Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 24 TN-A Bài 101-150: Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy
------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 18, 21-35: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?” Chúa Giêsu đáp: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.
“Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả”. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
“Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: “Hãy trả nợ cho ta”. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh”. Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong.
“Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến vào bảo rằng: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
“Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
TN 24-A101: THA THỨ MÃI MÃI…... 2
TN 24-A102: Hãy Tha Thứ Vì Ta Cần Được Chúa Thứ Tha. 4
TN 24-A103: CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN A.. 6
TN 24-A104: Suy niệm chú giải Lời Chúa CN 24 TN A.. 10
TN 24-A105: Tha thứ vô điều kiện – Lm G.B. Trần Văn Hào SDB.. 13
TN 24-A106: Hãy tha thứ để được thứ tha – Lm Đan Vinh. 15
TN 24-A107: CHUÁ NHẬT 24 TN A.. 23
TN 24-A108: CHỦ NHẬT 24 TN A.. 26
TN 24-A109: THA THỨ ĐỂ ĐƯỢC THỨ THA.. 32
TN 24-A110: Tha thứ thật thà - Huệ Minh. 35
TN 24-A111: Thông cảm để thứ tha. 39
TN 24-A112: Lòng thương xót 41
TN 24-A113: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 44
TN 24-A114: Tha thứ nét độc đáo nhất của người Công Giáo. 46
TN 24-A115: Tha thứ - Lm. Trầm Phúc. 49
TN 24-A116: Tha thứ, mùa xuân tình yêu. 52
TN 24-A117: Tha thứ không biên giới 56
TN 24-A118: Tại sao không tha? - Lm. Nguyễn Hùng. 58
TN 24-A119: Tha thứ không giới hạn. 59
TN 24-A120: Sự tha thứ. 65
TN 24-A121: Bảy Mươi Lần Bảy. 71
TN 24-A122: Mắc nợ và trả nợ. 73
TN 24-A123: Vị thẩm phán chí công. 75
TN 24-A124: Có tha thứ mới được thứ tha. 77
TN 24-A125: Tha thứ. 80
TN 24-A126: Nhân quả. 81
TN 24-A127: Chúa Nhật 24 Thường Niên. 83
TN 24-A128: Chúa Nhật 24 Thường Niên. 86
TN 24-A129: Tha tận đáy lòng. 88
TN 24-A130: Tha thứ, mùa xuân tình yêu. 91
TN 24-A131: Tha thứ như đã được thứ tha. 95
TN 24-A132: Chiều sâu và chiều rộng vô hạn của lòng thương xót 98
TN 24-A133: Tin mừng có thể dạy chúng ta bài học gì khi xin giúp đỡ. 101
TN 24-A134: Chúa Nhật 24 Thường Niên. 103
TN 24-A135: Công bằng phải trả. 105
TN 24-A136: Lời dạy tha thứ cho nhau. 107
TN 24-A137: Giêsu: Đấng đầy lòng xót thương và hay tha thứ. 112
TN 24-A138: Sự tha thứ. 115
TN 24-A139: Tha thứ thật thà. 122
TN 24-A140: THỜ PHƯỢNG VÀ YÊU MẾN.. 126
TN 24-A141: THA THỨ CHO AI?. 128
TN 24-A142: THA THỨ CHO ANH EM... 130
TN 24-A143: NẮM LẤY TAY NHAU.. 132
TN 24-A144: THA THỨ THÌ ĐƯỢC LỢI GÌ?. 134
TN 24-A145: LÀM SAO ĐỂ THA THỨ?. 135
TN 24-A146: CHO NHỮNG GÌ ĐÃ NHẬN.. 137
TN 24-A147: HẾT LÒNG THA THỨ.. 139
TN 24-A148: THA THỨ ĐỂ ĐƯỢC THỨ THA.. 140
TN 24-A149: MỨC ĐỘ THA THỨ.. 143
TN 24-A150: THỨC TỈNH LÒNG TA.. 146
------------------------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mt 18, 21 – 35
Sống trên đời là phải phấn đấu, vượt thắng chính con người của ta để vươn lên và sống tốt, sống đẹp, TN 24-A101
Sống trên đời là phải phấn đấu, vượt thắng chính con người của ta để vươn lên và sống tốt, sống đẹp, sống hòa thuận và sống thương yêu đối với mọi người. Ta sống là sống với, sống chung, sống liên đới với nhiều người. Do đó sẽ có những va chạm, có những va chạm nhẹ, nhưng cũng có những va chạm lớn gây xích mích, mất lòng và có khi đem đến hận thù. Tuy nhiên,tha thứ luôn khai mở năng lực mới giúp con người sống tốt và sống vui tươi…Chúa Giêsu khuyên mọi người hãy tha thứ mãi mãi, tha thứ không ngừng…
Thât vậy, sống ở đời chúng ta sống liên đới với nhau. Càng sống với nhau, chúng ta càng cảm nghiệm sâu xa, tha thứ là cần thiết, Hận thù là hủy diệt. Ở đời có những hoài niệm giúp ta vui, hạnh phúc nhưng có những hoài niệm làm ta đau buồn khi chúng ta nhớ lại bởi vì có những người đã gây cho chúng ta sự đau khổ, mất mát trong cuộc đời. Những người đó có thể giờ đây ở xa ta, có người ở gần ta, có người là bạn, là những người láng giềng cùng xóm cùng làng với ta, có người là thầy, là bạn học với ta vv…Đối với những người này, ta phải đối xử sao đây, ăn ở làm sao đây ? Cứ lẽ thường “ Mắt thế mắt, răng đền răng “. Kẻ làm hại ta, ta phải loại trừ, phải né tránh. Kẻ ghét ta, taq phải ghét lại. Kẻ chống ta, ta phải chống lại vv và vv…Người đời cư xử như thế và họ cho là hợp lý, là phải lẽ và là khôn ngoan. Tuy nhiên, Đức Giêsu, Đấng khôn ngoan trên mọi sự khôn ngoan, Ngài đã dạy chúng ta sự khôn ngoan hơn mọi sự khôn ngoan. Sự hợp lý hơn mọi sự hợp lý của thế gian. Sự khôn ngoan, Ngài dạy là :” Hãy tha thứ cho kẻ làm hại ta, tha thứ và tha thứ mãi mãi, tha thứ không ngừng. Hãy quên đi những kỷ niệm, những hoài niệm làm ta đau khổ “.
Vâng, Đức Giêsu, hôm nay đã nói với Phêrô :” Thầy không bảo anh em phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy “. Câu trả lời của Chúa Giêsu vén mở cho Phêrô và các môn đệ, cùng tất cả nhân loại :” Hãy tha thứ liên tục, tha thứ không ngừng “. Đức Giêsu không ngừng tại đó, nhưng Ngài còn mời gọi con người, kêu mời chúng ta tha thứ cho những người đã xúc phạm, đã làm hại, đã ghét bỏ, đã hận thù chúng ta như chính Thiên Chúa đã tha thứ cho ta. Nhìn vào chính chúng ta, kiểm thảo lại đời sống của mỗi người,chúng ta sẽ thấy những tội lỗi, thiếu sót, lỗi phạm chúng ta gây ra cho Thiên Chúa còn nhiều, còn nặng nề hơn những sai lỗi, những xúc phạm anh chị em, tha nhân đã gây ra cho chúng ta.Chỉ đọc lại lịch sử dân Israen, chúng ta sẽ nhận ra lòng xót thương Thiên Chúa lớn lao, quảng đại thế nào với dân hay phản nghịch, dân luôn bất trung với Thiên Chúa là Đấng tín trung. Thiên Chúa đã yêu thương, giải thoát dân Israen ra khỏi đất Ai Cập thế nào và vùi dập bộ binh, xe cộ, ngựa, chiến mã của dân Israen làm sao! Trong Tân Ước, Chúa đã tha thứ cho những kẻ giết Ngài. Chúa đã tha thứ cho kẻ trộm lành, Ngài tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang và mọi người đều lên án muốn ném đá người phụ nữ này. Chúa tha thứ cho mọi người, cho chúng ta không giới hạn, tha thứ luôn mãi, tha thứ không ngừng vv…Chính vì thế, Chúa mời gọi nhân loại, mời gọi chúng ta đừng chần chừ tha thứ cho người anh em phạm lỗi và mau mắn tha thứ cho nhau…
Lạy Chúa, xin dủ lòng thương xót chúng con. Xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lòng nhân từ của Chúa để chúng con cũng không ngừng tha thứ cho những anh chị em xúc phạm đến chúng con.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tha thứ “ bảy mươi lần bảy “ nghĩa là làm sao ?
2.Tại sao chúng ta phải tha thứ không ngừng, tha thứ mãi mãi ?
3.Sống khoan dũng nghĩa là gì ?
4.Sống quảng đại nghĩa là làm sao ?
------------------------------
(Mt 18, 21 - 35)
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày câu hỏi nổi tiếng của Phêrô dành cho Thày Giêsu: “ Lạy Thày, khi anh TN 24-A102
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày câu hỏi nổi tiếng của Phêrô dành cho Thày Giêsu: “ Lạy Thày, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bẩy lần không ?” (Mt 18, 21). Ông hỏi Chúa Giêsu như thế vì ông tự nghĩ rằng: Theo các Thầy dạy luật, các Rabbi, thì những người công chính nên tha thứ cho những người xúc phạm tới mình 3 lần, sự bất quá tam. Đến lần thứ IV thì không buộc phải tha thứ cho họ nữa! Do đó, ông tự nghĩ: Tha cho anh em đến bẩy lần là điều quá sức, quá quảng đại và đã chứng tỏ rằng mình thực thi như thế là anh hùng và đáng Chúa khen ngợi rồi!
Thế nhưng, câu trả lời của Chúa làm cho ông chưng hửng, cảm thấy hổ thẹn khi so sánh đề nghị của ông với sự đòi hỏi của Chúa thì thấy mình còn quá xa sự trọn lành, xa đòi hỏi của Tin Mừng, Chúa trả lời: “Thầy không bảo con phải tha đến bẩy lần, nhưng đến bẩy mươi lần bẩy” (Mt 18, 22)
Để giải thích cho Phêrô tại sao cần phải luôn tha thứ, Đức Giêsu kể lại dụ ngôn những kẻ mắc nợ. Người đầu tiên được ông chủ tha hết nợ mặc dầu anh nợ ông chủ một số tiền lớn. Nhưng chính anh chỉ sau đó ít lâu lại không biết thương xót và tha cho người khác là kẻ chỉ mắc nợ anh một số tiền nhỏ.
Chúa Giêsu tuyên bố : “Cha Ta trên trời sẽ xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18, 35).
Tha thứ là một hành vi nghiêm chỉnh, nếu có thể thì rất khó đối với con người nhưng không phải không làm được. Tha thứ cho người khác vì lợi ích của chính ta, chính ta được tha thứ, điều ấy sẽ làm ta hạnh phúc hơn. Người ta không thể nói về sự tha thứ cách nông nổi, khi yêu cầu người bị xúc phạm tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình. Các tôn giáo đều dạy sự tha thứ. Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất. Tha thứ để làm cho oán tiêu tan, để phá vỡ cái vòng oan nghiệt trói buộc con người. Đức Phật cũng đã để lại một châm ngôn “Không phải với sự oán giận mà sự oán giận được xoa dịu; với sự không oán giận, sự oán giận mới được xoa dịu”. Tha thứ trong Kitô giáo vượt xa sự không bạo tàn và sự không oán hận. Kitô giáo mời gọi tha thứ vì một lý do khác: “Ngươi này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao ? Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao?”(Sir 27, ). Tôi phải tha thứ cho anh em tôi vì Chúa đã liên tục tha thứ cho tôi. Ðời tôi là một chuỗi những vấp ngã, được đan kết với bao thứ tha. Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời tôi, nếu bị ngăn lại, nó sẽ thành ao tù, nó chỉ trong lành khi được chảy đến tha nhân. Tha thứ một cách phi thường và hồn nhiên, đó là thái độ của người thấm nhuần Kitô giáo.
Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu nguyện: “Xin tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Đức Thánh Cha Phanxicô nói : Đây là một phương trình phải luôn đi đôi với nhau. Nếu bạn không thể tha thứ, thì làm sao Thiên Chúa có thể tha thứ cho bạn? Ngài muốn tha thứ cho bạn, nhưng nếu bạn đóng cửa lòng, thì lòng thương xót không thể bước vào. Có người sẽ hỏi rằng: ‘Thưa cha, con tha thứ nhưng con chẳng thể quên được điều tồi tệ mà người đó làm cho con…’. Đây lại là một vấn đề khác. ‘Hãy khẩn cầu Thiên Chúa để Ngài giúp bạn quên điều đó đi.’ Thật vậy, người ta có thể tha thứ nhưng để quên đi lỗi lầm thì không luôn luôn thành công. Đôi khi chúng ta nói rằng tôi tha thứ cho bạn nhưng thật ra ý tôi là muốn bắt đền bạn; bạn phải trả giá. Tha thứ kiểu này thật sự không được. Hãy tha thứ như Thiên Chúa tha thứ: đó là tha thứ đến tận cùng.
Ước gì mỗi người chúng ta, để đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa. Nhận lãnh sự tha thứ và rồi chúng ta cũng phải tha thứ cho người khác nữa - tha thứ thật lòng. Có lẽ bạn sẽ không bao giờ chào tôi khi gặp nhau trên đường nữa, nhưng tự thâm tâm tôi đã tha thứ cho bạn rồi. Và như thế chúng ta xích lại gần điều vĩ đại của Thiên Chúa, đó chính là lòng thương xót. Khi tha thứ, chúng ta mở tâm hồn ra để lòng thương xót của Thiên Chúa đi vào và tha thứ cho chúng ta, vì tất cả chúng ta đều cần phải khẩn nài sự tha thứ. Tha thứ và rồi chúng ta sẽ được thứ tha. Chúng ta hãy có lòng thương xót người khác, và chúng ta sẽ cảm nhận được lòng thương xót đó nơi Thiên Chúa, là Đấng một khi đã tha thứ thì hoàn toàn quên hết lỗi lầm của chúng ta.
Lạy Thiên Chúa là Đấng Xót Thương và hay tha thứ, xin dạy con bài học nhân ái, độ lượng và thứ tha, để con không giữ lòng hiềm thù, oán hờn và ghen ghét bất cứ ai đã xúc phạm, gây ra đau khổ cho con, xin giúp con luôn tha thứ cho mọi người vô tình hay hữu ý xúc phạm tới con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
------------------------------
Mt 18,21-35
"Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy"(Mt 18,21)
Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Cha đố chúng con qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa muốn nói với chúng ta về điều gì? - Thưa cha TN 24-A103
Cha đố chúng con qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa muốn nói với chúng ta về điều gì?
- Thưa cha về việc phải biết tha thứ cho nhau.
- Rất chính xác. Chúng con giỏi. Cha hỏi thêm đã có lần nào chúng con tha thứ cho một ai đó chưa?
- Dạ, thưa có.
- Ai nào?
- Bạn con.
- Bạn con làm gì con mà con phải tha thứ cho bạn?
- Bạn con chửi con.
- Rất tốt! Bãn con chửi con, con không chửi lại và sẵn sàng tha thứ cho bạn đó. Chúng con làm thế là chúng con biết tha thứ rồi. Cha cám ơn chúng con thật nhiều.
Bây giờ cha tiếp tục nói với chúng con về bài Tin Mừng hôm nay. Nếu phải hỏi qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn dạy chúng ta điều gì thì câu trả lời có lẽ ai cũng có thể có trả lời được. Đó là Chúa muốn dãy chúng ta về bài học tha thứ.
Tại sao Chúa lại dạy như thế? Thưa vì:
1. Vì con người không ai mà không có lỗi lầm.
Sống ở trên đời không ai mà không có lúc phạm những lỗi lầm. Chẳng ai trong chúng ta là con người thánh thiện đến mức độ không bao giờ có những lỗi lầm. Không ai trong chúng ta mà không bao giờ bị một ai đó xúc phạm đến chúng ta hoặc chúng ta không bao giờ có những lời nói hay việc làm làm buồn lòng xúc phạm đến những người khác.
Cách đây không lâu, tại nhà của một quan toà ở Milano, bên Italia, đã xảy ra một câu chuyện như sau: Có hai người tranh chấp với nhau lâu ngày, nhưng không thể phân thắng bại. Cuối cùng hai người đã đưa nhau đến nhà quan toà của thành phố và nhờ ông phân xử. Người thứ nhất trình bày câu chuyện và tự biện hộ cho mình. Anh vừa dứt lời thì quan toà dõng dạc tuyên bố:
- Anh có lý.
Đến lượt người thứ hai đứng lên phân trần. Anh cũng đem mọi lý lẽ ra để làm nghiêng cán cân công lý về với mình. Sau khi nghe anh trình bày dông dài, quan toà cũng tuyên bố:
- Anh có lý.
Cậu con trai nhỏ của quan toà theo dõi câu chuyện từ đầu đến giờ thấy vậy rất ngạc nhiên. Nó thành thật nói với cha của mình:
- Làm thế nào mà cả hai đều có lý cả được?
Quan toà cũng đưa ra phán quyết về nhận xét của con mình như sau:
- Con cũng có lý.
Mỗi người chúng ta ai cũng có lý của mình, nhưng có lẽ chúng ta không muốn nhận ra phần có lý của người khác, cũng như chính phần lỗi của mình. Và đó chính là diềng mối của mọi bất hoà từ xưa đến nay.
Chính vì thế mà mỗi người chúng ta cần phải biết tha thứ cho nhau. Cuộc sống chỉ có thể thở được nếu mỗi người chúng ta biết cư xử bằng sự cảm thông và tha thứ.
2. Phải tha thứ vì chính ta cần được thứ tha.
Con người ai mà chẳng có những khi lầm lỗi. Chính vì thế mà con người phải biết tha thứ cho nhau.
Thánh Gandhi nói: "Nếu ta chỉ áp dụng luật mắt đền mắt, răng đền răng thì thế giới sẽ chỉ còn lại toàn là người mù". Tha thứ cần thiết cho con người như khí trời.
Mẹ Têrêsa kể: "Tôi nhớ một lần kia, tôi lượm được một bà cụ đang thoi thóp từ giữa đống rác. Tôi ẵm bà cụ lên và đem về nhà, đặt bà trên giường.
Bà cụ biết rõ là mình sắp vĩnh biệt trần thế. Thế nhưng cụ chỉ cay đắng lặp đi lặp lại:
- Chính thằng con tôi đã đối xử với tôi như thế? Chính thằng con tôi đã đối xử với tôi như thế?
Bà không kêu: Tôi đang sắp chết đói, tôi đang sắp chết khát đây.
Bà chỉ day dứt hoài một điều:
- Thằng con tôi đã xử với tôi thế này!
Tôi phải đợi mất một hồi lâu mới nghe được bà cụ thều thào:
- Tôi tha thứ cho con trai tôi
Và gần như chính lúc ấy bà thở hơi cuối cùng.
Một lần khác có một anh thanh niên đang hấp hối, nhưng vẫn còn giằng co với cái chết tới ba, bốn ngày. Một chị nữ tu hỏi anh:
- Tại sao anh vẫn tiếp tục chiến đấu?
- Tôi không thể chết, nếu tôi chưa xin cha tôi tha thứ cho tôi.
Khi cha anh đến, anh đã ôm lấy cha và xin cha thứ tha.
Hai giờ sau, người thanh niên bình an từ giã cõi đời này.
3. Phải tha thứ vì đó là điều kiện để được thứ tha.
Trong Tin mừng, Chúa nhấn mạnh điều này rất nhiều lần. Khi dạy ta đọc kinh Lạy Cha, Chúa bắt ta phải hứa tha cho anh em khi xin Người tha thứ lỗi lầm của ta. Ở cuối kinh Lạy Cha, thánh Mátthêu còn thêm : "Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em". (Mt 6,14-15).
Dụ ngôn hôm nay không những nhắc lại điều đó, mà còn cho thấy, tội ta xúc phạm đến Chúa muôn ngàn lần còn nặng nề hơn anh em xúc phạm đến ta. Thế mà Chúa vẫn sẵn sàng tha thứ cho ta một cách mau chóng, nhẹ nhàng, chỉ với một điều kiện là ta cũng phải tha cho anh em những lỗi lầm ít ỏi anh em xúc phạm đến ta .
4. Sau cùng ta cần tha thứ để trở nên giống Chúa.
Một hiệp sỹ dũng cảm tên là Hidebrand bị một bạn đồng nghiệp tên là Bruno nhục mạ nặng nề. Hidebrand thề sẽ trả thù đích đáng. Ông suy nghĩ và chuẩn bị kỹ lưỡng chương trình hành động. Cuối cùng, ơng chọn địa điểm và thời giờ thuận lợi. Ông thức dậy giữa đêm, một mình võ trang đầy đủ đi đến nơi thanh vắng mà ông biết Bruno sẽ đi ngang qua. Trên đường đi ông gặp thấy một ngôi nhà nguyện còn đang mở cửa. Ông vào đó để chờ cho đến sáng. Trong khi chờ đợi ông tiêu khiển bằng cách ngắm nhìn các bức tranh trong nhà nguyện.
Bức tranh thứ nhất vẽ Chúa Giêsu mặc áo choàng đỏ, đầu đội mão gai, phía dưới có ghi một hàng chữ bằng tiếng Latinh nội dung như sau: “Bị lăng nhục, Ngài không đáp trả lại bằng lăng nhục”.
Bức thứ hai nhắc lại cảnh đau buồn khi Ngài bị đánh đòn, với hàng chữ “Khi chịu những khổ đau như thế Ngài không hề đe dọa”.
Và cuối cùng, bức thứ ba trình bày Chúa Giêsu trên Thập Giá, với hàng chữ “Lạy Cha xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”.
Nhìn liên tiếp ba bức tranh như thế, tâm hồn Hidebrand bị xúc động mạnh. Ông quỳ gối xuống và bắt đầu cầu nguyện. Dần dần cơn hận thù giảm đi, rồi biến mất. Ông còn ngồi lại đó chờ kẻ thù của ông đến, nhưng chờ để tha thứ tận tình và để làm hoà lại với nhau. (Góp nhặt).
Chúng con yêu quí,
Cách nay đã lâu, bên Mỹ có xảy ra một vụ khủng bố. Mấy toà nhà cao ngất trời tại thành phố nổi tiếng giầu có là thánh phố New York bỉ quân khủng bố đánh bom bị sụp đổ tan tành ngày 11 tháng 9 năm 2001. Số người chết lên đến cả hàng ngàn người. Cả thế giới khi nhắc tới biến cố này đều cầu mong cho có một ngày nào đó được hoà bình. Thế nhưng hoà bình vẫn chưa xuất hiện. Tại sao thế. Tại vì như Đức Thánh Cha vị cha chung của chúng ta đã nói vào ngày người ta kỷ niệm 10 năm biến có 11 tháng 9 như thế này: "Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ".
Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta một thế giới biết cảm thông, chan hoà. Một thế giới chứa chan tình huynh đệ. Một thế giới chan chứa niềm vui và tha thứ để thế giới xứng đáng là ngôi nhà chung của mọi người. Lạy Chúa xin thương xót chúng con.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
------------------------------
LM. INHAXIÔ HỒ THÔNG
Sau khi đã nhắc nhở đức ái huynh đệ và những cảnh báo mà mỗi thành viên trong cộng đoàn có bổn TN 24-A104
Sau khi đã nhắc nhở đức ái huynh đệ và những cảnh báo mà mỗi thành viên trong cộng đoàn có bổn phận và trách nhiệm với nhau (Chúa Nhật trước), Đức Giê-su mời gọi các môn đệ Ngài còn đi xa hơn nữa, cho đến việc tha thứ vô điều kiện và không giới hạn cho những kẻ xúc phạm mình.
1.Cuộc chuyện trò thân mật giữa Thầy và trò:
Trong Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu làm nổi bật con người Phê-rô, thậm chí ngay cả thậm chí trước khi ông được tấn phong làm thủ lãnh của nhóm Mười Hai và của Giáo Hội tương lai, như trong câu chuyện phong ba bão tố, chỉ một mình thánh Phê-rô xin Thầy: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (14: 28); hay trong câu chuyện trên đường Xê-sa-rê Phi-líp-phê, thánh Phê-rô, đại diện nhóm Mười Hai, tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống” (16: 16); hoặc trong biến cố Biến Hình, chỉ một mình Phê-rô lên tiếng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây thật là hay!” (17: 4).
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng vậy, chính thánh Phê-rô lên tiếng hỏi Thầy mình: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mầy lần”, đồng thời cũng nhanh miệng đưa ra một lời đề nghị: “Có phải bảy lần không?” Khi đưa ra bảy lần, ông nghĩ là mình quá rộng lượng từ bi nhân hậu lắm rồi, bởi vì theo truyền thống Do thái việc tha thứ cho anh em mình không vượt quá ba hay bốn lần. Kinh sư Hanina dạy rằng: “Ai xin người lân cận mình tha thứ, không được xin quá ba lần”. Kinh sư Jehuna thì dạy tha thứ khoan dung hơn: “Nếu một người phạm tội một lần, hãy tha thứ; hai lần hãy tha thứ; ba lần cũng hãy tha thứ cho người ấy; nhưng lần thứ tư thì không tha thứ nữa!”. Đối với văn hóa Việt Nam: “Sự bất quá tam, một lần tha ba lần chém”. Hơn nữa, “con số bảy” biểu thị sự giới hạn cuối cùng, không thêm được nữa. Trong Cựu Ước, con số “bảy” được dùng để diễn tả mức độ trả thù hết mức: “Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bảy” (St 4: 15).
Đức Giê-su trả lời: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”. Trong Cựu Ước, diễn ngữ “Bảy mươi lần bảy” cũng được dùng để chỉ một sự trả thù vô cùng tận, như lời nói đầy sát khí trả thù của ông La-méc, hậu duệ của Ca-in:
“Ca-in sẽ được trả thù gấp bảy,
nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy.” (St 4: 25).
Như vậy, Đức Giê-su thay thế sự trả thù vô cùng tận bằng sự tha thứ vô giới hạn. Để minh họa tư tưởng của mình, Ngài kể một dụ ngôn mà chỉ mình thánh Mát-thêu tường thuật lại. Khi so sánh với Bài Đọc I trong đó hiền nhân Si-rác dạy rằng phần thưởng cho việc tha thứ chỉ vuông tròn trong hạnh phúc trần thế, thì Đức Giê-su nhắm đến việc tha thứ đem lại phần thưởng trong Vương Quốc Thiên Chúa. Lời này loan báo Đức Giê-su sắp ban chìa khóa mở cửa vương quốc nầy.
2.Dụ ngôn “Người đầy tớ không có tấm lòng biết yêu thương và tha thứ” (18: 23-35)
Dụ ngôn này hình thành nên một vỡ bi kịch gồm ba cảnh:
A-Cảnh 1: “Cách cư xử của Đức Vua đối với người đầy tớ mắc nợ vua” (18: 23-27)
Đức Vua (ám chỉ đến Thiên Chúa), được giới thiệu ngay từ đầu, muốn bầy tôi của mình thanh toán sổ sách. Phần cuối của dụ ngôn sẽ cho thấy việc thanh toán sổ sách chỉ là việc nhỏ.
Đức vua đích thân triệu mời người đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn nén vàng. Đây là một món nợ quá lớn. William Barclay giúp chúng ta có thể hình dung mức độ khổng lồ của món nợ nầy: “Mười ngàn yến vàng, tương đương với 2. 400.000 bảng Anh. Đó là món nợ không thể tưởng tượng được, nó lớn hơn tổng ngân sách của một tỉnh. Tổng lợi tức xứ Edumaca, Giu-đê và Sa-ma-ri chỉ có 600 yến vàng”.[1]Nhưng Đức Giê-su không có chủ ý quy chiếu đến sự kiện lịch sử, Ngài chỉ muốn chúng ta hiểu rằng một món nợ tự sức mình không thể nào có thể trả nổi. Với một món nợ quá lớn mà một người nô lệ không thể nào mắc nợ được, vì thế các nhà chú giải hiểu rằng người đầy tớ trong dụ ngôn nầy phải là một quan chức, bởi vì trong nền văn hóa Đông Phương, các quan đại thần được gọi là tôi bộc của vua.
Vì thế, Đức Vua ra lệnh thi hành án phạt: “Bán y, cùng tất cả vợ con, tài sản, mà trả nợ”. Món nợ mà người chủ gia đình mắc phải liên đới đến mọi thành viên trong gia đình. Bấy giờ tên đầy tớ sấp mình xuống van xin. Đức Vua liền chạnh lòng thương (đây cũng là động từ mà các Tin Mừng dùng để diễn tả tấm lòng xót thương của Đức Giê-su trước những đau khổ của con người), tha hết món nợ cho y: hình ảnh của ơn cứu độ nhưng không.
B-Cảnh 2: “Cách cư xử của người đầy tớ được tha nợ đối với người bạn mắc nợ mình” (18: 28-30)
Cảnh 2 được xây dựng trên một sự tương phản với Cảnh 1. Tên đầy tớ được tha bổng lại cư xử không một chút xót thương một bạn đồng liêu của mình, người nầy mắc nợ y một trăm bạc, một món tiền không đáng là bao so với món nợ mà y có đối với Đức Vua. Y chẳng thèm để ý đến lời van xin của bạn mình, những lời mà trước đây y đã van xin Đức Vua. Cách hành xử của y đối với bạn của y khác xa với cách hành xử của Đức Vua đối với y: y liền túm lấy, bóp cổ và tống bạn mình vào tù.
C-Cảnh 3: “Đức Vua luận tội người đầy tớ không có lòng xót thương” (18: 31-35)
Sự việc đến tai Đức Vua. Đức Vua thay đổi thái độ hoàn toàn đối với y: Ngài nổi cơn thịnh nộ giao người đầy tớ không có lòng xót thương cho lý hình hành hạ cho đến ngày y trả hết đồng xu cuối cùng. Chính ở đây để lộ cách thức tính sổ của Đức Vua. Ngài phán xử mỗi người không căn cứ trên việc tính toán chi ly món nợ, nhưng trên khả năng yêu thương và tha thứ mà mỗi người phải có đối với anh chị em đồng loại của mình. Người đầy tớ nầy không ngờ rằng có một mối quan hệ hổ tương giữa cách hành xử của y đối với bạn đồng môn của mình và cách hành xử của Đức Vua đối với y. Khi y từ chối tấm lòng xót thương của y đối với bạn mình, chính y đã huỷ bỏ làng xót thương mà y được hưởng từ Đức Vua. Từ dụ ngôn này, một bài học được rút ra: điều kiện tất yếu để được Thiên Chúa tha thứ chính là mỗi người phải có lòng tha thứ cho anh chị em mình, như lời dạy của Đức Giê-su trong phần kết của kinh Lạy Cha: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6: 14-15).
Phía sau dụ ngôn nầy, chính Đức Giê-su, qua cuộc sống chan chứa yêu thương và hay tha thứ của Ngài, nhất là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, đem đến cho mỗi người những phương thế để đổi mới tấm lòng của mình, ngõ hầu con người có khả năng yêu thương và tha thứ cho nhau.
[1] W. BARCLAY, được trích dẫn theo bản dịch tiếng Việt, Tin Mừng Mátthêu, quyển 2, tr. 166.
LM. INHAXIO HỒ THÔNG
------------------------------
Có một chàng thanh niên nọ đến gặp một võ sư Nhật Bản để xin thụ giáo. Vị võ sư già hỏi anh ta “Con TN 24-A105 Thái Bình
Có một chàng thanh niên nọ đến gặp một võ sư Nhật Bản để xin thụ giáo. Vị võ sư già hỏi anh ta “Con đến đây xin học võ để làm gì”. Chàng thanh niên trả lời : “ Thưa thầy, để con đi trả thù”. Nhìn đăm đăm vào chàng trai trẻ, vị võ sư trả lời : “Được, ta sẽ dạy võ cho con để con trả thù. Nhưng trước hết, con hãy về nhà và đào sẵn hai cái huyệt, một cái để chôn kẻ thù của con và một cái để chôn chính con”. Đạo lý Kitô giáo mà Đức Kitô khai sáng được sánh ví như một quyển bách khoa từ điển dày cộm, nhưng trong đó tuyệt đối không có hạn từ ‘trả thù’. Chúa Giêsu không bao giờ dạy các môn đệ ý niệm về sự giận ghét hay thù oán. Là những môn sinh của Chúa, chúng ta phải sống luật yêu thương một cách tuyệt đối và vô điều kiện. Đây là giáo huấn mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay.
‘Đấu tranh’ là ‘tránh đâu’.
Xã hội con người hôm nay thường đề cao tinh thần tranh đấu để sinh tồn. Người Việt nam có câu ‘Giặc đến nhà, đàn bà cũng phải đánh’. Học thuyết này do triết gia Darwin khởi xướng với châm ngôn ‘Struggle for life’ (đấu tranh để sinh tồn). Xét về mặt xã hội, điều này rất hợp lý, nhất là trong việc bảo vệ quê hương, hay bảo vệ những quyền lợi riêng tư cách chính đáng. Tuy nhiên trong trật tự nước trời, sự hợp lý này bị đảo lộn hoàn toàn. Nếu không cắm sâu vào mầu nhiệm Thập giá, chúng ta sẽ không thể nào chấp nhận giáo huấn rất nghịch thường mà Chúa Giêsu đã vạch dẫn : “Ai tát con má bên này, hãy chìa má bên kia ‘kính mời’ đối phương tát tiếp. Ai lột con chiếc áo ngoài, hãy ‘kính biếu’ nó luôn cả chiếc áo bên trong”. Theo suy nghĩ thông thường, đây là một giáo huấn rất nghịch thường và khó có thể chấp nhận.
Giáo huấn ấy tiếp tục được Chúa Giêsu nhắc đến trong bài Tin Mừng hôm nay. Ngài dạy các học trò phải sẵn lòng tha thứ một cách tuyệt đối và vô điều kiện. Con số 70 lần 7 là một hình ảnh biểu trưng nói về sự tuyệt đối này. Theo văn hóa Semit, số 7 là con số biểu thị sự toàn hảo. Ngày xưa Môise đã viết lề luật cho phép báo thù trong giới hạn ‘mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân’ (Đnl 19,21). Điều đó phù hợp với não trạng văn hóa thời ấy. Nhưng khi Đức Giêsu đến trần gian, Ngài mặc cho lề luật cũ một chiều kích mới để giúp chúng ta đi sâu vào cốt lõi của lề luật, đó là việc thực hành đức ái cách tuyệt đối. Thánh Phaolô cũng xác định rằng : “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).
Xuôi theo dòng lịch sử, chúng ta thấy biết bao cuộc chiến khốc liệt đã từng xảy ra trên khắp thế giới. Bài học nhãn tiền mà mọi người đều có thể nghiệm ra, đó là trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, chẳng bao giờ có kẻ chiến thắng hay kẻ chiến bại, nhưng chỉ có những cảnh chém giết và sát hại nhau một cách kinh hoàng. Quân đội Phát xít Đức với giấc mộng bá chủ thế giới đã tiêu diệt hàng triệu người Do Thái, cuối cùng cũng phải nếm trải cay đắng khiến Hit-le phải tự vẫn trong nhục nhã. Phát xít Nhật cũng điên cuồng như vậy, và người dân Nhật đã phải hứng chịu thảm họa ghê sợ khi bị hai trái bom nguyên tử trút xuống trên thành phố Hiroshima và Nagasaki vào năm 1945. Đất nước Việt nam đã trải qua nội chiến suốt 20 năm và hậu quả của chiến tranh là đất nước rơi vào vực thẳm của sự nghèo đói và lạc hậu. Chẳng có cuộc chiến nào có chính nghĩa để biện minh cho việc chém giết. Nếu không biết tha thứ và xây dựng hòa bình, chúng ta sẽ bị vùi chôn trong sự thù hận, và câu nói của dân gian quả rất đúng : ‘Đấu tranh là tránh đâu’.
Bài học tha thứ nơi Thập giá
Ngay từ bài giảng đầu tiên, Chúa Giêsu đã mời gọi dân chúng ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng. Đó là Tin mừng về lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa. Trong suốt 3 năm rao giảng, Chúa Giêsu không bao giờ kết án những tội nhân. Ngài luôn gần gũi và đồng bàn ngay cả với bọn đĩ điếm và phường thu thuế. Ngài còn nói với nhóm biệt phái : “Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau yếu mới cần’. Ngài nhẹ nhàng ngỏ lời bên tai thiếu phụ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình : ‘Tôi không kết án chị đâu, chị hãy về và đừng phạm tội nữa’. Thánh Luca còn thuật lại 3 dụ ngôn trong chương 15 để quảng diễn lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa, đó là dụ ngôn người đàn bà thắp đèn tìm đồng bạc bị đánh rơi; dụ ngôn người chăn chiên đi lùng sục kiếm tìm con chiên lạc và nhất là dụ ngôn về người cha nhận hậu luôn dang rộng vòng tay, ngong ngóng đợi chờ đứa con đi hoang trở về. Chúa Giêsu không chỉ giảng dạy trên lý thuyết, nhưng chính Ngài chọn cái chết kinh hoàng trên Thập giá để hiển thị cách cụ thể và tròn đầy nhất lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa đối với con người chúng ta. Điều đó chứng tỏ rằng, tội của chúng ta cho dầu nhiều đến mấy, cho dầu nặng đến đâu cũng thua xa lòng thương xót Chúa, nếu chúng ta biết trải lòng mình ra để đón nhận sự tha thứ từ nơi Ngài. Mỗi khi dâng Thánh lễ, Giáo hội cũng mời gọi chúng ta lập lại lời kinh mà chính Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ năm xưa : “Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con”. Vì vậy, bài học Chúa nói hôm nay là bài học chúng ta phải đem ra thực hành hầu có thể hưởng nhận tình yêu tha thứ từ nơi Ngài.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 mời gọi chúng ta ngày hôm nay phải sống với một nền văn minh mới, đó là ‘Nền văn minh của tình thương’. Giáo hội luôn chủ trương đối thoại chứ không bao giờ đối đầu. Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn thường xin mọi người cầu nguyện cho hòa bình thế giới, đặc biệt Ngài bày tỏ sự quan ngại trước cuộc khủng hoảng về nguyên tử trên bán đảo Triều Tiên. Nếu không có đối thoại, con người sẽ không thể kiến tạo hòa bình. Nếu không có hòa bình thật sự, con người sẽ tìm cách giết nhau và chúng ta sẽ tự đi đến hủy diệt.
Kết luận
‘Nếu không có sự bao dung và tha thứ, con người sẽ sống với nhau như hổ sói và lang thú’. Đây là nhận định của một triết gia vô thần. Cho dầu ông ta không tin vào Thiên Chúa, nhưng vẫn tin vào sức mạnh của tình yêu và sự khoan dung. Là những Kitô hữu, chúng ta đã quá quen thuộc với giáo huấn mà Chúa Giêsu nói đến hôm nay, nhưng trong thực tế, chúng ta đã hành xử như thế nào nơi mỗi gia đình, nơi mỗi cộng đoàn cũng như trong sự tương quan với những cận nhân sống chung quanh ?
-------------------------------
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 18,21-35
(21) Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần ? Có phải bảy lần không ? (22) Đức Giê-su đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. (23) Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. (24) Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn nén vàng. (25) Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. (26) Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết”. (27) Tôn chủ của tên đầy tớ liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. (28) Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: “Trả nợ cho tao !”. (29) Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: “Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh”. (30) Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. (31)Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. (32) Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến vào bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia. Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta, (33) thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao ? (34) Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. (35) Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
2. Ý CHÍNH: HÃY THA THỨ ĐỂ ĐÁNG ĐƯỢC THỨ THA
Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su không chấp nhận giới hạn tha thứ bẩy lần do Phê-rô đề nghị, TN 24-A106
Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su không chấp nhận giới hạn tha thứ bẩy lần do Phê-rô đề nghị, nhưng Người đòi môn đệ phải tha bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha luôn luôn cho anh em mình. Qua dụ ngôn này, Đức Giê-su dạy các môn đệ phải sẵn lòng tha thứ những tội nợ của anh em mình vì ba lý do như sau: Một là vì ta đã được Thiên Chúa tha thứ vô điều kiện. Hai là vì số nợ của anh em đối với ta chẳng là gì so với số nợ ta mắc đối với Thiên Chúa. Ba là nếu ta đòi anh em tính sổ sòng phẳng, thì ta cũng sẽ bị Thiên Chúa tính sổ nợ sòng phẳng như vậy.
3. CHÚ THÍCH:
- C 21-22: + Ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi…: Phê-rô muốn biết phải xử trí thế nào đối với những kẻ đã xúc phạm đến mình ? + Con phải tha đến mấy lần ? Có phải bảy lần không ?: Các Ráp-bi Do thái xưa dạy "quá tam ba bận" nghĩa là tha tối đa 3 lần. Tông đồ Phê-rô thì đưa ra số 7 lần là một con số hoàn hảo. Nhưng Đức Giê-su còn đòi các môn đệ phải đi xa hơn nhiều. + Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy: Có chỗ ghi là bảy mươi bảy lần bảy. Ông La-méc xưa đã đòi vợ con phải trả thù cho ông: “Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, còn La-méc thì gấp bảy mươi bảy” (x. St 4,24). Ở đây, thay vì đòi báo thù, Đức Giê-su lại đòi môn đệ phải tha thứ bảy mươi lần bảy, nghĩa là: Phải tha luôn luôn, không giới hạn số lần và phải tha vô điều kiện. Lý do để tha không phải do kẻ có lỗi đã biết ăn năn sám hối, cũng chẳng phải vì kẻ bị xúc phạm muốn tỏ ra sự quảng đại của mình, nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã đối xử cách quảng đại và bao dung đối với mọi con nợ của mình.
- C 23-25: + Ông vua kia: Trong Kinh Thánh, vua thường ám chỉ Thiên Chúa, Đấng có quyền tối thượng trên mọi phàm nhân, là vị thẩm phán tối cao và có quyền ra án lệnh cuối cùng. + Đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách: Ở đây là tính sổ theo phép công bình. + Các đầy tớ: Trong Thánh Kinh, đầy tớ vừa ám chỉ thuộc hạ hay nô lệ mà cũng ám chỉ bề tôi hay cận thần của nhà vua, là những người có đầy thế lực (x. 1 Sm 8,14; 2 V 5,6). + Một kẻ mắc nợ vua mười ngàn nén vàng: Mỗi nén vàng thời đó giá sáu ngàn quan tiền, tương đương với sáu ngàn ngày công. Mười ngàn nén vàng tương đương với 60.000.000 (sáu mươi triệu) quan tiền + Y không có gì để trả: Không trả được vì món nợ quá lớn. Cũng vậy, tội lỗi của con người phạm đến Thiên Chúa nặng nề vô cùng, không bao giờ người ta có thể trả hết được. + Chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ: Trong Kinh Thánh có những trường hợp người mắc nợ không trả được món nợ, nên đã bị chủ bắt con cái người ấy phải làm nô lệ để trừ nợ (x. 2 V 4,1). Ở đây cho thấy cả vợ con cũng phải liên đới chịu trách nhiệm trong việc trả nợ. Như vậy tội lỗi gây ra hậu quả nghiêm trọng không những đối với người phạm tội, mà còn đối với cả những người thân trong gia đình nữa.
- C 26-27: + Sấp mình xuống bái lạy: Người đầy tớ biểu lộ thái độ khiêm nhường luỵ phục bằng việc sấp mình xuống trước tôn chủ mà bái lạy. + Xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết: Anh ta không dám xin tôn chủ tha nợ, vì anh biết số nợ kia quá lớn, và anh không đáng được tha món nợ ấy. Anh chỉ dám xin thêm thời gian để lo thu xếp trả nợ. Cũng giống như đứa con hoang đàng thấy mình không còn đáng được Cha tiếp nhận làm con giống như trước đó, mà chỉ dám xin cha cho anh được làm công cho cha để đền tội mà thôi (x. Lc 15,19). + Tôn chủ của tên đầy tớ liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ: Cho dù món nợ quá lớn, nhưng thấy người đầy tớ có thái độ khiêm nhường xin được khất nợ, thì tôn chủ đã động lòng thương. Ông không những cho khất mà còn sẵn sàng tha hết số nợ lớn lao cho anh ta. Cũng vậy, dù tội chúng ta phạm đến Chúa nặng đến đâu đi nữa, nhưng nếu ta ăn năn và quyết tâm chừa cải, thì Thiên Chúa cũng sẽ tha thứ cho ta tất cả, và còn ban thêm nhiều ơn hơn cả những điều ta dám cầu xin Người.
- C 28-30: + một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền: Người bạn này chỉ mắc nợ y một trăm quan tiền, tương đương với một trăm ngày công lao động. Ở đây so sánh hai món nợ chênh lệch nhau quá nhiều nhằm diễn tả tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Thiên Chúa thật quá nặng nề, nếu so với tội anh em phạm đến ta. Vì Thiên Chúa thánh thiện và uy quyền vô cùng, nên tội ta dù nhỏ bé, cũng trở nên nặng hơn nhiều lần. Giống như khi ta dùng một lời nào đó để chửi bạn bè nặng một, nhưng nếu ta cũng dùng lời đó để chửi cha mẹ hay người bề trên thì sẽ thành nặng hơn gấp mười. + Y túm lấy, bóp cổ mà bảo: “Trả nợ cho tao !”: Câu chuyện này diễn tả thái độ khắc nghiệt của tên đầy tớ đối với một người bạn là con nợ của hắn ta. Thái độ này tương phản với thái độ bao dung độ lượng của tôn chủ đối với anh ta. + Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh: Thái độ và lời năn nỉ của người đồng bạn cũng giống như thái độ và lời cầu xin của tên đầy tớ đối với tôn chủ trước đó. Cả hai con nợ đều không dám xin tha nợ, mà chỉ xin khất một kỳ hạn. Đức Giê-su cố ý trình bày sự tương đồng giữa thái độ của hai con nợ, để làm nổi bật sự tương phản, một bên là lòng quảng đại bao dung của Thiên Chúa tha nợ vô điều kiện, và bên kia là sự hà khắc độc ác của phàm nhân chúng ta đòi xử lý tới cùng. + Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ: Khi bắt con nợ vào ngục, chủ nợ cưỡng bức lao động để trừ dần số nợ, hoặc để người này phải nhờ thân nhân bán đồ đạc nhà cửa, hay đi vay mượn để lấy tiền trả nợ. Ở đây cho thấy lòng dạ tên đầy tớ này thật hẹp hòi và thiếu lòng khoan dung độ lượng.
- C 31-33: + Các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ: Họ bất mãn trước cách cư xử vô nhân đạo và độc ác của tên đầy tớ với bạn hắn ta. Thái độ ấy trái với lòng quảng đại bao dung mà hắn đã nhận được từ nơi tôn chủ. Vì thế những người này đã đi tố cáo hành động bất nhân của hắn để yêu cầu tôn chủ xử lý hắn. + Tên đầy tớ độc ác kia: Tôn chủ la rầy sự độc ác mà hắn đã xử với con nợ của hắn, trái với lòng khoan dung của ông đối với hắn. + Ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao ?: Tôn chủ đã hạch tên đầy tớ về thái độ thất nhân ác đức đối với đồng bạn của hắn. Trong kinh Lạy Cha, Đức Giê-su cũng dạy các môn đệ phải tha thứ tội nợ cho anh em để xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ tội nợ cho mình.
- C 34-35: + Tôn chủ nổi cơn thịnh nộ: Việc tên đầy tớ không chịu tha thứ cho đồng bạn khiến hắn đã bị tôn chủ nổi giận. Ông đã xử lý với hắn theo phép công bình là giam hắn vào ngục tối cho đến khi trả hết số nợ, đúng như hắn đã xử lý với người bạn là con nợ của hắn trước đó. + Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế: Lời kết luận nhằm áp dụng cụ thể bài học: Nếu các môn đệ muốn được Thiên Chúa đối xử khoan dung tha thứ tội lỗi cho mình, thì cũng phải sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm cho anh em.
4. CÂU HỎI:
1) Phân biệt về số lần đòi báo thù của ông La-merk thời các Tổ phụ, lời dạy về số lần tha thứ của các rab-bi Do thái, lời đề nghị về số lần tha thứ cho anh em của Tông đồ Phê-rô và lới dạy về số lần phải tha thứ của Chúa Giê-su khác nhau thế nào ?
2) Trong dụ ngôn về hai con nợ, kẻ mắc nợ mười ngàn nén vàng đã cư xử thế nào đối với con nợ chỉ mắc nợ anh ta có một trăm quan tiền ?
3) Qua dụ ngôn này, Đức Giê-su muốn các môn đệ phải ứng xử thế nào đối với những kẻ xúc phạm đến mình ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
“Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18, 35).
2. CÂU CHUYỆN: NGƯỜI HÀNH KHẤT CÓ LÒNG KHOAN DUNG THA THỨ:
Văn hào Nga LÊ-ÔNG TÔN-TOI (Léon Tolstoi) có kể một câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Có một lão hành khất kia đứng trước cửa nhà của một người phú hộ để xin bố thí. Nhưng thay vì bố thí cho kẻ nghèo, người phú hộ kia lại nhặt một hòn đá ném vào lão ăn mày để xua đuổi đi. Bị hòn đá ném trúng vào mặt, máu chảy đầm đìa, lão hành khất tức giận lắm, nhưng không làm gì được. Sau khi băng tạm vết thương, lão ta đã nhặt lấy cục đá ném mình cho vào bị, rồi tự nhủ: “Ta sẽ mang theo hòn đá này cho đến ngày mi bị sa cơ thất thế. Bấy giờ ta sẽ dùng chính nó để ném trả vào mặt mi”. Nhiều năm sau, lời chúc dữ của lão hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận công quỹ, nên người phú hộ đã bị bắt và còn bị tịch biên toàn bộ tài sản. Trong lúc lính đến vây bắt ông ta, thì lão hành khất kia cũng có mặt ở đó. Lòng căm hận ngày xưa giờ đây lại có dịp bùng phát trở lại. Lão ta cứ bám theo đám người áp tải kia, tay nắm chắc hòn đá năm xưa để chờ cơ hội ném tên phú hộ rửa hận. Nhưng đến khi nhìn thấy gương mặt tiều tụy hốc hác của người này, thì một sự thương cảm lại nổi lên trong lòng lão. Lão tự nhủ: “Bây giờ thì tên phú hộ này cũng chỉ là một kẻ khố rách áo ôm còn khổ hơn ta. Hắn vừa mất hết tài sản, lại còn bị cùm trong ngục tối không biết đến khi nào. Như vậy là ông Trời đã trả báo điều dữ xưa hắn đã làm cho ta rồi. Vậy ta cần chi phải báo oán nữa?”. Nghĩ thế rồi, lão hành khất buông tay ra cho hòn đá rơi xuống đất và bỏ đi nơi khác.
