Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 7-A Bài 51-100: Các con hãy yêu thương thù địch các con --------------------------------- Phúc Âm: Mt 5,38-48: "Các con hãy yêu thương thù địch các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe bảo: 'Mắt đền mắt, răng đền răng'. Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ. "Các con cũng đã nghe dạy rằng: 'Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch'. Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con, để các con nên con cái Cha các con ở trên trời, là Ðấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những kẻ yêu thương các con, thì còn có công gì? Nào những người thu thuế không làm như vậy ư? Và nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con mà thôi, thì các con có làm gì hơn? Nào dân ngoại không làm như vậy sao? Vậy các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Ðấng trọn lành". - Ðó là lời Chúa. -----------------------------------
Đối với nhiều người trong chúng ta, hai tiếng "yêu thương" chỉ dành cho các thành viên trong gia đình, họ hàng và một vài người bạn thân cận. Có chăng chỉ là lòng "thương hại" những người nghèo khó, cô đơn và bất hạnh, vì họ là những người không làm gì hại đến mình và gia đình mình. Chúng ta chẳng bao giờ đề cập đến việc yêu thương những đối thủ của mình. Chúng ta còn gán cho họ những cái tên đáng sợ và dạy cho con cháu sống xa tránh họ.
Chúng ta đang sống trong một thế giới bị chi phối bởi những thứ luật có thể nói là "luật rừng", thứ luật mà chỉ bảo vệ cho một số kẻ có quyền, có tiền, thứ luật không có chút nào là công bằng, cướp nhà, cướp đất của người nghèo, để chia chác, để làm giàu cho những kẻ có quyền có chức, bắt người vô tội, đánh đập đàn áp những người bênh vực cho chân lý. Một thế giới đầy dẫy những toan tính ích kỷ, vì lợi ích của mình, sẵn sàng chà đạp lên công lý, diệt trừ lẫn nhau, có người phải mất mạng, nhiều người thì "thân bại danh liệt". Anh em lỡ làm thiệt hại một thì bắt đền gấp mười. Có những người chỉ vì cái lợi trước mắt đã cố tình gây ra tai nạn, rồi nằm ăn vạ để bắt người khác phải đền oan uổng.
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta không sống theo "luật rừng", không chỉ dừng lại ở mức độ công bằng. Mà hãy sống theo giới luật Chúa truyền, đó là luật "yêu thương", một tình yêu bao là rộng lớn, một tình yêu vượt trên sự công bằng, vượt ra ngoài sự giới hạn tình gia đình, tình bằng hữu, tình đồng hương, vượt ra ngoài chủng tộc hay tôn giáo, "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em" (Mt 5, 43-44). Yêu kẻ thù, là yêu thương cả những người làm hại, khinh bỉ, nói xấu, vu khống mình, không tìm cách báo thù, không lấy ác báo ác, mà ân báo oán, luôn cầu nguyện và mong muốn cho họ gặp những điều may lành. Đavid bị vua Saul thù ghét, săn đuổi để giết, nhưng Đavid vẫn không làm hại người Thiên Chúa xức dầu phong vương khi có thể làm điều đó. Dưới cái nhìn của con người thì Đavid đã hành xử dại dột, bỏ mất một cơ hội "hiếm có" để khử trừ kẻ thù mình, nhưng Đavid đã chọn Thiên Chúa, không chọn lợi ích cho riêng mình mà làm hại đến tha nhân.
Chúa Giêsu dạy yêu thương, chính Ngài đã sống yêu thương, Ngài luôn tỏ tình yêu thương những kẻ thù nghịch với Ngài, mặc dù họ ghen ghét Ngài vô cớ, họ luôn tìm dịp để tố cáo Ngài, xuyên tạc lời Ngài giảng dạy. Đối với Giuđa là kẻ phản bội, Chúa không tố cáo đích danh trước mặt các môn đệ, Chúa còn ngồi ăn cùng bàn và rửa chân cho y nữa. Khi Giuđa dẫn quân lính đến bắt Chúa trong vườn cây dầu, Chúa vẫn ôn tồn nói với Giuđa: "Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?" (Lc 22, 48). Vì yêu thương Giuđa nên nhiều lần Chúa Giêsu nhắc nhở, cảnh tỉnh để ông ta thay đổi việc làm xấu mà được hưởng ơn cứu độ. Trên thập giá, trước khi tắt thở, Chúa vẫn dùng chút hơi tàn lực kiệt để cầu nguyện cho kẻ đóng đinh Người "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23, 34). Vì vậy, thánh Phaolô cũng nói: "Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta" (Rm 5, 8).
Thánh Tê-pha-nô đã thực hành lời Chúa dạy, noi gương Thầy Chí Thánh yêu thương và cầu nguyện cho những kẻ giết mình: "Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này. Nói thế rồi, ông an nghỉ" (Cv 7, 59-60).
Chúa Giêsu căn dặn chúng ta, để trở nên con Thiên Chúa phải "yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em" (Mt 5, 44). Để được làm con Chúa, chúng ta cũng phải đối xử giống như Thiên Chúa đã đối xử tốt với tất cả mọi người không phân biệt người tốt, kẻ xấu. "Vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính" (Mt 5, 46). Chúng ta hãy sống lời Chúa dạy, yêu thương hết mọi người, một tình yêu không có giới hạn, không chỉ yêu thương những người thân cận, những người đồng hương, những người cùng tôn giáo, những người cùng quan điểm, những người đem lại lợi ích cho mình... Mà yêu thương cả thù địch, cả những người ghen ghét, hãm hại, nói xấu, phỉ báng mình nữa, yêu thương cả những người tội lỗi. Yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù. Nếu chỉ là một tình yêu co cụm, ích kỷ hẹp hòi, thì không phải là con Thiên Chúa. Như lời Chúa Giêsu đã dạy: "Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi. Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?" (Mt 5, 46).
Chúa còn mời gọi mỗi người chúng ta hãy nên hoàn thiện "Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5, 48). Để nên hoàn thiện, chúng ta hãy loại bỏ thứ "luật rừng", thứ luật luôn diệt trừ lẫn nhau, loại bỏ những toan tính, ích kỷ, hẹp hòi, tham lam, gian dối, lừa lọc. Chúng ta hãy thực thi giới luật Chúa Giêsu đã truyền dạy là "mến Chúa và yêu người" yêu thương tất cả mọi người không phân biệt bạn hay thù, yêu thương và tha thứ cho những người làm thiệt hại đến mình, dù là vô tình hay hữu ý.
Thật khó để yêu thương kẻ thù, một khi đã ghét nhau, chỉ nhìn thấy mặt, nghe giọng nói đã thấy khó chịu rồi, chưa nói đến yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù, như trong bài thơ "yêu thương" của Lm Giuse Nguyễn Nhân Tài có viết:
"Anh em con đó con chưa thương Nói chi đến kẻ con chán chường Ghét cay, ghét đắng, ghét thậm tệ Làm sao ôm lấy để yêu thương".
Quả thật, đây là một việc vô cùng khó khăn, nhưng càng khó chúng ta càng phải cố gắng thực thi, vì đây là giới luật Chúa Giêsu đã truyền dạy, muốn trở nên con Chúa, muốn nên hoàn thiện, không còn cách nào khác ngoài cách sống "yêu thương và tha thứ". Thánh Phaolô dạy cho ta biết: "Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật" (Rm 13, 10).
Bạn tôi lái xe xuống Phố Tầu ở Mahattan kiếm được chỗ trống đậu xe dọc theo đường lộ và đi bỏ tiền vào máy tính giờ đậu xe gần bên. Chỉ chưa đầy một phút sau, trong khi bạn trở lại với biên nhận trong tay, thì đã thấy một cảnh sát công lộ đang ghi giấy phạt vì vi phạm luật đậu xe là 90 đô. Nói qua nói lại, bạn vẫn phải nhận vé phạt. Cảnh sát nói: Nếu muốn được giảm phạt phải gởi kèm cả vé phạt và biên nhận ghi giờ parking cho Sở Tài Chánh, thành phố Nữu Ước. Vé phạt và biên nhận được gởi đi, nhân viên Sở Tài Chánh trừ cho một nửa số tiền và ghi rằng muốn được tha phạt toàn bộ, bạn phải làm hẹn ra tòa. Câu truyện nghe mà ứ máu, tuy số tiền không bao nhiêu nhưng bị oan ức. Biết chia xẻ cùng ai. Ra tòa lại mất toi một ngày làm. Trả phạt cho xong, lòng không phục!
Hãy yêu kẻ thù. Chúa Giêsu mở rộng chân trời yêu thương tới hết mọi người. Lời khuyên dạy của Chúa cao siêu và tuyệt vời qúa. Chúng ta cảm nhận rằng tình yêu thương của chúng ta đối với tha nhân và kẻ thù chỉ mới là ở bước khởi đầu. Những người dưng nước lã, những khách qua đường và những người xa lạ không quen biết, chúng ta rất ít quan tâm nói chi đến yêu thương. Chúng ta chỉ dễ dàng yêu thương những người có cảm tình và yêu thương chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu lại dậy rằng: Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? (Mt. 5,46).
Trong thực tế cuộc sống, tình yêu vị tha thường rất giới hạn. Theo quan niệm chung, yêu thương cũng phải có qua có lại chứ. Chúng ta biết rằng ngay cả anh chị em hay những bà con ruột thịt trong gia đình yêu nhau đã khó, yêu thương những người hàng xóm lại khó hơn và yêu thương kẻ thù thì khó gấp bội. Yêu thương kẻ thù trên lý thuyết chung chung hay trên môi miệng thì có thể được, nhưng yêu thật trong lòng một kẻ thù thì khó lắm. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta yêu thương mọi người và yêu cả kẻ thù. Chúa đã nêu gương cho chúng ta qua chính cuộc sống và cái chết của Ngài. Ngài đã yêu hết mọi người, cả kẻ thù và đã tha thứ tất cả lỗi lầm của mọi người. Chúa đã chấp nhận chịu mọi cực hình oan trái đến chết để mang ơn cứu độ cho mọi người.
Với sức tự nhiên của con người, chúng ta khó vượt qua những yếu đuối của bản năng. Bản năng đòi sự công bằng tự nhiên: Mắt đền mắt, răng đền răng (Mt.5,38) là lẽ thường. Vì trong bản năng của con người có một động lực tiềm ẩn của sự báo thù do tội nguyên tổ. Khi chúng ta giận dữ thì cơn giông bão hận thù và ghen tương nổi lên trong lòng như một khao khát đốt cháy tâm can. Chúng ta rất khó cầm lòng để có sự bình tĩnh mà xét xử hơn thiệt. Người ta thường nói giận mất khôn là đúng lắm. Đôi khi trong cơn giận dữ lại có người còn thêm dầu vào lửa nữa, thì cơn giận càng có cơ hội bốc cháy. Những giận hờn, thù ghét chua cay và những gian dối che phủ mất lòng nhân ái. Hành động khi giận dữ dễ đưa đến những hậu qủa tác hại vô lường.
Truyện kể: Một hôm, một vị Samurai đến thu nợ của người đánh cá. Người đánh cá nói: "Tôi xin lỗi, nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi không có đồng nào để trả ngài". Vị Samurai nổi nóng, rú kiếm ra định giết người đánh cá ngay lập tức. Rất nhanh trí, người đánh cá nói: "Tôi cũng đã học võ và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận". Vị Samurai nhìn người đánh cá một lúc, sau đó từ từ hạ kiếm xuống. "Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ của ta cũng dạy như vậy. Đôi khi ta không kiểm soát được nỗi giận dữ của mình. Ta sẽ cho ngươi thêm một năm để trả nợ và lúc đó chỉ thiếu một xu thôi chắc chắn ta sẽ giết ngươi".
Vị Samurai trở về nhà khi đã khá muộn. Ông nhẹ nhàng đi vào nhà vì không muốn đánh thức vợ, nhưng ông ta rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ lạ mặt mặc quần áo Samurai đang ngủ trên giường. Nổi điên lên vì ghen và giận dữ, ông nâng kiếm định giết cả hai, nhưng đột nhiên lời của người đánh cá văng vẳng bên tai: "Đừng hành động khi đang giận dữ". Vị Samurai ngừng lại, thở sâu, sau đó cố tình gây ra tiếng động lớn. Vợ ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ mặt cũng vậy, hóa ra đó chính là mẹ ông. Ông gào lên: "Chuyện này là sao vậy. Suýt nữa con đã giết cả hai người rồi!". Vợ ông giải thích: "Vì sợ kẻ trộm lẻn vào nhà nên thiếp đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để dọa chúng".
Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị Samurai. Người đánh cá phấn khởi nói: "Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho ngài đây, có cả tiền lãi nữa". Vị Samurai trả lời: "Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi và ngươi đã trả nợ rồi".
Ai cũng thù ghét sự bất công, gian tham và độc tài. Chúng ta nhìn thấy hình ảnh những người biểu tình ở các nước Tusinia, Ai Cập, Yemen đòi quyền sống cho công lý và tự do. Sự đấu tranh, sự hận thù và ghen ghét diễn tả trên những khuôn mặt giận dữ la hét và bạo động của họ. Giận dữ vì bị đối xử bất công và bị tước đoạt mất quyền sống. Làm sao họ có thể yêu thương những kẻ làm gây oan trái và ngỗ nghịch. Sức chịu đựng của con người có giới hạn. Chúng ta cũng là những người đã từng bị đối xử cách bất công trong cuộc sống. Chúng ta hiểu được phần nào những áp bức trong cuộc sống dưới chế độ những Phát-xít và độc tài. Trong tinh thần Kitô Giáo, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nên có những cách đối xử nhân từ và rộng lượng hơn. Làm sao chúng ta có thể dung hòa để mang lời Chúa áp dụng vào cuộc sống thực tế đầy đau thương và bất công này. Chúa dạy chúng ta hãy yêu thương thù địch, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con.
Chúng ta có thể cầu nguyện cho họ nhưng làm lành hay yêu thương kẻ thù thì chúng ta khó có thể. Nhiều khi chỉ cần nhắc lại chuyện cũ không vui, sự tức giận đã trào nghẹn lên tới cổ.
Có những sự kiện nhỏ nhặt thôi nhưng chúng ta cũng khó lòng bỏ qua. Chỉ cần nhìn thấy bản mặt của họ là thấy ghét, làm sao chúng ta có thể dung hòa và tha thứ được chứ?. Chúa Giêsu nhắc nhở dịu dàng: Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính (Mt. 5,45).Khi thực hành được lời dạy của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm thấy sự yêu thương hòa giải thật tuyệt vời và đong đầy ý nghĩa. Khi thương yêu tha thứ, chúng ta không mất mát gì cả, mà còn được lợi gấp trăm. Ai cũng hiểu biết yêu là như thế đấy, nhưng đi vào thực hành tha thứ với con người cụ thể thì còn một khoảng cách cần lấp đầy. Truyện cổ Trung Hoa kể câu truyện về sự hòa giải và kết hạn: Ngày xưa ở Trung Quốc, có một người nông dân và một người thợ săn là hàng xóm của nhau. Người thợ săn nuôi một đàn chó săn rất dữ tợn và khó bảo, chúng thường nhảy qua hàng rào và rượt đuổi đàn cừu của người nông dân. Người nông dân bảo người hàng xóm của mình hãy trông nom đàn chó cẩn thận, nhưng xem ra những lời đó đều bị bỏ ngoài tai.
Một ngày nọ, đàn chó lại nhảy qua hàng rào, chúng đuổi cắn đàn cừu và làm nhiều con trong đàn bị thương nặng. Lúc này, người nông dân không thể chịu đựng thêm nữa. Anh ta bèn lên phủ để báo quan. Vị quan phủ chăm chú lắng nghe đầu đuôi câu chuyện rồi nói: "Ta có thể phạt người thợ săn và bắt anh ta xích hoặc nhốt đàn chó lại. Nhưng anh sẽ mất đi một người bạn và có thêm một kẻ thù. Anh muốn điều gì hơn: một người bạn hay một kẻ thù làm hàng xóm của mình?" Người nông dân trả lời rằng anh muốn có một người bạn hơn. Vị quan phủ nghe vậy bèn phán:"Được, vậy ta sẽ bày cho anh một cách để vừa bảo vệ an toàn cho đàn cừu, vừa giữ được một người bạn". Người nông dân bèn nghe theo lời chỉ dẫn của vị quan phủ. Vừa về đến nhà, người nông dân liền thử làm theo những gì vị quan phủ đã bày cho anh ta. Anh ta bắt ba con cừu tốt nhất của mình và đem tặng chúng cho ba cậu con trai nhỏ của người hàng xóm. Đám trẻ rất vui thích quấn quít chơi đùa bên mấy con cừu. Để bảo vệ cho đồ chơi mới của lũ trẻ, người thợ săn đã làm một cái cũi chắc chắn để nhốt đàn chó. Từ đó trở đi, đàn chó không bao giờ quấy rầy đàn cừu của người nông dân nữa. Cảm kích trước sự hào phóng của người nông dân với những đứa con của mình, người thợ săn thường mang chiến lợi phẩm mà anh ta săn được sang cho người nông dân. Người nông dân đáp lại bằng thịt cừu và phô mai mà anh ta làm ra. Chỉ trong một thời gian ngắn, hai người hàng xóm đã trở thành bạn tốt của nhau.
Chúng ta biết rằng chiến tranh bao giờ cũng có thiệt hại, đổ nát, chia cách và mất mát. Cổ nhân có dạy: "Một sự nhịn chín sự lành". Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: "Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng. Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan". Trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Chúng ta cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ. Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Eph. 4,26).
Người mẹ trẻ đã bất chấp những khuyến cáo của bác sĩ khi họ nói rằng nếu cô không chấm dứt thai kỳ, em bé trong bụng có thể chết bất cứ lúc nào để sinh con trai Alfie mạnh khỏe.
Rachel Collins, 30 tuổi, đã được bác sĩ chẩn đoán là bị thiếu ối – có nghĩa là bào thai đang phải sống trong một môi trường quá ít nước ối. Thai phụ bị thiếu ối sẽ khiến tử cung bị giảm sút lượng máu nuôi thai nhi. Nếu quá trình này kéo dài sẽ dẫn tới hậu quả là thai suy dinh dưỡng và nghiêm trọng hơn là thai chết lưu trong tử cung hoặc chết ngay lúc chuyển dạ.
Bác sĩ đã đưa ra lời khuyên Collins nên chấm dứt thai kỳ, làm biện pháp y tế để đẩy bào thai ra ngoài sớm. Nhưng người mẹ trẻ đã bất chấp những khuyến cáo của bác sĩ và cố gắng để giữ bào thai trong bụng. Kết quả thật bất ngờ khi cô đã sinh ra một cậu bé hoàn toàn khỏe mạnh.
Mặc dù bác sĩ đã khuyến cáo rằng nên chấm dứt thời kỳ mang thai nếu không em bé sẽ chết bất cứ lúc nào, Collin vẫn cương quyết giữ con trong bụng. Collins đã viết nhật ký dành cho con mỗi ngày cho đến khi Alfie chào đời với hy vọng nó có thể giúp cô vơi đi bớt nỗi đau buồn nếu chẳng may cô không giữ nổi con trai. Thật may mắn là giờ đây tất cả những trang nhật ký đã được cô lưu giữ cẩn thận chỉ chờ khi Alfie lớn lên, cô sẽ đưa cho con đọc.
Collins đến từ Tamworth, Stafffordhire, nước Anh trong một cuộc trả lời phỏng vấn đã tâm sự: “Tôi quyết định viết nhật ký cho con trai mình ngay khi tôi biết đến sự hiện diện của con trong cơ thể mình, nó giúp tôi thể hiện chúng tôi yêu con đến mức nào.” ( Ảnh chụp: Alfie được sinh sớm vào tuần thứ 30 vào ngày 21 tháng 10 năm 2013 ).
Bác sĩ cảnh báo là nếu Alfie sống sót thì con sẽ không có thận hoặc phổi hoạt động không được hiệu quả, nhưng thật kinh ngạc khi con chào đời hoàn toàn khỏe mạnh.
“Nhưng khi được bác sĩ cho biết có thể con sẽ không sống được, tôi thực sự cảm thấy tồi tệ và định không tiếp tục viết nhật ký cho con nữa. Bác sĩ đã nói rằng đứa bé này không thể sống nổi, cách tốt nhất tôi có thể làm là để nó ra đi”.
“Chúng tôi đã nghĩ ra một cái tên sẵn cho con và thực sự tôi rất suy sụp khi biết có thể con sẽ không ở bên chúng tôi. Cảm giác những ngày đó thật sự là rất tồi tệ khi tôi cảm thấy mọi thứ đang tối sầm trước mặt và tôi thấy bất lực”, Collins nhớ lại.
Nhật ký dành cho bé Alfie có tiêu đề: “Alfie: sinh ra để sẵn sàng chiến đấu – Con là điều kỳ diệu của bố mẹ”. Nó thể hiện dòng cảm xúc của bà mẹ trẻ khi hạnh phúc biết mình có con rồi lại rơi vào tuyệt vọng khi biết mình có thể mất con vĩnh viễn.
Cô và chồng Tyler O’Driscoll đã choáng váng khi đi siêu âm thai lúc 20 tuần và được bác sĩ thông bảo khả năng sống sót của con chỉ có 10%. Bác sĩ nói rằng nếu bé Alfie được sinh ra cậu bé sẽ không có thận và chức năng phổi khó có thể hoạt động bình thường. Nhưng bố mẹ cậu bé vẫn nuôi hy vọng và quyết định sẽ giữ con lại bằng mọi giá mặc dù như bác sĩ đã cảnh báo nguy cơ sảy thai là rất cao.
Collins nói: “Tôi cảm thấy con vẫn đang sống, nó di chuyển vậy thì tôi không thể để con rời bỏ mình được”. Trước khi mang thai bé Alfie, Collin đã có thai ngoài tử cungvà việc mang thai đối với cô khó khăn hơn rất nhiều. Ở trường hợp này, cô lại đang gặp phải trường hợp thiếu ối khi mang thai nên rất khó có thể giữ được em bé ở lại.
Dù rất gian nan nhưng hai vợ chồng Collins vẫn quyết định giữ em bé tới cùng và trong suốt giai đoạn thai nghén những ngày cô ở bệnh viện còn nhiều hơn ở nhà. Bé Alfie được sinh ra sớm ở tuần thứ 30 do bác sĩ chỉ định phải sinh mổ khẩn cấp vào ngày 21 tháng 10 năm 2013 và thật bất ngờ là con hoàn toàn khỏe mạnh. Con đúng là một anh hùng nhỏ đối với mọi người !
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường phân chia người khác thành từng loại: thân thiết, thù địch và dửng dưng, để rồi từ đó chúng ta có những thái độ cư xử khác biệt. Với người thân thiết, chúng ta yêu thương. Với kẻ thù địch chúng ta ghét bỏ và với kẻ dửng dưng, chúng ta thờ ơ.
Thế nhưng, bầu khí phụng vụ hôm nay đã làm đảo lộn hay nói đúng hơn đã phá đổ cái trật tự, cái lẽ thường tình này. Trong bài đọc thứ I, Maisen đã khuyên chúng ta: Đừng giữ lòng thù ghét anh em, đừng tìm cách báo oán và cũng đừng để lòng những lời nhiếc mắng của kẻ khác. Còn thánh Phaolô qua bài đọc II, thì đòi buộc chúng ta không được khinh rẻ người khác.
Và nhất là Chúa Giêsu Ngài muốn chúng ta phải có một tình thương tuyệt đối trong cách cư xử giữa người với người. Đúng thế, trong đoạn Tin Mừng của Chúa nhật tuần trước, chúng ta thấy đối với Chúa Giêsu việc làm hoà với nhau còn cấp bách hơn cả việc dâng của lễ cho Chúa: Khi các ngươi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất bình thì hãy để của lễ đó, trở về làm hoà với người anh em trước đã rồi mới đến mà dâng của lễ sau. Còn trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Người đòi hỏi chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù, phải thoả mãn cả những đòi hỏi phi lý nhất của kẻ khác: Nếu các con bị vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện các con để cướp lấy áo trong thì hãy cho nó lấy cả áo ngoài nữa. Nếu ai bắt các con đi một dặm thì hãy đi với nó hai dặm. Điều Chúa đòi hỏi qua những trường hợp cụ thể được nêu lên ở trên, đó là phải đi cho tới tận cùng của tình yêu thương, hãy hết lòng với người khác dù người đó chính là kẻ thù của mình. Những đòi hỏi đó xem ra chẳng thực tế chút nào, nhưng lại là những đòi hỏi chính yếu của thời cứu độ, của thời mà trong đó tất cả chúng ta đều là con cái Thiên Chúa, như lời Người đã phán: Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con, như vậy các con mới được trở nên con cái của Cha các con, Đấng ngự trên trời vì Ngài cho mặt trời mọc lên, soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mua xuống trên kẻ dữ cũng như người lành.
Thánh Gioan đã định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu. Một khi đã là con cái Thiên Chúa, thì cuộc đời chúng ta phải là một phản ảnh trung thành cho tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu không ngăn cách, không phân biệt, không hạn hẹp, phải yêu thương kể cả kẻ thù và những kẻ ghét bỏ chúng ta. Bởi vì biên giới của yêu thương đó là yêu thương không biên giới.
Một vị vua của Trung Quốc nói với triều đình của mình rằng: “Khi nào ta chinh phục đất nước ấy, ta sẽ tiêu diệt hết kẻ thù”.
Chẳng bao lâu sau, ông đã toàn thắng trở về. Đình thần của ông đều chờ đợi một cuộc thảm sát đẫm máu. Họ mong cho kẻ thù phải bị phanh thây không còn một tên sống sót. Nhưng họ lại vô cùng sửng sốt khi thấy kẻ thù ngồi ăn uống với nhà vua, cười cười nói nói vui vẻ như kẻ thắng trận. Họ liền tâu nhà vua:
-Muôn tâu Thánh Thượng, trước khi xuất quân lâm trận, ngài đã tuyên bố là sẽ tiêu diệt kẻ thù cơ mà! Sao bây giờ…?
Hoàng đế ôn tồn cười nói: “Không phải ta đã tiêu diệt hết kẻ thù rồi sao? Những người ngồi đây không phải là bạn hữu của chúng ta sao?”
***
Sự trả thù theo Kinh Thánh, nó như một con dã thú nằm phục trong bóng đêm ở cửa nhà, sẵn sàng nhảy ra nhe răng và vươn vuốt (Kn 4,7). Con dã thú ấy ở đâu đó trong lòng con người.
Abraham Lincoln, vị Tổng thống vĩ đại nhất của Hoa Kỳ đã phát biểu một câu danh tiếng: “Biến thù thành bạn, phải chăng đã là tiêu diệt được kẻ thù rồi?” Đó chính là sức mạnh của tình yêu cứu độ.
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy: “Hãy yêu kẻ thù”. Từ khi con người xuất hiện trên trái đất này, chưa có một tôn giáo nào kêu gọi “Hãy tha thứ cho kẻ thù”, chưa có một vị sáng lập đạo giáo nào đã dạy: “Hãy yêu kẻ thù”. Duy nhất, mình Đức Giêsu, Người không chỉ dạy “Hãy yêu kẻ thù” mà còn khuyên: “Hãy cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em” (Mt 6,44). Người không chỉ dạy phải tha thứ cho kẻ thù, mà Người còn làm gương trước cho mọi người. Lời cao đẹp nhất tren môi miệng của Đức Giêsu, chính là lời thốt ra khi Người đang quằn quại trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ”. Và nghĩa cử hào hiệp nhất trong cuộc đời của Đấng Cứu Thế, chính là việc Người biện hộ cho những kẻ hành hạ mình: “Vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Nhưng làm sao chúng ta có thể yêu kẻ thù? Trước tiên, hãy học cho biết tha thứ. Không biết tha thứ thì không thể yêu thương. Khi người cha nhân hậu đã sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho đứa con hoang đàng, ông mới có thể ôm hôn người con vào lòng, đeo nhẫn, xỏ giầy, mặc áo mới, giết bê béo ăn mừng. Tha thứ là tháo gỡ rào cản, phá đổ bức tường ngăn cách. Tha thứ là cất đi gánh nặng, là xóa bỏ món nợ. Tha thứ là hòa giải, là gặp lại nhau, là thiết lập lại quan hệ mới. Tha thứ là chất xúc tác rất cần thiết cho một khởi đầu mới. Tha thứ là mở toang cánh cửa lòng mình, cho nắng ấm tình yêu tràn ngập tâm hồn. Như thế, mức độ tha thứ chính là thước đo mức độ yêu thương kẻ thù.
Thứ đến, hãy biết rằng kẻ thù không hoàn toàn xấu. Nơi người xấu nhất vẫn có cái tốt và nơi người tốt nhất vẫn có cái chưa thật tốt. Chính thánh Phaolô cũng phải thú nhận: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Trong biển đời mênh mông, mỗi người đều không ngừng thay đổi cả hướng tốt lẫn hướng xấu, chúng ta chớ cho rằng mình đã hiểu ai đó tới chân tơ kẽ tóc. Nhìn kỹ vào kẻ thù, chúng ta sẽ khám phá ra rằng, điều xấu họ làm thường xuất phát từ sợ hãi, thiên kiến, hiểu lầm hay ngu dốt. Nhưng dù sao, họ vẫn mang đậm hình ảnh của Thiên Chúa. Cũng chính vì những yếu đuối, bất toàn và khiếm khuyết ấy họ mới cần được Thiên Chúa cứu chuộc và mong chờ chúng ta yêu thương.
Cuối cùng, chúng ta đừng nuôi hờn giữ oán, đừng tìm cơ hội trả đũa, làm nhục kẻ thù hay thẳng tay tiêu diệt họ. Trái lại, mọi lời nói, cử chỉ, hành vi của chúng ta nên tỏ ra thân thiện, dễ gần gũi, để gia tăng sự hiểu biết và cảm thông với kẻ thù, để khai mở thiện chí hoán cải trong họ. Tấm lòng bao dung bao giờ cũng gói trọn con tim vô cùng độ lượng. Chính tấm lòng bao dung, quảng đại như thế sẽ dẫn chúng ta đến với tình yêu chân thành, một tình yêu sâu lắng hơn cảm xúc, một tình yêu tràn đầy, không chờ đợi điều gì cho mình, một tình yêu được tác động từ Thiên Chúa.
Chúng ta yêu kẻ thù vì chính Thiên Chúa đã yêu họ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn ghê tởm điều ác họ làm. Yêu như thế là chúng ta đang dấn thân vào tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu cứu chuộc. Chỉ với tình yêu đó, chúng ta mới “trở nên hoàn thiện như Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,48). Hoa nhân đức cứ tỏa hương mà không cần có người khen ngợi. Lòng bao dung cứ rộng mở cho dù chẳng ai hay biết.
***
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết rằng: Lấy oán báo oán sẽ làm tăng thêm hận thù, chỉ có tình yêu tha thứ mới có khả năng biến thù thành bạn. Hơn nữa, hận thù còn làm tổn thương tinh thần và hủy diệt nhân cách.
Xin cho chúng con biết quảng đại đáp lại lời mời gọi làm công việc khó khăn này, là “Hãy yêu kẻ thù”.
Nếu chúng con chưa bao dung được cho kẻ thù, thì xin cho chúng con nghe được lời bao dung của Chúa: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ”. Amen.
Có câu chuyện kể rằng: Nhà truyền giáo trên hòn đảo nọ rất ngạc nhiên khi thấy một phụ nữ mang nắm cát ướt bước vào lều của ông, và nói:
- Ông biết đây là gì không? - Nó giống như cát. - Ông có biết vì sao tôi mang nó vào đây không? - Tôi không hiểu ý bà.
- Đây là tội lỗi của tôi, tội tôi không thể đếm được như cát biển này. Làm thế nào tôi biết chắc được tha thứ tất cả?
- Bà hãy đem cát ra biển và chất thành đụn cát, rồi ngồi nhìn xem sóng biển ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. - Thưa bà, đó là cách Thiên Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài dành cho tội nhân. Lòng nhân từ, thương xót và tha thứ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật ăn năn để hưởng hồng ân của Thiên Chúa. Đó chính là lòng nhân từ của Thiên Chúa cho những ai có lòng ăn năn và tin cậy Ngài.
Thiên Chúa là Đấng rất mực yêu thương con người. Tình yêu đã thôi thúc Ngài thể hiện qua muôn ngàn cách dành cho con người. Ngài tạo dựng con người giống hình ành Ngài. Con người phản bội. Ngài vẫn thứ tha và hứa ban Đấng Cứu Thế đến để chuộc lỗi lầm con người. Con người sa đi ngã lại trong lầm lỡ. Ngài vẫn chậm bất bình và rất mực khoan nhân. Con người thì bất trung. Ngài thì trung thành mãi với tình yêu dành cho con người. Ngài có giận thì giận trong giây lát nhưng yêu thương thì vô bờ.
Tình yêu và lòng nhân từ của Thiên Chúa được thể hiện cụ thể qua Đức Giê-su. Đấng hiện tại hóa tình yêu ấy nơi dương gian. Một tình yêu nhân từ nhẫn nại trước sự dữ bủa vây. Chính Ngài không chỉ nói: “Khi người ta vả má này thì đưa má kia cho người ta tát” mà Ngài đã dám sống điều đó trong cuộc tử nạn. Chính Ngài đã để quân dữ lột áo ngoài của Ngài để chia nhau với thái độ bình thản đầy nhân từ. Chính Ngài vẫn một lòng nhân từ cầu nguyện cho kẻ làm hại mình. Ngài còn chúc phúc cho mọi người như chính Chúa Cha đã làm khi cho mưa thuận gió hòa trên kẻ lành người dữ.
Có một em học sinh trong lớp giáo lý đã hãnh diện nói về niềm tin mình rằng: “Khi con đặt Chúa Giê-su làm trọng tâm cuộc sống mình, thì con mới thấy ngày hôm nay vui hơn, con tử tế với mọi người hơn, và dễ tha thứ với mọi người”.
Quả thực, theo lẽ thường con người thường “ăn miếng trả miếng”, nhưng nếu mặc lấy tâm tình của Đức Giê-su, con người sẽ sống tha thứ và nhân từ với nhau. Nếu biết đặt Chúa Giê-su làm trung tâm con người sẽ thôi chiến tranh hận thù nhưng luôn biết vì Chúa mà làm hòa với nhau, vì Chúa mà đón nhận nhau trong yêu thương tha thứ. Đó cũng là lời mời gọi mà Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà sống cao thượng hơn lẽ thường. Lẽ thường chỉ yêu thương kẻ yêu mình nhưng còn là ky-tô hữu thì phải yêu thương cả kẻ thù mình nữa. Lẽ thường chỉ chào hỏi anh em mình thôi thì chưa đủ mà còn phải thân thiện với tất cả mọi người.
Ước gì chúng ta biết hoàn thiện như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Hoàn thiện trong cách yêu mến tha nhân như Chúa đã yêu thương chúng ta. Hoàn thiện trong cách sống phục vụ như Chúa đã quan phòng gìn giữ chúng ta. Amen.
Qua Lời Chúa trong phụng vụ Thánh lễ hôm nay, Thánh Matthêô cho chúng ta một thực đơn thật là khó nuốt. Hiểu Lời Chúa đã là một việc khó, sống Lời Chúa lại còn khó hơn, huống hồ chia sẻ Lời chúa như một kinh nghiệm sống thì quả thật muôn vàn khó.
Quả vậy, đối với nhiều người không biết hoặc không quen với tinh thần Ki tô giáo thì đoạn tin mừng này gây ra nhiều thắc mắc, đố kỵ. Ngay cả chúng ta, những người đã thấm nhuần giáo lý của Đạo Chúa, vẫn thấy ngờ ngợ nếu không nói là nghịch lý.
Thử đọc đoạn tin mừng này trong bối cảnh thời Chúa Giêsu rồi hội ra những điều Chúa dạy.
Đoạn tin mừng hôm nay nằm trong phần Hiến chương Nước trời. Mt (5-7). Chúa Giê su khởi sự bằng cách trích dẫn luật lể cổ xưa, luật Hammurabi.
Năm 1901, một đoàn nghiên cứu khảo cổ người Pháp đã tìm được bộ luật được khắc trên một phiến đá ở thành phố Suse thuộc Iran ngày nay. Đó là Bộ luật Hammurabi của Nhà nước Lưỡng Hà cổ đại - bộ luật thành văn cổ xưa của nhân loại, một thành tựu có giá trị của lịch sử văn minh cổ đại. (Thực ra có rất nhiều bộ luật đương thời: bộ luật của Ur-Nammu, vua xứ Ur (khoảng 2050 TCN), bộ luật Eshnunna (khoảng 1930 TCN)… đều có các khoản tương tự như nhau).
Bộ luật ra đời trong khoảng thời gian từ năm 1792 đến 1750 trước công nguyên và mang tên Hammurabi, vị vua đã ban hành bộ luật, vua Babilon thứ sáu. Bộ luật mang tính cách phân biệt cách đối xử giữa quý phái và công nhân. Điều 196 -200 trong bộ luật ấy có ghi: Nếu một người gây cho một người quý phái mất con mắt thì phải mất con mắt; nếu làm thương tật thì phải chịu thương tật; nếu làm gãy răng thì phải chịu rụng răng, v…v…nói chung ai gây thiệt hại gì thì chịu thiệt hại tương đương.
Có lẽ luật Cựu ước cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều với luật Hammurabi, vì như chúng ta thấy những khoản tương đương được đề cập đến ít nhất là 3 lần:
(Xh 21, 23-25) Nếu ai gây thiệt hại thì mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tai đền tai, chân đền chân, …
(Lv 24, 19-20) Khi một người làm thương tích cho kẻ lân cận, thì phải làm thương tích cho nó như nó đã làm: gãy đền gãy; mắt đền mắt; răng đền răng…
Thoạt nghe, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng, vì nó man tính chất hơi man rợ, nhưng nhìn tổng thể bối cảnh thời đó, nó chỉ có tính chất ngăn ngừa, giới hạn sự trả thù, và có thể nói, đó là khởi đầu của sự thương xót. Thời đó, hầu như cơ chế xã hội sống theo cái khung của từng bộ lạc. Vì thời tiết khắc khe, điều kiện kinh tế và cạnh tranh sinh tồn, họ luôn hặm hực ý muốn trả thù. Giả như không có luật này, thì khi một người ở bộ lạc này làm hại đến người bộ lạc kia, tức tốc họ kéo cả bộ lạc đi tiêu diệt toàn thể bộ lạc của người gây hấn. Luật chỉ cho phép một đền một mà thôi. Hơn nữa, luật này không cho phép cá nhân tự do báo thù mà phải có quan án ấn định hình phạt và khoản phạt. ( xh 19,18). Như vậy, xét trong bối cảnh lịch sử của nó, thì đây không phải là man rợ mà là nhân từ.
Tuy rằng có chịu ảnh hưởng nhưng chúng ta đừng quên nhận ra rằng luật Cựu ước tiến xa hơn rất nhiếu so với những bộ luật thời đó. Qua luật cựu ước đã thể hiện lòng thương xót: Chớ toan báo thù (Lv 19, 18). Rõ ràng là luật cựu ước đã có dấu chỉ của lòng thương xót.
Trở lại với bài tin mừng. Ở phần đầu, Chúa Giê su dạy: Còn Thầy (chỉ có Chúa) Thầy bảo anh em: Đừng chống kẻ ác. NGƯỢC LẠI ! Ai vả má phải thì đưa luôn má trái. Ý nghĩa thật phong phú chứ không phải hiểu theo nghĩa đen. Do thái có những phong tục rất lạ: tát ai bằng lưng bàn tay thì kẻ bị tát chịu sỉ nhục gấp hai lần. Như thế, giả như có người đứng đối diện với người kia, muốn tát má trái đang khi thuận tay phải, thì chỉ còn cách tát trái bằng lưng bàn tay mà thôi. Phải chăng điều Chúa muốn dạy là: Là người Ki tô hữu dẫu có bị hạ nhục cho dù gấp mấy thì cũng không được trả thù. Đừng phản kháng nhất là trả oán. Dù có ai muốn trút lên đầu sự nhục mạ thậm tệ nhất thì cũng không được báo thù.
Nếu ai lột áo trong hãy đưa luôn áo ngoài. Ở đây cũng vậy. Áo trong là áo dài thường là bằng vải bông để mặc ở trong. Người Do thái có nhiều áo trong để thay đổi. Áo ngoài là loại áo lớn, vải dày, có thể dùng làm mền vào ban đêm (giống như áo măng tô, có chiều dài quá gối mà những thế kỷ trước chỉ có quân đội và các nhà quý phái mới có). Luật Do thái cho phép cầm cố áo trong chứ không phải áo ngoài. Sách Xuất hành có ghi: Nếu cầm áo ngoài của người ta để làm tin, thì phải trả cho nó trước khi mặt trời lặn, vì đó là đồ che thân để ngủ. Nếu nó kêu đến Ta, thì Ta sẽ nghe, vì Ta là Đấng hay thương xót. (Xh 22 26, 27). Do đó, điều Chúa dạy ở đây là: Ki tô hữu là người không bao giờ tranh biện về quyền hạn và pháp lý. Hiểu theo nghĩa tích cực là không nghĩ đến quyền lợi mà chỉ nghĩ đến phục vụ; không nghĩ đến đặc quyền mà chỉ nghĩ đến trách nhiệm của mình mà thôi.
Tiếp theo, Nếu bắt đi một dặm, thì hãy đi hai dặm. Từ “bắt” có một ý nghĩa lịch sử. Người xưa có hệ thống bưu điện khá hay. Đường đưa thư được chia làm nhiều chặng, mỗi chặng dài một ngày đường. Mỗi trạm đều có sẵn lương thực cho người đưa thư, lại còn có nước, có cỏ cho ngựa của người đua thư nữa. Nếu chẳng may một trạm có thiếu món gì, thì bất cứ ai cũng phải cung cấp cho đủ, thậm chí chính mình phải mang thư đi một dặm đường. Nó còn có nghĩa bị trưng dụng nữa. Dân của một xứ bị bị trị buộc phải mang hành lý, cung cấp thức ăn, chỗ ở cho kẻ đến chiếm đóng. Lắm lúc phải chịu trưng thu một cách tàn bạo không chút xót thương. Phải chăng điều Chúa muốn dạy là: Đừng nghĩ mình tự do để muốn làm gì tuỳ ý mà hãy nghĩ bổn phận và niềm vui được phục vụ kẻ khác?. Một việc đôi khi là gánh nặng, phi lý nhưng đem lại chút lợi ích cho người ta, đừng làm như cực chẳng đã, nhưng hãy làm một cách vui vẻ.
