Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 23 TN-A Bài 51-100: Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em
------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 18, 15-20: “Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.
“Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất, thì trên trời cũng tháo gỡ.
“Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
TN 23-A51: Suy niệm của Noel Quession. 2
TN 23-A52: Sửa lỗi anh em: hành vi tế nhị! 7
TN 23-A53: «Ở đâu có hai hay ba người…!». 10
TN 23-A54: Sửa Lỗi cho Nhau. 12
TN 23-A55: Chúa sẽ hiện diện trong cộng đoàn biết tha thứ và hiệp thông. 16
TN 23-A56: Quan niệm Đức Ái theo Thánh Phaolô. 20
TN 23-A57: ĐỨC GIÊSU KITÔ ĐỨNG VỀ PHE NÀO?. 21
TN 23-A58: GÓP Ý CHÂN THÀNH.. 23
TN 23-A59: TA SẼ ĐÒI NGƯƠI ĐỀN NỢ MÁU NÓ.. 27
TN 23-A60: SỬA LỖI (CN 23.A) 29
TN 23-A61: KỶ LUẬT CỦA GIÁO HỘI VÀ SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC KITÔ.. 32
TN 23-A62: CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN - A –. 38
TN 23-A63: BÀI THI CỦA BÀ GIÁO O’NEILL. 43
TN 23-A64: Sửa lỗi 46
TN 23-A65: CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN - A –. 47
TN 23-A66: DÂN NGOẠI 52
TN 23-A67: KHUYÊN MỘT LỜI 54
TN 23-A68: VIỆC SỬA LỖI TRONG CỘNG ĐOÀN.. 58
TN 23-A69: GIÚP NGƯỜI KHÁC NHẬN RA NHỮNG SAI LỔI CỦA MÌNH.. 65
TN 23-A70: SỬA LỖI 67
TN 23-A71: SỬA LỖI CHO NHAUI 70
TN 23-A72: HOÁ RA THẬT ĐƠN GIẢN.. 72
TN 23-A73: NGHỆ THUẬT SỬA LỖI 74
TN 23-A74: TRỪNG PHẠT HAY PHỤC HỒI 77
TN 23-A75: SỬA LỖI CHO NHAU.. 79
TN 23-A76: SỬA BẢO HUYNH ĐỆ.. 81
TN 23-A77: MÓN NỢ DUY NHẤT.. 82
TN 23-A78: NẾU CÓ AI LẦM LỞ.. 89
TN 23-A79: SỬA LỖI ANH EM TRONG TÌNH THƯƠNG.. 92
TN 23-A80: GÓP Ý CHÂN THÀNH.. 94
TN 23-A81: THIÊN ĐƯỜNG YÊU THƯƠNG.. 97
TN 23-A82: Liên hệ với người khác. 100
TN 23-A83: Cha Ta sẽ ban cho. 101
TN 23-A84: Suy niệm của Noel Quession. 104
TN 23-A85: SỬA LỖI CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN.. 109
TN 23-A86: Sửa lỗi 110
TN 23-A87: Sửa lỗi cho nhau – Lm Ignatiô Hồ Thông. 111
TN 23-A88: Sửa lỗi người anh em – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu. 116
TN 23-A89: Biết mình biết người – Lm. Fx. Trần Phương. 118
TN 23-A90: Vẽ chân dung – Radio Veritas Asia. 119
TN 23-A91: SỬA LỖI CHO NHAU.. 121
TN 23-A92: Sống bác ái, hiệp thông để cùng nhau thăng tiến. 123
TN 23-A93: SỬA LỖI CHO ANH EM THEO TINH THẦN CỦA CHÚA.. 126
TN 23-A94: PHƯƠNG CÁCH SỬA LỖI CHO NHAU TRONG CỘNG ĐOÀN.. 128
TN 23-A95: Giúp nhau sửa lỗi trong bối cảnh cộng đoàn. 135
TN 23-A96: Cộng Ðoàn Cầu Nguyện. 137
TN 23-A97: Chinh phục người anh chị em.. 142
TN 23-A98: SỬA LỖI ANH EM... 144
TN 23-A99: DÂN THIÊN CHÚA.. 146
TN 23-A100: CHIỀU KÍCH CỘNG ĐỒNG TRONG NIỀM TIN HÔM NAY. 148
------------------------------------------
Đức Giêsu bảo các môn đệ: "Nếu người anh em của anh trót .......: Đoạn Tin Mừng ngày hôm nay được TN 23-A51
Đức Giêsu bảo các môn đệ: "Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình".
Đoạn Tin Mừng ngày hôm nay được trích từ bài giảng lớn thứ tư của Đức Giêsu, theo cách bố cục Tin Mừng của Matthêu. Đây là những giáo huấn về đời sống "cộng đoàn".
Cộng đoàn" mà chắc chắn Matthêu nghĩ đến chính là nhóm nhỏ Kitô hữu, tập hợp mỗi Chúa nhật để cữ hành Thánh Thể, và tạo thành một Giáo hội địa phương. Ngay từ đầu, chúng ta nhận thấy tính chất thực tế của Đức Giêsu: "Nếu người anh em của anh trót phạm tội…” Giáo hội không phải là một cộng đoàn gồm những "người thanh khiết các thánh", nhưng những "người tội lỗi". Đức Giêsu đã rất sáng suốt tiên liệu rằng "các Kitô hữu không tốt hơn những người khác", như thỉnh thoảng người ta vẫn nói. Giáo hội được tạo nên bởi những con người mỏng dòn như xã hội thế tục. Đức Giêsu không mơ đến một Giáo Hội không có vấn đề. Người sẽ đưa ra một thủ tục để thử giải quyết những khó khăn mà có ngày sẽ phát sinh trong mọi nhóm người.
Thật vậy điều Đức Giêsu nói ở đây có thể được áp dụng cho mọi môi trường sống của chúng ta với một tỉ lệ nào đó: Gia đình, nhóm, hiệp hội, nhóm bạn, các đồng nghiệp… Biết bao nhiêu là xung đột, căng thẳng, chống đối nhau!
Đôi khi lúc mới khởi đầu, mọi sự xem ra đơn giản và hài hòa. Và rồi với thời gian trôi qua, nhiệt tình xuống dần, nhóm có nguy cơ tan rã nếu không ai quan tâm đến sự liên kết và hiệp thông.
Không một nhóm con người nào tránh được tội lỗi, sự khốn khổ của con người ... kể cả Giáo Hội! "Nếu anh em của anh trót phạm tội…”
Phải làm gì , bây giờ?
Anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được lợi người anh em mình.
Chúng ta nhận thấy ngay, trong những chữ cô đọng ấy bầu khí mà Đức Giêsu đặt chúng ta vào. Đó là một bầu khí của tình yêu chứ không phải là của sự phán xét.
Than ôi, có những "vị quản giáo mắc khuyết điểm" lẫn lộn hết mọi sự, và lúc nào cũng sẵn sàng lên lớp những người khác trong một thái độ phê phán có hệ thống. Như thế là làm sai lạc tư tưởng của Đức Giêsu, vì đã có xu hướng "buộc tội" và "đè nặng" lên kẻ có tội. Tất cả Tin Mừng rõ ràng nói với chúng ta điều ngược lại. Và văn cảnh trực tiếp của bài giảng này về cộng đoàn chỉ nói về sự tế nhị và lòng nhân hậu đối với anh em mình. Ngay trước đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay, Đức Giêsu đã kể lại dụ ngôn con chiên lạc: "Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này. Hãy như người chăn chiên mất một con chiên chạy đi tìm nó… Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất (Matthêu 18,10-14). Và ngay sau bản văn của chúng ta về sự sửa lỗi anh em, Đức Giêsu sẽ đòi hỏi Phêrô "tha thứ bảy mươi lần bảy" (Matthêu 18,21-22) Kế đó Đức Giêsu sẽ lên án thái độ của người đầy tớ không biết thương xót, không có trái tim, không biết tha thứ một món nợ cho người bạn mình (Mt 18, 23-35).
Như thế, chúng ta phải can thiệp, chỉ với một bầu khí của tình yêu thương. Người ta chỉ có quyền phê bình một người anh em nếu người ta "yêu thương người ấy! Toàn bộ Tin Mừng cao rao với chúng ta Đức Giêsu nhân hậu với những người tội lỗi.
"Hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó..."
Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được lợi người anh em mình ..."
Người ta cảm thấy rằng Đức Giêsu rất muốn đó là giải pháp cho sự xung đột. Khi một người được món lợi là anh em mình thì trời cao sẽ xuống với đất? Đó chính là niềm vui của giải pháp ấy!
Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh.
Đức Giêsu thực hiện thêm một bước với biết bao sự tế nhị tâm lý!
Trước tiên là mặt giáp mặt trong sự kín đáo, để cho nếu có thể không ai biết có điều xấu và người phạm lỗi có thể giữ được tiếng- tăm và danh dự của mình... và rồi, đến lúc phải đem theo một, hai anh em khác là để tránh những phán đoán quá chủ quan trong đó người ta có thể đánh giá sai lầm, và cũng để ý số đông tìm thấy những lập luận có thể thuyết phúc hơn. Phải làm mọi sự để tránh sự hấp tấp và sự độc đoán.
Chỉ sau khi đã dùng hết cách khuyên nhủ, người ta mới phải cắt bỏ một cách đau đớn.
Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.
Công thức này đụng chạm đến chúng ta, nhất là lại do Đấng mà người ta đã gọi "bạn của những người thu thuế và những người tội lỗi” (Mt 11,19). Sự lên án khắt khe này chỉ có thể hiểu được một cách chính xác bởi người ta đã thử hết cách để cứu người anh em. Người ta cũng có thể nói rằng chính người anh em đã tự mình loại mình ra khỏi cộng đoàn với việc nhiều lần khước từ sửa lỗi. Đã ba lần, người ấy gạt bỏ bàn tay mà người ta đã giơ ra cho người ấy. Sau khi đã nhẫn nại đem lại cho người ấy mọi cơ may, cộng đoàn thấy mình bất lực đối với người anh em đó.
Nhưng phải nói thêm rằng, cả trong những trường hợp tối hậu ấy, chúng ta không giảm bớt lòng yêu thương người ấy, kẻ tội lỗi ấy, bởi lẽ chúng ta ‘phải yêu thương cả kẻ thù của mình’. Và Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai của Chúa nhật này, nhắc chúng ta rằng "Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái" một món nợ không bao giờ trả hết (Rm 13,8).
Thầy bảo thật anh em: "Dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì trên trời cũng cầm buộc như vậy, dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì trên trời cũng tháo cởi như vậy.”
Đức Giêsu không bao giờ chỉ là một nhà luân lý, một hiền giả, một nhà nhân bản. Những lời khuyên mà chúng ta đã nghe cho đến nay là những nguyên tác tâm lý sơ đẳng, có giá trị đối với mọi quan hệ của con người. Nhưng Đức Giêsu giờ đây đưa ra thêm một khía cạnh "thần học". Người mạc khải một mầu nhiệm ẩn giấu. Thiên Chúa hiện diện trong toan tính cứu vớt anh em mình... Thiên đàng liên quan với những gì xảy ra trên mặt đất.
Ý muốn của Thiên Chúa là không một con chiên nào bị hư mất, nên sự sửa lỗi anh em trở thành một con đường của lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, nhiều người chỉ khám phá sự tha thứ của Thiên Chúa (trên trời) nếu họ khám phá sự tha thứ của anh em (dưới đất) được thực hiện bằng một thái độ nhân bản của lòng yêu thương cứu độ .
Vai trò “cầm buộc và tháo cởi" mà Đức Giệsu đã ban cho cá nhân Phêrô một vài ngày trước đó (Mt 16,19), cũng được ban cho toàn thể cộng đoàn, trong cùng những từ ngữ (Mt 18,18). Giáo hội là môi trường của lòng thương xót, nhân hậu. Những Kitô hữu đưa về Thiên Chúa. Ôi trách nhiệm to lớn biết bao?
Giữa "đất” và "trời” có sự tương giao?
Giữa "thời gian" và "vĩnh cửu”, có sự tương giao?
Sự mạc khải của Đức Giêsu là ở điều này: Điều mà người ta cầm buộc được hay tháo gỡ được ở trần gian này, trong lúc này, được "cầm buộc" hoặc "tháo gỡ" nơi Thiên Chúa mãi mãi.
Và không chỉ cho chúng ta, nhưng cũng cho những người khác Giáo Hội là một cộng đoàn ở đó mỗi người chịu trách nhiệm về đời sống Đức Tin của anh em mình. Chúng ta có thật sự gánh trách nhiệm cho nhau không? Giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái? Thông thường, chúng ta hay ‘hèn nhát’ chúng ta không quan tâm đến đức tin của những người khác. Một vấn đề thời sự nóng bỏng! Biết bao đứa trẻ đã từ bỏ đức tin của cha mẹ chúng. Biết bao anh em dường như đi theo con đường rời bỏ cộng đoàn đức tin.
Vậy có nên tuyệt vọng không?
Thầy còn bảo thật anh em: "Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho"
Đức Giêsu lặp lại công thức nhấn mạnh long trọng: Thầy còn bảo thật anh em! Công thức ấy thường chỉ một mạc khải về mầu nhiệm đức tin, được che khuất khỏi sự nhận xét của con người. Và Đức Giêsu trở về chủ đề về sự tương quan giữa "đất" và "trời".
Có nên tuyệt vọng khi chúng ta không "nhìn thấy" kết quả của những nỗ lực đối với những anh em, tội lỗi từ chối sống đời thánh thiện theo ơn gọi Kitô hữu của họ? ít ra bề ngoài là như thế? Đức Giêsu đáp lại "không" với chúng ta!
Bỏ vì, Người nói, cộng đoàn - Giáo Hội không phải là một hiệp hội như – những hiệp hội khác. May mắn thay!
Cộng đoàn đức tin này ít lệ thuộc vào những nỗ lực của con người để có thể kết thúc bằng sự thất bại mà lệ thuộc nhiều hơn vào: Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Đức Giêsu yêu cầu chúng ta phải tin vào hiệu quả ẩn giấu ở trên trời của lời cầu nguyện, những hiệu quả mà những phương tiện thông thường của con người không thể nhận thấy được. Sự cầu nguyện ấy không phải là sự lười biếng, bởi vì người ta đã làm hết sức trước đó. Nhưng là phương sách cuối cùng Đức Giêsu khẳng định với chúng ta phải tin vào hiệu quả của phương sách đó. Đối với nhiều bậc cha mẹ trong gia đình, lời nói ấy của Đức Giêsu phải là ánh sáng quyết định mặc dù không kiểm chứng được. "Nếu ở dưới đất hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì thì lời cầu nguyện của họ sẽ có hiệu quả với Chúa Cha; Đấng ngự trên trời".
Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đấy giữa họ.
Giáo hội, cộng đoàn những người tội lỗi như mọi người khác, không phải là một hiệp hội như các hiệp hội khác: Đức Giêsu sống lại với tất cả quyền năng tinh thần của Thiên Chúa ở đấy giữa những người quy tụ nhân danh Người.
Rõ ràng chúng ta không còn ở trong lãnh vực luân lý xã hội học, hay nhân bản. Chúng ta ở trong lãnh vực đức tin. Sự thống nhất của Giáo Hội ở bên trên những xung đột chia rẽ con người. Mọi nỗ lực hòa giải luôn phải được thực hiện. Nhưng khi những bàn tay chúng ta đưa ra không được tiếp nhận, thì chúng ta vẫn phải tin rằng điều mà con người không làm được, Thiên Chúa làm được" (Mt 17,20; 19,26; Lc 1,37).
Một giấc mơ điên rồ chăng? Một ảo tưởng không có thật chăng? Không phải thế! Nhưng đó là một bí quyết tuyệt vời của chủ nghĩa lạc quan đi đến mức tin rằng không môt người nào, không một hoàn cảnh nào mà sau cùng không thể cứu vãn được (1Cr 8,11).
"Người anh em này mà Đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc...". Làm thế nào mà chúng ta lại thất vọng vì người ấy.
----------------------------------
(Chúa Nhật 23 thường niên: Ed 33,7-9; Rm 13, 8-10; Mt 18, 15-20)
Nhân vô thập toàn”: một câu nói như gói ghém phận người. Là người, có ai dám tự cho mình, tự: TN 23-A52
“Nhân vô thập toàn”: một câu nói như gói ghém phận người. Là người, có ai dám tự cho mình, tự nhận mình là hoàn hảo, là.
Lỗi: sống trên cái cõi trần này ai là người không mắc lỗi !
Nhớ lại thời đệ tử. Một lần đi chợ với cha giáo. Người bán mới nói giá này, bỗng nhiên vài phút sau chị ta tăng giá. Thấy khó chịu nên tôi nói là sao hồi nảy chị nói giá khác sao giờ chị nói khác !? Lát sau về đến nhà dòng, cha phụ trách mới kéo tôi ra riêng và dặn dò cách cư xử của tôi như thế không được. Chị ta nói thế kệ chị ta, mình không nên nói thế vì nói như thế sẽ làm bẽ mặt người ta !
Ngẫm nghĩ thấy cha giáo quá tế nhị để sửa cho tôi những điều nho nhỏ trong cuộc sống mà không để cho ai biết. Sau này cũng thế, sống với ngài một thời gian khá dài của thời đệ tử và tôi đều được ngài
Kéo riêng ra để mà chỉnh sửa mỗi khi cần chứ chưa bao giờ ngài nói đi nói lại cho người khác hay là chỉnh tôi trước mặt người khác.
Trải qua thời gian Đệ Tử tử rồi đến Tập Viện rồi đến Học Viện. Thời Học Viện thì khác, có lỗi gì thì tôi thấy cha giáo không sửa trực tiếp cho mình mà thường ngài sửa theo kiểu trung gian. Nghĩa là mỗi lần phạm lỗi gì, Ngài không gọi tôi vào nhưng ngài mang tôi ra bàn cơm “mổ”. Khi Ngài đem ra bàn cơm “mổ” rồi thì hình như cả Học Viện đều biết vì thời đại này công nghệ thông tin quá ư là hiện đại.
Trên đây là 2 cách sửa lỗi của 2 cha giáo. Với tôi thì cách sửa lỗi của cha giáo thời Đệ Tử vẫn là cách sửa lỗi tế nhị nhất, nhẹ nhàng nhất và cũng đỡ làm tổn thương tôi hơn cách của cha giáo thời Học Viện.
Lỗi thì dĩ nhiên lúc nào cũng có nhưng cách sửa lỗi rất khác nhau. Với cái nhìn và cái suy nghĩ hết sức bình thường của mình, tôi thiển nghĩ rằng ai cũng muốn được hành xử với nhau, được người khác sửa lỗi như Cha giáo thời đệ tử của tôi chứ chẳng ai muốn cách hành xử như Cha giáo thời Học Viện. Vì lẽ là con người, ai cũng có danh dự, cũng có lòng tự trọng cả và vì thế, chuyện sửa lỗi là một vấn đề không phải là nhỏ trong cuộc sống nhưng là vấn đề lớn mà chúng ta thường gặp trong đời thường.
Trang tin mừng theo Thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe thuật lại cho chúng ta cách sửa lỗi hết sức tế nhị của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhạy cảm và phải nói là hết sức nhạy cảm trước những người phạm lỗi. Chúng ta có thể nói rằng Chúa Giêsu là một nhà giáo dục tài ba, khéo léo, thu phục lòng người. Ngài chinh phục con người bằng cái tâm, bằng tấm lòng chứ không phải bằng luật lệ, bằng lý trí. Chúa Giêsu là thầy dạy nhân bản vì lẽ cách cư xử của Ngài với những con người tội lỗi, yếu đuối hết sức là nhân bản.
Ngày hôm nay, giữa cái xã hội phát triển hết sức chóng mặt, thành tựu khoa học đạt mức này tầm kia nhưng bên dưới đó toát lên một lối sống nhân bản, lối sống chỉ biết mình mình. Không biết nói có quá hay không nhưng hình như ngày hôm nay người ta sống thiếu nhân bản, sống thiếu tình con người với nhau.
Trở lại với sách ngôn sứ Edêkien mà chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy Đức Chúa - Thiên Chúa của Israel - về sự quảng đại, về lòng bao dung, về lòng tha thứ của Đức Chúa: “Phần ngươi, hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Israel. Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết … nếu ngươi đã báo cho kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại …”. Chúng ta thấy đó, từ Cựu Ước đến Tân Ước Thiên Chúa tỏ cho con người, cho chúng ta biết Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, đầy lòng mến với con người, cách riêng là những con người tội lỗi. Thiên Chúa sẵn sàng chờ đợi sự cải hoá của con người. Dù con người có lầm lỗi đến đâu đi chăng nữa nhưng Thiên Chúa vẫn chờ và vẫn đợi.
Nhìn lại cuộc sống của mỗi người chúng ta qua trang Tin mừng theo Thánh Matthêu và sách Êdêkien xong chúng ta cảm thấy quá xấu hổ. Xấu hổ vì lẽ lúc nào chúng ta cũng hăm hăm bêu xấu người khác hơn là hơn là sửa lỗi chân tình. Điều nghịch lý vẫn diễn ra trong chính con người chúng ta. Vẫn oang oang và thật to tiếng để đọc mỗi ngày: “Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho kẻ có nợ chúng con”. Mình muốn Chúa tha cho con người tội lỗi của mình còn anh chị em mình xúc phạm đến mình mình lại không chịu.
Thử đặt mình trước mặt Chúa chúng ta thấy buồn cười cái con người của mình. Mình thì phạm biết bao nhiêu tội mà toàn là những tội tầy đình. Tội mình phạm mình rất khéo bưng bít nhưng nào bưng bít trước mặt Chúa. Thế nhưng chúng ta thấy đó, Chúa vẫn lặng yên và chờ đợi sự hoán cải của chúng ta còn chúng ta thì sao trước con người yếu đuối. Cái bệnh, cái tật xấu của người Việt Nam đó là buôn dưa lê. Hễ ngồi đâu là bươi móc và nói xấu anh chị em đồng loại mình. Hễ cứ tụm năm tụm ba lại là đem anh chị em mình lên bàn mổ. Rất buồn cười, trong tập thể, trong cộng đoàn, trong sở làm hay trong các hội đoàn, các ca đoàn khi người ta tụ tập với nhau một nhóm người thì bỗng chốc những câu chuyện qua lại trao đổi của họ khó có thể tránh được cái chuyện là đem một người trong cộng đoàn, trong nhóm, trong hội đoàn lên bàn mổ. Khi ấy thì mạnh ai nấy nói và nói một cách hết sức vô tư không hề để ý đến danh dự của người mà mình đang đem lên bàn mổ. Tại sao mình không tìm dịp, tìm cách để mà sửa lỗi những người mình muốn sửa mà phải làm như thế. Thử đặt trường hợp ta là người bị đem lên bàn mổ thì ta sẽ nghĩ thế nào ? Ta thấy khó chịu, bực mình mà tại sao ta lại đối xử với người khác như vậy ? Ta sống sao thiếu bác ái, sống bất công vậy ?
Lý do tại sao ai cũng biết, đó chính là do lòng bác ái nơi con người ngày càng hẹp lại. Con người người ngày hôm nay đã đi vào lối sống mackeno, lối sống chủ nghĩa cá nhân để rồi chỉ biết mình chứ ngoài ra không biết ai khác nữa. Vì không biết ai khác ngoài ta nên ta mới hành xử với anh chị em đồng loại như thế.
Nhiều lần nhiều lúc trong cuộc sống chúng ta mang luật đời, luật Giáo hội, luật hội dòng, luật tu hội ra để mà hành xử với anh chị em đồng loại. Chúng ta quên đi trên luật hay giữ luật không gì đẹp hơn là chu toàn lề luật như Thánh Phaolô tông đồ gửi cho giáo đoàn Rôma mà chúng ta vừa nghe: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật … Đã yêu thương người thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13,8.10). Chúng ta cứ chăm chăm vào luật lệ và quên đi tình bác ái, lòng mến nên chúng ta cứ đi làm hại đồng loại bằng cách nói hành nói xấu ném đá anh chị em đồng loại khi anh chị em đồng loại phạm lỗi thay vì phải hết sức tế nhị đi sửa cho họ.
Hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy, đã nhắc lại cho chúng ta bài học hết sức là tuyệt vời về sửa lỗi cho nhau. Muốn hành xử như Ngài, không khác gì hơn là chúng ta phải có lòng mến. Lòng mến đấy không tự nhiên mà có nhưng lòng mến đó phát xuất từ đời sống chiêm niệm, đời sống cầu nguyện và lòng biết ơn. Nếu chúng ta chiêm niệm chúng ta sẽ thấy được Chúa yêu ta thế nào và khi nhận ra Chúa yêu thương ta thì ta sẽ sống yêu anh chị em đồng loại như vậy. Khi yêu anh chị em đồng loại thì chúng ta sẽ sửa lỗi, sẽ hành xử với những con người yêu đuối khác lối hành xử của con người ích kỷ, độc ác.
Nguyện xin Thiên Chúa là Vua của tình yêu đến, ở lại và đổ tràn đầy tình yêu của Ngài xuống trên cuộc đời mỗi người chúng ta để chúng ta biết yêu thương anh chị em đồng loại và hành xử bác, ái tế nhị với anh chị em đồng loại hơn. Amen.
Anmai, CSsR
----------------------------------
Chúa Nhật XXIII Mùa Thường Niên/A
«Ở đâu có hai hay ba người…!»
(Mt 18,15-20)
Sống trong thế giới hôm nay, đặc biệt tại các nước Âu-Mỹ, một điều mà nếu chúng ta để ý quan sát một: TN 23-A53
Sống trong thế giới hôm nay, đặc biệt tại các nước Âu-Mỹ, một điều mà nếu chúng ta để ý quan sát một chút, chúng ta sẽ thấy ngay được khi bước vào các siêu thị lớn, là tại các quày hàng bán thực phẩm, người ta trưng bày mỗi ngày một nhiều các phần ăn cá nhân đã được nấu chín sẵn và chỉ cần mua về và hâm nóng lại trong vài ba phút là có thể dùng được, chứ không cần phải sửa soạn nấu nướng gì cả. Tại sao lại có hiện tượng mới mẻ đó? Ngày nay, tại các thành phố lớn của Ðức, như Hamburg, Berlin, hay Frankfurt hoặc München, v.v… có hơn một nửa dân số là những người sống độc thân. Chúng ta đang sống trong một thế giới cá nhân, một nơi mà tất cả mọi sự đều xoay quanh một cá nhân riêng biệt, một nơi chỉ có chữ «tôi» là được sử dụng duy nhất: Sự tiến thân của tôi, sự hạnh phúc của tôi, sự bất hạnh của tôi, bảo hiểm nhân thọ của tôi, sự quyết định của tôi, v.v…! Chỉ chữ «tôi» còn hiệu lực, còn chữ «chúng tôi» hoàn toàn trở nên một danh từ xa lạ.
Chủ nghĩa cá nhân của con người ngày nay trên khắp thế giới nói chung và tại Âu-Mỹ nói riêng, đã xâm nhập vào cả lãnh vực tôn giáo nữa. Vì thế, người ta thường nghe nói: «Ðức tin là chuyện riêng tư cá nhân», «mỗi người có tự do riêng», «Ðó là chuyện giữa tôi với Thiên Chúa», «Chuyện đi nhà thờ xem lễ, thì khi nào cần tôi sẽ làm», v.v…!
Ðó là một khuynh hướng hoàn toàn đi ngược với Tin Mừng Ðức Giêsu. Bởi vì, Tin Mừng luôn đề cao cộng đồng tính. Tính cách cộng đồng tính đó cũng nằm trong cả những phạm vi thuần túy từng cá nhân và sâu kín nhất của từng người: Ðó là tình trạng tội lỗi và việc cầu nguyện.
Trước hết, đối với Ðức Giêsu, tội lỗi không phải là vấn đề cá nhân. Tội lỗi có liên quan đến cả cộng đồng. Tương tự như một ngôi nhà, nếu một vài chiếc cột bị mục nát hay bị hư hại thì không thể vô trách nhiệm bảo rằng đó là chuyện riêng tư của những chiếc cột đó, nhưng là một chuyện có liên quan mật thiết tới sự tồn vong của cả ngôi nhà. Bởi vậy, sự giảng hòa hay làm hòa là một hành động của cộng đoàn. Vì thế, trong tòa cáo giải, vị Linh mục đã nhân danh Giáo Hội, cộng đoàn của những kẻ tin, đọc lời tha tội: «Xin Chúa dùng tác vụ Hội Thánh mà ban cho con ơn tha thứ và bình an!»
Tiếp đến, sự ghi nhận thứ hai của bài Tin Mừng hôm nay là vấn đề cầu nguyện chung của các môn đệ. Ðức Giêsu cũng thường đã đề cập đến vấn đề cầu nguyện tư riêng: «Khi con cầu nguyện, thi hãy vào phòng đóng cửa lại» (Mt 6,6). Nhưng ở đây, lời cầu nguyện chung mang một chiều kích và một ý nghĩa đặc biệt. Ðó là lời hứa của Ðức Giêsu: «Ở đâu có ba hay hai người họp nhau lại vì danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ!» (Mt 18,20). Và sau đó khi đã sống lại từ cõi chết, Ðức Giêsu đã khẳng định lại lời hứa đó một cách đầy quả quyết hơn qua sự hiện diện thường xuyên của Người bên cạnh các môn đệ: «Thầy không để các con mồ coi» (Ga 14,18), «Thầy ở với các con mọi ngày cho tới tận thế» (Mt 28,20). Và ở đây, điều đó đã trở thành cụ thể hơn: «Nếu ở dưới đất, hai người trong các con hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho» (Mt 18,19).
Chúng ta biết rằng một điều lệ vẫn luôn có giá trị trong các đền thờ người Do-thái mãi cho đế ngày nay là: nếu có ít nhất mười người đàn ông hiện diện, thì có thể bắt đầu giờ kinh. Còn điều lệ Ðức Giêsu đã đưa ra lại bao dung hơn: «Ở đâu có hai hay ba người …». Nghĩa là số lượng người tham dự giờ kinh không phải là vấn đề chính yếu, và đồng thời cũng không quan trọng, dù là đàn ông hay đàn bà, người lớn hay trẻ con; người đạo đức hay kẻ khô khan nguội lạnh. Vấn đề cơ bản ở đây là «họ họp nhau lại vì danh Người». Và khi mọi người cùng kêu cầu thánh danh Ðức Giêsu trong khi cầu nguyện; khi họ tiếp tục công bố Tin Mừng của Người; khi họ cử hành Bàn Tiệc Thánh với bánh và rượu để tưởng nhớ đến Người…Bấy giờ Người thực sự hiện diện ở giữa họ. Bấy giờ «Thầy ở giữa họ!»
Ðiều đó quả thật là một mầu nhiệm của cộng đoàn Kitô giáo. Chứ không nhất thiết phải có nhiều lễ nghi. Chứ không tùy thuộc số lượng các cuộc tổ chức và các đoàn thể. Không nhất thiết là tên của cộng đoàn đó thường xuyên được xuất hiện trên các mặt báo chí, v.v…, nhưng vấn đề trọng yếu ở đây là: «Thầy ở giữa họ». Vâng, một cộng đoàn chỉ thực sự là một cộng đoàn Kitô giáo, khi cộng đoàn đó có Ðức Giêsu hiện diện giữa họ và nối kết họ lại với nhau bằng sợi dây đức ái. Cộng đoàn mười một môn đệ của Ðức Giêsu đã sống động trở lại với tất cả niềm hân hoan đầy hy vọng khi Ðấng Phục Sinh đột nhiên hiện diện giữa họ, sống với họ.
Chỉ có hai môn đệ xem ra vẫn còn thất vọng lo âu, khi họ rời bỏ cộng đoàn của mình ở Giê-ru-sa-lem để bước đi trên con đường đất tiến về Em-mau lánh nạn. Nhưng rồi đến lượt họ, họ cũng cảm thấy mình không còn lẻ loi trong sự hoài nghi chán chường nữa, khi họ có được một người cùng đồng hành với mình. Ðó là một người hiểu rõ được đau khổ là gì, có thể mang lại cho họ sự can đảm và giảng giải cho họ hiểu được rõ ràng những gì đã xảy ra trong mấy ngày vừa qua tại Giê-ru-sa-lem. Và họ đã mời Người: «Xin Ngài vui lòng ở lại với chúng tôi!» Và khi cả ba cùng đồng bàn tại một quán trọ ở Em-mau, bấy giờ mắt hai môn đệ mới mở ra khi vị khách cầm bánh, chúc lành, bẻ ra vào trao cho họ.Vậy «ở đâu có hai hay ba người…», cả ở trên con đường đầy sỏi đá của những thất vọng của chúng ta, thì Ðức Giêsu luôn có mặt bên cạnh chúng ta.
Vâng, không chỉ vào các ngày lễ trọng khi nhà thờ đầy người không còn chỗ trống nữa. Không chỉ khi ca đoàn đàn hát hay hoặc khi vị Linh mục giảng lễ lưu loát hấp dẫn. Không chỉ khi các bài Sách Thánh có nội dụng hợp với tâm trạng của con người tôi lúc đó, v.v… thì bấy giờ buổi cầu kinh, giờ cầu nguyện của chúng ta, mới sốt sắng, mới có ý nghĩa và mới có giá trị. Không! Không phải những gì chúng ta làm là quan trọng, nhưng là những gì Thiên Chúa làm.
Bởi vậy, trọng tâm của các Thánh Lễ công giáo, không phải là việc công bố và diễn giải lời Chúa - mặc dầu đó là việc quan trọng -, nhưng là việc cử hành mầu nhiệm Thánh Thể. Như thế, điều có tính cách quyết định ở đây hoàn toàn không do chúng ta thực hiện, nhưng là chúng ta được lãnh nhận.
«Ở đâu có hai hay ba người họp lại vì danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ!» «Ðây là mầu nhiệm đức tin!»
Lm Nguyễn Hữu Thy
-------------------------------
VietCatholic News (Thứ Sáu 05/09/2008 06:04)
Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật XXIII Thường Niên - A (Mt 18:15-20)
Cả ba bài đọc Chúa Nhật này nói cho chúng ta về nhiệm vụ phải nhắc nhở anh em mình khi họ phạm tội: TN23- A54
Cả ba bài đọc Chúa Nhật này nói cho chúng ta về nhiệm vụ phải nhắc nhở anh em mình khi họ phạm tội. Nếu chúng ta không nhắc nhở thì chúng ta có trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa về tội họ phạm (x. Ed 33:8). Hội Thánh gọi tội này là gián tiếp cộng tác với sự dữ (x. GLCG 1868). Chúa Giêsu dạy chúng ta cách sửa lỗi cho nhau trong bài Tin Mừng, và Thánh Phaolô nhắc cho chúng ta về món nợ yêu thương mà chúng ta mắc với nhau. Chính vì yêu thương mà Thiên Chúa đã ban cho Hội Thánh quyền tha tội. Chính vì yêu thương mà chúng ta phải giúp nhau tránh phạm tội bằng cách sửa lỗi cho nhau.
Mt 18:15 - Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em.
Có bản viết “Nếu anh em ngươi lỗi phạm với ngươi”. Nhưng có lẽ đây là một chú thích ngoài lề được người chép Thánh Kinh thêm vào. Trong câu này Chúa Giêsu dạy chúng ta cách sửa lỗi anh em. Trước hết là phải sửa lỗi trong tình bác ái và kín đáo giữa hai người mà thôi. Có nhiều người sửa lỗi anh em hay vợ chồng bằng cách hạ nhục và bôi nhọ trước mặt người khác một cách hoàn toàn thiếu bác ái. Có những cha mẹ chỉ trích nhau trước mặt con cái hay người khác để chứng tỏ rằng mình đúng. Nhiều khi người khác làm lỗi với mình chỉ vì vô tình hay hiểu lầm, nhưng mình thì cố tình làm nhục người. Vậy ai có lỗi hơn ai? Chúa Giêsu thừa biết tâm lý con người nên Người dạy chúng ta phải sửa lỗi người khác cách kín đáo. Ðể tránh hiểu lầm, trước khi kết luận là người khác có lỗi, chúng ta phải tìm hiểu tại sao người ấy làm như thế, rồi sau đó phải để cho người ấy trình bày lý do của họ. Có nhiều người trước khi sửa lỗi cho người, trước khi hiểu lý do của hành động của người khác, thì đã kết tội người ta rồi, cho nên khi người khác trình bày thì cho là ngụy biện, nên nổi nóng chửi bới cho đã cơn tức giận của mình. Làm như thế không những đã không giúp gì được người có lỗi, mà còn gây thêm hiểu lầm chia rẽ. Còn chính mình thì phạm tội nặng hơn trước mặt Thiên Chúa, bởi vì người khác vì vô tình mà phạm lỗi với mình, còn mình thì cố tính kết án, chửi bới, và lăng nhục người. Cho nên trước khi sửa lỗi cho người, chúng ta nên chân thành với chính lòng mình. Nếu mình sửa lỗi người mà trong lòng thấy thương yêu và muốn xây dựng thật sự thì hãy làm, nhưng nếu lòng đang căm hờn, tức giận thì không nên.
Mt 18:16 - Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng.
Nếu sau khi đã gặp riêng người anh em và chân thành sửa lỗi mà người ấy vẫn cố chấp, thì hãy nói chuyện với người ấy trước hai ba người chứng. Ðây cũng là Luật trong Cựu Ước (Đnl 19:15). Hai ba người ấy không phải chỉ vào phe người này hay người khác, nhưng là những người có khả năng phán đoán để có thể nghe cả hai bên và đưa đến chỗ dung hòa. Ðiều quan trọng của những người này là không thiên vị, có cái nhìn khách quan để giúp cả hai bên. Có những cha mẹ khi cãi nhau gọi các con ra ngồi nghe để xem ai phải ai trái. Ðây là một sai lầm lớn. Con cái còn bé làm sao có thể phân biệt phải trái để giúp đỡ cha mẹ. Nếu chúng khôn lớn thì cũng không dám bênh ai bỏ ai. Nhưng điều nguy hại ở đây là làm gương mù cho con. Sau này lớn lên chúng cũng theo cha mẹ mà làm như thế. Muốn cho gia đình hạnh phúc và cho con cái sau này được hạnh phúc, cha mẹ phải tránh cãi nhau hay tỏ ra xung khắc trước mặt con cái.
Mt 18:17 - Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.
Quyền tối thượng để giải quyết những xích mích giữa các giáo hữu là quyền của Hội Thánh. Nếu sau khi Hội Thánh can thiệp, mà người có tội vẫn cố chấp thì Chúa cho phép Hội Thánh quyền truất phép thông công người đó. Mục đích của việc truất phép thông công là để người đó ăn năn, cùng tránh dịp tội cho những người khác. Nhưng Hội Thánh luôn nhắc nhở chúng ta là phải cầu nguyện cho những người tội lỗi ăn năn trở lại. Khi nói đến Hội Thánh ở đây, có lẽ Chúa nói về những vị kế nghiệp các Thánh Tông Ðồ mà cai quản Hội Thánh chứ không phải là tất cả công đồng.
Mt 18:18 - Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất, thì trên trời cũng tháo gỡ.
Có một số bản có thêm chữ “Amen” hay “Quả thật” ở đầu câu này.
Trong đời sống công khai, chẳng những Chúa Giêsu tha tội, Người còn cho thấy hiệu quả của việc tha tội: Người đã đưa những người được tha tội trở lại cộng đồng dân Chúa vì tội đã tách lìa họ khỏi cộng đồng. Khi cho các Tông Đồ chia sẻ quyền tha tội, Chúa cũng cho họ quyền giao hòa tội nhân với Hội Thánh. Ai bị các Tông Đồ loại trừ khỏi sự hiệp thông với Hội Thánh, cũng không được hiệp thông với Thiên Chúa; ai được hiệp thông trở lại, cũng được thông hiệp lại với Thiên Chúa (x. GLCG 1443-1445).
Có nhiều học giả Tin Lành cho rằng như thế các Tông Ðồ khác cũng có quyền ngang hàng với Thánh Phêrô. Ðúng! Trong phạm vi quyền hạn của các ngài, các ngài có quyền ngang với Thánh Phêrô. Chỉ có một điều khác mà thôi, là quyền hạn của các Tông Ðồ thì giới hạn trong địa bàn hoạt động của các ngài (2 Cor 10:15), còn quyền hạn của Thánh Phêrô thì trên toàn thể Hội Thánh Hoàn Vũ (Mt 16:13-19). Hơn nữa Thánh Phêrô còn có nhiệm vụ làm cho các Tông Ðồ khác thêm mạnh mẽ, nghĩa là nâng đỡ các Tông Ðồ khác (Lc 22:32).
Từ ngày thành lập Hội Thánh, các Ðức Giám Mục, là những người kế vị các Tông Ðồ, vẫn có toàn quyền trên giáo phận của mình, và Ðức Giáo Hoàng, là người kế vị Thánh Phêrô, vẫn giữ vai trò lãnh đạo toàn thể Hội Thánh. Từ thời các giáo phụ đến khi Chính Thống Giáo tách ra khỏi Công Giáo, các Giám Mục có xích mích với nhau đều khiếu nại lên Rôma để Ðức Giáo Hoàng can thiệp. Nhưng cách làm việc trong Hội Thánh, phần lớn mọi quyết định quan trọng đều được thông qua với Thượng Hội Ðồng Gíám Mục (Hoàn Vũ) không bằng cách này thì cách khác. Mà cách thông thường nhất là qua các Công Ðồng. Vai trò chính của Ðức Giáo Hoàng là duy trì sự hợp nhất và thống nhất về Ðức Tin và các nguyên tắc luân lý của Hội Thánh, vì chính Chúa Giêsu đã hứa không để Quỷ Hỏa Ngục lay chuyển được Hội Thánh này (Mt 16:18). Trong lịch sử Hội Thánh những vị Giám Mục không liên kết với Tảng Ðá Phêrô này đã đi hết sai lầm này đến sai lầm khác.
Mt 18:19-20 - "Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy".
Có nhiều người cho rằng chỉ cần giữ đạo tại tâm. Những người đó thật sự đã coi thường Lời Chúa dạy ở đây. Chúa cho chúng ta thấy sức mạnh của sự đồng tâm nhất trí trong khi cầu nguyện chung. Người hứa sẽ ở giữa chúng ta khi chúng ta họp lại mà cầu nguyện nhân danh Chúa. Như thế khi chúng ta cầu nguyện chung, không phải chỉ có chúng ta cầu nguyện, mà chính Chúa Giêsu cũng cầu nguyện chung với chúng ta.
Phụng Vụ là cách cầu nguyện chung của Hội Thánh. "Ðể chu toàn công việc lớn lao là ban phát hay thông truyền ơn cứu độ, Chúa Kitô hằng hiện diện trong Hội Thánh, nhất là trong các hoạt động Phụng Vụ. Người hiện diện trong Thánh Lễ, không những nơi thừa tác viên, vì ‘như xưa Người đã tự dâng mình trên thánh giá, thì nay chính Người cũng dâng mình nhờ thừa tác vụ của các linh mục,’ mà còn hiện diện thực sự dưới hình bánh rượu. Người hiện diện trong các bí tích nhờ quyền năng của Người; vì thế ai rửa tội cũng chính là Chúa Kitô rửa tội. Người hiện diện trong lời của Người, vì chính Người đang nói, khi người ta đọc Thánh Kinh trong Hội Thánh. Sau hết, Người hiện diện khi Hội Thánh cầu khẩn và hát thánh vịnh, như chính Người đã hứa: ‘Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, ở giữa họ’ (Mt 18:20)” (GLCG 1088).
Lạy Chúa xin cho con biết khiêm nhường nhận lỗi và sửa lỗi khi được anh chị em con nhắc bảo, và cho con được khôn ngoan và can đảm để giúp anh chị em con sửa lỗi trong đức ái, mà không làm tổn thương đến danh dự họ. Amen.
Câu hỏi để suy nghĩ và thảo luận:
Lời Chúa dạy ở câu 15 có trái ngược với lời ở câu Mt 7:3-5 không? Làm sao để dung hoà những câu này với nhau?
Chúa đưa ra bốn giai đoạn trong việc sửa lỗi cho nhau này? Trong gia đoạn thứ nhất bạn phải có thái độ gì để người khác nghe bạn?
Tại sao không đem ra công chúng ngay mà lại phải làm như thế? Chúa Giêsu ban quyền gì cho Hội Thánh trong việc giảng hoà này?
Ðoạn Kinh Thánh này nói gì về sự quan trọng trong việc tìm sự khuyên nhủ hay cố vấn của người khác? Về nhiệm vụ của ít người được người khác tin cẩn?
Bạn có tin là Chúa ban cho các Tông Ðồ và những người kế vị các ngài quyền tha tội không? Tại sao Chúa lại cho con người quyền tha tội trong câu 18? Nếu Chúa ban quyền này cho các ngài thì khi chúng ta từ chối đến với các ngài để lãnh ơn tha tội, tội chúng ta có được tha không? Bạn có đi xưng tội thường xuyên không?
So sánh với câu Mt 16:18-19 thì quyền của các Tông Ðồ và quyền của Thánh Phêrô giống nhau ở điểm nào? Và khác nhau ở điểm nào? Bạn có nghĩ rằng Thánh Phêrô và những người kế vị Thánh Phêrô có nhiệm vụ và quyền bính hơn các Tông Ðồ và những người kế vị các ngài không?
Lời Chúa dạy về cầu nguyện ở câu 19-20 có trái ngược với lời ở câu Mt 6:6 không? Tại sao?
Tại sao cần phải có những buổi cầu nghuyện chung? Theo tinh thần của câu 19-20, thì việc người Công Giáo hợp ý với Ðức Mẹ và các Thánh mà cầu nguyện phù hợp hay trái với Lời Chúa ở đây? Tại sao?
Phaolô Phạm Xuân Khôi
-------------------------------
VietCatholic News (Thứ Sáu 05/09/2008 00:17)
Êgiêkien 33: 7-9; Tv: 95; Rôma 13: 8-10; Matthêu 18: 15-20
Anh chị em thân mến,
Phúc âm thánh Matthêu viết vào những năm 80-85. Phúc âm đọc hôm nay là đoạn 18. Đoạn này nói về: TN 23-A55
Phúc âm thánh Matthêu viết vào những năm 80-85. Phúc âm đọc hôm nay là đoạn 18. Đoạn này nói về cộng đoàn các môn đệ. Và trước đoạn này Chúa Giêsu khuyên những người theo Chúa phải che chở giúp đỡ những người yếu hèn trong cộng đoàn họ, và nếu cần, họ phải tìm những người lầm lạc. Thánh Matthêu viết Phúc âm nhiều năm sau khi Chúa Giêsu đã lên trời. Lúc đầu các Kitô hữu tưởng là Chúa Giêsu sẽ trở lại ngay. Nhưng khi họ thấy ra là Chúa chưa trở lại ngay nên Giáo hội tiên khởi bắt đầu gặp khó khăn trong cộng đòan.
Khi thấy những khó khăn của cộng đòan tiên khởi, thánh Matthêu quyết định phải viết ra những lời Chúa Giêsu dạy mà chúng ta nghe hôm nay. Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài làm chứng cho thế giới biết là Ngài vẫn sống mãi với giáo hội. Các thành phần trong Giáo hội tiên khởi phải sống thế nào để làm chứng cho người khác biết là họ đang chờ đợi ngày Chúa Giêsu trở lại. Trong phúc âm thánh Matthêu cộng đòan Kitô hữu là nước trời ở trần gian, và đời sống của cộng đòan và của từng người trong cộng đòan là hình ảnh chứng tỏ sự hiện diện của Chúa Giêsu đang ở giữa họ hướng dẫn và quan tâm đến từng người. Nhờ thế chúng ta không cần bận tâm đến những khó khăn của đời sống cộng đòan để cố gắng sống trong một cộng đòan "giống Chúa Kitô" giữa trần gian.
Trong khi đời sống cộng đòan giúp chúng ta được nhiều ơn phước, thì cộng đòan của những người cùng một đức tin giúp đỡ nhau tránh những khó khăn, và giúp chúng ta ngợi khen Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa. Dù vậy, tuy những người cùng chung lý tưởng cố gắng sống chung với nhau, có thể đã có lần muốn rời bỏ cộng đòan để sống tách biệt. Họ muốn sống đời Kitô hữu riêng biệt, họ cầu nguyện riêng, và tự họ muốn giúp đỡ kẻ khác trong lúc vẫn hướng về "hạnh phúc trường cữu đời sau".
Cách sống như vậy có vẻ gọn gàng phải không? Nhất là lúc này số người đi lễ ít đi, chúng ta cần phải đối phó với bao nhiêu nhu cầu của cộng đòan, và tình huống đương đầu dai dẳng với bao nhiêu chuyện xấu xảy ra trong xã hội chúng ta làm báo chí truyền thông nhắc nhỡ liên tục. Tai sao chúng ta lại không thể sống riêng biệt, tự dạy đức tin cho con cái chúng ta, để sau này chúng trở nên Kitô hữu tốt? Giã như chúng ta làm như vậy thì chuyện không là một Kitô hữu là chuyện đương nhiên
Chúa Giêsu muốn chúng ta tiếp tục đời sống cộng đòan như những cộng đòan đầu tiên khi Ngài vừa về trời. Ngài muốn cộng đòan nên như ngọn đèn sáng để trên cao, như xây thành trên đỉnh núi. Lúc còn sinh thời Ngài mời gọi các môn đệ sống với nhau, giúp các ông tiếp tục sứ mệnh của Ngài. Ngài hứa là sẽ sống giữa các ông không chỉ trong lúc còn ở thế gian mà luôn cả sau này Ngài vẫn luôn ở giữa các ông trong lúc đi rao giảng thay Ngài.
Trong Phúc âm thánh Matthêu. ngay từ đầu Chúa Giêsu được gọi là Emmanuel nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (1:23) Và cuối cùng Phúc âm cũng nhắc đến lời hứa của Chúa Giêsu là Ngài vẫn tiếp tục ở giữa chúng ta. Khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ đi rao giảng "anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (28:19) "Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (28:20). Rõ thật Ngài muốn chúng ta sống cộng đòan để nhớ đến Ngài. Ngài không muốn chúng ta chỉ ở nhà cầu nguyện, sống đức tin riêng biệt, nhưng Ngài muốn những Kitô hữu hãy cùng sống và cùng thờ phượng, để danh sáng ngời của Ngài đến với những người chung quanh.
Và có cách nào hơn; để chứng tỏ một cộng đòan là ánh đèn chói sáng của Chúa Giêsu; là cách tha thứ cho nhau và giúp đỡ nhau trong một cộng đòan? Chúa Giêsu nói đến sự tha thứ như vậy để giữ cộng đòan sống động mãi đến ngày Ngài trở lại. Nhưng do tha thứ là một đức tính rất hiếm trong cộng đòan, giữa những người sống chung với nhau, cùng tôn giáo, cùng sắc tộc, cùng màu da, cùng một quốc gia, nên khi một cộng đòan có nhiều tha thứ quả thật là cách chứng tỏ Chúa Giêsu Kitô đang hiện diện. Nếu nhân đức tha thứ là bản tính của cộng đòan chúng ta thì đó là điều Chúa Giêsu ao ước như "xây một thành lũy trên đỉnh núi", "một tia sáng soi đến các dân tộc".
Mùa thu năm 2006, tiểu bang Pennsylvania Hoa Kỳ có 5 đứa bé người Amish bị sát hại trong một trường làng, và thủ phạm tự sát. Tin đó lan truyền khắp nước Mỹ. Nhưng có tin khác về vụ giết người đó cũng loan truyền khắp nước Mỹ. Đó là tin nhóm người Amish trong lúc đau đớn khóc than vì 5 trẻ em bị giết, họ đã tha thứ cho thủ phạm. Nhưng cử chỉ tha thứ của họ mới đáng ngạc nhiên. Khi có người hỏi họ tại sao, câu trả lời của họ được đăng trên báo USA Today ngày 5 tháng 10, 2006 như sau: "Những người Amish tin rằng ơn gọi của họ là chấp nhận tin buồn, mà không cải lại, hay không để cộng đòan tan rã. "Và tờ báo loan tin là một người trong gia đình các em bị giết đi đến nhà cha của thủ phạm, ôm choàng lấy ông ta trong một giờ và nói "Chúng tôi tất cả tha thứ cho ông" Rồi một người khác giải thích cho báo chí: "Chúng tôi đã được dạy bảo phải biết tha thứ như Chúa Giêsu đã làm. Chúng tôi tha thứ như Chúa Giêsu đã tha thứ cho chúng tôi."
Trong Phúc âm thánh Matthêu, Chúa Giêsu dạy cộng đòan phải biết tha thứ chứ không phải trả thù. Ngài dạy tha thứ là một hành vi có tính liên tục và kiên trì. Sự tha thứ bắt đầu giữa hai bên; rồi có "2 hay 3 người làm chứng" đem đến trước cộng đòan, và rồi tất cả cộng đòan được mời tham dự vào việc tha thứ. Nghe như vậy có nghĩa là cả cộng đòan giáo hội phải dự phần vào việc quan trọng là lúc tha thứ, như việc nhóm người Amish đã làm, họ đồng lòng nói lên tiếng nói tha thứ của gia đình có những em bé bị giết cho gia đình thủ phạm.
Chỉ khi nào cộng đòan đã làm hết bổn phận mình để đem lại sự tha thứ mà nếu bên kia không nghe, lúc ấy họ mới bị sa thải ra khỏi cộng đòan. Cộng đòan đã làm hết sức mình để "tha thứ trên trần gian",và nếu bên lỗi phạm cứ phản bác lúc đó mới có cách trừng phạt. Có khi bên lỗi phạm chờ tới lúc bị đưa ra khỏi cộng đoàn họ mới bình tâm lai. Nếu không bên lỗi phạm sẽ tự đào thải, vì họ không chịu cách tha thứ mà cộng đoàn đề nghi.
Cách tha thứ mà Chúa Giêsu dạy, diễn tả sự hợp nhất của một cộng đòan. Ngài cũng nói lúc cầu nguyện chung với nhau là sự hợp nhất cộng đòan. Ngài nói "ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ"(18;20). Đúng vậy, "sự họp nhau" là cộng đoàn phụng vụ. Trong phụng vụ chúng ta gồm trong nhóm có cả những người chống đối vì chuyện riêng tư, chuyện chính trị, tôn giáo hay văn hóa v.v... Nhưng tất cả đều cùng họp nhau nhân danh Chúa Giêsu để thờ phượng Chúa, và chính Chúa Giêsu nhắc chúng ta là chúng ta cùng một nguồn gốc đức tin. Do vậy, trong lúc cầu nguyện chung, chúng ta nhân danh Chúa Giêsu.
Người công giáo ít khi họp nhau từng nhóm nhỏ 2 hay 3 người. Khi đọc kinh trước khi ăn cũng đọc nho nhỏ thôi. Và nếu có ai nói là họ có chuyện cần được giúp đỡ thì chúng ta hứa là sẽ cầu nguyện cho người đó thôi. Còn ở miền nam nước Mỹ người ta thường hay bày tỏ lời cầu nguyện thật sống động. Trong lúc cầu nguyện họ tự nói lên lời cầu mặc dù họ không phải là người lảnh đạo. Họ nói lớn tiếng lời cầu cho người khác.. Hoặc họ mở kinh thánh, đọc một câu và dâng lời cầu nguyện theo ý cầu xin họ vừa đọc. Vậy ai đã hiệp thông với họ trong lời kinh?
