Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 25 TN-A Bái 1-50: Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng
------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 20, 1-16a: “Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: “Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng”. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: “Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?” Họ thưa rằng: “Vì không có ai thuê chúng tôi”. Ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta”.
Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: “Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết.” Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng.
Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh liền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: “Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao”? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?” Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết”. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
Mục lục:
TN 25-A1. TÌNH YÊU VƯỢT XA CÔNG LÝ.. 2
TN 25-A2. LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA THIÊN CHÚA.. 7
TN 25-A3. HÃY LÀM VƯỜN NHO CHO TA.. 9
TN 25-A4. THỢ LÀM VƯỜN NHO.. 11
TN 25-A5. ĐO LƯỜNG BẰNG TÌNH YÊU.. 13
TN 25-A6. Thiên Chúa có bất công? - Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb. 14
TN 25-A7. Tôi Đâu Có Bất Công. 16
TN 25-A8. Suy Niệm của JK.. 18
TN 25-A9. ĐỨC ÁI KHÔNG CÓ BIÊN GIỚI - Lm. Augustine, SJ. 21
TN 25-A10. MƯỚN THỢ LÀM VƯỜN -Lm. VIKINI 24
TN 25-A11. LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA CHÚA GIÊSU.. 26
TN 25-A12. TINH THẦN NGHÈO KHÓ - Lm. Phạm Đức Trị, O.M.I. 28
TN 25-A13. Lòng tốt của Thiên Chúa - Lm Carôlô Hồ Bạc Xái 29
TN 25-A14. SỐNG LỜI CHÚA - CÔNG BẰNG VÀ BÁC ÁI 37
TN 25-A15. NTĐY / 135 - TÌNH YÊU.. 39
TN 25-A16. CS / 133- ÂN HUỆ.. 40
TN 25-A17. CSTM/ 217- TỐT LÀNH.. 42
TN 25-A18. STM/200- THỢ LÀM VƯỜN NHO.. 44
TN 25-A19. PV / 550- BẤT CÔNG.. 46
TN 25-A20. PV / 553- TRƯỚC VÀ SAU.. 48
TN 25-A21. SCD/478- CÔNG BẰNG.. 50
TN 25-A22: Chúa Quá Nhân Từ - Br Minh Trân, CMC.. 52
TN 25-A23: Quảng Đại - Lm Louis Minh Nhiên, CMC.. 53
TN 25-A24: Mời Gọi Phục Vụ Tốt - Huyền Đồng. 56
TN 25-A25: Công bằng của lòng thương xót - Lm JB. Nguyễn Minh Hùng. 57
TN 25-A26: Khiêm Tốn Phục Vụ - Lm Nguyễn Bình An. 59
TN 25-A27: Biết Ơn Chúa - Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR.. 61
TN 25-A28: DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO.. 64
TN 25-A29: DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO - Lm Đan Vinh. 66
TN 25-A30: THẾ GIỚI HÔM NAY LÀ MỘT CÔNG TRƯỜNG KHỔNG LỒ.. 75
TN 25-A31: SLC – Đeo mặt nạ. 78
TN 25-A32: CSTM/201 – Ghen tị 80
TN 25-A33: SLCTTY/304 - Ganh tị 82
TN 25-A34: SLCTTY/304 – Ganh tị 84
TN 25-A35: Lòng quảng đại của Thiên Chúa - Nhóm Đồng Hành. 86
TN 25-A36: Hãy bằng lòng với những gì mình có. 87
TN 25-A37: KHÔNG MỢ, THÌ CHỢ VẪN ĐÔNG ! 89
TN 25-A38: Những thợ làm vườn nho. 91
TN 25-A39: Những thợ làm vườn nho. 93
TN 25-A40: HÃY LÀM VƯỜN NHO CHO TA.. 95
TN 25-A41: THIÊN CHÚA LUÔN RỘNG LƯỢNG, HÀO PHÓNG, 97
TN 25-A42: Ông chủ hào phóng. 101
TN 25-A43: Nước Trời - Cha Cantalamessa. 103
TN 25-A44: Hãy mở rộng vòng tay cho những người “đến sau”. 105
TN 25-A45: KHÔNG AI LÀ KẺ ĐẾN SỚM ĐẾN MUỘN.. 108
TN 25-A46: Đừng so sánh. 112
TN 25-A47: Lý lẽ của trái tim – ĐTGM. Ngô quang Kiệt 114
TN 25-A48: Ta có chấp nhận để cho Phúc Âm làm ta sửng sốt hay không?. 116
TN 25-A49: Thiên Chúa quảng đại 117
TN 25-A50: Nếu bạn yêu thương bạn sẽ biết Thiên Chúa. 119
------------------------------------------
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Bảo vệ quyền lợi và đặc quyền.
Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin tại Xêsarê Philipphê, Đức Giêsu trước khi lên: TN 25-A1
Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin tại Xêsarê Philipphê, Đức Giêsu trước khi lên Giêrusalem, đã loan báo lần đầu tiên về cuộc khổ nạn sắp tới, Ngài không quên cảnh báo các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, hãy bỏ mình, vác thập giá mình và theo Thầy”.
Tại Caphanaum, Ngài đã phác hoạ khuôn mặt của cộng đoàn mà Ngài sáng lập phải có, nếu cộng đoàn ấy muốn phản ánh hình ảnh của “Cha trên trời”. Một cộng đoàn biết quan tâm tới “những kẻ bé mọn”; một cộng đoàn huynh đệ biết giúp đỡ, thương xót và tha thứ cho nhau.
Hôm nay Ngài đến Giuđêa, bên kia sông Giođăng (19,1) tại đó Ngài bắt đầu dạy cho những kẻ theo Ngài biết sự đảo nghịch mà họ phải đi tới. Sự đảo nghịch có trong mọi lãnh vực đời sống, đời sống vợ chồng, thái độ với trẻ em, mối liên hệ với của cải vật chất (19,3-39). Dụ ngôn những người thợ làm vườn nho giờ thứ 11 - Phúc Âm Chúa nhật XXV Thường niên - cho ta một minh hoạ về sự đảo nghịch Phúc Âm này.
Thoạt tiên, dụ ngôn này gây phẫn nộ nơi công chúng quen có mặt trong các buổi qui tụ ngày Chúa nhật, vốn nhạy cảm với việc bảo vệ quyền lợi xã hội và với vết thương do nạn thất nghiệp gây ra. Đức Cha L. Daloz tự hỏi: “Dụ ngôn đó không chống lại tất cả những qui tắc về công bình phân phối và về quản lý tốt đẹp đó sao? Ai đời đi thuê mướn thợ vào các giờ giấc khác nhau rồi cuối cùng trả lương cho người cuối cùng cũng bằng người đầu tiên! Tự nhiên ta dễ đồng ý với những người mong được trả nhiều hơn, lẩm bẩm kêu trách chủ: “Những người đến sau cùng chỉ làm việc có một giờ mà ông đối xử cũng như chúng tôi, trong khi chúng tôi phải chịu vất vả, nóng nực suốt ngày”. Nếu dụ ngôn muốn dạy ta rằng đó là cung cách hành xử của Thiên Chúa, thì chúng ta phải thất vọng. Trong Phúc Âm, có những lời của Đức Giêsu rất bí hiểm, nếu không nói là gây vấp phạm. Ta cảm thấy đồng ý với phản ứng của người anh của đứa con phung phá khi nó trở về, người cha dọn tiệc ăn mừng, dù nó đã phung phí hết tiền bạc. Ta không hiểu làm sao những phường trộm cắp, đĩ điếm lại vào Nước Trời trước chúng ta. Ta khó mà chấp nhận cung cách hành xử của người chủ vườn nho. Để kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đã rút ra một kết luận: “Vậy những kẻ sau cùng sẽ trở nên trước hết, và những kẻ trước hết sẽ trở nên sau cùng”. Ta muốn la lên: không, không công bình! Vậy thì trung tín, chung thuỷ có ích gì? Tội gì mà chịu cực giữ luật Thiên Chúa, nếu Ngài ban Nước Trời cho những kẻ đến sau cùng, chẳng chịu nắng nôi khó nhọc gì? Ta cần phải tìm hiểu dụ ngôn này.”
Việc quan trọng nhất là phải xác định cử toạ mà dụ ngôn nhằm nói với. Ở đây Đức Giêsu nói với người Do Thái, đúng hơn, với những thành phần ưu tuyển trong tôn giáo của họ: những biệt phái và luật sĩ vừa tức giận vì thái độ của Đức Giêsu đối với những người thu thuế, những người tội lỗi, vừa ghen tương vì sự quan tâm mà Đức Giêsu bày tỏ với họ. Một bối cảnh rất gần với dụ ngôn người cha và hai con trai ở Lc 15 mà dụ ngôn này có nhiều điểm tương đồng. Đức Giêsu không hề muốn đụng chạm tới lãnh vực công bình xã hội. Điều Ngài tìm kiếm là, qua dụ ngôn nghịch lý này, dẫn các thính giả tới chỗ tự tra vấn về mối tương quan của họ với Thiên Chúa và với anh em: cả họ nữa, họ đã chẳng bị cám dỗ co lại trong đặc quyền đặc lợi của họ, không còn biết kinh ngạc trước lòng quảng đại kỳ diệu của Thiên Chúa đối với mọi người và hoa trái của ân sủng Người nơi anh em họ đó sao?
- Câu chuyện khởi đầu rất bình thường. “Nước Trời giống như ông chủ vườn nho sáng sớm ra chợ thuê người làm...”. Ông chủ vườn nho này “ra đi” nhiều lần (cũng như người cha trong dụ ngôn của Luca 15 ra nhiều lần) vào những giờ khác nhau để nhắc lại lời mời gọi: “Hãy vào làm vườn nho cho ta” chẳng có gì đặc biệt khiến ta phải chú ý...cho tới lúc, bất chấp những luật lệ sơ đẳng về lợi nhuận, ông còn ra chợ “vào lúc 5 giờ chiều”, trong khi mặt trời sắp lặn nhường chỗ cho bóng đêm!
- Ta vẫn còn chưa hết ngạc nhiên! Vào lúc chiều tối, thay vì trả công cho người làm sớm nhất và để cho họ ra về, ông chủ lại ra lệnh cho viên quản lý trả lương “bắt đầu từ những người làm sau hết và kết thúc bằng những người làm đầu tiên”, họ sẽ là chứng nhân cho cử chỉ của ông!
. Những người được thuê vào lúc 5 giờ chiều tiến đến và nhận “mỗi người 1 đồng bạc”. Những người đầu tiên, đã chịu cực khổ suốt ngày, tò mò quan sát cảnh tượng và hy vọng sẽ được trả “nhiều hơn”. Nhưng khi đến phiên họ, họ cũng chỉ nhận được “một đồng bạc” như hợp đồng lúc thuê mướn.
. Từ im lặng ngạc nhiên đến “lẩm bẩm kêu trách": “Họ lẩm bẩm kêu trách ông chủ”. Những tiếng lẩm bẩm khiến ta nhớ lại tiếng lẩm bẩm của đứa con trưởng khi cha long trọng đón tiếp đứa con phung phá trở về (Lc 15). Những tiếng lẩm bẩm hoà nhịp với tiếng lẩm bẩm của con cái Israel suốt thời gian băng qua sa mạc, và tiếng lẩm bẩm của bọn biệt phái và luật sĩ khi nhìn thấy thái độ của Đức Giêsu đối với những người thu thuế và tội lỗi họ lẩm bẩm kêu trách Ngài: “Người này tiếp đón kẻ tội lỗi và ăn uống với họ” (Lc 15).
Điều khiến những người thợ đầu tiên bất mãn đó là thấy những kẻ “chỉ làm việc một giờ” lại được đối xử ngang hàng với họ: “Ông đối xử với họ cũng như chúng tôi!” Việc làm đã xong, những điều kiện trong đó họ làm việc chẳng đem lại cho họ đặc quyền đặc lợi nào, so với những người khác, “những người cuối cùng này" mà họ nói đến với sự khinh miệt y như đứa con trưởng trong dụ ngôn ở Luca 15: “Thằng con trai cha đó” (Lc 15,30) hoặc người biệt phái trong Luca 18: “tên thu thuế kia”.
2. ... hay ngây ngất vì ơn Thiên Chúa ban nhưng không cho mọi người.
Ông chủ vườn nho nói với người phát ngôn của những người thợ bất mãn: “Hay là bạn bất bình vì tôi nhân lành?”.
Giống như anh cả của đứa em hoang đàng, những người thợ làm giờ đầu tiên là biểu tượng cho tất cả những ai nhân danh quyền lợi tự cho là nhận được từ Thiên Chúa, nhân danh cái gọi là đặc quyền, ngạc nhiên và vấp phạm vì thái độ của Đức Giêsu đối với những người tội lỗi: đó là những người biệt phái và luật sĩ của hôm qua... và cả hôm nay nữa. Làm như ơn cứu độ không phải là ân huệ ngoại thường và nhưng không, vượt xa sự xứng đáng của ta muôn trùng.
Đức Giêsu tự đứng về phía ông chủ vườn nho cũng như về phía người cha đón tiếp đứa con trai đã mất mà nay lại tìm thấy. Thái độ của hai nhân vật này phản ánh lối sống của họ, lối sống bị người ta chê trách. Với những người phản đối thái độ của Ngài đối với người tội lỗi, Ngài dám tuyên bố: Thiên Chúa không hành động khác hơn! Thiên Chúa giống như người Cha ăn mừng đứa con trở lại, như ông chủ vườn nho trả lương cho người thợ làm sau cùng cũng bằng người thợ làm đầu tiên.
Chắc chắn khi thuật lại dụ ngôn này của Đức Giêsu, Matthêu muốn áp dụng nó vào Giáo Hội thời đó: “Những người đầu tiên” là những người Do Thái; “những người cuối cùng”, dân ngoại đã nhận được cái mà Israel coi như đặc quyền.
Claude Tassin kết luận: “Vậy, dụ ngôn nhắm tới những người có phản ứng giống như phản ứng của đứa con trai cả trong truyện người con phung phá... Thiên Chúa đã quyết định tỏ sự âu yếm đối với những người tội lỗi, đó là lý do tại sao Đức Giêsu, sứ giả của Ngài, lại thích gần những người này đến thế, điều đó gây phẫn nộ cho một số người công chính vì họ tự coi mình có quyền được Thiên Chúa quan tâm hơn những phường chẳng ra gì kia, đâu quan tâm gì đến phục vụ Trời - làm như thể khi cứu vớt những người tội lỗi, Thiên Chúa đã lấy đi điều gì của những kẻ trung thành.
Trái với bài học mà tác giả Phúc Âm rút ra (16) dụ ngôn không hạ “những người đầu tiên” xuống hàng “những người sau cùng”, nhưng dụ ngôn chỉ nhấn mạnh đến sự bình đẳng làm phát sinh ơn phúc lạ thường cho người tội lỗi”.
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. Công bình kỳ cục (G. Boucher, La terre parle au ciel)
Công bình! Ta gọi ngươi bằng tất cả khát vọng. Ta đấu tranh vì một thế giới công bình hơn. Ta phát động cách mạng để đập tan bất công. Thậm chí ta còn nói tới - thật là ghê tởm - cuộc chiến tranh chính nghĩa. Các toà án của ta đó để thực thi công bình. Lời cầu nguyện của ta kêu lên tới Chúa để cho người nghèo, người bị bóc lột được lắng nghe. Niềm vinh dự của các xã hội, các quốc gia là tạo lập được một hiến pháp, những luật lệ và những cơ chế giúp cho trật tự công bình tiến bộ. Do đâu dụ ngôn Phúc Âm bắt ta làm ngược lại? Do đâu khi đọc dụ ngôn lần đầu ta khó chịu như những người thợ làm đầu tiên đã khó chịu, họ tự cho mình và nạn nhân của một sự bất công. Đối với con người, thực thi công bình không phải là trả cho mỗi người điều gì thuộc về họ, theo sức lao động và giá trị của họ sao?
Nhưng trong khuôn khổ Nước Trời lại là chuyện khác: có một Đấng tên là Thiên Chúa, là sự viên mãn, ban cho mọi người những gì chính đáng. Thiên Chúa công chính hoá những ai mong muốn. Ngay từ giờ đầu tiên. Ngay từ phút khởi đầu. Nhưng cũng có khi ở nửa đời người, thậm chí cả ở phút chót của cuộc đời nữa.
Thiên Chúa kêu mời mọi người hãy đến để được công chính hoá như người ta nhận một quà tặng, một ân ban. Có người trả lời ngay tức khắc từ lúc rạng đông. Có kẻ chỉ nghe được lời đề nghị ở giữa ngày. Đôi khi mãi đến cuối ngày có người mới nhận ra cơ may Chúa ban mà theo ngôn ngữ bác học, ta gọi là ân sủng.
Thiên chúa làm cho nên công chính như ta trở nên trong suốt khi ta ở trong ánh sáng. Thiên Chúa biến ta nên công chính như chính Ngài là Đấng công chính, điều đó không có gì giống với những mô hình nhân loại. Bởi vậy ai nhận biết mình được Thiên Chúa công chính hoá sẽ chỉ có thể mừng vui khi thấy ân phúc đó đến với người láng giềng, người đối thủ, người đối địch... vì lối sống của Thiên Chúa đã thấm nhập đời anh. Thời giờ chẳng có gì quan trọng.
Ta chỉ có thể cầu mong cho mọi người biết nắm lấy cơ may của mình, những người cùng sống trong chung cư, những bạn đồng nghiệp, những người thân và cả những người không thân nữa.
Vì công bình theo nghĩa của Thiên Chúa chỉ được thực hiện khi ta biết nắm bắt cơ may của mình, như người thợ giờ thứ 11 đã chọn đi làm việc. Và qua kinh nghiệm, ta biết rằng, để lãnh được lô độc đắc của Thiên Chúa, không có gì bằng một biến cố thúc bách ta, một chứng từ chất vấn ta.
Phần ta hãy biết đón nhận ân sủng mà Thiên Chúa ban cho và sống sao cho mọi người chung quanh ta khao khát được ân sủng ấy, lương bổng ấy.
2. Một ví dụ khiêu khích bắt ta phải tự vấn (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s'est approché DDB).
Đức Giêsu lấy làm gương thái độ của người chủ đối với thợ của mình. Thực là một ví dụ khiêu khích, chứng minh điều Thiên Chúa không là. Không giống như ta tưởng. Ngài hành động không theo cách ta làm. Ngài tốt lành vượt xa các ông bố trần gian muôn trùng. Nhờ đó, Đức Giêsu cho ta chứng nghiệm được tình yêu của ta hẹp hòi biết bao: “Bạn bất bình vì tôi nhân lành ư?”. Dụ ngôn này dạy ta biết Thiên Chúa, nhưng cũng biết chính mình. Nếu ta thấy đồng tình với những người thợ lẩm bẩm kêu trách, chẳng phải vì ta đã tưởng tượng Thiên Chúa theo thước đo của ta, và muốn đóng khung Ngài trong những quan niệm chật hẹp của tình yêu giới hạn của ta sao? Dụ ngôn của Đức Giêsu trước hết là nói với dân Do Thái, họ là những người được kêu gọi trước hết, rồi mới tới dân ngoại. Dụ ngôn soi sáng tình trạng các cộng đoàn đầu tiên, trong đó những người từ đa thần giáo tới sau cũng có cùng quyền lợi như các tín hữu gốc Do Thái. Ngày nay, vấn đề vẫn còn đó, tuy hoàn cảnh có khác. Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn luôn có cùng mục đích, cùng hiệu quả: Ngài mạc khải sự cao thượng của tình yêu Thiên Chúa “chiều cao, chiều rộng và chiều sâu của tình yêu ấy”. Tình yêu ấy thay đổi đường lối của ta, mở rộng lòng ta. Phản ứng của ta thường là giới hạn tình yêu ấy theo khuôn thước của ta. Nhưng “giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn”! Sau cùng, sứ điệp của dụ ngôn phải chăng không nằm trong những từ ngữ đơn sơ này, chúng nói với ta về Thiên Chúa: “Ta nhân lành!... Hơn cả lương bổng, điều quan trọng là tiếng gọi, luôn luôn đổi mới từng ngày, từng giờ, ở mọi thời trong lịch sử cũng như ở mọi lứa tuổi của đời người, tiếng gọi này không gạt ai ra ngoài lề đó là ân sủng cho những người đầu tiên cũng như cho những người cuối cùng, tiếng gọi của Thiên Chúa nói với con người mà Ngài yêu thương không mỏi mệt và Ngài muốn rằng không ai bị bỏ quên: “Nào, cả anh nữa, hãy đến làm vườn nho cho tôi”.
-------------------------------
Douglas được cả nước biết như là người sáng tạo ra giầy dép. Trong những năm đầu: TN 25-A2
Douglas được cả nước biết như là người sáng tạo ra giầy dép. Trong những năm đầu, ông bị thất nghiệp lâu dài đến nỗi chỉ còn một đồng tiền cuối cùng. Tuy nhiên, ông đã bỏ một nửa đồng đó – tức là 50 xu – vào giỏ xin tiền ở nhà thờ. Sáng hôm sau, ông nghe biết có một công việc ở thành phố bên cạnh mà vé đi xe lửa là một đồng. Xem ra nếu giữ lại 50 xu kia thì thật là khôn ngoan. Tuy nhiên, ông đã mua vé với 50 xu còn lại và đi nửa đường tới nơi gần đến. Ông bước ra khỏi xe lửa và bắt đầu đi bộ qua thành phố.
Trước hết ông đi tới một khu nhà lớn, ông nghe rằng có xí nghiệp ở một quãng đường nữa – đang cần thuê công nhân. Trong vòng 30 phút, ông có được một việc làm với tiền lương là 5 đô la một tuần, còn hơn số lượng ở thành phố khác. Tiền lương tuần lễ đầu tiên của ông đã gấp 10 lần số tiền ông giúp cho công việc của Chúa.
Chúa Giêsu cũng vừa nói với chúng ta về một số người thất nghiệp khác. Người chủ nhà cho họ làm việc vào những giờ khác nhau trong ngày. Một ít người làm trọn ngày, những người khác chỉ làm vài giờ, và số người khác nữa làm việc có một giờ thôi. Vậy mà đến chiều ông chủ chỉ trả tiền công cho họ bằng nhau. Những người làm việc trước tự nhiên than phiền, nhưng người chủ trả lời: “Sao các anh lại ghen tỵ về lòng quảng đại của tôi ?”
Bài học chính này là Thiên Chúa luôn quảng đại, Nước Trời không hoạt động như nước trần gian, và đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của loài người, như bài đọc I nói với chúng ta. Phải, Thiên Chúa rất quảng đại. Bắt đầu với lòng quảng đại, Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, chia sẻ cho chúng ta sự sống và hạnh phúc của Ngài. Dĩ nhiên, với lòng quảng đại, Thiên Chúa ban cho chúng ta ý chí tự do để chúng ta có thể quyết định yêu mến Thiên Chúa hay không, lãnh nhận phần thưởng Nước trời hay không.
Thiên Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta nhiều phúc lành về thể xác và tâm hồn. Ngài cung cấp cho ta dồi dào thực phẩm. Sự thiếu thốn ngày nay là do tính tham lam và quản lý tồi của con người.
Con Thiên Chúa là chính lòng quảng đại: Khi Chúa Giêsu biến nước thành rượu, Người bảo những người giúp việc đổ nước đấy chum “cho tới miệng”, với mẻ cá lạ lùng “họ chất đầy hai thuyền”. Ngài hóa bánh ra nhiều với vô số đến nỗi bánh dư lại “còn 12 thúng”. Ngài rộng rãi khen ngợi đồng tiền quảng đại của bà góa. Ngài ban rộng rãi thời gian, sức mạnh và mối thương cảm. Và sau hết, Ngài đã đổ ra đến giọt máu châu báu cuối cùng mà cứu độ chúng ta. Ngài còn tiếp tục ban Mình và Máu Ngài trong Thánh lễ này cũng như mỗi thánh lễ trên khắp cả thế giới trong mọi lúc.
Đấng Thiên Chúa làm người quảng đại dạy ta rằng: “Hãy cho, người ta sẽ cho lại, và họ sẽ đong cho anh em những đấu lớn, lắc chặt và đầy tràn, vì anh em đong đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Người anh hùng trong câu chuyện, Douglas, một thợ đóng giày đã kinh nghệm điều này.
Ước gì tất cả chúng ta kinh nghiệm được những kết qủa của lòng quảng đại. Ước gì chúng ta quảng đại với Thiên Chúa vì Ngài luôn quảng đại với ta.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
----------------------------------
Trước khi được gọi đi làm vườn nho, các người thợ thất nghiệp ngồi chờ ủ rũ ngoài: TN 25-A3
Trước khi được gọi đi làm vườn nho, các người thợ thất nghiệp ngồi chờ ủ rũ ngoài đường phố.
CHỜ MỘT TIN MỪNG
Họ chờ đợi nhưng lòng vẫn không yên, rất ít hy vọng không biết còn phải chờ cho tới bao giờ.
Họ không có nghề gì để sống, không có việc gì để làm, không biết dùng ngày tháng thế nào cho hữu ích. Bởi thế lời để nghị đi làm vườn nho là một tin mừng, mở cho họ một lối thoát.
Từ nay có việc làm, đời sống được ổn định, bớt bấp bênh.
ƠN GỌI KITÔ HỮU
Câu chuyện những người thợ làm vườn nho nhắc mỗi người chúng ta nghĩ tới ơn gọi của chính mình.
Trước nhiều ngả đường của cuộc sống, chúng ta cũng lo lắng, chờ đợi, muốn tìm một đường đại, một hướng cho đời mình. Chúng ta cũng muốn sử dụng cuộc đời mình thế nào cho thật hữu ích.
Trong tình trạng phân vân, chờ đợi đó Chúa Giêsu đến gọi chúng ta đi làm Vườn Nho của Ngài. Ngài mở cho chúng ta một tương lai, trao cho chúng ta một thiên chức. Ngài chỉ cho chúng ta thấy cách tốt nhất để khai thác và phát triển mọi tiềm năng của đời mình.
HAI ƠN GỌI
Thiên Chúa trao cho chúng ta hai ơn gọi: thiên chức làm người và thiên chức làm con Thiên Chúa.
Trước hết là thiên chức làm người. Ngài muốn chúng ta chẳng những có mặt trong cuộc sống nhưng còn sống cho ra sống. . . sống xứng đáng với phẩm giá của mình, sống có tư cách, có đức độ, có danh dự. Cuộc sống như Thiên Chúa muốn chẳng những không thiếu thốn về mặt vật chất mà còn đạt tới một đời sống tạinh thần phong phú và một đời sống đạo đức sâu sắc; chẳng những sống cho mình mà còn biết sống cho người khác.
Rồi đến thiên chức làm con Thiên Chúa. Làm người đã là quý, nhưng Thiên Chúa còn muốn nâng chúng ta lên cao hơn. Ngài muốn chúng ta trở nên những người con, giống như Người Con Tuyệt hảo của Ngài là Đức Giêsu. Ngài muốn chúng ta được hiệp thông vào sự sống thần linh của Ngài. Vì ơn gọi cao cả đó chúng ta phải cố gắng đt tới sự thánh thiện tối đa bằng cách noi gương Cha trên trời.
HAI ƠN GỌI THỐNG NHẤT
Hai ơn gợi làm người và làm con Thiên Chúa không tách biệt nhau, nhưng gắn liền nhau.
Thực ra không phải là hai mà chỉ là hai mặt của cùng mộtạ ơn gọi. Đã được gọi làm người thì đương nhiên cũng được gọi làm con Thiên Chúa. Ơn gọi làm người luôn hướng tới ơn gọi làm con Thiên Chúa. Ơn gọi làm người chỉ phát triển đầy đủ và chỉ được hoàn tất trong ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Như vậy thì hết mọi người đều được gọi làm con Thiên Chúa như nhau. Làm con Thiên Chúa là ơn gọi chung của mọi người. Vườn nho được mở rộng đón mọi người, ai cũng được mời vào. Còn vào hay không là quyền tự do lựa chọn của mỗi người.
Vì ơn gọi làm người được hoàn tất trong ơn gọi làm con Thiên Chúa nên thật sai lầm nếu nghĩ rằng ơn gọi làm con Thiên Chúa có thể gây trở ngại cho ơn gọi làm người. Thật ra chẳng những không gây trở ngại mà còn giúp sống ơn gọi làm người cách trọn vẹn hơn. Càng sống như con Thiên Chúa thì càng trở nên người hơn, nghĩa là phẩm chất của con người càng được nâng cao và đời sống của con người càng trở nên phong phú thếm.
Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta vào làm Vườn nho của Ngài. Chúng ta đã vui mừng nghe theo tiếng gọi đó. Qua tiếng gọi đó Ngài vạch cho chúng ta một hướng đại, mở trước chúng ta một tương lai, bộc lộ cho chúng ta thấy ý nghĩa cuối cùng của cuộc đời chúng ta.
Xin cảm tạ Ngài. Và cách cảm tạ tốt nhất là mỗi ngày bền chí, kiên trì, tận tụy với công việc trong Vườn nho của Ngài.
--------------------------------
Có lẽ nhiều người đã biết đến chuyện nhà triệu phú của một người Mỹ, ông là chủ: TN 25-A4
Có lẽ nhiều người đã biết đến chuyện nhà triệu phú của một người Mỹ, ông là chủ những tiệm giầy bên Hoa Kỳ. Lúc còn thanh niên nghèo sơ nghèo xác. Có lần vào nhà thờ dâng lễ, trong túi chỉ còn một đồng duy nhất, ông đã không ngần ngại dâng cho Chúa nửa đồng, còn lại nửa đồng.
Sáng hôm sau, khi đọc trên báo thấy nơi thành phố bên cạnh có hãng cần người làm việc, anh ra mua vé xe, nhưng rủi thay vé xe một đồng mà bây giờ anh chỉ còn lại nửa đồng, cứ mua vé xe đi nửa đoạn đường và chủ trương sẽ đi bộ nửa đoạn đường còn lại. Nhưng khi đến nhà ga nửa đường, anh xuống xe và khi vừa bước đi bộ vài trăm thước thì anh thấy cạnh đường có xưởng đang cần người làm việc vôi số lương cao hơn với số lương của công việc mà anh định đến xin nơi thành phố bên cạnh.
Như thế, có thể nói: Anh đã đóng góp cho Chúa nửa đồng, Chúa đã cho lại anh góp trăm tần, nhiều hơn cũ. Và chúng ta cũng nhớ chuyện dụ ngôn của Tagore, thi sĩ Ấn Độ về người ăn mày chỉ cho Chúa một nắm gạo, nhưng Chúa cho lại một cục vàng Những người thợ chỉ đóng góp cho Chúa vào giờ cuối cùng, chỉ có một, hai giờ đồng hồ làm việc, thế mà được Chúa trả công gấp mấy tần, bằng những kẻ mệt nhọc cả ngày.
Bài dụ ngôn không chú trọng đến việc đóng góp của con người, nhưng đến thái độ quảng đại của Thiên Chúa là chủ vườn nho, hơn quá sức tưởng lượng của con người, hơn quá sức tưởng tượng của những người thợ. Thái độ của những người Pharisiêu nghe Chúa nói dụ ngôn này, thái độ của một số anh chị em Kitô đầu tiên từ Do Thái giáo hay những người Kitô giáo đến từ dân ngoại, và ngày hôm nay thái độ của mỗi người chúng ta, thái độ ỷ lại vào công nghiệp trước mặt Chúa hay vào sự đóng góp của mình cho Chúa, rồi sinh ra ganh tị, khinh dể những anh chị em khác mà mình cho là không có công khó gì đối với Chúa.
Trong Nước Chúa, tất cả đều là ân sủng, tất cả đều do Thiên Chúa bắt đầu trước, phần con người chỉ đáp trả công vào ân sủng Chúa ban mà thôi. Vì thế, không nên có thái độ ganh tị, ỷ lại, không nên tự phụ, tự kiêu vì những công việc của mình, nhưng hãy khiêm tốn đón nhận, tin thắng vào lòng nhân từ của Chúa là Đấng luôn sẵn sàng ban ơn cho mỗi người chúng ta vượt quá lòng chúng ta mong ước.
Nơi bài đọc II, thánh Phaolô trình bày cho các tín hữu Philipphê và cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay một bí quyết để sống, đó là không nhìn để so sánh mình với người anh em bên cạnh rồi ganh tị.
Nhưng hãy nhìn lên mẫu gương của Chúa, quyết tâm sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp mật thiết với Ngài.
Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Philipphê mà chúng ta đã đọc trong bài đọc II là "dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang trong thân xác tôi, đó là sống kết hiệp với Chúa Kitô, chúng ta chỉ nhắm đến một mục đích duy nhất mà thôi "sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp với Chúa", để rồi từ đó chúng ta có thể đem cuộc sống của mình, lài năng của mình mà phục vụ cho anh chị em xung quanh. Dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang trong thân xác tôi qua những việc làm tốt, những việc bác ái mà chúng ta thực hiện hằng ngày.
Điểm thứ hai chúng ta có thể lưu ý trong bài Phúc âm hôm nay, đó là phản ứng của con người trước lòng quảng đại của Thiên Chúa. Con người hay những người thợ được ông chủ vườn nho mướn vào làm vườn nho cho có thái độ hẹp hòi, ganh tị, đặt giới hạn cho lòng quảng đại nhân từ của Thiên Chúa: "Ta không có quyền phân phát theo ý Ta hay sao? Hay vì Ta quá quảng đại mà các người lại ganh tị hẹp hòi".
Đó là bài học mà Chúa Giêsu muốn ghi khắc vào tâm trí các tông đồ qua bài dụ ngôn trên. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đối với con người vượt quá sự con người có thể nghĩ đến, nhưng không vì thế mà lỗi luật công bằng. Tình thương của Chúa vượt quá mức độ công bằng, nhưng không hủy bỏ sự công bằng. Sự công bằng của Thiên Chúa không như sự công bằng mà con người chúng ta tưởng nghĩ: "Há anh đã chẳng đồng ý với Ta tiền lương mỗi ngày một đồng như vậy hay sao? Ngoài ra, Ta muốn thêm cho những kẻ đến sau bằng những người đến trước, há Ta chẳng làm được như vậy hay sao?”
Qua lòng tốt của Chúa, xem ra như là Thiên Chúa thiên vị, nhưng sự thật lòng tốt vô biên ấy đã phơi bày tật xấu, lòng ganh tị của những kẻ đến trước ỷ lại vào công nghiệp riêng của họ, làm việc cực mệt, nhọc nhằn suốt ngày để yêu sách Thiên Chúa phải thế này, thế nọ, phải cho họ hơn những người khác, những kẻ đến sau, những kẻ không có công trạng gì, những người tội lỗi, những người thấp kém trong xã hội. Tựu trung tất cả chỉ vì ganh tị với anh em xung quanh mà họ đã có thái độ phân bì như vậy.
Sự ganh tị làm cho con người mất đi lòng biết ơn đối với kẻ thi ân. Thiên Chúa là Đấng thi ân cho con người theo chương trình Ngài muốn, Ngài ban cho mỗi người chúng ta biết bao nhiêu hồng ân, những nén bạc khác nhau, người thì năm nén, người thì hai nén, người thì một nén, nhưng nếu chúng ta ghen tị thì thay vì chúng ta cảm lạ Thiên Chúa, vì những hồng ân mình đã nhận được; thì chính lúc đó chúng ta quay lại trách móc Thiên Chúa bất công, thiên vị.
Lạy Chúa, xin giúp cho mỗi người chúng con biết vượt qua được những thái độ ganh tị này. Xin Ngài mở rộng tâm hồn chúng con, để chúng con được sống khiêm tốn và quảng đại như Chúa, luôn biết nhìn ra những hồng ân của Chúa ban cho chúng con mà cảm lạ tri ân, chúc tụng Ngài. Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
--------------------------------
“Nào tôi có làm thiệt hại bạn đâu”
Dân Do thái đang sống cảnh lưu đày khổ cực. Toàn dân như bị Chúa quên bỏ hay chính: TN 25-A5
Dân Do thái đang sống cảnh lưu đày khổ cực. Toàn dân như bị Chúa quên bỏ hay chính họ đã quên bỏ Ngài. Thì tiếng Tiên tri isaia vọng lên: “Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi người còn ở gần…” Hãy trở về với Chúa, hãy tìm kiếm Chúa là một lời mời gọi khẩn thiết. Thánh Augustinô cầu nguyện: “Lạy Chúa, nguồn hy vọng độc nhất của con, hãy lắng nghe tiếng con, đừng để con chán nản không còn đi tìm Chúa. Hãy ban cho con mãnh lực để đi tìm Chúa và tìm thấy Chúa…”
Tìm Chúa, sống kết hợp với Chúa, đó ãung là lẽ sống của Phaolô. Lúc về già, Ngài bâng khuâng giữa hai sự lựa chọn: chết để về với Chúa hay sống để tiếp tục việc Tông đồ. Nhưng rồi Ngài nói: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô”. Đức Kitô cũng phải là lẽ sống của mỗi người chúng ta.
Bài dụ ngôn Phúc Âm hôm nay cần được đặt vào hoàn cảnh của nó. Chúa Giêsu càng bị các nhà lãnh đạo Do Thái chĩa mũi dùi vào. Họ là những người giả dối, sống đạo thì ít, lợi dụng đạo thì nhiều. Họ theo dõi, chỉ trích, phản đối Ngài, nhất là vì Ngài hay tiếp xúc với hạng người nghèo khó, “tội lỗi”. Họ ganh tị vì thấy Chúa chú ý hơn đến hạng người thấp hèn.
Chúa Giêsu kể dụ ngôn về một người chủ vườn nho đi thuê công nhân và thỏa thuận giá cả là một đồng một ngày. Đến chiều, giờ phát lương, chủ phát đồng đều cho mỗi người, người đến sau hết cũng như người đến trước hết. Thế là có tiếng ra tiếng vào, lẩm bẩm trách chủ không công bằng. Nhưng chủ bảo: “Nào tôi có làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy lãnh lấy phần bạn đã thỏa thuận và ra về”.
Chúa muốn đưa chúng ta lên một cái nhìn sâu thẳm. Mối giao hảo giữa ta với Chúa không phải dựa trên cán cân công bằng mà dựa trên tình thương. Thiên Chúa đại lượng vô cùng, Ngài ban cho chính mình Ngài, cho chúng ta chia sẻ sự sống của Ngài.
Đức từ bi độ lượng của ngài được đo bằng Tình yêu.
Một Têrêsa Giêsu Hài Đồng chỉ sống 24 tuổi đời. Một Bernađetta chỉ sống 29 năm. Một Đominicô Saviô chỉ trải qua 15 cái xuân xanh, một Jacinta được Đức Mẹ cất về lúc lên 10 tuổi. Đời của họ được đo lường bằng Tình yêu, được gọi vào làm việc ở vườn nho và kẻ sau hết đã nên trước hết, kẻ trước hết đã nên sau hết! Tất cả chỉ vì Tình yêu.
Lạy Chúa, xin cho con biết đi tìm Chúa là Tình yêu.
--------------------------------
Thiên Chúa có bất công? - Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Mt 20, 1-16
Người Dothái và đặc biệt là nhóm Pharisêu và Kinh sư thường hay tự hào họ là dân ưu tuyển của: TN 25-A6
Người Dothái và đặc biệt là nhóm Pharisêu và Kinh sư thường hay tự hào họ là dân ưu tuyển của Thiên Chúa. Và dĩ nhiên, họ đòi Thiên Chúa phải ban cho họ một số quyền lợi hơn những người tội lỗi và dân ngoại. Vì cho rằng mình có đặc quyền, đặc lợi bất khả xâm phạm, nên họ không ngừng rình mò, chỉ trích, ghen tỵ và chống đối trước những hành vi cao thượng mà Chúa Giêsu đã đối xử với những người nghèo khổ, những người thu thuế và tội lỗi. Dụ ngôn “Thợ làm vườn nho” mà Giáo hội muốn con cái mình suy niệm hôm nay không chỉ trả lời cho nhóm Pharisêu và Kinh sư mà còn cho hết những ai vẫn còn đó lòng đố kỵ ghen tương trước tấm lòng nhân ái vô bờ bến mà Thiên Chúa dành cho những người khốn khổ đói nghèo.
Sẽ không có chuyện gì xảy ra nếu như ông chủ bảo người quản lý trả tiền công cho những người vào làm vườn nho lúc tảng sáng (khoảng sáu giờ sáng) đến người vào làm lúc giờ thứ muời một, tức khoảng năm giờ chiều để họ lần lượt ra về. Đàng này ông lại bắt những người vào làm việc lúc tảng sáng, giờ ba, giờ sáu và giờ chín “chứng kiến” việc trả tiền công bắt đầu từ những người vào làm sau hết. Rắc rối nảy sinh từ đây. Thật sự khi chứng kiến người vào làm chỉ có một giờ được viên quản lý trả cho một đồng, những người vào làm việc trước đó khấp khởi mừng. Lý do để họ hy vọng là vì người vào làm có một giờ đâu phải chịu nắng nôi vất vả như họ, thế mà anh ta được một đồng, thì họ phải hơn thế chứ, bởi công bình mà! Thế nhưng đến lượt họ, cũng chỉ có một đồng mà thôi.
Tại sao chỉ có một đồng? Sao lại bất công như vậy? Quả thật, đọc qua dụ ngôn này, dường như chúng ta cũng có cái nhìn trách móc ông chủ như những người làm công trên đây và dường như chúng ta cũng đồng ý với những người này khi họ mong được ông chủ trả nhiều hơn. Và dường như, cách nào đó, chúng ta khó chịu trước cách hành xử “bất công” của ông chủ và xem những con người kia như những nạn nhân của sự bất công. Bởi chúng ta vẫn thường quan niệm công bình tức là trả cho mỗi người điều gì thuộc về họ tuỳ theo sức lao động và giá trị đóng góp của họ. Đó là loại công bình của loài người, với Thiên Chúa, không phải như vậy…
Ông chủ trong dụ ngôn có bất công không? Thưa rằng không. Bởi lẽ ông thực thi công bình theo đúng kiểu của con người, tức đã thoả thuận trước. Thế việc ông “phân biệt đối xử” trong việc trả tiền công thì sao? “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao?(...) Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”. Như thế đã rõ, ông chủ không chỉ công bình mà còn hào phóng và rộng rãi nữa. Bởi việc ông đối xử với người vào làm chỉ có một giờ xuất phát từ lòng quảng đại và tình yêu vô bờ bến của ông chứ không xuất phát từ cái nhìn ở khía cạnh thời gian. Ông nhìn nhận nếu cứ xét công bình theo kiểu nhân loại, cuộc sống của người vào làm vườn nho có một giờ và cả gia đình anh sẽ ra sao? Chính vì thế, chúng ta thấy ở đây tình yêu của ông vượt trên mọi lý lẽ công bình như người đời vẫn quan niệm.
