Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 7-A Bài 1-50: Các con hãy yêu thương thù địch các con --------------------------------- Phúc Âm: Mt 5,38-48: "Các con hãy yêu thương thù địch các con".
Đoạn Tin Mừng này gồm hai bài học: 1. Chúa Giêsu bàn về việc trả đũa (cc 38-42): - Khuynh: TN 7-A1
Đoạn Tin Mừng này gồm hai bài học:
1. Chúa Giêsu bàn về việc trả đũa (cc 38-42):
- Khuynh hướng tự nhiên là muốn trả đũa, và trả đũa thì thường nặng hơn mức người ta gây cho mình: “Hòn đất ném đi hòn chì ném lại”. - Cựu Ước hạn chế sự trả đũa đúng với mức thiệt hại người ta gây cho mình: “Mắt đền mắt, răng đền răng” - Phần Chúa Giêsu, Ngài dạy hoàn toàn không trả đũa.
2. Chúa Giêsu dạy cách đối xử với những kẻ thù ghét mình (cc 43-48):
- Khuynh hướng tự nhiên là thù ghét kẻ thù ghét mình. - Cựu Ước cũng không có khoản luật nào dạy yêu thương kẻ thù - Còn Chúa Giêsu thì dạy: a/ hãy yêu thương kẻ thù; b/ hãy làm ơn cho kẻ ghét mình; c/ hãy cầu nguyện cho họ.
B.... nẩy mầm.
1. Không trả đũa, đó không phải là thái độ của kẻ yếu, mà ngược lại đó chính là thái độ của kẻ mạnh. Chỉ người nào rất mạnh mới chế ngự được khuynh hướng trả đũa vốn nằm sẵn trong lòng mình. Người đó còn mạnh về tình thương nữa, vì chỉ có một tình thương rất mạnh mới vẫn tiếp tục yêu thương và không trả đũa kẻ đã xúc phạm mình.
2. Đời nước Tề, có một người nằm mơ thấy có người đem gươm vào nhà ông mắng chửi rồi giận dữ bỏ đi. Ông ta giật mình tỉnh dậy... nhưng không tài nào ngủ lại được nữa. Sáng hôm sau ông nói với một người bạn: Từ thuở nhỏ tới giờ, tôi vốn là người trí dũng. Đến nay 80 tuổi tôi chưa hề bị ai làm nhục. Thế mà đêm qua có người đến làm nhục tôi. Tôi cảm thấy bứt rứt và cố tìm cho gặp được người đó, bằng không tôi phải chết mất.
Thế là ngay sáng hôm ấy, ông cùng người bạn đi tìm kẻ thù đã khiêu khích mình. 5 ngày trôi qua nhưng ông vẫn chưa tìm được kẻ thù. Tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, hậm hực vì không tìm được kẻ thù, ông ta về nhà mất ăn mất ngủ mà chết. Cicéron diễn giả Lamã đã nói ”Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”. Đúng thế, con người tự tạo cho mình kẻ thù rồi tự tiêu diệt chính mình. (Trích ”Món quà giáng sinh”)
3. “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự với người ác; trái lại, nếu bị ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” (Mt 5,38-39)
Trong trận bóng chung kết tuần vừa qua của trường, tôi tham gia thi đấu cho khoa của mình. Trận đấu diễn ra trong sự vui vẻ và đoàn kết.
Đến phút 20 của hiệp I, tôi ghi được một bàn thắng. và giây phút đó, trận đấu trở nên sôi nổi hơn nhưng cũng không thiếu sự thô bạo.
Tôi sớm trở thành nạn nhân. Một cái đạp từ phía sau, do cố ý, làm tôi gục xuống. Tuy đau nhưng tôi vẫn gượng cười và tiếp tục thi đấu. Hiệp I gần hết, sự “không may” một lần nữa lại đến với tôi bằng cú lên gối-ngực của chính kẻ đã đạp tôi lần trước. Thế là tôi phải ra sân.
Trận đấu kết thúc với tỉ số 1-1. Người ấy đã đến gặp tôi và xin lỗi.
Chúa ơi, nếu con vì đau mà trả thù ngay trên sân thì ắt sẽ không có sự nhận lỗi và xin lỗi này. Và hận thù sẽ tiếp nối hận thù phải không Chúa ? Con cám ơn Chúa đã giúp con thắng được chính mình. Xin cho con luôn nhớ rằng: “Bạo động chỉ gây thêm bạo động. Chỉ có tình yêu mới mang lại tình yêu.” (Hosanna)
4. Phim ảnh thường kể những chuyện báo thù, coi việc báo thù là bổn phận thiêng liêng: con báo thù cho cha, chồng báo thù cho vợ, anh em báo thù cho nhau, bạn bè báo thù cho nhau v.v. Nhưng gần đây, ngay cả những phim mang nội dung báo thù ấy cũng dẫn đến một ý tưởng kết thúc là báo thù không giải quyết được vấn đề, càng báo thù thì thù càng gia tăng chồng chất. Nghĩa là lương tri con người đã ý thức rằng báo thù không phải là một nghĩa vụ thiêng liêng nhưng là một thảm họa.
5. Trong ngôn ngữ của kitô hữu không nên có tiếng “kẻ thù của mình”, vì kitô hữu không được thù ai cả, chỉ có tiếng “những kẻ thù ghét mình” thôi. Và sứ mạng kitô hữu là cải hóa những người ấy.
Chúa Giêsu dạy ta 3 cấp độ đối xử với họ: yêu thương - làm ơn - cầu nguyện. Nếu ta chưa yêu thương được thì cố gắng lấy ơn báo oán - Nếu như vẫn chưa làm thế được thì tối thiểu hãy cầu nguyện cho họ.
6. Có hai người kia đều bị tên bắn. Người thứ nhất bình tỉnh và nhẹ nhàng nhổ mũi tên ra, băng bó vết thương, vài ngày sau khỏi hẳn. Người thứ hai tức giận, nhổ mũi tên ra nhưng cầm lấy đâm túi bụi vào mình mẩy của mình, đã thế, khi gặp những người thân anh còn đâm họ bị thương nữa.
Mũi tên chính là lời công kích của kẻ khác. Người khôn cư xử như người thứ nhất, nghe xong bỏ đi. Kẻ dại cư xử như người thứ hai cứ lặp đi lặp lại lời công kích đó và còn thuật đi thuật lại cho những người thân, làm cho bản thân mình và người thân thêm đau đớn vô ích.
7. “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44)
Có lẽ bạn và tôi đã có lần cảm nghiệm được niềm vui và nỗi đau của sự tha thứ khi tha và được tha.
Thật vậy, chỉ một thoáng vô tình tôi đã có thể trở nên một đối tượng xấu xa trong cái nhìn của tha nhân. Tâm hồn tôi sẽ ra sao, khi bị nhìn bằng đôi mắt lạnh lùng, xa cách, khinh bỉ ?... Và có lần, tôi cũng đã nhìn tha nhân bằng đôi mắt ấy.
Chỉ trong sự Tha Thứ, tôi mới có thể hoạ lại nơi bản thân mình cái nhìn “cảm hoá” của Đức Kitô. Một cái nhìn không chỉ dừng lại ở việc giao hoà, mà còn đi sâu vào lòng người, xoá tan mọi ấn tượng, mặc cảm tội lỗi nơi họ. Một cái nhìn tha thứ đến mức tuyệt đối:”Bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22)
Lạy Chúa Giêsu ! xin ban cho con một tâm hồn quảng đại, Một con tim tràn đầy yêu thương, một cái nhìn khoan dung nhân hậu; để con luôn biết cảm thông thay cho chấp nhất, tha thứ thay cho kết án, yêu thương thay cho thù hận, đem niềm vui nâng đỡ hy vọng, xóa tan nỗi buồn tuyệt vọng đơn côi; và để trong mọi nơi mọi lúc, cả trong lúc nhục nhã đớn đau vì tha nhân, con vẫn bình tĩnh và can đảm thưa được như Chúa: “Lạy Chúa ! Xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34) (Hosanna)
8. Dick và Dorothy là hai chú bé luôn bị một chú nọ to con bắt nạt. Hai chú tức mà không làm gì được. Ngày nọ, hai chú đọc đoạn Tin Mừng kể chuyện Phêrô hỏi Chúa: “Khi anh em xúc phạm đến con, thì con phải tha bao nhiêu lần ? có phải 7 lần không ?"-"... Không phải 7 lần, mà là 70 lần 7.” Dick làm tính nhẩm : “Vậy là Chúa bảo tha 490 lần.” Hai đứa thinh lặng một lúc, rồi Dorothy nói: “Ta hãy mua một cuốn vở, mỗi khi tha cho hắn, mình ghi vào.” Và Dick reo lên: “Sau lần thứ 490, tụi mình sẽ cho hắn biết tay !" (Góp nhặt)
Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì anh đừng ngoảnh mặt đi.
Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.
Chúa Giêsu đã nói đến sự công chính của các môn đệ Ngài phải vượt hẳn sự công chính của giới: TN 7-A2
Chúa Giêsu đã nói đến sự công chính của các môn đệ Ngài phải vượt hẳn sự công chính của giới luật sĩ và biệt phái, phân đoạn Phúc Âm này nói lên đặc điểm của đời sống người kitô hữu cùng hành vi của người môn đệ Chúa Kitô khiến họ khác hẳn người thế gian.
Chúa Giêsu khởi sự bằng cách trích dẫn luật lệ cổ nhất thế gian: mắt đền mắt, răng đền răng, luật ấy gọi là Lex Talionis (luật báo trả). Nó xuất hiện trong bộ luật cổ nhất gọi là luật của Hammurabi, vị hoàng đế trị vì Babylon từ năm 2285-2242 TC. Luật Hammurabi phân biệt cách đối xử kỳ lạ giữa người quí phái và công nhân: nếu một người gây cho người quí phái mất con mắt thì người ấy sẽ phải mất một mắt. Nếu người ấy làm thương tật người quí phái thì người ta sẽ làm thương tật người ấy. Nếu người ấy làm cho người nghèo mất một mắt hoặc phá hoại một tứ chi của người nghèo, người ấy phải trả 1 mina bạc... Nếu người nào làm cho người ngang hàng gãy răng, thì người ta cũng làm cho người ấy rụng lại một răng. Nếu người nào làm một người nghèo gãy một răng thì người ấy phải trả một phần ba mina bạc! Nguyên tắc thật rõ ràng và rất đơn giản: nếu ai làm cho người khác bị thiệt hại điều gì thì người ấy bị thiệt hại tương đương.
Luật đó trở thành một phần nhỏ của đạo đức Cựu Ước. Trong Cựu Ước luật ấy được đề cập không dưới 3 lần: "Còn nếu có sự thiệt hại chi, thì ngươi sẽ lấy mạng đền mạng, lấy mắt đền mắt, lấy răng đền răng, lấy tai đền tai, lấy chân đền chân, lấy phỏng đền phỏng, lấy bầm đền bầm, lấy thương đền thương" (Xh 21,23-25). "Khi một người nào làm thương tích cho kẻ lân cận mình, thì người ta phải làm thương tích cho người đó lại như chính người đó đã làm, gãy đền gãy, mắt đền mắt, răng đền răng. Người ta sẽ làm cho người ấy đồng một thương tích như người ấy đã làm cho người khác" (Lev 24,19-20). "Mắt ngươi chớ có thương xót, mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân" (TL 19,21). Những luật này thường được trích dẫn như là những luật không thương xót, man rợ, khát máu của Cựu Ước, nhưng trước khi chỉ trích Cựu Ước thì cần chú ý vài điều:
1. Luật báo trả không những không phải luật khát máu và man rợ, mà chính là khởi đầu của sự thương xót. Mục đích nguyên thủy là để hạn chế sự báo thù. Trong thời Thái cổ, mối tử thù và cừu địch là đặc điểm của xã hội bộ lạc. Nếu người ở bộ lạc này làm hại người ở bộ lạc khác, tức thì toàn thể bộ lạc có người bị hại liền xông vào báo thù toàn thể bộ lạc có người gây hấn, và sự báo thù họ mong muốn là giết chết kẻ thù. Vì thế, luật này có ý hạn chế việc báo thù. Luật qui định chỉ người gây thương tích mới bị hình phạt và hình phạt không được thái quá, mà chỉ tương đương với sự thiệt hại mà người ấy đã gây ra mà thôi. Như vậy, đặt trong bối cảnh lịch sử của nó thì đây không phải là luật man rợ mà là luật của sự nhân từ.
2. Hơn nữa, luật này cũng không cho phép cá nhân thi hành, chính quan án phải ấn định hình phạt và khoản phạt do sự báo thù qui định (Xh 19,18). Luật này cũng không cho cá nhân nào quyền tự trả thù dù chỉ là một cái tát. Luật bao giờ cũng là một hướng dẫn cho quan án trong việc khoản phạt cho bất cứ hành động bất công hay vũ phu nào.
3. Lại nữa, luật này không bao giờ, ít nhất trong xã hội bán khai, được thực hiện theo nghĩa đen. Các nhà luật học Do thái đã tranh biện rất đúng đắn rằng sự thực hành theo nghĩa đen có thể là đối nghịch với công lý, vì hiển nhiên nó bao gồm sự thay thế một mắt tốt hoặc một răng tốt cho một mắt xấu và một răng xấu. Nên về sau sự thiệt hại được định theo giá tiền và luật Do thái (Baba Kamaa) đã ấn định cẩn thận cách đánh giá sự thiệt hại. Nếu một người gây thương tổn cho người khác thì phải chịu trách nhiệm về năm điều kiện: về thương tích, về đau đớn, chữa lành, mất thời giờ, mất phẩm giá. Về sự tổn hại (thương tích) thì dùng người nô lệ bán tại thị trường làm tiêu chuẩn. Một người nô lệ trước khi bị thương tích đó giá bao nhiêu , sau khi bị thương tích đó giá bao nhiêu, người gây nên thương tích phải bồi thường theo giá sai biệt đó. Về sự đau đớn, người ta ước định với bao nhiêu tiền thì một người chịu đau đớn về thương tích sẽ chấp nhận và người gây nên vết thương sẽ phải trả số tiền ấy. Về sự chữa lành, người gây thương tích phải trả mọi phí tổn thuốc men cần thiết cho đến chừng lành hẳn. Về sự mất thời giờ thì phải trả đúng với số tiền lương người ấy bị thiệt hại trong suốt thời gian không làm việc được. Nếu người bị thương có đồng lương cao trước đấy, về sau vì vết thương mà phải làm việc ít lương hơn thì cũng phải được bồi thường. Về sự mất phẩm giá, người gây nên thương tích phải trả những phí tổn cho sự hạ nhục và mất thanh danh do vết thương đã gây nên. Loại bồi thường mà luật trả báo (lex talionis) thiết định rất là tiến bộ.
4. Điều quan trọng cần nhớ là luật Trả Báo không phải là toàn thể đạo đức của Cựu Ước. Trong thời Cựu Ước có những nét chấm phá của lòng thương xót:”Chớ toan báo thù, chớ giữ sự báo thù cùng con cháu dân mình” (Lev 19,18), “nếu kẻ thù con có đói hãy cho ăn, có khát hãy cho nó uống” (Cn 25,21), “chớ nên nói: tôi sẽ làm cho hắn như hắn đã làm cho tôi” (Cn 24,29). Như vậy trong Cựu Ước đã có nhiều lòng thương xót.
Vậy, đạo đức thời cổ xưa căn cứ trên luật ăn miếng trả miếng. Thật ra đây là luật lòng thương xót dành cho quan án chứ không phải dành cho cá nhân và không bao giờ luật này được thi hành theo nghĩa đen, nhưng luôn luôn mang âm hưởng của lòng thương xót. Dầu vậy Chúa Giêsu đã phá bỏ chính nguyên tắc của luật đó vì sự báo thù dù có được hạn chế và kiểm soát kỹ đến đâu cũng không có chỗ đứng trong đời sống người kitô hữu.
Vậy, đối với người kitô hữu, Chúa Giêsu hủy bỏ luật lệ cũ và báo thù để giới thiệu tinh thần mới không oán hận, không báo thù. Ngài tiếp tục lấy 3 thí dụ của tinh thần Kitô giáo trong thực tiễn.Hiểu những thí dụ này theo nghĩa đen thiển cận, hẹp hòi thì hoàn toàn sai lạc. Bởi vậy rất cần hiểu rõ điều Chúa Giêsu muốn nói:
1. Ngài phán:"nếu ai vả má bên hữu ngươi, hãy đưa luôn má bên kia". Ở đây ý nghĩa không phải chỉ như thế, không phải chỉ là cái vả trên mặt. Giả định một người thuận tay mặt đứng trước mặt người khác và muốn vả má bên phải của người ấy thì phải làm cách nào? Trừ phi người ấy xoay mình và vặn tay hết sức thì mới đánh được, bằng không chỉ có thể vả bằng tay trái. Theo luật các rabi Do thái: tát trái sỉ nhục gấp hai lần tát bằng lòng bàn tay. Búng tay hoặc tát trái mang ý nghĩa ngạo mạn, khinh bỉ và sỉ nhục gấp đôi. Vậy điều Chúa Giêsu muốn phán ở đây là: dù có ai muốn trút vào anh những lời nhục mạ thậm tệ hơn hết, anh cũng không được vì đó mà báo thù, cừu hận. Việc có người tát vào mặt chúng ta, dầu có cũng thật hiếm hoi, nhưng trong cuộc sống, chúng ta lại thường gặp những điều sỉ nhục lớn hoặc nhỏ. Ở đây Chúa Giêsu phán rằng: người kitô hữu chân chính đã học tập không vì bị hạ nhục và cừu hận, không vì một sự xấc láo mà trả thù. Chính người ta đã gọi Chúa Giêsu là kẻ ham ăn uống. Ngài cũng được gọi là bạn với những kẻ thâu thuế và phường đĩ điếm với hàm ý rằng Ngài cũng giống như những kẻ xấu đó. Những tín hữu đầu tiên bị gọi là quân ăn thịt người, là những kẻ đốt nhà, bị cáo là dâm loạn, thô lỗ, trơ trẽn vì sự thờ phượng của họ bao gồm cả bữa tiệc yêu thương.
Thường trong một cộng đoàn, có người cảm thấy hoặc cho rằng mình bị sỉ nhục vì không được mời làm công việc nọ công việc kia, hoặc giữ chức vị họ cho là đáng được. Kitô hữu chính là người quên hẳn việc bị hạ nhục, người đã học từ Chúa mình là chấp nhận mọi sự sỉ nhục mà không đem lòng hận thù hoặc tìm cách báo thù.
2. Chúa Giêsu tiếp tục dạy:"Nếu ai muốn kiện ngươi để lột áo trong, hãy cho họ luôn áo ngoài nữa". Thêm một lần nữa, ở đây ý nghĩa phong phú hơn là hiểu theo nghĩa đen. Áo trong là áo dài giống như cái bao làm bằng vải bông hoặc vải gai mặc ở trong. Người nghèo nhất cũng có áo trong để thay đổi. Áo ngoài là thứ áo lớn, giống như cái mền mặc ở ngoài mà đàn ông thường mặc như áo dài ban ngày và ban đêm thì dùng làm mền. Loại này người Do thái chỉ có một cái. Thật ra luật Do thái cho phép cầm cái áo trong làm tin chớ không được cầm áo ngoài. "Nếu ngươi cầm áo ngoài của kẻ lân cận làm tin thì phải trả cho nó trước khi mặt trời lặn, vì là đồ che thân, mền để ngủ. Nếu người ấy kêu đến Ta, Ta sẽ nghe, vì Ta là Đấng hay thương xót" (Xh 22, 26-27). Không bao giờ được quyền tước đoạt áo ngoài của người khác. Do đó, điều Chúa Giêsu muốn phán ở đây là: người kitô hữu không bao giờ tranh biện về quyền hạn pháp lý, phải coi mình như không có quyền hạn pháp lý nào cả. Có những người luôn luôn bám vào quyền lợi của mình, luôn nắm lấy đặc quyền mình thụ hưởng không cho ai đụng đến, và sẵn sàng kiện chứ không để ai xâm phạm. Ngay trong Hội Thánh cũng luôn có những người như thế. Những người như thế chưa thực sự biết Kitô giáo là gì. Kitô hữu không nghĩ đến quyền lợi nhưng nghĩ đến bổn phận, không nghĩ đến đặc quyền nhưng nghĩ đến trách nhiệm của mình. Kitô hữu là người đã quên hẳn quyền lợi riêng, và người nào liều chết để tranh đấu cho quyền lợi của mình, dù ở trong hay ngoài Hội Thánh thì còn cách xa đường lối Kitô giáo nhiều lắm!
3.Tiếp theo, Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa:"Nếu ai bắt ngươi đi một dặm đường, hãy đi với nó hai dặm". Đây là bức tranh chúng ta ít biết vì nó phát xuất từ một xứ bị chiếm đóng. Chữ "bắt" ở đây có một lịch sử, xuất phát từ người đưa thư. Người xưa có một hệ thống bưu điện hơi lạ. Mỗi con đường chia thành nhiều chặng, mỗi chặng dài một ngày đường. Tại mỗi trạm đều có lương thực cho người đưa thư, nước và cỏ khô cho ngựa, và ngựa mới để lên đường. Nhưng, nếu chẳng may còn thiếu món nào thì bất cứ một tư nhân nào cũng có thể bị chỉ thị phải cung cấp thức ăn, nơi ở, ngựa, cùng sự trợ cấp, thậm chí chính mình đem sứ điệp đi một dặm đường.
Cuối cùng chữ đó có nghĩa là một sự trưng dụng vào công tác phục vụ quền lực chiếm đóng. Dân của một xứ bị chiếm đóng có thể bị bắt buộc cung cấp lương thực, chỗ ở, mang hành lý. Đôi khi quyền lực chiếm đóng trưng thu một cách tàn bạo và không thương xót. Mọi hình thức đe dọa, áp bức luôn luôn treo trên đầu người dân. Palestine là một xứ bị trị, bất cứ lúc nào người dân Do thái cũng có thể thầy mũi giáo La mã kề cổ và biết rằng mình phải phục vụ người La mã theo phận tôi đòi, như Simon người Syrênê khi vác thập giá của Chúa Giêsu .
Dường như Chúa Giêsu muốn bảo: Giả thử các ông chủ đến cùng ngươi và bắt buộc ngươi phải hướng dẫn hoặc khuôn vác đi một dặm, thì đừng đi một dặm với hậm hực, cay đắng, hãy đi hai dặm với nhã nhặn vui vẻ! Điều Chúa muốn dạy là: Đừng luôn nghĩ về sự tự do của ngươi muốn làm gì tùy ý, hãy luôn nghĩ về bổn phận và đặc ân được phục vụ kẻ khác. Khi một công việc đè nặng trên vai ngươi, dù là công việc vô lý, đáng ghét, đừng làm như một bổn phận cực chẳng đã, nhưng hãy làm cách vui vẻ. Bao giờ cũng có hai cách làm việc: làm ở mức độ tối thiểu không thêm gì, có thể làm để chứng tỏ mình thù ghét công việc, hoặc có thể làm với một nụ cười, một sự nhã nhặn thanh cao, với sự quyết tâm không phải chỉ xong nhưng còn làm tốt và đẹp. Người ta có thể làm không phải chỉ vì phải làm, mà còn làm hơn điều người ta mong đợi. Công nhân không làm đúng mức, người đầy tớ để tâm oán hận, người giúp việc cộc cằn... thì chưa khởi sự có ý niệm đúng về cuộa đời kitô hữu . Người kitô không quan tâm tới việc được làm theo ý mình, chỉ quan tâm tới sự phục vụ, dù đòi hỏi phục vụ đó có vô phép, vô lý và độc đoán.
Vậy những lời giáo huấn này phải đặt trong khung cảnh của bức tranh linh động ở Đông phương. Chúa Giêsu thiết định qui luật quan trọng: kitô hữu không bao giờ cừu hận hoặc tìm cách báo thù sự sỉ nhục nào, dầu đó là một sỉ nhục có tính toán và độc ác đến đâu. Kitô hữu không bao giờ bám vào quyền hạn, cả quyền hạn pháp lý lẫn quyền hạn mình nghĩ mình đương nhiên được hưởng. Kitô hữu không bao giờ nghĩ đến quyền làm theo ý mình nhưng bao giờ cũng nghĩ đến bổn phận cứu giúp.
Vấn đề là: chúng ta đạt đến mức nào trong những tiêu chuẩn đó?
Thiên Chúa phán cùng Moisê rằng: "Ngươi hãy nói cho toàn thể Cộng đồng cơn cái Israel: Các: TN 7-A3
Thiên Chúa phán cùng Moisê rằng: "Ngươi hãy nói cho toàn thể Cộng đồng cơn cái Israel: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng thánh, là Thiên Chúa của các ngươi".
Thiên Chúa là Đấng siêu việt, là Đấng Thánh. Không có một tì ố, một vế nhơ, như dòng nước trong veo, bầu trời trong sáng tuyệt đẹp. Và Ngài bày tỏ quyền năng và vinh hiển khi Ngài tạo dựng, giải phóng cũng như khi Ngài sát phạt và tha thứ. Tiên tri Isaia như bị chết ngộp khi được cảm nghiệm sự thánh thiện Thiên Chúa trong đền thờ, và tiên tri Ôsê kêu lên: "Đấng Thánh đang ở giữa anh em" (11, 9). Thiên Chúa muốn cho chúng ta nên thánh, nghĩa là chúng ta phải rửa sạch vết nhơ của Lề luật bên ngoài mà phải thực thi đức công chính, vâng lời và yêu thương (Nhị Luật 6, 4-9), một sự thánh thiện trong mọi bối cảnh sống trong gia đình cũng như ngoài xã hội. "Hãy nên thánh như Ta là Đấng Thánh, Thiên Chúa của các ngươi".
Trong Đạo cũ, người Do Thái thượng tôn đền thờ, “Đền thờ của Thiên Chúa là thánh. Ai xúc phạm tới Đền Thánh thì Thiên Chúa sẽ huyl diệt người ấy”. Trong Đạo mới, Chúa Giêsu tự ví mình là đền thờ hiện diện giữa loài người (Gn 1, 4; 2,19) . Thánh Phaolô trong bài đọc II, còn đi xa hơn nữa, Người nói Kitô hữu là đền thờ của Thiên Chúa, một đền thờ thiêng liêng, và Giáo hội cũng là Đền thờ do Chúa Kitô xây dựng (1Con 3, 10-17) , trong đó người Do thái cũng như dân ngoại đều được mời vào như thành phàn nhiệm thể Chúa. Đừng ai cho mình là khôn ngoan, là đồ đệ Phaolô, Kêpha hay Apollô, nhưng “Anh em tất cả thuộc về Đức Kitô và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa ".
Trên tất cả, Thiên Chúa là anh yêu. Chúa Giêsu đến dể đem lại một tình yêu bác ái gạn lọc mọi nhơ bẩn, mọi lớp vỏ bao quanh như tình máu mủ, dân tộc, gia đinh, quốc gia, lễ giáo chật hẹp. Người xưa bảo: "Mắt đền mắt, răng đền răng”, người ta xúc phạm mình mức nào, mình có quyền ăn miếng trả miếng, đối xử với họ như họ đã đối xử.
Còn Chúa, Chúa không dạy lấy sự dữ đối lại sự dữ. Chúa dạy lấy sự lành đối vớ sự dữ và hơn thế phải làm sự lành hơn mức đòi hỏi: "Thấy bảo các con: đừng chống cự lại kẻ hung ác, trái lại, nếu ai vả má bên phải của con hãy đưa má bên kia cho nó nữa... Ai xin thì con hãy cho, ai muốn vay mượn, con đừng khước từ”. Chúa có ý nói rằng đức bác ái không có biên giới, không phát xuất từ xác thịt mà từ một tâm hồn yêu mến Thiên Chúa, yêu mến đến từ bỏ mình, đến hy sinh.
Việc hy sinh lớn lao hơn cả là hy sinh tính tự ái của mình, là tha thứ cho kẻ làm nhục ta, là tha thứ cho kẻ thù. Xưa nay, chưa có một đạo giáo nào dạy tha thứ cho kẻ thù. Chúa phán: "Các con nghe dạy rằng: ngươi hãy yêu thương anh em ngươi và thù ghét kẻ làm hại ngươi. Còn Ta, Ta bảo các con: hãy yêu thương kẻ thù”
Người Do thái quan niệm anh em là người đồng hương hay người cảm rinh với đạo. Đối với Chúa Giêsu, anh em là tất cả, làngười Samaritanô, là ngước ngoại bang, là người lạc đạo nữa (Lc 10, 29-37). Chúa biết trái tim con người có thể vượt tính tự ái, mở rộng trái tim và vòng tay đề ôm ấp cả kẻ thù.
Chúa đã tha thứ cho kẻ giết mình, "lạy Cha, xin tha cho chúng" (Lc 23, 3). Khó thật nhưng Chúa ban cho kẻ thật lòng xin ơn biết tha thứ.
Văn hào Henrv Bordeaux kể: Ngày kia, motc nhóm thợ thuyền 20 người được Giáo hoàng Piô XII đến thăm và trò chuyện thân mật. Bỗng có một người thợ quỳ xuống và nói: "Thưa Đức Thánh . Cha đây là cuốn sách con đọc điều dữ và đây là... con dao con muốn ám hại Đức Thánh Cha, con xin lỗi Ngài. " Đức Piô trả lời:"Con ơi, Chúa chúc lành cho con như cha" (lmages romaines, plon, tre 279)
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết yêu thương thù địch. Làm lành cho kẻ ghét và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ và vu khống chúng con..., để chúng con nên trọn lành như Cha trên Trời.
Trong các bài đọc hôm nay, chúng ta nghe được hai lời kêu gọi nên thánh như Thiên Chúa: TN 7-A4
Trong các bài đọc hôm nay, chúng ta nghe được hai lời kêu gọi nên thánh như Thiên Chúa: "Các người hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh" (bài đọc I); "Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành" (Bài Tin Mừng).
Thánh là thế nào?
Người ta thường hình dung vị thánh là một người khổ hạnh, xa lánh thế gian, chuyên chăm đọc kinh cầu nguyện... Vì hình dung như thế, người ta ngưỡng mộ các vị thánh nhưng không thích làm thánh.
Bài đọc I và bài Tin Mừng hôm nay hình dung vị thánh một cách rất dễ thương, dễ thích: Thánh là người cố gắng giống Chúa. Mà vì Chúa là tình yêu cho nên thánh là người sống yêu thương, chẳng những yêu thương những người thân cận với mình, mà còn yêu thương cả những kẻ thù ghét mình.
Một vị thánh như thế, ai mà không thích? Hình ảnh một vị thánh như thế, ai mà không muốn trở thành? Và những người thánh như thế, xã hội nào mà không cần đến?
2. "Mắt đền mắt, răng thế răng”.
Toàn văn của khoản luật trả đũa được ghi trong sách Xuất hành (Xh 21,24) như sau: "Mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng”. Mục đích của khoản luật này là tuy cho phép trả đũa nhưng giới hạn sự trả đũa đúng mức bị gây hại: kẻ thù làm mình hư một mắt, mình có thể trả đũa làm cho nó hư lại một mắt (không được hai, nó đánh mình bầm, mình có thể đánh nó bầm lại. (không được hơn)
Một điều đáng buồn là ngay trong thời đại Tân ước này, nhiều người chẳng những chưa giữ được giới hạn tối thiểu của luật Cựu ước mà còn tệ hơn thế nhiều. Họ sống theo luật "Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại". Hãy nhìn tình hình xung đột bên Trung Đông giữa Palestine và Israel; một người của bên này bị bắn tỉa chết là liền, sau đó một làng của bên kia bị máy bay bên này ném bom. Trên bình diện nhỏ hơn hai đứa trẻ đánh nhau kéo theo hai gia đình xung đột với nhau; khi hai người cãi nhau, người này chửi một câu thì người kia đáp lại ba câu; người này nói "Cha mầy" thì người kia đáp lại "Tổ tiên sư mầy"...
Làm thế nào để chấm dứt xung đột? Cách giải quyết "Mắt đền mắt răng đền răng" rất khó dừng lại ở giới hạn hợp lý mà thường có khuynh hướng leo thang trả đũa. Còn nếu giải quyết bằng cách "Hòn đất ném đi hòn chì ném lại" thì xung đột càng leo thang thang hơn.
Đến đây chúng ta mới thấy giáo huấn của Đức Giêsu rất khôn ngoan. Xung đột chỉ chấm dứt được khi một bên chịu nhường nhịn. Nhường nhịn không có nghĩa là mình yếu, mình thua, nhưng là mình đang cố gắng nên thánh như Thiên Chúa ở trên trời là Đấng thánh.
3. Yêu thương kẻ thù không phải là thiện cảm, mà là thiện chí
Martin Luther King là một mục sư da đen, người đã đấu tranh để người da đen không còn bị người da trắng ngược đãi. Ông có một cách hiểu rất dễ chấp nhận về lời Chúa Giêsu dạy "Hãy yêu thương kẻ thù”, như sau: "Trong Tân ước chúng ta thấy từ Agapè được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nới tâm hồn con người. Khi vươn lên một đỉnh tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, cũng không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của họ. Chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ. Đó chính là ý nghĩa lời Đức Giêsu dạy: "Anh em hãy yêu thương kẻ thù”. Phần tôi, tôi sung sướng vì Ngài đã không nói: "Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em" bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm nổi.
Thiện cảm là một xúc cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người đã ném bom vào gia đình tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người bóc lột tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người đè bẹp tôi dưới sự bất công. Không, không thể có một thiện cảm nào đối với người đêm ngày de dọa giết tôi. Nhưng Đức Giêsu nhắc tôi rằng tình yêu còn lớn hơn thiện cảm, rằng tình yêu là thiên chí biết cảm thông, có tính sáng tạo, cứu độ đối với hết mọi người"
4. Mảnh suy tư
Khi đọc lịch sử người ta rất buồn, không phải buồn vì những tội ác mà những kẻ ác đã phạm, cho bằng vì những sự trừng phạt mà người lành phải gánh chịu; và một cộng đoàn trở nên hung ác không phải do những tội ác thỉnh thoảng xảy ra cho bằng do thói quen xử dụng hình phạt. (Oscar Wilde)
-Tha thứ giống như cái gì? Giống như mùi hương mà bông hoa tỏa ra khi nó bị giẫm nát.
5. Lời cầu nguyện cuối ngày
Lạy Chúa mỗi ngày khi chúng con đi ngủ là đi vào một cái chết nho nhỏ để chịu một cuộc phán xét nho nhỏ về một ngày vừa qua. Ước gì khi đó từng điều lầm lỗi của chúng con đều đã được tha thứ, và từng điều không thánh thiện của chúng con đều đã được thánh hóa.
Xin đừng để còn một điều gì đi theo chúng con vào giấc ngủ mà chưa được tha thứ và thánh hóa. Có như thế chúng con mới luôn sẵn sàng cho cuộc tái sinh vào cõi đời đời, chúng con dám nhìn về phía trước với ánh mắt chan chứa tình yêu và hy vọng và có thể đứng vững trước mặt Chúa là Đấng vừa là quan tòa vừa là Đấng cứu độ chúng con, một quan tòa thánh thiện và một đấng cứu độ yêu thương. (Đức Giám Mục Apleton)
6. Chuyện minh họa.
a/ Trả thù
Một thanh niên trong làng bị lăng mạ cách thậm tệ. Anh vội vàng đến mục sư kể cho ông nghe và muốn đi trả thù ngay.
-Tốt hơn, con nên về nhà. -Nhưng con bị nhục mạ. -Vậy thì con càng nên về nhà ngay lúc này. Sự nhục mạ cũng giống như bùn. -Đúng thế. Con sẽ làm sạch nó.
2-Này con, có một điều con có thể học hỏi tốt ngay bây giờ và sau này: Bùn được gạt sạch dễ dàng khi nó khô.
b/ Tiêu diệt kẻ thù
Một hoàng đế Trung hoa tuyên bố sẽ tiêu diệt hết các kẻ thù. Nhưng ít lâu sau, thần dân thấy nhà vua đi lại ăn uống với kẻ thù trước kia.
-Chẳng phải ngài đã từng nói là sẽ tiêu diệt hết kẻ thù? -Đúng, ta đã tiêu diệt hết kẻ thù, vì ta đã biến họ thành bạn bè của ta.
“Phải nhìn rõ mặt kẻ thù”, "phải phân biệt rõ đâu là bạn, đâu là thù; bạn thì trân trọng, thù thì dứt khoát phải thanh toán", "yêu bạn, ghét thù”: Lẽ thường ở đời là thế. Nhưng Lời Chúa hôm nay lại dạy ngược lại: không được trả thù (Bài đọc I ), "phải yêu kẻ thù (Bài Tin Mừng). Điều này có vẻ điên rồ, "nhưng hãy trở nên điên rồ để được khôn ngoan thật (Bài đọc 2).
I. ƠN GỌI NÊN THÁNH VÀ TIẾNG GỌI YÊU THƯƠNG CẢ KẺ THÙ
Yêu kẻ thù để tha thứ cho họ là điều vô cùng khó khăn. Có những người đến chết vẫn không: TN 7-A5
1. Yêu kẻ thù để tha thứ cho họ là điều vô cùng khó khăn. Có những người đến chết vẫn không quên kẻ thù để rồi mối thù đó được truyền qua từ dời này sang đời khác. Chuyện tình "Roméo và Juliette” của Shakespeare, hoặc tiểu thuyết "Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường là những câu chuyện nổi tiếng nằm trong bầu khí hận thù truyền kiếp: không trả được mối thù thì đấy là một mối nhục không những cho một cá nhân mà còn nhục cho cả dòng họ? Trả thù, đấy là đòi hỏi của Lẽ công bằng, của lòng tự trọng ! Chính vì thế, tha thứ được coi như là hèn nhát, là đồng loã với tội ác, là để mặc cho kẻ ác tung hoành. Và nếu vậy thì lời Chúa hôm nay thật khó chấp nhận.
2. Thế nhưng người xưa cũng có nhận xét rằng: “oan oan tương báo", nếu cứ lấy ác báo ác thì sự ác sẽ không bao giờ chấm dứt. Chính vì thế, cần có sự tha thứ. Tuy nhiên tha thứ là một chuyện, còn yêu kẻ thù là chuyện khác. Người ta có thể tha thứ, có thể không thanh toán kẻ thù, nhưng không bao giờ yêu kẻ thù cả.
Trái lại, Lời Chúa hôm nay dạy rằng: không những phải tha thứ, mà còn phải yêu mến thật trong lòng và làm ơn cho kẻ thù nữa. Và lí do sâu xa không phải chỉ là để chấm dứt những mối hận thù triền miên từ đời này sang đời khác, mà là vì các tín hữu ý thức mình đã thuộc về Thiên Chúa. Mình phải là thánh giống như Thiên Chúa là Đấng Thánh: "Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Chúa các ngươi thờ, Ta là Đấng Thánh. Ngươi không được để lòng ghét người anh em ... ngươi không được trả thù ..."
Các tín hữu phải yêu kẻ thù vì ơn gọi nên thánh của mình. Mỗi người được mời gọi trở thành thánh. Và họ nên thánh, trước hết không phải do những hành vi tốt lành, không phải do đời sống luân lí của mình, mà là vì họ được Chúa chọn. Họ đã thuộc về Chúa, được lây nhiễm sự thánh thiện của Ngài. Mà sự thánh thiện của Thiên Chúa lại biểu lộ ra nơi tình yêu không biên giới, nơi lòng thương xót vô bờ: "ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh, Ta sẽ không đền trong cơn thịnh nộ" (Hs 11,9).
Thiên Chúa biểu lộ sự thánh thiện của Ngài khi Ngài sẵn lòng tha thứ cho con người là những kẻ vẫn hằng xúc phạm đến Ngài. Ngài sẵn sàng chết để cứu con người là những kẻ vẫn hằng nhục mạ Ngài. Sự thánh thiện của Thiên Chúa đồng nghĩa với yêu thương vô bờ, yêu cả bạn lẫn thù, yêu tận cùng và mãi mãi, yêu để tha thứ đến 70 lần 7, tha thứ không bao giờ thôi.
Các tín hữu đã là thánh nên họ phải biết thể hiện sự thánh thiện của mình trong tình yêu thứ tha luôn mãi như thế.
II. TÌNH YÊU VÀ CHÂN LÍ
Tuy nhiên, yêu kẻ thù không có nghĩa là đồng loã với sự ác. Tình yêu phải đi dôi với sự Thiện và Chân lí. Tình yêu không chấp nhận sự xấu xa, giả dối. Trả thù là để giúp cho "kẻ thù” của mình trở nên tốt hơn, chứ không phải để dung túng cho những hành vi xấu xa của họ. Cho nên, tha thứ không có nghĩa là lúc nào cũng phải đưa cả hai má cho kẻ thù tát, không phải lúc nào cũng tặng luôn áo ngoài cho kẻ đã cướp mất áo trong của ta! Trong bản văn của Tin Mừng Mátthêu, chủ từ của những động từ "vả má trái", “đưa cả áo ngoài", "đi cả hai dậm” được thánh Mátthêu hữu ý dùng ở số ít là để nói lên một áp dụng cụ thể trong một hoàn cảnh đặc biệt nào đó thôi. Trong một hoàn cảnh khác, người ta có thể trả thù theo một cách kháe
2. Như thế, có nhiều cung cách thế hiện tình yêu tha thứ. Tha thứ có khi là "nhu”, có khi là “cương” để tạo sức ép giúp cho kẻ thù của mình nên tốt và hạnh phúc hơn. Chính vì lẽ đó, trong cuộc Thương Khó, Chúa Giêsu đã không hề đưa luôn má kia cho tên lính đã tát tai Ngài, mặc dù trên thập giá, Ngài vẫn tha thiết nói lên lời tha thủ bất hủ. Cho nên, có nhiều cách thể hiện sự tha thứ. Điều tiên quyết là phải yêu đi đã: "Hãy yêu đi, rồi làm gì thì hãy làm” (Augustinô). Một khi đã biết yêu kẻ thù thì ta sẽ biết thông cảm với họ và sẽ nhận ra chính xác lúc nào cần “nhu” lúc nào cần "cương” để nâng đỡ, phục vụ họ một cách chân thành, khiêm tốn và có hiệu quả đúng với đòi hỏi của Tình yêu và Chân lí.
YÊU KẺ THÙ LÀ BẢN CHẤT CỦA ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU
1. Ở đây, cũng nên nhìn nhận giá trị của luật cũ Môsê: "Mắt đền mắt, răng đền răng". Vào thời Cựu ước, đây là một tiến bộ lớn. Điều luật này nhằm bảo vệ những người nghèo khó, cô thân cô thế trước những tàn bạo của kẻ mạnh: người ta chỉ được phép trả thù có giới hạn: một đền một mà thôi.
Trước đó thì dã man và rùng rợn hơn nhiều: "ông Laméc nói với các bà vợ: Hãy lắng tai nghe lời ta vì một vết thương, ta đã giết một người; vì bị sây sát, ta đã giết một đứa trẻ ! Cain dược báo thù gấp bảy, nhưng Laméc thì gấp bay mươi bảy !" (St 4,23-24).
Ngày nay, cách trả thù man rợ như thế không phải đã chấm dứt. Những cuộc thảm sát trong hai cuộc thế chiến, trong cuộc chiến Campuchia, trong những hoạt động của Mafia cho thấy luật "mắt đền mắt, răng dền răng" vẫn có giá trị nhân đạo của nó.
2. Nhưng tình yêu, sự thánh thiện của Thiên Chúa, không cho phép dừng lại ở chỗ này. Quả vậy nếu cứ đúng theo luật trên của Môsê, thì toàn thể nhân loại đã bị huỷ diệt từ lâu vì những xúc phạm lớn lao đối với Thiên Chúa. Rất may là sự thánh thiện của Thiên Chúa không chỉ là công bằng mà còn là nhân hậu, thứ tha. Được Thiên Chúa thứ tha cũng có nghĩa là được mang lấy sự thánh thiện của Thiên Chúa vào trong bản chất của mình, để đến lượt mình, các tín hữu cũng phải thể hiện sự thánh thiện sâu xa cốt cán của mình bằng khả năng biết thứ tha, biết yêu thương kẻ thù. Họ phải coi đó là sự khôn ngoan của mình, cho dù trước mắt thế gian, đó là sự điên rồ, dại dột. Đến nỗi nói được rằng: Là Kitô hữu mà không biết yêu kẻ thù thì không còn là Kitô hữu đích danh. Họ đã đánh mất bản chất thâm sâu của mình rồi. Rất đáng nhớ suy tư này của M.Quoist: Hành động duy nhất có thể làm đứt đoạn dây chuyền bạo lực, đó là tha thứ và yêu thương. Ai dám đưa cả má trái mình ra, đó là người mạnh nhất.
Kết luận
Thánh Lễ ta đang dâng là bằng chứng cửa Tình yêu thương xót thứ tha. Con Thiên Chúa đã chết và đã nên lương thực cho chúng ta là những kẻ vẫn thường bội bạc với Ngài. Được nên một với Ngài trong bí tích Thánh Thể, ta cũng không thể làm khác Ngài. Xin tình yêu nhân hậu của Chúa toả sáng trong mọi cung cách, mọi hành vi của ta. Amen .
LỜI NGUYỆN TÍN HŨU
Chủ Tế: Anh chị em thân mến,
Lời Chúa hôm nay dạy ta phải yêu thương kẻ thù như Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Trong tinh thần đó, ta hãy dâng lời cầu xin:
Ý NGUYỆN:
1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi tín hữu luôn biết tha thứ cho nhau. 2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người, mọi dân tộc biết giải quyết mọi xung đột bằng con đường hoà giải
3. Chúng ta cầu xin cho ta biết làm ơn cho chính những kẻ muốn làm hại ta.
Lạy Cha chí thánh, xin sai Thánh Thần Chúa biến đổi trái tim chúng con, để chúng con biết yêu thương nhau bằng chính trái tim của Cha. Chúng con cáu xin nhờ Đức Kitô, Con Cha, Chúa chúng con.
Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật VII Mùa Thường NIÊN hôm nay Giáo Hội mời gọi con cái: TN 7-A6
Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật VII Mùa Thường NIÊN hôm nay Giáo Hội mời gọi con cái mình hãy thực thi trọn vẹn mệnh lệnh yêu thương mà Chúa Giêsu đã đưa ra cho mọi người tín hữu. Nói cách khác, Thiên Chúa không chỉ kêu mời người tín hữu khai trừ khỏi lòng mình mọi hình thức hận thù và báo oán, mà Ngài còn đòi hỏi họ từ bỏ mọi tâm tình giận dữ, khó chịu đối với các đồng hương, đồng đạo và các khách kiều cư nữa.
Đặc biệt Thiên Chúa mời gọi tín hữu thực hành giới răn cách tích cực là yêu thương người khác như chính mình: "Thương người như thể thương thân". Đó cũng là giới răn mà Chúa Giêsu tặp lại cho các môn đệ sau này như các thánh sử ghi lại. Tuy nhiên, giáo huấn lên đây của sách Lêvi vẫn còn giới hạn tình yêu thương đó trong dân Do Thái.
Xa hơn trong câu 34 của sách Lêvi và đặc biệt trong Tân ước, chẳng hạn như trong Matthêu Mt 5, 43-48, giới răn yêu thương đó phải được thực thi đối với tất cả mọi người, không trừ một ai.
Anh chị em thân mến!
Khi đề cập với chúng ta sống yêu thương đại đồng không biên giới và lòng tha thứ vô biên, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta vượt xa hơn các luật lệ của Cựu ước Luật mắt đền mắt, răng đền răng thường hay được nhắc mắt cách tầm tẫn là luật báo oán. Thật ra, đây là luật nền tảng của Do Thái giáo cũng như của các dân tộc vùng Trung Đông ngày xưa, giúp bảo đảm và tái tập sự công bằng trong các tương quan giữa con người với nhau. Nó có mục đích hạn chế việc báo oán thường bị con người lạm dụng quá trớn. Do đó, ai khinh thường luật công bằng này là làm tổn thương đến chính cơ cấu xã hội.
Về phần Chúa Giêsu, Ngài biết rõ điều đó, nên Ngài không cố ý thảo luận về khía cạnh tư pháp xã hội hay luân lý của điều luật này. Bởi vì kinh nghiệm cho thấy bạo lực chỉ làm phát sinh ra bao lực. Vậy, khi áp dụng luật: "Mắt đền mắt, răng đền răng" con người không giải quyết được những xung khắc trong cuộc sống của mình. Trái lại, nó cứ luẩn quẩn mãi trong vòng ân oán không lối thoát.
Vì thế, Chúa Giêsu đề nghị với chúng ta một thái độ sống thần học, đó là noi gương Thiên Chúa luôn luôn sẵn sàng tha thiết và trao ban ân thánh của Ngài cho tất cả người bất công cũng như người gian ác, cho kẻ tốt cũng như kẻ xấu. Nói cách khác, Chúa Giêsu đề nghị với chúng ta thái độ sống dịu hiền, khiêm tốn, hoàn toàn bất bạo động. Yêu thương tha thứ cho kẻ thù để bẻ gẫy cái bạo lực không lối thoát. Tuy nhiên, luật xưa có dạy con người: "Thương người như thể thương thân", nhưng luật này chỉ dừng lại ở ranh giới công bằng mà chưa đạt tới giới răn yêu thương thật sự theo tinh thần và mẫu gương của Thiên Chúa là Đấng thánh thiện vẹn toàn.
Anh chị em thân mến!
Một trong những đặc thái của yêu thực lòng là tính chất "nhưng không vô vị lợi", nghĩa là Chúa Giêsu muốn chúng ta biết sống như Thiên Chúa, yêu thương trong mọi hoàn cảnh, yêu thương cả những người không có quyền được yêu thương nữa. Chúa Giêsu trưng dẫn Kinh Thánh Cựu ước và biến đổi chúng với tinh thần và cung cách sống mới mẻ mà Ngài đề nghị với chúng ta: "Giơ má trái, cho cả áo trong", yêu thương kẻ thì và cầu nguyện cho họ là kiểu cách mà người Kitô hữu cũng như những môn đệ của Chúa Giêsu cần phải có để phản ứng trước cung cách hành xử bất công gian ác của người khác. Nghĩa là Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phản ứng bằng một cử chỉ cao thượng, mắt cử chỉ diễn tả tình yêu vô biên và linh thần bất bạo động. Một cử chỉ có sức mạnh bẻ gãy mọi xiềng xích gian ác và làm phát sinh ra kiểu cách sống tốt lành, thánh thiện và toàn vẹn, xứng đáng với những người con của Thiên Chúa, của Đấng cho mặt trời mọc lên, soi sáng và cho mưa rơi trên kẻ lành và người dữ nữa.
Anh chị em thân mến!
Cách sống như vậy là hoa trái tuyệt diệu nhất của cuộc sống cách mạng tâm lòng theo tinh thần "Tám Mối Phúc Thật" của Chúa Giêsu. Ơn gọi cao quí của Kitô hữu cũng được thánh Phaolô nêu bật trong thư I gởi tín hữu Côrintô (I Cor 3, 16-23). Qua Bí lích Rửa tội Kitô hữu trở thành chi thể của Giáo Hội và là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Vì thế, họ cũng phải sống theo tinh thần con cái Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chứ không được theo tinh thần của người trần gian. Khi chia bè kết đảng, hùa người này, hạ kẻ khác, chống đối với nhau và gây phân rẽ trong cộng đoàn là tín hữu sống theo tinh thần của người trần gian. Cái khôn ngoan của con người trần gian là thứ ham muốn ích kỷ và tư lợi, kể cả tư lợi thiêng liêng đã chi phối và lèo tái họ. Khi sống theo cái khôn ngoan và các tiêu chuẩn của trần gian là Kitô hữu biến cộng đồng trở thành một tổ chức trần gian, và như thế là họ đánh phá Giáo Hội và đền thờ của Thiên Chúa.