Ngôn sứ Êzêkiel hôm nay tự xưng mình là "người tuần canh nhà Israel". Ngôn sứ thay lời Thiên Chúa nói với cộng đòan về tội lỗi của họ. ông ta kêu gọi dân Israel trở về với Thiên Chúa và hãy ăn năn đền tội.. Ông ta kêu gọi kẻ gian ác "từ bỏ đường xấu, nếu không họ sẽ phải chết vi tội của họ". Thật giống như trong phúc âm, phải vậy không? Ngôn sứ Êzêkiel không chỉ nói với người ngoài dân Israel. Mà trước tiên ông ta nói với những người ông ta thương mến gần gủi với ông. Thiên Chúa muốn họ là một dân tộc thánh thiện, và Êzêkiel là tiếng nói của Thiên Chúa mời gọi họ trung thành với Thiên Chúa.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta phải cầu nguyện cho những người mà Êzêkiel kêu gọi đang ở giữa chúng ta.; "những người nam nữ tuần canh" mà Chúa đã gởi đến cho chúng ta. Chúng ta cầu nguyện cho các đấng bản quyền, những người có nhiệm vụ dạy dỗ lời Chúa cho chúng ta. Họ là những linh mục, giáo sĩ, những người dạy giáo lý, những nhà thần học, và các giáo lý viên v.v...Ơn gọi của những người đó trước tiên là họ phải nghe lời Thiên Chúa, và dân của Ngài, và rồi họ sẽ nói lên những gì họ đã nghe. Chúng ta cũng cầu nguyện cho những Êzêkiel trong mọi gia đình: cha mẹ, anh chị em, bà con cô bác và các bạn hữu, đôi khi làm mất lòng đối với một người trong gia đình đã bỏ nhà ra đi theo đường xấu do nói lên lời khuyên chân thật,
Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP
Lm Jude Siciliano OP
-------------------------------
Chúng ta đang sống trong năm Thánh Phaolô, năm đặc biệt chú ý tới vị Tông Đồ Dân Ngoại, ngài nổi bật như: TN 23-A56
Chúng ta đang sống trong năm Thánh Phaolô, năm đặc biệt chú ý tới vị Tông Đồ Dân Ngoại, ngài nổi bật như một ngôi sao sáng trong lịch sử Giáo hội. Và rất thích hợp để nói về giáo huấn của Ngài trong thánh lễ hôm nay. Sự nghiệp và giáo huấn của Ngài thật là phong phú và sâu sắc, chúng ta chỉ dừng lại ở đây quan niệm về Tình yêu hay Đức Ái theo Thánh Phaolô.
Danh từ tình yêu (love, amore, caritas) được dùng rất nhiều từ môi miệng chúng ta, từ báo chí, phim ảnh. Nhưng ngày hôm nay khái niệm về tình yêu đã bị nhiều người hiểu sai và làm dụng.
Tôi đọc trên báo điện tử của Hội Đồng Giáo Mục Việt Nam, tác giả Nguyễn Lan Hải đã tóm tắt những ngộ nhận đáng tiếc về tình yêu nơi nhiều bạn trẻ hôm nay: - Tình yêu là sự cuốn hút. - Tình yêu là chiếm hữu. - Tình yêu là tiền tài. - Tình yêu là sự thương hại. - Tình yêu là tình dục.
Chính vì quan niệm méo mó này, nên nhiều người suốt cả đời đi tìm tình yêu mà không gặp. Nhiều bạn trẻ thay người yêu như thay áo vậy. Nhiều cặp vợ chồng trẻ tháng trước đám cưới linh đình vui vẻ, anh nói em nghe, nhưng tháng sau thì anh em nói, cả làng cùng nghe. Tuần đầu trăng mật, tuần sau giập mật !!! Nhiều gia đình đang êm ấm, nhưng chỉ một cú điện thoại, một lá thư của người thứ ba, thế là mọi sự đổ vỡ, mọi sự được giải quyết bằng tờ giấy li dị và chia tài sản.
Vậy thì theo Thánh Phaolô, Tình Yêu là gì, phải yêu người khác như thế nào?
Bài đọc II mà chúng ta vừa nghe là những lời thật tuyệt vời: «Anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau». Nghĩa là chúng ta đừng mắc nợ nhau về tiền bạc, vật chất, ai mắc nợ thì phải trả. Nhưng hãy mắc nợ nhau về tình thương, về đức ái. Chúng ta hãy yêu thương nhau. Tình yêu là cốt lõi của Kitô giáo. Chính Phaolô nói: «Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật». Tình yêu làm cho chúng ta được hạnh phúc đích thực. Sống không có tình yêu, không có lòng nhân ái, thì dù chúng ta có nhà lầu, xe hơi, tiện nghi vật chất dư dã, vẫn cũng cảm thấy không hạnh phúc và vui vẻ. Các nhà khoa học Mỹ đã nghiên cứu và cho thấy điều đó: 12 % dân Mỹ bị stress và bị tâm thần, không phải vì họ nghèo đói về vật chất và vị họ bị cô đơn và không được yêu thương chia sẽ.
Đối với thánh Phaolô tình yêu không phải là một sự trao đổi kinh tế tiền bạc, không phải là một sự chiếm hữu ích kỷ, không phải là một sự tìm kiếm mình trong người khác. Nhưng là một tình yêu vô vị lợi, có trách nhiệm và hoàn toàn vì người khác, kể cả hiến mạng vì người mình yêu. Tình yêu đó bắt nguồn và luôn dựa trên chính tình yêu Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã thể hiện trên Thập giá.
Tình Yêu, Đức Ái gắn liền với việc tuân giữ lề luật, là sống có trách nhiệm và biết tôn trọng hạnh phúc của người khác: «Đó là chớ có ngoại tình»: vợ của người ta chớ có được lớ rớ tới, không được quan hệ tình dục bừa bãi. Vì hậu quả của nó là phá hoại phúc người khác và mang bệnh tật cho mình. Quan hệ tình dục bừa bãi dễ sinh ra tội phá thai, tức là giết người. Đó là trọng tội và còn có vạ kèm theo cho ai làm điều đó. Nên Thánh Phaolô nói tiếp: «Chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ mê tham, và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình. Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn lề luật». Những lời chúng ta phải suy gẫm nhiều lần. Lỗi những điều răn này là chúng ta lỗi Đức Ái cách nghiêm trọng. Thấy người khác thành công mình phải mừng cho họ chứ đừng có ghen tỵ và tìm cách đạp đổ. Thấy người khác gặp đau khổ thì không lấy làm vui mừng nhưng là nâng đỡ ủi an họ. Vẽ đẹp của người kitô hữu là ở đó.
Đối với Phaolô, Đức ái là căn bản, là chính yếu của đời sống kitô hữu. Trong một lá thư khác, thánh Phaolô quả quyết: «Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các Thiên thần đi nữa, mà không có đức mến (Caritas) thì tôi chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi có được ơn nói tiên tri và biết hết được mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả tài đức đến chuyển núi rời non, mà không có đức mến (Caritas), thì tôi cũng chẳng là gì cả. Giả như tôi có đem hết cả gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu chết, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,1-13).
Tất cả chúng ta đều được mời gọi để sống Đức ái đó theo gương thánh Phaolô, như Ngài đã theo Đức Kitô, Người đã yêu chúng ta đến cùng và đã hiến mạng vì chúng ta trên Thập giá. Xin Thánh nhân cầu xin Chúa ban sức mạnh để chúng ta thực hành những giáo huấn này vào trong đời sống chúng ta. Amen.
LM Phêrô Nguyễn Hương
-------------------------------
Giải túc cầu thế giới kết thúc, người được kẻ thua, người cười kẻ khóc, đó là cái thường tình: TN 23-A57
Giải túc cầu thế giới kết thúc, người được kẻ thua, người cười kẻ khóc, đó là cái thường tình của bất cứ một cuộc tranh giải nào. Dù muốn dù không, thiên hạ cũng dễ dàng chia làm hai phẹ Một linh mục Ấn Độ chuyên về huấn luyện tu đức là cha Anthony De Mello đã tưởng tượng một câu chuyện như sau:
Đức Giêsu than phiền là Ngài chưa một lần được tham dự một trận bóng đá. Chúng tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin Lành và một đội Công Giáo. Người Công Giáo làm bàn trước: 1-0. Đức Giêsu vỗ tay hoan hô và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, đội Tin Lành lại làm bàn. Lần này Đức Giêsu cũng vỗ tay reo hò và tung mũ lên trời. Một khán giả bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Đức Giêsu. Ông ta lấy tay đập lên vai của Đức Giêsu rồi hỏi Ngài:
- Ê ông bạn, ông bạn ủng hộ bên nào vậy?
Xem chừng như vẫn còn bị khích động bởi trận đấu. Đức Giêsu trả lời:
- Tôi à, tôi không ủng hộ bên nào cả, tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu mà thôí.
Người khán giả khó chịu về thái độ của Đức Giêsu nên lại càng bực bội hơn. Ông ta quay sang người bên cạnh và nói nhỏ:
- Hắn ta là một tên vô thần.
Trên đường trở về nhà, chúng tôi chất vấn Đức Giêsu về tình hình tôn giáo trên thế giới, chúng tôi nói với Ngài:
- Thưa Chúa, những con người có tôn giáo thật là buồn cười, họ tưởng rằng Thiên Chúa chỉ đứng về phía của họ và nghịch lại với tất cả những người không thuộc tôn giáo của họ.
Đức Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng ý, Ngài nói:
- Đó là lý do tại sao tôi không ủng hộ tôn giáo nào, mà chỉ ủng hộ con người mà thôi. Con người quan trọng hơn tôn giáo, con người quan trọng hơn ngày Sa-bát. Chúng con nên biết: Chính những người có tôn giáo đã treo Ta lên Thập giá.
***
Câu chuyện tưởng tượng trên đây cho chúng thấy rằng một trong những vết thương lớn nhất của nhân loại trải qua một thời đại, đó là thái độ bất khoan dung đưa đến những cuộc chiến tranh tôn giáo. Con người ai cũng bị cám dỗ bởi nhân danh Thượng đế, nhân danh Thần Linh và nhân danh hệ tư tưởng của mình, để triệt hạ, để loại trừ, để bách hại người khác. Kỳ thực có tôn giáo nào mà không dạy sự khoan dung, lòng nhân từ đối với mọi người.
Đức Giêsu đến để mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa là Cha của mọi người. Ngài là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như cho kẻ dữ. Ngài yêu thương những kẻ nhận biết và yêu mến Ngài, cũng như những kẻ chối bỏ và thù ghét Ngài. Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau như anh em cùng một gia đình.
Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta là Đấng mà người ta cũng sẽ chối bỏ, nếu người ta khước từ chính anh em đồng loại của mình.
Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta là Đấng mà người ta cũng sẽ xúc phạm nếu làm thương tổn đến con người.
Đạo của Đức Giêsu, tôn giáo của Đức Giêsu cũng chính là tôn giáo, là đạo của con người. Chúng ta chỉ có thể là tín đồ đích thực của tôn giáo ấy nếu chúng ta biết yêu thương mọi người như anh em của mình. Và yêu thương có nghĩa là tôn trọng sự khác biệt của người anh em, xem sự khác biệt ấy như là kho tàng phong phú khác chính bản thân của chúng ta.
***
Lạy Chúa, chúng con đang sống trong một xã hội đa diện có nhiều người không cùng một niềm tin với chúng con, có nhiều người không cùng một ý thức hệ với chúng con. Có những người không suy nghĩ và hành động như chúng con, thậm chí có những người muốn loại bỏ, bách hại chúng con. Xin cho tinh thần khoan dung của Chúa luô hướng dẫn mọi suy tư và hành động của chúng con, để chúng con biết yêu Chúa và tỏ bày Chúa như là cha của tất cả mọi người. Amen!
R. Veritas
-------------------------------
PM. Cao Huy Hoàng
Tiên tri Egiêkiel mở đầu phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay CN 23 TN A, bằng một thông điệp: TN 23-A58
Tiên tri Egiêkiel mở đầu phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay CN 23 TN A, bằng một thông điệp của Thiên Chúa gửi cho dân Ngài, nghe cứng rắn như một tiếng sét kinh hoàng:
“Nếu ngươi không chịu nói để kẻ gian ác bỏ đường lối mình, thì chính kẻ gian ác sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng Ta đòi máu nó bởi tay ngươi” (Ed 33,8)
Quả thực, nghe câu Lời Chúa này, có lẽ ai cũng phải khiếp kinh đến nghẹt thở mà nhìn lại đời sống của chính mình. Bởi vì, phải nói cách nào đây, “để kẻ gian ác bỏ đường lối của họ” trong khi chính mình chưa thực sự nên hoàn thiện, chính mình còn vương bao điều bất chính! Thật khó khăn. Bởi vì, câu Lời Chúa có một ý ẩn, và có một ý hiện. Ý ẩn là “hãy hoàn thiện” và ý hiện là “làm cho người khác hoàn thiện”. Đó không chỉ là bổn phận của công dân nước Chúa, mà còn là trách nhiệm, và là điều kiện để được cứu sống: “Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó, nếu nó không chịu bỏ đường lối nó, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng ngươi cứu được mạng sống ngươi".(Ed 33, 9)
Nghĩ cho cùng, thì thật hữu lý, vì khi mỗi tín hữu được tháp nhập vào thân mình Đức Kitô, vào cuộc sống chung trong Giáo Hội của Ngài, hẳn đã có một ước muốn trở nên hoàn thiện như Đức Kitô vô tội, Đấng trở nên con người hoàn toàn ngoại trừ tội lỗi, trở nên con cái của Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện, và cùng nhau hưởng phúc trường sinh do ơn cứu mạng của Chúa Giêsu Kitô. Như vậy, mỗi tín hữu phải là một chi thể không tỳ vết của Đức Kitô. Mỗi tín hữu trở nên thành viên, nên huynh đệ trong gia đình của Thiên Chúa chí thánh, chí thiện.
Tình huynh đệ thiêng liêng ấy đạt đạo đến mức thánh Phaolô phải thốt lên: “yêu thương là chu toàn cả lề luật”, nhưng là cách “yêu thương không làm hại kẻ khác” đồng nghĩa với việc “yêu thương là làm lợi ích cho kẻ khác”. Không có mối lợi nào bằng trở nên công chính để được ơn cứu độ. Không có quà tặng nào quí hơn sự sống trường sinh. Không có tình huynh đệ nào bền vững cho bằng tình huynh đệ của con cái Thiên Chúa. Vì thế, làm lợi cho anh em là làm cho anh em nên công chính, được sự sống trường sinh và xứng nên con cái của Thiên Chúa.
Tin Mừng Matthêu 18, 15-20, Chúa Giêsu hướng dẫn cụ thể hơn về mối tình thiêng liêng ấy bằng việc chu toàn bổn phận giúp nhau nên hoàn thiện: nếu “người anh em lỗi phạm” thì phải giúp anh em phục thiện bằng các bước sửa dạy như sau: chân thành góp ý riêng, hai ba người góp ý, và cộng đoàn cùng nhau góp ý cho anh em nhận ra lầm lỗi của mình, xây dựng cho anh em con đường trở về ơn gọi công chính.
Tại sao phải chân thành góp ý? Thiết tưởng, ngoài việc tự mình phải chu toàn bổn phận nên hoàn thiện, còn phải nghĩ đến cuộc sống Giáo Hội hôm nay và mai sau. Nếu không sống cùng, sống với, sống trong Giáo Hội ở trần gian, thì khó lòng mà bảo đảm được một cuộc sống trong Giáo Hội khải hoàn trên thiên quốc. Vì thế, tình yêu dành cho Giáo Hội cũng chính là tình yêu dành cho mọi thành phần trong Giáo Hội, kể từ các Đấng Bậc với vai trò chủ chiên: Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục …đến thành phần bé nhỏ nhất là con chiên, và nhất là những con chiên lạc.
Như vậy, việc chân thành góp ý, giúp nhau hoàn thiện phải bắt nguồn từ tình yêu và là một động thái của tình yêu chân chính.
-Tình yêu thôi thúc việc “làm lợi cho anh em”.
-Tình yêu giúp sáng kiến khôn ngoan lựa lời tế nhị, chọn đúng lúc, đúng chỗ.
-Tình yêu giúp sức mạnh can đảm vượt qua cái nghiệt ngả của sự thực “lời thật mất lòng”.
-Tình yêu ấy giúp kiên trì, không nản lòng trước cảnh “lòng chai, dạ đá”.
-Tình yêu giúp củng cố niềm tin và lòng cậy trông để có quyền hy vọng về một phép lạ của tình bác ái.
-Tình yêu kết liên mọi người với nhau nên nghĩa tình thâm huynh đệ trong đức tin vững chắc rằng có Chúa Giêsu đang hiện diện nối kết.
-Và nhất là, tình yêu ấy giúp sống mầu nhiệm Giáo Hội Thánh Thiện, với những con người có thể là chưa hoàn thiện.
"Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy" (Mt 18, 19-20) Có vẻ như xã hội đang thời kỳ mở cửa cho những đôi vợ chồng ly dị vì không thể sửa lỗi, góp ý xây dựng cho nhau một cuộc sống bền vững hơn, siêu nhiên hơn cái duy vật. Bởi họ không có giáo hội, không có sự ràng buộc của tình yêu nhau và tình yêu cộng đoàn thánh thiện. Họ chỉ dừng lại ở chỗ góp ý cho nhau làm sao sống phù hợp với cuộc chạy đua kinh tế, chạy đua phương tiện hưởng thụ, chạy đua tự do quan hệ trong và ngoài hôn nhân. Sự yêu thương và tôn trọng nhau trong hôn nhân xã hội ngày nay hầu như chỉ nhắm đến vật chất và tự do cá nhân, mà không màng gì đến một cuộc sống chung thời vĩnh cửu.
Nhìn vào thực tế khá bi đát ấy, thiết tưởng, thông điệp của Lời Chúa hôm nay nhắc nhớ mỗi gia đình công giáo càng phải nồng nàn hơn, thắm thiết hơn trong tình yêu hôn nhân, một họa ảnh của tình yêu Chúa Kitô và Giáo Hội; và hơn thế nữa, là cơ hội cho các gia đình nhắm đến sự sum họp vững bền của chính gia đình mình trong Giáo Hội khải hoàn. Từ đó, trân trọng tình yêu của nhau mà đón nhận những góp ý chân thành để cùng nhau nên hoàn thiện. Việc hoàn thiện của vợ của chồng, của những người làm cha làm mẹ, là gương sáng bảo đảm cho việc hoàn thiện các con cái theo ý Chúa.
Cũng thế, nơi các cộng đoàn giáo xứ, mỗi người không thể dửng dưng đối với thành viên cộng đoàn, nhưng mặc lấy một phần trách nhiệm đối với “người anh em” tín hữu khác về việc trở nên một con chiên ngoan sống cùng đàn chiên trong một Chúa chiên. Trách nhiệm ấy được thôi thúc bởi tình yêu. Và lúc này đây, chuẩn mực của tình yêu đã được minh định: đem lại lợi ích thiêng liêng cho anh em, giúp anh em nên công chính. Từ đó, tất cả những cách yêu, lời yêu, làm hại kẻ khác hại thanh danh, hại nhân phẩm, hại linh hồn, yêu nhau để mất linh hồn thì không phải là tình yêu chân chính nữa. Thế thì
-Nhận được những góp ý chân thành, là cơ hội vàng cho mỗi chúng sửa lại những lầm lỗi mà ai cũng có thể mắc phải ít là bảy lần trong một ngày.
-Nhận được những góp ý chân thành, là cơ hội vàng cho những tâm hồn khát khao nên công chính.
-Nhận được những góp ý chân thành, là cơ hội cho mình khiêm tốn nhìn thấy mình dù ở chức vụ nào cũng thật mong manh, yếu đuối, thấp hèn trước mặt Thiên Chúa.
-Nhận được những góp ý chân thành, là cơ hội vàng cho chúng ta xác định được ai thù ai bạn, ai yêu ai ghét trong cuộc đời này.
-Nhận được những góp ý chân thành, còn là nhận được một quà tặng quí giá mà Chúa ban qua và trong đời sống Giáo Hội.
-Hãy đón nhận những góp ý chân thành với lòng khiêm tốn, và lòng biết ơn Chúa, biết ơn Giáo Hội, biết ơn những người anh em có trái tim đầy ắp tình yêu Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết biết khao khát nên công chính như lòng Chúa mong ước: “Ước chi hôm nay, các bạn nghe tiếng Chúa. Đừng cứng lòng nữa” (Tv 94,8). Xin cho chúng con biết yêu mến Giáo Hội để sẵn sàng nghe tiếng Chúa gọi mời nên công chính, qua sự góp ý chân thành của anh em.
A men.
-------------------------------
Tin Mừng Thánh Matthêu chương 18 tập chú vào chủ đề đời sống đoàn. Thoặt nghe bài Tin Mừng: TN 23-A59
Tin Mừng Thánh Matthêu chương 18 tập chú vào chủ đề đời sống đoàn. Thoặt nghe bài Tin Mừng Mt 18,15-20 với những lời căn dặn của Đấng Cứu Thế về việc sửa bảo anh em, chúng ta dễ liên tưởng đến việc cần có thái độ tế nhị tôn trọng anh em trong khi sửa bảo nhau. Điều này thì không ai chối cãi. Yêu thương và tôn trọng là hai động thái tất yếu phải đi sóng đôi. Tuy nhiên, qua những lời dạy của Thầy Chí Thánh, chúng ta còn phải lưu ý đến tính triệt để của việc sửa sai, dạy bảo nhau. Nghĩa là khi thấy anh em, thấy tha nhân sai lỗi thì cần phải tích cực sửa bảo nhau cách triệt để, tức là cho đến cùng.
Số phận của tha nhân cũng là số phận của chính ta:
Ngôn sứ Êdêkiel đã minh nhiên lời dạy của Thiên Chúa: “Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta nói cho chúng biết. Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: “Hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết”, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, thì Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (Ed 33,8). Không ai được phép vào Nước Trời một mình. Thiên Chúa không phải là Cha của mình tôi. Người là Cha của “chúng ta”, của mọi người (x.Kinh Lạy Cha). Thái độ dửng dưng, kiểu sống mặc kệ nó, là kiểu sống, là thái độ không xứng với người con cái Chúa.
Người ta có thể không ghét bỏ tha nhân, không tìm cách mưu hại tha nhân, thế nhưng chính khi không màng đến số phận của tha nhân cũng là khi ta góp phần hãm hại tha nhân cách gián tiếp. Đã nhiều lần Chúa Kitô nhấn mạnh chân lý này khi Người trách cứ tấm lòng dửng dưng của những luật sĩ biệt phái trước bao nổi khổ của đồng loại. Thấy anh em đang sai lỗi cũng như thấy anh em đang đứng bên bờ vực thẳm mà ta không lên tiếng cảnh báo hay sửa sai thì chính ta đã vô tình, đúng hơn là đã vô tâm để người anh em rơi xuống vực. Không cứu người theo khả năng và hoàn cảnh của mình là đã giết người. Dưới cái nhìn này chúng ta mới hiểu những lời đanh thép của Thiên Chúa qua miệng Ngôn sứ Êdêkiel ở trên: “Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó”.
Khi vạch rõ lộ trình sửa bảo anh em, bắt đầu từ hình thức cá nhân đến cộng đoàn, thì ngoài việc tôn trọng phẩm giá, danh dự người có lỗi, Chúa Kitô đã minh nhiên dạy ta tích cực sửa bảo người anh em cho đến cùng. Khi người anh em lỗi phạm không nghe cộng đoàn thì hãy xem họ như người ngoại giáo hay người thu thuế thì vẫn không là buông xuôi mà là trao phó cho Chúa, Đấng không có sự gì là không thể (x.Mt 19,26). Ngay cả khi trao phó người anh em lỗi phạm cho Chúa thì ta vẫn còn đó bổn phận góp phần bằng lời cầu nguyện. Để làm rõ hiệu quả của lời cầu, thì liền sau đó Chúa Kitô đã khẳng định: “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20).
Chúng ta cần phân biệt các hành vi sai trái mang tính cá nhân và hậu quả của hành vi lỗi phạm thì hạn chế với những sai lầm mang tính tập thể và hậu quả di hại cho xã hội là rộng lớn hoặc hành vi lỗi phạm của cá nhân trở thành gương xấu gương mù cho xã hội, cho những kẻ bé mọn. Cung cách hành xử của Chúa Kitô thật rõ ràng. Nguời từ tâm, nhân hậu với những trường hợp đầu mà trái lại rất thẳng thắn và cương quyết với những trường hợp sau. Người tỏ lòng nhân hậu với chị phụ nữ phạm tội ngoại tình. Người thật khoan dung với sự yếu hèn của Phêrô khi chối Người, nhưng Người lại nghiêm khắc trước sự sai trái cũng của chính Phêrô khi ông ngăn cản Người lên Giêrusalem để thực thi công trình cứu độ bằng sự khổ nạn. Và với nhiều vị lãnh đạo Do Thái giáo hay các bậc vị vọng thời bấy giờ là Biệt Phái, Luật sĩ…thì thái độ của Chúa Kitô là rất thẳng thừng và cương quyết. Tuy nhiên dù cương quyết hay nhân hậu, dù nghiêm khắc hay dịu dàng thì các hành vi của Chúa Kitô đều ắp đầy lòng xót thương. Đến trần gian, một sứ mạng của Đức Kitô là mạc khải cho nhân trần chân dung của Thiên Chúa, Đấng từ bi và hay thương xót, Đấng không muốn bất cứ một ai phải hư mất.
Đức ái là động lực, là hình thức và là mục đích của việc sửa sai nhau:
Chúng ta dễ dàng chân nhận sự cần thiết của việc sửa bảo nhau. Tuy nhiên cần biết sửa bảo nhau vì yêu thương nhau, muốn cho nhau đổi thay và nên tốt lành, thánh thiện hơn, bằng những hình thức, những phương thế chính đáng và phải đạo. Làm sao minh chứng được động cơ và mục đích của việc ta sửa bảo nhau là vì yêu thương nhau? Quả là khó khi thẩm định những gì thuộc chiều sâu của tâm hồn. Với lời mạc khải, qua tấm gương của các ngôn sứ, đặc biệt của Chúa Kitô chúng ta có thể xác định rằng đức ái chính là động cơ và mục đích của việc sửa bảo nhau dựa vào một vài dấu chỉ sau:
- Có nhổ thì có trồng; có phá thì có xây: Ta không chỉ nói lên cái sai trái, sự lầm lỗi của nhau mà ta còn vạch ra cách thế sửa đổi, còn đề xuất phương hướng khắc phục cho nhau.
- Sẵn sàng đón nhận những sự hiểu lầm, những nghịch cảnh và cả những ngược đãi khi ta chân thành sửa bảo nhau bằng lòng khoan dung, tha thứ.
“Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tình yêu” (Rm 13,8). Đã mắc nợ là phải trả. Một trong những món nợ tình yêu chúng ta cần phải trả liên lĩ đó là món nợ liên đới trong lỗi phạm của nhau. Để trả món nợ này, chúng ta không chỉ can đảm đón nhận các hậu quả do tội lỗi của nhau mà còn phải tích cực sửa bảo nhau trong đức ái. Nếu ngươi không sửa bảo kẻ có tội thì “Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” là một lời cảnh báo thật đáng sợ. Tuy nhiên để cho việc sửa bảo nhau đạt kết quả thì chúng ta đừng quên rằng ngoài việc cầu xin ơn Chúa soi sáng, nâng đỡ, thì bản thân chúng ta trước hết cần làm thanh sạch bản thân mình một cách nào đó. Vì khi đã lấy cái xà ra khỏi mắt mình thì mình mới thấy rõ và biết cách lấy cái rác ra khỏi mắt anh em (x.Mt 7,1-5). Xin đừng viện cớ rằng tôi chưa hoàn thiện, nghĩa là vẫn còn vương nhiều lầm lỗi, nên tôi không được phép sửa bảo ai. Ngoại trừ Mẹ Maria, chúng ta thảy đều là tội nhân, mức này, mức kia. Hãy nhớ lời dạy của thánh Giacôbê: “Thưa anh em, nếu có người nào trong anh em lạc xa chân lý và có ai đưa người ấy trở về, thì anh em hãy biết rằng: kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về, thì cứu được linh hồn người ấy khỏi chết và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình.”(Gc 5,19-20)
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
-------------------------------
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi (Mt. 18,15).
Khởi đầu mỗi thánh lễ, có phần nghi thức ăn năn sám hối tội lỗi. Chúng ta đọc kinh cáo mình: TN 23-A60
Khởi đầu mỗi thánh lễ, có phần nghi thức ăn năn sám hối tội lỗi. Chúng ta đọc kinh cáo mình và kêu van rằng: Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Rồi chúng ta nài xin Đức Maria và các thiên thần, các Thánh và anh chị em khẩn cầu cho chúng ta trước tòa Thiên Chúa. Trong kinh sám hối thì tâm tình rất sâu đậm và sốt sáng. Trở lại thực tế cuộc sống thì những tâm tình sám hối lại biến mất. Chúng ta lại phàn nàn: Lỗi tại tôi nhưng lôi thôi tại bà. Lỗi tại tôi nhưng luôn luôn có chữ “nhưng mà” hay “bởi vì” để làm nhẹ bớt cho sự sai lỗi của mình. Ít khi chúng ta nhận lỗi của mình ngay lập tức vì chúng ta sợ. Sợ mất danh dự, sợ mất tiếng tốt, sợ bị phát hiện sự thật và sợ phải nghe sự phê bình. Có nhiều cách thế dẫn đến sự sai lỗi lắm. Có khi làm lỗi vì mình không biết, có khi hiểu lầm hoặc vì yếu đuối rơi vào cơn cám dỗ.
Sửa lỗi thì khác sửa lưng hay phê bình chỉ trích. Sửa lỗi để giúp nhau nên hoàn thiện. Nhân vô thập toàn. Con người ai cũng có lỗi lầm, nên sửa lỗi là việc thường tình và cần thiết. Được người khác sửa lỗi cho mình là một cơ may hạnh phúc. Sách châm ngôn dạy rằng: Coi khinh lời nghiêm huấn ắt phải nghèo phải nhục, tuân giữ lời sửa dạy hẳn sẽ được hiển vinh (Cn. 13,18). Có nhiều cách giúp người khác sửa lỗi. Cách chân thực nhất phải có tình bác ái yêu thương. Sửa lỗi không phải để làm bêu xấu hay hạ phẩm giá người khác. Đôi khi thay vì sửa lỗi người khác, chúng ta lại rêu rao sự xấu cho mọi người biết để chê cười. Chúa Giêsu dạy rằng sửa lỗi phải rất tế nhị và đi từng bước một. Gặp gỡ riêng tư để thuyết phục, nếu chưa giải quyết được thì phải nhờ một vài nhân chứng khác và nếu tình trạng tệ hơn, khi đó mới viện đến quyền của Giáo Hội. Muốn mọi việc xuôi chảy, chúng ta cần sự cầu nguyện, lòng khiêm nhường, cử xử với lòng bác ái và biết lắng nghe. Nhờ đó chúng ta có thể thắng được lòng người anh em.
Trong sách Châm Ngôn đã dạy bảo những lời khôn ngoan: Vì huấn lệnh là ngọn đèn, lời dạy dỗ là ánh sáng, và lời quở trách bảo ban là đường dẫn tới sự sống (Cn. 6,23). Răn bảo và sửa lỗi là giúp nhau nên hoàn thiện. Đôi khi chúng ta ngại ngùng giúp người khác sửa lỗi. Vì nói lên sự thật thì hay mất lòng. Và cũng chẳng mấy ai muốn nghe những lỗi lầm của mình. Chúng ta thường chỉ nhận lỗi khi bị bắt quả tang hay có những vật chứng, nhân chứng sự thật. Một trong những lỗi mà con người hay phạm nhất đó là sự dối trá. Sự lừa dối được ẩn nấp sau nhiều chiêu bài. Dối trá gây ra biết bao bi kịch và thảm cảnh ở đời. Gây phá sản từ đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Có người hãnh diện vì mình đã gian dối vượt qua được nhiều nhân viên, cơ quan công quyền và chính phủ. Thiên hạ dối gian đủ điều để được lợi cho cuộc sống tạm này. Gian dối, lừa lọc đưa đến các thứ hàng giả. Giả dối quen rồi, chúng ta chẳng còn biết đâu là thật, là giả nữa. Lương tâm không còn bén nhậy với những phán đoán ở đời.
Chúng ta biết sự dối trá bắt nguồn từ ma qủy và sự dữ. Thư của thánh Phaolô gởi cho giáo đoàn Galata đã viết: Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối (Ga. 8,44). Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc của ma quỷ. Chúng ta sẽ được tự do trong lương tâm và sống trong sự bình an đích thực. Đầu mối của sự dữ đều bởi sự gian dối và lừa lọc mà ra.
Lắng nghe theo lời sửa dạy của người khác là một mối lợi. Sự sửa dạy sẽ làm cho chúng ta trưởng thành trong nhân cách, xử thế và sống đạo làm người. Chấp nhận lời sửa dạy sẽ giúp chúng ta nên người hơn: Yêu lời nghiêm huấn là yêu tri thức, ghét lời sửa dạy là dại dột ngu si (Cn. 12,1). Sự nhắc nhở, uốn nắn và hướng dẫn của người khác sẽ giúp chúng ta nên khôn ngoan: Kẻ ngu khinh lời cha nghiêm huấn, ai giữ lời sửa dạy sẽ nên khôn (Cn. 15,5). Kho tàng sự khôn ngoan nằm trong nền văn hóa, truyền thống và tục lệ của cha ông để lại. Hơn nữa chúng ta còn có nguồn mạc khải từ chính Thiên Chúa hướng dẫn con người qua các lời dạy dỗ trong Kinh Thánh: Người giữ lời nghiêm huấn thì đi trong sinh lộ, kẻ khinh lời sửa dạy ắt sẽ bị lạc đường (Cn. 10,17).
Chúa Giêsu đã không vị nể, Ngài đã thẳng thắn dạy dỗ và sửa lỗi các môn đệ. Khi Phêrô hiểu sai đường lối và ý định của Chúa: Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: "Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."(Mt. 16,23). Khi ra truyền đạo, ông Phêrô thường dùng bữa với dân ngoại nhưng khi các môn đệ khác đến, ông đã tránh né và tự tách mình ra. Phaolô đã thẳng thắn góp ý với Phêrô: Nhưng khi tôi thấy các ông ấy không đi đúng theo chân lý của Tin Mừng, thì tôi đã nói với ông Kêpha trước mặt mọi người: "Nếu ông là người Do-thái mà còn sống như người dân ngoại, chứ không như người Do-thái, thì làm sao ông lại ép người dân ngoại phải xử sự như người Do-thái? "( Gal. 2,14).
Kinh nghiệm trong cuộc sống đời thường, tất cả các vật dụng máy móc bị hư hay trục trặc nho nhỏ, chúng ta cần phải sửa chữa để có thể dùng lại. Nếu hư tới mức tàn tạ thì đành phải bỏ đi. Con người thể xác cũng có khi rơi vào những triệu chứng bất thường. Có những bất an trong cơ thể như lục phủ ngũ tạng bị khuất động, máu huyết không đều, xương cốt rụng rời, đau mình ê ẩm, nhức mỏi châu thân, tất cả đó là những triệu chứng bất thường, cần được khám bệnh và chữa trị. Về phần đời sống tinh thần và tâm linh thì rắc rối hơn nhiều. Chúng ta sống là sống cùng và sống với người khác nên có nhiều vấn đề nẩy sinh. Các lỗi lầm có thể gây nên qua tư tưởng, lời nói, thái độ và việc làm. Biết rằng con người lỗi phạm là truyện thường tình. Ai nói mình không phạm lỗi là người nói dối: Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta (1Ga. 1,10).
Không ai trong chúng ta là người chỉ đạo dẫn đường tuyệt hảo. Chúng ta cần học hỏi và chỉ bảo lẫn nhau. Nếu chỉ dựa vào sự hiểu biết và khả năng riêng của mình để phán đoán người khác, đôi khi chúng ta cũng bị sai lầm. Vì các quan điểm sống chỉ là tương đối theo sự hiểu biết của từng thời đại. Có điều đúng vào thời điểm này nhưng lại không thích hợp trong hoàn cảnh khác. Quan niệm sống của người Á Châu khác người Mỹ Châu, người Âu khác người Úc hay Ấn… Muốn sửa đổi, biến đổi hay thay đổi người khác theo tục lệ của mình thì không dễ. Dù sao đời sống nhân bản có những điểm chung về luật luân lý tự nhiên đã được khắc ghi trong tâm. Khi chúng ta hồi tâm dựa vào các giới răn của Chúa, chúng ta sẽ nhận ra có những lỗi lầm đối với chính bản thân, đối với người khác và đối với Thượng Đế. Mọi sai trái lỗi lầm đều có nguyên nhân và hậu qủa. Có những lỗi lầm gây hậu qủa không tốt cho tha nhân nên cần được sửa đổi. Chúng ta đừng khinh thường sự sửa dạy của kẻ khác: Kẻ rời xa đường ngay chính sẽ bị nghiêm trị, ai khinh thường lời sửa dạy sẽ phải mạng vong (Cn. 15,10). Hãy mang ơn những người dám nói sự thật và sửa dạy chúng ta. Sửa lại lỗi lầm là điều đáng khuyến khích.
Chúng ta không thể lên thiên đàng hưởng phúc một mình. Cần có tha nhân cùng tiến bước trong cuộc lữ hành trần thế. Giúp nhau nên công chính và hoàn thiện là trách nhiệm của mỗi người.Thánh Phaolô khuyên nhủ giáo đoàn Galata sống bác ái và nhiệt thành: Thưa anh em, nếu có ai vướng mắc tội nào, thì anh em, những người được Thần Khí thúc đẩy, hãy lấy tinh thần hiền hoà mà sửa dạy người ấy; phải tự đề phòng kẻo chính mình cũng bị cám dỗ (Gal. 6,1). Sửa lỗi cho anh chị em vừa là một trách nhiệm, bổn phận, việc bác ái và còn được công đức nữa. Thơ của thánh Giacôbê tông đồ khuyên dạy các tín hữu giúp đỡ anh chị em trở về: Thưa anh em, nếu có người nào trong anh em lạc xa chân lý và có ai đưa người ấy trở về, thì anh em hãy biết rằng: kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về, thì cứu được linh hồn ấy khỏi chết và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình (Giac. 5,19-20).
Chúng ta là chi thể trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta cùng tuyên xưng một niềm tin, một niềm hy vọng và cậy trông, cùng chia sẻ một tấm bánh và uống chung một chén rượu. Chúng ta có bổn phận xây dựng đời sống chung nên tốt hơn, hoàn hảo hơn và thánh thiện hơn. Lời cầu nguyện là máng chuyển cầu ơn Chúa xuống trên chúng ta. Ơn sủng của Chúa sẽ giúp chúng ta kết hợp nên một thân thể trong Chúa Kitô. Tin tưởng vào lời Chúa đã hứa: Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó (Mt. 18,19). Chúng ta cùng cầu nguyện để được ơn hiệp nhất và ơn bình an.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Bronx, New York
----------------------------------
Tình huynh đệ chân chính đòi hỏi các môn đệ của Đức Giêsu không được bỏ mặc một người anh em đi vào cuộc phiêu lưu nguy hiểm.
Lm. Vũ Phan Long, ofm
I. NGỮ CẢNH
Với ch. 18 của TM Mt, chúng ta đi vào Bài Diễn từ thứ tư, đề cập đến đời sống huynh đệ trong: TN 23-A61
Với ch. 18 của TM Mt, chúng ta đi vào Bài Diễn từ thứ tư, đề cập đến đời sống huynh đệ trong lòng Hội Thánh, cộng đoàn Kitô hữu. Bài Diễn từ được chia thành hai phân đoạn, phân đoạn thứ nhất đề cập đến “những kẻ bé mọn” (18,1-14) và phân đoạn thứ hai liên hệ đến “người anh em phạm tội” (18,15-35). Mỗi phân đoạn kết thúc với một dụ ngôn: con chiên lạc (18,12-14), và ông vua và người đầy tớ (18,21-35).
Sau đây là bố cục chung cho cả bài Diễn từ:
I. Mối quan tâm đến những kẻ bé mọn (18,1-14):
Người lớn và kẻ bé mọn (cc. 1-5),
Đừng khinh những kẻ bé mọn (cc. 6-10),
Kết luận bằng Dụ ngôn: Quan tâm đến những kẻ lầm đường lạc lối (cc. 12-14)
II. Kỷ luật và Tha thứ (18,15-35):
Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô (cc. 15-20),
Tha thứ không giới hạn (cc. 21-22),
Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (cc. 23-35).
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Kỷ luật của Giáo Hội (18,15-17);
2) Cầm buộc và tháo cởi (18,18);
3) Sự hiện diện của Đức Kitô (18,19-20).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Người anh em (15): Từ ngữ adelphos này nói về những người có liên hệ huyết thống trong một gia đình, nhưng cũng để gọi những người có tương quan với nhau trong một cộng đoàn thiêng liêng. Cũng như các “con cái Israel” thuộc về cùng một “nhà”, các môn đệ Đức Kitô, được quy tụ nhân danh Người, làm thành một “nhà thiêng liêng” (x. 1 Pr 2,5).
- phạm tội (15): TM Mt chưa bao giờ xác định rõ “phạm tội” ([h]amartanô) có nghĩa là gì. Dựa vào ngữ cảnh, một đàng độc giả liên kết động từ này với động từ “làm cớ cho sa ngã” (skandalizô; cc. 6.8-9), thì hiểu tội là một cái gì nghiêm trọng. Đàng khác, khi liên kết với truyện con chiên lạc, độc giả biết là tội có thể được tha thứ. Bản văn ở đây nói riêng đến tội của “người anh em”.
- sửa lỗi nó, một mình anh với nó (15): Đây không phải là một lời khuyên mới do sáng kiến của Đức Giêsu. Đọc Lêvi 19,17, chúng ta ghi nhận một quy định tương tự (“Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó”). Phái Êxêni ở Qumrân cũng có những lời dạy tương tự (Thủ bản kỷ luật 5,25 truyền: “Không ai được nói với anh em với sự giận dữ hoặc hiềm khích hoặc trịch thượng hoặc với trái tim cứng rắn hoặc tâm trí gian tà”. Xem thêm Văn kiện Đamát 9,2-8).
- chinh phục (15): Động từ kerdainô có nghĩa là “thủ đắc được, chiếm được” vật gì. Thường các bản văn Hy Lạp và Kinh Thánh không dùng cho nghĩa bóng là “chinh phục một con người”. Thế nhưng động từ này được dùng hai lần khi nói về sứ mạng của Hội Thánh sơ khai (1 Cr 9,19-22; 1 Pr 3,1).
- không nghe (17): Động từ parakouô có nghĩa là “nghe những gì không nhắm cho tai họ; nghe không đầy đủ; nghe không đúng đắn”, nên cũng có nghĩa là “không nghe; không vâng lời”.
- một người ngoại … một người thu thuế (17): Ở đây, hai hạng người được nêu ra với giọng miệt thị dưới cái nhìn thông thường, để làm biểu tượng cho những người ngoan cố, không có tinh thần phục thiện.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
Đức Giêsu không coi cộng đoàn các môn đệ như một hiệp hội các cá nhân, trong đó mỗi người có thể làm bất cứ điều gì mình muốn và chẳng có ai quan tâm đến ai cả. Người đã dạy rõ ràng đâu là cách xử sự bắt buộc đối với những ai đang bước theo Người. Bắt buộc bởi vì cần thiết để vào được Nước Trời (x. Mt 5,20; 7,21). Trong cộng đoàn các tín hữu, mọi người đều được liên kết vào các quy tắc chung này và mọi người phải cảm thấy mình có trách nhiệm về việc không được để một ai bị hư mất. Khởi đi từ mối quan tâm huynh đệ này, là một hình thái cốt yếu của tình yêu đối với người thân cận tùy thuộc ý muốn của Thiên Chúa, có thể là cần phải nhắc đến đòi buộc quan tâm đến một người anh em lầm lạc và mời người ấy hoán cải.
Đi trước các lời dạy về cách chăm sóc một người anh em có lỗi là một đoạn cho thấy sự quan tâm vô giới hạn của Thiên Chúa đối với mỗi một tín hữu, cho dù nhỏ bé nhất và không đáng kể gì (18,10-14). Mỗi con người có một giá trị vô song, bởi vì họ luôn luôn hiện diện trước mặt Ngài. Không một ai bị Thiên Chúa quên lãng một lúc nào cả; tình yêu cũng như sự trợ giúp của Ngài không hề phai nhạt đi.
* Kỷ luật của Giáo Hội (15-17)
Vấn đề là người anh em “phạm tội” (ho adelphos hamartêsê). “Tội” là một điều có tính trầm trọng, nhưng cũng là điều có thể được tha thứ. Những người có thể lấy sáng kiến can thiệp không phải là vì họ có trách nhiệm chính thức về cách thức mà các thành viên của Hội Thánh theo mà cư xử, nhưng bởi vì họ bị trực tiếp liên lụy đến do tội của người anh em (“đối với anh; chống lại anh”, eis se). Tuy thế, “tội” mà một thành viên phạm đối với một thành viên khác không phải là vấn đề riêng tư, không can dự gì đến Hội Thánh. Có một xác tín trong Kinh Thánh, trong Do Thái giáo và Kitô giáo là mỗi một tội đều ảnh hưởng đến toàn thể Hội Thánh.
Về mối quan tâm đến người anh em, phải nói là có nhiều cấp độ; nhưng dù ở cấp độ nào, sự quan tâm này cũng phải kín đáo, kiên nhẫn và thanh thoát khỏi mọi kiểu nhìn cá nhân riêng tư. Cách tốt nhất hẳn là tránh mọi cớ vấp phạm, bằng cách dàn xếp công chuyện giữa hai người: không có người chứng, người anh em có tội không bị ngượng ngùng. Vấn đề không phải là đề cập đến những thiếu sót của kẻ khác, nhưng là liên hệ với người đã sai lầm, để “tranh thủ” người ấy. Vậy, ở đây không được nóng giận (x. Lv 19,17). Câu Lv 19,17 đi trước điều răn về tình yêu đối với người thân cận ở Lv 19,18, để nói rằng việc khuyến cáo một người anh em Israel phải là cách diễn tả tình yêu đối với người thân cận và tình liên đới bên trong lòng Dân Thiên Chúa. Cách làm này có thể đạt một kết quả tích cực: “chinh phục (ekerdêsas) được người anh em” (x. 1 Cr 9,19-22; 1 Pr 3,1). Hẳn đây là đưa người anh em về lại với Dân Thiên Chúa hay với Hội Thánh.
Cấp độ tiếp theo tiên liệu có nhiều người khác can thiệp vào, khi việc đối thoại riêng tư không đạt kết quả (c. 16). Họ phải thuyết phục người có lỗi về sự thiếu sót đã xảy ra. Bằng cách đó, những người này cho thấy rõ ràng là lời nhắc nhở của người đầu tiên không phải chỉ là cái nhìn riêng tư cá nhân, nhưng cũng được các anh em khác chia sẻ. Như thế, càng rõ là cả người lầm lạc cũng như người nhắc nhở đều không được phán đoán theo các tiêu chuẩn chủ quan. Cả hai đều được tháp vào cộng đoàn các tín hữu, nên cả hai đều được liên kết vào những quy tắc mà Đức Giêsu đã ban cho cộng đoàn.
Tính cách cộng đoàn của đời sống Kitô hữu này và của các quy tắc của cộng đoàn càng hiển nhiên hơn nữa ở cấp độ thứ ba (c. 17). Nếu vụ việc không thể làm sáng tỏ giữa vòng ít người, “nếu nó không nghe (parakousê) họ”, thì phải đưa ra trước Giáo Hội (ekklêsia). Đây là cộng đoàn Kitô hữu địa phương, trong tư cách không tách biệt, nhưng được tháp vào trong Hội Thánh duy nhất mà Đức Giêsu đã thiết lạp trên “tảng đá” Phêrô (x. 16,18). Không phải là từng người Kitô hữu, nhưng là Hội Thánh mới có thể tuyên bố một phán đoán dứt điểm, nhằm nói rằng một hành vi có phù hợp hay không với các quy tắc của Hội Thánh. Ai không nghe lời có khả năng làm sáng tỏ của Hội Thánh, thì tự đặt mình ra ngoài Hội Thánh: “hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế”. Đây không phải là lời kết án chung cuộc, nhưng theo cái nhìn của các Kitô hữu gốc Do Thái vẫn trung thành với Lề Luật, là không còn gì để làm với người ấy nữa. Quả thế, người ta không thể cho rằng mình thuộc về một cộng đoàn, đồng thời lại từ chối các quy tắc điều hành và đảm bảo đời sống cho cộng đoàn ấy. Ở đây vấn đề không chỉ là vi phạm một quy tắc, mà là từ chối chính quy tắc do người ta chống lại phán đoán của Hội Thánh. Ai nhìn nhận mình sai lỗi và thiếu sót với quy tắc, thì được cứu (x. c. 15); ai từ khước quy tắc, thì rời bỏ cộng đoàn.
* Cầm buộc và tháo cởi (18)
Rất có thể câu nói về “cầm buộc và “tháo cởi” này đã thuộc về truyền thống có trước Mt. Nếu Hội Thánh có thể công bố một phán đoán dứt điểm về điều gì phù hợp và điều gì không phù hợp với lối sống của mình, là vì dựa trên quyền tháo cởi và cầm buộc Đức Giêsu đã ban (c. 18); quyền này phải được thực thi phù hợp với các cơ cấu mà Người đã ban cho Hội Thánh (x. 16,18t; 10,1-42; 28,16-20). Trong quyền này có hàm chứa khả năng biết cách thuyết phục bằng các quy tắc của Đức Giêsu, phán đoán cách đáng tin cậy các trường hợp riêng lẻ và cho thấy các ranh giới của sự thuộc-về Hội Thánh.
* Sự hiện diện của Đức Kitô (19-20)
Thêm vào nguyên tắc tổng quát của c. 18, một lần nữa (palin) tác giả nói đến một nguyên tắc về cơ cấu. Lời Đức Giêsu dạy về cầu nguyện chung và về việc hội họp nhân danh Người lại nêu bật tầm quan trọng của hành động chung (cấp độ thứ hai ở trên). Ý tưởng ở đây không phải là việc cầu nguyện chung thì quan trọng hơn việc cầu nguyện cá nhân. Tác giả chỉ muốn nói đến việc những người cầu nguyện đồng ý với nhau về điều mà họ đang cầu xin. “Hai” là số người tối thiểu có thể đồng ý hay không đồng ý về một điều gì. Vậy lời đáp cho việc cầu nguyện tùy thuộc tương quan giữa các thành viên trong Hội Thánh. Những lời thỉnh cầu chỉ tập trung vào cá nhân sẽ không được chấp nhận.
Ở cuối lênh truyền giáo, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 18,19t). Người ta sẽ không còn thấy được Người, nhưng Người sẽ hiẹn diện và hỗ trợ mạnh mẽ khi họ đi chu toàn lệnh Người truyền. Các môn đệ không bị bỏ mặc một mình, nhưng được Người để ý cùng đi với và giúp đỡ hữu hiệu. Người cũng hứa hiện diện như thế với những ai quy tụ lại nhân danh Người. Nguồn gốc và trung tâm của cuộc quy tụ là “danh Đức Giêsu”. “Danh” là chính bản thân Đức Giêsu mà các môn đệ đều quen biết; “nhân danh” có nghĩa là: vì tình yêu đối với Người, trong sự hiểu biết rõ ràng Người là ai và trong sự tuyên xưng về địa vị của Người. Đây là một cuộc quy tụ với ý thức sống động và tin tưởng vào ý nghĩa của Đức Giêsu và của tất cả những gì thuộc về Người, của sứ điệp và hành trình của Người. Các Kitô hữu quy tụ lại trong tinh thần này thì không bao giờ bị bỏ mặc cho chính mình, nhưng họ có Đức Giêsu ở giữa họ. Chính Người sẽ nâng đỡ sự hiệp nhất và hoạt động của họ.
+ Kết luận
Tình huynh đệ chân chính đòi hỏi các môn đệ của Đức Giêsu không được bỏ mặc một người anh em đi vào cuộc phiêu lưu nguy hiểm (“phạm tội”), nhưng phải hết sức cố gắng đưa họ trở lại với đường ngay nẻo chính. Đàng khác, do tôn trọng đặc tính bó buộc và cứu độ của sứ điệp của Đức Giêsu, trong Hội Thánh, ta không được tùy nghi xử sự theo bất cứ cách nào, nhưng phải tôn trọng những giới hạn, phải tiến hành theo những cấp độ khác nhau. Dù sao, tất cả những gì cổ võ sự hiệp nhất nhân danh Đức Giêsu thì đều có thể chắc chắn là sẽ được Thiên Chúa hỗ trợ đặc biệt, và như thế sẽ góp phần vào việc kiến tạo Hội Thánh.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Như người mục tử không bỏ rơi nhưng đi tìm một con chiên lạc, Thiên Chúa cũng không bỏ rơi bất cứ người nào. Trên nền tảng là cách hành động đó của Thiên Chúa, không một ai được phép nói về một người anh em: Tôi không quan tâm đến anh/chị ta! Trái lại, chúng ta buộc phải quan tâm đến người anh em chị em đi lạc. Chúng ta không được phép tránh né vì ích kỷ, lười biếng hay sợ hãi, hoặc bi quan về kết quả. Cũng không được rơi vào thái cực kia, đó là chỉ trích, trịch thượng và tự hào mình công chính.
2. Đức Giêsu tha thiết quy tụ những con người lại quanh Người để làm thành một cộng đoàn tín hữu và huynh đệ. Chúng ta nhớ: Đức Giêsu kêu gọi từng người để họ sống với nhau và cùng đi thi hành sứ mạng (x. Mt 4,18-25). Cách sống này ngược lại với cách mỗi người đi theo con đường của mình và không quan tâm đến đặc tính cộng đoàn của đời sống Kitô hữu (x. 18,15). Đàng khác, một nhóm lo lắng săn sóc một anh em có tội (c. 16) thì phải được quy tụ không phải nhân danh chính mình, nhưng nhân danh Đức Giêsu, để Cha Người sẵn lòng nhận các lời họ cầu xin.
3. Đức Giêsu không hề có ý đề nghị các thành viên trong cộng đoàn phải theo giám sát nhau và phân loại con người theo bậc thang giá trị luân lý. Các cách thức Người đề nghị chỉ là nhằm diễn tả đức bác ái. Chính Mt 18,14 cho ta hướng đúng để hiểu những lời khuyên này: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất”. Đây là bổn phận săn sóc anh em về mặt thiêng liêng. Giúp đỡ một người anh em chị em đang gặp khó khăn, chìa tay ra cho một người anh em chị em đang rơi vào tội lỗi, là một đòi hỏi của tình yêu, một sự trung thành với công trình của Đức Giêsu. Chúng ta chịu trách nhiệm về nhau.
4. Chúng ta đi cầu nguyện để thờ phượng Đức Giêsu hiện diện trong Lời Người và trong Thánh Thể, nhưng cũng là để gặp anh chị em để hòa với lời cầu nguyện của họ. Khi chúng ta khiêm tốn và sốt sắng hòa hợp tâm trí và giọng điệu với nhau mà cầu nguyện, chúng ta nên một trong Thân Mình Chúa Kitô, chúng ta làm thành Nhiệm Thể Đức Kitô.