3. SUY NIỆM:
Trong cuốn tiểu thuyết “Mặt trận phía Tây vẫn yên tĩnh” (All quite on the Western), tác giả đã thuật lại câu chuyện cảm động về hai người lính Đức và Pháp như sau:
“Lúc đó cuộc chiến đang diễn ra rất ác liệt giữa quân đội hai nước Đức và Pháp. Một chú lính Đức còn trẻ đang nằm sát dưới một cái hố để tránh đạn pháo. Bỗng nhiên chú ta thấy một người lính Pháp cũng nhảy vào trong hố để tránh đạn đang nổ ầm ầm chung quanh. Trước khi người lính Pháp nhận ra kẻ thù, thì chú lính Đức kia đã đâm anh ta một nhát trúng bụng, khiến anh ta ngã ra bất tỉnh. Bấy giờ chú lính Đức kia chăm chú vào cặp mắt thất thần của kẻ thù. Chú ta thấy người này do máu ra nhiều nên đang há miệng thở hắt ra rất gấp. Môi anh ta bị khô như sắp nứt nẻ. Chú lính Đức liền động lòng trắc ẩn, chú ta lấy ra bình nước đang đeo bên mình cho kẻ thù sắp chết kia uống. Sau khi uống xong mấy ngụm nước thì người lính Pháp tắt thở. Cái chết của anh ta khiến chú lính Đức đột nhiên cảm thấy hối hận vì đã giết chết anh ta. Đây là lần đầu tiên chú nhúng tay vào máu. Chú ta tò mò muốn biết tên của kẻ kia. Khi lần túi quần người chết, chú ta lôi ra một chiếc ví da, trong đó có gắn hình người phụ nữ khá đẹp đang bế một bé gái khoảng ba bốn tuổi, mà chú ta đoán là vợ con của người lính Pháp này. Chú ta chợt nhận ra anh ta không phải là kẻ thù của chú, nhưng là một người chồng và một người cha, là một người cũng biết yêu và muốn được yêu, giống như chú vậy. Chú liền lấy ra một quyển sổ tay để ghi địa chỉ của người chết, và giữ lại tấm hình kia, mà chú định viết thư cho vợ con anh ta để bày tỏ lòng hối tiếc, đồng thời xin lỗi vợ con của người bị chú giết chết”.
Chính nhờ biết thay đổi cách nhìn, mà chú lính Đức đã nhận ra người lính Pháp không phải là kẻ thù, nhưng là một người anh em giống như chú, một người chồng và người cha đang mong sớm chấm dứt chiến tranh để được trở về sống hạnh phúc bên vợ con.
- PHẢI THA ĐẾN MẤY LẦN VÀ TẠI SAO TA PHẢI THA THỨ ?:
Về số lần tha thứ thì các Ráp-bi Do thái đã dạy chỉ tha thứ tối đa 3 lần: “Quá tam ba bận”. Ông Phê-rô nghĩ đề nghị với Thầy để tha tới bảy lần là nhiều rồi, nên chắc sẽ được Thầy chấp thuận và khen ngợi nữa. Nhưng ông thật bất ngờ khi nghe Thầy đòi ông không phải chỉ tha bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy. Nghĩa là phải tha luôn luôn, không có giới hạn và vô điều kiện (x. Mt 18,22).
Các vị giáo tổ cũng kêu gọi người ta phải biết tha thứ. Đức Phật thích Ca dạy: “Lấy oán báo oán, oán thù chồng chất, Lấy ơn báo oán, hóa giải oán thù”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su dạy các môn đệ phải sẵn lòng tha thứ cho anh em, để xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ tội nợ lớn lao cho mình qua câu chuyện về tên đầy tớ độc ác. Hắn ta vừa được tôn chủ tha cho số nợ vô cùng lớn lao là 10.000 nén vàng trong khi hắn chỉ dám xin ông cho khất nợ. Nhưng hắn lại không đối xử tốt như thế với người bạn chỉ nợ hắn 100 quan tiền. Hắn đã yêu cầu tống giam người bạn kia vào tù, cho đến khi trả hết số nợ. Nghe vậy, tôn chủ đã nổi giận và xử lý với hắn giống như hắn đã làm cho người bạn kia. Ông yêu cầu tống giam hắn vào ngục, cho đến khi trả hết số nợ lớn lao, mà lẽ ra hắn đã được chủ tha vô điều kiện.
Như vậy lý do Đức Giê-su đòi môn đệ phải tha thứ, không phải vì tội nhân đã biết nhận lỗi, cũng chẳng phải để môn đệ lập thêm công đức, nhưng chỉ vì họ đã được Thiên Chúa tha cho món nợ khổng lồ là tội lỗi đã phạm với Người.
- THA THỨ THẬT KHÓ THỰC HIỆN NẾU KHÔNG CÓ ƠN Chúa GIÚP:
Theo bản tính tự nhiên, mỗi người chúng ta thật khó thoát khỏi vòng lẩn quẩn là sự tranh chấp và oán thù. Luật “mắt đền mắt, răng thế răng” tuy là một luật giúp trả báo công minh, nhưng lại là nguyên nhân khiến cho thế giới bị lâm vào tình trạng chiến tranh và hận thù liên miên. Chỉ khi con người biết tha thứ cho nhau thì họ mới có thể sống an bình và hạnh phúc thực sự. Khi tha thứ là ta sẵn sàng chịu thiệt thòi, là xác tín rằng cuối cùng Tình Thương sẽ chiến thắng hận thù. Ngọn lửa tình thương chắc chắc sẽ đánh tan băng giá. Nó sẽ làm cho quả tim chúng ta lại có thể rung động và chạnh lòng xót thương những kẻ bất hạnh, giống như Thiên Chúa.
Cha Kít-xi-ăng Xéc-ghê (Christian de Chergé) và 6 tu sĩ đã được bề trên phái đi truyền giáo tại một nước Hồi giáo xa xôi. Các nhà lãnh đạo tôn giáo ở đây đã làm đủ cách để hạ uy tín và trục xuất các ngài. Nhưng các tu sĩ không nao núng và vẫn kiên trì với ơn gọi thừa sai. Cuối cùng các người lãnh đạo quyết định giết các ngài. Khi được mật báo mình sắp bị giết, cha Xéc-ghê đã viết một bức thư để sẵn trong túi áo. Ngài viết để gửi cho những kẻ thù ghét đang kéo đến giết hại mình. Nội dung bức thư có đoạn viết như sau: “Và cả bạn nữa, một người bạn giây phút cuối cùng cuộc đời tôi. Bạn đã không hiểu biết việc bạn đang làm. Tôi cầu xin Chúa cho hai chúng ta đều là những kẻ trộm lành. Chúng ta hy vọng sẽ được gặp nhau trên quê trời. Nơi đó chúng ta sẽ được ở với Thiên Chúa là Cha chúng ta”. Lời lẽ trong bức thư không chút hờn oán. Cha Xéc-ghê đã coi kẻ sắp giết mình như là một người bạn, một người trộm lành giống như cha, và cha mong ước sau này sẽ gặp được anh ta ở trên trời. Thật là một sự tha thứ phi thường giống như Đức Giê-su đã xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đã giết hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đó cũng phải là thái độ và là nội dung lời cầu của các tín hữu chúng ta.
- TA PHẢI LÀM GÌ ĐỂ DỄ DÀNG THA THỨ CHO KẺ THÙ CỦA MÌNH ?
+ Trước hết phải có lòng khiêm tốn: Một hôm gà con cứ theo bám riết lấy gà mẹ. Nó vừa khóc vừa kể cho mẹ nghe về nỗi uất ức ma nó đang phải chịu. Nó nói: “Mẹ ơi, tụi thỏ dám nhạo con rằng tai con chỉ bằng một góc tai của chúng”. Gà mẹ trả lời: “Con đừng để tâm đến những lời bọn thỏ nói làm chi, và hãy tha thứ cho chúng, con nhé!”. Gà con chưa chịu thua tiếp tục tố cáo: “Nhưng bọn cò lại bảo con rằng: con chỉ cao bằng một phần năm cẳng chân của chúng!” Gà mẹ lại an ủi con: “Con ơi! Đừng chấp với chúng làm chi!” Nghe mẹ nói thế, gà con uất ức khóc to lên và nói: “Mẹ! Lúc nào mẹ cũng nói là phải tha cho chúng, đừng thèm chấp với chúng. Còn con thì cứ phải chịu đựng bị bọn chúng cười nhạo chế diễu hoài! Tại sao vậy hả mẹ?” Bấy giờ gà mẹ mới ôn tồn nói với gà con: “Tại vì bọn chúng nói đúng mà con!”. Gà con hỏi tiếp: “Sao lại đúng hả mẹ?”. Gà mẹ trả lời: “Tại vì con thật ra cũng chỉ là một con gà mà thôi!”.
Giống như chú gà con kia, chúng ta thường cảm thấy bị xúc phạm và khó lòng tha thứ cho những kẻ dám cười nhạo khinh thường chúng ta, chỉ vì chúng ta không dám chấp nhận sự thật yếu đuối hèn kém của mình. Lòng khiêm tốn là điều kiện giúp chúng ta dễ dàng chấp nhận bỏ qua những lời nói hành nói xấu hay lời chế nhạo của kẻ khác đối với chúng ta.
+ Tiếp đến phải bắt đầu nhìn kẻ thù ghét ta bằng một cái nhìn mới, giống như Đức Giê-su đã làm đối với những kẻ giết hại mình. Tuy nhiên, để có thể thay đổi được cách nhìn, chúng ta cần theo mấy bước cụ thể sau:
+ Bước một là xin Chúa giúp cho ta noi gương Chúa làm, sống Lời Chúa dạy nhất là về sự khoan dung tha thứ.
+ Bước hai là nhớ lại Chúa đã tha thứ cho chúng ta, và đòi chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm cho anh em.
+ Bước ba là đổi mới cách nhìn đối với kẻ ghét chúng ta: Nhìn họ như những kẻ đang lầm đường lạc lối, và chúng ta hãy xin Thiên Chúa tha tội cho họ như Chúa Giê-su đã xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm khốn mình.
4. THẢO LUẬN:
1) Mỗi người hãy tự xét mình: Bây giờ tôi đang có kẻ thù nào không? Tại sao họ lại thù ghét và muốn ám hại tôi?
2) Tôi có làm gì sai trái đáng bị thù ghét hay không? Tôi phải làm gì để lấy đi những nguyên nhân ấy?
3) Theo lời Chúa dạy hôm nay, tôi quyết tâm sẽ làm gì để tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến tôi và biến thù thành bạn, hay ít là để họ không còn lý do thù ghét tôi nữa?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin hãy dẫn dắt chúng con đi từ cõi chết đến sự sống mới, từ lầm lạc đến chân lý. Xin hãy dẫn dắt chúng con đi từ nỗi thất vọng đến niềm hy vọng, từ sự sợ hãi đến thái độ tín thác vào Chúa. Xin hãy giúp chúng con bỏ đi những ganh ghét để đến với tình yêu bao dung, bỏ đi những tranh chấp và chiến tranh để sống chung hòa bình. Xin hãy đổ đầy bình an của Chúa vào trái tim khô cằn của chúng con, để sự bình yên ấy sẽ chảy tràn sang những người thân trong gia đình, lan ra ngoài xã hội và đi khắp nơi trên thế giới.
- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con trở nên khí cụ bình an của Chúa. Xin cho chúng con học tập nơi Chúa sự khiêm nhường và nhịn nhục, sự quảng đại tha thứ và lòng bao dung nhân hậu, để chúng con có thể luôn sống yêu thương và phục vụ mọi người, nhất là yêu những kẻ đang thù ghét và làm hại chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ trở nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, Đấng giàu lòng từ bi nhân ái, và nên anh chị em của mọi người.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
------------------------------
Mt 18, 21-35
"Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy"(Mt 18,21)
Chúng ta đang nói với nhau về đời sống cộng đoàn trong gia đình của Thiên Chúa. Tuần trước chúng ta TN 24-A107
Chúng ta đang nói với nhau về đời sống cộng đoàn trong gia đình của Thiên Chúa. Tuần trước chúng ta nói với nhau về việc phải sửa lỗi cho nhau. Hôm nay Chúa nói với chúng ta về một vấn đề khác "gay" hơn một chút, nhưng lại rất thú vị vì nó làm nên một cái gì đó có tính cách độc đáo trong đạo của Chúa Giêsu, Chúa chúng ta. Đó là sự tha thứ.
I. Bài học hôm nay bắt nguồn từ câu hỏi của Phêrô.
Hôm đó Chúa dạy các môn đệ về cách phải đối xử với người có lỗi với mình. Đại ý Chúa bảo phải tha thứ cho những người lầm lỗi khi họ thực lòng thống hối ăn năn.
Cảm thông trước lời dạy của Chúa, Phêrô lên tiếng hỏi: "Lạy Thầy, nếu người anh có lỗi với con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến 7 lần không ?"
Hỏi nhưng đã có sẵn câu trả lời.
Tại sao Phêrô dừng lại ở con số 7 như một định mức mà có lẽ ông cho là thế nào Chúa cũng sẽ bằng lòng? Tha như thế đối với ông kể ra cũng là quá lý tưởng rồi.
Có lẽ để hiểu được Phêrô chúng ta hãy trở lại một chút về phía trước một chút.
- Trong Sách Khải Nguyên cuốn sách đầu tiên của Cựu Ước đoạn 4,20 Lamek tuyên bố luật "rừng" thời bấy giờ như thế này: "Phải báo thù đến 7 lần"
- Buớc sang thời của Moise thì chúng ta thấy đã có tiến bộ hơn một chút nhưng cũng mới chỉ dừng lại ở hai tiếng sự công bình: Mắt thế mắt, răng đền răng.
- Tiến sang thời lập quốc và thời các ngôn sứ, chúng ta thấy một số các Rabbi Do thái đã có những lập trường thoáng hơn. Họ đã bắt đầu nói đến tinh thần bác ái mà sau này Chúa đã đẩy lên đến tột đỉnh và coi đó là con đường của Ngài.
Rabbi Hanina nói: "Ai xin người lân cận mình tha thứ, không được xin quá ba lần". Rabbi Jehuna dạy: "Nếu một người phạm tội một lần, họ phải tha thứ cho người ấy. Hai lần, họ phải tha thứ cho người ấy. Ba lần họ cũng phải tha thứ cho người ấy. Nhưng lần thứ tư thì không được tha nữa."
Các Rabbi lại dừng lại ở con số ba vì Tiên tri Amos khi nói về việc Thiên Chúa tha thứ cho những ai lỗi phạm đến Người, thì tiên tri đã nói Thiên Chúa chỉ tha thứ đến ba lần. Đến lần thứ bốn thì Ngài sẽ không tha thứ nữa mà sẽ trừng phạt.
Nếu Thiên Chúa đã làm thế thì con người không được phép "qua mặt" Người. Chính vì thế mà các Rabbi chỉ chấp nhận sự tha thứ đến lần thứ ba.
Chúng ta thường nói với nhau: "Quá tam ba bận".
Như vậy khi Phêrô đề nghị tha đến bảy lần tức là gấp hai lần cộng một cái lằn mức của các Rabbi thì ông nghĩ là ông đã làm một cuộc cách mạng và chắc là Chúa phải bằng lòng và khen ngợi ông.
Chúng ta phải cám ơn Ông Phêrô. Bởi chính từ câu chuyện này mà chúng ta được Chúa dạy cho chúng ta một bài học thật tuyệt vời. Chúa không bảo phải tha đến bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy. Phải tha thứ luôn luôn và mãi mãi.
Tiến sĩ Morgan một trong những nhà chú giải Kinh Thánh nổi tiếng nhất của thời đại nói: "Có lẽ chúng ta phải sống lâu lắm mới có dịp để tha thứ cho một người đến 490 lần"
II. Để cắt nghĩa bài học mà Chúa vừa đưa ra, Chúa đã dùng một dụ ngôn, một dụ ngôn rất đẹp về ý nghĩa nhưng không được đẹp mấy về hình ảnh.
a/ Người đầy tớ của Vua trong dụ ngôn hôm nay vừa là con nợ vừa là chủ nợ.
- Anh ta là con nợ của Vua và là chủ nợ của bạn anh
- Với tư cách là con nợ anh chỉ là một người đầy tớ. Tương quan giữa anh và Vua là tương quan chủ nô.
- Với tư cách là chủ nợ anh là một người bạn. Tương quan giữa anh và bạn anh là tương quan huynh đệ. Một tương quan đẹp và cao hơn nhiều.
b/ Với tư cách là con nợ, món tiền anh mắc nợ rất lớn: 10.000 nén vàng.
Sử gia Joseph Flavius nói rằng: Món nợ này tương đương với 100.000.000Đ của người Do thái lúc đó. Và nếu cứ tính theo giá tiền công lao động lúc đó là 1đ/ngày thì số tiền đó tương đương với 100.000.000 ngày công. Đó là một móm nợ lớn không thể tưởng tượng được. Đây là nón nợ lớn hơn tiền chuộc một vị vua.
Người bày tôi trong câu truyện được Vua cho nợ một món tiền lớn như thế thật là truyện lạ lùng.
c/ Và với tư cách một chủ nợ, anh ta cho bạn của anh ta nợ 100 đồng....Một số tiền tương đương với 100 ngày công. Tỉ lệ 100/100.000.000. Một sự cách biệt khổng lồ.
d/ Bây giờ chúng ta coi cách nhà vua đối xử với anh và cách anh ta đối xử với bạn của anh ta như thế nào.
- Với tư cách là con nợ, khi anh bị đòi, anh không có gì trả, anh đã xin khất. Nói là khất cho đẹp chứ thực ra khả năng chi trả của anh có cả đời cũng không trả được.
Nhà vua quảng đại không những không bắt anh trả một đồng nào mà ngược lại còn tha hết nợ cho anh.
- Bây giờ đến lượt anh ta. Bạn anh mắc nợ anh 100 quan tiền
Anh đòi nợ. Bạn anh chưa có tiền để trả. Bạn anh van xin anh được khất lại một kỳ. Anh đối xử như thế nào thì tất cả chúng ta đã rõ.
Khi chú giải về đoạn Tin Mừng này, Cha Gutziller...:"Trước mặt Thiên Chúa con người phải điều chỉnh lại mối tương quan của mình đối với người khác. Thái độ của họ đối với anh em sẽ xác định thái độ của họ đối với Thiên Chúa. Người tín hữu khi biết Thiên Chúa đối xử tốt lành đối với mình mà còn tới gần anh em mình với tinh thần khắc nghiệt thì họ sẽ đáng sự trừng phạt của Thiên Chúa"
III. Hãy biết tha thứ kính thưa anh chị em. Hận thù chẳng để lại một ích lợi gì cho chúng ta ngược lại nó còn làm cho cuộc đời của chúng ta mất đi những niềm vui mà đáng lý ra chúng ta luôn có.
Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: có một người hành khất đến trước cửa nhà một người giàu có để xin bố thí. Mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu được những lời van xin đó nữa thì thay vì bố thí, người giàu có đã lấy một hòn đá ném vào người hành khất.
Con người khốn khổ ấy lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.
Năm tháng trôi qua, lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có vào ngục, nỗi căm hờn trong lòng ông sôi lên sùng sục . Ông đi theo đoàn người áp tải tay không rời hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên ông.
Nhưng cuối cùng nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ:
- Tại sao ta lại mang nặng hòn đá từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây chỉ là một kẻ khốn khổ như ta.
Loren Fischer ""Ghim giữ nỗi đau hay là phóng thích nó bằng sự tha thứ? Hai điều ấy khác nhau như là ban đêm ta nằm ngú trên chiếc gối chĩa đầy gai nhọn hay trên chiếc gối phủ đầy những cánh hồng"
Và đây là Lời của Chúa: "Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy."(Mt 7,36-38)
--------------------------------
Ai cũng biết tha thứ cho nhau là một điều cần thiết cho đời sống cộng đoàn, nhưng lại là một việc TN 24-A108
Ai cũng biết tha thứ cho nhau là một điều cần thiết cho đời sống cộng đoàn, nhưng lại là một việc vô cùng khó khăn, vì phải can đảm vượt qua sự bất công và oan ức mà mình phải chịu. Bình thường, ai cũng muốn được tha thứ, nhưng lại không muốn tha thứ cho người khác. Chính vì thế mà Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta rằng, phải tha thứ thì chúng ta mới được tha thứ. Phải luôn học hỏi nơi tình thương bao la của Thiên Chúa.
Sách Huấn Ca: 27,30-28,9
Đoạn sách nầy trình bày bổn phận phải tha thứ cho nhau. Lý do là vì: nếu có tha thứ cho kẻ làm hại mình, thì khi cầu nguyện, mới được Thiên Chúa tha thứ. Chính vì tình yêu của Thiên Chúa trong Giao Ước mà người tín hữu phải bỏ qua lầm lỗi của người khác.
Thánh vịnh 102 mời gọi chúc tụng Thiên Chúa là đấng từ bi, và đừng bao giờ quên những ân huệ Ngài đã ban. Ngài đã tha thứ tất cả tội lỗi ta phạm, và thương chữa lành mọi bệnh tật của ta.
Thư gửi tín hữu Rôma 14,7-9
Dù sống, dù chết, chúng ta đều thuộc về Đức Ki tô. Nhờ thế, chúng ta cùng chịu đóng đinh với Đức Ki tô trên thánh giá, để không còn sống cho chính mình nữa, mà là để Đức Ki tô sống trong chúng ta. Đây có thể coi là nền tảng của bổn phận phải tha thứ cho nhau.
Tin mừng: Mt 18: 21-35
NGỮ CẢNH
Chương 18 sách Tin Mừng Mt trình bày diễn từ thứ tư nói về đời sống trong Giáo Hội Chúa Ki tô. Nội dung của diễn từ nầy được khai triển theo cấu trúc như sau: trước tiên là mối quan tâm đến những kẻ bé mọn (18,1-14) và kế đến là kỷ luật trong việc anh em sửa lỗi nhau và sự tha thứ cho nhau (18,15-35).
Sau phân đoạn bàn đến kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Ki tô (x. CN trước), đoạn Tin mừng nầy được khai triển theo hai ý chính:
1. Tha thứ không giới hạn (18,21-22)
2. Dụ ngôn diễn giải về sự tha thứ trong cộng đoàn (23-35).
TÌM HIỂU
Có phải bẩy lần không?: Phải tha thứ bao nhiêu lần? Truyền thống Kinh sư Do Thái dạy phải tha thứ cho đến 4 lần. Phê rô nâng lên đến 7 lần, tưởng rằng như thế là quảng đại lắm rồi, và có lẽ Thầy sẽ bằng lòng và chấp nhận!
Đến bẩy mươi lần bẩy: kiểu nói nầy đã xuất hiện trong sách Stk (4, 24) trong câu chuyện về La mek, hậu duệ của Cain: “Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La méc thì gấp bảy mươi bảy”. Nói cách khác, cứ để cho con người xử sự với nhau, thì vòng xoáy bạo lực sẽ không bao giờ ngừng. Chúa Giê su đề nghị một kiểu sống khác: thay cho vòng xoáy của bạo lực và thù hận, Ngài cổ xuý sự lây lan của tình yêu và sự tha thứ.
Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia..: phần nầy cũng giống như phần trên, được đóng lại bằng một dụ ngôn của riêng Mt. Dụ ngôn kể lại một câu truyện có thể xảy ra trong cuộc sống đời thường để làm nổi bật lời giáo huấn: hai món nợ thật khác nhau một trời một vực. Món nợ thứ nhất đủ để trả lương cho một công nhân thời Chúa Giê su trong suốt 200.000 năm! Còn món nợ thứ hai chỉ vừa đủ để trả trong ba tháng mà thôi. Điều đó có nghĩa là không thể so sánh hai số tiền nói trên.
Món nợ kếch xù chính là món nợ mà Thiên Chúa tha cho mỗi người chúng ta. Trước nhan Thiên Chúa mỗi người chúng ta là một con nợ lớn. Nhưng chúng ta được tiếp nhận tin mừng nơi Chúa Giê su là Thiên Chúa tha thứ hết mọi tội lỗi cho nhân loại. Người không đòi hỏi họ điều gì nữa. Tin mừng đưa chúng ta vào trong một thế giới đầy nghịch lí, thay đổi tất cả và mọi sự đều có thể. Điều mà con người không thể làm được thì Thiên Chúa lại có thể thực hiện (Mc 10,27; Ep 2,8). Đó chính là chìa khóa để đọc hiểu Tin mừng.
Tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con: Luật Do thái chỉ cho phép bán một người Israel trong trường hợp trộm cắp, khi người nầy không thể hoàn trả đồ đã lấy (không phải trường hợp trong dụ ngôn nầy). Hơn nữa là việc bán vợ là một việc bị cấm chỉ hoàn toàn. Thành thử, câu chuyện giả thiết vua và bầy tôi đều là người ngoại giáo.
Xin Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi: người bầy tôi không xin tha nợ, vì y hứa một ngày kia sẽ trả đủ nợ, y chỉ xin khất lại một thời gian. X. đứa con hoang đàng Lc 15,19.
Tôn chủ..tha luôn món nợ: Nhà vua thi ân cho người tôi tớ gấp bội điều y xin: ông tha hết nợ cho y. Đó là một hồng ân to lớn khiến y không còn lí do để tỏ ra tàn nhẫn hay bất nhân đối với con nợ của y. “Chạnh lòng thương xót” là động từ quen dùng trong CƯ và TƯ để chỉ lòng trắc ẩn (Mt 9,36; 15,32; 20,34 vv..).
Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi,..: lời van nài nầy giống y lời van xin của người bầy tôi với vua. Qua đó, Mt muốn làm nổi bật sự song song giữa hai con nợ, đồng thời nêu bật nét tương phản giữa thái độ nhà vua và người bầy tôi.
Nhưng y.. cứ tống anh ta vào ngục: bỏ tù xem ra không phải là phương thế tốt để con nợ có thể xoay sở mà trả hết nợ.
Trao y cho lính hành hạ: tại Israel không có việc tra tấn, nên ở đây thêm một bằng chứng nữa cho thấy câu truyện không xảy ra ở đó.
Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế: Do thái giáo dạy rằng Thiên Chúa dùng hai “đấu” để cai trị thế gian: lòng nhân ái và sự công bằng. Tuy nhiên trong ngày phán xét cuối cùng, công bằng là đấu duy nhất còn lại. Còn Chúa Giê su lại dạy rằng vẫn còn lòng nhân ái trong ngày Chung Thẩm. Như thế, Ngài muốn cho thấy: ở đâu mà sự tha thứ của Thiên Chúa thúc đẩy con người sẵn sàng thứ tha, thì ở đó lòng nhân ái của Ngài sẽ tuyên bố tha bổng. Còn kẻ nào chẳng biết đón nhận hồng ân tha thứ của Thiên Chúa, thì sẽ bị sự công bằng của Ngài luận xử cách nghiêm khắc, như thể y chưa bao giờ được tha thứ vậy.
SỨ ĐIỆP
Tha thứ. Một điều nói thì dễ, nhưng làm thì cực khó. Nhiều người đã giữ mãi trong lòng sự thù hận cho đến chết. Họ giam giữ người khác trong quá khứ của mình và không cho họ một cơ hội để làm một cử chỉ hòa giải. Mà làm như vậy có ích gì không? Giữ mãi sự hận thù, ghen ghét, hoặc tìm cách trả thù, điều ấy sẽ đem lại điều gì? Nó chỉ làm cho hận thù thêm lớn hơn khiến chúng ta phải đau khổ và làm khổ người khác.
Bài tin mừng Chủ nhật hôm nay muốn giúp chúng ta nhìn sự việc một cách khác. Đó là một lời mời gọi tha thứ không ai có thể lẫn tránh được, mời gọi hòa giải và tiếp nhận những cử chỉ làm hòa của người khác. Để đạt được điều đó, chúng ta phải hướng về Thiên Chúa. Bị giao nộp trong tay người đời, bị hành hạ, bị tra tấn, Đức Ki tô đã tha thứ. Chỉ mình Ngài mới có thể đem lại cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm để đi đến cùng của sự tha thứ.
Hôm nay Chúa Giê su so sánh Thiên Chúa với một Vị Vua quảng đại sẵn lìng tha một món nợ khổng lồ cho người đầy tớ của mình. Mười ngàn yến vàng, sáu mươi triệu yến bạc: Một khoảng nợ kết xù như thế là cực kỳ to lớn. Vào thời Chúa Giê su, tiền thuế của cả miền Ga li lê hằng năm chỉ vào khoảng hai trăm yến bạc. Vì thế món nợ 10 ngàn yến là điều không thể trả được.
Khi kể cho chúng ta dụ ngôn nầy, Chúa Giê su muốn cho thấy chúng ta mắc nợ với Thiên Chúa như thế nào. Món nợ khổng lồ phải trả ấy cũng chỉ là một nét phác họa của những gì diễn ra giữa Thiên Chúa và chúng ta. Trước mặt Ngài, tất cả chúng ta là những con nợ không thể trả nỗi; thế mà khi chúng ta cầu xin, chẳng những Ngài không bằng lòng với việc khất nợ cho chúng ta, mà Ngài còn tha thứ hết cho chúng ta. Tất cả cũng vì tình yêu bao la của Ngài đối với chúng ta, được Mát thêu diễn tả bằng kiểu nói “động lòng thương xót”. Đó là một cụm từ thường xuyên được dùng để nói về Chúa Giê su, như khi Ngài trước mặt một người bệnh, một người phung cùi, một người bất tọai. Chính con tim lên tiếng, và tình yêu vượt thắng tất cả. Sự tha thứ được ban cho là để mở ra một tương lai cho người không còn con đường nào khác.
Nhưng ơn tha thứ mà Ngài chỉ có thể ban cho chúng ta với một điều kiện: Đó là chúng ta phải minh chứng lòng độ lượng của chúng ta đối với anh em. Một trăm đồng mà bạn mắc nợ anh ta, là điều vô nghĩa so với món nợ khổng lồ mà anh ta phải trả. Chính vì lẽ đó mà anh ta đến phiên mình cũng phải tha nợ cho bạn để tìm lại tình ban. Sự tha thứ ấy lẽ ra phải tao cơ hội cho một khởi hành mới trên những nền tảng mới.
Phần kết của dụ ngôn có vẻ như nói ngược lại những gì đã nói về ơn tha thứ vô giới hạn của Chúa. Thật ra, không phải Thiên Chúa từ chối tha thứ. Chính con người có tâm hồn chai đá đã khiến họ không thể lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa, giống như khi chúng ta muốn tưới nước một miếng đất khô khan cằn cổi. Nước chỉ chảy tràn lan ra ngoài vì không thể ngấm vào đất và không có tác dụng gì.
Khi đọc kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho những kẻ xúc phạm chúng con”, chúng ta nghĩ ngay đến tất cả những hiềm thù trong gia đình, trong chòm xóm, láng giềng, trong cộng đòan giáo xứ, hay trong các tương quan khác xa hơn nữa. Dù không dễ thực hiện, sự tha thứ ấy chính là một sự giải thoát. Nó giải thoát chúng ta ra khỏi vòng vây ích kỉ của sự hiềm thù, và mở ra cho chúng ta sự bình an, sự sống, cả một tương lai chan hòa tình yêu thương, và đồng thời đưa chúng ta đến với lòng yêu thương của Thiên Chúa.
Phê rô tưởng là đã quảng đại lắm khi tha thứ đến bẩy lần (con số biểu tượng có nghĩa là vô hạn). Nhưng Chúa Giê su dạy với chúng ta rằng phải đi xa hơn đến bẩy mưoi lần bẩy. Giới hạn của ơn tha thứ là vô giới hạn. Sự tha thứ đích thực không bao giờ có thể đo lường được. Người ta không bao giờ tha thứ và được tha thứ cho đủ.
Cuối cùng, chúng ta phải nhìn lên và bắt chước gương của Đức Ki tô. Điều mà Ngài đòi buộc chúng ta hôm nay, chính Ngài đã sống đến tận cùng. Lời cầu xin cuối cùng của cuộc sống yêu thương trước khi chết trên cây thánh giá là: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ lầm chẳng biết!”. Bằng lời giảng dạy và bằng trọn cả cuộc sống, Chúa Giê su nói với chúng ta biết thế nào là sự tha thứ: đó không phải là quên mà là chìa bàn tạy cho người xúc phạm để giúp đỡ họ đứng lên. Tha thứ tức là yêu tương, là cùng nhau khởi hành trên những nền tảng mới.
Thiên Chúa chúng ta là một người Cha yêu thương từng đứa con. Niềm vui lớn nhất của cha mẹ, đó là thấy con cái hòa thuận và hòa hợp với nhau. Khi chúng ta điều chỉnh tương quan chúng ta với người khác, hãy luôn nhớ rằng chúng ta là những người tội lỗi đã được tha thứ, và được mời gọi đi vào trong lô gíc tha thứ và hòa giải với người khác.
Khi nhắc tới việc hòa giải làm sao không nhắc lại tầm quan trong của bí tích tha thứ, bi tích giải tỏa gánh nặng tội lỗi và cho phép chúng ta tới gần Thiên Chúa. Sức mạnh của bí tích sẽ giúp chúng ta dễ dàng tha thứ. Tha thứ là việc của Thiên Chúa mà chúng ta chỉ học được từ Thiên Chúa mà thôi.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Sách Sáng Thế Ki nói gì về việc trả thù?
THƯA: Sách Sáng Thế kí ghi rằng: “Ông La méc nói với các bà vợ: ‘Ta đã giết một người vì một vết thương, vì một chút sây sát, ta đã giết một đứa trẻ. Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La méc thì gấp bảy mươi bảy” (Stk 4, 23-24). Đó là sự thù oán, báo thù và bạo lực kéo dài từ đời nầy qua đời khác. Phải trả thù cho tổ tiên đã bị người ta xúc phạm.
2. HỎI: Và sau đó luật báo thù được xác định như thế nào?
THƯA: Đó là luật “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Chúng ta tìm thấy trong các bản văn cổ xưa Kinh Thánh: “Nếu có gây tổn thương, thì ngươi phải lấy mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân..” (Xh 21,23; x. Đnl 19,21). Đối với các xã hội thời đó, thì luật ấy được coi như là một tiến bộ lớn về xã hội, chính trị và tôn giáo.
3.HỎI: Như thế, báo thù theo Kinh Thánh có nghĩa gì?
THƯA: Báo thù theo kiểu nói ngày nay là trừng trị người đã hại mình, nhưng theo Kinh Thánh, trước hết báo thù chi việc tái lập công bằng, nghĩa là chiến thắng tôi ác. Nếu vì ghét người làm ác, thì báo thù luôn luôn bị cấm đóan. Trái lại, báo thù để bảo vệ quyền lợi bị chà đạp lại là một nhiệm vụ.
4.HỎI: Như thế thì chỉ có mình Thiên Chúa mới có thể tái lập công bằng?
THƯA: Đúng thế. Chỉ có mình Thiên Chúa là Goên (= báo thù), đấng tái lập công bằng cho Israên, vì chỉ có mình Ngài là Đấng phán xét tuyệt hảo, Đấng thấu suốt tâm can và hòan trả mỗi người tùy theo công việc họ làm. Người công chính hòan tòan khước từ việc báo thù, vì tin tưởng vào Thiên Chúa: “Ngươi đừng nói rằng : tôi sẽ báo thù. Ngươi hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, chính Ngài sẽ giải thoát ngươi” (Cn 20,22).
5.HỎI: Bài đọc sách Huấn ca cho chúng ta thấy Thiên Chúa là đấng nào?
THƯA: Thiên Chúa là đấng hết lòng yêu thương, đã truyền dạy mọi người phải biết sống quảng đại và tha thứ cho nhau. Ai rộng lượng tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình chẳng những được bình an tâm hồn mà còn được Thiên Chúa thứ tha mọi lỗi lầm yếu đuối đã phạm.
6.HỎI: Phụng vụ hôm nay nói gì về việc tha thứ?
THƯA: Phụng vụ hôm nay xoay quanh chủ đề về sự tha thứ: “Ngươi hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha” (bài đọc 1). “Người đã thứ tha mọi tội lỗi người và đã chữa ngươi khỏi tật nguyền. Người đã cứu ngươi khỏi chết, và ban cho ngươi hồng ân nhân ái. Người không xử với ta như ta đáng tội, và không trả cho ta theo lỗi của ta.” (Đáp ca, Thánh vịnh 102). Và sứ điệp bài tin mừng: “Phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy”.
7.HỎI: Nền tảng của sự tha thứ là gì?
THƯA: Đó là lòng thương xót của Thiên Chúa. Lòng nhân ái của Thiên Chúa thật vô biên, sẵn sàng tha thứ tất cả. Chính nhờ lòng nhân ái bao la đó chúng ta mới có thể đứng vững trước mặt Người. Nếu được Thiên Chúa tha nợ cho thì trước mặt Người, chúng ta vẫn chỉ là người bầy tôi sống nhờ lòng hào hiệp và nhân ái của Người mà thôi.
Nếu chúng ta là những người sống nhờ vào lòng nhân ái của Thiên Chúa thì chúng ta có sứ mệnh san sẻ cho nhau lòng nhân ái của Ngài trong cuộc sống của chúng ta.
8.HỎI: Như vậy, tương quan của chúng ta đối với anh em phải như thế nào?
THƯA: Mối tương quan của chúng ta đối với anh em phải được qui định bởi mối tương quan đối với Thiên Chúa. Chính vì thế Ngài yêu cầu ta hãy sẵn sàng hoà giải với nhau và tha thứ vô điều kiện. Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới có thể hi vọng được cứu rỗi trong ngày phán xét sau hết.
--------------------------------
Bài đọc 1: (Hc. 27:30-28:7)
Bài đọc 2: (Rm. 14:7-9)
Tin Mừng: (Mt.18:21-35)
Trong cuộc sống, giữa con người với nhau, nhiều lần chúng ta bị anh em xúc phạm như bôi nhọ thanh TN 24-A109
Trong cuộc sống, giữa con người với nhau, nhiều lần chúng ta bị anh em xúc phạm như bôi nhọ thanh danh, nói hành nói xấu, bịa chuyện không thành có, có thành không, thù ghét vì ghen tương,xúc phạm đến thân thể, làm thiệt hại của cải vật chất.
Chúa đã dạy con cái của Ngài phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn và yêu thương anh em như chính mình. Không phải chỉ yêu người yêu mình mà còn phải yêu cả những kẻ thù, những kẻ ngược đãi mình: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em" (Mt. 6: 43-44); đồng thời Ngài cũng dạy chúng ta phải tha thứ cho anh em lỗi phạm đến chúng ta.
Ai trong chúng ta là không mắc nợ đối với Thiên Chúa và với anh em? Muốn được tha thứ thì phải thứ tha.Yêu thương và tha thứ là hai tình cảm không thể thiếu trong một hành động bác ái. Nói yêu thương mà không tha thứ là mâu thuẫn.Nói yêu thương mà không tha thứ là nói dối. Tha thứ mà không yêu thương là ngạo mạn!
Thiên Chúa tha nợ cho chúng ta bằng việc chúng ta tha nợ cho anh em. Nợ chúng ta mắc với Thiên Chúa và nợ anh em mắc với chúng ta có một mối liên hệ hỗ tương. Tha thứ cho anh em là điều kiện để Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta: ”Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em" (Mt. 6: 14-15).
Nhưng thứ tha đến mức độ nào thì vừa lòng Thiên Chúa? “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đó là câu hỏi ông Phêrô nêu lên với Chúa Giêsu.
Một hai lần xúc phạm thì còn dễ tha thứ, nhưng người anh em ấy cứ xúc phạm hết lần này đến lần khác thì phải tha mấy lần? Càng tha thì người ta càng làm tới, vậy thì đến bảy lần đã đủ chưa? Chúa Giêsu không đưa ra cụ thể số lần tha thứ là bao nhiêu, Ngài không nói cụ thể là phải tha 50% hay 90% mà là tha thứ 100%, tha thứ triệt để, tha thứ là tha thứ: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. Quả là một việc làm rất khó đối với bản tính của con người, nhưng đó lại là đòi hỏi của Thiên Chúa đối với chúng ta để được Thiên Chúa tha thứ.
Để minh họa về lòng tha thứ, Chúa Giêsu không đưa ra ví dụ liên quan đến sự xúc phạm nhưng Ngài lại đưa ra một ví dụ về nợ tiền bạc:
Một ông vua nọ đòi các đầy tớ thanh toán sổ sách. Người tính sổ đầu tiên là một người nợ vua mười ngàn nén vàng.Y không có gì để trả, nên vua ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. Tên đầy tớ sấp mình van xin: “Thưa ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết.” Chạnh lòng thương, vua cho y về và tha luôn món nợ .Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người bạn mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ và bảo: “Trả nợ cho tao!” Người bạn sấp mình xuống năn nỉ: "Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh.” Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Sự việc đến tai vua. Ông cho đòi hắn đến và bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì người đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?”. Vua nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ cho đến ngày y trả hết nợ. Và Chúa Giêsu kết luận: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình." (xem Mt. 18: 21-35). Vua đã chạnh lòng thương và tha hết nợ cho tên đầy tớ, nhưng anh lại không chạnh lòng thương mà tha nợ cho anh em. Thật không công bằng!
Món nợ vất chất mười ngàn nén vàng hay một trăm quan tiền, chẳng làm cho Thiên Chúa phải quan tâm, nhưng qua món nợ vất chất ấy, Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta thực hiện lòng thương xót mà tha thứ như lời thánh Phao lô đã viết cho tín hữu Rôma: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật" (Rm 13: 8).Đó là món nợ yêu thương, nợ tương thân tương ái.
Món nợ con người mắc phải đối với Thiên Chúa thật quá nhiều: nợ yêu thương, nợ cứu chuộc, nợ cuộc sống... Chúng ta xin Chúa tha nợ cho chúng ta nhưng chúng ta lại không tha nợ cho anh em là không công bằng đối với Thiên Chúa với anh em. Chúng ta không tha món nợ “tương thân tương ái“ cho anh em thì Thiên Chúa cũng sẽ không tha nợ mà chúng ta mắc phải đối với Ngài. “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.”
Một người nọ đi hành hương Thánh Địa. Một đêm, ông ông mơ thấy mình đang ở trong vườn Cây dầu. Bầu trời rất đẹp, đầy trăng sao. Vạn vật yên tĩnh. Người khách hành hương vô cùng xúc động. Nước mắt ứa trào, ông sấp mình xuống cầu nguyện: “Lạy Chúa, ân huệ Chúa ban cho con người thật dồi dào. Xin đừng để con phạm tội mất lòng Chúa.”
Bỗng có một tiếng nói vang lên: “Hỡi con, con xin Cha đừng để con phạm tội mất lòng Cha. Điều đó thì tốt, nhưng nếu Cha ban ơn ấy cho tất cả mọi người, thì làm sao Cha có thể minh chứng lòng thương xót vô bờ bến của Cha?”
Theo sách Huấn ca, thịnh nộ và giận dữ là hai điều ghê tởm, người mắc lấy hai điều ấy là người có tội. Thịnh nộ và giận dữ mà tìm cách báo thù thì sẽ bị Chúa báo thù và Ngài sẽ nghiêm trị tội lỗi của họ. Ngược lại, gặp thịnh nộ và giận dữ mà tha thứ cho kẻ làm hại mình, thì nếu xin với Chúa tha thứ lỗi lầm của mình, Ngài sẽ tha thứ cho người ấy. Người tích lòng giận ghét anh em, không thương xót người đồng loại mà cầu xin Chúa tha thứ, xót thương thì còn đâu sự công bằng! (xem Hc. 27:30-28:7).
Ngay cả những tội lỗi, những thất bại và sa ngã cũng có thể trở thành những điều lợi ích cho chúng ta; vì qua đó, chúng ta cảm nghiệm được lòng thương xót của bao la của Thiên Chúa, giúp chúng ta nhận ra thân phận yếu hèn tội lỗi của mình, và từ đó buộc chúng ta phải nghĩ và hành động thương cảm và nhân ái với anh em.
Những xúc phạm, những tổn thương tạo nên trong lòng chúng ta sự oán giận, thù ghét. Những mối thù hận ấy chỉ có thể được làm nhẹ đi hay xóa đi bằng sự tha thứ. Sự tha thứ đem đến cho chúng ta cảm thức thanh thản, sáng suốt và tự do, về năng lực yêu thương. Sự tha thứ cũng là cơ hội đánh thức sự tự mãn kiêu căng của mình bằng sư tự nhận biết mình cũng là những người cần được sự tha thứ.
Sống yêu thương và tha thứ là hai nét đặc trung của người Kitô hữu, con cái của Thiên Chúa.
--------------------------------
Tin Mừng Mt 18, 21-35:
Trang Tin Mừng hôm nay phải nói rằng đúng là: Trong cuộc đời của mỗi ngày chúng ta hai TN 24-A110
Trang Tin Mừng hôm nay phải nói rằng đúng là: Trong cuộc đời của mỗi ngày chúng ta hai chữ thôi! Nhưng rất khó làm đó là: Hai chữ tha thứ...
***
Kính thưa Cộng Đoàn
Phải nói rằng, ngày hôm nay, như ngôn ngữ của tuổi teen là chơi game gài. Trang Tin Mừng hôm nay phải nói rằng đúng là: Trong cuộc đời của mỗi ngày chúng ta hai chữ thôi! Nhưng rất khó làm đó là:
Hai chữ gì?
- Hai chữ tha thứ. Bởi vì, một người nào đó mà xúc phạm đến mình: vợ xúc phạm chồng, chồng xúc phạm vợ, khó tha thứ! Nó chỉ là lý thuyết thôi.
Bạn bè hay hàng xóm xúc phạm đến mình, mình còn tha thứ được, nhưng mà còn với người ruột thịt hay người thân mà xúc phạm thì khó lắm! “Thương nhau lắm, cắn nhau đau” mà! Bởi vì, tha thứ không phải đơn giản.
Người ta vẫn thường đi theo cái lối sống công bằng. Công bằng thôi! Ai mà vi phạm tới mình, thì mình trả thù.
Còn nếu mà trong cuộc sống mà cái sự ganh đua nó càng mạnh, thì cái sự tha thứ nó càng khó! Bởi vì không ai chấp nhận sự tha thứ, nhưng mà sự tha thứ đó sẽ làm cho con người được sự bình an.
Nếu như không tha thứ, thì người đó, đánh mất căn tính người Kitô hữu của mình. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côlôxê, ngài nhắc nhở chúng ta: Anh em hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau. Như Đức Kitô đã tha thứ cho anh em, thì anh em hãy tha thứ cho nhau.
Nếu ai nào đó không tha thứ, thì không còn là mang trong mình căn tính của người Kitô hữu nữa.
Chúng ta thấy bài học của sự tha thứ nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không những nói nhưng Chúa Giêsu đã làm gương cho sự tha thứ.
Trên đỉnh đồi Canvê, không còn nỗi nhục nào bằng cái nỗi nhục nào! Không còn đòn roi nào kể xiết. Sự đau đớn mà người ta đánh cho một thân mình tội lỗi. Một thân mình đau đớn.
Đau quá! Đau Thể xác thì ít, mà đau phần hồn thì nhiều. Bởi vì, chính những con người mà mình làm phép lạ, chính những con người mình trao ơn cho họ, hóa bánh ra nhiều nuôi họ, lại là những người: Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào thập giá đi!
Chúng ta thấy, Chúa Giêsu ở trong Tin Mừng thánh Máccô đã dạy cho chúng ta về sự tha thứ, về sự hòa giải:
- Nếu anh em chuẩn bị đi đến mà dâng lễ vật, mà có sự bất bình với ai đó, thì hãy tha thứ đi.
Ở chương 5 thì thánh Maccô cũng dạy: - Anh em nếu có sự bất bình thì đi làm hòa đi!
Cái bầu khí mà hòa bình, tha thứ đó! Chúa Giêsu không chỉ rao giảng, mà Ngài thực hiện.
Còn nhớ đến Tin Mừng theo Thánh Mátthêu: - Tha cho anh em, thầy bảo anh em tha cho anh em.
Và ở chương 18 này, Chúa Giêsu nói: - Anh em hãy tha thứ.
Khi mà thánh Phêrô đã đưa ra vấn nạn tha thứ: “Cha thầy ở trên trời sẽ đối xử với anh em như là, anh em đối xử với người khác”.
Và nếu xét cho bằng cùng, tha thứ chính là tiêu chuẩn cần thiết, để được vào thiên đàng.
Bởi vì, nếu không tha thứ mà còn giận hờn có nghĩa là không yêu thương nhau. Mà không yêu thương nhau, thì làm sao sở hữu được nước thiên đàng.
Và điều này, thánh Phêrô, chúng ta cho thấy, một người xem ra rất là phóng khoáng. Con số 7 là con số tròn đầy của người Do Thái. Và thánh Phêrô rất là mạnh miệng: Con tha thứ 7 lần rồi!
7 lần là kinh khủng lắm! Nhưng mà, chúng ta thấy, Chúa Giêsu không chỉ 7 lần, mà là 70 lần 7.
Trên thánh giá người ta chế giễu mình, nhục mạ mình. Nhưng rồi: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”
Tha thứ có khi không phải chỉ là cái hành động nhất thời, nhưng mà phải là tha thứ mỗi ngày. Mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm và cái tiến trình tha thứ đó, nó phải được kéo dài trong cuộc đời của ta.
Mà nhiều lần, nhiều lúc trong cuộc đời, có khi, có người này, có người kia từ chối và khước từ sự tha thứ. Bởi vì, họ nghĩ rằng người khác sai và đáng trừng phạt như thế là do lỗi của họ.
Và có những người đặt mình ở chiếu trên, có quyền tha thứ, nhưng người kia không đáng được tha thứ, để rồi họ không tha thứ cho nhau.
Có những người có khả năng xin được tha thứ, nhưng người khác lại không tha, từ chối trách nhiệm không tha. Và khi đó người đó mặt lấy tâm tình của một con người kiêu ngạo.
- Làm trai phải đáng nên trai. Thực sự ra, có những con người đàn ông làm biếng và yếu nhược, nhưng rồi tự cao tự đại và không bao giờ cho mình sai. Và sau một thời gian sống, họ nhận ra sự thật. Và khi đó, họ cảm thấy con người họ thiếu sót và họ lại dễ tha thứ cho người khác. Còn nếu, họ nghĩ, họ là người chủ trong gia đình và họ sống theo kiểu “Chồng chúa, vợ tôi”, thì cái sự tha thứ đó rất khó.
Tha thứ cho vợ chồng, con cái, cha mẹ không phải dễ đâu!
Khi chúng ta muốn tha thứ, thì chúng ta phải xin cái ơn khiêm nhường. Để rồi, chúng ta thấy, chúng ta cũng là những con người tội lỗi, cũng là những con người yếu đuối, để xin cho chúng ta được khiêm nhường.
Và rồi, chúng ta, cái chuyện quan trọng nhất đó là:
Chúng ta phải đi làm hòa với nhau. Mà, Chúa mời gọi đó: “ Hãy đi làm hòa và hòa giải vô điều kiện.”
Gia đình nào cũng có nỗi khổ riêng.Gia đình nào cũng có những cái riêng của mình. Để rồi, không phải dễ, để mà tha thứ cho nhau.
Nhưng rồi, chúng ta thấy: Nếu chúng ta tha thứ cho anh chị em đồng loại, chúng ta sẽ đón nhận được sự bình an.
Và rất khó tha thứ, bởi vì chúng ta cứ phải bắt lỗi người này, người khác. Đừng bao giờ kể lỗi của người khác, thì chúng ta sẽ được tha thứ, và chúng ta tha thứ dễ dàng.
Chúng ta còn nhớ đến hình ảnh của Gia Kêu, Gia Kêu trèo lên cây sung và lòng chạm lòng mắt chạm mắt. Gia kêu đã thấy Chúa Giêsu và Chúa Giêsu không hề hạch tội. Tha thứ là tha thứ cho đến tận cùng. Và chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã tha thứ cho Gia Kêu đến tận cùng, khi không kết án ông. Dẫu rằng, người ta vẫn dán nhãn cho ông là một người thu thuế đầy tội lỗi.
Trong Kinh Hòa Bình, chúng ta thấy, lời Kinh Hòa Bình rất là hay:
Lạy CHÚA, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù. Đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp... vì chính khi thứ tha, là khi được tha thứ.