Họ tưởng rằng, cung cách hành xử theo liêu chuẩn lợi lộc quyền bính và lòng ích kỷ là khôn ngoan, nhưng thật ra đó là ngu dại. Bởi vì các chương trình tiêu chuẩn và phương thế của con người trần gian dẫn đến chỗ đổ vỡ tan nát và thất bại ê chề. Trong khi các chương trình, tiêu chuẩn và phương thế mà Thiên Chúa dùng đi ngược lại cái lôgíc của con người trần gian, nhưng dẫn đến thành công như ý Chúa muốn.
Thưa anh chị em!
Muốn thực hiện ơn gọi làm người và làm con cái Thiên Chúa, người Kitô hữu không được quên rằng, mình là đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần. Các thừa tác viên dù có chức gì đi nữa cũng chỉ là dụng cụ, là tôi tớ của Thiên Chúa, do đó tất cả mọi thành phần của Giáo Hội đều thuộc về Chúa Kitô là thủ lãnh tối cao duy nhất của mọi người, là Đấng mà chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Ngài mà giờ đây chúng ta cùng tuyên xưng đức tin với nhau.
Đâu là phương thế để làm cho thêm bạn bớt thù trong cuộc sống của mình? Có một bản du: TN 7-A7
Đâu là phương thế để làm cho thêm bạn bớt thù trong cuộc sống của mình?
Có một bản du ca tôi rất thích hát, bản du ca ấy có những lời lẽ như thế này: Kẻ thù ta đâu có phải là người giết người đi thì ta ở với ai. Đúng thế, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi của mình. Nhân vô thập toàn là thế. Hơn nữa, mỗi người lại có những tính tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh là thế.
Vì vậy, đã sống chung cùng nhau chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền, như một câu danh ngôn đã bảo: Hễ ở đâu có hai người sống với nhau, thì ở đó thế nào cũng có sự xích mích và giận hơn.
Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy trên đời đâu phải chỉ có một hay hai người làm cho tôi sự mất lòng, làm cho tôi phải nhục nhã và tức giận. Ngay cả đến những người bạn thân tình, ngay cả đến cha mẹ và anh chị em ruột thịt cũng đã nhiều lần làm cho tôi phải bực bội.
Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải báo thù kẻ lạ cũng như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia đình, kẻ bên trái cũng như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người đàng sau, nghĩa là phải tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt đất này.
Hơn nữa, xã hội và ngay chính bản thân tôi, sẽ không thể nào được xây dựng trên sự thù oán và đấu tranh, vì thù oán này sẽ nảy sinh ra thù oán khác, như một thứ bệnh truyền nhiễm làm cho xã hội bị sụp đổ, còn bản thân tôi sẽ phải quay quắt khổ đau. Thế nhưng, điều tệ hại nhất, đó là chính bản thân tôi nhiều khi lại là nguyên nhân cho sự thù oán, vì hơn một lần tôi đã sai lỗi, hơn một lần tôi đã gian tham và bất công. Cho nên người đáng phải giết, đáng phải loại trừ lại chính là bản thân tôi. Vì vậy mà bản du ca trên có những lời lẽ được tiếp nối như sau: Kẻ thù ta tên nó là gian ác, tên nó là điêu ngoa, tên nó là tham tàn...
Phương thế hữu hiệu nhất để làm cho thêm bạn bớt thù, không phải là chết giết những kẻ thù ở bên ngoài, vì sự trả thù chỉ là cái vui của những tâm hồn đê tiện, nhưng là phải lột mặt nạ và tận diệt cho bằng được những thói hư tật xấu, là những kẻ nội thù, nằm sẵn trong cõi lòng chúng ta, như người xưa đã dạy: Kẻ thù đích thực thì ở trong tâm hồn, vì đó là những nguyên nhân gây nên thù oán ngoài xã hội.
Cùng với việc uốn nắn sửa đổi những sai lỗi của mình, chúng ta hãy có thái độ khoan dung và tha thứ, cố gắng đi bước trước tiến đến sự hoà giải cùng nhau. Đừng khoan dung với mình mà gay gắt với anh em, trái lại hãy khoan dung với anh em mà gay gắt với chính mình. Cách tốt nhất để khỏi băn khoăn về kẻ thù là hãy làm cho họ trở nên một người bạn, bởi vì thù oán không thể huỷ diệt được thù oán, chỉ có tình thương mới huỷ diệt được nó mà thôi.
Ngày kia thánh Clementê đi vào một tiệm ăn, ngửa tay ra và nói:
- Xin quý ông rộng lượng bố thí cho các em mồ côi một miếng cơm, một manh áo.
Tức thì các thực khách cười lên hô hố một cách khinh bỉ. Sau đó, một anh thợ giày đã nói:
- Một miếng ư, được lắm.
Rồi anh ta uống một ngụm bia, phùng má trợn mắt phun thẳng vào mặt thánh nhân. Chúng ta thử tưởng tượng xem thánh nhân đã phản ứng như thế nào? Có lẽ ngài sẽ giáng cho anh ta một cái tát tai. Nhưng không, ngài vẫn bình tĩnh, rút khăn lau mặt, rồi lại ngửa tay và nói:
- Thưa quý ông, đó là phần của tôi, còn phần của các em mồ côi đâu chưa thấy.
Anh thợ giày bỗng té nhào xuống đất như bị một cú đấm thôi sơn, vì anh ta chẳng bao ngờ tới trên cõi đời nham nhở này mà lại có được một người khích phách như vậy. Anh lòm còm ngồi dậy và lắp bắp nói:
- Tôi... tôi sẽ gởi tặng các em.
Sau đó, anh đã dành một phần sản nghiệp và trao tận tay thánh nhân một số tiền lớn để tạ lỗi.
Khi chúng ta suy niệm bài Tin Mừng này thì Xuân đã về trước ngõ. Mùa Xuân làm cho lòng người: TN 7-A8
Khi chúng ta suy niệm bài Tin Mừng này thì Xuân đã về trước ngõ.
Mùa Xuân làm cho lòng người rộn rã, cỏ cây chim chóc cũng reo vui với con người. Người ta chúc cho nhau bao điều tốt đẹp. Điều tốt đẹp nhất vẫn là sự bình an trong tâm hồn, sự bình an mua được bằng tha thứ yêu thương.
Khi dạy chúng ta đừng chống cự người ác, Đức Giêsu không đòi loại bỏ cảnh sát và pháp luật; cũng không lên án những cuộc chiến tranh tự vệ. Ngài chỉ muốn mời gọi các Kitô hữu hãy tránh thái độ báo thù, ăn miếng trả miếng.
Tha thứ là ra khỏi vòng luẩn quẩn của oán thù, là mở ra con đường để người kia hoán cải.
Có một vị rất tâm đắc với bài Tin Mừng này, đó là Gandhi, người được dân Ấn-độ coi là đại thánh. Ông là cha đẻ của chủ trương bất bạo động, để giành lại độc lập cho đất nước từ tay người Anh. Ông nói: “Bất bạo động là luật của loài người, bạo động là luật của loài thú.”
Chúng ta thường sợ mang tiếng là hèn nhát, khiếp nhược, sợ kẻ ác thắng thế khi thấy ta lùi bước. Chúng ta ít dám tin vào sức mạnh của Tình Yêu.
Chính Tình Yêu chứ không phải bạo lực mới có thể làm trái tim con người tan chảy.
Đức Giêsu mời gọi ta yêu thương và cầu nguyện cho kẻ thù để trở thành con cái Cha trên trời.
Chúng ta không chỉ trở thành con Cha vào ngày Rửa tội. Chúng ta trở thành con Cha hơn nhờ những hành vi tha thứ yêu thương mỗi ngày.
Chúng ta thật là con, vì giống Cha, Đấng cho nắng ấm, mưa rơi trên kẻ lành người dữ.
Chúng ta thường khó quên một xúc phạm đã qua, những chuyện cũ vẫn làm tim ta đau nhói. Cần nhìn lên Cha trên trời, Đấng để cho cỏ lùng mọc chung với lúa, Đấng mà ta phải nài xin ơn tha thứ mỗi ngày. Chỉ Ngài mới làm ta quên được điều tưởng như không thể quên.
Thế giới hôm nay có nhiều sự ác và người ác. Chúng ta phải tiêu diệt sự ác bằng sự thiện, hoán cải người ác bằng tha thứ yêu thương.
Kitô hữu là người dám đi lại con đường của Đức Giêsu, chấp nhận bị sự ác vùi dập và nuốt chửng, mà trên môi vẫn nói lời tha thứ. Nhưng cuối cùng là phục sinh, là niềm vui, hy vọng.
Chúng ta có dám tin rằng rốt cuộc chân lý, tình yêu và sự thiện sẽ chiến thắng không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có thấy những lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là những điều không thể thực hiện được? Có phải đó là thái độ của kẻ yếu nhược và hèn nhát không? Theo ý bạn, Đức Giêsu có dạy ta dung túng, bao che cho sự ác không?
Bạn đã và đang có những “kẻ thù” trong đời bạn, những người làm cho bạn phải đau khổ. Bạn có dám sống theo lời Chúa để tha thứ, yêu thương và cầu nguyện cho họ không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha đã cho chúng con sống thêm một năm, đi thêm một đoạn đường đời.
Nhìn lại đoạn đường đã qua, chúng con chỉ biết nói lên lời tạ ơn chân thành, vì Cha vẫn cho chúng con sống, và sống trong tình yêu.
Mọi biến cố vui buồn của năm qua đều là những lời mời gọi kín đáo của Cha để thức tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên cao.
Tạ ơn Cha vì những gì cuộc đời đã làm cho chúng con, và những gì chúng con đã làm được cho cuộc đời.
Xin cho chúng con sống những ngày tết dân tộc trong tinh thần vui tươi, hoà nhã, và không quên những ai nghèo khổ, cô đơn.
Ước gì những lời chúng con chúc cho nhau là những lời chúc lành xuất phát từ trái tim yêu thương.
Và lạy Cha, năm mới đã đến, trái đất lại xoay một vòng mới quanh mặt trời, chúng con cũng muốn ở lại trong quỹ đạo của Cha, nhận Cha là trung tâm cuộc sống, và nhận mọi người là anh em. Amen.
Khi đề nghị một buổi lễ đọc một đoạn Phúc Âm, Giáo Hội ao ước cho ta làm quen với giáo: TN 7-A9
Khi đề nghị một buổi lễ đọc một đoạn Phúc Âm, Giáo Hội ao ước cho ta làm quen với giáo huấn, lối nhìn, cách suy nghĩ, sứ điệp của Chúa Giêsu. Ít nhất người ta cũng có thể nói một điều: là Chúa Giêsu đi ngược lại các phản ứng thuộc bản năng của con người. Không chống lại sự ác nghiệt và yêu mến kẻ thù, đó không phải là những khám phá của sự khôn ngoan sơ đẳng của bản tính nhân loại. Sự táo bạo kêu mời con người thực thi tình yêu hoàn hảo, chỉ có thể xuất phát từ Con Thiên Chúa, Đấng đã nêu gương về một mức độ tình yêu như thế. Nếu Người dám xin ta yêu mến thù địch ta, là vì Thiên Chúa đã yêu loài người trước hết, ngay trong khi họ còn chống lại Người, còn nằm trong tội lỗi. Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu Người đối với ta: ấy là khi ta còn tội lỗi, Đức Kitô đã chết cho ta (Rm 5,8). Có những triết thuyết, những tổ chức tôn giáo ngoài Kitô giáo đôi khi đã xích lại gần sự đòi hỏi của Chúa Giêsu nhưng không hề đạt tới được. Phúc Âm quả là một chóp đỉnh duy nhất mà chỉ Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô dám xin ta leo lên. Tình yêu đối với thù địch nằm ở chóp đỉnh ấy. Giới răn của Chúa Giêsu buộc ta không được giản lược tình yêu vào trình độ của mối hỗ tương, trao đổi không vươn xa hơn. Tình yêu tuỳ thuộc ở một sự trao đổi là một tình yêu mong manh. Trái lại, tình yêu mà phát xuất từ sâu thẳm của hữu thể là một sức vọt mạnh mẽ, chỉ lấy tự do mình làm giới hạn. Mà chiến thắng của cái tự do ấy, chính là ở chỗ nó quyết định yêu thương, cả khi gặp cản trở, tức bị từ chối. Chúa nêu gương cho ta về điều này:
1) Chúa muốn điều hay cho những kẻ muốn làm hại Người. Người chịu khổ, chịu chết để những ai bắt Người phải khổ, phải chết được hết đau khổ và chết chóc. Trước sự từ chối tuyệt đối của con người không đáp lại tình yêu – (trước sự từ khước một mối hỗ tương), Chúa vẫn duy trì quyết định tuyệt đối là thương yêu.
2) Tình yêu ấy mặc khuôn mặt của lòng tha thứ. Tình yêu theo Thiên Chúa biết nhìn từ bên trong. Tha thứ là một sự sáng suốt của tình yêu. Lạy Cha, xin tha cho họ, vì ho không biết mình làm gì. Người tự coi là kẻ thù của ta, họ vâng theo những động lực nào? Có lẽ họ là nạn nhạn của sự dốt nát, của những sức mạnh tối tăm làm chủ họ, của tính tình v.v… Không ai nói phải khuyến khích lòng độc dữ của họ, nếu họ tỏ ra nguy hiểm. Điều cấm làm, là trả thù. Điều phải làm theo là yêu mến họ, dầu sao đi nữa, và ao ước sự tốt lành cho họ. Điều này có thể đòi hỏi một sức mạnh tinh thần gần như là khí phách anh hùng. Phải biết thưa với Chúa rằng, nếu Người đòi hỏi phải nên anh hùng, thì Người cũng phải ban đủ sức làm anh hùng.
Đây là một thí dụ điển hình để kiếm chứng bài giảng trên núi về chữ nghĩa và tinh thần. Đâu là: TN 7-A10
Đây là một thí dụ điển hình để kiếm chứng bài giảng trên núi về chữ nghĩa và tinh thần. Đâu là tinh thần của câu “Hãy giơ má kia ra” là câu làm bất cứ ai cũng nhăn mặt?
Khi chính mình bị một cái tát trong cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu đã chẳng giơ má kia ra. Ngài đã đặt kẻ vũ phu đứng trước hành vi của mình: “Nếu ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó: nếu ta nói phải, tại sao lại đánh ta?” (Ga 18,23).
Điều sai lầm đó cứ lao theo từ ngữ như con bò mộng lao vào cái khăn nhử: “Tôi mà giơ má ra à? Để tạo điều kiện cho bạo lực sao?” Đúng ra là Chúa Giêsu muốn điều ngược lại. Khi Ngài nói: “Ngươi đừng đánh trả kẻ dữ dằn”, thì Ngài đã chỉ đích danh, và chúng ta biết phải làm gì đối với một kẻ dữ dằn rồi. nhưng đó là một cái gì vượt xa trên kẻ dữ dằn này cũng như trên cái má rát bỏng của chúng ta. Dưới cái hình ảnh gây ấn tượng này (giơ má kia ra!) ẩn giấu một kế hoạch phi thường: ngăn chận bạo lực gia tăng.
Con ngưới chấp nhận bạo lực như là một dữ kiện không thể bàn cãi vào đâu được. Đánh trả và báo thù dường như là điều tự nhiên, mọi người đều như thế, ngay cả những Kitô hữu tốt cũng vậy. Nếu chúng ta muốn đo lường sự đảo ngược to lớn mà Chúa Giêsu đưa ra, chúng ta hãy mở Kinh thánh ra, Sáng Thế ký 4,24: “Lameck sẽ bị báo thù 77 lần!”. Và chúng ta hãy đặt mình vào địa vị của Phêrô khi được trả lời rằng: “Ngươi hãy tha thứ bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22).
Có thể tỏ ra hoàn toàn vô lý, sự đảo ngược này bắt đầu xảy ra thực sự ngay khi chúng ta có can đảm nói không đối với bạo lực của chính chúng ta. Không phải bạo lực của người khác, mà là bạo lực của chúng ta. Khi lái xe, khi làm việc, khi coi truyền hình chúng ta muốn la lên: “Đồ thối tha! Quân sát nhân!” (và con cái có thể nghe được).
- Ngươi hãy im đi, hãy bình tĩnh, đừng đánh trả những người hung dữ, Chúa Giêsu nói.
- Chúa muốn chúng con để cho tất cả những người gàn dở, tất cả những kẻ bạo hành tha hồ hành động hay sao?
Tin Mừng không đơn giản chút nào cả. Sau đây là một câu chuyện đã xảy đến với tôi. Tôi đã chứng kiến hai tên vô lại đi xe máy làm một bà già bị thương nặng khi kéo lê bà ta dưới đất để giật túi xách. Một nỗi oán ghét dâng lên trong lòng tôi. Khi hai cảnh sát đến tôi nghĩ họ phải bắt hai tên đó, tẩn chúng cho tới chết để dạy cho chúng một bài học!
Điều đó chẳng dạy cho chúng một bài học nào cả. Bạo lực không bao giờ dạy cho ai một bài học nào cả. Nó chỉ có kêu gọi thêm bạo lực mà thôi. Tôi đã thấy rõ điều đó chung quanh bà già bị thương tội nghiệp. Chúng ta sẽ nhìn tất cả các thanh niên đi xe máy bằng con mắt thành kiến.
Thánh Phaolô đã đào sâu vấn đề này: “Đừng để mình thua điều ác” (Rm 12,17). Đừng để cho ai cả, từ cậu bé vô lại cho tới tên đồ tể, có khả năng biến đổi bạn thành một con người đầy căm thù. Nếu không, bạn sẽ thua điều ác.
Chúng ta không lúc nào cũng có thể hoàn toàn tự kiềm chế trước một kẻ tàn ác hoặc xảo trá. Nhưng chúng ta có thể chống lại làn sóng bạo lực ở trong ta, chống lại những lời nói và những cử chỉ bạo lực. Chúng ta có thể không cố gắng làm cho sự tự vệ và sự tức giận chính đáng biến thành bạo lực lớn và mù quáng hơn, biến thành sự khinh bỉ, biến thành ước muốn và hành vi báo thù thuần tuý.
Nơi nào một Kitô hữu ngăn chận được việc lan truyền bạo lực bằng cách từ chối làm một mắt xích của chuỗi sự ác, thì nơi đó một thế giới mới sinh ra.
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,44-45).
Anh em hãy yêu thương kẻ thù mình”. Việc này thật đòi hỏi: Nó đảo lộn các suy nghĩ của ta và làm: TN 7-A11
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù mình”. Việc này thật đòi hỏi: Nó đảo lộn các suy nghĩ của ta và làm mọi người phải thay đổi hướng đi của đời mình!
Bởi vì, đừng dấu diếm nữa, tất cả chúng ta đều có một vài kẻ thù… lớn hoặc nhỏ.
Kẻ thù đang ở đàng sau cánh cửa căn nhà bên cạnh, nơi người đàn bà đáng ghét đó mà tôi thường tìm cách tránh né mỗi làn bà ta sắp sửa cùng bước lên cầu thang. Kẻ thù ở chính nơi người bà con mà cách đây ba chục năm đã đối xử bất công với cha tôi, vì thế tôi không còn chào hỏi nữa. Kẻ thù ngồi ở bàn đàng sau trong lớp học và từ ngày nó tố cáo cho bạn tôi với thầy giáo, không bao giờ bạn nhìn mặt nó. Kẻ thù là người bạn gái đó, vì cô ta đã bỏ bạn để đi với người khác. Kẻ thù là người bán hàng đã đánh lừa bạn. Đó là những người không nghĩ như bạn về chính trị, vì thế ta tuyên bố họ là kẻ thù. Có người coi Nhà Nước là kẻ thù, nên dùng bạo lực đối xử với người đại diện Nhà Nước. Cũng có người nhìn các linh mục và Giáo Hội như là thù địch. Tất cả những người này và vô vàn những người khác mà ta gọi là “kẻ thù” ta phải yêu thương họ.
Phải yêu thương họ sao?
Thưa phải, phải yêu thương họ! Và đừng cho mình có thể làm được bằng cách thay đổi tình cảm oán ghét thành tình cảm nhân hậu hơn.
Mà còn hơn nữa. Bạn hãy lắng nghe lời Đức Giêsu dạy:
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy, anh em mới thực sự trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.
Bạn thấy không? Đức Giêsu muốn một tình thương thể hiện qua việc cầu nguyện và những hành động cụ thể.
Ở nơi khác, Ngài cũng dạy: “Anh em hãy làm ơn cho kẻ oán ghét mình, chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, cầu cho kẻ nhục mạ mình” (Lc 6,27-28).
Ngài giải thích cho ta lý do tại sao Ngài truyền dạy như vậy, và chỉ cho ta mẫu gương là tình thương của Thiên Chúa, Cha Ngài; Ngài dạy ta làm như vậy cùng hành xử theo gương Chúa Cha.
Điều đó có nghĩa là trên đời ta không còn cô đơn: ta có một người Cha và phải sống như Người. Không những thế, mà Thiên Chúa còn có quyền đòi ta làm như vậy, bởi vì khi ta còn là thù địch của Người, còn sống trong tội lỗi, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (x.2Ga 4,19), và sai Con của Người đến với ta, Đấng đã chết cách nhục nhã vì mỗi người chúng ta.
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.
Bài học ấy chú bé Jery người da đen đã học được ở Washington. Vì có trí thông minh, em đã được nhận vào một lớp đặc biệt gồm toàn thiếu niên da trắng. Nhưng trí thông minh không đủ để làm cho các bạn cùng lớp hiểu rằng em cũng bình đẳng như chúng. Màu da đen đã làm cho tất cả ghét bỏ em, đến độ ngày lễ Giáng Sinh các học sinh tặng quà cho nhau nhưng không thèm để ý tới Jery. Em bật khóc, điều này dễ hiểu! Nhưng khi về nhà em nghĩ đến Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù của anh em”, và đồng ý với má, em mua quà vui vẻ tặng cho tất cả những “người anh em da trắng” của mình.
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.
Ngày hôm đó Elizabeth, cô bé có đạo ở thành phố Florence (Italia) thật đau lòng, khi bước lên bậc thang vào nhà thờ dự lễ, vì cô nghe tiếng cười nhạo của một nhóm đồng lứa tuổi. Cho dù muốn chống lại, em mỉm cười và trong nhà thờ em cầu nguyện cho những thiếu niên ấy.
Khi đi ra, các thiếu niên chặn em lại và hỏi lý do tại sao em xử sự như vậy. Em trả lời, mình là người có đạo, nên phải thương yêu luôn luôn. Em nói lên điều đó với niềm xác tín mạnh mẽ.
Chứng ta của em Elizabeth đã được thưởng công: Chúa Nhật sau đó em thấy tất cả các thiếu niên ấy trong nhà thờ, rất chăm chú ở hàng ghế trên cùng. Các thiếu niên chấp nhận Lời Chúa như thế. Do đó các em là người lớn trước mặt Chúa.
Có lẽ ta cũng nên điều chỉnh lại một vài tình trạng, hơn nữa cũng vì ta sẽ được xét xử theo như cách ta xét đoán người khác. Thật vậy, chính ta là người trao vào tay Chúa cái thước mà Ngài phải dùng để đo tình yêu của chúng ta. Ta đã chẳng xin Chúa: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” đó sao? Vậy ta hãy yêu thương kẻ thù! Chỉ khi xử sự như vậy ta mới có thể sửa chữa lại sự chia rẽ, đạp đổ những hàng rào ngăn cách và xây dựng cộng đoàn huynh đệ.
Điều đó khó khăn sao? Nặng nề sao? Nó không để ta ngủ yên, ngay khi mới nghĩ đến sao? Hãy can đảm lên! Điều đó không phải là quá sức: một nỗ lực nhỏ từ phía ta, rồi 99 phần trăm Thiên Chúa sẽ làm, và… trong tâm hồn ta sẽ dâng trào niềm vui.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)
Dòng giống nhân loại đã làm một tiến bộ vượt bực trong lịch sử gần đây. Hãy suy nghĩ về: TN 7-A12
Dòng giống nhân loại đã làm một tiến bộ vượt bực trong lịch sử gần đây. Hãy suy nghĩ về điều tương phản giữa một “toa xe không ngựa kéo và một chiếc xe hơi hiện đại”, hoặc sự khác nhau giữa “chuyến bay đầu tiên ở Kitty Hawk, Bắc Caroline vào năm 1903 và một cuộc du hành bằng máy bay hiện đại”. Vào một trăm năm trước, không người nào có thể tưởng tượng ra rằng người ta có thể ngồi trước một cái hộp, vừa gọi điện vừa nghe được tiếng nói, vừa xem thấy người đang trò chuyện với mình.
Những tiến bộ của chúng ta thật đáng kinh ngạc, nhưng một vấn nạn về luân lý và giáo dục vẫn còn tồn tại và nặng nề hơn cả người sống ở thế kỷ trước hay ba mươi thế kỷ qua. Chúa Giêsu trong Phúc Âm, Người đã ám chỉ tới sách Xuất hành, sách đó thuật lại sự kiện đã xảy ra trước khi Chúa Giêsu sinh ra khoảng một ngàn bốn trăm năm. Đoạn văn mà Người đã trích dẫn như sau: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Điều này có nghĩa là chỉ có mắt mới đền mắt được và chỉ có răng mới đền răng được. Nói cách khác, đây là một sự bào chữa cho một công lý chính xác vào một thời mà nền quân chủ ngự trị, không hè do dự phạt tội chết một người ăn cắp một quả nho trên bàn của vua. Hãy nhớ lại vào những ngày tháng của Chúa Giêsu, nhiều năm sau lời bào chữa này đã trở nên hòa hoãn hơn. Vua Hêrôđê đã không do dự chém đầu Gioan Tẩy Giả bởi vì vị quốc vương dại gái ấy đã làm một lời hứa ngu ngốc với một cô gái nhảy dâm đãng.
Chúa Giêsu tìm kiếm một nền đạo lý cao hơn cho những người đi theo Người. Nơi hình ảnh một bức tranh Người đòi hỏi chúng ta không nên nhấn mạnh đến một sự công lý nghiêm thẳng. Điều đó đang muốn nói đến án lệnh làm cho sự việc nên nghiêm trọng hơn. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa. Người tuyên bố nếu chỉ yêu thương những người cùng dân tộc với mình thì không đủ. Người ban mệnh lệnh yêu thương ngay cả kẻ thù của mình và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ mình. Những kẻ hoài nghi chế tạo những giáo huấn này. Họ nghĩ rằng Chúa Giêsu là một gã khờ khạo và những giáo huấn của Người là những lý tưởng không thể thực hiện được. Đương nhiên Chúa Giêsu không ngây thơ tí nào, Người rất khôn ngoan. Những lý tưởng Người đưa ra là những mục đích không phải là không đạt tới được. Ít nhất chúng ta cũng như những người có dit đã nghe và chấp nhận sự thách đố của Người: “Các con phải trở nên hoàn hảo như Cha các con ở trên trời là Đấng Hoàn Hảo”.
Thánh Phaolô hỏi chúng ta: “Anh em không ý thức anh em là Đền Thờ Chúa Thánh Thần ư, và Thánh Thần của Thiên Chúa ngự trong lòng anh em sao?”. Một sự khiêm nhượng giả hiệu sẽ không bao giờ làm cho chúng ta quên đi giá trị của mình. Chúng ta xét thấy nhà thờ là nơi thánh thiêng bởi vì đó là nhà của Thiên Chúa. Cùng một cách ấy, chúng ta phải nhận biết sự thánh thiêng của chúng ta vì nó là Đền Thờ của Thiên Chúa. Thánh Thần Thiên Chúa sống động bên trong chúng ta, biến đổi chúng ta nên con cái của Thiên Chúa, củng cố hình ảnh Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu nơi chúng ta. Có phải không khi nói với chúng ta rằng chúng ta phải trở nên khác đi, rằng chúng ta không phải tự dối mình bằng việc suy nghĩ theo lối trần tục sao? Chúng ta được kêu gọi để hành động theo những tiêu chuẩn của Thiên Chúa, không phải theo những tiêu chuẩn của xã hội thế trần.
Khi chúng ta đến dự Thánh Lễ, việc đầu tiên chúng ta lắng nghe Lời Chúa, Thánh Kinh sẽ dẫn chúng ta đi đến những lý tưởng và những thách đố. Tiếp đó, chúng ta tham dự Phụng vụ Thánh Thể và chúng ta được lãnh nhận Mình và Máu Chúa. Thánh Thể là nguồn sức mạnh Thiên Chúa ban cho chúng ta để chúng ta tiến bước theo những lý tưởng của Thánh Kinh và để chấp nhận những thách đố ấy. Sẽ không có sự tiến bộ thật sự trong đạo đức nếu chúng ta không sẵn lòng cố gắng, dù vất vả cũng không hề chi để toàn tâm toàn ý với tiếng gọi của Chúa Giêsu là: “Các con hãy trở nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành”.
Mở đầu sách Đại học của Nho Giáo đã nêu rõ mục đích là “Đại học chi đạo: Tại minh minh đức,: TN 7-A13
Mở đầu sách Đại học của Nho Giáo đã nêu rõ mục đích là “Đại học chi đạo: Tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện”.
Kết thúc Hiến chương nước Trời trong bài Tin Mừng hôm nay cũng đặt rõ mục đích là “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời... là yêu kẻ thù”.
Nho Giáo ở phương trời Viễn Đông, Kitô giáo ở phương trời Cận Đông, tuy xa nhau hàng ngàn dặm, nhưng tình yêu đâu có khác nhau?
Một đàng muốn con người nên chí thiện ở tại thân dân, thương yêu dân.
Một đàng bảo: “Anh em hãy nên toàn thiện ở tại thương yêu cả kẻ thù”.
Một đàng: “Minh minh đức”, minh là làm sáng tỏ, minh đức là đức sáng láng của Trời; minh minh đức là làm cho đức sáng của Trời sáng tỏ ra, chiếu sáng ra.
Một đàng bảo: hãy cầu nguyện, cốt yếu của cầu nguyện là làm cho danh thánh Cha trên trời hiển sáng, chiếu sáng ra khắp muôn dân. Thiên Chúa là ánh sáng, Đức Kitô là ánh sáng bởi ánh sáng (Ga. 1, 9).
Phần kinh của sách Đại học chỉ có 205 chữ: đây là cương lĩnh, là Hiến chương của Nho Giáo, mục đích đào tạo người học Thánh quân tử, thánh nhân.
Hiến chương nước Trời của Đức Giêsu cũng rất ngắn gọn, vài trăm chữ, nhằm đào tạo con người thành con Cha trên Trời, thành Thánh nhân của Thiên Chúa.
Hai Hiến chương có lẽ chỉ khác nhau ở chỗ: Tin Mừng nói rõ Cha trên trời là Đấng hoàn thiện và hạnh phúc Nước Trời; sách Đại học không nói rõ, nhưng cũng ngầm hiểu: làm cho dân được hạnh phúc là ở tới đích chí thiện; chí thiện chính là Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay đặt chương trình nên chí thiện, nên chí thánh rất cụ thể.
Bài I (Lv. 19, 1-2; 17-18) Chúa phán dạy: “Các ngươi phải nên thánh”. Nhờ sống thánh thiện, mới tránh được: ghen ghét, oán hận, trả thù; mới biết yêu đồng loại như chính mình. Nền tảng của dân thánh đặt trên: “Ta là Đấng Thánh”.
Ở thời Cựu Ước, trước kỳ lưu đầy, khi nghe nói đến “Đấng Thánh” thì dân nhớ đến Đền Thánh, nhớ đến nơi cực Thánh trong cung thánh, nhớ đến những ngày lễ Thánh, những việc Thánh họ phải làm nơi đền thờ để được nên thánh.
Đến thời lưu đầy đền thờ bị phá hủy, dân bơ vơ, không còn điểm tựa để nhận ra Giavê là Đấng Thánh cho dân nên thánh. Họ phải nhớ lại giới luật giao ước núi Sinai mà Giavê, Đấng Thánh đã ban cho họ. Họ cần sống thực hiện giới luật đó để họ nên thánh như Đấng Thánh đã truyền dạy họ. Họ mới mong Đấng Thánh giải phóng họ khỏi cảnh lưu đầy như Ngài đã giải phóng tổ tiên họ khỏi nô lệ Ai Cập.
Bài II (1Cr. 3, 16-23) Phaolô không nhắc tới đền thờ Giêrusalem, không nhắc đến luật cũ nữa. Tân Ước là thời đại mới, dân Chúa thực sự không nên thánh nhờ đền thờ hay lề luật. Họ nên thánh, họ là dân thánh (1Phêrô 2, 9) nhờ được tái sinh bởi nước và Thánh Thần. Phaolô cho họ thấy: “Anh em là đền thờ Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em” Từ nay họ là chi thể thánh của Đức Kitô “Anh em thuộc về Đức Kitô, Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa”
Thánh Phaolô đã cho ta biết rõ, bản chất cốt yếu của thánh thiện, không nhờ đền thờ hoặc bất cứ ai dù là Phaolô... hay luật lệ chỉ nhờ một mình Thiên Chúa: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người” đã làm cho ta nên thánh.
Khi đã nhờ Người mà nên thánh, thì chính nhờ Người mà chúng ta mới có thể yêu kẻ thù.
Nhờ Người và như Người, chúng ta sẵn sàng chịu vả má phải và giơ thêm má trái cho họ vả, chứ không như luật dạy: mắt đền mắt răng đền răng. Nhờ Người và như Người, chúng ta không cần che thân, không cần bảo vệ, sẵn sàng chịu bóc lột áo trong cũng như áo ngoài. Nhờ Người và như Người không có hòn đá gối đầu, chúng ta không tiếc xót khi cho vay mượn, không bám gót của cải, dễ dàng cho đi, bỏ đi.
Nhờ Người và như Người đã vác khổ giá, chúng ta sẵn sàng phục vụ công việc như nô dịch, làm phu như ông Simon vô cớ bị quân dữ bắt làm phu vác đỡ thánh giá Chúa. Hơn nữa, còn phải sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để yêu kẻ thù.
Như thế, mới được trở nên con Cha, Đấng đã làm cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ xấu cũng như người tốt và cho mưa xuống cho kẻ dữ cũng như người lành. Chiêm ngắm những kỳ công bao la đó, Nho gia xưa đã rất ngạc nhiên kêu lên: “Ôi đạo của bậc thánh vĩ đại thay! mênh mông như biển cả, sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục, thánh hóa tất cả vạn vật trong vũ trụ từ đất đi tới trời cực kỳ tốt đẹp: Đại tai thánh nhân chi đạo! dương dương hồ, phát dục vạn vật; tuấn cực vu thiên” (Trung Dung - chương 27)
Thánh như vậy đã “phối hợp với trời đất rộng dầy cao minh: bác hậu phối địa, cao minh phối thiên” (Trung Dung - 26)
Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thấy ba mức độ thánh thiện:
Thánh thiện ở đền thờ, kinh lễ như hạng tư tế, bị Chúa phê: quân này mến Ta bằng môi miệng và lòng nó xa Ta.
Thánh thiện ở giữ trọn lề luật như chàng thanh niên giàu có, nhưng anh thiếu một điều là: hãy về bán những gì anh có mà cho người nghèo, người nghèo là kẻ thù của người giàu.
Thánh thiện ở yêu kẻ thù, yêu kẻ thù mới thực là tình yêu chí thiện, chí thánh phản ánh rõ nét tình yêu Thiên Chúa đã thí mạng sống Con Một cho kẻ thù: kẻ thù của Thiên Chúa là kẻ tội lỗi.
Lạy Chúa, xin thánh hóa tình yêu con, cho con biết yêu mến mọi người, nhất là những người thù ghét, oán hận con. Amen.
“Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng….còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”
Tiếp nối bài giảng trên núi, chúng ta đang ở phần đề thứ năm và thứ sáu trong luật mới. Đức: TN 7-A14
Tiếp nối bài giảng trên núi, chúng ta đang ở phần đề thứ năm và thứ sáu trong luật mới. Đức Giêsu đã chống lại những gì đã được nói trước kia hay đúng hơn người kiện toàn chúng. Nhưng cách nói này có một uy quyền chưa từng thấy, nhất là khi người ta biết công thức ở thể thụ động (“luật dạy người xưa” = luật được dạy cho…) là một ngữ điêu trong ngôn ngữ Do thái, được dùng vô vị, để tránh việc sử dụng danh của Thiên Chúa mà người ta không bao giờ nói ra vì lòng tôn kính Người. Nói rõ ra công thức này có nghĩa; “Thiên Chúa đã nói..còn Thầy, Thầy cho anh em biết…”. Cũng thế, công thức “anh em đã được nghe, được dạy…” gợi lại việc đọc trang trọng luật trong phụng vụ ở Hội Đường. Đó là luật thánh, bất khả xâm phạm toả ánh vinh quang của núi Xi-nai. Vậy, Đức Giêsu đã dám chống lại lời của Thiên Chúa, sách kinh Tô-ra bằng những khẳng định riêng Người. Không bao giờ có một ngôn sứ nào đã nói như thế. Vai trò của họ chỉ là truyền đạt lại hay chú giải sứ điệp của Thiên Chúa: "Đức Chúa nói như thế..." Để nói như Đức Giêsu, phải là người điên hoặc là Thiên Chúa.
“Thiên Chúa đã dạy anh em... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em..." Người ta biết rằng Người đã bị buộc tội phạm thánh.
Nhưng phần tiếp theo sẽ chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng đó là một sứ điệp thật sự siêu phàm, một sứ điệp của Thiên Chúa!
Anh em đã nghe Luật dạy rằng: "Mắt đền mắt, răng đền răng". Còn Thầy, Thầy bảo anh em đừng chống cự người ác..."
Tầm thước thời đại của chúng ta... khó mà hiểu được "luật phạt ngang bằng" (loi du talion). Làm thế nào mà Luật của Môsê (Luật của Thiên Chúa) đã có thể phát biểu một luật như thế. Vả lại, luật này đã là một tiến bộ to lớn đối với bản năng: trả thù rất tự nhiên nơi con người. Bởi luật phạt ngang bằng ấy, những luật theo tập quán của Phương Đông Cổ đại (ví dụ: bộ luật Ham mourabi) cố gắng giới hạn những sự trả thù thái quá. Hành động tự nhiên của người bị tấn công là "trả đũa nhiều hơn". Như một bài ca man rợ mà La-méc đã hát: "Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mười bảy..." (St 4,24). Vì thế luật ấy đã cố gắng giới hạn bạo lực và khuyến cáo chỉ nên bắt kẻ tấn công chịu sự đối xử giống như người này bắt nạn nhân của hắn phải chịu (Xh 21, 24; Lv 24,20; Đnl 19,21). Hình như chúng ta đã hoàn toàn vượt qua luật này của Kinh Thánh vì nó được viết ra cho một thời- đại khác với thời đại của chúng ta. Than ôi! Nếu như người ta cứ sống mãi theo luật hình phạt ngang bằng! Biết bao thành phố bị ném bom bởi sự “trả thù” thật biết bao cuộc đấu tranh chủng tộc, quốc gia, xã hội trong đó người ta áp dụng điều ngược lại với "luật hình phạt ngang bằng, nghĩa là sự leo thang của bạo lực". Nó áp dụng cho người nào sẽ là người mạnh nhất cho người nào sẽ trả đũa lại những cú đòn đã nhận được! người ta nói một cách ngây thơ về ‘những tương quan lực lượng’ nhưng đó luôn luôn là một bản năng man rợ lâu đời.
Đức Giêsu đã táo bạo mời gọi con người đi đến hoàn thiện của tình yêu Người bảo chúng ta rằng không nên trả thù về mọi việc... không nên đánh trả kẻ hung ác! và vốn là một nhà thuyết giảng cụ thể, đại chúng, Người sẽ cho chúng ta bốn ví dụ:
“Nếu ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa...
Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài...
Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dăm...
Ai xin thì anh hãy cho; ai muốn vay mượn thì anh đừng ngoảnh mặt đi..”
Ở đây cũng thế, Tin Mừng không bao giờ cho chúng ta những công thức đạo đức hoàn toàn có sẵn. Điều quan trọng là một "tinh thần" chứ không phải là một "quy tắc". Chính Đức Giêsu, khi đã nhận cái vả của người đầy tớ Thượng Tế, đã không giơ má kia ra! Người đã đáp lại dũng cảm và xứng đáng: "Sao anh lại đánh tôi" (Ga 18,23).
Vả lại người ta không có quyền dựa trên những lời đó của Đức Giêsu để bảo lãnh cho sự bất công, ở đây, chúng ta không có những quy tắc luật pháp có thể áp dụng nguyên xi cho xã hội dân sự: điều này sẽ khuyến khích tình trạng ăn xin, khích lệ bạo lực và tội ác, không bảo đảm sự trừng phạt những kẻ bất lương. Chắc chắn, Đức Giêsu đã không muốn công nhận một tình trạng áp bức bất bình thường khi đòi hỏi những kẻ yếu phải cam chịu. Cũng có những trường hợp mà một môn đệ chân chính của Đức Giêsu phải chiến đấu: cam chịu sự bất công, nhất là sự bất công mà những người khác là nạn nhân, hoàn toàn trái ngược với tinh thần của Đức Giêsu. Sau khi đã nêu ra những khía cạnh đó, hãy để Đức Giêsu tra hỏi chúng ta. Phải, tất cả chúng ta đều phải chiến thắng bản năng trả thù tròng con người của mình. Điều ác sẽ không bị vượt qua khi chúng ta đáp lại nó bằng một sự tàn nhẫn tương đương. Khi người ta trả đũa điều ác bằng điều ác, người ta trở về với vòng tròn hỏa ngục. Thật vậy, điều ác mà chúng ta chịu đựng thật ra vẫn còn ở bên ngoài chúng ta. Nhưng khi người ta đáp trả lại điều ác, điều ác ấy sẽ có thêm một chiến thắng phụ nữa, bởi vì nó đã đi vào lòng chúng ta. Đức Giêsu muốn mở ra một con đường khác cho nhân loại: chiến thắng điều ác bằng điều thiện, dùng tình yêu để đáp lại hận thù.
"Anh em đã nghe Luật dạy rằng: "hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù".
Trong Kinh Thánh, người ta có tìm kiếm một quy tắc như nhưng thế cũng vô ích. Thật vậy, Đức Giêsu muốn ám chỉ thái độ thông thường của toàn thể nhân loại; được diễn tả rất mạnh trong nhiều bài Thánh vịnh về “sự trừng phạt của Chúa”, trong đó lòng thù ghét tội lỗi đi đến chỗ biện minh cho sự thánh chiến: "Lạy Chúa, ước chi Ngài tiêu diệt kẻ gian tà… Lạy Chúa, kẻ ghét Ngài, làm sao con không ghét? Con ghét chúng, ghét cay, ghét đắng, chúng trở thành thù địch của chính con" (Tv 139,19-22). Những thủ bản kinh Thánh ở Qumram có lệnh truyền này: "Ngươi sẽ ghét những đứa con của bóng tối". Vả lại, phải hiểu ở đây trước hết không phải là những kẻ thù của mình mà là những “kẻ thù của Thiên Chúa" tức là những kẻ thù của của nhóm giáo sĩ gồm “con cái của ánh sáng. Vậy sự thù ghét trước hết có ý nghĩa là từ chối ý thức hệ của họ.
"Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính".
Đây là điều mới mẻ cao cả nhất của Tin Mừng. Cho đến bây giờ người ta đã cầu nguyện "chống lại" các kẻ thù của mình (Thánh vịnh 17,13; 28,4; 69,23-29; v.v…) Giờ đây phải cầu nguyện cho họ, nghĩa là để cho họ được hoán cải. Nhưng hãy coi chừng, người ta không thể sống Tin Mừng, bằng cách chỉ ở lại trên bình diện con người. Làm điều mà. Thiên Chúa vừa đòi hỏi chúng ta là đã vượt quá những khả năng của con người. Nếu Đức Giêsu bảo chúng ta yêu mến kẻ thù, chúng ta bởi vì Thiên Chúa là người đầu tiên yêu chúng ta như thế Phải đọc lại đoạn văn nổi tiếng của thánh Phaolô gởi tín hữu Rôm (5,7.8): "Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi”. Khi chúng ta đứng trước một tình yêu thương mà về mặt con người, chúng ta khó sống hoặc không thể sống nổi thì chúng ta không còn ở lại trên bình diện tâm lý, đạo đức và xã hội… mà phải đặt mình trước măt ảnh chuộc tội: Lạy Chúa Giêsu con của Chúa Cha, Chúa đã muốn điều tốt lành cho những người muốn Chúa chịu điều ác... Chúa đã đau khổ và đã chết… Tình yêu chúng kẻ thù chỉ có thể đến từ Thiên Chúa không ngừng thực hiện, ‘Người cho mặt trời của Người mọc lên trên cánh đồng của người vô thần bách hại đạo, cũng như trên khu vườn của các nữ tu Cát Minh’. Bạn có tự hỏi mình phải làm gì để yêu thương người không yêu thương bạn không?
Thiên Chúa đã yêu bạn như thế nào? Bằng cách không ngừng tha thứ cho bạn. Đức Giêsu chỉ dám yêu cầu chúng ta sống tình yêu thương xem ra không thể có đối với kẻ thù bởi vì Người đã sống nó trước tiên: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
“Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?
Người đã nói: chúng ta hãy trở thành muối và ánh của thế gian. Vì thế Người mời gọi chúng ta chấp nhận một cung cách hoàn toàn mới về mặt nhân loại là không thể có cắt đứt với mọi cung cách của những người khác. Để bắt chước Thiên Chúa; noi gương Người, chúng ta phải đi đến tận cùng tình yêu ấy vốn không đơn giản là một tình yêu có qua có lại: Tôi yêu thương bạn bởi vì bạn yêu thương tôi, tôi chào bạn bởi vì bạn chào tôi... Đức Giêsu nói, người ngoại cũng chẳng làm như thế. Phần Thiên Chúa; trước sự khước từ tuyệt đối không đáp lại tình yêu, Người vẫn duy trì quyết định tuyệt đối là yêu thương. Theo Đức Giêsu yêu không thể chỉ được giản lược vào bình diện tình cảm, sự lôi cuốn, cảm tính, quyến luyến. Đức Giêsu không chê trách tình yêu đó, mà chúng ta rất cần. Ai có thể sống mà không có sự dịu dàng âu yếm đó? Có điều, Đức Giêsu bảo chúng ta rằng không nên ở lại mãi trong tình yêu đó.
Phải Đức Giêsu bảo chúng ta phải yêu thương kẻ thù của mình. Và chúng ta có sẵn nghệ thuật xoa dịu yêu sách của Tin Mừng, chúng ta nói: ‘Tôi không có kẻ thù...’ Lúc đó, chúng ta phải chấp nhận ánh sáng sống sượng và mạnh mẽ mà Đức Giêsu soi chiếu trên cuộc đời con người đã mang dấu ấn của những xung đột không thể tránh khỏi: Thật ra mọi người không giống tôi đều xúc phạm và làm tôi tổn thương. "Cái làm cho người khác khác tôi", cáo giác tôi và nhắm đến việc loại bỏ tôi... ‘Tính tình ấy rất khác tính tình của tôi’ làm tôi bực dọc giết chết tôi. ‘Cái cách nói năng đó... cái cách cư xử đó...’ làm tôi phát cáu. Bạn đừng chờ đến ngày mai. Ngay trong giây phút này bạn. hãy ngừng ngay suy nghĩ của bạn.... và hãy làm điều Đức Giêsu bảo bạn: Hãy cầu nguyện, dù chỉ trên danh nghĩa cho những người làm bạn bực bội, những người làm bạn đau khổ, những người mà bạn không yêu hoặc những người không yêu bạn.
“Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.
Yêu thương những người không yêu chúng ta... đó là noi gương Thiên Chúa. Hãy làm điều thiện hảo cho những ai làm hại chúng ta, đó là điều linh thánh. "Kitô hữu là gì? Đó không phải là đã đạt đến mục đích cao cả nhất tức tình yêu phổ quát, mà là cố gắng vươn lên tình yêu ấy. Đây không phải là một thứ đạo đức hiền từ nhu nhược dành cho những người có tình cảm bất lực. Chúng ta là những con cái của một Chúa Cha được "ôm ấp tròng lòng của Người" dù là kẻ xấu cũng như người tốt. Trên thập giá Đức Giêsu có quyền nói với chúng ta những yêu sách ấy. Người là Đấng bị người ta vả vào má... bị người ta lột áo trong, áo ngoài... bị người ta đem ra xét xử trong một vụ kiện bất công... bị người ta đem ra xét xử trong một vụ kiện bất công... bị người ta lôi đi hai dặm trên con đường lên núi Can-va-ri-ô. Người là "Đấng bị đóng đinh mà không có lòng thù hận".
“ANH EM HÃY NÊN HOÀN THIỆN NHƯ CHA ANH EM TRÊN TRỜI LÀ ĐẤNG HOÀN THIỆN”
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Những áp dụng cụ thể của luật mới…
Khi tuyên bố rằng Ngài "đến không phải để hủy bỏ Lề luật và các Tiên Tri, nhưng là để kiện: TN 7-A15
Khi tuyên bố rằng Ngài "đến không phải để hủy bỏ Lề luật và các Tiên Tri, nhưng là để kiện toàn”. Trong Bài giảng trên núi, Đức Giêsu mạc khải "sự công chính" mới của Nước Trời hệ tại điều gì: đó không phải là giữ Luật cách hình thức, nhưng là "tự điều chỉnh" theo ý Chúa Cha như Ngài, là sống thông hiệp trong tình yêu và tự do của Người Con như Ngài. Rồi nhờ vào 5 minh họa, Ngài cụ thể hóa "sự công chính” mới này, và cho biết rằng để thực hiện toàn bộ Lề luật người tín hữu phải đầu tư toàn bộ cuộc sống của mình. Cả năm minh họa đều bắt đầu bằng một dạng thức duy nhắt biểu lộ một quyền lực phi thường: ‘Anh em đã nghe người xưa được dạy rằng... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết’. Ba minh họa đầu tiên trong Phúc âm chúa nhật vừa qua, hai minh họa cuối cùng trong Phúc âm hôm nay.
Minh họa thứ tư nhân nhượng mối tương quan và Để tránh những sự trá thù thái quá ngoài tầm kiểm soát luật báo thù (loi du talion) dự kiến kẻ gây hấn sẽ bị đối xử tương xứng với điều thiệt hại đã gây ra cho nạn nhân "Mắt đền mắt" - nhưng không phải là đền hai mắt, "răng đền răng" nhưng không phải là cả hàm (xem Lêvi) Luật này đã là một tiến bộ thực sự trong việc trấn áp tội phạm.
Phần Đức Giêsu, ngài chủ trương một thái độ rất cá biệt, tương phản hoàn toàn với thái độ bình thường: “Đừng chống cự với người ác". Ngài đòi hỏi các môn đệ phải bẽ gãy vòng xích bạo lực, dù hợp pháp, và được báo thù.
Ba ví dụ sau đều ở ngôi hai số ít:
+ Ví dụ thứ nhắt về "cái tát": "Nếu ai vả má bên phải con, hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” Dĩ nhiên không thể hiểu lệnh mâu thuẫn này theo nghĩa đen. Chính Đức Giêsu cũng đã không giơ má khác cho tên đầy tớ tát tai. Ngài hỏi hắn: "Nếu tôi nói sai, hãy cho thấy sai ở chỗ nào. Còn nếu tôi nói đúng, sao anh lại tát tôi?" (Gioan 18,23). Như vậy, đứng trước kẻ gây hấn, người theo Chúa để có một hành vi vừa thách thức vừa làm cho kẻ địch hết chống trả.