Lm. Vũ Phan Long, ofm
----------------------------------
Chủ đề: Anh em sửa lỗi cho nhau "Nếu người anh em con trót phạm tội, con hãy đi sửa lỗi nó, một mình con với nó mà thôi..." (Mt 18,15)
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Nhân vô thập toàn", nghĩa là không ai trọn tốt trọn lành, nhưng ai cũng có lỗi lầm và khuyết: TN 23-A62
"Nhân vô thập toàn", nghĩa là không ai trọn tốt trọn lành, nhưng ai cũng có lỗi lầm và khuyết điểm. Nếu đố kỵ nhau thì những lỗi lầm và khuyết điểm của những cá thể sẽ làm khổ cho cả tập thể. Nhưng nếu tập thể đó là một cộng đoàn huynh đệ, thì người này phải lấy tình thương mà sửa lỗi người kia, cộng đoàn sẽ ngày càng tốt hơn, cuộc sống cộng đoàn sẽ ngày càng hạnh phúc hơn.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy ta phải sửa lỗi cho nhau cách nào. Và chúng ta hãy tha thiết xin Chúa giúp mỗi người chúng ta can đảm lấy tình thương mà sửa lỗi cho những anh chị em của ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Vì thiếu can đảm, chúng ta đã không dám sửa lỗi cho những anh chị em chúng ta.
Vì thiếu quan tâm, chúng ta bỏ mặc khi thấy một người trong cộng đoàn phạm lỗi.
Nhiều khi chúng ta không chú ý sửa lỗi, mà chỉ kết án anh chị em.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I Êd 33,7-9
Thiên Chúa đặt ngôn sứ Êdêkien như người lính canh, với nhiệm vụ vạch tội của kẻ gian ác. Nếu ngôn sứ nói mà nó không nghe, thì nó chịu trách nhiệm về tội của nó. Còn nếu ngôn sứ không vạch tội và kẻ gian ác phải chết, thì ngôn sứ phải chịu trách nhiệm về cái chết đó.
2. Ðáp ca Tv 94
Tác giả lên tiếng kêu gọi các anh em tín hữu của mình. Nhưng hình như tiếng của tác giả kêu vô ích trong sa mạc. Bởi thế tác giả mong rằng người anh em ý thức tiếng huynh đệ ấy cũng là tiếng nói của chính Chúa và đừng cứng lòng nữa.
3. Bài đọc II Rm 13,8-10
Thánh Phaolô chỉ cho tín hữu Rôma biết cốt lõi của mọi lề luật, đó là "yêu mến nhau". Ngài dùng hai kiểu nói: "Vì ai yêu người thì đã giữ trọn Lề luật"; "Yêu thương là chu toàn cả lề luật".
4. Tin Mừng Mt 18,15-20
Vấn đề được đặt ra là sửa lỗi anh em. Tuy nhiên cần phải phân biệt hai trường hợp: Trường hợp của đoạn Tin Mừng này liên quan đến lỗi có hại cho cộng đoàn, khi đó vì tinh thần anh em trong cộng đoàn ta phải đi sửa lỗi; còn trường hợp thứ hai được Thánh Matthêu ghi tiếp theo sau đoạn này (Mt 18,21-35) là lỗi giữa những cá nhân với nhau. Khi đó, giải pháp là tha thứ, tha "không chỉ 7 lần mà là 70 lần 7".
Vậy khi một người anh em làm điều gì đó sai lỗi có hại đến cộng đoàn thì Ðức Giêsu dạy ta phải sửa lỗi như thế nào? Căn bản là vẫn đối xử như "anh em". Chú ý trong đoạn Tin Mừng này, chữ "anh em" được lặp đi lặp lại rất nhiều lần. Diễn tiến từ kín đáo đến công khai: "riêng ngươi và nó" - "đem theo một hoặc hai người nữa" - "Trình với cộng đoàn" - "Kể nó như người ngoại và người thu thuế".
Mục đích sự can thiệp sửa lỗi này không phải là để kết án người anh em mình, mà là để thu phục, làm cho người anh em trở lại với cộng đoàn. Nếu được như vậy thì kể như "đã lợi được một người anh em".
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Tế nhị, khó khăn, nhưng cần thiết
Lời Chúa hôm nay trong bài Tin Mừng nhắc lại một vấn đề quan trọng nhưng rất tế nhị trong cuộc sống chung giữa con người với nhau: đó là việc sửa lỗi người khác.
Phải nói ngay rằng đó là một việc vô cùng tế nhị và hết sức khó khăn:
tế nhị về phía người được sửa lỗi
khó khăn về phía người sửa lỗi, muốn giúp người khác nên hoàn thiện.
Nói rằng đó là một việc tế nhị, vì thuốc đắng đã tật, lời thật mất lòng: muốn khỏi bệnh nhưng sợ uống thuốc vì thuốc đắng; muốn nói lên sự thật nhưng ngại không dám nói vì sợ mất lòng. Ðó là điều tế nhị thứ nhất. Ðiều tế nhị thứ hai ai cũng phải công nhận: Nhân vô thập toàn, người nào cũng có khuyết điểm, không ai vẹn toàn trăm phần trăm. Thế nhưng tâm lý tự nhiên người ta thường nói: đẹp đẽ khoe ra xấu xa che lại. Và không ai muốn vạch áo cho người xem lưng, vì ai cũng sợ người khác biết được khuyết điểm hay tính xấu của mình, tự nhiên ai cũng muốn người khác quên đi hay đừng nhắc tới quá khứ không đẹp của mình. Do đó việc sửa lỗi anh em gây khó khăn vì phía người sửa lỗi. Vì nếu không khéo hay vụng về cách nào đó thì anh em sẽ cho rằng chúng ta sửa lưng anh em chứ không phải sửa lỗi anh em, miệt thị, hạ giá anh em hơn là muốn anh em nên tốt. Và không khéo thì chúng ta sẽ bị anh em mắng lại: Chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người. Thậm chí có khi lại bị anh em dùng chính Lời Chúa để "phang" lại: "Hãy lấy cái đà khỏi mắt anh đã"
Việc sửa lỗi anh em thật tế nhị và khó khăn. Nhưng Lời Chúa hôm nay xác định cách rõ ràng: sửa lỗi anh em là một hành vi tích cực của đức Bác Ái, vì sửa lỗi anh em là để cho anh em được nên hoàn thiện hơn. Ðối với người có trách nhiệm hay bề trên sửa lỗi bề dưới còn là một điều cần thiết và là một bổn phận nữa.
Sửa lỗi anh em trong đức ái không có nghĩa là
dò xét bới móc, vạch lá tìm sâu, bé xé ra to, ít xít ra nhiều.
kể ra lỗi lầm của anh em với bất cứ ai.
Sửa lỗi anh em trong đức ái là ý thức rằng tôi cũng có lỗi lầm, tôi cũng đầy khuyết điểm và tôi cũng cần người khác sửa lỗi.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta được đầy tràn Thánh Thần tình yêu Thiên Chúa, vì chỉ có Chúa Thánh Thần mới là Ðấng duy nhất "sửa lại mọi sự trong ngoài chúng tôi".
Xin cho chúng ta được tràn đầy Thánh Thần Chúa để khiêm tốn chấp nhận những sửa sai, những chỉ bảo của người khác về những lỗi lầm, thiếu sót của ta.
Xin cho chúng ta được tràn đầy Thánh Thần Chúa để chúng ta có thể nói thẳng nói thật những lỗi lầm của nhau mà không làm thương tổn tình đoàn keết thân ái và mối dây thông cảm yêu thương.
Xin Chúa cho chúng ta hiểu được một lời kia của Tuân Tử nói rằng: Kẻ khen ta mà khen thật mới chỉ là bạn ta. Kẻ chê ta mà chê thật là thầy ta. Còn kẻ nịnh hót, tâng bốc ta là những kẻ chỉ làm hại đời ta mà thôi.
Lạy Chúa, hình như chúng con chỉ thích những lời khen và hình như chúng con thích nhất những lời nịnh hót tâng bốc, và chúng con không thích mấy, hay rất sợ, thậm chí rất ghét những ai sửa lỗi chúng con. Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết chọn lựa một thái độ đúng đắn qua Lời Chúa dạy hôm nay. (Lm Ðoàn vĩnh Thịnh. Chánh xứ An Lạc, trong CgvDt số đặc biệt Giáng sinh '95, trang 244-245)
2. Hai từ ngữ chói sáng
"Nếu người anh em của anh phạm lỗi..."
Từ sáng chói thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay là từ "anh em". Tại sao tôi phải đi gặp người vừa phạm lỗi nặng? Bởi vì người ấy là anh tôi, em tôi. Chúng tôi là con cùng một cha. Người anh em ấy đang mắc sai lầm. Nhưng tôi không đến để "vạch mặt chỉ tên" mà đến nói chuyện tay đôi trong tình anh em, chỉ cho anh ta biết đâu là phải đâu là quấy. Tôi đến với anh như người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm và chăm sóc con chiên lạc.
Nếu biện pháp nói chuyện tay đôi cũng không có kết quả, thì tôi sẽ nhờ đến cộng đoàn. Ðây là biện pháp mà chỉ Tin Mừng theo thánh Matthêu mới có. Tin Mừng của ngài viết cho những tín hữu là người Do Thái. Họ đã thuộc luật Do Thái. Theo sách Thứ luật, viết trước Ðức Giêsu cả 6 thế kỷ, thì khi luận tội một người phải có ít là hai ba nhân chứng. Biện pháp tiếp theo cũng chỉ có trong Tin Mừng Matthêu: "Nếu anh ta không nghe cộng đoàn, thì hãy kể như anh ta là một người dân ngoại, một người thu thuế".
Biện pháp sau cùng xem ra khắc nghiệt. Phải chăng đây là biện pháp loại trừ? Chúa có loại trừ dân ngoại và người thu thuế bao giờ đâu. Vả lại hãy nhớ đến dụ ngôn người con hoang đàng, hãy nhớ đến thái độ của người cha đối với nữa con hoang đàng và hợp ý cầu nguyện cùng Cha cho người anh em được mau quay về đoàn tự trong nhà Cha.
Như vậy từ chói sáng thứ hai trong bài Tin Mừng hôm nay là từ "Cha". Chúa nói: "Nếu hai người trong anh em họp nhau để cầu xin gì cùng Cha, thì họ sẽ được điều đó nhân danh Thầy". Lời Chúa còn mời gọi chúng ta nhận ra sự hiện diện âm thầm của Chúa: "Khi hai hay ba người họp lại nhân danh Thầy, thì sẽ có Thầy ở đó". Cùng với Chúa, cả cộng đoàn thiết tha cầu mong cho người anh em trở về, thì nhất định anh ta sẽ trở về, vì cảm được nỗi chờ mong đau đáu của Cha, giữa họ. (Trích báo CgvDt, số đặc biệt Giáng sinh '98, trang 258-259)
3. Dám sửa lỗi anh em là dấu hiệu của một tình thương cao độ
Thương ai thật là muốn điều tốt cho người đó. Muốn điều tốt cũng có nghĩa là không muốn điều xấu. Vậy nếu ta thương người anh em mình thật thì khi thấy người anh em mình sai lỗi, ta phải tìm đủ cách để cứu người anh em ấy ra khỏi lỗi lầm.
Việc sửa lỗi cho anh em cũng khó khăn và thậm chí đau khổ, đau đớn. Cũng giống như nhảy vào lửa để cứu người.
Nếu không thương thì không nhảy vào lửa. Dám nhảy vào lửa là dấu hiệu của tình thương lớn lao.
4. Chuyện minh họa
a/ Sửa lỗi cách tế nhị
Ðức Hồng y Roncalli (sau là Giáo hoàng Gioan 23) ngày kia dự tiếp tân bên cạnh một nữ công tước mặc chiếc váy cực kì ngắn. Ngài tỏ vẻ khó chịu bằng cách suốt bữa tiệc làm như không biết bà. Cuối bữa, ngài đưa cho bà một trái táo. Rất hân hạnh, bà nói:
- Tôi không biết phải cám ơn ngài thế nào. Nhờ đâu tôi được ngài ưu ái như thế?
Ngài chăm chăm nhìn bà rồi nói:
- Sau khi Evà ăn quả táo, bà ta mới nhận ra là mình thiếu quần áo.
b/ Người anh em
Nạn đói xảy ra trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoy, đang đi ngang qua đó. Tolstoy dừng lại, lấy tiền cho nhưng không tìm được đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc: " Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng đem theo gì". Mặt người ăn xin sáng lên và nói: "Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà rất lớn rồi!"
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Thánh Phaolô dạy: "Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái. Vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật". Với quyết tâm sống bác ái yêu thương, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1. Ðời sống của Hội Thánh phải luôn phản ánh trung thực đới sống yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị Mục tử / luôn nhẫn nại và hiền hòa / nhưng cương quyết khi phải sửa chữa lầm lỗi của anh em mình.
2. Ngày nay / một số người / nhất là các thanh thiếu niên / do ảnh hưởng của những băng hình xấu / cổ võ bạo lực / thích dùng bạo lực để giải quyết những mâu thuẫn bất hòa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / biết lấy tình bác ái mà giải quyết những xích mích trong cuộc sống thường ngày.
3. Lòng bác ái thật không chỉ là giúp đỡ vật chất / hay an ủi người khác khi họ gặp hoạn nạn / nhưng còn là sửa dạy khi thấy họ lỗi lầm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bậc cha mẹ / cũng như những người có trách nhiệm đối với cộng đoàn / biết can đảm và khôn khéo sửa dạy con cái / và những người dưới quyền khi thấy họ lỗi lầm.
4. Ðức Giêsu luôn chúc lành / và hiện diện giữa những ai có cùng một niềm tin / họp nhau để cầu nguyện / hay tham dự các nghi lễ phụng vụ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn hiểu được điều đó và có những tâm tình xứng hợp.
CT: Lạy Chúa Cha nhân lành, sửa lỗi cho nhau để giúp nhau nên tốt là một trong những bổn phận quan trọng của từng người trong chúng con. Xin ban cho chúng con lòng khiêm tốn thật để chúng con có thể vui lòng đón nhận những lời góp ý xây dựng của anh chị em chúng con. Chúng con cầu xin nhờ...
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
----------------------------------
Chủ đề: "Các Kitô hữu có bổn phận giúp đỡ anh chị em mình làm điều thiện."
Lm. Mark Link, SJ
Một phụ nữ làm việc ở nhà hàng tiếng tăm nọ từng tuyên bố không theo tôn giáo nào cả, có nói: TN 23-A63
Một phụ nữ làm việc ở nhà hàng tiếng tăm nọ từng tuyên bố không theo tôn giáo nào cả, có nói với một vị linh mục: "Thưa cha, tôi không muốn làm cha thất vọng, nhưng trong số kẻ bê bối nhất tôi từng gặp trong nghề nghiệp của tôi lại có những Kitô hữu rất siêng năng đi nhà thờ".
Linh mục đáp lại: "Đúng vậy, trong số các Kitô hữu không may vẫn có những người tồi tê, không khác gì trong số những người ngoài cũng có những người tồi tệ như vậy".
Người phụ nữ liền đáp: "Thưa cha, thế thì không phải các Kitô hữu vẫn được xem là đặc biệt hơn sao?".
Vị Linh mục bùôn bã nhìn bà ta nói: "Đúng thế, đúng thế, họ được xem là phải sống tốt hơn!"
Cuộc đàm thoại trên hẳn khiến anh chị em ngạc nhiên. Các Kitô hữu thường xuyên đi nhà thờ hẳn khác hơn những kẻ không đi nhà thờ chứ ? Chúng ta hãy xem xét ba trường hợp sau:
Một tay bán vé cho tuyến xe đưa đón ở phi trường nói với một ông bố: "Thưa ông, con trai ông có vẻ trẻ hơn tuổi của nó: ông nên mua nửa vé thôi. Nếu tài xế có hỏi, ông cứ nói là thằng bé dưới 12 tuổi. Như thế ông sẽ đỡ tốn vài đola!" Giả sử anh chị em là ông bố ấy, anh chị em sẽ trả lời người bán vé thế nào?
Rồi một trường hợp khác. Một bà mẹ bắt gặp đứa con gái 5 tuổi của mình cầm một cây kẹo mà nó ăn cắp được sau khi từ siêu thị ra. Giả sử anh chị em là bà mẹ ấy, anh chị em sẽ làm gì?
Và đây trường hợp sau cùng. Giả sử nghe đứa bạn thân nhất của con bạn nói với nó: "Nếu mày cần hỏi bất cứ câu gì trong kỳ thi toán, mày cứ ra dấu cho tao". Đặt trường hợp thằng bé ấy là con của anh chị em, thì anh chị em sẽ cứ tiếp tục đọc báo hay sẽ đặt báo xuống và nói chuyện với cả hai cậu bé?
Tôi không biết anh chị em sẽ xử lý thế nào trong những trường hợp như thế, nhưng tôi biết rõ Chúa Giêsu sẽ xử lý thế nào. Câu trả lời ấy được tìm thấy trong các bài đọc hôm nay. Cả ba bài đều tập trung vào bổn phận hỗ tương của người Kitô hữu phải có đối với nhau. Các Kitô hữu không chỉ phải làm điều thiện mà còn phải giúp đỡ kẻ khác làm điều thiện nữa. Chúa Giêsu bảo các môn đệ: "Các con là muối đất... các con là ánh sáng thế gian... Ánh sáng các con phải chiếu tỏa trước mặt thiên hạ" (Mt 5: 13-16).
Chúng ta hãy trở lại với ba trường hợp trên. Câu trả lời của người Kitô hữu đối với từng trường hợp trên như thế nào? Một kẻ theo Chúa Giêsu sẽ nói gì với người bán vé xe là kẻ đã nói với ông bố nọ: "Ông cứ nói với tài xế xe là thằng bé con ông dưới 12 tuổi?" Trường hợp này thực sự đã xảy ra ở Chicago. Ông bố ấy đã trả lời làm sao? Ông ta bảo với người bán "Tôi rất trân trọng hảo ý của ông, nhưng tôi muốn con tôi chân thực dù điều đó gây bất lợi cho nó". Còn bà mẹ bắt gặp đứa con gái của mình ăn cắp cây kẹo đã xử lý như thế nào? Đây cũng là một câu chuyện có thực đã xảy ra. Cây bút của tờ báo Dallas Morning News (Tin tức Dallas buổi sáng) khi thuật lại câu chuyện trên đã nói rằng bà mẹ nọ đã bảo đứa bé trả lại cây kẹo cho vị quản đốc, và ông này nói: "Ôi đừng lo gì chuyện đó. Nó có đáng gì đâu. Đám nhân viên mỗi ngày ăn cắp của tôi nhiều hơn thế nhiều!".
Như tay viết báo kể lại, đây thực là một câu trả lời khó tin nổi. Viên quản đốc đã gây cho cháu bé ấn tượng ăn cắp chả quan trọng gì nếu đó chỉ là một vật nhỏ mọn. Thực sự dù là ăn cắp vật lớn hay nhỏ thế nào đi nữa thì ăn cắp vẫn luôn luôn là điều xấu.
Và cuối cùng hãy xét đến trường hợp thằng bạn của đứa con trai chúng ta đồng ý gian lận để giúp đỡ con trai ta trong bài thi toán. Jerome Weidman, tác giả cuốn "Hand of the Hunter" (Tay người thợ săn) khi còn bé từng can dự vào một trường hợp như trên. Ông kể lại cách đây 30 năm, ông vào học ở một trường công Nữu Ước. Bà giáo dạy toán lớp ba của ông tên là bà O' Neill. Ngày nọ bà ra cho lớp một bài thi. Khi chấm bài bà nhân ra 12 cậu trai đã trả lời sai một cách giống y như nhau đối với cùng một câu hỏi. Qua ngày sau, bà yêu cầu 12 cậu bé ấy ở lại lớp sau khi tan học. Sau đó, không hề kết tội đứa nào, bà chỉ viết lên trên bảng câu này: "Tính chân thực của một người được thể hiện trong những điều kẻ ấy sẽ làm dù biết rằng không bao giờ bị ai bắt gặp". Đoạn bà ghi tên tác giả câu nói trên: Thomas Babington Macaulay. Weidman viết: "Tôi không rõ về 11 cậu kia ra sao, chỉ có đứa một trong số đó là chính tôi, có thể nói rằng: Đây là bài học đơn sơ nhưng quan trọng nhất trong đời tôi".
Như thế chúng ta đã thấy ba mẫu người Kitô giáo xử lý như thế nào trong ba trường hợp khác nhau trên. Ba Kitô hữu này đã lưu tâm đến lời giáo huấn của Chúa Giêsu dạy phải giúp đỡ anh chị em sống cuộc sống Kitô hữu. Ba Kitô hữu này đã nghiêm chỉnh chấp nhận lời Chúa Phán với Êdekien trong bài đọc thứ nhất hôm nay: "Nếu... ngươi không răn dạy kẻ xấu thay dổi cách ăn ở của nó thì Ta sẽ qui trách nhiệm cho ngươi". Ba Kitô hữu này đã nghiêm chỉnh chấp hành lời thánh Phaolô gởi tín hữu Roma trong bài đọc thứ hai hôm nay: "Nếu anh em yếu mến kẻ nào, anh em sẽ không bao giờ làm hại kẻ ấy". Và cuối cùng, ba Kitô hữu nầy cũng đã nghiêm chỉnh tuân theo lời Chúa Giêsu trong phúc âm hôm nay; "Nếu anh em ngươi phạm lỗi với ngươi, hãy đến gặp nó và chỉ cho nó biết lỗi lầm của nó. Tuy nhiên phải làm điều ấy một cách âm thầm giữa ngươi và nó thôi".
Như thế ba Kitô hữu nêu trên đã gây ấn tượng như thế nào cho những người nghe họ nói? Tôi xin được lập lại điều Jerome Weidman đã nói: "Tôi không rõ về 11 cậu kia ra sao, chỉ biết một đứa trong số đó là chính tôi, thì tôi có thể nói rằng: Đây là bài học đơn sơ nhưng quan trọng nhất trong đời tôi".
Eđmun Burke có nói: "Chỉ cần những người tốt cứ giữ yên lặng, là điều xấu sẽ tăng triển ngay"
Trong những trường hợp trên, ba Kitô hữu nọ đã không giữ yên lặng. Họ mời gọi chúng ta noi gương họ.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ghi lòng tạc dạ những lời Chúa kêu gọi chúng con đi theo làm môn đệ Ngài:
"Các con là muối đất, nếu muối nhạt đi thì lấy gì ướp nó mặn lại được. Nó chẳng còn ích gì chỉ đáng quẳng ra ngoài cho người ta chà đạp lên đó. Các con là ánh sáng thế gian, một thành xây trên núi không thể giấu được. Không ai đốt đèn rồi đặt dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn để soi cho mọi người trong nhà. Cũng thế, ánh sáng các con phải toả chiếu trước mặt mọi người để họ trông thấy việc các con làm mà ngợi khen Cha các con, là Đấng ngự trên trời" (Mt 5: 13-16).
Lm. Mark Link, SJ
----------------------------------
Phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay làm nổi bật tình liên đới giữa các phần tử của một cộng đoàn. TN 23-A64
Phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay làm nổi bật tình liên đới giữa các phần tử của một cộng đoàn. Thực vậy, một cộng đoàn du lớn hay nhỏ, không phải lúc nào cũng chỉ có những con người tốt lành và thánh thiện. Trái lại rất nhiều kẻ cũng đã sai lỗi, cũng đã đi ngược lại với đường lối và chủ trương. Vậy trong những hoàn cảnh như thế, chúng ta sẽ phải xử trí ra làm sao?
Nhiều người, trong chúng ta chủ trương trong một khuynh hướng cực đoan, đó là phải loại trừ tức khắc những kẻ phạm lỗi ra khỏi cộng đoàn, với nhiều lý do xem ra chính đáng: Nào là để giữ uy tín cho cộng đoàn, nào là để duy trì sự thánh thiện của cộng đoàn, nào là để ngăn đe cho tội lỗi khỏi lây lan.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nghĩ và đã hành động một cách khác. Đối với Người vấn đề chính yếu đó là phải làm thế nào cho kẻ phạm tội biết ăn năn trở lại. Người đã từng tuyên bố Người đến vì những con chiên lạc, để họ biết tìm về đường ngay nẻo chính. Người đến để đem lại sự sống chứ không phải cái chết. Lần kia người ta dẫn đến trước mắt Người một phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang. Chiếu theo luật lệ hiện hành, thì chị sẽ bị ném đá cho đến chết. Còn Chúa Giêsu thì khác, thay vì ném đá, Người đã nói lên những lời tha thứ: Con hãy về và đừng phạm tội nữa.
Tính cách lành mạnh của một cộng đoàn không dựa trên sự thánh thiện của mỗi người, nhưng dựa trên mối quan hệ giữa các người trong cộng đoàn có khả năng làm cho kẻ phạm tội chỗi dậy, dựa trên một tình liên đới huynh đệ.
Tuy nhiên nói thế không có nghĩa là bao che, là xí xoá. Tin Mừng cho chúng ta thấy một cuộc đấu tranh bền bỉ trong tình huynh đệ, nhưng không khoan nhượng. Khởi đầu bằng sự sửa lỗi giữa hai người với nhau, để giữ uy tín cho kẻ phạm lỗi trước mặt cộng đoàn khi họ trở lại. Vấn đề không phải là phạt, mà là sửa. Nếu không có kết quả, thì việc sửa lỗi sẽ được thực hiện với sự chứng kiến của người thứ ba. Và nếu kẻ phạm lỗi vẫn tứ tiếp tục ngoan cố, thì vấn đề sẽ được đưa ra cộng đoàn và nếu cũng không có kết quả, thì bấy giờ kẻ phạm lỗi mới bị coi như không còn thuộc về cộng đoàn nữa.
Những bước đi này cho thấy một sự kiên nhẫn, cũng như tính cách quyết liệt đối với những sai lỗi. Bằng sự sửa lỗi, chúng ta giúp nhau thăng tiến bản thân. Đồng thời đó cũng là cách thức chúng ta cộng tác với nhau để xây dựng Giáo Hội.
----------------------------------
Lm. Ignatiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIII nầy nêu bật một chủ đề: SỬA LỖI CHO NHAU: TN 23-A65
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIII nầy nêu bật một chủ đề: SỬA LỖI CHO NHAU.
Ed 33: 7-9
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thi hành sứ vụ bên cạnh đồng bào của mình trong cùng cảnh ngộ lưu đày như ông ở Ba-by-lon (đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên). Ông cảm thấy mình chịu trách nhiệm về cách ăn nếp ở của anh em mình.
Rm 13: 8-10
Thánh Phao-lô khuyên bảo các tín hữu Rô-ma thực hành tình tương thân tương ái. Bổn phận duy nhất, món nợ duy nhất mà chúng ta phải có đối với anh em đồng loại là Đức Ái.
Mt 18: 15-20
Trong Tin Mừng, thánh Mát-thêu trích dẫn những lời của Đức Giê-su mời gọi các Ki-tô hữu đừng để cho một người anh em nào của mình phải hư mất mà không tìm cách sửa lỗi cho người ấy, nhiều lần nhiều cách, với sự tế nhị cần thiết.
BÀI ĐỌC I Ed 33: 7-9
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào cuối thế kỷ thứ bảy và đầu thế kỷ thứ sáu sau Công Nguyên. Vào lúc đó, hoàn cảnh đất nước thật bi thảm. Vương quốc Giu-đa bị họa diệt vong. Vua Na-bu-cô-đô-nô-so chiếm thành thánh Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất vào năm 598-597 và bắt đi lưu đày một phần lớn dân cư, nhất là thành phần ưu tú. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc trong số những người lưu đày đầu tiên nầy. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu bên cạnh những đồng bào lưu đày của ông cho đến khi qua đời, vào năm 571 trước Công Nguyên.
Ê-dê-ki-en trước khi ngôn sứ, đã là tư tế, vì thế, ông mang lấy ở nơi mình vừa tinh thần ngôn sứ vừa tinh thần tư tế. Bản văn mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật nầy làm chứng điều nầy. Trách nhiệm ngôn sứ và trách nhiệm tư tế thành một bất khả phân ly ở nơi ông.
Bối cảnh là làng Tel-Avi bên bờ sông Cơ-va không xa Ba-by-lon, nơi vị ngôn sứ cùng với một số người đồng hương sống trong cảnh lưu đày. Từ các biến cố, ngôn sứ Ê-dê-ki-en biết rút ra bài học. Các ngôn sứ đã kêu gọi vua, bậc vị vọng và toàn thể dân chúng hoán cải, nhưng lời của các ngài không được lắng nghe, vì thế sự trừng phạt bất ngờ giáng xuống trên họ. Nét độc đáo của sứ điệp mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi đến nhấn mạnh “trách nhiệm của mỗi cá nhân”. Đó là ýý nghĩa lời kêu gọi của Đức Chúa mà chúng ta đọc trong đoạn văn nầy.
1. “Hỡi con Người”:
Diễn ngữ “con người” là đặc ngữ Sê-mít, có nghĩa đơn giản là “một con người”, “một cá nhân”, như trong câu: “Hỡi con người. Trong câu này, diễn ngữ “con người” quy chiếu đến chính vị ngôn sứ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thường sử dụng đặc ngữ này để nhấn mạnh: Thiên Chúa là Đấng ngàn trùng chí thánh, trước Ngài con người chỉ là một phàm nhân mõng dòn, yếu đuối và tội lỗi (6: 1-6). Mỗi lần Thiên Chúa ủy thác cho ông sứ điệp của Ngài, Ngài đặt ông vào chỗ của ông để ông khỏi phải tự cao tự đại về những thị kiến hay xuất thần mà Thiên Chúa gởi đến cho ông. Vị ngôn sứ phải tự xoá mình như một kẻ vô danh tiểu tốt.
2. Người canh gác:
“Ta đặt ngươi làm người canh gác nhà Ít-ra-en”. Những hình ảnh: “người canh gác”, “người canh thức”, “truyền lệnh sứ” rất quen thuộc trong Cựu Ước để chỉ ngôn sứ. Ở đây, vị ngôn sứ được Thiên Chúa công bố là “người canh gác nhà Ít-ra-en”. Người canh gác đứng trên vọng gác tường thành có nhiệm vụ canh chừng tai họa sắp xảy đến mà cảnh giác dân thành kịp thời. Vì thế, vai trò của ngôn sứ không chỉ truyền đạt sứ điệp mà còn cảnh báo, đe dọa để kêu gọi dân chúng hối cải ngỏ hầu tránh những án phạt.
Xa hơn một chút, chính Ê-dê-ki-en gợi lên sứ vụ ngôn sứ của ông thật giản dị: “Phần ngươi hỡi con người, con cái dân ngươi bàn tán về ngươi dọc theo các bức tường và trước các cửa nhà. Chúng bảo nhau, người nọ nói với người kia: ‘Nào chúng ta đến nghe xem Đức Chúa phán thế nào!’. Chúng đến với ngươi đông như trẩy hội. Dân Ta ngồi trước mặt ngươi; chúng nghe các lời ngươi nói…” (Ed 33: 30-32). Chính trong những cuộc chuyện trò thân quen và gần gũi như vậy mà vị ngôn sứ mới có thể ngỏ lời với từng người một những lời cảnh báo trong tình huynh đệ.
3. Bổn phận đối với anh em mình:
Đối với dân Ít-ra-en, chết không gì khác hơn là đánh mất ân huệ của Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi thiện hảo. Cựu Ước thường trình bày những huấn lệnh của Thiên Chúa trong viễn cảnh của một sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết, hạnh phúc và bất hạnh, lời chúc phúc và lời nguyền rủa (x. Đnl 30: 15-20; Hc 15: 15-16).
Ê-dê-ki-en là vị ngôn sứ đầu tiên nhấn mạnh sự thưởng phạt cá nhân: “Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết; con không mang lấy tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con” (Ed 18: 20). Số phận của mỗi người không phải luôn luôn bất di bất dịch như đinh đóng cột: người công chính có thể trở thành tội nhân; kẻ tội lỗi cũng có thể hoán cải trở thành người công chính.
Từ đó, ông nhấn mạnh trách nhiệm của người biết huấn lệnh của Thiên Chúa và luật luân lý của Ngài, người ấy có bổn phận phải giúp anh em mình biết biện phân tỏ tường, nếu không, đừng nghĩ là mình vô can trước sự hư mất của anh em mình: “Nếu Ta bảo đứa gian ác: “Tên gian ác kia, nhất định mi phải chết”, mà ngươi không nói để cảnh cáo nó phải từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó, đứa gian ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu của nó, Ta sẽ đòi ngươi”. Sứ vụ của vị ngôn sứ cốt yếu ở nơi hành động nầy mà Đức Giê-su sẽ đích thân căn dặn các môn đệ của mình.
BÀI ĐỌC II Rm 13: 8-10
Chúng ta tiếp tục đọc phần luân lýý của thư gởi tín hữu Rô-ma. Thánh Phao-lô vừa mới nêu lên những bổn phận công dân mà người Ki-tô hữu phải phục tùng: vâng lời chính quyền dân sự, nộp thuế. Dù phải chu toàn tất cả những nghĩa vụ công dân nầy, chúng ta vẫn phải là những kẻ mắc nợ đối với anh em đồng loại: món nợ tương thân tương ái không bao giờ hoàn tất được.
1. Yêu người theo Cựu Ước:
“Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì yêu mến người, thì chu toàn lề luật”. Thập giới mời gọi phải tôn trọng nhân phẩm của tha nhân và của cải của họ như tội ngoại tình, tội sát nhân, tội trộm cắp…, nhưng không hàm chứa một cách minh nhiên bổn phận yêu người. Yêu người được sách Lê-vi 19: 18 công bố và được thánh Phao-lô trích dẫn: “Ngươi phải yêu anh em đồng loại như chính mình”.
2. Yêu người theo Tân Ước:
Theo Cựu Ước, “anh em đồng loại” trước hết là những người cùng chung một dân tộc, đồng bào. Đức Giê-su đã mở rộng huấn lệnh yêu người đến tất cả mọi thành viên cộng đồng nhân loại, không có bất kỳ ngoại trừ nào, thậm chí phải yêu thương kẻ thù nữa. Thánh Phao-lô nêu lên không chỉ luật Mô-sê, nhưng cũng luật Đức Ái Ki-tô giáo nữa. Thánh nhân không đề cập đến huấn lệnh thứ nhất: “mến Chúa”, vì lời khuyên bảo của thánh nhân nhắm đến đức ái huynh đệ. Vì thế, huấn lệnh yêu người bất khả phân ly với huấn lệnh mến Chúa, từ mến Chúa mà yêu người được khơi nguồn. Nếu yêu người vô giới hạn, chính là theo gương của Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người khôn cùng. Ở đây, bằng thể thức đóng khung, vị sứ đồ nhấn mạnh yêu người là “chu toàn lề luật” (13: 8 và 9).
TIN MỪNG Mt 18: 15-20
Trong chương 18 nầy, thánh Mát-thêu tập hợp những huấn lệnh mà Đức Giê-su đã ngỏ lời với Nhóm Mười Hai, cộng đồng đầu tiên của Giáo Hội Ngài, về đời sống huynh đệ trong lòng Giáo Hội. Chương 18 này có thể chia thành hai phần: phần thứ nhất (18: 1-14) bắt đầu với “những kẻ bé mọn” và kết thúc với dụ ngôn “con chiên lạc”; phần thứ hai (18: 15-35) bắt đầu với việc “sửa lỗi cho anh em” và kết thúc với dụ ngôn “tên mắc nợ không biết xót thương”. Đoạn Tin Mừng hôm nay thuộc phần thứ hai, ở đó Chúa Giê-su chỉ cho các môn đệ cách thức sửa lỗi cho nhau trong đức ái.
1. Sửa lỗi anh em:
Việc Đức Giê-su mời gọi các môn đệ sửa lỗi cho nhau đã được Luật Mô-sê đề cập đến như được ghi trong sách Lê-vi: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó” (Lv 19: 17). Câu trích dẫn nầy đặt liền sau huấn lệnh: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19: 18). Như vậy, sửa lỗi cho anh em thuộc về luật đức ái.
Theo truyền thống Do thái giáo, người ta không được truy tố kẻ phạm tội mà không cảnh báo trước trong chốn riêng tư. Vào thời Chúa Giê-su, các kinh sư phàn nàn là người ta không thực hiện tập tục tốt đẹp nầy. Đức Giê-su phục hồi tập tục nầy trong tinh thần yêu thương. Ngài đề nghị ba giai đoạn trong việc sửa lỗi huynh đệ.
Sửa lỗi anh em trong cuộc gặp gỡ riêng tư chỉ giữa hai người, không ai khác hay biết.
Nếu lần đầu tiên không có kết quả, tiếp tục lần thứ hai với sự hiện của một hay hai người khôn ngoan để kẻ sai lạc thấu tình đạt lý. Biện pháp nầy tránh cho tội nhân khỏi bị sỉ nhục ở nơi cộng đoàn.
Nếu lần nầy cũng thất bại, lúc đó mới thưa với cộng đoàn. Nếu người anh em nầy không chịu nghe cộng đoàn, chỉ lúc đó người nầy mới có thể bị khai trừ hay bị kể như một người dân ngoại hay một người thu thuế, tức là một người ngoan cố, không có tinh thần phục thiện, mà người ta tránh giao tiếp.
Với những lời khuyên sửa lỗi cho nhau theo ba giai đoạn như trên, chắc chắn Chúa Giê-su muốn dự phòng các môn đệ của Ngài – sau họ, các cộng đoàn Kitô hữu – tránh tất cả mọi hình thức khai trừ một thành viên quá tàn nhẫn. Nhưng Ngài còn muốn hơn nữa rằng chúng ta noi gương vị mục tử nhân lành ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Chắc chắn không phải là ngẫu nhiên khi những lời khuyên nầy theo liền ngay dụ ngôn “con chiên lạc”. Giáo Hội phải bày tỏ sự ân cần như thế đối với người lỗi phạm.
2. Viễn cảnh Giáo Hội:
Đức Giê-su định vị bổn phận sửa lỗi anh em và những biện pháp kỷ luật mà cộng đoàn Ki-tô hữu áp dụng trong khung cảnh thiết lập Giáo Hội Ngài. Chính như vậy mà Ngài mở rộng năng quyền, mà trước đây Ngài đã trao phó cho thánh Phê-rô, bây giờ cho Tông Đồ Đoàn: “Tất cả những gì dưới đất anh em cầm buộc, trên trời cũng cầm buộc như vậy; tất cả những gì dưới đất anh em tháo cởi, trên trời cũng tháo cởi”. Và Ngài sẽ tái khẳng định năng quyền nầy cho họ sau khi Ngài phục sinh (Ga 20: 23).
Đức Giê-su thêm vào ở đây một lời hứa khác: Ngài sẽ luôn luôn hiện diện ở giữa các tín hữu của Ngài khi họ họp nhau lại mà cầu nguyện, dù chỉ hai hay ba người đi nữa. Cha Ngài, Đấng ngự trên trời sẽ lắng nghe và đáp trả lời cầu xin của họ, bởi vì Đấng cầu bầu cho họ không ai khác ngoài “Đức Giê-su đích thân ở giữa họ”. Khi đặt tính hiệu lực của lời cầu nguyện như thế vào trong văn mạch sửa lỗi cho anh em, chắc chắn Chúa Giê-su nhắm đến không chỉ việc tiến hành sửa lỗi cho anh em theo ba giai đoạn, nhưng còn phải cầu nguyện cho anh em lỗi phạm nữa, ngõ hầu nhờ ơn Chúa mà anh em nhận ra và sửa lỗi để cộng đoàn không phải mất bất cứ người anh em nào. Tấm lòng của vị mục tử nhân lành là không muốn bất cứ con chiên nào phải hư mất.
Lm. Ignatiô Hồ Thông
----------------------------------
Lm. Vũ Đình Tường
Người Thiên Chúa giáo Việt Nam có thói quen gọi người không cùng tôn giáo với mình là: TN 23-A66
Người Thiên Chúa giáo Việt Nam có thói quen gọi người không cùng tôn giáo với mình là ‘người ngoại’. Kiểu gọi vắn tắt này gây hiểu lầm cho các tôn giáo bạn. Khi dùng từ ‘người ngoại’ người nói ngụ ý chỉ người đó là người ngoài Thiên Chúa Giáo. Trong khi người nghe lại hiểu từ ‘người ngoại’ là người ngoại giáo, không có đạo. Cách hiểu thông thường, bình dân này gây tai hại trong tôn giáo. Có người đặt vấn đề không lẽ chỉ có Thiên Chúa giáo mới là đạo còn các tôn giáo khác đều không phải là đạo. Thực ra từ nguyên thuỷ ‘người ngoại’ không có ý nói người khác vô đạo hay coi thường các tôn giáo khác mà chỉ muốn nói người đó ngoài tôn giáo với mình. Kinh Thánh dùng từ ‘người ngoại’ khác với cách hiểu thông thường chung trong đại chúng.
Kinh Thánh dùng từ ‘người ngoại’ với hai ý. Ý thứ nhất chỉ những người không cùng tôn giáo Kitô. Ý thứ hai chỉ những Kitô hữu không sống theo tinh thần Phúc Âm, thiếu yêu thương và tha thứ. Họ sống trong cộng đoàn nhưng hành xử như người ngoài cộng đoàn. Đức Kitô còn dùng hình ảnh khác nói đến các Kitô người ngoại, đó là hình ảnh sói đội lốt chiên làm công việc cắn phá, âm thầm giết hại chiên. Bởi vì chúng mặc áo chiên nên khó nhận ra tính lang sói ẩn núp sau dáng điệu hiền từ của chiên. Chỉ sau khi trở thành nạn nhân lúc đó chiên mới nhận ra tính lang sói. Khi đã là nạn nhân thì không còn tư thế để phanh phui tính lang sói. Cũng có thể chiên bị chết còn đâu cơ hội để báo cho cộng đoàn biết sói đang sống giữa bầy chiên.
Như vậy trong đoàn chiên luôn có sói trá hình, đội lốt. Trong cộng đoàn Kitô hữu luôn có ‘người ngoại’ sống chung. Kitô hữu trở thành ‘người ngoại’ khi Kitô hữu chọn lối sống theo ý riêng mình. Bề ngoài thì họ là Kitô hữu như những người khác nhưng bên trong họ không có chất Kitô hữu trong mình. Chính vì thế mà khó phân biệt ai là Kitô hữu chân chính; ai là Kitô hữu ngoại lai. Kitô hữu ngoại lai sống chung với các Kitô hữu chân chính, ăn nói như những Kitô hữu chân chính. Họ cũng nhân danh cộng đoàn nói về Chúa, cũng nói về yêu thương, bác ái, cũng đôi khi, thỉnh thoảng tham dự thánh lễ, sinh hoạt chung trong cộng đoàn, đôi khi họ còn hăng say tranh đấu dành quyền lợi cho cộng đoàn. Những sinh hoạt trên có thể qua mặt, làm cho một số người hiểu lầm họ là Kitô hữu chân chính. Thực ra họ là Kitô hữu ngoại lai. Họ qua mặt loài người mà không thể qua mặt Đức Kitô, Đấng không nhìn bề ngoài mà thấu suốt bên trong tâm hồn con người. Đại đa số chúng ta đánh giá người khác qua việc đạo đức mà quên phần thánh thiện. Đức Kitô không nhìn người khác bằng hành động đạo đức bên ngoài. Ngài nhìn phần đạo đức xuất phát từ trong tâm hồn. Đạo đức đến từ tâm hồn được gọi một từ riêng là thánh thiện. Đạo đức bề ngoài không giúp cho người đó nên thánh. Chỉ có phần đạo đức thực sự đến từ trong tâm hồn, phần thánh thiện mới giúp cho Kitô hữu nên thánh. Đạo đức thánh thiện thực sự được thánh Phaolô nhắc lại điều Chúa dậy tóm gọn trong giới luật yêu thương.
Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật. Đó là: Chớ ngoại tình; chớ giết người; chớ trộm cắp; chớ làm chứng gian; chớ mê tham... Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình. Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác Rm13,8-10
Câu đáp ca trong thánh lễ hôm nay cho biết dấu chỉ của Kitô hữu chân chính là Kitô hữu có lối sống khiêm nhường.
Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Các ngươi đừng cứng lòng ( c. 8).
Kitô hữu ngoại lai là Kitô hữu nghe tiếng Chúa nhưng vẫn cứng lòng. Như thế nào là cứng lòng, biến hoá, thoái hoá thành Kitô hữu dân ngoại. Phúc âm đưa ra thí dụ sau.
Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.Mt 18,15tt.
Kitô hữu không nghe lời giáo huấn của người lãnh đạo cộng đoàn trở thành Kitô hữu ngoại lai, chọn sống theo lối sống riêng, thích đấu tranh. Kitô hữu phạm lỗi mà từ chối nghe sửa dậy thì không thể là Kitô hữu chân chính. Bởi Kitô hữu chân chính khi lỗi phạm họ nghe theo lời chỉ dậy, sửa sai. Kitô hữu dân ngoại thiếu tinh thần khiêm nhường. Từ chối nghe theo hướng dẫn của người lãnh đạo cộng đoàn. Coi mình quan trọng hơn cả mọi người. Sống trong cộng đoàn để lợi dụng cộng đoàn làm bàn đạp gây thanh thế cho mình thì không thể coi là thành tâm phục vụ cộng đoàn.
Chúng ta hãy xin ơn chớ cứng lòng khi nghe tiếng Chúa.
Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Đừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta. Tv 94,9.
Lm. Vũ Đình Tường
----------------------------------
Lm. Nguyễn Đức Vinh Sanh
Khuyên hay không khuyên, đâu là giải pháp của người đời, với vần thơ? Giải hay không giải: TN 23-A67
Khuyên hay không khuyên, đâu là giải pháp của người đời, với vần thơ? Giải hay không giải, vẫn là quyết định của cộng đoàn đấng bậc khôn ngoan đầy kinh nghiệm, trong chung sống. Khuyên và giải, còn là ý tưởng chủ lực của trình thuật, rất hôm nay.
Trình thuật hôm nay, là của thánh Mát-thêu được Phụng vụ Hội thánh rút tiả làm nền hầu khuyên giải thành viên nào đang có vấn đề tranh chấp. Trích đoạn, lấy từ chương 18 có những lời giải khuyên hãy nên sống như Đức Chúa, Đấng từng lân la sống với cộng đoàn đồ đệ thân thương, rất quí mến.
Cộng đoàn thánh Mátthêu xưa có các thành viên người gốc Do thái sống ở Antiôkia. Trước đó, cộng đoàn vẫn sống ở vùng phụ cận thành đô Giêrusalem, chốn đào tạo thành viên chuyên nghiệp, rất đạo hạnh. Khi người La Mã tìm đến bách hại, cộng đoàn này đã phải rời thôn làng mình làm dân lưu lạc ngay trong chốn phồn hoa thị thành mang tên Antiôkia, nơi hội ngộ của nền văn hoá giao lưu Âu Á, thời xưa cũ.
Bên trong khu nhà đầy cách biệt, là chốn tách bạch khỏi người Do thái tin vào Đức Giêsu. Vì sự tách bạch này, nên thường xảy đến nhiều cãi tranh, tị nạnh giữa kẻ tin Chúa và người chẳng biết tin vào điều gì. Vào ai. Khiến đôi đàng không thể hoà hợp, chung sống. Từ đó, vì có khó khăn, nên kẻ tin vào Chúa cũng bớt đi sinh hoạt đạo hạnh như trước. Và sự thể ấy dẫn đến tình huống rắc rối với cộng đoàn.
Đó là lý do khiến có nhiều người đến với thánh sử Mát-thêu để được tư vấn về các nguyên tắc chủ chốt khả dĩ giúp họ trở thành cộng đoàn lành thánh sống trong môi trường dù đổi mới. Đây, còn là nguồn hứng khởi khiến thánh sử viết lên chương sách mang nhiều ý nghĩa để rồi tóm kết bằng hai nguyên tắc chính cho cộng đoàn lấy đó mà sống. Nguyên tắc, là: trong cộng đồng dân Chúa không thể và không nên có một ai thấy mình bị lạc lõng. Và, nguyên tắc thứ hai, là: trong cộng đoàn tình thương làm con Chúa, không thể và không nên có thành phần nào bị bỏ rơi, quên lãng. Hoặc, hư mất.
Thánh sử còn quả quyết: giả như cộng đoàn quyết tâm tuân thủ hai nguyên tắc làm nền để sống chung, thì mọi sự cũng sẽ đâu vào đó. Bằng không, chẳng có gì chứng tỏ họ là cộng đoàn Kitô-hữu, đúng ý nghĩa cả. Đó là qui định tư riêng. Qui định đòi chúng dân phải sống, không như thể chế nguội lạnh, mà là gia đình ấm cúng, rất anh em. Đó, cũng là đề nghị được thánh Mát-thêu đặt ở Tin Mừng chương 18. Rủi thay, các đấng bậc chủ quản phụ trách chọn bài đọc cho Phụng vụ Chúa nhật, lại không mấy chú tâm đến ý nghĩa trọn vẹn trong chương này từng qui định.
Ở đầu chương này, đã thấy nổi lên một tham luận, có Chúa dự. Tham luận này xoay quanh câu mà các môn đệ cứ là hỏi nhau: “Ai là người lớn nhất ở Nước Trời, đây? “(Mt 18: 1) Nếu tưởng tượng, người đọc sẽ thấy đồ đệ Chúa quây tụ thành vòng tròn ngồi ở sân làng rồi kháo láo với nhau: “Rồi, Thầy sẽ cho ta biết ai là người lớn nhất. Và, đâu là tiêu chuẩn để định ra người lớn nhất Nước Trời? Chúa chẳng nói gì. Ngài chợt thấy một bé em đang nghịch đất, Ngài bảo bé đến ở giữa vòng tròn, rồi bảo:“Nếu anh em không như trẻ bé mọn, sẽ chẳng vào Nước Trời.” (Mt 18: 3). Và, thánh Mát-thêu triển khai thêm ý nghĩa “nên như trẻ bé mọn”.
“Trẻ bé mọn” đây, nên hiểu theo nghĩa biểu tượng. Bởi thời xưa, ”trẻ bé mọn” không khi nào mang ý nghĩa của những ngây thơ, trong trắng hoặc nét đẹp không hao mòn như ở Anh thời nữ hoàng Victoria. Với thế giới Híp-ri, thì “trẻ bé mọn” là biểu tượng của những kẻ không có quyền, dù quyền hành hay quyền lợi. “Trẻ bé mọn”, là những người nghèo hèn. Là, kẻ bị quên lãng, bỏ ngoài bên xã hội.
Với cộng đoàn Kitô hữu, những người ăn trên ngồi chốc, các bậc vị vọng, đạo hạnh, quyền thế, giàu có, chẳng bao giờ là “trẻ bé mọn” bị quên lãng, hoặc hư mất hết. Như Chúa nói: “Anh em chớ nên khinh thị một ai trong đám trẻ bé mọn này…Con Người đến để cứu cái gì hư mất.”(Mt 18: 10).
Thế nên, nguyên tắc làm “nền” cho cộng đoàn Nước Trời người tín hữu Đức Kitô, là: đón mừng” “trẻ bé mọn”. Nói vắn gọn, thì như thế cũng đủ. “Mừng đón” là câu nói đầu chỉ một hành xử đúng đắn. “Đón mừng”, phải là hành xử rất ban đầu và trước tiên của cộng đoàn. Chí ít, là cộng đoàn dân con của Chúa. Mừng-đón-trẻ-bé-mọn, không là đón mừng các đấng toàn năng, toàn thiện. Mà là, mừng và đón những kẻ sẽ chẳng-bao-giờ-trở-nên-toàn- thiện, tuyệt vời. Đây, là sinh hoạt vào lúc đầu của cộng đoàn dân con Đức Kitô. Cung cách ta mừng đón “trẻ bé mọn” phải khác cung cách đón mừng, rất chung chung. Tức, ta phải mừng đón những “trẻ bé mọn” không hoàn chỉnh, khi họ lạc lõng, hư mất. Đón và mừng những con người bị đồng hoá với “trẻ bé mọn” như thế, tức là không được phép để người ấy lạc lõng, bị bỏ rơi, hư mất.
Ai trong chúng ta thực sự, và trên thực tế, từng lạc lõng? Nói nôm na, thì thế này: sống trong cõi đời nhiều bon chen/tranh chấp, ta phải định ra chỗ đứng của mình. Phải biết mình đang ở đâu. Làm sao để người khác tìm ra mình hoặc mình tìm ra người khác đang lạc lõng, hư mất? Đó là kinh nghiệm ban đầu. Đó là cung cách sống để ta luôn tìm thấy những “trẻ bé mọn” sống dưới mức hưởng được may mắn với mọi quyền lợi. Thế nên, ta cũng hiểu được tại sao lại gọi những “trẻ bé mọn” ấy là kẻ lạc lõng, hư mất. Trong khi, họ là người lẽ ra không đáng bị ta quên lãng, coi thường. Họ phải được ta mừng đón và kiếm tìm một cách tích cực, để rồi ta đưa họ vào tận trung tâm điểm của cộng đoàn. Nếu không làm thế, thì không thể và không đáng gọi là thành viên cộng đoàn Kitô-hữu, tức cộng đoàn không có ai và không một ai bị lạc lõng, hư mất.
Đối chọi lại hành xử mừng đón trẻ bé mọn, là cản trở trẻ lạc lõng, hư mất. Cản trở, được coi như một hành động bỉ ổi. Rất tai tiếng. Cản trở tức trở thành sỏi cát lọt trong giầy của trẻ bé hèn mọn vậy. Những người là sỏi cát cản trở bước đi của bọn trẻ bé, lại chính là những người mắc lỗi nặng trong chung sống. Sống rất chung, đời cộng đoàn dân con của Chúa. Người cản trở trẻ bé mọn như thế, chỉ đáng cột cổ vào đá, quăng xuống biển, một hình phạt dành cho lỗi phạm, cũng khá nặng.
Bởi thế nên, thánh Mát-thêu mới tóm tắt giới lệnh căn bản, trong 10 giới lệnh yêu thương bằng câu: “Không được nên cớ vấp phạm cho người nào trong các “trẻ bé mọn” tin vào Ta” (Mt 18: 6-8). Và cả câu 14: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không hề có ý để ai trong những trẻ bé mọn này hư mất.”
Nguyên tắc thứ hai cho cộng đoàn chung sống cũng gần giống như nguyên tắc đầu. Tức, trong cộng đoàn Kitô-hữu ta chung sống, không ai được phép có hành xử với mọi thành viên khác như người hư mất, khó thứ tha. Một trong cung cách bị coi là lạc lõng, hư mất, tức là không thể tha thứ cho người ấy. Trong cộng đoàn Hội thánh, không thể có động thái giống như thế. Đó là ý tưởng mà thánh Mát-thêu còn viết nhiều ở các chương đoạn kế tiếp.
Tựu trung, ý tưởng mà thánh nhân muốn nhấn mạnh, là: hãy ra đi mà tìm kiếm những “trẻ bé mọn” đem họ về lại với cộng đoàn. Công tác này, không thể là động thái bốc thăm, may rủi, được. Nhưng, phải là mục tiêu hành động. Là, hành xử mang tính cách xuyên suốt, rất văn hoá. Là, mục tiêu phải đạt chứ không là động thái thích thì làm không thích thì thôi. Thời buổi hôm nay, còn rất nhiều “trẻ bé mọn” đang lạc lõng bằng cách này hay cách khác qua cách hành xử của ta và “trẻ bé mọn” dễ bị cuốn hút vào chốn “hư mất”, nếu ta không ngó ngàng gì đến họ. Và, vấn đề là hỏi: ta có bỏ công đi tìm những người như thế, mà đưa về “ràn chiên” Hội thánh không?