Đó là hai vế của một phần mệnh đề: Nếu chúng ta tha thứ cho anh chị em đồng loại chúng ta, thì chúng ta cũng được tha thứ từ Chúa Giêsu. Bởi vì: Con người là lầm lỗi, lầm lỗi là con người.
Tha thứ là thần thánh, thần thánh là tha thứ.
Khi chúng ta mặc lấy con người yếu đuối, chìm trong cái con người, thì chúng ta không bao giờ nhận ra được lỗi của mình và khó tha thứ cho người khác. Còn khi chúng ta nhận ra yếu đuối của mình, để chúng ta tha thứ cho người khác, thì cái tiến trình làm thánh nó gần hơn con người của chúng ta. Con người mang trong mình căn tính là thánh thì dễ tha thứ cho người khác lắm. Còn nếu mình là con người thì mình sẽ không bao giờ chịu tha thứ cho người khác.
Tôi nói rằng tôi không tha họ, bởi vì tôi kiêu ngạo. Tôi nói rằng tôi không tha họ, bởi vì tôi thành toàn, tôi đạo đức hơn người khác.
Và nói tới đây, con nhớ đến một câu nói rất hay:
- Người đầu tiên biết xin lỗi là người dũng cảm nhất.
- Người đầu tiên biết tha thứ là người mạnh mẽ nhất.
- Người biết quên đi quá khứ đau buồn, đó là người hạnh phúc nhất.
Cầu chúc cho mỗi người chúng ta đặt mình trước mặt Chúa như Chúa Giêsu đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta phải yêu thương và tha thứ cho anh chị em đồng loại. Đặc biệt, người biết quên đi quá khứ đau buồn, là người hạnh phúc nhất!
Cầu chúc cho mỗi người chúng ta là người hạnh phúc nhất! Bởi vì, chúng ta sẵn sàng, chúng ta quên đi những cái quá khứ đau buồn trong cuộc đời của chúng ta. Amen.
--------------------------------
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?"
Khi đặt vấn đề như thế, Phêrô tưởng chừng như vậy là tốt lắm rồi, đáng được Chúa hài lòng rồi TN 24-A111
Khi đặt vấn đề như thế, Phêrô tưởng chừng như vậy là tốt lắm rồi, đáng được Chúa hài lòng rồi. Nào ngờ Chúa Giêsu lại nói: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” Nói như thế có nghĩa là Chúa dạy hãy tha thứ liên tục không ngừng.
Làm sao mà tha thứ cho nổi khi người khác cứ mãi xúc phạm đến ta?
Làm sao có đủ bản lãnh và lòng bao dung để thực hiện lời truyền dạy thứ tha không ngừng của Chúa?
Để có thể tha thứ cho người khác, trước hết ta nên biết rằng: sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của họ, vì thế họ đáng thương hơn là đáng trách.
Người lầm lỗi thì đáng thương hơn đáng trách
Khi thấy một người mù quờ quạng dò đường đi mà không có ai dẫn dắt, nên có khi thì sa xuống hố bị trặc chân; khi thì xông vào bụi rậm bị gai nhọn châm chích khắp người; khi thì vướng vào hàng rào nên bị kẽm gai móc rách cả thịt da, quần áo… thì những người chung quanh có thái độ nào?
Trong hoàn cảnh đó, chỉ có những người ngu dốt, thiếu đạo đức mới la mắng nhiếc móc người đó; còn bất cứ ai có lương tri đều tỏ lòng thương xót và sẽ ân cần dìu dắt người ấy bước đi an toàn.
Tương tự như thế, khi có người vì bị mù, không phải là mù mắt, nhưng là mù tâm trí, còn gọi là mù quáng, nên không thấy đường ngay nẻo chính; vì thế phải sa xuống hố sâu lầm lạc hoặc phải đắm chìm trong vũng bùn tội ác, thì ta nên có thái độ nào?
Trong hoàn cảnh đó, chỉ có những người thiếu hiểu biết với tầm nhìn hạn hẹp mới lên án hay oán ghét người ấy; còn những ai có lương tri, hiểu biết và khôn ngoan đều tỏ lòng thương xót và sẵn sàng tha thứ cho người vì mù quáng mà phạm lỗi, vì người mù quáng còn đáng thương hơn kẻ mù lòa.
Con người mắc phải lầm lỗi là vì mù quáng.
Triết gia Socrate nhận định một cách chắc nịch rằng: “Không ai cố tình làm điều ác. Sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là vì không hiểu biết”, nghĩa là vì mù quáng.
Nếu tôi có đôi mắt tinh tường, tôi sẽ thấy rõ đường đi nước bước và tôi sẽ cứ đường ngay nẻo chính mà đi. Nhất định tôi không dại gì để cho mình bị sa xuống hầm, sập xuống hố, đâm vào bụi gai hay lội xuống sình lầy tanh hôi.
Tương tự như thế, nếu tôi không bị mù quáng, tức đôi mắt tâm trí tôi còn sáng suốt, thì tôi sẽ thấy điều hay lẽ phải và chắc chắn tôi sẽ không để cho mình sa vào hố sâu tội lỗi hoặc đâm vào bờ bụi sai lầm.
Chỉ khi nào đôi mắt tâm trí tôi bị mù quáng bởi lòng tham, bởi ích kỷ, bởi dục vọng đê hèn, bởi kiêu căng tham vọng… thì tôi mới phải rơi vào những hố sâu tội lỗi mà thôi.
Vì thế, người lầm lỗi cần được thương xót và thứ tha.
Diễn viên kiêm đạo diễn bậc thầy người Mỹ tên là Charlie Charplain nhận định: “Sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của họ. Vì thế, người khôn thì thương xót họ, còn người ngu thì lên án họ.”
Chúa Giêsu cũng nhận định như thế nên khi bị hành hình đau đớn và nhục nhã, Người thừa biết những kẻ đóng đinh Người đều hành động vì mù quáng, không ai trong họ biết Người là Con Thiên Chúa mà lầm tưởng Người chỉ là người phàm tự xưng mình là Con Thiên Chúa… nên mới kết án Người. Vì thế, Chúa Giêsu không hề oán trách họ; trái lại còn hết lòng yêu thương họ nên đã khẩn khoản nài xin Chúa Cha tha thứ cho họ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” (Lc 23, 34)
Lạy Chúa Giêsu,
Thật là độc ác khi con lên án người mù vì mang đôi mắt mù lòa mà phải sa hầm sập hố hay sa xuống chỗ sình lầy.
Và cũng thật là thiếu khôn ngoan và bác ái nếu con lên án những người khác vì họ mù quáng, tức mù lòa trong tâm trí, mà gây ra những vấp phạm đối với những người chung quanh.
Xin cho con luôn nhớ rằng: “Sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình. Thế nên người khôn thì thương xót họ, còn người ngu thì lên án họ” để nhờ đó, con biết cư xử như một người khôn ngoan, biết thương xót và tha thứ cho những người lỗi phạm như Chúa đã nêu gương cho con. Amen.
--------------------------------
– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
Thiên Chúa là Đấng nhân từ và giầu lòng thương xót. Xưa nay Kitô-hữu biết như vậy, và thường TN 24-A112
Thiên Chúa là Đấng nhân từ và giầu lòng thương xót. Xưa nay Kitô-hữu biết như vậy, và thường dựa vào đó để nài xin Thiên Chúa nhân hậu tha thứ tội lỗi cho mình, nhưng ít khi ao ước khao khát trở nên nhân hậu theo mẫu tuyệt hảo là Thiên Chúa. Một khi con người sống nhân hậu thì họ trở nên hoàn hảo và sống hạnh phúc hơn.
1. Hận thù ghen ghét
Hận thù và ghen ghét, muốn làm hại người khác, muốn người khác khổ, muốn những tai họa đổ xuống trên đầu người mình thù ghét và những người thân của họ, không muốn người khác sung sướng hạnh phúc, điều này làm người khác và chính mình sống trong buồn bực lo lắng bất an.
Người hận thù cưu mang, nuôi dưỡng tư tưởng làm hại người khác trong lòng họ. Những giây phút họ thoải mái là những giây phút họ quên ý định hận thù, nhưng khi họ nhớ tới, là họ bị nung nấu và họ không thoải mái hạnh phúc. Có những người luôn nghĩ xấu cho người khác, cho rằng người khác luôn suy nghĩ và tìm cách làm hại mình, muốn điều xấu cho mình; khi cưu mang suy nghĩ như vậy, chính người đó cũng bất an cực khổ. Dưới một khía cạnh nào đó có thể nói, ai sống trong thù hận ghen ghét, luôn nghĩ xấu cho người khác, đã phần nào sống trong hoả ngục rồi, nếu hiểu hoả ngục là tình trạng không hạnh phúc, luôn bị dày vò day dứt đau khổ. Và cũng trong ý nghĩa này người ta nhận ra, Thiên Chúa không tạo nên hoả ngục, nhưng chính con người tạo ra hoả ngục cho chính mình.
Yêu thương là muốn điều tốt cho người khác, muốn người khác trở nên tốt lành hầu họ nhìn nhận đúng thực tại, để họ bình an và hạnh phúc hơn. Khao khát cho mình và cho người khác trở nên trọn lành, ngay cả những người không ưa hay ghét mình, là khởi đầu của tình yêu đối với tha nhân và đối với Thiên Chúa.
2. Không thương xót là không yêu thương
Trong Tin Mừng ngày hôm nay, Đức Yêsu cho chúng ta nghe một dụ ngôn về lòng thương xót. Một người mắc nợ chủ, không có gì để trả, đáng lẽ phải bị bán làm nô lệ để trả nợ; anh ta van xin và nhận được lòng thương xót của chủ, và anh ta đã không bị bán nữa mà còn được tha cả món nợ. Thế nhưng anh ta đã không thương xót người bạn, khi người bạn chỉ nợ anh ta một chút xíu so với cái nợ to lớn của anh ta đối với chủ mà anh ta đã được tha “nhưng không.” Anh ta đưa người bạn ra tòa, để rồi người bạn phải vào tù vì “thiếu công bằng,” vì đã không hoàn trả nợ khi đến thời hạn. Theo “luật” công bằng, anh ta có thể làm như vậy, vì ai mắc nợ thì phải trả; tuy nhiên khi làm như vậy, anh ta đã không có lòng thương xót như anh ta đã van xin lòng thương xót của chủ.
Không lòng thương xót, không động lòng trước nỗi khổ của người khác, không động lòng trước sự bất lực của người khác, đòi phải “công bằng” khi người ta không thể trả nợ được, là điều bất nhân. Công bằng đúng nghĩa, phải luôn luôn hàm chứa yêu thương. Nếu không có yêu thương, không có công bằng. Con người là một giá trị “tuyệt đối” theo một nghĩa nào đó. Lòng thương xót đòi phải thông cảm ngay cả những giới hạn yếu đuối của con người, ngay cả khi họ “sa ngã” phạm tội. Khi nói sa ngã, hàm chứa lúc yếu đuối họ làm như vậy nhưng bây giờ họ không muốn như vậy nữa. Thông cảm và tha thứ, là dấu chỉ của tình yêu. Ai không tha thứ, là không yêu thương, và như vậy không hành xử giống như Thiên Chúa, không là con của Thiên Chúa.
Thánh Yoan nói, Thiên Chúa là Tình Yêu. Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương. Ai yêu thương là sống như Thiên Chúa, ai không yêu thương là không sống như Thiên Chúa, là không sống như con cái Thiên Chúa. Kitô giáo là đạo yêu thương, chính vì vậy thánh Phaolô nói: yêu thương là chu toàn tất cả lề luật. Đức Yêsu nói: “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Cái mới của giới răn Đức Yêsu dạy các môn đệ của Ngài, là hãy yêu thương như Ngài đã yêu thương. Ngài đã yêu thương đến hiến mạng sống cho người khác, cho tất cả mọi người bao hàm cả chúng ta; và đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.
3. Tình thương và hạnh phúc
Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài tạo dựng con người để cho con người chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm.2, 4). Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ tất cả lỗi lầm cho con người, mỗi khi con người trở lại với Ngài. Hơn nữa, chính Thánh Thần Thiên Chúa đang hoạt động nơi lòng mỗi người, mời gọi con người sống yêu thương, mời gọi thúc đẩy tội nhân sám hối trở lại với Thiên Chúa.
Thiên Chúa muốn tất cả được cứu độ, nhưng tuỳ con người. Ngài mời gọi, và con người có tự do. Ngài liên lỉ mời gọi con người hãy sống trong tình yêu của Ngài và với người khác, Ngài kiên nhẫn với con người, với tội nhân cho tới giây phút cuối đời mỗi người. Nếu ai cố tình từ chối lời mời gọi tình yêu, nếu ai cố tình sống trong thù hận như ma quỷ là những thần linh thù ghét Thiên Chúa và không muốn con người sống hạnh phúc, thì những người đó mới phải vào hoả ngục thôi. Và hoả ngục, cũng chính là do họ chứ Thiên Chúa không muốn con người đau khổ. Thiên Chúa không muốn ai đau khổ và bất hạnh.
Yêu thương là khởi đầu của một đời sống hạnh phúc. Yêu thương, thông cảm với nỗi khổ và yếu đuối của người khác, tha thứ khi họ xúc phạm đến mình, muốn cho người khác những điều tốt lành, tìm cách làm cho người khác được vui hơn, hạnh phúc hơn, đỡ cô đơn hơn, là cách hành xử của những người đang sống như con cái Thiên Chúa, đang sống trong yêu thương. Và chắc chắn những người sống như vậy, họ cảm nghiệm hạnh phúc, hạnh phúc khi làm cho người khác vui và hạnh phúc hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tha thứ, hệ tại điều nào?
2. Thiên Chúa có sẵn sàng tha thứ cho kẻ ngoan cố không? Tại sao?
3. Không yêu thương là bất hạnh. Bạn nghĩ sao về quan điểm này?
--------------------------------
Từ những mâu thuẫn có khi rất nhỏ nhặt dẫn đến trả thù nhau ngày càng diễn ra ở mọi tầng lớp TN 24-A113
Từ những mâu thuẫn có khi rất nhỏ nhặt dẫn đến trả thù nhau ngày càng diễn ra ở mọi tầng lớp và mọi môi trường sống của con người: nơi gia đình, nơi học đường và ngoài xã hội. Hậu quả của những cuộc trả thù là: bị thương tổn về tinh thần cũng như thể xác, thậm chí có những cuộc trả thù gây ra án mạng.
Cách đây không lâu do những mâu thuẫn nhỏ nhặt theo kiểu học sinh và sự “tinh tướng” của lứa tuổi mới lớn, nhóm học sinh cùng trường thuộc huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang đã gây ra cái chết cho chính một người bạn học của mình. Nếu chúng ta gõ trên google chữ “trả thù” thì nó sẽ hiện ra những hàng tít như: Đi ‘báo thù’ cho em, đánh nhau loạn xạ, người anh trai bị đâm chết; Dùng 6 xe tải chở 120 côn đồ đi trả thù; Đi trả thù, con chết cha nhập viện; Anh vác dao đi đánh nhau, trả thù cho em rồi bị đâm chết: Biết trách ai?...
Lối sống và cách cư xử trên đây đi ngược lại với đời sống và lời dạy của Đức Giêsu. Thật vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu là bài học về sự tha thứ. Trong ba năm rao giảng Tin mừng, Ngài đã từng tha thứ cho những kẻ tội lỗi như ông Lêvi, ông Giakêu, người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Ngài từng bị chống đối và bách hại bởi các luật sĩ, biệt phái...Đặc biệt vào những ngày cuối đời, Ngài bị bắt, bị đánh đập, bị xỉ nhục, bị đội mão gai, chịu vác thập giá và đóng đinh trên thập giá…nhưng Ngài không một chút oán hận những kẻ làm hại mình, trái lại Ngài còn cầu nguyện cùng Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 33). Chỉ một lời cầu nguyện với lòng sám hối của kẻ trộm lành, Ngài đã tha thứ và cho anh ta vào Thiên đàng ngay ngày hôm đó. Sau khi sống lại, Ngài đã không nhớ đến tội của các môn đệ, nhất là tội chối Thầy của ông Phêrô. Ngài còn lập bí tích Giao hòa để tha thứ tội lỗi cho con người mãi cho đến tận thế.
Ngài không những sống tha thứ mà còn dạy các môn đệ và mỗi người chúng ta biết tha thứ cho mọi người. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, khi Phêrô đến hỏi Ngài: Phải tha thứ mấy lần, có phải bảy lần không? Ngài đã trả lời với Phêrô rằng: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22). Tha thứ bảy mươi lần bảy không có nghĩa là 490 lần, mà là tha thứ không có giới hạn, tha thứ mãi mãi. Để quảng diễn tư tưởng đó, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn “Tên mắc nợ không biết thương xót” (x. Mt 18, 23-35). Trong dụ ngôn này, nhà vua chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa “là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân” (Tv 102,8). Ngài không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn thống hối để được sống (x. Ez 18,23). Trong thời Cựu Ước, dân Do thái đã bao lần phạm tội, lỗi giao ước, bội thề…nhưng hễ họ ăn năn sám hối trở về, Thiên Chúa lại tha thứ cho họ. Cùng với tâm tình đó, Đức Giêsu khẳng định: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5,32). Đức Giêsu còn kể nhiều dụ ngôn để nói về lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa, trong đó có ba dụ ngôn (Lc 15): Con chiên bị mất, đồng bạc bị đánh mất và người cha nhân hậu. Đức Giêsu không chỉ dạy tha thứ cho kẻ thù mà còn dạy cho chúng ta phải cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù nữa. Ngài nói: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44).
Vì sao Đức Giêsu sống tha thứ và dạy cho chúng ta bài học về sự tha thứ?
Thứ nhất, vì con người là bất toàn, hay sai lỗi như thánh Gioan nói: “Ai nói mình vô tội đó là kẻ nói dối” (x.1Ga 1,10). Có tội thì cần được tha. Tôi có tội cần sự tha thứ của anh em. Anh em có tội cần sự tha thứ của tôi. Chúng ta có tội cần sự tha thứ của Thiên Chúa. Như vậy, tha thứ rất cần thiết giữa con người với nhau và con người cần sự tha thứ của Thiên Chúa.
Thứ hai, khi thực hiện sự tha thứ là chúng ta nên giống Thiên Chúa, nên con cái của Cha chúng ta là Đấng ngự trên trời “vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45).
Thứ ba, tha thứ là điều kiện để Chúa nhận của lễ chúng ta dâng: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).
Thứ tư, tha thứ là điều kiện để được Chúa thứ tha: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”(Mt 6,14-15). Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cũng dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12). Sách Huấn Ca cũng dạy: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (Hc 28,2).
Thứ năm, tha thứ sẽ đem lại bình an cho con người. Trái lại, hận thù sẽ làm cho con người mất bình an. Đúng như người ta nói: “Lấy oán báo oán, oán oán chập chùng, lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan.”
Như vậy, qua mẫu gương và lời dạy của Đức Giêsu, và vì những lý do trên, nên mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực hiện sự tha thứ trong gia đình, trong cộng đoàn và mỗi môi trường chúng ta sống. Tuy nhiên, để thực hiện sự tha thứ không phải là chuyện dễ dàng. Vì thế, chúng ta hãy noi gương bắt chước Đức Giêsu. Ngoài mẫu gương của Đức Giêsu chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của các đấng bậc trong đạo ngoài đời: Gương của Thánh Stêphanô tha thứ cho Saolê và những kẻ giết mình; Gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tha thứ cho kẻ sát thủ Mehmet Ali Agca; Gương của Thánh Maria Goretti tha thứ cho Alessandrô là kẻ làm hại mình; Ông Gandhi vị anh hùng dân tộc Ấn Độ cũng chủ trương rằng: “Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết tha thứ cho anh chị em mình như Chúa đã tha thứ cho chúng con. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang)
Trong Cựu Ước, tội nhân là con nợ được Thiên Chúa tha thứ cho nhờ ơn tha thứ của Ngài. Thiên TN 24-A114
Trong Cựu Ước, tội nhân là con nợ được Thiên Chúa tha thứ cho nhờ ơn tha thứ của Ngài. Thiên Chúa tha thứ sạch hết mọi tội, xem như Ngài vất ra sau lưng, đúng như Lời Chúa trong Thánh vịnh đáp ca chúng ta vừa mới đọc: “CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà, ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc, khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng” (Tv 103,3-5).
Vâng, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống thế làm người đã không ngừng loan báo sự bao dung, và kêu gọi tha thứ và chính Ngài đã thực hiện trước để chúng ta noi theo. Qủa thế, trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu chịu biết bao nhiêu là khổ nhục: chửi mắn, sỉ vả, đánh đập, khinh khi... nhưng Ngài vẫn không thù vặt, sống không để bụng, chết cũng chẳng mang theo hay trả đủa dù Ngài làm được. Qủa thế, trên cây Thánh giá, trước khi tắt thở, Chúa Giêsu nói rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Lời nói chưa đủ, Ngài đã đổ máu mình ta để tha tội cho con người (Mc 14,24). Vì vậy, Chúa Giêsu là Tôi Tớ đích thực của Thiên Chúa, Người làm cho những kẻ được Người gánh tội trở nên công chính (1Pr 2,24).
Tha thứ của Chúa Giêsu là thế đó, tha vô điều kiện, tha vô hạn nên hôm nay Ngài dạy: "Thầy không bảo là tha thứ đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy" (Mt 18,22). Tiếc thay, chúng ta rất đỗi nhỏ nhen! Chúng ta thể hiện sự nhỏ nhen ấy ngay trong cách sống của mình: thù vặt, bất bao dung, giận hờn cay đắng hay từ nhau... Cho nên, trong cuộc sống biết bao nhiêu chuyện cay đắng, nghiệt ngã xảy ra từ trong gia đình ra xã hội: cha con chém giết nhau, vợ chồng ly dị, con cái đánh đập cha mẹ, anh chị em đánh đập nhau, bạn bè đánh nhau, đồng nghiệp chơi xấu nhau, rồi ngay cả trong tình yêu trai gái cũng chẳng chịu tha thứ cho nhau cho nên dù tình yêu đầu hay tình cuối thắm thía đến mấy cũng chia tay để rồi tuyệt vọng tự tử. Cho nên mới có chuyện: "Tình đầu hay tình cuối? khi một ngày một người đã ra đi... Tình đầu hay tình sau? khi cơn đau không biết đến bao lâu? Một ngày ta được yêu, rồi một ngày một mình ta buồn thiu. Biết trống vắng, biết thức trắng, và biết nếm trái đắng. Mà đời thì như chiêm bao, khi yêu nhau biết ra sao ngày sau? Tình đầu thường lên men đau, nên đôi khi trái tim như nhỏ máu. Đường tình nào biết đến phút cuối, bẽ bàng rồi lòng chất ngất tiếc nuối. Thì tình đầu chỉ còn trong kỷ niệm mà thôi... Em ơi! Em ơi, em đâu rồi... làm sao anh hôn dòng tóc rối? Em ơi! Em ơi, em đâu rồi... làm sao... làm sao ta có đôi? Em ơi! Em ơi, em đâu rồi... mộ bia đề tên em đó sao? Em ơi! Em ơi, em đâu rồi... để tình đầu là tình cuối đau lòng nhau?" (Lời bài hát Tình Đầu và Tình cuối)
Yêu nhau mà không tha thứ cho nhau dẫn đến cái chết đau thương thì cuộc đời còn gì là ý nghĩa, hạnh phúc và đáng sống. Vì vậy, hôm nay, Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta hãy sống nét độc đáo nhất của đạo Công Giáo đó là sự tha thứ, tha thứ cho hết mọi người kể cả kẻ thù chúng ta. Nhưng không ai trong chúng ta lại không cảm nhận nỗi khó khăn khi phải tha thứ cho người khác. Thế thì động lực độc đáo nhất của Kitô giáo thúc đẩy chúng ta dám tha thứ cho nhau là gì? Thưa đó là khi chúng ta cảm nhận chính mình được tha thứ, mình sẽ dễ dàng tha thứ cho người khác.
Cụ thể, hôm nay Chúa Giêsu dùng câu chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách... mà chúng ta vừa mới nghe để dạy chúng ta biết lòng bao dung, tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa với con người và sự độc ác nhỏ nhen của con người với nhau. Chúng ta được Thiên Chúa tha thứ cho món nợ rất lớn như thế, nhưng ngược, lại mình vẫn không chấp nhận tha thứ món nợ nhỏ cho anh em mình. Tai sao?
Thứ nhất, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói rằng vì con người ngày hôm nay đang dần dần đánh mất cảm thức về tội lỗi. Cho nên mình ăn gian nói dối, trộm cắp, phá thai, giết người... mà lương tâm mình bình thương không có gì là cắn rứt, không cần Chúa tha thứ (Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium Vitae, số 63). Thứ hai, con người quá yêu cái tôi của mình, cho nên những nhân đức của mình thì phóng cho to, còn những nét xấu giảm đến mức tối thiểu. Ngược lại, với người khác thì phóng đại cái tội lỗi người ta và giảm thiếu nhân đức của họ. Rồi, khi có lỗi với anh em, chúng ta chạy đến Chúa xưng tội, Chúa tha thứ hay là chúng ta chạy đến người mình phạm thôi, xin họ tha thứ; ngược lại họ lỡ phạm đến mình, chúng ta hậm hực không thể bỏ qua, “sống để bụng, chết mang theo”, hoặc bằng mặt chứ không bằng lòng. Hai lý do đó làm cho chúng ta mất cảm giác mình được Chúa tha thứ và cũng mất cảm giác bao dung tha thứ cho người khác.
Vậy phải làm gì? Lời Chúa trong bài đọc hai, Thánh Phaolô nói: “không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; vì Đức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết” (Rm 14,7-9). Vâng, sống cho Chúa nghĩa là sống với Chúa trong cầu nguyện. Chính trong cõi thinh lặng ấy ta có thể lắng nghe tiếng Đấng đã nói với ta trước khi ta nói lên lời, Ngài đã chữa lành ta trước khi ta có thể giơ tay kêu cứu, đã giải thoát ta trước khi ta có thể giải thoát kẻ khác và đã yêu thương ta trước khi ta yêu thương tha nhân. Vì vậy, khi cầu nguyện với Thiên Chúa càng sâu xa bao nhiêu, chúng ta càng cảm nhận sự thánh thiện của Thiên Chúa bấy nhiêu, và ngược lại càng thấy mình khiếm khuyết và tội lỗi, chính lúc ấy chúng ta mới nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa, để rồi “cũng tha cho kẻ mắc nợ với chúng con” (Mt 6,12).
Bình thường chúng ta đối xử với nhau bằng sức mạnh: bạo lực, chính trị, đồng tiền, toan tính thủ đoạn; nếu ai tha thứ thì cho là kẻ hèn nhát. Di sản tinh thần lớn nhất trên thế gian không phải là sức mạnh của bạo lực, tiền bạc mà là tình thương, tha thứ, vì tha thứ là chất xi măng xây dựng tình hiệp nhất, “tứ hải giai huynh đệ”. Hơn thế nữa, Lời Chúa dạy: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, thánh hiến và yêu thương. Vì thế anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà, nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em, người này có chuyện phải trách móc người kia, Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13). Đó chính là chất keo tuyệt vời nhất kết dính mối tình chúng ta với nhau hiệp nhất với Chúa Cha trên trời, trong Chúa Giêsu Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần. Với đức tin ấy, mời quý ông bà và anh chị em đứng lên tuyên xưng đức tin.
--------------------------------
Sau khi Chúa Giê-su dạy về việc sửa lỗi cho nhau, Phê-rô hỏi thêm: “Thưa Thầy, khi anh em TN 24-A115
Sau khi Chúa Giê-su dạy về việc sửa lỗi cho nhau, Phê-rô hỏi thêm: “Thưa Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần, có phải đến bảy lần không ?” Có lẽ nhiều người ngạc nhiên không biết tại sao Phê-rô lại đặt vấn đề con số.
Đối với Luật Do Thái, mấy chuyên viên luật đã cho một bảng kê khai phải tha cho ai mấy lần tùy trường hợp đối với gia đình hay người ngoài. Thông thường thì tha ba lần là tối đa, do đó đối với Phê-rô, tha bảy lần là vượt mức. Đối với Chúa Giê-su, tha thứ không có hạn chế, không có ranh giới. Bảy mươi lần bảy có nghĩa là không biên giới và vô điều kiện.
Để minh họa điều đó Chúa Giê-su dùng dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe đọc. Dụ ngôn không khó hiểu, nhưng câu kết lại rất nghiêm trọng và như là một lời cảnh báo: “Nếu anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình thì Cha Thầy ở trên trời cũng cư xử với anh em như vậy.” Như thế, Chúa Giê-su cho chúng ta thấy rằng, thái độ của chúng ta đối với anh em đồng loại thế nào, thì Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế.
“Lấy đấu nào đong cho người khác thì Chúa sẽ đong lại cho chúng ta bằng đấu ấy.” Lời của Chúa Giê-su hôm nay sẽ trở nên án phạt cho chúng ta, nếu chúng ta không khoan dung đối với anh em chúng ta.
Thánh Phao-lô bảo: “Đừng theo thói thế gian.” Chúng ta thường thấy đời sống xã hội hôm nay là “ăn miếng trả miếng,” cũng như thời Mô-sê, luật báo oán vẫn được áp dụng: “Mắt đền mắt, răng đền răng.”Chúa Giê-su đòi buộc chúng ta vượt lên trên sự hèn hạ xấu xa của con người.
Trong dụ ngôn, Chúa Giê-su chứng tỏ lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với chúng ta vượt xa mọi tính toán của con người. Chúng ta lỗi phạm. Khối tội của chúng ta là một món nợ khổng lồ không thể trả được. Có ai trong chúng ta có thể lượng giá tất cả tội lỗi của chúng ta đối với Chúa không? Thánh vịnh nói: “Nếu Chúa tôi nhớ hoài tội lỗi, nào ai đứng vững được chăng?”
Thế nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ. Còn chúng ta, chúng ta lại bắt lỗi anh em từng lời nói, chúng ta trách phiền người nầy người nọ và có lúc lại hiềm khích hận thù. Món nợ của chúng ta với Chúa to lớn như thế nào, anh em chỉ lỗi phạm một vài điều nhỏ nhặt, chúng ta không đủ can đảm tha thứ. Chúng ta xin Chúa thứ tha thế nào?
Bắt lỗi nhau, hiềm khích nhau để được gì? Ích lợi gì cho chúng ta? Chúng ta chỉ gặt hái sự bực bội, khó chịu và cáu gắt mà thôi. Thỏa mãn một chút tự ái, chúng ta đánh mất sự bình an, và đánh mất cả hạnh phúc.
Hãy nhìn Chúa Giê-su. Ngài thanh thản nhẹ nhàng. Ngài yêu thương những người tội lỗi: Gia-kêu, Maria Ma-đa-lê-na, người phụ nữ ngoại tình… Chúa Giê-su cũng đối xử với chúng ta như thế. Ngài “tìm kiếm những gì đã hư mất,” Ngài phục hồi những tâm hồn hoen ố. Cũng như trên đỉnh đồi Can-vê, trong nỗi thống khổ tột cùng, Ngài nhìn thấy những kẻ thù của Ngài hả hê đắc thắng, ngạo nghễ, vui cười trên đau khổ của Ngài. Ngài xin Cha tha cho họ… Như vậy, thái độ của Chúa không đủ làm cho chúng ta suy nghĩ hay sao?
Chúng ta cần được Chúa thứ tha, vì trước mặt Chúa, chúng ta là những kẻ tội lỗi, những người không thể trả nợ, sao chúng ta lại có thể chứa chất trong lòng những tự ái, ích kỷ, ghen tỵ? Sao chúng ta không thể rộng lượng như Cha trên trời?
Đối với chúng ta việc tha thứ đôi khi rất khó, nó đòi hỏi ta phải có lòng yêu thương nhiều, đòi hỏi quên mình và khiêm tốn. Phải, đôi khi nó đòi hỏi chúng ta thật nhiều, nhưng đó cũng là điều kiện tiên quyết để được tha thứ.
Chúa Giê-su dạy chúng ta quên mình để tha thứ như Ngài: “Xin Cha tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…” Chúng ta là con của Thiên Chúa Tình Thương, nên chúng ta hãy cố sống yêu thương và học bài học hiền lành và khiêm nhượng của Chúa Giê-su, thì chúng ta sẽ dễ tha thứ và tạo bầu khí xung quanh trong lành và hạnh phúc.
Thế gian đầy dẫy hận thù, tranh chấp. Chúng ta không thể rót vào biển lửa hận thù đó một chút yêu thương sao? Chúng ta không thể xoa dịu những vết thương hận thù giữa anh em chúng ta, xây dựng một tình huynh đệ chân thành giữa anh em đang chung sống với chúng ta trong cuộc sống cam go nầy sao?
Chúng ta mơ tìm hạnh phúc, nhưng hạnh phúc không ở nơi hận thù ghen ghét. Hạnh phúc thật chỉ đến trong tình yêu. Thánh Phao-lô, trong nhiều bức thư đã khích lệ giáo dân của ngài sống yêu thương, tha thứ. Hôm nay, chúng ta vừa nghe trong đoạn thư gửi giáo đoàn Rô-ma những lời rất đặc biệt mà nhiều khi chúng ta không để ý: “Không ai sống cho chính mình cũng không ai chết cho chính mình. Sống là sống cho Thiên Chúa, và chết là chết cho Thiên Chúa”. Điều đó có nghĩa gì?
Nếu sống cho mình là sống theo bản năng và ý muốn của mình, thì chúng ta chỉ gieo rắc khốn khổ thôi. Sống cho Thiên Chúa là mở rộng Vương Quốc Tình Yêu của Ngài; nơi đó, chúng ta mới tìm được điều chúng ta mong ước là Hạnh Phúc.
Hôm nay, trong hiến lễ tình yêu nầy, chúng ta sẽ cùng với Chúa Giê-su cầu xin cho “Nước Cha trị đến”. Và Nước Cha chính là Nước Tình Yêu và tha thứ.
Chúng ta sẽ ăn lấy Đấng đã yêu thương chúng ta, tha thứ và liều mạng cho chúng ta, chúng ta hãy đem tình yêu vào gia đình, làng xóm và trong môi trường chúng ta đang sống…
Xin cho con biết:
“…đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
đem an hòa vào nơi tranh chấp,…
đem niềm vui đến chốn ưu sầu”.
*******
Nhiên liệu để đi xa hơn:
Tha thứ
Mục sư Richard Wurmbrand, người Rumani, đã bị giam 14 năm vì danh Chúa. Ông đã ghi lại nhiều câu chuyện về bác ái của những Ki-tô hữu bị bách hại. Trong trại giam chung với ông có một linh mục; không hiểu vì sao ông ấy bị đem ra hành hạ và đánh đập một cách dã man nhiều lần. Một hôm, sau khi bị hành hạ dã man và bị đẫy vào phòng giam dở sống dở chết, những bạn tù tức tối chửi rủa những anh lính kia; Nhưng vị linh mục nầy khoát tay bảo họ im đi và lấy hết sức còn lại, nói với anh em bạn tù: “Đừng chửi rủa họ vì họ không biết họ đang làm gì. Hãy thương họ là đúng hơn. Hãy cầu nguyện cho họ.”
Tha thứ
Cha Franz Stock là một linh mục người Đức và là tuyên úy lao xá trong thời Pháp bị nước Đức chiếm đóng. Trong thời kỳ ấy, Chính phủ Đức đã ra lệnh xử bắn nhiều tù nhân khác khi có một đồn quân Đức bị đánh, hay một lính Đức bị ám sát để trả đũa. Cha F.Stock luôn có mặt nơi pháp trường. Có những ngày ngài phải chứng kiến hàng trăm người bị xử bắn. Trước khibị bịt mắt, các tử tội được phép gặp cha tuyên úy để xưng tội, hay tạo những gì cho gia đình và thân nhân. Ngài kể lại, có lúc ngài thật cảm kích trước thái độ bác ái và bao dung của những người tù. Có người trao cho ngài một tấm giấy nhỏ cho thân nhân trong đó viết: “Hãy an tâm. Anh chết vì Tổ Quốc, vì Chúa. Xin đừng hận thù một ai”. Có người trước khi bị bắn, họ hô to: “Hoan hô Nước Pháp muôn năm! Lạy Chúa, con xin dâng mạng sống con cho Chúa, cho Tổ Quốc, cho những người xử bắn con. Xin tha cho họ”.
Một sĩ quan Pháp, trước khi bị xử bắn đi đến bắt tay từng người trong tiểu đội lý hình. Anh nói: “Các anh hãy làm nhiệm vụ của các anh. Nhiệm vụ của tôi đến đây là hết. Cám ơn các anh. Không hận thù. Giả từ tất cả”.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Mt 18, 21-35:
Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu dạy hãy sửa lỗi cho nhau. Tin Mừng tuần này, Chúa dạy hãy TN 24-A116
Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu dạy hãy sửa lỗi cho nhau. Tin Mừng tuần này, Chúa dạy hãy tha thứ. Góp ý xây dựng là một nét đẹp của tình yêu. Tha thứ là mùa xuân của tình yêu...
***
Văn hào Nga, Lêon Tolstoi kể câu chuyện ngụ ngôn.
Có một người hành khách đến trước cửa nhà một người giàu có để xin bố thí. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu đựng đựơc những lời van xin đó, thay vì bố thí, người giàu có đã lấy đá ném vào người hành khất. Con người khốn khổ ấy lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: ta sẽ mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi.
Năm tháng trôi qua, lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất cũng chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng, ông đi theo đoàn người áp giải, tay không rời hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên mình. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này giờ đây chỉ là một kẻ khốn khổ như ta mà thôi.
Có hai thứ mùa xuân. Xuân đất trời và xuân tâm hồn. Xuân đất trời, mầm non nẩy lộc, cây cối xanh tươi. Xuân tâm hồn, bình an thanh thản. Người hành khất đã tìm lại mùa xuân tâm hồn. Vì biết tha thứ nên tâm hồn mang nặng hờn căm oán ghét giờ đây đã hồi sinh, nảy mầm. Từ đây, cuộc sống trở nên tươi đẹp. Mới mẻ của mùa xuân tâm hồn con người là sự tha thứ.
Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu dạy hãy sửa lỗi cho nhau. Tin Mừng tuần này, Chúa dạy hãy tha thứ. Góp ý xây dựng là một nét đẹp của tình yêu. Tha thứ là mùa xuân của tình yêu.
Trang Tin Mừng thuật lại cuộc đàm đạo về ơn tha thứ.
Phêrô đến gần Chúa Giêsu hỏi rằng: Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm đến con thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không?. Đối với người Do thái là “quá tam ba bận”. Có tha chỉ tha ba lần thôi, đến lần thứ tư phải trừng phạt. Họ suy luận:Thiên Chúa trừng phạt kẻ ác khi nó lỗi phạm lần thứ tư; người phàm không thể nhân lành hơn Thiên Chúa nên con người không thể tha thứ cho nhau quá ba lần. Trước lời suy luận và giảng dạy như thế của các kinh sư, Phêrô chắc mẫm sẽ được Thầy khen ngợi khi đề nghị tha bảy lần. Vì tha thứ bảy lần là đã gấp đôi truyền thống Do thái và còn cộng thêm một lần nữa. Phêrô đến với Chúa bằng tâm thức của luật dân Chúa đang tuân giữ "Thiên Chúa luôn tha thứ cho người công chính bảy lần" (Cn 24,16). Tha thứ bảy lần là tha thứ có giới hạn. Thế nhưng, câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm bàng hoàng người nghe: Không phải chỉ bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy. Tha thứ đến 490 lần. Ở đây không thể hiểu theo nghĩa đen với công thức toán học để tìm ra con số lần phải tha thứ cho anh em mà là tha thứ không giới hạn, tha hoài, tha mãi.
Để các môn đệ hiểu bài học tha thứ không giới hạn này, Chúa Giêsu đã cụ thể hoá bằng câu chuyện. Một người đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn nén bạc, có giá trị tương đương một trăm triệu, một số nợ khổng lồ vì một ngày công chỉ một đồng (x. Mt 20,9). Vua ra lệnh bán y, vợ con, tài sản của y để trả nợ. Người đầy tớ liền sấp mình, van lơn xin khất nợ. Nhà vua động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.Tên đầy tớ được tha hết mọi nợ nần, được trả tự do, không còn làm nô lệ nữa. Trớ trêu thay, vừa được tha về, tên đầy tớ gặp một người bạn chỉ mắc nợ y một trăm đồng, một món nợ rất nhỏ so với món nợ khổng lồ y vừa được vua tha bổng, y tóm lấy, bóp cổ đòi trả nợ ngay. Người bạn sấp mình dưới chân y, van lơn xin khất nợ, nhưng y không nghe, bắt bạn tống giam vào ngục. Chuyện chướng tai gai mắt này đến tai vua, vì những người bạn của anh không thể nhắm mắt làm ngơ được. Kết cục, tên đầy tớ ác độc bị vua ra lệnh hành hạ. Kết thúc câu chuyện, Chúa Giêsu khẳng định: “Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
Tha thứ cho nhau là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ. Chúa Giêsu cho thấy tính cấp thiết và cần thiết của ơn tha thứ.
- Phải tha thứ vì ai cũng lỗi lầm.
“Nhân vô thập toàn”, không ai hoàn hảo cả. Là con người, ai cũng có những sai trái, những lầm lỗi. Xét lại bản thân, sẽ thấy chính mình cũng có nhiều sai trái, lắm khiếm khuyết và lầm lỗi. Vô ý và hữu ý, cố tình và vô tình xúc phạm nhau. Chỉ cần một chút cảm thông, một ít hiểu biết sẽ dễ dàng bỏ qua, không chấp nhất. Người mang nặng oán hờn là người không bao giờ bình an. Như người hành khất mang hòn đá căm hờn mười mấy năm nặng nề. Trong các thứ khổ hạnh, giữa những thứ đắng cay, có một thứ rất cay đắng, đó là thiếu vắng thông cảm, là tâm hồn mang hận thù. Khi thù ai, tâm hồn tôi không còn phẳng lặng. Khi tôi bị người khác thù hận, tôi sống trong đề phòng sợ hãi. Cả hai đều là ngục tối. Cả hai đều đánh mất bình an tâm hồn.
Tha thứ là việc vô cùng khó. Tha thứ vượt qua khả năng tự nhiên của con người, nhất là đối với người Việt Nam chúng ta “sống để bụng, chết đem theo”. Câu nói đó cho thấy người Việt Nam giận dai, thù dai, nhớ dai những xúc phạm của người khác như thế nào. Cần phải tha thứ cho nhau. Thánh Phaolô đã khuyên bảo: “Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4,32). Đức Phật cũng dạy lấy ơn trả oán chứ đừng lấy oán trả oán: Lấy oán trả oán, oán chập chùng. Lấy đức trả oán, oán tiêu tan.
- Mỗi người cần được thứ tha.
Mỗi người trong đời có biết bao lỗi lầm. Đời người là một chuỗi những vấp ngã được đan kết với bao thứ tha. Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời người, nếu bị ngăn lại sẽ thành ao tù, nó sẽ trong lành khi chảy đến anh em. Luật “mắt đền mắt răng đền răng” là luật công bằng, nhưng ơn tha thứ mới đem lại mùa xuân cho cuộc đời. Thánh Phanxicô Assidi cũng đã xác định: vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ.
- Tha thứ để được Chúa thứ tha.
Chúa Giêsu nhấn mạnh điều này rất nhiều lần. Khi dạy kinh Lạy Cha, Chúa mời gọi mỗi người phải hứa tha thứ cho anh em khi xin Người tha thứ lỗi lầm cho mình. Ở cuối kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu căn dặn: Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15). Thánh Phaolô sống Lời Chúa dạy và đã tha thiết mời gọi: “Anh em hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em, người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau”(Col 3,13).
- Tha thứ là hồng ân của Thiên Chúa.
Trả thù là khuynh hướng nhân loại, tha thứ là hồng ân Thiên Chúa. Quan toà có thể không tha thứ cho tội nhân, nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi, nếu họ thực lòng ăn năn hối cải.
Trong lúc đau đớn tột cùng trên thập giá, Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại, lăng nhục, cáo gian và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).
Thế giới hôm nay đang bị thống trị bởi bạo lực và oán thù. Những cuộc chiến tranh dai dẳng giữa các quốc gia; những hiềm thù giữa các bộ tộc anh em; những xung đột giữa những người khác màu da, khác tôn giáo, khác quan điểm chính trị; những thảm kịch vô phương hàn gắn trong gia đình. Con người để cho hận thù lôi kéo và không sao thoát ra khỏi cái vòng ân oán nghiệt ngã. Cần phải có những người dám chịu thiệt thòi, dám bẻ gãy oán thù bằng tha thứ, dám tin rằng tình thương có thể biến đổi quả tim chai đá của con người. Giáo hội vẫn luôn kêu gọi xây dựng một nền văn minh tình thương, vì chỉ khi ấy trái đất này mới có cơ may tồn tại.
Tha thứ là lời mời gọi duy nhất để tình yêu lớn lên. Tha thứ đem về mùa xuân cho tâm hồn đâm chồi yêu thương, nảy lộc bình an. Chúa đã tha thứ cho Phêrô, tình yêu bùng cháy, Phêrô đã sống hết mình cho sứ vụ Thầy trao. Phaolô đựơc ơn tha thứ, biến đổi cuộc đời, thành sứ giả lừng danh rao truyền Đức Kitô cho thế giới.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của lòng khoan dung. Thế giới có “Ngày khoan dung quốc tế” (International day of tolerance) do Liên Hiệp Quốc thiết lập vào ngày 16.11.1995. Người khoan dung độ lượng là người không chấp nhất, nhưng thông cảm với những lầm lỗi của kẻ khác. Lòng khoan dung độ lượng được xây dựng trên ý thức về những yếu đuối, về khả năng phạm lỗi của chính bản thân mình, và của người khác. Mình cũng phạm lỗi sao mình lại kết án người khác? Thế giới có ngày khoan dung, người Kitô hữu cần cả đời khoan dung.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới, một thế giới cảm thông chan hoà, một thế giới chan chứa tình huynh đệ, một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định điều ấy: Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ.
Chúa Giêsu vì yêu thương đã hiến dâng chính mình trên hy tế thập giá đễ ban ơn cứu độ cho nhân loại. Với hiến tế Thánh Thể, Người vẫn tiếp tục tuôn đổ ơn cứu độ. Đón nhận Thánh Thể là nguồn sức mạnh, nguồn tình yêu để chúng ta biết tha thứ cho nhau.
-------------------------------
Lm Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin Mừng Mt 18, 21-35:
Tin Mừng hôm nay thuật lại: “Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu TN 24-A117
Tin Mừng hôm nay thuật lại: “Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”...
***
Tin Mừng hôm nay thuật lại: “Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”.
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha thứ mãi, tha thứ không giới hạn. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Người đã chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo, và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.
Nhưng tại sao phải tha thứ? Phải tha thứ cho anh em vì đó là điều kiện để được Chúa thứ tha. Đức Giêsu đã nói: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em”.
Tha thứ là một lệnh truyền khó thực hiện nhất nhưng cũng là nghĩa cử cao cả nhất. Chúng ta có thể cho đi tiền của, trao ban thì giờ, hiến dâng mạng sống. Nhưng các điều đó xem ra còn dễ hơn là tha thứ cho kẻ thù, yêu thương kẻ ngược đãi mình, và làm ơn cho kẻ oán ghét chúng ta.
Tha thứ là một điều rất dễ nói nhưng lại rất khó thực hành.
Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, gia đình của cô Coritanbum sinh sống ở Amsterdam, Hòa Lan, sống nhờ cửa tiệm làm và bán đồng hồ. Khi quân đội Đức Quốc Xã chiếm Hòa Lan thì gia đình cô dấn thân trợ giúp người Do Thái, và hậu quả là có người chỉ điểm làm cho toàn gia đình cô bị bắt vào trại tập trung, chỉ còn một mình cô sống sót.
Sau thế chiến thứ hai, cô đi khắp Âu Châu để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Một hôm sau buổi thuyết trình tại Munich, Miền Nam nước Đức, một người đứng lên cám ơn cô về bài thuyết trình thật hay, nhưng cô chết điếng người khi nhận ra người đàn ông đó chính là người lính Đức Quốc Xã trước kia đã giam giữ cô và gia đình cô. Bỗng chốc cô nhớ lại tất cả những hành động bỉ ổi của người lính đã xúc phạm đến con người, nhất là phẩm giá của những nữ tù nhân trong trại mà anh lính này đã làm trước mắt cô ngày trước. Cô Coritanbum lúng túng không kịp đưa tay ra bắt tay người đã hành hạ mình, và lúc đó cô mới hiểu thấm thía nói dễ nhưng làm khó. Chính lúc bấy giờ cô khám phá ra mình cũng chưa thật sự tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình trước đây.
Kinh nghiệm của cô Coritanbum cũng chính là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta hôm nay, dù hình thức có thể khác, nhưng tựu trung nội dung vẫn giống nhau. Khi nói về sự tha thứ, thường thì khuyên kẻ khác tha thứ rất dễ, nhưng khi trực tiếp đối diện với kẻ xúc phạm đến mình, phải thực hành một việc tha thứ cách cụ thể cho người đang đứng trước mặt mình thì quả thật khó khăn vô cùng. Có thể chúng ta cũng khó vượt qua được những cảm xúc như cô Coritanbum. Nhưng nếu chúng ta không tha thứ thì chính chúng ta sẽ tự làm khổ chúng ta như văn hào Nga Leon Tolstoi kể câu chuyện như sau:
Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.
Đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù. Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục, ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch nỗi nhục hằng đeo đẳng. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiểu tụy đáng thương của kè đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta”.[1]
Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất mà Kitô giáo đã cống hiến cho con người. Trao ban tiền của, trao ban thì giờ, trao ban chính mạng sống mình là điều xem ra dễ làm hơn trao ban lòng tha thứ. Nhưng tha thứ lại là của lễ đẹp lòng Chúa nhất, bởi vì qua đó, con người được nên giống Thiên Chúa hơn cả. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta là Thiên Chúa tha thứ và tha thứ không ngừng. Và chỉ có một Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy mới có thể đòi hỏi con người phải tha thứ không ngừng. Tha thứ là nét cao đẹp nhất của con người, bởi vì càng tha thứ con người càng nên giống Thiên Chúa. Amen.
--------------------
[1] Câu chuyện người ăn xin trích trong R.VERITAS, Lẽ Sống, trg.176-177
----------------------------------
Trong ngày Tết Âm Lịch, người ta chúc nhau một câu vui đùa: "Chúc cho năm mới làm ăn phát TN 24-A118 fin
Trong ngày Tết Âm Lịch, người ta chúc nhau một câu vui đùa: "Chúc cho năm mới làm ăn phát tài, tiền vào như nước, tiền ra nhỏ giọt". Nghĩ cho kỹ, câu chúc này không thích hợp với định luật tự nhiên nếu không muốn nói là... "có trục trặc bệnh lý". Một người ăn uống thả cửa, món ngon món dở thầu chở ráo trọi mà không có chuyện giải quyết... "hậu sự", thì chắc chắn trong vòng 24 tiếng sẽ phải nộp đơn xin nhập bệnh viện gấp. Có "input" mà không "output" thì chắc chắn sẽ bị dồn ép và bùng nổ. Con người muốn sống lành mạnh phải theo định luật tự nhiên ra vào đều hoà.