Phần thứ hai của bài Tin mừng Chúa cũng trưng dẫn luật Lêvi (Lv 19…) Luật của lòng thương xót. Chúa Giêsu dạy chúng ta yêu thương cả kẻ thù, là vì ngay cả những người đó và chính chúng ta đều có cùng một Cha chung trên trời. Qủa thực, suy gẫm kỹ càng sẽ thấy điều Chúa dạy tuy rất phi thường, nhưng cũng rất thực tế. Ngài lấy hình ảnh gia đình mà người cha tràn đầy tình thương, như vị trọng tài vô cùng công mình và nhân từ với mọi con cái theo hoàn cảnh của chúng. Vượt xa Khổng tử với “ Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân “, với Chúa phải tích cực hơn nữa “ Hãy đi và làm cho người ta điều mình muốn người ta làm cho mình”. Sở dĩ như thế là vì mọi người đều có MỘT CHA CHUNG.
Như vậy, những lời giáo huấn ở phần đầu bài Tin mừng thật không khó hiểu nếu đặt trong khung cảnh Đông phương thời đó.
Và Chúa Giê su đã thiết định một qui luật quan trong cho người Kitô hữu đó là: - Không bao giờ thù hận để rồi tìm cách báo thù, cho dù sỉ nhục đó có tính toán và độc ác đến đâu – Không bao giờ bám vào một thứ quyền nào để rồi cứ nghĩ là mình đương nhiên được hưởng – Không bao giờ nghĩ đến mình tự do hoàn toàn để rồi làm bất cứ điều gì tuỳ ý.
Tóm lại: “ Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi là Đáng Thánh. ( Lv 19, 2) Bài đọc I.
Anh em hãy nên hoàn thiện như cha trên trời là đấng hoàn thiện. (Mt 5, 48).
“Hãy nên hoàn thiện” dễ thương làm sao, chứ không phải “ phải” với lời ngăm đe khủng khiếp!
Trước giới luật của Chúa, ai trong chúng ta đã không kinh nghiệm một cách bi đát: chúng ta đã lắm lần, nếu không nói là hoàn toàn thất bại.
Hơn ai hết, Thánh Phao lô cũng đã trải nghiệm những thất bại ấy, và phải xác nhận “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống mà là (ƠN) Chúa sống trong tôi” nên mới khuyên được mọi người “Anh em đừng tự lừa dối mình…” “Đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào”…(Cr 3, 18,21).
Phúc thay! Thánh Gioan đã xác tín một cách chắc nịch: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để ai tin vào Người Con thì được cứu độ. Vì Thiên Chúa không sai Con đến thế gian để luận phạt, nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được cứu. (Ga 3, 16).
Rốt cuộc, trong tôi, tất cả là …dối!. TRONG CHÚA, TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN!
Vậy thì, xin cho môi con luôn biết ca khen ân tình của Chúa. Xin cho mắt con luôn biết ngắm xem kỳ công của Ngài. Xin cho tai con luôn biết lắng nghe những điều Chúa dạy. Và mỗi chiều về xin Chúa nhắc con luôn cảm ơn Ngài.
Vậy thì, Xin cho con một đức tin vững bền, để con luôn trung kiên trong hành trình theo Chúa. Vì có những lúc con gặp nhiều khó khăn, thấy trước mắt ê chề những bất công, con làm sao tránh cho khỏi bâng khuâng. Xin ƠN của Chúa giúp con luôn xác tín: Chúa chính là sức mạnh đời con, Chúa chính là thành luỹ kiên cường, nơi nương tựa ngàn đời kiên vững. Chúa ơi, khấn xin Ngài ấp ủ đời con, giới luật Ngài xin giúp giữ tròn, bước dương trần cùng đi với con.
Bởi lẽ, có những lúc con thấy Chúa như người xa lạ. Có những khi con thấy Ngài thật gần gũi với con. Có những lúc con thấy Chúa rắc gieo an bình và đầy thương xót, thì có những lúc con thấy Chúa rắc gieo ê chề trên đường con đi.
Cho nên, xin cho con qua trọn ngày dài, luôn nếm tình Cha yêu thương con, để rồi trên dương gian sóng xô dập dồn, thuyền dù đã xa lối về, thì xin cho con được tin, yêu Chúa nhiều, và xác tín Chúa đỡ nâng con bước tới quê hương nhà, dù thuyền xa lối con chẳng còn lo gì.
Người ta chết rồi mới được làm thánh, chưa chết mà sao làm thánh? Làm gì có chuyện “ngược đời” như thế chứ? Đúng vậy, nhưng NGHỊCH mà lại hoàn toàn THUẬN đấy. Tại sao? Chết rồi mà làm thánh là “chuyện nhỏ”, sống mà làm thánh mới là “chuyện lớn”. Thật chứ không đùa. Vì Chúa Giêsu đã truyền lệnh: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).
Nhân vô thập toàn, ngay cả những thánh nhân cũng tìm về Nhà Cha qua con đường tội lỗi và thứ tha. Vả lại, làm thánh hay không là dựa vào cuộc sống đời thường, sống sao chết vậy. Như người ta vẫn nói: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Cái “tiếng” ở đây là “tiếng tốt”. Phàm nhân đầy “vết chàm”, phàm nhân mà hoàn thiện thì không phải là LÀM THÁNH SỐNG sao? Thật vậy, Chúa Giêsu không chỉ bảo chúng ta phải làm thánh sau khi chết mà phải làm thánh ngay ở đời này vậy.
Thời đại của chúng ta cũng đã có những vị thánh sống như Mẹ Teresa Calcutta (1910-1997), ĐGH Gioan Phaolô II (1920-2005). Và hiện nay, thế giới đang chú ý tới ĐGH Phanxicô với phong cách “ngược đời” của một thánh nhân giữa đời thường, dám nói thẳng nói thật vì công lý và chân lý. Tất nhiên, chúng ta cũng phải sống như thế – nếu thực sự muốn làm thánh!
Muốn nên thánh thì phải yêu Chúa, mức độ yêu Chúa được chứng minh qua việc yêu tha nhân – yêu người tức là yêu Chúa. Ai yêu Chúa thì phải từ bỏ mình, ngược lại, ai yêu mình thì mặc nhiên từ bỏ Chúa. Rất lô-gích. Phàm nhân chẳng là gì, có là gì thì chỉ là tội nhân khốn nạn, vì con tim của chúng ta là “tro bụi”, hy vọng của chúng ta “hèn hơn đất”, và cuộc đời của chúng ta “tệ hơn bùn” (Kn 15:10). Thế nên phải cố gắng “làm thánh sống”, cố gắng không ngừng, cố gắng liên lỉ.
Tuy nhiên, nếu chỉ nên thánh một mình thì là ích kỷ – mà ích kỷ thì không thể làm thánh, nghĩa là chúng ta phải không ngừng nỗ lực nên thánh mà còn phải giúp người khác cùng nên thánh. Kinh Koran (Kinh thánh của Hồi giáo) xác định: “Người hoàn thiện nhất là người đã giúp ích cho nhân loại nhiều nhất”. Tất nhiên ai cũng có thể nên thánh và phải làm thánh, dù chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn, trừ phi chúng ta không muốn. Đã có những tội nhân “lớn” nhưng đã làm thánh: Vua Đa-vít, Tướng cướp Dismas (tên gian phi tốt bụng, Lc 23:39-43), binh sĩ Longinô (người cầm giáo đâm vào ngực Chúa Giêsu trên Đồi Sọ), Giáo hoàng tiên khởi Phêrô, Tông đồ Phaolô, Người Phụ nữ Tội lỗi (Lc 7:36-50),... và một người ít “bị” để ý là vua Salômôn, dù là người khôn ngoan nhất nhưng cũng đã cãi lệnh Chúa và đã từng sống trong tội lỗi (1 V 11:1-13). Vì yếu đuối và tội lỗi ngập đầu nên mới phải cố gắng hoàn lương để làm thánh, và đừng bao giờ mất niềm tin vào Lòng Chúa Thương Xót. Hoàn toàn hợp lý!
Thế nhưng đôi khi chúng ta vẫn nặng hình thức mà chưa “lột xác” được. Giảng hay, nói giỏi, viết tốt,… khiến say mê lòng người, nhưng chính mình lại vẫn giậm chân tại chỗ, chẳng thay đổi được gì. Vậy thì chỉ là “lẻo mép” hoặc “lẻo bút”, hoàn toàn vô ích! Loài rắn và loài cua phải lột xác để phát triển, nếu chúng ta không “lột xác” thì không thể phát triển về tâm linh được, mà “lột xác” thì phải đau đớn, phải dứt khoát. Càng “lột xác” nhiều thì càng hoàn thiện, càng nên thánh.
Từ ngàn xưa, Đức Chúa đã phán với ông Mô-sê: “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19:1-2). Đó là lẽ tất nhiên. Thiên Chúa là Đấng thánh thì con cái Ngài cũng phải thánh, không thể khác được.
Ngài nói rất dứt khoát: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa” (Lv 19:17-18). Thấy điều trái tai gai mắt mà làm ngơ thì có thể là bao che hoặc nhát đảm, nhưng dám lên tiếng cảnh báo thì mới là can đảm bảo vệ công lý và yêu mến chân lý. Thật vậy, người bạn thân thiết là người dám phê phán chúng ta cả trăm lần chỉ vì muốn tốt cho chúng ta, ngoài ra không là “bạn” mà chỉ là “bè” mà thôi.
Thiên Chúa chí thánh, thật hạnh phúc khi chúng ta đang biết tôn thờ một Đấng Thánh toàn năng và hết mực yêu thương. Vì thế, chúng ta phải đêm ngày thầm nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103:1-2). Phải hành động như vậy với lý do rất minh nhiên: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:3-4).
Ngài không chỉ là Đấng chí tôn cao cả mà còn giàu lòng thương xót: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” (Tv 103:8-10, 12-13). Thật vậy, Người không đành bẻ gãy cây lau bị giập, và cũng chẳng nỡ tắt đi tim đèn leo lét (x. Mt 12:20).
Chúng ta phải làm thánh sống vì một lý do khác nữa, như Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1 Cr 3:16-17). Thiên Chúa là Đấng Thánh thì không thể ở nơi ô uế tội lỗi. Chúng ta xấu xa, hèn hạ, khốn nạn và bất xứng như thế, vậy mà Thiên Chúa lại cho chúng ta trở thành Đền Thờ của Ngài. Thật không thể nào tưởng tượng nổi, thế nên chúng ta phải tạ ơn Ngài bằng cách cố gắng làm thánh sống. Hoàn toàn hợp lý!
Thánh Phaolô cũng “ngược đời” khi nhắc nhở chúng ta: “Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. Lại có lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài” (1 Cr 3:18-20). Ít có ai dám “khác người”, vì như vậy sẽ bị người ta cho là “chạm điện”, bị ghen ghét, bị xa lánh, bị trù dập,… thế nhưng như vậy mới là “khôn ngoan thật” theo phong cách của Thiên Chúa. Đúng là “căng” thật đấy!
Cuối cùng, Thánh Phaolô kết luận rất cụ thể: “Vậy đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào. Vì tất cả đều thuộc về anh em; dù là Phaolô, hay Apôlô, hay Kê-pha, dù cả thế gian này, sự sống, sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa” (1 Cr 3:21-23).
Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Nhưng cuộc sống cần có luật như dây cương và hàm thiếc để điều khiển ngựa kẻo nó sinh chứng. Luật cũng đa dạng, có luật hợp lòng dân hoặc không hợp lòng dân. Luật hợp lòng dân là luật chứa sự nhân đạo, nhằm hoàn thiện con người – như Luật Tân Ước, nổi bật là chữ NÊN; còn luật không hợp lòng dân là luật chỉ nhắm tới những khung hình phạt – như Luật Cựu Ước, chú trọng chữ CẤM. Luật Cựu Ước xem chừng thoải mái, dễ thực hiện hơn, và ai cũng thích: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Có lý lắm, vì người ta đánh mình thì mình phải “chơi tới bến” chứ không thì người ta chê mình “dở ẹc” hoặc “lép vế”. Thế thì máu tự ái bốc tới chỏm đầu thôi, chịu gì nổi!
Thế nhưng Đại sư Giêsu dạy: “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5:39-41). Chu choa, “căng” quá đi! Chúa Giêsu kỳ thí mồ, dạy những điều chi mà khó mần quá chừng. Thế nhưng đó lại là chuyện thật chứ không là chuyện đùa!
Luật Cựu Ước dạy: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù”. Chỉ là “chuyện nhỏ”, các loài động vật khác cũng vẫn thực hiện như vậy. Vì thế, Chúa Giêsu dạy những điều mà chúng ta thấy rất khó nghe: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5:44). Mèn ơi! Gay go quá đi!
Thế nhưng phải vậy thôi, vì Chúa Giêsu giải thích: “Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?” (Mt 5:45-48). Những bí quyết Chúa Giêsu đưa ra thật thú vị, rất “khác người”, rất “ngược đời”, nhưng mà lại rất thú vị và chí lý. Quả thật, có dám “khác người” thì mới khả dĩ nên thánh, có thể làm thánh sống ngay trên thế gian này!
Nhận biết mình chỉ là tội nhân, chúng ta sẽ thấy thích lời truyền dạy của Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Khi định hướng rạch ròi như vậy, chúng ta sẽ thanh thản làm mọi thứ chỉ vì Chúa chứ không vì bất cứ lý do nào khác, như vậy chúng ta mới có thể thẳng thắn như Thánh Phaolô đã xác định: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2 Cr 5:14).
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa vì chúng con nói nhiều mà chẳng làm bao nhiêu. Xin Chúa giúp chúng con biết “khó” với chính mình để biến đổi tích cực từng ngày theo định hướng của Ngài, để nên thánh trong từng nhịp thở, để nên thánh ngay trên thế gian này. Chính Ngài là Đấng Thánh thì chúng con không thể không làm thánh. Xin thương biến đổi chúng con, lạy Thiên Chúa chí thiện. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho ta thấy Chúa Giêsu tiếp tục kiện toàn một khoản luật nữa của Cựu Ước, đó là luật của sự “ăn miếng trả miếng”. Trong bài ca man rợ mà nhân vật La-méc đã hát có câu: Cain được báo thù gấp bảy (1 trả 7 lần) thì La-méc được báo thù gấp 77 (1 trả 77 lần). Đến thời của Môisê, đã có một sự tiến bộ hơn: một trả một, tức là luật “ăn miếng trả miếng”, hay là luật “răng đền răng, mắt đền mắt”. Đây là giới hạn lẽ công bằng theo nghĩa chặt.
Vậy Chúa Giêsu kiện toàn theo nghĩa nào? Luật mới của Chúa Giêsu đó là gì? Luật mới của Chúa Giêsu đó là luật của tình yêu hoàn thiện, khi khoan dung với kẻ ác. Cụ thể là khoan dung với kẻ xúc phạm danh dự và phẩm giá của mình: “Ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5,39). Khoan dung với kẻ trấn lột, tước đoạt những thứ mình sở hữu: “Ai kiện lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy luôn cả áo ngoài” (Mt 5,40). Khoan dung với kẻ hành hạ bóc lột sức lực của mình: “Nếu có ai bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với nó hai dặm” (Mt 5,41).
Nhưng tại sao lại phải khoan dung với kẻ ác? Phải chăng là Chúa Giêsu muốn cỗ võ thái độ nhu nhược và cam chịu cách thụ động? Hay Ngài muốn khuyến lệ sự bất công khi dung dưỡng cái ác? Thực ra khi Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài phải có thái độ khoan dung như thế là có lý do của mình:
Thứ nhất là nhằm ngăn chặn vòng xoáy của sự ác, sự leo thang của bạo lực theo nghĩa “lấy oán báo oán, oán càng chồng chất”. Thứ hai là nhằm chinh phục và cảm hoá kẻ ác vốn cũng là con người, vì sự bao dung tha thứ có khả năng biến thù thành bạn, như Chúa Giêsu đã nói: “Như vậy là các con đã được lợi một người anh em”. Thứ ba là để có được một tâm hồn bình an, thanh thản của con cái Thiên Chúa. Và thứ bốn là để trở nên giống như Cha trên trời là Đấng nhân từ, bao dung và khoan thứ.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn trả đũa, và khi trả đũa thì thường muốn trả nặng hơn mức người ta gây cho mình: “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Hòn chì chắc chắn là cứng hơn và nặng hơn hòn đất rồi. Chẳng thế mà khi chứng kiến đội chủ nhà Áo (tại Eurô 2008) được trọng tài cho hưởng quả phạt đền ở phút cuốn trận đấu, đẩy đội Ba Lan vào tình thế chắc chắn xếp vali về nước, Tổng thống Ba Lan đã thốt lên rằng: “Tôi chỉ muốn giết ngay viên trọng tài đó”.
Gia đình ông A và ông B sống gần nhau và cùng trồng dưa trên hai lô đất kế cận. Gia đình ông A đam mê rượu chè, bài bạc, không chăm sóc vườn dưa nên vườn dưa xơ xác, không thu hoạch được gì. Trong khi đó, gia đình ông B chăm sóc vườn dưa chu đáo nên được bội thu, tiền vào như nước, sắm sửa được nhiều thứ trong nhà. Nổi máu ghen tị, ông A xúi con qua phá hoại vườn dưa của ông B, vừa hái trái ăn vừa nhổ cây, gây thiệt hại nặng nề cho gia đình ông B.
Trước sự gây hấn đó, gia đình ông B giận sôi gan, tìm cơ hội để báo thù. Buổi tối trước khi ra tay hành động, ông B nằm suy nghĩ miên man và may thay, câu Lời Chúa ông vừa nghe trong thánh lễ ban sáng chợt vọng về: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”… (Mt 5, 38-39).
Sáng hôm sau, nhờ Lời Chúa tác động, ông B bàn với vợ con cứ đến lúc trời mới tờ mờ sáng thì kéo nhau ra vườn dưa ông A, không phải để phá hoại trả thù, nhưng là chăm sóc, tưới nước, xịt thuốc, bón phân cho cả vườn dưa. Chẳng bao lâu sau, vườn dưa của ông A trở nên xanh tốt không kém gì dưa nhà ông B.
Khi biết được việc làm cao đẹp của ông B, cả gia đình ông A hết sức hối hận vì việc làm của mình, rồi dắt nhau qua tận nhà ông B để tạ lỗi. Từ đó, hai gia đình kết nghĩa anh em, thề nguyền yêu thương gắn bó với nhau cho đến mãn đời.
Thế đó, Lời Chúa là giải pháp tuyệt vời cho các xung đột giữa đôi bên. Chính Chúa Giêsu, muốn các môn đệ của Ngài xưa cũng như nay phải sẵn sàng dập tắt ngay nơi bản thân mầm mống của bạo động: “Đừng chống cự người ác” (Mt 5,39). Hơn thế nữa, Ngài còn nhấn mạnh đến tinh thần mà người môn đệ phải có, đó là tinh thần tha thứ, tha thứ cho những xúc phạm của anh em đối với mình, như Chúa đã nêu gương từ trên Thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” Lc 23,34). Như vậy, bao dung tha thứ không phải là thái độ của kẻ yếu, mà ngược lại đó là thái độ của kẻ mạnh, kẻ mạnh về tình yêu thương. Vì chỉ người nào có một tình yêu thương rất mạnh mới có khả năng chế ngự được khuynh hướng trả đũa vốn nằm sẵn trong lòng mình.
Phần chúng ta thì sao? Chúng ta thường xử sự với anh em mình theo luật nào? Luật của sự “ăn miếng trả miếng” hay luật tình yêu bao dung mà Đức Kitô đã dạy?
Nếu ta muốn trở nên môn đệ chân chính của Chúa Giêsu thì ta không thể sống khác hơn những gì mà Chúa Giêsu đã sống, đó là bao dung tha thứ luôn luôn. Amen.
Tin Mừng các Chúa Nhật liên tiếp trình bày những giáo huấn mới mẻ của Chúa Giêsu so với luật cũ của Cựu ước.
Chúa Nhật IV, Chúa Giêsu là Môisen mới, đứng trên núi Sinai mới (núi Bát Phúc) công bố luật mới của Nước Trời (Tám mối Phúc thật).
Chúa Nhật V, sau khi công bố Hiến Chương Nước Trời, Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ, những công dân mới của Nước Trời, hãy đem những giáo huấn của Người ra thi hành. Sứ mạng cao cả của người công dân Nước Trời là muối cho đời, ánh sáng thế gian.
Chúa Nhật VI, Chúa Giêsu so sánh luật mới của Người với luật cũ của Môisen. Luật mới kiện toàn luật cũ. Chúa Giêsu đưa ra 4 trường hợp cụ thể:
· Luật cũ cấm giết người. Luật mới dạy, phải coi người khác là anh em. Thương yêu nhau, nếu có gì bất hòa thì hòa giải với nhau.
· Luật cũ cấm hành vi ngoại tình. Luật mới ngăn chặn ngoại tình từ ước muốn. Cần chặn đứng những gì gây nên ước muốn xấu xa như con mắt, cái tay, cái chân…
· Luật cũ quy định thủ tục li dị. Luật mới triệt để cấm li dị.
· Luật cũ cấm thề gian. Luật mới dạy sống chân thực. Khi đã sống chân thực rồi thì không cần thề nữa.
Chúa Nhật VII, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn hoàn thiện luật cũ.
· Luật cũ dạy yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau. Luật mới dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.
· Tinh thần luật cũ “mắt đền mắt, răng đền răng”. Pháp lý của Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ. Chúa mở ra con đường mới: thiện thắng ác, tình yêu thắng hận thù.
· Tinh thần luật cũ là chỉ yêu thương người đồng bào. Giáo huấn mới là hãy yêu thương thù địch và làm ơn để báo oán.
1. “Hãy yêu kẻ thù”
“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu. Người đã cắt nghĩa rất cụ thể. Yêu thương kẻ thù là:
· Làm ơn cho kẻ ghét mình. · Chúc phúc cho người nguyền rủa mình. · Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình. · Ai vả má nầy thì đưa cả má kia. · Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong. · Ai lấy gì thì đừng đòi lại…
Lý do của thái độ nhân ái, lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời "Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…".
“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nổ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người. “Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quãng đại tha thứ.
“Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân.
Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
2. Tại sao phải yêu kẻ thù?
Yêu người yêu mình thì dễ. Yêu kẻ làm hại mình thật khó biết bao! Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: “Lấy oán báo oán, oán chập chùng. Lấy đức báo oán, oán tiêu tan”. Lấy oán báo oán chỉ thêm hận thù mà thôi. Bạo lực sẽ kéo theo bạo lực. Câu chuyện tình bất hủ Roméo và Juliette đã đi vào lịch sử nhân loại. Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ đã viết thi ca âm nhạc ca tụng tình yêu. Những vỡ kịch những cuốn phim diễn tả hấp dẫn mối tình lãng mạn của đôi tình nhân trẻ. Nếu câu chuyện tình của họ được kết thúc một cách tốt đẹp và bình thường, chắc sẽ không có ai nhắc đến. Nhưng Roméo Juliette là nạn nhân của sự thù hận giữa hai gia tộc. Không ai có thể tìm cách để giải hòa được sự thù hận ấy. Sự thù hận dẫn đến mất mát cho cả hai bên. Sự thù hận đã cướp đi mạng sống của đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết. Sự thù hận giết chết một mối tình đẹp, nhân loại ngàn đời xót xa nuối tiếc. Sự thù hận khởi đi từ tâm hồn ích kỷ. Bảo vệ mình bằng sự trả thù, thì càng mất mát hơn và hận thù hận ngày càng dâng cao.
Nhạc sĩ Phạm Duy viết trong một ca khúc: Kẻ thù tôi đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai? Đã là người thì ai cũng có những sai lỗi. Nhân vô thập toàn. Hơn nữa, mỗi người lại có những tính tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh. Vì vậy, đã sống chung cùng nhau chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền. Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải báo thù kẻ lạ cũng như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia đình, kẻ bên trái cũng như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người đàng sau, nghĩa là phải tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt đất này. Phạm Duy khuyên đừng giết người vì tuy là kẻ thù, nhưng họ vẫn là người, vẫn giống chúng ta.
3. Tình yêu biến kẻ thù thành bạn hữu.
Trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Chúng ta cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ.Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Ep 4,26).
Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúa, lẽ nào Người lại tiêu diệt nó chứ? Chúa Giêsu đến để đẩy lui sự ác, xóa bỏ tội lỗi. Chúa không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt. Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét. Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu. Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ. Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: ”Anh em hãy yêu kẻ thù…Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).
Câu chuyện ngụ ngôn kể rằng:Sư tử ốm đã một tuần nay và nằm trong hang không dậy được. Nó buồn lắm vì là chúa tể sơn lâm mà chẳng con vật nào đến thăm hỏi hay mang cho nó chút quà gì cả. Nhìn cây hoa hồng bên cạnh, lúc nào cũng có bướm, có ong, có chim chóc ríu rít, đến bay lượn vui vẻ. Sư tử bèn hỏi cây hoa hồng:Hoa hồng ơi, vì sao ngươi mảnh dẻ yếu ớt như thế, mà lúc nào cũng có bạn bè đến thăm vui vẻ, còn ta là chúa tể sơn lâm mà chẳng có con vật nào đến thăm ta cả?
Hoa hồng trả lời: Vì tôi luôn tặng cho mọi loài màu sắc tươi đẹp và hương thơm ngào ngạt khi mọi loài đến với tôi. Còn ngài là chúa tể sơn lâm uy quyền, nhưng ngài có tặng cho những con vật bé nhỏ thuộc hạ của ngài cái gì đâu?
Hoa hồng là hình ảnh của con người biết yêu thương.
Lạy Chúa, trên thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ cho những kẻ giết Chúa. Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người. Amen.
Cả chương 5 sách Tin Mừng theo Thánh Mat-thêu trỉnh thuật Lời dạy của Đức Giê-su nhằm giúp các môn đệ và những kẻ tin trở nên người công chính: Từ “8 mối phúc” đến “muối, men và ánh sáng cho đời”. Tiếp liền theo đó, Đức Giê-su lại dạy 5 “Đừng”: Đừng giận ghét – Chớ ngoại tình – Đừng ly dị – Đừng thề thốt – Chớ trả thù; và 1 “Nên”: Phải yêu kẻ thù.
Bài Tin Mừng tuần trước (CN VI/TN-A – Mt 5, 17-37) trích Lời Đức Giê-su dạy các môn đệ 4 “Đừng”; đến bài Tin Mừng hôm nay (CN VII/TN-A – Mt 5, 38-48), Người lại dạy thêm 1 “Đừng” nữa: Chớ trả thù. Vì sao con người hay trả thù? Chung quy cũng do tự ái quá cao mà thôi, bởi tự ái là gì nếu không phải là tự yêu mình. Khi chỉ biết yêu mình một cách thái quá thì sẽ cho là mình đúng, lúc nào và trong trường hợp nào cũng đúng hết. Bởi thế nên được người khen thì chẳng nói làm gì, nhưng bị chê thì sửng cồ lên ngay. Bị phê bình trúng tim đen thì bằng mọi giá sẽ tìm cách trả đũa. Nói cách khác, khi con người tự ái quá đáng, sẽ rất dễ giận ghét và từ giận ghét sẽ đưa đến hành động trả thù.
Ngay trong Cựu Ước, Lề Luật cũng dạy: “Luật báo phục tương xứng: Mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân.” (Đnl 19:21); “Nếu ai làm cho người đồng bào phải mang tật, thì phải xử với nó như nó đã xử với người ta: chỗ gãy đền chỗ gãy, mắt đền mắt, răng đền răng; nó đã làm cho người khác mang tật thế nào, thì người ta cũng sẽ làm cho nó như vậy.” (Lv 24, 19-20); “Nếu có gây tổn thương, thì ngươi phải lấy mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (Xh 21, 23-24). Mới nghe qua những điều khoản đó thì thấy quả thật là Lề Luật quá khe khắt. Và cũng vì thế nên đã có những bài suy niệm cho rằng hành động như vậy là phản Ki-tô giáo. Sẽ có phản biện: Nếu là phản Ki-tô giáo thì tại sao Đức Giê-su không bãi bỏ mà Người lại dạy “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn Lề Luật” (Mt 5, 17)?
Thực ra, vấn đề cũng không đến nỗi nan giải cho lắm. Trước hết, cần phải hiểu Lề Luật của Cựu Ước dù sao cũng chỉ là luật do con người đặt ra, mà đối với con người thì chỉ thích sòng phẳng theo kiểu “ân đền oán trả” (đền ơn trả oán), nên mới đòi “mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân”. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là lề luật có tính răn đe: Chỉ có nghiêm ngặt như vậy mới có thể răn đe, ngăn ngừa người ta phạm tội. Coi lại câu chuyện Nguyên tổ phạm tội thì vấn đề sáng tỏ ngay. Thiên Chúa đưa ra giới luật “trái cấm” cũng là để răn đe. Nếu con người biết vâng phục thì đâu có sao. Đã không vâng lời, còn muốn trở nên “những vị thần biết điều thiện điều ác" (St 3, 5) ngang bằng với Thiên Chúa, nên mới thành cớ sự. Biết là tội mà còn cứ cố tình phạm tôi, rõ ràng Nguyên tổ loài người đã tự xử án mình. tự kết án mình vậy. Đức Giê-su Thiên Chúa cũng đã từng khẳng định: “Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết.” (Ga 12, 47-48).
Không những chỉ khuyên “Chớ trả thù”. Đức Giê-su còn đi xa hơn: “Phải yêu kẻ thù”. Để cụ thể hóa vấn đề, Người lại tiếp tục dùng kiểu nói “Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”, để răn dạy môn đệ: "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.” (Mt 5, 38-42). Đã không “ăn miếng trả miếng”, mà lại còn lấy đức độ mà đáp trả oán thù (dĩ đức báo oán), sẵn sàng chịu đựng gấp bội sự tàn độc của ác nhân, thì quả là… thiên nan vạn nan, khó lòng mà chấp hành.
Con người chỉ có thể tự yêu mình (tự ái), khó lòng yêu được người khác, chớ đừng nói đến yêu cả kẻ thù. Mà có lẽ cũng chính vì thế nên mới có vụ “cửa rộng, cửa hẹp” ("Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy. Mt 7, 13-14). Như vậy thì phải làm sao? Cái đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào bản thân, bởi “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó” (Hc 15, 16-17). Nếu không muốn bận tâm bận trí, không muốn hy sinh này, thiệt thòi khác, con người được quyền tự do chọn cho mình cửa rộng – còn rộng thênh thang nữa kia! – còn ngược lại, sẽ được vào cửa hẹp.
Nói cách khác, con người hoàn toàn tự do khi yêu hoặc ghét, Chúa không hề ngăn cấm hay bắt buộc, Người chỉ khuyên bảo, nhắc nhở thôi. Có lẽ cũng nhờ thế mà trong cuộc sống vẫn còn nhiều thật nhiều những con người sẵn sàng quyết tâm chọn cho mình cửa hẹp. Thế thì tại sao lại cứ đưa cái tự ái lố bịch của mình lên quá cao như thế? Vâng, hãy bình tâm lại mà “xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi”, để thấy được rằng mình đã “nhận” quá nhiều từ Thiên Chúa, kể cả của anh em đồng loại. Vậy tại sao lại cứ khép chặt cửa lòng, bịt chặt miệng túi, mà không biết đem chia sẻ với anh em những gì mình đã được nhận? Hãy nhớ rằng, nếu bản thân có đem “cho” anh em cái gì thì cái đó cũng chẳng phải là của riêng mình, mà là của Thiên Chúa đã ban cho, vậy đâu có mất mát thiệt thòi gì mà cứ phải ca cẩm? Vâng, Lời Chúa còn rành rành ra đó: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 8).
Như vậy là đã rõ, Đức Giê-su không bãi bỏ Lề Luật, “dù một chấm một phết cũng không thay đổi”, mà Người chỉ “kiện toàn”. Nói cho dễ hiểu hơn thì Lề Luật vì do con người soạn thảo nên chưa đầy đủ, chưa nêu bật được cái cốt lõi của vấn đề (giữ Lề Luật để phụng thờ, tôn vinh Thiên Chúa). Vì thế, Người mới dùng cách nói “Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…” để các môn đệ hiểu được rằng những điều Lề Luật dạy chỉ là những “lý lẽ”, những “tư tưởng của loài người”, và cần phải nhìn vấn đề theo “tư tưởng của Thiên Chúa”, đó là “điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ.” (Mt 23, 23). Và cũng vì “điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín”, nên sau 5 lời khuyên “Đừng”, thì tiếp liền theo đó, Đức Ki-tô lại khuyên “Nên” (“Phải yêu kẻ thù”). Thay vì “lấy oán báo oán (“dĩ oán báo oán”) thì hãy lấy ơn báo oán (“dĩ đức báo oán”).
Cả 6 điều khuyên bảo “Đừng” và “Nên”, xét cho thấu đáo, đều nằm trong luật yêu thương, mà ở đây là Luật yêu thương của Thiên Chúa (vô hạn) chớ không phải của con người (hữu hạn). Nói về luật yêu thương thì chính là nói về nguyên lý tình yêu, nguyên lý ấy xuất phát từ Thiên-Chúa-Tình-Yêu. Vâng, kể từ khi Thiên Chúa dựng nên vũ trụ, muôn loài, thì đã vì tình yêu mà Người dựng nên loài người và đặt làm chủ mặt đất. Con người đầu tiên được sinh ra chỉ có một mình, Thiên Chúa lại thương "Con người ở một mình thì không tốt" (St 2, 18), nên ban cho một người bạn khác giới tính để từ đó có thể sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất. Sự đối kháng giới tính không nhằm loại trừ nhau mà là bổ túc cho nhau, hỗ trợ nhau nên hoàn thiện. Cũng vì tình yêu, không những Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Người, có nam có nữ, mà Người lại ban cho con người một đặc ân là được tự do đến gần như tuyệt đối. Cũng vì được tự do như vậy, nên con người đã vượt qua giới răn của Thiên Chúa mà phạm tội. Sau khi phạm tội, con người vẫn không bị trách phạt; chẳng những thế, còn được Thiên Chúa ban Con Một xuống thế để cứu chuộc, để giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi và đem lại đời sống vĩnh cửu. Nếu không vì tình yêu, thì Thiên Chúa có đối xử với con người như vậy không?
Nói tóm lai, bản chất con người vốn dĩ là thích yêu hơn bị ghét, và nếu có yêu thì chỉ thích yêu mình hơn cả. Còn oái oăm hơn nữa là khi thù ghét người khác thì lại không muốn người ta thù ghét mình. Nếu không vì thế, các bậc thánh hiền đã không mất công truyền dạy “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác), “ái nhân như ái thân” (yêu người như yêu mình). Thiên Chúa thì còn hơn thế nữa, tình yêu Người dành cho nhân loại đã lên tới tuyệt đỉnh: Người đã ban cả Con Một làm giá chuộc muôn người vì tình yêu. Và chính Con Một Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô – luôn luôn day: "Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó" (Mt 7, 12); “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 15).
Ôi! Lạy Chúa! Chúa đã dựng nên con, đã ban cho con một tấm lòng, một trí khôn biết phân biệt thiện ác, biết yêu và ghét, và nhất là đã ban cho con sự tự do tuyệt đối, để con có thể tự quyết định cuộc đời của mình bằng cách lựa chọn một con đường. Con đã sai lầm trong lựa chọn để chỉ biết yêu mình trên hết, co mình vào cái vỏ ốc “ích kỷ” đến độ có thể “hại nhân” (“ích kỷ hại nhân”: lợi mình hại người). Xin Chúa đoái thương, ban cho con một tâm hồn quảng đại, một tấm lòng bao dung độ lượng; xin cho con biết yêu người như yêu chính mình, biết coi tất cả mọi người (kể cả những người thù ghét con) đều là anh em một nhà (“tứ hải giai huynh đệ”), cùng con một Cha trên trời.
Ôi! “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để con đem tin kính vào nơi ghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa xin hãy dạy con, tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái! Xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí, ơn an bình.” (TCCĐ Kinh Hoà Bình). Amen.
Ở đời thường chúng ta có cảm tình với những ai hợp chúng ta, ủng hộ, giúp đỡ, yêu thương chúng ta. Ít khi chúng ta yêu những kẻ chống phá, hận thù, ghen ghét chúng ta. Tuy nhiên, Chúa Giêsu, Đấng thiết lập đạo công giáo lại có một cái nhìn, một đạo lý hoàn toàn khác, hoàn toàn siêu nhiên “ yêu kẻ thù “.
Vâng, khi Chúa Giêsu dạy giới răn này, đã có nhiều người và rất nhiều người cho rằng đó là chuyện không thể. Yêu bạn hữu, yêu ngay cả kẻ yêu, kẻ đồng môn với mình đã là khó, huống chi yêu thương kẻ thù thì thật khó mà yêu.Tuy nhiên, đó lại là cốt lõi của đạo công giáo, đạo tình thương.
Yêu kẻ thù là một thái độ anh hùng. Bởi vì Chúa dạy không được báo thù, không được ăn miếng trả miếng. Luật Cựu Ước dạy:” Hãy yêu đồng loại và ghét kẻ thù “. Trong cách cư xử ở đời, người ta thường phân biệt bạn và thù. Bạn chúng ta là người yêu thương chúng ta, nên chúng ta thường yêu thương họ. Kẻ thù là người chúng ta có quyền ghét bỏ và tiêu diệt vv…Đối xử và phân biệt như vậy vẫn chưa ổn, còn khiếm khuyết, còn bất toàn và còn tạo thêm thù oán. Bởi vì, luật Cựu Ước dạy:” Mắt thế mắt. Răng đền răng “. Chúa Giêsu đến làm cho lề luật trở nên hoàn thiện. Chúa dạy:” Hãy yêu kẻ thù, hãy cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em “. Đây là một giới luật tuyệt đỉnh của đạo công giáo, tuyệt đỉnh của đức bác ái Kitô giáo. Đây là cốt lõi của Tin Mừng, của đạo tình thương. Chúa dạy chúng ta phải yêu thương mọi người, không được phân biệt đối xử, yêu cả những người thù ghét, bách hại chúng ta. Chúa muốn chúng ta trở nên hoàn thiện như Cha trên trời, Đấng cho mặt trời mọc lên soi sáng cho những người lành cũng như những kẻ bất lương, mưa xuống cho kẻ tốt cũng như kẻ xấu. Chúa còn dạy chúng ta phải sống siêu nhiên, sống cao thượng mới có công phúc, mới được Chúa chúc lành. Bởi vì, nếu chúng ta chỉ yêu thương những người yêu chúng ta thì thật quá dễ, quá thường. Chúng ta phải yêu cả những kẻ không có cảm tình, những kẻ chống phá chúng ta, những kẻ làm hại chúng ta mới thực tốt, thực có phúc. Phần khác nữa như Chúa nói:” Nếu chúng ta chỉ chào hỏi bạn bè, những người thân của chúng ta, chúng ta đâu có hơn được những người ngoại giáo. Chúng ta chỉ yêu những ai thuộc phe chúng ta, thuộc đạo chúng ta, đó chỉ là tình cảm tự nhiên đâu có gì là siêu nhiên, cao quý.
Yêu kẻ thù là dấu chỉ chúng ta là con Thiên Chúa. Chúa yêu thương mọi người, chúng ta là con cái Thiên Chúa, chúng ta cũng phải yêu thương kẻ thù. Mỗi lần yêu thương kẻ thù, tha thứ cho họ là chúng ta càng trở nên giống Thiên Chúa.
Một trong những cách thế tốt đẹp nhất, phương thế hoàn hảo nhất để tiêu diệt hận thù là tha thứ cho những kẻ ghét chúng ta. Biến thù thành bạn. Càng biến thù thành bạn, chúng ta càng giống Thiên Chúa. Chúa đã tha thứ ngay cho những kẻ giết mình, đóng đinh mình vào Thập giá. Chúa đã biến thù thành bạn, thành người thân của mình. Chỉ có tình thương mới xóa bỏ được hận thù. Chỉ có tình thương mới nối kết mọi người lại với nhau. Chúa Giêsu đã sống và thực hiện điều đó. Hận thù sẽ làm chúng ta mất bình an. Tha thứ giúp chúng ta sống hòa bình, sống an bình. Henri Dunant đã sáng lập Chữ Thập Đỏ để xoa dịu nỗi đau thương cho nhiều người không phân biệt bạn và thù.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết đem yêu thương vào nơi oán thù, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem niềm vui vào chốn ưu sầu vv…
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương chúng con khi chúng con đang là tội nhân. Xin giúp chúng con biết vượt khỏi con người ích kỷ của mình, xóa hận thù, đem lại yêu thương cho mọi người không phân biệt bạn và thù, đặc biệt những kẻ làm khổ chúng ta, hận thù, hiềm khích với chúng ta, để chúng ta càng ngày càng trở nên hoàn thiện giống như Cha ở trên trời. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Luật Cựu Ước dạy làm sao đối với kẻ thù ? 2,Chúa Giêsu dạy thế nào về kẻ thù ? 3.Chúa biến lề luật trở nên thế nào ? 4.Muốn biến thù thành bạn phải làm sao ? 5.Hận thù biến chúng ta trở nên thế nào ?
Tác giả Thánh Vịnh nhận định: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” ( Tv 19, 8 ). Thật là trên cả tuyệt vời !