Tại thành đô Giêrusalem hôm nay, có khu tưởng niệm “những trẻ bé mọn” bị lạc lõng/hư mất trong lò thiêu sống. Bên trong khu này, là phòng tối có những đốm sao lấp lánh chiếu lên ảnh hình và tên tuổi của từng bé em bị lạc lõng, thân hư nát.Và, có cả tiếng giọng ở hậu trường gọi tên em bằng tiếng Aram tựa hồ tiếng của Cừu mẹ Rachel gọi cừu con đang bị lạc. Chính đó, là ý nghĩa của trích đoạn trình thuật mà thánh sử Mát-thêu, xưa nay muốn diễn tả.
Thánh Hội của ta hôm nay có đang cuồng điên gọi tìm “trẻ bé mọn” đang đi lạc, ở đâu không? Gọi và tìm, như ý tưởng của thánh sử Mát-thêu từng ghi chép? Có hay không, cũng nên tự hỏi: cho đến nay ta đã bao lần ;à hạ sỏi trong giầy của trẻ bé mọn? Ngày hôm nay, ta có cảm nghiệm sống thực hiện nguyên tắc/lý tưởng này trong thể chế có tổ chức thành cộng đoàn không? Nếu chưa, thì ta có ý định bắt đầu ngay chưa?
Là thành viên Hội thánh lớn/nhỏ, câu hỏi ấy đã trở thành vấn nạn gửi đến cho người. Cho mình.
Trong tâm tình tìm câu trả đáp cho thoả đáng, cũng nên tìm nguồn hứng khởi ở câu thơ, rằng:
“Lời khuyên không chạm đến tim đau.
Tim đau sẽ vọt ngàn tia máu.
Đọng lại muôn ngày vết hận sâu…”
(Nguyễn Bính – Cầu Nguyện)
Nhà thơ đời vẫn hỏi, như một lời nguyện cầu. Cầu mọi người. Nguyện ở mọi nơi. Cả những nơi có con tim không “vọt ngàn tia máu” xót thương. Tia máu yêu thương những là tìm đường mà mở rộng vòng tay đó những “trẻ bé rất mọn hèn”, còn lưu lạc ở nhiều nơi.
lm. Nguyễn Đức Vinh Sanh
----------------------------------
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Có ai trong chúng ta dám cho mình là người thập tòan không ? Những người có lương tri chắc không: TN 23-A68
Có ai trong chúng ta dám cho mình là người thập tòan không ? Những người có lương tri chắc không ai dám khẳng định như thế vì đặc tính này chỉ dành riêng cho Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối. Ý thức về thân phận thực tế của con người, Elbert Hubbard đã phát biểu rất xác đáng:”Người nào cũng là kẻ chí ngu ít ra trong năm phút mỗi ngày. Bậc thánh hiền là kẻ cố gắng và thành công trong sự không để cái ngu của mình vượt qua thời hạn ấy”. Như vậy, sai lỗi và lầm lỗi là một thực trạng của con người trong xã hội, trong cộng đòan. Và nếu đã sai lỗi thì cần phải được sửa lỗi để trở nên tốt hơn.
Thực ra, sửa lỗi cho nhau là một trách nhiệm của mỗi người trong cộng đòan, chứ không phải là một công việc tùy ý hay chỉ dành cho những ai có thẩm quyền. Bởi vì lỗi lầm của cá nhân ảnh hưởng tai hại đến đời sống chung và gây sứt mẻ tình đòan kết giữa các thành phần. Hơn nữa, một cộng đòan không bao giờ gồm tòan những người tốt lành thánh thiện cả, trái lại, vẫn còn những phần tử bất hảo, cố chấp, lầm lạc. Vậy phải đối xử thế nào đối với những người có lỗi?
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói lên nhu cầu phải sửa lỗi cho nhau theo ba bước: từ sửa lỗi giữa hai người, tới việc cần có 2, 3 người làm chứng, và sau cùng đưa người ấy ra trước mặt Hội thánh. Tuy nhiên, trong bất cứ hòan cảnh nào, người ta phải giữ tinh thần bác ái huynh đệ, mục đích giúp người có lỗi ý thức về sai lầm của mình mà sửa đổi. Thái độ trong khi sửa lỗi là luôn phải yêu thương, kính trọng và cầu nguyện cho họ.
I. MỌI NGƯỜI ĐỀU SAI LỖI
1. Lời khẳng định
Người ta thường nói:”Nhân vô thập toàn”: Không ai dám bảo mình là không có lỗi, không có những sai phạm trong đời sống thường ngày. Thánh nhân cũng phải nhận là người có lỗi. Chính vì vậy mà ông Elbert Hubbard đã nói:” Người nào cũng là kẻ chí ngu ít ra trong năm phút mỗi ngày. Bậc thánh nhân là kẻ cố gắng và thành công trong sự không để cái ngu của mình vượt qua thời hạn ấy”.
Thánh Gioan tông đồ khẳng định:”Ai nói mình không có tội, đó là kẻ nói dối và sự thật không ở trong họ” (Ga 1Ga 1,10). Thánh Phaolô tông đồ cũng nói tương tự:”Tôi ăn ở như một người ngu, còn sự lầm lạc của tôi thì vô kể” (Ep 4,11).
2. Từ chối nhận lỗi
Tuy biết mình có nhiều lỗi lầm nhưng không mấy khi thành thật nhận lỗi bởi vì tính tư ái dâng cao khiến người ta chối bỏ lầm lỗi của mình, nhất là khi người ta nhắc đến những lỗi lầm ấy. Đây chính là chứng bệnh gia truyền, từ đời Nguyên Tổ. Ông bà Nguyên Tổ đã phản bội Chúa. Nhưng khi Ngài ngự đến hỏi ông, thì ông nói:
Lỗi là do bà ấy.
Hỏi bà, bà nói:
Lỗi là do con rắn ấy.
Ông cũng như bà, bà cũng như ông, không ai chịu nhận trách nhiệm cả.
Phải chi ngay lúc bấy giờ, hai ông bà biết uốn đầu gối xuống đất, có lẽ Thiên Chúa chưa hất đổ vườn địa đàng đi và nhân loại sẽ được thoát cảnh lầm than điêu đứng.
Truyện: Không nhận lỗi
Dale Carnegie nổi tiếng về những sách học làm người, đã viết:”Tôi đã phải phấn đấu gần một phần ba thế kỷ mới thấy được ánh sáng chân lý này: dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội”.
Bà đã kể trường hợp về ba tên đầu đảng bọn cướp nổi tiếng nhất nước Mỹ: Crowley, Capone và Schultz.
Crowley giết người như ngóe mà vẫn nói:”Dưới lớp áo này, trái tim ta đập chán ngán, nhưng thương người không muốn làm hại ai“.
Capone đã tự tuyên bố:”Ta dùng những năm tươi đẹp nhất trong đời để mua vui cho thiên hạ. Vậy mà phần thưởng chỉ là bị chửi, bị săn bắt như thú dữ”.
Schultz đã tự mãn khoe mình với ký giả:”Ta là ân nhân của thiên hạ”(Dale Carnegie, Đắc nhân tâm, tr 33-3).
II. NHU CẦU PHẢI SỬA LỖI
Trước hết sự sửa lỗi cho nhau là một trách nhiệm của mỡi người trong cộng doàn, chứ không phải là công việc tùy ý hay chỉ dành cho những ai có thẩm quyền. Bởi vì lầm lỗi của cá nhân ảnh hưởng tai hại đến đời sống chung và gây sứt mẻ tình đoàn kết liên đới giữa các thành phần . Hơn nữa, một cộng đoàn không bao giờ gồm toàn những người tốt lành thánh thiện cả, trái lại vẫn còn những phần tử bất hảo cố chấp, lầm lạc.
Trong cách sửa lỗi người ta hay nói:”Yêu con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”(Tục ngữ). Chúng ta nghĩ thế nào trong việc sửa lỗi theo câu tục ngữ này ?
Cho roi: nghĩa là dùng hình phạt theo pháp luật.
Trước những lỗi phạm, những tội ác, có nhiều hình phạt khác nhau như: phạt tiền, phạt lao động, cải tạo, khổ sai, bắt tù, tra tấn, tịch thu của cải, lưu đầy biệt xứ hoặc tử hình như pháp luật vẫn làm.
Cho ngọt: nghĩa là dùng những biện pháp êm nhẹ, dụ dỗ, dẫn bảo, khen thưởng, ca tụng ngọt ngào hay nuông chiều buông thả như chủ trươhg của nhà giáo dục của J.J. Rousseau.
Cả hai cách giáo dục đó: một đàng thái quá vì hạ nhục phẩm giá con người, một đàng bất cập vì buông xuôi theo khả năng dục vọng biến thành thứ vô giáo dục và nguy hơn nữa tăng bốc tính kiêu ngạo.
(Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm A, tr 154-155)
Việc sửa lỗi cho anh em là cần thiết nhưng lại là một vấn đề rất khó khăn và tế nhị:
Tế nhị về phía người được sửa lỗi.
Khó khăn về phía người sửa lỗi, muốn giúp người khác nên hoàn thiện.
Người ta thường nói:”Thuốc đắng đã tật, lời thật mất lòng”(Tục ngữ). Không ai muốn người khác nhắc đến lỗi lầm của mình nhưng dù sao cũng phải uống thuốc đắng cho đã tật, cho mình biết sửa lỗi lầm của mình. Kinh nghiệm cho hay: người đứng ra sửa lỗi rất ngại ngùng, một đàng vì người có lỗi không muốn nghe, một đàng chính người sửa lỗi người khác cũng cảm thấy e ngại vì nhớ đến lời Chúa phán:”Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt anh đã”.
Nhưng dù sao, Lời Chúa hôm nay xác định cách rõ ràng: sửa lỗi anh em là hành vi tích cực của đức Bác ái, vì sửa lỗi anh em là để cho anh em được nên hoàn thiện hơn. Đối với người có trách nhiệm hay bề trên thì sửa lỗi bề dưới còn là một điều cần thiết và là bổn phận nữa. Chúa khuyên chúng ta phãi sửa lỗi cho nhau vì đó là điều cần thiết cho đời sống cộng đoàn, nhưng chúng ta phải đề phòng, tránh thái quá cũng như bất cập. Trong việc sửa lỗi đó, chúng ta có hai thái độ trái ngược nhau:
Giây mình vào hết mọi công việc của người khác, tự phong mình làm cảnh sát, kiểm soát mọi công việc của người ta, làm cho người ta mất tự do.
Không quan tâm đến ai cả, một mình mình biết, một mình mình hay, sống chết mặc bay. Đây là thái độ lãnh đạm đối với mọi người, thái độ này cũng hàm chứa tính ich kỷ.
III. PHẢI SỬA LỖI NHƯ THẾ NÀO ?
Theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn việc sửa lỗi anh em phải trở thành một cuộc vận động tiệm tiến gồm có ba bước:
] Bước 1: Giữa ngươi với nó (Mt 18,15). Bước một là nói chuyện riêng, kín đáo giữa một người anh em với một người anh em mà anh có quyền mong đợi sự giúp đỡ ngược lại trong trường hợp chính anh ta lầm lỗi. Đó không phải là hạ nhục người tội lỗi, nhưng là giúp anh nhìn ra lỗi lầm.
Một cuộc hoà giải thực sự luôn luôn đòi có một tiếp xúc cá nhân bằng cách nào đó. Giáo hội luôn ý thức về tầm quan trọng của tiếp xúc này. Chính vì thế, ở mọi thời, dù phép cáo giải có mặc hình thức nào đi nữa, vẫn luôn luôn dành chỗ cho một đối thoại cá nhân.
] Bước 2: Nếu bước 1 không đem lại kết quả mong đợi, sẽ sang bước 2. Trong bước 2 này sẽ có 2 hoặc 3 nhân chứng, theo đề nghị của sách Đệ nhị luật (St 19,1) như đã được thực hành, dưới sự chứng giám của Phaolô, trong cộng đoàn tín hữu tại Côrintô (2Cr 13,1). Sự hiện diện của các nhân chứng bảo đảm cho tính khách quan, đồng thời đưa vào đó một yếu tố cộng đoàn, dù luôn luôn kín đáo.
] Bước 3: Nếu vẫn không có kết quả, ta còn một phương thế cuối cùng: đưa ra trước Giáo hội: trình bầy sự việc trước cộng đoàn Giáo hội.
Nếu tội nhân từ chối nghe Giáo hội, thì, theo như bài Tin mừng, “Ta hãy coi họ như người ngoại và người thu thuế”. Một công thức dứt khoát không phải là một khinh miệt hoặc kết án: Đức Giêsu đã trở nên “bạn bè với những người thu thuế” kia mà. Công thức ấy chỉ tuyên bố rằng người tội lỗi tự loại mình ra khỏi cộng đoàn và Giáo hội chỉ chứng nhận sự tách lìa này, và sẵn sàng đón nhận lại người mà một ngày nào đó, hy vọng thế, sẽ được ơn thánh thay đổi, giải phóng (Fiches dominicales, năm A, tr 281-282).
IV. THÁI ĐỘ KHI SỬA LỖI
Henry Ford nói:”Đừng chỉ lo tìm lỗi lầm nhưng hãy tìm cách chữa trị”. Nói cách khác, sửa lỗi là một việc rất tế nhị và rất khó, làm sao cho người được sửa lỗi dễ dàng đón nhận sự sửa lỗi ấy ? Chúng ta tạm đưa ra ba thái độ căn bản này:
1. Yêu thương:
Hãy bầy tỏ lòng thương yêu họ. Hãy nghĩ rằng đây là một cách giúp đỡ anh em nên tốt hơn: đừng lên án, chỉ trích gay gắt, nhưng luôn tế nhị, dịu dàng. Tán dương ưu điểm của họ, và cho họ thấy việc sửa đổi lỗi lầm cũng dễ dàng thôi.
Truyện: Đức Giám mục đi kinh lý.
Trong quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây: Một hôm, khi Đức Giám mục A-mo-la đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bầy tỏ với ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống. Vị ẩn tu này đã không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án:”Hôm nay ngài đã đến đây thì ngài phải giải quyết dứt khoát tình trạng bê bối này gây nhiều gương xấu của vị ẩn sĩ trên núi kia”. Sau khi nghe những lời kết án gay gắt của dân làng, Đức Giám mục quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình thì hoảng sợ và bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một chiếc thùng rỗng.
Đức Giám mục là người đầu tiên đến túp lều và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình hình. Ngài ung dung đi thẳng đến chiếc thùng gỗ và ngồi trên đó để nghỉ chân, rồi bình thản gọi dân làng vào và bảo:”Vào đây, anh chị em hãy vào và lục soát túp lều để tìm người phụ nữ”. Họ lăng xăng lục lọi, nhưng không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà. Khi ấy, Đức Giám mục mới nói:”Bây giờ anh chị em phải qùy xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ”. Nhưng sau đó, khi mọi người đã kéo nhau xuống núi, Đức Giám mục tiến lại gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rải nói:”Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy”.
2. Kính trọng:
Hãy kính trọng cách chân tình, luôn giữ thể diện cho họ, đừng chà đạp lòng tự ái của họ. Vì chính chúng ta cũng không hoàn hảo, cũng tội lỗi yếu đuối như bao người khác, nên khiêm tốn nhận mình cũng lỗi lầm. Hãy đặt câu hỏi cho họ, và kiên nhẫn lắng nghe, khích lệ họ sửa lỗi. Người đời xưa có những cách sửa lỗi rất tế nhị và sâu sắc.
Truyện: Án Tử căn ngăn vua.
Vua Cảnh Công nuớc Tề, có một con ngựa qúi, giao cho một người chăn nuôi. Con ngựa tự nhiên một hôm lăn ra chết. Vua giận lắm, cho là giết ngựa, sai quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa. Án Tử ngồi chầu, thấy thế ngăn lại, hỏi nhà vua:
Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa phanh người thì bắt đầu từ đâu trước ?
Cảnh Công ngơ ngác nhìn nói:
Thôi hãy buông ra, đem giam xuống ngục để rồi trị tội.
Án Tử nói rằng:
Tên phạm này chưa biết rõ tội mà phải chịu chết, thì vẫn tưởng là oan. Tôi xin vì vua kể rõ tội nó, rồi hãy bỏ ngục.
Vua nói:
Phải.
Án Tử kể tội rằng:”Nhà ngươi có ba tội đáng chết. Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết là tội đáng chết. Lại để chết con ngựa rất qúi của vua, là hai tội đáng chết. Để vua mang tiếng, vì một con ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh vua, ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán giận, nước ngoài có bụng dòm dỏ (ngấp nghé xem nguời ta hở cơ là làm hại), là ba tội đáng chết, ngươi đã biết chưa? Bây giờ hãy tạm giam ngươi vào ngục...”.
Cảnh Công nghe nói ngậm ngùi than rằng:
Thôi, tha cho nó ! Kẻo để ta mang tiếng bất nhân.
(Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 28-29)
3. Cầu nguyện:
Lời cầu nguyện của riêng một người đã là tốt rồi, song lời cầu nguyện của hai người hay nhiều người chung lại càng tốt và hiệu nghiệm hơn vì họ cùng hiệp lời cầu xin.
Tụ họp nhân danh Chúa không phải là tụ họp theo ý riêng mình, hoặc tụ họp theo tinh thần thế tục. Nhưng tụ họp theo tinh thần khiêm tốn như trẻ nhỏ (Mt 18,4-5) tự nhận biết mình hèn yếu và đặt niềm tin cậy nơi Chúa. Không phải tụ họp thành những cộng đoàn biệt lập, nhưng là trong sự hiệp thông với Giáo hội. Giáo hội là cộng đồng cầu nguyện. Nếu tội lỗi làm chia rẽ thì sự cầu nguyện nối kết và hiệp nhất chúng ta lại với nhau. Vì thế, cả những lúc có sự bất bình không đồng ý kiến, nếu có “hai ba người tụ họp với nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”. Chúa ở đó như gạch nối niềm tin.
Không phải chỉ khi cầu nguyện, mà cả những khi họp mặt nhân danh Chúa thì Chúa cũng hứa sẽ hiện diện để khuyến khích sự hòa giải giữa anh em trong cộng đồng Giáo hội. Ở đây muốn nhấn mạnh về khuyến khích mọi cố gắng sửa lỗi và hòa giải giữa anh em trong lòng Giáo hội. Vì được như vậy thì chắc chắn Chúa sẽ hiện diện để giúp đỡ.
Lạy Chúa, biết nhìn nhận mình sai là một điều rất khó, nhất là nhìn nhận với lòng thành thật, không tìm cách chữa mình, không tìm cách để vứt đi trách nhiệm của việc đã làm, cũng không tìm cách để đổ lỗi cho người này người khác, cũng không vịn lẽ để chứng minh cho kẻ khác rằng: sự vật đã sai lệch và thế gian được dựng nên cách không đàng hoàng.
Ôi ! Lạy Chúa, xin chữa chúng con khỏi run sợ khi phạm lỗi, dẫu lỗi ấy do hiểu lầm, tính sai, hoặc do yếu đuối cũng vậy.
Để thực hành điều ấy, con cần phải sống nên người mạnh mẽ, chứ không như một thằng bé mặt mày úp mở trong một sự sợ hãi nữa (L. Terphagnon).
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
-------------------------------
Lm. Ignatiô Trần Ngà
Nhận ra lầm lỗi của mình là điều rất khó. Có người ví von rằng mỗi người đều mang một gùi đầy: TN 23-A69
Nhận ra lầm lỗi của mình là điều rất khó. Có người ví von rằng mỗi người đều mang một gùi đầy tội sau lưng và một gùi công đức trước ngực. Vì thế, người ta chỉ thấy công đức mà không thấy được lầm lỗi của mình.
Ông Dale Carnegie, một học giả trứ danh người Mỹ viết nhiều cuốn sách nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới quả quyết rằng: “Tôi đã bỏ ra gần 70 năm trong đời để khám phá ra chân lý nầy là dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi thì có tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội.”
Chúng ta hãy nhìn lại trường hợp cụ thể về vua Đavít được thuật lại trong Kinh Thánh (Sách Samuen).
Một buổi chiều nọ, vua Đavít tản bộ trên sân thượng và chợt thấy một phụ nữ xinh đẹp đang tắm, đó là bà Bat-shêba, vợ của Uria. Vua sai người đưa bà đến với vua. Ít lâu sau đó, Bat-shêba báo tin cho vua hay là bà đã có thai với nhà vua.
Khi biết chuyện, vua Đa-vít tìm cách ‘bán cái’ cho chồng của bà là Uria.
Vua cho triệu Uria từ mặt trận trở về, cho ông ta ăn uống thật no say rồi truyền cho Uria về nhà thăm vợ. Hai đêm liền, Uria nằm ngủ trong đền vua với những tên lính canh mà không chịu về nhà.
Thấy kế hoạch ‘bán cái’ không xong, vua Đa-vít ra lệnh cho tướng Yôab mượn tay quân giặc giết chết U-ria ngoài chiến trường.
Sau đó, khi đã mãn tang chồng, Bat-shêba được vua Đavít đón vào cung làm vợ chính thức của nhà vua.(II Sam11 và 12)
Vua Đavít đã phạm một tội tày trời, thế mà vẫn ung dung như không có gì xảy ra. Đúng là trong hàng trăm lần phạm lỗi, may ra chỉ có một lần người ta nhận ra mình có tội. Và một khi con người không tự thấy được tội lỗi của mình để ăn năn sám hối thì cần phải có ai đó đến nhắc bảo họ.
Thế là Thiên Chúa sai tiên tri Natan đến cảnh tỉnh vua. Khuyên vua thì phải lựa lời, không khéo thì mất đầu như chơi. Nhà tiên tri trình với vua: “Trong thành kia, có một người giàu sang phú quý có cả đến hàng ngàn chiên dê và bò, trong khi đó, một người nghèo bên cạnh chỉ có một con chiên nhỏ mà ông ta rất yêu quý, coi như đứa con gái của ông. Thế rồi khi người giàu có khách, ông tiếc của không dám bắt chiên mình đãi khách mà lại cho tôi tớ đi bắt con chiên độc nhất của người nghèo làm thịt”
Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi giận. Vua quát: “Nó đáng chết, tên ác nhân đó! Nó phải bị trừng phạt và phải bồi thường gấp bốn vì việc nó đã làm.”
Tiên tri Natan thưa: “Người ấy chính là vua. Nhà vua đã có nhiều thê thiếp lại còn nhẫn tâm giết chết Uria và cướp vợ của ông ta”.
Bấy giờ vua Đavít mới nhận ra tội mình và ăn năn khóc lóc thảm thiết.
Nếu không được tiên tri Natan cảnh tỉnh, vua Đavít đã không nhận ra tội lỗi của mình và không thể hối cải. Tội của mình, mình chứa đựng trong cái gùi sau lưng nên không thấy được. Vì thế, giúp người khác nhận ra lỗi của họ là điều rất cần thiết và là một nghĩa vụ thiêng liêng.
Lời Chúa hôm nay thiết tha kêu mời chúng ta hãy ra công sửa lỗi cho anh em mình. Qua bài đọc I, Thiên Chúa dùng miệng tiên tri Ê-dê-ki-en răn dạy chúng ta: “Nếu ngươi không cảnh cáo kẻ gian ác, giúp nó từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó phải chết vì sự gian ác của nó, nhưng còn máu nó, Ta sẽ đòi ngươi” (Edêkien 33, 7-9). Và qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su truyền dạy: “Nếu anh em của ngươi trót phạm tội, thì ngươi hãy đi sửa lỗi nó”…
Hãy nên tấm gương soi cho người khác và để người khác làm tấm gương soi cho ta.
Tấm gương soi tuyệt đối cần thiết cho mọi người. Không có tấm gương soi, người ta không biết mặt mũi mình ra sao, có ghèn đầy mắt cũng không biết, có cơm dính cằm cũng chẳng hay, râu tóc rối bù như tổ quạ cũng chẳng biết gì. Tấm gương soi tuy tầm thường nhưng rất cần thiết giúp con người nhận ra những vết nhơ trên khuôn mặt mình. Thế nên dù nghèo hèn túng thiếu, nhà nào cũng cố sắm cho mình một tấm gương.
Tuy nhiên, tấm gương thuỷ tinh tráng thuỷ chỉ phản chiếu khuôn mặt mà không thể phản chiếu tâm hồn, chỉ cho thấy những vết nhơ trên trán mà không cho thấy vết bẩn trong tim, thấy những xấu xa trên khuôn mặt mà không thấy những sa đoạ trong tâm hồn hay trong cuộc sống. Vì thế, người ta cần thêm một tấm gương soi khác, đó là lời nhắc bảo của những người chung quanh. Thiếu những lời nhắc bảo nầy là thiếu mất tấm gương tối cần thiết để soi hồn.
Tiên tri Natan ngày xưa là tấm gương soi giúp vua Đa-vít thấy được những vết bẩn khủng khiếp trong tâm hồn. Thiếu tấm gương soi quý báu như Natan, vua Đa-vít không thể thấy được lầm lỗi của mình và sẽ không hề biết ăn năn sám hối.
Trở thành tấm gương soi cho người khác là một lệnh truyền rất quyết liệt của Thiên Chúa.
“Nếu ngươi không cảnh cáo kẻ gian ác, giúp nó từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó phải chết vì sự gian ác của nó, nhưng còn máu nó, Ta sẽ đòi ngươi”. (Edêkien 33, 7-9).
“Nếu anh em của ngươi trót phạm tội, thì ngươi hãy đi sửa lỗi nó”…# (Matthêu 18, 15)
Vì lòng bác ái với anh em và vì lời Chúa truyền dạy, chúng ta hãy là tấm gương soi giúp người khác thấy được tội lỗi và những sai lầm của họ; đồng thời vui lòng để cho người khác trở thành tấm gương soi cho mình để chúng ta có thể nhận ra lầm lỗi của ta.
Lm. Ignatiô Trần Ngà
-------------------------------
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng: TN 23-A70
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi (Mt. 18,15).
Khởi đầu mỗi thánh lễ, có phần nghi thức ăn năn sám hối tội lỗi. Chúng ta đọc kinh cáo mình và kêu van rằng: Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Rồi chúng ta nài xin Đức Maria và các thiên thần, các Thánh và anh chị em khẩn cầu cho chúng ta trước tòa Thiên Chúa. Trong kinh sám hối thì tâm tình rất sâu đậm và sốt sáng. Trở lại thực tế cuộc sống thì những tâm tình sám hối lại biến mất. Chúng ta lại phàn nàn: Lỗi tại tôi nhưng lôi thôi tại bà. Lỗi tại tôi nhưng luôn luôn có chữ “nhưng mà” hay “bởi vì” để làm nhẹ bớt cho sự sai lỗi của mình. Ít khi chúng ta nhận lỗi của mình ngay lập tức vì chúng ta sợ. Sợ mất danh dự, sợ mất tiếng tốt, sợ bị phát hiện sự thật và sợ phải nghe sự phê bình. Có nhiều cách thế dẫn đến sự sai lỗi lắm. Có khi làm lỗi vì mình không biết, có khi hiểu lầm hoặc vì yếu đuối rơi vào cơn cám dỗ.
Sửa lỗi thì khác sửa lưng hay phê bình chỉ trích. Sửa lỗi để giúp nhau nên hoàn thiện. Nhân vô thập toàn. Con người ai cũng có lỗi lầm, nên sửa lỗi là việc thường tình và cần thiết. Được người khác sửa lỗi cho mình là một cơ may hạnh phúc. Sách châm ngôn dạy rằng: Coi khinh lời nghiêm huấn ắt phải nghèo phải nhục, tuân giữ lời sửa dạy hẳn sẽ được hiển vinh (Cn. 13,18). Có nhiều cách giúp người khác sửa lỗi. Cách chân thực nhất phải có tình bác ái yêu thương. Sửa lỗi không phải để làm bêu xấu hay hạ phẩm giá người khác. Đôi khi thay vì sửa lỗi người khác, chúng ta lại rêu rao sự xấu cho mọi người biết để chê cười. Chúa Giêsu dạy rằng sửa lỗi phải rất tế nhị và đi từng bước một. Gặp gỡ riêng tư để thuyết phục, nếu chưa giải quyết được thì phải nhờ một vài nhân chứng khác và nếu tình trạng tệ hơn, khi đó mới viện đến quyền của Giáo Hội. Muốn mọi việc xuôi chảy, chúng ta cần sự cầu nguyện, lòng khiêm nhường, cử xử với lòng bác ái và biết lắng nghe. Nhờ đó chúng ta có thể thắng được lòng người anh em.
Trong sách Châm Ngôn đã dạy bảo những lời khôn ngoan: Vì huấn lệnh là ngọn đèn, lời dạy dỗ là ánh sáng, và lời quở trách bảo ban là đường dẫn tới sự sống (Cn. 6,23). Răn bảo và sửa lỗi là giúp nhau nên hoàn thiện. Đôi khi chúng ta ngại ngùng giúp người khác sửa lỗi. Vì nói lên sự thật thì hay mất lòng. Và cũng chẳng mấy ai muốn nghe những lỗi lầm của mình. Chúng ta thường chỉ nhận lỗi khi bị bắt quả tang hay có những vật chứng, nhân chứng sự thật. Một trong những lỗi mà con người hay phạm nhất đó là sự dối trá. Sự lừa dối được ẩn nấp sau nhiều chiêu bài. Dối trá gây ra biết bao bi kịch và thảm cảnh ở đời. Gây phá sản từ đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Có người hãnh diện vì mình đã gian dối vượt qua được nhiều nhân viên, cơ quan công quyền và chính phủ. Thiên hạ dối gian đủ điều để được lợi cho cuộc sống tạm này. Gian dối, lừa lọc đưa đến các thứ hàng giả. Giả dối quen rồi, chúng ta chẳng còn biết đâu là thật, là giả nữa. Lương tâm không còn bén nhậy với những phán đoán ở đời.
Chúng ta biết sự dối trá bắt nguồn từ ma qủy và sự dữ. Thư của thánh Phaolô gởi cho giáo đoàn Galata đã viết: Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối (Ga. 8,44). Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc của ma quỷ. Chúng ta sẽ được tự do trong lương tâm và sống trong sự bình an đích thực. Đầu mối của sự dữ đều bởi sự gian dối và lừa lọc mà ra.
Lắng nghe theo lời sửa dạy của người khác là một mối lợi. Sự sửa dạy sẽ làm cho chúng ta trưởng thành trong nhân cách, xử thế và sống đạo làm người. Chấp nhận lời sửa dạy sẽ giúp chúng ta nên người hơn: Yêu lời nghiêm huấn là yêu tri thức, ghét lời sửa dạy là dại dột ngu si (Cn. 12,1). Sự nhắc nhở, uốn nắn và hướng dẫn của người khác sẽ giúp chúng ta nên khôn ngoan: Kẻ ngu khinh lời cha nghiêm huấn, ai giữ lời sửa dạy sẽ nên khôn (Cn. 15,5). Kho tàng sự khôn ngoan nằm trong nền văn hóa, truyền thống và tục lệ của cha ông để lại. Hơn nữa chúng ta còn có nguồn mạc khải từ chính Thiên Chúa hướng dẫn con người qua các lời dạy dỗ trong Kinh Thánh: Người giữ lời nghiêm huấn thì đi trong sinh lộ, kẻ khinh lời sửa dạy ắt sẽ bị lạc đường (Cn. 10,17).
Chúa Giêsu đã không vị nể, Ngài đã thẳng thắn dạy dỗ và sửa lỗi các môn đệ. Khi Phêrô hiểu sai đường lối và ý định của Chúa: Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: "Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."(Mt. 16,23). Khi ra truyền đạo, ông Phêrô thường dùng bữa với dân ngoại nhưng khi các môn đệ khác đến, ông đã tránh né và tự tách mình ra. Phaolô đã thẳng thắn góp ý với Phêrô: Nhưng khi tôi thấy các ông ấy không đi đúng theo chân lý của Tin Mừng, thì tôi đã nói với ông Kêpha trước mặt mọi người: "Nếu ông là người Do-thái mà còn sống như người dân ngoại, chứ không như người Do-thái, thì làm sao ông lại ép người dân ngoại phải xử sự như người Do-thái? "(Gal. 2,14).
Kinh nghiệm trong cuộc sống đời thường, tất cả các vật dụng máy móc bị hư hay trục trặc nho nhỏ, chúng ta cần phải sửa chữa để có thể dùng lại. Nếu hư tới mức tàn tạ thì đành phải bỏ đi. Con người thể xác cũng có khi rơi vào những triệu chứng bất thường. Có những bất an trong cơ thể như lục phủ ngũ tạng bị khuất động, máu huyết không đều, xương cốt rụng rời, đau mình ê ẩm, nhức mỏi châu thân, tất cả đó là những triệu chứng bất thường, cần được khám bệnh và chữa trị. Về phần đời sống tinh thần và tâm linh thì rắc rối hơn nhiều. Chúng ta sống là sống cùng và sống với người khác nên có nhiều vấn đề nẩy sinh. Các lỗi lầm có thể gây nên qua tư tưởng, lời nói, thái độ và việc làm. Biết rằng con người lỗi phạm là truyện thường tình. Ai nói mình không phạm lỗi là người nói dối: Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta (1Ga. 1,10).
Không ai trong chúng ta là người chỉ đạo dẫn đường tuyệt hảo. Chúng ta cần học hỏi và chỉ bảo lẫn nhau. Nếu chỉ dựa vào sự hiểu biết và khả năng riêng của mình để phán đoán người khác, đôi khi chúng ta cũng bị sai lầm. Vì các quan điểm sống chỉ là tương đối theo sự hiểu biết của từng thời đại. Có điều đúng vào thời điểm này nhưng lại không thích hợp trong hoàn cảnh khác. Quan niệm sống của người Á Châu khác người Mỹ Châu, người Âu khác người Úc hay Ấn… Muốn sửa đổi, biến đổi hay thay đổi người khác theo tục lệ của mình thì không dễ. Dù sao đời sống nhân bản có những điểm chung về luật luân lý tự nhiên đã được khắc ghi trong tâm. Khi chúng ta hồi tâm dựa vào các giới răn của Chúa, chúng ta sẽ nhận ra có những lỗi lầm đối với chính bản thân, đối với người khác và đối với Thượng Đế. Mọi sai trái lỗi lầm đều có nguyên nhân và hậu qủa. Có những lỗi lầm gây hậu qủa không tốt cho tha nhân nên cần được sửa đổi. Chúng ta đừng khinh thường sự sửa dạy của kẻ khác: Kẻ rời xa đường ngay chính sẽ bị nghiêm trị, ai khinh thường lời sửa dạy sẽ phải mạng vong (Cn. 15,10). Hãy mang ơn những người dám nói sự thật và sửa dạy chúng ta. Sửa lại lỗi lầm là điều đáng khuyến khích.
Chúng ta không thể lên thiên đàng hưởng phúc một mình. Cần có tha nhân cùng tiến bước trong cuộc lữ hành trần thế. Giúp nhau nên công chính và hoàn thiện là trách nhiệm của mỗi người.Thánh Phaolô khuyên nhủ giáo đoàn Galata sống bác ái và nhiệt thành: Thưa anh em, nếu có ai vướng mắc tội nào, thì anh em, những người được Thần Khí thúc đẩy, hãy lấy tinh thần hiền hoà mà sửa dạy người ấy; phải tự đề phòng kẻo chính mình cũng bị cám dỗ (Gal. 6,1). Sửa lỗi cho anh chị em vừa là một trách nhiệm, bổn phận, việc bác ái và còn được công đức nữa. Thơ của thánh Giacôbê tông đồ khuyên dạy các tín hữu giúp đỡ anh chị em trở về: Thưa anh em, nếu có người nào trong anh em lạc xa chân lý và có ai đưa người ấy trở về, thì anh em hãy biết rằng: kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về, thì cứu được linh hồn ấy khỏi chết và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình (Giac. 5,19-20).
Chúng ta là chi thể trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta cùng tuyên xưng một niềm tin, một niềm hy vọng và cậy trông, cùng chia sẻ một tấm bánh và uống chung một chén rượu. Chúng ta có bổn phận xây dựng đời sống chung nên tốt hơn, hoàn hảo hơn và thánh thiện hơn. Lời cầu nguyện là máng chuyển cầu ơn Chúa xuống trên chúng ta. Ơn sủng của Chúa sẽ giúp chúng ta kết hợp nên một thân thể trong Chúa Kitô. Tin tưởng vào lời Chúa đã hứa: Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó (Mt. 18,19). Chúng ta cùng cầu nguyện để được ơn hiệp nhất và ơn bình an.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
-------------------------------
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
Vấn đề sửa lỗi cho nhau là vấn đề rất tế nhị nhưng cũng vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, để sửa lỗi cho: TN 23-A71
Vấn đề sửa lỗi cho nhau là vấn đề rất tế nhị nhưng cũng vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, để sửa lỗi cho nhau cho có hiệu quả và tốt đẹp lại là cả một nghệ thuật, đòi hỏi tình thương và đức ái cao vời. Đức Giêsu cũng dạy chúng ta: ” Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó “ ( Mt 18, 15 ).
Chúa Giêsu luôn dạy nhân loại, dạy chúng ta một giáo lý mới, một con đường mới bởi vì cách giảng dạy của Chúa luôn giản dị, nhẹ nhàng, dễ hiểu. Ngài nói sự thật, làm phép lạ và tha thứ tội lỗi cho con người. Giáo lý của Chúa Giêsu là một giáo lý mới, giáo lý tình thương. Chúa Giêsu hoàn toàn khác biệt với các Kinh sư, Biệt phái. Bởi vì Kinh sư, Biệt phái chỉ sống bề ngoài, họ không có một giáo lý riêng mà dựa vào lời Chúa họ cắt nghĩa theo ý riêng của họ và tạo ra những khoản luật riêng nhằm làm cho người khác khổ sở. Còn Chúa Giêsu luôn sáng tạo và đổi mới. Chúa Giêsu luôn thấu suốt tâm hồn con người. Ngài hiểu rõ tất cả, hiểu sự yếu đuối của con người và hiểu con người hay lầm lỗi, thiếu sót, khiếm khuyết, cần sửa chữa, chính vì thế, Ngài đã chỉ dạy một cách sửa chữa nhau rất hay, rất đẹp, trong sáng và thật tế nhị. Chúa muốn mỗi người chúng ta khi muốn sửa chữa ai phải cẩn thận, ý tứ làm từng bước thì mới kết quả và thành công.
Theo cách dạy của Chúa Giêsu, đầu tiên muốn sửa lỗi ai, chỉ cần hai người gặp nhau trước. Gặp nhau trong tình thân, chân thành, kín đáo, thành thật nói chuyện với nhau. Sau khi hai người chân thành gặp nhau, xây dựng nhưng người mắc lỗi không chịu nghe, còn cố chấp, tự ái, không sửa chữa, lúc đó có thể mời thêm hai ba người khác làm chứng nhân và cùng nhau góp ý để sửa chữa. Nếu có nhiều người, nhiều ý kiến nhưng họ không nghe, khi ấy mới đưa ra cộng đoàn hay những vị có thẩm quyền để giải quyết.
Thực tế, sự hiệp nhất, sức mạnh của cộng đoàn là những yếu tố rất quan trọng để giải quyết các vấn đề của tập thể. Bởi vì, tất cả đều là thân thể của Đức Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đã quả quyết: ” Ở đâu có hai hay ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở giữa họ “. Đây là yếu tố quyết định vì chính Chúa mới là Đấng chuyển cầu và phán xét con người. Lỗi lầm hay tội lỗi, thiếu sót của những phần tử của Giáo Hội, của Cộng đoàn là những điều không thể tránh được, dù đó là một cộng đoàn, một tập thể do Chúa thiết lập. Cộng đoàn, Hội thánh luôn có Chúa hiện diện nhưng Hội thánh, Cộng đoàn bao nhiêu phần tử khác nhau, gồm những con người yếu đuối và tội lỗi. Do đó, Chúa đã dạy mọi người cần phải lưu tâm đến cách sửa lỗi Chúa dạy.
Chúng ta hãy nhớ, ai cũng có lỗi lầm, ai cũng yếu đuối, người không lỗi hay người yếu đuối đều phải ghi tạc lời danh ngôn này: ” Người ta khen ta mà khen phải, đó là bạn ta, người ta chê ta mà chê đúng, đó là thầy ta, những người nịnh hót ta, đó là kẻ thù hại ta, những người đối lập ta, đó là thầy dạy ta mà không lấy tiền “.
Tất cả chúng ta phải khiêm tốn nâng đỡ nhau và cầu nguyện cho nhau để mọi người đều sống tốt như lòng Chúa mong muốn. Chúng ta hãy chân thành sống đúng lời Chúa dạy, thực hiện được những điều Chúa dạy bảo, chắc chắn chúng ta sẽ thành công và sống tốt, sống đẹp lòng Chúa.
Lạy Chúa, chúng con là kẻ yếu hèn tội lỗi, xin giúp chúng con biết nhận ra lỗi mình và biết chân thành sửa lỗi anh em bằng thái độ thành thực và kính trọng họ. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Chúa dạy gì về việc sửa lỗi nhau ?
2. Thái độ mỗi người phải có khi sửa lỗi anh em ?
3.Người luôn xu nịnh có tốt không ?
4.Ông bà anh chị em có thích người ta khen mình không ?
5.Người chân thành là gì ?
6.Bôi sáp nghĩa là gì ?
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
-------------------------------
Lm. Lê Quang Uy, CSsR
Có một người vào thi để xin việc làm trong một công ty nọ, khi đi dọc hành lang đến phòng thi, anh: TN 23-A72
1. Có một người vào thi để xin việc làm trong một công ty nọ, khi đi dọc hành lang đến phòng thi, anh thấy có mấy tờ giấy vụn dưới đất, liền cúi xuống nhặt lấy và bỏ vào thùng rác. Người phụ trách thi vấn đáp vô tình trông thấy từ xa, đã quyết định nhận anh ta vào làm việc cho công ty. Hóa ra để được trọng dụng thật là đơn giản, chỉ cần tập những thói quen tốt.
2. Có một cậu bé vào tập việc trong một tiệm sửa xe đạp, có người khách đem đến một chiếc xe đạp hư, cậu bé không những sửa lại cho thật tốt, mà còn lau chùi cho chiếc xe cho sạch đẹp. Những người đang học việc khác cười nhạo cậu bé đã dại dột, đã chẳng được thêm chút tiền công nào lại còn tốn sức. Hai ngày sau, người khách trở lại, thấy chiếc xe đạp vừa tốt vừa đẹp như mới mua, cậu bé liền được người khách nhận đưa về hãng của ông ta để làm việc với mức lương cao. Hóa ra để thành đạt trong đời thật đơn giản, chỉ cần cố gắng chịu thiệt thòi một chút…
3. Có một em bé nói với mẹ: “Mẹ ơi, hôm nay mẹ rất đẹp !” Bà mẹ hỏi: “Ơ, sao con lại khen mẹ như thế ?” Em bé trả lời: “Bởi vì hôm nay mẹ… không nổi giận như mọi ngày !”
“Nếu quả bóng rơi vào trong đám cỏ, thì làm thế nào để tìm
nó ? Một người nói: “Bắt đầu từ trung tâm đám cỏ mà tìm.” Một người khác nói: “Bắt đầu từ nơi chỗ đất trũng nhất mà tìm.” Lại một người khác nói: “Bắt đầu từ trong đám cỏ cao nhất mà tìm.” Huấn luyện viên tuyên bố đáp án chính xác nhất: “Làm từng bước một, từ đám cỏ này đến đám cỏ kia.” Hóa ra phương pháp để tìm thành công thật đơn giản, cứ tuần tự, từ số 1 đến số 10 không nhảy vọt là có thể được.
4. Có một huấn luyện viên quần vợt nói với học sinh: “Nếu quả bóng rơi vào trong đám cỏ, thì làm thế nào để tìm nó ? Một người nói: “Bắt đầu từ trung tâm đám cỏ mà tìm.” Một người khác nói: “Bắt đầu từ nơi chỗ đất trũng nhất mà tìm.” Lại một người khác nói: “Bắt đầu từ trong đám cỏ cao nhất mà tìm.” Huấn luyện viên tuyên bố đáp án chính xác nhất: “Làm từng bước một, từ đám cỏ này đến đám cỏ kia.” Hóa ra phương pháp để tìm thành công thật đơn giản, cứ tuần tự, từ số 1 đến số 10 không nhảy vọt là có thể được.
5. Có một cửa hàng thương nghiệp đèn đuốc thường sáng trưng, có người hỏi: “Tiệm của anh thường dùng loại đèn nào vậy, tôi thấy rất bền, lúc nào cũng sáng, chẳng thấy chiếc bóng nào hư !?!” Người trông coi cửa hàng nói: “Đèn của chúng tôi cũng hay bị cháy lắm, chẳng qua là chúng tôi thường thay ngay bóng đèn mới khi bóng đèn cũ vừa bị hư mà thôi.” Hóa ra để duy trì ánh sáng thật đơn giản, chỉ cần thường xuyên thay đổi là được.
6. Con nhái ở bên ruộng nói với con nhái ở bên vệ đường: “Anh ở đây quá nguy hiểm, dọn qua chỗ tớ mà ở.” Con nhái ở bên đường trả lời: “Tớ đã quen rồi, hơn nữa, cũng thấy ngại, làm biếng không muốn dọn nhà.” Mấy ngày sau con nhái ở bên ruộng đi thăm con nhái ở bên đường, phát hiện nó đã bị xe chạy ngang qua cán chết rồi, xác nằm bẹp dí bên đường đi. Hóa ra phương pháp nắm giữ vận mệnh thật đơn giản, tránh xa lười biếng là xong.
8. Có một con gà con đang phá tìm cách vỏ trứng để chui ra, nó chần chừa e ngại thò đầu ra ngoài ngó nghiêng sự đời xem sao… Ngay lúc ấy có một con rùa chậm chạp lết ngang qua đó. Thế là con gà con quyết định rời khỏi cái vỏ trứng ngay lập tức, không do dự chi nữa. Hóa ra muốn thoát ly gánh nặng trầm trọng thật đơn giản, chỉ cần dẹp bỏ óc thành kiến cố chấp là có thể được.
9. Có mấy em bé rất muốn làm thiên thần, Thượng Đế trao cho mỗi bé một cái chân đèn bằng đồng, và bảo chúng trong lúc chờ Ngài trở lại, hãy giữ cái chân đèn sao cho luôn được sáng bóng. Nhưng rồi một tuần đã trôi qua đi mà vẫn chưa thấy Thượng Đế trở lại, tất cả các em bé đã nản chí, không còn chúi bóng chân đèn của mình nữa. Một hôm, Thượng Đế đột nhiên đến thăm, chân đèn của mỗi đứa bé lười nhác đều đã đóng một lớp bụi dày, chỉ duy có em bé mà thường ngày cả bọn vẫn kêu bằng thằng ngốc, dù cho Thượng Đế chưa thấy đến, hằng ngày bé vẫn nhớ lời dặn, lau chùi cái chân đèn sáng bóng. Kết quả em bé ngốc này được trở thành thiên thần. Hóa ra làm thiên thần thật đơn giản, chỉ cần có một tấm lòng thật thà tận tụy.
10. Có một con heo nhỏ đến xin làm môn đệ của một vị thần, vị thần ấy vui vẻ chấp nhận. Lúc ấy có một con trâu nghé từ trong đám bùn lầy bước ra, toàn thân đầy lấm lem đầy bùn dơ bẩn, vị thần nói với con heo nhỏ: “Heo ơi, con hãy đến giúp con nghé tắm rửa cho sạch sẽ đi.” Con heo nhỏ trố mắt ngạc nhiên: “Con là môn đệ của thần, sao lại có thể đi phục vụ một con nghé bẩn thỉu như thế chứ ?” Vị thần bảo heo con: “Con không đi phục vụ kẻ khác, thì kẻ khác làm sao biết được con là… môn đệ của Ta ?” Hóa ra học hành tập luyện để nên giống một vị thần thật đơn giản, chỉ cần đem lòng thành thật ra mà phục vụ là được.”
11. Có một đoàn người đãi vàng đang đi trong sa mạc, ai nấy bước đi nặng nhọc, chỉ có một người bước đi cách vui vẻ, người khác hỏi: “Làm sao anh có thể vui vẻ được chứ ?” Người ấy trả lời: “Bởi vì tôi mang theo hành trang thật gọn nhẹ.” Hóa ra sống vui vẻ thật đơn giản, có thiếu thốn chút ít đi nữa thì vẫn không sao !
Lm. Lê Quang Uy, CSsR
-------------------------------
Lm. GIuse Nguyễn Hữu An
Tuân Tử, một hiền triết Trung hoa đã nói rằng: Kẻ khen ta mà khen thật mới chỉ là bạn ta, kẻ: TN 23-A73
Tuân Tử, một hiền triết Trung hoa đã nói rằng: Kẻ khen ta mà khen thật mới chỉ là bạn ta, kẻ chê ta mà chê thật là thầy ta, còn kẻ nịnh hót tâng bốc ta là những kẻ chỉ làm hại ta mà thôi.
Chê mà chê thật là sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ. Là con người ai mà chẳng lầm lỗi. Không ai trên trần thế có thể tự hào mình vô tội. Chính Thánh Gioan đã quả quyết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Thú nhận mình tội lỗi không có nghĩa là chấp nhận thất vọng. Ngược lại ý thức được sự yếu đuối của mình sẽ giúp con người mạnh tin hơn. Thánh Gioan cũng viết: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1Ga 2,1b). Sửa lỗi huynh đệ là cần thiết để giúp nhau thăng tiến và trưởng thành. Vì thế sửa lỗi cho nhau là một nghệ thuật đòi hỏi người ta phải tuân theo một số kỹ thuật.
Trang Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy nghệ thuật từng bước sửa lỗi cho anh em và mời gọi hãy cùng nhau cầu nguyện.
1. Sửa lỗi cho nhau:
Bước 1: “Nếu anh em ngươi phạm tội hãy đi sửa lỗi một mình ngươi với nó”. Một mình với anh em là rất kín đáo. Sửa lỗi cá nhân, tôn trọng và giữ thể diện, biểu lộ sự tin tưởng giữa hai người không để người thứ ba đựoc biết. Đây là cuộc nói chuyện riêng tư, không phải hạ nhục người có lỗi nhưng là giúp người ấy nhận ra lỗi lầm của mình. Phải nói sự thật, nhưng có những sự thật không nên nói hết.
Sự góp ý huynh đệ này đòi hỏi phải tế nhị, xây dựng:
Người góp ý: Nhẹ nhàng, nói đúng lúc, đúng chỗ, khôn khéo, thiện chí, nếu không sẽ phản tác dụng, khi đó góp ý chỉ là chỉ trích, phê phán.
Người được góp ý: Khiêm nhường nhận lời khuyên, không nóng nảy tự ái, sẵn sàng đón nhận, nhận ra sai lầm, không cố chấp cứng đầu, can đảm sửa đổi. Có như thế việc sửa đổi cho nhau mới có kết quả.
Bước 2: “Nếu nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai người nữa để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba nhân chứng”. Như thế, nếu bước một không đem lại kết quả mong đợi, sẽ đến bước hai là gặp gỡ có hai hoặc ba nhân chứng. Đây không phải là gây áp lực. Sự hiện diện của các chứng nhân bảo đảm cho tính khách quan và cộng đoàn. Luật Môsê dạy: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ tội lỗi nào, phải căn cứ vào lời của hai hay ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét” (Đnl 19,15). Tuy nhiên chỉ thị của Chúa Giêsu nói đây không phải là nhân chứng buộc tội nhưng là những người trợ lực có uy tín để giúp tội nhân dễ dàng sữa lỗi. Cần kiên nhẫn đối vơi người cố chấp.
Người sửa lỗi chú ý hình thức xây dựng và bác ái. Có nhiều khuyết điểm có thể tự nhiên được sửa chữa qua tính trung gian, nhất là những khuyết điểm nhỏ.
Người được sửa lỗi chú ý nội dung được góp ý.
Bước 3: “Nếu nó không chịu nghe họ thì hãy đi thưa Hội Thánh”. Hai bước không đạt kết quả, đưa ra trước cộng đoàn Hội Thánh địa phương vì Hội Thánh được Chúa ban cho quyền cầm buộc tháo cởi (x. Mt 18,18). Đưa ra Hội Thánh không phải để bị xét xử nhưng để tỏ lòng sám hối và sẽ được ân xá. Nhưng nếu kẻ đó vẫn cố chấp không chịu sữa lỗi thì tự loại mình ra khỏi Hội Thánh không còn thuộc về cộng đoàn.
Bước 4: “Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe thì hãy kể nó như một người ngoại”. Cộng đoàn mà không chịu nghe thì phải chấp nhận thái độ tự cô lập của họ. Họ cố chấp không muốn ở trong Hội Thánh thì họ sống trong lầm lạc về đức tin và luân lý. Hội Thánh không còn trách nhiệm trực tiếp phải lo cho họ nữa, chỉ còn phó thác họ cho lòng nhân từ của Chúa mà thôi.
2. Hiệp lời cầu nguyện:
Nếu nhìn cách sửa lỗi anh em của Chúa Giêsu là một cách diễn tả tình yêu thì hiệp thông trong lời cầu nguyện lại là một diễn tả khác của tình yêu “Khi hai hoặc ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở giữa họ”.
Khi yêu ai, chúng ta không dửng dưng để mặc người ấy lún sâu vào sự dữ. Ta sẽ tìm dịp cảnh tỉnh, nhắc nhở, khuyên bảo, không “makeno”, không “đèn nhà ai nấy sáng”. Tương quan bác ái huynh đệ này rất cần trong cộng đoàn, trong Giáo xứ. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến mục đích của việc sửa lỗi. Đó là chinh phục, cứu lấy anh em để nó đừng hư mất, liên đới trách nhiệm sữa lỗi cho nhau để nhờ đó cộng đoàn “lợi thêm một người anh em”. Thánh Giacôbê nhấn mạnh tới tình bác ái đáng khen của việc sửa sai huynh đệ “Ai đưa một người tội lỗi ra khỏi sai lầm của họ là đã cứu được linh hồn người ấy khỏi chết và đã bù đắp được vô số tội lỗi”.
Chúa Giêsu còn xác định rằng: “Thầy bảo thật các con: nếu ở dưới đất hai người trong anh em hiệp ý cầu xin bất cứ sự gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho họ”. Đây không đơn thuần là một giải quyết giữa anh em loài người, nhưng là cùng nhau đến trước tình yêu Thiên Chúa. Sự hiện diện của Chúa sẽ xóa giải mọi bất hòa giữa anh em. Chúng ta tin và can đảm sống điều đó “Vì ở đâu có có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”.
Trong Đạo Phật người ta thường nói “Phật tại tâm”. Trong Đạo Thiền, người ta sống cuộc sống con người cách đơn sơ thanh thản, không chấp mê, sống tự nhiên như bông hoa nở, như dòng suối chảy, như áng mây bay, như làn gió thổi. Sống an bình với chính mình an hoà với tha nhân, là “phá chấp ngã” nghĩa là không chấp, không chấp cả cái không chấp.
Đạo lý Chúa Kitô tự bản chất sâu xa là Đạo nhân, Đạo của lòng nhân ái, Đạo của tình thương. Tình thương không phải là một tư tưởng, cũng chẳng phải là một học thuyết. Tình thương là con đường ta phải đi, một tình yêu để ta sống, để chia sẻ với người khác.
