Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa; Phares sinh (bởi bà Thamar) và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít. Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon. Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu. - Ðó là Lời Chúa.
Phúc Âm: Lc 2,1-14 "Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai. Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán. Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ". Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm". - Ðó là Lời Chúa.
Phúc Âm: Lc 2,15-20 "Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: "Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết". Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ. Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ. - Ðó là Lời Chúa.
Phúc Âm: Ga 1,1-18 {hoặc 1-5.9-14} "Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta".
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy. Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng. Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng. Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra. Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý. Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi". Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta. - Ðó là Lời Chúa.
Lm. Giuse Nguyễn Ta quen nhau đã bao lâu rồi” mà tại sao “Giọt buồn hoài vương trên môi mặn đắng?” Thưa GS-401
“Ta quen nhau đã bao lâu rồi” mà tại sao “Giọt buồn hoài vương trên môi mặn đắng?” Thưa bởi vì tình yêu đó mãi là giấc mơ. Vì vậy tác giả van xin “Này mùa đông ơi xin hãy làm tuyết rơi” Để làm chi? “Để chắn lối em anh về”, để cho em vì lạnh quá nên cần đến anh. Trong giấc mơ của nhạc sĩ Tiến Minh, mùa đông, nơi tuyết rơi là “nơi tình yêu bắt đầu”,vì nơi đó người ta cần đến nhau, người ta gặp gỡ nhau, người ta trao cho nhau hơi ấm để xóa tan giá lạnh của mùa đông.
Giáng Sinh năm nay, miền Nam Việt Nam thực sự cảm nhận được một mùa đông, vì lâu lắm rồi mới có cái lạnh đến xé da cắt thịt trong mùa Giáng Sinh. Trong mùa đông này chúng ta sống lại câu chuyện tình cách đây hơn 2000 năm tại cánh đồng Bêlem. Có thể nói Bêlem là “nơi tình yêu bắt đầu”, vì ở đó “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14a).
Thế nhưng “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga1, 11). Tình yêu đã được trao ban, nhưng con người đã từ khước. Vì con người từ khước Tình Yêu nên Con Thiên Chúa mới giáng sinh trong hang bò lừa giữa trời đêm đông giá rét, nơi cánh đồng hoang vắng. Vì con người từ khước Tình Yêu nên thánh Giuse phải dẫn Đức Maria bồng Hài Nhi Giêsu trốn sang Ai Cập để trốn sự truy sát của vua Hêrôđê. Sau cùng, vì từ khước Tình Yêu mà con người đã đóng đinh Đức Giêsu trên thập giá. Vì vậy có thể nói đối với một số người “nơi tình yêu bắt đầu” cũng là chỗ tình yêu kết thúc. Kết thúc vì sự ích kỷ, ghen tuông, cố chấp của con người.
Thời tiết ở Việt Nam năm nay lạnh hơn mọi năm, nhưng xã hội Việt Nam ngày càng nóng hơn bởi những vụ án khủng khiếp. Nào là bà giết cháu vì mê tín dị đoan ở Thanh Hóa, vợ chồng xung đột dẫn đến bạo lực và hậu quả là vợ giết chết chồng ở Bình Dương ; nào là nhiều vụ trẻ em bị bạo hành ở khắp nơi ; nhiều vụ học sinh đánh nhau một cách dã man; chưa kể đến hàng loạt vụ án tham ô, chiếm đoạt tài sản mà phạm nhân là những lãnh đạo cấp cao… Cái nóng của xã hội đó càng làm cho tâm hồn thêm lạnh, vì thay vì tình yêu bắt đầu để sưởi ấm con tim, thì nó đã kết thúc bởi sự vô cảm của con người.
Trong y học không có bệnh vô cảm. Đó là căn bệnh của cách hành xử, căn bệnh của lối sống. Lời dạy của cha ông ta “Thương người như thể thương thân”từ lâu đã trở thành đạo lý của người Việt Nam. Tính nhân văn, lòng nhân ái phải là ngọn lửa sưởi ấm, là ánh sáng trong cuộc đời mỗi con người, mỗi gia đình cũng như toàn xã hội. Thế nhưng ngày nay, bên cạnh nhiều nét đẹp vẫn luôn hiện hữu trong cuộc sống của chúng ta với những con người luôn biết cống hiến, đồng cảm, chia sẻ, cưu mang, giúp đỡ người khác, thì cũng có không ít kẻ sống ích kỷ, vô trách nhiệm, vô cảm, vô đạo đức. Vô cảm chính là sự trơ lì cảm xúc, dửng dưng, thờ ơ, “máu lạnh” với những hiện tượng đời sống xung quanh, chỉ quan tâm đến quyền lợi của bản thân. Ra đường gặp cái đẹp không mảy may rung động; gặp cái tốt không ủng hộ; thấy cái xấu, cái ác không dám lên án, không dám chống lại…
Điểm nóng đó cũng đã ảnh hưởng đến đời sống gia đình, làm cho biết bao những gia đình phải tan vỡ hoặc gặp rất nhiều khó khăn. Thật trớ trêu khi những điểm nóng của xã hội lại làm cho gia đình lạnh tanh, rét buốt. Tiếp tục quan tâm đến đời sống gia đình, Giáo hội Việt Nam đã chọn chủ đề cho năm 2018 là “Đồng hành cùng các gia đình trẻ”; để giúp họ hiểu rằng: “hôn nhân là một hành trình dài, trong đó mỗi người phải gạt đi những ảo tưởng để đón nhận bạn đời của mình như họ là, cùng nhau nên hoàn thiện hơn mỗi ngày; hành trình này đòi hỏi sự kiên nhẫn, hiểu biết, hy sinh và quảng đại”. Nói tóm lại khi người ta biết yêu thương, biết quan tâm, biết mưu cầu hạnh phúc cho người khác thì chính tâm hồn của họ sẽ hạnh phúc, và gia đình, xã hội cũng sẽ hạnh phúc.
Mặc dù có vài nơi, vài người tình yêu đã kết thúc, nhưng rất nhiều người, rất nhiều nơi lấy mầu nhiệm Giáng Sinh làm “nơi tình yêu bắt đầu”. Ngày xưa các mục đồng là đại diện cho những người nghèo đã ấm lòng hơn khi đến kính viếng Hài Nhi Giêsu và chắc chắn chính họ đã loan truyền việc “một hài nhi giáng sinh”cho những người dân trong vùng. Các đạo sĩ phương đông cũng đã đến bái lạy Hài nhi Giêsu nhờ ngôi sao lạ, và khi trở về đất nước mình, chắc chắn họ cũng đã loan báo tin vui đó. Vì vậy mầu nhiệm Giáng sinh là nơi tình yêu bắt đầu.
Mùa Giáng sinh năm nay, mỗi người, mỗi gia đình chúng ta cũng hãy trở thành“nơi tình yêu bắt đầu” khi chúng ta cảm nhận được cái lạnh của thời tiết, cái lạnh của tâm hồn để chúng ta khắc phục bằng ngọn lửa tình yêu. Nhờ cái lạnh của thời tiết mà chúng ta thấy được có nhiều người già và trẻ em, nhiều gia đình khó khăn đang cần hơi ấm. Hãy bắt đầu bằng việc yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ cho những người nghèo đang sống chung quanh chúng ta. Nhờ cái lạnh của tâm hồn mà chúng ta thấy được đời sống gia đình đang rất cần sự thông cảm, tha thứ để nâng đỡ cho nhau. Hãy bắt đầu bằng việc có thiện chí để giải quyết những xung đột trong gia đình. Hãy cho nhau những cơ hội để sửa sai, để làm lại từ đầu,… Khi mọi người biết cho nhau tình yêu thương thì đó là “nơi tình yêu bắt đầu”, vì người ta sống để yêu và yêu để sống.
Xin tình yêu Giáng Sinh trong năm nay trở thành nơi bắt đầu để tình yêu chúng con được lan tỏa khắp nơi, và đó là liều thuốc để chữa trị căn bệnh vô cảm trong gia đình, trong xã hội hôm nay.
Vào đêm Chúa giáng sinh tại Belem, những mục đồng thức đêm canh giữ đàn vật được sứ thần GS-402
Vào đêm Chúa giáng sinh tại Belem, những mục đồng thức đêm canh giữ đàn vật được sứ thần đến báo tin. Họ đã vội vã đến xem, như lời hướng dẫn của sứ thần. Điều họ thấy, không phải là một vị vua quyền uy sang trọng, chẳng phải là một vị thần hiển linh huy hoàng, mà đơn giản chỉ là một trẻ thơ, bọc trong chiếc tã và nằm trong máng cỏ. Những người chăn chiên đơn sơ chất phác này đã nhận ra Hài Nhi ấy là Đấng Cứu thế, và đã tôn vinh Thiên Chúa.
Mỗi mùa Giáng sinh, chúng ta lại đến chiêm ngưỡng hang đá máng cỏ, là biểu tượng nhắc nhớ chúng ta về sự kiện lịch sử này. Cũng như những mục đồng thuở xưa, chúng ta không thấy nơi hang đá một vị vua quyền uy sang trọng, cũng không thấy một vị thần hiển linh huy hoàng. Điều chúng ta chiêm ngắm và suy niệm, đó vẫn là một hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu ngự nơi đây để dạy chúng ta bài học về sự khiêm nhường của Thiên Chúa.
Trong bài Tin Mừng, Thánh Gioan đã dẫn chúng ta về cội nguồn của Ngôi Lời. Người là Đấng vô thủy vô chung, là Đấng hiện hữu từ ban đầu, là Nguyên lý sáng tạo muôn loài muôn vật, và là Ánh Sáng chiếu soi trần thế. Sau khi đã khẳng định những điều đó, tác giả nói với chúng ta: “Ngôi Lời đã làm người và ở với chúng ta”. Vâng, Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ, chính là Con Thiên Chúa nhập thể. Ngôi Lời đã hóa thành người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa có thể cứu chuộc con người bằng nhiều thể nhiều cách, nhưng Ngài đã chọn con đường nhập thể để chứng tỏ tình thương của Ngài đối với nhân loại. Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó khi ngỏ lời với ông Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Trong suốt bề dày lịch sử nhân loại và lịch sử cứu độ, Thiên Chúa vẫn thể hiện sự khiêm nhường của Ngài. Khi sáng tạo mọi sự từ hư vô, Thiên Chúa giống như nước thủy triều, tự thu mình lại để nhường chỗ đất khô cho con người có nơi ở. Khi ký kết giao ước với con người (Abraham, Môisen), Thiên Chúa hạ mình, trở nên đối tác của con người. Qua những giao ước đã ký kết, Thiên Chúa tự ràng buộc mình phải tuân giữ những điều đã hứa. Ngài luôn trung thành với giao ước, mặc dù có những lúc con người bất trung.
Tác giả thư Do Thái (Bài đọc II) đã khẳng định với chúng ta: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ. Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử”. Với mầu nhiệm Giáng sinh, mối tương quan giữa Thiên Chúa với nhân loại đã sang một trang sử mới. Tác giả gọi đây là “thời sau hết”. Điều đó có nghĩa, thế gian không còn phải đợi chờ đấng cứu độ nào khác, ngoài Đức Giêsu, Đấng Thiên sai mà Chúa đã hứa từ ngàn xưa.
Sự khiêm nhường của Thiên Chúa còn được thể hiện trong suốt cuộc đời dương thế của Đức Giêsu. Là Thiên Chúa cao cả, Người đã sống thân phận con người như chúng ta. Người cũng mệt mỏi khi đi đường xa, buồn giận khi con người cứng lòng, thương xót rơi lệ trước nỗi thống khổ của con người. Đức Giêsu trở nên giống chúng ta mọi đàng để cảm thông và chia sẻ những trăn trở âu lo trong cuộc sống của chúng ta. Ngày hôm nay, Người vẫn đang hiện diện trong cuộc đời, để tiếp tục đồng hành, nâng đỡ và an ủi chúng ta trong chốn khách đày này.
Con Thiên Chúa làm người để dạy chúng ta bài học khiêm nhường. Hài Nhi trong hang đá máng cỏ khẳng định với chúng ta: sống trên đời, trước khi làm ông nọ bà kia, hãy LÀM NGƯỜI. Quả thật, có người đỗ đạt bằng cấp, học hành uyên thâm, nhiều chức tước bổng lộc và quyền hành, mà không khởi đi từ làm người. Họ cậy quyền cậy của để sống gian dối, trụy lạc, ích kỷ. Vì thế, họ giàu có mà không hạnh phúc, tiệc tùng suốt ngày mà không vui, bổng lộc nhiều mà không đủ lấp đầy khát vọng. Làm người có nhân có nghĩa, biết sống trước sau trên dưới hài hòa, đó là nền tảng quan trọng để có thể tiến thân trong xã hội, nên hoàn thiện trước mặt Chúa và trước mặt tha nhân.
Tác giả Gioan cũng nói với chúng ta: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”. Vâng, chúng ta hãy đón nhận Chúa đến trong đời, để Người soi dẫn chúng ta biết học bài học khiêm nhường, sống làm người đúng nghĩa nơi trần thế. Đón nhận Đức Giêsu và tuân theo giáo huấn của Người, chúng ta không bao giờ phải thất vọng, nhưng sẽ tràn đầy niềm vui thiêng liêng và nghị lực để vượt lên những khó khăn của cuộc đời.
Mừng lễ Giáng sinh, vừa là thiện chí đón Chúa đến trong cuộc đời, vừa là nhiệt thành loan báo tình thương của Chúa cho những người xung quanh. Chỉ khi nào thực sự đón Chúa đến trong tâm hồn, lời rao giảng của chúng ta mới “có hồn” và mang tính thuyết phục. Cũng giống như các mục đồng, sau khi chiêm ngưỡng Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, chúng ta hãy tôn vinh Thiên Chúa. Hãy lên đường để kể lại những gì đã suy tư cảm nghiệm bên hang đá. Những bước chân loan báo Chúa Giêsu được diễn tả là những bước chân tuyệt đẹp, vì đó là những bước chân của tình Chúa, tình Người (Bài đọc I).
Đối với phần nhiều bạn trẻ Việt Nam thì đêm Giáng Sinh được coi là đêm “đi chơi Noel”. Đó là GS-403
Đối với phần nhiều bạn trẻ Việt Nam thì đêm Giáng Sinh được coi là đêm “đi chơi Noel”. Đó là một cuộc chơi thâu đêm suốt sáng, từ nhà hàng qua quán bar, rồi vào khách sạn, nhà nghỉ. Họ có đến khu vực nhà thờ cũng chỉ là đi tham quan, còn những bạn chủ tâm đi lễ có lẽ không nhiều.
Ngày lễ Giáng Sinh đang dần dần trở thành một ngày lễ hội. Nó có nguy cơ làm cho chúng ta quên mất ý nghĩa tôn giáo của ngày lễ. Có lẽ ít người có thời giờ để suy nghĩ và tự hỏi mình xem: Lễ Giáng Sinh là lễ gì ? Việc Chúa Giáng Sinh có ảnh hưởng gì trên cuộc đời tôi ?
Người Kitô hữu có thể trả lời được ngay: Giáng Sinh là lễ kỷ niệm Thiên Chúa xuống thế làm người. Nếu dừng câu trả lời ở đó thì chưa đủ, mà còn phải thêm một cụm từ rất quan trọng đó là: Ngày Con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Chính Kinh Thánh đã nhiều lần khẳng định cho chúng ta mục đích quan trọng này, như tiên tri Isaia đã nhấn mạnh: Hãy loan truyền cho khắp cùng cõi đất…kìa ơn cứu độ của Người đang tới… các người sẽ được gọi là dân thánh, là những người được Đức Chúa cứu chuộc.
Ngay từ khởi đầu, nguyên tổ loài người đã bất tuân lệnh Chúa, không muốn chấp nhận thân phận thụ tạo của mình, hồ nghi tình yêu của Thiên Chúa, họ đã quay lưng phản bội Thiên Chúa. Từ đó, con người rơi vào sự trói buộc của ma quỷ, dục vọng và phải chết. Chính vì thế mà Ngôi Hai Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người để giải thoát nhân loại khỏi án phạt của sự chết, khỏi tình trạng nô lệ của ma quỷ và dục vọng.
Tin Mừng của đêm hôm qua và hôm nay cho thấy, các mục đồng đã tìm đến Belem và nhìn thấy một khung cảnh đơn sơ: họ đã gặp Bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi mới sinh đặt nằm trong máng cỏ. Các mục đồng đã tin và đã kể lại cho mọi người về những gì họ đã nghe và đã thấy. Họ ca tụng Thiên Chúa. Tuy nhiên nhiều người đã không dễ dàng chấp nhận Hài Nhi Giêsu là Con Thiên Chúa. Vì thế Phúc âm Thánh Gioan đã minh chứng rằng: Đức Giêsu chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa và là Thiên Chúa, là Đấng quyền năng và là Đấng tạo thành vũ trụ. Ngài chính là ánh sáng và là sự sống cho nhân loại. Ngài là Đấng đã có trước từ muôn đời, nay trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Ngài đã đến nhà của mình, nhưng người nhà đã không đón nhận Người.
Mừng Mầu Nhiệm Giáng sinh không phải là chúng ta kỷ niệm một biến cố đã xảy ra trong quá khứ, mà đây là dịp để chúng ta làm cho mầu nhiệm Giáng sinh và ơn cứu chuộc của Thiên Chúa thực sự sống động và sinh hoa kết trái trong cuộc đời chúng ta. Vì ơn cứu độ mà Đức Giêsu đem đến không phải chỉ một lần vào đêm Ngài giáng trần, cũng không chỉ là lời hứa hẹn cho cuộc sống mai sau, mà ơn cứu độ, sức sống mới của Chúa đã được trao ban cho chúng ta ngay ngày hôm nay, lúc này. Vì thế, mầu nhiệm Giáng sinh phải thực sự là niềm vui mừng hân hoan cho chúng ta, không chỉ là niềm vui bên ngoài, mà là niềm vui bắt nguồn từ trong tâm hồn lan tỏa ra bên ngoài. Chúng ta vui vì chúng ta biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc. Chúng ta vui vì Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta, không để chúng ta phải chết, mà Ngài đã đem đến cho chúng ta sự sống. Ngài không để chúng ta phải bước đi trong tăm tối, nhưng Ngài chính là ánh sáng dẫn đường cho chúng ta.
Đã bao nhiêu Mùa Giáng sinh đi qua trong cuộc đời, chúng ta đón nhận được gì cho mình và cho gia đình ? Mùa Giáng sinh là mùa của tình yêu thương và mùa an bình. Mỗi người hãy đem tình yêu thương và sự an bình của Chúa Giáng sinh về gia đình của mình. Hãy cố gắng vun trồng và làm cho tình yêu thương được nảy nở trong gia đình. Hãy quan tâm nhiều hơn đến bầu khí yêu thương ấm cúng của gia đình, đừng để cho những thú vui riêng như rượu chè, cờ bạc làm mất đi bầu khí thân thiện, hạnh phúc và bình an trong tổ ấm. Hãy quan tâm đến từng thành viên trong gia đình, đối thoại và cảm thông. Hãy làm cho bữa cơm của gia đình không chỉ ngon miệng vì có nhiều thức ăn, mà ngon vì có nhiều niềm vui và nụ cười.
Chỉ có niềm vui thực sự trong tâm hồn mới là niềm vui có thể xua đi những buồn bã, chán nản và trống rỗng trong cuộc sống. Chỉ có Thiên Chúa mới làm cho cuộc đời chúng ta trở nên có ý nghĩa. Thiên Chúa làm người, để cho chúng ta được làm con cái Chúa. Đó là một sự đánh đổi mà Thiên Chúa đã thực hiện trong mầu nhiệm Giáng sinh của Người. Vì thế, hân hoan mừng lễ Giáng sinh, chúng ta không thể vui trong sự buông thả theo kiểu thế gian, để rồi vùi dập cuộc đời mình trong tội, mà phải vui trong tư cách là người con của Thiên Chúa, vui trong sự thánh thiện của đêm thánh.
Chúa Giáng sinh để đem ơn tha thứ và bình an, hãy đến với Chúa để lãnh nhận, để cảm nếm hạnh phúc vì biết mình được yêu thương, tha thứ. Chúa Giáng sinh để đem đến cho nhân loại sức sống mới, sức sống ấy ngày nay vẫn được ban tặng cho nhân loại qua Bí Tích Thánh Thể. Hãy siêng năng tham dự Thánh lễ và rước lễ, Chúa sẽ Giáng sinh vào trong tâm hồn chúng ta và trao ban cho chúng ta sức sống thần linh của Ngài, để chúng ta sống tốt ngay hôm nay và là bảo đảm cho hạnh phúc và sự sống đời đời của chúng ta mai sau.
Xin cho mỗi người luôn xác tín rằng Chúa Giáng sinh là vì chúng ta và để cứu chuộc chúng ta. Amen.
Ngày nay, nói đến Noel là cả người giáo lẫn lương đều nghĩ ngay tới hang đá, máng cỏ, đèn sao GS-404
Ngày nay, nói đến Noel là cả người giáo lẫn lương đều nghĩ ngay tới hang đá, máng cỏ, đèn sao, nghĩ tới các nhân vật trong hang đá là Chúa Hài Đồng Giêsu, Thánh Giuse, Mẹ Maria, các Thiên thần, các mục đồng và chiên bò lừa. Hang đá gợi nhớ cảnh giáng sinh nghèo khó của Con Thiên Chúa làm người. Chính Thiên Thần loan báo cho các mục đồng: ‘‘Anh em cứ dấu này mà nhận ra Đấng Cứu Thế: Anh em sẽ thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Đấng Kitô là Đức Chúa, thật khiêm nhường hạ sinh trong máng cỏ bò lừa ngoài đồng vắng giá rét đêm đông.Ngài là Thiên Chúa, Đấng duy nhất có quyền kiểm tra dân số (2 Sm 24,10) nhưng đã cùng với cha mẹ tuân lệnh hoàng đế Augúttô đi khai dân số (Lc 2,5). Ngài là Thiên Chúa, không chọn sinh ra trong cung điện cao sang nhưng lại sinh ra ’trong máng cỏ’, ngoài đồng vắng ‘vì hai ông bà không tìm được chỗ trọ’ (Lc 2,7).
Thánh Phanxicô Assisi đã làm máng cỏ đầu tiên vào năm 1223. Từ Rôma về Assidi để mừng lễ Noel, ngài nói với các thầy: “để thể hiện nỗi cơ cực và khổ đau của Chúa ngay từ lúc còn thơ để cứu chuộc nhân loại, chúng ta hãy làm một hang đá giống như thật với cỏ khô, rồi chúng ta dẫn một con lừa và một con bò vào để cho giống với con bò con lừa đã chầu quanh Chúa Hài Đồng năm xưa”. Từ đó mỗi dịp Noel về là khắp nơi trên thế giới đều làm hang đá, máng cỏ.
Bên Hang Đá, thinh lặng chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu giang đôi tay chúc lành; Máng Cỏ Bêlem tỏ bày nhiều ý nghĩa.
Máng Cỏ tỏ bày một Thiên Chúa yếu đuối
Hài nhi nằm trong máng cỏ biểu thị sự yếu đuối của Thiên Chúa. Một sự yếu đuối mà Người đã tự ý chọn lựa. Thiên Chúa trong hình hài một bé thơ. Một Thiên Chúa yếu đuối. Trí khôn con người không thể nào hiểu và chấp nhận nổi. Mọi lý luận đều bất lực trước nghịch lý thần linh này. Thiên Chúa Đấng khôn tả của triết học bỗng dưng trở thành diễn tả được.Thiên Chúa Đấng vô hình của tôn giáo đã chọn cho mình một thể thức xuất hiện hữu hình. Thiên Chúa Đấng cứu độ đã mạc khải qua các ngôn sứ giờ đây ngỏ lời trực tiếp với con người qua Hài Nhi bé bỏng nắm trong Máng Cỏ. Chúng ta hãy từ bỏ ngôn ngữ của lý tính ở đây và thinh lặng để cho con tim thán phục. May chi ngôn ngữ tình yêu có thể bập bẹ đuợc điều gì đó chăng? Quả thực, sự yếu đuối của Thiên Chúa là sự yếu đuối của tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ dưới những hình thức khác nhau, như lòng thương xót, lòng trắc ẩn và sự âu yếm. Một Thiên Chúa uy quyền trong sự yếu đuối của tình thương…Chúa Giêsu, Vua Vũ Trụ lên ngôi trên thập giá.Thành công cuối cùng của Chúa Cứu Thế là sự phục sinh nằm bên kia cái chết, và con đường dẫn tới đó phải khởi đi từ Máng Cỏ đến Núi Sọ. (Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Tại miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá nổi tiếng. Trong số các nhân vật đứng và quì nơi máng cỏ này, du khách thường chú ý tới một con người nhỏ bé với hai bàn tay trống trơn và mở rộng, nhưng gương mặt lại để lộ một vẻ ngạc nhiên khó mà diễn tả nổi. Vì thế, người ta đã đặt cho nhân vật này cái tên gọi là Ngạc Nhiên. Dân địa phương thường giải thích về sự ngạc nhiên của anh bằng một mẩu chuyện như sau.
Hôm đó, tất cả các nhân vật nơi máng cỏ, kể cả mấy chú bò lừa đều tỏ ra khó chịu đối với anh, bởi vì anh không có gì để mang tặng cho Chúa Hài Nhi, ngoài hai bàn tay trống trơn của mình. Và thế là họ bắt đầu xỉ vả anh:
– Mày không biết xấu hổ hay sao? Mày đến thăm Chúa Hài Nhi mà không mang theo gì cả ư?
Thế nhưng, anh không để lộ một phản ứng nào, ngoài cặp mắt mở to và chăm chú nhìn vào Hài Nhi Giêsu. Những lời rủa xả vẫn cứ tiếp tục trút xuống trên anh, đến nổi Mẹ Maria phải lên tiếng bênh vực cho anh.
Quả thực, mặc dù đã đến với Chúa Hài Nhi bằng đôi bàn tay trắng, thế nhưng anh đã mang tới một món quà cao đẹp nhất, đó là sự ngạc nhiên của anh. Điều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên Chúa đã chiếm trọn tâm tư anh. Và Mẹ Maria đã kết luận như sau:
– Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu như luôn có những người giống anh, biết ngây ngất và ngạc nhiên trước quyền năng và tình thương vô biên của Thiên Chúa.
Trước Máng Cỏ Bêlem, thật ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện. Thiên Chúa tỏ bày tình thương bằng cách trao ban chính Con Một của Ngài cho nhân loại. Thánh Phaolô diễn tả: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Máng Cỏ tỏ bày một Thiên Chúa Tình Yêu
Trong đêm Giáng Sinh, Sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa“ (Lc 2, 11). Khung cảnh thật đơn sơ, thanh bạch, nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” (Lc 2,12).
Mẹ Maria và Thánh Giuse vất vả một hành trình xa xôi từ Nadarét về Bêlem để kê khai nhân hộ khẩu. Các quán trọ khinh người nghèo hất hủi. Hài Nhi Giêsu chào đời nơi đồng hoang giá lạnh. Chẳng có ai thân thích. Chỉ có các mục đồng và bò lừa sưởi ấm.
hẳng có gì kỳ diệu, không có gì ngoại thường, không có gì huy hoàng được trưng dẫn như một dấu chỉ cho những mục đồng. Tất cả những gì họ thấy chỉ là một Hài Nhi bọc tã, một hài nhi như bao hài nhi khác, cần sự chăm sóc của người mẹ; một Hài Nhi sinh ra trong chuồng súc vật, và như thế, không nằm trong nôi nhưng là trong máng cỏ. Dấu chỉ của Thiên Chúa là một hài nhi cần sự trợ giúp và đang sống trong nghèo khó. Chỉ bằng con tim, những mục đồng mới có thể thấy nơi hài nhi này sự viên mãn lời hứa của tiên tri Isaia: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai” (Is 9,5).
Dấu chỉ của Thiên Chúa thật là đơn sơ. Đó là một Hài Nhi mới sinh. Dấu chỉ của Thiên Chúa là Ngài trở nên bé nhỏ vì chúng ta. Ngài không đến với quyền lực và một bề ngoài xa hoa. Ngài đến như một hài nhi cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ngài không muốn choáng ngợp chúng ta với sức mạnh của Ngài. Vì thế, Ngài đã hóa chính mình thành nhỏ bé. Ngài không muốn điều gì khác nơi ta ngoại trừ tình yêu, qua đó chúng ta phải học biết cách tiếp cận với cảm giác, tư duy và ý chí của Ngài. Chúng ta học biết sống với Ngài và thực hành với Ngài sự khiêm hạ từ bỏ mình là điều tinh túy nhất của tình yêu. Ngài đã hóa thành nhỏ bé để chúng ta có thể hiểu Ngài, chào đón Ngài, và yêu thương Ngài.
Máng Cỏ tỏ bày một Thiên Chúa Cứu Độ
Theo Thánh Kinh, biến cố lớn nhất đánh dấu lịch sử nhân loại là Thiên Chúa làm người vì tình yêu. Hài Nhi Giêsu ra đời trong cảnh nghèo hèn chính là một vị Thiên sai. Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và sau công nguyên. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ, hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía.
Thiên Chúa làm người trong thân phận một bé thơ yếu ớt nhưng chất chứa một tình yêu lớn lao. Một trẻ thơ sinh ra vào một đêm đông giá rét trong hang đá bò lừa ngoài đồng hoang nghèo hèn. Dưới con mắt người đương thời không những bình thường mà còn tầm thường hơn những trẻ thơ khác. Nhưng sự chào đời của Hài Nhi Giêsu là một niềm vui cao cả, trọng đại, đặc biệt. Một niềm vui khởi điểm cho mọi niềm vui và vượt lên trên mọi niềm vui.
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.
Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại. Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang….Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi nhà thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn mầu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14)
Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ.Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau.Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau. Máng Cỏ luôn làm cho con người thổn thức bùi ngùi xúc động, vì đối diện với một Tình Yêu khiêm tốn. Máng Cỏ mang ý nghĩa của thập giá và hướng về mầu nhiệm Thánh Thể. Qua Hài Nhi Giêsu trong Máng Cỏ Bêlem, chúng ta hiểu được phần nào tâm tình của Thiên Chúa muốn ngỏ với loài người.Qua Máng Cỏ Bêlem, Thiên Chúa trở nên thật gần gũi và đáng yêu. Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa “tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.” (Ga 1,16).Tình yêu thương ấy là ánh sáng soi đường và là ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn chúng ta. Niềm vui giáng sinh không nhất thiết phải đến từ những bữa tiệc thịnh soạn hay khung cảnh huy hoàng lộng lẫy bên ngoài. Niềm vui giáng sinh đến từ nội tâm khi chiêm ngắm Máng Cỏ Bêlem. Noel này, bạn hãy dừng lại nơi hang đá máng cỏ, dành thời gian thinh lặng để ngắm nhìn và suy niệm, bạn sẽ khám phá thật nhiều sự kỳ diệu của tình yêu Thiên Chúa nhập thể làm người và ở cùng chúng ta.
Ánh sáng và bóng tối đối nghịch nhau, không thể hòa chung. Ánh sáng luôn mạnh hơn bóng tối GS-405
Ánh sáng và bóng tối đối nghịch nhau, không thể hòa chung. Ánh sáng luôn mạnh hơn bóng tối: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1:5). Bóng tối không thể ở nơi nào có ánh sáng. Đêm đen phải lùi xa khi ánh bình minh sáng ngời. Bóng đen tội lỗi phải biến mất khi Ánh Sáng Giáng Sinh xuất hiện. Vâng, thật hạnh phúc vì hôm nay sự sáng chiếu giãi trên chúng ta, và Chúa đã giáng sinh cho chúng ta: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1:9).
Ngày xưa, giữa đêm đen thăm thẳm, trong hơi sương giá rét, Ánh Sao Lạ đã xuất hiện làm dấu chứng để các mục đồng nhận biết nơi sinh của Đấng Cứu Độ. Ngày nay, chúng ta cũng thực sự hạnh phúc vì có Ánh Sao Lạ dẫn đường: Ánh Sáng Đức Tin. Nhờ đó, chúng ta nhận biết Hài Nhi Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng hóa thành nhục thể để cứu độ chúng ta. Chính Ngài là Ánh Sáng Cứu Độ dẫn chúng ta về với Thiên Chúa Cha.
Hôm nay, niềm hạnh phúc đó đang tràn đầy thế giới, từ đất tới trời, và ngập cõi lòng những người thành tâm thiện chí. Niềm vui cứ ngồn ngộn!
Niềm vui sướng vỡ òa khắp nơi, như ngôn sứ Isaia đã nói: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới. Kìa phần thưởng của Người theo sát một bên, và thành tích đi ngay trước mặt. Chúng sẽ được gọi là dân-thánh, là những-người-được-Đức-Chúa-cứu-chuộc. Còn ngươi sẽ được gọi là cô-gái-đắt-chồng, là thành-không-bị-bỏ” (Is 62:11-12). Những người hạnh phúc đó chẳng ai xa lạ, đó cũng là chính chúng ta ngày nay. Thế thì làm sao chúng ta lại không vui sướng cho được!
Hài Nhi Giêsu nơi hang đá Belem là Con Thiên Chúa, là Đấng Emmanuel, Đấng ở cùng chúng ta. Hãy chứng tỏ niềm vui đó và mời gọi muôn vật cùng đồng thanh tán dương: “Chúa là Vua hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải đảo!” (Tv 97:1). Chứng cớ không mơ hồ, vừa mặc nhiên vừa minh nhiên: “Trời xanh tuyên bố Người là Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người” (Tv 97:6). Không nhận ra Thiên Chúa qua vạn vật chỉ vì người ta cố chấp hoặc cố ý nhắm mắt làm ngơ mà thôi.
Niềm vui tăng dần, hạnh phúc trào dâng như triều cường: “Ánh sáng bừng lên chiếu rọi người công chính, niềm vui làm rạng rỡ kẻ lòng ngay. Trước nhan thánh Chúa, người công chính hãy vui mừng tưởng nhớ Thánh Danh mà dâng lời cảm tạ” (Tv 97:11-12). Vui mừng rồi phải biết tạ ơn. Rõ ràng tâm tình tạ ơn rất quan trọng, nhưng chúng ta lại thường quên điều này. Niềm vui đó rõ nét cả ở những người không tin Hài Nhi Giêsu là Con Thiên Chúa. Điều này thấy rõ ngay ở đời thường này.
Nhờ Ánh Sáng Đức Tin sáng soi từ khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, chúng ta trở thành tín hữu – những người “có niềm tin”. Là tín hữu thì cũng có những bổn phận chung và riêng, đơn giản nhất là sống đức tin. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại. Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt 3:4-6).
Dù trước mặt người đời, chúng ta có làm được những việc mà người ta cho là tài giỏi, nhưng cũng chẳng là gì đối với Thiên Chúa. Do đó, chúng ta không có lý do gì để mà vênh vang tự đắc hoặc kiêu ngạo. Nếu chúng ta có làm được điều gì hơn người khác thì cũng là nhờ ơn Chúa, có tài năng gì thì cũng là để phục vụ tha nhân, và luôn phải nhớ kỹ rằng “được nhiều thì bị đòi lại nhiều” (x. Mt 25:14-30; Lc 19:12-27). Đừng tưởng được nhiều thì sướng đâu đấy! Thánh Phaolô kết luận: “Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3:7).
Trình thuật Lc 2:15-20 là đoạn Kinh Thánh tiếp theo Tin Mừng lễ đêm Giáng Sinh. Trình thuật sáng nay đề cập các nhân chứng sống đầu tiên đối với việc Con Thiên Chúa giáng sinh làm người: Các mục đồng – những người nghèo khổ và hèn mọn trong xã hội.
Nửa đêm giá lạnh, chắc chắn con nhà nghèo thì quần áo không đủ ấm, thậm chí có thể cũng chẳng đủ no bụng chứ nói chi đồ ăn ngon, nhưng các mục đồng vẫn ngủ say sau một ngày chịu mệt mỏi vì phải chăn chiên, đường xa lại đồi núi hiểm trở, họ phải ngủ lại nơi hang động. Các mục đồng đang ngon giấc thì chợt tỉnh giấc vì đất trời khác thường, tiếng động và ánh sáng bao trùm, lại có các thiên thần xuất hiện, ngạc nhiên hơn là có tin lạ. Các mục đồng đơn sơ và thật thà nên dễ tin, nhưng không phải họ tin vô cớ.
Sau khi các thiên thần từ biệt họ để về trời, họ liền bảo nhau: “Nào chúng ta sang Belem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2:15). Họ liền hối hả ra đi. Kinh Thánh dùng trạng từ “hối hả”, chứng tỏ họ đã tin nên mới đi ngay giữa đêm khuya, không so đo, không tính toán, không cần ngủ thêm nữa dù họ đang ngái ngủ vì dở giấc. Một bài học sống động về đức tin của các mục đồng khiến chúng ta phải tự xem lại đức tin của chính mình.
Khi đến nơi có Ánh Sao Lạ tỏa sáng trên cao, các mục đồng trực tiếp gặp Cô Maria, Chú Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Một gia đình quá nghèo, nói theo ngôn ngữ ngày nay là “nghèo rớt mồng tơi”. Te tua tơi tả thật! Nhưng họ vẫn tin, tin ngay, không một chút do dự. Thế mới lạ! Nếu là chúng ta, liệu chúng ta có đủ tin? Chưa chắc. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta yêu tha nhân, yêu cả kẻ thù, và làm điều gì cũng là làm cho Chúa, thế nhưng mấy ai thực sự nhìn thấy Chúa nơi những người nghèo khổ và hèn mọn mà hằng ngày chúng ta gặp? Đôi mắt Đức Tin của CP Mẹ Teresa Calcutta thật “sáng” khi Mẹ dặn các nữ tu: “Hãy phục vụ những người nghèo như phục vụ Đức Giêsu Kitô”. Còn chúng ta?
Các mục đồng không chỉ là chứng nhân về Con Thiên Chúa giáng sinh, là tấm gương sáng cho chúng ta noi theo, mà có thể nói rằng họ là những “thầy dạy” về Đức Tin đối với chúng ta. Họ nhãn tiền thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Biết Chúa rồi, họ không giữ cho riêng mình, mà họ chia sẻ Chúa với người khác. Mà cũng thật lạ là khi nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên, nhưng họ tin. Những người này cũng có con mắt Đức Tin kỳ diệu, họ tin lời các mục đồng thuật lại chứ không cho rằng các mục đồng thế này hoặc thế nọ, họ không cần phải cân nhắc chi cả. Cả các mục đồng và những người nghe kể lại đều thấy lạ theo con mắt Đức Tin chứ không vì hiếu kỳ hoặc tò mò. Những bài học về Đức Tin thật đắt giá!
Thánh sử Luca cho biết thêm “sự lạ” khác: “Còn Cô Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Ghi nhớ và suy tư là hai động thái cần thiết, nhưng người ta lại thích hành động ngược lại. Im lặng và lắng nghe để Chúa Thánh Thần hành động, chứ không ba hoa chích chòe, nhiều chuyện như “bà Tám”. Sự thật tỏ tường, các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ. Cuộc đời nghèo khổ của họ đã khiến Thiên Chúa động lòng trắc ẩn mà ban cho họ niềm hạnh phúc khôn tả, những người khác không thể có được. Nghèo khó là nhân đức, là con đường dẫn tới Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót.
Ánh Sáng Giáng Sinh đang chiếu tỏa khắp thế gian. Noel – Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin giúp chúng con biết sống đúng tinh thần nghèo khó, xin giúp chúng con nhận ra Chúa nơi những người bé mọn trong cuộc sống đời thường, đồng thời xin giúp chúng con biết mở rộng con tim và đôi tay đối với họ. Người là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Thiên Chúa Ngôi Ba, đến thiên thu vạn đại. Amen.
Người Việt Nam chúng ta đại đa số đã nghe câu nói: “người lùn dễ kiếm, củi mục khó đun”; tuy GS-406
Người Việt Nam chúng ta đại đa số đã nghe câu nói: “người lùn dễ kiếm, củi mục khó đun”; tuy hôm nay xã hội cho thấy không còn nhiều đối tượng phải đói cơm bánh, nhưng đói tinh thần thì không hiếm. Xã hội thời nào cũng có những trường hợp đang rối loạn chỉ vì 2 chữ “t” tiền và tình, thế mà vẫn có nhiều người chủ trương “làm tà tà ăn cơm cà với muối”.
