Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Ðức Giêsu và các môn đệ trở về nhà, và đám đông lại kéo đến, nên Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí. Còn các kinh sư từ Giêrusalem xuống thì lại nói rằng Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám, và người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ. Ðức Giêsu liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Xatan làm sao trừ Xatan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. Vậy Xatan mà chống Xatan, Xatan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. Không ai có thể vào nhà kẻ mạnh mà cướp của được, nếu không trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó. “Tôi bảo thật các ông: mọi tội lỗi và lời phạm thượng, dù nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng sẽ được tha cho con cái loài người. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời”. Ðó là vì họ đã nói: “Ông ấy bị thần ô uế ám”. Mẹ và anh em Ðức Giêsu đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” Nhưng Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Ðây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”. - Ðó là lời Chúa.
a/ Chúa Giêsu trừ qủy và bị các luật sĩ xuyên tạc:
Các kinh sư nói Đức Giêsu bị qủy vương Bêendêbun ám vào dựa vào thế qủy vương để trừ qủy: TN 10-B1
“Các kinh sư nói Đức Giêsu bị qủy vương Bêendêbun ám vào dựa vào thế qủy vương để trừ qủy. Theo Đức Giêsu, lời tố cáo đó một điều vô lý. Qủa thật, Xatan không thể chống Xatan (3, 23b). Nước nào, nhà nào chia rẽ thì sẽ đi đến chỗ diệt vong (3,24-25); Xatan cũng vậy (3,26). Mc 3,27 cho thấy: chẳng những Đức Kitô không bị qủy chi phối, không theo phe qủy; qủy là người mạnh, Đức Giêsu còn mạnh hơn qủy nữa” (chú thích của bản dịch nhóm CGKPV).
b/ Vòng ngoài là những người bà con của Ngài là những người đang nghe Ngài giảng. Họ “đang ngồi chung quanh Ngài”. Những người này đứng đó không phải để nghe giảng, mà để “gọi Ngài ra”. Văn mạch phía trước (Mc 3, 20-21) còn cho biết mới đây họ còn muốn bắt Ngài về quê không cho Ngài giảng nữa vì nói Ngài đã mất trí.
Rõ ràng Chúa Giêsu coi trọng những người ở vòng trong hơn vòng ngoài: chẳng những Ngài không bỏ việc giảng để ra ngoài gặp bà con, mà còn nói những kẻ đang nghe Ngài giảng mới là gia đình thật của Ngài.
B...nẩy mầm.
1. Chuyện thứ nhất nhắc ta hai sự thật: a/Qủa thực có hoạt động của Xatan trong thế giới này và trong bản thân mỗi người, sức hoạt động này rất mạnh; b/ Nhưng qủa thật, Chúa Giêsu mạnh hơn. Chuyện này cũng làm ta liên tưởng tới những lời chia xẻ kinh nghiệm của Thánh Phaolô: “Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay… Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?” (Rm 7,21-24); “Thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi để tôi khỏi tự cao tự đại… Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi… Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Câu truyện 12,7-10)
2. Đây là nội dung cuộc nói chuyện giữa hai em nhỏ:
- Nếu Satan đến cám dỗ, bạn làm sao chống trả?
- Mình biết Satan đến cám dỗ, nhưng khi nó gõ cửa lòng mình, mình bảo: có phải Đức Giêsu gõ cửa đấy không ạ? Khi satan nghe tên Giêsu là nó biến ngay!
Người mạnh nhất cũng không thể một mình chống lại Satan (Góp nhặt)
3. Câu Tin mừng Luca 3, 14: “Và sau khi chấm dứt mọi cám dỗ, qủy bỏ đi chờ đợi thời cơ” phải hiểu cho đúng. Câu đó không có nghĩa là sau khi ma qủy cám dỗ, nó để cho ta yên một thời gian. Cũng không phải là nó để cho có giờ nghỉ ngơi hầu lấy lại sức mạnh cho cuộc chiến sau. Cũng không phải Chúa ngăn cản, không để qủy cám dỗ ta trong một thời gian. Dịch cho đúng câu đó có nghĩa là: Qủy tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại và tiếp tục tấn công. Nên khi qủy thôi cám dỗ ta, chính là lúc nó đang tìm cách để đánh úp ta.(Góp nhặt) 4. Chúa Giêsu nói những kẻ nghe Lời Chúa chính là anh chị em và là mẹ Ngài. Đây không chỉ là cách nói để khuyến khích, mà là sự thật; và không có thánh nào không siêng năng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa. 5. Trong vườn, một gốc nho héo úa giữa bao cây xanh tươi mơn mởn. Tưới bao nhiêu phân cũng chẳng thấy khá hơn. Cuối cùng, người chủ đào gốc lên xem, thì thấy có miếng gỗ nằm chắn ngang gốc cây nho. Có lẽ đời ta cũng vậy. Nếu không đâm rễ sâu vào lòng đất là Lời Chúa, đời ta cũng sẽ tàn úa (Góp nhặt)
6. Một bà kia rất thường đọc sách thánh và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao thì bà dùng một thí dụ để giải thích:
Hôm qua tôi nhận được một bức thư của một người tôi rất qúy mến. Tôi đã đọc rất chăm chú và đọc đi đọc lại tới 5 lần. Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã qúa rõ, nhưng vì tôi biết đó là lời của một người rất thương tôi và tôi cũng rất thương người đó (United Presbyterian) ----------------------------------
Vì chữa được nhiều bệnh tật, Chúa Giêsu được dân chúng tin theo, thấy vậy, những thù địch của: TN10-B2
Vì chữa được nhiều bệnh tật, Chúa Giêsu được dân chúng tin theo, thấy vậy, những thù địch của Chúa, nhằm giảm giá trị Ngài, họ đã có cách lập luận “ông ta dùng tướng quỷ để đuổi quỷ” Bêendêbun là tên quỷ vương. Tên này bắt nguồn từ Bêendêbun là thần ruồi của thành Ecron. Thành này nhiều ruồi muỗi nên người ta lập thần đó để mong thoát khỏi (2V1,2-3,16). Người Do Thái vì chế nhạo thần của thàng Ecron nên đọc trại ra Bêendêbun. Vì xưa vua Akaxia nhờ tà thần Ecron chữa bệnh, nên người Do Thái gác cho Chúa Giêsu cùng loại với ý tưởng khinh khi. Bêendêbun cũng chỉ về thần phân, vì người Do Thái nói Xatan là nguồn gốc của sự dơ dáy!
Chúa đáp lại lập luận đó bằng những chứng lý không chống lại được.
1. Nếu Ngài nhờ quỷ vương để trừ quỷ thì nước nó đã bất ổn, bị phân hoá. Nếu thật quỷ vương dùng quyền phép của nó để tiêu diệt vây cánh của nó, thì nước nó có nội chiến, tiêu diệt lẫn nhau không thể tồn tại được. Nếu trong nước đã mất đoàn kết, nếu trong gia đình chia rẽ nhau, xâu xé nhau thì không thể nào mạnh mẽ được. Chia rẽ nội bộ làm hao mòn sức lực. Dầu cho các thầy luật sỹ có nói đúng đi chăng nữa, thì theo lập luận này, ngày tàn của Xatan cũng đến rồi!
2. Nếu Ta đã trừ quỷ mà các ngươi không chối cãi được thì điều đó có nghĩa là Ta đã xâm nhập lãnh địa của Xatan và như thế Ta giống như tay cướp đã vào được nhà của Xatan. Ai cũng biết muốn cướp của một nhà phải làm sao trói được chủ nhà để khỏi chống cự. Ở đây, rõ ràng Ta đã xâm nhập được lãnh địa và trói được Xatan.
Lập luận này gợi ra một thắc mắc: người mạnh sức đó bị trói lại khi nào? Quỷ vương bị xiềng khi nào để Chúa Giêsu có thể chọc thủng phòng tuyến của nó? Có lẽ ta không thể trả lời chính xác câu hỏi này, nhưng nếu có thể câu trả lời sẽ là: Xatan bị trói khi Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc. Nhiều khi một đạo quân không hoàn toàn bị loại bỏ khỏi vòng chiến, nhưng nó đã chịu một thất bại chua cay đến nỗi tiềm lực chiến đấu không còn như trước nữa. Nó đã bị tổn thất quá lớn, lòng tự tin đã bị lung lay đến nỗi nó không còn duy trì được sức mạnh như trước nữa. khi Chúa Giêsu đối diện với kẻ cám dỗ trong sa mạc và đắc thắng nó, thì đó là một biến cố đặc biệt. Lần đầu tiên mà Xa tan mới thấy một người mà tất cả mưu trước của nó đem ra không dẫn dụ được, không một cuộc tấn công nào của nó có thể triệt hạ được. Từ đó trở đi quyền lực của Xa tan không còn được như trước nữa, thế lực tội lỗi đã bị đánh bại, hệ thống phòng ngự đã bị phá vỡ, kẻ thù chưa bị triệt hạ nhưng thế lực nó không còn như xưa, và Chúa Giêsu có thể giúp cho mọi người đắc thắng như chính Ngài đã đắc thắng.
B . Tội không được tha.
Thật là điều kinh ngạc khi chính Chúa Giêsu Đấng được loan báo “cứu dân mình khỏi tội”, lại nói về một tội không thể tha thứ được! Quá kinh ngạc nên một số người cho rằng đây là một cách nói điển hình như khi Chúa bảo phải ghét cha mẹ mình để nên môn đệ Chúa, và như vậy không nên hiểu theo nghĩa đen cứng nhắc mà hiểu là tội chống Thánh Thần là tội vô cùng lớn. Dầu vậy chúng ta thấy có cái gì nghiêm trọng hơn nhiều khi thấy chính môi miệng Đấng đã hiện thân tình yêu của Thiên Chúa lại nói về tội không thể tha thứ được, chúng ta cố gắng tìm hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì khi Ngài đề cập tội chống lại Thánh Thần. Phải đợi đến Lễ Ngũ Tuần Chúa Thánh Thần mới giáng xuống trên con người với đầy đủ ánh sáng, quyền năng và đầy trọn của Ngài. Giờ đây Chúa Giêsu đang nói về Chúa Thánh Thần cho các luật sĩ Do Thái. Theo sự dạy dỗ của người Do Thái, Thánh Thần có hai nhiệm vụ chính: Ngài mang chân lý của Chúa đến cho nhân loại, và giúp loài người nhân biết và am hiểu chân lý đó. Nói khác đi Thánh Thần ban cho con người khả năng để có thể nhận biết điều thiện và chân lý khi gặp được.
Con người có thể đánh mất bất cứ khả năng nào nếu như không chịu xử dụng nó. Điều này đúng trong bất cứ lãnh vực nào của đời sống. về thể lực, nếu một người ngưng cử động và tập luyện, các bắp thịt sẽ teo lại không xử dụng được nữa. Về trí năng cũng thế, nhiều người lúc còn đi học thâu lượm được một số kiến thức (về tiếng La tinh, Pháp hay âm nhạc…) nhưng chẳng bao lâu sự hiểu biết ấy không còn nữa vì không chịu ôn luyện và sử dụng đến. cũng đúng với loại cảm giác và nhận thức: một người có thể đánh mất khả năng thưởng thức một loại nhạc có giá trị nếu như nghe mãi thứ nhạc rẻ tiền. Bạn có thể đánh mất khả năng đọc sách có gía trị nếu cứ đọc mãi ấn phẩm chạy theo thị hiếu. Bạn có thể đánh mất khả năng nhận thức các thú vui thanh tao, lành mạnh nếu cứ lạc loài trong các lạc thú hạ cấp bẩn thỉu…Ví thế một người có thể đánh mất khả năng nhận biết điều thiện và chân lý khi thấy chúng. Nếu bạn cứ nhắm mắt bịt tai với đạo Chúa để theo đường lối riêng mình, nếu bạn cứ khước từ không nghe theo sự hướng dẫn của Chúa đang ban cho bạn, nếu bạn cứ quay lưng với sứ điệp của Chúa đang gửi đến bạn, nếu bạn cứ yêu thích tư tưởng riêng của bạn hơn là ý muốn của Chúa đang lên tiếng trong tâm trí bạn… thì cuối cùng sẽ đưa tới giai đọan thích tư tưởng của mình hơn là thích ý muốn của Chúa, không có nhân thức được chân lý, vẻ đẹp và sự tốt lành của Thiên Chúa khi bạn gặp thấy. Bạn sẽ tới một giai đoạn nhận thấy sự gian ác của mình dường như tốt đẹp, còn sự tốt lành của Chúa lại có vẻ xấu xa. Một vài thành ngữ Việt Nam giúp chúng ta hiểu thêm tình trạng này, chúng ta thường nói: “Trông gà hóa quốc hay trông cò ra quạ”. Chim quốc nhỏ hơn cò nhưng cùng chủng lọai, dáng đi cũng giống nhau nên dễ bị ngộ nhận. Nó cho thấy có nhiều lọai người hồ đồ hấp tấp, không chịu suy nghĩ chín chắn để lẫn lộn việc này sang việc khác một cách tai hại. Đó là trường hợp các thân nhân của Chúa thấy Ngài làm việc nhiều khi không có thời giờ ăn uống, nên bắt Ngài về nhà vì cho Ngài đã mất trí(Mác Cô 3,20-21). Bệnh tinh thần của những thân nhân này chưa đến nỗi nặng lắm, chỉ mới khiến họ lệch lạc! thế nhưng hạng người nhìn cò ra quạ: con cò vốn có lông trắng thế mà họ có thể nhìn ra con quạ vốn có bộ lông đen, thì quả thực bệnh tinh thần này hết đường cứu chữa. Đó chính là tình trạng đến với nhóm biệt phái và luật sỹ. Từ lâu họ đã trở thành đui và điếc với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Họ mải miết đi theo đường riêng của mình đến nỗi không còn phân biệt được chân lý và sự tốt lành của Thiên Chúa khi điều đó đến với họ. họ có thể nhìn hiện thân của sự thiệt hại đó là hiện thân của sự ác. Họ nhìn Con Thiên Chúa mà gọi Ngài đồng bọn với ma quỷ. Tội chống lại Thánh Thần là tội cứ luôn khăng khăng khước từ ý chỉ của Thiên Chúa đến nỗi cuối cùng khi ý ấy được bày tỏ thật đầy đủ thì không thể nhận ra được.
Tại sao tội đó không thể tha thứ được? Nó khác với tội khác như thế nào?
Câu trả lời thật đơn giản: một khi người đã tới giai đoạn đó thì không thể ăn năn được nữa. nếu một người không thể nhận ra điều thiện khi nhìn thấy thì không thể nào ao ước điều thiện được. Nếu một người không thể nhận biết điều ác là ác thì không thể hối hận về điều ác, không khinh ghét cũng như không từ bỏ nó. nếu anh ta không thể yêu điều thiện ghét điều ác, thì anh ta không thể ăn năn được. Và nếu anh ta không thể ăn năn được thì không thể được tha thứ, vì ăn năn là điều duy nhất để được tha thứ.
Ta sẽ bớt ăn năn khi nhận thức rằng một người không thể phạm tội nghịch với Thánh Thần nếu người ấy biết lo sợ mình phạm tội, vì phạm tội chống Thánh Thần thật ra chính là sự đánh mất cảm thức về tội lỗi. Nhóm biệt phái và luật sỹ Do Thái đã đi đến tình trạng này. Từ lâu họ cố tình giả đui, giả điếc với Thiên Chúa đến nỗi không có khả năng nhận biếp Thiên Chúa khi họ đối diện với Ngài. không phải Thiên Chúa đóng cửa để họ ở bên ngoài hay xua đuổi họ ra ngoài hàng rào tha thứ, nhưng họ đã tự ý đứng bên ngoài. Bao năn chống lại ý chỉ của Thiên Chúa đã làm cho họ trở nên như thế.
Đây là một lời cảnh báo nghiêm trọng, chúng ta phải gần guĩ với Chúa Giêsu đêm ngày để cảm quan nhạy bén của chúng ta không bao giờ bị cùn nhụt, để sự hiểu biết của chúng ta không bao giờ bị lu mờ, để lỗ tai thuộc linh của chúng ta không bao giờ nặng điếc. Đây là quy luật của đời sống: chúng ta chỉ nghe được những gì chúng ta chịu lắng nghe, và chỉ nghe được những gì thích hợp với thính gíc của chúng ta. Stêphanô nói với cấp lãnh đạo Do Thái: “Hỡi những người cứng đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần… Các ông phản bội và sát hại Đấng Công Chính. Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các Thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ”(Cv 7,51-53). Thánh Phao Lô: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc”(Epphata 4,30).
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về tương quan giữa Chúa Giêsu và gia đình của Ngài TN10-B3
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về tương quan giữa Chúa Giêsu và gia đình của Ngài để rồi rút ra những bài học thực hành về vai trò của gia đình.
Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên trong một gia đình. Suốt ba mươi ba năm của thân phận làm người, Ngài đã sống ba mưởi năm với gia đình. Cũng như bất cứ người Á đông nào, Ngài rất coi trọng những mối dây liên hệ thân thuộc: Trong ba năm rao giảng công khai, Ngài vẫn tìm dịp trở về thăm làng cũ và giữa lúc Ngài bận rộn với sứ vụ, bà con thân thuộc vẫn tìm đến thăm Ngài.
Quả thật, Chúa Giêsu coi trọng những liên hệ máu mủ và tình bà con lối xóm. Ngài quý trọng gia đình, Ngài đề cao sự thánh thiện và bất khả phân ly của hôn nhân. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã không lập gia đình: trong ba năm thi hành sứ vụ, Ngài sống xa gia đình, không nhà không cửa. Như vậy đối với Chúa Giêsu, trên cõi đời này, gia đình cũng như mọi thứ định chế khác của loài người không phải là những giá trị tuyệt đối.
Chỉ có một giá trị tuyệt đối, đó là con người. Bởi vì chỉ có con người mới có một định mệnh vĩnh cửu. Tất cả đều hiện hữu vì con người. Trong kinh Tín Kính, Giáo Hội tuyên xưng: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Như vậy, ngay cả mầu nhiệm nhập thể cũng là vì con người. Chính Ngài đã tuyên bố: Ngài đến để phục vụ chứ không phải đến để được phục vụ. Nếu Con Thiên Chúa xuống thế là để phục vụ con người, thì huống chi những định chế của xã hội loài người. Tất cả hiện hữu vì con người, gia đình cũng như xã hội hiện hữu vì con người, chứ không phải con người vì gia đình và xã hội.
Từ cái nhìn trên đây của Chúa Giêsu về gia đình chúng ta có thể thấy được vai trò của gia đình, và một cách cụ thể mục đích của việc giáo dục con người đầu đội trời, chân đạp đất. Chân đạp đất là thái độ phải thắng dẹp những lôi cuốn tội lỗi thế tục, là đạp lên trên những gì làm cho mình ra hèn hạ như cát bụi, là đạp lên trên những gì đưa chúng ta xuống đất.
Nếu chân đạp đất chỉ những sự phàm trần, thì đầu đội trời chỉ những sự siêu phàm. Đầu đội trời chỉ thái độ vươn lên những gì cao thượng, cố gắng phóng mình tới lý tưởng cao vời, hướng tâm hồn về mục đích ở bên kia thế giới, nỗ lực băng mình lên cao để tìm về quê hương Nước Trời. Nói một cách cụ thể, thì đầu đội trời chính là việc Cha trên trời, là hướng về trời cao, là sống cho những giá trị vĩnh cửu.
Sống đúng ý nghĩa ba chữ đầu đội trời, phải là mục đích của việc giáo dục gia đình, bất cứ hành động nào đi ngược lại với mục đích ấy đều là phản giáo dục.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Nếu tôi là Đức Giêsu, tôi sẽ buồn phiền chán nản vô cùng: vừa bị thân nhân gia đình bôi nhọ là: “Ông TN10-B4
Nếu tôi là Đức Giêsu, tôi sẽ buồn phiền chán nản vô cùng: vừa bị thân nhân gia đình bôi nhọ là: “Ông ấy mất trí”, lại bị nhóm kinh sư từ thành đô Giêrusalem đến xem xét rồi chụp mũ: “Ông ấy bị quỷ vương Bengiêbút ám nhập và dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ”.
Đó là những bẫy rất tâm lý và cực kỳ nguy hại của sa tan, để đánh bại chương trình cứu độ của Đấng Cứu Thế như nó đã đánh bại chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Trước kia nó đã mặc lốt con rắn cuốn lôi con người bỏ Thiên Chúa mà theo nó phạm tội ăn trái cấm (Bài đọc 1). Bây giờ, nó núp bóng dưới dạng thân nhân và kinh sư âm mưu tráo trở công việc cứu độ của Đức Giêsu biến thành công việc của nó. Đức Giêsu đã mạnh mẽ phản kháng những lừa bịp độc hại của sa tan. “Người liền gọi dân chúng, những con người hiền lành chất phác đến nghe Người giải tỏa cho họ khỏi nọc độc bịp bợm của rắn quỷ, bằng kiểu luận lý dễ hiểu, ai cũng có thể thấy rõ được: “Nước nào chia rẽ, nước ấy sẽ mất; nhà nào chia rẽ, nhà ấy sẽ tan”.
Một tiền đề sát với đời sống cụ thể của họ và rất sắc bén để dẫn tới áp dụng kết luận: “Vậy satan chống lại satan, satan tự chia rẽ satan, thì chúng không thể tồn tại, tất nhiên chúng dẫn đến diệt vong”.
Người đau đớn quay sang nói với bọn kinh sư, tay sai của quỷ rằng: “Nếu Ta nhờ Bengiêbút mà trừ quỷ thì bè phái các người nhờ ai mà trừ quỷ? Bởi thế, chính họ sẽ xét xử các ngươi”.
Đồng thời Người cũng cho họ thấy rõ sự thật hiển nhiên là: “Ta đã nhờ Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi” (Mt. 12, 27-28).
Nói đến đây, đáng lẽ ra các kinh sư là những người thông Kinh thánh, họ phải nhớ ra việc Elia xưa đã nhờ Thiên Chúa mà trừ diệt những kẻ dựa vào quỷ Bengiêbút thời vua Akhap và Ôkhôgia vua Israen. Ôkhôgia khi bị đau liệt, ông đã sai sứ giả đi cầu khẩn Bengiêbút. Thiên Chúa đã thúc giục tiên tri Elia đi đón sứ giả và nói: Ở Israel không có Thiên Chúa sao mà các ngươi lại đi cầu khẩn Bengiêbút? Cho nên Thiên Chúa phán thế này: Ngươi sẽ chết trên giường ngươi nằm. Ôkhôgia cố chấp không nghe lời cảnh cáo của Elia, còn sai quan quân tất cả hai lần trăm người đến bắt Elia. Elia đã nói: Nếu ta là người của Thiên Chúa, thì lửa hãy từ trời xuống thiêu đốt các ngươi đi. Và lửa từ trời đã thiêu đốt sạch bọn chúng, và cả nhà vua cũng chết, trừ đoàn sứ giả thứ ba biết khấn xin người của Thiên Chúa thì được sống (2V. 1, 2-17).
Những hạng người cầu khẩn tà thần ma quỷ, những người khăng khăng cố chấp những tà thuyết mù quáng, những hạng người ác ý thay trắng ra đen, xuyên tạc công việc của Thiên Chúa sang công việc của quỷ thần, những hạng người đó đã xúc phạm đến Chúa Thánh Thần, chúng chẳng bao giờ được tha thứ, chúng lì lợm đến diệt vong. Chỉ có những người ngay lành thiện chí như dân chúng, biết nhận ra lẽ phải, biết lắng nghe lời Thiên Chúa, biết đón nhận những việc lành phúc đức, mới thực sự “là mẹ, và anh em của Đức Giêsu”. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết siêng năng đến xum họp chung quanh bàn tiệc thánh Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa, như đám đông dân chúng xưa đã ngồi vây quanh Người để lắng nghe và thực thi ý Thiên Chúa và được vinh phúc trở nên làm mẹ và anh em với Người. Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi." (Mc 3.35)
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe hơi dài, mang nhiều sự kiện rời rạc nhưng nếu chịu khó suy nghĩ, TN10-B5
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe hơi dài, mang nhiều sự kiện rời rạc nhưng nếu chịu khó suy nghĩ, chúng sẽ giúp cho sự hiểu biết của chúng ta về Chúa Giêsu phong phú và toàn diện hơn.
1. Chúa Giêsu là Người bị mất trí (Mc 3,21)
Đây không phải là cảm nghĩ của những người xa lạ, nhưng là của những người thân nhân với Chúa. "Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí." (Mc 3,21)
Đọc trong toàn bộ Tin Mừng ai cũng phải nhận Đức Giêsu là người rất quân bình, vậy mà người ta còn cho Ngài là người bị mất trí, khi thấy Ngài xả thân để lo cho đám người đông đảo. Rồi Ngài còn bị coi là bất bình thường, khi Ngài và các môn đệ bận bịu, lo phục vụ đến nỗi không có cả thời giờ nghỉ ngơi và ăn uống.
Đúng là họ chẳng hiểu gì về Chúa Giêsu, dù họ tưởng mình đã biết rất rõ về Ngài.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta có một cái nhìn khách quan và trong sáng về mọi người cũng như những việc xảy ra chung quanh cuộc sống của chúng ta, để cuộc sống của chúng ta có nhiều niềm vui và hạnh phúc hơn..
Ngôi sao điện ảnh Lloyd lái xe đến trạm sửa chữa. Cô thợ máy ân cần đón tiếp anh. Ngay lập tức anh đã bị cuốn hút bởi đôi tay khéo léo và điêu luyện của cô.
Cả Paris đều biết đến anh, Thế nhưng cô gái này lại tỏ vẻ rất bình thản, xem ra không mấy vui sướng cũng như ngưỡng mộ con người nổi tiếng này.
- Cô có thích xem phim không? Anh ta hỏi. - Đương nhiên là thích rồi, tôi là một "fan" điện ảnh mà. Tay cô rất nhanh, chẳng bao lâu có đã sửa xong xe: - Ông có thể lái xe đi rồi, thưa ông. Anh ta vẫn tiếp tục: - Thưa cô, tôi có thể đưa cô đi dạo được không?. - Không! Tôi còn có công việc. - Đây cũng giống như là công việc của cô. Cô sửa xe cho tôi, tốt nhất là tự mình lái thử kiểm tra xem sao. - Được, vậy tôi lái hay ông lái đây?. - Tôi lái, tôi mời cô mà!. - Xe chay rất tốt, cô gái hỏi: - Xem ra không có vấn đề gì, vậy xin ông vui lòng cho tôi xuống được không?. - Sao cơ? Cô không muốn tôi đưa đi sao? Tôi chỉ muốn hỏi lại cô một việc, cô có thích xem phim không?. - Tôi rất thích, tôi đã trả lời với ông rồi mà, hơn nữa tôi còn là một "fan" điện ảnh nữa. - Vậy cô không nhận ra tôi sao?. - Sao tôi không nhận ra chứ! Từ đầu tôi đã nhận ra ông là diễn viên điện ảnh Lloyd nổi tiếng hiện nay mà. - Biết thế, sao cô vẫn lãnh đạm vậy?. - Không! Ông lầm rồi, tôi không hề lãnh đạm. Nhưng tôi không cuồng nhiệt như các cô gái khác. Ông có thành tựu của ông. Tôi có công việc của tôi. Ông đến đây để sửa xe. Ông là khách hàng. Nếu ông không phải là ngôi sao nổi tiếng, khi ông đến sửa xe thì tôi cũng tiếp đãi như vậy. Giữa người với người không phải như thế sao?.
Anh ta im lặng. Đối diện với cô gái bình thường này anh cảm thấy mình tầm thường và thật ngông nghênh.
- Cảm ơn cô! Cô đã khiến cho tôi phải tự cảnh tỉnh về giá trị bản thân. Được, bây giờ tôi đưa cô về.
2. Đức Giêsu là người của quỷ, cậy dựa vào sức mạnh của Quỉ Lớn mà trừ quỉ nhỏ.
Khi các kinh sư từ Jêrusalem xuống để điều tra về Đức Giêsu. Họ không thể phủ nhận được chuyện Ngài có khả năng trừ quỷ, nhưng họ lại giải thích với cái nhìn đầy ác ý. Tin Mừng ghi: "Các kinh các kinh sư từ Giêrusalem xuống thì lại nói rằng Người bị quỵ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỵ vương mà trừ quỵ. (Mc 3,21)
Thật là "tội nghiệp" cho Chúa! Đấng mà thần ô uế đã phải sấp mình xuống dưới chân mà tuyên xưng: "Ông là Con Thiên Chúa" (Mc 3,11); Đấng đã khiến quỉ phải kêu la khi xuất ra. Vậy mà các kinh sư lại nói về Chúa như thế. Đúng miệng lưỡi của "thế gian".
Chúng ta hãy tập cho mình có một lương tâm ngay thằng và trung thực đừng để những tà ý làm hỏng cái tính bàn thiện Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Một buổi chiều thứ bảy đầy nắng ở thành phố Oklanama, tôi cùng một người bạn và hai đứa con của anh đến vui chơi tại một câu lạc bộ. Bạn tôi tiến đến quầy vé và hỏi:
- Vé vào cửa là bao nhiêu? Bán cho tôi bốn vé. Người bán vé trả lời:
- 3 đô la một vé. Chúng tôi đặc biệt miễn phí cho trẻ em dưới sáu tuổi. Các cậu bé này bao nhiêu tuổi?
- Đứa lớn bảy tuổi và đứa nhỏ thì lên bốn. - Bạn tôi trả lời.
- Như vậy tôi phải trả cho ông 9 đô la tất cả.
Người đàn ông ngước lên với cặp mắt ngạc nhiên:
- Sao ông không nói rằng đứa lớn chỉ mới sáu tuổi? Như thế có phải là tiết kiệm được 3 dollars không?
Bạn tôi nhìn người bán vé rồi chậm rãi nói:
- Dĩ nhiên, tôi có thể nói như vậy và ông ta cũng sẽ không nhận ra. Nhưng bọn trẻ thì biết đấy. Tôi không muốn bán đi sự kính trọng của những đứa con và lòng trung thực của mình chỉ với 3 dollars. (Hồng Diễm)
Tin Mừng ghi lại: "Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: TN10-B6
Tin Mừng ghi lại: "Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!"
Nhưng Người đáp lại: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?"
Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi." (Mc 3,32-35)
Khi nói như thế Chúa Giêsu không có ý phủ nhận mối giây liên kết máu mủ gia đình với Chúa. Ngược lại nhiều nhà chú giải còn bảo là Chúa muốn đề cao Đức Mẹ.Ví Đức Mẹ làm Mẹ Chúa Giêsu đến hai lần!
Phải nhận rằng việc thì hành thánh ý Chúa không phải là chuyện dễ làm. Abraham ngày xưa là một thí dụ.
Phải can đảm lắm mới có thể thi hành thánh ý Thiên Chúa trong cuộc sống làm người của mình.
Ngày 30-01-1938 chuyến xe lửa khởi hành từ Quito Galio dến Colombia bất ngờ bị trật đường rầy. Tai nạn làm cho nhiều người chết và bị thương, trong số hành khách đang quằn quại vì những vết thương đau đớn, người ta thấy có một linh mục tên là Felix Louis dòng thánh Don Bosco. Cha bị gẫy chân, và một phần ruột lòi ra khỏi bụng. Nhận ra Ngài, các y tá đã chạy đến giúp đỡ Ngài. Nhưng cha ra hiệu cho các y tá phải lo săn sóc các hành khách khác. Nói xong cha lấy hết sức mình, nhét ruột vào bụng, lấy khăn băng lại, và xin người ta dìu tới những nạn nhân bị thương nặng, đang hấp hối, để giải tội cho những ai muốn xưng tội.
Làm xong công tác mục vụ, linh mục nói với các y tá: tôi cám ơn Chúa đã cho tôi thi hành chức vụ linh mục của tôi cho tới giây phút cuối cùng. Giờ đây các cô có thể đưa xác tôi đi.
Người ta vội đưa Ngài đến bệnh viện Hedini. Nhưng chỉ vài giờ sau, Ngài đã trút hơi thở cuối cùng khi chưa tròn 36 tuổi (Góp nhặt 217).
Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con biết can đảm làm cho thánh ý của Chúa được hoàn thành trọn vẹn từng giây từng phút trong cuộc đời của chúng con. Amen.
người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi." (Mc 3.35)
Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Chúng con vừa nghe cha đọc cho chúng con nghe một bài Tin Mừng của thánh Marcô. Bài Tin Mừng TN10-B7
Chúng con vừa nghe cha đọc cho chúng con nghe một bài Tin Mừng của thánh Marcô. Bài Tin Mừng này dài, gồm tới ba câu chuyện.
Cha đố chúng con đó là những câu chuyện gì nào?
- Thưa cha đó là câu chuyện Chúa Giêsu người thân của Chúa cho là người mất trí.
Thưa cha đó là câu chuyện Chúa Giêsu bị nhóm kinh sĩ của người Do Thái vu khống bảo Chúa dựa vào thế quỉ vương mà trừ quỉ nhỏ.
Thưa cha, câu chuyện Chúa nói chỉ những ai thi hành thánh ý Thiên Chúa mới là mẹ và anh em của Chúa.
- Chúng con trả lời rất hay! Bữa nay cha sẽ nói cho chúng con về câu chuyện thứ hai và thứ ba.
1. Chuyện Chúa Giêsu bị vu cáo.
Các kinh sư từ Jêrusalem xuống cho rằng: Người bị quỵ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỵ vương mà trừ quỵ. (Mc 3,21)
Chúng con có biết tại sao họ lại vu khống cho Chúa Giêsu như thế không?
- Thưa vì họ ghét Chúa Giêsu. Họ ghét vì họ ghen với Chúa. Họ ghen vì thấy Chúa được người ta ca tụng, tung hô. Còn họ dân chúng thì càng ngày càng xa lánh họ. Hơn nữa họ còn ghét là vì Chúa hay phệ bình về lối sống của họ.
- Thế lối sống của họ làm sao mà bị Chúa phê bình như vậy? Thưa vì họ kiêu ngạo. Họ hay phô trương. Họ sống giả hình, bất công.
Đáng lý ra khi được Chúa nói cho biết những thói xấu cần phải sửa thì họ phải cám ơn Chúa. Đàng này không những họ không sửa mà ngược lại còn tìm cách vu cáo để làm Chúa mất thế giá trước mặt mọi người. Đây là thói xấu mà nếu không cần thận con người sẽ rất dễ vấp phải. Một xã hội có nhiều người mắc thói xấu này sẽ là một thảm hoạ cho con người. ` . Ông Khoan Flovière, một học giả và là văn sỹ chuyên kể chuyện đồng quê của Phi Luật Tân, đã cho đăng trong nhật báo Ngôi sao, xuất bản tại Manila hôm 23/05/1990, một câu chuyện ngụ ngôn về một người mù và một người điếc như sau: Tại một vùng làng quê Phi, có một anh vừa mù vừa điếc. Bù lại, anh ta có khả năng phi thường, biết sử dụng những đồ vật xung quanh và hướng dẫn cuộc sống hằng ngày của mình bằng các giác quan khác. Anh biết rõ từng vị trí từng đồ vật trong nhà. Anh cảm thấy an phận và sống hạnh phúc như bao người bình thường khác.
Nhưng rồi một hôm, bỗng xuất hiện trong tâm trí anh một ý nghĩ muốn biết được thế giới chung quanh như thế nào. Anh cầu nguyện xin Chúa cho anh được sử dụng đôi mắt và đôi tai trong vòng một tuần lễ. Thiên Chúa nhận lời. Ngay tức khắc, anh được nhìn thấy ánh sáng và màu sắc, nghe được âm thanh và tiếng nói bình thường như bao người. Trong hai ngày đầu, anh tỏ ra hết sức phấn khởi vì được thấy, được nghe. Nhưng sang đến ngày thứ ba anh lại cảm thấy buồn, vì nghe biết bao những lời nói xấu xa, thô tục, cộc cằn, và càng buồn hơn nữa khi nhìn thấy những cảnh nghèo khổ, những âm mưu đen tối để hại nhau, những hành động độc ác mà người này có thể làm cho người khác.
Quá buồn bực, anh ta lại cầu nguyện với Chúa như sau: "Lạy Chúa, con cảm thấy Chúa đã thương nhận lời con, cho con được thấy, được nghe. Nhưng giờ đây, con xin Chúa thương cho con trở lại đời sống mù, điếc như xưa; để con được bình an trong tâm hồn. Thà con mù, điếc mà được an tâm; còn hơn là nghe và thấy những cảnh quá đau lòng".
Đó chúng con thấy cái tật nói hành nói xấu người khác nó xấu như thế nào. Hãy tập cho mình có một tâm hồn ngay thẳng thật thà luôn biết tôn trọng sự thật để cuộc sống của mình luôn đẹp lòng Chúa.
2. Chuyện Chúa Giêsu coi những người biết thi hành thánh ý Thiên Chúa như Mẹ và anh em của Ngài.
Hôm ấy, Tin Mừng ghi lại: "Lúc đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!" Nhưng Người đáp lại:"Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?"
Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi."(Mc 3,32-35)
Nói như thế có phải là Chúa xem thường Đức Mẹ phải không chúng con?
Không phải như thế! Có nhiều nhà chú giải Kinh Thánh còn cho rằng: Khi nói như thế là Chúa còn kín đáo đề cao Đức Mẹ. Theo các ngài thì Đức Mẹ làm mẹ Chúa Giêsu đến hai lần. Một lần sinh ra Chúa Giêsu, một lần là người luôn biết lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa. Đúng như thế chúng con. Sau khi nói Lời Xin Vâng, Đức Mẹ đã gắn chặt cuộc đời của mình vào thánh ý của Thiên Chúa. Điều đó không cón ai hoài nghi.
Thế nhưng cha hỏi chúng con: Thi hành Thánh ý Thiên Chúa dễ hay khó? Hãy cho cha ít thí dụ:
- Thưa cha không dễ chút nào
Thí dụ như chuyện Đức Mẹ chấp nhận làm mẹ Chúa Cứu thế. Thí dụ như chuyện Ông Abraham phải hiến tế Isaac, Thí dụ như Chúa đòi hòi muốn theo Chúa thì phải từ bỏ mình vv và vv.
Đúng thế chúng con. Việc tuân hành thánh ý Thiên Chúa không dễ chút nào. Nhưng ai làm được người đó mới xứng đáng hưởng vinh quang là được trở thành mẹ và anh em của Chúa Giêsu.
Có một người con gái tên là Elvire đang theo học trường Cao đẳng Sư phạm. Cô sống trong một gia đình nghèo, vì thế cô cần đạt được điểm trung bình cao để có thể nhận được học bổng học tiếp, nếu không cô phải nghỉ học.
Thầy dạy Triết của cô là người vô thần, do đó, khi ông ta nói về Đức Kitô và Giáo hội, ông che đậy sự thật hoặc làm méo mó. Cô gái tự thấy căm tức trong lòng, không phải là cho cô, nhưng vì là lòng yêu mến Chúa của cô, đối với sự thật và với các bạn cô. Cô biết rõ ràng, nếu nói ngược lại với giáo sư, cô có nguy cơ bị lãnh đủ, sẽ có những điểm thấp. Nhưng những gì cô cảm thấy trong lòng còn mạnh hơn cả cô nữa. Mỗi lần có cơ hội, cô đều giơ tay xin phát biểu và nói: "Thưa thầy, điều đó không đúng". Đôi lần cô thấy đuối trong lý luận khi đương đầu với sự thông thái lão luyện của thầy cô. Nhưng trong các chữ: "Điều đó không đúng" có niềm tin của cô, niềm tin hàm chứa sự thật và điều này làm người ta suy nghĩ.
Các bạn cô, vì thương đã tìm cách khuyên ngăn cô đừng can thiệp, để tránh những hậu quả không tốt. Nhưng họ không thành công. Vài tháng sau, đến kỳ thi tam cá nguyệt, giây phút báo kết quả, cô Elvire cầm tờ giấy mà tay run run. Cô không kiềm được niềm vui, la lớn: 10 điểm tối đa. Cô đã cố gắng, trên hết mọi sự, đặt Thiên Chúa và sự thật của Người ở chỗ đầu, và cái còn lại đến cách phụ trội.
Đúng là vinh quang cho kẻ thi hành thánh ý Chúa. Amen.
