Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 24 TN-A Bài 51-100: Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy
------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 18, 21-35: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?” Chúa Giêsu đáp: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.
“Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả”. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
“Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: “Hãy trả nợ cho ta”. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh”. Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong.
“Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến vào bảo rằng: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
“Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
TN24-A51: Tha thứ. 2
TN24-A52: Một Tin Mừng khó giữ. 4
TN24-A53: Phải tha thứ mãi mãi 5
TN24-A54: PHẢI THA THỨ -(TGM. Ngô Quang Kiệt 8
TN24-A55: THA THỨ.. 10
TN24-A56: Thầy không bảo là đến bảy lần. 13
TN24-A57: THA THỨ LÀ LIỀU THUỐC CHỮA LÀNH.. 14
TN24-A58: Tha thứ. 18
TN24-A59: Tha thứ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt. 20
TN24-A60: Tha thứ là được thứ tha. 21
TN24-A61: Thiên Chúa là vị thẩm phán tốt nhất của chúng ta. 24
TN24-A62: Bảy mươi lần bảy! 25
TN24-A63: Tại sao tha thứ?. 27
TN24-A64: THA THỨ KHÔNG GIỚI HẠN.. 29
TN24-A65: CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN - A –. 35
TN24-A66: HAI NGƯỜI LÍNH.. 41
TN24-A67: THA THỨ(*) 44
TN24-A68: CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN - A –. 50
TN24-A69: CHÚA XÓT THƯƠNG.. 56
TN24-A70: THA THỨ ĐỂ ĐƯỢC THỨ THA.. 58
TN24-A71: HÃY THA THỨ CHO NGƯỜI KHÁC.. 61
TN24-A72: HỌC THA THỨ VỚI CHÚA GIÊSU.. 68
TN24-A73: THA LỖI 70
TN24-A74: THA THỨ.. 74
TN24-A75: CHÍNH KHI THỨ THA LÀ KHI ĐƯỢC THA THỨ.. 76
TN24-A76: VÌ SAO PHẢI QUẢNG ĐẠI THA THỨ?. 79
TN24-A77: THA THỨ ĐỂ ĐƯỢC THỨ THA.. 82
TN24-A78: BÀI HỌC THA THỨ.. 83
TN24-A79: LÒNG THA THỨ KHÔNG BAO GIỜ LÀ ĐỦ.. 85
TN24-A80: CÔNG LÝ ĐI VỀ ĐÂU.. 87
TN24-A81: CON SỐ LÀ VÔ CÙNG.. 92
TN24-A82: THA THỨ.. 95
TN24-A83: Chuyện: Hòn Đá Ném Đi 97
TN24-A84: THA THỨ, MỘT THÁCH ĐỐ KHÔNG NHỎ.. 98
TN24-A85: CHÌA KHÓA THỨ THA.. 101
TN24-A86: MẶT NGƯỜI HAY MẶT AI MÀ ĐỂU THẾ.. 103
TN24-A87: Không, thấy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy. 105
TN24-A88: Sự tha thứ của Chúa và của con người 106
TN24-A89: Phải Tha Thứ Không Cùng. 108
TN24-A90: Chúa Nhật XXIV Thường Niên A.. 113
TN24-A91: VAY TRẢ TRẢ VAY.. 118
TN24-A92: Tha thứ để được tha thứ. 121
TN24-A93: CHÚA NHẬT 24 QUANH NĂM... 125
TN24-A94: CHÚA NHẬT 24 QUANH NĂM... 128
TN24-A95: CHÚA NHẬT XXIV - THƯỜNG NIÊN 2002. 131
TN24-A96: THA THỨ.. 132
TN24-A97: Tha thứ. 134
TN24-A98: Giá trị cục tẩy. 135
TN24-A99: Tha thứ đến vô tận - Barbara E. Reid OP. 137
TN 24-A100: Tha thứ. 139
------------------------------------------
Ở bên Nhật, có một tên sát nhân khét tiếng đã từng giết hại nhiều người, hắn chẳng may bị: TN24-A51
Ở bên Nhật, có một tên sát nhân khét tiếng đã từng giết hại nhiều người, hắn chẳng may bị bắt và bị tống giam trong ngục, chờ ngày lãnh nhận bản án tử hình. Thế rồi có hai phụ nữ đạo đức đã tới thăm viếng và trò truyện với hắn, nhưng hắn đã đáp lại bằng một cái nhìn hằn học. Trước khi ra về, họ đã để lại cho hắn cuốn Phúc âm với hy vọng mong manh là hắn sẽ đọc.
Quả thật, vì chẳng có việc gì làm, nên hắn đã tò mò mở ra, và rồi hình như có một sức thu hút nào đó, khiến hắn tiếp tục đọc, đọc mãi cho đến lời cầu của Chúa Giêsu trên thập giá:
- Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.
Hắn đã dừng lại và nói:
- Sự kiện trên đã làm cho tôi xúc động và tôi cảm thấy dường như sự hung dữ và tàn bạo của tôi đã tan biến, bởi vì tôi đã tin.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta nhớ tới người trộm lành trên thập giá. Mặc dù quãng đời dĩ vãng chồng chất những tội lỗi, nhưng rồi anh đã được Chúa tha thứ. Chính Ngài đã nói với anh:
- Ta bảo thật, ngay hôm nay anh sẽ được ở trên thiên đàng với Ta.
Tên sát nhân ở Nhật Bản, cũng như người trộm lành đều là những kẻ tàn bạo, thế mà Chúa đã xót thương, cho ăn năn sám hối vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời, thì tự hỏi làm sao chúng ta lại khước từ, chẳng tha thứ cho nhau.
Chính Ngài đã khẳng định qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay:
- Thầy không bảo các con phải tha thứ đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy lần, có nghĩa là phải tha thứ cho nhau mãi mãi.
Và để xác minh cho sự thật trên người ta đã đưa ra một câu chuyện cụ thể đó là câu chuyện về tên đầy tớ độc ác. Như chúng ta thấy, khi mắc nợ ai, chúng ta phải hoàn trả cho họ, đó là bổn phận của đức công bằng.
Cũng vậy, tên đầy tớ mắc nợ nhà vua mười ngàn nén bạc, mà hắn thì không có gì để trả, vì thế, nhà vua cứ dựa theo sự công bằng để ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con và tài sản mà trả nợ. Thế nhưng, nhà vua đã không hành động như thế. Ông đã không cư xử với hắn theo sự công bằng, mà theo lòng thương xót, bởi thế ông đã tha bổng cho y, và đòi y cũng phải thương xót đối với những người chung quanh:
- Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, thì đến lượt ngươi, ngươi cũng phải thương xót bạn ngươi như ta đã thương xót ngươi.
Trong mối liên hệ giữa người với người, chúng ta thấy công bằng phải đi trước bác ái và làm nền tảng cho bác ái, bởi vì nếu không có công bằng thì cũng chẳng có bác ái. Thế nhưng nhiều lúc chúng ta phải vượt lên trên cái nền tảng công bằng này để biểu lộ một tình yêu thương và tha thứ.
Còn chúng ta thì sao, liệu chúng ta có sẵn sàng tha thứ cho anh em để rồi bản thân chúng ta sẽ được hưởng nhờ lòng thương xót của Chúa hay không?
----------------------------------
Sau lúc đem ra một số lời giáo huấn về đời sống cộng đồng, Chúa đã nhấn mạnh đến bổn phận: TN24-A52
Sau lúc đem ra một số lời giáo huấn về đời sống cộng đồng, Chúa đã nhấn mạnh đến bổn phận tha thứ. Bài Phúc âm tự nó đã rõ ràng. Tuy thế cũng cần phải nói rõ thêm một vài điều. Ta biết rằng danh từ “bảy mươi bảy lần” của Phúc âm có nghĩa là vô cùng. Hơn nữa còn phải đọc thêm dụ ngôn người đầy tớ tàn nhẫn để tìm ra bài học chính yếu mà Chúa Giêsu muốn dạy ta, mà không dừng lại ở các chi thiết của câu chuyện để tìm cho cái chi tiết ấy một ý nghĩa. Bài học chính yếu để sự tha thứ của loài người liên quan với sự tha thứ của Thiên Chúa. Các chi tiết của câu chuyện tả lại cho chúng ta một khía cạnh của triều đình Đông phương vào thời Chúa Kitô, nhất là những gì liên quan đến quyền tùy nghi quyết định của nhà vua trên thường dân. Chúa Giêsu đi từ một sự thực có sẵn trong óc của mọi người để xây dựng câu chuyện và rút ra một bài học: Chúa Cha ở trên trời sẽ hành động giống như ta suy nghĩ và hành động với các anh chị em khác. Lúc suy nghĩ về sự tha thứ Phúc âm, ta thấy Thiên Chúa có tham vọng nâng chúng ta lên ngang hàng với sự cao cả riêng Ngài. Sau đây là một vài điểm dùng làm mốc để suy nghĩ.
1) Không nên giam hãm một ai trong sự xúc phạm đã qua. Khi chúng ta phải tha thứ, thì thường là liên quan đến một sự xúc phạm nằm trong quá khứ. Nhưng kẻ xúc phạm, tác giả của sự xúc phạm, đang sống trong hiện tại. Con người ấy trong giây phút hiện tại không cùng là một con người như lúc xúc phạm nữa. Do đó chúng ta phải nhìn người ấy một cách khác. Tha thứ là chấp nhận kẻ khác như họ đang sống bay giờ, chứ không phải là xua đuổi họ, như họ đã đối xử trong quá khứ.
2) Người ta sẽ bảo rằng: nếu kẻ ấy lại quay làm thiệt hại ta như trước, nếu kẻ ấy tái phạm ta phải đối xử như thế nào? Phúc âm trả lời: vẫn tha thứ. Điều này không có nghĩa là ta khỏi phải đề phòng. Tuy nhiên Phúc âm cấm ta không được làm hại họ, hơn nữa lòng ta còn phải đi xa tới chỗ lấy ân đền oán. Có lẽ sẽ bảo là muốn làm được như thế phải có chí anh hùng. Thiên Chúa đã hành động với chúng ta như thế nào? Chúng ta là những người có tội hay sa đi ngã lại mà Thiên Chúa vẫn luôn luôn tha thứ khi có dấu hiệu mảy may là chúng ta hối cải. Thiên Chúa không ngớt mong muốn điều lành cho chúng ta.
3) Người ta thường nói: tha thứ thì được mà bỏ quên thì không. Sự tha thứ mới là đối tượng của giới răn chứ đâu phải là sự bỏ quên. Bỏ quên lỗi của kẻ khác nằm ngoài quyền hạn của ý chí và phải chăng đó là điều đáng mong ước? Khi chúng ta nhớ lại một ân huệ đã lãnh nhận, chúng ta có thể lợi dụng đó để khơi dậy lòng biết ơn và đó là điều rất tốt. Khi nhớ lại một sự thiệt thòi đã chịu, chúng ta lợi dụng đó để tha thứ một lần nữa và làm cho sự tha thứ càng lớn mạnh. Trong cả hai trường hợp trí nhớ có thể giúp chúng ta làm điều thiện. Khả năng nhớ lại đặt chúng ta gần với tư tưởng của Chúa vì Người thu gọn tất cả quá khứ của thế giới trong cái hiện tại vĩnh viễn nhưng là để yêu mến.
4) Sự tha thứ mà Phúc âm đề xướng là một món quà cho không, ngay cả với những người không xứng đáng. Điều này cũng có nghĩa là phải cầu nguyện, để kêu cầu ơn Chúa là sức mạnh phi thường và linh thiêng khiến lòng người có khả năng lướt thắng chính mình, đến nỗi thực hiện được những công việc quá sức loài người.
----------------------------------
VietCatholic News (Thứ Hai 08/09/2008 09:07)
Mt 18,21 – 35
Chúa nhật 24 thường niên, năm A dạy người môn đệ Chúa: Thiên Chúa không tha thứ cho người không: TN24-A53
Chúa nhật 24 thường niên, năm A dạy người môn đệ Chúa: Thiên Chúa không tha thứ cho người không biết tha thứ cho anh em mình. Cốt lõi để Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta là nếu chúng ta biết quảng đại tha thứ cho người khác. Chúa bảo Phêrô: ” Phải tha thứ cho anh em không chỉ bảy lần mà thôi, nhưng phải tha thứ cho anh em đến bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha thứ mãi mãi và tha thứ luôn luôn, tha thứ không ngừng “. Sở dĩ, chúng ta phải tha thứ mãi mãi, tha thứ không ngừng cho anh em chúng ta, bởi vì Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta và Ngài luôn tha thứ cho chúng ta dù chúng ta luôn lỗi phạm, luôn sai lỗi, luôn khuyết điểm, vô ơn, phản bội Chúa. Ngài luôn đòi hỏi người môn đệ Chúa phải tha thứ như Chúa đã tha thứ cho chúng ta.
THA THỨ MÃI MÃI VÀ THA THỨ KHÔNG NGỪNG :
Sau khi Chúa dạy chúng ta sửa lỗi nhau vì tình thương, vì muốn anh em vươn tiến, muốn anh em trở nên tốt. Hôm nay, Chúa đi thẳng vào việc tha thứ. Dân Do Thái được các kinh sư dạy phải tha thứ cho anh em, nhưng họ không thống nhất với nhau phải tha bao nhiêu lần mới đủ. Có ý kiến cho rằng chỉ có thể tha thứ cho người khác bốn lần mà thôi. Người Việt Nam ta có câu:” Quá tam ba bận “ là cùng. Do đó, Phêrô mới thắc mắc hỏi Chúa Giêsu: ” Thưa Thầy,nếu anh em con xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần ? Có phải bảy lần không ? “ ( Mt 18, 21 ). Chúa Giêsu trả lời Phêrô: ” Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy “ ( Mt 18, 22 ). Chúa Giêsu nhắc nhở Phêrô là tha thứ mãi mãi và tha thứ không giới hạn, tha thứ cho anh em không ngừng khi họ xúc phạm đến mình. Và để dẫn chứng cho việc phải tha thứ, Chúa Giêsu đã dùng một dụ ngôn. Dụ ngôn ở đây muốn nói lên một bằng chứng thật rõ nét, thật rõ ràng: “ Con người lỗi phạm, mắc nợ với Chúa rất nhiều, tội lỗi và việc xúc phạm, nợ nần của con người đối với Chúa thì rất nhiều và không sao kể siết, dường như không thể nào có thể tha thứ được, nhưng Chúa đã tha thứ cho con người. Còn anh em khác xúc phạm, thiếu sót đối với con người đâu có nhằm gì so với tội con người sai phạm đối với Chúa, nhưng con người lại nhỏ nhen, ti tiện, hẹp hòi không tha thứ cho anh em. Chính vì thái độ nhỏ nhen đó, con người đừng trông mong Chúa tha thứ, đừng trách Chúa. Bởi vì, đạo công giáo đòi con người phải tha thứ như Chúa đã tha thứ cho con người: phải yêu thương người khác như Chúa đã yêu thương. Tha thứ và yêu thương như Chúa. Lời này, chúng ta vẫn đọc hằng ngày trên môi miệng: ” Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con tha kẻ có nợ chúng con “. Chúa dạy chúng ta một bài học để đời: Hãy tha thứ cho người khác như Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Chúa tha thứ cho chúng ta theo mức độ chúng ta tha thứ cho người khác. Ta tha cho người khác nhiều, Chúa cũng tha cho ta nhiều. Ta tha cho người khác ít, Chúa cũng tha cho ta ít. Quả thực sống ở trần gian này, ai cũng có khiếm khuyết, ai cũng lỗi phạm, nếu chúng ta biết cảm thông, tha thứ cho người khác thì chắc chắn Chúa cũng cảm thông, tha thứ cho chúng ta. Tùy thái độ của chúng ta đối xử với người khác, Chúa cũng sẽ đối xử với chúng ta như chúng ta đã quảng đại tha thứ cho anh em.
ÁP DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG THỰC TẾ:
Cứ thường tình người ta dễ ăn miếng trả miếng với nhau. Anh chửi tôi, tôi cũng sẽ chửi lại anh. Anh đánh tôi, tôi cũng sẽ tìm cách đánh anh. Anh thù hằn tôi, tôi cũng thù hằn lại anh. Đó là lẽ thường ở đời. Người ta ít khi nhường nhịn nhau lắm. Anh to tiếng với tôi, thì tôi cũng sẽ to tiếng với anh.Tuy nhiên đã là con cái Chúa, người môn đệ của Chúa luôn phải hiểu lời này: ” Nếu khi sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình “ ( Mt 5, 23-24 ). Cái nghịch lý của Tin Mừng vẫn là: “ Nếu người ta vả má bên phải thì hãy đưa cả má bên trái cho họ vả “. Chúa luôn khuyên nhủ môn đệ Chúa: ” Hãy yêu thương kẻ thù “. Đó là nét đẹp của Tin Mừng. Điều trần gian cho là khôn ngoan, đối với Chúa là dại khờ. Điều thế gian cho là khờ dại, đối với Chúa lại là khôn ngoan. Thực tế, cuộc đời của con người trần gian này thường luôn thích ăn thua. Anh khôn hơn tôi thì có người lại còn khôn hơn anh. Nhưng, đã là môn đệ Chúa, người Kitô hữu thì: ” Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em “ ( Mt 6, 24 ). Chúng ta dễ cho nhau tiền của, thời giờ. Nhưng tha thứ cho kẻ thù, cho kẻ làm hại, ngược đãi chúng ta xem ra rất khó thực hiện. Chúa luôn dạy chúng ta: ” Hãy yêu như Chúa, hãy thứ tha như Chúa “.
Đời của mỗi người vẫn là cái gì đó thật linh thiêng, thật mầu nhiệm. Thực hiện được điều Chúa dạy quả phải có ơn của Chúa thật nhiều. Người môn đệ Chúa chắc chắn sẽ thực hiện được sự tha thứ khi họ yêu Chúa và noi gương Chúa.
VÀ CHÚA MUỐN GÌ NƠI NGƯỜI MÔN ĐỆ:
Cái cốt lõi của Tin Mừng vẫn là yêu thương. Sống hời hợt không đi vào cốt lõi của Tin Mừng là chưa hiểu gì về Chúa. Suốt cuộc đời của Chúa là lời cầu:” Xin cho mọi người hiệp nhất nên một “. Bởi vì, khi nên một sẽ không còn chia rẽ, không còn thù hận, không còn tị hiềm, nhỏ nhen nữa, lúc đó con người chỉ sống yêu thương mà thôi. Chính sự tha thứ sẽ đem lại sự an bình cho tâm hồn, và cũng chính sự tha thứ sẽ đem lại mùa xuân cho con người kẻ được tha cũng như người tha thứ. Đó là cái kỳ diệu của sự thứ tha. Đó cũng là mầu nhiệm của đạo Kitô giáo. Chúa muốn mọi người thấm nhuần kinh lạy cha và sống như Chúa dạy trong kinh lạy cha:” Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con “ ( Mt 6, 12 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một quả tim mới, một đôi mắt của Chúa để chúng con luôn biết quảng đại, cảm thông và tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng con. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1) Tha thứ có cần thiết không ?
2) Chúa nói với thánh Phêrô như thế nào về việc tha thứ ?
3) Người tha thứ và người được thứ tha cần phải có thái độ nào ?
4) Tha thứ sẽ đem lại cho con người điều gì ?
5) Sống hận thù có tốt không ? Tại sao ?
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
----------------------------------
Gandhi nói: "Nếu áp dụng luật mắt đền mắt, thế giới sẽ chỉ toàn người mù". Sẽ không thể sống: TN24-A54
Gandhi nói: "Nếu áp dụng luật mắt đền mắt, thế giới sẽ chỉ toàn người mù". Sẽ không thể sống được nếu thiếu sự tha thứ. Tha thứ cần thiết cho con người như khí trời. Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Ðức Giê-su nói cho ta thấy tính cách cần thiết và cấp bách của sự tha thứ.
Phải tha thứ vì con người là bất toàn. Có những xúc phạm cố ý. Nhưng rất nhiều khi xúc phạm chỉ là vô tình, thiếu ý thức. Chỉ cần một chút cảm thông, hiểu biết, tôi sẽ dễ bỏ qua, không chấp nhất. Nếu cứ mỗi lần bị xúc phạm tôi không thể nào nguôi ngoai thì chính tôi là người khổ nhất, vì tâm hồn mang nặng oán hờn sẽ không bao giờ bình an. Nếu tôi loại trừ tất cả những ai xúc phạm, thì sau cùng tôi sẽ chẳng còn sống với ai được. Tôi sẽ mất hết bạn bè. Thế giới sẽ chỉ toàn kẻ thù. Và tôi sẽ trở thành cô đơn.
Phải tha thứ vì chính ta cần được thứ tha. Tôi cần sự tha thứ của chính mình vì bản thân tôi có biết bao lầm lỗi. Nếu tôi không tự tha thứ cho mình thì lương tâm sẽ cắn rứt dày vò khiến tôi suốt đời buồn phiền. Tôi cần sự tha thứ của người khác vì tôi đã xúc phạm nhiều đến anh em. Nếu mọi người không tha thứ cho tôi thì tôi bị khai trừ khỏi xã hội. Tôi cần sự tha thứ của Chúa vì tôi đã lỗi phạm đến Chúa rất nhiều. Nếu Chúa thẳng tay trừng phạt những tội xúc phạm đến Người thì tôi đã chết từ lâu. Biết bản thân mình yếu đuối, nhiều lỗi lầm, cần được tha thứ, tôi sẽ dễ cảm thông tha thứ cho anh chị em.
Phải tha thứ vì đó là điều kiện để được thứ tha. Trong Tin Mừng, Chúa nhấn mạnh điều này rất nhiều lần. Khi dạy ta đọc kinh Lạy Cha, Chúa bắt ta phải hứa tha cho anh em khi xin Người tha thứ lỗi lầm của ta. Ở cuối Kinh Lạy Cha, thánh Mát-thêu còn thêm: "Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em" ( Mt.6:14-15 ).
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay không những nhắc lại điều đó, mà còn cho thấy, tội ta xúc phạm đến Chúa muôn ngàn lần nặng nề hơn anh em xúc phạm đến ta. Thế mà Chúa vẫn sẵn sàng tha thứ cho ta một cách mau chóng, nhẹ nhàng, chỉ với một điều kiện là ta cũng phải tha cho anh em những lỗi lầm ít ỏi anh em xúc phạm đến ta.
Sau cùng ta cần tha thứ để trở nên giống hình ảnh Thiên chúa. Thiên chúa là người Cha rất nhân từ và hay tha thứ. Ðức Giê-su đã phát họa rất rõ nét chân dung nhân từ của Thiên Chúa Cha trong dụ ngôn "Người Cha nhân hậu". Và Người không ngừng mời gọi ta hãy nên hoàn thiện như Chúa Cha.
Ðức Giê-su xuống trần gian cho ta được chiêm ngưỡng khuôn mặt hiền hậu nhân từ hay tha thứ của Chúa Cha. Suốt cuộc đời trần thế, Người không ngừng tha thứ cho kẻ tội lỗi. Nhất là những kẻ đã xúc phạm đến Người. Còn cảnh tượng nào đẹp hơn cảnh tượng Người bị treo trên thập giá mà trái tim vẫn mở rộng yêu thương tha thứ. Còn lời nào đẹp hơn lời Người cầu nguyện trong lúc đau đớn tột cùng mà vẫn nhớ đến người khác, không phải nhớ đến người làm ơn mà là nhớ đến những người xúc phạm, làm hại mình: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" ( Lc 23, 34 ). Và khi từ cõi chết sống lại, Người đã tha thứ cho Phê-rô dù môn đệ thân tín này đã chối Người. Người đã tha thứ cho các môn đệ dù các ông đã bỏ mặc Người trong lúc gian nan.
Chúa Giê-su không đến để chối bỏ sự thù hận, nhưng trái lại bày tỏ bộ mặt thực của thù hận và đánh bại nó. Thù hận là dấu chỉ sự thống trị của ma quỷ, kẻ thù đúng nghĩa nhất. Chính ma quỷ gieo sự thù hận trong lòng người và đặt con người vào thế chống đối và tiêu diệt nhau.
Nếu con người là kẻ thù khủng khiếp của chính mình, thì quả thực chúng ta phải bắt đầu tiêu kiệt nó ngay trong chính chúng ta. Chính khi chúng ta cưu mang thù hận là lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù và tự tiêu diệt chính mình. Chính khi chúng ta khước từ tha thứ và làm ơn cho những kẻ chúng ta thù ghét, là chính lúc chúng ta tự giam hãm trong hận thù để rồi tự huỷ hoại chính mình.
Chúa Giê-su đã đánh bại sự thù hận bằng chính cái chết yêu thương tha thứ của Ngài. Chỉ có yêu thương và tha thứ mới có thể là thứ khí giới tiêu diệt được thù hận . Chúa Giê-su đã ban cho chúng ta thứ khí giới ấy. Ngài đã không ngừng mời gọi chúng ta: "Hãy yêu thương kẻ thù ngươi, hãy làm ơn cho kẻ thù ghét ngươi".
Nhìn lại biến cố 11/9 tại New York, ta càng thấm thía bài học tha thứ và lời Ðức Thánh Cha đã dạy: "Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ". Sự tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn con người. Vẻ đẹp tự chế. Vẻ đẹp khoan dung. Vẻ đẹp của tâm hồn vượt lên trên chính mình. Vẻ đẹp đề cao giá trị con người. Sự tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới. Một thế giới cảm thông, chan hoà. Một thế giới chứa chan tình huynh đệ. Một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa.
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
***
Lạy Chúa! Xin cho con một qủa tim mới, một tấm lòng quảng đại để biết cảm thông và tha thứ cho anh chị em của con, và nhất là cho những người xúc phạm đến con. Xin cho con luôn cố gắng nỗ lực thực thi lời Chúa dạy trong Kinh Lạy Cha : ” Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” . Amen
----------------------------------
Có hai thứ mùa xuân, mùa xuân của đất trời và mùa xuân của tâm hồn. Mùa xuân nào thì: TN24-A55
Có hai thứ mùa xuân, mùa xuân của đất trời và mùa xuân của tâm hồn. Mùa xuân nào thì cũng cần đổi mới. Mới của mùa xuân đất trời là mầm non nẩy lộc. Mới của mùa xuân tâm hồn là sự tha thứ. Tha thứ làm cho mối giây liên hệ đã khô héo hồi sinh, nẩy mầm. Từ đó, cuộc sống thành tươi mát.
Trong khi đi tìm mùa xuân, tôi nghe chung quanh tôi có nhiều tiếng than. Khổ cực của nghèo túng. Dằn vặt của hận thù. Có nhiều loại cay đắng. Ðắng cay vì thất bại làm ăn, vì chuyện gia đình, vì chuyện tình duyên. Ai cũng muốn tránh né nghịch cảnh. Muốn có cuộc sống êm đềm, muốn có một mùa xuân.
Trong các thứ khổ hạnh, giữa những thứ đắng cay, có một thứ rất cay đắng đó là thiếu vắng niềm thông cảm, là một trái tim phải mang hận thù, hận thù người và lo âu người thù hận lại. Khi tôi ghét ai, tâm hồn tôi không còn phẳng lặng nữa. Khi tôi bị người khác ghét, tôi sống trong đề phòng sợ hãi. Cả hai đều là ngục tối. Cả hai đều đánh mất bình an. Người ta đã chẳng thường nói: Thà nghèo nhưng yêu thương nhau thì vẫn hạnh phúc. Vì thế, yêu thương là con đường duy nhất tạo nên bình an và làm cho cuộc sống tươi mát. "Này đây Ta ban cho các con một giới răn mới: các con hãy thương mến nhau" (Yn 13,33).
Có nhiều yếu tố để duy trì một mối liên hệ nhưng yếu tố căn bản vẫn là tha thứ. Người ta chẳng thể yêu nếu không tha thứ, vì tha thứ là ngưỡng cửa mời gọi và tái sinh tình yêu khi mối liên hệ giữa hai người bị sứt mẻ.
Ðã nhiều lần tôi đoan hứa với Chúa, nhưng mỗi lần tôi đoan hứa thì lại như một lời báo trước một sự vấp ngã. Tôi đoan hứa hoài, tôi lỗi lời thề mãi. Nhưng cái lạ lùng trong mối liên hệ giữa tôi và Chúa là Chúa chẳng bao giờ nói rằng Ngài quá mệt mỏi vì tha thứ cho tôi. Nếu Chúa không tha thứ cho tôi được thì tôi cũng chẳng thể yêu Ngài được, bởi tha thứ là lời mời gọi dẫn vào khung trời yêu mến.
Nhìn vào cách đối xử của Chúa, tôi có phải tha thứ cho ai xúc phạm đến tôi không? Câu trả lời có thể là không. Tôi lý luận rằng bởi Chúa là tình yêu vô biên nên Ngài mới tha thứ được. Tôi là con người làm sao có thể tha thứ như Chúa. Xem ra câu nói có vẻ lý luận. Nhưng nếu lắng nghe cõi lòng thì câu trả lời chẳng có vẻ lý luận chút nào cả.
Lý do đơn giản mà tôi phải tha thứ là vì tôi cần được thứ tha.
Chính trong tôi cũng có hai con người: một con người lỗi phạm và một con người công chính. Tôi là một người có nhiều khuyết điểm. Tôi không thể chối từ được điều đó. Tôi được cưu mang trong ảnh hưởng của bao khiếm khuyết. Cuộc đời là nối tiếp những những ý nghĩ bất chính, những hành động sai lạc. Tôi phải chấp nhận thực tại tôi là thế. Chối từ thực tại này là từ chối chính tôi. Chẳng ai có thể từ chối được chính mình, vì sống là nhìn nhận sự hiện hữu của họ. Sự hiện hữu của tôi là tất cả những gì tôi là: sự yếu đuối cũng như con tim biết yêu mến điều thiện hảo. Nếu tôi oán ghét tôi tức là tôi hủy diệt mình. Vì thế, tôi phải tha thứ cho tôi, phải rộng lượng và khoan nhân với mình. Tôi phải cho tôi có cơ hội để làm lại cuộc đời sau khi đã lầm lỗi, chứ không tạo nên trong tôi một bãi chiến trường.
Từ chính tôi, tôi đã hiểu rằng tôi cần được tha thứ. Tôi thương tôi mà tôi vẫn xử dụng tự do cách sai lạc để xúc phạm đến chính tôi, để làm tàn úa mùa xuân bình an trong hồn mình. Như vậy, đối với tha nhân, kẻ mà tôi thường không thông cảm đủ, không hiểu rõ họ thì làm sao tránh xúc phạm đến họ được?
Tôi xúc phạm đến họ thì tôi cần được tha thứ. Có khi tôi cần được tha thứ hơn là họ cần sự tha thứ của tôi.
Khi chối từ tha thứ cho người khác là bảo rằng tôi không cần sự thứ tha. Chỉ có kẻ nào không bao giờ lầm lỗi thì mới không cần được tha thứ. Nếu tôi tự cho mình chẳng bao giờ làm điều sai, khi nào cũng công chính, tôi chẳng cần ai tha thứ, thì tôi đã kiêu ngạo một cách đáng thương hại.
Tha thứ là lời mời gọi duy nhất để tình yêu lớn lên. Tha thứ là cửa ngõ để cho tôi, cho người tôi ghét có cơ hội làm lại mối giây liên hệ đã dập gẫy.
Không tha thứ là tôi đóng chặt cửa ngõ đó để kẻ tôi giận không còn có cơ hội nói rằng họ cũng cùng thân phận yếu đuối, họ cũng cần sự nâng đỡ của tôi. Cái gian nan của con người là sự bất toàn của họ. Tôi bất toàn. Cha mẹ tôi có khuyết điểm. Người yêu tôi không hoàn hảo. Cha xứ bất toàn. Người trong họ đạo bất toàn. Thầy dạy của tôi bất toàn. Bởi bất toàn nên mới có lầm lỗi. Nếu tôi khẳng định chối từ tha thứ cho họ. Tôi đóng chặt tâm hồn mình thì tôi thiệt thòi bởi vì tôi chối từ một tình mến kẻ khác trao tặng, và tôi lại gây thêm một sứt mẻ vì kẻ muốn làm hòa với tôi phải đau khổ vì bị tôi chối từ. Lúc đó, tôi chối từ sự kiên kết trong cùng một thân thể Ðức Kitô. Khi tôi đóng chặt cõi lòng, không chấp nhận tha nhân để họ không đến với tôi được, là tôi tự xây nên một bức tường cao. Ánh nắng thông cảm chẳng thể lọt qua. Tôi sẽ chẳng bao giờ có mùa xuân ấm và hồn tôi sẽ lên rêu ẩm mốc.
Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hóa bởi tha thứ. Những tình yêu, những mối giây liên hệ tái sinh sau khi được tha thứ thì thường bao giờ cũng rất khác biệt, cũng rực rỡ vô cùng. Nếu Chúa Yêsu không tha thứ cho Phêrô thì họ đã chẳng gắn bó với nhau và Phêrô chắc cũng chẳng sống chết với sứ mạng của Chúa. Sau khi lỗi phạm và được tha thứ, tình yêu của Phêrô đã bừng cháy. Phaolô cũng thế, bởi vì hận thù tôn giáo của Ðức Kitô quá nhiều nên khi được ơn gọi, được tha thứ, Phaolô đã trở nên điên dại trong sứ vụ rao truyền danh Ðức Kitô cho thế giới. Mai Ðệ Liên đã là người tình muôn thuở của Yêsu vì nàng đã cảm nghiệm được yêu thương trong khoan dung.
****************************************
Tôi gặp X một cô bé 15 tuổi học lớp 8 trong lớp giáo lý của tôi. X qua Mỹ với mẹ cách đây mấy năm về trước. Ba của X kẹt lại, nhưng bây giờ đã tới trại tỵ nạn Thailand, tuy nhiên ông lại sống với một người đàn ba khác. Ðiều đó làm X vô cùng đau khổ. Em nói với tôi là em thấy xấu hổ nếu bạn bè của em biết được. Trong buổi nói chuyện đó, X đã khóc. Khi nói với X rằng mùa này là mùa Giáng Sinh, mùa của yêu thương, của biết ơn và tha thứ. Tôi tiếp tục tâm sự với X. Tôi càng nói về yêu thương thì X càng khóc. Chủ nhật sau, X đưa cho tôi một lá thư nhờ tôi xem. Em hỏi tôi nên viết như thế nào. Tôi đọc lá thư và tôi không cầm được nước mắt. Và X cũng khóc theo. Ðây là một đoạn trong lá thư của em.
... con thương Ba. Con mong muốn Ba về với con. Dù Ba đi đâu, nếu Ba bỏ con, thì con cũng vẫn thương Ba. Xin Ba đừng nghĩ rằng con không thích Ba. Nếu Ba chẳng bao giờ gặp con nữa thì con cũng vẫn là con của Ba. Ba đã vất vả để nuôi con từ khi con còn bé. Nên con muốn biết ơn Ba. Con đau khổ vì con chưa bao giờ express cho ba biết là how much con care cho Ba...
Trong lá thư đó, X không viết, nhưng X nói với tôi là có thể Ba của X cũng không hạnh phúc gì ở bên trại, có thể Ba của X cũng có những đau khổ dày vò khác, nên nghĩ tới đó X lại càng thương Ba chứ không oán trách Ba. Ðọc thư, tôi bùi ngùi khôn tả. Tôi không thể góp ý kiến gì với X được nữa, vì đó là tình yêu tuyệt vời rồi.
Ban tối, khi ngồi trong nhà nguyện một mình với Chúa, tôi thấy Chúa đã cho tôi gặp X, để X chỉ cho tôi con đường về yêu thương. Tình loài người bát ngát quá. Tôi thấy mình gần gũi với mọi người chung quanh hơn sau khi tôi gặp X. Bé X đã gặp gỡ Ba của bé trong yêu thương tha thứ, trong nhận thức được sự yếu đuối của con người.
Tôi nghĩ chính trong những yếu đuối, những lầm lỗi của nhau mà tôi gặp gỡ và gần tha nhân hơn là trong sức mạnh, tài năng và ngay cả trong lý tưởng.
Tối hôm đó, trong buổi cầu kinh, tôi nghe như Chúa nói với tôi giống như lời của X viết cho Ba: Cha thương con. Cha mong muốn con về với Cha. Cha không cần biết là bao nhiêu tội con đã phạm. Cha không cần biết con đã làm gì. Dù con bỏ Cha đơn côi một mình trên thập giá, Cha cũng vẫn yêu con. Dù con đẩy Cha vào góc tường và muốn giết Cha thì Cha cũng đành để con giết, chứ Cha sẽ không chiến đấu chống lại con vì Cha thương con.
Tôi thấy mình hạnh phúc quá vì có một Thiên Chúa nhân từ, luôn tha thứ. Trong tha thứ, tình yêu giữa tôi và Chúa rực rỡ hơn. Tôi băn khoăn tự hỏi mình: Làm sao tôi có thể chối từ một tình yêu bao la như thế? Ðây là động lực thúc đẩy tôi đi tới, tôi muốn bước lên cao hơn, muốn thuộc về Ngài nhiều hơn.
Lm Nguyễn Tầm Thường, S.J.
Trích tập suy niệm NƯỚC MẮT VÀ HẠNH PHÚC
------------------------------
Tin mừng: Mt 18, 21-35.
“Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.”
Bạn thân mến,
Bạn đã mắc nợ ai một số tiền lớn chưa ? Nếu có rồi thì tôi tin chắc bạn rất cảm nghiệm đoạn Phúc Âm hôm
Bạn đã mắc nợ ai một số tiền lớn chưa ? Nếu có rồi thì tôi tin chắc bạn rất cảm nghiệm đoạn Phúc Âm hôm nay: người mắc nợ được tha khỏi phải trả nợ. Bạn sẽ hồi hộp sung sướng khi chủ nợ nói với bạn rằng: thôi khỏi trả nợ anh yên tâm làm ăn. Chúa Giê-su mời gọi bạn và tôi học cách tha thứ của Ngài, không phải tha thứ bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy, có nghĩa là tha hoài tha mãi, tha suốt đời của chúng ta.
Bạn có lần nào tha thứ cho người khác khi họ xúc phạm đến bạn chưa ? Tôi tin chắc là đã có. Bạn thấy tâm hồn mình thế nào khi bạn nói với người đã xúc phạm đến bạn: thôi bỏ qua nhắc làm gì chỉ là hiểu lầm. Tôi cũng tin chắc rằng tâm hồn của bạn rất thảnh thơi, vui sướng và bình an, bởi vì bạn đã biết tha thứ. Chúa Giê-su vẫn thường luôn tha thứ tội lỗi cho chúng ta, bởi vì Ngài chết trên thánh giá không phải để lên án trả thù, nhưng là để xóa tội và tha thứ tội lỗi cho nhân loại.
Tha thứ để được thứ tha, đó là điều tất yếu mà Chúa Giê-su đã dậ chúng ta trong bài Phúc Âm hôm nay: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.”
Bạn thân mến,
Đã nhiều lần bạn bị người khác xúc phạm, và cũng có ít là một lần bạn đã xúc phạm đến người khác, do đó mà Chúa Giê-su đã dạy chúng ta hãy tha thứ cho anh chị em của mình cách quãng đại đến bảy mươi lần bảy.
Bảy mươi lần bảy là tha thứ mãi mãi, và cũng có nghĩa là tha thứ và quên đi những sai lầm của người khác. Bởi vì có người tha thứ cho anh chị em nhưng lại không quên được việc làm xấu của họ; có người tha thứ cho anh chị em nhưng lại thường nhắc đến những sai lầm của họ. Đó chưa phải là tha thứ đến bảy mươi lần bảy như Chúa Giê-su đã dạy.
Bạn nhớ nhé, tha thứ để được thứ tha.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
---------------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
------------------------------
[Hc 27,33-28,9; Rm 14,7-9; Mt 18,21-35]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Suy nghĩ một chút về cuộc sống gia đình và cộng đồng, chúng ta sẽ nhận thấy rằng người ta xúc: TN24-A57
Suy nghĩ một chút về cuộc sống gia đình và cộng đồng, chúng ta sẽ nhận thấy rằng người ta xúc phạm nhau một cách quá ư là dễ dàng. Xúc phạm bằng lời nói, cử chỉ hay bằng hành động. Xúc phạm một cách không chủ ý hoặc một cách có chủ ý. Hậu quả là cả người xúc phạm lẫn người bị xúc phạm đều rơi vào một trạng thái có thể gọi là “khốn khổ” và mất bình an. Để hai phía tìm lại được bình an thì không có cách nào khác là người xúc phạm phải xin lỗi và người bị xúc phạm phải rộng lượng tha lỗi. Nếu xin lỗi là việc tương đối dễ vì chỉ cần người phạm lỗi biết phục thiện và có lòng khiêm tốn là có thể làm được. Còn tha lỗi thì là việc khó hơn bội phần, vì người bị xúc phạm phải vượt qua sự bất công và oan ức mà mình phải chịu, để tha thứ cho người xúc phạm mình.
Trong đời sống cộng đoàn của các môn đệ Đức Giê-su cũng đã phải đương đầu với trường hợp khó khăn này. Chính vì thế mà thánh Phê-rô mới hỏi Thầy Giê-su: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Chúng ta hãy để cho Lời Chúa chất vấn và giáo huấn chúng ta.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Hc 27,30-28,9): Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha.
27/30 Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm,
về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài.
28/1 Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa,
tội lỗi nó, Người xem xét từng ly.
2 Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác,
thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha.
3 Người với người cứ nuôi lòng hờn giận,
thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành !
4 Nó chẳng biết thương người đồng loại,
mà lại dám xin tha tội cho mình!
5 Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận,
thì ai sẽ xin tha tội cho nó?
6 Hãy nhớ đến ngày tận số
mà chấm dứt hận thù,
nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết
mà trung thành giữ các điều răn.
7 Hãy nhớ đến các điều răn
mà đừng oán hờn kẻ khác,
nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao
mà không chấp nhất điều lầm lỗi.
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 14,7-9): Dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa Ki-tô.
7 Thưa anh em, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. 8 Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; 9 vì Đức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 18,21-35): Thầy không bảo là đến bẩy lần, nhưng là đến bẩy mươi lần bẩy.
21 Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần ? Có phải bảy lần không?" 22 Đức Giê-su đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy."
23 Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. 24 Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. 25 Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. 26 Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy : "Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết." 27 Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. 28 Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: "Trả nợ cho tao !" 29 Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ : "Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh." 30 Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. 31 Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. 32 Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo : "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, 33 thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?" 34 Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. 35 Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình."
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
- Là Đấng đã đã dậy dỗ con cái Ít-ra-en, trong Sách Chúa Huấn Ca, biết sống bao dung quảng đại và tha thứ cho nhau. Tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình chẳng những đem lại bình an tâm hồn mà còn là điều kiện để được Thiên Chúa thứ tha mọi lỗi lầm yếu đuối mà người tín hữu đã phạm.
* Là Chúa Giê-su, Đấng đã giải đáp cho tông đồ trưởng Phê-rô một thắc mắc của cả cộng đoàn môn đệ: phải tha thứ cho an hem bao nhiêu lần? Giáo huấn của Thầy Giê-su là phải tha thứ cho anh em rất, rất, rất nhiều lần. Nói cách khác là không có định mức nào cho việc tha thứ. Vì Thiên Chúa không ấn định mức tha tội chúng ta.
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện và cùng hành động với Chúa Cha và Chúa Giê-su Ki-tô trong giáo huấn về sự tha thứ cho nhau trong cộng đoàn Dân Chúa. Chúa Thánh Thần cũng hiện diện trong long mỗi Ki-tô hữu khi họ xin lỗi nhau và tha thứ cho nhau về những xúc phạm mà họ đã gây ra cho nhau.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):
Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: “Thầy không bảo là (tha thứ cho anh em) đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.”
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, nhất là ơn được làm hòa, được xóa tội và thứ tha. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và biết ơn sâu sắc.
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa là chúng ta phải tha thứ cho những ai xúc phạm tới chúng ta, không phải chỉ tha thứ một, hai, ba, bốn..., thậm chí bẩy lần mà là tha thứ nhiều lần. Tha thứ cho anh em là như điều kiện chẳng những được Thiên Chúa tha thứ (tội lỗi) mà còn được Thiên Chúa chấp nhận lễ dâng tiến Người. [Chúa Giê-su đã từng dậy hãy để của lễ trước bàn thờ mà về làm hòa với kẻ đang bất hòa với mình, rồi mới trở lại dâng của lễ.]
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình!» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân tộc trên thế giới hôm nay, nhất là cho các dân tộc đang sống trong cảnh hận thù, ghen ghét lẫn nhau giữa các thành phần dân chúng, để họ sớm tìm được bình an và hòa giải.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Thưa anh em, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị lãnh đạo Giáo Hội, cách riêng cho Đức Thánh Cha, các Hồng Y, Giám Mục và Linh Mục để các ngài luôn luôn sống vì cộng đoàn Dân Chúa và vì những người chưa biết Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 “Hãy nhớ đến các điều răn mà đừng oán hờn kẻ khác, nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao mà không chấp nhất điều lầm lỗi.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các tín hữu trong giáo xứ/cộng đoàn chúng ta, để mọi người biết sống quảng đại, bao dung và thứ tha.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?» Chúng ta hãy cầu xin Chúa chữa lành những người nuôi dưỡng hận thù trong long và tìm mọi cách trả thù những kẻ đã vô tình hay hữu ý xúc phạm đến họ.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
------------------------------
Thiên Chúa là Đấng tha thứ cho con người mọi tội lỗi, do đó, con người cũng phải biết tha: TN24-A58
Thiên Chúa là Đấng tha thứ cho con người mọi tội lỗi, do đó, con người cũng phải biết tha thứ lẫn cho nhau.
Qua câu chuyện của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta thấy được hai thái độ khác nhau của hai chủ nợ. Người chủ nợ thứ nhất tượng trưng cho Thiên Chúa. Còn người đầy tớ mắc nợ mười ngàn nén vàng, tượng trưng cho con người tội lỗi. Mười ngàn vàng là một con số quá lớn, vượt khỏi trí tưởng tượng của người nghe. Ý muốn ám chỉ một món nợ mà con nợ sẽ không bao giờ trả hết. Cam kết trả hết nợ chỉ là một lời hứa liều khi bị dồn vào bước đường cùng, không còn lối thoát nào khác. Biết vậy, nhưng người chủ nợ lại là người nhân ái, đã động lòng thương trước lời van xin của tên đầy tớ. Và người chủ nợ đã một việc hết sức bất ngờ, đó là trả tự do và tha hết nợ cho anh ta trong khi anh ta chỉ dám xin khất nợ mà thôi.
Cũng thế, tội lỗi của con người đối với Thiên Chúa quả thực là một món nợ khổng lồ. Bình thường thì chẳng tài nào xoá đi được. Nhưng Thiên Chúa đã chạnh lòng thương. Ngài đã tha thứ không chỉ bằng một lời phán hết nợ, mà còn bằng cách cho Con Một của Ngài xuống thế làm người, rao giảng Tin Mừng cứu độ và sau cùng đã chịu chết trên thập giá để giải thoát chúng ta.
Nếu như Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, thì bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta cũng có bổn phận phải tha thứ một cách nhưng không cho người khác. Món nợ của con người đối với nhau, quả thật là nhỏ bé, là tầm thường, so với món nợ đối với Thiên Chúa. Một nén vàng là mười ngàn đồng bạc. Như thế, một vạn nén vàng vị chi là một trăm triệu đồng. Một trăm triệu đồng mà đem so với một trăm đồng thì quả là một trời một vực.
Nhưng cách cư xử của tên đầy tớ vừa mới được tha hết nợ đối với bạn hắn thì lại hoàn toàn trái ngược với thái độ của người chủ nợ đối với hắn. Cũng một lời van xin, nhưng hắn không hề nhớ tới điều hắn đã được hưởng. Người mắc nợ hắn đã bị tống giam vào ngục cho đến khi trả nợ xong. Chủ nợ của hắn buộc lòng phải đối xử với hắn như hắn đã đối xử với bạn hắn. Có điều một trăm đồng bạc thì còn có khả năng trả được, chứ mười ngàn nén vàng thì vô phương cứu chữa. Người đầy tớ không phải chỉ là một kẻ vụng tính mà còn là một con người độc ác, không có được một chút tình thương đối với người bạn của mình.
Trong kinh Lạy Cha chúng ta vốn đọc hằng ngày: Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Phải chăng đó chính là lời Chúa mời gọi chúng ta hãy biết sống khoan dung và nhân ái đối với những người chung quanh để rồi chúng ta sẽ được hưởng nhờ lòng khoan dung và nhân ái của Chúa.
------------------------------
Thánh Gandhi nói: “Nếu áp dụng luật mắt đền mắt, thế giới sẽ chỉ toàn người mù”. Sẽ không thể sống được: TN24-A59
Thánh Gandhi nói: “Nếu áp dụng luật mắt đền mắt, thế giới sẽ chỉ toàn người mù”. Sẽ không thể sống được nếu thiếu sự tha thứ. Tha thứ cần thiết cho con người như khí trời. Kể dụ ngôn hôm nay, Chúa Giêsu cho ta thấy tính cách cần thiết và cấp thiết của tha thứ.
Phải tha thứ vì con người là bất toàn. Có những xúc phạm cố ý. Nhưng rất nhiều khi xúc phạm chỉ là vô tình, thiếu ý thức. Chỉ cần một chút cảm thông, hiểu biết, tôi sẽ dễ bỏ qua, không chấp nhất. Nếu cứ mỗi lần bị xúc phạm tôi không thể nào nguôi ngoai thì chính tôi là người khổ nhất, vì tâm hồn mang nặng oán hờn sẽ không bao giờ bình an. Nếu tôi loại trừ tất cả những ai xúc phạm, thì sau cùng tôi sẽ chẳng còn sống với ai được. Tôi sẽ mất hết bạn bè. Thế giới sẽ chỉ toàn kẻ thù. Và tôi sẽ trở thành cô đơn.