Trong khi giới trẻ phục sát đất những người nhanh lẹ và họ đặt ra câu châm ngôn: “nhất cự ly, nhì tốc độ”. Một số bạn lại tự tin cho rằng: “đẹp trai không bằng trai mặt”. Thật là mâu thuẫn khi có nhiều người tranh dành chỗ cao, chỗ nhất trong mọi lãnh vực vì họ tài giỏi, giầu sang; thì những người nghèo đói tinh thần, bé nhỏ đơn sơ lại được Thiên Chúa chú trọng hơn cả…… Điều rất tự nhiên ở ngôi thánh đường lúc này, có người đã có vài chục năm, mười mấy năm mừng Chúa Giáng Sinh; nhưng với tâm hồn tín thác, họ vẫn thấy Hài Nhi Giêsu thật ấm áp trong tâm hồn, không có gì là cổ xưa, và không thấy tình yêu có gì là trừu tượng lý thuyết.
Nhân loại từ lâu lắm rồi, vẫn cho rằng: đồng tiền vẫn làm đảo điên xã hội; quyền lực thuộc về người giầu có; chân lý ở trong tầm tay người tri thức. Với ơn lộc, với ơn nghĩa thiết thì không thuộc về riêng ai, dù người giầu kẻ nghèo, người bần nông hay người trí thức. Nhưng trước hết Ngài tỏ mình và ban ơn cho người khiêm tốn, cụ thể là các mục đồng chất phác. Đó cũng là câu trả lời để chúng ta yên tâm hơn: Ngôi Hai đến trần gian là để thông chia tình yêu thương của Thiên Chúa và cứu độ tất cả: các mục đồng, các luật sĩ biệt phái, và cả chúng ta hôm nay.
Các mục đồng đã có được một tầm nhìn mới, một niềm hy vọng mới, một sự hiểu biết mới về tình yêu của Thiên Chúa làm người đối với họ. Vì ngày nay khoa học kỹ thuật đã tiến bộ rất nhiều, cung cấp cho con người đủ mọi thứ tiện nghi vật chất, nhưng không ai có thể đem an vui, hạnh phúc thật, cùng lắm chỉ là hạnh phúc thoáng qua mà thôi. Xã hội cũng đã từng áp dụng nhiều giải pháp: cải cách, đòi nhân quyền, bình đẳng, tu thân tích đức, nhưng xem ra các phương pháp ấy vô hiệu lực đối với con người.
Nhân loại tội lỗi của thời nào cũng chỉ có một giải pháp độc nhất để thoát khỏi xiềng xích tội lỗi là đến gặp Hài Nhi Giêsu. Cuộc sống của các mục đồng năm xưa được nồng ấm là nhờ ánh sáng Belem, còn tất cả chúng ta hôm nay có hạnh phúc, bình an hay không cũng bởi từ ánh sáng, từ Hài Nhi Giêsu. Mừng Chúa Giáng Sinh ta có ao ước gì, nếu chúng ta không gặp được Chúa Hài Nhi, vì Ngài là tình yêu, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Niềm vui mà chúng ta nói đến đó là thành phần chủ yếu của bình an, của sự công chính, là mối tương quan giữa tình Chúa và tình người.
Đức Khổng Tử có dạy các học trò: “trước hết phải có sẵn một nền trắng, rồi sau mới vẽ thành bức hoạ”. Bức hoạ sắc nét, mới làm nổi bật hình ảnh sống động và giá trị của bức tranh; người hoạ sĩ nào cũng phải bắt đầu từ một nền trắng. Và chính sứ thần mới đủ lý đủ tình để loan báo, để giúp các mục đồng vẽ về bức hoạ Hài Nhi Giêsu vừa hạ sinh. Chúng ta cũng rất cần một cảm nhận: cuộc sống thật tươi đẹp có ý nghĩa, không phải là do sự nỗ lực của ta, không phải vì ta tài giỏi đức độ, nhưng vì là mỗi chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.
Kinh nghiệm của người xưa: “khô chân gân mặt đắt tiền cũng mua”, còn người thành công, người đáng được trân trọng là “được không kiêu, thua không nản”. Nơi máng cỏ hang lừa năm xưa, giúp các mục đồng xác thực rõ hơn về lời loan báo của sứ thần về Hài Nhi Giêsu. Nơi máng cỏ hôm nay, có khác đôi chút về sự hào nhoáng của ánh đèn điện, nhưng sứ điệp tình yêu và ơn an bình của Hài Nhi Giêsu ban tặng thì không có gì khác nhau…. Cùng với các mục đồng đến hang Bêlem, chúng ta hãy cầu xin cho mình, cho mọi người được phép lạ, được một tình yêu khiêm tốn, một hạnh phúc ấm êm của gia đình Thánh Gia.
Lễ giáng sinh rồi cũng qua đi, nhưng ơn cứu độ vẫn tồn tại cho đến tận thế; chứng nhân về Chúa Hài Nhi là các mục đồng, còn chúng ta, cũng không thể đến ngắm nhìn hang đá rồi thôi, mỗi người cũng phải làm gì đi chứ ? Hang đá lộng lẫy rồi cũng được cất vào kho, nhưng những người nghèo khó bất hạnh vẫn còn đó, trước mắt chúng ta là hành động, là chung tay góp sức xây dựng một tình yêu có Chúa. Người Kitô hữu chúng ta phải làm gì để Chúa Giêsu tiếp tục mỗi ngày sinh ra trong tâm hồn những con người bất hạnh ấy, đó chính là sứ điệp giáng sinh của mỗi người trong chúng ta hôm nay. Amen.
Noel một tên gọi, một lời nói được thốt lên trong vui mừng nơi từng người. Noel đã trở thành lễ GS-407
Noel một tên gọi, một lời nói được thốt lên trong vui mừng nơi từng người. Noel đã trở thành lễ hội, trở thành niềm vui cho mọi quốc gia, mọi dân tộc. Có lẽ từ đông chí tây chỉ có lễ Noel là lễ hội mang bầu khí rộn ràng và hoành tráng nhất. Không gian đầy ắp những tiếng nhạc du dương hòa quyện với muôn màu đèn sao lấp lánh, với muôn ngàn hang đá đủ loại, đủ kiểu. Tất cả làm nên một bầu khí Noel tràn ngập niềm vui và hạnh phúc.
Trong không khí Noel ai cũng mong ước bình an, hạnh phúc. Người người chờ mong niềm vui hạnh phúc sẽ đến trong mùa Noel. Noel người ta chúc nhau vui tươi, bình an. Không phân biệt tôn giáo hay sắc tộc. Ai cũng thầm mong ước Noel sẽ mang lại điều lành, điều tốt cho nhau.
Noel là gì mà kỳ diệu vậy? Thưa, Noel được viết tắt bởi chữ Emanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đây là niềm vui, sự khích lệ cho kiếp người chúng ta. Vì Chúa đã đến để cứu độ nhân gian. Vì Chúa đã đến để mang lại lời chúc hòa bình đến cho nhân thế. Đây chính là lời mà các thiên sứ đã loan tin cho các mục đồng: “vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Vâng, Chúa Giê-su là Con Vua Trời đã giáng thế mang lấy thân phận con người chúng ta. Ngài cúi xuống trần gian để mang bình an, hạnh phúc đến cho con người. Ngài đến để hàn gắn những đổ vỡ do tội ADAM và mang lại niềm vui trọn vẹn cho con người. Nếu vì tội Adam mà cửa trời đã đóng thì việc Con Thiên Chúa giáng sinh làm người đã mở rộng cửa trời để từ nay “Con Thiên Chúa làm người để con người trở thành con Thiên Chúa”.
Con Thiên Chúa đã cúi xuống nhân loại để giữa Thiên Chúa và loài người không còn xa cách. Thiên Chúa có thể đến viếng thăm mọi người, mọi gia đình, nhất là những con người bất hạnh, bị bỏ rơi, bị loại trừ. Lời hát loan tin vui của các thiên thần năm xưa “vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” không chỉ dành cho các mục đồng, mà dành cho mọi phận người đang lao đao vất vả vì cuộc đời đầy bể dâu. Tất cả hãy vui lên, chỉ cần thiện chí sống theo đường ngay nẻo chính sẽ tìm được niềm vui của ơn cứu độ.
Lời loan tin ấy cũng đang vang lên rộn ràng trong thánh lễ hôm nay. Lời hát mừng Con Thiên Chúa đã giáng sinh làm người đang tràn ngập tâm hồn chúng ta. Ngài giáng sinh đã mang lại niềm vui chung cho cả nhân loại. Ngài đã gắn kết tình người để dù con người có khác niềm tin, khác quan điểm nhưng chung một sứ điệp bình an mang đến cho nhau trong ngày đại lễ hôm nay. Ngài là Emanuel sẽ ở cùng chúng ta luôn mãi. Ngài hằng mời gọi chúng ta đón nhận Ngài trong từng biến cố cuộc sống, và nhất là trong từng phận người. Ngài đã đồng hóa mình trong thân phận kẻ khó khăn, bất hạnh, cùng khổ. Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy đón nhận họ, hãy thi ân cho họ là thi ân cho chính Ngài.
Có lẽ, nếu Chúa giáng sinh hôm nay vẫn cần chúng ta như cho các mục đồng hãy loan tin vui cho nhân thế. Chúa cần chúng ta không chỉ làm điều gì đó để chia sẻ với Chúa mà nhất là hân hoan ra đi loan tin cho trần thế về niềm vui Chúa giáng sinh làm người. Thánh Phaolo đã từng nói: “làm sao có người nghe tin mừng nếu không có người rao giảng”. Vậy làm sao nhân loại có thể nhận ra Chúa đang ở giữa chúng ta nếu không có người sẵn lòng ra đi giới thiệu Chúa cho họ.
Ước gì lòng chúng ta tràn ngập niềm vui khi nhận ra Chúa đang giáng sinh từng ngày trong đời chúng ta, thì cũng hãy mạnh dạn như các mục đồng hân hoan loan báo niềm vui ấy cho anh em. Ước gì niềm vui Chúa giáng sinh luôn rộn rã trong tâm hồn chúng ta sẽ là động lực giúp chúng ta trở thành sứ giả của niềm vui loan tin bình an cho đến tận cùng thế giới. Amen.
Có một vị thái tử vào rừng săn bắn, tình cờ gặp một cô gái quê đang kiếm củi một mình. Không hiểu GS-408
Có một vị thái tử vào rừng săn bắn, tình cờ gặp một cô gái quê đang kiếm củi một mình. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà hai con người có địa vị cách biệt quá xa lại tỏ ra tâm đầu ý hợp và hai bên lại yêu nhau tha thiết ngay từ giây phút gặp mặt đầu tiên.
Sau đó, hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến. Thế rồi, do lòng yêu thương thúc đẩy, anh khẩn khoản nài xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực, hay chỉ yêu vì gia tài, địa vị, quyền thế của chàng, vua cha truyền dạy hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái.
Thế là vị hoàng tử quyền quý, hoá trang thật khéo, y hệt người nông dân quê mùa chất phác, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng, làn da cháy nắng, đôi tay chai sần. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và khát mong được kết hôn với vị hoàng tử mà cô đã gặp trong rừng, nhưng trớ trêu thay, cô ta không nhận ra vị hoàng tử nầy trong hình hài người nông dân nghèo khổ nên đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh đi, trong khi lòng cô vẫn thổn thức nhớ thương chàng hoàng tử hào hoa mà cô đã gặp trong rừng!
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất một người yêu lý tưởng, mất luôn cả vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lại.
Như vị hoàng tử rời khỏi hoàng cung, hoá thân thành nông dân đến cắm lều ở bên cạnh nhà cô gái, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời, hoá thân thành người phàm và đến ở giữa chúng ta. Ngài là Em-ma-nu-en, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài tự đồng hoá mình với những người láng giềng đang sống quanh ta.
Chúa Giê-su khẳng định rằng tha nhân là hiện thân của Ngài. Những ai cho người đói lang thang vất vưởng trên vỉa hè một bát cơm thì Ngài nói là họ đã cho Ngài ăn. Những ai cho kẻ bần cùng thiếu thốn một tấm áo, thì Ngài nói là họ đã cho Ngài mặc. Những ai cho người vãng lai một chỗ trọ qua đêm thì Ngài nói là họ đã tiếp rước Ngài… (Matthêu 25, 34 – 40).
Và hôm xưa, đang khi Sao-lô rong ruổi trên đường Đa-mát, tìm bắt các môn đệ của Chúa, thì chính Chúa Giê-su quật ngã ông xuống và cảnh cáo ông: “Tại sao ngươi bắt bớ Ta?” (chứ không nói là tại sao ngươi bắt bớ các môn đệ Ta) (Rm 9,4).
Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II cũng dựa vào giáo huấn nầy để nhắn nhủ các gia đình: “Thiên Chúa đã tự đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong gia đình.” (trích “Tâm thư gửi các gia đình”) Vậy thì những gì người nhà làm cho nhau là làm cho chính Chúa.
Thật trớ trêu, đang khi chúng ta vẫn yêu mến, suy tôn chúc tụng Thiên Chúa ngự trên cõi trời cao hoặc cung kính bái lạy hình ảnh Ngài trên bàn thờ, thì chúng ta lại tỏ ra thờ ơ hờ hững và thậm chí còn đối xử tồi tệ với tha nhân là những chi thể sống động của Ngài, là hiện thân của Ngài đang hiện diện chung quanh.
Thánh Phanxicô Assisi nhận ra người phong cùi là một phần chi thể đang bị ung nhọt của Chúa nên ngài đã ôm hôn người phong ấy với tình yêu thắm thiết.
Mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta cũng đã nhận ra những người bệnh tật, hấp hối là những phần chi thể bị tổn thương của Chúa Giê-su nên mẹ đã dành phần lớn đời mình yêu thương chăm sóc họ. Mẹ còn dạy các tập sinh hãy trân trọng những người hấp hối cùng khổ trong nhà Lâm chung như tôn trọng Mình thánh Chúa Giê-su.
Hôm nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đóng vai người nông dân, người cùng khổ, người láng giềng, người bạn đồng nghiệp và cả những người nhà, để sống với chúng ta. Thế nhưng chúng ta rất khó nhận ra đó là hiện thân của Thiên Chúa nên thường đối xử tệ bạc với tha nhân. Thế là bi kịch cô gái nghèo hết lòng yêu thương chàng hoàng tử hào hoa nhưng lại phụ bạc anh ta dưới lốt nông dân nghèo khổ vẫn còn đang tiếp diễn từng ngày, từng giờ từng phút. Thế là “Ngài đã đến nhà của Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài” (Gioan 1, 11).
Thật vô cùng đáng tiếc cho cô gái trong câu chuyện trên đây vì đã đánh mất cơ hội ngàn vàng: Cơ hội trở thành công nương chốn cung đình, cơ hội được hạnh phúc trăm năm bên hoàng tử giàu sang phú quý! Và cũng vô cùng đáng tiếc cho chúng ta khi chúng ta tiếp tục lặp lại bi kịch ấy trong cuộc đời mình.
Vâng, thưa quý vị, các bạn , nhập đề Tin Mừng theo thánh Gioan Tông đồ là Đoạn lời Chúa quá GS-409
Vâng, thưa quý vị, các bạn , nhập đề Tin Mừng theo thánh Gioan Tông đồ là Đoạn lời Chúa quá tuyệt vời, tuyệt vời không phải thánh Gioan là ”tác giả siêu việt “ hơn 3 thánh sử của Tin Mừng Nhất Lãm, mà là “tuyệt vời” vì ngài có một lối văn duy nhất, tức văn phong duy nhất trình thuật về Đấng Cứu Thế, nói về Chúa Giêsu theo cách riêng biệt của ngài.
Vâng, thế nào là “ riêng biệt” ? Thưa, một nét riêng biệt của Đọan mở đầu, hay lời tựa của Tin Mừng theo thánh Gioan là ngài không thuật lại cảnh Giáng Sinh, gốc tích , hoàn cảnh địa điểm, chi tiết Giáng Sinh. theo thánh Gioan, ngài không chú trọng đến thời thơ ấu, cảnh cơ hàn của Đấng Cứu Thế. Đọc Tin Mừng thánh Gioan, người ta thấy ngay một uy quyền toàn năng, một xuất thân từ Thiên Chúa. Điểm xuất phát từ uy quyền của Đấng Tối Cao, là Thiên Chúa, vì:
“ Từ khởi nguyên đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn thuộc về Thiên Chúa, Vì Ngôi Lời là Thiên Chúa thật.” (c 1)
Vâng, thánh Gioan xác tín “Ngôi Lời “ là hằng hữu, Người thuộc về Thiên Chúa và từ Thiên Chúa mà đến.
“ Lúc khởi nguyên, Người vẫn hướng về Thiên Chúa” ( c 2)
Vâng, chính xác là như vậy , bởi vì “Ngôi Lời ” là Lời Hằng Sống từ Thiên Chúa, là “Lời” từ Thiên Chúa, Lời đó chính là một “Ngôi Vị” đích thật từ Thiên Chúa. Vì “Lời” chính là Thần Khí, là siêu việt, vô biên tuyệt đối từ Thiên Chúa. Người đến trần gian là mang đến một “ Ngôi Lời ”, một ý định, sự phán truyền của Thiên Chúa cho con người và vì con người nhân thế. Từ đó , suy ra chúng ta thấy, khi tạo thành vũ trụ và con người, Thiên Chúa chỉ cần “Phán “ bằng Lời, tức thì trời đất được tạo thành, trong bảy ngày tạo dựng, phàm nhân là loài được tạo dựng sau cùng.
Nhưng, trong kế hoạch cứu độ nhiệm mầu, Thiên Chúa muốn cho phàm nhân “chứng kiến “ sự hữu hình của “ Ngôi Lời” là Đấng Cứu Chuộc.
Vì: “ Nhờ Ngôi Lời, muôn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành.” ( c 3)
Rõ ràng, cũng như khi tạo thành, Thiên Chúa muốn cứu chuộc loài người, thì Ngài cũng chỉ phán một Lời. Nhưng, như vậy, thì Ngôi Lời không trở nên hữu hình, mà vẫn siêu nhiên, vô biên, thì loài người không nhìn thấy, mặc nhiên điều ấy vẫn là “Cựu Ứơc”. Thiên Chúa muốn thực hiện một Giao Ứơc mới, gọi là “ Tân Ứơc”, vì vậy, “Ngôi Lời đã làm Người , và cư ngụ giữa chúng ta.” ( c 14a)
“ Điều đã được tạo thành ( c 4) ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.”
Như vậy, sự sống từ Thiên Chúa là sự sống vĩnh cửu, sự sống vĩnh cửu là ánh sáng. Rõ ràng, không ai tiêu diệt được ánh sáng, vì ánh sáng là sự sống từ Thiên Chúa. Như vậy, Ngôi Lời là Sự Sống và Ánh Sáng từ Thiên Chúa. Từ sự sống và ánh sáng ấy, Ngôi Lời đã từ trời xuống thế, bởi phép Chúa Thánh Thần. Như vậy, Người đã trở nên hữu hình giữa nhân loại.
Vì thế, rõ ràng, “ Ánh sáng đã chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối không tiêu diệt được ánh sáng” ( c 5).
Vì vậy, khi đến thế gian, Ngôi Lời đã có một vị Tiền Hô, mà ngôn sứ Isaia đã loan báo từ ngàn xưa: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan “ ( c 6). Như vậy, sứ mạng của Tiền Hô Gioan là, minh chứng sự hữu hình của Đấng Cứu Thế có từ ngàn xưa.
Rõ ràng, Gioan đến để làm chứng cho ánh sáng: “Ông đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng, để mọi người người nhờ ông mà tin.” ( c 7). Vì quả thật, ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến hầu làm chứng cho áng sáng thật là Ngôi Lời. Chúng ta thấy, ánh sáng “siêu nhiên “ là sự thật, công lý và bình an là “Ngôi Lời Nhập Thể ” cũng cần người làm chứng. “ Ông không phải là ánh sáng, nhưng làm chứng về ánh sáng” ( c 8)
Vậy, ánh sáng “tâm linh” cũng cần nhân chứng, vì bóng tối “bao phủ” xung quanh, nếu không có “ những dấu hiệu “nhân chứng” như Tiền Hô Gioan, chắc chắn chúng ta không nhận ra “ánh sáng “ thật.
Như vậy, vai trò chứng nhân của thánh Gioan tiền Hô thật cần thiết để làm chứng cho Ngôi Lời là ánh sáng thật. Vì, “ Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian để chiếu soi mọi người.” ( c 9). Chúng ta thấy, những hành vi đen tối trong thế gian luôn xuất hiện , vì nó vốn ở trong thế gian như bóng đêm hiện hữu. Vì sự hiện diện của bóng tối luôn làm cho giá trị của ánh sáng phản chiếu, hầu toả ra một một chân lý của tình yêu. Đó là ánh sáng chân lý.
Đó là Ánh Sáng GIÊSU, ánh sáng Giêsu là Ngôi Lời Nhập Thể đã đến thế gian hầu chiếu soi nhân loại. Nhưng, nhân loại đã thờ ơ, đã lú lẫn , đã khờ khạo. Rõ ràng, một sự khờ khờ tối tăm, đó là tiền tài , vật chất. “ Người đã ở giữa thế gian, và thế gian nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người.” ( c 10)
“ Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà không chịu đón nhận “ ( 11 ), đó là sự bất hạnh của thế gian, thế gian là một mớ hỗn độn. Ở giữa thế gian, nhưng , Người không thuộc thế gian, bởi vì, Người thuộc về Thiên Chúa. Nhưng, quả thật, chân lý của Người là tình yêu và bình an, thì những ai bước theo Người, thì họ được đón nhận bởi Chính Người, là tình yêu và ân sủng, thứ ân sủng chỉ đưcợc ban tặng bởi Thiên Chúa. “Còn những ai đón nhận , tức là những ai tin vào Danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” ( c 12).
Rõ ràng, ân sủng là thứ được trao ban, cho những ai thành tâm đón nhận. Đón nhận Thiên Chúa, thì mặc nhiên được nhận lấy ân sủng. Vì , ân sủng là thứ không được mua bằng quyền lực thế trần. Ân sủng được trao ban bởi lòng tin. Vì, những ai “tin “ vào Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Vâng, ân sủng chính là được “ làm con Thiên Chúa”. Đó là thứ ân sủng quan trọng nhất, nếu thiếu thứ ân sủng nầy, phàm nhân dù có tài, lực đến đâu, cũng sẽ trở nên vô nghĩa.
Như vậy, kẻ được đón nhận ân sủng bởi Thiên Chúa là kẻ được sinh ra bởi Thiên Chúa, chứ không phải do khí huyết nhục thể của loài người.
Như vậy, câu nầy xác tín, Ngôi Lời được sinh ra bởi Thần Khí Thiên Chúa, vì những kẻ tin vào Ngôi Lời, thì Người cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Rõ ràng, những kẻ được sinh ra bởi Thiên Chúa là hoàn toàn do Thần Khí, chứ không do nhục thể. Vì, “ Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chùa.” ( c 13) Vì vậy, “Ngôi Lời đã trở nên phàm nhân, và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.” ( c 14). Như vậy, ân sủng và sự thật chính là nguồn siêu nhiên từ Thiên Chúa Cha, Đấng là cùng đích của vạn vật, Đấng tác thành muôn loài, cũng là Đấng tuyệt đối trên vạn vật, chứ không phải ai khác. Vâng, chỉ có Đấng ấy, chứ không phải là vua chúa trần gian. Vua chúa trần gian là những kẻ ngụy biện, xảo trá, dù phong kiến, hay thuộc địa, cách mạng , hay đế quốc, ngoại xâm hay chủ nghĩa xã hội, tư bản hay dân chủ, quân chủ hay lập hiến, đều là xảo trá. Bởi những kẻ đó, chỉ muốn bóc lột con người, tranh giành tài sản, để mưu ích cho cá nhân, con cháu của chúng. Còn chính Thiên Chúa là Đấng cho đi, Đấng ban tặng từ khởi nguyên cho đến cùng tận.
Vì vậy, chính những con người là phàm nhân, mang lấy ân sủng từ trời cao đã làm chứng về Ngôi Lời như Gioan Tiền Hô. “ Ông Gioan làm chứng về Người, ông tuyên bố: “ Đây là Đấng mà tôi đã nói, đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi , vì có trước tôi .” ( c 15).
Vâng, chính vị ngôn sứ là Gioan Tẩy giả, người được làm chứng nhân cho Ngôi Lời, là vị ngôn sứ sau cùng của Cựu Ứơc, là gạch nối giữa Tân Ứơc và Cựu Ứớc. Chính ngài đã lấy mạng sống của mình làm chứng cho sự thật về Ngôi Lời.
Vì , “ Từ nguồn sung mãn của Người (Ngôi Lời ), tất cả chúng ta được lãnh nhận từ ơn nầy đến hết ơn khác “ ( c 16). Như vậy, Đấng Cứu Thế , Ngôi lời của Thiên Chúa, mặc nhiên, là một nguồn ân sủng đồi dào bởi Thiên Chúa, Đấng mang đến cho nhân loại một kho tàng từ trời cao.
Vì, “Quà thế, Lề luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môi-se, còn ân sủng và sự thật thì nhờ Đức Giêsu – Kitô mà có “ ( c 17).
Như vậy, “ ân sủng và sự thật “ là gì ? Há không phải là “ Chân lý và tình yêu “ hay sao ? Vậy, chân lý và tình yêu chính là nhờ Đức Giêsu- Kitô đó sao ?! Vậy, Ngôi Lời đã làm Người và cư ngụ giữa chúng ta hôm qua, hôm nay và mãi mãi để làm gì ? Há chẳng phải là để ban ân sủng và sự thật đó sao ?
Đêm Cực Thánh là Đêm mà Ngôi Lời của Thiên Chúa đã Giáng Sinh cho nhân loại. Vậy, Ngôi Lời Giáng Sinh trong đêm Cực Thánh nầy 2016, là để Giáng Sinh “ ân sủng và chân lý ” cho nhân thế.
Vì không ai đã nhìn thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng, quà tặng Đêm Giáng Sinh của Ngôi Lời Hài Nhi Giêsu là “ ân sủng hữu hình”, mà nhân thế không thể chối cãi được.
Rõ ràng câu 18 đã xác tín như vậy. “ Không ai đã nhìn thấy Thiên Chúa bao giờ ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.” “ ( c 18)
Vâng, rõ ràng là như vậy, Thiên Chúa chỉ dùng Lời phán, vì Người siêu nhiên, vô hình, như đã nói ở trên. Vì vậy, Ngôi Lời Giáng Sinh là một minh chứng rõ nét về “ Ân sủng và sự thật “ là chân lý và tình yêu nơi Thiên Chúa siêu nhiên./. Amen.
Có thứ ánh sáng nhằm soi dẫn người đi đêm luôn tự tin, gọi là đèn điện, có những người cùng đồng GS-410
Có thứ ánh sáng nhằm soi dẫn người đi đêm luôn tự tin, gọi là đèn điện, có những người cùng đồng hành với ta, sẽ mang lại sự an toàn hơn, đó là các vệ sĩ. Ấy vậy, đi đêm, hoặc xuất hiện bất cứ nơi đâu, mỗi người đều cần đến một niềm vui, sự bình an tâm hồn, dù quan niệm bình an hạnh phúc có khác nhau. Ngoài xã hội, người ta vẫn nói tới mùa xuân, mùa hè, mùa cưới, mùa sao sáng hay mùa No-el, thực tế, mùa nào cũng gợi mở ra một vòng xoay của quy luật. Có qua mùa đông mới tới mùa xuân, có hết mùa mưa bão mới thấy trăng sao xuất hiện. Có quan tâm đến Ngôi Lời nhập thể, mới thấy tình Chúa liên đới với tình người, mang lại sự trọn vẹn trong tình yêu cứu độ.
Khái niệm về ngày sinh nhật có thể không xa lạ đối với con người, vì ta từng cầu chúc ông bà cha mẹ, người thân, mỗi dịp mừng sinh nhật. Hôm nay mừng Sinh Nhật Chúa, chúng ta thấy khác hơn, cao trọng hơn, hẳn không phải do trên bầu trời có sao sáng hơn, hay ánh đèn chớp nháy rạo rực khắp nơi, mà từ ngữ hôm nay vẫn gọi là Mùa Giáng Sinh, Mùa No-el. Phụng vụ bài đọc thứ ba hôm nay quả quyết với chúng ta: “từ khởi thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa”. Mừng Sinh Nhật Chúa Ngôi Hai, Giáo hội muốn dẫn dắt chúng ta đi trong ánh sáng của Ngôi Lời, ánh sáng có tính trường cửu, thật xứng hợp khi tiền nhân ta gọi là Mùa Sao Sáng, Mùa Giáng Sinh.
Tin hay không tin, Sinh nhật Chúa đã thực sự trở thành ngày lễ hội ánh sáng, tưng bừng rạng rỡ niềm vui bên ngoài, đang khơi dậy ánh quang rung rinh nhiều tâm hồn ngập tràn bình an có Chúa. Yêu vẻ đẹp đầy sắc mầu Mùa No-el, yêu “nhè nhẹ” mối tình vừa chớm nở nhân Mùa Sao Sáng năm nay, yêu một tình yêu thật trong sáng, chính là ta đã phản ánh được vẻ đẹp của Hài Nhi Giêsu. Cha ông chúng ta có câu: biết tội đâu mà tránh, biết phúc đâu mà tìm. Thực ra thì người ta vẫn phải lần mò đi trong đêm tối, nếu bao lâu chúng ta chưa định hướng tình yêu bắt nguồn từ đâu.
Thực tế cho ta thấy, nếu ta từng ở trong đêm đen sợ hãi, hẳn ta sẽ yêu quý ánh sáng biết bao, và sẽ quyết tâm giữ mãi thứ ánh sáng mà ta vừa tìm thấy. Khi nhận biết tâm hồn mình thật dơ bẩn, ta mới khao khát được tẩy rửa, khi cuộc sống đầy thất bại, khổ đau vây hãm, hẳn ta sẽ thao thức được giải thoát biết chừng nào. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, hẳn ông phải có nhiều tâm sự về tình yêu thời chiến tranh, ông đã đặt lời ca thật thấm thía: một mùa sao sáng, đêm No-el Chúa sinh ra đời, Người hẹn cùng tôi: ngày về khi đất nước yên vui.
Một Mùa Sao Sáng, một mùa Giáng Sinh, luôn là một cơ hội để chúng ta chứng minh thời giờ, khả năng, hoàn cảnh của ta luôn có ích, có hy vọng cho đời. Nếu không được thu hút bởi Hài Nhi Giêsu, không được phản chiếu ánh quang từ hang đá Belem, từ tổ tiên dòng tộc, có lẽ bụi thời gian đã vĩnh viễn che đậy, phủ lấp Mùa Sao Sáng, Mùa Giáng Sinh rồi. Nếu không có sự chuẩn bị, thiếu đi lời nhắc nhớ của các ngôn sứ, của tiền nhân, tâm hồn người thế sẽ vẫn trống vắng, không thể hiểu Hài Nhi Giêsu là Thiên Chúa. Giá trị cuộc đời một con người có ý nghĩa hay không, tùy thuộc ta có muốn cộng tác để trở thành nhiệt lượng và ánh sáng cho đời như thế nào.
Đến nhà thờ thông hiệp mừng Chúa Giáng Sinh mà không có hang đá, đến hang đá chiêm ngắm thờ lạy mà thiếu Hài Nhi Giêsu thì thật đáng tiếc ! Hang đá tâm hồn người tín hữu thiếu sự hiện diện của Chúa, thì có khác gì bầu trời đêm đông chỉ có mầu đen sự chết ? Hang đá Belem năm xưa bừng sáng không phải vì tác động của con người, nhưng rạng ngời vì hang đá có sự hiện diện của Ngôi Lời là Ánh Sáng đến soi chiếu cho nhân loại. Hang đá tâm hồn chúng ta hôm nay có bừng sáng, có an vui, là do chúng ta đã chuẩn bị trong suốt 4 tuần vừa qua như thế nào ? Ngôi Lời là Ánh Sáng, nhưng không như ánh sáng của đèn điện, mà là Ánh Sáng của sự sống, Ánh Sáng tiêu diệt tội lỗi, tiêu diệt sự chết, và trở nên ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại con người chúng ta. Amen.
Lời tổng nguyện của Thánh lễ mừng Chúa Giáng Sinh ban ngày cho chúng ta biết được ý nghĩa GS-411
Lời tổng nguyện của Thánh lễ mừng Chúa Giáng Sinh ban ngày cho chúng ta biết được ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập thể mà chúng ta đã chuẩn bị và đang mừng kính: “Lạy Chúa, Chúa đã sáng tạo con người cách kỳ diệu, lại còn phục hồi phẩm giá con người cách kỳ diệu hơn nữa; xin ban cho chúng con được chia sẻ chức vị làm con Chúa với Đức Kitô là Đấng đã chia sẻ kiếp người với chúng con”. Trong ý nghĩa đó, tôi nhớ lại lời của thánh Irênê: “Con Chúa làm người để con người được làm con Chúa”. Vì vậy mỗi dịp mừng lễ Giáng Sinh là mỗi lần nhắc lại cho tôi về việc Thiên Chúa đã phục hồi phẩm giá làm người cho tôi và cho bạn.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Is 52, 7-10
Đoạn sách Isaia trong bài đọc thứ nhất nói về việc Thiên Chúa muốn phục hồi thanh danh của Người vì dân của Người trước đó đã bị đàn áp và lưu đày. Theo cái nhìn linh thánh, mọi sự đều do bởi chúa. Vì vậy sau khi để cho thù địch thống trị dân Người vì tội lỗi của họ, chính Người sẽ đích thân trở về Xion làm vua. Đó là Tin mừng mà dân sắp được nghe loan báo: “Họ sẽ được tận mắt thấy Đức Chúa đang trở về Xion” (Is 52, 8b). Ngài sẽ phục hồi phẩm giá cho họ và cũng là phục hồi danh dự cho Ngài, vì “vinh quang Thiên Chúa là con người sống”.
Tin Mừng: Ga 1, 1-18
Đoạn Tin mừng được chọn đọc trong Thánh lễ hôm nay là lời tựa của Tin mừng theo thánh Gioan. Trong lời tựa này chúng ta sẽ biết được một số chủ đề xuất hiện trong Tin mừng Gioan, mà nổi bật là sự sống, ánh sáng và bóng tối: “Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1, 3b); và một số chủ đề khác…
Trong năm mục vụ gia đình này, chúng ta hãy dừng lại ở chủ đề sự sống mà Gioan muốn giới thiệu cho chúng ta, vì mầu nhiệm Giáng sinh là mầu nhiệm Sự Sống đến trong thế gian này. Sự sống đó được các gia đình lãnh nhận, cưu mang và làm cho sống động trong chính ơn gọi của họ.
II. SÁNG TẠO VÀ TÁI TẠO
Thánh Kinh cho chúng ta biết “lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời”, và Ngôi Lời chính là sự sống, vì “nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1, 3). Sự sống đó được Thiên Chúa thông ban cho tổ tông loài người là Ađam và Eva qua việc “thổi hơi vào lổ mũi”. Sự sống đó làm cho 2 ông bà được hiệp thông với Thiên Chúa, với nhau và với vũ trụ vạn vật, từ đó họ được hạnh phúc viên mãn. Thế nhưng vì nghe lời của ma quỷ mà 2 ông bà đã đánh mất đi sự sống đó, đã phải đau khổ và phải chết.
Tuy nhiên Thiên Chúa đã phục hồi sự sống đó cho con người qua việc trao ban chính Nguồn Sống là Đức Giêsu Kitô để Ngài làm cuộc tái tạo mới. Vì vậy đón nhận mầu nhiệm Giáng Sinh là đón nhận mầu nhiệm tái tạo nơi chính cuộc đời của mỗi chúng ta để được quay trở lại hiệp thông với Thiên Chúa, với con người và với vũ trụ vạn vật.
III. PHỤC HỒI PHẨM GIÁ LÀM NGƯỜI
Với bài hát “Ông bà anh” trên chương tình “Sing My Song”, chàng ca sĩ Lê Thiện Hiếu đang gây bão trên cộng đồng mạng. Lời bài hát này phác họa lại một tình yêu “thời chưa có Tivi, chưa có xe hơi, chưa có Facebook, Zalo”; thời tình yêu còn tỏ tình bằng “những dòng thư tay viết vội”, thể hiện bằng việc “mua tặng một đóa hoa” bình dị và mộc mạc; thời tình yêu hết sức trong sáng: “Chạm tay nhau một giây thôi là nhớ nhau cả đời”. Tình yêu “cổ lổ sĩ” của ông bà xưa lại là một “tình yêu xanh ngát xanh”. Thay vào đó, tình yêu của các bạn trẻ ngày hôm nay là tình yêu “thời xe máy, ô tô, thời Facebook, Zalo, thời tay cầm Oppo”; thời tình yêu được chứng minh bằng việc nếm thử trái cấm mà không cần hôn nhân; thời hẹn hò “gặp nhau mà chẳng nói gì với nhau, ngồi bên nhau cầm điện thoại thật lâu”... Thứ tình yêu đó làm cho chàng trai trẻ thốt lên: “Ôi tình yêu thời nay mệt quá ai ơi!” Chính vì vậy “Anh muốn có một tình yêu xanh ngát xanh….như ông bà anh” ngày xưa. Người ta muốn quay lại tình yêu thuở ban đầu vì nó quá đẹp!
Con người ngay từ đầu vốn rất đẹp, vì họ là “hình ảnh của Thiên Chúa”, họ đã được phú bẩm cho sự sống của Thiên Chúa. Theo lời của Đức Khổng Tử thì: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Nhưng theo dòng thời gian, hình ảnh đẹp đó, bản tính tốt đó bị ảnh hưởng của nhiều thứ, nói chung là sự dữ làm cho trở nên hư hoại.
Mầu nhiệm Giáng Sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa chính là quyền năng của Thiên Chúa không bị khuất phục bởi ma quỷ, là tình yêu muốn phục hồi những gì bị ma quỷ làm cho hư hoại, để trả lại tất cả những gì tốt đẹp cho con người. Hay nói cách khác Mầu nhiệm Giáng sinh là Mầu nhiệm phục hồi phẩm giá làm người một cách tốt đẹp nhất.
Phục hồi phẩm giá làm người là trả lại mối tương quan tốt đẹp thuở ban đầu với Thiên Chúa, với tha nhân và với vũ trụ vạn vật.
Trong tương quan với Thiên Chúa
Con người phạm tội đã xa lánh, chạy trốn Thiên Chúa. Đức Giêsu phục hồi bằng cách đến sống giữa con người, mời gọi họ sám hối, quay trở về với Thiên Chúa. Hình ảnh Hài Nhi Giêsu nằm trong máng cỏ, xung quang có Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse, các mục đồng, Ba Vua, các thiên thần với lời tung hô: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” cho thấy sự bình an đích thực và sâu thẳm là quây quần bên Chúa.
Ai trong chúng ta cũng có những kỷ niệm đẹp về một thời sống đạo hết sức là sốt sắng, siêng năng đọc kinh, cầu nguyện, tham dự thánh lễ, tham gia các hội đoàn, thường xuyên đến nhà thờ… Nhưng vì nhiều lý do có những người trở nên bê bối, khô khan, nguội lạnh, không đọc kinh cầu nguyện, bỏ nhà thờ; thậm chí còn trở nên gánh nặng cho gia đình, cho xã hội với cuộc sống bê tha, tội lỗi của mình…
Ánh sáng đã đến thế gian là Đức Giêsu Kitô, hôm nay dọi chiếu một cách đặc biệt đến những tâm hồn như thế để họ quay về với “ngày xưa thân ái”, được giao hòa với Thiên Chúa và sống trong tình nghĩa với Ngài.
Trong năm mục vụ gia đình này, Họ đạo chúng ta mời gọi các gia đình tái lập việc đọc kinh hôm trong gia đình cũng với mục đích giúp cho mỗi người trong gia đình có thời gian quây quần bên nhau và bên Chúa để thánh hóa đời sống của họ. Khi quây quần bên nhau trong giờ kinh tối, người ta sẽ bớt đi những mệt mỏi, những lo toan, những muộn phiền trong cuộc sống. Vì vậy hãy cố gắng thực hiện giờ kinh hôm trong gia đình.