Xét trên bình diện tự nhiên, đây có thể là một trong những giây phút phũ phàng nhất trong đời của TN10-B:8
Xét trên bình diện tự nhiên, đây có thể là một trong những giây phút phũ phàng nhất trong đời của Chúa Giê-su. Người dưng nước lã nói Ngài bị quỷ ám thì cũng đành; còn ở đây ngay cả thân nhân bà con cũng đến để lôi Chúa về nhà, vì họ cho rằng Chúa bị điên loạn, mất trí. Sống trong thân phận con người, nhưng Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa nhập thể, vẫn không để bản tính nhân loại lấn át, kéo Ngài xa lạc khỏi sứ mạng thiêng liêng: cứu độ con người để nâng con người lên địa vị làm con cái Thiên Chúa. Ngài nhìn mọi sự trong nhãn quan siêu nhiên đó và cho chúng ta biết mối tương quan thân thuộc đích thực của chúng ta với Ngài không hệ tại ở huyết thống nhân loại mà là ở việc “thi hành ý muốn của Thiên Chúa”.
Mời Bạn: Thay vì nghĩ suy, cư xử theo sự thúc đẩy của xu hướng tự nhiên, chúng ta nhận ra Chúa nơi mọi sự, mọi người; thay vì chạy theo chủ nghĩa thế tục để tìm kiếm tiền tài, danh vọng cốt sao có thể hưởng thụ tối đa ở đời này mà thôi, đối lại, với cặp mắt đức tin siêu nhiên, chúng ta luôn tìm kiếm và hưởng dùng mọi sự, nhắm tới cùng đích là hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời. Nói tóm lại, để trở thành anh em chị em với Chúa Ki-tô, nghĩa là sống trong tình thân với Ngài, chỉ cần một điều kiện, đó là “thi hành ý muốn của Thiên Chúa”.
Sống Lời Chúa: Trước khi hành động bất cứ điều gì, mời bạn dừng lại một giây để thưa với Chúa: “Chúa muốn con làm gì để đẹp ý Chúa?”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy con biết nhận ra Chúa trong mọi sự và biết nhìn mọi sự trong Chúa để con xứng đáng là anh em chị em với Chúa.
Trong những năm tháng công khai rao giảng, Đức Giêsu đã gặt hái được thành công từ phiá dân chúng. TN10-B9
Trong những năm tháng công khai rao giảng, Đức Giêsu đã gặt hái được thành công từ phiá dân chúng. Nhưng Ngài cũng phải nếm nhiều khổ đau và thất bại do những hiểu lầm, ghen tương và cố chấp. Đức Giêsu, người quân bình hơn cả, lại bị coi là mất trí, khi Ngài xả thân để lo cho đám người đông đảo. Ngài bị coi là bất bình thường, khi Ngài và các môn đệ bận bịu, không có giờ ăn. Chính thân quyến của Ngài đã coi Ngài như thế. Họ chẳng hiểu gì, dù họ tưởng mình biết Ngài rất rõ. Các kinh sư từ Giêrusalem xuống để điều tra về Đức Giêsu. Họ không thể phủ nhận chuyện Ngài có khả năng trừ quỷ, nhưng họ lại giải thích với cái nhìn đầy ác ý: Đức Giêsu là người của quỷ, cậy dựa vào sức mạnh của Xatan. Éo le thay, Đấng mà thấn ô uế phải sấp mình dưới chân và tuyên xưng: "Ông là Con Thiên Chúa" (Mc 3,11); Đấng khiến quỷ phải kêu la khi xuất ra: "Ông đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai rồi. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Mc 1,24); Đấng trừ quỷ ấy lại bị coi là người bị quỷ ám. Một người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun chiếm đoạt lại đi trừ những người bị ám bởi các quỷ con ư? Như thế đúng là Xatan lại diệt trừ Xatan, tướng quỷ cho người ngoài làm hại đàn em của mình! Đức Giêsu nói đến thứ tội mãi mãi không được tha. Không được tha chẳng phải vì Thiên Chúa hẹp hòi, nhưng vì người ấy không cần đến ơn tha thứ. Khép lại trước sự thật rành rành, hay bóp méo sự thực, cố chấp ở lại trong sự gian dối với chính bản thân: đó là những thái độ ta có thể mắc phải. Quả thực không dễ hiểu được con người Đức Giêsu. Hiểu một người ta thân quen cũng là điều khó. Chỉ một chút ghen tương đủ làm ta hiểu sai. Chỉ một chút tự ái đủ làm ta không thấy điều ai cũng rõ như ban ngày. Càng trí tuệ và học thức, như các kinh sư, ta càng dễ bẻ cong chân lý về phía mình, càng dễ biện minh cho thái độ mình đã chọn. Khi vơi bớt đam mê của cái tôi, ta sẽ dễ nhận ra chân lý quá đơn sơ, gần gũi. Đám đông dân chúng ngồi chung quanh Đức Giêsu, nghe giảng. Một vòng tròn thân thương như những người trong nhà. Đức Giêsu thấy mình gắn bó sâu xa với họ. Ngài không ngại nhận họ là mẹ, là anh chị em Ngài. Có một thứ tình máu mủ ruột thịt thiêng liêng. Có một mẫu số chung giữa Ngài và người nghe giảng, đó là thi hành thánh ý Cha trong cuộc sống. Đức Maria là Mẹ của Đức Giêsu hai lần, vì Mẹ đã sinh dưỡng Ngài và suốt đời xin vâng ý Chúa. Chúng ta tự hỏi mình có bà con gì với Đức Giêsu không. Gợi Ý Chia Sẻ
Đánh giá sai một người chỉ vì có ác cảm hay thành kiến với người ấy, bạn có khi nào mắc phải lỗi này không?
Theo ý bạn, người cố chấp có những đặc tính nào? Làm sao giúp họ ra khỏi sự cố chấp của họ? Cầu Nguyện Lạy Thầy Giêsu, Thầy không gọi chúng con là tôi tớ, Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ. Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy, vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con nhưng điều riêng tư thầm kín nhất trong tương quan giữa Thầy với Cha. Hơn nữa, sau phục sinh, Thầy đã gọi các môn đệ là anh em. Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng đứng đầu một đoàn em đông đúc. Xin cho chúng con luôn thi hành ý muốn của Cha để trở nên những người em cùng huyết nhục với Thầy. Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy. Còn Thầy lại hạ mình xuống phục vụ chúng con như người tôi tớ, rửa chân cho chúng con như một nô lệ và chết thay cho chúng con trên thập giá. Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.
Đọc Bài Phúc âm hôm nay, bạn có thấy Mc 3,22-30 là đoạn chen vào giữa hai đoạn Mc 3,20-21 TN10-B10
1/ Đọc Bài Phúc âm hôm nay, bạn có thấy Mc 3,22-30 là đoạn chen vào giữa hai đoạn Mc 3,20-21 và Mc 3,31-35 không? Máccô có hay làm thế không? Đọc thêm Mc 5,21-43; 6,7-30; 11,12-25; 14,1-11.
2/ Đọc Mc 3,20. Đức Giêsu về nhà của ai, ở đâu? Ngài có nổi tiếng không?
3/ Đọc Mc 3,21. Thân nhân của Đức Giêsu từ đâu đến? Tại sao họ lại muốn đến bắt Ngài về?
4/ Đọc Mc 3,22. Các kinh sư là ai, từ đâu đến? Họ nghĩ Đức Giêsu là ai? Coi Đức Giêsu bị mất trí và coi Ngài bị quỷ ám có giống nhau không? Đọc Gioan 10,20.
5/ Đọc Mc 3,23-26. Đức Giêsu đã lý luận thế nào để bác bỏ ý kiến cho rằng Ngài đã nhờ quỷ vương để trừ quỷ nhỏ?
6/ Đọc Mc 3,27. Bạn thấy câu này diễn tả hành động nào mà Đức Giêsu thường làm? Đọc Lc 11,20.
7/ Đọc Mc 3,28-30. Tội “nói phạm thượng đến Thánh Thần” ở đây là tội gì? Tại sao tội này lại mãi mãi không được tha?
8/ Đọc Mc 3,31-32. Bạn có thấy “hai” gia đình ở đây không? Họ có gì khác nhau không?
9/ Đọc Mc 3,33-35. Đức Giêsu có coi thường gia đình máu mủ của mình không? Gia đình thiêng liêng của Đức Giêsu gồm những ai? Gia đình nào trọng hơn?
10/ Bài Phúc âm hôm nay có điểm nào làm bạn bị sốc không?
- Bài đọc I (St 3,9-15): Satan cám dỗ nguyên tổ phạm tội
- Đáp ca (Tv 129): Lời cầu nguyện của kẻ lỡ phạm tội.
- Tin Mừng (Mc 3,20-35): Đức Giêsu và quỷ vương Bêendêbun
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Có một thực tại vô hình nhưng rất năng động trong cuộc sống, đó là sự phá hoại của Satan. Thánh Phêrô TN10-B11
Có một thực tại vô hình nhưng rất năng động trong cuộc sống, đó là sự phá hoại của Satan. Thánh Phêrô đã khuyến cáo các tín hữu của ngài rằng "Ma quỷ như sư tử luôn rảo quanh tìm mồi".
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy cho biết Satan luôn phá hoại chúng ta thế nào, và bằng cách nào chúng ta có thể thoát khỏi sự phá hoại ấy.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Vì coi thường sự phá hoại của ma quỷ nên nhiều lần chúng ta sa ngã vì cám dỗ của chúng.
- Nhiều khi chúng ta nghe theo lời xúi dục của ma quỷ mà không nghe lời Chúa.
- Xin Chúa thương xót thân phận yếu đuối tội lỗi của chúng con.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (St 3,9-15)
Bài tường thuật này xử dụng một câu chuyện (có thể chỉ là hư cấu) để diễn tả những điểm giáo lý quan trọng:
- Đầu mối của tội lỗi là Satan: Khi bị Thiên Chúa hạch hỏi về tội đã phạm, ban đầu Adam đổ cho Evà, nhưng sau cùng Evà đã thú nhận là do Satan xúi dục.
- Sự phá hoại của Satan vẫn còn tiếp tục: Thiên Chúa phán với con rắn "Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ của mi và miêu duệ người nữ".
2. Đáp ca (Tv 129)
Lời cầu nguyện của kẻ lỡ phạm tội: "Từ vực sâu con kêu lên Chúa… Nếu Chúa nhớ hoài sự lỗi thì nào ai đứng vững được… bởi vì Chúa rộng lượng từ bi và Chúa rất giàu ơn cứu độ"
3. Tin Mừng (Mc 3,20-35)
Sự phá hoại của Satan mà Thiên Chúa đã nói trong sách Sáng thế được tiếp tục nơi Đức Giêsu. Satan phá hoại Ngài bằng nhiều cách:
- Xúi giục các luật sĩ xuyên tạc phép lạ Đức Giêsu làm, rằng Ngài đã dùng sức quỷ vương mà trị quỷ nhỏ.
- Xúi giục những người phạm tội "phạm đến Chúa Thánh Thần", nghĩa là không chịu sám hối để được tha thứ.
- Xúi giục chính những người thân của Đức Giêsu khiến họ nói rằng Ngài đã "mất trí" và "đi bắt" Ngài về không cho tiếp tục việc rao giảng Tin Mừng.
Nhưng cũng như Thiên Chúa đã tiên báo trong sách Sáng thế "Miêu duệ người nữ sẽ đạp nát đầu mi", Đức Giêsu cũng khẳng định rằng nước của Satan sẽ sụp đổ.
4. Bài đọc II (2 Cr 4,13--5,1) (Chủ đề phụ)
Trong trích đoạn tuần trước, Thánh Phaolô đã khiêm tốn nhìn nhận thân phận yếu đuối của người tông đồ (như chiếc bình sành dễ vỡ), đồng thời khẳng định sự hỗ trợ mạnh mẽ của Chúa.
Trong trích đoạn hôm nay, Thánh Phaolô tuyên xưng niềm tin của mình vào sức sống mới do Đức Giêsu ban:
- Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô sống lại thì cũng làm cho chúng ta sống lại
- Mặc dù con người bên ngoài của chúng ta bị tiêu huỷ đi nhưng con người bên trong của chúng ta ngày càng được canh tân
- Gian truân hiện nay chỉ là nhất thời và nhẹ nhàng so với vinh quang đời đời sẽ được ban cho chúng ta.
- Nếu căn nhà chúng ta cư ngụ ở trần gian này bị phá huỷ đi thì chúng ta có một nơi định cư vĩnh viễn ở trên trời
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Đổ lỗi cho người khác
Có lỗi thì nhận lỗi. Đó là điều hợp lý và phải làm. Có như thế thì mới sửa lỗi được và mới đáng được tha.
Một trong những cách phá hoại của Satan là xúi người ta chối lỗi và đổ cho người khác. Cách phá hoại này được Satan xử dụng rất thường từ xưa đến nay:
- Ngày xưa nó xúi Adam đổ lỗi cho Evà, xúi Eva đổ lỗi cho con rắn
- Ngày nay nó xúi từ trẻ con đến người lớn dù phạm tội nhưng luôn đổ lỗi cho người khác: trẻ con làm gì sai quấy bị cha mẹ rầy luôn đổ cho người khác; người lớn cũng thế: tại người này, do nguyên nhân nọ… ít khi nào dám nhận là tại mình và do mình.
Khi chúng ta làm theo sự xúi dục của Satan mà đổ lỗi cho người khác, chúng ta không sửa lỗi được và không được tha thứ. Đây cũng là một hình thức "phạm đến Chúa Thánh Thần" mà Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng.
* 2. Ganh ghét và xuyên tạc
Một cách phá hoại khác của Satan là khơi lên lòng ganh ghét để người ganh ghét xuyên tạc việc làm của kẻ khác. Thâm độc của cách phá hoại này là khiến cho người ganh ghét bị mù quáng không nhận ra sự thật, và làm cho điều tốt bị hiểu lầm là điều xấu.
Trong bài Tin Mừng, các luật sĩ đâu phải là những người ít học và không có tinh thần đạo đức. Nhưng Satan đã làm mù những kiến thức và lòng đạo đức của họ bằng tính ganh ghét. Và kết quả là khi họ đã bị mù quáng rồi, họ xuyên tạc việc Đức Giêsu chữa bệnh là "dùng sức quỷ cả để trị quỷ con".
Việc các luật sĩ mà cũng bị rơi vào bẫy của Satan khuyến cáo chúng ta đừng nghĩ mình là kitô hữu, là cán bộ tông đồ, là tu sĩ hay giáo sĩ mà có thể tránh khỏi lòng ganh ghét dẫn đến việc xuyên tạc người khác.
* 3. Khôn ngoan và "mất trí"
Một cách phá hoại nữa của Satan là xúi người ta đánh giá việc của Chúa bằng sự khôn ngoan của loài người.
Những người thân của Đức Giêsu đã rơi vào cái bẫy này: Ngài đang làm công việc của một Đấng Cứu Thế, xả thân không ngơi nghỉ để giảng dạy và chữa bệnh cho dân chúng. Nhưng họ đã suy nghĩ theo sự khôn ngoan của loài người nên nói Ngài "mất trí" và muốn bắt Ngài về nhà.
* 4. Tội phạm đến Thánh Thần
Trên một chiếc tàu vượt đại dương, có một kỹ sư tàu biển tên là Egbert. Công việc của ông là ngồi trong phòng máy và tuân theo lệnh của Đô đốc ở trên cầu tàu truyền xuống.
Một hôm, Egbert suy nghĩ rồi tự nhủ: Ta là nhân vật quan trọng nhưng đâu có ai quý trọng ta. Còn vị Đô đốc chỉ ngồi trên cầu tàu ra lệnh, chẳng để ý đến ta ở dưới buồng máy không được ngắm trời mây non nước.
Càng nghĩ ông thấy mình càng quan trọng. Lúc đó, chuông rung và có lệnh: "Hãy quay trở lại". Egbert lầm bầm: "Tôi là kỹ sư đã 30 năm, từng vượt biển cả 100 lần. Đây là lần đầu tiên có người bảo tôi phải quay trở lại giữa đại dương. Ông Đô đốc này chỉ biết ra lệnh thôi !"
Nói xong, thay vì trở lui, Egbert cứ cho tàu lao tới phía trước, mà còn tăng tốc nhanh gấp đôi. Con tàu đâm xầm vào một chiếc tàu khác, vỡ nát tan tành. * Tâm trạng anh kỹ sư tàu biển trên đây không khác gì các luật sĩ Do thái thời Đức Giêsu. Họ kiêu căng mà không nhận mình kiêu căng. Họ cho mình là tài giỏi, xứng đáng hơn người. Họ xuyên tạc chê bai việc lành của người khác. Họ giữ đạo mà không có tinh thần đạo đức. Họ làm việc thiện cốt để khoe khoang.
Với tâm trạng ấy, hôm nay họ tỏ rõ thái độ kiêu căng bất mãn. Thấy dân Do thái đổ xô đến chung quanh Đức Giêsu, họ ganh tị và khó chịu. Thấy phép lạ Người làm nhãn tiền, họ lại bảo Người bị quỉ ám. Thấy Người trừ quỉ, họ lại cho là do quyền lực quỉ vương. Thấy Người chữa bệnh cho kẻ phong cùi, họ lại kết án Người phạm luật ngày hưu lễ. Thấy Người viếng thăm kẻ tội lỗi, họ lại cho Người là bạn bè với bọn thu thuế và gái điếm. Nếu người ta đầy lòng kiêu ngạo, sẽ chẳng còn chỗ cho sự khôn ngoan. Hãy sống nhỏ bé trước mặt Chúa cả khi người ta là vua Đavít. Thánh Giacôbê viết: "Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường" (Gc.4,6). Đứng trước thái độ kiêu căng cố chấp ấy, Đức Giêsu chất vấn họ: "Satan lại trừ Satan được sao?" (Mc.3,26-27). Người cảnh cáo họ: "Mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào phạm thượng đến Chúa Thánh Thần, muôn đời sẽ không được tha" (Mc.3,28-30). Tội phạm đến Thánh Thần là chối bỏ sự hiện diện của Thần Khí trong Đức Giêsu là gán cho ma quỉ những gì thuộc về Thánh Thần.
Quả thực, Đức Giêsu xua trừ ma quỉ là "Bởi Thánh Thần Thiên Chúa" (Mt.12,28). Thánh Basiliô Xêdarê viết: "Khi gặp Đức Giêsu, ma quỉ đã bị mất hết quyền lực của mình trước sự hiện diện của Thánh Thần". Vậy ai dám nói quyền lực của Đức Giêsu do Satan mà có là họ đã nói lộng ngôn phạm đến Thánh Thần.
Tội phạm đến Chúa Thánh Thần chính là "tội cố tình, từ chối quyền năng của Chúa Thánh Thần, nguồn ơn tha thứ", Chúa luôn sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không cưỡng ép chúng ta điều gì kể cả sự thứ tha. Một khi đã từ chối ơn tha thứ thì cũng có nghĩa là từ chối hạnh phúc Nước Trời. Nếu một người nghẹt mũi không ngửi thấy hương của hoa hồng, thì đó không phải là lỗi ở bông hoa, mà do bản thân người ấy.
Thomas Caryle có viết: "Không nhận ra lỗi lầm là lỗi lớn nhất trong một lầm lỗi". * Lạy Chúa, xin dạy chúng con đừng bao giờ kiêu căng tự đắc, đừng bao giờ cho mình là tài giỏi đạo đức hơn người, đừng bao giờ cố chấp ở lì trong tội.
Xin cho chúng con biết theo Thánh Thần, để nhờ Người, chúng con được lãnh ơn Cứu độ của Chúa. Amen (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu") 5. Câu chuyện minh họa
Mỗi người đều mang hai túi: một ở trước ngực và một ở sau lưng, và cả hai nhét đầy lầm lỗi. Tuy nhiên, túi trước đựng lỗi của người hàng xóm và túi sau đựng lỗi của mình. Vì thế, người ta thường mù quáng với khuyết điểm của mình và luôn sáng mắt với khuyết điểm của anh em.
6. "Ađam, ngươi ở đâu?"
Khi Chúa ban cho Ađam và Eva được tự do là Ngài ban cho họ được chọn làm điều gì là tốt. Nhưng họ đã chọn làm điều xấu. Mà chọn điều xấu là lạm dụng quyền tự do. Và giống như trẻ con đã làm sai, họ đã đi trốn chứ không dám đối diện với hậu quả tội họ gây ra. Nhưng Chúa đã tìm họ và gọi: "Ađam, ngươi ở đâu?"
Ở đây có một thắc mắc nẩy sinh: Nếu Chúa biết mọi sự, thế thì tại sao Ngài còn hỏi "Ađam, ngươi ở đâu?" Thực ra Chúa hỏi thế không phải vì Ngài không biết Ađam đang ở đâu, mà chính vì Ađam không biết mình đang ở đâu. Ngài hỏi thế là để nhắc Ađam.
Câu hỏi "Ngươi đang ở đâu?" thật là một câu hỏi gây bối rối. Và câu này Chúa không chỉ hỏi Ađam, mà còn hỏi mọi người đang có tội: Ngươi đang ở đâu trong tương quan với Ta, với người khác và với chính bản thân ngươi?
Ađam đi trốn để khỏi trả lời câu hỏi ấy, để tránh trách nhiệm về việc mình đã gây ra. Chúng ta cũng tránh né vì cùng một lý do đó. Khi chúng ta sai lỗi, chúng ta sợ và trốn tránh trách nhiệm. Nhưng khi chúng ta trốn Chúa – là điều không thể – thì cũng là trốn tránh chính mình.
Thế nhưng có một Cái Gì đó vẫn đi tìm chúng ta, đó là tiếng Chúa hỏi trong lương tâm chúng ta "Ngươi đang ở đâu?" Thiên Chúa không thờ ơ, Ngài đi tìm chúng ta dù chúng ta muốn trốn tránh Ngài. Ngài đi tìm không phải để phạt, mà để giúp chúng ta đối diện với việc mình làm. Ngài thừa yêu thương để tha thứ cho chúng ta, nhưng Ngài muốn chúng ta gánh lấy trách nhiệm về tội đã phạm và cố gắng đền bù. Đối diện là dấu hiệu của yêu thương.
Ađam và Eva run sợ khi nghe tiếng Chúa. Họ xấu hổ về điều họ đã làm, và cũng xấu hổ về chính bản thân. Chúng ta cũng run sợ khi nghe hỏi "Ngươi đang ở đâu?" Nhưng câu hỏi này không phải là một sự tra khảo, mà là một sự giúp đỡ. Đó là tiếng của Đấng quan tâm đến chúng ta.
Ađam và Eva cảm thấy mình có tội. Ngày nay, từ "tội" hầu như chỉ mang nghĩa xấu. Thực ra tội cũng có giá trị xây dựng. Cảm thấy có tội là dấu chỉ một lương tâm còn lành mạnh: ai có lương tâm còn lành mạnh thì sau khi sai lỗi đều cảm thấy có tội. Tội cũng là dấu chỉ mình là con người thật sự: chỉ có người rối loạn tâm thần mới cảm thấy mình không có tội, bởi vì người đó đã bị chai lì về mặt luân lý. Đó không phải là người bình thường, không phải là một con người trọn vẹn.
Cũng như cơn đau là tiếng chuông báo động có cái gì trục trặc về thể lý, thì ý thức có tội là dấu chỉ cho biết có trục trặc về luân lý. Sự cắn rứt lương tâm kêu gọi ta phải thay đổi, phải tìm sự thật, phải sửa chữa lỗi lầm và phải xin ơn tha thứ. Tất cả đều có tác động tích cực. Tội sinh ra hậu quả. Trước khi Ađam và Eva phạm tội, họ sống vui vẻ trong tình thân với Chúa. Sách Thánh mô tả chiều chiều họ cùng dạo chơi với Chúa trong làn gió hiu hiu. Sau khi phạm tội, họ trốn tránh Chúa và đổ lỗi cho nhau. Trước đó là hoà thuận và hợp nhất, sau đó là sợ hãi và chia rẽ.
Nhưng cảnh buồn bã của câu chuyện đã kết thúc bằng lời hứa cứu độ. Thiên Chúa thương xót Ađam Eva nên hứa ban Đấng cứu độ. Tin Mừng cho thấy lời hứa này đã được thực hiện nơi Đức Giêsu. Đức Giêsu đã chiến thắng Satan và thiết lập Nước Thiên Chúa. Đối với những ai tin vào Ngài và làm theo ý Thiên Chúa thì một tình thân mới được thành lập. Họ không chỉ là thụ tạo của Thiên Chúa mà còn là con cái trong gia đình Ngài và là anh em với những người khác. (Viết theo Flor McCarthy)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Sau khi đã nghe lời giáo huấn của Chúa, giờ đây chúng ta hãy dâng lên Ngài những lời cầu nguyện sốt sắng của chúng ta:
1. Hội Thánh là một đại gia đình có Thiên Chúa là Cha, và các tín hữu là anh chị em của Đức Giêsu. Chúng ta hãy cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn lắng nghe và thực thi ý Thiên Chúa để xứng đáng là gia đình của Chúa.
2. Trên thế giới, ma quỷ vẫn tích cực gieo những mầm mống xấu để phá hoại chương trình của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho sự thiện chiến thắng sự dữ trong thế giới ngày nay.
3. Khi con người không dám nhận lỗi của mình mà lại đổ lỗi cho người khác thì con người không cải thiện được và không đáng được tha thứ. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp những kẻ lỡ sa ngã phạm tội biết khiêm tốn nhận tội để hoán cải đời sống và được Chúa thứ tha.
4. Đức Giêsu đã dạy: "Ai làm theo ý Thiên Chúa thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta". Chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta biết chuyên cần làm theo ý Chúa.
CT: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã bỏ ăn bỏ ngủ để giảng dạy chúng con biết con đường hạnh phúc và chữa trị những bệnh tật của loài người chúng con. Chúng con vô cùng cảm kích vì tấm lòng của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con đáp lại tấm lòng Chúa bằng một cuộc sống luôn cố gắng thi hành ý Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã nói "Ai làm theo ý Thiên Chúa thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta". Trong kinh Lạy Cha sắp đọc, chúng ta hãy đặc biệt xin cho "ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời"
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con thoát khỏi mọi hình thức phá hoại của Satan, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…"
VII. GIẢI TÁN
Chúng ta đã biết những hình thức phá hoại tinh vi của ma quỷ. Trở về với cuộc sống thường ngày, chúng ta hãy tỉnh táo đừng nghe theo sự xúi dục của ma quỷ, nhưng cố gắng thi hành thánh ý Thiên Chúa.
Thánh Giacôbê viết: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường“ (Gc 4, 6). TN10-B12
Thánh Giacôbê viết: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường“ (Gc 4, 6). Nhân loại vốn bị ma quỷ cám dỗ, đặc biệt khi ông bà nguyên tổ Ađam và Evà đã nghe lời satan xúi giục sa ngã, phản nghịch lại Chúa, đã mang trong mình nọc độc của sự chết và kiêu ngạo. Chúa Giêsu đã chống cách quyết liệt những kẻ kiêu ngạo, tự tôn, tự đắc vv… Đại diện cho cho hạng người này là các luật sĩ Do Thái thời Chúa Giêsu. Do đó, đứng trước thái độ kiêu căng, tự mãn, cố chấp của họ, Đức Giêsu Kitô chất vấn họ: “Satan lại trừ satan được sao?” (Mc 3, 26-27) Chúa Giêsu nói lện uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa.Ngài cảnh cáo họ: “Mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào phạm thượng đến Chúa Thánh Thần, muôn đời sẽ không được tha“ (Mc 3, 28-30).
Ở đây Chúa Giêsu muốn nhắc nhở mọi người, nhắc nhớ chúng ta tội phạm đến Chúa Thánh Thần là chối bỏ sự có mặt của thần khí trong Đức Giêsu, thừa nhận và gán cho satan, ma quỉ những gì thuộc về thần khí, thuộc về Thánh Thần.Tin Mừng hôm nay cho hay, Chúa trừ quỷ là do quyền năng của Thiên Chúa. Ngài tạo dựng nên vũ trụ, dựng nên con người là do quyền năng tuyệt đối của Ngài… Sự sống và sự chết tùy thuộc quyền của Ngài. Chính vì thế, ai nói Chúa Giêsu xua trừ ma quỷ là nhờ đến tướng quỷ Belgiêbút là phạm thương, lộng ngôn, phạm đến Chúa Thánh Thần. Thánh Matthêu viết: “Đức Giêsu trừ ma quỷ là bởi Thánh Thần Thiên Chúa“ (Mt 12, 28). Tội phạm đến Chúa Thánh thần là tội ngoan cố, từ chối quyền năng của Chúa Thánh Thần, nguồn ơn tha thứ“. Chúa Giêsu đã cho thấy “Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa là mẹ và là anh em của Người“. Nói lên điều đó, Chúa Giêsu muốn nói lên thực tế là tất cả những ai sống trong Chúa, có Chúa Thánh Thần, họ sẽ biết lắng nghe và thực hành lời Chúa, và như thế họ nhận ra sự hiện diện đầy Thánh Thần của Chúa. Họ trở nên con Chúa và là anh em của mọi người.
Vâng, lời Chúa trong ba bài đọc hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ về ba điểm quan trọng: - tội lỗi lan tràn trong nhân loại, trên thế giới.- tội chống lại Chúa Thánh Thần. - thực hành ý muốn của Thiên Chúa. Thực tế, tội tràn lan trong vũ trụ, nơi con người. Làm sao con người và chúng ta kết thúc vương quốc tội lỗi của Satan và để vương quốc của Thiên Chúa sớm hoàn tất, sớm thành sự như lời Kinh Lạy Cha chúng ta thường đọc “Xin cho Nước Cha trị đến”. Tuy nhiên, muốn cho Nước cha trị đến, chúng ta phải nỗ lực, phải bắt tay góp công góp sức để xua đuổi những sự dữ, satan, ma quỷ ra khỏi trần gian để Nước Tình Yêu của Thiên Chúa được ngự trị. Rồi chúng ta phải vâng theo lời Chúa, sống như Chúa yêu để tất cả chúng ta đều là anh em trong Đức Kitô và ý muốn của Thiên Chúa được thể hiện. Cuối cùng, chúng ta tin vào lòng thứ tha của Chúa “Xin tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con“. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tha thứ và tha thứ mãi mãi cho anh em như Chúa đã thứ tha cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một trái tim rộng mở, trái tim nhảy cảm, biết yêu thương, cảm thông và tha thứ. Xin cho chúng con hiểu, cảm nghiệm sâu xa Kinh Lạy Cha không chỉ đọc suông, đọc thuộc lòng mà phải sống Kinh Lạy Cha. Xin cho chúng con tấm lòng đơn, hiền lành để chúng con không tự kiêu, ngạo mạn mà luôn biết khiêm nhường vì chúng con có làm được gì là do Chúa, là do tác động của Chúa Thánh Thần. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội nào?
2. Chúa Giêsu trừ quỷ là do quyền nào?
3. Tại sao các người luật sĩ Do Thái lại chống đối Đức Giêsu?
4. Chúng ta phải làm gì để Vương Quốc của Thiên Chúa mau tới?
Một dịp Chúa Giêsu về quê Na-da-rét, nơi Ngài sinh trưởng, và đến hội đường theo luật giữ ngày TN10-B13
Một dịp Chúa Giêsu về quê Na-da-rét, nơi Ngài sinh trưởng, và đến hội đường theo luật giữ ngày sa-bát. Sau khi nghe Ngài giảng thuyết, mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài (Lc 4:22), nhưng cũng có những người đặt vấn đề: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria; anh em của ông không phải là các ông Giacôbê, Giôxếp, Simôn và Giuđa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” (Mt 13:54-56).
Và Chúa Giêsu kết luận: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi”. (Mt 13:57; Mc 6:4; Lc 4:24). Thân và Thù là hai lĩnh vực khác nhau, làn ranh giữa hai lĩnh vực đó rất mong manh. Tuy kẻ thù nguy hiểm mà lại không đáng sợ, người thân không nguy hiểm mà lại đáng sợ. Bởi vì đối với kẻ thù, chúng ta biết họ không ưa mình nên có thể dễ tránh; còn đối với người thân, chúng ta cứ tưởng an toàn nhưng khi họ phản lại thì chúng ta không tránh kịp – nhất là đối với những người nói năng “ngọt như đường cát, mát như đường phèn”. Sự thật phũ phàng thế đấy!
Ngày xưa, An Dương Vương cai trị nước Âu Lạc, Triệu Đà nhiều phen phải vỡ mộng xâm lăng, đành cầu hòa bằng cách muốn An Dương Vương gả con gái Mỵ Châu cho Trọng Thủy, con của giặc phương Bắc. Tuy đã là con rể, nhưng Trọng Thủy luôn tìm kế để đánh cắp nỏ thần. Vì mật ngọt mà ruồi dính bẫy, nghe lời đường mật của giặc mà An Dương Vương sập bẫy, và rồi hóa thành người “nuôi ong tay áo”, thật nguy hiểm! Cuối cùng, Thần Kim Quy phải nói thẳng với An Dương Vương: “Giặc ngồi ngay sau lưng đó”. Những chiếc lông ngỗng của Mỵ Châu bay mất hết trơn!
Trình thuật St 3:9-15 cho biết về chuyện con người bất tuân lệnh Chúa vì nghe lời đường mật của loài quỷ quyệt. Một hôm, Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu?”. Con người thưa: “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con SỢ HÃI vì con trần truồng, nên con lẩn trốn”. Thiên Chúa hỏi: “Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?”. Con người thưa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”. Thiên Chúa hỏi người đàn bà: “Ngươi đã làm gì thế?”. Người đàn bà thưa: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. Vòng luẩn quẩn của sự ác, đổ lỗi vòng quanh cho nhau chứ không phục thiện, không thú tội. Tà tâm ưa bóng tối, bóng tối sợ ánh sáng.
Con người đang thân thiện với Thiên Chúa, nay hóa thành thù địch với Ngài, chỉ vì con người đã kiêu ngạo mà hóa thành tội nhân. Rồi Thiên Chúa phán với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó”. Tội lỗi cũng có tính liên đới, chứ không phải ai tội mặc ai.
Người Việt có câu: “Chưa đánh được người thì mặt đỏ như vang, đánh được người rồi thì mặt vàng như nghệ”. Thế đấy, hùng hổ lắm thì co rúm nhiều. Đang yên đang lành thì cảm thấy nhàm chán, con người rửng mỡ nên muốn vùng lên, vùng lên rồi sợ hãi, mặt mũi xanh lè. Đó là “nợ truyền kiếp” khiến chúng ta cũng liên lụy – một dạng liên đới tội lỗi. Nếu nhận biết mình là tội nhân khốn nạn thì thật có phúc, nhận diện mình để khiêm nhường cầu xin: “Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu” (Tv 130:1-2). Chắc chắn Chúa thương liền!
Thật vậy, Ngài luôn đại lượng, chỉ mong tha thứ, đúng như Thánh Vịnh gia đã cảm nhận: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài. Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người” (Tv 130:3-5). Vô phúc vì đang là tội nhân, thế mà lại hóa diễm phúc vì được tận hưởng Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa. Thật là ngoài sự mong ước của chúng ta, bởi vì chúng ta là những đứa con hoàng đàng, khi trở về chỉ mong cha coi như người làm công là tốt lắm rồi, nào ngờ cha lại yêu thương hơn xưa, cho hưởng mọi thứ và còn đãi tiệc ăn mừng một kẻ-đã-chết-nay-sống-lại (x. Lc 15:11-32).
Thiên Chúa là thế, chúng ta không thể nào hiểu nổi. Mặc dù chúng ta tội lỗi tày trời, khốn nạn vô cùng, nhưng Ngài vẫn “luôn từ ái một niềm” bởi vì “ơn cứu chuộc nơi Ngài chan chứa” (Tv 130:7), và “chính Ngài sẽ cứu thoát khỏi tội khiên muôn vàn” (Tv 130:8). Không thể có ngôn ngữ nào mô tả được đúng mức về niềm hạnh phúc quá lớn lao như vậy.
Đức tin là một trong ba nhân đức đối thần kỳ diệu: “Dùng tất cả NHIỆT TÌNH để có LÒNG TIN thì có thêm ĐỨC ĐỘ, có đức độ lại thêm HIỂU BIẾT, có hiểu biết lại thêm TIẾT ĐỘ, có tiết độ lại thêm KIÊN NHẪN, có kiên nhẫn lại thêm ĐẠO ĐỨC, có đạo đức lại thêm TÌNH HUYNH ĐỆ, có tình huynh đệ lại thêm BÁC ÁI” (2 Pr 1:5-7). Đó là tính liên đới nhân đức trong đời sống Kitô hữu. Đức ái là đỉnh cao, đặc biệt là tồn tại cả đời này và đời sau (1 Cr 13:13).
Liên quan đức tin, Thánh Phaolô nói: “Vì có được cùng một lòng tin, như đã chép: Tôi đã tin, nên tôi mới nói, thì chúng tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói. Quả thật, chúng tôi biết rằng Đấng đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giêsu, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em. Thật vậy, tất cả những điều ấy xảy ra là vì anh em. Như thế, ân sủng càng dồi dào thì càng có đông người dâng lên Thiên Chúa muôn ngàn lời cảm tạ, để tôn vinh Người” (2 Cr 4:13-15). Cũng đề cập đức tin, Thánh nữ Bernadette phân tích rất hay: “Người tin thì không cần giải thích, người không tin thì giải thích cũng vô ích”. Cụ thể nhất là đối với người vô thần, nói về đức tin với họ không bằng nói với đầu gối – về nhiều vấn đề khác cũng tương tự, bởi vì họ cố chấp.
Với niềm xác tín mạnh mẽ, Thánh Phaolô cho biết: “Cho nên chúng tôi KHÔNG CHÁN NẢN. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới. Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật HỮU HÌNH chỉ TẠM THỜI, còn những thực tại VÔ HÌNH mới TỒN TẠI VĨNH VIỄN” (2 Cr 4:16-18). Thân xác sống nhờ thần khí chứ chính nó chẳng có giá trị gì (x. Ga 6:63), nó “thân” lắm đấy nhưng nó cũng dễ biến thành “thù” ngay, và rồi nó sẽ phải tan biến thành cát bụi, còn linh hồn mới thực sự bất tử. Đừng nuông chiều hoặc quá chăm chút thân xác mà làm hại linh hồn mình!
Thánh Phaolô kết luận: “Quả thật, chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá huỷ đi thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5:1). Chết là biến đổi chứ không là “chấm hết”.
Cuộc sống luôn nhiêu khê và đáng quan ngại, sợ nhất là chính mình – nội gián đáng gờm nhất, rồi đến người thân, sau đó mới là người khác và kẻ thù. Trình thuật Mc 3:20-35 cho biết rằng các thân nhân và các kinh sư đều coi Đức Giêsu là người mất trí, thậm chí còn nói Ngài “bị thần ô uế ám”. Người Việt có ý tưởng chí lý: “Giòi trong xương giòi ra”.
Một lần nọ, Chúa Giêsu trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Ngài và các môn đệ không sao ăn uống được. THÂN NHÂN của Ngài hay tin ấy, liền đi BẮT Ngài, vì họ nói rằng Ngài đã MẤT TRÍ. Theo ngôn từ ngày nay, người ta nói là BóTay.com hoặc “cạn lời”. Hết ý kiến và lắc đầu ngán ngẩm quá!
Rồi cũng chưa yên và còn tệ hơn nữa, vì các kinh sư từ Giêrusalem xuống lại nói rằng Ngài BỊ QUỶ VƯƠNG BÊ-EN-DÊ-BUN ÁM và DỰA THẾ QUỶ VƯƠNG mà trừ quỷ. Những cái “đầu tôm” ở tột cùng của sự ngu dốt tồi tệ. Xã hội ngày nay ở Việt Nam cũng không thiếu loại người như vậy!
Nhưng đừng tưởng bở, chuyện đâu còn có đó. Biết vậy, Ngài liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Satan làm sao trừ Satan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững”. Lý luận chặt chẽ, phân tích rạch ròi. Và Ngài minh định: “Vậy Satan mà chống Satan, Satan mà tự chia rẽ thì KHÔNG THỂ TỒN TẠI, nhưng đã TẬN SỐ. Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó”. Chắc chắn họ đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt mà thôi. Dốt mà chảnh, ngu mà ta đây. Đúng là lũ “đầu đất” hợm mình tới mức hết thuốc chữa!
