Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 24 TN-A Bài 1-50: Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy
------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 18, 21-35: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?” Chúa Giêsu đáp: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.
“Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả”. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
“Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: “Hãy trả nợ cho ta”. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh”. Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong.
“Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến vào bảo rằng: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
“Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
TN 24-A1. THA THỨ.. 2
TN24-A2. NTĐY/131- THA THỨ.. 4
TN24-A3. CS / 131- THA THỨ.. 6
TN24-A4. STM / 195- THA THỨ.. 7
TN24-A5. CSTM / 213- THA THỨ.. 9
TN24-A6. PV / 538- THA THỨ.. 11
TN24-A7. PV / 540- THA THỨ.. 12
TN24-A8. PV / 543- THA THỨ.. 13
TN24-A9. SCĐ / 470- XIN LỖI 15
TN 24-A10. HÃY THỰC LÒNG THA THỨ.. 17
TN 24-A11. PHẢI THA THỨ LUÔN LUÔN.. 21
TN 24-A12. MỐI TÌNH HAY THA THỨ.. 22
TN 24-A13. THA THỨ: CUỘC SỐNG MỚI TRONG TÌNH YÊU.. 24
TN 24-A14. HÃY THA THỨ ĐỂ ĐƯỢC THỨ THA.. 27
TN 24-A15. Hết Lòng Tha Thứ. 31
TN 24-A16. THA THỨ ĐỂ ĐƯỢC THỨ THA.. 32
TN 24-A17. TẤM LÒNG THA THỨ.. 35
TN 24-A18. Suy Niệm của Lm. VIKINI 37
TN 24-A19: Suy Niệm của JK.. 38
TN24-A20: THA THỨ LÀ YÊU THƯƠNG.. 41
TN24-A21: NÊN THA HAY KHÔNG? - Br. Phillip Bình Khả, CMC.. 43
TN24-A22: HÃY THA THỨ - Lm Louis Hữu Độ, CMC.. 45
TN24-A23: THA THỨ VÀ HOÀ GIẢI - Lm Nguyễn Bình An. 46
TN24-A24: THA THỨ KHÔNG GIỚI HẠN - Lm J.B. Nguyễn Minh Hùng. 48
TN24-A25: Tha Thứ mà Không Cần So Đo Tính Toán. 49
TN24-A26: Tha Thứ - Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR.. 50
TN24-A27: Nhưng Đến Bảy Mươi Lần Bảy". 53
TN24-A28: Bài Học Tha Thứ - Lm Trần Bình Trọng, USA.. 55
TN24-A29: Tha Thứ Hoài, Tha Thứ Mãi - Lm Stêphanô Bùi Thượng Lưu. 57
TN24-A30: Tha Thứ Không Ngừng - Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT.. 59
TN24-A31: Anh Em Tha Thứ Cho Nhau - John Nguyễn. 61
TN24-A32: Phải tha đến mấy lần- 65
TN24-A33: Thường niên 24 A.. 69
TN24-A34: Sự hoàn hảo dựa trên lòng khoan nhân. 72
TN24-A35: Phải luôn luôn tha thứ. 73
TN24-A36: SLC – Tha thứ. 76
TN24-A37: CSTM/196 – Tha thứ. 77
TN24-A38: SLCTTY/297 – Tha thứ. 79
TN24-A39: SLCTTY/297 – Tha thứ. 81
TN24-A40: Sự tha thứ. 82
TN24-A41: Tha thứ. 84
TN24-A42: Tha thứ. 85
TN24-A43: VẾT THÙ HẰN TRÊN LƯNG NGỰA HOANG.. 87
TN24-A44: THỜI ĐIỂM SỢ TÓC BẠC.. 90
TN24-A45: CỦA NGƯỜI BỒ TÁT, CỦA MÌNH LẠT BUỘC ! 93
TN24-A46: THA HOÀI, THA MÃI 94
TN24-A47: CHUYỆN ĐỨA BÉ CỦA HÒA BÌNH & LẤY ÂN ĐỀN OÁN.. 98
TN24-A48: Hãy tập sống như tấm lòng bao la của Thiên Chúa. 101
TN24-A49: THA THỨ.. 105
TN24-A50: Nhưng người ta phải tha thứ bao nhiêu?. 106
------------------------------------------
Trong khi dân Do Thái ngày xưa đối xử với nhau theo kiểu mắt đền mắt răng thế răng, thì tác: TN 24-A1
Trong khi dân Do Thái ngày xưa đối xử với nhau theo kiểu mắt đền mắt, răng thế răng, thì tác giả sách Huấn ca đã đưa ra một lời khuyên thật chí lý :
- Ngươi hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi cầu nguyện, ngươi sẽ được Chúa thứ tha. Một người mà cõi lòng chất đầy sự oán hờn thì làm sao dám mở miệng kêu xin Chúa cứu chữa.
Lời khuyên trên là như một tiếng chuông cảnh tỉnh được đến cho những kẻ đang sống trong thù hận, đồng thời cũng được gửi đến cho mỗi người chúng ta, nhắc cho chúng ta nhớ tới lời thánh Gioan tông đồ :
- Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu, người ấy ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa cũng ở trong người ấy.
Thật là một lầm lẫn tai hại nếu như chúng ta nghĩ rằng :
- Tôi vừa có thể là một Kitô hữu đạo đức, lại vừa có thể ghét bỏ anh em.
Thực vậy, hai điều này luôn đối kháng nhau như lửa và nước, như ánh sáng và bóng tối.
Đoạn Tin mừng hôm nay lại đưa ra một bằng chứng hùng hồn khác nữa, khiến chúng ta phải yêu thương và tha thứ cho nhau.
Tên đầy tớ độc ác, được chủ tha cho một món nợ kếch xù, là mười ngàn nén bạc, thế mà hắn lại không biết tha cho bạn hắn, chỉ mắc nợ hắn có một trăm đồng tiền.
Và Chúa Giêsu đã kết luận về câu chuyện ấy như sau :
- Thiên Chúa cũng sẽ đối xử với các ngươi như thế, nếu các ngươi không biết tha thứ cho anh em.
Một kết luận thực là minh bạch và rõ ràng. Điều cần thiết không phải là cắt nghĩa dài dòng, mà là áp dụng, là thực thi kết luận ấy trong cuộc sống mỗi người chúng ta.
Nếu chúng ta không tỏ ra khoan dung đối với người khác, thì chúng ta sẽ chẳng được hưởng nhờ lòng khoan dung của Chúa. Nếu chúng ta không tha thứ cho nhau, thì Thiên Chúa cũng sẽ chẳng tha thứ cho chúng ta, và chúng ta sẽ chẳng còn dám mở miệng kêu cầu :
- Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy : nói thì dễ, mà làm thì khó. Bởi vì có những cái bản mặt vô duyên, dễ ghét, khó mà tha thứ, khó mà cảm thông.
Đúng thế, sự tha thứ nhiều khi vượt khỏ tầm tay và khả năng của chúng ta. Chính vì thế, chúng ta cầm phải cầu xin Chúa trợ giúp. Bởi vì một khi đã công bố giới luật yêu thương, thì Ngài cũng sẽ trao ban những sự trợ giúp cần thiết để chúng ta có thể chu toàn được giới luật ấy.
Để kết luận, tôi xin nêu lên một vài mẫu gương đáng cho chúng ta suy nghĩ và bắt chước.
Mẫu gương thứ nhất : Trong cuộc nội chiến tại Tây Ban Nha vào năm 1936, có một cha sở bỊ bắt và bỊ tống ngục. Trước khi ra mặt trận, đoàn quân muốn giết tất cả những tù binh mà họ đang giam giữ. Thế là tốp lính giải ngài tới một nghĩa địa để xử bắn. Trước khi ngã gục dưới lằn đạn hận thù, ngài đã xin cho mình một đặc ân cuối cùng, đó là được ôm hôn tất cả tốp lính sẽ nhả đạn vào mình. Hành vi này đã làm cho một anh lính xúc động và sau này anh đã xin gia nhập Giáo hội.
Mẫu gương thứ hai : Có một bà già, sau khi trở lại Công giáo, đã phát biểu như sau :
- Cuộc đời tôi chồng chất những khổ đau và cay đắng. Nhưng nhờ ơn Chúa, tôi vẫn còn đứng vững và thực hiện được một hành động cao cả hơn việc tôi đã trở lại đạo, đó là tự đáy lòng, tôi đã thực sự tha thứ cho kẻ thù, đã xô tôi vào những khổ đau và cay đắng ấy, đã làm cho gia đình tôi bĐ tan nát. Nếu như bây giờ tình cờ gặp họ ngoài đường, tôi sẵn sàng niềm nở chào hỏi họ với tất cả tình yêu mến của Đức Kitô.
Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Đúng thế, chúng ta có tha thứ cho người khác, thì Thiên Chúa mới sẽ tha thứ cho chúng ta.
----------------------------------
Theo ABC News, ông Yigal Cohen, một người Israen bỊ đau tim nặng vừa nhận được trái tim: TN24-A2
Theo ABC News, ông Yigal Cohen, một người Israen bỊ đau tim nặng vừa nhận được trái tim của một người Palesttin trong cuộc phẫu thuật ngày 5-6-2000. Gia đình ông Mazen Joulani, người hiến tặng tim, cho biết ông vừa bỊ những người Do thái bắn hại tại một tiệm cà phê ngoài trời.
Gia đình này quyết đỊnh hiến tim của Joulani vào thứ sáu tuần qua, ngay trong ngày mà cuộc nổ bom ở Tel Aviv làm thiệt mạng 21 người. Những phần nội tạng khác của Joulani cũng sẽ được ghép cho một số người Israen khác.Bác sĩ Lavie, người thực hiện ca mổ, nói khi ông cầm hai trái tim trong tay, ông nhận ra rằng tất cả những mâu thuẫn sắc tộc là hoàn toàn vô nghĩa.
Nếu chúng ta biết rõ mối thù truyền kiếp giữa người Israen và người Palestin, nếu chúng ta nhìn thấy những cuộc xung đột đẫm máu thường xuyên xảy ra giữa hai dân tộc này trên truyền hình, báo chí, chúng ta mới thấy nghĩa cử hiến tặng trái tim để cứu sống kẻ thù, mới thật là nghĩa cử vô cùng cao đẹp. Không những anh chỉ tha thứ cho kẻ thù đã bắn chết mình, mà còn trao ban luôn trái tim và các phần nội tạng khác để cứu sống những kẻ đã sát hại dân tộc mình. Đối với những người không có tấm lòng khoan dung tha thứ thì đây là hành động điên rồ, thậm chí còn là việc ngu xuẩn. Nhưng với những người có niềm tin thì đó lại là bằng chứng hùng hồn của người môn đệ Đức Kitô: “Anh em phải thương yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét anh em”.
Tin Mừng hôm nay thuật lại :
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”.
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha thứ mãi, tha thứ đến vô cùng. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Mọi quốc gia, đảng phái, phong trào đều chống lại điều xấu, đề phòng kẻ gian ác, tiêu diệt kẻ thù, duy chỉ mình Đức Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù”. Người đã chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo, và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.Nhưng tại sao phải tha thứ? Phải tha thứ cho anh em vì đó là điều kiện để được Chúa thứ tha cho chúng ta. Đức Giêsu đã nói: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em”.
Phải tha thứ cho anh em vì chính Chúa luôn tha thứ cho chúng ta, và Người còn liên tục tha thứ mãi, như kinh Lạy Cha Đức Giêsu đã dạy: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”.Phải tha thứ cho anh em vì đó là một nghĩa cử yêu thương tuyệt đỉnh mà Chúa luôn đòi hỏi và coi trọng hơn cả việc thờ phượng Người: “Nếu khi sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”.
Tha thứ là một lệnh truyền khó thực hiện nhất nhưng cũng là nghĩa cử cao cả nhất. Chúng ta có thể cho đi tiền của, trao ban thì giờ, hiến dâng mạng sống. Nhưng các điều đó xem ra còn dễ hơn là tha thứ cho kẻ thù, yêu thương kẻ ngược đãi mình, và làm ơn cho kẻ oán ghét chúng ta. Vâng, chỉ có sức mạnh của Thiên Chúa chúng ta mới có thể tha thứ cho nhau được.
Đúng như lời Alexande Pope có nói: “Lỗi lầm là của con người, và tha thứ là của Thiên Chúa”.
Khi chúng ta quyết đỊnh tha thứ là chúng ta đang vượt lên bản tính tự nhiên, đang trở nên giống Thiên Chúa, đang nâng mình lên tới tột đỉnh của nhân đức.
Khi chúng ta quyết đỊnh tha thứ là chúng ta đang thi ân cho kẻ thù. Nhờ sự tha thứ của chúng ta mà họ được an tâm, không sợ báo thù. Cuộc đời họ lại nhẹ nhàng, thư thái, bình an.
Khi chúng ta quyết đỊnh tha thứ thì lòng chúng ta được tràn ngập niềm vui : vui vì mình đã làm được một nghĩa cử cao đẹp cho anh em, vui vì biết chắc rằng mình sẽ được Chúa thứ tha.
Từ chối tha thứ cho anh em là nói rằng chúng ta không cần thứ tha. Chỉ có kẻ công chính mới không cần được tha thứ. Nếu ai cho mình không cần được thứ tha, thì họ là kẻ kiêu ngạo đáng thương. Họ tự khóa chặt cánh cửa tâm hồn để lòng mình rêu phong ẩm mốc. Chính sự tha thứ đem lại cho tâm hồn mùa xuân mới, để kẻ tha thứ và người được thứ tha lại nở rộ mùa hoa nhân ái, cho lá vẫn xanh, cho hoa vẫn nở, trong mưa hiền hòa, trong nắng thênh thang.
----------------------------------
Nếu đọc báo chí ta sẽ ghi nhận được nhiều câu chuyện thương tâm xảy ra ở nhiều gia đình: TN24-A3
Nếu đọc báo chí ta sẽ ghi nhận được nhiều câu chuyện thương tâm xảy ra ở nhiều gia đình :
- Con toa rập với mẹ để tạt Acid vào mặt cha và chồng để trả thù sự bất trung của chồng.
- Chồng đem vợ bé về nhà để chọc tức và trả thù thái độ khi dễ của gia đình bên vợ.
- Con cái đuổi cha mẹ già ra khỏi nhà để trả thù sự thiên vĐ của cha mẹ trước đây...
Có lẽ trên cuộc đời này không có mối quan hệ nào thắm thiết tình yêu thương cho bằng tình gia đình, vậy mà người ta còn xử với nhau tàn nhẫn như thế, phương chi mối quan hệ giữa người với người không cùng máu huyết.
Trả thù là một cách sống mà dường như phần đông chúng ta đều công nhận như là lẽ rất tự nhiên của sự công bằng. An miếng trả miếng. Nợ máu thì phải trả bằng máu. Với một quan niệm và chủ trương sống như vậy thì chuyện tha thứ cho nhau quả là một điều không bình thường và rất xa lạ với cuộc sống con người.
Nhưng dù ta nghĩ thế nào về sự tha thứ thì Lời Chúa vẫn vang vọng như một lời mời gọi và như một lệnh truyền: “Thầy không bảo anh phải tha thứ 7 lần nhưng là 70 lần 7”. Nghĩa là phải tha thứ mãi, tha hoài.
Và Chúa Giêsu đã kể một dụ ngôn để soi sáng cho lời mời gọi và lệnh truyền này. “Một người đầy tớ mắc nợ nhà vua 10.000 nén bạc”...
Theo sử gia Josephus thì số tiền thuế toàn vùng Galilê và Péré phải nộp cho nhà vua mỗi năm là 200 nén. Như vậy, phải mất 50 năm số tiền đóng thuế của hai vùng đất này mới bằng số tiền anh đầy tớ mắc nợ nhà vua. Một số nợ lớn lao như thế làm sao anh trả nổi? Vậy mà nhà vua đã xóa nợ, đã tha bổng cho anh tất cả. Trong khi đó, chính anh đầy tớ này đã bóp cổ bạn, đã đòi bán vợ con của bạn để trả cho anh món nợ 100 đồng, dù bạn anh đã quỳ gối van lơn tha thiết.
Nghe dụ ngôn này, mỗi người chúng ta cũng có thể thấy bóng dáng mình qua anh đầy tớ kia. Ta mắc nợ Thiên Chúa rất nhiều, nhiều lắm. Những ơn huệ hồn xác ta nhận nơi Người, những tội lỗi của ta đã xúc phạm đến Người... Tất cả làm thành một món nợ mà ta không thể nào trả nổi cho Thiên Chúa. Nhưng Người đã xóa nợ, đã tha thứ cho ta tất cả. Còn ta, ta lại hẹp hòi với anh em mình. Ta chấp nhất, bắt bẻ lẫn nhau và hận thù nhau chỉ vì một lời nói vô tình, một hành vi sơ suất và ta tìm cách trả thù. Mỗi người chúng ta thử nhìn lại lòng mình mà coi. Giờ này ngồi trước nhan Chúa, nhưng lòng ta có thật thanh thản, thật an bình không, hay ta vẫn còn ấm ức vì những mối thù chưa trả xong, vẫn còn nuôi lòng giận ghét người anh chị em của mình?
Anh đầy tớ trong dụ ngôn bị cầm tù không phải vì anh không thể trả nợ cho nhà vua vì nhà vua đã tha thứ cho anh tất cả. Nhưng anh bị cầm tù chỉ vì anh không có lòng thương xót, không biết tha thứ cho bạn của anh. Số phận của chúng ta cũng như thế nếu ta không có lòng xót thương và tha thứ cho anh chị em của mình.
----------------------------------
Bài Phúc âm thánh Matthêu cho chúng ta biết sự tha thứ cho anh em được Chúa nói rõ ràng trong: TN24-A4
Bài Phúc âm thánh Matthêu cho chúng ta biết sự tha thứ cho anh em được Chúa nói rõ ràng trong câu trả lời cho thánh Phêrô đến hỏi Chúa: “Tôi phải tha thứ bao nhiêu lần, đến bảy lần chăng?”. Phêrô đến với Chúa bằng một tâm thức câu nệ hình thức, tâm thức của luật dân Chúa đang tuân giữ và ông nghĩ rằng, tha thứ đến bảy lần là đã làm trọn luật Chúa dạy. Noi gương của Thiên Chúa như đã được kể lại trong sách Cách Ngôn: “Thiên Chúa luôn tha thứ cho người công chính bảy lần”. Tha thứ bảy lần là tha thứ có giới hạn, nhưng Chúa Giêsu đã trả lời không phải bảy lần mà là bảy mươi lần bảy. Cách nói bảy mươi lần bảy cũng là cách nói được dùng trong sách Sáng Thế Ký, có nghĩa là tha thứ luôn luôn, không có giới hạn, không có tính toán.
Đoạn Phúc âm thánh Matthêu được trích lại nằm trong toàn bộ chương XVIII nói về những đặc điểm nếp sống mới của những đồ đệ Chúa Kitô, và nền tảng cho nếp sống mới là căn cứ theo mẫu gương của Thiên Chúa Cha: “Chúng con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên Trời là Đấng trọn lành”. Mỗi một thái độ sống của người đồ đệ Chúa đều được Chúa qui hướng về việc bắt chước theo mẫu gương của Thiên Chúa Cha.
Chính vì thế mà để làm nổi bật khía cạnh đặc điểm tha thứ cho anh em, Chúa Giêsu đã kể một dụ ngôn để diễn tả thái độ của Thiên Chúa Cha như ông chủ tha thứ cho người tôi tớ vì tình thương hơn hơn là chính người tôi tớ tha thứ cho người bạn của mình, vậy chúng ta cũng phải luôn luôn tha thứ cho anh em mình, cho những người xúc phạm hay làm tổn thương đến chúng ta bằng cách này hay cách khác.
Đặc điểm thứ hai cần lưu ý là mối liên quan giữa nếp sống Kitô và lời cầu nguyện. Điều này được nhắc đến trong bài đọc thứ nhất, đó là sự liên kết giữa cuộc sống hàng ngày và đời sống cầu nguyện, vì tha thứ cho kẻ làm hại đến mình thì con người sẽ được tha thứ như vậy. Không thể không có tha thứ đích thực nếu không tuân giữ luật Chúa dạy. Các tiên tri nhiều lần đã lên tiếng cảnh cáo những thái độ sống giả hình, đó là dâng lễ vật lên Thiên Chúa mà vẫn hà hiếp, áp bức anh chĐ em xung quanh: “Thiên Chúa muốn tình thương hơn là lễ vật”. Và: “Khi các con đến dâng của lễ mà nhớ có điều gì bất bình với anh em thì hãy bỏ của lễ lại mà đi làm hòa với anh em con trước đã, rồi hãy đến dâng lễ vật”. Giáo huấn này được Chúa Giêsu nhấn mạnh hơn nữa khi Ngài đưa nó vào lời Kinh Lạy Cha mà Ngài đã dạy cho các Tông đồ: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Tha thứ là một điều rất dễ nói nhưng lại rất khó thực hành. Vào thời hậu thế chiến thứ hai bên Au Châu, cô Coritanbum, người sống sót từ trại tập trung Đức Quốc Xã đã đi khắp nơi để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, gia đình của cô Coritabum, sinh sống tại Amsterdam, Hòa Lan, cuộc sống nhờ cửa tiệm làm và bán đồng hồ. Khi quân đội Đức Quốc Xã chiếm Hòa Lan thì gia đình cô dấn thân trợ giúp người Do thái, và hậu quả là có người chỉ điểm làm cho toàn gia đình cô bĐ bắt vào trại tập trung, chỉ còn lại một mình cô sống sót tại trại tập trung mà thôi.
Sau thế chiến thứ hai, cô đi khắp nơi bên Au Châu để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Một hôm sau buổi thuyết trình tại Munic miền Nam nước Đức, một người đứng lên cám ơn cô về bài thuyết trình thật hay, nhưng cô chết điếng người khi nhận ra người đàn ông sắp đưa tay ra bắt lấy tay cô chính là người lính Đức Quốc Xã trước kia canh trại tập trung, đã giam giữ cô và gia đình. Cô bỗng chốc nhớ lại tất cả những hành động bỉ ổi của người lính đã xúc phạm đến con người, nhất là phẩm giá của những nữ tù nhân trong trại mà anh lính này đã làm trước mắt cô ngày trước. Cô Coritanbum lúng túng không kĐp đưa tay ra bắt lấy tay người đã hành hạ mình, và lúc đó cô mới hiểu thấm thía nói dễ nhưng làm khó. Chính lúc bấy giờ cô khám phá ra mình cũng chưa thật sự tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình trước đây. Kinh nghiệm của cô cũng chính là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta hôm nay. Khi nói về sự tha thứ, thường thì khuyên kẻ khác tha thứ rất dễ, nhưng khi trực tiếp đối diện với kẻ xúc phạm đến mình, phải thực hành một việc tha thứ cách cụ thể cho người đang đứng trước mặt mình thì quả thật khó khăn vô cùng. Có thể chúng ta cũng không vượt qua được về những cảm xúc đó như cô Coritanbum. Ông Alexan de Box đã có lần nói: “Lầm lỗi là chuyện thường tình của con người, nhưng tha thứ phải là chuyện của Thiên Chúa”. Cần có sức mạnh của Thiên Chúa chúng ta mới có thể tha thứ cho nhau được.
----------------------------------
Về vấn đề tha thứ cho nhau, nói thì dễ mà làm thì rất khó. Bản tính tự nhiên của con người là: TN24-A5
Về vấn đề tha thứ cho nhau, nói thì dễ mà làm thì rất khó. Bản tính tự nhiên của con người là dễ nổi giận khi có ai xúc phạm đến danh dự hay quyền lợi của mình và khó lòng bỏ qua lỗi lầm của kẻ khác. Quả thực, cái khuynh hướng trả thù như tiềm ẩn từ muôn thuở trong lòng dạ con người. Quan sát một đứa trẻ bĐ vấp ngã trong lúc chơi đùa, chúng ta dễ dàng nhận ra cái khuynh hướng ấy ngay. Đứa trẻ bật khóc vì ngã đau, nhưng nếu có người lớn đưa tay ra mà đánh gió chỗ nó vừa ngã, thì đứa trẻ sẽ nín khóc được ngay. Nó cảm thấy hả dạ vì đã được báo thù.
Phim ảnh và sách báo cũng xoay quanh những đề tài hận nước, thù nhà luôn lôi cuốn được người xem. Nhất là khi kết cục của phim hay câu chuyện lại là hận đã rửa và thù đã trả thì người xem mới vừa lòng. Xem thế đủ biết cái khuynh hướng báo thù là điều rất tự nhiên và gần gũi với những phản ứng sơ đẳng của con người. Tha thứ là đi ngược lại với khuynh hướng ấy và chắc chắn đó chẳng phải là chuyện dễ dàng gì.
Nhưng với kinh nghiệm sống, con người đã khám phá ra và nhìn nhận rằng : hận thù chẳng có lợi lộc gì. Nếu nó làm cho người ta được thỏa mãn nỗi căm hờn hay nỗi tức giận thì đồng thời nó cũng đem lại biết bao hậu quả tồi tệ : những thiệt thòi, mất mát về vật chất lẫn tinh thần; những nỗi khổ tâm, sự giằng co, ray rứt đem lại những bất ổn cho cuộc sống. Đàng khác, hậu quả của nó còn kéo dài theo thời gian, có khi mỗi ngày thêm chồng chất nữa.
Ý thức được như vậy, con người mong tìm một giải pháp cho vấn đề này. Đó chính là tha thứ. Đúng vậy, tha thứ sẽ là cách tốt nhất để tháo gỡ những thất lợi vừa kể vừa làm cho lòng mình được thanh thản, bình an: “Lấy oán báo oán, thì oán thù sẽ chồng chất, lấy đức báo oán, oán sẽ tiêu tan”. Giáo lý nhà Phật đã dạy thế. Hay lời khuyên của một đấng thánh: “Cách trả thù hay nhất đối với kẻ làm khổ mình, là đừng giống họ”. Xưa cũng như nay biết bao người không theo một tôn giáo nào, đã sống và hành sử như vậy. Đây cũng là điều Đức Giêsu dạy chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng điều đặc biệt và quan trọng Chúa lưu ý chúng ta, là chúng ta đối xử với anh em thế nào, thì Chúa cũng đối xử với chúng ta như vậy.
Tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Chúa vừa nhiều vừa nặng nề, dường như không thể tha thứ được, nhưng Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Trong khi đó những lỗi phạm của anh em với ta, dù thế nào chăng nữa cũng không đáng gì, so với tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Chúa, thế mà chúng ta chấp nhất, tê tiện, không tha thứ. Nếu vậy chúng đừng trông mong Chúa tha thứ cho chúng ta. Bởi vì tính cách tha thứ của đạo chúng ta là tha thứ như mình đã được tha thứ : phải thương xót người khác như mình đã được Chúa xót thương. Đó là điều kiện chúng ta cam kết với Chúa trong Kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con như chúng con tha kẻ có nợ chúng con”, nghĩa là chúng ta xin Chúa tha thứ những tội lỗi của chúng ta giống như cách thức chúng ta tha lỗi cho người khác. Nếu chúng ta không tha thứ thì Thiên Chúa cũng sẽ không tha thứ cho chúng ta.
Trong cuộc sống đạo, có nhiều phương thế giúp chúng ta gặp gỡ Chúa, gần gũi với Chúa, như cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa, lãnh nhận các bí tích. Nhưng cũng có một phương thế không kém phần hữu hiệu, đó là sự tha thứ cho nhau. Vì với cái nhìn đức tin, khi chúng ta tha thứ lỗi lầm cho anh em, thì chính lúc ấy tâm hồn chúng ta cảm thấy gần gũi hơn, thân mật hơn với Chúa, nhờ vào thái độ của chúng ta giống như cách ứng xử của Chúa.
Vậy chúng ta hãy suy nghĩ xem : tôi có để lòng thù oán đối với những ai nói xấu hay làm thiệt hại về danh dự và vật chất của tôi hay không? Hiện giờ tôi đang buồn giận ai không? Để thực hành tha thứ như Lời Chúa dạy, tôi quyết tâm sẽ làm gì với họ trong những ngày này? Chúng ta chỉ xứng đáng dâng lễ, nếu chúng ta biết làm hòa với những ai đang bất hòa với mình, hoặc sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm của kẻ khác đối với mình. Xin Chúa trợ giúp chúng ta.
----------------------------------
Tin Mừng hôm nay đề cập đến một đề tài liên quan đến tất cả chúng ta. Đó là lòng tha thứ: TN24-A6
Tin Mừng hôm nay đề cập đến một đề tài liên quan đến tất cả chúng ta. Đó là lòng tha thứ. Không một ai trong chúng ta có thể đi qua cuộc đời này mà không bĐ làm tổn thương. Chúng ta đương đầu với những tổn thương ấy như thế nào? Chúng ta có thể cho mình một cơ hội để trưởng thành hoặc chúng ta có thể trở thành một tảng đá làm vấp ngã cho sự phát triển nhân bản và tâm linh. Tổn thương không dễ gì giải quyết. Ngay khi chúng ta bĐ tổn thương thì nỗi thương cảm chính mình xuất hiện. Đó là lẽ tự nhiên, nhưng một khi thương cảm được duy trì nó sinh ra nỗi chua cay, oán hận và giận dữ. Hoài niệm về những lỗi phạm len lỏi vào nơi nào mà nó làm mưng mủ. Nó đầu độc tinh thần chúng ta, và phá hủy khả năng yêu thương. Có những người lưu giữ sự xúc phạm trong lòng họ nhiều năm trời.
Thỉnh thoảng căn phòng tâm trí phải được dọn sạch sẽ, những mạng nhện của lòng thương cảm chính mình phải được quét sạch. Những khối u của nỗi chua cay phải được cắt bỏ. Tình cảm bĐ tổn thương phải được đào lên, thừa nhận và để cho nó đi. Đây là chỗ lòng tha thứ đi vào. Dù không bao giờ dễ dàng, kể cả từ góc độ nhân bản, lòng tha thứ cũng tạo ra ý nghĩa to lớn. Chúng ta giải thoát mình khỏi gánh nặng chua cay và oán hận. Kết quả là, chúng ta có cảm thức về tự do, thanh thản, sáng suốt. Một lần nữa, chúng ta có khả năng cống hiến mọi năng lực cho yêu thương, đây là hoạt động duy nhất thích hợp với một Kitô hữu. Tha thứ là một phương thức đầu tiên và tốt nhất cho tâm hồn chúng ta. Nói cách chính xác, tâm hồn chúng ta đã bĐ tổn thương.
Sự tha thứ tác động một cách kỳ diệu cho người được tha thứ. Người ấy dù nam hay nữ được tự do bước đi trong tình bằng hữu với Thiên Chúa và với con người mà người ấy đã xúc phạm. Sự tha thứ bao hàm sự hiểu biết về sự nghèo khó đau khổ và tội lỗi của chính mình, và do đó nhu cầu của chính mình cần được tha thứ. Điều đó còn làm cho chúng ta biết tha thứ với sự kiêu căng, hống hách không phải là cách tha thứ của người Kitô hữu. Chúng ta phải sẵn sàng thừa nhận rằng ít nhất chúng ta có phần nào đáng trách vì điều đã xảy ra. Tha thứ bằng lời không chưa đủ. Chúng ta phải tha thứ như Tin Mừng nói bằng tâm hồn yêu thương của chúng ta.
Không còn là vấn đề tha thứ khi và nếu người xúc phạm hối cải – điều này tương đối dễ dàng. Chúng ta cũng phải tha thứ, cả khi người xúc phạm không hối cải – điều này làm cho sự tha thứ thêm khó khăn, và cũng là lý do khiến chúng ta cần đến ân sủng của Thiên Chúa.
Sự tha thứ làm quang đãng con đường cho Thiên Chúa đến tha thứ chúng ta. Trở ngại duy nhất mà chúng ta đặt trên con đường Thiên Chúa đến tha thứ những tội lỗi của chúng ta là việc chúng ta không thể tha thứ tội lỗi của những người khác. Tất cả chúng ta đều cần có sự tha thứ. Người nào không thể tha thứ, người ấy phá chiếc cầu mà chính họ phải đi qua.
Những người tha thứ được Thiên Chúa chúc lành, họ sẽ nhận được sự tha thứ các tội lỗi của họ.
----------------------------------
Đức Giêsu yêu cầu chúng ta tha thứ bảy mươi lần bảy. Điều đó có nghĩa là sự tha thứ không: TN24-A7
Đức Giêsu yêu cầu chúng ta tha thứ bảy mươi lần bảy. Điều đó có nghĩa là sự tha thứ không nên có giới hạn. Không có điểm nào để cho rằng sự tha thứ sẽ dễ dàng. Nó không bao giờ dễ dàng. Đôi khi không có ân sủng của Thiên Chúa, không thể tha thứ được. Khi chúng ta bĐ xúc phạm tự nhiên chúng ta sinh ra sự oán hận và cay đắng. Oán hận và cay đắng là những tâm trạng rất nguy hiểm, và chúng ta không thể chữa lành khỏi những tâm trạng ấy nếu như chúng ta không tha thứ.
Tất cả chúng ta đều cần có sự tha thứ bởi vì lúc này hay lúc khác chúng ta đều có thể bĐ xúc phạm. Nhưng chúng ta có thể làm gì? Chúng ta phải nhận thức rằng lòng tha thứ ấy không thể hoàn thành trong ngày một, ngày hai. Nó không phải là một cái gì có thể xảy ra trong một lần. Sự tha thứ là một quá trình, và cần có thời gian như mọi quá trình khác. Chúng ta có thể thực hiện những bước mà với ân sủng của Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta đến sự tha thứ và chữa lành mọi tổn thương.
Chúng ta phải thừa nhận có người đã phạm lỗi với chúng ta. Chúng ta không còn có chỗ nào nghi ngờ về điều xảy ra.
Chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta đã cảm nhận điều đó – những cảm giác tức giận và tổn thương. Những cảm giác này không phải là tội lỗi. Thật vậy, chúng tự nhiên và lành mạnh.
Chúng ta nên nói ra cảm giác ấy. Nếu chúng ta không thể làm điều đó với người đã xúc phạm chúng ta, chúng ta nên làm điều ấy với một người nào khác.
Rồi một lúc nào đó, chúng ta có quyết đĐnh tha thứ. Tha thứ là một hành động của ý chí. Nhưng điều đó không có nghĩa các cảm giác tổn thương và cay đắng thình lình biến mất. Cần có thời gian để chữa lành những cảm giác ấy.
Sau cùng chúng ta phải có quyết đĐnh về mối quan hệ của chúng ta với người đã xúc phạm chúng ta. Ở đây, chúng ta có ba chọn lựa : tiếp tục mối quan hệ ấy, cắt mối quan hệ ấy trong một thời gian, hoặc đoạn tuyệt hoàn toàn. Không phải lúc nào sự hòa giải cũng có thể thực hiện được. Để có hòa giải, phải có sự hòa giải từ hai phía.
Nếu chúng ta không tha thứ người khác thì chính chúng ta sẽ không được tha thứ. Không phải vì Thiên Chúa thích báo oán mà vì nếu chúng ta không tha thứ người khác, chúng ta làm cho sự đón nhận lòng tha thứ của Thiên Chúa đối với chúng ta trở nên bất thành. Chúng ta hãy tưởng tượng hai người cùng sống chung trong một căn phòng, có một người đóng kín các bức rèm che cửa vì không muốn người khác hưởng được ánh sáng mặt trời. Nhưng khi làm như thế. Chính người ấy cũng làm cho mình không đón nhận được ánh sáng mặt trời.
Không còn là vấn đề tha thứ khi và nếu người gây ra tổn thương hối cải. Chúng ta sẵn sàng tha thứ cả khi người gây tổn thương không hối cải – điều này làm cho việc tha thứ trở nên khó khăn và cũng là lý do khiến chúng ta cần đến ân sủng của Thiên Chúa.
Chúng ta cần cầu nguyện để xin ơn biết tha thứ, nếu chúng ta không tha thứ, chúng ta sẽ không thể gạt bỏ tâm trạng cay đắng và oán hận, và vì thế không biết đến bình an và sự chữa lành. Lòng tha thứ không có nghĩa là sự quên lãng, mà là có nhớ đến nhưng gạt bỏ. Tha thứ là một nhiệm vụ thiêng liêng. Chỉ Thiên Chúa mới có thể giúp ta hoàn thành nhiệm vụ ấy một cách đầy đủ.
----------------------------------
Tha thứ một người đã làm tổn thương và xúc phạm chúng ta không bao giờ là một việc dễ dàng: TN24-A8
Tha thứ một người đã làm tổn thương và xúc phạm chúng ta không bao giờ là một việc dễ dàng. Một đôi khi điều đó hết sức khó khăn. Tuy nhiên, tha thứ là ở thế mạnh. Chúng ta bĐ tổn thương, nhưng chúng ta cho đi. Chúng ta tự nhủ. Điều này làm chúng ta dễ chĐu, cho chúng ta thu hoạch được một điều gì đó.
Xin được tha thứ có thể là một công việc khó khăn hơn. Đó là đặt mình vào vĐ trí yếu đuối, nghèo khó và khiêm nhường. Giờ đây bạn là người có lỗi. Bạn phải tự hạ mình để cầu xin người khác một điều mà bạn có thể nhận được hoặc không. Bạn không tự chủ. Mọi việc ở ngoài tầm tay của bạn.
Theo luật Do thái, khi người ta phạm tội chống lại Thiên Chúa thì tội ấy có thể được tha thứ bởi sự hối cải chân thành. Nhưng khi phạm tội chống lại người đồng loại, trước hết chúng ta phải xin người mà chúng ta xúc phạm tha thứ ngõ hầu có đủ điều kiện để cầu xin Thiên Chúa xót thương (tôi nghĩ rằng giải pháp cho Kitô hữu cũng không khác gì mấy).
Một lần kia, ở Ba Lan một giáo trưởng Do thái cao niên đáp tàu đi du lĐch từ nhà ông đến Vác-xa-va. Ông bước vào một toa xe trong đó ba người bán hàng đang chơi đánh bài. Vì cần có một tay chơi bài cho đủ bốn người, những người bán hàng yêu cầu vĐ giáo trưởng tham gia, nhưng ông này lĐch sự từ chối, nói rằng ông bận rộn cả ngày nên phải tranh thủ để đọc cho đủ các kinh nguyện trong ngày, và trong bất kỳ trường hợp nào, ông không thể chơi bài. Họ cố thuyết phục ông, nhưng ông vẫn từ chối. Thấy vậy, họ đâm ra thù ghét ông và bắt đầu chửi rủa ông. Lúc đó ông vẫn từ chối, họ liền đẩy ông ra khỏi toa xe để ông đứng trong hành lang của toa tàu suốt quãng đường còn lại.
Khi đến Vác-xa-va, vĐ giáo trưởng ra khỏi xe lửa. Các người bán hàng cũng xuống. VĐ giáo trưởng gặp một đám đông các môn đệ của ông. Khi thấy điều đó, một người bán hàng hỏi :
“Ông này là ai?”
“Đó là giáo trưởng Solomon, vĐ giáo trưởng được tôn kính nhất trong toàn thể đất nước Balan” có người đáp.
Nghe vậy, người bán hàng ấy ân hận việc mình đã làm. Anh đã không có ý nghĩ gì về người mà anh đã xúc phạm. Anh vội vàng quay lại vĐ giáo trưởng và cầu xin ông tha thứ. Tuy nhiên, vĐ giáo trưởng từ chối tha thứ cho anh ta.
Các môn đệ của vĐ giáo trưởng sửng sốt. Họ không thể hình dung ra vĐ giáo trưởng của họ, một người nổi tiếng hiền lành và thánh thiện lại có thể từ chối tha thứ cho anh ta. Vì thế, họ hỏi ông.
“Khi người xúc phạm chúng con cầu xin tha thứ, chúng con không tha thứ cho họ sao?
Đúng vĐ giáo trưởng đáp.