Trong tương quan với tha nhân.
Hai ông bà nguyên tổ sau khi phạm tội đã đổ lỗi cho nhau. Từ đó con người cắt đứt mối tương quan tốt đẹp với người khác, nhìn người khác bằng cái nhìn không còn đẹp nữa. Ánh sáng rực lên trên cánh đồng Bêlem đã quy tụ các mục đồng lại bên nhau để cùng nhau lên đường thờ lạy Hài Nhi Giêsu. Hay Ba Vua ở 3 đất nước khác nhau, hoàn toàn xa lạ nhưng đã gặp nhau tại hang đá Bêlem nhờ Ngôi Sao chỉ đường… Như vậy Tình Yêu Giáng Sinh đã giúp con người xích lại gần nhau hơn.
Ta có được thân xác như ngày hôm nay trước hết là do sự quan phòng của Thiên Chúa, nhưng còn phải có sự cộng tác của cha mẹ và nhiều người như bác sĩ, thầy cô, bạn bè… Vì vậy sống là sống với. “Không ai là một hòn đảo”. Nếu sống chỉ có trao ban sẽ làm cho người khác bị tổn thương vì ta như một người ban phát, bố thí. Nếu sống chỉ có lãnh nhận sẽ là cho nhiều người đau khổ vì ta như người đào mỏ. Cho nên cuộc sống của ta phải biết lãnh nhận và trao ban, nghĩa là có sự hiệp thông với mọi người.
Thế nhưng cuộc sống ngày hôm nay khiến nhiều người chỉ biết sống cho riêng mình, họ lấy bản thân làm tiêu chuẩn để làm sao họ được thỏa mãn, được vui, được sung sướng, được thoải mái… còn những người khác đau khổ hay bị tổn thương họ không màng đến.
Mầu nhiệm Giáng Sinh là mầu nhiệm nối kết yêu thương. Trong năm mục vụ gia đình này, nhắc nhở chúng ta phải biết nghĩ đến trước hết là những người thân trong gia đình, để xem xét từng hành động, từng cử chỉ của tôi có làm ảnh hưởng gì đến những người còn lại trong gia đình hay không? Kế đến còn phải biết hướng đến một cộng đồng rộng lớn hơn là xã hội để ý thức trách nhiệm trong từng hành động của mình, bỏ đi lối suy nghĩ “miễn là có lợi cho mình là được”, còn người khác thì “mặc kệ nó”. Bảo vệ ngôi nhà chung là môi trường sống rất cần tinh thần hiệp thông, cộng tác với nhau để làm cho môi trường sạch đẹp, chứ không phải chỉ nhà mình, gia đình sạch đẹp, còn nhà người khác ra sao thì kệ họ.
Trong tương quan với vũ trụ vạn vật
Ông bà nguyên tổ sống trong vườn địa đàng rất hạnh phúc. Môi trường xung quanh rất thơ mộng với chim hót líu lo, suối chảy róc rách, muôn thú hiền hòa… Nhưng khi sự dữ đến thế gian, mọi thứ đã thay đổi, kể cả thiên nhiên cũng mất dần sự thân thiện với con người.
Trong những tháng cuối năm 2016, miền Trung và Nam Trung bộ liên tiếp hứng chịu những cơn bão lũ, hoặc những trận ngập lụt do các nhà máy xả lũ “đúng quy trình” khiến cho nhiều người chết, đường xá bị hư hoại, cuộc sống bị đảo lộn… Điều đó là hậu quả của việc con người vì lợi ích cá nhân nên đã khai thác rừng một cách vô tội vạ.
Một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm hiện nay là ô nhiễm môi trường và an toàn thực phẩm. Hằng ngày chúng ta lo sợ vì phải hít vào cơ thể những khí độc do các nhà máy công nghiệp thải ra, những khói thuốc lá, những mùi hôi thối từ các cống rãnh… Chúng ta lo sợ vì ăn thứ gì cũng từ hóa chất, hàng giả, hàng kém chất lượng…
Vì vậy nhiều người muốn quay trở lại ngày xưa để được sống trong bầu không khí trong lành, được ăn thức ăn trong thiên nhiên không nhiễm độc, được ăn cá sạch, được ăn bánh do mẹ, do chị làm nên…
Ngày 24/05/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành thông điệp Laudato Sí về việc chăm sóc ngôi nhà chung là thiên nhiên, vũ trụ vạn vật mà chúng ta đang sống. Trong mùa Vọng 2016, Đức Giám Mục Giáo phận Cần Thơ cũng đã đưa ra những chương trình cụ thể trong 4 tuần Mùa Vọng để mọi người, mọi thành phần chung tay gìn giữ ngôi nhà chung là vũ trụ vạn vật.
Mùa Giáng Sinh với hình ảnh con Chúa sinh ra trong đêm đông giá lạnh, một lần nữa nhắc nhở chúng ta hãy ý thức bảo vệ môi trường để góp phần sưởi ấm cho Chúa Hài Đồng. Một cách cụ thể: không vứt rác bừa bãi, biết tiết kiệm điện nước, dọn dẹp môi trường, khai thông cống rãnh…
Nói tóm lại, mầu nhiệm Giáng sinh trả lại cho chúng ta hình ảnh tốt đẹp thuở ban đầu mà nguyên tổ đã có được. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa và cố gắng để hình ảnh tốt đẹp của chúng ta được phục hồi trong mối tương quan thân tình với Thiên Chúa, với tha nhân và vũ trụ vạn vật.
1 Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. 2 Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. 3 Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành. 4 ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. 5 Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. 6 Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. 7 Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. 8 Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. 9 Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. 10 Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. 11 Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. 12 Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. 13 Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. 14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. 15 Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố: “Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” 16 Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. 17 Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có. 18 Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.
CÂU CHUYỆN VÀ SUY NIỆM:
1) TẠI SAO THIÊN CHÚA PHẢI NHẬP THỂ TRỞ THÀNH EMMANUEN ?
Hôm nay chúng ta cử hành biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: “Chúa Giêsu Ngôi Lời Nhập GS-412
Hôm nay chúng ta cử hành biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: “Chúa Giêsu Ngôi Lời Nhập Thể đã xuống thế làm người”. Người là Con Một của Chúa Cha, vì yêu thương nhân loại, đã từ trời cao xuống đầu thai thành một người phàm, “nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không phạm tội” (Dt 4,15). Tin mừng Gio-an đã diễn tả mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập thể trong lời tựa mở đầu sách Tin Mừng Thứ Tư như sau: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14). Đức Giê-su là Đấng “Em-ma-nu-en – Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Người đã đến cắm lều ở giữa chúng ta để cứu chuộc chúng ta. Tại sao Chúa lại phải đích thân xuống thế làm người như vậy ? Câu chuyện sau đây của Sadhu Sundar Singh, một nhà huyền bí Ki-tô giáo người Ấn độ trả lời cho vấn nạn ấy:
Xưa kia một ông vua đã chọn một ông quan thông thái và thánh thiện tên là The Vizier để luôn đi theo làm bầu bạn và giải đáp các thắc mắc của nhà vua. Một hôm trên đường đi hành hương thánh địa Palestine, The Vizier đã bị xúc động mãnh liệt khi được nghe biết câu chuyện của Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, tuy là Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương nhân loại tội lỗi, nên đã nhập thể làm người để ban ơn cứu chuộc cho loài người. Sau đó ông ta đã xin theo đạo Công giáo. Khi trở về triều, nhà vua thắc mắc hỏi quan The Vizier rằng: “Nếu trẫm muốn làm bất cứ điều gì, trẫm sẽ không cần đích thân làm, mà chỉ cần ra lệnh cho quần thần là việc đó sẽ lập tức được thi hành. Vậy tại sao Chúa Giê-su là vua các vua, là Thiên Chúa quyền năng, có thể cứu rỗi nhân loại chỉ bằng một lệnh truyền, nhưng người lại phải nhập thể làm người, trở thành Đấng “Emmanuen – Thiên Chúa ở cùng chúng ta” như vậy làm chi?” Bấy giờ quan cố vấn The Vizier xin nhà vua cho thời gian suy nghĩ một ngày trước khi trả lời cho nhà vua. Ngay sau đó, ông ta cho người nhờ một người thợ mộc tài giỏi trong nước làm gấp một con búp bê và cho mặc quần áo giống y như hoàng tử một tuổi con trai của nhà vua. Ông cũng căn dặn hôm sau phải mang búp bê đó đến cho ông.
Sáng hôm sau, khi vua và quan cố vấn đang chèo thuyền dong chơi trong hồ lớn bên trong hoàng cung, vua đã yêu cầu quan cố vấn hãy trả lời cho câu hỏi của vua hôm trước. Bấy giờ quan cố vấn ra hiệu cho người thợ mộc đang có mặt ở bờ hồ, trên tay bế con búp bê giống hệt hoàng tử một tuổi con trai của nhà vua. Nhà vua trông thấy hoàng tử con trai của mình trên tay người lạ thì tưởng là thích khách. Nhất là khi thấy tên thích khách kia ném hoàng tử xuống hồ nước, nhà vua liền nhảy xuống hồ bơi nhanh đến để kịp thời cứu hoàng tử sắp bị chết chìm, mà không ra lệnh cho quần thần chung quanh. Sau khi quan quân đưa được nhà vua và hình nộm búp bê hoàng tử kia lên thuyền, quan cố vấn liền hỏi: “Tâu đức vua, thần nghĩ là đức vua không cần phải nhẩy xuống hồ nước, mà chỉ cần ra lệnh cho quần thần làm việc ấy không được hay sao ? Tại sao chính đức vua lại phải nhẩy xuống hồ để cứu hình nộm hoàng tử vậy?” Nhà Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Trẫm nghĩ có lẽ việc trẫm vừa làm là câu trả lời của khanh muốn nói cho trẫm biết lý do tại sao, để cứu nhân loại khỏi chết, Thiên Chúa toàn năng lại phải đích thân nhập thể làm người, thay vì ra lệnh cho ai khác làm điều đó”.
2) THẮP LÊN NGỌN LỬA TIN YÊU NƠI THA NHÂN BẰNG SỰ THĂM VIẾNG VÀ PHỤC VỤ:
Một ngày kia, tại Melbourne nước Úc, mẹ Tê-rê-sa đến thăm một người đàn ông lớn tuổi nghèo khó và cô độc, đang sống dưới tầng hầm của một chung cư. Căn phòng của ông tối tăm và bề bộn, và ít khi ông bước ra khỏi phòng. Thái độ của ông không mấy phấn khởi khi thấy có người đến thăm. Sau mấy lời chào hỏi, mẹ Tê-rê-sa bắt đầu đi thu dọn và sắp xếp lại căn phòng. Lúc đầu, ông ta tỏ ý không muốn qua câu nói: “Bà cứ để mọi sự như cũ cho tôi. Tôi đã quen với cảnh này rồi”. Mặc dù thế, mẹ vẫn cứ xúc tiến công việc của mình. Mẹ vừa dọn dẹp, vừa nói chuyện với ông ta ngồi trên nệm kê ở góc phòng. Dưới một đống rác cạnh tường, mẹ phát hiện ra một cây đèn dầu phủ đầy bụi bặm, liền lấy ra lau chùi. Nhận thấy cây đèn khá đẹp, mẹ liền nói với ông ta: “Ông có một cây đèn dầu rất đẹp, vậy ông có thường thắp sáng nó lên hay không?” Ông ta đáp: “Tôi có hay thắp sáng cây đèn đó lên hay không ư ? Có ai đến thăm tôi đâu !” Mẹ nói: “Thế ông có bằng lòng cho chúng tôi thường xuyên đến thăm ông để có dịp thắp sáng cây đèn này lên hay không?” Ông ta trả lời “Vâng, nếu tôi nghe thấy một giọng nói của người nào, thì tôi sẽ thắp đèn lên”.
Từ ngày đó hai nữ tu dòng của mẹ Têrêxa đã thường xuyên đến thăm viếng ông lão. Mọi sự đã dần dần được cải thiện. Mỗi lần các nữ tu đến thăm, ông ta đều thắp sáng cây đèn lên. Thế rồi một ngày nọ, ông đã nói với các nữ tu: “Thưa các sơ, kể từ bây giờ, tôi đã có thể tự xoay xở mọi việc được rồi. Xin các sơ nói với mẹ bề trên đã đến thăm tôi cách đây ít lâu là: ánh sáng mà bà đã thắp sáng trong tôi từ đó đến nay vẫn đang cháy sáng trong tôi”.
Chính lòng nhân ái thể hiện qua hành động thăm viếng và thái độ đầy tình người của mẹ Têrêxa và các chị em nữ tu dòng Thừa Sai Bác Ái đã thắp sáng lên ngọn lửa tin yêu trong tâm hồn người đàn ông nghèo khó cô đơn nói trên.
LỜI CẦU:
Lạy Chúa. Mầu nhiệm Chúa giáng sinh hôm nay mời gọi mỗi người chúng con biết nghĩ đến những người chung quanh, nhất là những người đau khổ, bệnh tật, nghèo đói, cô độc và những đôi vợ chồng bất hạnh. Xin cho chúng con ý thức Chúa đang hiện thân nơi họ để mời gọi chúng con thăm viếng, động viên an ủi, sẻ chia tinh thần vật chất, để thắp sáng lên ngọn lửa tin yêu vẫn đang còn âm ỉ trong tâm hồn họ. Xin Chúa cũng giúp chúng con biết nhìn thấy Chúa nơi những người thân trong gia đình chúng con như: chồng vợ, cha mẹ, anh chị em trong cùng một mái nhà, để cảm thông, tha thứ và sẵn sàng chia sẻ lời chúc bình an hạnh phúc cho họ. Nhờ đó, Chúa là tình thương sẽ có thể hiện diện nơi bản thân, gia đình, khu xóm và nơi làm việc của chúng con.- AMEN.
Lễ Giáng Sinh đem đến một niềm vui lớn cho toàn thể nhân loại, nhất là cho những người thành tâm GS-413
Lễ Giáng Sinh đem đến một niềm vui lớn cho toàn thể nhân loại, nhất là cho những người thành tâm thiện chí và những người bé nhỏ khó nghèo trong xã hội. Thiên Chúa cao siêu, cực thánh, vô hình đã trở nên một trẻ thơ bé bỏng trong vòng tay yêu thương trìu mến của người mẹ hiền và trước mắt mọi phàm nhân. Điều kỳ diệu ấy chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng vô cùng quyền năng mới thực hiện được. Ngôi Lời Thiên Chúa, là Hài Nhi Giê-su, đã đến thế gian để đem phúc trời là bình an và tình thương của Thiên Chúa đến cho muôn dân, muôn người.
Chúng ta hãy đón mừng Chúa Hài Nhi là Thiên Chúa giáng trần để cứu nhân loại khỏi vòng nô lệ của tội lỗi! Chúng ta hãy để cho niềm vui thiên quốc ùa tràn vào tâm hồn, gia đình và cuộc sống đầy gian nan khốn khó của chúng ta!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH 2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (Is 52,7-10): "Khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta" Đẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin mừng, người rao tin cứu độ, nói với Sion rằng: Thiên Chúa ngươi sẽ thống trị!
Tiếng của người canh gác của ngươi đã cất lên. Họ sẽ cùng nhau ca ngợi rằng: Chính mắt họ sẽ nhìn xem, khi Chúa đem Sion trở về. Hỡi Giêrusalem hoang tàn, hãy vui mừng, hãy cùng nhau ca ngợi! Vì Chúa đã an ủi dân Người, đã cứu chuộc Giêru-salem. Chúa đã chuẩn bị ra tay thánh thiện Người trước mặt chư dân; và khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn xem ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
2.2 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (Dt 1,1-6): “Chúa đã phán dạy chúng ta qua người Con" Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con mà Ngài đã đặt làm vị thừa kế vạn vật, và cũng do bởi Người Con mà Ngài đã tác thành vũ trụ. Nguyên vốn là phản ảnh sự vinh quang và là hình tượng bản thể Ngài, Người Con đó nâng giữ vạn vật bằng lời quyền năng của mình, quét sạch tội lỗi chúng ta, và ngự bên hữu Đấng Oai Nghiêm trên cõi trời cao thẳm. Tên Người cao trọng hơn các thiên thần bao nhiêu, thì Người cũng vượt trên các thiên thần bấy nhiêu.
Phải, vì có bao giờ Thiên Chúa đã phán bảo với một vị nào trong các thiên thần rằng: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã hạ sinh Con"? Rồi Chúa lại phán: "Ta sẽ là Cha Người, và Người sẽ là Con Ta". Và khi ban Con Một mình cho thế gian, Chúa lại phán rằng: "Tất cả các thiên thần Chúa hãy thờ lạy Người!"
2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Ga 1,15.9-14): "Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta" Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thuỷ.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Đây là Đấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi".
Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Đức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Đấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.
Hoặc đọc bài vắn này: Ga 1, 1-5. 9-14: Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thuỷ.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa là:
* Vua hiển trị bằng Tình Yêu Thương, là Đấng đang trở về Xi-on để an ủi dân Ít-ra-en và cứu chuộc Giê-ru-sa-lem và vung cánh tay thần thánh trước mặt muôn dân.
* Đấng, trong các thời đại trước, đã phán dạy qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Người phán dạy qua Thánh Tử là Chúa Giê-su. Chúa Giê-su vừa là Thiên Chúa (Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ) vừa là Con Thiên Chúa (Ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con).
* Là Ngôi Lời đã thành xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta và ở giữa thế gian. Người đã đến nhà mình, nhưng thế gian đã không nhận biết Người và người nhà đã không đón nhận Người. Những ai đón nhận, tức là tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa."
* Đấng là Ánh Sáng thật, Ánh Sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.
* Đấng đem ân sủng và sự thật cho loài người.
3.2 Sứ điệp hay Giáo Huấn của Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là:
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Người đã đến nhà mình. Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.”
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
Thiên Chúa mời chúng ta đáp lại Tình Thương của Chúa Cha và việc Xuống Thế của Ngôi Lời bằng cách:
4.1 Sống với Chúa là Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Sống với Chúa là Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta nơi Chúa Giê-su Hài Nhi. Sống một cách mật thiết, biết ơn và vâng phục.
4.2 Thực thi Ý Chúa hay Giáo Huấn của Chúa là nhận biết và đón nhận Chúa Giê-su và tin vào Danh Người để trở nên con Thiên Chúa.
Cụ thể là:
(a) Nhận biết Hài Nhi Giê-su chính là Ngôi Lời Nhập Thể làm người và hiện đang cư ngụ giữa loài người!
(b) Nhận biết Chúa Giê-su là Ánh Sáng, là Ân Sủng.
(c) Sống khiêm nhường, phục vụ, bỏ mình, tự hạ theo gương Chúa Giê-su Hài Nhi cho xứng danh là con cái Thiên Chúa.
(d) Thường xuyên dâng lời chúc tụng, ngợi khen Chúa Hài Nhi là biểu hiện cụ thể của Thiên Chúa Tình Thương và Quyền Năng.
Mỗi người nhìn lại xem mình đã và đang sống như thế nào với sứ điệp trên của Lời Chúa?
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử» Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các dân, các nước trong thế giới hôm nay, được ơn nhận ra Vị Ngôn Sứ vĩ đại của Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô đã xuống thế làm người, để mạc khải Thiên Chúa cho con người và đem muôn vàn ơn phúc của Trời cho những người thành tâm thiện chí.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta» Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và Giáo Dân để mọi thành phần Dân Chúa biết mở rộng tâm hồn đón rước Ngôi Lời vào nhà mình và sống thân mật với Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác» Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, để mọi người lãnh nhận được muôn vàn ơn phúc trong Mùa Giáng Sinh năm nay.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi» Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho những người có trách nhiệm giúp đỡ và hướng dẫn người khác tìm kiếm Thiên Chúa, để họ biết cách biểu lộ Thiên Chúa trong lời nói, việc làm và cách sống của họ.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Sài-gòn ngày 21 tháng 12 năm 2020
Sinh ra làm người, hạnh phúc nhất khi có cha có mẹ, nhà giầu nhà nghèo, đêm đông hay ngày nóng GS-414
Sinh ra làm người, hạnh phúc nhất khi có cha có mẹ, nhà giầu nhà nghèo, đêm đông hay ngày nóng, vẫn phản ánh đủ giá trị thật của tình yêu: ơn cha nghĩa mẹ. Đúng hay sai, lạnh lẽo nhất không phải khi mùa đông sang, bực tức nóng giận đến đâu phải vì đói khát, nhưng bởi sự vô tâm hời hợt từ người mà bạn đã từng xem là tất cả ! Một khi tôi biết người bạn yêu thương nhất trên đời là ai, tôi sẽ nói cho bạn biết bạn là mẫu người nào ! Hãy nhẫn nại, lạc quan, theo quy luật: ở hiền gặp lành, sau cơn mưa trời lại sáng. Hãy tạ ơn Chúa, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. (Tv 117). Đâu phải cứ nhiều tiền lắm của gọi là tài giỏi, cũng chẳng ai nghĩ: bằng cấp nhiều, địa vị cao, là thành công ? Nói đúng lúc, đúng chỗ, có thể làm giảm căng thẳng, biết nói lời yêu thương chân tình, có thể giúp anh chị em nhẹ vơi nỗi khổ đau, lời nói gói vàng, là thế đó.
Đêm đông năm xưa ít là có một gia đình rất cần đến sự ấm áp của tình người, vị gia trưởng hiền mẫu đầy ưu tư lo lắng cho việc con mình chào đời, quả là “ái ngại” như câu thành ngữ: đàn ông đi biển có đôi, đàn bà vượt biển đơn côi một mình. Sau việc hạ sinh êm xuôi, cặp đôi đó để lại hậu thế nhiều bài học: thiếu tình người, nhưng không được thiếu tình Chúa, thiếu tình đồng đội, nhưng không được thiếu tình yêu thương. Trong đời sống tự nhiên mọi người đều phải nghĩ tới “cái ăn cái mặc”, đối diện với đời sống tinh thần ai mà không sợ phải cô đơn ! Trong tương quan xã hội, mấy ai chẳng nghe: nghèo nhưng không được hèn; khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Đêm đông hôm nay, tình người lúc này, chúng ta có để cho niềm tin yêu phủ lấp tâm hồn mình không ? Chúng ta đang sống nén bạc Chúa trao thế nào, khi mà khắp nơi đều hát vang: Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô kêu gọi phải trở về quê hương mình đăng trình, Giuse vô tình, hay bản chất Giuse luôn vâng phục Thiên Chúa và người đời ? Có phải tình người mùa đông năm ấy giới hạn theo quy luật chung: nhất thân nhì thế ? Vâng, sự táo bạo làm lớn lên đức can đảm, trong khi do dự lại tăng lên nỗi sợ hãi. Ông Giuse không thể tìm được nơi trú ngụ, nên tìm đến chốn hang bò lừa ! Tình người, tình đời, tình yêu, đưa đẩy Giuse tới một khái niệm: người bi quan phản nàn về cơn gió, người lạc quan mong cơn gió đổi chiều, người thực tế điều chỉnh lại cánh buồm. (William Arthur). Trong khi sinh em bé ở ngoài đồng lạnh giá, khác với sinh em bé ở bệnh viện, ấy vậy mà các nhà đạo đức cho rằng: nếu lòng bạn có bình an, ở đâu cũng thấy như đang ở nhà. Hẳn muôn dân trên khắp địa cầu, sẽ còn tiếp tục suy gẫm về hoàn cảnh Con Thiên Chúa giáng trần, về niềm tín thác của gia đình Thánh Gia.
Tình người đêm đông, tình người đêm nay, chỉ mang lại ý nghĩa khi nối kết được với tình Chúa, vì ở trong mối dây hiệp thông, mỗi người sẽ không phải lo lắng ưu tư ta đang ở đâu, làm gì để có hạnh phúc thật. Khung cảnh và thời gian của “chữ tình xưa nay” rất khác nhau, do đó, vui buồn, tuỳ tâm trạng mỗi người đang cộng tác làm nên bức tranh yêu thương sống động như thế nào ? Giuse, Maria, các mục đồng, năm xưa đã nghe, đã gặp, đã tin: “các người đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng trọng đại, đó cũng là tin mừng cho toàn dân. Hôm nay Chúa Kitô, Đấng cứu thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít”. Đêm hôm nay, khắp nơi trên thế giới đang vui mừng kỷ niệm Con Thiên Chúa làm người: hang đá, cây thông, ngôi sao, ông già noel, vẫn mãi là biểu tượng về niềm vui giáng sinh. Nhưng chắc chắn Hài Nhi Giêsu thích nhất “hang đá” tâm hồn của mỗi người, cho dù mỗi người thích cụ thể, vắn gọn: Vinh Danh trên trời, bình an dưới thế”.
Tình người đêm đông, tình người hôm nay, vẫn khoác chung một ước mơ hạnh phúc: không còn nghèo đói, không còn áp bức, nhưng có cùng ngôn ngữ tin yêu và hoạt động dấn thân phục vụ. Xã hội hiện đại không phân biệt giầu nghèo, không nhầm lẫn tình địch với tình người, nhưng mỗi người luôn có tự do để yêu, để thương, để Hài Nhi Giêsu ngự thật nơi tâm hồn mình. Sống mà thiếu đi cảm xúc thì chỉ là tồn tại, tin yêu mà không có hành động để minh chứng, chỉ là giả dối, môi miệng. Mong chờ Chúa đến, tìm kiếm niềm vui giáng sinh, nhưng hang đá lòng mình còn bề bộn, thiếu sự chuẩn bị, có khác gì bạn đang tìm kiếm niềm vui thế gian ? Kinh nghiệm cho thấy: giá lạnh đêm đông đối với cảnh nghèo đã là khổ rồi, tình người bị quên lãng, bị chối bỏ, dù sống cũng như chết, nói chi là khổ đau ! Con Thiên Chúa đến trần gian trong thân phận em bé, đó là niềm tin, Con Thiên Chúa sinh ra nơi máng cỏ hang lừa, đó là lúc tự do tình người sử dụng thiếu chuẩn mực. Xin Hài Nhi Giêsu là Ánh Sáng đã đến thế gian: thức tỉnh, mở lòng, sưởi ấm chúng con. Amen.
Trong ngày đại lễ mừng Chúa Giáng Sinh, Giáo Hội cho chúng ta nghe Lời mở đầu Tin Mừng theo GS-415
Trong ngày đại lễ mừng Chúa Giáng Sinh, Giáo Hội cho chúng ta nghe Lời mở đầu Tin Mừng theo thánh Gioan. Lời mở đầu này là một bài ca về sự cao trọng vô song của Ngôi Lời. Ngôi Lời là Đấng vĩnh hằng, đã hiện hữu từ nguyên thủy. Ngài là Thiên Chúa, là Con Một luôn hướng về Thiên Chúa Cha (c. 1). Tương quan giữa Thiên Chúa và Ngôi Lời là tương quan giữa Cha với Con. Thiên Chúa Cha đã muốn Ngôi Lời cộng tác trong việc tạo dựng vũ trụ. Nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành (cc. 3, 10). Chẳng có thụ tạo nào hiện hữu mà lại không được dựng nên bởi Ngôi Lời. Dù khác nhau về màu da, ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo… mỗi con người đều mang trong mình Sự Sống của Ngôi Lời. Sự Sống ấy là Ánh Sáng vẫn chiếu soi cả nhân loại (c. 4), và soi chiếu lương tâm từng con người, chẳng trừ ai (c. 9), bất chấp sức mạnh gớm ghê của bóng tối (c. 5). Rồi khi đến thời viên mãn, vì quá yêu thương con người trầm luân Thiên Chúa đã sai Ngôi Lời, Con Một của Ngài vào trần gian để cứu độ. Ngôi Lời vĩnh cửu đã trở nên người phàm, mang tên Giêsu, mang thân xác giới hạn như chúng ta, sống trong dòng lịch sử, và ở giữa chúng ta trên cùng một trái đất (v. 14). Đấng Tạo thành vạn vật bây giờ trở nên một thụ tạo bé nhỏ, được sinh ra, được bú mớm, từ từ lớn lên và trưởng thành. Đấng Tạo thành vạn vật nay sẽ là Đấng Cứu độ loài người, để ai tin vào Ngài thì Ngài cho họ quyền làm con cái Thiên Chúa (c. 12). Khi vâng ý Cha chấp nhận nhập thể và nhập thế, Ngôi Lời đã cúi xuống bắc cầu nối kết Thiên Chúa với con người, để đưa con người vào sống tình thân với Thiên Chúa. Chưa bao giờ và mãi mãi về sau, chẳng bao giờ có một Vị Trung Gian cứu độ nào tuyệt vời đến thế. Vì chỉ mình Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật, vừa là một con người thật. Mừng lễ Giáng Sinh là mừng đại lễ Thiên Chúa đến cứu con người. Thiên Chúa Cha không muốn cứu độ nhân loại bằng cách chỉ phán một lời. Ngài muốn tặng cho ta món quà cao quý là chính Người Con duy nhất. Chẳng ai thấy tận mắt hay biết rõ Thiên Chúa bao giờ. Nhưng nơi Đức Giêsu, chúng ta được quen biết và gặp gỡ Thiên Chúa. Vì duy chỉ mình Ngài là Con hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha (c. 18). Lễ Giáng Sinh đem lại niềm vui cho toàn thể thế giới con người. Vì Con Thiên Chúa đã mang phận người vất vả, long đong, nên đời người, dù đổ vỡ khổ đau, cũng có ý nghĩa, và đáng sống. Vì Con Thiên Chúa đã mang khuôn mặt, và thân xác con người, nên bất cứ ai là người, đều mang hình ảnh của Con Thiên Chúa. Vì Con Thiên Chúa đã cư ngụ trên trái đất nhỏ xíu này của chúng ta, đã sống nhờ không khí, nước và thức ăn của trái đất này, nên trái đất này thật là thế giới linh thánh, cần trân trọng. Lễ Giáng Sinh bao giờ cũng mời ta nhìn lại đời mình, nhìn lại khuôn mặt những người chung quanh, nhìn lại trái đất mình sống, với lòng kính trọng, vui sướng, và biết ơn. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại. Ước gì tôi biết đưa hai tay ra để đón lấy quà tặng cao quý ấy. Lời nguyện Lạy Chúa Giêsu, Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương, và đã ban cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời. Nếu rừng không còn xanh, suối không còn sạch, và bầu trời vắng tiếng chim. thì đó là lỗi của chúng con. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người, vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói, bao trẻ sơ sinh bị giết khi chưa mở mắt chào đời, bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp. Đó là lỗi của chúng con. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương, vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình. Chiến tranh, khủng bố, hận thù ở khắp nơi. Người ta cứ giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi. Đó là lỗi của chúng con. Lạy Chúa Giêsu ở Belem, Chúa đã cứu độ thế giới bằng tình yêu khiêm hạ, nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn có mặt trên địa cầu. Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan. Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc. Đó là lỗi của chúng con. Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại, và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu. Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem, xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa để yêu trái đất lạnh giá này hơn, và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.
Sau hơn chín tháng bị câm, khi Gioan đã sinh được tám ngày, lời nói đầu tiên của ông Dacaria là GS-416
Sau hơn chín tháng bị câm, khi Gioan đã sinh được tám ngày, lời nói đầu tiên của ông Dacaria là một bài ca chúc tụng. Ông chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel vì Ngài đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68). Mọi việc Thiên Chúa sắp làm cho đoàn dân riêng được gói gọn trong một động từ rất đơn sơ: viếng thăm.
Thiên Chúa đi thăm dân Ngài để cứu độ và ban ơn tha tội (c. 77). Gioan, con của ông, được hân hạnh là người đi trước mở đường (c. 76). Dacaria vui vì niềm vui của cả dân tộc và của riêng gia đình ông. Thiên Chúa đi thăm dân qua Đức Giêsu, Người Con Một. Đó là Vị Cứu Tinh quyền thế đến từ dòng dõi Đavít (c. 69). Do lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa, Đấng Mêsia đã được sai đến như Vừng Đông tự chốn cao vời (c. 78). Vừng sáng này đến thăm những ai ngồi trong bóng tối sự chết và đưa dắt dân Ngài vào con đường bình an (c. 79). Bình an là được giải thoát khỏi tay kẻ thù (c. 71), khỏi tội lỗi (c. 77), là được tự do phụng thờ Thiên Chúa trên quê hương (cc. 74-75).
Cả đời sống Đức Giêsu là một cuộc viếng thăm của Thiên Chúa. Đây là cuộc viếng thăm độc nhất vô nhị, vì là cuộc viếng thăm của đích thân Con Thiên Chúa. Ngài không chỉ thăm như người khách ghé qua. Ngài đã thăm và ở lại, dựng lều cư ngụ với loài người (Ga 1, 14). Khi Đức Giêsu hoàn sinh người con của bà góa thành Nain, đám đông reo lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài (Lc 7, 16). Nhưng trong thực tế dân Ngài đã khước từ cuộc thăm viếng ấy. Ngôi Lời đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1, 11). Mãi mãi con người có tự do để ở lại trong bóng tối và sự chết, và cũng có quyền khước từ bình an thật của trời cao (Lc 19, 42).
Giêrusalem đã bị sụp đổ vào năm 70 dưới tay kẻ thù, vì đã từ khước sự thăm viếng chở che của Thiên Chúa (Lc 19, 44). Đó là một bi kịch và hơn nữa, là một thảm kịch. Tiếc thay thảm kịch ấy vẫn tiếp diễn trên thế giới. Hôm nay Thiên Chúa từ ái, bao dung vẫn đến thăm con người, và nhiều người trong chúng ta vẫn giữ thái độ chối từ, khép kín. Ơn cứu độ, ơn giải phóng, ánh sáng, và bình an của trời cao, là những điều còn xa lạ với bao người, kể cả các Kitô hữu. Bóng tối của sự chết, của hận thù ghét ghen vẫn thống trị địa cầu.
Mừng lễ Giáng Sinh là mừng cuộc viếng thăm của Thiên Chúa. Cách duy nhất để mừng là mở cửa lòng cho Con Thiên Chúa vào. Hãy tiếp đón Ngài đến với ta dưới những hình thái bất ngờ: một trẻ thơ nghèo hèn, yếu đuối; một Mêsia không tấc sắt trong tay; một ông thợ mộc ở vùng quê Nadarét; một tử tội bị đóng đinh thập tự. Hãy thắp lên một ngọn nến trong đêm Noel để chào mừng Ánh Sáng.
Cầu nguyện:
Giữa giá rét của mùa đông, xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và bấp bênh của phận người, xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi, xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ, xin cho con cảm được sự bình an của Chúa, ngay giữa những âu lo hằng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con với bao điều không như ý.
Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa vì Chúa đã dám sống như con.
Một người Do-thái sẽ rất khó nhận ra Đấng Mêsia. khi đứng trước hang bò lừa ở Bê-lem đêm GS-417
Một người Do-thái sẽ rất khó nhận ra Đấng Mêsia khi đứng trước hang bò lừa ở Bê-lem đêm hôm ấy. Một đôi vợ chồng trẻ, lúng túng vì không tìm ra chỗ, vất vả với đứa con trai đầu lòng mới chào đời. Em bé được quấn tã, đặt nằm trong máng cỏ. Nghĩ đến Đấng Mêsia, người ta nghĩ ngay đến một vị vua, với hoàng cung cao sang và ngai vàng quyền lực. Khó lòng tin em bé tầm thường này là Đấng Mêsia, Đấng được sai đến để giải phóng Israel.
Một người Do-thái theo độc thần lại càng khó tin em bé này là Thiên Chúa trở nên người phàm. Giữa Thiên Chúa và con người có một khoảng cách vô tận, Thiên Chúa có những phẩm tính siêu việt vô biên. Ngài là Đấng quyền năng, cai quản trên trời dưới đất. Ngài là Đấng vô hình nên không ai tô vẽ được. Ngài là Đấng tạo dựng muôn loài, Đấng ba lần thánh, Đấng tỏ mình long trời lở đất ở núi Sinai. Chẳng ai thấy Ngài mà còn sống. Một Thiên Chúa như thế làm sao thành người được?
Điều con người không dám mơ, thì Thiên Chúa dám làm, vì Tình yêu làm được mọi sự. Thiên Chúa đã làm vượt quá những gì Ngài đã hứa. Ngài không chỉ ban một Mêsia hay một ngôn sứ như Môsê, Ngài còn ban chính Ngôi Lời là Thiên Chúa Con Một, đã trở nên người phàm, đã sống trên trái đất, và đã đảm nhận toàn bộ phận người của chúng ta. Kitô hữu là người dám tin vào mầu nhiệm lạ lùng này. Nơi Hài Nhi Giêsu, chúng ta gặp gỡ một Thiên Chúa chẳng những nghe được, mà còn thấy được và chạm được. Một Thiên Chúa hữu hình, gần gũi, yếu đuối, mong manh. Thiên Chúa ấy được cưu mang trong lòng một phụ nữ, được sinh ra, biết khóc, biết cười, sống nhờ sữa mẹ, ấm áp nhờ được quấn tã. Thiên Chúa ấy phải vâng theo lệnh của hoàng đế Rôma, nên chào đời xa nhà, thiếu thốn đủ điều, chỗ nằm là máng ăn của súc vật. Thiên Chúa nơi Hài Nhi Giêsu không làm ai sợ hãi. Không thấy quyền lực uy nghi, chỉ thấy tình yêu dịu dàng. Thiên Chúa thu hút con người bằng sự buông bỏ thẳm sâu. Hài Nhi dang hai tay để đón lấy cả nhân loại.
Không thấy Maria và Giuse nói gì trong đêm ở Bê-lem. Cả hai có nhiều điều cần làm và cần suy nghĩ. Khi Mẹ Maria sinh con trong sự thiếu thốn tư bề, Mẹ nghĩ đến lời thiên sứ Gabriel xưa báo về Hài Nhi. Con của Mẹ sẽ thừa kế ngai vàng của vua Đa-vít, sẽ trị vì một vương quốc đến muôn đời muôn thuở. Vậy mà bây giờ Con của Mẹ không có chỗ để nằm. Khi các người chăn chiên huyên thuyên kể chuyện về việc thiên sứ hiện ra, loan tin Đấng mới chào đời, kể chuyện đạo binh thiên quốc tưng bừng hát xướng, Maria đã chăm chú lắng nghe và kinh ngạc. Mẹ nghĩ đến bầu khí yên tĩnh ở Bê-lem đêm nay, có ít ánh sáng và tiếng ca, có nhiều bận tâm và lo lắng. Không phải biến cố nào cũng dễ hiểu đối với Maria. Maria có thói quen giữ kỹ mọi chuyện (Lc 2,19.51), và nghiền ngẫm mọi chuyện trong trái tim của mình. Maria chấp nhận mình không hiểu ngay mọi biến cố, nên lúc nào cũng cần hồi tâm để đọc ra ý Chúa.
Như các mục đồng, chúng ta cũng được mời đến Bê-lem. Dấu hiệu để nhận ra Chúa đang đến hôm nay vẫn rất đơn sơ và làm chúng ta ngỡ ngàng. Thiên Chúa đến dưới dạng những người nghèo khổ, không cơm ăn áo mặc, không có chỗ để nằm. Nơi những phụ nữ không được đi học ở Afghanistan, những trẻ sơ sinh bị phá thai mỗi ngày trên thế giới, những gia đình tan nát vì chiến tranh. Hãy vội vã đi Bê-lem với tất cả lòng tin đơn sơ, vui sướng vì gặp được dấu chỉ như lời sứ thần báo. Hãy làm một điều gì đó cho Chúa Giêsu hôm nay.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Hài Nhi Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho nhân loại, nhưng chúng con thích xung đột và chiến tranh, Chúa đến để bày tỏ tình thương của Chúa Cha, nhưng chúng con thích chiếm đoạt hơn chia sẻ, thích chinh phục hơn trao hiến. Bởi đó thế giới này còn mang nhiều vết thương.
Xin cho chúng con đừng trách Chúa, dù Chúa đã đến làm người từ hai ngàn năm qua. Chúa đã gõ cửa, những chúng con không mở. Chúa đã đến nhà mình, nhưng chẳng ai ra đón.