Luật Chúa tóm tắt thành Thập Giới ( Mười Điều Răn ), nhưng cũng có thể tóm gọn trong một chữ YÊU – và xin được gọi là Nhất Tự Luật. Thánh Vịnh 119 là Bản Trường Ca đề cao Luật Chúa. Tuân giữ Luật Chúa là một trong các mối phúc: “Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp Chúa Trời. Hạnh phúc thay kẻ tuân hành ý Chúa, hết lòng hết dạ kiếm tìm Người” ( Tv 119, 1-2 ).
Quốc gia nào cũng có luật pháp, ngay cả một nhóm nhỏ cũng cần có luật pháp – thường gọi là quy luật, quy ước, nguyên tắc, nội quy… Người đời có luật riêng, Giáo Hội có luật riêng – giáo luật.
Bản chất của luật pháp phản ánh bản chất của nhà nước đặt ra nó, nhà nước kiểu nào thì luật pháp kiểu đó. Chính vì vậy, luật pháp có tính giai cấp. Luật pháp còn có tính xã hội, vì nó chứa đựng các chuẩn mực chung được đa số ủng hộ, nếu không thì luật pháp sẽ bị chống đối. Luật pháp cũng có tính dân tộc, nghĩa là phù hợp với truyền thống, tập quán, giá trị đạo đức của các dân tộc trong đất nước. Bản chất này cho phép luật pháp gần gũi với dân, được dân ủng hộ, do đó mà có hiệu quả điều chỉnh đối với các quan hệ xã hội. Luật pháp cũng có tính thời đại, nghĩa là phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của đất nước, có khả năng hội nhập với luật pháp quốc tế.
Nói về luật pháp, văn hào Victor Hugo ( 1802-1885, Pháp quốc ) xác định: “Với nhân dân, quyền lực duy nhất là luật pháp; với cá nhân, quyền lực duy nhất là lương tâm”. Luật pháp không hề đơn giản, nhà lãnh đạo Mahatma Gandhi ( 1869-1948, Ấn Độ ) nói: “Luật lệ bất công tự nó đã là một dạng bạo lực”.
Văn sĩ Honoré de Balzac ( 1799-1850, Pháp quốc ) đề cập một thực tế phũ phàng: “Luật pháp là mạng nhện mà ruồi lớn thì bay qua còn ruồi con thì mắc kẹt”. Cuộc đời là thế, như tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Miệng nhà giàu có gang, có thép”. Cướp giật vài ổ bánh mì vì đói thì bị kết án tù, cướp hàng tỷ đồng thì chỉ “bị” làm kiểm điểm và rút kinh nghiệm; mua hai thớt gỗ thì bị kết tội “phá rừng”, phá cả khu rừng thì được coi là “đại gia”; hại một người thì bị kết án tù, giết cả triệu người thì cho là “vĩ đại”. Những dạng luật pháp như vậy người ta gọi là “luật rừng”. Kinh khiếp quá ! Còn chính khách Benjamin Franklin ( 1706-1790, Hoa Kỳ ) lại đề cập tính bất cập: “Luật pháp nghiêm khắc nhất đôi khi là sự bất công trầm trọng nhất”.
Luật pháp của con người chỉ là tương đối, còn luật pháp của Thiên Chúa tuyệt đối và bất biến, đúng như Chúa Giêsu nói rõ: “Trước khi trời đất qua đi, một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” ( Mt 5, 18 ).
Luật pháp có hai dạng chính: CẤM làm và PHẢI làm hoặc KHUYÊN làm ( dạng “phải” thì bắt buộc, dạng “khuyên” thì tùy ý – làm thì có lợi, không làm thì bất lợi ). Ngày xưa, Đức Chúa truyền điều này cho ông Môsê: “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ítraen và bảo chúng: Các ngươi PHẢI thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” ( Lv 19, 1-2 ). Rõ ràng “nên thánh” là dạng bắt buộc chứ không tùy ý, và chắc chắn rằng không làm thánh thì làm quỷ. Chỉ có thể chọn MỘT trong hai, không có cách chọn lựa thứ ba.
Đức Chúa mạnh mẽ truyền lệnh thêm: “Ngươi KHÔNG ĐƯỢC để lòng ghét người anh em, nhưng PHẢI mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ KHỎI MANG TỘI vì nó. Ngươi KHÔNG ĐƯỢC trả thù, KHÔNG ĐƯỢC oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi PHẢI yêu đồng loại như chính mình. Ta là ĐỨC CHÚA” ( Lv 19, 17-18 ). Các mệnh lệnh “không được” ( cấm ) và “phải” ( bắt buộc ) rất rõ ràng, rất rạch ròi. Chúng ta không có cách nào để tự biện hộ. Và rồi chỉ có cách YÊU thương để nên THÁNH, rút gọn cho dễ nhớ là YÊU – THÁNH.
Chỉ có một cách, một lối, một hướng, một quyết định, nhưng không có nghĩa là bị triệt buộc, vì Thiên Chúa vẫn cho chúng ta hoàn toàn tự do chọn lựa. Hiểu được như vậy thì không thể không yêu. Tác giả Thánh Vịnh đã yêu nên không thể im lặng, mà phải chia sẻ và mời gọi người khác cùng yêu, cùng tôn vinh Thiên Chúa: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh ! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Ngài. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” ( Tv 103, 1-4 ). Vâng, Thiên Chúa quá tốt lành hơn mức chúng ta có thể tưởng tượng. Kỳ diệu quá chừng!
Thật vậy, “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Ngài chậm giận và giàu tình thương” ( Tv 103, 8 ), mặc dù chúng ta luôn nổi loạn và vô ơn bạc nghĩa. Chỉ có ý sám hối là Ngài tha thứ ngay, và “Ngài không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” ( Tv 103, 10 ). Chúng ta có tha cho ai lầm lỗi nào thì nhớ dai lắm, đôi khi còn “nhắc đi nhắc lại” để chứng tỏ mình tốt bụng, nhưng Thiên Chúa không như vậy, Ngài tha rồi quên luôn, không còn biết quá khứ của chúng ta thế nào, Ngài chỉ biết hiện tại của chúng ta là người đã sám hối và mong tương lai của chúng ta sẽ trong sạch.
Về tội lỗi trong quá khứ của chúng ta, Thiên Chúa có cách quên thế này: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” ( Tv 103, 12-13 ). Tội nhân bỗng trở thành chính nhân, sống đời chính nhân chính là trở nên thánh nhân. Nhưng được như vậy là nhờ hồng ân thương xót của Thiên Chúa, chứ chúng ta chẳng làm được gì “đáng công”, vì thế đừng vội khoe mẽ khi làm được điều gì đó có vẻ “hơn” người khác một chút !
Tại sao phàm nhân chúng ta PHẢI nên thánh ? Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao ?” ( 1Cr 3, 16 ). Cách nói nghi vấn đã có câu trả lời, đó là dạng xác định mạnh mẽ. Bảo vệ một cái cây không chỉ là không phá hại mà còn phải chăm sóc, vui xới. Với Đền Thờ bằng vật chất cũng vậy, ngoài việc bảo trì chúng ta còn phải tu sửa. Thánh Phaolô nói rõ: “Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” ( 1Cr 3, 17 ). Câu này cũng có thể hiểu về việc bảo vệ sự sống ( phò sinh – pro-life ). Phá thai, giết người hoặc hành hạ người khác là phạm tội phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, và chắc chắn Thiên Chúa sẽ hủy diệt bất cứ ai dám phá hủy sự sống.
Thánh Phaolô khuyên: “Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. Lại có lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài” ( 1Cr 3, 18-23 ). Thánh nhân bảo chúng ta đừng ảo tưởng, đừng sống trên mây trên gió, đồng thời cũng bảo chúng ta đừng giả hình, mà hãy sống thực tế với đức tin của chính mình.
Trong trình thuật Mt 5, 38-48, Chúa Giêsu dạy chúng ta hai điều: [1] CHỚ trả thù ( tương đương Lc 62, 9-30 ), [2] PHẢI yêu kẻ thù ( tương đương Lc 6, 27-28, 32-36). Một điều CẤM và một điều BẮT BUỘC.
Phần một, Mt 5, 38-42 đề cập điều cấm: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: ĐỪNG chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai XIN thì hãy CHO; ai muốn vay mượn thì ĐỪNG ngoảnh mặt đi”.
Chúa Giêsu CẤM trả thù, tức là PHẢI tha thứ. Gương tha thứ điển hình là Thánh Maria Goretti đã tha thứ cho Alessandro, kẻ đã sát hại mình; và Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, khi còn sinh thời, ngài đã bị Mehmet Ali Ağca – thành viên của tổ chức Grey Wolves ( Sói Xám, thuộc nhóm Hồi Giáo cực đoan ) – ám sát tại quảng trường Thánh Phêrô hồi năm 1981, sau đó ngài đã đích thân đến tận nhà tù để tha thứ cho hắn. Tất nhiên gương tha thứ vĩ đại nhất là Chúa Giêsu: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” ( Lc 23, 34 ).
Tha thứ là điều không dễ, nhất là khi vấn đề nghiêm trọng, thế nhưng PHẢI tha thứ cho nhau, có như thế thì mới có thể nên thánh. William Arthur Ward ( 1921–1994, nhà giáo dục người Mỹ ) nhận định: “Trước khi cầu nguyện, hãy tha thứ – Before you pray, forgive”. Ý tưởng rất phù hợp với ý Chúa, vì Chúa Giêsu đã có lần cảnh báo: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” ( Mt 5, 23-24 ).
Phần hai, Mt 5, 43-48 đề cập điều bắt buộc: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy YÊU kẻ thù và CẦU NGUYỆN cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì NẾU anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì anh em nào có công chi ? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao ? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, anh em có làm gì lạ thường đâu ? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao ? Vậy anh em hãy nên HOÀN THIỆN như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.
Rõ ràng, rạch ròi, chi tiết. Tha thứ cũng chưa đủ, còn phải yêu thương và cầu nguyện cho những người ghét mình, đối lập với mình. Kể cũng “căng” lắm đấy, nhưng các thánh đã làm được, dù các ngài cũng là phàm nhân như chúng ta, thế thì chúng ta cũng làm được – nếu thực sự muốn nên thánh.
Thánh Luật của Thiên Chúa là Nhất Tự Luật: YÊU. Và Luật Yêu cũng là Đệ Nhất Luật. Thật vậy, Kinh Thánh đã xác định: “Yêu thương là chu toàn lề luật” ( Rm 13, 10 ). Điều này cũng được đề cập trong Rm 13, 8, Gl 6, 2, Gc 2, 8.
Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu vĩnh hằng, xin giúp con biết chạnh lòng thương bằng cách thức thưng xót của Ngài, xin giúp con cố gắng trở nên khí cụ yêu thương và bình an để Ngài sử dụng theo Tôn Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Câu chuyện bắt đầu từ thập niên 1920, khi hai anh em nhà Dassler trở thành đối tác làm ăn tại công ty Dassler Brother Sports Shoe Company. Cá tính hai người hầu như trái ngược nhau. Adolf ( Adi ) Dassler trầm lặng, ít nói. Anh phụ trách khâu thiết kế và làm ra các đôi giầy. Còn người anh Rudolph ( Rudi ) lại rất nóng nảy, phụ trách kinh doanh. Họ đã chiêu dụ được vận động viên chạy nước rút người Mỹ gốc Phi Jesse Owens mang giày của họ, khi hoàn thành chặng đua và giành 4 huy chương vàng tại Thế Vận Hội Olympic năm 1936. Chiến thắng của Owens đã mở đường cho thương hiệu giầy của hai anh em ra thế giới. Doanh số của Công ty Dassler từ đó tăng vụt.
Nhưng thành công này đã tạo ra những căng thẳng mới trong quan hệ của hai anh em, vốn trước đó đã có nhiều xích mích giữa hai bà vợ của hai người. Mặc dù không ai chắc là điều gì dẫn đến sự thù địch, nhưng nó được cho là do hiểu nhầm trong giao tiếp. Adi đã trú ẩn trong một hầm trú bom và Rudi cùng gia đình cũng đến trú tại đó. Lúc ấy, Adi đã thốt lên: “Bọn khốn kiếp đó lại trở lại rồi”, ý muốn ám chỉ máy bay đánh bom của quân Đồng Minh. Rudi lại tưởng rằng câu chửi ấy là nhắm vào mình và gia đình, nên đã rất tức giận. Mối thù nghịch giữa hai anh em bắt đầu từ đó.
Mâu thuẫn càng leo thang khi hai anh em chia tách công ty vào năm 1948. Nhân viên được tự do chọn phe. Adi đặt tên công ty là Adidas, ghép các ký tự đầu trong tên và họ của mình. Rudi cũng làm như thế. Mới đầu anh đặt tên công ty là “Ruda” nhưng cuối cùng lại đổi thành tên Puma để nghe cho có vẻ thể thao hơn.
Sau khi chia tách công ty, cả hai anh em cũng đoạn tình đoạn nghĩa, từ đó chưa bao giờ nói chuyện lại với nhau. Họ đã xây dựng các nhà máy ở hai bên bờ sông Aurach. Các nhà máy này cạnh tranh với nhau và mỗi lần bên nào đưa ra công nghệ cải tiến mới là bên kia “phản kích” lại.
Vì cả thị trấn bị lôi vào cuộc chiến gia tộc Dassler, nên sự thù địch này cũng trở nên cực kỳ vô lý. Do người dân hay họ hàng đều làm cho Adi hoặc cho Rudi, nên họ buộc phải chọn một trong hai phe. Dân cư Herzogenaurach chia rẽ do ảnh hưởng sự thù hằn giữa hai anh em ruột. Tuy nhiên, đau một nỗi là do quá lo cạnh tranh mà họ đã bỏ quên mất một đối thủ đáng gờm là Nike. Rốt cuộc, Nike đã dần thống lĩnh thị trường giầy thể thao, bỏ xa Puma và Adidas.
Mãi đến tháng 9.2009, các nhân viên của hai công ty mới kỷ niệm việc chấm dứt mối thù hằn kéo dài 60 năm, bằng một trận bóng giao hữu. Lúc đó cả hai anh em nhà Dassler đều đã mất ( mất cách nhau trong vòng 4 năm vào thập niên 1970 ). Thậm chí khi chết, mối hận vẫn tiếp tục, khi hai người được chôn ở hai đầu của nghĩa trang Herzogenaurach. Qua đời rồi nhưng họ vẫn muốn ở cách người kia càng xa càng tốt. ( Mối thù anh em nhà Puma & Adidas, Nhịp cầu đầu tư ).
Tuy hai anh em ôm mối hận thiên thu xuống tuyền đài, nhưng đã gây hệ luỵ rất đáng tiếc đến biết bao người. Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu giải thích cặn kẽ luật tình yêu, xoá bỏ thù hận, hoàn chỉnh Luật Môsê xa xưa. Người đòi hỏi những ai theo Chúa cần bỏ mình, khoan dung, quảng đại, tha thứ và yêu thương kẻ thù.
Bỏ mình và nhẫn nhục
Đức Giêsu phán dạy: “Đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa.” Đó là lấy nhu thắng cương, lấy tịnh khử động, lấy sức mạnh tinh thần chế ngự bản năng, nặng tính sinh tồn đáp trả lại “mắt đền mắt, răng đền răng,” như Luật cũ cho phép. ( Xh 21, 23-25; Lv 24, 19-20 ).
Đức Giêsu mong muốn tín hữu tha thứ, cự tuyệt việc trả thù, hòng giữ lòng thanh thản, bình an, khỏi nhiễm độc sự gian ác, bạo lực xâm chiếm tâm hồn. Thánh Phêrô khuyên mọi người noi gương Đức Giêsu hành xử như Người đã giảng dạy: “Bị nguyền rủa, Ngài không nguyền rủa đáp lại, chịu nạn chịu chết, Ngài không để lời, nhưng Ngài đã phó thác cho Ðấng xét xử công minh.” ( 1Pr 2, 23 ).
Khoan dung và tha thứ
“Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm.” Một khi làm chủ được bản thân, hoàn toàn xả kỷ, xoá đi hận thù, tấm lòng mới có thể rộng mở, khoan dung, nhân ái, từ bi, nhường nhịn, chia sẻ, quảng đại cho đi. “Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ.”
Thánh Phaolô cũng khuyên răn thái độ ân cần đối với kẻ thù: “Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ… Nếu kẻ thù ngươi đói, hãy cho nó ăn; nó khát hãy cho nó uống… Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ.” ( Rm 12, 14, 20-21 ).
Yêu thương và vị tha
Đây là cao điểm tình yêu, xoá nhoà mọi ranh giới kỳ thị, phân biệt, ứng xử, cũng là điều vô cùng khó khăn cho bất cứ ai muốn theo Chúa. “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em."
Tuy nhiên, muốn trở nên con cái Thiên Chúa, thì tiên vàn noi gương Ngài công bằng, chính trực, đầy lòng thương xót, khoan dung, độ lượng, không phân biệt đối xử đối với bất cứ ai. “Vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.”
Hơn nữa, Thiên Chúa còn biểu lộ lòng từ bi nhân hậu. “Còn Thiên Chúa thì lại thi thố lòng yêu mến của Người đối với ta là Ðức Kitô đã chết vì ta, ngay lúc ta còn là tội nhân !” ( Rm 5, 8 ). Thiên Chúa yêu thương con người tội lỗi, đã cho Đức Giêsu nhập thể chịu chết thay, hà cớ sao mình lại đi chấp lỗi đồng loại vấp phạm ? Do vậy, thay vì hiềm khích trả thù, thì tín hữu Kitô tỏ lòng nhân ái với kẻ thù bằng hành động cụ thể, như cầu nguyện, giúp đỡ, khuyên nhủ họ sám hối. Đây còn là bổn phận, nghĩa vụ mỗi người đối với tha nhân. “Nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác biết tội lỗi của nó, không cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, để nó được sống, thì chính kẻ gian ác sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” ( Ed 3, 18 ).
Hãy yêu thương nhau không bằng lời nói mà bằng việc làm. Hãy yêu thương nhau bằng tay mặt mà tay trái không biết. "Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con." ( Đường Hy Vọng, số 755 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết yêu thương mọi người, dẫu bị đố kỵ, ganh ghét, thù địch, hãm hại. Xin cho chúng con theo gương Chúa, biết tha thứ, cho đi và làm phúc.
Khấn xin Mẹ cầu bầu cho chúng con luôn mở rộng con tim, yêu thương, làm lành và cầu nguyện cho những kẻ thù địch, để chúng con trở nên con cái Chúa, Đấng trọn lành. Amen.
Có một nhân vật rất nổi tiếng rất tâm đắc với bài Tin Mừng hôm nay là Mahamat Gandhi, người được thế giới coi là vị đại thánh. Ông là cha đẻ của chủ trương bất bạo động trong hoạt động chính trị, để giành lại độc lập cho đất nước mình. Ông nói: “Bất bạo động là luật của loài người, bạo động là luật của loài thú”. Gandhi là người ngoại giáo nhưng đời sống của ông đã đạt tới cao điểm của tinh thần bao dung nhân hậu của Kitô giáo.
Chúng ta thường sợ mang tiếng là hèn nhát, khiếp nhược, sợ kẻ ác thắng thế khi mình lùi bước. Chúng ta ít dám tin vào sức mạnh của lòng bao dung. Chính tình yêu bao dung chứ không phải quyền lực có thể làm cho trái tim con người tan chảy. Gandhi đã từng thách thức chúng ta dám sống và thể hiện Tin Mừng của Đức Kitô.
Nhân loại đang sống trong một kỷ nguyên cực kỳ văn minh tiến bộ, thế nhưng trong quan hệ giữa người với người, xem ra như thụt lùi, xuống cấp, có khi còn thấp hơn cả thời kỳ của luật “mắt đền mắt, răng đền răng”. Người ta cư xử với nhau theo kiểu “ăn miếng trả miếng,” giải quyết vấn đề bằng sức mạnh và bạo lực.
Chúa Giêsu đã xóa bỏ thứ luật rừng và nguyên tắc vay trả đó, khi Ngài đòi hỏi các môn đệ phải thực thi một tình yêu bao dung “yêu cả kẻ thù” và nguyên tắc bất bạo động “đừng chống cự người ác.” Điều đó không có nghĩa là người môn đệ Chúa sống nhu nhược, và chịu khuất phục trước sự ác, nhưng đừng lấy ác báo ác, vì “ác giả ác báo”, phải chiến thắng bản năng trả thù trong con người mình.
Nếu lấy ác báo ác thì sự ác sẽ lan tràn và thâm nhập vào chính chúng ta. Ở đây, Chúa Giêsu muốn mở ra một con đường khác cho nhân loại: chiến thắng điều ác bằng điều thiện, vì “thiện giả thiện lai”, dùng tình yêu để đáp lại hận thù thì mới tiêu diệt được điều ác.
Chúa Giêsu còn nêu lên một tình yêu bao dung vô độ, để nên trọn lành như Cha trên trời. Hòa bình và công chính, bình an và hoan lạc, sự sống và hạnh phúc, tất cả chỉ sáng ngời khi tình yêu ngời sáng trong ta, trong mọi người.
Chúng ta muốn sống và làm việc ra sao cũng được, vì đó là tự do của chúng ta, nhưng nếu đời sống và việc làm của chúng ta không nói lên được tình yêu sâu xa, thì sự hiện diện của chúng ta trở nên vô nghĩa, vì đã không trở nên chính mình như tình yêu Thiên Chúa đã tác sinh. Tình yêu đó phải được vươn cao tỏa sáng để chúng ta trở nên nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa trong thế giới hôm nay.
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Tuổi trẻ chúng con hay suy nghĩ một chiều, nên tâm trí con dễ có những điều tiêu cực, khó lòng nhận ra những giá trị đích thực, để sống với tấm lòng rất mực bao dung.
Con bao dung không phải vì “cực chẳng đã”, không vì sợ gây cãi vã hay trả giá nặng nề, hoặc chỉ muốn đề huề cho xong chuyện, cho mình được yên thân không vướng lụy gì.
Con bao dung không phải là “Amen” với tất cả, không phải là đồng lõa xuề xòa cho qua, hoặc đưa ra chủ trương là “Dĩ hòa vi quí”, làm mất đi công lý và những gì là chân thật.
Con bao dung là chấp nhận những dị biệt, là để cho người khác được tự do thể hiện, và sống với những điều họ xác tín sâu xa, cho dù có những điều chưa hài hòa và hợp lý.
Con bao dung với con tim sáng suốt và nhân hậu, biết kính trọng, mở rộng tầm nhìn và quan điểm, tránh nguy cơ đắm chìm trong tự mãn kiêu căng, kẻo chôn vùi bao nỗ lực và khả năng người khác.
Con bao dung là chấp nhận liều lĩnh, có thể bị phản phúc và tai hại cho mình, cũng như tim Chúa bị đâm thâu là vì thế, nhưng nếu không thế thì con vẫn u mê.
Con bao dung là chống thái độ độc tôn, độc tài, là một thứ quái thai trong đời sống nhân loại, đã làm cho bao kẻ thành điên dại, khiến gây ra biết bao nhiêu điều tai hại, là thất bại lớn nhất của đời người.
Giáo hội cũng đã từng ăn năn và xin lỗi, vì thái độ và hành động bất bao dung, khi sử dụng bạo lực để duy trì chân lý, là thứ lý trí đi ngược lại với Tin Mừng.
Chính lòng nhân mới thuyết phục con người, chứ không phải tài năng hay lý lẽ cao siêu, là tình yêu chứ không phải những giáo điều, là cuộc sống chứ không nói nhiều như con nghĩ.
Bản thân con đã chẳng tốt đẹp gì, nên chẳng thể so bì hoặc quyết đoán ai, cuộc đời con còn mang nhiều sai trái, nhưng Chúa vẫn đoái hoài và đón nhận con luôn.
Xin cho con cứ bao dung đón nhận mọi người, không câu nệ điều chi, chẳng chấp nhất điều gì, bằng cách thực thi lòng từ bi nhân hậu, để thế nhân luôn tươi mới đẹp mầu. Amen.
Giữa một xã hội đề cao chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tự nhiên của con người là ăn miếng trả miếng, muốn trả đũa, muốn thắng người khác và hơn người khác. Chính vì thế, nói đến "bỏ qua, tha thứ" dường như người ta nghe lạ lẫm, chứ chưa nói đến yêu thương cả kẻ thù, người bách hại mình... Thế nhưng Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã mời gọi và hơn nữa Người truyền lệnh cho chúng ta: "Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đừng chống cự người ác... Hãy yêu kẻ thù..." Là Kitô hữu, mỗi chúng ta cần phải nỗ lực thực thi mệnh lệnh yêu thương của Chúa, cố gắng "Nên Hoàn Thiện" như Cha trong cách thức sống, và chứng thực chúng ta là con cái của Cha - Thiên Chúa Tình Yêu.
Luật Môsê dạy rằng: "Mắt đền mắt, răng đền răng." Khoản luật này xem ra vẫn còn nhẹ nhàng và khoan dung, bởi trong thời Sáng Thế, Đức Chúa đã phán với Cain rằng ai giết ông, sẽ bị trả thù gấp 7 lần (x. St 4,15). Nhìn vào thực tế đời sống xã hội hôm nay, chúng ta vẫn thấy nhan nhản những con người trả thù tàn bạo, vẫn còn đó những não trạng bất nhẫn và không chút khoan dung với tha nhân khi họ phạm tội! Chỉ cần nghe một người làm gì sai trái, ta chưa biết nguyên nhân dẫn họ đến hành động như thế, nhưng suy nghĩ tiêu cực luôn tràn trong trí óc là kết án, ném đá, đòi xử tội... dù ta vô can trong chuyện đó. Vì vậy, câu danh ngôn Latinh đã viết "Con người là chó sói của nhau". Điều này có nghĩa là con người nhẫn tâm cư xử tàn bạo với nhau, dã man với nhau hơn cả lang sói!
Còn Thầy Giêsu, Thầy bảo anh em: "Đừng chống cự người ác..." Tất cả những bạo lực xảy ra đều do lòng người đã nhen nhúm sự tức giận, ghen ghét nhỏ nhen....để rồi dẫn đến hận thù và báo oán! Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, những Kitô hữu hãy khử trừ khỏi lòng mình mọi hình thức trả thù. Hãy "Lấy ân đền oán", vì không có con đường nào bình an và hạnh phúc cho tâm hồn bằng con đường tha thứ và yêu thương. Thật dễ khi ta cho đi những gì ta có hay dư giả như vật dụng, tiền của...Nhưng rất khó để ta trao tặng sự tha thứ vì nó đòi ta từ bỏ chính mình, gạt đi cái tự ái, bản thân, danh dự.... Chính vì vậy, ta cần có ơn Chúa trợ lực, sức mạnh Chúa giúp ta chiến thắng chính mình, thắng được lòng hận thù trong chính chúng ta. Có như thế, ta mới trở nên con cái của Cha chúng ta và có thể yêu thương cả kẻ thù như Chúa mong muốn ta thực hiện.
Thầy bảo anh em: "Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em." Có lẽ trong đời sống hằng ngày, nhiều người trong chúng ta nghĩ mình không có kẻ thù. Thế nhưng, sao ta lại hay bực bội, khó yêu thương người khác. Những người làm ta trái ý, ta không vui; những người không giống ta, khác ta nhiều quan điểm và lối sống... Hơn thế nữa, những người đã và đang làm hại ta về vật chất, tinh thần, thanh danh, sức khỏe... và thế là ta đã khó yêu thương, chẳng thể sống hòa hợp! Nỗi bất bình cứ nhen nhúm và lớn lên, rồi một lúc ta xem người khác không còn phải là anh chị em mình nữa. Thế là sự thù nghịch, ghét ghen, diệt trừ nhau xảy ra. Chính vì điều này, ta cần phải ý thức, nhất là chúng ta, những Kitô hữu, hãy biết giữ lòng mình nhân từ, bao dung, rộng lượng bỏ qua cho anh em những khuyết điểm, sai lỗi hằng ngày. Đừng để lòng cay đắng, oán giận ai. Có như thế, khi ta gặp ai đó làm ta khó chịu, la mắng ta, đổ oan, vu khống hay làm thiệt hại ta, với tình yêu và ân sủng của Chúa, ta sẽ có thể dâng người anh em lên Chúa, cầu nguyện cho họ và sẵn lòng tha thứ cho họ và như vậy, ta mới xứng đáng là con của Cha- Đấng Nhân Từ.
"Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình , thì anh em nào có công chi? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu?" Yêu thương những ai không yêu mình, chào hỏi những người chẳng quan tâm thăm hỏi ta... đó là chúng ta bắt chước Thiên Chúa. Làm điều tốt cho những ai làm điều dữ cho ta, đó là tinh thần của chính Thiên Chúa. Trong mọi lời nói và cư xử, luôn có sự tự chủ, cần phải nhìn lên mẫu gương của Chúa, yêu thương, đón nhận anh chị em không giới hạn.
Chúa Giêsu đã yêu cầu chúng ta vượt qua bên kia cái tình cảm tự nhiên ban đầu để làm cho vòng tròn yêu thương xung quanh của ta được mở rộng không biên giới. Nếu như chúng ta chỉ yêu những ai đáp lại tình yêu của ta, giống ta, suy nghĩ như ta, cùng tôn giáo với ta, những người trong dòng tộc hay thân quen của ta, những người trong làng xóm của ta...thì thực sự chưa đủ với tinh thần của người Kitô hữu và những gì Chúa muốn ta sống. Vì vậy, Chúa mong ta hãy làm lớn trái tim của ta, mở rộng tấm lòng của ta, để rồi chúng ta có thể yêu thương không giới hạn, không biên giới, không phân biệt. Có như thế, ta mới thực sự trở nên con của Cha- Đấng hoàn thiện, mà Chúa Giêsu mời gọi ta: "Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện."
Ước mong sao từng Kitô hữu chúng ta luôn biết rằng: Nếu ta loại trừ ai đó ra khỏi tình yêu của ta, ta sẽ không có một tình yêu hoàn hảo. Người nào đó ta không yêu, chính Thiên Chúa đã và đang yêu họ. Người yêu thương cách tuyệt đối, yêu thương kẻ thù của Ngài. Hình ảnh Chúa Giêsu tha thứ và cầu nguyện cho những kẻ đóng đinh giết Người "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm", chứng minh Thiên Chúa yêu những kẻ không yêu Ngài. Vậy chúng ta, cũng hãy đi và làm như vậy. Hãy cầu xin Tình Yêu Chúa lấp đầy trái tim ta, để ta có thể yêu thương kẻ thù như Thiên Chúa- Đấng hoàn thiện đã yêu thương; để ta có cái nhìn khoan dung, có tâm hồn nhân hậu; để chúng ta luôn biết lấy sự lành đáp lại điều dữ, lấy tình yêu đáp lại hận thù, biết cảm thông thay cho chấp nhất, tha thứ thay cho kết án. Và để trong mọi hoàn cảnh sống, ta luôn can đảm tỏa sáng tình yêu Chúa trong từng cung cách sống và hành vi của ta, chứng tỏ ta là con cái của Thiên Chúa Tình Yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn giúp sức và dạy chúng con biết yêu như Chúa yêu, biết tha thứ như Chúa đã tha thứ và trên hết, biết cầu nguyện cho anh chị em, kể cả người thù nghịch bách hại chúng con. Amen.
Một câu chuyện vui kể rằng, trong buổi hội thảo giao lưu với đề tài tha thứ tại một giáo xứ nọ, vị Linh mục hỏi những người có mặt, ai trong số họ sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù. Tất cả mọi người đều giơ tay, trừ một ông lão ngồi bên dưới.
– Chẳng lẽ cụ không thể tha thứ cho kẻ thù của mình ư? – Tôi không có kẻ thù. – Thật là đức độ. Thế cụ bao nhiêu tuổi rồi? – 90 tuổi. – Cụ hãy cho mọi người biết bí quyết sống đến 90 tuổi, mà không có một kẻ thù nào. – Ông lão cao giọng nói: “Chỉ có một cách là phải tiêu diệt hết lũ chúng nó mà thôi!”.
Sống trên đời, giữa chúng ta có nhiều khác biệt về tuổi tác, sở thích, quan điểm. Cuộc sống trần gian cũng là một mớ hỗn độn những cạnh tranh, bon chen, tính toán. Sự cạnh tranh bon chen trở nên nghiệt ngã, tới mức người ta loại trừ nhau. Trong lãnh vực thương mại ngày nay, người ta hay nói: “Thương trường là chiến trường”. Tưởng chừng đơn giản, nhưng đó là một thứ lý luận nguy hiểm, cho thấy sự ích kỷ tới mức hoang dã. Vì trong chiến trường, người lính phải đối diện với quân thù. Họ buộc phải giết đối phương để sống, vì không còn chọn lựa nào khác. Tuy vậy, trong thương trường, mưu mô gài bẫy để hủy diệt và loại trừ người khác là một thứ thương mại vô đạo đức. Danh từ “kẻ thù” được dùng để chỉ những người đối nghịch với mình. Người bị gọi là “kẻ thù”, tức người đó trở nên mối nguy hiểm cho người khác. Trong quan niệm thông thường, người ta chủ trương “không đội trời chung” với kẻ thù.
Nhưng, không kể nơi chiến trường máu lửa, thì kẻ thù là ai? Suy cho cùng, kẻ thù là người không đồng quan điểm với chúng ta. Sự khác biệt nơi những cá nhân đáng lẽ tạo ra một cuộc sống phong phú đa dạng, thì trong nhiều trường hợp lại là nguyên cớ dẫn tới đối nghịch, hiềm thù. Kết án một người là “kẻ thù” nhiều khi do chủ quan và do cái nhìn phiến diện. Nhiều người coi mình là mẫu mực, là tiêu chuẩn cho cách đối nhân xử thế, nên người nào không giống mình thì họ kết án là “kẻ thù”. Do quan niệm này, trong xã hội của chúng ta, biết bao mâu thuẫn và thậm chí có những án mạng đã xảy ra. Có những người coi nhau như kẻ thù, khi đang cùng nhau ngồi trên bàn nhậu, hay khi cùng tham dự một tiệc cưới, và vì một câu nói hay một mâu thuẫn nhỏ đã trở thành sát nhân, lấy đi mạng sống của người đồng bàn. Sự ích kỷ tham lam đã biến các thành viên trong cùng một gia đình thành kẻ thù không đội trời chung. Những anh chị em cùng máu huyết, chỉ vì vài mét vuông đất, hoặc vì không hài lòng do việc chia tài sản thừa kế, đã coi nhau như kẻ thù. Họ kiện nhau ra tòa án và không còn muốn nhìn mặt nhau. Trong bối cảnh xã hội hôm nay, người ta dễ quên tình huynh đệ, bằng hữu, làng xóm thân cận, để biến thành kẻ thù.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta, không chỉ yêu mến những ai làm ơn cho mình, nhưng còn yêu thương và tha thứ cho kẻ thù. Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy, Chúa Giêsu có những đối phương. Đó là một số người biệt phái và luật sĩ. Họ là những người luôn dò xét để chỉ trích cách sống của Chúa, nhất là tương quan của Người với các tội nhân. Tuy vậy, mặc dù lên án họ với những lời nói gắt gao, không bao giờ Chúa coi họ là những kẻ thù. Chúa muốn chỉ cho họ thấy quan niệm cực đoan của họ. Người cũng mời gọi họ có cái nhìn thiện cảm với các tội nhân. Bởi lẽ, là con người, không ai hoàn thiện. Chúa cũng muốn cho họ hiểu sứ mạng của Người khi đến trần gian là để cứu vớt các tội nhân, như thày thuốc chăm sóc và giúp cho bệnh nhân được lành. Người kêu gọi: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.
Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,44-45). “Yêu thương kẻ thù” là nét ưu việt của Kitô giáo. Trong Cựu ước, người Do Thái áp dụng luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, tức là được phép làm cho người khác đúng như mức độ họ đã gây ra thiệt hại cho mình. Khái niệm “đồng loại” trong luật Cựu ước có ý chỉ người Do Thái, còn những người khác thì không phải đồng loại. Lời giáo huấn của Chúa Giêsu làm thay đổi quan niệm truyền thống này, đồng thời hướng tới sự tha thứ không giới hạn. Chính Chúa đã thực hiện điều Người rao giảng, khi chịu treo trên thập giá. Trong hơi thở yếu ớt lúc sắp lìa trần, Người xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hình mình, vì họ không biết việc họ làm (x. Lc 23,34). Noi gương Chúa Giêsu, Thánh Têphanô Phó tế, vị tử đạo tiên khởi của Kitô giáo, cũng đã cầu nguyện cho những kẻ ném đá mình (x. Cv 7,60). Lời cầu nguyện ấy nói lên sự tha thứ mà vị tử đạo dành cho những người giết hại mình. Sự tha thứ ấy đã đem lại cho vị tử đạo sự bình an và thanh thản tâm hồn.
Cầu nguyện và tha thứ cho những người làm hại mình, chúng ta cũng nỗ lực để đừng trở nên “kẻ thù” của những người xung quanh. Có những người đã trở nên nỗi ám ảnh đối với môi trường sống, ví dụ hiện tượng ngày càng nhiều thanh niên “ngáo đá” do dùng ma túy. Họ trở nên nỗi sợ cho gia đình và làng xóm, khu phố. Nhiều người khác, do lối sống thực dụng, dùng mưu mô mánh lới lừa đảo, bất chấp danh dự và quyền lợi của người khác, sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản, lỗi đức công bằng. Họ đang biến mình thành “kẻ thù” của những người xung quanh.
Để sống một cuộc đời bình an, Ông Bà chúng ta dạy: hãy thêm bạn bớt thù. Đáng tiếc, trong bối cảnh xã hội hôm nay, người ta đang có khuynh hướng làm ngược lại. Thay vì hợp tác huynh đệ để cùng nhau giảm thiểu tội ác, chung sống hòa bình, thì người ta muốn hủy diệt và loại trừ nhau. Ông cụ 90 tuổi trong câu chuyện ở đầu bài viết không có kẻ thù, không phải vì ông quảng đại tha thứ, nhưng nếu ai làm mất lòng ông thì ông sẵn sàng giết họ.
Lấy oán hận đáp lại oán hận, thì hận thù sẽ chồng chất. Giáo lý Phật giáo cũng dạy: “Hận thù diệt hận thù. Đời này không có được. Không hận, diệt hận thù. Là định luật ngàn thu” (Tức là đem hận thù diệt hận thù hay lấy oán trả oán thì oán càng thêm. Còn không đem oán trả oán thì đó mới là định luật ngàn thu). Quảng đại tha thứ, từ bỏ hận thù, chung sống huynh đệ, đó là điểm gặp gỡ chung giữa Kitô giáo và Phật giáo.
Thánh Phanxicô đã cầu nguyện với Chúa: “Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa” (Kinh Hòa bình). Ước chi mỗi Kitô hữu chúng ta trở nên những khí cụ bình an trong cuộc sống chao đảo và đầy bạo lực này. Trước khi trở nên khí cụ bình an, mỗi chúng ta phải cảm nghiệm sự bình an tâm hồn qua việc sẵn lòng tha thứ cho anh chị em mình.
“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đó là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trên thập giá. Ước chi đó cũng là lời cầu nguyện của chúng ta, mỗi khi chúng ta bị xúc phạm hoặc khinh chê. Chúng ta chỉ có thể thốt lên lời cầu nguyện này, nếu cuộc sống chúng ta thấm đượm tinh thần của Tin Mừng, và Lời Chúa luôn cư ngụ dồi dào trong tâm hồn chúng ta, nhờ đó, chúng ta có cái nhìn yêu thương như cái nhìn của Chúa và trái tim quảng đại như trái tim của Người.
Các yêu sách của Chúa Giê-su có thể thực hiện được không?
Chúng là những chỉ thị, chỉ dẫn hay điều luật?
Chúa Giêsu ngỏ lời với ai? Với một nhóm ưu tú? Với tất cả môn đồ? Thánh Bonaventura phân biệt hai hạng người: hạng của điều luật, hạng của lời khuyên, và cho rằng ở đây Chúa Giêsu nhắm đến hạng thứ hai. Phải nghĩ sao về ý kiến này? Các “lời khuyên” thuộc phần nào trong Tin Mừng?
Vài tác giả khác cho rằng nghiêm chỉnh mà nói thì các lời Chúa Giêsu không thể nào thực hiện được. Từ đó họ bảo có hai nền luân lý, một có tính cách hão huyền, do Chúa Giêsu tưởng tượng ra, nhằm thúc đẩy ta ăn năn hoán cải và nhận biết mình là tội nhận; một có tính cách thực tế, tầm thường, công dụng.
Hãy rút ra phần sự thật trong lối giải thích thứ nhất (cánh chung học): Các yêu sách của Chúa Kitô tự chúng có thể thực hiện được không? Ai làm cho chúng có thể thực hiện được? Nếu không thì Diễn từ chẳng trở nên một khảo luận luân lý sao?
Tầm mức và giới hạn của Diễn từ trên núi:
Phải chăng đó là một chương trình sống xã hội (Tolstoi)? Một chương trình đào tạo Kitô hữu?
Phải chăng đó là toàn bộ hiến chương Kitô giáo? Thiếu điều gì chủ yếu trong Diễn từ này không, hoặc trong các yêu sách, hoặc trong lời mặc khải mầu nhiệm Nước Trời?
Hãy tìm tương quan giữa luật Chúa Kitô với luật tự nhiên: mối tương quan giữa luật Môisen và luật Chúa Giêsu phải chăng không tương tự với tương quan bản tính-ân sủng và với tương quan thế trần Kitô giáo?
Tìm ý nghĩa của câu: “Hãy nên trọn lành như…” (5,48; x. Lv 19, 2; Lc 6, 36). Câu đó phải chăng không nói lên một mệnh lệnh bất khả thực hiện? Giữa sự “trọn lành” và “đức công chính dư dật” (5, 20) có tương quan gì?