Tuy nhiên theo tâm lý tự nhiên con người lại có chiều hướng bệnh hoạn, chỉ có vô mà không cho ra. Người ta muốn chìa tay xin xỏ, nhận lãnh, nhưng không muốn ban phát. Trong bài Phúc Âm, thánh Phêrô hỏi Chúa Giêsu: "Nếu anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải bảy lần không?" Thánh Phêrô nghĩ rằng con số bảy là quá rộng rãi. Chúa Giêsu trả lời bằng dụ ngôn người chủ tha nợ cho đầy tớ nhưng hắn lại không tha nợ cho bạn hắn. Cuối cùng tên đầy tớ phải chịu hành hình cho đến khi trả nợ xong.
Tội nguyên tổ đã làm cho con người nên hư hỏng hẹp hòi, ích kỷ, chỉ muốn vơ vào, tích lũy, không chịu cho đi, ban phát. Đó chính là cái bệnh làm cho cuộc sống con người trở nên bất hạnh. Của cải vật chất, tiền bạc người ta ôm vào cho thật nhiều để rồi lo lắng, không ăn không ngủ vì sợ mất. Những khó chịu, giận dỗi, hận thù, ganh tỵ với tha nhân là những viên thuốc độc giết chết con người dần mòn, nhưng người ta cứ khư khư ôm lấy để sống trong buồn sầu bất hạnh.
Một người ăn xin đến gõ cửa nhà một người giầu có. Người giầu không cho gì mà còn đuổi đi và ném theo một cục đá vào lưng người ăn xin thật đau điếng. Người ăn xin nhặt cục đá bỏ vào trong bao đeo trên mình với lời thề nguyền để ghi nhớ suốt đời mối hận này. Năm tháng trôi qua người ăn xin già đi và cảm thấy cục đá để trong bao mỗi ngày một nặng hơn, và lòng ông cũng nặng chĩu với mối hận ghét người nhà giàu ác tâm ném đá ông. Một ngày kia ông già ăn xin cảm thấy mệt mỏi vì mang trên mình cục đá đó, ông đã thò tay vào bao lấy cục đá ra và ném xuống đất. Người ông cảm thấy thật nhẹ nhàng, dễ chịu. Từ đó ông không còn để lòng hận ghét và nhớ đến người nhà giàu kia nữa.
Qua bài Phúc Âm Chúa muốn dạy chúng ta, tha thứ là con đường tự giải thoát chính mình. Muốn lãnh nhận ơn tha thứ, ta hãy mở lòng tha thứ cho người khác. Ơn tha thứ Thiên Chúa sẵn sàng ban phát, nhưng chúng ta chỉ có thể lãnh nhận ơn tha thứ khi mở cửa lòng ra để tha thứ cho người khác. Ngược lại, nếu chúng ta khư khư ôm mối căm hờn khép kín cửa lòng lại với tha nhân, ơn tha thứ của Thiên Chúa không thể đến với ta được.
----------------------------------
Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Với ch. 18 của TM Mt, chúng ta đi vào Bài Diễn từ thứ tư, đề cập đến đời sống huynh đệ trong TN 24-A119
Với ch. 18 của TM Mt, chúng ta đi vào Bài Diễn từ thứ tư, đề cập đến đời sống huynh đệ trong lòng Hội Thánh, cộng đoàn Kitô hữu. Bài Diễn từ được chia thành hai phân đoạn, phân đoạn thứ nhất đề cập đến "những kẻ bé mọn" (18,1-14) và phân đoạn thứ hai liên hệ đến người anh em phạm tội (18,15-35). Mỗi phân đoạn kết thúc với một dụ ngôn: con chiên lạc (18,12-14), và ông vua và người đầy tớ (18,21-35).
Sau đây là bố cục chung cho cả bài Diễn từ:
I. Mối quan tâm đến những kẻ bé mọn (18,1-14):
A. Người lớn và kẻ bé mọn (cc. 1-5),
B. Đừng khinh những kẻ bé mọn (cc. 6-10),
C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Quan tâm đến những kẻ lầm đường lạc lối (cc. 12-14);
II. Kỷ luật và Tha thứ (18,15-35):
A. Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô (cc. 15-20),
B. Tha thứ không giới hạn (cc. 21-22),
C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (cc. 23-35).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Nguyên tắc: Tha thứ không giới hạn (18,21-22);
2) Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (18,23-35):
a) Phần 1: Ông vua và người đầy tớ (18,23-27),
b) Phần 2: Người đầy tớ và anh bạn (18,28-30),
c) Phần 3: Ông vua và người đầy tớ (18,31-34);
3) Kết luận của Đức Giêsu (18,35).
3.- Vài điểm chú giải
- Con phải tha đến mấy lần (21): Truyền thống kinh sư Do Thái thường nói đến con số 4 như là con số tối đa. Phêrô nâng lên tới 7, tưởng đã hợp ý Thầy! Đức Giêsu nói: "Bảy mươi bảy lần (hepdômêkontakis hêpta)", vì Người lấy lại bài ca báo thù của Laméc trong St 4,24 ("Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng Laméc thì gấp bảy mươi bảy"), nhưng lật ngược lại theo chiều hướng sự tha thứ. Có bản dịch đọc là "bảy mươi lần bảy", hoặc "bảy mươi lần bảy lần". Mọi cách đều có ý nói: phải tha thứ không giới hạn.
- đầy tớ (23): Doulos có thể là bất cứ hạng nô lệ nào, vì không phải là chuyện lạ khi có những nô lệ được giao cho công việc tài chánh.
- Mắc nợ mười ngàn yến vàng... một trăm quan tiền (24.28): Nếu dựa theo lượng định của sử gia F. Giôxép, cùng thời với Đức Giêsu, một yến vàng vào thời đó trị giá mười ngàn quan (lương công nhật là một quan). Vậy mười ngàn yến vàng trị giá một trăm triệu quan: tỷ lệ giữa hai món nợ là 1/1.000.000. Thật ra, đây là một con số phóng đại, bởi vì thuế cống nạp của một tỉnh trong đế quốc Rôma cũng không vượt quá vài trăm yến vàng. Đức Giêsu có ý nói rằng đây là một con số lớn tối đa (10.000 là con số lớn nhất vẫn được sử dụng và yến vàng là đơn vị tiền tệ to nhất thời ấy).
- Tôn chủ ra lệnh bán y, vợ con y (25): Luật Do Thái chỉ cho phép bán một người Israel nếu người này đã ăn trộm mà không thể bồi hoàn. Thế mà ở đây bản văn không hề nói là người đầy tớ đã trộm cắp, nhưng chỉ nói là anh ta không thể trả nợ. Đàng khác, luật Do Thái lại triệt để cấm bán phụ nữ. Như thế, truyện giả thiết là vị vua cũng như các đầy tớ là những người ngoại giáo.
- buồn lắm (31): Động từ lypeomai có thể diễn tả một tổng hợp giữa buồn phiền, giận dữ và nhờm tởm, chứ không chỉ là nỗi buồn phiền.
- trình bày đầu đuôi câu chuyện (31): Động từ diasapheô có nghĩa là "nói toạc ra hết; làm sáng tỏ".
- thương xót (33): Ở đây là động từ eleeô của truyền thống Kinh Thánh, tương tự động từ splanchnizomai của đời thường.
- trao y cho lính hành hạ (34): Hành hạ những con nợ đã bị bán làm nô lệ là một cách để thúc đẩy bà con và bạn bè bỏ tiền ra mà mua tự do cho người bị hành hạ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu thường nói về sự cần thiết phải tha thứ cho những người đã xúc phạm đến chúng ta. Cứ mỗi lần Người lại lưu ý rằng ơn tha thứ của Thiên Chúa mà chúng ta muốn nhận, vì cần thiết cho việc cứu độ của chúng ta, lệ thuộc thái độ chúng ta sẵn sàng tha thứ. Mối Phúc thứ năm (Mt 5,7) đặc biệt đề cập đến lòng từ bi thương xót khi tha thứ và loan báo rằng Thiên Chúa sẽ tha thứ cho những ai biết tha thứ (x. 18,33; Kinh Lạy Cha: 6,12).
Đến cuối bài Diễn từ thứ tư, nói về cách xử sự trong cộng đoàn các môn đệ, Đức Giêsu đã trở lại mà nói chi tiết hơn về sự tha thứ.
* Nguyên tắc: Tha thứ không giới hạn (21-22)
Câu hỏi của Phêrô dẫn tới đề tài "sự tha thứ". Đối với ông, đã rõ ràng là các môn đệ của Đức Giêsu buộc phải tha thứ cho kẻ "phạm tội chống lại con" ([h]amartêsê eis eme), nhưng ông muốn biết là phải thi hành bổn phận này như thế nào. "Bảy lần" mà ông gợi ra không hề không đáng kể. "Bảy" là con số truyền thống nói về sự hoàn hảo. Như thế, Phêrô gợi ý là tha bảy lần không hề có nghĩa là ông chỉ muốn ban cho người anh em một sự tha thứ giới hạn. Câu hỏi của ông thật ra có nghĩa là: "Phải chăng con được chờ đợi tha thứ hoàn hảo?".
Đức Giêsu có thể chỉ cần trả lời "đúng thế", nhưng Người cho một câu trả lời dài hơn để nói rằng còn phải hoàn hảo hơn thế nữa. Ông cứ phải tha thứ cách hoàn hảo nhất, liên tục, vô biên, không biên giới, không tính toán. Câu trả lời của Đức Giêsu đã đưa đến mức cùng cực. Đây là một chương trình, chứ không chỉ là chuyện thực tế. Rất có thể tác giả đang nghĩ đến St 4,24; nếu không, chúng ta không có cách nào khác để giải thích công thức lạ lùng là "bảy mươi lần bảy". Đức Giêsu cho Phêrô biết rằng sẽ không bao giờ đến cái lúc mà chúng ta có thể nói: Bây giờ tôi đã tha thứ đủ rồi; bây giờ tôi không còn bị buộc phải tha thứ nữa; đối với tôi mức độ tha thứ đã đạt rồi! Với công thức "bảy mươi lần bảy", Người không muốn nêu ra một khối lượng các trường hợp đo lường được, nhưng nhắm khẳng định rằng bổn phận tha thứ không hề có một giới hạn nào.
* Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (23-35)
Với dụ ngôn "Tên mắc nợ không biết thương xót", Đức Giêsu nới rộng chân trời, cung cấp lý do và thức tỉnh sự hiểu biết lý do tại sao chúng ta phải tha thứ không mức độ. Hình ảnh một vị "vua" dễ dàng khiến độc giả và thính giả Do Thái nghĩ đến Thiên Chúa. "Thanh toán sổ sách" (synairô logon) cũng là một ẩn dụ quen thuộc để nói về phán xét. Trong Kinh Thánh, từ ngữ "đầy tớ" mang sắc thái tôn giáo, để chỉ những người "phụng sự" Thiên Chúa.
Trong câu hỏi của Phêrô, rồi trong cách xử sự của tên đầy tớ không biết thương xót (18,28-30), cái nhìn thu hẹp lại và chỉ nhắm đến quan hệ giữa tôi và người mắc nợ tôi: vì có gì mà tôi cứ phải liên tục chịu đựng những thiệt thòi? Đức Giêsu nhắc ta nhớ đến Thiên Chúa và sự tha thứ ta đã nhận được từ nơi Ngài. Như vậy, quan hệ là giữa Thiên Chúa, tôi trong tư cách là con nợ của Người và người thân cận của tôi đã trở thành con nợ của tôi. Dụ ngôn muốn cho chúng ta thấy rằng chúng ta mắc nợ Thiên Chúa thế nào và Ngài đã xử chúng ta với lòng thương xót thế nào. Trên bối cảnh này, ta thấy rõ cách phải theo mà lượng định cách xử sự không thương xót đối với người thân cận nay đã thành con nợ.
Phần đầu của dụ ngôn (18,23-27) giới thiệu đức vua (Thiên Chúa) và con nợ của ngài. Người đầy tớ thứ nhất mắc nợ nhà vua mười ngàn yến vàng. Đây là một con số quá lớn chắc chắn khiến thính giả phải sửng sốt. "Con nợ" và "mắc nợ" là những từ ngữ dễ dàng gợi ra những sắc thái tôn giáo. Đối với các thính giả của Đức Giêsu nói tiếng A-ram, từ ngữ khôva' có cả hai nghĩa, món nợ về tiền bạc và tội.
Nếu nhà vua nhất định đòi lại nợ, tức là yêu cầu công bình phải được tôn trọng, người đầy tớ sẽ mất hết những gì làm nên cuộc sống của anh. Anh sẽ phải thanh toán món nợ bằng chính bản thân, tự do, gia đình và gia sản của anh: anh sẽ mất tất cả mọi thứ ấy và cuối cùng sẽ rơi vào tình cảnh khốn quẫn hết sức thê thảm, anh sẽ rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng. Theo Jeremias, giá của một nô lệ vào khoảng năm trăm đến một ngàn quan. Đứng trước số phận như thế, người đầy tớ đã khẩn cầu nhà vua cho khất một thời gian. Ai cũng biết rằng đây là một món nợ không thể thanh toán. Tuy nhiên, nhà vua biết rõ hoàn cảnh tuyệt vọng của người đầy tớ và đã động lòng thương: ông không ưng thuận cho triển hạn như anh xin, nhưng ông xóa hoàn toàn món nợ cho anh; "ông tha": động từ aphiêmi cũng có nhiều nghĩa, và có thể gợi ra sắc thái tôn giáo. Như thế, người đầy tớ không những được giải thoát khỏi món nợ, nhưng còn thoát nỗi bất hạnh và cảnh khốn quẫn vẫn đe dọa anh lâu nay, và có thể nói, anh được hồi phục sự sống. Hẳn là anh phải có lòng biết ơn vô hạn đối với nhà vua và sẵn sàng noi gương ông, có một con tim như ông, mà tỏ ra từ bi thương xót với người khác (x. 5,48; 18,33).
Trong phần thứ hai của dụ ngôn (18,28-30), con nợ vừa được ân xá gặp một người đầy tớ đồng bạn (syndoulos), từ này gợi ý là hai người thuộc về cùng một giai cấp, thì lẽ ra phải có tình liên đới với nhau. Người bạn này chỉ nợ anh một món nhỏ, một trăm quan. Bằng cách đó, Đức Giêsu đánh giá tương quan giữa món nợ chúng ta mắc với Thiên Chúa và món nợ mà người thân cận mắc với chúng ta. Người đầy tớ vừa được tha thứ đã quên hết mọi sự. Cách xử sự của hắn hoàn toàn ngược lại với tấm gương mà hắn đã nhận từ chủ. Hắn tỏ ra ác độc và tàn nhẫn, hắn muốn thu hồi khoản nợ. Hắn nhào vào con nợ và bóp cổ; điều này cho hiểu là hắn mất tự chủ. Người bạn phản ứng đúng y như hắn đã xử sự trước mặt nhà vua; thật ra trả món nợ này là việc hoàn toàn có thể làm. Nhưng hắn không thèm nghe lời thỉnh cầu của người ấy. Hắn không chấp nhận triển hạn. Hắn vận dụng những phương tiện to lớn nhất, hắn bỏ người kia vào tù. Hắn không bán người bạn để có tiền, không phải vì hắn thương xót anh ta, nhưng bởi vì số tiền nợ ít hơn là giá bán một nô lệ, nên theo luật Do Thái, hắn không được bán người bạn. Hắn không quan tâm đến con người, hắn chỉ quan tâm đến món nợ thôi. Thật ra, cách xử sự này, tuy có thô bạo, nhưng không phải là khác thường. Nếu độc giả cảm thấy rất khó chịu về lối cư xử này, là vì đã được nghe biết sự tha thứ vô tiền khoáng hậu ở cc. 24-27. Vì những gì đã xảy ra trước, sự thô bạo thông thường trong đời sống bị coi như là điều hết sức xúc phạm. Vậy các sự cố ở cc. 24-27 đã thay đổi cái nhìn của các độc giả.
Phần thứ ba (18,31-34) lại mở ra hoạt cảnh ông vua và các đầy tớ với con nợ của ông, kẻ đã tỏ ra thiếu lòng thương xót. Các đầy tớ khác thấy như thế, cảm thấy vừa buồn phiền, vừa tức giận, vừa nhờm tởm, đã đi tường trình rõ ràng mọi sự với nhà vua. Bây giờ vua nổi cơn thịnh nộ, ông không yêu cầu giải thích nữa, ông gọi hắn là "đầy tớ độc ác" (doule ponêre). Độc giả hiểu là án xử đã được quyết định. Nhà vua nhắc cho tên đầy tớ món nợ lớn ông đã tha hoàn toàn cho hắn và bổn phận truyền đạt lòng thương xót đã nhận bằng một thái độ từ bi thương xót. Nay nhà vua lại yêu cầu hắn phải trả trọn món nợ (pan to opheilomenon); nhà vua bỏ hắn vào ngục và gia tăng những hình khổ.
Tuy nhiên, những câu quan trọng nhất của cảnh cuối cùng là cc. 32-33, bởi vì ở đây tác giả nói gián tiếp với các độc giả qua miệng nhà vua. Ở đây tác giả cho thấy sợi chỉ đỏ xuyên suốt dụ ngôn. Người đầy tớ lẽ ra đã phải bắt chước nhà vua mà tỏ lòng thương xót.
* Kết luận của Đức Giêsu (35)
Kết luận của Đức Giêsu thật rõ ràng, thuyết phục. Thiên Chúa sẽ xử như thế với những ai không thật lòng tha thứ cho "anh em" (adelphos) mình. Ở đây ta gặp lại ý tưởng của Bài Giảng trên núi (x. 5,7; 6,14-15; 7,1-2) về sự tha thứ và xét đoán lẫn nhau. Chỉ khi biết tha thứ cho nhau, ta mới khám phá ra chiều sâu của lời xin trong Kinh Lạy Cha: "Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" (6,12), đồng thời nhận ra được chân lý của Mối Phúc thứ năm: "Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương" (5,7). Nói về "anh em", tức là nói về Hội Thánh. Án xử được tuyên bố trên Hội Thánh khi Hội Thánh không thực hành sự tha thứ giữa các thành viên với nhau.
+ Kết luận
Qua bài dụ ngôn, Đức Kitô mạc khải lòng thương xót bao la của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta mắc nợ Thiên Chúa chồng chất, nên chúng ta giống như người đầy tớ đầu tiên. Nếu Thiên Chúa có tha nợ cho chúng ta, chúng ta vẫn là những đầy tớ hoàn toàn sống nhờ lòng đại độ và từ bi của Ngài.
Người nào đã hưởng nhờ lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, thì không bao giờ được khép lại trên chính mình và tỏ ra cứng cỏi với người anh em. Người nào đã được Thiên Chúa tha cho những món nợ khổng lồ thì không còn có thể coi người nào khác như mắc nợ với mình nữa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Thiên Chúa tha nợ cho chúng ta, chỉ bởi vì chúng ta xin Ngài tha. Món nợ chúng ta mắc với Ngài quá lớn, vượt mọi giới hạn loài người, nên chắc chắn chúng ta không thể thanh toán nổi. Nhưng Thiên Chúa tha hết, bởi vì lòng nhân lành của Ngài vô biên. Đàng khác, chúng ta lại cần đến sự tha thứ này để có thể đứng vững trước nhan Ngài, để có thể sống. Do đó, nếu Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, chúng ta vẫn là tôi tớ của Ngài, sống hoàn toàn nhờ lòng quảng đại và lòng từ bi thương xót của Ngài.
2. Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta đọc: "Như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" (6,12). Chúng ta phải liên kết vào lời xin Thiên Chúa tha thứ các lỗi lầm của chúng ta điều kiện sau đây: cầu mong Thiên Chúa (chỉ) tha thứ cho chúng ta trong mức độ chúng ta đã tha thứ cho các người có lỗi với chúng ta. Bổn phận tha thứ có tính đòi hỏi và cốt yếu đến mức dường như Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện như sau: Xin đừng tha thứ cho chúng con, nếu chúng con đã không tha thứ cho người ta! Lời xin này của Kinh Lạy Cha cũng là lời xin duy nhất sau đó đã được nhắc lại. Không phải chỉ một lần mà hai lần, Đức Giêsu xác nhận dây liên kết bất khả phân ly giữa việc tha thứ của chúng ta và sự tha thứ của Thiên Chúa: nếu chúng ta không tha thứ, chúng ta không thể trông mong vào sự tha thứ của Ngài (x. 6,14t).
3. Chúng ta thiên về chỗ ghi nhớ các xúc phạm, các khinh bỉ, các thiệt hại chúng ta đã phải chịu do người anh em, chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại. Kiểu ghi khắc các món nợ như thế có thể đi sâu vào trong trái tim chúng ta và làm nhiễm độc các quan hệ của chúng ta. Thông thường, khó mà tha thứ, do đó Đức Giêsu thường xuyên khuyến cáo. Trong tương quan với các anh em mắc nợ chúng ta, chúng ta không bao giờ được quên tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
4. Theo tầm nhìn của Mt 18, không thể phân biệt giữa một tội phạm đến người anh em chị em, nghĩa là phạm đến công đoàn, và một tội phạm đến Thiên Chúa. Các tương quan giữa con người với nhau không thể lại kém giá trị hơn là tương quan của con người với Thiên Chúa. Cũng như ở Mt 5,21-48, chính là do yêu thương mà thấy được sự hoàn thiện, ở Mt 18, chính là vì khinh bỉ những kẻ bé mọn và từ chối tha thứ cho các anh chị em mà người ta chuốc lấy án xử của Thiên Chúa.
----------------------------------
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm A là sự tha thứ.
Hc 27: 30-28: 7
Trong Bài Đọc I, nhà hiền triết Do thái, trung thành với luật Mô-sê, mời gọi “oán cừu nên tháo không nên buộc”.
Rm 14: 7-9
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc cho người Ki-tô hữu nhớ rằng không ai sống cho chính mình.
Mt 18: 21-35
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ của Ngài phải tha thứ vô điều kiện và luôn mãi.
BÀI ĐỌC I (Hc 27: 30-28: 1-7)
Trào lưu Khôn Ngoan nở rộ trong toàn thể miền Cận Đông xưa: Ai-cập, Su-me, Ba-by-lon… Sách Huấn TN 24-A120
Trào lưu Khôn Ngoan nở rộ trong toàn thể miền Cận Đông xưa: Ai-cập, Su-me, Ba-by-lon… Sách Huấn Ca là một trong năm tác phẩm thuộc trào lưu Khôn Ngoan Cựu Ước: Châm Ngôn, Gióp, Giảng Viên, Khôn Ngoan và Huấn Ca.
Tác giả của sách Huấn Ca là ông Si-rác sống vào cuối thể kỷ thứ ba đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Là bậc vị vọng ở Giê-ru-sa-lem và bậc hiền nhân, ông đã viết lại những lời khuyên “đối nhân xử thế” của mình vào khoảng năm 180 trước Công Nguyên. Khoảng năm mươi năm sau, cháu nội của ông đã dịch tác phẩm của ông sang tiếng Hy-lạp và xuất bản.
Sự khôn ngoan, thành quả của trầm tư và kinh nghiệm, là gia sản chung của toàn thể nhân loại. Nhưng sống vào thời kỳ Do thái giáo bị đe dọa bởi văn hóa Hy lạp, nhà hiền triết Do thái ôm ấp một hoài bảo: chấn hưng những giá trị luân lý Do thái giáo. Theo ông, sự khôn ngoan Do thái vượt lên trên sự khôn ngoan Hy lạp, vì sự khôn ngoan Do thái có Thiên Chúa làm khuôn mẫu và Luật của Ngài làm chuẩn mực sống.
Sách Huấn Ca là loại sách kim chỉ nam chứa đựng nhiều lời khuyên cho cuộc sống thường ngày. Sách đề cập đến mọi đề tài. Đoạn trích dẫn hôm nay đề cập đến việc báo thù và tha thứ.
1.Cách hành xử của kẻ gian ác:
Nhà hiền triết nhắm trước tiên đến thái độ của kẻ gian ác:
“Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm,
về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài”.
Nếu ai cố chấp trong sự oán hờn và giận dữ, người ấy rồi sẽ chuốc lấy sự báo thù của Đức Chúa:
“Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy sự báo thù của Đức Chúa,
tội lỗi nó, Người xem xét từng ly”.
Đây là điều mà chúng ta thường nói: “Ác giả ác báo, gieo gió gặp bão”.
Theo Cựu Ước, quan niệm “thưởng phạt ở đời sau” chỉ xuất hiện sau nầy, vì thế kẻ gian ác sẽ chuốc lấy hậu quả của điều ác mà nó gây ra ngay tại đời nầy.
2.Đức hạnh của người công chính:
Ngược lại với thái độ của kẻ gian ác, nhà hiền triết phác họa đức hạnh của người công chính:
“Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác,
thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha”.
Sự tha thứ được sách Lê-vi diễn tả rõ ràng: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em… Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình ngươi” (Lv 19: 17-18).
Nhà hiền triết nêu lên lý do tại sao phải tha thứ:
“Người với người cứ nuôi lòng hờn giận,
thế mà dám xin Đức Chúa chữa lành!
Nó chẳng biết thương người đồng loại,
mà lại dám xin tha tội cho mình”.
Đó chính xác cũng là lời nguyện trong kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6: 12)
“Hãy nghĩ đến ngày tận số
mà chấm dứt hận thù”.
Đây là đề tài chủ đạo của nhà hiền triết. Người công chính phải thoát khỏi mọi ưu tư hằng ngày để nghĩ đến số phận của mình là một ngày kia sẽ từ giả cõi thế, đây không cốt là nghĩ đến phần thưởng của cuộc sống mai sau. Vào thời Si-rác, Ít-ra-en chưa biết đến phần thưởng mai hậu nầy (chỉ xuất hiện muộn thời). Cho dù người công chính không thể biết được khi nào những án phạt sẽ giáng xuống trên bọn ác nhân – vì Đức Chúa sẽ báo thù – thì phải trung thành với những huấn lệnh và nghĩ đến Giao-ước:
“Hãy nhớ đến các điều răn
mà đừng oán hờn kẻ khác,
nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao
mà không chấp nhất điều lầm lỗi”.
Thái độ nầy thật sự cao thượng dù chân trời bị giới hạn chỉ vào việc thưởng phạt trần thế và kinh nghiệm cho thấy những phần thưởng nầy khó đáp trả sự mong chờ của người công chính. Nhưng người có niềm tin phải hành động xuất phát từ lòng yêu mến Thiên Chúa và Luật của Ngài. Không phải chính lòng trung thành với Giao Ước đảm bảo sự quan phòng của Thiên Chúa trên dân Ít-ra-en và mỗi thành viên đó sao? Nền luân lý nầy thật cao thượng chuẩn bị trực tiếp cho lời dạy của Đức Giê-su trong Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (Rm 14: 7-9)
Đoạn trích thư gởi tín hữu Rô-ma nầy, nếu tách ra khỏi mạch văn của nó, chúng ta khó nắm bắt được ý nghĩa những lời khuyên nhủ của thánh Phao-lô.
Trong chương 14 thư gởi tín hữu Rô-ma nầy, thánh Phao-lô bàn đến những mối liên hệ giữa những người Ki-tô hữu trong lòng cộng đoàn. Thánh nhân gợi lên nhiều quan điểm khác nhau trong thái độ thường ngày, giữa những người mà thánh nhân gọi là “những người yếu” và những người thánh nhân gọi là “những kẻ mạnh”.
Thánh nhân đề cập cách chi tiết: những người không ăn kiêng và những người ăn kiêng, những người sống khổ hạnh và những người bài bác khổ hạnh, vân vân. Từ đó thánh nhân kết luận cuộc sống hòa hợp của cộng đoàn phải căn cứ trên sự tự do của mỗi người trong sự kính trọng kẻ khác.
Ở nơi lời dạy của thánh nhân, tự do chứ không cá nhân chủ nghĩa, vì “không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Đức Ki-tô, mà có chết cũng là chết cho Người”, bởi vì “Đức Kitô đã không sống cũng không chết cho chính mình, nhưng cho chúng ta”. Mọi dị biệt phải bị xóa nhòa trước mối liên hệ căn bản: hiệp nhất mọi thành phần của cộng đoàn: Tất cả chúng ta đều thuộc về Đức Ki-tô.
Khởi đi từ những chi tiết nhỏ nhặt cụ thể đến một quan điểm thần học, đó là nét đặc trưng của thánh Phao-lô thường hằng trong các thư của thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 18: 21-35)
Sau khi đã căn dặn đức ái huynh đệ trong việc sửa lỗi cho nhau và đã cảnh báo mỗi thành viên trong cộng đoàn phải có nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau (Chúa Nhật XXIII), Đức Giê-su mời gọi các môn đệ Ngài còn đi xa hơn nữa: cho đến việc tha thứ vô điều kiện và luôn mãi đối với những kẻ xúc phạm mình.
1.Cuộc chuyện trò thân mật giữa Thầy và trò (18: 21-22):
Trong Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu làm nổi bật nhân vật Phê-rô, thậm chí ngay cả trước khi thánh nhân được tấn phong làm thủ lãnh của nhóm Mười Hai và của Giáo Hội trong tương lai như thánh Phê-rô trong bão tố, thánh Phê-rô ở Xê-sa-rê, thánh Phê-rô trong biến cố Biến Hình.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng vậy, chính thánh Phê-rô lên tiếng hỏi thầy mình: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mầy lần?”. Thánh nhân vừa hỏi, nhưng đồng thời cũng nhanh miệng đưa ra một đề nghị: “Có phải bảy lần không?”. Khi đề nghị bảy lần, thánh Phê-rô nghĩ là mình quá rộng lượng từ tâm lắm rồi, bởi vì theo truyền thống Do thái việc tha thứ cho anh em mình chỉ dừng lại ở con số ba lần. Kinh sư Hanina dạy rằng: “Ai xin người lân cận mình tha thứ, không được xin quá ba lần”, còn kinh sư Jehuna thì dạy: “Nếu một người phạm tội một lần, hãy tha thứ; hai lần hãy tha thứ; ba lần cũng hãy tha thứ cho người ấy; nhưng lần thứ tư thì không tha thứ nữa!”. Đối với văn hóa Việt Nam, “Sự bất quá tam”. Hơn nữa, “con số bảy” được dùng trong Kinh Thánh để diễn tả mức độ trả thù tận mức : “Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bảy.” (St 4: 15). Ngoài ra ông La-méc, hậu duệ của Ca-in, đã huênh hoang tự đắc với các bà vợ của mình:
“Ca-in sẽ được trả thù gấp bảy,
nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy.” (St 4: 25).
Khi trả lời cho thánh Phê-rô: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”, Đức Giê-su thay thế sự trả thù vô cùng tận của La-méc bằng sự tha thứ vô giới hạn.
2.Dụ ngôn (18: 23-24)
Để minh họa tư tưởng của mình, Đức Giê-su kể một dụ ngôn mà chỉ mình thánh Mát-thêu thuật lại. Khi so sánh với bài đọc thứ nhất trong đó hiền triết Si-rác dạy rằng phần thưởng cho việc tha thứ chỉ vuông tròn trong hạnh phúc trần thế, Đức Giê-su nhắm đến việc tha thứ đem lại phần thưởng trong Vương Quốc Nước Trời. Lời khai mào nầy loan báo rằng Đức Giê-su sắp ban chìa khóa mở cửa Vương Quốc nầy.
Dụ ngôn là một bi kịch gồm ba hoạt cảnh.
2.1-Hoạt cảnh thứ nhất:
Đức Vua (ám chỉ đến Thiên Chúa), được giới thiệu ngay từ đầu, đòi hỏi bầy tôi thanh toán sổ sách. Phần cuối của dụ ngôn sẽ cho thấy việc thanh toán sổ sách không là điều cốt yếu mà dụ ngôn nhắm tới.
Đức Vua đích thân triệu tập người đầy tớ mắc nợ Vua mười ngàn nén vàng. Đây là một món nợ quá lớn đến mức tự sức mình chúng ta không thể nào có thể trả nổi. Với một món nợ quá lớn mà một người nô lệ không thể nào mắc nợ được, vì thế các nhà chú giải hiểu rằng người đầy tớ trong dụ ngôn nầy là một vị quan, bởi vì trong nền văn hóa Đông Phương, các quan được gọi là tôi bộc của Vua.
Vì không thể trả nổi, người đầy tớ bị Đức Vua ra lệnh thi hành án phạt: “Bán y, cùng tất cả vợ con, tài sản, mà trả nợ”. Quả thật, sự liên đới của mọi thành viên trong gia đình trải rộng cho đến món nợ mà người chủ gia đình mắc phải. Bấy giờ tên đầy tớ sấp mình xuống van xin: “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ trả hết”. Đức vua liền chạnh lòng thương (đây cũng là động từ mà các Tin Mừng dùng để diễn tả tấm lòng xót thương của Đức Giê-su trước những đau khổ của con người), tha hết món nợ cho y: hình ảnh của ơn cứu độ nhưng không.
2.2-Hoạt cảnh thứ hai:
Hoạt cảnh thứ hai được xây dựng trên một sự tương phản với hoạt cảnh thứ nhất. Tên đầy tớ được Vua tha bổng lại hành xử đối với một trong những bạn đồng liêu của mình, người nầy mắc nợ y một trăm bạc, một món tiền không đáng là bao so với món nợ của y đối với Đức Vua. Y chẳng thèm để ý đến lời van xin của bạn mình: “Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh”, chính xác là những lời mà trước đây y đã van xin Đức Vua. Cách hành xử của y đối với bạn của y: liền túm lấy, bóp cổ và tống anh bạn mình vào tù mà không một chút động lòng xót thương, khác xa với cách hành xử của Đức Vua đối với y.
Người đầy tớ nầy không ngờ rằng có một mối quan hệ hỗ thương giữa thái độ của y đối với bạn đồng môn của mình và thái độ của Đức Vua đối với y. Khi từ chối lòng xót thương của y đối với bạn mình, y huỷ bỏ lòng xót thương mà y được hưởng từ Đức Vua.
2.3-Hoạt cảnh thứ ba:
Đức Vua thay đổi thái độ hoàn toàn đối với y: Ngài nổi cơn thịnh nộ giao người đầy tớ không có lòng xót thương cho lý hình hành hạ cho đến ngày y trả hết nợ. Chính ở đây để lộ cách thức tính sổ của Đức Vua. Ngài phán xử mỗi người không căn cứ trên việc tính toán chi ly của món nợ, nhưng trên khả năng yêu thương và tha thứ của mỗi người đối với anh em đồng loại của mình.
3.Bài học (18: 25):
Từ dụ ngôn, Đức Giê-su rút ra một bài học quan trọng trong mối quan hệ giữa Thiên Chúa với chúng ta: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Bài học nầy làm chúng ta nhớ đến điều kiện tất yếu để được Thiên Chúa tha thứ trong kinh Lạy Cha: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6: 14-15).
Phía sau dụ ngôn nầy, chính cuộc sống của Đức Giê-su bằng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đem đến những phương thế đổi mới tấm lòng của con người, ngõ hầu họ có khả năng yêu thương và tha thứ cho nhau.
----------------------------------
Mt 18,21-35
Là người ai cũng có những thiếu xót và lẫm lỗi. Thiếu xót và lầm lỗi với chính mình, thiếu xót TN 24-A121
Là người ai cũng có những thiếu xót và lẫm lỗi. Thiếu xót và lầm lỗi với chính mình, thiếu xót và lầm lỗi với tha nhân, thiếu xót và lầm lỗi với Thiên Chúa. Trước những thiếu xót và lẫm lỗi đó, con người cần được bao dung tha thứ hơn là ghen ghét hận thù. Nhưng phải bao dung tha thứ thế nào? Không phải chỉ tha một lần, hai lần, ba lần hay bảy lần mà là “bảy mươi lần bảy”, nghĩa là tha thứ mãi mãi, tha thứ vô giới hạn.
Tinh thần bao dung tha thứ này được thúc đẩy bởi lòng bao dung tha thứ của Thiên Chúa và đó cũng là điều kiện để chúng ta lãnh nhận sự khoan dung tha thứ của Người: “Oán hờn và giận giữ là những điều ghê tởm. Ai muốn báo thù, sẽ chuốc lầy báo thù của Đức Chúa. Hãy tha thứ cho kẻ làm hại, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha. Người này tích lòng giận ghét người kia, mà lại dám xin Chúa tha thứ và chữa lành sao! Sống mà chẳng biết thương người đồng loại với mình, còn dám xin Chúa tha tội cho mình ư? Ngươi chỉ là xác thịt mà tích chứa hận thù, thì dám xin Chúa tha thứ làm sao? Ai sẽ xin tha tội cho hạng người đó? Hãy nhớ ngày tận số mà chấm dứt hận thù. Hãy nhớ đến các điều răn mà đừng oán hờn kẻ khác! Hãy nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao mà bỏ qua lỗi lầm của người khác” (x. Hc 27,30-28,7).
Vâng, Thiên Chúa là Cha nhân từ và giàu lòng xót thương luôn sẵn sàng tha thứ cho mọi tội lỗi của chúng ta, thì chúng ta cũng phải sẵn lòng tha thứ cho người đồng loại mỗi khi xúc phạm đến chúng ta. Bởi xúc phạm của người đồng loại với chúng ta chẳng đáng là bao so với tội lỗi chúng ta phạm đến Thiên Chúa.
Để minh họa cho giáo huấn này, Chúa Giê-su đã kể cho chúng ta nghe dụ ngôn về hai con nợ: Một kẻ nợ 10.000 yến vàng, một người nợ 100 quan tiền (mỗi yến vàng thời xưa là 6.000 quan tiền. Một quan tiền tương đương với 1 ngày công. Vậy 10.000 yến vàng có giá trị là 60.000.000 quan tiền và tương đương với 60 triệu ngày công. 60 triệu quan so với 100 quan chênh lệch nhau quá nhiều).
Kẻ nợ 10.000 yến vàng (60 triệu quan tiền) đã sấp mình van xin chủ nợ: “Thưa ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết”. Vị chủ nợ nhân từ đã chạnh lòng thương tha nợ cho anh ta. Nhưng khi ra về, anh ta đã gặp người đồng loại mắc nợ mình chỉ có 100 quan tiền, anh ta liền túm áo, bóp cổ đòi nợ. Cũng giống như anh ta, người đồng loại này xin anh ta khất nợ. Thế mà anh ta không chịu, bắt tống giam người đồng loại vào trong ngục cho đến khi trả hết nợ. Chứng kiến sự việc như vậy, mọi người buồn lắm, bèn đi kể đầu đuôi câu chuyện với người chủ nợ nhân từ. Chủ nợ nhân từ đòi anh ta đến và bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta. Còn ngươi, sao ngươi vô cảm và độc ác thế, không biết thương xót người đồng loại như chính ta đã thương xót ngươi”. Rồi vị chủ nợ nổi cơn thịnh nộ, tống giam anh ta vào ngục cho đến ngày trả hết nợ.
Kể tới đây, Chúa Giê-su liền quả quyết: Vậy Cha của Thày trên trời cũng cư xử với anh em đúng như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho nhau.
Phải sẵn sàng tha thứ cho nhau, tha thứ không ngừng nghỉ, tha thứ luôn luôn và tha thứ mãi mãi... Đó là đạo lý ngàn đời của Chúa. Nhưng thế gian và người đời, thì lại khích lệ và cổ võ cho lòng hận thù: “mắt đền mắt, răng đền răng; ăn miếng trả miếng”. Người ta giáo dục nhau bằng những quan niệm: “con có hiếu với cha mẹ, thì phải báo thù cho cha mẹ; người quân tử 10 năm báo thù vẫn chưa muộn”. Như thế vẫn chưa đủ, có nơi có chỗ người ta còn ‘đặt bia, dựng tượng căm thù’, để truyền lại lòng hận thù cho các thế hệ mai sau...
Giữa một môi trường ô nhiễm, sặc mùi hận thù như thế ! Làm sao người với người chẳng hận thù nhau? Làm sao thế giới chẳng xảy ra chiến tranh, quốc gia chẳng nảy sinh nội chiến? Làm sao làng xã và xóm giềng chẳng cãi vã và đánh lộn lẫn nhau? Làm sao con trai con gái, mẹ chồng nàng dâu và anh em ruột thịt chẳng từ mặt nhau? Làm sao người Ki-tô hữu có thể sống yêu thương và tha thứ cho nhau như lời Chúa dạy được?
Dù thế gian và người đời có hận thù nhau thế nào đi chăng nữa, thì người Ki-tô hữu vẫn phải sống yêu thương và tha thứ cho nhau. Vì yêu thương nhau là dấu chỉ của người môn đệ Chúa và tha thứ cho nhau là điều kiện, để chúng ta lãnh nhận lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa. Nếu không, chúng ta chẳng còn là môn đệ Chúa và chẳng xứng đáng để lãnh nhận lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết yêu thương và tha thứ như lời Chúa dạy, để con được Chúa yêu thương và tha thứ ở đời này và đời sau. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Văn Hữu
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Các tôn giáo đều dạy người ta tha thứ cho người làm hại mình. Trong cuốn Đạo Đức Kinh, Lão TN 24-A122
Các tôn giáo đều dạy người ta tha thứ cho người làm hại mình.
Trong cuốn Đạo Đức Kinh, Lão Tử dạy: “Dĩ đức báo oán.”
Phật giáo cũng đề cao lòng khoan dung để được thanh thản.
Qua dụ ngôn trên đây, Đức Kitô dạy ta phải tha thứ.
Hơn nữa, Ngài còn cho biết tại sao ta phải tha thứ cho anh em.
Không phải chỉ để oán tiêu tan hay buông bỏ phiền não,
nhưng đơn giản là vì có một tương quan bộ ba gắn bó chặt chẽ
giữa Thiên Chúa, tôi, và người anh em của tôi.
Đức Giêsu kể chuyện anh đầy tớ nợ nhà vua món tiền cực lớn.
Mười ngàn yến vàng tương đương với sáu mươi triệu ngày công.
Người ấy phải làm một trăm sáu mươi bốn ngàn năm mới trả nổi!
Chúng ta không hiểu tại sao anh lại nợ vua món tiền lớn như vậy.
Dù bán anh, bán vợ con, và toàn bộ tài sản của anh cũng chẳng đủ.
Dám hứa trả cho hết số nợ đó là một lời nói dối trơ trẽn (Mt 18,26).
Chỉ một người có thể giải quyết được vấn đề, đó là nhà vua.
Cần một tấm lòng để có thể xóa sạch món nợ trong phút chốc.
Vì chạnh lòng thương, nên nhà vua đã tha nợ và thả anh ta.
Biết đâu sau này anh lại được nhà vua trọng dụng.
Nhưng anh đầy tớ này lại không có lòng thương xót như chủ anh.
Anh không thể tha cho một đầy tớ khác của chủ,
nợ anh một món tiền chỉ bằng hơn ba tháng lương,
dù người đó đã làm y như anh: đã sấp mình, năn nỉ xin tha nợ.
Món nợ này quá nhỏ so với món nợ anh vừa được tha,
nhưng anh vẫn quyết đòi cho bằng được.
Vì không chấp nhận trì hoãn nên anh tống người bạn đó vào ngục.
Câu chuyện đến tai ông chủ, và điều bất ngờ đã xảy ra.
Ông kêu anh lại và gọi anh là “tên đầy tớ độc ác.”
Ông nổi cơn thịnh nộ và rút lại quyết định tha nợ cho anh.
Như thế, món nợ vẫn còn nguyên, và anh sẽ chẳng bao giờ trả hết.
Ông chủ cho biết lý do khiến ông nổi giận và đổi ý:
“Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta,
há ngươi lại chẳng phải thương xót bạn ngươi,
như chính Ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33).
Tội của anh đầy tớ này là tội không có lòng thương xót như chủ.
Dụ ngôn trên đây của Đức Giêsu đòi chúng ta đối xử với nhau
như chính Thiên Chúa đã đối xử với từng người chúng ta.
Tha thứ bắt nguồn từ lòng thương xót.
Tha thứ cho tha nhân được đặt nền
trên tình thương mà mỗi người cảm nhận được từ Thiên Chúa.
Càng cảm nhận mình được Chúa xót thương và tha thứ
ta càng dễ cư xử tương tự với tha nhân.
Càng biết mình đã được tha món nợ lớn
ta càng dễ tha những món nợ nhỏ của anh em.
Tất cả nền luân lý Kitô giáo mời ta bắt chước chính Thiên Chúa.
Hoàn thiện như Ngài, thương xót như Ngài (Mt 5,48; Lc 6,36),
nhân hậu với kẻ xấu và bất chính như Ngài (Mt 5,45; Lc 6,35),
kiên nhẫn với cỏ lùng như Ngài (Mt 13,29-30),
tha thứ cách quảng đại như Ngài (Mt 18,22.27).
Bài Tin Mừng hôm nay thật là một tin mừng,
vì dạy chúng ta cách để vào Nước Trời, đó là tha thứ.
Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ cho ta từ trước rồi,
vấn đề là làm sao giữ được ơn ấy cho đến ngày nhắm mắt.
Chúng ta chỉ giữ được nếu chấp nhận chuyển đi cho tha nhân.
Chuyển đi là cách duy nhất để giữ lại (Mt 6,14-15).
Đức Thánh Cha kêu gọi người ta đừng dùng tôn giáo
như phương tiện để kích động lòng thù ghét, cuồng tín cực đoan,
nhưng như con đường để diễn tả lòng bao dung tha thứ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa,
và đừng để con quên lời Chúa dạy:
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
Là làm cho chính Ta.”
Tạp chí Prier.
----------------------------------
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Cuộc sống luôn đầy rẫy bất công. Những người nghèo và thấp cổ bé miệng phải chịu nhiều oan TN 24-A123
Cuộc sống luôn đầy rẫy bất công. Những người nghèo và thấp cổ bé miệng phải chịu nhiều oan ức, nhất là trong những chế độ chính trị hà khắc và độc tài. Con người có xu hướng chịu đựng và buộc chấp nhận, như một thứ luật rừng trong xã hội: cá lớn nuốt cá bé. Trước những bất công, nhiều khi người ta chỉ biết kêu trời.
Phải chăng lúc nào lý cũng thuộc về kẻ mạnh? Phải chăng những người bé mọn luôn phải gánh chịu những thiệt thòi? Lời Chúa hôm nay muốn khẳng định với chúng ta: Không phải như vậy. Thiên Chúa là vị Thẩm phán chí công. Người lắng nghe và bênh vực những người cô thế cô thân và những người bị gạt ra bên lề của cuộc sống.
Trong Bài Tin mừng, vị Thẩm phán được diễn tả như một vị vua và với cách gọi “tôn chủ”, thể hiện người đáng kính trọng và là một người liêm khiết. Vị tôn chủ đã chạnh lòng thương trước lời van xin của người đầy tớ và sẵn sàng tha cho hắn món nợ rất lớn là mười ngàn yến vàng. Chúng ta nhớ đến bài giảng của Chúa Giêsu về ngày tận thế (x. Mt 25,31-46). Lúc đó, vị thẩm phán cũng được gọi là “Đức Vua” xét xử người lành cũng như kẻ dữ, tuỳ theo việc họ đã làm khi còn sống trên dương gian. Trước đó, vị thẩm phán cũng được dùng với danh xưng “Con Người”. “Con Người” hay “Con loài người” là danh xưng chính Chúa Giêsu đã dùng để chỉ bản thân Người. Như thế, vị thẩm phán sẽ xét xử loài người là chính Chúa Giêsu, như chúng ta đọc trong kinh Tin kính: “Ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết”.
Hình ảnh vị tôn chủ trong Tin Mừng hôm nay cho thấy đó là vị Thẩm phán vừa công bằng vừa bao dung nhân hậu. Vị thẩm phán ấy chạnh lòng thương trước nỗi khổ của con người và sẵn sàng tha thứ nếu người ấy khiêm tốn kêu xin. Tuy vậy, ngài cũng nghiêm khắc với kẻ gian manh, chỉ biết khúm núm trước người chủ nợ, mà lại táng tận lương tâm đối với bạn hữu đang mắc nợ mình chỉ có một trăm quan tiền, trong khi món nợ mình được tha có giá trị gấp nhiều lần.
Nếu Thiên Chúa là vị Thẩm phán khoan dung nhân hậu, thì những ai tin vào Ngài cũng phải khoan dung nhân hậu như thế. Những ai cố chấp, hận thù và ích kỷ không thể lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Người đầy tớ có trái tim chai đá trước lời van xin của tha nhân bị ông chủ kết án là đồ gian ác. Hơn thế nữa, anh ta phải vào tù và phải trả món nợ trước đây ông chủ đã có ý tha, vì thấy anh ta đáng thương và vì lời van xin thống thiết. Trong thực tế, con người dễ hạ mình trước mặt Thiên Chúa, nhưng lại xảo trá và mưu mô đối với đồng loại. Lời kết câu chuyện của Chúa Giêsu cũng là tóm lược lời kinh Lạy Cha: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Đây cũng là nội dung của Bài trích sách Huấn Ca: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (Bài đọc I). Bao dung nhân hậu, tha thứ yêu thương. Đó là cốt lõi của giáo huấn Kinh Thánh, nhất là trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Hãy tha thứ vì con người sống trên trần gian đều là bất toàn. Khi tha thứ, ta mở cho người khác một con đường hướng tới tương lai. Giáo huấn Kitô giáo còn khẳng định: khi tha thứ là ta được thứ tha; khi cho đi ta sẽ nhận lãnh. Tha thứ sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui, sự thanh thản và yêu đời. Người Việt Nam chúng ta thường nói” đời có vay có trả”, “gieo nhân nào gặt quả nấy”. Có người bức xúc vì thấy kẻ gian ác cứ sống nhơn nhơn, bất chấp đạo lý luân thường, ấy vậy mà họ vẫn giàu có hoặc may mắn. Nếu họ chưa phải trả giá cho sự gian ác họ đã gây ra cho người khác, là vì chưa đến thời đến buổi đó thôi, vì “lưới trời lồng lộng, thưa mà khó thoát”, như cổ nhân đã dạy.
“Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Ông Phêrô vừa đặt câu hỏi, vừa tự đưa ra câu trả lời. Khi khẳng định tha thứ bảy lần, ông cũng cho mình là rất quảng đại, vì thói quen của người Do Thái thường tha cho một người xúc phạm mình hai lần (Theo Anselm Grün, một chuyên viên Kinh Thánh). Số 7 cũng là con số hoàn thiện. Câu trả lời của Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, Phêrô cũng như những ai tin vào Chúa phải tha thứ vô biên, không giới hạn và lặp đi lặp lại nhiều lần tới mức không đếm xuể. Chúa Giêsu so sánh chúng ta với người đầy tớ cứng lòng không tha cho bạn mình, trong khi Thiên Chúa là Đấng bao dung. Ngài đã tha hết mọi nợ nần cho chúng ta trong Con của Ngài. Xin lưu ý chữ “đồng bạn” được sử dụng năm lần trong đoạn Tin Mừng này để chỉ mối tương quan giữa hai người cùng là con nợ. “Đồng bạn” ở đây có nghĩa là tha nhân và là người cùng phục vụ một tôn chủ
Trong hành trình cuộc đời, con người sống với và sống cho tha nhân. Chỉ khi nào ý thức được điều này, chúng ta mới tìm được hạnh phúc. Một cuộc sống biết chia sẻ cảm thông sẽ đong đầy niềm vui. Cũng vậy, ý thức sống hay chết đều thuộc trọn về Chúa sẽ giúp chúng ta cảm nhận được tình thương của Ngài giữa những khó khăn trắc trở trong cuộc đời. (Bài đọc II). Chúa Giêsu là mẫu gương cho chúng ta về tâm tình phó thác. Người cũng là mẫu mực cho chúng ta triết lý sống vì hạnh phúc của tha nhân. Trên cây thập giá, Chúa đã xin ơn tha thứ cho những kẻ hành hạ mình. Yêu thương và tha thứ, cầu nguyện cho kẻ thù, những đức tính này làm cho chúng ta nên giống Đức Giêsu Kitô.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm Ignatiô Trần Ngà)
Một số tín hữu nghĩ rằng: Khi có tội, chỉ cần đi xưng tội và làm việc đền tội; thế là mọi tội đều TN 24-A124
Một số tín hữu nghĩ rằng: Khi có tội, chỉ cần đi xưng tội và làm việc đền tội; thế là mọi tội đều được tha thứ; rồi sau đó, cứ thản nhiên phạm tội tiếp mà chẳng áy náy chút nào.