Đó cũng là bài học cho những ai thực sự muốn sống nghiêm túc, muốn nên người và nên thánh. Thật thế, tự triệt tiêu tôi thì thành thánh. Thế thôi!
Tội lỗi không chỉ có tính liên đới mà còn có mức độ, Giáo Hội gọi là Trọng Tội và Khinh Tội (tội nhẹ). Tội nào cũng được tha nếu thật lòng ăn năn sám hối, quyết tâm chấn chỉnh và hoán cải, nhưng có một loại tội lớn hơn các loại tội to, nặng hơn các loại tội trọng mà Chúa Giêsu đề cập: “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói PHẠM ĐẾN THÁNH THẦN thì chẳng đời nào được tha, mà còn MẮC TỘI MUÔN ĐỜI”. Đó là tội mà họ đã dám nói Chúa Giêsu “bị thần ô uế ám”. Xúc phạm Thiên Chúa thì hết cách cứu!
Liên quan Thân và Thù, Chúa Giêsu xác định ai mới thật là thân nhân của Ngài (Mc 3:31-35; tương đương Mt 12:46-50; Lc 8:19-21).
Lúc đó, Mẹ và anh em của Chúa Giêsu đến, đứng đợi ở ngoài và cho gọi Ngài ra. Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Ngài. Có kẻ nói với Ngài: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”. Nhưng Ngài đáp lại bằng một câu hỏi: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”. Nói rồi Ngài rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”.
Nói vậy không có nghĩa là Chúa Giêsu không coi trọng tình cảm gia đình hoặc coi thường thân nhân, nhưng Ngài muốn nói đến tầm quan trọng của việc lắng nghe và sống đúng Lời Chúa, tất nhiên cũng không loại trừ việc học hỏi Lời Chúa. Vô tri bất mộ, không hiểu đúng Lời Chúa thì khó có thể yêu mến, không yêu mến Lời Chúa thì làm sao muốn sống Lời Chúa? Rất lô-gích, rất hợp lý!
Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp con biết nhận diện chính mình để có thể đè nén “cái tôi” tồi tệ trong con người của con, bởi vì không có Ngài thì con chẳng làm được chi cả (x. Ga 15:5). Con biết con ngu dốt hơn mọi người, không thông minh bằng người khác (Cn 30:1), xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ (Tv 119:34), xin ban trí thông minh để con được am tường thánh ý (Tv 119:125). Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen. -------------------------------
Sức phá hoại của Xa-tan nơi hai ông bà nguyên tổ vì bất phục huấn lệnh của Thiên Chúa được tiếp tục TN10-B14
Sức phá hoại của Xa-tan nơi hai ông bà nguyên tổ vì bất phục huấn lệnh của Thiên Chúa được tiếp tục nơi giai cấp lãnh đạo Do thái vì họ vu khống Đức Giêsu dùng tướng quỷ mà trừ quỷ. Nhưng lời hứa cứu độ của Thiên Chúa: “miêu duệ người nữ sẽ đạp nát đầu mi”, sẽ được Đức Giêsu thực hiện khi Ngài khẳng định rằng nước của Sa-tan sẽ sụp đỗ và thiết lập gia đình Thiên Chúa qua việc lắng nghe và thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
St 3, 9-15
Sách Sáng Thế mô tả những tác hại của việc hai ông bà nguyên tổ không vâng lời Thiên Chúa và đồng thời lời hứa cứu độ của Thiên Chúa.
2Cr 4,13 – 5,1
Được cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu nâng đỡ, thánh Phao-lô xác tín rằng thánh nhân cũng với các tín hữu thân yêu của ngài sẽ được sống với Chúa.
Mc 3, 20-35
Đức Giêsu thực hiện lời hứa của Thiên Chúa bằng cách khẳng định nước của Xa-tan sẽ sụp đổ và thiết lập gia đình Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (St 3, 9-19)
Sách Sáng Thế mô tả những tác hại của tội và lời hứa cứu độ của Thiên Chúa.
1. Những tác hại của tội (3: 9-13):
Tác giả mô tả cách tinh tế tội gây tác hại cho nhân loại qua hai ông bà nguyên tổ như thế nào.
A. Tội phá vỡ mối giao hảo của con người với Đấng Tạo Hóa (3: 9-11):
Thuở ban đầu, vào lúc gió chiều hiu hiu thổi, Thiên Chúa thường đến dạo chơi trong vườn với hai ông bà và trò chuyện thân mật với hai ông bà. Nhưng kể từ nay khi nghe tiếng bước chân của Thiên Chúa, hai ông bà, thay vì mừng rỡ chạy ra nghênh đón Người, lại ẩn mình vào giữa lùm cây trong vườn, vì sợ giáp mặt với Thiên Chúa. Hình ảnh hai ông bà trốn vào lùm cây diễn tả phản ứng quen thuộc của những kẻ phạm tội; tội lỗi khiến con người tránh xa Thiên Chúa. Chính tội lỗi đã khiến cho kẻ phạm tội sợ phải diện đối diện với Thiên Chúa, tìm mọi cách xa lánh vị Thiên Chúa tốt lành của mình. Tội lỗi phá vỡ mối thân tình ban đầu giữa loài thụ tạo với Đấng Tạo Hóa của mình.
B. Tội làm rạn nứt tình chồng nghĩa vợ (3: 12-13)
Thuở ban đầu, khi mới gặp người nữ Thiên Chúa giới thiệu cho mình, con người đã thốt lên: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2: 23); ấy vậy giờ đây người chồng đổ hết trách nhiệm cho vợ mình: “Người đàn bà Ngài đã cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn” (3: 12). Còn người nữ cũng thoái thác trách nhiệm của mình bằng cách đổ lỗi cho con rắn: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn” (3: 13). Lời của người nữ là thực, nhưng bà quên rằng mình đã để cho Con Rắn xảo trá lừa dối đến mức hiểu sai ý định tốt lành của Thiên Chúa. Tội đã làm rạn nứt mối tình nghĩa keo sơn bền chặt “nên một xương một thịt” giữa chồng và vợ, mỗi người tìm cách chối quanh co những lỗi lầm của mình, không ai dám nhận phần trách nhiệm của mình.
2. Lời hứa cứu độ của Thiên Chúa (3: 14-15)
Thiên Chúa phán xử con rắn qua hai câu: câu thứ nhất là án phạt dành cho con rắn, câu thứ hai báo trước sự chiến thắng của loài người trên con rắn, tên cám dỗ.
A- Thiên Chúa luận tội con rắn (3: 14):
Trước hết, Thiên Chúa luận tội con rắn, kẻ cám dỗ:
“Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú.
Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi” (3: 14).
Lời luận tội này mang tính tầm nguyên về loài rắn, nhằm để trả lời cho những câu hỏi như: tại sao con rắn lại bò sát đất, lại ăn đất? Tại sao nó khác biệt với các loài khác? Tại sao lại có mối thù giữa loài người và loài rắn? Thực ra, bản án không gì khác chỉ như một lời chứng nhận: con rắn không có chân nên phải “bò bằng bụng”, nhưng tác giả đã nối kết nét đặc trưng này với hình tượng kinh điển về sự thất bại, bị hạ nhục và khinh dể: “Phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi” (x. Is 49: 23; Mk 7: 17; Tv 72: 9; v.v.). Ở đây, tác giả một lần nữa phản bác việc phụng thờ thần rắn để cầu xin cho được phong nhiêu và phồn sinh thường thấy tại Lưỡng Hà Địa, Ai-cập, Pa-lét-tin… Trong các đền thờ, thần rắn được tạc tượng giống như con rồng có chân đứng thẳng để nhận những hành vi thờ bái của các tín hữu; thần rắn cũng được cho rằng có thể ăn lễ vật do các tín đồ sốt sáng dâng lên, nhưng từ nay “phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi”.
B- Thiên Chúa loan báo ơn cứu độ (3: 15):
Tiếp đó, Thiên Chúa loan báo ơn cứu độ qua việc dòng giống người nữ sẽ chiến thắng trên dòng giống con rắn:
“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,
giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;
dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (3: 15).
Lời tiên báo này có thể được giải thích cách rộng lớn hơn khi hiểu toàn thể nhân loại qua kiểu nói: “dòng giống của người đàn bà”, và tất cả những quyền lực của sự ác qua kiểu nói: “dòng giống của con rắn”. Qua lời tiên báo này, Thiên Chúa hứa rằng Người sẽ can thiệp để phục hồi nguyên trạng cho con người. Lời hứa này mở ra cho nhân loại một niềm hy vọng là một ngày kia nhân loại sẽ chiến thắng trên những quyền lực của Ác Thần.
Tuy nhiên, bản dịch Hy-ngữ (bản Bảy Mươi) đặt chủ từ ở số ít giống đực: “Chính người con trai đó sẽ đạp dẹp đầu người”. Theo cách hiểu của bản dịch này, lịch sử sẽ là một cuộc chiến đấu dài lâu giữa nhân loại và các quyền lực của sự dữ; nhưng nếu cuộc chiến thắng sau cùng được đảm bảo cho nhân loại, thì cuộc chiến thắng này hàm chứa một vị lãnh tụ có khả năng chiến thắng sự Dữ, tức là Đấng Cứu Thế. Còn các Giáo Phụ thì đọc thấy lời hứa này là lời tiên báo theo đó ở giữa lòng nhân loại sẽ sinh hạ một người nữ, bà này sẽ đạp dập đầu Quỷ Dữ, người đàn bà đó là Mẹ của Đấng Cứu Thế; vì thế bản dịch La-ngữ (bản Phổ Thông) của thánh Giê-rô-ni-mô đặt chủ từ ở số ít giống cái: “Chính người đàn bà đó sẽ đạp dập đầu ngươi”, để áp dụng vào Đức Trinh Nữ Maria.
Dù thế nào, cách hiểu của hai bản dịch này không loại trừ nhau nhưng bổ túc cho nhau. Người Đàn Bà chiến thắng sự Dữ chỉ bởi và nhờ Người Con của Bà. Thật đáng lưu ý rằng khi tạc tượng vẽ hình về Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đạp dẹp đầu con rắn, các nghệ sĩ luôn luôn trình bày Hài Nhi Giêsu trong vòng tay của Mẹ Mình. Chúng ta biết rằng sách Khải Huyền của thánh Gioan âm vang bản văn Sáng Thế này trong một thị kiến về Người Phụ Nữ đối lập với Con Rồng, “con rắn xưa”, nhưng trong đó Đức Ma-ri-a đã không được trực tiếp chỉ ra (Kh 12). Vì thế, lời tiên báo này được truyền thống Ki-tô giáo giải thích là “tiền tin mừng”, nghĩa là tin mừng “đầu tiên” loan báo hừng đông ơn cứu độ.
BÀI ĐỌC II (2Cr 4: 13-5: 1)
Thánh nhân vạch rõ rằng đau khổ của Đức Giêsu mặc khải tình yêu Thiên Chúa và ban sự sống như thế nào, thì những đau khổ của thánh Phao-lô nẩy sinh trong tình yêu mà thánh nhân dành cho các tín hữu Cô-rin-tô cũng như vậy. Được cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu nâng đỡ, thánh Phao-lô xác tín rằng thánh nhân sẽ được sống lại “với Chúa” (4: 14; x. 1Tx 4: 14, 17). Tuy nhiên, điểm nhấn ở đây được đặt trên “cùng với anh em” (4: 14). Điều nhấn này giúp chúng ta thấu hiểu tình yêu thánh nhân dành cho những người mà thánh nhân chia sẻ Tin Mừng và cũng giúp cho chúng ta thấu hiểu lòng nhiệt thành thánh nhân dâng hiến cho sứ mạng của mình ngỏ hầu Tin Mừng có thể đạt đến nhiều người chừng nào có thể.
TIN MỪNG (Mc 3: 20-35)
Bối cảnh không gian của phân đoạn này chính là Đức Giêsu đang ở trong một ngôi nhà có đám đông vây quanh. Còn bối cảnh thời gian thì rộng lớn hơn bối cảnh không gian: thân nhân của Người từ làng Na-da-rét đến Ca-phác-na-um để bắt Ngài về vì nghĩ rằng “Người đã mất trí” (3: 21), trong khi các kinh sư Do thái xuyên tạc hành động của Ngài và vu khống Ngài dùng tướng quỷ mà trừ quỷ.
Bản văn này được cấu trúc theo lối hành văn “đối xứng đồng tâm nghịch đảo” như sau: A-Thân nhân cáo giác Đức Giêsu (3: 20-21). B-Các kinh sư vu cáo Đức Giêsu (3: 22). C-Đức Giêsu tự biện hộ (3: 23-27). B’-Đức Giêsu phê phán các kinh sư (3: 28-30). A’-Đức Giêsu phê phán thân nhân của Ngài (3: 31-35). A-Thân nhân cáo giác Đức Giêsu (3: 19b-21):
20. “Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến”: Giới thiệu hoàn cảnh của Đức Giêsu vào lúc đó. Đây chắc là nhà của thánh Phê-rô.
21. Bà con họ hàng của Đức Giêsu đến để bắt Người về, vì họ nghĩ rằng Người đã mất trí. Khi xử sự như thế, họ chỉ muốn gìn giữ thể diện danh giá của gia tộc và bảo vệ mạng sống cho Đức Giêsu. Nhưng điều ấy cho thấy rằng các thân nhân của Người tỏ ra không hiểu gì về sứ mạng của Người và không nhận ra Người có một sứ mạng thần linh.
B-Các kinh sư vu cáo Đức Giêsu (3: 22):
Các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến kết án Chúa Giêsu hai tội: “Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám” và “Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ”. Trong lời biện hộ, Đức Giêsu sẽ trả lời cho họ lời kết tội thứ hai trước (3: 23-26), rồi đến lời kết tội thứ nhất sau (3: 27).
C-Đức Giêsu tự biện hộ (3: 23-27):
23. “Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được?”: Chúa Giêsu trả lời cho lời buộc tội thứ hai của các các kinh sư, những người này không thể nào bác bỏ những việc trừ quỷ của Đức Giêsu, vì thế họ giải thích rằng Người đã dùng tướng quỷ mà trừ quỷ. Qua ba câu 24-26, Đức Giêsu vạch rõ cho thấy lời giải thích này thật là phi lý.
24-26. Điểm cơ bản được minh họa theo ba cách, mỗi cách theo cùng một cấu trúc. Nếu một nước, một nhà hay Xa-tan chia rẽ, thì nó không thể đứng vững được. Nếu câu 24 và câu 25: một nước, một nhà là dụ ngôn, thì câu 26 lại là lời trả lời trực tiếp: nếu Đức Giêsu dùng tướng quỷ mà trừ quỷ hóa ra Xa-tan sẽ đặt các thuộc hạ của mình chống lại nhau, vì thế, tự tiêu diệt chính mình và vương quốc của mình. Câu kết luận không cần phải nói ra Đức Giêsu không thể nào thuộc về vương quốc của Xa-tan được, nhưng là đối thủ đáng gờm của Xa-tan.
27. “Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó”: Qua câu 27 này, Đức Giêsu trả lời cho lời buộc tội thứ nhất của các kinh sư khi họ tố cáo Người bị quỷ ám. Nếu Đức Giêsu bị quỷ ám thì Người phải dưới quyền thống trị của Xa-tan. Nhưng rõ ràng Đức Giêsu là “người mạnh hơn Xa-tan”, Người đã đột nhập vào nhà của nó, đã trói nó và “cướp sách sạch nhà nó”, tức là những người được giải thoát khỏi bệnh tật và ma quỷ. Chính cuộc giải phóng này loan báo cuộc trất quyền của Xa-tan và Triều Đại Thiên Chúa ngự đến.
B’-Đức Giêsu phê phán các kinh sư (3: 28-30):
28. “Tôi bảo thật anh em”: Lời dẫn nhập long trọng và đầy xác quyết này có giá trị như một lời cam đoan.
- “Mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều mấy đi nữa, thì cũng còn được tha”: “Tội nói phạm thượng” theo nghĩa hẹp là nói những lời xúc phạm đến Thiên Chúa, đến Danh Thiên Chúa (Mc 2: 7; 14: 64; Ga 10: 33-36); theo nghĩa rộng là lời nói xúc phạm đến một đặc quyền thần linh nào đó (Cv 6: 11), một tổ chức thánh (Ed 35: 12; 1Mcb 7: 38); theo văn mạch ở đây là tội nói xúc phạm đến Chúa Giêsu, vì Người là Đấng được Thiên Chúa sai đến và có quyền năng của Thiên Chúa (15: 29tt; Lc 22: 64-65; 23: 30). Tất cả mọi tội xúc phạm đến Đức Giêsu đều được tha.
29. “Nhưng ai phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời”: Bản liệt kê các thứ tội mà loài người phạm đều có thể được tha nhằm làm nổi bật tội phạm đến Thánh Thành chẳng đời nào được tha. Vậy tội phạm đến Thánh Thần là tội gì? Chúa Giêsu đang trả lời cho các kinh sư Do thái, theo họ Thần Khí không chỉ mặc khải sự thật của Thiên Chúa cho loài người nhưng còn khai lòng mở trí cho loài người hiểu biết sự thật ấy. Theo văn mạch, Thánh Mác-cô đã trình bày ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã được Chúa Thánh Thần ở cùng và hướng dẫn Người trên con đường thi hành sứ mạng. Như vậy, Thánh Thần hoạt động trong những việc chữa lành và trừ quỷ nơi Đức Giêsu để mặc khải cho loài người sự thật của Đức Giêsu và giúp con người hiểu biết sự thật ấy. Nhưng các kinh sư chẳng những không mở rộng lòng mình để tiếp nhận sự thật mà Thánh Thần mặc khải mà còn cố tình xuyên tạc sự thật ấy bằng cách gán những hành động của Thánh Thần ở nơi Đức Giêsu cho quyền lực của quỷ. Thật ra, “tội nói phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha thứ”, không có nghĩa rằng Thánh Thần không tha thứ, mà chính đương sự tự ý khép kín lòng mình trước sự thật và nhất quyết sống trong sự gian dối.
30. “Đó là vì họ đã nói ông ấy bị thần ô uế ám”: Những ai cho rằng những gì Đức Giêsu làm đều ở dưới quyền lực của ma quỷ, chịu sự tác động của ma quỷ, những người ấy không thể đón nhận ánh sáng của ân sủng, không muốn đón nhận ơn tha thứ mà Thánh Thần ban cho hết mọi người. Câu này mặc nhiên khẳng định rằng Chúa Thánh Thần chứ không Xa-tan là nguồn quyền năng của Đức Giêsu.
A’-Đức Giêsu phê phán thân nhân của Ngài (3: 31-35):
31. “Mẹ và anh em Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài cho gọi Người ra”: Nhóm người nầy tương tự như (hay ít ra một phần) “thân nhân của Người” được kể ra ở 3: 21. Từ “anh em” trong tiếng Híp-ri có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng như là anh em ruột, anh em họ, và cả bà con xa gần. Trong câu chuyện trước đó (3: 20-21), tác giả đã kể rằng khi hay tin Chúa Giêsu say mê giảng dạy và chữa bệnh cho dân chúng đến nỗi không có thời giờ ăn uống, “thân nhân của Người liền đi bắt Người vì họ nói rằng Người mất trí” (Mc 3: 21). Chuyến đi đó họ “không bắt” (nghĩa là “không ngăn cản”) Chúa Giêsu được. Có lẽ vì thế mà bây giờ, họ dẫn thêm Đức Ma-ri-a. Câu chuyện này cho thấy Đức Mẹ chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Chúa Giêsu. Đã nhiều lần Mẹ phải ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng về những việc lạ lùng nơi con của mình. Cuối cùng, dưới chân Thập Giá, Mẹ mới hiểu hết và còn kết hợp sự đau khổ của mình với sự đau khổ của Chúa Giêsu. Quả thật, Công Đồng Va-ti-can đã nói về cuộc hành trình đức tin của Đức Ma-ri-a.
32. “Đám đông đang ngồi chung quanh Người”: Đám đông được mô tả như những môn đệ vây quanh Người, chăm chú lắng nghe Lời Người.
- “Có kẻ nói với Người rằng: ‘Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”: Theo cách mô tả của thánh Mác-cô, những thân nhân của Đức Giêsu đang đứng ở bên ngoài, còn đám đông thì đang ngồi chăm chú lắng nghe Người ở bên trong. Như vậy, với hai cặp không gian đối nghịch nhau: “ở bên ngoài” và “ở bên trong”, thánh Mác-cô muốn diễn tả chủ đề chính của phân đoạn này, theo đó những kẻ đang ngồi lắng nghe lời Người ở bên trong thì thân thiết và gần gũi với Người còn hơn những thân nhân của Người đang đứng ở bên ngoài.
33. “Ai là mẹ tôi?, ai là anh em tôi?”: Khi nghe tin mẹ và anh em từ làng quê Na-da-rét đến ở bên ngoài, chẳng những Đức Giêsu không ngừng công việc rao giảng, nhưng Người còn nêu lên một câu hỏi lạ lùng này.
34. “Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ chung quanh”: Đây là cách thức thánh Mác-cô nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo huấn mà Chúa Giêsu đưa ra sau đó.
- “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi”: Đức Giêsu đang chỉ những người ở bên trong, họ mới thật sự là mẹ và anh chị em của Người.
35. “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa”: Lời nói trọng tâm nầy chứa đựng ít nhất một ghi nhận tiêu cực về gia đình huyết thống của Đức Giêsu. Những thân nhân huyết thống “ở bên ngoài”, những người đang đến đó không phải để nghe Lời Người nhưng để ngăn cản Người thi hành sứ vụ của Người vì cho rằng “Người đã mất trí” (3: 21), đối lập với những thân nhân đức tin “ở bên trong”, tức là tất cả những ai lắng nghe Lời Người và thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Thánh Mác-cô muốn làm nổi bật hai mẫu gia đình: gia đình huyết thống thì “ở bên ngoài”, còn gia đình đức tin thì “ở bên trong”.
Trong Cựu Uớc, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển vũ trụ (Hc 43: 16; Tv 29: 5), vì thế làm theo ý muốn của Thiên Chúa là điều con người phải ước muốn ưu tiên hàng đầu: “Con thích làm theo thánh ý và ấp ủ Luật Chúa trong lòng” (Tv 40: 9). Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần nhấn mạnh đến việc lắng nghe Lời Người và đem ra thực hành, chẳng hạn như “Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành…người ấy ví được như một người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lũ có dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi” (Lc 6: 47-48).
- “Người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Trong một xã hội mà gia đình đóng một vai trò quan trọng đặc biệt, thì ý tưởng về một gia đình đức tin có tác dụng làm tương đối hóa những mối liên hệ huyết thống, đây mới thực sự là gia đình của Đức Giêsu không căn cứ trên huyết thống hay chủng tộc nhưng trên việc thực thi thánh ý Thiên Chúa. Tác giả không nhằm phê phán Đức Ma-ri-a cũng như anh chị em của Người, nhưng có chủ ý cho thấy các tín hữu, tức là những người môn đệ ở cùng nhà và chia sẻ đời sống với Đức Giêsu, không chỉ như những người “ở với Người và để Người sai đi” (x. 3: 14), nhưng còn như những thành viên của cùng một gia đình, gia đình của Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu Ki-tô. Chúa Giêsu cho hiểu rằng những người đang quây quần chung quanh Người được nối kết với Người một cách sống động và thực sự: Người thuộc về họ và họ thuộc về Người. Tuy nhiên, sợi dây liên kết này không căn cứ trên căn bản huyết thống, những trên mối quan hệ của họ với Thiên Chúa. Họ là những người liên kết với Đức Giêsu cách mật thiết nhất, bởi vì họ thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
Qua những lời này, Chúa Giêsu cho hiểu rằng trong kế hoạch của Thiên Chúa, “sống theo ý muốn của Thiên Chúa” mới thật sự trở nên gia đình của Người chứ không là mối liên hệ huyết thống. Như vậy, gián tiếp Người cho hiểu rằng Đức Ma-ri-a có một vị trí cao quý tột bậc không phải vì là “thân mẫu của Người” cho bằng đã “sống theo ý muốn của Thiên Chúa”. Những thân nhân huyết thống của Đức Giêsu cũng không bị loại khỏi mối hiệp thông với Người, nếu họ sẵn sàng thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
Đây quả là một cách thức vừa rõ ràng vừa đơn giản mà thánh Mác-cô muốn trình bày cho các Ki-tô hữu đương thời về Giáo Hội. Cuộc bách hại của người Rô-ma đã đẩy nhiều gia đình đến những cuộc phân ly đau đớn. Những ai trở lại đạo thường bị buộc phải chọn lựa hoặc là thân quyến hoặc là cộng đồng Ki-tô hữu. Thánh Mác-cô chứng tỏ cho họ thấy ngay chính Chúa Giêsu cũng từng bị buộc phải đoạn tuyệt với thân nhân của Người: vì thế các Ki-tô hữu không thể đòi cho mình được đặc quyền hơn Người. Như thế, trên con đường rao giảng của Chúa Giêsu, thánh Mác-cô đưa ra hai loại tương giao giữa Chúa Giêsu và những kẻ đương thời của Người: một số khước từ và một số khác đón nhận Người. “Bản thân là một người Ki-tô hữu, tôi đã thuộc về Đức Ki-tô. Biết và thi hành ý muốn của Chúa, tôi sẽ là mẹ, là anh chị em của Người. Vâng, Chúa đã nói với những kẻ ngồi xung quanh Người như thế. Hôm nay Chúa cũng tha thiết nói với tôi, với những người xung quanh tôi như vậy, từ những người trí thức đến những người thấp kém trong xã hội. Tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ đón nhận và làm cho lời Chúa thấm nhuần cả đời sống của ta, gia đình và xã hội, để Chúa Giêsu không ngừng lớn lên trong ta và trong mọi người. Như thế đó, ta vừa là mẹ vừa là anh chị em của Người.” (“Epphata”). -------------------------------
Trên núi, Đức Giêsu thiết lập nhóm "mười hai để họ ở với Người và để sai họ đi rao giảng với quyền TN10-B15
Trên núi, Đức Giêsu thiết lập nhóm "mười hai để họ ở với Người và để sai họ đi rao giảng với quyền xua đuổi ma quỷ". Giờ đây Người "vào một ngôi nhà nơi đám đông tụ tập. Họ khao khát nghe lời Người đến nỗi Người không có thời giờ ăn uống? Chính trong khung cảnh ấy Máccô tường thuật lại hai cuộc chống đối Đức Giêsu. Sự chống đối của gia đình người". Thân nhân của Người nói: "Người đã mất trí" và họ đến "bắt Người về” (kiểu nói "bắt" được nhắc lại 4 lần trong bài Thương khó để chỉ việc bắt giam Đức Giêsu). Sự chống đối của các "Luật sĩ đến từ Giêrusalem” uy quyền tôn giáo ở Israel: Họ tố cáo Người bị quỷ "Bê-en-dê-bun ám" và Người xua đuổi ma quỉ vì Người là "tướng quỷ” Đức Giêsu đã trả lời họ tức khắc bằng hai dụ ngôn ngắn:
- Dụ ngôn thứ nhất về "vương quốc" hoặc về "gia đình" chia rẽ. Đức Giêsu viện dẫn lương tri: làm sao Satan có thể xua đuổi Satan (hoặc quân quốc của Satan?). Đó là dấu hiệu "hắn tự chống lại mình”, "tự chia rẽ”, như thế đâu thể đứng vững; quả hắn đã đến ngày tàn”.
- Dụ ngôn thứ hai về "người mạnh" khi xua tuổi ma quỉ, Đức Giêsu chứng tỏ Người mạnh hơn Satan, có thể "trói gô” hắn lại. Đối với các Luật sĩ những kẻ hiểm ác đến độ qui về Satan cả những hoạt động của Thánh Linh, Đức Gtêsu tràn đầy Thánh Thần Thiên Chúa đã cho họ biết rằng Người đến truất phế Satan khỏi vương quốc của hắn và Người sẽ trị vì thay hắn.
2… đến căn nhà qui tụ các anh em Đức Giêsu
Thân nhân của Đức Giêsu tới để "bắt Người”. Họ, những kẻ "đòi hỏi Người” hiện nay đang "ở ngoài" theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng; ở bên ngoài căn nhà, họ đụng phải dòng người vây quanh Thầy để lắng nghe.
Đức Giêsu đảo mắt nhìn những người tự tập quanh Người (theo Máccô, cái nhìn chăm chú ấy luôn mang một ý nghĩa quan trọng) và đưa ra một lời tuyên bố long trọng: gia đình thực sự của Người không phải là gia đình theo xác thịt, nhưng là những người lắng nghe lời Người và thực hành thánh ý Thiên Chúa: "Ai thi hành thánh ý Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta”.
J. Hervieux giải thích: "Đối với Máccô, đó là một cách diễn tả Giáo Hội vừa rõ ràng vừa đơn sơ cho các Kitô hữu thời ấy. Cơn bách hại của người rôm đã đẩy bao gia đình vào thảm cảnh chia lìa đớn đau. Những người trở lại đảo luôn bị bắt buộc phải lựa chọn hoặc dây liên hệ gia đình, hoặc gắn bó với cộng đoàn Kitô hữu. Tác giả Tin Mừng chỉ cho họ thấy rõ chính Đức Giêsu cũng đã bị bắt buộc phải cắt đứt hoàn toàn mối dây liên hệ với thân nhân" ("Tin Mừng Marco", Centurion, trang 63).
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. Một gia đình khác, mạnh hơn gia đình thuộc huyết tộc, đang thành hình
(G. Bessière: trong "Thiên Chúa rất gần. Năm B", DDB, trang 107-108).
Dư luận xì xầm. Làng xóm bàn tán. Gia đình mở cuộc họp. Đó là mối nhục của gia tộc. Và ta không thể gả chồng cho các cô gái nữa. Chỉ cần thốt ra tên một người, tức khắc mọi người sẽ tránh xa. Hội đồng gia tộc đã quyết định: "Người ta bảo ông ta khùng rồi"trong khi đám đông vây xúm xít quanh Đức Giêsu, "gia đình Người tới để bắt người, vì họ cho rằng: Người đã “mất trí”. Những ông cậu, những ông anh bà con lực lưỡng cũng biết rằng một uỷ ban luật pháp - các luật sĩ - đã được phái tới từ Giêrusalem để điều tra. Kết luận của họ nguy hiểm cho Người và cho danh giá của cả gia tộc: "Người bị tướng quỷ Bê-en-dê-bun ám; Chính nhờ uy quyền của tướng quỷ người mới trừ được lũ quỷ con”. Tốt hơn nên nói rằng: Người đã "mất trí” .
Người đã làm gì để đến nỗi bị coi là điên khùng hay một người ủng hộ Satan? Người loan báo rằng Thiên Chúa đã đến gần, giải thoát những người bị quỷ ám, chữa lành các bệnh nhân, gần gũi những người cùi, thậm chí còn dám đựng chạm để chữa lành họ, Người còn đi đến mức tha thứ cho người tội lỗi, ăn uống tại nhà những người tội lỗi công khai. Người tự do trong việc giữ luật ngày Sabát. Người có lập trường riêng chẳng hề dựa trên truyền thống. Người nói phải chứa rượu mới trong bầu da mới! Tóm lại là đảo lộn tất cả, và còn tự xưng là... Thiên Chúa!.
Chẳng có cách nào băng qua những vòng người ngồi chung quanh để tóm lấy người. Gia đình người đành ở lại bên ngoài và cho đòi Người. người ta nhắn vào: "Mẹ Thầy và anh em Thầy ở ngoài kia tìm Thầy”. Nhưng người trả lời: "Ai là mẹ Ta? ai là anh em Ta? Rồi đưa mắt nhìn mọi người đang ngồi thành vòng tròn chung quanh, Người bảo: "Đây là mẹ Ta và anh em Ta. Ai thực hành thánh ý Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em, và mẹ Ta”.
Ở một thời buổi và giữa một dân tộc coi gia đình là thánh thiêng, Đức Giêsu đã có một thái độ thoát ly tán bạo. Một gia đình khác chào đời, mạnh hơn gia đình theo huyết tộc, mở rộng đón nhận cả nhân loại, gia đình của Cha Đấng ngự trên trời. Ai đo lường được mức độ mới mẻ gây tranh cãi mà đứa con lạc loài của Nadarét mang lại?
2. Cuộc hành hương đức tin của Maria
(G.Garde trong "Các cộng đoàn của Chúa" số 41 , trang 51).
Máccô buộc ta phải hiểu đức tin của Đức Maria là một đức tin lớn mạnh tiệm tiến. Chẳng phải ngay lúc nhập thể, Đức Maria đã hiểu biết con trai mình là Thiên Chúa. Luca không nói khác, vì theo ông, Mẹ không hiểu câu trả lời của Đức Giêsu ở Đền Thờ năm Người lên 12 tuổi (Lc 2,50). Cũng vậy, hôm nay Mẹ tin rằng phải dùng quyền làm mẹ, để đưa Đức Giêsu trở lại cuộc sống đơn sơ ở Nazareth, nhất là khi giáo quyền của đạo Do Thái xem ra chống lại con Mẹ. Dần dà, nhờ "lắng nghe Lời Chúa" và nhờ thực hành thánh ý mà Đức Maria đã lớn lên trong đức tin, một đức tin càng ngày càng sáng tỏ. Quyền làm mẹ đã tìm thấy một chiều kích mới, để trở nên Mẹ Giáo Hội.
Thỉnh thoảng có người đưa ra một nhận định mà chúng ta không thể giải thích gì khác hơn là bảo đó TN10-B16
Thỉnh thoảng có người đưa ra một nhận định mà chúng ta không thể giải thích gì khác hơn là bảo đó là sản phẩm của một kinh nghiệm cay đắng. Khi kể ra những gì một người phải gặp nếu muốn theo Ngài, Chúa Giêsu đã nói “Người ta sẽ có kẻ thù nghịch là người nhà của mình” (mt 10,36). Chính người nhà Chúa Giêsu đã kết luận Ngài bị mất trí, và đã đến lúc họ phải bắt Ngài đưa về nhà. Chúng ta hãy thử xem điều gì khiến họ cảm thấy như vậy.
1/ Chúa Giêsu đã bỏ nhà ra đi, bỏ luôn nghề thợ mộc Ngài đã từng làm ở Nazaret. Chắc nghề ấy vốn phát đạt, ít nhất cũng giúp Ngài sinh nhai được. Thình lình, Ngài bỏ hết và ra đi làm một nhà truyền giáo, lang thang đó đây. Chắc họ nghĩ rằng chẳng ai tỉnh trí mà lại chịu bỏ việc làm ăn lợi lộc để trở thành một kẻ lang thang không chỗ gối đầu như vậy.
2/ Chúa Giêsu đang tiến tới chỗ phải đụng đầu với các lãnh tụ chính thống giáo thời đó. Ở đời, có nhiều kẻ có thể gây thiệt hại lớn lao cho người khác, có kẻ mà tay chân bộ hạ của họ cũng đáng cho người ta phải coi chừng, có kẻ mà chống lại họ là vô cùng nguy hiểm. Người nhà của Chúa Giêsu đã nghĩ, một người tỉnh trí sẽ chẳng bao giờ dám chống lại những kẻ quyền thế, vì phải biết rằng đụng chạm với chúng chỉ rước họa vào thân. Chưa hề có ai gây chuyện với các Kinh sư và Pharisêu, với các thủ lãnh tôn giáo mà hy vọng có thể thoát khỏi tay họ.
3/ Chúa Giêsu triệu tập một nhóm người bé nhỏ cho riêng Ngài, một nhóm người khá kỳ dị. Có mấy người là ngư dân, một người thâu thuế bỏ việc, một nhà ái quốc cuồng tín. Họ là hạng người mà không ai có chút tham vọng muốn đặc biệt quen biết. Họ là hạng người chẳng ích lợi gì cho ai muốn làm nên sự nghiệp. Chắc họ nghĩ chẳng ai tỉnh trí mà đi kết bạn với những kẻ như thế. Dứt khoát họ không phải là hạng người mà một người thận trọng chịu hòa mình chung sống.
Bằng các việc làm của Ngài, Chúa Giêsu đã vạch rõ ràng cả ba nguyên tắc mà loài người có khuynh hướng áp dụng để tổ chức đời sống mình, đều chẳng có ý nghĩa đối với Ngài.
1/ Ngài đã vứt đi nếp sống đảm bảo. Điều mà phần đông người thế gian cần có là một đời sống bình yên, ổn định. Họ ao ước được một việc làm, một địa vị an toàn, ổn định, ít gây xáo trộn về vật chất và tài chánh.
2/ Ngài đã vứt bỏ sự an toàn. Phần đông người ta có khuynh hướng muốn được sống an toàn, họ lo được an thân hơn lo cho phẩm cách đạo đức, cho việc làm phải hay quấy. Làm một việc có nguy cơ gây nguy hiểm cho bản thân là điều do bản năng người ta luôn luôn né tránh.
3/ Ngài hoàn toàn thờ ơ đối với lời phê phán, khen chê của xã hội. Ngài đã chứng tỏ là chẳng bận tâm gì đến những gì người ta nói về Ngài. Thật vậy, H.G. Wells đã nói: “Với nhiều người, tiếng nói của người láng giềng nghe to hơn cả tiếng Thiên Chúa. Người ta sẽ nói gì? Là một trong những câu hỏi đầu tiên mà chúng ta vẫn thường có thói quen đặt ra”.
Điều khiến cho người nhà và bạn bè của Chúa Giêsu lo sợ là những nguy cơ Ngài đã liều lĩnh chuốc lấy cho mình, mà theo ý họ, chẳng có người tỉnh trí nào làm vậy cả.
Lúc John Bunyan bị bỏ tù, ông đã rất lo sợ. Ông nghĩ “Kết thúc của việc tôi bị bỏ tù có thể là giá treo cổ, đó là điều tôi có thể nói”. Ông không thích ý nghĩ mình sẽ phải bị treo cổ, rồi một ngày kia, ông cảm thấy xấu hổ vì đã nghĩ như vậy “Hình như tôi xấu hổ vì phải chết với gương mặt tái xanh và hai đầu gối run rẩy chỉ vì một lý do như vậy”. Nhưng cuối cùng, ông đã đến được câu kết luận “khi tưởng tượng mình đang leo thang để lên giá treo cổ, lúc đó tôi nghĩ: tôi phải tiến bước và đánh liều phần số đời đời của tôi với Chúa Cứu Thế, cho dù ở đây tôi có được thoải mái hay không. Tôi nghĩ, nếu không có Chúa can thiệp, tôi cũng cứ nhắm mắt nhảy từ chiếc thang ấy vào cõi đời đời, dù có thể bơi lội hay chìm lỉm, dù thiên đàng hay hỏa ngục; Lạy Chúa Giêsu nếu Ngài có thể hứng bắt lấy con, xin hãy làm công việc của Ngài, bằng không, con cũng vì danh Ngài mà liều mạng sống vậy”. Đó cũng chính là điều mà Chúa Giêsu đã sẵn sàng làm, tôi sẽ vì danh Ngài mà liều mạng, chứ không phải muốn được sống yên thân, an toàn, phải là khẩu hiệu của mỗi Kitô hữu và là nguồn mạch cho sinh hoạt Kitô hữu.