Phải tha thứ vì chính ta cần được thứ tha. Tôi cần sự tha thứ của chính mình vì bản thân tôi có biết bao lầm lỗi. Nếu tôi không tự tha thứ cho mình thì lương tâm sẽ cắn rứt dày vò khiến tôi suốt đời buồn phiền. Tôi cần sự tha thứ của người khác vì tôi đã xúc phạm nhiều đến anh em. Nếu mọi người không tha thứ cho tôi thì tôi đã bị khai trừ khỏi xã hội. Tôi cần sự tha thứ của Chúa vì tôi đã lỗi phạm đến Chúa rất nhiều. Nếu Chúa thẳng tay trừng phạt những tội xúc phạm đến Người thì tôi đã chết từ lâu. Biết bản thân mình yếu đuối, nhiều lỗi lầm, cần được tha thứ, tôi sẽ dễ cảm thông tha thứ cho anh em.
Phải tha thứ vì đó là điều kiện để được thứ tha. Trong Tin Mừng, Chúa nhấn mạnh điều này rất nhiều lần. Khi dạy ta đọc kinh Lạy Cha, Chúa bắt ta phải hứa tha thứ cho anh em khi xin Người tha thứ lỗi lầm của ta. Ở cuối kinh Lạy Cha, thánh Matthêu còn thêm: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15).
Dụ ngôn hôm nay không những nhắc lại điều đó, mà còn cho thấy, tội ta xúc phạm đến Chúa muôn ngàn lần nặng nề hơn anh em xúc phạm đến ta. Thế mà Chúa vẫn sẵn sàng tha thứ cho ta một cách mau chóng, nhẹ nhàng, chỉ với một điều kiện là ta cũng phải tha cho anh em những lỗi lầm ít ỏi anh em xúc phạm đến ta.
Sau cùng ta cần tha thứ để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là người Cha rất nhân từ và rất hay tha thứ. Chúa Giêsu đã khắc họa rất rõ nét chân dung nhân từ của Thiên Chúa Cha trong dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”. Và Người không ngừng mời gọi ta hãy nên hoàn thiện như Chúa Cha.
Chúa Giêsu xuống trần gian cho ta được chiêm ngưỡng khuôn mặt hiền hậu nhân từ hay tha thứ của Chúa Cha. Suốt cuộc đời trần thế, Người không ngừng tha thứ cho kẻ tội lỗi. Nhất là những kẻ đã xúc phạm đến Người. Còn cảnh tượng nào đẹp hơn cảnh tượng Người bị treo trên thập giá mà trái tim vẫn mở rộng yêu thương tha thứ. Còn lời nào đẹp hơn lời Người cầu nguyện trong lúc đau đớn tột cùng mà vẫn nhớ đến người khác, không phải nhớ đến người làm ơn mà là nhớ đến những người xúc phạm, làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Và khi từ cõi chết sống lại, Người đã tha thứ cho Phêrô dù môn đệ thân tín này đã chối Người. Người đã tha thứ cho các môn đệ dù các ông đã bỏ mặc Người trong lúc gian nan.
Sự tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn con người. Vẻ đẹp tự chế. Vẻ đẹp khoan dung. Vẻ đẹp của tâm hồn vượt lên trên chính mình. Vẻ đẹp đề cao giá trị con người.
Sự tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới. Một thế giới cảm thông, chan hòa. Một thế giới chứa chan tình huynh đệ. Một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa.
Lạy Chúa xin thương xót chúng con.
----------------------------------
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Liền sau Thế chiến thứ hai chấm dứt, bà Corrie-Ten-Boom, với những vết thẹo trên thân thể, tàn: TN24-A60
Liền sau Thế chiến thứ hai chấm dứt, bà Corrie-Ten-Boom, với những vết thẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình mà bà phải chịu trong trại tập trung Đức Quốc Xã, đã dấn thân đi khắp các nước Âu Châu để rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình. Bà rao giảng sứ điệp tha thứ với niềm xác tín là chính mình đã thực sự tha thứ cho tất cả những ai đã hành khổ bà trong trại tập trung.
Nhưng vào trong một ngày Chúa Nhật kia, sau khi đã kêu gọi mọi người tha thứ cho nhau trong nhà thờ của thành phố Munich, ở Đức, bước ra ngoài, bà Corrie-Ten-Boom bất ngờ đối diện với một gương mặt quen thuộc, đó là dung mạo của người lính đã hành khổ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung Đức Quốc Xã. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn phút chốc xuất hiện trong tâm trí bà. Những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí bà. Người đàn ông tiến lại gần khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt lấy tay bà vừa nói: “Thưa bà, tốt rất cảm ơn những lời đẹp đẽ bà đã kêu gọi cho sự tha thứ, xin bà tha thứ cho tôi”.
Lúc đó, bà Corrie-Ten-Boom như chết điếng người, vì trước đây nhiều lần bà đã cầu nguyện và đã nhất quyết với Chúa là đã tha thứ thật sự cho kẻ hành khổ mình, nhưng giờ đây phải đối diện với một người cụ thể đã từng tra tấn mình, bà Corrie-Ten-Boom đứng lặng im, hai bàn tay không thể nào đưa ra bắt lấy đôi tay của người đến xin bà tha thứ.
Sau này, vào năm 1971, khi kể lại biến cố trong tập sách có tựa đề: “Nơi ẩn trốn”, bà Corrie-Ten-Boom đã cho biết như sau: “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa một lời cầu nguyện thầm: “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó, bà đã hiểu là con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình thương yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
* Tại sao phải tha thứ cho nhau?
Không phải chỉ bây giờ chúng ta mới đặt ra câu hỏi này. Khi Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng của tình thương và sự tha thứ, thì các môn đệ cũng đã đặt ra câu hỏi tương tự như vậy.
* Tại sao phải tha thứ và tha thứ bao nhiêu lần?
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay đã trả lời cho câu hỏi chúng ta vừa đặt ra: Tại sao phải tha thứ và phải tha thứ bao nhiêu lần? – Chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Chúng ta cần tha thứ luôn luôn cho anh em, vì Thiên Chúa luôn luôn tha thứ cho chúng ta.
Như thế, tha thứ là sống noi gương Thiên Chúa Cha, Đấng đầy lòng nhân từ và giàu lòng thương xót. Tình thương tha thứ là một phát minh tuyệt vời của Thiên Chúa để giúp con người sống hiệp thông với Ngài và hiệp thông với nhau, để xây dựng tốt đẹp cộng đoàn xã hội.
Nếu như từ đầu, khi con người phạm tội xa cách Ngài mà Thiên Chúa đã không có biện pháp tha thứ, thì chắc chắn sẽ không có tương lai gì tốt đẹp cho con người, nhưng kể từ giây phút có sáng kiến thực hiện chương trình tha thứ cho con người, thì từ giây phút đó nhân loại có thể hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn, nếu nhân loại biết vâng phục lắng nghe lời dạy của Ngài mà tha thứ cho nhau.
Vậy mỗi lần ta tha thứ cho anh chị em là mỗi lần ta để tâm hồn mình hòa điệu với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng nhân từ và hay tha thứ. Mỗi lần ta tha thứ cho anh chị em là mỗi lần ta thoát ra khỏi cảnh nô lệ cho những giới hạn ích kỷ của con tim mình, để hòa mình với những tâm tình yêu thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa.
Trong câu chuyện dụ ngôn, Chúa cho thấy món nợ của con người với Chúa thật to lớn, đời đời không trả được. Nhưng Chúa là tình yêu, Ngài sẵn sàng tha thứ tất cả. Còn món nợ giữa con người với tha nhân tương đối nhỏ, có thể hoàn trả được, thế nhưng con người không biết chờ đợi, không biết yêu, nên không tha thứ cho nhau được.
Con người không biết tha thứ cho anh em, đối xử với anh em tàn tệ là tự chuốc lấy cho mình cơn thịnh nộ của Thiên Chúa: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì người đã van xin ta; con ngươi, sao không chịu thương hại bạn ngươi như ta đã thương hại ngươi?”và Chúa kết luận: “Vậy Cha Ta trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu anh em không hết lòng tha thứ cho nhau”. Như thế, từ chối tha thứ cho anh em là ngăn chặn ơn tha thứ đang dào dạt tuôn chảy vào tâm hồn mình vậy. “Vì chính khi thứ tha là khi chúng ta được Thiên Chúa tha thứ”.
Thưa anh chị em,
Trong đời sống thực tế, muốn biết thật lòng tha thứ thì hãy biết quên đi những lỗi lầm của anh em. Đừng nhắc đi nhắc lại, đừng nhớ dai, đừng tích chứa trong lòng. Chuyện ngày xửa ngày xưa, ba bốn đời… khi vui, thuận vợ thuận chồng, thì không nói, khi không bằng lòng nhau thì lôi chuyện cũ xào nấu lại làm cho nhau đau khổ. Còn Chúa, đã tha thứ thì Ngài tha luôn, vì “nếu Chúa tôi nhớ hoài tội lỗi, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 129).
Chúng ta hãy cầu nguyện như Bà Corrie-Ten-Boom khi thấy mình không thể tha thứ được: “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ được cho anh em con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Amen.
----------------------------------
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Hãy tưởng tượng ra ngày ấy, cái ngày mà các bạn phải chết. Toàn bộ cuộc sống sẽ diễn ra trước mặt: TN24-A61
Hãy tưởng tượng ra ngày ấy, cái ngày mà các bạn phải chết. Toàn bộ cuộc sống sẽ diễn ra trước mặt bạn. Trước hết, bạn sẽ thấy những gương mặt quen thuộc, người phối ngẫu của bạn, những đứa con, ông chủ, bạn bè thân thiết, cha mẹ. Bạn nhận ra rằng nếu bạn muốn, bạn có thể chọn một trong những người ấy làm quan toà xét xử bạn.
Đầu tiên bạn nghĩ: “Dĩ nhiên tôi chọn người phối ngẫu của mình rồi, chúng tôi yêu nhau thật sự mà”. Nhưng kế đó các bạn nhớ lại bao nhiêu lần cãi cọ, bao nhiêu lần đánh nhau nên các bạn sẽ sợ họ bây giờ vẫn chưa quên đâu. Còn con cái của bạn? Bọn chúng nghĩ rằng các bạn quá khó đối với chúng. Còn những người bạn thân thiết? Các bạn sợ họ biết quá nhiều về bạn.
Vậy bạn chọn cha mẹ khi nhìn thấy những gương mặt già nua. Nếu được chọn bạn sẽ chọn Thánh Phanxico de Salesio, người nổi tiếng là hiền lành và hay thương người. Đó là một chọn lựa không tồi. Hay bạn sẽ chọn thánh Vinh Sơn, một cng nổi tiếng về đức ái khó tìm thấy trong thế giới này. Bạn nghĩ, ông thánh này quá tốt rồi. Và rồi những vị thánh khác liên tiếp xuất hiện trước bạn. Sau hết bạn thấy Đức Trinh Nữ Maria, bạn liền nghĩ: “Dĩ nhiên mình sẽ chọn được phán xét bở người mẹ dịu dàng, tử tế và đáng yêu của mình và cũng là người mẹ đời sống thiêng liêng của mình nữa”.
Nhưng trước khi bạn kịp nói điều gì, Đức Trinh Nữ Maria đã đẩy bạn vào tay Con Mẹ. Chúa Giêsu dẫn bạn đến trước một cái ngai chỉ cho bạn thấy trên ngai đó, Người đó là Đức Chúa Cha. Chúa Giêsu nói: “Đây là Đấng phán xét con, đừng chọn một ai khác”.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu nói đúng. Tự nhiên chúng ta hy vọng rằng những người gần gũi với chúng ta trong suốt đời sống sẽ nhân từ với chúng ta trong phán xét hơn. Chúng ta cũng tin rằng Mẹ Maria rất nhân từ và thương yêu chúng ta. Nhưng Mẹ Maria và tất cả các thánh chỉ được thông dự vào sự nhân từ và thương xót của Thiên Chúa, không những Thiên Chúa sở hữu sự nhân từ trong một mức độ vô biên nhưng Thiên Chúa còn thật sự là sự nhân từ nữa. Thiên Chúa là sự nhân từ và là sự thương xót.
Vị Vua trong dụ ngôn của Chúa Giêsu là Cha của Người. Khi các bạn của vua xin vua hãy khoan giãn cho y và cho y một thời hạn để trả hết số nợ, vị vua đã tha hết số nợ đó, Người xoá sạch số nợ ấy và Người không còn nhớ gì đến nó nữa. Dĩ nhiên là một vị vua nhân loại sẽ không làm một điều như thế bởi vì con người rất giới hạn. Bạn có thể chắc chắn rằng thẻ tín dụng của bạn sẽ không xoá số nợ của bạn cho dù các bạn có năn nỉ hay nài xin thế nào đi nữa. Nhưng chúng ta không thể minh hoạ bức tranh về Thiên Chúa theo kinh nghiệm của con người nhân loại được. Chúng ta chỉ biết lòng nhân từ của Thiên Chúa qua Người Con của Người.
Dù đã xoá hết nợ nần là tội lỗi của chúng ta, Thiên Chúa Cha vẫn trao ban Con của Người cho cái chết vì chúng ta và để cứu độ chúng ta. Chúng ta đừng bao giờ quên hành động quảng đại tuyệt vời của Thiên Chúa. Hãy chăm chú lắng nghe những lời thánh hiến trên rượu. Qua miệng của vị linh mục, Chúa Giêsu nói với chúng ta trong mỗi Thánh Lễ: “Đây là chén Máu Ta…”. Và Người đã tha thứ cho tội lỗi chúng ta, xoá sạch… Khi chúng ta làm đầy đủ điều kiện của Thiên Chúa, đó là cố gắng tha thứ cho người khác như Người đã tha thứ cho chúng ta. Chúng ta phải nói cách can đảm: “Xin tha thứ cho chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi”. Điều này phải hiện hữu trong trái tim chúng ta, khi chúng ta làm một hành động tha thứ. Khi chúng ta xin tha thứ trong suốt hy tế Thánh Thể, khi chúng ta cử hành nghi thức Sám hối. Sách Khôn ngoan nhắc nhở chúng ta: “Hãy nhớ đến ngày cuối cùng của bạn, bỏ sự thù địch qua một bên. Hãy nhớ đến cái chết và đừng phạm tội nữa”. Nhưng sự phong phú của khôn ngoan thì vui mừng với Thiên Chúa và chính Người chứ không phải ai khác sẽ phán xét chúng ta.
----------------------------------
Phêrô rất bị đụng chạm do những lời khuyên về cuộc sống huynh đệ. Ông đã nghe các luật sĩ : TN24-A62
Phêrô rất bị đụng chạm do những lời khuyên về cuộc sống huynh đệ. Ông đã nghe các luật sĩ tranh luận về việc tha thứ. “Đối với vợ, ngươi có thể tha thứ cho vợ một lần... Đối với anh em, ngươi phải tha thứ co anh em năm lần”. Còn quan điểm của Chúa Giêsu thì sao?
- Tôi phải tha thứ bảy lần phải không?
- Ngươi hãy tha thứ bảy mươi lần bảy.
Đứng trước câu trả lời này, một trong những câu trả lời điên rồ nhất của toàn bộ Tin Mừng, lúc này đây chúng ta có thể ở trong một tình trạng bi đát hết sức an bình. Bi đát: Chúa đang yêu cầu chúng ta một sự tha thứ rất khó khăn và tất cả đảo lộn trong ta khi nghĩ đến điều đó. An bình: cuộc sống của chúng ta thanh thản đến độ sự đòi hỏi của Chúa Giêsu đối với chúng ta dường như rất dễ: chắc chắn là phải luôn luôn tha thứ.
Lý thuyết! Chúng ta hãy nhìn chung quanh chúng ta mà xem! Ai tha thứ? Thậm chí ngươì ta nghĩ rằng tha thứ sẽ khuyến khích những gì không thể tha thứ được. “Nào xin bạn cứ tự nhiên!”. Việc nghe theo Chúa Giêsu yêu cầu có một sự đảo ngược.
Tôi lấy lại hai hoàn cảnh trên. Nếu tôi hoàn toàn bị đảo lộn đứng trước một điều gần như không thể tha thứ được (nhưng người ta vẫn luôn luôn nói là sự tha thứ), Chúa Giêsu kêu gọi tôi tha thứ ngay lập tức, mặc dầu những thương tổn và những phản kháng của tôi. Ngay lập tức. Chúng ta huỷ diệt Tin Mừng và sự sống của chúng ta khi chúng ta chờ thời, khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta không có khả năng thực hiện điều mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta. Làm cho chúng ta có khả năng, đó là công việc của Ngài, công việc của Thánh Linh. Phần chúng ta là phải đối diện với lơì kêu gọi đó và kêu xin Chúa Giêsu: con muốn, nhưng con không thể làm được, xin Chúa giúp con!
Nếu tôi không có vấn đề gì cả, sự đòi hỏi của Chúa Giêsu là một liều thuốc phòng ngừa. Sự đòi hỏi đó lôi kéo tôi đi ngược dòng một thế giới kiêu ngạo từ chối tha thứ.
Bởi vì đây đúng là một cuộc chiến chống lại sự kiêu ngạo, luôn luôn sẵn sàng bi kịch hoá các điều sỉ nhục và dựng lên những bức tường trước những ý tưởng hoà giải. Lòng kiêu ngạo rất biết cách nguỵ trang thành danh dự, thành lương tri, thành công bằng, thành sự tự vệ hợp pháp, thành lo lắng không tạo thuận lợi cho những kẻ xấu, đến nỗi trước tiên cần phải loại bỏ lòng kiêu ngạo đó đi đã: “Lòng kiêu ngạo ơi, đừng có mà len lỏi vào đó”.
Trong bầu không khí trong sạch hơn, chúng ta có thể xem xét ý tưởng cho rằng có những sự tha thứ xấu. Khi tôi chấp nhận mỉm cười và giơ tay ra bởi vì điều đó thu xếp ổn thoả cho tôi, thì đó là tôi không tha thứ, mà là tôi dùng mánh lới. Khi tôi tha thứ cho một tay độc tài áp bức những người yếu kém, thì đó là tôi không tha thứ, mà là tôi sợ. Nếu đó là những sự tha thứ thật sự có giá trị, thì có hai điều có thể làm cho mỗi người trong chúng ta trở thành một người sẵn sàng tha thứ và đấu tranh chống lại nhiều cái “Không thể tha thứ được!” đang đầu độc bất cứ cuộc sống chung nào.
Trước hết, nghĩ đến một người mà chúng ta biết rõ và đã có lần từ chối tha thứ. Đo lường tình trạng lộn xộn của cuộc sống. Sự nghiền ngẫm nội tâm của người đó dồn cho bạn những chi tiết về sự lầm lẫn mà người ta đã làm cho người đó, về người đã xúc phạm hoặc phản bội người đó. Trong khi suy nghĩ về tất cả những điều đó, người ta thề thốt sẽ không bao giờ rơi vào trong sự mất khả năng lật một trang mới nữa.
Tin Mừng cống hiến cho chúng ta một cách khác để vun trồng nơi chúng ta khả năng hoà giải với nhau rất nhanh: đặt những sự tha thứ của chúng ta trong sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta không bao giờ là một người công chính sẽ làm cho lòng khoan dung của Ngài rơi xuống trên một kẻ phạm lỗi đáng thương. Cả hai chúng ta đều là những người được tha thứ, được mơì gọi đi vào trong cùng một quỹ đạo của sự tha thứ.
Đó là quỹ đạo của Kinh Lạy Cha “Xin tha thứ cho con như thể người ta tha thứ cho một người con bởi vì trong khi tha thứ, con cố gắng trở thành con của Ngài”. Tự bảo: “Tôi sẽ không bao giờ từ chối tha thứ”, tương đương với: “Tôi muốn vẫn thuộc về gia đình của Thiên Chúa”.
----------------------------------
(Giải thích Tin Mừng Chúa Nhật của Lm Cantalamessa - Người giảng Phủ Giáo Hoàng giải thích về Tin Mừng Chúa Nhật)
Trong bài giải thích của ngài về các bài đọc Chúa nhật, Cha Capuchin Raniero Cantalamessa: TN24-A63
Trong bài giải thích của ngài về các bài đọc Chúa nhật, Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, người giảng Phủ Giáo Hoàng, giải đáp câu hỏi tha thứ bao nhiêu lần mới coi là quá nhiều:
* * *
NHƯNG NGƯỜI TA PHẢI THA THỨ BAO NHIÊU?
Tha thứ là một sự nghiêm chỉnh, nếu có thể thì rất khó đối với con người. Người ta không phải nói về sự tha thứ cách nông nổi, khi yêu cầu người ấy tha thứ mà không nhận thức những gì người ta xin với một người bị xúc phạm.. Cùng với lệnh phải tha thứ, con người cũng phải được cho một lý do để làm như vậy.
Đó là điều Chúa Giêsu đã làm với dụ ngôn ông vua và hai tên đầy tớ của vua. Dụ ngôn nói rõ tại sao người ta phải tha thứ: bởi vì Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta trong quá khứ và tiếp tục tha thứ cho chúng ta!
Thiên Chúa xóa một món nợ của chúng ta vô cùng to lớn hơn món nợ mà người anh em có thể nợ với chúng ta. Sự khác biệt giữa món nợ mắc với nhà vua (10 ngàn nén) và món nợ mắc với người đồng nghiệp (100 đồng) tính theo giá hiện tại bằng 3 triệu euros và một vài xu ($3.7 million)!
Thánh Phaolo đã nói: "Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau" (Colossians 3:13). Luật Cựu Ước, "mắt đền mắt, và răng đền răng," đã bị khắc phục. Không còn tiêu chuẩn này nữa: "Hảy làm cho kẻ khác điều nó làm cho anh", nhưng, "Điều Thiên Chúa đã làm cho anh, anh hãy làm cho kẻ khác." Nhưng, Đức Giêsu không hạn chế mình vào sự ra lệnh cho chúng ta phải tha thứ, nhưng chính Người đã làm vậy trước. Đang khi Người bị đóng đinh trên thập giá Người đã cầu nguyện rằng: "Lạy Cha,xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm!" (Lc. 23:34}. Đó là điều phân biệt giữa đức tin Ki tô hữu với bất cứ tôn giáo nào khác.
Đức Phật cũng đã để lại một châm ngôn " Không phải với sự oán giận mà sự oán giân được thoa dịu; với sự không-oán giận, sự oán giận mới được thoa dịu." Nhưng Chúa Kitô không hạn chế mình trong việc chỉ rõ con đuờng trọn lành; Người ban sức mạnh để theo sự trọn lành. Người không chỉ ra lệnh chúng ta phải làm, nhưng Người làm với chúng ta. Ân sủng hệ tại là ở chỗ này. Sự tha thứ Kitô hữu vượt xa sự không-bạo tàn và sự không-oán hận.
Có người thắc mắc: việc tha thứ bảy mươi lần bảy không có nghĩa là khuyến khích sự bất côn g và bật đèn xanh cho lạm dụng sao? Không, sự tha thứ Kitô hữu không loại trừ sự kiện, trong đôi truờng hợp, anh cũng có thể phải tố giác một người và đưa họ ra tòa án, nhất là khi điều bị đe dọa là những quyền lợi và cũng là ích lợi của kẻ khác. Xin nêu lên một ví dụ gần chúng ta: sự tha thứ Kitô hữu không ngăn cấm những người phụ nữ của một số nạn nhân bị góa bụa do sự khủng bố hay do mafia, đã theo đuổi chân lý và công lý cách kiên trì liên quan cái chết của chồng mình.
Nhưng, không chỉ có những hành vi cả thể tha thứ mà còn những hành vi tha thứ hằng ngày, trong đời sống vợ chồng, lúc lao động, giữa những thân nhân, bạn bè, đồng nghiệp và những người quen thuộc. Điều gì người ta có thể làm khi người ta khám phá rằng mình bị chính bà vợ mình phản bội? Tha thứ hay phân ly? Đó là một câu hỏi hết sức tế nhị, không luật nào có thể được áp đặt từ bên ngoài. Cá nhân phải khám phá trong mình phải nên làm gì.
Nhưng tôi có thể nói một sự. Tôi biết những trường hợp mà bên bị xúc phạm đã tìm được, trong tình yêu đối với kẻ khác, và nhờ sự trợ giúp đến từ sự cầu nguyện, đã có sức mạnh tha thứ cho kẻ đã lầm lạc, nhưng chân thành sám hối. Hôn nhân được tái sinh như từ đống tro, nó có một thứ bắt đầu mới. Dĩ nhiên, không ai có thể chờ đợi điều nảy có thể xảy ra trong đời sống vợ chồng "bảy mươi lần bảy."
Chúng ta phải cảnh giác để khỏi phải mắc bẫy. Cũng có nguy hiểm trong việc tha thứ. Nguy hiểm đó tùy thuộc vào tâm trạng của những người tưởng rằng họ luôn luôn có một cái gì phải tha thứ cho kẻ khác-- nguy hiểm vì tin rằng người ta luôn là chủ nợ sự tha thứ và không bao giờ là người mắc nợ.
Nhưng nếu chúng ta suy tư kỹ nhiều lần, khi chúng ta sắp nói: "Tôi tha thứ cho anh!", chúng ta đáng lý sẽ làm tốt hơn để thay đổi thái độ và những lời nói, và nói với người đối diện chúng ta: "Xin tha thứ cho tôi!" Lúc đó chúng ta phải công nhận chúng ta cũng có cái gì người khác phải tha thứ. Trên thực tế, còn quan trọng hơn việc tha thứ là sự khiêm tốn xin tha thứ.
----------------------------------
Người nào đã được Thiên Chúa tha cho những món nợ khổng lồ thì không còn có thể coi người TN24-A64
Người nào đã được Thiên Chúa tha cho những món nợ khổng lồ thì không còn có thể coi người nào khác như mắc nợ với mình nữa.
Lm. Vũ Phan Long, ofm
I. NGỮ CẢNH
Với ch. 18 của TM Mt, chúng ta đi vào Bài Diễn từ thứ tư, đề cập đến đời sống huynh đệ trong lòng Hội Thánh, cộng đoàn Kitô hữu. Bài Diễn từ được chia thành hai phân đoạn, phân đoạn thứ nhất đề cập đến “những kẻ bé mọn” (18,1-14) và phân đoạn thứ hai liên hệ đến người anh em phạm tội (18,15-35). Mỗi phân đoạn kết thúc với một dụ ngôn: con chiên lạc (18,12-14), và ông vua và người đầy tớ (18,21-35).
Sau đây là bố cục chung cho cả bài Diễn từ:
Mối quan tâm đến những kẻ bé mọn (18,1-14):
Người lớn và kẻ bé mọn (cc. 1-5),
Đừng khinh những kẻ bé mọn (cc. 6-10),
Kết luận bằng Dụ ngôn: Quan tâm đến những kẻ lầm đường lạc lối (cc. 12-14);
Kỷ luật và Tha thứ (18,15-35):
Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô (cc. 15-20),
Tha thứ không giới hạn (cc. 21-22),
Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (cc. 23-35).
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành ba phần:
Nguyên tắc: Tha thứ không giới hạn (18,21-22);
Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (18,23-35):
Phần 1: Ông vua và người đầy tớ (18,23-27),
Phần 2: Người đầy tớ và anh bạn (18,28-30),
Phần 3: Ông vua và người đầy tớ (18,31-34);
Kết luận của Đức Giêsu (18,35).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Con phải tha đến mấy lần (21): Truyền thống kinh sư Do Thái thường nói đến con số 4 như là con số tối đa. Phêrô nâng lên tới 7, tưởng đã hợp ý Thầy! Đức Giêsu nói: “Bảy mươi bảy lần (hepdômêkontakis hêpta)”, vì Người lấy lại bài ca báo thù của Laméc trong St 4,24 (“Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng Laméc thì gấp bảy mươi bảy”), nhưng lật ngược lại theo chiều hướng sự tha thứ. Có bản dịch đọc là “bảy mươi lần bảy”, hoặc “bảy mươi lần bảy lần”. Mọi cách đều có ý nói: phải tha thứ không giới hạn.
- đầy tớ (23): Doulos có thể là bất cứ hạng nô lệ nào, vì không phải là chuyện lạ khi có những nô lệ được giao cho công việc tài chánh.
- Mắc nợ mười ngàn yến vàng … một trăm quan tiền (24.28): Nếu dựa theo lượng định của sử gia F. Giôxép, cùng thời với Đức Giêsu, một yến vàng vào thời đó trị giá mười ngàn quan (lương công nhật là một quan). Vậy mười ngàn yến vàng trị giá một trăm triệu quan: tỷ lệ giữa hai món nợ là 1/1.000.000. Thật ra, đây là một con số phóng đại, bởi vì thuế cống nạp của một tỉnh trong đế quốc Rôma cũng không vượt quá vài trăm yến vàng. Đức Giêsu có ý nói rằng đây là một con số lớn tối đa (10.000 là con số lớn nhất vẫn được sử dụng và yến vàng là đơn vị tiền tệ to nhất thời ấy).
- Tôn chủ ra lệnh bán y, vợ con y (25): Luật Do Thái chỉ cho phép bán một người Israel nếu người này đã ăn trộm mà không thể bồi hoàn. Thế mà ở đây bản văn không hề nói là người đầy tớ đã trộm cắp, nhưng chỉ nói là anh ta không thể trả nợ. Đàng khác, luật Do Thái lại triệt để cấm bán phụ nữ. Như thế, truyện giả thiết là vị vua cũng như các đầy tớ là những người ngoại giáo.
- buồn lắm (31): Động từ lypeomai có thể diễn tả một tổng hợp giữa buồn phiền, giận dữ và nhờm tởm, chứ không chỉ là nỗi buồn phiền.
- trình bày đầu đuôi câu chuyện (31): Động từ diasapheô có nghĩa là “nói toạc ra hết; làm sáng tỏ”.
- thương xót (33): Ở đây là động từ eleeô của truyền thống Kinh Thánh, tương tự động từ splanchnizomai của đời thường.
- trao y cho lính hành hạ (34): Hành hạ những con nợ đã bị bán làm nô lệ là một cách để thúc đẩy bà con và bạn bè bỏ tiền ra mà mua tự do cho người bị hành hạ.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
Đức Giêsu thường nói về sự cần thiết phải tha thứ cho những người đã xúc phạm đến chúng ta. Cứ mỗi lần Người lại lưu ý rằng ơn tha thứ của Thiên Chúa mà chúng ta muốn nhận, vì cần thiết cho việc cứu độ của chúng ta, lệ thuộc thái độ chúng ta sẵn sàng tha thứ. Mối Phúc thứ năm (Mt 5,7) đặc biệt đề cập đến lòng từ bi thương xót khi tha thứ và loan báo rằng Thiên Chúa sẽ tha thứ cho những ai biết tha thứ (x. 18,33; Kinh Lạy Cha: 6,12).
Đến cuối bài Diễn từ thứ tư, nói về cách xử sự trong cộng đoàn các môn đệ, Đức Giêsu đã trở lại mà nói chi tiết hơn về sự tha thứ.
* Nguyên tắc: Tha thứ không giới hạn (21-22)
Câu hỏi của Phêrô dẫn tới đề tài “sự tha thứ”. Đối với ông, đã rõ ràng là các môn đệ của Đức Giêsu buộc phải tha thứ cho kẻ “phạm tội chống lại con” ([h]amartêsê eis eme), nhưng ông muốn biết là phải thi hành bổn phận này như thế nào. “Bảy lần” mà ông gợi ra không hề không đáng kể. “Bảy” là con số truyền thống nói về sự hoàn hảo. Như thế, Phêrô gợi ý là tha bảy lần không hề có nghĩa là ông chỉ muốn ban cho người anh em một sự tha thứ giới hạn. Câu hỏi của ông thật ra có nghĩa là: “Phải chăng con được chờ đợi tha thứ hoàn hảo?”.
Đức Giêsu có thể chỉ cần trả lời “đúng thế”, nhưng Người cho một câu trả lời dài hơn để nói rằng còn phải hoàn hảo hơn thế nữa. Ông cứ phải tha thứ cách hoàn hảo nhất, liên tục, vô biên, không biên giới, không tính toán. Câu trả lời của Đức Giêsu đã đưa đến mức cùng cực. Đây là một chương trình, chứ không chỉ là chuyện thực tế. Rất có thể tác giả đang nghĩ đến St 4,24; nếu không, chúng ta không có cách nào khác để giải thích công thức lạ lùng là “bảy mươi lần bảy”. Đức Giêsu cho Phêrô biết rằng sẽ không bao giờ đến cái lúc mà chúng ta có thể nói: Bây giờ tôi đã tha thứ đủ rồi; bây giờ tôi không còn bị buộc phải tha thứ nữa; đối với tôi mức độ tha thứ đã đạt rồi! Với công thức “bảy mươi lần bảy”, Người không muốn nêu ra một khối lượng các trường hợp đo lường được, nhưng nhắm khẳng định rằng bổn phận tha thứ không hề có một giới hạn nào.
* Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (23-35)
Với dụ ngôn “Tên mắc nợ không biết thương xót”, Đức Giêsu nới rộng chân trời, cung cấp lý do và thức tỉnh sự hiểu biết lý do tại sao chúng ta phải tha thứ không mức độ. Hình ảnh một vị “vua” dễ dàng khiến độc giả và thính giả Do Thái nghĩ đến Thiên Chúa. “Thanh toán sổ sách” (synairô logon) cũng là một ẩn dụ quen thuộc để nói về phán xét. Trong Kinh Thánh, từ ngữ “đầy tớ” mang sắc thái tôn giáo, để chỉ những người “phụng sự” Thiên Chúa.
Trong câu hỏi của Phêrô, rồi trong cách xử sự của tên đầy tớ không biết thương xót (18,28-30), cái nhìn thu hẹp lại và chỉ nhắm đến quan hệ giữa tôi và người mắc nợ tôi: vì có gì mà tôi cứ phải liên tục chịu đựng những thiệt thòi? Đức Giêsu nhắc ta nhớ đến Thiên Chúa và sự tha thứ ta đã nhận được từ nơi Ngài. Như vậy, quan hệ là giữa Thiên Chúa, tôi trong tư cách là con nợ của Người và người thân cận của tôi đã trở thành con nợ của tôi. Dụ ngôn muốn cho chúng ta thấy rằng chúng ta mắc nợ Thiên Chúa thế nào và Ngài đã xử chúng ta với lòng thương xót thế nào. Trên bối cảnh này, ta thấy rõ cách phải theo mà lượng định cách xử sự không thương xót đối với người thân cận nay đã thành con nợ.
Phần đầu của dụ ngôn (18,23-27) giới thiệu đức vua (Thiên Chúa) và con nợ của ngài. Người đầy tớ thứ nhất mắc nợ nhà vua mười ngàn yến vàng. Đây là một con số quá lớn chắc chắn khiến thính giả phải sửng sốt. “Con nợ” và “mắc nợ” là những từ ngữ dễ dàng gợi ra những sắc thái tôn giáo. Đối với các thính giả của Đức Giêsu nói tiếng A-ram, từ ngữ khôva’ có cả hai nghĩa, món nợ về tiền bạc và tội.
Nếu nhà vua nhất định đòi lại nợ, tức là yêu cầu công bình phải được tôn trọng, người đầy tớ sẽ mất hết những gì làm nên cuộc sống của anh. Anh sẽ phải thanh toán món nợ bằng chính bản thân, tự do, gia đình và gia sản của anh: anh sẽ mất tất cả mọi thứ ấy và cuối cùng sẽ rơi vào tình cảnh khốn quẫn hết sức thê thảm, anh sẽ rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng. Theo Jeremias, giá của một nô lệ vào khoảng năm trăm đến một ngàn quan. Đứng trước số phận như thế, người đầy tớ đã khẩn cầu nhà vua cho khất một thời gian. Ai cũng biết rằng đây là một món nợ không thể thanh toán. Tuy nhiên, nhà vua biết rõ hoàn cảnh tuyệt vọng của người đầy tớ và đã động lòng thương: ông không ưng thuận cho triển hạn như anh xin, nhưng ông xóa hoàn toàn món nợ cho anh; “ông tha”: động từ aphiêmi cũng có nhiều nghĩa, và có thể gợi ra sắc thái tôn giáo. Như thế, người đầy tớ không những được giải thoát khỏi món nợ, nhưng còn thoát nỗi bất hạnh và cảnh khốn quẫn vẫn đe dọa anh lâu nay, và có thể nói, anh được hồi phục sự sống. Hẳn là anh phải có lòng biết ơn vô hạn đối với nhà vua và sẵn sàng noi gương ông, có một con tim như ông, mà tỏ ra từ bi thương xót với người khác (x. 5,48; 18,33).
Trong phần thứ hai của dụ ngôn (18,28-30), con nợ vừa được ân xá gặp một người đầy tớ đồng bạn (syndoulos), từ này gợi ý là hai người thuộc về cùng một giai cấp, thì lẽ ra phải có tình liên đới với nhau. Người bạn này chỉ nợ anh một món nhỏ, một trăm quan. Bằng cách đó, Đức Giêsu đánh giá tương quan giữa món nợ chúng ta mắc với Thiên Chúa và món nợ mà người thân cận mắc với chúng ta. Người đầy tớ vừa được tha thứ đã quên hết mọi sự. Cách xử sự của hắn hoàn toàn ngược lại với tấm gương mà hắn đã nhận từ chủ. Hắn tỏ ra ác độc và tàn nhẫn, hắn muốn thu hồi khoản nợ. Hắn nhào vào con nợ và bóp cổ; điều này cho hiểu là hắn mất tự chủ. Người bạn phản ứng đúng y như hắn đã xử sự trước mặt nhà vua; thật ra trả món nợ này là việc hoàn toàn có thể làm. Nhưng hắn không thèm nghe lời thỉnh cầu của người ấy. Hắn không chấp nhận triển hạn. Hắn vận dụng những phương tiện to lớn nhất, hắn bỏ người kia vào tù. Hắn không bán người bạn để có tiền, không phải vì hắn thương xót anh ta, nhưng bởi vì số tiền nợ ít hơn là giá bán một nô lệ, nên theo luật Do Thái, hắn không được bán người bạn. Hắn không quan tâm đến con người, hắn chỉ quan tâm đến món nợ thôi. Thật ra, cách xử sự này, tuy có thô bạo, nhưng không phải là khác thường. Nếu độc giả cảm thấy rất khó chịu về lối cư xử này, là vì đã được nghe biết sự tha thứ vô tiền khoáng hậu ở cc. 24-27. Vì những gì đã xảy ra trước, sự thô bạo thông thường trong đời sống bị coi như là điều hết sức xúc phạm. Vậy các sự cố ở cc. 24-27 đã thay đổi cái nhìn của các độc giả.
Phần thứ ba (18,31-34) lại mở ra hoạt cảnh ông vua và các đầy tớ với con nợ của ông, kẻ đã tỏ ra thiếu lòng thương xót. Các đầy tớ khác thấy như thế, cảm thấy vừa buồn phiền, vừa tức giận, vừa nhờm tởm, đã đi tường trình rõ ràng mọi sự với nhà vua. Bây giờ vua nổi cơn thịnh nộ, ông không yêu cầu giải thích nữa, ông gọi hắn là “đầy tớ độc ác” (doule ponêre). Độc giả hiểu là án xử đã được quyết định. Nhà vua nhắc cho tên đầy tớ món nợ lớn ông đã tha hoàn toàn cho hắn và bổn phận truyền đạt lòng thương xót đã nhận bằng một thái độ từ bi thương xót. Nay nhà vua lại yêu cầu hắn phải trả trọn món nợ (pan to opheilomenon); nhà vua bỏ hắn vào ngục và gia tăng những hình khổ.
Tuy nhiên, những câu quan trọng nhất của cảnh cuối cùng là cc. 32-33, bởi vì ở đây tác giả nói gián tiếp với các độc giả qua miệng nhà vua. Ở đây tác giả cho thấy sợi chỉ đỏ xuyên suốt dụ ngôn. Người đầy tớ lẽ ra đã phải bắt chước nhà vua mà tỏ lòng thương xót.
* Kết luận của Đức Giêsu (35)
Kết luận của Đức Giêsu thật rõ ràng, thuyết phục. Thiên Chúa sẽ xử như thế với những ai không thật lòng tha thứ cho “anh em” (adelphos) mình. Ở đây ta gặp lại ý tưởng của Bài Giảng trên núi (x. 5,7; 6,14-15; 7,1-2) về sự tha thứ và xét đoán lẫn nhau. Chỉ khi biết tha thứ cho nhau, ta mới khám phá ra chiều sâu của lời xin trong Kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (6,12), đồng thời nhận ra được chân lý của Mối Phúc thứ năm: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (5,7). Nói về “anh em”, tức là nói về Hội Thánh. Án xử được tuyên bố trên Hội Thánh khi Hội Thánh không thực hành sự tha thứ giữa các thành viên với nhau.
+ Kết luận
Qua bài dụ ngôn, Đức Kitô mạc khải lòng thương xót bao la của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta mắc nợ Thiên Chúa chồng chất, nên chúng ta giống như người đầy tớ đầu tiên. Nếu Thiên Chúa có tha nợ cho chúng ta, chúng ta vẫn là những đầy tớ hoàn toàn sống nhờ lòng đại độ và từ bi của Ngài.
Người nào đã hưởng nhờ lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, thì không bao giờ được khép lại trên chính mình và tỏ ra cứng cỏi với người anh em. Người nào đã được Thiên Chúa tha cho những món nợ khổng lồ thì không còn có thể coi người nào khác như mắc nợ với mình nữa.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Thiên Chúa tha nợ cho chúng ta, chỉ bởi vì chúng ta xin Ngài tha. Món nợ chúng ta mắc với Ngài quá lớn, vượt mọi giới hạn loài người, nên chắc chắn chúng ta không thể thanh toán nổi. Nhưng Thiên Chúa tha hết, bởi vì lòng nhân lành của Ngài vô biên. Đàng khác, chúng ta lại cần đến sự tha thứ này để có thể đứng vững trước nhan Ngài, để có thể sống. Do đó, nếu Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, chúng ta vẫn là tôi tớ của Ngài, sống hoàn toàn nhờ lòng quảng đại và lòng từ bi thương xót của Ngài.
2. Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta đọc: “Như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (6,12). Chúng ta phải liên kết vào lời xin Thiên Chúa tha thứ các lỗi lầm của chúng ta điều kiện sau đây: cầu mong Thiên Chúa (chỉ) tha thứ cho chúng ta trong mức độ chúng ta đã tha thứ cho các người có lỗi với chúng ta. Bổn phận tha thứ có tính đòi hỏi và cốt yếu đến mức dường như Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện như sau: Xin đừng tha thứ cho chúng con, nếu chúng con đã không tha thứ cho người ta! Lời xin này của Kinh Lạy Cha cũng là lời xin duy nhất sau đó đã được nhắc lại. Không phải chỉ một lần mà hai lần, Đức Giêsu xác nhận dây liên kết bất khả phân ly giữa việc tha thứ của chúng ta và sự tha thứ của Thiên Chúa: nếu chúng ta không tha thứ, chúng ta không thể trông mong vào sự tha thứ của Ngài (x. 6,14t).
3. Chúng ta thiên về chỗ ghi nhớ các xúc phạm, các khinh bỉ, các thiệt hại chúng ta đã phải chịu do người anh em, chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại. Kiểu ghi khắc các món nợ như thế có thể đi sâu vào trong trái tim chúng ta và làm nhiễm độc các quan hệ của chúng ta. Thông thường, khó mà tha thứ, do đó Đức Giêsu thường xuyên khuyến cáo. Trong tương quan với các anh em mắc nợ chúng ta, chúng ta không bao giờ được quên tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
4. Theo tầm nhìn của Mt 18, không thể phân biệt giữa một tội phạm đến người anh em chị em, nghĩa là phạm đến công đoàn, và một tội phạm đến Thiên Chúa. Các tương quan giữa con người với nhau không thể lại kém giá trị hơn là tương quan của con người với Thiên Chúa. Cũng như ở Mt 5,21-48, chính là do yêu thương mà thấy được sự hoàn thiện, ở Mt 18, chính là vì khinh bỉ những kẻ bé mọn và từ chối tha thứ cho các anh chị em mà người ta chuốc lấy án xử của Thiên Chúa.
Lm. Vũ Phan Long, ofm
----------------------------------
Chủ đề: Hãy tha thứ để được thứ tha (Mt 18,22)
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu đã nói: "Khi con đi dâng lễ … Đó là một cách nói mạnh, nhằm khuyến khích chúng ta: TN24-A65
Chúa Giêsu đã nói: "Khi con đi dâng lễ vật trên bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang bất hòa với con, thì hãy để lễ vật lại, trở về làm hòa với người anh em ấy trước đã, rồi mới trở lại dâng lễ vật sau".
Đó là một cách nói mạnh, nhằm khuyến khích chúng ta tha thứ cho người khác.
Chắc hẳn hiện giờ trong lòng anh chị em, ai cũng có một ít điều gì đó không vui đối với một vài anh chị em của mình. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta thêm lòng quảng đại để có thể tha thứ cho những người ấy. Đây thực là một việc cần thiết phải làm trước khi chúng ta dâng Thánh lễ.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Chúng ta hẹp lòng hẹp dạ không chịu tha thứ cho người khác.
Nhiều chuyện buồn rất lâu rồi mà chúng ta cữ giữ mãi trong lòng.
Chúng ta không tạo cơ hội cho kẻ có lỗi hòa giải với mình.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I Hc 27,30-28,7
Để khuyến khích người ta tha thứ, Ben Sira đưa ra nhiều lý lẽ:
Có tha thứ cho người khác thì khi ta cầu nguyện ta mới đáng được Chúa thứ tha.
Đang tích lòng giận ghét người ta mà dám xin Chúa cứu chữa mình sao?
Chẳng thương xót người đồng loại mà còn cầu xin Chúa thương xót mình sao?
Người phàm xác thịt mà tích lòng thịnh nộ thì dám xin Chúa tha thứ sao?
Hãy nghĩ đến điều sau hết, tức là cái chết, để chấm dứt hận thù.
Hãy nghĩ đến giao ước của Chúa, tức là giao ước yêu thương, để bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.
2. Đáp ca Tv 102
Tv này ngợi khen tấm lòng từ bi bao la của Chúa: Ngài đã tha thứ tội lỗi cho ta, Người không xử với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta...
3. Bài đọc II Rm 14,7-9
Văn mạch: Chương 14 của thư Phaolô đề cập đến hai trường hợp khiến các kitô hữu rôma hay xét đoán nhau: 1/ có người sợ ăn lầm nhằm đồ cúng nên không dám ăn thịt mà chỉ ăn rau, có người khác nghĩ rằng lương tâm mình vững vàng nên dám ăn mọi thứ, rồi người này chỉ trích người kia; 2/ Có người tin dị đoan nên cho rằng ngày này tốt ngày kia xấu, người khác không tin cho rằng ngày nào cũng tốt, rồi hai bên lại chỉ trích nhau.
Thánh Phaolô dạy: đừng để ý đến người khác, cũng đừng để ý đến mình, nhưng tất cả hãy quy chiếu vào Chúa, vì "không ai sống cho chính mình, cũng không ai chết cho chính mình... Chúng ta sống hay chết thì đều thuộc về Chúa".
4. Tin Mừng Mt 18,21-35
Đức Giêsu đưa ra một dụ ngôn về hai con nợ:
Một ông quan mắc nợ nhà vua một món tiền rất lớn (10 ngàn nén vàng), nhưng đã được nhà vua tha hết.
Khi ông quan này trở ra gặp một người bạn chỉ thiếu mình có 100 nén bạc (chỉ bằng 1 phần triệu số nợ đối với nhà vua) và đã khẩn thiết van xin bằng chính những lời lẽ mà ông quan đã xin với vua, ông quan ấy nhất định không tha.
Được biết việc ấy, nhà vua bắt giam ông quan cho tới khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Dụ ngôn này muốn so sánh cho chúng ta thấy tội của chúng ta đối với Thiên Chúa nặng gấp triệu lần tội người khác phạm tới ta; đồng thời cũng muốn cho biết rằng nếu ta không tha cho người khác để đưa đến kết quả là Chúa không tha cho ta, thì quả là ta rất ngu dại.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. "Nợ" và "trả nợ"
Theo nguyên tắc, mắc nợ thì phải trả nợ, cho mượn nợ thì có quyền đòi nợ. Nợ - đòi - trả: đó là cách cư xử công bình.
Nhưng trên thực tế, có rất nhiều thứ nợ không thể trả nổi: chẳng hạn con nợ đã sạt nghiệp trắng tay, con nợ thiếu nhiều quá sức chi trả v.v. Gặp những trường hợp ấy, ngay cả tòa án cũng đành phải bó tay: cùng lắm là tịch thu tài sản bán được bao nhiêu trả bấy nhiêu, rồi bắt người thiếu nợ phải ngồi tù. Các chủ nợ dù muốn hay không cũng đành phải chịu mất hoặc nhiều hoặc ít. Trường hợp thứ hai này là: Nợ - không đòi được - đành bỏ: đây là cách cư xử không theo phép công bình.
Nghĩa là ngay cả trên bình diện cư xử tự nhiên, có nhiều trường hợp không thể xử công bình được. Huống chi trên bình diện đạo đức, siêu nhiên.
Nói cụ thể hơn, thiếu tiền nhau ("nợ" đúng nghĩa) thì còn có thể đòi nhau theo công bình, còn có tội, có lỗi với nhau ("nợ" theo nghĩa rộng hơn) thì khó tính toán công bình với nhau được.
Bài Tin Mừng này đề cập đến thứ "nợ" theo nghĩa rộng, nghĩa là những tội lỗi người ta phạm đối với Chúa và đối với nhau. Đối với loại này, chỉ có cách là tha thứ.
Bài Tin Mừng đưa Thiên Chúa ra làm gương tha thứ trước: Tội lỗi chúng ta phạm đến Chúa là thứ nợ không thể nào trả hết được. Như lời Thánh vịnh "Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được". Bởi vậy Thiên Chúa đã tha thứ. Và bài Tin Mừng khuyến khích ta noi gương Chúa, đồng thời cho biết làm như thế chỉ có lợi cho ta mà thôi.