***
Người ta đã dày công tìm hiểu giáo huấn luân lý Do thái để xem các lời khiển trách của Chúa Giêsu, ví dụ về luật báo thù, có đúng hay không, và để xem tính cách mới mẻ của các yêu sách “mới” của Người hệ tại ở chỗ nào. Kết quả của những cuộc nghiên cứu này không bất lợi mấy cho Do thái giáo. Đối chiếu với mọi giới luật luân lý được Chúa Giêsu phát biểu một cách như khiêu khích, ta có thể trích dẫn nhiều câu tuyên bố của các giáo sĩ cũng nói ít nhiều một chuyện như thế, cũng đạt tới một tầm mức luân lý cao như thế, trên một vài điểm hoặc ít ra cũng rất tương hợp trên nhiều điểm khác. Phải thành thật mà công nhận điều đó. Tuy nhiên việc so sánh ấy làm lệch lạc quan điểm. Vì một trong những đặc điểm của truyền thống trường phái Do thái là thu gộp lại các câu nói khác nhau của các giáo sĩ, đến nỗi có nhiều ý kiến có giá trị luân lý cao đã được đặt bên cạnh các ý kiến khác từng bị Chúa Giêsu tấn công. Thành thử ta phải công nhận Tân ước như là nguồn mạch của mọi quan niệm thông thường ảnh hưởng trên tâm thức nhân gian thời bấy giờ. Sau cùng và đặc biệt, điều quan trọng đối với Chúa Giêsu, đó là một sứ điệp tôn giáo và luân lý tổng hợp, mà tìm cách mới mẻ đã được tỏ bày cùng với giờ của lịch sử cứu rỗi.
Trong tất cả các phản đề Chúa Giêsu nêu lên, hiện ra một yêu sách duy nhất, dứt khoát. Điều thiện cần làtn thì phải làm cho trọn vẹn. Ai chỉ làm một phần, với sự hạn chế, cốt cho xong mệnh lệnh bên ngoài, là không làm gì cả. Và để người ta hoàn toàn chú ý tới yêu sách đó, cái yêu sách ăn sâu đến tận tâm hồn, Chúa Giêsu dùng một thể văn đặc biệt: thể văn phóng đại. Câu tuyên bố về việc làm gương xấu và về yêu sách chặt bớt các phần thân thể là một trường hợp rõ ràng. Và ta cũng phải hiểu theo một nghĩa tương tự phán quyết của Chúa Giêsu về sự giận hờn và nhục mạ. Tuy nhiên, đừng lạm dụng hình thức giảng dạy bình dân thông dụng ở phương Đông này, để làm yếu đi các đòi hỏi khách quan mà nó chứa đựng. Vì quả thực Chúa Giêsu buộc phải triệt để xa lánh ngay cả dịp tội, chấp hành tốt tình huynh đệ không chỉ bên ngoài mà còn từ ý tưởng con tim, và từ chối mọi quyền trả thù chính đáng (5, 38- 42).
Nố sau cùng này đặc biệt gây ra nhiều vấn đề khó giải quyết. Phải chăng như thế là Chúa Giêsu đã không phá bỏ trật tự pháp lý bên ngoài cần thiết cho đời sống xã hội? Trật tự đó há chẳng bắt nguồn từ Thiên Chúa sao? Và đặc biệt riêng về đoạn văn này, phải chăng nó không tạo nén một nền tảng Kinh Thánh vững chắc cho các luồng tư tưởng chủ hòa hiện thời, những luồng tư tưởng nghiêm cấm mọi hình thức tham chiến. Rồi người bị thiệt thòi cách bất công có thể nại đến toà án không.. Đó là những câu hỏi hóc búa khó trả lời trong vài dòng chữ. Chúng ta hãy tạm đưa ra một vài nhận xét tổng quát ít nhất như những cái mốc đầu tiên của một câu trả lời.
Tất cả các quy định của luật Cựu ước mà Chúa Giêsu trích dẫn, dù chưa thực sự hoàn hảo, cũng đã nói lên một tiến bộ luân lý không thể chối cãi so với luật rừng hay tình trạng man rợ vẫn có khuynh hướng ưu thắng trong đời sống xã hội thời bấy giờ. Tất cả các quy định đó đều nhằm mục đích làm cho đời sống xã hội trở nên công bình và huynh đệ hơn. Thế mà, sở dĩ Chúa Giêsu đến kiện toàn Lề luật Môisen, chính là để kiến lập thêm công bình và huynh đệ giữa con người. Dĩ nhiên, việc kiện toàn luật Môisen chỉ có thể được thực hiện trong chiều hướng triệt để hóa các yêu sách tuyệt hảo nhất của nó. Thành ra mọi lời giải thích học thuyết luân lý của Chúa Giêsu trong Diễn từ trên núi đều phải lưu ý đến bối cảnh tổng quát đó: lối giải thích nào khuyến khích các lạm dụng và có khuynh hướng biến xã hội thành một đàn cừu phó mặc cho lũ sói cắn xé, thì không phù hợp với bồi cảnh này. Vì thế, thái độ bất kháng cự tuyệt đối trước mọi hình thức bạo lực đang hoành hành trong thế giới ngày nay, chỉ tổ khuyến khích việc bóc lột kẻ cô thân yếu đuối, tước đoạt các nhân quyền và làm phương hại phẩm giá con người cách trầm trọng.
Thứ đến, có thể tự hỏi phải chăng Chúa Giêsu chỉ muốn đứng trên bình diện pháp định hoàn toàn. Có nhiều bằng chứng cho thấy phải hiểu ngược lại. Thực vậy, các bản văn pháp luật thường mang tính cách điều độ, dùng từ ngữ chính xác, không có những hình ảnh thái quá hay kiểu nói khoa trương, đầy dấy nhiều điều khoản tiên liệu các luật trừ v.v… Thế mà văn thể Chúa Giêsu dùng trong Diễn từ lại hoàn toàn khác biệt. Người ưa sử dụng kiểu nói đại ngôn. Hãy lấy một trường hợp điển hình: lời khuyên bảo chìa cả hai má cho kẻ vả mặt (5, 39). Hiển nhiên đây không phải là một nguyên tắc về phản lệ chính thức, song chỉ là một ví dụ cố ý phóng đại ra; cũng vậy khi nói phải móc mắt hay chặt bàn tay. Vì trong thực tế, hành động như thế chẳng có hiệu quả gì. Cũng như con mắt bị móc hay bàn tay chặt lìa không thể bảo vệ người tín hữu khỏi bị một gương xấu khác, thì cũng vậy, cái vả má thứ hai chẳng cản ngăn được cái tát thứ ba, hay làm cho người hung ác trở nên thiện cảm. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu sẽ đưa ra một lối giải thích hay nhất về câu nói của Người: đó là khi bị tên đầy tớ vả mặt, Người đã chẳng đưa má kia, song nghiêm nghị hỏi nó: “Nếu Ta đã nói không phải, thì hãy làm chứng không phải chỗ nào: còn nếu là phải, sao lại đánh Ta?” (Ga 18, 23). Hãy phân biệt rõ: một đàng là mệnh lệnh, có giá trị đối với mọi người và cho mọi hoàn cảnh, đàng kia là một ví dụ cố ý phóng đại mà chẳng xét đến các điều kiện cụ thể hằng biến đổi luôn. Chúa Giêsu công bố một lý tưởng, chứ không ban hành một đạo luật.
Lại nữa, giả thiết rằng Giáo Hội và xã hội phải tuân theo một quá trình tiến hóa có tính cách năng động, và quá trình này, ít ra trong các nguyên tắc, nhằm tinh luyện ý thức luân lý dưới tác động của Chúa Thánh Thần (như đã xảy ra trong suốt lịch sử Israel), thì có thể Chúa Giêsu đã biết đến một quá trình như vậy và muốn trình bày, trong Diễn từ trên núi, các nguyên tắc năng động sẽ hướng quá trình đó tiến về việc thực hiện ngày càng hoàn hảo một xã hội công bằng và huynh đệ. Trong viễn ảnh ấy, các lời khuyên bảo có tính cách tuyệt đối của Người có lẽ không nhằm đưa ra các mệnh lệnh cụ thể phải thực hiện tức khắc, nhưng đưa ra một đường hướng phải theo để dần dà, với thời gian, sự thiện lướt thắng sự ác.
Hiển nhiên, mọi suy luận trên đây chẳng làm mất đi tính cách khẩn trương của một nỗ lực vô điều kiện nhằm thực hiện các yêu sách luân lý của Chúa Giêsu. Vì Người cũng muốn đưa ra, không phải một bộ luật mới, song là những đường hướng mới và đòi buộc một thái độ cụ thể. Điều đó hiện ra rõ ràng qua cung giọng sai khiến của các phản đề, và được xác định bởi dụ ngôn cuối cùng về việc xây nhà, trong ấy Chúa Giêsu đối chiếu người khôn biết nghe lời Người và đem ra thực hành, với kẻ dại chỉ nghe qua mà thôi. Tuy nhiên, trong cụ thể, việc đem ra thực hành đó cũng bị chi phối bởi nhiều hoàn cảnh. Điều cốt yếu là biết cảm hứng theo lý tường mình nhận ra trong Diễn từ này và chân thành phấn đấu đưa lý tưởng đó vào trong một thế giới mà, mặc dầu bị nhiều thất bại thê thảm, cũng biết cách mù mờ rằng nó phải chọn hoặc luân lý Tin Mừng, hoặc là bị hủy diệt tiêu tan.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Mắt thế mắt, răng đền răng”: Nguyên tắc báo thù theo đó phạm nhân phải bị bồi thường tương xứng với thiệt hại đã gây nên, vẫn được áp dụng chung chung và từ lâu, trong thế giới văn minh. Nguyên tắc đã xuất hiện trong bộ luật Hammourai 2000 năm trước Chúa Giêsu. Ở đây nó quy chiếu về Xh 21, 24 (x. Đnl 19, 21; Lv 24, 20). Trong bối cảnh Cựu ước, nó nhấn mạnh đến tính cách nghiêm khắc cần thiết của hình phạt, song cũng đánh dấu một bước tiến quan trọng so với chế độ báo thù cá nhân hỗn loạn (xem bài ca man rợ của Lamek trong St 4, 24 chẳng hạn). “Đừng cự lại người ác”: Huấn thị này không nói với các quan tòa là những kẻ phải tìm cho ra phương cách mới để áp dụng luật lệ trường hợp các truyền thống giáo sĩ Do thái), nhưng trái lại ngỏ lời với người bị tổn thương để bảo họ biết phải xử trí ra sao cho hợp với tư cách môn đồ Chúa Kitô. Chúa Giêsu và các Kitô hữu đầu tiên không muốn hủy bỏ pháp chế hiện hành thời đó (như thánh Phaolô, với tư cách công dân Rôma, đã kháng cáo lên Hoàng đế để xin minh oan: Cv 25,11); song các ngài đã đưa vào xã hội một thái độ nhân bản mới làm phát hiện tính cách sơ thiển, hạn chế trong thời gian của các bộ hình luật chính thức hiện hành; các bộ luật này không bị hủy bỏ nhưng đã trở nên lỗi thời vì thái độ cụ thể của các Kitô hữu, là thái độ dù cảm hứng theo một lý tưởng, vẫn để ý tới các hoàn cảnh con người, không gian và thời gian.
“Đi một dặm”: Chắc hẳn ví dụ này ám chỉ đến một khổ dịch; binh sĩ và viên chức này xưa có thể buộc một bộ hành nào đó vác một gánh nặng (x. trường hợp ông Simon thành Xyrênê vác thập giá) hoặc đi theo họ để làm con tin hay người dẫn đường.
“Ai xin… ai muốn vay”: Lời khuyên gồm hai xác ngôn song song- hầu như đồng nghĩa: việc cho vay mượn thường tương đương với việc bố thí. “Cho đồng loại vay là làm việc từ thiện”, Hc 29, 1 khẳng định thế. Giữa người Do thái với nhau, cho vay không được ăn lời (Xh 22, 24; Lv 25, 35- 37; Đnl 15, 7- 11; 23, 20-21 tất cả các bản văn này đều quy chiếu về các “anh em” Do thái) và đến hưu niên (année sabbatique) thì mọi nợ nần và vay mượn đều được tha ít nhất trên lý thuyết (Đnl 15). Làm thế là vì Israel muốn mãi mãi là một dân tộc sống tình anh em. Ở đây hình như Chúa Giêsu muốn nới rộng luật ấy theo nghĩa là người yêu cầu hãy cho vay bất cứ ai xin vay, mà đừng để ý đến chủng tộc hay tôn giáo của họ. Gia đình Israel phải mở rộng cửa nhà mình cho tất cả mọi người.
“Hãy ghét địch thù”: Trong lúc mấy phản đề trên kia quy chiếu về các khoản luật đích xác của Cựu ước thì ớ đây lại khác hẳn. Quả vậy, ta chẳng tìm đâu ra trong Cựu ước mệnh lệnh minh nhiên phải ghét địch thù. Có lẽ lời huấn thị chỉ muốn chống lại tư tưởng khá phổ biến trong Do thái giáo suy đồi là: tất cả những ai không thuộc thành phần cộng đoàn quốc gia và tôn giáo đều là thù địch. Đặc biệt trong các bản văn Qumrân, ta thấy tỏa ra lòng khinh miệt ghê gớm đối với “con cái tối tăm”; các Thánh vịnh của Salomon cũng cho nhiều ví dụ tương tự. Thành thử có lẽ trong bối cảnh này, thù địch không phải là đối phương cá nhân bên trong cộng đoàn tôn giáo, cũng chẳng phải là thù địch của quốc gia theo nghĩa chính trị hay quân sự, nhưng là kẻ bách hại đức tin, kẻ thù của cộng đoàn thiên sai do các Kitô hữu đầu tiên thành lập. Trước đó, trong bản 70, chữ echthros đã thường chỉ các thù địch của dân Thiên Chúa (Tv 31, 7; 139, 21 v.v…); lời ám chỉ đến các người bắt bớ trong câu tiếp theo củng cố giả thiết vừa nói; sau cùng các thánh thư cũng cho thấy chữ này thường được dùng theo nghĩa ở thế kỷ thứ nhất (2 Tx 3, 15; Rm 5, 10; Cl 1, 21; Gc 4, 4).
Tình yêu nói đây không phải chỉ là chẳng giận hờn, chẳng báo oán nhưng, như trong Cựu ước và Tân ước, luôn luôn là hành động cụ thể, là hiệp thông sống động biểu lộ qua các cừ chỉ rõ ràng (Vd. Lời chào hỏi nơi c.47). Cầu nguyện cho các người bắt bớ không phải là biểu thức duy nhất của tình yêu đó, song chỉ là một trong các cách biểu lộ tình yêu; chữ khi (và) chẳng có nghĩa giải thích nhưng có nghĩa: và đặc biệt. trong khi làm các cử chỉ yêu thương này, có thể ta vẫn mang tâm trạng oán hận hay ác cảm tự nhiên đối với kẻ thù hiện gây cho ta đau khổ. Trong một trường hợp như vậy, dù cố gắng thế nào, cũng khó mà chế ngự các phản ứng nhạy cảm được. Nhưng Chúa Giêsu không đứng trên bình diện tâm lý, và chẳng muốn phân biệt giữa điều cảm thấy và điều ưng thuận như các nhà luân lý học thường làm một cách chính đáng. Người đứng trên bình diện hành lang cụ thể (vd: cầu nguyện, c.44; chào hỏi, c.47), nơi phê phán sau cùng sự chọn lựa sâu xa của con người vượt trên mọi xao động của cảm giác.
“Hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành”: Hình như lời tuyên bố này không chỉ kết thúc đoạn văn về lòng yêu thương thù địch, mà còn kết thúc cả đoạn gồm cc. 17-48 về việc chu tất Lề luật theo quan niệm của Chúa Giêsu. “Câu nói” (logion) rõ ràng cảm hứng từ Lv 19, 2: “Hãy nên thánh, vì Ta là Đấng thánh” và từ Đnl 18, 3: “Ngươi hãy nên trọn. lành trước mặt Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Có nhiều cách giải thích nó. Nhưng hình như phải loại bỏ ý tưởng về một sự tương đồng kiểu hữu thể học (xa lạ với tư tưởng Hy bá) hay kiểu luân lý học theo nghĩa tuyệt đối không thể phạm tội là một điều bát khả đối với tạo vật, trừ phi được đặc ân ngoại thường). Thật ra, chủ đề “trọn lành”, trong các bản văn Kinh Thánh, diễn tả ý tưởng dấn thân hoàn toàn, thuộc trọn về một mình Thiên Chúa. Đó cũng là ý nghĩa của teleios (trọn lành) được một dùng thêm một lần nữa, trong câu chuyện Chúa Giêsu đề nghị người thanh niên giàu có bán của cải anh ta có và đi theo Người nếu anh muốn nên trọn lành (19, 21). Hạn từ này xem ra liên hệ với hạn từ công chính”: người trọn lành là người thực thi tròn đầy Lề luật đã được Chúa Kitô tái giải thích.
KẾT LUẬN
Dù ta có thể nghĩ rằng các thành ngữ Chúa Giêsu dùng trong đoạn văn này có tính cách nghịch lý, thì sứ điệp căn bản vẫn rành rành: môn đồ của Chúa Giêsu được mời gọi hãy yêu thương tất cả mọi người không trừ ai và yêu thương một cách cụ thể, chứ đừng để cho tà ý hay hận thù lấn át tình yêu. Như thế, họ mới tỏ ra mình là con cái đích thật của Cha trên trời.
Ý HƯƠNG BÀI GIẢNG
Trong một thế giới bị chi phối bởi luật “do út des” (hòn đất ném đi, hòn chì ném lại), giáo huấn của Chúa Giêsu thật mở ra nhiều viễn tượng mênh mông. Nó giúp ta tránh khỏi cái vòng quỷ quái của toan tính ích kỷ, của hành động vụ lợi, của thù hận đáp trả hận thù. Chỉ tình yêu mới có thể phát sinh tình yêu. Chỉ các Kitô hữu bị thu húat bởi sức mạnh chinh phục của sự dịu dàng nơi Chúa Kitô, mới có thể tạo nên trong thế giới một cuộc cách mạng ôn hòa có sức đánh đổ việc bóc lột người hèn yếu và bạo động quá đáng.
Các bản văn này buộc ta tự vấn về mức độ cởi mở của ta đối với kẻ khác. Phải chăng ta chỉ phục vụ, yêu thương cha mẹ và bằng hữu? Khi gặp dịp, ta có biết chấp nhận phiền toái để giúp đỡ những người xa lạ không?
Lý tưởng trọn lành của Kitô hữu chẳng phải là lý tưởng tránh phạm tội của Biệt phái, tiết độ của Khắc kỷ, hay vô cảm của Phât giáo. Kitô hữu không nhìn đến bản thân mình nhưng nhìn đến Chúa Cha, không tìm cách trau dồi các nhân đức như người ta vun trồng cây cối hay tìm cách tạc nên bức tượng thiêng liêng của mình, nhưng chỉ cố gắng bắt chước Chúa Cha, bằng cách gieo rắc tình yêu quanh mình. Và so với lòng nhân lành vô biên của Chúa Cha, người Kitô hữu luôn cảm thấy mình thiếu sót.
Khi thấy mình hoàn toàn không thể sống tình yêu mà Chúa Giêsu truyền dạy, Kitô hữu liền ý thức rằng chỉ ân sủng của Chúa Thánh Thần mới có thể biến đổi tâm hồn hẹp hòi của mình và làm cho mình nên giống như Chúa Giêsu cầu nguyện trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 25, 34).
Cách đây mấy năm, từ Rôma tôi hành hương đến Nhà thờ Chính tòa Vêrôna và đi thăm căn nhà Juliet. Khách du lịch đến đây thật đông vì muốn xem tận mắt nơi dệt nên câu chuyện tình lãng mạn bi thương.
Romeo và Juliet là một trong những vở kịch bất hủ trên sân khấu quốc tế do William Shakespeare viết. Cốt chuyện là tình yêu say đắm với kết cục bi thảm của hai người thuộc về hai dòng họ vốn đã thù hận nhau nhiều thế hệ.
Romeo và Juliet được viết vào khoảng 1594 – 1595, dựa trên một cốt truyện có sẵn kể về một mối tình oan trái vốn là câu chuyện có thật, từng xảy ra ở Ý thời Trung Cổ.
Câu chuyện bắt đầu tại thành Verona, hai dòng họ nhà Montague và nhà Capulet có mối hận thù lâu đời. Romeo, con trai họ Montague. Juliet, con gái họ Capulet. Đôi trẻ đã yêu nhau say đắm ngay từ cái nhìn đầu tiên tại buổi dạ tiệc tổ chức tại nhà Capulet, do là dạ tiệc hoá trang nên Romeo mới có thể trà trộn vào trong đó. Đôi trai gái này đã đến nhà thờ nhờ linh mục Friar Laurence bí mật làm lễ cưới.
Đột nhiên xảy ra một sự việc: do xung khắc, anh họ của Juliet là Tybalt đã giết chết người bạn rất thân của Romeo là Mercutio. Để trả thù cho bạn, Romeo đã đâm chết Tybalt. Mối thù giữa hai dòng họ càng trở nên sâu nặng. Vì tội giết người nên Romeo bị trục xuất khỏi Verona và bị đi đày biệt xứ. Tưởng như mối tình của Romeo và Juliet bị tan vỡ khi Romeo đi rồi, Juliet bị cha mẹ ép gả cho Bá tước Paris. Juliet cầu cứu sự giúp đỡ của cha Laurence. Ngài cho nàng uống một liều thuốc ngủ, uống vào sẽ như người đã chết, thuốc có tác dụng trong vòng 24 tiếng. Ngài sẽ báo cho Romeo đến hầm mộ cứu nàng trốn khỏi thành Verona. Đám cưới giữa Juliet và Paris trở thành đám tang. Xác Juliet được đưa xuống hầm mộ. Cha Laurence chưa kịp báo cho Romeo thì từ chỗ bị lưu đày nghe tin Juliet chết, Romeo đau đớn trốn về Verona. Trên đường về chàng kịp mua một liều thuốc cực độc dành cho mình. Tại nghĩa địa, gặp Paris đến viếng Juliet, Romeo đâm chết Paris rồi uống thuốc độc tự tử theo người mình yêu. Romeo vừa gục xuống thì thuốc của Juliet hết hiệu nghiệm. Nàng tỉnh dậy và nhìn thấy xác Romeo bên cạnh đã chết, Juliet rút dao tự vẫn. Cái chết tang thương của đôi bạn trẻ đã thức tỉnh hai dòng họ. Bên xác hai người, hai dòng họ đã quên mối thù truyền kiếp và bắt tay nhau đoàn tụ, nhưng câu chuyện tình yêu ấy vẫn mãi sẽ là nỗi đau rất lớn trong lòng những người biết đến họ.
Câu chuyện tình bất hủ Romeo và Juliet đã đi vào lịch sử nhân loại. Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ đã viết thi ca âm nhạc ca tụng tình yêu. Những vỡ kịch, những bộ phim diễn tả hấp dẫn mối tình lãng mạn của đôi tình nhân trẻ. Nếu câu chuyện tình của họ được kết thúc một cách tốt đẹp và bình thường, chắc sẽ không có ai nhắc đến. Nhưng Romeo Juliet là nạn nhân của sự thù hận giữa hai gia tộc. Không ai có thể tìm cách để giải hòa được sự thù hận ấy. Sự thù hận dẫn đến đau thương cho cả hai bên. Sự thù hận đã cướp đi mạng sống của đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết. Sự thù hận giết chết một mối tình đẹp, nhân loại ngàn đời xót xa nuối tiếc. Sự thù hận khởi phát từ tâm hồn ích kỷ.
Giáo huấn độc đáo của Chúa Giêsu
“Hãy yêu thương tha nhân và ghét thù địch”. Mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi (Lv 19,18). Theo đó, người Do thái chỉ yêu thương những người đồng loại, tức là những người thuộc dân riêng của Chúa, dân Israel. Còn dân ngoại, họ coi như thù địch. Họ còn có luật và bổn phận ghét người ngoại bang, nhất là dân Amalec, dân Moab (x. Đnl 25,18; 23,6).
Chúa Giêsu đã kiện toàn những giới hạn của luật cũ, và mạc khải cách trọn hảo về điều luật mới, khi dạy: “Anh em hãy yêu thương kẻ thù” (Mt 5,43a).
Luật cũ dạy yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau; Luật mới dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.Tinh thần luật cũ “mắt đền mắt, răng đền răng”; Pháp lý của Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ: lấy thiện thắng ác.Tinh thần luật cũ là chỉ yêu thương người đồng bào; Giáo huấn mới là hãy yêu thương thù địch và làm ơn để báo oán.
“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu. Người đã cắt nghĩa rất cụ thể. Yêu thương kẻ thù là: Làm ơn cho kẻ ghét mình.Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.Ai lấy gì thì đừng đòi lại…Chúa Giêsu dạy yêu thương, chính Người đã sống yêu thương, luôn tỏ tình yêu thương những kẻ thù nghịch với mình, mặc dù họ ghen ghét vô cớ, họ luôn tìm dịp tố cáo xuyên tạc lời Người giảng dạy. Chúa Giêsu dạy: lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời “Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”.
“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nổ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người.
“Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
Con đường mới cho nhân loại
Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.
“Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân.
Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
“Yêu thương kẻ thù” là điều không dễ chút nào xét trên bình diện con người tự nhiên. Tha thứ cho những kẻ làm hại hay xúc phạm đến mình đã là điều khó rồi, huống chi là yêu thương, làm ơn và cầu nguyện cho họ nữa. Khi đã ghét nhau, chỉ nhìn thấy mặt, nghe giọng nói đã thấy khó chịu rồi, nói gì đến yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho nhau. Quả thật, đây là một việc vô cùng khó khăn, nhưng chúng ta có thể thực hiện được nếu có ơn Chúa trợ giúp. Chính thánh Phaolô đã quả quyết điều này: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi” .
Trong cuộc sống, người ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Hãy cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ.Thánh Phaolô khuyên: “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Trong bài đọc 1, ông Môisen dạy: Đừng giữ lòng thù ghét anh em, đừng tìm cách báo oán và cũng đừng để lòng những lời nhiếc mắng của kẻ khác. Còn thánh Phaolô đòi buộc chúng ta không được khinh rẻ người khác (bài đọc 2).
Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét. Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu. Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ. Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: “Anh em hãy yêu kẻ thù…Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).
Lạy Chúa Giêsu, trên thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ. Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người. Amen.
Hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.
"Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.
thừa sai của Chúa.Thánh sử Mátthêu học được nhiều điều, qua hành động và cuộc sống từ các Đạo hữu theo chân Chúa. Đặc biệt, là các vị có liên hệ mật thiết với thánh Phêrô tông đồ, thời tiên khởi. Khi ghi chép Tin Mừng Mát-thêu, tác giả đã ở vào độ tuổi cao niên khá cứng, nhưng ông lại là người có tầm nhìn thông thoáng, thi vị. Ông đề cập nhiều đến những con người và người con có tâm tư chân phương. Bình dị. Nhưng có tư cách.
Thánh-sử Mátthêu, là cây viết sáng giá, chung đụng nhiều với người Do thái, nhưng dùng tiếng Hy Lạp để ghi chép Tin Mừng. Và, qua văn phong lập trường của ông mang tinh Kitô nên các nhà chú giải cho rằng tác giả là một trong các Kitô-hữu đầu tiên, ở thời ấy.
Tin Mừng do tác giả viết, gồm lời lẽ ân cần gửi các đấng bậc khôn ngoan/thông thái ở Israel. Nhờ đó ta học được nhiều điều qua các dạng thức, như: lời sấm, dụ ngôn, phương châm, hoặc tư vấn, nhất nhất đều nhấn mạnh đến điều Chúa giảng rao cho mọi người. Bởi thế nên, người đọc nhận ra những 73 lần tác giả lập đi lập lại cụm từ “tông đồ”, ở “Tin Mừng” này. Và vì thế, người đọc cũng nên hiểu cụm từ “tông đồ” theo nghĩa các “đấng bậc khôn ngoan/uyên bác” chuyên học hỏi những điều hay lẽ phải, do từ Chúa phán ra. Và cũng vậy, người đọc đừng nên hiểu rằng tác giả “Tin Mừng” là nhà thức giả thuộc tầm cỡ đại học, chuyên ngồi trong phòng lạnh để viết. Hãy cứ tưởng tượng rằng: khi ghi chép “Tin Mừng” này, tác giả suy tư dưới ánh đèn leo lét với tâm tình nguyện cầu, có bầu khí ẩm ướt, nặc mùi khô cháy. Có lưới cá đang hơ hóng, ở đâu đó…
Nay có người hỏi: thánh Mátthêu muốn chuyển tải điều gì mới mẻ, khi ghi Lời Chúa?
Hầu hết các cộng đoàn tin theo Chúa sống ở Giêrusalem, đều mang tính chất “Do thái”. Tấ cả đều thấy nơi Đức Giêsu một Môsê rất mới để các vị nghe lời. Vì, xét cho cùng, Ngài còn mới hơn cả chính tiên tri Môsê, bởi Ngài là Đấng luôn chủ trương những điều mới mẻ, nơi Lề Luật. Và, điều mới mẻ khác nữa, là: Ngài không cất bỏ đi yếu tố quan trọng sẵn có từ hậu duệ của Đavít. Và, mọi người còn nhận ra nơi Đức Giêsu, hệt như ở Môsê và Đavít, ảnh hình của Đấng Bậc Hiền Từ, rất đặc biệt. Đặc biệt, là bởi người người đều nhận thấy rằng: qua Ngài và ở nơi Ngài “Ơn Cứu Độ” đã đến, là đến với cả Dân ngoại nữa. Ngài đến, qua trung gian Israel hoặc những người Do thái, tức: những người lúc ấy vẫn ở trong tư thế cách xa và tách rời khỏi dân-được-chọn. Và, họ coi đó như ân sủng riêng tư, nhận từ Chúa. Bởi thế nên, trở thành người hết lòng tin tưởng vào Đức Giêsu, phải là người Do thái tích cực, phóng khoáng, những người chủ trương tuân giữ Luật Torah rất Đạo. Từ đó, cộng đoàn dân Chúa đã thấy mọi người tập trung nhấn mạnh đến Luật Torah. Quyết tuân giữ Lề Luật cách kiên trì, nhưng thông thoáng. Tuân và giữ, theo tinh thần tự do của người con Đức Chúa, mới đúng.
Vốn đặt nền tảng vững vàng lên truyền thống rao giảng kiểu thánh Phaolô Tông đồ, Hội thánh Chúa khi ấy đã có tầm nhìn rất khác lạ về Lề Luật. Và, Hội thánh đã coi Đức Giêsu là Đấng Bậc rất Do thái, chủ trương giữ Luật Torah thật đúng qui cách. Rất tự do, phóng khoáng, cho đúng nghĩa. Kể từ đó, Hội thánh vốn có sẵn tinh thần giảng rao của thánh Phaolô, lại đã khám phá ra rằng: tự do con cái Chúa là một hiện hữu rất đích thực, khi ta tuân thủ Lề Luật, rất Torah.
Là người Do thái sống ở miền Bắc xứ Palestin thời tiên khởi, thánh sử Mát-thêu xuất xứ từ một quá trình cuộc sống, có lập trường khá bảo thủ. Chí ít, là truyền thống giữ luật đúng qui cách, như Chúa dạy. Thánh sử cũng lo rằng nhiều truyền thống có thể sẽ mai một đi nếu không có người bận tâm lo duy trì nó. Và, thánh sử còn một mối lo ngại nữa, cứ e rằng: rồi ra sứ vụ tông đồ rao giảng kiểu Phaolô thánh nhân, có thể sẽ khiến truyền thống của người Do thái trở thành thứ yếu, mất đi tầm quan trọng. Do đó, thánh sử gia đã cảm thông với tình huống mà cộng đoàn Hội thánh ở Giêrusalem đang sống, dù cho thánh sử không thuộc về cộng đoàn này.
Cũng vì thế, tác giả quyết tâm tái cấu trúc cộng đoàn theo kiểu cộng đoàn dân Chúa ở Giuđêa, nghĩa là: không chỉ rập theo khuôn phép cũ của người Do thái, nhưng còn phổ biến lối sống của cộng đoàn Hội thánh Giêrusalem, hoặc có khuynh hướng mục vụ rao giảng theo kiểu của thánh Phaolô. Bởi thế nên, người đọc nhận ra rằng: “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” cũng mang dáng vẻ bảo thủ qua việc đòi mọi người giữ luật cho đúng qui cách. Chí ít, là cải cách niềm tin của người Do thái theo khuôn khổ “chiên lạc rời khỏi ràn nhà Israel”. Thành thử, tinh thần của thánh sử và của cộng đoàn nơi thánh nhân sinh hoạt vẫn có khả năng duy trì mối liên kết chặt chẽ với đền thờ người Do thái.
Tuy nhiên, thánh sử Mát-thêu không quên rằng: chính Đức Kitô mới là Đấng ta cần tin vào Ngài. Thánh sử diễn tả lập trường này theo lối viết giản đơn, rất thông thường, rằng: thay vì ta áp dụng nguyên tắc đền và bù như: “mắt đền mắt”, “răng đền răng”, tác giả lại khuyên người đọc Tin Mừng của ngài, hãy nên sử dụng đường lối bất-bạo-động. Và, thay vì phòng thủ hoặc trả thù, thánh sử đề nghị ta nên khoan dung, độ lượng. Thay vì lo cho riêng mình, hãy quan tâm ái ngại đến người khác. Với thánh sử Mát-thêu, đây không phải là lạc quan sáng suốt, cũng chẳng là đường lối tư riêng độc quyền của người Hy Lạp, nghĩa là đường và lối chỉ chú trọng vào cuộc sống tư riêng của người khác, thôi. Nhưng, là: hãy áp dụng luật Torah theo qui cách thương yêu, như Chúa đã khuyên dạy.
Điều cốt thiết mà thánh sử nhận ra nơi lời dạy của Chúa, là: Ngài là người giữ luật Torah, rất đúng cách. Tuy nhiên, Ngài chú trọng đến tinh thần, chứ không phải chữ viết của Luật. Nói cách khác, người đọc “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu không thể hiểu Luật Torah cho đúng cách, nếu không thi hành lời dạy của Đức Giêsu cũng như cộng đoàn nhỏ bé của Ngài, là Hội thánh thời tiên khởi. Bởi, cộng đoàn Hội thánh mới là người sống thực Luật Torah theo tinh thần Chúa đề ra. Và, thánh sử lại thêm rằng: dân con thành thánh Giêrusalem không chắc đã nhận ra được điều này. Vì thế nên, người đọc “Tin Mừng” có thể kết luận rằng: tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” quả là phóng khoáng cũng rất đúng.
Vậy, người đọc hôm nay học hỏi được điều gì qua sự việc này? So sánh kinh nghiệm của các thừa sai tông đồ thời tiên khởi với kinh nghiệm thời Hậu-Công Đồng Vatican II, dân con Hội thánh nhận ra được điều gì? Ta có nhận ra được năng lực và tự do con cái Chúa nơi cộng đoàn Hội thánh tiên khởi theo kiểu thánh Phaolô không? Phải chăng, so sánh kinh nghiệm về cố gắng ‘tái lập’ di sản được bảo tồn, đáng yêu từ một truyền thống rất đúng đắn? Truyền thống, có là qui cách mà tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” hằng cảnh báo Hội thánh hãy trở về với tính chất Do thái, ở lai thời không?
Nếu tác giả “Tin Mừng Mátthêu” còn sống, hẳn ông sẽ lại yêu cầu các đấng bậc vị vọng trong Hội thánh quan tâm nhiều hơn nữa đến việc tái tục truyền thống có từ thời tiên khởi? Và, Hội thánh cũng nên nhìn vào Đức Giêsu hơn là các truyền thống mà các ngài muốn duy trì, bảo vệ. Hẳn rằng thánh sử Mát-thêu cũng sẽ yêu cầu mọi thành viên Hội thánh hôm nay hãy có tầm nhìn phóng khoáng và cởi mở, tốt hơn là ở lại với truyền thống xưa/cũ. Như Đức Giêsu khi xưa, vẫn đứng về phía những người duy trì Luật Torah, bằng tinh thần chứ không theo từng chữ. Và, ảnh hình Chúa chấp nhận dìm mình thanh tẩy nơi sông Giođan, sẽ là bằng chứng điển hình cho việc tuân giữ Luật Torah, rất tự do. Rất có tinh thần thương yêu. Đúng qui cách.
Thật là khó để tác tạo được một quân bình cho cơn sóng dồn và sức ép từ Lề Luật, thế mà Ngài vẫn chấp nhận dầm mình dưới giòng sông Giođan để chứng tỏ tinh thần giữ Luật đúng cách. Nhưng, tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” vẫn sẽ là vị học giả cao niên, chín chắn. Là vị thức giả hiểu rõ hơn ai hết tinh thần của người Do thái. Hiểu Đức Kitô và người nghèo, hơn ai hết. Tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” chính là người có được nhận thức mới về sự khôn ngoan, thông suốt cho mỗi người chúng ta.
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su đề xuất một giải pháp tối ưu để dập tắt bạo lực và hận thù trong đời sống con người. Đó là: “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra luôn” (Mt 5, 39).
Trước lời dạy nầy, những người nông nổi cho rằng làm như thế là nhu nhược, hèn nhát, yếu đuối… Thế mà một nhân vật lịch sử vĩ đại là Mahatma Gandhi, người anh hùng của dân tộc Ấn Độ, người lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập cho nhân dân Ấn, đã áp dụng lời dạy khôn ngoan này của Chúa Giê-su vào công cuộc đấu tranh bất bạo động của mình, nhờ đó, ông đã giành lại độc lập cho dân tộc Ấn khỏi ách thống trị của thực dân Anh cách êm thắm, nhẹ nhàng. [1]
Ngoài ra, lời dạy tiếp theo của Chúa Giê-su “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” cũng làm cho nhiều người cho là không tưởng, không mấy ai làm được.
Vậy mà Martin Luther King, nhà lãnh đạo tài ba của phong trào chống kỳ thị chủng tộc tại Mỹ, lại chọn lời khuyên quý báu này làm kim chỉ nam cho cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người Mỹ da đen và đã đạt được thắng lợi vẻ vang. Martin Luther King sinh năm 1929 là một mục sư người Mỹ gốc Phi.
Chính vì đứng lên đòi quyền bình đẳng cho người Mỹ da đen trước sự kỳ thị của người da trắng, nên vào ngày 30 tháng 1 năm 1956, nhà riêng của King bị người da trắng đánh bom. Thế là những người ủng hộ King giận dữ tụ tập đông đảo trên con đường trước nhà ông. Họ tự vũ trang với dao, súng, gậy gộc, gạch đá và chai lọ... với quyết tâm báo thù. Trước bầu khí hừng hực đòi trả thù báo oán của những người da đen ủng hộ mình, King lên tiếng nói với họ:
“Xin các bạn đừng hốt hoảng, đừng làm bất kỳ điều gì trong giận dữ! Ai đang mang vũ khí, xin hãy đem về! Ai không có vũ khí, xin đừng sử dụng chúng. Chúng ta không thể giải quyết vấn nạn này bằng những vụ bạo động, trả đũa... Chúng ta phải yêu thương những người anh em da trắng bất kể họ đã làm gì đối với chúng ta. Chúng ta phải hành động để họ biết rằng chúng ta yêu họ. Giáo huấn của Chúa Giê-su vẫn còn vang vọng đến hôm nay: "Hãy yêu thương kẻ thù, hãy chúc phúc cho kẻ rủa mình và cầu nguyện cho kẻ sỉ nhục mình.” Đó là điều chúng ta phải làm. Chúng ta phải lấy tình yêu mà đáp trả lòng thù hận” (Lu-ca 6, 27,28).
Thế là nhờ thực hành lời Chúa Giê-su dạy hãy lấy tình thương đáp trả hận thù, Martin Luther King đã đạt thắng lợi vẻ vang trong công cuộc đòi bình đẳng cho người da đen bị người da trắng áp bức bất công và đạt được thành công cách êm thắm.
Búa tạ giáng vào đá có thể làm cho đá cứng vỡ tan, giáng vào tường có thể làm cho tường sụp đổ nhưng giáng vào nước thì không thể làm cho nước hư hao, giáng vào bức màn, không thể làm cho màn rách nát. Sự hung bạo cứng rắn của búa không thắng được sự mềm mại của nước, không thắng được sự dịu dàng của bức màn.
Bão tố, cuồng phong có thể quật ngã những cây cổ thụ cao lớn nhưng không thể bẻ gãy loài lau sậy yếu mềm.
Vậy thì chúng ta cũng hãy lấy sự dịu hiền, mềm mại và lòng bao dung để chiến thắng những tấn công thô bạo, hung hãn của người khác. Nghệ thuật nhu thắng cương là thế.
*** Lạy Chúa Giê-su,
Nếu chúng con dùng bạo động và hận thù để đáp trả bạo động hận thù, thì bạo động và hận thù sẽ dâng cao; trái lại, nếu chúng con dùng sự khoan dung, tha thứ mà đáp trả… thì bạo động và hận thù sẽ bị dập tắt.
Xin cho chúng con ghi khắc quy luật ngàn vàng này vào tâm khảm và đem ra áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, nhờ đó, chúng con sẽ tránh được nhiều đau thương đổ vỡ trong đời sống và cuộc đời sẽ chan hòa hoan lạc và niềm vui.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
***
Tin mừng Mát-thêu 5, 38-48
38 "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng.39 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.40 Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài.41 Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm.42 Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.
43 "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù.44 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. 45 Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.46 Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?47 Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?48 Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.
Bất khoan dung
Nếu chúng ta không chấp nhận giáo lý khoan dung và tha thứ của Chúa Giê-su, thì hậu quả sẽ thế nào?
Khi người ta quai búa tạ vào tảng đá cứng, đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại búa, hậu quả là đá sẽ nứt vỡ ra, bị nghiền tán ra. Đá bị thất bại hoàn toàn!
Nhưng khi người ta quai búa giáng mạnh xuống hồ nước, nước sẽ dùng sự mềm mại của mình để vô hiệu hoá sức mạnh của búa. Nước không hề hấn gì nhưng búa thì sẽ bị chìm lĩm xuống tận đáy hồ. Thế là nước thắng lợi vẻ vang!