Đức Kitô đã làm người để chia sẻ tình yêu của Chúa Cha cho chúng ta. Người mời gọi chúng ta chia sẻ lại tình yêu ấy cho anh em. Tất cả đạo lý Chúa Kitô nằm gọn trong chân lý đó. Trong điều mà Người gọi là điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương anh em”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm để con nhận sự sửa lỗi của anh em, và ban cho con ơn khôn ngoan để con biết chân thành sửa lỗi cho nhau, nhờ đó con xứng đáng nhận được lòng nhân từ Chúa xót thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước khi sửa lỗi ai, xin Chúa nhắc con nhớ rằng con cũng là tội nhân, cũng yếu đuối và hay lầm lỗi, có khi còn nặng nề hơn họ. Nếu vì bổn phận, con phải sưả lỗi cho người khác, xin cho con biết lấy tinh thần bác ái và tôn trọng nhân vị mà cư xử, nâng đỡ hơn là chỉ trích thoá mạ anh em. Xin cho cúng con luôn biết rộng lượng, bao dung với người khác vì con biết chắc rằng Chúa vẫn tha thứ cho con từng ngày. Amen
Lm. GIuse Nguyễn Hữu An
------------------------------
Lm. Nguyễn Khoa Toàn
Nếu ai đó am hiểu và theo dõi nội tình chính trị tại tiểu bang New South Wales ở Úc Châu: TN 23-A74
Nếu ai đó am hiểu và theo dõi nội tình chính trị tại tiểu bang New South Wales ở Úc Châu tuần qua, rồi lồng những bài đọc Chúa Nhật 23 thường niên tuần này, chắc hẳn người ấy sẽ tìm được một vài điểm trùng hợp thật ngẫu nhiên. Và một bài học đời vô cùng ý nghĩa…
Chuyện là một buổi chiều cuối tuần chỉ vài ngày sau khi Thủ Hiến Bob Carr đột ngột từ chức, Thủ Lãnh Đối Lập John Brogden đã không ngờ ‘vận đỏ’ đến với mình sớm đến thế. Cùng một vài nhân viên phụ tá, John đã ‘chén thù chén tạc’ tại khách sạn năm sao Hilton ở Sydney vừa mới tân trang.
Theo nhiều quan sát viên thời cuộc, với tình hình hiện tại và với tình trạng kinh tế có chiều hướng đi xuống, ai cũng chắc rằng chiếc ghế Thủ Hiến của tiểu bang đông dân nhất Úc Châu này sẽ lọt vào tay một thanh niên một vợ một con mà tuổi đời chưa qúa 40 này. Cả một tương lai chính trị sáng tươi đang chờ đợi…
Nhưng sáng thứ hai tuần qua, hình như sau một cuối tuần vật vã với luơng tâm, và có lẽ nhất là khi báo chí địa phương đã đánh hơi được một vài lời nói và cử chỉ khiếm nhã với một vài phụ nữ buổi chiều định mệnh ấy, John Brogden đột ngột từ chức. Đến chiều thứ ba, khi nhật báo The Daily Telegraph quyết định phanh phui thêm một vài hành vi lem nhem khác trong quá khứ, Brogden lặng lẽ rời nhà không một lời từ biệt cùng vợ Lucy và đứa con trai đầu chưa tròn hai tuổi Flinders, tạt vào nhà thờ giáo xứ Thánh Tâm ở Mona Vale rồi sau đó đến văn phòng riêng. Và bằng vài liều độc dược, Brodgen cắt gân máu kết liễu đời mình.
Dư luận liền chia làm hai phía khi đuợc hung tin. Một bên tố cáo báo chí đã đi quá trớn, xâm phạm thô bạo vào đời sống tư riêng. Bên kia phản pháo cho rằng nhiệm vụ của báo chí là thông tin cho đại chúng biết những gì cần biết nhất là từ những đại diện dân cử. Nói một cách khác, theo lời ký giả Damien Murphy, John Brogden là nạn nhân của công lý trừng phạt (punitive justice) chứ không phải công lý phục hồi (restorative justice).
Công lý phục hồi nhắm đến một sự cân bằng giữa người gây ra sự cố, nạn nhân và gia đình cùng xã hội chung quanh. Vì thế, mục đích tối hậu của công lý phục hồi không phải là trừng phạt những là hoán cải người gây ra lầm lỗi. Hoán cải không phải là bưng bít che đậy mà là khôn khéo nhẹ nhàng tế nhị nhưng dứt khoát cứng rắn giúp cho kẻ lỡ bước sa chân kia thấy sự việc sai trái của mình đồng thời tạo mọi điều kiện để người ấy có cơ hội trở về đuờng ngay nẻo chánh.
Bài Phúc Âm hôm nay là một biểu chứng hùng hồn là nền công lý phục hồi cần đuợc triển khai trong mọi khía cạnh của đời sống từng cá nhân, từng gia đình, từng cộng đoàn và từng xã hội. Bước đầu tiên là phục hồi danh dự và nhân phẩm của nạn nhân và của cả người gây ra tội phạm. “Nếu anh chị em ngươi lỗi phạm, hãy đi dạy sửa nó, riêng ngươi và nó thôi.” Chỉ riêng ngươi và nó thôi vì tiến trình hoán cải con nguời đòi buộc khá nhiều nhạy bén tế nhị và rất nhiều tha thứ cảm thông.
Càng thiếu tế nhị cảm thông tha thứ bao nhiêu thì càng dẫn đưa người lầm lỗi vào ngõ cùng hụt hẫng. Họ mất niềm tin. Và chẳng còn hy vọng. Và khi không còn ai để cấy niềm tin và khi không còn nơi nào để bấu hy vọng vào, cái chết là một kết luận đã rồi!
Lm. Nguyễn Khoa Toàn
------------------------------
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Thời đại hôm nay là thời đại kinh tế thị trường. Mọi quan hệ giữa người với người đều dựa trên: TN 23-A75
Thời đại hôm nay là thời đại kinh tế thị trường. Mọi quan hệ giữa người với người đều dựa trên lợi nhuận kinh tế. Tôi quan hệ với anh tôi có lợi điều gì? Tôi làm việc này tôi có hưởng được lợi lộc gì? Tôi đầu tư công sức vào việc này, tôi sẽ được lời lãi bao nhiêu? Thế nên, những việc không có lợi, người ta thường tìm cách tránh né. Người ta thường suy xét thiệt hơn. Không ai dại gì gánh nợ cho người khác. Không ai dại gì can thiệp vào chuyện của người khác. Con người hôm nay là vậy, nhưng bác ái kytô giáo không cho phép chúng ta dửng dưng với đồng loại. Một tình yêu đích thực không thể làm ngơ trước nguy hiểm của người mình yêu. Đức ái đòi hỏi phải dấn thân và làm cho người anh em của mình được sống và sống ngập tràn hạnh phúc.
Một cuộc sống hạnh phúc đích thực không hệ tại ở tiền bạc, danh vọng, lạc thú mà quan yếu ở tâm hồn bình an. Bình an ở tại lòng người. Lòng người không chạy theo điều gian dối. Không chạy theo thói xa hoa trụy lạc. Không làm điều bất chính hay vương vấn lỗi lầm mới có bình an tâm hồn.
Như vậy đứng trước những hành vi xấu xa tội lỗi của anh em, tôi nên làm ngơ hay nói sự thật. Tôi nên giúp họ nhận ra điều sai lỗi hay tôi theo chủ nghĩa “mackeno”. Tôi có bổn phận giúp người anh em tìm lại bình an tâm hồn khi sống theo đạo lý làm người, và làm con Chúa hay tôi để họ mãi sa lầy trong vũng bùn tội lỗi và bóng đêm của gian tà.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải can đảm và kiên nhẫn sửa lỗi cho nhau. Sửa lỗi cho nhau là hành vi bác ái, là giúp anh em mình sống đúng phẩm giá làm người, là nỗ lực đưa anh em mình trở về nẻo chính đường ngay. Sửa lỗi cho nhau không chỉ là điều cần thiết mà còn là bổn phận của các bậc làm cha mẹ, anh chị, hay của những người có nghĩa vụ giáo dục và hướng dẫn người khác. Vì “nuôi con chẳng dạy chẳng răn – Thà rằng nuôi lợn lấy lòng mà ăn”.
Nhưng sửa lỗi khác với trừng phạt. Sửa lỗi cần kín đáo, tế nhị, còn trừng phạt thường mạt sát, hạ bệ và công khai. Người được sửa lỗi là người được yêu thương. Người bị trừng phạt là người bị loại ra khỏi xã hội và cộng đồng nhân loại.
Thế nên, sửa lỗi anh em trong đức ái không có nghĩa là dò xét, vạch lá tìm sâu, bé xé ra to, ít xít ra nhiều. Càng không được kể lỗi lầm của anh em ra bất cứ ai, mà cần ý thức rằng “nhân vô thập toàn”, là người ai cũng có lầm lỗi, là người ai cũng có khiếm khuyết, nên cần cảm thông hơn là kết án, nên giúp họ làm lại cuộc đời hơn là tẩy chay.
Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra những bước sửa lỗi anh em.
Bước thứ nhất là đối thoại. Đối thoại là giúp họ nhận ra việc họ làm, lời họ nói là sai. Đối thoại để họ nhận ra lầm lỗi, để họ ý thức được việc họ làm, lời họ nói là xấu, là sai với đạo lý làm người.
Bước thứ hai cần thêm người khác tác động. Có thể là bạn bè thân hữu của người phạm lỗi, hay có thể là người có uy tín trong cộng đoàn. Người khác tác động là người có liên quan đến người phạm lỗi chứ không phải bạ ai cũng nói, gặp ai cũng chia sẻ, làm như thế người có lỗi chỉ thêm mặc cảm vì lỗi của mình, và oán ghét chúng ta hơn là biết ơn chúng ta.
Bước thứ ba là đưa ra cộng đồng. Người ta vẫn thường nói “xã có phép tắc của xã. Làng có khuôn phép của làng”. Mỗi một đơn vị đều có những lề thói giúp nhau sống kỷ cương và đảm bảo an ninh xã hội. Thế nên, cộng đồng sẽ giúp cho con người sống tốt hơn và cho môi trường sống được lành mạnh và an bình hơn
Bước thứ tư: hãy cùng nhau hợp lời cầu nguyện cho họ. Trên hết mọi sự là hãy cầu nguyện cho người anh em chúng ta. Lời cầu nguyện của chúng ta vì nhu cầu cộng đoàn và cho cộng đoàn sẽ được Chúa chấp nhận.
Như vậy, bác ái kytô giáo không cho phép chúng ta dửng dưng hay làm ngơ trước lầm lỗi của tha nhân, nhất là những lầm lỗi có thể gây ảnh hưởng xấu trong cộng đoàn, hay mất an ninh cho xã hội. Dửng dưng hay làm ngơ là chúng ta thiếu tình yêu liên đới với tha nhân và thiếu trách nhiệm bảo vệ, gìn giữ sự trong sạch cũng như sự lành mạnh cho cộng đoàn.
Bác ái kytô giáo đòi hỏi chúng ta cảm thông với yếu đuối của tha nhân, nhưng không dung dưỡng sự xấu trong cộng đoàn. Chúng ta không được thanh trừng hay tẩy chay anh em nhưng phải thanh tẩy môi trường chúng ta đang sống khỏi những thói hư tật xấu, những tệ nạn gây ảnh hưởng xấu đến đời sống chung của cộng đoàn.
Xin Chúa ban cho chúng ta một tấm lòng khiêm tốn để nhận ra sự yếu đuối tội lỗi của mình mà sẵn lòng đón nhận lời góp ý, sửa lỗi của anh em. Vì “kẻ dám chê ta mới thật là thầy và là bạn ta, còn kẻ nịnh hót, tâng bốc ta chỉ làm hại cuộc đời ta”.
Xin Chúa soi lòng mở trí để chúng ta luôn dám nói sự thật với anh em, cho dẫu sự thật mất lòng nhưng là cách tốt nhất để kiện toàn anh em nên trọn hảo hơn. Amen.
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
------------------------------
Lm. An phong, OP
Bài Tin mừng hôm nay nói đến một trong những tính chất cơ bản của tình huynh đệ Kitô giáo: TN 23-A76
Bài Tin mừng hôm nay nói đến một trong những tính chất cơ bản của tình huynh đệ Kitô giáo, đó là sửa bảo nhau trong tình huynh đệ, vì "tất cả các bạn là anh chị em với nhau" (Mt 23,8). Vào thời Giáo hội sơ khai, tình "huynh đệ", đời sống như "anh chị em" là một dấu chỉ rõ rệt nhất để người khác nhận ra những người có "cùng một Cha trên trời". Tại Việt Nam, vào thời các thánh tử đạo, mọi người chung quanh đã gọi những người Công giáo là những người theo "đạo yêu nhau"; bởi lẽ họ không biết gọi tên gì khác thích hợp hơn; và cách gọi này phản ảnh được nếp sống các kitô hữu thời ấy.
Dường như Chúa Giêsu đã không thực tế khi nói về việc sửa lỗi ? Bởi không dễ gì "lên mặt dạy đời"; không dễ gì nói với một ai đó về một khuyết điểm có thật của họ. Thường thì người ta dễ dàng nói sau lưng về những sai sót, khuyết điểm của người khác. Hơn nữa, trong thời đại lối sống "mackeno" (mặc kệ nó) phát triển, "đèn nhà ai nhà ấy rạng"; lời khuyên sửa lỗi cho nhau lại trở nên cực kỳ khó khăn. Phải hiểu thế nào và thực hành ra sao những lời Đức Giêsu nói đây ?
Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa tất yếu đòi phải "yêu mến anh chị em" mình. Chúng ta là con cái Thiên Chúa nên cũng là anh chị em với nhau. Sửa bảo huynh đệ là sự quan tâm chăm sóc cho nhau.
Tình yêu người đích thực sẽ có khả năng biến đổi một con người, làm đảo lộn một lối sống. Sửa bảo huynh đệ là một trong những lối diễn tả tình yêu đích thực, nhờ lòng thành thực, tình yêu thương; và như thế, người có khuyết điểm sẽ dễ sửa đổi hơn.
Tình yêu đích thực của người kitô hữu sẽ có sức cứu độ; vì "Cha trên trời không muốn cho một trong những kẻ bé mọn này phải hư đi". Sửa bảo huynh đệ tức là muốn sự tốt lành nhất cho người khác, muốn họ trở nên người con thảo của Cha trên trời.
Tuy nhiên, "thuốc đắng cần phải bọc đường".
Lạy Chúa Giêsu,
Ước gì con có thể yêu Chúa
bằng một trái tim sốt mến, (…)
Ước gì con cũng có thể yêu mến anh em
bằng một trái tim nhân từ,
niềm nở, thủy chung, (…)
Ước gì con biết yêu anh em,
như Chúa đã yêu họ,
như Chúa đã yêu con.Dựa theo Jean Dozolme
Lm. An phong, OP
----------------------------------
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP
Công lý đang là vấn đề nổi cộm tại Việt Nam. Công lý đi đôi với chân lý. Thế nên, muốn trù dập: TN 23-A77
Công lý đang là vấn đề nổi cộm tại Việt Nam. Công lý đi đôi với chân lý. Thế nên, muốn trù dập công lý, trước hết người ta phải tìm cách che đậy hay xuyên tạc sự thật. “Từ vài tuần nay, Nhà nước đã và đang xử dụng công suất tối đa các phương tiện truyền thông như các Đài Truyền Hình, Truyền Thanh và báo chí tố cáo và buộc tội các Linh Mục và giáo dân Xứ Thái Hà vi phạm Pháp Luật khi đọc kinh & hát thánh ca trong khuôn viên khu bất đông sản số 178 Nguyễn Lương Bằng, Quận Đống Đa, đang tranh cãi nhằm kết án họ trước khi điều tra và trước khi Tòa Án ra phán quyết vụ việc.” [i] Đó là đường lối giải quyết vấn đề của nhà nước vô thần.
Đường lối đó hoàn toàn ngược hẳn với những gì Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay khi phải giải quyết vấn đề trong cộng đoàn. Trước khi công bố cho công chúng hay đem ra tòa án, Chúa muốn có những cuộc đối thoại và những chứng từ chắc chắn. Để có thể giải quyết ôn hòa và thỏa đáng, cần có những bước đi vừa hợp lý vừa hợp tình. Tất cả đều nhằm xây dựng một cộng đoàn bác ái trên nền tảng chân lý.
NHỮNG BƯỚC CẦN THIẾT
Trong cộng đoàn, mỗi người một ý, làm sao có thể hiệp nhất để thực hiện mục tiêu chung ? Không thể nhân danh cộng đoàn để triệt hạ cá nhân. Phối hiệp giữa cộng đoàn và cá nhân quả thật là một vấn đề rất lớn.
Vấn đề lớn nổi lên khi cá nhân muốn lấn át cộng đoàn. Ngược lại, vấn đề cũng không kém bi đát khi cộng đoàn lấn át cá nhân. Bởi vậy, khi cá nhân có vấn đề, cộng đoàn cần đối xử làm sao cho cá nhân có thể hòa nhập vào cộng đoàn, mà không đánh mất chính mình. Đây là điều hết sức tế nhị và phức tạp. Không những đòi khôn ngoan, nhưng còn phải duy trì đức ái, mục tiêu tối thượng của cộng đoàn.
Đi vào cụ thể, Chúa Giêsu vạch ra ba bước phải tuân theo khi giải quyết vấn đề. Tội lỗi cá nhân cũng là một trong các vấn đề cộng đoàn.
Bước thứ nhất diễn ra trong một khung cảnh nhỏ hẹp, giữa cá nhân với cá nhân. Chắc chắn cuộc trao đổi thân mật này phải theo chiều hướng đối thoại. Nơi sâu kín này, Chúa muốn con người tôn trọng nhau và cứu xét các vấn đề trên một bình diện bình đẳng. Không thể giải quyết ngay vấn đề dựa trên luật pháp. Nhưng cũng không chỉ căn cứ trên tình cảm. Tình cảm cũng chỉ nhằm tìm cho con người có một bầu khí sâu lắng và tĩnh lặng hầu có thể dễ dàng và thoải mái suy nghĩ hơn. Quá tình cảm cũng nguy hiểm không kém quá nghiêng chiều về lý trí. Cuộc gặp gỡ riêng tư có thể đem đến kết quả nhanh chóng, nếu biết khai thác những khía cạnh tâm lý hay thiêng liêng của người có vấn đề. Nhưng giải quyết một vấn đề có liên quan tới cộng đoàn hay cá nhân, người có trách nhiệm cần phải sáng suốt và bình tĩnh.
Giải quyết vấn đề trong vòng thân mật ấy không phải lúc nào cũng dễ dàng, vì cá nhân có thể chủ quan. Chỉ cần một chút tự ái hay thiếu tế nhị cũng có thể làm cho vấn đề thêm trầm trọng.
Dù sao, không thể để cho bất cứ lý do nào làm tiêu tan công lý và chân lý trong cộng đoàn. Trong trường hợp cá nhân không nhận ra vấn đề hay cố tình phủ nhận sự thật, có phải cứ làm thinh, chúng ta sẽ tạo được bầu khí thuận lợi để lôi kéo họ ? Chúa không bảo phải làm thinh. Không giải quyết đến cùng có thể tạo cho họ cơ hội lấn lướt cộng đoàn và phá hỏng mục tiêu. Vấn đề cần phải được giải quyết tới cùng. Phải làm mọi cách cho tội nhân nhận ra sự thật. Bằng cách nào ?
Chúa dẫn chúng ta vào bước thứ hai trong tiến trình giải quyết vấn đề. Sau khi đã thất bại trong việc thuyết phục cá nhân, Chúa muốn chúng ta dùng các nhân chứng hay bằng chứng. Tới giai đoạn này, bước đường chinh phục bằng tình cảm cũng bớt đi, nhưng dù sao vẫn là những trao đổi trong vòng nhỏ hẹp. Bước thứ hai dùng lý chứng để thuyết phục chưa chắc đã làm cho tội nhân bừng tỉnh. Quả thật, không dễ lấy cái xà ra khỏi mắt để nhận định khách quan về những lỗi phạm của mình.
Trong giai đoạn hai, Chúa muốn cho mọi người thấy dù phải thông cảm và bao dung, nhưng cộng đoàn cũng phải cương quyết bảo vệ sự thật đến cùng. Dầu sao, nếu tội nhân nhận ra sự thật, mọi việc đã có thể giải quyết trong giai đoạn hai. Như vậy cũng đủ cho tội nhân thấy rõ sự kiên nhẫn và tình thương của cộng đoàn. Khi kêu đến các nhân chứng, cộng đoàn cũng chỉ muốn vừa mở mắt cho họ nhận ra vấn đề và phương cách giải quyết, vừa muốn cho thấy tình ấm cúng của anh em trong cộng đoàn. Bởi thế, các nhân chứng không được quá cứng rắn như quan tòa, mới hy vọng đạt đến điều cộng đoàn mong muốn. Nếu các nhân chứng cũng có giọng điệu như công tố viên, chắc chắn vấn đề sẽ trầm trọng thêm và tội nhân sẽ càng cố chấp trong đường lối của mình.
Nếu qua giai đoạn hai, tội nhân vẫn chưa chấp nhận sửa sai, cộng đoàn cũng không thể để vấn đề “chìm xuồng” luôn. Giai đoạn đối thoại và làm chứng âm thầm đã qua. Tình thương phải không thể che mờ chân lý. Đến giai đoạn thứ ba, tất cả đều phải công khai nơi tòa án. Biện pháp mạnh nhất là loại trừ phần tử xấu ra khỏi cộng đoàn. Không thể có sự hòa hợp giữa cộng đoàn và cá nhân đó nữa. Nói khác, mục đích và quyền lợi chung sẽ tiêu trầm, nếu cứ để cá nhân đó đồng hành với mọi phần tử khác.
Khi phải dùng tới biện pháp mạnh, chắc chắn Hội Thánh cũng không được phép lỗi đức ái. Đúng ra, khi không chấp nhận sai lỗi của mình, tội nhân đã tự loại ra khỏi cộng đoàn. Nếu có bó buộc phải dùng tới kỷ luật, chẳng qua Hội Thánh muốn công khai xác nhận tình trạng của họ mà thôi. Đó là một điều bất đắc dĩ, nhưng cần thiết để bảo vệ cộng đoàn.
Khi phán quyết và hành động như thế, Hội thánh lấy quyền ở đâu ? Liệu phán quyết đó có đủ sức mạnh không?
Dĩ nhiên, quyền tài phán của Hội thánh đã được Chúa bảo đảm. Hội Thánh có quyền ràng buộc và tháo cởi cho nhân loại (x. Mt 18:18). Tự bản chất, Hội Thánh là một sức mạnh giải thoát. Như thế, khi phải loại bỏ một thành viên ra khỏi cộng đoàn, phải chăng Hội thánh đã đánh mất bản chất ? Thực ra, Hội Thánh không hành động để tỏ uy quyền cho bằng muốn bảo vệ đàn chiên của Chúa. Khi thi hành sứ mệnh, Hội thánh không nhằm triệt hạ con người, nhưng chỉ muốn loại trừ tội lỗi.
Khi hành xử như thế, Hội thánh tự thanh luyện chính mình và tỏ cho mọi người thấy sự nhất trí của cả Hội Thánh. Sự nhất trí đó không dựa trên luật pháp như xã hội ngoài đời, nhưng hoàn toàn dựa trên quyền năng đầy tình yêu thương của Thiên Chúa. Nếu không kết hiệp với Chúa, Hội Thánh không thể có sức mạnh và quyền năng như thế.
Khi phải hành động để bảo vệ công lý, Hội Thánh càng cần phải cầu xin với Chúa hơn để có thể dung hợp giữa công lý và tình thương, để vừa khôn ngoan làm sáng tỏ sự thật, vừa bảo vệ tối đa bản chất tình yêu của mình. Khi họp nhau để cầu nguyện và phân xử như thế, Hội Thánh an tâm vì có Chúa Giêsu ở giữa (x. Mt 18:19-20). Thế nên, dù khi sốt sắng cầu nguyện hay khi căng thẳng cứu xét và phán quyết về một vấn đê trong cộng đoàn, Hội Thánh đều được Thánh Linh giúp thêm can đảm hầu hoàn thành sứ mệnh đưa nhân loại vào Nước Trời.
QUYỀN BÍNH GIÁO HỘI
Khi phạm tội, con người tự tách biệt khỏi Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao họ không thể nhận ra sự thật. Thực vậy, “Chúa tạo dựng con người để làm người bạn đàm đạo với Chúa. Chỉ trong cuộc đối thoại với Chúa, con người mới tìm ra sự thật. Từ đó, họ tìm được hứng khởi và tiêu chuẩn cho những chương trình tương lai của thế giới.” [ii] Tội lỗi ngăn cản con người hiệp thông với Thiên Chúa và phá vỡ mọi kế hoạch.
Hơn thế, tội lỗi còn đưa đến những hậu quả khốc hại cho cộng đồng nhân loại. Có thể nói tội lỗi khiến con người trở thành xa lạ với nhau. Ngôn ngữ không còn là nhịp cầu thông cảm và trao đổi giữa con người với nhau nữa. Quả thế, “khi con người cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa, cuộc phân rẽ giữa anh em thật bi thảm. Như chúng ta thấy, “nguyên tội” vừa tuyệt giao với Giavê vừa phá tan tình bằng hữu đã từng liên kết gia đình nhân loại.” [iii] Tương quan hai chiều đó xoắn xuýt với nhau như những sợi trong một giây thừng.
Tội lỗi luôn mang chiều kích xã hội. Thực thế, “vì trong thực thế và cụ thể tình liên đới nhân loại huyền nhiệm và không thể thấu hiểu, tội cá nhân cũng ảnh hưởng tới tha nhân cách nào đó.”[iv] Đó là lý do Hội Thánh coi tội lỗi như một vấn đề phải giải quyết. Hội Thánh phải tìm giải pháp tốt nhất để tìm con đường khai thông cho mọi bên.
Giải pháp tốt nhất đó chỉ có thể tìm thấy trong Đức Giêsu Kitô. Quả thật, “ tội lỗi luôn tìm cách đánh lừa chúng ta và ngăn cản con người thực hiện công việc. Nhưng Chúa Kitô đã chiến thắng tội lỗi và cứu chuộc con người khi thực hiện công cuộc hòa giải.” (Cl 1:20) Do đó càng kết hiệp với Chúa Kitô trong lời cầu nguyện, Hội thánh càng sáng suốt, khôn ngoan và can đảm giải quyết vấn đề cho tội nhân để mưu ích cho công cuộc cứu độ. Dù sao, cũng nên nhớ rằng “vì bị tội lỗi làm tổn thương, nhân loại phải trải qua một cuộc thanh tẩy tận căn (x. 2 Pr 3:10) để trở thành một thế giới mới (x. Is 65:17; 66:22; Kh 21: 1), sau cùng thành một nơi cho “người công chính cư ngụ.” (2 Pr 3:13) Như vậy, Chúa đã trao cho Giaó Hội quyền bính để tự thanh tẩy và biến thành nơi cho những công chính sống bình an và hạnh phúc trong ân sủng Thiên Chúa.
Không những tự thanh tẩy, Giáo Hội còn cộng tác với Thiên Chúa trong việc thanh tẩy trần gian khỏi những tội lỗi bất công và gian ác. Chính khi tranh đấu giành lại công lý cho con người, Giáo Hội đang thực hiện công cuộc thanh tẩy đó. Không có cuộc thanh tẩy này, con người không thể sống bình an với nhau và xây dựng cuộc sống tốt đẹp.
CUỘC THANH TẨY TẠI VIỆT NAM
Cuộc thanh tẩy nào cũng đòi nhiều hy sinh. Nếu không loại trừ những bất công ra khỏi xã hội, con người không bao giờ có thể sống bình an và hạnh phúc, dù có đầy đủ quyền bính và tiền rừng bạc bể. Hiện nay, xã hội Việt Nam đang trải qua những cuộc thanh tẩy đau đớn, vì căn bệnh bất công đã quá trầm kha. Nếu con người không tiêu diệt được bất công, bất công sẽ tiêu diệt con người.
Chính vì thế, GHVN đang cố gắng giành lại công lý cho dân tộc sống còn và phát triển. Giữa cảnh ồn ào vu vạ nơi các cơ quan truyền thông và những phương tiện đàn áp đủ loại của nhà nước, GHVN đang hành động ra sao qua vụ Giáo xứ Thái Hà ?
Trước hết là cuộc đối thoại về pháp lý và trưng dẫn bằng chứng. Trong lá thư gởi các linh mục Việt Nam, Dòng Chúa Cứu Thế xác quyết:
“Dòng Chúa Cứu Thế - Giáo xứ Thái Hà có đầy đủ bằng chứng pháp lý và lịch sử để chứng minh khu đất đó thuộc quyền sử dụng của mình và đã sở hữu, sử dụng từ khi chưa thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
Khu đất hiện đang tranh chấp là thuộc quyền sử dụng của Dòng Chúa Cứu Thế - Giáo xứ Thái Hà, không có bất cứ văn bản sang nhượng, chuyển quyền sử dụng, cho, biếu tặng bất cứ tổ chức hoặc pháp nhân nào. Bởi theo Giáo luật, không có ai, với tư cách cá nhân, được tự ý sang nhượng, chuyển đổi đất đai, tài sản Giáo hội Công giáo.
Chúng con khẳng định kiên quyết yêu cầu việc trả lại sự công bằng, công lý và lẽ phải với những tài sản của Dòng Chúa Cứu Thế - Giáo xứ Thái Hà, Hà Nội, đúng với tinh thần hiến pháp, luật pháp Việt Nam đã qui định, cũng như những luật lệ quốc tế mà Việt nam đã cam kết và có nghĩa vụ tôn trọng (xem Đơn Khiếu Nại, số 06/2008/DCCTHN của các Linh mục tu sĩ DCCT tại Giáo xứ Thái Hà).
Chúng con kiên định đeo đuổi công lý và sự thật vì “sự thật sẽ giải thoát chúng con” như Chúa Giêsu đã nói.”[v]
Thật vui mừng khi có những môn đệ theo Chúa trên đường công lý Chúa đã vạch ra. Những lý chứng khách quan đó không lệ thuộc vào quan điểm của con người. Ở đây không phải là cuộc xung khắc giữa pháp luật và tình cảm, nhưng là những chứng cớ và sự thật lịch sử.
Đến giai đoạn này, Dòng Chúa Cứu Thế không lẻ loi khi tranh đấu cho công lý. Các vị lãnh đạo GHVN bắt đầu nhập cuộc. Ít nhất hai giám mục Thái Bình và Hải Phòng, 82 linh mục tổng giáo phận Hà Nội, các dòng Mến Thánh Giá, Đa Minh v.v. cũng tham gia ủng hộ.
Đặc biệt các nhà luật học cũng nhập cuộc để soi sáng vấn đề. “Trong hành động cụ thể: người dân có quyền không tuân thủ các luật lệ vi hiền và vi luật. Luật Học gọi là désobissance civile.
Về mặt Hình Sự, Chính quyền đã cố tình lẫn lộn hành vi dân sự với hành vi hình sự để áp đặt việc vi phạm pháp luật để bội nhọ, đàn áp đánh đập dã man bằng dùi cui, roi điện dân chúng tới cầu nguyện, đặc biệt xịt hơi cay vào các em nhỏ, phụ nữ và các cụ già với hình ảnh đăng trên các diễn đàn mạng (online).
Lý do rất dơn giản là việc đòi lại bất động sản bị chiêm dụng bất hợp pháp là hành vi dân sự. Việc tụ hội đọc kinh và ca hát các bài ca tôn giáo trên tài sản của Giao Xứ Thái Hà không vi phạm bất cứ một điều luật nào của luật pháp Việtnam.
Ngay cả việc có đâp phá vài hàng gạch bức tường siêu vẹo do Công ty May Chiến Thắng tự ý xây dựng trước đây, có nguy cơ an toàn cho dân chúng cũng không thể qui ghép họ về tội phá hủy tài sản công dân được vì người chủ đích thực là Giáo Xứ Thái Hà, người quản lý là Công ty May Chiến Thắng đẵ không hoạt động gần 10 năm nay, không một ai khiếu nại về hành vi trên.
Việc cầu nguyện và hát thánh ca cũng như việc phá hũy vài hàng gạch xây dựng trái phép trước sự chứng kiến cũa các viên chức chính quyền và công an là minh bạch rõ ràng.
Việc các quan chức chính quyền và công an không cản ngăn, không lâp biên bản, không khuyến cáo vi phạm pháp luật, phải được hiểu là chuyện bức xúc bình thường của người dân trước việc đòi hỏi chính đáng của bà con giáo dân.
Vụ việc trên xẩy ra trên đất tư nhân thưộc quyền sở hữu Giáo Xứ Thái Hà do Nha May Chiến Thắng quản lý đã bõ hoang từ nhiều năm nay và chính công ty May Chiến Thàng cũng đã đóng cửa từ lâu, chính quyền không có căn cứ pháp luật để truy tố họ về tội hũy hoại tài sản công dân và gay rối trật tự công cộng.
Nếu phải truy tố vế an ninh trật tự công cộng, theo chúng tôi, chính là công ty Thảm Len, nay là công ty may Chiến Thắng đã ngang nhiện chiếm 1/3 lòng đường xây bằng xi măng một nhà bán bia chai nươc ngọt cản trở lưu thông và an toàn cho người đi bộ như 2 tấm hình chụp ngày 3/9/2008 chứng minh.
Việc vi phạm nhiêm trọng này phải bi chế tài nhanh chóng, tức thì vì an toàn lưu thông, xây cất, chỉnh trang thành phố và nhất là an ninh trật tự công cộng. Trong một Nhà Nước Pháp Quyền, công dân cũng như Nhà Nước phải tôn trọng Luât Pháp. Một Chính quyền không tôn trọng Luật Pháp sẽ gây bất công, người dân mất sự tin tưởng vào công lý và vào chính quyền. Nguy hiểm hơn nhất là khi một Bộ Luật bị coi là vi hiến, bất hợp pháp, người dân có quyền bất tuân lệnh (désobéissance civile).”[vi]
Một đầu óc bình thường phải nhận ra sự thật trong chứng từ và lý lẽ kể trên.
Tóm lại, cuộc hòa giải đích thực không bao giờ bắt đầu bằng những bước thô bạo như dùi cui, roi điện, hơi cay, hay những vu khống và đe dọa khủng bố tinh thần trên các báo đài. Chỉ có trần gian mới giải quyết vấn đề với nhau như thế. Để giải quyết vấn đề, Chúa đề nghị những giải pháp tế nhị hơn nhiều. Bắt đầu là cuộc đối thoại sâu xa giữa cá nhân và cá nhân. Kế tiếp là tiếng nói cộng đoàn. Sau cùng mới là phán quyết tối hậu của Giáo Hội. Vì muốn thanh tẩy Giáo Hội thành một hình ảnh Nước Trời giữa trần gian, Chúa Giêsu đã ban quyền tài phán cho Giáo Hội. Quyền bính này không có nguồn gốc như những quyền bính trần thế, nhưng từ nơi Thiên Chúa. Bởi vậy, càng kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa, Giáo Hội càng được tham dự vào quyền năng Thiên Chúa. Nhờ thế, Giáo Hội vừa có thể đáp ứng đòi của công lý, vừa đưa con người tới cuộc hòa giải tốt đẹp.
Lạy Chúa, xin cho công lý ngày càng sáng tỏ trong xã hội Việt Nam chúng con. Amen.
[i] http://www.vietcatholic.net/News/Html/58048.htm
[ii] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội Của Giáo Hộ
i, 452.
[iii] ibid., 116.
[iv] ibid., 117.
[v] http://www.vietcatholic.net/News/Html/57917.htm
[vi] ibid.
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP
----------------------------------
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Liên đới chịu trách nhiệm
Thánh Mát-thêu là người quan tâm tới những vấn đề trong việc điều hành cộng đoàn: sau khi tường: TN 23-A78
Thánh Mát-thêu là người quan tâm tới những vấn đề trong việc điều hành cộng đoàn: sau khi tường thuật việc thiết lập Hội Thánh, tác giả sách Tin Mừng thứ nhất kể lại những giáo huấn của Đức Giêsu về sinh hoạt của cộng đoàn này, từ vai trò của mỗi người trong cộng đoàn đến việc đừng làm cớ cho người khác sa ngã, từ việc đón nhận những kẻ bé mọn đến việc tha thứ cho nhau.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, tác giả mô tả cách thức Hội Thánh sơ khai đã sử dụng để giải quyết những xung đột dựa theo giáo huấn của Đức Giêsu.
"Nếu người anh em của anh trót phạm tội". Một vấn đề đơn giản vẫn thường xảy ra, và cộng đoàn không có quyền để mặc tội nhân hay coi thường họ. Trái lại, toàn thể cộng đoàn đều có trách nhiệm liên đới trong việc một người anh em lạc xa con đường dẫn tới ơn cứu độ.
Trong trường hợp này, có nên sử dụng "những phương thế quyết liệt" để khai trừ một người đã phạm tội không ? Thái độ đúng đắn và có trách nhiệm không chấp nhận việc loại bỏ cách dễ dàng, trái lại cộng đoàn phải cố gắng sử dụng mọi phương thức có thể nhằm cứu vớt người anh em và đưa họ trở về với cộng đoàn. Đó là ý nghĩa của việc sửa lỗi lẫn nhau.
Khi xảy ra tranh chấp cá nhân, người môn đệ Đức Kitô không nại đến quyền bính ngay, nhưng trước hết hãy đi tìm người có lỗi và cùng với họ xem xét nguyên nhân gây ra tình trạng bất ỗn. Ngày nay, người ta gọi tiến trình này là "tìm kiếm sự hoà giải". Tiếp đến, nếu cách giải quyết như thế không đem lại hiệu quả, thì tìm thêm hai ba nhân chứng nữa với mục đích giúp cho việc thuyết phục được mạnh mẽ hơn, gây xác tín nơi kẻ có lỗi. Cuối cùng, khi sự việc vẫn chưa được dàn xếp ỗn thoả thì mới nại đến quyền bính của Hội Thánh để phân xử và quyết định.
Như vậy, tiến trình sửa lỗi lẫn nhau luôn bao hàm việc loại trừ sự dữ, nhưng không được coi thường người khác. Tiến trình này phải được thực hiện cách khôn ngoan, tiệm tiến và với lòng kiên nhẫn. Tiến trình này luôn đề cao việc lắng nghe nhau và đối thoại, nhằm tạo cho mỗi người cơ may được sống, được hiệp thông với cộng đoàn.
Đàng khác, cộng đoàn không được xử sự như một toà án thông thường với mục đích tìm sự thú tội của người có lỗi để kết án họ, trái lại cộng đoàn luôn hướng tới sự công bằng, và xa hơn nữa là lòng khoan dung, tình thương xót. Nếu cộng đoàn có xét xử cũng là cố gắng tìm cách đưa người có lỗi trở về với cộng đoàn chứ không phải kết án họ. Ngay cả khi tội nhân cố chấp trong lầm lỗi của mình, cộng đoàn vẫn cầu nguyện cho họ, và sẵn sàng đón họ trở về.
Cộng đoàn -tức là Hội Thánh- do Đức Giêsu thành lập, không phải để phân ly, nhưng là mời gọi và mở rộng mối hiệp thông. Đức Giêsu vẫn hiện diện giữa cộng đoàn, Người là bảo đảm, là nền tảng cho việc liên kết hay loại bỏ, và nhờ Người, Hội Thánh là khởi điểm cho Nước Trời ngày mai.
Nhân danh Đức Giêsu
Việc xét xử chỉ là khía cạnh tiêu cực trong đời sống cộng đoàn. Khía cạnh tích cực chính là sự hiệp nhất theo thánh ý Thiên Chúa. Sự hoà hợp sâu xa được thực hiện theo chiều hướng này, đó là Nước Trời đã đến, một thế giới mới đang nảy sinh. Cộng đoàn cũng như cá nhân không hề tìm kiếm ích lợi cho riêng mình, nhưng là thể hiện tình yêu thương lẫn nhau trong mối dây hiệp thông duy nhất là chính Đức Giêsu, Đấng đã thiết lập Hội Thánh và vẫn đang hiện diện trong Hội Thánh. Đang khi tìm kiếm sự hoà hợp tại trần gian, cộng đoàn nỗi lực hướng tới việc quy tụ mọi thành phần, bất kể người ấy là ai, và cùng nhau hướng về cuộc đoàn tụ trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa. Như thế, cả trời và đất đều hoà hợp với nhau. Đức Giêsu hiện diện trong cộng đoàn cũng như trên trời: quyền năng phục sinh của Người mỗi ngày được củng cố thêm lên, chống lại
thế giới cũ đang bị phân rẽ và đang chết đi qua những xung đột, những mâu thuẫn.
Chính nhân danh Đức Giêsu, Đấng đã được Thiên Chúa Cha ban cho mọi quyền hành, cộng đoàn thi hành quyền xét xử và tha thứ. Nói cách khác, chính Đức Giêsu giải quyết những khúc mắc của cộng đoàn hữu hình. Bởi đó, việc "rút phép thông công" không phải là giải pháp tiên thiên.
Câu nói của Đức Giêsu: "Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy" không có nghĩa là cộng đoàn Hội Thánh luôn là người đưa ra phán quyết sau cùng. Mặc dù Đức Giêsu không hiện diện cách thể lý, nhưng chính Người vẫn đang có mặt trong Hội Thánh mỗi khi Hội Thánh điều hành các cộng đoàn theo tinh thần Tin Mừng. Chính Đức Giêsu là thành phần chính yếu trong mọi quyết định của cộng đoàn.
Mà nét nỗi bật trong cuộc đời của Đức Giêsu là lòng thương xót đối với những người bé mọn, những tội nhân. Người đã loan báo Nước Trời cho họ. Người đã không coi "những người dân ngoại và thu thuế" là những người đáng bị trừng phạt. Toàn bộ Tin Mừng đều cho thấy lòng ưu ái của Thiên Chúa dành cho những người này. Ngay cả khi họ sống bên ngoài cộng đoàn, họ vẫn có thể khám phá ra rằng Tin Mừng được loan báo cho họ.
Sau nữa, Đức Giêsu là Đấng cùng cầu nguyện với cộng đoàn, và chuyển cầu cho cộng đoàn. Khi cộng đoàn tụ họp nhau cầu nguyện, đó là lúc cộng đoàn tiếp xúc với tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha. Khi trở về với nền tảng là tình yêu, mọi bất hoà đều bị dẹp tan.
Giải quyết trong tình yêu
Vào thời ban đầu, các tín hữu rất quan tâm đến thanh danh của mình. Dân ngoại thời ấy đã có nhận định: "Kìa xem họ yêu mến nhau biết chừng nào !". Khi con số tín hữu tăng lên, cộng đoàn càng ý thức rõ rệt hơn về đòi hỏi phải hiệp nhất và gắn bó với nhau hơn. Thế nhưng, hình như càng lúc công việc càng thêm khó khăn.
Ngày nay, chúng ta cảm thấy khó khăn khi phải sống với nhau, kể cả trong các cộng đoàn tu trì. Đã thường xuyên xảy ra những va chạm, những gương xấu, những khuynh hướng gây ra những thảm kịch. Hình như trong mọi cộng đoàn, dù chỉ hai hay ba người, vẫn luôn có những bất hoà, những lục đục và chúng ta cũng thường có khuynh hướng muốn loại trừ, muốn gạt bỏ hơn là cùng nhau tìm cách giải quyết, hàn gắn những đỗ vỡ và củng cố mối hiệp thông.
Bài Tin Mừng giúp chúng ta cách giải quyết đúng đắn những trục trặc trong cộng đoàn.
Cần phải đến với người anh em, nhất là những anh em có lỗi, với lòng yêu mến. Chính tình yêu sẽ thúc đẩy để biết nên nói điều gì, và nói điều nào có ích. Tình yêu cũng giúp mỗi người biết kiên nhẫn để xử sự cách khôn ngoan, tế nhị, đổng thời biết sẵn sàng lắng nghe nhau để tạo sự hiệp thông. Trong mọi cộng đoàn Kitô giáo, việc sửa lỗi không xuất phát từ lòng hằn thù, ghen ghét, muốn gạt bỏ người anh em, nhưng là để làm cho mối dây liên kết thêm sống động, và tạo cơ hội để người có lỗi sửa chữa những sai lầm. Các Kitô hữu là những người được Thánh Thần tác động và mời gọi cộng tác vào việc đẩy xa mọi điều bất hoà, chia rẽ. Và nếu có xảy ra những lầm lỗi, họ được mời gọi để tái lập sự hiệp nhất và làm cho sự hiệp thông càng lan rộng. Cùng với Đức Giêsu, Đấng đang hiện diện giữa cộng đoàn, các tín hữu cảm thấy mình có trách nhiệm với người khác, họ nhận được sức mạnh và ánh sáng để dẹp tan mọi bất hoà, đẩy lui bóng tối.
"Không được coi thường người có tội nhưng phải dám đón nhận họ: Không được xem họ như người đã bị bỏ đi, trái lại phải tiếp đón, bảo vệ để họ có thể trở về với cộng đoàn qua việc tha thứ ...
Bởi vì chính Đức Kitô đã đón nhận chúng ta là những tội nhân, nên đến lượt mình, chúng ta cũng phải đón nhận
những người có tội vào trong Hội Thánh của Đức Giêsu,
một cộng đoàn được thành lập dựa trên ơn tha thứ.
Không được xét đoán tội lỗi của người khác, nhưng là đón nhận và cùng nhau chịu trách nhiệm..."(theo D.Bonhoeffer, "Về đời sống cộng đoàn").
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
------------------------------
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Tạp chí “Vận May” trong số ra ngày 23-12-1997, đã xếp hạng 25 nhà hảo tâm giàu có nhất tại: TN 23-A79
Tạp chí “Vận May” trong số ra ngày 23-12-1997, đã xếp hạng 25 nhà hảo tâm giàu có nhất tại Hoa kỳ. Rất nhiều nhà tỉ phú không có tên trong danh sách, vì họ không đóng góp gì cho các công tác từ thiện, hoặc sự đóng góp đó không đáng kể. Một số khác cũng không được nêu tên, vì họ chỉ hứa dâng cúng sau khi chết mà thôi. Một trong những điểm chung nối kết các nhà hảo tâm, đó là niềm tin tôn giáo của họ. Theo cuộc thăm dò của tạp chí “Vận May”, các nhà hảo tâm cho biết động lực thúc đẩy họ trong công cuộc từ thiện chính là niềm tin tôn giáo và đa số đã có thói quen tốt này trước khi giàu có. Quả thực, tôn giáo nào cũng dạy ăn ngay ở lành, tôn giáo nào cũng dạy sống bác ái. Riêng trong Kitô giáo, nền tảng của bác ái chính là tình huynh đệ. Người Kitô hữu yêu người, vì họ nhận ra mỗi người là anh em của mình, và đó là điểm nòng cốt của điều răn yêu thương.
Hai chữ “anh em” là sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ Tân Ước. Danh xưng “anh em” được áp dụng cho các tông đồ, các môn đệ, các cộng đoàn nhỏ đựơc qui tụ quanh Chúa Giêsu lúc sinh thời và nhất là sau khi Ngài phục sinh. Hơn nữa, hai chữ “anh em” còn có một ý nghĩa rộng rãi hơn, là anh em của chúng ta, không những là những ai tin nhận Chúa Giêsu, mà còn là tất cả mọi người, bởi vì Chúa Giêsu đã chết cho mọi người. Tác giả thư Do Thái đã khẳng định: “Chính vì mọi người mà Chúa Giêsu đã nếm trải cái chết, và Ngài không xấu hổ khi gọi mọi người là anh em”.
Là anh em của Chúa Giêsu, nên mọi người đều là anh em với nhau. Tình huynh đệ giữa mọi người là tình huynh đệ đại đồng, không biên giới, đối với Kitô giáo, không có bất cứ hàng rào nào mà không thể vượt qua được, bởi vì mọi người đều là anh em với nhau. Tóm lại, Chúa Giêsu đã chết và sống lại là để đánh thức nơi con người cái ý thức về tình huynh đệ đại đồng ấy. Qua cái chết và sự phục sinh ấy, Ngài mặc khải cho thấy mọi người đều là con cái của Cha trên trời, và do đó là anh em với nhau. Đây chính là nền tảng của điều răn yêu thương và cũng là nền tảng của giáo huấn xã hội mà Giáo Hội không ngừng truyền bá để kêu gọi xây dựng một cộng đồng nhân loại công bằng hơn, huynh đệ hơn. Hai chữ “anh em” và tình huynh đệ cũng là hai điều Chúa Giêsu nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sống với nhau như anh em, yêu thương như anh em, lý tưởng như thế, nhưng “bá nhân bá tánh”: trăm người thì có trăm tính khác nhau, vì thế, mỗi người phải phát huy ưu thế của mình và tận dụng nó trong việc giúp đỡ anh em mình cái mặt yếu kém của họ, không được ỷ vào ưu điểm Chúa ban mà lên mặt tự phụ khinh thường người khác. Hơn nữa, “nhân vô thập toàn”, không ai là hoàn hảo, tuyệt đối không bao giờ sai lầm hay thiếu sót, trái lại, còn thường xuyên lầm lỗi và thiếu sót nữa, nên chỉ bảo cho nhau, góp ý xây dựng cho nhau, sửa lỗi lẫn nhau là một việc cần thiết. Đây là một cách cư xử rất khó khăn, rất phức tạp, đòi hỏi hết sức tế nhị và phải làm.
Quả thực, yêu thương không phải là luôn khen ngợi, tâng bốc anh em mà còn là ân cần sửa lỗi cho anh em nữa. Dĩ nhiên chúng ta không được dò xét để tố cáo nhau, nhưng phải có trách nhiệm với nhau trong cộng đoàn. Chúng ta tránh kết án lỗi lầm người khác, nhưng nên khiêm tốn sửa lỗi anh em trong sự tế nhị kín đáo. Người Kitô hữu không nên can thiệp vào chuyện thiên hạ, nhưng chúng ta cũng phải có trách nhiệm đối với những lỗi lầm của anh em mình.
Chúa Giêsu hiểu biết tâm lý con người, Ngài biết rõ chúng ta yếu đuối, hay lỗi lầm, thiếu sót và cần sửa chữa, nên Ngài đã chỉ dạy chúng ta một cách sửa lỗi nhau rất hay, rất tế nhị, đó là hãy kiên nhẫn thực hiện bốn giai đoạn hay bốn bước sau đây:
Trước hết, phải gặp gỡ riêng hai người, chỉ hai người thôi, ta và người sai lỗi. Gặp gỡ và nói chuyện với nhau trong tình thân ái, kín đáo và chân thành. Gặp gỡ như vậy sẽ giúp chúng ta hiểu nhau, thông cảm nhau và biết đúng sự thật hơn. Đàng khác, sẽ giúp cho người sai lỗi thấy được lỗi lầm của họ để sửa chữa và phục thiện.
Sau khi đã gặp gỡ riêng rồi mà không kết quả, người sai lỗi vẫn tự ái, cố chấp, thì mời thêm một hoặc hai người làm nhân chứng và cùng góp ý. Nhiều người nhiều bộ óc, tất nhiên sẽ mạnh lý hơn, vừa minh chứng cho lòng thành thực của chúng ta, vừa cho người sai lỗi thấy rõ và phải nhìn nhận điều sai trái của họ.
Nếu vẫn không kết quả, khi ấy mới đưa ra cộng đoàn hay đưa đến người có thẩm quyền để giải quyết, đây là người có thẩm quyền trong Giáo Hội chứ không phải là người có thẩm quyền ngoài xã hội. Nếu đã làm cả ba bước như trên mà vẫn không kết quả, thì hãy nhận sự giới hạn của mình và phó dâng người anh em cho lòng nhân từ của Thiên Chúa, là cầu nguyện cho họ. Chúng ta cầu nguyện và cộng đoàn cầu nguyện, lời cầu nguyện ấy sẽ được Chúa nhận lời, như Chúa Giêsu quả quyết trong Tin Mừng hôm nay: Nếu chúng ta hiệp nhất với nhau trong lời cầu nguyện và trong tình yêu thì Chúa Giêsu sẽ ở giữa chúng ta và lời cầu xin của chúng ta sẽ được Chúa Cha chấp nhận.
Chúng ta sống trong một gia đình, một cộng đoàn, một giáo xứ hay với những người chung quanh, chúng ta liên đới với nhau, nương tựa vào nhau và giúp nhau lớn lên trong tình yêu thương. Bất cứ nghĩa cử yêu thương nào cũng làm cho chúng ta lớn lên trong tình yêu thương và giúp chúng ta được thêm một bước đến gần với Thiên Chúa tình yêu. Vì vậy, giúp nhau sửa chữa những lỗi lầm, thiếu sót cũng là một khía cạnh của tình thương, với điều kiện việc sửa lỗi đó phải đặt trên nền tảng đức ái, tức là sửa lỗi anh em chỉ vì tình yêu thương, bởi vì không phải những lý luận sắc bén làm cho người anh em ăn năn hối cải, chỉ có tình thương, lòng nhân ái, thông cảm và tha thứ mới làm cho con người đổi đời mà thôi
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
------------------------------
Ngôn Sứ Egiêkien mở đầu phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay Chúa Nhật 23 mùa Thường: TN 23-A80
Ngôn Sứ Egiêkien mở đầu phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay Chúa Nhật 23 mùa Thường Niên năm A, bằng một thông điệp của Thiên Chúa gửi cho Dân Ngài, nghe cứng rắn như một tiếng sét kinh hoàng: “Nếu ngươi không chịu nói để kẻ gian ác bỏ đường lối mình, thì chính kẻ gian ác sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng Ta đòi máu nó bởi tay ngươi” ( Ed 33, 8 )
Quả thực, nghe câu Lời Chúa này, có lẽ ai cũng phải khiếp kinh đến nghẹt thở mà nhìn lại đời sống của chính mình. Bởi vì, phải nói cách nào đây, “để kẻ gian ác bỏ đường lối của họ” trong khi chính mình chưa thực sự nên hoàn thiện, chính mình còn vương bao điều bất chính ! Thật khó khăn. Bởi vì, câu Lời Chúa có một ý ẩn, và có một ý hiện. Ý ẩn là “hãy hoàn thiện” và ý hiện là “làm cho người khác hoàn thiện”. Đó không chỉ là bổn phận của công dân Nước Chúa, mà còn là trách nhiệm, và là điều kiện để được cứu sống: “Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó, nếu nó không chịu bỏ đường lối nó, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng ngươi cứu được mạng sống ngươi" ( Ed 33, 9 )
Nghĩ cho cùng, thì thật hữu lý, vì khi mỗi tín hữu được tháp nhập vào thân mình Đức Kitô, vào cuộc sống chung trong Giáo Hội của Ngài, hẳn đã có một ước muốn trở nên hoàn thiện như Đức Kitô vô tội, Đấng trở nên con người hoàn toàn ngoại trừ tội lỗi, trở nên con cái của Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện, và cùng nhau hưởng phúc trường sinh do ơn cứu mạng của Chúa Giêsu Kitô. Như vậy, mỗi tín hữu phải là một chi thể không tỳ vết của Đức Kitô. Mỗi tín hữu trở nên thành viên, nên huynh đệ trong gia đình của Thiên Chúa chí thánh, chí thiện.