2. Những dây chuyền phản ứng khác nhau
Con người quen sống theo dây chuyền trả đũa: Mắt đền mắt, răng thế răng, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng, mạng đền mạng... Thứ dây chuyền này sẽ kéo theo hết mắt này đến mắt khác, răng này đến răng khác, mạng này đến mạng khác...
Trong Tin Mừng, có một dây chuyền ngược lại: Xin Cha tha cho chúng con - như chúng con cũng tha cho kẻ mắc nợ chúng con; Hãy tha - thì sẽ được tha lại; Hãy cho - thì sẽ được cho lại dư đầy . Thứ dây chuyền này dẫn đến tình nghĩa, tình yêu ngày càng đậm đà, nồng ấm.
Đức Giêsu muốn các môn đệ mình đừng theo dây chuyền thứ nhất, mà hãy theo dây chuyền thứ hai.
3. "Hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù"Đó là một câu của Ben Sira, người có công sưu tập kho tàng khôn ngoan ngàn đời của nhân loại. Câu này rất chí lý: Ta hãy ra nghĩa địa mà nhìn: những con người đã một thời ăn thua đủ với nhau nay đều nằm cạnh nhau, bất lực, im lìm - còn làm chi nhau được nữa!
Và nếu ta có thể nhìn lên cao, để thấy lúc những người ấy ra trình diện trước tòa phán xét của Chúa. Người nào người nấy cũng đầy nợ với Chúa nhưng đồng thời vẫn khư khư nắm chặt tờ giấy ghi nợ của người khác đối với mình. Quan toà nói sao? "Hỡi tên ác độc kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như Ta đã thương ngươi", rồi quan toà tống giam kẻ ấy vào ngục cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Sau đó ta hãy nhìn lại những nấm mồ ấy, và tự hỏi: Họ đã trả hết đồng xu cuối cùng chưa? Bởi thế, Ben Sira khôn ngoan đã khuyên: "Hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù".
4. Xin lỗi
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến một việc chúng ta cần làm trong mùa Chay, đó là tha thứ. Nhưng tha thứ là một việc song phương, nghĩa là không phải việc của một người mà của cả hai người: người tha và người xin tha. Trong những va chạm thường xuyên của cuộc sống chung, có khi chúng ta là người bị xúc phạm cho nên tư thế của chúng ta là người tha, có khi chính chúng ta là người gây xúc phạm nên tư thế là người phải xin tha.
Tha và xin tha, việc nào khó hơn? Thiết nghĩ, trong những tập thể khá đạo đức như một giáo xứ chẳng hạn thì tha là việc dễ hơn: mình bị một anh chị em nào đó xúc phạm. Nếu anh chị em đó tới xin lỗi mình thì chắc là mình tha liền. Việc khó hơn chính là việc xin tha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ về việc này. Xin bắt đầu bằng một câu chuyện xảy ra ở nước Ba lan: Trên một chuyến xe lửa chạy về Varsava có 3 thương gia ở chung một toa đang chơi đánh bài. Đến một trạm nọ, thêm một người bước lên nữa. 3 thương gia thấy có thêm người liền rủ người ấy cùng chơi cho đủ 4. Nhưng người khách từ chối khéo. Họ cố mời mãi nhưng người khách vẫn cương quyết từ chối. Thế là họ nổi giận và chửi rủa nặng lời. Người khách cũng làm thinh. Khi tàu đến ga cuối, mọi người đều xuống. 3 thương gia thấy một đám người rất đông cầm hoa đến đón người khách ấy. Họ hỏi một trong những người đó: Ông ta là ai mà được nhiều người hâm mô thế? Người khách trả lời: Đó là Rabbi Salomon, một Rabbi nổi tiếng khắp nước về lòng nhân từ và đạo đức. Khi ấy 3 thương gia mới hối hận vì những lời chửi rủa của mình. Một người tiến đến Rabbi Salomon ngỏ lời xin lỗi. Nhưng vị Rabbi quay mặt đi, chẳng chịu tha. Các tín đồ của ông ngạc nhiên quá, hỏi: "Thầy vốn là một người nhân từ và đạo đức. Nhưng sao thầy không tha cho một kẻ đã biết lỗi và xin lỗi thầy?". Vị Rabbi giải thích: "Kẻ mà anh ta đã chửi không là một hành khách tầm thường. Còn người mà anh ta xin lỗi là Rabbi Salomon. Anh ta đã xin lỗi lầm người rồi".
Câu chuyện có ý nói rằng: người ta dễ xin lỗi đối với những người có địa vị cao, có quyền lực lớn. Nếu thương gia nọ không biết người mình đã chửi là một nhân vật nổi tiếng thì chắc chắn anh ta không xin lỗi đâu.
Câu chuyện trên cũng dạy chúng ta bài học này là: muốn xin lỗi thì ta phải khiêm tốn, hạ mình: Nhiều khi chúng ta không thể mở miệng xin lỗi được đối với những người nhỏ hơn mình. Ta cho rằng chỉ có người nhỏ xin lỗi người lớn chứ không bao giờ ngược lại.
Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì chúng ta còn tự ái, cho rằng làm như thế là nhục.
Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì cho rằng như thế là tự nhận rằng mình sai.
Ta tưởng rằng như thế là tự trọng. Nhưng đó là sự tự trọng không đúng chỗ và là biểu hiện của tính xấu kiêu ngạo. Satan chống lại Chúa. Sau đó nó biết lỗi nhưng nó không bao giờ xin lỗi. Giuđa sau khi bán Chúa cũng biết lỗi nhưng cũng không xin lỗi.
Cách đây vài năm, ĐGH Gioan Phaolô II đã ngỏ lời xin lỗi với cả thế giới về những lầm lỗi của Hội Thánh trong quá khứ. Trước khi ĐGH làm việc này, nhiều người trong Hội Thánh đã cản ngăn ngài vì nghĩ rằng làm như thế là hại đến uy tín của Hội Thánh. Tuy nhiên sau khi ĐGH làm việc đó thì lạ thay, người ta chẳng những không chê cười, trái lại còn khen ngợi ngài; uy tín của Hội Thánh chẳng những không giảm mà còn tăng thêm.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay bảo chúng ta tha thứ. Nhưng Lời Chúa cũng bảo chúng ta làm một việc khác khó hơn, đó là biết xin lỗi. Muốn thế, chúng ta phải khiêm tốn hạ mình. Chúng ta nên biết rằng hạ mình xin lỗi không phải là nhục nhã, trái lại sẽ sinh nhiều kết quả rất tốt: đối với bản thân, nó làm tăng uy tín của mình, đối với cuộc sống chung, nó hàn gắn những vết thương do những va chạm gây ra và giúp cho cuộc sống chung được ấm êm hạnh phúc hơn.
5. Chuyện minh họa
a/ Tha thứ
Ngày nọ, Đức giám mục John Selwyn thấy một cậu con trai người bản xứ cư xử thô bạo với các trẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị giám mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trân. Nhưng vị giám mục không cho họ làm gì. Rồi ngài quay lưng và lặng lẽ bỏ đi.
Nhiều năm sau, một nhà truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: "Xin đặt là John Selwyn, vì chính ngài đã dậy cho tôi biết Đức Kitô là ai khi tôi đánh ngài."
b/ Xin tha
Satan phàn nàn với Chúa: "Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời." Chúa nói: "Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?".
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Cha nhân từ hay thương xót, lúc nào Ngài cũng sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho những ai thật lòng sám hối ăn năn. Luôn tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1. Hội Thánh là một bà mẹ hiền / đầy lòng bao dung đối với lỗi lầm của con cái mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / biết luôn quảng đại tha thứ mọi xúc phạm / mọi đau khổ do kẻ khác gây ra cho mình.
2. Trong cuộc sống thường ngày / người ta vẫn còn có khuynh hướng ăn miếng tả miếng / sẵn sàng chém giết nhau / chỉ vì chưa tha thứ cho nhau như Chúa đã dạy / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cho tinh thần tha thứ của Đức Kitô / tác động đến mọi sinh hoạt thường ngày của xã hội.
3. Tha thứ / nhất là tha thứ luôn luôn / trong thực tế là một việc làm con người không thể thực hiện được / nếu không có ơn Chúa trợ giúp / Vậy Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ơn giúp sức cho hết thảy các kitô hữu / để họ có thể tha thứ được như Chúa đã dạy.
4. Đức Giêsu nói / "Hãy tha thứ để được thứ tha" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết sẵn sàng tha thứ lỗi lầm của người khác / hầu xứng đáng lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con phải tha thứ cho nhau, nếu muốn được Chúa tha thứ mọi lỗi lầm. Nhưng lạy Chúa, nói tha thứ thì dễ, còn thực hành tha thứ thì rất khó. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống như Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị...
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
----------------------------------
Chủ đề: "Khi nào chúng ta thấy khó lòng tha thứ cho kẻ khác thì chúng ta nên quay về Chúa Giêsu, cầu xin Ngài giúp đỡ.".
Lm. Mark Link, SJ
Corri ten Boom sống tại Amsterdam (Hoà Lan) trong thế chiến thứ hai. Gia đình cô làm một cửa: TN24-A66
Corri ten Boom sống tại Amsterdam (Hoà Lan) trong thế chiến thứ hai. Gia đình cô làm một cửa tiệm đồng hồ. Khi bọn Đức Quốc Xã xâm chiếm Hoà Lan, gia đình cô bắt đầu giúp đỡ dân Do Thái đang bị truy nã có hệ thống và bị đem đi đến các trại tử thần. Cuối cùng có kẻ đã tố cáo gia đình cô. Thế là gia đình cô bị gởi đến trại tập trung. Corrie và em gái cô là Betsy bị gởi đến trại Ravens ô nhục. Cả gia đình Corrien chỉ mỗi mình cô còn sống sót sau cơn thử thách. Sau chiến tranh, cô đi du lịch khắp Aâu Châu rao giảng về sự tha thứ và hoà giải. Sau một cuộc nói chuyện ở Munich thuộc Đức, một người đàn ông đã tiến đến cám ơn cô về bài nói chuyện. Corrie không thể nào tin nổi vào mắt mình. Gã này chính là một trong những tên lính gác Quốc xã từng có nhiệm vụ coi sóc phòng tắm vòi sen của phụ nữ tại trại Ravensbruck. Gã ta tiến tới tính bắt tay Corrie. Corrie như đông cứng người lại không thể nào giơ tay ra bắt được. Sự ghê tởm trại tập trung kèm theo cái chết của người em gái chợt trở lại trong ký ức của cô. Lòng cô tràn ngập nỗi oán hờn và ghê tởm. Corrie không thể tin được cách trả lời của cô. Chính cô vừa mới giảng một bài thật cảm động về lòng tha thứ, thế mà bây giờ cô lại không thể nào tha thứ được. Cô bị xúc động quá đến nỗi không thể nào bắt tay gã lính gác nọ được.
Thỉnh thoảng trong cuộc sống, tất cả chúng ta đã từng cảm nghiệm đôi điều tương tự như Corrie. Chúng ta cảm thấy mình không thể nào tha thứ cho một kẻ nào đó. Chúng ta thấy tình cảm mình như bị chận đứng lại đối với một kẻ nào đó đã từng gây đớn đau thương tích cho chúng ta.
Điều này nêu ra một vấn nạn xốn xang đau đớn. Làm sao chúng ta có thể xử lý một vấn đề như thế? Chúng ta phải làm gì đây khi không thể nào tha thứ cho một ai đó? Làm thế nào để thoát ra khỏi sự bế tắc tình cảm đang bít kín mọi nỗ lực tốt nhất của chúng ta nhằm để tha thứ? Làm thế nào thi hành giáo huấn về sự tha thứ mà Chúa Giêsu đưa ra trong phúc âm hôm nay? Thái độ của chúng ta phải như thế nào trước những lời cảnh cáo trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Lời cảnh cáo đó là: nếu chúng ta từ chối không xót thương anh chị em mình, thì đừng mong Thiên Chúa sẽ thương xót chúng ta.
Hãy trở lại với câu chuyện của chúng ta về Corrie. Hãy xem cô ta xử lý trường hợp của mình thế nào. Trong lúc người cô như bị đông lạnh co cứng. Corrie liền im lặng cầu nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, con không thể tha thứ cho người này. Xin ban cho con sự tha thứ của Chúa". Ngay lúc đó, Corrie nói hình như có một sức mạnh của ai khác đẩy tới, tay cô bỗng nắm lấy tay gã lính gác trong niềm tha thứ thực sự. Và ngay lúc đó cô chợt khám phá ra một chân lý vĩ đại. Không phải dựa trên sự tha thứ của riêng chúng ta mà thế giới quanh ta được chữa lành mà chính là dựa trên sự tha thứ của Chúa Giêsu. Khi truyền bảo chúng ta yêu kẻ thù, Chúa Giêsu cũng trao cho chúng ta ân sủng cần thiết kèm theo để tha thứ cho họ. Như thế, phương cách thứ nhất để xử lý vấn đề không thể thứ tha cho một ai đó là cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ. Phương cách thứ hai để xử lý vấn đề trên được nhắc đến trong bài phúc âm hôm nay, đó là làm điều mà viên chức nọ đã không làm, là tự mình ngồi xuống trước mặt Chúa Giêsu và nhớ lại Chúa đã tha thứ cho chúng ta không biết bao nhiêu lần. Ngài đã tha thứ cho chúng ta vô cùng nhiều hơn Ngài yêu cầu chúng ta tha thứ cho kẻ khác. Điều nhỏ nhất chúng ta có thể đáp lại là giơ tay ra tha thứ cho anh em mình. Và phương cách thứ ba để xử lý vấn đề trên là cố gắng nhìn kẻ thù mình trong một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ, tức là nhìn họ không phải như kẻ thù mà là những con người đang đau khổ giống như chúng ta. Tôi xin cắt nghĩa rõ hơn điều tôi muốn nói;
Trong cuốn tiểu thuyết nhan đề "Mặt trận phía tây hoàn toàn yên tĩnh" (All quite on the Westem) có một cảnh đầy cảm động. Lúc đó cuộc chiến đang xảy ra dữ dội giữa đám lính Pháp và Đức. Một chú lính Đức trẻ nằm dưới một hầm đạn để tránh đạn pháo. Bỗng nhiên một người lính Pháp cũng nhảy vào cùng hầm ấy để tránh đạn pháo. Trước khi người lính Pháp kịp ra tay, thì chú lính Đức đã đâm ngay người ấy vài nhát. Tuy nhiên người lính Pháp không chết liền mà nằm thoi thóp ra đó. Chàng lính Đức, trẻ măng như một chú bé, chăm chú nhìn cặp mắt hãi hùng của người lính Pháp. Chú ta thấy miệng người lính Pháp này há hốc ra, đôi môi khô và nứt nẻ. Chú ta bèn động lòng thương và rút chai nước của mình ra cho người lính thù địch ấy uống. Cuối cùng khi người lính thù này qua đời, chú lính trẻ người Đức cảm thấy ân hận sâu xa. Đây là người đầu tiên bị chú ta giết. Chú thắc mắc không hiểu tên người này là gì. Trông thấy chiếc ví trong túi người chết, chú ta liền kính cẩn rút ra xem chiếc ví đựng vài tấm ảnh gia đình, một tấm có hình một người đàn bà và một đứa bé gái.
Chú lính Đức vô cùng cảm động. Bỗng dưng, chú nhận thấy người lính đã chết không phải là kẻ thù, mà là một người cha, người chồng -- tức là một người biết yêu và được yêu y hệt như chú vậy. Động lòng thương xót, chú liền lấy một miếng giấy và ghi vào đó địa chỉ người đã chết. Chú tính sẽ viết một lá thư cho vợ ông ta.
Điều gì đã xảy ra trong chiếc hầm đạn ấy? Phải chăng chú lính Đức bất ngờ nhận ra bổn phận phải yêu thương đồng loại và chú tự bắt mình phải yêu thương người lính vừa mới chết? Không phải thế đâu!
Sự việc xảy ra như thế này: chú lính Đức chợt nhìn thấy người từng bị xem là kẻ thù của chú bằng một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ. Và chính sự thay đổi cách nhìn này là đã thay đổi thái độ của chú đối với người ấy.
Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các kẻ hành hình Ngài bằng một ánh sáng khác hẳn chúng ta nhìn nhiều. Ngài nhìn vượt lên trên vẻ bề ngoài của họ. Ngài nhìn ra bản chất thực sự của họ là những đứa con lạc đường của Cha Ngài.
Nếu muốn tha thứ cho kẻ thù, chúng ta phải bắt đầu nhìn thấy họ bằng một ánh sáng mới. Chúng ta phải bắt đầu nhìn họ giống như Chúa Giêsu nhìn thấy họ.
Tóm lại để xử lý cho trường hợp không thể tha thứ cho kẻ thù.
Thứ nhất chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ giống như Corrie đã làm.
Thứ hai, hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã tha thứ cho chúng ta vô cùng nhiều hơn là Ngài đang đòi chúng ta tha thứ.
Thứ ba, hãy cố gắng nhìn kẻ thù mình theo cách Chúa Giêsu nhìn quân thù Ngài, nghĩa là xem họ như những anh em đang lầm đường lạc lối.
Bài phúc âm hôm nay mời gọi chúng ta khám phá lại tương giao của mình với kẻ khác. Đặc biệt với các thành viên trong gia đình mình. Bài phúc âm ấy mời gọi chúng ta tự vấn xem tương giao nào trong số này cần được cải thiện đồng thời mời gọi chúng ta khởi sự tiến trình chữa lành tương giao nào bị trục trặc.
Chúng ta hãy kết thúc với lời kinh cầu của thánh Phanxicô:
"Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem tin kính vào nơi nghi nan, đem hy vọng vào nơi thất vọng, đem ánh sáng vào nơi tăm tối, đem niềm vui đến chốn u sầu.
Xin hãy dạy con: tìm an ủi người hơn được người ủi an, Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết. Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời".
Lm. Mark Link, SJ
----------------------------------
Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm A là sự tha thứ. Hc 27: TN24-A67
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm A là sự tha thứ.
Hc 27: 30-28: 7
Trong Bài Đọc I, nhà hiền triết Do thái, trung thành với luật Mô-sê, mời gọi “oán cừu nên tháo không nên buộc”.
Rm 14: 7-9
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc cho người Ki-tô hữu nhớ rằng không ai sống cho chính mình.
Mt 18: 21-35
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ của Ngài phải tha thứ vô điều kiện và luôn mãi.
BÀI ĐỌC I (Hc 27: 30-28: 1-7)
Trào lưu Khôn Ngoan nở rộ trong toàn thể miền Cận Đông xưa: Ai-cập, Su-me, Ba-by-lon… Sách Huấn Ca là một trong năm tác phẩm thuộc trào lưu Khôn Ngoan Cựu Ước: Châm Ngôn, Gióp, Giảng Viên, Khôn Ngoan và Huấn Ca.
Tác giả của sách Huấn Ca là ông Si-rác sống vào cuối thể kỷ thứ ba đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Là bậc vị vọng ở Giê-ru-sa-lem và bậc hiền nhân, ông đã viết lại những lời khuyên “đối nhân xử thế” của mình vào khoảng năm 180 trước Công Nguyên. Khoảng năm mươi năm sau, cháu nội của ông đã dịch tác phẩm của ông sang tiếng Hy-lạp và xuất bản.
Sự khôn ngoan, thành quả của trầm tư và kinh nghiệm, là gia sản chung của toàn thể nhân loại. Nhưng sống vào thời kỳ Do thái giáo bị đe dọa bởi văn hóa Hy lạp, nhà hiền triết Do thái ôm ấp một hoài bảo: chấn hưng những giá trị luân lý Do thái giáo. Theo ông, sự khôn ngoan Do thái vượt lên trên sự khôn ngoan Hy lạp, vì sự khôn ngoan Do thái có Thiên Chúa làm khuôn mẫu và Luật của Ngài làm chuẩn mực sống.
Sách Huấn Ca là loại sách kim chỉ nam chứa đựng nhiều lời khuyên cho cuộc sống thường ngày. Sách đề cập đến mọi đề tài. Đoạn trích dẫn hôm nay đề cập đến việc báo thù và tha thứ.
*1.Cách hành xử của kẻ gian ác:
Nhà hiền triết nhắm trước tiên đến thái độ của kẻ gian ác:
“Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm,
về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài”.
Nếu ai cố chấp trong sự oán hờn và giận dữ, người ấy rồi sẽ chuốc lấy sự báo thù của Đức Chúa:
“Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy sự báo thù của Đức Chúa,
tội lỗi nó, Người xem xét từng ly”.
Đây là điều mà chúng ta thường nói: “Ác giả ác báo, gieo gió gặp bão”.
Theo Cựu Ước, quan niệm “thưởng phạt ở đời sau” chỉ xuất hiện sau nầy, vì thế kẻ gian ác sẽ chuốc lấy hậu quả của điều ác mà nó gây ra ngay tại đời nầy.
*2.Đức hạnh của người công chính:
Ngược lại với thái độ của kẻ gian ác, nhà hiền triết phác họa đức hạnh của người công chính:
“Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác,
thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha”.
Sự tha thứ được sách Lê-vi diễn tả rõ ràng: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em… Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình ngươi” (Lv 19: 17-18).
Nhà hiền triết nêu lên lý do tại sao phải tha thứ:
“Người với người cứ nuôi lòng hờn giận,
thế mà dám xin Đức Chúa chữa lành!
Nó chẳng biết thương người đồng loại,
mà lại dám xin tha tội cho mình”.
Đó chính xác cũng là lời nguyện trong kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6: 12)
“Hãy nghĩ đến ngày tận số
mà chấm dứt hận thù”.
Đây là đề tài chủ đạo của nhà hiền triết. Người công chính phải thoát khỏi mọi ưu tư hằng ngày để nghĩ đến số phận của mình là một ngày kia sẽ từ giả cõi thế, đây không cốt là nghĩ đến phần thưởng của cuộc sống mai sau. Vào thời Si-rác, Ít-ra-en chưa biết đến phần thưởng mai hậu nầy (chỉ xuất hiện muộn thời). Cho dù người công chính không thể biết được khi nào những án phạt sẽ giáng xuống trên bọn ác nhân – vì Đức Chúa sẽ báo thù – thì phải trung thành với những huấn lệnh và nghĩ đến Giao-ước:
“Hãy nhớ đến các điều răn
mà đừng oán hờn kẻ khác,
nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao
mà không chấp nhất điều lầm lỗi”.
Thái độ nầy thật sự cao thượng dù chân trời bị giới hạn chỉ vào việc thưởng phạt trần thế và kinh nghiệm cho thấy những phần thưởng nầy khó đáp trả sự mong chờ của người công chính. Nhưng người có niềm tin phải hành động xuất phát từ lòng yêu mến Thiên Chúa và Luật của Ngài. Không phải chính lòng trung thành với Giao Ước đảm bảo sự quan phòng của Thiên Chúa trên dân Ít-ra-en và mỗi thành viên đó sao? Nền luân lý nầy thật cao thượng chuẩn bị trực tiếp cho lời dạy của Đức Giê-su trong Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (Rm 14: 7-9)
Đoạn trích thư gởi tín hữu Rô-ma nầy, nếu tách ra khỏi mạch văn của nó, chúng ta khó nắm bắt được ý nghĩa những lời khuyên nhủ của thánh Phao-lô.
Trong chương 14 thư gởi tín hữu Rô-ma nầy, thánh Phao-lô bàn đến những mối liên hệ giữa những người Ki-tô hữu trong lòng cộng đoàn. Thánh nhân gợi lên nhiều quan điểm khác nhau trong thái độ thường ngày, giữa những người mà thánh nhân gọi là “những người yếu” và những người thánh nhân gọi là “những kẻ mạnh”.
Thánh nhân đề cập cách chi tiết: những người không ăn kiêng và những người ăn kiêng, những người sống khổ hạnh và những người bài bác khổ hạnh, vân vân. Từ đó thánh nhân kết luận cuộc sống hòa hợp của cộng đoàn phải căn cứ trên sự tự do của mỗi người trong sự kính trọng kẻ khác.
Ở nơi lời dạy của thánh nhân, tự do chứ không cá nhân chủ nghĩa, vì “không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Đức Ki-tô, mà có chết cũng là chết cho Người”, bởi vì “Đức Kitô đã không sống cũng không chết cho chính mình, nhưng cho chúng ta”. Mọi dị biệt phải bị xóa nhòa trước mối liên hệ căn bản: hiệp nhất mọi thành phần của cộng đoàn: Tất cả chúng ta đều thuộc về Đức Ki-tô.
Khởi đi từ những chi tiết nhỏ nhặt cụ thể đến một quan điểm thần học, đó là nét đặc trưng của thánh Phao-lô thường hằng trong các thư của thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 18: 21-35)
Sau khi đã căn dặn đức ái huynh đệ trong việc sửa lỗi cho nhau và đã cảnh báo mỗi thành viên trong cộng đoàn phải có nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau (Chúa Nhật XXIII), Đức Giê-su mời gọi các môn đệ Ngài còn đi xa hơn nữa: cho đến việc tha thứ vô điều kiện và luôn mãi đối với những kẻ xúc phạm mình.
*1.Cuộc chuyện trò thân mật giữa Thầy và trò (18: 21-22):
Trong Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu làm nổi bật nhân vật Phê-rô, thậm chí ngay cả trước khi thánh nhân được tấn phong làm thủ lãnh của nhóm Mười Hai và của Giáo Hội trong tương lai như thánh Phê-rô trong bão tố, thánh Phê-rô ở Xê-sa-rê, thánh Phê-rô trong biến cố Biến Hình.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng vậy, chính thánh Phê-rô lên tiếng hỏi thầy mình: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mầy lần?”. Thánh nhân vừa hỏi, nhưng đồng thời cũng nhanh miệng đưa ra một đề nghị: “Có phải bảy lần không?”. Khi đề nghị bảy lần, thánh Phê-rô nghĩ là mình quá rộng lượng từ tâm lắm rồi, bởi vì theo truyền thống Do thái việc tha thứ cho anh em mình chỉ dừng lại ở con số ba lần. Kinh sư Hanina dạy rằng: “Ai xin người lân cận mình tha thứ, không được xin quá ba lần”, còn kinh sư Jehuna thì dạy: “Nếu một người phạm tội một lần, hãy tha thứ; hai lần hãy tha thứ; ba lần cũng hãy tha thứ cho người ấy; nhưng lần thứ tư thì không tha thứ nữa!”. Đối với văn hóa Việt Nam, “Sự bất quá tam”. Hơn nữa, “con số bảy” được dùng trong Kinh Thánh để diễn tả mức độ trả thù tận mức : “Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bảy.” (St 4: 15). Ngoài ra ông La-méc, hậu duệ của Ca-in, đã huênh hoang tự đắc với các bà vợ của mình:
“Ca-in sẽ được trả thù gấp bảy,
nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy.” (St 4: 25).
Khi trả lời cho thánh Phê-rô: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”, Đức Giê-su thay thế sự trả thù vô cùng tận của La-méc bằng sự tha thứ vô giới hạn.
*2.Dụ ngôn (18: 23-24)
Để minh họa tư tưởng của mình, Đức Giê-su kể một dụ ngôn mà chỉ mình thánh Mát-thêu thuật lại. Khi so sánh với bài đọc thứ nhất trong đó hiền triết Si-rác dạy rằng phần thưởng cho việc tha thứ chỉ vuông tròn trong hạnh phúc trần thế, Đức Giê-su nhắm đến việc tha thứ đem lại phần thưởng trong Vương Quốc Nước Trời. Lời khai mào nầy loan báo rằng Đức Giê-su sắp ban chìa khóa mở cửa Vương Quốc nầy.
Dụ ngôn là một bi kịch gồm ba hoạt cảnh.
2.1-Hoạt cảnh thứ nhất:
Đức Vua (ám chỉ đến Thiên Chúa), được giới thiệu ngay từ đầu, đòi hỏi bầy tôi thanh toán sổ sách. Phần cuối của dụ ngôn sẽ cho thấy việc thanh toán sổ sách không là điều cốt yếu mà dụ ngôn nhắm tới.
Đức Vua đích thân triệu tập người đầy tớ mắc nợ Vua mười ngàn nén vàng. Đây là một món nợ quá lớn đến mức tự sức mình chúng ta không thể nào có thể trả nổi. Với một món nợ quá lớn mà một người nô lệ không thể nào mắc nợ được, vì thế các nhà chú giải hiểu rằng người đầy tớ trong dụ ngôn nầy là một vị quan, bởi vì trong nền văn hóa Đông Phương, các quan được gọi là tôi bộc của Vua.
Vì không thể trả nổi, người đầy tớ bị Đức Vua ra lệnh thi hành án phạt: “Bán y, cùng tất cả vợ con, tài sản, mà trả nợ”. Quả thật, sự liên đới của mọi thành viên trong gia đình trải rộng cho đến món nợ mà người chủ gia đình mắc phải. Bấy giờ tên đầy tớ sấp mình xuống van xin: “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ trả hết”. Đức vua liền chạnh lòng thương (đây cũng là động từ mà các Tin Mừng dùng để diễn tả tấm lòng xót thương của Đức Giê-su trước những đau khổ của con người), tha hết món nợ cho y: hình ảnh của ơn cứu độ nhưng không.
2.2-Hoạt cảnh thứ hai:
Hoạt cảnh thứ hai được xây dựng trên một sự tương phản với hoạt cảnh thứ nhất. Tên đầy tớ được Vua tha bổng lại hành xử đối với một trong những bạn đồng liêu của mình, người nầy mắc nợ y một trăm bạc, một món tiền không đáng là bao so với món nợ của y đối với Đức Vua. Y chẳng thèm để ý đến lời van xin của bạn mình: “Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh”, chính xác là những lời mà trước đây y đã van xin Đức Vua. Cách hành xử của y đối với bạn của y: liền túm lấy, bóp cổ và tống anh bạn mình vào tù mà không một chút động lòng xót thương, khác xa với cách hành xử của Đức Vua đối với y.
Người đầy tớ nầy không ngờ rằng có một mối quan hệ hỗ thương giữa thái độ của y đối với bạn đồng môn của mình và thái độ của Đức Vua đối với y. Khi từ chối lòng xót thương của y đối với bạn mình, y huỷ bỏ lòng xót thương mà y được hưởng từ Đức Vua.
2.3-Hoạt cảnh thứ ba:
Đức Vua thay đổi thái độ hoàn toàn đối với y: Ngài nổi cơn thịnh nộ giao người đầy tớ không có lòng xót thương cho lý hình hành hạ cho đến ngày y trả hết nợ. Chính ở đây để lộ cách thức tính sổ của Đức Vua. Ngài phán xử mỗi người không căn cứ trên việc tính toán chi ly của món nợ, nhưng trên khả năng yêu thương và tha thứ của mỗi người đối với anh em đồng loại của mình.
3.Bài học (18: 25):
Từ dụ ngôn, Đức Giê-su rút ra một bài học quan trọng trong mối quan hệ giữa Thiên Chúa với chúng ta: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Bài học nầy làm chúng ta nhớ đến điều kiện tất yếu để được Thiên Chúa tha thứ trong kinh Lạy Cha: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6: 14-15).
Phía sau dụ ngôn nầy, chính cuộc sống của Đức Giê-su bằng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đem đến những phương thế đổi mới tấm lòng của con người, ngõ hầu họ có khả năng yêu thương và tha thứ cho nhau.
---------
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
----------------------------------
Lm. Ignatiô Hồ Thông
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật tuần nầy tạo thành một cặp song đối với Phụng Vụ Lời: TN24-A68
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật tuần nầy tạo thành một cặp song đối với Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật tuần trước. Nếu chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật tuần trước là: “SỬA LỖI CHO NHAU”, thì Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật tuần này là: “THA THỨ CHO NHAU”.
Hc 27: 33-28: 9
Trong đoạn trích sách Huấn Ca, hiền nhân Do thái là Ben Xi-ra mời gọi “oán cừu nên tháo không nên buộc”.
Rm 14: 7-9
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng người Ki-tô hữu không sống cho chính mình.
Mt 18: 21-35
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ của Ngài phải tha thứ vô điều kiện và vô giới hạn.
BÀI ĐỌC I Hc 27: 33-28: 9
Trào lưu minh triết nở rộ khắp toàn miền Cận Đông xưa: Ai-cập, Su-me, Ba-by-lon… Sách Huấn Ca là một trong năm tác phẩm thuộc trào lưu minh triết Cựu Ước: Châm Ngôn, Gióp, Giảng Viên, Khôn Ngoan và Huấn Ca.
1. Bối cảnh của sách Huấn Ca:
Tác giả sách Huấn Ca là Ben Xi-ra sống vào cuối thể kỷ thứ ba và đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Hiền nhân này là bậc vị vọng ở Giê-ru-sa-lem, ông đã ghi lại giáo huấn của mình vào khoảng năm 180 trước Công Nguyên. Khoảng năm mươi năm sau, cháu nội của ông đã dịch tác phẩm của ông từ tiếng Híp-ri sang tiếng Hy-lạp và xuất bản.
Sự khôn ngoan, thành quả của trầm tư và kinh nghiệm, là di sản chung của toàn thể nhân loại. Tuy nhiên, sống vào thời kỳ văn hóa Do thái bị đe dọa bởi văn hóa Hy lạp, hiền nhân Ben Xi-ra ôm ấp một hoài bảo: chấn hưng những giá trị luân lý Do thái giáo. Theo ông, sự khôn ngoan Do thái trổi vượt sự khôn ngoan Hy lạp, vì sự khôn ngoan Do thái có Thiên Chúa làm khuôn mẫu và có Lề Luật của Ngài làm chuẩn mực. Sách Huấn Ca chứa đựng nhiều lời khuyên cho cuộc sống thường ngày. Sách đề cập đến mọi đề tài. Đoạn trích dẫn nầy đề cập đến việc “báo thù và tha thứ”.
2. Cách hành xử của kẻ gian ác:
Trước tiên, hiền nhân nhắm đến thái độ của kẻ gian ác. Nếu cứ cố chấp trong sự oán hờn và giận dữ, rồi sẽ “chuốc lấy sự báo thù của Thiên Chúa, mọi tội lỗi của nó, Người sẽ xét từng ly”. Trong Cựu Ước, quan niệm “thưởng phạt ở đời sau” chỉ xuất hiện muộn thời sau nầy. Kẻ gian ác sẽ chuốc lấy hậu quả của việc làm gian ác mà nó gây ra ngay tại đời nầy, như chúng ta thường nói: “Ác giả ác báo, gieo gió thì gặp bảo”.
3. Đức hạnh của người công chính:
Ngược lại với thái độ của kẻ gian ác, hiền nhân phác họa đức hạnh của người công chính. Sự tha thứ được Lề Luật truyền dạy. Sách Lê-vi nói rõ: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em…Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình ngươi” (Lv 19: 17-18). Hiền nhân nêu lên lý do tại sao phải tha thứ, vì nhận ra mình là tội nhân đối với Thiên Chúa. Nếu muốn được Thiên Chúa tha thứ cho mình, thì mình cũng phải rộng lòng tha thứ cho anh em. Vì thế, hiền nhân Ben Xi-ra đưa ra một lời khuyên bảo hợp tình hợp lý: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, bấy giờ, bạn cầu khẩn, các tội của bạn sẽ được tha”. Ở nơi việc tha thứ cho anh em mình, có mối tương quan mật thiết với sự tha thứ của Thiên Chúa cho mình: “Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Chúa chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin ơn tha tội cho mình! Nó chỉ là loài hèn yếu mà để tâm oán hờn, thì ai sẽ đem lại cho nó ơn tha tội?”. Những khuyên bảo vàng ngọc này đích thị cũng là lời dạy về sự tha thứ của Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay.
4. “Hãy nghĩ đến ngày tận số”:
“Hãy nghĩ đến ngày tận số”. Đây là đề tài chủ đạo của hiền nhân. Người công chính phải sống thanh thoát khỏi mọi vướng bận thường ngày để mà nghĩ đến số phận của mình là một ngày kia sẽ từ giả cõi thế này. Đây không cốt nghĩ đến phần thưởng đời sống mai sau. Vào thời Ben Xi-ra, Ít-ra-en chưa biết viễn cảnh nầy (chỉ xuất hiện muộn thời). Cho dù người công chính không thể biết được khi nào những đau khổ sẽ giáng xuống trên bọn ác nhân – vì Đức Chúa sẽ báo thù – thì phải trung thành với các giới răn và nhớ đến Giao-Ước mà đừng oán hận kẻ khác.
Thái độ nầy thật cao thượng vì chân trời bị giới hạn chỉ khuôn tròn vào việc thưởng phạt trần thế và vì kinh nghiệm cho thấy những phần thưởng trần thế khó đáp ứng nỗi niềm mong đợi của người công chính. Nhưng người có niềm tin phải hành xử như thế do lòng yêu mến Thiên Chúa và Lề Luật của Ngài. Không phải chính lòng trung thành với Giao Ước đảm bảo ơn Chúa quan phòng đối với dân Ít-ra-en và đối với mỗi một thành viên sao? Nền luân lýý này thật cao thượng chuẩn bị trực tiếp cho lời dạy của Chúa Giê-su trong Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II Rm 14: 7-9
Nếu tách riêng đoạn trích thư gởi các tín hữu Rô-ma này khỏi mạch văn của nó, chúng ta khó nắm bắt được ý nghĩa những lời khuyên của thánh Phao-lô.
1. Mỗi người vì mọi người:
Trong chương 14 nầy, thánh Phao-lô bàn đến những mối liên hệ giữa những người Ki-tô hữu ở trong lòng cộng đoàn. Thánh nhân nêu lên nhiều quan điểm rất dị biệt trong những thái độ thường ngày, giữa những người mà thánh nhân gọi “những người yếu” và những người khác mà thánh nhân gọi “những kẻ mạnh”. Thánh nhân đề cập đến chi tiết: những người không ăn kiêng và những người ăn kiêng, những người sống khổ hạnh và những người bài bác khổ hạnh, vân vân. Từ đó thánh nhân kết luận rằng cuộc sống hòa hợp của cộng đoàn phải căn cứ trên sự tự do của mỗi người trong sự kính trọng kẻ khác.
2. Mọi người vì mỗi người:
Sự tự do chứ không cá nhân chủ nghĩa, vì “không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Đức Ki-tô, mà có chết cũng là chết cho Người”, bởi vì “Đức Ki-tô đã không sống cũng không chết cho chính mình, nhưng cho chúng ta”. Mọi dị biệt phải bị xóa nhòa trước mối liên hệ cơ bản: hiệp nhất mọi thành viên của cộng đoàn, bởi vì tất cả chúng ta đều thuộc về Đức Kitô. Khởi đi từ những chi tiết cụ thể đến một quan điểm thần học, đó là nét đặc trưng của thánh Phao-lô thường hằng được gawejp thấy trong các thư của thánh nhân.
TIN MỪNG Mt 18: 21-35
Chúng ta tiếp tục suy gẫm chương 18 Tin Mừng Mát-thêu, chương đề cập đến đời sống huynh đệ trong lòng Giáo Hội.
Sau khi đã căn dặn đức ái huynh đệ và những bổn phận sửa lỗi cho nhau mà mỗi thành viên trong cộng đoàn phải có đối với nhau (Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật tuần trước), Đức Giê-su mời gọi các môn đệ Ngài còn đi xa hơn nữa, cho đến việc tha thứ vô điều kiện và vô giới hạn cho những kẻ xúc phạm mình.
1. Câu chuyện giữa Thầy và trò về sự tha thứ:
Trong sách Tin Mừng, thánh Mát-thêu thường nêu bật con người của thánh Phê-rô, thậm chí ngay cả trước khi ông được phong làm thủ lãnh của Nhóm Mười Hai và của Giáo Hội trong tương lai, ví dụ như thánh Phê-rô trong bão tố (14: 22-33), thánh Phê-rô ở Xê-sa-rê Phi-líp-phê (16: 13-20), thánh Phê-rô trong biến cố Biến Hình (17: 1-8).
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng vậy, chính thánh Phê-rô lên tiếng hỏi thầy mình: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mầy lần”. Ông vừa hỏi nhưng đồng thời cũng nhanh miệng đưa ra một lời đề nghị: “Có phải bảy lần không?”. Khi đưa ra bảy lần, ông nghĩ là mình quá rộng lượng từ tâm lắm rồi, bởi vì, trong truyền thống Do thái việc tha thứ cho anh em mình chỉ dừng lại ở con số ba. Quả thật, kinh sư Hanina dạy rằng: “Ai xin người lân cận mình tha thứ, không được xin quá ba lần”, hay kinh sư Jehuna dạy rằng: “Nếu một người phạm tội một lần, hãy tha thứ; hai lần hãy tha thứ; ba lần cũng hãy tha thứ cho người ấy; nhưng lần thứ tư thì không tha thứ nữa!”. Đối với văn hóa Việt Nam chúng ta, sự tha thứ chỉ đến con số hai: “sự bất quá tam, một lần tha ba lần chém”. Hơn nữa, trong lời đề nghi của thánh Phê-rô, “con số bảy” là con số tròn đầy biểu thị sự giới hạn tận mức, không còn thêm được nữa.
Đức Giê-su trả lời: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”. “Bảy mươi lần bảy” hoặc “bảy mươi lần bảy lần” được dùng trong Cựu Ước để chỉ việc báo thù vô giới hạn, như lời vênh vang tự đắc của ông La-méc, hậu duệ của Ca-in: “Ca-in sẽ được trả thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy” (St 4: 25). Như vậy, Đức Giê-su thay thế sự báo thù tận mức bằng sự tha thứ vô giới hạn: “lấy tình thương mà xóa bỏ hận thù”.
2. Dụ ngôn:
Để minh họa tư tưởng của mình, Chúa Giê-su kể một dụ ngôn mà chỉ mình thánh Mát-thêu thuật lại. Khi so sánh với bài đọc I trong đó hiền nhân Ben Xi-ra dạy rằng phần thưởng cho việc tha thứ chỉ vuông tròn trong những phúc lộc ở cõi thế này, thì Đức Giê-su nhắm đến việc dự phần vào Nước Trời. Dụ ngôn hình thành nên một vỡ bi kịch gồm ba hoạt cảnh:
- Hoạt cảnh thứ nhất:
Đức Vua (ám chỉ đến Thiên Chúa), được giới thiệu ngay từ đầu, yêu cầu bầy tôi của mình thanh toán sổ sách. Phần cuối của dụ ngôn sẽ cho thấy việc thanh toán sổ sách chỉ là việc nhỏ.
Đức vua triệu đến người đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn nén vàng, một món nợ quá lớn. Trong thực tế, một người đầy tớ không thể nào mắc một món nợ quá lớn như thế, phải là một vị quan; bởi vì trong nền văn hóa Đông Phương, các quan đều được gọi là bầy tôi của vua. Trong dụ ngôn này, Chúa Giê-su không muốn quy chiếu đến sự kiện lịch sử, nhưng chỉ muốn chúng ta hiểu rằng một món nợ mà tự sức mình chúng ta không thể nào trả nổi.
Vì người này không thể nào thanh toán món nợ được, nên Đức Vua ra lệnh: “Bán y, cùng tất cả vợ con, tài sản, mà trả nợ”. Vào thời đó, người cha mắc nợ thì cả gia đình đều bị liên lụy. Ông này liền sấp mình dưới chân Đức Vua, than khóc xin được khất món nợ lại để tìm phương thế trả dần: “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết”. Đức vua liền “chạnh lòng thương” (đây là động từ mà các sách Tin Mừng thường dùng để diễn tả tấm lòng xót thương của Đức Giê-su trước những đau khổ của con người), tha bổng món nợ cho y (hình ảnh về ơn cứu độ vô điều kiện).
- Hoạt cảnh thứ hai:
Hoạt cảnh thứ hai được dàn dựng trên sự tương phản với hoạt cảnh thứ nhất. Con nợ được Đức Vua thương tình tha bổng lại hành xử với một người bạn đồng liêu của mình, khác xa với cách hành xử của Đức Vua trước đây đối với y. Bạn y mắc nợ y một trăm bạc, một món nợ không đáng là bao so với món nợ của y đối với Đức Vua. Vừa thấy con nợ của mình, y liền “túm lấy”, “bóp cổ” mà bảo: “Trả nợ cho tao”. Người bạn van xin y như trước đây y đã van xin Đức Vua: “Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh”. Nhưng không một chút động lòng, y cứ tống bạn mình vào ngục cho đến khi trả xong món nợ.
- Hoạt cảnh thứ ba:
Đức Vua hoàn toàn thay đổi thái độ đối với y: Ngài nổi cơn thịnh nộ giao người đầy tớ nhẫn tâm này cho lýý hình hành hạ cho đến ngày y trả hết nợ. Chính ở đây cho thấy cách thức tính sổ của Đức Vua. Ngài phân xử mỗi người không căn cứ trên việc tính toán chi ly món nợ, nhưng trên khả năng yêu thương và tha thứ của mỗi người với anh em đồng loại của mình.
3. Ý nghĩa của dụ ngôn:
Người đầy tớ nhẫn tâm này không ngờ rằng có một mối tương quan giữa thái độ của y đối với bạn đồng môn của mình và thái độ của Đức Vua đối với y. Khi từ chối lòng xót thương đối với bạn mình, y tự mình hủy bỏ lòng xót thương mà y được hưởng từ Đức Vua. Từ đó, bài học được rút ra: điều kiện tất yếu để được Thiên Chúa tha thứ là tha thứ cho anh em mình. Chỉ khi biết tha thứ cho nhau, chúng ta mới khám phá chiều sâu của lời xin trong Kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (6: 12), đồng thời mới có thể nghiệm ra Mối Phúc thứ năm: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (5: 7).
Điều mà dụ ngôn không thể nói rõ ra, đó là, chính Đức Giê-su, bằng cuộc sống của Ngài: cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, đem đến cho con người những phương thế biến đổi nội tâm, ngõ hầu họ có khả năng yêu thương và tha thứ.
Lm. Ignatiô Hồ Thông
----------------------------------
Lm. Vũ Đình Tường
Ít có ai ngờ được việc tha thứ và lời cầu được Chúa nhận lời đi chung với nhau. Vì thế lời cầu nguyện: TN24-A69
Ít có ai ngờ được việc tha thứ và lời cầu được Chúa nhận lời đi chung với nhau. Vì thế lời cầu nguyện mang ý xấu, có tính cách nguyền rủa, hoặc xin cho kẻ mình ghét bị hại chắc chắn không bao giờ Chúa nhận lời. Vì sao?
Vì cầu trong tình trạng hằn thù, ghen ghét, thiếu bác ái. Nếu có ai tự hào, Chúa đáp trả lời cầu khiến kẻ thù mình bị nạn đó chính là tự hào hão, vu vơ, thiếu căn cứ. sách Huấn Ca hôm nay dậy thật rõ. Ngươi hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha. Người này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao? Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao? Nó là xác thịt mà tích lòng thịnh nộ, thì dám xin Chúa tha thứ làm sao? Ai sẽ khẩn cầu cho tội ác nó? Hc 28,1-3
Bởi vì Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và mau thứ tha. Đây chính là lời cha ông chúng ta ca tụng tình yêu Chúa. Bản chất của cầu nguyện là thực thi bác ái. Bác ái ở đây hiểu là bác ái của lời ta cầu xin và bác ái của ân sủng Chúa ban. Xin cho người mình không ưa gặp sự khó, tai nạn là hành động thiếu bác ái. Thiếu bác ái là trái với bản tính của Chúa nên lời cầu chắc chắn không được Chúa nhận lời.
Thứ hai, thiếu thứ tha không thể là con Chúa. Thiếu thứ tha là sống tinh thần người ngoại tộc, không phải tinh thần con cái trong nhà, không phải tinh thần anh chị em cùng gia đình mà Chúa là Cha. Trong kinh Lậy Cha Đức Kitô dậy. Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho kẻ mắc lỗi với chúng con. Không sống tinh thần thứ tha cho anh em là sống trái tinh thần kinh Lậy Cha. Trái tinh thần kinh Lậy Cha là tự đặt mình, tự li khai ra khỏi gia đình Chúa. Li khai đây là li khai trong tâm hồn, bề ngoài vẫn còn là Kitô hữu nhưng bề trong đã li khai, bỏ Chúa, từ chối là anh chị em trong Chúa. Tình thương, lòng bác ái đã khô cạn trong tâm hồn. Bởi vì khô cạn nên thường dính quéo, quyện chặt lại, khư khư bảo vệ ý kiến riêng mình mà không thể chấp nhận ý kiến người khác. Bởi vì lòng bác ái khô cạn nên không thể thứ tha. Khô cạn vì thiếu liên kết với Chúa là nguồn bác ái vô biên. Dấu chỉ của cõi lòng khô cằn sỏi đá là thiếu bác ái, thứ tha.
Bởi vì là người ngoại tộc nên lời cầu xin Chúa sẽ không nhận lời. Người ngoại tộc đây không có nghĩa là ngoài tôn giáo hay khác tôn giáo. Người ngoại tộc được hiểu là người từ chối sống tinh thần bác ái, yêu thương. Đã là con người ai cũng có lòng bác ái yêu thương được Chúa cấy vào trong lòng mỗi người ngay từ nhỏ. Dù họ nhận biết, tôn thờ Ngài hay không, trong họ cũng có lòng bác ái, yêu thương. Bởi vì sống bác ái, yêu thương nên tất cả đều là con Chúa. Là con Chúa khác thuộc về Giáo Hội Chúa. Là con Chúa theo nghĩa Chúa tạo dựng nên họ. Vì là con Chúa nhưng chưa gia nhập Giáo Hội nên họ được kể vào số chiên lạc mà Đức Kitô tìm gặp vác về chăm sóc. Giảng dậy giáo lí tân tòng chính là làm công việc tìm chiên lạc cho Chúa. Dẫn chiên lạc về đàn chiên. Đây là công việc chung của tất cả các Kitô hữu. Họ không nhất thiết giảng dậy giáo lí cho nguời khác. Chỉ cần sống tinh thần Phúc Âm, bác ái và yêu thương để nhờ dấu đó mà chiên lạc nhận biết chúng ta là môn đệ Đức Kitô. Người ngoại tộc đây chính là những người tự chọn đặt mình ra ngoài tình yêu và lòng thương xót Chúa. Loại mình ra khỏi dòng tộc dân Chúa bằng cách từ chối sống bác ái, yêu thương, tha thứ. Bất cứ ai dù là Kitô hữu hay không mà chọn lối sống thiếu bác ái, nghèo thứ tha đều được kể là dân ngoại. Lời cầu của họ sẽ không được Chúa nhận lời.