+ ví dụ thứ hai về người môn đệ bị người khác có ý định đưa ra tòa và người đó muốn lấy áo trong (tưnique) người môn đệ làm vật thế chấp, nghĩa là áo lót. Đức Giêsu chủ trương: "Hãy để cho nó lấy cả áo ngoài nữa". Trong khi đó, theo Luật, áo ngoài và áo trong là của không thể sang nhượng được của người nghèo; chiếm hữu chúng là xâm phạm đến chính Thiên Chúa (coi Xh 22, 25-26). Khi để bị trần trụi đến cho đi cả áo theo gương Thầy mình, các Kitô hữu biết rằng sự khó nghèo như vậy, họ là những kẻ chiến thắng, bởi vì họ sẽ được lòng thương xót của Thiên Chúa bao bọc.
+ Ví dụ sau cùng là ví dụ về sự "trưng tập", thường được quân đội và các viên chức chánh quyền Rôma dùng để làm việc công ích (một hình thức lao dịch thời đó). Đức Giêsu còn nói thêm. "nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm". Ngoài bài giảng trên núi, thánh sử Mátthêu chỉ dùng động từ "trưng tập" một lần khác khi quân lính trưng tập Sinon thành Xyrênê, một dân ngoại, lúc đó tượng trưng cho tất cả các thế hệ môn đệ chấp nhận thập giá Đức Kitô.
+ Minh họa thứ năm và cuối cùng nói đến yêu thương kẻ thù. Sách Lêvi viết: "Ngươi sẽ yêu tha nhân như chính mình" (19,18). Như vậy điều này mời gọi con cái Israel sống với nhau bằng tình yêu huynh đệ loại bỏ mọi hận thù oán ghét. Nhưng các Thầy rabbi thuộc những nhóm khác nhau tranh luận mãi về quan niệm tha nhân và nhiều người đã cho nó một nghĩa hạn hẹp: tha nhân là người mà ta có quan hệ tốt đẹp; phân biệt với kẻ thù. Từ đó mà có câu Phúc âm: ‘Anh sẽ ghét kẻ thù’ tuy câu này không có trong Luật, nhưng biểu lộ khá đúng ý nghĩ của rất nhiều người. Ngược lại với tình yêu có tính cách chọn lựa đối tượng này, Đức Giêsu nói đến một tình yêu phổ quát vượt mọi biên giới, đến cả kẻ thù và người bách hại, theo Ngài, đòi hỏi này đặt nền tảng trên cách đối xử của chính Thiên Chúa với mọi người, "Kẻ xấu cũng như kẻ tốt", người công chính cũng như kẻ bất chính".
2. Hệ tại theo gương Chúa Cha:
Câu 48 kết luận toàn thể phần này: “Vậy anh em hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng thiện”.
Như vậy, theo gương Cha và Con của ngài Đức Giêsu, đó là nền tảng và mục đích của Luật mới này. Là người môn đệ của Đức Giêsu, đến lượt chúng ta được mời gọi sống như Con, với Ngài và trong Ngài. Cái mới triệt để của Bài giảng trên núi chính là vậy, chứ không phải trong một giới răn đặc biệt nào.
Cl. Tassin chú giải: "Tính từ “hoàn thiện” tóm tắt ý tưởng về sự công chính hơn (các ký lục và biệt phái) ở câu 20, và sự hoàn thiện này chính là noi theo hành động của Thiên Chúa. Đạo Do Thái đã hiểu "những công việc bác ái xót thương" như những hành vi mà chính Thiên Chúa đã làm gương. Và Hội đường đã chú giải sách Lêvi 22, 28 bằng ngạn ngữ sau: “Như Ta thương xót trên trời thế nào, dưới đất các con cũng hãy thương xót như vậy" Điều này được Luca trình bày bằng những từ như sau: "Hãy xót thương như Cha các con là Đấng xót thương" (6,36). nếu Mátthêu thích tĩnh từ "hoàn thiện" hơn, là vì theo Ngài, lòng thương xót đạt tới mức yêu thương kẻ thù chính là hoàn thiện được Thiên Chúa trông đợi nơi những người của Ngài. Những ai muốn rập theo khuôn mẫu Chúa thì cậy vào Đức Giêsu. Con chí thiết của Thiên Chúa, ngài trao cho các chìa khóa bí mật này". ("Phúc âm Matthêu”, Centurion, 1991, tr. 69-70).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. “Bẻ gãy vòng vây bạo lực”: (Đức cha L. Daloz, trong "Nước Trời đến gần", Desche de Brouwer, tr. 58-60).
Đức Giêsu lấy lại qui định của Luật: anh em đã nghe dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng... đối với chúng ta điều đó dường như biểu lộ một sự trả thù nghiệt ngã, nhưng trong thực tế, nó lại điều hòa bạo lực và giới hạn ham muốn. Trong một xã hội mà mỗi người thường là quan tòa cho chính mình, đó là một loại luật "tương xứng" trong sự đền trả lại sự xúc phạm, người ta có thể trả thù tới mức độ, không được vượt quá. Trong các quốc gia của chúng ta ngày nay, mỗi người không thể làm quan toà cho chính mình. Chúng ta đã có nhũng cơ quan cảnh sát và tư pháp là những cơ quan duy nhất có quyền bất và trừng phạt những kẻ phạm tội ác. Các hình phạt được xác định rõ bởi một bộ luật. Trong bộ luật này, người ta tìm thấy lại nguyên tắc tương xứng. Như vậy phạm nhân thoát khỏi ham muốn trả thù cá nhâ, người ta lưu ý đến hoàn cảnh, không chỉ tìm cách trấn áp và trừng phạt, mà còn nhằm tìm cách chữa trị và nâng đỡ. Dĩ nhiên, chúng ta ai cũng biết rằng hệ thống tư pháp có những điểm yếu, những trì tre, những sai lầm hay những "vết chàm".
Nhưng dẫu sao nó vẫn là một đảm bảo về sự tiến bộ của nhân loại, chứ trong khung cảnh xã hội và pháp lý này mà hôm nay chúng ta đón nhận Lời Đức Giêsu. Và ngay cả ở trong khung cảnh này, Ngài vẫn kiện toàn Luật bằng cách làm cho nó đi sâu vào tâm hồn con người. Có khi ý muốn trả thù không còn biểu lộ qua hành động nữa nhưng vẫn còn bị khích động và khơi gợi lên trong công luận qua các hành vi bạo lực và các vụ kiện. Không dễ gì chống lại được tình cảm tập thể, nhất là khi nó được chia sẻ bởi một đám đông những khán giả trong một thế giới mà tất cả mọi sự đều bị các phương tiện thông tin đại chúng truyền đi. Đàng khác chúng ta dễ ham muốn kêu gọi trả thù và trừng phạt khi chính chúng ta không phải chịu trách nhiệm. Trong xứ sở chúng ta, ngành tư pháp có sứ mạng xã hội vừa bảo vệ, giáo dục vừa làm gương; nhưng cũng vừa sửa đổi, chữa trị vừa giúp tái hội nhập. Lời Đức Giêsu dạy đừng chống cự người ác không cản trở cũng không gò bó sứ mạng này Nhưng còn có một cái gì khác hơn là những biện pháp cần thiết để bảo đảm an an ninh xã hội, một cái gì khác hơn là sự hận thù, ghen ghét, báo án. Đức Giêsu kêu gọi đến cái tốt nhất nơi con người, đôi khi đến cả sự anh dũng để có được một con út thứ tha; chúng tôi có thể làm chứng các Kitô hữu sự tha thứ này cách công khai!
Đức Giêsu không cấm chúng ta đòi hỏi những quyền lợi chính đáng. Khi bị viên vệ binh tát tai, chính Ngài đã đòi anh ta giải thích lý do tại sao anh ta hành động như vậy: nếu tôi nói sai, hãy cho thấy sai ở chỗ nào; nếu tôi nói đúng, thì sao lại tát tôi”. (Ga 18, 23). Nhưng nơi vườn Cây dầu Ngài cho phép Phêrô rút kiếm bảo vệ mình và cũng vì Chúa Cha sai các đạo binh thiên thần đến che chở Ngài để mình bị trấn lột, tát tai, đánh đập và đội triều thiên bằng mũ gai. Ngài không hài lòng với lời kêu gọi đừng lấy oán báo oán, lấy lành thắng dữ, lấy tình yêu thắng hận thù. Ngài còn tỏ ra chính mình là con đường thực hiện lời tiên tri về người đầy tớ đau khổ đã không quay lưng, quay mặt tránh những kẻ ra sức làm khổ mình. Ở bất cứ nơi đâu chúng ta sinh sống và theo cách thế của mình, Ngài kêu mời chúng ta đừng đi vào chu kỳ bạo lực, nhưng hãy có đủ sức mạnh tinh thần để đặt một Lôgíc mới trong mối tương quan giữa con người với nhau.
2. “Thứ tha như Thiên Chúa tha thứ cho ta”
“Nếu thực sự thứ tha của Thiên Chúa làm tôi hiện hữu, nếu Ngài ban cho tôi tình yêu Thiên Chúa và khả năng yêu mến, làm sao tôi lại không thể hoán chuyển tình yêu thành thứ tha theo chừng mực, mà tôi có thể làm được đối với những ai đã phản bội, chối bỏ và làm tổn thương tôi? Hoặc tôi không là Kitô hữu và rơi vào lối sống theo câu ngạn ngữ cổ: “mắt đền mắt, răng đền răng”, hoặc tôi muốn sống như là một Kitô hữu, thì lập tức tôi phải nhớ điều loan báo cốt yếu nhất của đức tin: tất cả anh em, đều là những tội nhân đã được thứ tha, tất cả anh em đều là nhũng đứa con của lòng thương xót. Nếu anh em muốn là những Kitô thực sự sống đạo, điều thực hiện đầu tiên, cơ bản nhất, chính là thực hành điều Thiên Chúa đã sống đối với anh em, điều mà Đúc Giêsu đã làm vào lúc Ngài sắp qua đời. Đó là thứ tha. Đó là cách thế duy nhất em làm chứng cho mọi người sự tha thứ ta đã lãnh nhận và nó được trao ban cho tất cả mọi người. Dĩ nhiên sự tha thứ như vậy không thể là sự quá ngây thơ, càng không thể là sự cổ võ cho sự dữ. Để thực sự là tha thứ, nó chỉ có thể phát xuất từ một lương tâm không có ảo tưởng nào về những ác tâm, ô nhục, tội ác của thế gian nào và của lịch sử con người. Tuy nhiên, vượt lên trên không bất hạnh mà người Kitô hữu dấn thân đấu tranh nhân danh công lý, họ còn làm chứng về niềm hy vọng Thiên Chúa đặt sẵn nơi mỗi người, dù là những kẻ phạm tội, nhơ nhớp nhất Như vậy, Thiên Chúa mong muốn tất cả hoán đổi ác tâm và hận thù thành tình yêu. Điều này thật đúng, vì chúng ta chỉ là Kitô hữu do niềm tin và hy vọng như vậy, và chúng ta đang cố gắng hết sức mình sống niềm tin là hy vọng đó nhờ ơn Chúa”
3. “Yêu thương mọi người vì Thiên Chúa yêu thương họ” (Martin-Luther King, trong “Chỉ có một cuộc cách mạng”. Casterman, 1968, tr. 108-109)
Trong Tân ước, chúng ta thấy từ Agapè được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu hơn Chúa được thực hiện nơi tâm hồn con người. Khi vươn đến một tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ, chính là ý nghĩa Lời Đức Giêsu Anh em hãy yêu thương kẻ thù. Phần tôi, tôi sung sướng vì Ngài đã không nói: “Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em” bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm nổi, thiện cảm là một xúc cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người ném bom vào gia đình tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người bóc lột tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người đè bẹp tôi dưới sự bất công. Không, không thể có thiện cảm nào đối với người đêm ngày đe dọa giết tôi. Nhưng Đúc Giêsu nhắc tôi rằng tình yêu còn lớn hơn thiện cảm, rằng tình yêu là thiện chí biết cảm thông, có sáng tạo, cứu độ đối với hết mọi người”.
1. Các yêu sách của Chúa Giê-su có thể thực hiện được không?
Chúng là những chỉ thị, chỉ dẫn hay điều luật? b. Chúa Giêsu ngỏ lời với ai? Với một nhóm: TN 7-A16
a. Chúng là những chỉ thị, chỉ dẫn hay điều luật?
b. Chúa Giêsu ngỏ lời với ai? Với một nhóm ưu tú? Với tất cả môn đồ? Thánh Bonaventura phân biệt hai hạng người: hạng của điều luật, hạng của lời khuyên, và cho rằng ở đây Chúa Giêsu nhắm đến hạng thứ hai. Phải nghĩ sao về ý kiến này? Các "lời khuyên" thuộc phần nào trong Tin Mừng?
c. Vài tác giả khác cho rằng nghiêm chỉnh mà nói thì các lời Chúa Giêsu không thể nào thực hiện được. Từ đó họ bảo có hai nền luân lý, một có tính cách hão huyền, do Chúa Giêsu tưởng tượng ra, nhằm thúc đẩy ta ăn năn hoán cải và nhận biết mình là tội nhận; một có tính cách thực tế, tầm thường, công dụng.
Hãy rút ra phần sự thật trong lối giải thích thứ nhất (cánh chung học): Các yêu sách của Chúa Kitô tự chúng có thể thực hiện được không? Ai làm cho chúng có thể thực hiện được? Nếu không thì Diễn từ chẳng trở nên một khảo luận luân lý sao?
2. Tầm mức và giới hạn của Diễn từ trên núi:
a. Phải chăng đó là một chương trình sống xã hội (Tolstoi)? Một chương trình đào tạo Kitô hữu?
b. Phải chăng đó là toàn bộ hiến chương Kitô giáo? Thiếu điều gì chủ yếu trong Diễn từ này không, hoặc trong các yêu sách, hoặc trong lời mặc khải mầu nhiệm Nước Trời?
c. Hãy tìm tương quan giữa luật Chúa Kitô với luật tự nhiên: mối tương quan giữa luật Môisen và luật Chúa Giêsu phải chăng không tương tự với tương quan bản tính-ân sủng và với tương quan thế trần Kitô giáo?
3. Tìm ý nghĩa của câu: "Hãy nên trọn lành như..." (5,48; x. Lv 19, 2; Lc 6, 36). Câu đó phải chăng không nói lên một mệnh lệnh bất khả thực hiện? Giữa sự "trọn lành" và "đức công chính dư dật" (5, 20) có tương quan gì?
***
1. Người ta đã dày công tìm hiểu giáo huấn luân lý Do thái để xem các lời khiển trách của Chúa Giêsu, ví dụ về luật báo thù, có đúng hay không, và để xem tính cách mới mẻ của các yêu sách "mới" của Người hệ tại ở chỗ nào. Kết quả của những cuộc nghiên cứu này không bất lợi mấy cho Do thái giáo. Đối chiếu với mọi giới luật luân lý được Chúa Giêsu phát biểu một cách như khiêu khích, ta có thể trích dẫn nhiều câu tuyên bố của các giáo sĩ cũng nói ít nhiều một chuyện như thế, cũng đạt tới một tầm mức luân lý cao như thế, trên một vài điểm hoặc ít ra cũng rất tương hợp trên nhiều điểm khác. Phải thành thật mà công nhận điều đó. Tuy nhiên việc so sánh ấy làm lệch lạc quan điểm. Vì một trong những đặc điểm của truyền thống trường phái Do thái là thu gộp lại các câu nói khác nhau của các giáo sĩ, đến nỗi có nhiều ý kiến có giá trị luân lý cao đã được đặt bên cạnh các ý kiến khác từng bị Chúa Giêsu tấn công. Thành thử ta phải công nhận Tân ước như là nguồn mạch của mọi quan niệm thông thường ảnh hưởng trên tâm thức nhân gian thời bấy giờ. Sau cùng và đặc biệt, điều quan trọng đối với Chúa Giêsu, đó là một sứ điệp tôn giáo và luân lý tổng hợp, mà tìm cách mới mẻ đã được tỏ bày cùng với giờ của lịch sử cứu rỗi.
2. Trong tất cả các phản đề Chúa Giêsu nêu lên, hiện ra một yêu sách duy nhất, dứt khoát. Điều thiện cần làtn thì phải làm cho trọn vẹn. Ai chỉ làm một phần, với sự hạn chế, cốt cho xong mệnh lệnh bên ngoài, là không làm gì cả. Và để người ta hoàn toàn chú ý tới yêu sách đó, cái yêu sách ăn sâu đến tận tâm hồn, Chúa Giêsu dùng một thể văn đặc biệt: thể văn phóng đại. Câu tuyên bố về việc làm gương xấu và về yêu sách chặt bớt các phần thân thể là một trường hợp rõ ràng. Và ta cũng phải hiểu theo một nghĩa tương tự phán quyết của Chúa Giêsu về sự giận hờn và nhục mạ. Tuy nhiên, đừng lạm dụng hình thức giảng dạy bình dân thông dụng ở phương Đông này, để làm yếu đi các đòi hỏi khách quan mà nó chứa đựng. Vì quả thực Chúa Giêsu buộc phải triệt để xa lánh ngay cả dịp tội, chấp hành tốt tình huynh đệ không chỉ bên ngoài mà còn từ ý tưởng con tim, và từ chối mọi quyền trả thù chính đáng (5, 38- 42).
3. Nố sau cùng này đặc biệt gây ra nhiều vấn đề khó giải quyết. Phải chăng như thế là Chúa Giêsu đã không phá bỏ trật tự pháp lý bên ngoài cần thiết cho đời sống xã hội? Trật tự đó há chẳng bắt nguồn từ Thiên Chúa sao? Và đặc biệt riêng về đoạn văn này, phải chăng nó không tạo nén một nền tảng Kinh Thánh vững chắc cho các luồng tư tưởng chủ hòa hiện thời, những luồng tư tưởng nghiêm cấm mọi hình thức tham chiến. Rồi người bị thiệt thòi cách bất công có thể nại đến toà án không.. Đó là những câu hỏi hóc búa khó trả lời trong vài dòng chữ. Chúng ta hãy tạm đưa ra một vài nhận xét tổng quát ít nhất như những cái mốc đầu tiên của một câu trả lời.
Tất cả các quy định của luật Cựu ước mà Chúa Giêsu trích dẫn, dù chưa thực sự hoàn hảo, cũng đã nói lên một tiến bộ luân lý không thể chối cãi so với luật rừng hay tình trạng man rợ vẫn có khuynh hướng ưu thắng trong đời sống xã hội thời bấy giờ. Tất cả các quy định đó đều nhằm mục đích làm cho đời sống xã hội trở nên công bình và huynh đệ hơn. Thế mà, sở dĩ Chúa Giêsu đến kiện toàn Lề luật Môisen, chính là để kiến lập thêm công bình và huynh đệ giữa con người. Dĩ nhiên, việc kiện toàn luật Môisen chỉ có thể được thực hiện trong chiều hướng triệt để hóa các yêu sách tuyệt hảo nhất của nó. Thành ra mọi lời giải thích học thuyết luân lý của Chúa Giêsu trong Diễn từ trên núi đều phải lưu ý đến bối cảnh tổng quát đó: lối giải thích nào khuyến khích các lạm dụng và có khuynh hướng biến xã hội thành một đàn cừu phó mặc cho lũ sói cắn xé, thì không phù hợp với bồi cảnh này. Vì thế, thái độ bất kháng cự tuyệt đối trước mọi hình thức bạo lực đang hoành hành trong thế giới ngày nay, chỉ tổ khuyến khích việc bóc lột kẻ cô thân yếu đuối, tước đoạt các nhân quyền và làm phương hại phẩm giá con người cách trầm trọng.
Thứ đến, có thể tự hỏi phải chăng Chúa Giêsu chỉ muốn đứng trên bình diện pháp định hoàn toàn. Có nhiều bằng chứng cho thấy phải hiểu ngược lại. Thực vậy, các bản văn pháp luật thường mang tính cách điều độ, dùng từ ngữ chính xác, không có những hình ảnh thái quá hay kiểu nói khoa trương, đầy dấy nhiều điều khoản tiên liệu các luật trừ v.v... Thế mà văn thể Chúa Giêsu dùng trong Diễn từ lại hoàn toàn khác biệt. Người ưa sử dụng kiểu nói đại ngôn. Hãy lấy một trường hợp điển hình: lời khuyên bảo chìa cả hai má cho kẻ vả mặt (5, 39). Hiển nhiên đây không phải là một nguyên tắc về phản lệ chính thức, song chỉ là một ví dụ cố ý phóng đại ra; cũng vậy khi nói phải móc mắt hay chặt bàn tay. Vì trong thực tế, hành động như thế chẳng có hiệu quả gì. Cũng như con mắt bị móc hay bàn tay chặt lìa không thể bảo vệ người tín hữu khỏi bị một gương xấu khác, thì cũng vậy, cái vả má thứ hai chẳng cản ngăn được cái tát thứ ba, hay làm cho người hung ác trở nên thiện cảm. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu sẽ đưa ra một lối giải thích hay nhất về câu nói của Người: đó là khi bị tên đầy tớ vả mặt, Người đã chẳng đưa má kia, song nghiêm nghị hỏi nó: "Nếu Ta đã nói không phải, thì hãy làm chứng không phải chỗ nào: còn nếu là phải, sao lại đánh Ta?" (Ga 18, 23). Hãy phân biệt rõ: một đàng là mệnh lệnh, có giá trị đối với mọi người và cho mọi hoàn cảnh, đàng kia là một ví dụ cố ý phóng đại mà chẳng xét đến các điều kiện cụ thể hằng biến đổi luôn. Chúa Giêsu công bố một lý tưởng, chứ không ban hành một đạo luật.
Lại nữa, giả thiết rằng Giáo Hội và xã hội phải tuân theo một quá trình tiến hóa có tính cách năng động, và quá trình này, ít ra trong các nguyên tắc, nhằm tinh luyện ý thức luân lý dưới tác động của Chúa Thánh Thần (như đã xảy ra trong suốt lịch sử Israel), thì có thể Chúa Giêsu đã biết đến một quá trình như vậy và muốn trình bày, trong Diễn từ trên núi, các nguyên tắc năng động sẽ hướng quá trình đó tiến về việc thực hiện ngày càng hoàn hảo một xã hội công bằng và huynh đệ. Trong viễn ảnh ấy, các lời khuyên bảo có tính cách tuyệt đối của Người có lẽ không nhằm đưa ra các mệnh lệnh cụ thể phải thực hiện tức khắc, nhưng đưa ra một đường hướng phải theo để dần dà, với thời gian, sự thiện lướt thắng sự ác.
Hiển nhiên, mọi suy luận trên đây chẳng làm mất đi tính cách khẩn trương của một nỗ lực vô điều kiện nhằm thực hiện các yêu sách luân lý của Chúa Giêsu. Vì Người cũng muốn đưa ra, không phải một bộ luật mới, song là những đường hướng mới và đòi buộc một thái độ cụ thể. Điều đó hiện ra rõ ràng qua cung giọng sai khiến của các phản đề, và được xác định bởi dụ ngôn cuối cùng về việc xây nhà, trong ấy Chúa Giêsu đối chiếu người khôn biết nghe lời Người và đem ra thực hành, với kẻ dại chỉ nghe qua mà thôi. Tuy nhiên, trong cụ thể, việc đem ra thực hành đó cũng bị chi phối bởi nhiều hoàn cảnh. Điều cốt yếu là biết cảm hứng theo lý tường mình nhận ra trong Diễn từ này và chân thành phấn đấu đưa lý tưởng đó vào trong một thế giới mà, mặc dầu bị nhiều thất bại thê thảm, cũng biết cách mù mờ rằng nó phải chọn hoặc luân lý Tin Mừng, hoặc là bị hủy diệt tiêu tan.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Mắt thế mắt, răng đền răng": Nguyên tắc báo thù theo đó phạm nhân phải bị bồi thường tương xứng với thiệt hại đã gây nên, vẫn được áp dụng chung chung và từ lâu, trong thế giới văn minh. Nguyên tắc đã xuất hiện trong bộ luật Hammourai 2000 năm trước Chúa Giêsu. Ở đây nó quy chiếu về Xh 21, 24 (x. Đnl 19, 21; Lv 24, 20). Trong bối cảnh Cựu ước, nó nhấn mạnh đến tính cách nghiêm khắc cần thiết của hình phạt, song cũng đánh dấu một bước tiến quan trọng so với chế độ báo thù cá nhân hỗn loạn (xem bài ca man rợ của Lamek trong St 4, 24 chẳng hạn).
"Đừng cự lại người ác": Huấn thị này không nói với các quan tòa là những kẻ phải tìm cho ra phương cách mới để áp dụng luật lệ trường hợp các truyền thống giáo sĩ Do thái), nhưng trái lại ngỏ lời với người bị tổn thương để bảo họ biết phải xử trí ra sao cho hợp với tư cách môn đồ Chúa Kitô. Chúa Giêsu và các Kitô hữu đầu tiên không muốn hủy bỏ pháp chế hiện hành thời đó (như thánh Phaolô, với tư cách công dân Rôma, đã kháng cáo lên Hoàng đế để xin minh oan: Cv 25,11); song các ngài đã đưa vào xã hội một thái độ nhân bản mới làm phát hiện tính cách sơ thiển, hạn chế trong thời gian của các bộ hình luật chính thức hiện hành; các bộ luật này không bị hủy bỏ nhưng đã trở nên lỗi thời vì thái độ cụ thể của các Kitô hữu, là thái độ dù cảm hứng theo một lý tưởng, vẫn để ý tới các hoàn cảnh con người, không gian và thời gian.
“Đi một dặm": Chắc hẳn ví dụ này ám chỉ đến một khổ dịch; binh sĩ và viên chức này xưa có thể buộc một bộ hành nào đó vác một gánh nặng (x. trường hợp ông Simon thành Xyrênê vác thập giá) hoặc đi theo họ để làm con tin hay người dẫn đường.
"Ai xin... ai muốn vay": Lời khuyên gồm hai xác ngôn song song- hầu như đồng nghĩa: việc cho vay mượn thường tương đương với việc bố thí. "Cho đồng loại vay là làm việc từ thiện", Hc 29, 1 khẳng định thế. Giữa người Do thái với nhau, cho vay không được ăn lời (Xh 22, 24; Lv 25, 35- 37; Đnl 15, 7- 11; 23, 20-21 tất cả các bản văn này đều quy chiếu về các "anh em” Do thái) và đến hưu niên (année sabbatique) thì mọi nợ nần và vay mượn đều được tha ít nhất trên lý thuyết (Đnl 15). Làm thế là vì Israel muốn mãi mãi là một dân tộc sống tình anh em. Ở đây hình như Chúa Giêsu muốn nới rộng luật ấy theo nghĩa là người yêu cầu hãy cho vay bất cứ ai xin vay, mà đừng để ý đến chủng tộc hay tôn giáo của họ. Gia đình Israel phải mở rộng cửa nhà mình cho tất cả mọi người.
“Hãy ghét địch thù": Trong lúc mấy phản đề trên kia quy chiếu về các khoản luật đích xác của Cựu ước thì ớ đây lại khác hẳn. Quả vậy, ta chẳng tìm đâu ra trong Cựu ước mệnh lệnh minh nhiên phải ghét địch thù. Có lẽ lời huấn thị chỉ muốn chống lại tư tưởng khá phổ biến trong Do thái giáo suy đồi là: tất cả những ai không thuộc thành phần cộng đoàn quốc gia và tôn giáo đều là thù địch. Đặc biệt trong các bản văn Qumrân, ta thấy tỏa ra lòng khinh miệt ghê gớm đối với "con cái tối tăm"; các Thánh vịnh của Salomon cũng cho nhiều ví dụ tương tự. Thành thử có lẽ trong bối cảnh này, thù địch không phải là đối phương cá nhân bên trong cộng đoàn tôn giáo, cũng chẳng phải là thù địch của quốc gia theo nghĩa chính trị hay quân sự, nhưng là kẻ bách hại đức tin, kẻ thù của cộng đoàn thiên sai do các Kitô hữu đầu tiên thành lập. Trước đó, trong bản 70, chữ echthros đã thường chỉ các thù địch của dân Thiên Chúa (Tv 31, 7; 139, 21 v.v...); lời ám chỉ đến các người bắt bớ trong câu tiếp theo củng cố giả thiết vừa nói; sau cùng các thánh thư cũng cho thấy chữ này thường được dùng theo nghĩa ở thế kỷ thứ nhất (2 Tx 3, 15; Rm 5, 10; Cl 1, 21; Gc 4, 4).
Tình yêu nói đây không phải chỉ là chẳng giận hờn, chẳng báo oán nhưng, như trong Cựu ước và Tân ước, luôn luôn là hành động cụ thể, là hiệp thông sống động biểu lộ qua các cừ chỉ rõ ràng (Vd. Lời chào hỏi nơi c.47). Cầu nguyện cho các người bắt bớ không phải là biểu thức duy nhất của tình yêu đó, song chỉ là một trong các cách biểu lộ tình yêu; chữ khi (và) chẳng có nghĩa giải thích nhưng có nghĩa: và đặc biệt. trong khi làm các cử chỉ yêu thương này, có thể ta vẫn mang tâm trạng oán hận hay ác cảm tự nhiên đối với kẻ thù hiện gây cho ta đau khổ. Trong một trường hợp như vậy, dù cố gắng thế nào, cũng khó mà chế ngự các phản ứng nhạy cảm được. Nhưng Chúa Giêsu không đứng trên bình diện tâm lý, và chẳng muốn phân biệt giữa điều cảm thấy và điều ưng thuận như các nhà luân lý học thường làm một cách chính đáng. Người đứng trên bình diện hành lang cụ thể (vd: cầu nguyện, c.44; chào hỏi, c.47), nơi phê phán sau cùng sự chọn lựa sâu xa của con người vượt trên mọi xao động của cảm giác.
"Hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành": Hình như lời tuyên bố này không chỉ kết thúc đoạn văn về lòng yêu thương thù địch, mà còn kết thúc cả đoạn gồm cc. 17-48 về việc chu tất Lề luật theo quan niệm của Chúa Giêsu. "Câu nói" (logion) rõ ràng cảm hứng từ Lv 19, 2: “Hãy nên thánh, vì Ta là Đấng thánh" và từ Đnl 18, 3: "Ngươi hãy nên trọn. lành trước mặt Chúa là Thiên Chúa của ngươi". Có nhiều cách giải thích nó. Nhưng hình như phải loại bỏ ý tưởng về một sự tương đồng kiểu hữu thể học (xa lạ với tư tưởng Hy bá) hay kiểu luân lý học theo nghĩa tuyệt đối không thể phạm tội là một điều bát khả đối với tạo vật, trừ phi được đặc ân ngoại thường). Thật ra, chủ đề "trọn lành", trong các bản văn Kinh Thánh, diễn tả ý tưởng dấn thân hoàn toàn, thuộc trọn về một mình Thiên Chúa. Đó cũng là ý nghĩa của teleios (trọn lành) được một dùng thêm một lần nữa, trong câu chuyện Chúa Giêsu đề nghị người thanh niên giàu có bán của cải anh ta có và đi theo Người nếu anh muốn nên trọn lành (19, 21). Hạn từ này xem ra liên hệ với hạn từ công chính": người trọn lành là người thực thi tròn đầy Lề luật đã được Chúa Kitô tái giải thích.
KẾT LUẬN
Dù ta có thể nghĩ rằng các thành ngữ Chúa Giêsu dùng trong đoạn văn này có tính cách nghịch lý, thì sứ điệp căn bản vẫn rành rành: môn đồ của Chúa Giêsu được mời gọi hãy yêu thương tất cả mọi người không trừ ai và yêu thương một cách cụ thể, chứ đừng để cho tà ý hay hận thù lấn át tình yêu. Như thế, họ mới tỏ ra mình là con cái đích thật của Cha trên trời.
Ý HƯƠNG BÀI GIẢNG
1. Trong một thế giới bị chi phối bởi luật "do út des" (hòn đất ném đi, hòn chì ném lại), giáo huấn của Chúa Giêsu thật mở ra nhiều viễn tượng mênh mông. Nó giúp ta tránh khỏi cái vòng quỷ quái của toan tính ích kỷ, của hành động vụ lợi, của thù hận đáp trả hận thù. Chỉ tình yêu mới có thể phát sinh tình yêu. Chỉ các Kitô hữu bị thu húat bởi sức mạnh chinh phục của sự dịu dàng nơi Chúa Kitô, mới có thể tạo nên trong thế giới một cuộc cách mạng ôn hòa có sức đánh đổ việc bóc lột người hèn yếu và bạo động quá đáng.
2. Các bản văn này buộc ta tự vấn về mức độ cởi mở của ta đối với kẻ khác. Phải chăng ta chỉ phục vụ, yêu thương cha mẹ và bằng hữu? Khi gặp dịp, ta có biết chấp nhận phiền toái để giúp đỡ những người xa lạ không?
3. Lý tưởng trọn lành của Kitô hữu chẳng phải là lý tưởng tránh phạm tội của Biệt phái, tiết độ của Khắc kỷ, hay vô cảm của Phât giáo. Kitô hữu không nhìn đến bản thân mình nhưng nhìn đến Chúa Cha, không tìm cách trau dồi các nhân đức như người ta vun trồng cây cối hay tìm cách tạc nên bức tượng thiêng liêng của mình, nhưng chỉ cố gắng bắt chước Chúa Cha, bằng cách gieo rắc tình yêu quanh mình. Và so với lòng nhân lành vô biên của Chúa Cha, người Kitô hữu luôn cảm thấy mình thiếu sót.
4. Khi thấy mình hoàn toàn không thể sống tình yêu mà Chúa Giêsu truyền dạy, Kitô hữu liền ý thức rằng chỉ ân sủng của Chúa Thánh Thần mới có thể biến đổi tâm hồn hẹp hòi của mình và làm cho mình nên giống như Chúa Giêsu cầu nguyện trên thập giá: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm" (Lc 25, 34).
Báo thù là một việc làm phản Kitô giáo. Luật Cựu Ước viết:” Mắt đền mắt, răng đền răng: TN 7-A17
Báo thù là một việc làm phản Kitô giáo. Luật Cựu Ước viết:” Mắt đền mắt, răng đền răng “. Đây là công thức của luật báo thù. Còn trong Luật Mới của Chúa Giêsu:” Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con “.
Đối với Luật cũ hoặc cứ theo sự thường tình, anh làm hại tôi, tôi tìm cách làm hại anh. Ai xúc phạm tới ta, ta phải làm lại cho người ấy bấy lâu. Sở dĩ con người lý luận như thế bởi vì con người là con người và lý luận theo con người. Đó là sự công bằng theo con người. Thực tế luật này đã được ghi chép thành bản văn của vua xứ Babylon trước Công Nguyên năm 1750. Và chúng ta có thể nghiên cứu và tìm hiểu trong Bộ Ngũ Kinh. Chúng ta thấy có ghi vài điều khoản của Luật này và đó là sự bất toàn của luật Môsê thời Cựu Ước.
Luật này không chỉ nằm trong luật thành văn của con người từ bao thế hệ nhưng nó còn đang nằm trong tâm hồn, trong con tim của từng con người. Tuy nhiên, Chúa Giêsu khi tới trần gian, khi đưa ra một giới luật mới, Ngài đã xin các môn đệ cũng như những người theo Ngài:” Hãy dập tất ngay mầm mống hận thù đang âm ỉ, đang nằm trong con tim, trong tâm hồn, trong con người mỗi người chúng ta “. “ Đừng chống cự người ác “. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tinh thần tha thứ nơi tâm hồn con người:” Hãy tha thứ cho kẻ thù “. Nếu đọc lại lịch sử của các Vị sáng lập Đạo, chưa có Vị đã dạy:” Hãy yêu kẻ thù “. Tuy nhiên, chúng ta thấy Chúa Giêsu mình Ngài và chỉ duy nhất Ngài đã dạy:” Hãy yêu kẻ thù “ “ Hãy cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em “ ( Mt 6, 44 ). Chúa Giêsu không chỉ dạy bằng môi miệng:” Hãy tha thứ “, nhưng chính Ngài đã làm gương cho nhân loại, chính Ngài đã để lại cho loài người, cho mỗi người con bài học cao quí, tuyệt vời: “ Lạy Cha, xin tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm “ ( Lc 23, 34 ). Vâng, chính nơi Thập giá, Chúa Giêsu bị đóng đinh bị treo lên, Ngài đã không than trách, không uất hận, nhưng Ngài đã tha thứ tất cả cho chính những người làm hại và đóng đinh, kết án tử hình cho Ngài. Ngài đã nói:” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). Đây là tình yêu vô vị lợi, tình yêu tự hiến.
Chúa Giêsu dạy chúng ta tha thứ và yêu thương mọi người, yêu thương ngay cả kẻ thù của mình. Bởi vì Ngài cho chúng ta hay:” Các con phải trở nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo “ ( Mt 5, 48 ). Do đó, chúng ta sẽ hiểu thế nào là tha thứ. Không biết tha thứ thì không thể biết yêu thương. Nơi kẻ xấu không phải cái gì họ cũng xấu nhưng như lời thánh Phaolô tông đồ viết:” Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm “ ( Rm 7, 19 ). Người ác, kẻ thù vì những yếu đuối, những thiên kiến những bất toàn nên chính họ mới cần được Thiên Chúa cứu chuộc và chờ đợi, mong chờ chúng ta yêu thương, tha thứ.
Chúng ta cũng không nên nuôi sự hờn giận, tìm cách trả thù vv…Nhưng hãy sống bao dung. Sự quảng đại bao dung luôn đem lại cho chúng ta sự an bình và hạnh phúc.
Tất cả con người được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa. Nên, thánh Phaolô đã tự vấn chúng ta:” Anh em không ý thức anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần ư, và Thánh Thần của Thiên Chúa ngự trong lòng anh em sao ? “. Chính Thánh Thần sẽ giúp chúng ta hiểu được địa vị làm con của Thiên Chúa của chúng ta. Do đó, chúng ta được kêu gọi để hành động, để ứng xử theo những tiêu chuẩn của Thiên Chúa, chứ không phải theo những tiêu chuẩn của xã hội nhân loại và thế giới con người.
Sống làm con cái Thiên Chúa, người môn đệ Chúa Kitô phải sống như Chúa, sống như Thầy đã yêu ( Ga 15, 12 ). Lời Chúa, Kinh Thánh, Huấn Quyền của Giáo Hội sẽ giúp dẫn con người tới gần Chúa và gần gũi anh em. Mình Máu Thánh Chúa trong Bí Tích Thánh Thể sẽ làm cho con người sống kết hiệp với Ngài để rồi càng ngày con người càng bắt chước Cha trên trời là Đấng trọn lành, hoàn hảo.
Thánh Phanxicô khó khăn đã dạy cho chúng ta một bài học tuyệt hảo:” Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn u sầu“.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn noi gương Chúa mà yêu thương tha thứ cho những người đã xúc phạm đến chúng con “.Amen. Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mt 5:38-48: 38 Các ngươi đã nghe bảo rằng: Mắt thế mắt, răng thay răng. 39 Còn Ta, Ta bảo các ngươi: đừng cự lại người ác; nhưng nếu ai vả má phải ngươi, thì hãy giơ má kia nữa; 40 và kẻ muốn kiện ngươi để đoạt áo lót, thì hãy bỏ áo choàng cho nó; 41 và ai bắt ngươi làm phu đi một dặm, thì hãy đi với nó hai dặm. 42 Ai xin, ngươi hãy cho; người muốn vay, ngươi chớ khước từ.
43 Các ngươi đã nghe bảo: Hãy mến yêu thân nhân và hãy ghét địch thù. 44 Còn Ta, Ta bảo ngươi: hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi; 45 ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác. 46 Vì nếu các ngươi mến yêu những kẻ yêu mến các ngươi, thì các ngươi có công gì? Há những người thu thuế cũng không làm thế sao? 47 Và nếu các ngươi chỉ chào hỏi anh em các ngươi, thì các ngươi có làm gì lạ? Há người ngoại cũng không làm thế sao? 48 Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành.
Sang phần hai của đoạn chính 5:21-48, Chúa Giêsu chuyển sang nói về cách hành xử của: TN 7-A18
Sang phần hai của đoạn chính 5:21-48, Chúa Giêsu chuyển sang nói về cách hành xử của bản thân người môn đệ, đặc biệt đối với những người chống lại mình/kẻ thù: - Đừng thề (5:33-37), - Đừng chống lại người ác (5:38:42), - Yêu thương kẻ thù (5:43-48).
Đừng Chống Lại Người Ác (5:38-42)
Câu mở đầu (c. 38) hoàn toàn giống với 5:43, và giáo huấn của Chúa Giêsu ở dạng phủ định giống với câu ở phần trước: mç + động từ nguyên mẫu (c. 34). Các câu giải thích (cc. 39b-42) gồm hai phần đối xứng nhau với hai thí dụ cụ thể ở mỗi bên.
Luật Cựu ước “mắt đền mắt và răng đền răng” (Xh 21:24, Lv 24:20; Đnl 19:21) nhằm hạn chế việc đổ máu do không kiềm chế nỗi sự hận thù. Lamech hãnh diện với vợ mình “Nếu Cain trả thù bảy lần, Lamech trả thù bảy mươi lần” (Kh 4:23-24). Luật nầy đòi hỏi trách nhiệm trong việc gây thiệt hại, và giữ sự quân bình giữa tội ác và hình phạt. Trong Tân ước còn tìm thấy cách diễn tả tương tự với luật nầy (Mc 8:38, 1 Co 3:17).
Chúa Giêsu cấm sự đánh trả người làm điều ác: “Đừng chống trả người ác” (c. 39). Động từ anthistçmi, “chống lại”, hàm ý sự thiệt hại do người ác gây nên. Người ác, ponçros, tương đương với kẻ thù, echthros, với người bắt bớ, làm sỉ nhục (x. 5:11). “Không chống lại người ác” nghĩa là không để mình bị vướng vào vòng lẩn quẩn của sự ác: bạo lực sinh ra bạo lực; một cái răng của mình bị mất đi phải đòi lại một cái răng của người khác. Mức độ đầu tiên là bất bạo động: “Khi Ngài bị sỉ nhục, Ngài không sỉ nhục lại” (1 Ph 2:23). Mức độ kế tiếp cao hơn sẽ là yêu mến người làm điều ác (5:44-45; 1 Thess 5:15). Chúa Giêsu đưa ra bốn minh họa về sự bất bạo động:
Bị đánh vào má (c. 39b), rhapizô, là hành vi hạ nhục và khinh dễ hơn là làm cho đau về mặt thể lý. Việc đưa cả hai má phải và trái cho người ác chỉ việc hoàn toàn không chống trả và sẵn sàng chịu mọi sự sỉ nhục không do lỗi mình; người tôi tớ trong Isaia cũng đã làm như thế, “Tôi đã không che mặt” (Is 5:5-6; x. Gióp 16:10; ). Chúa Giêsu đã bị đánh vào má trước mặt các thượng tế và Công nghị vì Ngài bị cho là phạm thượng; do đó đáng phải chết (26:67).
Bị đoạt áo (c. 40): bối cảnh của đoạn nầy là việc thưa kiện ở toà án để đoạt lấy áo, “muốn kiện”, theolonti krithçnai (c. 40; x. 18:30). Người bị kiện là một người nghèo tận cùng. Người nầy phải vay nợ để sống và không có gì để trả nợ. Chủ nợ chỉ có thể lấy áo trong, chitôn để trừ nợ, chứ không được lấy áo ngoài, mặc dù áo ngoài có giá trị hơn (x. Mc 13:16). Theo luật pháp thời ấy, chủ nợ không được cầm giữ áo ngoài như vật thế chấp, và nếu có lấy áo ngoài thì buộc phải trả lại áo cho người nghèo trước khi mặt trời lặn, vì áo ngoài/áo choàng dùng để làm chăn đắp ban đêm (Xh 22:25-27; Đnl 24:12-13). Đứng trước người không có lòng xót thương, người nghèo có thể bị lột trần trước mặt mọi người. Ngay cả khi bị như thế, Chúa Giêsu dạy đưa luôn áo ngoài cho họ. Chúa Giêsu đã bị lột áo, cả áo trong (Ga 19:23) lẫn áo ngoài (27:31.35), và nên trần truồng hoàn toàn trên thập giá.
Bị ép phục dịch (c. 41): động từ angareuô, “bắt ép”, mượn từ tiếng Persian. Angaroi là những người đưa thư. Những người nầy đứng tại các trạm ở các địa phương do vua xứ Persian chỉ định. Họ sẵn sàng với con ngựa để chuyển thư từ trạm nầy qua trạm kia để chuyển thư thật nhanh đến đích. Ở đây từ angareuô nầy chỉ sự ép buộc đi một hành trình, mang một vật nặng hay làm một việc phục dịch nào đó do quân đội hay các viên chức trên một hay nhiều người, như trường hợp Simôn người Xirênê bị quân lính Rôma ép vác thánh giá với Chúa Giêsu (27:32).
Cho và vay mượn (c. 42): Câu nầy vẫn còn nằm trong văn mạch của mệnh lệnh: "Đừng chống lại người ác” (c. 39a), và người môn đệ vẫn còn là nạn nhân của bạo lực hay bất công. Theo cấu trúc, câu nầy đối xứng và song song với câu 40a: tô + phân từ + ngươi + động từ. Động từ “muốn + vay mượn”, thelô, trong câu nầy mang ý nghĩa tương tự như trong câu 42 là muốn vay mượn tài sản của anh em trong đó hàm ý việc đoạt lấy; so sánh câu nầy với câu song song trong Luca 6:30: “Tất cả ai xin, hãy cho, và kẻ đoạt của ngươi, ngươi chớ đòi lại”. Hơn nữa, câu nầy liên kết với đoạn theo sau 5:43-48 bởi từ ponçros, “người xấu” (cc. 39.45), trong đó nói về việc yêu thương kẻ thù. Đây là minh họa đi trước cho việc yêu thương kẻ thù.
Việc giúp đỡ và cho vay mượn được nói rất nhiều đến trong Cựu ước, mà đối tượng nhắm đến thường là người nghèo (Xh 22:25; Lc 25:36-37; Đnl 15:2-6). Ở đây Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc tổng quát và không phân biệt người được cho và cho vay: “Ai xin, ngươi hãy cho. Ai muốn vay, ngươi chớ khước từ” (c. 42; x. 5.45), trong đó bao hàm cả người ác/xấu.
Vậy qua đoạn 5:38-42 Chúa Giêsu muốn chúng ta giữ mình tự do khỏi mọi hình thức bạo lực. Quyền xét xử và báo oán là của Thiên Chúa (Rm 12:19-21). Phần người môn đệ của Chúa là “không lấy oán báo oán, mà theo đuổi điều thiện cho nhau và cho mọi người” (1 Thess 5:15).
“Yêu thương kẻ thù” (cc. 43-48)
Sự công chính của người môn đệ được thể hiện ở mức tối đa là yêu thương kẻ thù. Hành vi yêu thương nầy làm họ nên giống Cha trên trời là Đấng trọn lành (5:48) và là Đấng công chính (6:33), và cũng làm cho họ trổi vượt hơn các kinh sư và người Pharisêô về sự công chính (5:20). Đoạn nầy có cấu trúc giống như các đoạn trước, và thêm lời kết luận cho toàn phần 5:21-48. Từ ngữ chính trong đoạn nầy là agapaô, “yêu thương” (cc. 43.44.46[2x]) và echthros, “kẻ thù” (cc. 43.44).
Cựu ước nói cách rõ ràng việc yêu thương người lân cận. Người lân cận được định nghĩa là người đồng hương Israel, mặc dù cũng có thể nới rộng định nghĩa nầy ra cho người ngoại quốc đến ngụ cư (Lv 19:18, 33-34; Đnl 10:18-19). Trái lại, không thấy Kinh Thánh nói cách hiển nhiên việc ghét kẻ thù, mặc dù có thể suy diễn từ một số đoạn (x. Đnl 7:2; 20:13–18; 25:17–19; Tv 137:8–9; 139:19–22). Đối lại với câu chủ đề gồm hai mệnh đề, Chúa Giêsu cũng đưa ra một câu gồm hai mệnh đề: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người bắt bớ các con” (c. 44). Hai mệnh lệnh đều ở ngôi thứ hai số nhiều và thì hiện tại, chỉ sự áp dụng chung cho các môn đệ của Chúa Giêsu và cho mọi thời.
“Kẻ thù” theo mạch văn là người bắt bớ (c. 44b), người xấu (c. 45). Họ sỉ nhục, vu khống, đặt điều nói xấu đủ điều các môn đệ (x. 5:10-11), họ làm những điều bất công (x. 5:38-42); do đó việc ghét kẻ thù là điều thường tình đối với người đời. Trái lại Chúa Giêsu dạy phải yêu thương kẻ thù theo mẫu gương của Cha trên trời. Ngài “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ lẫn người lành” (c. 45; x. 22:10). Ngài làm điều tốt cho cả hai mà không phân biệt (x. Rm 212:20-21). Matthêô dùng từ ponçros, “người xấu” thay vì echthros, “kẻ thù”, trong câu liên quan đến Thiên Chúa, vì “kẻ thù” thật sự của Thiên Chúa là ma quỉ; chắc chắn là Ngài không “cho mặt trời mọc lên” trên kẻ thù nầy, mà đặt nó dưới bệ chân Ngài (13:25tt, 22:44).
Trước khi đi đến kết luận, Chúa Giêsu đưa ra hai minh hoạ về cách yêu thương mà người môn đệ không nên noi theo, “Nếu chỉ yêu thương…”, “Nếu chỉ chào hỏi…” (cc. 46-47), bằng không họ sẽ không công chính hơn người thu thuế và dân ngoại chút nào cả. Tính từ so sánh “hơn”, perisson, ở đây đóng khung đoạn 5:21-48, và liên quan đến sự công chính của các môn đệ (c. 20). Vậy ai hành động như Thiên Chúa thì sẽ nên con cái của Ngài, và con cái của Ngài phải là người xây dựng hoà bình, chứ không lấy ác báo ác (5:9).
“Nên trọn lành như Cha trên trời” (c. 48)
Từ quan trọng của câu kết luận là teleios, “trọn lành”, nghĩa là đi đến cùng và không còn thiếu gì cần thiết nữa. Matthêô dùng 3 lần từ nầy và qui chiếu về Thiên Chúa. Trong 19:21, sự trọn lành mà Chúa Giêsu chỉ cho người thanh niên là tuân giữ lề luật Chúa, từ bỏ của cải và theo Chúa. Trong câu 5:48 sự trọn lành trước tiên quy chiếu về lề luật đã được Chúa Giêsu làm trọn (5:21-48), và cũng qui chiếu về Chúa Cha: “như Cha…” (c. 48b). Liên từ “như”, hôs, chỉ phẩm tính thuộc về Thiên Chúa. Vậy việc “nên trọn lành như Cha trên trời” được đặt trong tương quan Cha - con, “Cha trên trời” (c. 48) - “con cái Cha trên trời” (c. 45): sự trọn lành của con cái bắt nguồn từ sự trọn lành của Cha và có cùng phẩm tính là yêu thương, và tình yêu của Cha thể hiện qua việc “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành” để nêu gương, thì con cái cũng bắt chước gương Cha mà làm như vậy: làm điều tốt cho người khác vì yêu thương.