Tình huynh đệ thiêng liêng ấy đạt đạo đến mức Thánh Phaolô phải thốt lên: “Yêu thương là chu toàn cả lề luật”, nhưng là cách “yêu thương không làm hại kẻ khác” đồng nghĩa với việc “yêu thương là làm lợi ích cho kẻ khác”. Không có mối lợi nào bằng trở nên công chính để được ơn cứu độ. Không có quà tặng nào quí hơn sự sống trường sinh. Không có tình huynh đệ nào bền vững cho bằng tình huynh đệ của con cái Thiên Chúa. Vì thế, làm lợi cho anh em là làm cho anh em nên công chính, được sự sống trường sinh và xứng nên con cái của Thiên Chúa.
Tin Mừng theo Thánh Matthêu 18, 15 – 20, Chúa Giêsu hướng dẫn cụ thể hơn về mối tình thiêng liêng ấy bằng việc chu toàn bổn phận giúp nhau nên hoàn thiện: nếu “người anh em lỗi phạm” thì phải giúp anh em phục thiện bằng các bước sửa dạy như sau: chân thành góp ý riêng, hai ba người góp ý, và cộng đoàn cùng nhau góp ý cho anh em nhận ra lầm lỗi của mình, xây dựng cho anh em con đường trở về ơn gọi công chính.
Tại sao phải chân thành góp ý ? Thiết tưởng, ngoài việc tự mình phải chu toàn bổn phận nên hoàn thiện, còn phải nghĩ đến cuộc sống Giáo Hội hôm nay và mai sau. Nếu không sống cùng, sống với, sống trong Giáo Hội ở trần gian, thì khó lòng mà bảo đảm được một cuộc sống trong Giáo Hội khải hoàn trên Thiên Quốc. Vì thế, tình yêu dành cho Giáo Hội cũng chính là tình yêu dành cho mọi thành phần trong Giáo Hội, kể từ các Đấng Bậc với vai trò chủ chiên: Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục… đến thành phần bé nhỏ nhất là con chiên, và nhất là những con chiên lạc.
Như vậy, việc chân thành góp ý, giúp nhau hoàn thiện phải bắt nguồn từ tình yêu và là một động thái của tình yêu chân chính.
- Tình yêu thôi thúc việc “làm lợi cho anh em”.
- Tình yêu giúp sáng kiến khôn ngoan lựa lời tế nhị, chọn đúng lúc, đúng chỗ.
- Tình yêu giúp sức mạnh can đảm vượt qua cái nghiệt ngả của sự thực “lời thật mất lòng”.
- Tình yêu ấy giúp kiên trì, không nản lòng trước cảnh “lòng chai, dạ đá”.
- Tình yêu giúp củng cố Niềm Tin và lòng Cậy Trông để có quyền hy vọng về một phép lạ của tình Bác Ái.
- Tình yêu kết liên mọi người với nhau nên nghĩa tình thâm huynh đệ trong Đức Tin vững chắc rằng có Chúa Giêsu đang hiện diện nối kết.
Và nhất là, tình yêu ấy giúp sống mầu nhiệm Giáo Hội Thánh Thiện, với những con người có thể là chưa hoàn thiện.
"Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên Trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy" ( Mt 18, 19 – 20 )
Có vẻ như xã hội đang thời kỳ mở cửa cho những đôi vợ chồng ly dị vì không thể sửa lỗi, góp ý xây dựng cho nhau một cuộc sống bền vững hơn, siêu nhiên hơn cái duy vật. Bởi họ không có giáo hội, không có sự ràng buộc của tình yêu nhau và tình yêu cộng đoàn thánh thiện. Họ chỉ dừng lại ở chỗ góp ý cho nhau làm sao sống phù hợp với cuộc chạy đua kinh tế, chạy đua phương tiện hưởng thụ, chạy đua tự do quan hệ trong và ngoài hôn nhân. Sự yêu thương và tôn trọng nhau trong hôn nhân xã hội ngày nay hầu như chỉ nhắm đến vật chất và tự do cá nhân, mà không màng gì đến một cuộc sống chung thời vĩnh cửu.
Nhìn vào thực tế khá bi đát ấy, thiết tưởng, thông điệp của Lời Chúa hôm nay nhắc nhớ mỗi gia đình công giáo càng phải nồng nàn hơn, thắm thiết hơn trong tình yêu hôn nhân, một họa ảnh của tình yêu Chúa Kitô và Giáo Hội; và hơn thế nữa, là cơ hội cho các gia đình nhắm đến sự sum họp vững bền của chính gia đình mình trong Giáo Hội khải hoàn. Từ đó, trân trọng tình yêu của nhau mà đón nhận những góp ý chân thành để cùng nhau nên hoàn thiện. Việc hoàn thiện của vợ của chồng, của những người làm cha làm mẹ, là gương sáng bảo đảm cho việc hoàn thiện các con cái theo ý Chúa.
Cũng thế, nơi các cộng đoàn Giáo Xứ, mỗi người không thể dửng dưng đối với thành viên cộng đoàn, nhưng mặc lấy một phần trách nhiệm đối với “người anh em” tín hữu khác về việc trở nên một con chiên ngoan sống cùng đàn chiên trong một Chúa chiên. Trách nhiệm ấy được thôi thúc bởi tình yêu. Và lúc này đây, chuẩn mực của tình yêu đã được minh định: đem lại lợi ích thiêng liêng cho anh em, giúp anh em nên công chính. Từ đó, tất cả những cách yêu, lời yêu, làm hại kẻ khác hại thanh danh, hại nhân phẩm, hại linh hồn, yêu nhau để mất linh hồn thì không phải là tình yêu chân chính nữa.
Thế thì nhận được những góp ý chân thành chính là cơ hội vàng…
- cho mỗi chúng ta sửa lại những lầm lỗi mà ai cũng có thể mắc phải ít là bảy lần trong một ngày.
- cho những tâm hồn khát khao được nên công chính.
- cho chính mình khiêm tốn nhìn thấy mình dù ở chức vụ nào cũng thật mong manh, yếu đuối, thấp hèn trước mặt Thiên Chúa.
- cho chúng ta xác định được ai thù ai bạn, ai yêu ai ghét trong cuộc đời này.
Nhận được những góp ý chân thành, còn là nhận được một quà tặng quí giá mà Chúa ban qua và trong đời sống Giáo Hội. Hãy đón nhận những góp ý chân thành với lòng khiêm tốn, và lòng biết ơn Chúa, biết ơn Giáo Hội, biết ơn những người anh em có trái tim đầy ắp tình yêu Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết biết khao khát nên công chính như lòng Chúa mong ước: “Ước chi hôm nay, các bạn nghe tiếng Chúa. Đừng cứng lòng nữa” ( Tv 94, 8 ).
Xin cho chúng con biết yêu mến Giáo Hội để sẵn sàng nghe tiếng Chúa gọi mời nên công chính, qua sự góp ý chân thành của anh em. Amen.
PM. CAO HUY HOÀNG, 1.9.2011
------------------------------
Sửa lỗi cho nhau có thể nói là một vấn nạn cực kỳ khó cho mọi con người trong mọi môi trường: TN 23-A81
Sửa lỗi cho nhau có thể nói là một vấn nạn cực kỳ khó cho mọi con người trong mọi môi trường, thời đại. Bởi lẽ, người nào cũng thấy cái tôi của mình quan trọng và lớn hơn tất cả. Đặc biệt hiện nay, chủ nghĩa cá nhân đang giữ vai trò chủ đạo, làm sao có chuyện dễ dàng đón nhận việc sửa sai. Lý thuyết, nơi nào chẳng nói điều phục thiện, nhưng thực tế để can đảm nhìn nhận khiếm khuyết đã khó, lấy gì nói đến việc cố gắng khắc phục để mà sửa sai ? Chính vì thế, điều kiện cần để hy vọng bạn có thể phục thiện đó chính là việc biết mình. Nhân loại chẳng đã có kinh nghiệm: “Biết người biết ta trăm trận trăm thắng đó sao ?”
Điều cần thiết phải là việc nhận biết chính mình. Chỉ khi nào bạn biết và dám chấp nhận sự thật về mình, mới hy vọng vòng tay bạn giang ra, mở rộng, đón nhận người thân cận. Cứ nhìn thái độ của bạn trong việc gặp gỡ tiếp xúc tha nhân là có thể biết mức độ am hiểu của bạn về con người trong những khía cạnh nhân văn. Chỉ những con người biết nhìn nhận sự thật bất khả di dịch về những yếu đuối, mỏng dòn, bất toàn của kiếp người, mới hòng mong sự chấp thuận sự thật bản thân và đón nhận đồng loại.
Tạo hóa đã dựng nên con người có nhau và cho nhau. Thế nên, việc con người tồn tại và phát triển trong vũ trụ không thể loại trừ sự cần thiết phải gắn kết với nhau mỗi ngày. Không ai là một hòn đảo, cũng chẳng ai có thể tự sống một mình. Nhưng sống là phải sống cho và vì nhau, như thế con người mới được phát triển toàn diện nhân cách, cũng như tâm linh.
Giúp đỡ nhau để cùng hoàn thiện không những là việc nên làm nhưng còn là việc cần phải làm trong mọi thời đại, ở mọi môi trường. Vì chưng, tự bản thân, nhân loại không ai là người hoàn thiện mà chỉ là những con người đang bước đi trên con đường rèn luyện nhân cách để trở thành con người trưởng thành toàn thiện. Nếu nói không ai là công chính, thì tất nhiên nhân loại phải giúp đỡ lẫn nhau để nên thánh.
Thật ra, không ai không muốn mình trở nên tốt và tốt hơn. Chẳng phải con người không muốn sửa sai để mà tiến tới, vấn nạn hệ tại ở việc đón nhận khiếm khuyến nằm ở khía cạnh tế nhị, cho nên muốn được chấp nhận cần phải có nghệ thuật, nghệ thuật sửa sai, góp ý. Tri thức nhân loại chẳng phải đã cho ra đời những tuyển tập lời hay ý đẹp, những cuốn sách dạy làm người giúp con người sửa lỗi cho nhau. Nhưng trên hết vẫn là đạo lý của Thiên Chúa, nơi ấy Ngài dạy con người lấy nhân đức yêu thương làm nền tảng để giúp nhau nên thánh: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi !” ( Mt 18, 15 )
Đức Giêsu truyền dạy cho con người phương cách để giúp nhau hoàn thiện. Trước hết đó là sự khéo léo, tế nhị, yêu thương và trách nhiệm. Chẳng có lời lẽ khôn ngoan dịu ngọt nào mà con người không muốn nghe. Chính lời nói dịu dàng khả ái ấy trở nên linh dược chữa lành vết thương đồng loại. Xây dựng không phải để bác bỏ, đá đổ, khinh khi, bêu rếu hay loại trừ nhưng là để yêu thương, nâng đỡ, tôn trọng. Bởi chính khi bạn yêu thương chính là lúc bạn được thương yêu “Dưới đất, anh em cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy” ( Mt 18, 18 ). Góp ý, sửa sai là bổn phận, trách nhiệm nhưng không là xét xử. Dù người anh em có sai, có xấu, họ cũng là con cái của Thiên Chúa, là người của Thiên Chúa và thuộc về Ngài. Tha nhân chỉ là bạn, là anh em chứ không phải là người được trao quyền xét xử. Quyền ấy thuộc về Thiên Chúa, của Thiên Chúa !
Ở mọi môi trường, con người vẫn mời gọi nhau, khuyến khích nhau xây dựng tình bác ái huynh đệ, nhưng chẳng cộng đoàn nào trên trần gian này có yêu thương nếu như Đức Kytô đã chết nơi từng cá vị. Lý thuyết và thực tiễn cách nhau ở cây cầu hành động. Hành động càng nhiều, càng sống động, càng thật, càng thực tế thì cây cầu càng ngắn. Ngược lại, lý thuyết càng nhiều, càng được tô vẽ mà hành động phản chứng thì chẳng khác nào sợi chỉ kéo căng, đến cùng cực rồi cũng sẽ đứt.
Hãy cứ xây dựng và giúp nhau nên tốt, nhưng chỉ có một con đường duy nhất để thành công đó là yêu thương. Nếu đi chệch hay bước sai, chọn lầm, thì muôn đời vẫn không thể có cộng đoàn bác ái đích thực trên trần gian. Có chăng chỉ là ước mơ, hoài bão. Thật vậy, không có người trần nào công chính, tất nhiên chỉ thiên đàng mới có yêu thương !
Kiên nhẫn, chờ đợi là yếu tố quan trọng không thể thiếu trên con đường sửa sai. Hành trình xây dựng con người không phải ngày một ngày hai nhưng là cả cuộc đời. Hãy cứ chờ đợi và yêu thương, kết quả hãy phó mặc cho Thiên Chúa!
Sửa lỗi cho nhau, tế nhị, khéo léo giúp nhau chu toàn ơn gọi làm người hoàn thiện là lời kêu gọi tha thiết của Đức Giêsu trong mọi thời đại. Ở đâu có yêu thương, nơi ấy có thiên đàng, là chính Thiên Chúa ngự trị. Sở dĩ người ta khó đón nhận lời góp ý của nhau cũng chỉ vì bản thân không muốn phục thiện, đôi khi cũng có phần của thái độ, cung cách của người góp ý. Đức Giêsu đã căn dặn, điều cần hơn hết trong việc sửa sai chính là thái độ chân thành, thiện chí chứ không phải lối hành xử hống hách, kiêu căng, tự đắc. Như thế không những phản tác dụng mà còn bôi nhọ lên bản chất tinh tuyền nguyên thủy của nó.
Lạy Chúa, nhìn nhận khiếm khuyết, bất toàn của mình xem chừng đơn giản nhưng thực tế lại là điều cực khó. Bởi cái tôi, cái tự ái, cái ta lớn hơn tất cả. Biết mình để chấp nhận mình, đón nhận mình đã thành công một nửa trên con đường hoàn thiện, phần còn lại tùy thuộc vào ơn ban và sự nỗ lực cố gắng bản thân.
Xin giúp con nhận biết mình, để mà khắc phục sửa sai hầu mở lòng với người. Chỉ khi nào con cảm nhận thiếu thốn sự cảm thông, tha thứ, con mới nhận biết cần thiết phải thông cảm, thứ tha đến mức nào.
Xin giúp con lấy con đường yêu thương làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động sống. Đừng để con lầm tưởng đang cùng bước đi với Ngài trên con thuyền lý tưởng, lại phải hụt hẫng khi nhận ra mình đã bỏ xa Thiên Chúa chỉ vì tự cao, tự đại.
Xin sửa dạy con, trong thinh lặng, ở tận cõi lòng của Thiên Chúa. Chỉ mình con với Chúa, mỗi ngày trong mọi thời khắc, cho con yêu thương và tha thứ hầu con có thể sống tha thứ, yêu thương.
M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG
------------------------------
Tại một học viện quân sự, ngày kia huấn luyện viên ra đề tài cho các sĩ quan hãy vẽ một chiếc: TN 23-A82
Tại một học viện quân sự, ngày kia huấn luyện viên ra đề tài cho các sĩ quan hãy vẽ một chiếc cầu. Cả lớp đều hiểu đó là một chiếc cầu được thiết kế cho mục đích quân sự, trừ ra một chàng sĩ quan có ý kiến khác hẳn. Anh đặt chiếc cầu trong bối cảnh thơ mộng của một ngọn núi, dưới ngọn núi là dòng sông mà hai bên bờ là những thảm cỏ xanh. Nổi bật nhất là hai cậu bé đang đứng trên dầu để câu cá. Huấn luyện viên không chấp thuận bài làm của anh và ra lệnh cho anh phải loại bỏ hai cậu bé. Thế là anh liền chuyển hai cậu bé xuống thảm cỏ xanh, nhưng huấn luyện viên càng tỏ ra tức tối, buộc anh không được để lại hình ảnh hai cậu bé trong bản vẽ. Cuối cùng anh vẽ hai cái mộ trên thảm cỏ xanh của bờ sông. Anh muốn nói cho huấn luyện viên biết rằng mình đã chôn hai cậu bé trong hai ngôi mộ đó.
Với tâm hồn nghệ sĩ hoàn toàn khác biệt với mục tiêu quân sự, anh quan niệm chiếc cầu được xây là để nối liền hai bờ sông hầu giúp con người qua lại mà liên hệ được với nhau. Thiếu sự đi lại của con người, chiếc cầu không những trở nên vô nghĩa, mà còn tượng trưng cho sự chết chóc xảy ra giữa con người với nhau.
Từ câu chuyện trên chúng ta nhận thấy: Không ai trong chúng ta có thể sống cô độc lẻ loi một mình như một hải đảo giữa biển khơi hay như một phái đài biệt lập, trái lại chúng ta sống là sống với người khác. Và trong cuộc sống chung này chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, bực bội và buồn phiền, vì bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một tính tình riêng. Hơn nữa, nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi khuyết điểm của mình.
Bởi đó trước những sai lỗi của người khác, chúng ta hãy biết nhường nhịn và chịu đựng, quên đi và tha thứ vì một sự nhịn là chín sự lành, nhờ đó, chúng ta sẽ tạo được một bầu khí hoà thuận cảm thông. Hơn nữa, chúng ta còn phải có can đảm nói cho nhau sự thật. Nghĩa là chúng ta còn phải chọn những giây phút thuận tiện, dùng những lời nói ôn tồn để nhắc bảo nhau, hầu nhờ đó giúp nhau thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Còn đối với những sai lỗi của bản thân, khi được người khác nhắc bảo, chúng ta hãy có can đảm nhận lỗi và xin lỗi bởi vì chính những sai lỗi này làm cho người khác phải đau khổ và buồn phiền. Nếu những lời nhắc bảo mà sai, chúng ta sẵn sàng bỏ qua. Còn nếu đúng thì chúng ta hãy cố gắng uốn nắn sửa đổi để nhờ đó đổi mới cuộc đời. Bởi vì ai khen ta mà khen phải là bạn ta, còn ai chê ta mà chê phải, đó là thầy ta.
------------------------------
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 18:15-20 nằm trong văn mạch chương 18 bàn về đời sống cộng đoàn. Các chủ đề chính được: TN 23-A83
Đoạn 18:15-20 nằm trong văn mạch chương 18 bàn về đời sống cộng đoàn. Các chủ đề chính được bàn đến là các trẻ nhỏ và những người bé mọn (18:1-14), hoà giải và tha thứ (18:15-35). Ngay sau khi nói về sự lầm lạc của một trong những người bé mọn (18:10-14), Matthêô bàn về việc sửa lỗi anh em, hoà giải (18:15-20), và tha thứ (18:21-35).
Trong đoạn nầy, từ ean, “nếu” xuất hiện nhiều lần (cc. 15[2x], 16.17[2x], 18[2x], 19[2x]). Các câu 15-17 dùng các đại danh từ ngôi thứ hai số ít, “anh”, sy ; trong khi các câu còn lại, 18-20, dùng “các anh”, hymin. Có thể phân chia đoạn nầy như sau: - Sửa lỗi người anh em (cc. 15-17); - Quyền bính buộc tội và tha tội (c. 18); - Chúa Cha nhậm lời và Chúa Giêsu hiện diện (cc. 19-20).
Sửa lỗi người anh em (cc. 15-17)
Matthêô đặt ra vấn đề là phải đối xử như thế nào với người anh em của mình khi họ phạm lỗi đến mình. Ở đây tất cả mọi chuyện được đặt ra bằng những câu điều kiện, ean, “nếu”. Có thể phân bố cục các câu nầy như sau: - Đặt ra một trường hợp xúc phạm đặc thù (15a), - Các cách sửa lỗi (cc. 15b-17a), - Cách đối xử với người không hoán cải (c. 17b).
Mở đầu câu thánh sử nói đến việc “phạm lỗi”, hamartanò. Trong mạch văn của chương 18, động từ nầy chỉ tội “gây vấp ngã”, skandalizò, cho một trong những người bé mọn tin vào Chúa Giêsu (cc. 6.8.10). Cấu trúc hamartanò + eis + một người: chỉ phạm lỗi đến cá nhân một người (Kh 20:6.9; 34:9). Tội “gây vấp ngã” là tội làm tổn hại đến lòng tin vào Chúa Kitô. Tội nầy tuy phạm trực tiếp đến một cá nhân, nhưng cũng có ảnh hưởng trên cộng đoàn. Bởi đó, việc sửa lỗi cần đến cả cá nhân lẫn cộng đoàn.
Chúa Giêsu muốn “người anh em” được sửa lỗi (c. 15). Cách sửa lỗi đầu tiên là giữa cá nhân người phạm lỗi và người bị xúc phạm. Động từ elenchò là hapax trong Matthêô. Trong tin mừng Luca động từ nầy được dùng trong ngữ cảnh khác, và rất hữu ích giúp chúng ta hiểu nghĩa của động từ. Gioan Tẩy Giả “khiển trách”, elenchò, Hêrôđê vì đã lấy bà Hêrôđia làm vợ” (Lc 3:19). Gioan cho ông Hêrôđê thấy việc ấy là sai, và không nên làm. Elenchò trong ngữ cảnh của Matthêô cũng mang ý nghĩa tương tự là “mở ra, trải ra, chỉ cho một người thấy những sai lỗi của mình”, và “thuyết phục họ nhận mình sai lỗi” (x. Lc 3:19; Dt 12:5; Khải huyền 3:19; Lv 19:17).
Kết quả của việc sửa lỗi có thể là tích cực, “nếu người anh em nghe ngươi”. Động từ akouò, mang ý nghĩa nhiều hơn là “nghe”, mà là “làm theo điều đã được soi sáng/cho biết”, đúng hơn là “hoán cải” (7:24; 10:14; 13:9); Luca dùng từ metainoia “hoán cải” trong trường hợp nầy (Lc 17:3). Động từ kerdainò, “kiếm được”, mang ý nghĩa sự sở hữu, sở hữu vật chất (16:26; 25:16tt). Giúp hoán cải một người anh em là “kiếm được” người ấy cho Chúa Giêsu Kitô và cộng đoàn (18:15; 1 Co 9:23; 1Ph 3:1); tuy nhiên một cách nào đó việc ấy cũng được kể là thuộc về người đi sửa lỗi, “anh em của ngươi”.
Kết quả có thể là tiêu cực, “Người anh em không nghe ngươi” (c. 16.17), việc sửa lỗi đòi hỏi nhiều cố gắng hơn. Phải cần đến người khác và cộng đoàn. Trước tiên là cần đến hai hoặc ba người, như thấy điều nầy được áp dụng ở vài nơi trong Tân ước (x. 26:60; Ga 8:17-18; 2 Co 13:1). Và nếu không có kết quả nữa, phải cần đến cộng đoàn. Ekklèsia ở đây chỉ cộng đoàn kitô hữu địa phương, chứ không mang nghĩa phổ quát như trong 16:18.
Nếu cách sửa lỗi cuối cùng vẫn không đạt kết quả tốt, “người đó đối với ngươi như người ngoại, người thu thuế”. Câu kết luận quy chiếu lại trên người bị phạm lỗi (c. 15a) 1à chỉ “đối với ngươi” mà thôi. Xem họ như “người ngoại, người thu thuế”, nghĩa là như người chưa hoán cải, chưa có một cách sống của các môn đệ của Chúa Kitô (x. 4:56-57). Bản văn không nói đến cách cư xử của cộng đoàn đối với người nầy.
Việc Matthêô kể ra đến ba giai đoạn sửa lỗi cho thấy thánh sử nhấn mạnh đến sự rất cần thiết của việc giúp người anh em sửa lỗi. Cá nhân cũng như tập thể phải cố gắng hết sức và bằng mọi cách đưa người anh em trở về.
Quyền buộc tội và tha tội (c. 18)
Từ thái độ đối với người không “chịu nghe” (c. 17), Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc về quyền buộc tội và tha tội của các môn đệ (18:18). So sánh giữa câu nầy và câu 16:19 mà Chúa Giêsu nói với Phêrô trong trình thuật trước, chúng ta thấy có nhiều điểm khác biệt. Trong câu 16:19, các động từ deomai, “buộc” và luò, “tháo” đểu ở ngôi thứ hai số ít. Chúa ban quyền nầy cho Phêrô; trong khi ở câu 18:18, các động từ được dùng số nhiều. Quyền nầy được ban cho các môn đệ. Do ngữ cảnh của câu nầy, nói về gây cớ vấp phạm (cc. 6.8.10), phạm tội (c. 15), việc sửa lỗi (cc. 16-17), việc “buộc” và “tháo” nầy được hiểu như là phán quyết về tội.
Chúa Cha nhậm lời và Chúa Giêsu hiện diện (cc. 19-20)
Hai câu 19 và 20 được đặt chung với nhau vì chúng được dẫn vào bởi cùng một câu: “Quả thật, Ta lại bảo các ngươi”. Các câu cuối nầy liên hệ với các câu trên bởi cấu trúc câu: ean (c. 19), “nếu”, “hai”, “ hoặc ba” (c. 16 và 19.20), “trên mặt đất”, “trên trời” (cc. 18.19). Như các câu 15-17 đề cập đến giữa hai người trong vấn đề “phạm lỗi”, ở đây cũng nói đến “hai người” (c.19), “hai hoặc ba người” (c.20), nhưng trong việc “đồng tâm” (c.19) và “tụ họp nhân danh Ta” (c. 20); và kết quả là “Cha Ta sẽ nhậm lời” (c. 19) và Chúa Giêsu “sẽ ở giữa họ” (c. 20).
Ở đây Chúa Giêsu thêm một nguyên tắc nữa. Đó là “Nếu trong các ngươi hai người dưới đất đồng thanh xin về bất cứ việc gì, thì Cha Ta, Ðấng Ngự trên trời sẽ ban cho” (c. 19). Xét về mặt hình thức, hai câu 19-20 nầy có liên hệ với các câu trước như đã phân tích ở trên. Xét về nội dung, xem ra Matthêô đưa vào đây một chủ đề mới. Thật ra, điều Matthêô nói trong các câu 19-20 có liên hệ rất mật thiết với các câu trước.
Sau khi nói đến việc một người anh em sai lỗi (18:12.15), việc sửa lỗi, chủ yếu là không thành công (cc. 16-17) và quyền buộc tội và tha tội của các môn đệ (c. 18), thánh sử nói đến sự hoà hợp của các môn đệ trong cầu nguyện và tụ họp như là điều kiện để được Chúa Cha nhậm lời về “những điều họ kêu xin”, và Chúa Giêsu “hiện diện giữa họ” (c. 20). Động từ symphòneò, nghĩa đen của nó là “vang lên cùng một giọng”, nghĩa là “hòa hợp”, “có một lòng một ý” (x. 20:3.13), aiteò ở đây có nghĩa là “cầu xin” trong bối cảnh cầu nguyện (21:22), và panta pragma, “bất cứ điều gì”; hiểu theo nghĩa là “việc liên quan đến luật lệ” (Thayer; x. Rom 16:2; 1 Co 6:1). Nếu đúng như thế, panta pragma nầy ám chỉ những chuyện “gây vấp ngã” (cc. 6.8.10), đi lạc (c.12), phạm lỗi (c. 15a). Và điều các môn đệ cầu xin chính là sự hoán cải của những người ấy, vì các môn đệ đã tìm cách sửa lỗi họ mà không thành công.
Câu 20 khai triển ý tưởng việc cầu nguyện trong trường hợp cụ thể ở câu 19; gar, “vì” (c.20) mang ý nghĩa giải thích. “Tụ họp nhân danh Chúa Giêsu Kitô" là tụ họp để cầu nguyện, là tụ họp của các môn đệ của Chúa Kitô. Lời hứa nầy được tuyên bố lại trong 28:20 bởi Chúa Giêsu Kitô phục sinh. Vậy Chúa Giêsu Kitô phục sinh hiện diện giữa những người tụ họp lại cầu nguyện nhân danh Ngài.
Sửa lỗi người anh em phạm lỗi là việc phải làm. Nhưng cầu nguyện cho người ấy thì có sức mạnh và hiệu quả hơn cả việc sửa lỗi, vì lúc ấy chính Thiên Chúa hành động. Hãy cầu nguyện để mọi người được ơn cứu độ.
-------------------------------
Đức Giêsu bảo các môn đệ:"Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình".
Đoạn Tin Mừng ngày hôm nay được trích từ bài giảng lớn thứ tư của Đức Giêsu, theo cách bố cục: TN 23-A84:
Đoạn Tin Mừng ngày hôm nay được trích từ bài giảng lớn thứ tư của Đức Giêsu, theo cách bố cục Tin Mừng của Matthêu. Đây là những giáo huấn về đời sống "cộng đoàn".
“Cộng đoàn" mà chắc chắn Matthêu nghĩ đến chính là nhóm nhỏ Kitô hữu, tập hợp mỗi Chúa nhật để cữ hành Thánh Thể, và tạo thành một Giáo hội địa phương. Ngay từ đầu, chúng ta nhận thấy tính chất thực tế của Đức Giêsu: "Nếu người anh em của anh trót phạm tội…” Giáo hội không phải là một cộng đoàn gồm những "người thanh khiết các thánh", nhưng những "người tội lỗi". Đức Giêsu đã rất sáng suốt tiên liệu rằng "các Kitô hữu không tốt hơn những người khác", như thỉnh thoảng người ta vẫn nói. Giáo hội được tạo nên bởi những con người mỏng dòn như xã hội thế tục. Đức Giêsu không mơ đến một Giáo hội không có vấn đề. Người sẽ đưa ra một thủ tục để thử giải quyết những khó khăn mà có ngày sẽ phát sinh trong mọi nhóm người.
Thật vậy điều Đức Giêsu nói ở đây có thể được áp dụng cho mọi môi trường sống của chúng ta với một tỉ lệ nào đó:Gia đình, nhóm, hiệp hội, nhóm bạn, các đồng nghiệp… Biết bao nhiêu là xung đột, căng thẳng, chống đối nhau!
Đôi khi lúc mới khởi đầu, mọi sự xem ra đơn giản và hài hòa. Và rồi với thời gian trôi qua, nhiệt tình xuống dần, nhóm có nguy cơ tan rã nếu không ai quan tâm đến sự liên kết và hiệp thông.
Không một nhóm con người nào tránh được tội lỗi, sự khốn khổ của con người... kể cả Giáo Hội!"Nếu anh em của anh trót phạm tội…”
Phải làm gì, bây giờ?
Anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi của người anh em mình...
Chúng ta nhận thấy ngay, trong những chữ cô đọng ấy bầu khí mà Đức Giêsu đặt chúng ta vào. Đó là một bầu khí của tình yêu chứ không phải là của sự phán xét.
Than ôi, có những "vị quản giáo mắc khuyết điểm" lẫn lộn hết mọi sự, và lúc nào cũng sẵn sàng lên lớp những người khác trong một thái độ phê phán có hệ thống. Như thế là làm sai lạc tư tưởng của Đức Giêsu, vì đã có xu hướng "buộc tội" và "đè nặng" lên kẻ có tội. Tất cả Tin Mừng rõ ràng nói với chúng ta điều ngược lại. Và văn cảnh trực tiếp của bài giảng này về cộng đoàn chỉ nói về sự tế nhị và lòng nhân hậu đối với anh em mình. Ngay trước đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay, Đức Giêsu đã kể lại dụ ngôn con chiên lạc: "Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này… Hãy như người chăn chiên mất một con chiên chạy đi tìm nó…Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất" (Matthêu 18,10-14). Và ngay sau bản văn của chúng ta về sự sửa lỗi anh em, Đức Giêsu sẽ đòi hỏi Phêrô "tha thứ bảy mươi lần bảy" (Matthêu 18,21-22) Kế đó Đức Giêsu sẽ lên án thái độ của người đầy tớ không biết thương xót, không có trái tim, không biết tha thứ một món nợ cho người bạn mình (Matthêu 18,23-35).
Như thế, chúng ta phải can thiệp, chỉ với một bầu khí của tình yêu thương. Người ta chỉ có quyền phê bình một người anh em nếu người ta " yêu thương người ấy!Toàn bộ Tin Mừng cao rao với chúng ta Đức Giêsu nhân hậu với những người tội lỗi.
"Hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó..." “Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình ..”
Người ta cảm thấy rằng Đức Giêsu rất muốn đó là giải pháp cho sự xung đột. Khi một người được món lợi là anh em mình thì trời cao sẽ xuống với đất?Đó chính là niềm vui của giải pháp ấy!
Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh.
Đức Giêsu thực hiện thêm một bước với biết bao sự tế nhị tâm lý!
Trước tiên là mặt giáp mặt trong sự kín đáo, để cho nếu có thể không ai biết có điều xấu và người phạm lỗi có thể giữ được tiếng- tăm và danh dự của mình... và rồi, đến lúc phải đem theo một, hai anh em khác là để tránh những phán đoán quá chủ quan trong đó người ta có thể đánh giá sai lầm, và cũng để ý số đông tìm thấy những lập luận có thể thuyết phúc hơn. Phải làm mọi sự để tránh sự hấp tấp và sự độc đoán.
Chỉ sau khi đã dùng hết cách khuyên nhủ, người ta mới phải cắt bỏ một cách đau đớn.
Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.
Công thức này đụng chạm đến chúng ta, nhất là lại do Đấng là người ta đã gọi "bạn của những người thu thuế và những người tội lỗi (Matthêu 1 1, 19). Sự lên án khắc khe này chỉ có thể hiểu được một cách chính xác bởi người ta đã thử hết cách để cứu người anh em. Người ta cũng có thể nói rằng chính người anh em đã tự mình loại mình ra khỏi cộng đoàn với việc nhiều lần khước từ sửa lỗi. Đã ba lần, người ấy gạt bỏ bàn tay mà người ta đã giơ ra cho người ấy. Sau khi đã nhẫn nại đem lại cho người ấy mọi cơ may, cộng đoàn thấy mình bất lực đối với người anh em đó…
Nhưng phải nói thêm rằng, cả trong những trường hợp tối hậu ấy, chúng ta không giảm bớt lòng yêu thương người ấy, kẻ tội lỗi ấy... bới lẽ chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù của mình (Matthêu 5,43~8). Và Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai của Chúa nhật này, nhắc chúng ta rằng "Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái" một món nợ không bao giờ trả hết (Rm 13,8).
Thầy bảo thật anh em:"Dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì trên trời cũng cầm buộc như vậy, dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì trên trời cũng tháo cởi như vậy.”
Đức Giêsu không bao giờ chỉ là một nhà luân lý, một hiền giả, một nhà nhân bản. Những lời khuyên mà chúng ta đã nghe cho đến nay là những nguyên tác tâm lý sơ đẳng, có giá trị đối với mọi quan hệ của con người. Nhưng Đức Giêsu giờ đây đưa ra thêm một khía cạnh "thần học". Người mạc khải một mầu nhiệm ẩn giấu. Thiên Chúa hiện diện trong toan tính cứu vớt anh em mình... Thiên đàng liên quan với những gì xảy ra trên mặt đất.
Ý muốn của Thiên Chúa là không một con chiên nào bị hư mất, nên sự sửa lỗi anh em trở thành một con đường của lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, nhiều người chỉ khám phá sự tha thứ của Thiên Chúa (trên trời) nếu họ khám phá sự tha thứ của anh em (dưới đất) được thực hiện bằng một thái độ nhân bản của lòng yêu thương cứu độ.
Vại trò “cầm buộc và tháo cởi" mà Đức Giệsu đã ban cho cá nhân Phêrô một vài ngày trước đó (Matthêu 16,19), cũng được ban cho toàn thể cộng đoàn, trong cùng những từ ngữ (Matthêu 18,18). Giáo hội là môi trường của lòng thương xót, nhân hậu. Những Kitô hữu đưa về Thiên Chúa. Ôi trách nhiệm to lớn biết bao?
Giữa "đất” và "trời” có sự tương giao?
Giữa "thời gian" và "vĩnh cửu”, có sự tương giao?
Sự mạc khải của Đức Giêsu là ở điều này:Điều mà người ta cầm buộc được hay tháo gỡ được ở trần gian này, trong lúc này... được "cầm buộc" hoặc "tháo gỡ" nơi Thiên Chúa mãi mãi…
Và không chỉ cho chúng ta, nhưng cũng cho những người khác Giáo Hội là một cộng đoàn ở đó mỗi người chịu trách nhiệm về đời sống Đức Tin của anh em mình. Chúng ta có thật sự gánh trách nhiệm cho nhau không?Giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái?Thông thường, chúng ta hay -hèn nhát chúng ta không quan tâm đến đức tin của những người khác, Một vấn đề thời sự nóng bỏng... Biết bao đứa trẻ đã từ bỏ đức tin của cha mẹ chúng. Biết bao anh em dường như đi theo con đường rời bỏ cộng đoàn đức tin..
Vậy có nên tuyệt vọng không?
Thầy còn bảo thật anh em: "Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời- cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho"
Đức Giêsu lặp lại công thức nhấn mạnh long trọng:Thầy còn bảo thật anh em!Công thức ấy thường chỉ một mạc khải về mầu nhiệm đức tin, được che khuất khỏi sự nhận xét của con người. Và Đức Giêsu trở về chủ đề về sự tương quan giữa "đất" và "trời".
Có nên tuyệt vọng khi chúng ta không "nhìn thấy" kết quả của những nỗ lực đối với những anh em, tội lỗi từ chối sống đời thánh thiện theo ơn gọi Kitô hữu của họ? ít ra bề ngoài là như' thế? Đức Giêsu đáp lại "không" với chúng ta!
Bỏ vì, Người nói, cộng đoàn - Giáo Hội không phải là một hiệp hội như – những hiệp hội khác. May mắn thay!
Cộng đoàn đức tin này ít lệ thuộc vào những nỗ lực của con người để có thể kết thúc bằng sự thất bại mà lệ thuộc nhiều hơn vào: Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Đức Giêsu yêu cầu chúng ta phải tin vào hiệu quả... ẩn giấu ở trên trời của lời cầu nguyện, những hiệu quả mà những phương tiện thông thường của con người không thể nhận thấy được. Sự cầu nguyện ấy không phải là sự lười biếng, bởi vì người ta đã làm hết sức trước đó. Nhưng là phương sách cuối cùng Đức Giêsu khẳng định với chúng ta phải tin vào hiệu quả của phương sách đó. Đối với nhiều bậc cha mẹ trong gia đình, lời nói ấy của Đức Giêsu phải là ánh sáng quyết định mặc dù không kiểm chứng được... "Nếu ở dưới đất hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì thì lời cầu nguyện của họ sẽ có hiệu quả với Chúa Cha; Đấng ngự trên trời"…
Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đấy giữa họ.
Không, Giáo hội, cộng đoàn những người tội lỗi như mọi người khác, không phải là một hiệp hội như các hiệp hội khác:Đức Giêsu sống lại với tất cả quyền năng tinh thần của Thiên Chúa ở đấy giữa những người quy tụ nhân danh Người. " '
Rõ ràng chúng ta không còn ở trong lãnh vực luân lý xã hội học, hay nhân bản. Chúng ta ở trong lãnh vực đức tin. Sự thống nhất của Giáo Hội ở bên trên những xung đột chia rẽ con người. Mọi nỗ lực hòa giải luôn phải được thực hiện. Nhưng khi những bàn tay chúng ta đưa ra không được tiếp nhận, thì chúng ta vẫn phải tin rằng điều mà con người không làm được, Thiên Chúa làm được" (Mt 17,20-19.26; Lc 1,37).
Một giấc mơ điên rồ chăng? Một ảo tưởng không có thật chăng? Không phải thế! Nhưng đó là một bí quyết tuyệt vời của chủ nghĩa lạc quan đi đến mức tin rằng không môt người nào, không một hoàn cảnh nào mà sau cùng không thể cứu vãn được (1Cr 8,11).
"Người anh em này mà Đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc...". Làm thế nào mà chúng ta lại thất vọng vì người ấy.
-------------------------------
Bài Tin Mừng hôm nay được rút ra từ chương 18 của Tin Mừng Mát-thêu, trong Diễn Từ thứ bốn: TN 23-A85
Bài Tin Mừng hôm nay được rút ra từ chương 18 của Tin Mừng Mát-thêu, trong Diễn Từ thứ bốn, đề cập đến đời sống huynh đệ trong Hội Thánh, cộng đòan Kitô hữu. Bài Diễn từ được chia thành hai phân đọan, phân đọan thứ nhất nói đến “những kẻ bé mọn” (18, 1- 14) và phân đọan thứ hai liên hệ đến người anh em phạm lỗi (18, 15- 35). Quan tâm xây dựng cộng đòan là một trong những ưu tiên của Mát-thêu.
Mỗi người chúng ta đều có ít nhiều kinh nghiệm trong việc góp ý sửa lỗi nhau. Thường là chúng ta cảm thấy ngần ngại vì tôn trọng cá tính, tự do, và không gian riêng tư mỗi người. Chúng ta sợ va chạm, sợ mất lòng, sợ để bụng nghĩ ngợi…Nhưng nếu những bất ổn trong tương quan cộng đoàn không được giải quyết một cách xây dựng, nó sẽ bùng nổ thành những điều xấu xa tệ hại.
Bài đọc I và II sẽ giúp chúng ta ý thức hơn trách nhiệm cộng đòan cũng như đưa ra cho chúng ta một quy chuẩn để thực thi giáo huấn của Chúa. Thiên Chúa truyền cho Ê-dê-ki-en phải trở thành “người canh gác” cho dân: “Ta đã đặt ngươi làm người tuần canh trên nhà Ít-ra-en.” (Ed 33, 7) Vị tiên tri phải lắng nghe Lời Chúa rồi truyền lại cho dân. Ông không có quyền chọn lựa khác; số phận cá nhân của ông tùy thuộc vào sứ vụ này. Còn Phao-lô thì nhắc lại giáo huấn nền tảng thu tóm giới luật của Chúa: “Ai yêu người, thì đã chu tòan Lề Luật.” (Rm 13, 8) Chính trong lời nhắc nhở này mà chúng ta hiểu những lời giáo huấn của Chúa hôm nay. Thật vậy, trách nhiệm và đức bác ái phải là nền tảng và quy chuẩn cho việc sửa lỗi nhau trong cộng đòan.
“Hãy đi sửa lỗi…riêng mình anh với nó mà thôi…nếu nó nghe anh, anh đã lợi được người anh em.” (Mt 18, 15) Những lời lẽ dồn dập này cho thấy rõ Chúa muốn nhấn mạnh tình bác ái huynh đệ khi sửa lỗi nhau. Tuy nhiên, do bản tính yếu đuối của tội lỗi, chúng ta thường làm khác. Thay vì lòng bác ái chân thành, chúng ta lại quy kết, tố cáo lẫn nhau. Thay vì lòng khiêm tốn và sự chân thực chúng ta lại lên mặt sửa dạy hoặc dựng chuyện nói xấu nhau. Thay vì phải cầu nguyện và tự nhận lỗi mình trước, chúng ta lại kéo bè kết cánh để tạo ra một “thế áp đảo” trước người anh em của chúng ta. Tất cả những thái độ này chắc chắn sẽ dẫn đến đổ vỡ và gây ra những hệ qủa nghiêm trọng trong đời sống cộng đòan.
Chúa Giêsu không hề có ý đề nghị các thành viên trong cộng đòan phải giám sát nhau và phân lọai con người theo bậc thang giá trị luân lí. Các cách thức Người đề nghị chỉ là nhằm diễn tả đức bác ái. Chính Mt 18, 4 cho ta hướng đúng để hiểu những lời khuyên này: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” Đây là bổn phận săn sóc anh em về mặt thiêng liêng. Giúp đỡ một người anh chị em đang gặp khó khăn, chìa tay ra cho một người anh chị em đang rơi vào tội lỗi, là một đòi hỏi của tình yêu, một sự trung thành với công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu. Chúng ta chịu trách nhiệm về nhau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, sửa lỗi cho nhau để giúp nhau nên tốt là một trong những bổn phận quan trọng của mỗi người chúng con. Xin ban cho chúng con lòng khiêm tốn thật, để chúng con sẵn sàng đón nhận những lời góp ý xây dựng của anh chị em chúng con.
Gợi ý chia sẻ:
- Những giáo huấn trong bài Tin Mừng này có giá trị gì cho đời sống cộng đòan? Tại sao?
- Bạn có những kinh nghiệm gì về cách thế sửa lỗi cho nhau theo tinh thần của Chúa?
Lm. Giuse Ngô Quang Trung, Long Xuyên.
-------------------------------
Tại một góc phố nhộn nhịp của thành phố Nữu Ước, một chú cảnh sát gốc Việt Nam đang chỉ: TN 23-A86
Tại một góc phố nhộn nhịp của thành phố Nữu Ước, một chú cảnh sát gốc Việt Nam đang chỉ huy sự lưu thông. Dòng thác xe cộ và dân chúng xoay quanh chú. Bất thình lình chú phát hiện ra một người đi bộ cứ băng qua đường khi còn đèn đỏ. Chú liền thổi còi, giơ tay ngăn chặn và bước qua chỗ người vi phạm và nhận thấy đó là một người đồng hương. Chú bình tĩnh nhưng kiên quyết giải thích: Bạn hãy đợi một chút, khi đèn xanh bật sáng mới được đi. Với một nụ cười ngượng ngập, người vi phạm trở lại lề đường, nhìn đèn đỏ đổi sang vàng và rồi bước đi khi đèn xanh bật sáng. Tuy nhiên, thay vì đi thẳng qua, thì người đó lại nhún nhảy đi tới gần người cảnh sát gốc Việt Nam và thì thầm khi đi ngang qua viên cảnh sát: Chú hãy ý tứ, đừng cho những người da vàng này đi qua mặt.
Câu chuyện trên có thể giúp chúng ta áp dụng vào điều Chúa Giêsu nói với chúng ta qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Lỗi phạm ở đây không phải chỉ là những xúc phạm đến bản thân chúng ta mà còn là tất cả những hành vi sai trái, khả dĩ gây nên gương mù gương xấu. Sửa lỗi người khác là bổn phận của một số người như chú cảnh sát Việt Nam trong câu chuyện, như cha mẹ, thầy dạy, huấn luyện viên và những người có trách nhiệm. Nhưng vấn đề là làm thế nào để thi hành điều đó. Câu chuyện trên cho chúng ta một số gợi ý.
Trước hết là khía cạnh tích cực. Thực vậy, chú cảnh sát không nhấn mạnh đến điều lầm lỗi là qua đường khi đèn đỏ, nhưng nhấn mạnh đến điều cần thiết là chỉ đi qua đường khi đèn xanh bật sáng. Chú không la hét cho người khác nghe được, nhưng chỉ nói nhỏ nhẹ mà kiên quyết với người vi phạm. Chú bảo người ấy điều phải làm cũng như điều phải tránh.
Tiếp đến là lời nói của chú thật đúng lúc và tế nhị. Tất cả đều giúp ích cho việc sửa lỗi anh em. Vì như chúng ta thường bảo: Lời nói chẳng mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau. Nhiều khi chỉ vì những lời nói thiếu tế nhị, chúng ta chỉ tạo nên những bực bội và tức tối, khiến cho hành động thiện chí của chúng ta trở thành uổng công vô ích mà thôi. Đồng thời khi chỉ ra lầm lỗi của người khác, chúng ta nên lưu ý: Lầm lỗi đó không xúc phạm quá nhiều đến chúng ta; nhưng là lỗi nghịch với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân. Lầm lỗi của họ có thể làm mất lòng chúng ta, nhưng quan trọng hơn, đó là làm mất lòng Thiên Chúa. Như Chúa Giêsu đã nhắc nhỏ: Chúng ta có thể đem theo một hay hai người khác để sửa sai. Và cuối cùng, nếu người ấy vẫn không chịu nghe, thì cực chẳng đã, mới phải trình bày với Giáo Hội hay vị có thẩm quyền. Còn nếu như chúng ta được người khác nhắc bảo thì hãy có can đảm lắng nghe và chấp nhận nếu như những lời nhắc nhở đó là đúng, bằng không chúng ta sẵn sàng bỏ qua, không vì chút tự ái vụn vặt mà làm cho bầu khí trở nên căng thẳng, bởi vì: Ai khen ta mà khen phải, đó là bạn ta, còn ai chê ta mà chê phải, đó là thầy ta.
-------------------------------
Ed 33, 7-9
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thi hành sứ vụ bên cạnh đồng bào của mình trong cùng cảnh ngộ lưu đày như ông: TN 23-A87
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thi hành sứ vụ bên cạnh đồng bào của mình trong cùng cảnh ngộ lưu đày như ông ở Ba-by-lon (đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên). Ông cảm thấy mình chịu trách nhiệm về cách ăn nếp ở của anh em mình.
Rm 13, 8-10
Thánh Phaolô khuyên bảo các tín hữu Rô-ma thực hành tình tương thân tương ái. Bổn phận duy nhất, món nợ duy nhất mà chúng ta phải có đối với anh em đồng loại là Đức Ái.
Mt 18, 15-20
Trong Tin Mừng, thánh Mátthêu trích dẫn những lời của Đức Giêsu mời gọi các Kitô hữu đừng để cho một người anh em nào của mình phải hư mất mà không tìm cách sửa lỗi cho người ấy, nhiều lần nhiều cách, với sự tế nhị cần thiết.
BÀI ĐỌC I (Ed 33, 7-9)
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào cuối thế kỷ thứ bảy và đầu thế kỷ thứ sáu sau Công Nguyên. Vào lúc đó, hoàn cảnh đất nước thật bi thảm. Vương quốc Giu-đa bị họa diệt vong. Vua Na-bu-cô-đô-nô-so chiếm thành thánh Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất vào năm 598-597 và bắt đi lưu đày một phần lớn dân cư, nhất là thành phần ưu tú. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc trong số những người lưu đày đầu tiên nầy. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu bên cạnh những đồng bào lưu đày của ông cho đến khi qua đời, vào năm 571 trước Công Nguyên.
Ê-dê-ki-en trước khi ngôn sứ, đã là tư tế, vì thế, ông mang lấy ở nơi mình vừa tinh thần ngôn sứ vừa tinh thần tư tế. Bản văn mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật nầy làm chứng điều nầy. Trách nhiệm ngôn sứ và trách nhiệm tư tế thành một bất khả phân ly ở nơi ông.
Bối cảnh là làng Tel-Avi bên bờ sông Cơ-va không xa Ba-by-lon, nơi vị ngôn sứ cùng với một số người đồng hương sống trong cảnh lưu đày. Từ các biến cố, ngôn sứ Ê-dê-ki-en biết rút ra bài học. Các ngôn sứ đã kêu gọi vua, bậc vị vọng và toàn thể dân chúng hoán cải, nhưng lời của các ngài không được lắng nghe, vì thế sự trừng phạt bất ngờ giáng xuống trên họ. Nét độc đáo của sứ điệp mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi đến nhấn mạnh “trách nhiệm của mỗi cá nhân”. Đó là ý nghĩa lời kêu gọi của Đức Chúa mà chúng ta đọc trong đoạn văn nầy.
1. “Hỡi con Người”:
Diễn ngữ “con người” là đặc ngữ Sê-mít, có nghĩa đơn giản là “một con người”, “một cá nhân”, như trong câu: “Hỡi con người. Trong câu này, diễn ngữ “con người” quy chiếu đến chính vị ngôn sứ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thường sử dụng đặc ngữ này để nhấn mạnh: Thiên Chúa là Đấng ngàn trùng chí thánh, trước Ngài con người chỉ là một phàm nhân mõng dòn, yếu đuối và tội lỗi (6, 1-6). Mỗi lần Thiên Chúa ủy thác cho ông sứ điệp của Ngài, Ngài đặt ông vào chỗ của ông để ông khỏi phải tự cao tự đại về những thị kiến hay xuất thần mà Thiên Chúa gởi đến cho ông. Vị ngôn sứ phải tự xoá mình như một kẻ vô danh tiểu tốt.
2. Người canh gác:
“Ta đặt ngươi làm người canh gác nhà Israel”. Những hình ảnh: “người canh gác”, “người canh thức”, “truyền lệnh sứ” rất quen thuộc trong Cựu Ước để chỉ ngôn sứ. Ở đây, vị ngôn sứ được Thiên Chúa công bố là “người canh gác nhà Israel”. Người canh gác đứng trên vọng gác tường thành có nhiệm vụ canh chừng tai họa sắp xảy đến mà cảnh giác dân thành kịp thời. Vì thế, vai trò của ngôn sứ không chỉ truyền đạt sứ điệp mà còn cảnh báo, đe dọa để kêu gọi dân chúng hối cải ngỏ hầu tránh những án phạt.
Xa hơn một chút, chính Ê-dê-ki-en gợi lên sứ vụ ngôn sứ của ông thật giản dị: “Phần ngươi hỡi con người, con cái dân ngươi bàn tán về ngươi dọc theo các bức tường và trước các cửa nhà. Chúng bảo nhau, người nọ nói với người kia: ‘Nào chúng ta đến nghe xem Đức Chúa phán thế nào!’. Chúng đến với ngươi đông như trẩy hội. Dân Ta ngồi trước mặt ngươi; chúng nghe các lời ngươi nói…” (Ed 33, 30-32). Chính trong những cuộc chuyện trò thân quen và gần gũi như vậy mà vị ngôn sứ mới có thể ngỏ lời với từng người một những lời cảnh báo trong tình huynh đệ.
3. Bổn phận đối với anh em mình:
Đối với dân Israel, chết không gì khác hơn là đánh mất ân huệ của Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi thiện hảo. Cựu Ước thường trình bày những huấn lệnh của Thiên Chúa trong viễn cảnh của một sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết, hạnh phúc và bất hạnh, lời chúc phúc và lời nguyền rủa (x. Đnl 30, 15-20; Hc 15, 15-16).
Ê-dê-ki-en là vị ngôn sứ đầu tiên nhấn mạnh sự thưởng phạt cá nhân: “Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết; con không mang lấy tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con” (Ed 18, 20). Số phận của mỗi người không phải luôn luôn bất di bất dịch như đinh đóng cột: người công chính có thể trở thành tội nhân; kẻ tội lỗi cũng có thể hoán cải trở thành người công chính.
Từ đó, ông nhấn mạnh trách nhiệm của người biết huấn lệnh của Thiên Chúa và luật luân lý của Ngài, người ấy có bổn phận phải giúp anh em mình biết biện phân tỏ tường, nếu không, đừng nghĩ là mình vô can trước sự hư mất của anh em mình: “Nếu Ta bảo đứa gian ác: “Tên gian ác kia, nhất định mi phải chết”, mà ngươi không nói để cảnh cáo nó phải từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó, đứa gian ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu của nó, Ta sẽ đòi ngươi”. Sứ vụ của vị ngôn sứ cốt yếu ở nơi hành động nầy mà Đức Giêsu sẽ đích thân căn dặn các môn đệ của mình.
BÀI ĐỌC II (Rm 13, 8-10)
Chúng ta tiếp tục đọc phần luân l#ý của thư gởi tín hữu Rôma. Thánh Phaolô vừa mới nêu lên những bổn phận công dân mà người Kitô hữu phải phục tùng: vâng lời chính quyền dân sự, nộp thuế. Dù phải chu toàn tất cả những nghĩa vụ công dân nầy, chúng ta vẫn phải là những kẻ mắc nợ đối với anh em đồng loại: món nợ tương thân tương ái không bao giờ hoàn tất được.
1. Yêu người theo Cựu Ước:
“Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì yêu mến người, thì chu toàn lề luật”. Thập giới mời gọi phải tôn trọng nhân phẩm của tha nhân và của cải của họ như tội ngoại tình, tội sát nhân, tội trộm cắp…, nhưng không hàm chứa một cách minh nhiên bổn phận yêu người. Yêu người được sách Lê-vi 19, 18 công bố và được thánh Phaolô trích dẫn: “Ngươi phải yêu anh em đồng loại như chính mình”.