Điều đáng tiếc là những người được kêu mời vào làm vườn nho từ rất sớm đã không nhận ra tình yêu và lòng quảng đại của ông chủ. Những người này có thể là những Pharisêu, những Kinh sư hay những ai có cách nhìn thiển cận về tình yêu của Thiên Chúa. Những người này tự đặt ra một thứ công bình theo kiểu loài người và họ áp đạt loại công bình này cho Thiên Chúa. Họ bắt Thiên Chúa làm theo ý họ, theo tiêu chuẩn mà họ đặt ra. Theo đó, Thiên Chúa có làm gì, làm cho ai và cho bao nhiêu, nhất nhất phải theo thứ luật mà họ đã bày sẵn, ngoài phạm vi này, họ liền xầm xì ta thán, lên án chỉ trích,… Họ chưa hiểu rằng bài học ở đây chính là, công bình không thôi chưa đủ, cần phải có tình yêu để phủ lấp thứ công bình gò bó hạn hẹp theo quan niệm của con người. Bởi xét cho cùng, công bình chỉ có giá trị trong tương quan giữa người với người, còn Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi lý lẽ và công bình, Người chỉ hành động bằng tình yêu mà thôi. Và đây chính là chìa khoá để lý giải cách ông chủ đã đối xử với người vào làm vườn nho trong giờ cuối cùng của ngày.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta cũng có cái nhìn thành kiến, hạn hẹp trước tình yêu và ân sủng mà Thiên Chúa đã thương ban cho những người “đến sau” chúng ta trong vườn nho Giáo hội. Vô hình trung, chúng ta đang theo bước chân của những người Pharisêu và Kinh sư- những người không chấp nhận Thiên Chúa tỏ tình yêu của Người cho người khác. Chúng ta tưởng rằng khi Thiên Chúa tỏ tình yêu và tặng ban ân sủng của Người cho người khác sẽ làm chúng ta thiệt thòi và thua kém, nhưng kỳ thực không phải như vậy, điều Thiên Chúa muốn là tất cả mọi người, không phân biệt mầu da chủng tộc, đều được hưởng tình yêu thương hải hà và ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa Tình yêu.
“Giới hạn của tình yêu là yêu vô giới hạn”. Câu nói thời danh của Thánh Bênađô giúp chúng ta hiểu thấu hơn về tình yêu vô giới hạn của Thiên Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta khi đối xử với anh em đồng loại cũng hãy dựa trên tình yêu và lòng quảng đại như Thiên Chúa đã đối xử với dân Người.
--------------------------------
Suy Niệm
Trong dụ ngôn người cha nhân hậu (Lc 15), chúng ta đã từng thấy thái độ của người: TN 25-A7
Trong dụ ngôn người cha nhân hậu (Lc 15), chúng ta đã từng thấy thái độ của người con cả nổi giận không chịu vào nhà, vì anh thấy cha tỏ ra quá bao dung đối với đứa em hư đốn, chẳng những cha tha thứ mà còn mở đại tiệc ăn mừng,
"Đã bao năm con hầu hạ cha… thế mà chưa bao giờ… còn thằng con của cha đó... Vậy mà..."
Anh thấy mình bị cha đối xử bất công !
Trong dụ ngôn trên đây, người làm sớm cũng cằn nhằn vì ông chủ trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng. Cả hai dụ ngôn đều phản ánh một căng thẳng có thực do việc Đức Giêsu thường giao du với tội nhân. Ngài quý trọng từng con chiên lạc, đem đến cho họ niềm vui sống và sự tự tin. Ngài mời họ hoán cải và hứa ban cho họ Nước Trời. Như thế, rốt cuộc những người Do Thái tội lỗi cũng được hưởng hạnh phúc như các ông Pharisêu suốt đời tuân giữ chi li Lề Luật. Người Pharisêu bị sốc vì thái độ của Đức Giêsu. Họ cảm thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm.
Khi nhìn thái độ bực bội của người làm từ sớm, chúng ta hiểu được thế nào là ghen tỵ.
Người làm sớm cằn nhằn ông chủ vườn nho không phải vì ông đã đối xử bất công đối với họ (họ vẫn được trả đủ tiền lương mà), nhưng vì ông đã trả cho người làm sau ngang hàng với họ, là những kẻ vất vả suốt ngày. Nếu ông trả cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu.
Người ghen tỵ không vui được với người vui vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không phải là bạn, nên sự thành công của ai đó trở thành nỗi đe dọa.
Đức Giêsu mời chúng ta đổi cái nhìn về Thiên Chúa. Ngài công bình, nhưng không cứng nhắc trong luật lệ. Ngài có trái tim để tự do yêu, có lòng tốt để bất ngờ trao tặng, Thiên Chúa là Thiên Chúa của người trộm lành, là chủ của người thợ chỉ làm có một tiếng. Thiên Chúa công bình lại là người cha đầy yêu thương.
Đức Giêsu cũng mời ta đổi cái nhìn về tha nhân, bớt tự hào về mình, thêm trân trọng người khác, phá bỏ những hàng rào của nhỏ mọn, ghen tương.
Đến khi nào người con cả mới chịu vào nhà để niềm vui của cha, của em là của anh?
Đến khi nào người làm từ sáng sớm biết chia vui cùng người mới làm buổi chiều?
Đến khi nào tôi mới thật sự vui với người kế bên chỉ vì người ấy là bạn tôi?
Gợi Ý Chia Sẻ
Cain vì ganh tỵ đã giết em là Aben. Người ganh tỵ vừa hủy diệt người khác, vừa huỷ diệt chính mình. Có khi nào bạn nuôi lòng ganh tỵ, ghét ghen không? Làm sao để ra khỏi thái độ đó?
Bạn thấy "vui với người vui" dễ hay khó? Có khi nào bạn vui trước thành công của một người bạn hay của một người mà bạn không ưa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa, vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường, để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét con.
--------------------------------
Câu hỏi gợi ý:
Bạn có đồng ý với cách xử sự của ông chủ vườn nho không? Tại sao? Lý do: TN 25-A8
1. Bạn có đồng ý với cách xử sự của ông chủ vườn nho không? Tại sao? Lý do khiến bạn đồng ý hay không đồng ý dựa trên lòng ích kỷ của con người hay dựa trên lòng yêu thương?
2. Bạn nghĩ sao về chủ trương «Làm theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu» ? Bạn có áp dụng chủ trương này trong gia đình bạn không?
3. Bạn có phân biệt 2 thứ công bằng: công bằng có tình thương, và công bằng không có tình thương không? Bạn thích thứ công bằng nào?
Suy tư gợi ý:
Theo cách giải thích truyền thống, bài Tin Mừng này muốn nói tới tính «nhưng không» của Nước Trời: người ta được vào Nước Trời hoàn toàn do ân sủng của Thiên Chúa ban nhưng không, chứ không phải do công lao của họ, mặc dù người ta vẫn phải có sự cộng tác của riêng mình. Vì thế, sẽ có những người theo Chúa từ khi vừa chào đời, những người này được cứu rỗi là một điều dễ hiểu. Nhưng cũng sẽ có những người đã sống suốt cả một cuộc đời tội lỗi hoặc không biết Chúa, mãi tới cuối đời mới giác ngộ, mới biết Chúa và theo Chúa. Cuộc đời họ chỉ theo Chúa vào những giây phút cuối cùng, có thể một vài năm, mà cũng có thể chỉ một vài phút trước khi chết (như trường hợp người trộm lành cùng chịu đóng đinh với Đức Giê-su trong Lc 23,39-43). Những người này cũng được ơn cứu rỗi y như những người đã theo Chúa suốt cuộc đời. Rất có thể những người sống đạo tốt đẹp suốt cả đời sẽ ganh tỵ với những người ấy. Dụ ngôn này trả lời cho những người ganh tỵ ấy.
Tuy nhiên, ta có thể giải thích dụ ngôn này theo một kiểu khác, để áp dụng tinh thần yêu thương một cách vô vị lợi, ít vị kỷ và bớt tính toán, so đo, hơn thiệt với mọi người. Nhất là để tập quan niệm, suy nghĩ theo cách của Thiên Chúa, cách vị tha, khách quan, không qui về mình.
1. Hai thứ công bằng: của trần gian và của Nước Trời
Mới đọc bài Tin Mừng, ai cũng cảm thấy ông chủ làm vườn nho đối xử như thế với những người làm thuê là không công bằng: người làm ít cũng như người làm nhiều đều nhận một mức lương bằng nhau. Vì theo suy nghĩ bình thường của người đời, người làm nhiều phải hưởng lương cao hơn người làm ít. Nghĩ như thế là hoàn toàn đúng và hợp lý. Nhưng với tình thương, người ta có thể suy nghĩ khác, cao hơn, mà vẫn hoàn toàn hợp lý.
Thật vậy, nhân loại sau này có một lý tưởng rất cao cả mà cho tới nay vẫn chưa thực hiện được, đó là làm theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu. Nghĩa là hưởng lương nhiều hay ít tùy theo nhu cầu của mình nhiều hay ít, chứ không tùy theo mình đã làm nhiều hay ít. Lý tưởng này ai cũng cho là hợp lý và đầy tình thương hơn lối hành xử thường tình là làm và hưởng thụ theo khả năng. Biết bao người đã say mê và sống chết cho lý tưởng ấy: Làm theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu. Trong lịch sử con người, nếu lý tưởng này có được thực hiện, thì nó đã được thực hiện trong cộng đồng Ki-tô hữu nguyên thủy, một cộng đồng hữu kiểu mẫu cho mọi cộng đồng Ki-tô hữu về sau.
2. Công bằng của Nước Trời: công bằng có tình thương
Dụ ngôn này diễn tả Nước Trời, vì nó khởi đầu bằng câu: «Nước Trời giống như…», chứ không phải nó áp dụng cho thế gian này. Nước Trời là nước của tình thương, trong đó mọi người đều đối xử với nhau bằng tình thương, và có như thế Nước Trời mới là nước của hạnh phúc. Do đó, sự công bằng ở trong Nước Trời là một thứ công bằng có tình thương, chứ không phải là thứ công bằng vô tâm như ở trần gian. Sự công bằng kiểu trần gian này nếu được thực hiện thì cũng là phúc cho trần gian, nhưng ngay cả thứ công bằng này nhiều xã hội cũng chẳng thực hiện được.
Tuy nhiên, dẫu được thực hiện, sự công bằng trần gian vẫn gây nên biết bao nhiêu chênh lệch. Những người có tài năng, có sức khỏe thì luôn luôn làm được nhiều hơn nên được hưởng lương cao hơn những người yếu đuối, kém tài năng, bất chấp những người yếu đuối này có thể có nhu cầu lớn hơn hay nhiều hơn. Vì thế, người có tài có sức thường giàu có, còn người ít tài kém sức thường nghèo khổ. Như thế, nhu cầu của tôi dù có lớn đến đâu, nhưng nếu tôi làm được ít, thì tôi chỉ được hưởng ít, cho dù hưởng ít như thế thì tôi sẽ rất thiếu thốn và đau khổ. Còn nhu cầu của anh dù rất ít, nhưng nếu anh làm được nhiều, thì anh vẫn được hưởng nhiều, cho dù hưởng nhiều như thế anh sẽ dư thừa một cách vô ích. Đó là điều hợp lý theo lẽ thường của trần gian, và ở trần gian này dường như không thể nào làm khác hơn được.
Còn công bằng theo kiểu có tình thương kia, nếu áp dụng ở trần gian đầy ích kỷ này thì sẽ có cái dở là làm cho nhiều người đâm ra lười biếng: vì có làm chăm thì cũng chỉ được hưởng bằng người lười. Cứ nghĩ như thế thì sẽ chẳng còn ai hứng thú trau giồi tài năng của mình làm gì, vì có tài thì chẳng ích lợi gì cho mình hơn không có tài. Ai cũng có tính ích kỷ, không ai muốn hy sinh một cách vô vị lợi cho ai cả. Ai cũng muốn dùng tài năng hay những lợi thế mình có được để phục vụ mình, để làm lợi cho mình trước đã, không mấy ai muốn ưu tiên cho tha nhân, cho những kẻ hèn kém, yếu thế, dù họ có nhu cầu nhiều hơn mình. Nếu có tài năng mà không đem lại ích lợi cho mình, thì tài năng để làm gì?
Nhưng Nước Trời không phải là nước trần gian, hay ít ra không phải là trần gian như đang có trong hiện tại. Nước Trời được định nghĩa như một xã hội hoàn hảo, trong đó mọi người đều được hạnh phúc. Để được hạnh phúc như thế thì mọi người phải yêu thương nhau, và yêu thương một cách cụ thể là phải quên mình đi để lo cho tha nhân. Khả năng hay tài năng của mỗi người là để phục vụ tha nhân, để lo cho lợi ích chung, chứ không ai dùng tài năng chỉ để vun quén cho mình.
Một gia đình hạnh phúc – vì mọi người trong nhà đều yêu thương lo lắng cho nhau – là một hình ảnh rất cụ thể và sống động về Nước Trời. Những người lớn, có nhiều khả năng, thì đi làm kiếm tiền nuôi gia đình. Những em nhỏ tuy không đi làm, nhưng vẫn phải ăn, học, và do đó phải tiêu một món tiền không nhỏ. Nếu trong nhà có một người đau yếu, bệnh tật, thì người bệnh này có thể không làm ra được một đồng nào, nhưng lại có thể tiêu một số tiền lớn nhất trong nhà vì tiền thuốc, tiền bác sĩ rất mắc. Trái lại, người làm ra nhiều tiền nhất trong nhà có thể lại tiêu xài tiền ít nhất, vì có ít nhu cầu nhất. Nhưng anh ta vẫn không lấy thế làm bất công, mà cảm thấy như thế là hợp lý. Anh cho rằng số tiền trong gia đình phải được chia tỷ lệ với nhu cầu của mỗi người chứ không phải tỷ lệ với số tiền mà mỗi người kiếm được.
Chỉ những gia đình sống theo tiêu chuẩn hưởng thụ theo nhu cầu mới có hạnh phúc. Còn những gia đình chủ trương theo tiêu chuẩn hưởng thụ theo số tiền mình làm ra thì sẽ phát sinh nhiều đau khổ ê chề.
3. Bạn thích sống theo thứ công bằng nào?
Trong dụ ngôn người chủ vườn nho trả tiền theo nhu cầu chứ không theo giờ làm thật là hợp lý nếu xét theo lý luận của tình thương. Những người làm từ sáng sớm hay những người chiều mới vào làm, người nào cũng đều có vợ con phải nuôi, một gánh gia đình phải cưu mang. Người vào làm sau, sở dĩ họ vào làm trễ chỉ vì họ không có may mắn có việc để làm từ sáng sớm, cho dù họ rất muốn có. Trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn cho thấy một đặc tính của Nước Trời, cũng là lý tưởng của mọi xã hội trần gian, là tình thương. Sự công bằng trong Nước Trời không dựa trên tính vị kỷ của con người, mà dựa trên tình thương phải có đối với nhau. Và sự công bằng dựa trên tình thương ấy mới là sự công bằng đẹp lòng Chúa, sự công bằng mà Chúa muốn làm gương mẫu cho chúng ta trong xã hội.
Đương nhiên sự công bằng ấy chưa thể áp dụng một cách phổ biến trong một xã hội mà các thành viên còn quá ít tình thương. Nhưng ít ra nó có thể áp dụng và cần phải áp dụng trong các gia đình Kitô hữu, trong các cộng đoàn Kitô giáo, nhất là trong các cộng đoàn cơ bản. Gia đình bạn, cộng đoàn Ki-tô hữu nhỏ bé của bạn đã nỗ lực trở thành một nước trời nho nhỏ chưa? Sự công bằng được áp dụng trong đó là thứ công bằng nào? Của thế gian hay của Nước Trời?
Cầu nguyện
Lạy Cha, thế giới này chưa thể áp dụng một cách đại trà thứ công bằng có tình thương theo kiểu Nước Trời được. Nhưng trong những cộng đoàn Ki-tô hữu nhỏ bé như gia đình Ki-tô hữu của con, trong cộng đoàn cơ bản của con, trong đó mọi người coi nhau như anh chị em ruột thịt, con sẽ cố gắng cổ võ việc áp dụng sự công bằng ấy, để mọi người trong đó phần nào hưởng nếm trước hạnh phúc của Thiên Đàng, một thứ hạnh phúc được xây dựng trên tình thương và do tình thương tạo nên. Amen.
--------------------------------
Sinh năm 1929 trong một gia đình trung lưu Nhật Bản, tương lai của cô Satôcô: TN 25-A9
Sinh năm 1929 trong một gia đình trung lưu Nhật Bản, tương lai của cô Satôcô như đã được sắp đặt sẵn. Là một người nhất mực bảo thủ với các truyền thống trong gia đình Nhật, cha của Satôcô, cũng là một tiến sĩ nông học, đã muốn giáo dục cô theo tiêu chuẩn của các thiếu nữ con nhà thượng lưu thời ấy: trung thành với Nhật hoàng; tòng phục cha mẹ; học những phong cách và lễ nghi quý phái để sau này phục dịch một đức lang quân do cha mẹ sắp xếp. Thế nhưng cha cô có ngờ đâu rằng, một ngày kia, con gái ông sẽ vượt ra khỏi khuôn khổ gia đình ấy.
Năm 1941, Nhật khai chiến với Mỹ. Cha của Satôcô bị động viên vào quân đội; còn cô và em trai bị ép buộc vào làm việc ở một hãnh chế tạo máy bay. Năm 1945, khi chiến tranh kết thúc, cô ngã bệnh lao vì kiệt lực; còn em trai cô đã chết trước đó cũng vì lao lực. Năm 1946, cô vào học trường Dược ở Tôkyô. Một ngày nọ, đang lúc đi dạo ngoài bãi biển, Satôcô bị cuốn hút chú ý đến hai Nữ Tu Thừa Sai Bỉ. Tuy không là người công giáo, nhưng một động cơ nào đó đã thúc đẩy cô theo chân hai nữ tu vào trong một nhà thờ. Vẻ đẹp của gương mặt bức tượng Đức Nữ Đồng Trinh như xoáy vào tim cô. Trở về nhà, cô đã học đạo với các Nữ Tu Thừa Sai và được rửa tội năm 1949. Đó cũng là năm cô đậu bằng dược sĩ.
Thời ấy, có một thừa sai Phanxicô người Ba Lan tên là Thầy Đô (Deno Sebroski), hoạt động nổi tiếng cho người nghèo ở khu ổ chuột Annê, ngoại ô Tôkyô. Cùng với một nhóm tu sĩ Ba Lan do thánh Maximilianô Kôlbê (sau tử đạo trong trại tập trung Đức quốc xã) hướng dẫn, Thầy Đô đã đến Nagasaki từ năm 1930. Vì những hoạt động nhân đạo nổi tiếng của Thầy, Thầy là người ngoại quốc duy nhất không bị bắt giữ trong chiến tranh, mà còn được chính Nhật hoàng ban thư giới thiệu, kêu gọi mọi người hãy giúp đỡ Thầy. Khi nghe biết về Thầy Đô, Satôcô đã nói với cha cô: "Nếu những người Ba Lan từ xa xôi đến Nhật để tận hiến cuộc đời phục vụ người nghèo, tại sao các tín hữu Nhật không thể làm như thế?" Thế là Satôcô đã đến gặp Thầy Đô và xin đi thăm khu Annê. Đêm hôm đó, cô không sao chợp mắt vì đầu óc miên man với hình ảnh những con người bất hạnh cô gặp ở Annê. Hơn nữa, gương mặt cũa vị tu sĩ già, lúc nào cũng ánh lên lòng thương xót và ý chí sắt đá phục vụ người nghèo, trở nên một thách thức đối với cô.
Sống chết với người nghèo
Khi thức giấc sáng hôm sau, Satôcô đi đến một quyết định táo bạo là phục vụ người nghèo mà không cần biết hậu quả sẽ ra sao. Công việc đầu tay của cô ở Annê là tổ chức lễ Giáng Sinh năm 1950 cho trẻ em. Sau đó cô vẫn tiếp tục sinh hoạt đều đặn với các em: dạy học, chăm sóc, nghe các em tâm sự về hoàn cảnh gia đình. Tuy thế, người dân Annê chưa tin tưởng cô. Họ nghĩ rằng cô tiểu thư nhà giàu ấy không sống cho họ, nhưng chỉ vì Chúa; cô yêu Chúa chứ thương yêu gì họ. Hơn nữa, người dân Annê tuy nghèo nhưng luôn hãnh diện về khả năng sinh sống nhờ thu lượm đồ phế liệu chứ không muốn nhận của bố thí. Để chứng tỏ lòng thành thật của mình, Satôcô bắt đầu đi lượm ve chai và đồ phế liệu, để kiếm quĩ tổ chức các sinh hoạt cho trẻ. Dần dần, cô đã cảm hóa được những người lớn nhờ sự đơn sơ, vui vẻ và nhờ tình thương chân thành cô dành cho con em họ. Chính người lãnh đạo cộng đoàn Annê tặng cô chiếc xe đẩy để công việc thu lượm phế liệu của cô được dễ dàng hơn. Mỗi lần cần món tiền lớn để tổ chức những sinh hoạt đặc biệt như đi nghỉ hè, Satôcô thường cầu khẩn Mẹ Maria và luôn kiếm được số tiền cần thiết. Những hoạt động từ thiện của cô đã gây tiếng vang, đến độ tên tuổi cô xuất hiện cả trên báo chí và truyền hình.
Một lần nọ, cộng đoàn Annê muốn mua lại của thành phố một thửa đất lớn để qui hoạch lại khu phố với một trung tâm hướng nghiệp, một nhà thờ và một công viên. Tuy nhiên số tiền 25 triệu yên vượt quá sức của cộng đồng. Nhân cuộc họp thương lượng lần cuối của lãnh đạo cộng đồng với chính quyền thành phố, Satôcô đã trao cho phía chính phủ cuốn sách "Những trẻ em ở khu ổ chuột Annê" mà cô viết 4 năm trước đó; đồng thời cô cầu nguyện cật lực cho dự án này. Sau này khi cân nhắc lại, chính quyền đã đồng ý nhượng khu đất với giá 15 triệu, trả góp trong 5 năm.
Vì làm việc quá sức, lại ăn ngủ thất thường, nên chứng bệnh lao mang lúc 15 tuổi nay quay lại đòi mạng Satôcô. Cô đã dâng căn bệnh cho Chúa để cầu nguyện cho người dân Annê có được cuộc sống tươi đẹp hơn. Ngày 20.1.1958, khu phố mới Annê được khánh thành. Ba ngày sau, "Satôcô của khu ổ chuột Annê" qua đời ở tuổi 29. Trong những ngày cuối đời, cha mẹ cô đã đem cô trở lại Annê, để cô qua đời tại nơi cô hằng yêu mến (viết theo Mẫu Gương Thánh Thiện, trang 131-142)
Thiên Chúa giàu lòng thương xót
Tấm gương của cô Satôcô và Thầy Đô hẳn làm chúng ta phải cảm phục. Để có thể làm những cử chỉ bác ái như thế, ắt các vị phải có một lòng thương cảm con người sâu xa và một đức tin mạnh mẽ vào Chúa. Thật ra, chính Thiên Chúa đã đi bước trước và là mẫu gương cho nhân loại về lòng thương xót vượt qua mọi rào cản; Đấng ban Thánh Thần trong con tim mọi người, đã khơi dậy nơi họ lòng yêu thương, xả kỷ, hướng đến tha nhân. Dụ ngôn ông chủ vườn nho hôm nay là một mạc khải của Đức Giêsu về Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót.
Thật vậy, ông chủ vườn nho ấy đã cư xử với lòng thương xót chứ không theo lối "công bằng sòng phẳng" như người đời. Với lòng thương xót, ông đã đi tìm những con người khốn khổ để giúp họ có được những thứ cần thiết cho cuộc sống. Trong dụ ngôn, những người khốn khổ đó là những người thợ không kiếm được việc làm. Không như những chủ vườn khác chỉ ra kêu đủ số thợ một lần vào sáng sớm, ông đã ra ngoài kiếm họ những 5 lần. Điều khó hiểu là mãi đến giờ thứ 11 ông còn ra kêu thợ vào làm chỉ một giờ; trong khi dụ ngôn không có dấu chỉ nào cho thấy có công việc đột xuất cần thêm thợ. Điều đó chỉ có thể được cắt nghĩa như sau: đích nhắm của ông chủ không là những công việc, nhưng là, những con người khốn khổ cần bán sức lao động để kiếm sống hàng ngày. Chính vì vậy mà ông bận tâm nhiều đến những người thợ mà mãi đến giờ thứ 6, 9, 11 hãy còn thơ thẩn ngoài chợ, chưa được ai tuyển dụng; và ông đã ra ngoài những 5 lần.
Hơn thế, việc ông trả lương đồng đều: một quan tiền cho mọi người thợ [số tiền cần thiết để nuôi sống một gia đình trong một ngày], càng cho thấy rõ nét hơn rằng việc tuyển dụng chỉ là "cái cớ" để ông chủ nhân hậu giúp đỡ những người thợ ít mau mắn. Tuy nhiên, lối cư xử đầy thương xót của ông đã vấp phải những lời dị nghị của những con người vốn chỉ quen với thứ công bằng gắt gao đầy vị kỷ, thứ công bằng này thẳng tay gạt ra ngoài những kẻ yếu thế, không đạt điều kiện của luật chơi "tiền có trao, cháo mới múc". Trong khi đó, lòng thương xót thì vượt xa lẽ công bằng: nó không chiết tính sự tương xứng giữa "cái cho" và "cái nhận", cũng không nghĩ đến chuyện thiệt hơn; nhưng nhìn thẳng vào sự khốn cùng của con người, rồi lao mình cứu giúp họ một cách nhưng không, hoàn toàn vô điều kiện, bất chấp lời đàm tiếu, bất chấp mọi rào cản. Tóm lại, lòng thương xót là hình thức công bằng thượng đẳng, vì nó nhằm đem đến cho mọi người, từ những người bé mọn nhất, một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con cái Thiên Chúa.
Đó chính là cách thức mà Thiên Chúa đã hành xử với toàn thể nhân loại, khi Người ban Con Một đến chịu chết để cứu độ mọi người, bất kể họ là Do Thái hay dân ngoại; đạo đức hay tội lỗi; bất kể họ trở lại với Chúa vào thời điểm nào của cuộc đời họ: dù là "rất sớm" như một số vị thánh, hay chỉ vào giờ phút cuối cùng; giờ thứ 11, như trường hợp người trộm lành.
Nước Trời giống như gia chủ kia, ... đã cư xử với lòng thương xót đối với tất cả mọi người, từ người sau hết đến người trước hết. Để được thuộc về Nước Trời đó, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi theo gương ông chủ, và những người đi trước như Thầy Đô và cô Satôcô, cư xử với mọi người bằng một lòng nhân từ thương xót, vượt trên mọi rào cản sắc tộc, tôn giáo, chính kiến, giai cấp xã hội... và đôi lúc, phải vượt xa cả những nguyên tắc luân lý thông thường.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Theo bạn, ông chủ vườn nho có bất công hay thiên vị không? Bạn có thể bào chữa cho ông như thế nào?
2. Tại sao sống công bằng là cần thiết, nhưng chưa đủ? Tại sao cần phải có cả lòng thương xót?
3. Bạn có biết mẫu gương nào về lòng thương xót tại Việt Nam, tương tự mẫu gương của Thầy Đô và cô Satôcô không?
--------------------------------
Đài Hà Nội đưa tin lúc 07g15 sáng ngày 21/09/1987 như sau: “Nước Hoa Kỳ vẫn: TN 25-A10
Đài Hà Nội đưa tin lúc 07g15 sáng ngày 21/09/1987 như sau: “Nước Hoa Kỳ vẫn còn 9.500.000 người thất nghiệp, hơn 4 triệu người ăn xin, hơn 300.000 người tự tử hàng năm”. Vấn đề tạo công ăn việc làm cho người dân là một việc khó khăn, làm đau đầu các nhà cầm quyền trên thế giới.
Dụ ngôn Tin mừng hôm nay đề cập đến một ông chủ giúp nhiều người thất nghiệp có công ăn việc làm. Ông đã đối xử với họ rất công bằng và bác ái.
Công bằng vì ông đã trả lương cho thợ đúng với sự thỏa thuận giữa chủ và thợ, đúng với thời giá thích hợp với hoàn cảnh công nhân: Công mỗi ngày một đồng đủ nuôi sống họ và gia đình cho chi phí tiêu dùng cả ngày.
Ông còn thực thi công bằng xa hơn ở điểm là ông tự cho mình có trách nhiệm phải tìm giúp các kẻ thất nghiệp có công ăn việc làm. Đây là bổn phận của chủ đối với thợ, của cha mẹ đối với con cái, của chính quyền đối với người dân. Họ phải chịu trách nhiệm tạo công ăn việc làm xứng đáng với phẩm giá con người, phải lo tổ chức xã hội phân chia quyền lợi và nghĩa vụ tương đối đồng đều, không ai bị thiệt thòi quá và không ai hưởng lợi quá.
Hiến Chế Giáo Hội trong thế giới ngày nay của Công Đồng Vatican II đã xác định: “Trong những hoàn cảnh cụ thể. Chính xã hội có bổn phận góp phần giúp người công nhân có công ăn việc làm” (số 67).
Từ thực thi công bằng cá nhân và xã hội, ông chủ vươn lên thực thi bác ái. Bác ái ở đây là ông chủ đã thương những người thợ, trả cho những người chỉ làm ít giờ cũng được lãnh một đồng như người làm cả ngày. Phải chăng ông đã thấy hoàn cảnh gia đình nghèo khổ của họ ? Ông đã thấy họ cũng phải khổ sở suốt ngày đi tìm việc làm. Ông đã hỏi: “Sao các anh đứng đây suốt ngày vô công rỗi nghề thế ? Họ đáp: Vì không có ai thuê chúng cháu cả”. Câu đáp thật tội nghiệp ! Cả ngày trông chờ có người mướn, cả ngày lo lắng làm sao có tiền nuôi gia đình đây !
Lòng bác ái của ông chủ dẫn ông xa hơn nữa: Giờ nào ông cũng chăm lo đi tìm tất cả những kẻ thất nghiệp, giúp họ có công ăn việc làm. Ông biết rằng: “Nhờ việc làm, con người giúp nuôi sống mình và gia đình, liên kết với anh em và phục vụ lẫn nhau, có thể thực thi bác ái và góp phần vào công cuộc sáng tạo kiệt tác của Thiên Chúa. Hơn nữa, nhờ việc làm con người cộng tác vào chính công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã nâng cao giá trị của việc làm với chính hai bàn tay của mình tại Nagiaret” (Gaudium et Spes 67).
Thời thượng cổ có tiếng là chuyên chế bóc lột, thế mà ông chủ này lại có quan niệm công bình bác ái thật lạ lùng ! Dù thời nay có tiếng là văn minh dân chủ tiên tiến, thế mà chưa thấy một chế độ nào thực hiện được như vậy ! Chế độ nào cũng đầy dẫy những bất công, bóc lột, bất nhân. Những tệ nạn chiến tranh, khủng bố, đảo chánh, biểu tình là những hiện tượng hậu quả của các xã hội bất công.
Ông chủ trong Tin mừng hôm nay thật là siêu việt, ông đã thực thi và đề ra chính sách công bằng, bác ái vượt thời gian và không gian. Ông chủ đó chính là Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế đã đặt ra giải pháp cứu con người và truyền dạy con người phải biết sống công bằng và bác ái, như thế mới mong xây dựng được một xã hội tuyệt hảo.
Thế nhưng, con người từ bao nhiêu ngàn năm vẫn đố kỵ, ghen ghét lẫn nhau. “Họ lẩm bẩm kêu trách chủ rằng: bọn sau chỉ làm một giờ mà ông trả bằng chúng tôi sao ?”. Ông buộc lòng phải sửa trị thói ghen tị đó bằng vạch cho họ thấy lòng bác ái cao cả của ông: “Chẳng lẽ tôi không có quyền cho của cải của tôi sao ? Hay vì bạn thấy lòng tốt của tôi, mà bạn ghen tức ư!”
Năm 1987, nhiều nước tư bản phản đối các công ty tư nhân của Nhật hợp tác phát triển kinh tế Việt Nam. Đó là thói ghen tị bất công, bất nhân. Mình không được ăn thì đạp đổ và muốn dìm cả dân tộc nghèo đói vì chiến tranh bất nhân.
Ông chủ không trả tiền thêm cho bọn thợ làm cả ngày ! không phải vì ông keo kiệt, bóc lột. Nếu ông keo kiệt bóc lột, ông chẳng hậu đãi các thợ làm ít giờ. Nhưng ông phải giữ đúng công bằng vì không cho phép lòng tham của họ vơ vét thêm, làm dịp cho họ ăn chơi hoang phí.
Lạy Chúa, “trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối của Chúa cao hơn đường lối của con người bấy nhiêu” (Is. 55,9). Lạy Đức Kitô là ông chủ muôn đời, xin bày tỏ đường lối cao cả của Người nơi con như Người đã thực hiện nơi thánh Phaolô, để sinh hoa kết quả cho anh em con và cũng là mối lợi bội phần cho con lúc chết. Amen. (Pl. 1, 20-24).
--------------------------------
Lm Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Chú chồn trong câu chuyện "Hoàng tử nhỏ " của tác giả người Pháp Saint Exupéry, sau: TN 25-A11
Chú chồn trong câu chuyện "Hoàng tử nhỏ " của tác giả người Pháp Saint Exupéry, sau khi đã được thuần hóa, luôn quanh quẩn trong nhà và bên chân Hoàng tử bé. Muốn đạt được một mục đích nào, muốn thành công trong công việc nào, con người luôn phải phấn đấu, luôn phải hy sinh, quảng đại. Phấn đấu để kiên cường, nhẫn nại học tập, uốn nắn, rèn luyện hầu có kết quả mỹ mãn. Quảng đại để có trái tim biết nhạy cảm,tâm hồn mở rộng mà tiếp thu, vươn tiến. Lời Chúa hôm nay cho thấy lòng quảng đại của Chúa Giêsu giúp con người đạt được nước trời chứ không phải do công nghiệp của con người .
CHÚA DÙNG DỤ NGÔN ĐỂ DẬY CON NGƯỜI
Chúa Giêsu trên con đường hành trình truyền giáo, đã dùng nhiều dụ ngôn để nói lên giáo lý của Ngài. Ngài đã dùng nhiều hoàn cảnh, sự việc, những điều xẩy ra trước mắt, xung quanh Ngài, giữa xã hội để dậy dỗ con người, loan truyền chân lý và giúp con người nhận ra nước trời " Bấy giờ Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói Hãy hối cải vì nước trời đã gần đến "( Mt 4,17 ) " Thời buổi đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần, hãy hối cải và tin vào Tin Mừng"( Mc 1,14-15 ). Chúa luôn luôn dùng những ví dụ cụ thể trong xã hội Do Thái, trong đất nước Do Thái mà Ngài đang sống, đang phục vụ để nói lên chân lý và những mạc khải của Ngài. Chẳng hạn, nói về sự khiêm nhượng, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện. Nói về lòng nhân từ chạnh thương của Thiên Chúa, Ngài dùng dụ ngôn người con trai hoang đàng. Có thể nói Chúa Giêsu đã không trình bầy bất cứ điều gì mà không dùng những tỷ dụ, những dụ ngôn, những ví dụ thực tế dễ hiểu, giúp con người một sớm một chiều có thể nhận ra sự thật và điều Chúa Giêsu muốn răn dậy, muốn mạc khải, muốn vén lên và tỏ lộ cho nhân loại được thấy. Những dụ ngôn, lời nói của Chúa luôn kèm theo những phép lạ hầu giúp con người nhận ra uy quyền và tình thương của Thiên Chúa. Chẳng hạn, thấy đoàn lũ dân chúng đi theo Chúa, nghe Ngài giảng dậy, chiều đã xế, dân đói, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho cá và bánh hóa nên nhiều để nuôi dân chúng ăn uống no nê.
DỤ NGÔN LÀM VƯỜN NHO
Lời Chúa trong Tin Mừng Mt 20,1-16a là lời mời gọi con người phấn đấu làm việc. Chúa không nói trên mây trên gió. Vườn nho là một thực tế ở dưới đất. Vườn nho không ở trên mây mà nó đang ở ngay giữa xã hội, đang ở giữa con người, đang ở xung quanh, đang ở bên cạnh hay ở đằng trước hoặc đằng sau những người Do Thái lúc đó. Chúa mời gọi con người làm việc, con người phải đáp trả lại tiếng mời gọi của Chúa vì Chúa đến gần (bài đọc 1). Con người nhờ có quan hệ mật thiết với Thiên Chúa, nên mọi sự đều có ý nghĩa (bài đọc 2). Giáo Hội là vườn nho theo nghĩa tích cực.Con người được mời vào làm vườn nho của Chúa.Chúa không phân biệt người ở trong hay ở ngoài, người đến trước hay người đến sau. Pharisiêu, biệt phái và các rabbi Do Thái thường tính hơn tính thiệt, họ bắt Chúa theo ý họ, họ tưởng rằng công trạng của họ sẽ giúp họ đạt nước Trời. Nhưng họ đâu có hiểu được tất cả là do tình thương của Chúa, tất cả do lòng nhân từ, quảng đại và do lòng tốt của Chúa mà thành sự . Nước trời đạt được không do công trạng và thành tích của con người . Tất cả do sự nhưng không của tình yêu vô biên của Chúa. Chúa đối xử với con người cách công bằng, bác ái và yêu thương. Dù con người được tuyển chọn như dân Do Thái hay những con người bị gán là ở ngoài, con người tới sau. Con người làm vào giờ thứ 11, tất cả đều bằng nhau vì Chúa không đoán xét con người theo việc, theo công trạng họ làm mà do lòng nhân của Thiên Chúa. Con người theo tính tự nhiên, thường so bì nhau, ghen tương,ích kỷ , cản ngăn Chúa, làm rào cản người khác tới với Chúa và Chúa tới với con người.Chúa đã chẳng nói: " Này bạn,tôi đâu có xử bất công với bạn" (Mt 20, 13).
TIN MỪNG ĐÒI HỎI
Tin Mừng của Chúa Giêsu không chấp nhận sự thỏa hiệp dễ dãi, không chấp nhận thái độ trần tục, thế gian nào cả: những đắn đo, so bì của người thanh niên giầu có, bủn xỉn của Giuđa, lo lắng của Phêrô, lòng tham không đáy và xem ra ngây ngô của hai người con của ông Dêbêđê, sự ngần ngừ của Tôma,tính keo kiệt, bủn xỉn và bẩn thỉu của những người thợ làm việc từ ban sáng. Tất cả dù Do Thái, Hy Lạp, La Mã vv…và dân ngoại, đều được chủ mời làm việc trong vườn nho Chúa, với giá thỏa thuận, sòng phẳng là một đồng. Chúa thưởng cho ai là do lòng nhân hậu và quảng đại của Chúa. Chúa yêu thương mọi người và không loại trừ bất cứ một ai . Chúa luôn uốn nắn, cải hóa con người. Chú chồn được thuần hóa do con người kiên nhẫn uốn nắn. Con người còn quí trọng gấp ngàn lần con chồn, Chúa cải hóa,biến đổi con người và ban thưởng cho con người do lòng Chúa vô cùng quảng đại.
GỢI Ý CHIA SẺ
1.Bạn có thái độ nào khi thấy người khác được may mắn, được sự lành ?
2.Bạn có ghen tỵ với người khác khi thấy người anh em được trổi trang hơn mình ?
3.Bạn có quảng đại không ?
--------------------------------
Bangladesh là một nước mà ai trong chúng ta cũng biết tới vì sự nghèo nàn nhất: TN 25-A12
Bangladesh là một nước mà ai trong chúng ta cũng biết tới vì sự nghèo nàn nhất trên thế giới. Mà trong một nước nghèo thì nghề hành khất vẫn là nghề thịnh hành nhất. Một nhà truyền giáo đã thuật lại một trường hợp hành khất đặc biệt như sau:
«Sau một ngày làm việc mệt nhọc, có người đàn ông nọ đi về nhà mình bằng phương tiện là đôi chân. Người đàn ông dừng lại dưới một bóng cây và thiếp ngủ đi. Dáng vẻ của ông tiều tụy đến độ những người qua lại tưởng ông là người hành khất, và không ai bảo ai, kẻ qua người lại đều dừng chân và bỏ vào chiếc mũ của ông vài đồng xu nhỏ. Chẳng mấy chốc, chiếc mũ cũ kỹ của ông đã được khá tiền.
Vừa thức giấc, người đàn ông ngạc nhiên trước sự quảng đại của khách qua đường, ông đếm từng xu nhỏ, và số tiền còn lớn hơn một ngày công của ông. Người đàn ông mỉm cười về «người hành khất bất đắc dĩ» của mình!
Trên đường về, ông nhìn thấy nhiều người hành khất đui mù tàng tật, ông lặng lẽ đến từng người chia cho họ số tiền đã thu được, rồi tiếp tục đoạn đường còn lại».
Trong bài dụ ngôn của Chúa nhật này, có nhiều điều làm cho chúng ta thắc mắc: Tại sao Chúa Giêsu lại kể ra dụ ngôn này? Trong cuộc sống thực tế của thời đó, ai được ví là đám thợ được thuê sớm và ai là đám thợ được thuê muộn... Ngày nay, đa số các nhà diễn giải Kinh Thánh đều cho rằng những người được thuê muộn trong dụ ngôn là những con người mà bị xã hội thời đó bỏ rơi. Họ là hạng người mà nhóm Biệt Phái và Pha-ri-siêu coi là tội lỗi... Họ cũng giống " nhà hành khất bất đắc dĩ kia", sống ngày nay không dám nghĩ đến ngày mai, và nếu họ được ai thuê mướn trong ngày thì họ vui sướng vô cùng, vì biết được có gì làm "ấm cúng cho ngày mai". Còn nói về mặt tinh thần, thì họ là những con người đã biết lắng nghe Tin Mừng mang đến từ Chúa Giêsu và họ thống hối ăn năn... Còn thợ được thuê sớm chính là đám Biệt Phái và Pha-ri-siêu, họ tự cho mình là công chính nên đã chỉ trích Chúa lúc lãnh lương cuối ngày.
«Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn..! Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn sinh ra ghen tức?». Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã đảo lộn giá trị: những người nhỏ bé trở thành lớn trước con mắt của Chúa, họ là đối tượng của Nước Thiên Chúa.
Ghen tương là con bệnh truyền nhiễm từ khi con người mới sinh ra. Nhất là ghen với Thiên Chúa thì chúng ta đừng nên. Bởi vì tất cả những gì chúng ta có đều do ân sủng của Ngài ban một cách nhưng không. Ngài có quyền tốt với kẻ khác cũng như những người khác có quyền hơn chúng ta về cái này hay cái khác và ngược lại. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta biết mang cái "khả năng" của mình xây dựng và mở mang Nước Ngài. Nếu người hành khất bất đắc dĩ kia còn biết rộng lượng, quảng đại đối với những người cùng chung số phận mình, thì Thiên Chúa là Đấng «Từ bi nhân hậu và Công chính» chắc chắn Ngài sẽ không bao giờ quên được mỗi chúng ta. Vì chúng ta mãi mãi là con cái yêu quí của Ngài.
--------------------------------
CHỦ ÐỀ: Lòng tốt của Thiên Chúa - Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc I: Thiên Chúa khuyến khích tội nhân trở về với Ngài, đừng sợ Ngài trừng phạt. Chắc chắn Ngài sẽ tha thứ, bởi vì "Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi"
- Ðáp ca: "Chúa tốt lành với tất cả mọi người"
- Tin Mừng: Ông chủ vườn nho trả lương cho người thợ làm giờ cuối cùng cũng một đồng bằng với những người thợ làm từ sáng sớm.