II. Liên minh hay chinh phục: 3,22-27
Các chức sắc chính thống giáo chẳng còn chút gì để nghi ngờ quyền phép đuổi quỷ của Chúa Giêsu. Họ không cần nghi ngờ vì bên Phương Đông từ thời ấy mãi cho đến ngày nay, đuổi quỷ vốn là một hiện tượng thông thường. Điều họ nói là, sở dĩ Chúa Giêsu có quyền đuổi quỷ vì Ngài liên minh với chúa quỷ, nghĩa là “Ngài cậy con quỷ lớn để đuổi lũ quỷ nhỏ”. Người ta vẫn luôn luôn tin vào phù phép và đó chính là điều họ nói về Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu chẳng phải khó khăn gì để đả phá luận cứ đó. Việc đuổi quỷ luôn luôn là kêu gọi một thế lực mạnh hơn, giúp đuổi một con quỷ yếu hơn. Vì thế Chúa Giêsu bảo “Cứ nghĩ mà xem, nếu một nước mà nội bộ chia rẽ thì nước ấy không thể tồn tại, trong một nhà mà có cãi lẫy, tranh chấp, thì nhà ấy cũng sẽ không còn”. Nếu thật quỷ Satan đang đánh nhau với các quỷ sứ nó thì nó sẽ không còn là một thế lực có ảnh hưởng nữa, vì nội chiến đã bùng nổ trong nước của nó rồi! Chúa Giêsu phán “Hay nói cách khác, giả sử các bạn muốn đánh cướp nhà một người rất khỏe, các bạn chẳng có hy vọng gì làm được việc đó nếu chưa tóm được người rất khỏe đó. Sau khi trói được người ấy, mới có thể cướp của trong nhà người ấy được”. Việc các quỷ bị thua không chứng tỏ Chúa Giêsu đã liên minh với Satan nhưng là đồn lũy của Satan đã sụp đổ. Một con người mạnh hơn đã đến và cuộc đàn áp Satan đã bắt đầu. Ở đây có hai điều nổi bật.
1/ Chúa Giêsu thừa nhận đời sống là một cuộc chiến đấu, giữa hai thế lực thiện và ác. Chúa Giêsu không phí thì giờ để suy luận về những vấn đề không có lời giải đáp. Ngài không dừng lại để biên luận điều ác ở đâu ra, nhưng Ngài đã đối phó hữu hiệu nhất với nó. Có một điều hết sức kỳ dị là chúng ta thường phí rất nhiều thì giờ tụ tập nhau lại để tranh cãi về nguồn gốc của điều ác, nhưng chúng ta lại dành quá ít thì giờ để tìm những phương pháp thực tiễn nhằm ngăn chặn hoặc đối phó với điều ác. Có người nói “Giả sử có người vừa thức giấc bỗng thấy ngôi nhà mình đang bốc cháy, chắc chắn người ấy sẽ không ngồi vào ghế bành chăm chú đọc một bài thảo luận nhan đề “Nguyên nhân những vụ phát hỏa tại tư gia”. Nhưng người ấy phải lập tức làm tất cả những gì có thể làm được để dập tắt ngọn lửa. Chúa Giêsu đã nhìn thấy cuộc tranh chấp chính yếu giữa điều thiện và điều ác nằm ngay tại trung tâm đời sống và đang làm hại thế gian. Ngài không lý luận về nó Ngài phải đối phó với nó và ban cho những người khác quyền năng để thắng điều ác và làm điều thiện.
2/ Chúa Giêsu cho việc đánh bại bệnh tật là một phần trong cuộc chiến thằng Satan. Đây là một phần quan trọng trong tư tưởng của Chúa Giêsu. Ngài muốn và cứu được thân thể cũng như linh hồn con người.
III. Tội không thể được tha: 3,28-30
Nếu muốn hiểu câu nói khủng khiếp này có nghĩa gì, chúng ta phải thấu triệt hoàn cảnh nó đã được nói ra. Câu ấy do Chúa Giêsu nói khi các Kinh sư và Pharisêu bảo Ngài đã chữa bệnh không phải do quyền năng Thiên Chúa nhưng do quyền phép của ma quỷ. Bọn người này vừa thấy tình yêu của Thiên Chúa, nhưng lại cho đó là quyền năng nhập thể của Satan.
Chúng ta phải bắt đầu bằng cách nhớ rằng Chúa Giêsu đã không nói về Thánh Thần theo ý nghĩa đầy đủ như Kitô hữu ngày nay hiểu. Vì bấy giờ Thánh Thần chưa đến trọn vẹn trên loài người, cho đến khi Chúa Giêsu trở về với sự vinh hiển của Ngài. Chỉ đến ngày Lễ Ngũ Tuần, loài người mới được kinh nghiệm trọn vẹn về Thánh Thần. Có thể lúc ấy, vì đang nói chuyện với người Do Thái nên Chúa Giêsu đã dùng từ Thánh Thần theo ý nghĩa trong Do Thái giáo. Trong tư tưởng Do Thái giáo, Thánh Thần có hai chức vụ quan trọng. Một là Ngài mặc khải chân lý của Thiên Chúa cho loài người, hai là Ngài giúp loài người nhận ra chân lý ấy. Như thế, chúng ta đã có được chiếc chìa khóa cho đoạn sách này.
1/ Thánh Thần giúp loài người nhận ra chân lý của Thiên Chúa, khi chân lý ấy đến với đời sống họ. Nhưng nếu người nào không sử dụng năng khiếu Chúa ban thì cuối cùng, người ấy sẽ bị mất nó. Nếu người ta sống quá lâu trong bóng tối thì sẽ mất đi khả năng nhìn thấy. Nếu một người phải nằm liệt giường quá lâu, người ấy sẽ không thể bước đi được nữa. Nếu một người không chịu học hỏi gì cả, thì lần lần sẽ mất đi khả năng học hỏi. Nếu một người khước từ sự hướng dẫn của Thánh Thần nhiều lần, thì cuối cùng người ấy sẽ không còn nhận ra chân lý khi nhìn thấy nó. Bấy giờ, đối với người ấy, điều ác sẽ trở thành thiện, điều thiện sẽ trở thành ác. Người ấy có thể nhìn vào điều thiện của Thiên Chúa mà bảo đó là điều ác của Satan.
2/ Tại sao tội như thế lại không được tha? H.B. Swete nói “Đồng nhất hóa nguồn mạch của điều thiện với hiện thân của điều ác là có lệch lạc về đạo đức mà ngay sự Nhập thể cũng không có thuốc chữa”. A.J. Rawlinson gọi đó là “sự gian ác chính yếu”, dường như ngay trong điều đó chúng ta thấy yếu tính của điều ác. Bengel thì bảo, tất cả các tội khác đều do loài người, nhưng tội đó vốn bắt đầu từ Satan. Tại sao thế?
Hãy xét đến ảnh hưởng mà Chúa Giêsu thực hiện trên một người. Hiệu quả đầu tiên mà Chúa Giêsu tạo ra trên một người là khiến người ấy được tính cách chẳng ra gì của mình so với vẻ đẹp đáng yêu của đời sống Chúa Giêsu. Phêrô đã nói “Lạy Chúa xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). lúc Tokichi Ishiii đọc truyện tích trong sách Phúc Âm đầu tiên, anh ta nói “Tôi dừng lại, dường như có một cây đinh hai tấc đâm thấu vào lòng tôi. Tôi phải nói đó là tình yêu của Chúa Cứu Thế chăng? Tôi phải nói đó là lòng thương xót của Ngài chăng? Tôi không biết gọi đó là gì cả, tôi chỉ biết là tôi đã tin, tấm lòng cứng cỏi của tôi đã được thay đổi”. Phản ứng đầu tiên là người ấy rung động sâu xa như bị đâm thấu tâm can. Và kết quả của việc đó là người ấy ý thức được là mình vốn chẳng ra gì, và kết quả nữa là ăn năn thống hối, thống hối hoán cải là điều kiện duy nhất để được tha tội. Nhưng nếu một người không chịu nghe theo Thánh Thần thúc dục thì người ấy sẽ chẳng thấy nơi Chúa Giêsu điều gì đẹp đẽ đáng yêu cả, sau đó, việc nhìn thấy Chúa Giêsu chẳng khiến người ấy có ý thức về tội, vì không ý thức về tội nên người ấy không thể được tha thứ.
Một trong những câu chuyện kể về Satan là: Ngày nọ, vị linh mục thấy trong cộng đoàn có một chàng thanh niên đẹp trai. Sau giờ thờ phượng, chàng thanh niên ở lại để xưng tội. Anh ta xưng ra nhiều tội mà tội nào cũng hết sức khủng khiếp, khiến vị linh mục phải dởn tóc gáy. Ông hỏi “Chắc con phải sống lâu lắm mới phạm nhiều tội đến thế?”. Chàng thanh niên đáp “Tôi tên là Luxiphe, tôi đã trốn khỏi thiên đàng ngay từ lúc thời gian mới bắt đầu”. Vị linh mục tiếp “Cho dù như vậy chăng nữa, hãy nói là con rất hối hận, nói rằng con ăn năn, con sẽ được tha thứ”. Chàng thanh niên nọ trố mắt nhìn vị linh mục một hồi rồi quay lưng đi ra. Anh không chịu nói và cũng không thể nói như thế, do đó anh phải tiếp tục ra đi vào nơi hoang vu, để lại càng bị lên án, bị nguyền rủa nhiều hơn.
Chỉ có một điều duy nhất để được tha tội đó là biết ăn năn thống hối. Khi con người nhìn thấy vẻ đáng yêu trong Chúa Cứu Thế, người ấy còn ghết tội mình dù rằng chưa thể bỏ được, ngay cả nếu người ấy đang ở trong bùn lầy, anh ta vẫn có thể được tha thứ. Nhưng nếu một người sau khi đã được Chúa hướng dẫn nhiều lần đã đánh mất khả năng nhận ra điều thiện khi nhìn thấy nó, nếu người ấy đã chai lý đến độ chẳng còn nhận ra được các giá trị đạo đức, đến nỗi đối với người ấy thì thiện là ác mà ác là thiện, thì dù có đối diện với chính Chúa Giêsu, người ấy cũng chẳng hề ý thức được về tội, người ấy vẫn không thể ăn năn thống hối, do đó sẽ chẳng bao giờ được tha thứ. Đó là tội phạm đến Thánh Thần.
IV. Điều kiện để trở thành bà con thân thuộc: 3,31-35
Chúa Giêsu quy định các điều kiện để trở thành bà con thân thuộc thật sự. Bà con thân thuộc không phải chỉ là vấn đề cốt nhục. Chúng ta biết có người chẳng có liên hệ huyết thống, lại thân cận với mình hơn cả người bà con có liên hệ huyết thống gần nhất. Vậy mối liên hệ bà con thân thuộc đích thực được căn cứ vào đâu?
1/ Mối liên hệ bà con thân thuộc đích thực là do một kinh nghiệm chung, nhất là một kinh nghiệm cả hai cùng vượt qua được một cảnh ngộ nào đó. Có người ấy bảo hai người ấy thật sự trở nên bạn bè khi họ có thể nói với nhau rằng “Bạn còn nhớ không?” để rồi tiếp tục nhắc lại cho nhau những gì họ đã cùng trải qua. Một người nọ gặp một bà cụ da đen. Một người quen biết của bà cụ này đã qua đời. Ông ta hỏi “Bà X mất rồi chắc bà cụ buồn lắm?”. Bà cụ đáp “Vâng”, nhưng chẳng lộ chút buồn rầu. Ông ta nói “Tôi mới gặp hai bà tuần rồi, cả hai đang cười với nhau, chắc hai bà thân nhau lắm?”. Bà cụ đáp “Vâng, chúng tôi là bạn, chúng tôi vẫn cười đùa với nhau, nhưng muốn thật sự thân nhau, người ta phải cùng khóc với nhau nữa”. Đây quả là một chân lý sâu xa. Nền tảng của mối liên hệ thật sự thân thuộc là có một kinh nghiệm chung. Các Kitô hữu có kinh nghiệm chung: họ đều là tội nhân đã được tha thứ.
2/ Mối liên hệ thân thuộc đích thực là cùng có mối quan tâm chung. A.M. Chigwin kể cho chúng ta một việc hết sức thú vị trong tác phẩm “Kinh Thánh Trong Việc Phúc Âm Hóa Thế Giới”. Một trong những việc khó khăn nhất trong việc phân phối Kinh Thánh, không phải là việc bán Kinh Thánh, nhưng làm sao cho người ta đọc Kinh Thánh. Ông tiếp “Tại Trung Hoa vào những ngày trước khi cộng sản đến, một người phân phối Kinh Thánh đi từ hàng quán này đến hàng quán khác, từ nhà này đến nhà khác. Nhưng ông bị thất vọng vì nhiều độc giả Kinh Thánh của ông mất dần lòng sốt sắng, đến khi ông nghĩ ra một kế hoạch, ông tạo cơ hội cho họ gặp gỡ nhau và tổ chức họ thành một nhóm đạo đức, dần dần được tổ chức đàng hoàng”. Chỉ sau khi các đơn vị riêng lẻ trở thành của một nhóm được ràng buộc vào nhau bởi một mối quan tâm chung, thì mối thông hiệp và liên hệ bà con thân thuộc thật sự hình thành. Mối bận tâm chung đã buộc chặt họ thành bà con thân thuộc. Kitô hữu có mối quan tâm chung, vì tất cả Kitô hữu đều ao ước được hiểu biết nhiều hơn về Chúa Giêsu Kitô.
3/ Mối liên hệ bà con thân thuộc thật sự là việc cùng vâng lời. Các môn đệ của Chúa vốn là một nhóm người hết sức hỗn tạp. Đủ thứ niềm tin và ý kiến trộn lẫn giữa họ. Người thâu thuế như Matthêu và nhà ái quốc Simôn Nhiệt thành chắc phải ghét nhau lắm, và hẳn có lúc hai người đã thù ghét nhau. Nhưng cả hai đã được buộc chặt vào nhau, vì đều nhận Chúa Giêsu làm thầy và Chúa. Bất kỳ một đạo quân nào cũng gồm nhiều con người thuộc nhiều giai tầng xã hội khác nhau, có nếp sống khác nhau, ý kiến khác nhau, nếu được sống chung với nhau trong một thời gian, họ sẽ kết hợp lại thành một đoàn người sống chết có nhau, vì họ cùng tuân lệnh trong quân đội. Người ta dễ trở thành bạn thân với nhau khi cùng có chung một thầy, một chủ. Người ta rất dễ yêu thương nhau khi cùng yêu mến Chúa Giêsu Kitô.
4/ Mối liên hệ bà con thân thuộc thật sự là do môt mục đích chung. Chẳng có gì kết chặt người ta vào nhau tốt hơn là mục tiêu chung. Đây là một bài học quan trọng cho Hội Thánh. Khi nói về mối quan tâm mới mẻ đối với Kinh Thánh, A.m. Chirgwin đã hỏi “Phải chăng vấn đề thống nhất Hội Thánh cần được đặt ra là phải căn cứ trên Kinh Thánh, chứ không phải vào việc xét lại vấn đề Giáo Hội”. Hội Thánh sẽ chẳng bao giờ kéo lại gần nhau khi mọi người còn cãi nhau về việc tấn phong hàng giáo phẩm, về tổ chức quản trị Hội Thánh, về tổ chức các Thánh Lễ và nhiều điều khác đại loại như thế. Điểm duy nhất để mọi người có thể kết hợp với nhau là ai nấy đều tìm cách đưa nhiều người khác đến với Chúa Cứu Thế. Mối liên hệ bà con thân thuộc mà họ cùng nhau đi đến, xuất phát từ một mục tiêu mà hơn ai hết, các Kitô hữu đều nắm giữ, đó là tìm cách để hiểu biết Chúa Cứu Thế hơn và đưa nhiều người vào nước của Ngài. Các vấn đề khác, chúng ta có thể bất đồng, nhưng điều này phải nhất trí.
Trong cuộc sống, không ai là người lại không muốn cho mình được hạnh phúc! Người thì cho rằng: TN10-B17
Trong cuộc sống, không ai là người lại không muốn cho mình được hạnh phúc! Người thì cho rằng: vợ đẹp con khôn là hạnh phúc; người khác lại nghĩ có được nhà lầu xe hơi mới là hạnh phúc; lại có người nghĩ mình phải phấn đấu để được giữ chức nọ việc kia thì sẽ hạnh phúc, nhưng có người lại chỉ hy vọng rất đơn giản là làm sao có cơm ba bữa, quần áo mặc cả ngày cũng là hạnh phúc lắm rồi!
Như vậy, mỗi người đều mong cho mình được hạnh phúc, tuy nhiên quan niệm về hạnh phúc thì lại khác nhau.
Hôm nay, Đức Giêsu cho chúng ta thấy: hạnh phúc của người Tín hữu Kitô chính là việc được đón nhận hồng ân đức tin. Có được đức tin là chúng ta được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Đây là những người hạnh phúc đích thực.
Vì thế, Đức Giêsu rất quan tâm đến mối liên hệ trong đức tin hơn là sự liên hệ tình cảm thuần túy.
Vì thế, khi thấy được những điều kỳ diệu Đức Giêsu làm và những lời giảng dạy tuyệt vời của Ngài, một người đã thốt lên lời khen ngợi, hay nói đúng hơn là lời chúc mừng Đức Maria là người đã sinh ra và nuôi dưỡng Ngài: "Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!". Tuy nhiên, Đức Giêsu lại nói: "Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn".
Khi nói như thế, Ngài không có ý hạ thấp vai trò của Đức Maria, nhưng một cách gián tiếp, Ngài đang đề cao Mẹ Maria hơn bao giờ hết, bởi vì trong số những người lắng nghe lời Thiên Chúa, hẳn Mẹ là người trung thành và trọn vẹn nhất. Vì thế, Đức Giêsu muốn đưa Đức Maria ra làm mẫu gương về việc lắng nghe Lời Chúa.
Lời Chúa hôm nay gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh mỗi người chúng ta, vì: ngày nay, trong cuộc sống có quá nhiều sự bon chen, con người phải chạy đua với chúng như trò chơi đuổi nhau của bọn trẻ. Họ phỏng chiếu hạnh phúc qua lăng kính của tiền, tài, tình, quyền.... Còn đứng trước lời mời gọi của Chúa qua chính Lời Ngài thì hẳn chúng ta không muốn nghe, nói gì đến việc tuân giữ!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người: hãy xin Chúa ban đức tin cho ta, từ đức tin đó, chúng ta cộng tác với ơn Chúa để làm cho đức tin ngày càng lớn mạnh. Dấu hiệu của người có một đức tin trưởng thành là yêu mến và tuân giữ Lời Chúa, suy đi nghĩ lại và đem ra thực hành. Được như thế, chúng ta sẽ là những người hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con được yêu mến và tuân giữ Lời Chúa cách trung thành như Mẹ Maria khi xưa. Amen.
Giữa hai lần can thiệp đầy thù địch của những người bà con với Ngài (3, 20-21 và 31-35) Maccô nói đến TN10-B18
Giữa hai lần can thiệp đầy thù địch của những người bà con với Ngài (3, 20-21 và 31-35) Maccô nói đến cuộc đấu khẩu giữa Chúa Giêsu và đám luật sĩ kẻ thù “ra mặt” của Ngài (c. 22a). Cuộc tấn công này quả là nghiêm trọng. Các thủ lĩnh nhóm biệt phái đến từ Giêrusalem, thành trì giáo quyền của Israel. Lời cáo buộc của họ cũng thật nặng nề. Chúa Giêsu không chỉ là một người bị bà con mình cho là đồ điên (3,21); Ngài còn là tác nhân của ma quỷ! Bêeldêbun là một trong những tên gọi của Satan, tên gọi này được gán cho một thần linh của dân ngoại là “Ông Hoàng Baal”. Chắc chắn các “nhà thông thái” này không phủ nhận sự kiện Chúa Giêsu thực hiện các cuộc trừ quỷ. Trong thế giới Do Thái thời Chúa Giêsu, việc trừ quỷ khá phổ biến và được mọi người chấp nhận (Cv 19,13). Tuy nhiên, các nhà thông thái này lại tố cáo Chúa Giêsu đã hành động như thế dựa trên một năng lực siêu nhiên của chính Satan, chứ không phải phát xuất từ Thiên Chúa (c. 22c).
Nghe lời vu khống này, Chúa Giêsu không thể nào để yên. Đây là lần đầu tiên Ngài sử dụng dụ ngôn như một hình thái văn chương: Ngài dùng cách “so sánh” từ những hình ảnh thường nhật để buộc họ suy nghĩ. Ngài nêu ra hình ảnh thường nhật để buộc họ suy nghĩ. Ngài nêu ra hình ảnh một gia đình chia rẻ lẫn nhau: gia đình này chỉ có nước tàn lụi (c. 24-25). Luận lý của Chúa Giêsu rất vững vàng: Nếu Satan tự chống lại chính nó thì chắc chắn nó sẽ tự tiêu diệt (c. 26). Từ đó Chúa Giêsu khéo léo đưa ra thêm một dụ ngôn thứ hai rất ngắn gọn (c. 27). Ngài chẳng cần phải dài dòng giải thích câu đố được nêu ra. Chỉ cần Ngài mô tả bằng hình ảnh là người nghe đã xác nhận được, Đấng Mêsia đang cướp bóc ngôi nhà của Satan, gã “lực sĩ”. Muốn chiến thắng “nhân vật” tượng trưng cho Thần Dữ này thì trước tiên Ngài phải cột được hắn lại. Ngược với những đánh giá của đám luật sĩ, nơi Chúa Giêsu, Đấng Mêsia hiện đang tận diệt “vương quốc của Satan”. Hãy nhớ lại tiếng kêu la của lũ quỷ dữ vừa bị Chúa Giêsu, Đấng Mêsia hiện đang tận diệt “vương quốc của Satan”. Hãy nhớ lại tiếng kêu la của lũ quỷ dữ vừa bị Chúa Giêsu trục xuất ra khỏi các nạn nhân của chúng: “Hỡi ông Giêsu Nadaret, ông muốn gì ở chúng tôi? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao?” (1,24). Rõ ràng Chúa Giêsu không phải là người hỗ trợ mà chính là Đấng nắm chủ quyền trên Satan.
Cuộc khẩu chiến kết thúc bằng lời Chúa Giêsu cảnh cáo nghiêm khắc các đối thủ Ngài: mọi tội lỗi của loài người đều có thể được Thiên Chúa thứ tha ngoại trừ một thứ tội. Điều này rất đáng cho chúng ta suy nghĩ (c. 28-29). Lời tuyên bố long trọng và khá mạnh bạo này của Chúa Giêsu khiến cho mọi độc giả thuộc mọi thời đại đều phải suy nghĩ. Người ta đã bình phẩm nhiều về tội “phỉ báng Thánh Thần”, thứ tội không thể nào được tha thứ này. Đúng ra là thứ tội gì? Người ta liệt kê ra những tội mà họ cho là “đáng chết”. Tuy nhiên người ta vẫn không tìm ra những tội nào thực sự được gọi là không thể tha thứ. Muốn hiểu được ý Chúa Giêsu thì không nên tách lời Ngài nói ra khỏi mạch văn, vì chính mạch văn mang lại ý nghĩa cho lới ấy: “Chúa Giêsu nói thế bởi vì bọn họ bảo rằng: “Ông ta đã bị quỷ ô uế ám” (c. 30). Đám luật sĩ đã dám gán cho Satan công việc do cần thiết thực hiện. Maccô rất cẩnt hận chứng tỏ rằng ngay từ lúc khở đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã được Thánh Thần Thiên Chúa tấn phong. Chính Giêsu chịu phép rửa và giúp Ngài hành động để giải phóng loài người khỏi sự dữ (1,9-12). Cho rằng lúc trừ quỷ Chúa Giêsu dựa vào năng của ma quỷ tức là cố ý khép kín tâm hồn không thèm đón nhận ơn tha thứ mà Chúa ban cho tất cả mọi Người. Chỉ riêng tội nghịch cần thiết này là không thể nào tha thứ được.
Vào lúc Maccô ghi chép lại Tin Mừng này, các Kitô hữu đang phải là bia hứng chịu bao lời cáo sai lạc của đám dân Do Thái thù nghịch, đám người này không chịu nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Mêsia chiến thắng lũ thần Dữ. Dầu sao, mọi người đều phải chọn lựa hoặc theo Chúa Giêsu hoặc theo Satan.
II. Gia đình đích thực của Chúa Giêsu (3,31-35)
Cảnh này là đoạn cuối của tiến trình khởi đầu từ 3,20-21. Bà con Chúa Giêsu toan tiến tới giữ lấy Ngài. Lý do là vì Ngài bị đám đông tràn ngập: “Ông ấy mất trí rồi!” (c. 21b). Quả là cuộc xung đột không kết quả. Giờ đây lại một cuộc xung đột nữa (c. 31). Cũng vẫn như lần trước, Chúa Giêsu đang giảng dạy (c. 32a). Người ta loan báo cho Chúa Giệsu mẹ và anh em Ngài đột xuất ghé thăm (c. 32b). Maccô nhấn mạnh tới hai lần: thân quyến Chúa Giêsu chờ “Ở ngoài”. Điều này đối ngược với vòng người đang vây quanh nghe Chúa giảng. Nếu ra khỏi nhà để gặphọ là đồng nghĩa với sự tách lìa sứ vụ. Chắc chắn đó là lý do tại sao Chúa Giêsu thốt ra câu nói cứng cỏi như thế với mẹ ruột Ngài (c. 33). Điều này hẳn làm chúng ta ngạc nhiê. Tuy vậy Maccô thường hẳn chú tâm đến cái rắc rối về mặt tâm lý. Người ta cũng thắc mắc các “anh em” của Chúa Giêsu là ai, bởi vì theo truyền thống thì Ngài là người con trai độc nhất. Thực ra trong bối cảnh vùng Sêmit, từ ngữ “anh em” còn dùng để chỉ bà con gần. Điều mà Maccô nhấn mạnh ở đây chính là Chúa Giêsu không hề đặt nặng quan hệ về huyết thống. Trọng điểm của trình thuật sẽ xác nhận rõ điều này. Ngài đảo mắt nhìn tất cả những kẻ đang vây quanh (c. 34a). Đối với Maccô, cái nhìn chăm chú này luôn báo hiệu một thời khắc quan trọng sắp diễn ra (x. 3.5; 10,23; 11,11). Quả thế, Chúa Giêsu sắp đưa ra một tuyên bố hệ trọng (c. 34b). Ngài không định vị gia đình đích thực của Ngài trong tương giao huyết nhục mà theo tiêu chuẩn kẻ nào biết nghe theo lời Ngài. Ngài thẳng thắn xác định điều đó: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người đó là anh chị em tôi là mẹ tôi” (c. 35).
Đây là một cách thức vừa rõ ràng vừa đơn giản mà Maccô muốn trình bày cho các Kitô hữu đương thời về Giáo Hội. Cuộc bách hại của người La Mã đã đẩy nhiều gia đình đến những cuộc phân ly đâu đớn. Những kẻ trở lại đạo thường bị bó buộc phải chọn lựa hoặc là thân quyến hoặc là cộng đoàn Kitô hữu. Maccô chứng tỏ cho họ thấy ngay chính Chúa Giêsu cũng từng bị bó buộc phải đoạn tuyệt trọn vẹn với thân quyến Ngài: Vì thế các Kitô hữu cũng không thể đòi cho mình được đặc quyền hơn Ngài. Như thế trên con đường rao giảng của Chúa Giêsu, Maccô đưa ra hai loại tương giao giữa Chúa Giêsu và những kẻ đương thời của Ngài: một số từ khước và một số đón nhận Ngài.
Trước hết là những kẻ đối nghịch với Chúa Giêsu, trong số này đám biệt phái và luật sĩ là những người cay cú nhất. Họ căm ghét Ngài đến mức dám phỉ báng cả Chúa Thánh Linh khi rêu rao rằng Chúa Giêsu bị quỷ ám (c. 30). Tuy nhiên đám bà con Chúa Giêsu cũng phạm phải tội lỗi giống họ khi tuyên bố rằng Chúa Giêsu bị mất trí rồi (c. 21). Người ta tự hỏi Maccô có ý gì khi lồng sự can thiệp dữ dằn của bà con thân thuộc Chúa Giêsu (c. 20-21 và 31-35) vào trước và sau cuộc tranh luận của Chúa về Bêeldêbun (c. 22-30)? Hai cuộc can thiệp của bà con Ngài tuy khác nhau nhưng dầu sao cũng có nhiều điểm trùng hợp, đó là họ tỏ ra thù nghịch với sứ vụ của Chúa Giêu. Đối với Maccô, thân tộc Chúa Giêsu đã hành động như một “gia đình tự phân rẽ” mà Ngài từng nói đến trong cuộc xung đột với đám luật sĩ (3,25). Như thế sự ráp nối hai đoạn văn này lại sẽ cho chúng ta nhiều ý nghĩa.
Đối ngược với loại người trên là các môn đệ của Chúa Giêsu. Trước hết là nhóm Mười Hai (3, 13-19), và rộng hơn là đám quần chúng sẵn sàng đón nhận Tin Mừng từ miệng Ngài rao giảng. Vào lúc đầu đám đông chỉ “tụ lại” quanh Chúa Giêsu và theo Ngài về nhà (c. 21). Còn vào lúc cuối thì xem ra họ “nghiêm chỉnh” hơn bởi vì đã biết “ngồi quanh” nghe Ngài giảng (c. 32a và 34a). Đối đầu với những kẻ “bên ngoài’, cộng đoàn các môn đệ ngày càng gia tăng. Và Chúa Giêsu cho biết kẻ thuộc về Ngài chính là kẻ thực hành ý muốn của Thiên Chúa. Về sau, khi cùng tham dự vào Lễ Hiện Xuống, các Kitô hữu sẽ thực sự được gọi là “anh chị em” của Chúa Giêsu, bởi vì họ đã thiết lập nên một dòng dõi thiêng liêng, tức gia đình đích thực của Chúa Giêsu trong cộng đoàn có tên là “Giáo Hội” (x. Plm 1-2).
Đức Giêsu trở về nhà. Dân chúng lại kéo đến đông đảo, thành thử Người và các môn đệ không sao mà ăn uống được.
Lúc khởi đầu rao giảng Đức Giêsu đã thành công. “Đám đông" thường tuôn đến quanh Người để nghe TN10-B19
Lúc khởi đầu rao giảng Đức Giêsu đã thành công. “Đám đông" thường tuôn đến quanh Người để nghe giảng. Thánh Mác-cô viết lại lời giảng của Thánh Phêrô, ghi nhận rằng một hôm dân chúng đông đến nỗi không còn chỗ nào cho người trong nhà dùng bữa. Nhà đó chắc hơn là nhà của ông Simôn Phêrô, tại Ca-phác-na-um, mà Chúa Giêsu coi như nhà của mình (Mc 1,29 - 2,1 - 3,20 - 9,28 - 9,33 - 10,10).
Trong số phế tích còn lại hiện nay của thành Ca-phác-na-um, những nhà khảo cổ đã tìm được nền của một căn nhà giản dị của những người đánh cá từ thế kỷ thứ nhất trước Đức Giêsu, trên nền đó có thiết dựng một cung cách Kitô giáo rất cổ xưa. Những hình vẽ đạo đức trên tường được khắc nổi trên thạch cao giúp ta nhận ra căn nhà đó là nơi Đức Giêsu thường cư ngụ. Từ ngày Chúa nhập thể, nhà cửa của chúng ta có một phẩm giá mới. Chúng ta tưởng tượng Đức Giêsu đang ở trong một căn nhà như vậy, nhà một thủy thủ nghèo ở bến cảng, giữa những căn nhà khác trong làng, nằm trong những ngõ hẻm chằng chịt.
Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ bảo: "ông ấy mất trí rồi".
Đó là những gì người ta đã nói về Người, trong thân nhân của Người: ' Đó là một kẻ cuồng nhiệt. Người đã điên rồi... Người đã mất trí rồi..." rõ ràng trong ít thời gian gần đây cuộc sống của Người khác hẳn với nếp sống bình dị của Người suốt 30 năm tại Na-za-rét! Thân nhân của Đức Giêsu chắc hẳn đã biết rằng, Người bị giáo quyền lúc bấy giờ “coi thường". Người sẽ làm chúng ta bị lôi thôi. Vì thế họ đến để đem Người trở về cuộc sống bình thường. Chúng ta có sẵn sàng chấp nhận những ơn gọi hơi "điên rồ" mạo hiểm thiếu hợp lý, theo sự thận trọng của con người không? Chúng ta có bao giờ theo Đức Giêsu mà có vẻ như một người hơi "điên khùng?" Vì chúng ta không theo những tiêu chuẩn thông thường của thế gian trong công việc, trong vấn đề lương tâm, trong cung cách đối xử với cá nhân hay tập thể?
Còn các kinh sư từ Giêrusalem xuống thì lại nói: "ông ấy bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám" và rằng: "Ông ấy dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ".
Một dư luận thu hai nặng hơn, đang xì xầm quanh Đức Giêsu. Chẳng những Người đã "điên" mà lại còn "bị quỷ ám". Đó là những lời nói bóng gió đầy nham hiểm, không ai phủ nhận được tính xác thực tủa các phép lạ Người làm. Nhưng Người có quyền lực đó là nhờ Satan, mà người Do Thái thời bấy giờ gọi bằng một tên khinh miệt là "Đồ Baal-phân-nhơ" (bée!-zéboul). Chính những "kinh sư và những "học giả” đã tung ra sự nghị ngờ này.
Người liền gọi dân chúng đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: "Satan làm sao trừ Satan được? Nước nào chia rẽ nước ấy sẽ mất, nhà nào chia rẽ, nhà ấy sẽ tan. Vậy Satan mà chống Satan, Satan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng hẳn đã đến ngày tận số. Không ai vào nhà một người mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã rồi mới cướp sau”.
Đây là dụ ngôn đầu tiên và ngắn gọn mà Thánh Mác-cô đã thuật lại: Hình ảnh của một cuộc chiến xáp lá cà nhanh chóng và quyết liệt. Đức Giêsu đã minh chứng Người "mạnh hơn" Satan. Ngày nay điều đó vẫn luôn đúng thực. Cuộc chiến vẫn tiếp diễn và Đức Giêsu đang ở cùng chúng ta trong cuộc chiến chống lại sự dữ. Chúng ta lạc quan hay bi quan, khi phải đương đầu với những thế lực xấu ác đang ào ạt diễn ra trên thế giới.
Tôi bảo thật anh em: Mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha, "nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng bao giờ được tha, mà còn mắc tội muôn đời". Người nói thế, vì họ đã bảo: "ông ấy bị quỷ ám".
Vấn đề đặt ra không phải là bản chất của tội lỗi, cũng không phải là giới hạn của lòng thương xót Thiên Chúa, khiến cho tội đó không thể tha thứ, nhưng chỉ là thái độ cố chấp trong tội ác. Phải lặp lại điều này với Đức Giêsu. Người không lên án ai cả. Người thứ tha mọi tội lỗi cho tất cả mọi người. Nhưng có những người nhất định. Khép kín lòng mình không đón nhận sự tha thứ này: Đó là "nói phạm đến Thánh Thần" Người tha thứ cũng uổng công: Vì một số người khước từ thứ tha tội. Có lẽ đó là hỏa ngục rồi.. Không ai trong số những người tự lên án hỏa ngục cho mình lại muốn ra khỏi đó cả. Nếu không người đó sẽ được cứu rỗi ngay, vì Chúa "tha mọi tội lỗi kể cả tội nói phạm thượng".
Sự khước từ ngoan cố triệt để này có thường xảy ra không? Không ai có thể xét đoán người anh em mình theo bề ngoài, nhưng mỗi người hãy tự xét trường hợp của chính mình: Vào lúc này; ngày này tôi đang hiện hữu, câu hỏi tôi phải đặt ra không phải là "tôi có tội hay không?" bởi vì mọi người đều là tội nhân (Rm 3,23) nhưng câu hỏi duy nhất là tôi có đón nhận sự tha tội của Chúa không? Tôi có nói phạm thượng đến Thánh Thần không? Tôi có coi thường tình yêu của Chúa luôn giải án tuyên công cách vô điều kiện cho mọi người tội lỗi không? (Rm 3,24).
Lạy Đức Giêsu, xin thương xót con là kẻ có tội "Christe eleison".
Đó là lời cầu xin Chúa Giêsu nổi tiếng mà tín hữu phương Đông thường lặp đi lặp lại không biết mỏi mệt.
Lúc bấy giờ, mẹ và anh em Đức Giêsu đến.
Máccô đã lồng hai đoạn: "Thái độ khước từ của kinh sư” và "cuộc đi tìm kiếm của thân nhân Đức Giêsu”. Đó là cách hành văn Máccô quen làm để mời gọi chúng ta tìm ra mối liên kết giữa hai tình huống. Đức Giêsu bị ngược đãi bị chối từ ngay trong những thân nhân của Người. Từ "anh em" trong tiếng Hêbơrơ vừa có nghĩa là anh em ruột hay anh em bà con. Những anh em này đã lôi kéo bà cô, bà dì của mình là Mẹ Đức Giêsu để đem Người về. Chúng ta hãy ghi nhận thái độ mạnh dạn về Đức Maria? Và để thực hiện chuyện đó, quả thật Tin Mừng không hề tìm cách tô đẹp câu chuyện. Đó là những chuyện người ta không thể bịa đặt ra được. Mẹ và anh em Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài, cho mời Người ra. Đám đông dân chúng đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy".
Ta hãy tưởng tượng ra quang cảnh trên: Dân chúng đang ngồi dưới đất thành một vòng chung quanh một người đang nói. Trong Tân Ước đó là thế ngồi quen thuộc của những "môn đệ" khi lắng nghe “Thầy" (Lc 10,39; Cv 22,3).
Đối lại với những người đang ở "trong nhà", hai lần Thánh Máccô ghi rằng, thân nhân của Đức Giêsu "ở ngoài". Kiểu nói "những kẻ ở ngoài" vẫn thông dụng trong Giáo Hội những thế kỷ đầu, để ám chỉ "những người không phải là Kitô hữu (Tx 4,12; 1 Cr 5,12-13; Cl 4,5; Tm 3,7). Thánh Máccô sẽ dùng lại cách nói này để phân loại người thành hai loại, tùy theo họ tin tưởng lắng nghe Đức Giêsu hay họ còn "ở bên ngoài". "Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa được tỏ ra cho anh em, còn với người ngoài tất cả đều là bí hiểm, không thể hiểu nổi (Mc 4, 11).
Cảnh này, trong đó Đức Maria và những anh em họ của Đức Giêsu đến để cố ngăn cản sứ vụ của Đức Giêsu phải làm cho chúng ta suy niệm lâu về bản chất của đức tin. Đức tin của Mẹ Maria, không hơn gì đức tin của chúng ta, không phải là cái gì "được làm sắn" một lần là thay cho tất cả Đức tin chỉ được định nghĩa như một thực tại tiến triển dần dần. Không phải ngay từ lúc đầu được truyền tin mà Đức Maria đã hiểu ngay con trai của mình là ai, dù Ngài đã được soi sáng đặc biệt.
Thánh Luca cũng ghi nhận trong một vài dịp Đức Maria đã không hiểu được Đức Giêsu (Lc 2,50).
Nhưng Người đáp lại: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?" Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh chị em tôi là mẹ tôi”.
Máccô thường ghi lại những cách nhìn như thế của Đức Giêsu (Mc 3,5 - 5,32 - 10,21 - 11,1 1 - 12,41). Một trong những cách cầu nguyện đơn giản nhất mà chúng ta có thể thực hiện là nghĩ rằng: Ngay trong lúc này Đức Giêsu đang nhìn là "Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi". Thánh ý của Chúa Cha lúc nào cũng ám ảnh Đức Giêsu.
Đức Giêsu luôn say mê và là Người yêu của Thiên Chúa. Người nói, những ai yêu Thiên Chúa đều là thân nhân của Người, thực sự thuộc về gia đình duy nhất của Người. Với tư cách đó, Đức Maria làm mẹ Đức Giêsu tới hai lần. Sự cao cả đích thực của Người là "làm theo ý Chúa". "Ngồi theo vòng tròn chung quanh Đưc Giêsu... dưới cái nhìn của Đức Giêsu, chúng ta có thể nói, đó là cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên.
Mỗi Thánh lễ cho phép chúng ta sống lại cảnh này. Giáo lý cốt yếu đối với mọi người thuộc mọi lứa tuổi là Phụng vụ Lời Chúa". Lạy Chúa xin cho chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa, để được vào trong gia đình của Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu bị những thân nhân hiểu lầm và những Ký lục TN10-B20
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu bị những thân nhân hiểu lầm và những Ký lục vu cáo để nói lên việc Chúa Giêsu luôn luôn gặp những trở ngại trên đường truyền giáo.
II. SUY NIỆM:
1/ "Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà":
+ " Nhà" ở đây có lẽ là nhà của Phêrô vì khi giảng đạo ở Capharnaum Chúa Giêsu thường lui tới nhà của Phêrô (Mc 1, 29; 2,1) Nhà ở đây cũng có thể hiểu là hình ảnh của Giáo Hội: nơi phát xuất việc rao giảng Tin Mừng.