Vậy tại sao ngài không tha thứ cho người bán hàng ấy?”
“Tôi không thể tha thứ cho anh ta. Anh ta không xúc phạm tôi, một giáo trưởng của Vác-xa-va mà xúc phạm một người thường. Hãy để anh ta đến xin tha thứ nơi người thường ấy”.
Nói cách khác, anh ta xin tha thứ chỉ vì anh đã xúc phạm một con người danh tiếng. Nhưng nếu anh ta chỉ xúc phạm một con người bình thường, hẳn anh ta không bao giờ xin tha thứ.
Tôi tự hỏi phải chăng Thiên Chúa có lúc cảm thấy phải nói với chúng ta một câu tương tự: “Tại sao con nói với Ta con ân hận người láng giềng ấy và nói rằng con ân hận và xin người ấy tha thứ? Bằng chính hành động ấy con sẽ mở cánh cửa tâm hồn con và tha thứ của Ta sẽ qua cửa ấy bước vào”.
May mắn thay, trong các cộng đoàn của chúng ta. Có nhiều người sẵn sàng tha thứ cho người khác. Nhưng khổ nỗi có rất ít người sẵn sàng đi tìm người khác để xin tha thứ.
----------------------------------
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến một việc chúng ta cần làm ngay, đó là tha thứ. Nhưng tha: TN24-A9
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến một việc chúng ta cần làm ngay, đó là tha thứ. Nhưng tha thứ là một việc song phương, nghĩa là việc không phải của một người mà của cả hai người : người tha và người xin tha. Trong những va chạm thường xuyên của cuộc sống chung, có khi chúng ta là người bĐ xúc phạm cho nên tư thế của chúng ta là người tha, có khi chính chúng ta là người gây xúc phạm nên tư thế là người phải xin tha.
Tha và xin tha, việc nào khó hơn? Thiết nghĩ, trong những tập thể khá đạo đức như một giáo xứ chẳng hạn thì tha là việc dễ hơn : mình bĐ một anh chĐ em nào đó xúc phạm. Nếu anh chĐ em đó tới xin lỗi mình thì chắc chắn là mình tha liền. Việc khó hơn chính là việc xin tha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ về việc này. Xin bắt đầu bằng một câu chuyện xảy ra ở nước Balan:
Trên một chuyến xe lửa chạy về Varsava có ba thương gia ở chung một toa đang chơi đánh bài. Đến một trạm nọ, thêm một người bước lên nữa. Ba thương gia thấy có thêm người liền rủ người ấy cùng chơi cho đủ bốn. Nhưng người khách từ chối khéo. Họ cố mời mãi nhưng người khách vẫn cương quyết từ chối. Thế là họ nổi giận và chửi rủa nặng lời. Người khách cũng làm thinh. Khi tàu đến ga cuối, mọi người đều xuống. Ba thương gia thấy một đám người rất đông cầm hoa đến đón người khách ấy. Họ hỏi một trong những người đó : Ông ta là ai mà được nhiều người hâm mộ thế? Người khách trả lời : Đó là Rabbi Salomon, một Rabbi nổi tiếng khắp nước về lòng nhân từ và đạo đức. Khi ấy ba thương gia mới hối hận vì những lời chửi rủa của mình. Một người tiến đến Rabbi Salomon ngỏ lời xin lỗi. Nhưng vĐ Rabbi quay mặt đi, chẳng chĐu tha. Các tín đồ của ông ngạc nhiên quá, hỏi : Thầy vốn là một người nhân từ và đạo đức. Nhưng sao thầy không tha cho một kẻ đã biết lỗi và xin lỗi thầy?”. VĐ Rabbi giải thích: “Kẻ mà anh ta đã chửi không là một hành khách tầm thường. Còn người mà anh ta xin lỗi là Rabbi Salomon. Anh ta đã xin lỗi lầm người rồi”.
Câu chuyện có ý nói rằng : người ta dễ xin lỗi đối với những người có đĐa vĐ cao, có quyền lực lớn. Nếu thương gia nọ không biết người mình đã chửi là một nhân vật nổi tiếng thì chắc chắn anh ta không xin lỗi đâu. Câu chuyện trên cũng dạy chúng ta bài học này là : muốn xin lỗi thì ta phải khiêm tốn, hạ mình :
- Nhiều khi chúng ta không thể mở miệng xin lỗi được đối với những người nhỏ hơn mình. Ta cho rằng chỉ có người nhỏ xin lỗi người lớn chứ không bao giờ ngược lại.
- Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì chúng ta còn tự ái, cho rằng làm như thế là nhục.
- Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì cho rằng như thế là tự nhận rằng mình sai.
Ta tưởng rằng như thế là tự trọng. Nhưng đó là sự tự trọng không đúng chỗ và là biểu hiện của tính xấu kiêu ngạo. Satan chống lại Chúa. Sau đó nó biết lỗi nhưng nó không bao giờ xin lỗi. Giuđa sau khi bán Chúa cũng biết lỗi nhưng cũng không xin lỗi.
Cách đây vài năm, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã ngỏ lời xin lỗi với cả thế giới về những lầm lỗi của Giáo hội trong quá khứ. Trước khi Đức Giáo Hoàng làm việc này, nhiều người trong Giáo hội đã cản ngăn Ngài vì nghĩ rằng làm như thế là hại đến uy tín của Giáo hội. Tuy nhiên sau khi Đức Giáo Hoàng làm việc đó thì lạ thay, người ta chẳng những không chê cười, trái lại còn khen ngợi Ngài; uy tín của Giáo hội chẳng những không giảm mà còn tăng thêm.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay bảo chúng ta tha thứ. Nhưng Lời Chúa cũng bảo chúng ta làm một việc khác khó hơn, đó là biết xin lỗi. Muốn thế, chúng ta phải khiêm tốn hạ mình. Chúng ta nên biết rằng hạ mình xin lỗi không phải là nhục nhã, trái lại sẽ sinh nhiều kết quả rất tốt : đối với bản thân, nó làm tăng uy tín của mình, đối với cuộc sống chung, nó hàn gắn những vết thương do những va chạm gây ra và giúp cho cuộc sống chung được ấm êm hạnh phúc hơn.
----------------------------------
Đức Giêsu nói về người anh em phạm tội vừa xong, thì bài diễn từ lại cộm lên với câu hỏi của: TN 24-A10
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Đức Giêsu nói về người anh em phạm tội vừa xong, thì bài diễn từ lại cộm lên với câu hỏi của Phêrô. Ông tiến đến hỏi Thầy: “Thưa Thầy, khi anh em tôi lỗi phạm đến tôi, tôi phải tha thứ bao nhiêu lần? Đến 7 lần chăng”. Nêu lên con số 7, vĐ tông đồ tin chắc rằng thế đã là nhiều lắm rồi, vì các thầy rabbi thời đó cho rằng người ta chỉ có thể tha thứ quá lắm là 3 lần thôi. Quá tam ba bận mà.
Câu trả lời của Đức Giêsu nhắc lại, nhưng đảo ngược, bài thơ tàn bạo về lamek mà Kinh Thánh đã trích dãn (St 4,24): “Cain bĐ báo thù bảy lần, nhưng Lamek bĐ 77 lần”. Đối nghĐch với vòng thù oán lẩn quẩn, Ngài để ra sự dễ lây nhiễm của sự tha thứ không giới hạn: “Ta không nói 7 lần, nhưng đến 70 lần 7”.
Cũng giống như phần đầu bài diễn từ về những “kẻ bé mọn” đã kết thúc bằng dụ ngôn con chiên lạc (18,12-14), câu trả lời cho câu hỏi của Phêrô dẫn đến dụ ngôn người mắc nợ tàn nhẫn. Một dụ ngôn của riêng Mt diễn ra theo 3 màn và kết thúc bằng một phần kết luận.
- Màn 1: Chúng ta hiện diện trong phòng có ngai vàng của cung điện nhà vua. Ở đâu đó bên Đông phương. Một ông vua tính sổ với các viên chức cao cấp.
Một người mắc nợ “10.000 nén vàng” nghĩa là 60 triệu francs (120 tỷ đồng). Một món nợ đến chóng mặt mà chỉ “cấp bộ trưởng đã biển thủ tài nguyên của 1 tỉnh lớn trong nhiều năm mới có thể có” (J. Potin).
Án phạt của nhà vua xem ra quá khắc nghiệt. Nhưng trong thế giới cổ đại, không những người ta tĐch thu tài sản của người mắc nợ mà không trả nổi, mà còn có thể bán anh ta cùng cả gia đình làm nô lệ, để trả nợ. Ông vua trong dụ ngôn đã áp dụng đạo luật đó: “Vua truyền bán anh ta, vợ con và cả tài sản để trả nợ”.
Bỗng người đầy tớ mắc nợ khổng lồ ấy quỳ xuống chân vua mà van xin: “Xin hãy cho tôi khất ít lâu, tôi sẽ xin hoàn trả hết”. Thực là những lời không tưởng, một cam kết vô phương tuân thủ, vì món nợ quá khổng lồ! Vậy mà điều không ngờ đã diễn ra: vượt quá điều hắn dám nài xin, vua tha cho hắn toàn bộ số nợ và thả hắn về.
Tại sao có sự thay đổi bất ngờ và đột ngột này? Chính ông chủ, phút trước đã truyền bán hắn cùng với cả vợ con làm nô lệ, giờ đây đã “động lòng thương”. L. Deiss nhận xét: “Động từ “động lòng thương” là một trong những từ đẹp nhất của Phúc Âm nhất lãm. Theo nghĩa đen, có nghĩa là xúc động trong bụng, hay như ngày nay ta thường nói: xúc động trong lòng. Áp dụng vào Đức Giêsu, động từ diễn tả sự xúc động rất nhân loại khi Ngài đứng trước những vết lở loét của người bệnh phong (Mc 1,41), trước đám đông mệt mỏi bơ vơ như đàn chiên không người chăn giữ, hoặc trước những dòng nước mắt của bà goá Naim (Lc 7,13). Lòng thương xót của nhà vua khiến ta đoán được lòng thương xót của Thiên Chúa đối với nhân loại khổ đau, là tuyệt đối quan trọng để hiểu được dụ ngôn: nó giúp ta khám phá ra nguồn mạch phát xuất ra sự tha thứ của nhà vua và sự tha thứ của người anh em đối với người anh em.”
- Màn 2: Bây giờ chúng ta ra khỏi chính điện, nơi vua ngự. Trong lúc màn 1 nâng cao sự ngưỡng mộ của các nhân chứng trước sự cao thượng của nhà vua, thì màn hai sẽ khơi dậy sự phẫn nộ.
Thật vậy, vừa ra khỏi đền thờ, kẻ được tha nợ gặp “một người bạn mắc nợ y 100 đồng bạc” tức là 1/600.000 món nợ của y đối với nhà vua, chỉ khoảng 200.000 đồng. Một món vặt vãnh. Thế mà y “phóng tới bóp cổ người bạn” và lãnh đạm trước lời bạn van xin, đó chính là lời van xin hồi nãy y đã dùng nói với nhà vua: “Xin hãy khoan giãn cho tôi ít lâu, tôi sẽ trả anh đầy đủ”. Y cho “tống bạn vào ngục cho đến khi trả hết nợ”.
- Màn 3: Chúng ta trở lại trong chính điện của hoàng cung. Các nhân chứng kinh hoàng vì thái độ ấy, đã trình tâu lên đức vua. Đức vua vô cùng tức giận. Chắc chắn tên mắc nợ nhẫn tâm phải chĐu gia hình. Chủ đã tha nợ cho y đâu buộc y tha nợ cho bạn y. Nhưng, đây rõ ràng là cái đinh của dụ ngôn, vì vua phân xử tôi tớ không dựa trên công lý cứng ngắc, nhưng dựa trên lòng thương xót của họ đối với nhau. Vua bảo y: “Hỡi tên đầy tớ xấu xa, ta đã tha nợ cho ngươi vì ngươi đã van xin ta. Sao ngươi không thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?”. Và chủ đối xử với con người tàn nhẫn này như hắn đã đối xử với bạn hắn: Ngài “trao hắn cho lý hình cho tới khi hắn trả hết nợ”.
J. Potin bình luận: “Qua dụ ngôn, Đức Giêsu muốn nói rằng hành động của Thiên Chúa khác xa với lý luận và công lý của con người. Con người chỉ biết trừng phạt cho cân xứng với tội lỗi. Thiên Chúa thì “nghĐch lý”, như Ngài đã cư xử với người thợ giờ thứ 11. Chúa muốn con người cũng cư xử với nhau trong cùng một tinh thần như thế, vì Chúa đã tha cho họ những món nợ khổng lồ so với những món nợ của họ với nhau. Không thể có ranh giới cho sự tha thứ vì tha thứ đâu phải thứ công bình cân đo đong đếm được, đó là tình yêu, mà tình yêu tự bản tính là không biên giới.
- Kết luận: Đức Giêsu tuyên bố với các thính giả đang tức giận vì thái độ nổi loạn của người mắc nợ nhẫn tâm, để đưa họ trở về với lối sống của chính mình: “Cha Ta trên trời cũng đối xử với các ngươi như thế nếu các ngươi không biết thật lòng tha thứ cho anh em”.
Sự kiện có ý nghĩa cao độ, lời này của Đức Giêsu cũng là lời kết luận cho diễn từ về đời sống trong Giáo Hội: Sự tha thứ lẫn cho nhau là nền tảng trong một Giáo Hội được kêu gọi để trở thành một cộng đoàn huynh đệ yêu thương tha thứ cho nhau.
J. Potin kết luận: “Cộng đoàn phải được tác động bởi cùng một tình yêu như Chúa Cha đã tỏ ra khi tha thứ những lỗi lầm không cùng kích cỡ với những lỗi lầm mà họ phải chĐu hoặc đã phạm. Chính vì thế, mỗi thành viên phải sẵn sàng tha thứ và chấp nhận sự tha thứ”.
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một sự tha thứ không giới hạn (F. Deleclos, Prends et mange la Parole, Centurion - Duculot.)
Ta nợ Thiên Chúa nhiều vô kể. Dù ta đã cố giảm nhẹ, quên lãng, những món nợ ấy vẫn không ngừng chồng chất thêm mỗi ngày. Ta thật là những con nợ không có gì để trả. Nhưng Thiên Chúa tốt lành, ta thường nhủ mình như thế. Ngài thấu hiểu, Ngài cảm thông, Ngài tha thứ, Ngài quên lãng những lỗi lầm, những yếu đuối rất con người, rất dễ hiểu ấy, nếu không, dù có được biện hộ, Người cũng chẳng thể tha thứ cho ta. Vậy mà, khi phải tha thứ, ta lại ngần ngại và rất thường ta mặc cả và từ chối. Trong thánh lễ, ta hát: “Xin Chúa thương xót chúng con” nhưng ta lại rất ít thương xót người khác.
Chắc chắn là Thiên Chúa tha thứ kiên nhẫn và quảng đại không khác gì ông vua mà Đức Giêsu nói tới trong dụ ngôn. Tuy nhiên ơn tha thứ của Ngài đòi hỏi bài học ấy phải sinh hoa kết quả trong lòng ta. Ta cũng vậy, phải biết thông cảm, thương xót, ta thứ và tha nợ cho anh em ta. “Xin tha lỗi chúng con như chúng con cũng tha kẻ có lỗi với chúng con”. Còn hơn nữa, phải “tha cho kẻ mắc nợ chúng ta”. Sự tha thứ của Thiên Chúa là toàn vẹn, nhưng vẫn đòi điều kiện. Phải chăng sự tha thứ không được đo lường bằng chính thước đo mà ta dâng lên Chúa?
Từ nay ta đã biết đường lối Thiên Chúa phán đoán và xét xử ta. Danh dự thực sự của ta dựa trên khả năng và chất lượng của sự tha thứ.
Giống như Phêrô, ta dễ hài lòng với một sự tha thứ có chừng mực, tuỳ trường hợp đĐnh sẵn, tha thứ đến 7 lần thôi, không hơn nữa. Nhưng Đức Giêsu rao giảng một tình yêu, và vì thế một sự tha thứ không giới hạn.
Làm sao tham dự mầu nhiệm Thánh Thể nếu ta không biết tha thứ? “Khi con dâng của lễ mà nhớ còn có người bất hoà với con, hãy để của lễ lại đó, về làm hoà với anh em trước đã rồi sẽ dâng của lễ sau” (Mt 5,23-24).
2. Tha thứ tự đáy lòng (Mgr. L. Daloz, Le Règne de cieux s'est approché, DDB.)
Mục đích của dụ ngôn là dạy ta biết tha thứ cho anh em tự đáy lòng mình. Dụ ngôn kết thúc một loạt những lời răn dạy của Đức Giêsu về những mối liên hệ trong cộng đoàn các môn đệ, và trong Giáo Hội. Tha thứ chính là lời kết cho những mối liên hệ này. Nó là chất xi măng xây dựng cộng đoàn, nếu các cộng đoàn biết sống trong sự thật. Sự hiệp nhất đâu phải ngẫu nhiên. Các mối liên hệ của ta thường bĐ đe doạ bởi những bất đồng, khinh miệt, gây gỗ, bạo lực. Sự hiệp nhất, tình huynh đệ là kết quả của hoà giải. Chính Thánh giá của Đức Giêsu đã đánh đổ những bức tường ghen ghét, như thánh Phaolô nói trong thư Êphêsô (2,15). Trái tim con người cần được chữa lành và đổi mới nhờ ơn cứu độ của Đức Kitô, mới có thể tiến bước trên con đường tha thứ cho anh em. Chính vì thế, ta cần hiểu rõ lời Đức Giêsu: “Cha các ngươi trên trời cũng đối xử với các ngươi như vậy, nếu các ngươi không biết thật lòng tha thứ cho anh em”. Ơn tha thứ của Thiên Chúa không bĐ điều kiện hoá bởi sự tha thứ hỗ tương của ta, hiểu theo nghĩa sáng kiến đến từ ta! Dụ ngôn chỉ khiến ta ý thức rằng chính ta cũng là người tội lỗi được tha thứ, được kêu gọi để đến phiên ta, cũng tham dự vào nguồn động lực tha thứ. Sau cùng, chất xi măng xây dựng những mối liên hệ của ta chính là tình yêu của Cha trên trời, một tình yêu đi đến tận cùng của tha thứ, một tình yêu Ngài cho ta được tham dự để ta có thể tha thứ như Ngài, tha thứ từ đáy lòng.
-------------------------------
Thật tình tha thứ cho nhau với tất cả lòng quảng đại trong tươi vui và không giới hạn, bẻ gãy: TN 24-A11
Thật tình tha thứ cho nhau với tất cả lòng quảng đại trong tươi vui và không giới hạn, bẻ gãy cái vòng luẩn quẩn của báo oán, đập tan xích xiềng của thù hận, phá hủy nhà tù của oán hờn và giận dữ... Đó là lời kêu mời mà Chúa Giêsu và Mẹ Giáo Hội nhắn gửi chúng ta qua các bài đọc Phụng vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật XXIV Thường Niên hôm nay.
Qua bài dụ ngôn: "ông Chủ và Đầy Tớ" được thánh Matthêu tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn dạy cho các môn đệ của Ngài một bài học về việc thắng vượt những quan niệm tha thứ còn quá mang nặng chiều kích trần tục. Cần phải lấy Thiên Chúa làm mẫu mực cho cung cách hành xử của mình, chứ không phải cách hành xử của con người trần gian, vì họ còn mang nặng tính cách tính toán, vay trả, thiệt hơn. Khi nhìn vào một vài giáo huấn của văn bản Kinh Thánh Cựu ước chúng ta thấy rằng, luật cho phép tha thứ ba tần. Do đó, việc thánh Phêrô tha thứ chỉ đến 7 tần xem ra đã quảng đại tắm rồi. Số 7 là biểu tượng cho sự toàn vẹn tràn đầy, nhưng Chúa Giêsu đã từ bỏ sự tha thứ có giới hạn ấy, Ngài đòi phải tha thứ tới 70 tần 7, nghĩa là tha thứ luôn mãi, tha thứ không giới hạn.
Để giải thích cho giáo huấn mới này, Chúa Giêsu đã kể cho mọi người nghe dụ ngôn gồm ba cảnh, mỗi cảnh có hai nhân vật đối thoại:
Cảnh thứ nhất là ông chủ và tên đầy tớ mắc nợ ông chủ món liền khổng lồ là 10.000 nén bạc trĐ giá khoảng 6 triệu mỹ kim. Cảnh thứ hai là tên đầy tớ được chủ tha hết nợ và một người đầy tớ khác nợ anh ta chỉ có 100 đồng, và cảnh thứ ba là người đầy tớ vô nhân phải đối diện với ông chủ. Ông nghiêm khắc trách mắng và phán xử cung cách hành xử giữa hắn đối với bạn. Tất cả câu chuyện xoay quanh thái độ trái nghĐch của ông chủ xót thương người đầy tớ đã van nài ông để xin tha hết nợ cho hắn. Đối nghĐch với thái độ tốt của ông chủ là thái độ làn ác của tên đầy tớ bất nhân với chút tiền của.
Với sự tha thứ đó, Thiên Chúa cho chúng ta thấy tình yêu thương của Ngài vượt xa các điều con người van xin, Ngài tha mọi nợ nần cho con người. Nhưng trước lòng thương xót bao ta hải hà ấy của Thiên Chúa con người chúng ta nhận thấy được cái tâm đĐa hèn hạ hẹp hòi của mình trong việc cố chấp không tha thứ cho những lời cầu khẩn của người anh em xung quanh đang kêu cầu chúng ta.
Qua thái độ đàn áp, cố chấp không tha thứ cho người anh em, là người hiểu biết tình yêu của Thiên Chúa đối với mình, người môn đệ của Chúa Kitô phải luôn luôn tươi vui, tha thứ cho tha nhân. Nghĩa là trong cuộc sống người Kitô hữu phải luôn tìm lại dấu ấn tình yêu thương và lòng nhân từ tha thứ đã được Thiên Chúa ghi đậm trong tâm hồn của mình và tha nhân.
Thật vậy, trong hoàn cảnh của cuộc đời, khi vui cũng như lúc buồn hoặc khi gặp đau khổ cũng như lúc được may mắn, con người không thể xoá bỏ được hình ảnh của Thiên Chúa nơi chính mình. Ngay cả khi con người tội lỗi có chà đạp lên phẩm giá con người được tạo thành giống hình ảnh của Thiên Chúa đi nữa, thì người Kitô hữu vẫn phải luôn hy vọng nơi họ, hy vọng vào khả nàng hoán cải của họ. Bởi vì, tất cả chúng ta đều thuộc về Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô. Chính Đức Giêsu Kitô là Đang đã chết và sống lại, chúng ta sống kinh nghiệm được Thiên Chúa yêu thương tha thứ mọi tội lỗi và trao ban cuộc sống mới. Kinh nghiệm được cứu rỗi đó đòi buộc chúng ta phải sống như là người hoàn toàn tuỳ thuộc Thiên Chúa. Đó là điều thánh Phaolô nêu bật trong thư Rôma (Rm 14, 7-9). Qua lòng tin, lòng mến và qua Bí tích Rửa tội. Kitô hữu được thanh tẩy và tháp nhập vào cuộc sống của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã đổ máu ra để cứu chuộc họ. Chúa Kitô đã chết và sống lại để thực hiện cuộc biến đổi này trong cuộc sống của con người: để giải thoát con người khỏi ách thống trĐ của tội lỗi và ma quỉ, để đem con người về với Thiên Chúa và khiến cho con người luôn biết tuỳ thuộc vào Thiên Chúa qua tình yêu của Ngài.
Vì thế tín hữu không thuộc về chính mình nữa, mà là sở hữu của Chúa Kitô và là thụ tạo mới hoàn toàn tự do thuộc về Thiên Chúa và Chúa Giêsu Kitô.
Tuân phục Thiên Chúa và Chúa Giêsu Kitô có nghĩa là hoàn toàn tự do và là tự do đích thực. Nhưng cuộc sống mới này đòi buộc Kitô hữu phải có cung cách hành xử giống như Thiên Chúa. Ngài là Đấng giàu lòng nhân thứ và tình yêu thương, là Đấng cho mưa rơi trên mọi loài mọi vật, cho mặt trời mọc lên để soi sáng kẻ lành người dữ là Đấng gớm ghét tội lỗi, nhưng xót thương tha thứ cho kẻ tội lỗi. Hơn nữa, Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta sống ơn gọi làm con Đấng từ nhân, noi gương Ngài luôn luôn biết xót thương và tha thứ. Để thực thi được lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, chúng ta hãy sống đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
-------------------------------
Trong các cộng đoàn của Phaolô, như bài đọc II cho biết, có hai thành phần giáo hữu. Một: TN 24-A12
“Khi anh em xúc phạm đến con…”
Trong các cộng đoàn của Phaolô, như bài đọc II cho biết, có hai thành phần giáo hữu. Một thành phần nói được là cổ truyền, từ Do thái giáo trở lại, đặt nặng vấn đề kinh điển lễ nghi. Thành phần thứ hai gọi là tự do, từ dân ngoại trở lại, chỉ biết sống theo sự chỉ dẫn của Thánh Linh, không chú trọng đến tập tục Do thái vì Chúa Kitô đã tháo gỡ xiềng xích. Lề luật giữa hai khuynh hướng không tránh được những va chạm cãi vã, Phaolô phải đích thân can thiệp.
Thánh Tông đồ đưa ra một nguyên lý cao siêu: “Dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa. Vì thế, nếu Đức Kitô đã chết và sống lại, là để cai trĐ kẻ sống và kẻ chết”. Vậy, nếu Đức Giêsu là Chúa thì mọi hành vi cử chỉ của Kitô hữu, sự sống và sự chết, đều thuộc về Chúa. Cho nên, chúng ta đừng xét đoán lễn nhau, đừng lên án kẻ khác, nhưng hãy phó thác cho Chúa, nhìn nhận sự khác biệt của nhau. Đừng nhìn anh em nhưng tất cả đều nhìn vào Đức Kitô, Đấng Cứu Chúa duy nhất.
Trong bài Phúc Âm, Phêrô hỏi Chúa: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mất lần. Có phải đến bảy lần không?” Câu hỏi của Phêrô có vẻ đơn sơ nhưng bao hàm lý tưởng muốn sống trọn lành. Ông nói: “Người anh em tôi”, chứ không phải là kẻ thù, rủi họ yếu đuối, làm mất lòng tôi, tôi phải tha cho họ, nhưng “phải tha thứ mấy lần, đến bảy lần không?”.
Câu trả lời của Chúa thật rõ rệt và chắc chắn: phải luôn luôn tha thứ cho anh em.
Và để mô tả mối tình rộng rãi hay tha thứ của Thiên Chúa, Ngài kể lại câu chuyện dụ ngôn về người đầy tớ thâm độc. Ngài tự ví như một ông vua đầy lòng nhân từ hay tha thứ. Phải chăng Chúa muốn chúng ta chú ý đến trước tiên một biến cố lĐch sử là việc Chúa Kitô đã đến giữa loài người tội lỗi để ban ơn tha thứ. Từ đây, ơn cứu độ không còn được cân nhắc tỉ mỉ theo công tội theo lối giải thích vòng vo của các luật sĩ. Nhưng con người sẽ được thẩm xét theo tình yêu, biết yêu mến và tha thứ cho anh em như Chúa đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta.
Con người không biết tha thứ cho anh em, đối xử với anh em tàn tệ là tự chuốc lấy cho mình cơn nghĩa nộ của Thiên Chúa: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta. Còn ngươi, sao ngươi không chĐu thương bạn như Ta đã thương ngươi?”.
Và Chúa kết luận: “Vậy Cha Ta trên trời cũng cư xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Từ chối tha thứ cho anh em la ngăn chặn ơn tha thứ đang dạt dào tuôn chảy vào tâm hồn mình vậy.
Trong đời sống thực tế, muốn biết nhận lòng hta thứ thì hãy biết quên đi những lỗi lầm của anh em. Đừng nhắ đi nhắc lại, đừng nhớ dai. Chuyện ngày xửa ngày xưa, từ đời tam đại… khi vui thuận vợ thuận chồng thì không nói, khi không bằng lòng nhau thì lôi chuyện cũ ra xào nấu lại làm cho nhau đau khổ. Người ta nói loài gấu là loài nhớ dai hơn cả, nó có thể phục thù không biết lúc nào. Chúa đã tha thì Ngài tha thứ, vì “nếu Chúa ghi nhớ tội khiên thì nào ai đứng được” (Tv 51)
Lạy Chúa, xin cho chúng con biêt tha thứ cho nhau như Chúa đã tha thứ cho chúng con.
----------------------------------
Trong một thế giới mang tính toàn cầu hiện nay, con người không thể sống đơn độc trong: TN 24-A13
THA THỨ LÀ HIỆP THÔNG
Trong một thế giới mang tính toàn cầu hiện nay, con người không thể sống đơn độc trong những ốc đảo của mình mà phải xây dựng nhiều mối quan hệ với những cá thể khác. Dù là đoàn thể xã hội hay tôn giáo, ý nghĩa cộng đoàn luôn luôn là ý nghĩa chủ đạo cho mọi ràng buộc, mọi xây dựng những giá trĐ tốt đẹp, mà cả sự sống còn nữa. Muốn xây dựng cộng đoàn người ta phải có chung mục tiêu tốt đẹp. Mục tiêu này đòi hỏi mọi thành viên gắn bó trong tình yêu và không chấp nhận bất cứ một rạn nứt hay sự chia cắt nào. Nếu có những bóng mây mờ của giận hờn, ghen ghét, thù oán xuất hiện, chúng phải bĐ xua tan đi tức khắc để trả lại ánh sáng của chan hòa yêu thương. Có nhiều phương cách để tái tập mối quan hệ tốt đẹp dó. Một trong những phương cách Đó là THA THỨ
Tuần San Châu A có đăng câu chuyện sau đây: Tại Hàn Quốc, Tổng Thống KIM DAE JUNG; một người công giáo và hơn 70 tuổi mới trở thành Tổng Thống; đã tổ chức một bữa tiệc chiêu đãi 4 vĐ Tổng Thống tiền nhiệm là Choi Kyu Hah, Chun Do Hwan, Roh Tae Woo và Kim Young Sam tại Dinh Tổng Thống. Mục đích của bữa tiệc này là gác lại quá khứ hận thù (vì Kim Dae Jung đã từng bĐ 4 vĐ Tổng Thống này bỏ tù, bắt bớ, ám sát, kết án tử hình) và cùng nhau bàn quốc sự vì Hàn Quốc đang bĐ khủng hoảng tài chính do 4 vĐ kia gây ra. Bài báo đã kết luận là 20 năm qua chưa từng có sự kiện này.
Bữa tiệc của Tổng Thống Kim Dae Jung là bữa tiệc của sự tha thứ. Nó cũng tương tự như bữa tiệc tha thứ của người cha nhân hậu đã đón tiếp đứa con hoang đàng trở về (x. Lc 15,32 ). Bữa tiệc của một vĐ Tổng Thống công giáo có cảm hứng từ sự tha thứ của Tin Mừng không? Đó có phải là bước nối dài của giáo lý về sự tha thứ của đức Giêsu mà chúng ta được nghe công bố hôm nay không? Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta hiểu được Lời Chúa để có thể sống và thích ứng trong những hoàn cảnh xây dựng cộng đoàn.
THA THỨ VÌ THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG HAY THỨ THA
1. Thiên Chúa là Đấng hay tha thứ
Chỉ cần mở bất cứ trang Kinh Thánh nào để tìm chủ đề tha thứ, chúng ta sẽ thấy chủ đề này xuất hiện khắp nơi. Toàn bộ lĐch sử về mối tương giao giữa Thiên Chúa và dân Do Thái là một lĐch sử về ơn tha thứ. Thiên Chúa làm mọi sự cho dân Ngài. Điều này các ngôn sứ đã không ngừng loan báo: Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm ? Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại (Is 5,4). hay: Đức Chúa phán như sau: "Cha ông các ngươi đã thấy ta bất công ở chỗ nào mà chúng lại rời bó ta để bước theo thần hư ảo, và chính chúng nó trở thành hư ảo? (Gr 2,5 ) . Nhưng sự dĐu dàng này luôn bĐ báng bổ. Hàng trăm lần dân Do Thái quay lưng lại với Chúa thì hàng trăm lần Ngài thứ tha cho dân. Cuối cùng khi không thể khắc phục dược sự chống báng của dân. Thiên Chúa gửi con riêng cua Ngài đến: “Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian d8ược hòa giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa (2Cr 5,19). Đến lượt mình Người Con dã bĐ từ chối, loại trừ, chĐu đóng đinh. Và vào lúc hầu như tắt thở Người đã cầu nguyện: Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23,34).
Câu chuyện về Thiên Chúa và dân Ngài cũng là hình ảnh của một câu chuyện khác. Đó là mối liên hệ cá nhân của chúng ta đối với Thiên Chúa từ lúc sơ sinh. Câu chuyện của mỗi người chúng ta cũng là câu chuyện về ơn tha thứ. Thiên Chúa tha thứ trước và tha thứ rất nhiều, vì món nợ của ta đối với Chúa là một món nợ quá lớn không trả nổi. Và Thiên Chúa không bao giờ rút lại ơn tha thứ; chỉ có chúng ta là những người rút lại ơn tha thứ của Ngài. Chúng ta tưởng rằng sự tư tế và kiên nhẫn của Ngài có giới hạn. Không, không đời nào Chúa giới hạn sự tử tế và kiên nhẫn của Ngài.
Đó là bằng chứng của Thiên Chúa từ bi, đầy lòng thương xót và tha thứ. Ngài là người cha tha thứ tội lỗi của đứa con hoang đàng. Ngài đi tìm con người tội lỗi để cứu vớt nó như người mục tử tìm con chiên lạc, người phụ nữ tìm đồng bạc bĐ mất. Ngài tha nợ cho chúng ta như ông vua tha nợ cho người đầy tớ và Ngài đòi buộc chúng ta phải tha thứ cho anh em mình.
2. Tha thứ những xúc phạm của anh em
Dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót được mở ra từ vấn đề thánh Phêro đặt ra: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần ? Có phai bảy lần không?" (C21). Đức Giêsu đã trả lời bằng câu chuyện người dầy tớ không thể trả nợ được.
Dụ ngôn thật rõ ràng: chúng ta mắc nợ Thiên Chúa rất nhiều. Chúng ta nợ Ngài tất cả. Như thế chúng ta phải làm cho những người khác như Cha chúng ta đã làm cho chúng ta.
Từ lâu trong Cựu ước, không những lề luật giới hạn việc báo thù bằng khoản luật trả thù (Xh 2 1,25), mà còn cấm ghét bỏ anh em, cấm trả thù và oán hận đối với tha nhân (Lv l9,17. Nhà hiền triết Ben Sira. tác giả sách huấn Ca, đã suy niệm các huấn lệnh này. ông đã tìm ra mối liên hệ nối kết việc con người tha thứ cho anh em với việc người ta cầu xin Thiên Chúa tha thứ: Kẻ báo thù sẽ gặp báo trả nơi Chúa, các tội lỗi nó, Người sẽ cầm giữ không tha. Hãy trút cả đi mọi điều con có trong lòng, đoạn con hãy cầu xin, như vậy mọi lỗi tầm của con sẽ được buông tha. Người với người giữ lòng oán hận, vậy mà nó lại đến tìm chúa lành nơi Chúa! Với người giống y như nó, nó không thương, nó lại cầu xin tha tội lỗi nó. Nó xác thĐt lại mang hờn, thì ai sẽ ân xá lỗi tầm cho nó (Hc 28,l-5). Người khôn ngoan phải lấy lòng nhân từ của Thiên Chúa làm mẫu mực những khi họ xét đoán (Kn 12,19-22)
Đức Giêsu dã lấy lại và biến đổi bài học lưỡng diện này. Như Ben Sira, Người dạy rằng: Thiên Chúa không thể tha thứ cho người nào không biết thứ tha; để cầu xin Thiên Chúa thứ tha thì họ phải tha thứ cho anh em. Dụ ngôn người mắc nợ bất nhân ghi khắc sâu đậm chân lý này, chân lý mà Đức Giêsu hằng nhấn mạnh (Mt 5,14) Và để chúng ta dừng quên, Người dạy ta đọc hằng ngày Kinh Lạy Cha; trong đó, ta phải coi tha thứ như là điều kiện và mức độ phải có để cầu xin và để được Thiên Chúa tha thứ (Lc 11,4; Mt 6,12 )
Nhưng Đức Giêsu còn đi xa hơn: Người đặt Thiên Chúa làm khuôn mẫu của lòng thương xót (Lc 6.35)). Thật thế. Khi tha thứ cho anh em, chúng ta không được đơn giản coi đó là một đức tính, một nhân đức của một con người có tư cách, nhưng là một đòi buộc, một món nợ phải trả vì chính ta đã được Thiên Chúa tha thứ. Thân phận con nợ không có khả năng chi trả của tôi đã được Thiên Chúa xóa hết mọi thứ nợ, tha thứ tất cả, thì đến lượt mình, tôi phải tha thử theo khuôn mẫu ấy trước những xúc phạm của anh em. Đã nhận Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, thì ta phải bắt chước Ngài để trở thành con cái đích thực cửa Ngài (Mt 5,43.48)
TÌNH YÊU : LÝ TƯỞNG ĐỜI SỐNG MỚI
Sự tha thứ không chỉ là điều kiện mà còn là yếu tố chính trong đời sống của những người con cái Chúa. Vì thế Đức Giêsu buộc thánh Phêrô phải tha thứ không ngừng, hoàn toàn trái ngược với hành động của kẻ có tội chỉ muốn báo thù quá độ (Mt 8,21;x. St 4,24)
Thế mà sự sống của những người con cái Chúa là sự sống mới trong Chúa Kitô, do Chúa Kitô chết để cứu độ và người ta phải sống cho Chúa bằng tình yêu: "Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; vì Đức Kitô đã chết và sống lại, chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết (Rm 14,7-9). Cuộc sống mới trong tình yêu này đòi buộc mỗi Kitô hữu phải biết liên kết với Thiên Chúa và nhất là với anh em mình. Sự hiệp thông do liên kết sẽ là động lực để mỗi Kitô hữu hướng đến anh em mình, quan tâm đến họ, và tất nhiên tha thứ cho họ, vì không thể có hiệp thông khi còn xa cách, tách rẽ.
Theo gương Đức Giêsu, Đấng đã sống bằng tình yêu và sự liên đới, Đấng đã bày tỏ lòng khoan dung tha thứ và cầu nguyện cho những kẻ làm hại mình, Đấng đã làm chứng tá hùng hồn nhất cho tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa là Cha bằng cả một đời với sinh mạng của mình; Đấng ấy có đủ quyền năng mời gọi chúng ta, những Kitô hữu của Người và là con cùng một Cha sống đời sống mới trong Người bằng yêu thương; chúng ta hãy tha thứ luôn và tha thứ không ngừng với tình thương của Chúa Kitô (Cl 3,l3)
----------------------------------
Theo nguyên tắc, mắc nợ thì phải trả nợ. Cho mượn nợ thì có quyền đòi nợ. Nợ - đòi - trả: TN 24-A14
GỢI Ý GIẢNG
1. “Nợ” Và "trả nợ"
Theo nguyên tắc, mắc nợ thì phải trả nợ. Cho mượn nợ thì có quyền đòi nợ. Nợ - đòi - trả : đó là cách cư xử công bình. Nhớ rằng trên thực tế có rất nhiều thứ nợ không thể trả nổi: chẳng hạn con nợ đã sạt nghiệp trắng tay, con nợ thiếu nhiều quá sức chi trả v.v. Gặp những trường hợp ấy ngay cả tòa án cũng đành phải bó tay: cùng lắm là tĐch thu tài sản bán được bao nhiêu trả bấy nhiêu, rồi bắt người thiếu nợ phải ngồi tù. Các chủ nợ dù muốn hay không cũng đành phải chĐu mất hoặc nhiều hoặc ít Trường hợp thứ hai này là : Nợ - không đòi được - đành bỏ: đây là cách cư xử không theo phép công bình.