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma 14,7-9 kêu gọi Kitô hữu sống trong Chúa. Sống trong Chúa và chết trong Chúa. Chết trong Chúa sẽ được sống bởi vì chính Ngài sống lại từ cõi chết nên Ngài toàn quyền ban sự sống cho những ai cùng sống chết với Ngài.
Thiếu bác ái và thứ tha là sống theo tinh thần của sự chết bởi vì trong họ không có Lời Chúa mà Lời Chúa là Thần Khí và là sự sống. Bởi vì từ chối sống theo hướng dẫn của Thần Khí Chúa nên trong lòng họ chứa nhiều sự chết hơn sự sống. Vì sự chết làm chủ tâm hồn nên họ muốn sự chết cũng làm chủ cõi lòng người khác. Điều này hoàn toàn nghịch ý Chúa.
Những người sống theo Thần Khí thấy điều nghịch lí thì khổ tâm. Điều này giải thích tại sao những người bạn của tên đầy tớ độc ác đi tố cáo anh ta với nhà vua. Họ không thể chấp nhận được vì việc làm trái Thần Khí sự sống nên họ khổ tâm, chấp nhận sứt mẻ tình bạn đi tố cáo anh với nhà vua. Tới đây ta lại thấy một bài học quan trọng nữa. Người Kitô hữu cần sống thực thi công bình bác ái và yêu thương. Họ còn có trách nhiệm tranh đấu cho công lí nữa. Nếu ai cũng lo bảo vệ an toàn cho riêng mình thì tên đầy tớ độc ác kia đã thoát cán cân công lí. Nhờ có người khổ tâm, dám hy sinh làm công việc dóng lên tiếng chuông công lí mà công lí được thực thi. Trách nhiệm của mỗi Kitô hữu là sống công chính và bảo vệ, đề cao công lí.
Lm. Vũ Đình Tường
----------------------------------
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Con người là một hữu thể sống cùng sống với người khác. Và khi biết sống cùng sống với người: TN24-A70
Con người là một hữu thể sống cùng sống với người khác. Và khi biết sống cùng sống với người khác, ta càng trở nên “là người” hơn. Lời bài hát “Tôi chỉ thật sự là người nếu tôi sống với anh em tôi” diễn tả chân lý đó. Song thực tế cũng vì cuộc sống chung đụng, nên không thể tránh khỏi những điều va vấp, xúc phạm làm tổn thương đến nhau. Trong đời sống cộng đoàn, các môn đệ ngày xưa cũng đối mặt với vấn đề khó khăn tương tự. Điều quan trọng là phải biết thứ tha. Nhưng tha thứ có giới hạn không ? Bao nhiêu lần thì đủ ? Tha thứ để được gì ? Tại sao phải tha thứ ? v.v….
Ông bà ta vẫn thường nói : “Qúa tam ba bận”. Ba lần đã là quá để cảm thông cho người lầm lỗi, để tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình. Thánh Phêrô muốn nâng con số lên cao hơn thế. Và số 7 là con số giới hạn cao nhất mà thánh nhân muốn đặt ra cho Chúa Giêsu, khi phải tha thứ cho người anh em.
Đối với Chúa Giêsu, tha thứ không chỉ có “ba bận”, hay “bảy bận”, mà phải tha thứ luôn luôn, tha thứ không giới hạn. Giả như nếu có giới hạn thì đó là giới hạn từ phía người lỗi phạm đến ta, khi họ không hối hận, hay không cần đến sự tha thứ của ta. Thử tưởng tượng, một người làm việc ngày 8 tiếng mà lỗi phạm đến ta 7 lần như thế, ta lại phải tha thứ, tha thứ không giới hạn : khó biết chừng nào ! Hành động tha thứ như thế chỉ xuất phát từ một con tim “đại bồ tát”, nói theo ngôn ngữ nhà Phật, một con tim nhân hậu như Chúa Giêsu, Đấng đã tha thứ cho cả những kẻ xỉ báng, nhục mạ và đóng đinh Ngài trên thập giá.
Nhưng tại sao lại phải tha thứ luôn luôn cả khi người xúc phạm không tỏ ra hối cải hay nói lời xin lỗi? Có phải vì để tỏ ra mình là người có lòng quảng đại bao dung, đại từ đại bi không?
Trên bình diện siêu nhiên, tha thứ là để được Thiên Chúa thứ tha. Ta đã mắc nợ Chúa nhiều vô kể, 5 ngàn nén vàng (48 triệu đồng/1 cây, nhân lên thì không biết bao nhiêu mà kể), nhưng đã được Ngài “xá miễn” hoàn toàn. Chẳng phải mỗi lần vào toà giải tội, ta đều được “trắng án” hay sao ! Dụ ngôn hôm nay nói lên điều đó. Như vậy tha thứ là đòi hỏi của Tin Mừng, trước tình thương bao la hải hà của Thiên Chúa. Hơn nữa vì ta cũng cần anh em tha thứ cho những lỗi phạm của mình. Không biết tha thứ cho anh em, ta sẽ trở thành kẻ độc ác, như Chúa Giêsu gọi (x. Mt 18,32). Đồng thời ta cũng không nhận được sự thứ tha của Chúa. Đức công bằng đối với nhau đòi buộc điều kiện này (x. Mt 18,35).
Tuy nhiên trong đời sống hằng ngày, nhiều khi có người nào đó xúc phạm đến ta dù chỉ một lần thôi, thì ta ghim gút mãi và không bao giờ tha thứ cho họ. Hoặc là tha thì tha, nhưng tuyên bố là không thèm nói chuyện, thậm chí không thèm nhìn mặt nữa.
Đức Cha Phêrô Khảm, lúc còn là linh mục, kể rằng một lần nọ ngài được mời đi giúp một ông cụ hòa giải với đứa con trai. Vì ông cụ rất cố chấp, nên các đòan thể đã khuyên hết cách rồi mà ông vẫn không nghe. Giải pháp sau cùng là nhờ đến ngài. Ông cụ đã biết là có một linh mục sẽ được mời đến, nên khi ngài vừa vào nhà, ông đã lên tiếng trước :
“Thưa cha, con đã tha thứ cho thằng con trai con rồi, nhưng nó muốn đi đâu thì đi, miễn là đừng có vác cái mặt về đây nữa là được”.
Nghe ông cụ tuyên bố như thế, ngài chẳng biết khuyên sao nữa, thành thử ngài mới kể cho ông nghe câu chuyện :
“Có bà lão kia khi chết lên trình diện Chúa. Chúa bảo bà rằng tội bà nhiều lắm, nhưng Ta tha thứ tất cả. Có điều bà muốn đi đâu thì đi, miễn sao đừng để Ta thấy mặt là được”.
Nghe đến đây thì ông cụ bắt đầu thấy lo. Ông hỏi lại :
“Thế bà đi đâu vậy cha ?”
Ngài trả lời rằng : “Còn đi đâu nữa! Có nước vào hỏa ngục thì mới không thấy Chúa”.
Và ngài cho biết là mấy tuần sau ông cụ nghĩ lại, ông cho thằng con trai về. Thế mới thấy con người ta khó tha thứ biết chừng nào. Tình cha con mà còn như vậy, huống chi với người ngoài. Có khi tha mà không thứ, tức không quên được lỗi lầm của người lầm lỗi, thậm chí không muốn thấy mặt người đó như ông cụ trong câu chuyện trên. Hoặc nữa có khi tha, nhưng đặt điều kiện này điều kiện nọ.
Trong một cuộc đối thoại ngắn giữa một linh mục và một thanh niên, người ta nghe được rằng :
Anh hãy tha thứ cho cô ta đi.
Vâng, lần này thì con tha. Nhưng nếu cô ta tái phạm lần nữa thì đừng hòng. Có chết, con cũng không tha đâu.
Vị linh mục hỏi lại :
Vậy anh có muốn Chúa cũng nói với anh như thế, khi anh đi xưng tội không ?
Anh ta im lặng…..
Chắc chắn anh ta không muốn, và có lẽ cũng không ai trong chúng ta muốn Chúa nói với mình câu đó khi đến với Bí tích giải tội. Thế nhưng, chính chúng ta lại thường sử dụng câu nói này đối với anh chị em mình, như anh thanh niên kia.
Dĩ nhiên, là con người, mang trong mình cái tôi ích kỷ hẹp hòi và cái tự ái cố chấp lớn lao, nên thực hành việc tha thứ là điều không dễ chút nào, nếu không muốn nói là rất khó, nhất là khi lỗi phạm càng lớn thì càng khó thứ tha.
Trên hết và trước hết tha thứ là một nhân đức siêu nhiên, hơn là một đức tính nhân bản. Mà đã là nhân đức siêu nhiên thì cần có ơn trợ giúp của Chúa, ta mới có thể nói lời tha thứ được. Nói cách khác, tha thứ không chỉ là một hành động thuần tuý ý chí, mà còn là một ân ban. Do đó không thể có sự tha thứ nếu không đi kèm với lời cầu nguyện.
Ngoài ra cũng rất cần có sự cảm nhận tình thương và sự tha thứ của Thiên Chúa đối với chính mình nữa. Càng cảm nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa bao nhiêu, ta càng dễ thứ tha cho anh chị em mình bấy nhiêu.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết mặc lấy tâm tình của Chúa và cảm nhận được lòng bao dung tha thứ của Chúa trước vô vàn lỗi phạm của chính chúng ta để chúng ta cũng biết mau mắn tha thứ cho anh chị em mình. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
----------------------------------
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Không ai trong chúng ta là người hoàn toàn trong sạch trước mặt Chúa. Không ai dám tự hào nói: TN24-A71
Không ai trong chúng ta là người hoàn toàn trong sạch trước mặt Chúa. Không ai dám tự hào nói mình không hề lỗi phạm đến Chúa. Trái lại, phải thành thực mà nói, ai cũng đã phạm đến Chúa rất nhiều, nhưng Chúa lại rộng lòng tha thứ cho sự yếu đuối của chúng ta.
Nếu Chúa đã tha thứ cho chúng ta thì, như Chúa dạy, chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Chúa Giêsu đã nói :”Khi con đi dâng lễ vật trên bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang bất hoà với con, thì hãy để lễ vật lại, trở về làm hòa với người anh em ấy trước đã, rồi mới trở lại dâng lễ vật sau”. Đó là cách nói mạnh, nhằm khuyến khích chúng ta tha thứ cho người khác như Chúa đã tha cho chúng ta.
Hơn nữa, nếu chúng ta có tha thứ cho người khác thì Cha trên trời mới tha thứ cho chúng ta, đó là một điều kiện bắt buộc phải có khi chúng ta cầu nguyện :”Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
I. THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG THA THỨ
1. Trong Cựu ước
Chính lúc đối diện tội lỗi mà Thiên Chúa hay ghen (Xac 20,5) tỏ ra là Thiên Chúa đầy lòng tha thứ. Việc chối bỏ Thiên Chúa sau khi đã ký giao ước, đáng lý ra khiến Thiên Chúa hủy diệt toàn dân (Xac 32,30tt), lại trở nên cơ hội để Thiên Chúa tự xưng là “Thiên Chúa dịu dàng và hay thương xót, chậm bất bình, giầu ân sủng và trung tín... dung thứ lẫm lẫn, sai phạm và tội lỗi, tuy nhiên Ngài sẽ không bỏ qua sự gì mà không sửa phạt...”. Thế nên Maisen mới có thể yên tâm cầu nguyện với lòng tin tưởng :”Thật là một dân cứng đầu cứng cổ. Nhưng xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con và cho chúng con trở thành gia nghiệp Ngài” (Xac 34,6-9).
Xét theo khía cạnh nhân bản và pháp lý, sự tha thứ tự nó không thể biện minh được, Thiên Chúa thánh thiện đã không phải bầy tỏ sự thánh thiện của Ngài bằng sự công bình của Ngài (Is 5,16) và gia phạt những ai khinh thường Ngài đó sao ? Làm sao vị hôn thê bất trung với Giao ước lại có thể ỷ lại vào lòng tha thứ khi nàng không biết xấu hổ vì mình đã gian dâm (Gr 3,1-5) ? Tuy nhiên lòng Thiên Chúa không như lòng loài người và đấng thánh không thích hủy diệt, thay vì muốn cho tội nhân phải chết, Ngài muốn cho họ hoán cải (Ez 18,23) để có thể đổ tràn ơn tha thứ của Ngài , vì đường lối của Ngài vượt xa tư tưởng của chúng ta một trời một vực.
Sau cùng, Thiên Chúa thực hiện ơn tha thứ một cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu. Ngài đã tuyên bố Tin mừng cứu độ, Ngài kêu gọi hoán cải tất cả những ai cần trở lại (Lc 5,32t) và Ngài thúc đẩy họ trở lại bằng cách mạc khải cho biết Thiên Chúa là một người Cha chỉ vui khi tha thứ (Lc 15) và Ngài không muốn ai bị hư mất (Mt 18,12t).
2. Trong Tân ước
Chúa Giêsu đến không phải phá hủy lề luật nhưng để kiện toàn. Các lề luật trong Đạo Cũ đều tốt nhưng chưa được hoàn hảo. Vì thế khi ai phạm đến ta thì người ấy trở nên kẻ thù của ta. Do đó, theo Đạo Cũ, người ta không cần thương yêu kẻ thù, chỉ cần thương yêu thân nhân thôi, còn kẻ thù thì phải chịu luật công bình. Ta hãy nghe Chúa nói :”Các ngươi có nghe lời truyền rằng : hãy yêu thương thân nhân, mà ghét thù địch mình. Song Ta dạy các ngươi rằng : hãy yêu thương kẻ thù, cứ làm ơn cho kẻ ghét mình, lại cầu nguyện cho những người bắt bớ vu vạ cho ngươi nữa, để các ngươi nên con cái Cha các ngươi ở trên trời : vì Ngài cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ tốt cũng như người xấu, và làm mưa trên người chính trực cũng như kẻ bất luơng” (Mt 5,43-45).
Theo với luật yêu thương, ta thấy cần có luật tha thứ đi kèm, vì nếu không có luật tha thứ thì luật thương yêu sẽ bị giới hạn rất nhiều.Nên Chúa Giêsu đã phán :”Nếu khi nào ngươi dâng của lễ trên bàn thờ. mà ngươi sực nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, hãy để của lễ ngươi trên bàn thờ, hãy đi làm hòa cùng anh em đã, rồi ngươi mới đến dâng của lễ”(Mt 5,23-24). Hoặc chỗ khác Chúa cũng nói :”Nếu các ngươi tha thứ cho người ta, thì Cha các ngươi trên trời cũng sẽ tha thứ cho các ngươi”(Mt 6,14).
II. CON NGƯỜI PHẢI THA THỨ
1. Thực hiện lời Chúa dạy
Người ta thường nói :”Quá tam ba bận”, nghĩa là chỉ tha có 3 lần thôi, quá 3 lần thì không tha nữa. Thánh Phêrô cũng theo chủ trương đó nhưng có phần rộng rãi hơn. Ông tin rằng tha thứ 7 lần đã là quá nhiều, vì số 7 là con số tối đa theo quan niệm của Kinh thánh, nói lên tính chất dư dật đúng mức.
Vì thế, ông Phêrô mới hỏi Chúa Giêsu rằng :”Lạy Thầy, nếu anh em con lỗi phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần, đến 7 lần không” ? Chúa Giêsu đáp :”Thầy không bảo đến 7 lần đâu, mà đế 70 lần 7”(Mt 18,21-22 ; Lc 17,4). Chúa bảo không tha chỉ tới 7 lần nhưng phải 70 lần 7, nghĩa là tha thứ đến 490 lần. Chúa trả lời như thế không có nghĩa chỉ tha 490 lần, rồi sang lần 491 thì không tha nữa, nhưng Chúa có ý nói rằng: phải tha luôn mãi không có giới hạn (x.Mt 18,22; Lc 17,4).
Để quảng diễn tư tưởng ấy, Chúa Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn : một người nợ vua 10.000 nén vàng mà không có gì trả, vua đã quảng đại tha nợ cho ; nhưng chính người được tha nợ lại không tha cho người bạn chỉ nợ có 100 quan tiền. Nghe được câu truyện đó, nhà vua phải nổi cơn thịnh nộ mà phạt tên bất nhân đó.
Để hiểu thêm số tiền nợ này cách nhau thế nào, theo các nhà chú giải Thánh kinh, thì một nén vàng tương đương 10.000 quan tiền. Vậy tên đầy tớ nợ ông chủ 60.000.000 quan tiền, một số tiền quá lớn. Trong khi người bạn chỉ mượn anh ta một số tiền là 100 quan, như thế tỷ lệ chênh lệch là 1/600.000.
Dụ ngôn này nói lên cách đầy đủ một thực tại khác. Mặc dầu giữa những con người có những khác biệt, nhân loại vẫn có vẻ ngang hàng với nhau và những bất công gây ra cho con người không đến nỗi qúa trầm trọng nếu so với những bất công đối với Thiên Chúa. Đối với con người tất cả đều giới hạn. Dù con người có tỏ ra đòi hỏi nghiêm khắc, họ cũng chỉ cốt nhằm bảo vệ quyền lợi nên không muốn tha thứ.
Vì thế, chúng ta nói rằng nhân danh con người, các bất công gây nên những tranh luận và kiện tụng. Nhưng nếu nhân danh Thiên Chúa và căn cứ theo ân sủng hơn là quyền lợi, con người sẽ tỏ lòng thương xót đối với anh em. Trước mặt Thiên Chúa, con người phải điều chỉnh tương quan của mình với tha nhân. Thái độ đối với Thiên Chúa sẽ xác định thái độ đối với anh em. Ngược lại, tương quan giữa con người với anh em sẽ xác định lối cư xử của họ đối với Thiên Chúa.
Người tín hữu khi đã biết Thiên Chúa đối xử với họ tốt lành, mà còn tới gần anh em với tinh thần khắc nghiệt, họ cũng sẽ bị điều mà Đức Kitô nhấn mạnh khi tuyên bố: ”Cha Ta cũng đối xử như thế đối với các con, nếu các con không tha thứ cho nhau”. Lòng quảng đại của Thiên Chúa sẽ thắng vượt tính hèn kém của con người, và lòng từ ái của Ngài sẽ biến cải thái độ khắc nghiệt của họ.(R. Gutwiller, Suy niệm Tin mừng Matthêu, tập 2, tr 78)
2. Người đời và sư tha thứ
Tha thứ không phải là một giáo thuyết xây trên không tưởng, hay chỉ dành cho những người theo giáo lý cuả Chúa Giêsu, mà dành cho mọi người. Có những người đã xuất hiện trước Chúa Giêsu mà họ cũng đã đề cập đến vấn đề này. Chúng ta thử rảo qua xem:
] Nhận xét của nhân gian
Người đời chia con người làm hai loại xung khắc nhau, đó là hiền nhân quân tử và kẻ tiểu nhân. Trong xã hội bị ảnh hưởng Nho giáo, con người hiền nhân quân tử được đề cao, coi là bậc thầy, coi như mẫu mực của con người ; còn tiểu nhân là những người tầm thường, bề tôi và nếu hiểu theo tinh thần Kitô giáo, thì lại hiểu tiểu nhân là những kẻ tội lỗi. Vì thế, người đời mong ước được trở nên các hiền nhân :”Sĩ hy hiền, hiền hy thánh, thánh hy thiên “: người học mong ước trở nên hiền nhân, hiền nhân mong được trở nên thánh nhân, và thánh nhân được ví như trời.
Những kẻ tiểu nhân, những kẻ vũ phu có những hành động vụt chạc, thiếu suy nghĩ, không cầm mình được, khi bị xỉ nhục là tuốt gươm xông đánh kẻ thù giống như trường hợp chàng Tân Ti Tụ ; còn người quân tử hiếu dũng không thèm chấp nhặt những sỉ nhục ấy, họ bình thản đón nhận như không có sự gì xẩy ra, lại còn đón nhận một cách vui vẻ như hiền triết Soccrates. Vì thế, người đời coi tha thứ là đặc tính của bậc trượng phu, anh hùng :
Đấng trượng phu đừng thù mới đáng,
Đấng anh hùng đừng oán mới hay.
] Chủ trương của hiền nhân quân tử.
Các hiền nhân quân tử luôn đề cao sự tha thứ, đặc biệt các vị sáng lập các tôn giáo, trong đó ta thấy có hai khuôn mặt dạy sự tha thứ nổi bật nhất là Phật Thích Ca và Đức Giêsu. Nhưng về phương diện thực hành thì Đức Kitô là một tấm gương sáng chói.
Nhà Nho dạy thế nào ? Trong vấn đề cư xử, học thuyết của Đức Khổng Phu Tử còn giống với luật báo oán của Cựu ước, ngài dạy học thuyết :”Dĩ trực báo oán”. Nhưng sau này, các đồ đệ của ngài muốn đi xa hơn, họ thêm vào học thuyết của ngài câu :”Dĩ đức báo oán”.
Ông Gandhi nói :”Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”. Chính ông đã dùng thuyết bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn độ khỏi ách thống trị của người Anh.
Ông Tertullien nói :”Kẻ bị nhục, dùng sỉ nhục để báo thù, có khác gì người sỉ nhục họ không ? Chẳng qua là những kẻ cùng làm quấy như nhau, nhưng chỉ kẻ trước người sau mà thôi”.
Hiền triết Marc Aurèle nói :”Biết yêu kẻ đã xúc phạm mình, đó là hạnh phúc của quân tử. Muốn được vậy, phải biết nghĩ rằng : những kẻ ấy là họ hàng thân thích mình – Những kẻ ấy phạm lỗi, là vì không biết, chớ không phải cố ý – Những kẻ ấy rồi chẳng bao lâu cũng cùng với ta mà chết – mà thứ nhất, những kẻ ấy, không có làm thiệt hại cho mình chút nào cả, bởi họ không từng làm cho tâm tính mình hư đi được”.
Hiền triết Épictète có một lối suy nghĩ khác, vượt trên lối suy nghĩ của mọi người. Ông tìm cách qui lỗi vào mình và không oán giận kẻ khác nữa. Nhà ông có một chiếc đèn khá qúi, bị thằng ăn trộm lấy mất. Ông tự trách mình có chiếc đèn qúi đã khêu gợi lòng tham của kẻ ăn trộm, chứ ông không trách lòng tham của đứa ăn trộm ấy. Ông cho rằng chính người gây ra căn cớ cho sự ăn trộm mới là đáng trách, và như vậy chính ông là thủ phạm.
Truyện : Hoàng đế Trung hoa trả thù.
Một hoàng đế Trung hoa nói :”Một khi chinh phục quốc gia ấy rồi, ta sẽ tiêu diệt tất cả các địch thù của ta”.
Ông đã chinh phục nước ấy, và cả đình thần của ông chờ đợi một cuộc thảm sát địch quân. Họ mong cho những địch thủ đó sau khi bị hành hình thì đem chém đầu. Họ rất bỡ ngỡ khi thấy tất cả các địch thù ngồi ăn với vua và lại nói cười vui vẻ nữa.
Họ tâu vua :
Muôn tâu hoàng thượng, hoàng thượng nói hoàng thượng sẽ tiêu diệt tất cả địch thù kia mà.
Hoàng đế trả lời :
Ta đã tiêu diệt bọn họ rồi đó, tiêu diệt bằng cách tha thứ cho họ và biến họ thành những người bạn của ta (Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 166).
] Cách trả thù hay nhất
Có những người có tâm hồn cao thượng, họ không thèm đếm xỉa gì đến những xúc phạm người khác làm cho mình, vui vẻ đón nhận tất cả. Và cách trà thù cho người khác tức là tha thứ cho họ. Sở dĩ họ làm như thế vì họ muốn làm người trên chứ không ngang hàng với người làm sỉ nhục họ. Khi tha thứ là mình đã đứng trên người được tha thứ.
Ông Swift nói :”Bị người ta làm nhục mà hận, là đem cái lỗi của người mà hành hạ báo thù mình”.
Marc Aurèle nói :”Không có cách nào báo thù những kẻ làm ác với mình hay bằng cách này : đừng giống họ”.
Người ta ở đời, đối với loài người mà gặp phải kẻ xử với mình một cách ngang ngược, thì nên coi như mình đi trong bụi rậm, vướng phải gai, chỉ nên thong thả đứng lại, gỡ dần ra mà thôi. Gai góc kia có đáng gì đâu mà giận? Xử được như thế, thì tâm hồn không phiền não, mà bao nhiêu nỗi oán hận cũng tiêu tan.
Mạnh Tử nói :”Ta nên coi những sự ngang ngược phạm đến ta như chiếc thuyền không lỡ đâm phải ta, như cơn gió dữ lỡ tạt nhằm ta, ta nghĩ cho cùng thì có gì đáng giận”.
Truyện : Trọng danh dự
Một thi hào Ý danh lừng bốn bể, ông Le Tasse, tác giả cuốn “Thành Giêrusalem được giải cứu” có thời bị bao nhiêu quân thù ganh tị âm mưu ám hại. Người ta loan tin xấu về ông. Các lời lăng mạ, vu khống đổ về ông như mưa bấc có ý cho ông ở tù. Có người thân tín cho ông biết tên đầu sỏ của vụ vu oan cáo ông đã phạm một tội nhục nhã tầy trời và yêu cầu ông phổ biến điều ấy ra để trả đũa.
Le Tasse nghiêm trang trả lời :
Tôi không muốn làm mất danh dự và sinh mệnh của người ta. Tôi chỉ muốn bài trừ ở họ ý muốn hành ác thôi : đó là sự phục thù độc nhất của tôi.
(Hoàng xuân Việt, Thuật sống dũng, 1970, tr 200)
Vì thế, nhà hùng biện trứ danh nước Pháp, cha Lacordaire, đã khuyên bảo ta :”Anh muốn vui sướng trong chốc lát : cứ trả thù. Anh muốn yên ủi mãi mãi: nên tha thứ”.
III. CHÚNG TA CŨNG PHẢI THA THỨ
Với tất cả những tư tưởng được trình bầy ở trên, chúng ta thấy rằng tha thứ là một điều cao thượng và cần thiết. Không những người Kitô phải biết tha thứ theo lời Chúa dạy, mà cả những người ngoại giáo cũng đã thực hiện. Trong bài giảng tên núi, Đức Giêsu đặc biệt lưu ý chúc phúc cho ai hiếu hoà, một cách gián tiếp Chúa bảo những kẻ hiếu hòa là kẻ biết tha thứ cho nhau để tạo bầu không khí hoà thuận giữa mọi người (x. Mt 5,9). Còn nhiều phần thưởng được dành cho người biết tha thứ, như ta thấy có hai phần thưởng được Chúa ban trực tiếp khi ai biết tha thứ và cũng là điều kiện “sine qua non” của lời cầu nguyện :
Được Chúa tha thứ tội lỗi cho (Mt 6,14-15 ; Mc 11,25; Lc 11,4).
Được Chúa nhận của lễ ta dâng (Mt 5,23-24) ; Mc 11,25).
Ta còn phải tha thứ cả bề trong lẫn bề ngoài. Tha thứ cho người khác những xúc phạm đến mình, tha thứ thật trong lòng đã là một điều đáng khen ngợi,và đấy là điều kiện căn bản và khởi điểm để đi xa hơn nữa. Tha thứ bề trong mà thôi, chưa đủ, còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa. Tại sao lại chưa đủ ? Vì ta dựa vào lời Chúa khi Ngài nói :”Hãy để của lễ ngươi trước bàn thờ, hãy đi làm hoà cùng anh em đã, rồi ngươi mới đến dâng của lễ”(Mt 5,23-24). Chúa dạy phải đi làm hoà cùng anh em đã. Chữ “đi làm hoà” gợi lên trong đầu óc ta một hành động cụ thể. Chúa đòi ta phải thực hiện sự tha thứ bằng việc làm bên ngoài, nếu không thì Chúa chỉ bảo “hãy để của lễ trên bàn thờ, tha thứ cho anh em đã rồi hãy dâng của lễ”. Như vậy ta có thể kết luận rằng : không những Chúa đòi ta tha thứ trong lòng, mà còn đòi ta phải thực hiện sự tha thứ ấy ra bên goài, bằng một hành động cụ thể.
Tại sao sự tha thứ cần được biểu lộ ra bên ngoài bằng những hành động cụ thể ? Sở dĩ cần có những hành động bên ngoài vì chính những hành động ấy phá tan tình trạng lạnh lùng, khẩn trương, phá tan một cuộc chiến tranh lạnh bao trùm cuộc sống giữa hai người. Nhiều khi trong lòng đã thực sự tha thứ, nhưng vẻ lạnh lùng bên ngoài khiến người khác tưởng rằng mình không tha thứ hoặc coi như họ khinh mình.
Văn hào Goethe đã nói :”Sự tha thứ chỉ có thể là một trạng thái trung gian. Nó phải đưa đến sự kính trọng. Tha thứ là làm nhục”.
Và còn tệ hơn nữa, như P.J. Poulet nói :”Sự tha thứ có khi chỉ là một bộ mặt của sự trả thù”.
Đã nhiều lần chúng ta đọc kinh Lạy Cha, chúng ta có để ý đến câu này không :”Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” ? Có lẽ chúng ta chỉ chú ý đến phần trên “và tha nợ chúng con”, mà lại bỏ quên phần sau “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Nếu trong chúng ta có sự xích mich với nhau thì hãy tha thứ đi đã rồi hãy dâng lễ, nếu không Chúa sẽ không nhận lễ vật chúng ta dâng.
Truyện : Hoàng đế Othon tha thứ
Dưới thời hoàng đế Othon I, các vương hầu nổi lên làm loạn nhiều lần. Đặc biệt chính bá tước Henri, em ruột của hoàng đế lại là kẻ cầm đầu quân phản loạn. Nhiều lần bị hoàng đế đánh bại, ba lần bị lên án tử hình, nhưng được ân xá nhờ lời cầu khẩn của hoàng thái hậu Mathilde. Lần thứ tư Henri lại nổi loạn, bị bắt, lại bị xử tử hình. Hoàng đế nổi giận không muốn nghe sự thỉnh cầu của bất cứ ai. Mặc dầu biết mất hết mọi hy vọng, nhưng Henri cố gắng lần cuối.
Đó là hôm áp lễ Noel năm 945, hoàng đế và các vương hầu khanh tướng đến dự lễ tại nhà thờ chính toà Quellimbourg. Đến phần phụng vụ lời Chúa, bá tước Henri mặc áo nhặm xuất hiện trong nhà thờ, tiến đến và xấp mình dưới chân hoàng đế xin tha mạng, nhưng Othon nhìn bá tước nghiêm khắc và nói :”Ba lần ta đã tha chết cho ngươi mà ngươi vẫn cố tình, đừng xin xỏ nài nỉ gì nữa, ba ngày tới đầu ngươi sẽ rơi. Đúng lúc đó vị chủ tế mở sách Phúc âm và đọc đoạn thánh Phêrô hỏi Chúa :”Lạy Thầy, con phải tha cho anh em bao nhiêu lần ? Có phải 7 lần chăng “? Chúa đáp :”Ta không nói với con là 7 lần mà là 70 lần 7”.
Nghe lời đó, hoàng đế rúng động tâm can đến phát khóc và không những nhà vua tha mạng cho đứa em phản loạn, mà còn ôm vào lòng rồi ban cho em lãnh thổ Bavier nữa (Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 113-114).
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
----------------------------------
Lm. Ignatiô Trần Ngà
Khi bị người khác xúc phạm, có người cảm thấy bị tổn thương nghiêm trọng, nên lồng lên dữ : TN24-A72
Khi bị người khác xúc phạm, có người cảm thấy bị tổn thương nghiêm trọng, nên lồng lên dữ dội như con thú bị trúng thương; có người cảm thấy máu sôi lên trong huyết quản, người nóng bừng lên, hơi thở dồn dập, mặt đỏ gay.
Trong hoàn cảnh đó, phản ứng thông thường của đa số là tìm cách trả đũa thật đích đáng. Thậm chí có người cho rằng thà chịu chết còn hơn chịu nhục. Thế là giông tố sẽ bùng lên, những trận đòn thù như vũ bão sẽ ập đến, hậu quả không biết đâu mà lường!
Trong khi đó, Chúa Giê-su, trong thân phận con người, và nhất là trong cuộc thương khó của Người, đã bình thản đón nhận mọi sỉ nhục, nhạo cười, lăng mạ, phỉ nhổ, chịu hành hạ, chịu đánh đòn, chịu đội mão gai, chịu vác thập giá, chịu chết trần truồng, chịu vô vàn đau thương chồng chất và chịu chết tủi nhục trên thập giá mà không hề oán hận hay nguyền rủa những con người bội bạc xúc phạm đến mình, trái lại còn đem lòng thương xót và cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ. (Luca 23, 33)
Đối mặt với vô vàn xúc phạm đủ mọi hình thức, Chúa Giê-su sẵn sàng tha thứ và kêu mời mọi người hãy tha thứ cho nhau, tha thứ liên tục không ngừng.
“Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần ? Có phải bảy lần không ?" Đức Giê-su đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy." Nói như thế có nghĩa là Chúa dạy hãy tha thứ liên tục không ngừng.
Quả là một đòi hỏi vượt quá sức người. Làm sao con người đầy sân hận lại có đủ bản lãnh và khí phách để thực hiện lời truyền dạy của Chúa Giê-su?
1. Con người mắc phải lầm lỗi vì mù quáng, vì thế họ đáng thương chứ không đáng trách.
Chúa Giê-su không những tha thứ mà còn yêu thương những kẻ kết án và đóng đinh Người vì Người biết họ hành động cách mù quáng, mà mù quáng thì đáng thương hơn là đáng trách. Họ mù quáng nên không nhận ra Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa. Họ tưởng rằng khi kết án Chúa Giê-su là họ bảo toàn vinh quang Thiên Chúa, không để cho uy danh Thiên Chúa bị xâm phạm bởi một người phàm làng Nadarét ngạo mạn xưng mình là Con Thiên Chúa.
Charlie Charplin nhận định: “người ta mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình. Thế nên người ngu thì lên án họ; người khôn thì thương xót họ.” Không giống như bao nhiêu người thiếu hiểu biết thường vội vàng kết án người khác căn cứ vào hành vi lầm lỗi bên ngoài của tội nhân, Chúa Giê-su là Đấng khôn ngoan thấu suốt lòng dạ con người; Người biết rằng phần lớn những tội người ta phạm là do mù quáng, do thiếu hiểu biết mà ra, vì thế, thay vì lên án, Người thương xót những kẻ mắc phải lỗi lầm và tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ. “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." (Luca 23, 33)
2. Không ai cố tình làm điều ác.
Ngoài ra, nhà hiền triết Socrate cũng có cùng quan điểm như thế. Ông nhận định rằng: “không ai cố tình làm điều ác” và “sở dĩ người ta làm điều ác là vì mù quáng, thiếu hiểu biết”
Dale Carnegie, một học giả trứ danh người Mỹ nổi tiếng với nhiều tác phẩm bán chạy nhất thế giới quả quyết rằng: “Tôi đã bỏ ra gần 70 năm trong đời để khám phá ra chân lý nầy là dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi, thì có đến 99 lần người ta tự cho là mình vô tội.” Phần lớn các phạm nhân cho rằng mình vô tội vì nghĩ rằng những hành động họ làm được thúc đẩy bởi lòng tốt chứ không phải bởi ác tâm.
Xét lại bản thân mình, chúng ta thấy rằng dù mỗi người chúng ta đã từng phạm nhiều lầm lỗi trong cuộc sống, nhưng chưa bao giờ chúng ta hành động vì ác tâm. Từ đó suy ra, trong phần đông nhân loại, không mấy ai cố tình làm điều ác. Vì thế chẳng nên kết tội người khác nhưng hãy sẵn sàng thứ tha cho họ. Tóm lại, để có thể tuân giữ lời mời gọi tha thứ liên lỉ, tha thứ không ngừng của Chúa Giê-su, chúng ta cần xác tín như nhà hiền triết Socrate rằng: “Không ai cố tình làm điều ác”, “sở dĩ con người phạm phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình”.
Và hãy ghi tâm lời nhận định của Charlie Charplin: “con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình. Thế nên, người khôn thì thương xót họ, người ngu thì lên án họ.”
Và nhất là học theo gương Chúa Giê-su, cảm thông sâu sắc với người tội lỗi, cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ vì họ mù quáng, “không biết việc họ làm” (Lc 23,33)
Lm. Ignatiô Trần Ngà
----------------------------------
Chúa Giêsu đáp: "Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy'. (Mt 18,22).
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Mỗi khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta nguyện rằng xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha: TN24-A73
Mỗi khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta nguyện rằng xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Nếu chúng ta không tha nợ cho anh em, làm sao chúng ta có thể xin Chúa tha cho chúng ta. Có khi nào chúng ta dối Chúa không? Hình như có một điều gì khúc mắc trong lời kinh này. Bỏ qua, không chấp hay tha thứ là một thái độ tích cực. Không phải ai ai cũng có thể thực hiện được đâu. Vì theo thói thường trong cuộc sống, ai cũng muốn sự công bằng, tác giả sách Đệ Nhị Luật cũng đã ghi rõ ràng: Nếu ai làm cho người đồng bào phải mang tật, thì phải xử với nó như nó đã xử với người ta: Chỗ gãy đền chỗ gãy, mắt đền mắt, răng đền răng; nó đã làm cho người khác mang tật thế nào, thì người ta cũng sẽ làm cho nó như vậy (Lv 24,19-20). Tha thứ cho người khác có thể là chúng ta sẽ phải chịu sự mất mát và thua thiệt. Nhưng trong tinh thần yêu thương, tha thứ sẽ mang lại cho chúng ta rất nhiều điều lợi. Chúng ta sẽ được chính Thiên Chúa tha thứ, được nối lại tình nghĩa anh chị em và cho chúng ta sự bình an trong tâm hồn.
Dọc theo lịch sử của dân tộc Do-thái cũng là lịch sử ơn cứu độ. Sự tha thứ đã nẩy sinh từ tâm hồn thiện hảo. Ông Giacob đã xin Giuse tha lỗi cho các anh em. Xưa kia, vì ghen tỵ họ đã bán Giuse cho các lái buôn Aicập. Khi gặp lại, Giuse đã cảm động mà tha thứ cho anh em: "Thôi! Xin con tha tội tha lỗi cho các anh con, vì họ đã gây ra điều ác cho con." Bây giờ xin chú tha tội cho các kẻ làm tôi Thiên Chúa của cha chú! " Ông Giuse khóc, khi họ nói với ông như thế (Stk 50,17). Rồi khi ông Môisen dẫn dân ra khỏi đất Ai-cập, dân đã phản loạn, kêu trách và than phiền. Ông Môisen đã phải qùy phục xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho họ. Thiên Chúa đầy lòng từ ái đã tha thứ: Ông Môsê vội vàng phục xuống đất thờ lạy và thưa: "Lạy Chúa, nếu quả thật con được nghĩa với Chúa, thì xin Chúa cùng đi với chúng con. Dân này là một dân cứng đầu cứng cổ, nhưng xin Ngài tha thứ những lỗi lầm và tội lỗi của chúng con, và nhận chúng con làm cơ nghiệp của Ngài." (Xh 34,8-9).
Không phải Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho dân chỉ một lần nhưng Chúa cứ tha hoài và tha mãi. Dân phản nghịch, Chúa phạt họ. Khi họ hối lỗi, Chúa lại tha. Chúa tha không biết bao nhiêu lần: Vậy xin Ngài tha thứ lỗi lầm của dân này theo lượng cả ân nghĩa của Ngài, như Ngài đã từng chịu đựng dân này từ Ai-cập cho đến đây." (Ds 14,19). Qua sự khẩn cầu của các Tổ phụ, các Tiên tri và các vị đại diện của Dân Chúa, Chúa phạt rồi lại tha, tha rồi lại phạt: Từ trời xin Ngài lắng nghe, thứ tha tội lỗi Ít-ra-en dân Ngài và đưa họ về đất Ngài đã ban cho cha ông họ (1Vua 8,34). Họ đã xúc phạm nặng nề và bỏ Chúa đi thờ bụt thần. Họ xây đền thờ tôn kính thần ngoại bang. Họ quên đi giới luật và các huấn lệnh của Chúa. Các tiên tri không ngừng mời gọi họ trở về và xin ơn thứ tha: Từ trời nơi Ngài ngự, xin Ngài nghe lời họ cầu nguyện van xin mà xét xử công minh cho họ, và tha thứ cho dân Ngài vì họ đã xúc phạm đến Ngài (2 Sb 6,39).
Vua Đavít cũng đã phạm tội nặng nề trước nhan thánh Chúa. Chúng ta biết Chúa đã chọn và gọi ông từ một trẻ chăn chiên lên ngôi vua để trị vì Dân Thánh. Ông đã biết sám hối ăn năn trở về cùng Chúa và van xin: Lạy Chúa, tội con thật nặng nề, vì danh Ngài, xin lượng thứ cho con (Tv 25,11). Tình yêu của Chúa bao la hải hà. Chúa rộng lòng tha thứ hết mọi tội khiên mà con người xúc phạm đến Chúa. Qua lịch sử cứu độ, chúng ta nghiệm ra tình yêu Chúa dành cho con người thật bao la vĩ đại. Chúa tha thứ cho con người cả ngàn ngàn lần. Chúa luôn luôn muốn nối lại sự giao hòa giữa đất trời, giữa Thiên Chúa và con người. Tiên tri Giêrêmia nói lên lòng từ bi nhân hậu của Chúa: Ta sẽ thanh tẩy chúng cho sạch mọi điều gian ác chúng đã phạm, khiến chúng đắc tội với Ta. Ta sẽ thứ tha mọi điều gian ác chúng đã phạm khiến chúng đắc tội với Ta và phản lại Ta (Giêr. 33,8). Hậu qủa của tội nguyên tổ làm con người dễ hướng về điều dữ. Con người sống theo thói hư tật xấu, tâm hồn nhơ nhuốc và bê tha tội lỗi, nhưng khi biết sám hối ăn năn trở lại, Chúa không bao giờ chê bỏ họ: Lạy Chúa, xin khấng nghe! Lạy Chúa, xin tha thứ! Lạy Chúa, xin đoái thương! Vì danh Ngài, xin ra tay và đừng trì hoãn, lạy Thiên Chúa của con, bởi vì thành và dân của Ngài đã được thánh hiến cho Ngài."(Dan 9,19).
Chúng ta có một mối lợi tuyệt hảo là khi chúng ta tha lỗi cho anh em, Chúa sẽ tha cho chúng ta: Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em (Mt 6,14-15). Sự tha thứ là một ân huệ cao vời. Tha thứ sẽ mang lại cho tâm hồn sự bình an thư thái. Tha thứ sẽ tạo nên một cảnh sống yêu thương và hạnh phúc. Tha thứ sẽ xây dựng một xã hội tốt đẹp và hòa bình. Tha thứ là qùa tặng mà Thiên Chúa ban cho con người. Thiên Chúa đã ban Con Một của mình là Chúa Giêsu Kitô làm qùa tặng cho nhân loại. Chúa Giêsu có quyền tha thứ mọi tội lỗi: Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội - bấy giờ Đức Giê-su bảo người bại liệt: "Đứng dậy, vác giường đi về nhà! "(Mt 9,6).
Chúa Giêsu có uy quyền trong lời nói và việc làm. Chúa làm các phép lạ chữa lành cả xác lẫn hồn. Chúa Giêsu chữa lành các bệnh họan tật nguyền qua lời nói, qua sự sờ chạm và qua ý muốn. Chúa tha tội và ban lại sự tinh tuyền trong tâm hồn như thuở ban đầu. Chúa gỡ bỏ mọi ràng buộc của bóng tối và ma quỷ: Thấy họ có lòng tin như vậy, Người bảo: "Này anh, anh đã được tha tội rồi."(Lc 5,20). Chúa lấy tình yêu đo lường sự hối cải và tha thứ. Chúa Giêsu phán rằng yêu nhiều sẽ được tha nhiều. Lấy tình yêu bù đắp những khiếm khuyết của cuộc đời: Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít (Lc 7,47).
Chúng ta có thể tha thứ nhưng chúng ta rất khó quên. Tha đã khó, quên đi còn khó hơn. Cứ nhắc đến truyện buồn cũ, chúng ta cảm thấy như nó ứ tới cổ và nghẹn đến tim. Nghe đến truyện xưa là đã nổi da gà và nhìn thấy đã phát ghét. Làm thế nào chúng ta có thể tha cho người đã làm hại danh dự, quyền lợi và tiếng tăm của chúng ta? Chẳng lẽ chúng ta chịu thua và chịu nhục như vậy sao? Chúng ta đã mất mát và chịu thiệt thòi qúa nhiều rồi. Ai sẽ bù đắp lại cho chúng ta đây? Nếu thái độ báo thù tiêu cực dừng lại ở đây, chúng ta sẽ bị chôn chân tại chỗ và bị người khác đóng khung cuộc đời của chúng ta vào sự ràng buộc vay trả, trả vay hay mắt đền mắt, răng đền răng. Khi con người để tâm gây báo thù, thì sự thù ghét sẽ không bao giờ chấm dứt. Trả thù là thái độ tiểu nhân. Tìm cách báo thù là tự hại mình. Trả thù là tự đưa mình vào con đường cùng. Thiên Chúa cho chúng ta có trái tim yêu thương rộng mở, chúng ta cùng học biết sự tha thứ như Chúa đã tha cho chúng ta.
Sức mạnh của tình yêu là động lực huyền diệu của sự tha thứ. Khi yêu nhiều, chúng ta sẽ tha nhiều. Đây là kinh nghiệm đời thường. Những đôi cặp trẻ khi mới yêu nhau và khi tình yêu cuồng nhiệt nóng bỏng, họ có thể bỏ qua tất cả, tha thứ tất cả và quên đi tất cả những sai lầm và lỗi phạm. Khi yêu nhau, họ dễ dàng bỏ qua cho nhau những thiếu xót, những tiêu cực hoặc ngay cả những lỗi phạm. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy tha thứ, không phải chỉ bảy lần nhưng bảy mươi lần bảy. Chúng ta tự hỏi: Sao phải tha nhiều thế? Mấy ai có thể thực hiện được. Khó lắm. Đối với con người bình thường thì qúa tam ba bận. Có nghĩa là tha thứ đến ba lần đã là nhiều lắm rồi. Tuy nhiên trong đời sống gia đình, chúng ta cũng cứ phải bỏ qua và tha thứ cho nhau không ngừng.
Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta tha thứ cho nhau, Chúa đã làm gương trước. Khi bị thiên hạ tẩy chay, môn đệ phản bội, người ta thù ghét và giết bỏ, treo trên thập giá trong giờ lâm tử, Chúa đã xin Chúa Cha tha tội cho họ và còn bệnh đỡ họ vì sự không biết: Bấy giờ Đức Giê-su cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm (Lc 23,34). Chúa tha thứ hoàn toàn và còn ban ơn cứu chuộc họ nữa. Ngước nhìn lên thánh giá Chúa, chúng ta cũng được hưởng nhờ ơn cứu độ và sự tha thứ.
Chúa Giêsu đã trao quyền tháo cởi và cầm giữ cho thánh Phêrô và các tông đồ. Quyền này được trao lại cho Giáo Hội qua Bí Tích Hòa Giải: Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."(Ga 20,23). Chính nhờ Máu Châu Báu của Chúa Kitô đã đổ ra, chúng ta được lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác, nhất là ơn tha tội: Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người (Eph 1,7).
Một trong những cách thế sống hạnh phúc và an vui là chúng ta cần phải tha thứ cho nhau. Sự tha thứ dựa trên ơn sủng của Chúa Kitô, Đấng đã tha thứ và ban ơn tha thứ cho tội nhân: Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau (Col 3,13). Ai trong chúng ta cũng đã phạm lỗi lầm, sai trái và tội lỗi. Ai trong chúng ta cũng cần tha thứ và được tha thứ. Sự tha thứ là cửa ngõ dẫn vào hoàn thiện. Biết yêu thương là biết tha thứ. Anh chị em chớ mắc nợ nhau điều gì trừ ra lòng yêu mến. Lòng yêu thương dẫn đến sự hòa giải, tha thứ và hợp nhất.
Lạy Chúa, xin tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Chỉ có ân sủng của Chúa nâng đỡ phù trợ và mở cửa tâm hồn để chúng con biết tha và được tha. Lạy Chúa, xin thương tha thứ.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
----------------------------------
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
Tha thứ là đề tài rất quan trọng trong giáo huấn của Chúa Giêsu.Bởi vì thời Chúa Giêsu giữa: TN24-A74
Tha thứ là đề tài rất quan trọng trong giáo huấn của Chúa Giêsu.Bởi vì thời Chúa Giêsu giữa dân tộc Israen và Paléttin có một mối thù truyền kiếp, những cuộc xung đột đẫm máu thường xẩy ra giữa hai dân tộc này. Do đó, Chúa Giêsu đã nhìn vào các biến cố xẩy ra xung quanh Ngài để dạy các môn đệ và nhân loại. Tin Mừng hôm nay thuật lại :” Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “ Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần ? Có phải bảy lần không?“. Đức Giêsu đáp: ”Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy “ (Mt 18, 21-22 ).