+ "Dân chúng đông đảo lại đổ xô tới":
Với nhóm môn đệ tiên khởi (Phêrô, Anrê, Giacôbê...) không đủ để đáp ứng với làn sóng tăng dần của các bệnh nhân và thính giả đổ xô tới, Chúa Giêsu bèn quyết định mở rộng nhóm này bằng cách chọn nhóm 12 môn đệ, để giúp việc và còn ban cho họ ít quyền, đặc biệt là quyền trừ quỷ (Mc 3, 13-16). Dầu vậy, ngay khi trở về nhà, thì suốt ngày cũng chẳng đủ để tiếp nhận số đông khách đổ xô tới, khiến họ không có giờ ăn nữa (Mc 3, 20).
2/ "Những thân nhân của Người hay tin đó":
Những bà con thân thuộc được tin Chúa Giêsu làm việc quá sức mình: quên ăn, quên nghỉ, đàng khác gây nên bao nhiêu thù địch, nên muốn bắt Người đưa về nơi quê hương yên ổn hơn để giữ sức khoẻ cho Người, nhất là để tránh những sự bất chắc do những thù địch gây ra làm liên lụy đến bà con họ hàng, vì họ nói " Ngài mất trí rồi ": ở đây có nghĩa là hăng say thái quá, hăng say đến độ thực hiện được nhiều chuyện lạ lùng. Thái độ trên đây của thân nhân cho ta thấy họ chưa có nhận thức đúng đắn về sứ mệnh Cứu thế của Chúa Giêsu, vì thế họ hiểu lầm về công việc của Người làm.
3/ "Và những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng Ông ấy bị quỷ Belzebut ám":
Vì thấy Chúa Giêsu đã trừ quỷ cho nhiều người khiến dân chúng khâm phục và đổ sô đến với Người, mấy luật sĩ từ Giêrusalem tới tỏ lòng ganh tỵ đến thù oán, nên đã phao tin là Chúa Giêsu bị quỷ Belzabut ám và dựa vào quỷ cả mà trừ quỷ nhỏ.
4/ "Khi đã gọi họ lại Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng":
Chúa Giêsu đã phải tụ tập dân chúng lại để sửa sai luận điệu vu khống trắng trợn của các Biệt phái bằng hai dụ ngôn đơn sơ sau đây:
a/ Satan lại trừ Satan sao được?...
Nước nào, nhà nào chia rẽ sẽ bị tiêu tan: nên Satan không dại gì đánh lộn nhau như vậy để rồi bị diệt vong.
b/ Chẳng ai có thể vào nhà một người khỏe mạnh:
Chúa Giêsu mô tả một vụ cướp. Kẻ cướp được tượng trưng sức mạnh của Chúa Giêsu và người mạnh ở đây là ma qủy. Trọng tâm của dụ ngôn là ý tưởng về sức mạnh. Chính Chúa Giêsu mô tả một cuộc tấn công: kẻ cướp không hành động cách bất ngờ nhưng bằng sức mạnh. Gặp gia chủ khỏe mạnh như thế mà kẻ cướp đã nhẩy bổ vào ông ta và trói ông ta lại, rồi mới cướp của cải trong nhà.
Dụ ngôn này có ý diễn tả Chúa Giêsu đến để tiêu diệt quyền lực của ma qủy, để giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Và như vậy, vương quốc của Thiên Chúa sắp thay thế vương quốc quỷ. Tuy nhiên sự thay thế này không thể thực hiện được nếu không có trận chiến ghê gớm giữa quyền lực của Chúa Giêsu và quyền lực của ma quỷ. Trận chiến này là cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh gía, chiến thắng tội lỗi.
5/ "Ta bảo các ông hay: mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng":
Đây là những tội do sự yếu đuối hay do sự vô ý thức, dù lớn đến đâu cũng được tha khi có lòng thống hối.
"Những kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần":
Đây là những tội có ý thức, từ chối chính Thiên Chúa. Ở đây có ý nói đến các luật sĩ là những người cố chấp, quyết chí từ chối, quyết chí chống đối, và quyết chí đóng kín cửa lòng trước những giáo huấn của Chúa Giêsu, vì họ gắn cho ma quỷ việc mà họ biết rõ là của Chúa Thánh Linh. Ở đây có ý nói những kẻ cố chấp ở trong tình trạng từ chối Thiên Chúa thì không thể nào lãnh ơn tha thứ được vì họ phủ nhận chính Đấng có quyền tha thứ.
6/ "Kìa Mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy":
Anh em ở đây không có nghĩa là anh em ruột thịt vì theo tiếng Hy Bá cũng như nhiều ngôn ngữ, chữ "Anh em" vừa chỉ anh em ruột, vừa chỉ anh em họ hàng (18, 13; 14, 14; 24, 48; 29, 12; Lv 10, 4; 9, 6 và trong Tân ước Mt 13, 35; 27, 56; Lc 8, 23).
Gia đình Chúa Giêsu nhận thấy các đối thủ ganh ghét Người. Họ lo sợ cho Người. Họ đến can thiệp để bênh đỡ Người và toan gỡ cho Người khỏi lâm nguy, vì thế chúng ta dễ hiểu ở đây sự có mặt của Mẹ Người.
7/ "Người trả lời: Ai là Mẹ Ta? Ai là anh em Ta?":
Thừa dịp này Chúa Giêsu giới thiệu về gia đình thiêng liêng mà Người muốn thiết lập qua cách đặt câu hỏi: Ai là Mẹ Ta?...
8/ "Rồi đưa mắt nhìn những người vòng quanh...":
Máccô đã nhiều lần ghi nhận các kiểu nhìn của Chúa Giêsu: cái nhìn buồn sầu và giận giữ (Mc 3, 5; 11, 11), cái nhìn thương yêu (Mc 10, 21; Lc 1, 48), cái nhìn chỉ để quan sát (Mc 5, 32; 12, 41) hay để thêm sức nặng cho lời mình thốt ra (Lc 10, 23 - 27). Ở đây rõ ràng là một cái nhìn thương yêu: những kẻ Chúa Giêsu nhìn đều thực là mẹ là anh em, chị em Người. Vì sao? Chúa Giêsu giải thích:
+ Ai làm theo ý Thiên Chúa, người đó là anh chị em và là mẹ Ta (Mc 3, 35). Khi vâng phục Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã tỏ ra mình là Con Thiên Chúa (Mt 4, 3 - 10) cũng với cách thức như vậy, người ta sẽ tỏ ra mình là con Thiên Chúa là anh chị em của Chúa Giêsu, con đầu lòng. Và thực thi thánh ý Thiên Chúa là trước tiên tin vào Chúa Giêsu. Đấng Người đã sai đến, là Đấng Cứu Thế.
Những lời Người phán về việc phải tái sinh bổ túc và cụ thể hoá ý nghĩa này (Ga 3, 3 - 5; 1, 13; Tt 3, 5). Như thế, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta một phương thế để kết hiệp với Người một cách còn sâu xa hơn là mối dây do sự sinh ra bởi huyết nhục.
III. ÁP DỤNG:
A/ Áp dụng theo Tin Mừng:
Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng hôm nay để nhắc nhở chúng ta rằng khi thi hành sứ mệnh Cứu thế Chúa Giêsu đã từng gặp phải sự hiểu lầm của những người thân và sự vu khống, chống đối của những kẻ từ chối Chúa, thì chúng ta người Kitô hữu càng thuộc về Chúa Kitô càng dễ bị bị thế gian hiểu lầm và chống đối, nhưng nếu Chúa Kitô đã chiến thắng quyền lực của ma quỷ do cuộc tử nạn và phục sinh của Người, thì chúng ta càng liên kết với Chúa Giêsu, càng biến những thử thách trong đời sống đạo thành những công phúc cho phần rỗi của mình.
B/ Áp dụng thực hành:
1/ Nhìn vào Chúa Giêsu:
a/ Xem việc Người làm:
Chúa Giêsu được dân chúng đơn sơ đón nhận nhưng lại bị những người thân khép kín hiểu lầm và những Biệt phái cố chấp từ chối. Chúng ta cũng vậy khi sống tinh thần Tin Mừng, thì cũng gặp kẻ ưa người gét, thậm chí cũng có những người thân hiểu lầm và cản trở.
b/ nghe lời Người nói:
Satan loại trừ Satan sao được? Chúa muốn nói với chúng ta: đoàn kết là sống và chia rẽ là chết. Vì thế Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho Giáo Hội được hợp nhất (Ga 17, 6-26).
Kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, nó mắc tội muôn đời: Chúa cảnh cáo chúng ta vì cố chấp sống trong sự phản bội Chúa mà không có lòng thống hối ăn năn.
Đây là mẹ Ta và anh em Ta: chúng ta được diễm phúc sống trong gia đình thiêng liêng của Chúa khi chúng ta tin nhận Chúa Giêsu Ki tô và sống theo việc Người làm và lời Người nói.
2/ Nhìn vào người thân:
Họ thương Chúa Giêsu nhưng thương cách mù quáng vì họ đã khép kín cửa lòng không tin nhận vào sứ mệnh Cứu thế của Chúa, nên họ đã hiểu lầm Chúa. Chúng ta hăng say làm tông đồ Chúa, phục vụ Giáo Hội, nhưng nhiều khi hăng say mù quáng vì phục vụ theo ý mình hơn ý Chúa, hay ý Giáo Hội.
3/ Nhìn vào những luật sĩ:
- Họ ganh tỵ đến thù oán mà vu khống cho Chúa là bị quỷ ám "Không ưa thì dưa có dòi". Ưa ai thì nên tốt. Ghét ai thì nên xấu.
4/ Nhìn vào Mẹ Maria cùng anh em Người:
Chúa giới thiệu gia đình thiêng liêng thì quý hơn gia đình tự nhiên. Cùng nghe và sống Lời Chúa, cùng là anh em với nhau.
c 20: Tình huống đã diễn ra ở Capharnaum (2,1-2) nay lại tái diễn: người ta đến với Đức Giêsu quá đông, TN10-B21
+ c 20: Tình huống đã diễn ra ở Capharnaum (2,1-2) nay lại tái diễn: người ta đến với Đức Giêsu quá đông, đông đến nỗi ngôi nhà Ngài đang ở chật cứng, đến nỗi Ngài và các môn đệ không thể ăn được. Như thế là có ảnh hưởng tới sức khoẻ.
+ c 21: Khi đó, những người bà con của Ngài can thiệp. Tại sao? Có phải vì lo cho sức khỏe của Ngài không? Cũng có thể có nguyên nhân đó. Nhưng nguyên nhân chính là họ cho rằng Ngài “mất trí” làm việc tới độ có hại cho sức khỏe. Ngoài ra Mc còn nhìn thấy thái độ này có một ý nghĩa khác nữa: chú ý tới động từ mà ông dùng: “bắt”. Đây cũng là động từ ông sẽ dùng tới 4 lần trong tường thuật thụ nạn (14,16...). Phải chăng ông coi sự can thiệp này đã khiến những người bà con của Đức Giêsu cũng bị liệt vào số những kẻ thù của Ngài?
2) Đức Giêsu và Satan (3,22-30)
I. VĂN MẠCH
Giữa hai cuộc can thiệp của những người bà con của Đức Giêsu (3,20-21 & 31-35), Mc chen vào một cuộc tấn công của nhóm thông giáo. Nếu những người bà con đã coi Ngài là “mất trí”, thì nhóm thông giáo lại lên án Ngài là công cụ của Satan. Lời kết án này nghiêm trọng hơn nhiều.
II. GIẢI THÍCH
+ c 22 - Beelzeboul: một trong những tên gọi Satan, xuất phát từ tên của một thần ngoại, “Baal đại vương” (Baal le prince).
Nhóm thông giáo không thể phủ nhận việc Đức Giêsu trừ quỷ. Nhưng họ xuyên tạc rằng Ngài làm việc đó không phải bằng sức Thiên Chúa, mà bằng quyền lực của Quỷ vương Beelzeboul.
+ c 23 - “Dụ ngôn”: đây là lần đầu tiên trong Marcô Đức Giêsu nói dụ ngôn. Dụ ngôn là một câu chuyện dễ hiểu bằng những hình ảnh thông thường trong cuộc sống để so sánh với một điều khó hiểu hơn về mầu nhiệm Thiên Chúa. Ở đây Đức Giêsu dùng hình ảnh một nước, một gia đình.
+ c 27 - “Người mạnh khỏe”: ám chỉ đến suy nghĩ của một số người rằng Satan là kẻ mạnh khỏe; nhưng cũng ám chỉ đến Is 49,24-25 53,12: Đức Giêsu là “người mạnh thế hơn”.
Lý luận của Đức Giêsu trong 2 dụ ngôn trên (cc 24-27): Satan không thể tự chống lại nó được. Những việc trừ quỷ mà Đức Giêsu thực hiện là dấu chỉ Đức Giêsu mạnh thế hơn Satan, vương quyền của Satan sắp bị tiêu diệt để nhường chỗ cho vương quyền của Thiên Chúa.
+ c 28 - Sau đó Đức Giêsu đưa ra một lời cảnh cáo nghiêm khắc.
- “Lộng ngôn”: theo nghĩa hẹp, “lộng ngôn” là nói lời xúc phạm tới TC, tới Thánh Danh Ngài (Xh 22,27 Lv 24,11-16), tới uy quyền Ngài (x.Mc 2,7ss 14,64ss Ga 10,30-36), tới Sứ giả Ngài (Cv 6,11). Ở đây chữ này có nghĩa là xúc phạm tới Đức Giêsu, có thể tha thứ được.
- Nhưng không thể tha thứ cho tội “lộng ngôn với Thánh Linh”. Cho dù chúng ta có thể liệt kê hết các “tội trọng”, ta cũng sẽ không gặp được tội nào không thể tha thứ. Vậy tội lộng ngôn tới Thánh Linh là tội gì mà không tha thứ được? Ta phải giải thích theo văn mạch: c.30 viết “Đức Giêsu nói như trên vì người ta nói rằng 'ông ta bị uế thần nó ám'”. Mc đã nhấn mạnh rằng ngay từ đầu sứ mạng Đức Giêsu đã được Thánh Linh tấn phong, và với quyền lực của Thánh Linh Ngài thi hành sứ mạng cứu độ và tha thứ (1,9-12). Nay nhóm thông giáo đã xuyên tạc những việc làm nhờ quyền lực cứu độ của Thánh Linh, tức là họ không chịu đón nhận ơn cứu độ, bởi đó họ không thể được tha thứ.
III. KẾT LUẬN
Vào lúc M arcô soạn Tin Mừng, các Kitô hữu thường bị những người Do thái công kích vì những người này không thừa nhận uy quyền của Đức Giêsu Kitô, Đấng Messia đến để giải thoát con người khỏi quyền lực của Satan. Marcô viết chuyện này để trả lời cho những công kích đó.
3) Gia đình thật của Đức Giêsu (3,31-35)
I. GIẢI THÍCH
* Marcô viết tiếp câu chuyện về liên hệ giữa Đức Giêsu và gia đình tự nhiên của Ngài (x.3,20-21).
+ c 31 - “anh em”: Truyền thống vẫn tin rằng Đức Giêsu là con duy nhất của gia đình. Vì thế chữ “anh em” ở đây không phải là anh em ruột, mà là anh em bà con.
+ “ở ngoài”: chú ý Marcô 2 lần nhấn mạnh tới chi tiết những bà con của Ngài “ở ngoài” (cc.31-32), nghĩa là họ không phải là gia đình thật của Ngài vốn là những người ở trong.
+ c 34 - “nhìn vòng quanh”: Trong Marcô cách nhìn này báo trước Đức Giêsu sắp nói một điều quan trọng (x. 3,5 10,23 11,11).
+ c 35 - Điều quan trọng mà Đức Giêsu nói là xác định ai là gia đình thật của Ngài: những người nào thi hành thánh ý Thiên Chúa mới là gia đình thật của Ngài!
II. KẾT LUẬN
1. Đây là một lời an ủi cho các Kitô hữu của giáo đoàn Marcô đang bị bách hại khiến họ phải xa cách gia đình của mình. Marcô muốn nói rằng bù lại họ có một gia đình khác, đó là gia đình của Đức Giêsu. Hơn thế nữa Marcô cũng cho họ thấy rằng nhiều khi phải chọn lựa giữa gia đình xác thịt với gia đình thiêng liêng: chính Đức Giêsu cũng đã chọn lựa như vậy.
2. Marcô cũng muốn cho thấy 2 loại liên hệ giữa Đức Giêsu với những người đương thời: a/ một bên là những kẻ từ chối Ngài. Bên này gồm những người pharisêu và thông giáo đã lộng ngôn đến Thánh Linh khi dám nói rằng Ngài bị quỷ ám (c.30), và có cả những người bà con của Đức Giêsu đã nói rằng Ngài mất trí (c.21); b/ bên kia là những bà con thật của Ngài gồm Nhóm 12 đã đi theo Ngài (3,13-19), và rộng hơn nữa là tất cả những ai đón nhận Tin Mừng (3,31-35).
3. Đoạn này không phải là một sự từ chối của Đức Giêsu đối với Đức Maria, trái lại càng làm tăng uy tín của Người, bởi vì Người không chỉ làm Mẹ của Ngài về phần xác thịt mà còn vì Người luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa.
Thiên Chúa khôn ngoan và nhân từ, nên mọi việc Ngài làm đều tốt đẹp. Ngài đã sáng tạo con người theo TN10-B22
Thiên Chúa khôn ngoan và nhân từ, nên mọi việc Ngài làm đều tốt đẹp. Ngài đã sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài, cho họ sống tình thân với Chúa. Vậy Sự Dữ do đâu mà có? Đâu là nguyên nhân khiến cho tình thân nghĩa thiết giữa con người với Thiên Chúa và con người với nhau bị phá vỡ?
Sách Sáng Thế (x. St 1-3) cho ta câu trả lời. Thiên Chúa không tạo nên sự chết, nhưng sự chết đã đi vào thế giới vì sự ghen tương của ma quỉ (x. Kn 1,13-14; 2,23-24). Khi nổi loạn chống lại Thiên Chúa, ma quỉ đã lường gạt và lôi kéo con người theo chúng. Thiên Chúa hỏi Ađam: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn ư?” Thiên Chúa hỏi Evà: “Tại sao ngươi đã làm điều đó? ” Evà trả lời: “Con rắn đã cám dỗ tôi” (x. St 3, 11-13).
Là thụ tạo tinh thần, con người chỉ có thể sống tình thân ấy khi tự do tùng phục Thiên Chúa. Điều đó được diễn tả trong lệnh cấm con người ăn trái cây biết lành, biết dữ “vì ngày ngươi ăn nó, ngươi sẽ chết” (St 2, l7). Bị ma quỉ cám dỗ, con người đánh mất lòng tín thác vào Đấng Sáng Tạo, lạm dụng tự do, bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Đó là tội đầu tiên của con người (x. Rm 5, l9). Hậu quả là Adong và Evà đánh mất sự thánh thiện nguyên thủy (x. Rm 3, 23). Sự hài hòa với vạn vật bị phá vỡ: thế giới hữu hình trở nên xa lạ và thù nghịch với con người (x. St 3, l7-l9). Sự kết hợp nam nữ trở nên căng thẳng (x. St 3, ll-l3); tình huynh đệ tương tàn (x. St 4, 3-15); tiếp đến là sự sa đọa của cả loài người. Cuối cùng, vì bất tuân: “Con người là tro bụi sẽ trở về bụi tro” (St 3, l9).
Sau khi sa ngã, Thiên Chúa không lỡ bỏ rơi con người. Trái lại, vì tình thương, Thiên Chúa nâng con người lên. Chúa bảo con rắn: “Bởi mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi”. (St 3, 9-15. 20). Đó là thảm kịch tự do mà Thiên Chúa chấp nhận đến cùng vì yêu thương, nhưng Ngài hứa: “ Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người” (St 3,15).
Đoạn sách Sáng Thế trên được gọi là "Tiền Tin Mừng" vì đó là lời loan báo đầu tiên về Đấng Cứu Thế, về cuộc chiến đấu giữa con rắn với người nữ và chiến thắng cuối cùng của một hậu duệ người nữ này. Tình mẫu tử của Đức Maria đối với nhân loại được biểu lộ “Ađam đặt tên cho vợ mình là Evà, vì bà là mẹ của chúng sinh” (St 3, 20).
Mẹ và anh em Chúa
Lòng nhân từ của Thiên Chúa là lòng nhân từ cứu độ, chẳn nhữn nâng con người lên mà còn cho con người trở thành dưỡng tử của Thiên Chúa, đồng thừa tự với Chúa Giêsu. Lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là từ khi bắt đầu đời công khai, Chúa Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy”. Chẳng những Chúa Giêsu không ra gặp mẹ, mà Ngài còn nói: “Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta” (x. Mc 3, 32-35).
Thật ra, qua câu nói này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.
Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được liên kết với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình nghĩa cha mẹ, anh chị em ruột thịt.
Với lời khẳng định: “Đây là mẹ tôi và anh em tôi” (Mc 3, 33). Chúa Giêsu loan báo về gia đình mới của Ngài. Có những người thân yêu cùng máu mủ đứng ngoài kia. Có một gia đình mới đang ngồi trong này. Đức Giêsu không coi thường hay loại bỏ gia đình ruột thịt. Nhưng Ngài cho thấy Ngài còn có một gia đình lớn hơn nhiều, một gia đình gồm những người rất khác nhau về nhiều mặt, nhưng lại có một mẫu số chung, một điểm giống nhau, đó là cùng muốn thi hành ý Thiên Chúa trong cuộc sống.
Sống tình gia đình với Chúa
Thật hạnh phúc cho chúng ta, vì Chúa Giêsu đã khai mở một đại gia đình mới cho mọi người: “Bất cứ ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa người ấy là mẹ tôi, là anh em và chị em tôi” (Mc 3, 35). Khi thực thi ý Thiên Chúa muốn, người kitô hữu chúng ta vui sướng được thuộc về gia đình Chúa, có Đức Maria làm Mẹ suốt đời tín trung sống ý Chúa, có Đức Giêsu là Anh Trưởng, người Con luôn sống đẹp lòng Chúa Cha, và có bao anh chị em khác đã dám đặt ý Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã mở rộng gia đình Chúa để cho chúng con được dự phần, xin cho mỗi người chúng con biết lắng nghe Lời Chúa; đồng thời biết đem Lời Chúa ra thực hành, hầu xứng đáng là thành viên trong gia đình Chúa. Amen.
Không dễ rút ra một ý chính từ bản văn Tin Mừng hôm nay. Vậy ta hãy để cho toàn bộ bản văn hướng TN10-B23
Không dễ rút ra một ý chính từ bản văn Tin Mừng hôm nay. Vậy ta hãy để cho toàn bộ bản văn hướng dẫn chúng ta, từng giai đoạn một, giúp chúng ta có được một cái nhìn nghiêm túc về một số thái độ và lập trường của chúng ta.
“Người đã mất trí”.
Chúa Giêsu bị họ hàng chống đối. Không lạ gì, Ngài nói rằng không ai là tiên tri nơi quê hương mình (Mt 13,57; Mc 6,4; Ga 4,44). Các thành viên trong gia đình Ngài xấu hổ vì Ngài. Thay vì hiểu Ngài họ tìm cách loại trừ Ngài.
Khép kín đối với sứ điệp của các ngôn sứ, thường có tính thách thức và gây ngạc nhiên, là cách làm tiện lợi nhưng không cao thượng mấy. Những kẻ nói một ngôn ngữ mới đều là kẻ thiếu quân bình, thái quá, vượt xa mọi tình huống! Nhưng có đúng là chỉ những kẻ nói và làm những gì thích hợp với kẻ khác mới có lý không? Có phải là những gì được chấp nhận công khai, những gì không gây phiền hà cho ai cả, những gì đáp lại sự chờ mong của mọi người mới đáng được chấp nhận chăng? Đây không phải là con đường của Chúa Giêsu, Ngài đã làm cho người ta ngạc nhiên, đã đi ngược dòng, đã dám làm những điều khiến Ngài bị tố cáo là điên? Còn chúng ta?
“Ngài bị quỉ Bêendêbun ám”.
Phán đoán của các ký lục cũng theo một hướng đó. Chúa Kitô bị quỉ (Bêendêbun) ám; Chính nhờ quỉ lớn mà Ngài trừ được tất cả các quỉ nhỏ, thủ hạ của nó.
Chúa Kitô cho thấy rằng lời tố cáo này không có cơ sở, làm sao quỉ có thể đuổi quỉ ra khỏi nhà nó được? Giữa bạn bè với nhau người ta bảo vệ nhau; người ta không đánh đuổi nhau. Như vậy Chúa Giêsu cho ta hiểu rằng phải cẩn thận xem xét hậu quả của một hành động hoặc một lập trường. Nếu hậu quả tốt, thì chúng không thể phát xuất từ một nguyên tắc hoặc một trái tim xấu được.
Bao giờ cũng thế. Trước sự ngạc nhiên, bực bội mà môt số người không hành động như chúng ta gây cho chúng ta, ta hãy nhìn xem hậu quả hành động của họ. “Cây tốt sinh quả tốt” (Lc 6,43).
Tội phạm đến Chúa Thánh Thần.
Câu nói về tội phạm đến Chúa Thánh Thần là một câu nói khó hiểu. Tội phạm đến Chúa Thánh Thần đây là tội gì mà không thể nào tha thứ được? Tội ấy chắc phải là nặng nề lắm.
Tôi nghĩ tội đó chính là từ chối nhìn nhận Thiên Chúa và Con của Ngài đang hoạt động trong sức mạnh của Thánh Thần. Thứ tội này làm cho con người khép kín nơi mình và những ý nghĩ nhỏ bé của mình, khép kín đối với Thiên Chúa Đấng luôn đổi mới để cứu độ. Thánh Thần là sự sống, sự đổi mới, là niềm phấn khởi và sáng tạo. Người ta phạm đến Thánh Thần khi cái “tôi” đứng lên chống lại quyền năng sự sống. đó là từ chối ân sủng, là cố ý mù quáng trước ơn cứu độ. Đó là khi người ta gán cho Bêendêbun những gì phát xuất từ chính Thiên Chúa.
“Mẹ tôi và anh em tôi”.
Chúa Giêsu hỏi “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”. Khi nói về những kẻ muốn bắt Ngài phải làm theo ý họ. Khi nói về những kẻ muốn bắt Ngài làm theo ý họ. Khi nêu câu hỏi này, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu được ai là những kẻ thân cận thật của Ngài, những môn đệ chân chính, những anh chị em thật sự của Ngài.
Tiêu chuẩn để là mẹ và anh em của Chúa không phải là huyết thống, nhưng là việc gắn bó với cùng một chính nghĩa, sự dấn thân cho cùng một lý tưởng, ý muốn chỉ sống để phục vụ Chúa Cha vô điều kiện mà thôi. Không gì thay đổi cả để đảm nhận, không thỏa hiệp những đòi hỏi của Tin Mừng, ta phải cắt đứt những mối liên hệ cũ và thiết lập những mối liên hệ mới thuộc một trật tự khác.
Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu không những vì Mẹ đã cho Ngài thịt máu của mình nhưng nhất là vì Mẹ hiệp nhất với Ngài trong việc tự do và vui vẻ chu toàn ý Chúa Cha. Khi hành động như Mẹ; chúng ta có thể trở thành anh chị em của Chúa Kitô cách đích thực hơn là nếu chỉ có liên hệ huyết thống với Ngài mà thôi.
Ngài chất vấn chúng ta và đặt vấn đề về chúng ta! Đó là một hồng ân mà ta cần phải đón nhận và tạ ơn.
(Suy niệm Tin mừng Mác-cô (3, 20-35) trích đọc vào Chúa nhật 10 thường niên B)
Đối với các tín hữu của Chúa, điều quan trọng nhất mà mỗi người phải quyết tâm thực hiện từng ngày TN10-B24
Đối với các tín hữu của Chúa, điều quan trọng nhất mà mỗi người phải quyết tâm thực hiện từng ngày trong suốt đời mình, là việc gì?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy theo dõi sự việc được thánh sử Mác-cô thuật lại trong bài Tin mừng trích đọc hôm nay:
Hôm ấy, Mẹ Maria và các anh em bà con họ hàng đến gặp Chúa Giê-su đang lúc Ngài đang rao giảng giữa đám đông dân chúng. Bấy giờ “có kẻ trình với Chúa Giê-su rằng: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”
Chúa Giê-su muốn nhân cơ hội này, dạy cho những người chung quanh bài học quan trọng liên quan đến việc thi hành Lời Chúa, thế nên, Ngài lên tiếng hỏi những người chung quanh: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?" Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi" (Mc 3, 31-35). Như thế, việc thi hành ý muốn của Thiên Chúa quan trọng đến nỗi ai làm điều đó thì được Chúa Giê-su hết sức trân trọng và yêu quý, được Chúa nâng lên hàng anh em, chị em và là mẹ của Ngài. Chúa Giê-su hướng thẳng về những người đó và long trọng tuyên bố với mọi người: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi!” Thật là một vinh dự rất lớn lao.
Chúa Giê-su luôn thi hành ý muốn của Chúa Cha
Việc thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha quan trọng đến nỗi chính Chúa Giê-su, dù Ngài là Ngôi hai Thiên Chúa, đồng hàng với Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn luôn làm theo ý muốn của Chúa Cha trong mọi sự. Ngài nói:
“Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý Ta nhưng là theo ý Đấng sai Ta” (Ga 6,38).
“Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta” (Ga 4, 34).
Đặc biệt là trong đêm tối tại vườn Cây Dầu, khi đối diện với cuộc khổ hình khủng khiếp sắp xảy đến với mình, Chúa Giê-su lo buồn sợ hãi đến nỗi cất tiếng kêu cầu với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa Con.” Dù vậy, Ngài cũng không muốn làm theo ý mình mà chỉ muốn vâng theo ý Chúa Cha cách trọn vẹn, nên Ngài thưa với Cha: “Nhưng xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi” (Lc 22,42).
Như thế, Chúa Giê-su luôn vâng lời Chúa Cha trong mọi việc, trong mọi lúc và suốt cả đời mình. Thánh Phao-lô nhận định về sự vâng phục triệt để đó như sau: “Ngài đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập tự” (Pl 2,8).
Thế là, nhờ luôn thực hành ý Chúa Cha nên Chúa Giê-su mới lên trời vinh hiển, được siêu tôn trên các tầng trời như lời thánh Phao-lô: “Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã siêu tôn Ngài, ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu… ” (Pl 2, 9).
Thi hành ý Chúa là con đường duy nhất dẫn vào thiên đàng
Chúa Giê-su biết rằng làm theo điều Thiên Chúa truyền dạy là con đường duy nhất dẫn đưa loài người vào thiên đàng, không có đường thứ hai, và ngay chính bản thân Ngài là Thiên Chúa, Ngài cũng phải đi theo con đường duy nhất đó để vào thiên quốc, nên Ngài truyền dạy cho chúng ta hãy luôn luôn thi hành ý Chúa Cha truyền dạy.
Ngài nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời, nhưng chỉ có những ai làm theo ý Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, kẻ ấy mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21). Và ý Chúa Cha truyền dạy cho chúng ta được tóm lại trong giới răn mến Chúa yêu người.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin Chúa cho chúng con luôn ghi tâm khắc cốt điều quan trọng nhất trong đời là thực hành lời Chúa truyền dạy, được tóm gọn trong quy luật mến Chúa yêu người, vì đây là phương thế duy nhất để chúng con được vào Nước Trời, đồng thời khi thực hành ý Chúa như vậy, chúng con được Chúa yêu thương và quý trọng như là mẹ và như anh chị em của Chúa.
20 Hôm ấy, Ðức Giê-su trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. 21 Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí. 22 Còn các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem xuống thì lại nói rằng Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ qủy. 23 Người liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: "Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được?" 24 Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; 25 nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. 26 Vậy Xa-tan mà chống Xa-tan, Xa-tan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. 27 Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó. 28 "Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. 29 Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời". 30 Ðó là vì họ đã nói "ông ấy bị thần ô uế ám ». 31 Mẹ và anh em Ðức Giê-su đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. 32 Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy !" 33 Nhưng Người đáp lại: "Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi ?" 34 Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: "Ðây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 35 Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi."
2. Ý CHÍNH:
Sau khi tuyển chọn Nhóm Mười Hai tông đồ, Đức Giê-su đã thuê nhà cho Thầy trò ở trọ. Tại đây, TN10-B25
Sau khi tuyển chọn Nhóm Mười Hai tông đồ, Đức Giê-su đã thuê nhà cho Thầy trò ở trọ. Tại đây, Người đã phải ứng phó với ba nhóm người như sau: Một là đám đông dân chúng tin vào quyền năng của Người và chen nhau đến nghe Người giảng; Hai là một số thân nhân không tin Người là Đấng Thiên Sai mà là kẻ đã bị mất trí; Ba là các kinh sư Do thái từ Giê-ru-sa-lem đến nghe ngóng tình hình và nói xấu Người nhờ tướng quỷ để trừ quỷ hầu hạ uy tín của Người.
Đức Giê-su đã cho họ biết Người trừ được quỷ là nhờ quyền năng của Thiên Chúa chứ không dựa vào thế của tướng quỷ. Những ai dám nói Người bị quỷ ám là đã phạm tôi phạm đến Thánh Thần. Người còn cho biết các anh em đích thực của Người là những người lắng nghe Lời Người giảng dạy và thi hành theo ý của Thiên Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
- C 20-22: + Ðức Giê-su trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được: Đám đông kéo đến với Đức Giê-su, vì nghe biết những gì Người đã làm như chữa lành người bại tay tại hội đường vào ngày sa-bát, và chữa lành nhiều bệnh nhân. Mặc dù Mác-cô không kể ra những gì Đức Giê-su làm cho họ, nhưng chúng ta có thể suy đoán Người tiếp tục chữa lành bệnh tật và giải thoát những người bị quỉ ám. Chính vì thế mà Người và các môn đệ không có giờ ăn uống và bị người thân và các kinh sư chống đối.
Trước nhu cầu của đám đông, Đức Giê-su đã rao giảng Tin Mừng Nước Trời, chữa lành bệnh tật và giải thoát người ta khỏi bị quỉ ám. + Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí: Tại sao người thân của Người lại cho rằng Người mất trí và muốn đi bắt Người về nhà? Vì họ đã không tin Người là Đấng Thiên Sai và họ sợ dân chúng các nơi kéo đến làm mất trật tự có thể liên lụy đến họ. Họ coi Người là kẻ bất bình thường, biểu hiệu qua việc quên cả việc ăn uống.
- C 23-30: + "Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được?": Đức Giê-su phản bác những người chống đối Người khi cho rằng Người không phải là Đấng Thiên Sai. Sở dĩ Người trừ được quỷ là do dựa vào quyền lực của quỷ vương mà trừ quỷ nhỏ đó thôi. + Ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời: Đức Giê-su đã phản bác lại họ khi cho biết về lòng nhân từ luôn tha thứ tội lỗi của loài người. Tuy nhiên cũng có thứ tội không bao giờ được tha thứ là tội phạm đến Chúa Thánh Thần. Vậy tội phạm đến Thánh Thần là tội gì? Đây là tội cố tình chối bỏ tình thương của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa đã ban cho con người có quyền tự do: tin hay không tin vào Chúa, đón nhận hay không đón nhận ơn tha thứ của Người. Vì thế, dù Thiên Chúa vẫn muốn cứu độ mọi người, nhưng vẫn có những người không được cứu độ do cố tình nghe ma quỷ cám dỗ, cố tình không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và không muốn đón nhận ơn cứu độ của Người đem đếnm thể hiện qua việc nói Người bị quỉ ám.
- C 31-35: + Mẹ và anh em Ðức Giê-su đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra… Ðây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi": Nhân lúc đó có Mẹ Ma-ri-a và mấy anh em bà con đứng bên ngoài nhà muốn được gặp mặt Người, Đức Giê-su liền dạy cho mọi người hiểu đúng ai mới thực là Mẹ và anh em của Người. Đó không những là những người có liên hệ huyết thống với Người, mà điều quan trọng hơn là phải tin Người là Đấng Thiên Sai, vâng nghe Lời Người dạy và làm theo thánh ý của Chúa Cha. Những người đó mới thực là Mẹ và là anh chị em của Người.
4. CÂU HỎI:
1) Đám đông đến với Đức Giê-su để làm gì ?
2) Tại sao thân nhân của Đức Giê-su lại đi bắt Người ?
3) Các Kinh sư từ Giê-ru-sa-lem xuống đã làm gì để chống lại Đức Giê-su ?
4) Đức Giê-su đã phản bác lập luận của họ về công việc trừ quỷ của Người thế nào ?
5) Theo Đức Giê-su thì ai nói phạm đến Thánh Thần ? Tại sao tội của họ sẽ không bao giờ được tha ?
6) Mẹ và anh em thực sự của Đức Giê-su là những ai ? Tại sao ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Người đáp lại: "Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi?" 34 Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: "Ðây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 35 Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi." (Mc 3,33-35).
2. CÂU CHUYỆN:
1) CỐ CHẤP TIN THEO MA QUỶ SẼ BỊ DIỆT VONG:
Elia xưa đã nhờ Thiên Chúa mà trừ diệt những kẻ dựa vào quỷ vương Bê-en-dê-bun thời vua A-kháp và Ô-khô-gi-a vua Ít-ra-en. Ô-khô-gi-a khi bị đau liệt, đã sai sứ giả đi cầu khẩn Bê-en-dê-bun. Thiên Chúa đã thúc giục tiên tri E-li-a đi đón sứ giả và nói: Ở Ít-ra-en không có Thiên Chúa sao mà các ngươi lại đi cầu khẩn Bê-en-dê-bun? Cho nên Thiên Chúa phán thế này: Ngươi sẽ chết trên giường ngươi nằm. Ô-khô-gi-a đã cố chấp không nghe lời cảnh cáo của E-li-a, còn sai quan quân tất cả hai trăm người đến bắt E-li-a. E-li-a đã nói với chúng: Nếu ta là người của Thiên Chúa, thì lửa hãy từ trời xuống thiêu đốt các ngươi đi. Và lửa từ trời đã thiêu đốt sạch bọn chúng, và cả nhà vua cũng chết, trừ đoàn sứ giả thứ ba biết khấn xin người của Thiên Chúa thì được sống (IIV 1,2-17).
Những người cầu khẩn tà thần ma quỷ, những người cố chấp theo những tà thuyết mù quáng, những hạng người ác ý xuyên tạc công việc của Thiên Chúa sang công việc của ma quỷ, là xúc phạm đến Chúa Thánh Thần, nên sẽ chẳng bao giờ được tha, do cố chấp nên họ bị diệt vong.
Chỉ có những người ngay lành như dân chúng, biết lắng nghe lời Thiên Chúa, làm những việc lành phúc đức, mới thực sự “là mẹ, và anh em của Đức Giêsu”.
2) THẾ NÀO LÀ MỘT NGƯỜI QUÂN BÌNH ?
Ngôi sao điện ảnh Lloyd lái xe đến trạm sửa chữa. Cô thợ máy ân cần đón tiếp anh. Ngay lập tức anh đã bị cuốn hút bởi đôi tay khéo léo và điêu luyện của cô.
Cả Paris đều biết đến anh, Thế nhưng cô gái này lại tỏ vẻ rất bình thản, xem ra không mấy vui sướng cũng như ngưỡng mộ con người nổi tiếng này.