Chúa Giêsu đến để kiện toàn mọi lề luật. Ngài đã dạy cho các môn đệ một cách cư xử mới trong tương quan với người bất hòa, phụ nữ, bản thân, người làm ác và kẻ thù. Cao điểm của cách cư xử nầy là làm điều tốt và yêu thương họ như Cha trên trời và cũng như Chúa Giêsu. Đó là con đường trọn lành mới mà Ngài muốn con người bước vào.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 5:38-48)
Yêu thương kẻ thù chắc chắn phải là một vấn đề vô cùng độc đáo trong giáo lý của Chúa Giê-su: TN 7-A19 (RW)
Yêu thương kẻ thù chắc chắn phải là một vấn đề vô cùng độc đáo trong giáo lý của Chúa Giê-su và của đạo Công giáo. Đó cũng là điều nói thì dễ, nhưng thực hành thì hết sức khó, hoặc có thể nói đó là điều không thể thực hiện theo sức riêng của con người.
Trước khi quảng diễn lời dạy “hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giê-su nêu lên lẽ công bằng của sự thù nghịch theo Lề Luật Mô-sê. Luật công bằng của người xưa là: mắt đền mắt, răng đền răng. Cho nên ý niệm truyền thống về bạn hay thù được xây dựng trên căn bản lẽ công bằng. Người ta bị ràng buộc trong giới hạn của lẽ công bằng, do đó không thể chấp nhận việc yêu kẻ thù vì làm như thế người ta sẽ không duy trì được sự công bằng nữa. Nhưng Chúa Giê-su không lấy lẽ công bằng của Luật Mô-sê để dạy chúng ta về việc yêu kẻ thù, mà Người lấy tình yêu của Thiên Chúa Cha làm nền móng cho việc yêu kẻ thù. Kẻ xấu và tội lỗi đều là “kẻ thù” của Thiên Chúa. Vậy mà Cha trên trời vẫn “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”. Cha nào con nấy. Nếu Cha trên trời yêu kẻ thù của Người thì chúng ta là con, cũng phải yêu kẻ thù của Người và của chúng ta. Quả thực Chúa Giê-su đã “kiện toàn” Lề Luật khi Người mở ra một con đường mới cho một vấn đề bế tắc là hãy yêu kẻ thù. Vậy theo Chúa Giê-su, thế nào là “yêu kẻ thù”?
Yêu kẻ thù là dám vượt lên trên lẽ công bằng để thực hiện một việc làm tích cực. Dĩ nhiên những thí dụ Chúa Giê-su đưa ra, như vả cả hai má, lấy cả áo trong lẫn áo ngoài, hoặc đi thêm dặm đường nữa với kẻ thù, tất cả chỉ là những hình ảnh mô tả thái độ tích cực là động lực của tình yêu. Chỉ có động lực tình yêu này mới có thể giúp chúng ta vượt trên lẽ công bằng để đến với kẻ thù và yêu thương họ, vì tình yêu bao giờ cũng tích cực.
Yêu kẻ thù còn là điều kiện để “được trở nên con cái của Cha trên trời” và là dấu chỉ chúng ta khác biệt với những người không phải là con cái Chúa. Chúng ta hãy nhìn vào gương của Chúa Giê-su, Trưởng Tử của nhân loại mới, đã đối xử thế nào với kẻ thù. Không kể bao lần “đụng độ” với kẻ thù mà Người vẫn hòa nhã yêu thương, trên thập giá và trước khi nhắm mắt, Người đã xin Cha tha thứ cho những kẻ giết Người. Người Con Yêu Dấu ấy của Thiên Chúa đã dạy các em Người hãy yêu kẻ thù để xứng đáng làm con cái Thiên Chúa.
Sau hết, yêu kẻ thù là phương thế nên hoàn thiện như Cha trên trời. Yêu kẻ thù (tức là những kẻ tội lỗi) là đặc điểm hoàn thiện của Thiên Chúa. Phải chăng Chúa muốn chúng ta lấy việc yêu kẻ thù làm phương thế tốt nhất để nên hoàn thiện giống như Chúa, nên Người mới để chúng ta có nhiều “kẻ thù” hơn là bạn hữu?
Sống sứ điệp Tin Mừng
Thực tế cho thấy yêu kẻ thù là điều không thể thực hiện. Nhưng chẳng lẽ Chúa Giê-su dạy chúng ta làm một điều vượt ngoài khả năng con người? Đối với chúng ta, đó là điều không thể, nhưng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lu-ca 1:37). Chính vì thế Chúa Giê-su mới “kéo” Cha trên trời xuống với chúng ta, để chúng ta ý thức mình là con cái Chúa và chính Người nêu gương yêu kẻ thù, chúng ta mới hoàn toàn có thể yêu kẻ thù.
Chúa Giê-su đưa ra một thí dụ rất cụ thể để chúng ta thực hành việc yêu kẻ thù, đó là “chào hỏi” kẻ thù. Trong đời sống hằng ngày, biết bao lần chúng ta không muốn “chào hỏi” nhiều người. Có thể đấy là người vợ, người chồng hoặc con cái. Có thể là người làm cùng sở. Cũng có thể là một người đã gây cho chúng ta một thiệt hại không thể đền bù hay sửa chữa. Vậy chúng ta phải làm thế nào để xóa đi hàng rào ngăn cản là lẽ công bằng, là niềm tự ái có lý của chúng ta? Bạn và tôi hãy nhìn lên Cha trên trời, Đấng đã hết lòng yêu thương chúng ta là kẻ tội lỗi và kẻ thù của Người, đến nỗi sai Con Một Người xuống trần để chết cho chúng ta (Gio-an 3:16). Nhờ Chúa Cha là Tình yêu, Chúa Con là sự Tha thứ và Chúa Thánh Thần là Sức mạnh hiệp nhất, nhất định chúng ta có thể yêu kẻ thù được!
Từ sau khi nguyên tổ chúng ta phạm tội thì con người đã trở nên yếu đuối và rất dễ sa ngã. Do: TN 7-A20
Từ sau khi nguyên tổ chúng ta phạm tội thì con người đã trở nên yếu đuối và rất dễ sa ngã. Do đó, con người rất cần những quy tắc sống. Nhờ đó, con người dựa vào để thi hành trong cuộc sống của mình.
Thấy được điều đó nên Thiên Chúa tình yêu đã ban bố cho dân Do thái những quy tắc sống qua ông Môisen. Vì thế, đối với người Do thái luật Môisen được coi như kim chỉ nam cho cuộc sống của họ.
Thế nhưng có vẻ như Chúa Giêsu không tuân giữ đúng luật Môisen nên làm cho người Do thái cách chung và với những Luật sĩ và Pharisêu cảm thấy dị ứng. Từ bối cảnh ấy Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: "Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời" (Mt 5, 20). Nghĩa là Người muốn các môn đệ giữ lề luật Môisen với tinh thần mới. Bởi lẽ, "Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới" (Mt 9, 17).
Nối tiếp những lời dạy tuần trước, hôm nay Chúa Giêsu kêu mời các môn đệ cũng như mỗi người chúng ta đi tới một mức độ cao hơn: "Các con hãy nên hoàn thiện, như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện""(Mt 5, 48). Hoàn thiện qua việc tuân giữ luật Môisen với một tinh thần vị tha.
Ngay từ thuở ban đầu, con người chúng ta đã được dựng nên theo và giống hình ảnh Thiên Chúa. Vì vậy, trong cuộc hành trình trên dương thế nầy chúng ta được kêu mời sống thế nào để mỗi ngày trở nên giống như Đấng đã dựng nên chúng ta. Bao nhiêu lần chúng ta xúc phạm đến Chúa đều được Chúa thứ tha tất cả. Tác giả Thánh vịnh 129 cảm nghiệm được điều đó nên đã thốt lên:
"Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài" (Tv 129, 3 - 4).
Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra những lời chỉ dạy nhằm giúp chúng ta thoát khỏi lối sống ích kỷ, hay tự ái và muốn trả đủa. Vì người sống theo lối sống như thế e rằng khó có được sự bình an trong tâm hồn. Ông Ganđi, là cha đẻ của chủ trương bất bạo động đã thốt nên một lời nói bất hủ rất đáng chúng ta suy nghĩ: "Bất bạo động là luật của loài người còn bạo động là luật của loài thú". Ông bà chúng ta cũng đã dạy "lấy oán trả oán oán chồng chất còn lấy ơn trả oán thì oán sẽ hết".
Là người con Chúa Cha trên trời và cũng là môn đệ của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta hãy làm theo những lời dạy vàng ngọc của Chúa Giêsu hôm nay.
Qua đoạn Tin Mừng, Thánh Mattheu thuật lại luật yêu thương trọn hảo của Chúa Giêsu. Chúa: TN 7-A21
Qua đoạn Tin Mừng, Thánh Mattheu thuật lại luật yêu thương trọn hảo của Chúa Giêsu. Chúa dạy ta cách sống, cách xử thế đối với mọi người, cả những người yêu thương ta lẫn người không yêu thương chúng ta. Đây là điểm vàng son của đạo Kitô giáo.
Theo luật cũ trong Cựu Ước thì một người làm lỗi phải chịu trừng phạt tùy theo tội nặng hay nhẹ. Nếu một người làm người khác bị thương, thì phải đền bù theo luật ác giả ác báo: mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Chúa Giêsu, Ngài mời gọi ta sống, nhân hậu, tha thứ, ân cần yêu thương tha nhân. Ngài đã đưa ra nhiều thí dụ: "Nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài".
Chúa Giêsu dạy như thế không có nghĩa là Chúa đề cao lối sống buông xuôi, đầu hàng, cam chịu. Nhưng Chúa Giêsu muốn dạy rằng: Hãy khôn ngoan mà dùng tình thương là thượng sách. Tình thương mới xóa bỏ hận thù, lấy ơn mà đền oán, chứ không thể áp dụng "dĩ độc trị độc". Thực tế, trả thù không bao giờ xóa bỏ được hận thù, mà còn chồng chất hận thù lên mãi. Có lẽ trong cuộc sống hiện nay vẫn còn có người sống theo lối "ăn miếng trả miếng", "hòn đá nén đi hòn chì nén lại", nên chúng ta thấy khó am hợp với lời Chúa dạy là tha thứ, là yêu thương.
Giáo huấn của Chúa, khó thì khó thật, nhưng không phải là không thực hiện được. Trong thực tế, đã có những người dù không phải là Kitô hữu, dù chưa biết Tin Mừng đã thực hiện điều này. Người ta kể rằng: gần hai nước Lương và Sở, có hai người làm nghề trồng dưa: Một người ở nước Lương và một người ở nước Sở. Nhờ sự chăm tưới và bón phân, vườn dưa của người nước Lương lên tốt, kết quả rất mỹ mãn và hàng năm đem lại một mối lợi đáng kể. Còn anh chàng nước sở, lười biếng cỏ chẳng làm, dưa không tưới và bón phân, dĩ nhiên không kết quả bao nhiêu. Thấy vậy anh ta sinh ghen ghét, đêm đêm lẻn sang vườn người nước lương phá hoại.
Vườn dưa đang tốt, song mỗi ngày cứ thấy lụi tàn dần, tìm hiểu và biết được kẻ phá hoại, tức mình lắm, định trả đũa. Nhưng trước khi thi hành, anh đem việc đến trình quan là Tống Hựu. Tống Hựu can và nói: "Làm như thế chỉ tổ gây thên hận thù, tôi khuyên anh: thay vì trả đũa ,mỗi đêm lẻn sang đó tưới nước và bón phân. Nhưng phải bí mật đừng cho nó thấy". Thấy bên kia không trả đũa, lại nhận ra vườn mình ngày cang xanh tốt. Sau lâu ngày mới biết người kia không báo thù mà còn làm ơn, anh liền sang xin lỗi. Hai gia đình đã kết thân và trở nên giàu có.
Vậy thì, tại sao hay lý do nào Chúa dạy chúng ta phải yêu thương hết mọi người, kể cả những người không thích chúng ta, thù ghét chúng ta. Thưa, vì mọi người đã được tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa và đã được Chúa Ki tô cứu chuộc bằng giá máu châu báu của Người, nên mọi người đều đáng kính trọng và đáng kính yêu. Và đặc biệt, vì mọi người là con một Cha chung trên trời và là anh em với nhau. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chúng con ở trên trời", vì Chúa là Cha chung hết mọi người, hằng cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ dữ người lành, làm mưa xuống trên kẻ công chính và người bất lương. Vậy nếu mọi người đều là con một Cha trên trời, thì chúng ta đều là anh em với nhau. Mà là vì anh em với nhau, thì chúng ta phải yêu thương nhau. Chúng ta phải yêu thương hết mọi người không loại trừ ai cả, có như thế chúng ta mới xứng đáng là con cha trên trời. Một khi có tình yêu như vậy, nhất định chúng ta sẽ xóa bỏ mọi hận thù, ghen ghét, nhất định chúng ta sẽ khoan dung quảng đại với mọi người.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa và nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Amen
Tích xưa kể rằng: Hàn Tín thời Hán Cao Tổ, thuở hàn vi phải đi câu cá đổi gạo mà ăn. Thế mà: TN 7-A22
Tích xưa kể rằng: Hàn Tín thời Hán Cao Tổ, thuở hàn vi phải đi câu cá đổi gạo mà ăn. Thế mà có những lúc không đủ ăn. Có bà thợ giặt cảm thương đã mời Hàn Tín đến dùng cơm tại nhà. Hàn Tín đi đâu cũng mang thanh gươm kè kè bên mình.
Một hôm, có tên đồ tể Ác Thiểu muốn hạ nhục Hàn Tín, chận đường thách:
Chú thường mang gươm, chả biết để làm gì! Bây giờ tôi không cho chú đi. Chú có gan thì sẵn thanh gươm đó hãy chém tôi đi, bằng không thì phải lòn trôn tôi mà đi.
Hàn Tín chẳng chút do dự, lòn trôn tên hạ tiện đó mà đi, vì tự nhủ: "Giết thằng này thì được rồi, nhưng mà lấy mạng mình đổi mạng nó, thì không đáng tí nào!"
Sau Hàn Tín nhờ có công giúp Hán Cao Tổ dựng nước mà được phong làm Vua Tam Tể. Lúc bấy giờ, Hàn Tín bèn mời bà thợ giặt đến biếu nghìn lạng vàng để tạ ơn. Rồi không những không thèm trả thù tên đồ tể mất dạy xưa, lại phong cho hắn chức Trung Huý. Ác Thiểu rất ngạc nhiên, khúm núm nói: "Lúc trước tôi ngu lậu thô bỉ, đã dại dột xúc phạm đến oai nghiêm ngài, nay tội ấy được tha chết là may, còn dám mong đâu ban chức tước?
Hàn Tín ôn tồn bảo: "Ta chẳng phải là kẻ tiểu nhân hay cố chấp, đem lòng thù hận. Hành động của ngươi ngày xưa tuy quá đáng, nhưng cũng là bài học luyện chí cho ta. Vậy nhà ngươi chớ tị hiềm mà hãy nhận chức ta ban".
Lối báo đền ân oán của Hàn Tín thật là hay. Đối với người ân thì ban thường, song đối với người oán cũng vẫn ban thưởng chớ không trả thù. Thật là một người quân tử.
*****
Là người con của Chúa, Chúa dạy chúng ta hãy làm hoà trước để khỏi xảy ra điều tai hại hơn. Đây là một lời khuyên quan trọng: chẳng những không được làm hại ai hay có ý mưu hại ai, mà còn phải đi trước một bước mà làm hoà. Nói rõ hơn, trước một điều bất công, vô tình hay hữu ý, thiên hạ gây cho ta: như xỉ nhục, xỉ vả, chê cười, nói hành, vu vạ, cáo gian. . . Tất nhiên lòng tự ái chúng ta bị va chạm, không thể nhịn được, lòng chúng ta như muốn trả đũa ngay. Đó là tính tự nhiên của con người. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống khác hơn, sống cao thượng hơn. Chúa muốn chúng ta tha thứ và làm hoà. Tha thứ và làm hoà là điều kiện phải có để đến với Chúa. Không thể đến với Chúa mà lòng vẫn còn ngổn ngang những tức giận, ghen tương, đố kỵ.
Nhân vô thập toàn, ai cũng có những lầm lỗi, ai ai cũng cần được tha thứ, thế nên cũng cần phải biết tha thứ cho nhau. Người ta vẫn thường nói để sống với Chúa cần có đức tin để mình tin tưởng, phó thác cậy trông vào Chúa giữa những phong ba của dòng đời, và để sống với tha nhân, cần phải có lòng độ lượng, để mình sống bao dung và tha thứ cho người khác. Nếu chúng ta không có lòng độ lượng có lẽ mình sẽ chẳng sống được với ai, và cũng chẳng ai sống được vời mình. Đây cũng là điều mà Chúa mời gọi chúng ta phải công chính hơn những người biệt phái trong tình yêu tha thứ. Không chỉ yêu kẻ yêu mình, mà còn yêu cả kẻ ghét mình. Không chỉ quý mến kẻ thi ân cho mình, mà còn làm ơn cho kẻ làm hại chính mình. Bởi vì, oán báo oán thì oán chập chùng. Chúa mời gọi chúng ta hãy tha thứ cho kẻ thù, hãy làm hoà cùng kẻ thù và hãy cầu nguyện cho kẻ thù. Chính Chúa đã sống tình yêu đó trên thập tự giá, nơi đó người ta đã tuôn đổ sự tàn ác trên thân thể Ngài, thế mà Ngài vẫn xin Chúa Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm. Tình thương Chúa không dừng lại ở việc tha thứ, mà còn thi ân cho mọi người, kẻ lành cũng như người dữ. Kẻ thờ phượng Chúa cũng như kẻ chống đối lại Chúa.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống tình thương bao dung đó cho anh em của mình. Hãy quên đi những xúc phạm của nhau. Hãy làm hoà để thêm bạn bớt thù. Hãy tha thứ để tìm được sự bình an tâm hồn cho bản thân và cho những người chung quanh. Xin Chúa là Đấng hằng thương xót và tha thứ, xin giúp chúng ta biết tha thứ lỗi lầm của anh em, như Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Amen
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu người ta không khỏi ngạc nhiên và cảm phục vì Chúa dùng: TN 7-A23
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu người ta không khỏi ngạc nhiên và cảm phục vì Chúa dùng những dụ ngôn, những câu chuyện thực tế đời thường để nói về Nước Trời. Ngạc nhiên vì Chúa Giêsu không giảng dạy những sự viễn vông ở trên trời cao hay nói những lý thuyết khô cằn, cứng nhắc, nhưng Ngài luôn dùng những câu chuyện đời thường để giúp con người dễ hiểu, dễ nhận ra điều Ngài muốn nói, muốn nhắn nhủ, muốn dạy bảo vv...Chúa ban cho con người trí khôn, sự khôn ngoan để con người biết điều gì nên làm, điều gì phải tránh. Vua Salomon xin sự khôn ngoan để vua biết đem lại sự hạnh phúc cho dân tộc của ông. Tin Mừng của thánh Matthêu (13,44-52) cho chúng ta thấy rõ điều ấy:" Nước Trời giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy ".
Tin Mừng của Chúa Giêsu là những lời vàng ngọc đưa nhân loại, con người và mỗi người đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, đi từ cảm phục này đến lòng kính tin,cậy trông và yêu mến. Lời của Chúa đã được gieo vãi từ bao ngàn năm qua nhưng ngay từ thời Ngài, các Kinh sư, Luật sĩ và Pharisiêu, cùng nhiều người đã không đón nhận và còn chống đối lại Ngài. Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe. Do đó, Chúa đã chúc phúc cho những con người nhỏ bé, những Anawim, những người nghèo của Ngài: các tông đồ, những kẻ bị hất hủi bên lề xã hội đã lắng nghe, thực thi Lời của Chúa bởi vì họ có mắt đã nhìn thấy Chúa, có tai đã biết nghe Lời của Ngài. Tin Mừng hôm nay gồm hai dụ ngôn " Kho Tàng " và " Viên Ngọc Quý ". Hai dụ ngôn này cho con người, cho mỗi người chúng ta thấy sự khôn ngoan của người tìm ra kho tàng, cũng như người tìm được viên ngọc quý. Họ về nhà bán tất cả sản nghiệp đang có để tậu cho bằng được kho tàng và viên ngọc quý vì họ biết rằng kho tàng và viên ngọc quý còn đáng giá gấp bội so với của cải, sản nghiệp họ đang quản lý.
Kho bau và viên ngọc quý, Chúa dùng để giúp con người nghiệm ra điều quý giá nhất là Nước Trời, Ngài muốn nói. Nước Trời là giá trị cao quý nhất, tuyệt đối mà của cải, danh vọng trần gian, giá trị con người cho là tốt đẹp đều phải lu mờ, nhường bước cho Nước Thiên Chúa. Nước Trời là phần rỗi, là ơn cứu độ Chúa đem tới cho nhân loại. Nước Trời là sự sống đời đời, là nước hằng sống Chúa hứa ban cho người nữ bên giếng Giacóp. Đây là giá trị tuyệt đối, giá trị cao vời, người môn đệ của Chúa phải quan tâm trước hết, sẵn sàng hy sinh cho dù có phải thí mạng mình để chiếm cho bằng được. Bởi vì, khi vào đời con người tay trắng tay, khi nhắm mắt xuôi tay, con người cũng ra đi với hai bàn tay trắng. Con người là bụi tro, sẽ trở về với cát bụi. Tuy nhiên, người môn đệ Chúa đã cảm nghiệm sâu xa:" Sự sống thay đổi chứ không mất đi. Và trần gian này chỉ là nơi tạm, Chúa đã dọn sẵn cho môn đệ Chúa một nơi ở vĩnh viễn là Nước Trời ". Người môn đệ Chúa phải sẵn sàng đón nhận Lời Chúa chỉ dạy và sẵn sàng tìm kiếm cho bằng được Nước Thiên Chúa.
Con người đang sống ở trần gian giữa những trăn trở, giữa những xoay chuyển, vần xoay của vật chất. Do đó, con người phải vất vả làm ăn, cực khổ với cuộc sống để đấu tranh sinh tồn. Đây là điều cần thiết và hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên, cuộc đời chỉ là tạm bợ, như gió thoảng, như mây bay, như hơi thở vv...Cuộc đời này rồi sẽ qua đi không ai có thể tự hào, tự mãn mình không cần gì hết, mình sẽ sống mãi mà không bao giờ chết. Chính vì thế, con người phải tìm kiếm sự gì là quý giá nhất, sự sống vĩnh cửu và tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Đời là một cuộc chơi. Cuộc vui nào rồi cũng mau qua. Cuộc tiệc nào rồi cũng phải tới giờ chấm dứt. Người môn đệ Chúa phải là người khôn ngoan định đoạt đời mình, con người có tự do nhưng tự do Chúa cho là để con người biết định đoạt phần rỗi của mình. Cuộc sống hôm nay sẽ định đọat cho tương lai sau này. Chúa nói: " Hãy tỉnh thức và cầu nguyện ". Chúa luôn nhân từ, thương yêu con người, Ngài luôn tha thiết chờ đợi conngười trở về, tin tương vào Ngài và Ngài sẵn sàng đưa vòng tay ôm chầm lấy người hối cải như người con hoang đang trở về đã được cha yêu thương đón nhận và thứ tha. Vâng, con người phải mau mắn đáp trả tình thương vô biên của Ngài và sống tình con ngoan hiền với Ngài.
Những năm làm việc truyền giáo, tôi đã được chứng kiến biết bao cảnh thương tâm và xúc động đến rơi lệ mỗi lần đi xức dầu ở xa được hân hoan đón nhận những tâm hồn biết ăn năn sám hối trở về cùng Chúa và biết rằng cuộc đời này là bể dâu, cuộc đời mau qua, chóng tàn như hoa phù du sớm nở chiều tàn. Một hôm tôi nghe tiếng điện thoại của Ban phần việc ở xa nhà xứ 25 cây số, mời tôi đi xức dầu cho một bà cụ già gần 80 tuổi. Bà cụ đã hơn 40 năm không xưng tội, xa Chúa vì ở vào trường hợp éo le và không có cơ hội gặp các vị chủ chăn. Khi tôi đi Honda tới, bước vào nhà và tiến đến bên giường bà cụ, bà ôm chầm lấy tôi khóc nức nở, bà nói với tôi câu rất cảm động:" Cha ơi, con sung sướng lắm vì gặp Cha, con đã xa Chúa quá nhiều nhưng con tin vào Chúa, cuộc đời con sắp hết, đời là tạm bợ, con muốn về với Chúa. Bà tiếp tục khóc và khóc to, khóc nức nở, tôi khuyên bà và nói về tình thương của Chúa đối với bà cụ, rồi tôi giúp bà xưng tội, xức dầu, trao Mình Thánh cho bà cụ. Bà cụ sung sướng nói với tôi, con cám ơn Cha vì Cha đã cứu con, đã đem Chúa cho con. Tôi vô cùng sung sướng và chỉ một tuần sau bà cụ đã trở về với Chúa, chính tôi đã cử hành lễ an táng cho bà cụ tại tư gia.
Vâng tình thương Chúa vô biên, trần gian sẽ qua đi nhưng kho báu, viên ngọc quý là Chúa, là Nước Trời mới quý giá, mới ưu tiên hàng đầu để người môn đệ Chúa đáng kiếm tìm.
Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết tìm kiếm Nước Trời hơn là chỉ chú tâm đến những sự phù phiếm, chóng qua. Amen.
Khi mùa Chay đến sớm trong chu kỳ phụng vụ thông thường thì chúng ta không có Chúa: TN 7-A24
Khi mùa Chay đến sớm trong chu kỳ phụng vụ thông thường thì chúng ta không có Chúa Nhật VII cùng với những bài đọc hôm nay. Những Chúa Nhật mùa Chay trở thành tâm điểm và thay thế một số Chúa Nhật trong mùa Thường Niên. Nhưng mùa Chay năm nay đến trễ, vì thế chúng ta có cơ hội nghe những bài đọc Kinh Thánh mà lẽ ra bị bỏ qua nếu mùa Chay đến sớm hơn. Tôi nghĩ rằng quý vị sẽ thở phào nhẹ nhõm nếu mùa Chay đến sớm hơn và Tin Mừng hôm nay không nằm trong chu kỳ phụng vụ. Quả là khó khăn cho chúng ta!
Không chỉ riêng quý vị cảm thấy lúng túng đối với đoạn chọn từ Bài Giảng Trên Núi hôm nay. Chẳng phải là mọi Kitô hữu đều cảm thấy khó chịu khi nghe Đức Giêsu nói: "Đừng chống cự người ác", "giơ cả má bên trái", "đưa cả áo bên ngoài", "đi thêm một dặm", "yêu thương kẻ thù"...hay sao? Chúng ta thực sự muốn giơ tay phản đối khi Đức Giêsu kết luận: "Hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện". Tôi có thể nghe một số người nói: "Thôi nào ông Giêsu, thực tế chút đi!".
Thoạt tiên khi nghe, chúng ta có thể hiểu vì sao bài Phúc Âm hôm nay, thực ra là trọn vẹn Bài Giảng Trên Núi, làm cho Kitô giáo giống như một lối sống không thực tế và thực tiễn trên thế gian này. Hôm nay, thánh Phaolô diễn tả điều ấy như sau: "Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa...". Chúng ta nói thêm rằng: "Và sự khôn ngoan của Thiên Chúa là sự điên rồ trước mắt thế gian".
Vì vậy dựa vào sự khôn ngoan của mình, phản ứng ban đầu của thế gian đối với Bài Giảng là xem lời dạy của Đức Giêsu hoàn toàn vô lý: phi thực tế trong "thế giới hiện thực". Nhưng "thế giới hiện thực" chỉ là tình trạng hỗn độn và sự khôn ngoan của thế gian đã gây ra tình trạng hỗn độn ấy. Vì thế, trước khi con người vội vã ngoảnh mặt đi trước sự khôn ngoan của Thiên Chúa được mạc khải trong Bài Giảng, thì có lẽ họ muốn dừng lại và xét xem đâu là sự khôn ngoan đích thực. Các bài đọc Kinh Thánh cho thấy rõ tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi. Trong đức tin, những ai đã từng cảm nghiệm, từng nhận ra và hiện nay hoàn toàn ở lại trong tình yêu ấy thì đều là những người có thể đáp trả như Thiên Chúa đã làm - yêu vô điều kiện. Đức Giêsu đang nói về một tình yêu đặc biệt - tình yêu chia sẻ. Đó là loại tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể trao tặng người khác một tình yêu như thế khi chúng ta thực sự biết về tình yêu đó, vì chính chúng ta đã cảm nghiệm nó từ chính Thiên Chúa.
Là những tín hữu, chúng ta cần hướng lòng mình để lắng nghe và tin tưởng vào những điều được loan báo hôm nay. Thật dễ hiểu rằng, cả trong bài đọc của Lêvi và Mát-thêu đều dạy chúng ta phải yêu thương những người thân cận. Nhưng Đức Giêsu xóa bỏ ranh giới giữa người thân cận và người không thân cận. Không có giới hạn nơi những người chúng ta yêu. Do đó, Ngài cho chúng ta biết rằng tình yêu của chúng ta không được giới hạn ở những người tốt ("đừng chống cự người ác"), không giới hạn ở gia đình và bạn bè ("yêu thương kẻ thù") hay chỉ những người yêu thương chúng ta ("...nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi?"). Điểm cốt yếu là, theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải yêu thương tha nhân như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.
Chúng ta cần trợ giúp để luôn lắng nghe và thấu hiểu sứ điệp Tin Mừng: Đức Giêsu là bằng chứng tích cực về tình yêu nhưng không của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chỉ những ai đón nhận và hoàn toàn ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa thì mới có thể nghĩ đến việc đáp trả tình yêu đó bằng cách thi hành điều Thiên Chúa dạy - yêu thương tha nhân, kể cả kẻ thù cách vô điều kiện.
Chúng ta hãy xem bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay. Trong sách Xuất Hành (21,24) có "luật báo oán" - dạy rằng con người được yêu cầu xử phạt và đền bù tùy theo thiệt hại. Luật này thường được cộng đồng sử dụng để phân xử và đưa ra mức hình phạt. Hình phạt không được vượt quá tội. Nếu hình phạt vượt quá tội thì sẽ có nguy cơ càng gây ra thêm thù hận và ý muốn báo thù vô cùng tận. Hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta không được có bất cứ kiểu báo thù nào. Nghĩa là chúng ta không thể để cho người khác định đoạt chúng ta sẽ đáp trả bằng cách nào. Có lẽ, Đức Giêsu đang nhấn mạnhvấn đề, nhưng Ngài đã rất cố gắng khi dạy chúng ta biết giơ cả má bên phải ra nữa.
Áo choàng là chiếc áo dài người ta mặc cả ngày. Nó cũng giữ ấm cho con người vào ban đêm. Một lần nữa Đức Giêsu lại nhấn mạnhvấn đề khi Ngài nói về việc đưa cả áo ngoài của mình cho ai muốn lấy áo trong. Không có áo ngoài thì con người sẽ trần truồng! Có lẽ Ngài muốn nói rằng người Kitô hữu không chỉ quan tâm đến quyền lợi của mình, nhưng còn cho đi nhiều hơn cả những gì luật công bình đòi buộc.
Lính La-mã có thể bắt những người thường dân phải phục vụ họ. Như vậy, họ có thể yêu cầu một người vác vật nặng đi một dặm - nhưng không được hơn. Đức Giêsu nói rằng: khi anh em bị yêu cầu làm như thế thì hãy đi thêm một dặm nữa. Nếu người Kitô hữu làm những điều quá phi thường, như chúng ta đang nói là "đi thêm một dặm", thì điều đó sẽ có tác dụng thế nào trên người lính La-mã, là người sẽ nghĩ rằng mình có trách nhiệm với hoàn cảnh và con người?
Nó sẽ có tác dụng ra sao trên con người hiện đại, là những người nghĩ rằng họ có trách nhiệm với những hoạt động hay cuộc sống của chúng ta, nếu chúng ta tự quyết định đi thêm một dặm nữa?
Liên quan đến những người hành khất hay những ai đến với chúng ta trong lúc khó khăn: Luật tôn giáo đòi hỏi người Do Thái cho vay mà không đặt lãi. Điều này giúp ích cho những ai gặp khó khăn. Thay vào đó, Đức Giêsu không bảo các môn đệ của mình "cho vay", nhưng là "cho". Dường như Ngài đang mời gọi các môn đệ của mình tập thói quen quảng đại. Nếu chúng ta làm như thế thì hành động của chúng ta sẽ nổi bật lên, biểu hiện cho thứ khôn ngoan thách thức sự khôn ngoan của thế gian.
Chúng ta đã biết nhiều người vượt qua những ranh giới của lòng quảng đại thường ngày. Người già với số tiền trợ cấp mua đồ dùng cho các cha mẹ đơn thân; người thợ ở lại sau những giờ làm việc để giúp huấn luyện những thợ mới mà không cần thêm lương; những luật sư và giáo viên hy sinh thời gian của mình để giúp những người thất nghiệp và ít học...
Hôm nay chúng ta nghe từ sách Lê-vi lời yêu cầu: "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình". Nhưng sách Lê-vi không nói ngươi phải "ghét kẻ thù". Có lẽ đó là điều được thêm vào bởi lòng nhiệt thành quá mức và cực kỳ yêu nước vào thời Đức Giêsu. Tuy nhiên, "người thân cận" lại ám chỉ đến người trong cộng đồng. Đức Giêsu không mời gọi chúng ta sản sinh ra thứ tình yêu dựa trên cảm xúc để dành cho người chúng ta không thích hay thậm chí là ghét. Thay vào đó, Ngài mời gọi chúng ta làm điều thiện cho con người - cho dù người đó là kẻ thù. Ngài nói với chúng ta: ngay cả người ác cũng đối xử tốt với đồng bạn. Vậy chúng ta cũng phải tiến xa hơn trong việc đối xử với tha nhân.
Sau cùng, chúng ta phải trở nên "hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện". Chúng ta không thể thánh thiện như Thiên Chúa, vì thế Đức Giêsu không kêu gọi chúng ta đạt tới kiểu hoàn thiện đó. Nhưng, chúng ta phải tập noi theo tình yêu của Thiên Chúa và loại bỏ những đường lối và những chuẩn mực về yêu thương theo kiểu thế gian. Thiên Chúa yêu cả người tốt lẫn kẻ xấu - chúng ta cũng thế. Thiên Chúa tha thứ cho những người tội lỗi - chúng ta cũng tha thứ cho anh chị em mình. Thiên Chúa đáng tin cậy - chúng ta cũng vậy.
Cùng với giáo huấn này, chúng ta có thể thấy rằng Đức Giêsu không quan tâm đến các môn đệ thiếu nhiệt tình hay nửa vời. Chúng ta cũng không phải là những Kitô hữu chỉ tốt ở nhà và khi tụ họp ở nhà thờ. Không có ranh giới cho tình yêu của người Kitô hữu, vì Thiên Chúa không bị giới hạn hay vạch ra những ranh giới cho tình yêu của Thiên Chúa - một số người bị ở trong phạm vi của tình yêu, còn số khác thì không. Chúng ta phải nhìn vào và bắt chước cách thức yêu thương của Thiên Chúa, chứ không phải cách thức yêu của người ta.
Tôi có một vị thầy dạy thần học luân lý, người chia sẻ với chúng tôi về Bài Giảng Trên Núi. Khi chúng tôi bắt đầu cảm nhận được điều Đức Giêsu đang đòi hỏi chúng tôi thì vị thầy đã thấy nơi chúng tôi sự bối rối và chán nản. Cứ như thể là chúng tôi đang nói: "Ai có thể sống như vậy?". Ông nói với chúng tôi rằng Bài Giảng sẽ đưa chúng tôi đến một lời nguyện rất giản dị và ông đã minh chứng. Ông giơ tay lên không trung, ngước mắt lên với giọng nói làm cho lớp học bên cạnh hoảng hốt, rồi la lớn: "Hãy cứu tôi!". Thế rồi ông nói: "Đó là một lời kinh tuyệt vời để cầu nguyện khi bạn đọc Bài Giảng Trên Núi".
Trở lại với sách Lê-vi, Thiên Chúa dạy Mô-sê nói với dân: "Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh". Có lẽ trong lúc nghe những lời này, người ta muốn làm theo những gì mà vị thầy dạy thần học của tôi dạy chúng tôi về lời cầu nguyện: giơ tay lên cao, ngước mắt lên trời và kêu "Hãy cứu tôi!".
Nhưng sự thánh thiện của Israel không đến từ bất cứ đức hạnh có tính cố hữu và trịch thượng nào, hay chỉ là nỗ lực trong vai trò của con người. Thay vào đó, sự thánh thiện của Israel được hình thành là bởi Thiên Chúa đã thiết lập mối tương quan với họ. Thiên Chúa đã chọn họ, giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ và thiết lập với họ một giao ước. Trong cảnh nô lệ, dân có thể kêu cầu với Thiên Chúa "Xin hãy cứu tôi!"; họ không thể tự cứu lấy mình. Họ cũng không thể tự mình tuân giữ một bộ luật nghiêm khắc về thái độ ứng xử như thế. Nhưng họ không đơn độc - Thiên Chúa đã chọn họ. Họ thuộc về Thiên Chúa và vì thế, nếu họ chịu mở lòng ra thì sự thánh thiện của Thiên Chúa sẽ thanh tẩy họ.
Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã bước vào một giao ước mới với chúng ta. Khi nghe những mệnh lệnh của Bài Giảng Trên Núi, chúng ta có thể giơ tay lên trong sự bối rối và chán nản, hay chúng ta có thể hướng về Đức Giêsu và cất lên lời cầu nguyện - "Xin hãy cứu con!". Đức tin của chúng ta đảm bảo rằng trong mối tương quan với Ngài, chúng ta sẽ có thể làm như Ngài đã làm và những gì lúc này Người hướng dẫn chúng ta: hãy quảng đại với những ai khốn khó; đừng trả thù khi bị xúc phạm; cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta và thậm chí, với ân sủng của Thiên Chúa, hãy tha thứ cho kẻ thù của chúng ta.
Chuyển ngữ Anh Em HV Đaminh Gò Vấp Lm Jude Siciliano, OP
Ngày xưa, Thiên Chúa đã truyền cho ông Maisen nói với dân chúng:”Các ngươi phải nên thánh: TN 7-A25
Ngày xưa, Thiên Chúa đã truyền cho ông Maisen nói với dân chúng:”Các ngươi phải nên thánh vì Ta là Đấng thánh”, vì Israel là dân ưu tuyển của Thiên Chúa nên họ phải nên thánh thì mới xứng đáng với danh hiệu ấy. Ngày nay, qua bí tích rửa tội chúng ta trở thành dân Israel mới, dân thánh của Thiên Chúa, nên Đức Giêsu phán:”Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện”. Đó là mệnh lệnh Đức Kitô đòi buộc chúng ta phải thi hành. Một khi đã trở nên con cái Thiên Chúa, chúng ta phải tìm cách nên giống Ngài.
Phải chăng đây là một thách thức khó khăn ? Thật vậy, chúng ta không thể nào hoàn thiện như Thiên Chúa nhưng Chúa không đòi hỏi chúng ta phải làm điều quá sức vì theo nguyên tắc:”Nemo ad impossibile tenetur”: không ai bị buộc phải làm điều không có thể. Điều Ngài muốn, đó là chúng ta cố gắng tiến gần đến sự hoàn thiện theo sức của mình. Hãy gắng sức thực thi những điều phải làm nhất là trong lãnh vực yêu thương tha nhân.
Trong Cựu ước cũng như trong Tân ước đều có luật yêu thương tha nhân: “Hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi”. Hôm nay, Đức Kitô nói với chúng ta hãy theo gương Ngài, thúc đẩy tình yêu ấy đến mức độ anh hùng: đặc biệt là tha thứ cho kẻ thù và lấy ân báo oán. Như vậy “Các con sẽ là con Cha trên trời, Đấng cho mặt trời chiếu soi kẻ dữ cũng như người lành, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Lv 19,1-2.17-18
Sách Lêvi là bộ sưu tập những khoản luật rất cổ xưa, trong đó các chương từ 17 đến 25 (đoạn được trích đọc hôm nay nằm trong phần này) được gọi là “Bộ luật về sự thánh thiện”.
Tác giả sách Lêvi nhắc nhở cho người Do thái biết rằng họ là dân riêng của Thiên Chúa, dân được ưu tuyển, họ được kêu mời phải nên thánh vì “Thiên Chúa là Đấng thánh”. Lời kêu gọi nên thánh này buộc họ phải sống yêu thương tha nhân như chính mình, tình yêu thương không được giới hạn trong dân tộc mình mà phải lan tỏa đến các dân tộc khác nữa.
Sách Lêvi diễn tả cuộc sống yêu thương theo 2 phương diện:
- Phương diện tiêu cực là “ngươi sẽ không thù ghét anh em ngươi… ngươi sẽ không báo oán, không cưu thù với anh em ngươi”.
- Phương diện tích cực là “ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình ngươi”.
Điều luật này đã được Đức Kitô lấy lại và đưa tới chỗ hoàn hảo là dạy yêu thương cả kẻ thù.
+ Bài đọc 2: 1Cr 3,16-23
Một số người ở cộng đoàn Corintô tự cho mình là kẻ khôn ngoan, có đường lối riêng biệt với những lời hoa mỹ, nên đã gây ra sự chia rẽ trong cộng đoàn.
Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu Corintô nhớ rằng cộng đoàn của họ là đền thờ thiêng liêng có Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động. Vậy phải coi chừng đừng để cho các lý thuyết sai lạc phá vỡ tính hiệp nhất và sự đoàn kết, gây hoang mang bất ổn cho cộng đoàn.
+ Bài Tin mừng: Mt 5,38-48
Đức Giêsu đã khẳng định Ngài đến không phải để phá bỏ Lề Luật và giáo huấn các tiên tri, nhưng đến làm cho nó được hoàn hảo và mới mẻ hơn (Bài Tin mừng tuần trước), Vì thế Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ phải biết yêu thương, gạt bỏ tính thù oán và thay vì lấy ác báo ác thì hãy lấy ân đền oán.
Ngài bắt đầu bằng cách kết án luật công bình tức luật trừng phạt cân xứng:”Mắt đền mắt, răng đền răng”, mặc dầu nó tôn trọng sự công bình chặt chẽ. Người Kitô hữu phải vượt lên trên sự câu nệ lề luật.
Hơn thế nữa, Ngài đòi buộc các môn đệ, không chỉ đừng thù oán, nhưng còn phải yêu kẻ thù và còn làm ơn cho họ nữa. Lý do lòng yêu thương bao la ấy là chúng ta phải noi gương Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời “Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên người công chính lẫn kẻ bất lương”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Hãy sống đời hoàn thiện
I. GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG
Luật yêu thương trong Kitô giáo
a) Trong Cựu ước: Luật cũ Lêvi 19,18 dạy yêu tha nhân. Theo quan niệm của người Do thái, tha nhân là những người đồng chủng, nghĩa là chỉ người Do thái. Còn tất cả mọi người khác là ngoại bang, là kẻ thù, không được thương mà cũng không được giúp.
Trong luật không dùng tới chữ “ghét” (ghét thù địch) song dễ hiểu như vậy. Việc ghét thù địch này suy diễn ra tữ những bản văn khuyên xa tránh dân ngoại (Đnl 20,13-17; 23,4-5; 25,17-19). Người Do thái từ chối mọi liên đới với người không cắt bì, vì cho rằng họ không có bổn phận gì về công bằng với người ngoại. Có thể đánh lừa, ăn trộm, mà không phải áy náy gì hết.
b) Trong Tân ước: Đức Giêsu đã tuyên bố Ngài đến không phải để phá bỏ luật cũ nhưng đến để kiện toàn nó, làm cho nó nên hoàn hảo hơn. Vì thế, theo giáo huấn của Đức Giêsu về luật yêu thương tha nhân, thì sự bao dung đại lượng còn phải đi tới chỗ yêu thương thù địch nữa.
Luân lý của người Do thái xưa chỉ buộc yêu thương những người gần gũi, nghĩa là những người đồng chủng, đồng bào, đồng tín ngưỡng với mình. Nhưng nay Đức Giêsu dạy phải yêu thương hết mọi người, vì mọi người là anh em với nhau như người ta thường nói:”Tứ hải giai huynh đệ”: bốn bể anh em một nhà.
2. Luật Talion (luật báo thù)
Ngày xưa dân Do thái cũng như dân ngoại đối xử với nhau quá mức trong việc trả thù. Ví dụ: Cain báo thủ 7 lần, Lamek báo thù 70 lần 7 (St 4,15; 4,17-24): vì bị thương, ta giết một người; ta trầy da, một nam nhi toi mạng (Kn 4,23-24).
Nhưng khi luật Talion ra đời, luật này qui định một hình phạt tương đối với thiệt hại đã gây ra.
Đức Giêsu khởi sự bằng cách trích dẫn luật cổ nhất thế gian: mắt đền mắt, răng đền răng, luật ấy gọi là Lex talionis (luật báo thù). Nó xuất hiện trong bộ luật cổ nhất gọi là luật của Hammurabi, vị hoàng đế trị vì Babylon từ năm 2285-2242 TC.
Luật Hammurabi phân biệt cách đối xử kỳ lạ giữa người quí phái và công nhân: nếu một người gây cho người quí phái mất con mắt thì người ấy sẽ phải mất một mắt. Nếu người ấy làm thương tật người quí phái thì người ta sẽ làm thương tật người ấy. Nếu người ấy làm cho người nghèo mất một mắt hoặc phá hoại một tứ chi của người nghèo, người ấy phải trả một mina bạc… Nếu người nào làm cho người ngang hàng gẫy răng, thì người ta cũng làm cho người ấy rụng lại một răng. Nếu người nào làm một người nghèo gẫy một răng thì người ấy phải trả một phần ba mina bạc ! Nguyên tắc thật rõ ràng và rất đơn giản: nếu ai làm cho người khác bị thiệt hại điều gì thì người ấy bị thiệt hại tương đương.
Luật ấy trở thành một phần nhỏ của đạo đức Cựu ước. Trong Cựu ước luật ấy được đề cập không dưới ba lần:
“Còn nếu có sự thiệt hại chi , thì ngươi sẽ lấy mạng đền mạng, lấy mắt đền mắt, lấy răng đền răng, lấy tai đền tai, lấy chân đền chân, lấy phỏng đền phỏng, lấy bầm đền bầm, lấy thương đền thương”(Xh 21,23-25).
“Khi người nào làm thương tích cho kẻ lân cận mình, thì người ta phải làm thương tích cho người đó lại như chính người đó đã làm, gẫy đền gẫy, mắt đền mắt, răng đền răng. Người ta sẽ làm cho người ấy đồng một thương tích như người ấy đã làm cho người khác”(Lv 24,19-20).
Chúng ta nhận thấy rằng luật Talion đã có sự tiến bộ. Trước hết luật này có ý hạn chế luật báo thù. Luật qui định chỉ người gây thương tích mới bị hình phạt và hình phạt không được thái quá, mà chỉ tương đương với sự thiệt hại mà người ấy đã gây ra mà thôi.
Thứ đến, luật này cũng không cho cá nhân nào quyền tự trả thù, dù chỉ là một cái tát. Luật bao giờ cũng là một hướng dẫn cho quan án trong việc khoản phạt cho bất cứ hành động bất công hay vũ phu nào.
Sau cùng, luật không được áp dụng theo nghĩa đen vì có sự chênh lệch, ví dụ răng tốt hay răng xấu, mắt tốt hay mắt xấu. Nên về sau sự thiệt hại gây ra được định theo giá tiền. Và luật Do thái (Baba Kamaa) đã ấn định cẩn thận cách đánh giá sự thiệt hại.
II. HÃY YÊU THƯƠNG KẺ THÙ
Đức Giêsu đã phán:”Các con cũng đã nghe dạy rằng:”Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch”. Còn Thầy, Thầy bảo các con:”Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”(Mt 5,43-44).
1. Kẻ thù là ai ?
Chắc Đức Giêsu không có ý nói kẻ thù là kẻ đang gây gỗ, lăng nhục, làm hại hay chém giết ta, nhưng kẻ thù đây có một biên độ và ý nghĩa rộng lớn hơn nhiều, nghĩa là bao giờ tất cả những ai cố tình làm hại ta về mọi mặt như phẩm giá, của cải vật chất, gia đình thân thuộc mà ta biết rõ. Như thế có nhiều hạng, nhiều cấp bậc kẻ thù, nên bảo ta yêu thương tha thứ cho họ không đến nỗi quá khó khăn hay lực bất tòng tâm.
Chúa dạy ta yêu kẻ thù
Dù sao theo bản tính hư hèn yếu đuối thì việc yêu kẻ thù luôn gây cho ta nhức nhối khó chịu vì nó đi ngược lại tình cảm thông thường. Nó đòi hỏi ta phải có một sự cố gắng không ngừng.
Để thực hiện luật yêu thương này, Đức Giêsu đơn cử ra hai việc thực hành:
a) “Hãy làm lành cho những kẻ ghét các con”. Ở đây muốn nói: Tình yêu thương tha nhân không phải thôi không giận hờn, không báo oán nữa nhưng phải tỏ ra bằng hành động cụ thể qua những cử chỉ rõ ràng là những việc lành như: giao tiếp, giúp đỡ, bác ái, cầu nguyện…
b) “Và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ”. Đây là thái độ biểu lộ tình yêu tha nhân cách tích cực: lấy điều lành đền đáp lại điều dữ.
Ta có bổn phận phải thương yêu bạn hữu. Song chỉ yêu bạn thì đâu có gì đáng thưởng. Vì cho được thưởng đời đời thì nhân đức phải bắt nguồn từ suối siêu nhiên. Vì thế:
Làm sự dữ để trả ơn lành là ma quỉ. Làm sự lành để trả ơn lành là nhân loại. Làm sự lành để trả sự dữ là Thiên Chúa
Vậy người Kitô hữu không được đứng ở chỗ nhân loại, mà phải tiến xa hơn đến chỗ Thiên Chúa. Như thế mới xứng đáng là con cái Chúa, Đấng làm ơn lành cho kẻ ghét Ngài.
Truyện: Tổng thống Nelson Mandela
Ông Nelson Mandela đã trải qua 27 năm trong nhà tù Nam Phi. Sau cùng, khi ông được phóng thích, ông đã có mọi lý do để cảm thấy chua cay, và tỏ ra quyết tâm trả thù những người đã cướp đoạt tự do của ông một cách bất công. Thay vì như thế, ông tỏ ra tươi cười và cố gắng hòa giải với những nhà lãnh đạo của chế độ đã bắt giam ông. Do đó ông trở thành viên đá góc tường của nước Nam Phi mới. Nếu ông nuôi dưỡng sự cay đắng uất hận, ai biết được điều gì đã xảy ra ?
Trong cuốn tiểu sử tự thuật “Hành trình đến tự do” (1994), ông nói với chúng ta:
“Tôi biết rằng dân chúng chờ đợi tôi nuôi dưỡng sự giận dữ đối với người da trắng. Nhưng tôi đã không làm thế. Trong nhà tù, sự tức giận của tôi với người da trắng giảm xuống, nhưng lòng thù ghét hệ thống xã hội đã tăng lên. Tôi muốn thấy đất nước Nam Phi thấy tôi yêu thương cả những kẻ thù của tôi trong khi tôi thù ghét hệ thống đã khiến chúng ta chống đối lẫn nhau. Tôi đã thấy sứ mạng của tôi là rao giảng sự hòa giải hay chữa lành những vết thương lâu đời và xây dựng một nước Nam Phi mới” (McCarthy, Chúa nhật và lễ trọng năm A, tr 359-360).