Tuy nhiên, qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su bác bỏ cách nghĩ, cách làm sai lầm như thế. Ngài dạy ta biết rằng chỉ có những ai tha thứ cho người khác thì kẻ ấy mới được thứ tha; còn ai không biết thứ tha, sẽ không được tha thứ.
Dụ ngôn “Người tôi tớ bất lương” (Mt. 18, 21-35) trong Tin mừng Mát-thêu được trích đọc hôm nay soi sáng cho chúng ta thấy rõ điều này.
Sau khi nhà vua biết tên đầy tớ vừa được vua tha cho món nợ khổng lồ, lại nhẫn tâm tống giam người bạn của y vào ngục chỉ vì người này chưa thể trả món nợ nhỏ cho anh ta, thế là vua liền nổi giận, truyền bắt tên đầy tớ ác ôn đó đến và phán:
“Hỡi tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta. Sao ngươi không tha nợ cho bạn người như ta đã tha cho ngươi? Thế rồi vua nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày trả hết nợ cho ông.”
Rồi Chúa Giê-su kết luận: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,35).
Như vậy, nếu không tha thứ cho người khác, chúng ta phải gánh lấy hậu quả đáng sợ như thế đó!
Có tha thứ thì mới được thứ tha là một quy luật quan trọng được Chúa Giê-su lặp lại nhiều lần:
Khi dạy ta cầu nguyện với Chúa Cha qua kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su nói:
“Xin tha tội cho chúng con cũng như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12).
“Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15).
Và qua Tin mừng Luca, Chúa Giê-su dạy tiếp:
“Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6, 37).
Đến đây, chúng ta tự hỏi: Tại sao phải tha thứ thì mới được thứ tha?
Ta biết rằng mọi sự trên đời đều vận hành theo những quy luật mà Thiên Chúa đã quy định. Minh họa: Nước ở nhiệt độ bình thường thì ở thể lỏng, khi bị đun nóng thì bốc hơi, khi ở nhiệt độ dưới 0 thì đông thành đá, khi ở nhiệt độ vừa phải thì tan chảy thành nước… Nước luôn tuân theo quy luật đó, không thể khác được.
Minh họa thứ hai: Ta gieo hạt cam xuống đất thì sẽ có cây cam; gieo hạt cỏ thì sẽ mọc cỏ… Mọi vật, mọi sự trên đời đều vận hành theo quy luật như thể, không thể làm khác được.
Tương tự như thế, nếu ta trao ban sự tha thứ cho người thì ta sẽ gặt được thứ tha; nếu ta gieo rắc hận thù thì phải gặt oán thù.
Quy luật này được Chúa Giê-su xác định như sau: “Ai đong bằng đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38) (đấu là dụng cụ đo lường ngũ cốc, thường làm bằng gỗ) và thánh Phao-lô cũng phát biểu tương tự như thế: “Ai gieo giống nào thì sẽ được gặt giống đó” (Galat 6,7).
Đây là quy luật muôn đời bất di bất dịch. Cũng như mọi quy luật khác, quy luật này không thể nào thay đổi được.
Vì thế, ai không thứ tha thì không thể nhận được sự tha thứ, cũng như không gieo hạt cam xuống đất thì sẽ chẳng có cây cam.
Thế là lời Chúa trong Tin mừng hôm nay buộc chúng ta phải chọn lựa dứt khoát một trong hai điều:
- Một là đừng thứ tha cho ai cả, để rồi chẳng được Chúa thứ tha và đành phải mang tội suốt đời;
- Hai là xóa bỏ giận hờn, dẹp qua một bên lòng tự ái… để thứ tha cho người khác khi họ xúc phạm đến ta; bù lại, ta được Chúa tha cho muôn vàn tội lỗi.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con hiểu rằng khi giận hờn và không tha thứ cho người, chúng con sẽ rước họa vào thân, phải mang tội suốt đời; trái lại, khi sẵn sàng thứ tha cho tha nhân, chúng con sẽ được Chúa xóa bỏ mọi tội tình; nhờ đó, tâm hồn chúng con được an bình thư thái và cuộc sống sẽ hạnh phúc hơn.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Khi anh em con xúc phạm đến con, con... Yêu thương tha thứ. Thiên Chúa yêu thương tha thứ TN 24-A125
Khi anh em con xúc phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần?
Phải tha cho họ mấy lần, đặc biệt là những người đã nhiều lần xúc phạm đến chúng ta?! Liệu phải tha cho họ đến lần thứ bảy chăng?
Yêu thương tha thứ
Thiên Chúa yêu thương tha thứ cho chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân (Rm.5, 8). Đã bao lần chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa! Thiên Chúa luôn luôn tha thứ không kể số lần chúng ta xúc phạm Ngài!
Sách Huấn Ca dạy: "Hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi cầu nguyện ngươi sẽ được thứ tha" (Sir.28, 2). Nếu một người còn nuôi lòng thù hận, thì sao họ lại dám xin Chúa tha thứ cho họ? Nếu một người không muốn tha thứ cho kẻ có lỗi với họ, thì họ cũng không thể đón nhận ơn tha thứ! Không phải vì Thiên Chúa không tha thứ, nhưng họ không thể đón nhận ơn tha thứ!
Thánh Phêrô hỏi Đức Yêsu: "khi anh em con lỗi phạm đến con, con phải tha cho họ đến mấy lần, đến bảy lần chăng?". Đức Yêsu trả lời: không phải đến bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy!
Để trở nên con cái Thiên Chúa, phải tha thứ cho những người xúc phạm đến mình!
Món nợ không thể trả
Thiên Chúa là Đấng hay thương xót. Ngài thương cảm nỗi khổ đau của con người, Ngài cứu giúp con người, giải phóng con người khỏi mọi nô lệ.
Người đầy tớ trong dụ ngôn (Mt.18, 27) không thể trả nợ! Người chủ đã động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho người đầy tớ không thể trả nợ cho mình.
Món nợ chúng ta mắc với Thiên Chúa cũng không thể trả, vì chúng ta- thân phận con người- xúc phạm đến Thiên Chúa, một lỗi vô cùng lớn, làm sao chúng ta có thể trả?!
Thiên Chúa đã tha thứ tất cả cho chúng ta!
Nếu chúng ta không tha thứ cho anh em chúng ta, chúng ta đâu có giống Thiên Chúa. Nếu chúng ta không biết thương xót, chúng ta đâu có là con Thiên Chúa!
Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu thương thì đã chu toàn Lề Luật (Rm.13, 8).
Tình yêu, thương xót, là nét đặc trưng của con người.
Chúng ta thuộc về Thiên Chúa
Dù sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Thiên Chúa (Rm.14, 8).
Chúng ta là của Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa đã chuộc chúng ta! Chúng ta thuộc về Thiên Chúa, ngay cả lúc sống cũng như lúc chết!
Không còn gì là của riêng mình! Nếu có gì, cũng là của Thiên Chúa.
Chúng ta thuộc về Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ bảo vệ, và sẽ làm cho chúng ta mọi điều tốt lành. Chúng ta là dân riêng của Thiên Chúa, là "của riêng" của Thiên Chúa.
Hãy an tâm, vì chúng ta thuộc về Thiên Chúa.
Hãy yêu thương tha thứ, hãy có lòng thương xót, vì Thiên Chúa là Đấng thương xót.
Chỉ khi sống như vậy, chúng ta mới được hạnh phúc.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Mấy ngày vừa qua, người dân vẫn chưa hết phẫn nộ hành vi dã man của người con gái khi hành TN 24-A126
Mấy ngày vừa qua, người dân vẫn chưa hết phẫn nộ hành vi dã man của người con gái khi hành hạ, đánh đập mẹ già ở Long An. “Thật phẫn nộ và tội nghiệp cho bà cụ gần đất xa trời mà vẫn phải chịu cực hình do chính đứa con ruột của mình gây ra. Vì bất kỳ một lý do gì thì cũng không thể chấp nhận một người con đối xử với mẹ như thế. Con gái ruột mà đi đánh đập, đổ đất cát có phân lên đầu mẹ già 88 tuổi. Dẫu mẹ bệnh hoạn, mất tỉnh táo thì cũng là mẹ, con cái không được phép hỗn hào bất hiếu chứ đừng nói đánh đập hành hạ đến nỗi vài ngày sau cụ bà đã chết dù được nhiều người thương tâm đưa cụ vào bệnh việnh cấp cứu chữa trị. Mọi người dân khi thấy sự việc như vậy ai cũng tức giận và mắn chửi cô con gái và nguyền rủa cô sẽ bị quả báo vì gieo sao gặt vậy. Đó là quy luật nhân quả.
Nhiều người mặc nhiên coi câu nói ‘gieo nhân nào gặt quả nấy’ như một quy luật. Vì thế khi thấy ai đó gặp phải điều không may, họ quy kết ngay rằng hẳn bà cụ hay cha mẹ bà cụ đã làm điều chi bất nhân thất đức nên mới bị trừng phạt ‘quả báo nhãn tiền’ như thế. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su không nói luật nhân quả là sai nhưng Ngài cho biết căn nguyên của luật ấy là chính Thiên Chúa và mỗi người đều đã nhận được cái “nhân” tối thượng là ơn tha thứ và bao dung nhờ lòng thương xót của Ngài: “Tôn chủ” đã tha nợ cho người đầy tớ món nợ vô cùng lớn chỉ vì “anh đã van xin Ngài.” Vì thế từ cái “nhân” tốt lành đó mỗi người sẽ phải sinh “quả ngọt” bằng cách “thương xót người khác như chính Chúa đã thương xót mình”. Ngược lại, người ta sẽ nhận phải cái kết là “trái đắng” nếu họ cư xử nghiệt ngã vô cảm với anh chị em mình.
Trong cuộc sống chung đụng thường phải có va chạm với nhau. Chén bát để bên nhau, vô tình vẫn có những va chạm bể nát huống chi con người. Cho nên, hôm nay Chúa muốn chúng ta hãy biết tha thứ cho nhau không phải là để cho qua chuyện hay nhịn đi cho xong, mà tha thứ cho nhau, là điều kiện để chúng ta được Thiên Chúa thứ tha. Vì chưng, tất cả chúng ta đều là con nợ của Chúa. Chúng ta nợ Chúa sự sống, nợ Chúa ân tình. Đã nhiều lần chúng ta khất lần khất lượt với Chúa, van xin Chúa hãy tha thứ, cứu giúp mình tai qua nạn khỏi sẽ trả nợ Chúa, sẽ dành vốn sống của mình để làm theo ý Chúa, để phụng thờ Chúa, yêu thương mọi người. Hứa đó rồi quên. Quyết tâm rồi lại thất hứa. Thế mà Chúa vẫn yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta.
Chúa Giêsu đã từng nói với chúng ta: anh em đã lãnh nhận sự tha thứ của Chúa, thì cũng hãy tha thứ cho nhau. Không phải là một lần hay chỉ “quá tam ba bận” mà là tha thứ mãi mãi. Như vậy, tha thứ đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên nhẫn để cho người xúc phạm đến ta có cơ hội, có thời giờ sửa đổi và làm lại cuộc đời. Đừng như ông quan độc ác kia đã đối xử quá khắt khe với những con nợ của mình. Ông đòi tính sổ với các con nợ và đòi cho đến đồng bạc cuối cùng. Đó cũng là cách đối xử chung của con người hôm nay. Người ta đòi công lý phải được báo thù. Người ta đòi mắt đền mắt răng đền răng. Người ta khó chấp nhận một sự bao dung tha thứ đối với kẻ thù của mình. Cũng như Cô con gái bà cụ kia đã gieo sự bạo lực độc ác với mẹ mình giờ đây phải gặt lấy đau khổ mẹ chết và sự bất an trong tâm hồn suốt cuộc đời trước pháp luật và lương tâm.
Là con cái của Cha yêu thương và khoan dung, chúng ta phải sống yêu thương và khoan dung. Giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng bạo lực, khủng bố, bằng súng đạn, người Kitô hữu phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung, tha thứ và xót thương vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa, chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa, chúng ta vẫn có thể thương xót và bao dung tha thứ cho nhau. Tha thứ và yêu người để được sự bình an tâm hồn. Vì nếu không bao dung, tha thứ thì “oán báo oán, oán lại chập chùng”. Thương xót và Tha thứ cho nhau để được nên nghĩa tử và là môn đệ chính danh của Chúa, vì người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là “hãy yêu thương nhau”. Một tình yêu đích thực luôn bao hàm sự bao dung, thương xót và tha thứ vì “Yêu nhau củ ấu cũng tròn – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”. Vì vậy, những việc lành phúc đức của chúng ta, việc chúng ta bao dung thương xót và tha thứ cho người khác đúng là những nhân tốt lành để chúng ta gặt được quả phúc mai sau, nhưng, chúng ta nhớ rằng đó cũng là việc chúng ta phải làm để đáp lại việc trước đó Chúa đã xoá cho chúng ta món nợ vô cùng lớn là tội lỗi mà chúng ta đã xúc phạm đến Chúa và anh chị em. Vì thế chúng ta nên hãy nhớ luật nhân quả của Chúa là: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Amen.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Chúa Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật như Ngài đã nói. Trong Cựu Ước, Luật Môsê dạy tha thứ TN 24-A127
Chúa Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật như Ngài đã nói. Trong Cựu Ước, Luật Môsê dạy tha thứ cho anh em, và ra luật báo oán là mắt đền mắt răng đền răng. Chúa Giêsu bảo phải tha thứ. Mấy ông Pharisêu lại tỉ mỉ cho phép tha thứ giới hạn một số lần nhưng không đồng ý với nhau. Người thì cho là chỉ tha ba lần, người lại cho năm hay bảy lần. Phêrô không rõ nên theo phái nào và đã hỏi Chúa Giêsu: “Nếu anh em con xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải là bảy lần không?” Nhân câu hỏi của Phêrô, Chúa Giêsu dạy chúng ta không phải chỉ tha bảy lần mà tha đến bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha không giới hạn. Và nhân dịp đó Chúa cho một dụ ngôn người đầy tớ vô nhân.
Dụ ngôn không khó hiểu cho lắm, nhưng chúng ta cần suy nghĩ để thi hành đúng với những gì Chúa dạy. Thánh Matthêu nói đến một vị vua để có thể kết luận một cách hợp lý. Chúa muốn chúng ta tha thứ cho nhau vì chúng ta được tha thứ trước và nhiều hơn gấp triệu lần. Một người nợ nhà vua hàng ngàn tỷ bạc, vì không có gì trả nên vua đòi phải bán cả gia sản và cả vợ con của y để trả nợ. Thời bấy giờ người ta còn buôn nô lệ, vì thế có vấn đề bán cả vợ con y. Nếu tên này nợ vua nhiều như thế thì không phải là một tên nghèo, cũng không là một người dân thường, gia sản của y cũng khá to có thể bù được món nợ phần nào. Nhưng tên này đã sấp mình xuống lạy lục, vì anh biết số nợ của anh quá to, và anh không có gì để trả.
Chúng ta cũng thế, chúng ta phạm đến Chúa gần như hàng ngày, món nợ của chúng ta như thế nào? Chúng ta có biết được không? Chúng ta không mấy ý thức. Đến lúc ra trước mặt Chúa, chúng ta sẽ thấy nó như thế nào. Vua Đavít sau khi phạm tội đã van nài Chúa như thế nào: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu thương xót con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm… Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm…” Chúa sẵn lòng tha thứ cho chúng ta nếu chúng ta van xin Ngài. Nhưng… với một điều kiện là chúng ta phải tha thứ cho anh em chúng ta.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy rằng, nếu chúng ta không tha thứ cho anh em chúng ta như Chúa đã tha thứ cho chúng ta thì đừng mong được tha thứ. Người mắc nợ vua, khi đã được tha món nợ kết xù của mình, gặp một người bạn mắc nợ chỉ vài trăm đồng đã bóp cổ anh, đòi phải trả. Người bạn đã quì xuống lạy anh nhưng anh một mực không tha và đem anh bỏ tù. Thái độ bất bao dung này đã làm cho những người bạn của y bất mãn và buồn. Họ đem trình mọi việc cho vua. Lúc ấy vua đòi tên kia đến và bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ cho ngươi vì ngươi đã van xin ta, sao ngươi không thương đồng bạn của ngươi như ta đã thương ngươi?” Và vua cho tống ngục tên đầy tớ độc ác kia…
Tha thứ cho anh em là một đòi buộc không thể tránh né, vì chúng ta đã được tha thứ quá nhiều. Những người anh em chúng ta có lỗi phạm thì cũng không đáng giá gì so với món nợ của chúng ta với Chúa. Thế mà Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, tại sao chúng ta không sẵn lòng tha thứ cho anh em chúng ta? Tại sao chúng ta không thấy tình yêu của Chúa mà chỉ thấy lỗi phạm của anh em?
Chúa Giêsu dạy chúng ta hằng ngày cầu xin: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Chúng ta cầu xin như thế, và chúng ta có thực sự làm như chúng ta xin không? Đừng đọc câu này một cách hời hợt, hãy đọc với tất cả tâm hồn thành thật của chúng ta. Chúng ta là ai mà bắt tội anh em đang lúc Chúa nhân từ vẫn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta? Ngay trong Cựu Ước, Giuse, con của Giacob đã tha thứ cho anh em đã bán mình. Giuse không được Chúa dạy như chúng ta, nhưng ông đã biết tha thứ. Chúa Giêsu còn muốn chúng ta đi xa hơn. Ngài dạy chúng ta phải yêu thương kẻ thù, làm ơn cho người làm khổ cho chúng ta. Và chính Chúa đã tha cho những kẻ hành hình đóng đinh Ngài. Như thế không đủ cho chúng ta noi theo hay sao? Chúa còn dạy chúng ta sống hiền lành và khiêm nhượng như Ngài. Hiền lành là luôn biết tha thứ, không tích lũy những sự nhục mạ khinh chê. Khiêm nhượng là chấp nhận tất cả mọi điều sỉ nhục có thể có. Chúng ta noi gương Chúa như thế nào?
Trong nhiều giáo xứ, là cộng đoàn dân Chúa, không thiếu những chuyện hận thù ganh ghét, tranh chấp, gây bất hòa trong cộng đoàn. Trong các hội đoàn cũng thế. Giáo đoàn Côrintô đã gây bao nhiêu khó khăn cho thánh Phaolô và ngài đã nặng lời lên án tất cả những chia rẽ tranh chấp trong cộng đoàn đó. Tha thứ mới có thể hiệp nhất.
Trong gia đình cần phải tha thứ cho nhau nhiều hơn vì cuộc sống chung vẫn có những va chạm nhiều lúc rất trầm trọng. Nhiều gia đình vì không biết tha thứ đã gây nên những đau khổ lâu dài. Cần có can đảm để tha thứ. Và sự tha thứ sẽ mang lại bình an cho tâm hồn.
Thánh Phaolô đã dạy: “Đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn chưa nguôi”. Chúa Giêsu cũng bảo: “Hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ… Anh em đừng lên án thì không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha”… Thánh Phaolô cũng nói: “Đức mến chấp nhận tất cả, chịu đựng tất cả” và như thế có thể hiểu là tha thứ tất cả. Chúng ta cần theo gương của Cha trên trời, Đấng làm cho mặt trời mọc lên cho kẻ lành người dữ… Chúng ta đố kỵ, hiềm khích… làm sao chúng ta tự nhận mình là con của Cha trên trời?
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy hận thù chia rẽ, chúng ta cũng bị nhiễm lây thói thế gian. Chúng ta cũng hận thù tranh chấp như những người không biết Chúa sao? Vì sao Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá? Phải chăng là để quy tụ tất cả nên một, để bôi xóa hận thù? Chúng ta lại trở nên kẻ thù của thập giá như thánh Phaolô nói sao?
Gương lành không thiếu, chỉ thiếu thiện chí và can đảm.
Hôm nay, khi dâng lên Chúa của lễ là cuộc sống chúng ta. Chúng ta hãy dâng với bàn tay thanh sạch, nghĩa là không vương vấn những tị hiềm nhỏ nhen, những tranh chấp, những bất hòa của chúng ta, một lòng một ý để tạ ơn và tôn vinh Chúa, như Chúa Giêsu đã dạy: “Khi đến dâng của lễ trước bàn thờ, nếu ngươi nhớ có mối tỵ hiềm với người anh em, hãy để của lễ ở đó, đi về làm hòa với người anh em đã, rồi đến dâng của lễ”.
Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài chỉ vui nhận của lễ khi chúng ta dâng lên với tâm tình yêu thương thành thật. Chúa Giêsu là của lễ tình yêu độc nhất khi Ngài tự hiến trên thập giá, và nhờ đó chúng ta được tha thứ. Chúng ta cũng phải trở nên của lễ tình yêu như thế nếu chúng ta muốn Chúa thương nhận của lễ chúng ta dâng. Hơn nữa Chúa Giêsu lại chứng tỏ tình yêu của Ngài một cách thiết thực hơn khi trở nên tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ăn lấy tấm bánh tình yêu này, chúng ta phải trở nên tình yêu sống động và làm chứng cho tình yêu Chúa trong cuộc sống đầy gian nan của chúng ta. Hãy biến cuộc sống thành tình yêu, đối với Chúa và với anh em, chúng ta mới trở nên con của Cha trên trời và cuộc sống chúng ta sẽ tươi sáng và hạnh phúc hơn.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
Thưa Cha, con đã tha thứ cho em của con và bao lần con đã cố gắng để làm hòa, nhưng nó vẫn TN 24-A128
“Thưa Cha, con đã tha thứ cho em của con và bao lần con đã cố gắng để làm hòa, nhưng nó vẫn không chịu, gặp mặt con là nó bỏ con đi chỗ khác, con thực sự rất đau buồn; xin Cha giúp con có cách nào?” Cũng có trường hợp khác “Thưa Cha, con không thể nào mà tha thứ cho người đó được, cho dù người có đi đâu, có chết và hóa ra tro đi nữa con cũng không thể nào tha thứ; mỗi khi nghĩ đến, hay nghe nhắc tới cái tên của người đó là con rất giận, điên tiết lên được; Cha thấy đó, làm sao con có thể tha được đúng không?” Không biết anh chị em đã có lần có rơi vào một trong hai hoàn cảnh đáng thương này không? Nếu có, thì chúng ta đã, đang và sẽ làm gì để được tha thứ, hòa giải với nhau? Nếu được đưa ra lời khuyên hay sáng kiến để hòa giải, chúng ta sẽ phải làm gì? Thật vậy, với tài sức và khả năng hạn hẹp, thật khó và quá nan giải, để có thể tha thứ, làm hòa và ngay cả đưa ra phương cách để giúp đỡ nhau. Tạ ơn Chúa, các bài đọc Lời Chúa hôm nay soi đường dẫn lối cho chúng ta. Miễn là chúng ta biết khiêm tốn, chịu mở lòng, để cho ơn của Thánh Thần tác động và cố gắng thực thi với ơn sức mạnh của Chúa.
Tin mừng theo Thánh Matthêu đưa ra cho chúng ta lời dạy và mẫu gương của Chúa Giêsu trong việc tha thứ. Thật ra, chúng ta không thể nào tha thứ cho anh chị em mình, nếu trước tiên chúng ta không cảm nhận và tin rằng chính bản thân mình đã được yêu thương tha thứ bởi Thiên Chúa là “Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân.” Nếu không có ơn tha thứ của Chúa trong tâm hồn và đời sống, thì cho dù chúng ta có cố gắng nỗ lực cách mấy đi nữa, e rằng với sức của mình may ra chỉ “quá tam ba bận” để mà tha thứ cho anh chị em mình. Khi đưa ra vấn đề cho Chúa về việc tha thứ, Phêrô đã đặt ra một con số mà ông cho và tưởng chừng là quá hoàn hảo, không thể tốt hơn được. “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?” Khi hỏi điều này, có thể Phêrô cho rằng, Chúa sẽ đồng ý và tán dương cách ông làm như vậy. Thế nhưng, câu trả lời của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với mong muốn của Phêrô và đã làm cho ý tưởng cao đẹp ông của bị sụp đổ. “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.” Thật vậy, con số “bảy mươi lần bảy” mà Chúa Giêsu đưa ra nghĩa là tha thứ không có giới hạn về số lần, tha thứ vô điều kiện. Đây không chỉ là lời dạy hay giáo điều, nhưng chính là căn tính yêu thương khoan dung và tha thứ của Thiên Chúa đang dành cho chúng ta.
Vậy làm sao chúng ta có thể sống tha thứ theo như cách mà Chúa Giêsu đã đưa ra và chỉ dạy? Dụ ngôn giữa ông chủ rất phóng khoáng và giàu lòng nhân nghĩa, hoàn toàn trái ngược với sự ích kỷ, hẹp hòi và bất nhân của tên đầy tớ. Câu chuyện này đang phản ánh chính thực tế về mối tương quan giữa Thiên Chúa và mỗi con người chúng ta. Nếu chúng ta thử làm một phép tính về việc hơn thiệt qua cách đề nghị của Chúa Giêsu: “Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Thử hỏi trong một ngày, một tháng, một năm, người khác đã xúc phạm, gây lỗi với chúng ta bao nhiêu lần? có nhiều đến mức mà không đếm được không? mình có thể tha thứ không, nếu có thì mấy lần? Trong lúc đó, mỗi ngày trong cả cuộc sống, chúng ta đã không biết bao nhiêu lần phạm lỗi đối với Chúa, con số là vô vàn, không thể đếm được. Như vậy, phần thiệt là chắc chắn 100% là thuộc về chúng ta.
Biết vậy, nghe thì cũng hợp lý, nói thì dễ, nhưng để thực hành thì thật là khó, vì sự hẹp hòi ích kỷ của bản thân và sức hạn hẹp của con người. Thì đây, chính là lúc mà chúng ta cần đến ơn trợ giúp của Thiên Chúa. Vì không phải chính chúng ta, nhưng Thiên Chúa là Đấng tha thứ và ban ơn. Những lúc mà chúng ta không thể sống tha thứ, thì hãy nhớ lời dạy từ Sách Huấn Ca: Dẫu biết rằng với thân phận yếu đuối tội lỗi, chúng ta luôn mang trong bản tính của xác thịt những thói hư nết xấu như thịnh nộ, giận dữ, ghen ghét; tất cả những thứ đó đều ghê tởm và đáng lên án. Ai trong chúng ta cũng biết, và chắc hẳn không ai muốn mình bị coi khinh và bị lên án vì nó. Nhưng làm sao để chúng ta có thể. Cầu nguyện để xin ơn tha thứ là phương cách để giúp cho chúng ta có sức mạnh mà có thể lướt thắng những yếu đuối đó. “Hãy nhớ đến giao ước của Ðấng Tối Cao, và hãy bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.”
Đấng đáng kính ĐHY Fx. Nguyễn Văn Thuận khi được hỏi, làm sao Ngài có thể tha thứ cho những người bắt hại, tống giam tù tội, và gây nên cho Ngài bao nhiêu cực hình. Ngài đã trả lời: “Vì Chúa luôn yêu thương và tha thứ cho tôi, chính Chúa và đạo của Chúa dạy tôi phải yêu thương, tha thứ”. Và trên hết sức mạnh để Ngài có thể tha thứ cho mọi người, đó chính là cầu nguyện; “cầu nguyện cho chính mình, cầu nguyện cho những người bách hại, làm khổ mình để họ cũng được Chúa ban ơn mà sống tốt.” Thật vậy, chỉ có ơn Chúa qua sức mạnh của cầu nguyện mới giúp cho chúng ta cảm nhận được tình yêu thương tha thứ của Chúa, để chúng ta mới có thể phần nào sống quảng đại vị tha với anh em mình.
Lạy Chúa, thật là khó, và dường như không thể đối với chúng con khi phải yêu thương tha thứ đến bảy mươi lần bảy. Dẫu biết vậy, nhưng xin hãy luôn ban sức mạnh hầu giúp chúng con luôn vững tin vào tình yêu thương tha thứ của Chúa; xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn để cảm nghiệm được chính ân sủng này. Nhờ đó, chúng con sẽ có một trái tim biết yêu thương quảng đại, để mỗi ngày chúng con sẽ cố gắng và sẵn sàng tha thứ cho anh chị em như chính Chúa yêu thương tha thứ cho chúng con. Amen.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Phim “Cánh Đồng Bất Tận” kể về bi kịch của sự thù hận. Phim được chuyển thể từ truyện ngắn cùng TN 24-A129
Phim “Cánh Đồng Bất Tận” kể về bi kịch của sự thù hận. Phim được chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Bộ phim xoay quanh 4 nhân vật, người cha và hai đứa con, cùng cưu mang một người đàn bà làm nghề mại dâm. Bốn người lênh đênh trên một chiếc xuồng máy, nuôi vịt chạy đồng, không nhà không cửa, nay đây mai đó theo con nước. Đời sống của họ ngập chìm đau khổ dằn vặt xuất phát từ sự thù hằn.
Đầu tiên là người cha. Số là anh ta lấy vợ và có hai con. Cuộc sống cơ cực, anh phải vất vả để lo cho ba mẹ con. Ấy vậy mà người vợ ham sang phụ khó theo một thương lái người Hoa, bỏ lại hai đứa con cho anh. Đau khổ tột cùng vì bị chính người vợ yêu thương phản bội, anh đốt căn nhà, đốt cái mái ấm bấy lâu nay, xuống ghe lênh đênh, bắt đầu một cuộc sống trôi sông lạc chợ, nay đây mai đó, không tương lai, không định hướng. Bao nhiêu hận thù, người cha trút hết lên đầu hai đứa con.
Kế đến là sự thù hận của cô gái điếm. Vì hận cha mẹ ly dị bỏ rơi cô, nên cô làm gái để trả thù đời. Trong một lần đi khách, cô bị đám đông các bà vợ bắt và đổ keo dán sắt vào vùng kín. Cô đau đớn chạy trốn và được ba cha con đưa lên ghe cứu chữa. Cuộc sống của 4 người cứ lênh đênh trên sông nước, buồn tẻ vì mỗi người đều mang trong mình những nỗi thù hằn, căm phẫn vì bị chính những người thương yêu phản bội. Ông bố hận vợ, thù người bạc tình nên luôn cau có và bạo lực đánh đập 2 đứa con. Cậu con trai tuy còn nhỏ nhưng đã mang trong mình nỗi hận thù của cha, cậu nói rằng cậu ghét cái ác, và muốn trả thù, có thù thì phải trả. Cô gái làm điếm vì hận thù gia đình, hận thù bố mẹ…
Cũng vì sự hận thù và lòng muốn trả thù nên 4 người trở thành thù địch của nhau. Và họ đi đâu cũng gây thù chuốc oán ở chỗ đó, cho nên nhiều bọn giang hồ ghen ghét. Cậu con trai vì không chịu nổi người ta ức hiếp người đàn bà nên đã phạm tội giết người. Vì sợ, cậu đã bỏ trốn. Người đàn bà không chịu được sự thù hằn của người bố nên cũng bỏ đi. Chỉ còn lại người cha và đứa con gái. Câu chuyện được đẩy lên đỉnh điểm khi đứa con gái bị nhóm côn đồ hiếp dâm ngay trước mặt ông bố. Chúng nó đánh ông bố ngã quỵ, rồi buộc ông phải nhìn cảnh bọn chúng từng thằng hãm hiếp đứa con gái của mình trong bất lực. Không còn đau khổ nào hơn thế nữa.
Kết thúc bộ phim, cô gái có bầu, không biết cha đứa bé là ai. Cô đi trên một cánh đồng mênh mông, bất tận, vừa đi vừa nói với đứa con trong bụng: Là trẻ con, nên tha thứ lỗi lầm cho người lớn. Và mẹ sẽ đặt tên con là Thương.
Không biết Nguyễn Ngọc Tư có đạo Công giáo hay không, nhưng rõ ràng với những bế tắc của các nhân vật, cuối cùng chỉ có giáo lý Kitô giáo mới giải quyết được vấn đề. Hận thù chỉ làm cho con người bế tắc, chỉ có sự tha thứ và tình yêu sẽ cứu rỗi thân phận con người. (Lm. Mar-Aug Bùi Văn Hồng Phúc, SSS).
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc đàm đạo về ơn tha thứ. Phêrô đến gần Chúa Giêsu hỏi rằng: Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm đến con thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không?. Đối với người Do thái là “quá tam ba bận”. Có tha chỉ tha ba lần thôi, đến lần thứ tư phải trừng phạt. Họ suy luận:Thiên Chúa trừng phạt kẻ ác khi nó lỗi phạm lần thứ tư; người phàm không thể nhân lành hơn Thiên Chúa nên con người không thể tha thứ cho nhau quá ba lần. Trước lời suy luận và giảng dạy như thế của các kinh sư, Phêrô chắc mẫm sẽ được Thầy khen ngợi khi đề nghị tha bảy lần. Vì tha thứ bảy lần là đã gấp đôi truyền thống Do thái và còn cộng thêm một lần nữa. Phêrô đến với Chúa bằng tâm thức của luật dân Chúa đang tuân giữ “Thiên Chúa luôn tha thứ cho người công chính bảy lần” (Cn 24,16). Tha thứ bảy lần là tha thứ có giới hạn. Thế nhưng, câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm bàng hoàng người nghe: Không phải chỉ bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy. Tha thứ đến 490 lần. Ở đây không thể hiểu theo nghĩa đen với công thức toán học để tìm ra con số lần phải tha thứ cho anh em mà là tha thứ không giới hạn, tha hoài, tha mãi.
Để các môn đệ hiểu bài học tha thứ không giới hạn này, Chúa Giêsu đã cụ thể hoá bằng câu chuyện. Một người đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn nén bạc, có giá trị tương đương một trăm triệu, một số nợ khổng lồ vì một ngày công chỉ một đồng (x. Mt 20,9). Vua ra lệnh bán y, vợ con, tài sản của y để trả nợ. Người đầy tớ liền sấp mình, van lơn xin khất nợ. Nhà vua động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.Tên đầy tớ được tha hết mọi nợ nần, được trả tự do, không còn làm nô lệ nữa. Trớ trêu thay, vừa được tha về, tên đầy tớ gặp một người bạn chỉ mắc nợ y một trăm đồng, một món nợ rất nhỏ so với món nợ khổng lồ y vừa được vua tha bổng, y tóm lấy, bóp cổ đòi trả nợ ngay. Người bạn sấp mình dưới chân y, van lơn xin khất nợ, nhưng y không nghe, bắt bạn tống giam vào ngục. Chuyện chướng tai gai mắt này đến tai vua, vì những người bạn của anh không thể nhắm mắt làm ngơ được. Kết cục, tên đầy tớ ác độc bị vua ra lệnh hành hạ. Kết thúc câu chuyện, Chúa Giêsu khẳng định: “Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
Tha thứ cho nhau là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ.Tha thứ không giới hạn và tha thứ tận đáy lòng. Tha tận đáy lòng nghĩa là tha và quên hoàn toàn, như không có chuyện gì đã xảy ra giữa hai người. Trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta xin: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Chúa lấy mức chúng ta tha thứ cho nhau làm thước đo để tha thứ, chúng ta tha thế nào thì Cha trên trời cũng tha cho chúng ta như vậy. Trong “bài giảng trên núi,” Chúa Giêsu đã dạy, không những “chớ trả thù” mà phải “yêu kẻ thù” nữa, “như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời”. Và Chúa kết luận: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 38-48). Tha thứ tận đáy lòng là một cách thức nên hoàn thiện như Cha trên trời: hoàn thiện về lòng yêu mến, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Trả thù là khuynh hướng nhân loại, tha thứ là hồng ân Thiên Chúa. Quan toà có thể không tha thứ cho tội nhân, nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi, nếu họ thực lòng ăn năn hối cải.
Trong lúc đau đớn tột cùng trên thập giá, Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại, lăng nhục, cáo gian và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).
Thế giới hôm nay đang bị thống trị bởi bạo lực và oán thù. Những cuộc chiến tranh dai dẳng giữa các quốc gia; những hiềm thù giữa các bộ tộc anh em; những xung đột giữa những người khác màu da, khác tôn giáo, khác quan điểm chính trị; những thảm kịch vô phương hàn gắn trong gia đình. Con người để cho hận thù lôi kéo và không sao thoát ra khỏi cái vòng ân oán nghiệt ngã. Cần phải có những người dám chịu thiệt thòi, dám bẻ gãy oán thù bằng tha thứ, dám tin rằng tình thương có thể biến đổi quả tim chai đá của con người. Giáo hội vẫn luôn kêu gọi xây dựng một nền văn minh tình thương, vì chỉ khi ấy trái đất này mới có cơ may tồn tại.
Tha thứ là một nhân đức siêu nhiên nên cần có ơn Chúa, con người mới có thể nói lời tha thứ cho nhau. Tha thứ không chỉ là một hành động thuần tuý ý chí, mà còn là một ân ban. Không thể có sự tha thứ nếu không cầu nguyện. Mỗi người luôn cảm nhận tình thương và sự tha thứ của Thiên Chúa đối với chính mình thì sẽ dễ dàng thứ tha cho người khác.
Tha thứ là lời mời gọi duy nhất để tình yêu lớn lên. Tha thứ đem về mùa xuân cho tâm hồn đâm chồi yêu thương, nảy lộc bình an. Chúa đã tha thứ cho Phêrô, tình yêu bùng cháy, Phêrô đã sống hết mình cho sứ vụ Thầy trao. Phaolô đựơc ơn tha thứ, biến đổi cuộc đời, thành sứ giả lừng danh rao truyền Đức Kitô cho thế giới.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của lòng khoan dung. Thế giới có “Ngày khoan dung quốc tế” (International day of tolerance) do Liên Hiệp Quốc thiết lập vào ngày 16.11.1995. Người khoan dung độ lượng là người không chấp nhất, nhưng thông cảm với những lầm lỗi của kẻ khác. Lòng khoan dung độ lượng được xây dựng trên ý thức về những yếu đuối, về khả năng phạm lỗi của chính bản thân mình, và của người khác. Mình cũng phạm lỗi sao mình lại kết án người khác? Thế giới có ngày khoan dung, người Kitô hữu cần cả đời khoan dung.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới, một thế giới cảm thông chan hoà, một thế giới chan chứa tình huynh đệ, một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định điều ấy: Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ.
Chúa Giêsu vì yêu thương đã hiến dâng chính mình trên hy tế thập giá đễ ban ơn cứu độ cho nhân loại. Với hiến tế Thánh Thể, Người vẫn tiếp tục tuôn đổ ơn cứu độ. Đón nhận Thánh Thể là nguồn sức mạnh, nguồn tình yêu để chúng ta biết tha thứ cho nhau.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Mt 18, 21-35: Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu dạy hãy sửa lỗi cho nhau. Tin Mừng tuần này, Chúa dạy hãy tha thứ. Góp ý xây dựng là một nét đẹp của tình yêu. Tha thứ là mùa xuân của tình yêu.
***
Văn hào Nga, Lêon Tolstoi kể câu chuyện ngụ ngôn. Có một người hành khách đến trước cửa nhà TN 24-A130
Văn hào Nga, Lêon Tolstoi kể câu chuyện ngụ ngôn.
Có một người hành khách đến trước cửa nhà một người giàu có để xin bố thí. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu đựng đựơc những lời van xin đó, thay vì bố thí, người giàu có đã lấy đá ném vào người hành khất. Con người khốn khổ ấy lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: ta sẽ mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi.
Năm tháng trôi qua, lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất cũng chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng, ông đi theo đoàn người áp giải, tay không rời hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên mình. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này giờ đây chỉ là một kẻ khốn khổ như ta mà thôi.
Có hai thứ mùa xuân. Xuân đất trời và xuân tâm hồn. Xuân đất trời, mầm non nẩy lộc, cây cối xanh tươi. Xuân tâm hồn, bình an thanh thản. Người hành khất đã tìm lại mùa xuân tâm hồn. Vì biết tha thứ nên tâm hồn mang nặng hờn căm oán ghét giờ đây đã hồi sinh, nảy mầm. Từ đây, cuộc sống trở nên tươi đẹp. Mới mẻ của mùa xuân tâm hồn con người là sự tha thứ.
Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu dạy hãy sửa lỗi cho nhau. Tin Mừng tuần này, Chúa dạy hãy tha thứ. Góp ý xây dựng là một nét đẹp của tình yêu. Tha thứ là mùa xuân của tình yêu.
Trang Tin Mừng thuật lại cuộc đàm đạo về ơn tha thứ.
Phêrô đến gần Chúa Giêsu hỏi rằng: Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm đến con thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không?. Đối với người Do thái là “quá tam ba bận”. Có tha chỉ tha ba lần thôi, đến lần thứ tư phải trừng phạt. Họ suy luận:Thiên Chúa trừng phạt kẻ ác khi nó lỗi phạm lần thứ tư; người phàm không thể nhân lành hơn Thiên Chúa nên con người không thể tha thứ cho nhau quá ba lần. Trước lời suy luận và giảng dạy như thế của các kinh sư, Phêrô chắc mẫm sẽ được Thầy khen ngợi khi đề nghị tha bảy lần. Vì tha thứ bảy lần là đã gấp đôi truyền thống Do thái và còn cộng thêm một lần nữa. Phêrô đến với Chúa bằng tâm thức của luật dân Chúa đang tuân giữ "Thiên Chúa luôn tha thứ cho người công chính bảy lần" (Cn 24,16). Tha thứ bảy lần là tha thứ có giới hạn. Thế nhưng, câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm bàng hoàng người nghe: Không phải chỉ bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy. Tha thứ đến 490 lần. Ở đây không thể hiểu theo nghĩa đen với công thức toán học để tìm ra con số lần phải tha thứ cho anh em mà là tha thứ không giới hạn, tha hoài, tha mãi.
Để các môn đệ hiểu bài học tha thứ không giới hạn này, Chúa Giêsu đã cụ thể hoá bằng câu chuyện. Một người đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn nén bạc, có giá trị tương đương một trăm triệu, một số nợ khổng lồ vì một ngày công chỉ một đồng (x. Mt 20,9). Vua ra lệnh bán y, vợ con, tài sản của y để trả nợ. Người đầy tớ liền sấp mình, van lơn xin khất nợ. Nhà vua động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.Tên đầy tớ được tha hết mọi nợ nần, được trả tự do, không còn làm nô lệ nữa. Trớ trêu thay, vừa được tha về, tên đầy tớ gặp một người bạn chỉ mắc nợ y một trăm đồng, một món nợ rất nhỏ so với món nợ khổng lồ y vừa được vua tha bổng, y tóm lấy, bóp cổ đòi trả nợ ngay. Người bạn sấp mình dưới chân y, van lơn xin khất nợ, nhưng y không nghe, bắt bạn tống giam vào ngục. Chuyện chướng tai gai mắt này đến tai vua, vì những người bạn của anh không thể nhắm mắt làm ngơ được. Kết cục, tên đầy tớ ác độc bị vua ra lệnh hành hạ. Kết thúc câu chuyện, Chúa Giêsu khẳng định: “Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
Tha thứ cho nhau là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ. Chúa Giêsu cho thấy tính cấp thiết và cần thiết của ơn tha thứ.
- Phải tha thứ vì ai cũng lỗi lầm.
“Nhân vô thập toàn”, không ai hoàn hảo cả. Là con người, ai cũng có những sai trái, những lầm lỗi. Xét lại bản thân, sẽ thấy chính mình cũng có nhiều sai trái, lắm khiếm khuyết và lầm lỗi. Vô ý và hữu ý, cố tình và vô tình xúc phạm nhau. Chỉ cần một chút cảm thông, một ít hiểu biết sẽ dễ dàng bỏ qua, không chấp nhất. Người mang nặng oán hờn là người không bao giờ bình an. Như người hành khất mang hòn đá căm hờn mười mấy năm nặng nề. Trong các thứ khổ hạnh, giữa những thứ đắng cay, có một thứ rất cay đắng, đó là thiếu vắng thông cảm, là tâm hồn mang hận thù. Khi thù ai, tâm hồn tôi không còn phẳng lặng. Khi tôi bị người khác thù hận, tôi sống trong đề phòng sợ hãi. Cả hai đều là ngục tối. Cả hai đều đánh mất bình an tâm hồn.
Tha thứ là việc vô cùng khó. Tha thứ vượt qua khả năng tự nhiên của con người, nhất là đối với người Việt Nam chúng ta “sống để bụng, chết đem theo”. Câu nói đó cho thấy người Việt Nam giận dai, thù dai, nhớ dai những xúc phạm của người khác như thế nào. Cần phải tha thứ cho nhau. Thánh Phaolô đã khuyên bảo: “Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4,32). Đức Phật cũng dạy lấy ơn trả oán chứ đừng lấy oán trả oán: Lấy oán trả oán, oán chập chùng. Lấy đức trả oán, oán tiêu tan.
- Mỗi người cần được thứ tha.
Mỗi người trong đời có biết bao lỗi lầm. Đời người là một chuỗi những vấp ngã được đan kết với bao thứ tha. Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời người, nếu bị ngăn lại sẽ thành ao tù, nó sẽ trong lành khi chảy đến anh em. Luật “mắt đền mắt răng đền răng” là luật công bằng, nhưng ơn tha thứ mới đem lại mùa xuân cho cuộc đời. Thánh Phanxicô Assidi cũng đã xác định: vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ.
- Tha thứ để được Chúa thứ tha.
Chúa Giêsu nhấn mạnh điều này rất nhiều lần. Khi dạy kinh Lạy Cha, Chúa mời gọi mỗi người phải hứa tha thứ cho anh em khi xin Người tha thứ lỗi lầm cho mình. Ở cuối kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu căn dặn: Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15). Thánh Phaolô sống Lời Chúa dạy và đã tha thiết mời gọi: “Anh em hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em, người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau”(Col 3,13).
- Tha thứ là hồng ân của Thiên Chúa.
Trả thù là khuynh hướng nhân loại, tha thứ là hồng ân Thiên Chúa. Quan toà có thể không tha thứ cho tội nhân, nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi, nếu họ thực lòng ăn năn hối cải.
Trong lúc đau đớn tột cùng trên thập giá, Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại, lăng nhục, cáo gian và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).
Thế giới hôm nay đang bị thống trị bởi bạo lực và oán thù. Những cuộc chiến tranh dai dẳng giữa các quốc gia; những hiềm thù giữa các bộ tộc anh em; những xung đột giữa những người khác màu da, khác tôn giáo, khác quan điểm chính trị; những thảm kịch vô phương hàn gắn trong gia đình. Con người để cho hận thù lôi kéo và không sao thoát ra khỏi cái vòng ân oán nghiệt ngã. Cần phải có những người dám chịu thiệt thòi, dám bẻ gãy oán thù bằng tha thứ, dám tin rằng tình thương có thể biến đổi quả tim chai đá của con người. Giáo hội vẫn luôn kêu gọi xây dựng một nền văn minh tình thương, vì chỉ khi ấy trái đất này mới có cơ may tồn tại.
Tha thứ là lời mời gọi duy nhất để tình yêu lớn lên. Tha thứ đem về mùa xuân cho tâm hồn đâm chồi yêu thương, nảy lộc bình an. Chúa đã tha thứ cho Phêrô, tình yêu bùng cháy, Phêrô đã sống hết mình cho sứ vụ Thầy trao. Phaolô đựơc ơn tha thứ, biến đổi cuộc đời, thành sứ giả lừng danh rao truyền Đức Kitô cho thế giới.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của lòng khoan dung. Thế giới có “Ngày khoan dung quốc tế” (International day of tolerance) do Liên Hiệp Quốc thiết lập vào ngày 16.11.1995. Người khoan dung độ lượng là người không chấp nhất, nhưng thông cảm với những lầm lỗi của kẻ khác. Lòng khoan dung độ lượng được xây dựng trên ý thức về những yếu đuối, về khả năng phạm lỗi của chính bản thân mình, và của người khác. Mình cũng phạm lỗi sao mình lại kết án người khác? Thế giới có ngày khoan dung, người Kitô hữu cần cả đời khoan dung.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới, một thế giới cảm thông chan hoà, một thế giới chan chứa tình huynh đệ, một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định điều ấy: Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ.
Chúa Giêsu vì yêu thương đã hiến dâng chính mình trên hy tế thập giá đễ ban ơn cứu độ cho nhân loại. Với hiến tế Thánh Thể, Người vẫn tiếp tục tuôn đổ ơn cứu độ. Đón nhận Thánh Thể là nguồn sức mạnh, nguồn tình yêu để chúng ta biết tha thứ cho nhau.
--------------------------------
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ,
Chúng ta đã từng nghe ít nhiều câu nói của Đức Giê-su “ai yêu mến nhiều thì sẽ được thứ tha TN 24-A131
Chúng ta đã từng nghe ít nhiều câu nói của Đức Giê-su “ai yêu mến nhiều thì sẽ được thứ tha nhiều” (x. Lc 7, 47). Thiết nghĩ, nếu chúng ta thật sự yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta sẽ nghiệm thấy chúng ta được tha thứ vô vàn; và nếu chúng ta yêu thương anh chị em thật tình, yêu như yêu chính bản thân mình, thì chúng ta cũng sẽ tha thứ cho anh chị em mình nhiều, bất luận họ ra sao, hoặc bất luận lỗi lầm của họ thế nào!
Các bài đọc hôm nay phát hoạ rõ ràng cách thức Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, và Ngài đòi hỏi chúng ta cũng sống thứ tha cho anh chị em như vậy. Mỗi khi chúng ta mắc lỗi phạm đến Chúa hay anh chị em, chúng ta đều mong muốn được tha thứ ngay, tha thứ liền và tha thứ một cách nhanh chóng như lòng kỳ vọng. Nhưng khi anh chị em trót gây ra lầm lỗi, sai phạm đến chúng ta thì dường như chúng ta chẳng chịu tha, hoặc chần chừ, có khi giữ mãi trong lòng cho tới lúc nhắm mắt suôi tay. Thật tiếc cho chúng ta nếu đang trong tình trạng hay tâm trạng như thế, vì một lẽ chắc chắn là lòng bất an, ray rứt, tâm bất tịnh, cồn cào, não ruột; còn người mắc lỗi có như vậy hay không, chúng ta không biết, và thậm chí cũng không cần biết tới! Có lẽ họ vẫn vui tươi với cuộc sống hằng ngày, họ vẫn ung dung tự tại như bao người khác…, nhưng tâm hồn chúng ta (là những người không tha thứ, không chịu tha thứ, không muốn tha thứ) sẽ chẳng nguôi ngoai, trái lại, luôn thổn thức, và cuộc sống chúng ta chẳng mấy vui tươi, hân hoan thật tình.