- Cô có thích xem phim không? Anh ta hỏi. - Đương nhiên là thích rồi, tôi là một "fan" điện ảnh mà. Tay cô rất nhanh, chẳng bao lâu có đã sửa xong xe: - Ông có thể lái xe đi rồi, thưa ông. Anh ta vẫn tiếp tục: - Thưa cô, tôi có thể đưa cô đi dạo được không?. - Không! Tôi còn có công việc. - Đây cũng giống như là công việc của cô. Cô sửa xe cho tôi, tốt nhất là tự mình lái thử kiểm tra xem sao. - Được, vậy tôi lái hay ông lái đây?. - Tôi lái, tôi mời cô mà!. - Xe chay rất tốt, cô gái hỏi: - Xem ra không có vấn đề gì, vậy xin ông vui lòng cho tôi xuống được không?. - Sao cơ? Cô không muốn tôi đưa đi sao? Tôi chỉ muốn hỏi lại cô một việc, cô có thích xem phim không?. - Tôi rất thích, tôi đã trả lời với ông rồi mà, hơn nữa tôi còn là một "fan" điện ảnh nữa. - Vậy cô không nhận ra tôi sao?. - Sao tôi không nhận ra chứ! Từ đầu tôi đã nhận ra ông là diễn viên điện ảnh Lloyd nổi tiếng hiện nay mà. - Biết thế, sao cô vẫn lãnh đạm vậy?. - Không! Ông lầm rồi, tôi không hề lãnh đạm. Nhưng tôi không cuồng nhiệt như các cô gái khác. Ông có thành tựu của ông. Tôi có công việc của tôi. Ông đến đây để sửa xe. Ông là khách hàng. Nếu ông không phải là ngôi sao nổi tiếng, khi ông đến sửa xe thì tôi cũng tiếp đãi như vậy. Giữa người với người không phải như thế sao?. Anh ta im lặng. Đối diện với cô gái bình thường này anh cảm thấy mình tầm thường và thật ngông nghênh. - Cảm ơn cô! Cô đã khiến cho tôi phải tự cảnh tỉnh về giá trị bản thân. Được, bây giờ tôi đưa cô về.
Thái độ và cách ứng xử của cô thợ sửa xe trong câu chuyện trên cho chúng ta thấy thế nào là một người quân bình trong cuộc sống đời thường. 3. KIÊU NGẠO LÀ TỘI PHẠM ĐẾN THÁNH THẦN:
Trên một chiếc tàu vượt đại dương, có một kỹ sư tàu biển tên là EG-BERT. Công việc của ông là ngồi trong phòng máy và tuân theo lệnh của Đô đốc ở trên cầu tàu truyền xuống.
Một hôm, Egbert tự nhủ: Ta là một người tài giỏi và quan trọng nhất mà không được ai biết đến và coi trọng. Còn lão Đô đốc chỉ huy chỉ biết ngồi trên cầu tàu mà ra lệnh, chẳng quan tâm đến ta dưới buồng máy không được ngắm trời mây non nước.
Lúc đó, có hồi chuông rung báo động và có lệnh: "Hãy quay tầu trở lại ngay !". EG-BERT lầm bầm: "Ta là kỹ sư đã 30 năm, từng vượt biển cả 100 lần. Đây là lần đầu tiên có người dám bảo ta phải quay trở lại giữa đại dương. Lão Đô đốc này chỉ biết ra lệnh thôi !"
Nói xong, thay vì quay bánh lái trở lui, EG-BERT tiếp tục cho tàu lao về phía trước, mà còn tăng tốc nhanh lên gấp đôi. Con tàu đã đâm xầm vào một chiếc tàu khác phía trước và bị vỡ tan. Tâm trạng anh kỹ sư tàu biển trên đây không khác gì các luật sĩ Do thái thời Đức Giê-su. Họ kiêu căng mà không nhận mình kiêu căng. Họ cho mình là tài giỏi, xứng đáng hơn người. Họ xuyên tạc chê bai việc lành của người khác. Họ giữ đạo mà không có tinh thần đạo đức. Họ làm việc thiện cốt để khoe khoang. Nếu một người lòng đầy sự kiêu ngạo, thì sẽ chẳng còn chỗ nào cho sự khôn ngoan. Thánh Gia-cô-bê viết: "Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường" (Gc.4,6). 4) THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Trong Chúa nhật đầu tiên tại một giáo xứ, vị linh mục vừa nhận chức đã giảng một bài giảng rất hùng hồn, văn hoa, xúc tích và sâu sắc. Tất cả các tín hữu hiện diện đều cảm thấy sốt sắng phấn khởi. Có nhiều người đã cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã ban cho họ một vị linh mục có tài ăn nói: "phun châu nhả ngọc".
Tiếng đồn về cha xứ mới lan mau như lửa cháy, vì thế nên đến Chúa nhật kế tiếp, nhà thờ trở nên đông đảo khác thường. Mọi người đều nóng lòng chờ đợi được nghe cha giảng. Nhưng cha sở lại giảng một bài gần giống như bài giảng Chúa nhật vừa qua. Rồi trong các thánh lễ Chúa nhật kế tiếp cha vẫn giảng cũng một bài giảng đó.
Hội đồng giáo xứ cử người đến hỏi cha xứ xem tại sao cha lại cứ giảng đi giảng lại 1 bài hoài như vậy? Cha sở trả lời: Tại sao anh chị vẫn cứ sống như cách đây 6 tuần. Khi nào anh chị em thực hành được những gì tôi đã giảng thì tôi sẽ giảng sang bài mới. 5) LÀM VIỆC TÔNG ĐỒ CẦN BẮT ĐẦU TỪ TRONG GIA ĐÌNH MÌNH:
Gia đình bé XÊ-XI-LI-A ở mạn bắc nước I-ta-li-a, nằm trong một xóm lao động nghèo. Từ sáng sớm cha của em là một công nhân đã phải đến sở làm việc, và mãi đến 8-9 giờ tối mới về lại nhà. Vì thế, chẳng mấy khi Xê-xi-li-a có dịp nói chuyện với cha. Còn mẹ em thì bận lo công việc nội trợ và còn làm thêm các việc của các nhà hàng xóm để gia tăng ngân quĩ gia đình. Bà có lòng đạo đức và thương người, sẵn sàng san sẻ giúp đỡ người nghèo trong xóm, nên ai cũng quí mến. Bé Xê-xi-li-a rất hãnh diện về cha mẹ và cảm thấy hạnh phúc sống trong gia đình có cha mẹ hòa thuận yêu thương nhau.
Từ 2 năm nay, Xê-xi-li-a được huấn luyện sống theo lời Chúa, thấy Chúa Giê-su đang bị bỏ rơi nơi những người đau khổ bất hạnh. Một hôm, Xê-xi-li-a bất ngờ khi nghe một đứa bạn nói về nỗi khổ của mẹ em mỗi ngày đều bị ba em đánh đập hành hạ!” Em không tin và muốn tìm hiểu thực hư ra sao. Tối hôm ấy, khi nghe chuông gọi cửa. Xê-xi-li-a thấy mẹ ra mở cửa. Em bước xuống thang núp sau tấm màn theo dõi. . .
Ba em đầu tóc rối bù, người sặc mùi rựơu. Ông ném mạnh chiếc mũ và áo xuống nền nhà; Mẹ em nhẹ nhàng cầm lấy cất vào trong tủ, đi dọn bàn ăn rồi mời chồng cùng ăn bữa tối. Đôi mắt đỏ ngầu, ông trợn trừng nhìn bà và chê tới chê lui kèm thêm những lời mắng chửi. Mẹ em chỉ biết vừa ăn vừa khóc. Lát sau, ba em bưng cả mâm cơm vứt xuống nền nhà và tặng vợ những cú đấm đá tàn nhẫn.
Sau bức màn, Xêxi-li-a như bị chết lịm: “ thôi đúng rồi, tụi bạn nói đâu có sai. Cả lối xóm đều biết chuyện không hay của gia đình mình”. Gượng đứng dậy, Xê-xi-li-a rón rén leo lên gác. Các ngày sau đó sự thể vẫn xảy ra như vậy. Xê-xi-li-a không biết phải làm gì. Cuối cùng, em đã đến gặp cha xứ để trình bày mọi sự và đã được ngài khuyên bảo việc em phải làm.
Sau đó tối nào Xê-xi-li-a cũng thức đợi ba về và khi ông vừa vào nhà là em đã chạy ra đón ôm hôn ba, cất áo mũ cho ba. Rồi em còn phụ giúp mẹ dọn bàn ăn. Trong suốt bữa ăn, em ngồi kề bên ba kể những chuyện vui ở trường, hỏi thăm ba công việc ở sở làm. Thoạt đầu, ba em lấy làm khó chịu, nhưng sau đó ông lại cảm thấy vui. . . Bầu khí gia đình ngày càng dễ chịu.
Ba tháng trôi qua, bi kịch ngày xưa đã không còn. Một hôm, Xê-xi-li-a âu yếm ôm lấy ba và nói: “ Ba ơi, ba có biết tại sao con không muốn ngủ sớm không?” Rồi khi được phép ba, em đã thuật lại tâm trạng của em khi nghe chúng bạn phê bình nhà mình. Em thấy Chúa Giê-su đang bị bỏ rơi trong ba, nên em muốn mang Chúa cho gia đình mình. . . Nghe con nói hai ông bà mừng mừng tủi tủi. Không ngờ con bé lại khôn ngoan và đạo đức đến vậy. Ba má Xê-xi-li-a đã ôm lấy con, nghẹn ngào nhìn nhau. . . Lát sau ông mới thốt nên: “Từ nay con phải đi ngủ sớm nghe không! Ba hứa với con là ba má sẽ hòa thuận thương yêu nhau. Ba má cũng sẽ quyết tâm sống Lời Chúa giống như con. Ba má rất yêu thương con!”
3. SUY NIỆM:
1) Bấy giờ Đức Giê-su đang giảng đạo cho một đám đông dân chúng, thì có mẹ và anh em bà con của Người đến thăm Người. Những người này muốn được gặp gỡ nói chuyện với Đức Giê-su, nhưng họ không thể đến gần Người được vì dân chúng vây quanh Người quá đông. Họ đành phải đứng bên ngoài chờ đợi Người.
2) Thấy vậy, có người đã len vào giữa đám đông báo tin cho Đức Giê-su hay. Họ nghĩ rằng Người sẽ phải ngưng giảng dạy để mau ra gặp mẹ và các anh em bà con này. Nhưng sau khi nghe báo tin, Đức Giê-su vẫn tiếp tục giảng dạy như không có sự gì xảy ra. Qua đó cho thấy Người coi trọng đám đông đang nghe Người giảng hơn là các thân nhân ruột thịt. Rồi Người đặt câu hỏi với mọi người như sau: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (c. 33).
3) Theo lẽ thường: mẹ và anh em của Đức Giê-su không ai khác hơn là mấy người đang đứng bên ngoài chờ gặp Người. Nhưng thật bất ngờ khi Người lại chỉ tay vào đám đông đang đứng ngồi chung quanh nghe giảng và tuyên bố: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi” (c. 34). Thực ra Đức Giê-su không coi thường mẹ và các người họ hàng bà con. Nhưng Người muốn nhân cơ hội này để dạy cho mọi người biết sự thật này là: Người còn có nhiều người thân mới là các môn đệ và đám đông nghe Người giảng. Những người này đã trở thành người thân của Người khi lắng nghe Lời Người giảng dạy và làm theo Ý Chúa Cha, noi gương Người đã luôn nghe Lời Cha và làm theo ý của Cha: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người ” (Ga 4,34).
Như vậy những ai thi hành ý muốn của Chúa Cha sẽ trở nên nghĩa thiết với Đức Giê-su. Chúng ta hôm nay sẽ trở nên anh chị em của Người nếu chúng ta năng đọc kinh Lạy Cha, chú ý câu: “Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,9-10). Vì đối với Đức Giê-su điều quan trọng là làm cho Nước Trời của Chúa Cha ngày một lớn lên.
4) Hiện nay trên thế giới mấy tôn giáo có số tín hữu nhiều nhất như sau: Kitô giáo có 2,3 tỷ người; Hồi giáo có 1,5 tỷ người; Ấn Độ giáo có 900 triệu người; Đạo giáo có 400 triệu người, Phật giáo có 365 triệu người; Nho giáo có 150 triệu người, các tôn giáo truyền thống châu Phi có 100 triệu người; Thần đạo Nhật Bản có 30 triệu người…
Trong số 2,3 tỷ tín hữu Ki-tô gồm Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống, Anh giáo… Những người này đều tin thờ Thiên Chúa và cùng tin vào Đức Giê-su, nhưng vẫn chưa hiệp nhất trong đại gia đình của Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là phải cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu này. Ngoài ra phải làm cho Hội Thánh của Chúa ngày một lớn lên bằng cách hợp tác với những người thiện chí để xây dựng cho môi trường mình đang sống ngày một an bình trật tự hơn, công bình nhân ái hơn. Để thế giới chúng ta đang sống sớm trở thành một đại gia đình có Cha Chung là Thiên Chúa và mọi người sống chan hòa yêu thương nhau như anh chị em một nhà, hầu thế giới này sớm trở nên “Trời Mới Đất Mới” theo ý Chúa muốn (x. Kh 21,1).
4. THẢO LUẬN: Trong những ngày này để nên thân nhân của Chúa Giê-su, bạn sẽ làm gì để tích cực góp phần xây dựng xã hội nên công bình nhân ái hơn, trong đó mọi người sẽ yêu thương nhau, để ánh sáng của Chúa Ki-tô có thể chiếu tỏa trong khu xóm và môi trường sống của mình?
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Xin ban cho các cộng đoàn tín hữu chúng con được luôn hiệp nhất và yêu thương nhau, để nên anh chị em thực sự của Chúa. Giữa một thế giới đang còn nhiều hận thù và chia rẽ nhau, xin cho các tín hữu chiếu tỏa ánh sáng tin yêu bằng những việc làm khiêm nhường phục vụ và chia sẻ cơm áo cụ thể. Ước gì Hội Thánh của Chúa trên hoàn cầu sớm trở thành một cây cải cao lớn, có khả năng đón nhận được chim trời là các dân tộc từ muôn phương đến làm tổ. Ước gì khi thấy các tín hữu sống yêu thương hiệp nhất với nhau, lương dân sẽ nhận ra dấu chỉ Nước Trời đang hiện diện và sẵn sàng gia nhập vào Hội Thánh với chúng con, như Hội Thánh thời sơ khai. - Amen.
31 Mẹ và anh em Đức Giê-su đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra.32 Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”
33 Nhưng Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”
34 Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi.35 Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” ***
Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra năng động thiêng liêng Lời Chúa trong bài Tin Mừng: từ tương quan thân TN10-B26
Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra năng động thiêng liêng Lời Chúa trong bài Tin Mừng: từ tương quan thân thuộc với Đức Giê-su do máu huyết: “Mẹ và anh em Đức Giê-su (c. 31) trở thành tương quan thân thuộc do việc thi hành ý muốn của Thiên Chúa: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (c. 35).
Nhưng tương quan ruột thịt không bị loại bỏ, nhưng được củng bố, sinh hoa kết quả và đạt tới sự viên mãn trong kế hoạch thông truyền chính Sự Sống của Thiên Chúa ; như trường hợp của hai cha con Abraham và Isaac. Tương quan thân thuộc dựa trên việc thi hành ý muốn của Thiên Chúa làm nên “Gia Đình Mới” mà Đức Giê-su rao giảng, xây dựng và trao ban chính sự sống của mình để nuôi dưỡng và làm cho hoàn tất, được mở ra cho tất cả mọi người.
Dấu chỉ cho việc mở rộng đến vô hạn là chữ “chị” được Đức Giê-su thêm vào, khi nói về Gia Đình mới: “Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”[1] Mẹ của Người Đức Giêsu đang giảng cho đám đông, thì có người chạy vào báo: « Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy! ». Chúng ta có thể hình dung ra đám đông đứng chung quanh Đức Giê-su đông đến độ, Mẹ và anh em của Ngài không thể đến gần được. Như Tin Mừng kể lại, Ngài không tạm ngưng việc giảng dạy để ra gặp Mẹ và người thân; và Đức Giê-su không chỉ không ra gặp, nhưng còn nói những lời như muốn từ chối mẹ và anh em của mình:
Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?
Chúng ta hãy đi vào tâm hồn của Đức Maria: Mẹ muốn nói gì với Đức Giê-su khi đến; và khi sau khi nghe lời của Ngài, Mẹ hiểu và cảm như thế nào? Chúng ta chỉ biết rằng, các Tin Mừng không còn nhắc đến Đức Maria nữa, cho đến khi Đức Giê-su đi vào con đường Thập Giá (x. Ga 19, 25-27; và một cách gián tiếp trong Lc 23,27).
Chắc chắn Mẹ đã ghi nhớ lời này của Đức Giê-su, suy đi nghĩ lại trong lòng và đã hiểu, nên Mẹ đã đi theo Đức Giê-su cách khiêm tốn như một người môn đệ trong tương quan mới và trong Gia Đình Mới của Người, và cũng là Gia Đình mới của Mẹ nữa, vì Mẹ là Mẹ của Đức Giê-su « cách duy nhất » đến độ, Mẹ cũng là Mẹ của mọi người môn đệ Đức Giê-su, trong đó có chúng ta. “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Đang giảng cho đám đông, thì có người chạy vào báo: « Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy! », Đức Giê-su đã mượn cơ hội rất đời thường này để nói cho mọi người và cho chúng ta hôm nay về một kế hoạch thật lớn lao, đó là xây dựng một « Gia Đình Mới », gia đình này không đặt nền trên tương quan huyết thống, nhưng trên việc « lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa » (Lc 8, 21). Thực vậy, khi đó Người rảo mắt nhìn những người đang vây quanh lắng nghe Lời Thiên Chúa, nói ra từ miệng của Người, và nói:
Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.
Như thế, Đức Giê-su đâu có từ chối Mẹ, ngược lại còn tôn vinh Mẹ, bởi vì trong Gia Đình Mới mà Đức Giê-su đang gầy dựng, Đức Maria có một vị trí duy nhất: Đức Maria vừa là mẹ sinh ra Đức Giê-su, vừa là mẹ Đức Giê-su, vì đã lắng nghe và sống Lời Chúa, không chỉ một lần nhưng suốt đời. Mẹ Maria là Mẹ Đức Giêsu hai lần: ơn huệ này là duy nhất, chỉ một mình Mẹ có mà thôi, được làm Mẹ của Đức Giê-su hai lần.
Giáo xứ và nhất là cộng đoàn tu trì, hay rất cụ thể, tất cả chúng ta đang hiện diện nơi đây, chính là hình ảnh Gia Đình Mới của Đức Giê-su: chúng ta không phải là ruột thịt, nhưng bởi việc lắng nghe và sống Lời Chúa, qua đó chúng ta đón nhận Ngôi-Lời vào trong cuộc đời của chúng ta (bởi vì Lời Chúa và Ngôi Vị của Chúa là một), như Đức Maria, chúng ta trở thành anh chị em của Đức Giê-su, và như thế trở thành con của cùng một Mẹ, là Mẹ Maria. Sự qui tụ đang lớn dần ở trong Giáo Hội và nhất là trong mỗi xứ đạo hay trong Hội Dòng của chúng ta là một hình ảnh rất đẹp và cụ thể, nói lên Gia Đình Mới của Đức Giê-su. Vậy, nếu chúng ta xây dựng gia đình mới, xây dựng nhóm, cộng đoàn của chúng ta trên một điều gì khác với Lời Chúa, thì có thể nói, chúng ta đang xây nhà trên cát (x. Mt 7, 24-27).
Ước gì, sự sống mỗi ngày của chúng ta được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa, khởi đi từ con tim biết lắng nghe Lời của Ngài, trong cầu nguyện. Và như thế, như Đức Mẹ, chúng ta sẽ trở thành « người thân » đích thực của Đức Giê-su. Tái sinh trong Gia Đình Mới bằng Lời Chúa
Nhưng, trong thực tế, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm, trở thành anh chị em của nhau trong Chúa qua việc nghe và sống Lời của Ngài, điều này quả không dễ dàng, nhưng có đầy những khó khăn, thách đố, thậm chí những ngang trái, đau đớn nữa. Tuy nhiên, những khó khăn là điều không thể tránh được, vì giữa những người ruột thịt còn khó khăn, huống hồ là chúng ta, vốn từ những gia đình khác nhau, gốc gác, nguyên quán, giáo dục và não trạng khác nhau. Nhưng đó là một lý tưởng rất đẹp và cao quí, đáng cho chúng ta dấn thân và dâng hiến cả cuộc đời để xây dựng.
Để trở thành người con trong một gia đình, chúng ta phải sinh ra. Cũng vậy, để trở thành thành viên trong gia đình mới của Đức Giê-su, chúng ta cũng phải được tái sinh. Và như chúng ta biết, sinh ra đã không dễ, tái sinh càng khó hơn. Hơn nữa, chúng ta không thể tự mình tái sinh được, cũng như chúng ta đã không tự mình sinh ra.
Nghe và sống Lời Chúa không chỉ là điều kiện, nhưng còn có nguồn sự sống làm cho chúng ta tái sinh, bởi vì Lời Chúa đã tạo dựng nên chúng ta, vẫn đang tạo dựng chúng ta và sẽ tái tạo dựng chúng ta để chúng ta trở thành tạo vật mới trong Gia Đình mới của Thiên Chúa. Lời Chúa, Mình và Máu của Chúa, những ơn huệ và nhất là ơn tha thứ của Chúa, tái sinh chúng ta, tái tạo con tim chúng ta và làm cho chúng ta trở thành con người mới trong Gia Đình Mới của Chúa. Những ơn huệ này Chúa vẫn ban cho chúng ta cách quảng đại nơi Thánh Lễ, để tái sinh chúng ta mỗi ngày cho Chúa và cho những người thân yêu của Chúa, trong đó Đức Maria, Mẹ của chúng ta.
Lời bài hát « Như hơi thở mong manh » (Comme un souffle fragile), của Pierre Jacob diễn tả rất hay ơn tái sinh bởi Lời Chúa:
Lời Chúa là sự sinh ra, như ta ra khỏi chốn tù đày.
Lời Chúa là hạt giống nhỏ, hứa hẹn cả mùa gặt bao la. Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
[1] Một số bản văn Hi-lạp không có chữ “chị” trong lời của người đến báo với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy…”, giống như lời tường thuật của thánh Mát-thêu và thánh Luca (x. Mc 3, 32; Mt 12, 47 và Lc 8, 20).
46Người còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. 47Có kẻ thưa Người rằng: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy."48 Người bảo kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? "49 Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 50Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi."
Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi (Mt 12,50)
Suy niệm:
William Barlay, một học giả Kinh Thánh nổi tiếng người Anh đề nghị sửa một dấu trong TN10-B27
William Barlay, một học giả Kinh Thánh nổi tiếng người Anh đề nghị sửa một dấu trong Kinh "Lạy Cha" như sau: Giữa những câu "chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến" và câu "ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" thay vì dấu phết hay dấu chấm phết nên dùng dấu hai chấm, để nêu bật ý nghĩa: Nếu chúng ta vâng theo ý Chúa dưới đất ý Chúa được vâng phục trên trời thì chúng ta sẽ làm cho: danh Chúa cả sáng và Nước Chúa được thống trị mọi nơi.
Ðề nghị trên nhằm mục đích nhấn mạnh sứ mệnh xây dựng Nước Trời giữa lòng xã hội trần thế bằng cách hoàn toàn vâng theo ý Chúa của các tín hữu Kitô.
Bởi lẽ đây là một trong những nội dung quan trọng nhất của sứ điệp Chúa Giêsu rao giảng và cũng là mẫu gương nổi bật nhất trong cuộc đời của Ngài.
"Ai vâng theo ý Cha Ta ở trên trời thì kẻ ấy là anh em Ta, là chị em Ta và là Mẹ Ta".
Tuyên bố câu này, Chúa Giêsu không có ý khước từ mối dây liên lạc và tình mẫu tử giữa Ngài với Ðức Maria. Nhưng Ngài muốn nêu bật một thực tại: Ðức Maria đã trở nên Mẹ Ngài qua câu trả lời: "Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền" và trong suốt cuộc đời, Ðức Maria đã trung tín giữ trọn lời thưa xin vâng này đến giây phút đứng dưới chân thập giá.
Một buổi tối cúp điện, ngọn nến được đem ra đặt ở giữa phòng. Người ta châm lửa và nó bắt đầu lập lòa cháy sáng. Nó hân hoan nhận ra rằng nó đã giúp cho mọi người có ánh sáng. Ai cũng phải trầm trầm trề” Ôi chao, ngọn nến sáng quá, đẹp quá, dễ thương quá.”
Nghe như thế, ngọn nến lại càng nhiệt thành dùng hết sức mình để ánh lừa nhỏ bé của nó đẩy lui được cả bóng tối chung quanh.
Thế nhưng, sáp nóng đã bắt đầu chảy ra, lăn dài dọc theo thân ngọn nến. Nó cảm thấy càng lúc càng bị lùn xuống, ngắn đi, ngắn thêm một chút, rồi lại một chút nữa...
Cho đến khi chỉ còn lại một nửa, ngọn nến giật mình tự nhủ: Chết mất, ta mà cứ cháy sáng mãi thế này thì chẳng mấy chốc ta sẽ tàn lụi mất thôi! Tại sao? Tại sao ta lại phải hy sinh một cách thiệt thòi, oan uổng và ngu dốt như vậy chứ?
Ngần ngừ trong một thoáng, ngọn nến đã quyết định nương theo một cơn gió thoảng để tự mình tắt phụt đi. Tất cả chỉ còn lại một sợi khói mỏng manh giống như một nụ cười mãn nguyện yên tâm...
Mọi người trong phòng chợt nhốn nháo bảo nhau: 'Thôi chết! Tắt mất ngọn nến rồi, tối quá! Làm sao bây giờ?" Ngọn nến chưa kịp cảm thấy tự hãnh vì sự hiện diện quan trọng của mình thì đã có một người bình tĩnh lên tiếng đề nghị: "Nến dễ bị gió thổi tắt lắm, để tôi đi tìm một cái đèn dầu thì bảo đảm hơn!"
Chỉ cần mò mẫm trong bóng tối ít phút, người ta đã tìm và thắp sáng được một cây đèn dầu cũ kỹ. Còn mẩu nến cháy dở ban nãy thì người ta quẳng vào ngăn kéo tủ...
Ngọn nến buồn thiu, thế là từ nay khó mà còn có dịp để được cháy sáng nữa. Nến chợt hiểu ra tất cả:
Đời Tôi là để cháy sáng, cháy sáng đến tiêu tan đi cho mọi người, cho dù tôi chỉ có thể cháy sáng với một ánh lửa nhỏ nhoi, bởi vì tôi là một ngọn nến...
Mừng Lễ Ðức Mẹ dâng mình vào đền thánh, không gì có thể làm đẹp lòng Mẹ hơn là chúng ta học cùng Mẹ để bập bẹ thưa: "Xin vâng!".
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con biết sống xin vâng như Mẹ, để cuộc đời của chúng con có ý nghĩa hơn qua việc biết thưa xin vâng với tâm tình dâng hiến trọn vẹn. Xin cho chúng con quảng đại dâng cho Chúa con người nhỏ bé của mình để Ngài thực hiện những điều đẹp ý Ngài. Amen
Khi ấy, Ðức Giêsu còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy.” Người bảo kẻ ấy rằng: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: “Ðây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Ðấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mt 12, 46-50)
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bị sốc.Đức Giêsu đang giảng cho một đám người TN10-B28
Bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bị sốc. Đức Giêsu đang giảng cho một đám người khá đông. Chắc là họ đứng chen chúc nhau đến nỗi khó lòng đến gần Ngài được. Chính vào lúc này thì mẹ và anh em Ngài đến, không rõ lý do. Họ muốn nói chuyện với Đức Giêsu, nhưng đành phải đứng ở ngoài. Có người vào báo cho Ngài về chuyện đó. Chúng ta tưởng Ngài sẽ ngưng ngay bài giảng để ra gặp mẹ và anh em. Một giọt máu đào hơn ao nước lã. Mẹ Ngài hẳn đã phải đi một đoạn đường xa để đến gặp con trò chuyện. Nhưng lạ thay Đức Giêsu vẫn tiếp tục giảng. Ngài vẫn tiếp tục nói chuyện với đám đông đang nghe Ngài, thay vì đi ra nói chuyện với mẹ. Sự quan tâm của Ngài nhắm vào những người ở trong đây, hơn những người đứng ở ngoài kia. Sau đó Ngài lại đặt những câu hỏi vừa dễ lại vừa lạ: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (c. 48). Dĩ nhiên đó là những người đang đứng ngoài kia, đang chờ được gặp mặt và nói chuyện với Ngài. Nhưng đó không phải là đáp án của Đức Giêsu. Chính Ngài cho ta đáp án bằng cách giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi” (c. 49). Có một gia đình máu mủ đậm đà đứng ở ngoài kia, và một gia đình mới rất thân thương đứng ở trong này. Đức Giêsu không coi thường tình mẫu tử hay tình họ hàng ruột thịt. Điều Ngài muốn nhấn mạnh ở đây là chuyện Ngài có một gia đình mới. Các môn đệ của Ngài thuộc về gia đình này. Họ là mẹ, là anh chị em của Ngài, vì họ thi hành Ý muốn của Cha Ngài. Chính Đức Giêsu là người Con luôn thi hành Ý muốn của Cha. Ai thi hành Ý Cha trên trời cũng trở nên gần gũi với người Con (c. 50). Chúng ta có họ với Đức Giêsu và làm nên một gia đình bao la rộng lớn. Bỗng nhiên chúng ta thấy mình gần Cha, gần Giêsu và gần nhau. Nước Trời bắt đầu đến khi hơn hai tỉ kitô hữu nhận ra là mình cùng muốn làm trọn Ý Cha, cùng gắn bó keo sơn với Giêsu và cùng coi nhau là anh chị em (Mt 23, 8). Đức Giêsu có nhiều anh chị em trong gia đình của Ngài. Các phụ nữ thật là chị em của Ngài, dù xã hội Ngài trọng nam khinh nữ. Đức Giêsu cũng không chỉ có một người mẹ tên là Maria. Bất cứ ai sống theo ý Cha trên trời trong niềm vâng phục phó thác, bất cứ ai sinh Đức Giêsu ra cho môi trường sống của mình, bất cứ ai làm cho Ngài lớn lên trong trái tim nhân loại, người ấy là mẹ Đức Giêsu. Trong gia đình mới là Giáo Hội của Đức Giêsu, Maria đã là Mẹ Đức Giêsu theo ý nghĩa tuyệt vời nhất. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa. Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương, để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa. Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước, đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men được vùi sâu trong khối bột loài người để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh. Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước, nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời, nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian, nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen. Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
19 Mẹ và anh em Đức Giê-su đến gặp Người, mà không làm sao lại gần được, vì dân chúng quá đông. 20 Người ta báo cho Người biết: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy." 21 Người đáp lại: "Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành."
(Nguồn: Ủy Ban Thánh Kinh / HĐGMVN)
"Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành." (Lc 8,21)
Suy niệm:
A. Phân tích (Hạt giống...)
Bài tường thuật cho thấy rõ hai nhóm người khác nhau: a/ Những kẻ đang nghe Chúa Giêsu giảng thì ở TN10-B29
Bài tường thuật cho thấy rõ hai nhóm người khác nhau:
a/ Những kẻ đang nghe Chúa Giêsu giảng thì ở bên trong, gần Ngài, họ còn được Chúa Giêsu mô tả là những kẻ “nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” ; b/ Nhóm kia thì “đứng” ở ngoài và “không thể đến gần Ngài được”. Ý muốn của họ chỉ là muốn “thấy” Ngài (cách dịch sát nghĩa câu 32b) chứ không phải để “nghe” và “thực hành” những Lời Ngài dạy. Nhóm a mới là gia đình thật của Chúa Giêsu. Nếu như không có Đức Maria hiện diện trong nhóm b thì đoạn này rất dễ hiểu. Nhưng vì có Đức Maria cho nên ta cảm thấy hơi khó chịu khi thấy Chúa Giêsu không coi nhóm này là gia đình thật của Ngài. Thực ra không phải Chúa Giêsu phủ nhận tư cách làm mẹ của Đức Maria đối với Ngài. Trái lại đây chính là một cách Ngài đề cao Người: Đức Maria tuy có mặt trong nhóm b nhưng không giống những người trong nhóm đó. Người là kẻ luôn luôn lắng nghe và làm theo Lời Chúa (xem 1,38 “Bấy giờ Maria nói “Vâng, tôi là nữ tì của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” ; 1,45 Lời Êlisabét nói với Maria: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em” ; 2,19 Sau khi các mục tử đến thăm Chúa Giêsu, “Maria hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” ; 2,52 Sau chuyện tìm gặp Chúa Giêsu trong Đền thờ “Mẹ Ngài hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” v.v.): Đức Maria xứng đáng là mẹ thật của Chúa Giêsu bởi vì Người không chỉ làm Mẹ của Ngài về phần xác thịt mà còn vì Người luôn lắng nghe, ghi nhớ và thi hành Lời Chúa. B. Suy niệm (...nẩy mầm) 1. Những bài Tin Mừng trong mấy ngày liên tiếp gần đây đều nhắc nhở việc phải thi hành những Lời của Chúa mà mình đã nghe. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn khuyến khích việc đó bằng cách coi những người thực hành Lời Chúa là gia đình thật của Ngài, thân thiết hơn cả gia đình tự nhiên. 2. Chúa Giêsu không có ý chối bỏ liên hệ ruột thịt đối với Mẹ Ngài và thân thuộc, nhưng muốn mọi người hiểu rằng mối liên hệ quan trọng nhất đối với Ngài là liên hệ đức tin. Bất cứ ai sống theo Lời Ngài, người đó có liên hệ với Ngài. Ai càng sống Lời Ngài, người đó càng kết hợp mật thiết với Ngài… Chúa Giêsu sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ Ngài, là anh em trong gia đình Ngài không phải vì danh hiệu Kitô chúng ta đang có, mà vì những hoa trái Lời Ngài được chúng ta làm trổ sinh trong cuộc sống. Hoa trái ấy chính là hành động của yêu thương, hòa bình, tha thứ, nhẫn nhục. Cuộc sống càng được dệt bằng những hành động ấy, quan hệ giữa chúng ta và Chúa Giêsu càng trở nên mật thiết hơn. ("Mỗi ngày một tin vui") 3. Theo ý nghĩa của đoạn Tin Mừng này, Đức Maria hai lần xứng đáng là Mẹ Chúa Giêsu: Mẹ theo huyết thống và Mẹ của Thân mình mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội. Chẳng những là Mẹ vì đã sinh ra Chúa Giêsu mà còn là Mẹ vì đã thực thi ý Chúa ("Mỗi ngày một tin vui") 4. ” Mẹ và anh em Chúa Giêsu đến gặp Người mà không làm sao lại gần được vì dân chúng quá đông” (Lc 8,19) Thế là chúng tôi đã bỏ lễ ngày Chúa nhật vì đường xa và lầy lội quá. Đi lên Hòa Hiệp vùng biên giới xa xôi, chúng tôi ước ao gặp được một nhà nguyện hay một nhà thờ nho nhỏ. Nhưng đất Hòa Hiệp rất ít người công giáo. Hơn nữa, người dân phải lao động đầu tắt mặt tối để kiếm sống nên không có thời gian đi lễ. Có quá nhiều lý do để người ta không thể dự lễ Chúa nhật dù lòng họ vẫn muốn đến với Chúa. Tôi cảm thấy xấu hổ vì ở gần nhà thờ mà lười biếng đi dự lễ. Tôi tự nhủ: phải siêng năng hơn, vì có những người muốn đi lễ mà không được.
Lạy Chúa, xin cho con biết yêu mến Chúa và tìm mọi cách để đến với Chúa. (Hosanna)
Trong Chúa nhật đầu tiên tại một giáo xứ, vị linh mục vừa nhận chức đã giảng một bài giảng rất văn TN10-B30
Trong Chúa nhật đầu tiên tại một giáo xứ, vị linh mục vừa nhận chức đã giảng một bài giảng rất văn hoa, xúc tích sâu sắc, hùng hồn. Tất cả các tín hữu có mặt hôm ấy cảm thấy rất sốt sắng và phấn khởi. Có lẽ có nhiều người đã dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã ban cho họ một vị linh mục có tài ăn nói: "phun châu nhả ngọc".
Tiếng đồn về cha xứ mới lan mau như lửa cháy, vì thế vào chúa nhật kế tiếp, nhà thờ bỗng trở nên đông đảo hơn các chúa nhật khác. Mọi người nóng lòng chờ đợi cho đến lúc cha giảng. Nhưng cha sở lại giảng một bài gần giống như bài giảng chúa nhật tuần trước đó. Rồi trong thánh lễ chúa nhật thứ 3, 4, kế tiếp đó cũng vẫn một bài giảng đó.
Hội đồng giáo xứ cử người đến hỏi cha xứ xem tại sao cha lại cứ giảng đi giảng lại 1 bài hoài như vậy? Cha ở trả lời:
- Tại sao anh chị vẫn cứ sống như cách đây 6 tuần. Khi nào anh chị em đem áp dụng những gì tôi đã trình bày tôi sẽ giảng bài mới.
TÔNG ĐỒ TRONG GIA ĐÌNH
Gia đình em Cecilia cư ngụ ở mạn bắc nước Itali, trong một xóm lao động nghèo nàn. Từ sáng sớm ba em là một công nhân phải đến sở làm việc và mãi 8 , 9 giờ tối mới về lại nhà. Vì thế, chẳng mấy khi Cecilia được gặp ba. Còn mẹ thì lo việc nội trợ và làm nghề phụ để kiếm chút ít thêm vô ngân quĩ gia đình. Bà rất bác ái, đạo đức. Tuy kinh tế của gia đình chẳng sung túc bao nhiêu, nhưng có gì bà liền san sẻ ngay cho lối xóm. Ai đau ốm, bà biếu thuốc men; áo quần trẻ nhỏ rách, bà bỏ giờ khâu vá hộ; nhà nào có nhu cầu, bà đem hết khả năng giúp đỡ. Cả xóm làng ai cũng quí mến bà, tấm tắc khen bà là người hiền lành, phúc hậu.
Em bé Cecilia mới 6 tuổi đầu mà đã đi học cấp I. Em rất hãnh diện về mẹ và cảm thấy mình đang sống trong một gia đình hạnh phúc, được mẹ qúi mến yêu thương.
Từ 2 năm nay, ở trường học của giáo xứ, em Cecilia được huấn luyện sống lời Chúa, nhìn thấy Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong những người bị áp bức, đau khổ. Em rất ngoan. Em thường hay chia sẻ kinh nghiệm sống với các bạn.
Một hôm, thật bất ngờ như gáo nước lạnh tạt vào mặt, một đứa bạn nói: “Này Cecilia, mẹ mày thật tốt nhưng khốn khổ vô cùng!”
- Sao thế?
- Mày đừng tưởng gia đình mày hạnh phúc, vì ba mày đêm nào về đến nhà cũng say sưa be bét. Ong đánh dập chưởi mắng mẹ mày, hàng xóm nhà nào cũng nghe, mày không tin thì cứ thử rình mà xem!
Câu nói ấy như sét đánh vào tai Cecilia . . . Bao nhiêu giấc mơ xinh đẹp về gia đình phút chốc sụp đổ tan tành. Tất cả hãnh diện đều hóa thành tủi nhục. Quá xấu hổ với bạn, Cecilia đành cuối mặt làm thinh.
Tối hôm ấy, mẹ em cho em ăn sớm như mọi khi, để em có thì giờ học bài, rồi bà đưa em lên gác. Xong kinh tối, bà ôm hôn em, đắp chăn cho em rồi nhẹ nhàng xuống nhà làm việc đợi chồng về cùng ăn cơm một thể.
Nhưng đêm ấy Cecilia chẳng tài nào ngũ được, mà em cũng quyết không ngũ để xem câu chuyện
Nhưng dêm ấy Cecilia chẳng tài nào ngũ được, mà em cũng quyết không ngủ để xem câu chuyện các bạn nòi hối chiều có đúng không. Em cứ trằn trọc thao thức cho đến khi tiếng chuông gọi cửa vang lên. Cecilia nghe rõ tiếng mẹ ra mở cửa. Vứt chăn cách mau lẹ, em rón rén bước nhẹ từng bước đi xuống thang gác nép kĩ sau bức màn và hồi hộp theo dõi. . .
Một cảnh hải hùng đang diễn ra trước mắt Cecilia: ba em đầu tóc rối bù, hơi thở sặc mùi toàn rựơu. Ong ném mạnh mũ và áo xuống nền nhà; bà mẹ dịu dàng thu nhặt cất vào tủ, vui vẻ dọn bàn mời chồng ăn tối. Đôi mắt đỏ ngầu, ông trợn trừng nhìn bà chê lui chê tới, rồi tuôn ra hàng loạt lời mắng chửi như điên. Bà mẹ cúi mặt làm thinh, vừa ăn vừa khóc. Lát sau, ba Cecilia lùa nguyên cả mâm cơm xuống nền nhà, chén bát vỡ tan tành, đố ăn chảy lênh láng. . .cũng chưa vừa ý, ông còn tặng vợ những cú đá tàn nhẫn.