Nhiều người đã thực hiện
a) Học thuyết của Khổng Tử: Trong vấn đề cư xử, học thuyết của Đức Khổng Phu Tử còn giống luật báo oán của Cựu ước. Ngài dạy học thuyết:”Dĩ trực báo oan”. Nhưng sau này, các đồ đệ của ngài muốn đi xa hơn, họ đã thêm vào học thuyết của ngài câu:”Dĩ đức báo oán".
b) Đức Phật Thích Ca: Ngài tìm phương thế giải thoát con người ra khỏi vòng đau khổ. Ngài chủ trương giáo thuyết TỪ BI, lấy từ bi làm phương châm cho mọi hoạt động, mà đã từ bi thì phải hỉ xả, do đó, ngài không chấp nhận luật công bình, mà chỉ chấp nhận luật tha thứ. Ngài nói:”Lấy oán báo oán, oán ấy chập chồng. Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan”.
c) Ông Gandhi nói:”Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”. Ông đã dùng thuyết bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn độ khỏi ách thống trị của người Anh.
d) Mục sư Luther King: Trong tác phẩm của ông “Chỉ có một cuộc cách mạng”, ông nói:”Trong Tân ước, chúng ta thầy từ “Agapè” được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nơi tâm hồn con người. Khi vươn lên đến một tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, cũng không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của họ, chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ”.
Đó chính là ý nghĩa lời Đức Giêsu: “Các con hãy yêu thương kẻ thù”. Phần tôi, tôi sung sướng vì Ngài đã không nói:”Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em” bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm nổi. Thiện cảm là một xúc cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người đang ném bom vào gia đình nhà tôi. Tôi không có thiện cảm với người bóc lột tôi. Tôi không có thiện cảm với người đè bẹp tôi dưới sự bất công. Không, không thể có một thiện cảm nào đối với người đêm ngày đe dọa giết tôi. Nhưng Đức Giêsu nhắc tôi rằng tình yêu còn lớn hơn thiện cảm, rằng tình yêu là thiện chí biết cảm thông, có tính sáng tạo, cứu độ đối với hết mọi người”.
Phải chăng tha thứ là nhu nhược ?
Giới răn của Đức Giêsu “Hãy yêu thương kẻ thù” là một sự từ bỏ triệt để bạo lực. Thay thế tình yêu cho thù hận là một việc khó khăn nhất trên đời. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý nghĩa.
Là những Kitô hữu, chúng ta đứng về phái bất bạo động. Tuy nhiên đó không phải là một chọn lựa sự nhu nhược hay thụ động. Chọn lựa bất bạo động có nghĩa tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là sức mạnh của chiến tranh, vũ khí và hận thù… Chúng ta phải cố gắng dùng điều tốt nhất để đáp lại điều xấu nhất.
Là những Kitô hữu, chúng ta phải cố gắng học theo lòng quảng đại của Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ, không đòi trả thù và oán hận chống lại người khác. Nếu các Kitô hữu không cố gắntg bắt chước tình yêu không phân biệt của Thiên Chúa, họ sẽ không tốt hơn những người khác.
Chính sự tha thứ sẽ giải phóng con người, còn nếu nuôi lòng hận thù báo oán thì con người sẽ chuốc lấy sự đau khổ. Một người vô danh đã nói rất đúng:”Khi chúng ta ghét kẻ thù là chúng ta cho họ quyền áp đảo chúng ta – quyền lực này xâm chiếm giấc ngủ chúng ta, khiến chúng ta bị tăng huyết áp và đe dọa luôn cả sức khỏe lẫn hạnh phúc của chúng ta. Kẻ thù của chúng ta hẳn sẽ nhảy múa vui mừng nếu họ biết được sự căm ghét đã xâu xé chúng ta đến thế. Lòng căm ghét của chúng ta chẳng gây thương tổn cho họ chút nào cả. Nó chỉ khiến chúng ta ngày đêm bị rơi vào hỗn loạn địa ngục”.
Nói cách khác, viên đạn căm thù chỉ có thể làm thương tổn kẻ thù chúng ta sau khi đã xuyên qua thân xác chúng ta trước. Người Hy Lạp cổ thường ví von như sau:”Người khôn ngoan thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác”.
Truyện: Ông Hammelmann tha thứ
“Tôi đã bị bắt, cảnh sát đã tìm thấy tôi. Tôi vốn là con người hiếu sát. Tôi đã giết bà Hammelmann và tôi cũng bắn chết luôn 4 người con của bà, tôi thấy họ nằm chết trên vũng máu.
Bây giờ tôi bị giam trong khám của Đức. Tôi đã ở trong khám trải qua 20 năm. Sau khi cảnh sát bắt được tôi và tôi bị đưa ra tòa; quan tòa đã tuyên án:”Anh đã làm một việc vô cùng tàn bạo, anh phải ngồi tù 20 năm”.
Đang khi ở trong tù, tôi có nhận được một lá thư. Đây là một bức thư hết sức lạ lùng của ông Hammelmann, ông đã viết thư này cho tôi vì ông đã nhận được một tin là chính quyền Polish sẽ không cho phép tôi sau khi được tự do trở về quê hương của tôi là Poland. Ngay cả chính quyền Đức cũng đã nói rằng:”Chúng tôi không muốn anh sống tại nước Đức”.
Bức thư của ông Hammelmann viết:”Tôi tha thứ cho anh về việc anh giết vợ và 4 con tôi. Tôi cũng đang vận động với chính quyền Đức để họ cho phép anh được sống tại Đức. Tôi đã nói với chính phủ Đức là anh có thể ở trong nhà tôi và tôi sẽ giúp anh sống một cuộc đời lương thiện”.
“Tại sao tôi lại muốn giúp đỡ anh ? Tại sao tôi có thể tha thứ cho anh về tội anh tàn sát gia đình tôi ? Tôi có thể làm điều này vì Đức Chúa Trời đã làm một điều lạ cho tôi. Ngài đã ban cho tôi Thánh Linh của Ngài. Thánh Linh của Đức Chúa Trời bây giờ dẫn dắt đời sống tôi và Ngài ban thêm sức cho tôi để tôi có thể tha thứ cho anh”.
Bây giờ tôi biết được rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời phải có một quyền năng siêu việt. Ngài đã cất mối tử thù khỏi lòng một người và ban cho ông ta một tấm lòng muốn giúp đỡ tôi, mặc dầu tôi đã giết vợ và 4 đứa con của ông ta (Thánh Kinh Nguyệt san, số 367, tháng 8/1969, tr 16).
III. HÃY SỐNG ĐỜI HOÀN THIỆN
Trong bài đọc 1, Thiên Chúa phán với ông Maisen:”Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Israel và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các người, Ta là Đấng thánh” (Lv 19,1-2). Dân Do thái là dân thánh, là dân ưu tuyển của Thiên Chúa, cũng phải sống thánh thiện mới xứng đáng là dân riêng của Ngài.
Chúng ta là dân Israel mới, nhờ bí tích rửa tội, chúng ta trở thành dân thánh của Thiên Chúa. Vì vậy, trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng khuyên bảo chúng ta:”Các con hãy nên hoàn thiện, như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Chúng ta biết chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng hoàn thiện, tốt lành vô cùng, chúng ta không thể trọn hảo như Ngài được. Nhưng chúng ta phải nên trọn lành như ý Ngài muốn, theo mẫu gương thánh thiện của Ngài, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ.
Vì vậy, Đức Giêsu khuyên ta phải trọn lành bằng cách yêu thương thù địch cũng như yêu thương bạn bè, đừng ăn miếng trả miếng, đừng sống theo nguyên tắc:”Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”(Tục ngữ) Tình thương trọn lành không nên phân biệt đối tượng và không có ranh giới.
Truyện: Tha thứ cho kẻ thù.
Một ông bố giầu có, cảm thấy già yếu gần đất xa trời, bèn gọi ba đứa con trai lại chia gia tài đồng đều cho chúng, duy còn lại một viên kim cương gia bảo quí giá không thể chia cắt được.
Ông ta giải quyết bằng cách nói với các con rằng:”Ta sẽ trao viên kim cương cho đứa nào thực hiện được một việc lành tốt đẹp nhất. Vậy các con hãy ra đi và thực hiện cho được điều kiện đó”.
Ba đứa con lên đường và ba tháng sau trở về. Người con cả nói với bố:
Một người ngoại quốc đã giao toàn bộ tài sản cho con và con đã thủ tín trả lại đầy đủ.
Người cha tuyên bố:
Con đã làm phận sự của con rất tốt đẹp.
Đến lượt đứa con thứ trình:
Thưa cha, con đã xả thân cứu được một em bé sắp chết đuối.
Người cha khen anh ta. Rồi quay sang nhìn đứa con út . Cậu ấp úng bẩm:
- Thưa cha, trong một cuộc hành trình con thấy địch thù con đang ngủ say bên một bờ vực sâu. Con nghĩ con có thể xô nó xuống vực dễ dàng, nhưng con không làm. Trái lại con đánh thức nó dậy và cứu nó.
Nghe xong, người cha ôm hôn cậu út và tuyên bố:
- Viên kim cương gia bảo thuộc về con, vì con đã làm một việc lành vĩ đại biểu lộ một tấm lòng nhân ái chân thực là yêu thương tha thứ cho kẻ thù mình.
“Các con cũng đã nghe dạy rằng: 'Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch'. Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con, để các con nên con cái Cha các con ở trên trời”. (Mt 5, 38-48).
Quả thật con người sống ở trên đời phức tạp lắm! Từ giầu có cho đến nghèo khổ; từ trí thức: TN 7-A26
Quả thật con người sống ở trên đời phức tạp lắm! Từ giầu có cho đến nghèo khổ; từ trí thức cho đến dốt nát; từ tàng tàng sống ở ngoài hay khùng khùng sống ở trong tù; tất cả đều có thể trở thành phiến loạn nếu sống không có Tình Yêu của Chúa. Nhờ có Tình Yêu của Chúa, là Kitô hữu sống cuộc đời đạo hạnh và mẫu mực, là tất cả mọi phẩm trật trong Hội Thánh biết trách nhiệm và bổn phận của mình, sẽ là Ánh Sáng là đuốc soi cho tất cả mọi người chung quanh. Ngay cả những người sống chung quanh chúng ta họ chẳng biết Chúa chúng ta là ai, nhưng vì cung cách sống và giữ Luật Chúa của mình, khi gặp biến loạn (bất cứ mọi biến loạn gì) hầu như họ sẽ cùng với mình để giúp một bàn tay làm những việc có hữu ích chung cho xã hội.
Phúc Âm tuần này Chúa dậy chúng ta những điều thật khó làm, nhưng nếu chúng ta hoàn toàn phó thác vào Chúa, để Chúa dìu dắt cuộc đời của chúng ta, thì chẳng có gì là khó cả!. Bởi nếu chúng ta sống một cách kiêu ngạo là dùng sức và tài năng riêng của mình, mà chẳng cần đến sự trợ giúp của Chúa, thì lẽ đương nhiên chúng ta sẽ thất bại; vì sức người có giới hạn; vì tiền của cũng chỉ có giới hạn mà thôi! Ngay cả sức khỏe của chúng ta cũng không thể kéo dài cho được. Bởi thế những điều Chúa dậy chúng ta thật là hay. Thấy khó mà chẳng khó. Thấy dễ mà chẳng dễ đâu thưa anh chị em!. Tất cả mọi sự chỉ trở nên dễ dàng là chúng ta phải kết hiệp với Chúa, thì tất cả mọi điều sẽ trở thành dễ dàng và mọi quyết định sẽ trở nên tốt đẹp, thánh thiện, được nhiều người đồng ý với những ý kiến của chúng ta. Điều này chúng ta đã được đọc, nghe, và thấy nhiều, qua tất cả những quá khứ mà các Thánh đã làm, các ngài đã làm được, và đã thành công trong những chiến trận. Các Ngài đã dùng cờ xí của Đức Mẹ. Các Ngài đã cầu nguyện thật nhiều khi ra chiến trường, mặt đấu mặt, tuy dù lính của phe ta rất ít và rất yếu. Nhất là câu chuyện của một thành trì nào đó rất kiên cố, rất khó có thể thắng được, nhưng nhờ vào lòng tin tưởng thật đậm sâu của những người lính, họ từng hàng một đi vòng vòng quanh rất thành khẩn, miệng râm ran với lời ca tiếng hát câu kinh, mà cả thành trì ấy với sức mạnh của Thiên Chúa, đã tự nhiên sụp đổ ngay trước mắt mà chẳng gây thiệt mạng cho một người lính nào.
Chúa dậy chúng ta là phải kiên nhẫn, nhịn nhục, khiêm nhường, thông cảm, nhẫn nại, khiêm tốn, giải hòa, đến tha thứ, xóa bỏ hận thù, và sau cùng là yêu thương kẻ thù của chúng ta. Như chính Chúa Giêsu, tông đồ của Ngài, cùng tất cả mọi tín hữu, đã bị kẻ thù hành hạ và giết chết, nhưng Chúa dậy chúng ta là hãy tha thứ cho họ vì chúng không biết việc chúng làm?. Chúng ta thử hỏi nếu sức người thì ai mà chịu được những tra tấn dã man của con người chế ra?. Và cái chết thật từ từ để làm chúng ta lung lạc đức tin vào Chúa? Nếu Chúa không ban thêm cho chúng ta sức để chịu đựng và lòng tin thật xác tín của mọi người là chỉ trong giây lát, các Thánh sẽ được về Trời diện kiến Thánh Nhan Chúa!?. Chúa dậy chúng ta chớ phải lo lắng để nói gì, vì Chúa sẽ ở cùng chúng ta cho đến hơi thở cuối cùng.
Vậy có phải cuộc đời của chúng ta cần phải có Chúa luôn hiện diện và hiện hữu, vì Chúa là Áo Giáp và là sự Bảo Toàn Linh Hồn đời đời của chúng ta?. Vâng, chính thật là vậy! Vì chỉ có sức mạnh của Thiên Chúa ở cùng, chúng ta mới có thể làm tất cả mọi sự, theo Thánh Ý Ngài. Không điều gì gọi là dễ nếu chúng ta không tập. Chúng ta ngại đau đớn ư? Chúng ta ngại nhục nhã ư? Chúng ta ngại bị chê cười ư? Xin cho được hỏi, ai bằng Thiên Chúa? Ngài là Vua của Trời Đất mà Ngài lãnh nhận mọi ê chề nhục nhã và cho đến chết. Chết trên Thập Giá mà chỉ có miếng vải quấn người? Chúng ta là người trần mắt thịt mà còn cảm thấy cái chết của Chúa thật nhục nhã, thật đê hèn, và thật nhát đảm. Đó có phải là lý do mà cho đến ngày hôm nay vẫn ít người chịu theo Chúa?. Vì Thiên Chúa của họ phải thật uy hùng, lừng lẫy, mạnh bạo, như một bạo Chúa thì mới xứng đáng cho họ tôn Chúa lên làm vua của họ. Còn Chúa của chúng ta ư? Thật bất xứng cho họ chẳng những chẳng xứng đáng cho họ tôn lên làm vua thì hà huống chi họ tôn làm Chúa của họ.
Thưa việc Chúa dậy chúng ta bắt chước theo gương của Ngài là những sự điên rồ đối với con người trần gian thì không có thể, nhưng đối với Thiên Chúa sự điên rồ ấy mới giúp chúng ta đến được Quê Trời. Vì cái khôn của con người là những hão huyền, là điều không tưởng. Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta còn có rất nhiều người theo hai đạo; đạo Chúa Trời và đạo Tiền Tài Công Danh Sự Nghiệp. Đạo Tiền thì được nhiều người thiết tha hơn, bằng chứng là rất ít ai từ chối làm việc OT (thêm giờ). Càng OT nhiều thì càng nhiều tiền; tiền mà ai lại dám đi chê là người khùng nhất trần gian. Có Tiền nhiều sẽ mua được tất cả mọi thứ trên trần gian, trừ Nước Trời. Nhưng đến với Chúa ư!? Rõ thật khổ vì một tuần lễ Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta đến để Thờ Phượng Chúa ban cho chúng ta một tuần lễ sức khỏe, công ăn việc làm, cái ăn cái mặc dư đầy, và muôn vàn hồng ân những gì chúng ta có cảm nhận được và những gì chúng ta không cảm nhận được như: hơi thở, sức khỏe, gia đình vợ chồng con cái hạnh phúc, an bình, v….. Mà chúng ta lại ì xèo làm biếng muốn ở nhà để ngủ vì cả tuần cầy quá mệt???. Ngay cả tội nghiệp Chúa biết bao vì cái xác chúng ta mang đến nhà thờ mà một câu kinh, một cái làm dấu chúng ta cũng chẳng làm cho xong, và giờ Linh Mục giảng thì chúng ta lại ngủ; ngủ xong rồi thì chúng ta cứ lên đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa.
Quả thật ai từ chối Chúa để có được tất cả mọi sự trên trần gian mà mất linh hồn đời đời thì quả là điên rồ …..???? Vì có sức mạnh và Tình Yêu của Thiên Chúa từng ngày trong cuộc đời là chúng ta mới có tất cả! Cả đời này và cả đời sau. Xin tất cả hãy nên được điên rồ như Chúa của chúng ta. Amen.
Đất nước hòa bình, gia đình hạnh phúc, luôn là một khát vọng chính đáng của mỗi chúng ta: TN 7-A27
Đất nước hòa bình, gia đình hạnh phúc, luôn là một khát vọng chính đáng của mỗi chúng ta. Gọi là khát vọng chính đáng, bởi vì vẫn luôn là điều phải vươn tới đỉnh tuyệt hảo, phải nỗ lực tìm kiếm , và phải đánh đổi bằng cái giá hy sinh của mỗi người. Bằng không, có thể là chúng ta đang bằng lòng với một loại hòa bình ảo, hạnh phúc ảo.
Hòa bình đất nước theo kiểu “khẩu phật tâm xà” hay “cái bắt tay người nầy là cái tát tai người kia” đang nhan nhản trên trường chính trị, đang là đường lối của những chủ trương mang nhản hiệu “xây dựng hòa bình”, không phải là hòa bình ảo đấy sao? Thời gian hòa bình là thời gian để rút kinh nghiệm, để ngẫm nghĩ, để nghiên cứu và để sản xuất những loại vũ khí tối tân hơn cho công cuộc phòng thủ, hay chuẩn bị cho một kế hoạch mưu hại mới …là thời gian hòa bình đúng nghĩa đấy sao?
Sự gian tà giả dối ảnh hưởng không ít đến cách sống hạnh phúc của các gia đình. Thiên đàng tình yêu, thiên đàng hạnh phúc nhường chỗ cho một địa ngục của những oán thù: vợ chồng xem nhau như thù địch, con cái oán trách cha mẹ, cha mẹ tìm cách tẩy chay con cái. Thế mà, người ta vẫn đang ung dung diễn vở kịch hạnh phúc trước mắt mọi người. Để mà chi? Có phải để chứng tỏ rằng gia đình hạnh phúc trong một đất nước hòa bình đấy sao?
Mỗi ngày có bao nhiêu tin nóng về những vụ thanh toán nhau vì thù tình, thù nghĩa, thù nợ nần, thù ảnh hưởng, thù danh vọng… và cũng không thiếu những chuyện kinh hoàng hơn: thanh trừng nhau vì tranh nhau miếng ăn, mảnh đất, chiếc ghế, chiếc lọng…
Ấy là chuyện đời, sòng phẳng như “mắt đền mắt, răng đền răng” hoặc “ác giả, ác báo”. Có phải vì không mảy may dính bén chút luân thường đạo lý chăng? Hay đã có thấm nhuần, nhưng người đời cố tình gác chuyện đạo đức sang một bên để tính cho được những lợi lộc trần thế?
Còn chuyện đạo, thiết tưởng để có những gia đình hạnh phúc, đất nước hòa bình, cần thiết có những tâm hồn bình an đích thực. Và bình an đích thực chỉ có được khi người có cái tâm đạo vừa ngay chính thật thà, lại vừa khoan dung độ lượng. Tất cả đều tóm gọn trong luật yêu thương. Sống trong tình yêu thương, khoan dung, thứ tha là sống trong bình an thật .
Các Kitô Hữu Công Giáo dịp đầu xuân Tân Mão năm nay, có món quà thật quý giá của Chúa Giêsu ban tặng, đó là: tám mối dẫn đến phúc thật, dẫn đến Nước Hòa Bình, luật yêu thương tha nhân, luật tôn trọng nhân quyền cho xứng với nhân phẩm đã trải ra mấy tuần liền, như một bữa tiệc Xuân thịnh soạn.
Và Chúa nhật hôm nay, bữa tiệc Lời Chúa lại thêm một món ngon lạ lùng: “Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,44-45).
Như một lời suy niệm nhỏ, như một quyết tâm nhỏ khi tôi nghe các em thiếu nhi hát:
“Yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ thù. Ai khinh ghét ta là người ta yêu nhất. Không hận thù mà tìm nhau nên thuận hòa. Luôn tha thứ và yêu người như yêu ta.
Trên thập giá, Chúa xin tha cho quân dữ. Trong cuộc đời ta thương tha kẻ thù ta”.
Vâng, các em hát mà người lớn giật mình, vì việc yêu nhất, cầu nguyện và làm ơn cho người xúc phạm mình, làm tổn thương mình, bách hại mình là một giáo lý lạ lung nhất. Chính điều lạ lùng ấy là điều kỳ diệu của bản tính Thiên Chúa Trọn lành, mà Thiên Chúa muốn con cái ngài mặc lấy, nhận lấy như một quà tặng để nên trọn lành.
Bởi vậy, kết thúc bữa tiệc Xuân Trên Núi, Chúa Giêsu nói: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng Trọn Lành” ( Mt 5, 48 ).
Bữa tiệc Lời Chúa kéo dài mấy tuần liền là quà tặng đầu xuân để mỗi tín hữu chiếm hữu một Mùa Xuân Vĩnh Cửu, một Đất Nước Hòa Bình Thiên Thu Vạn Đại, Nước Thiên Chúa.
Khác với cái hòa bình ảo trong một thế giới thực, đời sống các tín hữu phải là một đời sống hòa bình thực trong một thế giới tạm thời, chóng qua, nếu không nói là một thế giới ảo. Hòa bình thật là sự bình an của những người có lòng ngay chính thật thà, có khát vọng vươn tới chân lý, có cố công sống đời sống của một tạo vật thượng đẳng có linh hồn, có trí khôn và có nhân tính mặc lấy lòng nhân hậu của Thiên Chúa.
Bình an chỉ có nơi tâm hồn không chấp nhất nhưng cảm thông, không trách cứ nhưng tìm cách điều chỉnh cái xấu cho nên tốt, không giận hờn bỏ mặc nhưng khoan dung tha thứ, không xem ai là kẻ thù nhưng cố công xây dựng bình an trong lòng tha nhân, không mưu hại người mưu hại mình nhưng hy sinh cầu nguyện cho họ bỏ đường gian ác mà quay về chính lộ.
Nhìn vào cuộc sống thực tế, và gần hơn, thách thức lớn nhất đối với hành trình đức tin của các tín hữu, công giáo, có thể nói, không phải là Đức Tin mà là nỗi day dứt về đức Ái. Những tưởng, các gia đình công giáo phải thật sự có hạnh phúc nhờ liên kết với nguồn tình yêu hiến thân là Chúa Giêsu Kitô, nhưng tại sao còn có những người xem vợ xem chồng mình như kẻ thù, rồi đối xử với nhau cách không còn tình nghĩa: đánh đập nhau, chửi bới, mắng nhiếc, xua đuổi, cách tàn nhẫn?
Tôi còn nhớ câu chuyện vui: “Có đám tang đi qua, một chị kia nói: “thấy chồng người ta chết mà ham, thằng mắc dịch nhà mình nó hổng chết mà còn nhậu dài dài, còn đập vợ đập con nữa chứ”.
Lại chuyện ông đánh vợ la toáng lên rằng: “sao tôi lại cưới nhằm mụ vợ rất ngăn nắp ở phòng ngủ, lịch sự ở nhà bếp, và rất là lãng mạn ở phòng khách thế nầy chứ? Tôi hỏi bà có còn xem tôi là gì nữa không?”.
Chuyện hàng xóm láng giềng nơi những người công giáo, không lẽ cũng mất lòng nhau, gây gỗ nhau, tranh chấp nhau như cơm bữa được sao? Cũng người nầy kiện tụng người kia, người kia âm mưu hại người nọ được sao? Thế thì làm sao mà “người ta thấy việc các con làm mà ngợi khen Cha các con trên trời được”?
Lời Chúa hôm nay xoáy mạnh vào tâm hồn mỗi người, mỗi gia đình chúng ta: “Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,44-45). Đời sống hôn nhân và gia đình là cơ hội, là môi trường tốt nhất để con người sống tình yêu thương như Chúa đã yêu, sống lòng khoan dung tha thứ như Chúa đã khoan dung tha thứ.
Vì thế, thiết nghĩ, đừng xem nhau như kẻ thù, nhưng hãy giúp nhau tránh lầm đường lạc lối nhờ chân lý, giúp nhau nên hoàn thiện nhờ tình yêu, giúp nhau vượt qua cuộc hành trình dương thế nhờ niềm hy vọng, và giúp nhau sở hữu một bình an đích thực nhờ lòng khoan dung tha thứ…
Các Gia đình Công giáo được sống trong Giáo Hội “duy nhất thánh thiện công giáo và tông truyền” còn là niềm hạnh phúc lớn lao, khi mỗi tín hữu được sống trong một mái nhà chung chan chứa bình an thật của Thiên Chúa. Và có thể gọi Giáo Hội, mái nhà chung ấy là Nước Thiên Chúa tại trần gian nầy.
Lạy Chúa, xin cho chúng con lòng yêu thương và khoan dung của Chúa, để bắt đầu từ tâm hồn bình an trong Chúa, chúng con xây dựng gia đình hạnh phúc, làng xóm an hòa, giáo xứ hiệp nhất, đất nước yên vui và một thế giới chứa chan tình Chúa tình người: Một Nước Thiên Chúa hiển linh trên trần gian nầy, mọi người ngợi khen Chúa trọn lành, trọn hảo. Amen.
Trong một quán ăn, một người đàn bà cúi đầu đọc kinh trước khi ăn, "Con cám ơn Chúa: TN 7-A28
Trong một quán ăn, một người đàn bà cúi đầu đọc kinh trước khi ăn, "Con cám ơn Chúa vì những của ăn này." Một em bé thấy thế liền hỏi mẹ nó: "Bà ta làm gì thế?" Bà mẹ cắt nghĩa, bà ta cám ơn Chúa vì của ăn là tặng ân Chúa ban. Em bé nói: "Chúng ta sẽ có đồ ăn và chúng ta sẽ ăn dù chúng ta có đọc kinh, cám ơn Chúa hay không." Bà mẹ tiếp: "Có lẽ như thế, nhưng đồ ăn sẽ ngon hơn khi chúng ta biết ơn."
Trong Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu nói: "Hãy yêu kẻ thù... Làm ơn cho kẻ ghét các ngươi... Người ta xin thì hãy cho... Hãy hiền từ như Chúa vẫn hiền từ... Đừng phán đoán... Đừng kết án. Câu hỏi đến với chúng ta là chúng ta nghe những lời đó như là một lối sống quá khó khăn chúng ta phải theo, hay là chúng ta cúi đầu dâng lời cảm tạ "Con cám ơn Chúa đã cho chúng con những giáo huấn làm cho đời sống chúng con có ý nghĩa hơn"?
Nếu chúng ta không được bằng an, chúng ta phân vân đời vô vị, không phải đường lối Chúa phải đổi mà chính chúng ta phải thay đổi.
Chúa dạy chúng ta một công thức để sống tốt, liệu chúng ta đón nhận với sự biết ơn. Và không có cách cám ơn nào tốt hơn là sống giáo huấn đó và chia sẻ với người khác.
Một y tá đến thăm bệnh nhân tên là Tom mới vào bệnh viện. Tom bệnh rất nặng và cô y tá cố gắng làm mọi cách cho bệnh nhân dễ chịu. Nhưng người đàn ông rất bực tức nóng nảy, đáp lại sự chăm sóc của cô bằng những lời chửi thề. Đau lòng hơn nữa là cô y tá biết ông ta không sống được bao lâu nữa. Cô chỉ biết cầu nguyện cho ông ta và làm mọi việc phải làm. Cô chớp lấy cơ hội nói với ông là Chúa nhân từ và tốt lành. Ông ta phun ra những lời chửi rủa và dùng hết sức còn lại ông ta tát vào mặt cô y tá. Lập tức, những người bệnh nhân chung quanh tiến đến bảo vệ cô y tá. Cô ta nói với họ: "Xin về chỗ. Nếu y tá trưởng thấy thì Tom sẽ bị trừng phạt nặng!" Mọi người lui về yên lặng. Tom đang thở vội vàng như những hơi thở cuối. Cô y tá cầu nguyện tha thiết như chưa bao giờ bằng. Cô nhìn Tom mỉm cười và nói với ông: "Chúa thương ông!" Cô vui mừng thấy Tom nhìn cô và phều phào nói: "Tôi xin lỗi... Cầu nguyện cho tôi." Tom theo dõi để đọc kinh Lạy Cha. Khi đọc tới "Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ" Tom thở hơi thở cuối cùng. Nước mắt chảy trong mắt cô y tá nhưng lòng vui mừng thầm nguyện: "Con cám ơn Chúa vì cái tát hồi nãy!"
Chúa dạy chúng ta trong Phúc Âm hôm nay: "Cầu nguyện cho kẻ đối xử tệ các ngươi. Nếu họ vả má con, đưa cả má kia nữa" Lk 6:28). Đường lối của Chúa thì siêu vượt như Thánh Phaolô viết: "Sự khôn ngoan của Chúa thì cao siêu chừng nào. Làm sao hiểu thấu được ý định, đường lối của Chúa?"
Một tác giả cuốn sách gợi hứng "To Whom It May Concern," đã viết: "Nếu bạn thấy tôi vấp ngã, tôi thử điều mới -- Tôi đang học hỏi. Nếu bạn thấy tôi buồn, tôi biết mình sai đi lỗi lại -- Tôi đang khám phá. Nếu bạn thấy tôi sợ, tôi đang đối đầu một điều mới -- Tôi đang mở rộng. Nếu bạn thấy tôi khóc, tôi bị thất bại -- tôi đang cô đơn. Nếu bạn thấy tôi thinh lặng, tôi đang dự tính -- Tôi sẽ thử thêm lần nữa. Đó là những dấu hiệu con người tôi. Tôi luôn là con người.
Tất cả chúng ta là thế. Chúng ta luôn là con người. Chúng ta là thụ tạo của Chúa và luôn lệ thuộc vào Chúa, không phải chỉ mạng sống nhưng cả cuộc sống nữa.
Chúa Giêsu khi đến trần gian này đã thưa với Chúa Cha, "Con đến để thực thi ý Cha" (Heb 10:5). Chúa Giêsu đã đặt mình vô điều kiện trong quyền phép của sự khôn ngoan của Chúa Cha. Trong suốt cuộc đời, có thể có những lựa chọn khác đưa đến do bạn bè hay kẻ thù. Nhưng sự tin cậy của Chúa Giêsu nơi Cha đã vượt trên tất cả; Cuộc đời dương thế của Ngài đã vẹn toàn.
Một lần kia, khi Phêrô lên tiếng, tưởng mình khôn có ý kiến hay, cản ngăn Chúa Giêsu không đi theo con đường của Chúa Cha, không muốn chịu khổ. Chúa Giêsu đã nặng lời: "Satan, đi khỏi Ta. Ngươi chỉ nghĩ theo loài người chứ không như Thiên Chúa" (Mt 16:23).
Thật là ngớ ngẩn nếu dù chỉ trong một ngày chúng ta tưởng mình chỉ sống theo cách thức của mình, làm điều riêng của mình, sống theo ý thích của mình. Một hơi thở chúng ta cũng chẳng tự làm được. Thật là ngớ ngẩn nếu chúng ta tưởng mình là Chúa. Thật là ngớ ngẩn dù chỉ giây lát chúng ta không nhận rằng biết ơn lòng yêu thương vô cùng của Chúa làm cho đời sống ý nghĩa hơn.
Một thanh niên làm quen với người con gái, đến xin phép ông bố của cô ấy. Ông bố hỏi con rể tương lai: "Mày làm gì?" Cậu ta trả lời: "Con đi lễ mỗi Chúa Nhật. Con thật đạo đức..." Ông bố hỏi: "Nhưng con gái tao cần nâng đỡ." Anh ta trả lời: "Bố đừng lo. Chúa sẽ lo liệu." Ông bố lại hỏi: "Nhưng mà nó muốn một gia đình." Cậu ta nói: "Con thích trẻ con lắm. Chúa sẽ lo liệu." Ông bố hỏi tiếp: "Nhưng nó cần có nhà để ở." Một lần nữa cậu ta lại trả lời cùng một giọng điệu "Chúa sẽ lo liệu." Khi cậu ta đi khỏi, bà mẹ cô gái hỏi chồng: "Ông nghĩ thế nào về con rể tương lai?" Ông trả lời: "Trông nó tử tế. Nhưng nó nghĩ nó là Chúa!"
Chúng ta luôn là con người. Chúng ta là thụ tạo của Chúa và luôn lệ thuộc vào Chúa.
Có lẽ đoạn Tin Mừng của Thánh Matthêu hôm nay đã gây rất nhiều thắc mắc và đố kỵ, nhất: TN 7-A29
Có lẽ đoạn Tin Mừng của Thánh Matthêu hôm nay đã gây rất nhiều thắc mắc và đố kỵ, nhất là đối với nhiều người không biết và không quen với tinh thần Kitô giáo, và ngay cả với các Kitô hữu không chừng. Chẳng hạn cách đây vài năm, ông tổng thống nước Iran có lần đã chê bai và lên án những người Kitô hữu là những kẻ yếu kém và nô lệ, chỉ vì tôn thờ Đức Kitô chịu đóng đinh và chết như kẻ nô lệ! Và có lẽ không một ai đã từng sống dưới chế độ cộng sản mà lại không biết hoặc không kinh nghiệm chính sách khắc nghiệt đến độ tàn bạo đối với các tôn giáo, nhất là Kitô giáo! Họ đã không thể chấp nhận được một lối sống của lý thuyết yêu thương, tha thứ ngay cả cho kẻ thù đến độ như khờ khạo và không tưởng mà Đức Kitô đã dạy và làm gương. Vì thế không lạ gì Kitô giáo loan truyền đến đâu cũng đều bị ngăn chặn, và những kẻ theo Kitô giáo thường bị bách hại.
Ngoài ra, ngay trong lòng giáo hội Công Giáo, nhiều tín hữu cũng rất hờ hững với luật yêu thương của đoạn Tin Mừng này, đó là chưa kể đa số các tín hữu đều không thể giữ trọn luật bác ái mến Chúa yêu người của Chúa Kitô trong suy nghĩ cũng như trong hành động! Câu hỏi đặt ra là phải chăng những điều Chúa Giêsu Kitô dạy trong đoạn Tin Mừng này là không tưởng, là biến người theo thành những kẻ khờ khạo, là không thể thực hiện được? v,v. . . và nếu tuân giữ những điều ấy thì được lợi ích gì?
Đây chỉ là suy tư vắn tắt mang tính suy niệm Lời Chúa, nên thiết tưởng cần cá nhân hóa những lời của Chúa Giêsu vào cuộc sống đạo, và ngay cả đời thường, sẽ thấy hiệu qủa rất phi thường của tình yêu Thiên Chúa cả trong đời sống tâm lý lẫn tinh thần và tôn giáo. Trước hết Chúa Giêsu dạy "đừng chống cự với kẻ hung ác", (dĩ nhiên tuyệt đối không trả thù theo lối mắt đền mắt răng đền răng của đạo cũ theo luật Maisen) và còn quảng đại với họ bất cứ điều gì khi họ muốn, như bị tát má này, đưa luôn má kia... Chúng ta không hiểu vì sao Chúa Giêsu lại dạy như vậy. Tuy nhiên người ta có thể hiểu những "kẻ hung ác hoặc kẻ thù" vào thời của Ngài là những kẻ chiếm đóng quốc gia Do Thái, tức những quân quyền Rôma tàn bạo. Điều xảy ra trong thực tế cuộc sống con người, là bất cứ khi nào một hành động hung dữ hay xấu xa được đáp trả lại bằng tình yêu, lòng quảng đại, sự bao dung tha thứ, và nhất là bằng hành động tích cực yêu thương giúp đõ, thì kết quả vần là dập tắt được ngọn lửa hận thù, và có thể biến đổi đối phương. Người không trả thù thì không bị tình cảm thù hận hành hạ, và họ luôn sống trong an bình, họ có thể thoát được những dằn vặt đến độ biến họ thành "mát" hay thành khờ. Họ là những kẻ mạnh, chứ không phải kẻ thù của họ. Nhưng nếu hành động ngược lại, tức tìm trả thù, thì lập tức họ trở thành nạn nhân của sự thù hận. Chúa Giêsu đã chọn con đường yêu thương đến độ chấp nhận chết như một tội nhân, để đổi lại toàn thể những tội nhân con người thành con cái Thiên Chúa. Chân lý cứu độ của Chúa Giêsu chính là chân lý tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa đã biên đổi toàn thể nhân loại đến muôn ngàn đời. Những ai giữ lời Ngài thì hòa nhập vào tình yêu Thiên Chúa.
Lý do khác mà Chúa Giêsu dạy chúng ta yêu thương cả kẻ thù, là vì ngay cả những người đó và chính chúng ta đều có cùng một Cha chung trên trời, Đấng làm cho mặt trời mọc lên, hoặc cho những cơn mưa xuống chung cho cả người lành lẫn kẻ dữ, cho người công chính lẫn kẻ tội lỗi. Qủa thực, suy gẫm kỹ càng sẽ thấy điều Chúa dạy rất phi thường, nhưng cũng rất thực tế. Ngài lấy hình ảnh gia đình mà người cha tràn đầy tình thương như vị trọng tài vô cùng công mình và nhân từ với mọi con cái theo hoàn cảnh của chúng. Tình thương như ánh sáng ban sự sống, và từ sự sống sẽ cảm nghiệm được tình thương của Đấng ban ánh sáng qua mặt trời sáng như vô tận. Tình thương tràn lan như nước nuôi dưỡng sự sống, và từ sự sống cũng cảm nghiệm và biết ơn Đấng ban nước qua những cơn mưa nuôi sư sống. Tất cả các con cái một khi cảm nghiệm được tình thương bao la của Cha mình, sẽ tự nhiên chia sẻ và thông cảm với nhau hơn, cũng như sẵn sàng tha thứ và giúp đỡ lẫn nhau, vì chúng đang hòa nhập trong tình yêu của cha mình.
Đạo của Chúa Giêsu là Đạo Bác Ái, Đạo Tình Yêu, vì bản tính Thiên Chúa là Tình Yêu. Con người sẽ chỉ cảm nhận được Thiên Chúa Tình Yêu là Cha mình khi ở trong tình yêu với Ngài và trong sự hòa hợp tình yêu của mình với anh chị em nhân loại gồm mọi loại người khác nhau. Người ta không thể chấp nhận được những điều Chúa Giêsu dạy, vì người ta chưa biết Thiên Chúa. Người ta không giữ được điều Chúa Giêsu dạy, vì người ta không cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa là Cha. Điều mà Thánh Gioan thánh sử công bố: Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Thiên Chúa, sẽ mãi mãi là chân lý giữa thế giới loài người. Một khi biết chấp nhận mọi người là anh chị em con cùng Cha trên trời, thì ranh giới tù hận từ từ sẽ biến đi. Là những Kitô hữu, chúng ta có thể bắt đầu thực hiện ngay hôm nay trong các gia đình mình, sẽ cảm nhận hạnh phúc và tự do tràn ngập tâm hồn mọi thành viên trong gia đình, vì hạnh phúc ấy đến từ Thiên Chúa tình yêu là Cha chung trên trời.
Lm. Raphael Xuân Nguyên lm Raphael Xuân Nguyên - dongcongnet
Trong thời gian qua có một số lời qua tiếng lại (và bài viết) của một số người về trách nhiệm: TN 7-A30
Trong thời gian qua có một số lời qua tiếng lại (và bài viết) của một số người về trách nhiệm của Giáo Hội Việt Nam nói chung và của Hàng Giáo Phẩm nói riêng liên quan tới việc “lên tiếng hay không lên tiếng” trước những hành động của chính quyền ở một số địa phương. Tôi không dám nói ai đúng ai sai. Nhưng rõ ràng là các bài Thánh Kinh của Chúa nhật VII mùa thường niên này dậy chúng ta phải yêu kẻ thù nhưng không được làm ngơ trước những sai trái của kẻ ấy.
Mỗi Ki-tô hữu, giáo sĩ, tu sĩ cũng như giáo dân cần sức mạnh của Chúa Thánh Thần để thực thi giáo huấn trên của Chúa Giê-su Ki-tô.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (Lv 19, 1-2.17-18): Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình
1 Đức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh.
17 Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. 18 Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa.
2.2 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (1 Cr 3,16-23): Tất cả đều thuộc về anhem, mà anh em thuộc về Đức Ki-tô và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa
16 Thưa anh em, nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? 17 Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em.
18 Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. 19 Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. 20 Lại có lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài.
21 Vậy đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào. Vì tất cả đều thuộc về anh em; 22 dù là Phao-lô, hay A-pô-lô, hay Kê-pha, dù cả thế gian này, sự sống, sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, 23 mà anh em thuộc về Đức Ki-tô, và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa.
2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Mt 5,38-48): Hãy yêu kẻ thù
38 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. 39 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. 40 Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. 41 Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. 42 Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.
43 "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. 44 còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. 45 Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. 46 Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi ? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao ? 47 Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao ? 48 Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Chúa là ai?)
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
- là Đấng đòi hỏi con cái Ít-ra-en không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, sẽ khỏi mang tội vì nó; không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi và phải yêu đồng loại như chính mình.
- là Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng đã đến trần gian để dậy dỗ các môn đệ sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa là Đấng yêu thương hết mọi người. Vì thế các Ki-tô hữu được mời gọi yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ làm hại mình.
- là Chúa Thánh Thần, Đấng ban sức mạnh thần linh cho các Ki-tô hữu để họ vượt lên trên tự nhiên để yêu chính những kẻ thù địch với mình.
3.2 Sứ điệp hay Giáo Huấn của Lời Chúa (Chúa dậy gì hay Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp hay Giáo huấn của Lời Chúa hôm nay là các môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô phải yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình. Yêu kẻ thù nên phải tha thứ cho họ và giúp họ thoát khỏi cách sống lầm lạc hay làm hại người khác. Cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình để kẻ ấy được ơn thứ tha và không làm điều bất công, bất chính nữa mà quay về đường ngay nẻo chính của người lương thiện.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa là Chúa Cha, Đấng đã dậy chúng ta không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, sẽ khỏi mang tội vì nó; không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi và phải yêu đồng loại như chính mình.
Sống với Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã dậy chúng ta phải yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình.
Sống với Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng và ban sức mạnh cho các Ki-tô hữu, để giúp chúng ta thực thi thánh chỉ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô.
4.2 Thực thi Ý Chúa hay Giáo Huấn của Chúa là yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi và phải yêu đồng loại như chính mình.” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các dân tộc trên thế giới, nhất là cho dân tộc đang có xung đột, chiến tranh, để các tầng lớp xã hội rộng lòng thứ tha cho nhau và yêu thương nhau.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh.” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cách đặc biệt cho Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy nên những vị chân tu, đạo đức thánh thiện như Thiên Chúa mong ước.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình.” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu thuộc cộng đồng giáo xứ chúng ta, để mọi người nghiêm chỉnh thực hành giáo huấn của Chúa Giê-su Ki-tô.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 “Phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó.” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các vị lãnh đạo trong giáo hội cũng như trong xã hội để các vị ấy có đủ dũng cảm mà quở trách và trừng phạt những kẻ bề dưới khi họ vi phạm luật pháp và đạo đức.
Ở đời này, và cả ở đời sau, không có gì quan trọng cho bằng tình yêu. Hạnh phúc chính là yêu và: TN 7-A31
Ở đời này, và cả ở đời sau, không có gì quan trọng cho bằng tình yêu. Hạnh phúc chính là yêu và được yêu lại. Nhưng chắc gì chúng ta đã hiểu đúng về tình yêu. Trong Thánh Lễ này, Lời Chúa sẽ dạy chúng ta điều quan trọng đó. Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu và thực thi yêu thương trong cuộc sống chúng ta.
GỢI Ý SÁM HỐI
Chúng ta yêu thương một số người, nhưng đồng thời cũng ghét bỏ nhiều người khác.
Chúng ta muốn người ta yêu thương mình, nhưng mình lại không yêu thương người khác.
Đặc biệt chúng ta nuôi dưỡng lòng ganh ghét, hận thù, là điều hoàn toàn đi ngược lại lời dạy của Chúa.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Lv 19,1-2.17-18):
Sách Lêvi là một bộ sưu tập những khoản luật rất cổ xưa, trong đó các chương từ 17 đến 25 (đoạn được trích đọc hôm nay nằm trong phần này) được gọi là "Bộ luật về sự thánh thiện".
Vấn đề căn bản được đặt ra trong bộ luật này là: Thiên Chúa là thánh, con người là tội lỗi. Vậy làm thế nào con người tội lỗi như chúng ta có thể đến gần Thiên Chúa thánh thiện được ?
Câu trả lời tuy rất đơn giản nhưng lại rất sâu sắc: Hãy sống yêu thương như chính Thiên Chúa đã yêu thương. Sách Lêvi diễn tả cuộc sống yêu thương theo hai phương diện:
Phương diện tiêu cực là "Ngươi sẽ không thù ghét anh em ngươi… Ngươi sẽ không báo oán, không cưu thù với con cái dân ngươi".
Phương diện tích cực là "Ngươi hãy yêu mến đồng loại ngươi như chính mình ngươi".
Chúng ta hãy chú ý: đối tượng của lòng yêu thương là "anh em ngươi, con cái dân ngươi, đồng loại ngươi". Những kiểu nói đó đều chỉ về dân Israel. Điều này có nghĩa là lòng yêu thương trong Cựu Ước còn giới hạn nơi những người Israel với nhau.
Đáp ca (Tv 102):
Thánh vịnh này ca tụng tình thương của Thiên Chúa, thể hiện qua những nét: ban ân huệ, tha thứ, cứu chữa, chuộc mạng, thương xót và nhân ái. Ngài yêu thương loài người như Cha thương con cái.
Tin Mừng (Mt 5,38-48):
Đức Giêsu đã nói ở phần đầu bài giảng trên núi là giáo huấn của Ngài hoàn thiện Luật cũ. Trong bài đọc I, chúng ta đã thấy Luật về sự thánh dạy phải yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau. Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.
Theo tinh thần Cựu Ước, người ta có quyền trả đũa "Mắt đền mắt, răng thế răng". Còn theo giáo huấn của Đức Giêsu thì đừng trả đũa nhưng hãy nhường nhịn.
Theo tinh thần Cựu Ước, người ta chỉ yêu thương người đồng bào. Còn theo giáo huấn của Đức Giêsu thì hãy yêu thương thù địch và lấy ơn để báo oán.
Lý do của lòng yêu thương bao la ấy là chúng ta phải noi gương Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời, "Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên người công chính lẫn kẻ bất lương".
Như thế, giáo huấn về yêu thương của Đức Giêsu thể hiện đúng nguyên tắc mà Luật về sự thánh trong sách Lêvi đã đề ra: "Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh".
Bài đọc II (1 Cr 3,16-23) (Chủ đề phụ):
Ôn lại những đoạn được trích đọc các Chúa nhựt trước: Tín hữu Côrintô tự hào mình khôn ngoan nên chia rẽ nhau, nhóm thì theo Phaolô, nhóm khác theo Apollô, nhóm khác nữa theo Kêpha (tức Phêrô).
Thánh Phaolô nói cho họ biết rằng tất cả là Đền thờ của Thiên Chúa, một thể thống nhất liên kết với nhau. Do đó họ không nên dựa vào sự khôn ngoan để kình chống nhau, làm hại đến tính thống nhất của giáo đoàn.
GỢI Ý GIẢNG
Thế nào là thánh ?
Trong các bài đọc hôm nay, chúng ta nghe được hai lời kêu gọi nên thánh như Thiên Chúa: "Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh" (bài đọc I); "Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành" (Bài Tin Mừng).
Thánh là thế nào ?
Người ta thường hình dung vị thánh là một người khổ hạnh, xa lánh thế gian, chuyên chăm đọc kinh cầu nguyện… Vì hình dung như thế, người ta ngưỡng mộ các vị thánh nhưng không thích làm thánh.
Bài đọc I và bài Tin Mừng hôm nay hình dung vị thánh một cách rất dễ thương, dễ thích: Thánh là người cố gắng giống Chúa. Mà vì Chúa là tình yêu cho nên thánh là người sống yêu thương, chẳng những yêu thương những người thân cận với mình, mà còn yêu thương cả những kẻ thù ghét mình.
Một vị thánh như thế, ai mà không thích ? Hình ảnh một vị thánh như thế, ai mà không muốn trở thành ? Và những người thánh như thế, xã hội nào mà không cần đến ?
Mắt đền mắt, răng thế răng"
Toàn văn của khoản luật trả đũa được ghi trong sách Xuất hành (Xh 21,24) như sau: "Mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng". Mục đích của khoản luật này là tuy cho phép trả đũa nhưng giới hạn sự trả đũa đúng mức bị gây hại: kẻ thù làm mình hư một mắt, mình có thể trả đũa làm cho nó hư lại một mắt (không được hai); nó đánh mình bầm, mình có thể đánh nó bầm lại (không được hơn)…
Một điều đáng buồn là ngay trong thời đại Tân Ước này, nhiều người chẳng những chưa giữ được giới hạn tối thiểu của luật Cựu Ước mà còn tệ hơn thế nhiều. Họ sống theo luật "Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại". Hãy nhìn tình hình xung đột bên Trung Đông giữa Palestine và Israel: một người của bên này bị bắn tỉa chết là liền sau đó một làng của bên kia bị máy bay bên này ném bom. Trên bình diện nhỏ hơn: hai đứa trẻ đánh nhau kéo theo hai gia đình xung đột với nhau; khi hai người cãi nhau, người này chửi một câu thì người kia đáp lại ba câu; người này nói "Cha mầy" thì người kia đáp lại "Tổ tiên sư mầy"…
Làm thế nào để chấm dứt xung đột ? Cách giải quyết "Mắt đền mắt răng đền răng" rất khó dừng lại ở giới hạn hợp lý mà thường có khuynh hướng leo thang trả đũa. Còn nếu giải quyết bằng cách "Hòn đất ném đi hòn chì ném lại" thì xung đột càng leo thang nhanh hơn.
Đến đây chúng ta mới thấy giáo huấn của Đức Giêsu rất khôn ngoan. Xung đột chỉ chấm dứt được khi một bên chịu nhường nhịn. Nhường nhịn không có nghĩa là mình yếu, mình thua, nhưng là mình đang cố gắng nên thánh như Thiên Chúa ở trên trời là Đấng thánh.
Yêu thương kẻ thù không phải là thiện cảm, mà là thiện chí
Martin Luther King là một mục sư da đen, người đã đấu tranh để người da đen không còn bị người da trắng ngược đãi. Ông có một cách hiểu rất dễ chấp nhận về lời Chúa Giêsu dạy "Hãy yêu thương kẻ thù", như sau:
"Trong Tân Ước, chúng ta thấy từ Agapè được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nới tâm hồn con người. Khi vươn lên một đỉnh tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, cũng không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của họ. Chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ. Đó chính là ý nghĩa lời Đức Giêsu dạy "Anh em hãy yêu thương kẻ thù". Phần tôi, tôi sung sướng vì Ngài đã không nói "Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em" bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm nổi. Thiện cảm là một xúc cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người đã ném bom vào gia đình tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người bóc lột tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người đè bẹp tôi dưới sự bất công. Không, không thể có một thiện cảm nào đối với người đêm ngày đe dọa giết tôi. Nhưng Đức Giêsu nhắc tôi rằng tình yêu còn lớn hơn thiện cảm, rằng tình yêu là thiện chí biết cảm thông, có tính sáng tạo, cứu độ đối với hết mọi người" (Trích bởi Fiches dominuicales, Năm A, trang 201)
Mảnh suy tư
Khi đọc lịch sử người ta rất buồn, không phải buồn vì những tội ác mà những kẻ ác đã phạm, cho bằng vì những sự trừng phạt mà người lành phải gánh chịu; và một cộng đoàn trở nên hung ác không phải do những tội ác thỉnh thoảng xảy ra cho bằng do thói quen xử dụng hình phạt. (Oscar Wilde)
Tha thứ giống như cái gì ? Giống như mùi hương mà bông hoa tỏa ra khi nó bị giẫm nát.
