp-ri trình bày cuộc điều đình giống một cuộc “mặc cả” giữa hai đối tác làm ăn. Thật ra đó là một cuộc đối thoại thân mật giữa Áp-ra-ham và Gia-vê Thiên Chúa.
Qua đoạn Sách St 18,1-10a chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng rất dễ thương và gần gũi đến nỗi Thiên Chúa chấp nhận cho Áp-ra-ham mặc cả với Người khi kiên trì tìm hết mọi cách để cứu vót những con người và thành phố tội lỗi. Thiên Chúa cư xử như vậy vì thật lòng Thiên Chúa chẳng muốn một tội nhân nào phải hư mất!
(2) Bài đọc 2 (Cl 2,12-14) là những lời của Thánh Phao-lô giúp chúng ta nắm bắt lý do tại sao chúng ta có thể tin tưởng một cách tuyệt đối vào Thiên Chúa: đó là những ân ban mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta: ơn được cùng chết và cùng sống lại với Chúa Ki-tô, ơn được thứ tha mọi tội lội và thiếu sót.
Trong đoạn thư gửi tín hữu Cl 2,12-14 chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng ban ơn và thứ tha. Ơn được cùng sống và cùng chết với Chúa Ki-tô, ơn được thứ tha mọi lỗi lầm, sa ngã.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 11,1-13) là tường thuật của Lu-ca về việc Chúa Giêsu dậy các môn đệ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha và về sự tin tưởng và kiên trì cần có trong cầu nguyện.
Về kinh Lạy Cha, Tin Mừng Lu-ca nêu lên hai điều cầu xin liên quan tới Thiên Chúa và ba điều khác liên quan tới con người. Hai điều cầu xin liên quan tới Thiên Chúa là: “danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến”. Ba điều cầu xin liên quan tới con người là: “ngày nào có lương thực ngày ấy, được tha tội và không bị sa chước cám dỗ".
Về sự tin tưởng và kiên trì trong cầu nguyện thì Chúa Giê-su vừa giảng giải vừa đưa ra thí dụ cụ thể để thuyết phục người nghe xác tín hơn vào Lời Chúa, tin tưởng hơn vào lòng quảng đại của Thiên Chúa.
Qua Bài Phúc Âm Lc 11,1-13 chúng ta khám phá ra Chúa Giê-su là Thày Dạy về Cầu Nguyện. Theo giáo huấn và gương sáng của Người thì chúng ta phải quan tâm đến những gì có liên quan tới Thiên Chúa trước, và những gì liên quan tới chúng ta sau. Thế mới là cách sống của người con thảo hiếu đối với Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Chúng ta còn phải tin tưởng, phó thác và kiên trì trong cầu nguyện nữa, cậy dựa vào lời khẳng định chắc nịch của chính Chúa Giê-su: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho”.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay được gói gọn trong lời này: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho”.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Lời Chúa hôm nay mời tôi nhìn lại đời sống cầu nguyện của mình:
- Tôi có biết cầu xin cho “danh thánh Cha vinh hiển, triều đại cha mau đến” và tôi có biết cầu xin ơn tha tội, ơn không sa chước cám dỗ hay tôi có chỉ biết cầu xin những điều cần thiềt cho đời sống vật chất của mình mà thôi không?
- Tôi có tin tưởng phó thác và kiên trì trong cầu nguyện không?
IV. CẦU NGUYỆN (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
4.1 Chúa Giê-su bảo các môn đệ: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: "Lạy Cha". Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con hạnh phúc được làm con cái của Chúa. Chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã dựng nên chúng con, cho chúng con được làm con cái Chúa trong Hội Thánh. Xin Chúa giúp chúng con trở nên những người con hiếu thảo của Chúa và của Hội Thánh.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 Chúa Giê-su bảo các môn đệ: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: "Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”. Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con hạnh phúc được làm con cái của Chúa. Chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã dựng nên chúng con, cho chúng con được làm con cái Chúa trong Hội Thánh. Xin Chúa hãy dùng chúng con như công cụ làm cho danh thánh của Chúa được rạng ngời trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội của chúng con.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 Chúa Giê-su bảo các môn đệ: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: "Lạy Cha, xin làm cho Triều Đại Cha mau đến”. Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con hạnh phúc được làm con cái của Chúa. Chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã dựng nên chúng con, cho chúng con được làm con cái Chúa trong Hội Thánh. Xin Chúa hãy dùng chúng con như công cụ làm cho Triều Đại Chúa mau đến trên quê hương Việt Nam và trên toàn thế giới.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.4 Chúa Giê-su bảo các môn đệ: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: "Lạy Cha, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy”. Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con hạnh phúc được làm con cái của Chúa. Chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã dựng nên chúng con, cho chúng con được làm con cái Chúa trong Hội Thánh. Xin Chúa ban cho chúng con một cuộc sống no đủ về vật chất cũng như về tinh thần để chúng con có điều kiện phụng sự Chúa và giúp ích cho nhiều người.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.5 Chúa Giê-su bảo các môn đệ: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: "Lạy Cha, xin tha tội cho chúng con". Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con hạnh phúc được làm con cái của Chúa. Chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã dựng nên chúng con, cho chúng con được làm con cái Chúa trong Hội Thánh. Xin Chúa đoái thương đến thân phận tỗi lỗi của chúng con mà thứ tha và cứu chuộc chúng con.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.6 Chúa Giê-su bảo các môn đệ: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: "Lạy Cha, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ". Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con hạnh phúc được làm con cái của Chúa. Chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã dựng nên chúng con, cho chúng con được làm con cái Chúa trong Hội Thánh. Xin Chúa đoái thương đến thân phận yếu đuối mỏng dòn của chúng con mà ngăn ngừa và hỗ trợ để chúng con không bị sa chước cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.7 Chúa Giê-su bảo các môn đệ: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho”. Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su và của chúng con, chúng con hạnh phúc được làm con cái của Chúa. Chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã ban cho chúng con Chúa Giê-su là Tôn Sư về cầu nguyện. Chúng con xin dâng lên Chúa lòng trông cậy phó thác và kiên trì của chúng con .