Xin cho chúng con nhận ra Chúa nơi khuôn mặt của kẻ thù, và nhận ra kẻ thù cũng là anh em cần được yêu thương. Nhờ đó chúng con được hưởng bình an của Chúa: “Bình an cho người thiện tâm.” Amen.
Thiên Chúa vẫn cứ làm con người ngỡ ngàng. Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa sai Con Ngài sinh GS-418
Thiên Chúa vẫn cứ làm con người ngỡ ngàng. Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa sai Con Ngài sinh bởi một phụ nữ, làm người Do Thái, sống dưới thời đế quốc Rôma đô hộ (cc. 1-2). Như thế Đấng Tuyệt Đối đã từ trời xuống, chấp nhận thân phận hữu hạn của con người. Ngài không khoác lớp áo người, nhưng là người trọn vẹn. Ngài được cưu mang trong dạ mẹ, được sinh ra như mọi trẻ thơ. Đêm Con Thiên Chúa chào đời là một đêm lạ lùng. Ngài không được chào đời tại mái nhà thân yêu ở Nadarét. Ngài cũng không được chào đời nơi một căn phòng tử tế dành cho lữ khách ở Bêlem. Đơn giản là vì không có chỗ (c. 7). Nhưng tại sao lại không có, thì ta không rõ câu trả lời. Ngài đã phải sinh ra nơi máng cỏ, nơi để đồ ăn cho súc vật. Phải mất bao lâu Giuse mới tìm được chỗ này trong đêm? Hãy hình dung khung cảnh âm thầm của máng cỏ ngày xưa. Có một ngọn đèn nào để chiếu sáng không? Có ngọn lửa nào để xua đi giá lạnh không? Hãy cảm nếm nỗi lo sợ, vất vả, lúng túng của đôi vợ chồng trẻ. Họ đang phải đối diện với những rắc rối lớn lao và bất ngờ. Điều cần nhất là hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa. Khi tiếng khóc đầu tiên của Hài Nhi cất lên giữa đêm khuya, ơn cứu độ đã mỉm cười với nhân loại. Lạ lùng thay cách thức Con Thiên Chúa làm người! Nhóm người chăn chiên, những kẻ sống bên lề xã hội, chứ không phải là những nhà lãnh đạo tôn giáo hay trần thế, mới là những người đầu tiên được sứ thần loan báo Tin Mừng. Họ sống ngoài đồng, chia phiên nhau thức đêm để canh giữ đoàn vật. Bất ngờ họ bị bao trùm bởi vinh quang rực rỡ của Thiên Chúa (c. 9). “Hôm nay, Đấng Cứu độ, Đấng Kitô, Đức Chúa được sinh ra cho anh em.” Đấng dân tộc anh em chờ mong từ lâu, nay đã đến. Đây là Tin Mừng! Đây là Niềm Vui cho mọi người! Nhưng dấu hiệu để nhận ra vị Tân Vương thuộc nhà Đavít thì vừa bình thường: “một trẻ sơ sinh được quấn tã”, vừa lạ thường: “nằm trong máng cỏ” (c. 12). Đấng Mêsia mới được sinh ra không ngự nơi cung vua. Dấu hiệu sứ thần cho ông Dacaria là bị câm. Dấu hiệu sứ thần cho Maria là bà chị Êlisabét mang thai lúc đã già. Dấu hiệu sứ thần cho các anh chăn chiên là trẻ thơ quấn tã nơi máng cỏ. Các anh chăn chiên cần có đức tin để dám tin vào dấu hiệu ấy. Thiên Chúa vẫn đến với con người bằng những nẻo đường bất ngờ. “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (c. 14). Hoàng đế Augustô được ca ngợi là đấng cứu độ. Ông được coi là người đem lại hòa bình,vì ông đã chấm dứt chiến tranh. Hôm nay, Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta bình an thật qua Đức Kitô. Ngài muốn ban cho chúng ta Đấng Cứu Độ thật là Đức Giêsu. Xin cầu cho hòa bình trên mặt đất, bình an trong lòng người. Ước gì chúng ta biết được rằng mình là những người được Chúa thương.
Cầu nguyện:
Giữa giá rét của mùa đông, xin cho con gặp Chúa. Giữa những long đong và bấp bênh của phận người, xin cho con gần Chúa. Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi, xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ, xin cho con cảm được sự bình an của Chúa, ngay giữa những âu lo hằng ngày. Xin cho con đón lấy cuộc đời con với bao điều không như ý. Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa vì Chúa đã dám sống như con.
Ngôi Lời Thiên Chúa đã xuống thế làm người tại một chuồng bò lạnh lẽo hôi tanh. Nơi gia đình GS-419
Ngôi Lời Thiên Chúa đã xuống thế làm người tại một chuồng bò lạnh lẽo hôi tanh. Nơi gia đình thánh Giuse và Mẹ Maria, Chúa Giêsu đã sinh sống. Với người nghèo khổ đơn sơ, Ngôi Lời đã tỏ mình ra.
Cầu nguyện: Ôi lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, vinh dự thay cho các mục đồng đến chiêm ngắm thờ lạy Chúa nơi hang Be-lem như lời các thiên thần đã báo. Hồng phúc thay! Biết bao người đã ngóng trông Đấng Cứu Tinh mà không được. Biết bao người đã sống cạnh Đấng Cứu Thế mà không nhận ra Ngài. Có những người chức quyền như Phi-la-tô, Hê-rô-đê, đã không được diễm phúc như các mục đồng. Có những người tài giỏi như các tiến sĩ cũng chẳng nhận ra Đấng Cứu Thế. Lại cũng có những người mang trách nhiệm trong đạo như các Biệt phái, Thượng tế, đã không nhận ra Chúa. Thật các mục đồng hạnh phúc quá.
Còn con, con không ngớt cảm tạ Chúa. Con được diễm phúc Chúa tỏ mình cho con. Con đã được làm con Thiên Chúa, gia đình con cũng được Chúa ngự trị. Linh hồn thân xác con mỗi ngày đều được Chúa sinh hạ. Chúa không chê gia đình con. Chúa không chê thân xác linh hồn con. Mỗi lần con mời Chúa ngự trị, con đều được Chúa viếng thăm.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Mẹ Maria đã chiêm ngắm và hằng ghi nhớ những kỷ niệm này. Xin Chúa giúp cho con hằng ghi nhớ hồng ân Chúa dành cho con. Mỗi ngày xin Chúa giúp con thích thú đến với Chúa cách mau mắn và ngây ngất như các mục đồng. Xin cho con mỗi ngày mỗi sống thân tình với Chúa hơn. Amen.
Ghi nhớ: “Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi”.
Lời ca của các sứ thần tại Belem đêm đông năm xưa đã trở thành bài thánh thi quen thuộc của phụng GS-420
Lời ca của các sứ thần tại Belem đêm đông năm xưa đã trở thành bài thánh thi quen thuộc của phụng vụ Kitô giáo. Thánh Luca nói với chúng ta: đây là bài ca của đạo binh thiên thần đông đảo, cất tiếng ca tụng Thiên Chúa.
Việc Hài Nhi sinh hạ tại Belem năm xưa đã diễn tả vinh quang Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng trọn hảo. Vinh quang của Ngài có từ ngàn đời. Tuy vậy, vinh quang rạng ngời ấy, từ bao thế hệ vẫn ẩn giấu, hoặc có tỏ lộ, thì chỉ ở mức giới hạn hoặc nhất thời. Trong Cựu ước, Thiên Chúa đã tỏ vinh quang của Ngài với ông Môisen và với dân tộc Do Thái trong hành trình về đất hứa. Ngài cũng tỏ vinh quang của Ngài khi vua Salomon khánh thành đền thờ Giêrusalem (vào khoảng năm 930 trước Công nguyên). Nay, nơi Hang đá Belem, vinh quang ngàn đời của Thiên Chúa đã xuất hiện và chiếu soi rạng rỡ. Tác giả thư Híp-ri viết: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Hr 1,1-2). Vâng, nếu trong Cựu ước, Thiên Chúa chỉ nói với con người qua các trung gian, thì nay Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Đó là khẳng định của Thánh Gioan, một khẳng định táo bạo và có thể là “mạo phạm” đối với người Do Thái. Vinh quang Thiên Chúa đã xuất hiện giữa nhân loại. Hài Nhi Giêsu là “Ánh sáng bởi Ánh sáng; Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”, như chúng ta vẫn tuyên xưng trong kinh Tin Kính. Khi khẳng định: Ngôi Lời đã trở nên người phàm, thánh sử Gioan diễn giải tiếp: chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”. Như thế, nhìn thấy Đức Giêsu là nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Những người đương thời với Chúa Giêsu, khi họ chứng kiến những phép lạ của Chúa và khi nghe những lời giáo huấn sâu sắc của Người, đã cảm nhận được vinh quang Thiên Chúa nơi Người. Nhiều người đã thốt lên: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” (Lc 7,16). Những người này đã được chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đến trần gian để tôn vinh Thiên Chúa, để danh Thiên Chúa được cả sáng, và để muôn dân nhận biết quyền năng cao cả của Đấng Sáng tạo. Cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá của Người cũng là để Thiên Chúa được tôn vinh. Người đã tuyên bố với các kỳ mục Do Thái: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là: Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28). Trong truyền thống Thánh Kinh, danh xưng “Hằng Hữu” chỉ được dành cho Thiên Chúa, quy chiếu về lời của Chúa nói với ông Môisen trong sự kiện bụi gai bừng cháy mà không bị thiêu rụi (x. Xh 3,14). Lời ca tụng vinh danh Thiên Chúa của triều thần thiên quốc tại Belem, vừa là lời ca ngợi quyền năng vinh hiển của Ngài, vừa diễn tả vinh quang Ngài đã bày tỏ qua Hài Nhi mới sinh. Qua Hài Nhi này, Thiên Chúa được tôn vinh ca ngợi.
Đêm Belem là đêm nối kết đất với trời. Đêm ấy, Thiên Chúa được vinh danh và con người được an bình. Đức Giêsu là Hoàng Tử bình an. Ông Dacaria đã ngẫu hứng hát lên trong ngày con mình là Gioan Tẩy giả sinh ra: “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,78-79). Với Dacaria, Đức Giêsu chính là Vầng Đông và là Bình An được Thiên Chúa gửi đến trần gian, nhờ đó mọi người trong gia đình nhân loại có thể bước đi trong cuộc lữ hành trần gian tăm tối. Khung cảnh thanh bình của Hang Đá Belem diễn tả sự bình an, và cũng hứa hẹn bình an cho những ai đón nhận Chúa Giêsu trong cuộc đời.
Nếu vinh quang Thiên Chúa đã tỏ hiện trong đêm Giáng sinh, thì hôm nay, vinh quang của Ngài vẫn hiện hữu nơi thế gian này. Đó là Đức Giêsu, Đấng đang sống và hiện diện giữa chúng ta. Người hiện diện để khẳng định với nhân loại mọi thời: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Vinh quang Thiên Chúa còn thể hiện nơi cuộc đời của mỗi tín hữu, như thánh Giám mục Irênê (130-202) đã khẳng định: “Vinh quang Thiên Chúa là con người đang sống – La gloire de Dieu, c’est l’homme vivant”. Con người đang diễn tả vinh quang Thiên Chúa qua đời sống của mình. Khẳng định này vừa giúp chúng ta tôn trọng sự sống nơi bản thân, vừa nhắc nhở chúng ta tôn trọng sự sống và phẩm giá của người khác. Khi chúng ta nhận ra giá trị của sự sống và trân trọng nó, là chúng ta tôn vinh Thiên Chúa.
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Người là vinh quang của Thiên Chúa. Đón nhận Ngôi Lời là đón nhận vinh quang của Thiên Chúa. Đón nhận Ngôi Lời cũng là đón nhận ơn an bình cho tâm hồn và cuộc đời mỗi chúng ta.
EMMANUEL hay NOEL có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Hôm nay cả thế giới hân hoan GS-421
EMMANUEL hay NOEL có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Hôm nay cả thế giới hân hoan mùng lễ Noel, là kỷ niệm ngày Thiên Chúa xuống thế làm người, là việc kỷ niệm Thiên Chúa hạ cố làm người để nâng con người lên làm Thiên Chúa. Hôm nay trời đất gặp nhau, hôn nhau âu yếm, tạo nên một chữ đồng. Chúa giáng trần để cứu rỗi loài người, đem con người trở lại làm con Thiên Chúa và ban cho con người tràn trề hy vọng trong cuộc sống mai hậu. Ta hãy hợp cùng Giáo hội long trọng mừng lễ đêm nay để cảm tạ Chúa về hồng ân Giáng sinh này, và xin Chúa ban cho mọi người được sựï bình an hồn xác như các thiên thần ca hát:
Thượng vinh ư Thiên Chúa Hạ hòa ư thiện nhân.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 9,1-6.
Vì bất trung với Giao ước, dân Israel đã kéo cơn thịnh nộ của Chúa xuống trên mình: quân đội Assyria đã xâm chiếm vương quốc Israel và bắt một phần dân xứ đó đi lưu đầy ở Babylon. Họ trở thành “dân tộc bước đi trong u tối”, bị quân thù áp bức đủ bề.
Nhưng ngôn sứ Isaia đã tiên báo là họ sẽ được giải thoát: “Dân tộc bước đi trong u tối sẽ được thấy ánh sáng chứa chan”. Đó là một hài nhi sẽ sinh ra cho họ. Trước mắt, hài nhi này thời đó, là vua Ezechias, nhưng thực ra vua Ezechias không thực hiện được tất cả nội dung của lời tiên tri này. Nội dung đầy đủ của lời tiên tri này sẽ chỉ được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô mà thôi. Đây là Tin mừng mà ngôn sứ Isaia loan báo cho dân Israel khi họ còn sống trong “miền âm u của sự chết”.
+ Bài đọc 2: Tt 2,11-14.
Thánh Phaolô viết thư này cho ông Titô có lẽ vào khoảng năm 65 trước khi thánh nhân chịu tử đạo tại Rôma. Ngài nhấn mạnh về tính chất nhưng không của ân sủng mà Thiên Chúa ban cho ta qua Đức Giêsu Kitô. Kitô hữu hãy hướng lòng tới cuộc xuất hiện vinh quang của Đức Giêsu Kitô sau này. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của chúng ta không dựa trên những công việc tốt lành mà chúng ta thực hiện được, nhưng dựa vào lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa.
Trong lúc chờ đợi, Kitô hữu phải cố gắng từ bỏ sự gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức.
3. Bài Tin mừng: Lc 2, 1-14.
Thánh Luca thuật lại cho chúng ta bối cảnh ngày Chúa Giáng sinh. Bối cảnh này có thể chia thành hai phần đối chọi nhau:
* Phần đen tối: lúc đó người Rôma đặt ách cai trị trên dân tộc Israel, dân chúng phải sống trong cảnh áp bức, đời sống tinh thần và vật chất gặp nhiều khó khăn, phải tuân hành mệnh lệnh của nhà cầm quyền đô hộ... Gia đình Thánh gia cũng là một gia đình nghèo nàn như nhiều gia đình khác, không tìm được chỗ trọ trong hàng quán nên phải sinh Đức Giêsu nơi hang đá Be lem, nằm trong máng cỏ.
* Phần sáng chói: Chính trong sự đơn sơ khó nghèo này mà quyền năng và nhất là lòng nhân từ của Thiên Chúa được tỏ rạng. Hài sinh mới sinh này là Con Thiên Chúa. Do đó, quang cảnh ngày Giáng sinh rất rực rỡ: đoàn thiên sứ báo tin vui, ánh hào quang của Thiên Chúa chiếu tỏa, tiếng ca hát của muôn thiên thần vang lên trên không trung:
Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Việc Đức Giêsu sinh ra đã làm đảo lộn cục diện thế giới: đen tối trở thành ánh sáng, tội lỗi sẽ được thay thế bằng ân sủng, buồn sầu sẽ trở thành mừng vui vì Đấng Cứu thể đã sinh ra.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Thiên Chúa ở cùng chúng ta
I. CHÚNG TA MỪNG LỄ GIÁNG SINH.
1. Ý nghĩa ngày lễ Giáng sinh.
Hôm nay khắp nơi trên thế giới hoan hỉ mừng lễ Chúa Giáng sinh, đó là ngày lễ quốc tế chứ không phải của một dân tộc nào ; đối với Kitô hữu, hôm nay được gọi là lễ Chúa Giáng sinh. Nhiều người không muốn dùng từ lễ Giáng sinh mà chỉ dùng chữ Noel trên các tấm thiệp cũng như trong các đèn ông sao và nơi hang đá.
Tại sao gọi là Noel? Chính ra phải gọi là lễ Nuel mới đúng, vì từ Nuel được rút ra từ chữ Emmanuel, có nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Sau này người ta đổi chữ Nuel thành Noel. Như vậy mừng lễ Noel là mừng ngày Thiên Chúa giáng trần và ở cùng chúng ta.
Ngược dòng lịch sử: khi Ađam và Evà phạm tội bất trung, Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà, nhưng đồng thời cũng hứa ban Đấng Cứu thế đến cứu chuộc nhân loại bằng cách cho Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người và ở cùng chúng ta, và sẽ dùng cái chết của mình trên thập giá để xóa bỏ tội lỗi cho con người. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Ngôi Hai Thiên Chúa đầu thai trong lòng Trinh Nữ Maria và đã được sinh ra tại hang đá Belem trong một đêm đông lạnh lẽo.
Hôm nay khắp thế giới kỷ niệm ngày Thiên Chúa giáng trần để ở cùng loài người. Loài người chúng ta hân hạnh quá vì được đồng hành với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hoá thân làm người như chúng ta, nhận lấy kiếp sống phàm trần như ta để chia sẻ buồn vui với loài người và nâng cao thân phận con người lên để xứng đáng làm con Thiên Chúa.
2. Mừng ngày Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hôm nay Con trẻ Giêsu được sinh ra tại hang đá Belem, mọi người đều hướng về Ngài. Vậy Ngài là ai mà quan trọng thế? Ngài vừa là Con Thiên Chúa vừa là con của loài người. Ngài đến nối kết trời và đất, Ngài là Đấng Trung hòa. Trong Ngài trời và đất không còn xa nhau, không còn khoảng cách. Tất cả đều nên một cho nên phải nói:Ngài thực sự là Đấng “Chí Trung Hoà”, là Đấng “Thái Hoà” thực hiện đúng lý tưởng của văn hóa Đông phương hằng mong ước.
Ngài là Con Thiên Chúa, cho nên Ngài nên một với Thiên Chúa. Ngài là con người nên hoà đồng với con người, nhận lấy thân phận khốn khổ của loài người. Chính thánh Phaolô đã giải thích mầu nhiệm này: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất thiết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân, sống như người trần gian. Người lại còn hạ mình vâng lời bằng lòng chịu chết trên cây thập tự” (Pl 2,1-8). Người đồng hóa như vậy đó: “Cho loài người tham dự với Người vào các mầu nhiệm Thiên Chúa. Biến đổi loài người nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Cầu bầu cho nhân loại, và cứu rỗi họ bằng sự chết của mình” (Thân văn Tường, Kitô học, tr 136).
Theo Đông phương, Đức Giêsu Kitô là Đấng “Chí Trung Chí Hoà”. Chữ Trung gồm nét sổ thẳng chính giữa tâm hình tròn. Hình tròn biểu tượng thái cực là Trời, là Thiên Chúa. Hình tròn viết thành chữ thì biến thành hình vuông. Vuông chỉ đất là người. Nét sổ thẳng chính trung tâm vuông tròn không xê dịch, sai lệch một chút nào, đó là Chí Trung, dấu chỉ Đức Giêsu là trung tâm trời đất. Còn Chí Hoà, chữ Hoà gồm chữ hoà là lúa và chữ khẩu là miệng: cơm bánh là thực phẩm hợp khẩu vị nhất, là đồ ăn hoà đến cùng cực để trở nên sự sống của loài người. Đức Kitô đã biến bánh miến và rượu nho trở nên Thịt Máu mình để trở nên của ăn của uống ban cho chúng ta sự sống muôn đời. Một sự hoà đồng cùng cực: Chí Hoà”. Thật Người là Đấng Chí Trung Chí Hoà để cho tất cả nên một. Thiên Chúa và con người không còn xa cách, không còn không gian, thời gian nào phân ly được nữa... (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 22)
Truyện: hoàng tử và cậu bé nghèo.
Văn hào Mark Twain cách đây ba thế kỷ, có viết một cuốn sách tiểu thuyết nổi tiếng tựa đề “Hoàng tử và cậu bé nghèo”. Chuyện kể lại tình bạn của hai cậu bé giống hệt nhau khiến người ta tưởng là sinh đôi. Một trong hai cậu bé tên là Edward, hoàng tử xứ Galles. Còn Tom Canty, người bạn của vị hoàng tử, lại là một cậu bé con nhà nghèo.
Một ngày kia, hai cậu bé có một ý nghĩ ngộ nghĩnh là thay đổi địa vị xã hội. Tom vào thế chỗ của vị hoàng tử Edward trong triều đình, còn Edward thì khoác lên mình một mảnh áo rách rưới và bắt đầu cuộc phiêu lưu. Cậu lang thang đầu đường xó chợ bên cạnh những người cùng cực nhất trong xã hội.
Thế nhưng một lúc nào đó, hai cậu cũng cảm thấy mệt mỏi với trò chơi đầy phiêu lưu này. Edward mới sực tỉnh về ngôi vị hoàng tử của mình. Trong bộ áo rách rưới nhơ bẩn, cậu tìm đủ mọi cách để chứng minh rằng mình là hoàng tử nối ngôi của xứ Galles. Nhưng cảnh sát đã không tin... Thế là hoàng tử Edward đành phải lặng lẽ bước vào tù vì tội giả mạo.
Giữa lúc Tom cậu bé nghèo sắp sửa được tấn phong làm vua, thì hoàng tử Edward xuất hiện... Không mấy chốc cậu đã được phục hồi trong ngôi vị hoàng tử của cậu. Chính nhờ kinh nghiệm của những tháng ngày làm người ăn xin, lang thang đầu đường xó chợ với những người cùng khổ, mà Edward đã trở thành một vị vua đạo đức và giầu lòng thương người (Lẽ sống,447)
Cũng giống như câu chuyện trên đây, Thiên Chúa đã đến giữa loài người để hoán đổi vị thế với chúng ta. Người mặc lấy thân xác nghèo hèn của chúng ta để chúng ta được mang lấy tước hiệu làm con Thiên Chúa. Nhờ ân sủng của Ngài, Ngài chia sẻ với chúng ta sự sống thần linh và đón nhận trong thân xác Ngài tất cả những hệ lụy của kiếp sống khổ đau của con người.
3. Những Đấng Kitô ngày nay!
Chúa Giêsu đã xuống thế lần thứ nhất vào ngày Ngài giáng sinh. Ngài hứa sẽ trở lại lần thứ hai trong vinh quang của Ngài để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Trong khi chờ đợi Ngài đến lần thứ hai, ngày nay ta thấy xuất hiện nhiều người tự xưng là Đấng Kitô, Chúa Cứu thế. Cho đến nay, đã xuất hiện 18 tân Kitô tại Ấn độï, Nga, Mỹ và Pháp và tự xưng mình là Chúa, trong đó có một nữ Chúa Cứu thế với 15 triệu tín đồ. Điên khùng hay bịp bợm, các nhà tiên tri ấy hứa hẹn với các tín đồ một thiên đàng dưới đất chăng?
Cách đây 1000 năm, loan báo ngày tận thế sẽ vào năm 1000, phải chăng nay lại tái diễn? Trong số các Đấng Cứu thế này có Sathya Sai Baba là nổi tiếng nhất trong số các Messie hiện tại. Ông ở tuổi 68, ông Kitô Ấn độ này với kiểu tóc bờm ngựa, đã chiêu tập được 10 triệu tín đồ. Xuất hiện trước công chúng, ông ta luôn mặc cái áo dài màu cam, ngồi trên ngai và để chân lên đệm. Ông cũng làm được một vài điều lạ như đẻ ra trứng trước mặt nhiều người, chữa bệnh bằng thần giao cách cảm. Có một cặp vợ chồng người Tây phương hỏi ông có phải là Đấng Kitô đăng quang lần thứ hai không, ông ta chỉ mỉm cười.
Còn Đấng Kitô đáng chú ý nữa là Mary Davy Christ, Kitô đàn bà, người Do thái. Theo truyền thống Do thái, lại không nhận có Kitô đàn bà. Nhưng các đệ tử của Mary Davy Christ lại lý giải thật đơn giản: đăng quang lần đầu tiên Kitô là đàn ông, thì lần thứ hai để loan báo ngày tận thế, Kitô sẽ là đàn bà: chuyện đó rất đơn giản.
Đấng Cứu thế đã đến rồi và Ngài sẽ trở lại mà chưa biết ngày nào, chúng ta hãy chờ đợi. Còn những Kitô giả hiệu không được có chỗ đứng trong suy nghĩ của chúng ta: Chúng ta chỉ có một Chúa Kitô là Đức Giêsu.
II. CẢM NGHĨ VỀ LỄ GIÁNG SINH.
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Người Con yêu qúi của Ngài là Đức Giêsu. Trong ngày kỷ niệm ngày Ngài giáng sinh, chúng ta phải có những tâm tình nào đây? Không lẽ chúng ta chỉ coi lễ Giáng sinh như là một ngày vui chơi sao? Như thế lễ Giáng sinh không còn có ý nghĩa thiêng liêng nữa.
1. Ngày lễ của Tình yêu.
Hôm nay chúng kỷ niệm ngày Đức Giêsu ra đời. Ngày đáng ghi nhớ. Ngày trời đất gặp nhau hôn nhau âu yếm. Ngày trời đất se chữ đồng. Ngày Thiên Chúa hạ xuống làm người để con người được làm Thiên Chúa. Lễ hôm nay phải được gọi là lễ của Tình yêu, tình yêu cao vời của Thiên Chúa đối với loài người. Thiên Chúa đã bỏ mọi vinh quang trên trời, hạ mình xuống làm con người hèn hạ. Nhìn vào hang đá, ta thấy một hài nhi bé bỏng nằm trong nôi, ngoài Đức Maria và thánh Giuse chỉ có mấy con bò lừa thở hơi ấm cho Chúa Hài nhi, và trên không trung chỉ có tiếng ca hát của các thiên thần. Sau đó, các thiên thần báo tin cho mục đồng đến chiêm bái Chúa Hài đồng.
Người ta ai cũng có quan niệm rằng: Đấng Cứu thế phải là con vua con chúa, phải sinh ra nơi lầu son gác tía, được mọi người tung hô chúc tụng ; nhưng thực tế lại khác hẳn, Ngôi Hai Thiên Chúa sinh ra trong một hoàn cảnh bi đát: không nhà không cửa, không giường không chiếu, không lấy một mảnh chăn êm, không ai đến thăm hỏi. Thật là cám cảnh. Có ai trong chúng ta đi lễ đây đã bao giờ sinh con trong hoàn cảnh như vậy chưa? Chắc chắn là không. Thế mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã sinh ra trong hoàn cảnh như vậy đó. Vậy lý do nào đã khiến Thiên Chúa hành động như vậy? Không còn lý do nào khác ngoài tình yêu đối với chúng ta, vì đã yêu thì không có tính toán hơn thiệt.
Truyện: Hoàng đế Sabat.
Hồi đó, Hoàng đế Sabat cai trị vương quốc Ba tư và rất được toàn dân mến phục. Nhà vua thường cải trang như một thường dân để dễ tiếp xúc với dân chúng. Một hôm, nhà vua cải trang như một công nhân nghèo khổ lần mò các bậc thang để xuống tận hầm tối của lâu đài là nơi cư ngụ của một cụ già chuyên lo việc củi lửa sưởi ấm cho cả lâu đài. Giường ngủ của cụ là đống tro tàn và lương thực hằng ngày là mẩu bánh mì đen với ly nước lã. Nhà vua đến ngồi bên cạnh cụ già và bắt đầu gợi chuyện. Đến bữa ăn, cụ già mời nhà vua chia sẻ mẩu bánh mì khô cứng thấm mềm trong ly nước lã. Cả hai cùng ăn và tiếp tục chuyện trò thân mật.
Nhà vua động lòng thương cụ già và từ ngày đó, nhà vua nhiều lần cải trang để đến thăm cụ. Riêng cụ già, tuy không biết lý lịch của người đến thăm mình là ai, nhưng vẫn tiếp tục đáp trả cử chỉ nhân đạo của nhà vua. Sau cùng, nhà vua tự nhủ: ta sẽ tỏ lộ cho cụ già này biết ta là ai, để xem ông ta sẽ xin ta sự gì. Ít hôm sau, nhà vua xuống hầm tối thăm cụ già trong y phục sang trọng và nói:
- Bấy lâu nay có lẽ ông tưởng ta chỉ là một công nhân nghèo khổ như ông, nhưng nay ta nói thật ta là vua, ta rất mến tình bạn của ông, vậy ông muốn gì, cứ nói, ta sẽ ban cho.
Nhà vua tưởng cụ già sẽ xin tiền bạc hoặc ân huệ, nhưng ông chỉ ngồi yên lặng. Tưởng cụ già không hiểu mình nói gì, nhà vua cắt nghĩa thêm:
- Có lẽ ông chưa hiểu rằng ta là vua, ta có thể làm cho ông nên giầu sang, danh vọng.
Cụ già cúi đầu đáp:
- Tâu Hoàng thượng, con đã hiểu tấm lòng của Hoàng thượng trong những lần đến hầm tối này để thăm con và không ngần ngại chia sẻ với con mẩu bánh mì đen và ly nước lạnh. Đó là món quà cao qúi nhất rồi, con không muốn gì hơn nữa, con chỉ xin một điều là Hoàng thượng đừng bao giờ lấy lại món quà quí giá ấy bao lâu con còn sống trong cảnh cô đơn nghèo khổ này.
2. Tâm tình trong ngày lễ.
Hôm nay mọi người đều nô nức đi dự lễ, kể cả những người ngoài công giáo. Mỗi người có một cái nhìn về lễ Giáng sinh: họ cũng mừng lễ, chúng ta cũng mừng lễ, nhưng tâm tình về ngày lễ thì khác nhau. Vậy chúng ta có tâm tình nào? Với ý tưởng gì? Ta có những ý tưởng tốt đẹp và cao qúi trong ngày lễ Giáng sinh không? Hay chỉ nghĩ rằng hôm nay là ngày lễ để vui chơi, để có dịp gặp gỡ nhau hoặc có dịp khoe thời trang?
Truyện: Ý tưởng về Lễ Giáng sinh.
Một giáo sư tâm lý của trường đại học tại Hoa kỳ ra một bài thi để dò xem ý tưởng của 40 sinh viên trong lớp của mình. Trước hết ông bảo họ lấy giấy bút ra viết chữ “Lễ Giánh sinh”, rồi ông nói: “Bây giờ các anh chị hãy viết vào sau chữ ấy ý nghĩ đầu tiên mà các anh chị liên tưởng đến về ngày lễ ấy”.
Khi họ nộp quyển, ông coi lại thì thấy có những chữ sau đây: cây giáng sinh, dây kim tuyến, tặng phẩm, gà tây, bài ca giáng sinh và ông già Noel, không có một ai viết “Ngày Chúa Giêsu ra đời”.
Ngày này lễ Giáng sinh không còn ý nghĩa cao qúi ấy nữa, người ta đã tục hóa lễ Giáng sinh, người ta chỉ coi lễ Giáng sinh là một ngày vui chơi cho mọi người, thậm chí có những người lợi dụng lễ Giáng sinh để kinh doanh.
Tôi xin nhắc lại câu hỏi: hôm nay anh chị em nghĩ gì về lễ Giáng sinh? Nếu anh chị em quên hay không biết, tôi xin được phép nhắc lại: Hôm nay chúng ta mừng lễ Giáng sinh là có ý kỷ niệm ngày Thiên Chúa giáng trần, ngày Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta. Anh chị em hãy nhìn vào chữ Emmanuel hay chữ Noel để nhớ đến ý nghĩa của ngày lễ. Emmanuel hay Noel có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Chúa.
Trong dịp lễ Giáng sinh hôm nay, tôi xin gửi đến mỗi người một tấm thiệp Noel với hàng chữ ghi trong tấm thiệp mà tôi mới nhận được từ bên Mỹ:
1 Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. 2 Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. 3 Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành 4 ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. 5 Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. 6 Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. 7 Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. 8 Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. 9 Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. 10 Người ở giữa thế gian,và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. 11 Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. 12 Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. 13 Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. 14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. 15 Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố: “Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”. 16 Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. 17 Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có. 18 Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng lễ Ban Ngày mừng Chúa Giáng Sinh chính là Lời tựa của sách Tin Mừng theo thánh Gio-an GS-422
(1,1-18). Nội dung bài Tin Mừng gồm hai điều như sau:
Một là trình bày Đức Giê-su chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa, là Sự Sống và là Ánh Sáng chiếu soi cho trần gian (1,1-13).
Hai là Người đến để ban ân sủng cứu độ và mặc khải sự thật về Thiên Chúa cho nhân loại (1,14.16-18).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”. (Ga 1,14).
2. CÂU CHUYỆN VÀ SUY NIỆM:
1) GIÁNG SINH LÀ LỄ HỘI VUI MỪNG CHUNG CỦA TOÀN THỂ NHÂN LOẠI:
– Hai em học sinh nói chuyện với nhau, một em hỏi bạn: “Bạn có biết lễ gì mà hầu hết mọi người trên thế giới đều biết và chia sẻ niềm vui cho nhau không?”
Người bạn kia ấp úng trả lời: “Đó là lễ mừng Chúa Giáng Sinh của đạo Công giáo đấy”.
– Niềm tự hào của em bé đó cũng có thể là niềm tự hào của mọi tín hữu chúng ta. Lễ Giáng Sinh là một lễ hội chung của mọi người trên trái đất nầy. Nhưng bên cạnh những vẻ hào nhoáng vui mừng của ngày lễ, điều mà chúng ta phải tự hỏi, nhất là đối với các tín hữu chúng ta, là có mấy ai trong chúng ta đã hiểu và sống đúng ý nghĩa của mầu nhiệm lễ Giáng Sinh hay không?
2) GIÁNG SINH MỜI GỌI CHIA SẺ TÌNH NGƯỜI:
– Hôm ấy, vào đêm vọng Giáng Sinh, trong một trường giáo dục trẻ em tàn tật ở Mỹ, người ta cho các trẻ em diễn một hoạt cảnh Giáng Sinh, trước sự hiện diện của phụ huynh và ân nhân.
Vở kịch có ba màn. Màn đầu diễn ra ở Nagiaret, với sắc lệnh của Hoàng đế Xê-sa-rê Au-gút-tô. Màn hai diễn lại cảnh Thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a vào quán trọ, bị chủ quán xua đuổi. Màn ba là cảnh Chúa Giáng Sinh trong hang lừa máng cỏ.
Ban giám đốc và các phụ huynh khá lo âu, sợ các em diễn xuất vụng về. Nhưng màn đầu diễn ra tốt đẹp. Qua màn hai, người ta thấy Giu-se và Ma-ri-a đến gõ cửa các quán trọ. Nhìn thấy ông Giu-se áo quần nghèo khó, còn Ma-ri-a lại đang bụng mang dạ chửa, các chủ quán đã giơ tay xua đuổi lia lịa với lời từ chối: “Không có chỗ, không có chỗ! “ Hai vợ chồng lên tiếng năn nỉ vì trời đêm giá lạnh. Chủ quán tỏ vẻ lưỡng lự, những rồi sau đó chỉ vào hàng chữ trên quán: “Không còn chỗ”. Cảnh van xin và từ chối lại diễn ra. Nhưng khi thay vì nói: “quán đã hết chỗ” theo kịch bản, thì em đóng vai chủ quán đã nghẹn ngào không nói nên lời. Em đưa tay ra giật tấm bảng có ghi hàng chữ “Không còn chỗ” xuống, và nói trong nước mắt: “Con xin nhường phòng con cho hai người!”.
Trước cảnh xảy ra bất ngờ đó, giáo viên đạo diễn tỏ vẻ lúng túng và cho ngưng vở diễn vì đã ra ngoài kịch bản. Nhưng hầu như toàn thể khán giả hiện diện đều cảm xúc ra mặt, trước vẻ hồn nhiên trong sáng của em bé diễn viên tốt bụng. Cử chỉ, ngôn ngữ và cung cách của em nói cho mọi người hay về ý nghĩa thực sự của Lễ Giáng Sinh: Giáng Sinh là lễ của tình thương chia sẻ.
– Có lẽ nhiều người chúng ta, cách nầy hay cách khác, cũng đã có lần đóng vai chủ quán năm xưa khi chúng ta xua đuổi những kẻ nghèo hèn đến nhà ăn xin. Có lẽ nhiều lần chúng ta cũng đã treo tấm bảng: “Không còn chỗ” của chủ quán năm xưa qua thái độ giả điếc làm ngơ, trước những nhu cầu của tha nhân. Ước gì khi nghe câu Lời Chúa: “Bà Ma-ri-a đã bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”, chúng ta quyết tâm sẽ không bao giờ xua đuổi Chúa ra khỏi lòng chúng ta, ra khỏi gia đình chúng ta.
3) GIÁNG SINH ĐÒI CẢM THÔNG “VUI VỚI NGƯỜI VUI, KHÓC VỚI NGƯỜI KHÓC”:
– Trong một gian hàng bán quà Giáng Sinh, một cậu bé 5 tuổi đang cầm trên tay một con búp bê rất xinh. Người bán hàng nói với cậu rằng: “Chắc cháu không đủ tiền mua con búp bê đắt tiền này đâu?”. Nhưng cậu bé vẫn tiếp tục cầm con búp bê xinh đẹp trên tay.
Bấy giờ một người đàn ông bước đến gần hỏi xem cậu bé mua con búp bê làm gì? Cậu đáp: “Đây là con búp bê mà em gái cháu rất thích. Nó luôn tin rằng năm nay thế nào ông già No-en cũng sẽ mang đến tặng nó một búp bê xinh đẹp trong đêm Giáng Sinh”. Khi được hỏi em gái đang ở đâu, cậu bé trả lời: “Em cháu mới được về với Chúa rồi và mẹ cháu cũng sắp sửa đi theo em gái cháu”. Cháu yêu mẹ nhiều lắm và ước mong mẹ đừng đi, nhưng bố cháu bảo rằng mẹ cháu bệnh nặng sắp phải theo em cháu rồi”.
Lựa lúc cậu bé không để ý, người đàn ông cho tay vào túi quần lôi ra một ít tiền lẻ. Ông nói với cậu: “Cháu đã có bao nhiêu tiền rồi? Để ta giúp cháu đếm lại lần nữa xem sao nhé”. Sau khi đếm xong số tiền trong đó có thêm số tiền người đàn ông kín đáo cho vào, cậu bé vui vẻ nói: “Cảm ơn Chúa đã cho cháu có đủ tiền mua búp bê rồi. Cháu đã cầu xin Chúa cho cháu để dành đủ tiền mua búp bê tặng em gái dịp lễ Giáng Sinh và Chúa đã nhậm lời”.
Người đàn ông chợt nhớ lại bản tin ông đã đọc trên tờ báo vào chiều hôm trước: “Một chiếc xe tải đi quá tốc độ đâm vào xe hơi cùng chiều, làm một bé gái thiệt mạng và mẹ em cũng bị chấn thương sọ não khó lòng qua khỏi”. Hôm sau, báo lại đưa tin, người phụ nữ trẻ trong tai nạn hôm trước đã chết. Chiều hôm đó, người đàn ông theo địa chỉ trên báo đã đến nhà thăm. Ông ta thấy hai quan tài với di ảnh của hai mẹ con mới qua đời. Đứa con trai đứng gần quan tài chính là cậu bé ông mới gặp chiều hôm trước. Ông cũng thấy một con búp bê xinh xắn nằm trên quan tài của cô bé gái.
– Khi biết đón nhận Hài Nhi Giê-su vào lòng, chúng ta sẽ dễ dàng cảm thông với tha nhân để chia sẻ niềm vui nỗi buồn với họ, giống như người đàn ông trong câu chuyện trên. Chúng ta sẽ sẵn sàng trao tặng người khác một nụ cười, một cái bắt tay thân ái, một cử chỉ thân thiện,… chúng ta sẽ dễ dàng giúp đỡ người nghèo vượt qua hoàn cảnh khó khăn với hết khả năng Chúa ban. Trong mùa Giáng Sinh năm nay chúng ta sẽ làm gì để thi hành sứ điệp của Chúa là viếng thăm chia sẻ tình người như lời thánh Phao-lô: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15).