Lời cầu nguyện cuối ngày
Lạy Chúa
Mỗi ngày khi chúng con đi ngủ là đi vào một cái chết nho nhỏ để chịu một cuộc phán xét nho nhỏ về một ngày vừa qua.
Ước gì khi đó từng điều lầm lỗi của chúng con đều đã được tha thứ, và từng điều không thánh thiện của chúng con đều đã được thánh hóa.
Xin đừng để còn một điều gì đi theo chúng con vào giấc ngủ mà chưa được tha thứ và thánh hóa.
Có như thế chúng con mới luôn sẵn sàng cho cuộc tái sinh vào cõi đời đời, chúng con dám nhìn về phía trước với ánh mắt chan chứa tình yêu và hy vọng và có thể đứng vững trước mặt Chúa là Đấng vừa là quan tòa vừa là Đấng cứu độ chúng con, một quan tòa thánh thiện và một đấng cứu độ yêu thương. (Đức Giám Mục Appleton)
Chuyện minh hoạ
a/ Trả thù
Một thanh niên trong làng bị lăng mạ cách thậm tệ. Anh vội vàng đến mục sư kể cho ông nghe và muốn đi trả thù ngay. Tốt hơn, con nên về nhà. Nhưng con bị nhục mạ.
Vậy thì con càng nên về nhà ngay lúc này. Sự nhục mạ cũng giống như bùn. Đúng thế. Con sẽ làm sạch nó.
Này con, có một điều con có thể học hỏi tốt ngay bây giờ và sau này: Bùn được gạt sạch dễ dàng khi nó khô. b/ Tiêu diệt kẻ thù
Một hoàng đế Trung hoa tuyên bố sẽ tiêu diệt hết các kẻ thù. Nhưng ít lâu sau, thần dân thấy nhà vua đi lại, ăn uống với kẻ thù trước kia. Chẳng phải ngài đã từng nói là sẽ tiêu diệt hết kẻ thù ? Đúng, ta đã tiêu diệt hết kẻ thù, vì ta đã biến họ thành bạn bè của ta.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Chúng ta hãy cầu xin Chúa dùng tình yêu Đức Kitô mà thiêu đốt lòng chúng ta. Và chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời cầu xin tha thiết sau đây:
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho Hội Thánh luôn luôn dùng tiếng nói tình thương để giới thiệu Đức Kitô là Đấng Thiên sai, là Người Tôi Tớ đau khổ và là Con Thiên Chúa.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho ánh sáng Chúa Kitô được chiếu tỏa trên mọi dân tộc và mang ơn cứu độ đến cho mọi người.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi kitô hữu đã lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, luôn luôn theo sự hướng dẫn của Ngài mà bền tâm theo tiếng gọi trọn lành của Chúa.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho việc tham dự Thánh lễ Chúa nhật hôm nay trở nên nguồn mạch tình thương và ơn cứu độ cho tất cả mọi người trong xứ đạo chúng ta.
CT: Lạy Chúa, Ngài hằng ban phát mọi ơn lành. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện mà soi dẫn cho biết những gì là ngay chính, và giúp cho đủ sức thi hành những việc ấy. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Một vị vua nước Pháp tuyên bố sẽ tiêu diệt tất cả kẻ thù của ông. Nhưng chỉ ít lâu sau, người: TN 7-A32
Một vị vua nước Pháp tuyên bố sẽ tiêu diệt tất cả kẻ thù của ông. Nhưng chỉ ít lâu sau, người ta thấy nhà vua đi lại vui chơi ăn uống với những kẻ thù trước kia, họ thắc mắc và lên tiếng hỏi:
- Chẳng phải ngài đã từng nói là sẽ tiêu diệt hết kẻ thù hay sao?
- Đúng thế! Ta đã tiêu diệt hết kẻ thù, vì ta đã biến họ thành bạn bè của ta. ***
Bạn thân mến!
Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến kẻ thù: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt.5:44-45)
“Yêu thương tha thứ và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em”. Đó là lời mời gọi Chúa gởi đến mỗi người chúng ta hôm nay.
Ta không chỉ trở thành con cái Thiên Chúa vào ngày rửa tội, nhưng trở thành “con ngoan” của Thiên Chúa nhờ những hành vi tha thứ yêu thương mỗi ngày.
Yêu thương tha thứ la điều rất dễ nói, nhưng lại rất khó thực hiện. Yêu thương tha thứ là một cử chỉ anh hùng, là một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, để bước vào thế giới siêu nhiên của những người con của Thiên Chúa, để sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.(Mt.5:48)
Thế giới ngày nay có nhiều sự ác và người ác. Ta phải tiêu diệt sự ác bằng sự thiện, hoán cải người ác bằng tha thứ yêu thương. Tha thứ là ra khỏi vòng luẩn quẩn của oán thù, là mở ra con đường để đối thoại và hoán cải. Hãy yêu thương tha thứ để rồi bản thân ta sẽ được Chúa thứ tha yêu thương.
Lấy oán báo oán chỉ tăng thêm hận thù mà thôi. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù.
Hận thù thì hủy diệt, còn yêu thương thì phát triển và xây dựng. Khi trả thù, người ta biến mình bằng kẻ thù. Còn khi tha thứ, người ta vượt cao hơn họ.
Chỉ có tình yêu mới là phép mầu sẽ biến kẻ thù thành bạn hữu. Nếu hận thù là hủy diệt, thì tình yêu là xây dựng.
Biến thù thành bạn, phải chăng là tiêu diệt kẻ thù rồi! Đó chính là sức mạnh của tình yêu. Đó cũng là lời mời gọi của Tình Yêu cho thế giới hôm nay
***
Lạy Chúa! Xin ban cho con một trái tim mới, trái tim biết yêu thương tha thứ, để con vượt qua mọi oán hờn ghen ghét, mọi thù hằn ti tiện. Xin cho con cảm nghiệm được tình yêu thương tha thứ của Chúa, để con cũng biết yêu thương tha thứ anh chị em của con. Amen!
Tổng hợp từ R. Veritas (BĐ1: Lv 19:1-2 & 17-18 - BĐ2: 1Cr 3: 16-23 - PÂ: Mt.5: 38-48 ) R. VERITAS
“Thiên Chúa nói với Môsê: Hãy nói với toàn thể cộng đồng về con cái Israel và hãy nói với họ. Hãy nên thánh, vì Tôi là Đức Chúa, là Thiên Chúa của ông, là Đấng Thánh”.
Sách Lê-vi tóm tắt các giới răn khác theo giới răn này: Như Chúa là Thiên Chúa chúng ta, chúng: TN 7-A33
Sách Lê-vi tóm tắt các giới răn khác theo giới răn này: Như Chúa là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta cần nên thánh. Sự thánh thiện mô tả mọi thứ mà Thiên Chúa đặt lên trên sự sáng tạo sai trái. Sự thánh thiện là điều gì đó hơn cả việc giữ trọn lề luật như nô lệ. Nên thánh là vào trong ý nghĩ và trái tim của Chúa, phân xử như Chúa phân xử, hiểu như Chúa hiểu.
Khi những câu trong sách Lê-vi mở ra, chúng ta bắt đầu đánh giá hố ngăn cách (gulf) giữa thói quen tội lỗi của con người và sự thánh thiện của Thiên Chúa. Nhiều người coi sự thù hằn là cách phản ứng tự nhiên nhất đối với sự thiệt hại mà chúng ta chịu. Sự thánh thiện mà chúng ta được mời gọi đòi hỏi cách phản ứng khác, đó là cách phản ứng có vẻ đi ngược với bản chất. “Bạn không được thù ghét anh em, bạn không được trả thù, bạn không được đố kỵ”.
Một trong các hậu quả của tội là xu hướng phê phán thù hận. Sách Lê-vi loại trừ điều này bằng giới răn, được Chúa Giêsu lặp lại, rằng chúng ta phải yêu người như chính mình. Giới răn quá quen thuộc đến nỗi chúng ta có thể dễ dàng làm ngơ sự thay đổi cơ bản của con tim mà giới răn ám chỉ. Tội lỗi khiến chúng ta tự nhận là “trung tâm vũ trụ”, vô tình xác nhận rằng mọi thứ phục vụ chính mục đích của chúng ta. Yêu người như chính mình đảo lộn ý nghĩ này. Đây là sự thánh thiện mà Thiên Chúa đặt chúng ta lên trên tội lỗi, đưa chúng ta vào ý nghĩ và trái tim của Thiên Chúa.
Tiếp theo Bài Giảng Trên Núi, Phúc âm nhấn mạnh hố ngăn cách giữa sự thánh thiện và thái độ tội lỗi đã thâm căn cố đế (ingrained attitudes of sin). “Mắt đền mắt, răng đền răng” có vẻ rất cân xứng. Điều gì đó trong chúng ta bắt đầu nổi loạn khi chúng ta được khuyên không chống lại kẻ độc ác, đưa má cho người ta vả, không chỉ đưa áo trong mà đưa luôn cả áo ngoài cho kẻ áp bức mình.
Sự không thoải mái mà chúng ta cảm thấy đã ăn rễ sâu trong chúng ta. Chúng ta bị giằng co: sự công thẳng và ân sủng. Đức Kitô không đến thế gín này để đối xử công thẳng với chúng ta. Ngài đến để mạc khải tình yêu của Chúa Cha, một hồng ân vượt trên mọi thứ mà chúng ta đáng hưởng. Bài Giảng Trên Núi mời gọi chúng ta đạt đến sự thánh thiện để đối xử với tha nhân bằng sự độ lượng mà chúng ta đã lãnh nhận. Chỉ bằng cách này thì chúng ta mới có thể nên thánh như Chúa Cha là Đấng Thánh, và hoàn thiện như Chúa Cha là Đấng hoàn thiện.
Chỉ là tự nhiên để cảm thấy bất xứng trước các yêu cầu của Chúa Giêsu trong Bài Giảng Trên Núi. Chúng ta có thực sự yêu kẻ thù và làm điều tốt cho những người làm hại mình? Thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô đặt yêu cầu của Chúa Giêsu ngược với những ân sủng mà chúng ta lãnh nhận.
“Bạn không nhận ra mình là đền thờ của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần sống trong bạn sao?”. Đó là tặng phẩm của Chúa Thánh Thần mà chúng ta có thể nên thánh như Chúa Cha là Đấng Thánh, độ lượng như Ngài. Thánh Phaolô tiếp tục làm tương phản sự khôn ngoan của thế gian với sự điên dại của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của thế gian đòi hỏi sự công bình. Sự điên dại của Thiên Chúa là ân sủng vị tha. Đây là tính thánh thiện mà chúng ta được mời gọi.
(Bài này rất cần chia sẻ kỹ, sâu trong các Gia đình, Qúy chức, Nhóm, Hội đoàn, Phong trào, Hội thánh…trong thời buổi này.)
A- Cảm nghiệm và chia sẻ dưới sự dẫn dắt của Thánh Linh:
* Bài đọc 1: Sách Lê-vi 19 = Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa. (Lv 19, 18)
Tại sao hàng ngày, tuần tôi phải dành thì giờ để đọc Lời Chúa? 2/ Bạn áp dụng những Lời: TN 7-A34
1/ Tại sao hàng ngày, tuần tôi phải dành thì giờ để đọc Lời Chúa? 2/ Bạn áp dụng những Lời Kinh thánh dạy vào đời sống thế nào? 3/ Tín hữu đạo đức, hay đi lễ, đọc kinh… có được trả thù không ?
* Bài đọc 2: Thư 1 Côrintô 3 = Thưa anh em, nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao ? (1 Cor. 3, 16)
1/ Khi chịu phép Rửa tội, tôi đã được tham dự những chức vụ nào? 2/ Bạn đang làm việc gì để xứng đáng là Đền Thờ của Thánh thần? 3/ Nếu có Chúa, tôi có để lòng oán giận người khác không ? Taị sao?
* Tin Mừng: Mat-thêu 5= Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. (Mt 5, 43-44)
1/ Tôi đi lễ để giữ luật, ít khi nghe Lời Chúa để thực hành. Tại sao ? 2/ Bạn có giữ luật kỹ như các kinh sư và Pharisêu không? Cho lý do? 3/ Cho biết, kẻ thù có muốn trở lại làm bạn với tôi không.Tại sao? 4/ Kẻ thù đáng sợ nhất có phải là tôi không ? Tại sao kẻ thù là tôi? 5/ Lý do nào bạn phải cầu nguyện và tha thứ cho kẻ ngược đãi mình?
B- Câu Kinh Thánh thúc đẩy tôi chọn làm Châm ngôn Sống:
HÃY YÊU KẺ THÙ VÀ CẦU NGUYỆN CHO KẺ NGƯỢC ĐÃI ANH EM (c. 44) - Love your ennemies and pray for those who persecute you.
C-Ngay bây giờ bạn và tôi phải làm gì:( So what am I doing ?) 1/ Sống thánh thiện như Chúa dạy.
2/ Không để lòng thù ghét ai.
3/ Mạnh dạn cảnh cáo người có tội.
4/ Không tìm cách trả thù oán hận.
5/ Sống có Chúa hiện diện trong lòng.
6/ Đừng lừa dối nhau theo kiểu thế gian.
7/ Đừng chống cự người ác.
8/ Giúp người cần đến tôi.
D- Hãy tự hỏi lại tôi: 1/ Kinh lạy Cha tôi thường đọc, tôi nguyện, tôi xin…; nhưng tôi có thực hành những điều tôi nguyện xin không ? Phúc Âm thánh Matthêu nói: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.” (Mt 6, 14-15). * Suy niệm thêm Mt 18, 23-35= Dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót.
2/ Tôi và anh em bị chia cắt thì tôi và Chúa có kết hợp không? Tôi không liên kết với ngưòi khác thì tôi có nối kết với Chúa được không ? – Dù tôi có đi lễ, đọc kinh, nhà thờ…? Phúc Âm dạy: “Nếu anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. (Mt 5, 23-24) Câu này Chúa có dạy tôi phải nhất quyết tỏ thái độ, quyết tâm mở rộng lòng tha thứ cho tha nhân bằng việc làm.
E- Bạn và tôi cùng cầu nguyện là nói với Chúa như người bạn bằng thái độ quyết tâm, tích cực, theo lời Chúa dạy, không nặng về xin ơn, tiêu cực, khoán trắng cho Chúa, còn mình ngồi chờ:
Lạy Cha, Đức Kitô đã dạy: Đừng chống cự kẻ ác, nếu ai xin sẽ cho, ai muốn vay mượn thì đừng ngoảnh mặt đi, hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Con thấy yếu đuối quá và bất lực; nhưng tin Chúa nói: con là Đền Thờ của Chúa, có Thánh Thần ngự trong con. Con quyết đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp… Con cùng Mẹ Maria thưa “xin vâng” để thực hành Lời Chúa.
* Lời hay ý đẹp: BẠN SẼ KHÔNG VẤP NGÃ TRONG BÓNG TỐI, NẾU BƯỚC ĐI TRONG ÁNH SÁNG CỦA LỜI CHÚA. (You woun’t stumble in the dark, if you walk in the light of God’s Word.)
Chúa Nhật VII Mùa Thường Niên – Năm A (Leviticus 19: 1-2, 17-18; Psalm 103; 1 Corinthians 3: 16-23; Matthew 5: 38-48)
Thánh thiện có nghĩa là gì? Người ta thường nhắc đến từ này một cách vô tình nhưng khi bị thôi: TN 7-A35
Thánh thiện có nghĩa là gì? Người ta thường nhắc đến từ này một cách vô tình nhưng khi bị thôi thúc để định nghĩa thuật ngữ này người ta lâm vào một tình trạng hụt hẫng. Trong Cựu Ước thuật ngữ này được mang ý nghĩa một cách riêng biệt – một điều gì đó đặc biệt và thuần khiết.
Sách Leviticus – chắc chắn không phải là một cuốn sách được mọi người ưa thích thuộc Kinh Thánh – có chứa đựng những lời yêu cầu thử thách và rất thú vị. Đoạn trích kể cho chúng ta rằng sự thánh thiện là một trong những cách mô tả được xác định bởi Thiên Chúa. Thiên Chúa là thánh thiện và Thiên Chúa phán truyền dân Israel phải trở nên như vậy. Sự thánh thiện này được thể hiện bằng hành vi và thái độ mà khác với đặc trưng thông thường con người và văn bản này trình bày chi tiết sinh động. Sự thù ghét phải bị loại trừ. Vì sinh oán thù phải chuốc lấy oán thù. Điều đó duy nhất dẫn đến một thay đổi rất lớn của hành vi con người bình thường và nếu được thực hành sẽ cho một kết quả trong một thế giới vô cùng khác biệt. Nhưng sau đó dẫn đến một điều không kém phần quan trọng: bạn sẽ yêu thương những người lân cận của mình như chính bản thân. Điều đó nghe quen thuộc vì Chúa Giê-su tường thuật đoạn trích này trong những Tin Mừng như một phần của điều răn cao trọng nhất.
Ki-tô giáo không phát minh những nguyên tắc của tình yêu nhưng thông qua một truyền thống cổ đại. Tình yêu được hiểu không như tình cảm trữ tình ủy mị, đa sầu, đa cảm hoặc sở thích cá nhân mà là mối quan tâm thiết thực cho hạnh phúc và sung mãn của tha nhân và từ chối những mong muốn hoặc những cuộc thăm viếng tốn kém về chúng. Những nguyên tắc căn bản tối thiểu là nền tảng của bất kỳ xã hội loài người nào mong muốn được công bằng, nhân ái và hòa bình. Người ta nghĩ chúng không tưởng, không thực tế và không thể trong một thế giới phức tạp và hiện đại. Miễn là chúng ta tiếp tục nghĩ rằng chúng đang và sẽ thực sự bên kia tầm với của chúng ta. Khi chúng ta đưa nó vào thực hành, thậm chí trong một phương cách hoàn hảo, xã hội và con người được chuyển đổi.
Thánh phao-lô có khả năng hiểu biết một số sự việc tiềm ẩn trong việc đạt được mục đích của Leviticus. Duy nhất là từ bỏ sự cạnh tranh và cái tôi, cả hai trong chúng đều khích động mạnh đến sự oán giận, hận thù và ích kỷ. Thánh Phao-lô tạo cho nó minh nhiên rằng. Khi tất cả được nói và làm, con người rất hãn hữu phô trương đặc biệt là trước Thiên Chúa. Duy nhất nhìn vào thế giới chúng ta đã tạo ra nên đặt những kỳ vọng và ảo vọng loài người để nghỉ ngơi. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa và giá trị của Thiên Chúa cực kỳ khác so với chúng ta và điều này hiển nhiên tạo ra một cách khó khăn trong đời sống của chúng ta, những lời giáo huấn và cái chết của Chúa Giê-su. Còn có một lý do khác và sâu xa hơn cho việc đặt sang một bên tất cả những hận thù, oán hờn và ích kỷ. Cộng đồng những tín hữu là đền thờ của Thiên Chúa và là Thần Khí của Thiên Chúa ngự trị ở đó. Nó phải được gìn giữ tinh tuyền và thánh thiện – không bị hoen ố bởi sự ô nhiễm của tính phủ định loài người. Sự tàn nhẫn và bất công đối với tha nhân là dấu hiệu của sự thiếu tôn trọng và coi thường đối với những nạn nhân và cũng còn đối với Thiên Chúa nữa.
Gandhi đã đưa ra nhận định sâu sắc rằng khi chúng ta sống bằng nguyên tắc “mắt đền mắt, răng đền răng” thì toàn thế giới kết cục đui mù và móm mém và điều đó như được sinh ra trong thời đại của chính chúng ta. Điều này đã được trù tính một cách sáng tạo như một hạn chế bạo lực – người ta có thể đòi hỏi không gì hơn một tổng giá trị tương đương – và được phản ảnh trong nhiều bộ luật Trung Đông cổ đại. Chúa Giê-su nhấn mạnh rằng những môn đệ của Người phải từ bỏ bạo lực và để nhận biết trước những cốt lõi của vấn đề. Người một lần nữa quay về với giới răn yêu thương từ Leviticus. Điều răn yêu thương ấy không khước từ mà được mở rộng và vươn cao. Tình yêu không chỉ dành cho mối qun hệ ruột thịt, vợ chồng hoặc những thành viên gần gũi trong cộng đồng mà là cho tất cả, gần-xa. Theo tình yêu thánh thiện điển hình thì không phải là để giới hạn cho những ai xứng đáng, thân yêu với chúng ta hoặc biết ơn chúng ta. Tình yêu là cho những ngừời khiếm nhã, đồi bại, nghi ngờ đạo đức và chỉ là người tầm thường khó khăn hay lập dị. Ai sẽ là người giải thích ý nghĩa đó trong thời đại của chính chúng ta? Chỉ cần điền vào những chỗ trống với những ai từ trải nghiệm cá nhân của chính chúng ta hoặc những trang nhật báo. Chúng ta sống là để không có kẻ thù vì đối với Thiên chúa không ai là kẻ thù và giới răn yêu thương mở rộng ra cho họ.
Chúa Giê-su đã kết luận mọi điều với lời dạy là hoàn thiện như Thiên Chúa. Điều này nghe như một nhiệm vụ không thể. Nhưng ở đây văn tự Hy Lạp nghĩa là toàn bộ, hoàn chỉnh và không chia cắt. Nói một cách khác, chúng ta được mời gọi để biểu thị sự hoàn hảo bằng cách mà chúng ta yêu mến tha nhân. Thật khó để đoan chắc, nhưng không phải không thể - hằng ngày mang đến vô số những cơ hội để bắt đầu học những bài học về tình yêu. Một thế giới bị tổn thương đang chờ đợi.
Hãy tha thứ và thứ tha là giới răn hoàn toàn mới của Đức Kitô. Sống trên đời Người ta phải đấu tranh: TN 7-A36
Hãy tha thứ và thứ tha là giới răn hoàn toàn mới của Đức Kitô. Sống trên đời Người ta phải đấu tranh để sinh tồn.Do đó, ngay từ cổ thời xa xưa, có những bộ tộc đã tranh đấu với nhau để sống còn, có những dòng tộc, họ hàng đã chiến đấu với nhau để bảo vệ họ hàng, dòng tộc của mình.Trên thế giới, nhiều nước, nhiều nơi còn chiến tranh, chiếm giết để bảo vệ chủ quyền của mình, để bảo tồn nòi giống của mình. Thời Cựu Ước, luật viết:” Mắt thế mắt.Răng đền răng “ là công thức của luật báo thù. Đức Giêsu khi tới trần gian lại nói:” Còn Thầy, Thầy bảo các con:hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con “.”Hãy tha thứ thì được thứ tha “ vv…Chúa Giêsu đến để làm cho luật nên hoàn thiện, nâng luật lên tầm cao tuyệt đối.
Nghiên cứu, tìm hiểu bộ luật của Sách Ngũ Kinh, chúng ta nhận ra nhiều điểm chưa hoàn thiện của luật Môsê. Chúng ta hãy xem chẳng hạn luật mắt thế mắt răng đền răng, luật về ngoại tình, luật bác ái vv…Tất cả những điều khoản này được ghi chép rất tỉ mỉ trong luật Môsê. Những luật này không những nằm trong luật của Môsê, nhưng thực tế nó vẫn tồn tại trong tâm hồn của con người. Bởi vì, đối với con người, khuynh hướng báo thù, trả oán nhiều hơn khuynh hướng tứ tha.Anh đánh tôi, tôi đánh lại hoặc sẽ tìm cách báo thù, biện hộ cho tôi…Chúa Giêsu đến trần gian để đem cho mọi người, cho nhân loại một giới luật mới, giới luật yêu thương. Ngài dạy con người:” Hãy dập tắt mầm mống oán thù, chia rẽ đang âm ỉ trong con người.Đừng cho những hành động xấu nhen nhúm trong trái tim con người, trong lòng, trong tâm hồn của con người chunhg1 ta “. Ngài truyền:” Đừng chống cự lại kẻ ác”.
Mầm mống báo thù luôn âm ỉ trong tâm hồn, Chúa dạy hãy dập tắt ngay và hãy có tâm hồn sám hối, sự hoán cải để sự báo oán, hờn căm, nổi giận không có cơ hội nổi dạy trong con người. “ Hãy yêu thương kẻ thù “ là một lệnh truyền tuyệt đối của Chúa Giêsu, Vị sáng lập Đạo Tình Thương. “ Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu “. Đây là một giới răn, một lệnh truyền. Bởi vì, đối với Chúa tình yêu không có chuyện mắt thế mắt răng đền răng, không có chuyện trả thù. Chúng ta hãy đọc lại câu chuyện người con hoang đàng, người phụ nữ ngoại tình sẽ thấy lòng nhân hậu, thứ tha của Thiên Chúa tình yêu như thế nào ? Sự thật tuyệt vời, bài học vô giá Chúa đã để lại cho nhân loại, cho con người, cho mỗi người là sự tha thứ tuyệt vời của Chúa. Chúa đã tha thứ cho những kẻ bắt Ngài, hành hạ Ngài, kết án Ngài. Trên thập giá, Chúa đã tha thứ và đưa vào Thiên Đàng người trộm lành biết ăn năn hối cải:” Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta “. Chúa đã tha thứ ngay khi Ngài bị kết án bất công, bị đóng đinh trên thập giá:” Lạy Cha, xin tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm “ ( Lc 23, 34 ). Chết mới nói lên lời. Chết mới nói lên tình ây trọn vẹn, tình yêu vô vị lợi, tình yêu dâng hiến.
Tha thứ, yêu thương kẻ thù là điều rất khó thực hiện. Nhưng Chúa dạy:” Các con phải trở nên hoàn thiện như cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện”( Mt 5, 48 ). Ở trần gian, con người thường muốn cho vay ăn lời, càng lợi nhuận, càng lời nhiều càng tốt. Chúa dạy:” …Ai muốn vay mượn hãy sẵn sàng “. Cho vay ở đây không lợi nhuận, không ăn lời.Cho vay là giúp đỡ, là tạo cơ hội cho con người vượt khó, giúp họ làm lại cuộc sống của họ. Sự hòa giải, quảng đại, tha thứ sẽ đem lại cho con người sự bình an. Sự an bình luôn cần thiết cho đời sống con người. Ở đời nhiều người đã hối hận đã tìm lại được nguồn vui khi họ luôn cố tình nói xấu, làm hại người, nhưng ngược lại họ luôn nhận được sự thứ tha, cảm thông và tấm lòng tốt của người khác.
Đời sống của mỗi người ,thánh giá mỗi người vác hàng ngày đã nặng lắm rồi.Nếu chúng ta không chia sẻ, không cảm thông với nỗi nhục nhằn, nặng nề của kẻ khác thì chúng ta cũng đừng chất gánh nặng trên vai kẻ khác vì thánh giá họ vác mỗi ngày họ đã phải hy sinh, cố gắng lắm rồi…
Các Thánh là những người đã sống như chúng ta ở trần thế này, nhưng các Ngài đã hơn chúng ta vì đã dám sống đức tin tỏa sáng, đã dám vác thập giá, đã dám sống quảng đại, tha thứ cho cả những kẻ làm hại mình.
Lạy Chúa Giêsu, sống như Chúa yêu là điều không phải dễ, nhưng với ơn Chúa giúp, với sự tác động của Chúa Thánh Thần, chắc chắn chúng con có thể thực hiện được những điều mà Chúa mong muốn.Xin giúp chunh1 con biết tuân theo lồi dạy của Thánh Phanxicô khó khăn:”…đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm “. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao Chúa lại nói yêu thương cả kẻ thù ? 2.Mắt thế mắt răng đền răng là gì ? 3.Giới răn mới của Chúa được gọi là giới răn gì ? 4.Yêu thương như Chúa yêu là sao ? 5.Thường những kẻ xúc phạm đến chúng ta, chúng ta đối xử thế nào ?
Câu Mt 5,17 đưa vào một vấn đề: tương quan giữa Luật Môsê và các Ngôn sứ, tức trọng tâm của: TN 7-A37
Câu Mt 5,17 đưa vào một vấn đề: tương quan giữa Luật Môsê và các Ngôn sứ, tức trọng tâm của niềm tin Cựu Ước, và giáo huấn của Đức Giêsu, trọng tâm của niềm tin Kitô giáo. Vấn đề được minh nhiên cứu xét trong phân đoạn 5,20-48 là bản văn nói về sáu “cặp đối nghĩa”. Phân đoạn này cho thấy tính cách mới mẻ trong giáo huấn của Đức Giêsu so với chính các bản văn Cựu Ước.
Bản văn chúng ta đọc hôm nay đề cập đến hai cặp đối nghĩa cuối cùng: chớ trả thù (5,38-42) và phải yêu kẻ thù (cc. 43-48).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần: 1) Chớ trả thù (5,38-42); 2) Phải yêu kẻ thù (5,43-48).
3.- Vài điểm chú giải
- mắt đền mắt, răng đền răng (38): Đây là luật hình sự dựa trên nguyên tắc đối trọng: ai đã gây thiệt hại, thì phải sửa chữa thiệt hại đã gây ra. Xem Xh 21,23-25; Lv 24,19-20; Đnl 19,21; Bộ luật Hammourabi (2000 năm tCN).
- đừng chống cự người ác (39): Lời này được ngỏ với kẻ bị xúc phạm để họ biết xử sự đúng tư cách là môn đệ Chúa Kitô, chứ không phải là nhằm hủy bỏ nền luật pháp hiện hành (thánh Phaolô đã vận dụng luật pháp này: x. Cv 25,11). Chính cách xử sự này cho thấy rằng các bộ luật hình sự chỉ có tính cách nhất thời, giới hạn.
- đi một dặm (41): Có lẽ đây là một dịch vụ. Các lính tráng và quan chức có thể bắt người qua đường vác một gánh nặng (trường hợp Simôn Kyrênê) hoặc đi với họ như là con tin hoặc như người dẫn đường.
- Ai muốn vay mượn (42): Bên Paléttina, “cho vay thường tương đương với bố thí (x. Hn 29,1). Người Israel không được cho người đồng chủng vay lấy lãi (Xh 22,24; Lv 25,35-37; Đnl 15,7-11; 23,20-21).
- hãy yêu kẻ thù (44): Động từ agapaô nói đến một tình yêu hy sinh cho người kia. Tình philia (phileô) là một tương quan đặc biệt, một sự trao đổi, một sự đồng thuận hỗ tương dựa trên các phẩm chất tự nhiên, sự để ý đến nhau, sự đồng cảm. Còn eraô (eros) là tình yêu phàm tục.
- nên hoàn thiện (48): Teleios (Hp. tamim) có nghĩa là đã đạt tới đích (telos), tức là tới mức thể hiện tối đa; như thế là không có lỗ hổng, khiếm khuyết, giới hạn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Chớ trả thù (38-42)
Luật báo phục (“mắt đền mắt, răng đền răng”) hình thái triệt để nhất và cũng sơ khai nhất của luật hình sự; luật báo phục chính là việc hợp pháp hóa sự công bình riêng tư. Thật ra, vào thời Đức Giêsu, người ta không còn áp dụng luật này cách cứng ngắc nữa, vì đã tạo ra những hình thức khác để nộp phạt (đóng tiền…). Tuy nhiên, Đức Giêsu đã lấy luật báo phục làm điểm xuất phát để giáo huấn: với năm ví dụ cụ thể (cc. 39b-42), Người mời gọi các thính giả đi xa hơn thái độ cam chịu thụ động: không những không đáp lại sự dữ bằng sự dữ, nhưng còn phải đáp lại sự dữ bàng sự lành, sự thiện. Bằng các ví dụ đó, Đức Giêsu cho các môn đệ hiểu rằng Thiên Chúa Cha chờ đợi họ sẵn sàng cho đi trọn vẹn, cho đến mức tối đa, nếu hoàn cảnh đòi hỏi. Do đó, không phải là cứ áp dụng sát mặt chữ những ví dụ của Đức Giêsu, nhưng là hiểu cho đúng để áp dụng cho đúng. Vấn đề không phải chỉ là đưa má kia cho người ta tát tiếp, nhưng là cống hiến một không gian để kẻ gian ác có thể suy nghĩ về các lầm lạc của họ.
Chịu vả vào cả hai má, nhường cả áo ngoài cho kẻ đòi áo trong, đi hai dặm với một người bắt anh đi một dặm, anh muốn vay mượn, thì hãy cho vay mượn, tất cả đều là những hành vi diễn tả thái độ Kitô hữu, nhưng không đúng ý Chúa Kitô nếu người bị khổ không chịu khổ vì tình yêu đối với những kẻ gây bất công cho mình.
* Phải yêu kẻ thù (43-48)
Với cặp đối nghĩa cuối cùng này, Đức Giêsu cho hiểu rằng sự hoàn thiện của Chúa Cha, đó là tình yêu. Sách Lêvi (19,18) buộc người Híp-ri yêu thương người re’a (HL ho plêsios, người thân cận), là người cùng sống giao ước với Đức Chúa, những thành viên của cộng đồng dân Thiên Chúa; người ngoại quốc (gêr) mà đi vào cộng đồng tôn giáo với người Israel thì cũng được hưởng tình yêu này. Sự thù ghét kẻ thù không được quy định trong Lề Luật, nhất là với một công thức sống sượng như thế. Sự thù ghét này phát sinh như một hậu quả của luật yêu thương người thân cận.
Kẻ thù đầu tiên được kể ra, đó là “những kẻ ngược đãi”. Đây hẳn là những kẻ thù chống lại niềm tin của ta, chống lại lối sống Kitô giáo. Yêu kẻ thù không có nghĩa là trở thành bạn hữu của họ, nhưng là tỏ ra thông cảm, nhân ái, và sẵn sàng trợ giúp. Đức Giêsu đã yêu thương mọi người, nhưng không phải không có những sự ưu ái đối với một số người, và cũng không ngại nói lên lời răn đe và trách mắng các đối thủ. Tình yêu đối với kẻ khác được diễn tả ra bằng hai ví dụ mẫu: cầu nguyện cho kẻ thù và “chào hỏi” mọi người không phân biệt. (x. Lc 23,34; Cv 7,60). Người Kitô hữu phải mở rộng vòng người thân cận ra bên ngoài những gì Luật dạy và những ngươi thu thuế (telônai) và dân ngoại (ethnikoi) vẫn thực hành. Người plêsios không chỉ là “những người công chính”, “những người tốt” (c. 45), “những ai yêu thương anh em” (c. 46), “các anh em” (c. 47), nhưng tất cả mọi người, đặc biệt các “kẻ thù (cc. 43-44), “những kẻ ngược đãi anh em” (c. 44), “những người xấu” và “những người bất chính” (c. 45).
Đức Giêsu đưa điều răn yêu thương về lại với ý hướng của Đấng Lập pháp đầu tiên. Tình yêu buộc phải cung cấp cho mọi người những gì phải làm: sự tín nhiệm, sự trân trọng, sự trợ giúp. Cũng như trong những cặp đối nghĩa khác, Đức Giêsu không chỉ cho một lời khuyên, nhưng ban một lệnh mới cho các tương quan giữa con người. Người môn đệ chỉ trở thành con của Chúa Cha trong mức độ người ấy mô phỏng lối xử sự của mình theo cách ứng xử của Chúa Cha, nghĩa là yêu thương người khác, kể cả kẻ thù, y như Chúa Cha vẫn yêu thương họ. Khi yêu thương mọi người không phân biệt kỳ thị, người Kitô hữu chứng tỏ cách chắc chắn và trung thực nhất dây quan hệ họ hàng với Thiên Chúa. Câu “anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48) làm vọng lại lời mời gọi của sách Đnl (18,13): “Anh (em) phải sống trọn hảo với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em)” và của sách Lêvi (19,2): “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh”.
+ Kết luận
Luật Kitô hữu là luật yêu thương. Khi người môn đệ Chúa Kitô chấp nhận những từ bỏ do luật này đòi hỏi, luật yêu thương này chứng tỏ được tất cả trọng lượng của nó. Nếu các nguyên tắc được công bố ở đây đi vào trong xã hội, xã hội này hẳn là sẽ không bị tiêu vong, nhưng sẽ thấy các tương quan giữa con người được đổi mới, bởi vì các bất công và bạo động sẽ bị dập tắt dễ dàng nhờ sống theo luật này hơn là do sợ các biện pháp chế tài hình sự. Thật ra đây chính là lối sống của Đức Giêsu. Đức Giêsu đã chết vì không nhường bước trước các áp lực của sự thận trọng hoặc của lương tri. Khi làm như thế, Người không đảo lộn trật tự xã hội, nhưng Người củng cố các tương quan giữa con người với con người. Bắt chước Thiên Chúa, và cũng là bắt chước Đức Giêsu, là quy tắc duy nhất của lối cư xử của Kitô hữu, là con đường duy nhất để vượt qua nền luân lý Pharisêu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Qua giáo huấn của Người, Đức Giêsu giúp chúng ta nhìn vào đời sống Kitô hữu giữa lòng xã hội. Như bất cứ ai, người Kitô hữu cũng có khi là đối tượng của những bất công, của bạo động; họ bị xử thô bạo, hành hạ, đánh đập, bỏ tù, xử bất công. Đức Giêsu đề nghị không phải là một cách thức xử sự mang tính tự vệ hoặc chỉ là bất bạo động, nhưng còn là chấp nhận bị tước đoạt vô điều kiện.
2. Khi chịu xử bất công, người môn đệ Chúa Kitô vác thập giá cho những kẻ đã chuẩn bị thập giá cho mình. Không phải là những hành vi thể lý là đáng kể, nhưng là những động lực khiến người ta chấp nhận, không vì yếu đuối hoặc hèn nhát, nhưng là để khỏi gây thiệt hại cho người anh em hư hỏng, lạc đường.
3. Đức Giêsu không đề nghị một trật tự mới cho các tương quan xã hội, nhưng một nguyên tắc sống khổ chế có khả năng minh họa và giải thích trước thái độ của Người đối với người Pharisêu và các kẻ bách hại Người nói chung.
4. Luật Tình yêu kẻ thù đảo lộn các cách xử sự theo quy ước của loài người. Thường yêu thương là quan tâm đến những ai có cùng kiểu nhìn như mình, trình độ văn hóa như mình, địa vị xã hội như mình. Sứ điệp Tin Mừng vượt quá các giới hạn ấy. Đức ái Kitô giáo không “cào bằng” các con người, nhưng tỏ ra kính trọng họ, thậm chí cả các giới hạn và khiếm khuyết của họ. Lòng nhân ái của Kitô hữu là thông dự vào tình yêu của chính Thiên Chúa.
5. Từ ngữ “hoàn thiện” in vào trong lối hành xử của Kitô hữu một sức năng động. “Hoàn thiện” là vượt qua mọi thiếu sót, như thế là không bao giờ thực hiện được vĩnh viễn, nhưng cứ tiến tới mãi, và nếu mức độ là sự hoàn thiện của Thiên Chúa, thì ta chẳng bao giờ đạt tới được mức thực hiện hoàn toàn. Nên hoàn thiện như Chúa Cha, trong cụ thể, là bắt chước Đức Kitô trong thái độ quy phục trọn vẹn, anh hùng, thánh ý Thiên Chúa, và trong sự tận tình sống cho anh chị em.
Kết thúc "Bài giảng trên núi", căn tính của người kitô hữu là muối là ánh sáng. Tiếp theo sau đó,: TN 7-A38
Kết thúc "Bài giảng trên núi", căn tính của người kitô hữu là muối là ánh sáng. Tiếp theo sau đó, Chúa Giêsu tiếp tục mạc khải cho khi dạy các môn đệ và cũng dạy chính chúng ta về thái độ cần phải có cũng như thực hành trong đời sống: "Các con đã nghe bảo... Còn Thầy, Thầy bảo các con ". Vậy nghe bảo gì? Và cụ thể giáo huấn của Chúa Giêsu cho các môn đệ mình ra làm sao?.
Khi Chúa Giêsu khi trích dẫn câu nói của người xưa về luật công bằng khi trả thù đã được ghi rõ trong Cựu Ước "Mắt đền mắt, răng đền răng " ( Xh 21,24). Chúng ta phải thừa nhận rằng, đây là một bước tiến lớn trong tương quan hành xử giữa người với người so với thời Lamek, bởi Lamek đã từng nói với hai vợ: "Vì một vết thương, ta giết một người, (Ta) trầy da, một nam nhi toi mạng. Vì Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy! " (St 4,23-24) Vậy là trả thù mãi mãi. Luật "Mắt đền mắt, răng đền răng" ( Xh 21,24) giúp con người khỏi rơi vào tình trạng thái quá. Trái lại, Luật của tình yêu phủ nhận sự đồng nhất với kẻ thù: "Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác" (Mt 5, 39).
Theo Chúa Giêsu, yêu thương là vượt ra khỏi vòng tròn luẩn quẩn của cái ác và sống tình huynh đệ đại đồng, nên khi Ngài bảo chúng ta "đưa má bên kia cho nó nữa, " là Ngài muốn chúng ta xây đắp tình hiệp thông anh em. Đưa má bên kia là cố tình giúp đối phương khám phá ra tình yêu và rằng thực hành bác ái là điều có thể. Đưa má bên kia còn muốn nói với kẻ ác rằng nó đã nhận được người anh em như nó là anh em. Một hành động đáng tin cậy như thế sẽ phá tan bạo lực.
Chúa Giêsu yêu cầu gia tăng thêm tình yêu và lòng tha thứ càng nhiều càng tốt! Vì tình yêu có sức mạnh giúp đối phương xích lại gần ta hơn bằng tình người. Như thế, bằng cách trao ban, chúng ta nhận nó là anh em.
Cho nó cả áo choàng, đi với nó hai dặm không phải một mà áp đặt, nhưng chứng minh con người luôn có sáng kiến về tình yêu. Vì đó là điều đẹp lòng Chúa, nên chúng ta từ bỏ điều có đi có lại và chủ động xây đắp tình hiệp thông trong tình yêu. "Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ " (Mt 5, 44).
Tình yêu phải được thực hiện theo châm ngôn: "Hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con" (Mt 5, 44). Chúa Giêsu không chỉ lên án một hệ thống dùng bạo lực để trả thù cho cân, Ngài còn muốn chúng ta hủy bỏ luật ăn miếng trả miếng xưa. Tình yêu không gia tăng theo kiểu có đi có lại - người ngươi yêu mến là một người anh em ngươi, một người ngươi yêu mến là người bạn ngươi. Tình yêu là quà tặng, nhưng không dựa trên sự khác biệt tối thiểu. Sự khác biệt của tình yêu là không giống nhau, là người khác chứ không phải là người họ hàng, nhưng là người chúng ta cảm thấy gần. Như Chúa Giêsu đã nói: đó là người thân cận của ngươi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không bác bỏ sự phân biệt của chúng ta. Người khác không phải luôn là một người bạn, nó có thể trở thành kẻ thù. Điều quan trọng là tất cả mọi người là anh em với nhau.
Thật phù hợp để người kitô hữu khẳng định căn tính là con Thiên Chúa của mình khi thực hành lời Chúa Giêsu dạy để trở nên con cái của Cha trên Trời. Giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu để lại đã mạc khải rõ về hồng ân yêu thương. Là con cái Thiên Chúa, chúng ta phải yêu thương ngay cả kẻ thù, kẻ muốn cắt đứt tương quan là con Thiên Chúa và anh em với ta. Luật ăn miếng trả miếng không còn tồn tại. Chỉ có tình yêu mới biến đổi được hận thù, tình yêu làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa và thể hiện chức phận là con đối với Người.
Như thế, chúng ta đi đến cùng lời Chúa Giêsu dạy về thánh ý Thiên Chúa trong đời sống: "Các ngươi hãy thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh" (Lv 19,1). Bằng những lời này, Thiên Chúa mời gọi dân Israel và cả chúng ta ngày hôm nay thể hiện lòng trung thành với giao ước Thiên Chúa đã thiết lập, đồng thời đặt luật lệ xã hội trên giới răn "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình" (Lv 19,18). Tuy nhiên, phải đi xa hơn để tình yêu của chúng ta được phổ quát nhằm cho luật cũ được kiện toàn. Khi yêu như thế, ta đang thực hiện lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành " (Mt 5,48).
Nhưng ai có thể nên trọn lành? Sống trọn lành là thi hành thánh ý Chúa trong tư cách là con. Thánh Xip-ri-a-nô từng viết: "Cách hành xử của con cái Thiên Chúa phải tương hợp với tình phụ tử của Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa được tôn vinh và ca tụng từ những việc tốt lành của con người " (De zelo et livore, 15: CCL 3a, 83). Như thế, con người có thể trở nên trọn lành khi sống tròn đầy cương vị làm con cái Thiên Chúa. Chúa Cha làm khác chúng ta là những người bỏ người này chọn người kia. Chúa Cha làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Chúa Cha quan tâm đến cả hai, người lành cũng như kẻ dữ; con cái Thiên Chúa cũng phải trở nên trọn lành " như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành "(Mt 5, 48).
Xem ra có thể khó, nhưng Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta trước khi nói: "Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Ðấng ngự trên trời" (Mt 5, 44-45). Ai đón nhận Thiên Chúa trong đời sống mình và yêu mến Người hết lòng, người ấy có khả năng bắt đầu một chặng đường mới, có thể chu toàn thánh ý Thiên Chúa hầu hiện thực hoá một hiện hữu mới được nuôi sống bởi tình yêu và hướng đến sự vĩnh cửu. Tình yêu là điều vĩ đại, chúng ta đọc thấy trong sách Gương Chúa Giêsu, một điều tốt làm nhẹ đi những nặng nhọc và nâng đỡ những điều khó khăn. Tình yêu thôi thúc ta hướng lên cao mà không còn bị vướng bận vào bất cứ điều gì thuộc trần thế.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp chúng con luôn sống xứng đáng là con Cha trên Trời. Amen.
Mến Chúa, yêu người chính là điểm cốt lõi của đạo Công Giáo. Nếu nói mến Chúa mà không yêu: TN 7-A39
Mến Chúa, yêu người chính là điểm cốt lõi của đạo Công Giáo. Nếu nói mến Chúa mà không yêu người thì đó là kẻ nói dối. Mến Chúa thì dễ, nhưng yêu người lại rất khó. Hơn nữa yêu cả kẻ thù của mình thì càng khó hơn gấp bội. Tuy nhiên, là người môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta không thể bỏ qua hay làm ngơ khi đứng trước lời mời gọi của Đức Giêsu là yêu thương hết mọi người, kể cả người thù ghét mình nữa.
Luật yêu thương trong Cựu Ước
Thời Cựu Ước, luật yêu thương được hiểu là không hại người anh em, phải yêu thương đồng loại:“Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình.” (Lv 19,18). Trong sách Huấn Ca, tác giả cũng dạy không được oán hờn, giận giữ anh em mình, vì nếu thù ghét đồng loại mình và không tha thứ cho nhau thì không xứng đáng được Chúa tha thứ cho mình. Hơn nữa, đây lại chính là điều kiện cần để được Thiên Chúa tha thứ và ban ơn cứu độ cho mình: “Vì các ngươi đong bằng đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy” (Lc 6:38)”.
Tuy nhiên, luật Cựu Ước, theo lẽ công bằng thì yêu tha nhân là những người đồng chủng, đồng bào, nghĩa là chỉ người Do thái. Còn tất cả mọi người khác là ngoại bang, là kẻ thù, không được thương mà cũng không được giúp. Ngược lại, còn khuyên tránh xa, và nếu cần có thể giết nữa (x. Đnl 20,13-17; 23,4-5; 25,17-19). Luật công bằng cũng hiểu là: “mắt đền mắt, răng đền răng”.
Như thế, ta thấy luật Cựu Ước là một luật đem lại công bằng cho người đồng loại, nhưng được phép báo oán kẻ thù của mình. Còn đến thời Tân Ước thì sao? Chúng ta xem Đức Giêsu đến, Ngài dạy gì?
Luật yêu thương thời Tân Ước
Sang thời Tân ước, Đức Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật bằng việc đem vào đó một tình yêu bao dung tha thứ được dành cho hết mọi người. Vì thế, theo giáo huấn của Đức Giêsu về luật yêu thương tha nhân, thì sự bao dung đại lượng còn phải đi tới chỗ yêu thương luôn cả thù địch nữa. Đức Giêsu đã phán: “Các con cũng đã nghe dạy rằng: ‘Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch’. Còn Thầy, Thầy bảo các con: ‘Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con’” (Mt 5,43-44). Thánh Phaolô cũng tiếp lời giáo huấn của Đức Giêsu khi nói: “Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ… Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó ăn; nó khát hãy cho nó uống [...]Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ” (x. Rm 12:14, 20-21). Rõ ràng, Đức Giêsu đã xóa bỏ nguyên tắc “ăn miếng trả miếng”. Ngài đòi hỏi các môn đệ phải khước từ báo oán, phải tha thứ, yêu thương và cầu nguyện cho kẻ thù nữa, bởi vì: “Cha các con ở trên trời, là Ðấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”. Ngài mời gọi các môn đệ hãy tha thứ vô điều kiện: “Không phải chỉ tha 7 lần nhưng là 70 lần 7”. Như vậy, vị chi là 490 lần, tức là yêu thương không ngừng.
Tuy nhiên, không vì thế mà Ngài bảo trợ cho những người phạm tội hay có những tà ý vẫn ung dung sống trong những chọn lựa sai lầm của họ, mà Ngài đã mở lối thoát cho những ai bị người đời giam hãm cách tuyệt vọng trong tội hay trong những khuyết điểm của họ, để giúp họ vượt ra khỏi vòng tội lỗi để trở về với Chúa và sống chân tình với nhau. Đức Giêsu cũng không ngừng mời gọi người môn đệ sống tinh thần đó để góp phần làm cho một xã hội tràn đầy tình thương, lòng bao dung tha thứ.
“Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”(Mt 5,43-44) là điểm sáng của người môn đệ. Nếu không tha thứ cho những người ngược đãi mình thì của lễ của chúng ta cũng không được đẹp lòng Chúa và không được Ngài chúc phúc: "Nếu mỗi ngày, anh em con xúc phạm đến con tới bảy lần, và bảy lần nó trở lại với con mà nói: Tôi hối hận thì hãy tha cho nó" (Lc 17, 4). Xa hơn nữa: "Khi con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em lỗi phạm đến con, thì hãy để của lễ lại đó, đi làm hòa với người anh em trước đã rồi bấy giờ trở lại dâng của lễ của con" (Mt 5, 23-24).
Điều đó quả thật không dễ! Khó, nhưng cần thiết biết bao, vì "tha thứ và xin thứ tha tạo ra một phẩm chất mới trong quan hệ giữa người với người, bẻ gãy xiềng xích tội lỗi trói buộc trong tâm tư những người thù hận nhau... Thánh Công đồng Vat. II cũng nhấn mạnh luật yêu thương khi nói: “Giáo Huấn của Đức Kitô còn đòi ta phải tha thứ những xúc phạm và mở rộng luật yêu thương tới mức kể luôn cả những kẻ thù của mình nữa” (MV số 28).