2. Yêu người theo Tân Ước:
Theo Cựu Ước, “anh em đồng loại” trước hết là những người cùng chung một dân tộc, đồng bào. Đức Giêsu đã mở rộng huấn lệnh yêu người đến tất cả mọi thành viên cộng đồng nhân loại, không có bất kỳ ngoại trừ nào, thậm chí phải yêu thương kẻ thù nữa. Thánh Phaolô nêu lên không chỉ luật Mô-sê, nhưng cũng luật Đức Ái Kitô giáo nữa. Thánh nhân không đề cập đến huấn lệnh thứ nhất: “mến Chúa”, vì lời khuyên bảo của thánh nhân nhắm đến đức ái huynh đệ. Vì thế, huấn lệnh yêu người bất khả phân ly với huấn lệnh mến Chúa, từ mến Chúa mà yêu người được khơi nguồn. Nếu yêu người vô giới hạn, chính là theo gương của Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người khôn cùng. Ở đây, bằng thể thức đóng khung, vị sứ đồ nhấn mạnh yêu người là “chu toàn lề luật” (13, 8 và 9).
TIN MỪNG (Mt 18, 15-20)
Trong chương 18 nầy, thánh Mátthêu tập hợp những huấn lệnh mà Đức Giêsu đã ngỏ lời với Nhóm Mười Hai, cộng đồng đầu tiên của Giáo Hội Ngài, về đời sống huynh đệ trong lòng Giáo Hội. Chương 18 này có thể chia thành hai phần: phần thứ nhất (18, 1-14) bắt đầu với “những kẻ bé mọn” và kết thúc với dụ ngôn “con chiên lạc”; phần thứ hai (18, 15-35) bắt đầu với việc “sửa lỗi cho anh em” và kết thúc với dụ ngôn “tên mắc nợ không biết xót thương”. Đoạn Tin Mừng hôm nay thuộc phần thứ hai, ở đó Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ cách thức sửa lỗi cho nhau trong đức ái.
1. Sửa lỗi anh em:
Việc Đức Giêsu mời gọi các môn đệ sửa lỗi cho nhau đã được Luật Mô-sê đề cập đến như được ghi trong sách Lê-vi: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó” (Lv 19, 17). Câu trích dẫn nầy đặt liền sau huấn lệnh: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19, 18). Như vậy, sửa lỗi cho anh em thuộc về luật đức ái.
Theo truyền thống Do thái giáo, người ta không được truy tố kẻ phạm tội mà không cảnh báo trước trong chốn riêng tư. Vào thời Chúa Giêsu, các kinh sư phàn nàn là người ta không thực hiện tập tục tốt đẹp nầy. Đức Giêsu phục hồi tập tục nầy trong tinh thần yêu thương. Ngài đề nghị ba giai đoạn trong việc sửa lỗi huynh đệ.
- Sửa lỗi anh em trong cuộc gặp gỡ riêng tư chỉ giữa hai người, không ai khác hay biết.
- Nếu lần đầu tiên không có kết quả, tiếp tục lần thứ hai với sự hiện của một hay hai người khôn ngoan để kẻ sai lạc thấu tình đạt lý. Biện pháp nầy tránh cho tội nhân khỏi bị sỉ nhục ở nơi cộng đoàn.
- Nếu lần nầy cũng thất bại, lúc đó mới thưa với cộng đoàn. Nếu người anh em nầy không chịu nghe cộng đoàn, chỉ lúc đó người nầy mới có thể bị khai trừ hay bị kể như một người dân ngoại hay một người thu thuế, tức là một người ngoan cố, không có tinh thần phục thiện, mà người ta tránh giao tiếp.
Với những lời khuyên sửa lỗi cho nhau theo ba giai đoạn như trên, chắc chắn Chúa Giêsu muốn dự phòng các môn đệ của Ngài – sau họ, các cộng đoàn Kitô hữu – tránh tất cả mọi hình thức khai trừ một thành viên quá tàn nhẫn. Nhưng Ngài còn muốn hơn nữa rằng chúng ta noi gương vị mục tử nhân lành ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Chắc chắn không phải là ngẫu nhiên khi những lời khuyên nầy theo liền ngay dụ ngôn “con chiên lạc”. Giáo Hội phải bày tỏ sự ân cần như thế đối với người lỗi phạm.
2. Viễn cảnh Giáo Hội:
Đức Giêsu định vị bổn phận sửa lỗi anh em và những biện pháp kỷ luật mà cộng đoàn Kitô hữu áp dụng trong khung cảnh thiết lập Giáo Hội Ngài. Chính như vậy mà Ngài mở rộng năng quyền, mà trước đây Ngài đã trao phó cho thánh Phê-rô, bây giờ cho Tông Đồ Đoàn: “Tất cả những gì dưới đất anh em cầm buộc, trên trời cũng cầm buộc như vậy; tất cả những gì dưới đất anh em tháo cởi, trên trời cũng tháo cởi”. Và Ngài sẽ tái khẳng định năng quyền nầy cho họ sau khi Ngài phục sinh (Ga 20, 23).
Đức Giêsu thêm vào ở đây một lời hứa khác: Ngài sẽ luôn luôn hiện diện ở giữa các tín hữu của Ngài khi họ họp nhau lại mà cầu nguyện, dù chỉ hai hay ba người đi nữa. Cha Ngài, Đấng ngự trên trời sẽ lắng nghe và đáp trả lời cầu xin của họ, bởi vì Đấng cầu bầu cho họ không ai khác ngoài “Đức Giêsu đích thân ở giữa họ”. Khi đặt tính hiệu lực của lời cầu nguyện như thế vào trong văn mạch sửa lỗi cho anh em, chắc chắn Chúa Giêsu nhắm đến không chỉ việc tiến hành sửa lỗi cho anh em theo ba giai đoạn, nhưng còn phải cầu nguyện cho anh em lỗi phạm nữa, ngõ hầu nhờ ơn Chúa mà anh em nhận ra và sửa lỗi để cộng đoàn không phải mất bất cứ người anh em nào. Tấm lòng của vị mục tử nhân lành là không muốn bất cứ con chiên nào phải hư mất.
-------------------------------
Suy niệm:
Trong Giáo hội ngay từ thuở ban đầu, đã có những người sai lỗi. Nếu đó chỉ là những sai lỗi nhỏ giữa: TN 23-A88
Trong Giáo hội ngay từ thuở ban đầu, đã có những người sai lỗi. Nếu đó chỉ là những sai lỗi nhỏ giữa các cá nhân trong cộng đoàn thì cần tha thứ cho nhau (Lc 17, 3-4).
Nhưng nếu đó là những sai lỗi nghiêm trọng đụng chạm đến cộng đoàn,vô tình hay cố ý sống ngược với giáo huấn căn bản của Đức Giêsu, thì cộng đoàn không thể nhắm mắt làm ngơ mà không sửa sai cho người anh em phạm lỗi. Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh cách sửa lỗi trong cộng đoàn thánh Mátthêu. Người phạm lỗi nặng ở đây vẫn được gọi là người anh em (c. 15). Tiến trình sửa sai huynh đệ này diễn ra từ từ, từng bước một. Bước này thất bại mới chuyển qua bước kế tiếp. Bước một là cuộc gặp gỡ kín đáo giữa người sửa lỗi và người phạm lỗi. Mục đích là để giúp người phạm lỗi biết lắng nghe lời góp ý chân tình, nhận ra lỗi của mình và thay đổi cuộc sống cho phù hợp.
Bước hai diễn ra khi bước một thất bại, khi người phạm lỗi không chịu nghe.
Người sửa lỗi sẽ đem theo hai, ba người nữa để tăng sức thuyết phục.
Nếu người phạm lỗi vẫn khăng khăng không nghe,thì bước kế tiếp là phải đưa chuyện này ra trước Giáo hội địa phương (c. 17).
Bước cuối cùng chỉ xảy ra khi người anh em ấy vẫn ngoan cố, không muốn nghe tiếng nói của cộng đoàn Giáo hội, nghĩa là tự đặt mình ra ngoài sự hiệp thông với cộng đoàn tín hữu, thì Giáo hội đành lòng không nhận anh ấy như phần tử của Giáo hội nữa.
Có thể ngày nay Giáo hội có những cách sửa lỗi khác, nhưng những nét dưới đây vẫn giữ nguyên giá trị: coi người phạm lỗi như anh em và không muốn mất người ấy, kiên trì đối thoại, cố gắng để người anh em ấy nghe ra và nhận lỗi, kín đáo giữ thanh danh cho người ấy, đi từng bước trước khi quyết định.
Ngay cả khi Giáo hội đã đưa ra quyết định cuối cùng, thì việc trở lại với cộng đoàn vẫn luôn mở ngỏ, nếu người ấy muốn làm hòa.
Đức Giêsu phục sinh đã cho Giáo hội dưới quyền thánh Phêrô
được quyền tháo cởi và ràng buộc (Mt 16, 19b; Ga 20, 23)
khi phải đưa ra các quyết định về những phần tử của mình (c. 18).
Sự hiện diện của những nhóm nhỏ trong cộng đoàn là điều có từ xưa.
Tuy nhóm chỉ có hai người, nhưng nếu họ đồng lòng xin một ơn nào đó, thì Cha trên trời sẽ ban cho (c. 19).
Có nhóm hai hay ba người hội họp với nhau nhân danh Đức Giêsu, thì Ngài có mặt ở trong cuộc gặp gỡ đó, và Ngài ở giữa họ (c. 20). Đức Giêsu là Đấng Emmanuen, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1, 23). Đức Giêsu phục sinh cũng hứa ở với các môn đệ cho đến tận thế (Mt 28, 20). Chính vì thế Ngài hiện diện một cách kín đáo, thầm lặng Thiên Chúa đã đi với dân Ngài trong hoang địa. Hôm nay Chúa Giêsu vẫn đồng hành với chúng ta khi ta để cho Ngài quy tụ. Ngài vẫn hiện diện ở nơi nhóm bạn có chung một niềm tin và tình yêu.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Cuộc đời chúng con
Diễn ra quanh những chiếc bàn,
Làm bằng những chất liệu khác nhau,
Kiểu dáng khác nhau, đặt ở những chỗ khác nhau.
Nơi bàn học,
Ngài mở trí tuệ chúng con
Trước những chân trời mới,
Và dạy chúng con học đạo làm người.
Nơi bàn ăn,
Ngài nuôi dưỡng thân xác chúng con
Để chúng con có sức phục vụ tha nhân
Nơi bàn làm việc,
Ngài cho chúng con được cộng tác với Ngài
Trong việc xây dựng thế giới đại đồng huynh đệ.
Nơi bàn thờ,
Ngài cho chúng con được hiệp thông với Ngài,
Và hiệp nhất với nhau qua một tấm bánh thánh.
Lạy Chúa
Giờ đây chúng con ngồi quanh chiếc bàn này,
Để gặp gỡ, chia sẽ, để bàn bạc, thảo luận,
Để cùng nhau tìm ý Chúa và đem ra thực hành.
Xin thánh hóa những chiếc bàn chúng con sử dụng
Để tất cả trở nên con đường
Đưa chúng con đến hưởng bàn tiệc thiên quốc. Amen.
--------------------------------
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay cùng nói đến vấn đề cứu độ, nhắm đến trách nhiệm của chúng ta: TN 23-A89
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay cùng nói đến vấn đề cứu độ, nhắm đến trách nhiệm của chúng ta đối với nhau trong cộng đoàn. Không ai là một hòn đảo, vì trong Đức Kitô, chúng ta đều là anh chị em, những phần tử của chung một gia đình.
Cuộc đời con người thật ngắn ngủi, do đó tất cả chúng ta cần phải nỗ lực hết mình để làm những việc lành phúc đức khi chúng ta còn có cơ hội, bằng cách quan tâm tới những kẻ yếu đuối và hèn kém, khi họ cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Điều đó không có nghĩa làm cho chúng ta trở thành những kẻ tò mò, thích xen vào chuyện của người khác hay can thiệp vào cuộc sống riêng của họ. Tình yêu dành cho tha nhân phài được xử lý một cách lịch thiệp và khôn ngoan và phải luôn nhớ rằng khía cạnh quan trọng nhất của một đời sống tốt đẹp chính là quên đi tất cả những việc mình đã làm cho người khác.
Thật vậy, không có cuộc sống chung nào mà con người không phải đau khổ vì đồng loại mình. Bài Phúc Âm hôm nay gợi ý cho chúng ta một phương pháp hữu hiệu để khuyên giải cho những kẻ lầm đường lạc lối. Tuy nhiên, việc sửa lỗi cho nhau rất khó thực hiện trong đời sống thường ngày. Vì thế, khi phải can thiệp vào chuyện khó xử này, chúng ta phải thật sự tế nhị, khéo léo và khôn ngoan. Bởi vì, thực tế đã chứng minh rằng, một lời nói bất cẩn hoặc khuyên giải một cách thái quá có thể gây nên sự đổ vỡ lớn lao hơn.
Xét trên một khía cạnh nào đó, việc sửa lỗi cho nhau giống như một “con dao hai lưỡi”, vì rất dễ dàng gây nên sự đụng chạm, thậm chí có thể cướp mất đi tình bạn thân thiết mà ta đã có trước đây. Cha ông ta thường nói, ‘im lặng là vàng’ nhưng cũng có lúc thì ‘im lặng là đồng lõa’. Trong một số trường hợp, chúng ta cần có một quyết định dứt khoát vì nếu không hành động kịp thời thì những việc làm sai trái đó tiếp tục có cơ hội hoành hành. Hơn nữa, nếu chúng ta ngoảnh mặt làm ngơ trước những lỗi lầm của anh em mình thì chúng ta nên xét lại ý nghĩa và đòi hỏi của giới luật yêu thương mà chúng ta hằng tuân giữ. Trong những hoàn cảnh đặc biệt đó, những gì chúng ta làm phải được phát xuất từ lòng bác ái, chứ không phải là thái độ ‘bới lông tìm vết’ hoặc lên lớp dạy bảo người khác.
Chúng ta không thể gây nên đau khổ cho những người chung quanh, nếu chúng ta nói mình yêu thương họ. Thật vậy, một chút tâm tình kèm theo những lời nói chân thành có thể làm cho bầu khí trở nên nhẹ nhàng và làm cho vấn đề trở nên tốt đẹp hơn. Nên nhớ rằng, không một ai trong chúng ta là người hoàn hảo, nên khi nói lên điều sai lỗi của người khác, chúng ta cũng cần chuẩn bị để lắng nghe họ nhận định về những thiếu sót của mình.
Nếu mỗi người có thể chấp nhận sửa lỗi cho nhau và nếu chúng ta nhận thấy mình có sự khác biệt so với người khác, hãy sẵn sàng chấp nhận thiếu sót của mình và mở rộng lòng mình để giao hòa với nhau. Những ngôn từ nặng nề và thái độ hung hãn không phải là lối xử sự của những người được mệnh danh là Kitô hữu. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc giao hoà với anh chi em đồng loại khi Ngài nói: “Khi các con đến bàn thờ để dâng của lễ, nếu nhớ ra rằng mình đang có đìều bất hoà với anh chị em, hãy để của lễ đó, quay về làm hoà với anh chị em mình trước, rồi hãy đến dâng của lễ.” (Mt 5, 23-24).
Thử hỏi ai trong chúng ta là người chấp nhận Lời Ngài và đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày của mình?
--------------------------------
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Chúa hôm nay dạy các môn đệ của Ngài, dạy cho dân chúng cũng như dạy cho tất cả chúng ta: TN 23-A90
Chúa hôm nay dạy các môn đệ của Ngài, dạy cho dân chúng cũng như dạy cho tất cả chúng ta một việc rất quan trọng trong đời sống hằng ngày, đó là tinh thần bác ái trong việc xét đoán, phê bình người khác. Chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý tưởng qua bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu (x. Mt 18,15-20).
Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, hẳn mỗi người chúng ta đều bật cười và lẩm bẩm rằng: Chúa Giêsu dạy thật có lý, vì rõ ràng đức bác ái dạy rất phù hợp với đạo tự nhiên của con người, bằng chứng là lúc chưa được may mắn nghe Tin Mừng của Chúa, mọi người chúng ta đã từng dạy con cháu trong đạo xử thế: "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ".
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng lặp lại cùng một tư tưởng đó nhưng với kiểu văn châm biếm: "Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước đã thì ngươi sẽ thấy rõ để lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh em ngươi". Qua đó chúng ta nhận thấy rằng, trong cái triết lý đời sống nơi trần gian này cũng như của đời sống vĩnh cửu, chúng ta phải tôn trọng vì theo nguyên tắc: "Muốn cho đi thì phải có trước đã, vì không ai có thể cho cái mình không có bao giờ". Cũng như muốn làm việc gì, chúng ta phải biết mình có khả năng hay không. Và trong lời dạy của Chúa Giêsu bao giờ cũng tiềm tàng đức bác ái và tinh thần khiêm nhượng trong đó. Trong việc giúp đỡ người khác là anh em thì tôi phải kính trọng họ, tôi phải nhận thấy rõ chính tôi cũng là người tội lỗi yếu đuối như bao người khác trước mặt Thiên Chúa chí tôn chí thánh.
Trong đời sống thực hành hằng ngày, cụ thể qua việc sửa sai cho nhau, phải thực sự là một việc giúp đỡ chứ không phải là cuộc xét xử, chỉ trích, lên án nhau. Để được như thế, mỗi người chúng ta phải hiểu rằng, con người được Chúa dựng nên không phải để xét xử, chỉ trích, lên án anh chị em mình, nhưng để sống đời sống làm con Thiên Chúa và để giúp đỡ anh chị em khác trở thành con Chúa và cùng chung sống đời sống gia đình mà có Thiên Chúa là Cha. Đó chính là đức bác ái Công Giáo mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tin Mừng.
Hôm nay trong tinh thần bác ái của Chúa dạy, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những lời phê bình, kết án, xét đoán, chỉ trích, thiếu bác ái. Xin Chúa giúp chúng con biết sống tinh thần tha thứ cho anh em trong cùng một Cha trên trời là Đấng luôn ban cho người công chính cũng như cho những kẻ lầm đường lạc lối. Chính vì thế mà trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi tất cả con cái của Giáo Hội hãy làm một cuộc tự vấn lương tâm và sám hối về những lầm lỗi của mình trong quá khứ. Giáo Hội đã nhận ra rằng, trong quá khứ con cái của mình đã có những hành động thiếu khoan nhượng trong khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta không thể quên được những cuộc thập tự viễn chinh để triệt hạ người Hồi Giáo, các tòa điều tra để thiêu sống những người bị xem là lạc giáo trong thời Trung Cổ, những cuộc chiến tranh giữa Công Giáo và Tin Lành hồi thế kỷ XVII. Chúng ta cũng khó quên được những hoạt động truyền giáo, vì nhiệt tình loan báo Chúa Kitô, các tín hữu đã không ngần ngại dùng võ lực và nhiều sức ép khác để bóp nghẹt niềm tin và tư tưởng của người khác.
Lịch sử đã sang trang, ngày nay Giáo Hội thấy cần phải sám hối và quay trở lại gần với Tin Mừng của Chúa hơn. Tin Mừng của Chúa thiết yếu là chính con người của Chúa Giêsu, Đấng đã đồng bàn ngồi với những người bị xã hội gạt ra bên lề, cảm thông tha thứ không ngừng cho những người tội lỗi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cư xử như Ngài. Từ sáng chói nhất mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay phải là hai chữ "Anh Em". Khi người anh em lỗi phạm thì ngươi hãy đến với nó, chuyện vãn với nó, khuyến dụ nó, dù tội lỗi đốn mạt xấu xa đến đâu thì tha nhân vẫn là người anh em của chúng ta. Chúa dạy ta hãy đến với người anh em không phải với thái độ miệt thị, loại trừ, mà bằng sự cảm thông tha thứ.
Tựu trung đi bước trước để gặp gỡ, lắng nghe, đối thoại, cảm thông tha thứ, đó là cách cư xử giữa những người anh em con cùng một Cha trên trời. Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta đến gặp gỡ trong tình anh em ấy, Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Nếu ngươi đến dâng của lễ nơi Bàn Thờ mà chợt nhớ có điều bất bình với người anh em, hãy bỏ của lễ mà đi làm hòa với người anh em trước đã, rồi hãy đến dâng của lễ" (Mt 5,23-24).
Nguyện xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp sức cho chúng ta, để mỗi ngày Chúa Nhật, sau khi ra khỏi nhà thờ chúng ta cảm thấy được bổ sức hơn, hầu sống và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa một cách tốt đẹp hơn.
----------------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mt 18, 15-20
Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội ở trần gian này, nghĩa là Ngài dựng xây Hội Thánh. Trong Hội: TN 23-A91
Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội ở trần gian này, nghĩa là Ngài dựng xây Hội Thánh. Trong Hội Thánh có người tốt nhưng cũng có người chưa tốt, có sự lành và sự dữ. Chúa Giêsu muốn mọi thành phần trong Hội Thánh có trách nhiệm tùy mức độ đối với lỗi lầm của anh em mình, là tìm cách giúp đỡ họ nên tốt hơn, hoàn hảo hơn. Anh em trong Hội Thánh hiệp lời cầu nguyện với nhau chắc chắn sẽ có Chúa hiện diện và được Chúa Cha nhận lời, sinh hiệu quả tốt đẹp.
Thực tế, Chúa thiết lập Hội Thánh, là mong muốn cho mọi người nên thánh, tuy nhiên, trong một tập thể, đặc biệt trong Giáo Hội chắc chắn sẽ có những người chưa tốt, sẽ có những người có tội chứ không hẳn mọi người đều thánh như Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Giáo Hội đã viết:” Chúa Kitô thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, không hề phạm tội ( 2Co 5, 21 ), chỉ đến để đền tội, gánh tội cho dân ( Dt 2, 17 ), còn Giáo Hội luôn ấp ủ những kẻ tội lỗi trong lòng, trong đôi tay của mình, nên vừa thánh thiện, vừa phải thanh tẩy, luyện sạch mình. Chính vì thế, Giáo Hội luôn thực hiện việc sám hối và canh tân đổi mới “ ( GH 8 ). Giáo Hội luôn chú trọng đến việc sửa đổi, sửa lỗi cho nhau sao cho phù hợp với lời Chúa, và phù hợp với cách Chúa dạy bảo. Khi có người lỗi phạm, Giáo Hội chú tâm dạy bảo người đi sửa lỗi hơn là tội nhân. Chúa kêu mời con người chúng ta có trách nhiệm về sự hoàn thiện, sự tiến bộ của anh em mình, nhưng để đạt được điều đó đòi hỏi con người phải kiên nhẫn, cẩn trọng, từ từ…nếu có phải chờ đợi, dùng tới 2, 3 người cũng là để nhờ sự kiên nhẫn, khéo thuyết phục mà tội nhân sẽ hối cải, trở về, thanh luyện để tốt hơn chứ không phải để bắt lỗi họ, cáo lỗi họ mà để sửa lỗi làm cho họ nên hoàn thiện hơn. Giáo Hội vững mạnh nhờ sức mạnh của Chúa Phục Sinh, để toàn thắng các thử thách, khó khăn sầu muộn nội tâm cũng như bên ngoài bằng yêu thương và kiên trì.Đi thưa cộng đoàn: ở đây cộng đoàn nghĩa là Hội Thánh để Hội Thánh dùng quyền của mình mà tha thứ tội nhân sau khi đã dùng lời lẽ khôn ngoan mà chỉ dạy.Nếu họ không chịu nghe Giáo Hội thì họ được coi là người ngoài và là người không hiểu biết gì về Giáo lý của Chúa. Đặc biệt, Chúa xác định lại lời đã tuyên bố với Phêrô ( 16, 9 ) và mở rộng quyền đó cho các tông đồ. Chúa cũng nhắc nhở là một mình cầu nguyện đã tốt, tuy nhiên nếu hai ba người cầu nguyện nhân danh Chúa, chắc chắn Chúa sẽ hiện diện và Chúa Cha sẽ nhận lời vì Chúa Giêsu luôn làm đẹp lòng Đức Chúa Cha.
Từ xưa đến nay, thực tế đã có rất nhiều người hiểu sai về Giáo Hội, họ tưởng rằng Giáo Hội hoàn toàn lúc nào cũng chỉ có những người thánh hoặc cho rằng Giáo Hội bao che những người phạm tội, cứ làm lỗi, cứ phạm tội rồi đi xưng tội là xong và rồi họ lại tiếp tục phạm tội. Giáo Hội cho nhân loại hay Giáo Hội qua muôn thế hệ luôn bảo toàn kho tàng thánh đức, làm phát triển kho tàng ấy, nhưng Giáo Hội luôn đòi hỏi con người phải canh tân, đổi mới, phải ăn năn sám hối để trở nên hoàn thiện mỗi ngày. Mọi người đều có nhiệm vụ giúp mình và giúp người khác tốt hơn, hoàn thiện hơn để cùng nhau hiệp lời cầu nguyện, và nhờ lời cầu nguyện chân thành Chúa sẽ hiện diện, và rồi lời khẩn cầu Chúa, cùng cộng đoàn dâng lên Thiên Chúa Cha, chắc chắn sẽ được Chúa Cha nhận lời và ban ơn.
Xin mượn lời Đức Cha Georges Pontier để kết luận bài chia sẻ này:” Chúng ta hãy chú tâm nghe lời khuyên mà Đức Kitô cho thêm: tất cả việc này (việc sửa lỗi nhau ) phải được thực hành trong một bầu khí cầu nguyện.Điều phải làm cho được là những gì thật sự tốt cho người anh em: chinh phục được anh.Điều tốt này được trao vào tay Chúa Cha, Đấng không thể từ chối những gì hai hay ba người cầu xin Người ban cho, nhân danh Chúa Con. Phần thánh Phaolô, ở một trong những bài đọc Chúa Nhật hôm nay, ngài nhắc lại rằng “ yêu thương là chu toàn Lề Luật “. Không phải nhân danh Lề Luật mà ta đi “ cảnh báo “ anh em mình, nhưng là nhân danh tình yêu hoặc nhân danh sứ mạng làm “ngôn sứ “ mà chúng ta lãnh nhận ngày chịu phép thanh tẩy.Chính trong cầu nguyện mà ta đón nhận những nẻo đường đưa tới một thái độ đứng đắn cho tình huynh đệ.Và những gì còn lại thì thuộc về Thiên Chúa “.
Lạy Chúa Giêsu , xin giúp chúng con biết nhận ra sự yếu hèn của mình và mau mắn sửa lỗi anh em mình với tình thương để họ mỗi ngày mỗi hoàn thiện, mỗi tốt hơn.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Sửa lỗi và bắt lỗi khác nhau thế nào ?
2.Khi sửa lỗi anh em thái độ của người đi sửa lỗi phải làm sao ?
3.Khi hai ba người cầu nguyện nhân danh Chúa, Chúa sẽ thế nào ?
4.Khi sửa lỗi nhau chúng ta nhân danh Lề Luật hay nhân danh tình yêu ?
------------------------------
(Mt 18, 15 - 20)
Bước vào Chúa nhật XXIII, chủ để nổi bật hơn cả là " bác ái huynh đệ trong cộng đoàn tín hữu".
Sống trong Giáo hội Chúa Kitô
Hiệp nhất nhân danh Chúa Giêsu", bác ái, tha thứ cho nhau và giúp nhau thăng tiến là điều ai cũng: TN 23-A92
"Hiệp nhất nhân danh Chúa Giêsu", bác ái, tha thứ cho nhau và giúp nhau thăng tiến là điều ai cũng muốn và cần làm. Đây không đơn giản chỉ là tương quan xã hội trong cuộc sống hàng ngày. Việc sửa lỗi huynh đệ đã có trong sách Lêvi: "Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó " (Lv 19, 17). Vì bác ái với dân Israel, Chúa đã làm cho Êdêkiel "trở nên người lính canh nhà Israel", và truyền ông phải nói cho "kẻ gian ác bỏ đường lối mình", để được sống, nếu không "thì chính kẻ gian ác sẽ chết" (x. Ed 33, 7-9).
Thánh Phaolô nói: "Anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau" (Rm 13, 8). Thì ra chúng ta phải mắc nợ nhau về tình mến. Cùng một thân thể mầu nhiệm Đức Kitô, thánh Phaolô mời gọi ta mặc lấy tâm tình của Đức Kitô, sống hiền lành, khiêm nhường và liên đới với nhau. Bởi tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng, được Đức Giêsu Kitô cứu chuộc, chúng ta là anh em với nhau trong Chúa, nên hãy đối xử với nhau bằng tình yêu và lòng mến, vì toàn bộ luật của Thiên Chúa được nên trọn trong tình yêu, kể cả Mười Điều Răn "và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình" (x. Rm 13, 8-10).
Tình yêu và sự kiên nhẫn
Lời thánh Phaolô trong bài ca đức ái: " Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác "(1Cr, 9), cho thấy Giáo hội được qui tụ làm thành Thân Thể Chúa Kitô, lãnh nhận sứ mạng bày tỏ Thân Thể này theo ý muốn của Thiên Chúa. Chúng ta là những chi thể của cùng một Thân Thể, tuy khác nhau, nhưng cùng qui về Giáo hội, liên đới với nhau như một bản giao hưởng tình bác ái. Nên ai phạm lỗi, người ấy thiếu tình bác ái không chỉ với một người, mà con đối với toàn thân thể.
Cứ sự thường ai xúc phạm đến ta, ta không can thiệp gì hết. Viện cớ: nó đã xúc phạm đến tôi ! Tôi sẽ không nói gì hết, dứt khoát là không. Vậy làm gì bây giờ ? Nó đã xúc phạm đến tôi: Mắt đền mắt, răng đền răng ư ? Đây không phải là giải pháp, làm thế sự xấu sẽ xấu hơn. Tôi sẽ đi gặp anh em và nói: Anh đã làm tổn thương tôi, không được ! Anh được Thiên Chúa tạo dựng, vì tình bác ái, tôi phải kéo anh về. Chúng ta không loại trừ vì lỗi cá nhân họ, nhưng giúp họ sửa mình để trở nên xứng đáng trong cộng đoàn mà họ là thành viên.
Chúa Giêsu đưa ra các cấp độ hành xử với anh em trong cộng đoàn, dựa trên sự tôn trọng và yêu thương lẫn nhau miễn sao lợi được người anh em. Tin Mừng (Mt 18, 15-20) cho thấy, tình yêu huynh đệ chất chứa trách nhiệm hỗ tương, nếu anh em có lỗi, tôi phải thể hiện tình yêu với họ, trước hết, nói chuyện riêng với anh về sai lầm mà anh đã nói hay làm là không tốt. Hành vi này được gọi là sửa lỗi huynh đệ: đây không phải là phản ứng đối với hành vi người phạm lỗi, nhưng là cử chỉ yêu thương dành cho người anh em. Thánh Augustinô nói: "Anh ấy đã xúc phạm bạn, và khi xúc phạm, anh ấy đã làm cho bạn tổn thương: bạn không quan tâm đến thương tích của người anh em bạn sao ? (...) Vậy, hãy quên đi những sai lầm họ đã xử với bạn, chứ không phải là vết thương bạn phải chịu vì người anh em" (Discours 82, 7).
Và nếu nó không chịu nghe ngươi? Cấp tiếp theo, hãy nói chuyện về anh ta với hai hoặc ba người để giúp anh ý thức hơn về những gì anh đã làm; nếu anh ta vẫn bỏ ngoài tai, bất chấp điều này, phải nói cho cộng đoàn; và nếu anh ta không nghe cộng đoàn, thì phải làm cho anh ta nhận ra rằng chính anh tự tách biệt khỏi cộng đoàn Hội Thánh. Đặt ra khỏi cộng đoàn thành viên không chịu hối cải, không có nghĩa là lên án. Chúng ta cần phải giữ liên hệ với nhau, vì đây là mối liên hệ do Thánh Thần thêu dệt. Chúng ta bước vào trong cộng đoàn và xây đắp bình an để mang lại cho sức sống cho cộng đoàn. Dù giới hạn cũng như khuyết điểm cá nhân ta, chúng ta vẫn được mời gọi đón nhận sửa lỗi nhau trong tình huynh đệ và giúp đỡ người khác qua việc sự tế nhị này. Đây trách nhiệm sống của chúng ta với nhau.
Hoa quả của đức ái
Khi áp dụng hết mọi cách, vẫn không có hiệu quả, chúng ta hãy phó thác người anh em cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa: "Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật " (Rm 13, 10).
Hoa quả của đức ái trong cộng đoàn là cầu nguyện: " Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy "(Mt 18, 19-20). Chúng ta quả quyết: Ở đâu có tình yêu, ở đó có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ngự trị. Cầu nguyện cá nhân chắc chắn là quan trọng, cần thiết, nhưng Chúa bảo đảm sự hiện diện của mình trong cộng đoàn ngay cả cộng đoàn nhỏ, vì nó qui chiếu vào sự hiệp thông hoàn hảo của Thiên Chúa Ba Ngôi. Origen nói rằng "chúng ta phải thực hiện bản giao hưởng này" nghĩa là sự hòa hợp trong cộng đoàn tín hữu.
Có người sẽ nói: chúng tôi đang tụ họp với nhau trong cùng một khuôn viên nhà thờ, đang lắng nghe tiếng của mục tử chúng tôi, cùng hát thánh ca và hiệp nhất trong lời cầu nguyện, chúng tôi chẳng đang nhân danh Chúa mà tụ họp với nhau đó sao ? Làm gì có sự bất hòa?
Đúng, chúng ta là một gia đình đang được cùng một mục tử hướng dẫn, không có chia rẽ, nếu bình tĩnh lại, thinh lặng ra khỏi nhà thờ, những lời chỉ trích, xúc phạm người khác, kèm theo là ghen tị, đố kỵ và tham lam, hận thù, dối trá và gian lận ... tình bác ái được đặt ra. Vì vậy, chúng ta hãy tôn trọng Bàn Tiệc Thánh, Chúa Kitô đã hy sinh vì chúng ta, chúng ta hãy thông hiệp với nhau.
Giờ đây chúng ta hướng lòng lên Chúa và dâng lên Ngài lời tha thiết nguyện xin cho cộng đoàn tín hữu khắp nơi được hiệp nhất trong Chúa Kitô, nhờ sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
----------------------------------
(CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN, A)
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Khi đảm nhận vài trò sửa lỗi cho anh chị em, hẳn chúng ta đều cảm thấy quá khó! Khó là vì không: TN 23-A93
Khi đảm nhận vài trò sửa lỗi cho anh chị em, hẳn chúng ta đều cảm thấy quá khó! Khó là vì không ai muốn nhận lỗi về mình, và nếu có nhận ra lỗi của mình thì cũng khó lòng chấp nhận sửa sai vì cái “tôi” quá lớn.
Tại sao vậy? Thưa! Đơn giản là vì tâm lý chung của mọi người đa phần là bảo thủ nên dễ nhận thấy lỗi của người khác hơn là lỗi của mình, còn người khác thì dễ nhận ra lỗi của ta hơn là lỗi của họ.
Hôm nay, Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ của mình hãy sửa lỗi cho anh em. Tuy nhiên, theo lẽ thường, muốn thành công, người môn đệ phải có được tâm tình như: yêu thương chân thành, tôn trọng, tế nhị, kiên trì và cầu nguyện. Bỏ một trong các bước trên, thành công là điều khó có thể xảy ra!
1. Sửa lỗi nhau trong yêu thương chân tình:
Trước tiên, khi muốn sửa lỗi cho người khác, chúng ta phải luôn tâm niệm rằng: “Nhân vô thập toàn” và lỗi của người anh em đôi khi cũng là lỗi của mình. Chính thánh Gioan đã quả quyết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Khiêm tốn nhận ra mình tội lỗi, yếu đuối và bất toàn sẽ mang lại cho ta bài học về sự thông cảm, nhẹ nhàng và bao dung. Ngược lại, nếu không khiêm tốn, ta dễ rơi vào tình trạng vô cảm, dửng dưng với người tội lỗi. Và như một lẽ tất yếu, hẳn chúng ta không những không được Thiên Chúa tha thứ cho chính mình, nhưng Người sẽ đòi nợ ta theo lẽ công bằng. Lúc ấy, chúng ta cũng là những người sẽ bị kết án vì sự bất nhân của mình với anh chị em đồng loại.
Điều này được quảng diễn qua dụ ngôn người mắc nợ không biết thương xót, ông chủ đã lên án con người “cạn tình ráo máng” này khi nói: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông" (Mt 18,32-34).
Như vậy, khi sửa lỗi cho nhau dựa trên tình yêu nhờ động lực của đức ái, chúng ta mới có thể đi vào tình yêu của Thiên Chúa để đón nhận sự tha thứ cho chính mình và diễn tả tình yêu đó cho người khác trong khi sửa lỗi cho họ.
2. Sửa lỗi trong tâm sự nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị và tôn trọng:
Thứ đến, là sửa lỗi cho anh chị em mình trong tâm sự nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị và tôn trọng: Đức Giêsu đã nói rất rõ: "Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình” (Mt 18, 15).
Thường thì con người dễ nghe những lời tâm sự, kín đáo, tế nhị, chân tình hơn là những sự nạt nộ, kết tội... hơn nữa, một mình ta với người được sửa lỗi nói lên tính riêng tư và mang lại cảm giác an toàn, kính trọng vì họ đang được yêu thương.
Thật vậy, nếu không có sự tôn trọng, nhẹ nhàng, tế nhị và kín đáo, chúng ta không thể hiểu được tâm trạng của người tội lỗi!!! Bởi vì, thường những người phạm tội luôn mang hai trạng thái, một là tự ái, hai là mặc cảm, xấu hổ. Mặt khác, người sai lỗi thường rơi vào tình trạng bất ổn về lương tâm, nên tinh thần, thái độ của họ rất mỏng dòn, yếu đuối và dễ buông xuôi. Chỉ cần một lời nói thiếu tế nhị là có thể đổ bể mọi vấn đề... và vô tình, chúng ta lại đào thêm hố ngăn cách cho anh chị em, làm cho sự việc trở nên trầm trọng hơn. Thiếu đi sự tôn trọng thì chỉ còn những lời chỉ trích, nguyền rủa. Có được sự tôn trọng, chúng ta sẽ nhẹ nhàng, khiêm tốn khi sửa lỗi.
Như vậy, cần phải có thái độ trân trọng với người mà tôi đang muốn giúp đỡ họ. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em, là bạn, và trên hết là hình ảnh Thiên Chúa. Trân trọng nữa là vì nơi họ vẫn còn đó những suy tưởng tích cực và lương tâm chân chính thủa ban đầu mà Thiên Chúa đã phú bẩm nơi tâm hồn họ, vì thế, tận sâu thẳm của tâm hồn, họ vẫn được tiếng nói lương tâm thúc đẩy để “làm lành lánh dữ” và cách nào đó họ vẫn khao khát tìm về Chân, Thiện, Mỹ.
Mặt khác, khi chúng ta nhẹ nhàng để chỉ cho người anh chị em của mình thấy được lỗi của họ mà sửa, ấy là lúc biểu hiện của tâm hồn một người thánh thiện, chân thành chứ không phải nhân cơ hội này, mình hạ thấp nhân phẩm và nhấn chìm họ xuống để mình được vươn lên trong sự huênh hoang, tự mãn... hãy mặc lấy tâm tình của một người bạn hơn là người chỉ giáo; có tâm tình của một người cha hơn là một quan tòa...
Làm được điều đó, chúng ta sẽ loại bỏ điều oán ghét, giận hờn... để chỉ vì một động lực duy nhất là tình yêu, một mục đích nguyên tuyền là muốn cho người anh chị em chúng ta được trở nên tốt hơn mà thôi.
3. Sửa lỗi trong kiên trì và cầu nguyện:
Cuối cùng, khi thi hành việc sửa lỗi là cả một quá trình. Chuyện liên quan đến toàn thể con người, nó đụng đến tận gốc rễ của cái “tôi”, vì thế, không phải là chuyện làm một lần là xong. Cần phải có nhiều phương án. Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta những phương án như sau: gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn (x. Mt 18,15-17). Hãy nhớ lại sự kiên trì của thánh nữ Mônica với thánh Âu tinh!
Tuy nhiên, kiên trì là điều cần, nhưng không thể đóng vai trò quyết định. Thật vậy, mọi chuyện sẽ không thể thành công và sẽ trở thành “công dã tràng” nếu phủ nhận ơn Chúa và cậy dựa vào khả năng thuần túy của ta.
Như thế, đời sống cầu nguyện, kết hợp với hy sinh là điều quan trọng để quyết định thành công hay thất bại. Chúng ta nên nhớ rằng sửa lỗi là việc của chúng ta, nhưng kết quả là việc của Chúa. Chúng ta không có khả năng để thay đổi người khác. Bởi vì: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”.
Bên cạnh đó, người sửa lỗi phải có sự can đảm chấp nhận sự thiệt thòi về mình khi dám nói lên sự thật, bởi vì đôi khi bị hiểu lầm, ghen ghét, ganh tỵ và bị trả thù ngang qua những sự thật mà ta đã nâng đỡ...
Mong sao, khi đứng trước lỗi lầm của người khác, chúng ta đừng rơi vào tình trạng: khắt khe hoặc vô cảm. Bởi vì khắt khe, chúng ta sẽ hướng chiều về sự loại trừ khi can thiệp cách thô bạo nhằm đẩy lui người anh chị em vào bóng tối. Còn thờ ơ, chúng ta lại rơi vào tình trạng lãnh cảm, tức là không cần quan tâm, bỏ rơi. Tất cả những điều đó hoàn toàn là một “tấm vải đen”, “một bầu trời u ám” cho cả người sửa lỗi và người được sửa lỗi.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết ý thức mình cũng là con người bất toàn nên cần đến ơn Chúa trợ giúp. Đồng thời, xin cho chúng con biết sửa lỗi anh chị em trong tinh thần khiêm tốn và thánh thiện. Xin Chúa cũng ban cho chúng con ơn can đảm, trung thành trong sự thật khi thi hành công việc khó khăn này. Amen.
----------------------------------
Ed 33,7-9; Rm 13,8-10; Mt 18,15-20
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 18,15-20
(15) Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình. (16) Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào hai hoặc ba chứng nhân. (17) Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế. (18) Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy. (19) Thầy còn bảo thật anh em: Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em họp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. (20) Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đó, giữa họ”.
2. Ý CHÍNH: XÂY DỰNG CỘNG ĐOÀN TÍN HỮU.
Các thành viên trong cộng đoàn Hội thánh phải tế nhị sửa lỗi cho nhau và cầu nguyện chung với nhau: TN 23-A94
Các thành viên trong cộng đoàn Hội thánh phải tế nhị sửa lỗi cho nhau và cầu nguyện chung với nhau: Khi có ai sai lỗi, thì cần sửa lỗi lần lượt qua 4 bước như sau: Bước một là đi gặp riêng để nhắc nhở kẻ có lỗi. Nếu họ không chịu nghe thì sang bước thứ hai là đưa thêm một hay hai nhân chứng. Nếu họ vẫn cố chấp thì sang bước thứ ba la đưa họ ra trước cộng đoàn nhờ xem xét. Nếu họ vẫn cố chấp không muốn nghe cộng đoàn thì sang bước thư tư là kể họ như người ngoại đạo và phó thác họ cho lòng Chúa thương xót. Lời cầu nguyện nếu muốn được Chúa chấp nhận thì cần cầu nguyện chung với cộng đoàn, vì Chúa Giê-su hứa sẽ hiện diện và ban ơn khi hai ba người hiệp nhau lời cầu xin nhân danh Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 15-16: + Người anh em: Anh em nói đây là anh em cùng một cộng đoàn đức tin (x. Mt 23,8; 28,10). + Phạm tội: Không nhất thiết phải là tội xúc phạm đến người sửa lỗi, nhưng là những lỗi nặng nề, công khai, gây gương mù gương xấu và làm tổn thương cho sự hiệp nhất cộng đoàn. Qua đó cho thấy Hội thánh không chỉ gồm những người tốt lành hoàn hảo, mà còn có cả những tội nhân xen lẫn như dụ ngôn cỏ lùng đã cho thấy. + Hãy đi sửa lỗi nó: Ở đây Đức Giê-su dạy phải đi sửa lỗi cho kẻ có tội do đức bác ái đòi hỏi. Vì mỗi thành viên trong cộng đoàn đều có trách nhiệm liên đới với đời sống đạo đức của anh em mình. Sự sửa lỗi này không mâu thuẫn với lời dạy tránh xét đoán anh em và đừng đòi lấy cái rác ra khỏi con mắt anh em, đang khi có cái xà trong con mắt mình (x. Mt 7,1-5). Như vậy sửa dạy không phải là khiển trách miệt thị kẻ có tội, nhưng để giúp tội nhân nhận ra lỗi của mình và thành tâm sám hối. + Một mình anh với nó mà thôi: Đây là sửa lỗi của một cá nhân, nhằm tôn trọng và giữ thể diện cho kẻ có lỗi. Nếu cách này không hiệu quả thì mới tiếp tục các cách tiếp theo. + Được món lợi là người anh em mình: Món lợi không có nghĩa là “lời” thêm được một người bạn hay chiến thắng được một đối thủ. Nhưng là giúp cho Hội thánh khỏi bị mất một thành viên. + Còn nếu nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai người nữa: Chỉ thị này nhấn mạnh đến sự kiên nhẫn phải có của người đi sửa lỗi khi đối diện các tội nhân cứng lòng cố chấp. Việc đem theo một hay hai người nữa là để giúp tội nhân ý thức hơn về tội của mình, như luật Mô-sê dạy: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ tội lỗi nào. Phải căn cứ vào lời của hai hay ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét” (Đnl 19,15). Tuy nhiên, chỉ thị của Đức Giê-su nói đây không phải là nhân chứng buộc tội, nhưng là những người có uy tín, để giúp tội nhân sám hối sửa lỗi.
- C 17-18: + Đi thưa Hội thánh: vì Hội thánh đã được Chúa ban cho quyền cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 18,18). Đưa ra Hội thánh không phải để xét xử, nhưng để tội nhân có dịp hoán cải hầu xứng đáng được ơn giao hòa. + Kể nó như một người ngoại: Nếu kẻ có tội có thái độ cố chấp không muốn sửa lỗi, thì sẽ bị coi là “người ngoại đạo hay kẻ thu thuế”, nghĩa là người lạc giáo. Từ nay Hội thánh không có trách nhiệm trực tiếp đối với họ và chỉ còn biết phó thác họ cho lòng Chúa thương xót. + Dưới đất anh em cầm buộc những điều gì: Đức Giê-su trao cho Nhóm Mười Hai cũng một thứ quyền cầm buộc và tháo cởi trao cho tông đồ Phê-rô (x. Mt 16,19). Qua đó cho thấy Hội thánh có quyền thiết lập luật lệ cho các tín hữu. Khi trao quyền cầm buộc tháo cởi cho Nhóm Mười Hai, Đức Giê-su không bãi bỏ quyền đã trao cho tông đồ Phê-rô. Nhưng Người chỉ muốn các môn đệ phải liên kết với Phê-rô là đầu khi ra các phán quyết về đức tin và luân lý. + Dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì…: Mọi phán quyết của Hội thánh ở trần gian về đức tin và luân lý mà được công đồng bàn thảo biểu quyết và được Đấng kế vị thánh Phê-rô công bố, thì sẽ Chúa ban cho ơn bất khả ngộ, nghĩa là không thể sai lầm, và được Thiên Chúa trên trời phê chuẩn.
- C 19-20: + Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em họp lời cầu xin bất cứ điều gì: Lời cầu nguyện riêng của mỗi người trong phòng kín là cách cầu nguyện khiêm tốn đẹp lòng Chúa (x. Mt 6,6). Nhưng lời cầu nguyện chung của cộng đoàn lại đẹp lòng Chúa hơn và dễ được Chúa chấp nhận hơn. Cầu nguyện chung là một phương thức duy trì đức ái và sự hiệp nhất cộng đoàn. Khi hội họp, các tín hữu cần lưu ý hai điều quan trọng: một là phải hội họp nhau trong tình bác ái và sự hiệp nhất. Hai là phải nhân danh Đức Giê-su, nghĩa là nhằm xây dựng Hội thánh của Chúa và làm cho Tin mừng ngày một lan rộng. + Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy: Đây không phải là họp nhau mang tính thế tục, nhưng họp nhau nhân danh Đức Giê-su, để được Người dạy dỗ với ơn soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh thần. + Có Thầy ở đấy với họ: Trong thời Cựu ước, Đức Chúa luôn hiện diện giữa dân Người qua hình cột mây đậu trên Nhà Tạm che nắng ban ngày và cột lửa chiếu sáng ban đêm (x. Xh 40,34-38). Người cũng hứa sẽ hiện ra nói chuyện với dân Ít-ra-en trên nắp Hòm bia Giao ước (x. Lv 16,2). Đến thời Tân ước, không những Đức Giê-su hứa sẽ hiện diện mỗi khi cộng đoàn họp nhau cầu nguyện, mà cả những khi họ họp nhau nhân danh Người. Người hiện diện để giúp họ xây dựng tình yêu thương hiệp nhất, sửa lỗi cho nhau, hòa giải những mối bất hòa chia rẽ và duy trì sự hiệp thông giữa cộng đoàn.
4. CÂU HỎI:
1) Phải chăng Nước Trời hay Hội thánh ở trần gian chỉ gồm những thành phần tốt lành thánh thiện ?
2) Các tín hữu cần đối xử thế nào đối với những thành viên mắc phải lỗi lầm nghiêm trọng ?
3) Cần phải sửa lỗi cho nhau qua mấy bước ?
4) Tại sao phải thưa kẻ có tội với Hội thánh ?
5) Hội thánh ra vạ tuyệt thông cho những loại tội nhân nào và nhằm mục đích gì ?
6) Phải chăng ở đây khi cũng trao cho Nhóm Mưới Hai quyền cầm buộc và tháo cời (x Mt 18,18), Đức Giê-su gián tiếp truất quyền đã trao cho Tông đồ Phê-rô trước đó (x Mt 16,19) ?
7) Tại sao lời cầu nguyện chung của cộng đoàn lại có giá trị hơn lời cầu nguyện riêng của cá nhân ở nơi kín đáo ?
8) Đức Giê-su hứa sẽ hiện diện giữa cộng đoàn trong những trường hợp nào ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI Chúa: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình” (Mt 18,15).
2. CÂU CHUYỆN: NGÔN SỨ NA-THAN SỬA LỖI CHO VUA ĐA-VÍT
Ngày nọ Đức Chúa đã sai ngôn sứ Na-than đến với vua Đa-vít. Ông vào gặp vua và nói với nhà vua: “Có hai người trong cùng một thành, một người giàu và một người nghèo. Người giàu thì có rất nhiều chiên dê và bò. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua. Ông nuôi nó và nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái ông. Nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông, ngủ trong lòng ông, ông coi nó như một đứa con gái của ông. Một hôm người giàu có khách đến thăm. Ông ta không bắt chiên dê hay bò của mình mà lại sai gia nhân đi bắt con chiên cái của người nghèo kia mang về làm thịt đãi khách”. Vua Đa-vít bừng bừng nổi giận với lối hành xử của kẻ giàu có ấy và nói với Na-than rằng: “Có Đức Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy thật đáng chết ! Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và vì đã không có lòng thương xót”. Bấy giờ Na-than mới nói với vua Đa-vít: “Kẻ đó chính là ngài ! Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: “Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Ít-ra-en. Chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Sa-un. Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa thượng ngươi, và đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã cho ngươi nhà Ít-ra-en và Giu-đa. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa. Vậy tại sao ngươi lại khinh dể lời Ta mà làm điều dữ trái mắt Ta ? Ngươi đã dùng gươm đâm chết U-ri-gia người Khết. Vợ của y thì ngươi đã cướp lấy làm vợ ngươi. Còn chính y thì ngươi đã dùng gươm của con cái Am-mon mà giết. Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của U-ri-gia người Khết làm vợ ngươi”. Đức Chúa phán thế này: “Ta sắp dùng chính nhà của ngươi mà gây họa cho ngươi. Ta sẽ bắt các vợ ngươi trước mắt ngươi mà cho một người khác, và nó sẽ nằm với các vợ của ngươi giữa thanh thiên bạch nhật. Thật vậy, ngươi đã hành động lén lút, nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước mặt toàn thể Ít-ra-en và giữa thanh thiên bạch nhật”. Bấy giờ vua Đa-vít nói với ông Na-than: “Tôi thật đã đắc tội với Đức Chúa” (x 2 Sm 12,1-13).
3. SUY NIỆM:
Hội thánh gồm các tín hữu có đức tin và đã được thánh hóa nhờ các bí tích. Nhưng bao lâu còn ở trần gian, các tín hữu cũng vẫn bị sai lỗi như bao người khác. Họ có thể sai lầm và phạm phải nhiều tội lỗi, gây gương mù gương xấu và nên cớ vấp phạm cho anh em lương dân. Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su cũng dạy các bước sửa lỗi cho anh em, để vừa giữ được đức bác ái, lại vừa giúp tội nhân tu sửa ngày một hoàn thiện hơn.
1. SỬA LỖI LÀ MỘT HÀNH VI YÊU THƯƠNG:
Đức Giê-su dạy các tín hữu không được im lặng khi thấy anh chị em mình có lỗi, nhưng phải mạnh dạn và thẳng thắn góp ý, giúp họ nhận ra lỗi lầm để sửa đổi (x. Mt 18,15). Vì “Thiên Chúa không muốn cho những kẻ có tội phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối và được sống”.
- Nhiều khi chúng ta không dám thẳng thắn sửa lỗi tha nhân vì sợ chạm tự ái khiến họ tức giận, sợ bị mất quyền lợi hay sợ bị trả thù nên đành giữ thái độ im lặng. Im lặng như thế là đồng lõa với tội ác và kẻ xấu sẽ “được đằng chân lân đằng đầu”.
- Cũng cần phân biệt giữa khiêm tốn sửa lỗi với thái độ tọc mạch “vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết”, hay thái độ lên mặt “thầy đời” khi mình chưa đủ tư cách sửa lỗi tha nhân, như người Việt có câu: “Chân mình những lấm bê bê. Lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Chính Đức Giê-su đã quở trách các Biệt phái và luật sĩ về thái độ đạo đức giả này: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới ? Sao anh lại nói với người anh em: Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh ? Hỡi kẻ đạo đức giả ! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em” (Mt 7,3-5).
- Ngoài ra, sửa lỗi còn là một việc làm thể hiện tình yêu thương, giống như bổn phận của cha mẹ là phải răn dạy con cái: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”; hoặc: “Sinh con chẳng dạy chẳng răn, Thà rằng nuôi lợn lấy lòng mà ăn”. Thấy một người đi vào con đường dẫn đến đầm lầy nguy cơ bị sụt lún mà im lặng không cảnh báo để họ phòng tránh thì đó chính là một tội ác. Thấy một người làm một điều sai lỗi, có thể gây thiệt hại lớn cho bản thân, gia đình và xã hội mà ta không chịu can ngăn thì cũng là một trọng tội như luật pháp đã qui định: “Tội lỗi bổn phận gây hậu quả nghiêm trọng” !
2. SỬA LỖI LẪN NHAU LÀ TÍCH CỰC XÂY DỰNG HIỆP NHẤT CỘNG ĐOÀN:
Góp ý sửa lỗi anh em phải do tình thương thôi thúc. Nhưng bản thân mỗi người chúng ta cũng cần được người khác sửa lỗi mới có hy vọng nên hoàn thiện. Một cộng đoàn trưởng thành là khi phát hiện có điều gì sai trái thì các thành viên sẽ liệu cách sửa lỗi cho nhau. Lời góp ý phải phát xuất do động lực yêu thương, chứ không do lòng ganh ghét thù hằn cá nhân. Mỗi người cần biết khiêm tốn lắng nghe các góp ý của anh em, thậm chí còn phải nghe cả những lời phê bình chỉ trích của những kẻ đang thù ghét chống lại mình nữa.