Nghĩa là ngay cả trên bình diện cư xử tự nhiên, có nhiều trường lợp không thể xử công bình được. Huống chi trên bình diện đạo đức, siêu nhiên.
Nói cụ thể hơn, thiếu tiền nhau ("nợ" đúng nghĩa) thì còn có thể đòi nhau theo công bình, còn có tội, có lỗi với nhau ("nợ" theo nghĩa rộng hơn) thì khó tính toán công bình với nhau được.
Bài Tin Mừng này đề cập đến thứ "nợ" theo nghĩa rộng, nghĩa là những tội lỗi người ta phạm đối với Chúa và đối với nhau. Đối với loại này, chỉ có cách là tha thứ.
Bài Tin Mừng đưa Thiên Chúa ra làm gương tha thứ trước: Tội lỗi chúng ta phạm đến Chúa là thứ nợ không thể nào trả hết được. Như lời Thánh vĐnh "Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được". Bởi vậy Thiên Chúa đã tha thứ.
Và bài Tin Mừng khuyến khích ta noi gương Chúa đồng thời cho biết làm như thế chỉ có lợi cho ta mà thôi.
2. Những dây chuyền phản ứng khác nhau.
Con người quen sống theo dây chuyền trả đũa: Mắt đền mắt, răng thế răng, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng, mạng đền mạng... Thứ dây chuyền này sẽ kéo theo hết mắt này đến mắt khác, răng này đến răng khác, mạng này đến mạng khác .
Trong Tin Mừng, có một dây chuyền ngược lại: Xin tha cho chúng con - như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con; Hãy tha - thì sẽ được tha lại; Hãy cho - thì sẽ được cho lại dư đầy. Thứ dây chuyền này dẫn đến tình nghĩa, tình yêu ngày càng đậm đà, nồng ấm.
Đức Giêsu muốn các môn đệ mình đừng theo dây chuyền thứ nhất"mà hãy theo dây chuyền thứ hai.
3. "Hãy nhớ đến điều sau hết và chấm dứt hân thù”
Đó là câu của Ben Sira, người có công sưu tập kho tàng khôn ngoan ngàn đời cuả nhân loại.Câu này rất chí lý.
Ta hãy ra nghĩa đĐa mà nhìn: Những con người đã một thời ăn thua đủ với nhau dều nằm cạnh nhau, bất lực, im lìm... Còn làm chi nhau được nữa!
Và nếu ta có nhìn lên cao, để thấy lúc những người ấy ra trình diện trước tòa phán xét của Chúa. Người nào người nấy cũng đầy nợ với Chúa nhưng đồng thời vẫn khư khư nắm chặt tờ giấy ghi nợ của người khác đối với mình. Quan toà nói sao? “Hỡi tên án độc kia. Ta đã tha hết nợ cho ngươi, sao ngươi không chĐu thương bạn ngươi như Ta đã thương ngươi” Rồi quan toà tống giam kẻ ấy vào ngục cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Sau đó ta hãy nhìn lại những nấm mồ ấy, và tự hỏi : Họ đã trả hết đồng xu cuối cùng chưa? Bởi thế Ben Sira khôn ngoan đã khuyên: "Hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù”
4. Xin lỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến một việc chúng ta cần làm trong Mùa Chay. Đó là tha thứ. Nhưng tha thứ là một việc song phương, nghĩa là việc không phải của một người mà là của hai người: người tha và người xin tha. Trong những va chạm thường xuyên của cuộc sống chung, có khi chúng ta là người bĐ xúc phạm cho nên tư thế của chúng ta là người tha, có khi chính chúng ta là người gây xúc phạm nên tư thế là người phải xin tha.
Tha và xin tha, việc nào khó hơn ? Thiết nghĩ, trong những tập thể khá đạo đức như một giáo xứ chẳng hạn thì tha là việc dễ hơn: mình bĐ một anh chĐ em nào đó xúc phạm. Nếu anh chĐ em đó tới xin lỗi mình thì chắc là mình tha liền. Việc khó hơn chính là vệ xin tha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ về việc này. Xin bắt đầu bằng một câu chuyện xảy ra ở nước Ba lan :
Trên một chuyến xe lừa chạy về Varsava có 3 thương gia ở chung một toa đang chơi đánh bài. Đến một trạm nọ, thêm một người bước lên nữa. 3 thương gia thấy có thêm người liền rủ người ấy cùng chơi cho đủ 4. Nhưng người khách tù chối khéo. Họ cố mời mãi nhưng người khách vẫn cương quyết từ chối. Thế là họ nổi giận và chửi rủa nặng lời. Người khách cũng làm thinh. Khi tàu đến ga cuối, mọi người đều xuống. 3 thương gia thấy một đám người rất đông cầm hoa đến đón người khách ấy. Họ hỏi một trong những người đó: ông ta là ai mà được nhiều người hâm mô thế? Người khách trả lời : Đó là Rabbi Salomon, một Rabbi nổi tiếng khắp nước về lòng nhân từ và đạo đức. Khi ấy 3 thương gia mới hối hận vì những lời chửi rủa của mình. Một người tiến đến Rabbi Salomon ngỏ lời xin lỗi. Nhưng VĐ Rabbi quay mặt đi, chẳng chĐu tha. Các tín đồ của ông ngạc nhiên quá, hỏi : "Thầy vốn là một người nhân từ và đạo đức. Nhưng sao Thầy không tha cho một kẻ đã biết lỗi và xin lỗi Thầy ?" VĐ Rabbi giải thích: "Kẻ mà anh ta đã chửi không là một hành khách tầm thường. Còn người mà anh ta xin lỗi là Rabbi Salomon. Anh ta đã xin lỗi lầm người rồi".Câu chuyện có ý nói rằng: người ta dễ xin lỗi đối với những người có đĐa vĐ cao, có quyền lực lớn. Nếu thương gia nọ không biết người mình đã chửi là một nhân vật nổi tiếng thì chắc chắn anh ta không xin lỗi đâu.
Câu chuyện trên cũng dạy chúng ta bài học này là : muốn xin lỗi thì ta phải khiêm tốn, hạ mình.
- Nhiều khi chúng ta không thể mở miệng xin lỗi được đối với những người nhỏ hơn mình. Ta cho rằng chỉ có người nhỏ xin lỗi người lớn chứ không bao giờ ngược lại.
- Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì chúng ta còn tự ái, cho rằng làm như thế là nhục.
- Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì cho rằng như thế là tự nhận rằng mình sai. Ta tưởng rằng như thế là tự trọng. Nhưng đó là sự tự trọng không đúng chỗ và là biểu hiện của tính xấu kiêu ngạo. Satan chống lại Chúa. Sau đó nó biết lỗi nhưng nó không bao giờ xin lỗi. Giuđa sau khi bán Chúa cũng biết lỗi, nhưng cũng không xin lỗi.
Cách đây vài năm ĐGH Gian Phaolô 2 đã ngỏ lời xin lỗi với cả thế giới về những lầm lỗi của Giáo Hội trong quá khứ. Trước khi ĐGH làm việc này, nhiều người trong Giáo Hội đã cản ngăn Ngài vì nghĩ rằng làm như thế là hại đến uy tín của Giáo Hội. Tuy nhiên sau khi ĐGH làm việc đó thì lạ thay, người ta chẳng những không chê cười? Trái lại còn khen ngợi Ngài ; uy tín của Giáo Hội chẳng những không giảm mà còn tăng thêm.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay bảo chúng ta tha thứ. Nhưng Lời Chúa cũng bảo chúng ta làm một việc khác khó hơn, đó là biết xin lỗi. Muốn thế, chúng ta phải khiêm tốn hạ mình. Chúng ta nên biết rằng hạ mình xin lỗi không phải là nhục nhã, trái lại sẽ sinh nhiều kết quả rất tốt đối với bản thân, nó làm tăng uy tín của mình đối với cuộc sống chung, nó hàn gắn những vết thương do những va chạm gây ra và giúp cho cuộc sống chung được ấm êm hạnh phúc hơn. .
5. Chuyện minh họa
a/ Tha thứ
Ngày nọ, Đức giám mục John Selwyn thấy một cậu con trai người bản đĐa cư xử thô bạo với các trẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chĐu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vĐ giám mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trân. Nhưng vĐ giám mục không cho họ làm gì. Rồi ngài quay lưng và lặng lẽ bỏ đi.
Nhiều năm sau, một nhà truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được Rửa tội.
Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp : "Xin đặt là John Selwyn, vì chính ngài đã dậy cho tôi biết đức Kitô là ai khi tôi đánh ngài?
b/ Xin tha
Satan phàn nàn với Chúa: "Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời? Chúa nói : "Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?".
----------------------------------
Và bạn nữa, người bạn của giây phút cuối cùng. Bạn không hiểu điều bạn đã làm. Cầu xin: TN 24-A15
Suy Niệm
"Và bạn nữa, người bạn của giây phút cuối cùng. Bạn không hiểu điều bạn đã làm. Cầu xin cho hai chúng ta là những người trộm lành được gặp lại nhau trên Thiên quốc, ... Chúa là Chúa của hai chúng ta."
Đó là lời trối của cha Christian de Chergé viết cho người Hồi giáo nào đó sẽ ám sát mình, bởi cha biết cái chết là điều không sao tránh khỏi. Ta không thấy có chút hờn oán nào. Cha coi kẻ giết mình như một người bạn, một người trộm lành như cha, và cha mong được sống với anh trên trời.
Tha thứ một cách phi thường và hồn nhiên, đó là thái độ của người thấm nhuần Kitô giáo.
Các tôn giáo đều dạy sự tha thứ. Tha thứ để làm cho oán tiêu tan, để phá vỡ cái vòng oan nghiệt trói buộc con người.
Kitô giáo mời gọi tha thứ vì một lý do khác: Tôi phải tha thứ cho anh em tôi vì Chúa đã liên tục tha thứ cho tôi. Đời tôi là một chuỗi những vấp ngã, được đan kết với bao thứ tha. Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời tôi, nếu bĐ ngăn lại, nó sẽ thành ao tù, nó chỉ trong lành khi được chảy đến tha nhân.
Tha thứ là khả năng của Thiên Chúa. Tự sức riêng, ta không ra khỏi được vòng oán thù.
Chẳng ngày nào thế giới không có tiếng súng. Luật mắt đền mắt là luật công bằng, nhưng có thể làm cả thế giới hoá mù. Chỉ sự tha thứ mới đem lại bình an.
Dám tha thứ là dám chĐu thiệt thòi, dám tin rằng cuối cùng tình thương sẽ thắng. Qủa tim chai đá phải tan chảy trước tình thương.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta tha thứ, không phải 7 lần, mà là 70 lần 7, nghĩa là tha thứ như Thiên Chúa, tha vô giới hạn.
Cần biết chạnh lòng thương như Thiên Chúa, để sẵn sàng tha cho bạn mình một món nợ nhỏ, vì Chúa đã tha cho mình món nợ khổng lồ.
Chúng ta chỉ biết chắc mình đã được Chúa tha, khi chúng ta không giữ ơn tha thứ cho riêng mình, khi chúng ta mang quả tim thương xót của Đấng hay tha thứ.
Cha Chergé đã bĐ giết cũng với 6 đan sĩ khác. Chắc nay cha hiểu rõ hơn câu này: "Vì chính khi thứ tha, là khi được tha thứ."
Gợi Ý Chia Sẻ
Tha thứ cho người xúc phạm đến danh dự, tài sản, quyền lợi của bạn, bạn thấy điều đó có khó không? Bạn làm gì để vượt qua được ước muốn trả thù?
Ở Angiêri đã có 19 tu sĩ và giáo sĩ Công giáo bĐ nhóm Hồi giáo quá khích giết hại. Bạn có nghĩ rằng những cái chết hiền lành này sẽ khiến ai đó phải nghĩ lại không?
Cầu Nguyện
Xin hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết đến sự sống, từ lầm lạc đến chân lý.
Xin hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy vọng, từ sợ hãi đến tín thác.
Xin hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu thương, từ chiến tranh đến hoà bình.
Xin hãy đổ đầy bình an trong trái tim chúng con, trong thế giới chúng con, trong vũ trụ chúng con (Mẹ Têrêxa Calcutta).
----------------------------------
* Câu hỏi gợi ý
Giới hạn của tha thứ là tha thứ không giới hạn. 2. Tha thứ cho anh em là điều kiện để được: TN 24-A16
1. Giới hạn của tha thứ là tha thứ không giới hạn.
2. Tha thứ cho anh em là điều kiện để được Thiên Chúa thứ tha.
3. Tha thứ là một việc vô cùng khó, vượt xa khả năng tự nhiên của con người.
* Suy tư gợi ý
Chủ nhật tuần trước (CN 23 thường niên), chúng ta đã nghe, ngẫm Lời Chúa và nguyện về tình liên đới cộng đoàn và về việc góp ý sửa lỗi cho nhau để giúp nhau nên hoàn hảo hơn. Lời Chúa chủ nhật 24 thường niên hôm nay sẽ giúp chúng ta hiểu tại sao chúng ta phải tha thứ cho anh em đồng loại và phải tha thứ đến mức độ nào.
1. Giới hạn của tha thứ là thứ tha không giới hạn.
Chắc trong đời sống cộng đoàn nhỏ của Nhóm Mười Hai cũng đã nhiều lần xẩy ra chuyện bất đồng, làm mất lòng nhau, vấp phạm đến nhau giữa các môn đệ thân tín nhất của Đức Giê-su. Và chắc Phê-rô và các môn đệ khác cũng đã hiểu là mình phải biết tha thứ cho anh em khi anh em lỗi phạm đến mình. Vì thế Phê-rô mới đặt câu hỏi:“Thưa Thày, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giê-su chẳng những đã trả lời thắc mắc của Phê-rô: “Thày không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” mà còn đưa ra dụ ngôn “tên mắc nợ không biết thương xót” để giúp Phê-rô và chúng ta hiểu tại sao chúng ta phải tha thứ cho anh em.
Người môn đệ Đức Giê-su phải tha thứ nhiều lần, thậm chí rất nhiều lần, tha thứ bao lâu anh em còn lỗi phạm đến ta, tha thứ cho anh chị em mỗi lần anh chị em lỗi phạm đến ta, không tính toán là bao nhiêu lần, không giới hạn ở mức bao nhiêu lần. Đó là ý nghĩa của “bảy mươi lần bảy”.
2. Tha thứ cho anh em là điều kiện để được Thiên Chúa thứ tha.
Dụ ngôn “tên mắc nợ không biết thương xót” mà Đức Giê-su, giải thích lý do thâm sâu tại sao chúng ta phải tha thứ lỗi phạm của anh em một cách không giới hạn: Tha thứ các lỗi phạm của anh em là điều kiện để được Thiên Chúa thứ tha tội lỗi cho chúng ta.
Nếu so sánh khoản tiền mà tên đầy tớ không biết xót thương nợ ông vua với khoản tiền mà người bạn của hắn nợ hắn thì chúng ta thấy sự chênh lệch hết sức lớn lao giữa hai món nợ ấy: một đàng là “mười ngàn yến vàng”, còn một đàng chỉ là“một trăm quan tiền”. Tên đầy tớ không biết xót thương không tha cho bạn mình món nợ nhỏ, thì cũng chẳng xứng đáng được vua tha món nợ lớn. Tha thứ là điều kiện để được thứ tha. Đó chính là điều Đức Giê-su đã dạy trong Kinh Lạy Cha:“Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12; Lc 11,4). Ơ một chỗ khác, Đức Giêsu còn dạy rằng: “Khi ngươi đến dâng lễ mà còn thấy có người nào bất hòa với ngươi, thì ngươi hãy để lễ vật đó, đi làm hòa với người đó trước, rồi trở lại dâng của lễ lên Thiên Chúa sau”. Ơ đây làm hòa và tha thứ cho anh em là điều kiện để của lễ của chúng ta được Thiên Chúa chấp nhận. “Tha thứ trọng hơn của lễ”, tha thứ để của lễ và lời cầu xin chúng ta dâng được Thiên Chúa đón nhận. Có thể nói như thế! Một chi tiết đáng lưu ý là Đức Giêsu dạy chúng ta phải chủ động tìm đến người anh em có bất hòa với chúng ta, chứ chúng ta không chỉ chờ người kia đến xin lỗi chúng ta thì chúng ta sẽ tha thứ.
3. Tha thứ là một việc vô cùng khó, vượt xa khả năng tự nhiên của con người.
Tha thứ như Đức Giê-su đòi hỏi không phải là chuyện dễ, trái lại là chuyện vô cùng khó và vượt xa khả năng tự nhiên của con người. Nhất là đối với người Việt Nam chúng ta, thì việc tha thứ dường như còn khó khăn hơn so với người Tây Phương. “Sống để bụng, chết đem theo” câu nói ấy cho thấy người Việt chúng ta giận dai, thù dai và nhớ dai những xúc phạm của người khác như thế nào. Người ta thường thấy hai người Tây phương tranh cãi quyết liệt, phê bình nhau gay gắt trong phòng họp. Nhưng khi ra khỏi phòng thì họ vẫn thân thiện, đoàn kết, quí trọng nhau như bình thường. Còn người Việt Nam mình hễ bị đồng nghiệp - dù là giám mục hay linh mục, tu sĩ hoặc giáo dân- phê bình trong buổi họp hay trong khi làm việc chung, thì từ sau buổi họp ấy trở đi, giữa hai người khó mà có một tương quan tự nhiên, tốt đẹp như lúc trước. Người bị góp ý, phê bình sẽ khó mà “tiêu hóa” nổi sự kiện bị (đáng lẽ phải coi là được) góp ý hoặc phê bình.
Sỡ dĩ tha thứ là việc khó khăn như thế, vì chúng ta sống nặng về cảm tính và chưa trưởng thành về mặt nhân bản, nên không phân biệt nổi hai lãnh vực khác nhau là lãnh vực con người và lãnh vực công việc. Khi người khác góp ý hay phê bình chúng ta là người ta góp ý về cung cách ứng xử hay phương pháp làm việc chứ không hề hạ phẩm gía chúng ta. Nhưng thường chúng ta cho rằng gía trị, uy tín của mình bị hạ thấp bởi những góp ý hay phê bình thẳng thắn, chân tình và chính xác của đồng sự. Thật ra gía trị của một người tùy thuộc rất nhiều vào khả năng phục thiện, đón nhận góp ý và hoàn thiện bản thân của người ấy, nhờ vào những góp ý, sửa lỗi của người khác.
Có một nguyên nhân khác, quan trọng hơn, là chúng ta chưa thấm nhuần Tin Mừng, chưa được Phúc-âm-hóa ở tận tầng đáy tâm hồn của chúng ta. Nói cách khác, cách sống và giáo huấn của Đức Giê-su chưa thâm nhập cảm quan và trái tim chúng ta. Trên thập giá, vào lúc đau đớn khủng khiếp nhất của một Thiên-Chúa-làm-người, Đức Giê-su đã tha thứ cho những kẻ bắt bớ, đánh đập, kết án, sỉ nhục và giết hại Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Trước đó, Đức Giê-su đã tha thứ cho Phê-rô, tông đồ trưởng, người đã thề sống thề chết với Thày nhưng đã chối Thày 3 lần trước lời hạch sách của một người tớ gái của thượng tế (Mc 14,66-72).
NGUYỆN
Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin Cha tha tội cho chúng con cũng như chúng con cũng tha cho những kẻ có lỗi với chúng con.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, vì tội chúng con mà Chúa đã phải chết treo trên cây thập gía, xin Chúa tha tội cho chúng con và giúp chúng con tha thứ những thiếu sót, lỗi phạm của anh chị em chúng con.
Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội.
----------------------------------
Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mt 18, 21-35
Ở đời người ta vẫn thường ăn miếng trả miếng. Ít ai chịu thiệt về mình. Ai cũng muốn mình là trung: TN 24-A17
Ở đời người ta vẫn thường ăn miếng trả miếng. Ít ai chịu thiệt về mình. Ai cũng muốn mình là trung tâm của vũ trụ. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Yêu thương người yêu thương mình là việc dễ làm. Nhưng yêu thương kẻ làm ta khó chịu, bực bội, những kẻ ta ít thiện cảm, những kẻ làm hại ta thì thực là khó. Tấm lòng của Thiên Chúa bao la đại hải. Tấm lòng của con người thì hạn hẹp và có giới hạn. Cựu Ước có luật:” Mắt thế mắt răng đền răng”. Chúa Giêsu lại nói nghịch lại :” yêu thương người như Chúa yêu thương”. Tha thứ mãi và tha thứ không ngừng…Yêu thương cả kẻ thù.
PHÊRÔ HỎI CHÚA: Tin mừng Mattêu 18, 21-35 cho ta thấy câu hỏi của Phêrô và câu trả lời của Chúa Giêsu. Phêrô muốn sống trọn lành, Phêrô muốn nên giống Chúa. Vẫn với thái độ nhanh nhảu, con người chất phác, đơn sơ, dân dã, Ông đã hỏi Chúa Giêsu:” Lạy Thầy, khi anh em con xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không ?( Mt 18, 21 ). Xem ra câu hỏi của Phêrô hết sức đơn sơ, nhưng lại bao gồm ý muốn sống trọn hảo, ý muốn muốn nên giống Chúa Giêsu. Phêrô quả không dùng ngôn từ” kẻ thù xúc phạm “ nhưng dùng từ” người anh em” lỡ phạm đến Ông, Ông phải tha thứ mấy lần có phải bảy lần không ? Chúa Giêsu hiểu rõ tâm hồn, hiểu rõ tấm lòng của Phêrô, nên Người nói:” Không phải bảy lần mà phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy”, nghĩa là tha thứ mãi mãi và tha thứ không ngừng. Chúa Giêsu muốn làm rõ ý nghĩa của việc tha thứ, Người đã dùng dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót. Chúa tự ví Người như một Ông Vua nhân từ, đầy lòng thương xót. Chúa muốn nhắc lại cho nhân loại, cho chúng ta về một biến cố lịch sử hết sức quan trọng. Biến cố Chúa đến trần gian để gánh tội lỗi cho con người và ban ơn tha thứ cho con người. Do đó, Người đòi hỏi các môn đệ, các người đi theo Chúa phải tha thứ, phải yêu thương quyết liệt, yêu thương như Chúa yêu thương con người. Đây là đòi hỏi rất khó khăn và gắt gao. Chúa lại nêu gương của Thiên Chúa Cha để nói với nhân loại, nói với con người. Thiên Chúa Cha yêu thương mọi người, Ngài làm cho tất cả mọi người được hưởng ánh sáng và nước mưa. Chúa Giêsu còn dùng chính gương của Người để nêu gương tha thứ. Cái chết của Người trên thập giá nói lên tất cả ý nghĩa ấy. Ơn cứu độ của Chúa được trao ban cho mọi người chứ không theo cái lối giải thích vòng vo của những người Biệt phái và Luật sĩ.
HÃY THA THỨ VÀ YÊU THƯƠNG NHƯ CHÚA: Chúa Giêsu đã yêu thương con người và yêu thương nhân loại cho đến chết trên thập giá. Người đã tha thứ cho những kẻ xỉ nhục, làm khổ, làm hại Người. Bị con người làm nhục, hành hình, đóng đinh vào thập giá, Chúa xin Chúa Cha tha thứ cho bọn lý hình. Chúa không hề hờn giận hay thù oán bất kỳ một ai. Lòng tha thứ của Người quá sức kỳ diệu. Con người không thể làm gì được. Đứng trước lòng xót thương, cảm thông, tha thứ của Chúa, con người phải đáp trả lại tấm lòng bao la yêu thương của Chúa. Nếu con người sống trong hận thù, sống trong hờn căm, con người sẽ chuốc lấy cơn thịnh nộ của Thiên Chúa:” Tên đầy tớ độc ác kia, Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính Ta đã thương xót ngươi sao ?”( Mt 18, 32-33 ) và Chúa ôn tồn nói như một lời phán xét:” Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”( Mt 18, 36 ).
Chúa đòi con người phải tha thứ như Chúa. Yêu thương sẽ gặp Chúa và như thế, tha thứ như Chúa con người cũng sẽ được gặp Chúa. Hãy quên đi và vui sống. Hãy tha thứ để được thứ tha. Lời kinh của thánh Phanxicô khó khăn là kim chỉ nam cho con người sống vui, sống hạnh phúc:” Đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hoà vào nơi tranh chấp. Đem chân lý vào chốn lỗi lầm”.
Lạy Chúa xin ban cho chúng con một quả tim mới để chúng con biết yêu thương và tha thứ cho nhau như Chúa đã yêu thương và tha thứ.
----------------------------------
Lịch sử Việt Nam kể lại một cuộc tha thứ cho hàng vạn quân Minh như sau: “Lê Lợi sai tướng: TN 24-A18
HẾT LÒNG THA THỨ CHO NHAU
Lijch sử Việt Nam kể lại một cuộc tha thứ cho hàng vạn quân Minh như sau : “Lê Lợi sai tướng đem chiến lợi phẩm thu được ở trận Chi Lăng vào tận doanh trại của chủ tướng Tàu là Mộc Thạch. Mộc Thạch biết Liễu Thăng bĐ chết, đại quân bĐ bại, hoảng sợ chạy về Tàu. Vương Thông đóng quân ở Đông Quan, khiếp đảm, xin cầu hòa - Lê Lợi đồng ý, còn cung cấp lương thực, thuyền bè, sửa chữa cầu đường tạo điều kiện cho quân Minh nhanh chóng rút về nước. Nhờ sự tha thứ cho hàng vạn kẻ thù, dân nước được sống hòa bình thĐnh vượng. Đó là kết quả của sự tha thứ trong lĐch sử Việt Nam.
Còn một sự tha thứ vĩ đại hơn nữa trong lĐch sử loài người, là sự tha thứ của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa xuống thế làm người được Gioan tẩy giả giới thiệu : “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga. 1, 29).
Ngài là Đấng xóa tội trần gian, nên Ngài nói với người phụ nữ tội lỗi : “Tội chĐ đã được tha rồi” (Lc. 7, 48).
Ngài cũng tha tội cho người bại liệt : “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi” và cho anh đứng dậy vác chõng về (Mt. 9, 2). Dù các kinh sư và Pharisiêu dựa vào luật Môisê kết án người phụ nữ ngoại tình, Ngài vẫn tha thứ cho chĐ : “Tôi không lên án chĐ đâu, chĐ cứ về và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thế là Ngài đã tha tội, tha chết cho chĐ, và không ai có quyền lên án chĐ nữa (Ga. 8, 11).
Ngài đã tha thứ, và Ngài dậy chúng ta phải tha thứ như người cha tha thứ và vui mừng đón rước đứa con phung phá (Lc. 15, 11-32). Ngài dậy chúng ta phải cầu nguyện để biết tha thứ cho kẻ có nợ chúng ta như Chúa Cha đã tha nợ cho chúng ta (Mt. 6, 9-15).
Nhưng lòng con người quá hẹp hòi, cứng cỏi, cùng lắm chỉ tha được đến ba lần : “quá tam ba bận” hoặc hơn chút nữa như luật sĩ tha đến bốn lần. Phêrô tưởng mình tha đến bảy lần thì đã xứng đáng làm tông đồ của Thầy rồi. Không ngờ, Thầy dậy phải tha đến bảy mươi lần bảy : một con toán khổng lồ hàng tỉ lần, thời đó không thể đếm được. Cụ thể hơn nữa, cho ông và mọi người hiểu một cách thấm thía, lòng thương yêu tha thứ vô cùng của Thiên Chúa đối với con người, và lòng độc ác dã man của con người với con người. Qua câu chuyện đầy xúc động sau: Một đầy tớ nợ ông chủ 10.000 nén vàng, nếu bán hết vợ con, tài sản và y đi, cũng không trả đủ. Thế mà, y xin tha, chủ tha luôn. Nhưng bạn y, chỉ nợ y có 100 đồng bạc, chẳng đáng chút nào cái nợ y nợ ông chủ, thế mà bạn y xin khất ít lâu sẽ trả. Y không tha, lại túm lấy, bóp cổ, đánh đập, bỏ tù bạn y.
Không còn cái cảnh bi đát nào tả được lòng độc ác của con người không biết tha thứ cho nhau nữa !
Phêrô nghĩ sao ? Chúng ta nghĩ sao ? Khủng khiếp đến chừng nào khi không biết tha thứ cho anh em ?
Hình như Phêrô cũng như chúng ta chẳng thay lòng đổi dạ gì khi nghe câu chuyện có thực trăm phần trăm đó. Vì chính Phêrô vừa mới rước Mình và Máu thánh Thầy đổ ra cho muôn người được tha tội, thế mà, ông đã hăng tiết rút gươm ra chém đứt tai kẻ đến bắt Thầy (Mt. 26, 27-51). ông không thể tha thứ được. Chỉ khi ông được Thầy tha tội chối Thầy (Mt. 26, 74-75), chỉ khi ông thấy Thầy bĐ treo trên Thập giá mà vẫn cầu nguyện xin tha cho kẻ thù của Thầy : “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết” (Lc. 23, 34) và nhất là khi thấy Thầy sống lại đầy uy quyền mà Thầy vẫn không trách cứ ông, và không hề trả thù đứa quân dữ nào ; chỉ khi đó Phêrô mới thấm thía sâu sắc : “Phải hết lòng tha thứ cho anh em”, chỉ khi đó Phêrô mới thực sự thuộc về Chúa Kitô, mới sống cho Chúa Kitô và cùng chết với Người (Rm. 14, 7-9 - Bài đọc II)
Lạy Chúa, xin cho con nhớ rằng : “Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy sự báo thù của Chúa. Kẻ nuôi lòng hờn giận, thế mà dám xin Chúa ban ơn lành, nó chẳng biết thương đồng loại, mà lại dám xin ơn tha tội cho mình” (Hc. 27, 30-28. 1-5 và Mt. 6, 14-15). Lạy Cha, xin cho con luôn luôn tụng niệm lời cầu xin của Đức Kitô : “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết”, để con được Cha tha tội cho con. Amen.
-------------------------------
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, Đức Giê-su đòi hỏi ta phải biết sửa lỗi cho tha nhân: TN 24-A19
1. Sống trên đời, ai cũng lầm lỗi. Chính ta cũng biết bao lầm lỗi
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, Đức Giê-su đòi hỏi ta phải biết sửa lỗi cho tha nhân. Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài lại yêu cầu ta phải sẵn sàng tha thứ cho họ một cách vô điều kiện. Như vậy, ta vừa phải sửa lỗi, lại vừa phải tha thứ.
«Nhân vô thập toàn», trên đời, không ai hoàn hảo cả, ai cũng có những sai trái, lầm lỗi. Xét lại bản thân, ta thấy chính ta cũng có nhiều sai trái, khiếm khuyết, lầm lỗi: vô ý có, mà hữu ý hay cố tình cũng có. Đó chính là lý do khiến ta nên tha thứ cho người khác.
2. Ta luôn thấy lầm lỗi của ta đáng được thông cảm và tha thứ
Khi bĐ ai trách cứ, hầu như lần nào trong thâm tâm ta cũng có lý do để chống chế, để biện hộ cho sai trái của mình. Điều đó có nghĩa là dù ta có lỗi, ta vẫn luôn thấy lỗi mình đáng được thông cảm và tha thứ. Vì chỉ có ta mới hiểu được nguyên nhân và hoàn cảnh khiến ta phạm lỗi. Người ngoài sở dĩ kết án ta là vì họ không hiểu được thế kẹt của ta, nên họ không thông cảm được sự sai trái của ta. Tất cả mọi người đều vậy cả, ai cũng thấy lầm lỗi của mình đáng được thông cảm.
Theo Dale Carnegie trong cuốn Đắc Nhân Tâm của ông, thì không ai tự nghĩ xấu về mình. Ai cũng tự nghĩ tốt cho mình dù là kẻ xấu nhất trong nhân loại. Ai cũng nghĩ rằng mình đúng cho dù là kẻ sai nhất trong nhân loại. Ai cũng có nhiều lý lẽ để cho rằng mình là người tốt, người đúng. Ông đã chứng minh điều ấy bằng những sự kiện cụ thể mà ông thu thập được trong đời sống của ông. Theo ông, ngay cả những tên cướp giết người không gớm tay vẫn có lý do bào chữa cho những hành động gớm ghiếc của chúng, mà chúng nghĩ do thực tâm chứ không phải để ngụy biện. Tuy dù không hoàn toàn đồng ý với Dale Carnegie, tôi cũng phải công nhận ông có lý phần nào, và đó chính là lý do để tôi thông cảm hơn với những người tôi muốn kết án.
3. Đức Giê-su khuyên ta luôn tha thứ, và tha thứ vô điều kiện
Đức Giê-su là một con người y như chúng ta, Ngài cũng cảm nghiệm được sự yếu đuối của con người y như chúng ta, chính Ngài cũng bĐ cám dỗ phạm tội như chúng ta. Vì thế, mặc dù Ngài không hề phạm một lầm lỗi nào, Ngài vẫn cảm thấy mọi tội lỗi của con người đều đáng được tha thứ. Lý do mà Ngài đưa ra cho chủ trương tha thứ vô điều kiện là: Chính bản thân ta có lỗi với Thiên Chúa nhiều gấp bội ai đó có lỗi với ta. Nếu ta không tha thứ cái lỗi nhỏ bé ấy cho người ấy, thì Thiên Chúa làm sao tha cho ta cái lỗi tầy trời của ta được? Mà nhất là người ấy lại là hiện thân của chính Thiên Chúa ở bên ta, vì Ngài tự đồng hóa với tha nhân của ta.
Hãy tự đặt mình vào đĐa vĐ của Thiên Chúa, tương tự như hoàn cảnh sau đây, ta sẽ thấy sự cần thiết phải tha thứ: Có người nợ ta rất nhiều mà ta sẵn sàng tha cho tất cả, nhưng chính người ấy lại không chĐu tha nợ cho con của ta, cứ nằng nặc đòi nợ với đủ mọi đẹ dọa, dù con ta chỉ nợ họ một số tiền nhỏ. Trường hợp đó ta sẽ làm gì với người ấy? Nếu không tha thứ cho người khác, ta cũng làm một hành động phi lý và vô ơn tương tự như người ấy. Nghĩ cho cùng, không tha thứ cho người khác, chính là một hành động vô ơn đối với Thiên Chúa là người đã tha thứ cho mình. Thiên Chúa tuy không có lỗi gì với ta, nhưng ta phải trả ơn cho hành động tha thứ của Thiên Chúa bằng cách tha thứ cho những hiện thân của Thiên Chúa ở bên ta, tức những người sống chung quanh ta.
4. Lòng khoan dung độ lượng
Một trong những đức tính cần thiết để trở nên hoàn hảo là lòng khoan dung độ lượng. Người khoan dung độ lượng là người không chấp nhất, mà trái lại thông cảm với những lầm lỗi của kẻ khác. Lòng khoan dung độ lượng được xây dựng trên ý thức về những yếu đuối, về khả năng phạm lỗi của chính bản thân mình, và sau đó, của người khác. Mình cũng phạm lỗi thì mình kết án người khác thế nào được? Nếu mình cũng phạm lỗi mà lại đi kết án người khác, thì đó đúng là một hành động vô liêm sỉ. Trong chuyện người đàn bà ngoại tình bĐ bắt quả tang (x. Ga 8,3-11), tuy không phục những người Pha-ri-siêu vì họ thích giả hình, nhưng tôi phục họ vì họ còn có liêm sỉ. Khi Đức Giê-su nói: «Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!», «Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi». Họ không dám ném đá kẻ ngoại tình chính vì họ ý thức mình cũng có tội, như thế là họ còn liêm sỉ. Như vậy, kết án người khác, không tha thứ lầm lỗi cho họ là do ta không ý thức được lầm lỗi của chính mình. Nếu ý thức được lầm lỗi của mình mà vẫn kết án, không tha thứ thì chẳng phải là ta thiếu liêm sỉ sao?
Con người có một mẫu số chung như nhau là rất yếu đuối, rất dễ lầm lỗi. Xét lại chính bản thân, ta thấy mình vẫn sai lỗi hằng ngày. Nếu tôi ít sai lỗi hơn người khác, rất có thể vì tôi không phải sống trong một hoàn cảnh có nhiều cám dỗ thúc đẩy tôi sai lỗi như họ. Nếu tôi cũng sống trong hoàn cảnh y như thế, liệu tôi có khá hơn họ, hay tôi còn tệ hơn họ nữa? Không chỉ có yếu tố hoàn cảnh khiến họ dễ phạm tội hơn tôi, mà còn nhiều yếu tố khác nữa. Hãy tự hỏi: Khi mình ở độ tuổi ấy, liệu mình đã suy nghĩ chín chắn được như người ấy không? Nếu mình chỉ được học hành hay được giáo dục như họ thôi, mình có hành động khá hơn họ không? Nếu mình bẩm sinh có thể chất hoặc tâm lý yếu đuối như họ, nếu mình chỉ suy nghĩ được như họ, liệu mình có hành động khác hơn không? v.v…
5. Tha thứ làm tâm hồn ta nhẹ nhõm, thảnh thơi
Kinh nghiệm cho tôi thấy khi nào bực bội ai điều gì, khi nào để trong lòng nỗi buồn bực giận hờn ai, thì tâm hồn tôi không được bình an. Lúc đó, trong tâm hồn tôi có một xung lực thúc đẩy tôi phải làm một cái gì đó, chẳng hạn chửi bới người ấy, nói một câu gì hạ nhục người ấy, hoặc làm một điều gì khiến người ấy phải đau khổ… Lúc ấy tôi có cảm tưởng rằng: có hành động theo sự thúc đẩy của xung lực ấy, tôi mới nguôi ngoai cơn giận, và tâm hồn tôi mới tìm lại được bình an. Nhưng trong thực tế, sau khi thỏa mãn cơn giận bằng những hành động ấy, tôi chỉ được nguôi ngoai phần nào, và sau đó lại tiếp tục mất bình an hơn nữa vì phải đối phó với sự trả thù của người kia. Vì khi người kia bĐ tôi hạ nhục hay gây đau khổ, thì trong lòng họ lại phát sinh một xung lực y như tôi trước đó, và họ quyết thỏa mãn xung lực ấy. Thế là cái vòng lẩn quẩn được thiết lập, vì: «Lấy oán trả oán, oán chập chùng» (Đức Phật).
Nhưng nếu tôi đặt mình vào đĐa vĐ người ấy, tôi sẽ dễ dàng thông cảm và hiểu được những lý do thúc đẩy họ hành động như vậy, nhờ đó tôi dễ dàng tha thứ cho họ. Khi tôi vừa quyết đĐnh tha thứ, lập tức tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhõm. Xung lực thúc đẩy tôi phải trả thù biến mất. Tích cực hơn nữa, nếu tôi có tinh thần yêu thương của Đức Giê-su, thay vì trả oán, tôi quyết đĐnh làm một điều gì tốt cho người ấy. Lúc ấy thường có điều lạ lùng xảy ra, là người ấy nhận ra ngay sai lầm của mình và ngỏ lời xin lỗi (Điều lạ lùng này rất khó xảy ra khi tôi trả đũa). Từ đó tình cảm giữa hai người thắm thiết hơn, vì qui luật này vẫn luôn luôn đúng: «Ai được tha nhiều sẽ mến nhiều, ai được tha ít sẽ mến ít» (x. Lc 7,47b). Đó cũng là chủ trương «lấy đức trả oán, oán tiêu tan» của Đức Phật.
-------------------------------
Chúa nhật 24 Thường Niên
24th Sunday in Ordinary Time
Lời Chúa cho hôm nay: THA THỨ LÀ YÊU THƯƠNG - Huyền Đồng
* FORGIVING IS LOVE *
Bài đọc 1: Hc.27,33-28,9= Cần thiêt của tha thứ / The need for Frogiveness.