Khi gặp bão táp cuồng phong, những cây cổ thụ cao lớn cứng cáp dùng sự cứng rắn mạnh mẽ của mình để kháng cự lại bão tố. Hậu quả là chúng bị gãy cành, trốc gốc. Trong khi đó, những rặng tre, những cây lau sậy không hề kháng cự lại bão tố, nhưng dùng sự mềm dẻo của mình để uốn theo chiều gió nên chúng được an toàn.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VII Thường Niên Năm A mời gọi con cái Thiên Chúa phải nên thánh thiện như Cha của họ, là Đấng Thánh ngự trên trời. Sự hoàn thiện gặp thấy đỉnh cao của nó ở nơi luật yêu thương.
Lv 19: 1-2, 17-18
Bài Đọc I được trích từ sách Lê-vi, chính xác hơn từ phần được gọi “Luật Thánh Thiện” ở đó Đức Chúa đòi hỏi dân Ngài: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” và “Ngươi hãy yêu đồng loại như yêu chính mình”.
1Cr 3: 16-23
Thánh Phao-lô nhắc các tín hữu Cô-rin-tô nhớ rằng mọi người Ki-tô hữu là “Đền Thờ Thiên Chúa” vì họ được Chúa Thánh Thần ở cùng; họ không thuộc về sự khôn ngoan đời này nhưng sự khôn ngoan Thiên Chúa, vì họ thuộc về Đức Ki-tô và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa.
Mt 5: 38-48
Bản văn Tin Mừng Mát-thêu là phần tiếp theo diễn từ của Đức Giê-su về luật mới: “Anh em đã nghe Luật dạy… Còn Thầy, Thầy bảo anh em…”.
BÀI ĐỌC I (Lv 19: 1-2, 17-18)
Sách Lê-vi là quyển sách thứ ba trong năm quyển sách của bộ “Ngũ Thư”: sách Sáng Thế, sách Xuất Hành, sách Lê-vi, sách Dân Số và sách Đệ Nhị Luật. Năm sách này hình thành nên Lề Luật và nguồn cảm hứng của chúng, theo truyền thống, lên đến tận ông Mô-sê, nhà lập pháp vĩ đại của dân Ít-ra-en.
Sách này là cẩm nang chủ yếu dành cho các thầy tư tế hay các thầy Lê-vi, vì thế sách được gọi là sách Lê-vi vì những người này đều thuộc về chi tộc Lê-vi. Chi tộc này có một quy chế đặc biệt; họ không sở hữu đất đai và được dành riêng để phục vụ nơi thánh thay cho dân Ít-ra-en, vì thế Đức Chúa là gia nghiệp của họ. Xưa kia, tư tế và lê-vi là một. Sau này, danh xưng tư tế được dành cho những ai thực hiện những chức năng chính thức trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem, trong khi các thầy Lê-vi đảm nhận những công việc thứ yếu.
Sách Lê-vi được trình bày như một bộ sưu tập các huấn thị nghi thức và các nguyên tắc luân lý thuộc nguồn gốc và niên biểu khác nhau, thường rất xa xưa, với một ý tưởng chủ đạo: hình thành nên lương tâm luân lý của một dân tộc kề cận với sự thánh thiện của Thiên Chúa của mình. Công trình biên soạn chung cuộc thì rất muộn thời: đầu thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, tức là sau thời kỳ hồi hương trở về và công việc tái thiết Đền Thờ thứ hai, tuy nhiên công việc sưu tập các bản văn và các truyền thống đã là một công trình dài lâu, khởi sự rất sớm, chắc hẳn ngay từ cuối thời quân chủ (đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên).
Bản văn của chúng ta được trích từ chương 19, chương này góp phần hình thành nên một tổng thể được gọi “Luật về sự Thánh Thiện” (ch 17-26).
1.Đức Chúa phán với ông Mô-sê:
Phần lớn các chương của sách Lê-vi đều bắt đầu: “Đức Chúa phán với ông Mô-sê”. Đối với dân Ít-ra-en, Lề Luật là cách diễn tả thánh ý của Thiên Chúa mà ông Mô-sê là người trung gian. Nhà biên soạn sách Lê-vi xây dựng hoạt cảnh, không chỉ trên núi Xi-nai, nhưng còn ở dưới chân núi, trước “Lều Hội Ngộ” nơi đặt Hòm Giao Ước. Đây không là hư cấu văn chương nhưng là ý hướng thần học: tất cả những khai triển Lề Luật chỉ là nối dài pháp luật đầu tiên và được định vị vào trong cùng một tinh thần, một sự liên tục không bao giờ bị gián đoạn.
2.Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en:
Thật ra, Ít-ra-en là một cộng đồng trước khi là một quốc gia; họ là “dân Thiên Chúa” và căn tính của họ chỉ được diễn tả tròn đầy ở nơi cộng đoàn phụng vụ.
Mệnh lệnh này được ban cho ông Mô-sê để ông nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en chỉ được gặp thấy một lần trong sách Lê-vi: vào lúc tấn phong các tư tế. Xem ra nhà biên soạn đã muốn đối chiếu giữa hai cách thế đi vào trong mối hiệp thông với Thiên Chúa:
Đối với sách Lê-vi, các tư tế là những người trung gian giữa con người và Thiên Chúa. Các sách Cựu Ước khác còn xem ngôn sứ hay vua là những người trung gian. Theo “sách Lê-vi”, phụng tự và chức tư tế cấu thành nên sự trung gian cốt yếu. Vào thời kỳ biên soạn sách Lê-vi chung cuộc, dân Ít-ra-en đã không còn vua và truyền thống ngôn sứ đang trên đường biến mất. Qua đức tin của mình và việc thực hành các quy tắc thánh thiện, các tín hữu cũng có thể đi vào trong mối thân tình của Thiên Chúa.
3. “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”:
Điều răn này được lập lại nhiều lần trong sách Lê-vi, và lời dạy của Chúa Giê-su cũng âm vang điều răn này: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5: 48).
Sự thánh thiện của Thiên Chúa là ý tưởng chủ đạo của sách Lê-vi. Thiên Chúa được gọi là “thánh” không chỉ vì Ngài được ban cho phẩm chất luân lý cao nhất, nhưng để nhấm mạnh khoảng cách vô tận của Ngài với phàm nhân tội lỗi, tính cách bất khả đạt của Ngài, mầu nhiệm cao vời khôn ví của Ngài. Noi theo Thiên Chúa của mình, dân Ít-ra-en được mời gọi tách riêng ra khỏi các dân ngoại, tránh xa tội lỗi, thánh hóa chính mình. Những chỉ thị của Luật Thánh Thiện chỉ cho họ con đường.
Phần thứ hai của bản văn trích dẫn vài lời khuyên bảo luân lý, mà một trong số đó cấu thành một trong những đỉnh cao Cựu Ước: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như yêu chính mình”.
4. “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”:
Nguyên tắc này, được đặt lại vào trong mạch văn của nó, không có tầm mức quy mô như Tân Ước sẽ ban cho nó.
“Đồng loại” là tất cả thành viên của dân Ít-ra-en. Toàn bộ đoạn văn liên quan đến những mối liên hệ xã hội ở bên trong cộng đồng. Chúng ta cũng gặp thấy những xưng hô khác như “người anh em”, “người đồng hương”. “Người anh em” trong câu: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em”, chỉ một thành viên thuộc cùng giòng dõi, cùng bộ tộc. “Người đồng hương” trong câu “Ngươi phải mạnh dạn quở trách người đồng hương”, tức là một người Ít-ra-en. Vì thế, viễn cảnh bị thu hẹp lại ở nơi câu: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”.
Tuy nhiên, khi tiếp tục đọc chương này, chúng ta gặp thấy ở câu 34: “Các ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình”. Câu này triển khai luật yêu thương, chắc chắn còn trong những giới hạn của việc đồng hóa người ngoại kiều với một người Ít-ra-en, tuy nhiên luật yêu thương được mở rộng rồi. Chỉ thêm một bước nữa đạt đến tầm mức của tình yêu dành cho hết mọi người mà Chúa Giê-su sẽ dạy và Ngài còn đi xa hơn nữa cho đến huấn lệnh “Phải yêu kẻ thù”.
Đức Giê-su sẽ kết hợp điều răn yêu người này với điều răn mến Chúa. Điều răn mến Chúa này được gặp thấy trong một quyển sách khác của bộ “Ngũ Thư”, sách “Đệ Nhị Luật” (Đnl 6: 5). Đức Giê-su ban cho hai điều răn này một tầm quan trọng như nhau và tóm gọn mọi Lề Luật vào trong hai điều răn này (Mt 22: 37-40; Mc 12: 29; Lc 10: 25-28). Ngài sẽ chứng mình hai điều răn này tương tự nhau khi đồng hóa mình với người đồng loại: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40).
Cựu Ước đã không hiệp nhất hai điều răn này và cũng không đồng hóa Thiên Chúa với người đồng loại. Chính Đức Ki-tô, vừa Thiên Chúa vừa con người, thực hiện sự ngang bằng này.
BÀI ĐỌC II (1Cr 3: 16-23)
Bản văn này mang đến một câu kết luận cho ba lập luận của thánh Phao-lô, chứng minh cho các tín hữu Cô-rin-tô thấy rằng việc họ phân chia thành những bè phái dựa trên một ý tưởng sai lầm về Giáo Hội, một quan niệm lầm lạc về sự khôn ngoan Ki-tô giáo, một sự ngộ nhận về vai trò của các vị rao giảng.
Thánh Phao-lô vừa mới khai triển điểm thứ ba này. Thánh nhân đã so sánh công việc của các nhà rao giảng với công việc của những người kiến trúc sư: “Theo ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi đặt nền móng như một kiến trúc sư lành nghề, còn người khác thì xây trên nền móng đó…”. Như vậy mỗi người góp phần theo cách của mình vào việc xây dựng tòa nhà, tức là Đền Thờ Thiên Chúa, vì cộng đồng Ki-tô hữu không gì khác hơn một Đền Thánh ở đó Thiên Chúa ngự.
1.“Anh em là Đền Thờ Thiên Chúa:
Thánh Phao-lô dùng từ “naos”, từ này chỉ nơi cực thánh nhất, nơi Thiên Chúa ngự, nơi “ba lần thánh” của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Hình ảnh này rất gần với hình ảnh “Thân Thể Đức Ki-tô”. Thánh nhân sử dụng cả hai hình ảnh này, lúc thì luân phiên, lúc thì liên kết với nhau. Khái niệm “Đền Thờ tinh thần” cắm rễ sâu trong lịch sử của dân Ít-ra-en. Đức Chúa đã hứa với dân Ngài “Ngài sẽ ở giữa họ nếu họ tuân giữ các lề luật của Ngài” (Lv 26: 3-11). Kinh nghiệm về thời lưu đày ở Ba-by-lon, xa Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, vả lại bị phá hủy, đã khích lệ tâm tình của các tín hữu rằng sự kiện Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài là một thực tại tinh thần. Trước đó, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo rằng thời sẽ đến, vào thời đó tôn giáo sẽ được trở nên nội tâm hơn, thời Lề Luật sẽ được ghi khắc trong tâm khảm. Sau cùng, Đức Giê-su công bố rằng “thân thể của Ngài” là Đền Thờ mới, mà giờ đã đến, “giờ những người thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4: 23).
Lời khẳng định: “đền thờ ấy chính là anh em” được giải thích ngay liền sau đó: người Ki-tô hữu là “đền thờ của Thiên Chúa” vì “Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em”. Đây là chủ đề chính yếu của thần học thánh Phao-lô, đó là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần ở nơi mỗi người Ki-tô hữu: thần học này phù hợp với những lời hứa của Đức Giê-su và ơn thần khải của lễ Ngũ Tuần. Thánh nhân lập lại thần học này ở dưới một chút: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em” (1Cr 6: 19).
Đó là sự thánh thiện của cộng đồng Ki-tô hữu vừa trong toàn thể vừa trong mỗi một thành viên. Làm nứt rạn tòa nhà do tinh thần phe phái và những chia rẽ nội bộ, chính là phạm thánh.
2. Sự khôn ngoan đích thật:
Thánh Phao-lô nhắc lại sự đối lập giữa sự khôn ngoan thế gian và sự khôn ngoan Thiên Chúa, mà thánh nhân đã khai triển ở trên: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì có lời chép rằng: Ta sẽ hủy diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự thông thái của người thông thái” (1Cr 1: 18-19). Thánh nhân một lần nữa viện dẫn Kinh Thánh khi trích dẫn rất tự do sách Gióp tiếp đó một câu của Thánh Vịnh 94.
Trong nỗi chán chường thất vọng, đối mặt với những quyền lực sự ác, ông Gióp diễn tả niềm tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa, Đấng cất nhắc kẻ hèn mọn, đem lại niềm hy vọng cho người phiền muộn, phá vỡ mưu đồ của hạng tinh khôn, bắt kẻ khôn ngoan bằng chính những xảo kế của chúng và đi trước mưu toan của phường xảo quyệt (G 5: 11-13), mà thánh Phao-lô tóm tắt khi nói rằng “Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của nó”. Lời phê-phán thật nghiêm khắc: rõ ràng nhắm đến những tín hữu Cô-rin-tô tự cao tự đại.
Tv 94 cũng là lời kêu gọi cứu giúp của những người công chính chống lại phường vô đạo:
“Tư tưởng phàm nhân, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài!” (Tv 94: 11)
3.Những vị rao giảng của anh em là những người phục vụ mọi người:
Những chia rẽ của các tín hữu Cô-rin-tô đối với những vị rao giảng của họ làm chứng rằng họ không là những người khôn ngoan. Không ai được phép nói: “tôi thuộc về Phao-lô, hay A-pô-lô, hay Kê-pha”, vì có một sự đảo lộn: dù Phao-lô, A-pô-lô hay Kê-pha đều thuộc về anh em, họ là những người phục vụ cộng đồng Ki-tô hữu, họ hiến dâng bản thân mình cho mỗi người và cho mọi người.
4.Tất cả đều thuộc về anh em:
Thánh Phao-lô chuyển đổi ngạn ngữ Hy-lạp: “Tất cả đều thuộc hiền triết”, thường được các triết gia Khắc Kỷ lập lại. Hiền triết là người biết, hiểu, gắn bó với trật tự vũ trụ, vừa lý tính vừa thần linh. Người Ki-tô hữu cũng là người biết và còn biết hơn nữa, vì Đức Ki-tô đã mặc khải ý định của Thiên Chúa về nhân loại: người Ki-tô hữu cũng nắm giữ ý nghĩa “sự sống và sự chết, hiện tại hay tương lai”. Thánh Phao-lô thường ca ngợi sự hiểu biết cao cả này của người Ki-tô hữu: người Ki-tô hữu không phải cậy dựa vào con người nhưng phải đặt trọng tâm cuộc đời mình vào Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Mt 5: 38-48)
Bản văn Mát-thêu này tiếp nối bản văn Chúa Nhật trước. Đức Giê-su tiếp tục đối chiếu giữa những huấn lệnh Mô-sê và luật yêu thương mà Ngài thiết lập. Hai ví dụ mới được đưa ra để đối chiếu: luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” và luật “Yêu thương đồng loại của mình”.
1.Luật “mắt đền mắt, răng đền răng”:
Chúa Giê-su trích dẫn luật Cựu Ước: “Anh em đã nghe Luật dạy: ‘Mắt đền mắt, răng đền răng’”, được phát biểu trong sách Xuất Hành (21: 24) và được lập lại trong sách Lê-vi (24: 19-20). Vào thời Đức Ki-tô, luật này chỉ được áp dụng vào những trường hợp sát nhân: “mạng đền mạng”.
Vào thời đó, luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” này đã giới hạn bạo lực. Chúng ta thử đọc lại bài ca thù hận ngút ngàn được trích trong sách Sáng Thế:
“Vì một vết thương, ta đã giết một người, vì một chút sây sát, ta đã giết một đứa trẻ. Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy!” (St 4: 23-24).
Luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” đưa ra những giới hạn chặt chẻ giữa sự xúc phạm và sự trả thù. Luật này chỉ có thể áp dụng vào những tấn công về phương diện thể lý; nhưng trong việc thực hành, luật này thường tỏ ra khó áp dụng. Vì thế, những đền bù thiệt hại bằng tiền bạc dần dần được thay thế, ngoại trừ trường hợp sát nhân.
Khi trích dẫn luật xưa, Đức Giê-su muốn nói rằng không còn “ăn miếng trả miếng” nữa. Dù biết rằng ước muốn trả thù vẫn sống động trong tâm trí con người, Đức Giê-su đòi hỏi người ta không được buông theo ước muốn này, đừng tìm cách trả thù. Thái độ từ chối trả thù trực tiếp này đã được các hiền nhân Cựu Ước phác họa rồi. Hiền nhân Si-rác khuyên:
“Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa, tội lỗi nó, Người xem xét từng ly.
…..
Hãy nhớ đến các điều răn mà đừng oán hờn kẻ khác, nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao mà không chấp nhất điều lầm lỗi” (Hc 28: 1-7).
Sách Châm Ngôn khuyên:
“Bạn đừng nói: ‘Tôi sẽ báo thù!’ Hãy cậy trông Đức Chúa, Người sẽ cứu bạn” (Cn 20: 22).
Đức Giê-su còn đi xa hơn các hiền nhân này, khi dạy rằng “lấy thiện báo ác”, “lấy tình yêu đáp lại hận thù”. Ngài dùng những kiểu nói rất bắt mắt và mâu thuẫn để nhấn mạnh: “Nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để cướp lấy áo trong, thì hãy cho nó lấy cả áo ngoài”. Áo trong và áo ngoài là y phục chính yếu miền Cận Đông. Áo ngoài còn cần thiết hơn áo trong: đây là chăn mền mà người nghèo dùng để đắp trong đêm, vì thế luật cấm giữ lại áo ngoài qua đêm. Ở đây, Đức Giê-su đòi hỏi một hành vi đặc biệt có ý nghĩa.
Động từ được dùng trong câu: “Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm”, mang nét nghĩa đầu tiên là “trưng dụng phương tiện chuyên chở”, tiếp đó được mở rộng đến mọi công việc phục dịch. Xem ra chính nghĩa này phải giữ lại, bởi vì cốt là dặm đường phải đi. Người có quyền “trưng dụng” chắc hẳn là một binh lính hay quan chức Rô-ma. Quả thật, động từ này lại xuất hiện trong Tin Mừng Mát-thêu khi những người lính Rô-ma “trưng dụng” ông Si-mon thành Si-rê-nê vác đỡ thập giá với Đức Giê-su.
Luật truyền thống muốn rằng của bố thí và việc cho vay không lãi chỉ được dành cho những thành viên của đại gia đình Ít-ra-en, chứ không người ngoại kiều. Hơn nữa, năm sa-bát – cứ bảy năm một lần – bao gồm việc tha nợ nần. Những quy luật được thông qua ở bên trong cộng đồng. Khi công bố rằng “Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi”, Đức Giê-su muốn rằng những cử chỉ này phải ban cho hết mọi người, không phân biệt chủng tộc hay tôn giáo. Luật bác ái mà Đức Giê-su dạy không có giới hạn.
2.Yêu thương kẻ thù:
Lệnh truyền “Hãy yêu đồng loại” được gặp thấy trong sách Lê-vi, nhưng lệnh truyền “Hãy ghét kẻ thù” không được gặp thấy ở đâu trong sách Luật cả. Động từ “ghét” này chỉ cốt làm tương phản động từ “yêu thương”, theo một cặp đối lập rất đặc thù của ngôn ngữ sê-mít. Sự đối lập này được gặp thấy trong Luật Cộng Đồng Qum-ran: “Ngươi phải yêu thương con cái Ánh Sáng, nhưng ghét con cái Bóng Tối”. Dù sao đi nữa, cặp động từ đối lập này trình bày một tâm thức nào đó. Chúng ta đọc thấy trong sách Huấn Ca:
“Hãy cho người đạo hạnh, nhưng đừng giúp kẻ tội lỗi. Hãy xử tốt với người khiêm tốn, và đừng ủng hộ quân vô đạo, hãy khước từ, đừng cung cấp bánh ăn cho nó… Đừng bao giờ tin vào thù địch; vì đồng tiền ten sét thế nào, thì sự độc ác của nó cũng vậy” (Hc 12: 4-5, 10).
Quả thật, người Do thái ghét cay ghét đắng người Sa-ma-ri, khinh miệt người thu thuế, anh em đồng bào mặt dày mày dạn của mình cộng tác với quân chiếm đóng. Người Do thái chẳng bao giờ có những mối quan hệ bạn hữu với người ngoại giáo. Sách Lê-vi dạy yêu thương đồng loại của mình, nhưng quan niệm đồng loại bị hạn chế chỉ đóng khung vào đồng bào của mình. Đức Giê-su mở rộng cho đến hết mọi người. Luật đức ái phải lật đổ những phân biệt đối xử như thế. Khuôn mẫu của tình yêu này là mẫu gương của Cha trên trời, Đấng ban cho hết mọi người, kẻ xấu cũng như người tốt, ơn mưa mốc chan hòa.
Vào thời thánh Mát-thêu ghi lại những lời này: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”, chúng có một âm vang bi thảm. Đây là thời kỳ Hội Đường bách hại Giáo Hội tiên khởi không chút xót thương. Những Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh Mát-thêu ngỏ lời, phải chịu những phiền nhiễu thậm tệ về phía những đồng đạo trước đây của mình.
Nhưng những môn đệ Đức Ki-tô phải mở rộng lòng mình, không so đo tính toán hơn thiệt. Đức Giê-su đòi hỏi họ đức tính anh hùng này và kêu gọi họ hãy nên hoàn thiện, thuật ngữ này nhắc nhớ “Luật Thánh Thiện” của sách Lê-vi, trong đó Đức Chúa phán: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”; còn ở đây, Đức Giê-su truyền: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, là Đấng hoàn thiện”.
Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng trong đó Chúa kêu gọi mỗi người chúng ta phải nên hoàn thiện.
Chúng con có biết thế nào là hoàn thiện không ?Đây cha thí dụ cho chúng con nghe.
1. Ngôi Nhà Cuộc Đời.
Cha hỏi chúng con, đã có khi nào chúng con thấy người ta xây nhà chưa ?
Đã có khi nào chúng con nghe người xây nhà nói:
- Nhà đã xong phần thô rồi. Bây giờ đến phần hoàn thiện.
Hoàn thiện là gì chúng con ?
Hoàn thiện là làm cho nó tốt hơn, làm cho nó đẹp hơn, tuyệt vời hơn, trọn vẹn hơn. Tóm lại là làm cho nó xứng đáng với mong ước của mình hơn. Chúng con đã thấy người ra xây một ngôi nhà mới. Sau những ngày đêm làm việc vất vả để làm nên một ngôi nhà. Ngôi nhà đã được xây xong. Ngôi nhà đã có hình hài. Các thiết bị cần thiết đã được đặt xong vào các vị trí của nó. Thí dụ như các dụng cụ nhà vệ sinh, phòng tắm, phòng ăn, phòng khách, đèn trang trí.... có nghĩa là ngôi nhà đã có thể sử dụng để ở, nhưng nhìn ngôi nhà người ta vẫn chưa cảm thấy hài lòng. Còn một vài chi tiết nào đó phải được hoàn chỉnh hơn. Thí dụ như màu tường chưa được sáng, bàn ghế trang trí trong nhà chưa hợp lý, hay như chỗ làm việc mỗi ngày cũng chưa được hợp lý cho lắm, cần phải tiếp tục hoàn thiện thêm.
Cuối cùng thì ngôi nhà cũng đã hoàn thiện. Mọi người nhìn vào đều thấy bằng lòng. Rồi mọi người đến ở. Tất cả đều cảm thấy sung sướng vì mình đã được ở trong ngôi nhà mong ước từ lâu.
2. Ngôi Nhà Của Thiên Chúa.
Cũng tương tự việc xây một ngôi nhà, Thiên Chúa đã không tạo dựng nên một công trình hoàn thiện từ ban đầu. Công trình tạo dựng ấy, Thiên Chúa vẫn để nó còn dang dở để rồi sẽ được hoàn thiện cùng với thời gian.
Nhưng hoàn thiện như thế nào thì chúng con phải trở về với lịch sử của công việc tạo dựng.
Chúng con nhớ lại thuở ban đầu sau khi Chúa tạo dựng nên mọi sự, Chúa đặt con người sống tại vườn địa đàng. Tại đây, Thiên Chúa cho con người sống chung với những loài cầm thú. Sống chung có nghĩa là con người và loài cầm thú phải tuân thủ cùng một qui luật Chúa đặt ra. Đó là luật nào chúng con ?
- Luật rừng.
Nhưng rồi con người với khả năng thay đổi Chúa ban cho. Chúng con nhớ là chỉ có con người Chúa mới ban cho có khả năng này mà thôi. Loài vật không loài nào có. Chính nhờ khả năng thay đổi này mà cuộc sống của con người mỗi ngày mỗi tiến bộ hơn. (Loài vật không có sự tiến bộ). Đến lúc sự tiến bộ đã đạt tới một mức độ Chúa muốn, Chúa đặt cuộc sống của con người dưới những qui định mới. Từ đây con người được sống với những qui định cao hơn. Luật công bằng ra đời từ đó. Suốt từ thời có luật công bằng phải nhận là cuộc sống con người càng ngày càng tốt đẹp hơn, văn minh hơn. Luật công bằng ngày nay hầu như đang chi phối mọi hoạt động của con người trên hành tinh, gọi là trái đất này.
Nhưng đến đây thử hỏi Thiên Chúa đã bằng lòng chưa ? Chắc chắn là chưa. Bởi vì công trình tạo dựng tốt đẹp của Chúa mà con người đã làm cho nó không còn tốt đẹp như thuở ban đầu, bây giờ phải được tái tạo lại. Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa gửi xuống trần gian để thực hiện công việc này. Bằng công trình cứu chuộc, Chúa Giêsu đã trả lại cho con người cuộc sống làm con Thiên Chúa như thuở ban đầu. Đây là mục đích công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu.
Tới đây thì cuộc sống con người như Chúa mong ước phải được đổi thay. Cuộc sống do đó phải vươn cao hơn, phải hoàn thiện hơn. Con người phải cố gắng làm cho cuộc sống của mình xứng đáng với danh nghĩa là CON THIÊN CHÚA hơn.
Nếu cuộc sống làm người của con người được đặt dưới sự chi phối của hai tiếng công bình thì cuộc sống của người được làm CON THIÊN CHÚA phải được hướng dẫn bởi những qui luật cao hơn nữa, hoàn thiện hơn nữa. Từ đó mà luật yêu thương đã ra đời. Đây mới là luật hoàn thiện mà Thiên Chúa muốn có. Vì chỉ có yêu thương mới có thể làm cho con người nên giống Chúa. “Thiên Chúa là tình yêu”. Thánh tông đồ Gioan đã quả quyết như thế. Chỉ có yêu thương thực sự mới làm cho cuộc sống con người có hạnh phúc.
Đây cha kể cho chúng con câu chuyện này:
Một người đàn ông và một người đàn bà liên lạc với nhau qua hệ thống internet và không hề thấy mặt nhau. Dù vậy, sau một thời gian, những trao đổi giữa hai người đã biến thành những lá thư tình nồng thắm nhất, và bằng mọi giá, họ muốn thấy mặt nhau.
Từ hai thành phố khác nhau, họ hẹn nhau tại phi trường Chicago. Họ sẽ đáp máy bay đến phi trường này cùng vào một giờ như nhau. Vì chưa hề thấy mặt nhau, cho nên người đàn bà cho biết bà sẽ đeo một khăn quàng cổ màu xanh, đội chiếc mũ màu xanh và dĩ nhiên cũng gắn lên chiếc áo khoác của mình một đóa hoa cẩm chướng màu xanh. Tất cả những dấu hiệu xanh ấy không thể nào khiến bà bị nhận lầm với một người nào khác được. Người đàn bà cho biết chuyến bay của bà sẽ sớm hơn một thời gian ngắn, và như vậy, bà có thể đứng trước cổng đến của chuyến bay của người đàn ông.
Vừa ra đến cổng, người đàn ông hồi hộp rảo mắt nhìn từng người trong đám đông đi đón thân nhân. Chỉ trong nháy mắt, ông đã nhận ra được người đàn bà với chiếc khăn quàng cổ màu xanh, chiếc mũ màu xanh và cánh hoa cẩm chướng cũng màu xanh trên áo khoác. Nhưng cũng chỉ trong nháy mắt, người đàn ông muốn độn thổ hoặc quay trở lại máy bay tức khắc, bởi vì người yêu mà ông mong được gặp mặt từng giây từng phút lại là một người đàn bà xấu chưa từng thấy.
Nhưng cuối cùng, người đàn ông cũng lấy hết can đảm tiến về phía người đàn bà, mỉm cười và tự giới thiệu. Người đàn bà cũng ngạc nhiên không kém, bà mở tròn đôi mắt và hỏi người đàn ông:
- Ông làm gì thế, tôi không biết ông là ai!
Rồi bà ta chỉ tay về phía một người đàn bà khác đang đứng lấp ló sau một cây cột lớn và nói:
- Người đàn bà đó cho tôi hai Mỹ kim, và bảo tôi mang vào người tất cả những thứ màu xanh này. Bà ta nói với tôi rằng điều tôi đang làm rất quan trọng cho bà.
Người đàn ông nhìn về hướng cây cột lớn, và nhận ra một người đàn bà đẹp chưa từng thấy. Ông tiến lại gần và hai người nhận ra nhau ngay tức khắc.
Người đàn bà giải thích như sau:
- Suốt đời tôi, người đàn ông nào cũng tìm đến với tôi chỉ vì sắc đẹp của tôi. Chính vì thế, tôi đã quyết định liên lạc trên hệ thống internet, để tìm một người đàn ông không đến với tôi chỉ vì sắc đẹp của tôi mà chỉ vì giá trị nội tâm của tôi .
\/ăn hào Pháp Victor Hugo có nói: “Niềm hạnh phúc lớn lao nhất trong cuộc sống là khi chúng ta xác tín rằng chúng ta được yêu thương vì con người chúng ta, hay đúng hơn, chúng ta được yêu cho dẫu chúng ta có là gì đi nữa “.
Đó là tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Thiên Chúa yêu thương mỗi người bằng một tình yêu cá biệt. Ngài yêu thương mọi người không phải vì tài năng đức độ của họ. Dù nghèo hèn xấu xa đốn mạt đến đâu, mỗi người đều có một chỗ đứng độc nhất vô nhị trong tình yêu của Chúa.
Mang lấy hình ảnh Thiên Chúa tình yêu, con người chỉ có thể yêu thương thực sự khi yêu thương bằng tình yêu của Thiên Chúa. Như vậy, yêu thương theo đúng nghĩa của tình yêu là yêu thương một cách vô vị lợi không tính toán, không mong được đáp trả. Một tình yêu như thế chỉ có thể múc lấy từ nguồn mạch của tình yêu là chính Thiên Chúa mà thôi.
Xin Chúa ban cho chúng ta chính tình yêu của Chúa, để chúng ta cũng biết yêu thương bằng tình yêu quảng đại, vô vị lợi.
Xin Cho chúng ta biết nhận ra hình ảnh Chúa nơi mỗi người, nhất là những người kém may mắn nhất trong xã hội. Amen.
Bài đọc hai của Chúa Nhật 7 thường niên A hôm nay được trích từ thư thứ nhất của Thánh Phao lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rinh-tô, trong đó Thánh Phao Lô nhấn mạnh: chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần hằng ngự trong tâm hồn chúng ta. Nếu hôm nay chúng ta có thể cảm thấu được chân lý này thì chắc chắn cuộc sống của chúng ta sẽ thay đổi và được thánh hóa bản thân.
Chúa Giêsu ban cho chúng ta những lời giáo huấn thật sâu sắc này để chúng ta được biến đổi và trở nên thực sự là con cái của Thiên Chúa. Đối với Chúa Giêsu, thật sự không bao giờ là đủ để diễn tả rằng Ngài yêu thương chúng ta là dường nào. Chúng ta phải đáp lại tình yêu đó, tuy nhiên sự đáp trả của chúng ta sẽ không bao giờ là trọn vẹn. Tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta là một tình yêu luôn mời gọi chúng ta phải đáp trả mỗi ngày, đồng thời mời gọi chúng ta phải thay đổi và biến cải luôn mãi.
Bài đọc một hôm nay được trích từ Sách Lê-vi. Bài đọc này cho chúng ta biết rằng phải trở nên thánh thiện vì Thiên Chúa của chúng ta là Đấng thánh. Hơn thế, lời Chúa hôm nay còn cho chúng ta biết ý nghĩa của việc nên thánh: “Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình”. Nhiều khi, chúng ta quên rằng sự thánh thiện khá là đơn giản: Yêu Chúa và yêu người lân cận. Chúng ta cố gắng trở nên thánh theo nhiều cách, thường là với việc cầu nguyện và thực hành việc lành phúc đức. Điều đó là tốt. Nhưng điều Chúa muốn nơi chúng ta là phải tiến xa hơn nữa, phải có một trái tim rộng mở để từ trái tim đó, làm phát sinh những hành động yêu mến đối Ngài và đối với tha nhân, những người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống mỗi ngày.
Bài đọc hai hôm nay một lần nữa nói với chúng ta rằng chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Một khi chúng ta đã thuộc về Chúa Thánh Thần, thì chúng ta tất sẽ có những hành động tốt để chăm lo cho ngôi đền thờ ấy và tất nhiên sẽ có cách hành động để bảo vệ, tránh đền thờ thể bị phá hủy. Cách duy nhất để sống, tốt, để nên thánh là khôn ngoan bước theo đường lối của Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta!
Tin Mừng theo Thánh Matthêu hôm nay dạy cho chúng ta sự khôn ngoan của Chúa Giêsu Kitô: “đừng chống lại người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa: ai xin thì hãy cho và hãy yêu thương kẻ thù của bạn”. Đây là cách để sống mầu nhiệm của Thiên Chúa, ở trên thế gian này. Nếu chúng ta muốn trở nên hoàn thiện, thì chúng ta phải noi gương Cha của chúng ta ở trên trời.
Gương hoàn thiện của Cha trên trời luôn là: tình yêu. Yêu tất cả mọi người và yêu vô điều kiện. Tình yêu Chúa dạy đặc biệt ở chỗ là yêu cả những người ghét chúng ta. Tình yêu là cho đi tất cả và là những gì mang lại cho Nước Thiên Chúa. Tình yêu này không phải là một tình yêu vì cảm thấy tốt về ai đó, hay vì ai đó tốt với mình, nhưng là một tình yêu chọn sự tốt đẹp cho người khác một cách trọn vẹn và không cấn biết họ là ai. Đây là một tình yêu sâu thẳm, mạnh mẽ có sức biến đổi bản thân chúng ta và có thể biến đổi cả thế giới.
Thật không dễ để yêu như Chúa yêu! Mẫu mực của tình yêu này sẽ đòi hỏi tất cả mọi nỗ lực và sức mạnh hy sinh trong cuộc sống của chúng ta. Thật vậy, nó sẽ lôi cuốn chúng ta một cách trọn vẹn hơn đến với Thiên Chúa và Vương quốc của Ngài. Chúng ta có thể có chọn lựa khôn ngoan để yêu theo cách này, nếu chúng ta dám thi hành Lời Chúa hôm nay. Amen
Ngay từ thời đầu của Giáo Hội, những tín hữu Kitô đã được gọi là “các thánh”. Chính Thánh Phaolô đã dùng danh xưng này để chỉ những người đã gia nhập Giáo Hội qua bí tích Thanh Tẩy. Khi gọi họ là “các thánh”, chắc hẳn vị Tông đồ vừa muốn diễn tả đời sống tốt lành của các tín hữu, đồng thời muốn nhấn mạnh tới lý tưởng, mục tiêu mà các tín hữu phải đạt tới. Kitô hữu là người đang cố gắng để thánh hóa bản thân, làm cho mình trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô, để rồi lời nói của chúng ta là lời của Chúa, việc làm của chúng ta là việc làm của Chúa, chúng ta hiện diện nơi đâu là có Chúa hiện diện ở đó.
Như vậy, nên thánh không phải chỉ là tình trạng thiên đàng sau khi chúng ta đã chết, mà là một quá trình biến đổi để hoàn thiện chính mình, để rồi ngay khi còn đang sống ở đời này, chúng ta đã được nếm hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, qua việc được chiêm ngưỡng Chúa bằng đức tin và tình mến. Nên thánh cũng không phải ảo tưởng hay giấc mơ về một thế giới xa vời, như để quên đi những đau khổ hiện tại.
Khái niệm nên thánh như đã nêu trên làm cho đời sống tín hữu không khô cứng, vô vị, nhưng luôn sống động và vươn lên không ngừng. Người ước ao nên thánh là người muốn sống ngày hôm nay tốt hơn hôm qua, và ngày mai tốt hơn ngày hôm nay. Họ không dừng lại ở một cuộc sống đơn điệu, nhưng luôn khám phá ra niềm vui của đức tin và sự tốt lành của Chúa. Cuộc sống mà dừng lại sẽ giống như ao tù. Con người không lý tưởng sẽ giống như ngõ cụt. Họ không biết mình sống cho ai và để làm gì.
Nên thánh là một lệnh truyền của Thiên Chúa cho dân riêng của Ngài. Lời Chúa phán với ông Môisen cho chúng ta thấy rõ: “Hãy nói với toàn thể con cái Israen: ‘Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Bài đọc I). Lý do của ơn gọi nên thánh là: vì Chúa là Đấng Thánh. Ai muốn thuộc về Chúa thì phải nên giống như Ngài. Thánh thiện chính là được san sẻ một phần vinh quang của Chúa, để rồi ngay khi sống ở trần gian, chúng ta đã tỏa sáng trong cuộc đời qua những cử chỉ tốt đẹp của mình đối với đồng loại. Sau khi nhắc lại lệnh truyền nên thánh, tác giả sách Lêvi quảng diễn chi tiết về khái niệm thánh: đó là yêu thương anh chị em, đừng quở trách họ. Không được trả thù, không được oán hận. Trái lại phải yêu mến người khác như chính bản thân mình.
“Thương người như thể thương thân”. Đó là nét đẹp truyền thống ngàn đời của người Việt Nam. Nét đẹp này đã gặp gỡ lời dạy “Yêu đồng loại như chính mình” của Cựu Ước và còn hơn thế nữa, là lời dạy “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình” của Tân Ước. Để có thể yêu thương kẻ thù, mỗi người phải vượt lên chính mình, để chiến thắng thù hận và chấp nhận mọi thị phi. Yêu thương kẻ thù là một nhân đức anh hùng, là bằng chứng của sự từ bỏ chính bản thân và là tình yêu thương ở mức tuyệt hảo. Cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình, đó là bằng chứng của lòng bao dung và tha thứ trọn vẹn.
Nên thánh không dừng lại ở một khái niệm lý thuyết, nhưng phải được thể hiện cụ thể trong việc làm và lối sống. Nên thánh trước mặt Chúa là có một lối sống ngay thẳng chân thành. Tuy vậy, sự ngay thẳng chân thành ấy phải được kiểm chứng qua mối tương quan hằng ngày với tha nhân. Một cách rất cụ thể, Chúa Giêsu nói đến luật yêu thương và những lời khuyên để đem luật đó vào cuộc sống. Đức yêu thương Chúa Giêsu truyền dạy ưu việt hơn những lệnh truyền của Cựu Ước. Vì vậy, Chúa nói: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng…. Còn Thầy, Thầy bảo anh em…”. Qua những lời tuyên bố trên, Đức Giêsu chứng tỏ Người có sứ mạng kiện toàn lề luật. Người dựa trên nền tảng Luật Cựu ước, đồng thời mặc cho Luật ấy một giá trị cao siêu hơn, hoàn hảo hơn. Tình yêu thương Chúa dạy không chỉ được thực hiện nơi người đồng bào, người cùng phe cánh hay người làm ơn cho chúng ta mà thôi, nhưng là hết mọi người không phân biệt. Luật mới của Chúa không chỉ bao gồm những điều cấm đoán, nhưng khuyên dạy làm những điều tích cực cho tha nhân. Chính điều này làm cho lối sống của người tín hữu khác với những thực hành của những người thu thuế và người biệt phái. Đối với người tín hữu, không có ai là kẻ thù hay người ngoại, vì hết thảy mọi người trên trái đất đều là anh chị em của cùng một Cha trên trời. Mức độ thánh thiện của một người được lượng giá qua tình bác ái mà họ thực hiện đối với người xung quanh. Một người sống khép kín, dửng dưng trước nỗi đau của người bên cạnh, không thể nên thánh.
Thánh thiện còn là nhận ra phẩm giá cao quý của mình trong cuộc đời này. Mỗi người chúng ta không hiện hữu như một đồ vật vô tri vô giác, nhưng là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần (Bài đọc II). Biết được phẩm giá của mình để tôn trọng thân xác và trau dồi bản thân trong những lãnh vực khác nhau. Chỉ những ai biết yêu mến trân trọng bản thân mình, thì mới có thể yêu mến trân trọng tha nhân. Tác giả thư gửi giáo dân Côrinhtô cũng chỉ rõ đâu là điều quan trọng đích thực mà chúng ta tìm kiếm: đó là Đức Kitô. Người là lý tưởng và mẫu mực cho chúng ta trong hành trình nên thánh. Một khi quy hướng về Đức Kitô, sẽ không còn chia rẽ và ganh ty bè phái như thực trạng của cộng đoàn Côrinhtô lúc bấy giờ, tức là người thì cho mình thuộc về Phaolô, người thì thuộc Apôlô, người thì thuộc Kêpha.
Nên thánh bằng yêu thương. Đó là thông điệp mà Lời Chúa muốn thông truyền cho chúng ta. Hai ngàn năm nay, Giáo Hội đã thực hiện lời mời gọi của Chúa, cổ võ tình yêu thương, phá bỏ những ngăn cách, hòa giải những bất hòa và nâng đỡ người bé mọn. Chúng ta mỗi người đều là chi thể của Giáo Hội, chúng ta có ý thức được lời mời gọi nên thánh qua việc thực thi đức yêu thương không?
“Ai không có sức mạnh để tha thứ, cũng không có sức mạnh để yêu thương” (Martin Luther King Jr.).