Chúa Giêsu dạy nhân loại và cách riêng các môn đệ Ngài là con người phải biết đối xử, cư xử với nhau một cách đẹp. Lời của Chúa Giêsu mời gọi con người tha thứ và tha thứ mãi mãi, tha thứ không ngừng. Tuy nhiên, chúng ta thường đặt vấn nạn :tại sao lại phải tha thứ và tha thứ để làm gì ? Vâng, tha thứ là việc cần thiết trong gia đình, trong cộng đoàn, trong xã hội, trong Giáo Hội. Tha thứ là đặc điểm của tình yêu.Sách khôn ngoan nhắc nhở mỗi người chúng ta: ”Hãy nhớ đến ngày cuối cùng của bạn, bỏ sự thù địch qua một bên. Hãy nhớ đến cái chết và đừng phạm tội nữa “.Nên, tha thứ không phải là nhu nhược, là yếu hèn, nhưng tha thứ lại là sức mạnh của tình yêu, là khí cụ của an bình.Giáo huấn của Đức Giêsu Kitô hoàn toàn khác với Cựu Ước bởi vì Cựu Ước quan niệm và dạy: ”Mắt thế mắt răng đền răng“. Chúa Giêsu đi ngược lại với quan niệm của Pharisêu và Biệt phái. Giáo lý của Ngài rất mới lạ :” Hãy yêu thương kẻ thù “. Lòng nhân từ, bao dung và tình thương của Ngài tỏa sáng trên thập giá: ”Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm“ ( Lc 23, 34 ). Dụ ngôn cho chúng ta hiểu Vị Vua là Cha của Chúa Giêsu. Khi các bạn của Vua xin Vua tha thứ cho người mắc nợ thật nhiều, Vua đã sẵn lỏng tha nợ. Đây là điều chỉ có Thiên Chúa mới làm như thế. Tha thứ rất cần thiết vì tha thứ là điều kiện để Chúa tha thứ cho chúng ta :” Nếu anh em tha lỗi cho người ta, Cha trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em “ ( Mt 6, 24 ). Chúa Giêsu là mẫu gương để nhân loại noi gương về tha thứ. Kinh Lạy Cha chúng ta đọc thấy: “Xin tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha nợ cho những người mắc nợ chúng con“ ( Mt 6, 12 ). Tha thứ là nghĩa cử tuyệt đỉnh: ”Nếu khi sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình“ ( Mt 5, 23-24 ).
Tha thứ là một nghĩa cử cao vời bởi vì có tha thứ chúng ta mới nên giống Chúa và chúng ta mới sống an bình. Thực tế, tha thứ là một lệnh truyền xem ra dễ nhưng lại rất khó thực hiện, nếu chúng ta không có ơn Chúa. Sống ân oán thường dễ hơn sống tha thứ. Do đó, chỉ có sức mạnh của Chúa, chúng ta mới tha thứ được. Sống ở gian trần, thường chúng ta rất khó tha thứ cho nhau nhất là khi chúng ta đã có cái nhìn không tốt về nhau, đã có ác cảm với nhau. Đúng phải có ơn Chúa, phải nhờ sức mạnh của Chúa, con người mới có thể vượt thắng và chấp nhận tha thứ.
Càng tha thứ, chúng ta càng nên giống Chúa. Tha thứ sẽ giúp những người lỗi lầm với chúng ta được sống an bình. Tha thứ chúng ta sẽ nhận được thứ tha như lời thánh Phanxicô khó khăn đã nói :” Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ “. Tha thứ chúng ta sẽ sống bình an và tràn ngập niềm vui, tràn ngập ơn cứu độ.
Hành động tha thứ là hành động của con tim. Và đây là nét đặc sắc nhất của Kitô giáo bởi vì: ”Thiên Chúa là tình yêu“ (I Ga 4, 8). “Xin Chúa ban cho chúng ta tinh thần yêu thương của Ngài, và sau khi chúng ta đã được nuôi dưỡng bằng Bí tích phục sinh, xin Chúa hãy liên kết chúng ta trong tình Cha“ (Lời nguyện hiệp lễ Phục Sinh).
Thánh Phaolô nói rằng: ”Chúng ta phải bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái để cùng toàn thể Dân Thánh, có đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài, rộng, cao, sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô là tình thương vượt quá sự hiểu biết“ (Ep 3, 18).
Vâng từ chối tha thứ, chúng ta sẽ tự khép mình trong sự chết và tha thứ không ngừng như lời Chúa dạy là con đường dẫn chúng ta đi vào Nước Trời.
Lạy Chúa từ nhân,
xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết tha thứ những lỗi phạm của anh chị em chúng con vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
Tại sao chúng ta phải tha thứ?
Tha thứ có lợi ích gì ?
Chúa Giêsu dạy nhân loại và chúng ta phải tha thứ làm sao ?
Tha Thứ là hành động của lý trí hay con tim ?
Chúa dạy chúng ta khi dâng của lễ phải có điều kiện nào ?
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
----------------------------------
Lm. Anmai, CSsR
Trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe tiếp liền với ý nghĩa của trang tin mừng Chúa nhật 23: TN24-A75
Trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe tiếp liền với ý nghĩa của trang tin mừng Chúa nhật 23 thường niên tuần trước. Tuần trước, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta một cách hết sức tế nhị khi sửa lỗi với anh chị em đồng loại. Hôm nay, Chúa mời gọi mỗi người chúng ta tha thứ cho anh chị em đồng loại nếu như anh chị em đồng loại xúc phạm đến chúng ta.
Thánh Phêrô vốn dĩ là một con người mang trong mình dòng máu nóng, tính bộc trực nên vừa khi nghe nói vấn đề gì đó Ngài không chịu suy xét, Ngài không trầm lắng đủ để giải quyết vấn đề. Ruột của Ngài thẳng như ruột ngựa vậy, bụng nghĩ sao là nói vậy ngay chứ không hề suy tính thiệt hơn. Nói về việc anh em đồng loại xúc phạm đến mình, Ngài rất hào phóng, rất rộng rãi. Tha một lần đã là quá đáng lắm rồi, theo như cách suy nghĩ của nhiều người. Ngài hào phóng, Ngài nói với Chúa Giêsu là Ngài tha bảy lần tưởng chừng là được Thầy Giêsu khen nhưng đáng tiếc Thầy Giêsu đã nói với Ngài không phải là tha bảy lần nhưng lại là bảy mươi lần bảy. Bảy mươi bảy lần : có bản ghi là 77 lần 7, trong câu trả lời này, Chúa Giê-su đã đưa vào bài ca báo thù của Lamek nơi sách sáng thế 4,24 “Cain được báo thù gấp 7, nhưng Lamek tới 70 lần 7”. Nhưng thay vì nói báo thù thì Chúa Giê-su lại nói tha thứ. Cả hai cách nói đều có ý nói số lần là vô hạn vì thế ở đây Chúa dạy là phải tha thứ luôn.
Luật xưa dạy người ta mắt đền mắt răng đền răng nhưng Chúa Giêsu đến Chúa Giêsu đã sửa luật cũ đó. Sự tha thứ cho đồng loại để được Chúa nghe lời cầu xin được đề cao. Chúng ta được sinh ra và sống thời Tân Ước - thời của Chúa Giêsu – khác với những gì Cựu Ước đã dạy nhưng lòng chúng ta cứ xử với anh chị em đồng loại như thời Cựu Ước vậy. Chúng ta vẫn mang trong mình cái máu đòi nợ máu của anh chị em đồng loại khi anh chị em đồng loại xúc phạm đến chúng ta.
Một câu chuyện có thật, nó mang đầy tính nhân đạo, đầy tình người trong phòng xử án của toà án nhân dân thành phố HCM : Người đàn ông khoảng hơn 70 tuổi, mái tóc bạc trắng, lững thững bước lại chiếc bàn dành cho đại diện hợp pháp của người bị hại. Đưa ánh mắt đau xót, khắc khoải nhìn bị cáo đang cúi gằm mặt trước vành móng ngựa một hồi lâu, rồi ông cất giọng chậm rãi: “Ngày con tôi chết, tôi bồng con trên tay, điếng người”. Cả phòng xử im lặng lắng nghe. Không gian như ngưng đọng. Tôi có cảm giác phạm nhân đang gồng mình chờ đợi, một cách cam chịu, những lời lẽ trách cứ đầy oán giận từ người nhà nạn nhân. Hít một hơi thở thật sâu, cha của nạn nhân khó nhọc nói tiếp: “Hôm nay tôi đến đây để xin tha tội chết cho kẻ đã giết con tôi. Tôi không muốn có thêm một người cha, người mẹ phải đau khổ khi chứng kiến cái chết của con mình”. Nhiều tiếng thì thầm từ phía bạn bè, người thân của phạm nhân. Họ đang hy vọng.
Cách nay không lâu, TAND TPHCM đã đưa vụ án giết người của kẻ thủ ác ra xét xử sơ thẩm. Lần ấy, Phạm nhân bị tuyên án tử hình. Mẹ phạm nhâà nội ngất lịm, tưởng như có thể chết cùng đứa con trai duy nhất. Bạn bè phạm nhân khóc vì thương người bạn hiền lành, tốt bụng, tài năng. Còn 15 ngày kháng cáo, họ chạy ngược xuôi mong tìm kiếm những tình tiết có thể xin giảm nhẹ hình phạt cho phạm nhân. Bản thân phạm nhân, nghĩ đến ngày phải vĩnh viễn ra đi khi nhiều mơ ước vẫn chưa thực hiện bỗng thấy yêu da diết cuộc sống. Phạm nhân làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đứng trước Tòa Phúc thẩm Tối cao, phạm nhân không nói gì nhiều để biện minh cho hành vi tàn nhẫn của mình. Lời nói sau cùng, phạm nhân xin lỗi gia đình nạn nhân, cám ơn những người đã vì phạm nhân mà chịu nhiều đau khổ, vất vả. Trong trường hợp không được khoan hồng, phạm nhân xin hiến toàn bộ nội tạng cho ngành y và bộ xương cho Trường ĐH Mỹ thuật TPHCM. Nghe phạm nhân nói, nhiều người bạn của phạm nhân đã bật khóc. Cuối cùng, phạm nhân đã trở về con người thật của mình. Yêu nghề, yêu trường và sống vì người khác.
Tâm sự với tôi, cha của nạn nhân nói: “Vì tình thương yêu đối với con, tôi không bao giờ tha thứ cho kẻ đã giết con gái mình. Con tôi chết, bao nhiêu tiền bồi thường cũng không thể trả lại mạng sống cho nó, huống chi số tiền gia đình phạm nhân đưa không đủ để tôi nuôi con tôi học trong một năm. Nhưng một lần nói chuyện với mẹ phạm nhân qua điện thoại, bà ấy nói: “Không có người mẹ nào có thể chịu được hình ảnh người ta cột con mình vào một cái cây để bắn. Như thế, thà tôi chết trước còn hơn”. Vậy là tôi quyết định, dù điều đó thật không dễ với tình cảm của tôi cùng sự phản đối quyết liệt của gia đình”. Để có thể dự phiên tòa hôm nay, từ 3 giờ sáng, ông phải một mình đi xe máy từ miền quê nghèo miền sông nước lên TPHCM. Tôi bảo, ông có thể viết một lá đơn xin miễn tội chết cho phạm nhân đến tòa vẫn được. Ông lắc đầu: “Giúp người phải giúp cho trót. Tôi phải lên đây nói cho rõ, may ra HĐXX mới tin mà xem xét cho nó. Mong là nó biết hối lỗi, biết thương mẹ mà sống có ích”.
Cuối cùng, HĐXX cũng chấp nhận kháng cáo của phạm nhân, tuyên phạt án chung thân. Phạm nhân sẽ tiếp tục được sống để sửa chữa sai lầm và để có cơ hội cống hiến tài năng của mình cho nghệ thuật. Nghe xong bản án, cha của nạn nhân vội vã ra bãi gửi xe. Trước mắt ông là quãng đường về nhà dài dằng dặc cùng nỗi đau mất con không dễ nguôi ngoai dù thời gian có trôi qua...
Câu chuyện thật giữa đời thường và hết sức thường này gợi lên cho chúng ta về lòng bao dung, về tình người, về lòng nhân đạo, về sự tha thứ … Người cha trong câu chuyện này ắt hẳn là người không phải là người Công giáo nhưng ông mang trong mình tâm tư của người Công giáo và ông đã sống theo lời Chúa Giêsu dạy dù ông không biết Chúa Giêsu là ai. Người cha trong câu chuyện này đã sống tột đỉnh của lòng bao dung của sự tha thứ. Ông cũng không ngại bộc bạch rằng sự tha thứ ấy không dễ chút nào với tình cảm của ông cũng như sự phản đối quyết liệt của gia đình về quyết định tha thứ của ông. Sự tha thứ của ông tưởng chừng như đơn giản nhưng thử hỏi mỗi người chúng ta khi đứng vào vị thế của ông, chúng ta dẫu là người Công giáo, thấm nhuần lời giáo huấà nội của Chúa chúng ta có can đảm tha thứ cho kẻ đã giết đứa con thân yêu của chúng ta không ? Hay là chúng ta đòi người khác phải đền nợ máu cho chúng ta, người khác phải trả cho chúng ta đến đồng xu cuối cùng.
Trở lại với trang tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu phải nói là người có biệt tài về dùng ví dụ cũng như phóng đại tính chất nghiêm trọng trong ví dụ của mình. Dừng lại một chút chúng ta sẽ thấy khập khiễng làm sao ấy giữa hai món nợ. Một bên thì nợ vua mười ngàn nén vàng, một bên thì người bạn nợ một trăm quan tiền. So sánh giá trị giữa một trăm quan tiền và mười ngàn nén vàng chúng ta thấy một khoảng cách xa vời vợi. Điều này Chúa Giêsu muốn nói rõ cho mỗi người chúng ta là chúng ta nợ Chúa quá nhiều và Chúa tha cho chúng ta còn anh chị em chúng ta nợ chúng ta quá ít mà chúng ta lại đòi anh em chị chúng ta trả cho bằng hết như trong ví dụ của Chúa Giêsu.
Đừng nói gì đến lòng mến, lòng bác ái. Chỉ cần nói đến sự công bằng thôi thì chúng ta thấy chúng ta sống quá ư là bất công. Bất công không chỉ với Chúa mà con bất công với anh chị em đồng loại. Kinh Lạy Cha chúng ta vẫn thường râm ran : Xin tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Miệng thì đọc thế nhưng lòng có thật sự tha hay không ? Hay là miệng thì đọc nhưng lòng cứ muốn đòi nợ máu anh chị em đồng loại của mình.
Lời Chúa trong thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma chúng ta vừa nghe nhắc nhớ mỗi người chúng ta : không ai trong chúng ta được sống cho mình … chúng ta có sống là sống cho Chúa, chết là chết cho Chúa … Dù sống dù chết chúng ta thuộc về Chúa vì chưng Chúa đã sống, đã chết là để làm chúa kẻ sống và người chết. Chúa là Chúa của mỗi người chúng ta vậy mà nhiều lúc chúng ta tước đoạt quyền làm Chúa trên cuộc đời chúng ta. Tước đoạt quyền làm chúa của Chúa là chuyện hết sức là bi hài. Chỉ có Chúa mới làm chúa, làm chủ cuộc đời mỗi người chúng ta vậy mà chúng ta muốn làm chúa, làm chủ cuộc đời người khác và bắt người khác phải làm tôi, phải trả nợ cho chúng ta.
Nếu đọc thêm một câu của đoạn thư Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Rôma nữa chúng ta sẽ thấy Ngài nói : “Còn ngươi, tại sao ngươi xét đoán anh em ngươi ? - Hay ngươi, tại sao ngươi khinh anh em ngươi? Vì ta hết thảy sẽ ra trước tòa Thiên Chúa”. (Rm 14,10). Chúng ta thường mang cái bệnh xét đoán anh em, kết án anh em và ra hình phạt với anh em. Và thường hơn nữa trong cuộc sống thường nhật chúng ta hay mang trong mình chứng bệnh khinh thường anh chị em đồng loại khi họ nghèo hơn chúng ta, khi họ khổ hơn chúng ta, khi họ bất hạnh hơn chúng ta, khi họ yếu đuối hơn chúng ta, khi họ vấp phạm điều gì đó mà cộng đoàn đều biết. Thế nhưng Thánh Phaolô nhắc chúng ta rằng : hết thảy chúng ta sẽ ra trước toà Thiên Chúa. Khi và chỉ khi ra trước toà Thiên Chúa thì khuôn mặt thật của chúng ta, tấm lòng thật của chúng ta sẽ phải bị phanh phui ra trước mặt Chúa thôi. Hiện giờ thì chúng ta còn lấp liếm, còn giấu những sự ác, những sự gian tà, những hận thù, ghen ghét anh chị em đồng loại nhưng khi ra trước toà Chúa chúng ta không thể nào giấu được.
Vậy, phải chăng qua trang tin mừng ngắn ngủi, qua ví dụ nhỏ nhoi nhưng đầy ý nghĩa của Chúa Giêsu hôm nay chúng ta liệu liệu mà tha thứ cho những người mắc nợ chúng ta có một trăm quan tiền để hầu mong Chúa Giêsu tha cho chúng ta là những con nợ đang mắc nợ Chúa với số nợ quá lớn là cả ngàn nén vàng. Chúng ta muốn Chúa tha thứ cho chúng ta thì điều kiện cần, điều kiện trước hết là chúng ta phải biết tha thứ cho anh chị em đồng loại. Nếu chúng ta bắt đền, đòi nợ anh chị em đồng loại thì nào Chúa lại tha cho chúng ta. Chúng ta cứ ngẫm nghĩ thử xem có phải là chính lúc chúng ta thứ tha là lúc mà chúng ta được tha thứ hay không?
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng bao dung, chậm bất bình và giàu ân sủng thương xót và tha thứ cho chúng ta những món nợ mà chúng ta nợ Chúa cũng như nợ anh chị em đồng loại. Nguyện xin Chúa Giêsu mở lòng mỗi người chúng ta để chúng ta cũng biết tha thứ cho anh chị em đồng loại để hầu mong Chúa cũng dễ dàng tha thứ những món nợ mà chúng ta nợ Chúa. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
----------------------------------
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Tha thứ là một chủ đề không có gì mới lạ. Đã là con người thì phải biết tha thứ. Đây là một: TN24-A76
Tha thứ là một chủ đề không có gì mới lạ. Đã là con người thì phải biết tha thứ. Đây là một trong những đức luân lý nhân bản. Và tôn giáo nào cũng dạy con người sống phải biết đại lượng, khoan dung, tha thứ cho người lỗi phạm đến mình. Sự oán ghét, hận thù thỉnh thoảng có mặc chiếc áo của sự công bình làm con người thấy hả hê khi kẻ có tội phải bị đền nợ nhưng rồi chẳng thể thực sự “có hậu” như Phật pháp nhận định: lấy oán trả oán thì oán oán chồng chất. Vấn đề đặt ra là vì sao chúng ta phải quảng đại tha thứ cho nhau và cần phải tha thứ liên lĩ như Chúa Giêsu khẳng định với Phêrô là đến bảy mươi lần bảy?
Phụng vụ Lời Chúa ngày Chúa Nhật XXIV TN A, đặc biệt bài trích Sách Huấn ca và bài trích Tin Mừng thánh Matthêu đã nêu rõ nguyên nhân khiến chúng ta phải tha thứ cho nhau cách quảng đại và liên lĩ đó là vì chúng ta cũng là kẻ có tội và đã được Thiên Chúa tha thứ cách liên lĩ và quảng đại. Đồng thời việc tha thứ cho nhau còn là điều kiện như tất yếu để nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Chúng ta đều là kẻ có tội. Đã là người ít có ai dám to gan khẳng định mình vẹn sạch, không vương bẩn tội nhơ. Cha ông chúng ta cảm nghiệm rằng: Đa thọ đa nhục, đa phú đa ưu. Cũng như càng giàu có thì càng thêm nhiều mối lo thì càng thêm tuổi thì tội lỗi càng chất chồng. Mọi thứ tội mà chúng ta phạm đến Thiên Chúa đều to lớn và nặng nề như món nợ không bao giờ có thể trả được. Mười ngàn nén vàng mà anh đầy tớ mắc nợ nhà vua theo câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể là một minh họa. Mức độ nặng nhẹ của tội mà chúng ta phạm không nguyên chỉ căn cứ vào loại tội gì mà còn căn cứ vào người mà chúng ta xúc phạm. Mọi tội lỗi của chúng ta đều xúc phạm đến chính Thiên Chúa, vì chúng ta đã cố tình đi ngược với đường lối Người chỉ dạy, làm trái với giới răn Người ban truyền. Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành đã dựng nên muôn vật muôn loài và dựng nên chúng ta từ hư vô. Người còn là Người cha chí ái đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban chính Con Một cho chúng ta. Chính vì thê phải khẳng định rằng bất cứ thứ loại tội nào dù lớn hay bé, dù mặt này hay khía cạnh kia, khi đã xúc phạm đến Đấng Toàn Năng và Toàn Thiện thì đều đáng “tru di cửu tộc”.
Một thực tế không thể chối cãi đó là Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu, lòng khoan dung nhân hậu với chúng ta không bút nào tả xiết. Người đã yêu thương nhân loại chúng ta đến nỗi trao ban chính Người Con Một để chúng ta được thứ tha, được hòa giải với Người và dĩ nhiên là để cho chúng ta được hưởng gia tài là hạnh phúc vĩnh cửu. Thánh Gioan Tông đồ quả quyết chính Thiên Chúa đã đi bước trước trong việc yêu thương chúng ta. Thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại cũng đã khẳng định rằng Chúa Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Anh đầy tớ mắc món nợ kếch xù trong câu chuyện dụ ngôn, không xin tha mà chỉ xin cho khất nợ một kỳ hạn, thì đức vua lại chạnh lòng thương cho y về và xí xóa luôn cả món nợ kếch xù ấy. Lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa là thế đó. Đức Bênêđictô XVI trong Thông Điệp đầu triều đại Giáo hoàng của Ngài, Thông điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” đã nhận định: Tình yêu của Thiên Chúa như chống lại sự công minh của Người (số 10).
Một định luật tất yếu: Nước trên nguồn tuôn đổ dạt dào thì nó cần phải được chảy xuôi về hạ lưu. Đã đón nhận tình yêu tha thứ cách dồi dào và nhưng không, thì chúng ta phải biết yêu thương tha thứ cho nhau cách quảng đại và liên lĩ. Tuy nhiên một thực tế dường như không thể chối, đó là dòng suối ân tình tha thứ đã từng bị chặn đứng bởi tấm lòng hẹp hòi, nhỏ nhen của chúng ta trước lầm lỗi của tha nhân. Cần xác định rằng mọi lỗi lầm mà tha nhân phạm đến chúng ta đều chỉ là món nợ lẻ, không đáng kể. Chúng ta cũng chỉ là thọ tạo như tha nhân không hơn không kém. Chúng ta đồng thời cũng là những tội nhân đầy hạn chế và bất toàn. Chính vì thế những lỗi lầm mà tha nhân xúc phạm đến chúng dù mức nào đi nữa thì chẳng đáng là bao. Thế mà như người đầy tớ vừa được tha một món nợ kếch xù trong chuyện dụ ngôn, chúng ta nhiều khi lại kim gút lỗi lầm của tha nhân đến độ có hành vi nhẫn tâm và tàn ác dường như không thể tưởng.
Một định luật tất yếu thứ hai: Khi dòng chảy bị chặn thì nguồn nước sẽ trào lênh láng ra ngoài. Dù Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ nhưng chúng ta sẽ không nhận được hồng ân ấy, nếu chúng ta khép lòng từ tâm của mình trước tha nhân. Xin cùng nhau ngẫm nghĩ Lời chúa trong Sách Huấn ca: “Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó?”(Hc 28,3-5). Chúa Giêsu kết thúc câu chuyện dụ ngôn bằng những lời sau: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế (tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông), nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,35). Trước đó, khi dạy các môn đệ cầu nguyện với Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu cũng đã khẳng định điều tương tự: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 14-15).
Là Kitô hữu Công giáo, chúng ta đã từng nhiều lần đến tòa cáo giải. Căn cứ vào lời khẳng định của Chúa Giêsu thì vẫn có đó nhiều người dù đã xưng thú tội lỗi, đã nhận được lời xá giải: “Cha tha tội cho con…” , nhưng tội họ vẫn còn đó, nghĩa là chưa nhận được hồng ân tha thứ của Thiên Chúa, tất thảy chỉ vì họ chưa thực lòng tha thứ cho tha nhân, những người đã lỗi phạm đến họ.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
----------------------------------
Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn Csjb
Vẫn trong loạt bài giảng về đời sống cộng đoàn, Tin mừng hôm nay đề cập đến một vấn đề do: TN24-A77
Vẫn trong loạt bài giảng về đời sống cộng đoàn, Tin mừng hôm nay đề cập đến một vấn đề do Phêrô nêu ra không chỉ liên quan đến những ai chọn đời sống chung mà còn cho hết mọi người. Vấn đề đó là, chúng ta phải tha thứ cho người anh em xúc phạm đến chúng ta bao nhiêu lần? Chúa Giêsu sẽ giúp Phêrô và mỗi người chúng ta giải quyết vấn đề này.
Nêu lên vấn đề này với Chúa Giêsu, chắc hẳn Phêrô cũng hiểu rằng việc tha thứ mà các vị Kinh sư đem ra dạy trong đạo Dothái chỉ có thể tối đa ba lần mà thôi. Riêng với Thầy, ông thấy dĩ nhiên Thầy mình “ăn đứt” mấy vị Kinh sư kia về đường nhân đức, cách giáo huấn cũng như thực thi công bình bác ái. Thế nên Phêrô nghĩ Thầy mình sẽ hào phóng mà tha thứ cho kẻ xúc phạm bảy lần một ngày là hoàn hảo và trọn vẹn lắm rồi. Bởi đây là cách tha thứ hào phóng và quảng đại nhất từ xưa đến nay chưa ai đạt tới, ngay cả các Kinh sư cũng chỉ dừng lại ở con số ba mà thôi. Ngỡ ngàng với Phêrô về điều mà ông cho là hào phóng nhất thì với Chúa Giêsu chẳng đáng là gì. Bởi Chúa Giêsu không tha thứ ba lần như các Kinh sư đã dạy, cũng chẳng tha thứ đến bảy lần như Phêrô đề nghị mà tha thứ đến “bảy mươi lần bảy”! Tuy lời Chúa Giêsu về việc tha thứ 77 lần hay 70 lần 7, tức 490 lần vẫn chưa nhất thống, bởi các giáo phụ khi viện dẫn và đối chiếu lời Chúa Giêsu hôm nay (Mt 18, 22) với sách Sáng thế (St 4, 24), các ngài thấy có sự khác biệt giữa hai bản văn Kinh thánh Hípri và bản Kinh thánh Hylạp, tức bản LXX, nhưng dù thế nào đi nữa, điều Chúa Giêsu muốn là hãy tha thứ cách quảng đại, vô điều kiện, vô giới hạn với người anh em xúc phạm đến mình. Lòng tha thứ vô giới hạn này được Chúa Giêsu diễn giải qua dụ ngôn “tên mắc nợ không biết thương xót”.
Đọc qua dụ ngôn, hẳn mỗi người chúng ta tự hỏi : Tên nô lệ nào mà lại mắc nợ nhà vua món nợ khủng khiếp như thế? Đây không phải là tên nô lệ bình thường mà là một quan đại thần trong triều đình. Bởi miền Trung cận đông xưa, các quan đại thần được xem là những “tên nô lệ” của nhà vua. Và do đó, việc quan “nô lệ” này mắc nợ nhà vua đến 10.000 nén vàng có thể hiểu được. Thế nhưng đây lại là số nợ ngoài sức tưởng tượng của con người mà quan nô lệ này vướng phải. Chúng ta có thể làm một phép tính để thấy được món nợ lớn khủng khiếp như thế nào. Nếu mỗi nén vàng thời xưa là 6000 quan tương đương với 6000 ngày công thì 10.000 nén vàng sẽ tương đương với 60 triệu (60.000.000) ngày công. Nếu mỗi năm tương đương với 365 ngày thì 60 triệu ngày sẽ tương đương với 164.383 năm vẫn còn dư 205 ngày! Sở dĩ phải tính toán như thế để chúng ta thấy rằng việc nhà vua bất ngờ tha hết món nợ khủng khiếp, không bán tên nô lệ, vợ con và tài sản để trừ nợ vì lời van xin của anh ta nói lên lòng tha thứ hải hà và quảng đại vô bờ bến của nhà vua. Lòng đại lượng tha thứ vô bờ bến của nhà vua một lần nữa lại gây bất ngờ không chỉ cho viên quan nô lệ mà còn cho hết mọi người chúng ta. Không bất ngờ sao được khi chỉ trong nháy mắt từ thân phận một con nợ mắc một món nợ kếch sù không còn lối thoát, anh ta được vua xoá sạch nợ nần, vẫn còn nguyên vợ con, tài sản và thậm chí cả chức tước nữa.
Thế nhưng đến lượt mình, tên quan nô lệ này lại không làm được điều mà chỉ mới đây thôi nhà vua đã làm cho anh ta. Chúng ta thấy bạn anh ta có lẽ cũng là quan đại thần trong triều đình, chỉ mắc nợ anh ta có 100 quan, vậy mà anh ta tiến đến túm lấy và bóp cổ anh bạn tội nghiệp này. Chưa hết, anh ta lại còn tống giam người bạn vào tù trước lời van xin của bạn. 100 quan có đáng là gì so với 10.000 nén vàng, vậy mà anh ta đã quên mất lòng tha thứ vô bờ bến mà nhà vua đã ban tặng cho anh ta. Tên quan nô lệ này quả là dại dột. Hắn đã được nhà vua tha thứ, xoá sạch nợ nần, vậy mà hắn lại không mảy may động lòng trắc ẩn trước lời van xin của bạn. Hắn đã không biết tha thứ cho người bạn của mình. Kết quả của hành vi phi nhân tính này, tên quan nô lệ này phải trả giá cho điều hắn đã đối xử với người bạn của mình.
Mỗi người trong chúng ta không ai là không mắc nợ Thiên Chúa cũng như mắc nợ bố mẹ, thầy cô và những người sống chung quanh mình. Chắc một điều, lòng yêu thương, sự nhẫn nại và lòng quảng đại tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn nhiều so với nhà vua trong Tin mừng. Điều Thiên Chúa muốn là hoa trái của lòng yêu thương và tha thứ cũng được trỗ sinh trong lòng mỗi người chúng ta, để đến lượt mình, chúng ta cũng hãy bắt chước lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa đối với anh em mình.
“Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Hãy nhớ rằng lời Chúa Giêsu vẫn còn đó như một mời gọi…
Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn Csjb
----------------------------------
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một bác nông dân đã quá khổ sở vì sự thiếu trách nhiệm của những người hàng xóm. Mặc dù: TN24-A78
Có một bác nông dân đã quá khổ sở vì sự thiếu trách nhiệm của những người hàng xóm. Mặc dù nhà không nuôi gà nhưng gà hàng xóm lại bới nát và phá hoại hoa màu của bác. Vốn bản tính hiền lành luôn “dĩ hòa vi quý”, không muốn ăn miếng trả miếng như thói thường người đời. Bác đã nhiều lần van xin láng giềng vui lòng nhốt gà lại. Nhưng chẳng ai chú ý đến lời yêu cầu của bác. Bầy gà cứ thản nhiên sang vườn bác bới móc tìm mồi. Thế rồi, một buổi sáng đẹp trời, Bác ra chợ mua một ít trứng gà để vào một cái giỏ, rồi cứ vài ngày lại đưa sang cho những người láng giềng và giải thích rằng đó là trứng mà bầy gà của họ đã đẻ trong vườn của bác. Bác làm như thế liên tiếp ba lần. Quả thực kết quả đã diễn ra rất nhanh chóng. Chỉ trong một tuần lễ, người láng giềng nào cũng tự động rào dậu thật kỹ để giữ cho gà của mình không sang đẻ ở nhà bác nông dân nữa.
Vâng, Bác nông dân chỉ mất tiền mua ít trứng gà mà bác đã tránh được một cuộc tranh chấp vô ích có thể làm sứt mẻ tình hàng xóm. Cuộc sống chung là vậy, nếu biết nhịn nhục và kiên nhẫn một chút là ta có thể tìm ra nhiều giải pháp tốt nhất để gìn giữ sự hòa thuận, êm đềm cho gia đình, cho xóm làng chúng ta.
Trong cuộc sống chung đụng thường phải có va chạm với nhau. Chén bát để bên nhau, vô tình vẫn có những va chạm bể nát ra huống chi con người. Hôm nay Chúa muốn chúng ta hãy biết tha thứ cho nhau không phải là để cho qua chuyện hay nhịn đi cho xong, mà tha thứ cho nhau, là điều kiện để chúng ta được Thiên Chúa thứ tha. Vì chưng, tất cả chúng ta đều là con nợ của Chúa. Chúng ta nợ Chúa sự sống, nợ Chúa ân tình. Đã nhiều lần chúng ta khất lần khất lượt với Chúa, van xin Chúa hãy tha thứ, cứu giúp mình tai qua nạn khỏi sẽ trả nợ Chúa, sẽ dành vốn sống của mình để làm theo ý Chúa, để phụng thờ Chúa. Hứa đó rồi quên. Quyết tâm rồi lại thất hứa. Thế mà Chúa vẫn yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta. Dụ ngôn người con hoang đàng là một bằng chứng về lòng bao dung của Chúa. Người cha đã không cần hỏi mày dùng số vốn của tao làm gì? Bây giờ còn bao nhiêu? Chỉ cần thấy người con quay về là người cha đã quên hết quá khứ lỗi lầm của người con.
Hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta: anh em đã lãnh nhận sự tha thứ của Chúa, thì cũng hãy tha thứ cho nhau. Không phải là một lần hay chỉ “quá tam ba bận” mà là tha thứ mãi mãi. Như vậy, tha thứ đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên nhẫn để cho người xúc phạm đến ta có cơ hội, có thời giờ sửa đổi và làm lại cuộc đời. Đừng như ông quan độc ác kia đã đối xử quá khắt khe với những con nợ của mình. Ông đòi tính sổ với các con nợ và đòi cho đến đồng bạc cuối cùng. Đó cũng là cách đối xử chung của con người hôm nay. Người ta đòi công lý phải được báo thù. Người ta đòi mắt đền mắt răng đền răng. Người ta khó chấp nhận một sự bao dung tha thứ đối với kẻ thù của mình.
Mahatma Gandhi, người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách nô lệ của người Anh bằng cuộc tranh đấu bất bạo động, đã bị một thanh niên Ấn Giáo hạ sát, chỉ vì anh ta không thể chấp nhận được sự kiện Gandhi lại yêu thương và tha thứ cho người Hồi Giáo.
Khi loan báo tình yêu Thiên Chúa cho mọi người, Chúa Giêsu đã không loại trừ một hạng người nào. Được sai đến trước tiên cho người Do thái, Chúa Giêsu cũng đi đến với cả nhân loại. Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng khoan dung của Thiên Chúa, một Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả mọi người, và muốn qui tụ mọi người vào trong gia đình của Ngài. Cả cuộc đời của Ngài là một chuỗi dài sự tha thứ. Ngài đã tha thứ cho lầm lỗi của người phụ nữ ngoại tình. Ngài đã tha thứ việc làm của Giakêu. Ngài đã tha thứ quá khứ tội lỗi của người trộm lành. Ngài đã đi đến tận cùng của sự tha thứ, là tha thứ cho kẻ làm nhục và giết hại Ngài.
Là con cái của Cha yêu thương và khoan dung, nguyên tắc sống của chúng ta cũng phải là yêu thương và khoan dung. Giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng khủng bố, bằng súng đạn, người kytô hữu phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung và tha thứ vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể tha thứ cho nhau. Tha thứ để được sự bình an tâm hồn. Vì nếu không tha thứ thì “oán báo oán, oán lại chập chùng”. Tha thứ cho nhau để được nên nghĩa tử và là môn đệ chính danh của Chúa, vì người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là “hãy yêu thương nhau”. Một tình yêu đích thực luôn bao hàm sự bao dung và tha thứ vì “Yêu nhau củ ấu cũng tròn – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta luôn can đảm tha thứ cho nhau, luôn can đảm quên đi mọi hận thù, oán ghét, ghen tương để sống trong vòng tay thân ái giữa người với người và trong tình yêu tha thứ thẳm sâu của Chúa. Amen
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
----------------------------------
Lm. An phong, OP
Chủ đề Tin mừng hôm nay là lòng tha thứ. Nói khác, tha thứ là "chín bỏ làm mười", là "không: TN24-A79
Chủ đề Tin mừng hôm nay là lòng tha thứ. Nói khác, tha thứ là "chín bỏ làm mười", là "không chấp nhất sai phạm của người khác gây ra cho ta", là "bỏ qua" cho nhau.
Trong xã hội ngày nay, dường như người ta cho rằng lòng tha thứ là một sự yếu kém, ủy mị, nhu nhược ! Đã có biết bao thảm họa, bi kịch diễn ra mỗi ngày chỉ vì sự trả thù, "ăn miếng trả miếng". Dường như đó là "lẽ công bằng" của cuộc đời ? Là "đấu tranh sinh tồn" ? Thực không dễ dàng gì để thực hiện mệnh lệnh tha thứ này.
Tuy nhiên, để trở thành môn đệ Đức Giêsu, chúng ta phải tha thứ, phải "chín bỏ làm mười" ; vì đó là một trong những điều tất yếu làm nên đời sống Kitô giáo; vì đó là điều ta phải thực thi trước khi cầu nguyện "xin tha cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người mắc lỗi với chúng con". Nói cách khác, nếu chúng ta cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho mình thế nào, thì chúng ta phải biết tha thứ cho người khác như vậy.
Khi có chuyện bất hòa, tranh chấp xảy ra trong một tập thể nào đó, giữa anh chị em, họ hàng… người ta có thể dễ dàng để làm hòa với nhau vì "để cho hàng xóm láng giềng khỏi cười chê" (một lý do nhân loại để tha thứ), "không thèm chấp những kẻ như thế" (lại một lý do nhân loại để tha thứ).
Nhưng còn hơn thế nữa, ta tha thứ vì ta đã được Chúa tha thứ quá nhiều, và "nếu anh em không tha thứ cho nhau thì cha trên trời sẽ không tha thứ cho anh em"; Đây mới là lý do đích thực, lý do siêu nhiên của sự tha thứ kitô hữu.
Vậy, mỗi khi miệng ta đọc "xin tha cho chúng con như chúng con cũng tha cho người mắc lỗi với chúng con", thì lòng ta hãy quyết tâm bỏ qua cho người khác những sai phạm; và để Cha "cứu chúng con khỏi mọi sự dữ"; mà điều "dữ tợn nhất" lại chính là hận thù, là tự ái, không biết tha thứ…
Lạy Chúa Giêsu,
Ngay trong bài giảng đầu tiên,
Chúa đã nói đến tha thứ.
Và trong giây phút cuối cùng
trên thập giá của sự hằn thù,
Chúa đã nói lên lời tha thứ.
Giờ đây,
trong Bí tích tình yêu này,
xin Chúa tha thứ cho mỗi người chúng con một lần nữa.
Để chúng con có thêm sức mạnh
nói lời tha thứ với anh chị em của chúng con.
Lm. An phong, OP
----------------------------------
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP
Tôn giáo vẫn thường được nhìn nhận là tinh hoa nhân loại. Nhưng có một số người cho rằng tôn: TN24-A80
Tôn giáo vẫn thường được nhìn nhận là tinh hoa nhân loại. Nhưng có một số người cho rằng tôn giáo gây chia rẽ và quá nhiều đau khổ cho nhân loại. Có đúng như thế không?
Chúng ta có thể tìm thấy trả lời trong dụ ngôn Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay. Nếu tôn giáo là tương quan chiều dọc cho con người gặp gỡ Thiên Chúa và tìm được thế quân bình cho cuộc sống, không có gì cần thiết và hữu ích hơn tôn giáo. Chúa Giêsu muốn chúng ta đi sâu vào tương quan chiều dọc với Thiên Chúa, để tìm thấy nơi lòng độ lượng khoan dung vô bờ của Người tất cả động lực và lý do sống hài hòa và thông cảm với đồng loại.
BỨC TRANH VÂN CẨU
Nếu đọc Tin Mừng hôm nay ngược từ dưới lên trên, chúng ta sẽ thấy rõ sự tàn bạo của công lý không có tình thương. Xét về mặt pháp lý, người tôi tớ hoàn toàn đúng. Tòa án có thể giúp anh thi hành pháp luật để siết nợ cho anh. Kết quả anh đã hoàn toàn toại nguyện vì con nợ bị tống ngục. Nếu không hề chứng kiến cảnh tôn chủ đã tha nợ cho anh, chắc các người bạn anh cũng không thấy có vấn đề gì. Ở đời “có vay có trả” !
Nếu muốn bớt tính cách tàn bạo, công lý cần phải có tình thương. Nhưng căn cứ vào đâu để có thể dùng tình thương trong khi thi hành công lý. Tình thương tới mức nào và cách nào để công lý không bị hy sinh?
Đó là vấn đề chính ông Phêrô đã đặt ra với Chúa. Ông không ngờ Chúa trả lời khéo léo và rõ ràng đến thế. Cả về số lượng món nợ và thái độ của các nhân vật chính trong chuyện đều khác biệt đến bất ngờ. Chúa đã tạo một ấn tượng rất mạnh nơi lòng ông Phêrô và các bạn về lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa.
Muốn trở thành đặc tính Nước Trời, công lý phải vượt quá giới hạn của chính mình, để vươn tới chiều kích công chính của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa đòi hỏi đúng mức công chính, con người không thể chịu đựng nổi. Thế nên Thiên Chúa đã phải lấy lòng thương xót bù lấp vào sự thiếu sót của con người. Đó là lý do tại sao Chúa đã tha thứ tất cả. Chỉ sự tha thứ mới có thể thỏa mãn những đòi hỏi của công lý. Khi tỏ lòng thương xót, không phải Thiên Chúa hy sinh công lý, nhưng trái lại càng làm sáng tỏ công lý và sự công chính của Nước Trời.
Lòng thương xót là một huyền nhiệm và kỳ diệu nhất của Thiên Chúa trong vũ trụ. Không nắm bắt được điều đó, không thể nào thấu hiểu tại sao Thiên Chúa lại tạo dựng vũ trụ và cứu độ nhân loại.
Đây là điều Chúa Giêsu muốn diễn tả qua dụ ngôn hôm nay. Mở đầu dụ ngôn, Chúa đã nhắm ngay chủ đích diễn tả Nước Trời qua sự tha thứ của ông vua. Bắt nguồn từ lòng thương xót, sự tha thứ đã lấn át tất cả những tính toán của con người. Chính vì sự bất lực của con người, nên sự tha thứ mới cần thiết để tái lập quân bình và đem lại công lý cho Nước Trời. Đặc tính tuyệt vời đó được diễn tả phần nào nơi lòng quảng đại không thể hiểu thấu của ông chủ đối với người đầy tớ.
Vì một lý do nào đó, người đầy tớ đã quên ngay những gì tôn chủ mới làm cho mình. Có lẽ tương quan chiều dọc với ông chủ không quan trọng bằng tương quan chiều ngang với bạn bè. Anh đã hành xử như chưa từng đón nhận được sự tha thứ từ ông chủ. Đúng hơn, món lợi cá nhân đã che mờ mắt anh. Anh vận dụng mọi cách để chiếm lại món lợi đó, bất chấp những đau khổ và sợ hãi của người bạn và tương lai gia đình họ.
Một khi con người đã không sống tử tế với anh em, Thiên Chúa sẽ rút lại lòng thương xót. Công lý trở lại trong cuộc sống bình thường. Thiên Chúa xử với con người y như con người đã xử với anh em. Trước sau công lý phải được bảo vệ tuyệt đối. Nếu không muốn công lý đượm tình thương, con người phải lãnh lấy tất cả hậu quả nghiêm nhặt của công lý. Khi không còn lòng thương xót, công lý của Thiên Chúa và của người đầy tớ cũng như nhau.
Chỉ có tấm lòng từ bi nhân hậu mới có thể lôi kéo lòng thương xót của Thiên Chúa. Qua dụ ngôn hôm nay, Chúa muốn cho mọi người thấy sống là tương quan. Tương quan chiều ngang và tương quan chiều dọc. Tương quan chiều ngang sẽ tốt đẹp, nếu con người nhớ đến tương quan chiều dọc. Không có tương quan chiều dọc, con người sẽ không thể hiểu tại sao mình phải tha thứ cho nhau. Nhưng chân lý và công lý phải được bảo vệ tới cùng. Khi tha nợ cho người đầy tớ, tôn chủ đã phải hy sinh tới mức nào ! Nhưng khi một người anh em cố tình phủ nhận tội lỗi của mình, Chúa dạy cộng đoàn phải can thiệp để bảo vệ quyền lợi chung.
Trong dụ ngôn hôm nay, Chúa dường như vượt qua công lý để cứu con người. Nhưng vì con người không muốn, nên mọi sự đều trở lại theo mức độ bình thường. Thế mới biết lòng thương xót là một kỳ công vô cùng vĩ đại của Thiên Chúa. Nhưng cũng như người đầy tớ, chúng ta phải biết nhận định đúng thời gian được xót thương để sống hợp tình hợp lý với anh em.
BÀI HỌC ĐẮT GIÁ
Dụ ngôn hôm nay “cho phép chúng ta đi sâu vào kinh nghiệm chính Chúa Giêsu đã sống và hiệp thông tình yêu với Chúa Cha. Bởi đó, Tin Mừng cho ta đi vào tận trung tâm đời sống Thiên Chúa. Chúa Giêsu loan báo tình thương giải thoát dành cho những ai Người gặp trên đường đời, bắt đầu là những người nghèo khổ, người bị loại ra bên lề xã hội và người tội lỗi. Chúa mời gọi mọi người theo Chúa vì Người là người đầu tiên vâng lời kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa.”[1] Như thế đủ rõ, mặc dù không đủ tiền trang trải món nợ khổng lồ, người đầy tớ không nằm trong đối tượng của lòng Chúa thương xót. Anh quá kiêu hãnh và bất nhân. Anh bị loại trừ vì thuộc hạng người “ăn cháo đái bát”!
Anh là con người hoàn toàn ích kỷ. Trái lại, nếu sống theo tinh thần vị tha, anh sẽ thấy khi không sống ích kỷ, anh sẽ “coi nhu cầu và những đòi hỏi của tha nhân như của mình và làm cho mọi người ngày càng hiệp thông trong những giá trị tinh thần và những quan tâm về những nhu cầu vật chất.”[2] Anh đã hoàn toàn lạnh lùng như tảng băng vì không có cái nhìn đầy cảm thông của tôn chủ. Bài học tôn chủ dạy anh cho biết “mối tương quan giữa con người không thể chỉ bị chi phối trong khuôn khổ công lý“; Kinh nghiệm quá khứ và hiện tại cho thấy một mình công lý không đủ. Công lý có thể đưa tới việc phủ nhận và phá hủy chính mình. Kinh nghiệm lịch sử cũng đưa đến một nguyên tắc: phép công anh giữ tuyệt vời, sinh muôn tai họa cho đời (summum jus, summa injuria), biết không? Thực vậy, có thể nói, công lý phải được tình yêu điều chỉnh tới mức có thể coi là “kiên nhẫn và hiền hòa”, như thánh Phaolô đã nói. Nói khác, công lý phải có những đặc tính của tình yêu nhân hậu là yếu tính của Tin Mừng và Kitô giáo.”[3]
“Tình yêu và chỉ có tình yêu (kể cả tình yêu nhân hậu gọi là ‘lòng thương xót') mới có thể phục hồi con người cho chính con người. Kitô hữu biết rằng tình yêu là lý do Thiên Chúa thiết lập tương quan với con người. Chính tình yêu Chúa mong đợi nơi con người lời đáp trả. Bởi thế, tình yêu cũng là hình thức tương quan cao cả nhất và cao quý nhất giữa con người. Giáo quyền hết sức khuyên nhủ chúng ta sống liên đới với nhau vì tình liên đới có thể bảo đảm công ích và thúc đẩy sự phát triển toàn diện con người : tình yêu ‘làm cho con người nhìn tha nhân như một tha ngã.’”[4] Không thể có cái nhìn đó, người tôi tớ trong dụ ngôn hôm nay mới đối xử tàn tệ với người bạn của mình. Cuộc sống trở thành nặng nề, phức tạp và bất ổn.
Quả thực, công lý cần thiết cho cuộc sống hòa bình. Nhưng tình yêu mới củng cố cuộc sống trong bình an và hạnh phúc. ĐGH Phaolô VI từng nói : “Hòa bình cho mọi người thấy bản chất đích thực của mình trong hòa bình, một hòa bình gắn liền với những đòi hỏi của công lý, nhưng được nuôi dưỡng bằng sự hy sinh, nhân ái, từ bi và tình yêu.”[5] Chính vì chỉ lo đòi cho bằng được món nợ của người bạn, nên người tôi tớ đã trở thành tên bạo hành, khủng bố và không một chút tôn trọng nhân phẩm của bạn. Anh cũng nhân danh một lý lẽ hay hoàn cảnh đặc biệt phải hành động như thế. Tên khủng bố và độc tài nào chẳng có lý lẽ biện minh cho các hành động của mình. Ngay cả kẻ cướp của giết người cũng thấy mình hành động đúng lý và nhân đạo.
AI NIỀM TIN HAI LỐI XỬ
Khi nhóm quá khích Ấn giáo lùng bắt và giết hại các Kitô hữu tại Ấn độ, họ cũng tạo ra những sự kiện để biện minh và tuyên truyền cho phong trào “bài Kitô giáo” của mình. Họ phao tin các nữ tu thuộc Dòng Nữ tữ Bác Áí của Mẹ Têrêsa Calcutta đã bắt cóc và buộc cải đạo nhiều trẻ em. Tin tức sôi động hẳn lên khi họ phao tin các Kitô hữu đã giết chết một thủ lãnh của họ.
Mặc dù đã góp phần quan trọng vào việc phát triển đất nước vê xã hội và kinh tế, các Kitô hữu tại Ấn độ đang bị tàn sát, trong khi các chính phủ và các tổ chức nhân đạo thê giới vẫn im tiếng.