4) GIÁNG SINH NGÀY LỄ CỦA HÒA BÌNH:
– Vào ngày lễ vọng Giáng sinh năm 1914, những quân lính Đức và Anh đối đầu với nhau, tại các hào chứa đầy bùn lầy và chuột cống. Tại các hào của quân Anh, những lá thư và tấm thiệp được gửi đến từ gia đình, và anh em binh lính khá vui vẻ. Đến nửa đêm, một số người trong bọn họ bắt đầu ca hát. Thế rồi đột nhiên, một người lính gác la lên một cách đầy phấn khích: “Anh em hãy lắng nghe đi!”. Họ lắng nghe, và nhận thấy những quân lính Đức cũng đang ca hát. Một lúc sau, hai người lính can đảm, do mỗi phe cử một người, đến gặp nhau tại bãi đất trống. Thêm nhiều quân lính khác đi theo họ. Theo quan điểm quân đội, điều này không có ý nghĩa gì cả. Với tư cách là những người lính, người ta cho rằng họ đến đánh nhau. Đột nhiên ngừng lại và trở nên bạn bè không tạo nên ý nghĩa. Nhưng trong đêm hôm đó, có sức mạnh còn lớn lao hơn cả quân đội tại nơi chiến trường.
Khi ngày lễ Giáng sinh bắt đầu ló rạng, với gương mặt tươi cười, các binh lính hai bên vui vẻ đi dạo chung quanh khu vực đang có chiến tranh, nhưng người ta không nhìn thấy một dấu vết nào của sự hận thù. Họ trao đổi với nhau lương thực, đồ kỷ niệm và thuốc lá. Khoảng giữa trưa, khi tình thân thiện gia tăng thêm, thì người ta tổ chức một trận bóng đá giữa hai phe. Nhưng trận đấu này không kéo dài lâu. Tin hai bên hòa hoãn này đã lan tới tai các vị tướng trên cao, và họ đã ban những mệnh lệnh gay gắt phải cấp thời chấm dứt mọi chuyện. Các sĩ quan đã dồn binh lính trở lại xuống hào. Tất cả mọi chuyện đều kết thúc. Sau lễ Giáng Sinh, cuộc giao chiến giữa hai bên lại tiếp tục như trước.
Chúa đến đem bình an cho nhân loại như lời các thiên thần đã ca hát trong đêm Chúa Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14).
– Mỗi người chúng ta tuy không thể làm được những việc xây dựng hòa bình trên bình diện quốc tế, nhưng chúng ta vẫn có thể ăn ở thuận hòa với những người chung quanh như kinh Tám Mối Phúc: “Phúc cho ai ăn ở thuận hòa, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Vậy trong Mùa Giáng Sinh năm nay mỗi chúng ta có thể làm gì để làm hòa với những người đang có ác cảm với chúng ta thể hiện qua hành động nói hành nói xấu và gây thiệt hại cho chúng ta?
3. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA. xin cho chúng con trở thành những ông già No-en đầy lòng nhân ái, luôn sẵn sàng cho đi một nụ cười thân ái, một lời động viên an ủi, một món quà chứa đựng tình người. Xin cho chúng con biết đến vói những người bất bạnh để chia sẻ tình thương cho họ. Ước gì niềm vui trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh không dừng lại ở việc trao tặng của cải vật chất bên ngoài, nhưng ở tình người được nhân lên mãi, được nối kết trở thành vòng tay lớn, xây dựng thế giới chúng con đang sống ngày một an bình thịnh vượng và đầy tràn niềm vui của Chúa.
“Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2,14) là câu cuối của đoạn Tin Mừng công bố đêm nay chúng ta vừa nghe. Lời các Thiên Thần và một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa, từ 21 thế kỷ qua, Giáo Hội vẫn không ngừng hát lên trong các Thánh Lễ Chúa nhật và Lễ Trọng.
Thế giới hiện nay
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy bất an, bất ổn. Thập niên đầu tiên của thế kỷ 21 được GS-423
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy bất an, bất ổn. Thập niên đầu tiên của thế kỷ 21 được đánh dấu bằng vụ tấn công khủng bố kinh hoàng vào tòa Tháp Đôi ngày 11 tháng 9 năm 2001 ở nước Mỹ làm hơn 4.000 người chết, khiến nhân loại bị ám ảnh về hiểm họa khủng bố ở khắp mọi nơi, làm cho con người cảm thấy lo sợ, bất an nhiều hơn. Tiếp theo đó là cuộc chiến gọi là “chống khủng bố” nổ ra và những hệ lụy của nó càng đưa thế giới vào tình trạng bất an, bất ổn hơn bao giờ hết. Đại dịch Covid-19 xảy đến chỉ cho con người biết mình thật sự mong manh và nhận ra sự giới hạn của chính mình. Những tin tức hằng ngày về bạo hành, xung đột, dịch bệnh, thiên tai, nhân họa, ngày càng nhiều trên các phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet, nhất là chiến do Nga châm ngòi tại Ucraina gần 1 năm nay… khiến nhiều người lo âu tự hỏi không biết thế giới chúng ta đang sống sẽ đi về đâu.
Về phương diện nội tâm, lòng người vốn bất an nên sinh ra bất hòa, bất mãn, bất bình, bất nhân, bất nghĩa, bất cần đời….bao nhiêu là chữ “bất” thậm chí đưa đến những cái chết “bất đắc kỳ tử”. Thật vậy, con người trong xã hội hiện đại ngày càng bất an, bất hòa, bất đồng nên tình yêu, hôn nhân, gia đình đổ vỡ; tỷ lệ ly hôn ngày càng gia tăng ngay ở những nước mới thoát khỏi nghèo đói như Việt Nam. Tỷ lệ ly dị ở Việt Nam đang gia tăng đến mức báo động, khoảng 30%. Đáng lo ngại là hiện tượng mà các nhà tâm lý gọi là “ly hôn xanh”, tức là những vụ ly hôn xảy ra ở những cặp vợ chồng mới kết hôn vài ba năm, con còn quá nhỏ, mà đã kéo nhau ra tòa ly dị với những lý do chưa đáng để ly hôn như thường thấy.
Điểm qua tình hình thế giới và con người, một câu hỏi cần đặt ra là tại sao con người từ xưa đến nay không tìm thấy sự bình an thật? Mặc dù có nhiều triết lý, tôn giáo xưa nay đã bàn luận nhiều đến nan đề này, tuy nhiên, có thể nói con người không thể tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Đúng như Isaia nói là: “Dân tộc bước đi trong u tối” (Is 9,2). Nhân loại hiện nay đang khao khát sự bình an. Có người tưởng rằng vật chất, tiền bạc, tiện nghi khoa học, kỹ thuật sẽ đem lại hạnh phúc, bình an nhưng con người đã nhầm.
Tội làm cho con người bất an
Sách Sáng Thế ghi lại bi kịch trong vườn địa đàng khi tổ tông loài người phạm tội bất tuân lệnh Chúa mà ăn trái cấm (x. St 3,6). Tội lỗi đã khiến con người bối rối, sợ hãi. Dòng dõi loài người do A-đam sa ngã sinh ra lại tiếp tục ghen ghét, chém giết nhau. Bi kịch trong gia đình đầu tiên của nhân loại: Ca-in đã giết em ruột mình là A-ben vì ganh tị (x. St 4,8). Lịch sử nhân loại cũng từ đó trở thành lịch sử của chiến tranh. Hòa bình chỉ là sự ngưng nghỉ của chiến tranh mà thôi. Đúng như Isaia nói: “Những kẻ ác chẳng hưởng sự bình an bao giờ” (Is 48,22).
Hài nhi giáng sinh là Vua Hòa Bình
Isaia loan báo một tin vui toàn thế. Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết… Một hài nhi đã sinh ra cho chúng tôi… Người là “Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàn, Người Cha Muôn Thủa, Ông Vua Thái Bình” (Is 9,1.5).
Chúng ta phải khẳng định rằng: trong thời đại hiện hôm nay, con người có lẽ cần đến Ðấng Vua Hòa Bình hơn bao giờ hết, bởi vì xã hội trong đó con người sinh sống đã trở nên phức tạp hơn, và những hăm dọa xúc phạm đến sự toàn vẹn bản thân và luân lý. Ai có thể bênh vực con người, đem lại bình an cho con người, nếu không phải là Ðấng yêu thương loài người cho đến mức độ trao ban chính Con Một là Vua Hòa Bình cho con người.
Cuộc chiến do Nga khai mào mệnh danh là “đặc biệt” kéo dài gần một năm chưa có hồi kết cho thấy. Nhân loại đang rất cần Hòa Bình. Con người khiêm nhường cúi đầu quỳ gối xuống trước “một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,7) là Vua Hòa Bình đem bình an cho dương thế.
“Thế Giới Đang Cần Đến Hòa Bình” là một thông điệp gửi đến tất cả mọi người trên thế giới này, giữa lúc cuộc chiến giữa Nga và Ucraina ngày khốc liệt. Thế giới nói chung, Âu Châu nói riêng bất an và dường như không còn dựa vào sức riêng của mình được nữa, thế giới đang cần Vua Hòa Bình hơn bao giờ hết. Chỉ có Vua Hòa Bình mới mang bình an và ơn cứu độ đến cho nhân loại.
Cùng với các Thiên Thần chúng ta vang lời ca hát và khẩn khoản nài xin: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người thiên tâm” (Lc 2,14).
Xin chúc tất cả Giáng Sinh an lành, thế giới được hòa bình!
“Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”
Hang đá Belem năm ấy không như hang đá giáng sinh ngày nay. Người ta làm hang đá mỗi khi GS-424
Hang đá Belem năm ấy không như hang đá giáng sinh ngày nay. Người ta làm hang đá mỗi khi Giáng sinh về. Ai cũng cố gắng dùng mọi hình thức để diễn tả cái nghèo khó và vắng lặng của hang đá Belem năm xưa, cố gắng trang hoàng làm nổi bật điều mình muốn diễn tả. Và rồi, sự tấp nập của đêm Giáng sinh và ánh sáng trang trí nơi hang đá đã khiến ta không còn cảm được cái nghèo, cái vắng của Belem nơi Chúa hạ sinh.
Đứng trước máng cỏ với Hài nhi Giê-su ta đối diện với sự khiêm hạ, một sự hạ mình xuống đến tận cùng. Một Thiên Chúa hạ mình đến với con người trong hang súc vật, một Hoàng tử hạ mình xuống nơi hoang vắng nghèo hèn, một vị vua chấp nhận lùi xa trước sự xua đuổi của thần dân mình, Đấng uy quyền xuất hiện trong thân phận hài nhi bé nhỏ không khả năng tự vệ, Đấng là ánh sáng xuất hiện giữa đêm đen.
Thiên Chúa đã đến với con người không với tư cách cha chú hay kẻ cả. Nhưng Ngài đến trong âm thầm, nhỏ nhẹ, kiên trì gõ cửa tâm hồn con người, chờ đợi để được con người mở cửa lòng đón tiếp.
Bởi đâu mà Thiên Chúa phải nhọc công làm vậy? Thưa bởi lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.
Trong bài đọc thứ nhất trích từ sách Isaia, một bài thơ chan chứa niềm hy vọng của tiên tri Isaia: sự sáng bừng lên trong u tối, lòng người reo vui như ngày được mùa, như ngày thắng trận, mọi gông cùm, áp bức bị đập tan, vị Vua Hòa Bình đến ngự trị giữa muôn dân.
Isaia đã tiên báo về một cảnh trời mai chói lọi ấy trong hoàn cảnh dân bị tan tác, mất nhà cửa, bị đi lưu đày. Một cảnh huống mà Isaia diễn tả: Dân tộc đang bước đi trong u tối. Vì sao nên nỗi lầm than như vậy. Dọc chiều dài Kinh thánh cho ta thấy chính con người đã vất bỏ giao ước với Thiên Chúa, từ chối sự hiện diện của Thiên Chúa trong xã hội mình, trong cuộc đời mình. Chính khi rời bỏ Thiên Chúa, lòng người ly tán.
Họ bất trung với Thiên Chúa và quay ra đàng điếm với các thần ngoại; họ cầu cứu những phương thế của loài người để giải quyết chiến tranh; dân cậy dựa vào sức lực của con người để vượt lên số phận; họ tin tưởng và tuyệt đối bám víu vào của cải mau qua ở thế giới này. Con người rời xa Thiên Chúa.
Làm gì đây khi con người đã đóng sầm cánh cửa trước lời mời gọi trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa thua con người rồi sao. Thiên Chúa chấp nhận ly dị với con người sao. Lời thề ước trung thành không lẽ hết giá trị rồi ư.
Không. Tình thương của Thiên Chúa đã không chịu khuất phục trước tội lỗi của loài người. Thiên Chúa đã duy trì mối dây liên kết với con người bằng mọi giá. Chúng ta kiêu căng, Ngài sẵn sàng hạ mình xuống; chúng ta từ chối đón tiếp, Ngài kiên trì chờ đợi; chúng ta lên tiếng sỉ vả, Ngài nhẫn nhục lắng nghe; chúng ta phản bội, Ngài âm thầm dõi theo để chờ đợi giây phút hoán cải.
Thiên Chúa đã hạ mình trong thân phận Hài nhi nơi máng cỏ trong hang đá giữa trời khuya giá rét. Ấy là vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta. Tình yêu xả kỷ đã chiến thắng tội lỗi.
Giờ đây, khi đứng trước hang đá với hàng ngàn bóng điện nhấp nháy như bầu trời sao, bạn và tôi, chúng ta nghĩ gì.
Đứng trước lòng trung thủy trong khiêm hạ của Hài Nhi Giê-su khiến ta chạnh lòng nghĩ tới lòng trung thủy của lòng mình. Tôi và bạn, chúng ta phải làm gì đây trong một xã hội mà dường như sự trung tín, lòng trung thủy với lời kết ước đã trở thành thứ xa xỉ phẩm; khi mà lời kết ước hôn nhân trở thành thứ vô vị và chỉ còn là thủ tục giấy tờ; khi mà mối tương quan được đo bằng tiền.
Lạy Chúa Giê-su Hài Đồng, xin dạy con biết khiêm nhu sống tín thác vào Chúa và tin tưởng ở tha nhân. Giữa những đổ vỡ trong cuộc sống bởi lòng kiêu căng, xin Người hàn gắn và vực con chỗi dậy. Nguyện xin Người kéo lòng con về bên máng cỏ, để con cảm nếm cái thực của một tình yêu tinh tuyền trong khiêm hạ.
Thánh Phanxicô Assissi quỳ bên hang đá, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa giáng sinh, ngài tự GS-425
Thánh Phanxicô Assissi quỳ bên hang đá, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa giáng sinh, ngài tự hỏi: tại sao Thiên Chúa quyền năng lại trở nên một em bé thấp hèn? Tại sao Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong hang lừa nghèo khó? Từ đó, ngài cảm thấy tâm hồn tràn ngập lòng yêu mến và không thể kiềm chế cảm xúc, ngài chạy ra các đường phố Assisi và kêu lên: “Anh chị em hãy yêu mến Chúa Hài Đồng, hãy yêu mến Chúa Hài Đồng”.Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thốt lên lời thán phục: “Thiên Chúa quá cao cả đến nỗi Người có thể trở nên bé nhỏ, quá toàn năng đến nỗi có thể trở nên yếu kém và để gặp gỡ ta như một đứa trẻ không có bảo vệ để ta có thể yêu mến Người”.
Tất cả ý nghĩa của lễ Giáng Sinh đều xoay quanh một đứa trẻ. Hài Nhi ấy là Thiên Chúa đã thật sự làm người, đã thật sự sinh ra trong hình hài một đứa trẻ, với cha mẹ là Giuse và Maria.Và đó là Tin Mừng mà thiên sứ đã trao cho những người chăn chiên: “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2,10-11). Tin Mừng sứ thần loan báo cho các mục đồng tại làng Bêlem năm xưa thực sự là Tin Mừng cho nhân loại mọi nơi và mọi thời.
Thiên Chúa siêu việt đã trở thành một con người.Thiên Chúa vĩ đại, quyền uy đã hiện thân nơi một đứa trẻ bé bỏng mong manh, bọc tã, nằm trong máng cỏ.
Tại sao Thiên Chúa xuống thế làm người?
Kinh Tin Kính Công đồng Nixêa (năm 325) đã trả lời: “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”.
Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo đã đưa ra 4 lý do: là để cứu độ chúng ta, là để giúp chúng ta nhận ra tình thương của Chúa, là để trở thành mẫu mực thánh thiện cho chúng ta và là để chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa (GLCG số 457-460).
1. Thiên Chúa sinh xuống làm người là để cứu độ loài người.
Các thiên thần báo tin cho các mục đồng tại Bêlem: “Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, cũng là tin mừng cho cả toàn dân: hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi trong thành vua Đavít” (Lc 2,10-11). Thánh Gioan tông đồ viết: “Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng Cứu Độ thế gian” (1Ga 4,14).
Từ nay,Thiên Chúa không còn đến với con người qua trung gian mà là Con Một được tặng ban cho nhân loại. Tình yêu Thiên Chúa không chỉ là lời hứa mà bằng chính nghĩa cử cao đẹp Ngôi Lời nhập thể. Từ nay, lời hứa cứu độ đã được thực hiện nơi Một Hài Nhi đã sinh ra. Lời hứa ngọt ngào từ thưở địa đàng khi Nguyên Tổ sa ngã đánh rơi khỏi tầm tay trái táo hạnh phúc (St 3,15). Rồi trải qua hàng ngàn năm bằng sự loan báo của các Ngôn sứ, Thiên Chúa vẫn mãi lời hứa tình yêu cứu độ.
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.
2. Thiên Chúa sinh xuống làm người để giúp con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa.
Thánh Gioan tông đồ đã khẳng định: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8).Thiên Chúa là Đấng vô hình không ai thấy được và do đó con người cũng khó nhận ra tình yêu của Người. Vì thế thánh Gioan viết tiếp: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến trần gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9).
Nếu tội tổ tông gây tác hại là làm mất tình trạng ơn phúc và để cho tội lỗi lẻn vào thế giới, từ đó đau khổ và sự chết mặc sức hoành hành. Hài Nhi Giêsu sinh đến trong xác phàm lại là khởi đầu một mùa giải thoát. Hết rồi đêm tối vì Hài Nhi là ánh sáng. Hết rồi lỗi tội vì Hài Nhi là thánh ân. Hết rồi chết chóc vì Hài Nhi là nguồn sống. Hết rồi sầu muộn vì Hài Nhi là thiên đàng. Như vậy, khi xuống thế, Thiên Chúa đã đem thiên đàng vào cõi trần gian, để mối tình trời đất bị cắt đứt bao đời lại được kết nối một cách mầu nhiệm cho vinh danh trời cao và cho an bình dưới thế.
Tình yêu Thiên Chúa được Chúa Giêsu thể hiện qua đời sống nhân hậu, bao dung vô bờ của Ngài. Lời nói việc làm của Ngài chính là lời nói việc làm của Chúa Cha (Ga 14,10). Toàn bộ cuộc đời của Ngài được Chúa Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt phản chiếu khuôn mặt và trái tim Chúa Cha.
Trong ba năm rao giảng công khai, Ngài đã luôn gần gũi với những người nghèo hèn trong xã hội, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền của họ và ưu tiên rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho những người bé nhỏ, những người bị bỏ rơi.Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả, Chí Thánh Chí Tôn và Hằng Hữu đã có thể trở thành tương đối, thấp hèn, bạn với quân thu thuế với phường tội lỗi, cuối cùng phải chết khổ hình. Nơi Đức Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách nghịch thường. Điều đó, sự khôn ngoan của bậc hiền triết không lý giải được, nhưng nói như Pascal, trái tim lại hiểu được vì nó có lý lẽ riêng của nó. Thiên Chúa của Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa ngự trên toà cao cho người ta sấp mình thờ lạy mà không dám nhìn đến tôn nhan, không dám gọi tên mà chỉ dám cầu xin với niềm sợ hải. Thiên Chúa của Đức Giêsu dễ gần, dễ thấy, dễ quen. Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Chính Ngôi Lời làm người đã chọn máng cỏ làm tổ ấm lúc chào đời, đã chọn xóm làng Nadarét làm nơi sinh sống, đã chọn những kẻ thấp hèn trong xã hội làm bầu bạn, đã quỳ gối rửa chân cho các môn đệ, rồi chọn cây thập giá làm giường khi chết cùng với hai kẻ cướp làm bạn đồng hành đi vào thế giới bên kia. Thiên Chúa làm người đã chọn nhà Giakêu để tạm trú, chọn người thiếu phụ Samari để gặp gỡ đối thoại, đã chấp nhận cử chỉ biết ơn của người phụ nữ tội lỗi Mađalêna, đã chọn kẻ trộm lành làm ứng viên đầu tiên vào Thiên Đàng, đã chọn Phaolô kẻ bắt bớ Giáo hội làm Tông Đồ Dân Ngoại…Ngài chính là Thiên Chúa yêu thương.
3. Thiên Chúa sinh xuống làm người để trở thành mẫu mực thánh thiện cho con người.
“Thiên Chúa không ai thấy bao giờ, Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Người đã thông tri” (Ga 1,18). Con người có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt Ngài. Chính Chúa Con tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của Thiên Chúa “Ai thấy Thầy là thấy Cha“. Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Chúa Giêsu đã chỉ cho nhân loại thấy Chúa Cha nhân hậu giàu lòng xót thương.
Thiên Chúa là Đấng chí thánh. Chúa Giêsu đã dạy con người phải sống thánh thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện. Chúa Giêsu, một con người thánh thiện không có một dấu vết tội lỗi nào. Chính Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống đã làm người, giống chúng ta mọi phần, chỉ trừ tội lỗi. (Dt 4,15). Ngài dạy cho nhân loại con đường thánh thiện, và nêu gương thánh thiện. Vì thế, Ngài đã có thể nói: “Hãy học cùng tôi” (Mt 11,29). Khuôn mẫu thánh thiện mà Ngài để lại cho chúng ta được biểu lộ một cách rõ ràng qua tình yêu của Ngài đối với chúng ta, vì tình yêu là cốt lõi của lề luật. Vì thế Ngài dạy rằng: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Nơi Thiên Chúa, tình yêu và sự thánh thiện là một, bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu và đồng thời cũng là Đấng Thánh.
Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh. Đó là một ơn gọi rất cao cả như lời Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Công Ðồng Vatican II cũng lập lại ý tưởng đó: “Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (GH 11,3). Trong các thư của Thánh Phaolô, ngài gọi các tín hữu là những vị thánh. Qua Bí Tích Rửa Tội, mọi tín hữu được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II nói rằng: thành công đẹp nhất của một cuộc đời là sự thánh thiện. Tin Chúa, yêu Chúa và sống theo lời Chúa dạy qua Tám Mối Phúc Thật, mọi tín hữu sẽ nên thánh.Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu.
4. Thiên Chúa sinh xuống làm người để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.
Thánh Irénée đã nói về Đức Kitô rằng: “Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở thành như Người”. Đó không phải là một sự thần hóa thật sự và trọn vẹn trong Con Thiên Chúa nhập thể sao? Về sau, Clément (Alexandrie) và Grégoire (Naziance) đã làm biến đổi suy tư ấy một cách sâu xa khi quả quyết: “Thiên Chúa đã làm người để con người làm Chúa”. Nhà thần học Karl Rahner viết: “Thiên Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa”, để con người trở thành con Thiên Chúa, với món quà tuyệt vời: “Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những gì rất qúy báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa…” ( 2Pr 1,4).
Trước Máng Cỏ Bêlem, thật ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện. Thiên Chúa tỏ bày tình thương bằng cách trao ban chính Con Một của Ngài cho nhân loại.Thánh Phaolô diễn tả: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài. Ngôi Lời làm người mang lấy bản tính nhân loại và làm cho bản tính ấy được thông phần bản tính Thiên Chúa. Là Con Thiên Chúa, Ngài đã tự nguyện sinh ra làm con loài người để loài người trở thành con Thiên Chúa nhờ kết hợp với Ngài. Từ khi xuống thế làm người, Con Thiên Chúa đã tự đồng hóa mình với mỗi người trong nhân loại. Từ đây, phẩm giá của con người được nhìn nhận không chỉ vì họ là con người vượt trên mọi loài, nhưng còn vì họ là con Thiên Chúa.
Tin Mừng Giáng Sinh nâng cao phẩm giá con người ngay từ khi được cưu mang trong dạ mẹ và vừa mới sinh ra. Chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, chúng ta sẽ học được nhiều bài học về Sự Thật, Tự Do, Công Lý, Hoà Bình và Tình Thương. Hài Nhi Giêsu đã mở ra triều đại của Công Lý Tình Thương trên “nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9,5-6). Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại.
Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang… Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi Nhà Thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn mầu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời.
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương’’
Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau. Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau.
Đôi khi nghe bài hát “Điệu lý qua cầu ”tôi vẫn tự hỏi liệu có ai dám bỏ phố thị về quê chung sống GS-426
Đôi khi nghe bài hát “Điệu lý qua cầu ”tôi vẫn tự hỏi liệu có ai dám bỏ phố thị về quê chung sống theo người tình trăm năm hay không? Liệu dòng sông thơ mộng với cù lao xanh có mang lại hạnh phúc khi phải sống thiếu thốn dưới mái tranh nghèo và chiếc xuồng ba lá làm phương tiện sinh sống mà bài hát đã diễn tả thật rộn ràng hấp dẫn hay không?
Bằng lòng đi em về với quê anh Một cù lao xanh một dòng sông xanh Một vườn cây xanh hoa trái đơm hương Thuyền ai qua sông dòng hò mênh mông. Bằng lòng đi em anh đón qua cầu Mùa mưa cầu tre dẫu khó đưa dâu Bằng lòng theo anh dưới mái tranh nghèo Về đây người quê chỉ có tấm lòng Có chiếc xuồng ba lá để yêu em Ôi đóa hoa tím trôi líu riu Dòng sông nước chảy líu riu Anh thấy em nhỏ xíu, nhỏ xíu nên anh thương ơ…ơ… Ôi những đêm ngắm sông nhớ em buồn muốn khóc Mình anh ca điệu lý qua cầu. Ôi đoá hoa …..anh thương ơ…ơ… Ôi những đêm ngắm sông nhớ em buồn muốn khóc Mình anh ca điệu lý qua cầu.
Hình như tình yêu của đôi uyên uơng này có gì khang khác với các đôi trai gái thời nay. Bởi vì khi yêu ai thì người ta muốn được giàu sang và có mọi phương tiện hiện đại, nhưng với anh này thì anh chỉ có mái tranh nghèo với tình yêu bằng cả tấm lòng. Và, người yêu của anh chỉ nhỏ xíu bên cạnh cái dòng sông nước chảy liu riu thôi!
Cái nhìn của anh, quan niệm của anh rất khác so với nhiều người, nhưng quan niệm tình yêu ấy lại rất đúng vớicái nhìn, quan niệm của Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa yêu con người và tìm đến với con người nơi những mảnh đời khổ đau. Ngài đã bỏ tất cả để đến cư ngụ giữa những người mình yêu dầu chỉ là dưới mái tranh nghèo nơi cánh đồng hoang Belem và lớn lên sinh sống bên mái tranh nghèo miền thôn dã Nagiaret.
Đêm nay chúng ta cùng với muôn thiên thần hát lên thật to rằng: “Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời, Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi khó nghèo”. Đây là niềm vui và hạnh phúc cho những người thành tâm thiện chí xây dựng hoà bình, và đặc biệt là những gia đình đang khổ đau. Vì từ nay Con Thiên Chúa đã ở cùng chúng ta. Từ nay Ngài đi vào cuộc đời để hiểu và đồng cảm những khó khăn của chúng ta.
Đây là cái nhìn của Thiên Chúa khác với loài người chúng ta, vì chính Ngài cũng từng nói: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi ”(Is 55,8). Đúng vậy, có bao giờ chúng ta ngạc nhiên và sửng sốt bởi cách hàng động của Chúa không? NhưngThiên Chúa là vậy! Ngài giáng trần không phải vì tìm kiếm sự giầu sang phú quý. Ngài càng không tìm đến những chốn phố thị nguy nga tráng lệ. Ngài đã đến để cư ngụ giữa những người khổ đau đang thất vọng vì cuộc sống có quá nhiều vất vả lầm than.
Điều quan yếu là Ngài đã tự nguyện đến và lưu lại nơi những người Ngài thương yêu đang còn đói nghèo, bất hạnh và khổ đau. Ngài mong tình yêu của Ngãi sẽ bồi đắp lại cho những bất hạnh của họ bằng chính tình yêu phục vụ của Ngài.
Năm nay với đường hướng đồng hành với gia đình khó khăn, giáo hội muốn nhắn nhủ các gia đình đang gặp những khó khăn hãy vui lên vì Chúa đang ở giữa anh chị em. Hãy tin tưởng và hân hoan vì Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt khổ đau cho anh chị em. Hãy tin tưởng vào tình thương của Ngài. Ngài sẽ đến và lưu lại nơi những mái tranh nghèo, nơi những con người lầm than bởi bệnh tật, bởi vất vả bôn ba với miếng cơm manh áo. Ngài sẽ đồng hành với anh chị em di dân đang lênh đênh nơi đất khách quê người.
Ước mong lời loan báo tin vui Chúa đã giáng sinh cho chúng ta được loan đi khởi đầu dành cho những mái tranh nghèo của các mục đồng hôm nay lại tiếp tục được loan báo đến cho những ai đang gặp bất hạnh hôm nay. Hãy vui lên vì Chúa đã giáng sinh cho chúng ta. Hãy vui lên vì Ngài là hoàng tử bình an, là ông vua thái bình sẽ mang lại niềm vui hạnh phúc cho chúng ta.
Cầu chúc cho mọi người một đêm giáng sinh an lành. Xin Chúa Hài đồng ngự đến từng mái nhà đơn sơ của chúng ta để chúc phúc và ban bình an cho những ai thành tâm đón nhận Ngài. Amen.
Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui GS-427
Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
Hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến. Thế rồi, do lòng yêu thương thúc đẩy, anh khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực, hay chỉ yêu chàng vì gia tài, địa vị, quyền thế của chàng, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái.
Thế là hoàng tử hoá thành người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng, làn da cháy nắng, đôi tay chai sần. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và khát mong được kết hôn với vị hoàng tử mà cô đã gặp trong rừng, nhưng trớ trêu thay, cô ta không nhận ra vị hoàng tử nầy trong dáng dấp người nông dân nghèo khổ. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh đi, trong khi lòng cô vẫn thổn thức nhớ thương chàng hoàng tử hào hoa mà cô đã gặp trong rừng!
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lại.
* * *
Như vị hoàng tử hoá thân thành nông dân đến cắm lều ở bên cạnh nhà cô gái, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời, hoá thân thành người phàm và đến ở giữa chúng ta.
Trong khi chúng ta vẫn yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa uy linh trên cõi trời cao, chúng ta lại tỏ ra thờ ơ hờ hững với những chi thể của Ngài, với hiện thân của Ngài đang sống quanh ta.
* * *
Thánh Phao-lô nhấn mạnh:
"Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6,15)
"Anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận" (I Cr 12, 27)
"Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể." (I Cor 12, 13)
* * *
Chúa Giêsu cũng khẳng định rằng tha nhân là hiện thân của Ngài, vì thế ai khước từ bạc đãi người khác là bạc đãi Ngài, xúc phạm đến người khác là xúc phạm đến Ngài.
Khi Chúa Giêsu phục sinh khiển trách Sao-lô: "tại sao ngươi bắt bớ Ta"(Rm 9,4) đang khi Sao-lô chỉ đụng đến các tín hữu, là Ngài tự đồng hoá mình với họ. Ngài dạy: "Những gì các ngươi đã làm cho các anh em bé mọn của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta." (Mt 25, 40)
* * *
Thánh Phanxicô Assisi nhận ra người phong cùi là một phần chi thể đang bị ung nhọt của Chúa nên ngài đã ôm hôn người phong ấy với tình yêu thắm thiết.
Mẹ Tê-rê-xa thành Calcutta cũng đã nhận ra những người bệnh tật, hấp hối là những phần chi thể bị tổn thương của Chúa Giêsu nên Mẹ đã dành phần lớn đời mình yêu thương chăm sóc họ.
* * *
Hôm nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đóng vai người nông dân, người cùng khổ, người láng giềng, người bạn đồng nghiệp và cả những người nhà, để sống với chúng ta. Thế nhưng chúng ta rất khó nhận ra đó là hiện thân của Thiên Chúa nên thường đối xử tệ bạc với tha nhân. Thế là bi kịch cô gái nghèo hết lòng yêu thương chàng hoàng tử hào hoa nhưng lại phụ bạc anh ta dưới lốt nông dân nghèo khổ vẫn còn đang tiếp diễn từng ngày, từng giờ từng phút. Thế là "Người đã đến nhà của Người mà người nhà đã không tiếp nhận Người." (Gioan 1, 11)
* * *
Thật vô cùng đáng tiếc cho cô gái trong câu chuyện trên vì cô đã đánh mất cơ hội ngàn vàng: cơ hội trở thành công nương chốn cung đình, cơ hội được hạnh phúc trăm năm bên hoàng tử giàu sang phú quý!
Và cũng vô cùng đáng tiếc cho chúng ta khi chúng ta tiếp tục lặp lại bi kịch ấy trong cuộc đời mình.
Bậc cha mẹ có nghĩa vụ chia sẻ kinh nghiệm, cho đi sự hiểu biết của mình, cắt nghĩa, giải thích GS-428
Bậc cha mẹ có nghĩa vụ chia sẻ kinh nghiệm, cho đi sự hiểu biết của mình, cắt nghĩa, giải thích, hướng dẫn con cháu từng bước đi, hoặc “kích thích” chúng chạy thật nhanh tới một danh hiệu cao quý. Phận làm con bao giờ cũng được phản ánh bởi quan niệm rất phong phú: cây tốt, sinh trái tốt; cha anh hùng, con hảo hán. Đêm hôm nay có khác đêm hôm qua không, đêm hôm nay, bậc sinh thành sẽ chia sẻ kiến thức, sự dao động của trí lòng? Đêm hôm nay, có phải tất cả những người làm con đang thổn thức vì “món quà” được hứa hẹn, hay chỉ một số trẻ em thơ ngây đã từng tỉnh thức đợi chờ? Dù nhiệt độ có thay đổi thì đêm hôm nay, cả nhân loại vẫn đang nóng lên bởi “tình người giáng sinh”, bầu khí ấm áp yêu thương ở sát gần với mọi gia đình.
Đêm hôm nay khắp trần thế đang vui mừng kỷ niệm Con Chúa giáng trần, biết bao tâm hồn đã đi theo tiến trình thức tỉnh chờ đợi của 4 tuần mùa vọng, cũng không thiếu những hoạt động sẻ chia quà Giáng Sinh cho trẻ thơ, cho người nghèo hèn bất hạnh. Đêm hôm nay trẻ em giầu nghèo, người đau bệnh hay trẻ khoẻ, người thành tâm thiện chí, kẻ mưu mô xảo kế, tất cả đều có cơ hội quy chiếu về Hài Nhi Giêsu, hang đá trí lòng mỗi người sẽ trả lời đêm nay là ĐÊM CHÚA GIÁNG TRẦN. Lời kêu gọi trở về quê quán để đăng kiểm, hình ảnh những đôi vợ chồng túng thiếu vật chất bị xã hội lãng quên, hoàn cảnh trẻ em mất đi tuổi thơ vì phải lam lũ trước cái ăn cái mặc, thương đau đó, là lời gọi hãy trở về với cõi lòng mình. Đêm hôm nay, tiếng hát Thiên Thần vẫn vang lên: vinh danh Thiên Chúa trên trời bình an dưới thế cho người thiện tâm, cho dù sự hào nhoáng và tính thế tục còn ồn ào, chưa lắng đọng.
Đêm hôm nay là “Đêm Thánh vô cùng”, cha Giuse, mẹ Maria, Hài nhi, Các Đấng thinh lặng, nhưng các mục đồng vẫn cảm nhận được niềm vui hạnh phúc, vì tin rằng Thiên Chúa cứu độ đã đến. Đêm hôm nay, sự “linh thánh” của cõi lòng, thế trần có rất nhiều bậc cha mẹ đã hiểu: “tình yêu thương” chính là căn bản nâng phận người lên làm Con Thiên Chúa, chứ đâu phải tài giỏi, giầu sang. Đêm hôm nay, dẫu chưa hết bất công, còn nhiều gia đình nghèo đói vật chất, nhiều trẻ em đường phố đang cần được quan tâm chăm sóc. Lời nói, việc làm yêu thương sẽ còn âm vang: “các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân, hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho các ngươi”.
Đêm hôm nay Hài nhi Giêsu sẽ không cô đơn, khi mà người người đến hang Belem không phải chỉ có các mục đồng, nhưng là mọi đối tượng, có cả những người đến thăm vì hiếu kỳ, Chúa hằng có cách giúp họ. Đêm hôm nay, ở nơi thành thị, ở nông thôn trên khắp địa cầu, đều mọc lên hang đá và có ý nài xin Hài nhi Giêsu đến ở với muôn dân. Đêm hôm nay, nhiều người sẽ quên tuổi tác, nhiều người quên bệnh tật, quên hận thù, đơn giản vì mọi người tin rằng họ cần Chúa đến cõi lòng họ, cần tình yêu thương và ơn cứu độ. Đêm hôm nay sẽ còn là đêm liên kết muôn tấm lòng, vì có sự thông hiệp giữa các hiền tài với các mục đồng, có tiếng hát trầm ấm của các ca sĩ nghiệp dư, chuyên nghiệp, hoà chung với tiếng hát của các Thiên Thần hát nhắn gởi: “các ngươi sẽ thấy một Hài-nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”.
Đêm hôm nay, sự hoành tráng của niềm tin đang lấn át những phàn nàn tiêu cực: trời cho ai, người ấy hưởng, vì chưng, gặp được nhau đã là một cái duyên, có những người chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng lại khiến ta lưu luyến suốt đời. Các mục đồng năm xưa được Thiên Thần dẫn dường tới gặp Gia Đình Thánh, họ trở về cuộc sống với bao niềm vui say của hồng ân Chúa ở cùng. Đêm hôm nay, từ gia đình đến xã hội, từ người thánh đức đến người lem lấm bụi trần, mọi người không phân biệt mừng Chúa Giáng Sinh hay mừng lễ hội No-el, tất cả đều đang cùng tiếng nói yêu thương, tất cả sẽ nghe tiếng rõ đất trời giao hoà phúc an. Đêm hôm nay, trẻ vui nhà, già vui chùa, muôn dân thiên hạ sẽ thấm nhuần đạo làm người, đạo làm con Chúa thật sống động, vì Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu. Hài nhi Giêsu đang sinh ra ở khắp mọi hang đá tâm hồn, tình yêu thương của Hài nhi Giêsu hiện diện ở nơi ông già No-el, ở nơi những nhà thiện nguyện, họ thật phấn khởi chia sẻ tình thân ái cho nhau. Amen.
Có những ca khúc chúng ta hát hoài hát mãi và vẫn thấy hay, vì lời nhạc đã đi vào lòng người, gọi GS-429
Có những ca khúc chúng ta hát hoài hát mãi và vẫn thấy hay, vì lời nhạc đã đi vào lòng người, gọi là bất tử. Có thể nhiều lần chúng ta chứng kiến tình huống con cái xúc phạm đến bậc sinh thành, rồi sau đó chúng hối lỗi, các ngài vẫn tha thứ, đơn giản vì nước mắt chảy xuôi, không chảy ngược. Xung quanh chúng ta hẳn không thiếu những người đàn ông vì “máu đỏ đen”, để rồi nhà tan cửa nát, trách trời không thương. Thời nào cũng có những người tài giỏi đức độ, mà xã hội, xóm làng bỏ qua, như không hề hay biết và trọng dụng. Mơ ước thành công, tìm kiếm hạnh phúc, là điều chính đáng, còn sử dụng thời giờ hợp lý, biết ứng xử có lý có tình, lại rất cần đến một quân sư trợ giúp, nếu không ta cũng chỉ là đứa học trò đầy thiếu sót sai lầm: cây cao bóng mát không ngồi, ra ngồi chỗ nắng trách trời không râm!