Bài đọc 2: Rôm.14,7- 9= Chúng ta sống và chết cho Chúa / We live and die for God.
Tin Mừng: Math. 18, 21- 35=Tha thứ bảy mươi lần bảy /Forgive seventy times seven times.
A. Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share)
Các môn đệ hỏi Chúa về tha thứ cho anh em bẩy lần? Đức Giêsu đáp: "Thầy không bảo là đến bẩy: TN24-A20
1/ Các môn đệ hỏi Chúa về tha thứ cho anh em bẩy lần? Đức Giêsu đáp: "Thầy không bảo là đến bẩy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bẩy." Ở đây Chúa muốn tôi cần tha thứ luôn luôn, không điều kiện, vì Ngài đã yêu thương tôi quá nhiều. Tôi đã thực hành lòng quảng đại trong gia đình thế nào?
"No,"Jesus replied: "Not seven times; I say, seventy times seven times..." ( Math.18, 22 )
2/ Trong dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót anh em, khi được ông chủ tha hết số nợ; y trở về lại túm lấy cổ người bạn đòi trả cho hết nợ... "Chúa nói: Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu không hết lòng tha thứ..." Bạn đã làm gì cho Xã hội và Quê hương hôm nay?
My heavenly Father will treat you in exactly the same way unless each of you... (Math.18, 35 )
3/ Thánh Phaolô nhấn mạnh về sống và chết như sau: "Chúng ta có sống là sống cho Chúa, chết là chết cho Chúa, Vậy dù sống hay chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa," Nhiều người rất dễ thù hằn, ghen ghét, vì thiếu học hỏi thực hành Lời Chúa. Kinh Thánh chiếm vị trí nào trong đời sống của tôi?
While we live we are responsible to the Lord, and when we die we die as His servant... ( Rôm. 14, 8 )
4/ Sách Huấn ca viết: "Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm,. ..Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa, tội lỗi nó Người xem xét từng ly." Hàng ngày trên thế giới và quanh ta có biết bao người giận dữ và báo thù đã lãnh hậu quả ngay. Tôi đã sống tha thứ và làm hòa thuận thế nào?
Wrath and anger are hateful things... The vengeful will suffer the Lord's vengeance... (Hc. 27,30-28- 1 )
B. Câu Kinh Thánh nhắc nhở tôi Sống tha thứ tuần này: ( The Best God's Word for this week )
" THẦY KHÔNG BẢO LÀ ĐẾN BẢY LẦN, NHƯNG LÀ ĐẾN BẢY MƯƠI LẦN BẢY" (Mat.18,22)
( Not seven times, I say, seventy times seven times )
D. Tôi cần làm gì ngay để tha thứ cho anh em tuần này: ( So what am I doing/ For action)
Tôi có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành.
Bạn nên làm vài việc rộng lượng, hòa thuận, tha thứ cho người làm cùng trường, cùng sở mình.
C. Tôi luôn cầu nguyện và Sống làm hòa tha thứ cho anh em: ( I pray and practice/ in action)
1- Lạy Cha, Đức Kitô đã dạy: Các con hãy tha thứ cho nhau không phải bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy. Xin dạy cho con biết luôn hòa thuận, vui vẻ và quảng đại với anh em làm con buồn.
2- Sách Huấn ca đã khuyên: Oàn hờn và giận dữ là những điều ghê tởm; kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Chúa. Xin giúp co đừng nóng nảy thù hằn, để bụng, nhưng sẵn sàng tha thứ cho nhau.
Lời hay ý đẹp:
KHÔN NGOAN LÀ BIẾT KHI NÊN NÓI VÀ LÚC NÊN CẨN THẬN LỜI NÓI
Wisdom is knowing when to speak your mind and when to mind your speech
----------------------------------
Hc 27,30-28,7;Rm 14, 7-9;Mt 18,21-35
Aba Gayles kể lại một khúc quanh của đời bà như sau: bà nhớ lại khi nhận được hung tin là: TN24-A21
Aba Gayles kể lại một khúc quanh của đời bà như sau: bà nhớ lại khi nhận được hung tin là con gái yếu dấu của bà bĐ kẻ sát nhân, ông Mickey, đâm tới chết, bà đã bàng hoàng và cảm thấy đau đớn tột cùng. Trong những ngày tháng sống trong đau buồn vì mất người con gái yêu dấu và giận ghét đối với kẻ giết con mình, bà rất muốn trả thù cho con gái bà, bà muốn kẻ sát nhân phải chết. Chính vì sống trong tâm trạng đó, bà Aba Gayles đã sống xa cách mọi người, bà mất đi cuộc sống vui tươi. Nhưng rồi qua học hỏi lời Chúa và cầu nguyện, bà đã tìm lại được cuộc sống thật của bà và cuối cùng bà đã tha thứ cho kẻ đã giết con gái của bà. Hơn thế nữa, bà còn thường xuyên đi thăm viếng người hãm hại con gái bà đang ở trong tù để nâng đở tinh thần ông ta. Đây là sự tha thứ mà chúng ta không dễ tìm thấy, nhưng đó là điều mà Lời Chúa trong hai bài đọc hôm nay mong muốn nơi mỗi người.
Bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm ngày hôm nay cùng khuyên chúng ta trong việc tha thứ cho người khác. Lời Chúa đến với chúng ta trong bài đọc thứ nhất khuyên rằng đừng giận ghét kẻ khác; hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha thứ. Trong bài Phúc Âm, ông Phêrô cũng nhận thức được sự cần thiết của sự tha thứ, chỉ có điều là ông thắc mắc đến việc tha bao nhiêu mới đủ. Đối với ông việc tha cho kẻ xúc phạm đến ông đến bảy lần là quảng đại lắm vì các thầy Do Thái dạy rằng tha cho người xúc phạm đến ta ba lần là quá lắm rồi. Nhưng Chúa Giêsu dạy rằng không phải là tha đến bao nhiêu lần mà là phải luôn sống trong sự tha thứ. Đây là điều mà chúng ta cảm thấy rất khó thực hiện, phải không các bạn. Tuy nhiên, đây là việc mà chúng ta nên và phải làm. Vì sao?
Xét về khía cạnh tâm lý tự nhiên thì việc thứ tha là một cách giải thoát đi nỗi đau đớn, lòng hận thù trong chính con người mình khi người khác xúc phạm đến ta. Việc chúng ta giận ghét người khác không làm cho người khác đau khổ nhưng ngược lại chính chúng ta là người phải chĐu sự dằn vặt tâm hồn, mất bình an, ngủ không yên và nhiều xáo trộn khác. Chính chúng ta hại bản thân. Bà Aba Gayles trong câu chuyện ở trên mất đi cuộc sống vui tươi khi bà còn giữ hận thù trong lòng. Nhưng khi bà biết tha thứ thì cuộc sống của bà trở nên có ý nghĩa. Mỗi người đều có cảm nghiệm này. Như vậy việc chúng ta tha thứ làm ích không cho người nào khác hơn là cho chính chúng ta trước nhất. Nó mang lại sự bình an tâm hồn, cuộc sống tươi vui.
Hơn nữa, xét theo mối tương quan giữa ta với Thiên Chúa và với tha nhân, chúng ta cũng cần sự tha thứ của người khác thì tha thứ là việc phải làm. Dụ ngôn người đầy tớ bất lương trong bài Phúc âm hôm nay nói rất rõ. Chúng ta cứ tính toán torng việc tha thứ cho người khác, trong khi chính Thiên Chúa hằng tha cho chúng ta bao nhiêu tội lỗi. Bài đọc thứ nhất khuyên: "Hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha thứ." Chúng ta qua kinh Lạy Cha cũng thường xin Chúa "tha nợ chúng con cũng như chúng con tha kẻ có nợ chúng con." Chúng ta chỉ mong muốn Thiên Chúa hay người khác quên đi lầm lỗi của chúng ta hoặc tha cho chúng ta trong khi đó chúng ta lại quên đi việc chúng ta cũng phải tha thứ cho người khác.
Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay đang thách đố mỗi người hãy luôn sống trong sự tha thứ. Đây cũng là điều mà Chúa Kitô đã cầu nguyện khi bĐ đóng đinh trên cây thập tự: "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm." Bà Aba Gayles cũng đã thực hiện đúng tinh thần tha thứ của Chúa Giêsu đối với kẻ giết con gái yêu dấu của bà la dứt khoát tha và tha hết; hơn nữa bà nâng đỡ tinh thần ông trong khi đang ở trong tù và mong muốn cho ông sống tốt hơn.
Mỗi người cũng nên tự hỏi nơi chính mình rằng còn người nào đó mà chúng ta cần tha thứ không? Cha mẹ? Vợ chồng? Con cái? Họ hàng? Hàng xóm? Những người làm cùng hãng? Và chính bản thân chúng ta?
----------------------------------
Mt 18,21-35
Bá tước Poctuky bị một sinh viên ám sát chết - Kẻ sát nhân bị lên án tử hình. Trong khi chờ đợi thi: TN24-A22
Bá tước Poctuky bị một sinh viên ám sát chết - Kẻ sát nhân bị lên án tử hình. Trong khi chờ đợi thi hành bản án thì người ta giam phạm nhân ở nhà tù Lemberg. Bà vợ góa của bá tước Poctuky thương khóc chồng nức nở. Một tuần sau bà lấy ra một tờ giấy để trước mặt, toàn thân run rẩy, nước mắt nhỏ xuống giấy. Đứa nhỏ hỏi bà: "Mẹ viết gì thế?" Bà bỏ bút xuống, đưa tay làm dấu Thánh giá, đọc thầm kinh Lạy Cha, rồi trả lời đứa con nhỏ: "Mẹ viết là thư xin Hoàng Đế ân xá cho kẻ giết chết cha con." Thế rồi bà mạnh dạn cầm bút ký tên dưới lá thư xin ân xá cho kẻ đã phá hoại hạnh phúc gia đình bà.
Bà bá tước đã kín múc nguồn tha thứ từ đâu? Từ trong nhà thờ mà bà đã cầu nguyện rất lâu giờ, từ trong Phúc Âm mà Lời Chúa vẫn âm hưởng trong tâm hồn bà: Hãy tha thứ cho kẻ thù địch các con.
Lời Chúa Giêsu dạy trong Phúc Âm hôm nay là một cuộc cách mạng vĩ đại, đổi mới não trạng và tâm hồn con người. Vì từ xa xưa cho đến thời Chúa Giêsu, con người vẫn bị ràng buộc bởi luật "mắt đền mắt, răng thế răng". Đó là luật ăn miếng trả miếng. Tuy nhiên khi ra điều luật này là giới hạn sự trả thù quá khích của dân Do Thái. Thêm vào đó, điều luật này còn là tiêu chuẩn cho những quan án thời đó xét xử, đó là người nào đánh kẻ khác bị thương thì phải phải đền trả cân xứng bằng công làm, bằng tiền bạc, bằng thuốc men.
Khi Chúa Giêsu tới thì hồng ân của Ngài cũng tới theo. Ngài muốn nâng con người lên cao hơn, muốn con người bắt chước mẫu gương tha thứ không tính toán của Cha trên trời, mà trong bài Phúc Âm hôm nay hình ảnh ông vua tượng trưng cho Thiên Chúa.
Cuộc cách mạng lớn lao này cũng là một thách đố rất gay go cho con người, bởi vì chúng ta thường có khuynh hướng trả thù, muốn dạy kẻ khác một bài học cho họ chừa, họ sợ, họ biết tay. Thế nhưng, kinh nghiệm lịch sử cho biết, từ cộng đồng nhân loại đến gia đình, đến cá nhân cũng vì trả thù mà bao nhiêu điều điêu đứng, khốn khổ, bất an. Trong khi đó yêu thương và tha thứ sẽ thu phục lòng người, sẽ giúp chính chúng ta và kẻ thù có cơ hội thăng tiến hơn.
Trả thù thuộc về khuynh hướng nhân loại thì tha thứ lại thuộc về hồng ân Thiên Chúa. Không có ơn Chúa giúp, chúng ta không thể tha thứ cho kẻ thù. Vậy thì cách thức hay nhất để tha thứ là hãy cầu xin - Muốn cho tâm hồn chúng ta dịu lại và thứ tha thì đầu gối chúng ta phải quỳ xuống mà van xin - Hãy đọc nhiều lần kinh Lạy Cha, trong đó có câu "Xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha cho kẻ có nợ với chúng con". Hãy thành tâm cầu xin, Thiên Chúa sẽ làm.
----------------------------------
Mt 18,21-35
Lậy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không rõ việc chúng làm, đã được Đức Gioan Phaolô II: TN24-A23
"Lậy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không rõ việc chúng làm" (Lk 23,34) đã được Đức Gioan Phaolô II thực thi, khi ngài thân hành đến khám đường thăm viếng, hoà giải và an ủi Ali Agca, kẻ hành thích ngài tại công trường Thánh Phêrô ngày 13 tháng 8 năm 1981. Chúa Kitô luôn khuyến khích tín hữu cởi trói mọi ràng buộc, giải toả các uẩn ức, giao hoà các bất đồng và hợp tác trong tình thương. Tha 70 lần lũy thừa 7 là tiêu chuẩn của ơn tha thứ hoà giải. Tích cực hơn, Chúa dậy các tín hữu phải yêu thương các đĐch quân và nguyện cầu cho họ. Đối với nhân loại thì đây quả là một vấn đề khó khăn.
Tình tiêu cực theo lý thuyết tương đối rất dễ. Chúng ta cần trưng Lời Chúa và chủ trương yêu thương và tha thứ. Tình nầy đã được ứng cử viên tổng thống Dukhakis xướng họa năm 1988. Nhưng khi được hỏi "ông sẽ làm gì khi vợ ông bĐ hiếp tối hôm qua?" thì ông ấp úng không lối thoát. Tình tích cực với hành động minh chứng thật nhiêu khê. Đích danh ông bà, anh chĐ gặp hắn, kẻ vừa giết con gái, hãm hiếp vợ, bán đứng anh và bêu xấu ông, quí vĐ sẽ làm gì?
Đưa giới lệnh tha thứ và hòa giải vào đời, Thiên Chúa muốn các tín hữu học, hiểu và sống cái Đức, cái Nhân và cái Dũng của chính Chúa, Đấng ban ơn mưa móc xuống trên người lành lẫn kẻ dữ. Không như Khômêni treo giải thưởng 1 triệu Dollars cho chặt được đầu của Ruskee. Cũng không như đám đạo tặc ăn mừng khi Ngô Đình Diệm bĐ bức tử. Nhưng phải như bà Cornie, người sống sót duy nhất của gia đình Boom ở Amsterdam, Hoà Lan. Gia đình bà vì bác ái đã che chở, chứa chấp và nuôi sống những người Do Thái trong nhà hồi đệ nhĐ thế chiến. BĐ kẻ thủ lợi báo cáo, cả gia đình đã bĐ bắt giam và chết trong trại tập trung Ravensback. Bà Cornie thuyết trình về ơn tha thứ và hoà giải, đã gây chấn động. Lời bà phát xuất từ con tim rướm máu, bằng cảm nghiệm thương đau và với tâm hồn sần sùi vết thẹo. Sau bài diễn thuyết, một người Đức đến cám ơn và xin bắt tay. Nhìn lên, bà Cornie bỗng chết trân, miệng há hốc, vì chính hắn, kẻ đã giết gia đình bà. Trong cơn giận, tay bà không sao đưa tay lên nổi để tha thứ và hòa giải. Bỗng từ đấy lòng, tâm tình thiêng liêng khơi động "Giêsu ơi, con thật không tha thứ nối, xin giúp con." Một thần lực bao phủ, bà đưa tay lên. Chính lúc đó ơn tha thứ và hoà giải đã tràn ngập tâm hồn bà và anh lý hình ngày trước.
Trong tâm tình khiêm tốn, thành thật và nghiêm chỉnh, Chúa muốn mỗi chúng ta tự đặt mình dưới ánh sáng đức tin và trong tình yêu Chúa. Hãy can đảm nhận diện những lỗi lầm, bội ước, đểu cáng, bất nhân chúng ta đã thực hiện. Hãy cám tạ Chúa vì Ngài luôn tha thứ, khoan nhân, độ lượng, chờ đợi và tạo cơ hội cho chúng ta trở về. Hãy xin ơn thông cảm để như Phêrô chúng ta biết "hồi tâm và nâng dậy anh em" và nhất là nhìn mọi người theo khía cạnh nhân loại. Họ có thất tình, lục dục như chúng ta. Họ ngày đêm bĐ sức ép của đam mê, cám dỗ và yếu đuối dằn vặt. Họ cần được cảm thông và hòa giải như chúng ta cần Chúa thương xót và tha thứ. Và cùng với họ, chúng ta đứng lên làm lại cuộc đời.
Chồng chĐ mèo chuột, gạt gẫm, cờ bạc, hút sách và hung hãn, làm sao chĐ sống đời tha thứ và tìm ra những điểm tích cực dễ thương nơi anh đây? Anh là hình ảnh Thiên Chúa vô hình! Anh cần được nâng dậy! Anh phải sống đời mới! ChĐ là tâm Chúa từ nhân, là bàn tay dĐu dàng nâng đỡ, chĐ có trách nhiệm giúp anh trở về! Vợ anh chua chát, điêu ngoa, giả dối và làm tan gia bại sản, làm sao anh tha thứ và thông cảm đây! Đức tin cho sức mạnh, sức mạnh nối lại tình thương, tình thương đem ơn tha thứ và tha thứ là phương tiện cho Chúa hiện diện.
Đó là thực cảnh, là thách đố, là gương vỡ lại lành và là nhân cách của đời Kitô hữu. Bạn ông, chồng chĐ, vợ anh, con cháu chúng ta vì nông nổi và nhẹ dạ, vì hiếu kỳ và ương ngạnh, vì yếu đuối và đam mê đã một thời bĐ ma dẫn lối quỉ đưa đường, không lẽ chúng ta ngồi nhìn họ chết mà không chút động lòng trắc ẩn! Hối nhân sẽ trở về và ngã gục trong lòng những ai tràn đầy thân thương, nhân ái và tha thứ như Đức Kitô. Ngài nhỏ nhẹ, thông cảm và yêu thương nhìn người phụ nữ trắc nết và hoang đàng "con hãy về và đừng tái phạm nữa".
Lm Nguyễn Bình An
----------------------------------
Chúa nhật 23 thường niên, Chúa Giêsu dạy Hãy đi sửa lỗi cho nhau. Chúa nhật tuần này, Chúa: TN24-A24
Chúa nhật 23 thường niên, Chúa Giêsu dạy Hãy đi sửa lỗi cho nhau. Chúa nhật tuần này, Chúa nhật 24 thường niên Chúa dạy Hãy tha thứ cho nhau. Nếu việc sửa lỗi là một khía cạnh, một khuôn mặt của tình yêu, thì tha thứ những lỗi lầm của nhau lại là một khuôn mặt khác của tình yêu. Tình yêu tha thứ theo Chúa Kitô, phải là một tình yêu không giới hạn. Thánh Phêrô, trong câu hỏi của mình, đã vô tình để lộ ra cái ý muốn giới hạn tình yêu của mình. Ngài đưa ra con số 7 mà hỏi Chúa: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần, có phải đến bảy lần không?" Có lẽ thánh Phêrô nghĩ rằng mình đã tha thứ đến 7 lần như vậy, đã là nhiều lắm rồi, đã là không thể tưởng rồi. Nhưng thánh Phêro lầm. Đối với Thiên Chúa, đối với Chúa Kitô, giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn.
Câu trả lời của thánh Phêrô: "Thầy không bảo các con hãy tha 7 lần, nhưng 70 lần 7", trở thành điểm qui chiếu cho tình yêu tha thứ của chúng ta. Tha thứ đến 70 lần 7 nghĩa là tha thứ không giới hạn, tha thứ vô cùng, tha không tính toán, không đếm bằng những con số. Vì khi đếm là đã giới hạn lòng yêu thương của mình.
Trong cuộc sống đời thường, chắc ai cũng từng nghe những kiểu nói: Nó với tôi không đội chung trời, hoặc sống để bụng, chết đem theo, có khi những kiểu nói đó còn xuất hiện trên chính môi miệng của mình. Là người Công giáo, bạn và tôi đã có ai ý thức những kiểu nói đó đi ngược Tin Mừng, đi ngược Lời Chúa dạy không?
Thầy không bảo các con hãy tha 7 lần, nhưng 70 lần 7. Hãy nghe Lời Chúa dạy để đừng đặt giới hạn của lòng tha thứ, mà hãy tha thứ không giới hạn. Có những chuyện ta tưởng chừng rất nhỏ nhặt trong cuộc sống, lại sinh ra oán thù lớn. Ví dụ: hai đứa bé đánh nhau, thì vì chỉ bảo chúng, hai người hàng xóm, vì bênh vực con, lại mắn chửi nhau, rồi không thèm nhìn nhau.
Có khi chỉ là một câu nói lỡ lời, chạm tự ái, dẫn đến chuyện trách móc, phàn nàn nhau. Tệ hại hơn, không thể tha thứ cho nhau, nên dẫn tới chỗ hạ nhục nhau, chửi bới hoặc tìm cách trả thù nhau, chí ít thì cũng nói xấu nhau. Những điều đó đã là xấu đối với những người không có quan hệ họ hàng. Vậy mà những điều xấu đó lắm lúc lại xảy ra trong dòng tộc, trong gia đình: vợ chồng, cha mẹ, anh chĐ em. Những người thân của nhau mà còn không thể tha thứ cho nhau, thì huống hồ là người dưng.
Hàng ngày chúng ta đọc kinh Lạy Cha. Ngay trong từng thánh lễ, bạn và tôi cũng sẽ đọc kinh Lạy Cha: Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho những người có nợ chúng con. Hãy ý thức hơn nữa mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, để lời cầu nguyện ấy trở nên sự thật trong cuộc đời mình. Hãy nhớ rằng, Cha tha nợ cho ta khi ta hết lòng tha cho anh em mình. Bởi thế mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, ta xin Chúa ban cho ta và cho từng người khả năng tha thứ. Tha thứ không phải bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy. Nghĩa là tha thứ liên tục, tha thứ không giới hạn.
Lm J.B. Nguyễn Minh Hùng
----------------------------------
- Lm. Phê-rô Trần Minh Đức
Tha Thứ mà Không Cần So Đo Tính Toán - Lm. Phê-rô Trần Minh Đức
Hc 27,33-28,9; Rm 14,7-9; Mt 18,21-35
Đức quốc xã đã giết hàng triệu người Do thái trong đệ nhị thế chiến. Sự việc này đã xảy ra trên 50 năm: TN24-A25
Đức quốc xã đã giết hàng triệu người Do thái trong đệ nhị thế chiến. Sự việc này đã xảy ra trên 50 năm nhưng cho đến nay thành phần lãnh đạo và giới trí thức của hai quốc gia nói chung rất dè dặt trong mối quan hệ ngoại giao, rất nhạy cảm mỗi khi đề cập, đá động đến chuyện xưa. Người Do thái thường nói: Chúng tôi có thể tha thứ, nhưng chúng tôi không thể nào quên tội ác của dân tộc Đức trong quá khứ!
Chúng ta phải tha thứ cho kẻ khác bao nhiêu lần? Tất cả đều có giới hạn của nó. Một lần là đủ rồi. Nếu không thì chúng ta sẽ đi về đâu? Chúng ta sẽ bị kẻ khác lợi dụng từng bước. Chúng ta nghĩ như thế, những người chung quanh cũng vậy. Thánh Phê-rô cũng đã nghĩ như thế, và bởi vì nghĩ như thế cho nên ông cảm thấy mình khoan dung độ lượng, rất tự hào đến hỏi Đức Giê-su: "Nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không?"
Lẽ dĩ nhiên ai cũng biết: làm việc thiện thì tốt hơn làm điều xấu. Để nhận biết sự khác biệt giữa nhân đạo và vô nhân đạo con người chưa cần nại đến đức tin hay tôn giáo. Tha thứ, làm hoà: đó là kinh nghiệm mà mỗi người trong chúng ta đã từng trải. Nhưng chắc chắn ai cũng phải nhìn nhận rằng, tha thứ không phải là chuyện dễ dàng. Nếu như có ai lần đầu tiên vô tình hay hữu ý xúc phạm đến chúng ta, chúng ta có thể nhường nhịn, xí xoá bỏ qua. Thôi thì "chín bỏ làm mười", hãy cho kẻ ấy một cơ hội. Nhưng được một lần thì lại có lần thứ hai, thứ ba! Khi chó bị dồn vào chân tường thì sẽ cắn quái! Đến một lúc nào đó chúng ta sẽ nổi giận và nói: Hắn đã xúc phạm đến tôi, tôi không thể nào dung thứ cho hắn. Tất cả đã quá trớn!
Đúng như thế, nếu nhìn sự việc theo những khía cạnh thuần tuý con người thì tất cả có lẽ đã quá trớn, nhưng cãi cọ xung khắc là lẽ thường tình của đời sống con người. Mỗi một mối quan hệ là một cuộc phiêu lưu. Ai muốn kết giao với kẻ khác đều phải chấp nhận mạo hiểm. Buổi ban đầu tất cả đều đẹp đẽ, đầy hứa hẹn. Nhưng nếu không biết trân trọng giữ gìn thì một ngày nào đó những vui thú hứng khởi lúc đầu thành tẻ nhạt, xung khắc bất đồng nảy sinh. "Không ưa thì dưa có giòi!" Chúng ta trở thành ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, sẽ rút lui vào vỏ ốc của mình, rào giậu, xây tường lũy chung quanh, bởi vì nỗi phập phồng lo sợ đã đi vào tận xương tủy. Nhưng "tức nước vỡ bờ", những đè nén trong lòng sẽ nổ tung, khi chúng ta cảm thấy mình bị đe dọa tứ bề. Chúng ta sẽ tìm cách bảo vệ chính mình bằng mọi giá, nếu cần sẵn sàng bước qua xác chết!
Hơn lúc nào hết, ngày hôm nay chúng ta chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc tranh tụng bùng nổ trong gia đình cũng như trong Giáo hội. Ly dị ngày càng nhiều! Chúng ta đã tìm đủ cách để làm thay đổi môi trường sống cũng như quan hệ của chúng ta. Nhưng dựa vào sức lực tự nhiên chúng ta không đủ khả năng để tha thứ cho kẻ khác mãi mãi, cho nên chúng ta đặt tiêu chuẩn, giới hạn. Chúng ta cần sự trợ giúp. Chúng ta cần một người sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, để chúng ta có khả năng tha thứ. Câu trả lời của Đức Giê-su đã làm sáng tỏ một điều: Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta ơn tha thứ. Câu chuyện mà Ngài kể giống như một tấm gương. Nếu như chúng ta có can đảm nhìn vào thì chúng ta sẽ khám phá hình ảnh của chính mình trong đó. Không phải chúng ta mà là chính Thiên Chúa đã thực hiện bước đầu tiên. Thiên Chúa đã tự giao hoà chúng ta với Người qua Đức Giê-su và đã sai phái chúng ta đi làm hoà với người khác. Dù chúng ta đã phạm tội gì đi nữa, dù chúng ta có phạm bao nhiêu lần đi nữa, Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ. Như Thiên Chúa, chúng ta hãy tha thứ cho nhau.
NS Dân Chúa Âu Châu
----------------------------------
Tha Thứ
Hc 27,33-28,9; Rm 14,7-9; Mt 18,21-35
Quá tam ba bận. Có tha chỉ tha ba lần mà thôi. Đến lần thứ tư là phải trừng phạt. Đó là truyền thống của: TN24-A26
Quá tam ba bận. Có tha chỉ tha ba lần mà thôi. Đến lần thứ tư là phải trừng phạt. Đó là truyền thống của người Do thái. Sách Tiên tri Amos có ghi một loạt các lời phán quyết: “Vì ba tội ác của (Đama, Gaza, Tyrô, Edom...) và vì bốn tội...Ta sẽ không hối lại... Ta sẽ phóng hoả tường thành” (Am 1). Từ đó người ta suy luận: Thiên Chúa sẽ trừng phạt kẻ ác khi nó lỗi phạm đến lần thứ tư, và người phàm thì không thể nhân lành hơn Thiên Chúa, thế nên con người không thể tha thứ cho nhau quá ba lần.
Truớc lối suy luận và giảng dạy như thế của các kinh sư, Phêrô chắc mẫm sẽ được Đức Giêsu khen ngợi khi đề nghị tha đến bảy lần. Bởi vì tha như thế là đã gấp đôi truyền thống Do thái, và còn cộng thêm một lần. Đây quả là lời đề nghị quảng đại, đầy tính cách mạng.Thế nhưng, câu trả lời của Đức Giêsu đã làm bàng hoàng người nghe : "Không phải chỉ tha 7 lần nhưng là 70 lần 7." Như vậy, vị chi là 490 lần. Thế thì có khác nào bảo người ta tha thứ không ngừng. Mà tha kiểu đó thì có khác gì tạo cớ vấp phạm: được đàng chân, họ lân đàng đầu thì sao?
Lắm khi tôi cũng tính toán như thế. Và không ít lần tôi chẳng muốn thứ tha người khác. Tôi tìm cách báo thù cho thoả lòng tự ái. Tôi tìm cách lật tẩy lỗi lầm tha nhân để nó đừng tái phạm. Tôi cố gắng thi hành chính sách "mắt đền mắt, răng đền răng" cho hợp lẽ công bằng. Tôi đưa ra nhiều lý do rất "kêu" để biện minh cho hành vi của mình. Nhưng thử hỏi có lý do nào phát xuất từ tình mến thương chăng?
Chúa Giêsu đã kể một dụ ngôn đáng cho tôi suy nghĩ: Có vị vua kia muốn tính toán sổ sách với các con nợ. Một kẻ thiếu ngài 10 ngàn nén vàng. Đổi ra cũng được 100 triệu đồng, tương đương với 60 triệu ngày làm công. Sử gia Flavius Gioseph cho biết: vào năm thứ tư trước công nguyên, số tiển thuế hai tỉnh Galilê và Pêrê nộp cho Rôma là 2 trăm nén vàng. Như thế 10 ngàn nén vàng là một món nợ vô cùng lớn.
Kẻ mắc nợ bị điệu đến trước mặt vua. Nhưng vì y không có gì trả nên vua ra lệnh bán y củng vợ con để bù vào. Chắc chắn số tiền đó chẳng đáng là bao. Nhưng đâu còn biệp pháp nào khá hơn.
Trước viễn cảnh gia đình tan nát, thân xác sẽ mang kiếp nô lệ ngựa trâu, tên mắc nợ sấp mình nài van đức vua cho thêm thời gian xoay sở. Thấy con nợ than khóc khẩn cầu, vua chạnh lòng thương . Tình thương ấy dâng cao đến nỗi vua cho y về, thậm chí còn tha luôn nợ.
Không phải xa vợ con, không bị đoạ đày khổ sai, lại còn được xoá đi món nợ khổng lồ. Ôi, có niềm hạnh phúc nào to lớn hơn!
Anh hân hoan nhịp tung chân bước. Lòng phơi phới, miệng hát ca. Từ nay sẽ không còn bồn chồn lắng lo. Khung trời tự do như rộng thêm dưới từng nhịp bước. Nhưng chân anh bỗng khựng lại vì chợt thấy bóng người hàng xóm. Tên này đang thiếu nợ anh. "Hắn mượn mình 100 đồng từ lâu mà chưa chịu trả," anh nghĩ bụng, "ta phải cho nó biết tay." Thế rồi, anh tóm lấy, bóp cổ, đòi nợ, và tống giam kẻ ấy sau khi hắn van xin anh cho thêm chút thời gian xoay sở mà không được.
Vụ việc đến tai vua. Nhà vua đã trừng trị hắn đích đáng.
Tôi tự hỏi: tại sao anh kia lại đối xử với tha nhân thiếu tình người như thế. Hà cớ gì anh lại ra tay vũ bạo với con nợ bé tí thế kia?
Câu trả lời sẽ là vì anh ta mau vô ơn. Tham chút lợi nhỏ trước mắt mà quên mất hồng phúc lớn lao trong đời. Mau vô ơn, cũng mau vô tình vô tâm. Thế nên để sống có tâm, có tình, con người cần phải nhìn lại chính mình luôn luôn. Nhìn lại để thấy tình Chúa chứa chan. Nhìn lại để biết chia ban ân phúc cho người.
Thiên Chúa luôn quảng đại thứ tha. Ngài không thích trừng phạt ai. Thế nhưng con người sẽ tự trừng phạt chính mình khi đóng cửa lòng với người khác. Mở ra là điều kiện tất yếu để đón nhận. Càng biết tha thức càng được Thiên Chúa thứ tha. Tha nhân nợ tôi, dù có nặng nề mấy, cũng chẳng đáng là gì khi so với việc tôi nợ Chúa. Thế thì dại chi khi không bỏ một vốn để được bốn vạn lần lời.
"Hãy cho đi để được cho lại. Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã lắc, đầy tràn toé ra mà đổ vào vạt áo các ngươi. Vì các nguơi đong bằng đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy.' (Lc 6,38).
Người ta kể: trong cuộc nội chiến tại Tây Ban Nha trong những năm 1930, các phiến quân triệt hạ giáo xứ, đốt phá nhà thờ, và giết hại nhiều linh mục, giáo dân.
Một ngày nọ, bọn phiến loạn trói giật cánh khuỷu một linh mục già và đem ra pháp trường xử bắn. Trước khi bị hành hình, vị linh mục thều thào với viên chỉ huy:
- "Xin anh cởi trói cho tôi".
- "Chết đến nơi rồi thì cần gì cởi trói", viên chỉ hay quát lại.
- "Tôi muốn ban phép lành lần sau cùng cho các anh".
Nghe thế viên chỉ huy vô thần tức giận vung chiếc rìu lên, chém đứt không chỉ sợi dây trói, nhưng còn luôn cả đôi bàn tay linh mục.
Mặc dù đau đớn cùng cực, vị linh mục vẫn giơ cổ tay đầy máu lên cao, vẽ thành hình Thánh Giá như dấu hiệu ban phép lành. Ngài nói trong hơi thở đứt đoạn: "Tôi tha thứ cho các anh. Tôi xin Chúa tha thứ và chúc lành cho các anh."
Một loại đạn vang lên, xác vị cha già đổ xuống. Đầy máu.
"Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ... Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó ăn; nó khát, hãy cho nó uống. Làm thế ngươi sẽ chất than hồng trên đầu nó. Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ" (Rm 12,14,20-21)
Biết cầu nguyện cho kẻ làm khổ mình - đó có thể là vợ tôi, chồng tôi, con chiên tôi, các đồng nghiệp của tôi... - là biết sống tinht thần bác ái Kitô Giáo. Và như thế, tôi đang giúp họ cũng như chính mình tiến đến đỉnh cao kiện toàn.
Một nhà tư tưởng đã viết: "Nắm bắt chân lý để rao giảng về nó là một cuộc chiến khó khăn; sống theo chân lý lại là một cuộc chiến gay go gấp bội; nhưng chỉ những ai chú tâm cầu nguyện mới mong nắm được phần thắng" (Jack McArdle).
Liệu tôi đã biết cầu xin để có thể tha thứ cho nhau hay chưa?
NS Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp: Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR
----------------------------------
"...Nhưng Đến Bảy Mươi Lần Bảy" - Sr Maria Goretti N.,OP
Mt 19,21-35
Lời kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô vẫn còn văng vẳng bên tai: "... Vì chính khi thứ tha, là khi được: TN24-A27
Lời kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô vẫn còn văng vẳng bên tai: "... Vì chính khi thứ tha, là khi được tha thứ..." Tha thứ là hành động của trái tim, là chìa khóa dẫn đến sự bình an cho tâm hồn, là điều kiện đòi ta phải có để được đón nhận ơn tha thứ của Chúa. Trong thực tế chúng ta mắc nợ nhau rất nhiều bởi những va chạm hằng ngày, chúng ta chỉ có thể trả những món nợ ấy bằng tình thương qua sự tha thứ cho nhau mà thôi. Có thương thì chúng ta mới dễ dàng tha.
Thiên Chúa Cha là Đấng giàu lòng tha thứ, Ngài luôn sẵn sàng tha thứ cho ta. Còn Chúa Giêsu, cả cuộc đòi chịu biết bao là ngược đãi, tủi nhục, thế mà Ngài còn cầu xin Chúa Cha tha cho những người đó và biện hộ cho họ là vì "họ không biết việc họ làm".
Trong Giáo hội cũng có rất nhiều vị thánh nỗi bật về gương tha thứ, tôi chỉ xin nêu một vị thánh rất trẻ, 12 tuổi, đó là thánh nữ Maria Goretti. Có một chàng thanh niên cạnh nhà Maria Goretti, tên là Alexander đem lòng yêu mến chị và dùng bạo lực để ức hiếp chị, chị đã dùng hết sức để chống cự và bị 14 mũi dao đâm thâu thân thể. Trước khi tắt thở, chị đã sẵn sàng tha thứ cho Alexander và nói lên ước nguyện: "Ước chi Alexander cũng được lên Thiên Đàng như mình". Sở dĩ Maria Goretti có thể tha thứ được cách quảng đại như vậy là vì chị có lòng yêu mến Chúa sâu thẳm. Sau này Alexander đã đổi đời, xin gia nhập đan viện. Chó gì chúng ta cũng bắt chước những tấm gương ấy, để những người trong gia đình hoặc hàng xóm làm phiền lòng ta, họ sẽ cảm nhận được sự tha thứ và đi đến thay đổi lối sống, làm cho mái ấm gia đình hạnh phúc hơn, một khu xóm yêu thương hơn.
Thật sự nói thì dễ lắm, nhưng thực hành được hay không mới là chuyện lớn. Nếu ta khó tha thứ, lý do chính là vì ta chưa cảm nghiệm được tình yêu tha thứ của Chúa dành cho ta, nên ta chỉ tha những gì có thể, còn những gì khó tha là ta để bụng "làm mắm" chờ cơ hội "trả đủa".
Nhưng Tin Mừng hôm nay Chúa kêu mời chúng ta hãy tha thứ tất cả, tha thứ thật lòng, và tha thứ mãi, chứ không chỉ tha có bảy lần như thánh Phêrô hỏi Chúa, nhưng là đến "bảy mươi lần bảy" có nghĩa là chúng ta phải tiếp tục tha nữa và tha mãi. Phần thứ hai của Tin mừng hôm nay, Chúa cũng nêu lên một câu chuyện đáng cho chúng ta phải xét mình: Một tên đầy tớ mắc nợ chủ 10,000 nén bạn, anh ta sấp mình van xin chủ và được tha hết; nhưng trên đường về, anh ta gặp một người bạn mắc nợ anh ta có 100 đồng bạc, anh ta tóm lấy, bóp cổ, mặc cho người bạn có năn nỉ van xin. Chuyện đến tai chủ, ông nổi giận trao y cho lý hình hành hạ cho đến khi trả hết nợ.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha cho ta và cho hết mọi nguời, thế mà ta vẫn không tha cho anh em ta. Đôi khi chúng ta cũng xử sự không kém tàn nhẫn, hẹp hòi và ích kỷ đối với vợ, với chồng, với con cái, bà con, bạn bè, hàng xóm... giống như tên đầy tớ độc ác kia vậy. Chúng ta thường lấy những "chuyện bé xé to," cố tình không tha. Ta quên mất biết bao lần Chúa đã tha cho những lẩm lỗi của ta.