Minh họa
- Mille images 86 D
- "Những người vào làm trước nhất tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn" (Mt 20,10)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến,
Nếu chúng ta tìm hiểu kỹ về Thiên Chúa, chúng ta sẽ gặp nhiều bất ngờ. Thiên Chúa mà ta tưởng: TN 25-A13
Nếu chúng ta tìm hiểu kỹ về Thiên Chúa, chúng ta sẽ gặp nhiều bất ngờ. Thiên Chúa mà ta tưởng rằng đã hiểu rất rõ lại không như ta tưởng; suy nghĩ của Ngài nhiều khi không giống suy nghĩ của chúng ta; cách đối xử của Ngài cũng lắm bất ngờ.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu Ngài hơn, và nhất là biết suy nghĩ và cư xử như Ngài.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta ít lo tìm hiểu Chúa nên đã không sống như Ngài.
- Cách chúng ta đối xử với người khác dựa trên quyền lợi bản thân hơn là dựa trên lòng tốt.
- Nhiều khi thấy một người khác được điều gì tốt, thay vì vui mừng, chúng ta lại khó chịu.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 55,6-9):
Kẻ có tội thường sợ Thiên Chúa trừng phạt nên trốn lánh Ngài. Mà càng trốn lánh Thiên Chúa thì càng lún sâu trong tội.
Qua lời ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa khuyến khích họ cứ an tâm trở về. "Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi": Ngài không nghĩ đến trừng phạt mà chỉ nghĩ đến cứu vớt, Người không bắt tội mà chỉ thứ tha.
2. Ðáp ca (Tv 144):
Tv này ca tụng sự vĩ đại của Thiên Chúa, sự vĩ đại này chính là tấm lòng của Ngài: nhân hậu, từ bi, kiên nhẫn, xót thương và tốt lành với tất cả mọi người
3. Tin Mừng (Mt 20,1-16a):
Dụ ngôn này phản ảnh hai cách suy nghĩ:
- Cách suy nghĩ của đám thợ làm vườn nho là suy nghĩ theo công bằng: kẻ làm ít giờ lẽ ra phải được lãnh ít hơn người làm nhiều giờ. Ðây cũng là suy nghĩ của loài người chúng ta.
- Cách suy nghĩ của ông chủ vườn nho: vẫn trả đủ lương cho những người làm nhiều giờ, nhưng vì lòng tốt nên cũng trả cho người thợ làm giờ cuối cùng đủ một đồng. Ðây là cách suy nghĩ của Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (Pl 1,20c.24-27) (Chủ đề phụ):
* Trong các Chúa nhựt XXV-XXVIII, bài đọc II được trích từ thư Phaolô gởi tín hữu Philipphê. (Xin xem bài giới thiệu tổng quát về Thư Philipphê, ngay sau bài này)
Ðây là bức thư Phaolô viết trong khi bị cầm tù. Trong thời gian Phaolô ở từ, tín hữu Philipphê đã thường xuyên thăm viếng, trợ giúp và còn phái người tới chăm sóc cho Phaolô.
Trong đoạn thư này, Phaolô nghĩ đến hai tình huống:
- Một là ông sẽ được tha tự do: khi đó ông sẽ tiếp tục rao giảng Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô, và Ngài sẽ được vẻ vang.
- Hai là ông bị xử tử: cái chết của ông vì Tin Mừng cũng sẽ làm vẻ vang Ðức Kitô.
Vì thế Phaolô kết luận: "Dù tôi sống hay tôi chết, Ðức Kitô cũng sẽ được vẻ vang nơi tôi"
IV. Gợi ý giảng
1. Tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng loài người
Loài người chúng ta suy nghĩ giống như một người buôn bán: món hàng trị giá thế nào, vậy phải mua thế nào, bán thế nào ? bao nhiêu thì đúng, bao nhiêu thì sai ?
Chúng ta áp dụng suy nghĩ ấy chẳng những trong đối xử với người khác, mà còn cho cả Thiên Chúa nữa: tôi đã làm gì và làm bao nhiêu, cho nên Thiên Chúa phải ban cho tôi ơn gì và ban bao nhiêu. Chúng ta cho rằng như thế là công bằng.
Nhưng Thiên Chúa không muốn làm người bán cũng không muốn làm người mua. Ngài chỉ muốn làm người Cha, yêu thương chúng ta là con. Ngài chỉ có thương yêu và chỉ dùng lòng tốt để đối xử. Ðối với từng đứa con, Ngài không xét xem nó đã làm được gì, nó đáng được bao nhiêu. Ngài chỉ nghĩ nó cần được chăm sóc như thế nào, ban cho nó cái gì là tốt nhất
Khi lẩm bẩm trách, những người thợ làm nhiều giờ muốn lấy suy nghĩ của mình áp đặt lên suy nghĩ của ông chủ, họ muốn ông đừng làm người cha yêu thương mà hãy làm một người buôn bán vô tình.
2. Công bình và thương xót
Nhiều người đọc xong dụ ngôn này đã nghĩ rằng Thiên Chúa đối xử không công bình vì Ngài đã trả cùng một đồng cho những người làm việc suốt ngày và người chỉ làm có một giờ.
Thực ra chẳng có gì là không công bình cả: Vì ông chủ đã thỏa thuận với thợ về tiền công mỗi ngày là một đồng, nên nếu ông trả không đủ một đồng thì mới bất công. Nói cho đúng hơn: đối với những người làm suốt ngày thì ông chủ công bình; còn đối với người làm chỉ có một giờ thì ông chủ đã đối xử hơn mức công bình: ông đối xử theo lòng thương xót.
Xem ra, đòi hỏi công bình là điều hợp lý. Nhưng xét theo thực tế, chúng ta không chịu nổi nếu Chúa cứ theo công bình mà đối xử với chúng ta, đúng như lời Thánh vịnh "Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được". Cho nên, xét cho cùng thì chúng ta cần đến lòng thương xót của Chúa hơn là đến đức công bình của Ngài.
Vả lại, đối xử công bình là đối xử bằng lý, còn đối xử với lòng thương xót là đối xử theo tình. Mỉa mai thay, bất chính như con người thì hay đòi đối xử bằng lý, còn công chính như Thiên Chúa lại thích đối xử bằng tình.
Flor McCarthy đã chứng kiến một cảnh tượng tương tự với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ ra sao sau khi chứng kiến nó: có lần ông đến Cape Town nước Nam Phi. Ðó là một buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không làm gì cả. Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang khi những người khác lo làm ăn thì những người này đứng đó chẳng làm gì cả. Ðến trưa ông vẫn còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi đã nhễ nhại ướt đẫm lưng áo. Hỏi kỹ thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có ai đến thuê họ đi làm chăng. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người đó. Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp. Hôm đó McCarthy rất hối hận vì đã vội kết án những con người tội nghiệp ấy. Và ông đã soạn một lời cầu nguyện như sau:
"Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng các ngươi
và đường lối Ta không giống đường lối các ngươi"
"Như trời xanh cao hơn đất bao nhiêu
thì đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu"
Lạy Chúa
Tư tưởng chúng con rất nông cạn, đường lối chúng con rất hẹp hòi
Bởi vì trí óc chúng con nghèo nàn và con tim chúng con chật chội.
Xin Chúa mở rộng trí óc và con tim chúng con
để chúng con suy nghĩ giống Chúa hơn, và hành động giống Chúa hơn.
Xin giúp chúng con đừng bực bội vì lòng tốt của Chúa đối với người khác
Xin giúp chúng con ý đừng cho rằng chúng con đáng được Chúa thưởng công
Xin giúp chúng con ý thức rằng chúng con cần đến lòng thương xót hơn là đức công bình của Chúa. Amen.
3. Giờ thứ 11
Cuối đoạn Tin Mừng này có một câu bất ngờ: "Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".
Trong Tin Mừng có nhiều thí dụ minh họa: Một chàng thanh niên giàu có và đạo đức hỏi Ðức Giêsu: tôi đã giữ các giới răn từ thuở nhỏ, vậy tôi phải làm gì thêm để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ? Lần kia Phêrô áy náy trình với Chúa: Thưa Thầy, này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy thì sao ? Bồn chồn hơn nữa, hai người con Ông Dêbêđê nghĩ rằng mình thuộc số môn đệ đi theo Thầy trước hết cho nên xin Thầy dành cho mình hai chỗ tả hữu trong Nước của Ngài Nhưng, đối với những "kẻ trước hết" ấy, Ðức Giêsu đã không dành hai chỗ tả hữu ưu tiên, Ngài lại ban chúng cho hai tên trộm cướp. Ðúng vậy, hai "kẻ sau hết" này đã ở hai bên tả hữu của Thập giá.
Nói "trước hết" và "sau hết" là tính theo thời gian. Nhưng liên hệ với Chúa không tính bằng thời gian mà bằng sự gắn bó tình yêu.
4. Hãy có một não trạng mới
Ðiểm sâu sắc nhất của dụ ngôn những người thợ vườn nho là đặt đối lập nhau hai não trạng:
a/ Não trạng của những thợ làm nhiều giờ là óc tính toán: làm gì cũng là để tính công, công càng nhiều thì phải được hưởng càng nhiều.
Ðây là não trạng của đa số tín hữu chúng ta. Chúng ta tính toán mình đã giữ đạo bao nhiêu năm, đọc kinh dự lễ bao nhiều lần, làm việc lành phúc đức bao nhiêu việc v.v.
Với não trạng ấy, chúng ta chăm chăm nhìn đến những việc mình đã làm và cứ bo bo nhìn vào sổ thu của mình. Chúng ta nghĩ rằng khi đến cuối đời (hết ngày làm việc), trình quyển sổ thu đó cho Chúa thì chắc chắn Ngài sẽ mở kho tàng ơn cứu độ và thanh toán sòng phẳng cho chúng ta.
Nhưng trong não trạng ấy, ta là ai, Thiên Chúa là ai, liên hệ giữa Thiên Chúa và ta là gì ? Ta chỉ là người làm công, Thiên Chúa là người thuê mướn, liên hệ hai bên là hợp đồng làm ăn.
Sống đạo theo não trạng này thật là nặng nhọc và vô tình vô nghĩa.
b/ Thực ra, Thiên Chúa đâu có tự coi là người thuê mướn và cũng đâu có coi chúng ta là người làm công.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta theo hoàn cảnh của mỗi người chúng ta. Người thì hoàn cảnh này (đứng trước vườn nho từ sáng sớm), người thì hoàn cảnh khác (đứng trước vườn nho khi đã gần hết ngày), nhưng người nào cũng được Thiên Chúa thương và ban cho ơn cứu độ (được vào vườn nho, được lãnh một đồng).
Não trạng thoải mái và hạnh phúc nhất là cảm nhận tình thương ấy và đáp lại tình thương bằng cách tận tâm tận lực canh tác vườn nho, không tính toán làm lâu hay làm mau, làm được nhiều hay làm được ít, chịu cực khổ nhiều hay ít.
Cần phải thay đổi não trạng: sống đạo không bằng tính toán mà bằng cả tấm lòng.
5. Chuyện minh họa
Ðây là diễn tiến một cuộc chạy đua 3000 mét.
Lúc bắt đầu, những tay đua chạy san sát nhau thành một nhóm rất đông. Một lúc sau, một nhóm nhỏ đã tách rời đám đông và chạy phía trước. Còn vài chục mét nữa thì một người vọt lên rất nhanh và tới đích.
Khán giả vỗ tay hoan hô nồng nhiệt. Một số người ôm những bó hoa tới tặng nhà vô địch. Các phóng viên xách Camera và máy chụp hình tới, vừa bấm máy, vừa thu hình, vừa phỏng vấn. Những người hâm mộ tới xin chữ ký. Một số hãng thương mại đến đề nghị ký hợp đồng với nhà vô địch.
Cuối cùng, ông chủ tịch Ban Tổ chức xuất hiện. Người ta mời nhà vô địch lên đứng trên một chiếc bục cao, người hạng nhì đứng trên bục bên phải thấp hơn một chút, và người hạnh ba bục bên trái thấp hơn chút nữa. Người ta mang đến 3 chiếc huy chương để ông chủ tịch đeo vào cổ họ.
Nhưng ông chủ tịch ngỏ ý muốn gặp 3 người tới đích cuối cùng. Ban tổ chức không hiểu, nhưng vẫn làm theo lời ông. Khi họ tới, ông tươi cười trao chiếc huy chương vàng cho người hạng chót, chiếc huy chương bạc thuộc về người áp chót, và chiếc huy chương đồng cho người kế tiếp.
Nhà vô địch bực bội phản đối:
- Như thế là không công bình !
- Tại sao ? Ông chủ tịch hỏi lại.
- Tôi hạng nhất, tôi phải được thưởng.
- Thì anh đã được thưởng rồi. Này nhé khán giả đã vỗ tay hoan hô anh, báo chí đã chụp hình anh, những người hâm mộ đã tặng hoa cho anh, những hãng thương mại đã ký hợp đồng với anh Anh đã được thưởng quá nhiều rồi. Bây giờ anh hãy nghĩ tới những người chạy sau chót: họ cũng cố gắng như anh, vất vả không kém gì anh, và cũng chạy hết đoạn đường 3000 mét như anh. Anh thử nghĩ xem có công bình không khi anh thì được tất cả còn họ thì chẳng được gì ?
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là tình yêu. Người yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Chúa Giêsu đã giao cho hàng Linh mục sứ mạng rao giảng Tin Mừng / và cử hành các bí tích mà phục vụ dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các ngài luôn trung thành / khôn ngoan và nhân hậu.
2- Trên thế giới ngày nay / hình như lòng khoan dung không còn ngự trị trong các sinh hoạt trần thế / do đó con người vẫn còn điên cuồng tàn sát lẫn nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng khoan dung ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt trong đời sống con người.
3- Hiện tại có biết bao người đang âm thầm hy sinh cả cuộc đời trên cánh đồng truyền giáo / để giới thiệu Chúa cho những anh chị em chưa nhận biết Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa giữ gìn / và nâng đỡ những anh chị em ấy / giữa muôn vàn thử thách trong đời sống chứng nhân của mình.
4- Tính ganh tị làm cho con người trở nên mù quáng / hẹp hòi / ích kỷ / thậm chí vu khống để bôi nhoi danh dự / để hạ người khác xuống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết can đảm sửa chữa tận gốc tật xấu kinh niên này.
CT: Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết sống như Chúa: luôn cư xử quảng đại và khoan dung với hết thảy mọi người, nhờ đó chúng con sẽ nên hoàn thiện như Chúa Cha trên trời. Chúa hằng sống và hiển trị
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đây, kẻ thì biết Chúa vào giờ thứ nhất, người thì chỉ mới biết Ngài vào giờ thứ 11. Nhưng Chúa đã thương tất cả chúng ta, cho tất cả chúng ta làm con trong nhà Ngài. Vậy tất cả chúng ta hãy trìu mến dâng lên Ngài lời kinh mà chính Chúa Giêsu đã dạy.
VII. Giải tán
Thiên Chúa đối xử với mọi người bằng lòng tốt. Xin Chúa giúp anh chị em ra về cũng đối xử bằng lòng tốt với mọi người.
--------------------------------
Trong phần chia sẻ hôm nay, tôi muốn trình bày về mối liên hệ giữa công bằng và: TN 25-A14
Trong phần chia sẻ hôm nay, tôi muốn trình bày về mối liên hệ giữa công bằng và bác ái. Vậy công bằng là gì ? Tôi xin thưa: Công bằng là không lấy hay giữ của người ta một cách trái phép, đồng thời phải hoàn trả cho họ cái của họ.
Vì thế đối với những tội sai lỗi đức công bằng, thì ăn năn xưng thú mà thôi chưa đủ, chúng ta còn có bổn phận phải hoàn trả và đền bù những thiệt hại đã gây ra cho người ta.
Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy: công bằng thường đi trước bác ái và làm nền tảng cho bác ái, vì nếu không có công bằng, thì cũng sẽ chẳng có bác ái.
Thế nhưng, trong Phúc âm cũng như trong cuộc sống, chúng ta lại thấy Thiên Chúa luôn vượt lên trên mức độ bình thường của công bằng, để tiến tới một mức độ cao cả hơn, tuyệt vời hơn, đó là mức độ của lòng nhân hậu, bởi vì Ngài luôn cư xử với chúng ta theo tình bác ái, theo lượng khoan dung. Sở dĩ như vậy cũng dễ hiểu, bởi vì bản tính của Ngài là Tình yêu, như lời thánh Gioan đã định nghĩa.
Có một người bị thất nghiệp, trong túi chỉ còn có mấy chục ngàn đồng bạc. Nghe nói trên thành phố có một xưởng cơ khí đang tuyển nhân công. Anh ta liền tính đến chuyện nắm lấy thời vận, nên đã quyết định làm một chuyến lên tỉnh.
Thế nhưng, vừa ra khỏi nhà, anh ta đã gặp một người ăn xin. Không ngần ngại, anh ta liền bố thí cho người ấy một nửa số tiền của mình. Vì không còn đủ tiền đi xe, nên anh ta đành phải cuốc bộ cho đến tận tỉnh. Và cũng rất may, anh ta đã được nhận vào làm việc trong xưởng cơ khí.
Lúc đầu, lương tháng của anh chả được bao nhiêu, chỉ ba cọc ba đồng mà thôi. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, do tính cần cù và siêng năng làm việc, cũng như do những sáng kiến đưa ra, anh ta được giám đốc tín nhiệm và cất nhắc, nên đã có được được một số lương hậu hĩnh. Phải chăng Chúa đã trả ơn cho anhta ngay trong những tháng ngày hiện tại ?
Đoạn Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy được điều ấy. Ông chủ đã đối xử với những người thợ, không phải chỉ chiếu theo lẽ công bằng vì đã trả lương cho những người thợ đầu tiên đúng với những gì đã thỏa thuận, mà hơn thế nữa, ông còn đối xử với nhưng người đến sau bằng một tình bác ái yêu thương, để họ có được một số tiền đem về nuôi sống gia đình.
Trong Phúc âm, chúng ta còn nhận thấy Chúa Giêsu luôn có một thái độ tràn ngập yêu thương, vượt lên trên cả sự mong ước của chúng ta.
Thực vậy, tại Cana, Ngài đã bảo các gia nhân cứ việc đổ nước cho đầy tới miệng chum để Ngài biến thành rượu ngon. Trên biển hồ Tiberiade, Ngài đã cho các môn đệ một mẻ cá lạ lùng, đầy cả hai thuyền. Trong nơi hoang vắng, Ngài đã làm cho bánh hóa nhiều để nuôi cả ngàn người đang đói mệt được ăn no mà vẫn còn dư tới mười hai thúng đầy những mẫu bánh vụn. Sau cùng, trên thập giá Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng để cứu chuộc chúng ta.
Chính vì thế, chúng ta hãy tin tưởng vào lòng nhân từ và thương xót của Chúa, bởi vì nếu chúng ta thành tâm phụng sự Ngài với tất cả khả năng của mình, chắc chắn Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta. Đây là điều chính Ngài đã xác quyết:
- "Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thày, thì Thày bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu."
Đồng thời, chúng ta không phải chỉ cư xử với nhau theo lẽ công bằng, mà còn phải cư xử với nhau theo đức bái ái. Thực vậy, mặc dù công bằng là nền tảng của đời sống xã hội, chúng ta phải tuân giữ đức công bằng đã đành, nhưng đồng thời còn phải thực thi tình bác ái, bởi vì bác ái luôn phải vượt lên trên công bằng.
Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy: công bằng thì sòng phẳng, nên dễ đưa tới chỗ lạnh lùng và băng giá. Còn bác ái thì chia sẻ nên bắc được một nhịp cầu cảm thông và tạo được một bàu khí nồng ấm. Công bằng thì đem lại sư ổn định và trật tự cho cộng đoàn, nhưng bác ái mới thắp lên niềm tin yêu và hy vọng trong cõi lòng, để chúng ta tiếp tục cất bước trên đường đời, vốn đã có nhiều chông gai và sỏi đá. Chúng ta sẽ không thể nào đạt tới hạnh phúc đích thực, nếu chỉ sống theo lẽ công bằng mà thôi.
Noi gương Thiên Chúa, chúng ta hãy đối xử với nhau theo lẽ công bằng, nhưng là một lẽ công bằng ngập tràn tình yêu thương.
--------------------------------
Chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ 16 tại An Độ. Trong triều đình có hai vị sĩ quan nổi: TN 25-A15
Chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ 16 tại An Độ. Trong triều đình có hai vị sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tỵ, một người thì tham lam.
Ngày kia, nhà vua có sáng kiến rất độc đáo để sửa đổi những tính xấu ấy. Ông cho triệu tập hai viên sĩ quan vào giữa triều đình, loan báo sẽ tưởng thưởng họ vì đã phục vụ trong nhiều năm qua. Họ có thể xin gì tùy thích, xong người đầu tiên mở miệng xin chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Nhiều phút trôi qua, không ai mở miệng nói trước. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tỵ lý luận: Thà tôi không được gì còn hơn mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi. Vì thế, không ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng, vua yêu cầu người ganh tỵ nói trước. Người này lại nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam được gấp đôi. Hắn liền tuyên bố:”Tôi xin được chặt đứt một cánh tay…”. Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
Người ghen tỵ thà chịu mất một cánh tay còn hơn nhìn thấy người kia được của cải gấp đôi mình. Người ghen tỵ trước khi tiêu diệt kẻ khác, họ đã tự hủy diệt chính mình.
Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay kể lại, người đi làm vườn nho từ sáng sớm ghen tỵ với người chỉ làm một tiếng, mà cũng được trả một quan như mình. Giá như ông chủ trả cho người làm một tiếng ít tiền hơn, thì người làm từ sáng sớm đâu có bực tức khó chịu. Chúng ta thấy ông chủ đâu có xử bất công, vì ông đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền. Ông trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng, là vì ông tốt bụng, ông có quyền làm điều đó chứ!
Qua dụ ngôn “Ông chủ vườn nho”, Đức Giêsu muốn mời gọi chúng ta nhìn sâu vào cõi lòng của Thiên Chúa. Người không chỉ là Thiên Chúa công bình, mà còn là một người Cha đầy yêu thương. Người đã không hành xử theo luật lệ, nhưng lại dựa trên tiêu chuẩn của tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra Người là Thiên Chúa tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được lòng tốt của Thiên Chúa nơi bản thân mình, chúng ta mới không còn ghen tỵ với anh em.
Chúng ta nhớ lại lời ông chủ vườn nho nói với người ghen tỵ: “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”. Anh ta ghen tỵ vì anh ta chỉ thấy lòng tốt của ông chủ nơi người khác. Sao anh ta không nghĩ rằng ông chủ tốt bụng này đã thuê anh làm và trả lương cho anh sòng phẳng không thiếu một xu. Sao anh ta không nghĩ rằng anh đã rất an tâm vì chắc chắn đến cuối ngày là anh có một quan tiền; còn người kia vì không có ai thuê làm nên phải chờ đợi cả một ngày trong lo âu chán chường, vì tối nay vợ con anh sẽ phải lên giường mà không có gì cho vào bụng.
Cứ nghĩ đến muôn ngàn phúc lộc Chúa đã ban cho chúng ta, cứ nhìn xem bao niềm đau nỗi khổ của anh em, chúng ta sẽ không còn lý do nào để mà ghen tỵ. Chính vì không cảm nghiệm được Thiên Chúa yêu thương, không nhận ra hồng ân của Người trong cuộc đời mình, mà Cain đã ghen tỵ và giết chết Aben, người anh cả ghen tỵ với đứa em đi hoang nên không nhìn nhận người em lầm lỡ, người Pharisêu ghen tức với người tội lỗi được Chúa tha thứ, người làm sáng sớm ghen tỵ với kẻ làm chỉ một giờ.
Ai cứ nghĩ mình xứng đáng được Chúa ban ơn, mà đi ghen tỵ với những ơn lành Chúa ban cho người tội lỗi, chính là kẻ bất hạnh nhất. Họ hãy nghe lại lời Kinh thánh:”Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”. Thông điệp của dụ ngôn hôm nay muốn loan báo rằng: Nước Trời là phần thưởng nhưng không của Thiên Chúa, hoàn toàn do lòng quảng đại yêu thương của Người, chứ không do công nghiệp của chúng ta. Thiên Chúa ban ơn cho con người chỉ vì lòng yêu thương của Người mà thôi.
Đừng bao giờ ghen tỵ, đố kỵ nhỏ nhen khi thấy kẻ khác được nhiều ơn, mà muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Đừng bao giờ tính toán sòng phẳng theo lẽ công bình giao hoán: có công thì được hưởng, có tội thì bị phạt. Vì nếu Thiên Chúa tính toán lại, chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc, và người thiệt thòi nhất không ai khác chính là chúng ta.
--------------------------------
Càng ngày nạn thất nghiệp trên thế giới càng trở nên nghiêm trọng. Đài truyền hình: TN 25-A16
Càng ngày nạn thất nghiệp trên thế giới càng trở nên nghiêm trọng. Đài truyền hình trung ương cho thấy ngay tại thủ đô Hà Nội và một số thành phố lớn có một hiện tượng là những người thất nghiệp tụ tập tại một nơi nào đó để chờ được mướn đi làm. Làm gì cũng được, miễn là có việc làm. Hiện tượng này có lẽ cũng đã xảy ra ngay từ thời Chúa Giêsu. Vì thế mới có câu chuyện dụ ngôn hôm nay. Đi tìm việc làm cũng có nghĩa là đi tìm sự sống cho bản thân mình và cho những người khác.
Từ hình ảnh cụ thể của đời sống hằng ngày. Chúa Giêsu đã hướng tầm nhìn của chúng ta tới thực tại Nước Trời. Nước Trời là một vườn nho mà Thiên Chúa là chủ vườn. Được làm trong vườn nho của Chúa chính là được ở trong Nước Trời. Được ở trong Nước Trời nghĩa là được bảo đảm sống đời đời. Mà sự sống đời đời lại chỉ có ở nơi Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói:”Sự sống đời đời là nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất, chân thật và Đấng Cha đã sai là Đức Giêsu Kitô”. Để có công ăn việc làm thì người ta phải đi tìm việc, nhưng điều khác lạ trong câu chuyện Tin Mừng đó là chính chủ nhà cũng đã ra đi để tìm thợ. Thật vậy, chính Thiên Chúa đã cất bước ra đi tìm con người. Đó là điều quan trọng mà ta cần suy nghĩ. Chúa Giêsu đã mở đầu dụ ngôn như sau:”Nước Trời giống như ông chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho cho mình”, chứ Người không nói: “Nước Trời giống như những người thợ đi kiếm việc làm”. Thật vậy, Đấng chủ động trong hành trình tìm kiếm là Thiên Chúa chứ không phải con người. Chính Thiên Chúa đi tìm con người từ sáng sớm và Người cũng kiên nhẫn đi tìm suốt cả ngày. Nghĩa là Người đi tìm con người từ đầu cuộc đời cho tới cuối cuộc đời của mỗi người, cũng như từ ngày đầu cho tới ngày cuối cùng của lịch sử nhân loại.
- Xét về mặt lịch sử: sau khi tổ tông con người phạm tội và đánh mất sự sống thì con người đã trốn chạy Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa không bỏ mà lại đi tìm con người. Và Người vẫn còn tìm kiếm con người cho tới ngày cuối cùng của lịch sử. Lịch sử ơn cứu độ chính là một hành trình Thiên Chúa bước ra khỏi nhà của Người để đi tìm và ban tặng sự sống cho con người.
- Xét về phương diện nội tâm thì Thiên Chúa đã đi tìm mỗi người trong lúc bình minh khi lửa nhiệt tình và lòng yêu mến của ta còn dạt dào. Người đã đi tìm ta giữa trời trưa nắng gắt khi ta đang ngụp lặn trong tội lỗi và phản bội. Người cũng kiếm tìm ta lúc chiều tà, khi những nỗi chán chường đè nặng cõi lòng. Lúc nào Người cũng kiếm tìm và kêu gọi ta.
- Nhận ra bước chân của Thiên Chúa đi tìm mình như thế ta mới khám phá ra rằng: được làm việc trong vườn nho Nước Trời chính là ân huệ cao vời mà Thiên Chúa đã ban cho ta. Nếu ông chủ vườn nho không đi tìm và không nhận những người thợ vào làm việc cho ông thì họ chẳng có việc làm, chẳng có cơm gạo và cũng chẳng có sự sống. Nếu Thiên Chúa không đi tìm và đón nhận ta thì ta chẳng hy vọng gặp gỡ được Người, chẳng hiểu biết về Người và cũng chẳng tin nơi Người. Không tin nơi Người, không gặp gỡ Người ta không thể có sự sống. An huệ đức tin là như thế. Mà đã nói lên ân huệ là nói đến tình thương, tình thương của Đấng tặng ban ân huệ là Thiên Chúa.
Do đó, sống đức tin chính là bước vào mối quan hệ tình thương với Người. Sống với Người bằng tình yêu của một người con đối với một người cha, của một người thụ ân đối với một người làm ơn cho mình. Đi vào mối quan hệ tình yêu đối với Chúa, ta sẽ không sống đạo với một thái độ dửng dưng, nguội lạnh, sẽ không giữ lề luật với một thái độ gượng ép, sẽ không coi đạo như một thứ bùa hộ mạng để giữ cho ta khỏi sa hỏa ngục.
Và khi sống với Thiên Chúa bằng tình cha con ta cũng sẽ biết sống với mọi người trong tình huynh đệ. Một đời sống như vậy chứng tỏ ta đang được làm việc trong vườn nho của Thiên Chúa, trong Nước Trời.
--------------------------------
Dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay có thể gọi bằng hai tên là dụ ngôn “Người: TN 25-A17
Dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay có thể gọi bằng hai tên là dụ ngôn “Người chủ vườn nho tốt bụng” hay dụ ngôn “Những người thợ làm vườn nho”. Cách gọi thứ nhất hay hơn và đúng với ý của Chúa hơn khi giảng dạy dụ ngôn này. Chúng ta hãy tìm hiểu một vài chi tiết đặc biệt của dụ ngôn và ghi nhận bài học Chúa muốn dạy chúng ta.
Trước hết, về thời giờ của người Do thái. Xưa kia, người Do thái chia một ngày ra tám phần: bốn phần cho ban đêm, gọi là canh: canh một, canh hai, canh ba, canh tư; và bốn phần cho ban ngày, gọi là giờ: giờ thứ nhất, giờ thứ ba, thứ sáu và thứ chín. Giờ thứ nhất bắt đầu vào rạng đông cho tới chín giờ. Giờ thứ ba từ chín giờ đến giờ ngọ. Giờ thứ sáu từ giờ ngọ đến ba giờ chiều; và giờ thứ chín từ ba giờ chiều đến hoàng hôn. Theo luật qui định, thì ngày bắt đầu từ lúc hoàng hôn chiều hôm trước đến hoàng hôn chiều hôm sau. Chẳng hạn, ngày sa-bát, bắt đầu từ 6 giờ chiều ngày thứ sáu. Tuy nhiên, trong thực tế, người ta vẫn tính giờ kể từ lúc mặt trời mọc, tức là sáu giờ sáng. Như vậy, trong bài Tin Mừng nói giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín, giờ thứ mười một tương ứng với chín giờ sáng, mười hai giờ trưa, ba giờ chiều và năm giờ chiều. Ngày làm việc sẽ chấm dứt lúc sáu giờ chiều.
Chi tiết đặc biệt thứ hai về vấn đề thuê người làm việc. Trong thời Chúa Giêsu, ở vùng Địa Trung Hải, người ta không đi kiếm việc làm, nhưng họ lại tụ tập ở chợ để người chủ đến thuê đi làm. Tương tự như “chợ người Hà Nội”. Báo Người Lao Động kể rằng: Người Hà Nội lâu nay đua nhau xây nhà. Nếu thiếu nhân công là có thể ra ngay “chợ người” mua sức lao động. Có rất đông người, rỗi việc nhà nông, ở quê không có việc làm, họ kéo nhau ra Hà Nội tìm việc làm. Nếu ai cần người làm việc, làm bất cứ việc gì, thì cứ ra chợ người tự do chọn. Tiền công rẻ mạt. Ở Do thái cũng vậy, nhất là vào mùa nho khi nho chín. Nếu không hái nho kịp trước khi mùa mưa đến thì nho sẽ hư. Vì vậy người ta phải chạy đua với thời gian để kịp thu hoạch. Bất cứ người làm công nào cũng được thu nhận, dù người đó chỉ có thể làm được một giờ.
Như vậy, thuê mướn công nhân làm trong các xưởng máy hay cánh đồng là chuyện bình thường ở bất cứ xã hội nào. Nhưng trong dụ ngôn thuê thợ làm vườn nho hôm nay, có những điều không bình thường: Tại sao ông chủ lại trả công đồng đều cho tất cả những người thợ làm việc ở các thời điểm khác nhau? Ông chủ có công bằng không khi đối xử với những người chỉ làm một giờ ngang hàng với những người đã làm vất vả cả ngày?
Thật sự ông chủ đã đối xử sòng phẳng với những người làm việc từ sáng sớm. Ông đã trả mỗi người một đồng, đúng như đã thỏa thuận. Ông không bóc lột sức lao động của ai cả: có làm có trả lương tương xứng. Nếu ông chủ không gọi thêm thợ thì mọi chuyện sẽ bình thường. Có lẽ cuối ngày, sau khi lãnh lương, các công nhân ra về, chào hỏi, cám ơn và hẹn ngày mai đến làm việc tiếp trong bầu không khí vui vẻ, thân ái. Nhưng vì có nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng đã được trả lương bằng mình, nên có việc ganh tỵ và nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.
Nhưng ông chủ không bất công, bởi vì ông đã trả đủ số tiền cho những người làm từ sáng như đã giao kèo là một đồng. Lý do họ nêu ra là phải chịu nắng nôi khó nhọc là không chính đáng. Vì khi chấp nhận làm việc với số lương kia thì họ đã mặc nhiên chấp nhận nắng nôi khó nhọc rồi. Sở dĩ họ đặt thành vấn đề là vì thấy kẻ khác làm ít hơn mà cũng được trả bằng họ.
Đàng khác, trên bình diện xã hội, ông chủ hoàn toàn có lý khi xử sự như thế. Vì những người làm vào giờ chót cũng có gia đình cần được nuôi dưỡng. Hơn nữa, việc họ làm trễ không phải do lỗi của họ, mà chỉ vì không được ai thuê mướn thôi. Đáng lẽ khi thấy bạn đồng nghiệp được hưởng lòng tốt của ông chủ, thì họ phải vui mừng, thông cảm mới đúng. Nhưng họ lại ganh tỵ và phiền trách ông chủ. Họ thật đáng trách.
Tới đây, chúng ta thấy bài học Chúa Giêsu muốn dạy đã rõ ràng rồi phải không? Đúng vậy, ông chủ vườn nho tốt bụng ấy là hình ảnh Thiên Chúa. Ngài vô cùng tốt lành, tốt lành hơn ông chủ ấy gấp bội bội lần. Lòng nhân từ của Ngài vượt lên trên tất cả những thứ trả công mà con người đối xử với nhau trong cuộc sống. Tất cả mọi sự Chúa ban cho chúng ta là bởi lòng tốt của Ngài. Tất cả những gì Chúa ban không phải là để trả công nhưng là quà tặng. Ngay cả khi ân thưởng cho mỗi người tùy theo công việc họ đã làm, Thiên Chúa cũng chỉ làm vì sự tốt lành của Ngài chứ không do đức công bình đòi buộc ; tất cả mọi điều chúng ta nhận được đều không phải do công nghiệp chúng ta mà chỉ vì tình thương của Chúa. Vì thế, dù ai tin theo Chúa sớm hay muộn, lúc thiếu thời, khi lớn tuổi hay lúc về chiều, người ấy đều được Thiên Chúa yêu thương như nhau. Chứ đừng có ai nghĩ rằng mình tin Chúa từ bé đến lớn, suốt một đời giữ đạo: chịu các bí tích, đọc kinh, đi lễ, ăn chay, hãm mình là công toi, vì cũng chỉ được hưởng bằng người mới theo đạo.
Một điều nữa chúng ta cũng cần lưu ý: phải chăng trong đời sống hằng ngày, nhiều lần chúng ta đã suy nghĩ và hành động hẹp hòi, ganh tỵ và vô nhân đạo như những người thợ làm vườn trong dụ ngôn? Có phải chúng ta thường nhân danh công bình để có thái độ ganh ghét những ai hơn mình, để tìm cách loại trừ người khác? Nên nhớ rằng: bác ái mà thiếu công bình là nhu nhược. Nhưng công bình mà thiếu bác ái là sự vô nhân đạo.
Tóm lại, Thiên Chúa tốt lành khi gọi tất cả mọi người phục vụ Ngài. Mỗi người một thời điểm, một lứa tuổi khác nhau, một công việc khác nhau. Ngài không tính theo thời gian hay công việc, nhưng theo tinh thần chúng ta đã làm như thế nào. Vì thế, không bao giờ là muộn để dấn thân phục vụ Chúa, cũng không bao giờ được ganh tỵ với những người khác. Nhưng mỗi người hãy chu toàn cho thật tốt những công việc của mình.
--------------------------------
Kể từ ngày mẹ Têrêxa Calcutta qua đời, như chúng ta đã biết không đầy hai năm sau khi: TN 25-A18
Kể từ ngày mẹ Têrêxa Calcutta qua đời, như chúng ta đã biết không đầy hai năm sau khi mẹ qua đời, hồ sơ phong chân phước cho mẹ đã được khởi sự. Đây quả là một kỷ lục trong Giáo Hội, nhưng mẹ Têrêxa Calcutta không chỉ là một vị thánh của Giáo Hội mà còn là một vĩ nhân của thế giới. Mẹ không chỉ là một mẫu gương thánh thiện cho các tín hữu Kitô, nhưng mẹ còn để lại một gia sản tinh thần chung cho cả thế giới, gia sản đó là người ta không thể giải quyết mọi vấn đề đau khổ của nhân loại chỉ bằng tiền của vật chất, kỹ thuật, mà bằng trái tim rộng mở, bằng tấm lòng quảng đại.
Trước dư luận cho rằng, mẹ Têrêxa không chủ trương giải quyết vấn đề nghèo đói tại An Độ một cách tận căn. Mẹ đã trả lời:
“Tôi cảm thấy mình là người An Độ cho đến tận đáy tâm hồn tôi. Những chiếc áo dòng cho phép các nữ tu cảm thấy mình nghèo với những người nghèo, được đồng hóa với những người tàn tật, những trẻ em, những người già cả và những người kém may mắn. Với cách ăn mặc như thế, các nữ tu thừa sai bác ái đã chia sẻ cuộc sống của những người nghèo khổ nhất trên thế giới. Dĩ nhiên, Ấn Độ cần có các chuyên viên, những nhà chuyên môn, các kinh tế gia, các y sĩ, các y tá để phát triển. An Độ cần có một chương trình hành động rộng rãi được phối hợp chặt chẽ, nhưng chúng ta phải chờ đợi cho đến bao giờ các chương trình ấy được thực hiện? Chúng tôi không biết, nhưng trong khi chờ đợi thì dân chúng cần phải sống, cần phải có của để ăn, cần phải được săn sóc. Địa bàn hoạt động của chúng tôi tại An Độ hiện nay là, bao lâu người dân còn cần những nhu cầu ấy thì chúng tôi còn tiếp tục công việc của mình”.
Quả thực, trong trái tim đơn thành, khiêm tốn, trong sạch của mẹ Têrêxa Calcutta không hề có những chương trình vĩ đại, mẹ chỉ thấy sự cần thiết trước mắt là sự nghèo đói khốn khổ của người đồng loại. Nhưng tấm lòng cảm thông và thông cảm ấy không chỉ thấy người dân đói khổ về vật chất, nhưng đôi mắt từ ái của mẹ Têrêxa còn nhìn thấy một nỗi khổ khủng khiếp hơn của người đồng loại, đó là nỗi khát khao được yêu thương. Mẹ Têrêxa không chỉ trao ban một miếng bánh, một chén cơm, không chỉ trùm trên thân xác đói lạnh một tấm chăn, không chỉ băng bó một vết thương trên thân xác, nhưng món quà quý giá nhất mẹ ban chính là tình thương.
Đây vốn là nhu cầu cơ bản và thiết yếu nhất của mỗi con người, dù cho con người ấy sống trong một nước nghèo khổ như An Độ hay trong một đất nước phồn thịnh như Hoa Kỳ. Mẹ đã tóm tắt chương trình hành động của mẹ trong một câu nói:”Tôi không bao giờ săn sóc cho các đám đông, tôi chỉ săn sóc cho một người mà thôi”. Quả thực, trong ánh mắt từ ái của mẹ không có đám đông vô danh, không có con số trong đám đông mà chỉ có từng cá nhân trước mắt cần được yêu thương mà thôi. Trong trái tim đầy yêu thương của mẹ không có chương trình hành động vĩ đại, mà chỉ có những cử chỉ cụ thể mà con người có thể làm cho từng người đồng loại của mình mà thôi.
Thế giới ngày càng làm ra nhiều của cải vật chất, thế giới ngày càng có nhiều chuyên viên về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý. Dĩ nhiên,thế giới ngày càng có nhiều chương trình vĩ đại hơn, xóa bỏ bất công và xóa đói giảm nghèo, thế nhưng bất công và đói khổ vẫn còn đó. Như vậy, trong lịch sử nhân loại, chương trình vĩ đại nhất để xóa bỏ bất công, san bằng xã hội, hẳn phải là một số chế độ độc tài. Kết quả của chương trình hành động vĩ đại này thật là thảm khốc, người ta xóa bỏ một bất công để tạo nên những bất công mới, người ta đạp đổ một nhà tù để xây thêm nhiều nhà tù mới, người ta nại đến nhân quyền để chà đạp đến nhân quyền.
Thật ra, loài người muốn xóa bỏ mọi thứ bất công bằng tiền của và các phương tiện kỹ thuật, xét cho cùng trong sự tính toán của loài người thì tiền của vẫn là điểm qui chiếu tối hậu, đó là tư tưởng và cách giải quyết của loài người chúng ta. Còn tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất, đường lối và cách giải quyết của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác với loài người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đi vào tư tưởng, đi vào sự tính toán và cách giải quyết của Ngài. Thiên Chúa dựa trên một tiêu chuẩn khác với tiêu chuẩn và các phương tiện kỹ thuật, tiêu chuẩn đó là tình yêu, lòng độ lượng khoan dung, sự tha thứ cách quãng đại, tinh thần phục vụ dấn thân cách đắc lực. Đây là việc làm mà Chúa Giêsu luôn mời gọi mọi người thực hành đức công bình bác ái với mọi người:”Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Đây là tiêu chuẩn mà Chúa Giêsu muốn làm nổi bật qua dụ ngôn được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, chúng ta sẽ thấy ngạc nhiên về cách giải quyết của Thiên Chúa, là người thợ chỉ làm có một giờ cũng lãnh bằng những người thợ làm quần quật suốt ngày. Với cách cư xử của ông chủ vườn nho, Thiên Chúa muốn cho chúng ta thấy cách cư xử độ lượng của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người. Ngài cho chúng ta thấy rằng, bất công trong xã hội và tất cả mọi khổ đau của con người chỉ có thể giải quyết được bằng tình thương mà thôi. Sự thật hiển nhiên là thế giới không bao giờ thiếu của cải, có thiếu chăng chỉ là thiếu tình thương, thiếu lòng quảng đại, thiếu sự chia sẻ mà thôi. Thiếu tình thương thì không những người nghèo quằn quại trong đói khổ và cả người giàu cũng héo hắt trong vỏ ốc ích kỷ của mình.