Cuộc sống chớ trêu, có những người hả hê đắc thắng cho rằng: tôi làm chơi mà ăn thật; lại cũng có khối kẻ than thở, tại sao cái nghèo khổ cứ bám theo tôi! Chẳng ai so sánh và đem lên bàn cân đo, tinh thần đạo đức giữa các luật sĩ biệt phái với những mục tử chăn chiên thế nào, cũng thật là thiếu công bằng, nếu chỉ có các mục đồng mới nhận ra hôm nay là ngày “hồng phúc”, ngày Con Thiên Chúa giáng trần. Thiên Chúa không thiên vị một gia đình hay một cá nhân nào, dịp thuận tiện để tới hang Belem, cơ hội để gặp Hài nhi Giêsu, bậc hiền tài, hoặc kẻ phàm phu đều giống nhau. Cũng không phải vì may mắn hơn người, hay vì Con Thiên Chúa đến thế trần chỉ muốn thông qua các mục đồng nghèo. Vấn đề phức tạp ở chỗ là làm sao chúng ta có thể nghe, hiểu, và cảm nhận Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa thật, chuẩn, như các mục đồng?
Nghe, hiểu, tiếng hát của các thiên thần, các mục đồng không ngại cất công đến Belem khám phá sự thật về ánh quang toả rạng, dù sao thì các mục đồng cũng là những vị đã gặp, đã xem thấy, đã tin, Hài nhi nằm trong máng cỏ là Thiên Chúa mà nhân loại hằng mong đợi. Ngày hôm nay, tiếng hát của thiên thần vẫn đang vang lên, tiếng hát ấy vẫn là thiêng liêng, bất tử, mọi người có lòng thành đều cảm nhận được ngày giờ là của Chúa, thời gian cứu độ là của Chúa. Ngày hôm nay là ngày yêu thương, ngày mà Con Thiên Chúa sẽ khởi đầu cho kế hoạch giải thoát tội lỗi cho từng tâm hồn chúng ta.
Hành trình mỗi người kitô hữu chúng ta hôm nay đến Belem, hẳn vẫn như các mục đồng, bầu khí thinh lặng, nhưng ấm áp tình Chúa, tình người, mắt tâm hồn sẽ giúp ta hiểu thế nào là tình yêu Thiên Chúa. Ngày hôm nay sẽ mãi là ngày thánh, vì cường độ của tình yêu tỉ lệ với việc lãnh nhận ơn ban, người được gặp, được xem thấy, cũng là người tin Thiên Chúa yêu thương cứu độ. Ngày hôm nay, ở bên hang đá không còn là cô đơn lẻ bóng một vài cá nhân ngoan đạo, vì sự linh thánh vẫn đang toả chiếu vào tâm trí con người một niềm vui, một tình yêu không đổi thay, cũng là tình yêu của Thiên Chúa cứu độ. Ngày hôm nay, hang đá của cõi lòng mỗi người đã và đang được biến đổi thành bầu khí tin yêu, cầu nguyện, và niềm an vui thực sự trở nên chứng nhân tin mừng cho toàn dân.
Ngày hôm nay chính là ngày hồng phúc, ngày mà từng người trong chúng ta đây sẽ trở nên những mục đồng, được ghi tên vào lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ngày hôm nay, mỗi chúng ta đã ý thức việc đến Belem chưa đủ, nhưng chúng ta sẽ kết hiệp cầu nguyện để thấu hiểu Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ, Thiên Chúa đến trần gian là vì muốn chúng ta được sống và sống hạnh phúc. Ngày hôm nay, người ta yêu thôi chưa đủ, người ta phải thấu hiểu tâm hồn nhau, chứng minh được lực hút của con tim khối óc mới gọi là tình yêu đúng nghĩa. Con Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta sòng phẳng theo quan niệm hòn đất ném đi, hòn chì ném lại, song niềm tin yêu của mỗi người phải được trưởng thành theo chiều dài chiều rộng của thời gian.
Cha ông chúng ta có câu: người khôn nói ít làm nhiều, còn như người dại lắm điều điếc tai. Các ngài có ý nhắc nhớ con cháu hãy bằng lòng với sự hiểu biết của mình, mỗi người hãy sống tận tâm tận lực, qua đó mỗi ngày sống là mỗi ngày chúng ta hiểu được giá trị của tình yêu mà chúng ta lãnh nhận. Các mục đồng đến hang Belem thờ lạy rồi cũng sẽ trở về với cuộc sống thường ngày, nhưng chứng nhân về Hài nhi Giêsu vẫn là trọng trách của các mục đồng. Hang đá do tay con người làm ra cho Chúa Hài nhi hôm nay, dù có lộng lẫy đồ sộ tới đâu rồi cũng sẽ cất vào kho, nhưng người nghèo khó bất hạnh vẫn ở xung quanh chúng ta, sứ mạng Con Thiên Chúa đi vào tâm hồn mỗi người không thể im lặng và đửng dưng khi chúng ta đã từng được ơn ban. Xin tình yêu của Đấng Emmanuel, mãi mãi ở trong tâm hồn chúng ta, hầu mỗi giây phút trong đời, trong ngày, mỗi lời nói việc làm của chúng ta đều phản ánh được giá trị tình yêu thương của Chúa. Amen.
Mỗi độ Giáng Sinh về, chúng ta tặng quà cho người thân, bạn bè. Mỗi món quà dù lớn, dù bé GS-430
Mỗi độ Giáng Sinh về, chúng ta tặng quà cho người thân, bạn bè. Mỗi món quà dù lớn, dù bé, dù đắt hay rẻ, đều mang thông điệp yêu thương mà người tặng gửi gắm trong đó. Khi nhận quà, người nhận phải khám phá và đọc ra được sứ điệp đó.
1- Món quà ý nghĩa
Người ta kể rằng: có một anh lính từ chiến trường xa trở về thăm vợ con nhân dịp mừng lễ Giáng Sinh. Lâu ngày xa cách, nhớ vợ thương con, nay được trở về, anh muốn mua một món quà để tặng vợ nhưng trong túi không có đồng nào. Về gần tới nhà, anh nghĩ ra một cách làm vợ con ngạc nhiên. Anh lấy một băng vải, viết lên trên đó hàng chữ: “Quà tặng em.” Rồi anh mang lên ngực. Nghe tiếng gõ cửa. Người vợ liền mở cửa và rất vui mừng vì thấy chồng trở về bình an. Nhưng bất ngờ và ngạc nhiên khi nhìn thấy hàng chữ, người vợ xúc động và ôm lấy anh. Vì quả thật đối với chị, chồng là món quà quý nhất, hơn mọi món quà khác trong ngày lễ Giáng Sinh.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta nói đến một món quà khác giá trị hơn các món quà vật chất. Đó là món quà Hài Nhi Giêsu mà Thiên Chúa tặng ban cho chúng ta.
Quả thế, từ xa xưa trong Cựu Ước, tiên tri Isaia tiên báo về món quà mà Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại: “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng… Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu độ ta, một người con đã được ban tặng cho ta” (Is 9,1.5). Những lời này đã thực ứng nghiệm qua biến cố Con Thiên Chúa sinh ra tại Bêlem cách đây hơn 2000 năm. Đó là Tin Mừng cho toàn thể nhân loại, được các thiên thần loan tin trong bài Tin Mừng: “Hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em, trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11).
2- Quà tặng và người tặng quà
Thần học gia nổi tiếng người Đức, Karl Rahner nói rằng: “Nơi Thiên Chúa, người tặng và quà tặng là một. Thiên Chúa không ban một cái gì, một vật gì, mà ban chính mình Người cho chúng ta. Nhờ quà tặng là Thiên Chúa, mà chúng ta mới có thể đón nhận sự sống của Thiên Chúa nơi chúng ta.” Thiên Chúa đã ban cho chúng ta chính Con Một yêu dấu của Người.
Thật vậy, Đức Giêsu là quà tặng quý nhất mà Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại. Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu độ con người nên Người sai Ngôi Hai xuống thế làm người, cứu nhân độ thế. Chiêm ngắm biến cố này, thánh Gioan cảm nghiệm: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Khi tặng ban Con Một, Thiên Chúa đã ban điều lớn lao nhất, điều quý giá nhất, để minh chứng tình yêu lớn lao nhất của Người đối với nhân loại. Yêu là cho đi. Yêu là hiến mình. Yêu là cứu độ.
Thế nên, sứ điệp mà Hài Nhi Giêsu mang đến cho nhân loại trong đêm nay là sứ điệp yêu thương: Thiên Chúa yêu thương chúng ta; Thiên Chúa muốn cứu độ chúng ta. Nếu lịch sử của con người là lịch sử của sa ngã và phản bội, thì lịch sử của Thiên Chúa là lịch sử của trung thành và cứu độ. Thiên Chúa không bỏ mặc con người phải hư mất trong lầm than và tội lỗi.
Thánh Phanxicô Assisi quỳ bên hang đá, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa giáng sinh, ngài tự vấn: tại sao Thiên Chúa quyền năng lại trở nên một em bé thấp hèn? Tại sao Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong hang lừa nghèo khó? Từ đó, ngài cảm thấy tâm hồn tràn ngập lòng yêu mến và không thể kiềm chế cảm xúc, ngài chạy ra các đường phố Assisi và kêu lên: “Anh chị em hãy yêu mến Chúa Hài Đồng, hãy yêu mến Chúa Hài Đồng.”
3- Trở nên quà tặng cho nhau
Đêm nay, chúng ta cử hành đại lễ mừng Con Chúa giáng sinh. Đây là đêm an lành, đêm hồng ân và đêm ánh sáng. Tất cả chúng ta được mời gọi quỳ bên hang đá, để thờ lạy Chúa Hài Nhi, chiêm ngắm Con Thiên Chúa làm người trong cảnh cơ hàn, để cảm nghiệm tình thương của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Lễ Giáng Sinh là “lễ tình thương,” tình Chúa giáng sinh trên tình người. Khi đón nhận món quà giáng sinh, niềm vui giáng sinh là Chúa Hài Đồng, chúng ta hãy mang Chúa về trong gia đình và chia sẻ niềm vui đó với mọi người xung quanh. Sứ điệp giáng sinh là sứ điệp hãy sống hòa bình, tôn trọng và nhân ái đối với tha nhân. Và để sống mùa Giáng Sinh ý nghĩa, thánh Phaolô trong bài đọc II mời gọi chúng ta: “Phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2,11-12).
Chúng ta cũng được mời gọi trở thành món quà cho nhau. Nếu trong gia đình và cộng đoàn, ai chưa hòa giải với Chúa và với nhau, mùa Giáng Sinh và năm mới là dịp thuận tiện để chúng ta hòa giải với Chúa và làm hòa với nhau. Như thế, việc cử hành lễ Giáng Sinh mới mang lại ý nghĩa đích thực cho chúng ta. Bởi lẽ, như lời các Giáo Phụ dạy: “Nếu Chúa Giêsu tiếp tục giáng sinh hàng ngàn lần ở Bêlêm, mà không một lần giáng sinh trong lòng chúng ta, thì những lần giáng sinh đó có mang lại ý nghĩa gì cho chúng ta chăng?”
Kính chúc anh chị em được đầy niềm vui, ân sủng của Thiên Chúa trong mùa Giáng Sinh và năm mới này. Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng chúc lành cho tất cả chúng ta. Amen!
Trong ngày mừng đại lễ Sinh Nhật Chúa Giêsu, chúng ta cùng nhau tìm hiểu câu trả lời cho GS-431
Trong ngày mừng đại lễ Sinh Nhật Chúa Giêsu, chúng ta cùng nhau tìm hiểu câu trả lời cho câu hỏi: “Hài Nhi Giêsu là ai?”
Bài Tin Mừng trong lễ Ngày Giáng Sinh được trích từ lời Dẫn nhập của Tin Mừng Gioan. So với thánh lễ Đêm và thánh lễ Rạng Đông Giáng Sinh, chúng ta thấy sự khác biệt rõ rệt trong bài Tin Mừng của ngày lễ này. Trong khi các bài Tin Mừng của các thánh lễ trước là những tường thuật về biến cố Chúa Giêsu sinh ra đã xảy ra như thế nào, ở đây, trong Tin Mừng Gioan, chúng ta được dẫn tới một suy tư sâu sắc về ý nghĩa của tường thuật giáng sinh này. Vì thế, ở đây, chúng ta không có một tường thuật về việc Chúa giáng sinh, nhưng chúng ta có một lối nhìn chiêm niệm cao siêu về sự sinh hạ của Chúa Kitô và chúng ta có câu hỏi như là tâm điểm suy niệm của chúng về ngày Lễ Giáng Sinh: Chúa Giêsu là ai? Hài Nhi vừa mới sinh là ai? Tại sao chúng ta phải cử hành sinh nhật của Người?
Chúng ta tìm thấy câu trả lời rất rõ ràng ngay tại những dòng đầu tiên của Tin Mừng Gioan: Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, là Ngôi Lời (Logos) hằng hữu. Người hiện hữu với Thiên Chúa trước khi tạo thành thế giới. Người ở với Thiên Chúa và Người đã là và là Thiên Chúa.
Điều này đòi hỏi chúng ta có cặp mắt đức tin để có thể nhìn thấy trong Hài Nhi nhỏ bé này là Thiên Chúa, là Ngôi Lời hằng hữu, Người có tiền hữu từ trước khi tạo thành thế giới.
Trong bài đọc II, thư Do Thái quả quyết: Người chính là Lời của Thiên Chúa, Đấng đã hoạt động trong tiến trình sáng tạo. Nhờ Người mọi sự được tạo thành. Chúa Cha đã tạo dựng mọi sự và mọi loài nhờ Ngôi Lời. Ngôi Lời cũng chia sẻ vinh quang, vinh dự và quyền năng với Chúa Cha. Người là ánh sáng cho muôn dân. Người là ánh sáng bởi ánh sáng (x. Hr 1,1-6). Đó là điều chúng ta tin và tuyên xưng trong Kinh Tinh Kính Nicêa: “Người là ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Chúa Cha.” Nguồn gốc của Chúa Giêsu được nói ở đây bắt nguồn từ Lời tựa của Tin Mừng Gioan.
Như thế, câu hỏi Chúa Giêsu là ai được thánh Gioan và tác giả thư Do Thái trả lời cho chúng ta hôm nay: Người là Ngôi Lời Thiên Chúa; Người là ánh sáng của Chúa Cha; Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng mà duy trì vạn vật. Nhờ Người chúng ta mới hiện hữu và mới được sống. Nếu không có Người, không có gì được tạo dựng; Người chính là Lời sáng tạo của Chúa Cha.
Một phần của mầu nhiệm mà chúng ta đang cử hành là Ngôi Lời hằng hữu này, Ngôi Lời mà nhờ Người chúng ta hiện hữu và sống động, Ngôi Lời đó được sai đến, làm người và ở giữa chúng ta. Chúng ta hãy hình dung xem: Đấng Tạo Hóa nay đã trở thành một thụ tạo, chia sẻ mọi điều kiện của thụ tạo mà Người đã tạo dựng! Thật khó tin quá! Chúng ta hãy dành nhiều thời gian trong ngày này để suy nghĩ về điều đó. Hình ảnh của Đấng Sáng Tạo quyền năng nay trở thành một em bé, nghèo hèn, đơn sơ, nhỏ bé, như chúng ta. Đấng mà nếu không có Người, chúng ta không hiện hữu được, nay lại trở thành một thụ tạo mỏng giòn như chúng ta; Đấng Sáng Tạo ra khỏi tình yêu, tự do để vâng lời Chúa Cha đã xuống thế, cắm lều ở giữa chúng ta. Người thực sự trở thành một người như chúng ta. Người vui với niềm vui con người. Người buồn với nỗi buồn chúng ta. Người cũng đói khát, cũng bị cám dỗ; Người cũng trải qua mọi kinh nghiệm thường nhật của kiếp người, ngoại trừ tội lỗi. Người thực sự “cắm lều” ở giữa chúng ta. Người thực sự đã hội nhập, sống chết với điều kiện con người. Ôi, đây thật là một vinh dự lớn lao! Thật hạnh phúc vì chúng ta cũng thuộc về Thiên Chúa và Thiên Chúa thuộc về chúng ta.
Chúng ta hãy hình dung, nếu có một ai đó cao trọng đến viếng thăm gia đình chúng ta, chẳng hạn như một giám mục viếng thăm một gia đình giáo dân nghèo, chúng ta thường nghe họ nói: Lạy Chúa tôi, nhà con không đáng để Đức Cha đến viếng thăm! Chúng con bất xứng để được Đức Cha viếng thăm…” Đó cũng là vọng lại âm hưởng của lời mà viên đại đội trưởng trong Tin Mừng khi ông gặp Chúa Giêsu và chúng ta nói trước khi rước lễ: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con.” Đó là cách thức Thiên Chúa đến với chúng ta, khi Người trở thành một người bé mọn, để chúng ta có thể tới gần Người và yêu mến Người. Người trút bỏ mọi thứ vinh quang, địa vị của Thiên Chúa, để trở thành một người trong chúng ta; Người quả thật là Thiên Chúa ở với loài người. Nhờ đó, chúng ta có thể đến gần, đụng chạm tới Người và yêu mến Người.
Nhưng có một thực tế thật đáng buồn vì con người đã và đang khước từ Con Thiên Chúa. Sự hiện diện của Ngôi Lời Thiên Chúa trong cách thức nhân loại, trong con người Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta có sự đáp trả, nhưng thay vì đáp trả nhiều người khước từ Người. Đoạn Tin Mừng hôm nay không dấu diếm thực tại đáng buồn này: Người đến với gia nhân của mình. Nhưng gia nhân Người không tiếp nhận Người (Ga 1,11). Đây là điều đáng buồn vì Chúa Giêsu có thể bị từ chối bởi chúng ta. Con người không nhìn thấy nơi Người ánh sáng của Thiên Chúa, ánh rạng ngời của Chúa Cha, họ không nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi Người. Nên họ không thấy và không đón nhận Người. Sự thật này có thể vẫn còn xảy ra hôm nay, cả trong ngày lễ Giáng Sinh: chúng ta đón nhận điều gì? Chúng ta đón nhận quà tặng, thích nhận phần thưởng và nhận lời mời đi dự tiệc… Chúng ta đón nhận rất nhiều món quà Giáng Sinh, cả những ân sủng và phúc lành nữa, nhưng có thể chúng ta không đón nhận chính Chúa Giêsu, là nhân vật chính của ngày lễ, là ánh sáng của Chúa Cha. Thật là một niềm vui lớn lao khi biết rằng Chúa Giêsu đến với chúng ta vì một mục đích như Tin Mừng Gioan nói: Người đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta để Người cho chúng ta quyền trở nên con Thiên Chúa (x. Ga 1,12). Người đến để chia sẻ với chúng ta quyền làm con của Người. Người đến để dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Cha, vì Người là đường dẫn tới Thiên Chúa. Người đến để thần hóa chúng ta và làm cho chúng ta nên giống Người.
Như thế, lễ Giáng Sinh không phải là dịp làm cho chúng ta thu nhập nhiều hơn vì quà cáp; cũng không phải là ngày lễ hội để chúng ta vui chơi, ăn uống nhiều hơn v.v… Nhưng là ngày để đón nhận ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa đến với chúng ta qua Hài Nhi Giêsu. Ngôi Lời trở thành người phàm nhờ đó chúng ta được trở thành con Thiên Chúa. Đây chính là quà tặng lớn nhất mà chúng ta đón nhận nơi Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy nhận biết hồng ân đó. Chúng ta hãy học biết sứ mạng và hồng ân mà Người mang đến cho chúng ta hôm nay khi đến chiêm ngắm và thờ lạy Hài Nhi Giêsu nơi hang đá. Người là Ngôi Lời hằng hữu, là Thiên Chúa, nay làm người để cứu độ chúng ta.
Kính chúc anh chị em một Mùa Giáng Sinh an lành, thánh đức và tràn đầy ân lộc của Chúa Hài Đồng Giêsu. Amen!
Thế là một mùa Giáng Sinh lại đến với nhân trần. Với bà con rất nhiều quốc gia trên thế giới GS-432
Thế là một mùa Giáng Sinh lại đến với nhân trần. Với bà con rất nhiều quốc gia trên thế giới thì bầu khí Giáng Sinh như đã mở hội từ đầu tháng 12. Bóng hình các ông già Noel lẫn bà già Noel tung tăng khắp các đường phố và cả ngõ ngách chốn thôn dã để gieo rắc niềm vui và tình thương đến mọi nhà. Có thể nói mùa Giáng Sinh là mùa của ân tình, mùa của thiện tâm. Mong sao tâm tình và sứ điệp Giáng Sinh không dừng lại trong một vài ngày của tháng 12 mà phải được thắp sáng trong suốt hành trình dương thế của con người, mọi thời và mọi nơi.
“Anh em đừng sợ! Này ta báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh…Người là Đức Kitô…”(Lc 2,10). Đấng giáng sinh chính là Mặt trời công chính và là Hoàng tử hòa bình. Ngài bỏ trời cao xuống thế gian này là để chiếu soi ánh sáng chân lý cho muôn người như lời Ngài khẳng định với Philatô (x.Ga 18,37). Ai đón nhận chân lý Ngài truyền thì sẽ được giải thoát khỏi ác thần và hiệu quả là sẽ được sự bình an và hạnh phúc đích thực (x.Ga 8,21-22).
Đã là người thì dẫu trong thời đại nào, hoàn cảnh nào đều khát mong được sống trong bình an và hạnh phúc. Theo các con số thống kê của các Bộ Ngành, nhất là Ngành Y tế nước Việt chúng ta thì dường như khát mong ấy đang còn quá xa khi mà chính sức khỏe, sự sống của con người đang bị đe dọa đủ bề. Căn bệnh ung thư đã hủy hoại sự sống hơn 300 người dân Việt mỗi ngày mà nguyên nhân chủ yếu là do thực phẩm bẩn, độc hại. Theo thống kê của Viện nghiên cứu phòng chống ung thư, ước tính Việt Nam có khoảng 94.000 người chết vì ung thư/năm. Bên cạnh đó vấn đề đáng lo ngại là số người mắc bệnh ung thư ở Việt Nam đang có xu hướng ngày một tăng nhanh. Năm 2000 Việt Nam có khoảng 69.000 ca ung thư mắc mới, năm 2015 lên đến 150.000 ca mắc mới. Ước tính đến năm 2020 số ca ung thư mắc mới ở Việt Nam sẽ xấp xỉ 200.000 người, một con số nếu xét tỷ lệ với dân số thì cao nhất thế giới. (Báo Việtnammới – Ung thư ở Việt Nam: Những con số đáng ngại -ngày 19-3-2018). Theo VTV – Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới, mỗi năm có khoảng 300.000 ca phá thai. Đây chỉ là con số được báo cáo tại những cơ sở y tế công, số lượng thực tế chắc chắn lớn hơn rất nhiều vì chưa kể các sơ sở y tế tư và những điểm phá thai chui. (VTV9-Thứ hai, ngày 02/07/2018 11:08 GMT+7). Chỉ với con số thống kê qua các cơ sở công mà thôi thì nước Việt Nam đã đứng hàng thứ ba trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc và Nga.
Vì sao con người lại hành xử tàn ác với đồng loại như thế, lại độc ác với cả giọt máu của mình? Nhìn lại lịch sử thì dân Việt chúng ta vốn có đó chữ thiện trong tâm. Chuyện “thương người như thể thương thân”; “lá lành đùm lá rách”; “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”… là chuyện như rất thân thương và bình thường của con dân máu đỏ da vàng Việt Nam. Thế thì ví cớ nào sự độc dữ lại xảy ra nhan nhãn trước mắt chúng ta chỉ nội mấy mươi năm gần đây?
Cha Giuse Việt trình bày trên trang mạng xã hội của ngài qua nhân vật một nhà giáo nhận định rằng các hành vi độc dữ có nguồn là từ cái tâm ác. Cái tâm ác độc là do bởi cái trí lệch lạc, sai lầm. Xưa nhà độc tài Hitler đã gieo vào cái đầu của nhiều cộng sự viên và dân chúng thời Đức quốc xã cái ý tưởng cao ngạo về một sắc dân ưu việt Aryan. Và từ cái sai lầm về cái ý tưởng chủng tộc ưu việt của họ nên họ đã dã tâm tru diệt một sắc dân Do Thái mà họ cho là cạnh tranh với chủng tộc họ. Khoảng sáu triệu người Do Thái đã bị giết cách dã man, đặc biệt trong các lò hơi ngạt. ( Face book Joseph Viet)
Phải chăng vì bị gieo rắc một cái nhìn không có Đấng Tạo Hóa, không có linh hồn, không có lương tâm, cũng chẳng có đời sau hay chuyện thưởng phạt nên người ta dần dà làm cho lương tâm của mình thành chai đá và rồi nhìn tha nhân chỉ như là kẻ cạnh tranh sinh tồn với mình. Từ cái ý tưởng lầm lạc ấy trong đầu thì rồi sẽ dần làm cho cái tâm của ta thành ra ác, xấu khi nào chẳng hay và dẫn đến các hành vi ác độc là chuyện như đương nhiên. Miễn sao có lợi cho tôi, cho gia đình tôi, cho nhóm của tôi thì tôi sẵn sàng làm mọi sự bất nhân, vô đạo. Và chuyện sản xuất bán buôn lương thực, thực phẩm độc hại, chuyện phá thai vô tội vạ, chuyện buôn bằng bán chữ, gian lân thi cử, chuyện xách nhiễu, hối lộ, tham ô và những cuộc thanh trừng độc ác khác là những hậu quả kéo theo mà thôi.
Đêm nay, cùng với tín hữu Kitô nói riêng và cùng với cả nhân loại trên thế giới chúng ta mừng kỷ niệm biến cố Con Thiên Chúa giáng trần. Thiên Chúa đã làm người trong thân phận của một bé thơ nghèo hèn nhắc nhở cho chúng ta về phẩm vị cao quý của con người. Dù là một bé thơ dân dã hay một bào thai dị tật trong dạ mẹ… tất thẩy đều là hình ảnh của Đấng Tạo Thành, vì thế cần phải được trân quý, tôn trọng và bảo vệ. Chúng ta tin nhận Đấng làm người là Mặt trời công chính. Ngài đến để rọi soi chân lý cho loài người. Một trong những chân lý nền tảng Ngài chiếu tỏa đó là loài người chúng ta là loài thụ tạo, được dựng nên do bởi tình yêu và quyền năng của Đấng Tạo Thành là Thiên Chúa. Đấng Tạo thành chúng ta tôn thờ chính là Cha Toàn năng chí ái và như thế chúng ta là anh chị em với nhau. Con Thiên Chúa giáng sinh làm người đã mạc khải chân lý ngàn đời này khi dạy chúng ta lời kinh duy nhất: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…” (Mt 6,9-13)
Đến với máng cỏ chúng ta sẽ nhận ra cội nguồn của mình và từ đó hiểu được mối tương quan giữa mình với tha nhân. Từ cái trí suy đúng đắn và chuẩn mực này thì cái tâm thiện sẽ được dệt xây và từ đó hình thành các hành vi liên đới yêu thương.
Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương (Lc.2,14). Phải xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. Lời Thánh Vịnh khẳng định rằng Thiên Chúa yêu thương hết thảy mọi loài do tay Người tác tạo. Thế nhưng để có được sự bình an và hạnh phúc đích thực thì còn tùy sự đáp trả của con người vốn là loài được Thiên Chúa phú ban cho sự tự do. Một trong những điều kiện tất yếu phải có, đó là cái thiện tâm của con người. Và ta có thể nói: Vinh Danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người có thiện tâm. Sứ điệp Giáng Sinh là thế đó. Đến với Con Thiên Chúa làm người để cái tâm của chúng ta dần dà được cải thiện. Có được thiện tâm thì bao hành vi yêu thương liên đới sẽ tự nhiên thành hiện thực. Sự bình an và hạnh phúc sẽ ngày càng tỏa lan. Và dĩ nhiên để có cái tâm thiện thì trước hết cần loại bỏ cái lối nghĩ suy cao ngạo sai lầm cho rằng không có Đấng Tạo Thành; không có linh hồn, không có đời sau; không có chuyện thánh thiêng và cứ mãi ngông cuồng lầm lạc cho rằng tín ngưỡng và tôn giáo chỉ là một thứ thuốc phiện. Đây là lối nghĩ suy của một chủ nghĩa đã bị Nghị Viện Châu Âu kết vào tội ác chống loài người và theo Victor Hugo nó “là giấc mơ của vài người nhưng là cơn ác mộng của nhân loại”.
Bầu khí của đêm Giáng sinh hôm nay cho chúng ta một cảm nhận rất lạ, một bầu khí nhẹ nhàng GS-433
Bầu khí của đêm Giáng sinh hôm nay cho chúng ta một cảm nhận rất lạ, một bầu khí nhẹ nhàng, bình an thanh thản trong tâm hồn, mặc dù cuộc sống bên ngoài có vẻ như rất vội vã. Cùng với muôn màu lấp lánh của hàng vạn dây điện là những bài thánh ca du dương mừng Con Chúa ra đời, khiến cho lòng người như lâng lâng bước vào một khung trời mới. Cảm nhận này không chỉ là của riêng những Kitô hữu, mà là cảm nhận chung của nhiều người. Trong đêm Giáng sinh, mặc dù chưa tin Chúa, nhưng nhiều người đang hiện diện nơi đây cũng muốn hòa mình vào niềm vui chung của nhân loại trong đêm Giáng sinh này. Tại sao vậy?
Dù muốn hay không muốn, tin hay không tin, thì nhân loại này cũng không thể phủ nhận được đêm nay là đêm mừng sự kiện Đức Giêsu giáng sinh. Ngài là Đấng mà các Kitô hữu tin là chính Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, là nguồn ánh sáng và là Hoàng Tử – Vua Bình An. Cuộc giáng sinh của Ngài đã đặt một cột mốc, mở ra một trang sử mới cho cả nhân loại. Các bài đọc Kinh Thánh đêm nay muốn giới thiệu cho chúng ta cuộc Giáng sinh trong đơn sơ khó nghèo của vị Vua Bình An này.
Từ năm trăm năm trước công nguyên, tiên tri Isaia đã nói trước về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Lúc đó, dân Israel đang sống trong cảnh tăm tối của tình trạng lưu đày khổ dịch bên Babylon. Trước mặt họ là một tương lai mờ mịt, niềm hy vọng trở về Giêrusalem khôi phục lại đất nước còn quá mong manh xa vời. Những lời của Tiên tri Isaia hôm nay là nguồn tăng lực cho họ, lời lẽ của ông ngập tràn ánh sáng: “Đoàn dân đang bước đi trong tăm tối đã thấy ánh sáng huy hoàng. Những người ngồi trong bóng tối nay được chiếu soi. Vì Thiên Chúa đã ban cho họ chứa chan niềm vui mừng hoan hỷ. Họ hân hoan vui mừng như trong mùa gặt”.Tiên tri Isaia cho thấy lý do đổi đời của họ là vì một Đấng Cứu Tinh sẽ sinh ra, được ban tặng cho nhân loại. Đấng Cứu thế sẽ đem lại ánh sáng, niềm vui và hạnh phúc cho Israel. Ngài sẽ bẻ gẫy cái ách nô lệ đang đè trên cổ họ, Ngài thiêu hủy những cái roi đang quất xuống trên họ. Những đoàn quân của kẻ áp bức sẽ bị dẹp tan và một tương lai mới sẽ được thiết lập và ban tặng cho Israel. Vì Đấng Cứu Thế được sinh ra sẽ là đấng quyền năng, là người cha muôn thuở, là thủ lãnh hòa bình. Ngài sẽ thiết lập hòa bình trên toàn cõi địa cầu.
Lời tiên báo của Isaia ngày xưa đã được ứng nghiệm nơi cuộc sinh hạ của Đức Giêsu mà Thánh Luca thuật lại. Nếu Isaia dùng những hình ảnh hết sức mạnh mẽ, cụ thể để nói về Đấng Cứu Thế, thì hôm nay cuộc giáng sinh của Ngài lại hết sức đơn sơ, thầm lặng đến bất ngờ. Các mục đồng là những người đầu tiên được loan báo tin mừng trọng đại này và là những nhân chứng đức tin đầu tiên về cuộc giáng sinh của Đấng Cứu Thế.
Thiên Chúa đã chọn một con đường hết sức bình thường để bước vào trần gian trong gia đình Giuse – Maria. Giuse và Maria cũng giống như bao gia đình khác tại Israel, nhưng Giuse và Maria là những người biết rõ nhất về hài nhi mà Maria đang cưu mang không phài là người thường, mà là “Con Đấng Tối Cao”. Vì sự nghèo khó của hai ông bà, nên khi về quê, họ không được người thân đón tiếp và cũng không có khả năng để thuê một quán trọ để qua đêm. Hai ông bà đã phải tìm đến một túp lều ngoài cánh đồng để dừng chân. Chính trong đêm đó, trong khung cảnh tồi tàn đáng thương đó, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh. Bà Maria sinh một con trai đầu lòng, lấy tã bọc con và đặt nằm trong máng cỏ.
Tin Mừng cho thấy sự tương phản nơi khung cảnh nghèo hèn của một hang bò lừa với vẻ huy hoàng của sự xuất hiện của Thiên Chúa. Giữa đêm tăm tối, ánh sáng đã bừng lên, vinh quang của Thiên Chúa đã tràn ngập bầu trời. Những con người đầu tiên được đón nhận tin vui trọng đại này là các mục đồng. Họ là những người thấp kém trong xã hội, những người nghèo, bị loại trừ, phải đi làm thuê làm mướn, nhưng họ có một tâm hồn thật đẹp, thành tâm thiện chí, khao khát Đấng Cứu Thế. Thánh Luca thuật lại: “Sứ thần của Thiên Chúa hiện ra đứng bên họ, vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa khắp vùng khiến họ sợ hãi kinh hoàng. Sứ thần đã trấn an họ: Anh em đừng sợ, này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa”.
Trong suốt thời gian đợi chờ, người Do Thái chỉ mong ngày “Thiên Chúa viếng thăm” như xưa Người viếng thăm dân Người, giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai Cập và đưa họ về từ đất Babylon. Với cuộc giáng sinh của hài nhi Giêsu, sứ thần đã quả quyết với các mục đồng rằng: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã đến với anh em”.Hôm naylà cột mốc thời gian Thiên Chúa viếng thăm nhân loại, để vĩnh viễn giải thoát nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi, khôi phục lại phẩm giá và địa vị cho con người và đưa nhân loại trở về quê hương là Nước Trời. Vì thế khi nghe những lời loan báo của sứ thần, các mục đồng đã nhận ra đêm nay là đêm khởi đầu một kỷ nguyên mới, Đấng Cứu Độ là Hoàng Tử Bình An, là Đấng sẽ xóa tan màn đêm u tối, sẽ bao trùm nhân loại này bằng ánh sáng vinh quang và quyền năng của Ngài. Các thiên thần cũng chỉ cho các mục đồng một dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu Thế, đó là: “Một trẻ sơ sinh được bọc trong khăn và đặt nằm nơi máng cỏ”.
Các thiên thần và đạo binh thiên quốc đã phá vỡ sự im lặng và u tối của cánh đồng Bêlem bằng ánh sáng và những lời ca tụng Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.Lời ca này còn âm vang đến chúng ta ngày hôm nay và cho thấy khi Danh Chúa được tôn vinh ca tụng, được mọi người nhận biết, tôn thờ, thì bình an của Thiên Chúa sẽ ban xuống cho tất cả nhân loại là những kẻ Ngài đã yêu thương. Lời ca của sứ thần còn trao gửi cho chúng ta sứ mạng phải có bổn phận góp phần làm cho Danh Chúa được tôn vinh trên trời và dưới đất, mọi người nhận biết tôn thờ và là những người đem bình an của Chúa đến cho mọi người mọi gia đình và toàn thể nhân loại này.
Thế giới ngày nay vẫn chưa ngưng tiếng súng, sự bất công đói nghèo đang là mối đe dọa cho nhân loại. Những cuộc di dân lớn tại Châu Âu, Châu Mỹ đang khiến nhiều người bất chấp nguy hiểm, bỏ lại gia đình và quê hương để tìm đến nơi yên ổn. Bình an, ánh sáng và niềm vui Giáng sinh của Thiên Chúa dường như chưa đến được với những con người đau khổ này. Cũng vậy, quanh chúng ta còn nhiều người, nhiều gia đình vẫn đang sống trong cảnh bất an, bất ổn, đang bị đau khổ dày vò. Tình trạng bạo lực, giết người, phá thai dường như đang càng ngày càng gia tăng. Con người dường như càng ngày càng đánh mất phẩm giá của chính mình, để cho mình sống theo bản năng, phản ứng và cư xử với nhau thiếu tình người vv. Chúng ta sẽ phải làm gì để có thể đón nhận được sự bình an của Chúa Giáng Sinh, để phục hồi lại phẩm giá và tình trạng thánh thiện của tâm hồn?
Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta rằng: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được ban tặng cho con người. Ân sủng cao quý nhất chính là Đức Giêsu Kitô. Ân sủng này dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vây là vì chúng ta là những người trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi là ngày Chúa đến để đưa chúng ta về với Chúa”.Như thế có nghĩa là những Kitô hữu tuyên xưng Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian, phải đón nhận Ngài và sống theo lời dạy của Chúa Giêsu. Chúng ta phải dám từ bỏ khỏi mình lối sống bất công, gian dối, gian ác, không dùng bạo lực để đáp lại bạo lực nhưng dùng tình yêu và tha thứ. Chúa đến để phục hồi phẩm giá con người, vì thế chúng ta cần phải biết tôn trọng phẩm giá chính mình và tôn trọng phẩm giá người khác, tôn trọng sự sống và sức khỏe người khác, bảo vệ giúp đỡ những người yếu đuối, đón nhận và bảo vệ các thai nhi và các trẻ em. Khi cố gắng sống mỗi ngày như thế, niềm vui, ánh sáng và bình an của Chúa Giáng Sinh sẽ ngập tràn trong tâm hồn chúng ta và sẽ là niềm vui làn tỏa đến những người chung quanh.
Kính chúc mọi người mùa Giáng Sinh đầy tràn ơn bình an, tình yêu thương và phúc lành của Thiên Chúa. Amen.
Có dịp quan sát các bạn trẻ dắt nhau đi xem hang đá và dự lễ Giáng Sinh, nhiều người tỏ ra GS-434
Có dịp quan sát các bạn trẻ dắt nhau đi xem hang đá và dự lễ Giáng Sinh, nhiều người tỏ ra khá rụt rè. Được hỏi thăm, một bạn đã nói: “Con là người ngoại đạo, nhưng quen với các bạn Công Giáo, các bạn ấy rủ đi chơi đêm Giáng Sinh, nghe thánh ca và dự lễ, nên con cũng đến đây. Điều khiến con ấn tượng đó là trong bầu khí ấm cúng của thánh đường, những bài thánh ca giáng sinh được hát lên ngân nga vui tươi thánh thiện như tiếng hát của thiên thần”.
Thưa quý OBACE, đại lễ mừng Chúa Giáng sinh ngày nay không còn phải là lễ riêng của người Kitô hữu, mà đã trở thành ngày lễ cho nhiều người kể cả những người ngoại giáo. Đây là điều đáng mừng và cũng đáng lo ngại. Đáng mừng, vì là dịp để nhiều người biết đến đạo Công Giáo, và biết về ngày lễ mừng Chúa Giêsu Giáng Sinh. Còn việc Ngài Giáng sinh để làm gì thì nhiều người vẫn chưa biết. Điều đáng lo là một khi lễ Giáng sinh trở thành ngày lễ hội, thì chính những Kitô hữu chỉ còn đón mừng ngày lễ này như một dịp lễ hội dân gian giống như bao nhiêu lễ hội dân gian khác, là dịp đi chơi, mua sắm mà thôi và cũng không biết Chúa Giáng sinh để làm gì.