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Người Hồi giáo nói về sự sốt sắng cầu nguyện bằng một câu chuyện như sau: Có một ông vua: TN 17-C49
Người Hồi giáo nói về sự sốt sắng cầu nguyện bằng một câu chuyện như sau:
Có một ông vua vào rừng săn bắn. Chiều xuống, khi tới giờ cầu nguyện, ông trải tấm thảm trên mặt đất, rồi hướng về phía tây và phủ phục cầu nguyện theo cung cách của người Hồi giáo.
Giữa lúc ông đang chìm đắm trong sự cầu nguyện, thì có một người đàn bà hối hả chạy vào rừng. Số là chồng bà đã ra đi từ sáng sớm mà đến giờ này vẫn chưa thấy trở về. Bà ta sợ có điều chi không lành xảy đến cho chồng nên vội chạy vào rừng để tìm kiếm. Trong cơn hốt hoảng, bà ta không nhìn thấy có người đang phủ phục cầu nguyện. Bà bước qua người ấy mà không hề hối hận để nói lên lời xin lỗi.
Nhà vua cảm thấy bị xúc phạm nặng nề, nhưng ông cũng gắng gượng để tiếp tục cầu nguyện theo đúng luật dạy. Khi ông cầu nguyện xong thì người đàn bà cũng trở lại chỗ cũ, cười nói vui vẻ bên cạnh ông chồng. Bà cuống quýt khi nhận ra rằng người mà bà đã bước qua trong cơn hốt hoảng chính là nhà vua. Nhà vua cho gọi người đàn bà đến và ra lệnh trị tội vì đã tỏ ra bất kính đối với ông.
Thế nhưng, không một chút sợ hãi, bà đã nói như sau:
- Tâu bệ hạ, thần bị cuốn hút trong sự suy nghĩ về người chồng đến độ đã không nhìn thấy bệ hạ, nên đã bước qua. Hạ thần nghĩ rằng, bệ hạ đang cầu nguyện, thì tâm trí của bệ hạ cũng phải cuốn hút trong sự suy nghĩ về Thượng đế, lẽ nào bệ hạ còn lòng trí biết đến hạ thần và những cử chỉ nhỏ nhoi của hạ thần.
Nhà vua lấy làm xấu hổ vì sự việc xảy ra. Ông nhìn nhận rằng: Tuy không phải là một bậc thầy trong đạo, nhưng người đàn bà này đã dạy cho ông về sự chuyên tâm trong việc cầu nguyện.
Trong giây phút này, khi đến nhà thờ cầu nguyện và dâng thánh lễ, có lẽ chúng ta cũng hành động như ông vua, có nghĩa là chúng ta chưa cuốn hút vào trong tâm tình cầu nguyện. Xác chúng ta ở trong nhà thờ, nhưng tâm hồn chúng ta còn phiêu bạt tận đâu đâu. Một tiếng động nhỏ ở bên ngoài cũng đủ làm cho chúng ta chia trí. Rồi thì trong đầu óc, chúng ta mơ tưởng, chúng ta nghĩ đến hết chuyện này tới chuyện kia. Ấy là tôi chưa nói tới những người cố tình nói chuyện, chọc phá, nô dỡn, chẳng để tâm vào sự cầu nguyện một chút nào.
Giả sử như có một vị khách quí tới thăm nhà. Thế nhưng mọi người trong nhà đều bận rộn chuyện này chuyện kia, chẳng ai nói được một lời với vị khách quí ấy ? Chúng ta nghĩ thế nào về thái độ này. Theo tôi, thì đó là một thái độ thiếu tế nhị, thiếu lịch sự, và chắc chắn sẽ làm cho vị khách quí buồn lòng.