Chúng ta được diễm phúc dự tiệc vào bàn tiệc Thánh Thể, Tấm Bánh được bẻ ra để chia cho tất cả mọi người. Chúa Giêsu đến với chúng ta qua dấu chỉ ấy để mời gọi chúng ta quảng đại san sẻ với mọi người. Xã hội sẽ không bao giờ hết những bất công và đau khổ, nhưng bất công và đau khổ sẽ vơi đi biết bao nếu mỗi người biết lấy tình thương, lòng quảng đại và sự chia sẻ đối với nhau. Đó phải là niềm xác tín của chúng ta trong cuộc sống mỗi ngày.
--------------------------------
Nhiều người coi câu chuyện của Đức Kitô là một câu chuyện của một người bất: TN 25-A19
Nhiều người coi câu chuyện của Đức Kitô là một câu chuyện của một người bất công, bởi vì dường như Người ưa chuộng những kẻ lười biếng, khi trả công cho họ giống như một người công nhân chăm chỉ. Để thấu hiểu và đánh giá đúng câu chuyện này, chúng ta cần nhận biết câu chuyện diễn tiến ra sao.
Bạn hãy tưởng tượng khung cảnh sau đây (mà chính tôi đã chứng kiến) trên lề đường của một ngả tư, trong một tỉnh lỵ tồi tàn gần Thị trấn Cape, Nam Phi. Đó là vào buổi sáng, nhiều người tụ tập trên lề đường. Một số người đang nằm dưới những thân cây, để tránh ánh nắng gay gắt của mặt trời. Nhưng hầu hết mọi người đều đang đứng giữa trời nắng.
Họ đang làm gì ở đó? Họ đang chờ đợi – chờ đợi một số chủ nông trại hoặc chủ thầu xây dựng đến thuê họ làm việc.
Đối với hầu hết những người này, sẽ không có giờ thứ 11 có thể tạm thời cứu giúp họ. Họ sẽ trở về căn lều của mình, và gia đình họ không có gì cả. Trong thế giới này, kẻ nào giàu thì vẫn cứ giàu có, người nào nghèo thì vẫn cứ nghèo khổ.
Những người làm việc vào giờ thứ 11 trong dụ ngôn của Đức Giêsu đều không phải là những kẻ lười biếng. Họ mong muốn được làm việc. Nhưng chỉ vì không có ai thuê mướn họ mà thôi. Bạn hãy tưởng tượng họ cảm thấy như thế nào, khi sắp hết ngày rồi: Họ cảm thấy mình là người vô dụng, bị bỏ rơi, mất niềm hy vọng.
Thật không thể nào tưởng tượng được rằng sẽ có người chủ nào đó, lại chịu thuê mướn những người này vào giờ thứ 11, và sẽ trả công nhật đầy đủ cho họ. Tuy nhiên, đây lại chính là điều mà người chủ vườn nho đã thực hiện. Đây là điểm nổi bật trong bài dụ ngôn này.
Những người đang nghe Đức Giêsu nói, đã nhận biết chính xác Người đang ám chỉ ai. Vườn nho là Nước Trời. Những người làm việc suốt ngày là người Pharisêu và người Do thái nói chung. Những người làm việc vào giờ thứ 11 là kẻ tội lỗi và dân ngoại.
Đức Giêsu nói rằng Thiên Chúa ban Nước Trời cho những kẻ tội lỗi và dân ngoại, theo các điều kiện bình đẳng với người Do thái. Người Do thái đã phản đối quyết liệt. Họ cho rằng điều đó không công bình; họ nghĩ rằng mình xứng đáng được đối xử ưu tiên hơn. Họ cho rằng Thiên Chúa hành động theo một hệ thống giá trị. Theo như hệ thống này, thì những người làm việc chăm chỉ phải được đón nhận nhiều ân sủng hơn. Nhưng ở đây, Đức Giêsu đang nói rằng Thiên Chúa lại không hề hành động theo hệ thống giá trị.
Bạn sẽ trông mong rằng những người nào đã làm việc chăm chỉ, thoát khỏi cảnh nghèo khổ, và tương đối giàu sang, thì sẽ động lòng thương xót những người không được như họ. Tuy nhiên, dường như trường hợp này trái ngược hẳn. Họ lại có khuynh hướng phê phán cay nghiệt người nghèo khổ, và phẫn nộ khi thấy người nghèo khổ được giúp đỡ. Thái độ của họ là: Tôi đã làm việc cực nhọc để kiếm tiền. Không ai chịu cho không tôi bất cứ thứ gì. Nếu tôi đã làm được điều đó, thì tại sao họ lại không thể làm được như vậy? Nếu con người cứ phải có giá trị, phải cạnh tranh, thì mới được phần thưởng, thì bài Tin Mừng này sẽ không mang lại ý nghĩa gì nữa. Dụ ngôn của Đức Giêsu sẽ ít có ý nghĩa, đối với quan điểm phải công bình triệt để. Nhưng liệu có người nào trong chúng ta lại mong muốn được Thiên Chúa đối xử theo lẽ công bình triệt để chăng? Phải chăng tất cả chúng ta lại chẳng rất cần đến lòng thương xót và rộng lượng của Thiên Chúa, nhiều hơn là sự công bình của Người? Dụ ngôn này không nói về lẽ công bình; mà là nói về lòng thương xót và sự rộng lượng.
Khi đến với Thiên Chúa, chúng ta đừng nên phô trương những quyền hạn, công trạng và quyền lợi của mình. Chúng ta không thể coi Thiên Chúa như người mắc nợ chúng ta. Tất cả những gì xảy đến với chúng ta, đều là quà tặng của Thiên Chúa, một quà tặng phát xuất từ động cơ là tình yêu thương của Thiên Chúa đạt mức độ rất xa, so với sự rộng lượng của con người. Chúng ta hãy mở tâm hồn ra trước lòng rộng lượng của Thiên Chúa. Và khi đã cảm nhận được lòng rộng lượng đó rồi, chúng ta hãy coi đó như một gương mẫu phục vụ, trong cách chúng ta cư xử với người khác.
Trước khi có thể bắt đầu hành động giống như Thiên Chúa, đòi hỏi chúng ta phải biến đổi con người mình. Đây không phải là sự biến đổi về trí tuệ, mà là sự biến đổi về tâm hồn.
--------------------------------
Nếu người ta cho câu chuyện này của Đức Giêsu là bất công, thì một câu chuyện: TN 25-A20
Nếu người ta cho câu chuyện này của Đức Giêsu là bất công, thì một câu chuyện khác sau đây có thể giúp chúng ta hiểu được quan điểm mà Đức Giêsu đang đề cập đến. Cuộc thi chung kết chạy 3000 mét đang được xúc tiến. Các vận động viên đều đứng tập trung với nhau, cho đến nửa vòng của giai đoạn sau cùng. Thế rồi người chạy sau cùng lại dẫn đầu. Một người khác lại tụt xuống vị trí sau cùng, sau một nỗ lực tuyệt vọng để giữ được vị trí của mình. Còn những vận động viên khác đều dàn ra giữa.
Khi người dẫn đầu, một người dân địa phương, chạy đến đích cuối cùng, thì các khán giả đều đứng dậy hướng về phía người đó. Sau khi thông báo tin tức rằng người thanh niên đó đã giành được chức vô địch thế giới, thì khắp sân vận động đều vang dội những tiếng vỗ tay ầm ầm. Những người quay phim chạy theo anh ta, khi anh đạt được giai đoạn vinh quang sau cùng. Mọi người đều hoan hô anh, khi anh đi vòng chung quanh khán đài. Từng bó hoa được ném về phía anh.
Sau đó, mọi người đều muốn vỗ vào lưng anh. Người ta đẩy những chiếc mirô ra trước mặt anh, và hỏi anh “Anh cảm thấy như thế nào khi được trở thành một nhà vô địch?”. Với nét mặt tươi cười rạng rỡ, anh trả lời “Thật tuyệt vời! Cực kỳ tuyệt vời!”. Những tờ báo đều nối đuôi nhau đòi được chiếm độc quyền đăng câu chuyện kể về anh, và với những cuốn chi phiếu trên tay, những nhà quản trị các công ty đang giành quyền được sử dụng tên của anh, để quảng cáo cho những sản phẩm của họ.
Trong khi diễn ra tất cả những sự kiện trên, thì những vận động viên khác đều đã chấm dứt phần thi chạy của họ. Người cuối cùng đã phải thực sự phấn đấu mới kết thúc xong. Sau đó, người này cúi gằm đầu đi vào phòng thay quần áo.
Một nhân vật quan trọng được mời lên thực hiện lễ nghi trao giải thưởng. Cả ba người chạy về đích đầu tiên đều đang tươi cười chờ đợi được đứng vào chỗ đứng của họ trên bục dành cho người chiến thắng. Có một dấu hiệu bất thường lần đầu tiên xảy ra, đó là khi nhân vật quan trọng nói rằng ông mong muốn tất cả mọi vận động viên đều cùng hiện diện trong lễ nghi trao giải thưởng. Thế là người ta mời đầy đủ tất cả các vận động viên lên, và bấy giờ, mọi người đều hiện diện đông đủ.
Sau đó, nhân vật này đã làm gì? Ông gọi người vận động viên đến đích sau cùng, và trao cho anh ta chiếc huy chương vàng. Rồi ông trao huy chương bạc cho người về kế chót, rồi đến người chót thứ ba được nhận huy chương đồng. Đám đông há hốc miệng vì kinh ngạc, và những người trong ban tổ chức thở dài bối rối. Người ta chỉ trích là nhân vật này đã phạm sai lầm. Nhưng ông nói “Đây là cách mà tôi muốn”. Sau đó, ông tiếp tục bắt tay từng vận động viên, cho đến khi bắt tay người về đích đầu tiên. Khi tiến lên, anh ta tỏ ra rất tức giận. Anh than phiền “Điều này không công bình!”
Nhân vật quan trọng bình tĩnh đáp lại “Vậy anh cho rằng không công bình sao?” Anh ta nói “Đúng vậy. Tôi đã chiến thắng trong cuộc chạy đua. Như vậy, tôi mới là người xứng đáng được nhận huy chương vàng”.
Nhân vật quan trọng nói “Này anh bạn, thế anh chưa được nhận đầy đủ sao?” Anh ta hỏi lại “Ý ông là như thế nào ạ?”
“Anh đã được mãn nguyện vì chiến thắng trong cuộc chạy đua này. Anh đã được đám đông vỗ tay hoan hô. Và được các phương tiện thông tin đại chúng chú ý đến anh rồi. Xét cho cùng, anh đã nhận được những hợp đồng có lợi cho anh. Bây giờ, chúng ta hãy xét đến người về cuối cùng. Anh ấy cũng đã hoàn tất cuộc chạy đua. Và anh ấy nhận được gì sau tất cả những nỗ lực của mình? Không hề có gì cả. Vậy có công bình không, nếu anh nhận được tất cả mọi sự, trong khi người kia không nhận được gì cả?”.
Qua câu nói đó, người chiến thắng im lặng. Anh ta quay người và bước đi, trong lòng vẫn còn tức giận.
Mục đích của câu chuyện này không phải là đánh giá thấp thành tích của người chiến thắng, nhưng là nhằm đưa ra một điểm: Dường như không hợp lý, khi một người nhận được tất cả, còn người kia thì không hề nhận được gì. Tôi biết rằng điều này đã thực sự xảy ra trong thế giới của chúng ta – kẻ chiến thắng chiếm hữu tất cả mọi sự.
Một số người có thể vẫn nói rằng câu chuyện này thật kỳ quặc. Nhưng phải chăng trong câu chuyện mà Đức Giêsu nói về những người làm việc tại vườn nho còn kỳ quặc hơn? Đức Giêsu đã muốn đưa ra điều gì vậy? Yếu tố chủ chốt để thấu hiểu được câu chuyện chứa đựng trong câu “Có phải bạn ghen tỵ bởi vì tôi rộng lượng không?”. Câu chuyện trên không nói về lẽ công bình, mà nói về lòng rộng lượng, nhưng không phải là lòng rộng lượng bình thường. Câu chuyện trên nói về một tấm lòng rộng lượng không giống như bất cứ sự rộng lượng nào mà chúng ta đã từng được nghe. Đó là lòng rộng lượng của Thiên Chúa.
Lòng rộng lượng của Thiên Chúa là niềm an ủi vĩ đại cho chúng ta. Nhưng đây cũng là một thách thức lớn lao, bởi vì chúng ta được mời gọi phải bắt chước sự rộng lượng này; để biết đối xử với người khác giống như cách Thiên Chúa đối xử với chúng ta. Trước khi chúng ta có thể bắt đầu hành động giống như Thiên Chúa, đòi hỏi chúng ta phải biến đổi con người mình. Đây không phải là sự biến đổi về trí tuệ, mà là sự biến đổi về tâm hồn.
Liệu có người nào trong chúng ta lại mong muốn được Thiên Chúa đối xử theo lẽ công bình triệt để chăng? Phải chăng tất cả chúng ta lại chẳng khát khao lòng thương xót của Thiên Chúa, hơn là sự công bình? Chúng ta không thể coi Thiên Chúa như người mắc nợ chúng ta. Chúng ta nhất thiết không được làm như vậy. Lòng rộng lượng của Thiên Chúa đạt mức độ vượt rất xa, so với sự rộng lượng của con người. Chúng ta hãy cởi mở tâm hồn ra trước lòng rộng lượng của Người. Và khi đã cảm nhận được lòng rộng lượng đó rồi, thì chúng ta hãy coi đó như một gương mẫu phục vụ, trong cách chúng ta cư xử với người khác.
--------------------------------
Loài người chúng ta suy nghĩ giống như một người buôn bán: món hàng trị giá thế: TN 25-A21
Loài người chúng ta suy nghĩ giống như một người buôn bán: món hàng trị giá thế nào, vậy phải mua thế nào, bán thế nào ? bao nhiêu thì đúng, bao nhiêu thì sai ?
Chúng ta áp dụng suy nghĩ ấy chẳng những trong đối xử với người khác, mà còn cho cả Thiên Chúa nữa: tôi đã làm gì và làm bao nhiêu, cho nên Thiên Chúa phải ban cho tôi ơn gì và ban bao nhiêu. Chúng ta cho rằng như thế là công bằng.
Nhưng Thiên Chúa không muốn làm người bán cũng không muốn làm người mua. Ngài chỉ muốn làm người Cha, yêu thương chúng ta là con. Ngài chỉ có thương yêu và chỉ dùng lòng tốt để đối xử. Đối với từng đứa con, Ngài không xét xem nó đã làm được gì, nó đáng được bao nhiêu. Ngài chỉ nghĩ nó cần được chăm sóc như thế nào, ban cho nó cái gì là tốt nhất…
Khi lẩm bẩm trách, những người thợ làm nhiều giờ muốn lầy suy nghĩ của mình áp đặt lên suy nghĩ của ông chủ, họ muốn ông đừng làm người cha yêu thương mà hãy làm một người buôn bán vô tình.
Nhiều người đọc xong dụ ngôn này đã nghĩ rằng Thiên Chúa đối xử không công bình vì Ngài đã trả cùng một đồng cho những người làm việc suốt ngày và người chỉ làm cho một giờ.
Thực ra chẳng có gì là không công bình cả: Vì ông chủ đã thỏa thuận với thợ về tiền công mỗi ngày là một đồng, nên nếu ông trả không đủ một đồng thì mới bất công. Nói cho đúng hơn: đối với những người làm suốt ngày thì ông chủ công bình ; còn đối với người làm chỉ có một giờ thì ông chủ đã đối xử hơn mức ông bình ông đối xử theo lòng thương xót.
Xem ra, đòi hỏi công bình là điều hợp lý. Nhưng xét theo thực tế, chúng ta không chịu nổi nếu Chúa cứ theo công bình mà đối xử với chúng ta, đúng như lời Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được”. Cho nên, xét cho cùng thì chúng ta cần đến lòng thương xót của Chúa hơn là đến đức công bình của Ngài.
Vả lại, đối xử công bình là đối xử bằng lý, còn đối xử với lòng thương xót là đối xử theo tình. Mỉa mai thay, bất chính như con người thì hay đòi đối xử bằng tình.
Flor McCarthy đã chứng kiến một cảnh tượng tương tự với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ ra sao sau khi chứng kiến nó: có lần ông đến Cape Town nước Nam Phi. Đó là một buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không làm gì cả. Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang khi những người khác lo làm ăn thì những người này đứng đó chẳng làm gì cả. Đến trưa ông vẫn còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi đã nhễ nhại ướt đấm lưng áo. Hỏi kỹ thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có ai đến thuê họ đi làm chăng. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người đó. Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp. Hôm đó McCarthy rất hối hận vì đã vội kết án những con người tội nghiệp ấy. Và ông đã soạn một lời cầu nguyện như sau:
“Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng các ngươi và đường lối Ta không giống đường lối các ngươi”
“như trời xanh cao hơn đất bao nhiêu
thì đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu”.
--------------------------------
Mt 20,1-16
Một buổi sáng đi ngang qua con đường Euclid vùng Nam California, thấy đầy dẫy những: TN 25-A22
Một buổi sáng đi ngang qua con đường Euclid vùng Nam California, thấy đầy dẫy những người Mễ đứng dọc bên lề đường, tôi thắc mắc hỏi bác tài xế ở vùng đấy, và được bác cho biết là họ đang đứng chờ người thuê đi làm. Bác còn thêm: "Ở đây thuê Mễ rẻ lắm". Tôi hỏi tiếp: "Vậy rẻ là bao nhiêu vậy bác?" Bác trả lời:"Có người trả họ hai đồng một giờ, có người thuê ba đồng, có người bốn hoặc năm đồng. Nhưng mà bốn năm đồng thì hiếm lắm. Tụi nó... hả... trả bao nhiêu nó cũng làm hết". Thấy cảnh tượng nhân công nhiều mà người thuê nhân công thì ít, tôi chợt nghĩ có người sẽ được thuê đi làm, được năm ba đồng nuôi sống gia đình (nghĩ thấy xã hội cũng bất công...) và cũng có người sẽ đợi, đợi mãi rồi lủi thủi trở về nhà chờ sáng mai ra đứng đợi tiếp. Cuộc sống của họ thật bấp bênh. Nghĩ thật đáng thương!
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu diễn tả Nước trời qua hình ảnh một gia chủ gọi các người thợ vào làm vườn nho của ông. Nhưng khác với những người nhân công Mễ trong câu chuyện trên, những người thợ làm vườn nho trong bài Phúc âm đều được gia chủ gọi đi làm và được trả công cân xứng.
Theo một số nhà chú giải Thánh kinh thì ở đây Chúa có ý muốn nói cho dân Do Thái (những người được Chúa tuyển chọn, được mạc khải cách riêng) hay dân ngoại (những người chưa nhận biết Chúa), người công chính (những người ngày đêm hằng tuân giữ luật Chúa) hay người tội lỗi, nếu sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa mời gọi thì đều được Chúa thương đồng đều cả, bất kể trước sau. Chúa vẫn mãi nhân từ, hằng thương yêu hết mọi người, mọi thời, và thương như nhau - có người được Chúa gọi ngay từ tảng sáng, có người từ trưa, và có người mãi đến chiều; và tất cả đều được một đồng tiền lương. Chúng ta không rõ giá trị một đồng thời đó so với một đồng ngày nay thế nào, nhưng chúng ta biết chắc một điều là những người được gọi đi làm từ tảng sáng đã đồng ý ngay với giá lương ấy, và những người được gọi đi là về sau thì cũng không chút phàn nàn khi lãnh lương.
Mỗi người chúng ta, sau khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, hằng ngày đón nhận biết bao ơn phúc và tình thương của Chúa. Hôm nay là dịp để chúng ta cùng nhau nhìn lại ơn gọi cao quý mà Chúa đã kêu gọi mỗi người chúng ta vào làm vườn nho Chúa. Chúng ta tin rằng cho dầu chúng ta được nuôi dưỡng và lớn lên trong gia đình đạo hạnh ngay từ tấm bé, hay cho dầu suốt cả đời sống xa tình Chúa và nay được ơn nhận biết Chúa trong những ngày tháng cuối đời, chúng ta đều có quyền tin chắc rằng Chúa luôn yêu thương chúng ta và yêu thương như chính mình Ngài.
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì Chúa đã gọi, đã chọn, và đã trao cho chúng con mỗi người mỗi việc trong vườn nho Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con được luôn rộng mở cõi lòng đón nhận ơn Chúa. Chúng con muôn đời cảm tạ ơn Chúa. Xin Chúa thương đến những người vẫn còn "vô công rỗi nghề đứng nơi đầu chợ", ban cho họ được nhận ra tiếng Chúa mời gọi và sẵn sàng quảng đại thưa tiếng Xin Vâng.
Br Minh Trân, CMC
--------------------------------
Mt 20,1-16
Một công ty thuê một cái tàu du ngoạn trên biển để thưởng công cho các nhân viên: TN 25-A23
Một công ty thuê một cái tàu du ngoạn trên biển để thưởng công cho các nhân viên làm việc giỏi và chăm chỉ. Đến ngày đi, các nhân viên ngày xuống tàu và đi tìm phòng của mình. Chỉ vài phút sau, một người chạy vội lên văn phòng muốn gặp vị thuyền trưởng. Một trong nhựng viên chức phụ trách hỏi: Ông muốn gặp thuyền trưởng để làm gì? Người đó đáp: Tôi cũng làm việc giỏi và chăm chỉ như người bạn của tôi, thế mà tại sao anh ta lại được căn phòng xinh đẹp hơn căn phòng của tôi? Vị phụ trách trả lời: Thưa ông, căn phòng nào cũng giống nhau cả. Người đó nói: Phải, nhưng phòng của anh ta nhìn ra biển khơi, còn căn phòng của tôi chỉ nhìn thấy bến tàu, trông chẳng hấp dn chút nào?
Thật là tội nghiệp. Một khi tàu rồi bến ra ngoài khơi thì hai bên đều nhìn thấy biển giống nhau. Một con chim sẻ phàn nàn với Chúa: Chúa cho con công nhiều màu sắc rực r xinh đẹp, còn cho chim hoàng anh thì hót thật hay trong khi con chẳng được gì và còn bị quên lãng. Tại sao Chúa lại dựng nên con chỉ để cho con đau khổ? Chúa nhẹ nhàng trả lời: Con không được tạo dựng để chịu đau khổ. Con đau khổ vì con phạm vào một lỗi làm giống hệt như con người, đó là con so sánh mình với người khác. Hãy bằng lòng với chính mình, vì không có so sánh thì cũng không có đau khổ.
Phải chăng nếu để ý sẽ thấy rằng chúng ta thường hài lòng với nhng gì chúng ta có cho tới khi chúng ta so sánh nhng gì mình có với nhng gì người khác có?
Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến dụ ngôn thuê người làm vườn nho, thuê người làm từ sáng sớm cho đến người chỉ làm được một giờ trước khi nghỉ và tối đến tất cả đều lãnh được một đồng, khiến cho người làm từ sáng sớm bất mãn kêu ca ông chủ bất công.
Để hiểu rõ thêm về dụ ngôn nầy, chúng ta cần phải hiểu về bối cảnh hoàn cảnh của xã hội Palestine thời Chúa Giêsu sinh sống. Theo William Barclay, một nhà chú giải thánh kinh, ở Palestine mùa hái nho chính vào cuối tháng Chín. Sau đó là mùa mưa. Nếu không hái nho kịp trước khi mùa mưa đến thì nho sẽ hư, vì vậy người ta phải chạy đua với thời giờ để kịp thu hoạch.
Tiền công trả cũng bình thuờng, một đơniê là tiền công một ngày bình thường của một người làm mướn. Nhng người đứng chợ không phải là nhng người biếng nhác ở đầu đường xó chợ, hạng ăn không ngồi rồi. Ở xứ Palestine, chợ là nơi trao đổi lao động. Người ta đến đó vào sáng sớm, mang theo dụng cụ lao động của mình và chờ ở đó cho đến khi có người đến mướn. Họ ở đó chờ công việc, bằng chứng là trong số họ có người chờ đến năm giờ chiều, chứng tỏ họ muốn làm việc như thế nào.
Nhng người này là nhng nhân công làm thuê, thuộc tầng lớp lao động thấp nhất, đời sống của họ luôn bấp bênh, trong đe dọa bị đói. Họ hoàn toàn sống nhờ vào sự thương xót, vào cơ hội làm việc. Nếu họ thất nghiệp một ngày, thì con cái sẽ bị đói. Giống như ở Việt Nam bây giờ, lương công nhân khoảng một hai đô la, và gia đình nào có thể để dành với đồng lương một hai đô la chứ? Do đó, đối với họ một ngày thất nghiệp là một tai họa.
Phải chăng ông chủ bất công? Không, ông chủ không bất công, vì lẽ người làm từ sáng sớm đã đồng ý đã thoả thuận về tiền công nhật là một đồng và họ lãnh nhận được một đồng. Họ lãnh nhận đủ tiền lương của một ngày cho một ngày trọn làm việc. Nhưng khi họ thấy người làm sau cũng được một đồng, mà thật sự đó không phải là vấn đề của họ (it was really none of their business), họ đâm ra tức giận phàn nàn kêu ca. Có lẽ người làm sớm sẽ bằng lòng an tâm nếu họ không chơi trò so sánh. Họ so sánh nhng gì họ được trả với người khác được trả khiến họ bất mãn để rồi bị lãnh nhận một câu hỏi tuy thành thực nhưng đầy đau đớn: Phải chăng các người ghen tị vì tôi quảng đại?
Với dụ ngôn này, một nhà chú giải Thánh kinh đã thêm rằng, người chủ bày tỏ cả sự công bằng ln quảng đại. Công bằng với người làm sớm và quảng đại với người làm sau. Ông biết người làm sớm có đủ tiền lo cho nhu cầu sinh sống thường ngày, và quan tâm đến người làm sau. Ông biết rằng một đơniê một ngày không phải là số lương lớn, và nếu người làm công trở về nhà với một số tiền ít hơn na, vợ họ sẽ lo lắng và con họ sẽ bị đói, vì vậy người chủ vườn đã vượt qua lẽ công bằng và trả cho họ nhiều hơn số tiền họ đáng được.
Tuy hiểu như vậy nhưng chúng ta vn không thoải mái với dụ ngôn bởi lẽ thông thường người chủ không trả lương bổng cho nhân viên theo lòng thương xót vì nếu làm như vậy chắc thương mại của ông chẳng tồn tại lâu dài, thứ đến, nếu tất cả người thợ đều lãnh nhận lương bằng nhau với số giờ làm việc nhiều ít khác nhau thì chắc sẽ có chuyện đình công hay ít nhất cũng có cuộc biểu tình chứ chẳng chơi! Dụ ngôn này tuy không thực tế trong cuộc sống, nhưng đã nói lên sự khác biệt gia Thiên Chúa và con người: Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta, cũng như làm nổi bật lòng quảng đại nhân lành của Thiên Chúa.
Tất cả đều là ân sủng. Trước mầu nhiệm cứu chuộc, một nhà chú giải Kinh thánh nói rằng, chỉ có Chúa Giêsu là người thợ làm từ sáng sớm, còn tất cả chúng ta chỉ là người đến sau làm muộn. Tất cả nhng gì chúng ta đã đang lãnh nhận cũng như ơn cứu chuộc đều là quà tặng do lòng rộng rãi của Thiên Chúa nhân lành. Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho đi nhưng không, chúng ta được mời gọi làm sứ giả đem lại niềm vui cho con người. Thay vì đặt mình là người làm vườn nho, chúng ta hãy đặt mình vào vai trò người được chọn để phân phát tiền cho người làm, phải chăng chúng ta thấy niềm vui mừng sung sướng hiện trên khuôn mặt của người thợ chỉ làm được một giờ khi lãnh nhận tiền công và phải chăng chúng ta cũng đã đang muốn đem nhng niềm vui giống như thế đến cho tha nhân?
Một buổi sáng nọ, người đàn bà đã làm một cử chỉ lạ thường: dừng xe lại để đóng thuế đường, bà nói với người thâu ngân: Tôi đóng thuế cho tôi và cho sáu chiếc xe phía sau tôi. Thế là lần lượt đến phiên mình, sáu chiếc xe đều dừng lại và nghe người thâu ngân giải thích: Ông không cần phải trả tiền na, người đàn bà lái chiếc xe phía trước đã trả thế cho ông rồi. Tuy b ng, nhưng tài xế của sáu chiếc xe ấy không khỏi lộ niềm vui trên khuôn mặt.
Ông chủ vườn nho trong bài Tin mừng hôm nay và người đàn bà trả tiền thế đã mang lại niềm vui hạnh phúc cho tha nhân, còn mỗi người chúng ta?
Lm Louis Minh Nhiên, CMC
--------------------------------
The Workers in the Vineyard
Ông chủ trong chuyện làm vườn nho nói: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm: TN 25-A24
Bài đọc 1: Isaia 55, 6- 9=Hãy tìm kiếm Chúa khi Người còn cho gặp/ Seek the Lord ...may found. Bài đọc 2: Phil. 1, 20- 24; 27=Đối với tôi Sống là Đức Kitô / For, to me, "Life" means Christ. Tin Mừng: Math. 20, 1- 16= Các anh đi làm vườn nho cho tôi / You go to the vineyard too.
A. Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Ông chủ trong chuyện làm vườn nho nói: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm chi hết?...Ông đáp: "Cả các anh na, hãy đi làm vườn nho." Hôm nay vì tình thương, Chúa vn kêu gọi mọi người tham gia rao giảng Tin Mừng của Ngài bằng đời sống. Tôi đã đáp trả tiếng Chúa bằng nhng hành động gì? Why have you been standing here idle all day?...He said: "You go the vineyard too". ( Math. 20, 6- 7 )
2/ Câu kết trong dụ ngôn thợ làm vườn nho, Chúa nói: "Thế là nhng kẻ chót sẽ dược lên hàng đầu, ...Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít." Biết bao nhng người làm việc cho giáo hội và xã hội đã phải bị xuống chức vì không chu toàn bổn phận. Cách sống và tác phong của bạn hiện tai ra sao? Thus the last shall be first and the first shall be last. ( Math. 20, 16 )
3/ Trong lời mời gọi cuối cùng, Tiên tri Isaia nói: "Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người còn ở kề bên." Thời gian là của Chúa cho mọi người bằng nhau, nhưng con người đã lạm dụng, phung phí, hưởng thụ làm nhiều điều xấu xa. Tôi đã dùng thời gian đễ phục vụ tha nhân thế nào? Seek the Lord while he may be found, call Him while He is near. ( Isaia 55, 6 )
4/ Trong thư gởi Philiphê, thánh Phaolô cả quyết: "Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi. Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả..." Nhiều Tín hu đã không ngừng sinh hoa trái cho Đức Kitô bằng đời sống phục vụ. Bạn đã đem nhng hoa trái nào cho gia đình và giáo xứ? For me, "life" means Christ; hence dying is so much gain; ( Phil. 1, 21- 22 )
B-Câu Kinh Thánh tôi chọn để làm thợ vườn nho tuần này: ( The Best Word of the Lord )
KẺ ĐỨNG CHÓT SẼ LÊN HÀNG ĐẦU, KẺ ĐỨNG ĐẦU SẼ PHẢI XUỐNG CHÓT. (Mat.20,16) (The last shall be first and the first shall be last)
C. Ngay bây giờ tôi phải làm gì để là thợ vườn nho tốt: ( So what am I doing/ For action )
a/ Tôi có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thi hành. b/ Bạn tỏ ra vui mừng khi thấy người khác đã chu toàn bổn phận trong gia đình và ngoài xã hội.
D- Tôi cầu nguyện không ngừng và Sống lời tôi cầu nguyện: ( I pray and practice / Pray in action )
* Lạy Cha, Đức Giêsu đã nói: Kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, kể đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. Xin dạy con luôn chăm chỉ chu toàn bổn phận và khiêm tốn phục vụ anh em nghèo túng. * Tiên tri Isaia đã nhắc nhở con: hãy tìm gặp Đức Chúa khi người con cho gặp, hãy kêu cầu Người khi Người ở kề bên. Xin cho con biết dùng thì giờ Chúa ban để sinh nhiều hoa trái cho Giáo hội.
Lời hay ý đẹp: KHÔNG CÓ GÁNH NÀO NẶNG HƠN LÀ THÁI ĐỘ SẴN SÀNG GÂY GỔ There is no heavier load than a chip on the shoulder
Huyền Đồng
----------------------------------
Năm 1980, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công bố một thông điệp mang tên: Thiên: TN 25-A25
Năm 1980, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công bố một thông điệp mang tên: Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa được trình bày ở nhiều khía cạnh. Trong đó trọn số 12 nói về sự công bằng của Thiên Chúa. Chẳng hạn: Không phải vô cớ mà Đức Kitô đã trách nhng kẻ nghe Người về việc họ trung thành với giáo thuyết Cựu Ước mà gi cái thái độ được bày tỏ trong nhng lời này: Mắt thế mắt, răng đền răng (Mt 5, 38). Cách làm biến chất sự công bằng vào thời ấy là như thế và các hình thức hiện đại tiếp tục rập khuôn theo đó. Thật vậy, điều hiển nhiên là nhân danh một cái gọi là công bằng, đôi khi người ta tiêu diệt tha nhân, người ta giết hại, người ta tước đoạt tự do, người ta lột mất nhng quyền sơ đẳng nhất của con người. Kinh nghiệm quá khứ và thời chúng ta chứng tỏ rằng chỉ có công bằng thôi thì không đủ, và thậm chí công bằng có thể dn tới chỗ tự phủ nhận và hủy diệt chính nó, nếu người ta không để cho sức mạnh sâu xa hơn là tình thương có thể uốn nắn đời sống con người trong các kích thước khác nhau của đời sống này (Dives in Misericordia- số 12).
Đọc Lời Chúa hôm nay, ý nghĩa của lòng thương xót mang chiều kích công bằng đó càng được diễn tả sâu đậm hơn. Nhng người làm vườn nho trách ông chủ vì ông chỉ trả mỗi người một đồng, bất kể người đó làm từ sáng tới chiều, hay chỉ mới làm có một giờ. Trả tiền lương như vậy, phải chăng ông chủ là người không công bằng, và hình như nhng người làm vườn nho trách ông chủ là đúng?
Ông chủ này ám chỉ Thiên Chúa. Thiên Chúa ban ơn cứu rỗi cho mọi người. Ơn cứu rỗi không phân biệt thứ bậc. Dù cho người gi đạo từ nhỏ đến lớn, hay người theo Chúa ở lúc cuối đời đều chỉ nhận một ơn cứu rỗi do Chúa Kitô thực hiện mà thôi. Như vậy có phải Thiên Chúa bất công? Nếu Thiên Chúa không công bằng, thì lời khẳng định vừa mới đây của tôi: Lời Chúa hôm nay diễn tả sâu đậm Thiên Chúa giàu lòng thương xót, mà lòng thương xót này mang chiều kích công bằng đúng là lời thiếu suy nghĩ thấu đáo? Sự thật Thiên Chúa có công bằng không?
Bài đọc một trích sách tiên tri Isaia trả lời rất rõ: Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Rất đúng! Thiên Chúa vn là Thiên Chúa, còn con người, dù có giỏi đến đâu, trước sau vn chỉ là con người. Tư tưởng, đường lối, suy nghĩ và cách hành động của con người mãi mãi chỉ là một thứ tư duy quanh qun trong mức độ của một thụ tạo, một con người không hơn, không kém.
Công bằng mà nhng người thợ làm vườn nho trách ông chủ là một thứ suy nghĩ của con người, một thứ công bằng theo nghĩa sòng phẳng: tôi làm một giờ thì phải trả lương đúng một giờ cho tôi; còn anh kia chỉ làm nửa giờ, anh ta chỉ có quyền nhận mức lương nửa giờ mà thôi. Một thứ công bằng hoàn toàn không có lòng thương xót. Vậy phải chăng, chỉ có công bằng là đủ? Là Kitô hu, điểm qui chiếu cho ta vn phải là Lời Chúa: Đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta. Công bằng mà con người áp dụng không là công bằng theo kiểu của Thiên Chúa. Thứ công bằng ấy cần nhưng chưa đủ. Công bằng của Thiên Chúa đòi phải có lòng thương xót. Nếu ngày nào Thiên Chúa chiếu theo công bằng của con người, khi con nbgười phạm tội, Thiên Chúa cứ việc trừng phạt xứng tội của họ là xong. Nhưng Thiên Chúa không làm thế. Để cứu rỗi loài người, lòng thương xót của Thiên Chúa đã nhập thể. Chúa Kitô là lòng thương xót của Thiên Chúa trở thành người để thực hiện lẽ công bằng, một thứ công bằng của tình yêu, công bằng của lòng thương xót mà một người Cha dành cho nhng đứa con phản nghịch. Công bằng của lòng thương xót nơi Thiên Chúa là: tội vn cứ là tội, vn là điều xấu cần lên án, nhưng tội nhân thì không bao giờ bị loại trừ. Người nhận biết Thiên Chúa cả một đời vn có một giá trị lớn lao, cộng với một bề dày công nghiệp do sự trung thành sống đức tin của họ. Nhưng người chỉ tôn thờ Thiên Chúa trong một giây phút cuối đời nào đó, thì chính vì đức tin, họ được cứu rỗi, nhưng bề dày công nghiệp của họ thì đâu phải là cả một đời sống đức tin!
Nước Trời là vậy đó. Như ông chủ thuê người làm vườn nho, Thiên Chúa cũng mời gọi bạn và tôi, kẻ trước người sau cùng lãnh nhận ơn cứu rỗi do chính Chúa Kitô thực hiện. Nhưng để đạt được ơn cứu rỗi đó, Thiên Chúa đòi ta phải xây dựng Nước Trời ở trần gian bằng sự công bằng của lòng thương xót chứ không phải công bằng theo nghĩa sòng phẳng, không phải ăn miếng trả miếng.
Tôi đã từng chứng kiến cảnh một bà mẹ bán chè nuôi hai đứa con học đại học, bị chủ nợ nhiếc mắng vì không trả nổi món nợ 500.000 đồng. Người mẹ tội nghiệp đó đứng khóc ngon lành như một đứa trẻ mà không biết phải làm gì hơn. Chắc không ai mà không nghĩ rằng, người chủ nợ kia đòi nợ là đúng lẽ công bằng. Nhưng công bằng đó không có lòng thương xót. Bởi tôi cũng biết người chủ nợ này cho vay chuyên nghiệp. Tin rằng bạn và tôi sẽ thực thi Lời Chúa mà xây dựng Nước Trời ở trần gian này theo lẽ công bằng của lòng thương xót, như Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, để nhờ đó chúng ta lãnh nhận ơn cứu rỗi Chúa ban.
Lm JB. Nguyễn Minh Hùng
----------------------------------
Mt 20,1-16a
Năm 1979, ông Earl Hamilton, một thượng sĩ chánh Hải quân Hoa kỳ, đã mua 2 ngôi: N25-A26
Năm 1979, ông Earl Hamilton, một thượng sĩ chánh Hải quân Hoa kỳ, đã mua 2 ngôi nhà tại Oxnard, California với giá 23 ngàn dollars một căn. Vì lạm phát và cơn lốc leo thang, hai ngôi nhà ấy hôm nay trị giá khoảng 500 ngàn Mỹ kim, nghĩa là ông có lời gấp 10 lần. Khi đề cập đến vấn đề nay, ông mỉm cười Chúa thương tôi, nên tôi khấm khá hơn khi tại ngũ. Nhiều người thấy gương của ông, cũng vội vã đầu tư. Nhưng cơn lốc chim cút hết thời! kinh tế bất ổn, việc làm bếp bênh, hãng xưởng đóng cửa. Ngôi nhà mới mua vì thế bị mất giá năm, sáu chục ngàn. Họ trách và hận trời thiên tư nên không được may mắn như ông Hamilton!
Sống trên đời ai cũng mong có một cuộc sống ấm êm, sung túc, tiện nghi và thành công. Ai cũng muốn có mảnh bằng, một nghề nghiệp vng chắc, và ráng thử thời vận hên xui. Nhưng thành công hay thất bại còn lệ thuộc vào ba yếu tố Thiên Thời, Địa Lợi và Nhân Hoà hay mưu sự tại nhân thành sự tại thiên. Hiểu theo đức tin thì Chúa có ban, chúng ta mới có.
Nhiều người đọc kinh tràng giang đại hải. Nhiều nhà trưng dọn bàn thờ, hương nến nghi ngút. Nhiều nhóm sốt sắng với việc tôn vương và chia sẻ Lời Chúa. Rồi tự thoả mãn với cái thánh thiện và đạo đức bề ngoài ấy. Họ chỉ trích, sống lập dị, chống đối, và tranh giành chức tước. Tệ hơn thế, họ còn muốn lướt quyền thánh hoá, quản trị và dậy dỗ của các chủ chăn. Bằng mọi giá họ đòi được kính trọng và chào hỏi. Bằng mọi cách, họ phải được ghi danh trong sổ vàng và bực bội nếu có ai chẳng may nổi danh và được nể vì hơn họ.
Thiển nghĩ cách sống đạo hời hợt này không được Chúa chúc lành và dù có cố gắng cả đời thì họ vn lẹt đẹt về cuối. Cái sáng giá mà Chúa chờ đợi là một tâm hồn tan nát khiêm cung, và một lòng sám hối thành thực của người trộm lành. Anh bị án treo bên cạnh Chúa. Anh ngó sang Chúa cầu xin ơn tha thứ vào giờ thứ 24 và phần phước anh được là hôm nay, anh vào Thiên quốc với Ta. (Lk 23,43).
Dụ ngôn Thợ làm vườn nho Chúa dậy hôm nay không khích lệ tín hu chờ đến phút chót, rồi chớp nhoáng đổ bộ chiếm cửa trời. Điều Chúa mong mỏi là mỗi tín hu có một phận sự, một nghĩa vụ, một tài khéo, một sứ mệnh và một ơn gọi đặc thù. Hãy phát triển năng khiếu, thực thi sứ mệnh, chia sẻ ơn gọi và dấn thân phục vụ. Đừng nhìn tha nhân và phân bì. Không dò xét so đo và khinh khi người. Chẳng tự ti khi thua, không tự tôn lúc thắng. Nếu không, chúng ta sẽ là nhng chú khỉ giỏi bắt chước và đầy tị hiềm.