Sau bức màn, Cecilia chết lịm. Em thầm thì: “ thôi đúng rồi, tụi bạn đâu có nói oan. . . cả lối xóm đều biết. . .Khốn nạn quá!”.
Gượng đứng dậy, Cecilia rón rén trở lên gác.
Hôm sau, bi kịch ấy lại tái diễn trước mắt Cecilia. . .Tuy thế, sáng nào Cecilia thấy mặt mẹ cũng tươi, nén lòng lao mình vào công việc phục vụ đàn con nhỏ. Riêng Cecilia thì tâm thần bấn loạn, lòng dạ đau xót. Em suy nghĩ, cầu nguyện, nhớ lại lời Chúa và thương mến mẹ vô cùng, thấy bà tuy đau khổ vì chồng nhưng vẫn một mực thương yêu trọng kính. Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi trong ba. Cecilia xác tín được điều đó. Em băn khoăn suy nghĩ hoài, nhưng chẳng biết làm sao. Cuối cùng, Chúa soi sáng cho em một diệu kế rất hay.
Từ nay tối nào Cecilia cũng nằm thức đợi ba. Vừa nghe tiếng chuông, em liền chạy ra cửa đón ba, ôm hôn ba, cất áo mũ cho ba. Vừa kéo ghế cho ba ngồi, em quay sang giúp mẹ dọn bàn. Trong suốt bữa ăn, em cứ ngồi kề bên ba ríu rít kể những chuyện vui ở trường, hỏi thăm ba công việc ở sở. Thoạt đầu, ba em rất lấy làm lạ, càu nhàu, khó chịu, nhưng dần dần cũng đành chịu thua con, thấy trong lòng vui vui. . . Nhiều lúc Cecilia đứng giữa nhà hát cho ba nghe các bài hát ở trường em. Ông thích thú lắm . Bầu khí gia đình ngày càng nhẹ nhàng, dễ chịu. Mỗi lần ông bảo: “Cecilia đi ngủ đi, để sớm mai còn dậy sớm đến trường”. Cecilia đều nũng nịu: “Con thương ba nhọc mệt cả ngày, con muốn ngồi mãi với ba”. Tuy vẫn còn ngà ngà say, ông cũng lấy làm cảm động vì câu nói đơn sơ của con, đoạn choàng tay ôm hôn con một cách âu yếm.
Ba tháng trôi qua, bi kịch ngày xưa đã lui vào dĩ vãng. Một hôm , như thường lệ, ba Cecilia bảo:
“ Đi ngủ đi, mai còn dậy sớm đến trường mà con “,
Cecilia âu yếm ôm choàng lấy ba và nói:
“ Ba ơi, ba biết tại sao con không đi ngủ không?”
“ Ba chả biết! Con thức vớ vẩn làm gì cho hại sức khỏe”
“Không đâu ba ạ! Nếu ba má thương con, ba má cho phép con nói nhé! Má đừng mắng con”
“Ừ, nói đi ba, má nghe thử”
Cecilia đánh bạo thuật lại cách đơn sơ làm sao em đã bị xúc động và tủi nhục trước câu nói của một người bạn, rồi hằng đêm, sau bức màn che, em đã chứng kiến tất cả. . .Cecilia thú thật là em thương ba má lắm. Em thấy Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong ba. Vì thế em muốn mang Chúa đến cho ba má, yêu thương người đang bị bỏ rơi trong ba má. . . Nên mấy tháng nay, em đã thi hành diệu kế như trên, Càng nghe hai ông bà càng cảm xúc. Họ mừng mừng tủi tủi, không ngờ con bé khôn ngoan đạo đức đến vậy. Ba má Cecilia ôm siết lấy con, nghẹn ngào nhìn nhau. . . Lát sau ba Cecilia mới thốt nên lời: “ Từ nay con phải đi ngủ sớm nghe không! Ba hứa với con. Ba má sẽ hòa thuận , thương yêu nhau. Ba má cũng sẽ tìm hiểu và sống Lời Chúa như con. Ba má yêu thương con lắm!. . .
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho con biết yêu mến Chúa và tìm mọi cách để đến với Chúa. (Hosanna)
(Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Xem thêm:
Bài đọc 1: Er 6,7-8.12b.14-20
7 Hãy để cho tổng trấn của người Do-thái và các kỳ mục Do-thái lo việc xây cất Nhà Thiên Chúa, họ phải tái thiết Nhà Thiên Chúa ở chỗ cũ. 8 Đây là lệnh ta ban cho các ngươi về cách đối xử với hàng kỳ mục Do-thái trong việc tái thiết Nhà Thiên Chúa: phải lấy tiền bạc của nhà vua trích từ thuế thu được ở Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát, mà cung cấp đầy đủ các chi phí cho những người đó, không được gián đoạn. 12b Chớ gì Thiên Chúa, Đấng đã đặt Danh Người ngự tại đó, lật đổ bất cứ vua hay dân nào dám vi phạm sắc chỉ này mà tra tay phá huỷ Nhà Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem. 14 Hàng kỳ mục Do-thái tiếp tục xây cất và thành công trong việc đó, theo lời sấm của ngôn sứ Khác-gai và của ông Da-ca-ri-a con ông Ít-đô. Họ hoàn thành công việc xây cất đúng theo lệnh của Thiên Chúa Ít-ra-en và lệnh của vua Ky-rô, vua Đa-ri-ô, và vua Ác-tắc-sát-ta vua Ba-tư. 15 Nhà đó được xây xong ngày mồng ba tháng A-đa, năm thứ sáu triều vua Đa-ri-ô. 16 Con cái Ít-ra-en, các tư tế, các thầy Lê-vi và những người lưu đày trở về, hân hoan cử hành lễ khánh thành Nhà Thiên Chúa. 17 Để khánh thành Nhà Thiên Chúa, họ đã dâng một trăm con bò, hai trăm con cừu đực, bốn trăm con chiên, và bắt mười hai con dê đực, theo số các chi tộc Ít-ra-en, làm lễ tạ tội cho toàn thể Ít-ra-en. 18 Họ thiết lập hàng tư tế theo các phẩm trật của họ, và các thầy Lê-vi theo các cấp bậc của họ, để phục vụ Thiên Chúa tại Giê-ru-sa-lem, như đã chép trong sách Mô-sê.
19 Những người đi đày trở về cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn tháng thứ nhất. 20 Các thầy Lê-vi, trăm người như một, đã thanh tẩy mình: tất cả đều thanh sạch, nên họ đã sát tế chiên Vượt Qua cho những người đi đày trở về, cho anh em của họ là các tư tế, và cho chính họ.
46Người còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. 47Có kẻ thưa Người rằng: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy." 48Người bảo kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?" 49Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 50Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi."
Phàm ai thi hành ý muốn của Cha Tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em Tôi, là mẹ Tôi (Mt 12, 50)
Suy niệm:
Phân tích
Thái độ và lời nói của Chúa Giêsu trong chuyện này nhằm đề cao những người lắng nghe và làm theo Lời Chúa. TN10-B31
Thái độ và lời nói của Chúa Giêsu trong chuyện này nhằm đề cao những người lắng nghe và làm theo Lời Chúa. Chúa quý trọng họ hơn những người có liên hệ huyết nhục với Ngài nữa.
Suy gẫm
1. Chúa Giêsu cũng là người như chúng ta, nên Ngài cũng có một gia đình tự nhiên, Ngài yêu mến cha mẹ, anh chị em bà con. Nhưng Ngài còn một gia đình thiêng liêng đó là những môn đệ và những kẻ nghe lời Ngài giảng dạy. Điều đặc biệt là Ngài quý trọng gia đình thiêng liêng này hơn gia đình tự nhiên kia.
Tôi thuộc về gia đình thiêng liêng của Chúa. Tôi được Chúa yêu thương hơn cả những người ruột thịt của Ngài. Thật là hạnh phúc. Cám ơn Chúa.
2. Nhưng để xứng đáng với tình yêu thương ấy. Tôi phải lắng nghe Lời Chúa và làm theo ý Cha.
Hơn ai hết, Đức Mẹ là gương mẫu lắng nghe và thi hành ý Chúa, cho nên Đức Mẹ vừa thuộc gia đình tự nhiên vừa thuộc gia đình thiêng liêng của Chúa.
Xin Đức Mẹ dạy con noi gương Đức Mẹ.
3. Lắng nghe Lời Chúa và làm theo ý Chúa phải đi đôi với nhau, bởi vì nghe không phải để bỏ qua mà để thi hành. Mỗi tuần, mỗi ngày tôi đều có nghe Lời Chúa. Nhưng xét kỹ xem tôi có “lắng nghe” không, và có cố gắng thi hành ít là một phần nào đó không.
4. Kitô giáo vốn là đạo của Lời. Thiên Chúa nói với con người, đó là mặc khải nền tảng của Thánh Kinh. Thiên Chúa nói với con người bằng muôn ngàn cách thế, nhưng thinh lặng là cách thế quan trọng nhất. Chính trong thinh lặng của cõi lòng mà Thiên Chúa nói với con người; chính trong thinh lặng của thiên nhiên và các biến cố mà Thiên Chúa nói với con người. Do đó, chính trong thinh lặng, con người mới nghe được lời của Ngài.
Những dòng trên khuyến khích tôi xét lại sự thinh lặng nội tâm của tôi. Mỗi ngày tôi thực sự thinh lặng bao nhiêu phút? Nhiều khi tôi im lặng chứ không phải thực sự thinh lặng nội tâm.
Lạy Chúa, giữa muôn ồn ào náo động của cuộc sống, xin cho con giữ được sự thinh lặng trong tâm hồn, để luôn lắng nghe được Lời Chúa, và nhất là nhận ra được tiếng Chúa trong mọi quan hệ của con.
5. “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12,50).
Người thanh niên đến gặp Chúa Giêsu trên con đường Ngài cùng môn đệ dấn bước. Ngài đã nhìn anh và đem lòng mến yêu.
Con chợt rung động dưới ánh mắt của Chúa. Xin cho cái nhìn của tôi dừng lại với những thành kiến hẹp hòi, chẳng dừng lại nơi những cao ngạo phô trương, nhưng cứ vút xa mãi, vượt quá lớp sương mù để chiếu vào tậm cõi thâm sâu, để nhìn thấy hình ảnh Cha đang ẩn mình trong mỗi tâm hồn. Cái nhìn không bị bó hẹp trong khuôn khổ một gia đình nhỏ bé tự nhiên, nhưng vượt quá những khác biệt, những bức tường ngăn cách, những liên hệ máu mủ ruột thịt, để sống tuân phục như định nghĩa của tình yêu, để thiết lập những dây leo tình thương liên kết mọi tâm hồn nhân loại trong gia đình rộng lớn của Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin dạy con biết sống như người anh em của Chúa, bằng sự hiện diện đầy dẫy yêu thương tích cực trong lòng Giáo Hội và giữa mọi người anh em. Amen.
Tin mừng hôm nay kể lại một câu chuyện gây sốc. Một câu chuyện mà nếu chỉ nhìn hời hợt bên ngoài TN10-B32
Tin mừng hôm nay kể lại một câu chuyện gây sốc. Một câu chuyện mà nếu chỉ nhìn hời hợt bên ngoài thì độc giả sẽ thấy buồn: Tại sao Đức Giê-su lại có những lời lẽ lạnh lùng như thế với Mẹ và anh em đang kiếm tìm Người. Người dường như chẳng quan tâm tới họ đang khi họ quan tâm đến Người. Mẹ Maria chắc chắn đã phải trải qua hành trình vất vả để đến với Người. Nhưng đáp lại sự thông báo về sự hiện diện của Mẹ, Đức Giê-su lại phán một câu mà tin mừng Mat-thêu ghi lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (x. Mt 12, 48) và ở Luca: “Mẹ và anh em tôi là những người nghe và thực hành lời Thiên Chúa” (Lc 8,21). Hành động như thế của Ngài thật quá đáng. Có phải Ngài quá thiêng liêng và chối bỏ những tương quan mang tính huyết nhục thế trần?
Tuy nhiên, khi nhìn xuyên suốt tin mừng thì lòng tôi lại thấy khấp khởi mừng. Câu chuyện mang vẻ bề ngoài gây sốc kia lại có một ý nghĩa sâu xa, đem lại cho tôi một niềm vui và hy vọng. Vì hơn ai hết, Đức Giê-su biết rõ Mẹ của Người, một con người luôn lấy thánh ý Thiên Chúa làm kim chỉ nam hướng dẫn đời mình; Do đó, trong tình huống này, Ngài không hề có ý lạnh nhạt hay chê bỏ Mẹ hay anh em Ngài; nhưng trong khuôn mẫu đó, Đức Giê-su đã mở rộng gia đình của Người; từ nay, tất cả mọi người biết nghe và thực hành Lời Thiên Chúa đều là anh em Người và mẹ của Người – Như Đức Maria hằng lắng nghe lời Thiên Chúa, suy đi nghĩ lại trong lòng, sẵn sàng vâng theo thánh ý của Người như một nữ tì trung tín (x. Lc 1, 38; 3,51)
“Mẹ và anh em tôi là những người nghe và thực hành lời Thiên Chúa”.
Lắng nghe! Là thái độ biểu lộ mối quan tâm, sẵn sàng mở lòng ra để hiểu, để đón nhận, để cảm thông, để chia sẻ và để đáp ứng…Vì thế, lắng nghe là thái độ của tình yêu. Sách xuất hành nói đến việc Thiên Chúa nghe thấy tiếng rên siết, kêu than của con cái Hip-ri dưới ách nô lệ người Ai cập. Người đã nghe, đã xót thương và đã sai tôi tớ Người là ông Mô-sê giải thoát họ (x. Xh 2,2 tt). Người đã ký kết giao ước với họ tại Si-nai, trong đó Người hứa sẽ bảo vệ và chúc phúc cho dân và dân hứa sẽ nghe và thực hành lời Người (x, Đnl 4,13; 7,27 tt). Việc nghe và thực hiện lời Người sẽ bảo đảm sự an ninh, thịnh vượng và hạnh phúc của họ. Như thế sự lắng nghe và thực hiện lời Thiên Chúa như một đáp trả tình yêu cho tình yêu; như là phương thế tuyệt diệu để con người hoàn trọn mục đích đời mình.
Trong tình yêu thương quan phòng, Thiên Chúa vẫn luôn lên tiếng. Người đã bày tỏ chính mình và ý định của Người qua vũ trụ, qua thiên nhiên, qua các Ngôn sứ, qua các biến cố lịch sử, và đặc biệt qua người con rất yêu dấu của Người – Đức Giê-su Ki-tô. Sự hiện diện của Người, tiếng nói của Người mời gọi khi cấp bách dữ dội như “khói bốc lửa thiêu” (Xh 20,18…), khi nhẹ nhàng tha thiết như ngọn gió thoảng (x. 1V 19,12), nhưng cũng vẫn rất quyết liệt vì đó là lựa chọn giữa sống – chết của con người. Người ta có thể đặc biệt nghe thấy tiếng của Người trong tĩnh lặng, nơi sâu thẳm tâm hồn – vì lời Người là Lời của tình yêu. Đồng thời người ta cũng có thể nghe được tiếng nói của Người xuyên qua các biến cố trong cái nhìn đức tin và thái độ sẵn sàng lắng nghe. Thiên Chúa luôn quan tâm và yêu thương con người. Người luôn lắng nghe tiếng họ kêu xin, giãi bày, tâm sự… đồng thời Người mời gọi con người lắng nghe Người để được an ủi, hướng dẫn, biết được cách hành động đúng đắn theo thánh ý của Người hầu được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống.
Tôi đã được hồng phúc sinh ra trong bí tích rửa tội, đã được diễm phúc gọi Thiên Chúa là Cha, đã được làm em của Đức Giê-su Ki-tô – vì Người chính là ‘trưởng tử giữa một đàn em đông đúc’ (x. Rm 8, 28 – 29 ). Nhưng tôi phải tự cật vấn chính mình: Tôi có phải là người con hiếu thảo của Thiên Chúa không? Tôi có lắng nghe Chúa, tìm kiếm thánh ý Người để thi hành trong tình yêu hay tôi như đứa con đi hoang từ chối tình yêu của Cha; hoặc như người con sống trong nhà Cha với tư thế của người nô lệ, không nhận ra tình yêu của Cha dành cho mình? Hãy để cho lời Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô trong tin mừng cật vấn và hướng dẫn cuộc sống của tôi, để tôi trở nên người con đích thực của Thiên Chúa và để tôi cảm nhận được hạnh phúc được làm con Chúa.
Lạy Chúa Giê-su, Giữa muôn vàn xao động của trần gian, Giữa vô vàn hấp tấp, vội vã đua chen của con người, Giữa bao cơn sóng dữ của cuộc đời, những vòng xoáy của cải, danh vọng, quyền lực và đam mê lạc thú, Xin cho con biết dành thời gian cho những điểm dừng, lắng đọng tâm hồn để nghe được tiếng Chúa. Xin cho con không bao giờ mất phương hướng vì có Lời Chúa là kim chỉ nam, là chiếc la bàn hướng dẫn cuộc đời. Lạy Chúa, xin cho con luôn trung thành lắng nghe tiếng Chúa, Và xin ban thêm nghị lực, lòng can đảm và tình yêu để con dám lội ngược dòng, dám thực thi lời Chúa dạy con. Chớ gì con luôn xây dựng đời mình trên nền tảng là Lời của Chúa. Amen.
(Suy niệm Mc 3, 22-30 - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy niệm
Thân nhân của Đức Giêsu đã tưởng Ngài bị mất trí (c. 21), nhưng có thể họ không nghĩ Ngài bị TN 10-B33
Thân nhân của Đức Giêsu đã tưởng Ngài bị mất trí (c. 21), nhưng có thể họ không nghĩ Ngài bị quỷ ám, dù trong thế giới ngày xưa, mất trí thường bị coi là do quỷ ám. Các kinh sư đến từ thủ đô Giêrusalem có thái độ quyết liệt hơn nhiều. Họ tố cáo Đức Giêsu là người bị quỷ ám, không phải quỷ thường, mà là quỷ vương Bêendêbun. Hơn nữa, họ cho rằng Ngài trừ quỷ nhờ dựa thế của quỷ vương (c. 22). Lời tố cáo trên đây của những kinh sư thật là nghiêm trọng, vì ai dựa thế như vậy là thông đồng với quỷ, có thể bị xử tử. Đức Giêsu đã trả lời tố cáo này bằng hai hình ảnh về Nước và Nhà. Đức Giêsu nhìn nhận sự hiện diện và hoạt động của Nước Xatan trong thế gian này. Nước này có tôn ti trật tự, được lãnh đạo bởi quỷ vương, đó là Xatan hay Bêendêbun, kẻ cầm đầu các quỷ nhỏ (c. 22). Xatan muốn bành trướng Nước của mình trong thế giới loài người. Nó sai các quỷ nhỏ đi khắp nơi lôi kéo mọi người chẳng trừ ai. Theo thánh Inhaxiô, Xatan thường cám dỗ ta theo ba bước: từ sự ham muốn của cải, đến hư danh thế gian, và cuối cùng là kiêu ngạo, rồi sau đó đi đến mọi nết xấu khác (Linh Thao 142). Như thế Xatan khôn khéo đánh bẫy và trói buộc con người. Đức Giêsu đã không bắt tay với Xatan để đuổi các quỷ cấp dưới. Ngài tấn công trực diện vào Nước của Xatan, phá đổ Nước này và khai mở Nước Thiên Chúa (Lc 11, 20). Cuộc chiến không dễ dàng và còn kéo dài đến tận thế. Thế giới hôm qua cũng như hôm nay được ví như một ngôi nhà. Tiếc thay ngôi nhà đó ít nhiều đã bị Xatan cưỡng đoạt. Xatan chính là kẻ mạnh đã biến ngôi nhà đó thành của mình (c. 27). Nhưng Đức Giêsu lại là người mạnh hơn (Mc 1, 7). Người mạnh hơn đã trói kẻ mạnh lại và tước đoạt những gì nó đã chiếm. Tước đoạt chính là giải thoát những ai bị Xatan cầm giữ, và trả lại cho họ quyền làm chủ đời mình, quyền sở hữu căn nhà của họ. Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục tấn công Xatan. Ngài không ngừng chinh phục thế giới này cho Thiên Chúa, và mời chúng ta cộng tác để xây dựng Nước Chúa trên trần gian. Nhờ Thánh Thần của Thiên Chúa mà Đức Giêsu trừ quỷ (Mt 12, 28), nên ai bảo Ngài trừ quỷ nhờ quỷ vương Xatan hay Bêendêbun, thì xúc phạm đến Thánh Thần, coi Thánh Thần như thần ô uế (c. 30). Đức Giêsu không phải là người có thần ô uế. Ngài có đầy ắp Thánh Thần trong mọi lời nói việc làm. Chỉ ai cố chấp, bướng bỉnh mới không nhận ra điều đó. Mọi tội lỗi đều có thể được thứ tha (c. 28), trừ tội khép lòng từ chối ơn tha thứ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Làm sao giúp con người hôm nay mềm mại mở ra để nhận thấy Thánh Thần vẫn đang hiện diện trong Giáo Hội?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, dân làng Nazareth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người, Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối, trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn. Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin. Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
(Suy niệm Mc 3,31-35 - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy niệm
Các thân nhân của Đức Giêsu nghĩ Ngài bị mất trí, vì họ nghe tin Ngài và các môn đệ làm việc TN 10-B34
Các thân nhân của Đức Giêsu nghĩ Ngài bị mất trí, vì họ nghe tin Ngài và các môn đệ làm việc nhiều đến nỗi không có giờ ăn. Các kinh sư từ Giêrusalem xuống thì kết luận rằng Ngài đã thông đồng với tướng quỷ để trừ quỷ. Còn đám đông dân chúng lại ngồi nghe Ngài giảng trong nhà. Hơn ai hết, họ biết Đức Giêsu là ai. Chính lúc ấy mẹ và anh em của Ngài đến và đứng ngoài. Họ không vào được, có thể vì đám đông ngồi chật cứng. Nhưng họ đã nhờ người nhắn với Đức Giêsu. ”Mẹ Thầy và anh em Thầy đang ở ngoài, tìm gặp Thầy đó.” Rốt cuộc chắc ai cũng biết là Thầy có người thân đến thăm. Người ta tưởng Ngài sẽ bỏ dở bài giảng để ra ngay gặp họ. Nhưng Đức Giêsu lại muốn dùng cơ hội này để nói với đám đông đang ngồi nghe một điều quan trọng. Ngài đặt cho họ một câu hỏi tưởng như vô nghĩa: ”Ai là mẹ tôi và là anh em tôi?” Dĩ nhiên là những người đang đứng ngoài kia rồi. Nhưng không, Ngài đảo mắt nhìn những người đang ngồi, và nói với họ: “Đây là mẹ tôi và anh em tôi.” Với lời khẳng định này, Đức Giêsu loan báo về gia đình mới của Ngài. Có những người thân yêu cùng máu mủ đứng ngoài kia. Có một gia đình mới đang ngồi trong này. Đức Giêsu không coi thường hay loại bỏ gia đình ruột thịt. Nhưng Ngài cho thấy Ngài còn có một gia đình lớn hơn nhiều, một gia đình gồm những người rất khác nhau về nhiều mặt, nhưng lại có một mẫu số chung, một điểm giống nhau, đó là cùng muốn thi hành ý Thiên Chúa trong cuộc sống. Đức Giêsu đã rời bỏ gia đình để lên đường loan báo Tin Mừng. Và Ngài cũng đã mời gọi các môn đệ của mình như thế. Đức Giêsu để lại người mẹ, Phêrô để lại người vợ, Gioan và Giacôbê để lại người cha. Tương quan gia đình ruột thịt là điều cao quý thiêng liêng. Nhưng nó lại không được trở nên một cản trở cho sứ vụ. Đức Giêsu đã khai mở một đại gia đình mới cho mọi người: ”Bất cứ ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa người ấy là mẹ tôi, là anh em và chị em tôi.” Khi thực thi ý Thiên Chúa muốn, người ta trở nên có họ với Đức Giêsu. Người kitô hữu chúng ta vui sướng được thuộc về gia đình này, có người Mẹ là Đức Maria suốt đời tín trung sống ý Chúa, có Đức Giêsu là Anh Trưởng, người Con luôn sống đẹp lòng Cha, và có bao anh chị em khác đã dám đặt ý Chúa lên trên mạng sống.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, những hạt cải Chúa gieo vãi cách đây hai ngàn năm nay đã trở thành cây cao cho chim trời rủ nhau trú ngụ. Nhúm men nhỏ bé được Chúa vùi vào khối bột, đã làm bột dậy lên, để trở nên tấm bánh thơm ngon cho thế giới. Sau hai mươi thế kỷ, các môn đệ Chúa không còn là nhóm Mười Hai bé nhỏ. Hôm nay, các kitô hữu chiếm gần một phần ba, người công giáo chiếm hơn một phần sáu dân số thế giới. Chúng con được mời gọi xây dựng Nước Chúa trên trần gian, cho đến khi tất cả mọi người nhận biết và tin yêu Chúa. Xin cho chúng con đừng mặc cảm vì người công giáo chỉ là thiểu số trên quê hương Việt Nam, nhưng xin cho chúng con mạnh dạn làm chứng cho Chúa trong việc xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ. Hôm nay chúng con phải tiếp tục làm việc như Chúa, gieo hạt giống để làm nên những cánh rừng, trở nên chất xúc tác để biến đổi môi trường mình sống. Và chúng con biết rằng sớm muộn cũng sẽ thành công vì tin Chúa vẫn cần cù làm việc với chúng con. Amen.
(Suy niệm Mc 3,31-35 – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cuộc đón rước Hòm Bia thật long trọng. Đa-vít ca hát nhảy múa hết mình. Và dâng lễ vật trọng TN 10-B35
Cuộc đón rước Hòm Bia thật long trọng. Đa-vít ca hát nhảy múa hết mình. Và dâng lễ vật trọng hậu lên Thiên Chúa: “Khi những người khiêng Hòm Bia của Đức Chúa đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo. Vua Đa-vít quấn ê-phốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan Đức Chúa”. Việc dâng lễ vật tuy trọng hậu, nhưng chỉ rời rạc. Không qui tụ được toàn dân. “Rồi toàn dân ai nấy về nhà mình” (năm chẵn).
Dâng lễ vật theo Lề Luật, dù trọng hậu đến đâu, dù dâng suốt năm này qua năm khác, vẫn không thể tha tội. Vì chung qui cũng chỉ là dâng súc vật. Còn Chúa Giê-su chỉ dâng một lần là đủ tha các tội. Vì Chúa dâng chính thân mình. Và dâng hiến để tỏ lòng vâng phục Chúa Cha. Là con, Chúa nhận thân thể từ Chúa Cha. Nên dâng lại cho Chúa Cha chính thân mình nói lên tình liên hệ cha con sâu xa thắm thiết biết bao. “Khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài…Theo đó, chúng ta được thánh hoá, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ”. Vì thế Người dâng hiến thân mình để qui tụ tất cả chúng ta (năm lẻ).
Chúa Giê-su đã hiến dâng thân mình để trở thành người con hiếu thảo. Việc vâng phục thánh ý Chúa Cha gây dựng một gia đình Thiên Chúa. Nhờ đó Người qui tụ chúng ta về gia đình Thiên Chúa. Người trở thành Anh Cả của một đàn em đông đúc. Trở thành Trưởng Tử dẫn gia đình về với Thiên Chúa. Gia đình Thiên Chúa không còn là liên hệ huyết thống với con người, nhưng là liên hệ thiêng liêng với Thiên Chúa. Như Chúa Giê-su đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa để trở thành người con hiếu thảo, tất cả những ai tuân hành thánh ý Thiên Chúa, đều trở thành người trong gia đình Thiên Chúa. Trở thành ruột thịt với Chúa Giê-su: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chúng quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”.
Xin cho con biết tự hiến thân mình làm của lễ. Để con trở thành anh chị em của Chúa.
Trình thuật của sách Sáng Thế mà chúng ta nghe trong Bài đọc I như một trang sử buồn của nhân TN 10-B36
Trình thuật của sách Sáng Thế mà chúng ta nghe trong Bài đọc I như một trang sử buồn của nhân loại. Đó là câu chuyện về việc hai ông bà, Ađam và Evà, trái lệnh Chúa mà ăn trái cấm. Chúa cho ông bà được ăn mọi trái cây trong vườn, chỉ trừ một loại trái cây ở giữa vườn. Theo lẽ thường, thứ gì bị cấm thì lại hấp dẫn gợi thèm. Càng cấm thì người ta lại càng tò mò muốn xem muốn biết. Hai ông bà đã bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa mà ăn trái cấm. Ấy vậy mà sau khi đã vi phạm điều cấm, Chúa đặt câu hỏi, thì con người lại đổ lỗi cho nhau. Khi Chúa đặt câu hỏi: Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn không? Ông Ađam đã trở lời rất vô trách nhiệm: “Người đàn bà Ngài đã cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”. Đổ lỗi cho người đàn bà là đổ lỗi cho Chúa, vì chính Chúa đã cho ông Ađam người đàn bà làm vợ. Ađam làm như mình chẳng có lỗi gì. Lỗi này là do người đàn bà, và suy cho cùng là do Chúa, vì chính Chúa đã cho ông người đàn bà này, là nguyên nhân của sự bất tuân. Theo tâm lý thông thường, con người vốn không can đảm và khiêm tốn nhận những việc xấu họ đã làm. Họ thường đổ lỗi cho người khác, thậm chí đổ lỗi cho ông Trời, cho Chúa. Tác giả sách Sáng thế vừa ẩn ý khôi hài vừa mỉa mai: thế là cuối cùng con rắn là phải chịu tội nặng nhất. Con rắn bị Chúa kết án nặng nề. Án lệnh này mang tính truyền kiếp, vì đã cám dỗ loài người.
Tuy vậy, dù tội lỗi có ngập tràn và bản án có khắt khe, Thiên Chúa vẫn luôn thương xót con người, vì bản chất của Ngài là Tình Yêu. Chính trong lời tuyên án dành cho con rắn, Thiên Chúa đã nói tới một viễn tượng xa xôi, khi mà dòng giống người phụ nữ sẽ đạp dập đầu con rắn, và con rắn sẽ rình cắn gót chân người phụ nữ ấy. Nhãn quan Kitô giáo nhận ra đây là hình ảnh Đức Trinh nữ Maria, người phụ nữ mới, người sẽ sinh ra Đức Giêsu Kitô Đấng cứu nhân độ thế. Được nuôi dưỡng và khích lệ bởi truyền thống ngôn sứ, lời hứa Thiên Sai lớn dần nơi tâm thức mỗi người Do Thái. Ước mong Đấng Thiên Sai được diễn tả trong mỗi lời kinh, mỗi hơi thở của người Do Thái đạo đức, với niềm hy vọng chắc chắn: Chúa sẽ giải phóng Dân Ngài.
“Ađam, ngươi đang ở đâu?”. Hôm nay Chúa đang đặt ra cho mỗi người chúng ta câu hỏi này. Đây là câu hỏi gợi nhắc về tình trạng tâm hồn, về lối sống, về đối nhân xử thế và về trách nhiệm của mỗi người đối với những lời nói và việc làm của mình. Quả vậy, trong một xã hội mà mọi thành viên đều liên đới với nhau trong đau khổ cũng như trong hạnh phúc, trách nhiệm của con người ngày càng trở nên quan trọng và ảnh hưởng thiết thực đến đời sống hằng ngày. Con người không phải là ốc đảo riêng rẽ độc lập, nhưng liên kết với nhau, như nhiều giọt nước làm nên dòng sông, nhiều cây làm nên rừng, nhiều âm thanh tạo nên bản nhạc để làm vui cho đời. Mỗi chúng ta hãy lắng nghe câu hỏi của Chúa rồi tìm ra câu trả lời: Tôi ở đâu trong mối tương quan với Chúa, trong mối tương quan với anh chị em. Tôi ở đâu trong một gia đình, một lối xóm, một cộng đoàn đức tin và một xã hội? Đâu là hình ảnh mọi người có về tôi? Là người thân thiện dễ mến hay là người ích kỷ lạnh lùng?
“Ngươi đã làm gì thế?”. Đó là câu hỏi Chúa đặt ra với người phụ nữ. Chúa ưu ái hai ông bà, cho hưởng mọi điều tốt đẹp trong vườn địa đàng. Ấy vậy mà ông bà không hài lòng với những gì Chúa ban. Hai ông bà còn đòi nên giống như Chúa. Hai ông bà cũng nghi ngờ lòng thương xót và tình yêu thương của Ngài. Hôm nay Chúa cũng đã đặt ra với mỗi người chúng ta câu hỏi đó, mời gọi chúng ta hãy nghiêm túc nhìn lại cách sống và hành động của mình. Con người quá cao ngạo, khi đạt được điều mình mong muốn thì quên cả Chúa, thậm chí muốn thay thế Ngài. Đó là cơn cám dỗ nghiêm trọng trong thời đại văn minh hôm nay. Con người cậy vào những phát minh khoa học, sự phát triển của kỹ thuật, để tự cho mình có thể thay thế Thượng Đế. Họ quên rằng chính Thiên Chúa đã sắp đặt những nguyên lý trong vũ trụ và trong đời sống con người. Thiên Chúa cũng ban cho con người có khả năng trí tuệ để nghiên cứu và khám phá ra những nguyên lý đó.
Đổ lỗi, kết án và vu khống, đó là điều thường thấy nơi con người. Cũng như con người ở đầu lịch sử đã đổ lỗi cho Chúa và đổ lỗi cho nhau, thời Chúa Giêsu, khi chứng kiến phép lạ trừ quỷ, một số người Do Thái đã dựa vào đó mà nói rằng Chúa Giêsu là quỷ vương, nên có thể trừ các quỷ khác. Chúa Giêsu cho đây là sự xúc phạm nặng nề, là tội phạm đến Chúa Thánh Thần. Tội này không thể được tha thứ. Tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội đồng hoá Chúa Giêsu với ma quỷ. Đó cũng là tội mất lòng trông cậy vào lòng thương của Thiên Chúa.
Giáo huấn uy quyền của Chúa được nhiều người đón nhận, nhưng cũng có những người khước từ. Bởi lẽ, muốn đón nhận giáo huấn của Chúa, họ phải từ bỏ lối sống cũ và can đảm chấp nhận được tái sinh trong sự thật. Hai mươi thế kỷ qua, vẫn còn đó những chống đối, những thờ ơ trước sứ điệp Tin Mừng. Vương quốc của Satan vẫn còn thống trị nơi nhiều người và lôi kéo họ xa rời ánh sáng chân lý. Đối với những ai đón nhận Lời Chúa với tâm hồn rộng mở, họ sẽ trở nên những người thân tình thiết nghĩa với Ngài. Chúa Giêsu đã gọi những người thực thi thánh ý Thiên Chúa là mẹ, là anh chị em của Người.
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ là bạn. Mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và những ai tin vào Người đã trở nên thân thiết, cùng chung một nhịp đập của trái tim, cùng mang một niềm thao thức. Một khi trở nên bạn hữu, anh em, chị em với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ được chia sẻ sức sống thần linh của Người và sẽ được thánh hoá, nhờ kết hợp mật thiết với Người. Tin vào Chúa và thực thi Lời Người, đó là điều kiện làm cho chúng ta nên một với Người. Tác giả thư gửi giáo dân Rôma đã nhắc đến ông Abraham như mẫu mực của mọi tín hữu. Vào những lúc bi đát của cuộc đời, ông vẫn vững tin vào Chúa. Abraham được truyền thống Do Thái kể như người công chính, vì ông tin. Tác giả khẳng định với chúng ta: chúng ta cũng sẽ trở nên những người công chính nếu chúng ta vững tin vào Đức Giêsu. Người là Đấng Thiên sai, là con Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ chúng ta.
Trong tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta hãy tôn vinh tình thương cao cả của Thiên Chúa, được thể hiện qua Trái tim bị đâm thâu qua. Tình yêu đền đáp tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người và Ngài mong muốn họ đền đáp tình yêu thương đó bằng cuộc sống thánh thiện trước mặt Chúa và đối với anh chị em trong cuộc sống hằng ngày.
Những điều thánh Mác-cô ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay xem ra hơi tế nhị, bởi ông nhắc TN 10-B37
Những điều thánh Mác-cô ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay xem ra hơi tế nhị, bởi ông nhắc lại việc Đức Giêsu bị coi là “người mất trí” và bị tố cáo là bị quỷ ám. Vào thời đầu của Kitô giáo, việc nhắc lại điều này có làm giảm thanh danh của Chúa Giêsu và cộng đoàn tín hữu không? Nhiều tác giả khẳng định rằng, những gì “khó nghe” mà được ghi lại và được chuyển tải cho các thế hệ, thì là những điều có thật và trung thực. Tác giả Mác-cô vừa nói đến Mẹ và anh em của Chúa Giêsu theo huyết thống, vừa khẳng định mối tương quan mẹ và anh em của Chúa theo nghĩa thiêng liêng. Thật vinh dự biết bao cho chúng ta, vì chúng ta là những người đón nhận và thực thi Lời Chúa, nhờ đó, chúng ta được kể như những người thân của Chúa Giêsu, trong mối liên hệ rất thiêng liêng và gần gũi.
Hai bài đọc Lời Chúa (Bài trích sách Sáng thế và bài Tin Mừng) đều nhắc tới hình ảnh người phụ nữ. Người phụ nữ thứ nhất là bà Evà, người phụ nữ thứ hai là Trinh nữ Maria. Bài đọc I như một trang sử buồn; Bài Tin Mừng lại đậm nét huy hoàng vinh quang. Nếu bà Evà là nguyên nhân của sự trầm luân án phạt; thì Trinh nữ Maria lại cộng tác với Chúa để mang ơn Cứu rỗi. Nếu bà Evà đã sa ngã và gây nên tội lỗi cho mọi thế hệ; thì Trinh nữ Maria đã vâng theo Lời Chúa để đem muôn ơn phúc cho trần gian. Đọc trình thuật của thánh Mác-cô, có vẻ như Đức Giêsu dửng dưng với mẹ của mình, khi đón nhận những ai tuân giữ Lời Chúa là mẹ, là anh em. Tuy vậy, nếu Đức Maria có phúc vì Mẹ đã sinh Đấng Cứu thế, thì Mẹ là có phúc hơn khi tuân giữ Lời của Người. Hơn nữa, khi Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu, là Đức Mẹ cưu mang chính Ngôi Lời của Thiên Chúa. Bà Elisabét đã thốt lên khi gặp Đức Trinh nữ: “Em thật có phúc, vì em tin rằng, những gì Chúa phán cùng em sẽ thành sự thật”. Như thế, Đức Giêsu – thay vì dửng dưng với mẹ sinh ra mình – lại tôn vinh Đức Mẹ ở cả hai khía cạnh, khía cạnh sinh thành và khía cạnh tuân giữ Lời Chúa. Đức Trinh nữ Maria, người nữ mới, trổi vượt hơn bà Evà ngàn lần. Mẹ là người đã chiến thắng mưu chước của con rắn ở đầu lịch sử. Không những thế, Mẹ còn đạp nát đầu con rắn và chiến thắng vinh quang.
“Còn mi thì sẽ rình cắn gót chân Người”. Đó là lời Chúa nói với con rắn. Vâng, trải qua mọi thời đại, những môn đệ của Chúa Giêsu vẫn luôn gặp những thử thách gian truân. Con rắn từ thuở vườn Địa Đàng vẫn đang hoành hành, nhằm lôi kéo con người vào đường lầm lạc. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị các luật sĩ kết luận: “Ông này bị quỷ ám – Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ”. Mưu chước của ma quỷ nhằm đánh lận con đen, thật giả lẫn lộn để phô bày quyền lực và làm cho con người sa ngã. Không ít người đã sa bẫy của Satan và sống đức tin cách nửa vời hoặc một lối sống lầm lạc mà cứ ngỡ mình đang trung thành với giáo huấn của Chúa. Lời Chúa giúp chúng ta xét mình và thanh tẩy lối sống đức tin, đón nhận Chúa đến trong cuộc đời.