Để hiểu rõ hơn Thiên Chúa yêu thương, tha thứ chúng ta đến mức độ nào, và Người đòi hỏi chúng ta tha thứ cho anh chị em ra sao thì chúng ta cùng tìm hiểu một chút về bản văn gốc của dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay. Bản văn tiếng Việt dịch là: tên đầy tớ nợ ông chủ 10 ngàn nén vàng/bạc, còn người bạn của hắn thì nợ hắn 100 nén bạc. Nếu so về số lượng 10 ngàn nén vàng/bạc với 100 nén bạc, thì chúng ta cũng thấy cũng khá nhiều (gấp 100 lần). Tuy nhiên, nếu nhìn bản văn gốc thì chúng ta càng ngạc nhiên, và hiểu rõ hơn ông chủ trong dụ ngôn đã tha thứ cho tên đầy tớ nhiều như thế nào. Người tôi tớ nợ ông chủ 10 ngàn talanton (đơn vị nén vàng/bạc Hy Lạp) và bạn của hắn nợ hắn chỉ có 100 denarii (đơn vị nén bạc Hy-La, số ít là denarius). Theo cách tính thời đó, 1 talanton khoảng 6 ngàn denarii, 1 talanton ngang bằng tiền lương trong vòng 20 năm (tương đương với $1000-$30000/1 ngày), và 1 denarius tương đương với tiền lương một ngày công cho thợ không lành nghề. Như vậy, người đầy tớ nợ ông chủ 10 ngàn talanton (tương đương với 10000 x 20 năm = 20 vạn năm lương), nghĩa là cả đời cũng không thể trả hết (vì đời người dài nhất cũng chỉ 100 năm là cùng!) Ngược lại, người bạn của tên đầy tớ chỉ nợ y 100 denarii (tương đương 100 ngày lương), nghĩa là có thể hoàn trả lại, mặc dù phải mất hơn 3 tháng lương mới thanh toán được.
Với món nợ mà cả đời, thậm chí tính luôn tổng số đời của họ hàng thân tộc của tên đầy tớ cũng không thể trả hết được, nhưng ông chủ đã dủ lòng thương xót, tha bổng cho hắn vô điều kiện; nhưng y lại không thể bỏ qua hoặc gia hạn cho người bạn y món nợ có thể hoàn trả lại, tuy mất nhiều thời gian, hoặc phải đánh đổi nhiều thứ để dành dụm ngõ hầu thanh toán cho y!
Chúng ta nợ nhau với những món nợ có thể thanh toàn ở đời này hoặc không đáng kể, nhưng chúng ta lại không tha thứ cho nhau, không bỏ qua cho nhau, thì làm sao Thiên Chúa tha cho chúng ta món nợ mà thậm chí hết đời này cũng chưa thể thanh toán được! “Người này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao? Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao?” (Hc 28, 3-4).
Dân gian có câu: “nhất quá tam” hoặc “quá tam ba bận”. Đơn giản, khi chúng ta làm gì, khi mắc lỗi, cũng như khi tha thứ, thông thường tới ngưỡng tối đa là lần thứ ba. Tương tự như suy nghĩ của người Do Thái nói chung và Phê-rô nói riêng, tha đến lần thứ bảy là tuyệt vời, trên cả lòng mong đợi, và quá ư quảng đại rồi! Mặc khác, Đức Giê-su là người Do Thái, biết rõ tâm tư, và văn hoá Do Thái, đáng lẽ Ngài hoan nghênh, thậm chí nên tán thưởng Phê-rô khi Ngài nghe ông bộc bạch về việc ông tha thứ đến bảy lần chứ! Và nếu thử đặt mình vào tâm trạng của Phê-rô, có lẽ chúng ta cũng sẽ nghĩ như ông là: chắc Thầy Giê-su vui lắm đây, khi nghe những lời này! Tuy nhiên, câu trả lời của Đức Giê-su khiến Phê-rô, các môn đệ và cả chúng ta nữa phải sửng sốt, kinh ngạc, bởi lẽ nó vượt xa, vượt trên những mặc định của Phê-rô tha thứ tối đa là bảy lần, còn mặc định của chúng ta thứ tha tối đa ba lần, đó là: “tha đến bảy mươi lần bảy” (770), nghĩa là tha thứ mãi hoài. (x. Mt 18, 22).
Khi đề cập tới việc tha thứ, sống vị tha với anh chị em, thì vô vàn lí do mà chúng ta thường giữ khư khư như thể vũ khí để biện minh cho hành vi không tha thứ của mình cho anh chị em, thí dụ: người ấy không xứng đáng được tha thứ (không xứng đáng với sự tha thứ của tôi, hoặc không xứng đáng được tôi tha thứ); lỡ họ tái phạm sau khi được tha thứ thì sao, đành rằng nói tha rồi; nhưng đụng chuyện gì đó thì ‘lôi ra’ hay nhắc lại bổn cũ để hạ thấp hoặc mày nheo, đay nghiến anh chị em…v, v…; tôi tha cho họ rồi, nhưng ai thứ tha cho tôi, hay ai sẽ tha thứ cho tôi…Thật ra, nếu mà Chúa cũng nghĩ như chúng ta thì chắc hẳn chúng ta sẽ chẳng bao giờ được thứ tha, chẳng bao giờ được bình tâm, an lòng, chẳng thể yên thân! Nhưng may thay, Chúa không eo hẹp, ích kỷ và khăng khăng vào nhận định của bản thân; trái lại, Ngài rộng lượng, đầy khoan dung nhân hậu, chậm bất bình, và rất mực xót thương chúng ta, bất luận khi chúng ta tội lỗi hay sống tốt lành, thánh thiện.
Vì lẽ, Thiên Chúa chẳng bao giờ muốn kẻ tội lỗi, kẻ gian ác phải chết (x. Ez 18, 23; Lc 5, 32) và chẳng giữ mãi lỗi lầm, việc làm xấu xa của chúng ta, hay Ngài không chịu bỏ qua hay tha thứ cho chúng ta đâu! Tuy nhiên, nếu chúng ta không biết tha thứ cho anh chị em, thì lời cảnh báo của Đức Giê-su sẽ thành hiện thực ngay cả ở đời này “Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18, 35). Sau cùng, chúng ta nên khắc ghi lời trong sách Huấn Ca và luôn rộng lòng tha thứ cho anh chị em như chúng ta đã-đang-sẽ được thứ tha, “Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn. Hãy nhớ kính sợ Thiên Chúa, và đừng giận ghét kẻ khác. Hãy nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao, và hãy bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác” (Hc 28, 6-7). Lúc ấy và chỉ khi ấy, “bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (x. Hc 28, 1).
Nào chúng ta cùng nhìn lại đời mình, nhìn lại tâm hồn mình, nhìn lại thời gian qua, nhất là những khi chúng ta cảm nghiệm sâu sắc tình Chúa thứ tha, cũng như nhiều lần chúng ta chưa sống giới răn yêu thương, chưa mở lòng thứ tha cho anh chị em. Và trong tâm tình đó, chúng ta cùng nguyện cầu:
Lạy Chúa giàu lòng xót thương
Xin cho con yêu thương như Chúa hằng thương yêu
Xin cho con tha thứ như Chúa hằng thứ tha
Xin cho con mở rộng lòng như lòng Chúa mãi rộng mở
Xin cho con bỏ qua lầm lỗi của anh chị em như Chúa hằng bỏ qua cho con. Amen!
--------------------------------
Chúa Nhật 24 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
“Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận, lại giàu tình thương”.
Kính thưa Anh Chị em,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay, thoạt tiên, có một cái gì đó gây sốc; một điều gì đó TN 24-A132
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay, thoạt tiên, có một cái gì đó gây sốc; một điều gì đó xem ra khá bất công khi Thiên Chúa không ngại đứng hẳn về phía người có lỗi; xem ra Người bênh vực tội nhân khá trộ tràng và nhất là, dường như, ai không biết xót thương như Người, thì Người coi họ là thù nghịch. Thế nhưng, khi chiêm ngắm Chúa Giêsu và Chúa Cha, Đấng mà Ngài ví như ông chủ trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta có câu trả lời như một chân lý ngàn đời, chân lý đó được Thánh Vịnh đáp ca khẳng định, “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận, lại giàu tình thương”.
Vậy thì điều gì đã gây sốc? Bài đọc thứ nhất gây sốc, sách Huấn Ca viết, “Thịnh nộ và giận dữ, cả hai đều đáng ghê tởm”; “Ai muốn báo thù, sẽ bị Chúa báo thù và nghiêm trị tội lỗi nó”. Ơ hay, như thế thì người bị anh em mình xúc phạm, người mà trước đó được coi là vô tội lại trở thành có tội, nên thù nghịch với Thiên Chúa nếu họ giận dữ và thịnh nộ với anh em mình; bấy giờ họ có kêu cầu, Thiên Chúa cũng làm ngơ; có van vái, Người cũng để ngoài tai, vì “Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao?”; “Ai sẽ khẩn cầu cho tội ác nó?”.
Bài Tin Mừng cũng gây sốc, Phêrô háo hức đến hỏi Chúa Giêsu, “Thưa Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?”. Với chúng ta, một lần cũng đã đáng mơ ước; Phêrô tha đến bảy lần là một điều gì đó quả tuyệt vời. Vậy mà với Chúa Giêsu thì không, với Ngài, chừng đó chưa là gì cả, còn quá ít; Ngài nói, “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”. Tội nghiệp Phêrô! Ông tưởng, được ngần ấy là đã rất hào hiệp và quảng đại; ai dè, với Chúa Giêsu, chừng đó không ăn thua; không phải 7 lần nhưng phải gần cả 500 lần. Thật là sốc! Ngài đòi Phêrô tha theo cấp số nhân, cấp số mũ, cấp luỹ thừa và vô cùng; Ngài đòi ông tha theo cấp của trời, cấp của Thiên Chúa, cấp vô hạn. Khi nói điều đó, Chúa Giêsu nhắm đến chiều sâu và chiều rộng vô hạn của lòng thương xót cùng sự tha thứ nơi Thiên Chúa; Ngài nói đến cấp vô hạn của sức nặng thập giá như là món nợ của nhân loại mà Ngài phải gánh chịu. Ngài muốn chúng ta dành cho anh chị em mình cái vô hạn như Thiên Chúa đã dành cho nhân loại khi tha thứ và thương xót nó. Con số bảy nói lên rằng, phải tha hết, tha mãi; đặt lên bàn cân, bảy mươi lần bảy có trọng lượng ngang với thập giá, biểu tượng của lòng thương xót và thứ tha nơi Thiên Chúa, “Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận, lại giàu tình thương”.
Với nhiều người trong chúng ta, lời khuyên của Chúa Giêsu nghe có vẻ tốt lành về mặt lý thuyết; điều Ngài nói thật đầy cảm hứng và khích lệ khi chúng ta suy gẫm về chiều sâu, chiều rộng của việc tha thứ mà chúng ta được mời gọi để trao tặng anh chị em mình. Thế nhưng, trong thực tế, khi đối diện với vấn đề, điều này quả không dễ chút nào; nếu không nói là không thể khi phải tha vô hạn.
Vậy mà đòi hỏi tha thứ vô hạn của Chúa Giêsu, một đòi hỏi thiêng liêng vốn không phải là một lý thuyết hay một lý tưởng để chúng ta cố gắng đeo đuổi mỗi ngày; nhưng trái lại, nó phải trở thành một thực tế thiết thực mà chúng ta phải ôm lấy hết sức mình với sức mạnh của Chúa. Mỗi ngày, chúng ta phải tìm loại bỏ khỏi bản thân bất cứ một khuynh hướng nào, dù nhỏ đến đâu, là ôm hận và giữ trong lòng sự tức giận. Chúng ta phải tìm cách giải thoát mình khỏi mọi hình thức cay đắng và để cho lòng thương xót của Chúa chữa lành mọi tổn thương bằng thập giá của Con Một Người.
Hãy nhìn ngắm lòng thương xót của Người đối với chúng ta, hãy nhìn ngắm thập giá, trên đó, Con Thiên Chúa hấp hối. Từ khi chúng ta lãnh phép Rửa tội, Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi một món nợ không trả nổi, đó là tội nguyên tổ. Nhưng đó là chỉ là lần đầu; sau đó, với lòng thương xót vô bờ, Thiên Chúa tiếp tục tha cho chúng ta vạn lần, tha mỗi ngày, tha mọi lỗi lầm mỗi khi chúng ta xúc phạm đến Người, ngay cả khi chúng ta chỉ thể hiện một chút ăn năn dù là nhỏ nhất. Thiên Chúa là thế đó, “Đấng từ bi nhân hậu; Người chậm giận, lại giàu tình thương”.
Mỗi khi chúng ta bị cám dỗ khép lòng lại trước những anh chị em xúc phạm mình, dù họ có mở lời xin lỗi hay không, chúng ta hãy nhớ lại lời Thánh Phaolô trong thư Rôma hôm nay, “Không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình”; ích kỷ, không mở lòng để tha thứ, là sống cho mình; cũng như không ai chết cho mình, vì Chúa Kitô đã chết cho họ. Và nhất là chúng ta nhớ lại lời ông chủ nói với tên đầy tớ không biết tha thứ cho người anh em, “Tên đầy tớ độc ác kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như Ta đã thương ngươi?”.
Ellen Johnson Sirleaf, nữ tổng thống Liberia, nghĩ rằng, đã đến lúc bà trả thù. Tuy nhiên, một trải nghiệm đã khiến bà thay đổi. Ngày nọ, khi đang ở gần một ngôi làng, đột nhiên bà nghe tiếng súng nổ; Weser, vệ sĩ của bà đã lập tức đẩy bà xuống đất. Dù bà được cứu, nhưng viên đạn đã cướp mạng cận vệ Weser. Sau đó, bà phát hiện kẻ bóp cò chính là hàng xóm của Weser, Asa, người đã được thuê để ám sát bà. Mười ba năm sau, nữ tổng thống Sirleaf một lần nữa đến thăm ngôi làng ấy và bắt gặp mẹ của Weser đang đem đồ ăn cho mẹ của Asa. Bà hỏi tại sao, mẹ Weser trả lời, “Sau sự việc 13 năm trước, Asa bỏ trốn và vẫn bặt vô âm tín. Mẹ của cậu ta bị bệnh, lại nghèo khổ, không còn gì để ăn”. Sirleaf không nhịn được, “Nhưng bọn họ là kẻ thù! Con trai bà ấy đã giết Weser!”. Câu trả lời của người mẹ khiến bà tổng thống kinh ngạc, “Tất cả đã qua rồi. Lấy oán báo oán, chỉ tăng thêm oán thù nhiều hơn”. Những lời của bà mẹ đã để lại cho Sirleaf một bài học sâu sắc, Liberia bị chiến tranh tàn phá cần sự tha thứ hơn là lòng thù hận! Kể từ đó, Sirleaf đã tha thứ cho những cựu thù chính trị của mình và nhận được sự cảm thông, ủng hộ từ những người Liberia. Bà là nữ tổng thống đầu tiên của châu Phi, bà đã tạo một tương lai bằng tha thứ và đối xử tốt với những kẻ thù; bà được giải Nobel Hoà Bình năm 2011. Đúng như Jonathan Lockwood Huie, mệnh danh ‘Triết gia của hạnh phúc’, từng nói, “Tha thứ cho người khác, không phải vì họ xứng đáng được tha thứ mà bởi vì bạn xứng đáng được thanh thản”.
Anh Chị em,
Ai đã trải nghiệm một niềm vui, bình an và tự do nội tâm đến từ việc được Thiên Chúa thứ tha, người ấy sẽ có khả năng mở lòng mình ra để, đến lượt họ, tha thứ cho anh chị em mình. Thập giá của Đức Giêsu Kitô là bằng chứng Thiên Chúa tha thứ cho mỗi người, đó cũng là chìa khoá mở cửa thiên đàng. Vì thế, mở miệng kêu xin tha thứ là mới lần bước đến ngưỡng thiên đàng, tha thứ cho người khác thực sự, mới là chìa khoá mở cửa thiên đàng khi mỗi người lấy thập giá của Chúa Giêsu làm tiêu chuẩn và khuôn mẫu cho thập giá đời mình. Tha thứ là đôi cánh thiên thần giúp họ bay lên tới Chúa vậy.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương; xin cho con một trái tim nhân ái như Chúa, để con tha thứ cho anh chị em con mà không cần dè giữ”, Amen.
----------------------------------
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Bài đọc Tin mừng của Chúa nhật XXIV Thường niên hôm nay nói về lòng thương xót và sự tha TN 24-A133
Bài đọc Tin mừng của Chúa nhật XXIV Thường niên hôm nay nói về lòng thương xót và sự tha thứ. Khi dùng dụ ngôn về người đầy tớ không biết tha thứ, thánh Matthêu dạy chúng ta một số nguyên tắc hữu ích trong xã hội ngày nay. Tuy nhiên, chính dụ ngôn, ngay cả những nhận thức từ đó, có thể gây khó hiểu.
Bài Tin mừng bắt đầu với việc thánh Phêrô hỏi Chúa Giêsu về số lần nên tha thứ cho người khác trong cộng đoàn như thể là thắc mắc này có thể trả lời bằng việc đưa ra một con số. Phêrô đề nghị bảy lần, nhưng Chúa Giêsu nhấn mạnh đến bảy mươi bảy lần, muốn cho thấy rằng về tha thứ thì không có giới hạn nào. Phản ứng của Chúa Giêsu cho thấy tầm quan trọng của lòng thương xót liên lỉ và Ngài đã dùng một dụ ngôn để minh họa vấn đề này.
Tuy nhiên, dụ ngôn bắt đầu với một hình ảnh khó hiểu, gây thắc mắc. Nước Trời được ví như tương quan của vị vua với những người đầy tớ mắc nợ tiền. Thiên Chúa được xem như một vị vua triều đình, và con người là những người đầy tớ mắc nợ. Dụ ngôn phản ánh thực tế xã hội vào thời của thánh Mattthêu, trong đó việc nô lệ và nợ nần là những thực hành được chấp nhận. Độc giả hiện nay có thể thấy những dụ ngôn gây khó chịu và thất vọng như vậy là cách phản ánh mối tương quan của nhân loại đối với Thiên Chúa, nhất là dụ ngôn được xây dựng dựa trên sự tàn ác vô nhân.
Khi nhà vua (Thiên Chúa) được thông báo về các khoản nợ to lớn của người đầy tớ, ban đầu ông ra lệnh bán người đàn ông, vợ, con và tài sản của ông như là đầy tớ để có tiền trả nợ. Hãy hình dung là chúng ta đọc dụ ngôn trong bối cảnh mà việc nô lệ là hợp pháp. Trong Tin mừng của Chúa nhật hôm nay việc chiếm giữ và chiếm hữu đầy tớ mới để gia tăng sự giàu có của con người là việc đương nhiên. Thật không may, các văn bản Kinh thánh như vậy đã ảnh hưởng đến các chủ đầy tớ, nô lệ ở châu Âu, những người biện minh cho hành động của họ dựa trên sự tin tưởng vào uy thế của người da trắng và vào thần quyền.
Dù có nghiêng về việc bắt cả gia đình làm đầy tớ, nhà vua (Thiên Chúa) vẫn tha cho người đầy tớ và tha nợ cho anh ta vì ông chạnh lòng lòng thương khi người đầy tớ nài xin sự khoan hồng và sự kiên nhẫn của nhà vua. Nhưng khi người đầy tớ đó gặp một người đầy tớ khác trong hoàn cảnh tương tự, anh lại không bắt chước cách hành xử của nhà vua, và bắt bỏ tù con nợ của mình.
Các bạn đầy tớ đau khổ nên kể lại với vua về sự nhẫn tâm của anh ta. Nhà vua khiển trách tên đầy tớ rằng: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn người như ta đã thương ngươi?”. Sau đó, nhà vua đã ra lệnh tra khảo người đầy tớ này cho đến khi anh ta trả được nợ. Chúa Giêsu kết luận bằng cách tuyên bố rằng Chúa Cha sẽ tra khảo con người nếu họ không tha thứ cho nhau.
Khó có thể nghĩ đến hình ảnh Thiên Chúa như là người tra khảo cho đến đời đời, dù hình ảnh này phù hợp với cái nhìn về ngày cánh chung của thánh Matthêu mà chúng ta đã đọc thấy trong các dụ ngôn vào các Chúa nhật trước. Một vấn đề khó khăn khác là yêu cầu người đầy tớ đầu tiên phải hành xử giống hệt như cách nhà vua (Thiên Chúa) đã làm. Trong khi đây là một ví dụ về tình yêu vị tha (Hy lạp là Agape) thì ứng xử này là một vấn đề gây khó hiểu theo những điều kiện kinh tế được giả định trước trong dụ ngôn. Việc giả định rằng người đầy tớ sống trong cảnh nô lệ nợ nần có thể hoặc nên cư xử như vị vua giàu có, không nhận ra sự bất cân xứng rõ ràng trong tình trạng kinh tế và xã hội của họ. Trong sự khắt nghiệt của người đầy tớ đầu tiên thì yêu cầu đòi nợ của anh đối với bạn mình chắc chắn sẽ bức thiết hơn yêu cầu đời nợ của vị vua giàu có.
Tuy nhiên, đọc kỹ dụ ngôn này sẽ mang lại một số nhận thức có ý nghĩa. Dụ ngôn dạy về tầm quan trọng của lòng thương xót, yêu cầu giúp đỡ và trợ cấp những người đang cần. Câu chuyện cũng gợi ý rằng những người có phương tiện, như nhà vua, nên công bằng, thực thi chính nghĩa và quảng đại vì sự giàu có của họ. Dụ ngôn thách thức những người có ít điều kiện hơn thể hiện lòng tốt đối với những người có hoàn cảnh tồi tệ hơn mình. Những khái niệm này có giá trị, nhất là khi đề ra những chính sách, luật pháp và chương trình để giúp đỡ những người sống trong nghèo đói, đặc biệt là nơi các hệ thống kinh tế có sự chênh lệch và bất bình đẳng.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/08/21/what-gospel-can-teach-us-about-asking-help
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Mt 18,21-35. Là những Kitô hữu, chúng con thuộc về Chúa, xin giúp con nhận ra việc tha thứ luôn luôn và tha thứ tất cả trong tương quan với mọi người chính là điều kiện công bằng đòi buộc cho việc trước đó con đã được Thiên Chúa tha thứ luôn luôn và tất cả...
Suy niệm
Như chúng ta biết đó, theo luật Môisen, người ta nên tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình ba lần TN 24-A134
Như chúng ta biết đó, theo luật Môisen, người ta nên tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình ba lần. Con số 3 là một con số đáng mong đợi theo lề luật. Khi Phêrô nâng việc tha thứ lên: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?”, Phêrô có thể nghĩ rằng mình đã làm một sự bức phá để có thể trở nên một con người hết mực nhân từ vì tha thứ là một điều không phải dễ dàng. Theo lẽ tự nhiên, ai cũng có quyền được người khác tôn trọng phẩm giá. Việc xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và lợi ích của một người cũng là xúc phạm đến hình ảnh Thiên Chúa nơi họ. Người bị xúc phạm sẽ cảm thấy bị tổn thương rất nhiều.
Sống với nhau giữa đời, đôi lúc có những lời ăn tiếng nói làm cho nhau tổn thương là điều không thể tránh khỏi vì những giới hạn yếu đuối, và do ảnh hưởng của tội nguyên tổ, con người ai cũng có tội. Thánh Gioan bảo rằng “Nếu chúng ta nói chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Cũng như tục ngữ Việt Nam có câu: “Chén úp chung trong một sóng còn khua”. Đúng thế, với người bên cạnh mình, ta lại càng dễ dàng xúc phạm đến họ. Cho nên người ta có lý khi nói rằng người ở gần mình nhất, người mình tin tưởng nhất lại là người có thể gây cho mình sự tổn thương nặng nề nhất. Một lời nói vô tình, một ánh nhìn phán xét, sự ích kỷ ghét ghen, thói kiêu ngạo khoe khoang, các đam mê dục vọng… tất cả đều là thứ vũ khí sắc nhọn mà ta có thể gây tổn thương người anh chị em một cách vô tình bất cứ lúc nào. Lời Thánh vịnh 51,13-15, thánh vương Đavid than phiền sự bất trung: “Giả như tên địch thù phỉ báng, thì tôi cũng cam lòng, hay kẻ ghét ghen lên mày lên mặt, tôi có thể lánh đi. Nhưng đây lại là bạn, người đồng vai đồng vế, chỗ thân tình tâm phúc với tôi, đã cùng tôi chia ngọt sẻ bùi…”
Cho nên, trước câu hỏi một cách chân thành và đầy thiện chí cũng như sự cố gắng muốn nên tốt lành của Phêrô, Chúa Giêsu đã trả lời bằng một câu vượt lên trên ý chí của con người. Phêrô hỏi về mức giới hạn của tha thứ, còn Chúa Giêsu dẫn Phêrô tới một sự tha thứ không giới hạn. Chúa diễn giải tinh thần tha thứ ấy bằng dụ ngôn tên đầy tớ không biết thương xót.
Nếu như mỗi ngày công là một quan tiền, thì với số nợ lên đến 10.000 yến vàng nghĩa là 10.000 x 6.000 quan tiền tương đương 60.000.000 ngày công. Một món nợ mà người này có phải trả tới 200.000 năm vẫn chưa xong! Nhưng anh van xin và tôn chủ chạnh lòng thương bỏ qua tất cả cho anh. Tuy nhiên tới lượt anh, khi đóng vai ông chủ nợ với số nợ chỉ là 100 quan tiền, tương đương 100 ngày công, người này lại là bạn của anh nữa chứ, nhưng anh ta đã không chịu bỏ qua. Vậy mới thấy, nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực, mà là nơi không có tình người. Khi con người đối xử với nhau không có tình người thì sẽ bị Thiên Chúa phán xét. Bài đọc I trích sách Huấn Ca đã dạy: “Ngươi hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha. Người này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao?”
Qua câu chuyện dụ ngôn này, Chúa Giêsu đã muốn chỉ ra thế nào là sự tha thứ mà Phêrô cần có. Tiêu chuẩn để tha thứ không còn là việc tha nhân đã xúc phạm đến mình như thế nào, nhưng là mình đã được tha thứ làm sao. Trên đời này, mọi thứ rồi sẽ qua đi, chỉ còn tình người ở lại. Vậy, bao lâu còn thời giờ, chúng ta được Chúa mời gọi hay biết làm điều tốt cho anh chị em mình và biết thứ tha cho nhau.
Câu chuyện về hai người bạn đang đi trên một con đường vắng vẻ. Khi đang trò chuyện cùng nhau họ bắt đầu tranh luận một cách gay gắt, ví quá tức giận người bạn của mình, người kia không kiềm chế được đã tát vô má anh nọ một cái thật mạnh. Người bạn kia rất đau nhưng không nói một lời nào, anh lặng lẽ viết lên bãi cát dòng chữ "Hôm nay, người bạn thân nhất của tôi đã tát vào mặt của tôi".Rồi hai người vẫn tiếp tục đi, đến một con sông phải qua mà không có đò đưa, hai người lội qua. Khi ấy, anh bạn bị tát bị vọp bẻ và suýt chết đuối nhưng may nhờ bạn mình cứu kịp nên thoát chết. Khi đã được cứu lên được bờ và hết hoảng sợ, anh viết trên tảng đá bên bờ sông: "Hôm nay người bạn thân nhất đã cứu sống tôi". Anh chàng kia ngạc nhiên hỏi: "Tại sao khi tôi đánh anh , anh viết trên cát, còn khi tôi cứu anh anh lại viết trên đá??" Mỉm cười anh trả lời " Khi anh làm tôi đau, tôi viết trên cát, gió sẽ thổi bay chúng đi cùng với sự tha thứ, nhưng khi anh làm điều tốt là đã cứu tôi, tôi đã viết nó trên đá như ghi khắc vào trong trái tim của mình, không ngọn gió nào có thể xóa nhòa được". Câu chuyện này có thể chúng ta đã nghe đi nghe lại nhưng cũng khó lắm để làm theo. Nhưng không thể chỉ vì cãi nhau mà có thể làm hỏng một kết nối bền chặt. Tuy nhiên, một nghịch lý luôn chi phối mọi tín hữu khi sống trong cộng đoàn, đó là chỉ muốn được tha thứ nhưng lại không dễ dàng thứ tha.
Chúng ta hãy luôn tha thứ vì Chúa muốn chúng ta như vậy, Chúa đã tha thứ cho chúng ta, nhận chúng ta làm con của Ngài nên không vì cớ gì mà chúng ta không tha thứ cho anh em mình. Thánh Phaolô mời gọi tín hữu Rôma và mỗi người chúng ta hãy sống một đời sống mới: “Không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa”.
Lạy Chúa, Là những Kitô hữu, chúng con thuộc về Chúa, xin giúp con nhận ra việc tha thứ luôn luôn và tha thứ tất cả trong tương quan với mọi người chính là điều kiện công bằng đòi buộc cho việc trước đó con đã được Thiên Chúa tha thứ luôn luôn và tất cả. Amen.
--------------------------------
(Suy niệm của JB. Lê Ngọc Dũng)
Chúa Giêsu đã trả lời cho Thánh Phêrô về sự tha thứ. Đó là tha tới bảy mươi lần bảy, nghĩa là TN 24-A135
Chúa Giêsu đã trả lời cho Thánh Phêrô về sự tha thứ. Đó là tha tới bảy mươi lần bảy, nghĩa là, tha mãi, tha hoài, tha vô hạn định. Tuy nhiên, qua phần dụ ngôn kế tiếp cho thấy, mặc dù được tha nợ quá lớn, quá nhiều, nhưng con người chúng ta, như người đầy tớ đã không chịu tha thứ, tha nợ cho người khác.
Vì sao con người chúng ta lại khó mà tha thứ cho nhau?
Ai đó đánh tôi, tôi có đánh lại không? Ai đó cướp bóc hành hạ tôi, tôi có trả thù không? Ai đó mắng chưởi hay nói hành nói xấu tôi thì liệu tôi có im lặng chịu thua không? Có lẽ chỉ người điên điên khùng khùng không nghe không hiểu, hoặc lành thánh lắm mới im lặng tha thứ.
Trả thù như đã nằm trong bản năng hiếu chiến của con người nên khó mà làm ngược lại. Trong các phim võ hiệp Trung quốc, một nét khá nổi bật, đó là sự trả thù. Dĩ nhiên là phải có thù hận mới có đánh nhau, nếu không có thù hận làm sao đánh nhau. Thế nhưng có điều rất lạ là việc trả thù được coi như là một nghĩa vụ. Con phải báo thù cho cha mẹ, trò phải báo thù cho sư phụ, nếu không thì mang tội bất hiếu, bất trung, hơn thế nữa mang tội với trời đất.
Tại sao họ làm như vậy? Không những vì bản năng đấu tranh để sinh tồn mà còn vì quan niệm: Có ân nghĩa thì đền đáp, có thù thì phải trả. Đó là quan niệm căn cứ trên lẽ công bằng.
Chính cái lý lẽ công bằng có sẵn trong tâm trí con người đã khiến con người không thể tha thứ: Có ân nghĩa thì đền đáp, có thù thì phải trả. Nói một cách khác, tâm trí ta không chịu được sự bất công, sự phi lý của kẻ khác. Thằng hàng xóm nó lừa gạt ta, ta phải cho nó biết tay; anh em trong nhà bê tha rượu chè, trộm cắp tiền bạc, đứa con dâu hổn hào láo xược, tôi phải cho nó một bài học, phải trừng trị thích đáng!
Thế thì làm sao chúng ta có thể thoát khỏi cái lý lẽ trói buộc ta như thế?
Chỉ có Đức Giêsu mới có thể giải thoát chúng ta khỏi sự ghen ghét, thù hận, hay thoát khỏi những tức giận của ta trước sự bất công, phi lý. Ngài chỉ cho ta thấy, chính vì sự công bình mà đòi ta phải tha thứ.
Anh đã được tha thứ, vậy anh phải tha thứ thì mới công bằng chứ. Anh đã được tha nợ mười ngàn nén vàng mà bây giờ anh lại không tha cho người khác chỉ nợ anh có một trăm nén bạc. Quả là bất công! Anh phải bị phạt vì anh hành xử cách bất công quá lớn.
Mỗi người chúng ta đã nhận được từ Thiên Chúa ân huệ quá lớn. Ta được tạo dựng từ hư không, được sinh sống và lớn lên trên quả địa cầu này, sử dụng đất đai cầy cấy, nuôi trồng, khai thác tài nguyên thiên nhiên, sông núi biển khơi, hưởng gió mát trăng thanh... mà chẳng phải trả cho Thiên Chúa một đồng nào. Nếu như Thiên Chúa đòi trả thì ta phải trả cho Ngài bao nhiêu? Quả là vô giá và không thể nào trả nỗi. Thiên Chúa còn cho Con Ngài là Đức Giêsu Kitô chịu chết trên thập giá để chuộc tội chúng ta, để chúng ta có thể sống hạnh phúc mãi mãi đời sau. Nếu Thiên Chúa đòi thì ta trả Ngài bao nhiêu?
Thật ra, ta chỉ giả thiết chứ Thiên Chúa không bao giờ đòi ta trả một cách tương xứng, Ngài chỉ đòi ta tha thứ cho người khác, yêu thương người khác. Một sự tha nợ, tha thứ của ta cho dù ta thấy lớn, ta thấy rất lớn, thật sự vẫn là quá bé nhỏ so với ân huệ lớn lao, mà ta đã thụ hưởng, đã lãnh nhận từ Thiên Chúa.
Tại một nhà thờ ở bên Tây Ban Nha, có một tượng Thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ thánh giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa ra phía trước trong tư thế ban phước lành.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng Thánh Giá này như sau: Một hôm có một tội nhân đến xưng tội với một vị linh mục chính xứ ngay dưới chân cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội nặng cũng như ngăm đe nhiều điều.
Tội nhân ra về lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật đó, không bao lâu người đó lại sa ngã. Lần này sau khi anh xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe dọa như sau: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho ông”.
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên dưới cây Thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này vị linh mục đã dứt khoát. Ngài trả lời: "Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể giải tội cho ông nữa".
Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân, thì bỗng ông nghe một tiếng thì thầm từ bên Thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi Thánh giá và ban phép lành cho tội nhân. Và vị linh mục lại nghe tiếng thì thầm ấy như sau: “Chính ta là người đổ máu ra cho người này, chứ không phải là ngươi".
Bên kia của sự oán thù, của sự không thể tha thứ, Chúa Giêsu muốn chỉ cho chúng ta thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, không ngừng ban phát ơn huệ, một tình yêu vượt lên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên Thập giá chúng ta cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài, cảm nếm được ân huệ vô song từ Thiên Chúa, mà ta chẳng bao giờ có thể đáp đền cho cân xứng được. Xin Chúa cho chúng ta luôn cảm nếm được những ân huệ lớn lao, tình yêu thương vô bờ bến đó, để chúng ta có được động lực mà ban phát, mà cảm thông, mà tha thứ cho anh chị em của chúng ta.
--------------------------------
(Chú giải, Suy niệm của Học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt)
CÂU HỎI GỢI Ý
Câu hỏi của Phêrô về việc thường xuyên tha thứ có phải là cảm hứng theo pháp luật không? Còn câu TN 24-A136
1. Câu hỏi của Phêrô về việc thường xuyên tha thứ có phải là cảm hứng theo pháp luật không? Còn câu trả lời của Chúa Giêsu thì sao? Trong dụ ngôn, đâu là những chữ diễn tả lý do khiến ông chủ đã tha cho người tôi tớ mắc nợ lút đầu?
2. Con số 77 mà Chúa Giêsu dùng phát xuất từ đâu? Ngoài việc dùng con số 7 với ý nghĩa biểu trưng cổ điển là sự viên mãn, tròn đầy, phải chăng ở đây Chúa Giêsu còn ám chỉ đến một nhân vật Cựu ước nữa?
3. Trong đoạn văn này, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc thường xuyên tha thứ, chứ không đến các điều kiện cụ thể để được thứ tha. Nhưng trong đoạn song song Lc 17, 3-4, Người lại bắt việc tha thứ lệ thuộc lòng hối cải. Tại sao đòi buộc điều kiện cụ thể ấy?
4. Trong dụ ngôn, tất cả đều như có thật hay chỉ gồm những nét có tính cách tượng trưng?
5. Dụ ngôn nhấn mạnh đến số lần tha thứ hay đến đòi hỏi phải tha thứ để được thứ tha?
1. Cái liên kết đoạn này với đoạn trước là ý niệm tội lỗi. Nhưng ở đây nói rõ đó là tội trực tiếp can hệ đến người anh em, còn đoạn trên kia thì chẳng nhấn mạnh như thế. Người ta không xác định ở đây bản chất lẫn tính cách trầm trọng của lỗi phạm, nhưng hình như đề cập đến lãnh vực các thiếu sót đối với giới luật yêu thương, là giới luật căn bản “gồm tóm Lề luật và các ngôn sứ ”.
2. Câu hỏi của Phêrô biểu lộ khuynh hướng cố hữu muốn hiểu giáo huấn Chúa Giêsu theo một nghĩa duy luật. Tâm hồn con người là vậy, bao giờ cũng thiên về việc lập điều lệ cho ân sủng hoặc trái lại lợi dụng nó! Câu trả lời của Chúa Giêsu thật rõ ràng, dụ ngôn kèm theo cũng sáng sủa: Ai đã được Thiên Chúa tha thứ thì phải thứ tha luôn luôn. Đoạn song song Lc 17, 3- 4, trong đó Chúa Giêsu bắt việc tha thứ lệ thuộc lòng hối cải cho thấy việc thi thố lòng nhân lành không phải là lời khích lệ thói xấu, nhưng trái lại nhằm đỡ nâng người phạm tội đứng lên.
3. Dụ ngôn quy hướng về giáo huấn căn bản vừa nói và còn chất chứa nhiều giáo huấn khác nữa:
a. Nó tỏ cho thấy Thiên Chúa, trong con người của vị vua, dù có quyền trên tôi tớ mình, nhưng vì trắc ẩn, đã bằng lòng không sử dụng quyền ấy và chịu mọi mất mát thiệt thòi.
b. Đồng thời nó nhắc lại đâu là thân phận của con người trước mặt Thiên Chúa: Một con nợ không thể trả nổi. Dù kê khai mọi thứ quí nhất mình có, dù thu vén mọi của giá trị nơi bản thân và nơi vật sở hữu, người tôi tớ vẫn biết rõ y không thể nào thỏa mãn các yêu sách của chủ y, dù đã đoan hứa này nọ. Nhưng nhà vua đã quyết định tha cho y chỉ vì ông “chạnh lòng thương xót” Người tôi tớ nợ lút đầu chỉ được tự do nhờ một sắc lệnh ân xá hoàn toàn vậy: “ông thả y về và tha bổng cả món nợ “.
c. Sau cùng, dụ ngôn cho thấy đâu là chủ đích, ý nghĩa của việc Thiên Chúa thứ tha. Người tôi tớ đã để lộ sự bất xứng của mình khi, “đi ra, y gặp một người bạn đồng liêu mắc nợ y 100 đồng bạc” và y đã bóp cổ đòi nợ. Xa cách chủ y, y đã quên… hay đúng hơn đã không hiểu rằng việc y được tha nợ chẳng phải là một may mắn tình cờ, song là một ân huệ, và ân huệ không xứng đó đòi buộc ở y một bổn phận, trói buộc y trong cuộc sống cụ thể nhất của y và từ đây phải soi sáng cùng hướng dẫn thái độ y đối với các anh em mình.
Với một ngôn từ cụ thể, Chúa Giêsu đặt ra ở đây vấn đề lớn của luận lý Kitô giáo, mà sau này sẽ trở thành một trong các chủ đề chính yếu của lời rao giảng sứ đồ: “Anh em hãy cư xử sao cho xứng với Tin Mừng . .. ” (Pl 1, 27), “Hãy mặc lấy người mới đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa” (Ep 4, 24), “Hãy là những người noi gương Thiên Chúa… ” (Ep 5, 1). Thay vì noi gương chủ, người tôi tớ vô tâm đối xử với bạn mình không như chủ đã đối xử với y: “Há ngươi không phải thương xót bạn đồng liêu với ngươi sao, như chính Ta đã thương xót ngươi?”. Ân sủng phát sinh một đời sống mới hoặc chẳng phải là ân sủng. Nó đánh đau khởi điểm chứ không phải sự tận cùng của các liên hệ giữa ta với Thiên Chúa.
4. Các “bầy tôi ” của vua trong Thánh kinh cũng như ở Đông phương chỉ các viên chức triều đình. Ở đây hai viên chức xem ra thuộc về hai cấp bậc khác nhau: người ta không vay nợ 10.000 nén vàng mà không ăn xài xa xỉ; đối lại người lúng túng khi phải trả 100 đồng bạc nợ (tức tương đương với 1/3 lợi tức hàng năm của một người làm công nhật) chỉ có thể là một viên chức hạng quèn. Nếu dựa trên các cách bình giá tiền tệ của flavius Jotsèphe, một người đương thời với Chúa Giêsu, thì một nén vàng hồi đó tương đương với 10.000 đồng bạc (Ant. 17, 323) có nghĩa là món nợ 10.000 nén vàng tương đương với 100 triệu đồng: thành thử tỷ lệ giữa hai khoản nợ là 1/1 .000.000. Số tiền này thật ra quá đáng và chẳng tương ứng với thực tế chút nào (vì ta biết tiền cống thuế của cả một tỉnh thuộc đế quốc Rôma thường chỉ vài trăm nén vàng chứ không hơn. Xem F.Josèphe, Ant 17, 11, 4): lý do duy nhất của con số khổng lồ ấy là “10.000 và “nén vàng” tượng trưng cho những gì quá sức vĩ đại (10.000 là con số cao nhất mà người ta dùng và nén vàng là kim bản vị lớn nhất được biết đến tại Cận đông thời đó). Với số tiền khổng lồ quá sức tưởng tượng như vậy, người ta chỉ muốn làm nổi bật sự đối nghịch với số bạc nhỏ bé 100 đồng. Thành thử dụ ngôn đã tiềm ẩn lời giải thích: đằng sau ông vua là Thiên Chúa, và đằng sau kẻ mắc nợ là con người với khả năng nghe sứ điệp thứ tha.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Đến bảy lần không?”. Học thuyết Do thái giáo của các giáo sĩ có đề cập đến việc anh em tha thứ cho nhau, nhưng trong một hệ thống duy luật; người ta tranh luận về số lần tha thứ, và con số 4 thường được coi là tối đa; khi hỏi phải chăng tha đến 7 lần, Phêrô nghĩ là “cấp tiến” lắm đối với Thầy của ông.
“Đến 77 lần” (Nguyễn Thế Thuấn: 70 lần 7): trong câu Người trả lời, Chúa Giêsu lấy lại bài ca báo thù của Lamek nơi St 4, 24: “ca in được báo thù gấp bảy, nhưng Lamek tới 77 lần”, song Người trở ngược lại trong nghĩa tha thứ. Con số đó muốn nói rằng việc báo thù hay việc tha thứ sẽ vô cùng vô tận.
“Vì vậy về Nước Trời thì cũng in như … “: Dụ ngôn này là của riêng một; nó diễn tả một cách cụ thể giáo thuyết của Huấn ca (28, 1- 7) mà Chúa Giêsu đã từng công bố (6, 14). Nhưng ở đây có đào sâu thêm về phương diện giáo thuyết. Huấn ca cho thấy sự chối từ tha thứ là một hành vi điên rồ từ phía người cần được tha thứ. Trong Tin Mừng, lòng nhân từ đã được chính nhà vua thi thố và lẽ ra phải nêu gương cho kẻ bầy tôi. Công thức nhập đề (dụ ngôn bất đầu với dữ cách: datit) không có ý nói Nước Trời giống như ông vua, như là bảo rằng trong Nước Trời do Chúa Ki-tô khai mạc, các sự việc sẽ xảy ra như dụ ngôn trình bày (ở đây bản dịch của BJ thật là tuyệt hảo).
Trong các trình thuật Thánh kinh, ông vua tượng trưng Thiên Chúa là ông vua phương Đông, có quyền tối thượng, quyền sinh sát trên mọi thần dân, vì làm vua là kiêm luôn chức vụ Thẩm phán tối cao. Động từ “tính sổ ” (sunairoin, cũng như trong 25,19) có ý chỉ đó là những việc tính sổ dứt khoát và trọn vẹn.
“Tôn chủ ra lệnh bán y và vợ con…”: Luật Do thái chỉ cho phép bán một người Israel trong trường hợp trộm cắp, khi tên trộm không thể hoàn trả đồ đã lấy (thế nhưng, ở đây chẳng nói người bầy tôi đã sống bất lương, mà chỉ bảo y không thể trả nợ nổi). Hơn nữa việc bán vợ là một việc bị cấm chỉ hoàn toàn. Thành thử câu chuyện giả thiết vua và bầy tôi đều là người ngoại giáo.
“Xin Ngài khoan hồng cho với…”: người bầy tôi không xin tha, vì y hứa một ngày kia sẽ trả đủ nợ, y chỉ xin khất lại một thời gian. Ta cũng nhận xét được như vậy về đứa con hoang đàng xin cha cho mình làm việc như một gia nhân trong Lc 15,19.
“Tôn chủ… tha bổng cả món nợ”: Nhà vua thi ân cho người tôi tớ gấp bội điều y xin: ông tha bổng cả món nợ. Thật là một hồng ân cao quí. Do đó người đầy tớ sẽ không lý nào mà sau đó lại tỏ ra tàn nhẫn; y chẳng mắc nợ gì nữa, mà còn giữ được gia sản mình, một gia sản chắc chắn không phải nhỏ. Động từ chỉ mối trắc ẩn của vua (chạnh lòng thương xót) thường thấy xuất hiện với nghĩa ấy trong Cựu ước và Tân ước (Mt 9, 36 ; 15, 32 ; 20, 34 v.v…)
“Xin khoan hồng cho tôi với… “: Những lời đây cũng giống những lời mà viên chức cao cấp đã thốt lên lúc nãy, nhưng không có chữ “hết”, vì lần này chẳng đáng giá bao nhiêu và con nợ có thể trả nổi mà không cần minh nhiên bảo đảm sẽ giao hoàn trọn vẹn. Qua hai lời van xin tuyệt đối giống nhau ấy, chắc chắn một muốn làm nổi bật sự song song giữa hai con nợ, và do đó làm nổi bật nét tương phản giữa thái độ nhà vua và thái độ viên chức cao cấp.
“Y lại đi bỏ tù”: Ngục tù xem ra không phải là phương thế tốt để con nợ có thể xoay sở mà trả hết bạc tiền. Nhưng người ta có thể bắt đương sự lao động, như người Rôma xưa vẫn làm; hoặc con nợ sẽ quyết định đem bán các của cải chìm để trả, hay bạn bè y sẽ thanh toán cho y.
“Cho lý hình”: ở Israel chẳng có việc tra tấn, nên đây còn là một bằng chứng cho thấy câu chuyện không xảy ra tại Palestine. Ở phương Đông có luật dùng biện pháp tra tấn đối với các quan lại bất trung hay chểnh mảng trong việc đóng thuế, để khám phá ra nơi họ chôn dấu tiền bạc, hoặc để làm áp lực với thân nhân, bằng hữu. Khi miêu tả các phương sách tài phán xa lạ với người Do thái và bị họ coi như là vô nhân đạo, Chúa Giêsu muốn cho thấy hình phạt thật ghê rợn đến độ nào.
“Cũng vậy Cha Ta, Đấng ngự trên trời, sẽ xử với các ngươi” : Ở đây cũng như nhiều nơi khác (6, 14-15 ; 7, 1-2 v.v…), Chúa Giêsu lấy lại học thuyết Do thái về hai “đấu”, nhưng Người biến đổi nó hoàn toàn (thật không phải là chuyện tình cờ nếu văn chương Do thái chẳng cống hiến một dụ ngôn nào song song với dụ ngôn chúng ta). Do thái giáo dạy rằng Thiên Chúa dùng hai “đấu” để cai trị thế giới: lòng nhân ái và sự công bằng. Tuy nhiên trong ngày phán xét cuối cùng, công bằng là đấu duy nhất còn lại: “Đấng Tối cao sẽ xuất hiện trên ngai trong tư thế vị thẩm phán. Bấy giờ sẽ là cùng tận, lòng nhân ái sẽ biến mất, niềm trắc ẩn sẽ xa đi và đức nhẫn nại sẽ tiêu tan…” (4Edr 7, 33). Trái lại Chúa Giêsu dạy rằng vẫn còn lòng nhân ái trong ngày Chung thẩm; nhưng vậy thì lúc nào Thiên Chúa sẽ sử dụng đấu nhân ái và lúc nào sử dụng đấu công bằng? Chúa Giêsu trả lời: ở đâu mà sự tha thứ của Thiên Chúa thúc đẩy đến thái độ sẵn sàng thứ tha, ở đó lòng nhân ái của Ngài sẽ tuyên bố tha bổng; còn kẻ nào chẳng biết sử dụng hồng ân thứ tha của Thiên Chúa, thì sẽ bị sự công bằng của Ngài luận xử cách nghiêm khắc, như thể y chưa bao giờ được tha thứ vậy.
KẾT LUẬN
Kết luận của câu 35, lấy lại các đoạn trong Diễn từ trên núi (6, 14- 15 ; 7, 1 -2) về việc tha thứ và xét xử nhau, cho thấy rằng cuối cùng tất cả đều sống đời sống của kẻ được tha thứ đều tùy thuộc vào cuộc phán xét dứt khoát thời cánh chung, khi Thiên Chúa sẽ trả cho mỗi người theo công việc họ đã làm. Do đấy ngay từ bây giờ, ai nấy đều bị xét xử theo cách họ tiếp đón và san sẻ cho anh em ơn tha thứ đã nhận được từ Chúa Cha. Mỗi người càng “thật tâm ” tha thứ cho anh em mình bao nhiêu, như Thiên Chúa thứ tha họ, thì ơn tha thứ luôn luôn đi đầu của Chúa Cha sẽ được thể hiện bấy nhiêu trong cộng đoàn và trong mỗi kẻ đã biết san sẻ nó cho anh em Như vậy ta thấy rõ ràng lời cầu xin của Kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (6, 12) thật là sâu xa và mối chân phúc thứ năm: “Phúc cho những kẻ biết xót thương vì họ sẽ được thương xót” (5,7) thật là đúng vậy.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Vị vua tha bổng một số nợ kếch xù, chỉ vì người ta cầu xin như thế, chính là Thiên Chúa. Lòng nhân lành của Ngài thật vô biên, và thực thể số nợ lại vượt quá sức loài người. Trong dụ ngôn hôm nay, Ngài mặc khải cho ta thấy vẻ uy nghi, sự cao cả và lòng thương xót bao la của Ngài. Nhưng không chỉ có vậy mỗi người chúng ta đều biết rằng mình cần lòng nhân ái vô biên đó để có thể đứng vững trước mặt Thiên Chúa vì chúng ta cứ chồng chất thêm nợ nần mãi như người bầy tôi thứ nhất của dụ ngôn. Nếu Thiên Chúa tha nợ cho thì trước mặt Ngài, ta vẫn còn như người bầy tôi chỉ sống nhờ lòng hào hiệp và nhân ái của chủ.