Hàng chục (có người đoán hàng trăm) đã bị giết chết. Ít nhất 52 nhà thờ (cả Công giáo và Tin Lành) đã bị phá hủy. Hàng trăm ngôi nhà bị thiệt hại. Bốn tu viện và năm nhà trọ cũng như cư xá thanh niên không còn dùng được như xưa. Sáu cơ sở của thiện nguyện Công giáo và xã hội đã bị phá hủy tan tành. Hàng trăm xe hơi và vô số các dụng cá nhân đã bị thất thoát. Hàng ngàn Kitô hữu đang lẩn trốn, chạy xa cơn tàn sát và đang sống trong rừng, bị khủng bố và đói rách.
Trước tình cảnh đó, Thủ Tướng Ấn độ Manmohan Singh đã nói : “Thật là một nỗi nhục cho quê hương chúng ta.”[6] Một nhận định vừa khiêm tốn vừa xoa dịu được các nạn nhân. Nếu không có một đức tin tôn giáo và lương tâm tốt lành, chắc chắn ông Thủ Tướng không thể nói lên lời xin lỗi chân tình và công khai như vậy. Không phải chỉ bằng lời nói, chính phủ Ấn độ còn bồi thường thỏa đáng cho các nạn nhân.
“Qua hành động của Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đã nghiêm khắc lên án những bạo hành có tính cách tội phạm của các phần tử Ấn giáo quá khích đối với các Kitô hữu cũng như sự việc chính phủ ông bồi thường cho các gia đình nạn nhân Kitô hữu một cách thoả đáng, người ta nhận ra được tư cách, lương tri, trách nhiệm và tính cách nhân bản của một vị lãnh đạo quốc gia thời đại văn minh ngày nay. Bởi vậy, khi nhìn đến hoàn cảnh tương tự của các Kitô hữu Việt Nam ở giáo xứ Thái Hà đang bị nhóm công an quận Đống Đa đánh đập và hành hạ một cách dã man, người ta tự hỏi: Phải chăng các nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam nói chung và Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói riêng đã không hay biết gì về thái độ công minh và cao thượng này của Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh trong vụ việc các Kitô hữu bị tấn công này ở Ấn Độ?”[7]
Thực tế, vì thiếu niềm tin vào Thiên Chúa, nên nhà nước Việt Nam không thể lấy tương quan chiều dọc làm mốc cho tương quan chiều ngang ? Chỉ thấy tương quan chiều ngang, nên họ sống và hành động như chúa tể mọi người. Không biết đến Thiên Chúa, chẳng những họ không thể đối xử tử tế với mọi người, nhưng còn không giữ được mức công bình tối thiểu. Họ đưa cả toàn bộ lý thuyết Các Mác về vô sản chuyên chính để biện minh cho quyền sở hữu của nhà nước. Nhưng nực cười thay sau khi trưng dụng những đất đai của Thái Hà và dân oan, họ lại đem bán cho đại tư bản để thủ lợi ! Thật là vòng luẩn quẩn!
Không những không bao giờ nhìn nhận sai lầm, chính phủ Việt Nam còn dùng truyền thông trắng trợn xuyên tạc sự thật và reo rắc nghi hoặc khắp nơi hầu dễ dàng chiếm đoạt tài sản dân oan. Toàn bộ hệ thống báo chí, truyền thanh, truyền hình đều là những loài nhai lại đang thi đua “đi lề bên phải” theo chỉ thị của đảng và nhà nước. Đúng hơn, họ bắt buộc “phải đi bên lề,” chứ không được bước hai chân xuống lòng xa lộ truyền thông thế giới. Thảo nào truyền thông không còn tự do và độc lập, nhưng biến thành một công cụ củng cố chế độ bất công. Biết bao người đã chết oan vì những thông tin một chiều đó.
Dầu sao người đầy tớ trong Tin Mừng hôm nay vẫn còn lương thiện hơn nhà nước Việt Nam một bậc ! Anh đã không vu khống và xuyên tạc sự thật để chiếm đoạt tài sản của đồng bạn ! Anh đã dùng pháp luật để bỏ tù người bạn thực sự mắc nợ anh. Khác với anh, nhà nước Việt Nam xài toàn luật rừng để tống giam những người tranh đấu cho công lý.
Đã đến lúc người dân không sợ chết vì công lý, còn nỗi sợ nào có thể thắng được họ ? Nhìn vào từng đoàn người cầu nguyện ở Thái Hà hôm nay, ai cũng có thể thấy điều đó. Chưa bao giờ cuộc tranh đấu cho công lý lại được giáo quyền yểm trợ như bây giờ.
Tóm lại, qua dụ ngôn hôm nay, Chúa đã chia sẻ với chúng ta kinh nghiệm sâu xa về đời sống Thiên Chúa. Hình ảnh ông chủ diễn tả phần nào lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta. Món nợ trần gian chẳng là gì so với cái nợ đối với Thiên Chúa. Có thấy được sự khác biệt ấy, mới thấy Chúa tha thứ cho chúng ta tới mức nào và tại sao chúng ta phải tha thứ và đối xử tử tế với nhau. Con người luôn sống trong tương quan cả hai chiều. Ngay trong tương quan chiều ngang, chúng ta cũng tìm thấy chiều dọc để vươn lên. Nếu không, chúng ta không thể nào đạt tới mức công chính cần thiết để vào Nước Trời.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn cảm nghiệm được lòng thương xót của Chúa, để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Amen.
[1] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội Của Giáo Hội, 29.
[2] ibid., 205
[3] ibid., 206.
[4] ibid., 582.
[5] ibid., 520.
[6] http://www.asianews.it/index.php?l=en&art=13138&geo=&theme=&size=A
[7] http://www.x-cafevn.org/forum/showthread.php?p=221939
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP
----------------------------------
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Không chỉ là con số
Bản văn Tin Mừng hôm nay thuật lại một trong số nhiều ví dụ Đức Giêsu đưa ra để phá vỡ : TN24-A81
Bản văn Tin Mừng hôm nay thuật lại một trong số nhiều ví dụ Đức Giêsu đưa ra để phá vỡ những cái nhìn của con người về vấn đề công bình và thưởng phạt. Qua những ví dụ này, Đức Giêsu cho thấy một thế giới thần linh hoạt động theo những tiêu chuẩn hoàn toàn khác với những tiêu chuẩn do con người đề ra.
Việc tha thứ có thể tính bằng những con số ? Đó là điều ông Phê-rô đặt ra khi ông hỏi Đức Giêsu "Con phải tha đến mấy lần ?" Và ông tưởng rằng lòng quảng đại đối với người khác đã đi tới cao điểm với con số 7, con số của Thánh Kinh, con số mà người Do-thái vẫn sử dụng để diễn tả sự hoàn thiện, sự viên mãn. Với con số này, một cái gì đó đã dứt khoát, hay không thể vượt qua được.
Thật ra, khi nêu ra con số như thế, ông Phê-rô cũng đã hiểu được phần nào tinh thần cao cả của Thầy mình. Với tất cả lòng chân thành, ông muốn nói lên sự tha thứ như là con người có thể làm được.
Tuy thế, theo quan điểm của Đức Giêsu, không thể có sự hoàn thiện có mức độ, không thể có sự viên mãn và đóng kín, không thể đặt ra mức độ tối đa cho lòng quảng đại tha thứ. Câu nói của Đức Giêsu với ông Phê-rô có tầm mức tỗng quát. "Bảy mươi lần bảy, " đó là gia tăng sự đầy tràn bằng sự đầy tràn. Câu nói của Đức Giêsu cũng không có tính cách hài hước : Người không chỉ đòi buộc sự tốt đẹp, nhưng còn yêu cầu phải hoàn thiện tuyệt đối, một tình trạng không bao giờ con người có thể đạt tới, nhưng lại luôn được mở ra cho con người. Câu nói của Đức Giêsu là một cửa ngõ mở ra, hướng đến vô cùng.
Như thế, Đức Giêsu gạt bỏ mọi thái độ tính toán. Người hướng tầm nhìn của con người về một vũ trụ bao la, rộng lớn, đó là vũ trụ của Thiên Chúa, vũ trụ được điều hành bởi tình yêu và quy hướng về tình yêu. Chỉ khi nào, và tuỳ theo mức độ, con người để mình chìm vào trong vũ trụ đó, để mình được hướng dẫn bởi tình yêu, họ mới có thể hiểu được lòng thương xót của Thiên Chúa.
Trong dụ ngôn của Đức Giêsu, món nợ giữa người đầy tớ với ông chủ vượt xa số nợ người bạn mắc nợ anh, và thái độ của ông chủ với người đầy tớ hoàn toàn khác hẳn cách cư xử của anh ta với người bạn. Với lòng nhân từ bao dung, ông chủ không những chỉ cho anh khất nợ như lời anh xin, mà còn cho anh ra về và tha luôn món nợ, tha vô điều kiện. Vậy mà anh lại xử độc ác với người bạn mắc nợ anh một số tiền quá nhỏ. Anh vừa được tha món nợ, nhưng anh lại lập tức ngổi vào ghế bị cáo và bị tống giam bởi vì anh không biết tha thứ.
Chính thái độ cũng như những tương giao của con người sẽ xét xử họ. Có thể coi những điều này là tiêu chuẩn để biết được một người có thể bước vào trong ánh sáng của Nước Trời, hay bị loại ra khỏi thế giới của ân sủng, của sự trao tặng.
Một cái nhìn mới
Qua bài Tin Mừng, Đức Giêsu vượt xa quan niệm Do-thái giáo về hai điểm. Trước hết, Người khẳng định tính cách vô điều kiện, tuyệt đối của tình huynh đệ ; thứ đến, Người cho thấy việc tha thứ cũng có những đặc tính tương tự : phỗ quát, không điều kiện, không mức độ.
Cựu Ước không phải là không biết đến luật tình yêu, vốn được coi là trọng tâm của Lề Luật : "Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Chúa của ngươi hết lòng, hết dạ, và hết sức ngươi" (Đnl 6,5). Tình yêu này là sự đáp trả trước lòng ân cần của Đức Chúa, Đấng đi bước trước. Về sự tha thứ cũng vậy : đây là một tính cách riêng của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, không thể tìm thấy trong Cựu Ước một giáo lý có tính cách Kitô giáo về sự tha thứ trước những xúc phạm.
Thật vậy, theo Kinh Thánh, mỗi lần một Kitô hữu vi phạm một lầm lỗi chống lại người thân cận, thì chính Thiên Chúa bị xúc phạm. Tội lỗi được hiểu là một sự đảo lộn trật tự luân lý, đụng chạm đến Nước Thiên Chúa và chính Thiên Chúa. Vì thế, đã có lời khuyên "hãy loại bỏ sự dữ ra khỏi ngươi" .
Do đó, khi tôn vinh Thiên Chúa ba lần thánh, Ít-ra-en không thể chấp nhận bất cứ sự vi phạm nào về lề luật, dù chỉ là nhỏ nhặt. Não trạng duy luật pháp này phát xuất từ quan niệm về giao ước và đi đến luật báo thù : "Mắt đền mắt, răng đền răng". Đề nghị của ông Phê-rô "bảy mươi lần bảy" quả là khác xa với quan niệm của Cựu Ước.
Giao ước còn có một tính cách khác, vì chính Thiên Chúa bị xúc phạm nên cũng chính Người phải trừng trị mọi sự gian ác. Và cũng chỉ một mình Người có quyền tha thứ : "Người không giữ mãi cơn thịnh nộ ..."
Về điểm này, Tin Mừng diễn tả một tinh thần hoàn toàn mới. Có thể nói, Đức Giêsu như là có một khoảng cách với vị Thiên Chúa Thẩm phán : "Các ông đã nghe nói rằng ... Phần tôi, tôi nói với các ông ..." Đức Giêsu dẹp bỏ hết việc báo thù, việc xử ném đá.
Đức Giêsu truyền phải tha thứ lẫn cho nhau. Cũng như tình yêu, sự tha thứ này phải vô giới hạn. Chính nhờ vậy, con người trở thành hình ảnh của Thiên Chúa-Tình yêu (chứ không phải của Thiên Chúa-Thẩm phán), và nhờ đó được hưởng lòng thương xót của Thiên Chúa, là hồng ân đặc biệt Thiên Chúa trao tặng trong trật tự tình yêu. Đây cũng là hình ảnh trung thực của Thiên Chúa mà Đức Giêsu có sứ mạng tái lập nơi con người.
Hơn nữa, sự tha thứ Kitô giáo quy hướng về sự tự do. Theo nguyên ngữ, tha thứ có nghĩa là để cho đi, cho tự do. Trong hành vi tha thứ, mỗi người cắt bỏ sợi dây đang xiềng xích người mắc nợ mình, để cả hai trở nên những người tự do, không còn mắc nợ với nhau. Nói chính xác hơn, việc tha thứ giống như một người chủ ngân hàng xoá nợ cho người mắc nợ. Người nào từ chối tha thứ những xúc phạm thì trở thành nô lệ cho người khác cũng như cho những đam mê của mình. Bởi vì, sự thù ghét và việc báo thù cũng là những đam mê.
Hướng đến vô cùng
"Tha thứ như mình đã được tha thứ
Thương xót như mình đã được xót thương."
Người Kitô hữu luôn phải hướng tới mục đích cao cả này, không như một nhiệm vụ luân lý, một giá biểu cần tính toán, trái lại như một nhân đức. Chính họ là người đã cảm nhận tình thương của Thiên Chúa trong cuộc đời mình và họ cũng hiểu rằng Thiên Chúa muốn trao tặng tình thương ấy cho người khác qua đời sống và hành động của họ.
Tha thứ là một hình thức tốt đẹp của lòng sám hối đích thực. Mỗi người đều hiểu rằng Thiên Chúa đã kiên nhẫn trước những lầm lỗi và sai sót của mình. Đến lượt mình, họ cũng phải xử với người khác như thế, nếu họ muốn được Thiên Chúa yêu thương.
Như vậy, cuộc đời người Kitô hữu trở thành những dòng kênh chuyển thông tình yêu. Ân sủng từ Thiên Chúa chảy qua cuộc đời họ và chảy đến người khác, không giữ lại cho mình. Dòng nước ân sủng thấm vào mảnh đất đời họ và cũng thấm đến những mảnh đời khác. Họ không có quyền đắp đập be bờ để ngăn dòng nước, vì như thế, dòng sông không còn chảy nữa, trở thành ao tù và không phát sinh hiệu quả.
Dù vậy, cũng phải nhìn nhận rằng tha thứ vô điều kiện là điều không dễ thi hành. Bản tính cũng như sức chịu đựng của con người luôn có khuynh hướng dừng lại, đóng kín vào chính mình. Chỉ có thể tha thứ và đón nhận người khác khi biết nhìn lên Đức Kitô, Đấng đã đón nhận và tha thứ cho tất cả. Chính Người là sức mạnh và là người hướng dẫn.
"Nhìn bằng nhãn quan đại lượng nhân từ của Thiên Chúa, ta thấy rằng kẻ làm mất lòng mình chỉ đáng thưởng mà không đáng giận. Ngay cả trong những trường hợp khó giải hoà, nếu bình tâm mà xét, ta cũng thấy những chuyện xúc phạm đâu có gì quá đáng. Chớ có ôm hận, chớ có thích thù dai giận lâu ; trái lại, nên có một chút tinh thần hài hước ... Tâm hồn nào không cởi mở khoáng đạt sẽ không được Thiên Chúa khoan hồng, và có thể nói, như vậy là không biết cầu nguyện, chẳng thể nhận lãnh được ơn gì... "
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
------------------------------
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Có một người vợ kia đã tâm sự như sau : “Trước khi về làm vợ anh ấy, tôi đã yêu một người và: TN24-A82
Có một người vợ kia đã tâm sự như sau : “Trước khi về làm vợ anh ấy, tôi đã yêu một người và dâng hiến tất cả. Nhưng cụôc tình ấy tan vỡ. Trong lúc tôi đang hụt hẫng thì anh ấy đến. Lúc đó tôi không yêu anh và càng không hề nghĩ đến chuyện sẽ làm vợ anh. Tôi mặc cảm về sự thất tiết của mình. Thế nhưng anh đã kiên trì theo đuổi, và khi tôi nói thẳng với anh là tôi không xứng đáng, anh vẫn cứ khăng khăng nói : “Anh biết hết quá khứ của em. Nhưng tình yêu anh dành cho em mãnh liệt và sâu sắc đủ để anh bỏ qua mọi chuyện, chỉ cần em yêu anh và chấp nhận làm vợ anh. Anh tin chúng ta sẽ hạnh phúc bên nhau”. Dần dần tôi xúc động, yêu anh và nhận lời làm vợ anh. Tưởng đâu vợ chồng hạnh phúc. Ai ngờ… chỉ được một năm đầu hạnh phúc thật sự, nhưng từ năm thứ hai và suốt mười năm, anh vô cùng kiên nhẫn đem chuyện cũ ra mà chì chiết, đay nghiến tôi bất kể lúc nào, vào buổi sáng, buồi trưa, buổi chiều, đêm khuya, lúc vợ chồng đang ăn cơm, khi cả nhà xem ti-vi, khi tôi làm việc nhà, trước mặt con cái… lúc thì bằng giọng ngọt nhạt cay độc, lúc thì bằng lời lẽ tục tằn thô bạo… anh bảo rằng tôi phải nhận chịu sự trừng phạt như vậy mới có thể chuộc được lỗi lầm”.
Và người chồng cũng chẳng giấu diếm quan điểm của mình, anh nói : “Tôi không thể và không bao giờ tha thứ sự thất tiết của cô ấy được. Mãi mãi đó là vết nhơ của đời sống vợ chồng. Tội lỗi phải được cứu chuộc, vết nhơ phải được tẩy rửa, và sự cứu chuộc, sự tẩy rửa đó chỉ được thực hiện thông qua sự hành hạ cô ấy, về thể xác cũng như về tinh thần”. Cứu chuộc thông qua sự hành hạ người bạn đời của mình, anh chàng này học được bài học đó ở đâu vậy ? Nếu anh bảo học được từ thập giá cứu chuộc của Đức Kitô thì thật là khủng khiếp. Không, Đức Kitô không cứu chuộc bằng đau khổ nhưng bởi tình yêu. Máu đổ ra đến giọt cuối cùng trên thập giá không phải là giá trả cho một Thiên Chúa bạo tàn, nhưng là dấu chỉ của một tình yêu đi đến tận cùng mạng sống. Nếu người chồng ấy hiểu được chân lý này, anh sẽ không “cứu chuộc” vợ bằng cách hành hạ, nhưng bằng tình yêu tha thứ, bao dung và quảng đại. Nếu người vợ hiểu được chân lý ấy, chị sẽ đáp lại bằng một tình yêu gấp bội. Hạnh phúc gia đình sẽ đựơc cứu vãn chứ không tan vỡ.
Thật đáng sợ một quan niệm tôn giáo sai lệch phải không ? Và cũng rất đáng mừng khi chân lý tôn giáo trở thành ánh sáng soi lối cuộc đời. Khi người Kitô hữu có dịp thể hiện những hành vi tha thứ dưới bất cứ hình thức nào và vào bất cứ thời điểm nào, thì chính hành vi tha thứ ấy là dấu chỉ hùng hồn nói lên cho mọi người biết chúng ta đang sống trong thời đại ân sủng của Thiên Chúa.
Thực vậy, khi Chúa Giêsu bị treo trên thập giá là chính lúc Thiên Chúa tuôn đổ dồi dào hồng ân của Ngài xuống trên nhân loại tội lỗi. Một trong những hồng ân lớn nhất trong công trình cứu độ là ơn tha thứ trọn vẹn tội lỗi của toàn thể nhân loại. Điều này đưa mỗi chúng ta đến một điểm cơ bản là việc Chúa luôn luôn tha thứ cho tôi là động cơ duy nhất thúc đẩy tôi thể hiện những hành vi tha thứ đối với tha nhân. Vì không lý gì một người Kitô hữu khi nhận ra và cảm nghiệm được tình thương tha thứ của Thiên Chúa đối với chính bản thân mình mà lại không bắt chước thái độ cao quý của Chúa trong cách ứng xử của mình đối với tha nhân mỗi khi mình bị người khác xúc phạm. Nói một cách nôm na dễ hiểu và cụ thể hơn nữa, thì oán hờn, giận dữ, nghĩa là không chịu tha thứ, và cứ giữ ấm ức mãi những lỗi phạm của anh em là những điều ghê tởm dưới đôi mắt nhân từ của Chúa. Chúng ta không được phép làm như thế, vì đó là điều Chúa không muốn, nhưng phải luôn luôn làm ngược lại để xứng đáng được hưởng ơn tha thứ của Chúa.
Trong cuộc sống đạo, có nhiều phương thế giúp chúng ta gặp gỡ Chúa, gần gũi với Chúa, như cầu nguyện, suy niệm lời Chúa, lãnh nhận các bí tích, nhưng cũng có một phương thế không kém phần hữu hiệu, đó là sự tha thứ cho nhau. Vì khi, với cái nhìn đức tin, chúng ta tha thứ lỗi lầm cho anh em, thì chính lúc ấy tâm hồn chúng ta cảm thấy gần gũi hơn, thân mật hơn với Chúa, nhờ vào thái độ của chúng ta giống như cách ứng xử của Chúa.
Xin tặng mọi người hai câu danh ngôn : “Cuộc sống sẽ đẹp, nếu mỗi ngày chúng ta chỉ làm một nửa những gì mình đòi hỏi nơi người khác”, “Phải dám sống như mình nghĩ, nếu không, cuối cùng chúng ta sẽ nghĩ như mình sống”. Phải dám chọn cho mình một lý tưởng và sống theo lý tưởng đó. Nếu không, mình sẽ rơi vào lối sống tầm thường, rồi dùng mọi lý lẽ biện minh cho lối sống tầm thường đó.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
------------------------------
Văn hào Nga Leon Tonstoi có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: Có một người hành khất nọ: TN24-A83
Văn hào Nga Leon Tonstoi có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí.
Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có.
Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ.
Đến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng:
"Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà người sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi".
Đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy.
Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù.
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật.
Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục.
Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục.
Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải.
Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm.
Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sach mối nhục hằng đeo đẳng bên ông.
Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ:
"Tại sao ta lại phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua?
Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta".
Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất.
------------------------------
Lời Chúa hôm nay gửi đến chúng ta thông điệp về lòng tha thứ. "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm: TN24-A84
Lời Chúa hôm nay gửi đến chúng ta thông điệp về lòng tha thứ. "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không ?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy” ( Mt 18, 21 – 22 ).
Chúa Giêsu dạy ta tha thứ cho người xúc phạm đến mình, người làm hại mình, tha thứ cho người mà mình có thể xem là kẻ thù, tha thứ đến mức có thể thua thiệt hoặc thiệt thân vì lòng tha thứ, tha thứ và tha thứ... Bảy mươi lần bảy là tha thứ vô thời hạn.
Tha thứ vì hiểu và cảm thông với người được tha hơn là vì người được tha hiểu và thông cảm cho mình.
Tha thứ vì yêu thương người làm hại mình chưa đủ trưởng thành về đời sống nhân bản, chưa đạt đạo làm người, chưa đạt đạo yêu thương, chưa đạt đến sự trọn hảo, dù cho người ấy ở tầm cao hay thấp về trình độ, tuổi tác, chức vụ…
Tha thứ vì xác nhận người làm hại mình có thể vô tội vì họ không biết việc họ làm gây tác hại cho mình đến mức quá đáng.
Tha thứ vì khôn ngoan tìm kiếm một sự bình an thanh thản trong tâm hồn.
Tha thứ vì ngộ ra cuộc sống này ngắn ngủi, nên phải dùng thời gian và lòng trí cho những điều tốt đẹp hơn là trả thù.
Tha thứ vì khiêm tốn nhận mình cũng là người đã từng hoặc ngay lúc này đang nhiều lầm lỗi với mọi người và với Thiên Chúa.
Tha thứ vì nhận mình là con cái của Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa đầy lòng khoan dung, tha thứ, và mặc lấy tâm tình của Thiên Chúa mà sống vì uy tín và danh dự của Thiên Chúa.
Và tha thứ vì mong nhận được hồng ân tha thứ của Thiên Chúa.
Sách Huấn Ca dạy: "Hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha" ( Hc 28, 2 ).
Sống tha thứ là sống đời sống của Thiên Chúa, như Thánh Phaolô dạy:
“Anh em thân mến, không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa; nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy, dù sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa” ( Rm 14, 7 – 8 ).
Ý thức “thuộc về Thiên Chúa” giúp cho mỗi tín hữu phải sống sao nên họa ảnh của Ngài giữa trần gian này: chỉ có yêu thương, tha thứ mà không mảy may thù oán.
Vâng, lý tưởng Công Giáo trong tôi, trong bạn, trong tất cả các tín hữu là như thế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh lịch sử, xã hội, giữ luật tha thứ có thể nói là một thách đố khong nhỏ đối với các tín hữu thời nay. Nhìn vào xã hội ngày nay để thấy sự giả dối, gian tà đang ảnh hưởng lớn đối với các tín hữu Công Giáo:
Giả dối từ trong trứng nước: con người sinh ra không bởi tình yêu chân thật, nhưng là sản phẩm của một sự hưởng thụ, ích kỷ, dối lừa nhau. Bởi thế, người ta có thể cho sinh ra hoặc không cho sinh ra một con người. Còn kinh khủng hơn nữa, có thể giết chết, có thể ăn thịt chính con mình !
Giả dối trong tình yêu: tình yêu của thời đại thực dụng đến mức mỗi con người cũng có giá trị thực dụng của nó, và khi không còn giá trị thực dụng nữa, người ta có thể bỏ nhau, ly dị, lấy vợ chồng khác, còn con cái thì mặc chúng ra sao thì ra.
Giả dối trong tương quan xã hội: người với người không còn tôn trọng sự thật nữa, mà ngược lại, sự giả dối được tôn vinh thành sự thật để khống chế nhau, để cai trị để áp bức nhau…
Hậu quả của một xã hội giả dối là gây quá nhiều tai hại cho nhiều người, trong đó, các tín hữu Công Giáo là một phần chịu thiệt thòi khá lớn, phần khác, bị ảnh hưởng tiêm nhiễm không ít lối sống gian tà này !
Người tín hữu Công Giáo tha thứ hay trả thù xã hội gian ác ấy ? Thiết tưởng, ta không có người thù, và ta không trả thù người, nhưng kẻ thù ta chính là những chủ trương giả dối gian ác, chính là ma quỷ. Trả thù ma quỷ bằng cách không cộng tác với ma quỷ và luôn cảnh giác trước âm mưu của chúng.
Không phải đổ thừa cho bối cảnh, nhưng thực tế các gia đình Công Giáo, cho thấy giữ luật tha thứ là một thách đố không nhỏ:
Trong chương trình Tĩnh Tâm mừng ngày chầu lượt của Giáo Xứ, có một câu hỏi trên giấy gửi đến tất cả mọi giới: “Chúa Giêsu dạy ta “phải tha thứ, tha đến bảy mươi lần bảy”. Vậy, đối với bạn, người mà bạn cần tha thứ trước tiên là ai ?”
Có nhiều câu trả lời ghi trên giấy là “bố tôi”, “mẹ tôi” “vợ tôi”, “chồng tôi”, “con cái tôi”. Một số là “người hàng xóm”, là “tình địch”, “con chủ nợ khó tánh”, “cô chủ chảnh”… Một số khác ghi là “những người chống phá Giáo Hội”
Quả thật, nếu “người làm hại mình” chính là người thân của mình thì còn nỗi đau nào hơn nữa. Một số thanh thiếu niên đang xem bố mình như kẻ thù, bởi vì bố đã bỏ mẹ mà đi tìm hạnh phúc mới trong lúc con còn đang đỏ hỏn. Cũng vậy, có em không thể nào cầm được nỗi xung giận khi nhắc đến mẹ mình, vì mẹ đã chủ động viết tờ đơn ly dị và ép bố phải ký để chia tay, rồi sống với một chú Công An nhỏ hơn mẹ đến gần 10 tuổi. Hỏi ra mới biết, vì chú Công An ấy có nhiều tiền. Bố chẳng làm nhiều tiền hơn với cái nghề mổ heo chân chính.
Ông bà B. đag là ông kia bà nọ trong Giáo Xứ, bỗng con gái mình “bỏ nhà đi”. Cất công đi tìm. Tìm được, gọi con không về, còn bị nó chửi mắng. Mấy tháng sau lại nghe tin sét đánh con gái nhà mình “chửa hoang” hơn hai tháng rồi. Chưa hết, hai tuần sau đó, cả nhà buồn rũ rượi, nghe nó nói: “Bố mẹ thằng đó bảo con phá thai rồi”.
Thiết tưởng, Lời Chúa hôm nay cần ứng dụng trước tiên trong mỗi gia đình Công Giáo:
- Tha thứ cho bố, tha thứ cho mẹ, tha thứ cho con, tha thứ cho nhau, đồng thời, cầu nguyện cho nhau biết trở về đường lối Chúa. Trong khi tha thứ, cũng chính là lúc mỗi người tự đấm ngực mình vì tội không cảnh giác trước những âm mưu của ma quỷ.
- Tha thứ cho làng xóm, cho người chung quanh để làm gương đời sống đạo đức cho con cái.
- Tha thứ cả cho những người tưởng phải nêu gương sáng trong Giáo Hội, đã lỡ lầm gây gương mù gương xấu.
- Tha thứ cho những người đang làm phương hại trầm trọng đến cả một thế hệ trẻ bằng những chủ thuyết duy vật, vô thần, vô luân lý. Đồng thời, luôn ý thức trách nhiệm giáo dục Kitô giáo ngay trong gia đình mình.
Những tha thứ ấy đã không dễ, còn gặp việc tha thứ khó hơn: Con người hôm nay chịu ảnh hưởng của một xã hội hơn thua không thương tiếc, không khoan nhượng, theo đó, còn những cách hành xử bạo lực, bất công, làm các tín hữu luôn phải đối đầu với những thủ đoạn của những thế lực hại dân hại nước.
Anh bạn tôi đến thỉnh ý một Linh Mục: “Thưa cha, khi người bị hại không chỉ là một cá nhân mà là một đất nước, thì giữ luật tha thứ làm sao đây ? Quả là một thách đố”.
Cha nhỏ nhẹ trả lời: “Bình tĩnh đi con, vẫn phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy. Và có khả năng tha thứ sẽ dẫn đến thua thiệt tới mức đổ máu để minh chứng cho lòng khoan dung của Thiên Chúa. Đó là tinh túy của Đạo Chúa Giêsu, là cốt lõi của đời sống tín hữu Công Giáo. Hãy thắp nến lên, cầu nguyện cho người đang làm hại chúng ta, và tuyệt đối không cộng tác với ma quỷ”.
Lạy Chúa Giêsu, giữ luật tha thứ của Chúa thực không dễ chút nào. Xin tha thứ cho chúng con. Xin cho chúng con khao khát và được thuộc trọn về Chúa, để chúng con nhờ ơn Chúa, và vì uy tín danh dự của Chúa mà chúng con thể hiện lòng khoan dung của Chúa cho hết thảy mọi người.
PM. CAO HUY HOÀNG, 8.9.2011
------------------------------
Tha thứ là một trong những vấn nạn đau đầu của mọi thời đại. Con người được sinh ra trong: TN24-A85
Tha thứ là một trong những vấn nạn đau đầu của mọi thời đại. Con người được sinh ra trong yêu thương nhưng rất khó lòng sống thương yêu. Động chạm đến quyền lợi, danh dự, là điều tối kỵ. Tha thứ cho người mình yêu thương vô cùng dễ, tha thứ cho kẻ thù khó khăn đến chừng nào. Chính vì thù hận mà nhân loại có biết bao câu chuyện ân oán truyền kiếp. Chỉ có sự tha thứ mới có thể hóa giải tất cả. Nhân loại bất toàn cho nên sự tha thứ là phải không ngừng. Nơi đâu còn con người, ở đâu có sự sống là còn cần tha thứ. Nếu sự tha thứ không còn tồn tại thì thế giới thì cũng không còn sự sống.
Tha thứ cần thiết vì con người luôn cần tha thứ. Ai cũng cần tha thứ để được thứ tha. Chính vì thiếu am hiểu thông suốt này mà con người vẫn cứ lẩn quẩn trong những vòng tranh chấp, thù hận. Khi lợi nhuận tư riêng, chủ nghĩa cá nhân được đặt lên hàng đầu thì làm sao có tha thứ được. Tha bằng lời thì dễ nhưng tha bằng hành động thì hoàn toàn trái ngược. Con người dễ dàng nói lời tha nhưng khó hành động tha. Vậy nên, ngày ngày nhân loại vẫn cứ chém giết, sát phạt lẫn nhau chỉ vì tranh giành, thù hận.
Tha thứ chính là lý do đầu tiên mà Thiên Chúa đến với nhân loại. Tha thứ cho con người, hầu cứu độ con người mà Thiên Chúa đã hy sinh, từ bỏ tất cả. Đức Giêsu đến trần gian chính là để sống thứ tha và dạy con người biết tha thứ. Tột đỉnh của mầu nhiệm thứ tha được diễn tả đến cùng cực trên thập tự giá. Thập giá chính biểu hiện của tha thứ. Nhìn lên thánh giá, thế giới đọc được mầu nhiệm yêu thương Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Lý do khiến con người tha thứ thật dễ hiểu, vì mọi người đều bất toàn, không ai là người công chính ngoại trừ Thiên Chúa, cho nên con người phải tha thứ cho nhau để sống. Nếu tôi không tốt lành, sao tôi có thể oán trách người khác bất nhân. Hơn nữa, chỉ có sự tha thứ mới là linh dược chữa lành mọi vết thương tội lỗi, oán hờn.
Đức Giêsu dạy chúng ta phải tha thứ cho nhau, không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy ( x. Mt 18, 21 ). Bảy mươi lần bảy đây chỉ là con số trừu tượng, là hình ảnh biểu trưng để nói đến việc phải tha thứ luôn luôn, thứ tha không ngừng. Có những tha thứ nhỏ, rất dễ đón nhận, dễ thực hiện nhưng có những tha thứ lớn đòi hỏi kẻ tha phải hy sinh, từ bỏ mình mới có thể thực hiện được. Làm sao có thể tha cho kẻ cướp đi mạng sống, tài sản, người thân hay cả gia đình mình, thật không phải là điều đơn giản !
Nếu nói yêu thương mà không có tha thứ, yêu thương ấy chỉ là hão huyền. Điều kiện tiên quyết để con người có thể tha thứ cho nhau chính là sự yêu thương. Tiền bạc, danh vọng hay địa vị không thể nào mua được tha thứ. Có chăng chỉ là vỏ bọc của tha thứ mà thôi, chỉ cần đụng chạm đến quyền lợi, danh dự tư riêng là sự tha thứ ấy đã nhanh chóng cao chạy xa bay rồi.
Hơn bao giờ hết, xã hội ngày nay thiếu sự tha thứ và cần thứ tha đến chừng nào. Thế giới càng tội lỗi thì đòi hỏi sự thứ tha càng lớn. Chỉ khi nào con người tự ý thức về bản chất bất toàn của mình, mới hòng mong thế giới có nhiều bàn tay mở rộng biết trao ban tình yêu thương. Bao lâu con người còn tự bảo bọc mình trong vỏ óc cá nhân ích kỷ, tham vọng, thì bấy lâu tha thứ càng vắng bóng.
Dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót người đồng cảnh ngộ lột tả cách chân thực bản chất con người. Con người luôn luôn ích kỷ, khoan dung với chính mình nhưng lại khắt khe với người khác. Muốn kẻ khác tha thứ cho mình nhưng bản thân lại khắt khe với người, chẳng phải là điều ngạo ngược hay sao ? Lạ lùng, chả mấy người nhận ra điều ngạo ngược ấy, người ta cứ mặc nhiên sát phạt nhau không thương tiếc, để rồi hết bi kịch này đến bi kịch khác liên tiếp xảy ra hằng ngày trên thế giới.
Lạy Chúa, tha thứ là bài học làm người đầu tiên Ngài đã dạy cho nhân loại. Bài học ấy Ngài đã dùng cả cuộc sống mình để minh chứng. Thế giới hưởng nhờ sự tha thứ hầu đón nhận ơn cứu độ nhưng chẳng mấy ai thực thi được điều Thiên Chúa muốn. Chính khi trao ban thứ tha, Thiên Chúa muốn con người cũng biết tha thứ cho nhau. Lòng bao dung, đức kiên nhẫn chính là khí cụ để con người có thể tha thứ ngay cả trong những điều tưởng chừng không thể tha thứ. Trên thập giá, Thiên Chúa vẫn nói lời yêu thương.
Như thế, tha thứ chính là chìa khóa mở cửa tâm hồn, hầu con người biết giang rộng vòng tay bác ái. Xin mở toang cánh cửa trái tim ích kỷ, hèn nhát của con. Xin trao vào tay con, chìa khóa yêu thương, tha thứ, cho dẫu cuộc đời còn lắm trái ngang, oan nghiệt, cũng không còn cánh cửa nào có thể đóng khép bởi hận thù, tranh chấp nhỏ nhen.
M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG
------------------------------
Mt 18, 21 – 35
Lm Đa minh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
Nhìn hắn mà xem, hắn đang cúi rạp mặt trước mặt ông chủ. Nước mắt giàn giụa, gục lạy liên tục, miệng: TN24-A86
Nhìn hắn mà xem, hắn đang cúi rạp mặt trước mặt ông chủ. Nước mắt giàn giụa, gục lạy liên tục, miệng kêu oang oác, đầy vẻ bi ai: Xin Ngài hoãn nợ cho tôi ít nữa, tôi sẽ trả hết cho ngài. Nhìn hắn tội nghiệp, lòng ông chủ se lại, xót thương. Có bán cả vợ con và toàn bộ tài sản của y, cũng chẳng đủ để đền bù. Ông chợt nghĩ đến tình người, cho nên không những ông cho hắn thêm thời gian để đền trả, mà hơn nữa, ông còn tha hết nợ cho y, ông tha bổng cho y. Quá sướng! Có lẽ điều ấy làm hắn quá đỗi bất ngờ, ngoài cả sự tưởng tượng, mà nằm mơ mấy đêm cũng chẳng thấy.
Một gánh nặng đã cất khỏi vai. Hắn bước đi trong nhịp điệu tung tăng. Cả mười ngàn nén vàng chứ ít ỏi gì. Một số nợ cao hơn cả đầu hắn, vậy mà hắn được tha, tha hết, nhưng vừa ra tới đường hắn gặp một con nợ. Con nợ mắc nợ hắn một trăm quan tiền. Quá nhẹ! Nhưng mặt hắt đanh lại, hắn túm lấy cổ người ấy, đòi phải trả cho bằng được. Người mắc nợ ấy cũng làm y như hắn đã làm, nghĩa là cũng lạy lụp, cũng khóc lóc van xin, nhưng hắn vẫn cứ lạnh lùng, cứng cỏi, đanh thép nhất định không chịu. Túm lấy cổ hắn giải người ấy đến công an và yêu cầu công an nhốt người ấy vào tù cho đến khi phải trả xong cho hắn.
Buồn quá phải không? Thượng đội hạ đạp. Sao hắn ác thế! Cái tâm của hắn đâu rồi? Chỉ muốn người khác tốt với mình, còn mình thì lại ác độc với người khác. Ai thì lúc ngủ coi cũng hiền lành, chỉ khi thức dậy và đến chuyện mới biết lành hay dữ. Bây giờ thì rõ rồi, cả cái bộ mặt thật đểu giả, bây giờ mới hiện ra.
Nhưng câu chuyện của hắn có phải là câu chuyện hi hữu, duy nhất không nhỉ? Hay chính là câu chuyện của nhiều người, mà có khi nào lại chính là câu chuyện của chúng ta. Ta hãy bỏ khuôn mặt vô hình của hắn đi, mà thay vào đó chính khuôn mặt của chúng ta, xem có đúng không nhé.
Có phải ta mắc nợ Thiên Chúa nhiều lắm phải không? Mắc nợ về bao thiếu sót, lỗi lầm từ trong tư tưởng đến lời nói đến việc làm. Người nào mà chả có những thiếu sót, lỗi lầm. Tất cả đều chồng chất cao ngất. Rồi ta đến với Chúa, để xin tha thứ. Có vô vàn tội tầy đình, nhưng ông chủ Thiên Chúa, cũng tha hết cho ta. Vậy mà có những người anh em, bạn bè, hàng xóm lỗi phạm làm ta buồn, thế là ta cứ giận, cứ thù nhất định không chịu tha. Có khi còn đi tới “sống để bụng, chết mang đi” bằng mọi giá. Không thể tha thứ. Ô hay, thay mặt ta vào khuôn mặt của người ác tâm kia sao mà cứ đúng.
Gợi ý suy niệm:
1- Bạn nghĩ sao, về người thượng đội hạ đạp ấy?
2- Trong lòng bạn, giờ còn có hận thù ai không?
------------------------------
( Mt 18,22 ).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mt 18,21-35
Vấn đề tha thứ là vấn đề cần phải được thực hiện liên tục trong đời sống. Đọc Tin Mừng của Chúa: TN24-A87
Vấn đề tha thứ là vấn đề cần phải được thực hiện liên tục trong đời sống. Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta nhận ra giáo huấn của Chúa. Ngài không chỉ dạy, chỉ nói, nhưng đã thực hành sự tha thứ.Lòng nhân từ của Chúa thật bao la. Ngài yêu thương con người, yêu thương từng người.Mỗi người đều có một chỗ đứng trong trái tim của Chúa. Chúa yêu chúng ta không chỉ chung chung, nhưng Ngài biết rõ từng con người.Noi gương Chúa đã rất quảng đại tha thứ cho chúng ta, chúng ta cũng phải sẵn sáng,hết lòng tha thứ cho anh em.
Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay nói về việc tha thứ cho nhau, được diễn tả bằng một dụ ngôn nhằm gây ấn tượng mạnh mẽ, đồng thời cũng nói lên mối tương quan đối xử, giao tiếp với nhau nhưng có liên quan tới Chúa.Bởi vì, khi chúng ta đối xử với nhau sẽ có ảnh hưởng tới sự đối xử của Chúa đối với ta. Tha thứ là một thái độ vẫn được nhắc đến trong Kinh Thánh, nhằm nhắc cho chúng ta biết bỏ qua những xúc phạm, nợ nần nhau, tuy nhiên, việc làm đó chỉ hạn hẹp trong một số người thân thuộc. Tân Ước cũng đề cập tới sự tha thứ nhưng mở rộng ra với hết mọi người, kể cả kẻ thù vv…Thánh Phêrô có lẽ đã lường trước được sự tha thứ. Đáng lẽ Ngài chỉ nói 4 lần, nhưng Ngài đã nâng lên đến bảy lần. Chúa nói tha thứ bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha thứ mãi,tha thứ luôn,tha thứ không ngừng.Các bầy tôi ở đây không chỉ hạn hẹp trong những con ăn người ở mà còn gồm cả quần thần. Mười ngàn nén vàng là một số tiền khổng lồ so với một trăm quan tiền.Bài học dụ ngôn mở ra cho chúng ta là Thiên Chúa rất quảng đại tha thứ, do đó, chúng ta phải học hỏi và làm theo Ngài.
Vâng, giữa cuộc đời mỗi lúc tràn đầy hận thù…chiến tranh, bạo lực, chém giết, không khoan nhượng vẫn nhan nhản xảy ra trên thế giới, con người vẫn kêu gào trả thù, vẫn đòi ăn miếng trả miếng. Lời Chúa kêu gọi “ hãy tha thứ và tha thứ không ngừng “, nhiều lúc người ta có cảm tưởng như tiếng kêu trong sa mạc. Giáo Hội luôn kêu gọi mọi người, từng người noi gương Chúa tha thứ, quảng đại và mãi mãi thứ tha. Tuy nhiên, để làm được việc này, chúng ta phải dựa vào lòng tin mạnh mẽ nơi Chúa, Đấng đã, đang và vẫn bị con người xúc phạm, chống đối, chối từ…” vẫn mưa xuống cho cả người lành kẻ dữ “ ( Mt 5, 45 ), vẫn không khiến “ lửa từ trời xuống thiêu đốt “ (Lc 9, 54 ), mà không phải chỉ những kẻ không tin Chúa, mà cả những người đã tin vào Chúa, Ngài vẫn tha thứ.Chúa mời gọi con người hoán cải.Nhưng Ngài mời gọi mọi người noi gương Ngài yêu thương, tha thứ, trở nên ‘Con cái của Cha trên trời ‘ ( Mt 5, 45 ).
Lòng quảng đại tha thứ của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, là hồng ân quí giá và quà tặng vô giá Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, cho con người, đặc biệt cho con người tội lỗi. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta noi gương Ngài, kêu gọi chúng ta tiếp tục sứ mệnh thứ tha của Ngài. Ơn tha thứ là sự biến đổi…đổi mới con người. Sống thứ tha là đem lại tình thương và bình an cho người khác.
Kinh Hòa Bình mà thánh Phanxicô khó khăn đã đọc, đã hát vang lên cho chúng ta hiểu được ý nghĩa sâu xa tuyệt vời của sự tha thứ, của sự an bình. ..Vì khi chết đi là khi vui sống muôn đời.Ôi! Thần linh thánh ái xin mở rộng lòng con.Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí ơn an bình.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tha thứ bảy mươi lần bảy nghĩa là làm sao ?
2.Tha thứ là gì ?
3.Mắt thế mắt răng đền răng là luật gì ?
4.Chúa dạy chúng ta noi gương ai ?
5.Người ta gọi Thiên Chúa là Đấng nào ?
------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 18:21-35)
Chắc ông Phê-rô phải vô cùng ngạc nhiên về những lời của Chúa Giê-su: “Thầy không bảo là tha: TN24-A88
Chắc ông Phê-rô phải vô cùng ngạc nhiên về những lời của Chúa Giê-su: “Thầy không bảo là tha thứ đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. Các ráp-bi dạy người ta phải tha thứ tới ba lần. Ông Phê-rô đã phá kỷ lục khi tăng số lần tha thứ hơn gấp đôi, tức là bảy lần. Có lẽ sống một thời gian với Chúa, ông đã học được nơi Người lòng quảng đại nên mới đề nghị như vậy. Thế mà Chúa Giê-su chẳng chịu thua, nâng số lần lên gấp bảy mươi lần, nói khác đi, Người muốn khẳng định tha thứ không thể bị giới hạn vào con số được, mà phải tha thứ luôn luôn.
Chúng ta chợt thấy một chút thích thú trong cuộc “chạy đua” giữa các ráp-bi, ông Phê-rô và Chúa Giê-su về việc tha thứ. Chúa Giê-su đã bỏ họ lại thật xa, vì Người là chính Thiên Chúa và là chính sự tha thứ! Để giúp chúng ta hiểu được lòng tha thứ vô biên của Thiên Chúa, Chúa Giê-su kể một câu chuyện. Một người đầy tớ kia mắc nợ chủ anh ta là một ông vua một món nợ kếch sù “mười ngàn yến vàng”. Anh không có gì trả, dù có phải bán chính mình lẫn vợ con và hết tài sản cũng không đủ để trả nợ. Anh khóc lóc van xin và ông vua đã tha hết nợ cho anh. Trong khi đó, một người bạn của anh ta dù chỉ mắc nợ anh ta có “một trăm quan tiền” và “sấp mình van xin”, nhưng anh ta vẫn không tha. Câu chuyện với những con số tượng trưng 3, 7 và 7x70 đã nói lên sự khác biệt một trời một vực giữa lòng quảng đại tha thứ của Thiên Chúa và sự hẹp hòi cũng như không chút thương xót của con người. Sự tha thứ của Thiên Chúa được đo lường bằng tình yêu vô điều kiện và lòng thương xót, còn sự tha thứ của con người được tính toán bằng số lần hoặc sự thiệt hại.
Làm sao chúng ta có thể vượt qua được giới hạn tha thứ của con người để tiến tới giới hạn tha thứ của Thiên Chúa đây? Ở cuối câu chuyện Chúa Giê-su kể, ông vua đã được báo cáo về sự hẹp hòi của người đầy tớ ông đã tha nợ cho, nên ông đổi ý, không tha nợ cho anh ta nữa, mà “trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông”. Không phải là ông vua đã trước sau không như một, mà ông muốn đề cao lối sống tha thứ là biết mở lòng thương xót đối với người khác. Từ kết thúc câu chuyện này, Chúa Giê-su đã áp dụng lòng tha thứ của Thiên Chúa vào đời sống của các môn đệ Người: “Cha của Thầy trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Chúa Giê-su giúp chúng ta thắng vượt sự hẹp hòi của con người để biết tha thứ như Chúa Cha và như chính Người, khi Người dạy chúng ta hãy bắt chước. Cha nào con ấy. Cha quảng đại tha thứ thế nào thì con cũng phải bắt chước như vậy. Chúa Giê-su đã tha thứ những người tội lỗi thế nào, các em của Người cũng phải noi gương người Anh Cả mà tha thứ như vậy. Từ nay chúng ta tập đo lường sự tha thứ bằng trái tim chứ không phải bằng bài toán nữa!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Đề tài tha thứ luôn luôn thực dụng đối với chúng ta, không những trong những tương quan gia đình, bạn bè, mà còn trong đời sống cộng đoàn và xã hội nữa. Đề tài tha thứ có tầm quan trọng đến nỗi nó đã được Chúa Giê-su đưa vào kinh nguyện hằng ngày: Xin Cha… tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Bao nhiêu lần đọc kinh Lạy Cha phải là bấy nhiêu lần chúng ta xin Chúa thay thế trái tim chai đá hẹp hòi của chúng ta bằng trái tim của Người. Tuy chúng ta biết rằng bài học tha thứ là bài học khó nuốt nhất trong các bài học, bởi vì nó mang những sắc thái và chiều kích của Thiên Chúa cách rõ rệt nhất, nhưng tha thứ cũng là dấu hiệu rõ nhất để nói lên rằng chúng ta trở giống như Cha trên trời. Chúa Giê-su đã dạy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Gio-an 15:12) thế nào, thì hôm nay cũng vậy, Người bảo: Anh em hãy tha thứ cho nhau như Cha Thầy ở trên trời đã tha thứ cho anh em. Vậy chúng ta thực tập bài học tha thứ bằng cách cảm tạ Chúa Cha đã tha thứ tội lỗi chúng ta, noi gương Chúa Giê-su trên thập giá và theo sự thúc giục của Thánh Thần.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
------------------------------
(Hc 27,30-28,7; Rm 14,7-9; Mt 18,21-35)
Phúc Âm: Mt 18, 21-35
"Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy".