Chúng ta theo Chúa với thiện chí, ý thức và trưởng thành. Đức tin là đèn dn lối. Khiêm tốn là tinh thần phục vụ. Vâng phục là phương thế cộng tác. Thương yêu là tôn chỉ hành sự và Nước trời là cùng đích. Với một quan niệm đúng đắn, với một đời sống thiêng liêng vng chắc và với nhng nhân đức tuyệt vời như trên, chúng ta màng chi đến nhng vinh quang phù du nay còn mai mất, cũng chẳng ham gì nhng lời khen chê xã giao và vô bằng. Thiên Chúa sẽ không bao giờ quên bỏ và bạc đãi nhng ai thành tâm, rộng lượng và tha thiết với việc nhà trời.
Trong kỳ Đại hội Giáo Sĩ và Tu Sĩ tại Houston năm 1983, một vị đáng kính đã công khai khen thưởng một đồng nghiệp vì không hút thuốc, chẳng nhắm rượu: thế thì cha thánh thiện quá! Lời phán đoán nông cạn này có phải là thước đo mức độ thánh thiện không? Nếu đúng thì từ Chúa Kitô đến nay, Giáo hội không có một ai thánh thiện! vì đã hút thuốc và uống rượu!
Sống trưởng thành thiêng liêng là không kênh kiệu và tự đắc như phàm phu tục tử nhận xét một cha dòng thánh thiện gấp hai cha triều. Sống khiêm tốn và vâng phục không phải là cúi đầu trồng cây ngược. Sống nghèo khó và đơn sơ không có nghĩa là than thở để vơ vét, kèo nài sống sượng và vô duyên.
Trái lại, chúng ta vâng phục mà cương quyết, lắng nghe mà không mù quáng, bất đồng nhưng không đả phá, rộng lượng mà chẳng đòi công, kính phục song không nịnh bợ, giầu có mà không dâm dật, nghèo hèn mà lòng thẳng ngay, thành công mà vn khiêm tốn.
Với triết lý vng chắc và thần học thánh thiện này, chúng ta vui khi tha nhân được ơn lành và thành công. Chúng ta cảm tạ Chúa và hài lòng với hiện tại. Chúng ta không sẽ là nhng Cain, tra tay giết em vì ghen, vì tị nạnh, vì thua kém!
Lm Nguyễn Bình An
-------------------------------
Is 55,6-9; Pl 1,20c-24,27a; Mt 20,1-16a
Hôm nay Chúa Giêsu kể dụ ngôn Thợ Làm Vườn Nho, nói về một ông chủ đi kêu thợ: TN 25-A27
Hôm nay Chúa Giêsu kể dụ ngôn Thợ Làm Vườn Nho, nói về một ông chủ đi kêu thợ đến làm vườn nhà mình vào nhng giờ khác nhau, nhưng cuối cùng ai cũng được trả lương bằng nhau, từ kẻ nhập cuộc lúc 5 giờ chiều cho đến người làm từ 6 giờ sáng.
Nghe qua dụ ngôn, không ít người cảm thấy ưng ức: tại sao Chúa có vẻ thiên vị, quá nhân ái với người này và chỉ công bình với người kia? Giả như Chúa công bình với hết mọi người thì chắc là không ai thắc mắc. Mấy anh là full time thì trả cho lương full time; mấy anh làm part time thì cứ tính giờ trả tiền thì êm thôi. Với lại mấy anh làm nhiều giờ tất có kinh nghiệm hơn nhng người làm ít, cứ trả thêm cho người có nhiều experience một tí thì đâu có sinh so sánh ganh tị thế kia.
Lối cư xử của Chúa quả không giống ai! Chẳng trách gì có người không ưa Chúa, và rồi họ ghen ghét, vu cáo, sỉ nhục, đóng đinh, giết chết.
Nhưng phải chăng vì Chúa đã làm sai? Ngài phải bước theo tiêu chuẩn và ý muốn của con người hay con người phải sống theo tinh thần và quyết định của Tạo Hoá? Phải chăng cái chết của Chúa là do Ngài làm trái ý người ta hay người ta đi xa đường lối của Thiên Chúa?
Một nhà tư tưởng đã trả lời: tại vì con người và cũng tại vì Chúa. Tại con người quá hẹp hòi ích kỷ và tại Chúa quá nhân ái từ tâm.
Vì hẹp hòi ích kỷ nên con người không muốn kẻ khác hơn mình. Bao xúc phạm nhân phẩm, tổn thương tình người, xào xáo phân ly cũng phát xuất từ tính chất ghen tuông, tiểu tâm và đố kỵ đó.
Kinh thánh ghi nhận không ít nhng tình trạng như thế. Các luật sĩ biệt phái đã bất bình uất ức khi thấy Chúa Giêsu ngồi ăn với nhng người thu thuế. Họ cũng càm ràm khó chịu khi thấy Chúa xử sự khoan dung với người phụ n tội lỗi nhất trong châu thành. Chưa hết, mười hai tông đồ thân tín của Đức Kitô cũng không tránh khỏi tâm địa con người. Bỏ tất cả mọi sự theo Chúa, bất chấp nắng mưa, cực nhọc, túng thiếu. Ăn ở với nhau rất đề huề. Bỗng, một người đàn bà đến xin cho hai ông Gioan và Giacôbê được ngồi hai bên tả hu Chúa khi Ngài khải hoàn vinh quang.
Thế là sinh chuyện. Mười ông còn lại phn uất với anh em con nhà Giêbêđê khiến Chúa Giêsu phải ra tay can thiệp, dạy các ông bài học khiêm nhường, yêu thương, và quên mình vì người khác.
Dụ ngôn Người Con Hoang Đàng cũng là một minh họa cho bản chất ích kỷ nơi con người. Đức em ăn chơi phung phí, phá tan sản nghiệp, giao du với đàng điếm, làm bại hoại gia phong, nhưng dường như người anh không bận tâm. Nó đi bụi đời, sống chết mặc nó! Đời mình cứ êm trôi.
Bỗng nhiên, đứa em trở về. Được đón tiếp linh đình. Anh phn uất. Nỗi bất bình gia tăng đến mức anh cắt đứt quan hệ cha con, anh em. Anh tuyên bố: Thằng con của ông. Ông chứ không phải cha, con của ông chứ chẳng còn em của tôi na. Tình người bị cắt đứt.
Khi tình người bị cắt đứt, người ta đâu còn nghĩ đến chuyện thương nhau: lo cho nhau khi gặp rủi ro, mừng với nhau khi được may mắn. Thiếu tình người nên kẻ làm vườn từ sáng sớm không sao hình dung được hoàn cảnh thê lương của người thất nghiệp hay thiếu việc.
Không hiểu được tâm trạng lo lắng của người phải kiếm miếng ăn cho vợ con. Không chia sẽ được niềm vui của nhng gia đình có ba cơm chiều hân hoan đầm ấm.
Nhưng tại sao người ta lại thiếu tình người như thế? Thiết tưởng, câu trả lời đúng nhất là vì họ vô ơn, không nhận ra được tình Chúa. Như trong bài Phúc âm tuần trước, vì không rung cảm sâu xa tình thương của đức vua khi tha trắng món nợ kếch xù, nên anh đầy tớ độc ác đã vô tình, vô tâm, và đối xử mất hết chất người với kẻ khác. Anh tóm lấy, bóp cổ, bắt giam, và đòi cho được số tiền nhỏ nhoi.
Cũng thế, không nhận thức được ơn phúc chủ ban khi kêu mình vào vườn nho từ sáng sớm, tránh được biết bao lắng lo, khổ tâm của một kẻ chờ chực đầu đường cuối chợ, nên hạng thợ buổi sáng đã không cảm thông xót thương cho hạng thợ buổi chiều. Nếu họ được trả một đồng, còn mấy người vào sau chỉ được 25 hay 50 cents thôi thì chắc hài lòng lắm. Nếu bọn kia được một đồng thì ta phải được một đồng hơn, nghĩ thế nên họ bất an khi người khác được như mình.
Đúng là thiếu nhận thức tình Chúa, sẽ chẳng có tình người. Khi vô ơn thì cũng dễ vô tình vô tâm.
Thế nên, để sống hạnh phúc hơn trong đời, tôi phải ngước nhìn để khám phá tình Chúa yêu tôi: không nhìn lên với phân bì so đo, nhưng nhìn xuống với cảm thương san sẻ. Có người đã viết: Tôi cứ buồn mãi vì mình không đẹp như tiên, xinh như hoa, cho đến khi gặp một gương mặt bị phỏng không còn đôi mắt, không còn cặp môi. Từ đó, tôi biết yêu mình và yêu người hơn.
Và dưới đây là lời cầu nguyện của một cô gái mắc bệnh phong cùi tên Véronique. Trong nỗi đau tột cùng vn ánh lên niềm tin yêu tha thiết. Ước gì lời cầu nguyện chân tình đó cũng là tâm tự của bạn và tôi, với Chúa và với tha nhân:
Lạy Chúa, Chúa đã đến và xin con tất cả, và con cũng đã hiến dâng cho Chúa mọi sự. Xưa kia, con ưa thích đọc sách, và Chúa đã mượn cặp mắt của con. Ngày trước, con thích chạy nhảy trong rừng thưa, và Chúa đã mượn đôi chân của con. Mỗi độ Xuân về, con tung tăng hái lượm nhng cách hoa xuân, và Chúa lại xin đôi bàn tay. Bởi vì con là một phụ n, con thích ngắm nhìn suối tóc óng ả, ưa nhìn nhng ngón tay thon nuột xinh xắn của con.
Thế mà bây giờ, đầu con như chẳng còn sợi tóc nào, chẳng còn đâu nhng ngón tay xinh xinh, chỉ còn lại một vài que củi khô queo, nhám nhúa.
Chúa ơi, Chúa hãy nhìn con, cái thân thể kiều diễm của con đã bị hủy hoại đến mức nào. Thế nhưng con không thể nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn.
Vâng, lạy Chúa, muôn đời con sẽ dâng lên hai ch Tạ Ơn. Bởi vì hôm nay nếu Chúa truyền cho con phải vĩnh biệt cõi đời, con sẽ chẳng tiếc hận gì.
Đời con đã được quá ư đầy tràn, đến kỳ diệu tột độ: sống đắm mình trong tình yêu. Cuộc đời con được Chúa lấp đầy chan chứa, vượt quá nhng gì mà tim con hằng mong ước.
Ôi lạy Cha, Cha đã đối xử quá đẹp với bé gái Véronique của Cha, và chiều nay, ôi Tình Yêu của con! Con xin dâng lời nguyện tha thiết cho tất cả mọi người cùi trên mặt đất. Xin Cha thương cách đặc biệt nhng ai đang bị "bệnh cùi tâm hồn", đang đạp đổ, đè bẹp, và hủy hoại.
Con yêu thương đặc biệt nhng con người bất hạnh ấy. Và chiều nay trong âm thầm, con xin tận hiến, chính mình con cho họ, bởi vì họ là nhng anh chị em. con.
Ôi Tình Yêu của con, con xin dâng Cha căn bệnh phong cùi nơi thân xác con để nhng người kia đừng bao giờ biết đến cái đắng cay, lạnh lẽo kinh hồn của bệnh cùi tâm hồn. Như mẹ hiền ấp ủ con thơ, Cha hãy ôm con vào lòng và nhận chìm con xuống đáy tim Cha. Xin cho con được mãi mãi ở đó cùng bao người thân yêu cho đến muôn đời. Amen."
Tôi tự nhủ: nếu hôm nay mình còn chưa thoả mãn với cuộc đời, nếu mình còn bất an với sự may mắn của bao người, nếu mình còn vô tình trước ơn Chúa, thì mình còn phải đọc đi đọc lại lời cầu nguyện trên đây nhiều lần na.
NS Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR
--------------------------------
Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT
DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO - Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mt 20, 1-16
Ngôn sứ Isaia đã kêu lên:” Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần: TN 25-A28
Ngôn sứ Isaia đã kêu lên:” Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần…”. Thiên Chúa là Đấng công bình, Người không xét xử theo công trạng của con người mà là do lòng tốt của Người. Chính vì thế, dân Do Thái trước kia đang sống trong cảnh lầm than cơ cực, đang sống trong cảnh làm tôi đòi cho dân Ai Cập. Họ có cảm tưởng như Chúa bỏ rơi họ hoặc họ đã lãng quên Chúa. Lời mời gọi của Isaia:” hãy trở về với Chúa và hãy tìm kiếm Chúa “ là một lời mời gọi khẩn thiết.
Đối với tôi:” sống là Đức Kitô “thánh Phaolô đã thốt lên như thế. Tin Chúa, tìm Chúa, sống gắn bó với Chúa là lẽ sống của người Kitô hữu. Đoạn Tin mừng Mt 20, 1-16 cho chúng ta thấy lòng nhân từ, trái tim đầy thương xót của Chúa…
CÁI NHÌN CỦA CHÚA GIÊSU: Chúa Giêsu sống trong xã hội Do Thái lúc đó, Người thường bị các người biệt phái, luật sĩ, các vị lãnh đạo tôn giáo, các người xấu rình mò, nhắm tới, chĩa mũi dùi vào Chúa Giêsu. Tất cả họ là những người giả hình, những người vụ hình thức, những người giả dối, sống hời hợt bề ngoài nhưng tâm hồn xa thực tế, trái tim khô cứng, họ không có lòng đạo đức, họ giữ luật Môsê tỉ mỉ bề ngoài, nhưng giữ luật một cách máy móc và thiếu trung thực, thiếu tình thương. Họ chống đối Chúa Giêsu vì những lời nói, những việc làm của Ngài đầy tình yêu thương, đầy lửa mến. Họ chỉ trích Chúa Giêsu vì Ngài yêu thương, gần gũi những kẻ nghèo hèn, những kẻ tội lỗi. Họ tị hiềm với Chúa vì Chúa luôn gần gũi với những kẻ thấp cổ bé họng, những kẻ bị đẩy ra khỏi xã hội. Đứng trước thái độ xấu xa của những người Do Thái, Chúa kể dụ ngôn người thợ làm vườn nho để gián tiếp chỉ về Ngài, chứng minh Ngài là Người vô cùng nhân hậu. Người chủ vườn nho đi thuê thợ làm vườn nho và thoả thuận trả giá một đồng cho mọi người vào làm vườn bất cứ giờ nào trong ngày.
Tới giờ phát lương vào buổi chiều, người chủ đã trả y giá đã thỏa thuận cho những làm thuê là một đồng mỗi người. Dù rằng ai trong đám thợ cũng tưởng mình sẽ được trả giá cao hơn. Nhưng tất cả đều nhận được chỉ có một đồng theo giá đã thỏa thuận. Do đó có tiếng xì xào, oán trách chủ. Tuy nhiên, chủ đã ôn tồn trả lời:” Nào tôi có làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy lãnh lấy phần bạn đã thỏa thuận và ra về”… Chúa Giêsu muốn đưa nhân loại lên tầm cao mới, chiều sâu mới. Con người phải có cái nhìn bằng tình yêu mới có thế nghiệm ra lòng thương xót của Chúa. Chúa yêu thương con người, Ngài làm, hành động vì tình yêu. Tất cả công việc của Chúa đều phát xuất từ trái tim độ lượng của Ngài.
ĐỐI VỚI CHÚA TẤT CẢ ĐỀU LÀ ÂN SỦNG: Đối với Chúa không có sự giao hoán nào cả. Khi Ngài ân thưởng cho ai, Ngài cũng làm vì lòng tốt, vì tình yêu của Ngài. Do đó, con người không thể đòi hỏi Thiên Chúa, không thể nói tay đôi với Ngài được. Ngài có cách nhìn, có cách thẩm định của Ngài. Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu. Ngài thi ân và giáng phúc. Nên, con người chỉ hoàn toàn phó thác và cậy trông vào Chúa mà thôi. Con người và Thiên Chúa được đặt trên mối quan hệ ân sủng. Đây là giáo huấn căn bản của dụ ngôn và là đối tượng đích thực. Chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền thi ân, tha thứ cho con người. Ngài có quyền ban thưởng cho ai là do lòng tốt của Ngài. Con người không có quyền kết tội người khác vì chỉ mình Chúa mới có quyền xét đoán và thứ tha tội khiên, Ngài gánh tội và xóa tội cho nhân loại, cho con người. Ngài ban cho ai điều gì là do tấm lòng nhân hậu, từ bi và đại lượng của Ngài.
Chính vì thế,con người hoàn toàn tin cậy, phó thác vào Chúa vì họ biết chắc chắn Chúa sẽ thương yêu họ ngoài sức lượng định của họ. Gương của các thánh đã cho nhân loại càng hiểu rõ hơn lòng từ bi nhân hậu và trái tim đầy nhạy cảm yêu thương của Chúa. Chúa luôn yêu thương kẻ bé mọn vì họ là những người nghèo, là những Anawim của Chúa. Một Têrêsa Hài Đồng Giêsu bé nhỏ, một Têrêsa Calcutta khó nghèo, một Saviô nhỏ tuổi. Tất cả các Đấng đều được ân thưởng vì tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa vì Chúa là Tình Yêu của chúng con.
--------------------------------
Mt 20,1-16a
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO - Lm Đan Vinh
Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần: - Phần 1 (c 1-7): Chủ vườn đi kêu người vào làm vườn nho của ông TN 25-A29
Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần:
- Phần 1 (c 1-7): Chủ vườn đi kêu người vào làm vườn nho của ông. Có 4 tốp người vào làmvào 4 thời gian khác nhau: giờ thứ nhất, giờ thứ ba, giờ thứ sáu, và cả giờ thứ mười một. Đức Giê-su cũng kêu mời người ta vào Nước Trời để được ơn cứu độ vào nhiều thời điểm khác nhau.
-Phần 2 (c 8-16a): Chủ vườn trả tiền lương cho thợ. Ông sai người trả tiền công theo thứ tự đảo ngược: Từ người vào làm một tiếng cuối ngày, tới người làm việc vất vả cả ngày. Khi đám thợ thắc mắc tại sao người làm nhiều làm ít đều được trả một quan tiền. Ong chủ đã trả lời cho thấy ông đã không bất công khi trả công sòng phẳng theo thỏa thuận từ đầu. Còn lý do ông trả cho người đến sau hết số lương bằng người làm từ đầu là do lòng nhân ái của ông. Cũng vậy, sau này Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho mọi kẻ gia nhập vào Nước Trời. Dù là dân ngoại gia nhập sau cũng được như dân Do thái vào từ đầu. Người chỉ đòi họ thành tâm thiện chí yêu Người là đủ.
CHÚ THÍCH:
(c 1) Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình: Bên Do thái vào mùa hái nho, ngay từ sáng sớm, các chủ vườn thường ra ngã ba đường hay ra chợ để thuê người làm công. Ong chủ vườn này có lòng bác ái đối với người nghèo khổ, nên đã đi thuê người vào nhiều giờ trong ngày mà không tính toán hơn thiệt. Cũng vậy: Thiên Chúa nhân từ muốn mọi người gia nhập Nước Trời để được ơn cứu độ.
(c 2) Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc: Vào thời Đức Giê-su, chủ vườn nho thường trả lương công nhật cho thợ làm vườn là một quan tiền. Ở đây ông chủ đã hứa trả lương công nhật là một đồng ngay từ khi thuê mướn họ.
(c 3) Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ:
+ Giờ thứ ba: theo luật Do thái thì thời gian một ngày được tính từ mặt trời lặn. Vì thế luật thánh hóa ngày Sa-bát bắt đầu từ chiều thứ sáu hôm trước. Nhưng khi tính giờ, người Do thái lại tính từ lúc mặt trời mọc vào buổi sáng. Thời gian từ mặt trời mọc đến mặt trời lăn được chia làm 12 giờ. Vậy giờ thứ nhất, thứ ba, thứ sáu, thứ chín và thứ mười một trong dụ ngôn tương đương với 6,9,12,15 và 17 giờ ngày nay. Giờ lao động trong một ngày kết thúc vào lúc 18 giờ chiều.
+ Ông chủ vườn mời người đi làm vườn nho: Thiên Chúa mời gọi người ta gia nhập Hội Thánh vào nhiều thời điểm khác nhau: Có người ngay từ khi mới sinh, người khác ở tuổi mới lớn, có người ở tuổi trưởng thành, có người khi về già và thậm chí có người ngay trước khi chết nữa.
(c 4) Ông cũng bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng". (c 5) Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy:
+ Tôi sẽ trả công cho các anh hợp lẽ công bằng: Ông chủ nói với những người đi làm trễ là sẽ trả lương công bằng, nghĩa là tiền công được hưởng sẽ tương đương số giờ làm việc.
+ Khoảng giờ thứ sáu rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy: Ông chủ nôn nóng đi kêu thợ vào nhiều thời điểm khác nhau trong ngày mà không tính toán thiệt hơn, cho thấy Thiên Chúa có lòng khoan dung nhân hậu. Người không muốn cho kẻ có tội phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối để được sống.
(c 6) Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết ?" (c 7) Họ đáp: "Vì không ai mướn chúng tôi". Ông bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho !":
+ Khoảng giờ mười một: Giờ mười một hay 17 giờ chiều, là giờ cuối trong ngày. Thợ chỉ phải làm việc một tiếng nữa là hết giờ lao động.
+ "Vì không ai mướn chúng tôi!": Những người này sở dĩ đứng không suốt ngày là do bị thất nghiệp. Họ không được ai thuê mướn cả.
+ "Cả các anh nữa, hãy đi làm vườn nho !": Mục đích ông chủ kêu thợ làm vườn nho vào giờ cuối cùng này là vì tình thương muốn giúp họ có việc làm, chứ không phải do nhu cầu công việc đòi hỏi. Điều này cho thấy ơn cứu độ là một ơn cho không, do tình thương của Thiên Chúa, chứ không phải do công khó của loài người chúng ta.
(c 8) Chiều đến, ông chủa vườn nho bảo người quản lý: "Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất".
(c 9) Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. (c 10) Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn. Thế nhưng cũng lãnh được mỗi người một quan tiền:
Ở đây việc trả lương có vẻ khác thường: Thứ nhất vì đảo lộn thứ tự trước sau. Thứ hai vì số lương được trả một quan tiền bằng nhau, giữa những người làm việc trong thời gian nhiều ít khác nhau. Khi sắp xếp việc trả lương như vậy, ông chủ muốn tạo cho người làm việc từ sáng sớm tưởng rằng sẽ được trả nhiều hơn. Vì thế họ đã thắc mắc khi cũng chỉ được lãnh một quan tiền, bằng với người vào làm từ giờ thứ mười một.
Điều này cho thấy tình thương của Thiên Chúa đối với những kẻ gia nhập Hội Thánh sau này. Bất cứ ai dù là Do thái hay dân ngoại, dù theo đạo từ khi mới sinh hay trước khi chết, nếu thành tâm tin yêu phụng sự Thiên Chúa thì đều được Người cho hưởng ơn cứu độ.
(c 11) Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: "Mấy người sau chót này chỉ làm việc có một giờ. Thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt":
Họ trách móc ông chủ hai điều: Một là họ phải làm việc vất vả suốt từ sáng sớm đến chiều tối, đang khi những người làm giờ thứ mười một chỉ làm có một giờ. Hai là họ phải chịu nắng nôi khó nhọc, đang khi những người làm sau được hưởng bầu khí mát mẻ ban chiều. Họ muốn được chủ trả lương cao hơn những người vào làm sau.
- Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ; "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao ?":
+ Này bạn: Đây là kiểu xưng hô của ông chủ với những người thợ chưa biết tên. Kiểu xưng hô này vừa khoan dung vừa trách móc nhẹ nhàng để mong họ nghĩ lại. Giống như Đức Giê-su đã nói với Giu-đa trước khi bị bắt tại vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,50).
+ Tôi đâu có xử bất công với bạn ?: Việc trả lương một quan tiền cho những người thợ đến sau không gây ra thiệt hại gì cho những người vào làm từ đầu. Họ đã nhận được số tiền lương một quan tiền, theo đúng thỏa thuận từ trước khi bắt tay làm việc.
(c 14) "Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó". (c 15) "Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?":
+ Chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt: Việc trả lương cho người đến làm sau cũng được một quan tiền là do lòng tốt của ông chủ, chứ không phải do công lao của họ. Chúa muốn dạy: Đừng ganh tị với tội nhân khi thấy Chúa đối xử nhân từ với họ giống như mình.
+ Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức: Ông chủ vạch rõ tâm địa độc ác của nhóm thợ làm sáng sớm. Họ không muốn người làm sau được trả lương bằng hay hơn họ. Đức Giê-su muốn khuyên chúng ta hãy đón nhận lòng nhân từ của Thiên Chúa chứ đừng suy nghĩ theo kiểu loài người mà phê phán công việc của Người.
(c 16) Thế là những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu. Còn những kẽ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.
Theo thánh Gio-an Kim Ngôn thì câu này không bắt nguồn trực tiếp từ dụ ngôn, cũng như không phải là câu tóm kết bài học của dụ ngôn. Nó được thêm vào, vì có một sự tương tự nào đó xét theo câu chuyện. Câu này nói đến sự đảo lộn về việc phát lương trước sau, đang khi trọng tâm của dụ ngôn lại nhấn mạnh đến việc trả lương đồng đều giữa những người thợ làm trong thời gian lâu mau khác nhau. Có lẽ tác giả muốn thêm câu này để đóng khung dụ ngôn mà thôi.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) LỜI CHÚA:
Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao ? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?" (Mt 20,13-15).
2) CÂU CHUYỆN:
ĐỪNG GANH GHÉT NHỮNG AI HƠN MÌNH:
Có một bà kia có tính hay ganh ghét những ai hơn mình. Bà làm chủ một căn nhà trong một hẻm cụt gồm 4 căn có giá trị khác nhau. Khi cơn sốt đất lên cao, ai cũng mong bán căn nhà của mình mà chỉ trong thời gian vài ba tháng gía đã tăng lên gấp đôi. Rồi cả bốn căn nhà trong hẻm đều treo bảng bán nhà. Bà kia định giá căn nhà đúc 2 tấm trước đây chỉ đáng giá 70 cây, bây giờ có thể bán được 150 cây vàng, còn ba nhà kia theo bà nghĩ: chỉ là nhà trệt cấp IV, mái lợp tôn và trần hư hỏng nên chỉ giá từ 50 đến 100 cây là cùng. Một hôm có một đôi vợ chồng việt kiều đến hỏi mua nhà của bà và sau khi thương lượng, họ đã bằng lòng mua với giá 150 cây, đúng như đánh giá của bà. Hôm sau bà nghe biết đôi vợ chồng kia cũng mua cả ba căn nhà bên cạnh với giá 150 cây mỗi căn. Bà cảm thấy ganh tỵ khi biết hai vợ chồng này mua chúng để sẽ đập bỏ đi. Thế mà mỗi căn cũng bán với giá 150 cây bằng với căn nhà cấp II đúc hai tấm của bà. Hôm sau khi gặp đôi vợ chồng kia, bà đã phiền trách họ về việc ấy. Ông chồng liền nói: "Này bà, bà đã thỏa thuận bán cho chúng tôi đúng theo thời gía mà. Tôi đâu có ép giá bà đâu. Còn chúng tôi muốn mua mấy căn nhà bên cạnh bằng giá nhà bà là do chúng tôi muốn giúp đỡ họ và cũng để mau được việc cho chúng tôi. Bà đừng ganh tỵ với họ làm chi !"
GIÁ TRỊ CỦA MỘT CÁI KẸP GIẤY TẦM THƯỜNG:
Cách đây ít lâu, có một phản lực cơ siêu thanh rất đắt tiền được cho bay thử nghiêm. Khi sắp đáp xuống căn cứ không quân ở bang Ca-li-pho-ni-a thì găp sự cố kỹ thuật: Cần số không thể đưa vào vị trí cho phi cơ hạ cánh được ! Viên phụ lái đồng thời là một thợ kỹ thuật máy phản lực giỏi, nên đã lập tức phát hiện ra mạch điện của chiếc rơ-le không hoạt động. Anh ta yêu cầu viên phi công tiếp tục cho máy bay bay trên trời trong lúc anh đi kiếm một vật gì đó để tạm thay cho chiếc rờ -le bị hư kia. Sau một lúc lục lọi, cuối cùng anh đã tìm ra một chiếc kẹp dùng để kẹp giấy bị vứt trong sọt rác. Anh uốn cong nó lại và ráp thay thế vào chỗ chiếc rờ-le bị hư kia. Nhờ đó đã giải quyết được tình trạng nguy hiểm và sau đó máy bay đã đáp xuống mặt đất an toàn. Trong thời điểm ấy cái kẹp giấy bỏ đi kia không những có giá trị quyết định sự sống còn cho phi hành đoàn, mà còn cứu được cả chiếc máy bay rất đắt tiền khỏi bị rơi xuống đất và bị hủy hoại. Trong thời điểm nguy hiểm ấy, chiếc kẹp giấy tầm thường kia lại đáng giá hàng triệu đô-la.
LÒNG NHÂN TỪ CỦA NỮ HOÀNG VIC-TO-RI-A NƯỚC ANH:
Thời nữ hoàng Vic-to-ri-a đang trị vì nước Anh, một gia đình kia gồm bà mẹ và hai đứa con. Chồng chết sớm nhưng bà không đi bước nữa, mà ở vậy nuôi con. Vì một mình kiếm không đủ tiền để nuôi ba miệng ăn và phải chi cho bao thứ tiền khác, nên trên mặt bà chẳng khi nào vui vẻ. Nghe đồn nữ hoàng Vic-to-ri-a có lòng nhân từ và thường hay giúp những người nghèo khổ, nên đứa con trai nhỏ mới 7 tuổi của bà quyết định đi vào hoàng cung để xin được yết kiến nữ hoàng. Thấy một đứa nhỏ đứng ở ngoài cổng nhìn vào hoàng cung, vệ binh gác cổng đã nạt lớn: "Này thằng nhóc kia. Có cút ngay đi chổ khác chơi không thì bảo. Nếu mày muốn đi tù thì cứ đứng ở đó !". Nghe tiếng quát của anh lính gác cổng, cậu bé rất sợ hãi, vừ chạy vừa khóc lên tức tưởi. Bỗng một thanh niên ăn mặc sang trọng ở đâu chạy đến gần cậu và hỏi: "Này nhỏ, sao em khóc ?" Cậu trả lời: "Ba cháu chết, nhà cháu rất nghèo. Cháu nghe nói có nữ hoàng là người nhân đức và thường hay giúp đỡ những người khốn cực như gia đình cháu, nên cháu muốn đến để xin nữ hoàng giúp đỡ cho ba mẹ con cháu. Nhưng cháu mới đứng ở cổng thì bị mấy ông lính kia đuổi đi và còn muốn bắt bỏ tù cháu !". Chàng thanh niên nghe thế, liền mỉmcười rồi cầm tay cậu và ôn tồn nói rằng: "Vậy thì em hãy đi theo ta vào hoàng cung yết kiến nữ hoàng". Khi đi với chàng thanh niên, cậu bé thấy chàng ta dẫn cậu đi qua nhiều cổng. Cậu rất ngạc nhiên khi thấy chàng thanh niên đi đến đâu cũng được bọn lính gác cổng chào thật nghiêm chỉnh. Sau khi vào được bên trong hoàng cung, chàng thanh niên liền dẫ cậu đến một gian phòng lớn rất đẹp, và nói to lên rằng: "Thưa mẹ, có một em nhỏ muốn được gặp mẹ". Thì ra chàng thanh niên kia chính là hoàng tử con của nữ hoàng. Bấy giờ nữ hoàng đã đi ra cửa và niềm nở hỏi chuyện cậu. Sau khi biết rõ hoàn cảnh đáng thương của ba mẹ con, nữ hoàng liền nói: "Con cứ yên tâm. Ta sẽ giúp đỡ cho gia đình con. Con hãy về nhà nói với mẹ rằng: Con đã gặp nữ hoàng và nữ hoàng hứa sẽ cầu Chúa ban phúc lành cho ba mẹ con nhé".
Câu chuyện về vị nữ hoàng nhân hậu này đã minh họa cho ông chủ vườn nho trong dụ ngôn "Thợ làm vườn nho" hôm nay. Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta thường cư xử thế nào đối với những người nghèo khó bất hạnh đến nhờ chúng ta giúp đỡ ?
MỘT ÔNG VUA NHÂN TỪ VÀ QUẢNG ĐẠI:
Tại nước Tây Ban Nha có một ông vua tên là An-phông-sô rất nhân từ và quảng đại. Ngài thường cải trang làm thường dân đi vi hành đó đây để tận mắt chứng kiến những nỗi đau khổ và oan ức của nhân dân do bọn quan lại địa phương gây ra, để kịp thời sửa sai chấn chỉnh. Ngày nọ đức vua cải trang đến một tỉnh nọ và thuê một phòng trọ trong một khách sạn bình dân. Sáng hôm sau, nhà vua yêu cầu bồi phòng mang đến cho ông một chiếc gương để cạo râu. Khi đem chiếc gương cho vị khách, anh bồi phòng thấy khuôn mặt ông khách rất dễ mến, nên chủ động bắt chuyện trước: "Này ông, tôi có cảm tưởng ông không phải là loại khách du lịch xoàng". Nhà vua tò mò muốn biết anh bồi phòng nghĩ gì về mình, nên hỏi lại: "Sao anh lại nói như vậy ?" Người bồi phòng trả lời rằng: "Vì tác phong và vẻ bề ngoài của ông có cái gì đó khác với những người dân bình thường. Chắc ông phải là người thuộc triều đình nhà vua tại thủ đô Ma-trít (Madrid) cũng nên". Nhà vua chỉ đáp lại cách mập mờ: " Một cách nào đó anh nói cũng đúng đó!" Anh bồi phòng lại hỏi thêm: " Vậy hẳn ông phải là một quan chức luôn hầu cận bên đức vua ?" Nhà vua trả lời: "Anh đoán thật chẳng sai chút nào". Người bồi phòng càng tò mò hơn và hỏi tiếp:"Phục vụ đức vua thì bình thường phải làm những việc gì hả ông ?" Nhà vua mỉm cười hóm hỉnh đáp:"Ồ, làm nhiều việc lắm, đại loại như bây giờ tôi sắp phải đi cạo râu cho ngài !".
Người bồi phòng trong câu chuyện trên đã gặp được chính đức vua và đã được ngài hé mở cho biết phần nào sự thật về ngài. Các câu đối đáp minh họa cho chúng ta thấy thái độ nhân từ và khoan dung của ông chủ vườn nho tượng trưng cho thiên Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay. Những người đi làm sau ám chỉ dân ngoại và những kẻ tội lỗi. Họ được Thiên Chúa mời gia nhập vào Hội Thánh vào giờ thứ mười một, tức là theo Chúa lúc cuối đời ngay trước khi chết. Đây cũng là trường hợp của người trộm lành trên cây thập giá với Đức Giê-su. Ong ta nhờ có lòng tin và biết thành tâm sám hối, nên đã được Người tha tội và còn hứa ban hạnh phúc đời đời như sau:"Tôi bảo thật anh: hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng"
(x Lc 23,42-43).
3) SUY NIỆM:
1) SO SÁNH NGƯỜI CON TRƯỞNG VÀ NHỮNG THỢ LÀM VƯỜN TỪ SÁNG SỚM:
Trong dụ ngôn về người cha nhân hậu, anh con cả đã tỏ ra bất mãn với người cha khi ông tỏ lòng bao dung tha thứ đối với đứa em hư hỏng đi hoang trở về. Không những ông không trừng phạt tội bất hiếu của nó, mà còn truyền cho gia nhân giết bê béo ăn mừng khi nò trở về. Người con cả đã tỏ thái độ ganh ghét không thèm vào nhà và kêu trách cha: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng !" (Lc 15,28-30).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người đi làm từ sáng sớm cũng đã cằn nhằn ông chủ khi thấy ông trả lương cho người chỉ làm một tiếng đồng hồ cũng được trả một quan tiền, bằng với họ là những người phải chịu nắng nôi khó nhọc suốt cả ngày. Cả hai dụ ngôn trên đều ám chỉ thái độ của các đầu mục kinh sư và người Pha-ri-sêu. Họ đã tỏ thái độ bất mãn khi thấy Đức Giê-su đối xử khoan dung thân tình với bọn thu thuế, gái điếm và những kẻ tội lỗi. Người như một mục tử tốt lành: Đi tìm từng con chiên lạc, đem lại cho những người bất hạnh kia niềm vui và hạnh phúc. Người mời gọi họ hoán cải và hứa ban Nước Trời cho họ. Như vậy, người tội lỗi cũng được hưởng hạnh phúc ngang với các kinh sư và những người Pha-ri-sêu. Những người này vốn tuân giữ từng điều khoản dù nhỏ mọn của luật Mô-sê và tự coi mình là người công chính. Trước thái độ nhân từ và khoan dung đối với các tội nhân của Đức Giê-su, các đầu mục Do thái này đã tỏ thái độ ganh ghét và cho rằng quyền lợi của mình đã không được tôn trọng.
2) THẾ NÀO LÀ THÁI ĐỘ GANH GHÉT:
Ngay từ thuở bình minh của nhân loại, sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, sự dữ đã lọt vào thế gian. Ca-in đã tỏ ra ganh tỵ khi thấy Thiên Chúa nhận lễ vật của A-ben và bỏ lễ vật của mình. Hắn ta đã coi A-ben là kẻ thù và ra tay giết chết em và hắn ta đã bị Thiên Chúa trừng phạt. Như vậy người ganh tỵ là kẻ vừa hủy diệt người khác, vừa hủy hoại chính bản thân của mình. Những người thợ làm việc từ sáng sớm cũng đã tỏ ra bực tức và ganh tị khi thấy những người đến trễ chỉ làm việc một giờ. Họ cằn nhằn ông chủ không phải vì ông bất công. Nhưng vì ông đã trả cho người vào làm sau họ mà cũng được trả lương một quan tiền, ngang bằng với họ. Đang khi họ phải chịu nắng nôi vất vả suốt cả ngày. Giả như ông trả cho người làm sau số tiền ít hơn họ thì chắc là họ đã không cảm thấy khó chịu như thế.
Kẻ ganh ghét đã không "vui với người vui", vì họ thiếu tình yêu thương. Họ không coi các người kia là bạn, nhưng là đối thử cần phải trừ khử. Họ coi sự thành công của người khác là mối đe dọa cho mình. Ở đây, Đức Giê-su mời chúng ta sửa đổi cái nhìn về Thiên Chúa: Người là Đấng công bình, nhưng không cứng nhắc trong khuôn khổ của lề luật. Người có một trái tim tự do biết yêu thương, Người giàu lòng từ bi nhân ái và luôn tìm dịp để trao ban ơn sủng cho loài người chúng ta. Thiên Chúa đã chứng tỏ Người là Chúa của kẻ trộm lành biết sám hối, là chủ của người thợ đi làm trễ vào giờ thứ mười một. Nhưng đồng thời Thiên Chúa cũng là một người cha đầy lòng từ bi nhân hậu.
3) CHÚA MUỐN CHÚNG TA LÀM GÌ ?
Qua đoạn Tin Mừng này, Đức Giê-su cũng mời gọi chúng ta đừng quá tự hào về bản thân mình. Người kê gọi chúng ta hãy đổi mới cái nhìn về tha nhân, để ngày càng thêm lòng kính trọng tha nhân, phá bỏ hàng rào ngăn cách như sự ganh ghét nhỏ nhen ích kỷ và sự trả thù ti tiện xấu xa. Đến bao giờ người con cả mới chịu bước vào trong nhà để chia sẻ niềm vui với cha khi ông đã tìm thấy đứa con bị thất lạc ? Biết đến khi nào những người thợ đi làm từ sáng sớm mới sẵn lòng chia sẻ niềm vui với những người vào làm lúc cuối ngày ? Biết đến khi nào chúng ta mới cảm thấy vui thật sự với những người hàng xóm bên cạnh chúng ta, chỉ vì chúng ta đã nhận ra họ không phải kẻ thù của chúng ta, nhưng là những người anh em ruột thịt của chúng ta ?
4) THẢO LUẬN:
Trong đời sống hàng ngày chúng ta thường hay ganh ghét kẻ khác vì những nguyên nhân nào ? Ta phải làm gì để bỏ thói ganh ghét này ? Bạn thấy lời thánh Phao-lô dạy: "vui với người vui" có dễ thực hành không ? Bạn cảm thấy thế nào khi người khác thành công hơn bạn như: họ thi đậu, có tài ca hát và được nhiều người mến mộ, họ làm việc tông đồ kết quả hơn ta ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) LẠY CHÚA CHA.
Chúng con xin cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Đức Giê-su là Con yêu dấu của Cha cho loài người chúng con, để Người dạy dỗ chúng con biết được sự thật về Cha. Qua hình ảnh về người chủ vườn nho có lòng từ bi nhân hậu hôm nay, Đức Giê-su muốn dạy chúng con về thương vô cùng của Cha. Cha luôn quan tâm chăm sóc hết mọi người, nhất là những ai đang gặp đau khổ, đang sống trong tội lỗi và đang bị người thân bỏ rơi. Cha mời gọi hết mọi người trong họ gia nhập vào Hội Thánh để được hưởng ơn cứu độ.
LẠY CHA. Tuy chúng con chỉ là những đầy tớ vô dụng (x Lc 17,10), nhưng chúng con cũng xin hứa quyết là: sẽ hết lòng phục vụ Hội Thánh, để làm cho Hội Thánh có thể trổ sinh nhiều hoa trái là sự công bình và tình yêu thương. Xin cho chúng con biết cộng tác với Cha để mời gọi nhiều người vào vườn nho cho Cha. Xin cho con biết chung vui với Cha khi có thêm tội nhân và anh chị em lương dân trở về làm con cái Cha, để họ cũng được chia sẻ ơn cứu độ với chúng con. Vì chúng con biết rằng: "Cha muốn cho hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ".
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
2) LẠY MẸ MARIA.
Xin hãy cầu Chúa ban cho con trái tim giống như trái tim rất dịu dàng của Chúa Giêsu và trái tim đầy tình yêu thương của Mẹ. Xin cho trái tim con đừng ích kỷ, khép lại dành riêng cho mình, nhưng biết mở ra để đón nhận tha nhân. Xin cho trái tim con trở nên giống như trái tim Chúa: bao dung, nhân hậu và dễ tha thứ. Xin cho trái tim con vượt lên mọi tranh chấp nhỏ nhen và mọi sự trả thù ti tiện. Xin cho tâm hồn con luôn có sự bình an của Chúa, tránh những gì gây xáo trộn lòng con như sự giận hờn tranh chấp và ganh ghét tha nhân
LẠY MẸ. Xin giúp tình cảm trong con luôn được quân bình: Không quá vui khi thành công, mà cũng chẵng ngã lòng khi thất bại. Xin cho con biết khiêm tốn lắng nghe những lời phê bình, chỉ trích của kẻ khác. Xin cho trái tim con đủ lớn để yêu thương hết mọi người, kể cả những kẻ không ưa con và những người con không ưa họ. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để đón nhận tất cả thế giới, để không coi ai là kẻ thù, nhưng biết dùng tình thương để biến thù thành bạn
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
--------------------------------
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Đến bất cứ sân bay hay thành phố nào của nước Mỹ, tôi cũng thấy người ta đang xây dựng nhà, xưởng: TN 25-A30
Đến bất cứ sân bay hay thành phố nào của nước Mỹ, tôi cũng thấy người ta đang xây dựng nhà, xưởng, cầu, đường…. Có thể nói cả nước Mỹ là một đại công trường. Mà nước Mỹ là một đại công trường thì cả thế giới phải là một công trường khổng lồ. Và nếu như Chúa Giê-su sống ở thế kỷ XXI này thì có lẽ Người sẽ có một dụ ngôn “những người công nhân xây dựng công trường” thay vì dụ ngôn “thợ làm vườn nho” như trong bài Phúc âm Chúa nhật XXV Thường Niên A hôm nay. Nhưng đó chỉ là là vấn đề ngôn ngữ và hình ảnh, còn nội dung thì vẫn là một. Chúng ta hãy lắng nghe, tìm hiểu để đón nhận và sống sứ điệp Lời Chúa.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM
2.1 Lắng nghe Lời Chúa: Mt 20, 1-16: Dụ ngôn thợ làm vườn nho.
“Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ong cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.” Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và làm y như vậy. Khoảng giờ thứ mười một, ông trở ra và còn thấy những người khác đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?” Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi.” Ong bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!” Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: ”Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.” Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang ngàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” Ong chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức!” Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hạng chót.. [Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.]