2. Chính vì thế mà ta hiểu rằng bổn phận tha thứ cho anh em cũng chẳng có giới hạn. Kẻ được hưởng một lòng thương xót vô biên, không được khép kín mình lại và để con tim ra chai đá. Kẻ đang nợ nần vô số chớ nên coi một ai khác như có mắc nợ với chính mình. Vì Thiên Chúa lấy đấu nào mà đong cho ta, ta cũng phải lấy đấu đó đong lại cho anh em. Mối tương quan của ta đối với anh em phải được qui định bởi mối tương quan của ta đối với Thiên Chúa. Chính vì thế Ngài yêu cầu ta hãy sẵn sàng hòa giải với nhau, đừng hạn chế chút nào. Chỉ với cách đó mà ta mới có thể hy vọng được cứu rỗi trong ngày phán xét sau hết.
3. Mối liên hệ giữa anh em nhờ đấy được nâng lên một bình diện khác hoàn toàn. Tất cả chúng ta đối với nhau đều như những người sống nhờ lòng nhân ái của cùng một Thiên Chúa. Sứ mệnh của ta là san sẻ cho nhau và gieo rắc ngần nào có thể lòng nhân ái đã được thi thố cho ta như thế.
--------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Kính thưa quý cố ông bà và anh chị em,
Mang thân phận yếu đuối, lại bị ảnh hưởng bởi tội nguyên tổ, con người thường xuyên phạm tội TN 24-A137
. Tội do cố ý, tội do vô tình đã cắt đứt mối tương quan vốn tốt đẹp với Chúa và tha nhân, gây hậu quả nghiêm trọng, nếu không được tha thứ, bỏ qua kịp thời.
Vì sự bình yên, hạnh phúc của mọi người, các tiền nhân giáo dục con cháu sống yêu thương, nhường nhịn, tha thứ, tạo nên nét đẹp nhân văn trong văn hóa ứng xử.
Tuy nhiên, yêu thương và tha thứ thật lòng không hoàn toàn đặt trên phạm trù nhân bản, nó còn được bổ trợ bằng đức tin, nghĩa là: Lời Chúa giáo dục con người vượt lên trên mọi điều kiện đặt ra như một giới hạn, để đạt tới tầm mức yêu như Chúa yêu và tha thứ như Ngài: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 22).
Vậy gương yêu thương và tha thứ của Chúa là gì? Đó là, Chúa quên và quên tất cả. Dầu tội lỗi các ngươi có đỏ như vải điều, Ta cũng sẽ giặt nó trắng tinh như tuyết, có nặng như chì, Ta cũng biến nó nên nhẹ như cánh hồng (cf. Is 1, 18).
Chuyện kể:
Đức Hồng Y Jaime Sin, nguyên tổng giám mục Manila, Philippine kể: vào một buổi chiều, một phụ nữ tới gặp ngài và quả quyết Chúa Giê-su đã hiện ra với chị. Để trắc nghiệm, ngài đề nghị: “lần tới gặp Chúa, con hỏi Chúa các tội cha đã phạm”. Sau một thời gian, chị gặp lại ngài và như lần trước chị cũng nói đã gặp Chúa. Chị cũng hỏi Chúa về các tội cha đã phạm, nhưng Chúa bảo: “Ta quên hết rồi !”. Câu chuyện là thế. Chúng ta không bận tâm về tính xác thực, nhưng ghi nhận chân lý: Tình yêu và tha thứ thật lòng là phải quên tất cả lỗi phạm người khác gây cho mình. Chỉ mình Chúa Giê-su là nguyên nhân mô phạm cho chúng ta về lòng xót thương và hay tha thứ.
Bài đọc I, trích sách Đức Huấn Ca, đúc kết lời dạy của các hiền nhân Israel về vấn đề tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình. Khi nghĩ đến việc báo oán, trước tiên phải đặt mình trong mối tương quan với Chúa. Vấn đề báo oán không chỉ đơn thuần thuộc phạm vi con người với nhau, mà có đụng chạm tới cả Thiên Chúa nữa: “Kẻ muốn báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Chúa” (Hc 27, 1).
Tác giả sách thánh còn chỉ ra tình trạng chung: mọi người đều có tội, đều phạm lỗi. Nếu muốn thong dong họ phải cầu xin Chúa thương xót và tha thứ. Chúa đặt ra điều kiện cụ thể: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi cầu khẩn, tội lỗi con sẽ được tha” (Hc 27, 2).
Nguyên tắc này được hoàn hảo trong lời dạy của Chúa Giê-su, Đấng giầu lòng xót thương và hay tha thứ.
Trong bài Tin Mừng, Giê-su thiết lập luật yêu thương và tha thứ khi trả lời câu hỏi của thánh Phê-rô: “Khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” (Mt 18, 21). Chúa bảo ông: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 22).
Câu hỏi của Phê-rô đại diện cho con người tự nhiên, cho lề luật, nghĩa là đặt một giới hạn như một thứ thông điệp gởi tới cho người phạm lỗi: đừng đi quá sức chịu đựng của tôi. Tôi chỉ có thể chịu đựng bạn tới mức đó.
Giả thiết đặt ra, nếu người kia lại xúc phạm đến tôi quá bảy lần thì sao? Tôi có đủ kiên nhẫn để tha cho họ lần nữa không? Nếu tôi không tha, thì bảy lần tha kia có ý nghĩa gì !
Tựu trung, tha thứ có điều kiện là hành động nửa vời, còn dành khoảng trống cho ích kỷ, tự ái mọc lên và dần lấn át những khoảng trống khác thống trị tâm hồn. Cuối cùng chỉ còn là ghen ghét, oán hờn, thù hận.
Câu trả lời của Chúa Giê-su thể hiện đặc tính của con người siêu nhiên, của ân sủng, luôn trổi vượt con người tự nhiên về mọi phương diện.
Giê-su, Đấng thần thiêng, đến từ trời, là dung mạo lòng thương xót Chúa Cha.
Cuộc nhập thể biểu lộ tình yêu tự hủy đến cùng kiệt vì sự sống trần gian. Trong Ngôi Lời, trên thập giá và trong sự phục sinh vinh hiển, Người đã tháp nhập nhân loại vào thân mình mầu nhiệm của Người, để từ đây diễn ra sự trao đổi kỳ diệu, khiến loài phải chết mặc lấy sự trường sinh bất tử, được sống muôn đời.
Mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giê-su là bản tóm tình yêu và sự sống Thiên Chúa thực hiện vì yêu thương chúng ta. Và khi dạy tha thứ đến bảy mươi lần bảy, Giê-su đã làm gương trước, để chúng ta cũng làm như vậy.
Luật yêu thương và tha thứ của Tin Mừng mang tính bắt buộc. Nó là điều kiện để được thứ tha và được phần phúc Nước Trời: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rom 13, 10) và “Hãy tha thứ để được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6, 36).
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, diễn tả sự gắn bó hoàn hảo với Chúa Giê-su, đó là phải nên đồng hình, đồng dạng, nên giống Người trong mọi sự.
Dấu chỉ đảm bảo nên giống Chúa là sự vâng lời. Giê-su vâng lời, tự hủy đến cùng kiệt sống kiếp phàm nhân, cho đến chết trên thập giá. Ngài không sống cho riêng mình, nhưng sống cho Cha và cho nhân loại được ơn cứu độ.
Người môn đệ chân chính cũng phải theo sát dấu chân Giê-su mới góp phần làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Thánh Phao-lô diễn tả bằng những ngôn từ thần bí, nhưng rất sống động: “Không ai sống cho riêng mình. Chúng ta sống là sống cho Chúa và chết cũng là cũng là chết cho Chúa” (Rom 14, 7 – 8). Sống và chết cho Chúa luôn đồng hóa với lòng xót thương và tha thứ như Giê-su.
Phao-lô không trình bày một lý thuyết về tình yêu và tha thứ, trên tất cả ngài đã sống hoàn hảo điều loan báo: “Tôi luôn mang trong mình sự thương khó của Đức Kitô. Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống lòng thương xót và tha thứ, bắt đầu từ trong chính gia đình chúng ta. Sở dĩ có cãi vã, bạo hành trong gia đình là vì chúng ta còn sống ích kỷ, vô cảm, thiếu sự cảm thông, khích lệ và cộng tác. Xin Chúa dạy chúng ta biết sống yêu thương và tha thứ thật lòng.
Mỗi người hãy tự hứa với lòng mình và với Chúa, từ bây giờ, tôi quyết hoán cải và canh tân. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ bé đơn giản, rồi dần tới những việc lớn lao hơn. Từng bước sống lời Chúa để gia đình trở thành tổ ấm biết yêu thương và tha thứ. Đó là cách làm dậy men Tin Mừng, góp phần tích cực Phúc Âm hóa gia đình và môi trường xung quanh, xứng đáng là môn đệ Giê-su, luôn biết chạnh thương và tha thứ.
Xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen.
--------------------------------
(Suy niệm, chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm A này là “sự tha thứ”. Hc 27 TN 24-A138
Chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm A này là “sự tha thứ”.
Hc 27: 30-28: 7
Trong bài đọc thứ nhất, hiền nhân Do thái, trung thành với lề luật Mô-sê, mời gọi “oán cừu nên tháo không nên buộc”.
Rm 14: 7-9
Trong đoạn trích thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc người Ki-tô hữu nhớ rằng không ai sống cho chính mình.
Mt 18: 21-35
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ của Ngài phải tha thứ vô điều kiện và không giới hạn.
BÀI ĐỌC I (Hc 27: 30-28: 1-7)
Trào lưu Khôn Ngoan nở rộ trong toàn thể miền Cận Đông xưa: Ai-cập, Su-me, Ba-by-lon… Sách Huấn Ca là một trong năm tác phẩm thuộc trào lưu Khôn Ngoan Cựu Ước: Châm Ngôn, Gióp, Giảng Viên, Khôn Ngoan và Huấn Ca.
Tác giả của sách Huấn Ca là ông Si-rác sống vào cuối thể kỷ III đầu thế kỷ IV trước Công Nguyên. Là bậc vị vọng và là hiền nhân ở Giê-ru-sa-lem, ông đã viết lại những lời dạy khôn ngoan của mình vào khoảng năm 180 trước Công Nguyên. Khoảng năm mươi năm sau, cháu nội của ông đã dịch tác phẩm Híp-ri của ông sang Hy-ngữ và xuất bản.
Sự khôn ngoan, thành quả của suy tư và trải nghiệm, là gia sản chung của toàn thể nhân loại. Nhưng sống vào thời kỳ văn hóa Hy lạp trở nên mối nguy hiểm đối với văn hóa Do thái, ông Si-rác, hiền nhân Do thái, ôm ấp một hoài bảo: chấn hưng những giá trị luân lý Do thái giáo. Theo ông, sự khôn ngoan Do thái vượt lên trên sự khôn ngoan Hy lạp, vì sự khôn ngoan Do thái có Thiên Chúa làm khuôn mẫu và Lề Luật của Ngài làm chuẩn mực cho cuộc sống.
Sách Huấn Ca là loại sách kim chỉ nam chứa đựng nhiều lời khuyên dạy cho cuộc sống thường ngày. Sách đề cập đến mọi đề tài. Đoạn trích dẫn hôm nay đề cập đến việc trả thù và tha thứ.
1. Cách hành xử của kẻ gian ác
Nhà hiền triết nhắm trước tiên đến cách hành xử của kẻ gian ác:
“Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm,
về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài” (27: 30).
Ông nhận xét rằng nếu cứ cố chấp trong sự oán hờn và giận dữ, rồi sẽ chuốc lấy sự báo thù của Đức Chúa:
“Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa,
tội lỗi nó, Người xem xét từng ly” (28: 1)
Trong Cựu Ước, quan niệm “thưởng phạt ở đời sau” chỉ xuất hiện sau nầy. Kẻ gian ác sẽ chuốc lấy hậu quả của điều ác mà nó gây ra ngay tại cuộc sống đời nầy, như chúng ta thường nói: “Ác giả ác báo, gieo gió gặp bảo” hay “Gieo nhân nào thì gặp quả nấy”.
2. Đức hạnh của người công chính
Ngược lại với cách hành xử của kẻ gian ác, nhà hiền triết phác họa đức hạnh của người công chính là “lấy ân mà trả oán” hay “Lấy sự tha thứ mà đáp lại oán cừu”.
Sự tha thứ được Lề Luật truyền dạy, như sách Lê-vi diễn tả rõ ràng: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em… Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình ngươi” (Lv 19: 17-18). Nhà hiền triết nêu lên lý do tại sao phải tha thứ:
“Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác,
thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (28: 2).
Theo Hiền nhân Si-rác, sự tha thứ giữa người với người có mối quan hệ hỗ tương với sự tha thứ của Thiên Chúa:
“Người với người cứ nuôi lòng hờn giận,
thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành!” (28: 3).
Vì lẽ người nào hành xử với anh chị em của mình như thế nào, thì Thiên Chúa cũng hành xử với người ấy cũng như thế ấy:
“Nó chẳng biết thương người đồng loại,
mà lại dám xin tha tội cho mình!
Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận,
thì ai sẽ xin tha tội cho nó?” (28: 4-5).
Những lời dạy của hiền nhân Si-rác về sự tha thứ gợi nhớ lời dạy của Đức Giê-su cho các môn đệ Ngài trong của kinh “Lạy Cha”:
“Xin tha tội cho chúng con
như chúng con cũng tha
cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6: 12).
Chúa Giê-su còn giải thích cho rõ thêm nữa: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6: 14-15).
Cuối cùng, hiền nhân Si-rác nêu lên vấn đề chủ đạo tại sao phải tha thứ cho anh chị em mình. Người công chính phải thanh thoát trên mọi ưu tư thường ngày để nghĩ đến số phận của mình là một ngày kia sẽ từ giả cõi thế, đây không cốt là nghĩ đến phần thưởng của cuộc sống mai sau. Vào thời hiền nhân Si-rác, Ít-ra-en chưa biết viễn cảnh nầy (chỉ xuất hiện muộn thời). Cho dù người công chính không thể biết được khi nào những đau khổ sẽ giáng xuống trên bọn ác nhân – vì Đức Chúa sẽ báo thù – thì phải trung thành với những huấn lệnh và nghĩ đến Giao-ước.
“Hãy nhớ đến ngày tận số
mà chấm dứt hận thù,
nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết
mà trung thành gìn giữ các điều răn” (28: 6)
Cách hành xử nầy thật là cao thượng vì chân trời bị giới hạn vào việc thưởng phạt trần thế và kinh nghiệm cho thấy những phần thưởng này khó đáp trả sự mong chờ của người công chính. Nhưng người có niềm tin phải hành xử như thế vì lòng yêu mến Thiên Chúa và Lề Luật của Ngài:
“Hãy nhớ đến các điều răn
mà đừng oán hờn kẻ khác,
nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao
mà không chấp nhất điều lầm lỗi” (28: 7).
Không phải chính lòng trung thành với Giao Ước đảm bảo sự quan phòng của Thiên Chúa trên mỗi một thành viên của dân Ít-ra-en sao? Nền luân lý thật cao thượng này chuẩn bị trực tiếp cho lời dạy của Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay.
BÀI ĐỌC II (Rm 14: 7-9)
Nếu tách đoạn trích thư gởi tín hữu Rô-ma ra khỏi văn mạch của nó, chúng ta khó nắm bắt được ý nghĩa những lời khuyên dạy của thánh Phao-lô. Trong chương 14 nầy, thánh Phao-lô bàn đến những mối liên hệ giữa những người Ki-tô hữu trong lòng cộng đoàn. Thánh nhân gợi lên có quá nhiều quan điểm khác nhau trong cách đối nhân xử thế thường ngày, giữa những người mà thánh nhân gọi “những người yếu” và những người mà thánh nhân gọi “những kẻ mạnh”.
Thánh nhân đề cập cách cụ thể giữa những người không ăn kiêng và những người ăn kiêng, những người sống khổ hạnh và những người bài bác khổ hạnh, vân vân. Từ đó thánh nhân kết luận rằng cuộc sống hòa hợp giữa các thành viên trong cộng đoàn phải căn cứ trên sự tự do của mỗi người trong sự kính trọng kẻ khác. Tự do mà thánh nhân đề cập ở đây không là cá nhân chủ nghĩa: “Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Đức Ki-tô, mà có chết cũng là chết cho Người”, bởi lẽ “Đức Ki-tô đã không sống cũng không chết cho chính mình, nhưng cho chúng ta”. Mọi phân biệt đối xử phải bị loại trừ trước mối liên hệ căn bản là hiệp nhất mọi thành viên trong cộng đoàn, bởi vì tất cả chúng ta đều thuộc về Đức Ki-tô.
Khởi đi từ những chi tiết nhỏ nhặt cụ thể đến một quan điểm thần học, đó là nét đặc trưng thường hằng của thánh Phao-lô trong các thư của thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 18: 21-35)
Sau khi đã nhắc nhở đức ái huynh đệ và những cảnh báo mà mỗi thành viên trong cộng đoàn có bổn phận và trách nhiệm với nhau (Chúa Nhật trước), Đức Giê-su mời gọi các môn đệ Ngài còn đi xa hơn nữa, cho đến việc tha thứ vô điều kiện và không giới hạn cho những kẻ xúc phạm mình.
1. Cuộc chuyện trò thân mật giữa Thầy và trò
Trong Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu làm nổi bật con người Phê-rô, thậm chí ngay cả thậm chí trước khi ông được tấn phong làm thủ lãnh của nhóm Mười Hai và của Giáo Hội tương lai, như trong câu chuyện phong ba bão tố, chỉ một mình thánh Phê-rô xin Thầy: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (14: 28); hay trong câu chuyện trên đường Xê-sa-rê Phi-líp-phê, thánh Phê-rô, đại diện nhóm Mười Hai, tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống” (16: 16); hoặc trong biến cố Biến Hình, chỉ một mình Phê-rô lên tiếng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây thật là hay!” (17: 4).
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng vậy, chính thánh Phê-rô lên tiếng hỏi Thầy mình: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mầy lần”, đồng thời cũng nhanh miệng đưa ra một lời đề nghị: “Có phải bảy lần không?” Khi đưa ra bảy lần, ông nghĩ là mình quá rộng lượng từ bi nhân hậu lắm rồi, bởi vì theo truyền thống Do thái việc tha thứ cho anh em mình không vượt quá ba hay bốn lần. Kinh sư Hanina dạy rằng: “Ai xin người lân cận mình tha thứ, không được xin quá ba lần”. Kinh sư Jehuna thì dạy tha thứ khoan dung hơn: “Nếu một người phạm tội một lần, hãy tha thứ; hai lần hãy tha thứ; ba lần cũng hãy tha thứ cho người ấy; nhưng lần thứ tư thì không tha thứ nữa!”. Đối với văn hóa Việt Nam: “Sự bất quá tam, một lần tha ba lần chém”. Hơn nữa, “con số bảy” biểu thị sự giới hạn cuối cùng, không thêm được nữa. Trong Cựu Ước, con số “bảy” được dùng để diễn tả mức độ trả thù hết mức: “Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bảy” (St 4: 15).
Đức Giê-su trả lời: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”. Trong Cựu Ước, diễn ngữ “Bảy mươi lần bảy” cũng được dùng để chỉ một sự trả thù vô cùng tận, như lời nói đầy sát khí trả thù của ông La-méc, hậu duệ của Ca-in:
“Ca-in sẽ được trả thù gấp bảy,
nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy.” (St 4: 25).
Như vậy, Đức Giê-su thay thế sự trả thù vô cùng tận bằng sự tha thứ vô giới hạn. Để minh họa tư tưởng của mình, Ngài kể một dụ ngôn mà chỉ mình thánh Mát-thêu tường thuật lại. Khi so sánh với Bài Đọc I trong đó hiền nhân Si-rác dạy rằng phần thưởng cho việc tha thứ chỉ vuông tròn trong hạnh phúc trần thế, thì Đức Giê-su nhắm đến việc tha thứ đem lại phần thưởng trong Vương Quốc Thiên Chúa. Lời này loan báo Đức Giê-su sắp ban chìa khóa mở cửa vương quốc nầy.
2. Dụ ngôn “Người đầy tớ không có tấm lòng biết yêu thương và tha thứ” (18: 23-35)
Dụ ngôn này hình thành nên một vỡ bi kịch gồm ba cảnh:
A- Cảnh 1: “Cách cư xử của Đức Vua đối với người đầy tớ mắc nợ vua” (18: 23-27)
Đức Vua (ám chỉ đến Thiên Chúa), được giới thiệu ngay từ đầu, muốn bầy tôi của mình thanh toán sổ sách. Phần cuối của dụ ngôn sẽ cho thấy việc thanh toán sổ sách chỉ là việc nhỏ.
Đức vua đích thân triệu mời người đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn nén vàng. Đây là một món nợ quá lớn. William Barclay giúp chúng ta có thể hình dung mức độ khổng lồ của món nợ nầy: “Mười ngàn yến vàng, tương đương với 2. 400.000 bảng Anh. Đó là món nợ không thể tưởng tượng được, nó lớn hơn tổng ngân sách của một tỉnh. Tổng lợi tức xứ Edumaca, Giu-đê và Sa-ma-ri chỉ có 600 yến vàng”.[1] Nhưng Đức Giê-su không có chủ ý quy chiếu đến sự kiện lịch sử, Ngài chỉ muốn chúng ta hiểu rằng một món nợ tự sức mình không thể nào có thể trả nổi. Với một món nợ quá lớn mà một người nô lệ không thể nào mắc nợ được, vì thế các nhà chú giải hiểu rằng người đầy tớ trong dụ ngôn nầy phải là một quan chức, bởi vì trong nền văn hóa Đông Phương, các quan đại thần được gọi là tôi bộc của vua.
Vì thế, Đức Vua ra lệnh thi hành án phạt: “Bán y, cùng tất cả vợ con, tài sản, mà trả nợ”. Món nợ mà người chủ gia đình mắc phải liên đới đến mọi thành viên trong gia đình. Bấy giờ tên đầy tớ sấp mình xuống van xin. Đức Vua liền chạnh lòng thương (đây cũng là động từ mà các Tin Mừng dùng để diễn tả tấm lòng xót thương của Đức Giê-su trước những đau khổ của con người), tha hết món nợ cho y: hình ảnh của ơn cứu độ nhưng không.
B- Cảnh 2: “Cách cư xử của người đầy tớ được tha nợ đối với người bạn mắc nợ mình” (18: 28-30)
Cảnh 2 được xây dựng trên một sự tương phản với Cảnh 1. Tên đầy tớ được tha bổng lại cư xử không một chút xót thương một bạn đồng liêu của mình, người này mắc nợ y một trăm bạc, một món tiền không đáng là bao so với món nợ mà y có đối với Đức Vua. Y chẳng thèm để ý đến lời van xin của bạn mình, những lời mà trước đây y đã van xin Đức Vua. Cách hành xử của y đối với bạn của y khác xa với cách hành xử của Đức Vua đối với y: y liền túm lấy, bóp cổ và tống bạn mình vào tù.
C- Cảnh 3: “Đức Vua luận tội người đầy tớ không có lòng xót thương” (18: 31-35)
Sự việc đến tai Đức Vua. Đức Vua thay đổi thái độ hoàn toàn đối với y: Ngài nổi cơn thịnh nộ giao người đầy tớ không có lòng xót thương cho lý hình hành hạ cho đến ngày y trả hết đồng xu cuối cùng. Chính ở đây để lộ cách thức tính sổ của Đức Vua. Ngài phán xử mỗi người không căn cứ trên việc tính toán chi ly món nợ, nhưng trên khả năng yêu thương và tha thứ mà mỗi người phải có đối với anh chị em đồng loại của mình. Người đầy tớ này không ngờ rằng có một mối quan hệ hổ tương giữa cách hành xử của y đối với bạn đồng môn của mình và cách hành xử của Đức Vua đối với y. Khi y từ chối tấm lòng xót thương của y đối với bạn mình, chính y đã huỷ bỏ làng xót thương mà y được hưởng từ Đức Vua. Từ dụ ngôn này, một bài học được rút ra: điều kiện tất yếu để được Thiên Chúa tha thứ chính là mỗi người phải có lòng tha thứ cho anh chị em mình, như lời dạy của Đức Giê-su trong phần kết của kinh Lạy Cha: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6: 14-15).
Phía sau dụ ngôn này, chính Đức Giê-su, qua cuộc sống chan chứa yêu thương và hay tha thứ của Ngài, nhất là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, đem đến cho mỗi người những phương thế để đổi mới tấm lòng của mình, ngõ hầu con người có khả năng yêu thương và tha thứ cho nhau.
------------
[1] W. BARCLAY, được trích dẫn theo bản dịch tiếng Việt, Tin Mừng Mátthêu, quyển 2, tr. 166.
--------------------------------
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin Mừng Mt 18, 21-35: Trang Tin Mừng hôm nay phải nói rằng đúng là: Trong cuộc đời của mỗi ngày chúng ta hai chữ thôi! Nhưng rất khó làm đó là: Hai chữ tha thứ...
***
Kính thưa Cộng Đoàn
Phải nói rằng, ngày hôm nay, như ngôn ngữ của tuổi teen là chơi game gài. Trang Tin Mừng hôm TN 24-A139
Phải nói rằng, ngày hôm nay, như ngôn ngữ của tuổi teen là chơi game gài. Trang Tin Mừng hôm nay phải nói rằng đúng là: Trong cuộc đời của mỗi ngày chúng ta hai chữ thôi! Nhưng rất khó làm đó là:
Hai chữ gì?
- Hai chữ tha thứ. Bởi vì, một người nào đó mà xúc phạm đến mình: vợ xúc phạm chồng, chồng xúc phạm vợ, khó tha thứ! Nó chỉ là lý thuyết thôi.
Bạn bè hay hàng xóm xúc phạm đến mình, mình còn tha thứ được, nhưng mà còn với người ruột thịt hay người thân mà xúc phạm thì khó lắm! “Thương nhau lắm, cắn nhau đau” mà! Bởi vì, tha thứ không phải đơn giản.
Người ta vẫn thường đi theo cái lối sống công bằng. Công bằng thôi! Ai mà vi phạm tới mình, thì mình trả thù.
Còn nếu mà trong cuộc sống mà cái sự ganh đua nó càng mạnh, thì cái sự tha thứ nó càng khó! Bởi vì không ai chấp nhận sự tha thứ, nhưng mà sự tha thứ đó sẽ làm cho con người được sự bình an.
Nếu như không tha thứ, thì người đó, đánh mất căn tính người Kitô hữu của mình. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côlôxê, ngài nhắc nhở chúng ta: Anh em hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau. Như Đức Kitô đã tha thứ cho anh em, thì anh em hãy tha thứ cho nhau.
Nếu ai nào đó không tha thứ, thì không còn là mang trong mình căn tính của người Kitô hữu nữa.
Chúng ta thấy bài học của sự tha thứ nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không những nói nhưng Chúa Giêsu đã làm gương cho sự tha thứ.
Trên đỉnh đồi Canvê, không còn nỗi nhục nào bằng cái nỗi nhục nào! Không còn đòn roi nào kể xiết. Sự đau đớn mà người ta đánh cho một thân mình tội lỗi. Một thân mình đau đớn.
Đau quá! Đau Thể xác thì ít, mà đau phần hồn thì nhiều. Bởi vì, chính những con người mà mình làm phép lạ, chính những con người mình trao ơn cho họ, hóa bánh ra nhiều nuôi họ, lại là những người: Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào thập giá đi!
Chúng ta thấy, Chúa Giêsu ở trong Tin Mừng thánh Máccô đã dạy cho chúng ta về sự tha thứ, về sự hòa giải:
- Nếu anh em chuẩn bị đi đến mà dâng lễ vật, mà có sự bất bình với ai đó, thì hãy tha thứ đi.
Ở chương 5 thì thánh Maccô cũng dạy: - Anh em nếu có sự bất bình thì đi làm hòa đi!
Cái bầu khí mà hòa bình, tha thứ đó! Chúa Giêsu không chỉ rao giảng, mà Ngài thực hiện.
Còn nhớ đến Tin Mừng theo Thánh Mátthêu: - Tha cho anh em, thầy bảo anh em tha cho anh em.
Và ở chương 18 này, Chúa Giêsu nói: - Anh em hãy tha thứ.
Khi mà thánh Phêrô đã đưa ra vấn nạn tha thứ: “Cha thầy ở trên trời sẽ đối xử với anh em như là, anh em đối xử với người khác”.
Và nếu xét cho bằng cùng, tha thứ chính là tiêu chuẩn cần thiết, để được vào thiên đàng.
Bởi vì, nếu không tha thứ mà còn giận hờn có nghĩa là không yêu thương nhau. Mà không yêu thương nhau, thì làm sao sở hữu được nước thiên đàng.
Và điều này, thánh Phêrô, chúng ta cho thấy, một người xem ra rất là phóng khoáng. Con số 7 là con số tròn đầy của người Do Thái. Và thánh Phêrô rất là mạnh miệng: Con tha thứ 7 lần rồi!
7 lần là kinh khủng lắm! Nhưng mà, chúng ta thấy, Chúa Giêsu không chỉ 7 lần, mà là 70 lần 7.
Trên thánh giá người ta chế giễu mình, nhục mạ mình. Nhưng rồi: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”
Tha thứ có khi không phải chỉ là cái hành động nhất thời, nhưng mà phải là tha thứ mỗi ngày. Mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm và cái tiến trình tha thứ đó, nó phải được kéo dài trong cuộc đời của ta.
Mà nhiều lần, nhiều lúc trong cuộc đời, có khi, có người này, có người kia từ chối và khước từ sự tha thứ. Bởi vì, họ nghĩ rằng người khác sai và đáng trừng phạt như thế là do lỗi của họ.
Và có những người đặt mình ở chiếu trên, có quyền tha thứ, nhưng người kia không đáng được tha thứ, để rồi họ không tha thứ cho nhau.
Có những người có khả năng xin được tha thứ, nhưng người khác lại không tha, từ chối trách nhiệm không tha. Và khi đó người đó mặt lấy tâm tình của một con người kiêu ngạo.
- Làm trai phải đáng nên trai. Thực sự ra, có những con người đàn ông làm biếng và yếu nhược, nhưng rồi tự cao tự đại và không bao giờ cho mình sai. Và sau một thời gian sống, họ nhận ra sự thật. Và khi đó, họ cảm thấy con người họ thiếu sót và họ lại dễ tha thứ cho người khác. Còn nếu, họ nghĩ, họ là người chủ trong gia đình và họ sống theo kiểu “Chồng chúa, vợ tôi”, thì cái sự tha thứ đó rất khó.
Tha thứ cho vợ chồng, con cái, cha mẹ không phải dễ đâu!
Khi chúng ta muốn tha thứ, thì chúng ta phải xin cái ơn khiêm nhường. Để rồi, chúng ta thấy, chúng ta cũng là những con người tội lỗi, cũng là những con người yếu đuối, để xin cho chúng ta được khiêm nhường.
Và rồi, chúng ta, cái chuyện quan trọng nhất đó là:
Chúng ta phải đi làm hòa với nhau. Mà, Chúa mời gọi đó: “ Hãy đi làm hòa và hòa giải vô điều kiện.”
Gia đình nào cũng có nỗi khổ riêng.Gia đình nào cũng có những cái riêng của mình. Để rồi, không phải dễ, để mà tha thứ cho nhau.
Nhưng rồi, chúng ta thấy: Nếu chúng ta tha thứ cho anh chị em đồng loại, chúng ta sẽ đón nhận được sự bình an.
Và rất khó tha thứ, bởi vì chúng ta cứ phải bắt lỗi người này, người khác. Đừng bao giờ kể lỗi của người khác, thì chúng ta sẽ được tha thứ, và chúng ta tha thứ dễ dàng.
Chúng ta còn nhớ đến hình ảnh của Gia Kêu, Gia Kêu trèo lên cây sung và lòng chạm lòng mắt chạm mắt. Gia kêu đã thấy Chúa Giêsu và Chúa Giêsu không hề hạch tội. Tha thứ là tha thứ cho đến tận cùng. Và chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã tha thứ cho Gia Kêu đến tận cùng, khi không kết án ông. Dẫu rằng, người ta vẫn dán nhãn cho ông là một người thu thuế đầy tội lỗi.
Trong Kinh Hòa Bình, chúng ta thấy, lời Kinh Hòa Bình rất là hay:
Lạy CHÚA, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù. Đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp... vì chính khi thứ tha, là khi được tha thứ.
Đó là hai vế của một phần mệnh đề: Nếu chúng ta tha thứ cho anh chị em đồng loại chúng ta, thì chúng ta cũng được tha thứ từ Chúa Giêsu. Bởi vì: Con người là lầm lỗi, lầm lỗi là con người.
Tha thứ là thần thánh, thần thánh là tha thứ.
Khi chúng ta mặc lấy con người yếu đuối, chìm trong cái con người, thì chúng ta không bao giờ nhận ra được lỗi của mình và khó tha thứ cho người khác. Còn khi chúng ta nhận ra yếu đuối của mình, để chúng ta tha thứ cho người khác, thì cái tiến trình làm thánh nó gần hơn con người của chúng ta. Con người mang trong mình căn tính là thánh thì dễ tha thứ cho người khác lắm. Còn nếu mình là con người thì mình sẽ không bao giờ chịu tha thứ cho người khác.
Tôi nói rằng tôi không tha họ, bởi vì tôi kiêu ngạo. Tôi nói rằng tôi không tha họ, bởi vì tôi thành toàn, tôi đạo đức hơn người khác.
Và nói tới đây, con nhớ đến một câu nói rất hay:
- Người đầu tiên biết xin lỗi là người dũng cảm nhất.
- Người đầu tiên biết tha thứ là người mạnh mẽ nhất.
- Người biết quên đi quá khứ đau buồn, đó là người hạnh phúc nhất.
Cầu chúc cho mỗi người chúng ta đặt mình trước mặt Chúa như Chúa Giêsu đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta phải yêu thương và tha thứ cho anh chị em đồng loại. Đặc biệt, người biết quên đi quá khứ đau buồn, là người hạnh phúc nhất!
Cầu chúc cho mỗi người chúng ta là người hạnh phúc nhất! Bởi vì, chúng ta sẵn sàng, chúng ta quên đi những cái quá khứ đau buồn trong cuộc đời của chúng ta. Amen.
----------------------------------
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.
Qua Lời Tổng Nguyện của Tuần XXIV Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng TN 24-A140
Qua Lời Tổng Nguyện của Tuần XXIV Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là Ðấng sáng tạo và điều khiển muôn loài, xin cho chúng ta biết tận tình thờ phượng Chúa, hầu luôn được cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương.
Chúng ta càng tận tình thờ phượng Chúa, chúng ta sẽ càng cảm thấy được rõ ràng tình yêu thương của Chúa dành cho chúng ta. Thiên Chúa là Đấng đáng chúng ta tôn thờ, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Êdêkien đã nhìn thấy trên cái gì tựa như cái ngai có cái gì trông như hình dáng một con người, và ông nghe có tiếng hò la vang dội từ trên cao: Chúc tụng Đức Chúa vinh hiển trong nơi thánh của Người. Ngôn sứ cũng tiên báo mọi dân tộc sẽ nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa, bởi vì, Thiên Chúa sẽ ngự khắp mọi nơi, chứ không chỉ ngự trong Đền Thờ hay trên núi Xinai. Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh cho thấy tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua hình ảnh người mục tử chăm sóc đoàn chiên của mình: Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho chiên nằm nghỉ. Người dẫn chiên trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Thánh nhân cũng khiển trách những mục tử chỉ muốn nghe người ta gọi mình là mục tử, mà không muốn chu toàn nhiệm vụ mục tử của mình.
Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa như con thơ kính sợ Cha hiền, chứ không như đứa đầy tớ khiếp sợ ông chủ hà khắc, bởi vì, như lời của vịnh gia trong Thánh Vịnh 102 của bài Đáp Ca hôm nay: Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa tha cho ta muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ta. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.
Thiên Chúa là Cha nhân hậu, Người sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi cho ta, vì thế, Người cũng muốn chúng ta bắt chước Người luôn yêu thương và tha thứ cho những ai xúc phạm đến chúng ta, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Huấn Ca đã kêu gọi: Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha. Bởi vì, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển mọi loài, nên Người có quyền trên tất cả, chúng ta chỉ là thụ tạo bé nhỏ của Người, chúng ta phải tùy thuộc vào Người, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô đã mạnh dạn khẳng quyết: Dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; vì Đức Kitô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết. Sống, chết đã không thuộc quyền của chúng ta, thì phán xét và kết án lại càng không phải là quyền của chúng ta, vậy sao chúng ta lại có thể giữ mãi lòng thù hận, quyết không tha thứ cho một ai đó, không tha thứ cho người khác, là chúng ta đang cầm giữ chính mình trong những giận hờn ích kỷ. Đang khi đó, Chúa luôn mời gọi chúng ta phải yêu thương nhau như câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay: Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em.
Yêu thương như Thầy, nghĩa là, cũng phải tha thứ như Thầy. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã mời gọi phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy, nghĩa là, tha thứ luôn mãi, không thôi: như hương thơm tiết ra từ cây “hương mộc” cho cả chiếc rìu chặt nó, lòng bao dung tha thứ cũng tuôn chảy từ Thánh Tâm rực cháy lửa tình yêu cho cả những kẻ đóng đinh Đấng là Tình Yêu. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển mọi loài, cho nên, thờ phượng Chúa thật là phải đạo và chính đáng, nhưng, như lời Đức Giêsu nói với người phụ nữ Samaria: không còn thờ phượng Thiên Chúa trên núi này hay núi kia, mà là, trong Thần Khí và Sự Thật, nhất là, thánh Phaolô đã khẳng quyết: chúng ta là Đền Thờ của Thiên Chúa (x. 1Cr 3,16). Do đó, càng thờ phượng Thiên Chúa nơi chúng ta, chúng ta sẽ càng nghiệm thấy tình yêu thương tha thứ của Chúa dành cho chúng ta, vì thế, tha thứ không chỉ dừng lại ở việc tha thứ cho tha nhân, nhưng còn là tha thứ cho chính mình, và cũng vậy, tha thứ cho chính mình lại trở thành tiền đề để tha thứ cho tha nhân.
Nếu không biết tha thứ cho chính mình, làm sao chúng ta có thể tha thứ cho người khác. Nhiều xung đột với người khác là phản ảnh của những xung đột trong chính nội tâm chúng ta, do việc chúng ta đã không chấp nhận những khiếm khuyết đó nơi chính mình. Nếu chúng ta không tha thứ cho chính mình, thì chúng ta sẽ bắt người khác phải trả giá cho sự bất hòa bên trong chúng ta. Thời điểm lên án mình, chúng ta cũng đang lên án toàn thế giới. Nếu hiệu hữu trong chúng ta đã bị lên án, thì làm sao chúng ta có thể chấp nhận hiện hữu ở xa chúng ta, trong những người khác.
Tha thứ cho chính mình: chỉ lên án tội, chứ không lên án mình, tội nằm trong hành vi của chúng ta, chứ không phải trong hữu thể chúng ta. Chúng ta có những hành vi sai, vì chúng ta không nhận biết, không tỉnh thức. Nỗ lực của chúng ta là hãy làm cho mình thức tỉnh.
Thay vì chúng ta kết án tha nhân, chúng ta hãy làm cho họ thức tỉnh, bắt đầu thức tỉnh là bắt đầu biến đổi, hoàn toàn thức tỉnh là chúng ta đạt tới chính Chúa. Chúng ta hoạt động trong mê ngủ, nên phạm nhiều sai lỗi và xúc phạm lẫn nhau. Nhìn lại chính mình với những bất toàn, thiếu sót, chúng ta phải biết chấp nhận và tha thứ cho chính mình, khi đó, chúng ta sẽ dễ dàng tha thứ cho người khác. Thiên Chúa là Cha hằng luôn yêu thương tha thứ cho chúng ta, chúng ta cũng phải biết yêu thương tha thứ cho chính mình, càng cảm nghiệm được tình yêu thương tha thứ của Chúa dành cho chúng ta cách nhưng không, chúng ta sẽ càng dễ dàng yêu thương và tha thứ cho tha nhân cách vô điều kiện, không tính toán so đo.
----------------------------------
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Tha thứ dường như là điều cần phải có trong xã hội. Cuộc sống chung nào cũng đòi ta phải chấp TN 24-A141
Tha thứ dường như là điều cần phải có trong xã hội. Cuộc sống chung nào cũng đòi ta phải chấp nhận cái khuyết điểm của nhau trong yêu thương và tha thứ. Không tha thứ thì chỉ còn loại trừ. Một khi đã loại trừ lẫn nhau sẽ gây nên bao điều thị phi và bể dâu. Vì vậy, điều mà Chúa muốn nơi người Công Giáo là đã yêu thì phải tha thứ bao dung cho anh em của mình. Tha thứ không chỉ 7 lần mà là bảy mươi lần bảy nghĩa là không bao giờ để trong lòng những oán hận ghét ghen.
Vậy kẻ mà chúng ta cần tha thứ là ai? Và họ đang ở đâu?
Thưa đó là những người mà chúng ta đã và đang tiếp xúc. Có tiếp xúc mới nảy sinh mâu thuẫn. Có gần gũi mới có va chạm lẫn nhau. Có ăn cùng – sống cùng mới thấy được cái xấu, cái dở của nhau. Như vậy, người mà chúng ta cần bao dung chẳng ai khác, chính là cha mẹ, là vợ chồng hay con cái của tôi. Đó có thể là người hàng xóm hay nguời cùng công ty xí nghiệp của tôi. Và cũng có thể là tình địch, là con nợ hay là kẻ phá rối gia đình và Giáo xứ của tôi. . .
Vâng người mà chúng ta cần tha thứ chính là anh em tôi. Họ từng là người nhà của chúng ta nhưng có thể vì những quan điểm, sở thích, cá tính khác với chúng ta, có khi đối nghịch khiến họ trở thành kẻ thù của chúng ta. Đây là điều mà rất nhiều gia đình đang phải đối diện. Có những vợ chồng đã coi nhau như kẻ thù nhưng vì con cái họ vẫn sống với nhau trong thù hận. Có những anh chị em ruột thịt nhưng chỉ vì tất đất đã trở mặt thành kẻ thù của nhau. Có những người cùng công sở nhưng vì quan điểm và mục tiêu khác nhau dần dần trở thành kẻ thù của nhau . . .
Có câu chuyện vui kể rằng: có một ông chồng vừa qua đời liền được lên thiên đàng. Tại cửa thiên đàng ông ta thấy thánh Phê-rô niềm nở bảo ông ấy rằng: chúc mừng con được đoàn tụ với vợ con. Vào đi, vợ con đang ở trong đó. Ông chồng liền tròn xoe con mắt ngạc nhiên bảo rằng: Nó cũng được vô đây à? Thôi con không dám vô đâu. Con đã sống với nó 30 năm khổ sở lắm rồi, giờ lại còn phải nhịn nó nữa làm sao chịu nổi . . .!
Sống ở đời nếu chúng ta không quẳng đi những tức tối giận hờn tha nhân thì chúng ta đang đầy đoạ chính mình. Theo lẽ công bằng thì chẳng ai có bổn phận phải sống theo ý chúng ta nên chúng ta chẳng có lý do gì để tức tối về cách sống của họ. Và chắc chắn cũng chẳng ai có bổn phận sống giống như chúng ta, vì mỗi người một cá tính và khả năng khác nhau, nên chúng ta đừng nặng lòng khi họ sống khác với chúng ta!
Hơn nữa, con người chúng ta “nhân vô thập toàn” nên cũng cần sự tha thứ của anh em. Chúng ta lớn lên trong sự tha thứ của người khác thì chính chúng ta cũng phải học tha thứ cho tha nhân. Thế nên, hãy sống bao dung. Hãy học nơi Chúa Giê-su bài học bao dung. Chính Ngài đã luôn sống điều đó. Ngài luôn cảm thông với những lầm lỗi của tha nhân. Ngài dùng tình thương tha thứ để sửa lại lỗi lầm con người. Tình thương ấy Ngài đã mang lại cuộc đời mới cho Gia-kêu, cho Ma-da-lê-na, cho Phao-lô . . . Ngài đã đi đến tận cùng của sự tha thứ là tha cho kẻ đã hành hạ và kết án Ngài.
Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống tình thương tha thứ. Tha thứ để sửa đổi anh em. Tha thứ để xóa đi những vết hận thù trong lòng chúng ta. Tha thứ để ta nên hoàn thiện hơn như Cha là Đấng hoàn thiện luôn cho mưa thuận gió hòa trên người lành và kẻ xấu.
Tuy nhiên, tha thứ để rồi cũng biết nhìn nhận tội lỗi của bản thân. Có thể cái sai của anh em cũng có phần trách nhiệm của tôi. Vợ chồng thường hay nổi nóng với nhau vì bản thân tôi đã không làm tròn bổn phận. Con cái đi vào con đường lầm lạc vì tôi chưa một lần dạy con nên người? Thế nên, trong nhiều trường hợp chính chúng ta là người cần đến sự tha thứ của người khác.
Xin cho chúng ta luôn biết hoàn thiện mình như Cha chúng ta. Hoàn thiện con người không làm điều gì tổn thương với tha nhân. Hoàn thiện còn để lòng mình xóa đi những ghen tương, đố kỵ để sống hòa hợp với nhau. Amen
----------------------------------
Jorathe Nắng Tím
Bất cứ ai đã một lần yêu đều thấm thiá một sự thật: tình yêu “không như là mơ”, và tình yêu không TN 24-A142
Bất cứ ai đã một lần yêu đều thấm thiá một sự thật: tình yêu “không như là mơ”, và tình yêu không dễ nuôi chút nào. Chính vì “không như là mơ” mà nhiểu cuộc tình trong thực tế đã đổ bể, vỡ toang; vì khó nuôi, khó dưỡng mà không ít gánh tình đã đứt giữa đường, để lại trong tim một trời hoang vắng, và cho người một đời thương đau.
Sở dĩ tình yêu trong mơ khác tình yêu “thực”, vì người trong mộng khác người bằng xương bằng thịt, tình yêu lý tưởng khác tình yêu đời thường, khi mộng thì hoàn hảo, tuyệt vời, lãng mạn, đắm đuối, và đời thường thì sần sùi, thô kệch, bất toàn, khiếm khuyết, bởi hai người yêu nhau lúc này không còn “vẽ nên nhau” như hình ảnh mình ham muốn, tôn thờ nhau như “thần tượng” mình đúc tạc, nhưng đối diện nhau như nhau “là”, chạm vào những gì của nhau “có”, mà những gì “nhau là, nhau có” thì không đẹp, không tốt, không ngon lành, không đạt đỉnh, “chuẩn không cần chỉnh” như trong mơ.
Thế nên tình yêu nếu mãi là tình yêu say nắng, nếu mãi ở lì trong “tiếng sét ái tình”, nếu mãi bám chặt cảm xúc cháy bỏng của nụ hôn buổi đầu gặp gỡ “phải lòng” nhau thì tình yêu ấy không thể đi xa hơn, và hai người không có cơ may dìu nhau đến bến bờ hạnh phúc.
Tại sao vậy?
Thưa vì tình yêu chỉ sống bằng lương thực hy sinh, trái tim chỉ đập và yêu khi có máu hy sinh, hai người chỉ sống được bên nhau, đồng hành với nhau khi dám làm những những bước chân hy sinh cho nhau, và hy sinh cao cả, thiết yếu nhất hai người yêu nhau phải trao ban cho nhau chính là tha thứ, để tình yêu không bao giờ phải ngậm ngùi giẫy chết, đột tử.
Bởi hy sinh thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, tuy cần thiết, nhưng không thay thế được hy sinh tối quan trọng đến mức không thể thiếu là tha thứ cho nhau, vì cả hai không ai hoàn hảo, hoàn thiện, hoàn mỹ; bởi tiền bạc, sức khỏe, thời giờ dù gì đi nữa cũng không chạm đến chính “cốt lõi” của “cái tôi” số một tuyệt vời, qúy báu, dễ thương, nhưng rất dễ bị tổn thương mà ai cũng ra sức bảo vệ; bởi bất cứ hy sinh vật chất và ngay cả tinh thần nào cũng không bằng hy sinh tha thứ cho người mắc nợ, có lỗi với mình, vì tha cho người xúc phạm đến mình, tha cho người hạ nhục mình, tha cho người vu khống mình, tha cho người phản bội mình, tha cho người làm mình phải thua thiệt, mất mát, “thân bại danh liệt” là hy sinh vượt xa mọi hy sinh khác, có giá trị như mất đi chính mạng sống mình. Do đó, tha thứ được coi là hành vi chết cho người người mình yêu như Tin Mừng Gioan đã khẳng định : “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Bởi tha thứ cho ai là phải từ bỏ chính mình, phải xoá đi “cái tôi rất lớn, rất mạnh, rất đáng yêu” để hạ thấp ngang tầm kẻ “bất xứng”, kể cả “bất nhân” đã làm điều xấu, đã lầm lỗi, đã phạm đến mình; bởi tha thứ cho ai là phải ra khỏi vị thế có quyền lên án, trừng phạt kẻ đáng tội với mình; bởi tha thứ cho ai là tự nguyện cởi bỏ quyền chính đáng “đòi nợ” kẻ vay nợ mình, rời khỏi ghế quan toà công lý “bắt tội” kẻ có tội với mình, nên tha thứ cho ai chính là tự đánh mất những gì thuộc quyền mình có trên người ấy, xóa bỏ ranh giới quan toà – phạm nhân giữa mình với người xúc phạm, làm tổn thương, mắc nợ mình, và lập một giao ước mới giữa mình với người làm khổ mình để họ được sống.
Như thế, tha thứ chính là từ bỏ mình và vác thập giá mình khi tháo gỡ mình khỏi mọi ràng buộc của “cái tôi”, để chỉ còn tư duy và hành động vì hạnh phúc của người khác, dù người khác ấy không “tử tế, xứng đáng, dễ mến, dễ thương”.
Hơn ai hết, là Thiên Chúa Tình yêu, Đức Giêsu hiểu tình yêu phải đi đôi với hy sinh cao cả nhất là tha thứ, và tha thứ cho ai chính là chết đi cho người ấy, bởi có dám để “cái tôi ích kỷ, tự ái, quyền lực, danh dự” chết đi, chúng ta mới thật lòng tha thứ cho anh em khi bị họ xúc phạm, làm tổn thương; bởi có dám hy sinh những giá trị nhiều khi còn lớn hơn cả mạng sống để hạ mình, xoá mình tha thứ cho người đã táo tợn cướp đi tất cả những gì mình ôm ấp, nâng niu, và bằng mọi giá giữ gìn như danh dự, uy tín, chúng ta mới chân thành tha thứ “không giới hạn bẩy lần”, như thánh Phêrô trộm nghĩ, mà vô hạn, không tính toán, và nhiều đến “bẩy mươi lần bảy”, nghiã là không đếm nổi như Thiên Chúa muốn (x. Mt 18,21-22).
Ở đây Đức Giêsu đã cho chúng ta biết trong ý muốn caủ Thiên Chúa tha thứ không có hạn định, không có biên giới, nhưng là con đường dài, rất dài của cả đời sống trên đó chúng ta gặp gỡ Đức Giêsu. Con đường tha thứ ấy không chỉ là “bỏ qua” một cách máy móc, và bất đắc dĩ sai phạm, lầm lỗi, nợ nần của người khác, như vượt qua chướng ngại cản trở bước chân tiến về tương lai, nhưng ngàn lần hơn thế, tha thứ chính là tiêu diệt hận thù, và sự chết để làm nẩy sinh sự sống, làm cho người mắc nợ được sống như dụ ngôn đức vua nhân hậu kia đã chạnh lòng thương xót xóa nợ cho người đầy tớ “mắc nợ vua mười ngàn yến vàng”, nhưng không có gì để trả đã sấp mình xuống bái lậy nài xin đức vua “rộng lòng hoãn lại” ( x. Mt 18,24-26). Và nhờ lòng thương xót tha nợ của đức vua, người đầy tớ mắc nợ mới khỏi chết, mà được sống.