Nhiều người nghĩ rằng: Hãy “cố chịu đấm ăn xôi”, ráng chịu đựng những lời phê bình mà không thực tâm muốn hoán cải. Từ đó sẽ dẫn đến tình trạng đối xử với nhau “Bằng mặt chứ không bằng lòng” và bầu khí cộng đoàn bị ô nhiễm. Trái lại, nếu mọi người đều ý thức nhân vô thập toàn, để khiêm tốn nhận lối và giúp nhau sửa lỗi, thì sẽ tr ánh được gương mù gương xấu… Cộng đoàn sẽ ngày một an vui, phản ảnh tình yêu của Thiên Chúa do có Chúa hiện diện như Người đã nói: “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”. (Mt 18,20).
3. PHẢI SỬA LỖI CHO NHAU NHƯ THẾ NÀO ?
Giống như bác sĩ giải phẫu một khối u ác tính. Nếu thiếu kinh nghiệm hay thao tác nhanh ẩu không đúng kỹ thật thì không những không chữa lành được khối u mà còn có nguy cơ làm cho khối u bị “di căn” gây thiệt hại lớn hơn cho bệnh nhân. Cũng vậy, sửa lỗi cho anh em đòi chúng ta phải theo một số nguyên tắc như Đức Giê-su đã đề ra trong Tin mừng hôm nay là phải tế nhị, kín đáo và kiên nhẫn.
+ Tế nhị: Phải đặt mình vào hoàn cảnh của người bị sửa lỗi, để biết khi nào nên nói và nói như thế nào để người bị sửa lỗi không bị chạm tự ái và sẵn sàng hợp tác tu sửa.
+ Kín đáo: Là phải góp ý riêng, không để cho người khác biết, hầu tránh cho kẻ có lỗi khỏi mặc cảm xấu hổ và bị người khác khinh thường xa lánh.
+ Kiên nhẫn: Là không nóng vội và đừng đòi phải có kết quả trước mắt, nhưng biết kiên nhẫn chờ đợi để kẻ có lỗi có thêm thời gian suy nghĩ như người ta thường nói: “Mưa dầm thấm lâu !” hoặc “Dục tốc bất đạt !”.
4. CỤ THỂ CÁC BƯỚC SỬA LỖI CHO ANH EM THEO LỜI CHÚA DẠY:
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã dạy các môn đệ về bốn bước khi sửa lỗi cho anh em như sau:
Một là đi gặp riêng giữa ta và người có lỗi.
Hai là nếu họ không nhận lỗi thì sẽ đi chung với một hoặc hai nhân chứng, không phải để làm áp lực mà để mọi việc được sáng tỏ và khách quan hơn, nhờ lời phân giải của các nhân chứng. Bước này gọi là “ba mặt một lời”.
Nếu họ vẫn cố chấp không nghe, thì tiến tới bước thứ ba là đưa kẻ có lỗi ra trước cộng đoàn. Không phải để xét xử kết án, nhưng để nhờ thế giá của cộng đoàn mà kẻ có lỗi sẽ dễ hồi tâm tu sửa (x. Mt 18,20).
Nếu họ vẫn cố chấp không nghe cộng đoàn, thì sang bước cuối cùng là tách họ ra khỏi cộng đòan Hội thánh, để họ không có điều kiện tác hại đến cộng đoàn. Tương tự như trường hợp một bàn chân bị hoại tử, nếu không kịp thời xử lý thì tình trạng họai tử sẽ ngày càng nặng hơn lan sang các bộ phận khác. Vì thế nếu sau một thời gian không khỏi, bác sĩ điều trị sẽ quyết định “đọan chi”, nghĩa là loại bỏ phần bị hoại tử tới khớp cổ chân cổ tay hay đầu gối… để tránh tình trạng hoại tử ngày một lây lan. Những tội nhân cố chấp trong sự sai trái về đức tin và luân lý sẽ bị coi như “dân ngoại hay người thu thuế”, nghĩa là không còn thuộc về Hội thánh nữa. Từ đây Hội thánh không chịu trách nhiệm đối với họ, mà chỉ còn biết phó thác họ cho lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa.
4. THẢO LUẬN:
1) Bạn nên phản ứng thế nào khi bị người khác phê bình về các hành vi sai lỗi của bạn ? 2) Cụ thể khi làm việc trong một công sở hay công ty xí nghiệp mà cấp trên tham nhũng, chúng ta nên làm gì để vừa tránh bị họ cô lập đào thải, đồng thời cũng giữ được sự công minh chính trực của người tín hữu môn đệ Đức Giê-su ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xưa Chúa đã từng có các người bạn thân là 3 chị em gia đình ở Bê-ta-ni-a (x. Ga 11,5.11). Chúa cũng không coi các môn đệ là tôi tớ, nhưng là bạn nghĩa thiết, để tâm sự vui buồn với các ông (x. Ga 15,15). Hôm nay, chúng con xin tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con có những người bạn thân, để nâng đỡ chúng con trên bước đường đời.
- LẠY ChÚA. Dù giữa chúng con có những khác biệt, nhưng xin Chúa ban cho chúng con hiệp nhất nên một trong tình yêu của Chúa. Xin cho chúng con biết thật tình yêu thương nhau, biết nâng đỡ an ủi nhau mỗi khi bị thất bại, biết động viên khen ngợi nhau trong những thành công, và nhất là sẵn sàng góp ý xây dựng để cùng nhau thăng tiến. Xin cho chúng con trở nên những môn đệ đích thực của Chúa, nhờ việc năng học hỏi suy niệm Lời Chúa, nhờ đó, chúng con có thể trở thành bạn hữu của anh em.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
----------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 18:15-20)
Sau khi tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, ông Phê-rô được Người đặt làm “tảng đá”, để trên: TN 23-A95
Sau khi tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, ông Phê-rô được Người đặt làm “tảng đá”, để trên đó Người xây Giáo Hội Người tại trần gian. Như vậy, Giáo Hội không chỉ là một thực thể thiêng liêng, nhưng còn là một tổ chức hữu hình gồm những con người với tất cả những mạnh mẽ cũng như yếu đuối của bản chất nhân loại. Mọi chi thể trong Thân thể Mầu nhiệm của Chúa Ki-tô cần phải được biến đổi trở nên giống như Người. Song song với việc tập tành nhân đức, Ki-tô hữu phải thay đổi con người mình bằng cách chấp nhận việc sửa lỗi mà anh chị em giúp mình bằng tất cả thiện chí và yêu thương.
Sửa lỗi trong bối cảnh cộng đoàn không phải là việc dễ làm đối với cả người có lỗi lẫn người sửa lỗi. Vì lòng tự ái, người có lỗi khó chấp nhận việc sửa lỗi. Vì ngại ngùng và sợ mất lòng, người sửa lỗi cũng không muốn gây phiền hà cho người có lỗi và cho chính mình. Để vượt thắng được những khó khăn này, Chúa Giê-su đã thẳng thắn đưa ra một phương thức gồm ba bước: (1) anh và nó; (2) anh, nó và người thứ ba; (3) nó và cộng đoàn. Cả ba bước đều nhắm cùng một mục đích, là “chinh phục được người anh em”. Thứ tự của ba bước ấy không thể thay đổi, mà nhất định phải theo, để giúp cho người có lỗi không bị tổn thương danh dự. Từng bước một, nếu bước trước thất bại thì mới sử dụng bước sau. Nhờ đó, cả người có lỗi lẫn người sửa lỗi, cả hai đều có thì giờ để suy nghĩ chín chắn và đưa ra những đề nghị cũng như chấp nhận mới. Thời gian là một yếu tố cần thiết trong việc sửa lỗi, vì người ta không thể thay đổi trong một sáng một chiều, nhưng nhiều khi là cả một tiến trình dài.
Trong bước thứ hai, sự hiện diện của người thứ ba không phải để tạo áp lực trên người có lỗi, nhưng “để mọi công việc được giải quyết”. “Mọi công việc” ở đây được hiểu như là việc giúp cho người có lỗi nhận ra được đâu là đúng, đâu là sai. Sự hiện diện của người thứ ba muốn nói với người có lỗi rằng việc sửa lỗi này là hành vi bác ái, nhắm lợi ích của một sự thay đổi, hãy mạnh dạn tin vào thiện chí và tình yêu thương người khác dành cho họ. Những người sửa lỗi có những “lời” muốn nói với họ. Không phải là lời gay gắt kết án, hạ thấp giá trị, hoặc thậm chí là đe dọa người có lỗi. Nhưng là “lời” yêu thương của Chúa Ki-tô nói với mỗi người chúng ta: “Còn tôi, tôi cũng không lên án chị đâu. Hãy ra về và đừng phạm tội nữa”. Lời của những người này là lời khích lệ: Bạn ơi, chúng ta đều là con người, đều có những yếu đuối. Cho nên chúng ta không lên án nhau, nhưng khích lệ nhau hãy can đảm đứng dậy và đáp lại lời gọi của Chúa: Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em ở trên trời là Đấng hoàn thiện.
Tuy nhiên còn một bước cuối cùng: sự can thiệp của Hội Thánh, hoặc “nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh”. Vâng, đi thưa Hội Thánh. Nhưng “đi thưa” như thế nào đây? Có phải là những tố cáo thiếu suy nghĩ của người đi thưa không? Có phải là cách hành xử giống như kiểu “pháp đình tôn giáo” đã được Giáo Hội áp dụng thời Trung cổ để thẳng tay giết những người có tư tưởng khác với “giáo lý đích thực” của Giáo Hội không? Không đâu. Trái lại, Giáo Hội Mẹ và Thầy phải biểu lộ được “lòng thương xót” đích thực của Thiên Chúa, như những vị Giáo hoàng mới đây thường nhấn mạnh. Giáo Hội phải là nhân chứng cuối cùng nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta thấy sự sắp đặt của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay thật tuyệt vời, đặc biệt là đoạn thư gửi tín hữu Rô-ma của thánh Phao-lô, ngài quả quyết với chúng ta rằng dù ở bất cứ bước nào trong diễn trình sửa lỗi, thì yêu thương vẫn là tư thế tuyệt đối không thể thiếu. “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật”. Sửa lỗi mà thiếu tình yêu thì khác gì lên án cách độc đoán. Sửa lỗi mà vội vàng, nhảy qua bước đầu hoặc bước thứ hai, là ngu xuẩn hoặc không có lòng bác ái, có thể vì ghen tị hoặc tìm ích lợi riêng tư. Món nợ tương thân tương ái của chúng ta bao gồm cả việc sửa lỗi nhau trong bối cảnh cộng đoàn. Chúng ta hãy trả nợ cho anh em mà giúp họ nên tốt hơn.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
----------------------------------
(Ez 33,7-9; Rm 13,8-10; Mt 13,15-20)
Phúc Âm: Mt 18, 15-20
"Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.
"Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất, thì trên trời cũng tháo gỡ.
"Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy".
Suy Niệm:
Ez 33,7-9; Rm 13,8-10; Mt 13,15-20
Trong Giáo hội nói chung và giáo xứ nói riêng đôi khi có những phần tử mà thái độ khiến nhiều người TN 23-A96
Trong Giáo hội nói chung và giáo xứ nói riêng đôi khi có những phần tử mà thái độ khiến nhiều người đàm tiếu. Ðó không phải là những người yếu đuối về xác thịt, hay rượu chè, cờ bạc... Những phần tử này cũng làm rầu Hội Thánh; nhưng đó là những người đáng thương. Ðôi khi có những phần tử khác dường như đáng sợ, vì thái độ của họ có vẻ muốn làm hại cộng đoàn tín hữu. Ðối với những người anh em đó, chúng ta phải có thái độ nào?
Lời Chúa hôm nay muốn soi sáng chúng ta, một cách xa xa từ Cựu Ước và một cách gần hơn qua hai bài đọc Tân Ước. Chúng ta sẽ thấy cả khía cạnh tiêu cực lẫn tích cực của vấn đề. Và chúng ta sẽ được chỉ dẫn phải cư xử thế nào cho hợp với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
A. Mọi Người Ðều Liên Hệ
Không ai được dửng dưng với vấn đề. Qua lời sách tiên tri Êzêkiel, Thiên Chúa muốn nói với hết mọi người chúng ta, và trước hết với chính cộng đoàn Dân Chúa là giáo xứ và Hội Thánh. Chúa đã đặt Dân Ngài như người lính canh để luôn luôn tỉnh thức báo tin ngày giờ Chúa đến viếng thăm Dân Ngài. Vì thế, trước khi nói đến thái độ của người khác, Ngài muốn mỗi người chúng ta kiểm điểm lại phận sự của mình. Nếu có sự xấu lọt vào trong Dân Chúa, phải chăng chẳng phải vì chúng ta đã sao nhãng phận sự canh gác báo tin ngày giờ Chúa đến viếng thăm? Có những phần tử trong cộng đồng Dân Chúa bây giờ suy nghĩ khác với đức tin, có thể vì Dân Chúa đã không mau lẹ đem ánh sáng đức tin soi sáng những vấn đề mới. Chúa đã đặt Hội Thánh và chúng ta làm lính canh gá, nhưng chúng ta đã không mau lẹ loan báo "thời điểm", đem đức tin, đức mến, đức cậy vào trong các vấn đề của thời đại. Vì nếu đã có lần chúng ta gặp những người lính canh, thay vì đứng ở vọng gác tỉnh táo nhìn ra xa để cấp thời loan tin thì đã bỏ đi chơi hay về thăm nhà lai rai, thì chính Hội Thánh, chính cộng đoàn giáo xứ nhiều khi cũng không làm phận sự của mình là loan báo Tin Mừng cứu độ, một chỉ mải miết lo những công việc nào khác, chiều theo các khuynh hướng dễ dãi ở nơi mình. Thay vì nhìn mau ra những hình thức mới Chúa muốn dùng để ban ơn cứu độ, chúng ta đã chỉ biết bảo thủ lặp đi lặp lại một số những hình vi và theo những cách thức không đem lại tinh thần đạo đức sống động. Mỗi buổi sáng Chúa đến với Dân Người đặc biệt trong cử hành phụng vụ Lời Chúa và Thánh Thể, lẽ ra chúng ta đã phải làm cho mọi người thấy ơn cứu độ đến đổi mới mọi sự để đời sống Dân Chúa chỉ có thể cứ đẹp hơn chứ không thể xấu đi; nhưng vì chúng ta không biết loan báo sự mới mẻ đó nên có người đã ra hư hỏng.
Bây giờ chúng ta phải làm gì?
Chúa bảo chúng ta như nói với Êzêkiel: cứ đóng vai trò người lính canh; cứ loan báo sứ điệp của Chúa. Êzêkiel ngày xưa không muốn làm công việc này nữa. Ông thấy dân Israel đã hư đốn không muốn nghe và giữ Luật Chúa nữa. Và tai ương giáng họa trên dân tộc bất trung ấy không thể nào tránh nổi. Nhưng Chúa bảo ông cứ đứng trên vọng gác, cứ loan báo Lời Chúa cho mọi người. Nghe hay không thì tùy họ, nhưng nhà tiên tri sẽ không bị tội. Ông đã làm phận sự của mình.
Thế thì Chúa cũng đòi Hội Thánh và chúng ta không bao giờ được ngừng việc thức tỉnh rao giảng sứ điệp cứu độ cho mọi người. Và trước hết bằng chính đời sống đức tin của mình, chúng ta phải tiếp tục sống đạo và sống đạo đặc biệt hơn để soi sáng người ta đón nhận Lời Chúa mà hối cải. Vì thật sự nội dung Tin Mừng cứu độ là chỉ mong cho người ta được rỗi. Thế nên, cùng với việc rao giảng giáo lý Phúc Âm, chúng ta phải tha thiết cầu xin cho tội nhân được ơn trở lại. Và chúng ta phải sung sướng như Êzêkiel thấy trước rồi đây ơn cứu độ sẽ chan hòa khắp nơi. Nhân loại được đổi mới. Và hạnh phúc triển nở từ trong tâm hồn.
B. Cộng Ðoàn Phải Cầu Nguyện
Lời sách Êzêkiel có lẽ chưa làm nhiều người thỏa mãn. Nhà tiên tri chưa trực tiếp làm gì cho những người hư đốn. Chúa đã chỉ nhấn mạnh đến thái độ của mọi người phải luôn luôn tỉnh thức rao giảng Tin Mừng, tức là công bố giới luật của Chúa để kẻ tội lỗi trở lại đàng lành. Những lời Tin Mừng theo thánh Matthêô hôm nay có vẻ cụ thể hơn. Và chúng ta sẵn sàng thi hành hơn. Nhưng cẩn thận! Ðừng tách rời những lời ấy ra khỏi văn mạch. Nhất là không được đem thi hành mà không có tinh thần giữ những điều kiện đòi buộc.
Trước hết chúng ta phải hiểu những lời kia trong chính văn mạch của chúng. Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêô kể lại câu truyện môn đệ đến hỏi Chúa: Ai là người lớn nhất trong Nước Trời? Chúa liền gọi một em nhỏ đến, đặt nó ở giữa mọi người và tuyên bố: Ðấy, ai nên nhỏ như em bé này thì sẽ là người lớn nhất... Ai tiếp nhận em là tiếp nhận Chúa� Ai làm cớ cho một em nhỏ nào như vậy hư đi, sẽ đáng buộc đá vào cổ rồi lăn xuống biển... Thế nên đừng có khinh một em nhỏ nào như thế.
Có lẽ môn đệ chưa kịp hiểu hết ý Chúa, thì Người đã nói tiếp: Ai có một trăm con chiên mà lạc mất một, lại không đi tìm con chiên lạc ấy? Cũng vậy Cha trên trời không muốn để mất một em nhỏ nào. Rồi Chúa lại nói luôn: Nếu anh em con phạm tội, thì con hãy đi tìm và làm như thế này thế này...
Rõ ràng, đọc theo văn mạch, chúng ta thấy Chúa muốn chúng ta coi người anh em phạm tội như con chiên lạc, như em bé nhỏ, một kẻ có thể là lớn nhất trong Nước Trời. Và như vậy biện pháp mà chúng ta sẽ làm cho người anh em phạm tội đã phải phát xuất từ một lòng yêu thương, kính trọng. Người anh em ấy là con chiên lạc mà rõ ràng ý Chúa trên trời không muốn để cho hư đi. Chúa dạy chúng ta phải tìm đến người anh em ấy, không phải với cây roi cầm sẵn trong tay để la rầy, quở mắng, nhưng với tấm lòng của Cha trên trời, của người mục tử đau xót vì trong đàn 100 con chiên nay lạc mất một con. Tự nhiên người mục tử ấy lo lắng và sốt sắng đi tìm con chiên lạc. Anh ta chỉ diễn tả phần nào tấm lòng của Cha trên trời muốn đi tìm tội nhân trở lại: Người sai chúng ta đến với người anh em phạm tội.
Và Người bảo chúng ta: trước hết phải nói riêng với người anh em đó. Nếu được thì hay quá. Cộng đoàn sẽ không mất người anh em kia. Nhưng nếu không được thì thánh Matthêô theo truyền thống của Cựu Ước bảo hãy kéo thêm hai, ba người nữa đi làm chứng để lời nói có giá trị hơn. Nếu cũng không được thì cả giáo đoàn phải đau đớn công nhận người anh em kia không còn ở trong cộng đoàn nữa.
Chúng ta thường không hiểu rõ biện pháp sau cùng này và nghĩ cộng đoàn phải đưa vụ người anh em kia ra xử công khai và tuyên bố loại trừ, "rút phép thông công" người ấy.
Mạch văn của thánh Matthêô không cho phép nghĩ như vậy. Không những cộng đoàn mà thánh nhân nói đến bấy giờ là các cộng đoàn nhỏ thôi; và vì nhỏ nên có thể đưa việc của người anh em ra nói "nhỏ" với nhau trong tình bác ái; chứ thánh nhân không hề có ý tưởng nghĩ đến một tòa án đông người. Rồi thái độ của cộng đoàn không phải là lên án khai trừ người anh em kia, nhưng là công nhận họ nay thuộc hạng người ngoài tầm tay và khả năng của mình để chỉ còn biết trông cậy ơn Chúa Cứu thế có sức hoán cải lương dân và phường thu thuế. Tức là cộng đoàn vẫn có một thái độ rất khiêm tốn, như người mục tử, như Cha trên trời. Cả đoạn văn đang nói về người lớn nhất trong Nước Trời chính là người trở nên bé nhỏ như các em nhỏ, không cho phép chúng ta được nghĩ cộng đoàn hay bất cứ ai có thể có biện pháp mạnh mẽ, trịch thượng đối với người anh em phạm tội.
Như vậy, cả cộng đoàn cũng chịu "thua" một phần tử xấu xa ư?
Chúng ta không nên nghĩ như vậy. Chúng ta không được có những ý tưởng như thế với người anh em sai lỗi. Họ chỉ là một con chiên lạc, một em nhỏ lỗi lầm. Chúa hỏi chúng ta phải xử như thế nào khi gặp những trường hợp như vậy? Rõ ràng chúng ta phải có tình thương, phải chấp nhận vất vả khổ sở vì người anh em kia, phải êm ái kiên nhẫn và tế nhị. Ðối với những tạo vật nhỏ bé và mỏng manh, mạnh tay thì hỏng hết. Nâng niu sẽ hàn gắn được.
Nhưng Chúa không chỉ nói ngần ấy thôi. Người còn nói tiếp. Và Lời của Người an ủi biết bao! Người nói cộng đoàn phải biết giá trị của mình. Chúng con cầm buộc hay cởi mở ở thế nào dưới đất, trên trời cũng làm y như vậy. Làm sao người ta có thể nghĩ cộng đoàn "thua" người anh em bướng bỉnh kia? Không ở trong cộng đoàn nữa, không liên kết và hiệp ý với cộng đoàn, y đã tự loại mình ra khỏi Nước Trời là cộng đoàn các thánh. Chính y thiệt, chứ cộng đoàn có sao đâu! Thiên Chúa vẫn hiệp nhất với cộng đoàn đến nỗi ai ở trong cộng đoàn là ở trong Thiên Chúa và ai lìa xa cộng đoàn là lìa xa Thiên Chúa. Cộng đoàn cứ sinh hoạt và cầu xin: bao giờ cũng được chấp nhận. Nên dù chỉ là hai ba anh em hợp nhau lại nhân Danh Chúa, thì Người đã hiện diện ở giữa rồi.
Như vậy bài Tin Mừng hôm nay thật phong phú. Chúa nói đến chúng ta và với chúng ta hơn là về người anh em lỗi phạm. Theo ý Người, thánh Matthêô cũng chỉ dẫn cho chúng ta phải biết cư xử thế nào với người anh em kia cho hết tình hết nghĩa. Nhưng mục đích chính của bài Tin Mừng vẫn là dạy bảo chúng ta hãy quý mến nếp sống cộng đoàn tín hữu. Ðó là cộng đoàn có Chúa ở giữa; Người lắng nghe và chấp nhận mọi nguyện vọng của cộng đoàn; nhất là Người muốn cộng đoàn hãy có lòng thương mênh mông và sâu xa của Cha trên trời; và khiêm tốn đơn thật như người mục tử có một đàn chiên nhỏ. Chính những tư cách ấy làm cho Hội Thánh và tất cả chúng ta trở nên như người lính canh tỉnh thức nơi vọng gác để loan tin cứu độ cho mọi người.
Thực tế, chúng ta phải làm gì, thì đó chính là điều thánh Phaolô muốn nói với chúng ta trong bài thư Rôma.
C. Mỗi Người hãy Thi Hành Bác Ái
Lời thánh Tông đồ ngày nay đã trở thành một bài hát: Anh em chớ mắc nợ ai điều gì, trừ ra tình bác ái. Lời ấy phải hiểu thế nào cho đúng? Chúng ta hãy chú ý đến chữ "mắc nợ". Thánh Tông đồ dạy: chúng ta đừng mắc nợ ai gì cả, tức là phải chu toàn mọi sự công bằng với mọi người. Chúng ta không được thiếu bổn phận công bình với bất cứ ai. Ðiều này nhiều khi đã khó. Dù vậy, cả khi đã làm trọn mọi phận sự công bình rồi, chúng ta vẫn còn nợ mọi người tình bác ái. Và món nợ này chẳng bao giờ có thể trả xong. Vì sao vậy?
Thánh Tông đồ đã nói: vì có bác ái mới giữ trọn Lề luật. Nhiều người có lẽ chưa thấy rõ chân lý này. Người ta có thể nghĩ chỉ cần giữ những điều Luật dạy: không tà dâm, không giết người, không tham của người v.v... Nhưng họ quên điều quan trọng: phải giữ những điều ấy để thương yêu anh em. Bác ái phải là động lực, là khởi hứng của công bình. Dĩ nhiên phải chu toàn mọi phận sự công bình với anh em, nhưng phải chu toàn vì bác ái, bởi lẽ bác ái là mục đích của mọi hành vi công bình. Không có lòng yêu thương anh em thì vẫn chưa chu toàn mọi điều công bình Luật dạy, cho dù đã làm những việc ấy, bởi vì chưa đạt tới mục đích của những việc công bình kia.
Thế nên chúng ta phải có lòng bác ái. Chúng ta phải cư xử với nhau theo tình bác ái. Áp dụng điều này vào vấn đề anh em lỗi phạm, chúng ta sẽ chấp nhận dễ dàng những điều sách Êzêkiel và Tin Mừng thánh Matthêô đã dạy. Và chỉ những ai có lòng bác ái mới thi hành được những điều hai bài Kinh Thánh trên đã chỉ dẫn. Những thái độ nêu ra trong hai bài đọc kia là những thái độ do Lời Chúa phán dạy và do lòng Chúa nói lên. Không có tâm tình của Chúa làm sao hiểu nổi và thi hành được? Mà có tâm tình của Chúa là gì nếu không phải là có chính sự sống của Chúa, có chính lòng bác ái của Người.
Giờ đây chúng ta đi vào thánh lễ. Không những chúng ta hiện đại hóa hành vi cứu độ của Chúa đối với tội nhân khi Người dâng Thịt Máu Người làm hy tế giao hòa mọi người và đưa hết thảy đi vào tình thương của Người. Người còn muốn đổ chính sự sống và tình thương ấy vào lòng chúng ta, để chúng ta không còn sống theo xác thịt tự nhiên nữa, nhưng theo Thánh Thần của Thiên Chúa. Có sự sống ấy ở nơi mình thì chính tình yêu của Ðức Kitô sẽ thúc đẩy chúng ta. Không những chúng ta sẽ có thái độ đạo đức với những anh em lỗi phạm; mà mọi hành vi cử chỉ của chúng ta đối với những anh em lỗi phạm; mà mọi hành vi cử chỉ của chúng ta đối với anh em sẽ được chính lòng bác ái làm động lực. Chắc chắn chúng ta sẽ phục vụ anh em hơn, góp nhiều công sức vào đời sống tập thể hơn, xây dựng cộng đoàn huynh đệ hơn, để giáo xứ chúng, Hội Thánh chúng ta thật có Chúa ở giữa. Người chấp nhận mọi lời kinh nguyện của chúng ta và đổ thêm tình bác ái của Thánh Thần để chính tình thương xây dựng cuộc đời ấm no hạnh phúc trong đoàn kết, nhất trí và thánh thiện thật. Chúng ta hãy tham dự thánh lễ này sốt sắng để được nhiều ơn sống cuộc đời bác ái.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
----------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 18:15-20)
Trong bài giảng của Chúa Giê-su về Giáo Hội, Người đã đề cập tới một vấn đề rất tế nhị, nhưng: TN 23-A97
Trong bài giảng của Chúa Giê-su về Giáo Hội, Người đã đề cập tới một vấn đề rất tế nhị, nhưng cũng rất thiết thực, đó là việc giúp nhau sửa đổi lỗi lầm. Việc sửa lỗi người khác được thực hiện trong những hoàn cảnh khác nhau nên cũng thể hiện những mục đích khác nhau. Cha mẹ sửa dạy con cái là vì muốn con cái họ nên người. Bạn bè giúp nhau sửa lỗi là vì muốn biểu lộ tình thân của họ. Riêng đối với trường hợp trong một cộng đoàn Giáo Hội anh chị em sửa lỗi cho nhau thì Chúa Giê-su lại xác định cho nó một mục đích thật độc đáo, Người nói: “Nếu kẻ ấy chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em”. Nói khác đi, Chúa Giê-su cho chúng ta một định nghĩa thật mới mẻ về việc sửa lỗi nhau: sửa lỗi là chinh phục!
Quả thực rất ít người trong chúng ta để ý tới ý tưởng ngộ nghĩnh này. Khi “chinh phục” người khác là chúng ta cố gắng chiếm được toàn diện con người của họ. Chiều kích toàn diện ấy cho chúng ta thấy sửa lỗi không chỉ tuyệt đối nhắm đến một điểm, mà là tất cả con người. Con người chúng ta có cả những điểm xấu lẫn điểm tốt. Cho nên khi sửa lỗi nhau, chúng ta cũng đừng quên những điểm tốt của người khác và điều này sẽ giúp việc sửa lỗi giữ được sự quân bình. Tâm lý cho thấy khi người bị sửa lỗi nhận ra mình được tôn trọng thì họ sẽ đỡ cảm thấy bị “mất mặt”. Chính Chúa Giê-su đã dạy chúng ta phải làm thế nào để người bị sửa lỗi không bị mất mặt: “Anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi”. Đây là bước đầu của một cuộc chinh phục.
Chinh phục người anh chị em nghĩa là đem họ về cho Chúa. Chúng ta chỉ là dụng cụ Chúa sử dụng. Đích tới của việc sửa lỗi không phải là chúng ta, nhưng là Chúa. Chắc chắn điều này phải làm chúng ta suy nghĩ thật nhiều, nhất là bậc cha mẹ và bề trên. Với chúng ta, đích tới thường là để cho người bị sửa lỗi nhận biết quyền hành hay thế giá của chúng ta. Cha mẹ dạy bảo con cái mà chúng không nghe thì cha mẹ cho là chúng không kính trọng quyền hành của mình. Cho nên giận dữ. Nhiều khi buông xuôi và không ngó ngàng. Hoặc tệ hơn nữa thì từ con, đuổi khỏi nhà. Có lẽ chính Giáo Hội cũng đã và vẫn còn mắc phải lầm lỗi này!
Điểm cuối cùng của bài Tin Mừng xem ra không liên hệ gì tới việc sửa lỗi anh chị em cả. Có chứ, liên hệ rất mật thiết nữa là khác. Sửa lỗi nhau nếu không được thực hiện trong môi trường cầu nguyện thì khác gì công an hay cảnh sát bắt tội phạm, hoặc khác gì một cuộc “đấu tố” đầy máu me của nhân dân! Cho nên Chúa Giê-su cũng dạy chúng ta rằng sửa lỗi anh chị em là “hợp lời cầu xin” nữa. Qua cầu nguyện, sự hiện diện của Chúa sẽ đem lại yêu thương, cảm thông và tha thứ. Đó là những thái độ căn bản phải có khi chúng ta sửa lỗi anh chị em.
Sống sứ điệp Tin Mừng
“Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mát-thêu 5:48). Sửa lỗi anh chị em là một phương thức để chúng ta giúp nhau nên hoàn thiện. Tuy nhiên thực hành việc sửa lỗi không phải là điều luôn luôn dễ làm, mà đúng hơn, đó là một cuộc “chinh phục”. Chúng ta không chinh phục bằng sức mạnh, đe dọa, tố cáo với ác ý, trả thù hoặc bằng những phương tiện không chính đáng như người đời thường làm. Chúa Giê-su dạy chúng ta hãy theo gương Người mà “chinh phục” thế gian về cho Chúa Cha, trong yêu thương và cầu nguyện.
Tuy Chúa Giê-su có đề nghị hai bước kế tiếp khi việc sửa lỗi không thành công ở giai đoạn chỉ có giữa người sửa lỗi với người bị sửa lỗi mà thôi, nhưng đó là điều bất đắc dĩ, đồng thời cũng là nhắc nhở chúng ta đừng vội vàng “đốt giai đoạn” để rồi cuộc chinh phục biến thành mây khói hoặc gây phản cảm vô cùng tai hại.
Đặc biệt trong môi trường Giáo Hội, nhất là những đơn vị nhỏ hơn như giáo phận, giáo xứ, hội đoàn, việc sửa lỗi anh chị em rất dễ dàng trở thành phương tiện để loại bỏ, kèn cựa, phô trương quyền hành, nói tóm lại thiếu hẳn tình bác ái Chúa dạy chúng ta. Vì thế, bài Tin Mừng hôm nay đòi chúng ta phải xét lại vấn đề một cách nghiêm túc!
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
----------------------------------
Mt 18, 15-20
Vấn đề sửa lỗi cho nhau mà Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay trình bầy cho nhân loại, cho con: TN 23-A98
Vấn đề sửa lỗi cho nhau mà Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay trình bầy cho nhân loại, cho con người, cho mỗi người là một việc là quan trọng nhưng rất tế nhị trong cuộc sống chung giữa con người với nhau. Thế giới ngày nay, nhiều nơi, nhiều nước khi văn minh lên cao,kỹ thuật khoa học tiến bộ vượt bậc, việc sửa lỗi cho nhau xem ra thực khó khăn và nhiều người cho là không còn cần thiết nữa vì đã lỗi thời rồi. Tuy nhiên, đối với những người môn đệ của Chúa, việc sửa lỗi cho nhau để giúp nhau sống tốt, sống vươn lên vẫn là vấn đề cần thiết, khẩn trương. Việc sửa lỗi nhau là việc rất tế nhị và rất khó khăn.
TIN MỪNG NÓI GÌ ?: Con người không ai là hoàn toàn, không ai tuyệt đối nói rằng mình không bao giờ sai lầm, không bao giờ thiếu sót, lỗi phạm. Con người thật yếu đuối:” Nhân vô thập toàn “. Do đó, đã là con người ai cũng hay thiếu sót, cũng hay lỗi lầm.Việc sửa lỗi cho nhau trở nên cần thiết. Vậy phải sửa lỗi cho nhau thế nào để người phạm lỗi có thể vui vẻ chấp nhận được ? Chúa Giêsu hiêu rõ con người bất toàn hay lỗi phạm, hay sai sót, nên Ngài chỉ dạy chúng ta cách sửa lỗi nhau rất hay, rất tế nhị. Khi chúng ta cần sửa lỗi ai thì phải theo qui trình như Chúa chỉ dạy mới có kết quả và thành công. Sửa lỗi cho nhau là điều tế nhị và khó khăn hết sức. Tế nhị vì lời thật mất lòng. Tế nhị vì ai cũng muốn khoe cái tốt, che cái xấu, nên không tế nhị đủ việc sửa lỗi sẽ trở nên vô cùng khó khăn, không đem lại kết quả nếu người sửa lỗi vụng về. Chính vì thế, Chúa dạy chúng ta khi sửa lỗi nhau phải đi từng bước một. Việc đầu tiên là gặp gỡ riêng giữa hai người, người được sửa lỗi và ta, chỉ hai người mà thôi. Gặp gỡ nhau trong tình anh em, trong tình thân ái, chân thành, yêu thương trao đổi hết sức thành thật với nhau. Nếu người sai lỗi đã được người sửa lỗi nói chuyện thật huynh đệ, chân thành nhưng người sai lỗi vẫn tỏ ra cố chấp, tự ái, vẫn tái phạm, thì chúng ta mời thêm một hay hai, ba người khác nữa để làm chứng và cùng góp ý . Một cây làm chẳng nên non.Ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Lời của người xưa quả thực rất đúng, rất đáng suy nghĩ. Khi có hai, ba người nữa hợp cùng ta, sẽ có nhiều ý kiến cao hơn, uy thế hơn và bầy tỏ lòng chân thành của chúng ta. Nếu bước ai vẫn không có kết quả, người được sửa lỗi vẫn lì lợm, cố chấp,khi đó chúng ta mới đưa ra cộng đoàn hoặc những vị có thẩm quyền, thế giá để giải quyết. Chúng ta cứ theo lời chỉ dạy của Chúa Giêsu mà thực hiện việc sửa lỗi cho nhau.
PHẢI LÀM THẾ NÀO ĐỂ SỬA LỖI CHO NHAU ?: Việc sửa lỗi cho nhau là việc làm hết sức tế nhị và khó khăn, nhưng lời Chúa hôm nay nhắc nhở những môn đệ Chúa và mọi người: sửa lỗi anh em là việc làm tốt, là hành vi tích cực của đức bác ái, của tình thương, vì sửa lỗi anh em để anh em trở nên tốt, trở nên đẹp hơn, trở nên trong sáng, đạo đức hơn là điều quí hóa chúng ta phải làm. Đối với những người có trách nhiệm, các Đấng Bề trên, các Đấng các bậc thì việc sửa lỗi bề dưới giúp họ thăng tiến, giúp họ tốt lành hơn là điều cần thiết và là bổn phận. Tuy nhiên, người được sửa lỗi và người sửa lỗi anh em hãy luôn nhớ rằng: “ Người khác khen ta mà khen phải, người đó là bạn ta, người chê ta mà chê đúng, người đó là thầy ta, những người tâng bốc ta, nịnh hót ta khi ta đang lỗi phạm, đó là những kẻ thù của ta, những người đối lập ta, đó là những thầy dạy ta mà ta không phải tốn phí đồng xu nào cả “. Chính vì thế, sửa lỗi anh em không có nghĩa là bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu, chia rẽ và làm khổ người lỗi phạm bởi vì ta cũng là người có đầy khiếm khuyết cần có người sửa chữa cho ta. Đức bác ái và tình yêu thương đối với người phạm lỗi là điều cần thiết khi ta phải sửa lỗi người khác. Việc sửa lỗi nhau giúp nhau trở nên tốt hơn, tiến bộ hơn, giúp nhau nên thánh là việc rất tốt và rất cần thiết. Bởi đó, chúng ta phải hết sức bác ái, sửa lúc đúng chỗ, đúng lúc, đúng nơi và đềy tình huynh đệ yêu thương.
ÁP DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG THỰC TẾ: Đời sống mỗi người là một huyền nhiệm, là một mầu nhiệm của Chúa. Con người vốn tốt đó, nhưng sống ở đời làm sao có thể tránh được những sai sót, lỗi lầm. Tình thương luôn là tiếng nói giúp người khác nhận ra lỗi lầm để sửa đổi. Nếu không khéo sửa lỗi anh em, chúng ta dễ bị cho là:” Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt trước đã, rồi hãy lấy cái rác ra khỏi mắt anh em “. Đời là thế, do đó, ai cũng lỗi lầm, ai cũng yếu đuối, tội lỗi cần phải được anh em nâng đỡ để trở hoàn thiện, trở nên tốt hơn.Do đó, việc sửa lỗi cho nhau và tha thứ cho nhau phải dựa theo lời của Chúa:” Anh em phải tha thứ cho nhau đến bảy mươi lần bảy “, nghĩa là tha thứ, cảm thông nhau mãi mãi và không tha thứ không ngừng.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Sửa lỗi nhau có dễ không ?
2.Chúa dạy phải sửa lỗi cho nhau thế nào ?
3.Những bước Chúa chỉ dạy chúng ta trong khi sửa lỗi anh em ?
4.Ai có trách nhiệm sửa lỗi anh em ?
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
------------------------------
Tin Mừng hôm nay đi vào thực tế của đời sống cộng đoàn. Những giải pháp Tin Mừng đưa ra để: TN 23-A99
Tin Mừng hôm nay đi vào thực tế của đời sống cộng đoàn. Những giải pháp Tin Mừng đưa ra để giải quyết những tranh chấp đều nằm trong chiều hướng giáo huấn của Đức Giêsu.
ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN
Tương quan giữa các phần tử chung sống trong Giáo Hội Dân Chúa không đơn giản. Không thể hi sinh cá nhân cho cộng đoàn. Cũng không thể hi sinh cộng đoàn cho cá nhân. Chính vì thế, nếu muốn sống Tin Mừng, cần nhạy cảm trước những tình cảm tha nhân. “Chỉ với sự tế nhị và quan tâm đó, người ta mới có thể sống chung trong gia đình Thiên Chúa do Đức Giêsu qui tụ.” (The New Interpreter’s Bible 1995:vol.viii, 378) Dưới ánh sáng Tin Mừng, Giáo Hội đưa ra đường lối giải quyết vừa bảo vệ quyền bính lẫn quyền lợi cá nhân.
Quả thế, nếu không giải quyết những tranh chấp giữa các phần tử một cách khéo léo, Giáo Hội có thể bị phân hóa. Tiến trình giải quyết những mâu thuẫn cần phải được tuân thủ chặt chẽ. Đường lối thiên lệch chỉ biết lắng nghe một chiều. Không phải bất cứ lỗi lầm nào cũng có thể công bố cho cộng đoàn. Vấn đề sẽ ra nghiêm trọng, vì chạm tới tự ái của cá nhân. Đường lối đơn giản nhất là phải tôn trọng danh dự của người anh em. Bởi thế, Đức Giêsu mới nói: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi.” (Mt 18:15) Không tuân theo tiến trình này, nhiều người đã mất khôn ngoan.
Dĩ nhiên cũng có những phần tử ương ngạnh, chống đối quyền bính và cộng đoàn. Dùng đường lối tình cảm cũng không chinh phục được họ. Muốn giải quyết vấn đề, cũng không thể dùng quyền bính trấn áp. Sự thật sẽ được hé lộ dần dần qua “lời hai hoặc ba chứng nhân.” (Mt 18:16) Nếu công khai hóa lầm lỗi anh em nhanh quá, chắc chắn họ sẽ mất mặt. Bởi đó, cần phải có thời gian mới giải quyết ổn thỏa và cứu vãn được quyền lợi cá nhân lẫn cộng đoàn. Vội vã chỉ gây bất mãn và chia rẽ mà thôi !
Có những cá nhân quá mù quáng không muốn chấp nhận bất cứ một tiêu chuẩn khách quan nào. Đối với họ, nhân chứng chỉ là những người hùa theo quyền bính. Họ không chấp nhận bất cứ một phán quyết nào, vì nghĩ rằng mỗi người có một lối sống và tiêu chuẩn riêng. Bao giờ họ cũng vỗ ngực tự xưng là duy nhất đúng và bắt mọi người phải tôn trọng. Làm sao có thể thuyết phục những phần tử như vậy trong khi Giáo Hội không thểù dùng những phương tiện chế tài như chính quyền ?
Giáo Hội không thể là một đám “cá đối bằng đầu”. Giáo Hội phải cóù quyền bính. Nếu không, sẽ không bao giờ giải quyết được những mâu thuẫn. Thật vậy, chính Đức Giêsu đã hứa: “Dưới đất, anh em ràng buộc những điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy ; dưới dất anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” (Mt 18:18) Nếu còn đức tin, chắc chắn họ phải nghe theo Giáo Hội. Người ta có thể xin Giáo Hội can thiệp vào những trường hợp tranh chấp giữa các phần tử trong cộng đoàn Giáo Hội. Nhưng đó chỉ là giai đoạn cuối cùng trong tiến trình phức tạp mà thôi.
Nhưng nếu không còn đức tin, chắc chắn người phạm lỗi cũng chẳng vâng nghe Giáo Hội. Lúc đó họ được coi “như một người ngoại hay một người thu thuế.” (Mt 18:17) Đúng hơn, họ bị loại ra khỏi Giáo Hội. Trong quá khứ, Giáo Hội đã đưa ra nhiều phán quyết dựa trên quyền bính quá mức, chứ không theo tiêu chuẩn Tin Mừng. Thật vậy, nhiều vị cao cấp trong Giáo Hội đã không kiên nhẫn và khôn ngoan đủ để tìm hiểu cặn kẽ vấn đề trước khi đưa ra phán quyết. “Quyền cầm buộc và tháo cởi” không bảo đảm sự thật luôn luôn ở phía những người cầm quyền. Do đó, nếu đòi các phần tử cộng đoàn phải có đức tin, chẳng lẽ những người cầm quyền trong Giáo Hội không cần phán đoán theo Tin Mừng ? Như thế có phải lạm dụng lòng tin của Dân Chúa không ?
Sự căng thẳng giữa cấp thừa hành và người thi hành quyền bính đời nào cũng có. Nếu “sống đời Kitô hữu là sống liên kết thành cộng đoàn,” (The New Interpreter’s Bible 1995:vol.viii, 379) thì “cộng đoàn không những có sứ mệnh giữ gìn và hòa giải một phần tử đi hoang với cộng đoàn, nhưng còn duy trì sự toàn vẹn của cộng đoàn như dân Thiên Chúa thánh thiện, sống dựa trên giao ước tình yêu.” (The New Interpreter’s Bible 1995:vol.viii, 379) Chính giao ước tình yêu nhắc nhở “anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật.” (Rm 13:8) Tất cả chỉ vì tình yêu là mối dây ràng buộc độc nhất giữa các phần tử và là sức mạnh giải quyết mọi vấn đề. “Toàn thể cộng đoàn Kitô hữu đều liên hệ tới tình trạng luân lý của mỗi phần tử, và với tinh thần thương yêu và tha thứ cộng đoàn can thiệp để thực thi công tác mục vụ hơn là chỉ cố vấn mà thôi.” (The New Interpreter’s Bible 1995:vol.viii, 379) Các người lãnh đạo Giáo Hội cũng được Thiên Chúa đặt “làm người canh gác cho nhà Israel” (Ed 33:7) mới của Đức Giêsu. Cũng như ngôn sứ Eâdêkien, họ luôn nhớ lời Chúa: “Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết.” (Ed 33:7) Nhiều vị đại diện Thiên Chúa quên mất vai trò đích thực của mình và không còn khả năng nghe lời Chúa nữa. Bởi thế, nếu lắng nghe lời Chúa, họ sẽ phải cẩn thận tuân hành tiến trình xét xử để tránh những hành vi độc đoán và hấp tấp. Tin Mừng tránh cho người lãnh đạo khỏi thiên vị và hành động vội vã, cộng đoàn khỏi xáo trộn cực độ và bị xoi mòn dần vì những đối kháng không giải quyết được (xc. Paul S. Minear, Mathew: The Teacher’s Gospel, 102).
Quyền bính rất cần để duy trì sự hiệp nhất Giáo Hội. Thế nhưng Giáo Hội tồn tại không phải chỉ nhờ kỷ luật. Trước tiên, Giáo Hội là cộng đoàn cầu nguyện. Cầu nguyện là sức mạnh giữ vững Giáo Hội. Cầu nguyện bảo đảm cho Giáo Hội và nhân loại sự hiện diện sung mãn và trợ lực cần thiết của Thiên Chúa. Thật vậy, “nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18:19-20) Không ngờ một số người nhỏ bé đó có thể làm thành một cộng đoàn cầu nguyện, thu hút được sự quan tâm của Thiên Chúa. Số người nhỏ bé dễ dàng tìm thấy ngay trong cảnh gia đình, “một đối tượng đang bị đe dọa và tấn công từ các trào lưu tư tưởng, luật pháp, phong tục, lối sống và hành vi tượng trưng cho những thách đố lớn lao và đang nỗ lực phá hủy và làm biến dạng gia đình.” (Đức Hồng y Giovanni Battista Re: Zenit 4.9.2002) Bởi vậy, khi phân tích đề tài “Hoàn cảnh và Viễn tượng gia đình tại Mỹ Châu”, ĐHY Giovanni Battista Re nói việc ưu tiên chăm sóc mục vụ gia đình có tính cách quyết định tương lai Phúc âm hóa và chính nhân loại.(Zenit 4.9.2002)
ĐHY nói tiếp: “trước cơn đại hồng thủy duy vật và khoái lạc … chỉ còn niềm hi vọng cứu độ duy nhất là sự thánh thiện của gia đình.” (Zenit 4.9.2002) Sự thánh thiện đó tìm thấy trong cảnh gia đình sum họp trước bàn thờ cầu nguyện và trong cuộc sống tràn ngập tình yêu của mọi phần tử trong Giáo Hội tại gia đó.
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
------------------------------------------
Trên đường quy y theo Phật, Đại đức Sariputta bị một khất sĩ kiện vì thày đã hất hủi và xử tệ. Khi: TN 23-A100
Trên đường quy y theo Phật, Đại đức Sariputta bị một khất sĩ kiện vì thày đã hất hủi và xử tệ. Khi phân xử, Đức Phật chỉ căn cứ trên lập luận của Đại đức, chứ không cần bằng chứng của nhiều người. Lý do vì Đức Phật dạy: "Chỉ nên tin và chấp nhận những gì hợp với trí xét doán của mình, những gì được các bậc hiền nhân chấp nhận và khuyến khích, những gì mà nếu đem ra thực hành sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mình và cho kẻ khác" (Nhất Hạnh: 419-920). Hình như có một cái gì còn thiếu trong sinh hoạt của những tín đồ, mặc dầu Đức Phật đã qui tụ đệ tử thành tăng đoàn.
Cái thiếu sót đó chính là chiều kích cộng đoàn trong sinh hoạt của các tín đồ. Nếu chỉ căn cứ vào những lý luận của mình và các hiền nhân, chúng ta đã quên đi sự hiện diện của những người đồng thời, nhất là những người làm thành cộng đoàn niềm tin. Từ xa xưa Đức Kitô đã thấy được sức mạnh cộng đoàn đó.
SỨC MẠNH CỘNG ĐOÀN
Sức mạnh đó tìm thấy ngay trong việc tìm chứng từ cho sự thật. Tiêu chuẩn Người nêu lên là "mọi việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân" (Mt 18:16). Như vậy mới tìm được sự thật khách quan. Còn nếu chỉ căn cứ trên lời tự biện hộ của bị cáo, chắc chắn khó thấy được sự thật.
Bước đường tìm đến với sự thật đòi hỏi nhiều kiên nhẫn. Không thể nóng vội. Trước hết cần âm thầm giữa cá nhân với cá nhân. "Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình" (Mt 18:15). Thật là tế nhị và rất tâm lý. Tất cả vì hạnh phúc anh em. Không phải bất cứ tội nhân nào cũng lôi ngay ra cộng đoàn. Lối giải quyết nóng vội đó dễ làm mất mặt tội nhân. Không phải cộng đoàn không đủ sức mạnh. Nhưng cần chuẩn bị, cộng đoàn mới thể hiện được sức mạnh đúng lúc, không đánh mất mục đích sau cùng là hạnh phúc tha nhân. Trường hợp không thể thuyêt phục tội nhân, bước kế tiếp là "hãy đem theo một hay hai người nữa" (Mt 18:16) để làm chứng. Cuối cùng mới phơi bày mọi sự trước cộng đoàn. Nhưng không phải là một cộng đoàn vô tổ chức.
Trái lại đó là một cộng đoàn có tôn ti trật tự và quyền uy. Thực vậy Chúa dặn dò: "Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng không nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế" (Mt 18:17). Sở dĩ Hội Thánh có uy quyền vì chính Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ: " Dưới đất anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy" (Mt 18:18). Bởi đó Chúa đã xây Hội Thánh như một cộng đoàn có tổ chức, có trên có dưới, chứ không phải "cá đối bằng đầu."
Nhưng uy quyền Hội thánh phát xuất từ tình yêu, chứ không căn cứ trên luật lệ. Dù có luật lệ cũng chỉ vì con người mà thôi. Đó là lý do tại sao Hội thánh không lôi cổ tội nhân ra chỗ công khai, dù bắt được quả tang, như người Do thái. Tình yêu đó đòi kiên nhẫn. Có kiên nhẫn mới đi tới đích là hạnh phúc tha nhân. Hạnh phúc tha nhân chính là điều Đức Phật quan tâm hàng đầu. Thánh Phaolô cũng đồng ý, nhưng diễn tả kiểu khác: "Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13:10). Làm mất danh dự người khác, thì đừng hòng đưa họ về đàng chính nẻo ngay. Con người vẫn mãi là con người, dù phạm tội ác tới mấy. Uốn lòng tội nhân cũng giống như uốn kim loại. Kinh nghiệm cho thấy tuy khó khăn hơn, đường lối thuyết phục bao giờ cũng tốt đẹp và hiệu quả hơn chinh phục. Đó cũng là đường lối Tin Mừng. Chính Chúa đã cho thấy rõ điều đó khi tìm cách cứu người phụ nữ ngoại tình (Ga 8:1-11) và chiếu cố đến nhà ông Giakêu (Lc 19:2-10).
Quyền bính để phục vụ, chứ không phải để khống chế con người. Bởi vâäy, ngay cả khi dùng tới những biện pháp trừng phạt hay chế tài, Hội Thánh cũng phải hành động vì yêu thương và hạnh phúc con người. Ra khỏi đường lối Tin Mừng, quyền bính trở thành phi nhân, dù nhân danh Thiên Chúa hay Hội Thánh.
BẢN CHẤT HỘI THÁNH.
Nhưng dù có uy quyền và tổ chức tới mấy, Hội Thánh cũng không thể đứng vững nếu không dựa trên tình yêu. Bản chất Hội Thánh là tình yêu, một tình yêu thể hiện rõ nét nhất trong việc hiệp thông cầu nguyện. Cầu nguyện chính là sức mạnh của Hội Thánh. Vì khi hiệp thông cầu nguyện, Hội Thánh sống tương quan sâu xa với Thiên Chúa Ba Ngôi và con người. Cũng chính trong lời cầu nguyện, Hội Thánh thấy chiếu sáng lên con đường lối Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô.
Đường lối Tin Mừng là tình yêu, một tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa. Chính nơi cộng đoàn, người ta mới thấy rõ con người giống Thiên Chúa tới mức nào. Con người giống Thiên Chúa về bản chất và cả về tương quan xã hội nữa. Chính đặc tính tương quan xã hội đó phản ánh tương quan thâm sâu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa (x. Rossi: 210). Con người sinh ra không phải để sống một mình và cho mình, nhưng sống với và vì người khác. Không sôùng trong tương quan đó, con người làm lu mờ hình ảnh Thiên Chúa.
Trong niềm tin hôm nay, chiều kích cộng đồng càng nổi cộm hơn. Chiều kích ấy còn mở rộng tới môi trường thiên nhiên và loài vật nữa, vì tất cả đều góp phần tạo nên hạnh phúc con người. Nhưng không nơi đâu con người tìm thấy chiều kích cộng đồng sâu xa hơn trong cộng đoàn đức tin, nhất là khi cùng nhau cầu nguyện. Chính trong sự hiệp nhất sâu xa đó, Chúa Giêsu hiện diện như một bảo đảm vững chắc nhất cho những gì con người mong tìm thấy nơi Chúa Cha: "Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ" (Mt 18:19-20). Lời cầu nguyện tưởng như một hành động nội tâm, cá nhân, thực tế lại có một chiều kích cộng đồng quá lớn lao và một sức mạnh ghê gớm, lôi kéo được sự chú ý của cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Ai có thể tưởng tượng nổi ?!
Mỗi Chúa nhật chúng ta tụ họp trong thánh đường để thờ phượng Chúa. Không lúc nào chiều kích cộng đồng rõ nét hơn khi chúng ta tìm đến với Chúa và với nhau. Thực tế vãn có nhiều người đến với Chúa và với anh em một cách gượng gạo. Họ không bao giờ có thể hưởng được niềm vui của một ý thức về cộng đoàn như một thân thể, thân thể mầu nhiệm của Đức Giêsu. Thân thể không hiện diện rời rạc, nhưng cùng chia sẻ một niềm vui hay nỗi buồn. Nói khác, chiều kích cộng đồng không thể thiếu vắng trong niềm tin hôm nay.
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
------------------------------------------