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.
"Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
"Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: "Hãy trả nợ cho ta". Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh". Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong.
"Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến vào bảo rằng: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?" Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
"Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".
Suy Niệm:
Chúa Nhật XXIV Thường Niên A
Hc 27,30-28,7; Rm 14,7-9; Mt 18,21-35
Các bài đọc hôm nay không hoàn toàn tiếp nối tư tưởng của ngày Chúa Nhật trước; nhưng cũng bàn về: TN24-A89
Các bài đọc hôm nay không hoàn toàn tiếp nối tư tưởng của ngày Chúa Nhật trước; nhưng cũng bàn về một vấn đề tương tự. Chúng ta đã thấy trong Chúa Nhật trước Lời Chúa dạy bảo chúng ta những thái độ phải có đối với người anh em phạm tội làm cực lòng cộng đoàn tín hữu. Hôm nay Lời Chúa muốn giáo huấn chúng ta phải xử trí thế nào đối với người anh em lỗi phạm đến mình. Chúng ta sẽ thấy sách Huấn Ca của Cựu Ước chuẩn bị để lời loan báo Tin Mừng của Chúa Cứu thế được đón nhận như thế nào? Và thánh Phaolô đã có những tư tưởng nào để giúp đỡ chúng ta thi hành huấn thị của Chúa Cứu thế?
A. Không Ðược Giận Anh Em
Sách Huấn ca thuộc loại sách khôn ngoan của Cựu Ước. Ðó là loại sách - có thể nói - muốn bắt chước lối văn triết học đạo đức của trào lưu văn minh thời sau Lưu đày. Người ta bàn đến những thói ăn cách ở xứng đáng với thiên chức làm người "linh ư vạn vật". Nhưng ở các dân tộc kế cận, lý tưởng khôn ngoan chỉ tà tà mặt đất và không nhìn xa hơn cuộc sống trần gian của con người. Còn nơi Dân Chúa, những lời dạy khôn ngoan thường được đưa lên tới Chúa và được coi như phát xuất từ Người. Ðoạn sách Huấn ca hôm nay là một thí dụ rõ ràng.
Quyển sách này có cái tên như vậy vì nó được dùng như là thủ bản để giáo huấn Dân Chúa. Nó được viết theo kiểu thi ca cho dễ đọc dễ nhớ. Nó đề cập tới mọi khía cạnh trong đời sống con người. Ðoạn sách đọc hôm nay bàn về vấn đề giận hờn.
Mở đầu, sách Huấn ca nói luôn: oán hận giận hờn thảy là quái gở, tội nhân thường nổi tiếng cả hai. Ðó là một nhận xét thông thường. Kẻ tội lỗi vẫn có lòng hờn giận. Và kẻ khôn ngoan phải thấy đó là điều quái gở. Nhưng lập tức tác giả sách Huấn ca đã đem ánh sáng mạc khải chiếu trên hiện tượng ấy trong đời sống con người. Ông thấy ngay điều ấy không đẹp lòng Chúa và Người sẽ xử cứng với kẻ giận hờn. Thế nên ông khuyên người ta phải biết tha thứ cho anh em để được Chúa thứ tha tội lỗi. Ông không biết diễn tả hơn thế nào. Ông chỉ thấy người giận hờn sẽ không được tha thứ. Và ông khuyên người ta hãy nghĩ đến ngày chung thẩm, ngày đến trước mặt Chúa mà tha thứ cho anh em. Vì không thể nào Chúa có thể rộng rãi với người không biết tha thứ. Và lúc ấy có ai cầu bầu cho kẻ nhẫn tâm như thế? Do đó tác giả sách Huấn ca khuyên người ta hãy vâng lệnh Chúa và giữ giao ước của Người mà biết tha thứ và bỏ qua các xúc phạm của anh em.
Lời khuyên ấy vượt xa mọi lý lẽ thế gian và rõ ràng đã chuẩn bị cho người ta đón nhận giáo lý của Chúa Cứu thế. Nó làm nổi bật tính cách đạo đức của sách khôn ngoan trong Cựu Ước và còn đáng dùng để giáo huấn Dân Mới của Chúa. Nó khiến chúng ta liên tưởng tới câu kinh Lạy Cha: "Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con", để khi gặp cơn bực tức giận hờn, chúng ta biết suy nghĩ đạo đức hầu việc nhớ đến Chúa sẽ làm cho chúng ta nguôi giận và tha thứ.
B. Phải Tha Thứ Không Cùng
Tông đồ Phêrô có phải là người nóng tính nhất không? Có lẽ ông hăm hở muốn thi hành Lời Chúa hơn hết mọi người. Cũng có thể vì địa vị ông năng gặp người xúc phạm và ông phải tha thứ. Nên sách Tin Mừng viết ông đã đến bên Ðức Yêsu và thưa: Thưa Thầy khi anh em xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Ðến 7 lần chăng?
Ðức Yêsu đã không ngần ngại đáp: Ta không nói đến 7 lần, nhưng đến 70 lần 7. Có thể Người đã muốn lấy lại một lời trong sách Khởi nguyên (4,24), Lamek tuyên bố "luật rừng" thời bấy giờ: phải báo thù đến 70 lần 7. Về sau Thập giới đã thu hẹp lại và chỉ cho phép người ta lấy mắt trả mắt, răng đền răng. Nhưng đến Ðức Yêsu, Người tuyên bố phải tha thứ và yêu thương cả kẻ thù địch. Và câu Người khẳng định trên kia, phải tha thứ đến 70 lần 7, chỉ có ý dạy phải tha thứ mãi mãi, tha không bao giờ cùng.
Tại sao như vậy, thì Người đã kể một dụ ngôn. Có tên "bầy tôi" kia mắc nợ hoàng đế một vạn nén vàng. Một số tiền khổng lồ không thể trả nổi. Hoàng đế ra lệnh không những bán của cải anh ta mà còn bán cả anh ta cùng vợ con. Chắc chắn sẽ chẳng được bao nhiêu. Nhưng đó là biện pháp cuối cùng, biện pháp chỉ có dân ngoại mới làm. Và như vậy để nói lên tính cách khắt khe của hình phạt vì món nợ thật lớn lao.
Nhưng tên bầy tôi đã vội quỳ mọp xuống xin nhà vua thư thả cho, để anh sẽ trả hết nợ. Hoàng đế làm quá điều anh xin. Ông tha trắng cho anh. Lẽ ra anh phải sung sướng vì ân huệ lớn lao vừa được. Nhưng lòng anh không tốt! Ơn bất ngờ kia không cảm hóa được anh tý nào. Anh đã túm cổ họng người bạn đồng liêu chỉ nợ anh có 100 đồng bạc. Số tiền này là gì sánh với một vạn nén vàng? Thế mà anh đã bỏ tù bạn cho đến khi lấy lại được một trăm đồng bạc.
Thái độ của anh thật ghê tởm! Và ai ai cũng thấy phải phạt anh ta mới được. Vậy Cha trên trời cũng sẽ xử với chúng ta như thế. Bởi vì chúng ta cũng là tội nhân ở trước mặt Người. Và tội chúng ta nhiều và nặng vô cùng. Thế mà Người vẫn tha thứ. Trông khi đó chúng ta lại không biết bỏ qua một vài xúc phạm nhỏ bé của anh em!
Bài dạy của Chúa Yêsu rõ ràng sáng sủa. Tuy như muốn nối dài và kiện toàn giáo lý của sách Huấn ca, nhưng không thiếu điều khác biệt. Nhất là rõ ràng Chúa Yêsu không nại đến ngày chung thẩm và đời sau. Việc Thiên Chúa tha thứ cho người ta không đi sau và tùy như việc người ta tha thứ cho anh em. Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta trước. Và Người muốn chúng ta thấm ơn Người và theo gương Người mà tha thứ cho anh em.
Thế thì tại sao Kinh Lạy Cha không làm nổi bật tư tưởng này, mà lại như muốn kéo dài giáo lý của sách Huấn ca? Kinh ấy dạy: Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Chúng ta tưởng ở đây như có một so sánh hoặc như có một đòi hỏi bó buộc Thiên Chúa phải tha nợ cho chúng ta như chúng ta đã tha thứ cho anh em. Nhưng không, đây chỉ là một điều kiện, một thái độ chuẩn bị, chứng tỏ lòng chúng ta khi tha thứ cho anh em cũng ao ước được Chúa tha thứ rộng rãi cho mình. Người có tha thứ mới thật lòng muốn được tha thứ và mới đáng nhận được ơn tha thứ. Ơn này Thiên Chúa đã ban sẵn cho mọi người nơi Ðức Yêsu Kitô. Người ta sẽ nhận được khi đến với tâm hồn biết tha thứ. Và người ta phải nhìn vào lòng thương xót tha thứ của Chúa để biết tha thứ cho anh em.
Ðiều này cũng được thánh Matthêô nhấn mạnh trong câu vị hoàng đế nói với kẻ bầy tôi bất nhân bất nghĩa: "Ngươi không phải thương xót bạn đồng liêu với ngươi như chính Ta đã thương xót ngươi sao?" Và như vậy rõ ràng giáo lý của Chúa Yêsu là người ta phải nhìn vào lòng Chúa thương xót đã tha thứ rộng rãi quảng đại cho người ta để người ta cũng phải thương xót tha thứ cho anh em trong mọi xúc phạm thực ra quá nhỏ mọn sánh với các xúc phạm của người ta đối với Chúa.
Và cũng một tư tưởng nữa trong giáo lý của Ðức Kitô: Người ta chỉ là "đồng liêu" với nhau, hoặc như lời sách Huấn ca, người ta hết thảy đều là xác thịt. Tha thứ có là việc đáng kể gì sánh với việc Thiên Chúa tha thứ cho ta, vì Người là Ðấng Thánh khác hẳn với chúng ta và trổi vượt trên chúng ta bội phần? So sánh Người với chúng ta như vị hoàng đế với kẻ bầy tôi chỉ là một kiểu nói theo ngôn ngữ loài người. Khó tìm được lối so sánh nào mạnh hơn. Nhất là nếu còn muốn gợi lên hình ảnh xử án nữa!
Như vậy bài sách Tin Mừng quả thật đã không bỏ mất một yếu tố nào trong bài sách Huấn ca. Hơn nữa thay vì đưa chúng ta nghĩ về phiên tòa xét xử sau này trong ngày chung thẩm, thánh Matthêô cho chúng ta thấy việc phân xử đó đang thi hành trước mắt chúng ta, kể từ ngày Thiên Chúa đã tha thứ tội lỗi cho mọi người nơi Ðức Yêsu Kitô Cứu Thế.
Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay cũng có một quan niệm tương tự khi khuyên chúng ta phải biết rộng rãi tha thứ cho anh em. Và phải biết tha thứ đến độ không còn dám đoán xét anh em nữa. Chúng ta hãy tìm hiểu ý người.
C. Không Ðược Ðoán Xét
Người nói: chúng ta là gì mà lại đoán xét anh em, mà lại coi anh em là đắc tội? Chúng ta hết thảy chỉ là tôi tớ. Thật vậy, là tín hữu, chúng ta tin Ðức Yêsu Kitô. Chúng ta tuyên xưng Người là Chúa nhờ cuộc khổ nạn-phục sinh của Người. Người đã được đặt làm Chúa kẻ sống và kẻ chết, tức là Chúa của các thế hệ đi trước chúng ta và của chúng ta cũng như của những kẻ đến sau chúng ta. Ðối với Người, chúng ta chỉ là bầy tôi hay là tôi tớ theo nghĩa rất mạnh là vận mạng của chúng ta hết thảy bây giờ ở trong tay Người. Có thể nói, chúng ta ngày nay không còn tự do gì nữa. Từ ngày cùng chết và sống lại với Người trong Bí tích Rửa tội để trở thành Kitô hữu, chúng ta đã tự bán mình cho Người, trở nên nô lệ của Người để được sự tự do của con cái Thiên Chúa.
Vậy thân phận chúng ta đã là những tên nô bộc sống hoàn toàn dưới quyền của Chúa thì chúng ta không còn quyền đoán xét và xét xử nhau nữa. Mọi xích mích giữa chúng ta bây giờ phải được đệ lên trước mặt Chúa để tùy Người phân xử. Chúng ta chỉ còn phận sự chu toàn trách nhiệm của mình và sẽ phải trả lẽ về chính mình ở trước mặt Thiên Chúa.
Bài học của thánh Phaolô như vậy có vẻ dứt khoát và quyết liệt hơn Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng. Không những không được giận hờn mà còn không được đoán xét. Không còn khuyên bảo theo gương Chúa nữa nhưng trắng trợn chỉ tay vào thân phận của mỗi người mà bảo im đi. Nghĩ như vậy là không hiểu tý gì về tư tưởng của thánh Phaolô. Ðối với người, không có vinh dự và hạnh phúc nào sánh được với ơn gọi Kitô hữu. Và người ta càng sống đúng với ơn gọi này khi chỉ còn sống chết cho Chúa Kitô. Sống như vậy là trở nên nô lệ của Người, nhưng đó là thứ nô lệ đem đến thống trị với Người, như chính Người đã tự hư vô hóa mình để được đưa lên trên hết mọi danh hiệu và làm Chúa của kẻ chết và kẻ sống. Người Kitô hữu đã thuộc về Chúa, trở nên sản nghiệp của Người, thì không còn ở dưới quyền ai nữa, một chỉ ở dưới quyền Thiên Chúa mà thôi. Ðó là sự tự do của họ. Thánh Phaolô bênh vực sự tự do này cho mọi tín hữu vì nó đã được mua chuộc bằng Máu của Ðức Kitô. Thế nên thánh nhân không cho ai có quyền đoán xét anh em. Và như vậy người bênh vực mọi Kitô hữu chứ không phản đối ai.
Bài học của người hiểu như vậy thật tích cực và đề cao mọi người. Có thể nói người đã làm cho mọi người được quyền bất khả bị xâm phạm nhân danh Kitô hữu, tức là nhân danh Ðức Kitô. Nói đúng hơn, người nhắc nhở hết thảy chúng ta trở nên thân phận của mình. Là đồng phận, đồng liêu với nhau ở trước mặt Chúa, chúng ta hãy sống hòa hợp với nhau như anh em. Và như vậy không còn được đoán xét giận hờn nhau nữa.
Tư tưởng của Người đã có trong bài sách Huấn ca và trong bài Tin Mừng. Ðọc lại cả ba bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta thấy rõ Lời Chúa vẫn là một: người ta không được đoán xét oán giận nhau vì là những thái độ không tốt; hết thảy chúng ta đều như nhau trước mặt Chúa. Người đã thương xót tha tội vô vàn cho chúng ta thì lẽ nào chúng ta bất nhân đến nỗi còn muốn hạch tội anh em? Người đã đổ máu ra để chuộc anh em, thì làm sao chúng ta còn có thể kết tội anh em? Người sẽ phán xét mọi người thì chúng ta phải tỏ ra thương xót để sẽ được thương xót.
Tất cả những điều ấy đang thật sự xảy ra ở giữa cộng đoàn chúng ta trong giờ phụng vụ này. Ai có thể nói mình hơn ai ở trước mặt Chúa? Người không tỏ ra xót thương chúng ta vô vàn trong hành vi lễ tế này sao? Và Người hy sinh đến như vậy để muốn chuộc hết mọi người và nâng lên bậc làm con Chúa. Có thể nào chúng ta còn dám đoán xét anh em?
Và cuối cùng, mầu nhiệm Thánh Thể này đảm bảo việc Chúa Kitô sẽ trở lại phán xét, đưa tất cả về thiên quốc làm thành Thân thể sáng láng của Người. Ai có tâm nào muốn loại trừ anh em, đi trước quyền phân xử của Chúa và khiến Người sẽ không dung thứ cho chính mình? Không, để tham dự Thánh lễ này cho hữu hiệu, chúng ta hãy thi hành Lời Chúa: trước khi đem lễ vậy dâng trên bàn thờ phải làm hòa với anh em. Và khi đã dâng của lễ hòa giải này nơi bàn thờ, chúng ta lại càng phải duy nhất yêu thương phục vụ anh em hơn nữa. Vì có như vậy chúng ta mới thật sự là một đoàn chiên với một Chúa chiên.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
----------------------------------
Chính Ta Đã Xót Thương Ngươi
Mt 18:21-35: 21Bấy giờ Phêrô tiến lại nói với Ngài: "Thưa Ngài, nếu anh em tôi có lỗi với tôi, tôi phải tha mấy lần? Ðến bảy lần không?" 22 Ðức Yêsu nói với ông: "Ta không nói: đến bảy lần, mà: đến bảy mươi lần bảy lần".23"Ấy vậy, về Nước Trời thì cũng in như vua kia tính sổ với bầy tôi. 24 Nhà vua vừa tính sổ,thì người ta điệu đến một người nợ một vạn nén vàng.25 Y không có gì để trả nợ nên tôn chủ của y ra lịnh bán y và vợ con sản nghiệp thay thảy để trả nợ. 26Vậy người bầy tôi phục xuống đất bái lạy mà tâu rằng: "Xin Ngài khoan hồng cho với, thần sẽ trả hết". 27 Nhưng tôn chủ của người bầy tôi ấy chạnh lòng thương, đã thả y về và tha bổng cả món nợ. 28Ði ra, người bầy tôi ấy gặp một người bạn đồng liêu mắc nợ y một trăm đồng bạc; y liền bóp cổ chận họng mà rằng: "Nợ đâu, trả đây!" 29 Người bạn đồng liêu phục xuống mà nài xin y rằng: "Xin ông khoan hồng cho với, tôi sẽ trả!". 30 Nhưng y không chịu, lại đi bỏ tù, cho đến khi nào nó trả nợ xong. 31 Vậy các bạn đồng liêu thấy sự xảy ra thì rất đỗi buồn phiền mà đi phân trần đầu đuôi mọi sự xảy ra với tôn chủ họ. 32Bấy giờ, tôn chủ cho triệu y đến bảo rằng: "Tôi tớ bất lương, ta đã tha bổng cho ngươi tất cả món nợ ấy, chỉ vì ngươi đã nài xin ta! 33 Há ngươi không phải thương xót bạn đồng liêu với ngươi sao, nhưng chính ta đã thương xót ngươi? 34 Thịnh nộ, tôn chủ của y đã trao y cho lý hình cho đến khi nào y trả xong tất cả những gì y mắc nợ với ông. 35 Cũng vậy Cha Ta, Ðấng ngự trên trời, sẽ xử với các ngươi, nếu các ngươi mỗi người không thật lòng tha cho anh em mình".
Khi nói đến “người anh em lỗi phạm” đến mình (cc. 15-17), Matthêô đã trình bày cách đi sửa lỗi họ, TN24-A90
Khi nói đến “người anh em lỗi phạm” đến mình (cc. 15-17), Matthêô đã trình bày cách đi sửa lỗi họ, và có hai khả năng: hoặc là người ấy nghe lời mà sửa đổi, hoặc là không nghe. Và đứng trước người từ chối nghe lời của cá nhân cũng như cộng đoàn, Matthêô đã kết luận là xem họ như “người ngoại, người thu thuế (c. 17). Trong đoạn 18:21-35 nầy, Matthêô đặt lại vấn đề “người anh em lỗi phạm” đến mình, nhưng đưa ra một cách giải quyết mới. Đó là tha thứ. Chủ đề nầy được Matthêô trình bày dưới hai hình thức: giáo huấn về sự tha thứ (cc. 21-22) và dụ ngôn về cách Thiên Chúa đối xử với người không tha thứ (23-35). Từ aphiēmi, “tha thứ” và adelphos, “anh em” đóng khung đoạn nầy (cc. 21 và 35).
Giáo huấn của Chúa Giêsu về sự tha thứ (cc. 21-22)
Câu hỏi của Phêrô ngỏ với Chúa Giêsu mở ra chủ đề tha thứ. Với “anh em lỗi phạm đến tôi”, Matthêô muốn nhắc lại vấn đề ở trên (c. 15) và đưa ra một cách giải quyết hoàn toàn khác. Đây không còn là xem người anh em “từ chối nghe lời” ấy như là “người ngoại, người thu thuế” (c. 17), mà tha thứ cho người ấy; tuy nhiên thánh sử không nói gì đến sự hoán cải của người anh em như trong Lc 17:4.
Phêrô đặt câu hỏi với Chúa Giêsu là phải tha thứ bao nhiêu lần, nhưng đồng thời ông cũng đề nghị trước con số bảy lần (c. 21). Trong cựu ước con số bảy gắn liền với tội lỗi và sự tha thứ, như rảy máu bò tơ bảy lần trong ngày Xá Tội (Lv 4:6.14:16); phạt bảy lần vì tội đã phạm (Lv 26:18.24). Như thế, bảy lần là con số tối đa. Tuy nhiên đối với Chúa Giêsu tha thứ là phải không giới hạn. Con số Chúa Giêsu đề nghị, hebbdomēkontakis hepta, có thể đọc hai cách: hoặc là 490 hoặc là 77 lần (x. Stk 4:24). Thật ra điều Chúa Giêsu muốn dạy ở đây là sự tha thứ vô giới hạn, vượt qua cái giới hạn đã thực hành theo truyền thống. Vì thế cách đọc có khác nhau, nhưng đều diễn tả một điều mà thôi.
Vậy khi đặt vấn đề tha thứ, Phêrô đếm bao nhiêu lần, còn Chúa Giêsu nói đến sự tha thứ không tính toán. Sự tha thứ không tính bằng số lượng, mà bằng lòng quãng đại vô hạn. Chính vì điều nầy mà Chúa Giêsu kể dụ ngôn tiếp theo đây.
Dụ ngôn về cách đối xử của Thiên Chúa với người không biết tha thứ (cc. 23-35)
Sau khi giáo huấn về sự tha thứ cho Phêrô, Chúa Giêsu muốn dùng dụ ngôn nầy để minh họa sự tha thứ của Thiên Chúa, như là mẫu gương về sự tha thứ vô biên. Dụ ngôn về Nước Trời nầy gồm dẫn nhập (c. 23a), ba màn: vua và người nợ một vạn nén bạc (cc. 23b-27), người nợ nầy với người đồng liêu mắc nợ (cc. 28-30), vua và người nợ một vạn nén bạc (cc. 31-34); và kết luận (c. 35).
Matthêô hay dùng dia touto, “Về điều nầy”, để chuyển sang một đoạn mới, và điều sắp nói có liên quan đoạn trước (6:25; 12:31; 18:23; 23:34). Matthêô đã đưa ra giáo huấn của Chúa Giêsu về sự tha thứ. Với dụ ngôn nầy, thánh sử không chỉ muốn minh hoạ điều ấy, mà còn ghi nhận thêm nhiều điều khác liên quan đến việc tha thứ. Dụ ngôn nầy được gọi là dụ ngôn về Nước Trời, nghĩa là liên quan đến Thiên Chúa. Câu kết áp dụng dụ ngôn nầy cho Thiên Chúa (c. 35). Hơn nữa, cách dùng “một vị vua” tuy không xác định, rất giống với dụ ngôn tiệc cưới (22:2), chính là Thiên Chúa.
a/ Vị vua với người nợ một vạn nén bạc (cc. 23b-27)
Ở mỗi màn có kết cấu tương tự nhau: tình huống (cc. 23b-25), lời (c. 26), hành động (c. 27). Màn thứ nhất mở đầu với tình cảnh thật khó giải quyết: Vua muốn tính sổ với người đầy tớ (c. 23b), số tiền quá lớn “một vạn nén bạc” (c.24), phải bán cả vợ con và lấy tất cả những gì đang có để trả nợ (c. 25). Số tiền “một vạn nén bạc” có thể ít nhất là 240 tấn bạc, tương đương với 60 triệu đồng bạc, dēnarion; đối lại là chỉ có 100 đồng bạc mà người đồng bạn đã nợ người nầy (x. MARVIN A. POWELL, The Anchor Yale Bible Dictionary, ed. D. N. FREEDMAN, New York - 1996, VI, 907). Món nợ khổng lồ xem ra không thể trả được.
Người nầy đã cầu xin với vua “Xin khoan hồng cho tôi với, tôi sẽ trả” (c. 26). Động từ makrothymeō, là hapax trong Matthêô, có nghĩa là “chậm nổi giận”, “chậm trừng phạt” (Cn 19:11). “Động từ nầy đặc biệt chỉ về Thiên Chúa và liên kết với lòng nhân từ của Ngài. Makrothymia chỉ sự chịu đựng của Thiên Chúa đối với con người, đặc biệt đối với tội nhân. Ngài không trút cơn giận xuống trên họ. Thay vào đó là sự tha thứ và ơn cứu độ, chỉ khi nào họ hoán cải” (EDNT, II, 380). Như thế người mắc nợ nầy nài xin lòng nhân từ của Thiên Chúa đừng nổi giận mà phạt ông ngay, và để cho ông thêm một thời gian nữa.
Đáp lại lời van nài nầy, vị vua chạnh lòng thương. Trong tin mừng Matthêô động từ splanchnizomai đều dùng cho Chúa Giêsu. Động từ mang ý nghĩa thiên sai. Bởi chạnh lòng thương, Chúa Giêsu ra tay thi ân (9:36; 14:14; 15:32; 18:27; 20:34). Sự tha thứ là một trong các đặc điểm của Đấng Thiên Sai. Ngài được sai đến để tha thứ tội lỗi nhân loại. “Vua chạnh lòng thương và thả người nầy ra về và tha nợ cho người nầy” (c. 26). Động từ aphiēmi, “tha tội/nợ”, nghĩa là thả cho người nầy khỏi mọi ràng buộc luật pháp về món nợ đã mắc. Như thế, ở màn đầu nầy Chúa Giêsu đã cho Phêrô thấy ông chủ đã tha cho người mắc nợ nầy một món tiền khổng lồ và không thể trả được; đối lại với con số giới hạn “bảy lần” mà ông đã đề nghị (c. 21).
b/ Người nợ một vạn nén bạc và người đồng liêu (cc. 28-39)
Điểm đáng chú ý trong màn thứ hai nầy là những chênh lệch lớn so với màn thứ nhất. Tình huống ở đây là việc tính sổ giữa hai người tôi tớ của ông chủ; họ ngang hàng với nhau trong địa vị xã hội; doulos và syndoulos (c. 28), số tiền người nầy nợ chỉ một trăm đồng bạc, dēnarion; xem sự chênh lệch đã trình bày ở trên; bóp cổ người nợ và “Trả tiền mầy nợ đây!” Điểm quan trọng hơn là cách hành xử. Người nợ một trăm đồng bạc nầy dùng cũng một lời nài xin mà người trước đã nói với ông chủ: “Xin khoan hồng cho tôi với, tôi sẽ trả” (c. 29). Đáp lại chủ nợ nầy từ chối “ông không chịu” và “bắt bỏ tù cho đến khi trả hết nợ” (c. 30). “Ông không chịu/không muốn”, nghĩa là dùng lý sự mà xét xử người nầy; trong khi ông chủ trên dùng tình yêu mà đối xử, và “bắt bỏ tù” đối nghịch với “thả ra về” và “tha hết nợ” (c. 27). Người nầy giao người nợ mình vào trong ngục tù.
c/ Vị vua với người nợ một trăm nén bạc (cc. 31-34)
Màn ba trở lại với cảnh hai nhân vật chính ban đầu, nhưng tình huống và các hành động khác hẳn màn thứ nhất. Tình huống ở đây là vua biết chuyện người nợ nầy đã đối xử như thế nào với người cùng tôi tớ và vua triệu người nợ ấy đến (cc. 31-32a). Lời trong màn nầy không còn là lời của hai người nợ, mà là lời xét xử của vị vua (c. 32-33), và hành động đáp lại của vua là đối xử với người nợ nầy theo cách anh đã đối xử với người nợ anh một trăm đồng bạc, thậm chí còn nặng hơn (c. 34).
Vua gọi là “người tôi tớ bất lương”, lập lại trong dụ ngôn các nén bạc và dùng cho người tôi tớ không làm theo ý của chủ (25:26). Tương tự, người tôi tớ nầy được gọi là bất lương vì đã không hành động giống như vị vua (c. 32). Lý chứng duy nhất vị vua đưa ra dựa trên món nợ/mắc nợ, opheiletēs (c. 24)/opheilē (c. 32)/ động từ: opheilō (28[2x].30.34). Vua nhắc lại cho người nầy biết món nợ anh đã mắc và đã được tha nợ bởi “chạnh lòng thương” của vua (c. 27); động từ parakaleō, “kêu cầu”, “kêu nài” được dùng trong bối cảnh cầu cứ sự trợ giúp của Thiên Chúa (8:5; 14:36; 18:29.32; 26:53).
Vua dùng sự kiện nầy để đặt vấn đề về cách anh đã đối xử với người nợ anh chỉ một trăm đồng bạc, “Há ngươi không phải thương xót bạn đồng bạn với ngươi sao, nhưng chính ta đã thương xót ngươi?” (c. 33). Câu hỏi đã có sự kiện chứng minh. Động từ eleeō, “rất quan tâm đến người đang thiếu thốn”, “có lòng xót thương/nhân từ/cảm thông”, thay thế cho splanchnizomai (c. 27). Vị vua lấy mình làm chuẩn về lòng xót thương. Và vua xét xử người nợ nầy vì đã không hành động như vua đã đối xử với anh, hōs kagō, “như tôi”. Động từ dei, “phải”, ở thì quá khứ chưa hoàn thành, làm mạnh hơn lời trách “Há ngươi không phải…”. “Phải” thuộc về cả mệnh lệnh và công bằng. Vì người nầy đã không xót thương, mặt trái của mối phúc về lòng thương xót (5:7), nên anh cũng không được xót thương.
Hành động trong màn cuối cùng nầy khác hẳn với những gì vua đã làm cho anh lúc ban đầu (c. 34). Thay vì “chạnh lòng thương”, vua “nổi giận”, orgizomai; Nổi giận thường xảy ra trước hành động tiêu diệt (x. 5:22, 22:7). Thay vì giao cho phylakē, “cai ngục”, như người nợ nầy đã làm cho đồng bạn (c. 30), vị vua nầy giao người nợ nầy cho lý hình, basanistēs. Lý hình không chỉ canh giữ mà còn hành hạ, làm khổ nhục nữa; động từ nầy được dùng nhiều trong sách Khải huyền (9:5; 14:11; 18:7.10.15). Và người nầy phải nằm trong tù cho đến khi trả xong nợ. Cũng một hình phạt người nợ một trăm đồng phải chịu (c. 30), nhưng người nầy vẫn hy vọng có ngày ra khỏi tù hơn người nợ vua. Vì đã không đối xử với người khác tương xứng với lòng thương xót nhận được, người nợ vua phải chịu trở lại hình phạt do món nợ như chưa được tha.
Kết luận của dụ ngôn nói đến cách hành xử của Chúa Cha đối với người không tha thứ (c. 35). Vị vua trong dụ ngôn và cách đối xử của ông đối với người nợ ông (cc. 31-34) được áp dụng cho Thiên Chúa. Sự tha thứ của Thiên Chúa tỉ lệ thuận với sự tha thứ con người làm cho nhau (x. 6:14-15; so sánh với Gia 2:13).
Giáo huấn và dụ ngôn trong đoạn nầy là một lời nhắc nhở mạnh mẽ và sống động rằng không tha thứ là không hành động như Cha trên trời (x. 5:48). “Tha thứ”, “chạnh lòng thương” và “lòng thương xót” luôn đi với nhau. Thiên Chúa muốn điều ấy hơn mọi lễ hy sinh (9:13; 12:7; 23:23) Ngài muốn con người tha thứ cho nhau cách vô giới hạn như Ngài đã làm cho chúng ta.
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
----------------------------------
Tuần vừa qua, theo sau một chiếc xe hơi, tôi nhìn thấy một tấm biển nhỏ : “God may forgive you.: TN24-A91
Tuần vừa qua, theo sau một chiếc xe hơi, tôi nhìn thấy một tấm biển nhỏ : “God may forgive you. I never will.” Ai cũng nhớ ngay tới biến cố 911, một biến cố đã thay đổi cục diện thế giới. Hoa Kỳ đang kỷ niệm biến cố đó với những lắng đọng sâu xa. Tổng thống Bush kêu gọi lòng khoan dung. Phải chăng đó là thái độ đáp ứng lại lời Chúa hôm nay ?
BIẾT ĐIỀU
Đường lối Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan. Chúa nhật tuần trước, Đức Giêsu đã nói đến từng bước giải quyết những vấn đề trong cộng đoàn. Không tôn trọng trình tự khôn ngoan ấy, cộng đoàn có thể xáo trộn. Hôm nay nói đến tương quan giữa cá nhân và cá nhân, Chúa mạc khải giải pháp tuyệt vời : THA THỨ.
Ông Phêrô đã nêu lên khía cạnh tế nhị và phức tạp của sự tha thứ khi thưa với Chúa (x. Mt 18:21). Câu hỏi nhấn mạnh đến số lượng hơn chính việc tha thứ. Bởi đấy, Chúa cũng đáp lại theo chiều hướng ông đặt ra : “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (Mt 18:22) Thực ra, Chúa không nhấn mạnh đến số lượng. “Sự khác biệt giữa đề nghị của ông Phêrô và tuyên bố của Đức Giêsu không phải là vấn đề toán học hay ngữ học, nhưng là bản chất sự tha thứ .” (NIB : vol. viii,380) Thật thế, nếu phải tha thứ vô giới hạn, thì trong dụ ngôn minh họa sau đó, chính tôn chủ cũng không thực hiện nổi. Người đầy tớ mới tái phạm một lần đã bị ông trả đũa đích đáng. Quả thực, xét về số lượng, ông đã không đủ kiên nhẫn. Nhưng nếu xét về sự sai biệt giữa địa vị và số nợ của người đầy tớ với tôn chủ và giữa người đầy tớ vớiø người đồng bạn, mới hiểu Chúa nói về một cái gì vượt trên số lượng. Nếu ý nghĩa chỉ dừng lại ở số lượng, con người có thể lạm dụng lời Chúa gây phiền toái cho anh em và cộng đoàn. Lúc đó, sự thiệt hại sẽ vô lường.
Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II từng nói : “hòa bình thế giới chỉ có thể đặt nền tảng trên “chân lý và công lý mà thôi.” (CWNews 11.9.2002) Thực tế, bình an và hạnh phúc có thể đến với cuộc sống chỉ hoàn toàn dựa trên công lý và chân lý không ?
Nếu dụ ngôn hôm nay dừng lại ở câu phán quyết của tôn chủ, chắc chắn cách hành xử của người đầy tớ đối với đồng bạn chẳng có gì gây nhức nhối. Đó là ý nghĩa của đời thường. Đó là luật công bình. Aên miếng trả miếng. Nhưng như vậy thực sự đã xong chưa ? Đó có phải là giải pháp tốt nhất đem lại sự bình an và hạnh phúc cho gia đình và cộng đoàn không ? Sở dĩ hành động trả đũa của người đầy tớ quá kệch cỡm, vì ai cũng mong đợi một biến chuyển hoàn toàn nơi người đầy tớ. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Chính vì thế, anh trở thành bất công ngay trong hành động có vẻ công bình nhất. Chỉ khi nào hiểu mình là ai trong tương quan với chủ, người đầy tớ mới có thể tạo được mối tương quan mới với người bạn.
Càng thán phục thái độ bao dung của tôn chủ bao nhiêu, càng thấy rõ sự phi lý của tên đầy tớ. Dụ ngôn cho thấy người đầy tớ nợ tôn chủ mười ngàn yến vàng. Trong khi đó, người bạn chỉ mắc nợ anh một trăm quan tiền, tức chỉ bằng 1/600.000 món nợ anh mắc với tôn chủ. Nếu không có một trái tim bao dung, tôn chủ đã không thể tha thứ cho tên đầy tớ một món nợ kếch sù đến thế. Nơi tôn chủ, “thành công không đo bằng chiều kích của sự nghiệp, nhưng bằng lòng bao dung của trái tim.” (Một biểu ngữ trong ngày kỷ niệm đệ nhất chu niên biến cố 9/11) Nhưng tấm lòng bao dung của tôn chủ đã không làm anh thay đổi chút nào. Trái lại, chứng nào tật ấy. Anh vẫn khép kín lòng mình trước lời van xin thống thiết của người bạn.
Bài học hôm nay đòi con người phải có một cái nhìn sâu xa vào chính nguồn ân sủng của Thiên Chúa nơi chính mình. Không có đức tin, không thể biết tại sao phải tha thứ cho anh em. Tha thứ là một điều kiện cần thiết để không bị hụt mất những ân sủng lớn lao. Một tấm lòng bao dung như tôn chủ ở đây không thể nào kiếm thấy trên mặt đất. Bởi thế, khi chép lại dụ ngôn tôn chủ nhân hậu, thánh Mathêu muốn vẽ lên hình ảnh Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Aân sủng Người vượt quá mọi ước tính và trí tưởng tượng. Nếu biết điều, con người phải có một thái độ hợp lý. Cần “phân biệt giữa câu truyện nguyên thủy Đức Giêsu dùng để cống bố Nước Thiên Chúa, và lời giải thích sau này của thánh Mathêu nhằm áp dụng vào đời sống Giáo Hội. Thánh Mathêu đã thêm vào (câu [34] và 35) biến đổi dụ ngôn thành một bài học sống động về sự tha thư ù.” (The New Interpreter’s Bible 1995:381)
THỰC TẾ
Trong cộng đoàn đức tin, tương quan giữa các cá nhân hay bè nhóm luôn nổi lên những vấn đề. Nếu chỉ dựa trên công bình, có khi không giải quyết những mâu thuẫn. Vấn đề không phải là ai thắng ai thua. Ngay cả khi một cá nhân hay bè phái có thắng, thì cả cộng đoàn sẽ thua. Chỉ có một mình Đức Kitô thua cuộc, vì cộng đoàn đã đánh mất phẩm chất của mình. Cộng đoàn không còn đưa ra những chứng từ sống động về Đức Kitô nữa. Mục đích cộng đoàn biến mất.
Giáo hội không loại trừ một ai. Nhưng rất nhiều cộng đoàn đã loại trừ Đức Kitô. Không có tấm lòng khoan dung như Đức Kitô, cộng đoàn chỉ còn là một túi những tranh chấp bất tận. Chỉ còn những đòi hỏi. Những món nợ chồng chất … người ta đòi nhau mọi món nợ, trừ món nợ thương yêu. Nhưng đây mới là món nợ duy nhất chúng ta phải trả cho nhau (xc Rm 13:8).
Trước những xung đột giữa các cộng đoàn lớn trên thế giới hiện nay, Kitô hữu phủi tay đứng nhìn. Bóng tối tràn ngập vì họ đã bị mất năng lực chiếu sáng. Còn lại chỉ là bóng đêm làm mồi ngon cho tội lỗi. Chính trong môi trường thuận lợi đó, khủng bố đã sinh ra. Đứng trước những lo sợ khủng bố hôm nay, nhân kỷ niệm một năm biến cố 9/11, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã mạnh dạn vạch trần âm mưu đen tối : khủng bố “là và mãi mãi là biểu hiện lòng lang dạ thú nơi con người, chính vì thế nó không bao giờ giải quyết được những xung khắc giữa con người.” (CWNews 11.9.2002) Hành động đó phát xuất từ một lòng vô tín. “Không một triết lý hay tôn giáo nào có thế biện minh cho sự sai lầm đó.” (CWNews 11.9.2002) “Thiên Chúa ra lệnh, luật quốc tế chấp nhận, lương tâm con người tuyên bố và sự sống chung hòa bình đòi buộc” (ĐGH Gioan Phaolô II : CWNews 11.9.2002) phải tôn trọng mạng sống con người.
Trước cử tọa khoảng 8.000 người tại hội trường Phaolô VI, Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô II kêu gọi giáo dân cầu nguyện “cho các nạn nhân yên nghỉ, và xin Thiên Chúa ban tràn lòng thương xót và tha thứ cho những người đã tạo nên cuộc tấn công khủng bố khủng khiếp đó.” (Zenit 11.9.2002) Người nhấn mạnh : “Nhờ sự giúp đỡ của mọi người thiện chí, tình yêu có thể thay thế hận thù, khắp mặt đất mọi người sống hòa hợp và liên đới với nhau. Tín đồ mọi tôn giáo nên nhất quyết bác bỏ bất cứ hình thức bạo lực và nguyện thề giải quyết các tranh chấp bằng đường lối đối thoại trong kiên nhẫn và kính trọng nhau.” (CWNews 11.9.2002) Lý do vì “chỉ có lý trí và tình yêu mới là phương tiện giá trị giúp chúng ta vượt qua và giải quyết những khác biệt giữa cá nhân và các dân tộc. Cần phải cùng nhau xây dựng một văn hóa liên đới toàn cầu khiến tuổi trẻ có niềm hi vọng trong tương lai.” (Zenit 11.9.2002)
Không thể sống mãi với quá khứ đen tối. Không thể để bóng ma quá khứ đè bẹp và hủy diệt tương lai nhân loại. Chỉ có tha thứ mới có thể giúp nhân loại viết lại lịch sử và mở ra một chân trời mới cho thế hệ tương lai. Nhưng làm sao có thể tha thứ cho kẻ thù ? Điều đó vô phương đối với con người. Trái lại, “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (Lc 1:37; Gr 32:27) Nhưng Thiên Chúa chỉ hoạt động trong những người tin Chúa mà thôi. Chỉ trong đức tin, Kitô hữu mới có thể đón nhận được tất cả chiều kích vô cùng lớn lao của lòng Thiên Chúa xót thương. Thay vì giáng phạt nhân loại, Người đã để Con Người chết trên Thánh giá. Có cảm nghiệm được lòng thương xót vô biên đó, chúng ta mới biết cách sống quảng đại với anh chị em.
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
-------------------------------
(11-9-2005)
ĐỌC LỜI CHÚA
· Hc 27, 33–28, 9: (1) Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa; tội lỗi nó, Người xem xét từng ly. (2) Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha.
· Rm 14, 7-9: (7) Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. (8) Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa.
· TIN MỪNG: Mt 18, 21-35
Anh em tha thứ cho nhau
(21) Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: «Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?» (22) Đức Giêsu đáp: «Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy».
Dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót
(23) Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. (24) Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. (25) Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. (26) Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: «Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết». (27) Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. (28) Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: «Trả nợ cho tao!» (29) Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: «Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh». (30) Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. (31) Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. (32) Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: «Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, (33) thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?» (34) Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. (35) Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Bạn nghĩ sao về người không chịu tha nợ cho bạn mình một món nợ nhỏ khi cha mẹ của người bạn ấy: TN24-A92
1. Bạn nghĩ sao về người không chịu tha nợ cho bạn mình một món nợ nhỏ khi cha mẹ của người bạn ấy đã tha cho mình một món nợ lớn gấp ngàn lần? Chúng ta có xử sự giống như vậy không khi không chịu tha thứ cho tha nhân chung quanh chúng ta?
2. Tại sao ta lại phải tha thứ mãi như thế? Ta có bao giờ phạm lỗi với ai giống như người đã phạm lỗi với ta không? Lúc đó ta có mong được thông cảm, tha thứ không?
3. Giữ lòng hận thù chứ không chịu tha thứ thì có hại gì cho ta không? Nếu hai đứa bé cứ trả thù nhau bằng cách đánh qua đánh lại thì ai là người bị đau đớn và thiệt hại? Bị đau mà không trả thù thì bị thiệt hại ít hay nhiều hơn trả thù?
Suy tư gợi ý:
1. Phải tha thứ mãi, tha thứ hoài, tha thứ vô giới hạn
Luật Cựu ước chủ trương «mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, vết bỏng đền vết bỏng, vết thương đền vết thương, vết bầm đền vết bầm» (Xh 21,24-25; x. Lv 24,20; Đnl 19,21). Các rabbi Do Thái dạy rằng phải tha thứ cho những người xúc phạm mình, nhưng chỉ ba lần thôi. Phêrô nghĩ rằng Đức Giêsu chủ trương rộng lượng hơn, nghĩa là số lần tha thứ phải đạt tới con số trọn vẹn hay hoàn hảo là 7 (người Do Thái quan niệm số 7 là con số trọn hảo). Nhưng ông không ngờ Ngài đòi hỏi ông tha thứ không giới hạn: «Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy» (Mt 18,22).
Lý do Ngài đưa ra – qua dụ ngôn người đầy tớ mắc nợ mà không biết thương xót – là vì: ta đã từng mắc nợ Thiên Chúa những món nợ lớn lao vô cùng, và Ngài đã tha cho ta. Thế mà tha nhân bên cạnh ta – là hiện thân của Ngài ở bên ta – nợ ta chẳng bao nhiêu, chẳng lẽ ta lại không sẵn sàng tha cho họ? Nếu con của ông chủ ta nợ ta một món tiền nhỏ mà ta cứ nằng nặc đòi trả cho bằng được, trong khi chính ta đã nợ ông chủ gấp triệu lần món tiền ấy và đã được ông tha cho ta tất cả, thì hành động như ta có phải là bất trung bất nghĩa và dại dột vô cùng không? Ta hành động như thế, làm sao ông chủ có thể tiếp tục tha nợ cho ta được? Cũng vậy, nếu ta không tha thứ lỗi lầm cho những người sống chung quanh ta, là những người mà Đức Giêsu đã tự đồng hóa với chính ngài (x. Mt 25,40.45;10,40;18,5; Lc 10,16), thì Thiên Chúa cũng sẽ không tha tội cho chúng ta.
Trong kinh Lạy Cha ta thường đọc nhiều lần mỗi ngày, ta xin Thiên Chúa cứ dựa theo cách ta tha tội cho tha nhân mà tha tội cho ta. Lời kinh này không khéo sẽ trở thành rất bất lợi cho ta, vì nếu ta không quảng đại tha thứ cho tha nhân thì Ngài cũng căn cứ theo cách ấy mà đối xử với ta, vì ta đã cầu xin Ngài như vậy. Ngược lại, nếu lúc nào ta cũng tha thứ cho anh em mình vô điều kiện, không đòi họ phải xin lỗi mới tha, thì Thiên Chúa cũng sẽ tha thứ cho ta cách vô điều kiện như vậy, vì Ngài không thể kém quảng đại hơn ta. Vì thế, sẵn sàng tha thứ cho tha nhân vô điều kiện là một thái độ hết sức khôn ngoan. Khi ta tha thứ cho anh em thật nhiều lần, ta sẽ có thói quen tha thứ, nhân đức tha thứ, nhất là bản tính hay tha thứ, rất ích lợi cho sự phát triển tâm linh, sự bình an và hạnh phúc của ta trong cuộc đời.
2. Tại sao ta nên tha thứ cho tha nhân?
Nếu ta nhận ra mọi sự ta có được đều là hồng ân Chúa ban cho ta, ta sẽ thông cảm với những người nhận được ít ơn Chúa hơn ta. Được ít ơn Chúa hơn ta, đương nhiên họ dễ phạm lầm lỗi hơn ta. Xét lại bản thân, chính ta cũng đã từng phạm lỗi tương tự như vậy với họ hoặc với một ai đó, khi đó ta mong họ thông cảm, tha thứ cho ta. Thử nghĩ xem, nếu ta ở trong tình trạng y như họ: hoàn cảnh éo le ít nhiều buộc họ phải xử tệ với người khác, thêm vào đó là trình độ tâm linh, văn hóa hay khả năng suy nghĩ của họ còn kém, tâm hồn còn yếu đuối, còn nhiều tính ích kỷ chưa vượt thắng được… thì chắc hẳn ta cũng sẽ hành động không khác gì họ.
Người thánh thiện thường rất dễ thông cảm với những người yếu đuối, tội lỗi hơn mình, và chính vì thế họ mới là người thánh thiện. Họ thường nghĩ như Phaolô: «Xưa kia ta cũng ngu xuẩn, không vâng lời, lầm lạc, làm nô lệ cho đủ thứ đam mê và khoái lạc, sống trong gian ác và ganh tị, đáng ghét và ghen ghét lẫn nhau» (Tt 3,3), nên bây giờ họ rất thông cảm với những ai yếu đuối giống như họ xưa kia. – Người cảm thấy mình còn yếu đuối, còn hay lầm lỗi lại càng có lý do mạnh hơn để thông cảm với những người cùng yếu đuối và hay lầm lỗi như mình. Nếu ta hay lầm lỗi mà lại không thể thông cảm được với những người hay lầm lỗi như ta thì ta thật quá ích kỷ và đáng bị trừng phạt biết bao!
3. Tai hại của giận hờn, thù hận
Một lý do rất nhân bản và tự nhiên để ta dễ dàng tha thứ cho tha nhân, đó là khi ta để lòng giận hờn, phiền trách ai, thì tâm hồn ta sẽ nặng trĩu u buồn, bực bội, tức giận. Cảm xúc tiêu cực này khiến ta không thoải mái, máu ta sinh ra nhiều chất độc, lục phủ ngũ tạng của ta cũng bị thương tổn. Nếu ta thường xuyên ở trong tình trạng u uất này, ta dễ sinh ra những bệnh nan y, khó chữa, như cao huyết áp, tiểu đường, ung thư… Khi tha nhân xúc phạm hay làm hại ta, nếu ta buồn giận họ và không tha thứ cho họ, thì chẳng những ta bị thiệt hại hay mất mát vì những gì họ trực tiếp gây ra, mà ta còn tự làm cho chính ta bị thiệt và mất mát nhiều hơn thế bội phần. Do đó cứ nuôi giận hờn mà không chịu tha thứ quả là thiếu khôn ngoan. Nếu ta không tiêu diệt giận hờn thù oán, thì hờn oán sẽ tiêu diệt ta.