Các bài đọc Lời Chúa thôi thúc chúng ta theo bước các mục đồng: “Nào chúng ta sang Bêlem để xem những việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết. Họ đến nơi và gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi mới sinh được đặt nằm trong máng cỏ… Các mục đồng khi trở về vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa và nói cho mọi người những điều mắt thấy tai nghe”.Mừng lễ Chúa Giáng sinh hôm nay, Tin Mừng muốn chỉ cho chúng ta ba bước đi trong đức tin của các mục đồng. Các mục đồng không đi xem Hài Nhi như người ta đi xem hang đá, nhưng họ tin theo lời của sứ thần để lên đường; gặp và tin Hài nhi Giêsu là Đấng Messiah và khi trở về hân hoan nói cho mọi ngườivề niềm tin của mình.
Đang đêm các mục đồng bị đánh thức dậy, các anh hết sức ngỡ ngàng bởi ánh sáng bao trùm cả cánh đồng, cùng tiếng ca hát của các thiên thần: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.Sứ thần của Thiên Chúa hiện ra báo tin: “Này đây ta báo cho anh em một tin mừng, hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”.Để tin vào lời của sứ thần, chắc chắn các mục đồng phải là những con người đang rất khao khát mong chờ Đấng Cứu Thế, đấng mà các tổ phụ, các ngôn sứ đã loan báo. Hơn ai hết, các mục đồng là những người đang mong chờ tin vui mừng này, vì họ tin rằng Đấng Cứu Thế sẽ giải thoát họ khỏi kiếp lầm than vất vả. Vì thế khi được sứ thần loan báo tin vui, thì chính niềm vui này trở thành động lực để họ bỏ lại đằng sau tất cả quá khứ hôi hám, bỏ đàn vật và cả cơn buồn ngủ giữa khuya để cùng nhau lên đường đến Bêlem. Kinh Thánh nói: “Họ hối hả lên đường”.Điều đó cho thấy sự mau mắn của các mục đồng khi đón nhận được tin vui giáng sinh, họ muốn tìm đến để gặp được Hài Nhi.
Hình ảnh đầu tiên các mục đồng gặp thấy tại Bêlem là hình ảnh của một gia đình nghèo khó, đơn sơ nhưng tràn đầy thánh thiện. Họ gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi mới sinh. Các mục đồng đã tin Hài Nhi bé nhỏ đang bọc trong khăn nằm trong máng cỏ kia là Đấng Cứu Thế. Niềm tin này thật không dễ dàng để đón nhận. Các mục đồng đã phải vượt qua cái nhìn tự nhiên để thấy nơi hài nhi bé nhỏ kia là chính Thiên Chúa quyền năng, nơi em bé được quấn tã nằm trong máng cỏ kia lại là Đấng tạo dựng trời đất, là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Sau này Gioan suy gẫm về Mầu Nhiệm Giáng Sinh và viết trong lời tiền ngôn Phúc Âm Gioan: “Ngôi Lời đã có từ khởi đầu, Ngài là chính Thiên Chúa, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Ngài là ánh sáng chiếu soi trong đêm tối, là ánh sáng sự thật. Ngài đến nhà mình mà người nhà đã chẳng đón nhận Người, còn những ai đón nhận Người, tin vào Người, thì Người cho họ quyền được làm con Thiên Chúa”.
Bước thứ ba trong hành trình của các mục đồng đó là họ trở về; kể lại điều họ đã tai nghe mắt thấy về Hài Nhi. Điều đó có nghĩa là họ đã đón nhận được niềm vui mà sứ thần loan báo, niềm vui vì họ đã gặp được Đấng Cứu Thế, niềm vui cứu độ và đã tin vào Ngài. Niềm vui này khiến họ không thể giữ kín trong lòng cho riêng mình, nhưng phải kể ra, nói lại cho mọi người về kinh nghiệm được gặp gỡ Hài Nhi Giêsu. Những người nghe các mục đồng kể lại cũng hết sức ngạc nhiên về những việc Chúa đã làm. Kinh Thánh còn cho thấy các mục đồng không chỉ nói cho mọi người, mà còn vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa về tất cả những gì họ đã nghe và đã thấy. Điều đó chỉ ra rằng: niềm vui và tâm tình tạ ơn Thiên Chúa được các mục đồng thể hiện qua cả cuộc sống của họ, từng bước đi từng lời nói của họ giờ đây trở thành lời ca tụng tôn vinh Thiên Chúa. Các mục đồng đã thực hiện điều tiên tri Isaia loan báo: “Hãy loan truyền cho khắp cùng cõi đất; hãy nói với thiếu nữ Sion, kìa ơn cứu độ của ngươi đang tới. Chúng sẽ được gọi là ‘dân thánh’ là ‘những người được Chúa cứu chuộc’”.Ơn Cứu độ là ơn lớn lao nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại qua Hài Nhi Giêsu – Đấng cứu độ. Ơn này thanh tẩy, canh tân và phục hồi phẩm giá con người đã bị chà đạp bởi tội lỗi và ma quỷ, hơn nữa còn ban cho con người địa vị được làm con Thiên Chúa. Tất cả những con người khiêm nhường, thấp hèn trong xã hội nhưng có tâm hồn rộng mở, đơn sơ, chân thành như các mục đồng đã được ưu tiên để lãnh nhận.
Thưa quý OBACE, mừng đại lễ Giáng Sinh hôm nay, chúng ta tuyên xưng một niềm tin hết sức quan trọng về Chúa Giêsu: “Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”.Như thế, chúng ta tuyên xưng Hài Nhi được sinh ra nơi máng cỏ Bêlem năm xưa là vì chúng ta và để cứu độ chúng ta. Từ việc tuyên xưng trên môi miệng đến việc tìm đến bái thờ và hân hoan ca tụng Thiên Chúa cùng nói cho mọi người về niềm vui Giáng Sinh này là trách nhiệm của mỗi chúng ta. Chúng ta không chỉ vui niềm vui Giáng Sinh như một cuộc vui bên ngoài, nhưng phải thực sự đón nhận như một niềm vuisâu xatrong tâm hồn. Cuộc vui sẽ sớm tàn, còn niềm vui có sức biến đổi và thôi thúc chúng ta chỗi dậy lên đường tìm đến với Chúa. Có thể chúng ta nghe tin vui Chúa Giáng Sinh này rất nhiều lần trong cuộc đời, nhưng chúng ta vẫn không thoát được sự cám dỗ của cơn buồn ngủ, chiều theo dục vọng xác thịt và sự ươn hèn của mình, không chỗi dậy khỏi bóng tối để tìm đến với Chúa Giêsu là nguồn ánh sáng. Nhiều người không cảm thấy bị thôi thúc để hối hả lên đường tìm kiếm Chúa, bởi vì chúng ta còn đang mải tìm kiếm nhiều thứ khác như nhà cửa, ruộng đất, tiền bạc, địa vị và thành công hơn là tìm kiếm Chúa Hài Nhi. Có nhiều người, nhiều gia đình đã không để cho Chúa giáng sinh trong tâm hồn và trong gia đình, khiến cho tâm hồn và gia đình thiếu vắng niềm vui, thiếu sự bình an và ơn lành của Chúa. Vì thế họ không cảm thấy bị thôi thúc để nói cho mọi người về niềm vui ơn cứu độ mà Chúa đem lại cho nhân loại và cho mỗi người.
Mừng lễ Chúa Giáng Sinh, chúng ta được mời gọi trở thành các sứ giả loan báo niềm vui Giáng sinh và ơn cứu độ đến cho mọi người, đặc biệt là những người bé mọn, đau khổ và những người chưa biết Chúa. Chúng ta sẽ phải thành những sứ giả của sự bình an và niềm vui của Chúa để tất cả mọi người khi gặp gỡ tiếp xúc với người Công Giáo, họ cảm nhận được sự bình an lan tỏa đến họ. Chúng ta phải sống sao để mọi người có thể cảm nhận được niềm vui thiêng liêng sâu xa nơi mỗi tín hữu cho dù phải trải qua những lúc đau khổ tăm tối của cuộc sống. Mỗi người sẽ phải có trách nhiệm đem niềm vui và bình an của Chúa về trong tâm hồn, trong gia đình, trong xóm ngõ của chúng ta, tạo nên một bầu khí vui tươi hân hoan cho gia đình và lối xóm.
Xin cho lời ca của sứ thần trong đêm Giáng sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dười thế cho loài người Chúa thương”,được mỗi chúng ta cảm nghiệm cách sâu xa và làm cho lời ca ấy ngân vang trong từng ngày sống của mình; xin cho bình an của Chúa được lan tỏa trong gia đình và mọi nơi, Danh Chúa được mọi người tôn vinh. Amen.
Thiên tử giáng trần – vinh danh Thiên Chúa. Thế nhân thờ kính – hạnh phúc loài người. Đêm Con GS-435
Thiên tử giáng trần – vinh danh Thiên Chúa Thế nhân thờ kính – hạnh phúc loài người
Đêm Con Thiên Chúa giáng trần là đêm vô cùng đặc biệt đối với cả nhân loại, kể cả những người không phải là Kitô hữu, dù cho đối với họ chỉ là một lễ hội theo xã hội. Không một nhân vật nào có ngày sinh nhật được mọi người biết đến và háo hức mong chờ, chỉ có Chúa Giêsu mà thôi. Có lẽ cảm thấy mình hèn kém nên một số kẻ có chức quyền cấm cả các Ông Già Noël không được phát quà tại các trường học.
Nhưng dù những kẻ thủ ác theo phe bóng tối bày đủ trò hèn hạ để bách hại thì họ càng tự chứng minh sự hèn hạ của mình, và không thể ngăn cản ánh sáng của Thiên Chúa. Lịch sử đã và đang chứng minh như vậy. Chính Thiên Chúa Cha đã từng minh định bằng lời tuyên phán về Chúa Giêsu: “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2:7). Đó là Đấng Emmanuel, cư ngụ và vào đời với chúng ta.
Trong lịch sử loài người, đã có hằng ngàn hài nhi trở thành vua, nhưng chỉ có một lần một Vị Vua trở thành một Hài Nhi: Đức Giêsu Kitô. Trong Đêm Cực Thánh lung linh muôn ánh sao này, Lời Chúa khiến tất cả chúng ta đều phấn khởi vui mừng, vì Đấng Cứu Độ đã được Chúa Cha trao ban cho nhân loại. Đó là Tin Mừng của các tin mừng, vì chính từ đêm nay, sự bình an đích thực đã từ trời ban xuống cho nhân thế – trong đó có mỗi chúng ta. Niềm hạnh phúc quá lớn lao nên không thể bày tỏ bằng phàm ngôn!
Thật tuyệt vời! Thế thì không vui mừng sao được khi mà “dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9:1). Ôi, hồng ân cao cả vô cùng, với lý do rất minh nhiên: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm” (Is 9:2). Đúng như lời ông A-xáp xưng tụng: “Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng, khả tôn khả uý hơn chư thần” (1 Sb 16:25).
Cuộc đời bất công đã tạo ra nhiều đau khổ nên con người rất cần Thiên Chúa. Khi Ngài đến, không còn bất công và áp bức, công lý được sáng tỏ: “Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa. Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:3-5). Những Tôn Danh đó vô song, và chỉ có thể dành cho Thiên Chúa, không một người nào hoặc một thần linh nào xứng đáng với các Tôn Danh đó. Vì ảo tưởng mà ích kỷ, vì ích kỷ mà mê muội, thế nên vua chúa ngày xưa đã dám tự xưng là “thiên tử”. Kinh dị và quái gở thật!
Belem nhỏ bé, hẻo lánh, bỗng dưng trở nên to lớn và quan trọng, vì được chọn làm nơi Hài Nhi giáng sinh. Hài Nhi đó chính là Vua Công Lý, Ngài đích thân đến để giải thoát tội nhân khỏi ách nô lệ, các tử tù cũng được trắng án: “Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó” (Is 9:6). Lời hứa từ ngàn xưa đã ứng nghiệm, nên trọn.
Đêm Con Thiên Chúa giáng sinh là Đêm Hồng Ân, Đêm Ánh Sáng, Đêm Giao Hòa, Đêm Cứu Độ, Đêm Bình An, đêm tràn ngập Ánh Sáng Tin Mừng Cứu Độ. Niềm vui trào dâng tràn ngập đất trời, chan hòa lòng người. Không ai có thể bất động mà không hân hoan thốt lên: Hãy vui lên! Thật vậy, Thánh Vịnh gia đã phải lên tiếng mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3). Không ai có thể giấu kín niềm vui, dù chỉ là thoáng vui.
Thánh Vịnh gia không chỉ mời gọi người khác mà còn kêu gọi cả muôn loài cùng thể hiện niềm vui sướng đó: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ. Hỡi cây cối rừng xanh, hãy reo mừng trước tôn nhan Chúa, vì Người ngự đến, Người ngự đến xét xử trần gian. Người xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người” (Tv 96:11-13). Niềm vui mừng rộn rã đó thật là chính đáng, vì chính đêm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Đức Kitô Chúa chúng ta, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Chính Ngài là Ánh Sáng đến phá tan bóng tối, là Hòa Bình dập tắt chiến tranh, là Công lý triệt tiêu áp bức, là Tình Yêu tiêu diệt hận thù. Thật kỳ diệu, Ngài tự hạ để nâng chúng ta lên cao, Ngài chấp nhận nghèo khó để chúng ta giàu có, Ngài chịu bơ vơ để chúng ta sum họp,… Vô cùng tạ ơn Chúa Hài Đồng, phàm phu tục tử chỉ biết nói thế, vì phàm ngôn không đủ để có thể diễn tả hết ý nghĩa cao siêu về Thiên Chúa.
Đêm nay là đêm linh thánh và huyền diệu, đêm ứng nghiệm lời hứa từ ngàn xưa, tất cả đã được nên trọn theo ý Chúa: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:11-12). Tại sao chúng ta phải cố gắng sống khác lúc trước? Thánh Phaolô giải thích: “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:13-14). Vâng, không còn hạnh phúc nào lớn hơn nữa. Nguyện xin tất cả vì vinh danh Chúa mà thôi, đó là trách nhiệm và bổn phận của mọi chúng nhân!
Trình thuật Lc 2:15-20 ngắn gọn mà đầy đủ chi tiết về Cổ-Tích-Giáng-Sinh, một câu chuyện cổ tích CÓ THẬT chứ KHÔNG hoang đường hoặc huyền thoại. Thánh sử Luca kể…
Vào thời gian đó, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. Mọi người đều phải về nguyên quán để khai tên tuổi cho đúng thủ tục. Theo luật, Chú Giuse cũng phải từ Na-da-rét, miền Ga-li-lê, lên thành vua Đa-vít – tức là Belem, miền Giu-đê, vì Chú thuộc Hoàng tộc Đa-vít. Chú lên đó khai tên cùng với tân nương là Cô Maria, lúc ấy Cô đang mang thai.
Trong khi hai người đang ở đó, Cô Maria tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Và rồi Cô sinh Con Trai đầu lòng, lấy tã bọc con đặt nằm trong máng cỏ, vì hai Cô Chú không tìm được chỗ trong nhà trọ. Khó khăn đủ thứ, càng khó khăn hơn vì trời đã nửa khuya giữa đồng không mông quạnh!
Belem là vùng quê nhỏ bé, hẻo lánh, dân nghèo, đêm đó có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức để canh giữ đàn súc vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Hãi hùng là cái chắc, vì các mục đồng là những con nhà nghèo, học hành không nhiều, có thể cũng có người chẳng biết chữ. Dân quê chân chất, mộc mạc, nhưng rất chân thành. Đang đêm ngon giấc mà họ thấy ánh sáng chiếu sáng chói cả mắt, lại đang ngái ngủ, họ hoảng sợ là chuyện bình thường thôi, không có chi lạ.
Biết họ hoảng sợ, sứ thần liền trấn an họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2:10-11). Họ nghe nhưng có lẽ chả hiểu ất giáp chi cả, hẳn là họ tròn mắt và há miệng vì quá đỗi ngạc nhiên, y như những chú Tàu nghe kèn vậy. Ôi, lúc đó nhìn họ chắc thấy “tội nghiệp” lắm!
Biết họ chân chất thật thà nên sứ thần nói rõ ràng luôn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Ôi chao, dấu hiệu cũng “lạ”, hoàn toàn khác thường. Vậy mà họ không hề thắc mắc, thật thà chính hiệu. Họ liền mau mắn kéo nhau đi gặp Trẻ-Sơ-Sinh-Bọc-Trong-Tã như đã được thông báo. Và họ đã thấy y chang như sứ thần đã mách bảo. Các mục đồng thật diễm phúc vì là những người đầu tiên được thấy Đấng Cứu Thế, những chứng nhân đầu tiên đem Ánh Sáng Tin Mừng đến với người khác. Thật kỳ diệu và tuyệt vời!
Trong tâm tình tin mến và hòa chung niềm vui rộn rã tưng bừng, chúng ta cùng hợp lời với muôn vàn thiên binh hợp và sứ thần để cùng cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14).
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin tỏa Ánh Sáng Tin Mừng để dẫn chúng con đến với Nguồn Sáng Giêsu và những con người hèn mọn nhất, xin giúp chúng con nhận biết Ngài qua tha nhân và xin cho người khác cũng nhận ra Ngài nơi chúng con, làm cho chúng con trở nên chứng nhân sống động của Tình Yêu Thương qua việc xây dựng nền văn minh tình thương và văn minh sự sống. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
Mùa vọng tím mong chờ con Thiên Chúa. Giáng sinh xanh mãn nguyện nỗi khát khao. Sung mãn GS-436
Mùa vọng tím mong chờ con Thiên Chúa Giáng sinh xanh mãn nguyện nỗi khát khao
Sung mãn là tình trạng phát triển trọn vẹn nhất. Cách sống càng sung mãn càng bình an – cả đời thường và tâm linh. Chúa Giêsu đến thế gian để chúng ta được sống và sống dồi dào (x. Ga 10:10), và chính Ngài là Đấng làm cho chúng ta sống sung mãn: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1:16). Thánh Phaolô xác định: “Nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể, và trong Người, anh em được sung mãn: Người vốn là đầu mọi quyền lực thần thiêng” (Cl 2:9-10).
Lễ Giáng Sinh là biến cố trọng đại, nhắc chúng ta nhớ sự kiện nhập thể và nhập thế của Ngôi Hai Thiên Chúa – Đức Kitô Giêsu, Đấng Ngôi Lời. Ngài đã làm người vì thương xót phàm nhân chúng ta. Ánh Sáng Lòng Thương Xót đã bừng sáng khắp nơi, và địa cầu tràn đầy Ân Sủng Thiên Chúa. Mặt Trời Công Chính đang chiếu soi rạng ngời. Ân Tình Giáng Sinh đang chan hòa khắp thế giới. Thực sự chúng ta đã nhận được Tin Mừng ấy, do đó chúng ta có trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng Lòng Thương Xót cho tha nhân bằng bất cứ cách nào theo hoàn cảnh riêng của mỗi người – cụ thể là bằng cách sống tốt lành.
Mừng Chúa Giáng Sinh không cần rườm rà bề ngoài, nên giữ TĨNH LẶNG và KHIÊM NHƯỜNG theo bí quyết của Đức Mẹ dạy Thánh Kowalska Faustina (*). Đó cũng là cách loan báo Tin Mừng – nhiệm vụ chung tuyệt vời và rất giá trị mà ai cũng phải thi hành. Thật vậy, Ngôn sứ Isaia đã thốt lên: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52:7a), và ông nói với Sion: “Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị” (Is 52:7b).
Xác định và động viên, ngôn sứ Isaia cho biết: “Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion. Hỡi Giêrusalem điêu tàn hoang phế, hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi dân Người, và cứu chuộc Giêrusalem” (Is 52:8-9). Thiên Chúa thấy loài người thật đáng thương, thế nên Thiên Chúa Cha đã sai Thiên Chúa Ngôi Con phải đích thân giáng sinh làm người để chia sẻ đau khổ với chúng ta. Thật vậy, “trước mặt muôn dân, Đức Chúa đã vung cánh tay thần thánh của Ngài: ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta, người bốn bể rồi ra nhìn thấy” (Is 52:10). Chắc chắn không ai có thể làm ngơ hoặc im lặng khi thấy những điều kỳ lạ, đặc biệt là điều xảy ra quá đỗi nhiệm mầu.
Thánh Vịnh gia đồng cảm điều đó và đã lên tiếng mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Ngài đã thực hiện bao kỳ công. Ngài chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Ngài” (Tv 98:1). Động thái xưng tụng Thiên Chúa không chỉ là bổn phận mà còn là niềm vinh hạnh của chúng ta, bởi vì “Chúa đã biểu dương ơn Ngài cứu độ, mặc khải đức công chính của Ngài trước mặt chư dân; Ngài đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 98:2-3). Lời hứa xưa đã nên trọn, sự thật đã hiển nhiên.
Rất có thể vì cảm thấy bồn chồn, sốt ruột, thế nên Thánh Vịnh gia lại phải tiếp tục kêu gọi: “Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát. Đàn lên mừng Chúa khúc hạc cầm dìu dặt, nương khúc hạc cầm réo rắt giọng ca. Kèn thổi vang xen tiếng tù và, tung hô mừng Chúa, vị Quân Vương!” (Tv 98:4-6). Biết chắc điều gì đó chính xác, người ta không thể không chia sẻ với người khác, muốn nói ra ngay với bất cứ ai, không thể trì hoãn, càng sớm càng tốt.
Tất nhiên có rất nhiều lý do để chúng ta chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa. Thánh Phaolô xác nhận bằng cách dẫn chứng chứng cớ từ xa xưa: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài” (Dt 1:1-2). Chính xác như vậy. Vả lại, “chính Ngài phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa, là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật” (Dt 1:3a). Và rồi, “sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Ngài lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời” (Dt 1:3b). Tuần tự như tiến. Mạch lạc. Rạch ròi. Chính xác.
Thật đúng là như vậy, bởi vì Thiên Chúa quá trác tuyệt và cao siêu, vượt xa ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Danh hiệu mà Chúa Con được thừa hưởng cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu thì Ngài lại nổi trội hơn bấy nhiêu. Quả thật, chẳng bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào rằng “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”, hoặc “Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta”. Do đó, khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa đã minh định như một mệnh lệnh tuyệt đối: “Mọi thiên thần của Thiên Chúa phải thờ lạy Ngài” (Dt 1:6). Thánh Phaolô phân tích tỉ mỉ và rõ ràng. Tất nhiên trách nhiệm rõ ràng đó cũng là trách nhiệm của chúng ta, bởi vì chính Thiên Chúa đã truyền lệnh chúng ta chỉ được phép thờ lạy một Chúa duy nhất và kính mến Ngài hết lòng. Ngoài Ngài không có thần linh nào khác (Đnl 4:35 và 39; Is 45:21; Is 46:9), và người ta cũng phải công nhận như vậy (Đn 3:29).
Hài Nhi giáng sinh nơi Belem là ai? Ngài là Ngôi Hai, là Đấng Thiên Sai, là Thánh Tử, là Đức Giêsu Kitô, là Ngôi Lời, là Đấng giàu lòng thương xót. Đấng ấy có từ bao giờ? Kinh Thánh nói rõ: Từ khởi đầu đã có Ngôi Lời, chính Ngài là Al-pha và Ô-mê-ga (Kh 1:8; 21:6; Kh 22:13) – tức là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng. Thánh Gioan nói: “Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1:1). Cách diễn tả tuyệt vời quá! Và ông giải thích tiếp: “Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1:2-5). Chính những hình ảnh đối nghịch nhau lại có thể làm nổi bật nhau. Đó là điều rất kỳ diệu và thú vị!
Thánh sử Gioan không dùng đại từ ở ngôi thứ nhất số ít, nhưng nói rằng “có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan”. Và ông dùng đại từ ngôi thứ ba số ít với ý nói về chính mình: “Ông [tức là ông ấy] đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1:7-8). Cách dùng đại từ tinh tế bao hàm sự khiêm nhường. Nhưng khi nói về Đấng Thiên Sai thì ông nói rạch ròi: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:9-11). Cũng vẫn có những điểm trái ngược. Văn phong độc đáo đấy!
Xưa nay vẫn thế đối với sự đời, chín người thì có tới mười ý, chẳng có ai giống ai. Ông Gioan nói: “Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12). Ôi, diễm phúc biết bao! Tại sao vậy? Bởi vì được làm con Thiên Chúa mà chỉ với một điều kiện đơn giản: Tin nhận và tín thác vào Ngài. Các tín nhân đó được sinh ra không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. Quả là sự kỳ diệu vô cùng!
Chính ngày này năm xưa, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14a). Con Thiên Chúa giáng sinh và ở cùng nhân loại. Niềm vui dâng cao tột đỉnh. Ông Gioan trẻ (Gioan tông đồ) làm chứng xác thực: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14b). Đã được mục kích sở thị, ông Gioan Tẩy Giả hăng say làm chứng về Đức Kitô, và ông mạnh mẽ tuyên bố: “Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”(Ga 1:15). Người sinh trước mà có sau, người sinh sau mà có trước. Thật khó hiểu vì quá vô lý, nhưng hoàn toàn là sự thật, và điều đó không thể lý luận theo kiểu phàm tục, nhưng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37).
Giáng sinh là yêu thương. Thiên Tình Giáng Sinh là Đại Dương Thương Xót, thật là tuyệt vời và khôn tả! Niềm vui mừng đó cứ ngồn ngộn, không thể mô tả hoặc thể hiện bằng các động thái phàm nhân. Thánh Gioan giải thích: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã LÃNH NHẬN HẾT ƠN NÀY ĐẾN ƠN KHÁC. Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” (Ga 1:16-17). Chưa bao giờ có ai thấy Thiên Chúa – vì con người tội lỗi bất xứng và con mắt phàm tục không thể chịu nổi ánh sáng vinh quang của Ngài, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết. Vì thế, điều rất quan trọng cần lưu ý là “Đức Tin quan trọng hơn phép lạ”. Nghĩa là đừng bao giờ “chạy đua” theo những “sự lạ” mà hãy không ngừng “chạy đua” trên Hành Trình Đức Tin, trên Hành Trình Đức Ái – tức là cố gắng hết sức để thể hiện Lòng Chúa Thương Xót một cách cụ thể và sống động, bằng tất cả con người của mình, theo điều kiện sống của mình.
Mỗi người được Chúa ban cho khả năng khác nhau. Các khả năng khác nhau là để cộng tác với nhau chứ không phải để tự mãn hoặc kèn cựa nhau. Ai có khả năng gì là cách Chúa thể hiện ý Ngài muốn người đó hoạt động về lĩnh vực đó – đặc biệt là các sở trường, thế mạnh hoặc yếu điểm – điểm mạnh (khác với nhược điểm – điểm yếu). Tất cả đều là hồng ân, chứ chúng ta chỉ là vô tích sự mà thôi!
Lạy Thánh Phụ nhân từ, xin cảm tạ Ngài đã ban Thánh Tử cho chúng con, đồng lao cộng khổ với chúng con, chia sẻ đau khổ kiếp người với chúng con. Xin thúc giục chúng con hành động theo Con Chúa bằng cách sống công bình, bác ái và thương xót mọi người theo tiêu chuẩn của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
—------------------------------------
(*) Đức Mẹ cho Thánh nữ Maria Kowalska Faustina (1905-1938) biết cách đón Chúa Giêsu Hài Đồng: “Này con gái, hãy cố gắng giữ thinh lặng và khiêm nhường, để Chúa Giêsu, Đấng luôn ngự trong linh hồn con, có thể nghỉ ngơi. Hãy thờ lạy Ngài trong tâm hồn, đừng ra khỏi nội tâm”(Nhật Ký, số 785).
Con Thiên Chúa làm người, giao hòa Đất với Trời, vinh danh Thiên Chúa. Tội thế nhân được sạch GS-437
Con Thiên Chúa làm người, giao hòa Đất với Trời, vinh danh Thiên Chúa. Tội thế nhân được sạch, đổi mới Hồn và Xác, hạnh phúc loài người.
Thiên Chúa tuyên phán: “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2:7). Trong Đêm Cực Thánh lung linh muôn ánh sao này, Lời Chúa khiến tất cả chúng ta đều phấn khởi vui mừng, vì Đấng Cứu Độ đã sinh ra trong thế gian. Đó là Tin Mừng của các tin mừng, vì chính từ đêm nay, bình an chân thật đã từ trời đã ban xuống cho chúng ta. Niềm hạnh phúc quá lớn lao và khôn tả!
Không vui mừng sao được khi mà “dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9:1). Thật là một hồng ân cao cả vô cùng, với lý do rất minh nhiên: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm” (Is 9:2).
Chúa đến, không còn bất công và áp bức, công lý được sáng tỏ: “Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa. Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:3-5). Những Tôn Danh đó vô song, và chỉ có thể dành cho Thiên Chúa, không một người nào hoặc một thần linh nào xứng đáng với các Tôn Danh đó.
Hài Nhi giáng sinh nơi hang đá hèn hạ lại chính là Vua Công Lý, Ngài đến để giải phóng các tội nhân, các tử tù cũng được trắng án: “Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó” (Is 9:6).
Đêm nay là Đêm Hồng Ân, Đêm Ánh Sáng, Đêm Giao Hòa, Đêm Cứu Độ, Đêm Bình An. Niềm vui tào dâng tràn ngập đất trời, chan hòa lòng người. Không ai có thể bất động mà không hân hoan thốt lên: ALLELUIA. Tác giả Thánh Vịnh đã phải mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3).
Không chỉ mời gọi mọi người, tác giả Thánh Vịnh còn kêu gọi cả muôn loài cùng thể hiện niềm vui sướng đó: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ. Hỡi cây cối rừng xanh, hãy reo mừng trước tôn nhan Chúa, vì Người ngự đến, Người ngự đến xét xử trần gian. Người xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người” (Tv 96:11-13). Niềm vui mừng rộn rã thật chính đáng, vì chính đêm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Đức Kitô Chúa Chúng ta!
Ngài là Ánh Sáng đến phá tan bóng tối, Ngài là Hòa Bình đến dập tắt chiến tranh, Ngài là Công lý đến triệt tiêu áp bức, Ngài là Tình Yêu đến phá bỏ hận thù. Ngài tự hạ để nâng chúng ta lên cao, Ngài chấp nhận nghèo khó để chúng ta giàu có, Ngài chịu bơ vơ để chúng ta sum họp,… Vô cùng tạ ơn Chúa Hài Đồng, phàm phu tục tử chỉ biết nói thế, vì không phàm ngôn nào có thể đủ mức để diễn tả!
Lời hứa từ ngàn xưa đã được thực hiện, mọi lời tiên tri đã ứng nghiệm, tất cả đã được nên trọn: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:11-12). Tại sao phải như vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:13-14).
Vâng, không còn hạnh phúc nào lớn hơn nữa rồi. Nguyện xin tất cả vì vinh danh Chúa mà thôi!
Thánh sử Luca kể ngắn gọn mà đầy đủ Cổ-Tích-Thật-Giáng-Sinh...
Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, Chú Giuse từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít – tức là Belem, miền Giu-đê, vì Chú thuộc Hoàng gia Đa-vít. Chú lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với Chú là Cô Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, Cô Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Cô sinh Con Trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai Cô Chú không tìm được chỗ trong nhà trọ.
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Hãi hùng lá cái chắc, vì các mục đồng là những con nhà nghèo, học hành không nhiều, có lẽ có người cũng chẳng biết chữ, thế nên rất chân chất, mộc mạc, nhưng chân thành. Đang đêm ngon giấc mà họ thấy ánh sáng chiếu sáng chói cả mắt, lại đang ngái ngủ, không hoảng sợ sao được!
Thế nhưng sứ thần trấn an họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2:10-11). Họ nghe nhưng có lẽ chả hiểu ất giáp chia cả đâu, mắt chữ O và miệng chữ A, nhìn chẳng khác gì chú Tàu nghe kèn thôi. Lúc đó, nhìn họ chắc là thấy “tội nghiệp” lắm!
Sứ thần biết họ thật thà nên nói toạc móng heo luôn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Ôi chao, dấu hiệu “lạ” quá chừng. Thế nhưng họ không hề thắc mắc, rồi họ mau mắn kéo nhau đến gặp Trẻ-Sơ-Sinh-Bọc-Trong-Tã ấy. Và họ đã thấy y chang như sứ thần đã bảo. Các mục đồng thật diễm phúc vì là những người đầu tiên được thấy Đấng Cứu Thế!
Xin hợp lời với muôn vàn thiên binh hợp và sứ thần để cùng cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin chiếu tỏa Ánh Sáng Đức Tin dẫn đường chúng con đến với Đức Kitô và những con người hèn mọn nhất, xin giúp chúng con nhận biết Chúa qua mọi người và những gì nhỏ bé nhất, để chúng con trở thành những chứng nhân sống động của Tình Yêu, đồng thời chung tay xây dựng nền Văn Minh Tình Thương và Văn Minh Sự Sống ở mọi nơi và mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Con Chúa làm người vì thương xót. Phàm nhân hạnh phúc đón Thánh Ân. Ngôn sứ Isaia cho biết GS-438
Con Chúa làm người vì thương xót Phàm nhân hạnh phúc đón Thánh Ân
Ngôn sứ Isaia cho biết: “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, một người con đã được ban cho chúng ta, hài nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” (Is 9:6). Một sự thật minh nhiên, một chân lý tỏ tường. Đã là sự thật thì không thể chối cãi, vì sự thật mãi mãi là sự thật, và chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32).
Ngôn sứ Isaia vừa thông báo vừa mời gọi: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới. Kìa phần thưởng của Người theo sát một bên, và thành tích đi ngay trước mặt” (Is 62:11). Tại sao chỉ nói với thiếu nữ Sion mà không nói với nam giới Sion? Thiết tưởng, nữ giới là phái yếu, thường bị áp bức, bị khinh miệt,… Và họ có thể đại diện cho những người hèn mọn, thấp cổ bé miệng, bị chà đạp nhân phẩm, bị tước đoạt nhân quyền, bị miệt thị nhân vị,… Họ cũng chính là chúng ta, những người bị tội lỗi đè đầu, bị thói hư tật xấu kiểm soát, bị xã hội ruồng bỏ.
Thực sự Đức Chúa đã đến hơn hai ngàn năm qua rồi. Lễ Giáng Sinh chỉ là kỷ niệm đại sự kiện Con Chúa làm người mà thôi. Vấn đề là chúng ta có để Chúa đến trong linh hồn chúng ta hằng ngày, mọi nơi và mọi lúc hay không. Nếu chúng ta “cho phép” Chúa vĩnh cư nơi hang-đá-tâm-hồn thì chúng ta sẽ được gọi là “dân thánh”, là “những người được Đức Chúa cứu chuộc”, được gọi là “cô gái đắt chồng”, là “thành không bị bỏ” (Is 62:12). Như vậy thì thật là đại phúc!
Và nếu được đại phúc đó thì vô cùng vui mừng. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Chúa là Vua hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải đảo! Mây u ám bao phủ quanh Người, bệ ngai rồng là công minh chính trực. Ngọn lửa hồng mở lối tiên phong, đốt tiêu tan địch thù tứ phía. Ánh chớp của Người soi sáng thế gian, địa cầu trông thấy mà run sợ; núi tan chảy như sáp, khi diện kiến Thánh Nhan vị Chúa Tể hoàn cầu. Trời xanh tuyên bố Người là Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người” (Tv 97:1-6). Thiên Chúa có phong cách không hề giống phàm nhân, tất nhiên chúng ta không thể nào hiểu nổi, chỉ còn biết cúi đầu kính phục, thờ lạy và chúc tụng. Nói theo kiểu thời @ ngày nay thì đó là “trên cả tuyệt vời”!
Thiên Chúa công chính nên Ngài muốn mọi thứ cũng phải tỏ tường, nghiêm chỉnh, chính xác, trước sau như một. Và vì thế mà Ngài “bị động” theo kiểu “bất lực”. Thiên Chúa mà “bất lực” ư? Vâng, đúng vậy. Nhưng Ngài “bất lực” cái gì và tại sao? Ngài “bất lực” về sự dối trá, nhẫn tâm, thù hận, nản lòng, thất hứa,… Ngài “bất lực” trong những động thái ác độc vì Ngài là Đấng chí thiện, là sự thật và là sự sống (x. Ga 14:6). Ngài là Đấng Thánh nên Ngài cũng buộc chúng ta phải nên thánh: “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). KHÔNG NÊN THÁNH là PHẢN BỘI CHÚA.
Lý do để chúng ta vui mừng rất tỏ tường: “Ánh sáng bừng lên chiếu rọi người công chính, niềm vui làm rạng rỡ kẻ lòng ngay. Trước nhan thánh Chúa, người công chính hãy vui mừng tưởng nhớ Thánh Danh mà dâng lời cảm tạ” (Tv 97:11-12).
Lý do vui mừng càng tỏ tường hơn theo “tầm nhìn” của Thánh Phaolô: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại. Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới” (Tt 3:4-5).
Niềm vui càng tăng lên theo cấp số nhân: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3:6-7). Không còn biết nói gì hơn nữa vì niềm vui đó quá lớn, ngỡ như chỉ có trong mơ, nhưng đó lại là sự thật hiển nhiên. Đúng là đại phúc cho chúng ta!
Các mục đồng nghèo khổ và dốt nát nhưng lại hạnh phúc nhất: Những người đầu tiên được báo Tin Mừng và được trực tiếp diện kiến Chúa Hài Đồng. Họ là những nhân chứng sống động mà chúng ta phải noi gương.
Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Belem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2:15). Thánh Luca cho biết là “họ liền hối hả ra đi”. Mau mắn hành động mà không chút đắn đo, suy tính. Lại một tấm gương sáng về việc “sống đạo” khiến chúng ta phải “giật mình” lắm!
Khi đế nơi phải đến, họ gặp Cô Maria và Chú Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ không ngạc nhiên, và rồi họ không thể im lặng, gặp ai họ cũng liền tíu tít kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Khi nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên vô cùng.
Riêng Cô Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2:19). Phong cách Cô Maria thật “khác người”, đúng là một thục nữ nhu mì và ngoan hiền. Thánh sử Luca cho biết thêm: “Các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2:20). Quả thật, mọi điều đã tỏ tường. Kế hoạch của Thiên Chúa thật là mầu nhiệm!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết mau mắn hành động vì Danh Chúa và chứng tỏ lòng thương xót của Ngài, để bất kỳ ai gặp chúng con thì cũng gặp được chính Ngài, qua các động thái yêu thương chân thành nhất. Xin giúp chúng con biết noi gương Đức Maria và Đức Giuse là NÓI ÍT mà LÀM NHIỀU. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Có lẽ sự nhộn nhịp của thánh lễ đêm hôm qua đã làm cho nhiều người cảm thấy rộn ràng, vui tươi GS-439
Có lẽ sự nhộn nhịp của thánh lễ đêm hôm qua đã làm cho nhiều người cảm thấy rộn ràng, vui tươi và hạnh phúc. Nhưng bên cạnh đó cũng không thiếu những người cảm thấy mệt mỏi sau một đêm dài với biết bao nhiêu calo phải bỏ ra nơi những cuộc vui chơi, ăn nhậu và nhiều khi trụy lạc nơi những quán bar, nhà nghỉ…
Còn thánh lễ Giáng Sinh vào rạng sáng hôm nay, vẫn quen gọi là thánh lễ Rạng Đông thì lại là một thánh lễ rất êm đềm, không ồn ào, không náo nhiệt, không ca nhạc, kịch nghệ, chẳng có chương trình vui chơi giải trí gì…!
Đối tượng dự lễ cũng chỉ còn lại đa số là những cụ già, hay những người lớn tuổi hoặc một số bạn trẻ đạo đức mà thôi… còn lại, mọi người đang chìm trong giấc ngủ sâu!
Tuy nhiên, trong bầu không khí tưởng chừng như tĩnh lặng này, Giáo Hội lại cho chúng ta nghe bài Tin Mừng do thánh Luca trình thuật nói về việc các mục đồng hối hả đi tìm, thờ lạy và loan truyền về Hài Nhi Giêsu cho người khác. Điều này gợi cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ?
1. Các mục đồng đi tìm Chúa như thế nào?
“Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2, 15).
Đây là lời của các mục đồng nói với nhau sau khi đã được các thiên sứ báo tin cho biết Đấng Cứu Thế đã giáng sinh trong thành Belem.