Tuy nhiên, Công đồng lưu ý ta phải phân biệt giữa tội và người có tội. Ghét tội, nhưng không được ghét kẻ có tội, phải tìm cách giúp đỡ họ vượt ra khỏi tình trạng tội lỗi. Nếu người môn đệ Đức Giêsu chỉ yêu thương những người đồng đạo thì chưa phải là một môn đệ đích thực. Người đời họ cũng làm như thế: “Ta bảo các người: nếu đức công chính của các ngươi không vượt hẳn các Ký Lục và Biệt Phái, các người sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Ngài đã đi một bước xa hơn để diễn tả một tình yêu không phân biệt bạn và thù, để hướng tới mọi người ở mức độ tuyệt đối. Bởi vì mức độ của tình yêu là yêu không mức độ.
Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho họ
“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Đây là giáo huấn độc đáo của Đức Giêsu về lòng nhân ái.
“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người. "Yêu thương kẻ thù" là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời: "Đấng làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương..."
Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Đức Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là đề nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.
“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Đức Giêsu. Nhưng Ngài đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá “lạy Cha, xin tha cho họ vì nó lầm chẳng biết”. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may hầu sám hối và canh tân để được cứu độ.
Như vậy Đức Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
Giới răn của Đức Giêsu “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ" là một sự từ bỏ triệt để bạo lực. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý nghĩa và làm nên bản chất của người môn đệ.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Là những Kitô hữu, chúng ta đứng về phía bất bạo động. Tuy nhiên đó không phải là một chọn lựa cho sự nhu nhược hay thụ động leo thang, nhưng chọn lựa bất bạo động có nghĩa là tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là sức mạnh của chiến tranh, vũ khí và hận thù…
Là những kitô hữu, chúng ta phải cố gắng học theo lòng quảng đại của Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ, không đòi trả thù và oán hận chống lại người khác, vì họ là đền thờ và hình ảnh của Thiên Chúa.
Khi đến trần gian, Đức Giêsu đã mang ơn cứu độ từ trời xuống cho nhân loại, nhưng ơn cứu độ này lại được ban cách ưu tiên cho kẻ tội lỗi như Ngài đã nói: Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, mà là kêu gọi người tội lỗi, vì người khỏe thì không cần đến thầy thuốc, người đau yếu mới cần.
Như vậy, nếu các kitô hữu không cố gắng bắt chước tình yêu không phân biệt của Thiên Chúa, họ sẽ không tốt hơn những người khác và có khi những người không phải là Công Giáo, người ta làm tốt hơn chúng ta.
Chính sự tha thứ sẽ giải phóng con người, còn nếu nuôi lòng hận thù báo oán thì con người sẽ chuốc lấy sự đau khổ: “ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. Đức Giêsu đã nói với Phêrô như vậy tại vườn cây dầu khi ông dùng gươm để bênh vực cho thầy của mình và đã chém đứt tai người lính đến để bắt Đức Giêsu. Khi chúng ta ghét kẻ thù là chúng ta cho họ quyền áp đảo chúng ta.
Nói cách khác, viên đạn căm thù chỉ có thể làm thương tổn kẻ thù chúng ta sau khi đã xuyên qua lương tâm chúng ta trước. Khi nuôi trong mình sự trả thù thì đồng nghĩa với việc ta đào thêm một cái hố nữa để chôn chính ta. Người Hylạp cổ thường ví von như sau: “Người khôn ngoan thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác”.
Chúng ta biết chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng hoàn thiện, tốt lành vô cùng, chúng ta không thể trọn hảo như Người được. Nhưng chúng ta phải nên trọn lành như ý Người muốn, theo mẫu gương thánh thiện của Người, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ: “hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Ðấng trọn lành”.
Cuối cùng, yêu thương tha thứ phải được định hướng bởi sự thật. Không có sự thật thì tình thương trở thành mù quáng. Yêu hoa, không có nghĩa là yêu luôn cả những con sâu ẩn núp trong những cánh hoa. Đức ái Kitô Giáo đòi hỏi phải đấu tranh tích cực để khử trừ tội ác và cứu vớt con người, biến kẻ thù thành anh em, biến con người thành con Chúa. Đây là một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng phải phấn đấu hằng ngày.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu và sống tinh thần yêu thương, tha thứ, làm ơn cho anh chị em, nhất là những người đang thù ghét chúng con bằng một tình yêu không giới hạn. Amen.
(38) Anh em đã nghe Luật dạy rằng: “Mắt thế mắt, răng đền răng”. (39) Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đừng chống cự lại người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. (40) Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. (41) Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. (42) Ai xin thì anh hãy cho, ai muốn vay mượn, thì anh đừng ngoảnh mặt đi. (43) Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. (44) Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. (45) Như vậy, anh em mới được trở nên con cái Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. (46) Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi ? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao ? (47) Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu ? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao ? (48) Vậy anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.
2. Ý CHÍNH:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy môn đệ phải nên hoàn thiện qua cách ứng xử với những: TN 7-A40
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy môn đệ phải nên hoàn thiện qua cách ứng xử với những người xấu hay những kẻ thù của mình:
- Đối với những người xấu (Mt 5,38-42): Người môn đệ không chống cự khi bị xỉ nhục, bị kiện tụng, bị bắt phục dịch, quảng đại cho đi và cho vay mượn.
- Đối với những kẻ thù (5,43-48): Hãy yêu kẻ thù ghét mình và cầu xin điều lành cho những kẻ ngược đãi mình. Làm như vậy để nên hoàn thiện noi gương Chúa Cha trên trời.
3. CHÚ THÍCH:
- C 38-42:
+ Anh em đã nghe Luật dạy rằng: “Mắt thế mắt, răng đền răng” (c 38). Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đức Giê-su dùng kiểu nói song đối so sánh giữa Luật Mô-sê với luật yêu thương của Người. Chẳng hạn về việc trả thù, Mô-sê dạy trả báo công bình “mắt đền mắt, răng đền răng” (Xh 21,24) còn Đức Giê-su dạy phải hạn chế sự hận thù bằng thái độ “bất bạo động”.
+ đừng chống cự lại người ác nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa (c 39): Đừng để mình rơi vào vòng lẩn quẩn của bạo lực. Vì bạo lực sẽ sinh ra bạo lực. Sự vả mặt mang tính hạ nhục hơn là làm đau về thể xác. Việc đưa cả hai má ra cho người ác là hành vi “bất bạo động”, không chống trả và sẵn sàng chịu sỉ nhục cách bất công như “Người tôi tớ” trong sách I-sai-a: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn cũng đã làm như vậy khi nhẫn nhịn chịu đựng các đầu mục Do thái “khạc nhổ vào mặt và đấm đánh. Có kẻ còn tát Người” (x. Mt 26,67).
+ Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài (c. 40): người bị thưa kiện ở toà án nếu quá nghèo, chủ nợ sẽ chỉ được đoạt áo trong để trừ nợ, và không được lấy áo ngoài dù áo này có giá trị hơn (x. Mc 13,16). Chủ nợ không được cầm giữ áo choàng ngoài như vật thế chấp, và nếu có lấy thì cũng phải sớm trả lại cho người nghèo trước khi mặt trời lặn, vì áo choàng còn được anh ta dùng làm mền đắp ban đêm (x. Xh 22,25-27). Môn đệ khi bị kiện để đòi lấy áo trong, hãy sẵn sàng đưa luôn cả áo ngoài cho họ. Chính Đức Giê-su cũng đã bị quân lính lột áo, cả áo trong lẫn áo ngoài mà chia nhau (x. Mt 27,31.35), và bị đóng đinh trên thập giá trong tình trạng trần trụi không có cả áo trong lẫn áo ngoài.
+ Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm (c. 41): Đây là sự bắt buộc một người phải mang một vật nặng hay làm một việc phục dịch nào đó cho quân đội hay cho viên chức nhà nước, như ông Si-môn người Ky-rê-nê đã bị lính Rô-ma ép phải vác đỡ thập giá cho Đức Giê-su trên đường thương khó khi Người quá yếu mệt (x. Mt 27,32). + Ai xin thì anh hãy cho, ai muốn vay mượn, thì anh đừng ngoảnh mặt đi (c. 42): Khi kẻ ác và người xấu xin và muốn được vay mượn thì người môn đệ cũng hãy sẵn sàng đáp ứng.
- C 43-38:
+ Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy Thầy bảo anh em: Sự công chính của người môn đệ Đức Giê-su sẽ đạt tới tầm mức tối đa khi yêu thương kẻ thù. Hành vi yêu thương kẻ thù ghét mình là để nên hoàn hảo noi gương Chúa Cha trên trời là Đấng hoàn hảo (x. 5,48) và công chính (x. 6,33). Nhờ đó, họ mới được nên công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu để xứng đáng được vào Nước Trời (x. 5,20).
+ “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em” (c. 44): Theo mạch văn kẻ thù là kẻ bắt bớ người tốt (c. 44b), là kẻ xấu luôn sỉ nhục, vu khống, đặt điều nói xấu người lương thiện (x. 5,10-11), và làm những điều bất công (x. 5,38-42); do đó người đời thường ghét kẻ thù. Trái lại Đức Giê-su dạy môn đệ phải yêu thương kẻ thù theo gương Chúa Cha trên trời.
+ Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính (c. 45): Thiên Chúa không phân biệt đối xử giữa kẻ xấu và người tốt. Ở đây Mat-thêu dùng từ “người xấu” thay vì “kẻ thù”. Vì “kẻ thù” của Thiên Chúa chính là ma quỉ; chắc chắn là Thiên Chúa không yêu thương và “cho mặt trời mọc lên” trên loại kẻ thù này (x. Mt 13,25), nhưng Ngài sẽ đặt nó dưới bệ chân Ngài (x. Mt 22,44).
+ Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi ? (c 46). Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu ? (c 47): Trước khi kết luận, Đức Giê-su đưa ra hai cách làm bình thường mà người môn đệ cần phải vượt qua là chỉ yêu thương những người yêu mình hay chỉ chào hỏi những anh em của mình, để nhờ đó họ sẽ nên công chính hơn những người thu thuế và lương dân.
+ Vậy anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện (c. 48): Đây là điều đã được Đức Giê-su thực hiện và qui chiếu về Chúa Cha: “như Cha anh em”. Nếu Chúa Cha đã thể hiện tình yêu qua việc “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành”, thì con cái của Ngài cũng phải làm như vậy: nghĩa là phải làm điều tốt cho người khác vì tình yêu họ.
4. CÂU HỎI:
1) Đức Giêsu dạy môn đệ phải nên hoàn thiện noi gương Thiên Chúa để đối xử với người xấu và người ác ra sao ?
2) về việc trả thù, Mô-sê dạy phải trả báo công bình như: “mắt đền mắt, răng đền răng” (Xh 21,24). Còn Đức Giê-su dạy môn đệ phải hạn chế hận thù như thế nào ?
3) Tại sao lại phải giơ má kia khi đã bị kẻ xấu tát má này của mình ? Phải chăng làm như vậy là khuyến khích kẻ xấu tiếp tục làm ác: “được đằng chân lân đàng đầu” ?
4) Môn đệ phải yêu kẻ thù là những ai để noi gương Thiên Chúa ?
5) Đức Giê-su đòi môn đệ phải công chính hơn người thu thuế và dân ngoại như thế nào ?
6) Nếu Chúa Cha đã thể hiện tình yêu qua việc “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành”, thì các tín hữu cũng phải làm gì đối với những kẻ thù ghét mình ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Đức Giêsu phán:” Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. (44) Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43-44).
2. CÂU CHUYỆN:
1) TỔNG THỐNG NAM PHI NEN-SƠN MAN-ĐÊ-LA YÊU THƯƠNG KẺ THÙ:
Đảng Quốc Dân, chính đảng của thiểu số người da trắng nắm quyền ở Nam Phi từ 1948, chủ trương phân biệt chủng tộc gọi là chủ nghĩa A-pác-thai và đối xử dã man với người da đen ở Nam Phi và các người di dân từ Châu Á tới, đặc biệt là từ Ấn Độ. NEN-XƠN MAN-ĐÊ-LA (Nelson Mandela) đã đứng ra tranh đấu đòi bãi bỏ chế độ A-pác-thai và đã bị cầm tù nhiều năm và cuối cùng đã giành được thắng lợi. Ngày 7.12.1993 Hội đồng Hành pháp Lâm thời Nam Phi (ANC) đã ra đời với vị chủ tịch đầu tiên là NEN-XƠN MAN-ĐÊ-LA, chấm dứt 340 năm độc quyền cai trị của thiểu số người da trắng ở nước Nam Phi này. Tháng 4 năm 1994, tổng tuyển cử đa sắc tộc đã được tổ chức. ANC đã chiếm được đa số phiếu và Nen-xơn Man-đê-la trở thành vị tổng thống da mầu đầu tiên của Nam Phi.
Ông NEN-SƠN MAN-ĐÊ-LA đã trải qua 27 năm trong nhà tù. Sau khi được phóng thích, lẽ ra ông đã có đủ lý do để trả thù những kẻ đã cướp đoạt tự do của ông cách bất công. Nhưng ông đã không làm như thế mà luôn tỏ thái độ tươi cười hòa giải với những người đã từng ra lệnh giam giữ ông. Vì thế Man-đê-la đã trở thành lãnh tụ nổi tiếng nhất của nước Nam Phi mới. Trong cuốn tự thuật “Hành trình đến tự do” (1994), Man-đê-la đã viết như sau: “Tôi biết rằng dân chúng mong chờ tôi nuôi dưỡng hận thù người da trắng. Nhưng tôi đã không làm như thế. Trong nhà tù, sự tức giận của tôi với người da trắng đã hạ nhiệt, nhưng lòng thù ghét hệ thống xã hội phân biệt chủng tộc “A-pác-thai” lại gia tăng. Tôi muốn đất nước Nam Phi nhìn thấy tôi đã yêu thương những kẻ thù của tôi, đang khi tôi thù ghét chế độ A-pac-thai là nguyên nhân khiến mọi người trong nước chống lại nhau. Tôi đã thấy sứ mạng của tôi là rao giảng sự hòa giải để chữa lành những vết thương lâu đời và xây dựng một nước Nam Phi mới” (McCarthy).
2) ÔNG HAM-MEL-MANN ĐÃ THA THỨ CHO KẺ THÙ ĐÃ GIẾT HẠI VỢ CON MÌNH:
Một tên sát nhân sau khi đã thụ án 20 năm trong ngục được thả ra, đã thuật lại hành động anh hùng của ông Ham-mel-mann: Không những ông tha thứ cho anh ta tội giết hại vợ và bốn đúa con của ông, mà còn sẵn sàng giúp đỡ anh ta cách tận tình. Anh ta đã phát biểu như sau:
“Tôi đã bị bắt, cảnh sát đã tìm thấy tôi. Tôi vốn là một kẻ hiếu sát. Tôi đã giết bà Ham-mel-mann và bắn chết 4 người con của bà. Tôi đã nhìn thấy họ nằm chết trên vũng máu. Sau khi bị cảnh sát bắt và đưa ra tòa xét xử; quan tòa đã tuyên án như sau: ”Anh đã làm một việc vô cùng tàn bạo, anh phải lãnh án tù khổ sai 20 năm”. Trong thời gian trong tù, tôi đã nhận được lá thư của ông Ham-mel-mann viết cho tôi vì được tin chính quyền Ba-lan không cho phép tôi được trở về quê hương Ba-lan của tôi sau khi mãn hạn tù. Ngay cả chính quyền Đức cũng nói với tôi: ”Chúng tôi không muốn anh sống tại nước Đức”.
Trong lá thư Ham-mel-mann viết cho tôi có đoạn sau: ”Tôi tha thứ cho anh về việc anh đã giết vợ và 4 đứa con của tôi. Tôi cũng đang vận động với chính quyền Đức để họ cho phép anh được sống tại Đức. Tôi đã nói với chính phủ Đức là anh có thể ở trong nhà tôi và tôi hứa sẽ giúp anh sống một cuộc đời lương thiện”. Tại sao tôi lại muốn giúp đỡ anh ? Tại sao tôi có thể tha thứ cho anh về tội tàn sát cả gia đình của tôi ? Sở dĩ tôi có thể làm được điều này vì Thiên Chúa đã làm một phép màu nơi tôi. Ngài đã ban cho tôi Thần Khí của Ngài. Thần Khí của Thiên Chúa đã dẫn dắt cuộc đời tôi và đã tăng thêm sức mạnh giúp tôi sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho anh”.
Cuối cùng anh ta nói: Bây giờ tôi biết được rằng chắc chắn Thần Khí của Thiên Chúa phải quyền năng siêu việt. Ngài đã có thể cất đi mối tử thù khỏi lòng một con người và ban cho ông ta tấm lòng quảng đại để sẵn sàng giúp đỡ tôi, mặc dù tôi đã giết vợ và 4 đứa con của ông ta (TK Nguyệt san, số 367).
3. SUY NIỆM:
Tin Mừng Chúa Nhật 7 Thường Niên tiếp tục trình bày giáo huấn của Đức Giê-su hoàn thiện Luật Mô-sê: Luật cũ dạy người Do thái phải yêu thương thân nhân và những người đồng chủng, đồng thời phải ghét kẻ thù là dân ngoại và những kẻ chống lại mình. Luật Mới của Đức Giê-su dạy môn đệ phải mở rộng tinh yêu để đến với mọi người, nhất là những người nghèo đói bệnh tật, què quạt đui mù câm điêc… và còn phải yêu thương cả những kẻ làm ác và kẻ thù ghét mình nữa.
LỜI DẠY CỦA CÁC BẬC VĨ NHÂN ĐỐI VỚI KẺ THÙ:
Trong việc ứng xử với kẻ thù, Đức Khổng Tử đã dạy học trò: ”Dĩ đức báo oán", nghĩa là phải làm điều tốt để đáp lại điều xấu của kẻ thù của mình. Còn Đức Phật Thích Ca suốt đời tìm cách giải thoát con người khỏi đau khổ, cũng dạy các đệ tử như sau: ”Lấy oán báo oán, oán chập chùng. Lấy đức báo oán, oán tiêu tan”. Thánh Gandhi của dân tộc Ấn độ, đã nêu ra học thuyết “bất bạo động” làm phương thế đấu tranh và đã giải phóng được nước Ấn thoát khỏi ách khỏi ách thống trị của thực dân Anh, cũng nói như sau: ”Luật vàng của xử thế là sự tha thứ cho nhau”. Sau này, Mục sư Luther King người Mỹ suốt đời đấu tranh cho quyền bình đẳng của người da màu với người da trắng và đã bị kẻ thù bắn chết. Trong tác phẩm “Chỉ có một cuộc cách mạng” mục sư đã viết về cách đối xử với kẻ thù như sau: ”Tôi hài lòng vì Đức Giê-su đã không dạy: Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em. Bởi vì có nhiều người tôi khó lòng có thiện cảm được. Thiện cảm là một cảm tính. Tôi không thể có thiện cảm với kẻ tìm cách ném bom vào gia đình tôi, đàn áp bóc lột tôi, chèn ép tôi cách bất công. Không, không thể có thiện cảm nào đối với những kẻ luôn đe dọa cuộc sống của tôi. Tuy nhiên Đức Giê-su đã dạy rằng: “Tình yêu còn mạnh hơn sự chết”, rằng tình yêu là thiện chí cảm thông, mang tính sáng tạo và có khả năng cứu độ mọi người”.
Riêng Đức Giê-su Đấng đến kiện tòan Luật Mô-sê, đã dạy về cách đối xử với kẻ thù như sau: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43-44).
2) YÊU KẺ THÙ VÀ CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG KẺ NGƯỢC ĐÃI MÌNH:
a) Kẻ thù là những ai ?: Thời Đức Giê-su kẻ thù của người Do Thái là quân Rô-ma đang cai trị đất nước Do thái. Còn kẻ thù đối với chúng ta hôm nay không phải ai xa lạ mà chính là những người đang sống chung dưới một mái nhà, là anh chị em ruột thịt nhưng đang bất thuận với chúng ta; Là người hàng xóm nhiều lời và hay nói xấu chúng ta; Là bạn đông nghiệp cùng một cơ quan xí nghiêp nhưng hay tỏ ra ganh tị và luôn tìm cách làm hại chúng ta; Là người cùng chung một cộng đoàn nhưng lại hay ganh ghét và muốn loại trừ chúng ta… Kẻ thù cũng có thể là cấp trên đang chèn ép chúng ta khi không lôi kéo được chúng ta làm điều bất chính; Cuối cùng kẻ thù còn là những kẻ tự nhiên có thành kiến không tốt về chúng ta hoặc những kẻ chúng ta tự nhiên có ác cảm ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên...
b) Phải yêu thương kẻ thù như thế nào ?: Ðức Giê-su không đòi chúng ta phải yêu kẻ thù giống như yêu một người thân của mình về mặt tình cảm, vì đó là điều bất khả thi. Người chỉ đòi chúng ta yêu kẻ thù bằng hành động như: Làm ơn cho họ, cầu nguyện điều lành cho họ, sẵn sàng chia sẻ cơm bánh cho họ và cho họ vay mượn tiền bạc.
-“Hãy làm lành cho những kẻ ghét anh em”: Tình yêu tha nhân phải được biểu lộ qua hành động như: sẵn sàng nói chuyện, quảng đại giúp đỡ và khiêm hạ phục vụ…
-“Và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ”: Đức Giê-su dạy các tín hữu phải theo gương Chúa Cha: “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”. Khi cầu nguyện điều tốt cho những kẻ bách hại mình, chúng ta mới chứng tỏ mình thuộc về Thiên Chúa như có người đã nói: “Làm điều ác để đáp trả ơn lành là việc làm của ma quỉ. Làm điều lành để đáp trả ơn lành là việc làm của con người. Còn làm điều lành để đáp trả điều ác mới là làm việc của Thiên Chúa”.
c) Làm như vậy phải chăng là thái độ của kẻ đạo đức giả và hèn nhát?: Thực ra việc yêu kẻ thù dù tự nhiên mình không thích, không phải là hành động đào đức giả, nhưng là một hành động anh hùng, luôn nỗ lực vượt thắng bản thân để trở thành một con người bao dung từ bi nhân hậu. Làm như vậy cũng không phải là hành vi của kẻ hèn nhát, chịu khuất phục trước bạo lực, nhưng là dấu hiệu của một nhân cách trưởng thành, sẽ giành được sự nể phục của nhiều người. Làm được như vậy còn làm cho chúng ta trở nên môn đệ thực sự của Đức Giê-su, Đấng đã nêu gương nhẫn nhịn chịu đựng và cầu xin cho những kẻ giết hại mình trên cây thập giá.
d) Việc yêu thương kẻ thù mang lại những ích lợi nào ?: Khi cư xử tốt với kẻ thù, chúng ta được giải phóng khỏi thái độ “ăn miếng trả miếng” và tránh được nhiều chứng bệnh thời đại như cao huyết áp, mất ngủ, trầm cảm… Khi đối xử tốt với kẻ thù có thể chúng ta sẽ cảm hóa được kẻ thù, giúp họ hoán cải và theo làm môn đệ Đức Giê-su. Nhờ việc vượt thắng bản thân để đi bước trước bắt tay chào hỏi, sẵn sàng giúp đỡ và cầu nguyện điều lành cho họ… chúng ta hy vọng sẽ biến thù thành bạn của chúng ta.
4. THẢO LUẬN:
1) Đã có bao giờ bạn làm điều tốt cho kẻ thù ghét mình chưa ? 2) Đã có khi nào bạn gây được thiện cảm với ai đó nhờ việc đi bước trước để bày tỏ sự thân thiện, quảng đại chia sẻ và tận tình phục vụ họ chưa ?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Xin cho con quả tim của Chúa. Xin cho con biết quảng đại để vươn tâm hồn lên cao, vượt qua những tình cảm đời thường và mặc lấy tâm tình bao dung nhân hậu của Chúa. Xin cho con loại bỏ những sự hờn oán nhỏ nhen, những sự trả thù không đáng có. Xin cho tâm hồn con luôn bình an trong sáng, và không biến cố nào có thể làm xáo trộn, không đam mê nào có thể khuấy động được lòng con. Xin cho con đừng quá vui khi được người đời khen ngợi, cũng đừng quá buồn khi bị chỉ trích chê bai. Xin cho quả tim của con đủ lớn để yêu thương cả những người con không ưa và những kẻ không ưa con. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để ôm cả thế giới, trong đó có cả những kẻ thù ghét con. Nhờ đó con mới nên con thảo của Cha trên trời và nên môn đệ thực sự của Chúa. – AMEN.
Chúa Giê-su đã dạy chúng ta phải yêu thương nhau, vì đó là dấu hiệu nói lên chúng ta là môn đệ Người. TN 7-A41
Chúa Giê-su đã dạy chúng ta phải yêu thương nhau, vì đó là dấu hiệu nói lên chúng ta là môn đệ Người. Nhưng qua bài Tin Mừng hôm nay, Người còn đi xa hơn nữa khi dạy chúng ta phải yêu cả kẻ thù nếu chúng ta muốn nên hoàn thiện như Cha trên trời. Chúa Giê-su có đòi hỏi quá đáng không? Không đâu. Lý do mạnh mẽ là vì Cha trên trời muốn chúng ta hãy nên hoàn thiện giống như Người. Cha nào con nấy! Cha yêu kẻ thù thì con cũng phải yêu kẻ thù. Làm khác Cha thì không phải là con của Cha. Đơn giản vậy thôi.
Như chúng ta đã nghe trong bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, Chúa Giê-su tuyên bố Người không đến để bãi bỏ Luật Mô-sê, nhưng là để kiện toàn, thì đây, lời Người dạy phải yêu kẻ thù chính là một bằng chứng hùng hồn nói lên Người đã kiện toàn Lề Luật như thế nào. Bài đọc 1 trích sách Lê-vi dạy dân Do-thái phải yêu đồng loại như chính mình. Phải chăng đó là bài học yêu thương đầu tiên con người phải học: tình yêu bắt đầu từ chính mình; mình phải yêu bản thân và những người thuộc về mình trước khi trải rộng tình yêu? Tuy nhiên tình yêu đồng loại này không phải là thứ tình yêu ủy mị, nhưng là tình yêu xây dựng, mạnh dạn giúp anh chị em sửa lỗi, không trả thù hay oán hận. Như thế, tình yêu ấy cũng đã trổi vượt trên thứ tình yêu của thế gian thường tình rồi, dù nó vẫn mang những giới hạn là trong vòng “đồng bào” của mình thôi.
Còn với Chúa Giê-su, Người muốn tình yêu của chúng ta phải là vô giới hạn và vô điều kiện giống như tình yêu của Cha Người trên trời. Tình yêu có giới hạn và điều kiện là thứ tình yêu của “kẻ bất chính” và “kẻ ngoại”, chứ không phải thứ tình yêu của “Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”. Đúng vậy, Cha trên trời yêu thương cả kẻ thù của Người. Nhưng ai là kẻ thù của Thiên Chúa? Là ma quỷ và mọi kẻ tội lỗi. Khi chúng ta phạm tội, là chúng ta trở thành “kẻ thù” của Thiên Chúa rồi! Vậy mà Chúa vẫn yêu thương chúng ta mặc dù chúng ta tội lỗi, nên Người luôn tìm cách đưa chúng ta trở về với Người. Lại nữa, khi Chúa dạy chúng ta mến Chúa yêu người là phải yêu “hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn”. Như thế không phải là tình yêu vô giới hạn của Cha trên trời sao?
Đã yêu kẻ thù thì không thể trả thù. Trả thù là cách tìm sự đền bù khi ta bị xúc phạm. Do đó Chúa Giê-su đã kiện toàn Lề Luật bằng cách lấy luật yêu kẻ thù để thay thế luật “mắt đền mắt, răng đền răng” trong Cựu Ước. Ông Cút-xếp, lãnh tụ Nga-sô đã có lần rút giầy đập trên bàn họp Liên Hiệp quốc để bênh vực cho luật trả thù. Ông bảo: “Đức Ki-tô dạy nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Còn người Cộng sản chúng tôi, hễ ai vả chúng tôi, chúng tôi sẽ vả lại cho nó rụng không còn cái răng nào”. Chúng ta phải khác với “những người thu thuế và kẻ ngoại” nếu muốn làm con cái của Cha trên trời là Đấng hoàn thiện! Sống sứ điệp Lời Chúa
Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Thánh Phao-lô thuộc nằm lòng chân lý này nên ngài mới đi đến kết luận: “Tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Ki-tô, và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa” (bài đọc 2). Chúng ta thường nói tình yêu là tất cả. Như vậy chúng ta có thể hiểu rằng tình yêu thuộc về chúng ta vì chúng ta thuộc về Chúa Ki-tô và Chúa Ki-tô thuộc về Thiên Chúa. Nghe dễ thương ơi là dễ thương! Cái từ “thuộc về” đã diễn tả căn tính đích thực của chúng ta là con cái của Tình Yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu, nên chúng ta là con cái Thiên Chúa. Hơn thế nữa, thánh Phao-lô còn nhắc nhở rằng chúng ta là “Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Chúa ngự trong chúng ta”. Đây là một nhắc nhở thực dụng, nếu chúng ta luôn nhớ mình mang Tình Yêu trong đền thờ là tâm hồn mình. Cho nên chúng ta đi đâu, ở chỗ nào là người khác có thể nhận ra ngay chúng ta là con cái Chúa. Tất cả ý nghĩ, lời nói, cử chỉ và việc làm của chúng ta đều do một động lực là Tình Yêu, đều theo một lề luật là Tình Yêu và đều trở nên một dấu hiệu là Tình Yêu. Quan trọng nhất là chúng ta hãy bước theo Chúa Giê-su, Đấng đã yêu kẻ thù và là sự “thuộc về” gương mẫu, để chúng ta được xứng đáng làm con cái của Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.
Trả thù, báo oán là cách ứng xử man rợ, thiếu đạo đức.
Luật trả thù báo oán kiểu "mắt đền mắt, răng đền răng" là thứ luật đã lỗi thời, không còn thích: TN 7-A42
Luật trả thù báo oán kiểu "mắt đền mắt, răng đền răng" là thứ luật đã lỗi thời, không còn thích hợp nữa, thế mà ngày nay không ít người vẫn muốn cư xử với nhau theo thứ luật rừng man rợ đó. Ai móc mắt tôi, tôi móc mắt người đó. Ai đánh gảy răng tôi, tôi đánh gảy răng người đó..."
Trước hết, đây là cách ứng xử thông thường của loài vật, như gà chọi chẳng hạn: Con nầy đá qua, con kia mổ lại, đấu đá nhau cho đến khi cả hai đều gục xuống, kiệt sức, mình mẩy đầy máu me!
Đây cũng là phản ứng tự nhiên của những con trâu điên, của những con chó dại: Trâu nầy húc qua, trâu kia báng lại cho đến khi cả hai không còn hơi sức.
Những cách ứng xử như trên là man rợ, rừng rú, chỉ thích hợp cho một số loài động vật hung hãn. Là người, chúng ta không thể sống theo bản năng hạ cấp mang đầy thú tính như vậy.
Nhiều cuộc xung đột trên thế giới được giải quyết theo kiểu "mắt đổi mắt răng đền răng", tức giải quyết bằng chiến tranh, trả thù, báo oán và đã đưa đến hậu quả vô cùng bi đát. Lịch sử chiến tranh giữa các dân tộc qua bao thời đã cho thấy điều đó.
Bao dung tha thứ cho kẻ thù là thượng sách.
Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su muốn nâng nền luân lý nhân loại lên một tầm cao mới. Người đề xuất một giải pháp tối ưu cho mọi tranh chấp xung đột giữa người với người, đó là: "Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em" và "Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa" (Mt 5, 39.44) Trước lời dạy nầy, những người nông nổi cho là nhu nhược, là hèn nhát, là yếu đuối; chỉ những ai khôn ngoan sâu sắc mới nhận thấy đây là giải pháp tối ưu để giải quyết mọi xung đột và đem lại an hòa.
Khi người ta quai búa tạ vào tảng đá cứng, đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại búa, hậu quả là đá sẽ nứt vỡ ra, bị nghiền tán ra. Đá bị thất bại hoàn toàn! Nhưng khi người ta quai búa giáng mạnh xuống hồ nước, nước sẽ dùng sự mềm mại của mình để vô hiệu hoá sức mạnh của búa. Nước không hề hấn gì nhưng búa thì sẽ bị chìm lĩm xuống tận đáy hồ. Thế là nước thắng lợi vẻ vang!
Khi gặp bão táp cuồng phong, những cây cổ thụ cao lớn cứng cáp dùng sự cứng rắn mạnh mẽ của mình để kháng cự lại bão tố. Hậu quả là chúng bị gảy cành, trốc gốc. Trong khi đó, những rặng tre, những cây lau sậy không hề kháng cự lại bão tố, nhưng dùng sự mềm dẻo của mình để uốn theo chiều gió nên chúng được an toàn.
Hiểu được quy luật đó nên Lão tử đã dạy môn sinh từ mấy ngàn năm trước: "nhu thắng cương, nhược thắng cường." Vị sư tổ của môn phái Judo cũng đã dựa vào quy luật nầy để sáng lập nên môn phái Judo (nhu đạo), một môn võ thuật lấy mềm dẻo chiến thắng hung bạo cứng rắn.
Thay phần kết luận:
Gia đình ông A và ông B sống gần nhau và cùng trồng dưa trên hai lô đất kế cận. Gia đình ông A đam mê rượu chè, bài bạc, không chăm sóc vườn dưa nên vườn dưa xơ xác, không thu hoạch được gì. Trong khi đó, gia đình ông B chăm sóc vườn dưa chu đáo nên được bội thu, tiền vào như nước, sắm sửa được nhiều thứ trong nhà. Nổi máu ghen tị, ông A xúi con qua phá hoại vườn dưa của ông B, vừa hái trái ăn vừa nhổ cây, gây thiệt hại nặng nề cho gia đình ông B.
Trước sự gây hấn đó, gia đình ông B giận sôi gan, chuẩn bị mài dao mài rựa tìm cách báo thù. Buổi tối trước khi ra tay hành động, ông B nằm suy nghĩ miên man và may thay, câu Lời Chúa ông vừa nghe trong thánh lễ ban sáng chợt vọng về: "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em"... "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa." (Mt 5, 44. 38-39).
Sáng hôm sau, nhờ Lời Chúa tác động, ông B bàn với vợ con cứ đến lúc trời mới tờ mờ sáng thì kéo nhau ra vườn dưa ông A, không phải để phá hoại trả thù, nhưng là chăm sóc, tưới nước, xịt thuốc, bón phân cho cả vườn dưa. Chẳng bao lâu sau, vườn dưa của ông A trở nên xanh tốt không kém gì dưa nhà ông B.
Khi biết được việc làm cao đẹp của ông B, cả gia đình ông A hết sức hối hận vì việc làm của mình, rồi dắt nhau qua tận nhà ông B để tạ lỗi. Từ đó, hai gia đình kết nghĩa anh em, thề nguyền yêu thương gắn bó với nhau cho đến mãn đời.
Thế đó, Lời Chúa là giải pháp tuyệt vời cho các xung đột giữa đôi bên.
38 "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. 39 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. 40 Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. 41 Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. 42 Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.
43 "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. 44 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.45Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. 46 Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? 47 Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? 48 Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.
2. Ý CHÍNH:
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta phải yêu thương hết mọi người: kẻ thù của mình, TN 7-A43
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta phải yêu thương hết mọi người: kẻ thù của mình, kẻ ghét mình, kẻ ngược đãi và vu khống mình… để chúng ta được nên trọn lành giống như Chúa Cha trên trời, "là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương."
3. CHÚ THÍCH:
- C 38-39:
+ Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng: Đây là luật hình sự dựa trên nguyên tắc đối trọng: ai đã gây thiệt hại, thì phải sửa chữa thiệt hại đã gây ra. (x. Xh 21,23-25; Lv 24,19-20; Đnl 19,21).
+ Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa: Đức Giê-su dạy môn đệ khi bị kẻ khác xúc phạm, hãy đối xử từ bi nhân ái để biến thù thành bạn.
- C 41-42:
+ Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm: Có lẽ đây là một dịch vụ do người Rô-ma bắt buộc người Do thái phải làm, như trường hợp quân Rô-ma bắt ông Si-môn Ky-rê-nê vác đỡ thập giá của Đức Giê-su.
+ Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi: Ở bên đất thánh Pa-lét-ti-na, "cho vay” cũng giống như “bố thí” (x. Hn 29,1). Nghĩa là người Do thái không được cho người đồng chủng Do thái vay tiền để lấy tiền lãi (x. Xh 22,24).
- C 43-44:
+ Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em: Đức Giê-su muốn các môn đệ mở rộng tình thương đến các người dân ngoại và cả với những kẻ đối xử không tốt hoặc có hành vi ngược đãi mình.
- C 45-48:
+ Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện: Đức Giê-su dạy môn đệ phải có tình thương tột đỉnh noi gương Thiên Chúa Cha trên trời, đã không phân biệt đối xử khi ban ơn cho cả những kẻ xấu và kẻ bất lương.
4. CÂU HỎI:
1) Luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” là luật gì và có nghĩa thế nào? 2) Đức Giê-su muốn dạy các môn đệ chúng ta điều gì qua bài Tin Mừng hôm nay: “Đừng chống cự người ác; sẵn sàng đi gấp đôi số dặm mà những kẻ mạnh thế bắt mình phải đi; quảng đại đáp ứng nhu cầu của kẻ ăn xin vay mượn; yêu kẻ thù…” ? II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
2. CÂU CHUYỆN:
1) SỨC MẠNH HOÁN CẢI TỘI NHÂN CỦA LÒNG NHÂN ÁI:
Ngày kia thánh Clementê đi vào một tiệm ăn, ngửa tay ra và nói:
- Xin quý ông rộng lượng bố thí cho các em mồ côi một miếng cơm, một manh áo.
Tức thì các thực khách cười lên hô hố tỏ vẻ khinh bỉ. Sau đó, một anh thợ giày đã nói:
- Một miếng ư, được lắm.
Rồi anh ta uống một ngụm bia, phùng má trợn mắt phun thẳng vào mặt thánh nhân. Chúng ta thử tưởng tượng xem thánh nhân đã phản ứng thế nào? Có lẽ ngài sẽ giáng cho anh ta một cái tát tai. Nhưng không, ngài vẫn bình tĩnh, rút khăn lau mặt, rồi lại ngửa tay và nói:
- Thưa quý ông, đó là phần của tôi, còn phần của các em mồ côi đâu chưa thấy.
Anh thợ giày bỗng té nhào xuống đất như bị một cú đấm thôi sơn, vì anh ta không thể rằng trên cõi đời nham nhở này mà lại có người khí phách như vậy. Anh lồm cồm ngồi dậy và lắp bắp nói:
- Tôi... tôi sẽ gởi tặng cho các em.
Sau đó, anh đã dành một phần sản nghiệp và trao tận tay thánh nhân số tiền lớn để tạ lỗi.
2) GIÓ VÀ MẶT TRỜI AI MẠNH HƠN AI?
Một lần nọ, gió bão và mặt trời tranh cãi nhau xem ai có sức mạnh hơn. Cả hai đều kể lại những chiến tích oai hùng của mình để chứng minh mình có sức mạnh hơn đối phương. Vừa lúc đó có một khách bộ hành đang từ xa tới gần. Cả hai đồng ý kiểm tra sức mạnh bằng cách cố cởi cái áo choàng của người khách bộ hành đang mặc trong thời gian ngắn nhất.
Cơn gió bão đòi ra tay trước. Nó tạo ra một luồng gió xoáy dữ dội nhất từ trước đến giờ, và ngay từ lần cố gắng đầu tiên, gần như nó đã có thể xé rách cái áo choàng của người bộ hành. Nhưng người đàn ông kia đã dùng tay ôm chặt chiếc áo choàng, và còn nằm đè lên chiếc áo choàng, khiến gió bão dù tốn rất nhiều sức lực mà vẫn không làm cho chiếc áo bung ra khỏi người khách bộ hành được. Sau cùng cơn gió bão đành chấp nhận chịu thua.
Đến lượt mặt trời ra tay. Đầu tiên mặt trời xua tan những đám mây đen giăng kín bầu trời và rọi những tia nắng xuống đầu người khách bộ hành. Một vài phứt sau, cảm thấy mồ hôi xuất ra do nhiệt độ tăng đột ngột, người khách bộ hành vội vã cởi chiếc áo choàng ra phơi và đến chỗ cây có che bóng râm gần đó tránh nắng, và chung cuộc mặt trời đã chiến thắng gió bão.
Như vậy trong việc giáo dục con người, dùng tình thương thuyết phục sẽ có hiệu quả hơn dùng biện pháp đánh phạt chửi mắng.
3) TÔI ĐÃ TRẢ THÙ ĐƯỢC RỒI !:
Có hai người đàn ông thổ dân nước Nam Phi rất thù hằn ganh ghét nhau. Ngày kia một trong hai người gặp thấy đứa con gái nhỏ của kẻ thù đang dạo chơi trong rừng, liền bắt cô bé chặt đứt ngón tay út rồi thả ra. Cô bé bị đau la khóc dùng tay còn lại ôm chặt bàn tay bị chặt đứt ngón út chạy mau về nhà chữa trị, đang khi tên hung thủ la to rằng: “Ta đã trả thù được rồi!”.
Mười năm sau, cô bé bị chặt ngón đã lấy được một người chồng công giáo giàu có trong vùng. Ngày kia, một kẻ ăn xin tới xin ăn, bà chủ nhà nhận ngay ra kẻ trước đây đã chặt ngón tay của mình. Bà vào trong nhà, sai gia nhân đem cơm thịt ra đãi người ăn xin. Khi kẻ thù đã ăn no, bà mới giơ bàn tay có ngón út bị cụt ra và nói: “Hôm nay tôi đã trả thù được rồi!”.
Tên ăn mày lập tức nhận ra người đàn bà đối xử tốt với mình không ai khác hơn là cô bé năm xưa đã từng bị hắn chặt đứt ngón tay để trả thù, nên hắn rất hối hận và đã quỳ gối cám ơn bà không những không chấp nhất tội hắn mà còn đối xử nhân hậu là cho hắn một bữa ăn ngon.
3. SUY NIỆM:
1) “ĐỪNG CHỐNG CỰ NGƯỜI ÁC...":
- So sánh Luật đạo cũ với đạo mới: Luật Mô-sê đã tiến bộ hơn nếu so sánh với thời đại trước đó, vì về việc báo oán, Luật Mô-sê chỉ đòi kẻ tấn công bị đối xử ngang bằng điều xấu mà hắn đã gây ra cho nạn nhân. Thực vậy, sách Sáng thế ký đã ghi lại lời của La-méc: "Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy" (St 4,24), đang khi Mô-sê ra luật trả báo công bình như sau: “Nếu hai người đàn ông đánh nhau mà có gây tổn thương… , thì ngươi phải lấy mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, vết bỏng đền vết bỏng, vết thương đền vết thương, vết bầm đền vết bầm” (Xh 21,22-25). Tuy nhiên Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay lại kêu gọi môn đệ nên hoàn thiện bằng thái độ nhẫn nhịn chịu đựng và lấy tình thương xóa bỏ hận thù như sau: "Nếu ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa... Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài... Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm... Ai xin thì anh hãy cho; ai muốn vay mượn thì anh đừng ngoảnh mặt đi" (c 39-42).
- Trước những lời dạy nầy của Đức Giê-su, những kẻ suy nghĩ nông cạn vội cho đây là thái độ của kẻ hèn nhát nhu nhược, khuyến khích kẻ gian ác lộng hành: “Chúng được đằng chân, sẽ lân đằng đầu”; Nhưng những người khôn ngoan lại công nhận đây là lối hành xử tối ưu để giải quyết tận gốc các xung đột xã hội và mang lại hòa bình lâu dài. Thực vậy, nếu bị kẻ ác đánh một cái mà ta đánh lại, thì chắc chắn chúng sẽ đánh tiếp và bạo lực sẽ ngày một gia tăng. Nhưng nếu ta chịu đựng và nói chuyện phải quấy thì có thể kẻ đó sẽ bị khuất phục. Chúng ta có thể ví bạo lực giống như sức mạnh của cây búa tạ trong tay thợ đập đá, tảng đá dù cứng rắn đến đâu, cũng sẽ bị bể tan! Đang khi hồ nước mềm mại có bị búa tạ bổ xuống vẫn không hề hấn gì, trái lại còn có thể nhấn chìm cây búa tạ kia xuống đáy hồ. Trước cơn bão táp cuồng phong, những cây cổ thụ cao lớn cứng cáp kháng cự lại sẽ bị gãy cành trốc gốc, đang khi rặng tre, lau sậy chịu uốn mình theo chiều gió nên vẫn được an toàn. Thế nên Lão tử đã dạy các môn sinh: “Lấy nhu thắng cương, nhược thắng cường”. Môn phái Judo cũng theo quy luật nầy dùng sự mềm dẻo để tự vệ, đánh bại đòn tấn công hung hãn của đối phương.
- Khi dạy các điều trên, chắc chắn Đức Giêsu không muốn duy trì tình trạng những người thân yếu thế cô phải cam chịu sự đàn áp của những kẻ tàn bạo gian ác. Nhưng nếu chủ trương lấy ác báo ác, thì con người sẽ lâm vào vòng xoáy bạo lực: Thay vì chỉ có một kẻ ác, giờ đây lại thêm kẻ ác thứ hai là người đang bị áp bức. Đức Giêsu muốn các môn đệ lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu đáp trả hận thù để hóa giải và biến thù thành bạn. Nhưng giả như kẻ ác vẫn cố chấp thì bấy giờ mới xử lý, giống như Đức Giê-su trước Thượng Hội Đồng Do thái đã bị một tên gia nô của thượng tế Khan-na tát, đã không giơ má kia, nhưng hạch lại hắn: "Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào. Còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23).
2) HÃY YÊU KẺ THÙ VÀ CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG KẺ NGƯỢC ĐÃI ANH EM:
- Thái độ thông thường của người đời chúng ta là yêu ai yêu mình, và ghét những kẻ ghét hại mình và chống lại Thiên Chúa như Sách Thánh đã ghi lại lời cầu nguyện của dân Do thái: "Lạy Chúa, ước chi Ngài tiêu diệt kẻ gian tà... Lạy Chúa, kẻ ghét Ngài, làm sao con không ghét? Con ghét chúng, ghét cay, ghét đắng, chúng trở thành thù địch của chính con" (Tv 139,19-22).
- Nhưng Đức Giê-su dạy các môn đệ phải vượt lên những điều bình thường này bằng cách yêu những kẻ ghét mình noi gương Chúa Cha: "Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính" (Mt 5,44-45).
3) HÃY NÊN HOÀN THIỆN NOI GƯƠNG CHÚA CHA NHƯ ĐỨC GIÊ-SU:
- Đức Giê-su đã yêu thương tha thứ cho những kẻ thù ghét làm hại mình: Người nhẫn nhịn chịu đựng khi bị xét xử bất công, bị xỉ vả đánh đập, bị lột áo trong áo ngoài, bị hành hình đóng đinh tay chân vào thập giá giữa hai tên trộm cướp… Người đã cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm khổ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
- Chúng ta cũng phải tha thứ cho tha nhân: khi giận hờn, căm ghét người khác, tâm hồn chúng ta sẽ mất bình an, ta sẽ không còn thiết ăn uống vì dạ dày không làm việc, sẽ hay suy nghĩ thở dài và không ngủ yên giấc, bệnh tim mạch gia tăng và sẽ bị đột quỵ... trong khi kẻ bị ta thù ghét vẫn sống yên ổn! Như vậy sự giận ghét không những không làm hại kẻ thù mà còn quay ra làm hại chính ta và cắt ngắn tuổi thọ của ta. Vậy chúng ta còn đợi gì mà không tha thứ cho tha nhân theo lời Chúa dạy?
- Hãy cầu nguyện và làm điều tốt để đáp trả kẻ đang thù ghét làm hại mình: Thay vì nuôi lòng thù hận, chúng ta hãy cầu xin Chúa thay đổi lòng trí kẻ thù ghét ta. Hãy tìm dịp thuận tiện để khen ngợi nói tốt cho họ. Khi nghe ai chỉ trích nói xấu họ, thay vì “đổ dầu vào lửa”, chúng ta hãy làm trạng sư để bào chữa lỗi lầm cho họ…
4. THẢO LUẬN: 1) Bạn có đồng ý về các tai hại của thái độ giận ghét và ích lợi của thái độ khoan dung tha thứ các lỗi lầm cho tha nhân không? Tại sao? 2) Hãy tự xét xem hiện giờ bạn đang giận ghét người nào nhất? Bạn sẽ làm gì để thực hành lời Chúa dạy hôm nay?
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su,
Hình ảnh đẹp nhất là hình ảnh của Chúa xưa kia trên núi Sọ: Dù đang bị đám đông thù ghét phỉ báng, hành hạ, đòi phải đóng đinh vào thập giá mà Chúa vẫn nhẫn nhịn chịu đựng và còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình. Xin ban cho chúng con tình yêu thương và lòng từ bi nhân hậu của Chúa, bằng thái độ bao dung cảm thông, sẵn sàng tha thứ cho những kẻ đã nói lời xúc phạm đến chúng con, hầu chúng con nên “con yêu dấu luôn làm đẹp lòng Chúa Cha” noi gương Chúa khi xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG COM.
1. LỜI CHÚA: Đức Giêsu phán:" Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. (44) Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em" (Mt 5,43-44).
2. CÂU CHUYỆN:
1) TỔNG THỐNG NAM PHI NEN-SƠN MAN-ĐÊ-LA YÊU THƯƠNG KẺ THÙ:
Đảng Quốc Dân, chính đảng của thiểu số người da trắng nắm quyền ở Nam Phi từ 1948, chủ trương: TN 7-A44:
Đảng Quốc Dân, chính đảng của thiểu số người da trắng nắm quyền ở Nam Phi từ 1948, chủ trương phân biệt chủng tộc gọi là chủ nghĩa A-pác-thai và đối xử dã man với người da đen ở Nam Phi và các người di dân từ Châu Á tới, đặc biệt là từ Ấn Độ. NEN-XƠN MAN-ĐÊ-LA (Nelson Mandela) đã đứng ra tranh đấu đòi bãi bỏ chế độ A-pác-thai và đã bị cầm tù nhiều năm và cuối cùng đã giành được thắng lợi. Ngày 7.12.1993 Hội đồng Hành pháp Lâm thời Nam Phi (ANC) đã ra đời với vị chủ tịch đầu tiên là NEN-XƠN MAN-ĐÊ-LA, chấm dứt 340 năm độc quyền cai trị của thiểu số người da trắng ở nước Nam Phi này. Tháng 4 năm 1994, tổng tuyển cử đa sắc tộc đã được tổ chức. ANC đã chiếm được đa số phiếu và Nen-xơn Man-đê-la trở thành vị tổng thống da mầu đầu tiên của Nam Phi.
Ông NEN-SƠN MAN-ĐÊ-LA đã trải qua 27 năm trong nhà tù. Sau khi được phóng thích, lẽ ra ông đã có đủ lý do để trả thù những kẻ đã cướp đoạt tự do của ông cách bất công. Nhưng ông đã không làm như thế mà luôn tỏ thái độ tươi cười hòa giải với những người đã từng ra lệnh giam giữ ông. Vì thế Man-đê-la đã trở thành lãnh tụ nổi tiếng nhất của nước Nam Phi mới. Trong cuốn tự thuật "Hành trình đến tự do" (1994), Man-đê-la đã viết như sau: "Tôi biết rằng dân chúng mong chờ tôi nuôi dưỡng hận thù người da trắng. Nhưng tôi đã không làm như thế. Trong nhà tù, sự tức giận của tôi với người da trắng đã hạ nhiệt, nhưng lòng thù ghét hệ thống xã hội phân biệt chủng tộc "A-pác-thai" lại gia tăng. Tôi muốn đất nước Nam Phi nhìn thấy tôi đã yêu thương những kẻ thù của tôi, đang khi tôi thù ghét chế độ A-pac-thai là nguyên nhân khiến mọi người trong nước chống lại nhau. Tôi đã thấy sứ mạng của tôi là rao giảng sự hòa giải để chữa lành những vết thương lâu đời và xây dựng một nước Nam Phi mới" (McCarthy).