Ngày hôm nay, Chúa kêu mời chúng ta hãy có một thái độ mới trong gia đình của mình, nơi mình làm việc, nếu vợ chồng có điều gì phiền lòng nhau, con cái có chi phiền lòng bố mẹ hay bố mẹ có gì hiểu lầm con cái, hoặc bà con, hàng xóm có gì mất lòng, khó xử, hãy ngồi xuống đối thoại với nhau, để hiểu nhau, tha thứ và bỏ qua cho nhau đi. Nên nhớ rằng mỗi lần ta thực hành tha thứ, là ta được tiến lại gần Nước Trời hơn một bước nữa, càng yêu nhiều và tha nhiều, thì chắc chắn Nước Trời là một bảo đảm cho ta. Các nhà tâm lý nói: "Nhưng người không tha thứ được thì cũng không đón nhận sự tha thứ". Chẳng khó hiểu chi cả, là vì lương tâm họ không quảng đại, nên nó cũng không cho phép họ đón nhận sự quảng đại của người khác.
Chỉ những ai đã cảm nhận được tình thương tha thứ của Chúa cho mình thì mới dễ tha thứ cho người khác. Vậy chúng ta hãy xin Chúa đi, Ngài sẽ cho ta cảm nhận được tình thương tha thứ của Ngài, như Lời Ngài phán: "Ai xin sẽ được, ai gõ sẽ mở cho, ai tìm sẽ thấy."
----------------------------------
Bài Học Tha Thứ - Lm Trần Bình Trọng, USA
Hc 27,30-28,7; Rm 14,7-9; Mt 18,21-35
Đọc Thánh Kinh ta thấy tha thứ là một đề tài thường xuyên được lặp đi lặp lại. Thiên Chúa tha thứ cho: TN24-A28
Đọc Thánh Kinh ta thấy tha thứ là một đề tài thường xuyên được lặp đi lặp lại. Thiên Chúa tha thứ cho dân Người, bởi vì Người là Thiên Chúa hay tha thứ, chứ không phải là vì tội nhân đáng được thứ tha. Cũng có những khi ta thấy Thánh Kinh nhắc đến việc Chúa nỗi cơn thịnh nộ và quyết định sửa phạt dân Người. Tuy nhiên ở đây, Thánh Kinh nói về những trường hợp mà người ta đã tử khước tình yêu và ơn tha thứ của Chúa.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy ta không những về việc Thiên Chúa tha thứ cho loài người, mà còn nói đến bổn phận loài người phải tha thứ lẫn cho nhau.
Trong Phúc Âm Chúa nêu lên trường hợp người đầy tứ được tha thứ nhiều nợ nần, nhưng lại không tha thứ cho người khác chỉ nợ anh ta phần nhỏ. Chúa dùng cơ hội này để kêu gọi loài người hãy tha thứ và làm hòa với nhau. Đó cũng là cơ hội để ta học cái bài học của người đầy tớ không chịu tha thứ. Cái điều mà người ta hy vọng nơi người đầy tớ đã được tha thứ thật là hiển nhiên. Anh ta đã được tha thứ nhiều, khiến ta nghĩ rằng anh ta cũng phải đền đáp bằng việc tha thứ cho người chỉ mắc nợ anh ta một phần nhỏ.
Cái điều làm cho việc tha thứ trở nên khó khăn là khi ta bị xúc phạm và thiệt thời nặng nề. Đó có lẽ là điều khó nhất trong các giới răn của Chúa. Có những nỗi khổ tâm và đau đớn về tinh thần như xuyên vào tâm can mà người ta không dám nói ra. Ai đã bị bạn bè hay người yêu phản bội mới cảm nghiệm được nỗi đắng cay đó. Nó làm tê liệt đời sống tình cảm của con người. Vì thế mà có những người đàn bà bị phản bội khiến họ không còn muốn gặp và tin tưởng vào bất cứ người đàn ông nào khác.
Ta muốn tha thứ để cất gánh nặng đang đè nặng trên tâm hồn. Tuy nhiên ta cảm thấy thật khó lòng. Nhưng đó là lúc ta phải làm quyết định và lựa chọn. Hoặc là ta tiếp tục mang hận thù giận ghét như trong Bài Sách Đức Huấn ca ghi lại, hay là tha thứ để được tự do, để tâm hồn được thanh thoả. Ngay cả sau khi đã quyết định tha thứ, cái cảm giác đau lòng vẫn còn đó. Trong trường hợp này, điều ta có thể làm là cầu nguyện cho người đã súc phạm đến mình. Rồi cái cảm giác đau lòng sẽ dần dần biến đi với thời gian. Và tâm hồn ta lại được bình an thư thái.
Trong Phúc Âm, Chúa dạy ta phải tha thứ 70 lần bảy, nghĩa là phải tha thứ vô hạn định, vô giới hạn. Với những người mà thỉnh thoảng ta mới gặp thì tha thứ là việc dễ dàng. Còn đối với những người mà ta chung sống hàng ngày, những người làm cùng sở, thì việc tha thức lại càng khó lòng, nhưng là điều cần thiết để duy trì bầu khí an hoà. Ai có thể đếm được bao nhiều lần vợ chồng phải tha thứ cho nhau, nếu muốn hôn nhân kéo dài suốt cả cuộc sống?
Bài Thánh Kinh Cựu Ước hôm nay cảnh giác ta báo thù là dấu chỉ của tội lỗi. Người để lòng báo thù và ghen ghét đã quên đi cái giao ước với Thiên Chúa. Cái ngụ ý của Bài Phúc Âm hôm nay là giận ghét sẽ thống trị con người khi người ta quên đi cái liên hệ của mình với Chúa là Đấng tạo dựng và cứu chuộc.
Tha thứ là hồng ân của Thiên Chúa. Người quan toà có thể không tha thứ cho tội nhân, nhưng Chúa sẽ tha thứ cho người tội lỗi, nếu họ thực lòng ăn năn hối cải. Chúa hiểu sự yếu đuối của loài người và sẳn sàng tha thứ. Chính Chúa Giêsu cầu nguyện xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại, lăng nhục, cáo gian và đóng đinh Người: Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm (Lc 23,34).
Nhận thức rằng con người là bất toàn cho nên ta phải sẳn sàng tha thứ, vì chính ta có thể là nguyên nhân, gây đau khổ cho người người khác. Tha thứ là chấp nhận người thống hối để tái lập tình bạn và tình thân hữu. Là người Công giáo ta bắt đầu thánh lễ với cầu xin tha thứ. Ở đây, ta có cơ hội thú tội trước cộng đồng, trước khi dâng của lễ lên bàn thờ. Cái việc tha thứ giữa người với người là điều kiện để được Chúa thứ tha cho loài người.
Vậy hôm nay, ta hãy cầu nguyện, xin Chúa tha thứ khi ta đọc kinh Lạy Cha: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con và khi chúng ta chúc bình an cho nhau.
Dân Chúa Mỹ Châu
----------------------------------
Tha Thứ Hoài, Tha Thứ Mãi - Lm Stêphanô Bùi Thượng Lưu
Hc 27,33-28,9; Rm 14,7-9; Mt 18,21-35
Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc cách mạng đảo lộn tất cả lịch sử nhân loại cách đây 2000 năm: TN24-A29
Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc cách mạng đảo lộn tất cả lịch sử nhân loại cách đây 2000 năm. Ngài loan báo Tin Mửng lớn lao cho toàn thể nhân loại: Thiên Chúa là Cha hết mọi người, và tất cả chúng ta là anh em con cùng Cha trên trời. Thiên Chúa yêu thương tha thứ cho con người hư đốn và phục hồi tước vị làm con. Đồng thời Thiên Chúa truyền dạy cho con người hãy yêu thương nhau như anh em và tha thức cho cả kẻ thù.
Phải nói, đây thực sự là một cuộc cách mạng lớn lao. Cách mạng trong mối tương giao giữa con người với Thiên Chúa: làm sao con người tội lỗi dám mơ ước mình được Thiên Chúa tha thứ yêu thương?
Cách mạng trong mối liên hệ giữa người với người, vì con người luôn bị chi phối bởi tích ích kỷ và danh, lợi, dục. Ai cũng dễ yêu người yêu mình, nhưng kẻ ghét mình thì khó mà yêu được lại. Do đó, luật ăn miếng trả miếng "mắt đền mắt, răng thế răng" trong Cựu ước vẫn hằn in trong não trạng cũng như cách hành xử của con người đối với nhau. Làm sao có thể tha thứ cho cả kẻ thù ghét mình? Làm sao có thể tha thứ hoài tha thứ mãi?
Cách mạng vì tình yêu tha nhân là thước đo lòng mến Thiên Chúa: "Mến Chúa, Yêu nguời" phải luôn đi đôi với nhau.
Thánh Phêrô trong bài Tin mừng theo thánh sử Mátthêu hôm nay đã chất vấn Chúa Giêsu: "Lậy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bẩy lần không?"
Chúa Giêsu đáp: "Thầy không bảo con phải tha đến bẩy lần, nhưng đến bẩy mươi lần bẩy" (Mt 18,21-22). Bẩy mươi lần bẩy tức là 490 lần, nghĩa là tha hoài, tha mãi.
Để các môn đệ dễ hiểu bài học "tha hoài, tha mãi" khó nuốt này, Chúa Giêsu đã kể lại câu chuyện cụ thể sau: Một người đầy tớ mắc nợ vua muời ngàn nén bạc. Mỗi nén bạc thời Chúa Giêsu giá trị tương đương với 6,000 đồng bạc - công của một người thợ lam lũ cả ngày được 1 đồng. Tổng cộgn sổ nợ lên tới cả hàng 100 triệu, nghĩa là số nợ khổng lồ. Mà tên đầy tớ "không có gì trả". Nhà Vua ra lệnh "bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả nợ". Người đầy tớ liền "sấp mình van lơn" xin khất nợ. Nhà Vua "động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y". Không những tên đầy tớ được chủ tha hết mọi nợ nần mà còn được chủ "trả tự do": nghĩa là hết phải làm nô lệ, khỏi phải làm thân tôi mọi.
Trớ trêu thay! Vừa được Vua tha cho về, tha hết món nợ "như chúa chổm" và được hưởng "tự do", tên đầy tớ này gặp một người bạn chỉ "mắc nợ y một trăm". Một món nợ cỏn con so với món nợ khổng lồ anh vừa được Vua tha bổng. Y "tóm lấy, bóp cổ" đòi bạn trả nợ ngay. Người bạn "sấp mình dưới chân y và van lơn" xin khất nợ. Nhưng y "không nghe, bắt bạn tống giam vào ngục".
Chuyện "chướng tai gai mắt" này cuối cùng đến tai Vua, vì những người bạn của anh không thể nắm mắt làm ngơ được. Kết cục, tên đầy tớ độc ác không những bị Vua khiển trách mà còn ra lệnh hành hạ.
Kết thúc câu chuyện, Chúa Giêsu nói rõ hơn: "Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình" (Mt 18,35).
Qua nội dung câu chuyện và những lời dẫn giải của Chúa Giêsu trước và sau bài Tin Mừng hôm nay, ai trong chúng ta cũng hiểu rằng: ông Vua khoan dung nhân hậu, nhưng cũng rất thông minh chính trực, chính là Thiên Chúa. Tình thương của Ngài thật cao vời sâu thẳm như trời cao biển rộng. Cứ mỗi lần con người tội lỗi "sấp mình van lơn", Thiên Chúa lại "động lòng thương", tha hết mọi nợ nần và lại phục hồi tước vị làm con Thiên Chúa cho mỗi người chúng ta.
Tình yêu vô bến bờ của Thiên Chúa mời gọi con người ích kỷ, tội lỗi hãy theo đòi bắt chước: Rõ rệt, Thiên Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta, nếu muốn được Chúa tha thứ, cũng phải tha thứ cho anh em mắc nợ với ta: "Xin tha cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con." (Kinh Lạy Cha). Hoặc trong bài đọc thứ nhất trích sách Huấn Ca: "Người này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao? Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao? Nó là xác thịt mà tích lòng thịnh nộ, thì dám xin Chúa tha thứ làm sao? (Hc 27...)
Tình yêu tha nhân là giới luật Chúa truyền. Tất cả lề luật đều tóm gọn trong bốn chữ "Mến Chúa Yêu Người": "Hãy nhớ kính sợ Thiên Chúa, và đừng giận ghét kẻ khác. Hãy nhớ giao ước của Đấng Tối Cao và hãy bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác" (Hc 28,7)
----------------------------------
Tha Thứ Không Ngừng - Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mt 18, 21-35
Trong câu chuyện Hoàng Tử Nhỏ ( Le Petit Prince ) của tác giả St Exupéry, khi chó sói tạm biệt Hoàng: TN24-A30
Trong câu chuyện Hoàng Tử Nhỏ ( Le Petit Prince ) của tác giả St Exupéry, khi chó sói tạm biệt Hoàng Tử, nó cặn dặn thế này : " Đây là bí quyết của tôi, giản dị lắm: người ta chỉ thấy rõ nhờ con tim. Đôi mắt không thấy được cái chính yếu đâu ". Con người thường chỉ thấy được bề ngoài mà ít khi đi vào chiều sâu. Một người làm ơn cho ta rất nhiều, nhưng vì ích kỷ, thiển cận, không có cái nhìn rộng khắp, không có cái nhìn nội tâm, con người dễ quên đi ơn huệ mà họ đã lãnh nhận. Có con tim nhậy cảm, có tấm lòng, con người sẽ nhìn thấy tất cả : điều gì nên làm, điều gì không nên làm. Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho ta thấy cái bi kịch của cuộc đời. Chúa yêu thương, tha thứ, cảm thông với con người. Tình thương của Người thật vô biên, không thể đáp đền. Con người mắc nợ nhau có chút ít, đã không thể cảm thông cho nhau được. Đó là cái bi kịch của câu chuyện hôm nay.
BI KỊCH CỦA CÂU CHUYỆN
Chủ tha cho người mắc nợ một món nợ lớn, món nợ không thể trả được, nhưng anh ta lại không thể cảm thông, tha thứ và xuề xòa với một người đồng liêu, mắc anh ta một món nợ nhỏ, không đáng kể, anh đã bắt bỏ tù người bạn đồng liêu mắc nợ. Bi kịch của câu chuyện nằm ở chỗ : chủ nhân từ, đại lượng, quảng đại đã tha nợ cho người mắc nợ một món nợ khổng lồ, không thể nào trả được, khi anh ta vừa ngỏ ý, xin chủ thông cảm; anh không biết cảm thông khi người bạn đồng liêu xin anh cho khất nợ.
Ở đây,vua tha cho người mắc nợ, diễn tả Thiên Chúa là Cha nhân từ đã tha thứ cho người mắc nợ với con tim, với tấm lòng đại lượng bao la. Chính tình yêu mới đưa con người vào lãnh nhận ơn cứu độ. Tình yêu của Chúa tức vị vua là tình yêu hiến tế, tình yêu cứu độ, tình yêu hy sinh, xả kỷ, tình yêu thập giá : " Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu" ( Ga 15, 13 ). Vì Thiên Chúa là tình yêu như thánh Gioan đã nói. Cái thảm kịch này vẫn xẩy ra thường nhật trong cuộc sống. Con người đã nhận lãnh nơi Thiên Chúa biết bao ơn huệ nhưng không, con người phải cho lại nhưng không. Nói thì dễ, nhưng thực hiện quả thực là khó vì chỉ với món nợ nhỏ nhoi 100 đồng bạc so với 60 triệu bạc, con người vô ơn, bội nghĩa đã đang tâm bỏ tù người bạn mắc nợ mình. Đây là cái bi đát của cuộc đời vì con người chỉ nhìn người khác với đôi mắt thịt, họ sẽ không hiểu rõ hoàn cảnh và những nhu cầu người khác đang khao khát, đang cần. Con người sở dĩ không có sự tha thứ, cảm thông vì con người không biết yêu, con người không biết chờ đợi, không biết hy vọng, nên con người luôn sống trong sự mù tối. "Tình yêu phát xuất tự Thiên Chúa là tình yêu vĩnh cửu, tình yêu thật "( The Inner of Love của Cha Nouwen ). Con người thiếu tình yêu hay nói một cách nôm na dân dã là không biết yêu thì không biết tha thứ. Đó là cái bi kịch của câu chuyện Chúa Giêsu muốn trưng ra ở đây để dậy các môn đệ và dậy nhân loại chúng ta.
CON ĐƯỜNG PHẢI ĐI LÀ CON ĐƯỜNG HẸP, CON ĐƯỜNG THA THỨ
Chúa Giêsu trả lời với Phêrô :" Anh em con lỗi phạm,con phải tha thứ đến 70 lần bảy". Bảy mươi lần bảy có nghĩa là tha thứ mãi mãi và tha thứ không ngừng. Món nợ con người đối với Chúa là món nợ vô giá, con người không thể nào trả nổi,nhưng Chúa là tình yêu, Ngài đã xí xóa tội lỗi cho con người.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong cuốn "Bước qua ngưỡng cửa hy vọng" đã nói có một điều nghịch lý căn bản trong Phúc Âm: "muốn tìm thấy sự sống, phải bỏ mất nó; muốn sinh ra, thì phải chết; muốn được cứu độ, phải nhận lấy thập giá của mình ! Đó là chân lý chính nằm ở tâm điểm của Phúc Âm:ở mọi nơi và ở mọi thời, chân lý này sẽ bị người ta phản đối ".
Nhận lấy thập giá nghĩa là chấp nhận cái nghịch lý của cuộc đời; cái mà người đời cho là khôn ngoan, đối với Thiên Chúa là khờ dại. Chúa đã yêu nhân loại, đã chấp nhận, gánh vác tội cho nhân loại dù Ngài hoàn toàn vô tội, để chấp nhận cái chết khổ hình trên thập giá mang ơn giải thoát cho con người. Đó là tình yêu vĩnh cửu, tình yêu hy sinh có sức mạnh tha thứ tất cả.
Còn con người đối với nhau, tuy nợ nhau nhỏ nhoi, nhưng con người vì ích kỷ,không biết yêu,nên khó chấp nhận tha thứ cho nhau.Còn món nợ của mỗi cá nhân, món nợ rất nặng trước mặt Chúa,nhưng có thể vì con người tưởng mình vô tội, tưởng mình công chính, nên khó nhận ra được tình thương bao la của Chúa. Từ chối mình có tội, mình yếu hèn, khó lòng có thể biết tha thứ cho mình chứ đừng nói gì đến sự tha thứ cho kẻ khác. Để hiểu được sự tha thứ, con đường phải chọn vẫn là con đường của tình yêu. Ơn cứu độ nằm nơi tình yêu vô biên của thập giá Đức Giêsu Kitô. Hiểu như vậy, con người dễ tha thứ cho mình và cảm thông tha thứ cho mọi người khác.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Anh chị đã cảm nghiệm tình yêu tha thứ của Thiên Chúa ?
2. Anh chị đã có kinh nghiệm tha thứ cho người khác chưa ?
3. Tình yêu hy sinh nói gì cho anh chị ?
----------------------------------
Anh Em Tha Thứ Cho Nhau - John Nguyễn
ĐỌC LỜI CHÚA
- Hc 27,33;28,9: (1) Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa, tội lỗi nó, Người xem xét từng ly. (2) Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha. (3) Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành! (4) Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! (5) Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó?
- 1Rm 14,7-9: (7) Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. (8) Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa.
TIN MỪNG:
Mt 18,21-35
Anh em tha thứ cho nhau (// Lc 17,3b-4)
(21) Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: «Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?» (22) Đức Giê-su đáp: «Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy».
Dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót
(23) Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. (24) Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. (25) Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. (26) Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: «Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết». (27) Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. (28) Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: «Trả nợ cho tao!» (29) Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: «Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh». (30) Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. (31) Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. (32) Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: «Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, (33) thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?» (34) Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. (35) Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Nếu bạn chợt nhận ra mình cũng yếu đuối và dễ lầm lỗi như người mà bạn đang kết án, thì bạn có còn muốn: TN24-A31
1. Nếu bạn chợt nhận ra mình cũng yếu đuối và dễ lầm lỗi như người mà bạn đang kết án, thì bạn có còn muốn kết án họ không?
2. Bạn có dễ dàng tha thứ lần nữa cho người mà bạn đã từng tha cho một món nợ lớn, nhưng chính người ấy lại không chịu tha cho con cái bạn một món nợ rất nhỏ không?
3. Khi bạn mang trong mình một nỗi hờn giận, tâm hồn bạn có bình an không? Cách tốt nhất và khôn ngoan nhất để giải quyết nỗi hờn giận ấy là gì?
Suy tư gợi ý:
1. Sống trên đời, ai cũng lầm lỗi. Chính ta cũng biết bao lầm lỗi
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, Đức Giê-su đòi hỏi ta phải biết sửa lỗi cho tha nhân. Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài lại yêu cầu ta phải sẵn sàng tha thứ cho họ một cách vô điều kiện. Như vậy, ta vừa phải sửa lỗi, lại vừa phải tha thứ.
«Nhân vô thập toàn», trên đời, không ai hoàn hảo cả, ai cũng có những sai trái, lầm lỗi. Xét lại bản thân, ta thấy chính ta cũng có nhiều sai trái, khiếm khuyết, lầm lỗi: vô ý có, mà hữu ý hay cố tình cũng có. Đó chính là lý do khiến ta nên tha thứ cho người khác.
2. Ta luôn thấy lầm lỗi của ta đáng được thông cảm và tha thứ
Khi bị ai trách cứ, hầu như lần nào trong thâm tâm ta cũng có lý do để chống chế, để biện hộ cho sai trái của mình. Điều đó có nghĩa là dù ta có lỗi, ta vẫn luôn thấy lỗi mình đáng được thông cảm và tha thứ. Vì chỉ có ta mới hiểu được nguyên nhân và hoàn cảnh khiến ta phạm lỗi. Người ngoài sở dĩ kết án ta là vì họ không hiểu được thế kẹt của ta, nên họ không thông cảm được sự sai trái của ta. Tất cả mọi người đều vậy cả, ai cũng thấy lầm lỗi của mình đáng được thông cảm.
Theo Dale Carnegie trong cuốn Đắc Nhân Tâm của ông, thì không ai tự nghĩ xấu về mình. Ai cũng tự nghĩ tốt cho mình dù là kẻ xấu nhất trong nhân loại. Ai cũng nghĩ rằng mình đúng cho dù là kẻ sai nhất trong nhân loại. Ai cũng có nhiều lý lẽ để cho rằng mình là người tốt, người đúng. Ông đã chứng minh điều ấy bằng những sự kiện cụ thể mà ông thu thập được trong đời sống của ông. Theo ông, ngay cả những tên cướp giết người không gớm tay vẫn có lý do bào chữa cho những hành động gớm ghiếc của chúng, mà chúng nghĩ do thực tâm chứ không phải để ngụy biện. Tuy dù không hoàn toàn đồng ý với Dale Carnegie, tôi cũng phải công nhận ông có lý phần nào, và đó chính là lý do để tôi thông cảm hơn với những người tôi muốn kết án.
3. Đức Giê-su khuyên ta luôn tha thứ, và tha thứ vô điều kiện
Đức Giê-su là một con người y như chúng ta, Ngài cũng cảm nghiệm được sự yếu đuối của con người y như chúng ta, chính Ngài cũng bị cám dỗ phạm tội như chúng ta. Vì thế, mặc dù Ngài không hề phạm một lầm lỗi nào, Ngài vẫn cảm thấy mọi tội lỗi của con người đều đáng được tha thứ. Lý do mà Ngài đưa ra cho chủ trương tha thứ vô điều kiện là: Chính bản thân ta có lỗi với Thiên Chúa nhiều gấp bội ai đó có lỗi với ta. Nếu ta không tha thứ cái lỗi nhỏ bé ấy cho người ấy, thì Thiên Chúa làm sao tha cho ta cái lỗi tầy trời của ta được? Mà nhất là người ấy lại là hiện thân của chính Thiên Chúa ở bên ta, vì Ngài tự đồng hóa với tha nhân của ta.
Hãy tự đặt mình vào địa vị của Thiên Chúa, tương tự như hoàn cảnh sau đây, ta sẽ thấy sự cần thiết phải tha thứ: Có người nợ ta rất nhiều mà ta sẵn sàng tha cho tất cả, nhưng chính người ấy lại không chịu tha nợ cho con của ta, cứ nằng nặc đòi nợ với đủ mọi đẹ dọa, dù con ta chỉ nợ họ một số tiền nhỏ. Trường hợp đó ta sẽ làm gì với người ấy? Nếu không tha thứ cho người khác, ta cũng làm một hành động phi lý và vô ơn tương tự như người ấy. Nghĩ cho cùng, không tha thứ cho người khác, chính là một hành động vô ơn đối với Thiên Chúa là người đã tha thứ cho mình. Thiên Chúa tuy không có lỗi gì với ta, nhưng ta phải trả ơn cho hành động tha thứ của Thiên Chúa bằng cách tha thứ cho những hiện thân của Thiên Chúa ở bên ta, tức những người sống chung quanh ta.
4. Lòng khoan dung độ lượng
Một trong những đức tính cần thiết để trở nên hoàn hảo là lòng khoan dung độ lượng. Người khoan dung độ lượng là người không chấp nhất, mà trái lại thông cảm với những lầm lỗi của kẻ khác. Lòng khoan dung độ lượng được xây dựng trên ý thức về những yếu đuối, về khả năng phạm lỗi của chính bản thân mình, và sau đó, của người khác. Mình cũng phạm lỗi thì mình kết án người khác thế nào được? Nếu mình cũng phạm lỗi mà lại đi kết án người khác, thì đó đúng là một hành động vô liêm sỉ. Trong chuyện người đàn bà ngoại tình bị bắt quả tang (x. Ga 8,3-11), tuy không phục những người Pha-ri-siêu vì họ thích giả hình, nhưng tôi phục họ vì họ còn có liêm sỉ. Khi Đức Giê-su nói: «Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!», «Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi». Họ không dám ném đá kẻ ngoại tình chính vì họ ý thức mình cũng có tội, như thế là họ còn liêm sỉ. Như vậy, kết án người khác, không tha thứ lầm lỗi cho họ là do ta không ý thức được lầm lỗi của chính mình. Nếu ý thức được lầm lỗi của mình mà vẫn kết án, không tha thứ thì chẳng phải là ta thiếu liêm sỉ sao?
Con người có một mẫu số chung như nhau là rất yếu đuối, rất dễ lầm lỗi. Xét lại chính bản thân, ta thấy mình vẫn sai lỗi hằng ngày. Nếu tôi ít sai lỗi hơn người khác, rất có thể vì tôi không phải sống trong một hoàn cảnh có nhiều cám dỗ thúc đẩy tôi sai lỗi như họ. Nếu tôi cũng sống trong hoàn cảnh y như thế, liệu tôi có khá hơn họ, hay tôi còn tệ hơn họ nữa? Không chỉ có yếu tố hoàn cảnh khiến họ dễ phạm tội hơn tôi, mà còn nhiều yếu tố khác nữa. Hãy tự hỏi: Khi mình ở độ tuổi ấy, liệu mình đã suy nghĩ chín chắn được như người ấy không? Nếu mình chỉ được học hành hay được giáo dục như họ thôi, mình có hành động khá hơn họ không? Nếu mình bẩm sinh có thể chất hoặc tâm lý yếu đuối như họ, nếu mình chỉ suy nghĩ được như họ, liệu mình có hành động khác hơn không? v.v
5. Tha thứ làm tâm hồn ta nhẹ nhõm, thảnh thơi
Kinh nghiệm cho tôi thấy khi nào bực bội ai điều gì, khi nào để trong lòng nỗi buồn bực giận hờn ai, thì tâm hồn tôi không được bình an. Lúc đó, trong tâm hồn tôi có một xung lực thúc đẩy tôi phải làm một cái gì đó, chẳng hạn chửi bới người ấy, nói một câu gì hạ nhục người ấy, hoặc làm một điều gì khiến người ấy phải đau khổ
Lúc ấy tôi có cảm tưởng rằng: có hành động theo sự thúc đẩy của xung lực ấy, tôi mới nguôi ngoai cơn giận, và tâm hồn tôi mới tìm lại được bình an. Nhưng trong thực tế, sau khi thỏa mãn cơn giận bằng những hành động ấy, tôi chỉ được nguôi ngoai phần nào, và sau đó lại tiếp tục mất bình an hơn nữa vì phải đối phó với sự trả thù của người kia. Vì khi người kia bị tôi hạ nhục hay gây đau khổ, thì trong lòng họ lại phát sinh một xung lực y như tôi trước đó, và họ quyết thỏa mãn xung lực ấy. Thế là cái vòng lẩn quẩn được thiết lập, vì: «Lấy oán trả oán, oán chập chùng» (Đức Phật).
Nhưng nếu tôi đặt mình vào địa vị người ấy, tôi sẽ dễ dàng thông cảm và hiểu được những lý do thúc đẩy họ hành động như vậy, nhờ đó tôi dễ dàng tha thứ cho họ. Khi tôi vừa quyết định tha thứ, lập tức tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhõm. Xung lực thúc đẩy tôi phải trả thù biến mất. Tích cực hơn nữa, nếu tôi có tinh thần yêu thương của Đức Giê-su, thay vì trả oán, tôi quyết định làm một điều gì tốt cho người ấy. Lúc ấy thường có điều lạ lùng xảy ra, là người ấy nhận ra ngay sai lầm của mình và ngỏ lời xin lỗi (Điều lạ lùng này rất khó xảy ra khi tôi trả đũa). Từ đó tình cảm giữa hai người thắm thiết hơn, vì qui luật này vẫn luôn luôn đúng: «Ai được tha nhiều sẽ mến nhiều, ai được tha ít sẽ mến ít» (x. Lc 7,47b). Đó cũng là chủ trương «lấy đức trả oán, oán tiêu tan» của Đức Phật.
CẦU NGUYỆN
Tôi nghe Chúa nói với tôi: «Nếu con tha thứ cho mọi người vô điều kiện, dù họ lỗi nặng đến đâu, thì làm sao Cha có thể kết án con được? Chẳng lẽ lòng bao dung của Cha lại thua con sao? Vả lại con vẫn thường xin Cha: "Xin tha nợ cho con giống như con tha nợ cho người khác". Con tha nợ cho người khác vô điều kiện, Cha cũng phải "như con" mà tha cho con vô điều kiện, dù con lỗi nặng đến đâu. Ai cầu xin như con mà không chịu tha thứ là tự họ bắt Cha kết án họ, vì họ xin Cha làm "như họ"».
----------------------------------
Lm Augustine S.J.
VietCatholic News (01/02/2005)
Chúa Nhật 24 Thường Niên
Ðọc Tin Mừng Mt 18,21-35
21 Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Ðức Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" 22 Ðức Giêsu đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy".
23 Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. 24 Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn nén vàng. 25 Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con tài sản mà trả nợ. 26 Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: "Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết". 27 Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. 28 Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: "Trả nợ cho tao!" 29 Bấy giờ người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: "Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh". 30 Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. 31 Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. 32 Bấy giờ tôn chủ cho đòi y đến và bảo: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, 33 thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?" 34 Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. 35 Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
1. Tha thứ vô giới hạn
Ngày 26.5.1996, 40 ngàn nhà thờ trên toàn nước Pháp đã đánh chuông tử để tưởng niệm 7 đan sĩ của dòng: TN24-A32
Ngày 26.5.1996, 40 ngàn nhà thờ trên toàn nước Pháp đã đánh chuông tử để tưởng niệm 7 đan sĩ của dòng khổ tu Trappiste vừa bị sát hại bởi một nhóm Hồi giáo vũ trang quá khích. Ngày 27.3, nhóm này đã đột nhập vào tu viện của các đan sĩ ở vùng bắc Angiêri và bắt họ làm con tin. Trong khi chuông nhà thờ Ðức Bà Paris thong thả đổ từng tiếng, Ðức Hồng Y Tổng Giám Mục Paris đã thắp sáng lại 7 ngọn nến như dấu chỉ về cuộc sống mới mà các đan sĩ này đang bước vào. Bảy ngọn nến sáng ngời của sự phục sinh cũng là những ngọn nến sáng ngời của lòng yêu thương tha thứ.
Các đan sĩ trên đây quá rõ về mối nguy hiểm đang đe dọa tính mạng của họ. Nhưng lương tâm không cho phép họ bỏ đi, khi dân chúng ở đây đang gặp cảnh khốn khó. Họ ở lại đây chỉ vì yêu, một tình yêu dám hy sinh mạng sống. Hơn hai năm trước khi bị sát hại, linh mục tu viện trưởng Christian de Chergé đã viết một bức thư, cũng là một lời trối, trong đó toát lên một tinh thần tha thứ phi thường: Cha Christian đã viết cho kẻ giết mình những lời như sau: "Và bạn nữa, người bạn của giây phút cuối cùng, bạn không hiểu điều bạn đã làm... Cầu xin cho hai chúng ta, những người trộm lành, sẽ gặp lại nhau trên thiên đàng, theo ý Chúa muốn. Chúa là Chúa của cả hai chúng ta..." Cha Christian không nuôi chút hờn oán nào, ngài mong cho kẻ giết ngài được hoán cải và được vào Nước Trời. Ngài coi kẻ sát nhân như một người bạn, một người trộm lành như ngài, chẳng có gì phân cách giữa đôi bên. Thái độ tha thứ của cha Christian cho thấy ngài đã thấm nhuần Lời Chúa đến mức sâu xa và đã sống Lời Chúa một cách hồn nhiên tươi tắn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ông Phêrô đã đến với Ðức Giêsu để hỏi về số lần mình phải tha thứ cho người anh em lỗi phạm đến mình. Chuyện va chạm giữa những người Kitô hữu sống trong cùng một cộng đoàn là chuyện khó tránh khỏi. Chương 18 của Tin Mừng theo thánh Matthêu cho chúng ta thấy phần nào những vấn đề nổi cộm trong cộng đoàn và thái độ cần có để giải quyết. Chắc chắn tôi phải tha thứ cho người anh em, chị em đồng đạo với tôi, nhưng vấn đề là tha thứ bao nhiêu lần. Phêrô thử đề nghị 7 lần. Con số 7 thường tượng trưng cho sự trọn vẹn, hoàn hảo. Nếu ta tha thứ cho ai 7 lần một ngày (x. Lc 17,4), chắc đã là một hành vi đáng phục rồi. Nhưng ở đây Ðức Giêsu không ngừng lại ở số 7, mà là những bội số của 7. Các bản dịch có sự khác nhau: bảy mươi bảy lần hay bảy mươi lần bảy. Dù sao thì qua những con số trên, Ðức Giêsu mời gọi Phêrô tha thứ một cách vô giới hạn. Khác với Lc 17,4, ở đây không thấy nói đến việc người được tôi tha thứ phải có lòng hối hận ăn năn.
Có thể nói là tôi được yêu cầu tha thứ cho người anh em tôi một cách vô điều kiện.
2. Tha thứ vì chạnh lòng thương
Sau đó là một dụ ngôn đặc biệt của Tin Mừng Matthêu. Dụ ngôn này muốn nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa sẽ không tha thứ cho chúng ta, nếu chúng ta không biết tha thứ cho anh em của mình. Người đầy tớ nợ vua 10,000 nén vàng hẳn phải là một viên quan cao cấp trong triều đình, và người bạn của ông ta cũng là một viên quan khác, cấp thấp hơn, vì chỉ nợ có 100 quan tiền mà cũng không có gì để trả. Có một sự chênh lệch ghê gớm giữa hai món nợ. Theo sử gia Flavius Josephus, vào cuối thế kỷ thứ nhất, một nén vàng bằng 10 ngàn quan tiền, mà một quan tiền là tiền lương công nhật cho một người làm mướn (Mt 20,2) vào thời đó. Vậy 10 ngàn nén vàng là một món nợ khổng lồ, không thể tưởng tượng nổi; nó gấp một triệu lần món nợ 100 quan tiền.
Có sự tương đồng trong hoàn cảnh và thái độ của người đầy tớ nợ nhiều và người đầy tớ nợ ít. Cả hai đều không có khả năng trả nợ. Cả hai đều sấp mình phủ phục mà nài xin cho hoãn một thời gian, và hứa sẽ trả hết. Có một sự tương phản trong thái độ của vị vua và của người đầy tớ nợ nhiều. Vị vua lúc đầu đòi bán ông ta, vợ con ông và toàn bộ gia sản để trừ nợ. Dĩ nhiên tất cả những điều đó chẳng thấm vào đâu so với món nợ khổng lồ của ông ta đối với nhà vua. Nhưng sau khi nghe ông ta năn nỉ và hứa hẹn, nhà vua chạnh lòng thương và làm một việc không ai dám ngờ, đó là tha luôn món nợ. Tiếc thay người đầy tớ vừa được hưởng lòng thương xót và quảng đại của vị vua là tôn chủ của mình, lại tỏ ra nhẫn tâm đối với người đồng bạn mắc nợ mình một món tiền nhỏ. Ông túm lấy, bóp cổ, và mặc cho những lời van xin, ông tống người bạn vào tù.
Khi nghe dụ ngôn này, chúng ta ai cũng tức giận trước thái độ tàn nhẫn của người đầy tớ đã được chủ tha. Chúng ta nghĩ rằng nếu mình ở vào địa vị người đầy tớ này, chắc chúng ta sẽ quảng đại và bao dung hơn nhiều. Nhưng trong thực tế, lắm khi chúng ta vẫn là một người đầy tớ tàn nhẫn đối với đồng bạn. Chẳng ai có thể lường được mình đã nợ Cha trên trời một món nợ lớn ngần nào. Mười ngàn nén vàng, chỉ là một con số tượng trưng cho món nợ khổng lồ, không thể trả nổi đó. Không cần phải là một tội nhân phạm những tội ác ghê tởm, chúng ta mới mắc nợ Thiên Chúa. Chính các thánh là người cảm nhận một cách sâu xa món nợ tình yêu đối với Cha trên trời. Họ thấy rõ mình đã nhận được quá nhiều ơn, và cả đời sống thánh thiện của họ cũng là một ơn nhưng không. Chỉ khi ý thức rằng mình đã được tha quá nhiều và đã được hưởng bao hồng ân của Thiên Chúa, chúng ta mới thấy việc tha thứ cho người khác là chuyện tự nhiên, chuyện phải làm.
"Há ngươi lại không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?" (c. 33). Tha thứ bắt nguồn từ lòng thương xót. Chính tôi đã lãnh nhận lòng thương xót từ Chúa và tôi không được giữ lại điều đó cho riêng mình. Tôi phải thương xót anh chị em đã xúc phạm đến tôi bằng chính lòng thương xót của Thiên Chúa. Có khi nào chúng ta cứng cỏi trước lời van xin hay hối lỗi của người khác? Có khi nào nỗi đau của người khác gây cho ta quá lớn đến nỗi ta kiên quyết đòi lại cho bằng được món nợ này? Có khi nào chợt chạnh lòng thương kẻ đã làm hại ta, vì ta nếm được cái dằn vặt, cắn rứt mà kẻ ấy phải chịu?
3. Hết lòng tha thứ
Kitô giáo là tôn giáo của sự tha thứ. Ai trong chúng ta cũng cần được Thiên Chúa tha thứ. Tha thứ chính là cứu độ. Tự bản chất, Kitô hữu là người được ơn tha thứ. Chúng ta liên tục cần đến ơn tha thứ của Thiên Chúa. Cả cuộc đời chúng ta là một chuỗi những vấp ngã được đan với những thứ tha. Nhiều khi ta thấy khó thứ tha vì quá dựa trên luật công bằng: mắt đền mắt, răng đền răng. Gandhi nói: "Nếu cứ theo luật mắt đền mắt thì cả thế giới sẽ đầy những người mù." Luật công bằng cần được làm cho dịu lại bởi tình yêu tha thứ. Một sự công bằng tàn nhẫn lại trở thành một thứ bất công dưới mắt Thiên Chúa.
Qua dụ ngôn trên đây, ta thấy ông vua nổi giận và trừng phạt người đầy tớ không có lòng thương xót. Ông lấy lại những gì ông đã cho. Chúng ta chỉ hy vọng giữ được ơn tha thứ Chúa ban, nếu chúng ta thực lòng tha thứ cho anh em. Dòng suối tha thứ của Thiên Chúa chảy vào đời ta, nếu bị ngăn lại, sẽ trở thành ao tù. Nó chỉ trong lành khi nó được chảy đến tha nhân. Chúng ta có khả năng làm cho đời mình thành ao tù, khi không sống yêu thương tha thứ.