Thế nhưng đối với Chúa, chúng ta lại thường xuyên cư xử như thế. Chúng ta tham dự thánh lễ, hay đọc kinh cầu nguyện cho qua lần đoạn lượt, mà chẳng có một chút tâm tình bên trong. Chính vì thế, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì sự khô khan nguội lạnh, vì sự thờ ơ sao lãng của chúng ta.
Đồng thời, như các môn đệ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa dạy cho chúng ta biết cầu nguyện và nhất là xin Chúa dạy cho chúng ta biết cầu nguyện một cách chuyên tâm và sốt sắng.
Đức Giêsu đem một sứ điệp đến cho chúng ta. Trọng tâm sứ điệp là giáo huấn của Người về: TN 17-C50
Đức Giêsu đem một sứ điệp đến cho chúng ta. Trọng tâm sứ điệp là giáo huấn của Người về Thiên Chúa. Không ai biết được Thiên Chúa ngoại trừ Đấng từ Thiên Chúa mà đến. Thiên Chúa hằng hữu, quyền năng vô cùng, chi phối mọi khởi sự cũng như mọi cùng tận, là Chúa tể tối cao điều khiển mọi vận mạng, không ai biết được Thiên Chúa nếu chính Thiên Chúa không mặc khải cho. “Không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Lc 10,22). Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết về danh thánh Thiên Chúa và cách nói với Thiên Chúa. Các môn đệ hỏi Chúa phải cầu nguyện thế nào. Các ông được Chúa dạy cho Kinh Lạy Cha. Bài đọc hôm nay chỉ dẫn đầy đủ về giá trị kinh nguyện phải có. Lời cầu xin phải bày tỏ lòng tin tưởng thiết tha trong bầu khí thân thiết, hiếu thảo. Thân mật, nhưng phải có thái độ thờ phụng từ trong thâm tâm biểu lộ ra ngoài, điều ấy cần được chúng ta nhấn mạnh. Khi cầu nguyện, Kitô hữu trước hết ước nguyện: “Lạy Cha, ước gì danh Cha hiển thánh”. Vậy thờ phụng cách hiếu thảo là gì?
1) Cầu nguyện, trước hết là ý thức về tầm chính xác của mình trước mặt Thiên Chúa. Thế mà đối với Thiên Chúa toàn thể vũ trụ nhỏ hơn một giọt nước trong lòng đại dương. Kẻ thờ phụng dành tất cả tâm hồn mình cho Thiên Chúa. Điều gì biện minh cho thái độ ấy? Thật ra con người ý thức rất rõ mình có khả năng suy nghĩ, hành động, có cả quyền năng nữa. Lẽ nào chỉ vì Thiên Chúa quyền năng vô cùng mà chúng ta phải nhượng bộ tất cả cho Thiên Chúa ư? Thờ phụng, trước hết không phải là sự quy phục của lương tri trước Đấng có quyền năng hơn con người. Thờ phụng là thái độ lương tri tự do muốn nhìn nhận sự thật. Vậy mà sự thật chính là Thiên Chúa hằng hữu, quyền năng vô biên, Đấng vô cùng tận. Thờ phụng là nhìn nhận sự thật ấy. Điều biện minh cho thờ phụng chỉ xuất phát từ sự thật mà thôi. Vì lẽ có nhìn nhận sự thật, con người mới có được phẩm giá; trong sự thờ phụng, tức là trong sự nhìn nhận sự thật, con người tìm ra tầm mức phẩm giá của mình.
2) Sự thờ phụng của Kitô hữu đậm tình hiếu thảo vì lẽ, nhờ lời giảng dạy của Đức Kitô, Kitô hữu biết rằng Thiên Chúa là Cha. Sở dĩ tâm tình chúng ta thành thật và trong sạch vì giữ được thực chất của nguồn mạch. Phân tích tới cùng, chúng ta thấy nguồn mạch là Thiên Chúa, Đấng tạo thành chúng ta, Cha chúng ta. Đọc lên câu “Lạy Cha, ước gì danh Cha hiển thánh”, chúng ta ý thức, thừa nhận, tuyên xưng Thiên Chúa là sự Tuyệt Đối, đồng thời là Cha mình. Tâm tình ấy phù hợp với sự thật sâu sắc dâng lên trong tâm hồn như một ngọn suối, do chính Đức Giêsu khởi lên. Khi chúng ta thốt ra tiếng “Lạy Cha”, chúng ta phát ra một lời nói tự do và hiếu thảo biểu lộ sự thật tha thiết nhất trong chúng ta. Chúng ta biểu lộ con người đích thật của mình khi thưa với Thiên Chúa: Lạy Cha. Ai cũng biết, chính sự thật đem lại ơn cứu độ…