Thánh sử Luca cho biết thêm: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2, 16).
Như vậy, thánh lễ Rạng Đông của ngày Giáng Sinh giờ này có thể được gọi là lễ Chúa tỏ mình ra cho các mục đồng.
Tại sao Chúa lại không tỏ ra cho những người quyền cao chức trọng, giàu có hay những nhà lãnh đạo tôn giáo, mà lại tỏ ra cho các mục đồng là những người nghèo, đơn sơ chất phát, thấp cổ bé họng…
Thưa đơn giản, bởi vì nơi các mục đồng có điểm tương giao với Hài Nhi Giêsu.
Thật vậy, khi Con Thiên Chúa hạ sinh nơi cánh đồng Belem chốn bò lừa thanh vắng, quạnh hưu và nghèo khó như vậy, phải chăng Đức Giêsu đã phá cách để làm toát lên bản chất của Thiên Chúa là tình yêu khi không cần đến sự giàu sang của con người, nhưng Ngài muốn một sự gần gũi. Không cần đến cái bề ngoài, mà là sự thiêng thánh, chân thành và đơn sơ.
Đây chính là câu trả lời cho chúng ta biết tại sao các mục đồng và Hài Nhi Giêsu lại “Đồng thanh tương ứng”, và họ lại là người đầu tiên được diễm phúc chứng kiến Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh.
Sự đồng cảm này đã làm cho tâm hồn các mục đồng có một ngọn lửa yêu mến đến tha thiết, nên họ đã tỏ ra rất nhạy bén và tinh tế với những gì đã được các thiên sứ loan báo cho họ. Vì thế, giữa đêm tối âm u lạnh lẽo, họ đã đốt đuốc và hối hả ra đi để mong cho được sớm gặp thấy Hài Nhi mới sinh. Khi gặp thấy “Em Bé sơ sinh bọc tả nằm trong máng cỏ”, họ đã tin và nhận ra đó chính là: “Đấng Cứu Độ, là Đấng Kitô, là Đức Chúa” như thiên sứ đã báo.
Cũng trong tâm tình ấy, họ đã nghiệm được ra tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho mình và nhân loại mà chính họ là những người đầu tiên được tận hưởng ân lộc lớn lao đó, vì thế, sau khi đã ra về, họ luôn kể về những gì đã thấy cho anh em mình.
2. Con người hôm nay mừng lễ Giáng Sinh như thế nào?
Trên đây là tâm tình mừng Chúa Giáng Sinh của các mục đồng Belem, còn nhân loại và con người hôm nay mỗi khi lễ Giáng Sinh về, chúng ta đi tìm gì và đến với Chúa bằng tấm lòng nào?
Thực trạng thật cho thấy một sự trái ngược đến rõ nét giữa tâm tình và thái độ của các mục đồng thời xưa và con người ngày nay. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi những ngày trước lễ Giáng Sinh, nhiều người ưu tiên lo lắng cho những chuyện như: Giáng Sinh sắp đến rồi, chúng ta đã có tiền để mua đèn hoa trang trí chưa? Giáng Sinh năm nay chúng ta ăn gì, nhậu gì? Liệu có kiếm được món nào “độc” để đãi khách không?
Rồi đến chính đêm Giáng Sinh, nhiều người chủ yếu đi xem ca nhạc kịch, hay đèn hoa rực rỡ nơi các nhà thờ, khu phố…
Lựa chọn ưu tiên và hành động như thế, người ta đã biến lễ Giáng Sinh trở thành thời điểm mua sắm, ăn chơi hay như một lễ hội thuần túy!
Tuy nhiên, điều mà con người tưởng chừng như đem lại cho mình hạnh phúc, thì trên thực tế, hạnh phúc, niềm vui và bình an đích thực lại quá xa vời đối với họ, bởi lẽ những thứ họ tìm chính là những điều hoang tưởng hoặc chỉ là điều phụ thuộc bên ngoài.
Thật vậy, vui mừng sao được khi trong tâm không có sự chân thành. Hạnh phúc sao được khi sâu thẳm tâm hồn vẫn còn đó sự giận hơn chia rẽ. Bình an sao được khi trong tâm không có sự thánh thiện và đơn sơ!
Thiết nghĩ, khi mừng lễ Giáng Sinh với những thứ hình thức bề ngoài như vậy, chắc chắn họ sẽ không thể nào cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa dành cho mình và nhân loại. Và lẽ đương nhiên, họ không thể nào tin Chúa với một đức tin sống động như các mục đồng khi xưa, và lẽ tất yếu, không thể loan báo về Ngài cho người khác trong khi tâm hồn trống rỗng và hoang vu như vậy được.
3. Lời mời gọi của Giáo Hội
Mỗi lần lễ Giáng Sinh về, Giáo Hội không ngừng mời gọi con cái mình hãy noi gương các mục đồng khi xưa để tìm gặp, yêu mến, tôn thờ và loan báo về Chúa cho người khác.
Nếu xưa kia, các mục đồng đã khao khát, hối hả lên đường, tới nơi họ gặp Hài Nhi Giêsu và đã sấp mình thờ lạy, đồng thời khi ra về, họ kể lại cho những người khác được biết về những gì đã thấy trong niềm tin sâu sắc.
Thì sứ điệp ngày lễ hôm nay cũng gửi đến cho mỗi người chúng ta là: hãy để mầu nhiệm tình yêu Giáng Sinh của Chúa đụng chạm đến tận sâu thẳm tâm hồn. Hãy biết yêu mến, khát khao và tin thờ Chúa, vì chỉ có Ngài là đường, là sự thật, là sự sống, nguồn cội của niềm vui, bình an và hạnh phúc. Đồng thời, hãy cảm nghiệm và ra đi loan báo về tình thương của Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh cho anh chị em chưa biết Chúa.
Thứ đến, cần phải có một tâm hồn đơn sơ, chân thành, khó nghèo. Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận trở nên nghèo hèn để cho chúng ta được nên giàu có. Ngài cũng chấp nhận cúi xuống để tôn vinh con người bằng sự nhập thể của Ngài. Vì thế, Thiên Chúa đã coi trọng đến tuyệt đối nhân phẩm và nhân vị của từng người, nhất là người nghèo. Thế nên, dù trong hoàn cảnh, môi trường nào, đời sống và cung cách của những Kitô hữu không thể trở thành người xa lạ, vô cảm, dửng dưng với một trái tim hóa đá đối với những anh chị em kém may mắn hơn mình.
Chỉ khi nào chúng ta có được tâm tình liên đới, yêu thương và huynh đệ với nhau, chúng ta mới thực sự hạnh phúc và bình an để cảm nghiệm và hát lên bài ca mà các sứ thần đã cất lên trong đêm Con Thiên Chúa Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Vẫn một tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, nghèo khó và xác tín mạnh mẽ như các mục đồng khi xưa, giờ đây, chúng ta tiếp tục dâng thánh lễ, để chỉ lát nữa thôi, mỗi người cũng sẽ được đón nhận chính Chúa Hài Nhi Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vào trong tâm hồn của mình, để Ngài trở thành nguồn suối bình an, vui tươi và hạnh phúc cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin Chúa ban cho chúng con biết sống đơn sơ, trong trắng như các mục đồng khi xưa, để tâm hồn chúng con được diễm phúc đón Chúa đến viếng thăm và ở lại với chúng con. Amen.
Các mục đồng đi tìm Chúa Hài Nhi theo lời các thiên thần bảo: “Một em bé sơ sinh bọc tã, nằm GS-440
Các mục đồng đi tìm Chúa Hài Nhi theo lời các thiên thần bảo: “Một em bé sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ. ”
“Noel xưa: “cứ dấu nầy”
Luca viết câu chuyện một cách hết sức đơn sơ, không nhiều tình tiết. Có gì đơn sơ bằng một em bé sơ sinh, bọc tã, đang nằm ngủ. Nhưng cũng không có gì đẹp bằng khuôn mặt trong trắng ngây thơ của một em bé sơ sinh đang nằm ngủ một giấc ngủ thiên thần; nhẹ nhàng thanh thoát làm sao.
Người ta thường đi tìm những vẻ đẹp khác, cái đẹp của nghệ thuật hay vẻ đẹp lộng lẫy của cung điện, cái đẹp của những đường nét, màu sắc bên ngoài. Người ta đi du lịch khắp nơi để tìm cái vẻ đẹp bề ngoài ấy, nơi các thành phố tối tân hay cổ kính, nơi những cảnh thiên nhiên của hang động, núi rừng hay biển cả. Nhưng ít ai biết đi tìm cái vẻ đẹp đơn sơ trong trắng của đời thường. Bởi lẽ, muốn thấy được cái vẻ đẹp nầy thì phải biết chiêm ngắm trong thinh lặng và suy tư, phải biết đưa tâm hồn lên cao, phải biết sống với nội tâm, chiêm ngắm với cả tâm hồn. Cũng như tâm hồn nhà nghệ sĩ rung động trước cảnh đẹp thiên nhiên mà người khác chẳng cảm thấy gì cả; con mắt đức tin, một tâm hồn có niềm tin nhạy bén cũng nhìn được những vẻ đẹp làm rung động tâm hồn mà người khác không thấy gì.
Noel nầy:cứ dấu nào đây?
Noel nầy, cứ dấu nào mà tìm ra Chúa đây?
Trong bầu khí Noel, các nhà thờ đầy ắp ánh sáng; các hang đá được trưng bày lỗng lẫy, đèn nến sáng trưng; các buổi biểu diễn thánh ca trên sân khấu thật thu hút, hấp dẫn. Người ta đổ xô về những nơi ấy; người ta được thiệp mời đến tham dự những buổi biểu diễn thánh ca; người ta đua nhau đi xem các nhà thờ và hang đá. Nhưng có mấy ai biết rút lui vào thinh lặng của cõi lòng mình như vào nơi hoang vắng của cánh đồng Bêlem để tìm ra Chúa Hài Nhi đang nằm trong đó, như đang nằm trong hang đá, một hang đá ngổn ngang, hôi tanh mùi tội lỗi của cuộc đời. Mấy ai biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi như tiếng thiên thần mời gọi các mục đồng xưa: hãy trở về với cõi lòng con, một cõi lòng đầy tội lỗi, cho dù đã xưng tội rồi, cũng chẳng thơm tho gì hơn chuồng bò hôi tanh ngày xưa, thế mà Chúa Hài Đồng vẫn ngự xuống. Người ta tưởng mình có quyền rước Chúa đêm Noel một cách vui vẻ vì đã xưng tội rồi!
Không, tôi phải có thái độ tâm hồn của những mục đồng, những con người biết mình hèn mọn, tội lỗi, bất xứng. Những mục đồng ấy là những người bạn, những người khách đầu tiên đến thăm Chúa Hài Nhi; họ đến trước cả Ba vua. Họ biết thông cảm với cảnh nghèo hèn của Hài Nhi sinh trong hang đá, Ngài liên đới với họ cũng đồng số phận với họ.
Phải, đêm Noel, người ta đến nhà thờ đầy tiếng nhạc du dương và đèn nến sáng trưng; rồi sau đó vui vẻ ra về, ngồi bên bàn tiệc đầy ắp thức ăn thơm ngon; chứ đêm Noel, ai lại đến thăm một người ăn mày đang run lên vì đói rét, ngồi bó gối xo ro bên vỉa hè.
Đêm Noel người ta vui vẻ nghe đàn ca xướng hát bên bàn tiệc, chứ ai lại đi nghe tiếng rên rỉ của một bệnh nhân nghèo, cô đơn!
Vì thế, nếu Chúa sinh ra hôm nay, thì cũng phải sinh ra trong chuồng bò hay bên vỉa hè vắng lặng của đêm khuya mà thôi. Vì Chúa không có có chỗ trong cõi lòng con người, thì làm gì có chỗ trong gian nhà ấm cúng, trong thành phố tráng lệ, kể cả trong nhà thờ đèn nến sáng trưng.
Noel nầy, được mấy người nghĩ đến người nghèo, chia sẻ với người nghèo? Bò lừa xưa đã biết đến chia sẻ hơi ấm với Chúa Hài Nhi, còn tôi, Noel nầy tôi đã chia sẻ gì cho Chúa, cho người nghèo đây?
Máng cỏ của tôi
Một bé sơ sinh, một sự sống thật mong manh. Một máng cỏ, một hang bò lừa, một sự nghèo khó tận cùng của sự nghèo khó; chẳng lấy gì lấy làm sạch sẽ và thơm tho, ấm cúng cho lắm. Đó phải chăng là tình trạng của lòng con đêm nay. Chúa đến với con, một tâm hồn chẳng mấy đẹp đẽ thơm tho, thế mà con vẫn rước Chúa và Chúa vẫn đến với con.
Con cám ơn Chúa đã chấp nhận sinh ra trong chuồng bò hôi tanh, nếu không thì mấy ai dám đến rước Chúa đêm nay.
Con cám ơn Chúa đã bằng lòng sinh ra trong nghèo khó, nên những người nghèo khổ cảm thấy được thông cảm và an ủi.
Cám ơn Chúa đã bằng lòng sinh ra trong đêm đông lạnh giá, để những cõi lòng băng giá của những người nghèo, người cô đơn được ấm lên khi được rước Chúa vào lòng.
Xưa nay người giàu thì ít, ít về số lượng và nhất là ít về lòng nhân ái, ít khoan dung và ít chia sẻ; còn đại đa số là người nghèo. Trong sứ điệp đêm Noel 1999, ĐGH Gioan Phaolô đã nhắc đến một tỷ tư người nghèo đói trên hành tinh khi thiên hạ đang bước vào thiên niên kỷ thứ ba.
Còn người nghèo khổ, thì Chúa còn phải đến trong lòng những con người ấy để đồng hành với họ. Nơi nào còn tội lỗi thì sứ mạng Chúa lại phải bắt đầu. Sự nghèo đói và tội lỗi trở nên dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa Giêsu, vì chính những con người ấy mới cần đến Ngài cứu vớt.
Nếu thế thì xin Chúa hãy đến vì trong con và xung quanh con, đói nghèo và tội lỗi vẫn còn ngự trị. Và xin Chúa cũng cho con biết làm như chú lừa trong hang đá, dù chỉ là một chú lừa, biết đem hơi ấm của lòng mình, sưởi ấm những tâm hồn cô đơn lạnh giá chung quanh con.
Với cảnh nghèo Bêlem, con hiểu rằng, cái nghèo đói và tội lỗi nơi người khác là dấu chỉ đã mời gọi Chúa đến và cũng đang mời con đến đó: con phải biết chia sẻ, không được xa lánh họ, dù con cũng nghèo hèn như những chú mục đồng hay như những chú lừa kia mà thôi.
Dâng cả tội cho Chúa
Đêm Giáng sinh, bé Giêsu hiện ra với một vị ẩn tu: thánh Giêrôme. Chúa hỏi:
- Giêrôme, con lấy gì mà mừng Ta khi Ta giáng sinh? - Con xin dâng lòng con. - Được, nhưng còn gì nữa không? - Con xin dâng mọi kinh nguyện và mọi tâm tình của con. - Còn gì nữa không? - Con xin dâng tất cả con đây. - Còn gì nữa? - Con dâng hết rồi, lạy Chúa con chẳng còn gì để dâng cho Chúa nữa!
- Còn một cái, đối với Ta đó mới là cái quan trọng mà con quên dâng cho Ta, đó là tội của con. Con hãy cho Ta tất cả tội của con để Ta tha thứ, đó là điều Ta mong ước nhất nơi con người khi Ta đến trần gian.
“Thiên Chúa là Tình yêu: chính bản chất của Thiên Chúa là Tình yêu.
Khi thời gian đã viên mãn, qua việc sai Con Một Ngài và Thánh Thần của Tình yêu, Thiên Chúa GS-441
Khi thời gian đã viên mãn, qua việc sai Con Một Ngài và Thánh Thần của Tình yêu, Thiên Chúa đã bày tỏ bí mật sâu xa nhất của mình: chính bản thân Ngài là một sự trao đổi đời đời của tình yêu Cha, Con, Thánh Thần, và Ngài muốn chúng ta thông phần vào tình yêu này”.
Hôm nay chúng ta cử hành biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: Sinh nhật của Chúa Giêsu Kitô. Sự Giáng sinh của “Đấng Cứu Chuộc thế giới là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, và chúng ta không thể được cứu độ nhờ Danh nào khác dưới gầm trời này”.
Sự Nhập Thể đó được diễn tả trong bài Phúc âm hôm nay: “Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Theo tiếng Hy Lạp chữ “cư ngụ giữa chúng ta” có nghĩa là: “Thiên Chúa cắm lều của Ngài ở giữa chúng ta”. Biến cố vĩ đại này của Thiên Chúa đi vào lịch sử nhân loại trong con người của Hài Nhi Giêsu được gọi là sự Nhập Thể: Thiên Chúa mang lấy thân xác con người.
Nhà huyền bí Kitô giáo An Độ, Sadhu Sundar Singh, đã diễn tả mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu Kitô qua câu chuyện được kể lại sau đây:
Xưa kia một ông vua có vị cố vấn, the Vizier, một người rất hiểu biết và thánh thiện. Đang khi hành hương trên đất thánh ở Palestine, the Vizier đã bị xúc động sâu xa vì câu chuyện của Chúa Giêsu Kitô. Ông đã xin trở thành một Kitô hữu, đã tin vào Đấng Cứu Thế, là Đấng đã đến thế gian để cứu chuộc những con người tội lỗi.
Khi trở về, vua đã thắc mắc và hỏi ông rằng: “Nếu tôi muốn làm bất cứ điều gì, tôi truyền lệnh cho đầy tớ của tôi thì việc đó được thi hành ngay lập tức. Vậy tại sao vị vua của các vua có thể cứu nhân loại bởi một lệnh truyền lại phải đích thân đến trần gian này và nhập thể làm người để làm gì?” Ông cố vấn xin vua cho một ngày ân huệ trước khi trả lời câu hỏi. Ông cho mời một người thợ mộc rất tài giỏi vào và yêu cầu phải làm một con búp bê, rồi mặc quần áo vào giống y đứa con trai một tuổi của nhà vua, và hôm sau phải mang nó đến cho ông.
Hôm sau, vua và ông cố vấn đang chèo thuyền đi chơi chung với nhau, vua yêu cầu ông phải trả lời câu hỏi. Cùng lúc đó, người thợ mộc cũng đã đến và đứng ở trên bờ sông với con búp bê hình nộm con trai của vua. Đứng dưới thuyền, vua trông thấy và nghĩ rằng đó là con trai của mình. Theo như những hướng dẫn đã được ông cố vấn dặn dò trước, người thợ mộc để cho con búp bê hình nộm rơi xuống nước. Thấy vậy, vua bèn lao xuống để cứu đứa bé đang bị chết chìm. Sau một lúc, ông có vấn mới nói: “Thưa đức vua, ngài không cần phải nhẩy xuống nước. Ngài ra lệnh cho quần thần làm không được sao? Tại sao chính ngài phải đích thân nhẩy xuống vậy?” Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Đó chính là câu trả lời tại sao, để cứu nhân loại, Thiên Chúa toàn năng đã nhập thể hóa thành con người thay vì thực hiện nó chỉ bằng một lời truyền mà thôi.
“Ngôi Lời trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Giáo Hội dùng từ “Nhập Thể” để nói lên sự kiện Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính loài người, để thực hiện ơn cứu độ ngay trong bản tính đó. “Nơi Chúa Kitô, chân lý của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn vẹn”. “Với sự Nhập Thể của Người, một cách nào đó Con Thiên Chúa đã nên một với mọi người”. Đó là cách biểu lộ tuyệt hảo tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
Nhìn vào hang đá Bêlem, quả thực chúng ta thấy được nhiều điều bất ngờ. Đúng thế, Hài nhi GS-442 GS-442
Nhìn vào hang đá Bêlem, quả thực chúng ta thấy được nhiều điều bất ngờ.
Đúng thế, Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt vời thế mà lại sinh ra tại chuồng bò, là một nơi vừa bẩn thỉu lại vừa hôi hám. Là Đấng tạo hoá quyền năng thế mà giờ đây lại nằm giữa đám chiên bò. Là bánh bởi trời thế mà giờ đây lại ngủ yên trên máng cỏ. Ngày xưa, người Do Thái đã thờ lạy con bò vàng và người Ai Cập thì thờ lạy con lừa. Loài người đã quỳ gối trước những con vật và coi những con vật ấy như là thần minh, như là Thiên Chúa, thì giờ đây để sửa lại lỗi phạm ấy, bò và lừa đã có mặt tại hang đá, phả hơi ấm cho Hài nhi Giêsu. Phúc Âm đã ghi lại, vì không tìm được chỗ nơi hàng quán, cho nên Ngài đã sinh ra nơi chuồng bò. Hàng quán là nơi gặp gỡ của mọi hạng người, là nơi trao đổi mọi lập trường, mọi quan điểm, là nơi ăn nhậu và du hí. Trong khi đó chuồng bò chỉ là nơi dành cho những kẻ nghèo túng và thấp kém. Nếu như Ngài đã sinh ra trong lâu đài cung điện thì có lẽ người ta đã đón nhận Ngài. Thế nhưng Ngài đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Hơn thế nữa, Hài nhi Giêsu, Đấng đã cho mặt trời toả chiếu trong vũ trụ, thế mà giờ đây lại nhờ tới hơi thở của bò lừa để được sưởi ấm. Đấng đã tô điểm cho những cánh hoa màu sắc rực rỡ, thế mà giờ đây lại trơ trụi giữa đêm đông giá lạnh. Đấng đã dựng nên cả bầu trời trăng sao, thế mà giờ đây đôi tay bé bỏng đang run lên vì gió rét. Là Ngôi Lời của Thiên Chúa, thế mà giờ đây lại thinh lặng và câm nín. Ngài quả thực cô đơn và nghèo túng. Thế nhưng Ngài đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Với vóc dàng của một hài nhi bé nhỏ, Đấng tạo hoá đã đến thăm những tạo vật, nhưng Ngài lại không được nhận biết. Ngài đã đến thăm những người thân của Ngài, nhưng Ngài đã không được họ đón nhận. Và cho đến ngày hôm nay, Ngài vẫn còn là một kẻ lạ mặt ngay giữa căn nhà, ngay giữa gia đình của Ngài. Và như thế Thiên Chúa đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Và sau cùng nếu để ý, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu sinh ra nơi chuồng bò và chết đi trên thập giá. Hang đá và thập giá chính là hai đỉnh cao của cuộc đời Chúa Giêsu. Ngài đã chấp nhận hang đá, vì đã không tìm thấy chỗ nơi hàng quán. Ngài đã chấp nhận thập giá bởi vì con người không muốn Ngài làm vua cai trị. Ngay từ lúc khởi đầu Ngài đã nhìn thấy lúc kết thúc. Hang đá không phải là của Ngài và mộ đá cũng không phải là của Ngài. Nơi hang đá Ngài nằm giữa bò lừa, còn trên thập giá, Ngài nằm giữa hai tên trộm cướp. Thế nhưng cũng chính tại hai nơi bất ngờ này mà Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho chúng ta.
Trong những hoàn cảnh bất ngờ như thế, thì làm sao chúng ta có thể nhận biết Ngài. Tôi xin thưa, muốn nhận biết Ngài trong những hoàn cảnh không ngờ tới, thì chúng ta cần phải khiêm nhường. Khiêm nhường như Mẹ Maria và Thánh Giuse, khiêm nhường như những mục đồng, bởi vì chỉ có cách quỳ gối và thờ lạy chúng ta mới nhận ra Chúa, nơi hài nhi bé nhỏ trong hang đá Bêlem.
Chúng ta đang ở trong bầu khí mừng Chúa Giêsu giáng sinh làm người. Nhìn vào biến cố diễn GS-443
Chúng ta đang ở trong bầu khí mừng Chúa Giêsu giáng sinh làm người.
Nhìn vào biến cố diễn ra tại hang đá Belem, chúng ta thấy một cảnh tương phản khó hiểu xuất hiện trước mắt chúng ta.
1. Trước hết là cảnh tương phản giữa trời và đất.
Bầu trời hôm ấy rực sáng... ”trong vùng ấy” đêm hôm ấy bừng sáng. Cả bầu trời vang dội tiếng ca mừng biến cố, với quy mô lớn lao và hoành tráng chưa từng có “Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “ Vinh danh Thiên Chúa trên trời; bình an dưới thế cho loài người Chúa thương “. Vâng! Đất trời tưng bừng mở hội
Còn gì cao đẹp hơn! Còn gì tuyệt diệu hơn. “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời - Và Bình an dưới thế cho người Chúa thương.
Nhưng dưới bầu trời rực sáng đó là một hang đá nghèo hèn, tăm tối người ta dùng để làm chỗ trú đêm cho loài vật lúc đêm về. Trong hang đá đó có một cặp vợ chồng trẻ vì hoàn cảnh nghèo, nghèo quá cho nên không tìm được chỗ trọ ở trong phố chợ, đã phải ra đó để nương nhờ, mượn chỗ đó làm nơi hạ sinh cho đứa con đầu lòng thân yêu của họ. Vâng! Giữa cảnh rực sáng của bầu trời, không dè lại tồn tại một cảnh nghèo hèn như thế ngay ở trên cõi dương gian này!
2. Tiếp đến là cảnh tương phản giữa người với người trong biến cố này.
Nào mấy ai hiểu được rằng hài nhi được sinh ra trong hang đá nghèo hèn đó là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Nào mấy ai hiểu được rằng Hài Nhi đó là Đấng mà muôn dân đợi trông... đợi trông từ bao ngàn năm qua! Nào có mấy ai hiểu được rằng Hài nhi nghèo khó tại hang đá Belem hôm đó là Đấng Cứu Thế, Đấng đem lại ơn Cứu độ cho cả loài người. Và có mấy ai ngờ được rằng những người đầu tiên được đón nhận mạc khải của biến cố, lại không phải là những người giàu có, quyền uy... mà lại là những con người mạt rệp của xã hội thời ấy: “những người chăn chiên “, những người thường bị coi là những tên bất lương, phường trộm cắp. Những người ở nấc thang cuối cùng của xã hội thời đó. Nào mấy ai ngờ được rằng những người vốn bị khinh bỉ ấy lại là những người đầu tiên được chia sẻ ơn Giáng sinh của Đấng có một người mẹ là “kẻ khiêm hạ”, và Đấng sẽ mang Tin Mừng đến cho những người nghèo khổ (4. 18).
Vâng sứ điệp mà “Thiên thần Chúa” gởi đến cho họ là “Một Tin Mừng” một niềm vui trọng đại. Đó là tin vui “cho toàn dân “, tin vui về một hài nhi Giáng sinh, mà chỉ hài nhi đó mới có đầy đủ những danh hiệu là “Đấng Cứu độ, Đấng Mêsia”, “Đức Chúa “, bởi vì hài nhi đó là mạc khải sống động của lòng nhân hậu Chúa.
Và “Dấu chỉ” được ban cho các người chăn chiên trong vùng Bêlem hôm ấy không phải là giường vàng nệm ấm, cũng chẳng phải là hoàng tử của ông hoàng bà chúa mà là “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ “, Thật là lạ lùng, ai mà ngờ được dấu chỉ đó lại là dấu chỉ cho các mục đồng nhận ra Đấng Cứu Thế!
Khi suy niệm về sự việc này, R. Meynet viết: “Kẻ đứng đầu trở nên người rốt hết. Người là Đấng Cứu độ, là Vua, là Đấng Mêsia sẽ được ban cho ngôi báu Đavít, lại đã nằm trong máng cỏ bò lừa; Người được bọc tã nằm trong cái nôi của số phận nghiệt ngã, và chính cái đó, cái dấu chỉ ngược đời này đã được ban cho các người chăn chiên cũng như cho những kẻ có lòng tin của mọi thời. Bằng chứng oai phong của Chúa là sự thấp hèn, bé nhỏ của Người, dấu chỉ quyền năng của Người là vẻ yếu đuối”,
Khi vùng quê Bêlem đã trở về với đêm tối và tĩnh mịch, các người chăn chiên đã hối hả ra đi “đến xem sự việc đã xảy ra “. “Họ thấy bà Maria, ông Giuse cùng với hài nhi đặt nằm trong máng cỏ “.
3. Kính thưa anh chị em, ngày xưa là như vậy. Và hôm nay cũng vậy thôi, Người đến xô đẩy những gì người ta vẫn coi là ưu tiên, những quan điểm hẹp hòi và những chương trình to lớn vĩ đại của ta. Ở đâu người ta ít chờ đợi Người, thì Người lại xuất hiện. Và với một Đức Kitô như thế, thì rất có nguy cơ lại trở về tình trạng chẳng khác gì đêm Noel xa xưa ngày ấy: sẽ chẳng ai mà đoái hoài đến, chẳng ai biết cho, luôn bị đe doạ, bị thành phần ưu tú của tín hữu và những kẻ thế lực đời này ruồng rẫy thôi. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận”.
Mà tại sao lại thế? Là vì Người không chỉ bằng lòng với việc kêu gọi cầu nguyện và tổ chức những lễ lạy rình rang, nhưng Người giảng dạy sự tha thứ và lòng xót thương; Người tuyên bố phẩm giá và những quyền của con người phải được tôn trọng. Là vì Người vạch rõ những con đường để thực thi công lý, hòa bình, hiệp nhất và 'huynh' đệ' bằng việc hoán cải cái tâm, thay đổi cái tính và uốn nắn cái tình.
Vâng! Thiên Chúa đến làm cho chúng ta trở nên “một dân hăng hái làm điều thiện”. Thế nên ta hãy làm cho lòng ta thành một cái nôi lãnh nhận Lời ban sự sống. Và khi bàn tay ta, giống như máng cỏ, giơ ra để nhận Lời hóa bánh, thì hãy nhớ rằng Người đến trong ta để lấy đó làm nơi cư ngụ, để soi sáng, giải thoát, biến đổi ta và để làm cho ta trở thành những chứng nhân và làm bằng chứng cụ thể cho tình yêu của Người đối với mọi người vậy...
(J. Debruyne, trong “Jésus, sa chair, ses racines”, Desclée, trg 201-202).
“Đêm đó các người chăn chiên đã lên đường đi tìm Chúa. Phải chăng hài nhi sơ sinh kia Là người thân của họ Nên đã sinh ra trong chuồng bò lừa như thế Có lẽ rồi đây Người cũng sẽ là kẻ chăn chiên chăng? Thế tại sao hài nhi bé bỏng kia Rồi đây lại không muốn làm “một chú bé mục đồng “ Họ là những người canh giữ đoàn vật Luôn trông chờ bình minh mau tới, Qua ánh sao, họ nhận ra dấu chỉ Giữa trời đêm, họ đọc Thánh Kinh. Họ là những người nay đây mai đó, Mòn vết chân trên những đồng cỏ thưa, Họ khéo léo tập hợp bầy chó dại. Và rất dễ dàng quy tụ đoàn chiên. Hơn là bế bồng nâng niu em nhỏ, Có lẽ họ là lời loan báo Rằng đêm nay Một cuộc xuất hành mới bắt đầu chăng? Có lẽ vì họ là Những con người của lều trại Không cố định ở một chốn nào lâu. Vì họ là những anh em bà con của Chúa, Nên khi ở với họ, Chúa cảm thấy như ở nhà mình chăng? Phải có được những con mắt như họ, Mới có thể giữa trời đêm Nhắm ánh sao mà tiến tới, Để nhận ra Thiên Chúa ẩn mình Dưới hình hài một trẻ sơ sinh... Đêm hôm đó, Đêm vui của những người nghèo Vẫn chưa trở thành ngày lễ Cho những kẻ giàu sang. Nét thanh bần Vẫn chưa phải là lễ hội của quà chia, Đêm lặng lẽ đó, Vẫn chưa phải là lễ hội đem tưng bừng thật sự Đêm hôm đó., Chẳng cần cổ võ thêm những cuộc vui, Mà nên triệt bỏ đi mới phải. Nếu đêm nay Chúa đang ở đó, Thì ta phải cúi xuống tìm gặp Người, Và quỳ xuống Để lượm lấy Người nằm dưới đất. Hài nhi sơ sinh đó Còn chưa nói ra được một tiếng Thế mà lại đã là Lời Mà ý nghĩa thật là đảo lộn. Là thế giới đảo ngược, Là đảo ngược các thang giá trị, Là tương lai đã đang đi trên đầu rồi.
“Lời trở thành người phàm” và cư ngụ giữa chúng ta”
Lời khẳng định trên đây là một lời quả quyết huyền bí và có nhiều ý nghĩa nhất trong bất cứ GS-444
Lời khẳng định trên đây là một lời quả quyết huyền bí và có nhiều ý nghĩa nhất trong bất cứ một thứ ngôn ngữ nào
A. Dĩ nhiên, đâu phải ai cũng biết “Lời” là gì. Trong truyền thống Do thái, “Lời” có nghĩa là cách thế mà Thiên Chúa hành động. Ví dụ trong câu truyện tạo dựng được thuật lại trong sách Khải Nguyên (Kn 1,1-31), Thiên Chúa đã không làm gì khác nhưng Người chỉ “phán” tức là sử dụng lời: “Thiên Chúa đã phán: “Hãy có ánh sáng, thì liền có ánh sáng... ”
“Lời” có nghĩa là điều mà con người chúng ta nói về tất cả những gì chúng ta có thể biết được về Thiên Chúa, thông qua những hành động của Người.
“Lời trở thành người phàm”. Gioan đã không viết là Ngôi Lời đã trở nên người nhưng ông cao rao rằng Ngôi Lời đã trở nên người phàm, một từ chỉ toàn diện con người cả xác lẫn hồn.
Từ “người phàm” được dịch từ từ “sarx” của Hy lạp. Từ đó chỉ toàn diện con người, cả xác lẫn hồn với tất cả sự yếu đuối, mỏng giòn hay hư nát của nó. Đó là cái bao bọc nhân vị con người. Từ sarx (người phàm) cũng là căn nguyên của tất cả niềm vui, của tất cả sức mạnh và là cội rễ của tất cả những yếu đuối cũng như những nỗi bất hạnh của chúng ta.
Một điều khó khăn và thật là kỳ khôi sẽ xảy ra khi chúng ta nối liền hai từ “Lời” và “Người phàm” bằng từ “Trở thành”.
“Lời trở thành người phàm” và cư ngụ giữa chúng ta” (dịch sát chữ là: “đã dựng lều giữa chúng ta”): Đối với các độc giả của Gioan lúc ấy, kiểu nói “dựng lều “ gợi nhớ ngay đến “nơi cư ngụ của Chúa” giữa dân Người. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người xưa được biểu tượng bằng Nhà Lều ở sa mạc thời Xuất Hành, rồi bằng Đền thờ Giêrusalem, thì giờ đây được thể hiện một cách trọn vẹn và triệt để nơi Đức Giêsu. Thiên Chúa làm người (cf. Ga. 2. 19-22: “Đền thờ Người muốn nói ở đây là chính thân thể Người”
Nơi con người Đức Giêsu, cộng đoàn của thánh Gioan quả quyết rằng họ đã được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là nhìn thấy một phẩm chất, một ánh rạng ngời tỏ lộ Thiên Chúa. “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người “
Thiên Chúa là Đấng vô hình, vô tượng, vô sú, vô thanh nhưng chính Đức Giêsu Kitô đã tỏ cho chúng ta. “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết “
Vâng quả thật là lạ lùng khi nói rằng “Thiên Chúa đang ở đây, Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta!”.
B. Chúng ta có thể tự hỏi: “Tại sao Ngôi Lời lại trở thành người phàm?
Đây quả là một mầu nhiệm cao cả và câu trả lời có thể là: Ngôi lời đã trở thành người phàm là để Thiên Chúa và thế giới mà Người đã tạo thành được gắn chặt lại với nhau một cách vĩnh viễn, đời đời.
C. Hằng năm, cứ vào đêm Giáng sinh Hài Nhi Giêsu thường đi một vòng rảo qua khắp các làng mạc và đô thị để tặng quà cũng như nhận quà và phân phát cho những ai cần đến.
Năm nay tại một đô thị nọ, Ngài đang cần một món quà không dễ tìm ra. Đó là một quả tim lành mạnh để thay thế cho quả tim của một người đang hấp hối.
Bệnh nhân có quả tim gần như ngừng đập này là một nhân vật nổi tiếng trong cả nước. Đó là bộ trưởng tài chánh!
Tất cả các các bác sĩ trong nước đều bó tay. Cuối cùng họ mới chạy đến với Chúa Hài Nhi Giêsu vì tin tưởng rằng ít ra trong Đêm Giáng Sinh Ngài sẽ làm một phép lạ. Nhưng Hài Nhi Giêsu trả lời với các bác sĩ: “Không phải ta là Người làm phép lạ nhưng chính là lòng quảng đại của một người sẵn sàng dâng hiến quả tim của mình”.
Tin tưởng ở lòng người, Hài Nhi Giêsu đã đến gõ cửa nhà của thân nhân, bạn hữu của vị bộ trưởng. Họ đang mừng lễ Giáng Sinh: cây Giáng sinh của họ đầy rẫy những hoa đèn và quà tặng, bàn ăn của họ đầy rẫy những thịt rượu và của ngon vật lạ. Họ đang ăn uống say sưa. Vừa thấy Hài Nhi đứng trước cửa nhà, họ tưởng Ngài là một cậu bé vô lại phá đám, cho nên đã tống khứ Ngài đi càng sớm càng tốt.
Hài Nhi Giêsu buồn bã bỏ đi... Nhưng Ngài vẫn chưa thất vọng về tình người. Lần này Ngài đến gõ cửa những người thân cận của vị bộ trưởng. Họ là những người đã từng bán đứng lương tâm, chối bỏ phẩm giá của mình để tìm kiếm lạy lục một chút cặn bã của vinh hoa, lợi lộc phù phiếm. Hài Nhi Giêsu nghĩ thầm ít ra đây cũng là dịp để họ tỏ lòng biết ơn đối với ông bộ trưởng. Nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối. Trái tim của họ đang hướng đến người sẽ lên thay thế ông bộ trưởng trong những ngày gần đây.
Hài Nhi Giêsu lại tiếp tục đi gõ cửa từng nhà nhưng nhà nào nhà nấy đang bận bịu với cuộc vui đêm Giáng Sinh.
Ngài đi, đi mãi trong đêm, để rồi mệt lả không còn lê bước được nữa. Ngài ngồi xuống vệ đường ven đô thị. Ngài đang miên man nghĩ đến tình người thì bỗng dưới ánh đèn đường mờ ảo, một bóng đen thất thểu tiến lại gần Ngài. Con người này xem chừng như không biết đến lễ Giáng sinh là gì. Quần áo bẩn thỉu, dáng đi ngập ngừng. Trên vai của anh đeo lủng lẳng một chiếc đàn vĩ cầm cũ kỹ. Đó là tất cả vốn liếng của một kẻ lãng tử. Vừa thấy em bé ngồi tiu nghỉu bên vệ đường, anh mới dừng lại, lấy chiếc đàn ra và dạo lên những khúc nhạc du dương, trầm buồn. Bản nhạc bỗng mang lại hy vọng cho Hài Nhi. Trên môi Ngài một nụ cười bé thơ cũng vừa hé nở. Con người lang thang phiêu bạt này, con người không có lấy một mái nhà để nương náu, không có được một ngày lễ trong cuộc sống, không biết được đêm nay là đêm Giáng Sinh: Vậy mà con người ấy có được một trái tim quảng đại sẵn sàng dâng hiến!
Hài Nhi Giêsu đến nắm tay anh, đưa anh vào bệnh viện. Tại đây, với nụ cười tươi nở trên môi, anh để cho các bác sĩ khoét vào lồng ngực của anh để lấy quả tim quảng đại của anh và đặt vào chỗ của tim đang thoi thóp của ông bộ trưởng tài chính.
Cuộc ghép tim vừa chấm dứt thì mọi người đã có thể thấy được phép lạ. Ông bộ trưởng với quả tim quảng đại và yêu đời của người lãng tử đứng dậy khỏi giường và bắt đầu ca hát.
Ông đã ném quả tim chỉ biết rung động vì tiền của, để thay thế bằng quả tim quảng đại biết ca hát và sẵn sàng tự hiến cho mọi người.