Thế giới hôm nay bị thống trị bởi bạo lực và oán thù. Những cuộc chiến tranh dai dẳng giữa các quốc gia; những hiềm thù giữa các bộ tộc anh em; những xung đột giữa những người khác màu da, khác tôn giáo, khác quan điểm chính trị; những thảm kịch vô phương hàn gắn trong gia đình. Con người để cho hận thù lôi kéo và không sao thoát ra khỏi cái vòng ân oán nghiệt ngã. Cần phải có những người dám chịu thiệt thòi, dám bẻ gãy oán thù bằng tha thứ, dám tin rằng tình thương có thể biến đổi quả tim chai đá của con người. Ðức Thánh Cha vẫn luôn kêu gọi xây dựng một nền văn minh tình thương, vì chỉ khi ấy trái đất này mới có cơ may tồn tại.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn thấy tha thứ có khó không? Khi bạn bị người khác xúc phạm đến danh dự, tài sản, quyền lợi chính đáng, bạn thường phản ứng ra sao? Có cách nào giúp bạn vượt qua được nỗi tức giận, hờn oán một cách mau chóng không?
2. Các thánh tử đạo chẳng bao giờ ghét những kẻ giết mình. Bạn có tin rằng cái chết của 7 vị đan sĩ dòng Trappiste sẽ khiến cho những người Hồi giáo quá khích phải nghĩ lại không?
----------------------------------
Mt 18,21-35
A. Hạt giống...
Cuộc sống cộng đoàn cũng thường có nhiều va chạm, nên Chúa Giêsu dạy thêm bài học tha thứ : TN24-A33
Cuộc sống cộng đoàn cũng thường có nhiều va chạm, nên Chúa Giêsu dạy thêm bài học tha thứ :
- Phải tha luôn, tha mãi “không phải đến 7 lần nhưng đến bảy mươi lần bảy”.
- qua dụ ngôn hai con nợ, Chúa Giêsu nói : ta có tha cho anh em thì Chúa mới tha cho ta. Ta tha cho anh em ít, Chúa tha cho ta nhiều (nếu con nợ thứ nhất chịu tha cho con nợ thứ hai 100 đồng bạc, thì hắn đã được ông vua tha cho hắn mười ngán nén bạc).
B.... nẩy mầm.
1. Trẻ con thường giận nhau nhưng cũng mau làm hòa với nhau. Càng lớn thì tự ái người ta càng to và người ta càng khó tha thứ cho nhau hơn. Thêm một lý do nữa khiến Chúa Giêsu nói muốn vào Nước Trời thì phải trở lại như trẻ thơ.
2. Muốn thuyết phục chúng ta tha thứ cho nhau, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hai con nợ để vạch cho ta thấy rõ rằng ta tha thứ cho người khác thì sẽ có lợi rất nhiều vì ta sẽ được Chúa tha cho ta nhiều hơn. Tính ra những lỗi lầm người khác xúc phạm đến ta đâu có là bao so với những tội lỗi ta xúc phạm tới Chúa.
3. “Chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” : giận là một cảm xúc không ai có thể tránh được trong cuộc sống chung nhiều va chạm. Chúa không chấp nhất ta vì ta có cảm xúc đó. Nhưng Chúa sẽ kết tội ta nếu ta nuôi mãi lòng giận ghét không chịu bỏ qua.
4. Hận thù là một hình thức của hoả ngục và là một hình thức của tội sát nhân. Thánh Gioan viết “Ai oán ghét anh em mình, kẻ đó là người sát nhân”. Một nhà tâm lý người mỹ nói “Khi ta trút giận lên người khác, dù chỉ bằng một lời nói, ta cũng muốn nói lên một ý nghĩ tiềm ẩn là muốn giết hại người đó” (…) Ta cũng nên nhớ rằng tha thứ không phải chỉ là một hành động ý chí mà còn là một ân ban. Do đó không thể có sự tha thứ nếu không đi kèm theo sự cầu nguyện. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. Một nhà tâm lý người Mỹ nhận định như sau : Trên bình diện nhân bản, tha thứ là giải pháp tốt nhất cho cả người tha lẫn kẻ được tha, vì sự tha thứ khai mở năng lực tinh thần con người và có tác dụng làm cho con người sống lành mạnh và vui tươi hơn. ("Mỗi ngày một tin vui")
6. Một hiệp sĩ dũng cảm tên là Hildebrand bị một bạn đồng nghiệp tên là Bruno nhục mạ nặng nề. Hildebrand thề sẽ trả thù đích đáng. Ông suy nghĩ và chuẩn bị kỹ lưỡng chương trình hành động. Cuối cùng ông chọn địa điểm và thời giờ thuận lợi. Ông thức dậy nửa đêm, một mình võ trang đầy đủ đi đến nơi thanh vắng mà ông biết là Bruno sẽ đi ngang qua. Trên đường đi ông gặp thấy một nhà nguyện nhỏ mở cửa. Ông vào đó để chờ sáng, và trong khi cờ đợi, ông tiêu khiển bằng cách nhìn các bức tranh trong nhà nguyện. Bức thứ nhất vẽ Đấng Cứu Thế mặc áo choàng đỏ, đầu đội mão gai, phía dưới có ghi bằng tiếng latinh câu này : “Bị lăng nhục, Ngài không đáp trả lại lăng nhục”. Bức thứ hai nhắc lại cảnh đau buồn khi bị đánh đòn, với hàng chữ “Khi chịu những khổ đau như thế, Ngài không hề đe dọa”. Và cuối cùng bức thứ ba trình bày Chúa Giêsu trên Thập giá, hàng chữ là “Lạy Cha xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Nhìn liên tiếp 3 bức tranh như thế, tâm hồn Hildebrand bị xúc động mạnh. Ông quỳ gối xống và bắt đầu cầu nguyện. Dần dần cơn hận thù giảm đi, rồi biến mất. Ông còn ngồi lại đó chờ kẻ thù của ông đến, nhưng chờ gặp để tha thứ tận tình và để làm hòa với nhau. (Góp nhặt)
7. “Phêrô đến gần Chúa Giêsu mà hỏi rằng : ‘Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần ?” (Mt 18,21)
Một hôm, gà con cứ bám riết lấy gà mẹ, khóc lóc kể lể :
- Mẹ ơi, tụi thỏ chế diễu tai con không bằng một góc tai chúng…
- Tha cho chúng đi con ! Gà mẹ trả lời.
- Nhưng bọn cò lại nói con hèn hơn bàn chân của chúng.
- Tha cho chúng đi con !
- Mẹ ! Gà con khóc to lên. Lúc nào mẹ cũng nói tha cho chúng, trong khi con bị chế diễu, bị nhạo báng…
- Tại vì họ nói đúng !
- Nhưng tại sao ?
- Tại vì con là một con gà !
Như gà con nọ, tôi cảm thấy bị xúc phạm và khó tha thứ cho anh em, chỉ vì không chịu chấp nhận chính mình.
Lạy Chúa, xin cho con biết chấp nhận giới hạn bản thân, để nhận ra lòng nhân từ quảng đại của Thiên Chúa, để không chỉ tha thứ đến 7 lần, mà bảy mươi lần 7. (Hosanna)
8. Mỗi lần chúng ta tha thứ thật lòng là chúng ta bắt một chiếc cầu dẫn chúng ta đi từ đất đến trời. Đúng vậy, mọi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi, và cách duy nhất để kẻ tội lỗi có thể leo từ đất đến trời là phải qua chiếc cầu tha thứ. Nói cách khác, tiền mua bảo hiểm chắc ăn nhất để khỏi mất thiên đàng chính là tiền “tha thứ”. (Mark Link, Vision 2000)
9. “Sai lầm là tự nhiên của con người ; tha thứ là tự nhiên của Thiên Chúa” (ĐGH Alexander).
10. Mầm khác :
------------------------------
Trong sách, "Bản Tính của Thế Giới Vật Chất," Tiến Sĩ Arthur Eddington diễn tả tiến trình của: TN24-A34
Trong sách, "Bản Tính của Thế Giới Vật Chất," Tiến Sĩ Arthur Eddington diễn tả tiến trình của sự bước vào một căn phòng như sau: "Tôi đang đứng nơi ngưỡng cửa sắp bước vào phòng. Nó là một sự việc phức tạp. Trước tiên, tôi phải chống lại sức đẩy của không khí với sức mạnh của mười bốn trọng lượng trên mỗi thước vuông của thân hình tôi. Mỗi lần đặt chân trên sàn, tôi phải biết là tôi đáp xuống trên một tấm ván đang di chuyển với tốc độ hai mươi dặm một giây chung quanh mặt trời..." Phân tích một sự việc thường như đi bộ trong phòng, các nhà khoa học cũng thấy thật hấp dẫn. Nhưng hầu hết chúng ta chỉ đơn giản mà đi vào. Và chúng ta nghe là không khí rất cần cho chúng ta thở và không có nó chúng ta sẽ chết. Nhưng trước khi chúng ta biết điều đó, thì chúng ta đã thở.
Hãy đọc đoạn đầu của Kinh Thánh, "Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất..." (St 1:1). Thánh Kinh không bắt đầu với một lý do căn bản sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng sự hiện hữu của Thiên Chúa đã được thừa nhận.
Trong thư gửi cho Roma, Thánh Phaolô viết, "Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình" (Rm 14:7). Hết thảy đức tin bắt đầu với ý nghĩa của sự lệ thuộc vào Một Đấng, phẩm chức cao cả hơn chính chúng ta. Thường gọi là bản năng, trực giác, khôn ngoan bẩm sinh, gọi là gì tùy theo bạn, nhưng nó là một phần của chúng ta. Tại vì chúng ta là chính chúng ta, ý nghĩa lệ thuộc vào một đấng siêu việt khác đã ăn sâu tận gốc rễ của con người chúng ta. Con người đã dùng nhiều cách thế thật khéo léo để tạo nên chiến tranh chống lại tôn giáo, để xóa bỏ ý tưởng về Thiên Chúa trong tâm trí của loài người, nhưng tất cả đều bị thất bại, vì Thiên Chúa đã được khắc ghi trong con người. Bạn không thể tẩy xóa Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống bạn vì không có Thiên Chúa, thì không có sự sống.
Martin Scott, đã để lại câu chuyện mà ông ta đã kinh nghiệm trong lúc đi săn bắn ở miền Arkansas như sau:
Tôi rất là khoẻ mạnh, rất sành ghề cỡi ngựa, đuổi bắt bò, khi tôi đã dẫn bò đến đồng cỏ rộng để cho các súc vật chạy nhảy. Con bò đã đi trước, và tôi cỡi ngựa đi theo sau, ngẩng cổ lên để nhận biết đồng cỏ rộng bao nhiêu. Vào ngay lúc đó, con bò đã quay lại húc tôi; con ngựa tự nhiên phản ứng quay bánh xe. Sự thay đổi bất thường này đã ném tôi xuống khỏi yên ngựa, cả người tôi đã bị ném xuống, nhưng chân tôi vẫn treo một bên cổ ngựa. Chân thì đang treo mắc lại còn cổ thì dọc thẳng xuống đất. Con bò lại húc vào xương sườn của con ngựa ngay chổ tôi đang bị treo, và con ngựa đã lúng túng vì sức nặng của tôi, trong tư thế đó con bò đã tấn công con ngựa.
Cuối cùng, tôi đã bị kiệt sức; tôi cảm thấy tôi có thể bám thêm một hai giây nữa: nhưng đầu con bò đã đến quá gần tôi, đến nỗi tôi có thể cảm được những hơi gió từ mũi con bò thổi vào mặt tôi. Tôi đã tuyệt vọng; tất cả lời cầu xin tôi có thể làm được ngay lúc đó là tôi đọc lại Thánh Vịnh từ thuở xưa tôi hay đọc: "Bây giờ con xin phó thác để được nghỉ yên;" và tôi đã đọc đi đọc lại hai ba lần. May mắn thay, con ngựa đã quay đầu, tấn công con bò. Húc vào con bò một cái, làm cho tôi tí nữa té xuống đất, tung tôi lên lại trên yên ngựa, thế là tôi đã lấy lại được thế chỗ ngồi trên lưng ngựa.
Trong mỗi một người, đều có một bí nhiệm mà họ không thể nào hiểu. Nó có thể chất chứa lâu năm hầu như đã bị quên lãng; hoặc có thể đã bị đè nén cho đến chết. Nhưng vào một đêm nào đó, khi họ một mình trong sa mạc dưới bầu trời đầy sao, họ sẽ đứng lên cúi đầu, với một đôi mắt ướt đẫm, hoặc có lúc khi họ bám víu vào những chiếc thuyền đang bị gió bão xô đẩy trong nỗi thất vọng; hoặc họ nắm chặt bánh xe trong lúc xe đang bị xoay chiều, và thình lình, từ sự bị quên lãng của chính họ, bí nhiệm này sẽ được bộc lộ ra qua lời cầu xin. Không ai sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình.
Đức tin Kitô hữu trưởng thành có nghĩa hơn là chấp nhận tính chất của Đấng cao cả. Nói rằng, "Tôi tin Thiên Chúa" trong một cách người Kitô hữu trưởng thành là "Tôi tin cậy vào Thiên Chúa và tôi sẽ sống theo huấn giới của Ngài. Thánh ý của Thiên Chúa đã được thực hiện và tỏ ra cho tôi qua Chúa Giêsu." Trong bài học Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mặc khải ý định của Thiên Chúa cho đời sống của bạn và tôi trong sự kiện tha thứ. Thánh Phêrô hỏi Chúa rằng, "Lạy Thầy, khi anh em con xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải bảy lần không?" "Không," Chúa Giêsu đáp, "Không phải bảy lần, nhưng 70 lần bảy" (Mt 18:21-22). Đây là cách nói của Chúa Giêsu là tha thứ không giới hạn trong sự thương yêu. Nước Trời, Chúa Giêsu giải thích cho Thánh Phêrô, được xây dựng trên nền móng của sự thương yêu và tha thứ vô giới hạn.
Thiên Chúa chính là Tình Yêu. Thiên Chúa đang đòi hỏi chúng ta tin cậy ở Ngài. Chúa nói với ta rằng, để trở nên con người trọn vẹn như Chúa muốn, để được hạnh phúc đích thật, chúng ta phải học biết tha thứ cho anh chị em vô điều kiện, không phải chị bảy lần, nhưng bảy mươi lần bảy.
------------------------------
Trong bài Tin Mừng Chúa dạy ta phải luôn luôn than thứ, chứ không phải tha thứ một vài lần: TN24-A35
Trong bài Tin Mừng Chúa dạy ta phải luôn luôn than thứ, chứ không phải tha thứ một vài lần là đủ. Chúng ta là những con người yếu hèn, đầy đú tội lỗi, thường xúc phạm tới Chúa và lúc nào Chúa cũng sẵng sàng tha thứ cho anh chị em chúng ta.
Đừng bao giờ để lòng thù ghét, ác cảm, trả đũa người khác. Làm thế, chính người bị ta trả thù, không được lợi ích đã đành, mà chính chúng ta cũng bị thiệt. Hiện nay chúng ta đã nhận ra rằng: Một số lớn những người mắc bệnh thần kinh bị cao huyết áp, đau tim, đau bao tử, là do buồn sầu, bị uất tức, muốn trả thù, ít vui vẻ, ít độ lượng. Ông Wlliam Falkaber 68 tuổi chủ một tiệm ăn, đã tự giết mình khi đang nổi giận, vì người bếp không nghe lời ông, mà cứ uống cà phê trong đĩa chứ không uống trong tách. Ông ấy nổi khùng vác súng lục đuổi người bếp, rồi bỗng ông ngã vật ra chết, tay hãy còn nắm chặt khẩu súng. Bác sĩ đến khàm nghiệm tử thi tuyên bố: ông đứt mạch máu vì thịnh nộ.
Khi Chúa Giêsu dạy chúng ta, tha thứ cho người làm phiền lòng ta, thì không những đã vạch cha ta một con đường bác ái hoàn hảo, mà còn cho ta một bài học gìn giữ sức khỏe mà khoa học ngày nay phải công nhận là đúng.
Khi Thánh Đặng Đình Viên (tử đạo ngày 21-8-1838, 53 tuổi) trên đường ra pháp trường Ba Tòa để bi s\xử chém: lúc đó đã có hai người đi tố cáo Ngài, hối hận vì hành vi của mình đã làm Cha phải giam giữ và bị chém. Cả hai đến xin Cha tha thứ.
Cha nhân từ trả lời:
“Cha tha cho các ocn…”
Tại thị xã Hưng Yên, các quan bắt Cha Viên phiên dịch các bức thư của Cha đã bị tịch thu trước kia ra tiếng việt. Thấy các thư đó không có gì gọi là bí mật hay âm mưu, các quan quay ra khuyên Cha chối đạo để tha về. Cha Viên trả lời: “Dù có chết tôi cũng không chối đạo. Tôi là đạo trưởng mà bỏ đạo thì ai theo đạo nữa.” Ngày 3 tháng 8, các quan gửi án về kinh xin xử trảm. Ngày 21-8-1838, bản án được châu phê về đến tỉnh, các quan cố thuyết phục Cha lần chót vộ hiệu, nên tuyên đọc bản án và đem thi hành ngay hôm đó. Thẻ bài của Cha ghi như sau:
“Đạo trưởng Đặng Đình Viên, từng giảng tà đạo liên lạc đạo trưởng Tây man tụ tập đạo đồ, đạo chúng, đạo thư, bất khẳng khóa quá, vi phạm pháp quốc, luật hình trảm quyết.”
Trên đường ra pháp trường Ba Tòa (trên bờ sông Hồng), Cha Viên sung sướng cảm động tạ ơn Chúa. Khi đó hai người đã tiết lộ chỗ Cha ẩn đến xin Cha tha lỗi. Cha nhân từ nói: “Cha tha cho các con…” Sau khi ăn chút cơm, Cha Viên quỳ trên chiếc chăn bông được trải sẵn, ngửa mặt lên trời cầu nguyện và ngài đã bị chém đầu. Các tín hữu xô nhau thấm máu vị chứng nhân.
Một người lính thấy vậy liền lấy áo của Cha cắt ra bán.
Thi hài Cha đã được khoảng 300 tín hữu rước về an táng tại nhà thờ Thiên Chu.
Trong lúc đi ra pháp trường Thánh Lê Văn Phụng (tử đạo ngày 31-7-1859, 63 tuổi) dặn dò các bạn hữu tha thứ cho những kẻ hại mình.
Tại pháp trường, trước khi chết, Thánh Phụng gặp các con mình. Ngài đeo vào cổ con gái Anna Nhiên ảnh Thánh Giá và nói:
“Con ơi hãy nhận lấy kỷ vật của ba. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ảnh này quý hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn luôn mang luôn luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều.”
Trước tòa quan, vì đã có người tố cáo, ông trùm Phụng khẳng khái xác nhận mình đã từng tiếp đón, cho thừa sai nước ngoài ẩn trú tại nhà. Nhưng sau đó, dù tra tấn hay dụ dỗ nhiều lần, ông nhất quyết không khai thêm chi tiết nào khác về các thừa sai cũng như cương quyết không bỏ đạo.
Quan ra lệnh tống giam Cha quý và ông trùm phụng. Sau đó dùng nhiều phương kế dụ dỗ, dọa nạt, tra tấn, để cả hai thay đổi ý định, nhưng cả hai vẫn trung kiên với Chúa Kitô. Sau cùng quan thảo bản án, trảm quyết, gửi về kinh.
Ngày 30 tháng 7 năm 1859, bản án trảm quyết Cha Phêrô Quý được gửi về kinh đô và đến Châu Đốc cùng với bản án xử giảo (xiết cổ) ông trùm Emmanuel Phụng. Sáng sau 31 tháng 7, Linh mục Phêrô Đoàn Công Quý và ông trùm Lê Văn Phụng được dẫn ra pháp trường Chà Và. Hai vị bước đi bình thản: Cha Quý vừa đi vừa đọc kinh Mân Côi, còn ông trùm Phụng thì dặn dò bạn hữu tha thứ cho những kẻ hại mình.
Ông dặn dò con trai đừng tổ chức đám tang rầm rộ và nhớ chôn ông bên cạnh Cha sở của mình.
Hai vị Thánh tử đạo quỳ xuống cầu nguyện. Cha Quý giải tội cho ông trùm. Sau 3 tiếng chiêng ngân vang, vị Linh mục bị chém đầu, còn ông trùm bị xiết cổ bằng dây thừng.
Thi hài hai vị tử đạo được an táng tại nhà thờ Năng Gù. Năm 1959 được cải táng về chủng viện Cù Lao Giêng, nhân dịp bách chu niên cuộc tử đạo.
------------------------------
Có bao giờ chúng ta đã giành lấy một vài giây phút để suy nghĩ về lời cầu xin trong kinh Lạy: TN24-A36
Có bao giờ chúng ta đã giành lấy một vài giây phút để suy nghĩ về lời cầu xin trong kinh Lạy Cha : Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con hay không ? Tội lỗi của chúng ta thì nặng nề và chồng chất, làm cho Thiên Chúa phải buồn lòng. Và theo một ý nghĩa nào đó, tội lỗi ấy được sánh ví như là một món nợ khổng lồ chúng ta thiếu hụt cùng Thiên Chúa. Đồng thời trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng gặp phải những khổ đau, những bất công do anh em gây nên.
Thế nhưng, trong kinh Lạy Cha, chúng ta dám thưa lên cùng Thiên Chúa : Xin Ngài tha thứ cho chúng ta những lỗi lầm quá lớn, nếu như chúng ta biết quên đi những vấp phạm nhỏ bé của anh em. Đúng là một tỷ lệ không cân xứng và chẳng có ý nghĩa chi cả… Và đó cũng chính là ý nghĩa của câu chuyện dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe.
Ông vua muốn tính toán nợ nần với những bầy tôi của mình. Ông vua chính là Thiên Chúa còn bầy tôi chính là chúng ta. Món nợ khổng lồ lên tới 10 ngàn nén bạc, chính là những tội lỗi của chúng ta khi đứng trước một vị Thiên Chúa nhân từ, thánh thiện và công bằng vô cùng. Còn món nợ nhỏ nhoi 100 đồng là những vấp phạm của anh em đối với chúng ta. Và như thế chúng ta nhìn thấy sự sai biệt giữa hai món nợ là như thế nào.
Trước lời van xin của tên đầy tớ thứ nhất, nhà vua đã thực sự xúc động, ông đã tha thứ và xóa bỏ món nợ kếch xù của hắn. Còn hắn, hắn lại tỏ ra hà khắc đối với bạn hắn, là người chỉ mắc nợ hắn một số tiền nhỏ bé. Khi hay tin, nhà vua đã vô cùng sửng sốt, ông đã đối xử với tên đầy tớ theo như mức độ nhân từ mà họ đối xử với nhau… Và phần kết luận, hẳn chúng ta đã rõ. Lý hình chính là những sự trừng phạt ở đời này cũng như ở đời sau. Đoạn Tin Mừng không phải chỉ kêu gọi chúng ta tha thứ cho một người anh em hay kẻ bạn hữu, mà còn tha thứ cho tất cả những bất công mà kẻ thù gây nên.
Tới đây, tôi xin kể lại một mẩu chuyện có thật xảy ra vào thời đệ nhị thế chiến. Bấy giờ quân Đức chiếm đóng nước Pháp và bắt nhiều người đi làm tù binh, trong số đó có Đức Giám mục Théas. Ngày kia các bạn tù xin ngài giảng phòng. Ngài bèn cho ngay đề tài : yêu thương kẻ thù. Các bạn tù có vẻ không bằng lòng và nói với ngài : Tại sao chúng ta lại phải tha thứ cho bọn Đức Quốc xã, là bọn mỗi ngày đã giết hại biết bao nhiêu bạn hữu của chúng ta. Đức cha đã trả lời : Cha chỉ có thể lặp lại giới luật của Chúa Giêsu : Hãy yêu thương kẻ thù. Rồi ngài cất cao giọng đọc kinh Lạy Cha và nhấn mạnh tới lời van xin : Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Ngày hôm sau được phép cử hành thánh lễ, ngài quyết định dâng thánh lễ cầu cho những người Đức. Và cũng từ ngày đó, ngài có một ý tưởng manh nha thành lập phong trào Pax Christi, một phong trào quốc tế tranh đấu cho hòa bình. Sau khi chiến tranh kết thúc, ngài được cử làm Giám mục Lộ Đức, và chính ngài đã tổ chức cuộc hành hương quốc tế của phong trào Pax Christi. Trong cuộc hành hương này người ta nhìn thấy những người trước đây vốn là thù địch của nhau như Đức, Pháp, Anh, Ý… cùng chắp tay cầu nguyện cho nhau, và quên đi cái dĩ vãng đen tối. Là người Công giáo chúng ta có bổn phận phải tha thứ cho nhau, chứ không được giữ mãi sự thù oán.
Cách thức bảo đảm nhất để thoát khỏi sự công thẳng của Thiên Chúa và kéo được lòng thương xót của Ngài đó là hãy tha thứ cho nhau.
------------------------------
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về sự tha thứ. Người Do Thái xưa được dạy: TN24-A37
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về sự tha thứ. Người Do Thái xưa được dạy cho biết phải tha thứ cho nhau, nhưng các tôn sư không đồng ý với nhau là phải tha thứ đến lần thứ mấy thì thôi. Do đó, thánh Phêrô đã thắc mắc và hỏi Chúa. Chúa đã trả lời : “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. Nghĩa là Chúa dạy : hãy tha thứ cho nhau, hãy tha thứ thật lòng, hãy tha thứ tất cả, hãy tha thứ luôn luôn, hãy tha thứ mãi mãi.
Để làm sáng tỏ vấn đề cũng như để chúng ta hiểu rõ và nhớ kỹ bài học này, Chúa minh hoạ thêm bằng một dụ ngôn rất hay để đối chiếu lòng Thiên Chúa đối với con người và lòng con người đối với nhau. Nơi Thiên Chúa là một lòng đại lượng xót thương vô bờ bến, chỉ cần con người lên tiếng khẩn nài, Chúa liền nhìn đến thân phận khốn khổ và nghèo nàn của chúng ta. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta van xin Chúa, Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện, tha thứ trọn vẹn, không đòi hỏi gì nơi chúng ta cả. Ngược lại, lòng con người đối xử với nhau thì lại thật là quá ti tiện, nhỏ nhen, chúng ta hay chấp nhất nhau từng ly từng tý, chúng ta tức giận nhau, chúng ta để lòng oán hờn nhau, chúng ta nhất định không tha thứ. Thậm chí người ta hết lời và hết lòng xin lỗi, chúng ta vẫn cương quyết không tha, không bỏ qua, có người còn khẳng khái tuyên bố : “Sống để bụng, chết mang đi”. Hỏi mang đi đâu ? Mang xuống hoả ngục chăng ? Thật là mỉa mai, chua chát, đáng trách. Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải sẵn lòng tha thứ, tha thứ luôn mãi bao lâu người anh em còn xúc phạm đến chúng ta, bởi vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau.
Tính cách tha thứ của Kitô giáo là tha thứ như mình đã được tha thứ, phải thương xót người khác như mình đã được Chúa xót thương. Như vậy, sự tha thứ không những là một nhiệm vụ luân lý mà còn là một đòi hỏi của lương tâm, một nhân đức đối thần, kéo dài tới tha nhân ơn tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ai trong chúng ta cũng có nhiều sai sót, những khuyết điểm, những tật xấu. Chúng ta cần được tha thứ, vì vậy chúng ta phải khiêm tốn xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau. Có như thế lời kinh Lạy Cha : “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” mới trở thành một lời kinh quý giá và cụ thể.
Trong một căn nhà lụp xụp tại một xóm nghèo thuộc vùng ngoại ô thành phố, một người đàn bà đáng thương phải sống những ngày hẩm hiu với đàn con thơ dại. Chồng bà là một người cha tục tằn thô bạo, chỉ biết ăn chơi nhậu nhẹt và cờ bạc, không thiết chi đến bổn phận đối với gia đình. Ông vắng nhà suốt ngày, các con của ông chỉ thấy ông trở về mỗi buổi tối trong cơn say mèm hoặc trong trận lôi đình đập đánh, chửi rủa. Những lúc như thế, bà vợ chỉ biết đem các con giấu đi để bảo đảm tính mạng cho chúng. Ngày ngày bà cực nhọc vá may, hoặc vất vả giặt giũ từ nhà này sang nhà khác để kiếm tiền nuôi con. Trong thinh lặng, bà nhẫn nhục cam chịu mọi bạc bẽo và những trận đòn oan ức của chồng.
Vào một buổi tối kia, ông trở về nhà muộn hơn thường lệ, nhưng tỉnh táo và ít say sưa hơn. Vừa bước tới hè nhà, ông nghe tiếng thì thầm từ trong nhà vọng ra. Một nỗi nghi ngờ xâm chiếm tâm hồn ông. Máu ghen bừng bừng nổi dậy và nghĩ rằng : “thật vô phúc cho kẻ nào rơi vào tay ta”. Ông đứng lại trước cửa và ghé tai vào vách, trố mắt nhìn qua khe hở : quanh ngọn đèn dầu leo lét, ông thấy các con nhỏ quây quần bên cạnh vợ ông, ông nghe rõ tiếng bà nói với các con : “Các con hãy đọc thêm một kinh Lạy Cha để cầu nguyện cho người cha tốt lành của các con”.
Trước khung cảnh đầm ấm tình mẫu tử đó, bỗng chốc lửa hung ác trong trái tim ông như tắt ngúm, tâm hồn cứng cỏi của ông trở nên như sáp ong mềm ra trước hơi nóng, mắt ông như bừng sáng sau một cơn mê ngủ dài, ông đã nhận ra tấm lòng tốt và tình yêu quảng đại của vợ ông, người mà từ trước đến nay ông vẫn ngược đãi. Vợ ông không những đã tha thứ mà còn tìm cách xoá bỏ hình ảnh xấu về ông bằng cách in vào tâm trí các con mình hình ảnh tốt lành của ông như một người cha. Ông cảm thấy như có cục than hồng đốt cháy trên đầu ông, và từ ngày đó ông nhất quyết trở nên một người cha tốt lành, người chồng chung thuỷ và có tinh thần trách nhiệm như vợ con ông hằng nghĩ tốt về ông.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy đâu là sức mạnh của lòng tha thứ. Tha thứ đổi mới tâm hồn, làm phát sinh sự sống mới, gây thêm lòng can đảm, để bắt đầu con đường sống mới. Tha thứ là lời mời gọi để tình yêu lớn lên. Tha thứ là cửa ngõ để mọi người có cơ hội làm lại mối giây liên hệ đã dập gẫy. Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hoá bởi tha thứ.
Lòng tha thứ quảng đại và vô điều kiện của người vợ trong câu chuyện trên là phản ánh lòng thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa được mạc khải cho chúng ta qua Kinh thánh, nhất là nơi bản thân Chúa Giêsu, là hồng ân mà Thiên Chúa ban cho con người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta chia sẻ sứ mệnh của Ngài. Mỗi Kitô hữu cũng là một ơn tha thứ mà Thiên Chúa muốn trao tặng cho người khác. Mỗi ơn tha thứ là một cuộc biến đổi, Chúa Giêsu kêu mời chúng ta cùng với Ngài thực thi sứ mệnh trao ban ơn tha thứ hầu biến đổi anh chị em chúng ta nên người con thật tốt lành và đáng yêu của Chúa Cha, cũng như chính chúng ta đã được tha thứ và biến đổi.
------------------------------
Phêrô không phải là không tính toán kỹ lưỡng khi hỏi Chúa Giêsu phải tha thứ cho anh chị em: TN24-A38
Phêrô không phải là không tính toán kỹ lưỡng khi hỏi Chúa Giêsu phải tha thứ cho anh chị em bao nhiêu lần, có phải bẩy lần không ? Theo sự giảng dạy của các thầy Rabbi, một người phải tha thứ cho anh em mình ba lần. Phêrô đã đi xa hơn luật của các thầy Rabbi bằng cách nhân lên gấp đôi, và cộng thêm một lần nữa cho chắc ăn. Ông hy vọng sẽ được Chúa khen ngợi; không ngờ câu trả lời của Chúa là “bẩy mươi lần bẩy”, có nghĩa là phải tha thứ không giới hạn!
Rồi Chúa Giêsu nói về dụ ngôn tên đầy tớ mắc nợ không biết thương xót. Sự so sánh món nợ lớn lao của anh với nhà vua là “mười ngàn nén vàng” và số tiền của người bạn nợ anh là “một trăm quan tiền” đã làm nổi bật lên lòng nhân từ của Thiên Chúa. Có tác giả đã so sánh một quan tiền là một ngày lương của người lao động. Người bạn nợ anh 100 ngày lương. Còn một nén vàng tương đương với 6000 quan tiền. Mười ngàn nén vàng là 60 triệu quan tiền. Nếu một người lao động làm việc năm ngày một tuần, 50 tuần một năm, phải mất 280 ngàn năm mới trả đủ số tiền nợ nhà vua. Không thể nào trả nổi !
William Barclay đã viết như sau : “A.R.S. Kennedy đã vẽ ra bức hình sống động này để đối chiếu những món nợ. Giả sử họ trả bằng tiền bảng Anh. Món nợ 100 quan tiền có thể được mang trong một cái túi áo hay túi quần. Món nợ 10 ngàn nén vàng phải được một đội quân 8,600 người mang, mỗi người mang một cái túi nặng 60 cân Anh – khoảng 27 kg ; và nếu họ đứng sắp hàng, mỗi người cách nhau chừng 80 cm, làm thành một hàng dài 5 dặm – khoảng 8 cây số”.
Trước mặt Chúa có ai là người vô tội ? Chúng ta đã được tha một món nợ không thể nào trả nổi : vì tội lỗi của con người đã gây ra cái chết của Con Thiên Chúa. Do đó, chúng ta phải tha thứ cho những người khác để chính mình được Thiên Chúa thứ tha.
Sự tha thứ mang lại ích lợi cho người tha thứ và người được tha thứ : Shakespear xưa kia đã nói : “Tha thứ là hai lần phúc lành”. Nó mang lại phúc lành cho người tha thứ và người được tha thứ.
Khi cựu tổng thống Bill Clinton gặp cựu tổng thống Nam Phi Nelson Mandela lần đầu tiên sau khi được thả ra khỏi tù, ông Clinton nói : “Khi ông được thả ra khỏi nhà tù, tôi đã đánh thức con gái tôi dậy vào lúc 3 giờ sáng. Tôi muốn cô bé chứng kiến biến cố lịch sử này”. Rồi ông Clinton chuyển sang một câu hỏi đã in trong tâm trí từ lâu : “Khi ông bước ra khỏi khu nhà tù, băng ngang qua cái sân tới cổng nhà tù, máy thu hình đã tập trung vào khuôn mặt của ông. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy sự giận dữ và hận thù trên khuôn mặt của bất cứ một người nào được diễn tả như trên khuôn mặt của ông vào lúc đó. Đó không phải là Nelson Mandela mà tôi biết hôm nay”, Clinton nói. “Điều gì đã làm ông thay đổi ?”
Mandela trả lời : “Tôi ngạc nhiên rằng ông đã nhìn thấy điều đó, và tôi tiếc rằng những chiếc máy thu hình đã chộp được cơn giận của tôi. Khi tôi bước qua sân nhà tù ngày hôm đó tôi tự nghĩ rằng họ đã tước đoạt đi tất cả mọi sự của tôi. Sự nghiệp đã chết. Gia đình đã mất. Bạn bè đều bị giết. Bây giờ họ thả tôi ra, nhưng chẳng còn gì nữa cả. Và tôi thù ghét họ vì cái họ đã tước đoạt cuộc đời của tôi. Nhưng rồi, tôi tự cảm thấy một tiếng nói tự bên trong ngỏ với tôi : “Nelson ! Ông là tù nhân của họ 27 năm, nhưng ông đã luôn luôn là một người tự do ! Đừng để họ thả ông ra làm một người tự do, rồi lại biến ông thành tù nhân của họ qua sự hận thù”.
Henri Nouwen đã so sánh cuộc đời của chúng ta với những cái ly phải được làm trống rỗng đi để được đổ đầy trở lại. Nếu chúng ta đổ cay đắng, hận thù và trái ý đầy vào ly, Thiên Chúa không thể tuôn đổ ân phúc của ngài vào được.
------------------------------
John Huffman đã nói : “Con người thống khổ nhất trên thế giới là người sẽ không tha thứ. Không: TN24-A39
John Huffman đã nói : “Con người thống khổ nhất trên thế giới là người sẽ không tha thứ. Không có gì có thể vặn cổ linh hồn mau lẹ hơn nó. Nói đúng ra, nếu tôi có một kẻ thù mà tôi muốn phạt, tôi sẽ dạy nó thù ghét một người nào đó”.
Sự tha thứ của Đức Hồng Y Bernadin đã chúc lành cho anh Steven Cook một cách rất kỳ diệu. Anh là người đã vu oan cho Đức Hồng y về tội quấy rối tình dục. Nhưng Đức Hồng y đã tha thứ khi anh xin lỗi và anh đã nói : “Sau khi hoà giải, một cái ách nặng nề lớn lao đã được cất đi khỏi người tôi. Tôi đã cảm thấy được chữa lành và an bình”. Cuối cùng anh đã chết bình an sau khi trở về với Giáo Hội và Thiên Chúa.
Sự tha thứ mang lại ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa đến cho hối nhân – người sám hối được tha thứ. Đó là lý do tại sao Giáo Hội khuyên chúng ta nên thường xuyên lãnh Bí tích Hoà giải.
Một buổi chiều trời mưa tầm tã, bà mẹ đón con đi học về đang lái xe trên đại lộ chính của thành phố. Bà phải để hết chăm chú vào việc lái xe vì đường phố rất ướt và trơn trượt. Thình lình, cậu con trai ngồi thoải mái bên cạnh mẹ nói lớn : “Mom, con đang suy nghĩ điều này”. Hành động này đối với bà mẹ thường có nghĩa là cậu con trai 7 tuổi của bà đang muốn xin một điều gì đó và bây giờ sẵn sàng lên tiếng. “Con đang nghĩ gì vậy ?” Người mẹ hỏi. “Trời mưa”. Nó nói, “giống như tội, và những cái gạt nước giống như Thiên Chúa quét sạch tội lỗi của chúng ta đi”. “Con giỏi quá, Matthew”. Rồi tò mò người mẹ muốn biết đứa con trai của bà hiểu được điều mạc khải này sâu xa như thế nào. Bà mẹ hỏi : “Con có để ý thấy mưa cứ tiếp tục rơi như thế nào không ?” Mưa rơi nói với con điều gì không ?” Matthew không do dự, trả lời : “Chúng ta đã phạm tội, và Thiên Chúa vẫn cứ tiếp tục tha thứ cho chúng ta”.
Sự tha thứ phản ảnh đời sống ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. Sự tha thứ là vẻ đẹp của những tâm hồn cao thượng, những con người nhân bản và những con cái của Thiên Chúa. Sự tha thứ mang lại hoà bình cho thế giới, tạo nên một thế giới cảm thông, và yêu thương. Nhân ngày tưởng niệm các nạn nhân vô tội trong những vụ khủng bố vào ngày 11/9/2001, tại Hoa Kỳ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi : “Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ”.