2.2 Trong đoạn Tin Mừng Mt 20, 1-16 trên, chúng ta khám phá Chúa Giêsu là Ai?
Dù bài Phúc âm theo thánh Mát-thêu hôm nay là một bản văn diễn từ và là một dụ ngôn nhưng cũng cho ta thấy Chúa Giê-su là Ai và muốn dậy chúng ta điều gì.
(1o) Bài Tin Mừng Mát-thêu hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giê-su rất khôn khéo, tế nhị và kín đáo khi trình bày tư tưởng và quan điểm của mình bằng một dụ ngôn. An sâu bên trong dụ ngôn là các hàm ý. Có hai hàm ý quan trọng (1o) Nước Trời là công trình của Thiên Chúa nhưng do công sức của rất nhiều người đóng góp xây dựng nên. Vì thế mà gia chủ ra chợ đến những 5 lần trong ngày (lúc 6 giờ và 9 giờ sáng, lúc trưa, lúc 3 và 5 giờ chiều) để mướn thợ làm vườn nho (2o) Những thợ được chủ mướn ngay từ sáng sớm ám chỉ những người Ít-ra-en là dân riêng của Thiên Chúa. Còn những thợ được mướn vào giờ thứ mười một tức vào lúc năm giờ chiều là những người ngoại và những người bị khinh miệt trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ. Đó là những người thu thuế và những cô gái điếm là hai hạng người có liên hệ mật thiết với quân lính Roma xâm lược. Thế mà Thiên Chúa cũng kêu mời (mướn) họ vào làm cho vườn nho của Người.
(2o) Bài Tin Mừng Mát-thêu hôm nay còn cho chúng ta thấy Đức Giê-su muốn trình bày cho người Do Thái biết Chúa Cha là Đấng quảng đại chứ không tính toán chi li như họ. Chúa Cha có cách cư xử riêng của mình mà con người không ai có quyền ép buộc Người phải làm theo ý của họ.
2.3 Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng Mt 20, 1-16 dạy chúng ta điều gì?
(1o) Trước hết Lời Chúa hôm nay dậy chúng ta biết Thiên Chúa Cha là Chủ Vườn Nho và thu nhận tất cả mọi thợ để làm cho Vườn Nho của Người. Người đã ra chợ 5 lần để tìm thợ thì đủ biết Người cần thợ như thế nào. Có nghĩa là tất cả mọi người, không trừ ai, đều được Thiên Chúa mời/nhờ/mướn làm vườn nho của Người tức xây dựng Nước Trời trong thế giới loài người hôm nay. Có người được mời/nhờ/mướn sớm, có người được mời/nhờ/mướn trễ. Nhưng mọi người đều có việc làm, mọi người đều có chỗ làm, không ai bị thất nghiệp, không ai bị loại bỏ cả.
Ap dụng vào các thành phần của Giáo hội Chúa, Đức cố Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã nói với các tín hữu giáo dân trong Tông huấn Chrisfideles Laici rằng: “Cả anh chị nữa, các anh chị cũng được mời gọi góp công góp sức vào việc xây dựng Nước Trời ngày hôm nay!” Vì thế mới có quan điểm thần học về một Giáo hội mà trong đó mọi người có phần và phải góp phần (Parti-cipatory Church).
(2) Lời Chúa hôm nay còn dạy chúng ta biết rằng Thiên Chúa có cách riêng của Người để trả hay thưởng công những người thợ đã đóng góp vào việc xây dựng Nước Trời. Làm thợ chúng ta không cần phải bận tâm đến chuyện ấy. Làm thợ chúng ta chỉ cần bận tâm đến việc chu toàn công việc được giao phó cho mình. Và làm thợ chúng ta nên học tập lòng quảng đại của Thiên Chúa.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Có một bài hát sinh hoạt đơn sơ nhưng ý nghĩa như vầy:
CHÚA BAN CHO TA, NGƯỜI MỘT NÉN VÀNG, NGƯỜI HAI NÉN VÀNG, NGƯỜI BA NÉN VÀNG. ĐỪNG CHÔN XUỐNG ĐẤT, ĐỪNG CẤT VÀO KHO, MÀ ĐEM SINH LÃI, GẤP HAI BA LẦN
Trong tinh thần ấy, tuần này, tôi sẽ nhìn lại xem Thiên Chúa đã giao cho tôi những nén vàng/nén bạc nào? (sức khoẻ, khả năng, hoàn cảnh và địa vị xã hội, công ăn việc làm, thời gian, điều kiện sinh sống và chia sẻ) và tôi sẽ kiểm điểm xem tôi đã sử dụng những nén vàng/nén bạc ấy như thế nào? (phung phí? bo bo giữ kỹ cho mình và gia đình mình? chia sẻ với những người thiếu thốn? phục vụ lợi ích của tha nhân và cộng đồng?).
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa Cha là Chủ Vườn Nho, là Chủ Công Trường Nước Trời, con xin dâng lên Cha lời ngợi khen, cảm tạ và chúc tụng! Cha đã ban cho con khả năng, thời giờ, sức khỏe và tiền bạc là những nén vàng nén bạc và Cha đã khẩn khoản mời con góp công góp sức góp của vào việc xây dựng TRỜI MỚI ĐẤT MỚI trong các môi trường con đang sống là gia đình, trường học, sở làm, giáo xứ và xã hội.
Thế mà nhiều lúc con sống ích kỷ, thờ ơ, chẳng quan tâm đến ai, chẳng ngó ngàng gì đến chuyện người, chẳng tham gia việc chung. Nhiều khi chẳng những con chẳng sinh lời sinh lãi mà còn phung phí những hồng ân Chúa giao cho con. Con thật có lỗi. Xin Cha tha cho con và giúp con thay đổi.
Con quyết từ nay sẽ tập coi những gì con đang có trong tài khoản ngân hàng (account), trong nhà, trong túi và trong con người con đều là những nén vàng/nén bạc mà Chúa giao cho con để con sinh lợi cho con và cho tha nhân, cho Nước Trời. Và con sẽ tập sử dụng những nén vàng/ nén bạc ấy một cách có lợi nhất cho con, cho gia đình và xã hội. Để Chúa được vui lòng và Nước Trời được rộng mở. Amen.
Gs. Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Orange County, CA ngày 25.08.2005.
--------------------------------
Sự giả dối dường như mỗi ngày một gia tăng và con người dường như thích đeo mặt nạ trong: TN 25-A31
Sự giả dối dường như mỗi ngày một gia tăng và con người dường như thích đeo mặt nạ trong cuộc sống. Thực vậy, mặt nạ là cái mà người ta dùng để che dấu bộ mặt đích thực của mình.
Vậy thì công dụng của nó như thế nào ? Với mặt nạ, trước hết người ta muốn lừa gạt kẻ khác. Đúng thế, bề trong có khi thù oán, tức tối, nhưng bề ngoài lại tỏ ra hòa nhã, dễ chịu. Mặt nạ của chúng ta thường thì không xấu, nhưng có những nét đẹp và lôi cuốn, để nhờ đó tìm được những cảm tình và lợi lộc nào đó. Người đeo mặt nạ đạo đức để dối gạt kẻ khác, thì tư tưởng không đi đôi với lời nói và lời nói lại không đi đôi với việc làm. Nói một đàng làm một nẻo như tục ngữ vốn diễn tả: Miệng nam mô bụng bồ dao găm. Khẩu phật tâm xà. Bề ngoài thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không gươm. Trong khi đó Chúa đòi chúng ta phải thành thực: có nói có, không nói không, thêm ra bớt vào là do ma quỉ.
Tiếp đến, với mặt nạ, chúng ta lừa dối chính bản thân chúng ta. Thực vậy, chúng ta cố gắng tạo ra cho mình những ảo tưởng. Chúng ta bao quanh mình những huyền thoại, tưởng rằng mình có nhân đức này, nhân đức kia như một đám mây rực rỡ bao phủ. Để rồi từ đó, chúng ta lên mặt kênh kiệu. Chúng ta tưởng rằng mình kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nhưng vào giây phút cuối cùng ta sẽ vô cùng sửng sốt khi thấy sự thật không phải là như thế. Chúng ta tô vẽ cho Thiên Chúa theo như những ý tưởng và ước muốn riêng tư của chúng ta. Và lúc đó Thiên Chúa trở nên một tượng thần nhảm nhí do tay người phàm làm nên như Kinh Thánh đã trách cứ. Đang khi chúng ta phải trở nên giống Ngài thì chúng ta lại bắt Ngài trở nên giống chúng ta. Miệng chúng ta không ngừng đọc lời kinh Chúa dạy: Vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời, nhưng trong thực tế, chúng ta lại luôn tìm thỏa mãn cho những ước muốn và dục vọng riêng tư. Chúng ta bằng lòng với những dáng bộ đạo đức bên ngoài, nhưng một khi chiếc mặt nạ bị rớt xuống, chúng ta sẽ phải bẽ bàng như lời Chúa phán với bọn biệt phái: chúng giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng toát, nhưng bên trong thì lại đầy dòi bọ cùng mọi thứ hôi thối. Nhưng nguy hiểm hơn là chúng ta lại muốn dùng chiếc mặt nạ ấy để dối gạt chính Thiên Chúa. Đây quả thực là một việc làm điên khùng và dại dột, đây cũng là một việc làm xưa như trái đất mà con người luôn cố gắng thực hiện.
Adong Eva ngay sau khi phản bội cùng Thiên Chúa, liền ẩn náu nơi bụi rậm. Ngày nay chúng ta cũng ẩn náu dưới nhiều danh hiệu khác nhau. Nào là vẻ hào nhoáng bề ngoài, nào là những ý thức hệ đạo đức, nào là những hành động khua chiêng gõ mõ ầm ỉ. Phải chăng đó cũng là cái moden của thời đại. Tuy nhiên chúng ta cần phải nhớ rằng, có một cặp mắt thấu suốt mọi điều bí ân, đó là cặp mắt của Thiên Chúa. Ngài đòi chúng ta phải chịu trách nhiệm về những hành động của mình. Mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm dù bí ẩn đến đâu cũng không thể qua khỏi tầm mắt của Ngài. Trong ngày thẩm phán cuộc đời chúng ta như một trang sách mở rộng trước tôn nhan Ngài. Hãy chấm dứt trò chơi đeo mặt nạ để lừa gạt kẻ khác, bản thân và Thiên Chúa. Hãy sống thành thực, kẻo chúng ta phải bẻ bàng, khi cuộc sống giả tạo ấy bị phanh phui…
--------------------------------
Câu chuyện dụ ngôn thuê mướn thợ làm vườn nho hình như có vấn đề gây thắc mắc: làm sao: TN 25-A32
Câu chuyện dụ ngôn thuê mướn thợ làm vườn nho hình như có vấn đề gây thắc mắc: làm sao ông chủ có thể trả công đồng đều cho tất cả những người thợ làm việc ở các thời điểm khác nhau ? Ông chủ có công bằng chăng khi đối xử với những người chỉ làm một giờ ngang bằng với những người làm vất vả cả ngày?
Thật ra ông chủ đã đối xử sòng phẳng với những người làm việc từ sáng sớm. Ông ta đã trả mỗi người một đồng đúng như đã thoả thuận. Ông ta không bóc lột sức lao động của ai cả: có làm có trả lương tương xứng, nếu ông ta không gọi thêm thợ thì mọi chuyện bình thường, chẳng có vấn đề gì, nhưng vì có nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng được trả lương bằng mình, nên có việc ganh tị, và nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.
Câu chuyện này chúng ta thấy nổi bật hai vấn đề: Cách đối xử của ông chủ và phản ứng của những người thợ. Ông chủ vườn nho đây là hình ảnh Thiên Chúa, Ngài tốt lành vô cùng, lòng nhân từ của Ngài vượt lên trên tất cả những thứ trả công mà người đời sử dụng với nhau trong cuộc sống, Ngài rất công bằng và thương yêu vô tận. Vì vậy, ngoài sự công bằng, Ngài còn yêu thương chúng ta theo tự do và tình yêu của Ngài. Trước lời phàn nàn của những người thợ làm từ sáng sớm mà cũng lãnh công như những người làm sau, Ngài đã khẳng định quan điểm của Ngài, Ngài hoàn toàn tự do làm theo ý định của mình, Ngài muốn làm cách nào, lúc nào, chọn ai đều tuỳ ý Ngài mà không phải lệ thuộc ai cả. Tuy có quyền tự do của mình, nhưng Thiên Chúa không dùng tự do đó mà làm thiệt hại cho người khác: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn”. Thiên Chúa luôn công bằng, chỉ có con người mới đối xử bất công với nhau vì thiếu lòng nhân từ, vì cách nhìn ghen tị của mình.
Quả thật, ông chủ vườn nho được tự do dùng tiền của mình, thì tại sao Thiên Chúa lại không được tự do trong việc yêu thương ? Ông chủ trả lương rộng rãi với nhóm người này mà vẫn giữ công bằng với nhóm kia, thì Thiên Chúa trải rộng tình thương của Ngài đến mọi người mà không cần theo tính toán của người đời. Cách xử sự của Thiên Chúa khác xa với cách xử sự của mọi người. Có lẽ khó gặp được chuyện này trong cuộc sống hằng ngày, nhưng lại xảy ra hằng ngày trong đời sống thiêng liêng: Thiên Chúa ban ơn nhiều hơn lòng mong đợi của con người.
Thiên Chúa rất nhân từ và tốt lành, Ngài ban ơn cho mỗi người và mọi người mà không tính toán thời điểm, tuổi tác. Chỉ có con người là hẹp hòi, ích kỷ đối với nhau qua hình ảnh những người thợ làm vườn nho. Những người làm từ đầu, làm nhiều giờ hơn, không vui mừng khi thấy ông chủ trả lương cho những người vào làm sau, làm ít giờ hơn cũng bằng họ, họ đã ghen tị đến đấu tranh với ông chủ, đó là tâm trạng chung của con người chúng ta: hay so đo, tính toán, thắc mắc, phân bì, ghen tị, ganh ghét.
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của người khác. Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thành công, nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có, không thoả mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào cũng thấy núi khác cao hơn. Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt, hàng cá… ghen tị nhau.
Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con, nhưng chính chúng ta cũng nên phản tỉnh lại xem: chúng ta có hơn trẻ con không ? Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi, giúp đỡ họ. Cho nên, thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là đi chia vui. Có ai vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn, thành công chăng ? Hay là chúng ta tủi thân, rồi mỉa mai, bôi bác họ?
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị sinh ra ghen ghét, ghen ghét sinh ra oán thù. Ghen tị thường đi đến chỗ nói xấu, nói hành, dèm pha, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm mất tình bác ái và gây nên bao gương mù gương xấu. Vì thế, chúng ta phải tốp ngay, phải ngưng ngay cái tật xấu ghen tị này. Chúng ta phải biết đánh giá trị đúng của anh em mà vui cùng kẻ vui. Chúng ta phải tránh sự ghen tị như tránh rắn độc.
Tóm lại. Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, chúng ta phải luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không là gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban, Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Thứ hai, mỗi người hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu. Xin Chúa cho chúng ta biết đánh giá trị đúng về mình và về anh em, để chúng ta không phân bì, kể công với ai và cũng không phân bì, ghen tương ai.
--------------------------------
Có lẽ bài học đầu tiên chúng ta biết về lẽ công bình đã xảy ra ở trên bàn ăn khi người mẹ phân: TN 25-A33
Có lẽ bài học đầu tiên chúng ta biết về lẽ công bình đã xảy ra ở trên bàn ăn khi người mẹ phân chia những miếng bánh cho các con mình. Con mắt ganh tị của chúng ta đã phân biệt từng chi tiết nhỏ xem miếng nào lớn hơn, ngon hơn, và đáng giành hơn, rồi than phiền: “Mẹ, mẹ cho em miếng bánh lớn hơn miếng của con !” Chúng ta đã không biết nhiều về lẽ công bình, nhưng chỉ biết đến nó khi nhận phần bánh nhỏ hơn. Nếu khôn ngoan, người mẹ có thể giải thích: “Con ơi, sớm muộn gì con cũng sẽ phải học để biết rằng cuộc đời không luôn luôn công bằng đâu !” Điều này trẻ con chưa thể hiểu được, nhưng sau này lớn lên chúng sẽ hiểu.
Đúng như vậy ! Cuộc đời không luôn luôn công bằng. Và nhận ra được điều này cũng không phải là dễ, Có lẽ phải mất một thời gian khá lâu trước khi chúng ta biết được rằng người mẹ hay Thiên Chúa có những lý do chính đáng để hành động, và những lý do này thường căn cứ trên tình yêu, lòng nhân từ và quảng đại.
Trước hết, người mẹ đã làm ra chiếc bánh và có thể cho theo ý người mẹ muốn. Thứ đến, nếu người em của tôi có vẻ bệnh – đây là điều khi còn bé tôi không bao giờ nghĩ đến – người mẹ có thể cho nó thêm một tí nữa để có sức khoẻ, mau khỏi bệnh. Nhưng chắc chắn một điều là người mẹ hay Thiên Chúa, Đấng đã làm nên mọi sự, không bắt buộc phải cắt nghĩa cho chúng ta biết lý do. Khi chúng ta lớn lên, chúng ta sẽ nhận ra rằng người mẹ và Thiên Chúa thường có những lý do riêng dựa trên tình yêu. Các ngài nhìn thấy điều chúng ta cần.
Điều này được diễn tả trong bài Phúc âm hôm nay, dụ ngôn thợ làm vườn nho. Đối với công đoàn lao động, việc người chủ vườn trả tiền mướn cho các nhân công làm việc chỉ một giờ hay vài giờ cùng số tiền lương trả cho những người làm việc suốt ngày từ sáng đến tối là điều bất công. Nhưng trước khi chúng ta nói người chủ hay Thiên Chúa bất công, xin hãy đọc kỹ những lời người chủ nói với những người than phiền trong Phúc âm: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao ? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao ? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng ?”
Tại sao người chủ đã trả cho những người đến sau cùng số lương bằng với những người làm việc suốt ngày ? Thưa vì tình thương ! Tất cả các công nhân đều có gia đình, cần tiền để nuôi vợ con. Thứ đến, người chủ biết những người đến vào giờ phút cuối đã đi tìm việc làm suốt ngày mà không có. Đối với người chủ cả hai lý do đều tốt lành để hành động và không ai có lý do gì để phê bình ông cả. Nhưng không may, những con mắt ganh tị do lòng ích kỷ đã làm họ trở nên bất mãn.
Cuốn phim “Amadeus” kể về cuộc đời của thiên tài âm nhạc, Wolfgang Amadeus Mozart (1756 – 1791). Câu chuyện diễn tả Mozart như một con người khá kỳ dị, gần như bị bệnh loạn thần kinh, nhưng lại là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác rất tài ba.
Một trong những nhân vật đáng chú ý nhất trong cuốn phim, bên cạnh Mozart, là nhạc sĩ Solieri. Solieri là nhạc sĩ của hoàng cung đã nổi giận với Mozart vì ông tự cho mình là xứng đáng và giỏi hơn Mozart. Solieri đã khinh ghét và coi Mozart chỉ là một tên trẻ con, suồng sã, kiêu căng và khả ố. Tại sao Mozart lại có thể là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác tài ba như vậy được trong khi tư cách của Mozart không xứng đáng ? Trái lại, Solieri là đầy tớ của Thiên Chúa, vâng phục Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Chính ông mới là con người tốt hơn và xứng đáng hơn, vậy tại sao Thiên Chúa đã không ban cho ông món quà tài năng này mà lại ban cho Mozart ?
Ngoài tính nết trẻ con, Mozart còn quá lố hơn nữa, dám vượt ra ngoài những giới hạn cổ truyền có thể chấp nhận được. Tuy vậy, vua Joseph II Ao Quốc vẫn thích Mozart. Mozart xin phép vua được sáng tác một vở nhạc kịch bằng tiếng Đức. Vào lúc đó, chưa có ai được phép sáng tác nhạc kịch bằng tiếng Đức cả. Tất cả nhạc kịch đã được sáng tác và trình diễn đều bằng tiếng Ý. Solieri, một người Ý, vừa bị sỉ nhục về tài năng, vừa bị đe doạ về chức nghiệp vì vở nhạc kịch bằng tiếng Đức của Mozart.
Solieri rất ganh tị và buồn bực vì bản nhạc kịch của Mozart đã thành công rực rỡ. Khắp nơi đều vang lên những lời ca ngợi về nhạc của Mozart cho đến nỗi chính Solieri cũng phải yêu thích nó. Tuy nhiên, ông lại muốn là chính ông đã sáng tác ra nó. Solieri biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Mozart một thiên tài âm nhạc mà chính ông mới xứng đáng chứ không phải Mozart. Trong giây phút phẫn uất và tuyệt vọng, Solieri cảm thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi ông, ông gỡ ảnh thánh giá treo trên tường xuống, đem đi đốt. Ông muốn không có sự thiên vị và đòi hỏi sự công bằng. Ông muốn được Thiên Chúa ban cho tài năng để làm việc phục vụ Ngài. Tuy nhiên như chúng ta thấy trong bài Phúc âm hôm nay, tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa rất khác với những nguyên tắc của con người về lẽ công bằng !
Pascal đã nói: “Con tim có lý lẽ riêng của nó”. Khi yêu ai người ta dám hy sinh tất cả mọi sự, ngay cả mạng sống mình cho người mình yêu. Sự kiện Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi đã ban Con Một Người xuống trần gian, chịu chết trên thập giá vẫn là một mầu nhiệm khó hiểu của tình yêu Thiên Chúa.
--------------------------------
Trong cuốn tiểu thuyết được soạn thành nhạc kịch “Những Kẻ Khốn Cùng” (Les Miserables): TN 25-A34
Trong cuốn tiểu thuyết được soạn thành nhạc kịch “Những Kẻ Khốn Cùng” (Les Miserables), của Victor Hugo, nhân vật chính là Jean Valjean, đã được thả ra sau 19 năm chịu khổ sai trong tù. Anh bị tù vì tội ăn cắp một ổ bánh mì cho những người con của bà chị ăn qua cơn đói. Sau khi được tự do, anh bước đi lang thang cả ngày để tìm thức ăn và chỗ ngủ qua đêm, không một ai trong làng dám chứa chấp một người đã có án tù ở trong nhà. Sau cùng, một vị giám mục tốt lành đã mở cửa đón tiếp Valjean với một bữa ăn tối và chỗ ngủ qua đêm. Tại bữa ăn tối, bà giúp việc cực lực phản đối giám mục đã ra lệnh cho bà phải dọn bàn ăn với bộ muỗng dĩa bằng bạc mà toà giám mục thường dùng để tiếp khách. Đêm hôm đó, valjean đã ăn cắp toàn bộ muỗng dĩa bằng bạc, rồi trốn ra khỏi nhà.
Ngày hôm sau trên đường tẩu thoát, anh nói dối với cảnh sát rằng Đức giám mục đã ban cho anh những món đồ quý giá làm kỷ niệm. Nghi ngờ, cảnh sát đem anh trở lại toà giám mục với những món đồ đã bị ăn cắp. Khi họ vừa đến toà giám mục, Đức giám mục đã nói ngay rằng ngài rất vui mừng gặp lại Valjean, vì ngài muốn tặng thêm cho anh những cái chân đèn bằng bạc nữa. hành động tha thứ và nhân từ đáng kính phục này đã gây ảnh hưởng lớn lao trên cuộc đời của Valjean tới nỗi anh đã thay đổi hoàn toàn, và trở thành một con người mới. Sau cùng anh đã dâng hiến cuộc đời còn lại để phục vụ tha nhân với lòng nhân từ hơn là lẽ công bằng.
Người chủ vườn nho đã cư xử với các công nhân theo định luật của tình yêu và lòng nhân từ, không phải luật lệ của kinh tế hay toán học nhắm vào tư lợi.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo ZENIT ngày 3/12/2000, Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận đã diễn tả những kinh nghiệm của ngài về 13 năm tù tội. Với những bạn tù không Công giáo, tọc mạch muốn biết làm cách nào ngài có thể giữ vững niềm hy vọng của ngài, ngài trả lời: “Tôi đã bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, bởi vì tôi yêu những khuyết điểm của Chúa Giêsu”. Tồng giám mục, lúc đó nói: “Trong lúc hấp hối trên thánh giá, người trộm cướp xin Chúa nhớ đến hắn khi Chúa vào Vương Quốc của Người. Nếu là tôi, tôi sẽ trả lời: “Tôi sẽ không quên anh, nhưng anh phải đền các tội ác của anh trong luyện ngục”. Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi”. Chúa đã quên tội lỗi của người này. Cũng một sự việc đã xảy ra với bà Mary Magdalene, và với người con trai phung phí. Chúa Giêsu không nhớ tí nào, Người tha thứ cho toàn thế giới”.
“Chúa Giêsu không biết toán học”, ngài nói thêm: “Điều này được thấy rõ trong dụ ngôn người mục tử tốt lành. Người có 100 con chiên, một con bị thất lạc và không ngần ngại Người đi kiếm nó, để 99 con khác trong chuồng, đối với Chúa Giêsu, một con giá trị bằng 99 con, hay là có khi hơn nữa.
Dụ ngôn người thợ làm vườn nho được bắt đầu bằng chữ “Nước Trời”. Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa và luật lệ của Nước Trời. Trong cuốn “The Divine Trap”, Richard Hoefler nói rằng: “Trước hết Thiên Chúa là người chủ tuyệt đối. Theo như dụ ngôn nói với chúng ta, Người làm điều mà Người muốn làm với cái gì thuộc về Người. Vương Quốc Thiên Chúa không phải là một nền dân chủ nơi mà chúng ta quyết định cái cách thức những sự việc sẽ được làm bởi một đa số phiếu bầu cử”.
Chúa Giêsu đã nói dụ ngôn này không những với các môn đệ của Ngài, mà còn cho các người Biệt phái, là những người đã có quan niệm rằng Vương Quốc Thiên Chúa thuộc quyền sở hữu chủ của họ. Richard Hoeffer đã nhận xét:
“Những người Biệt phái đã quên điều này. Vương Quốc Thiên Chúa thuộc về Thiên Chúa. Chúa Giêsu đối chất với họ rằng các ông đã khoe mình là những người đạo đức, có phải vậy không ? Mọi người đều biết và kính trọng các ông vì điều này. Đó là tiền công các ông đã được trả. Đó là điều Thiên Chúa thưởng cho các ông. Còn đối với những người khác, những người tội lỗi và nghèo khó, họ có sự liên hệ độc đáo của họ với Thiên Chúa. Ngài sẽ cư xử với họ theo như Ngài muốn, vì tất cả đều chỉ là những công nhân trong vườn nho của Ngài. Trong vườn nho này, Thiên Chúa là chủ. Ngài có quyền tuyệt đối phân phát tiền lương và phần thưởng tuỳ theo ý của Ngài và chỉ có thánh ý Ngài mà thôi”.
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã viết: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các người, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy”.
Hãy cảm tạ Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta đến làm việc trong vườn nho của Ngài. Hãy bằng lòng với những ơn lành của Ngài thay vì đòi hỏi và ganh tị. Hãy dâng lên Thiên Chúa tâm tình phó thác như lời cầu nguyện của Đức Hồng Y John Henry Newmann:
“Chúa đã ủy thác cho tôi vài công việc mà Ngài không ủy thác cho kẻ khác. Tôi có sứ mệnh của tôi. Có thể tôi không bao giờ biết được nó trong cuộc sống này nhưng trong cuộc sống mai hậu ắt tôi sẽ rõ. Vì thế, tôi tin vào Ngài. Ngài không làm điều gì vô ích. Ngài có thể kéo dài hay rút ngắn cuộc sống của tôi ; Ngài biết rõ điều Ngài định làm. Ôi lạy Chúa, con xin hiến dâng trọn vẹn toàn xác hồn con trong tay Ngài”.
--------------------------------
Chi Tiết Hay
Người Do thái khi xưa chia một ngày ra tám phần, bốn phần cho ban đêm gọi là canh, và bốn: TN 25-A35
Người Do thái khi xưa chia một ngày ra tám phần, bốn phần cho ban đêm gọi là canh, và bốn phần cho ban ngày gọi là giờ - giờ thứ nhất, thứ ba, thứ sáu và thứ chín. Giờ thứ nhất bắt đầu vào rạng đông cho tới khoảng chín giờ, giờ thứ ba đến ngọ, giờ thứ sáu đến ba giờ chiều, và giờ thứ chín đến hoàng hôn khi ngày mới bắt đầu.
Trong thời Chúa Giêsu ở vùng Đia Trung Hải, người ta không đi kiếm việc làm nhưng họ lại tụ tập ở chợ để người chủ đến "mời" đi. Do đó, được chọn là một vinh dự, còn chuyện tìm việc là một hành động đáng chê cười, và không được chấp nhận (Mt 20:7). Vào mùa nho khi nho chín, chủ vườn phải tranh đua với thời gian để hái hết nho trước khi mùa mưa đến.
Một đồng một ngày thời bấy giờ là một số lương vói giá trị tối thiểu cho một gia đình sống qua ngày. Do đó những người còn đứng chờ vào giờ 11 là những người rất cần làm kiếm tiền nuôi gia đình.
Những kẻ đến trước đã bộc lộ tính ham lợi của họ ngay từ ban đầu. Họ đi làm cho nguoi chủ sau khi đã "thỏa thuận" số tiền; còn những người đến sau thi đi theo mà không dặt điều kiện (Mt 20:5).
Câu chuyện được sắp dặt chu đáo. Nếu tác giả chỉ đổi ngược thứ tự những người được phát tiền, thì những người đến trước không còn ở đó mà tỏ lòng ganh tị.
Một Điểm Chính
Đức Giêsu khẳng định lòng quảng đại của Thiên Chúa: Nước Trời là cho tất cả những ai nhình nhận Thiên Chúa và theo Ngài xây Nước Trời.
Suy Niệm
Xét lại thái độ của bạn đối với sự kêu gọi của Thiên Chúa, bạn làm việc với lòng nhiệt tình không vụ lợi, hay luôn tính toán công phần mà Thiên Chúa phải "nợ" mình? Suy niệm về lòng quảng đại của Thiên Chúa qua những hồng ân Ngài ban cho bạn trong cuộc sống, kể cả ơn cứu độ Ngài ban qua sự hy sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa. So sánh ơn Chúa với giá trị của tất cả các việc bạn nghỉ là làm cho Chúa, ai sẽ mắc nợ ai thế nào cho công bằng?
Đôi khi bạn kiêu căng một cách vô tình. Bạn nghĩ rằng mình đuọc Chúa ưa chuộng hơn những người khác tôn giáo, hoặc những người không giữ đạo sốt sắng. Có lẽ bạn đang là những người thợ đến trước đã nghĩ rằng mình sẽ được trả công hơn người khác, và đang mãi mê chiêm niệm công trạng của mình. Suy niệm về thái độ "theo Chúa" của bạn.
Bạn phản ứng trong lòng thế nào khi suy rằng Thiên Chúa đối xử rộng lượng hơn với những người khác không có công trạng như bạn?
--------------------------------
Bằng lòng hay chấp nhận cho dù mình được bất cứ điều gì, đó là điểm chính yếu của bài phúc: TN 25-A36
Bằng lòng hay chấp nhận cho dù mình được bất cứ điều gì, đó là điểm chính yếu của bài phúc Âm hôm nay. Trong sâu thẳm cõi lòng mỗi người chúng ta, ai cũng mong muốn được một cuộc sống trọn vẹn, đầy đủ: như là một người hoàn toàn; có tất cả mọi sự; có sự bình an trong tâm hồn; không vướng mắc những bận tâm và những thất bại trong cuộc sống. Chúa Giêsu đã phán "Sự bình an của Ta là quà tặng cho các con." Qua và trong Chúa Kitô, Thiên Chúa ban sự bình an cho chúng ta, không phải sự bình an của thế trần ban cho chúng ta. "Ta không cho ban cho các con theo như cách thức của thế gian ban cho." Chúa Giêsu nói với chúng ta sự bình an mà thế gian ban tặng chỉ là sự bình an tạm thời giữa những lúc yên lặng và chống đối. Sự bình an của Chúa Giêsu là món quà "Shalom."
"Shalom" có nghĩa là: Trọn vẹn cuộc sống của bạn hoàn toàn có mục đích; có tất cả từ tinh thần cũng như vật chất. Bạn cảm nghiệm được bạn là một con người được Thiên Chúa tạo nên trong chương trình cứu rỗi của Ngài. Sự cao cả đó thì vượt quá khả năng của con người, ngay trong tư tưởng cũng không thể có được. Vì, những sự đó chính là sự kết hợp liên lỉ không ngừng được phát xuất từ chính Mầu Nhiệm nơi Thiên Chúa.
Thánh Phaolô viết trong thư thứ nhất gởi cho các tín hữu Corintô như sau: "Chúng tôi giảng dậy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển...điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã định sẵn cho những ai yêu mến Người." (I Cor 2:7-9). Do đó hãy luôn bằng lòng!
Linda là sinh viên đại học năm thứ nhất. Cô ta quyết định không liên lạc với những người con trai đang dùng mọi cách để quen với cô ta. Sau khi nghe cô ta than phiền về những chàng trai đó, người bạn cùng phòng với Linda tìm cách giới thiệu cho Linda một người bạn trai. Cô ta hỏi Linda muốn có người bạn trai miền Bắc hay miền Nam. Lấy làm lạ vì câu hỏi đó, Linda hỏi lại rằng "Họ có gì khác biệt? Người bạn giải nghĩa, "Trai miền Nam thì hiền hoà dễ thương, hay mơ mộng. Còn trai miền Bắc thì thích hoạt động, thích đi chỗ này chỗ kia và nhất là những nơi có nhiều niềm vui." Linda suy nghĩ một lúc thật lâu về những sự khác biệt đó rồi hỏi: "Có thể tìm cho tôi người bạn trai miền Nam, nhưng thật khác biệt với người con trai miền Bắc hơn nữa được không?"
Chúng ta thường hay tìm những cách thức này hay cách khác để mặc cả với cuộc sống. Chúng ta không chấp nhận mầu nhiệm Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta qua Chúa Giêsu và cuộc sống của chính mình qua cặp mắt nhân loại. Sau cùng chúng ta khám phá ra chúng ta đã rơi vào sự mù tối đó.
Một vài người trong chúng ta cảm thấy tìm kiếm sự hoàn hảo của cuộc sống là chạy trong vòng tròn không lối ra. Như, thấy mình không thua kém ai. Và có những người nghĩ rằng sự hoàn hảo của cuộc sống bình thường như một màn biểu diễn thời trang và nhan sắc. Chúng ta thường tìm nhiều mánh khoé để chiếm được sự hoàn hảo đó, nhưng sau cùng, khi chúng ta đứng trước sự thật thì những mánh khoé không giúp gì cho chúng ta.
Khi trải qua những khó khăn đó, chúng ta mới cảm nghiệm được Thiên Chúa đang cố đem đến cho chúng ta nguồn gốc của sự sống hoàn hảo, chính là tình yêu đã được mạc khải cho chúng ta trong Chúa Kitô. Cho đến khi nhận được sự thật đó, thì chúng ta đã uổng công phí sức vì thấy chính những sự thoả mãn tạm bợ đã kéo chúng ta vào hố sâu.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, chủ vườn nho thuê những người làm công và đồng ý trả công cho họ. Sau khi họ làm được vài giờ, ông chủ vườn cũng mướn những người khác vào làm như họ. Sau ngày làm việc, ông chủ trả tiền lương cho những người thợ như đã thỏa thuận. Người làm trước cũng bằng người làm sau. Những người thợ làm trước không cảm thấy hài lòng nên nói với chủ vườn: "Ông trả cho họ bằng chúng tôi sao?" Chủ vườn nói với họ, "Tại sao lại ghen tỵ, vì tôi rộng lượng chăng?" Chúa Giêsu kết thúc dụ ngôn như sau: "Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết." (Mt 20:16).
Một người quảng cáo kể một câu chuyện về một người trong nhóm họ treo một bảng hiệu trước nhà mình như sau: "Tôi sẽ tặng mảnh đất này cho những ai cảm thấy mình thật sự thỏa mãn, có đủ mọi sự." Một chủ nông trại giàu có đi ngang qua, đọc thấy, nên đến với chủ nhà và nói: "Tôi là người thích hợp nhất để được mảnh đất của ông, vì tôi có đủ điều kiện mà ông muốn: Tôi rất giầu có. Tôi có tất cả mọi sự tôi muốn. Tôi rất thoả mãn mọi sự." Người quảng cáo hỏi người đó: "Có thật sự là ông thỏa mãn mọi sự không?" Người giầu có đáp: "Đúng như vậy, tôi có mọi sự tôi cần nên tôi rất là thỏa mãn." Chủ nhà cười và nói với người kia: "Này ông bạn, nếu bạn đã thỏa mãn rồi thì sao lại muốn mảnh đất này?"
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng viết cho chúng ta một tờ quảng cáo như sau: "Ta sẽ ban sự bình an trong tâm hồn, trí lòng và sẽ ban sự mãn nguyện cho tất cả những ai tuyên xưng chân lý Phúc Âm của Chúa. Hãy bằng lòng với chính mình và sống với những gì mình có."
--------------------------------
Ôi ! Cuộc sống đổi bằng máu xương, tuổi trẻ của bao nhiêu người. Biết bao nhiêu cuộc đời đã: TN 25-A37
“Ôi ! Cuộc sống đổi bằng máu xương, tuổi trẻ của bao nhiêu người. Biết bao nhiêu cuộc đời đã chấm dứt, để cho cuộc đời khác được tươi xanh...” Đọc những hàng chữ này, hẳn nhiều người nhận ra ngay đó là những lời trích từ cuốn “Nhật Ký Đặng Thùy Trâm”. Cô bác sĩ trẻ còn viết lại những tâm tình rất đáng suy nghĩ: “Mẹ yêu ơi, nếu như con mẹ có phải ngã xuống vì ngày mai thắng lợi, thì mẹ hãy khóc ít thôi, mà hãy tự hào vì các con đã sống xứng đáng. Đời người ai cũng chết một lần”. Đời người ai cũng một lần chết và phải sống làm sao cho xứng đáng ! Nghe là thế, nghĩ là thế, nhưng đi vào cuộc sống thực tế cơm – gạo – áo – tiền, với những bon chen danh lợi mà khởi sự là công ăn việc làm, dễ khiến cho con người ta hóa nên nhỏ nhen, ích kỷ và lắm khi rơi vào những hành xử theo kiểu “công thần” và tị nạnh hay phân bì. Những tình cảm tốt đẹp dần dần biến mất nếu như chúng ta không lắng nghe, suy gẫm, và thực hành bài học đơn sơ mà Chúa Giê-su gửi đến hôm nay cho chúng ta.
“Công thần” và “tị nạnh” là hai suy nghĩ và hành động tưởng như xa lạ nhau, nhưng hóa ra lại gắn kết: Những kẻ có công, nếu không biết khiêm nhường, thì dễ đi đến chổ “cậy công” mà đâm ra phân bì. Người ta gọi đó là thái độ “công thần”, trở thành một cái “nạn” nhan nhản trong lịch sử của bất cứ quốc gia nào ở mọi thời đại. Không chỉ trong lãnh vực chính trị mà ở cả những địa hạt như tôn giáo, khoa học...đều xuất hiện những người tự đề cao mình, hạ thấp tha nhân, cho mình là “cái rốn vũ trụ”. Cha ông Việt Nam có câu châm ngôn rất hay để dạy hạng người này: “Không mợ thì chợ vẫn đông !”
Thực ra, đó là một thái độ chưa trưởng thành, hay nói trắng ra: đó là thái độ “trẻ con”, giống như đứa bé trong gia đình hờn dỗi, phụng phịu so kè nạnh tị với những anh em trong nhà, vì cho rằng các anh em kia được ưu ái hơn, được quan tâm hơn và được hưởng nhiều hơn; cho nên, nếu không chú tâm sửa đổi, sống bao dung hơn, vị tha hơn, thì thái độ đó kéo dài sẽ làm cho con người nên bần tiện, nhỏ nhoi, và ấu trĩ. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thay vì ca ngợi lòng tốt của Ông Chủ, thay vì vui mừng khi thấy mọi người đều được bảo đảm có cơm gạo nuôi bản thân và gia đình giống như mình, và những kẻ làm việc muộn màng ngoài ý muốn cũng không phải thiệt thòi, thì những người làm công đầu tiên trong ngày lại giở thói “công thần”, để so bì và tị nạnh. Thay vì ngợi ca lòng nhân từ vô biên của Chúa đối với những người may mắn vào những giờ cuối, không chỉ được thoát cảnh “bỉ cực” đời đời, mà còn được hưởng ân phúc như mọi người, thì biết bao Ki-tô hữu lại ganh tị, bực mình, bất mãn khi thấy những người ngoại đạo “thờ lạy bụt thần”, những đĩ điếm, “đầu trộm đuôi cướp”, thậm chí cả những tay thù ghét và bắt bớ Đạo Chúa, bỗng nhiên ngày cuối, giờ cuối, có khi là giây cuối cuộc đời, được ơn trở lại ! Đối với những người so bì tị nạnh, thì rõ ràng đây là một sự bất công. Họ còn thầm tiếc: nếu biết kết cục như thế, mình cũng vào làm giờ cuối ! Hãy cứ nhìn tay nhà giàu kia, tích trữ của cải, ăn chơi phè phởn và tự nói với lòng mình: “hồn ta hỡi, hãy cứ vui chơi, vì của cải dư đầy !”. Kết cục ra sao, thì chính Chúa Giê-su đã cho ta câu trả lời !
Quả thật, trong thời đại này, điều đáng sợ nhất là thất nghiệp. Ngược lại, những kẻ có công ăn việc làm ổn định, luôn cảm thấy an tâm, hạnh phúc cho bản thân và gia đình. Nhìn ra bên ngoài, nhìn sang bên cạnh, họ thấy còn biết bao người thất nghiệp và chẳng có chút gì bảo đảm sẽ được nơi này hay chỗ kia thu nhận. Dù không ở trong hoàn cảnh bi đát ấy, họ cũng hiểu hết nỗi niềm của những người chưa có việc làm: bất an, buồn khổ, thất vọng. Thêm một ngày, một tháng qua đi, họ lại thấy cuộc đời thêm đen tối, tương lai mịt mù, sự sống bị đe dọa. Khi đó, chỉ cần có người nhìn đến và thu nhận họ, thì họ chẳng từ chối công việc gì. Và họ sẽ ngỡ ngàng biết mấy, khi thấy Ông Chủ đối xử với họ như những người vào làm từ đầu ngày, từ lâu ngày, được xem như những công nhân chủ chốt, nhiều công trạng. Tâm tình duy nhất họ có được là cảm tạ và ngợi khen lòng nhân ái của Ông Chủ. Nhìn vào những gì họ nhận được, mọi người cũng sẽ ca ngợi lòng tốt của Ông Chủ. Họ trở thành những người mang thông điệp Lòng Yêu Thương Vô Biên của Thiên Chúa.