Ân đền oán trả hay hòn đất ném đi hòn chì ném lại… đó là những cách mà con người thường dành để đối xử với nhau. Con người dễ yêu những người yêu thương mình và dễ ghét bỏ những người ghét ta. Người nào làm làm hại ta, ta sẵn sàng đáp trả lại. Với cách hành xử ấy, người đời cho là khôn ngoan… âu cũng là lẽ thường tình.
Thế nhưng, trích đoạn Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu bảo chúng ta phải vượt lên trên cái lẽ thường ấy. Ngài phán với chúng ta: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho những kẻ ghét bỏ chúng ta. Bởi có thực hiện được điều đó, chúng ta mới xứng đáng là con cái Thiên Chúa và mới trở nên giống Ngài.
Thiên Chúa muốn chúng ta tha thứ và làm hoà. Tha thứ và làm hoà là điều kiện phải có để đến với Chúa. Không thể đến với Chúa mà lòng còn ngổn ngang những ghen tương, đố kỵ. Chúa mời gọi chúng ta phải công chính hơn những người biệt phái trong tình yêu tha thứ. Không chỉ yêu kẻ yêu mình mà còn yêu cả kẻ ghét mình. Không chỉ quý mến kẻ thi ân cho mình mà còn làm ơn cho kẻ làm hại chính mình. Chúa mời gọi mỗi người hãy tha thứ cho kẻ thù, hãy làm hoà cùng kẻ thù và hãy cầu nguyện cho kẻ thù.
Thiên Chúa muốn chúng ta yêu như Chúa yêu. Chính Ngài đã làm gương trước cho chúng ta trong việc thực thi giới luật yêu thương này. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, ngay cả trong khi chúng ta còn nằm trong tội lỗi, còn quay lưng chống lại Ngài.
Thiên Chúa chính là người mục tử tốt lành, luôn yêu thương đoàn chiên và mong mỏi kiếm tìm được chiên lạc lối. Và khi đã tìm thấy thì vác nó trên vai và đem về nhà săn sóc. Với Ngài, vui vì một kẻ tội lỗi ăn năn sám hối hơn là 99 người công chính không cần sám hối ăn năn. “Không phải những kẻ khoẻ mạnh mà là những người đau yếu mới cần đến thầy thuốc. Ta đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi biết đường sám hối ăn năn”. Ngài sẵn sàng chịu chết trên thập giá để làm gì nếu không phải là để tha thứ cho chúng ta. Trong những giờ khắc đớn đau trên thập giá, Ngài cũng đã thứ tha cho tất cả những kẻ đã nhục mạ Ngài: Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.
Tha thứ và yêu thương kẻ thù là điều rất khó thực hiện. Nhưng Chúa dạy: "Các con phải trở nên hoàn thiện như cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5, 48). Là môn đệ, những người theo Chúa thì phải thực hiện điều này. Sự công chính của người môn đệ được thể hiện ở mức tối đa là yêu thương kẻ thù. Hành vi yêu thương sẽ làm họ nên giống Cha trên trời là Đấng trọn lành và là Đấng công chính và cũng làm cho họ trổi vượt hơn các kinh sư và người Pharisêu về sự công chính.
Dẫu rằng trong cuộc sống con người luôn có những sai lầm. Sai lầm có thể là do không biết hay cũng có thể là do cố ý và chúng ta thường bực mình trước những lầm lỗi của tha nhân. Đôi khi vì những lầm lỗi ấy chúng ta muốn thanh trừng cho hả dạ. Nhưng lời của Đức Giêsu hôm nay muốn con người tha thứ cho nhau.
Hãy yêu thương kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình là lời Chúa mời gọi mỗi người. Vượt lên trên tình yêu tha thứ đó là lòng nhân từ bắt nguồn từ Thiên Chúa. Hãy có lòng nhân từ như Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa không xét đoán tội chúng ta như chúng ta đáng tội. Ngài đã yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Lạy Chúa, Xin cho mỗi chúng con biết nhìn nhận sự yếu đuối của bản thân mà khiêm tốn đón nhận, cảm thông và tha thứ lầm lỗi cho anh em.
Gợi ý chia sẻ
Tại sao Chúa Giêsu lại nói phải yêu thương cả kẻ thù? Thường những kẻ xúc phạm đến chúng ta, chúng ta đã đối xử thế nào?
“Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5,43-44) Suy niệm:
Báo chí mới đưa tin một vụ án mạng kinh hoàng vừa xảy ra, lập tức hàng trăm, có khi hàng ngàn “còm sĩ” anh hùng bàn phím lao lên mạng “ném đá” đòi xử thật nặng; có người còn tiếc rẻ vì hung thủ chưa đủ 18 tuổi để lãnh án tử hình. Đành rằng tội phạm thì phải xét xử theo pháp luật đúng người đúng tội, thế nhưng hiện tượng trên đây tố giác rằng vẫn tồn tại trong con người thời nay một não trạng bất nhẫn và bất khoan dung đối với đồng loại. Luật Môsê được kể là khá khoan dung: trong một xã hội mà người ta đòi trả thù gấp 7 lần (St 4,15) thì Luật chỉ đòi “mắt đền răng”. Nhưng như thế vẫn còn là lạc hậu so với luật Tân Ước của Chúa Kitô. Ngài dạy “yêu kẻ thù” và “cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em”. Có như thế, chúng ta mới trở nên hoàn thiện giống như Cha chúng ta là Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời.
Mời Bạn: Lấy oán báo oán chỉ khơi sâu thêm vực thẳm hận thù. Chỉ có tình yêu mới có thể lấp đầy “hố tử thần” của hận thù đó. Lý thuyết là như vậy, các nhà hiền triết, các vị sáng lập các tôn giáo đều đồng ý như thế. Thế nhưng tội ác loài người quá lớn, sự thù hận đã ăn rễ quá sâu trong con tim con người, nên chỉ có tình yêu vô cùng lớn của Thiên Chúa và cái chết của Đức Kitô, vị Thiên Chúa làm người, mới đủ sức đền bù mọi thứ oán thù đó.
Sống Lời Chúa: Kết hợp với Chúa Kitô luôn tha thứ cho kẻ xúc phạm bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, vì Chúa đã tha thứ tội nợ của chúng con, chúng con cũng tha cho kẻ xúc phạm chúng con.
Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi đọc kinh truyền tin vào Chúa nhật 24/02/2019 trước các tín hữu tại quảng trường Thánh Phêrô với lời huấn dụ: “Yêu thương kẻ thù là một mệnh lệnh chứ không phải tùy chọn. Tình yêu ấy giúp người tín hữu tạo nên cuộc cách mạng về lòng thương xót”.
Vậy đâu là phương thế giúp chúng ta sống hòa thuận và tha thứ cho kẻ đối nghịch với mình?
Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta về việc thực hành giới răn yêu thương. Chúa luôn sẵn lòng tha thứ cho những kẻ gây ra bất lợi và đối nghịch với mình. Ngài mời gọi chúng ta hãy dung phương thế yêu thương để hòa giải với tha nhân, yêu thương tha nhân, tha thứ những lỗi lầm cho tha nhân khi xúc phạm đến chúng ta.
Đã là người ai cũng mang tính yêu đuối xác thịt, lỗi lầm làm mất lòng, xích mích với nhau, gây ra những xung đột, hận thù, chia rẽ bằng lối sống oán giận, thóa mạ, lăng nhục, thiếu tôn trọng nhân cách, phẩm giá của tha nhân. Khi đã thiếu tôn trọng nhau, người ta sẵn sàng đạp bỏ lòng yêu thương, thiếu đi lòng thương người và làm cho xã hội bị sụp đổ, làm cho xã hội thiếu tính nhân văn và cuộc sống bị bất an, thiếu ổn định khiến thế giới luôn sống trong sự gian tham, bất công và gây ra nỗi khổ cho mọi người. Chúa mời gọi người Kitô hữu hãy thực hành nhân đức yêu thương kẻ thù của mình bằng tấm lòng bao dung và tha thứ, như Ngài vẫn hằng tha thứ lỗi lầm của chúng ta đối với Ngài. Chỉ có lòng bao dung, tha thứ mới thể hiện căn tính người Kitô hữu, là luôn làm cho cuộc sống tràn đầy yêu thương, thể hiện lòng thương xót dành cho chính mình và tha nhân.
Điều này giúp mỗi Kitô hữu góp phần xây dựng một nền tảng đức tin vững bền nơi cộng đoàn xứ đạo, lối xóm, gia đình và môi trường sống chung quan mình. Nhờ đó, mỗi người trở nên chứng nhân về lòng yệu thương, chứng ta về lòng thương xót của Thiên Chúa trước tha nhân và giới thiệu đạo yêu thương của Chúa đến với anh chị em đồng đạo và lương dân giữa xã hội tục hóa ngày nay.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đã nghe bảo: ‘Mắt đền mắt, răng đền răng’. Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ.
“Các con cũng đã nghe dạy rằng: ‘Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch’. Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con, để các con nên con cái Cha các con ở trên trời, là Ðấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những kẻ yêu thương các con, thì còn có công gì? Nào những người thu thuế không làm như vậy ư? Và nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con mà thôi, thì các con có làm gì hơn? Nào dân ngoại không làm như vậy sao? Vậy các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Ðấng trọn lành”.
Suy Niệm
“Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Ðấng trọn lành” (Mt 5, 48).
Lề Luật Cựu ước được xây dựng chủ yếu trên nền tảng đức công bình. Chính Đức Giêsu đã nhắc lại: “Các con đã nghe bảo: ‘Mắt đền mắt, răng đền răng'” (Mt 5, 38; x. Xh 21, 24). Trong tinh thần đó, con người sống với nhau dựa trên những tình cảm yêu bạn ghét thù tầm thường. Nơi Tân Ước, Chúa Giêsu kiện toàn Luật cũ và mời gọi con người vươn lên đến sự trưởng thành hoàn thiện như Cha trên trời bằng Luật Yêu Thương: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5, 48).
Với cách hành xử yêu thương theo Tân Ước, Đức Giê su đã làm cho các mối tương quan của nhân loại vượt lên trên sự yêu ghét thông thường. Anh em hãy “yêu thương kẻ thù, và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Điều này quả là khó thực hiện, nhưng Chúa Giê su lại đặt làm nền tảng cho sự hoàn thiện và chính Ngài đã sống và nêu gương cho chúng ta. Trên Thánh Giá, Ngài đã thống thiết kêu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ giết Ngài: “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Lời mời gọi của Đấng Yêu Thương luôn tha thứ đang thúc giục mỗi người chúng ta hôm nay hãy học nơi Ngài bài học Lòng thương xót và tha thứ, để tôn vinh đỉnh cao của tình yêu. “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6, 27 – 28). “Như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5, 45).
Lạy Chúa, sống giữa trần thế, chúng con bị lây nhiễm những gian dối lọc lừa đầy rẫy trong xã hội. Chúng con sợ những thua thiệt khi sống sự thật. Chúng con sợ những phiền lụy khi sự thật được phơi bày. Xin Chúa giúp chúng con can đảm để chấp nhận và làm chứng cho chân lý hầu xứng danh là con cái Chúa. Amen.
Trả thù, báo oán là cách ứng xử man rợ, thiếu đạo đức.
Luật trả thù báo oán kiểu “mắt đền mắt, răng đền răng” là thứ luật đã lỗi thời, không còn thích hợp nữa, thế mà ngày nay không ít người vẫn muốn cư xử với nhau theo thứ luật rừng man rợ đó. Ai móc mắt tôi, tôi móc mắt người đó. Ai đánh gảy răng tôi, tôi đánh gảy răng người đó…”
Trước hết, đây là cách ứng xử thông thường của loài vật, như gà chọi chẳng hạn: Con nầy đá qua, con kia mổ lại, đấu đá nhau cho đến khi cả hai đều gục xuống, kiệt sức, mình mẩy đầy máu me!
Đây cũng là phản ứng tự nhiên của những con trâu điên, của những con chó dại: Trâu nầy húc qua, trâu kia báng lại cho đến khi cả hai không còn hơi sức.
Những cách ứng xử như trên là man rợ, rừng rú, chỉ thích hợp cho một số loài động vật hung hãn. Là người, chúng ta không thể sống theo bản năng hạ cấp mang đầy thú tính như vậy.
Nhiều cuộc xung đột trên thế giới được giải quyết theo kiểu “mắt đổi mắt răng đền răng”, tức giải quyết bằng chiến tranh, trả thù, báo oán và đã đưa đến hậu quả vô cùng bi đát. Lịch sử chiến tranh giữa các dân tộc qua bao thời đã cho thấy điều đó.
Bao dung tha thứ cho kẻ thù là thượng sách.
Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su muốn nâng nền luân lý nhân loại lên một tầm cao mới. Người đề xuất một giải pháp tối ưu cho mọi tranh chấp xung đột giữa người với người, đó là: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” và “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5, 39.44) Trước lời dạy nầy, những người nông nổi cho là nhu nhược, là hèn nhát, là yếu đuối; chỉ những ai khôn ngoan sâu sắc mới nhận thấy đây là giải pháp tối ưu để giải quyết mọi xung đột và đem lại an hòa.
Khi người ta quai búa tạ vào tảng đá cứng, đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại búa, hậu quả là đá sẽ nứt vỡ ra, bị nghiền tán ra. Đá bị thất bại hoàn toàn! Nhưng khi người ta quai búa giáng mạnh xuống hồ nước, nước sẽ dùng sự mềm mại của mình để vô hiệu hoá sức mạnh của búa. Nước không hề hấn gì nhưng búa thì sẽ bị chìm lĩm xuống tận đáy hồ. Thế là nước thắng lợi vẻ vang! Khi gặp bão táp cuồng phong, những cây cổ thụ cao lớn cứng cáp dùng sự cứng rắn mạnh mẽ của mình để kháng cự lại bão tố. Hậu quả là chúng bị gảy cành, trốc gốc. Trong khi đó, những rặng tre, những cây lau sậy không hề kháng cự lại bão tố, nhưng dùng sự mềm dẻo của mình để uốn theo chiều gió nên chúng được an toàn.
Hiểu được quy luật đó nên Lão tử đã dạy môn sinh từ mấy ngàn năm trước: “nhu thắng cương, nhược thắng cường.” Vị sư tổ của môn phái Judo cũng đã dựa vào quy luật nầy để sáng lập nên môn phái Judo (nhu đạo), một môn võ thuật lấy mềm dẻo chiến thắng hung bạo cứng rắn.
Thay phần kết luận:
Gia đình ông A và ông B sống gần nhau và cùng trồng dưa trên hai lô đất kế cận. Gia đình ông A đam mê rượu chè, bài bạc, không chăm sóc vườn dưa nên vườn dưa xơ xác, không thu hoạch được gì. Trong khi đó, gia đình ông B chăm sóc vườn dưa chu đáo nên được bội thu, tiền vào như nước, sắm sửa được nhiều thứ trong nhà. Nổi máu ghen tị, ông A xúi con qua phá hoại vườn dưa của ông B, vừa hái trái ăn vừa nhổ cây, gây thiệt hại nặng nề cho gia đình ông B.
Trước sự gây hấn đó, gia đình ông B giận sôi gan, chuẩn bị mài dao mài rựa tìm cách báo thù. Buổi tối trước khi ra tay hành động, ông B nằm suy nghĩ miên man và may thay, câu Lời Chúa ông vừa nghe trong thánh lễ ban sáng chợt vọng về: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”… “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” (Mt 5, 44. 38-39).
Sáng hôm sau, nhờ Lời Chúa tác động, ông B bàn với vợ con cứ đến lúc trời mới tờ mờ sáng thì kéo nhau ra vườn dưa ông A, không phải để phá hoại trả thù, nhưng là chăm sóc, tưới nước, xịt thuốc, bón phân cho cả vườn dưa. Chẳng bao lâu sau, vườn dưa của ông A trở nên xanh tốt không kém gì dưa nhà ông B.
Khi biết được việc làm cao đẹp của ông B, cả gia đình ông A hết sức hối hận vì việc làm của mình, rồi dắt nhau qua tận nhà ông B để tạ lỗi. Từ đó, hai gia đình kết nghĩa anh em, thề nguyền yêu thương gắn bó với nhau cho đến mãn đời. Thế đó, Lời Chúa là giải pháp tuyệt vời cho các xung đột giữa đôi bên.
Năm 1893, lúc 24 tuổi, khi đang ở Nam Phi, Gandhi đã quá đỗi vui mừng khi lần đầu đọc bài Tin Mừng hôm nay. Ông ngây ngất vì vẻ đẹp nghệ thuật của những hình ảnh ở đó, đến nỗi ông gọi Đức Giêsu là “Nghệ sĩ Tối cao”. Đối với ông, Bài Giảng Trên Núi là tác phẩm tuyệt vời của Đức Giêsu, chạm vào trái tim và bộ óc của ông, một người theo Ấn giáo, và ảnh hưởng trên toàn bộ cuộc sống của ông cho đến khi nhắm mắt. Có thể nói, từ Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Gandhi đã rút ra con đường bất bạo động, bất kháng cự (Satyagraha). Ông đã áp dụng lời Chúa vào việc giải phóng dân Ấn khỏi đế quốc Anh mà không dùng đến chiến tranh, vũ lực, hận thù. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy ta thái độ đối với kẻ thù. Ai trong chúng ta lại không có kẻ thù, kẻ ác làm hại mình. Cả Đức Giêsu cũng có kẻ thù ghét Ngài trong thời gian Ngài rao giảng. Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” đã là một luật tiến bộ rồi, vì nó giới hạn việc trả thù quá đáng, và bắt vòng xoáy trả thù dừng lại. Nhưng Đức Giêsu đòi chúng ta vượt lên trên sự công bằng đó: không móc mắt hay nhổ răng người đã làm như thế cho mình, nghĩa là “không chống cự lại người ác” (Mt 5,39), không lấy bạo lực để trừng phạt bạo lực. Sau đó, qua ba thí dụ cụ thể rất gợi hình và dễ hiểu, Đức Giêsu còn mời chúng ta đi xa hơn đến mức kinh ngạc. Khi bị tát bằng mu bàn tay vào má phải, chẳng những không được tát lại, mà còn đưa má trái ra. Khi bị ai kiện để lấy áo trong, hãy cho nó cả áo ngoài. Khi bị ai ép mang đồ đi một dặm, hãy đi với người ấy hai dặm. Như thế chẳng những chúng ta không được chống cự hay trả đũa, mà dường như còn cho phép kẻ thù lấn tới trong hành vi độc ác của họ. Làm như thế phải chăng là tiếp tay cho sự ác gia tăng, và làm cho ác nhân tha hồ tung hoành trên mặt đất ? Nhiều tín hữu đã nghĩ như thế, và coi lời dạy của Đức Giêsu không thể và không nên áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đúng là khi bị tát, và Đức Giêsu đã không đưa má kia ra (Ga 18,22-23), nhưng thái độ của Ngài trong cuộc Khổ Nạn và Tử Nạn cho thấy Ngài đã sống điều Ngài dạy: không chống cự kẻ đến bắt, hiền hòa với Giuđa, tha thứ cầu nguyện cho kẻ giết mình. Khi Ngài được phục sinh chiến thắng, Ngài cũng không hiện ra để trả thù Philatô, Hêrôđê hay Cai-pha. Thay vì nguyền rủa, ghét bỏ, oán hờn, tiêu diệt kẻ thù, Đức Giêsu bảo chúng ta hãy yêu kẻ thù. Như thế kẻ thù thành người yêu của tôi, vì được tôi chúc lành, được tôi nhớ đến trong lời cầu nguyện, được tôi chào mỗi buổi sáng. Trái tim của tôi không còn chỗ cho kẻ thù, chẳng ai là kẻ thù của tôi. Trái tim tôi trở nên lớn như trái tim Thiên Chúa là Cha trên trời. Trái tim Ngài có đủ chỗ cho kẻ xấu và kẻ bất lương, Vì Ngài cho mặt trời soi chiếu và cho mưa rơi trên mọi người. Đức Giêsu mời chúng ta vượt lên trên tình cảm yêu ghét tự nhiên, của những người bình thường hay tầm thường. Con cái của Cha trên trời thì phải “làm điều gì hơn thế” (Mt 5,47), nghĩa là phải giống Cha trong cách cư xử với kẻ thù. Đó là con đường trở nên hoàn thiện (Mt 5,48). Thế giới chúng ta hôm nay bị tan nát bởi chiến tranh, hận thù, giữa các quốc gia, sắc tộc, tôn giáo, màu da, gia đình, đảng phái… Nhiều người thấy mình có bổn phận phải dùng điều ác để chống kẻ ác. Có người nghĩ mình phải giết cho hết những kẻ sát nhân. Chẳng những cần trả thù mà còn cần đánh phủ đầu nữa. Tát người ta khi người ta chưa kịp tát mình. Lời hôm nay của Đức Giêsu thường bị coi là viển vông, chủ bại. Chẳng mấy ai tin rằng: chỉ lời này mới đem lại bình an cho thế giới, Nếu có một lần chúng ta đem những lời này ra áp dụng. Chỉ một lần thôi, chúng ta sẽ thấy sức mạnh vô biên của sự hiền hòa. Phúc cho ai có trái tim hiền hòa như Giêsu (Mt 11,29). Với sự hiền hòa của Giêsu trên thập giá, thế gian được bình an.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Mỗi ngày con gặp bao chuyện bực mình. Có những chuyện xảy ra làm con không vừa ý, khiến ngày sống của con vắng bóng niềm vui. Làm sao con có thể đón nhận mọi sự với nụ cười bao dung, và coi những trắc trở như chuyện bình thường của cuộc sống? Làm sao con dám tin rằng Chúa vẫn giúp con tìm thấy ý Chúa qua những chuyện không vui, đòi con từ bỏ cái tôi, qua những chuyện không may, làm con giật mình tỉnh ngộ? Xin cho con bình an trước vấp váp của con, Và nhẹ nhàng trước vấp váp của người khác.
Văn chương tiểu thuyết kiếp hiệp của Tàu, có thể nói được, hầu hết xoay quanh chủ đề “oán thù”, ân oán thù hận. Oán thù giữa môn phái nầy với môn phái khác, giữa dòng tộc nầy với dòng tộc khác, giữa dân miền nầy với dân miền khác, giữa cá nhân nầy với cá nhân khác…đan xen, vướng vít, tồn tại miên viễn qua các loại thù: “tình ái thù” (Đinh Điển- Lăng Sương Hoa trong Liên Thành quyết), “phụ mẫu thù” (Quách Tĩnh-Dương Khang trong Anh hùng Xạ điêu), “sĩ diện thù” (Chu chỉ Nhược trong Cô gái Đồ Long), “quyền lực thù” (Nhạc Bất Quần-Đông phương Bất bại trong Tiếu ngạo giang hồ), “phu thê thù” (Tiêu Viễn Sơn trong Thiên Long bát bộ hay còn có tên khác là Lục Mạch thần kiếm)…
Dưới ngòi bút đầy tính nhân văn của cố đại văn hào Kim Dung, oán thù chỉ được hoá giải qua những mối tình si của các “cặp đôi” mà mỗi người thuộc một phe đối nghịch thâm thù. Vâng, chính nhờ những mối tình bất chấp mọi trái ngang, vượt qua mọi thù oán của họ mà cái gút của hận thù oan khúc mới được hoá giải: Hoàng Dung và Quách Tỉnh, Nhậm Doanh Doanh và Lệnh Hồ Xung, Triệu Mẫn (Minh) và Trương Vô Kỵ…; và có lẽ một dấu chỉ, một hình tượng bi tráng và ấn tượng nhất để thuyết minh cho luận đề “tình yêu hoá giải hận thù” đó chính là cô hiệp nữ hiền diệu A Châu sẵn sàng dùng thân mình đón nhận phát chưởng ngộ nhận của người yêu Tiêu Phong (Kiều Phong), lấy cái chết để hoá giải mối thâm thù dòng tộc; và sau đó, tại Nhạn Môn quan, chính Tiêu Phong bẻ tên đâm ngực tự vẫn để Liêu quốc và Trung Nguyên dừng cơn huyết hận… (Thiên Long bát bộ).
Ý nghĩa và hình tượng của những mối tình ở “đôi bờ thù oán” trên nơi tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung phương Đông, chúng ta lại gặp thấy một cặp đôi đầy ấn tượng dưới ngòi bút của văn hào người Anh Shakespeare qua tác phẩm bi hùng kịch lừng danh Romeo-Juliette. Vâng, chỉ sau cái chết đầy oan nghiệt của đôi bạn trẻ yêu nhau nầy mà hai dòng họ không đội trời chung Montague và Capulet cùng sắp hàng theo sau hai chiếc áo quan để cùng tiến vào Thánh đường hiệp dâng Thánh lễ…
Nhưng chuyện hận thù, oan khúc đâu phải chỉ là chuyện của ngày xưa hay trong tiểu thuyết, mà là chuyện xảy ra hằng ngày như cơm bữa trong xã hội chúng ta hôm nay: Vợ giết chồng, người yêu đâm chết người yêu, cha giết con, cháu hại ông bà, bạn bè thanh toán lẫn nhau…Trên bình diện quốc gia và quốc tế cũng chẳng khá hơn gì: hận thù tôn giáo, sắc tộc, tranh chấp đất đai, quyền lợi kinh tế…đã làm dấy lên ngọn lửa oán thù, bạo lực chiến tranh liên miên hết nơi nầy đế nơi khác, thời nầy đến thời nọ. Cái chết oan khúc của cụ Lê Đình Kình mới đây trong “biến nạn Đồng Tâm” là một thí dụ điển hình !
Quả đúng như Cicéron diễn giả Lamã đã từng nói: “Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”. Và rồi thù oán mang theo oán thù. Oan oan tương báo. Cái vòng lẫn quẫn “oán thù” sẽ trói buộc con người trong nổi bất an và bất hạnh triền miên. Đức Khổng Tử cũng đã từng cảnh báo các đồ đệ phải tránh xa việc trả thù khi ngài phát biểu một ẩn dụ thâm thúy: “Trước khi lên đường báo thù, hãy đào hai cái huyệt”.
Hôm nay, Lời Chúa đề nghị cho chúng ta một con đường, một phương thế để thiết lập mối tương quan hoà bình huynh đệ giữa con người, để loại bỏ oán thù và thiết lập một nền văn minh tình yêu và sự sống trên mặt đất: Đó chính là con đường tìm về sự thánh thiện của Thiên Chúa “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Sách Lêvi trong BĐ 1), “hãy nên trọn lành như Chúa Cha trên trời là Đấng trọn lành” (Bài Tin Mừng) ; và sự trọn lành hay “hoàn thiện” mà Thiên Chúa gọi mời con người chiêm ngưỡng và bắt chước Ngài lại chính là TÌNH YÊU, là lòng nhân từ. Bởi, như Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8); và việc “hãy hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48) cũng đồng nghĩa với việc “hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6,36).
Vâng, tình yêu thương chính là con đường tìm lại căn tính đích thực của chính mình “đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em” (Thư 1 Côrintô trong BĐ 2) và cũng là con đường “cách mạng nội tâm” để xây dựng lại mối tương quan mới trong cung cách ứng xử của cái tôi thường tình “oan đền oán trả”: “hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Bài Tin Mừng). Chính Đức Kitô, không phải chỉ bằng lời nói, nhưng bằng chính hành động: đón nhận cái chết vì tình yêu và sẵn sàng tha thứ và cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết hại Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Quả thật, chỉ với con đường “mới mẻ của Tin Mừng” nầy mới mong đẩy lùi nền “văn hoá oán thù”, nền “văn minh sự chết”, như cách định nghĩ của Michel Quoist: “Hành động duy nhất có thể làm đứt đoạn dây chuyền bạo lực, đó là tha thứ và yêu thương. Ai dám đưa cả má trái mình ra, đó là người mạnh nhất.”
Giữa một thế giới, một xã hội, một đất nước mà bạo lực, oán thù, ghen ghét đã trở thành một “phản ứng đương nhiên và thường xuyên” của con người, thì thật là thích hợp khi sứ điệp lời Chúa hôm nay vang lên lời mời gọi: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”, “Hãy nên trọn lành như Chúa Cha là Đấng trọn lành”. Và như thế, lời cầu nguyện dành cho nhau và cho cả thế giới không bao giờ lỗi thời lại chính là lời Kinh Hoà Bình của Thánh Phanxicô Assisi: “Lạy Chúa Từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục….”.
Và thực ra, đã có những người con của Chúa thực thi huấn lệnh nầy để gieo mầm yêu thương, khoan dung, tha thứ, cho dù phải chấp nhận cái giá là hy sinh chính mạng sống mình, như linh mục Maximilien Kolbe chết thay người bạn trong trại tù của Quốc xã Đức vào thời đệ nhị thế chiến, hay như mục sư Martin Luther King Jr. chết để hoá giải cho cuộc kỳ thị lẫn nhau, phân biệt chủng tộc giữa những người da trắng và da màu. Cùng với cái chết như một lời chứng của hoà hợp, yêu thương, chính vị mục sư nầy đã chú giải thêm sứ điệp Tin Mừng hôm nay bằng những lời cũng thật thâm thuý: “Bóng tối không thể xua tan bóng tối, chỉ ánh sáng mới làm được. Hận thù không thể xua đuổi hận thù, chỉ tình yêu mới làm được” (Darkness cannot drive out darkness, only light can do that. Hate cannot drive out hate, only love can do that).
Và có lẽ chúng ta đều đồng ý với “quy luật vật lý” cơ bản nầy của Nicola Tesla: “Nếu hận thù ghen ghét biến thành điện, thì cả thế giới sẽ được thắp sáng” (If your hate could be turned into electricity, it would light up the whole world). Hận thù chắc chắn sẽ không bao giờ trở thành “điện”; nhưng chắc một điều: tình yêu sẽ trở thành ánh sáng. Hãy yêu thương để biến ước mơ và cũng là mệnh lệnh của chính Đức Kitô trở thành hiện thực: “Các con là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14).
Mt 5: 38-48 Giáo Hội Chúa Kitô là một cộng đoàn được qui tụ từ Đức tin và Đức mến, và có thể nói sứ vụ của Giáo Hội chính là tiếp tục loan báo và biểu tỏ tình yêu của Chúa cho mọi người.
Giáo Hội Chúa Kitô là một cộng đoàn được qui tụ từ Đức tin và Đức mến, và có thể nói sứ vụ của Giáo Hội chính là tiếp tục loan báo và biểu tỏ tình yêu của Chúa cho mọi người. Việc tỏ bày dức ái của Chúa không gì hơn chính là thể hiện lòng thương xót với tha nhân trong cách đối xử với nhau.
Sự hoàn thiện của Cha trên trời được biểu tỏ qua thái độ bao dung của Chúa, không nhỏ nhặt chấp nhất, Ngài độ lượng đến nỗi mau quên tội lỗi của chúng ta, và dầy lòng thương xót để sẵn sàng đón nhận hết mọi người, không phân biệt người đó là ai. Và đó chính là thái độ mà Đức Kitô mời gọi chúng ta, những người môn đệ, phải thể hiện trong cuộc sống.
Thật vậy, chúng ta thuộc về cộng đoàn của Đức mến, một cộng đoàn lấy nhân ái làm nền tảng cho các mối tương giao, để từ đó trở thành dấu chỉ của Vương quốc Thiên Chúa, một vương quốc an bình và hạnh phúc, vương quốc của những người luôn biết thể hiện lòng bao dung, quảng đại và yêu thương nhau.
Chúa Kitô đã không lên án kẻ giết mình, nhưng lại cầu xin ơn tha thứ cho họ với một tấm lòng nhân ái: xin tha cho họ vì họ lầm không biết. Sự thứ tha là cốt lõi để kiến tạo an bình, và đó là con đường hành động của Thiên Chúa để ban ơn cứu độ cho muôn người.
Người Kitô hữu chúng ta, khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, chúng ta cũng phải mang trong mình một trái tim độ lượng luôn sẵn sàng tha thứ để dạy người khác thứ tha, vì có thứ tha mới có thể mở rộng lòng đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Vì ơn cứu độ chính là quà tặng quí giá được hình thành từ sự thứ tha bởi lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Đối diện với ơn cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta học được bài học thứ tha để từ đó chúng ta sẽ cảm nhận được rằng tha thứ quả thật là một sức mạnh giải phóng chúng ta khỏi sự sợ hãi, giận dữ và mang lại cho chúng ta sự bình an. Đó là bài học mà nhiều người đã cảm nhận được khi biết tha thứ cho kẻ thù. Chẳng hạn Bà Mariette Jaeger.
“Vào đêm cuối cùng của một kỳ nghỉ cắm trại trong rừng của gia đình, Susie, cô con gái 7 tuổi của bà, bị bắt cóc. Trong những tuần tiếp theo, người ta xới tung cả những cánh rừng lân cận, dùng tàu thủy quét lưới dọc dòng sông bên cạnh để tìm cô bé.
Gia đình Jaeger kiệt quệ về sức lực và cảm xúc, bà thề rằng bà có thể vừa nhếch mép cười vừa giết chết kẻ bắt cóc bằng hai bàn tay trần của mình. Nhưng rồi bà quyết định tha thứ, bà biết rằng nếu để căm ghét xâm chiếm mình, nó sẽ hủy hoại cuộc đời bà.
Đúng một năm sau, kẻ bắt cóc gọi điện thách thức Jaeger, nhưng sau một tiếng đồng hồ hắn suy sụp bên điện thoại khi cảm nhận được sự kiên nhẫn và lòng trắc ẩn của bà và thú nhận đã giết chết Susie. Theo luật pháp, mặc dù kẻ bắt cóc xứng đáng bị xử tử, bà xin chuyển án của hắn thành tù chung thân. Bà cho rằng giết hắn sẽ làm tổn hại tới vẻ đẹp và sự ngọt ngào của cuộc đời Susie và tầm thường hóa nó. Susie xứng đáng được nhận một tưởng niệm cao quý và đẹp đẽ hơn là một hành động giết người lạnh lùng được nhà nước phê chuẩn. Bốn tiếng sau khi yêu cầu của bà được chấp thuận, kẻ bắt cóc tự vẫn trong trại giam.
Trong 20 năm tiếp theo, Jaeger làm việc xã hội, hỗ trợ các gia đình nạn nhân tương tự. Trong cuốn Khám phá tha thứ, bà nhìn lại: Trải nghiệm của tôi luôn được khẳng định. Những gia đình này có tất cả các quyền để căm tức và thịnh nộ, nhưng những ai vẫn giữ tư duy báo thù cuối cùng lại trao cho kẻ phạm tội một nạn nhân nữa. Cay đắng, bị hành hạ, cầm tù trong quá khứ, chất lượng cuộc sống của họ suy giảm. Căm ghét, giận dữ, phẫn uất, chua chát, thù hằn - chúng sẽ lấy đi cuộc đời của chúng ta như là cuộc đời của Susie đã bị lấy đi.
Mặc dù không bao giờ lựa chọn vậy, Jaeger cho rằng bà nhận được một món quà từ cái chết của con mình. Bà đã học được khả năng tha thứ. Jaeger cũng kết nối với mẹ của thủ phạm để làm dịu nỗi đau của người phụ nữ kia. Họ trở thành bạn. Từ đó tới giờ, hằng năm, hai người phụ nữ luôn đi cùng nhau khi thăm mộ con mình” (Trích trong bài Van hoá làm nhục bằng tha thứ và hoà giải của Đặng Hoàng Giang)
Lạy Chúa, xin dạy chúng con hiểu giá trị của sự thứ tha, để giúp chúng con luôn biết huân luyệ cho mình mộtm trái tim quảng đại để sãn sàng tha thứ. Vì khi biết tha thứ là chính lúc chúng con đang trên đường tiến tới sự hoàn thiện như Cha trên trời. Amen.
Với 11 trường hợp nhiễm Covid-19, tỉnh Vĩnh Phúc đang được coi là tâm dịch của cả nước. Trong thời điểm dịch bệnh đang diễn biến phức tạp, đặc biệt đã có trường hợp một bệnh nhân đã lây chéo sang nhiều người trong gia đình và hàng xóm. Bởi vậy, ngày 13/2, tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành cách ly toàn bộ xã Sơn Lôi (huyện Bình Xuyên) - nơi ghi nhận nhiều bệnh nhân nhiễm Covid-19 nhất. Những hành động mạnh mẽ này nhằm giúp sớm loại bỏ đại dịch Covid-19 ra khỏi Việt Nam nhanh nhất mà thôi. Vâng, cách ly là cần thiết, tuy nhiên, một câu chuyện đáng buồn, mấy ngày qua, chuyện nhiều người tỏ thái độ kỳ thị với người dân Vĩnh Phúc. Đây là điều đáng lên án. Một khách sạn ở Hà Nội treo tấm biển từ chối tiếp công dân Vĩnh Phúc; trên mạng xã hội tràn lan những dòng bình luận: “Vũ Hán của Việt Nam” rồi “tránh xa người Vĩnh Phúc”... Phong trào kỳ thị người Vĩnh Phúc còn lan khắp các trang bán hàng trực tuyến. Nhiều người mất việc chỉ vì họ là người Vĩnh Phúc, có người không dám khai là người Bình Xuyên khi đi phỏng vấn xin việc. Thậm chí, có chị giúp việc còn bỏ về giữa chừng chỉ vì chủ nhà là… thông gia với người Vĩnh Phúc. Những hành động, cách nhìn nhận phiến diện trên khiến không ít người bức xúc, phẫn nộ. Hơn ai hết, cuộc chiến chống dịch sẽ không thể đạt hiệu quả nếu không có sự ủng hộ, đồng lòng hợp tác của mọi người cần lắm lúc này tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, không kỳ thị, xa lánh, hỗ trợ và giúp đỡ mọi người.
Chúng ta là con cái của Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương yêu thương hết mọi người không kỳ thị, không phân biệt, không ghét ai ngay cả kẻ thù của mình, huống chi là người ốm đau bệnh dịch. Cho nên, Chúa Giêsu là Thầy đã đi trước thi hành Lời Ngài trước rồi dạy chúng ta hãy làm theo mới xứng đáng là con cái, là môn đệ của Ngài. Vì thế, hôm nay Chúa Giêsu dạy bài học chí lý này đúng ngay vào thời đại bệnh dịch này: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Cho nên, người đời kỳ thị người Vĩnh Phúc, có 1 linh mục trẻ mới 35 tuổi, chịu chức linh mục hơn 1 năm đã tự nguyện hy sinh xông vào chính tâm đại dịch để phục vụ mọi người. Đó là linh mục Giu-se Hoàng Trọng Hữu thuộc giáo xứ Lai Tê, giáo phận Bắc Ninh. Thật cảm phục lòng yêu mến Chúa, tinh thần hy sinh phục vụ của người linh mục trẻ, sẵn sàng hy sinh quên mình, sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn để phục vụ hy sinh cho người mình yêu noi gương Chúa Giêsu: “Mục Tử tốt lành, thí mạng sống mình vì đàn chiên, Người đến để cho chiên được sống dồi dào” (Ga 10,28).
Tình yêu thì không có biên giới cả về mức độ lẫn đối tượng. Ăn cho, buôn so. Đã có tính toán, đã có hạn mức cố định thì sẽ chẳng còn là tình yêu. Đã yêu là yêu đến cùng. Xét về mức độ thì Chúa Kitô không chỉ minh định rõ ràng đó là sẵn sàng hiến thân vì người mình yêu mà Người còn thể hiện sự đến cùng trong tình yêu bằng cái chết trên thập giá. Để diễn tả sự đến cùng trong mức độ mến Chúa và yêu tha nhân, Ngài dạy: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi…Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,30-31). Hạn từ “hết” đuợc lặp đi lặp lại và hạn từ “như chính mình” làm nỗi rõ tính vô biên của tình yêu.
Yêu thương là không chỉ muốn mà còn phải nỗ lực làm điều tốt nhất cho người mình yêu. Trong niềm tin Kitô giáo, mọi người đều là anh chị em với nhau. Đã là anh em, chị em với nhau một mặc, chúng ta không được phép loại bỏ hay kỳ thị nhau dù dưới bất cứ hình thức nào, mặc khác chúng ta cần giúp nhau, hy sinh cầu nguyện cho nhau thi hành thánh ý Thiên Chúa để có hạnh phúc đích thực. Vâng lệnh Chúa Giêsu chúng ta hãy chân thành cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta. Trước hết hãy cầu xin cho họ nhận ra lầm lỗi họ đã phạm và biết sám hối, ăn năn, thay đổi. Hãy cầu xin cho họ biết tìm cách khắc phục những hậu quả xấu đã gây ra cho tha nhân, cho xã hội… Có thể nói đây là bước khởi đầu của việc sống yêu thương “kẻ thù”, yêu thương những người làm hại chúng ta. Tiếp đến, hãy dùng ngôn ngữ mà rao truyền chân lý, vạch trần sự dữ để giúp người lạc lối trở về nẽo chính, đường ngay, như Lời Chúa trong bài đọc 1 dạy: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta cùng hiệp lời cầu xin Chúa ban cho mọi người không phân biệt tôn giáo có đủ khôn ngoan, nghị lực, đầy nhiệt huyết tông đồ để phục vụ mọi người nhất là những người bệnh tật, khổ đau thay cho kỳ thị xua đủa. Chúng ta cùng hiệp lời cho cầu nguyện cho những người đang sống trong tâm trấn dịch bệnh được bình an và cơn đại dịch sớm dập tắt, đồng thời mở rộng vòng tay yêu thương giúp đỡ, vì khi giúp đỡ những người đau khổ là giúp đỡ chính Chúa đang đau khổ vậy. Amen.