------------------------------
Điểm đặc biệt trong đời sống Kitô hữu là mỗi người được Lời Chúa trong Chúa Nhật 24 nhắc: TN24-A40
Điểm đặc biệt trong đời sống Kitô hữu là mỗi người được Lời Chúa trong Chúa Nhật 24 nhắc nhở rõ ràng là sự tha thứ cho nhau. Bài đọc thứ nhất trích từ sách Huấn Ca (Hc 27,33-28,9), loan báo trước giáo huấn của Chúa Giêsu trong Phúc Âm, giáo huấn về sự tha thứ cho những lỗi phạm của anh em: "Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Bài Phúc Âm thánh Mátthêu cho chúng ta biết sự tha thứ cho anh em được Chúa nói rõ ràng trong câu trả lời cho Thánh Phêrô đến hỏi Chúa: "Tôi phải tha thứ bao nhiêu lần, đến bảy lần chăng?". Phêrô đến với Chúa bằng một tâm thức câu nệ hình thức, tâm thức của luật dân Chúa đang tuân giữ và ông nghĩ rằng, tha thứ đến bảy lần là đã làm trọn luật Chúa dạy. Noi gương của Thiên Chúa như đã được kể lại trong sách Cách Ngôn: "Thiên Chúa luôn tha thứ cho người công chính bảy lần" (Cn 24,16). Tha thứ bảy lần là tha thứ có giới hạn, nhưng Chúa Giêsu đã trả lời không phải bảy lần mà là bảy mươi lần bảy. Cách nói bảy mươi lần bảy cũng là cách nói được dùng trong sách Sáng Thế Ký (x. St 4, 24), có nghĩa là tha thứ luôn luôn, không có giới hạn, không có tính toán.
Đoạn Phúc Âm thánh Mátthêu được trích lại nằm trong toàn bộ chương XVIII nói về những đặc điểm nếp sống mới của những đồ đệ Chúa Kitô, và nền tảng cho nếp sống mới là căn cứ theo mẫu gương của Thiên Chúa Cha: "Chúng con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành" (Mt5,48). Mỗi một thái độ sống của người đồ đệ Chúa đều được Chúa qui hướng về việc bắt chước theo mẫu gương của Thiên Chúa Cha.
Chính vì thế mà để làm nổi bật khía cạnh đặc điểm tha thứ cho anh em, Chúa Giêsu đã kể một dụ ngôn để diễn tả thái độ của Thiên Chúa Cha như ông chủ tha thứ cho người tôi tớ vì tình thương hơn là chính người tôi tớ tha thứ cho bạn của mình, vậy chúng ta cũng phải luôn luôn tha thứ cho anh em mình, cho những người xúc phạm hay làm tổn thương đến chúng ta bằng cách này hay cách khác.
Đặc điểm thứ hai cần lưu ý là mối liên quan giữa nếp sống Kitô và lời cầu nguyện. Điều này được nhắc đến trong bài đọc thứ nhất, đó là sự liên kết giữa cuộc sống hàng ngày và đời sống cầu nguyện, vì tha thứ cho kẻ làm hại đến mình thì con người sẽ được tha thứ như vậy. Không thể không có tha thứ đích thực nếu không tuân giữ luật Chúa dạy. Các tiên tri nhiều lần đã lên tiếng cảnh cáo những thái độ sống giả hình, đó là dâng lễ vật lên Thiên Chúa mà vẫn hà hiếp, áp bức anh chị em xung quanh: "Thiên Chúa muốn tình thương hơn là lễ vật" (Mt12,7). Và: "Khi các con đến dâng của lễ mà nhớ có điều gì bất bình với anh em thì hãy bỏ của lễ lại mà đi làm hòa với anh em con trước đã, rồi hãy đến dâng lễ vật" (Mt5,23-24). Giáo huấn này được Chúa Giêsu nhấn mạnh hơn nữa khi Ngài đưa nó vào lời kinh Lạy Cha mà Ngài đã dạy cho các Tông Đồ: "Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Tha thứ là một điều rất dễ nói nhưng lại rất khó thực hành. Vào thời hậu thế chiến thứ hai bên Âu Châu, cô Coritanbum, người sống sót từ trại tập trung Đức Quốc Xã đã đi khắp nơi để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, gia đình của cô Coritanbum sinh sống ở Amsterdam, Hòa Lan, sống nhờ cửa tiệm làm và bán đồng hồ. Khi quân đội Đức Quốc Xã chiếm Hòa Lan thì gia đình cô dấn thân trợ giúp người Do Thái, và hậu quả là có người chỉ điểm làm cho toàn gia đình cô bị bắt vào trại tập trung, chỉ còn lại một mình cô sống sót tại trại tập trung mà thôi.
Sau thế chiến thứ hai, cô đi khắp nơi bên Âu Châu để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Một hôm sau buổi thuyết trình tại Munich, Miền Nam nước Đức, một người đứng lên cám ơn cô về bài thuyết trình thật hay, nhưng cô chết điếng người khi nhận ra người đàn ông sắp đưa tay ra bắt lấy cô chính là người lính Đức Quốc Xã trước kia canh trại tập trung, đã giam giữ cô và gia đình. Cô bỗng chốc nhớ lại tất cả những hành động bỉ ổi của người lính đã xúc phạm đến con người, nhất là phẩm giá của những nữ tù nhân trong trại mà anh lính này đã làm trước mắt cô ngày trước. Cô Coritanbum lúng túng không kịp đưa tay ra bắt lấy tay người đã hành hạ mình, và lúc đó cô mới hiểu thấm thía nói dễ nhưng làm khó. Chính lúc bấy giờ cô khám phá ra mình cũng chưa thật sự tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình trước đây.
Kinh nghiệm của cô Coritanbum cũng chính là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta hôm nay, dù hình thức có thể khác đi nhưng tựu trung nội dung vẫn giống nhau. Khi nói về sự tha thứ, thường thì khuyên kẻ khác tha thứ rất dễ, nhưng khi trực tiếp đối diện với kẻ xúc phạm đến mình, phải thực hành một việc tha thứ cách cụ thể cho người đang đứng trước mặt mình thì quả thật khó khăn vô cùng. Có thể chúng ta cũng không vượt qua được về những cảm xúc đó như cô Coritanbum. Ông Alexande Box đã có lần nói: "Lầm lỗi là chuyện thường tình của con người, nhưng tha thứ phải là chuyện của Thiên Chúa". Cần có sức mạnh của Thiên Chúa chúng ta mới có thể tha thứ cho nhau được.
Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy rõ vấn đề, không phải chỉ giữ luật tha thứ như Phêrô nghĩ là tha thứ đến bảy lần, vì luật Môisen chỉ dạy tha thứ có bảy lần mà thôi, nhưng hệ ở chỗ là tâm hồn luôn luôn tràn đầy tình yêu thương để tha thứ cho anh em mình. Tha thứ đến bảy mươi lần bảy, nghìa là tha thứ luôn luôn, chúng ta cần phải có tâm hồn như Chúa, tha thứ như Chúa, không tính toán số lượng, số lần theo luật định, nhưng phải với tâm hồn đã được ơn Chúa biến đổi là tha thứ vô hạn định.
Xin Chúa đến với chúng con ngày hôm nay trong Bí Tích Thánh Thể, đặc biệt khi chúng con rước Chúa vào tâm hồn, chúng con xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con được trở nên giống như Chúa, tâm hồn tràn đầy tình thương của Chúa để chúng con tha thứ cho tha nhân như Chúa, xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà chúng con tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
------------------------------
Chi Tiết Hay
Các rabi thời đó dạy phải tha thứ ba lần, còn Phêrô thì sẵn lòng hơn đề nghị phải tha tới bảy: TN24-A41
Các rabi thời đó dạy phải tha thứ ba lần, còn Phêrô thì sẵn lòng hơn đề nghị phải tha tới bảy lần, số bảy vốn tượng trưng cho
(c.21) Các rabi thời đó dạy phải tha thứ ba lần, còn Phêrô thì sẵn lòng hơn đề nghị phải tha tới bảy lần, số bảy vốn tượng trưng cho sự toàn hảo.
(c.22) "Bảy mươi lần bảy lần" có thể hiểu là 77 lần hay hơn nữa là 490 lần. Bỏ qua con số, điểm nhấn mạnh ở đây là lòng tha thứ thì không có giới hạn, không điều kiện.
(c.23) Trong Cựu Ước, người đầy tớ bao gồm những người phục dịch lẫn những người cao trọng trong triều đình. Trong dụ ngôn này, người đầy tớ có thể là một bộ trưởng tài chánh.
(c.24) "Mười ngàn nén vàng" tương đương với một số tiền vĩ đại ngoài sức tưởng tượng, thu nhập hàng năm của vương quốc Hêrôđê thời đó chỉ vào khoảng 900 nén vàng. Một nén vàng có giá trị khoảng từ 6,000 đến 10,000 quan tiền, tùy theo phẩm chất và xuất xứ của nén vàng. Một quan tiền tương đương với một ngày lương.
(c.26) Người đầy tớ chỉ hứa xuông, với số nợ khổng lồ như vậy không cách gì anh ta có thể trả trong một lần.
(c.28) So với 10,000 nén vàng, 100 quan tiền (100 ngày lương) chỉ là một số tiền nhỏ mà người đồng bạn có thể trả dễ dàng nếu người đầy tớ có chút kiên nhẫn.
Dụ ngôn người đầy tớ không thương xót bao gồm ba cuộc gặp gỡ:
(a) giữa vua và người đầy tớ,
(b) giữa người đầy tớ và người đồng bạn, và lần nữa
(c) giữa vua và người đầy tớ.
Một Điểm Chính
Nếu muốn được Chúa tha thứ, thì hãy tha thứ cho kẻ khác. Nếu đòi ai ép trả cho công bằng, thì Chúa cũng đòi như vậy.
Suy Niệm
Bạn hãy đặt mình làm một trong ba người trong dụ ngôn: ông vua, người đầy tớ, người đồng bạn. Bạn nghe thấy gì? Bạn cảm thấy ra sao? Bạn lý luận những gì trong cuộc gặp gỡ?
Động cơ nào thúc đẩy bạn tha thứ? Tại sao bạn phải luôn tha thứ? Bạn được lợi gì và thua thiệt gì khi bạn tha thứ?
Chúa Giêsu dạy trong kinh Lạy Cha: "Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có lỗi chúng con". Bạn hãy hồi tưởng lại những dịp bạn đã tha thứ người khác, và so sánh với sự tha thứ Chúa ban cho bạn qua bí tích hòa giải.
Bạn cảm nghiệm ra sao khi bạn được tha thứ và khi bạn tha thứ cho ai khác?
------------------------------
Ông Yigal Cohen, một người Israel bị đau tim nặng nhận được trái tim của một người Palestine: TN24-A42
Ông Yigal Cohen, một người Israel bị đau tim nặng nhận được trái tim của một người Palestine trong cuộc phẫu thuật ngày 5-6-2000. Gia đình ông Mazen Joulani, người hiến tặng tim, cho biết ông vừa bị những người Do thái bắn hại tại một tiệm cà phê ngoài trời.
Gia đình này quyết định hiến tim của Joulani vào thứ sáu tuần qua, ngay trong ngày mà cuộc nổ bom ở Tel Aviv làm thiệt mạng 21 người. Những phần nội tạng khác của Joulani cũng sẽ được ghép cho một số người Israel khác. Bác sĩ Lavie, người thực hiện ca mổ, nói khi ông cầm hai trái tim trong tay, ông nhận ra rằng tất cả những mâu thuẫn sắc tộc là hoàn toàn vô nghĩa.
Nếu chúng ta biết rõ mối thù truyền kiếp giữa người Israel và người Palestine, nếu chúng ta nhìn thấy những cuộc xung đột đẫm máu thường xuyên xảy ra giữa hai dân tộc này trên truyền hình, báo chí, chúng ta mới thấy nghĩa cử hiến tặng trái tim để cứu sống kẻ thù, mới thật là nghĩa cử vô cùng cao đẹp. Không những anh chỉ tha thứ cho kẻ thù đã bắn chết mình, mà còn trao ban luôn trái tim và các phần nội tạng khác để cứu sống những kẻ đã sát hại dân tộc mình. Đối với những người không có tấm lòng khoan dung tha thứ thì đây là hành động điên rồ, thậm chí còn là việc ngu xuẩn. Nhưng với những người có niềm tin thì đó lại là bằng chứng hùng hồn của người môn đệ Đức Kitô: “Anh em phải thương yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét anh em”.
Tin Mừng hôm nay thuật lại :
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”.
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha thứ mãi, tha thứ đến vô cùng. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Mọi quốc gia, đảng phái, phong trào đều chống lại điều xấu, đề phòng kẻ gian ác, tiêu diệt kẻ thù, duy chỉ mình Đức Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù”. Người đã chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo, và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.Nhưng tại sao phải tha thứ? Phải tha thứ cho anh em vì đó là điều kiện để được Chúa thứ tha cho chúng ta. Đức Giêsu đã nói: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em”.
Phải tha thứ cho anh em vì chính Chúa luôn tha thứ cho chúng ta, và Người còn liên tục tha thứ mãi, như kinh Lạy Cha Đức Giêsu đã dạy: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Phải tha thứ cho anh em vì đó là một nghĩa cử yêu thương tuyệt đỉnh mà Chúa luôn đòi hỏi và coi trọng hơn cả việc thờ phượng Người: “Nếu khi sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”.
Tha thứ là một lệnh truyền khó thực hiện nhất nhưng cũng là nghĩa cử cao cả nhất. Chúng ta có thể cho đi tiền của, trao ban thì giờ, hiến dâng mạng sống. Nhưng các điều đó xem ra còn dễ hơn là tha thứ cho kẻ thù, yêu thương kẻ ngược đãi mình, và làm ơn cho kẻ oán ghét chúng ta. Vâng, chỉ có sức mạnh của Thiên Chúa chúng ta mới có thể tha thứ cho nhau được.
Đúng như lời Alexande Pope có nói: “Lỗi lầm là của con người, và tha thứ là của Thiên Chúa”.
Khi chúng ta quyết định tha thứ là chúng ta đang vượt lên bản tính tự nhiên, đang trở nên giống Thiên Chúa, đang nâng mình lên tới tột đỉnh của nhân đức.
Khi chúng ta quyết định tha thứ là chúng ta đang thi ân cho kẻ thù. Nhờ sự tha thứ của chúng ta mà họ được an tâm, không sợ báo thù. Cuộc đời họ lại nhẹ nhàng, thư thái, bình an.
Khi chúng ta quyết định tha thứ thì lòng chúng ta được tràn ngập niềm vui : vui vì mình đã làm được một nghĩa cử cao đẹp cho anh em, vui vì biết chắc rằng mình sẽ được Chúa thứ tha.
Từ chối tha thứ cho anh em là nói rằng chúng ta không cần thứ tha. Chỉ có kẻ công chính mới không cần được tha thứ. Nếu ai cho mình không cần được thứ tha, thì họ là kẻ kiêu ngạo đáng thương. Họ tự khóa chặt cánh cửa tâm hồn để lòng mình rêu phong ẩm mốc. Chính sự tha thứ đem lại cho tâm hồn mùa xuân mới, để kẻ tha thứ và người được thứ tha lại nở rộ mùa hoa nhân ái, cho lá vẫn xanh, cho hoa vẫn nở, trong mưa hiền hòa, trong nắng thênh thang.
------------------------------
Sau nhiều màn đấm đá "mắt đền mắt, răng đền răng" vay trả trùng điệp, ngày mồng 4 tháng 9 năm: TN24-A43
Sau nhiều màn đấm đá "mắt đền mắt, răng đền răng" vay trả trùng điệp, ngày mồng 4 tháng 9 năm 1999, thủ tướng Do Thái là Ehud Barak và lãnh tụ Palestine là Yasser Arafat đã ngồi lại ký hiệp ước sống chung hòa bình, trả tù binh, trao lại dần các phần đất chiếm đóng ở "Tây ngạn" . Ủng hộ và chứng kiến lễ nghi có nhiều nhân vật tai to mặt lớn liên hệ như tổng thống Murabak của Ai cập, vua Abdullah của nước Jordan, ngoại trưởng Albright của Mỹ... Thủ tướng Barak đã tuyên bố: "Hôm nay chúng tôi vạch đường kết thúc cuộc xung đột kéo dài cả một thế kỷ giữa chúng tôi với người Palestine."
ĐIỀM CHỈ NHỮNG NGƯỜI DÁM BẮT ĐẦU
Nhưng không phải mọi người đều đồng ý cả đâu! Một số người Palestine quá khích phản đối Arafat, đòi cho được một nước Palestine độc lập chứ không muốn một lãnh địa tự trị trong một quốc gia Do Thái. Còn một số người Do Thái cực đoan đã định cư trong những vùng đất thuộc quyền kiểm soát của Palestine thì lại cho rằng như vậy là Barak phản bội, đem đất tổ tiên dâng hiến cho dân ngoại, và dám thả những tên tội phạm khủng bố mà tay còn vấy máu...
Thủ tướng Yitzhak Rabin trước đây mấy năm đã bị ám sát chết cũng vì những chủ trương hòa hoãn mà một số phần tử quá khích không chấp nhận. Ai cũng ca tụng người Do Thái đoàn kết một lòng, nhưng ngay cả bây giờ vẫn còn những nhóm Do Thái cực đoan không chịu đi lính, người Do Thái hồi hương từ Nga hay Phi Châu khó hòa đồng được với lối sống của đám người Do Thái từ Mỹ hay Tây Âu về. Vậy mà nước họ cứ tiến tới, nhờ vào những nhóm người quả cảm, kiên tâm, nhìn rõ thực tế, có lý tưởng và có hậu thuẫn rộng. Miễn là dám bắt đầu làm một cái gì cho đất nước mình, cho dù bất cứ trở ngại nào. Đây cũng là bài học đoàn kết của người Do Thái. Chẳng ai bắt người khác hay đoàn thể khác phải nhất trí đứng sau lưng mình, không được toại nguyện theo hậu ý của mình thì hô lên là chia rẽ. Mình phải dám bắt đầu trước đã, trong tinh thần quên mình để phục vụ công ích. Nếu có thực lực và đường lối sáng sủa, thì tự nhiên sẽ thu hút và qui tụ. Thế nên việc đào tạo những nhóm hạt nhân mới là phương thức quan trọng của người Do Thái.
NGƯỜI VIỆT ÍT BỊ ĐIÊN
Dân mình cũng giống dân Do Thái ở số phận long đong tan tác. Xây gắn lại những đổ vỡ hoang tàn là cả một cố gắng kiên nhẫn cao độ, với con tim biết thương cảm.
Một nhận xét khá rõ là tỷ lệ người Việt bị bệnh thần kinh rất thấp dù với bằng ấy đọa đầy. Có thể vì tính người mình thích sống liên hệ cộng đoàn nên có nhiều dịp bộc lộ ra được những ấm ức thay vì dồn nén. Có gì bực bội là nói toáng lên không ngờ lại là một cách giải tỏa khỏi bị điên. Chửi bằng đối mặt, chửi bằng điện thoại, chửi bằng báo chí... vậy ra cũng là một cách chữa bệnh tâm lý sao?!
Thực ra thì hay chửi bới lên án cũng đã là một dấu bị bệnh tâm lý rồi. Người bị thương tích trong đời thường biểu lộ một cách vô thức thành mặc cảm, như một trong bốn hiện tượng chính sau đây:
1. Thích phô trương thành tích:
Vì mất mát quá khứ và hụt hẫng hiện tại nên dễ tìm bù trừ gỡ gạc. Kiếm thêm một chỗ đứng, kèm thêm một tước hiệu, ban phát nhiều ý kiến, thích rùm beng gây chú ý, ra như mình cũng còn có giá. Hiện tượng này thật dễ hiểu và dễ nhận ra trong những sinh hoạt chung, nhưng cũng lại là một thứ bệnh mặc cảm khó chữa. Hoạt động thì thích kêu gọi đoàn kết, nhưng lại khó tránh được những khua múa phô trương cá nhân khiến cho ít người dám tới gần.
2. Vết thù hằn trên lưng ngựa hoang:
Người lãnh quá nhiều đòn nên giẫy giụa la hét và đấm đá cuộc đời như kiểu "vết thù hằn trên lưng ngựa hoang." Đây là hiện tượng giận cá băm thớt, giận chó đá mèo. Đối tượng chỉ là cái cớ để phóng rọi những vết bầm bên trong ra mà thôi. Người bị thương hận đời nên lại làm người khác bị thương, riết rồi thành cả một vòng hệ lụy nghiệt ngã thật tội nghiệp không sao thoát ra được! Người đấm kẻ đỡ hao tổn hết nghị lực không còn sức đâu mà làm gì cho ra hồn được nữa. Cả một bầu khí u ám và ô nhiễm bởi những lời phê bình chỉ trích làm mất tinh thần chung. Dễ tức giận tấn công người khác là dấu rõ nhất cho thấy một người đang bị thương nặng.
3. Hay bi quan tiêu cực:
Người bị thương có thể nhìn cuộc sống đầy mây mù với cặp kính đen. Cụ Nguyễn Du đã nhận xét: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Vì thế mở miệng là chán nản chê bai, than thở ỉ ôi, làm cho cả một bầu trời sụp xuống thật thấp.
4. Đóng kín muốn quên đời:
Hiện tượng này tưởng như trầm lặng mà lại nguy hiểm nhất. Vì rất dễ tiến tới tình trạng điên, hoặc sống buông thả.
TIN VUI GỬI NGƯỜI MUỐN BẮT TAY
Phong tục bắt tay phát khởi từ Âu châu. Một thời người ta gặp nhau là phải thủ thế giấu sẵn gươm giáo trong người. Đến lúc muốn chơi với nhau cởi mở thì xòe bàn tay ra chứng tỏ không cầm khí giới gì cả. Vậy là từ đó bắt tay trở thành một dấu hiệu thân thiện.
Thực ra thì dấu hiệu thân thiện phải phát khởi từ bên trong, từ việc cảm thương được niềm đau của nhau, của cả một kiếp người: tại sao con người lại có thể đầy đọa nhau tận tình như vậy?! Người Do Thái như con ngựa hoang bị vất ra khỏi chuồng ấm êm lang thang khắp thế giới, lãnh biết bao tai họa, nhất là trong những trại Tử Thần của Hitler, bây giờ nắm được mảnh đất cắm dùi như cái phao cứu mạng thì họ phải tử thủ đến cùng. Người Palestine đã định cư ở đây cả hai ngàn năm, bỗng dưng đất đai bị chiếm và bị đuổi ra khỏi nhà thành những kẻ vô tổ quốc, thì thử hỏi làm sao không cố thủ đến chết được. Bây giờ cả hai đã thấm đòn, đã cùng thấy được vòng hệ lụy không lối thoát, liền tìm cách bắt tay nhân nhượng cảm thông.
Chứng kiến cái vòng hệ lụy hận thù vay trả, trả vay trùng điệp, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Đức Giêsu đáp: "Thầy không bảo đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy." (Mt 18:21-22)
PHÚT CHỮA LÀNH CHÍNH MÌNH
Đúng vậy. Chỉ khi biết tha thứ không giới hạn cho đời, cho người, và cho chính mình, thì mình mới có thể sống lành mạnh an vui được. Nhìn vào bốn hiện tượng tâm lý trên đây, mỗi người bỗng thấy chính mình cũng đang bị thương tổn một cách nào đó. Đặt mình vào trường hợp của người mình không mấy ưa thích, nhất là trong tình trạng người Việt tan cửa nát nhà, mình mới thấy thương cảm tội nghiệp thay vì thù ghét. Họ cũng là những nạn nhân trong đời. Đúng là họ cũng không hạnh phúc, hành động theo mặc cảm thành những hiện tượng, càng giẫy giụa càng lún sâu vào vũng lầy. Xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm." (Luca 23:34)
Lm. Dũng lạc Trần Cao Tường
-------------------------------
Tin Vui 24ª
THỜI ĐIỂM SỢ TÓC BẠC
Bên xứ văn minh thích đề cao tuổi trẻ đầy nhựa sống này nhiều người sợ bạc tóc lắm. Phải lo đi nhuộm: TN24-A44
Bên xứ văn minh thích đề cao tuổi trẻ đầy nhựa sống này nhiều người sợ bạc tóc lắm. Phải lo đi nhuộm hoặc mua thuốc về chải cho bớt cằn cỗi. Nhưng hình như chẳng giấu nổi những nét nhăn và những vết chân chim trên khóe mắt. Cái căn bệnh nằm sâu trong máu trong tâm chứ đâu đơn giản. Vì thiếu một thứ “vitamin” mà không tiệm thuốc nào bán cả!
CON NHỆN ƯA ĐỚP
Có một câu truyện kể về một cô bé đang tung tăng chơi đùa trên bờ sông, thì tình cờ thấy cảnh một bà già đang choài người ra một một cành cây rủ xuống dòng nước chảy xiết. Tay bà cố gắng với ra muốn bắt một vật gì, nhưng lại giật phắt lại ngay. Tò mò, cô bé tìm cách đến gần hơn thì thấy rõ chuyện đang xảy ra. Thì ra có một con nhện lớn bị kẹt vào đám gai và bà cụ đang cố gắng cứu gỡ nó ra. Nhưng mỗi lần bà ta chạm đến nó thì nó đớp liền, khiến bà phải giật vội tay lại, lau vết máu, rồi lại tiếp tục cứu gỡ con nhện.
Cô bé thấy vậy thì lên tiếng: “Sao bà lại dại vậy! Cứ mặc kệ nó. Vì mỗi lần bà cứu nó thì nó lại đớp bà”.
Bà cụ mỉm cười: “Thì tại tính nó ưa cắn. Còn tính bà thì chỉ biết thương thôi. Chả lẽ mình để mất bản tính mình!”
TÌNH THƯƠNG HIỆN HÌNH
Nhân loại đang bước vào một thiên niên mới. Một điều thật lạ và nghịch lý là khi khoa học lên cao nhất tưởng có thể chế ngự được mọi sự thì cũng là lúc phát sinh nhiều chứng bệnh do tiến bộ quá cỡ trên “bước tất yếu của lịch sử”: bạc tóc, căng máu, ngộp tim, thâm gan, tím mật, lộn ruột, quên cười, nhăn da, nhức đầu, bồn chồn, mất ăn, mất ngủ, ứ mỡ, bong thần kinh... Số người tự tử về hạng ba sau tai nạn xe hơi và giết người. Thế là thế nào?!
Con người văn minh của thế kỷ này chỉ mải mê tìm lợi, ích kỷ, nên thiếu tình người, mất dần cái chất “vitamin” tình thương là bản tính làm cho con người thực sự tươi mát sinh động. Người mình vốn trọng tình trọng nghĩa mà, liệu có góp được phần nào với thế giới để hình thành một nếp sống bước vào năm 2000 không?
Vào giữa tháng tám năm 1996, một người đàn bà lâm bệnh phải vào nhà thương cấp cứu mà cả thế giới lo lắng theo dõi, báo chí và truyền hình khắp nơi đều loan tin. Bà đã được mọi người, mọi giới gọi là Mẹ, vì đã cả đời lăn lộn trong những khu ổ chuột cứu giúp người nghèo và những trẻ em mồ côi bị bỏ rơi bên Calcutta xứ Ấn gần bẩy chục năm nay. Đó là Mẹ Têrêsa, năm nay 86 tuổi, đã trở thành như hiện thân của tình thương trong thế giới cằn cỗi thiếu tình người này.
Tờ báo The Times-Picayune ở New Orleans đăng hình một người đàn bà Ấn Độ Giáo đang quì chắp tay cầu nguyện thành khẩn cho Mẹ Têrêsa chóng bình phục khi tham dự một lễ nghi do các tôn giáo tổ chức, gồm đủ cả: đạo Chúa, đạo Phật, đạo Ấn, đạo Hồi... Một người thay mặt cho buổi lễ đã phát biểu: “Mẹ Têrêsa không chỉ là Mẹ của cộng đồng đạo Chúa, mà là mẹ của các cộng đồng mọi tôn giáo khác nữa”. Đúng là tình thương đã vượt qua đường ranh tôn giáo, nối kết mọi xa biệt.
NHỮNG NGƯỜI ĐÁNG TỘI NGHIỆP
Con mắt của tâm nhìn thấy được
Người với ta tuy hai mà một,
Ta với người tuy một mà hai.
Thương người như thể thương thân.
Vì cùng chia sẻ một nhiệm thể, một sức sống. Mình đâu phải là khách đứng ngoài nhìn người khác khổ đau vật vã. Từ thái độ tách biệt mình đi vào tâm họ, tìm hợp thông thương cảm, nên sẽ biết tội nghiệp cho những quằn quại của tha nhân.
Quả thực, trải qua một cuộc bể dâu mình nhận ra có nhiều điều trông thấy mà đau đớn lòng: không chấp nhận được hoàn cảnh thì sinh ra nhiều mặc cảm lắm. Một người còn nhỏ nghèo túng, gia cảnh thấp cổ bé miệng, hay trong cuộc sống bị mất mát quá nhiều thì khi có cơ hội dễ sinh ra khua múa lố bịch. Đó là hiện tượng mà tâm lý bây giờ gọi là phóng rọi, bù trừ, chôm chỉa, gỡ gạc. Thật tội nghiệp! Cả một quá khứ vàng son bây giờ bỗng dưng tan biến. Cuộc đổi đời quá ư tàn khốc làm sao không giẫy giụa?! Có người quá đau khổ lại sinh ra thù đời, đấm đá cắn xé thiên hạ. Người bị thương lại sinh hung hãn cắn tiếp người khác bị thương nữa, thành ra cái vòng hệ lụy nghiệt ngã chẳng sao dứt được. Có người thì chỉ biết chôn sâu vết thương để cả đời ủ rũ lết lê những chuỗi ngày buồn... một ngày như mọi ngày.
Nhiều người vướng vào vòng lưới hệ lụy nghiệt ngã đã than lên như trong ca dao:
Em như con hạc đầu đình
Muốn bay không cất nổi mình mà bay.
TIN VUI THUỐC CHỮA BẠC TÓC
Biết tìm đường nào để vượt thoát “cất mình nổi mà bay” lên được? Và cứ đà này thì tóc bạc da nhăn nhanh lắm!
Thì đây là phép lạ của sinh tố tình thương. Khi các môn đệ hỏi phải tha thứ mấy lần, có phải bẩy lần không, Đức Giêsu đã trả lời: Không phải bẩy lần, mà bẩy mươi lần bẩy. Nghĩa là tha thứ không giới hạn. Vì tha thứ cho người là tha thứ cho chính mình, là nối lại được dòng tình thương sinh khí đất trời bị tắc nghẽn làm cằn cỗi bạc tóc nhăn da và già đi trước tuổi. Thương người như thể thương thân là đúng. Bởi họ cũng đang khổ đau nên sinh ra giẫy giụa hay khua múa như vậy. Đặt mình vào chính những bước đi của họ, mình sẽ biết tội nghiệp, thương cảm. Tha thứ cho mình, tha thứ cho đời, là bước đầu của phương thuốc thần diệu này.
Vậy mình hãy thử xắn tay làm một việc gì hữu ích cho người khác đi, rồi mình sẽ tìm lại được niềm vui. Bà cụ đã choài tay cứu gỡ con nhện, mặc dù bị nó cắn. Mẹ Têrêsa cũng chỉ bắt đầu bằng một động tác đó thôi. Và các động tác cứ tiếp nhau như vậy. Thế mà Mẹ đã trở thành hiện thân của tình thương, làm cho tình thương hiện hình có sức biến đổi tất cả, nối kết tất cả, làm tóc xanh đen ra, khiến cho cuộc sống đáng yêu biết chừng nào.
Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
-------------------------------
Con người đã sinh vào đời, là mang nợ ! Nợ theo tháng ngày lớn lên mà thay đổi và chồng chất và: TN24-A45
Con người đã sinh vào đời, là mang nợ ! Nợ theo tháng ngày lớn lên mà thay đổi và chồng chất và có thể khẳng định rằng: không ai có thể trả hết nợ... đời được ! Chúng ta nợ người khác và người khác nợ chúng ta. Đây không phải là cái vòng luẩn quẩn, mà là một sự liên kết tạo ra những tình cảm mà chỉ có con người mới có được: ngoài công cha, nghĩa mẹ, thì còn ơn thầy, tình nghĩa bạn bè, xóm giềng, đồng nghiệp, và cả những sự giúp đỡ tình cờ của những gặp gỡ cũng rất tình cờ. Cái làm cho một người nên “nhân bản” hơn, chính là nhận ra những giềng mối này. Còn nếu một người chỉ biết mình, chỉ sống vì lợi ích và hưởng thụ bản thân, thì sẽ không biết thế nào là khoan dung tha thứ. Hôm nay, câu chuyện Chúa Giê-su kể khiến chúng ta phải tự vấn lương tâm.
Trước hết cũng nên có lời khen Phẹ-rô, vì đã cố gắng vượt qua cái hạn mức “quá tam ba bận”, và không chỉ theo quan niệm quảng đại của người Do Thái, mà còn vượt tiêu chuẩn của người thường, khi đưa ra sự tha thứ đến... bảy lần. Hẳn Phê-rô chờ đợi tiếng khen của Thầy, vì cho rằng đã phần nào hiểu “đường lối” của Thầy mình. Nhưng Chúa Giê-su đã làm cho Phê-rô chưng hửng, khi Người nhân “bổn phận tha thứ” lên bảy mươi lần nữa ( có nghĩa là vô cùng ! ) Sau này, Phẹ-rô sẽ hiểu hơn ai hết bài học tha thứ, khi Chúa Giê-su chẳng những không hề đá động tội chối Thầy của ông, mà còn giao phó sinh mệnh Giáo Hội cho ông.
Trong “Ngụ Ngôn của La Fontaine”, con chó sói muốn ăn thịt con cừu, đã kể ra những “tội” mà bản thân cũng như dòng họ nhà cừu không hề hoặc không thể phạm. Với một kẻ có dã tâm như thế, lý lẽ cũng chỉ bằng thừa và chỉ là cái cớ để che lấp cắn rứt lương tâm. Anh chàng được chủ tha món nợ ngút trời hôm nay rõ ràng đã mất hết cái tối thiểu của tình người và ló ra cái bản chất ích kỷ xấu xa. Ta có thể kể ra không sợ sai lầm những thói hư nết xấu của hắn:
- “Của người Bồ-tát; của mình lạt buộc”: một đồng của hắn to che cả bầu trời và hắn chắt chiu cất giữ, không thể tiêu phí và không để một ai làm cho sứt mẻ. Sự bủn xỉn của hắn đã che mờ lương tri, để thấy tiền bạc của người khác ( mà hắn nợ ) chẳng khác vỏ hến. Chẳng những hắn không tha nợ, mà cũng chẳng cho khất. Tình người vốn đã không có, lương tâm của hắn cũng đã ra chai đá.
- Món nợ hắn có đối với Ông Chủ thì hắn chưa bao giờ có ý định... trả, bởi vì hắn ta không bao giờ thấy món nợ đối với người khác là lớn. Hắn lạy lục van xin Ông Chủ, cũng chỉ để vơ vét thêm nhiều và cũng biết rõ lòng nhân từ của Ông Chủ: Bị bắt đem đến trước Chủ nợ, hắn chẳng mấy bối rối sợ sệt, mà chỉ sắp sẵn lời dối trá van xin; Được tha nợ, hắn cũng chẳng tỏ vẻ vui mừng gì. Hắn coi việc Ông Chủ xóa nợ cho hắn như một sự đương nhiên. Lòng biết ơn vốn đã không có, lương tâm của hắn cũng thành chai đá.
- Từ những tính hư nết xấu trên, con người chắc chắn sẽ độc ác. Quảng đại, bao dung, tha thứ, là những từ xa lạ với hạng người này. Yêu thương, phục vụ, là những điều hạng người này không thể nghĩ tới và không thể hiểu được. Không chỉ bỏ mặc kẻ khác chịu khốn khó mà không buồn cảm thông, giúp đỡ, những hạng người này còn vui mừng khi nhìn đồng loại bị tai ương khốn đốn.
Suy người lại ngẫm đến mình ! Có khi nào chính chúng ta cũng độc ác, bủn xỉn và ích kỷ chẳng kém gì anh chàng được chủ tha nợ hôm nay chăng ? Có khi nào ta dùng lăng kính riêng của mình mà cân-đong-đo-đếm để rồi hoặc thấy mình “không đến nỗi”, hoặc xoa tay tự khen thưởng vì một vài “công đức” mình đã thực hiện được ? Hãy bình tĩnh và hết sức sòng phẳng mà xét mình: chúng ta nợ Thiên Chúa bao nhiêu thứ, bao nhiêu lần, trong cuộc đời ? Hay cuối cùng chúng ta vẫn tự bào chữa rằng bấy nhiêu sự ta đang có là do nỗ lực cá nhân ? Vậy, chúng ta nợ anh em mình ra sao ? Hay chúng ta đứng ở vị trí những Ông Chủ, ban phát những gì thừa thải hoặc tùy hứng, tùy hỉ của chúng ta ? Khi ấy, ta thấy mình vượt lên và anh em chỉ là những kẻ thấp hèn, được ta “bố thí”, chịu ơn của ta ?
Nếu có ít nhiều suy nghĩ như thế, thì hãy tin đi: chúng ta đang là người được chủ tha món nợ không thể trả, nhưng đang sẵn sàng bóp cổ các anh em nghèo đói khốn khổ của chúng ta ( nhưng con mắt ích kỷ của ta đã không giúp ta nhận ra điều ấy ) ! Món nợ của chúng ta chỉ càng chất chồng thêm mà thôi !
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Đi Tìm Đáp Số Tình Yêu 117
-------------------------------
Văn hào Nga Lêon Tolstoi kể câu chuyện ngụ ngôn: Có một người hành khách đến trước cửa: TN24-A46
Văn hào Nga Lêon Tolstoi kể câu chuyện ngụ ngôn: Có một người hành khách đến trước cửa nhà một người giàu có để xin bố thí. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu đựng đựơc những lời van xin đó, thay vì bố thí, người giàu có đã lấy đá ném vào người hành khất. Con người khốn khổ ấy lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: Ta sẽ mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi.
Năm tháng trôi qua, lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất cũng chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp giải, tay không rời hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, khi nhìn thấy gương mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất đã thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua ? Con người này giờ đây chỉ là một kẻ khốn khổ như ta mà thôi.
Có hai thứ mùa xuân. Xuân đất trời và xuân tâm hồn. Xuân đất trời, mầm non nẩy lộc, cây cối xanh tươi. Xuân tâm hồn, bình an thanh thản. Người hành khất đã tìm lại mùa xuân tâm hồn. Vì biết tha thứ nên tâm hồn mang nặng hờn căm oán ghét giờ đây đã hồi sinh, nảy mầm. Từ đây, cuộc sống trở nên tươi đẹp. Sự tươi mới của mùa xuân tâm hồn con người chính là sự tha thứ.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc đàm đạo về ơn tha thứ. Ông Phê-rô đến gần Chúa Giê-su và hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm đến con thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không ?” Đối với người Do-thái là “quá tam ba bận”. Có tha chỉ tha ba lần thôi, đến lần thứ tư ắt phải trừng phạt. Họ suy luận: Thiên Chúa trừng phạt kẻ ác khi nó lỗi phạm lần thứ tư; người phàm không thể nhân lành hơn Thiên Chúa nên con người không thể tha thứ cho nhau quá ba lần.
Trước lối suy luận và giảng dạy như thế của các kinh sư, ông Phê-rô chắc mẩm sẽ được Thầy Giê-su khen ngợi khi đề nghị tha đến bảy lần. Tha như thế là đã gấp đôi truyền thống Do-thái và còn cộng thêm một lần nữa. Thế nhưng, câu trả lời của Chúa Giê-su đã làm bàng hoàng người nghe: “Không phải chỉ bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy”. Tha thứ đến 490 lần ư ? Ở đây không thể hiểu theo nghĩa đen với công thức toán học để tìm ra con số lần phải tha thứ cho anh em, mà là tha thứ không giới hạn, tha hoài, tha mãi.