Thực vậy, Thiên Chúa muốn chúng ta tha thứ cho nhau, như Ngài đã tha thứ cho chúng ta, cũng như muốn chúng ta yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta (x. Ga 13,34), bởi yêu thương đòi tha thứ, và chỉ thực sự tha thứ khi yêu thương đạt đến độ quên mình, xóa mình, hiến mình, bỏ mình vì hạnh phúc của người mình yêu.
Đây là đòi hỏi rướm máu của đức ái Kitô, là điều kiện để được Thiên Chúa thương xót cứu độ, như Đức Giêsu đã khẳng định trong Hiến Chương Nước Trời : “Phúc cho ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.” (Mt 5,7), và như sách Huấn Ca đã răn dậy : “Kẻ báo thù sẽ chuốc láy báo thù của Đức Chúa, tội lỗi nó, Người xem xét từng ly. Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha. Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó?” (Hc 28,1-5). Trái lại, “chúng ta đừng xèt đoán nhau nữa” (Rm 18,13), mà “hãy nhớ đến các điều răn mà đừng oán hờn kẻ khác, nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao mà không chấp nhất điều lầm lỗi của nhau” (Hc 28,7).
Xin Chúa dậy chúng ta sống tình yêu bằng tha thứ cho anh em, vì tha thứ biểu hiện một tình yêu cao cả, anh hùng khi “để mình chết đi” cho sự sống nơi người khác được hồi sinh, như Đức Giêsu Thiên Chúa sẽ cho chúng ta được sống lại với Ngài khi tha thứ, xóa tội chúng ta bằng máu và sự chết của Ngài.
----------------------------------
Bông hồng nhỏ
Lạy Chúa! Trong tình thương của Chúa, chúng con nắm lấy tay nhau, nắm lấy cả những điểm mạnh TN 24-A143
“Lạy Chúa! Trong tình thương của Chúa, chúng con nắm lấy tay nhau, nắm lấy cả những điểm mạnh và điểm yếu của nhau, để nâng đỡ và giúp nhau sống an bình và vui tươi trong đời sống cộng đoàn.” Lời cầu nguyện thật đẹp của người chị em đã đánh động, đã chạm đến trái tim ta và làm ta nấc nghẹn. Hơn bao giờ hết, ta tha thiết cầu xin Chúa hãy nắm lấy bàn tay ta, nắm lấy vận mạng đời ta để dìu đưa ta tiến bước. Chúa cũng mời gọi ta nắm lấy bàn tay của người anh chị em bên cạnh ta và sẵn lòng để họ nắm lấy tay mình, đón nhận cả con người của nhau để yêu thương nhau như Chúa mời gọi.
Có một bàn tay đã nắm chặt lấy cổ người anh em mà la hét, quát nạt: “Trả nợ cho tao!” (Mt 18, 28b). Cũng chính bàn tay ấy đã tống người anh em đang mắc nợ mình phải vào ngục cho đến khi trả xong nợ (x. Mt 18, 28-30). Vừa mới đây thôi, bàn tay ấy đã chắp lại mà van xin: “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết” (Mt 18, 26). Lời van xin tha thiết ấy đã chạm đến trái tim giàu lòng thương xót của vị tôn chủ. Anh không những không bị bán đi, không mất đi vợ con hay của cải mình đang có mà còn được xóa luôn món nợ: mười ngàn yến vàng. Anh được tha bổng. Niềm hạnh phúc lớn lao ấy đã không thể làm anh quên đi “món nợ nhỏ nhặt” mà người đồng bạn đang nợ mình: một trăm quan tiền. Anh có một trí nhớ siêu đẳng, một trái tim quá nhỏ nhoi hay anh chỉ quan tâm đến quyền lợi của bản thân? Hành động thương xót của vị tôn chủ dành cho anh không làm cho anh quên đi món nợ mà người đồng bạn đang nợ mình sao? Cuộc đời là thế, người ta dễ dàng nhận lấy tình thương mà người khác dành cho mình và luôn mong đợi người khác thương đến mình, mong chờ mình được tha bổng những món nợ không thể trả; thế nhưng, có mấy người rộng lòng bỏ qua những “món nợ” mà người khác đang nợ mình.
Tuy nhiên, vẫn còn đó những bàn tay đã nâng đỡ người khác, đã dìu họ đứng lên sau khi vấp ngã, có bàn tay xoa dịu vết thương đau, có bàn tay sẵn sàng đón nhận cả những người đã xúc phạm đến mình. Đơn giản chỉ vì bàn tay ấy đã được gắn kết với một trái tim tràn đầy tình yêu, một trái tim biết mở ra với người khác. Trái tim ấy thật sự đã đong đầy Giêsu, đong đầy tình yêu của Thánh Thần lửa mến, ngập tràn sự hiện diện của Thiên Chúa Cha là Đấng giàu lòng thương xót. Trái tim ấy không còn là trái tim của một con người bình thường nhưng là trái tim đã được Thiên Chúa biến đổi và làm cho lớn lên. Chính khi tha thứ cho người khác, họ đã tự tay tháo cởi sợ dây thù hận đang cột chặt trái tim và cõi lòng mình. Họ đã không thể thực hiện việc tha thứ ấy chỉ với ý chí và trái tim của riêng mình. Vì yêu thương và tha thứ là quà tặng của Thiên Chúa ban cho ta. Ta phải đi theo sự chỉ dẫn của Người thì mới có thể bóc món quà ấy mỗi ngày.
Đã bao lần ta vấp ngã và mong được Chúa thứ tha. Mỗi lần đến với Bí tích hòa giải, lòng ta được chữa lành, được tái sinh trong tình yêu của Chúa. Ta thấy đời mình đang sang một trang mới, ngập tràn niềm vui và hy vọng. Thiên Chúa đã luôn là người cha đứng ngóng chờ ta, một đứa con hoang đàng trở về, trở về để cha ôm lấy trong vòng tay bao dung. Cũng đã bao lần, ta thấy mình là người anh cả, ích kỷ, hẹp hòi chẳng chịu đón nhận người em (x. Lc15, 11-32). Cũng đã bao lần, ta thấy mình như tên đầy tớ đã đối xử tàn ác với người đồng bạn đang mắc nợ mình. Tại sao ta không nhận thấy mình được Thiên Chúa thương xót như người cha thương xót con mình, như vị tôn chủ đã tha bổng số nợ ta không thể trả?
Lạy Chúa! Chúa đã thương xót con dầu con chẳng xứng đáng trước tình thương của Chúa. Xin giúp con khắc ghi tình yêu Chúa trong trái tim con và nhắc nhớ con biết nghĩ về món nợ con đang nợ Chúa, để con cũng biết tha thứ cho người đang mắc nợ con như Chúa đã tha thứ cho con vậy. Xin cho bàn tay con luôn nối kết với trái tim con, xin cho trái tim con luôn rộng lớn như trái tim của Chúa để sẵn sàng đón tiếp cả những người làm hại con (Kinh “Tâm hồn quảng đại”). Con cám ơn Chúa! Amen.
----------------------------------
Anna Cỏ may
Vết thương còn đau nhói, làm sao tôi có thể tha thứ được”. Đó là nỗi lòng của một người đang phải TN 24-A144
“Vết thương còn đau nhói, làm sao tôi có thể tha thứ được”. Đó là nỗi lòng của một người đang phải chịu đau khổ, một vết thương quá sâu khó có thể chữa lành. Thật khó để tha thứ cho người đã gây ra nỗi đau ấy! Vậy mà, Chúa Giêsu mời gọi mọi người không chỉ tha thứ một lần, cũng không phải bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy.
Vậy, tha thứ cho những người làm mình đau khổ hay tha thứ cho người xúc phạm mình thì chúng ta được lợi gì?
Tin Mừng theo Thánh Gioan tường thuật việc nhóm Phasisêu dẫn một người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giêsu để Ngài xét xử. Ngài đã nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8, 2-7). Bị buộc tội bởi lương tâm của chính mình, họ lần lượt bỏ đi, từ người già cho đến người trẻ, không một ai dám lấy đá ném người phụ nữ đó (x. Ga 8, 9). Không ai trong chúng ta là không có tội. Mỗi người đều có tội, chỉ là tội nhẹ hay tội nặng; tội bị công khai hay đang được che đậy. Ai ai cũng khát khao mình được tha thứ. Vậy tại sao chúng ta không tha thứ được cho người anh em của mình như mình đang mong chờ được Chúa tha thứ và được anh em mình thứ tha? Chúng ta giữ lại những vết thương, mối thù và những xúc phạm của người anh em trong lòng mình thì được gì? Quả thật, chúng ta chẳng được gì mà chỉ thấy lòng mình nặng nề vì có một tảng đá vô hình đang đè lên. Tâm hồn chúng ta bất an và chán nản, thân xác mệt mỏi. Chỉ khi nào chúng ta dám vứt bỏ những gánh nặng ấy, chúng ta mới được bình an. Chính khi chúng ta tha thứ, chúng ta mới có thể nhẹ nhàng, vui tươi và bình an trong cuộc sống. Người được thứ tha cũng tìm lại được niềm hy vọng, mới có thể bắt đầu lại một cuộc sống mới, trở nên người tốt hơn.
Là người Kitô hữu, mỗi khi thực hiện việc tha thứ cho anh em mình, chúng ta càng sống điều răn yêu người cách rõ nét hơn. Tha thứ là một hành vi đức tin. Hãy xin Chúa ơn biết tha thứ và hãy đặt nó trong lòng thương xót của Chúa. Chính Chúa sẽ giúp chúng ta tha thứ được cho người anh em. Trong Chúa, chúng ta mới cảm nhận và thấy được mình cũng là một tội nhân, là người được Chúa luôn tha thứ và yêu thương. Từ đó, chúng ta mới có thể tha thứ cho người anh em. Chúng ta không thể chiếm hữu những gì mà chúng ta từ chối không chia sẻ. Chúng ta không thể nhận những gì mà chúng ta từ chối cho. Chúng ta không thể lên Thiên Đàng nếu chúng ta không mở cánh cửa Thiên Đàng cho người khác có thể vào. Chúng ta chỉ biết nhận sự tha thứ của Chúa và của người khác mà không biết tha thứ cho người anh em mình, thì Cha trên trời cũng sẽ đối xử với chúng ta như cách chúng ta đã đối xử với người anh em (x.Mt 18,35). Chúng ta cũng hãy nhớ đến ngày tận số của mình mà chấm dứt sự hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà tha thứ cho anh em (x. Hc 28,7). Và khi bỏ qua những xúc phạm cho kẻ khác thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa tha thứ (x. Hc 28,2). Ngài sẽ ban ơn xuống trên tâm hồn và hoàn tựu việc tha thứ của chúng ta trong lòng thương xót của Thiên Chúa. Bởi vì, chúng ta đều là tội nhân, rất cần đến lòng thương xót của Chúa, và không ai trong chúng ta là người hoàn hảo.
Lạy Chúa, không ai trong chúng con là không có tội. Xin Chúa giúp chúng con luôn nhận thức mình là kẻ tội lỗi. Nhờ đó, chúng con có thể tha thứ được cho người anh em, không chỉ tha thứ một lần nhưng là bảy mươi lần bảy; để tình yêu Chúa luôn hiện diện trong suốt cả cuộc đời con. Amen.
----------------------------------
Maria Phạm Anh
Sau khi Chúa Giêsu dạy người môn đệ chân thành sửa lỗi cho người anh em, Người còn mời gọi TN 24-A145
Sau khi Chúa Giêsu dạy người môn đệ chân thành sửa lỗi cho người anh em, Người còn mời gọi chúng ta phải tiến xa hơn nữa trong cuộc chiến đấu với chính bản thân là tha thứ cho tha nhân. Vì biết rằng, chúng ta là những con người đầy yếu đuối, bất toàn sẽ sai lỗi nhiều lần. Nhưng khi tha thứ, chẳng lẽ, chúng ta đang dung túng cho người phạm lỗi sao? Tại sao chúng ta phải tha đến nhiều lần? Tâm trạng của chúng ta cũng như Phêrô: “Thưa Ngài, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Đức Giêsu đã trả lời cho môn đệ Phêrô cũng như mỗi người chúng ta: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 21-35). Câu trả lời của Người gợi lên trong chúng ta, tha thứ thì không giới hạn. Vậy làm sao để tha thứ?
Tha thứ không phải là hành động của con người nhưng là hành động được phát xuất từ Thiên Chúa. Nếu với lý trí người phàm, chúng ta có thể đưa ra muôn vàn lý do, những lý luận thuyết phục để biện minh rằng: khó mà tha thứ. Chẳng hạn, làm sao chúng ta có thể tha thứ khi người khác làm hại chúng ta, rồi lại đến xin lỗi? Phải chăng chúng ta kém cỏi, khờ dại hay nhụt chí mà lại dung túng cho kẻ có tội? Đó là những lý lẽ của con người, còn trong ánh nhìn đức tin thì khác. Chúng ta hãy nhìn lên Đức Giêsu Kitô trên thập giá. Dù Người đã phải chịu bao sỉ nhục, những đau đớn bởi đòn vọt, những bước chân mệt nhọc lê bước lên đồi Can-vê, những vết đinh cắm sâu vào thân thể,… Người đã chịu tất cả như một người tội nhân, dù Người đã chẳng làm gì nên tội. Thế mà trên thập giá, Người vẫn thương yêu và cầu xin Chúa Cha tha tội cho những người đã làm nên những điều ấy: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Thật vậy, khi ở trong tương quan với Chúa, chúng ta chỉ là những tội nhân trước mặt Người, có một vị Thánh đã khẳng định: khi càng ở gần Chúa bao nhiêu, chúng ta lại càng thấy mình tội lỗi bấy nhiêu. Nhưng thật kỳ diệu! Chúng ta luôn được sống trong tình yêu và ân sủng của Người, nhờ hồng ân tha thứ vẫn còn được tiếp diễn qua bí tích Hòa Giải. Chúng ta luôn được Người ấp ủ, yêu thương và tha thứ: “tội lỗi các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông (Is 1, 18)”.
Phải chăng chúng ta khó tha thứ là khi chúng ta để cho cái tôi làm chủ mà chưa để cho Thiên Chúa đi vào chính con người mình. Khi bị xúc phạm, chúng ta đã “thương xót phận mình” và “gặm nhấm những nỗi đau” mà chưa mở lòng để đón nhận ơn tha thứ của Chúa, để tình yêu của Thiên Chúa lấp đầy. Mỗi ngày, Chúng ta hãy thêm xác tín mạnh mẽ như Thánh Phaolô: “Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” (Rm 14, 8). Chúng ta hãy ra khỏi chính mình để đón nhận luồng gió ân sủng của Chúa đang từng giây phút mong chờ để đổ vào trong con người của chúng ta. Tất cả mọi sự chúng ta đừng quy về chính bản thân mình, nhưng quy về Thiên Chúa và để tôn vinh Người, bởi chúng ta đã thuộc về Chúa.
Là thân phận con người, chúng ta đã được Thiên Chúa tha thứ, nhưng khi đến với người anh em mình, chúng ta lại đặt điều kiện khi có tư tưởng, não trạng rằng: “Con muốn tha thứ nhưng người ấy phải đến xin lỗi con trước!”. Giống như trong Dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót, dù đã được nhà vua tha hết mười ngàn yến vàng, nhưng anh lại bắt người đồng bạn phải trả anh món nợ một trăm quan tiền, số nợ ấy rất nhỏ so với món nợ anh đã được tha bổng (x. Mt 18, 24-33). Sách Huấn ca đã dạy: “Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa, tội lỗi nó, Người xem xét tùng ly. Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (Hc 28, 1-2). Chúng ta không còn thuộc về mình nữa, nhưng chính Thiên Chúa đang ở trong chúng ta, Thiên Chúa đã tha thứ, tại sao chúng ta lại ngăn cản Người tha thứ cho tha nhân, chúng ta đâu có quyền làm như thế! Hãy đến làm hòa trước với người anh em, biết đâu người ấy cũng đang mong chờ và khao khát đến với chúng ta để được tha thứ. Đừng ngần ngại đi bước trước và để Thiên Chúa luôn hành động trong chúng ta, hãy làm theo những điều lương tâm mách bảo. Như vậy, chúng ta ngày càng trở nên giống Thiên Chúa và được thuộc trọn về Người hơn nữa.
Lạy chúa Giêsu, con chiêm ngắm Người trên thập giá, con khám phá ra tình yêu mà Người đã dành cho nhân loại chúng con khi Người thưa lên với Chúa Cha lời cầu xin tha thứ cho chúng con. Xin cho con càng cảm nhận sâu hơn về tình yêu của Người khi để cho Người chiếm hữu, chính khi đó, con biết mở lòng để đến với người anh em qua việc tha thứ. Con biết, với sức riêng của con không thể làm được, xin Chúa giúp sức cho con và đồng hành cùng con. Amen.
----------------------------------
Maria Nguyễn Huệ
Trong tương quan giữa con người, chúng ta không ngừng trao ban và nhận lãnh. Bởi chúng ta TN 24-A146
Trong tương quan giữa con người, chúng ta không ngừng trao ban và nhận lãnh. Bởi chúng ta cần đến nhau, chẳng ai có thể hoàn thiện đến mức “dương oai”: tôi không cần đến người khác. Đó là công trình của Thiên Chúa ngay từ khi tạo dựng con người: Chúa dựng nên con người để họ bổ túc cho nhau (x. St 2, 18) . Những gì chúng ta nhận lãnh hay trao ban đều là do chúng ta nhận được từ Thiên Chúa. Và ơn trọng đại mà con người được lãnh nhận là ơn tha thứ, nhờ cái chết của Đức Kitô, chúng ta không còn là nô lệ nữa nhưng trở nên con cái của Thiên Chúa. Khi nhận được ơn lớn lao ấy, chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta cũng tha thứ cho anh em mình: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 22).
Thực tế, việc tha thứ thật khó khi chúng ta chỉ nhìn vào chính mình. Trong kinh nghiệm của ông Phêrô, ông đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” ( Mt 18, 21). Trong khi đặt vấn đề, ông Phêrô đã quy về bản thân mình: “nếu anh em cứ xúc phạm đến con”, phải chăng sự tha thứ của ông có giới hạn? Bởi ông nhìn vào vị thế của ông, ông muốn được tôn trọng, được yêu thương,… Do đâu ông có quyền sử dụng những gì ông đang có? Chính khi ông chú ý vào bản thân, ông quên rằng, tất cả những gì ông có, mạng sống, danh dự, của cải, … ông đã nhận từ Thiên Chúa và ông thuộc về Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhắc nhớ cho ông cũng như mỗi người chúng ta, tất cả những gì chúng ta đang có là nhờ Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Thật vậy, khi nhìn vào bản thân, chúng ta sẽ đòi hỏi rất nhiều để “đòi lại” cho chính mình, chúng ta rất khó mở lòng để tha thứ cho tha nhân. Giờ đây, chúng ta chuyển đổi cái nhìn, hãy hướng lên Thiên Chúa. Chúng ta đã nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa nên chúng ta hãy sống với tâm tình con thảo, tấm lòng biết ơn. Khi đó, chúng ta sẽ thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa qua việc tha thứ cho người anh em mình. Qua dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót, Chúa Giêsu kể về một người đầy tớ mắc nợ nhà vua mười ngàn yến vàng, anh đã không có gì để trả, có thể phải bán luôn cả mạng sống mình, nhưng anh đã nhận được lòng thương xót của vị tôn chủ, anh đã được tha bổng. Nhưng thật lạ kỳ! anh đã không tha cho người bạn của anh, dù là một món nợ rất nhỏ so với món nợ anh đã mắc nợ tôn chủ (x. Mt 18, 23-34). Điều tôn chủ muốn là anh phải thương xót đồng loại như chính anh đã được thương xót. Nhưng anh đã chẳng kiên nhẫn hay không nhớ, không biết ơn về những gì mình đã được lãnh nhận. Ông chủ đã rủ lòng thương xót tha nợ cho anh để anh được tự do với nhân phẩm làm người. Anh không bị tra tấn hành hạ, danh dự của anh cũng không bị xúc phạm, thế mà với người bạn, anh lại đối xử như anh chưa hề nhận được gì. Thật vậy, chúng ta hãy nhớ, trước mặt Chúa, chúng ta là những tội nhân, chúng ta đã được Thiên Chúa tha thứ. Chúng ta hãy đi bước trước đến với tha nhân để trao ban tình yêu, chính là lòng bao dung, sự tha thứ. Khi chúng ta biết bỏ qua những lỗi phạm, chính là lúc chúng ta càng cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa và của tha nhân dành cho chúng ta. Như vậy, chúng ta được sống trong niềm vui và hạnh phúc.
Lạy Chúa, khi chúng con chỉ quy về bản thân với những nhu cầu mà quên mất những gì chúng con đã được lãnh nhận là do lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho chúng con. Xin ban cho chúng con biết sống tâm tình tri ân, cảm tạ Chúa, đồng thời, chúng con cũng biết tha thứ cho tha nhân. Vì khi tha thứ là chúng con đang đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa đã yêu chúng con. Vì sự tha thứ giúp chúng con thêm kiên nhẫn và gia tăng lòng bác ái yêu thương, giúp chúng con ý thức sự hiện hữu của mỗi người anh em đang sống quanh chúng con. Đặc biệt, chúng con được họa lại lòng thương xót của Thiên Chúa. Amen.
----------------------------------
Thiên San
Con xin lỗi mẹ! hu hu… – Lần này là lần thứ mấy rồi? Mẹ đánh một roi, hai roi còn lại cho nợ TN 24-A147
– Con xin lỗi mẹ! hu hu…
– Lần này là lần thứ mấy rồi? Mẹ đánh một roi, hai roi còn lại cho nợ.
Chắc hẳn, lúc còn bé, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm bị phạt đòn. Khi ấy, ta thường được hỏi: “Giờ con muốn mấy roi?”. Ta thường xin tha kèm theo lời hứa lần sau sẽ không tái phạm.
Tên đầy tớ trong dụ ngôn: “Tên mắc nợ không biết xót thương” mà Đức Giêsu kể cho chúng ta hôm nay cũng vậy. Hắn sấp mình xuống bái lạy và xin tôn chủ cho hoãn lại một thời gian. Ông chủ chạnh lòng thương và tha luôn món nợ cho hắn. Dụ ngôn này được kể sau khi ông Phêrô hỏi Thầy mình về việc tha thứ cho người anh em: “Nếu anh em con cứ xúc phạm đến con thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” (Mt 18, 21). Đối với Phêrô, bảy lần là đã quá đủ. Nhưng đức Giêsu trả lời: “Thầy không bảo là đến bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 22).
Con người sinh ra đều có tương quan, không ai sống một mình. Khi tương quan, ta không thể tránh khỏi việc xung đột với tha nhân, có khi xúc phạm đến họ hay ngược lại. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được mời gọi tha thứ cho những ai xúc phạm đến ta, không những là một lần nhưng là luôn luôn. Nghĩa là tha thứ mãi mãi, không ngừng nghỉ. Nếu là lỗi lầm nhỏ, không đáng nghiêm trọng, ta sẽ dễ dàng bỏ qua. Nhưng đối với những chuyện hệ trọng đến tính mạng của ta, của người thân, liệu ta có thể dễ dàng tha thứ? Làm sao ta có thể tha thứ cho kẻ đã cướp đi mạng sống của cả gia đình ta. Khi xem những bộ phim lịch sử, thời cổ trang của người Trung Quốc, ta có thể thấy, người ta cố tìm đủ mọi cách để báo thù, và có khi việc báo thù kéo dài từ đời này qua đời kia. Trong thực tế cuộc sống, ta sẽ thấy đầy dẫy những câu chuyện chẳng hạn: cha mẹ “từ” con cái, anh em “từ nhau”, họ không thể tha thứ cho nhau. Vậy phải chăng, chuyện tha thứ là điều không thể, nó vượt hẳn khả năng của ta? Vậy, trước lời mời gọi của Đức Giêsu, ta phải làm gì?
Để có thể tha thứ, thiết nghĩ, trước tiên ta phải ý thức đầy đủ về thân phận tội lỗi của mình. Khi nhìn về lỗi lầm của người khác, ta cần nhìn về lỗi lầm của ta. Trước mặt ta, họ là tội nhân, nhưng trước mặt người anh em khác, có khi ta cũng mang thân phận ấy. Lúc này họ phạm đến ta, nhưng khi khác ta lại lỗi phạm đến người khác. Bây giờ, họ cần được ta tha thứ, khi khác ta lại là người cần được tha thứ. Có ai tự tin để nói rằng mình chưa một lần làm mất lòng người khác. Bởi vậy, sách Huấn ca có dạy: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (Hc 28, 2). Nếu ta cố chấp trong những suy nghĩ, quan điểm của ta để rồi mang lấy oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm, ta sẽ là người thiệt hại (x.Hc 27, 30). Chẳng ai mang “cục tức” trong lòng mà có thể vui sống bình an. Lại nữa, tha thứ cho kẻ khác là điều kiện để ta được Thiên Chúa thứ tha.
Tha thứ thật sự không phải là khả năng của con người nhưng là của Thiên Chúa. Vậy, muốn tha thứ cho người anh em, ta hãy nài xin Thiên Chúa ban ơn giúp sức. Đức Giêsu kể cho ta dụ ngôn: “Tên đầy tớ không biết xót thương” là để nhắc nhở mỗi người chúng ta. Trước mặt Thiên Chúa nhân từ, ta luôn là một tội nhân. Món nợ ta mang đối với Ngài còn lớn hơn rất nhiều so với món nợ tha nhân nợ ta. Nhưng sự thật, dù món nợ ấy lớn tới đâu, chỉ cần ta biết ăn năn hối cải quay về và nài xin lòng thương xót của Chúa, ta sẽ được tha. Vậy, đến lượt ta, ta cũng hãy tha cho người anh em của ta như Thiên Chúa đã tha cho ta. Sở dĩ tên đầy tớ trong dụ ngôn bị hành hạ cho đến khi trả xong nợ là vì hắn đã vội quên ngay ân huệ vừa nhận được mà xử với người anh em theo cách của hắn, dù món nợ ấy chẳng đáng bao nhiêu. Ta đừng xử sự như tên đầy tớ ấy nhưng hãy xử sự như con cái Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi khi tha thứ cho ta.
Lạy Cha! Cha đã dùng cái chết và sự phục sinh của Con Một Cha mà cứu chuộc chúng con. Cha cũng đã tỏ lòng thương xót chúng con khi thứ tha mọi tội lỗi chúng con nhờ Con Một Cha. Xin Cha ban ơn giúp sức để chúng con đừng bao giờ quên ân huệ lớn lao ấy nhưng hết tình đáp lại tình thương Cha dành cho chúng con bằng việc hết lòng tha thứ cho anh em mình. Xin Cha giúp chúng con luôn biết tin tưởng nài xin lòng thương xót của Cha, để mỗi ngày chúng con sống đẹp lòng Cha. Amen.
----------------------------------
Lm Trần Bình Trọng
Tha thứ là một đề tài thường xuyên được lặp đi lặp lại trong Thánh kinh. Thiên Chúa tha thứ TN 24-A148
Tha thứ là một đề tài thường xuyên được lặp đi lặp lại trong Thánh kinh. Thiên Chúa tha thứ cho dân Người, bởi vì Người là Thiên Chúa hay thứ tha, chứ không phải vì tội nhân đáng được tha thứ.
Cũng có những khi Thánh kinh nhắc đến việc Chúa nổi cơn thịnh nộ và quyết định sát phạt dân Người. Tuy nhiên ở đây, Thánh kinh đề cập đến những trường hợp mà người ta đã từ khước lòng thương xót và ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay dạy ta không những về việc Thiên Chúa tha thứ cho dân Người, mà còn bàn về bổn phận loài người phải tha thứ lẫn cho nhau. Ðể trả lời câu hỏi của ông Phêrô là người muốn biết ông phải tha mấy lần khi người anh em cứ xúc phạm đến ông. Rồi chính ông tự đề nghị câu trả lời một cách rộng lượng: Có phải đến bảy lần không? (Mt 18: 21). Số bảy trong Thánh kinh mang nghĩa toàn vẹn, hoàn tất. Chúa bảo Phêrô phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy (Mt 18:22) nghĩa là phải tha thứ vô hạn định, ám chỉ trong ý nghĩa toàn vẹn. Rồi Chúa nêu lên trường hợp người đầy tớ được ông vua tha thứ cho món nợ mười ngàn nén vàng (1), nhưng lại không chịu tha thứ cho người bạn chỉ mắc nợ anh ta một trăm quan tiền. Chúa dùng cơ hội này để kêu gọi loài người thương xót và tha thứ cho nhau. Ðó cũng là cơ hội để ta học bài học của người đầy tớ không chịu tha thứ. Ðiều mà người ta hy vọng nơi người đầy tớ đã được tha thứ món nợ khổng lồ thật là hiển nhiên. Anh ta đã được tha thứ nhiều, thì cũng phải đền đáp bằng cách tha thứ cho người bạn chỉ mắc nợ anh ta một phần rất nhỏ.
Ðiều làm cho việc tha thứ trở nên khó khăn là khi người ta bị xúc phạm và thiệt hại nặng nề, gây nên nỗi khổ tâm và đau đớn về tinh thần như xuyên vào tâm can. Ai đã bị bạn hữu hay người yêu phản bội mới cảm nghiệm được nỗi cay đắng đó. Nó làm tê liệt đời sống tình cảm của con người. Vì thế mà có những người sau khi bị phản bội không còn muốn gặp và tin tưởng vào người khác phái nào khác. Ta muốn tha thứ để cất gánh nặng đang đè nén tâm hồn. Mặc dù khó, nhưng ta phải làm quyết định và lựa chọn. Hoặc là tiếp tục mang hận thù giận ghét như trong bài sách Ðức Huấn ca ghi lại. Việc để lòng hận thù giống như là có cái gai trong tâm hồn, khiến ta phải chịu sự dằn vặt và thiếu sự bình an. Giải quyết thứ hai là tha thứ để được tự do, cho tâm hồn được vơi nhẹ. Mặc dầu sau khi đã quyết định tha thứ, cảm giác đau lòng vẫn còn đó. Trong trường hợp này, điều ta có thể làm là cầu nguyện để có thể quên đi mối xúc phạm. Với thời gian, cảm giác đau lòng sẽ phai mờ dần. Và rồi, tâm hồn ta lại được bình an trở lại.
Với những người mà thỉnh thoảng ta mới gặp thì tha thứ là việc dễ dàng. Còn đối với những người mà ta chung sống hằng ngày, những người làm cùng sở, cùng hãng, thì việc tha thứ trở nên khó lòng, nhưng lại cần thiết để duy trì bầu khí an hoà. Ai có thể nhớ được bao nhiêu lần anh chị em trong một nhà phải tha thứ cho nhau để duy trì tình nghĩa anh chị em? Ai có thể đếm được bao nhiêu lần vợ chồng phải tha thứ cho nhau nếu muốn hôn nhân kéo dài suốt cả cuộc sống? Hôn nhân có mục đích là để vợ chồng nâng đỡ nhau về đời sống vật chất, tình cảm và tinh thần. Tuy nhiên vợ chồng cũng là thánh giá cho nhau. Bài trích sách Huấn ca hôm nay cảnh giác ta: Người chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình (Hc 27:4).
Tha thứ là hồng ân của Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu cầu nguyện xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại, lăng nhục, cáo gian và đóng đinh Người: Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm (Lc 23:34). Nhận thức rằng loài người là bất toàn cho nên ta phải sẵn lòng tha thứ, vì chính ta có thể là nguyên nhân gây khổ đau cho người khác trong đời sống hằng ngày. Hằng ngày ta mắc nợ lẫn nhau qua những va chạm và đụng độ bằng lời nói, cử chỉ và việc làm. Có những xúc phạm ta gây cho người khác mà họ không biết – nhưng Chúa biết – như những nghi ngờ, xét đoán sai cho người khác. Vì thế ta cần phải trả bằng tấm lòng tha thứ. Ðể đươc Chúa tha thứ lỗi lầm, ta phải biết tha thứ cho người xúc phạm đến ta và làm thiệt hại cho ta.
Khi dự thánh lễ, ta có cơ hội ăn năn thống hối tội lỗi trước cộng đồng dân Chúa. Và ngay trước khi lên rước lễ, ta cầu nguyện, xin Chúa thứ tha khi đọc kinh Lạy Cha: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con. Nếu lời cầu xin Chúa tha tội cho chúng ta có tính cách qúa chung, không đủ để khơi dậy lòng biết ơn Chúa về việc tha thứ tội lỗi, thì ta cần nhớ lại một vài tội lỗi đáng ghét của riêng mình: tội phạm đến Chúa, tội phạm đến tha nhân để ta có thể khơi dậy lòng sám hối. Cảm nghiệm được lòng thương xót của Chúa trong việc tha thứ tội lỗi cho mình, ta mới kiến tạo được tâm hồn biết thương xót đối với tha nhân. Luật thương xót và tha thứ là điều thiết yếu của Phúc âm và của đời sống người Kitô giáo. Hôm nay ta cầu xin Chúa dạy ta bài học biết sống trong tâm tình biết ơn khi được tha thứ để ta có thể thứ tha.
Lời cầu xin cho được một tâm hồn biết tha thứ:
Lạy Ngôi Hai Thiên Chúa hằng sống!
Chúng con xin tạ ơn Chúa đã đến trong thế gian
chịu nạn chịu chết để chuộc tội loài người sa ngã.
Chúa còn dạy con bài học tha thứ lỗi lầm của nhau.
Xin ban cho con một tâm hồn quảng đại
để con biết thứ tha cho người xúc phạm đến con
hầu con được Chúa thương ban ơn tha thứ. Amen.
_______________
*** Một nén vàng thời đó có giá trị 6 ngàn đồng. Như vậy mười ngàn nén vàng có giá trị bằng 60 triệu đồng. Một người thợ làm cả ngày chỉ được một đồng. Bản tiếng Anh Mỹ dịch là món tiền nợ khổng lồ.
----------------------------------
Trầm Thiên Thu
Đấng đáng kính Hồng Y John Henry Newman cho biết: “Giáo Hội dạy rằng thà để nhật nguyệt sa TN 24-A149
Đấng đáng kính Hồng Y John Henry Newman cho biết: “Giáo Hội dạy rằng thà để nhật nguyệt sa khỏi bầu trời, địa cầu ngừng quay, và tất cả nhiều triệu người trên hành tinh này chết đói trong nỗi khốn cùng, xét theo đau khổ đời này, còn hơn một linh hồn phạm chỉ một tội mọn, hoặc lỗi cố tình nói dối. Như thế, chúng ta sẽ hiểu được bản chất của sự bất tuân và tội lỗi đích thực của chúng ta, và chúng ta cảm nghiệm phúc lành của việc xóa sạch tội lỗi, việc cứu độ, ơn tha thứ, ơn thánh hóa không phải là những ngôn từ suông.”
Tội lỗi và tha thứ đối lập với nhau nhưng liên quan lẫn nhau – vì có tội nên luôn cần sự tha thứ. Để có thể tha thứ thì phải biết yêu thương. Mối liên quan thật kỳ diệu. Tình yêu quan trọng vì đó là đức mến hoặc đức ái, cần thiết cho cả đời này và đời sau: “Đức mến không bao giờ mất được. Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.” (1 Cr 13:8 và 13) Thương yêu là điều chỉ có thể cảm nhận nhưng không thể chạm vào. Tha thứ là kết quả của thương yêu. Thù hận là không thương yêu.
Trái ngược với thương yêu là thù hận. Thù hận liên quan tội lỗi. Tình thương liên quan tha thứ. Mẫu tự T luôn có gì đó kỳ diệu, như một sự an bài của Thiên Chúa vậy: Thù – Tội – Thương – Tha. Lòng thù hận rất nguy hiểm và đáng sợ, vì nó tàn phá mọi thứ trong cuộc sống. Sách Huấn Ca nói: “Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm, về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài.” (Hc 27:30) Thương yêu và tha thứ không chỉ là bài học cao cấp mà còn là luật Thiên Chúa truyền dạy, Ngài không chấp nhận sự thù hận: “Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa, tội lỗi nó, Người xem xét từng ly.” (Hc 28:1) Đặc biệt là Ngài không thiên vị bất kỳ ai. (Đnl 10:17-18; Hc 35:12; Lc 20:21; Cv 10:34; Rm 2:11; Gl 2:6; Ep 6:9) Đó là điều thực sự rất đáng quan ngại!
Vừa khuyên nhủ, vừa phân tích, vừa đặt vấn đề, Kinh Thánh cho biết: “Hãy BỎ QUA điều sai trái cho kẻ khác thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha. Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành! Nó CHẲNG biết thương người đồng loại, mà lại DÁM xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận thì ai sẽ xin tha tội cho nó?” (Hc 28:2-5) Có lẽ không ai muốn nghe câu này vì “chạm” vào điểm nhạy cảm của chính mình. Thật vậy, chúng ta hiền như chiên khi ở trong nhà thờ nhưng lại dữ như cọp khi ra khỏi nhà thờ. Khi cầu nguyện thì có vẻ thành kính, nhu mì, nhưng khi có ai làm phật ý thì lập tức nổi xung, còn “tài năng” hơn ảo thuật gia David Coperfield làm biến mất toa xe lửa hoặc đi xuyên qua Vạn Lý Trường Thành.
Về việc canh tân đời sống, Thiên Chúa luôn cảnh báo, và Đức Mẹ cũng nhắc nhở, nhưng rồi người ta chỉ sợ lúc đó rồi thôi, qua những ngày mùa Vọng, mùa Chay, hoặc tuần tĩnh tâm, đâu lại vào đấy, ngay trong cơn đại dịch covid này cũng vậy, người ta chỉ sợ bằng lời nói mà thôi, mọi thứ vẫn bất chấp, “cái tôi” cứ tự do tung hoành. Thật đáng sợ với cách nhận định của bác học Albert Einstein: “Vạn vật đều có giới hạn, chỉ có cái ngu là không có điểm dừng.”
Lời Chúa cảnh báo từ xưa mà chưa cũ, chẳng lỗi thời: “Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn. Hãy nhớ đến các điều răn mà đừng oán hờn kẻ khác, nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao mà không chấp nhất điều lầm lỗi.” (Hc 28:6-7) Đã có những lần người ta nghe nói “tối tăm ba ngày ba đêm” thì cuống cuồng, lo mua nến và mì gói, xong rồi lại cứ “vô tư” xả láng. Lời khuyến cáo của Thiên Chúa đối với dân Israel xưa vẫn “nóng hổi” và mang tính thời sự trong thời đại ngày nay: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.” (Tv 95:8-9)
Ngày xưa, biết mình yếu đuối nên Thánh Vịnh gia tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi, cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà.” (Tv 103:1-4) Ước gì hôm nay chúng ta cũng ý thức điều đó, bởi vì đã bao lần Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta mà không đòi điều kiện gì. Ý thức như vậy là tỉnh thức và tự nhủ về đức ái, về sự tha thứ mà Chúa Giêsu khuyến cáo. Kinh sách đọc nhiều cũng tốt, nhưng hãy cẩn trọng vì có thể chỉ là “đọc vẹt.”
Chỉ là phàm nhân, đầu óc chúng ta chẳng là gì cả, nghĩ không cao quá ngọn cây, không xa hơn cái bóng mình, nên không thể nào hiểu thấu Tình Chúa vô biên, vô tận: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao. Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.” (Tv 103:8-12) Lòng Chúa thương xót trên cả tuyệt vời, nhiệm mầu quá! Phàm nhân chúng ta chẳng là gì mà vẫn chảnh, luôn muốn vùng lên, tìm dịp nổi loạn. Thật là khốn nạn, vậy mà chúng ta vẫn ảo tưởng, mạo nhận đủ thứ và đủ kiểu.
Nhận thức như thế để có thể cố gắng chấn chỉnh cho phù hợp luật Chúa và ý Chúa. Nỗ lực này phải được thực hiện không ngừng, không chỉ theo cảm xúc hoặc theo mùa phụng vụ. Thực sự không dễ chút nào, nhưng phải làm, không làm không được, nghĩa là phải “từ bỏ mình mà vác thập giá theo Đức Kitô.” (Mt 10:37-39; Lc 14:26-27) Thánh Phaolô xác định: “Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; vì Đức Kitô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết.” (Rm 14:7-9) Sống tín thác như vậy thì chẳng lo gì, không cần quan tâm “sự lạ” ở nơi này, chỗ nọ. Hai phép lạ lớn xảy ra hằng ngày: Không khí và Thánh Thể – không khí duy trì sự sống thể lý, Thánh Thể duy trì sự sống tâm linh. Đó mới là điều đáng quan tâm.
Trình thuật Mt 18:21-35 cho biết mức độ tha thứ. Sau khi Chúa Giêsu nói về việc sửa lỗi cho nhau, ông Phêrô đến gần Ngài và hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Ngài nói ngay: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” Ui da, sao mà khó quá! Một lần thì có thể, cùng lắm là hai lần, lần thứ ba thì chắc chắn máu bốc tới chỏm đầu rồi, nói chi đến 490 lần (70 x 7). Tuy nhiên, muốn là môn đệ của Chúa và muốn làm công dân Nước Trời thì phải vậy, số lần tha thứ không tính bằng những con số mà là mãi mãi – mọi lúc, mọi nơi, tha thứ cho mọi người, bất kỳ ai.
Chúa Giêsu chứng minh cụ thể qua dụ ngôn Tên Mắc Nợ Không Biết Thương Xót. Ngài nói: Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. Khi nhà vua vừa bắt đầu thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy để xin rộng lòng hoãn nợ và hứa sẽ lo trả hết. Chủ nợ liền chạnh lòng thương, cho về và tha luôn món nợ. Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà đòi nợ. Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ xin rộng lòng hoãn nợ và hứa sẽ lo trả hết. Nhưng y không chịu, cứ tống y vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. Tôn chủ cho đòi y đến và vặn hỏi: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn như chính ta đã thương xót ngươi sao?” Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ.
Giữa “mười ngàn yến vàng” và “một trăm quan tiền” là mức chênh lệch quá lớn, vậy mà không biết điều chỉ vì ích kỷ. Bị trừng phạt là hệ lụy tất yếu, công bằng. Có thể “tên mắc nợ không biết thương xót” kia là tôi, là bạn, bởi vì tôi cũng có lúc ảo tưởng hoặc cố ý làm ngơ, không muốn nhận mình xấu xa. Nếu tôi nhận biết để sửa sai thì tốt, nếu tôi cố chấp thì khốn cho tôi!
Thật vậy, Chúa Giêsu vừa giải thích vừa kết luận rạch ròi: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.” (Mt 18:35) Mỗi người đó chính là mỗi chúng ta, và Ngài nói thẳng chứ không úp mở. Tương tự, trong Kinh Lạy Cha (Mt 6:9-13; Lc 11:2-4) – lời cầu nguyện được Chúa Giêsu truyền dạy, cũng đề cập vấn đề này: “Xin tha nợ chúng con NHƯ chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.” Chữ “như” này có vẻ đơn giản nhưng lại chứa đựng cả vấn đề quan trọng và cấp bách. Tại sao cấp bách? Vì chẳng ai biết mình “ra đi” lúc nào. Lá vàng hoặc xanh vẫn có thể lìa cành bất cứ lúc nào. Đó là “ngày tận thế” riêng của mọi người, dù trẻ hoặc già. Ba mẫu tự T có liên quan lẫn nhau: Thương – Thù – Tha.
Mở đầu rồi sẽ kết thúc, sống nay để lo chết mai. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cho biết: “Nếu vào giờ chết, tội nhân xấu xa nhất trần gian biết sám hối và trút hơi thở cuối cùng trong hành vi yêu mến, mặc dù rất nhiều ơn thánh người ấy đã lạm dụng và rất nhiều tội lỗi người ấy đã sai phạm có cản trở đi nữa, Thiên Chúa vẫn tiếp nhận tội nhân ấy vào lòng thương xót của Ngài.” Thế thì thật diễm phúc cho các tội nhân chúng ta. Vấn đề là chúng ta có chân thành tu thân thực sự hay không.
Lạy Cha nhân từ, xin ban ơn hoán cải để chúng con kịp thay đổi. Xin giúp chúng con thương nhau hết lòng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
----------------------------------
Lm. Jos DĐH.
Tâm tính đẹp, đầu óc vĩ đại, tạo nên anh hùng, hay thiên thời địa lợi nhân hoà, sẽ xuất hiện người TN 24-A150
Tâm tính đẹp, đầu óc vĩ đại, tạo nên anh hùng, hay thiên thời địa lợi nhân hoà, sẽ xuất hiện người quân tử mang dáng dấp là gỗ tốt, nước sơn tốt, là hữu tâm đến hữu đức ! Nếu không có kiến thức về nghệ thuật, căn cứ vào đâu người ta vinh danh bức tranh đẹp, hài hoà ? Người nhạc sĩ “sinh ra” tác phẩm tuyệt vời, thường gắn liền tên tuổi với ca sĩ chuyên nghiệp, hầu chuyển tải đến công chúng giai điệu cháy bỏng nghĩa tình thân thương. Vì tiếng nói yêu thương nơi gia đình, xã hội còn rời rạc, dẫn đến suy nghĩ không ổn, hiểu không tích cực về nhau, do đó đã xuất hiện những lời ăn tiếng nói phá vỡ tình hiệp nhất: hai cô ca sĩ có thương nhau bao giờ. Thực ra, người nghệ sĩ có muốn thi thố tài năng không thể thiếu đám đông ủng hộ, một gia đình hạnh phúc cần có sự thức tỉnh giữa các thành viên.
Thời nào cũng có kẻ lầm tưởng: thông thái, giầu sang, sức khoẻ, sẽ mang lại hạnh phúc, và rồi, cái gì phải đến ắt sẽ đến ! Kinh nghiệm của các đấng bậc khôn ngoan vẫn là những bài học thiết thực, cuộc sống còn có nhiều điều cần quan tâm: kiến thức khoa học dồi dào, cũng không thể bỏ qua nguồn lực tâm linh bổ túc. Đâu phải vô tình mà tiền nhân chúng ta lại khuyên con cháu: học khôn, học đến chết, học nết, học đến già. Cũng không phải tự nhiên mà Phêrô hỏi Thầy Giêsu: “nếu anh em con xúc phạm đến con, con phải tha thứ mấy lần, có phải bảy lần bảy không ?”. Vấn đề yêu ghét, giận hờn chia rẽ, có thể do quyền lợi bị xâm phạm, hiểu sai, hiểu nhầm, tương quan anh em bạn bè gặp nhiều bất trắc. Vấn đề lỗi tội, sai phạm, thuộc phạm vi tinh thần, “con tim” lên tiếng vì lỗi luật Chúa, vì làm tổn thương đấng bậc sinh thành …
Khi trưng dẫn dụ ngôn “hai con nợ”, hẳn Đức Giêsu không có ý trực tiếp trả lời cho Phêrô về số lần phải tha thứ lỗi lầm cho nhau. Mang thân phận người, không ai hoàn hảo, ai cũng là tội nhân trước Thiên Chúa quyền năng. Yêu thương là tha thứ, hoặc không thể nói tha thứ mà lòng trí chưa buông bỏ bực tức giận hờn. Không cần quy đổi 10 ngàn nén bạc trị giá bao nhiêu “đô-la”, chỉ cần một lời xin khất, xin khoan giãn một kỳ hạn, nhà vua đã tha hết, xoá nợ hết. Cũng chẳng ai ngờ, “con nợ khủng” của nhà vua mau quên đến độ, “con nợ còm” thiếu y có 100 đồng bạc, anh ta lại nỡ lòng tống ngục, cho đến khi trả nợ xong ! Quả thực, vết thương nặng nề, khó chạy chữa nhất, đó là đổ vỡ lương tâm. Nhớ và quên, oán ghét và hận thù, chính là hậu quả xấu: “giết chết mình”, giết chết cả tình nghĩa anh chị em.
Khi Phêrô và các học trò nghe Thầy Giêsu kể dụ ngôn về “hai con nợ”, trí lòng của các ông hẳn đã “nhói đau”, dù các ông đau bởi “tên nợ” độc ác, hay đau đáu buồn vì tình người, tình bạn, có thể bị tan vỡ bất cứ lúc nào, nếu tâm hồn thiếu vắng sự hồi tâm. Cha ông chúng ta nói rằng: nếu không có những người bạn tốt, cùng chia sẻ, cùng đồng hành, mấy ai còn muốn sống trên đời làm chi, dù họ có tất cả mọi thứ. Biết người biết ta để cư xử, hầu giúp tình đồng loại, tình bạn, được phát triển tốt hơn tình cảm, tình yêu toàn vẹn. Quảng đại, tha thứ, có phải là nét đặc trưng mà Thầy Giêsu muốn mong tất cả những ai là học trò của Ngài, cần thức tỉnh tâm hồn, hầu bản chất hẹp hòi ích kỷ nơi mỗi người được tẩy xoá đi, đó cũng là công bằng tình yêu thương được thực thi.
Trong chi tiêu, mua sắm, người ta lấy câu thành ngữ: liệu cơm gắp mắm, hầu cân nhắc về “cái ví tiền” của mình. Trong tương quan xã hội, tiền nhân răn dạy: ở chọn nơi, chơi chọn bạn. Để vấn kế làm ăn, người ta có ý tìm thầy chạy thợ, với hy vọng sẽ có kết quả lợi nhuận cao hơn. Trong giáo dục, các đấng bậc vẫn cho rằng: mục đích không phải là dạy, là nhồi nhét cho trẻ hiểu nhiều, biết rộng, mà làm sao để tạo cho trẻ biết hành động có trách nhiệm. Đức Giêsu chia sẻ dụ ngôn về hai con nợ, Ngài không có ý hỏi các học trò hãy xét xem, các anh đã từng tha thứ nợ nần cho bạn mình chưa ? và đã tha mấy lần ? Ở trong Đức Giêsu, bằng tình yêu thương, người môn đệ sẽ sớm nhận ra tất cả là hồng ân, tất cả đều là đối tượng lòng thương xót Chúa, khi được thôi thúc thức tỉnh tâm trí cõi lòng.
Kinh nghiệm nơi cuộc sống cho biết: không phải thực lực, mà là tính kỷ luật đã làm nên người tốt, những công trình vĩ đại. (ngạn ngữ Anh). Cuộc đời quá nhiều phức tạp: giầu nghèo, đều khổ ; hiền lành ác độc, đều sẽ trả lẽ công bình ; khôn ngoan tới đâu, dại khờ đến mức nào, rồi cũng chết. Người môn đệ theo Thầy Giêsu, người đủ ơn Chúa trong các tương quan, chính là người được soi sáng để thức tỉnh lòng mình, và luôn biết sống yêu thương tha nhân. Thầy Giêsu sẽ vui biết bao, nếu mỗi người đủ khiêm tốn nhận ra mình là ai, dù đạo đức thánh thiện, tất cả những ai mang phận người đều là tội nhân, là đối tượng của lòng thương xót Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn biết suy xét và thức tỉnh tâm hồn mình, và nhờ ơn Chúa, chúng con biết sống quảng đại, biết giúp nhau cùng đạt tới nguồn hạnh phúc đời đời. Amen.
----------------------------------