Còn chúng ta, chúng ta sẽ tự đánh mất chính mình khi suy nghĩ và giữ thái độ “công thần”, chẳng những không biết yêu mến, cảm thông, san sẻ và cầu xin với Ông Chủ cho anh em, như bổn phận Ki-tô hữu đòi buộc, lại còn nghi ngờ sự công bằng của Chúa và lòng nhân hậu vô biên của Người. Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, Thánh Giê-ra-đô Majella...chuyên tâm cầu nguyện cho các tội nhân được cải hóa và trở về với Chúa, nhận được ơn tha thứ và tình thương của Chúa. Truyền giáo chính là sống nơi mình Tin Mừng Phục Sinh Cứu Độ và hằng cầu mong cũng như làm mọi cách theo hết khả năng, để mọi người – bất kể là ai – đều nhận ra được và gọi Thiên Chúa là Cha, như Chúa Giê-su; đồng thời cũng cầu xin Thiên Chúa thương nhận tất cả mọi người thành tâm thiện ý – nhất là các tội nhân – vào Nước Trời.
Thay vì rào cản, hãy là hướng đạo và cầu nối giữa những anh em kém may mắn hơn chúng ta – các tội nhân, những kẻ chậm trễ – và Nước Trời.
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Đi Tìm Đáp Số Tình Yêu 118
--------------------------------
Chúa nhựt 25: t 20,1-16ª
A. Hạt giống...
Dụ ngôn những thợ làm vườn nho.
Điểm nhấn mạnh của dụ ngôn này là 2 lối suy nghĩ khác nhau về cách trả lương của ông chủ: TN 25-A38
Điểm nhấn mạnh của dụ ngôn này là 2 lối suy nghĩ khác nhau về cách trả lương của ông chủ:
- Lối suy nghĩ của một số thợ làm nhiều giờ: làm nhiều thì phải được trả công nhiều.
- Lối suy nghĩ của ông chủ: ông trả công vì thương (nhưng không hại đức công bình), cho nên kẻ làm ít giờ cũng được trả nhiều bằng kẻ làm suốt ngày.
Hai cách suy nghĩ trên phản ánh hai quan niệm khác nhau của người do thái và của Chúa Giêsu:
- Người do thái làm việc đạo đức đề tính công với Chúa. Họ nghĩ họ làm càng nhiều thì Chúa phải ban ơn cho họ càng nhiều.
- Đối với Chúa Giêsu: Thiên Chúa ban ơn cho ta không phải vì công lao của ta mà vì tình thương của Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. Lý lẽ của tình thương nhiều khi không song hành với lý lẽ của công bằng. Trong gia đình, cha mẹ lo cho con cái không phải theo lý lẽ công bằng, theo đúng công lao của chúng, nhưng theo lý lẽ tình thương. Có thể một đứa con bệnh tật yếu đuối chẳng làm gì được cho gia đình nhưng lại được chăm sóc nhiều hơn. Nếu cha mẹ trong gia đình mà cư xử với con cái theo lý lẽ của công bình thì không biết con cái sẽ ra sao ?
Chúa cũng cư xử với chúng ta như thế. Nếu Chúa xử theo công bình thì không biết chúng ta sẽ ra sao ?
2. Nếu tôi là người thợ làm từ giờ thứ nhất, tôi không nên ganh tị với những người làm từ giờ thứ 11 (những người lương trở lại sau, những người hấp hối mới ăn năn tội). Trái lại tôi phải nghĩ rằng mình hạnh phúc hơn họ vì đã được biết Chúa, ở với Chúa và làm việc cho Chúa lâu hơn họ.
3. Mỗi khi tôi bị cám dỗ viện lẽ công bình để ganh tị với người khác, tôi hãy nghĩ đến câu Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vũng được !”. Nhờ Chúa cư xử bằng tình thương chứ không cư xử theo công bình mà tôi mới có thể đứng vững. Tôi phải xin Chúa giúp tôi cư xử với mọi người hơn lẽ công bình, vươn tới tình thương.
4. Một người do thái nọ qua đời. Sau khi khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng nghĩa y học, và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất. Giữa lúc chuẩn bị hạ huyệt, người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, người ta rất đỗi ngạc nhiên khi thấy kẻ chết sống lại. Thế nhưng vị chủ trì nói với kẻ chết sống lại như sau: “Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực là người chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của bác sĩ.” Nói xong ông truyền đóng nắp quan tài lại và tiếp tục chôn.
Câu chuyện trên đây có lẽ muốn chế diễu tính máy móc, cứng nhắc của nhiều người khi tuân giữ các lể luật tôn giáo cũng như khi cư xử với nhau. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. “Mấy người sau chót làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi, là những người đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20,12)
Trời quá oi bức, cái quạt bàn trong nhà thờ hôm nay lại trục trặc rồi. Nó vẫn quạt mát nhưng lại đứng lì một chỗ mà không quay xung quanh được.
Một người lên xoay nó về phía mình. Chưa đầy hai phút một người khác chạy lên, và tiếp tục xoay nó. Thế rồi một lúc sau một người khác nữa lại chạy lên. Bây giờ tiếng xầm xì nổi lên và người ta bắt đầu tranh chấp. Bỗng từ phía dưới một người lên tiếng: “Tốt hơn, hãy tắt cái quạt máy đi !” Và họ chỉ yên lặng sau khi quạt máy đã tắt hẳn.
Tôi suy nghĩ và tự hỏi: Tại sao đến với Chúa mà người ta vẫn còn tranh chấp, ganh tị ? Nhưng dường như cuộc sống con người thường như vậy. Khi tính ích kỷ đã lấn át, cái tôi ngự trị, người ta chỉ còn nghĩ đến mình, thu vén mọi lợi ích cho mình mà quên đi nhu cầu của tha nhân.
Lạy Chúa, Tình yêu Chúa vượt qua mọi tính toán, xin cho con có một tình yêu như Ngài, để con không dừng lại ở quyền lợi, nhưng dừng ở chính những con người để biết yêu thương. (Hosanna)
6. “Người thế gian thường hỏi ‘Cho bao nhiêu ?’ ; còn Đức Kitô thì hỏi ‘Tại sao cho ?” (John Kaleigh Mott)
7. Mầm khác:
--------------------------------
Dụ ngôn Chúa nói trên đây có thể áp dụng, trong nhiều trường hợp và trong những trường hợp: TN 25-A39
Dụ ngôn Chúa nói trên đây có thể áp dụng, trong nhiều trường hợp và trong những trường hợp đó là: Có những người có phút tử đạo, (một phúc lớn lao các Thánh Chúa hằng mơ ước), mặc dầu họ chỉ là những tín hữu vừa mới gia nhập Hội Thánh Chúa. Thánh Nguyễn Văn Vinh (tử đạo ngày 19-12-1839, 26 tuổi)khi bị bắt vì đạo, mới là tín hữu tân tòng, và lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy trong nhà giam. Trong bốn vị Thánh cùng được phúc tử đạo với ngài là người vừa chỉ mới gia nhập đạo Chúa.
Nguyễn Văn Vinh sinh năm 1813. Vì kế sinh nhai, anh đã theo di dân lên tỉnh bắc, đến lập nghiệp tại làng Đức Trai, Giáo xứ Kẻ Mối. Anh sống độc thân và rất nghèo, phải ở trong một gia đình ngoại đạo làm tá điền, tính tình đơn sơ, chất phác, thật thà và khỏe mạnh. Anh Vinh cùng bị bắt vì đạo Chúa với hai thầy giảng Bùi Văn Úy (tử đạo ngày 19-12-1839, 27 tuổi) và Hà Trọng Mậu (tử đạo ngày 19-12-1839, 49 tuổi) và các anh Nguyễn Văn Đệ (tử đạo ngày 19-12-1839, 33 tuổi). Khi bị bắt, anh Vinh chỉ là một dự tòng. Thế nhưng anh đã tuyên xưng đức tin, khi quan bắt anh đạp lên Thánh giá. Anh nói: “Tôi thà chết chớ không làm điều đó, vì tôi biết đạo Chúa Giêsu là đạo thật.” Anh được Cha Tự rửa tội trong tù.
Như người ta thuật lại thì vào đêm thứ ba kể từ khi Cha Phêrô được phúc tử đạo, trong lúc 5 người đang cầu nguyện, thì thấy Cha Phêrô Tự hiện ra an ủi: “Các con đừng buồn, vì chắc chắn các con sẽ được chết vì đạo, song các con còn phải qua một thời gian thử thách nữa, để xứng đáng được phúc trọng này.” Năm người từ đó được thêm can đảm và sẵn sàng chịu mọi gian khổ trong những ngày chờ đợi. Dưới sự điều hành của thầy Mậu, năm người chia nhau tiếp gặp gỡ các bạn tù, nói cho họ biết Thiên Chúa. Cắt nghĩa Giáo lý, rồi dẫn họ đến thầy Mậu lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Trong hồ sơ phong Thánh, Cha Huân đã dựa vào các thư của thầy làm chứng rằng: “Thầy Mậu vẫn dạy Giáo lý cho các tù nhân, và Rửa tội cho 44 người. Trong đó co một tử tội tên Hưng mới học đạo một tháng, thì đến ngày xử, anh xin quan hoãn lại ít giờ để Rửa tội, sau đó Hưng vui vẻ bước ra pháp trường…”. Ngục tù giờ đây trở thành nguyện đường, hằng ngày vàng lên những lời chúc tụng Thiên Chúa, lời cầu nguyện cho Giáo Hội và cho mọi giới được tràn đầy ơn lành của Chúa.
Ngày 19-8-1839, năm chứng nhân được kêu ra tòa, vẫn có ảnh Thánh đặt dưới đất một bên, và bên là những dụng cụ tra tấn. Quan hỏi: “Các anh đã phải giam cầm lâu ngày, chịu nhiều khổ rồi, bây giờ bỏ đạo đi, thì sẽ được trở về với vợ con. Các anh tính sao?”. Thầy Phanxicô mậuthay cho anh em trả lời: “Chúng tôi đã quyết một điều là trung thành với Chúa chúng tôi thờ. Nếu quan biểu chặt đầu chúng tôi, hay chúng tôi phải chết cách nào khác, chúng tôi đã sẵn sàng.” Quan nghe vậy, giận lắm, quát lính lôi qua Thập giá. Song tất cả đều quỳ xuống đất phục trên ảnh Thánh nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin cứu con”. Quan thất vọng, lệnh cho lính dẫn các ngài về ngục: “Bọn này không thể tha được, mà thật chúng cũng chẳng thàm tha.”
Ngày 24-11-1839, năm người lại phải ra tòa một lần nữa, quang cảnh như lần trước, nhưng các ngài vẫn một mực cương quyết không bỏ đạo. Lần này quan tuyên bố nhà vua đã tuyên án xử tử tất cả, song tòa còn có thể thay đổi được, nếu các ngài bằng lòng xuất giáo. Thầy Phanxicô Xaviê thay cho tất cả trả lời: “Chúng tôi chỉ tôn thờ một Thiên Chúa là Chúa tể vũ trụ và là cùng đích muôn loài, là Chúa trên hết các Chúa, là vua trên hết các vua, là đấng mà chúng tôi mong được đổ máu ra để tỏ lòng thành và yêu mến.” Lời nói của vị anh hùng tử đạo làm quan tức tối quát tháo: “Chúng bay là thứ người gì mà ăn nói kỳ cục vậy? Bố mẹ nào đã sinh ra chúng bay?”. Thầy Mậu bình tĩnh đáp: “Chúng tôi và cha mẹ chúng tôi đều bởi Thiên Chúa mà làm người.”
Ngày 18 tháng 12, các quan nhận được bản án từ kinh gởi ra bắt thắt cổ năm người. Lần cuối cùng quan hỏi các chứng nhân có muốn khóa quá để được tha không, thì thầy Phanxicô Mậu trả lời thay cho anh em rằng: “Đã từ lâu anh em chúng tôi, như những con nai khát nước, chỉ ước ao được chết vì đạo. Nay đã đến giờ chúng tôi đạt được sự mong ước đấy, xin quan cứ thi hnh bản án.” Biết không thê 3làm nao núng ý chí sắt đá của những anh hùng đức tin, quan nói một lời như từ biệt rằng “chúng bay có tội đáng phải chết”. Rồi ông viết trên tấm bảng nhỏ, cho lính cầm khi dẫn các đấng được xử, những lời sau đây: “Bọn ngu dại theo Gia Tô tả đạo, mặc dầu đã khuyên răn sửa phạt, chúng vẫn ngoan cố không chịu bước qua Thập giá, nay chúng phải chịu hình giảo”.
Ngày hôm sau, tức ngày 19-12-1839, năm người được dẫn tới pháp trường. Thầy Phanxicô Xaviê Mậu đi đầu, tất cả tỏ ra hoan hỉ và can đảm lắm. Thấy đám đông hiếu kỳ đi theo, thầy Mậu ngửa mặt nhìn lên trời, nói với họ rằng: “Anh em chúng tôi đang tiến về Thiên đàng đây.” Khi tới nơi xử mỗi vị bị trói vào một cột, rồi cùng một lúc, bị thắt cổ cho đến khi tắt thở.
Giáo dân lập mưu lấy được thi hài của các anh hùng tử đạo, đem chôn táng trong một nghĩa trang. Ba năm sau, hài cốt thầy Phanxicô Mậu được đưa về an táng tại họ Kẻ La, thầy Đaminh Úy ở Đồng Tiến, anh Autinh Mới ở Phượng Vĩ, anh Tôma Đệ ở Phong Cốc, và anh Têphan Vinh ở Hương La, tất cả thuộc tỉnh Bắc Ninh.
--------------------------------
Mt 20,1-16
Trước khi được gọi đi làm vườn nho, các người thợ thất nghiệp ngồi chờ ủ rũ ngoài đường phố.
CHỜ MỘT TIN MỪNG
Họ chờ đợi nhưng lòng vẫn không yên, rất ít hy vọng không biết còn phải chờ cho tới bao giờ.: TN 25-A40
Họ chờ đợi nhưng lòng vẫn không yên, rất ít hy vọng không biết còn phải chờ cho tới bao giờ.
Họ không có nghề gì để sống, không có việc gì để làm, không biết dùng ngày tháng thế nào cho hữu ích. Bởi thế lời để nghị đi làm vườn nho là một tin mừng, mở cho họ một lối thoát.
Từ nay có việc làm, đời sống được ổn định, bớt bấp bênh.
ƠN GỌI KITÔ HỮU
Câu chuyện những người thợ làm vườn nho nhắc mỗi người chúng ta nghĩ tới ơn gọi của chính mình.
Trước nhiều ngả đường của cuộc sống, chúng ta cũng lo lắng, chờ đợi, muốn tìm một đường đại, một hướng cho đời mình. Chúng ta cũng muốn sử dụng cuộc đời mình thế nào cho thật hữu ích.
Trong tình trạng phân vân, chờ đợi đó Chúa Giêsu đến gọi chúng ta đi làm Vườn Nho của Ngài. Ngài mở cho chúng ta một tương lai, trao cho chúng ta một thiên chức. Ngài chỉ cho chúng ta thấy cách tốt nhất để khai thác và phát triển mọi tiềm năng của đời mình.
HAI ƠN GỌI
Thiên Chúa trao cho chúng ta hai ơn gọi: thiên chức làm người và thiên chức làm con Thiên Chúa.
Trước hết là thiên chức làm người. Ngài muốn chúng ta chẳng những có mặt trong cuộc sống nhưng còn sống cho ra sống. . . sống xứng đáng với phẩm giá của mình, sống có tư cách, có đức độ, có danh dự. Cuộc sống như Thiên Chúa muốn chẳng những không thiếu thốn về mặt vật chất mà còn đạt tới một đời sống tạinh thần phong phú và một đời sống đạo đức sâu sắc; chẳng những sống cho mình mà còn biết sống cho người khác.
Rồi đến thiên chức làm con Thiên Chúa. Làm người đã là quý, nhưng Thiên Chúa còn muốn nâng chúng ta lên cao hơn. Ngài muốn chúng ta trở nên những người con, giống như Người Con Tuyệt hảo của Ngài là Đức Giêsu. Ngài muốn chúng ta được hiệp thông vào sự sống thần linh của Ngài. Vì ơn gọi cao cả đó chúng ta phải cố gắng đt tới sự thánh thiện tối đa bằng cách noi gương Cha trên trời.
HAI ƠN GỌI THỐNG NHẤT
Hai ơn gợi làm người và làm con Thiên Chúa không tách biệt nhau, nhưng gắn liền nhau.
Thực ra không phải là hai mà chỉ là hai mặt của cùng mộtạ ơn gọi. Đã được gọi làm người thì đương nhiên cũng được gọi làm con Thiên Chúa. Ơn gọi làm người luôn hướng tới ơn gọi làm con Thiên Chúa. Ơn gọi làm người chỉ phát triển đầy đủ và chỉ được hoàn tất trong ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Như vậy thì hết mọi người đều được gọi làm con Thiên Chúa như nhau. Làm con Thiên Chúa là ơn gọi chung của mọi người. Vườn nho được mở rộng đón mọi người, ai cũng được mời vào. Còn vào hay không là quyền tự do lựa chọn của mỗi người.
Vì ơn gọi làm người được hoàn tất trong ơn gọi làm con Thiên Chúa nên thật sai lầm nếu nghĩ rằng ơn gọi làm con Thiên Chúa có thể gây trở ngại cho ơn gọi làm người. Thật ra chẳng những không gây trở ngại mà còn giúp sống ơn gọi làm người cách trọn vẹn hơn. Càng sống như con Thiên Chúa thì càng trở nên người hơn, nghĩa là phẩm chất của con người càng được nâng cao và đời sống của con người càng trở nên phong phú thếm.
Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta vào làm Vườn nho của Ngài. Chúng ta đã vui mừng nghe theo tiếng gọi đó. Qua tiếng gọi đó Ngài vạch cho chúng ta một hướng đại, mở trước chúng ta một tương lai, bộc lộ cho chúng ta thấy ý nghĩa cuối cùng của cuộc đời chúng ta.
Xin cảm tạ Ngài. Và cách cảm tạ tốt nhất là mỗi ngày bền chí, kiên trì, tận tụy với công việc trong Vườn nho của Ngài.
--------------------------------
VÌ THẾ, ĐỪNG NÊN SO ĐO TÍNH TOÁN VỚI NGÀI- Nguyễn Chính Kết
1. Ba loại người làm việc cho ông chủ
Một người chủ thật giàu có và phóng khoáng sẽ đối xử thế nào với những người làm việc cho mình?: TN 25-A41
Một người chủ thật giàu có và phóng khoáng sẽ đối xử thế nào với những người làm việc cho mình? Để trả lời, ta tạm chia những người làm việc cho ông chủ thành ba loại người:
· Loại 1 là những người làm việc cho ông chủ hoàn toàn với tư cách làm công. Người làm công làm việc là để kiếm tiền, nếu không được trả tiền thì họ sẽ không làm việc. Điều họ yêu cầu là tiền công được trả thật sòng phẳng đúng như đã thỏa thuận khi nhận việc. Giữa họ với ông chủ có hợp đồng rõ rệt: tôi làm việc cho ông, và ông phải trả tiền cho tôi. Sau khi ông chủ trả tiền công thì đôi bên không mắc nợ nhau điều gì.
· Loại 2 là những người làm việc cho ông chủ với tư cách tình bạn. Họ làm vì tình cảm bạn bè. Anh có việc thì tôi giúp, mai mốt nếu tôi có việc thì anh giúp, nếu tôi không có việc thì thôi. Giữa hai bên không có hợp đồng rõ rệt, không có sự ràng buộc, nhưng có sự trao đổi qua lại về tình cảm.
· Loại 3 là những người làm việc cho ông chủ với tư cách con cháu trong nhà, họ làm vì yêu mến ông chủ và làm việc hết mình, không so đo tính toán. Họ không đòi hỏi ông chủ điều gì như một điều kiện phải có thì mới làm việc. Điều họ mong muốn là làm sao cho ông chủ mà họ yêu mến được thành công, hài lòng và hạnh phúc.
2. Cách đối xử của ông chủ đối với 3 loại người ấy
Đặt mình vào địa vị ông chủ, ta có thể suy ra cách ông ta đối xử với 3 hạng người ấy thế nào.
– Trước hết, đối với loại 1, ông chủ sẽ trả công sòng phẳng đúng theo hợp đồng, không hề lỗi công bằng hay làm gì khiến họ bị thiệt thòi. Vì họ đối xử với ông như người làm công, nên ông cũng đối xử với họ như với người làm công. Người làm công có thể làm được nhiều việc hơn những người thuộc loại 2 và 3, nhưng động lực để họ làm việc là tiền công chứ không phải là tình nghĩa. Vì thế, ông chủ chỉ phải trả họ tiền công cho sòng phẳng là đủ, chứ không có bổn phận phải biểu hiện tình nghĩa đối với họ.
– Với loại 2, ông tỏ ra hào phóng hơn. Ông đối xử với họ như đối với những người bạn, vì họ đã lấy tình bạn để đối xử với ông. Ông không trả công cho những việc họ làm, nhưng tỏ ra rất rộng lượng đối với họ, chiêu đãi họ những bữa tiệc thịnh soạn. Khi họ cần ông giúp gì, ông sẵn sàng giúp họ một cách hào phóng gấp bội những gì họ đã làm cho ông. Ông không tính toán với họ, vì họ chẳng hề tính toán với ông bao giờ. Tuy dù họ không làm cho ông được nhiều việc, nhưng những việc họ làm cho ông, họ đều vì tình nghĩa bạn bè mà làm. Ông quý họ là ở điểm ấy.
– Với loại 3, ông coi họ như con cái trong nhà. Những người này đã coi công việc của ông như chính công việc của họ. Họ làm việc cho ông cứ như là làm cho chính họ, bất kể có được trả công hay không. Chẳng những họ không mong được trả công mà còn sẵn sàng chịu thiệt thòi miễn sao công việc của ông hoàn tất tốt đẹp là họ thỏa mãn. Vì thế, ông đã coi họ như con cháu trong nhà, tất cả những tài sản ông có, ông muốn họ cứ việc sử dụng như của họ. Ông dự định nay mai ông có mệnh hệ nào, thì toàn bộ tài sản của ông sẽ thuộc về họ. Nếu so sánh những việc họ làm cho ông thì có thể chẳng là bao so với những việc mà những người làm thuê đã làm cho ông. Những người làm thuê đã làm cho ông rất nhiều việc, nhưng họ làm là để có tiền chứ chẳng phải vì yêu thương ông. Còn những người này tuy làm cho ông chẳng bao nhiêu việc, nhưng tất cả những gì họ làm thì họ đều làm vì ông, vì yêu thương ông. Vì thế, ông muốn họ được hưởng từ lòng hào phóng của ông nhiều gấp bội những gì mà những người làm công được hưởng.
Suy nghĩ về những loại người làm việc cho ông chủ và cách xử sự của ông chủ, ta dễ hiểu dụ ngôn mà Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng về những người thợ làm vườn nho (x. Mt 20, 1-16a). Những người làm việc từ đầu ngày tuy làm nhiều giờ hơn ai hết, nhưng họ đã làm như những người làm công: họ đã thỏa thuận với ông chủ số tiền ông phải trả. Những người đến làm càng về sau càng không đặt vấn đề tiền công, họ làm theo lời mời của ông chủ, và có thể họ đã làm việc với tất cả lòng nhiệt tình hăng say của họ mà không cần nghĩ đến tiền công. Vì thế, ông đã tỏ ra rất hào phóng đối với những người đến sau, vì họ làm không phải vì tiền. Còn với những người đến trước, ông đã trả công đúng như họ đã thỏa thuận với ông.
3. Ba loại người giữ đạo Chúa
Trong số những người theo Chúa, giữ đạo Chúa, ta cũng có thể tạm phân làm ba loại:
· Loại 1 là những người theo đạo Chúa để được Ngài thưởng công trên thiên đàng. Làm được việc gì tốt lành họ cũng đều làm với ý hướng được Chúa ghi công vào sổ để mai sau Ngài trả công bội hậu cho họ. Họ làm những điều tốt lành là vì hạnh phúc của họ ở đời này hay đời sau, hoặc vì phần thưởng mà Ngài đã hứa cho những ai làm như thế. Chứ không phải họ làm vì thấy những việc ấy là tốt đẹp, nên làm hay đáng làm. Giả như làm những điều tốt đẹp ấy mà không có lợi gì cho họ hay không được trả công thì họ sẽ không thèm làm.
Những người này Thiên Chúa sẽ trả công cho họ vì những việc tốt đẹp hay những hy sinh của họ, thậm chí bội hậu, đúng như lẽ công bằng đòi hỏi. Nhưng đó chỉ là phần thưởng Ngài dành cho những kẻ «làm công» cho Ngài thôi. Nó sẽ rất nhỏ so với phần thưởng Ngài dành cho những người hành xử như những đứa con hiếu thảo của Ngài, cho dù những việc họ làm được cho Ngài còn nhiều hơn những người này bội phần.
· Loại 2 là những người theo đạo vì thấy đạo là tốt lành, nên theo, không nhắm lợi ích cho mình. Khi làm những việc tốt lành, họ làm vì thấy đó là điều đáng làm, vì hợp với thánh ý của Thiên Chúa. Họ sống rất lương thiện, nhưng không tích cực hoặc không sống chết với việc của Thiên Chúa là xây dựng Nước Trời tại trần gian.
Do họ không làm vì lợi ích của họ mà vì lợi ích của Ngài, nên Ngài cũng sẽ tỏ ra rất hào phóng với họ. Phần thưởng Ngài dành cho họ sẽ rất lớn lao tương tự như những món quà mà một ông chủ hào phóng dành cho bạn bè của mình.
· Loại 3 là những người thật sự yêu mến Thiên Chúa và hết lòng với công việc của Ngài. Họ nhận ra Thiên Chúa chính là cái gì cốt tủy nhất và sâu thẳm nhất của bản thân họ, là người Cha rất mực yêu thương họ. Vì thế, họ yêu mến Thiên Chúa là Cha mình, và yêu tha nhân là hiện thân của Ngài như yêu chính bản thân họ. Họ coi công việc của Ngài ở trần gian cũng là công việc của chính họ, như một đứa con thảo trong gia đình coi mọi việc trong nhà là việc của mình. Vì thế họ dấn thân hết mình cho công việc của Ngài mà không hề mong được trả công hay được một phần thưởng nào. Có người con hiếu thảo nào trong gia đình lại trông đợi cha mẹ thưởng công cho mình khi họ làm những việc chung trong nhà hay làm theo ý cha mẹ mình? Thấy cha mẹ mình vui, anh em trong nhà ấm no hòa thuận thì đó chính là hạnh phúc của họ và đã là phần thưởng cho họ rồi, cần gì một phần thưởng nào khác nữa? Tình thương đã trở thành yếu tố quan trọng nhất trong bản chất của họ. Chính tình thương đã thúc đẩy họ làm tất cả những gì đem lại lợi ích cho gia đình trong đó có lợi ích của họ, chứ họ không làm vì lợi ích riêng của họ.
Vì họ đã hành xử với Ngài như những đứa con thảo đối với Cha, nên phần thưởng Ngài dành cho họ là sản nghiệp của Cha để lại cho con. Tất cả những gì Ngài có và Ngài là, đều thuộc về họ. Đó là một phần thưởng vô cùng vĩ đại mà những kẻ «làm công» cho Ngài dù có làm được nhiều việc vĩ đại tới đâu cũng không dám mơ ước.
(Ở đây không nói đến những người mang danh làm cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội, nhưng thật ra họ là những người làm để được tiếng khen, được nổi danh, được lợi lộc ở trần gian này. Những người này thì Thiên Chúa không cần thưởng nữa, vì họ đã được trần gian thưởng công rồi).
***
Thiên Chúa chính là người Cha đã sinh ra ta và yêu thương ta vô cùng. Ta nên đáp lại tình thương vô bờ bến ấy bằng cách luôn yêu thương và làm tất cả những gì có thể làm được cho đồng loại ở chung quanh ta, mà dưới ánh mắt đức tin chính là hiện thân của Ngài. Điều quan trọng là ta hãy làm tất cả những điều tốt lành ấy bằng một tình yêu thương vô vị lợi. Nghĩa là không trông mong được báo đáp, trả ơn hay trả công, cả từ phía con người lẫn từ phía Thiên Chúa. Có như thế, niềm hạnh phúc và sự tốt lành mà ta làm được cho họ mới trở thành hạnh phúc và niềm vui của ta, và ta mới là người con hiếu thảo và đích thực của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện để có được thứ tình yêu chân thật ấy●
--------------------------------
Tin mừng: Mt 20, 1-6a.
Anh chị em thân mến,
Làm công cho một ông chủ hào phóng và biết thương người thì thật hạnh phúc, ai đã từng đi làm thuê: TN 25-A42
Làm công cho một ông chủ hào phóng và biết thương người thì thật hạnh phúc, ai đã từng đi làm thuê làm mướn mới cảm nghiệm được nội dung lời của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, sự cảm nghiệm ấy bắt đầu từ việc ông chủ đi tìm người làm công từ sáng cho đến chiều, tức là từ khi công việc bắt đầu ông đã ra đi tìm nhân công, cho đến giờ làm việc cuối cùng, ông cũng đi tìm những người không có công việc vào làm vườn nho cho ông.
Niềm vui được làm việc trong vườn nho của Thiên Chúa.
Tất cả những người Kitô hữu đều hiểu rằng, làm việc trong vườn nho của Thiên Chúa chính là từ khi họ lãnh nhận bí tích Rửa Tội, gia nhập vào Giáo Hội Công Giáo trở thành môn đệ của Chúa Giêsu và công khai làm việc của Thiên Chúa giữa lòng xã hội trong các chức vụ và bổn phận của mình.
Một linh mục suốt đời mệt nhọc phụng sự Thiên Chúa nơi giáo xứ của mình nhưng vẫn vui tươi vì được làm trong vườn nho của Thiên Chúa; một nữ tu âm thầm phục vụ nơi các bệnh viện, viện dưỡng lão, cô nhi viện, trường học với tâm hồn vui tươi vì được làm việc trong vườn nho của Thiên Chúa; có những “thợ” được mời gọi làm công buổi chiều, đó là những anh em chị em tân tòng, họ vui sướng nhận được lời mời gọi của chủ vườn nho là Thiên Chúa và trở thành những tạo vật mới trong tình yêu và ân sủng của Ngài; có những người được Thiên Chúa gọi vào làm vườn nho của Ngài vào giây phút cuối cuối ngày làm việc, đó là khi họ từng giây từng phút giằng co giữa thiện và ác, giữa ma quỷ và Thiên Chúa, cuối cùng họ đã tình nguyện vào làm trong vườn nho của Thiên Chúa với nụ cười vui trên môi và cũng là giây phút cuối của họ ở trần gian...
Niềm vui sẽ biến thành đau khổ khi người thợ biếng nhác và thỏa mãn với những giờ làm việc của mình.
Những người thợ đến trước đã bị lòng tham che mất con mắt tâm hồn nên không thấy được tình thương của ông chủ vườn nho, họ phân bì vì những người làm việc cuối giờ cũng được trà lương một đồng như họ.
Có những người thỏa mãn vì công việc xây cất nhà thờ xứ đạo to lớn của mình, để rồi chế nhạo người anh em khong có tài xin xỏ tháo vát như mình; có những người vỗ ngực xưng tên mình là đạo dòng chính gốc, để rồi khinh bỉ các tân tòng không biết “giữ đạo” khi những người ấy thích đọc thánh kinh và tham gia các lớp giáo lý và sinh hoạt đoàn thể; lại có những người thợ trong vườn nho chỉ biết tìm chổ mát mẻ núp nắng núp mưa cho nhàn tấm thân, để rồi kiện cáo người này làm ít người kia mới làm không bằng mình...
Anh chị em thân mến,
Những người thợ biếng nhác và thích tranh đấu cho quyền lợi nhỏ của mình ấy, đã đem niềm vui biến thành đau khổ cho mình và cho cộng đoàn, họ đem tình yêu của Thiên Chúa so sánh với việc làm trời ơi đất hỡi của họ, họ quên mất lời của Chúa Giêsu: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”.
Được làm con cái của Thiên Chúa là một hạnh phúc to lớn, được làm trong vừơn nho của Thiên Chúa với bổn phận của mình là một hạnh phúc, bởi vì trong cương vị làm con họ sẽ được hưởng phần gia nghiệp Nước Trời, và trong thân phận là người làm công, họ đáng được hưởng công lao khó nhọc do mình làm ra, đó chính là trở nên ánh sáng và muối cho tha nhân trong cuộc sống của mình...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 25 thường niên tại nhà thờ Thánh Tâm-Taiwan.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
----------------------------------
Trong bài giải thích của ngài về các bài đọc Chúa nhật, Cha Raniero Cantalamessa Dòng Capuchin: TN 25-A43
ROME< SEPT.16, 2005 (enit.org).- Trong bài giải thích của ngài về các bài đọc Chúa nhật, Cha Raniero Cantalamessa Dòng Capuchin, người giảng Phủ Giáo Hoàng, đề cập chủ đề sự công chính và lòng tốt của Thiên Chúa trong việc quyết định ai sẽ được vào nước trời.
* * *
Matthêu (20:1-16)
Dụ ngôn những người làm thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất cả lãnh lương giống như nhau là một đồng bạc, đã luôn gây nên một sự khó khăn cho những người đọc Tin Mừng. Cách hành động của ông chủ có chấp nhận được không? Điều đó không phải xúc phạm đến nguyên tắc đền bù xứng đáng sao ? Những hiệp hội lao động có lẽ tất cả sẽ nổi loạn nếu có ai hành động giống như ông chủ này.
Sự khó khăn phát xuất từ một sự sai lầm. Vấn đề đền bù được xem xét trong trừu tượng, hay đúng hơn trong sự qui chiếu về sự đời đời. Xem xét được như thế, trên thực tế chủ đề sẽ trái ngược với nguyên tắc, theo đó Thiên Chúa "sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm" (Rm 2:6).
Chúa Giêsu qui chiếu ở đây về một tình huống cụ thể. Đồng bạc duy nhất được trả cho tất cả là nước Chúa, Chúa Giêsu đã mang xuống thế, đó là khả năng tham gia trong sự cứu rỗi của Đấng Messiah. Dụ ngôn bắt đầu: "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình." Nước trời, như vậy, là chủ đề chính và là bối cảnh của dụ ngôn.
Vấn đề, một lần nữa, là vấn đề thái độ của người Do thái và dân ngoại, hay là của kẻ lành và những người tội lỗi, trước sự cứu rỗi được Chúa Giêsu công bố. Mặc dầu chỉ vì nghe huấn giáo của Chúa Giêsu mà người dân ngoại (những kẻ tội lỗi, những người thu thuế, những người đĩ điếm, v.v.) quyết định theo Chúa, trong khi trước lúc đó họ còn đứng đàng xa ("nhàn rỗi). Vì ý định theo Chúa mà họ sẽ không chiếm một chỗ bậc hai trong vương quốc. Họ cũng sẽ ngồi cùng một bàn như những người khác và hưởng đầy đủ những của cải thời cứu thế.
Hơn nữa, vì những dân ngoại chứng tỏ mình sẵn sàng nhận lãnh Tin Mừng hơn những kẻ được gọi là công chính (những người Pharisêu và các kỳ mục), chúng ta thấy ở đây điều Chúa Giêsu nói ở cuối dụ ngôn: "kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết."
Một khi vương quốc được biết đến, tức là một khi đức tin được chấp nhận, lúc đớ chắc chắc có những khác biệt. Người phục vụ Thiên Chúa suốt đời mình, bằng cách làm cho những nén của mình sinh lợi nhiều nhất, và người cho Chúa những đồ thừa của cuộc đời mình với một sự xưng tội để đền bù, có thể nói trong giờ sau hết số phận của họ không giống nhau.
Để làm sáng tỏ điểm chính này, thật là hợp lý đế mang ra ánh sáng những huấn giáo khác của dụ ngôn. Một huấn giáo là Thiên Chúa kêu gọi mọi người trong mọi giờ. Đó là một lời kêu gọi phổ quát đi làm vườn nho của Chúa! Nói tóm lại, đó là vấn đề kêu gọi hơn là vấn đề thưởng.
Đó là đường lối trong đó dụ ngôn chúng ta được sử dụng trong tông huấn của Đức Gioan Phaolo II "Christifideles Laici" (về ơn gọi và sứ vụ người giáo dân trong Giáo Hội và thế giới): "Người tín hữu giáo dân tùy thuộc vào dân Thiên Chúa, được tiêu biểu bởi những người làm thuê vườn nho.. . 'Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta' " (Số 1-2).
Dụ ngôn cũng khơi lên vấn đề thất nghiệp: "Không có ai thuê chúng tôi!" Nhiều người thất nghiệp có thể coi như là chính câu trả lời bất hạnh của mình trong giờ phút chót.. Tất cả chúng ta biết điều gì xảy ra cho môt người thất nghiệp có gia đình, hay là cho một thanh niên ước muốn kết hôn nhưng không thể được, vì anh ta không có việc làm và không đủ bảo đảm tối thiểu về khả năng nâng đỡ gia đình mình cách xứng đáng.
Nếu thiếu việc làm,. lý do là vì có thể một số người có quá nhiều công việc (đây không phải chỉ có lý đo đó, cũng không phải là lý do chíngh nhưng chắc chắn có một lý do chính đáng)-- cho nên tất cả được đền bù bằng những cách khác nhau.
Một huấn giáo khác có thể rút ra từ dụ ngôn. Ông chủ biết rằng những người làm thuê giờ cuối cũng có những nhu cầu như bao người khác, họ cũng có con cái phải nuôi ăn, như những nguời làm thuê giờ thứ nhất. Khi trả cho mọi người đồng lương y nhau, ông chủ chứng tỏ rằng ông không xét theo công trạng cho bằng theo nhu cầu. Ông chứng tỏ rằng ông không những công bằng, mà còn "tốt lành," quãng đại và nhân đạo.
Đức Ông Nguyễn Quang Sách
----------------------------------
Hãy mở rộng vòng tay cho những người “đến sau”
Dẫn nhập đầu lễ:
Sứ điệp phụng vụ càng về cuối năm hình như càng tập chú nhiều hơn vào những khuyến dụ dành riêng: TN 25-A44
Sứ điệp phụng vụ càng về cuối năm hình như càng tập chú nhiều hơn vào những khuyến dụ dành riêng cho nếp sống cộng đoàn. Chẳng hạn, Lời Chúa của Chúa Nhật XXV thường niên hôm nay là một thúc nhắc cộng đoàn chúng ta hãy biết mở rộng cõi lòng đón nhận lẫn nhau bằng thái độ nhân từ quảng đại, và lột bỏ mọi biểu hiện của tự cao, biệt phái, kiêu căng…sẵn sàng bao dung đón tiếp những anhị em “đến trễ”, đẻ cùng nhau xây dựng “Vườn Nho” Chúa mỗi ngày them đẹp thêm xinh.
Giờ đây, chúng ta hãy chung lòng sám hối tội lỗi để xứng đáng cử hành thánh lễ.
Giảng Lời Chúa:
1. Khi con người rời xa luật Chúa:
Ở giữa chợ đời hôm nay, cái qui luật cạnh tranh sinh tồn không mấy thiện hảo nầy lại được áp dụng thật đúng mức: “Mạnh được yếu thua, may nhờ rủi chịu”. Nơi nào cũng đầy ắp cảnh “lính cũ trấn lột lính mới”, người có công vụ thâm niên, có quyền cao chức trọng…thì đè đầu cởi cổ những kẻ mới tập tễnh vào nghề; những bậc thầy thức giả uyên thâm, những cây cao bóng cả thì xem thường lũ học trò mới được dăm ba chữ, những anh chàng nhà quê chân lấm tay bùn không công trạng cũng chẳng có ô dù điểm tựa đỡ nâng…
Và nào chỉ ở nơi chợ đời mới xảy ra cái qui luật “quái quỉ” nầy ! Ở ngay giữa lòng thế giới tôn giáo, dân Ít-ra-en, dân tộc ưu tuyển của Thiên Chúa, nơi mà lương tâm con người được uốn nắn kỹ càng ngay từ tấm bé để hướng thiện, thì vẫn tồn tại lâu dài đến nhức nhối cái tiêu cực đáng ghét nầy. Thật vậy, ngay từ buổi đầu lập quốc, dân riêng của Chúa đã được ân cần dạy dỗ “phải thương yêu đồng loại như chính mình ngươi” (Lv 19,18) và liên tiếp dọc dài theo lịch sử, Gia-Vê Thiên Chúa đã sai các sứ ngôn không ngừng dạy bảo những nguyên tắc ứng xử “ái nhân” rõ ràng như sách Isaia chẳng hạn:
“Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, cúng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý” (Is 42, 2-3); “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế nầy sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm ? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoãnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục” (Is 58,6-7). Đó là điều mà Đức Kitô sau nầy đã long trọng nhắc lại như một tổng hợp nền tảng của qui tắc luân lý do chính Đức Chúa Trời thiết định: mến Chúa-Yêu người, hai giới răn nền tảng điểm qui chiếu cho mọi lề luật khác (Mt 22,37-39).
Mà nào có phải chuyện chơi. Bởi lẽ, bất cứ nơi đâu và thời điểm nào, khi con người quay lưng lại với những giáo huấn nền tảng đó, thì cũng chính là lúc tôn giáo bị biến chất, niềm tin bị lạm dụng và kết quả sẽ là: tương quan Chúa-Người sẽ trở nên lạnh lùng xa cách, quan hệ tín ngưỡng sẽ thành một mớ hành vi giả hình, môi mép đãi bôi, như chính Thiên Chúa đã bực dọc thốt lên qua miệng lưỡi của sứ ngôn Isaia: “Bọn nầy thờ kính Ta ngoài môi mép, còn lòng chúng thì cách xa vời vợi” (Is 29,13); và cũng khởi đi từ đó, cộng đồng nhân loại đã trở thành một “công trường Ba-Ben” với muôn ngàn ngôn ngữ xa lạ, cách ngăn, để từ đó mọc lên đầy tràn những “cỏ lùng” gian ác, bất công, bạo lực, khũng bố, chiến tranh, phân biệt chủng tộ, chia rẽ ý thức hệ, bóc lột lẫn nhau, loại trừ, đàn áp…
2. Thiên Chúa lại nhập cuộc:
Và Lời Mặc khải đã nói với chúng ta rằng: Thiên Chúa cương quyết không ngoãnh mặt làm ngơ. Ngài đã ra tay hành động để tái tạo một “vườn Nho địa cầu” nếu không xinh đẹp tuyệt trần như “địa đàng của thuở khai thiên lập đại”, thì chí ít, cũng phải trật tự tinh tươm để chuẩn bị cho một “trời mới đất mới" của ngày thế mạt.