Để các môn đệ hiểu bài học “Tha hoài, tha mãi” này, Chúa Giê-su đã cụ thể hoá bằng câu chuyện. Một người đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn nén bạc, có giá trị tương đương một trăm triệu, một số nợ khổng lồ vì một ngày công chỉ một đồng ( x. Mt 20, 9 ). Vua ra lệnh bán y, vợ con, tài sản của y để trả nợ. Người đầy tớ liền sấp mình, van lơn xin khất nợ. Nhà vua động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y. Tên đầy tớ được tha hết mọi nợ nần, được trả tự do, không còn làm nô lệ nữa. Trớ trêu thay, vừa được tha về, tên đầy tớ gặp một người bạn chỉ mắc nợ y có một trăm đồng, một món nợ rất nhỏ so với món nợ khổng lồ y vừa được vua tha bổng, y tóm lấy, bóp cổ đòi trả nợ ngay. Người bạn sấp mình dưới chân y, van lơn xin khất nợ, nhưng y không nghe, bắt bạn tống giam vào ngục. Chuyện chướng tai gai mắt này đến tai vua, vì những người bạn của y không thể nhắm mắt làm ngơ được. Kết cục, tên đầy tớ ác độc đã bị nhà vua ra lệnh tống giam và hành hạ cho đến khi trả sạch nợ. Kết thúc câu chuyện Chúa Giê-su khẳng định: “Vậy Cha Thầy trên Trời cũng xử với anh em đúng như thế nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em của mình”.
Tha thứ cho nhau là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ. Chúa Giê-su cho thấy tính cấp thiết và cần thiết của sự tha thứ.
Phải tha thứ vì con người bất toàn:
Có những xúc phạm cố ý, nhưng nhiều khi xúc phạm chỉ là vô tình, thiếu ý thức. Chỉ cần một chút cảm thông, một ít hiểu biết thì dễ dàng bỏ qua, không chấp nhất. Người mang nặng oán hờn là người không bao giờ bình an. Như người hành khất mang hòn đá căm hớn mười mấy năm thật khổ sở nặng nề cho chính anh ta.
Trong các thứ khổ tâm đắng cay, có một thứ rất cay đắng, đó là thiếu vắng sự cảm thông, là tâm hồn mang nặng mối hận thù. Khi thù ai, tâm hồn tôi không còn phẳng lặng. Khi tôi bị người khác thù hận, tôi sống trong đề phòng sợ hãi. Tâm hồn cả hai đều là ngục tối. Cả hai đều đánh mất bình an tâm hồn.
Tha thứ là việc vô cùng khó. Nó vượt qua khả năng tự nhiên của con người, nhất là đối với người Việt Nam chúng ta “sống để bụng, chết đem theo”. Cần phải tha thứ cho nhau. Thánh Phao-lô đã khuyên bảo: “Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô” ( Ep 4, 32 ). Đức Phật cũng dạy: “Lấy oán trả oán, oán chập chùng. Lấy đức trả oán, oán tiêu tan”.
Phải tha thứ vì chúng ta cần được thứ tha:
Mỗi người trong đời có biết bao lỗi lầm. Đời người là một chuỗi những vấp ngã được đan kết với bao thứ tha. Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời người, nếu bị ngăn lại sẽ thành ao tù, nó chỉ trong lành khi chảy đến anh em. Luật “mắt đền mắt răng đền răng” là luật công bằng, nhưng ơn tha thứ mới đem lại mùa xuân cho cuộc đời. Thánh Phan-xi-cô thành At-xi-di cũng đã xác định: “...vì chính khi thứ tha là khi đựơc tha thứ”.
Phải tha thứ vì đó là điều kiện để được Chúa thứ tha:
Chúa Giê-su nhấn mạnh điều này rất nhiều lần. Khi dạy “Lời Nguyện Abba”, Chúa bắt mỗi người phải hứa tha thứ cho anh em khi xin Người tha thứ lỗi lầm cho mình. Ngay sau đó, Chúa Giê-su đã căn dặn: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta thì Cha anh em trên Trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” ( Mt 6, 14 – 15 ).
Thánh Phao-lô sống Lời Chúa dạy và đã tha thiết mời gọi: “Anh em hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em, người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” ( Cl 3, 13 ).
Cần phải tha thứ để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa:
Thiên Chúa là người cha rất nhân từ và hay tha thứ. Chúa Giê-su đã khắc hoạ rất rõ nét chân dung nhân từ của Chúa Cha trong dụ ngôn “Người Cha Nhân Lành”. Người không ngừng mời gọi “Hãy nên hoàn thiện như Chúa Cha là Đấng hoàn thiện”. Chúa Giê-su xuống trần gian mạc khải cho nhân loại được biết khuôn mặt hiền hậu nhân từ hay tha thứ của Chúa Cha.
Suốt cuộc đời trần thế, Người không ngừng tha thứ cho kẻ tội lỗi. Tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến Người. Còn cảnh tượng nào đẹp hơn cảnh tượng Người bị treo trên thập giá mà trái tim vẫn mở rộng yêu thương, tha thứ. Còn lời nào đẹp hơn lời Người cầu nguyện trong lúc đau đớn tột cùng mà vẫn nhớ đến người khác, không phải nhớ đến người làm ơn, mà nhớ đến những người làm hại, xúc phạm mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”.
Từ cõi chết sống lại, Người đã tha thứ cho ông Phê-rô, dù môn đệ thân tín này đã chối Thầy. Người đã tha thứ cho các môn đệ dù các ông bỏ mặc Người trong lúc gian nan buồn phiền nhất.
Tha thứ là lời mời gọi duy nhất để tình yêu lớn lên. Tha thứ đem về mùa xuân cho tâm hồn đâm chồi yêu thương, nảy lộc bình an. Chúa đã tha thứ cho ông Phê-rô, tình yêu bùng cháy, ông đã sống hết mình cho sứ vụ Thầy trao. Phao-lô đựơc ơn tha thứ, biến đổi hẳn cuộc đời, thành sứ giả lừng danh rao truyền Đức Ki-tô cho thế giới.
Sự tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của lòng khoan dung. Sự tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới, một thế giới cảm thông chan hoà, một thế giới chan chứa tình huynh đệ, một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã khẳng định điều ấy trong một văn kiện gần đây, trước khi ngài qua đời: “Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ”.
Chúa Giê-su vì yêu thương đã hiến dâng chính mình trên hy tế thập giá đễ ban Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Với hiến tế Thánh Thể, Người vẫn tiếp tục tuôn đổ Ơn Cứu Độ. Đón nhận Thánh Thể là nguồn sức mạnh, nguồn tình yêu để chúng ta biết tha thứ cho nhau...
Lm. Giu-se NGUYỄN HỮU AN, Giáo Phận Phan Thiết
----------------------------------
Những người da đỏ miền Đông Bắc Hoa Kỳ thường truyền tụng một câu truyện được kể lại ở ngôi TN24-A47
Những người da đỏ miền Đông Bắc Hoa Kỳ thường truyền tụng một câu truyện được kể lại ở ngôi thứ nhất như sau:
“Khi ấy, tôi còn là một thanh niên. Tôi có nnhiệm vụ thám thính cho bộ lạc của mình. Hôm đó là một ngày mùa đông tuyết phủ đầy, gió buốt lạnh khủng khiếp, mà lương thực hầu như đã cạn sạch, mọi người đều đói lả. Chúng tôi lại còn phải đi truy lung những kẻ thù của bộ lạc chúng tôi, và bản thân tôi hết sức hãnh diện được sai đi thi hành nhiệm vụ khó khăn ấy. Sau 3 ngày 3 đêm ròng rã, tôi phát hiện ra một túp lều của kẻ thù. Tôi bò từng bước đến gần và khoét một lỗ nhỏ gần bằng bàn tay trên vách lều. Nhìn vào trong, tôi thấy một đôi vợ chồng trẻ đang ngồi sưởi ấm bên bếp lửa và một thằng bé chưa đầy 2 tuổi đang chơi cạnh đó. Với bước đi chập chững, nó đứng dậy cầm chiếc thìa gỗ thọc vào nồi súp, rồi nó bắt chước người lớn khoáy đi khoáy lại nhiều lần...
Rồi bất thần, đứa bé lại quay sang nhìn đúng vào cái lỗ mà tôi đã khoét để nhìn vào trong lều. Tôi hốt hoảng, sợ bị phát giác. Nhưng đúng vào lúc bố mẹ của nó đang mải mê bên bếp lửa, đứa bé lại thọc cái thìa gỗ vào nồi, múc lấy một ít súp và đưa thẳng vào miệng tôi. Cứ thế, nó xúc cho tôi ăn súp liên tiếp nhiều lần mà bố mẹ nó vẫn không hề hay biết...
Cuối cùng thì tôi quyết định phải rút lui và tìm đường trở về bộ lạc của mình. Nhiệm vụ đã hoàn tất, tôi đã tìm được vị trí đóng trại của kẻ thù để anh em của tôi có thể bất ngờ đến đánh úp giữa đêm tối và tiêu diệt họ y như họ đã từng như thế đối với bộ lạc chúng tôi cách đây vài năm.
Tôi cắm cổ chạy trên tuyết cho tới khi đuối sức thì dừng lại, ngồi nghỉ trên một mỏm đá giữa rừng vắng và bắt đầu suy nghĩ về những gì vừa diễn ra. Hình ảnh và cử chỉ của thằng bé đã không buông tha tôi lấy một giây. Nó là ai ? Tại sao nó lại can đảm múc súp cho kẻ thù của bố mẹ, của cả bộ tộc nó ? Sức mạnh thiêng liêng nào đã thúc đẩy nó làm như thế ?
Cứ thế, tôi suy nghĩ miên man về thằng bé: nó phải được sống sót trong trận càn quét sắp tới của bộ lạc chúng tôi. Tôi chợt nẩy ra ý phải quay trở lại tức khắc, bí mật giết chết bố mẹ thằng bé rồi bắt cóc nó, đem về nuôi dạy theo phong tục của bộ lạc chúng tôi. Thế nhưng, thú thật tôi không thể làm như thế, thằng bé còn quá nhỏ, nó cần được chính bố mẹ nó nuôi nấng.
Nghĩ như vậy, tôi quay trở lại túp lều, đi thẳng vào cửa trước. Bị bất ngờ, đôi vợ chồng trẻ kinh hoảng, nhưng tôi ra dấu trấn an họ ngay. Nhận thấy tôi không có ý gì đe dọa, họ đã vui vẻ mời tôi vào ngồi xếp bằng bên bếp lửa hồng. Người chồng chuẩn bị một tẩu thuốc, người vợ bưng nồi súp ra để mời khách, còn thằng bé thì mừng rỡ khi nhận ra khuôn mặt quen thuộc của tôi. Và thế là, nó lại lấy chiếc thìa gỗ, xúc một ít súp, lại còn phùng miệng thổi phù phù cho bớt nóng, rồi mới đưa vào tận miệng tôi.
Tôi chậm rãi tiết lộ tông tích của mình và bảo họ: “Trước tiên, vì sự hồn nhiên vô tư của thằng bé, kế đó, vì lòng hiếu khách của anh chị, tôi sẽ không làm hại gì đến gia đình bé nhỏ này. Anh chị hãy mau lánh nạn đi chỗ khác, bởi vì dẫu tôi có nói dối với tù trưởng, không sớm thì muộn, bộ lạc chúng tôi cũng sẽ phát hiện ra nơi này, họ sẽ đến và chiến tranh hận thù sẽ xảy ra, họ sẽ không tha cho bất cứ ai !”
Hình ảnh cuối cùng mà tôi còn giữ mãi, chính là hình ảnh của thằng bé được mẹ địu trên lưng, tay vẫn múa máy chiếc thìa gỗ và mỉm cười với tôi. Vài ngày sau, bộ lạc của tôi đã cho người khác đi trinh sát, phát hiện và tấn công, tàn sát rất nhiều người trong bộ tộc của họ vốn bị coi là kẻ tử thù không đội trời chung.
Cuộc chinh phạt ấy, tôi đã kiếu ốm để ở nhà, không chịu tham gia. Mùi tử khí trong tôi đã được thay thế bằng mùi súp nóng thơm phức mà thằng bé đã đưa tận miệng tôi hôm nào. Tôi đã từ bỏ hẳn thói hung hăng hiếu chiến, lòng hận thù dai dẳng trong tôi cũng đã tắt ngấm. Dù cho bọn trai tráng trong bộ tộc có khinh miệt chê bai, tôi chỉ nhận làm một người thợ săn bình thường. Càng có tuổi, tôi càng tin rằng tất cả chúng ta cần phải có một “Đứa-Bé-Hòa-Bình”như thế, mãi mãi ở giữa chúng ta !”
Theo INTERNET, 1999
LẤY ÂN ĐỀN OÁN
Tại một bộ lạc ở nước Nam Phi có hai người thổ dân chỉ vì một mối hiềm khích nhỏ mà đưa đến căm thù nhau khốc liệt.
Một ngày kia, trên đường vào rừng đốn củi, một trong hai kẻ tử thù bắt gặp đứa bé gái con của đối phương đang tung tăng vui chơi hái hoa dại, người ấy bừng bừng nổi giận, sẵn con dao cầm trên tay, ông ta túm lấy bé gái mà chặt đứt mất hai ngón tay trên bàn tay phải của em. Ông ta ngửa mặt nhìn trời cười ha hả: “Thế là hôm nay, ta đã trả được mối cừu thù...” Trong lúc đó thì bé gái đáng thương hết sức kinh hãi và đau đớn, òa khóc bỏ chạy về hà, bàn tay đầm đìa máu chảy...
20 năm thấm thoát trôi qua, em bé nạn nhân lớn lên, nay đã có chồng có con, làm ăn khá giả nhất trong làng, còn cha mẹ cô ta thì đã sớm qua đời, mang theo mối hận vẫn chưa thanh toán được với kẻ thù của mình.
Một hôm, có một người hành khất già đi ngang qua, mệt lả vì đói. Ông lão ghé vào nhà xin bà chủ chút cơm thừa canh cặn. Người đàn bà chợt nhận ra đó chính là hung thủ đã chặt đứt hai ngón tay mình năm xưa. Bà vội vào nhà trong dọn bánh thơm sữa ngọt cho người ăn xin đáng thương. Khi ông lão đã ăn no nê, định nói lời cám ơn để từ biệt thì bà ngăn lại, đến gần đưa bàn tay phải đã cụt mất hai ngón tay ra, nhỏ nhẹ nói: “Thế là hôm nay, tôi đã trả được mối thù năm xưa của cha mẹ tôi và của chính tôi...”
Người hành khất già chợt hiểu ra mọi chuyện, ông gục đầu xuống, càng xúc động về nghĩa cử của bà chủ nhà, lại càng ân hận về hành động tàn nhẫn mù quáng của mình trước đây. Lấy oán báo oán thì oán ấy chất chồng, nhưng lấy ân đền oán thì oán ấy tiêu tan...
Trích NỐI LỬA CHO ĐỜI số 2
----------------------------------
HÃY TẬP SỐNG NHƯ TẤM LÒNG BAO LA CỦA THIÊN CHÚA
(Mt 18, 21 - 35)
Thưa quí vị,
Tha thứ không dễ, nhất là việc xúc phạm không chỉ gây đau khổ cho chúng ta mà còn làm thiệt hại cho: TN24-A48
Tha thứ không dễ, nhất là việc xúc phạm không chỉ gây đau khổ cho chúng ta mà còn làm thiệt hại cho thân nhân của chúng ta nữa. Câu truyện sau đây của người phụ nữ ly dị và đứa con gái 14 tuổi của bà, chứng minh điều ấy. Ly dị luôn là một kinh nghiệm cay đắng cho bất cứ cuộc hôn nhân nào. Nhưng kinh nghiệm của người đàn bà trong câu truyện lại càng cay đắng, bế tắc hơn. Bà là một công nhân không thành thạo, đứa con gái còn đi học. Sau vụ ly dị, người cha phải chu cấp tiền bạc cho nó. Nhưng ông đột nhiên cắt đứt, mặc dầu ông có khả năng. Người vợ vụng về không kiếm được nhiều tiền. Bà lo lắng rồi đây không hiểu làm sao ra kinh tế để tiếp tục cho con đi học. Bà là một tín hữu nhiệt thành, bà hối hận dã qúa nóng giận, tức bực với người chồng cũ. Tuy nhiên tôi không hiểu bà có phản ứng ra sao khi nghe công bố Tin mừng hôm nay ở Thánh đường?
Nhưng xin quanh co một chút, cho vấn đề dễ sáng tỏ. Khi đọc Kinh thánh, đôi khi ý nghĩa của nó dễ, tôi có thể hiểu ngay và lấy ra vài tư tưởng để suy niệm. Nhưng đôi khi phải tìm hiểu lâu, trong những trường hợp ấy, tôi chỉ lắng nghe vài câu, vài lời, vài hình ảnh mà tôi có thể hiểu được để nghiền ngẫm cho đến lần đọc khác, riêng tư hoặc nghe công bố ở nhà thờ. Thí dụ: tuần vừa qua, tôi được thách thức đừng để sự xúc phạm đến mình phát triển. Chúa Giê-su khuyên tôi phải đi dàn xếp với anh chị em gây phiền toái đó. Chẳng cần phải là học giả của Kinh thánh mới có khả năng diễn giải ý nghĩa của đoạn kinh thánh ấy. Bài Tin mừng ngày hôm nay không dễ như vậy. Nó đòi hỏi nhiều suy nghĩ hơn.
Câu truyện khởi sự bằng việc Phêrô hỏi Chúa Giê-su phải tha thứ bao nhiêu lần. Đến 7 lần không ? Câu hỏi của ông tiếp nối liền sau việc Chúa dạy về sửa lỗi và hòa giải trong cộng đoàn, tức Hội thánh ngày nay. Vậy thì ai trong chúng ta lúc này không hiểu tầm quan trọng của sửa lối và tha thứ trong cộng đoàn kitô giáo? Để chúng ta khỏi quên, Kinh lạy Cha luôn nhắc nhớ: “Xin tha lỗi cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có lỗi với chúng con.” Ngay cả khi là người không tôn giáo, thì các tâm lý gia nói cho hay sự quan trọng của tha thứ, không những hữu ích cho người khác mà còn rất lợi cho tinh thần chúng ta.
Phúc âm hôm nay Phêrô hỏi Chúa về việc tha thứ đó. Hình như ông nghĩ mình có câu trả lời đúng: Tha thứ đến 7 lần. Nhưng Chúa Giê-su làm ông ngạc nhiên: “Bảy mươi bảy lần bảy”. Để minh hoạ cho ý kiến của mình, Chúa kể dụ ngôn ông vua nhân từ. Dụ ngôn này không rõ nghĩa như tôi trình bày ở trên. Nó đòi hỏi kiên nhẫn và tìm tòi.
Thoạt nghe tôi cảm thấy khó chịu, bởi hình ảnh của Thiên Chúa không như chúng ta dự đoán: gần gũi và nhân lành. Ngược lại, Ngài xem ra nghiêm khắc với những ai không vừa ý Ngài. Tới hồi kết thúc dụ ngôn, kẻ mắc nợ nhiều hơn bị trao cho lý hình: “cho đến khi Y trả hết nợ cho ông.” Chúa Giê-su nói thêm: “Ấy vậy Cha của Thày ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Quí vị chắc đã hiểu ý tôi? Bản văn xem ra tô vẽ lên một Thiên Chúa thay đổi, từ Thượng Đế yêu thương đầy lòng thông cảm mà Chúa Giê-su là hiện thân, thành một Đấng đòi hỏi và ưa thích trừng phạt. Hình ảnh này nhiều người chúng ta vẫn còn lưu giữ trong thâm tâm, dù chỉ là tiềm thức. Làm thế nào chúng ta tháo cởi được những điều vặt vĩnh của dụ ngôn này?
Xin nhớ đây là dụ ngôn chứ không phải so sánh từng chi tiết (allegory). Dụ ngôn cho chúng ta ý niệm sống trong Nước Trời là như thế nào? Dưới triều đại Thiên Chúa chúng ta phải cư xử ra sao? Chứ không phải toàn bộ câu truyện là như vậy. Ông vua trong câu truyện không là hình ảnh Thiên Chúa. Ông đại diện cho công lý mà thôi. Còn mặt khác của công lý mới mô tả đúng hình ảnh Đức Chúa Trời. Đó là lòng thương xót của Ngài. Duy chỉ công lý suông có thể dẫn đến tàn nhẫn. Châm ngôn La tinh nói: “Công lý tối cao sản sinh bất công cực kỳ (summum jus summa injuria). Công lý của Thiên Chúa được lòng thương xót của Ngài cân bằng.
Điểm thứ hai cũng quan trọng, hình ảnh những người mắc nợ không hoàn toàn đại diện cho chúng ta. Chúa Giê-su kể câu truyện để trả lời nghi vấn của thánh Phêrô, bổn phận của chúng ta là suy gẫm dụ ngôn. Chúng ta tự so so sánh mình với con nợ khi liên tưởng tới tội lỗi vô cùng to lớn với Đức Chúa Trời. Nhưng ngụ ý của dụ ngôn không hoàn toàn như vậy, chúng ta sẽ dần dà khám phá ra sự thật. Nếu chúng ta giữ nguyên hình ảnh Đức Chúa Trời hành động giống vị vua trong câu truyện thì chúng ta phải trả lời những vẫn nạn khó khăn: Liệu Thiên Chúa có lòng trả thù như vị vua quyền năng? Liệu Thiên Chúa thôi nhân từ thương xót các tội nhân chưa hối cải? Liệu lòng xót thương của Ngài kèm theo điều kiện? Liệu hình ảnh Chúa Giê-su mặc khải trong Phúc âm về một Thiên Chúa hoàn toàn thương xót và tha thứ có thật?
Xin đọc kỹ dụ ngôn chúng ta sẽ ngộ ra lắm điều lạ lùng. Trước hết, tình huống Chúa Giê-su kể dụ ngôn là vì Phêrô hỏi. Phêrô nắm chắc câu trả lời, dựa vào những điều Chúa dạy về sửa lỗi và thứ tha trong đoạn trên (Tin mừng Chúa nhật tuần này tiếp liền sau tuần trước, (Mt 18, 20 - 21) ). Ông đề nghị 7 lần, tưởng là đã nhiều lắm, bởi số 7 chỉ sự hoàn hảo trong văn hoá Do thái. Số 7 chứa đựng ý nghĩa đầy tròn. Nhưng trước mặt Chúa số ấy có giới hạn. Chúng ta có thể tuyên bố: “như vậy là chúng tôi đã thoả mãn những đòi hỏi”. Nhưng Chúa Giê-su làm Phêrô ngạc nhiên. Ta không bảo 7 lần mà tới 70 lần 7. Đúng hơn Chúa nói: đừng đặt giới hạn cho việc tha thứ. Nghĩa là nó không thể đong đếm như một danh sách mua sắm: một chục trứng, hai két bia, ba cân khoai tây vv. Tha thứ là vô hạn định. Vì vậy Chúa kể dụ ngôn cho Phêrô và các môn đệ nghe, để am hợp với nội dung Ngài công bố. Hội thánh phải lĩnh hội phẩm chất và tầm quan trọng của vấn đề. Tôi hoài nghi câu truyện có bị cắt ngắn hay không, bởi lẽ không thấy mô tả nỗi vui mừng của con nợ, khi được tha bổng. Số tiền nợ rất lớn. Người ta tính ra nếu lương công nhật mỗi ngày một đồng thì con nợ phải lao động 150 năm để trả nợ. Vậy mà không thấy nói khi được tha nợ, con nợ hoan hỷ nhẩy mừng như người trúng số độc đắc, hay như tử tù được ân xá, ra khỏi khám đường.
Rõ ràng người đầy tớ không bao giờ trả hết nợ cho vua, dù anh ta hứa như vậy. Anh ta nói anh ta cần thời gian. Cho dù anh ta được phép có nhiều thời giờ và làm việc chi đi nữa thì anh ta không bao giờ có khả năng trả nợ, dù chỉ là một phần rất nhỏ. Anh ta hoàn toàn dưới quyền người chủ nợ. Tuy nhiên thay vì số phận thảm khốc ấy, thì anh nhận được lòng nhân ái của ông vua. Đây là điểm gây ngạc nhiên của câu truyện. Thường thường các dụ ngôn đều có những bước ngoặt bất ngờ làm chúng ta sửng sốt. Cái luận lý của nó không đoán trước được, khác với lý luận của thế gian. Người đầy tớ hoàn toàn bước vào quan hệ mới, đời sống mới mà anh chẳng bao giờ nằm mơ thấy. Cứ như công lý của xã hội thì con nợ phải chấm dứt cuộc sống tự do của mình cùng với gia đình, tức đồng nghĩa với cái chết mặc dù còn sống. Anh ta và gia đình đã nằm trên bảng giá cả để bán. Nhưng bỗng nhiên được tự do không phải trả món nợ khủng khiếp nữa. Còn chi vui mừng hơn? Đúng là một ân huệ tày trời, anh phải thay đổi nếp sống của mình và nhận ra hoàn cảnh hiện tại. Tất cả đều là ân huệ của vua. Thực tế anh không thấy được như vậy. Phúc âm không thuật lại gì cả, nhưng cho biết phản ứng của anh ra sao. Câu truyện kể tiếp chứng tỏ anh đã ngang nhiên ngăn cản ơn huệ, không cho nó tác động trên bản thân anh và gia đình. Đây là điều chúng ta cần quan tâm suy nghĩ, bởi cũng thường vô ơn như vậy trước mặt Đức Chúa Trời, lãnh nhận muôn vàn ơn thánh của Ngài mà không hề đáp trả. Chúng ta có đầy đủ chứng cơ, con nợ trong Phúc âm không hề thay đổi. Anh ta từ chối tha nợ cho bạn mình, bóp cổ và đòi cho bằng hết món nợ nhỏ xíu. Thánh Mattheo kể: “Nhưng ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ Y một trăm quan tiền, Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: trả nợ cho tao”.
Đọc đến đây không ai có thể cầm lòng tức bực với tên đầy tớ bất lương. Nhưng đó phải chăng cũng là thái độ của chúng ta đối với đồng bào, mặc dù đã được Thiên Chúa tha cho muôn vàn tội nợ? Tôi đã từng đọc Tin mừng để cho lời Chúa lắng đọng trong tâm hồn, đúng hơn Lời Chúa tác động vào trong linh hồn tôi. Tuy nhiên câu truyện hôm nay làm tôi xấu hổ nhất. Bởi lẽ thông điệp của dụ ngôn là như thế này: Một người nợ một món tiền không thể trả nổi, mặc dầu hứa là sẽ trả. Món nợ được tha bổng chẳng phải vì cử chỉ nào của chủ nợ, ông ta đã nói hoặc hứa gì với con nợ, mà hoàn toàn do lòng tốt của mình. Trước lời khẩn cầu ông thương xót. Người đầy tớ được tha và hoàn toàn không thay đổi, không chịu tác động chi hết bởi ân huệ quá to lớn của chủ. Hắn lập tức từ chối lời van xin của bạn, mặc dầu món nợ chẳng đáng giá là bao, bóp cổ và hành hạ bạn cho đến khi đòi được món nợ. Và bởi vì hắn không có một phản ứng nào trước lòng tốt của vua, cho nên hắn trở lại tình trạng nguyên thuỷ, trước khi được chủ tha thứ, mắc món nợ khổng lồ. Vậy thì hắn và gia đình phải trả hậu quả của việc hắn làm.
Tôi rất tâm phục, khẩu phục tín thư của dụ ngôn này. Chúng ta chẳng làm chi để được Chúa thứ tha. Ơn này hoàn toàn nhưng không. Chúa tha thứ cho tôi nhiều lần: 70 nhân 7, tương đương với vô hạn định. Phản ứng của tôi phải ra sao trước nhan thánh Đức Chúa Trời và thiên hạ, bởi tôi thường vỗ ngực tuyên bố là môn đệ Chúa, làm chứng nhân cho lòng thương xót của Chúa Kitô?
Tôi phải suy niệm luôn luôn sự thật trong câu truyện hôm nay. Cuộc sống của chúng ta với Chúa là một hồng ân từ lúc sinh ra cho tới khi lìa đời. Chẳng có chi mà chúng ta không lãnh nhận từ Thiên Chúa. Việc cảm tạ Ngài và ăn ở ngay chính là lẽ đương nhiên. Nhưng đa phần nhân loại lãng quên, kể cả giáo sĩ, tu sĩ, linh mục. Họ ăn ở độc ác, thu vén tiền bạc, của cải, tiện nghi, hạnh phúc cho riêng mình trên hy sinh đau khổ của kẻ khác.
Trước bàn thờ Thánh Thể, chúng ta thành thật dâng lời tạ ơn và xin cho chân lý Chúa dạy hôm nay ghi khắc vào xương thịt mình. Bởi bất cứ khi nào chúng ta xin ơn tha thứ đều được Chúa tưới gội với lòng hoan hỷ. Chúng ta cam kết với Ngài luôn sống đạo đức tốt lành, sẵn sàng tha thứ cho tha nhân xúc phạm đến mình bởi nó là dấu chỉ chúng ta đã được Chúa thứ tha.
Thánh Phaolô trong bài đọc hai cũng cùng ý tưởng đó khi viết: “Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình…dầu sống hay chết, chúng ta đều thụôc về Chúa.” Chúng ta thuộc về Thiên Chúa như một tạo vật do chính bàn tay Ngài dựng nên. Ngài còn gìn giữ và dẫn dắt, nhiều lần bằng những phương cách khác nhau, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi những khó khăn, nguy hiểm, ban cho được sống hạnh phúc trên trái đất này. Chúng ta còn thuộc về Chúa trong ơn Ngài cứu độ. Do sự lừa dối của satan và tội nguyên tổ, mọi người đều phải án chết: tâm linh, phần xác, ơn thánh, linh hồn. Chúng ta chẳng có khả năng tự cứu lấy mình, cho nên Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài xuống thế gian để làm việc ấy. Con Ngài đã chịu khổ nạn và chết trên Thập giá cũng vì mục tiêu cứu thoát nhân loại khỏi án phạt đời đời. Phép công thẳng của Thiên Chúa được đền bù và lòng xót thương của Ngài được tỏ hiện.
Tôi xin trở lại câu truyện ban đầu: Nếu như cứ theo công lý thế gian, tôi sẽ khuyên người phụ nữ theo đuổi quyền lợi của con gái cho đến cùng, dù phải bỏ bố nó vào tù. Nhưng dưới ánh sáng Tin mừng hôm nay, tôi cầu nguyện cho bà và đề nghị bà xin Chúa ban quyền năng tha thứ cho ông ta. Bà sẽ được bình an, yên tâm, vui vẻ và ông ta được tự do sống như vậy, sau khi trở lại tiếp tục cung cấp tiền bạc cho con gái. Chắc chúng ta còn nhớ câu chuyện đứa con hoang đàng của gia đình ông James. Con ông bỏ nhà theo bạn bè đi bụi đời nhiều năm trời. Một hôm nó hồi tâm nghĩ lại và muốn trở về với gia đình. Nhưng nghi ngại, bởi không hiểu cha mẹ có tha thứ cho không? Suy nghĩ mãi nó tìm ra một phương kế: Viết thơ nói với gia đình, giờ đó, tháng đó, ngày đó nó sẽ đáp xe lửa qua trước nhà, nếu nhìn thấy trên cành cây trước cửa buộc một chiếc khăn trắng, nó sẽ xuống xe và trở về nhà, bằng không nó cứ ngồi trên xe đi luôn. Tới đúng hẹn nó lên xe lửa về nhà. Và khi nó nhìn lên cây trứoc nhà thì thấy không phải là một chiếc khăn trắng, nhưng cả rừng khăn trắng buộc khắp nơi. Hóa ra ông bố sợ nếu chỉ treo một chiếc khăn như nó yêu cầu, chẳng may xe lửa chạy quá nhanh, nó không thấy kịp, ông sẽ mất đứa con. Thiên Chúa hằng đối xử với chúng ta như vậy đó. Chúng ta phản ứng ra sao? Amen.
Lm Jude Siciliano, OP
------------------------------------------
Tin mừng : Mt 18, 21-35.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu nghiêm khắc cảnh cáo chúng ta : “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh: TN24-A49
Chúa Giêsu nghiêm khắc cảnh cáo chúng ta : “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. (Mt 18, 35).
Hết lòng tha thứ cho nhau là tha thứ đến bảy mươi lần bảy, bảy mươi lần bảy là con số được nhân lên gấp bội rất nhiều lần trên số học, nhưng nó là hết lòng trong cung cách tha thứ của người môn đệ Chúa Giêsu. Có người tha thứ nhưng không hết lòng, nên họ vẫn còn nhớ lại những lỗi lầm của tha nhân; có người tha thứ nhưng chỉ có bảy lần, nên họ vẫn không thể nào cộng tác với người anh em; có người tha thứ nhưng không hết lòng, nên họ vẫn còn có thái độ kiêu ngạo với tha nhân…
Hết lòng tha thứ tức là trong lòng không còn chút tức hờn giận dỗi, vẫn cứ nhìn thấy người xúc phạm đến mình như là người anh em chị em thân thiết bấy lâu nay của mình; hết lòng tha thứ cho anh em chị em là chúng ta trở thành người có trí nhớ tồi nhất đối với những lỗi lầm mà tha nhân đã xúc phạm đến mình, có như thế chúng ta mới trở nên người môn đệ của Chúa Giêsu và thật sự là người đem sứ điệp yêu thương của Chúa Giêsu đến cho mọi người.
Anh chị em thân mến,
Tấm lòng của Chúa Giêsu đã trãi ra rất rõ ràng cho chúng ta thấy khi Ngài dạy chúng ta phải tha thứ cho anh em đến bảy mươi lần bảy, Ngài đã hết lòng yêu thương nhân loại tội lỗi đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, thân xác Ngài trống không chẳng có gì vì đã hết lòng yêu thương nhân loại, Ngài đã hết lòng yêu thương nhân loại cho đến muôn đời.
Bí tích Thánh Thể, bí tích Hòa Giải là nơi để cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã hết lòng yêu thương chúng ta, và cũng nơi các bí tích này, Chúa Giêsu không chỉ muốn chúng ta phải yêu thương bằng cách tha thứ mà thôi, nhưng phải hết lòng quên đi những thiếu sót lỗi lầm mà tha nhân đã xúc phạm đến mình...
Khó lắm, nhưng chúng ta cố gắng thực hiện với ơn trợ giúp của Chúa Giêsu và của Mẹ Maria.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
------------------------------------------
Người giảng Phủ Giáo Hoàng giải thích về Tin Mừng Chúa Nhật
ROME (Zenit.org).- Trong bài giải thích của ngài về các bài đọc Chúa nhật, Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, người giảng Phủ Giáo Hoàng, giải đáp câu hỏi tha thứ bao nhiêu lần mới coi là quá nhiều.
* * *
Matthew (18:21-35)
Nhưng người ta phải tha thứ bao nhiêu?
Tha thứ là một sự nghiêm chỉnh, nếu có thể thì rất khó đối với con người. Người ta không phải nói: TN24-A50
Tha thứ là một sự nghiêm chỉnh, nếu có thể thì rất khó đối với con người. Người ta không phải nói về sự tha thứ cách nông nổi, khi yêu cầu người ấy tha thứ mà không nhận thức những gì người ta xin với một người bị xúc phạm.. Cùng với lệnh phải tha thứ, con người cũng phải được cho một lý do để làm như vậy.
Đó là điều Chúa Giêsu đã làm với dụ ngôn ông vua và hai tên đầy tớ của vua. Dụ ngôn nói rõ tại sao người ta phải tha thứ: bởi vì Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta trong quá khứ và tiếp tục tha thứ cho chúng ta!
Thiên Chúa xóa một món nợ của chúng ta vô cùng to lớn hơn món nợ mà người anh em có thể nợ với chúng ta. Sự khác biệt giữa món nợ mắc với nhà vua (10 ngàn nén) và món nợ mắc với người đồng nghiệp (100 đồng) tính theo giá hiện tại bằng 3 triệu euros và một vài xu ($3.7 million)!
Thánh Phaolo đã nói: "Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau" (Colossians 3:13). Luật Cựu Ước, "mắt đền mắt, và răng đền răng," đã bị khắc phục. Không còn tiêu chuẩn này nữa: "Hảy làm cho kẻ khác điều nó làm cho anh", nhưng, "Điều Thiên Chúa đã làm cho anh, anh hãy làm cho kẻ khác." Nhưng, Đức Giêsu không hạn chế mình vào sự ra lệnh cho chúng ta phải tha thứ, nhưng chính Người đã làm vậy trước. Đang khi Người bị đóng đinh trên thập giá Người đã cầu nguyện rằng: "Lạy Cha,xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm!" (Lc. 23:34}. Đó là điều phân biệt giữa đức tin Ki tô hữu với bất cứ tôn giáo nào khác.
Đức Phật cũng đã để lại một châm ngôn " Không phải với sự oán giận mà sự oán giân được thoa dịu; với sự không-oán giận, sự oán giận mới được thoa dịu." Nhưng Chúa Kitô không hạn chế mình trong việc chỉ rõ con đuờng trọn lành; Người ban sức mạnh để theo sự trọn lành. Người không chỉ ra lệnh chúng ta phải làm, nhưng Người làm với chúng ta. Ân sủng hệ tại là ở chỗ này. Sự tha thứ Kitô hữu vượt xa sự không-bạo tàn và sự không-oán hận.
Có người thắc mắc: việc tha thứ bảy mươi lần bảy không có nghĩa là khuyến khích sự bất côn g và bật đèn xanh cho lạm dụng sao? Không, sự tha thứ Kitô hữu không loại trừ sự kiện, trong đôi truờng hợp, anh cũng có thể phải tố giác một người và đưa họ ra tòa án, nhất là khi điều bị đe dọa là những quyền lợi và cũng là ích lợi của kẻ khác. Xin nêu lên một ví dụ gần chúng ta: sự tha thứ Kitô hữu không ngăn cấm những người phụ nữ của một số nạn nhân bị góa bụa do sự khủng bố hay do mafia, đã theo đuổi chân lý và công lý cách kiên trì liên quan cái chết của chồng mình.
Nhưng, không chỉ có những hành vi cả thể tha thứ mà còn những hành vi tha thứ hằng ngày, trong đời sống vợ chồng, lúc lao động, giữa những thân nhân, bạn bè, đồng nghiệp và những người quen thuộc. Điều gì người ta có thể làm khi người ta khám phá rằng mình bị chính bà vợ mình phản bội? Tha thứ hay phân ly? Đó là một câu hỏi hết sức tế nhị, không luật nào có thể được áp đặt từ bên ngoài. Cá nhân phải khám phá trong mình phải nên làm gì.
Nhưng tôi có thể nói một sự. Tôi biết những trường hợp mà bên bị xúc phạm đã tìm được, trong tình yêu đối với kẻ khác, và nhờ sự trợ giúp đến từ sự cầu nguyện, đã có sức mạnh tha thứ cho kẻ đã lầm lạc, nhưng chân thành sám hối. Hôn nhân được tái sinh như từ đống tro, nó có một thứ bắt đầu mới. Dĩ nhiên, không ai có thể chờ đợi điều nảy có thể xảy ra trong đời sống vợ chồng "bảy mươi lần bảy."
Chúng ta phải cảnh giác để khỏi phải mắc bẫy. Cũng có nguy hiểm trong việc tha thứ. Nguy hiểm đó tùy thuộc vào tâm trạng của những người tưởng rằng họ luôn luôn có một cái gì phải tha thứ cho kẻ khác-- nguy hiểm vì tin rằng người ta luôn là chủ nợ sự tha thứ và không bao giờ là người mắc nợ.
Nhưng nếu chúng ta suy tư kỹ nhiều lần, khi chúng ta sắp nói : "Tôi tha thứ cho anh!", chúng ta đáng lý sẽ làm tốt hơn để thay đổi thái độ và những lời nói, và nói với người đối diện chúng ta : "Xin tha thứ cho tôi!" Lúc đó chúng ta phải công nhận chúng ta cũng có cái gì người khác phải tha thứ. Trên thực tế, còn quan trọng hơn việc tha thứ là sự khiêm tốn xin tha thứ.
Đức Ông Nguyễn Quang Sách
------------------------------------------