2) ÔNG HAM-MEL-MANN ĐÃ THA THỨ CHO KẺ THÙ ĐÃ GIẾT HẠI VỢ CON MÌNH:
Một tên sát nhân sau khi đã thụ án 20 năm trong ngục được thả ra, đã thuật lại hành động anh hùng của ông Ham-mel-mann: Không những ông tha thứ cho anh ta tội giết hại vợ và bốn đúa con của ông, mà còn sẵn sàng giúp đỡ anh ta cách tận tình. Anh ta đã phát biểu như sau:
"Tôi đã bị bắt, cảnh sát đã tìm thấy tôi. Tôi vốn là một kẻ hiếu sát. Tôi đã giết bà Ham-mel-mann và bắn chết 4 người con của bà. Tôi đã nhìn thấy họ nằm chết trên vũng máu. Sau khi bị cảnh sát bắt và đưa ra tòa xét xử; quan tòa đã tuyên án như sau: "Anh đã làm một việc vô cùng tàn bạo, anh phải lãnh án tù khổ sai 20 năm". Trong thời gian trong tù, tôi đã nhận được lá thư của ông Ham-mel-mann viết cho tôi vì được tin chính quyền Ba-lan không cho phép tôi được trở về quê hương Ba-lan của tôi sau khi mãn hạn tù. Ngay cả chính quyền Đức cũng nói với tôi: "Chúng tôi không muốn anh sống tại nước Đức".
Trong lá thư Ham-mel-mann viết cho tôi có đoạn sau: "Tôi tha thứ cho anh về việc anh đã giết vợ và 4 đứa con của tôi. Tôi cũng đang vận động với chính quyền Đức để họ cho phép anh được sống tại Đức. Tôi đã nói với chính phủ Đức là anh có thể ở trong nhà tôi và tôi hứa sẽ giúp anh sống một cuộc đời lương thiện". Tại sao tôi lại muốn giúp đỡ anh ? Tại sao tôi có thể tha thứ cho anh về tội tàn sát cả gia đình của tôi ? Sở dĩ tôi có thể làm được điều này vì Thiên Chúa đã làm một phép màu nơi tôi. Ngài đã ban cho tôi Thần Khí của Ngài. Thần Khí của Thiên Chúa đã dẫn dắt cuộc đời tôi và đã tăng thêm sức mạnh giúp tôi sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho anh".
Cuối cùng anh ta nói: Bây giờ tôi biết được rằng chắc chắn Thần Khí của Thiên Chúa phải quyền năng siêu việt. Ngài đã có thể cất đi mối tử thù khỏi lòng một con người và ban cho ông ta tấm lòng quảng đại để sẵn sàng giúp đỡ tôi, mặc dù tôi đã giết vợ và 4 đứa con của ông ta (TK Nguyệt san, số 367).
3. SUY NIỆM:
Tin Mừng Chúa Nhật 7 Thường Niên tiếp tục trình bày giáo huấn của Đức Giê-su hoàn thiện Luật Mô-sê: Luật cũ dạy người Do thái phải yêu thương thân nhân và những người đồng chủng, đồng thời phải ghét kẻ thù là dân ngoại và những kẻ chống lại mình. Luật Mới của Đức Giê-su dạy môn đệ phải mở rộng tinh yêu để đến với mọi người, nhất là những người nghèo đói bệnh tật, què quạt đui mù câm điêc... và còn phải yêu thương cả những kẻ làm ác và kẻ thù ghét mình nữa.
LỜI DẠY CỦA CÁC BẬC VĨ NHÂN ĐỐI VỚI KẺ THÙ:
Trong việc ứng xử với kẻ thù, Đức Khổng Tử đã dạy học trò: "Dĩ đức báo oán", nghĩa là phải làm điều tốt để đáp lại điều xấu của kẻ thù của mình. Còn Đức Phật Thích Ca suốt đời tìm cách giải thoát con người khỏi đau khổ, cũng dạy các đệ tử như sau: "Lấy oán báo oán, oán chập chùng. Lấy đức báo oán, oán tiêu tan". Thánh Gandhi của dân tộc Ấn độ, đã nêu ra học thuyết "bất bạo động" làm phương thế đấu tranh và đã giải phóng được nước Ấn thoát khỏi ách khỏi ách thống trị của thực dân Anh, cũng nói như sau: "Luật vàng của xử thế là sự tha thứ cho nhau". Sau này, Mục sư Luther King người Mỹ suốt đời đấu tranh cho quyền bình đẳng của người da màu với người da trắng và đã bị kẻ thù bắn chết. Trong tác phẩm "Chỉ có một cuộc cách mạng" mục sư đã viết về cách đối xử với kẻ thù như sau: "Tôi hài lòng vì Đức Giê-su đã không dạy: Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em. Bởi vì có nhiều người tôi khó lòng có thiện cảm được. Thiện cảm là một cảm tính. Tôi không thể có thiện cảm với kẻ tìm cách ném bom vào gia đình tôi, đàn áp bóc lột tôi, chèn ép tôi cách bất công. Không, không thể có thiện cảm nào đối với những kẻ luôn đe dọa cuộc sống của tôi. Tuy nhiên Đức Giê-su đã dạy rằng: "Tình yêu còn mạnh hơn sự chết", rằng tình yêu là thiện chí cảm thông, mang tính sáng tạo và có khả năng cứu độ mọi người".
Riêng Đức Giê-su Đấng đến kiện tòan Luật Mô-sê, đã dạy về cách đối xử với kẻ thù như sau: "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em" (Mt 5,43-44).
YÊU KẺ THÙ VÀ CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG KẺ NGƯỢC ĐÃI MÌNH:
a) Kẻ thù là những ai ?: Thời Đức Giê-su kẻ thù của người Do Thái là quân Rô-ma đang cai trị đất nước Do thái. Còn kẻ thù đối với chúng ta hôm nay không phải ai xa lạ mà chính là những người đang sống chung dưới một mái nhà, là anh chị em ruột thịt nhưng đang bất thuận với chúng ta; Là người hàng xóm nhiều lời và hay nói xấu chúng ta; Là bạn đông nghiệp cùng một cơ quan xí nghiêp nhưng hay tỏ ra ganh tị và luôn tìm cách làm hại chúng ta; Là người cùng chung một cộng đoàn nhưng lại hay ganh ghét và muốn loại trừ chúng ta... Kẻ thù cũng có thể là cấp trên đang chèn ép chúng ta khi không lôi kéo được chúng ta làm điều bất chính; Cuối cùng kẻ thù còn là những kẻ tự nhiên có thành kiến không tốt về chúng ta hoặc những kẻ chúng ta tự nhiên có ác cảm ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên...
b) Phải yêu thương kẻ thù như thế nào ?: Ðức Giê-su không đòi chúng ta phải yêu kẻ thù giống như yêu một người thân của mình về mặt tình cảm, vì đó là điều bất khả thi. Người chỉ đòi chúng ta yêu kẻ thù bằng hành động như: Làm ơn cho họ, cầu nguyện điều lành cho họ, sẵn sàng chia sẻ cơm bánh cho họ và cho họ vay mượn tiền bạc.
- "Hãy làm lành cho những kẻ ghét anh em": Tình yêu tha nhân phải được biểu lộ qua hành động như: sẵn sàng nói chuyện, quảng đại giúp đỡ và khiêm hạ phục vụ...
- "Và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ": Đức Giê-su dạy các tín hữu phải theo gương Chúa Cha: "cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính". Khi cầu nguyện điều tốt cho những kẻ bách hại mình, chúng ta mới chứng tỏ mình thuộc về Thiên Chúa như có người đã nói: "Làm điều ác để đáp trả ơn lành là việc làm của ma quỉ. Làm điều lành để đáp trả ơn lành là việc làm của con người. Còn làm điều lành để đáp trả điều ác mới là làm việc của Thiên Chúa".
c) Làm như vậy phải chăng là thái độ của kẻ đạo đức giả và hèn nhát?: Thực ra việc yêu kẻ thù dù tự nhiên mình không thích, không phải là hành động đào đức giả, nhưng là một hành động anh hùng, luôn nỗ lực vượt thắng bản thân để trở thành một con người bao dung từ bi nhân hậu. Làm như vậy cũng không phải là hành vi của kẻ hèn nhát, chịu khuất phục trước bạo lực, nhưng là dấu hiệu của một nhân cách trưởng thành, sẽ giành được sự nể phục của nhiều người. Làm được như vậy còn làm cho chúng ta trở nên môn đệ thực sự của Đức Giê-su, Đấng đã nêu gương nhẫn nhịn chịu đựng và cầu xin cho những kẻ giết hại mình trên cây thập giá.
d) Việc yêu thương kẻ thù mang lại những ích lợi nào ?: Khi cư xử tốt với kẻ thù, chúng ta được giải phóng khỏi thái độ "ăn miếng trả miếng" và tránh được nhiều chứng bệnh thời đại như cao huyết áp, mất ngủ, trầm cảm... Khi đối xử tốt với kẻ thù có thể chúng ta sẽ cảm hóa được kẻ thù, giúp họ hoán cải và theo làm môn đệ Đức Giê-su. Nhờ việc vượt thắng bản thân để đi bước trước bắt tay chào hỏi, sẵn sàng giúp đỡ và cầu nguyện điều lành cho họ... chúng ta hy vọng sẽ biến thù thành bạn của chúng ta.
4. THẢO LUẬN:
1) Đã có bao giờ bạn làm điều tốt cho kẻ thù ghét mình chưa ?
2) Đã có khi nào bạn gây được thiện cảm với ai đó nhờ việc đi bước trước để bày tỏ sự thân thiện, quảng đại chia sẻ và tận tình phục vụ họ chưa ?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Xin cho con quả tim của Chúa. Xin cho con biết quảng đại để vươn tâm hồn lên cao, vượt qua những tình cảm đời thường và mặc lấy tâm tình bao dung nhân hậu của Chúa. Xin cho con loại bỏ những sự hờn oán nhỏ nhen, những sự trả thù không đáng có. Xin cho tâm hồn con luôn bình an trong sáng, và không biến cố nào có thể làm xáo trộn, không đam mê nào có thể khuấy động được lòng con. Xin cho con đừng quá vui khi được người đời khen ngợi, cũng đừng quá buồn khi bị chỉ trích chê bai. Xin cho quả tim của con đủ lớn để yêu thương cả những người con không ưa và những kẻ không ưa con. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để ôm cả thế giới, trong đó có cả những kẻ thù ghét con. Nhờ đó con mới nên con thảo của Cha trên trời và nên môn đệ thực sự của Chúa. - AMEN.
Trong thời kỳ đầu của Phong Trào Nhân Quyền tại Montgomery, Alabama, đây là điểm sáng đích: TN 7-A45
Trong thời kỳ đầu của Phong Trào Nhân Quyền tại Montgomery, Alabama, đây là điểm sáng đích thật. Những người da đen tẩy chay dịch vụ xe búyt của thành phố, bởi vì có sự kỳ thị chủng tộc. Những người da trắng đã đáp lại bằng cách cho nổ bom những khu nhà của người da đen. Bầu khí sự thù hận bao trùm một cách nặng nề và căng thẳng. Mục sư Martin Luther King, Jr., đã giảng cho cộng đoàn người da đen trong khu phố của ông rằng sự hòa bình và sự tha thứ nằm trong tay của họ. Mục sư tiếp tục trình bầy: Hành động qúi báu của sự tha thứ luôn luôn được bắt đầu với những người bị lầm lạc.
Lời mời gọi sống phúc âm giữa đời là một thách thức đòi hỏi sự thắng vượt chính mình. Từ thời xa xưa, những lời dạy bảo về đức yêu thương và tha thứ đã được ghi chép trong sách Luật: Đừng giữ lòng thù ghét anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ. (Lev 19, 17). Chữ 'đừng'đã được tác giả sách Lêvi dùng để khuyên răn đồng loại là ngưng theo đuổi sự dữ. Vì sự dữ sẽ sinh ra sự dữ. Sự báo qua oán lại sẽ không bao giờ được kết thúc. Chúng ta không thể dùng sự báo thù để tìm đạt sự công bình. Nếu chúng ta trả thù qua lại lẫn nhau mãi, thì chúng ta cũng chẳng khác gì cách cư xử của dân ngoại, họ không nhìn biết Thiên Chúa nhân lành. Trong kinh nghiệm sống đời, ai trong chúng ta cũng có lúc cảm thấy bực mình vì sự phản bội, đặt điều nói xấu, ngang trái và gây hại. Thái độ thù ghét là những phản ứng rất tự nhiên của lòng người. Nhưng sách Lêvi khuyên dậy chúng ta là đừng giữ lòng thù ghét nhưng hãy tha thứ và công khai răn bảo.
Đừng tìm báo oán là điểm son trong đời sống đạo: Đừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu thương các bạn hữu như chính mình. Ta là Chúa (Lev 19, 18). Đừng báo oán, không phải vì chúng ta sợ hãi, nhát đảm, yếu nhược hay bị áp chế, nhưng đây là một thái độ thực hành đạo bác ái yêu thương. Sự nhún nhường là một thái độ bao dung và tự chủ. Người ta vẫn thường nói rằng: Thắng mình khó hơn thắng vạn quân. Không phải ai cũng có thể dễ dàng thắng được sự ghen tuông, thù óan và bất công. Chịu nhường một bước để thắng hai bước, đó là thắng chính mình và thắng người khác. Biết tự kiềm hãm và làm chủ ý chí của mình là một trong những thành công trong việc đối nhân xử thế. Vì chúng ta biết rằng thái độ nóng nảy và giận dữ bốc đồng sẽ gây thiệt hại nhân cách và đổ vỡ tương giao. Tự ái vặt là đầu mối của nhiều phiền thức trong giao tế nhân sự và phá đổ các mối liên hệ.
Chúa Giêsu đã rao giảng tin mừng giải thoát vượt trên mọi lẽ thường tình: Còn Thầy, Thầy bảo các con: Đừng chống cự với kẻ hung ác, trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa (Mt 5, 39). Sống theo lời Chúa, xem ra chúng ta sẽ bị thua thiệt nhiều. Chính Chúa Giêsu đã nêu gương chọn đi vào con đường khiêm hạ này. Một Thiên Chúa có uy quyền trên mọi loài đã cúi đầu chấp nhận mọi xỉ vả của con người. Chúng ta không thể nào hiểu thấu mầu nhiệm của sự đau khổ mà Chúa đã chịu. Nhẫn nhục chịu đựng để thắng vượt những bất công cần có sức mạnh nội tâm nhiệt thành. Trong đời sống thường ngày, chúng ta va chạm biết bao những thứ bực mình chung quanh qua lời nói và cách thế hành xử của những người khác. Cần phải biết kiên nhẫn cư xử và thắng vượt.
Một trải nghiệm gần gũi nhất là làm sao có thể đối xử tốt với các thành viên trong gia đình. Thí dụ: Chỉ cần một lời nói thiếu tế nhị, một thái độ ơ hờ và một tranh luận nhỏ nhoi cũng có thể gây nên sự. Người nói qua, kẻ nói lại chẳng ai chịu ai sẽ dễ gây bất hòa. Đôi khi có những câu truyện vô cớ cũng làm ảnh hưởng tới bầu khí êm ấm của gia đình. Thật là không đáng! Chúa Giêsu khuyên chúng ta đừng chống cự với kẻ hung ác. Vậy những người vợ và người chồng hiền lương và những thành viên nhiệt tình trong gia đình, nhóm hội hay một cộng đoàn giáo xứ, có đáng để chúng ta phải chống cự lẫn nhau hay không? Ca dao tục ngữ dạy: Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Đừng bao giờ dùng những lời nói cộc cằn, thô lỗ và tục tĩu đối với tha nhân, nhất là những người trong gia đình thân tộc. Lời nói như con dao hai lưỡi, có thể xây dựng hòa bình và cũng có thể gây chiến tranh. Chúng ta biết chiến tranh bao giờ cũng gây thiệt hại và chỉ phá đổ.
Chúa Giêsu mở con đường yêu thương ngược dòng: Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống cho các con (Mt 5, 44). Lời của Chúa không chỉ để suy gẫm và chiêm ngắm, nhưng phải đem ra thực hành trong đời sống. Đây là một thách thức cam go, vì nó đi ngược với bản năng tự nhiên của con người. Trong tâm lòng của con người có thất tình: Hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố và dục. Gieo hạt giống nào, chúng ta sẽ được gặt qủa đó. Nếu chúng ta gieo sự yêu thương tha thứ, chúng ta sẽ gặt được hoa trái an lạc và bình yên. Nếu chúng ta gieo hạt giận dữ và thù hằn, tim chúng ta sẽ cháy lửa cuồng si. Để thực hành các nhân đức, chúng ta hãy vun tưới những hạt giống yêu thương, bác ái, từ bi và khoan dung độ lượng. Con đường nhẫn nhục và tha thứ là con đường giải thoát. Tha thứ bỏ qua là cắt đứt giây xích của sự báo thù. Giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc của sự ăn miếng trả miếng. Tâm hồn chúng ta sẽ được tự do vui hưởng sự an vui tự tại.
Thánh Phaolô cảnh tỉnh: Đừng có ai lừa dối mình. Nếu có ai trong anh em cho mình là người khôn ngoan ở đời này, thì kẻ ấy nên điên dại để được khôn ngoan (1Cor 3, 18). Thiên Chúa trao ban cho mỗi người một khả năng riêng biệt. Mỗi người đều có những khả năng để hỗ tương làm giầu cho cuộc sống chung xã hội. Ân huệ giống như các ly chứa có dung tích khác nhau. Người nhiều kẻ ít, ai cũng có một số vốn cần được sinh lợi. Mỗi người chúng ta đều có khả năng chuyên môn để phát triển. Những khả năng tiềm ẩn đã được phú bẩm cho mỗi cá nhân, chỉ cần có cơ hội nó sẽ phát triển. Chúng ta sẽ thỏa mãn với những khả năng riêng đã nhận được. Biết rằng dù một số người có khả năng gọi là siêu việt như thần đồng, thì sự khôn ngoan của họ vẫn có giới hạn. Con người không phải là thần minh có thể hiểu thấu mọi sự. So với sự nhiệm mầu bao la của vũ trụ vạn vật, sự khôn ngoan của con người chỉ là hạt sương rơi.
Chẳng có ai hiểu thấu được sự vận hành tiến tới trong tương lai. Trong mọi cố gắng suy tư đi tìm về Chân, Thiện, Mỹ của vũ trụ, sự hiểu biết của con người vẫn chỉ là như mới khởi đầu. Phaolô nói tư tưởng của những kẻ khôn ngoan chỉ là hư không: Lại có lời khác rằng: Chúa biết tư tưởng của những người khôn ngoan là hão huyền (1Cor 3, 20). Thiên Chúa cho tâm trí con người được tham dự vào việc tìm kiếm sự cao siêu của sự sống và vận hành của vũ trụ. Bao lâu con người còn biết đặt niềm tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa thì sự khôn ngoan học hỏi của họ sẽ tìm tới ánh sáng. Quan sát chiếc diều bay cao trên không trung là nhờ sợi dây nối với cột trụ dưới đất. Nếu chúng ta cắt đứt sợi giây nối, diều sẽ rơi xuống đất. Đặt niềm tin vào Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi sự khôn ngoan ở đời. Sự khôn ngoan sẽ dẫn dắt chúng ta đến cùng đích và chung cục, đó chính là tình yêu nguồn ơn cứu độ.
Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con yêu thương, tha thứ và cầu nguyện cho những kẻ bách hại, nguyền rủa và vu khống. Khó qúa Chúa ơi. Mỗi lần chúng con bị người ta hiểu lầm, bịa truyện và gây hại, chúng con lại muốn tìm cách báo thù. Xin cho chúng con biết nhẫn nhịn dõi theo từng bước chân của Chúa để học hỏi và đem ra thực hành từng ngày trong đời sống. Yêu thương là tất cả!
Hãy yêu thương tha nhân và ghét thù địch". Mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi (Lv 19,18): TN 7-A46
"Hãy yêu thương tha nhân và ghét thù địch". Mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi (Lv 19,18). Theo đó, người Dothái chỉ yêu thương những người đồng loại, tức là những người thuộc dân riêng của Chúa, dân Israel. Nói cách khác là họ chỉ yêu thương những người đã được cắt bì mà thôi. Còn dân ngoại, họ coi như thù địch. Họ còn có luật và bổn phận ghét người ngoại bang, nhất là dân Amalec, dân Moab (x. Đnl 25,18; 23,6).
Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã phá đổ những giới hạn của luật cũ, và mạc khải cách trọn hảo về điều luật mới, khi dạy: "Anh em hãy yêu thương kẻ thù" (Mt 5,43a). Thế thì, kẻ thù mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây là ai ?
Một số quý ông, quý anh bảo rằng kẻ thù của con là rượu, là thuốc lá, là cờ bạc... Chúa dạy phải yêu kẻ thù, nên con yêu luôn những thứ đó. Không phải lập luận theo kiểu lý "cùn" này. Kẻ thù mà Chúa muốn nói ở đây là những người làm cho ta đau khổ, làm cho ta bị tổn thương, những kẻ không ưa thích gì ta, v.v... Yêu thương kẻ thù là yêu thương những người như thế: "Hãy cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em" (Mt 5,43b).
Qua lời dạy trên, Chúa Giêsu muốn mời gọi ta điều gì ? Thưa Chúa Giêsu muốn mời gọi ta biết vượt lên tình yêu tự nhiên, vốn nặng về cảm tính, để yêu thương hết mọi người. Và như thế, không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Đức Kitô nữa. Đây là điều mới mẻ và độc đáo của luật Tin Mừng Đức Giêsu và là mức độ cao nhất của tình yêu hoàn thiện.
Thứ đến, tình yêu thương đó được biểu hiện bằng việc làm cụ thể, mà quan trọng nhất là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ tự nhiên không được ta yêu thương. Không phải là cầu nguyện chống lại kẻ thù, cầu nguyện xin Chúa khừ trừ giùm kẻ thù của mình, như trong Thánh Vịnh:
"Còn những quân thù nghịch,
Thiên Chúa sẽ đập bể đầu;
bọn theo đường gian ác,
Người đánh cho gãy răng".
Hay: "Lạy Chúa xin thẳng tay khai trừ bọn chúng
khỏi thế giới loài người;
Án phạt Chúa đã dành,
xin Ngài bắt chúng nuốt cho đầy bụng;
cả đàn con cũng được ăn cho thoả thích,
phần còn lại cho bầy cháu mai sau" (Tv 17,14).
Không phải là cầu nguyện kiểu đó, mà là cầu nguyện cho họ để họ được ơn hoán cải, ơn biến đổi.
Nhưng tại sao lại phải yêu thương như những kẻ thù nghịch? Đơn giản là vì chính chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương, đang khi chúng ta là kẻ nghịch thù với Chúa. Giả như Thiên Chúa đối xử với ta như cách ta thường đối xử với anh em mình, thì số là chúng ta đã bị diệt trừ từ lâu rồi. Vì trước mặt Chúa, đã nhiều lần chúng ta là kẻ thù của Chúa, đã nhiều lần làm ô danh Chúa, và đã từng chống đối Chúa, thử thách Chúa. ..
Lý do thứ hai là vì có yêu thương kẻ thù nghịch, thì ta mới đáng được gọi là con cái của Thiên Chúa, và có yêu thương như thế, chúng ta mới thực sự trở nên giống như Cha trên trời là Đấng trọn lành, Đấng đã "cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương" (Mt 5,45).
Dĩ nhiên, kính thưa quý...., yêu thương kẻ thù nghịch là điều không dễ chút nào xét trên bình diện con người tự nhiên. Tha thứ cho những kẻ làm hại hay xúc phạm đến mình đã là điều khó rồi, huống chi là yêu thương, làm ơn và cầu nguyện cho họ nữa. Thế nhưng chúng ta có thể thực hiện được nếu có ơn Chúa trợ giúp. Chính thánh Phaolô đã quả quyết điều này: "Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi" (Pl 4,13).
Hãy yêu thương và cầu nguyện cho người kẻ mà không ưa ta, những kẻ thù ghét ta. Để rồi nhờ lời cầu nguyện của ta mà họ được hoán cải; nhờ tình yêu thương của ta mà họ được biến đổi, vì "tình yêu có sức biến đổi phận người". Và cũng nhờ đó mà chúng ta được lớn lên trong tình yêu của Chúa
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục kiện toàn một khoản luật nữa của Cựu Ước, đó là luật của sự "ăn: TN 7-A47
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục kiện toàn một khoản luật nữa của Cựu Ước, đó là luật của sự "ăn miếng trả miếng". Trong bài ca man rợ mà nhân vật La-méc đã hát có câu: Cain được báo thù gấp bảy (1 trả 7 lần) thì La-méc được báo thù gấp 77 (1 trả 77 lần). Đến thời của Môisê, đã có một sự tiến bộ hơn: 1 trả 1, tức là luật "ăn miếng trả miếng", hay là luật "răng đền răng, mắt đền mắt". Đây là giới hạn lẽ công bằng theo nghĩa chặt.
Vậy Chúa Giêsu kiện toàn theo nghĩa nào ? Luật mới của Chúa Giêsu đó là gì ? Luật mới của Chúa Giêsu đó là luật của tình yêu hoàn thiện, khi khoan dung với kẻ ác. Cụ thể là khoan dung với kẻ xúc phạm danh dự và phẩm giá của mình: "Ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa" (Mt 5,39). Khoan dung với kẻ trấn lột, tước đoạt những thứ mình sở hữu: "Ai kiện lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy luôn cả áo ngoài" (Mt 5,40). Khoan dung với kẻ hành hạ bóc lột sức lực của mình: "Nếu có ai bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với nó hai dặm" (Mt 5,41).
Nhưng tại sao lại phải khoan dung với kẻ ác ? Phải chăng là Chúa Giêsu muốn cỗ võ thái độ nhu nhược và cam chịu cách thụ động ? Hay Ngài muốn khuyến lệ sự bất công khi dung dưỡng cái ác ? Thực ra khi Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài phải có thái độ khoan dung như thế là có lý do của mình:
Thứ nhất là nhằm ngăn chặn vòng xoáy của sự ác, sự leo thang của bạo lực theo nghĩa "lấy oán báo oán, oán càng chồng chất". Thứ hai là nhằm chinh phục và cảm hoá kẻ ác vốn cũng là con người, vì sự bao dung tha thứ có khả năng biến thù thành bạn, như Chúa Giêsu đã nói: "Như vậy là các con đã được lợi một người anh em". Thứ ba là để có được một tâm hồn bình an, thanh thản của con cái Thiên Chúa. Và thứ bốn là để trở nên giống như Cha trên trời là Đấng nhân từ, bao dung và khoan thứ.
Kính thưa....! Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn trả đũa, và khi trả đũa thì thường muốn trả nặng hơn mức người ta gây cho mình: "Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại". Hòn chì chắc chắn là cứng hơn và nặng hơn hòn đất rồi. Chẳng thế mà khi chứng kiến đội chủ nhà Áo (tại Eurô 2008) được trọng tài cho hưởng quả phạt đền ở phút cuốn trận đấu, đẩy đội Ba Lan vào tình thế chắc chắn xếp vali về nước, Tổng thống Ba Lan đã thốt lên rằng: "Tôi chỉ muốn giết ngay viên trọng tài đó".
Còn Chúa Giêsu, Ngài muốn các môn đệ của Ngài xưa cũng như nay phải sẵn sàng dập tắt ngay nơi bản thân mầm mống của bạo động: "Đừng chống cự người ác" (Mt 5,39). Ngài nhấn mạnh đến tinh thần mà người môn đệ phải có, đó là tinh thần tha thứ, tha thứ cho những xúc phạm của anh em đối với mình, như Chúa đã nêu gương từ trên Thập giá: "Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm" Lc 23,34). Như vậy bao dung tha thứ không phải là thái độ của kẻ yếu, mà ngược lại đó là thái độ của kẻ mạnh, kẻ mạnh về tình yêu thương. Vì chỉ người nào có một tình yêu thương rất mạnh mới có khả năng chế ngự được khuynh hướng trả đũa vốn nằm sẵn trong lòng mình.
Phần chúng ta, chúng ta thường xử sự với anh em mình theo luật nào ? Luật của sự "ăn miếng trả miếng" hay luật tình yêu bao dung mà Đức Kitô đã dạy ?
Nếu chúng ta muốn trở nên môn đệ chân chính của Chúa Giêsu thì chúng ta không thể sống khác hơn những gì mà Chúa Giêsu đã sống, đó là bao dung tha thứ luôn luôn. Amen.
Một thiền sinh hỏi: “Thưa sư phụ, con đau khổ vì cha mẹ tàn nhẫn, người yêu con ruồng bỏ, anh TN 7-A48
Một thiền sinh hỏi: “Thưa sư phụ, con đau khổ vì cha mẹ tàn nhẫn, người yêu con ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá hoại… Con phải làm sao để hết oán hờn và thù ghét đây?”
Vị sư phụ đáp: “Con ngồi xuống tịnh tâm, tha thứ hết cho họ.”
Vài hôm sau, người đệ tử trở lại: “Con đã học được tha thứ cho họ sư phụ ạ. Thật nhẹ cả người! Coi như xong!”
Sư phụ đáp: “Chưa xong, con về tịnh tâm, mở hết lòng ra thương yêu họ.”
Người đệ tử gãi đầu: “Tha thứ thôi cũng đã quá khó, lại phải thương yêu họ thì…Thôi được, con sẽ làm. Một tuần sau, người đệ tử trở lại, mặt vui vẻ hẳn, khoe với sư phụ là đã làm được việc thương những người mà trước đây đã từng đối xử tệ bạc với mình.”
Sư phụ gật gù bảo: “Tốt! Bây giờ con về tịnh tâm, ghi ơn họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ hội tiến hóa tâm linh như vậy.”
Người đệ tử trở lại, lần nầy tin tưởng rằng mình đã học xong bài vở. Anh tuyên bố: “Con đã học được và ghi ơn hết mọi người đã cho con cơ hội học được sự tha thứ!”
Sư phụ cười: “Vậy thì con về tịnh tâm lại đi nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không tha thứ.”
Câu chuyện trên dạy chúng ta bài học về sự tha thứ, không những tha thứ mà còn thương yêu và làm ơn cho kẻ thù của mình. Lời dạy của vị sư phụ đối với đệ tử của mình rất phù hợp với Lời Chúa hôm nay. Thật vậy, tha thứ cho kẻ thù là lệnh truyền của Thiên Chúa, là lời dạy và gương sáng của Đức Giêsu, của các thánh và của rất nhiều vị hiền nhân. Vì thế, tha thứ cũng là bổn phận của mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Thứ nhất, tha thứ là lệnh truyền của Thiên Chúa: Khi chúng ta tha thứ và yêu thương kẻ thù là chúng ta thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa. Bài đọc 1, trích sách Lêvi, Thiên Chúa phán với Mô-sê: “Ðừng giữ lòng thù ghét anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ. Ðừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu thương các bạn hữu như chính mình” (Lv 19,17-18). Khi chúng ta tha thứ và yêu thương kẻ thù là chúng ta nên giống Thiên Chúa là Cha chúng ta “Đấng cho mặt trời chiếu soi kẻ dữ cũng như người lành, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”(Mt 5,45). Thật vậy, Thiên Chúa là người Cha yêu thương hết mọi người, không phân biệt người lành kẻ dữ. Ngài đã tha thứ cho Tổ Tông sau khi hai ông bà phạm tội. Không những thế, mà Ngài còn yêu thương và hứa ban Đấng Cứu Thế. Suốt chiều dài lịch sử cứu độ, biết bao lần dân Do Thái bất trung, nhưng mỗi lần biết thống hối quay đầu trở lại, Ngài đã tha thứ và ban ơn. Sự tha thứ của Thiên Chúa được ngôn sứ Isaia diễn tả rõ ràng rằng: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1,18).
Thứ hai, tha thứ là thực hiện lời dạy và làm theo gương sáng của Đức Giêsu: Đức Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa. Ngài tiếp tục dạy cho nhân loại bài học về sự tha thứ. Bài Tin mừng hôm nay, Ngài dạy chúng ta: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.”(Mt 5,44). Chính Ngài đã nói với Thánh Phêrô: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”(Mt 18,22). Ngài còn nói thêm: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi. Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?”(Mt 5, 46). Ngài còn dùng nhiều câu chuyện liên quan đến vấn đề tha thứ và yêu thương để dạy cho dân chúng: Dụ ngôn cỏ lùng (x. Mt 13, 24,30.36-43); ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (x. Lc 15,1-32); câu chuyện về người đàn bà phạm tội ngoài tình (x. Ga 8,1-11)…
Đức Giêsu không chỉ dạy về sự tha thứ mà Ngài còn làm gương cho chúng ta: Biết Giu-đa phản bội, Ngài không những tiếp tục yêu thương mà còn cho ông ngồi đồng bàn, nhiều lần Ngài cảnh tỉnh để Giu-đa từ bỏ ý đồ xấu. Khi Giu-đa dẫn quân lính đến bắt Ngài, Ngài ôn tồn nói những lời yêu thương: “Giu-đa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?”(Lc 22, 48). Ngài tha thứ cho Phê-rô khi ông chối Thầy ba lần. Ngài tha thứ cho kẻ trộm lành. Ngài tha thứ cho Phao-lô khi ông bắt bớ và chém giết người Kitô hữu. Ngài tha thứ cho những kẻ bắt bớ, đánh đập và đóng đinh Ngài trên thập giá, bằng cách cầu nguyện với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”(Lc 23, 34).
Thứ ba, các thánh và các hiền nhân đã dạy và làm gương cho chúng ta về sự tha thứ:
Gương của các thánh để lại: Gương của Thánh Vương Đa-vít tha thứ cho Saul; Gương của Thánh Stêphanô, đã yêu thương và cầu nguyện cho kẻ giết mình: “Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này. Nói thế rồi, ông an nghỉ”(Cv 7, 59-60). Gương của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II đến thăm và tha thứ cho Ali Agca, kẻ có ý giết Ngài; Thánh nữ Maria Goretti tha thứ cho Alexander…
Gương của các hiền nhân: Khổng Tử chủ trương: “Dĩ đức báo oán.” Đức Phật Thích Ca cũng dạy: “Lấy oán báo oán, oán ấy chập chồng. Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan.” Còn ông Gandhi, vị anh hùng của dân tộc Ấn Độ thì cho biết: “Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”; “Bất bạo động là luật của loài người, bạo động là luật của loài thú.” Ngoài ra, còn biết bao nhiêu mẫu gương khác, không những chủ trương tha thứ mà còn tha thứ bằng lời nói và hành động cho những kẻ làm hại mình.
Thứ tư, tha thứ là bổn phận của mỗi người Ki-tô hữu: Theo tâm lý bình thường, thì chúng ta yêu thương kẻ yêu thương mình và chúng ta ghét kẻ thủ của chúng ta. Kẻ thù là những người bắt bớ, sỉ nhục, vu khống, đặt điều nói xấu và làm những điều bất công với chúng ta. Vì vậy, để yêu thương những kẻ chúng ta coi là xấu không phải là một việc làm dễ dàng. Nhưng vì là lệnh truyền của Thiên Chúa và lời dạy của Đức Giêsu, cũng như gương sáng của các thánh và của các hiền nhân nên người Ki-tô hữu chúng ta có bổn phận phải thi hành. Chúng ta không những tha thứ mà còn phải cầu nguyện cho họ để họ thay đổi đời sống. Đặc biệt, chúng ta phải làm ơn cho họ, giúp họ nhận ra sai trái để trở về nẻo chính đường ngay. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã từng nghe Thiên Chúa phán: “Nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác biết tội lỗi của nó, không cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, để nó được sống, thì chính kẻ gian ác sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (Ed 3,18).
Tóm lại, chúng ta có bổn phận tha thứ, yêu thương và làm ơn cho kẻ thù, vì đó là lệnh truyền của Thiên Chúa, là lời dạy và gương sáng của Đức Giêsu, của các thánh và của các hiền nhân qua mọi thời đại. Vậy chúng ta hãy đặt mình vào những hoàn cảnh cụ thể trong cuộc sống để xét mình xem chúng ta đã thực hiện lời dạy về sự tha thứ như thế nào?
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết tha thứ cho anh em như Chúa đã từng tha thứ cho chúng con. Amen.
Quả thật đã từng có nhiều ý kiến khác chiều, thậm chí có khi là trái chiều liên quan đến những: TN 7-A49
Quả thật đã từng có nhiều ý kiến khác chiều, thậm chí có khi là trái chiều liên quan đến những lời dạy của Chúa Kitô về việc không chỉ "đừng chống cự lại kẻ ác" mà còn "giơ má kia cho người ta đánh" hoặc "phải yêu kẻ thù" (x.Mt 5,38-44).
"Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai". Lời một bài ca khá phổ biến này dường như được cảm hứng từ những lời Tin Mừng trên đây. Nếu nhìn nhận mọi người là anh chị em của mình thì hẳn sẽ không có chuyện giết hay ghét bỏ. Chỉ có ma quỷ mới là kẻ thù đích thực của chúng ta.
Trước hết chúng ta cần phân định rõ lời dạy của Chúa Kitô qua đoạn tin mừng Mt 5, 38-48 mà giáo hội cho trích đọc trong Chúa Nhật VII TN A. Nội dung chính lời dạy của Chúa Kitô là cần phải vượt qua cái giới hạn của đức công bình cũng như giới hạn của đức yêu thương theo luật Cựu ước.
Thiết tưởng cần nhìn nhận mặt tích cực của luật công bình "mắt đền mắt, răng đền răng, sưng đền sưng, bầm đền bầm...". Luật này giúp hạn chế sự gia tăng mức độ báo thù mà thường theo bản năng người ta khó tự kiềm chế. Chuyện bị đánh gảy một cái răng thì đánh trả lại người ta gảy nguyên cả hàm vẫn còn nhan nhản ngay trong thời đại hôm nay. Nước này phóng vào lãnh địa nước kia mười quả đạn pháo thì nước kia sẽ phóng trả đủa lại không dưới mười quả, có khi là gấp ba, gấp bảy lần. Luật "mắt đền mắt, răng đền răng" dường như vẫn còn giá trị của nó. Tuy nhiên giới luật này không khử trừ sự ác, điều xấu cách tận căn mà nhiều khi dẫn đến tình trạng không lối thoát.
Chuyện thật như bịa theo ý cha Anthony de Mello: Có tay trộm choai choai lẻn vào khuôn viên nhà thờ lúc bốn giờ sáng, định cuỗm thứ gì đó. Chưa thu được chiến lợi phẩm gì thì bị "ông từ" đi đánh chuông phát giác. Hoảng quá cậu nhóc leo đại lên tháp chuông trốn tưởng rằng qua được mắt ông từ già. Nhưng rủi cho cậu nhóc là cặp mắt ông từ vẫn còn tinh. Ông từ kiên nhẫn ngồi dưới tháp chuông chờ có người đến thì la làng. Cậu nhóc đoán được ý ông từ đành làm liều nhảy đại xuống từ độ cao khoảng bốn mét (tầng cuối). Ai ngờ cậu nhóc nhảy xuống vấp phải ông từ khiến ông già trẹo một chân. Dù gảy chân nhưng ông từ vẫn ôm chặt cậu bé và la lớn tiếng. Người ta chạy đến và cậu nhóc bị tóm. Tất cả dẫn cậu nhóc vào cha xứ. Ngài hỏi cậu nhóc đã ăn trộm cái gì. Cậu ta thưa là chưa lấy được gì cả. Ngài phán tiếp: "thế thì theo luật "mắt đền mắt, răng đền răng", ông từ được quyền leo lên tháp chuông và nhảy xuống để làm trẹo một chân cậu nhóc!" Mặt ông từ tái xanh.
Chúa Giêsu đã dùng lối nói "ngoa ngữ" dạy chúng ta dùng chính tình yêu, việc lành để giải hoá sự hận thù, diệt trừ sự dữ tận gốc rễ. Cần lưu ý rằng văn phong "ngoa ngữ" thường được sử dụng không phải cố ý dạy những gì được trình bày nhưng để nhằm nhấn mạnh ý tưởng muốn nói. Chẳng hạn khi dạy chúng ta rằng nếu mắt hay tay chân ta gây cớ cho ta phạm tội thì chặt chúng đi, Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến việc dứt khoát tránh dịp tội chứ không biểu chúng ta móc mắt hay chặt chân, chặt tay (x.Mt 5,29-30). Hiểu được điều này thì chúng sẽ không thấy có sự mâu thuẩn giữa lời dạy và hành động của Chúa Giêsu. Trước mặt thượng tế Khanan, khi bị một thuộc hạ của thượng tế vả vào mặt thì Chúa Giêsu đã chất vấn: "Nếu tôi nói sai, anh hãy chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?"(Ga 18,23). Khi dạy chúng ta "nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa" thì Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh điều này: "đừng chống cự người ác", nghĩa là đừng báo thù, kiểu ăn miếng trả miếng.
Tình yêu thì không có biên giới cả về mức độ lẫn đối tượng. Ăn cho, buôn so. Đã có tính toán, đã có hạn mức cố định thì sẽ chẳng còn là tình yêu. Đã yêu là yêu đến cùng. Xét về mức độ thì Chúa Kitô không chỉ minh định rõ ràng đó là sẵn sàng hiến thân vì người mình yêu mà Người còn thể hiện sự đến cùng trong tình yêu bằng cái chết trên thập giá. Để diễn tả sự đến cùng trong mức độ mến Chúa và yêu tha nhân thì Chúa Giêsu đã long trọng nhắc lại lời Cựu ước và nhấn mạnh thêm: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi...Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mc 12,30-31). Hạn từ "hết" đuợc lặp đi lặp lại và hạn từ "như chính mình" làm nỗi rõ tính vô biên của tình yêu.
Xét về đối tượng, luật Cựu ước đòi hỏi phải yêu thương người đồng bào, người đồng đạo. Luật còn dạy phải quan tâm đến người nghèo khổ, mẹ goá, con côi, khách ngụ cư, khách ngoại kiều. Chẳng hạn khi gặt lúa thì đừng gặt sát bờ, kiểu gặt sạch sành sanh, đừng mót các gié bị vương vải. Và khi hái nho cũng thế, không được lượm các quả rơi rụng...Tất cả những thứ ấy là để dành cho người nghèo, người khốn khổ... (x. Lv 19, 9-10). Tuy nhiên, dù trong luật không minh nhiên dạy phải ghét kẻ thù nhưng truyền thống và lối sống của dân Chúa xưa luôn có khoảng cách với người tội lỗi, với người bị xem là ô uế, với quân thù lân bang. Những hạng người trên tuy không bị ghét bỏ, nhưng thường không được xem là anh em, là người thân cận với người Do Thái. Một vị thông luật đã từng hỏi Chúa Giêsu rằng: "Ai là người thân cận của tôi?" Nhân dịp ấy Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn "người Samaritanô nhân hậu" và qua đó khẳng định rằng chúng ta phải làm người thân cận với tất cả những ai đang cần đến lòng thương xót của chúng ta (x.Lc 10,25-37).
Ngoài trừ thần dữ, Kitô hữu chúng ta không xem ai là kẻ thù. Tuy nhiên vấn nạn đặt ra là làm sao có thể yêu những người xem chúng ta là kẻ thù nghịch đồng thời ngược đãi chúng ta và làm thế nào để thi ân cho người bách hại chúng ta? Làm sao có thể yêu được những người đang làm hại chúng ta cách cố tình và cách bất chính và bất công? Làm sao có thể yêu những người đang đàn áp, bóc lột kẻ nghèo hèn, đang bán nước cầu vinh, đang cao ngạo cho mình là duy nhất đúng kiểu như thần, như thánh trong khi đang làm cho tiền đồ dân tộc đi vào ngõ cụt...?
Nếu cho rằng yêu thuơng là một phạm trù thuộc tình cảm thì quả thật rất khó vượt qua tâm lý bình thường của kiếp người. Tuy nhiên cần lưu ý rằng yêu thương trên hết là một quyết định của ý chí tự do được biểu lộ cả bằng tình cảm và hành động. Không chỉ có những tình cảm trìu mến, quyến luyến mới phản ánh tình yêu mà ngay cả khi giận dữ, buồn phiền cũng có thể phản ánh tình yêu. Chuyện thương con cho roi cho vọt là chuyện như hiển nhiên mang tính quy luật. Không chỉ khi xúc động trước đoàn lũ đông đảo dân chúng như chiên không người chăn thì Chúa Giêsu mới tỏ bày tình yêu, cũng không phải khi Người rơi lệ trước cái chết của Ladarô thì mới là yêu, nhưng cả khi Chúa Giêsu buồn phiền trước lòng chai dạ đá của một số kinh sư và biệt phái cũng là vì yêu hay khi Người xung giận bện dây thành roi đánh đuổi những người đã biến Ngôi nhà Chúa thành nơi chợ búa, thành hang trộm cướp thì cũng là yêu thương vậy.
Yêu thương là không chỉ muốn mà còn phải nỗ lực làm điều tốt nhất cho người mình yêu. Trong niềm tin Kitô giáo thì mọi người đều là anh chị em với nhau. Đã là anh em, chị em với nhau thì trên bình diện tiêu cực, chúng ta không được phép loại bỏ nhau dù dưới bất cứ hình thức nào. Trên bình diện tích cực thì cần giúp nhau tồn tại, phát triển theo thánh ý Thiên Chúa để có hạnh phúc đích thực. Cách thế biểu lộ tình yêu có thể khác nhau tùy từng trường hợp nhưng luôn với ý hướng là để người mình yêu nên tốt hơn, nên hoàn thiện hơn. Có thể nói rằng cách chung đối với những người tội lỗi thuộc hàng bé mọn, yếu đuối, thì Chúa Giêsu thường bày tỏ lòng khoan dung, sự trìu mến, cử chỉ khích lệ, còn với những người tội lỗi thuộc hàng phận cao, quyền trọng mà cố chấp thì Người nghiêm khắc cách tỏ tường.
Với người này thì chúng ta biểu lộ tình yêu bằng cách thế này, người kia thì cách thế kia, nhưng xin đừng quên rằng chúng ta có thể và phải cầu nguyện cho tất cả mọi hạng người. Vâng lệnh Chúa Giêsu chúng ta hãy chân thành cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta. Trước hết hãy cầu xin cho họ nhận ra lầm lỗi họ đã phạm và biết sám hối, ăn năn, thay đổi. Hãy cầu xin cho họ biết tìm cách khắc phục những hậu quả xấu đã gây ra cho tha nhân, cho xã hội... Có thể nói đây là bước khởi đầu của việc sống yêu thương "kẻ thù", yêu thương những người làm hại chúng ta. Tiếp đến, hãy dùng ngôn ngữ mà rao truyền chân lý, vạch trần sự dữ để giúp người lạc lối trở về nẽo chính, đường ngay. Ngôn sứ Êdêkien đã từng nghe Thiên Chúa phán: "Nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác biết tội lỗi của nó, không cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, để nó được sống, thì chính kẻ gian ác sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó" (x. Ed 3,18). Có thể có nhiều cách thế yêu thương, nhưng thiết tưởng dù yêu bằng cách thế nào đi nữa cũng không thể thiếu hai động thái trên đây.
Phải chăng đang có đó nhiều Kitô hữu, thậm chí là nhiều tu sĩ, linh mục, giám mục những tưởng rằng mình đã yêu "kẻ thù", đã làm ơn cho người "làm hại mình", nhưng thực ra chỉ yêu chính mình mà thôi?
Hãy yêu thương kẻ thù. Cứ sự thường người ta đối xử với nhau theo cái luật: Răng đền răng, mắt: TN 7-A50
Hãy yêu thương kẻ thù. Cứ sự thường người ta đối xử với nhau theo cái luật: Răng đền răng, mắt đền mắt, ân đền oán trả, hòn đất ném đi hòn chì ném lại. Chúng ta yêu thương những người yêu thương chúng ta và ghét bỏ những kẻ ghét bỏ chúng ta. Kẻ nào làm hại chúng ta thì chúng ta sẵn sàng để trả đũa, và người đời cho đó là lẽ thường tình, là thái độ khôn ngoan.
Thế nhưng, qua đoạn Tin Mừng nay Chúa Giêsu bảo chúng ta phải vượt lên trên cái lẽ thường tình ấy. Ngài phán với chúng ta: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho những kẻ ghét bỏ chúng ta. Bởi vì có thực hiện được điều đó, chúng ta mới xứng đang là con cái Thiên Chúa và mới trở nên giống Ngài, Đấng đã cho mưa xuống trên người lành cũng như trên kẻ dữ.
Chúa Giêsu không phải chỉ truyền dạy chúng ta mà chính Ngài đã làm gương trước cho chúng ta trong việc thực thi giới luật yêu thương này. Đúng thế, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, ngay cả trong khi chúng ta còn nằm trong tội lỗi, còn quay lưng chống lại Ngài như lời thánh Phaolô trong bức thư gởi tín hữu Rôma đã viết: Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, đó là khi chúng ta còn tội lỗi, thì Đức Kitô đã chết để chúng ta được sống.
Đúng thế, Ngài luôn luôn mong ước những điều tốt, những điều phải cho những kẻ bách hại Ngài. Ngài chịu đau khổ và chịu chết để những ai bắt Ngài phải đau khổ và phải chết được hết đau khổ và chết chóc. Trước sự từ chối của con người không đáp trả tình thương yêu của Ngài, Ngài vẫn duy trì cái quyết định tuyệt đối của Ngài, đó là yêu thương chúng ta mãi mãi.
Một trong những đặc tính nổi bật của tình yêu nơi Thiên Chúa đó là sự tha thứ. Ngài đã sánh ví mình như người mục tử tốt lành lên đường tìm kiếm con chiên lạc. Và khi đã tìm thấy thì vác nó trên vai và đem về nhà. Rồi Ngài đã xác quyết: Một kẻ tội lỗi ăn năn sám hối sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công chính không cần sám hối ăn năn. Không phải những kẻ khoẻ mạnh là là những người đau yếu mới cần đến thầy thuốc. Ta đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi biết đường sám hối ăn năn. Ngài sẵn sàng chịu chết trên thập giá để làm gì nếu không phải là để tha thứ cho chúng ta. Trong giây phút đớn đau nơi thập giá, Ngài cũng đã thứ tha cho tất cả những kẻ độc ác đã hành hạ Ngài bằng lời van xin: Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.
Có hai người thổ dân Nam Phi rất ghét nhau. Ngày kia trong một hai người gặp đứa con gái nhỏ của kẻ thù đang đi trong rừng. Hắn liền bắt cô bé, chặt đứt ngón tay rồi thả ra. Cô bé vừa chạy vừa khóc, còn hung thủ vừa đi vừa la: Ta đã trả thù được rồi. Mười năm sau, cô bé lúc đó đã có chồng và có con. Ngày kia, một kẻ ăn mày tới xin ăn, bà nhận ra đó là kẻ đã chặt tay mình, nên vội vàng vào nhà, bảo tôi tớ đem cơm thịt và cá ra đãi. Khi kẻ thù đã ăn xong, bà bèn giơ bàn tay cụt ra cho coi và nói: Tôi cũng đã trả thù được rồi. Tên ăm mày thấy thế bèn khóc lóc xin được tha thứ.
Thiên Chúa đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta, còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có thực sự yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những kẻ ghét bỏ chúng ta hay không?