Hai ngàn năm trước, Ngôi hai Thiên Chúa đã dấn thân vào đời với một quyêt tâm sống chết thực hiện "phương án cứu độ" nầy ngay trên mãnh đất đã bao đời ghi dấu của “Giao ước Si-Nai”: “Ngài đã làm cho con một thân xác, thì nầy đây; con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,5-6).
Dựa vào những chỉ dẫn của các sách Tin Mừng, chúng ta biết rằng “phương án tái lập vườn nho” của Chúa Giêsu thoạt đầu tưởng như sẽ hoàn toàn thất bại. Hài Nhi Giêsu yếu đuối nghèo hèn sinh hạ nơi hang lừa máng cỏ suýt nữa bị quyền lực của Hêrođê bóp nát…Và 30 năm sau, vị “Rabbi Giêsu” xuất thân từ xưởng thợ Na-da-rét, cho dù có nhiều lúc được đám đông cao hứng tung hô vì “lời giảng dạy có uy quyền và vì làm được những phép lạ cả thể”…, thì cuối cùng đã phải vác lấy thập giá lên đồi Sọ để chịu đóng đinh chết tủi nhục giữa hai người trộm cướp.
Nhưng “tập đoàn sự dữ và bè lũ quỉ ma” đã bị “sụp bẫy” của Thiên Chúa. Con đường Thập Giá và cái chết trên đồi Sọ tưởng đâu sẽ ném “Tin mừng và cả Con Người Giêsu Na-da-rét” vào sọt rác của thời gian, thì lại đã trở thành cửa ngõ dẫn vào nguồn sự sống, vào hạnh phúc vĩnh hằng. Từ đó, những giá trị như yêu thương, khiêm hạ, khó nghèo… trở thành những vũ khí và lực lượng chi phối thế gian. Những chàng trai dân chài dốt nát, quê mùa bên bờ hồ Galilê như Phêrô, Giacôbê, Gioan...đã được Thần Linh biến đổi để trở nên những hòn đá tảng, những cột trụ xây nên “Ngôi Đền Thánh vĩ đại”, thành “Vườn Nho lộng lẫy tinh tươm” cho muôn dân bá tánh được tựu về mà mở hội liên hoan tưng bừng.
Quả thật, Thiên Chúa đã đi “nước cờ quá cao” đến đổi không ai hiểu thấu, như hôm nay, trong Bài đọc 1, Sứ ngôn Isaia đã phát biểu: “Trời cao hơn đất dường nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (BĐ 1).
3. Trên công trường của Thiên Chúa vẫn còn những người đến trễ:
Thế nhưng, yếu đuối và bất toàn mãi mãi là căn phần mà con người phải mang theo như một định mệnh khắc nghiệt. Vì thế, nếu cách đây 2000 năm, ở giữa lòng dân được chọn Ít-ra-en đã từng tồn tại những nhóm "Biệt Phái" giả hình, kiêu căng, nhìn anh em chung quanh với con mắt khinh thường đố kỵ, biến tôn giáo thành một hàng rào lề luật rỗng tuếch và bất nhân khiến cho Đức Kitô phải nhiều lần "ngậm đắng nuốt cay" để chửi thẳng mặt; thì hôm nay, ở giữa lòng ”Cộng đoàn Dân mới, Dân tư Tế, Dân Vương Đế, Dân Thánh của Thiên Chúa”, vẫn còn đó những nhỏ nhen, biệt phái, những ích kỷ, bon chen, tranh giành đố kỵ, hẹp hòi….Vẫn còn đó những con mắt lườm nguýt có đuôi, những cái nhép môi khinh thị, những cú nhíu mày nhăn trán bất bao dung, đố kỵ, những lời ong tiếng ve phê bình chỉ trích, những kết án, lọai trừ…thấp thoáng đâu đó giữa những hàng ghế trang nghiêm thánh thiện của thánh đường để ném về phía những người bị cho là “Đến trễ”. Họ "là những người đến trễ" vì họ họ là dân dự tòng-tân tòng; họ đến trễ vì họ thuộc gia đình đang bị rối giây hôn phối; họ đến trễ, vì họ bị mang tiếng có một quá khứ không tốt lành; Họ "là những người đến trễ vì họ quá bần hàn rách nát, không giúp được gì cho giáo xứ, cho cộng đoàn; Họ "là những người đến trễ vì họ là những người ít học hay khô khan nguội lạnh không thường xuyên tham gia sinh hoạt với cộng đoàn. Vâng trên công trường của Thiên Chúa, trong Vườn Nho của Thiên Chúa vần còn đầy dẫy những anh chị em “là những người đến trễ” như thế. Đẻ dạy cho người Do Thái khi xưa và để nới với cộng đoàn chúng ta hôm nay, dụ ngôn Tin Mừng đã trình bày cách ứng xử khác thường của Thiên Chúa: Mỗi người, sớm hay muộn, đúng giờ hay đến trễ, cũng đều lãnh được một đồng như nhau. Phải chăng, ngụ ý của dụ ngôn nầy đã quá rõ để chúng ta hiểu rằng:
- Hãy ngước nhìn lên Thiên Chúa để học mãi bài học khoan dung, quảng đại, thứ tha và yêu thương anh em như chính mình.
- Hãy ngước nhìn về anh em xung quanh mà biết sẻ chia, cảm thông, yêu thương và kính trọng.
- Hãy ngước nhìn về chính mình để luôn khiêm hạ và sẵn sàng nhận phần thiệt thòa cho riêng mình để mà quảng đại phục vụ anh chị em.
Hội Thánh hôm nay quả thật đang cần những tín hữu như thế để gương mặt Hội Thánh luôn xuất hiện như một “Vườn Nho” tươi tốt xanh mơ, với đầy muôn kỳ hoa dị thảo, một “công trường luôn đầy ắp tiếng cười vui niềm nỡ của những người thợ thắm tình huynh đệ"; và để cho ai đó, dù có trở về trong thời điểm trễ tràng của “giờ thứ 11,12” thì vẫn được anh em nồng nàn đón tiếp và chia đều phần "lương bổng đậm nghĩa yêu thương."
Và đó chính là điều được Thánh Phaolô hôm nay lại một lần nữa nhắc bảo cộng đoàn chúng ta: “Anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô” (BĐ.2)
LM. Giuse Trương Đình Hiền
----------------------------------
TRONG MẦU NHIỆM NƯỚC TRỜI- Lm Jude Siciliano, OP
(MT 20,1-16)
Thưa quý vị,
Tôi dám cược đa phần chúng ta không ưa thích dụ ngôn hôm nay. Nói chung nếu được phép tôi sẽ: TN 25-A45
Tôi dám cược đa phần chúng ta không ưa thích dụ ngôn hôm nay. Nói chung nếu được phép tôi sẽ loại vài dụ ngôn ra khỏi Thánh Kinh, vì nó không am hợp với não trạng con người. Một trong những dụ ngôn hàng đầu bị loại ra phải kể đến dụ ngôn Chúa Nhật này. Thứ nhì, truyện hai chị em Martha và Maria, tội nghiệp cô Martha, một người lao động cực kỳ vất vả mà không được biểu dương xứng đáng. Chúng ta cảm thấy bực tức khi nghe công bố nội dung Phúc Âm, nó xem ra chống lại đạo đức lao động mà chúng ta đã học từ tấm bé, đã từng thi hành suốt cuộc đời, và mong đợi kéo dài mãi trong tương quan xã hội. Đó là tính “sòng phẳng” trong lao động: Tiền lương xứng đáng với công sức bỏ ra. Chỉ xin có vậy.
Với suy nghĩ ấy, chúng ta có thể hoàn toàn đồng hóa với các công nhân toàn thời gian trong vườn nho ông chủ của dụ ngôn này. Chúng ta cho rằng họ đã bị đối xử không tốt, và chịu đựng bất công trước hành động trả lương của ông chủ. Chính các công nhân đã nêu lên tâm trạng của họ. Phúc âm kể: “Họ vừa lãnh tiền vừa cằn nhằn chủ nhà: Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những kẻ đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt”. Rõ ràng không sòng phẳng chút nào! Vậy tại sao người ta vẫn giữ câu truyện này trong Thánh Kinh? Liệu có những sạn sỏi không? Phải chăng Thánh Kinh nên hoàn toàn rao giảng về công lý và lẽ phải? Yêu thương và nhân ái? Làm việc vất vả phải được trả công xứng đáng? Chính bản thân tôi đã từng kinh nghiệm nội dung của câu truyện hôm nay, nghĩa là tôi đã từng đứng đợi để được người ta thuê, gọi là chợ lao động (ngày nay nhiều thành phố vẫn còn tình trạng này). Từ sáng sớm những người cần việc làm tụ tập về một nơi nhất định, thí dụ cửa nhà ga, bên hông chợ. Họ đứng ngồi khắp chốn mong đợi có việc làm. Khi còn là sinh viên đại học, nhiều lần tôi đã tham gia “chợ người” này vào buổi chiều các ngày lễ nghỉ, tôi làm việc để kiếm thêm tiền học. Tôi cùng đi với một người bạn đến tầng hầm của tờ báo New York Times. Ở đấy có một ông “đầu nậu” thuê công nhân ngoại lệ, thay chỗ cho công nhân chính thức, xin nghỉ phép vì bận việc nhà, hay lễ lậy gì đó. Chúng tôi đến phỏng 7 giờ chiều và đợi ở gian phòng to lớn của tầng hầm. Trời nóng bức hết chỗ nói, nhưng vẫn phải kiên nhẫn đợi chờ. Từng giờ một ông đầu nậu (cai thầu) bước ra khỏi khu máy in và xuống tầng hầm để thuê thêm nhân công. Họ cần ai đó giúp đỡ khuân vác giấy báo ra khỏi khu nhà máy, chất đống lên các kệ bằng gỗ và chờ chở đi. Công việc thật nặng nhọc, bẩn thỉu, bụi bặm và ồn ào. Nó kéo dài cho đến sáng sớm hôm sau. Việc khuân vác buồn chán và gẫy xương sống, nhưng lương khá tốt, chúng tôi hài lòng vì cần tiền trả học phí.
Vấn đề là phải đứng đợi hàng giờ mong người cai thầu xuất hiện, không phải giờ nào cũng thấy ông ta. Ông chỉ thuê người khi cần. Thật may mắn nếu được ông chỉ điểm và gọi tới. Tôi thì chẳng bao giờ được gọi ngay, bởi lẽ thân hình gầy gò nhỏ bé, ông luôn luôn chọn những gã to lớn, lực lưỡng hơn, rồi đến những đứa ông nhớ được tên. Tôi mới có 19 tuổi, thân hình ốm nhom, coi bất mãn cho công việc. Lại không có thân quen, không có ô dù để nói tốt cho mình. Những thân hình vạm vỡ thường được thuê sớm. Mỗi giờ qua đi là nhột bụng vì mất một giờ lương bổng, một giờ ngủ bù. Tất nhiên việc phải đến sẽ đến, phỏng nửa đêm chúng tôi được thuê vào làm, nhưng chỉ khi nào họ cần lao động qúa quất. Bộ máy công việc xem ra chống lại hai chúng tôi. Nhưng một khi được thuê, lương bổng khá đẹp, chúng tôi phải đến để kiếm thêm tiền học. Vào buổi sáng lĩnh lương, chẳng có ai lĩnh thêm đồng nào qúa lương chúng tôi thỏa thuận, trả kém chúng tôi có thể phàn nàn. Như vậy từ tuổi 19 tôi đã học được thế nào là sòng phẳng. Chúng tôi được trả theo sức lực mình bỏ ra. Sau này trong cuộc đời cứ áp dụng luật ấy mà sống và thấy thoải mái, không gặp rắc rối chi.
Nhưng tại sao Phúc âm lại có thái độ khác đi? Tại sao luật sòng phẳng chúng tôi học từ tấm bé và thấy là “tốt” lại không được áp dụng mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Có điều chi thiếu xót mà Thánh Kinh phải sửa chữa? Thật khó hiểu đối với não trạng bình dân! Có đúng những câu chuyện như vậy trong các dụ ngôn là mẫu mực về tính “tròn chịa và thỏa đáng”, trong giao tiếp xã hội? Có thể tồn tại một lầm lẫn trong Phúc Am không? Nếu đúng vậy sao không xé nó đi? Bởi lẽ như thí dụ hôm nay, rõ ràng nó không đáp ứng mong đợi của người đời! Nhưng phụng vụ lại cho chúng ta đọc đi xem lại trong đời sống đức tin của người tín hữu. Vậy phải có lý do mà chúng ta chưa khám phá ra! Xin nhìn kỹ văn bản, mang nó đến gần sự giận dữ của các công nhân lao động suốt ngày, họ đã hiểu thế nào về số phận của mình và thái độ của ông chủ?
Họ là những ai? Mục tiêu của họ trong lao động? Câu trả lời hiển nhiên, họ là những kẻ làm thuê kiếm miếng ăn, họ khác với chúng tôi, các sinh viên đang lớn, đang trên đường lập thân, chúng tôi lao động kiếm học phí cho tương lai. Họ cần lương thực hằng ngày. Thời Chúa Giêsu, hơn 90% cư dân nước Israel sống bên dưới mức nghèo khó, ăn bữa trước kiếm bữa sau (from hand to mouth each day). Không có an sinh xã hội, trợ cấp thất nghiệp, bảo hiểm y tế, lương hưu, khuyết tật, khi lao động một ngày đủ ăn một ngày. Ngày hôm sau chưa biết, tất cả chỉ vậy thôi. Chẳng có bảo đảm cho cuộc sống! Lương thực của cả gia đình cậy nhờ vào đồng lương nhỏ nhoi một ngày lao động. Những ai không được thuê mướn thường là những người lao động kém: yếu ớt, già cả, vụng về, khuyết tật, góa bụa, qúa trẻ…lao động ít hiệu qủa. Xin thử hỏi, những người ấy khi trở về nhà, đối với gia đình đông miệng ăn, tâm lý họ sẽ ra sao? Chắc chắn là buồn tủi vì thất bại, âu sầu vì không kiếm đủ lương thực, sợ hãi vì ngày mai thiếu ăn! Liệu bạn có tàn ác không? ý nghĩa của nguyên tắc “sòng phẳng” của bạn lúc này chắc chắn triệt tiêu. Một ngày lương xứng với lao động bỏ ra, trở thành bất công, độc ác. Cái xấu trong xã hội là vậy. Làm sao những công nhân xấu số như vậy có thể nuôi nổi vợ con. Làm sao lời cầu xin hàng ngày của họ cho gia đình đủ cơm ăn áo mặc được Thiên Chúa và láng giềng lắng nghe? Liệu xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày có mang ý nghĩa nào đối với họ và gia đình không?
Cho nên thái độ của ông chủ hoàn toàn hợp lý, hợp đạo đức và lẽ phải. Chúng ta không bỏ dụ ngôn này ra khỏi Kinh Thánh được! Phụng vụ cho đọc thường xuyên là chí phải, để giáo dục tín hữu bớt ích kỷ, bớt bất công. Đó là nét thấm trầm của Thánh Kinh. Nét mà cảm tính “công bằng” loài người không chỉ dạy được. Nét mà khôn ngoan các hiền triết đông tây chịu thua. Bởi não trạng “công lý” của chúng ta làm cho vô số người lâm cảnh nghèo đói, thì bụng dạ ông chủ vườn không nỡ để gia đình nào thiếu ăn một bữa. Cái làm cho chúng ta ngỡ ngàng là dụ ngôn không hành xử như chúng ta mong đợi. Cái làm dụ ngôn đi trệch đường suy nghĩ nhân loại và vi phạm nguyên tắc công lý của chúng ta là lời nói của ông chủ với đám thợ: “Này bạn tôi đâu có đối xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao…chẳng lẽ tôi lại không có quyền định đoạt tuỳ ý về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn sinh ra ghen tức?” Như vậy từ “tốt bụng” hoặc rộng rãi đã bẻ gẫy mọi quan niệm cứng nhắc của chúng ta về giao tiếp xã hội. Nó tràn khỏi não trạng mỗi người về Thiên Chúa, về đạo đức cổ điển. Trong đạo đức này chúng ta bắt Thượng đế phải hành xử theo ý muốn con người, nghĩa là đoán trước việc Thiên Chúa làm. Tôi có một mẫu mực luân lý Thiên Chúa cứ thế mà nói năng hành động. Ngài không được phép thoát ra khỏi mẫu mực đó. Nhưng từ “tốt bụng” của dụ ngôn hôm nay làm cho mọi người bất ngơ, Thiên Chúa không đoán trước được, không kiểm soát được, không có đường lối cố định hành động, Ngài hoàn toàn tự do. Ngài không theo tiêu chuẩn phải trái của tôi hoặc của bất cứ ai, Ngài hành động bên ngoài các giá trị xã hội, đôi khi bên ngoài các lề luật Giáo Hội. Vậy thì làm thế nào chúng ta giao tiếp với Thiên Chúa ấy? Ngài luôn luôn gây bất ngờ, sửng xốt cho cả người lành lẫn kẻ dữ, bạn hoặc thù? Làm thế nào mà về phe với Thiên Chúa ấy?
Xin suy nghĩ kỹ bài Phúc âm, và tôi sẽ nhận ra tôi phải bỏ tiêu chuẩn của tôi mà về phe với mảnh đất của Ngài, tôi không thể cường điệu mãi với những khái niệm hẹp hòi của mình. Đứng trước mặt Chúa, tôi phải chọn từ “tốt bụng”, bằng không tôi sẽ đi vào vết xe đổ của Phariseo. Rộng rãi, tốt bụng, cảm thương là những từ nêu rõ tính chất tôi làm môn đệ Chúa. Khi thất bại trong lĩnh vực này, tôi trở nên ích kỷ hẹp hòi, vị luật và do đó, độc ác một cách vô tình hay tiềm thức. Đây là điều rất nguy hiểm trong đời sống thiêng liêng mỗi người, vì thế chúng ta phải vấn tâm mỗi ngày, tâm lý của chúng ta giống như người đi vào siêu thị mua hàng, nhìn tới khu bày bán báo chí, trên kệ các tuần san, nguyệt san toàn là những hình ảnh đẹp đẽ, toàn người mẫu, không ai gầy béo qúa, già nua qúa, ăn vận tồi tàn, xấu xí, nghèo nàn qúa. Với cái nhìn này, chúng ta lượng gía thiên hạ trong nếp sống hàng ngày thì chỉ còn có thể tìm thấy ở hành tinh khác, sao hỏa chẳng hạn. Cho nên phải lấy tiêu chuẩn “tốt bụng” của Thiên Chúa mà xét đoán thiên hạ. Khi tôi thấy mình hay một người khác không đáp ứng mong đợi, tôi phải sử dụng thái độ của Đức Chúa Trời nhân lành là rộng rãi. Đừng nhìn theo thế gian, đo lường con người theo giàu sang, địa vị, chức quyền, cấp bậc, tài năng. Và như vậy thường xuyên là “nhầm”. Người Do Thái đã “nhầm” với Chúa Giêsu. Chẳng lẽ chúng ta nhắc lại sự nhầm lẫn đó. Lý thuyết thì không ai dám, nhưng thực hành không thiếu trường hợp tệ hại hơn. Chúng ta phải cầu xin Chúa ban ơn cho được khiêm nhường mà nhận ra sự thật.
Xét cho cùng thì chủ vườn nho không hành động bất công, mà chính công nhân vì ghen tức mà trở nên mù quáng. Chính bản thân họ đã từng chịu đựng cay đắng, thấp thỏm lo âu khi một ngày không tìm được việc làm, vì không có người thuê. Vậy thì nắng nôi vất vả cả ngày có thể so sánh được nỗi thống khổ cạn kiệt của bạn hữu kém may mắn không? Cho nên mỗi người một đồng là hợp lý. Hợp lý với công nhân vất vả và cũng hợp lý với người đau đớn về tinh thần vì không kiếm được việc làm. Dụ ngôn còn đưa chúng ta đi xa hơn nữa. Ơn cứu độ của Thiên Chúa không ai đủ khả năng tranh thủ được, nó hoàn toàn nhưng không dù bạn là Do Thái hay dân ngoại, già hay trẻ, ốm đau hay mạnh khỏe, đạo cũ hay đạo mới. Không ai cậy vào công nghiệp mà được nước thiên đàng. Hoàn toàn do lòng “rộng rãi” của Thiên Chúa. Ông phariseo giữ luật nghiêm ngặt, hay các tông đồ say sưa ăn uống, trước ơn cứu độ của Chúa ngang bằng như nhau. Chỉ có một đồng không hơn không kém. Thiết nghĩ Chúa kể dụ ngôn này để cho phái phariseo một bài học, và cho cả chúng ta ngày nay nữa. Họ phải nhận ra Thiên Chúa là ai. Ngài hành động thế nào trên nhân loại. Vì vậy bài đọc 1 cho chúng ta lời khuyên: “Hãy tìm kiếm Thiên Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên…từ bỏ tư tưởng mình đang có, mà trở về với Đức Chúa và Người sẽ xót thương và đứng về phía khó nhọc của con người”. Sự ghen tỵ của các công nhân đến sớm là điều dễ hiểu, nó là cảm tính tự nhiên, nhưng chúng ta phải luôn nhìn xem sự vật theo chiều hướng thiêng liêng. Đó là điều Chúa muốn chúng ta phải có vì Ngài đã mạc khải mầu nhiệm nước trời cho nhân loại. Chúng ta chỉ là môn đệ của Ngài khi nhìn mọi sự theo quan điểm của Ngài, tức quan điểm đức tin.
Trước bàn thờ Thánh Thể hôm nay, mỗi người sẽ được trả tiền lương một đồng, nghĩa là trọn vẹn Chúa Giêsu, nhưng tùy vào tình trạng linh hồn mình, tiền lương ấy sẽ là vĩ đại, nhỏ bé hay không là chi cả, chúng ta không thể ghen tị như những công nhân trong Phúc Âm. Nếu thấy mình nhỏ bé, thiếu xót trong tinh thần, việc làm hay đời sống, chúng ta có thể cậy nhờ vào lòng rộng rãi bao la của Thiên Chúa. Sửa chữa các lỗi lầm, đồng lương đó sẽ to dần lên cho đến khi chúng ta thỏa mãn. Đồng thời cầu xin cho tha nhân, sửa chữa cho họ để cùng được hưởng ngọt ngào như mình. Đừng khinh bỉ ai cả, giàu nghèo, sang hèn, da trắng da màu. Bởi không ai là kẻ đến sớm đến muộn trong màu nhiệm nước Trời. Amen
Lm Jude Siciliano, OP
----------------------------------
Tại các thành phố hiện nay, cơn sốt về nhà đất mỗi ngày một gia tăng. Một mảnh đất hôm qua: TN 25-A46
Tại các thành phố hiện nay, cơn sốt về nhà đất mỗi ngày một gia tăng. Một mảnh đất hôm qua chẳng có giá trị gì, thế mà hôm nay có thể trở thành tài sản lớn.
Có một bác nông dân sống ở ven đô, bác nhẩm tính trong đầu rằng: Theo thời giá, miếng đất của bác có thể bán được hai mươi cây vàng. Nhưng rồi có người đến trả cho bác những hai mươi lăm cây. Bác mừng rỡ bán vội.
Liền sau đó, người bên cạnh bán miếng đất chỉ bằng nửa miếng đất của bác mà cũng được hai mươi lăm cây. Bác tiếc ngẩn tiếc ngơ và lên tiếng cự lại người mua hai miếng đất ấy. Và người mua đã trả lời bác:
- Này bác, bộ tôi phỉnh gạt bác à. Bác đã chẳng thỏa thuận với tôi hai mươi lăm cây sao? Hay là bác ganh tị vì tôi đã rộng lượng.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay và tự hỏi: Chúa Giêsu muốn đưa ra bài học nào? Và trong cuộc sống, đám thợ trước được sánh ví với ai? Còn đám thợ sau được tượng trưng cho hạng người nào?
Chúng ta có thể trả lời: Những kẻ được thuê sau là những kẻ tội lỗi vào thời Chúa Giêsu, họ đã lắng nghe lời Chúa và đã sám hối ăn năn. Còn những người được thuê trước là bọn Biệt phái. Họ giận dữ vì thấy những kẻ tội lỗi sám hối được vào nước trời, và cũng lãnh nhận phần thưởng y như họ. Thái độ của họ có thể sánh ví với thái độ của một ai đó đã lên tiếng chỉ trích Chúa, vì Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành trên thập giá vào những giây phút cuối cùng:
- Hôm nay anh sẽ lên thiên đàng cùng Ta.
Từ thái độ của bọn Biệt phái, chúng ta nhận thấy: rất nhiều lần chúng ta cũng đã cư xử với những người chung quanh giống như họ. Chúng ta cảm thấy bực bội tức tối khi người khác giàu hơn chúng ta, đẹp hơn chúng ta, giỏi hơn chúng ta và gặp nhiều may mắn hơn chúng ta. Chúng ta đã ghen tị với họ.
Khi cư xử như thế, chúng ta đã phạm phải một sai lầm lớn là đã xét đoán họ theo những tiêu chuẩn thế gian, chứ không phải theo những tiêu chuẩn của Chúa. Đường lối của Chúa không giống với đường lối của thế gian, như lời thánh Phaolô diễn tả:
- Thiên Chúa đã cố ý chọn những gì thế gian xem là vô nghĩa để làm bẽ mặt đám người thông thái, và Ngài đã chọn những gì thế gian cho là yếu nhược để khiến đám thế lực phải hổ thẹn. Ngài đã chọn điều thiện họ chê bai, khinh bỉ để tiêu hủy những gì thiên hạ cho là quan trọng.
Trong bàn tay của Thiên Chúa, thì một chiếc màng nhện cũng có thể trở nên một bức tường thành bảo đảm an toàn cho chúng ta ẩn náu. Và như thế, đoạn Tin mừng mời gọi chúng ta đừng so sánh mình với người khác mà hãy chấp nhận hiện trạng của mình, như lời thánh Phaolô:
- Mỗi người nên suy xét về cách cư xử của mình. Nếu là tốt thì có thể hãnh diện về điều mình làm, nhưng chớ nên so sánh với điều người khác đã làm. Xét cho cùng, điều quan trọng trong cuộc sống hiện tại không phải là những gì thiên hạ nghĩ về chúng ta, hoặc chúng ta đã làm việc thế nào trong vườn nho của Chúa, nhưng điều quan trọng đó là, Thiên Chúa sẽ nghĩ gì về chúng ta và nhất là về tình yêu mà chúng ta đã dành cho Ngài trong suốt dọc cuộc đời chúng ta.
----------------------------------
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt 20, 1-16
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Khi nghe dụ ngôn này có nhiều người thắc mắc: Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho: TN 25-A47
Khi nghe dụ ngôn này có nhiều người thắc mắc: Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho người làm ít cũng bằng người làm nhiều? Hỏi như thế là chưa hiểu rằng đây chỉ là một dụ ngôn. Dụ ngôn không phải là một chuyện có thật. Nhưng chỉ là một câu chuyện dùng làm hình ảnh, để giải nghĩa giáo lý của Chúa. Trong dụ ngôn, Chúa không có ý dạy về những kiến thức trần gian, nhưng muốn nói về những chân lý Nước Trời. Những bài học, mà Chúa muốn dạy ta qua dụ ngôn ‘Người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một’ này là:
1. “Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ”.
Vườn nho tượng trưng cho Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê là người được mời gọi vào Nước Chúa. Tiền lương là sự sống trong Nước Chúa. Hình ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải ta đi tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm một lần, mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người, thì những người được thuê vào cuối ngày, tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, tất cả nói lên lòng yêu thương của Chúa. Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
2. “Hạnh phúc Nước Trời là ân huệ Chúa ban”.
Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể được vào vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban hạnh phúc Nước Trời, thì chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được. Việc Chúa ban thưởng cho những người được thuê mướn cuối cùng, trước những người được thuê mướn đầu tiên, làm nổi bật chân lý này: Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Ân huệ phát xuất từ tình thương của Chúa, chứ không do công đức của ta. Vì thế chẳng ai có quyền đòi hỏi. Hơn nữa, ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước của ta. Hiểu biết điều này, ta sẽ không ngừng tạ ơn Chúa.
3. “Chúa yêu thương và mong ta biết yêu thương như Chúa”.
Những người thợ làm từ sáng sớm không có gì để kêu trách Chúa về tiền lương, vì đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ kêu trách, vì thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa. Đó là điều vô lý. Và Chúa đã nêu rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách, vì tôi tốt bụng? Phần mình đã được rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em kém cỏi, kém may mắn cũng được ân huệ vào phút chót. Qua điều này Chúa muốn dạy ta, hãy biết yêu thương những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn tốt đẹp, phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh, khi biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình, ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật đẹp đẽ, vì chan chứa tình người.
Qua dụ ngôn này ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời, khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa, khác hẳn lý luận của người đời. Không tìm lợi lộc cho bản thân, nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí, nhưng dùng lý lẽ của con tim, một con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người. Chúa mong con cái Chúa cũng hãy có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa. Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu được đường lối Chúa và cho con luôn đi trong đường lối của Chúa. Amen.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1) Công bình tuyệt đối có làm cho con người hạnh phúc không, hay là còn cần tới bác ái nữa?
2) Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy tôi điều gì?
3) Nếu bạn là người tàn tật, yếu ớt, thất bại, bạn mong chờ điều gì nơi xã hội: công bình hay bác ái?
----------------------------------
Chúa Giêsu theo thói quen thường dùng dữ kiện trực tiếp có sẵn trước mắt các môn đệ để xây: TN 25-A48
Chúa Giêsu theo thói quen thường dùng dữ kiện trực tiếp có sẵn trước mắt các môn đệ để xây dựng một câu chuyện. Những dữ kiện đó là mùa nho chín cần phải hái mau, là hiện tượng thất nghiệp trong một xã hội đang gặp khủng hoảng kinh tế, là số tiền lương một đồng tương xứng với mức sống tối thiểu. Bắt nguồn từ đấy, Chúa Giêsu tưởng tượng ra một dụ ngôn và qua đó Chúa muốn luồn vào một lời giáo huấn. Ngài muốn làm cho người ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu các chủ nhân trên trái đất này. Những người này có bổn phận giữ sự công bằng đối với thợ thuyền. Còn Thiên Chúa, Người không tự nhận là có một bổn phận như thế đối với loài người, vì Người đứng ở bên kia sự công bằng của loài người. Sự công bằng được giới hạn ở những gì chúng ta mắc nợ. Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số tiền công tương xứng của một ngày, không có gì hơn. Và với sức cố gắng của suốt một giờ, lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một giờ, cũng không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và lòng nhân từ không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát. Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, Người có khả năng vô biên, Người không có giới hạn. Lòng nhân từ đi xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa muốn cần tới các tay thợ để hái quả trong vườn nho của Người. Một sự công bằng tối thiểu được bảo đảm, nếu họ quyết tâm ở trên bình diện ấy, nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm nữa nếu họ có tấm lòng khá rộng lớn. Dụ ngôn này nhắc lại cho ta là phải tránh suy nghĩ về Thiên Chúa theo kích thước của loài người. Sự nhắc lại này thích đáng một cách đặc biệt ở thời đại ta, lúc mà những khối óc cho mình là Kitô hữu đang cố gắng lôi kéo Phúc âm xuống ngang hàng với tư tưởng của loài người trong lúc cần phải nâng cao nhân tính lên tới trình độ của Phúc âm.
1) Trình độ của Phúc âm là trình độ của Tình yêu, mà một trong những dấu hiệu bên ngoài là lòng nhân từ. Dụ ngôn nhấn mạnh ở một khía cạnh chính yếu của lòng nhân từ, đó là sự tự do. Chớ thì tôi không được sử dụng của cải như sở thích của tôi sao? Sự công bằng không được tự do, nhưng bị ràng buộc do bổn phận và những gì ta nợ người khác. Lòng nhân từ, trái lại, không bị ràng buộc bởi khế ước. Nó chỉ biết một điều tất yếu duy nhất, phát xuất từ chính lòng nhân từ và thúc giục phải ban phát, nó không muốn tạo ra nơi người thụ hưởng của ban phát bổn phận phải đền trả. Nó ban phát nhưng không. Điều này không có nghĩa là nó không chờ đợi một sự đáp ứng nào. Nó chờ đợi người ta nhìn nhận, nghĩa là chờ đợi ở con người một hành động ý thức và tự do là nhận biết từ đâu và do kẻ nào mà có những ân huệ mà con người đang thụ hưởng, một lòng biết ơn được diễn tả cách thông thường qua những lời cám ơn lòng tri ân và những lời ca ngợi. Lòng nhân từ của Chúa nói lên sự tự do của Chúa lúc ban phát và sự tự do của con người lúc đón nhận.
2) Trình độ Phúc âm còn làm xáo trộn cách thức suy nghĩ của loài người. Dụ ngôn làm người Biệt phái phải sửng sốt vì nó đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái Israel trong Nước Trời. Mục đích của dụ ngôn là làm cho cả ta cũng phải ngạc nhiên, bởi lẽ trong cộng đoàn Kitô giáo và ngay cả trong sự cố gắng hàng ngày của ta để sống trung thành, có lẽ ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công nghiệp, quyền lợi và nhiều đòi hỏi. Hãy để ý và khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản độc nhất của lòng nhân từ Thiên Chúa. Hãy xin Chúa ban cho ta cũng như cho anh em ngoại giáo không phải những gì tương xứng với sự công bằng, nhưng những gì mà lòng nhân từ của Người gợi ra.
----------------------------------
Ngày nay có một điều khẳng định lớn lao mà mọi người thợ, dù là nam hay nữ, nếu họ cùng: TN 25-A49
Ngày nay có một điều khẳng định lớn lao mà mọi người thợ, dù là nam hay nữ, nếu họ cùng làm một công việc như nhau, cùng một chất lượng như nhau sẽ được trả bằng nhau. Đó chỉ là sự công bằng. Ngay cái nhìn đầu tiên vào người chủ nợ trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, người đã trả cho các người thợ cùng một mức lương dù có người chỉ làm có nửa giờ. Bạn sẽ trả cho những người thợ cùng một mức lương nếu bọn họ làm cùng một thời gian.
Một cách để cắt nghĩa hành động lạ lùng của người chủ này, không hề có sự bất công trong việc trả lương cho những người thợ, từ lúc bắt đầu cho đến khi chấm dứt, họ đã đồng ý chấp nhận mức lương công nhật rồi. Không có sự bất công khi trả lương cho những người thợ làm đầu tiên vì họ nhận đúng những gì họ đã đồng ý. Và phần lớn chúng ta đều không cảm thấy thoải mái về dụ ngôn này. Chúng ta đã không thấu đáo vấn đề.
Một bước nữa để chúng ta nhận ra mình phải thích ứng thế nào với dụ ngôn này. Không có lý do nào để chúng ta nghĩ rằng, chúng ta là những người đã làm việc lâu giờ và nhiệt thành cho Chúa mà chúng ta lại được giới thiệu như những người làm giờ thứ nhất, khi họ nói: “Chúng tôi đã làm suốt cả ngày dưới cái nóng gay gắt”. Thật sự chúng ta đã làm gì cho Chúa nếu chúng ta so sánh chúng ta với những vị thánh lớn trong suốt nhiều thế kỷ vừa qua? Và như vậy chúng ta sẽ không có gì phàn nàn về dụ ngôn này nữa.
Vẫn còn có nhiều ý nghĩa hơn ẩn chứa trong dụ ngôn này, hơn những gì chúng ta có thể khiêm tốn và thận trong áp dụng cho chính mình. Ý nghĩa đó được tỏ lộ qua những lời của vị chủ vườn. Khi người thợ làm vào giờ thứ nhất phàn nàn với ông. Ông đã trả lời cách mạnh mẽ “Tôi không hề để cho anh bị thiệt hại”. Và tiếp đó ông thêm một câu hỏi khó trả lời: “Không phải tôi được tự do sử dụng tiền theo ý tôi sao?” Đối với câu hỏi này, những người công nhân sẽ không có cách trả lời nào khác ngoài việc gật đầu xác nhận. Nhưng người chủ vườn còn nói thêm một câu tỏ lộ điều cốt yếu của dụ ngôn này: “Hay là anh ghen tị vì tôi quảng đại chăng?”
Tóm lại, dụ ngôn này nói về sự quảng đại của Thiên Chúa. Thật sự là tất cả những người thợ, ngoại trừ người cuối cùng, không biểu thị cho một nhóm người nào trong dân chúng. Chúa Giêsu bao gồm những người thợ làm sớm trong dụ ngôn chẳng qua vì người muốn nhấn mạnh rằng, Thiên Chúa luôn luôn công bình nhưng quan trọng hơn là Người rất quảng đại. Thiên Chúa quảng đại với hết thảy mọi người cuối cùng vào vườn nho biểu thị cho hết thảy chúng ta.
Thiên Chúa ban phát ân sủng của Người cho mọi người. Chúng ta không cần phải cố gắng tìm hiểu tại sao một số người có vẻ như coi thường ân sủng của Thiên Chúa. Nỗ lực của chúng ta sẽ đặt vào việc nhận biết những ân sủng quảng đại của Thiên Chúa ban xuống trên chúng ta. Người đã ban cho chúng ta đời sống, gia đình, thế giới mà chúng ta đang sống và Người đã ban cho chúng ta đức tin công giáo. Tất cả những điều này đều là ân sủng, là đặc ân đến từ Thiên Chúa. Không có gì dù đơn sơ mặc lòng mà chúng ta có thể làm để đáng được hưởng phúc lành của Thiên Chúa.
Sự quảng đại của Thiên Chúa được biểu lộ trong suốt phụng vụ hy tế Thánh Thể. Người nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt và Máu của người con Thần linh của người. Chúng ta thú nhận sự bất xứng của mình: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con”, những vị thánh cao cả nhất cũng không xứng đáng với Thánh Thể, và các ngài còn không được hưởng dồi dào bí tích ấy như chúng ta. Sau khi chúng ta thú nhận sự bất xứng của mình. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến với Người để lãnh nhận Mình và Máu Người trong đức tin.
Và nhờ đức tin đó mà chúng ta không bao giờ phàn nàn với Thiên Chúa như những người thợ đã làm đầu tiên, nhưng luôn luôn biết dâng lời tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa, Đấng cao vượt hơn cả trí tưởng cuả chúng ta là sự quảng đại của người dành chúng ta.
------------------------------------------
Làm sao không ghét ông chủ là người nhạo báng những người thợ can đảm khi trả công (trước: TN 25-A50
Làm sao không ghét ông chủ là người nhạo báng những người thợ can đảm khi trả công (trước mặt họ!) cùng một số tiền với những người chỉ làm việc có một tiếng đồng hồ được? May thay các nhà chú giải giúp chúng ta nhận ra hai bài học của dụ ngôn khó hiểu nhưng đẹp đẽ này.
Trước tiên dụ ngôn này cho thấy lòng tốt của Thiên Chúa, một lòng tốt vô cùng, không tính toán và làm cho phỉ nguyện. Thiên Chúa muống trao ban Tin Mừng cho tất cả mọi người, Ngài muốn mở rộng cuộc sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người. Thí dụ cuối cùng về người thợ vào giờ thứ mười một chính là ngươì trộm lành trên thánh giá nhận được mức lương rất lớn: “Hôm nay ngươi sẽ được ở cùng ta trên thiên đàng”.
Nhưng dụ ngôn cũng nhằm vào chúng ta: “Bạn hãy coi chừng khi người ta nói rằng Thiên Chúa tốt lành đến mức đó. Nếu bạn khó hiểu thì có lẽ chính bạn là người không tốt”.
Cốt lõi của dụ ngôn này nằm ở câu hỏi của ông chủ nói với kẻ không bằng lòng: “Có phải anh ganh tỵ hay không?”. Cái nhìn của người thợ lành nghề đối với những người bạn quá may mắn thì không có thiện cảm: “Đừng đối xử với những người đến trễ như đối xử với chúng tôi”.
Một lần nữa, Chúa Giêsu muốn thay đổi những người Pharisêu. Ngài biết họ nghĩ rằng: “Chúng tôi làm việc nhiều vì Thiên Chúa”. Điều đó không sai, nhưng từ trên sự tin chắc này họ xét rằng việc Chúa Giêsu quan tâm đến những kẻ xấu xa, những người thu thuế và những người mại dâm là điều khoi6ng thể chịu đựng được. “Làm sao ngài dám đối xử với họ cũng tốt và thậm chí còn hơn cả chúng ta nữa? Một luât sĩ hay lui tới với hạng người này thì có gì để nói với chúng ta về Thiên Chuá cơ chứ? Người đó biết gì về Thiên Chúa?”
Này nhé, thật sự kẻ nào đó biết đến lòng tốt của Thiên Chúa thì biết tất cả về Ngài. Chúa Giêsu muốn mạc khải lòng tốt này và Ngài đụng chạm với những người nói với Ngài: “Không, không phải hiểu Thiên Chúa như thế đâu”. Có lẽ có điều gì đó kỳ lạ trong phản ứng này, nhưng nếu chúng ta suy nghĩ về thái độ của chúng ta thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng tin vào lòng tốt tuyệt vời và phổ quát của Thiên Chúa thì khó hơn là chúng ta nghĩ.
Không gì ngăn nổi, nhúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa yêu thương những người tốt lành nhiều nhất, ghét những người hoài nghi, và thế là chúng ta xét đoán nhân danh Ngài vị linh mục này hoặc người nọ thì độ lượng. “Quan tâm đến những người liêm chính tốt hơn là lân la trong gia đình này hoặc nơi những kẻ vô lại kia”.
Một người ly dị tái hôn nói với tôi: “Trong những cộng đoàn Kitô giáo chúng ta không có nhiều tình thương bao nhiêu”. Một phụ nữ đã lập gia đình với một linh mục không thể chịu đựng nổi: ”Nếu bạn biết được tôi bị ruồng bỏ như thế nào”. Và trong chính trị, có cái nhìn kỳ cục về những “người không suy nghĩ cho đúng đắn” biết bao!
Một số người sẽ nói hoan hô, chúng ta sẽ chấp nhận bất cứ cái gì. Hoan hô những người đến vào giờ thứ mười một và những tên trộm lành! Thiên Chúa yêu thương mọi người chứ? Thế thì chúng ta đừng mất công tuân giữ đạo đức làm cái gì nữa.
Còn phải bỏ công sức, cần phải có những người thợ vào giờ thứ nhất. Họ thật may mắn đã được Thiên Chúa nhanh chóng tuyển dụng một cách bình thản. Nhưng Ngài yêu thương những người đến cuối cùng làm sao! Họ sẽ chứng tỏ rằng việc luôn luôn ở gần Chúa đã làm cho họ nhận biết Ngài và tình yêu của Ngài. Than ôi! nếu họ cứng rắn đối với những người đến trễ và những người lầm lạc, họ cố gắng không bao giờ bỏ lễ, thì họ vẫn ở xa Thiên Chúa. Thánh Gioan nói: “Ai không yêu thương, kẻ ấy không nhận biết Thiên Chúa”.
------------------------------------------