Sách Sáng thế kể: “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. Rồi ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra” (St 2,7-8). Như vậy, nơi con người ngay từ khi Thiên Chúa tạo dựng có hai yếu tố vật chất (bùn đất) và sinh khí (hơi thở của Thiên Chúa – ta gọi là hồn thiêng). Cho nên, linh hồn là do Thiên Chúa tạo dựng trực tiếp, do Thiên Chúa ban tặng chứ không do cha mẹ tạo nên. Vì vậy, tự bản chất con người chỉ là thụ tạo, được hưởng những đặc ân của Thiên Chúa nhưng con người vẫn khác xa và cách biệt ngàn trùng với Thiên Chúa Tạo Hoá. Chỉ trong Chúa Giêsu Kitô, con người mới trở thành con Chúa, mới được tham dự và chia sẻ sự sống đời đời. Cho nên, Chúa Giêsu hôm nay mời gọi chúng ta hãy nên thánh về phần hồn và thiện về phần xác nhờ đó chúng ta mới được sống lại cả hồn lẫn xác trong ngày sau hết.
Trước hết, về phần hồn, Lời Chúa bài đọc 1, Thánh Phaolô khẳng định rằng: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em”. Rõ ràng, đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu là đời sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Ngài đưa ta vào đời sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, tức là kết hiệp hoàn toàn với Thiên Chúa. Thiên Chúa là trung tâm của thân thể và đời sống ta, Người chiếm hữu toàn bộ linh hồn ta. Như thế, ta sẽ là tất cả cho Thiên Chúa và Thiên Chúa sẽ là tất cả cho ta, ta thuộc về Người và Người cũng thuộc về ta. Nhưng Thiên Chúa là Đấng Thánh (Hs 11,9), còn chúng ta là con người nên trước mặt Thiên Chúa, chúng ta phải thánh.
Vì thế, mỗi người chúng ta cần phải xây dựng tâm hồn mình nên thánh, có nghĩa rằng phải có đời sống đầy ân sủng Chúa qua việc siêng năng lãnh nhận các Bí tích. Vì chưng, qua các Bí tích, ơn Chúa giúp tâm hồn ta mỗi ngày một thánh hơn. Chẳng hạn, Bí tích Hòa Giải, khi được Rửa Tội, chúng ta đã trở nên tạo vật mới nhưng bản chất con người vốn yếu đuối thường sa ngã phạm tội làm cho linh hồn hoen ố. Vì vậy, ta phải đi xưng tội để được tha tội nhằm giao hòa với Thiên Chúa và mọi người. Bí tích Giải Tội còn ban ơn trợ giúp chúng ta sợ tội, xa lánh tội và vượt thắng tội lỗi nhờ đó chúng ta mới thánh được. Rồi, Bí Tích Thánh Thể nữa, rước lễ giúp tăng triển sự hiệp thông với Chúa Kitô. Như của ăn vật chất mang lại sự sống cho thân xác thế nào, việc rước lễ cũng đem lại sự sống kỳ diệu cho đời sống thiêng liêng như vậy. Một khi đã hiệp nhất với Chúa Giêsu, đời sống tâm linh của chúng ta trở nên vững mạnh, giúp vượt thắng và xa lánh tội lỗi. Bí tích Thánh Thể là một bảo chứng chắc chắn cho vinh quang Nước Trời sau này, cho việc Phục Sinh thân xác cát bụi của chúng ta. Là con người, chúng ta cần lương thực trần thế để sống nhưng sự sống ấy cũng có giới hạn; là con Thiên Chúa, chúng ta cần được lương thực thần linh để sống và tồn tại mãi mãi. Nếu Đức Kitô chỉ là người thì thịt máu Ngài cũng chỉ là lương thực trần gian, song Đức Kitô còn là Thiên Chúa nên Thịt Máu Ngài cũng chính là sự sống thần linh nuôi linh hồn ta làm cho linh hồn ta nên thánh mỗi ngày và được sống muốn đời vì chưng Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”.
Thứ hai, Chúa Giêsu hôm nay mời gọi nên thiện về phần xác, có nghĩa là thiện về con của chúng ta. Thiên Chúa tạo dựng và phú bẩm cho ta các bản năng như con vật (ăn, ngủ, nghỉ, giận, hờn, ghét, yêu…) như chúng ta hơn con vật nhờ có trí khôn, có trí khôn nên điều khiển, kiểm soát và kiềm chế những bản năng này sao cho phú hợp với nhân phẩm con người ngay từ khi làm người là “nhân cho sơ tính bản thiện”. Làm sao để chúng ta nên thiện về phần con này? Thưa Lời Chúa các bài đọc hôm nay đưa ra những bài học luân thường đạo lý rất cụ thể và chí lý. Bài đọc 1, Sách Lê Vi dạy chúng ta không được vu khống những người trong dòng họ, không được ra toà đòi người đồng loại phải chết, không được để lòng ghét người anh em, không được trả thù, không được oán hận người ta và phải yêu đồng loại như chính mình. Rồi trong bài đọc 1, Thánh Phaolô dạy chúng ta đừng có dối gian với chính mình và với người khác. Và trong Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi. Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta. Như vậy, chúng ta mới được trở nên con cái của Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời.
Vì vậy, trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium (Ánh sáng Muôn dân), Công Đồng Vaticanô II dạy rằng để đời sống Kitô hữu mỗi ngày nên thánh thiện, trước hết chúng ta phải có lòng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Qủa thật, chỉ có tình yêu mới làm cho Thiên Chúa ở với ta và ta ở với Thiên Chúa (1Ga 4,16). Tình yêu ấy mỗi ngày một lớn lên trong ta, thúc đẩy ta luôn sống hết mình cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô và buông mình cho Chúa Thánh Thần hầu lắng nghe Lời Chúa và mau mắn thi hành Lời Chúa dạy. Bên cạnh đó, chúng ta không ngừng nỗ lực thực thi bác ái thương người có mười bốn mối, và canh tân đời sống; nhất là siêng năng lãnh nhận các Bí tích, chuyên cần cầu nguyện và tham dự các buổi cử hành phụng vụ ngõ hầu đạt tới “sự viên mãn của đời sống Kitô hữu và sự trọn hảo của đức ái, dù ở hoàn cảnh hay địa vị nào” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 40). Như thế, người thánh thiện không phải sống ngoài hay không quan tâm đến thực tại trần gian; trái lại họ phải nhập thế, cải thiện hoàn cảnh sống và giúp mọi người sống thánh và thiện hơn. Vậy, càng sống tinh thần Bát Phúc của Chúa Giêsu, chúng ta càng hoàn hảo, thánh thiện và có phúc vì chưng Chúa Giêsu hứa: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8).
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho “mọi người đều thấy rõ rằng, tất cả Kitô hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều phải tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô giáo và đến bậc trọn lành thánh thiện” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 41). Vì thế, chúng ta phải sử dụng hết sức lực, các ân sủng mà Đức Kitô đã ban nhiều hay ít để thi hành Lời Chúa trong tất cả mọi sự; đồng thời chân thành yêu mến Thiên Chúa, làm vinh danh Người qua việc yêu thương và khiêm nhường phục vụ tha nhân.
Lời Chúa hôm nay nối tiếp đoạn trước, cũng trong viễn tượng kiện toàn Luật Chúa. Hôm nay, chúng ta suy nghĩ về một vấn đề trung tâm của đạo Công giáo: giới luật yêu thương.
Chúa Giêsu nói: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng” tức là theo Luật cũ thì luật báo oán là luật cho phép người bị thiệt hại được quyền đền trả lại những thiệt hại của mình cân xứng theo thiệt hại người khác làm cho mình. Nhưng đối với Chúa Giêsu thì hoàn toàn khác: “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống lại người ác; ai vả má bên trái thì cho họ vả luôn má bên phải”, nghĩa là chịu đựng tất cả mọi thiệt hại mà không đòi báo oán. Chúa Giêsu đòi phải đi xa hơn nữa: “Ai muốn đoạt áo trong, cho cả áo choàng”, “ai xin thì cứ cho; ai muốn vay mượn thì đừng từ chối”. Đọc thấy những điều này, chúng ta có thấy ớn lạnh không? Chúng ta dám đi đến mức độ quảng đại như thế không? Không mấy người đâu, chỉ có các thánh như thánh Phaolô, Mẹ Têrêxa Calcutta, hay thánh Vinh Sơn đệ Phaolô… Nhưng nếu chúng ta dám, thì ít nhiều, chúng ta cũng có thể làm được. Chúng ta không làm một mình đâu, Chúa Giêsu vẫn kề cận chúng ta. Ngài sẽ giúp chúng ta dám làm khi chúng ta bắt đầu đi vào con đường Ngài đã vạch ra.
Chúa Giêsu còn đi xa hơn: “Anh em nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em”. Đây là chóp đỉnh của luật yêu thương. Rất nhiều người không hiểu được luật mới này. Theo thông thường, đa số chúng ta còn giữ theo Luật Môsê là ghét kẻ thù. Chúa Giêsu không như thế. Ngài đi đến tột đỉnh của tình yêu. Yêu kẻ thù. Nhiều người cứ nghĩ rằng, tôi không trả thù, tôi không gây hấn với kẻ thù, như thế là đủ lắm rồi. Như thế vẫn chưa đủ, phải yêu kẻ thù. Phải xem kẻ thù là anh em thực sự, như một người thân. Chúa bảo yêu thương kẻ thù chứ không chỉ là dửng dưng như một người nào đó. Đây mới là nét độc đáo của Kitô giáo. Chúa Giêsu đòi buộc đến mức độ đó. Chúng ta có làm được không? Điều này vượt quá sức tự nhiên của con người, nhưng phải can đảm thực hiện. Chúa Giêsu biết chúng ta yếu đuối Ngài không để chúng ta một mình, Ngài sẽ ban Thánh Thần để trợ giúp chúng ta cho đến khi chúng ta đủ can đảm thực hiện những gì Ngài dạy, miễn là chúng ta không buông trôi.
Chúa Giêsu cho chúng ta thấy tình yêu của Chúa Cha như gương mẫu. Người không phân biệt người tốt người xấu. Người cho mưa nắng trên người lành kẻ dữ vì mọi người là con của Người. Đó là mẫu gương chúng ta cần chiêm ngắm và noi theo. Thực ra, chúng ta không thể xem ai như kẻ thù. Người ta có thể thù ghét chúng ta, nhưng chúng ta không xem ai là kẻ thù cả. Mọi người đều là anh em cùng một Cha duy nhất. Nếu như thế thì chúng ta có thể thương mọi người kể cả những người thù ghét chúng ta. Sở dĩ người đời ghét chúng ta vì họ không biết Chúa Cha, như Chúa Giêsu đã nói.
Hiện nay, chúng ta thấy, người đời đang tìm hết mọi cách để làm suy giảm uy tín của Giáo hội nhờ vào những lỗi phạm của một số anh em chúng ta. Họ dùng tất cả mọi phương tiện có thể để làm lung lạc niềm tin của các tín hữu. Họ thổi phồng tất cả những sơ hở của một số người trong chúng ta, và chúng ta thấy tất cả sự hận thù của họ. Chúa Giêsu bảo chúng ta: cứ yêu thương, không sờn lòng. Đáp trả hận thù bằng tình thương, bằng lời cầu nguyện. Như thế, chúng ta mới thực sự là con của Cha trên trời.
Thường chúng ta hành động theo cảm tính. Thương những người thương chúng ta và đố kỵ với người ghét chúng ta. Chúng ta tách rời một giới răn duy nhất thành hai giới răn: yêu Chúa và yêu người là một. Khi tách rời như thế, chúng ta không thể yêu trọn vẹn. Chúa Giêsu không như thế. Người đời chỉ yêu thương những người thuộc về mình và loại trừ những người khác. Chúa Giêsu không bao giờ loại trừ ai. Chính Chúa nói rõ: “Như thế thì ai làm không được? Những người gian ác nhất cũng làm như thế. Vậy chúng ta hơn họ chỗ nào?
Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta anh hùng. Người tín hữu phải anh hùng. Anh hùng không phải chỉ là làm những việc phi thường mà “yêu thương như Thầy đã yêu thương”.“Là chết cho bạn hữu”. Trong Giáo hội, những gương anh hùng như thế không thiếu: thánh Têphanô, các thánh tử đạo… và trên hết Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt hảo khi Ngài chịu treo trên thập giá: “Xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Nhìn vào Chúa, chúng ta nghĩ sao?
Chúng ta không bị treo trên thập giá như Chúa, nhưng hằng ngày, sống kề cận với những người khác, lắm khi chúng ta bị hà hiếp, bị bất công, bị chà đạp, chúng ta dám yêu thương những người đó không? Yêu thương và tha thứ thực sự, và làm ơn cho họ khi cần? Nếu người Công giáo dám yêu thương như Chúa yêu thì chúng ta chinh phục thế giới, nhưng tiếc thay, không mấy người trong chúng ta biết yêu thương thành thật. Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy dẫy hận thù, ghen ghét, tàn bạo, chúng ta bị lây nhiễm bởi bầu không khí quanh chúng ta, và chúng ta phản ứng như người không biết Cha trên trời.
“Yêu thương như Thầy đã yêu thương”. Đó là đòi buộc gắt gao nhưng lại là điều kiện để chúng ta hạnh phúc và làm cho mọi người quanh ta hạnh phúc. Thế giới đang khao khát tình thương, con người hôm nay đang oi ngợp trong một đại dương hận thù. Chiến tranh, khủng bố, bạo lực đủ mọi thứ đang bao trùm thế giới, người ta đang mong ước hòa bình, nhưng không thể có hòa bình nếu Chúa vắng bóng trong cuộc sống. Thiên Chúa là tình yêu. Nếu vắng bóng Tình Yêu thì hậu quả là con người sẽ tiêu diệt lẫn nhau thôi. Chúng ta đang chứng kiến một cách rõ ràng điều đó. Chúng ta dám yêu thương không? Hay chúng ta cũng chỉ đứng nhìn và sống chết mặc ai? Chúng ta đang đứng trước một chọn lựa nghiêm trọng: yêu thương hay hận thù? Chúng ta dám chọn yêu thương không? Có lẽ chúng ta không hận thù ai, nhưng yêu thương như Chúa yêu thì còn xa! Vì thế, phải luôn cố gắng, và không ngừng cố gắng để tình yêu của chúng ta trở thành dấu chỉ rõ ràng của tình yêu Chúa. Chúng ta không thể dừng lại trong một mức độ nào đó mà càng ngày càng tiến triển hơn trong tình yêu. Tình yêu tự nhiên còn đòi hỏi hôm nay hơn ngày hôm qua, thì tình yêu Chúa đòi buộc càng phải hơn như thế.
Thánh Phaolô không dạy khác hơn. Chúng ta đọc lại bài ca đức mến của ngài: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả”…”không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không nóng giận, không tìm tư lợi, không nuôi hận thù…”
Hãy nhìn vào khuôn mặt đầy yêu thương của Chúa Giêsu, “Đấng đã yêu chúng ta và đã liều mạng cho chúng ta”, chúng ta sẽ thấy hăng hái hơn, vững tin hơn, và cuộc sống chúng ta sẽ sung mãn hơn.
Hôm nay, bàn tiệc yêu thương vẫn chờ đợi chúng ta. Chúa Giêsu Tình Yêu vẫn đến với chúng ta với tất cả tình yêu của Ngài. Ngài đến nuôi dưỡng tình yêu của chúng ta bằng chính tình yêu của Ngài. Ăn lấy Ngài để cùng với Ngài, yêu thương anh em, kể cả những người thù ghét chúng ta. Chúng ta mới đủ can đảm yêu thương đến tận cùng như Ngài.
Ngày xưa dân Do Thái cũng như dân ngoại đối xử với nhau quá mức trong việc trả thù (St 4,15; 4,17-24) (Kn 4,23-24). Nhưng khi luật Talion ra đời, luật này qui định một hình phạt tương đối với thiệt hại đã gây ra.
Trong bài Tin Mừng,
Đức Giêsu khởi sự bằng cách trích dẫn luật cổ nhất: mắt đền mắt, răng đền răng, luật ấy gọi là Lex talionis (luật báo thù). Nó xuất hiện trong bộ luật cổ nhất gọi là luật của Hammurabi, vị hoàng đế trị vì Babylon từ năm 2285-2242 TC.
Luật Hammurabi phân biệt cách đối xử giữa người quí phái và công nhân: Nếu một người gây cho người quí phái mất con mắt thì người ấy sẽ phải mất một mắt. Nếu người ấy làm thương tật người quí phái thì người ta sẽ làm thương tật người ấy…Nếu người nào làm cho người ngang hàng gẫy răng, thì người ta cũng làm cho người ấy rụng một chiếc răng…
Nguyên tắc thật rõ ràng và rất đơn giản: nếu ai làm cho người khác bị thiệt hại điều gì thì người ấy bị thiệt hại tương đương.
Luật ấy trở thành một phần nhỏ của luật đạo đức Cựu Ước.
Trong Cựu Ước luật ấy được đề cập không dưới ba lần:
- “Còn nếu có sự thiệt hại chi, thì ngươi sẽ lấy mạng đền mạng, lấy mắt đền mắt, lấy răng đền răng, lấy tai đền tai, lấy chân đền chân, lấy phỏng đền phỏng, lấy bầm đền bầm, lấy thương đền thương”(Xh 21,23-25).
- “Khi người nào làm thương tích cho kẻ lân cận mình, thì người ta phải làm thương tích cho người đó lại như chính người đó đã làm, gẫy đền gẫy, mắt đền mắt, răng đền răng. Người ta sẽ làm cho người ấy đồng một thương tích như người ấy đã làm cho người khác”(Lv 24,19-20).
Chúng ta nhận thấy rằng luật Talion đã có sự tiến bộ. Luật này có ý hạn chế luật báo thù. Luật qui định chỉ người gây thương tích mới bị hình phạt và hình phạt không được thái quá, mà chỉ tương đương với sự thiệt hại mà người ấy đã gây ra mà thôi. [1]
Luật cũ cho phép báo thù, còn Đức Giêsu nói: “Còn Thầy, Thầy bảo các con:”Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con” (Mt 5,43-44).
Truyện: tổng thống Nelson Mandela.
Ông Nelson Mandela đã trải qua 27 năm trong nhà tù Nam Phi. Sau cùng, khi ông được phóng thích, ông có đủ lý do để trả thù những người đã cướp đoạt tự do của ông một cách bất công.
Trong cuốn tiểu sử tự thuật “Hành trình đến tự do” (1994), ông nói với chúng ta:“Tôi biết rằng dân chúng chờ đợi tôi nuôi dưỡng sự giận dữ đối với người da trắng, nhưng tôi đã không làm thế.
Trong nhà tù, sự tức giận của tôi với người da trắng giảm xuống, nhưng lòng thù ghét hệ thống xã hội đã tăng lên.
Tôi muốn thấy đất nước Nam Phi thấy tôi yêu thương cả những kẻ thù của tôi trong khi tôi thù ghét hệ thống đã khiến chúng ta chống đối nhau.
Tôi đã thấy sứ mạng của tôi là rao giảng sự hòa giải hay chữa lành những vết thương lâu đời và xây dựng một nước Nam Phi mới” [2]
Và mục sư Luther King trong tác phẩm “Chỉ có một cuộc cách mạng”, ông nói:”Trong Tân Ước, chúng ta thấy từ “Agapè” được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nơi tâm hồn con người. Khi vươn lên đến một tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, cũng không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của họ, chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ”.
Đó chính là ý nghĩa lời Đức Giêsu: “Các con hãy yêu thương kẻ thù”.
Phần tôi, tôi sung sướng vì Ngài đã không nói: ”Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em” bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm nổi. Thiện cảm là một xúc cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người đang ném bom vào gia đình nhà tôi. Tôi không có thiện cảm với người bóc lột tôi. Tôi không có thiện cảm với người đè bẹp tôi dưới sự bất công.
Không, không thể có một thiện cảm nào đối với người đêm ngày đe dọa giết tôi. Nhưng Đức Giêsu nhắc nhở tôi rằng tình yêu còn lớn hơn thiện cảm, rằng tình yêu là thiện chí biết cảm thông, có tính sáng tạo, cứu độ đối với hết mọi người”. Amen[3]
------------- [1] Lm. Giuse Đinh Lập Liễm, CN 7A TN [2] McCarthy, Chúa nhật và lễ trọng năm A, trg. 359-360 [3] Casterman, chỉ có một cuộc cách mạng trg.108-109
Mt 5: 38-48 Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã trích dẫn bộ luật cổ xưa nhất với tên gọi là Hammurabi của nhà nước Lưỡng Hà cổ đại, với nguyên tắc Talion.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã trích dẫn bộ luật cổ xưa nhất với tên gọi là Hammurabi của nhà nước Lưỡng Hà cổ đại, với nguyên tắc Talion, nghĩa là “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Đó là nguyên tắc trả thù ngang bằng (đồng thái phục thù) hay còn gọi là “luật pháp Talion”.
Bộ luật Hammurabi ra đời trong khoảng thời gian từ năm 1792 đến 1750 trước công nguyên và mang tên của vị vua đã ban hành bộ luật, vua Babilon thứ sáu.
Nguyên tắc cơ bản được quán triệt trong toàn bộ Bộ luật Hammurabi là nguyên tắc công bằng, trong đó công bằng có nghĩa là áp dụng hình phạt ngang bằng với thiệt hại mà kẻ phạm tội gây ra. Có thể nói, chưa có bộ luật nào áp dụng triệt để nguyên tắc Talion (mắt đền mắt, răng đền răng) như Bộ luật Hammurabi.
Không chỉ thế, theo như điều 202 của bộ luật: “nếu một kẻ nào đó tát vào mặt một người có địa vị cao, thì kẻ ấy phải mang ra trước công chúng đánh 50 roi”. Những hình phạt khác nhau dành cho các hành vi khác nhau cũng không đồng bộ giữa các giai cấp và tầng lớp người trong xã hội, hơn nữa chúng khác nhau tùy theo địa vị của tội nhân. Đôi khi bộ luật cho phép bồi thường bằng tiền thay cho nhục hình. Thí dụ “Nếu một người phá hỏng mắt của người khác, người ta phá hỏng mắt của hắn”, “Nếu một người phá hỏng mắt của một nô lệ, hắn chỉ phải bồi thường nửa giá cho tên nô lệ”.
Sau này, luật ấy trở thành một phần nhỏ của luật đạo đức Cựu Ước.
Chẳng hạn, trong Cựu Ước ta có thể thấy ở một vài chỗ như: - Trong sách Xuất Hành nói rằng: “Còn nếu có sự thiệt hại chi, thì ngươi sẽ lấy mạng đền mạng, lấy mắt đền mắt, lấy răng đền răng, lấy tai đền tai, lấy chân đền chân, lấy phỏng đền phỏng, lấy bầm đền bầm, lấy thương đền thương” (Xh 21,23-25).
- Trong sách Lê Vi “Khi người nào làm thương tích cho kẻ lân cận mình, thì người ta phải làm thương tích cho người đó lại như chính người đó đã làm, gẫy đền gẫy, mắt đền mắt, răng đền răng. Người ta sẽ làm cho người ấy đồng một thương tích như người ấy đã làm cho người khác” (Lv 24,19-20).
Ta thấy luật cũ cho phép báo thù, còn luật mới của Đức Giêsu thì khác, nhấn mạnh đến tình yêu thương và sự tha thứ, Chúa Giêsu đã nói:
“Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con, Nếu ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa..., Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài...”
Những điều Chúa Giêsu nói đó, chúng ta cảm thấy thế nào?
Chúng ta có dám can đảm đưa luôn má trái ra cho người ta tát khi họ tát má phải ta không? Hay có người muốn lấy áo trong của ta, ta có cho họ luôn áo ngoài không? …Ta thấy trong Tin Mừng, chính Đức Giêsu, khi đã nhận cái vả của người đầy tớ vị Thượng Tế, Chúa cũng đâu có giơ má kia ra! Không những không đưa má ra mà Ngài con hỏi lại rằng: "Sao anh lại đánh tôi" (Ga 18, 23).
Vậy Chúa Giêsu đang muốn nói với chúng ta điều gì đây?
Tin Mừng không bao giờ cho chúng ta những công thức đạo đức hoàn toàn có sẵn. Điều quan trọng là một "tinh thần" chứ không phải là một "quy tắc".
Nghĩa là, Chúa Giêsu không có ý nói rằng khi bị người khác tát má này thì cứ vui vẻ đưa má kia ra cho nó tát luôn. Chúng ta không nên hiểu theo mặt chữ như vậy, nhưng hãy hiểu theo một ý nghĩa xâu sa khác. Lời Chúa trong Tin Mừng muốn đưa chúng ta đến một đỉnh cao của tình người, chiều sâu hơn của tình yêu, để chúng ta vượt qua chính mình mà đạt đến sự tha thứ, đó là, Ngài muốn tất cả chúng ta đều phải chiến thắng bản năng trả thù trong con người của mình. Nói đến bản năng trả thù, có nghĩa là: con người chúng ta không chịu được khi người ta xúc phạm đến chúng ta, không chịu được khi người khác đánh con cái hay người thân của chúng ta, chúng ta không chịu được khi người người khác chửi bới hay xúc phạm đến người thân của chúng ta, hay là chính chúng ta. Và khi sự việc xảy ra thì từ cái không chịu được những điều đó, sẽ dễ dẫn chúng ta đến việc thù ghét đối phương và tìm cách trả thù đối phương. Và theo Chúa Giêsu thì trả thù là một điều xấu, và điều xấu sẽ trở thành một phần của chúng ta khi chúng ta đáp lại nó bằng một sự tàn nhẫn tương đương. Khi người ta trả đũa điều xấu bằng điều xấu, người ta sẽ trở về với vòng tròn của sự dữ.
Thật vậy, điều xấu mà chúng ta chịu đựng thật ra vẫn còn ở bên ngoài chúng ta, nó chưa đi vào con người chúng ta. Nhưng khi chúng ta đáp trả lại điều xấu bằng một điều xấu, thì điều xấu ấy sẽ có thêm một chiến thắng phụ nữa, bởi vì nó đã đi vào lòng chúng ta, đi vào bên trong con người của chúng ta. Thế nên, Đức Giêsu muốn mở ra một con đường khác cho nhân loại: chiến thắng điều xấu bằng điều thiện, dùng tình yêu để đáp lại hận thù. Nếu làm được như vậy, thì điều xấu sẽ khó có thể xâm nhập vào trong tâm hồn của chúng ta.
Tuy nhiên, điều xấu thì cứ rình rập chúng ta mỗi ngày, còn chúng ta thì mãi mãi vẫn là những thụ tạo dễ bị ảnh hưởng bởi điều xấu, nên chúng ta dễ bị điều xấu xâm nhập vào tâm hồn. Bởi vì, trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, một cử chỉ vô ý, một câu truyện thêm mắm thêm muối cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Vì thế, trước tiên, chính chúng ta hãy cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ. Nhờ đó, chúng ta có thể giảm bớt đi được những hiểm hoạ của điều xấu rình rập, khiến cho người khác có thể thù ghét chúng ta, hay chính chúng ta đi thù ghét họ.
Để chiến thắng được bản năng thù ghét, thì ngoài sự cố gắng của bản thân mỗi ngày tập luyện cách sống chân thật, yêu thương, thì chúng ta cần mở lòng ra để đón nhận sự trợ giúp của Chúa nữa.
Lạy Chúa, xin cho con say men tình Chúa, để đời con bớt đi lỗi tội. Xin cho con biết yêu thương mọi người, vì mọi người là những anh em. Xin cho con biết đem yêu thương gieo trong đời sống, để đời luôn cất lên tiếng cười. Trao cho nhau yêu thương ngọt bùi, để mọi người cùng mến thương nhau. Amen.
Chúa Giêsu dạy rằng: “Nếu ai bị vả má bên phải, thì hãy giơ ra cả má bên trái nữa” (Mt 5,39). Lời dạy này, hầu như mọi Kitô hữu đều biết. Nhiều người ngoài Công giáo cũng biết. Tuy nhiên, thực tế là, biết thì biết vậy thôi, chứ thực hành thì mấy ai thực hành được!
Chúa Giêsu còn dạy thêm nhiều điều khác nữa: “Ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài... Ai xin thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng nghoảnh mặt đi” (Mt 5, 40-42).
Những giáo huấn của Chúa Giêsu như thế, quả là khó thực hiện. Nhiều khi, người ta lại làm ngược lại, đã không đưa cả má bên kia, mà còn tát trả thù mạnh hơn, hay là tát gấp đôi, gấp ba, tát hai ba cái, tát cả bên phải lẫn bên trái! Hoặc như có kẻ muốn vay mượn, thì mấy khi ta dễ dàng cho người khác mượn. Nếu có cho mượn thì cũng đòi hỏi điều kiện này, điều kiện nọ, sợ người vay không trả, hay không thể trả.
Vậy Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay, phải chăng là thiếu thực tế, hay là siêu tưởng, là quá lý tưởng?
Thật ra, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: “Anh em đã nghe luật dạy rằng:... Còn Thầy, Thầy bảo anh em”. Và Ngài cũng khuyên dạy: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt5, 48).
Vậy thì, Lời Chúa dạy không phải ở tầm mức tu đức thông thường của cuộc sống, của các tôn sư, các thầy dạy ở trần gian; cũng không phải là lề luật của những nhà khôn ngoan, nhà lập pháp trần thế. Nhưng đó chính là nền tu đức, là lề luật, của Thiên Chúa truyền ban.
Thiên Chúa có chương trình của Ngài khi tạo dựng con người ở trần thế. Ngài muốn nâng con người chúng ta lên bậc thánh thiện, nâng con người lên hàng con cái Thiên Chúa, được chia sẻ hạnh phúc thần thiêng với Ngài. Vì vậy, Ngài luôn mời gọi chúng ta hãy nâng mình lên trong cách sống của một nền luân lý đạo đức, trỗi vượt lên trên nền luân lý đạo đức thông thường của trần gian.
Thế gian có thể nghĩ rằng, những cách sống của Kitô hữu là yếu hèn, là bạc nhược, là khờ dại: Bị đánh mà không đánh trả là yếu hèn; bị lấy thì phải lấy lại cho công bằng; cho vay mượn thì phải cẩn thận, chứ đừng khờ dại, kẻo bị mất tất cả...!
Nhưng những cách sống chịu mất mát, thua thiệt đó lại là con đường giúp chúng ta nên hoàn thiện, nên thánh như Thiên Chúa là Đấng Thánh. Cuộc sống đích thực của chúng ta không ở trần gian này, nhưng là ở Nước Trời. Sự mất mát, thua thiệt ở đời này phát sinh hoa quả đời sau. Ngược lại, sự có được ở đời này lại là sự mất mát đời sau. Vì như có lần Chúa Giêsu dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì” (Mc 8,35-36).
Một nữ tài xế taxi sau đi đón một vị khách lên xe đã bị kề dao vào cổ và đòi tiền. Thì ra, đây là một tên cướp. Cô bình tĩnh lấy tất cả tiền ra đưa cho kẻ cướp và nói: “Đây là tất cả số tiền mà tôi kiếm được trong ngày hôm nay, nếu anh thấy ít quá thì có thể lấy thêm mấy đồng tiền lẻ trong túi tôi nữa”. Tên cướp có vẻ sững sờ bởi thái độ của nữ tài xế. Cô nói tiếp: “Anh sống ở đâu? Muộn rồi. Gia đình anh có thể lo lắng cho anh. Tôi sẽ đưa anh về nhà”. Trước sự quan tâm của nữ tài xế, tên cướp đã thu dao lại.
Trên đường đi, cô trò chuyện với tên cướp: “Gia đình tôi từng sống một cuộc sống rất khó khăn, nên tôi học lái xe và trở thành tài xế taxi. Mặc dù tôi không kiếm được nhiều tiền, nhưng chúng tôi đã sống tốt hơn trước đây. Nhưng hãy nhìn anh xem! Một người đàn ông với cơ thể khỏe mạnh. Anh không thể làm gì để kiếm sống sao? Nếu anh tiếp tục đi con đường này, cuộc sống của anh sẽ bị hủy hoại!”
Khi đến nơi kẻ cướp muốn xuống, nữ tài xế nói với theo: “Nghe này, không phải là anh cướp của tôi, mà là tôi đưa tiền cho anh. Hãy dùng số tiền đó để làm việc đúng đắn và đừng đi ăn cướp nữa”.
Tên cướp im lặng suốt quãng đường đi đột nhiên nói lớn lên và trả lại tiền cho nữ tài xế: “Chị à, tôi hứa sẽ không lặp lại chuyện này một lần nữa, dù cho bất cứ chuyện gì xảy ra”.
Người nữ tài xế quả là đã sống một cách cụ thể lời Chúa dạy: “Nếu ai bị vả má bên phải, thì hãy giơ ra cả má bên trái nữa. Ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài... Ai xin thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng nghoảnh mặt đi” (Mt 5, 39-42).
Giáo huấn của Chúa Giêsu tuy có khó thực hiện, nhưng chúng ta nên nhớ là mình đang trên đường lữ hành về quê trời. Chúng ta được sinh ra với hình ảnh Thiên Chúa, là con cái Thiên Chúa. Thế gian này với tiền tài, quyền lực, danh vọng, rồi cũng sẽ qua đi. Thế thì tại sao chúng ta lại không để cho nó qua đi một cách chủ động, với tinh thần tự nguyện, hy sinh cho tha nhân, để tạo dựng cho ta một đời sống trên Thiên quốc, nơi chúng ta sống hạnh phúc với Thiên Chúa, là Cha chúng ta ở trên Trời.
Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,44-45).
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù mình”. Việc này thật đòi hỏi: Nó đảo lộn các suy nghĩ của ta và làm mọi người phải thay đổi hướng đi của đời mình!
Bởi vì, đừng dấu diếm nữa, tất cả chúng ta đều có một vài kẻ thù… lớn hoặc nhỏ.
Kẻ thù đang ở đàng sau cánh cửa căn nhà bên cạnh, nơi người đàn bà đáng ghét đó mà tôi thường tìm cách tránh né mỗi làn bà ta sắp sửa cùng bước lên cầu thang. Kẻ thù ở chính nơi người bà con mà cách đây ba chục năm đã đối xử bất công với cha tôi, vì thế tôi không còn chào hỏi nữa. Kẻ thù ngồi ở bàn đàng sau trong lớp học và từ ngày nó tố cáo cho bạn tôi với thầy giáo, không bao giờ bạn nhìn mặt nó. Kẻ thù là người bạn gái đó, vì cô ta đã bỏ bạn để đi với người khác. Kẻ thù là người bán hàng đã đánh lừa bạn. Đó là những người không nghĩ như bạn về chính trị, vì thế ta tuyên bố họ là kẻ thù. Có người coi Nhà Nước là kẻ thù, nên dùng bạo lực đối xử với người đại diện Nhà Nước. Cũng có người nhìn các linh mục và Giáo Hội như là thù địch. Tất cả những người này và vô vàn những người khác mà ta gọi là “kẻ thù” ta phải yêu thương họ.
Phải yêu thương họ sao?
Thưa phải, phải yêu thương họ! Và đừng cho mình có thể làm được bằng cách thay đổi tình cảm oán ghét thành tình cảm nhân hậu hơn.
Mà còn hơn nữa. Bạn hãy lắng nghe lời Đức Giêsu dạy:
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy, anh em mới thực sự trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.
Bạn thấy không? Đức Giêsu muốn một tình thương thể hiện qua việc cầu nguyện và những hành động cụ thể.
Ở nơi khác, Ngài cũng dạy: “Anh em hãy làm ơn cho kẻ oán ghét mình, chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, cầu cho kẻ nhục mạ mình” (Lc 6,27-28).
Ngài giải thích cho ta lý do tại sao Ngài truyền dạy như vậy, và chỉ cho ta mẫu gương là tình thương của Thiên Chúa, Cha Ngài; Ngài dạy ta làm như vậy cùng hành xử theo gương Chúa Cha.
Điều đó có nghĩa là trên đời ta không còn cô đơn: ta có một người Cha và phải sống như Người. Không những thế, mà Thiên Chúa còn có quyền đòi ta làm như vậy, bởi vì khi ta còn là thù địch của Người, còn sống trong tội lỗi, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (x.2Ga 4,19), và sai Con của Người đến với ta, Đấng đã chết cách nhục nhã vì mỗi người chúng ta.
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.
Bài học ấy chú bé Jery người da đen đã học được ở Washington. Vì có trí thông minh, em đã được nhận vào một lớp đặc biệt gồm toàn thiếu niên da trắng. Nhưng trí thông minh không đủ để làm cho các bạn cùng lớp hiểu rằng em cũng bình đẳng như chúng. Màu da đen đã làm cho tất cả ghét bỏ em, đến độ ngày lễ Giáng Sinh các học sinh tặng quà cho nhau nhưng không thèm để ý tới Jery. Em bật khóc, điều này dễ hiểu! Nhưng khi về nhà em nghĩ đến Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù của anh em”, và đồng ý với má, em mua quà vui vẻ tặng cho tất cả những “người anh em da trắng” của mình.
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.
Ngày hôm đó Elizabeth, cô bé có đạo ở thành phố Florence (Italia) thật đau lòng, khi bước lên bậc thang vào nhà thờ dự lễ, vì cô nghe tiếng cười nhạo của một nhóm đồng lứa tuổi. Cho dù muốn chống lại, em mỉm cười và trong nhà thờ em cầu nguyện cho những thiếu niên ấy.
Khi đi ra, các thiếu niên chặn em lại và hỏi lý do tại sao em xử sự như vậy. Em trả lời, mình là người có đạo, nên phải thương yêu luôn luôn. Em nói lên điều đó với niềm xác tín mạnh mẽ.
Chứng ta của em Elizabeth đã được thưởng công: Chúa Nhật sau đó em thấy tất cả các thiếu niên ấy trong nhà thờ, rất chăm chú ở hàng ghế trên cùng. Các thiếu niên chấp nhận Lời Chúa như thế. Do đó các em là người lớn trước mặt Chúa.
Có lẽ ta cũng nên điều chỉnh lại một vài tình trạng, hơn nữa cũng vì ta sẽ được xét xử theo như cách ta xét đoán người khác. Thật vậy, chính ta là người trao vào tay Chúa cái thước mà Ngài phải dùng để đo tình yêu của chúng ta. Ta đã chẳng xin Chúa: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” đó sao? Vậy ta hãy yêu thương kẻ thù! Chỉ khi xử sự như vậy ta mới có thể sửa chữa lại sự chia rẽ, đạp đổ những hàng rào ngăn cách và xây dựng cộng đoàn huynh đệ.
Điều đó khó khăn sao? Nặng nề sao? Nó không để ta ngủ yên, ngay khi mới nghĩ đến sao? Hãy can đảm lên! Điều đó không phải là quá sức: một nỗ lực nhỏ từ phía ta, rồi 99 phần trăm Thiên Chúa sẽ làm, và… trong tâm hồn ta sẽ dâng trào niềm vui.
Thời Cựu Ước, luật yêu thương được hiểu là không hại người anh em, phải yêu thương đồng loại: “Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19, 18). Trong sách Huấn Ca, tác giả cũng dạy không được oán hờn, giận giữ anh em mình, vì nếu thù ghét đồng loại mình và không tha thứ cho nhau thì không xứng đáng được Chúa tha thứ cho mình.
Tuy nhiên, luật Cựu Ước, theo lẽ công bằng thì yêu tha nhân là những người đồng chủng, đồng bào, nghĩa là chỉ người Do thái. Còn tất cả mọi người khác là ngoại bang, là kẻ thù, không được thương mà cũng không được giúp. Ngược lại, còn khuyên tránh xa, và nếu cần có thể giết nữa (Đnl 20, 13-17; 23,4-5; 25,17-19). Luật công bằng cũng hiểu là: “mắt đền mắt, răng đền răng”.
Chúa Giêsu đã khẳng định, ngài đã không đến hủy bỏ Lề Luật, mà là kiện toàn khi đưa nó đến chỗ hoàn hảo của nó. Ngài nói, sự công chính của những người kitô hữu phải vượt qua sự công chính của những người biệt phái và luật sĩ. Như thế, lý tưởng được Chúa Giêsu đề nghị dẫn đi rất xa và rất cao. Phúc Am hôm nay cũng đi theo đường hướng đó, khi thoáng mở cho thấy: đâu là những đòi hỏi của tình yêu đối với một người muốn dứt khoát đi theo Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật bằng việc thổi vào đó tinh thần của tình yêu, lòng bao dung và tha thứ. Vì thế, theo giáo huấn của Chúa Giêsu về luật yêu thương tha nhân, thì sự bao dung đại lượng còn phải đi tới chỗ yêu thương luôn cả thù địch nữa, Ngài nói: “Các con cũng đã nghe dạy rằng: ‘Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch’. Còn Thầy, Thầy bảo các con: ‘Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con’” (Mt 5, 43-44).
Thánh Phaolô cũng tiếp lời giáo huấn của Chúa Giêsu khi nói: “Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ... Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó ăn; nó khát hãy cho nó uống [...]Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ” (Rm 12, 14, 20-21). Rõ ràng, Chúa Giêsu đã xóa bỏ nguyên tắc “ăn miếng trả miếng”. Ngài đòi hỏi các môn đệ phải khước từ báo oán, phải tha thứ, yêu thương và cầu nguyện cho kẻ thù, bởi vì: “Cha các con ở trên trời, là Ðấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”. Ngài mời gọi các môn đệ hãy tha thứ vô điều kiện: “Không phải chỉ tha 7 lần nhưng là 70 lần 7”. Như vậy, vị chi là 490 lần, tức là yêu thương không ngừng.
Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta, và trong khi tạo dựng nên chúng ta, ngài đã để lại nơi chúng ta dấu ấn linh thánh của ngài. Chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh ngài và giống như ngài. Chúng ta không phải là Thiên Chúa, nhưng trong chúng ta có sắc thái thần thiêng của Thiên Chúa. Chúng ta không phải là Thiên Chúa, nhưng chúng ta là con cái của Thiên Chúa.
Ta thấy ta không phải là Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa lôi cuốn chúng ta về với ngài, gắn bó với ngài, để chúng ta càng ngày càng trở nên giống ngài hơn. Chúng ta không phải là Thiên Chúa, nhưng thần khí của Thiên Chúa ngự trong chúng ta, đến nỗi những tư tưởng của Thiên Chúa có thể trở thành những tư tưởng của chúng ta; những chương trình, dự án của ngài có thể trở thành của chúng ta; đến nỗi chính tình yêu mà Thiên Chúa yêu thương chúng ta có thể trở thành tình yêu mà chúng ta có thể biểu lộ cho nhau.
Lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”, là câu then chốt của đoạn Tin Mừng này, tức lả “bắt chước Thiên Chúa”, như Fray Luis giải thích: “Phẩm chất đầu tiên của nhân đức này chính là nó làm cho con người nên giống Thiên Chúa và giống đức tính vinh quang nhất ở nơi Người, lòng từ bi nhận hậu của Ngài (Lc 6, 36). Vì chắc chắn sự hoàn thiện bậc nhất một thọ tạo có thể có là phải nên giống Đấng Tạo Hóa của mình; và càng nên giống Người, càng nên hoàn thiện”
“Hãy yêu kẻ thù”. Đó là lệnh truyền đã được Chúa Giêsu nhắc lại hai lần trong bài tin Mừng hôm nay. Đó cũng là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Người. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Người đã làm gương cho chúng ta khi Người xin Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ mình. Hơn nữa, Người còn minh oan cho họ : “Vì họ lầm chẳng biết”.
Trong thực tế ta thấy ta không bao giờ chúng ta sẽ yêu mến như chúng ta được Thiên Chúa yêu mến, và không bao giờ chúng ta sẽ tha thứ như ngài tha thứ cho chúng ta. Tuy nhiên, đó không phải là lý do để, mỗi ngày, trong suốt cuộc đời, chúng ta không tìm kiếm thực hiện một bài ca tình yêu của lòng thương xót, cho những người chung quanh chúng ta, bằng những hành động cụ thể, cho dù rất nhỏ bé. Trên mặt đất, không bao giờ chúng ta sẽ thánh thiện như Cha trên trời là Đấng thánh, và không bao giờ chúng ta sẽ hoàn hảo như ngài. Tuy nhiên, đó không phải là lý do để chúng ta tự bằng lòng vói cái ít ỏi của mình, và để chúng ta không hướ
Luật Kitô hữu là luật yêu thương. Khi người môn đệ Chúa Kitô chấp nhận những từ bỏ do luật này đòi hỏi, luật yêu thương này chứng tỏ được tất cả trọng lượng của nó. Nếu các nguyên tắc được công bố ở đây đi vào trong xã hội, xã hội này hẳn là sẽ không bị tiêu vong, nhưng sẽ thấy các tương quan giữa con người được đổi mới, bởi vì các bất công và bạo động sẽ bị dập tắt dễ dàng nhờ sống theo luật này hơn là do sợ các biện pháp chế tài hình sự.
Thật ra đây chính là lối sống của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã chết vì không nhường bước trước các áp lực của sự thận trọng hoặc của lương tri. Khi làm như thế, Người không đảo lộn trật tự xã hội, nhưng Người củng cố các tương quan giữa con người với con người. Bắt chước Thiên Chúa, và cũng là bắt chước Chúa Giêsu, là quy tắc duy nhất của lối cư xử của Kitô hữu, là con đường duy nhất để vượt qua nền luân lý Pharisêu.
“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Đức Giêsu. Nhưng Ngài đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá “lạy Cha, xin tha cho họ vì nó lầm chẳng biết”. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may hầu sám hối và canh tân để được cứu độ.
TMĐP- Là người Kitô hữu, môn đệ Đức Giêsu, chúng ta được gọi để “nên hoàn thiện, như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (x. Mt 5,48) bằng cách sống hết mình tình yêu tha nhân.
Trên đường đưa dân về Đất Hứa, Đức Chúa phán với ông Môsê rằng: “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ítraen và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19,1-2).
Như thế, ơn gọi của dân Chúa là ơn gọi nên thánh như Thiên Chúa là Đấng Thánh. Ơn gọi ấy cũng được Đức Giêsu khẳng định trong Tân Ước, nhưng mức độ đòi hỏi có phần quyết liệt hơn.
Quyết liệt hơn khi đòi hỏi nên thánh của Tân Ước không dừng lại ở “yêu đồng loại và ghét kẻ thù”, nhưng đòi phải “yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ bạc đãi anh em” (Mt 5,43-44); quyết liệt hơn khi điều kiện để nên “hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” của Tân Ước không còn là “mắt đền mắt, răng đền răng”, nhưng “hãy giơ cả má bên trái ra nữa”, nếu bị ai vả má bên phải; cởi cả áo ngoài cho kẻ muốn lấy áo trong; đi hẳn hai dặm, nếu có người bắt đi với họ một dặm (x. Mt 5,18-41), và “ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5, 42).
Quả thực, điều kiện để nên hoàn thiện như Thiên Chúa là Đấng hoàn thiện của Đức Giêsu rất quyết liệt nên vô cùng khó khăn. Quyết liệt và khó khăn nên làm hoảng sợ nhiều người, và nản lòng không ít những môn đệ đã đi theo Ngài, bởi yêu kẻ thù là điều nghịch lý và cầu nguyện cho kẻ bách hại mình càng phi lý, ngược đời hơn.
Cũng vì khó thực hiện, mà Luật Môsê chỉ chạm được đến lằn ranh: “Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi” (Lv 19,18), mà không thể vượt qua biên giới “dân mình” để yêu thương, tha thứ, đối xử tử tế, nhân hậu với kẻ thù, là những người ở ngoài dân mình, không thuộc dân mình, có khi chống lại dân mình, tiêu diệt dân mình.
Sở dĩ Luật Môsê cho phép “mắt đền mắt, răng đền răng” và “ghét kẻ thù” (Mt 5, 38.43), vì một cách tự nhiên, người ta chỉ “yêu thương kẻ yêu thương mình, chỉ chào hỏi anh em mình thôi”, mà không thể yêu kẻ ghét mình, thương kẻ làm khổ, hãm hại mình (x. Mt 5,46.47), nhưng Luật mới của Đức Giêsu thì phải yêu thương mọi người, tức yêu thương đồng loại như chính mình.
Ở đây, chúng ta thấy “đồng loại” ở Cựu Ước đã không được hiểu như “đồng loại” ở Tân Ước, bởi “đồng loại” trong giới luật mới của Đức Giêsu bao gồm cả “kẻ thù, và những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44).
Đây là khác biệt giữa Luật Môsê và Giới Luât mới của Đức Giêsu, bởi Thiên Chúa cần thời gian để đào tạo Dân Ngài; cần chiều dài lịch sử để huấn luyện con người khả năng vượt qua tự nhiên để đạt đến siêu nhiên, như Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” tuy nặng phần luân lý tự nhiên nhưng cần thiết cho bước vượt qua để đi vào luân lý siêu nhiên, ở đó, người môn đệ Đức Giêsu có thể yêu cả kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình. Nói cách khác, Thiên Chúa là nhà sư phạm tuyệt vời: Ngài dẫn dắt Dân Ngài từng bước, huấn luyện Dân Ngài từng giai đọan, hướng dẫn Dân Ngài tiến lên từng bậc thang thánh tiện dọc theo lịch sử cứu rỗi, cho đến khi tất cả được hoàn hảo trong Đức Giêsu Kitô.
Thưc vậy, “yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình” thuộc tầm luân lý siêu nhiên, nghĩa là không còn là luân lý tự nhiên dành cho con người tự nhiên, nhưng chỉ những người được gọi là con cái Thiên Chúa, với ơn siêu nhiên của Thiên Chúa mới có thể thực hiện tình yêu quyết liệt và khó khăn ấy, như Đức Giêsu đã khẳng định khi kết luận: “Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,45) là “Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (Tv 102, 8-10), nhưng “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5, 45), bởi Người là Đấng hoàn thiện, vì rông lượng xót thương.
Vâng, là người Kitô hữu, môn đệ Đức Giêsu, chúng ta không được gọi để nên thánh “nửa vời”, nhưng “nên hoàn thiện, như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (x. Mt 5,48) bằng sống hết mình tình yêu tha nhân.
Ơn gọi này vô cùng cao cả, và cam go, nhưng với ơn Chúa, với cố gắng “yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình” bằng tình yêu siêu nhiên như Đức Giêsu đòi hỏi ở những ai muốn đi theo Ngài, chúng ta sẽ “yêu được” kẻ thù và sẽ được Thiên Chúa yêu thương, an ủi; cũng như sẽ biết cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình như Chúa muốn, và được “Chúa ban phần thưởng lớn lao trên trời” (Mt 5, 11-12).
Người ta nghèo khổ vì tiền, nhưng sẽ tủi buồn hơn nếu phải sống mà thiếu tình. Cho dẫu các đấng bậc có hơi lãng mạn một chút, thì tình vẫn được nhắc đến với cái tên thú vị: tình là gì, tình là chi mà ai cũng than khổ vì tình, khổ vì yêu ! Bậc sinh thành cớ gì không biết: nụ cười của con là hạnh phúc của cha mẹ. Phận làm con mấy ai chưa đọc: công cha nghĩa mẹ ơn thầy, mai này khôn lớn ơn dày biển sâu. Bước ra khỏi trường làng, không phải ta chỉ đối diện với tiền tài danh vọng, trung tâm nghe nhìn sẽ cho ta cảm nhận tốt xấu, xinh đẹp dơ bẩn, gọi là vòng xoay cuộc đời có thành có bại. Bằng những câu tục ngữ ca dao, cha ông ta nói rằng: khuyên ai ăn ở cho lành, kiếp này chưa gặp để dành kiếp sau. Ngày hôm nay, các chuyên gia đúc kết kinh nghiệm hết sức sâu đậm: nơi nào có một kẻ chiến thắng, nơi đó có một người thua cuộc. Nhưng chân lý cuối cùng: người biết hy sinh vì tình đồng loại, luôn luôn là người chiến thắng.
Vòng xoay cuộc đời mà Đức Giêsu chi tiết với các học trò, với chúng ta hôm nay là gì ? Để dẫn tới giáo huấn yêu thương cách trọn vẹn, Đức Giêsu nói rất rõ ràng, “các con đã nghe bảo: mắt đền mắt, răng đền răng, còn Thầy, Thầy bảo các con, đừng chống cự lại những kẻ hung ác”. Giầu sang phú quý, hiền lành xinh đẹp, tài giỏi, bằng cấp, có phải là thao thức của chúng ta không ? Thực ra, ngay từ khi có trí khôn, mỗi người đã được khắc ghi vào tâm trí: hãy sống đúng, sống đẹp, đừng bao giờ làm điều xấu xa tội lỗi. Đức Giêsu đã hướng con người vượt lên trên tự nhiên để sống giá trị thật của tình yêu, còn gọi là hãy sống đức công bằng yêu thương. Chính cơn lốc làm hư hỏng, bão táp nhận chìm mơ ước của ta, song cuộc đời phức tạp cũng không phải là bế tắc, một khi ta có đủ niềm tin vào tương lai tốt đẹp.
Vòng xoay cuộc đời được quy chiếu tất cả vào khái niệm hạnh phúc, qua đó, tất cả những ai thuộc về Đức Kitô, ở trong Đức Kitô, phải ý thức được trách nhiệm, bổn phận, trước sứ mạng yêu thương mời gọi. “Nếu ai vả má bên phải của con, hãy đưa má bên kia cho nó nữa”. Công bằng tự nhiên là ơn đền oán trả, hạnh phúc ở đời là nhiều tài sản, quyền cao chức trọng. Công bằng yêu thương mà bậc sinh thành vẫn áp dụng: chấp nhận già, xấu, hao tổn công sức, miễn sao con khôn lớn, có danh có phận. Vâng, cuộc sống căn bản luôn có “nhiều lời giải”, trong đó mỗi người tự do thực hiện theo đáp án riêng của mình. Người giầu tham công tiếc của, người nghèo cũng thao thức việc làm ổn định, thu nhập cao, chỉ người anh minh mới thèm bình an hạnh phúc.
Vòng xoay cuộc đời của ta đang ở mức độ nào, mỗi người sẽ biết rõ về mình: giầu vật chất, giầu tinh thần, cuộc sống đã ổn định hay gia đình còn nhiều bất trắc, tất cả không được ngừng hoàn thiện ơn gọi theo Thầy Giêsu. Chủ trương sống hiếu thuận hiếu hoà: nếu có thể, hãy giúp người, nếu không thể, ít nhất đừng xúc phạm ai. Đức Giêsu nhắc nhớ đến sự thật: Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ. Các môn đệ, tổ tiên ông bà cha mẹ, và chúng ta hôm nay, đều mang chung sứ mạng: vinh danh trên trời, bình an dưới thế. Đấng đang xoay cuộc đời mỗi người đến chân lý vẹn toàn: “hãy yêu thương thù địch, hãy làm ơn cho những kẻ ghét các con, cầu nguyện cho những kẻ vu khống và bắt bớ các con”. Sẽ có người lý sự, làm sao yêu được kẻ thù, làm sao cầu nguyện khi tâm trí đối diện với oan ức ? Hãy đến với Thầy Giêsu: dốt kia thì phải cậy thầy, vụng kia cậy thợ thì mày làm nên. (Ca dao).
Vòng xoay cuộc đời của cha thánh Gioan Vianey: khó khăn lớn của ngài là học lực yếu kém, nhưng do đạo đức và ý chí quyết tâm, sau trở thành Vị Thánh lớn, biến đổi được nhiều tâm hồn trở về với Chúa. Thánh nữ Monica, cả cuộc đời là cầu nguyện, chỉ thế thôi, việc còn lại là Chúa. Thánh nữ đã chứng kiến người chồng trở lại làm con Chúa. Trước khi giã từ cuộc đời, bà đã biết đứa con Augustinô hoán cải và đang sống đời tận hiến cho Chúa. Cuộc sống thật thú vị: cuối cùng một số đau khổ của các bạn, trở thành điểm mạnh, đẹp và chuẩn trước muôn thế hệ. Cuộc sống không hề có hên xui, mọi đứa trẻ đều giống nhau, khác ở chỗ đứa trẻ được chăm sóc cẩn thận, hoặc biết chăm học, chăm làm, hệ quả: thất bại, hạnh phúc, là có thật. Cuộc sống không phải là vấn đề cần giải quyết, mà là thực tế để chúng ta trải nghiệm. Đức Giêsu nói đến cơ hội mà ai cũng có: “Thiên Chúa cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”.
Có hai anh bạn thân thiết lâu ngày không gặp nhau, hôm đó khi vừa gặp, bỗng có một “cái bốp”, anh kia tá hoả, ôi sao mày tát tao vậy ? Người bạn kia vừa cười vừa nói, tao mới nghe bài tin mừng chúa nhật hôm nay, Chúa nói ai vả má bên này hãy đưa cả má bên kia cho nó, tao thử xem mày đức độ tới đâu thôi ? Nhanh như chớp anh kia cát lại một cái thật mạnh, rất tiếc tao mới chỉ là kẻ tầm thường, tao mới ở mức độ hai, cần tin tưởng, cậy trông vào tình yêu và sức mạnh của Chúa nhiều hơn. Vòng xoay mà Đức Giêsu kêu gọi: “hãy nên trọn lành như Cha trên trời”. Đức Giêsu đâu muốn các học trò yêu thương nhau trên phạm vi lý thuyết. Đức Giêsu đâu muốn chúng ta chỉ có cái tên là kitô hữu. Đức Giêsu không hề muốn những ai theo Chúa làm môn đệ chỉ dừng lại ở mức độ yêu những ai yêu mình. Amen.
Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.
Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương.
Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Cha.
Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không kháng cự. Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế.
Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.
Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.
Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.
Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.
Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.
Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
Thời nay người ta thay đổi tất cả thật nhanh chóng. Thay đổi quần áo, giầy dép, điện thoại và cả bạn bè, vợ chồng nữa. Bạn có bị cuốn theo nếp sống thay đổi nhanh chóng này không? Tình yêu của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Bạn hiểu điều này thế nào qua cuộc thương khó của Chúa? Đạo Công giáo là đạo bác ái. Bạn sống đạo như thế nào khi bị phản bội, bị oan ức và thiệt thòi?
Như thế, tình yêu được Đức Giêsu định nghiã hoàn toàn khác với tình yêu con người quan niệm : yêu kẻ yêu mình, thương người thương mình, và tình yêu là tình của hai người yêu nhau ; tình yêu của Đức Giêsu đề nghị không còn là tình yêu con người thực hiện cho nhau : chỉ yêu người thương mình, chỉ thân thiện với người mình thân thương, chỉ chào hỏi người mình có cảm tình ; và giới luật mới tình yêu mà Đức Giêsu muốn những ai đi theo Ngài phải sống cũng không giống luật sống : “Mắt đền mắt, răng đền răng”, mà con người coi như nguyên tắc căn bản trong tương quan ứng xử trong đời thường.
Qủa thực, Đức Giêsu đã thay đổi hoàn toàn định nghiã của Tình Yêu, bởi từ nay, với Ngài : Yêu không còn là yêu người yêu mình, mà còn là “yêu người không yêu mình, yêu người yêu mình không hết tình, yêu người yêu mình không đúng, không đủ”.
Nhưng vẫn chưa hết, tình yêu được định nghiã lại bởi Đức Giêsu còn đi xa hơn, lạ lùng hơn, quyết liệt hơn, và cũng cam go, khó khăn, vật vã hơn rất nhiều, khi đòi phải “yêu cả kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình” (x. Mt 5,44).
“Yêu kẻ thù” thế nào được, vì đòi hỏi này hoàn toàn mâu thuẫn với luận lý bình thường, bởi có yêu thì phải yêu người đáng yêu, người yêu mình, hay ít ra là người chưa có ân oán, nợ máu, nợ xương gì với mình, chứ ai lại “ngu si, đần độn, khờ dại và liều mạng” đến độ đi yêu kẻ thù, yêu kẻ chơi xấu mình, yêu kẻ lợi dụng mình, yêu kẻ chỉ muốn dùng mình như bàn đạp, phương tiện, yêu kẻ đâm sau lưng mình, yêu kẻ chống lại mình, yêu kẻ nguyền rủa, vu khống mình, yêu kẻ lên án mình, yêu kẻ tìm mọi cách đốn gục mình, yêu kẻ muốn hãm hại mình, yêu kẻ muốn tiêu diệt mình ?
Yêu kẻ thù còn là điều không thể quan niệm trong tình yêu, vì không những vô lý, mà còn không thể thực hiện : vô lý, và bất khả thi, khi làm một điều ngược với điều lý trí “coi là bình thường”, và với điều trái tim “bình thường cảm thấy”, nhất là hoàn toàn đi ngược đường lối “khôn ngoan của xã hội” .
Tin Mừng hôm nay với Tình Yêu được Đức Giêsu đề nghị các môn đệ Ngài thực hiện không chỉ là tình yêu chịu đựng, hiền lành như “đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” (Mt 5,39) ; không chỉ là tình yêu quảng đại, hào sảng : “Ai lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài” (Mt 5,41), “Ai xin thì hãy cho ; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5,42) ; tình yêu kiên trì, nhẫn nại : “ai bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm” (Mt 5,41), nhưng còn là Tình Yêu vượt qua bình diện tự nhiên, để vươn cao đến siêu nhiên, chạm được Thiên Chúa khi ‘gồng mình’ “cầu nguyện cho cả những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44).
Đòi hỏi cầu nguyện cho kẻ thù là tột điểm của tình yêu mà Đức Giêsu muốn các môn đệ Ngài phải thực hiện. Là tột điểm của tình yêu, vì là hành vi cao cả, kỳ diệu, thánh thiện, mầu nhiệm và tuyệt vời khôn sánh, bởi cầu nguyện cho kẻ thù không những vượt tầm hiểu biết, suy nghĩ, mà còn vượt khả năng thực hiện của con người.
Vì thế, trong tình yêu được đề nghị bởi Đức Giêsu sẽ không chỉ có con ngừơi yêu nhau, không chỉ là tình yêu thuộc bình diện nhân loại, tình người yêu con người, mà còn có Thiên Chúa là Tình Yêu hiện diện, có Thiên Chúa tình yêu hoạt động, có Thiên Chúa tình yêu tham dự, có Thiên Chúa tình yêu ban sinh lực và nâng đỡ, tắt một lời : trong tình yêu kỳ diệu này, luôn “có Thiên Chúa là Tình Yêu cùng yêu với”, bởi đây là tình yêu vượt ra khỏi tự nhiên, vượt lên trên con người, để đi vào vùng siêu nhiên, chạm được chính Thiên Chúa là Tình Yêu tuyệt đối.
Đó chính là lý do Đức Giêsu đã công khai tuyên bố : sự thánh thiện của con người chính là đạt đến tình yêu kỳ diệu này, tình yêu như giới luật mới của Thiên Chúa truyền ban cho con người, vì chỉ khi ra khỏi “tình yêu theo khuôn khổ tự nhiên, và định chế xã hội” để đạt đến tình yêu không biên giới, không điều kiện, không đòi đền đáp, tình yêu mang hình ảnh của Thiên Chúa, tình yêu từ nguồn thánh thiện của Thiên Chúa, tình yêu như ơn gọi trở nên con Thiên Chúa, Đấng “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45), người môn đệ Đức Giêsu mới thực sự sống theo Giới Luật mới của Thiên Chúa, và làm đẹp lòng Ngqài. Chỉ trong tình yêu “có Thiên Chúa”, với tình yêu không theo tính toán của thế gian, phù hợp với kế hoạch của loài người, bằng khôn ngoan của nhân loại, người môn đệ của Đức Giêsu mới có thể “nên hoàn thiện, như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48), và mới đáng được Thiên Chúa thưởng công đời đời (x. Mt 5,46-47).
Vâng, Đức Ái Kitô giáo không còn là tình yêu như người đời quan niệm, không còn là tình yêu như con người định nghiã, cũng không còn là tình yêu an nhàn, thoải mái, dễ thực hiện, nhưng đòi vượt qua nhiều biên giới, nhiều cản trở, nhiều chướng ngại, những chướng ngại của ích kỷ, tham lam, những cản trở của ganh ghét, đố kỵ, những biên giới của kỳ thị chủng tộc, giai cấp, thành phần xã hội.
Đức Ái ấy khó khăn, quyết liệt, và triệt để, đến cùng, nên khi thiếu yêu thương quên mình, thiếu chia sẻ đến thiệt thân, thiếu tha thứ đến nỗi bị đời cho là khờ dại, “người Giời”, chúng ta vẫn chưa được gọi là Con Thiên Chúa, vì bất xứng với Tình Yêu kỳ diệu, thần thánh mà Thiên Chúa muốn chúng ta đi vào. Cũng vì lý do này, Giáo Hội còn gặp nhiều khó khăn, khi những người con của Giáo Hội không sống tình yêu theo định nghiã mới của Đức Giêsu, nhưng tiếp tục để “tình yêu” theo kiểu thế gian hớp hồn, lôi cuốn.
Khó khăn ngay từ khi nghe dạy: “hãy yêu kẻ thù”. Đã là kẻ thù nghịch với mình, làm sao có thể yêu thương, còn làm ơn cho kẻ thủ ác với mình. Điều khó khăn ấy, cần xuất phát lại từ nơi tình yêu Thiên Chúa mới có thể thực hiện được việc yêu kẻ thù.
Tại sao yêu kẻ thù.
Tình yêu là trên hết mọi sự. Thiên Chúa yêu thương con người vô điều kiện, dù con người thế nào đi chăng nữa, Thiên Chúa cũng yêu thương. Sự tốt lành của Thiên Chúa thể hiện qua tình yêu giáng thế nơi chính Chúa Giêsu. “Chúa Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” (Rm 5,8)
Yêu thương như cách người ta vẫn sống: “Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?” (Mt 5, 46). Yêu kẻ thù là một đòi hỏi từ nơi Chúa Giêsu với những người tin theo Chúa. Đó là một cách đảo lộn cách suy nghĩ về đức yêu thương, không xem mình là trung tâm, mọi người xoay quanh mình, mà từ nay mọi người cũng như chính mình cần lấy Chúa làm trung tâm.
Yêu kẻ thù là một đòi hỏi đức ái cao cả, khó thực hiện nhưng cũng là một hành vi giải thoát chính mình khỏi ích kỷ hữu hiệu nhất. Thông thường ghét kẻ thù ta sẽ nuôi lòng oán hận, trả thù… Nuôi những ý định, cảm xúc tiêu cực này thôi, đã tự giam hãm mình trong cái tôi ích kỷ, buồn chán, đau khổ, xấu tính…
Khi nuôi hận thù, ta có thể nói xấu, vu oan cho kẻ ta không ưa thích, ta tìm nhiều cách làm phương hại đến kẻ thù. Dù khi ta nói với người khác về cái xấu của kẻ thù, cũng làm cho người nghe e ngại tiếp cận với ta. Sự cô lập hoặc tạo thành một nhóm chuyên nói xấu người khác, điều đó tạo thành khối ung nhọt nguy hiểm cho cộng đoàn.
Yêu kẻ thù, là một đòi hỏi về đức ái.
Đức ái đó bắt đầu từ nơi chính mình. Ta cần nuôi dưỡng ta bằng những điều tốt lành, những sự thiện, những lòng nhân. Đó là đức ái với chính mình, khi Chúa mời gọi : “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.” (Lc 6, 36). Có lòng nhân từ nơi chính mình là cách nuôi dưỡng điều tích cực trong đời sống, tự giải thoát khỏi những cô đơn, đau khổ do ích kỷ ràng buộc.
Đức ái khởi đi từ chính mình như ngạn ngữ La tinh viết: “Không ai có thể cho cái mình không không có”. Có điều thiện, có lòng nhân, có sự tốt lành, ta sẽ sống với người khác hài hòa cách tự nhiên, đơn giản như vốn có. Yêu thương kẻ thù lúc ấy sẽ không khó, làm ơn cho kẻ chuốc oán cho mình cũng dễ dàng.
Để nuôi dưỡng đức ái nơi mình hãy cùng sống với Chúa Giêsu. Các môn đệ khi sống với Chúa, các ngài có một kinh nghiệm sâu xa trong đời sống cầu nguyện: “Xin ban thêm cho con đức tin” (Lc 17,6). Một cách đơn sơ, đức tin thêm cho ta biết rằng “Ơn Chúa đủ cho ta” (2Cor 12, 9). Từ nguồn tình yêu sung mãn của Chúa lấp đầy những khiếm khuyết của ta, từ nguồn tình yêu vô biên của Chúa mới mở rộng những ngõ hẹp tâm hồn của ta.
Trong lời cầu nguyện: “Xin ban thêm cho con niềm tin” tự nhận ra nơi ta cần phá vỡ mọi tự hào, tự mãn, tính khoe khoang, xem thường người khác, hoặc xem mình ở trên người khác… Phá vỡ sự kiêu căng để sống khiêm nhường, để biết cảm thông, chia sẻ, hiểu biết người khác. Chúa mời gọi ta: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.” (Mt 11,29).
Hãy yêu kẻ thù! Là bài học luyện lòng nhân, nuôi dưỡng mình bằng sự thiện, tình yêu thương, lòng bác ái, những điều tốt lành. Xin cho con thêm đức tin, để bổ khuyết nơi con những gì còn thiếu sót, khiếm khuyết trong con.
Đã là người, ai cũng có một trái tim biết yêu thương, nhưng ít ai trong chúng ta biết yêu thật sự. Tại sao vậy? Bao lâu chúng ta chỉ yêu với một trái tim của con người thì tình yêu nơi chúng ta chưa hoàn hảo. Tại sao người ta yêu nhau nhưng lại sợ mất nhau, lại làm cho nhau đau khổ? Bởi trong khi yêu, chúng ta vẫn còn mang nhiều sợ hãi. “Trong tình yêu không có sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi” (1Ga 4, 18). Như vậy, chúng ta cần phải học yêu để đạt đến tình yêu hoàn hảo là chính Chúa, vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4, 8).
Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12). Yêu như Thầy đã yêu là điều khó, bởi tình yêu mà Thầy Giêsu dành cho chúng ta là một tình yêu vượt trên mọi tình yêu. Thầy Giêsu đã khẳng định với các môn đệ: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 43-44). Yêu người yêu mình là điều tự nhiên mà ai trong chúng ta cũng làm được. Khi yêu, chúng ta thường gặp biết bao thử thách và gian truân. Thử thách và khó khăn là lửa để tôi luyện trái tim của chúng ta, để nó biết yêu hơn, làm cho tình yêu thêm mặn nồng và ngày càng gắn bó với nhau hơn.
Ghét kẻ thù, dường như chẳng ai trong chúng ta cần phải học để ghét kẻ khác. Xây dựng tình yêu thì khó nhưng phá đổ nó thì dễ. Cuộc sống nhiều bon chen khiến cho lòng người càng chật hẹp, cuộc sống quá vội vã làm cho lòng người ít nhạy bén để yêu thương người khác, và cuộc đời nhiều giả dối khiến lòng người ra chai cứng và vô cảm hơn. Trái tim của chúng ta đã bị tổn thương.
Tình Yêu Thiên Chúa có năng lực chữa lành và lấp đầy mọi tâm hồn. Chúng ta hãy học yêu như Thầy Giêsu. Một trái tim rộng mở để sẵn sàng đón tiếp cả những người làm hại ta, một trái tim đủ quảng đại để tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến mình, và một lý trí được soi dẫn bởi Thánh Thần sẽ giúp chúng ta biết yêu người khác ngay cả khi chúng ta không có được những cảm xúc yêu thương. Chỉ khi được ở lại trong tình yêu Thiên Chúa, chúng ta mới có khả năng yêu thật sự. Càng chiêm ngắm Đấng Chịu đóng đinh trên Thánh giá, chúng ta càng có sức mạnh để dấn bước trong yêu thương. Chẳng ai trong chúng ta dễ dàng quên đi những xúc phạm từng làm trái tim đau nhói, nhưng cùng với Chúa Giêsu, chúng ta dâng lên Thiên Chúa là Cha, để Người ban lại cho chúng ta một sự bình an trong tâm hồn. Chỉ khi ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa, trái tim xác thịt đầy vị kỷ của chúng ta mới dần được biến đổi, để mang lấy tình yêu của Thiên Chúa.
Nhân loại vẫn ca ngợi tiếng hát tuyệt vời từ một trái tim bị đâm thâu trên thập giá. Tiếng hát mà trong từng hơi thở cuối cùng, Người đã cất lên để xin ơn tha thứ cho nhân loại tội lỗi, cầu xin Thiên Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Suốt cuộc đời, Chúa Giêsu đã giảng dạy về tình yêu, đã sống cho tình yêu và cũng đã chết cho tình yêu. Giới răn yêu thương là trọng tâm của cả đời sống Kitô giáo. Từng ngày, khi đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta sẽ được lãnh nhận nguồn sức mạnh giúp chúng ta hoán cải không ngừng, chấp nhận để Thiên Chúa vượt qua cuộc đời và cứu độ chính mình. Đó là những bước khỏi đầu trong hành trình học yêu như Thầy Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con giới răn yêu thương, để nhờ biết sống yêu thương, chúng con được trở nên con cái của Thiên Chúa. Xin giúp chúng con mỗi ngày được nên giống Chúa hơn, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa và làm cho người khác cũng yêu mến Chúa hơn. Amen.
Luật Môsê dạy rằng: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù”. Chúa Giêsu dạy chúng ta: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43-44).
Có phải chăng lời dạy của Chúa thật khó cho mỗi người chúng ta vì có ai lại đi yêu kẻ thù bao giờ. Kẻ thù là những người đã gây ra cho chúng ta biết bao đau khổ, có khi lấy đi cả mạng sống của những người thân yêu của chúng ta. Nếu chúng ta chỉ yêu những người mình thích hay chỉ yêu người hay giúp mình thôi thì đó chỉ là lẽ tự nhiên. Điều Chúa Giêsu mời gọi chúng ta là vượt trên những gì là tự nhiên để đi vào cuộc sống siêu nhiên. Ngài cho chúng ta biết rằng: “ Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu?” (Mt 5,46-47). Để yêu thương kẻ thù của mình, Chúa Giêsu đã quên mình đi, không để những tổn thương họ gây ra cho mình có chỗ bám trong lòng mình. Trong Vườn Dầu, có một người trong số những người đến bắt Chúa Giêsu đã bị ông Phêrô chém đứt tai, anh này đã được Ngài đã chữa lành.
Yêu thương là thế đó, yêu cả những kẻ tìm cách bắt và giết mình. Không chỉ vậy, yêu thương là luôn mang trong mình tấm lòng vị tha và hằng cầu nguyện cho người đó. Trên Thánh Giá, trong những hơi thở cuối cùng, Chúa Giêsu đã ngước mắt lên Chúa Cha mà cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Lời Chúa Giêsu vẫn đang nói từng ngày với Chúa Cha khi chúng ta phạm tội. Không ai trong chúng ta là không có tội. Nếu chúng ta nói mình không có tội thì chúng ta trở thành kẻ nói dối vì Chúa Giêsu đã chịu chết vì tội lỗi chúng ta kia mà. Chúng ta đã được Chúa Giêsu tha thứ thì chúng ta cũng phải tha thứ cho anh em mình. Vì chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi chính là để nên hoàn thiện như Cha trên Trời. Chúng ta nên hoàn thiện khi chúng ta biết tha thứ, biết chia sẻ những gì mình có, không thu gom tích trữ cho mình, không nói những lời vô bổ mà chỉ nói những lời của Tin Mừng.
Lạy Chúa, Chúa vẫn tha thứ cho chúng con từng ngày và không bao giờ rời xa chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con biết thông cảm và đừng bao giờ lấy ác báo ác, cũng đừng bao giờ lấy lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa, nhưng biết lấy lòng nhân hậu, sự khiêm tốn mà yêu thương tất cả mọi người. Amen.
“Gặp gỡ” là động từ giúp ta bước đến với người khác. Trong cuộc sống, không ai mà không gặp gỡ. Có câu chúng ta thường nghe: “Không ai là một hòn đảo”. Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy gặp gỡ với nhiều hạng người để cuộc sống của chúng ta trở nên hoàn thiện hơn, đặc biệt với danh xưng là Kitô hữu.
Có một cuộc gặp gỡ được lưu danh, đó là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và ông Môsê. Nhờ cuộc gặp gỡ này mà họ có được một bản giao ước (Mười Điều Răn) được Thiên Chúa ban qua ông Môsê. Người Do Thái đã tiếp nối cuộc gặp gỡ đó và khai triển lề luật theo thời gian. Họ giữ Luật rất tốt và quan trọng hóa nó để rồi đánh mất giao ước của Luật là tình yêu giữa Thiên Chúa và con người mà ông Môsê đã đón nhận. Luật mà họ giữ có vẻ như chỉ còn là chữ viết.
Chúa Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật. Ngài thức tỉnh cho ta gặp gỡ trong Luật và trên Luật, để sống giao ước tình yêu thuở ban đầu của Thiên Chúa với dân Người. Chúa Giêsu đã dẫn ta vào cuộc gặp gỡ đó. Trng cuộc sống hằng ngày, dù đó là cuộc gặp gỡ tình cờ, do sự ác ý hay bởi lòng vị tha, tất cả đều dẫn ta tiến đến ân sủng và cùng nhau trao ban ân sủng. Sự khốn khổ đau thương mà người khác gây cho ta, ta có đón nhận và tha thứ cho họ được không? Ta muốn mình nên giống họ hay nên giống Đức Kitô, Đấng đã vị tha đến hơi thở cuối cùng trên cây thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” ( Lc 23,34).
“Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 43). Điều đó thật khó có phải không? Người không làm hại ta, chúng ta còn ngần ngại đến gần; người làm ơn cho ta, có khi chúng ta còn quên cầu nguyện cho họ, huống chi là kẻ thù. Chúng ta thấy khó bởi chúng ta dựa vào lòng vị tha nhỏ bé của mình mà quên mất rằng: Thiên Chúa mới là Đấng làm cho sự dữ nên ơn lành cho ta. Chúa Giêsu không chỉ dựa vào luật để dạy ta làm điều hữu ích mà còn biết quay trở về với mục đích chính của Luật là được trở nên con cái của Chúa Cha.
“Anh em hãy nên hoàn thiên như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” ( Mt 5, 48). Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì mỗi ngày chúng con có đều có những cuộc gặp gỡ khác biệt, bổ túc và nâng đỡ cho nhau. Chúng con xin Chúa đến ban ơn thêm sức cho chúng con, để mỗi cuộc gặp gỡ là một bước tiến gần nhau hơn và gần Chúa hơn. Amen.
Lời trên là một minh họa cụ thể cho Cây biết lành biết dữ và Cây Sự Sống trong sách Sáng Thế (x. St 2 , 9 ). Chúng ta không “quyết định” chọn cái ác, tội lỗi là điều không thể tránh khỏi, nhưng dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, chúng ta được mời gọi phân biệt sự lành và sự dữ cách tự do nhờ sức mạnh Người đã trao ban: “Nếu ngươi muốn tuân giữ các giới răn: việc trung thành giữ các giới răn là tuỳ ở ngươi”. Đây là Tin Mừng do Đức Khôn Ngoan công bố, Đức Giêsu thực hiện, chết cho tội lỗi và sống lại trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Khi tội lỗi bị bẻ gẫy, sự chết bị đập tan, Thiên Chúa ban lại cho chúng ta ơn gọi làm con cái Chúa, đồng thừa tự với Chúa Giêsu (x. 2 Pr 1, 4 ). Đó là kế hoạch khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đối với loài người: “Sự khôn ngoan vẫn được giấu kín, mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn thuở để làm nên sự hiển vinh của chúng tôi… Thiên Chúa đã mạc khải điều đó cho chúng tôi do Thánh Thần của Người ” (x. 1 Cr 2, 6-10).
Vì thế, nếu sự thật về thân phận con người là sống kết hiệp với Đức Giêsu và hiệp nhất với Ngài trong đức tin, tình yêu và lòng mến là con đường duy nhất dẫn đến Cây Sự Sống, phục hồi phẩm giá làm con Thiên Chúa và mở ra cho chúng ta tình huynh đệ phổ quát. Thì Đức Giêsu đến “kiện toàn Lề Luật và lời các Ngôn Sứ”, với mục đích soi đường chỉ lối cho chúng ta về với Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu và là Cha chúng ta nhờ sự vâng phục Lời Ngài. Tuy nhiên, sự khôn ngoan đầy nhiệm mầu của Thiên Chúa khác với “sự khôn ngoan của thế gian” (x. 1 Cr 2, 6), như Thánh Phaolô nói với chúng ta.
Khi con người cố gắng bằng mọi cách để bảo vệ “quyền lợi” cá nhân trong công lý, nhưng dưới cái nhìn của Đức Giêsu là chưa đủ: “Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu” (Mt 5, 20). Vậy thế nào là công chính hơn các luật sĩ và biệt phái?
Đức Giêsu giải thích qua một loạt các phản đề giữa các giới răn cũ và kiểu Ngài đề nghị. Mỗi lần bắt đầu: “Các con đã nghe người xưa nói rằng… “, rồi Ngài khẳng định: “Còn Thầy, thầy bảo các con… “. Chẳng hạn: “Các con đã nghe người xưa nói rằng: Chớ giết người; ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy Thầy bảo các con: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa” (x. Mt 5,21-22). Với sáu lần như vậy, Đức Giêsu không có ý định thêm các điều răn, nhưng Ngài tuyên bố cần phải có bước nhảy về chất lượng, Ngài chứng tỏ Ngài chu toàn các giới răn với tình yêu của Chúa Cha, và sức mạnh của Chúa Thánh Thần ở trong Ngài. Đến lượt chúng ta, với niềm tin nơi Ngài, để Chúa Thánh Thần hoạt động, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta sống tình yêu của Thiên Chúa. Vì thế, mỗi điều răn trở thành thật sự như đòi buộc của tình yêu, vì tất cả các giới răn đều tóm về hai điều này là: trước kính Đức Chúa Trời hết lòng hết sức, và sau là yêu người như mình ta vậy. Như Thánh Phaolô quả quyết: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10).
Đức Giêsu tiếp tục mời gọi chúng ta dứt bỏ tận căn: “Nếu con mắt phải của con nên dịp tội cho con, thì hãy móc nó mà ném xa con… Và nếu tay phải con nên dịp tội cho con, thì hãy chặt mà ném nó xa con; vì thà mất một chi thể còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục” (Mt 5,29-30). Hình ảnh thân thể người kitô hữu bị cắt xén cho thấy cuộc chiến khốc liệt này và báo trước những gì không phù hợp với sủng. Chỉ có Thần Khí mới có thể giúp chúng ta thực hiện việc hoán cải và lựa chọn dứt khoát, cứu mạng sống ta và ném xa ta những gì ngăn cản ta với Thiên Chúa, thậm trí tách ra khỏi chính thân mình như con mắt chẳng hạn. Liệu chúng ta có thể cân nhắc chọn lựa giữa ngọc trai quý hiếm với kho bạc duy nhất là Sự Sống đời đời không?
Thánh Phaolô nói: “lòng người cũng chưa từng mơ ước tới, đó là tất cả những điều Thiên Chúa đã làm cho những ai yêu mến Người” (1 Cr 2, 10). Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta vượt qua quán tính của con người cũ, và sống trong tình yêu, nếu chúng ta tin kính Chúa, “Chúa nhìn đến những kẻ kính sợ Người, và thấu suốt mọi hành động của con người” ( Hc 15, 19 ); “Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng” ( Lời nguyện nhập lễ ).
Đức Giêsu mời gọi chúng ta hoán cải tận căn, chúng ta là con một Cha trên Trời và là anh em với nhau. Chúng ta không đứng trước bàn thờ Chúa một mình, nhưng cùng anh em dâng lễ vật lên Thiên Chúa. Vì vậy, Cha trên Trời làm sao vui mừng được, khi con cái dâng lễ vật mà đang chia rẽ nhau? Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bảo: “khi ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với ngươi, thì ngươi hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ngươi trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ” (Mt 5,23-24). Ai trong chúng ta là xứng đáng với lời đề nghị trên?
Lời Chúa Giêsu gửi đến mỗi người trong chúng ta, không có chuyện cắt chân cắt tay, hay là móc mắt, nhưng là cam kết dấn thân trong tình bác ái. Với ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể vứt bỏ hay ném xa những gì đe dọa chúng ta kết hợp với Chúa và tha nhân, chọn Chúa làm gia nghiệp của đời ta. Amen.