Nếu ta tìm cách trả thù người hại ta bằng cách gây đau khổ lại cho họ, thì ta càng tự làm thiệt hại ta bội phần hơn nữa. Khi ta thù hận, ta dễ lâm vào tình trạng mất sáng suốt. Tục ngữ có câu: «cả giận mất khôn». Trong tình trạng mất sáng suốt ấy mà lại muốn gây đau khổ cho người khác, ta rất dễ lâm vào tình trạng phạm pháp, và hậu quả tai hại nhiều khi không lường được. Nhiều người tức giận quá đã đi đến chỗ đả thương hay giết người, để sau đó bị tù tội hay phải sạt nghiệp vì đền mạng. Người bị ta trả thù gây khổ thường là sẽ trả thù lại ta khiến ta còn phải chịu khổ nhiều hơn nữa. Và nếu cứ thế tiếp tục – người trả thù qua, người trả thù lại – thì oán thù sẽ chồng chất, thậm chí đời này sang đời khác. Đức Phật nói: «Lấy oán báo thù, oán thù chồng chất. Lấy đức báo oán, oán tự tiêu tan». Không thể dùng oán thù mà giải quyết được oán thù. Chỉ có tình thương mới tiêu diệt được oán thù mà thôi. Cũng như không thể lấy một cái sai để giải quyết một cái sai khác, vì hai cái sai cộng lại không thể thành cái đúng mà thành cái sai lớn gấp bội. Cái sai chỉ có thể hóa giải bằng những cái thật đúng mà thôi.
Cách trả thù tốt nhất là làm những điều tốt lành nhất cho người hại mình, và chỉ mong cho họ toàn những điều tốt lành, để biến họ thành người tốt hay thành bạn mình. Biến họ thành bạn mình chính là một cách diệt được kẻ thù cách khôn ngoan nhất, trong đó không có ai bị hại, mà ta lại còn có thêm bạn. Đó là cách mà thánh Phaolô đề nghị: «Kẻ thù ngươi có đói, hãy cho nó ăn; có khát, hãy cho nó uống; làm như vậy, ngươi sẽ chất than hồng lên đầu nó. Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác» (Rm 12,20-21). Đó cũng là thực hành điều Đức Giêsu dạy: «Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em» (Lc 6,27).
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu đã dạy con phải yêu thương cả kẻ thù huống gì những người anh em có lỗi với con. Vì tình yêu đích thực đòi hỏi con phải sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người đã xúc phạm đến con. Chính con cũng đã biết bao lần lầm lỗi, xúc phạm đến tha nhân và đã từng được họ quảng đại tha thứ. Xin cho con thật sự nhận ra những giới hạn, yếu đuối và lầm lỗi của chính mình, để dễ dàng thông cảm và tha thứ cho giới hạn, yếu đuối và lầm lỗi của người khác.
Joan Nguyễn Chính Kết
----------------------------------
(Mát-thêu 18: 21-35)
Đời sống cộng đoàn luôn có những vấn đề. Những va chạm, đụng độ thường gây nên chia rẽ nhiều: TN24-A93
Đời sống cộng đoàn luôn có những vấn đề. Những va chạm, đụng độ thường gây nên chia rẽ nhiều khi tới mức độ trầm trọng. Giáo Hội tuy thánh thiện, nhưng vẫn là một tổ chức gồm những thành phần bất toàn cố gắng đáp lại lời gọi nên thánh. Mọi phần tử nhìn lên Chúa Giê-su như gương mẫu để thay đổi cuộc sống mình. Nếu việc sửa lỗi anh em là việc làm tích cực và cần thiết để xây dựng cộng đoàn Ki-tô cũng như đức ái là nền móng cho việc sửa lỗi, thì việc tha thứ cho nhau cũng quan trọng không kém. Có lẽ nhận định tầm quan trọng của việc tha thứ cho nhau, thánh sử Mát-thêu đã đặt lời dạy của Chúa Giê-su về sự tha thứ vào một khung cảnh có bố cục chặt chẽ: ông Phê-rô đặt vấn đề; Chúa Giê-su trả lời với chỉ thị và một dụ ngôn để làm sáng tỏ vấn đề; cuối cùng là kết luận thực hành.
a) Giáo Hội và việc tha thứ
Khi ông Phê-rô đến với Chúa và đặt câu hỏi về vấn đề tha thứ, thì không phải ông chỉ đến với tính cách cá nhân, nhưng là thay mặt cho anh em Tông đồ và cho toàn thể Giáo Hội. Vấn đề được nêu lên cũng rất rõ ràng, đó là “nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần?” Nói khác đi, chúng ta là người bị người khác xúc phạm, vậy chúng ta phải tha thứ cho họ bao nhiêu lần. Như thế, khi Chúa Giê-su trả lời cho ông Phê-rô về giới hạn của tha thứ là Người trả lời cho mọi thành phần thuộc Giáo Hội của Người, để theo cùng một mẫu mực mà thực hành trong cuộc sống.
Đặt câu hỏi về tha thứ bao nhiêu lần, ông Phê-rô đã lấy lòng quảng đại của ông để làm thước đo, tức là bảy lần. Các ráp-bi thời xưa đưa ra con số ba lần. Như vậy là ông Phê-rô còn rộng rãi hơn cả các ráp-bi nữa. Có lẽ sau một thời gian cùng đi với Chúa, ông Phê-rô đã được chứng kiến lòng quảng đại tha thứ của Chúa Giê-su và đã học được một phần nào nơi Chúa nên ông tiến xa hơn các ráp-bi quá gấp đôi. Nhưng đó có phải là giới hạn tha thứ mà Chúa Giê-su chấp nhận không? Câu trả lời của Chúa cho Phê-rô quả thực bất ngờ. “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. Dĩ nhiên, ta phải hiểu cách nói của Chúa. Người không muốn lòng tha thứ bị giới hạn và lệ thuộc vào những con số. Bảy mươi lần bảy chỉ có nghĩa là vô hạn.
Giáo Hội của Chúa Giê-su phải vượt trên khuôn mẫu giáo hội Do-thái giáo trong Cựu Ước, phải thay thế những bất toàn để trở nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện. Vậy nếu chỉ tha thứ ba lần, bảy lần hay hơn nữa thì vẫn còn là bị giới hạn. Lòng tha thứ của ta phải giống như lòng tha thứ của Thiên Chúa, nghĩa là vô hạn.
b) Lòng thương xót và rộng lòng thứ tha của Thiên Chúa
Tại sao Chúa Giê-su nói thêm một dụ ngôn sau khi chỉ thị cho Phê-rô và mọi Ki-tô hữu phải tha thứ không giới hạn? Dụ ngôn nói về một tên đầy tớ mắc nợ không biết thương xót. Tuy nhiên ta cũng có thể hiểu dụ ngôn gián tiếp nói đến lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.
Có lẽ sau lúc Chúa Giê-su nói với ông Phê-rô: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”, ông Phê-rô và các bạn đã vô cùng ngạc nhiên hỏi Chúa: Tại sao lại nhiều lần như thế? Tại sao lại phải tha thứ không giới hạn như vậy? Để trả lời tại sao, Chúa đã dùng một câu truyện để cho họ thấy hai thái độ khác biệt giữa con người và Thiên Chúa: Thiên Chúa nhân từ quảng đại và sẵn sàng tha thứ cho ta, còn ta thì chẳng sẵn sàng tha thứ cho anh chị em. Món nợ tên đầy tớ không biết thương xót mắc nợ ông vua là một biểu tượng nói lên mức độ xúc phạm của ta đối với Thiên Chúa. Cho dù ta có làm mọi sự với tất cả những gì ta có cũng không đủ để đền bù xúc phạm ấy. Vậy mà Thiên Chúa sẵn sàng tha nợ cho ta. Cho nên lòng thương xót bao la và rộng lòng thứ tha của Thiên Chúa đã trở nên lý do chính để ta phải tha thứ cho anh chị em không giới hạn. Nếu ta chỉ tha thứ vì anh chị em xin lỗi ta, hoặc vì ta muốn tỏ ra cao thượng và nhân đức, thì đó chỉ là những lý do phụ thuộc mà thôi và sự tha thứ ấy sẽ bị giới hạn. Nhưng Chúa Giê-su muốn chúng ta hãy bắt chước Cha Người, lấy lòng nhân từ thương xót mà tha thứ cho anh chị em.
c) Tha thứ trong đời sống Ki-tô hữu
Chương 18 Tin Mừng Mát-thêu là cả một bài giảng về Giáo Hội, nêu lên những quy luật liên hệ tới đời sống cộng đoàn. Giữa những quy luật ấy, việc tha thứ cho nhau được đặt sau hết. Sau hết, nhưng lại khó hơn hết và quan trong không kém những điều khác. Thực vậy, sự tha thứ là điều khó thực hiện nhất vì nó trái với bản chất của con người đã bị tội tổ tông làm suy đồi. Lý lẽ “mắt đền mắt, răng thế răng” đã trở thành quy luật thường tình và sự công bằng được đặt làm nền móng cho quy luật ấy. Giờ đây, Chúa Ki-tô đến để kiện toàn Lề Luật, thay đổi lý lẽ thường tình ấy bằng quy luật yêu thương. Tha thứ không phải là hoa trái của công bằng, nhưng là hoa trái của yêu thương. Lòng thương xót và tha thứ mà Chúa đối xử với ta đã trở nên lý do và nền tảng để ta phải sẵn sàng tha thứ cho anh chị em. Tình yêu đích thực bao giờ cũng giữ vai trò tích cực, nghĩa là đi trước, đến với kẻ xúc phạm, chứ không ngồi chờ kẻ xúc phạm đến với ta. Tình yêu đích thực cũng không đặt điều kiện này nọ để mà tha thứ. Đó là lối đối xử của Thiên Chúa khi Người sai Con Một xuống trần gian để tỏ ra cho con người biết lòng thương xót và thứ tha của Người. Người đã dùng cái chết nhục nhã của Chúa Giê-su để xóa tội loài người.
Suy nghĩ thì có vẻ dễ dàng và quá quen thuộc rồi. Nhưng đem thực hành trong cuộc sống lại là chuyện khác. Ta thắc mắt tại sao khó như vậy. Nói đi nói lại, chẳng qua tại vì ta chưa yêu mến Chúa Giê-su đủ để kết hiệp và yêu mến Người. Càng yêu mến, ta càng dễ bắt chước người mình yêu.
Tập tha thứ là công việc ta phải làm hằng ngày. Đừng lo không có dịp tập tha thứ! Chỉ sợ bài tập nhiều quá thôi! Ta tập tha thứ trong những điều nhỏ trước: một lời nói thiếu tế nhị, một cử chỉ vô ý... Đôi khi ta phải đối phó với những xúc phạm lớn hơn: một lời nói xấu, chửi mắng, làm mất thể diện của ta... Từ việc nhỏ đến việc lớn, ta cứ lấy thước đo của lòng thương xót Chúa dành cho ta để đo lường những xúc phạm của anh chị em làm cho ta, ta sẽ thấy chẳng thấm tháp gì. Nhưng tha thứ mà không cầu nguyện, ta sẽ khó quên được xúc phạm của anh chị em. Khi ấy, quy luật “tha mà không quên” sẽ ngự trị trong tim ta và bảo ta rằng như thế là đúng! Ta đọc trong lời kinh: Nếu Chúa chấp tội, nhớ tội ta phạm, nào ai sống nổi!” Vậy thì ta cũng đừng nhớ và phải quên đi lỗi lầm của anh chị em, để anh chị em ta sống chứ.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tha thứ là một kinh nghiệm sâu xa. Trong đời, đã có lần nào tôi tha thứ cho người khác xúc phạm đến tôi thật nặng nề chưa? Tôi cảm nghiệm được những gì sau khi hoàn toàn tha thứ?
Trong gia đình tôi, trong cộng đoàn tôi, còn có ai tôi phải tha thứ hết lòng không? Tôi sẽ làm gì để bắt đầu cho công việc khó khăn này?
“Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết những gì họ làm!” Lời cầu nguyện này của Chúa Giê-su dạy tôi điều gì? Làm thế nào sống lời nguyện này?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trong kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên lời Chúa noi:
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.”
- Trích trong PRIER
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 112)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
10-9-2005
-------------------------------
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: Rô-ma 14: 7-9
Chọn một vài câu để tóm kết nội dung của thư gửi tín hữu Rô-ma quả thực là một việc khó vô cùng: TN24-A94
Chọn một vài câu để tóm kết nội dung của thư gửi tín hữu Rô-ma quả thực là một việc khó vô cùng. Thư Rô-ma được coi như một khảo luận thần học về ơn cứu độ. Nhờ và trong Ðức Ki-tô, tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa đã thực hiện một kế hoạch cứu chuộc con người. Ðể đáp trả tình yêu ấy, con người được mời gọi hãy sống đời sống mới, lấy cuộc sống của Ðức Ki-tô làm mẫu mực và sống theo Thần Khí của Thiên Chúa nơi Ðức Ki-tô. Phụng vụ Lời Chúa đã làm công việc tóm kết ấy qua bài đọc Tân Ước hôm nay để kết thúc loạt suy niệm về thư gửi tín hữu Rô-ma. Vỏn vẹn với ba câu, bài đọc đã khẳng định vai trò của Chúa Ki-tô đối với chúng ta và đòi chúng ta phải xét lại ý nghĩa đích thực của cuộc đời.
a) Ðức Ki-tô là tất cả
Ðức Ki-tô là ai đối với chúng ta? Người đã làm gì cho chúng ta? Trả lời hai câu hỏi thiết yếu này, thánh Phao-lô đã gồm tóm tất cả suy tư thần học của ngài về Ðức Ki-tô trong khẳng định này:
"Vì Ðức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết" (Rm 14:9).
Ðối với chúng ta, Ðức Ki-tô là Chúa, là Chủ tể. Ðức Ki-tô đã được Thiên Chúa tôn vinh làm Ðức Chúa. Trong bài giảng đầu tiên cho dân chúng Giê-ru-sa-lem và được đầy tràn Thánh Thần, Phê-rô đã hùng hồn tuyên xưng: "Vậy toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Ðức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, thì Thiên Chúa đã đặt Người làm Ðức Chúa và làm Ðấng Ki-tô" (Cv 2:36). Thánh Phao-lô lập lại điều ấy ở đây và xác định rõ hơn quan hệ giữa Ðức Ki-tô và nhân loại. Ðức Ki-tô làm Chúa kẻ sống, tức là Chúa của những ai tin vào Người và sống theo Luật của Người (sống theo Thần Khí). Người cũng làm Chúa kẻ chết, nghĩa là Chúa của cả những kẻ không tin Người và không sống theo điều Người dạy. Như thế rõ ràng vai trò của Ðức Ki-tô là Người đã được Thiên Chúa đặt làm Ðấng xét xử toàn thể nhân loại trong ngày sau hết.
Nhưng Ðức Ki-tô đã làm gì cho chúng ta? Chính Người đã nói lên mục đích việc Người đến với chúng ta: "Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào" (Ga 10:10). Ðể cho chúng ta được sống và sống dồi dào, Người đã chết và đã sống lại. Người đã chết là để giúp chúng ta chết đi "con người cũ" của chúng ta và Người đã sống lại là để chúng ta được chia sẻ với Người trong sự sống mới.
Hiểu được ý nghĩa của Mầu nhiệm Chúa Ki-tô, chúng ta mới thấy là vô cùng thích hợp khi tuyên xưng sau Truyền phép: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết, và tuyên xưng Chúa đã sống lại, cho tới khi Chúa lại đến."
b) Sống chết cho Chúa và cho tha nhân
Thánh Phao-lô đã tóm kết cuộc đời và sứ mệnh của Ðức Ki-tô qua một hình ảnh vô cùng sống động: Người là Chúa đã chết và sống lại để hoàn toàn thuộc về chúng ta. Dựa theo gương mẫu ấy, thánh Phao-lô muốn rút ra một bài học luân lý nói lên ý nghĩa đích thực của cuộc đời chúng ta. Dù sống hay chết, chúng ta cũng phải thuộc về Chúa và thuộc về anh chị em.
Xã hội hôm nay cổ võ con người hãy làm chủ cuộc sống của mình. Tôi muốn phá thai, đó là quyền của tôi. Tôi muốn gây chiến tranh cũng là quyền của tôi. Tôi cho rằng điều này tốt, điều kia xấu, đó là quyền "lương tâm" của tôi... Ðức Ki-tô đã bị người ta loại ra khỏi cuộc sống của họ. Ðức Ki-tô đã trở thành một thứ "kỳ đà cản mũi" đối với nhiều người. Nhiều người không muốn "thuộc về" Ðức Ki-tô để họ được "tự do." Nhưng thực ra cái "tự do" họ đang kiếm lại là thứ "nô lệ" cho dục vọng và những yếu đuối của xác thịt.
Cho nên thánh Phao-lô muốn thức tỉnh chúng ta: "Dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa Ki-tô." Ðó là một kết luận tất nhiên. Nếu Ðức Ki-tô đã sống cho chúng ta và đã chết cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải sống chết cho Người và cho anh chị em của Người cũng là anh chị em của chúng ta. Không ai là một hòn đảo. Mỗi người là một chi thể trong Thân Thể mầu nhiệm của Ðức Ki-tô. Ý thức sự liên đới giữa Chúa Ki-tô với chúng ta và giữa chúng ta với nhau, đồng thời ý thức sự yếu đuối con người nơi chúng ta và nơi anh chị em, chúng ta cùng với Ðức Ki-tô và cùng với nhau đồng hành trở về nhà Cha, để cất lời vinh tụng:
"Vinh danh Thiên Chúa,
Ðấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh
theo Tin Mừng tôi loan báo,
khi rao giảng Ðức Giê-su Ki-tô.
Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa
nhưng nay được biểu lộ
như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh.
Theo lệnh của Thiên Chúa, Ðấng hằng có đời đời,
mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết,
để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa.
Chỉ mình Thiên Chúa là Ðấng khôn ngoan thượng trí.
Kính dâng Người mọi vinh quang
đến muôn thuở muôn đời,
nhờ Ðức Giê-su Ki-tô. A-men. (Rm 16:25-27)
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Tôi đã sống chết cho Chúa và cho anh chị em như thế nào? Trong những gì?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm lập lại bài Vinh tụng ca ở trên.
Lm. Ðaminh Trần Ðình Nhi
----------------------------------
Ðiều kiện của Ðức Giê-su nêu ra trong đoạn Tin Mừng hôm nay : "Nếu mỗi người trong anh em: TN24-A95
Ðiều kiện của Ðức Giê-su nêu ra trong đoạn Tin Mừng hôm nay : "Nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình" xem ra thật khó thi hành trong cuộc sống dù trên bình diện cá nhân hay bình diện xã hội. Thảm họa 11/9/2001 kéo theo bao thảm họa từ 1 năm qua, và rõ ràng đang là đi tới những cuộc thảm sát rộng lớn hơn. Con người không thể hết lòng tha thứ cho anh em mình. Thế nhưng Lời Chúa không kém phần rõ ràng và dứt khoát "Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính Ta đã thương xót ngươi sao?"
Ngay trong bối cảnh một xã hội mà Luật Pháp đạo cũng như đời đều dựa trên nguyên lý "Răng đền răng, mắt đền mắt" thì Lời Chúa vẫn không ngớt mời gọi con người :
Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn. Hãy nhớ đến các điều răn mà đừng oán hờn kẻ khác, nhớ đến giao ước của Ðấng Tối Cao mà không chấp nhất điều lầm lỗi.
Và còn lời nào mạnh mẽ và nghiêm khắc hơn những lời Ðức Huấn Ca vừa công bố:
Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm, về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài. Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Ðức Chúa, tội lỗi nó, Người xem xét từng ly.
Muốn hiểu và lãnh nhận giáo huấn của Lời Chúa, theo Chúa Giê-su, trước hết phải đặt mình vào trong viễn tượng "Nước Trời". Trong viễn tượng đó theo Phao-lô "không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa." Chỉ khi "dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa" khi đó chúng ta mới có khả năng để "bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác", và tha thứ như Chúa đòi hỏi.
Viễn tương "Nước Trời" không còn là điều gì xa lạ với nhân loại, cách riêng với người Ki-tô hữu, vì viễn tượng ấy đã được mở toang cho hết mọi người trong mầu nhiệm đời sống của một con người : Ðức Giê-su Ki-tô. Và rõ ràng, ngay từ lúc mới chì là bào thai trong lòng Mẹ, Ðức Giê-su đã chứng thực sự sống nơi Ngài chính là "sự tha thứ tội khiên", khi thánh hóa và thánh hiến Gio-an cho sứ vụ rao giảng và làm Phép Rửa "sám hối" . Chính Giacaria cha của Gio-an cũng đã khẳng định về sứ vụ con mình : "Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Ðấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên." Thế rồi, ngày giáng sinh, theo diễn tả của các Tin Mừng thời thơ ấu cho thấy đúng là ngày hội giao hòa. Tề tựu bên máng cỏ của Ðức Giê-su đủ đại diện mọi thành phần đã bị khai trừ khỏi mọi cộng đoàn dân sự cũng như tôn giáo : các mục đồng, các đạo sỹ phương đông, tất cả họ được tham dự vào niềm vui và bình an của đất-trời. Chính vì sứ vụ tha thứ và giao hòa ấy, Người trở thành người "ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi", để rồi phải lãnh án tử như những tội nhân của hàng nô lệ gian ác. Thánh Phao-lô đã viết về cái chết của Người như sau "Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét...Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người. Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an...". Và thánh nhân đã đi tới kết luận "nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thánh Thần duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.". Phải, chính là nhờ được liên kết trong cùng Thánh Thần duy nhất của Ðức Ki-tô, mà những môn đệ đích thực của Người, như Phao-lô, như Phan-xi-cô dassisie, như Gioan XXIII, như mẹ Te-rê-xa Calcutta, như Gioan-Phao-lô II trờ thành những sứ giả hòa bình cho thế giới.
Chính sự thông hiệp vào hiến tế tình yêu tha thứ và giao hòa đã ban cho người Ki-tô hữu sức mạnh của lòng thương xót thứ tha và giảng hòa của chính Ðức Ki-tô. Chính từ bàn thánh này Thánh Thần Thiên Chúa yêu thương được cảm nghiệm, được đón nhận, được tôn vinh "để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét" trong chính lòng người tín hữu, để sai họ ra đi kiến tạo một thế giới an bình vậy.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
----------------------------------
Ngày 15/9
Mt 18,21-35
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Yêu người sẽ gặp Chúa và yêu Chúa sẽ gặp người. Ðức tin Kitô giáo dậy ta như thế."Hãy khiêm tốn: TN24-A96
Yêu người sẽ gặp Chúa và yêu Chúa sẽ gặp người. Ðức tin Kitô giáo dậy ta như thế."Hãy khiêm tốn để biết cám ơn người chỉ cho bạn biết bạn sai lầm "( Mỗi ngày một niềm vui,số 150,năm 2000)."Hãy luôn là người anh em,là người bạn ngay trong lúc sửa phạt,vì những lời nói và âm giọng có ý nghĩa rất nhiều "( Mỗi ngày một niềm vui ,số 146 ).Chỉ trích thì dễ mà tế nhị sửa bảo lại là chuyện khó .Tuy nhiên, phụng vụ Lời Chúa sáng nay dậy các môn đệ và mọi người chúng ta phải vượt lên trên tất cả trở ngại để cảm thông và tha thứ cho anh em.
CỘNG ÐOÀN HIỆP THÔNG LÀ CỘNG ÐOÀN CÓ CHÚA
Chúa Giêsu đã từng nói:" Nơi đâu có hai,ba người tụ họp nhân danh Ngài mà cầu nguyện,thì Chúa sẽ hiện diện ". Xem ra Chúa Giêsu luôn yêu thương sự họp mặt của nhiều người và vài người nhân danh Ngài trong tình thương. Nhóm nhỏ, cộng đoàn hay nói cách khác Giáo Hội là nơi Chúa Giêsu hiện diện và qui tụ để ban tình thương. Chúa tụ họp con người để ban ánh sáng,niềm vui và hạnh phúc cho con người . Nơi nào con người tụ họp nhân danh Chúa và sống trong tình huynh đệ bác ái, yêu thương, nơi đó có Chúa hiện diện và chúc lành.Cộng đoàn tiên khởi là cộng đoàn sống yêu thương hiệp nhất, tất cả mọi sự đều để làm của chung,ân cần cầu nguyện và chia sẻ bánh trong tình huynh đệ mặn nồng .Mẫu của cộng đoàn tiên khởi phải là gương cho mọi cộng đoàn của Chúa ở trần gian này.
CỘNG ÐOÀN CÓ TRÁCH NHIỆM SỬA LỖI ANH EM
Lời Chúa sáng nay nhấn mạnh về việc sửa lỗi nhau trong cộng đoàn .Sống trong một thế giới văn minh,người ta có khuynh hướng xa dần Thiên Chúa .Ðã xa Thiên Chúa,con người chối bỏ tình thương,không có tình thương đích thực,nên việc nhắc nhở nhau , sửa lỗi cho nhau quả thực là điều khó khăn đối với con người, đối với việc chấp nhận sửa lỗi nhau.Ðàng khác có người nại vào lời Chúa :"Ðấng xét xử tôi,chính là Chúa "( Co 4,4 ).Họ cho rằng chỉ có mình Chúa mới có quyền chỉ bảo,nhắc nhớ và tha thứ lỗi lầm mà thôi,còn con người với nhau không có quyền làm quan xét cho nhau. Tuy nhiên, nếu con người gắn bó với Chúa,mang Chúa ở trong lòng thì vấn đề nhắc nhở nhau, động viên nhau sốnng thánh, sống tốt là bổn phận và trách nhiệm phải làm.Sửa lỗi nhau cần phải khiêm nhượng,tế nhị,cần phải biết phỏng đoán tâm lý người phạm lỗi để biết nên nói gì, và nên không nói gì :" Khám phá ra thiếu sót của mình là điều khó nhất.Còn nhìn thấy những thiếu sót của người khác lại là điều dễ nhất."(Mỗi ngày một niềm vui số 142 ) và "Hãy luôn gìn giữ sự thanh tĩnh.Ðó là điều tuyệt hảo chứng tỏ tinh thần bạn luôn vững mạnh và quân bình."( Mỗi ngày một niềm vui, số 143 ).Người phạm lỗi cũng phải chóng vánh nhận ra tiếng Chúa đang nói qua người khác để giúp đỡ mình. Vì thế, khi có người anh em lỗi phạm trong cộng đoàn, việc đầu tiên là nhắc nhở người đó. Nếu họ không nghe người bạn nhắc nhở mình thì hãy nhờ cộng đoàn nhắc nhở .Nếu người ấy không nghe cộng đoàn thì vị trách nhiệm sẽ phán quyết để loại trừ, sửa phạt nặng nề hầu giữ lại hòa khí và sự trong sáng,an bình cho cộng đoàn mình. Chúa nói với Phêrô:" Khi anh em con lỗi phạm,con phải tha thứ đến 70 lần bảy, nghĩa là tha thứ mãi mãi và tha thứ không ngừng ).
VẪN LÀ CON ÐƯỜNG PHẢI CHỌN LỰA
Ðường phải chọn là con đường hẹp, đường thập giá để theo Chúa Giêsu. Chấp nhận thập giá có nghĩa là chấp nhận sự khó khăn, chấp nhận cái nghịch lý của sự bình thường ở trần thế để sống cái điên rồ của thập giá Chúa Kitô.Sửa lỗi anh em quả thực khó,nhưng nếu đã chấp nhận theo chúa, người môn đệ Chúa Kitô luôn noi theo Thầy mình để làm những sự trái ý với quan niệm người đời .
GỢI Ý CHIA SẺ
1.Anh chị đã thành tâm giúp một người trong cộng đoàn, trong xóm giáo,trong giáo họ của mình sửa lỗi ?
2.Anh chị đã gặp những gì khó khăn khi phải sửa lỗi anh em ?
3.Bạn nghĩ gì về thiếu sót của mình ?
----------------------------------
Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu đã dùng nhiều câu chuyện để xác quyết rằng: Thiên TN24-A97 Lương
Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu đã dùng nhiều câu chuyện để xác quyết rằng: Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không. Đúng thế, khi người con hoang đàng đang kéo lê những bước chân mệt mỏi trở về, thì cha cậu, thoạt nhìn thấy, đã vội chạy tới, ôm choàng lấy cậu mà hôn, rồi lại còn truyền cho gia nhân đem áo cho cậu mặc, nhẫn cho cậu đeo, giày cho cậu đi, rồi giết con bê báo mở tiệc ăn mừng. Người cha đã tha thứ cho cậu một cách nhưng không.
Cũng thế qua đoạn Tin Mừng chiều hôm nay, tên đầy tớ mắc nợ ông chủ một món nợ khổng lồ. Hắn không có gì để trả. Thế nhưng ông chủ đã xoá bỏ tất cả cho hắn, để hắn được tự do trở về gia đình. Ông chủ đã tha cho hắn một cách nhưng không.
Trong cuộc sống của Chúa Giêsu, chúng ta cũng thấy Ngài đã tha thứ rất nhiều lần. Ngài đã tha thứ cho Madalena, cho người thiếu phụ ngoại tình, cho Phêrô và cho tên trộm vào những giây phút cuối cùng trên thập giá.
Tuy nhiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta một điều kiện rất nhỏ mọn đó là chúng ta cũng phải biết tha thứ cho nhau. Trong kinh Lạy Cha, chúng ta vốn thường đọc: Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Trong câu chuyện hôm nay chúng ta thấy ông chủ đã xử trí như thế nào đối với tên đầy tớ độc ác? Vì hắn không tha cho bạn hắn món nợ cỏn con là 100 đồng, lại còn tống giam người bạn khổ sở ấy. Thì bây giờ ông chủ cũng sẽ đối xử với hắn như thế, nghĩa là tống hắn vào ngục cho đến khi trả xong món nợ kếch xù ấy. Và Chúa Giêsu đã kết luận: Thiên Chúa cũng sẽ đối xử với các ngươi như thế nếu các ngươi không biết tha thứ cho nhau. Nếu chúng ta không biết tỏ ra khoan dung tha thứ cho người khác, thì chúng ta sẽ chẳng được hưởng nhờ lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa.
Trong cuộc nội chiến xảy ra tại Tây Ban Nha vào năm 1936, có một vị linh mục bị bắt và bị tống giam. Trước khi ra mặt trận, đoàn quân muốn giết tất cả những tù binh mà họ giam giữ. Thế là một tốp lính được lệnh giải ngài tới một nghĩa trang để xử bắn. Thế nhưng trước khi hành quyết, ngài đã xin một đặc ân cuối cùng đó là được ôm hôn tất cả tốp lính sẽ bắn ngài. Hành vi này muốn nói lên một sự chân thành tha thứ, khiến cho một tên lính đã xúc động và sau này anh ta đã trở về với Giáo Hội. Cũng như Chúa Giêsu, trên thập giá Ngài đã tha thứ cho tất cả bọn lý hình đã nhúng tay vào máu Ngài: Lạy Cha xin Cha tha cho chúng vì chúng chẳng biết việc chúng làm.
Hãy tha thứ cho nhau để rồi Thiên Chúa mới sẽ tha thứ cho chúng ta.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một cậu bé hỏi cha: Tại sao bút chì có tẩy? Người cha ôn tồn trả lời: để xóa đi những chữ viết sai, TN24-A98
Có một cậu bé hỏi cha: Tại sao bút chì có tẩy?
Người cha ôn tồn trả lời: để xóa đi những chữ viết sai, viết chưa đẹp hoặc để xóa đi những gì không đúng trên trang viết!
Quả thực, cục tẩy thật cần thiết. Nếu không có nó thì trên trang giấy sẽ bề bộn những gạch xóa lem luốc. Cục tẩy sẽ làm mới lại những gì đã viết lên trang giấy không đúng. Cục tẩy sẽ chỉnh lại những lỗi viết sai hay ẩu thả của chủ nhân.
Cuộc đời con người cũng cần có một cục tẩy. Một cục tẩy của lòng bao dung và sự tha thứ. Một cục tẩy có khả năng xóa đi những sai lầm của người khác và của chính bản thân ta! Nếu cuộc đời chúng ta không dám sử dụng cục tẩy để xóa đi những bất hòa ghen tương, những hận thú tranh chấp, những lỗi lầm tội lỗi sẽ làm cho những trang giấy cuộc đời nhem nhuốc những dòng gạch và xóa! Muốn cuộc đời mình đẹp thì phải biết xóa đi những gì không đúng, không đẹp để trang giấy cuộc đời rạng rỡ hơn. Nhưng đáng tiếc, có rất nhiều người cho tới lúc tuổi già vẫn để cục tẩy của mình còn nguyên vẹn vì chúng ta ít can đảm xóa đi những hận thù.
Có một lần sau khi giảng về lòng bao dung tha thứ, vị linh mục hỏi các giáo dân của mình ai sẽ sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù. Khoảng một nửa trong số họ giơ tay lên. Chưa hài lòng, ông giảng thêm 20 phút nữa và hỏi lại câu hỏi cũ. 80% giáo dân giơ tay. Vẫn chưa hài lòng, ông giảng thêm 15 phút nữa và lặp lại câu hỏi trên. Nôn nóng về bữa ăn trưa tuyệt vời của ngày chủ nhật, tất cả giáo dân đều đưa tay lên trừ một ông lão.
- Ông Jones, ông không sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù à?
- Tôi không có kẻ thù nào.
- Thật lạ lùng. Thế ông bao nhiêu tuổi rồi?
- 86.
- Ông Jones này, ông hãy vui lòng lên đây và cho mọi người biết bí quyết để một người sống đến 86 tuổi mà không có một kẻ thù nào cả.
Ông lão bước lên phía trước rồi từ từ quay lại:
- Dễ ợt. Chẳng qua là tôi sống lâu hơn chúng nó thôi
Hôm nay Chúa bảo chúng ta phải tha thứ cho nhau không phải là bảy lần mà là bảy mươi lần bảy, nghĩa là rất nhiều và mãi mãi. Nếu chúng ta không tha thứ nghĩa là chúng ta vẫn để cục tẩy còn nguyên vẹn, đó là lý do khi nhìn vào trang giấy cuộc đời mình thì lắm lem luốt bởi hận thù chua cay. Con người chúng ta “nhân vô thập toàn”. Chúng ta lớn lên trong sự tha thứ của người khác thì chính chúng ta cũng phải học tha thứ cho tha nhân. Thế nên, hãy sống bao dung. Hãy biết tha thứ để cục tẩy của chúng ta mòn dần theo năm tháng, đừng bao giờ để cực tẩy của mình ở mãi trong kho. Bởi vì nếu không sử dụng đến nó cuộc đời của chúng ta sẽ chi chít những vết gạch xóa sau những lần mắc sai lầm! Một tờ giấy như vậy chắc chẳng có gì tốt đẹp phải không?
Chúa Giêsu dạy ta biết tha thứ. Ngài đã sống điều đó. Ngài luôn cảm thông với những lầm lỗi của tha nhân. Ngài dùng tình thương tha thứ để sửa lại lỗi lầm con người. Tình thương ấy Ngài đã mang lại cuộc đời mới cho Gia-kêu, cho Ma-da-lê-na, cho Phao-lô... Ngài đã dùng cục tẩy của sự tha thứ một cách quảng đại. Ngài đã xóa đi những vết nhơ tỗi lỗi của con người. Ngài đã xóa đi những bụi đời trong thân phận yếu đuối của con người. Ngài đã đi đến tận cùng của sự tha thứ là tha cho kẻ đã hành hạ và kết án Ngài.
Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống tình thương tha thứ. Tha thứ để sửa đổi anh em. Tha thứ để xóa đi những vết hận thù trong lòng chúng ta. Tha thứ để ta nên hoàn thiện hơn như Cha là Đấng hoàn thiện luôn cho mưa thuận gió hòa trên mọi người.
Tuy nhiên, tha thứ để rồi cũng biết nhìn nhận tội lỗi của bản thân. Không phải bao giờ mình cũng đúng mà có khi chính chúng ta là kẻ gây ra đau khổ cho tha nhân, thế nên, trong nhiều trường hợp chính chúng ta là người cần đến sự tha thứ của người khác.
Có một câu chuyện kể rằng:
A nói với B: "Khu nhà tôi vừa dọn về một ông hàng xóm bất lịch sự. Tối hôm qua, đã gần một giờ sáng rồi mà ông ta còn qua đập cửa nhà tôi rầm rầm". B hỏi: "Thế anh có báo cảnh sát không?". A trả lời: "Không, tôi mặc kệ ông ta, xem ông ta như thằng điên vì lúc ấy tôi đang tập thổi kèn saxophone".
Chuyện gì cũng có nguyên nhân, nếu biết trước lỗi của mình thì hậu quả sẽ khác đi. Tuy nhiên, chúng ta lại thường ít khi thấy mình sai, nhưng lại dễ dàng thấy người khác sai.
Xin cho chúng ta luôn biết hoàn thiện mình như Cha chúng ta. Hoàn thiện con người không làm điều gì tổn thương với tha nhân. Hoàn thiện còn để lòng mình xóa đi những ghen tương, đố kỵ để sống hòa hợp với nhau. Amen.
----------------------------------
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Con phải tha thứ bao nhiêu lần” (Mt 18,21)
Một phụ nữ, đã từng hứng chịu bạo hành trong gia đình, chia sẻ với tôi kinh nghiệm của chị khi phải TN24-A99
Một phụ nữ, đã từng hứng chịu bạo hành trong gia đình, chia sẻ với tôi kinh nghiệm của chị khi phải đấu tranh với chính mình để thực hiện giáo huấn của Chúa trong Tin Mừng hôm nay. Chị ta nói “Là một tín hữu Công giáo, tôi thấy có trách nhiệm và bổn phận phải tha thứ cho chồng tôi, khi anh ta dùng bạo lựcnhư thể muốn giết tôi. Tôi tin rằng tôi phải bắt chước hành vi yêu thương của Đức Giêsu trên Thập giá, trước khi Ngài dang tay đón nhận cái chết. Tôi phân vân tự hỏi, có lẽ thay vì tha thứ, tôi đã có cảm giác thù hận từ sâu tận trong tâm hồn, và tôi đã tự nguyền rủa chồng tôi, mong anh ta chết quách đi cho xong. Tôi sợ rằng tôi đã không tha thứ hoàn toàn cho anh ta trước khi tôi chết, và như vậy tôi sẽ bị trầm luân mãi mãi”.
Giáo huấn của Đức Giêsu hôm nay dạy chúng ta phải tha thứ đến vô tận. Có một điều khá gay go, là nếu chúng ta không thể tha thứ thì sao? Cái gì sẽ xảy ra, khi chúng ta muốn tha thứ, nhưng kẻ xúc phạm đến chúng ta lại không hối lỗi và không chịu đền bù thiệt hại. Có những khi, ví dụ trong trường hợp bạo hành xảy ra nơi gia đình, sự tha thứ còn là cớ giống như đổ thêm dầu vào lửa, sẽ phản tác dụng và không đem lại sự hòa giải và an bình thật sự. Tiến trình thực hiện việc tha thứ và hòa giải quả khá gian nan, và chúng ta không thể giản lược trong một vài chiêu thức giản đơn.
Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, tiếp nối với đoạn Tin mừng của tuần trước, trong đó Chúa Giêsu vạch dẫn một lộ trình khởi đầu cho việc hòa giải, khi có những xúc phạm xảy ra trong cộng đoàn. Lộ trình này bắt đầu bằng việc cá nhân đến gặp gỡ cá nhân, rối tiếp theo là có thêm những trung gian, và bước cuối cùng là có sự tham gia của cả cộng đoàn. Đứng trước những chỉ huấn này, Phêrô đã hỏi tiếp Đức Giêsu, thế ông phải phải tha thứ bao nhiêu lần. Ông thấy ngay những khó khăn và trở ngại khi thực hiện tiến trình hòa giải như thế. Để trả lời, Chúa Giêesu đã khẳng định, việc tha thứ phải thực hiện một cách vô tận, không có một giới hạn nào cả. Có những sự việc gây nên nỗi đau triền miên và dai dẳng, vì thế cũng cần phải biết tha thứ vô giới hạn, đồng thời người phạm lỗi cũng cần phải hối lỗi một cách chânthực. Chúng ta phải luôn sẵn sàng thực hiện công việc đầy khó khăn này, để hóa giải những tan vỡ, và thực hiện việc giao hòa với nhau.
Trong dụ ngôn tiếp theo về người đầy tớ mắc nợ một số tiền lớn đã được nhà vua tha cho, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến món nợ khổng lồ như một gánh nặng. Món nợ đó biểu trưng cho những khó khăn trong việc hòa giải, và nó đã được cất đi khỏi tên đầy tớ. Điều này,Chúa cũng kêu mời chúng ta ý thức rằng: Sự hòa giải ở đây là một quà tặng được trao ban một cách nhưng không. Khi đón nhận món quà này, không phải do công lao của mình, chúng ta cũng phải ban trao lại một cách nhưng không giống như vậy. Tên đầy tớ không thể trả món nợ cho nhà vua, nhưng anh ta có thể sao chép lại cách thức mà nhà vua đã đối xử với anh ta, bằng cách cũng tha cho kẻ mắc nợ mình. Tuy nhiên anh ta đã không hành xử như thế. Anh ta làm ngược lại. Thế rồi nhà vua tức giận, đổi thay tình thế, rút lại sự tha thứ đã ban bố trước đây. Điều làm chúng ta cảm thấy chới với, đó là Thiên Chúa sẽ hành xử giống như thế. Ngài sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài nếu như chúng ta không muốn thứ tha một cách sâu xa tận đáy lòng. Câu nói này của Chúa Giêsu gợi nhắc đến lời kinh Lạy Cha mà chính Ngài đã dạy các môn đệ cầu nguyện “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con (Mt 6,12). Lời kinh đó đi kèm theo lời khuyến cáo: Chúng ta chỉ được tha thứ khi chúng ta biết thứ tha cho nhau (Mt 6, 14-15).
Điểm nhấn ở đây, không phải là Thiên Chúa lật lọng, đổi thay thái độ, rút lại sự tha thứ đã trao ban, khi chúng ta không hành xử giống như Ngài đã nêu gương. Cũng không phải Thiên Chúa sẽ làm phương hại đến chúng ta, khi chúng ta không tuân theo lối bước của Ngài. Dụ ngôn chỉ muốn khuyến cáo một cách khá cứng rắn, để con tim chúng ta đừng trở nên xơ cứng khi không có lòng bao dung và phải luôn biết sẵn lòng tha thứ cho nhau. Một tâm hồn chai lỳ trong hận thù, dễ làm cho bạo lực tái bùng phát và tiếp diễn. Dụ ngôn chỉ muốn diễn tả một cách thái mà chúng ta phải chọn lựa để làm sao sự tha thứ luôn được chúng ta tâm đắc và thực hành. Chúng ta phải nỗ lực thứ tha, và cầu nguyện để tâm hồn chúng ta luôn biết trải rộng, sẵn lòng tha thứ cả khi việc thứ tha này chưa thực hiện được. Chúng ta khẩn cầu để xin Chúa giúp chúng ta biết mở toang cõi lòng hầu có thể nếm cảm lòng thương xót dịu dàng của Chúa đổ tràn trên chúng ta, giúp chúng ta cũng dễ dàng dàn trải lòng thương xót và sự đồng cảm giống như thế đến cho mọi người. Không cái gì có thể cất khỏi sự tha thứ của Chúa nơi chúng ta. Tuy nhiên,trong cách cư xử thường ngày, nhiều động thái chúng ta thực hiện làm cản che hiệu quả của lòng thương xót đó đang tuôn đổ xuống trên mỗi người chúng ta.
------------------------------------------
Tha thứ là một hành vi cao cả của đức ái. Tha thứ là quên đi lỗi điều phiền toái người khác gây cho TN 24-A100
Tha thứ là một hành vi cao cả của đức ái. Tha thứ là quên đi lỗi điều phiền toái người khác gây cho mình, tha thứ những thái độ xúc phạm đối với mình, tha thứ những điều người khác gây ra trái ý mình. Tha thứ là không hề nhớ, không kể lại, không nhắc tới lỗi lầm của người khác. Là Kitô hữu, chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Như thế, tha thứ không chỉ là hành vi nhân bản mà còn là hành vi nhân linh.
Người Do Thái xưa được dạy cho biết phải tha thứ cho nhau. Phêrô đã thắc mắc và hỏi Chúa: "Con phải tha đến mấy lần". Theo sự giảng dạy của các thầy Rabbi, một người phải tha thứ cho anh em mình ba lần. Phêrô đã đi xa hơn luật của các thầy Rabbi bằng cách nhân lên gấp đôi, và cộng thêm một lần cho chắc ăn để cho thấy tinh thần hào hiệp, ông đề ra cho Chúa Giêsu con số bảy: "Có phải đến bảy lần không". Tha thứ đến bảy lần là hoàn hảo, là vĩ đại, là hào phóng và thậm chí là tuyệt đối rồi. Ông nghĩ rằng đề nghị như thế là được Chúa Giêsu tán thành ngay thậm chí là còn khen ông nữa kìa. Thế nhưng, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu đã trả lời: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy". Nghĩa là Chúa dạy: Hãy tha thứ cho nhau, hãy quên hết lỗi lầm, hãy tha thứ thật lòng, hãy tha thứ tất cả, hãy tha thứ luôn luôn, hãy tha thứ mãi mãi. Sao thật khó quá!
Để làm sáng tỏ vấn đề cũng như để học trò hiểu rõ và nhớ kỹ bài học này, Chúa minh hoạ thêm bằng một dụ ngôn rất hay để đối chiếu lòng Thiên Chúa đối với con người và lòng con người đối với nhau. Nơi Thiên Chúa là một lòng đại lượng xót thương vô bờ bến, chỉ cần con người lên tiếng khẩn nài, Chúa liền nhìn đến thân phận khốn khổ và nghèo nàn của chúng ta. Thiên Chúa Cha, Đấng đầy lòng nhân từ và giàu lòng thương xót. Tình thương tha thứ là một phát minh tuyệt vời của Thiên Chúa để giúp con người hiệp thông với Ngài và hiệp thông với nhau, để xây dựng tốt đẹp cộng đoàn xã hội.
Khi chúng ta phạm tội, chúng ta van xin Chúa, Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện, tha thứ trọn vẹn, không đòi hỏi gì nơi chúng ta cả. Ngược lại, lòng con người đối xử với nhau thì lại thật là quá nhỏ bé, hẹp hòi, chúng ta hay chấp nhất nhau từng ly từng tý. Chúng ta dễ tức giận nhau, để lòng oán hờn nhau, chúng ta nhất định không tha thứ. Thậm chí người ta hết lời và hết lòng xin lỗi, chúng ta vẫn cương quyết không tha, không bỏ qua, có người còn khẳng khái tuyên bố: "Sống để dạ, chết mang theo". Thật là mỉa mai, chua chát, đáng trách! Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải sẵn lòng tha thứ, tha thứ luôn mãi bao lâu người anh em còn xúc phạm đến chúng ta, bởi vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Chúng ta thấy ngay từ đầu, khi con người phạm tội nếu Thiên Chúa đã không tha thứ thì con người sẽ không có tương lai tốt đẹp gì như ngày hôm nay. Mỗi lần tha thứ cho tha nhân là mỗi lần ta để tâm hồn mình hoà điệu với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng nhân từ và hay tha thứ. Mỗi lần ta tha thứ cho tha nhân là mỗi lần ta thoát ra khỏi cảnh nô lệ cho những giới hạn ích kỷ của con tim mình, để hoà mình với những tâm tình yêu thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa. Tính cách tha thứ của Kitô giáo là tha thứ như mình đã được tha thứ, phải thương xót tha nhân như mình đã được Chúa xót thương. Sự tha thứ không những là một nhiệm vụ luân lý mà còn là một đòi hỏi của lương tâm, một nhân đức đối thần, kéo dài tới tha nhân ơn tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ai trong chúng ta cũng có sai sót, nhiều khuyết điểm, tật xấu. Chúng ta cần được tha thứ, vì vậy chúng ta phải khiêm tốn xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau.
Trong câu chuyện dụ ngôn, chúng ta thấy món nợ của con người với Chúa thật to lớn, đời đời không trả được. Nhưng Chúa là tình yêu, Ngài sẵn sàng tha thứ tất cả. Còn món nợ giữa con người với tha nhân tương đối nhỏ, có thể hoàn trả được, thế nhưng con người không biết chờ đợi, không biết yêu nên không tha thứ cho nhau được. Trong đời sống thực tế, muốn biết thật lòng tha thứ thì hãy biết quên di những lỗi lầm của anh em. Đừng nhắc đi nhắc lại, đừng nhớ dai, đừng trích chứa trong lòng.
"Nếu Chúa tôi nhớ hoài tội lỗi, nào có ai đứng vững được chăng?"
Trước mặt Chúa có ai là người vô tội? Chúng ta được tha một món nợ không thể nào trả nổi: vì tội lỗi của con người đã gây ra cái chết cho Con Thiên Chúa. Do đó, chúng ta phải tha thứ cho những người khác để chính mình được Thiên Chúa tha thứ. Tha thứ đổi mới tâm hồn, làm phát sinh sự sống mới, gây thêm lòng can đảm, để bắt đầu con đường sống mới. Tha thứ là lời mời gọi để tình yêu lớn lên. Tha thứ là cửa ngõ để mọi người có cơ hội làm lại mối giây liên hệ đã dập gẫy. Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hoá bởi tha thứ. Sự tha thứ phản ánh đời sống ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. Sự tha thứ là vẻ đẹp của những tâm hồn cao thượng, những con người nhân bản và những con cái của Thiên Chúa. Sự tha thứ mang lại hoà bình cho thế giới, tạo nên một thế giới hiệp thông và yêu thương. Mỗi Kitô hữu cũng là một ơn tha thứ mà Thiên Chúa muốn trao tặng cho người khác. Mỗi ơn tha thứ là một cuộc biến đổi, Chúa Giêsu kêu mời chúng ta cùng với Ngài thực thi sứ mệnh trao ban ơn tha thứ hầu biến đổi anh chị em chúng ta nên người con thật tốt lành và đáng yêu của Chúa Cha, cũng như chính chúng ta đã được tha thứ và biến đổi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy cho chúng con có tâm tình của Chúa để chúng con có thể tha thứ cho anh em như Chúa đã tha thứ. Amen.
------------------------------------------