Nếu Chúa Giêsu đã bị vu khống và kết án là “quỷ ám”, thì những môn đệ của Chúa, tức là các Kitô hữu, cũng đang tiếp tục bị tấn công và gây phiền nhiễu. Ngày hôm nay, những môn đệ của Đức Giêsu vẫn bị coi như những người lội ngược dòng, thậm chí như những người “điên”, vì họ sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, và vì họ sẵn sàng chấp nhận những thống khổ vì đức tin và vì hạnh phúc Nước Trời. Giữa một thế gian đầy chông gai, thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy vững vàng và phó thác nơi Chúa. Cũng như Thiên Chúa là Đấng quyền năng đã làm cho Con của Ngài được phục sinh giữa kẻ chết, thì Ngài cũng phù trợ và cứu thoát chúng ta khỏi mọi cạm bẫy của thế gian, “vì nỗi gian truân nhất thời và nhẹ nhàng của chúng ta hiện nay chuẩn bị cho chúng ta một khối lượng vô kể vinh quang đời đời”. Vì thế, trong cuộc sống hằng ngày, hãy tìm kiếm những gì vững bền, tồn tại mãi mãi, vì cuộc sống này chỉ tạm thời, giống như một chiếc lều tạm, chiếc lều ấy sẽ bị phá hủy và nơi định cư vĩnh viễn của chúng ta sẽ là nơi ở trên trời (Bài đọc II).
“Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”. Thật vinh dự biết bao cho chúng ta là Kitô hữu. Nhờ việc lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa, chúng ta trở nên người thân của Chúa. Mối tương quan này được so sánh như mẹ và anh em của Người. Việc chuyên tâm thực hiện Lời Chúa còn làm cho chúng ta nên giống Chúa Giêsu, trở nên đồng hình đồng dạng với Người, để rồi chúng ta có thể phản chiếu hình ảnh của Người trong cuộc sống hằng ngày. Một khi hình ảnh của Chúa Giêsu được phác họa và tỏa sáng nơi cuộc đời của mỗi người tín hữu, quyền lực của ma quỷ sẽ bị đẩy lùi, sự ác sẽ biến mất và Satan sẽ bị diệt vong.
Chúng ta đang ở mùa Thường niên khoảng dài nhất của năm phụng vụ. Giáo Hội lợi dụng thời TN 10-B38
Chúng ta đang ở mùa Thường niên khoảng dài nhất của năm phụng vụ. Giáo Hội lợi dụng thời gian này để trình bày giáo lý của Chúa Giê-su. Trước khi đi vào những đề tài chính trong giáo lý của Người, Giáo Hội muốn nêu lên sự khác biệt, nếu không muốn nói là sự đối nghịch, giữa tinh thần của thế gian và tinh thần của Chúa Ki-tô, giữa lối sống của thế gian với lối sống theo Thần Khí của Chúa Ki-tô. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến sự đối nghịch ấy, đồng thời kêu gọi chúng ta hãy cố gắng từ bỏ tinh thần của thế gian để cố gắng bước theo Chúa làm môn đệ Người.
Trước hết chúng ta hãy xem tinh thần thế gian là tinh thần nào. Câu chuyện sách Sáng Thế kể lại việc nguyên tổ A-đam và E-và phạm tội không vâng lời Chúa dạy, cho chúng ta thấy tinh thần thế gian là những gì ma quỷ đã gieo vào tâm hồn con người, để làm cho con người cũng trở nên thù nghịch với Thiên Chúa. Đọc lại câu chuyện này từ đầu, chúng ta nhận ra một nét rõ ràng của tinh thần ma quỷ đã được nó tận dụng để cám dỗ hai ông bà nguyên tổ sa ngã, đó là lừa dối. Đây là điều chính bà E-và đã nói lên: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. Thuật lừa dối của ma quỷ rất tinh vi. Đầu tiên nói gợi lên óc tò mò của bà E-và: tại sao Thiên Chúa cấm ăn “trái cây ở giữa vườn”. Chắc phải là cây quý giá, mang điều bí ẩn gì đó nên Thiên Chúa mới trồng nó ở giữa vườn, lại cấm không cho con người ăn trái cây ấy. Từ tính hiếu kỳ, ma quỷ dẫn tới thắc mắc và nó giải thích thắc mắc theo “tinh thần” của nó, tức là đưa bà E-và đến thái độ kiêu căng: “Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3:5). Chính Lu-xi-phe và bè lũ của nó đã muốn “bằng” Thiên Chúa, nên chúng không muốn “phụng sự” Người nữa. Chúng đã trở thành cao ngạo, không phục tùng Thiên Chúa và trở thành kẻ thù của Thiên Chúa. Giờ đây ma quỷ lại muốn gieo tinh thần kiêu ngạo ấy vào tâm hồn con người và nó đã thành công. Tội lỗi đã len lỏi vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa và để lại cho con người hậu quả của tinh thần thế gian, tức là tội nguyên tổ.
Tuy nhiên tinh thần thế gian của ma quỷ không thể trường tồn, vì nó sẽ bị đánh bại do Chúa Ki-tô là “dòng giống” của người đàn bà, tức con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và miêu duệ của bà E-và. Thánh Phao-lô đã cho chúng ta một so sánh tuyệt vời giữa A-đam và Chúa Ki-tô, giữa việc sa ngã của loài người và công việc cứu chuộc của Chúa Ki-tô (Rô-ma 5:12-21). Có thể nói đây là một tóm tắt về kế hoạch và lịch sử cứu độ đầy đủ ý nghĩa và ngắn gọn đã được thần học gia tông đồ Phao-lô trình bày đặc biệt trong thư gửi tín hữu Rô-ma. Tinh thần bất tuân của A-đam trái ngược với tinh thần vâng phục của Chúa Ki-tô. Thái độ kiêu căng muốn “mở mắt ra” và “nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” của A-đam khác hẳn với thái độ “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự” của Chúa Ki-tô. Hành động “ăn trái cấm” của A-đam khi coi thường Thiên Chúa đi ngược lại hành động “trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” của Chúa Ki-tô (Pl 2:6-8). Hậu quả hành động bất tuân của A-đam và hiệu quả hành động vâng phục của Chúa Ki-tô đã được thánh Phao-lô mô tả như sau: “Tóm lại, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rô-ma 5:18-19). Sự đối nghịch giữa tinh thần thế gian và tinh thần Thiên Chúa là lý do để Chúa Ki-tô được sai đến trần gian. Trong bài Tin Mừng, Chúa Giê-su đã ám chỉ việc Người đến để tiêu diệt tội lỗi và tinh thần thế gian của ma quỷ, khi Người khẳng định rằng: “Không ai có thể vào nhà kẻ mạnh mà cướp của được, nếu không trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó”. Chúa muốn nói rằng “kẻ mạnh” ở đây chính là ma quỷ và thế gian này là “nhà” của nó. Sứ mệnh của Người là được sai đến “nhà” của ma quỷ, để “cướp sạch” nhà nó. Người đến mang tinh thần của Thiên Chúa để “trói” tinh thần của thế gian lại. Người đã “cướp sạch” nhân loại khỏi móng vuốt ma quỷ và tội lỗi bằng cái chết nhục nhã trên thập giá, để đem về cho Thiên Chúa và để nhân loại được làm con cái Thiên Chúa.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Trước hết là gương của Chúa Giê-su. Người bị “thân nhân” hiểu lầm, cho rằng “Người đã mất trí”! Nhưng Chúa Giê-su vẫn luôn kiên vững giữ tinh thần của Thiên Chúa, cứ tiếp tục thi hành sứ vụ. Theo sau Chúa Giê-su là gương thánh Phao-lô. Ngài được Thiên Chúa kêu gọi trở lại với Chúa Ki-tô, để đem tinh thần của Thiên Chúa và Tin Mừng Chúa Ki-tô đến cho dân ngoại. Ngài đã tin vào Chúa Ki-tô và đã sống tinh thần của Chúa Ki-tô. Hơn thế nữa, ngài còn đi rao giảng một Chúa Ki-tô chịu đóng đinh thập giá và gieo rắc tinh thần của Chúa Ki-tô cho muôn người. Nhờ tin Chúa Ki-tô và sống tinh thần của Chúa, thánh Phao-lô có thể tự hào tuyên bố: “Cho nên chúng tôi không chán nản!” Chúng ta cũng vậy.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy) Tin mừng Mc 3: 20-35: Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có nhiều người Do Thái đã vấp ngã vì Đức Giêsu, trong đó có cả những người bà con thân thuộc và các Kinh Sư.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có nhiều người Do Thái đã vấp ngã vì Đức Giêsu, trong TN 10-B39
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có nhiều người Do Thái đã vấp ngã vì Đức Giêsu, trong đó có cả những người bà con thân thuộc và các Kinh Sư. Những người bà con họ hàng là những người sống gần gũi với Chúa Giêsu, các Kinh Sư là những người am tường Thánh Kinh và lịch sử, đáng lẽ ra họ phải là những người am hiểu về Đức Giêsu hơn những người khác, trái lại, họ hàng thân thích thì cho rằng Đức Giêsu mất trí, còn các Kinh Sư thì cho rằng Đức Giêsu dùng quyền lực của quỷ vương Beldêbun mà trừ quỉ. Chúng ta tìm hiểu đôi chút về hai thái độ này:
1. Thái độ của các Kinh Sư
Các Kinh Sư từ Giêrusalem xuống để điều tra về Ðức Giêsu. Họ không thể phủ nhận khả năng trừ quỷ của Ngài, nhưng họ lại giải thích với cái nhìn đầy ác ý: Ðức Giêsu là người của quỷ, cậy dựa vào sức mạnh của Satan. Ðấng mà thần ô uế phải sấp mình dưới chân và tuyên xưng: "Ông là Con Thiên Chúa" (Mc 3,11). Ðấng khiến quỷ phải kêu la khi xuất ra: "Ông đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai rồi. Ông là Ðấng Thánh của Thiên Chúa" (Mc 1,24). Ðấng trừ quỷ ấy lại bị coi là một người bị quỷ ám !
Quả thực không dễ gì hiểu được con người Ðức Giêsu. Chỉ một chút ghen tương đủ làm ta hiểu sai. Chỉ một chút tự ái đủ làm ta không thấy điều ai cũng rõ như ban ngày. Càng trí tuệ và học thức như các Kinh Sư, ta càng dễ bẻ cong chân lý, càng dễ biện minh cho thái độ cố chấp của mình.
2. Thái độ của bà con họ hàng
"Thân nhân của Người hay tin ấy liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí" (Mc 3,21). Chính người nhà Chúa Giêsu đã kết luận Ngài bị mất trí, và đã đến lúc họ phải bắt Ngài đưa về nhà. Chúng ta hãy thử xem điều gì khiến họ làm như vậy.
2.1. Chúa Giêsu đã bỏ nhà ra đi, bỏ luôn nghề thợ mộc mà Ngài đã từng làm ở Nadarét. Nếu nghề ấy không phát đạt thì ít nhất cũng giúp đủ nuôi sống mình. Thình lình, Ngài bỏ hết và đi lang thang truyền giáo. Chắc họ nghĩ rằng chẳng ai mà lại bỏ công ăn việc làm để thành một kẻ lang thang không chỗ gối đầu như vậy.
2.2. Chúa Giêsu đi vào chỗ phải đụng đầu với các lãnh tụ chính thống giáo thời đó. Ở đời, có nhiều kẻ có thể gây thiệt hại lớn lao cho người khác, có kẻ mà tay chân thuộc hạ của họ cũng đáng cho người ta phải coi chừng, có kẻ mà dám chống lại họ thật là một điều vô cùng nguy hiểm. Người nhà của Chúa Giêsu đã nghĩ, một người mà dám chống lại những kẻ quyền thế như Kinh Sư, Pharisiêu và các lãnh tụ tôn giáo thì khó mà có thể thoát khỏi tay họ.
2.3. Chúa Giêsu triệu tập một nhóm người bé nhỏ, một nhóm người khá kỳ lạ: một người thu thuế bỏ việc, một nhà ái quốc cuồng tín và một số là ngư dân. Họ là những hạng người mà không ai muốn quen biết. Họ là những hạng người chẳng ích lợi gì cho những ai muốn làm nên sự nghiệp. Họ nghĩ rằng chẳng ai tỉnh trí mà đi kết bạn với những con người như thế.
2.4. Bằng các việc làm của Chúa Giêsu, Ngài đã nêu lên những nguyên tắc chẳng giống chút nào với những con người bình thường:
2.4.1. Từ bỏ một nếp sống đảm bảo, điều mà phần đông người thế gian luôn mong ước: một địa vị an toàn, một việc làm ổn định, ít gây xáo trộn về vật chất và tài chánh.
2.4.2. Từ bỏ sự an thân, điều mà phần đông người có khuynh hướng muốn được an thân hơn lo cho phẩm cách đạo đức, cho việc làm phải hay quấy. Làm một việc có nguy cơ gây nguy hiểm cho bản thân là điều do bản năng con người luôn muốn tránh né.
2.4.3. Bỏ ngoài tai lời khen chê của xã hội: Ngài hoàn toàn thờ ơ đối với lời phê phán, khen chê của xã hội. Ngài đã chứng tỏ là chẳng bận tâm gì đến những gì người ta nói về mình. Thật vậy, H.G. Wells đã nói, “Với nhiều người, tiếng nói của người láng giềng nghe to hơn cả tiếng của Thiên Chúa. Người ta sẽ nói gì? Là một trong những câu hỏi đầu tiên mà chúng ta vẫn thường có thói quen đặt ra cho mình.
Điều khiến cho người nhà và bạn bè của Chúa Giêsu lo sợ là những nguy cơ Ngài đã liều lĩnh chuốc lấy cho mình, mà theo ý họ, chẳng có người tỉnh trí nào làm như vậy cả.
3. Kế hoạch của những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Mẹ và người thân của Đức Giêsu đến tìm Ngài và khuyên Ngài từ bỏ con đường sứ vụ để trở về nhà, vì có tin đồn rằng Đức Giêsu bị điên khùng !
Ôi một sự thật đau lòng! Vì yêu thương, Đức Giêsu làm tất cả mọi việc miễn làm sao để cho Thiên Chúa được vinh quang và con người được hạnh phúc, thế nhưng người Pharisêu lại phao tin Ngài bị điên! Họ muốn đánh vào uy tín của Đức Giêsu, vì nếu Đức Giêsu bị điên thì mẹ của Ngài sẽ như thế nào khi sinh ra một đứa con điên? Anh em của Ngài sẽ còn uy tín gì nữa khi trong dòng tộc của mình lại xuất hiện một kẻ khùng! Và, nhất là những lời giảng của Đức Giêsu từ nay không còn đáng tin nữa, bởi vì không ai dại gì mà đi nghe theo lời của một người điên! Đây là một đòn thâm hiểm mà những người Pharisêu đánh vào Đức Giêsu và thân nhân của Ngài.
4. “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi"
Đức Giêsu đã mượn cơ hội rất đời thường này để nói cho mọi người và cho chúng ta hôm nay về một kế hoạch thật lớn lao, đó là xây dựng một « Gia Đình Mới », gia đình này không đặt nền trên tương quan huyết thống, nhưng trên việc « lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa » (Lc 8, 21). Thực vậy, khi đó Người rảo mắt nhìn những người đang vây quanh lắng nghe Lời Thiên Chúa, nói ra từ miệng của Người, và nói: Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.
Một câu nói nhằm mạc khải cho mọi người biết một thực tại khác vượt lên trên suy nghĩ thuần túy của con người. Sự gắn bó với Thiên Chúa và thi hành Lời của Người là điều quan trọng, và chính trong mối liên hệ này mà chúng ta được trở nên nghĩa thiết, thân tình với nhau. Mặt khác, Đức Giêsu cũng ngầm giới thiệu cho mọi người xung quanh biết rằng: chính Đức Maria là người đã thi hành thánh ý Thiên Chúa, nên Mẹ xứng đáng trở thành mẫu gương cho chúng ta về việc thực thi Lời Chúa.
Như thế, Đức Giêsu đâu có từ chối Mẹ, ngược lại còn tôn vinh Mẹ, bởi vì trong Gia Đình Mới mà Đức Giêsu đang gầy dựng, Đức Maria có một vị trí duy nhất: Đức Maria vừa là mẹ sinh ra Đức Giêsu, vừa là mẹ Đức Giêsu, vì đã lắng nghe và sống Lời Chúa, không chỉ một lần nhưng suốt đời. Người là kẻ luôn luôn lắng nghe và làm theo Lời Chúa: “Bấy giờ Maria nói “Vâng, tôi là nữ tì của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Lời Êlisabét nói với Maria: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em” (Lc 1,45). Sau khi các mục tử đến thăm Chúa Giêsu, “Maria hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Sau chuyện tìm gặp Chúa Giêsu trong Đền thờ “Mẹ Ngài hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”(Lc 2,51).
Quả thật, Đức Maria xứng đáng là mẹ thật của Chúa Giêsu bởi vì Người không chỉ làm Mẹ của Ngài về thể xác mà còn vì Người luôn lắng nghe, ghi nhớ và thi hành Lời Chúa. Ước gì, sự sống mỗi ngày của chúng ta được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa, khởi đi từ con tim biết lắng nghe Lời Chúa. Và như thế, cũng như Đức Maria, chúng ta sẽ trở thành «người thân» đích thực của Chúa Giêsu. Amen.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
SỰ GIAO HÒA VÀ ĐẶC ÂN CỦA THIÊN CHÚA
Câu chuyện của Adam và Eva trong sách Khởi Nguyên không chỉ là cung cách mà nguyên tổ của TN 10-B40
Câu chuyện của Adam và Eva trong sách Khởi Nguyên không chỉ là cung cách mà nguyên tổ của chúng ta đã phạm tội; điều đó cũng thường xảy ra với chúng ta trong ngày hôm nay. Tội của Adam và Eva là một sự bất tuân bởi việc sa chước cám dỗ là họ muốn trở nên độc lập với Thiên Chúa. Sau khi sa ngã, các ngài giống như những đứa trẻ khi nhìn thấy một người nào đổ lỗi cho nhau khi chúng phạm một điều gì. Adam đã phàn nàn với Thiên Chúa: “Người phụ nữ mà Ngài đã ban cho con, chị ta đã đưa trái cây và tôi đã ăn”. Eva không biết nhìn vào người nào để đổ lỗi cho. Bà nhìn thấy con rắn được giới thiệu như quỷ dữ và nói với Thiên Chúa: “Con rắn đã dụ tôi ăn”. Con rắn vội vã trườn vào trong đám cỏ, nó không nói gì bởi vì nó biết nó không có chân để bỏ chạy.
Giả thiết điều đó xảy ra một cách khác. Hãy tưởng tượng là khi Adam đã lỡ phạm tội đối đầu với Thiên Chúa, ông ta nói: “Tôi xin thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và với em là vợ tôi đã phạm tội bởi lỗi của tôi”. Bạn có tin rằng Thiên Chúa sẽ nói “Ngươi đã có một cơ hội mà ngươi đã thất bại. Đừng tìm kiếm lòng nhân từ nơi Ta”. Giả thiết Eva cầm lấy tay chồng và nói: “Lạy Thiên Chúa toàn năng hay thương xót, hãy dủ lòng thương xót đến chúng tôi. Xin tha thứ cho chúng tôi và cho chúng tôi cuộc sống đời đời”. Các bạn có nghĩ rằng Thiên Chúa sẽ nói: “Hãy quên đi mọi chuyện, Ta đã quá giận về chuyện này ư?”
Từ những gì chúng ta biết về Thiên Chúa, tôi tin rằng Người đã hiểu biết và thương xót. Nhưng Adam và Eva đã đổ lỗi cho nhau và từ chối tỏ ra dấu hiệu thống hối, đó là hiệu quả của tội. Tội lỗi làm xa rời; nó làm phân chia. Tội đã cách biệt Adam và Eva ra khỏi Thiên Chúa. Tội đã tách biệt Adam và Eva ra khỏi nhau. Tội đã tách biệt lòng khao khát nội tâm của họ khỏi khuynh hướng tự nhiên của họ là hướng về Thiên Chúa. Tội lỗi thì giống như là những thí dụ mà Chúa Giêsu đã đưa ra trong Phúc Âm: “Nếu một nhà mà chia rẽ nhau thì nhà đó sẽ không tồn tại”.
Mặc dù chúng ta có thể có những giống như Adam và Eva, chúng ta đã phạm tội và tìm cách đổ lỗi, Thiên Chúa đã và tiếp tục hầu như thể hiện lòng thương xót đối với chúng ta. Ngài đã gởi Con của Người vào trong thế gian để cứu độ chúng ta, để chúng ta lướt thắng tội lỗi và mang những kẻ đối đầu trở về với Ngài. Những tội lỗi đã cách biệt và phân chia, hành động cứu thoát của Chúa Giêsu mang đến sự giao hòa và hòa hợp. Ngai đã hợp nhất ta một lần nữa với Cha Ngài, Ngài đã mang chúng ta vào trong một nhà là Giáo Hội. Ngài đã sửa chữa bên trong, những bất công trong tinh thần mà chúng ta đã đau khổ, do tội lỗi. Sự giao hòa là đặc ân của Thiên Chúa qua người Con yêu dấu của Người.
Trước tiên, nền tảng sự giao hòa của chúng ta là nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được hòa hợp với Thiên Chúa và với anh em, và bên trong chúng ta đã được củng cố bởi phép Thêm sức. Khi chúng ta phạm tội sau phép rửa, bí tích thống hối luôn luôn là một sự giao hòa mới để tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta.
Chúa Giêsu đã làm tất cả điều này vì chúng ta qua thừa tác viên của Giáo Hội, người nhà của Thiên Chúa. Ngài đã làm như thế vì Ngài không thể để cho chúng ta bị tách biệt bởi tội lỗi của chúng ta, Người đã cung cấp sức mạnh cho chúng ta để chúng ta có thể nỗ lực làm những việc công chính, và thực thi ý muốn của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nhìn nơi chúng ta với lòng thương xót lớn lao và nói: “Đây là mẹ Ta, và đây là anh chị em của Ta. Bất cứ ai làm theo ý muốn của Thiên Chúa là mẹ, là anh, là chị của Ta”. Mặc dù Adam và Eva là những nguyên tổ của chúng ta, Chúa Giêsu cũng bảo đảm với chúng ta rằng: Ngài là anh của chúng ta và Thiên Chúa ở trên thiên đàng thực sự người Cha yêu thương của chúng ta.
Khổng Tử có một người cháu tên là Khổng Liệt và một người học trò tên là Bật Thứ Thiên, cả TN 10-B41
Khổng Tử có một người cháu tên là Khổng Liệt và một người học trò tên là Bật Thứ Thiên, cả hai ra làm quan cùng một thời. Một hôm Khổng Tử hỏi người cháu:
- Từ khi ra làm quan đến giờ, ngươi đã được điều gì và mất điều gì?
Khổng Liệt trả lời:
- Từ khi làm quan, tôi chưa được điều gì, mà đã mất ba điều: không có giờ học tập vì thế trình độ vẫn thấp, lương bổng không đủ giúp người thân, công việc bề bộn nên không có giờ thăm viếng bạn bè.
Nghe thế, Khổng Tử rất buồn lòng.
Một ngày nọ, Khổng Tử cũng hỏi Bật Thứ Thiên cùng một câu như đã hỏi Khổng Liệt, Bật Thứ Thiên đáp:
- Từ khi ra làm quan, tôi chưa mất điều gì, mà đã được ba điều: Những điều đã học nay đem ra thực hành, vì thế việc học được rõ ràng thêm; lương bổng tuy ít nhưng cũng có thể giúp người thân phần nào, do đó mà thân thiện hơn; công việc tuy nhiều, những cũng bớt chút thời giờ thăm bạn bè khiến tình bạn càng thân thiết.
Câu trả lời của Bật Thứ Thiên được Khổng Tử khen là chí lý và thực là câu trả lời của người quân tử.
Câu trả lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là từ khi bắt đầu đời công khai, Chúa Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy". Chẳng những Chúa Giêsu không ra gặp mẹ, mà Ngài còn nói: "Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta".
Thật ra, qua câu nói này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.
Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được liên kết với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình nghĩa cha mẹ, anh chị em ruột thịt.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta luôn biết sống theo thánh ý Chúa, để chúng ta được nối kết trong tình nghĩa với Chúa, với Mẹ và với tất cả mọi người.
Mẹ và anh em Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” Nhưng Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc. 3, 31-35)
Mấy bữa trước đây, trong một trích đoạn Phúc âm, thánh Maccô đã cho ta biết thái độ của đám TN 10-B42
Mấy bữa trước đây, trong một trích đoạn Phúc âm, thánh Maccô đã cho ta biết thái độ của đám bà con thân thích của Chúa Giêsu: họ muốn cách ly Người, bởi cho rằng Người đã mất trí, ngộ đạo và họ bị phiền hà vì danh tiếng này. Vậy mà hình như họ đã thay đổi ý kiến, bởi lẽ hôm nay họ muốn xin được gặp Người, nhắc nhở cho Người quyền lợi gia dình, tình thân thương và lòng kính nể mà thông thường họ có quyền được hưởng. Giữ liên hệ tốt đẹp với bà con họ hàng chẳng phải là điều tự nhiên sao?
Chúa Giêsu có vẻ như không chia sẻ ý kiến này.
Một sự rạn nứt của tình bà con
Khi đọc bản văn này, ta rất mau mắn vin ngay vào những lời cuối cùng: “Người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Chúng ta lấy làm vui sướng vì được kết nạp vào gia đình này. Nhưng chúng ta cũng vội làm mất đi ý nghĩa khác mà những lời đó gợi nên, tức là sự rạn nứt trong mối quan hệ tự nhiên của gia đình.
Nếu ta đem liên hệ thái độ này của Chúa Giêsu với lời Người phán trước đây: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy”, ta càng ngạc nhiên. Chúa Giêsu chống lại gia đình và những mối liên hệ gia đình chăng? Phải chăng Người muốn ta hiểu biết điều căn bản gì?
Thực ra tin mừng của Chúa không có ý xếp những liên hệ gia đình vàò hàng cuối cùng, mà muốn dạy ta kính nể mọi người cũng như ta vẫn thường kính nể anh chị em cha mẹ ta vậy.
Xét cho cùng, con người từ rất lâu đã quen với những tập tục là phải dành những ưu đãi cho gia đình ruột thịt của mình, phải yêu mến và có trách nhiệm hơn đối với những người cùng chung máu mủ, thì Tin mừng của Chúa hôm nay là một điều mới mẻ: tin mừng đó đòi hỏi ta đối xử với mọi người như nhau và hỏi ta tại sao điều ta làm được cho cha mẹ ta, mà lại không làm cho “tha nhân” được.
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là một chủng sinh, học hành rất chậm chạp, tưởng chừng như ngài TN 10-B43
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là một chủng sinh, học hành rất chậm chạp, tưởng chừng như ngài không có đủ khả năng để tiến tới chức Lm. Ngày kia, thừa lệnh giám mục giáo phận, một vị giáo sư thần học, đã đến khảo sát Vianney, tội nghiệp Vianney đã không thưa được câu nào. Không giữ được bình tĩnh, vị giáo sư đã đập bàn quát lớn: “Vianney, anh dốt như lừa. Với một con lừa như anh, Giáo hội sẽ làm được gì?”
Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: “Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng có một cái hàm của một con lừa, để đánh bại được ba ngàn quân Philitinh, vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được gì sao?” (Theo Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, tr. 42).
Suy niệm
Tình huyết nhục là tình rất thân thiết của con người. Ðức Giêsu như bao nhiêu người con có hiếu, không bao giờ chối gia đình.
Khi khẳng định: “Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”, Ðức Giêsu không coi nhẹ tình gia đình, cũng như không phải lãnh đạm với mẹ và anh em Ngài. Đức Giêsu muốn đề cao hơn mối liên hệ thiêng liêng dựa trên Lời Chúa mà Ngài đang mang sứ mạng rao truyền, sẽ dệt nên niềm tin và lòng yêu mến cho người lãnh nhận. Ngài khẳng định trong tương quan với nước Ngài, quan hệ máu mủ ruột thịt không quan trọng bằng niềm tin khi biểu lộ thực thi ý Chúa. Đại gia đình thiêng liêng mà các thành viên đều mang tiêu chuẩn nghe và thi hành ý Thiên Chúa.
Qua sự khẳng định, mẹ và anh em Ngài chính là người nghe và thực hành Lời, Chúa Giêsu không phải là không muốn nhìn nhận mẹ của mình - Đức Maria. Hơn thế nữa, Chúa muốn cho mọi người thấy Mẹ Maria chính là người lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành hơn ai hết.
Thật thế, Mẹ Maria là người đầu tiên đã lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành khi Mẹ thưa vâng với sứ thần đến truyền thánh ý Chúa trong cuộc đời Mẹ: “Này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi điều Ngài truyền”, lời xin vâng đã khai mở ơn cứu rỗi và của sự sống mới cho thế giới. Mẹ đã trở nên gương mẫu cho mọi người Kitô hữu: lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy.
Chính Mẹ cũng đã đi trước nêu gương và muốn cho chúng ta sống như Mẹ đã sống. Nơi tiệc cưới Cana, Mẹ truyền: “Hãy làm theo lời Ngài truyền”, hành động đó đã dọn sẵn mọi sự để Chúa làm phép lạ mang đến niềm vui cho những người chung quanh… Trên phương diện gia đình đức tin: Nghe và thực hành Lời Chúa, Đức Maria xứng đáng là Mẹ hơn ai hết.
Xin Chúa giúp chúng ta ý thức thực sự là anh chị em với Chúa, khi nghe và thực thi ý thánh Chúa.
Ý lực sống:
“Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa” (Dt 10,7).
Tin mừng Mc 3: 20-35: Chúa Thánh Thần soi sáng lương tâm cho người ta thấy rõ sự thật, thấy tội lỗi của mình để sám hối. Từ chối Chúa Thánh Thần là từ chối sự thật, và vì thế không thể nhận ra tội lỗi của mình để sám hối và được tha tội. Không được tha vì chính mình đã bịt tai, đóng cửa lòng, từ chối ơn tha tội.
Theo Tin Mừng Máccô, Chúa Giêsu đã bắt đầu hoạt động công khai của Người bằng việc “Đi TN 10-B44
Theo Tin Mừng Máccô, Chúa Giêsu đã bắt đầu hoạt động công khai của Người bằng việc “Đi khắp miền Galilê rao giảng trong các hội đường và trừ qủy” (Mc 1,39); hoạt động trừ qủy của Chúa Giêsu chiếm một vị trí quan trọng trong sứ vụ cứu thế (Mc 1,34-39; 3,11-12; 5,1-20; 9,14-29). Người cũng ban cho các môn đệ quyền trừ qủy (Mc 3,15; 6,7.13). Người công bố: “Nếu Tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ qủy, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12, 28). Sứ mạng của Chúa Giêsu là cứu loài người khỏi nô lệ ma quỉ, khỏi thần chết. Người tới đâu là qủy dữ bị xua trừ, như ánh sáng đến đâu thì bóng tối bị đẩy lui tới đó. Người rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh nhân, tha thứ kẻ tội lỗi… ma qủy khiếp sợ tháo lui.
Thấy Chúa Giêsu trừ qủy, dân chúng kinh ngạc, còn nhóm Pharisêu lại bảo Chúa Giêsu dựa thế quỷ vương Bendêbun để trừ qủy. Họ vu khống lăng mạ và nói Ngài là người của ma qủy. Chúa Giêsu gọi việc xuyên tạc như thế là tội phạm đến Chúa Thánh Thần và là thứ tội duy nhất không được tha. Tại sao tội này lại không thể tha thức được? (Mc 3,29)?
Cả ba thánh sử Máccô, Mátthêu và Luca đều tường thuật về câu nói: “ Ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha”.
Phúc Âm Máccô chương 3 tường thuật việc Chúa Giêsu trong khi chữa bệnh, bị người ta rình rập, tố oan và âm mưu giết chết. Trước sự ác độc chai lì nham hiểm của họ đối với các việc lành của mình, Chúa Giêsu phải “giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá” (câu 5). Tuy thế, Chúa vẫn yêu thương con người. Phúc Âm tiếp tục với việc Chúa thành lập nhóm 12 để tiếp nối công trình yêu thương này, và cũng tiếp tục với việc Chúa chữa bệnh, trừ quỷ. Khi thấy Chúa thực thi quyền trừ quỷ, các “kinh sư từ Giêrusalem xuống nói rằng, Người bị quỷ vương Bendêbun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ” (câu 22). Chính trong ngữ cảnh này mà Chúa nói về tội phạm đến Thánh Thần: “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời. Ðó là vì họ đã nói ‘ông ấy bị thần ô uế ám’ ” (câu 28,29,30).
Bối cảnh trên cho thấy khá rõ tội phạm Chúa Thánh Thần đây chính là:
- Coi ma quỷ cao hơn Chúa Giêsu, như các kinh sư nói Chúa phải dùng tới phép của quỷ vương Bendêbun.
Là con người, ai cũng yêu đuối tội lỗi, nhưng nếu họ khiêm tốn chạy đến với Chúa, nài xin Ơn Thánh qua các bí tích và quyết tâm chừa cải, chắc chắn họ được Chúa yêu thương tha thứ. Ngược lại, nếu cố tình chai lì trong sự thâm hiểm của mình, cho rằng không ai hơn được mình, không nhìn nhận Chúa là Chủ tể cuộc đời, xem các quyền lực khác của thần dữ hơn cả Chúa, họ rơi vào tội phạm tới Chúa Thánh Thần.(Lm Phêrô Nguyễn Đức Thắng).
Không có tội gì mà Thiên Chúa không tha thứ khi con người biết ăn năn và hối lỗi. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương (1Ga 4,8), Ngài chậm giận và luôn giàu tình thương (Tv 86,15).Thế nhưng, có một điều mà Chúa không thể cứu vãn được, đó là sự cứng lòng nơi con người. Đây là thái độ kiêu ngạo, biết mà vẫn cứng lòng. Đây cũng là điều mà Chúa Giêsu luôn khiển trách các Kinh sư và Pharisiêu.
Khi một người cứng lòng thì họ không ăn năn nên không thể được tha thứ, vì ăn năn là điều kiện duy nhất để lãnh ơn tha tội. Không được tha chẳng phải vì Thiên Chúa hẹp hòi, nhưng vì người ấy không cần đến ơn tha thứ, đó là tội cứng lòng, tội phạm đến Chúa Thánh Thần. Đây là trường hợp mà Stêphanô nói với cấp lãnh đạo Do thái: “Hỡi những người cứng đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần…Các ông phản bội và sát hại Đấng Công chính. Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ” (Cv 7,51-53).
Chúa Thánh Thần soi sáng lương tâm cho người ta thấy rõ sự thật, thấy tội lỗi của mình để sám hối. Từ chối Chúa Thánh Thần là từ chối sự thật, và vì thế không thể nhận ra tội lỗi của mình để sám hối và được tha tội. Không được tha vì chính mình đã bịt tai, đóng cửa lòng, từ chối ơn tha tội.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho biết, tội phạm đến Chúa Thánh Thần “không phải chỉ đơn thuần xúc phạm đến Người bằng lời nói mà hệ tại sự từ chối nhận lãnh ơn cứu chuộc mà Thiên Chúa ban cho con người qua Chúa Thánh Thần hoạt động qua quyền lực cây thập giá… Vì sự cứng lòng của nó sẽ dẫn nó đến sự hư mất đời đời" (Thông điệp Dominum et Vivificantem, 18/5/1986).
Đức Thánh cha Phanxicô cắt nghĩa về tội phạm đến Chúa Thánh Thần trong thánh lễ tại nhà nguyện thánh Matta: “Ngay cả Chúa Giêsu là vị Thượng Tế mà cũng đã được xức dầu. Vậy lần xức dầu đầu tiên ấy là khi nào? Đó là khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Trinh Nữ Maria. Còn về việc nói phạm đến Chúa Thánh Thần thì là việc gì? Đó là nói phạm đến tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cứu độ và sáng tạo. Nếu thế, chẳng lẽ Thiên Chúa không tha thứ cho kẻ xấu hay sao? Không phải thế! Thiên Chúa tha thứ tất cả! Nhưng những người nói phạm đến Thánh Thần là người không muốn được thứ tha, họ đóng cửa lòng trước ơn tha thứ. Những người ấy thật là tệ hại, vì họ phủ nhận Đức Kitô vị Thượng Tế được Chúa Thánh Thần xức dầu để ban ơn tha thứ cho mọi người” (x.vi.radiovaticana.va; 23.1.2017).
Thánh Gioan XXIII nói rằng: tội lớn nhất thời đại là đánh mất ý thức tội lỗi. Khi con người đã mất sự nhạy cảm về sự thật đến nỗi cho điều thật là sai và cho điều sai là điều thật, hay như một số người Do thái, cho Chúa Giêsu là ma quỉ, làm sao họ có thể tin vào Đức Kitô để được hưởng ơn Cứu Độ. Tương tự, một khi con người đã mất hết ý thức về tội lỗi: chẳng còn cho cái gì là tội nữa, thì họ đâu cần để được tha thứ! Vì thế, khi con người từ chối không nghe sự hướng dẫn của Thánh Thần để nhận ra sự thật, con người sẽ không có hy vọng để lãnh nhận ơn Cứu Độ.
Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng, hướng dẫn con người nhận biết sự thật về Chúa Kitô, và về bản thân mình, nhờ đó con người có thể nhận lãnh ơn cứu độ, sự tha thứ của Ngài. Khi không nhạy bén với sự soi sáng, hướng dẫn ấy là con người khép lòng, từ chối sự tha thứ của Ngài, là liều mình sống trong tình trạng tội lỗi. Một lương tâm phóng túng thì luôn phán đoán lệch lạc: coi một tội là hợp pháp, hay tội nặng thành tội nhẹ. Một lương tâm chai lỳ khi quá quen phạm tội nên không nhận thức được tội của mình nữa, hoặc coi thường tội, dù là tội nặng. Giả hình, lừa dối, gian dối đang phát triển khắp nơi, do vậy số con cái ma quỷ đang tăng lên mỗi ngày một nhiều.
Chúa Thánh Thần có sứ vụ quan trọng trong Kế Họach Cứu Độ là làm cho con người thấu hiểu những lời giảng dạy và mạc khải của Chúa Kitô. Vì thế, chúng ta cần cầu xin với Ngài mỗi khi nghe Lời Chúa để được soi lòng mở trí cho mình. Cần lắng nghe sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để luôn biết tìm hiểu và nhạy cảm với sự thật. Có lần Chúa Giêsu đã nói thẳng với những người Do thái: “Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, quỷ đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó. Bởi vì nó là kẻ nói dối và là cha sự gian dối” (Ga 8,44). Chúa khẳng định tất cả những ai quen lừa dối, đều trở thành con cái ma quỷ, vì quỷ là cha sự gian dối. Một khi đã khinh thường và mất đi nhạy cảm với sự thật, con người không còn hy vọng được cứu rỗi.
Nhận ra sự soi sáng, thúc đẩy của Thánh Thần để nhận biết sự thật về Chúa và về mình. Thiên Chúa là Cha nhân lành yêu thương mọi người; còn mỗi người là con cái, là thụ tạo do Ngài dựng nên, được bao phủ bằng tình yêu thương của Ngài, nhưng người ta thường xúc phạm đến Ngài qua tội lỗi. Nhận thức được sự thật ấy sẽ giúp chúng ta sống bình tâm trong thân phận thụ tạo và con cái của mình.
Hàng ngày chúng ta cần nhớ về sự hiện diện thánh thiêng của Thánh Thần nơi mình, để nghe theo sự soi sáng và thúc đẩy của Ngài.
Hằng ngày và trước mỗi việc làm, hãy luôn cầu xin: Lạy Chúa Thánh Thần, xin đừng để con làm phiền lòng Chúa bao giờ, nhưng cho con luôn biết lắng nghe tiếng Chúa để được ơn hoán cải. Lạy Chúa Thánh Thần, con xin lỗi Chúa vì con thường quên sự hiện diện gần gũi của Ngài trong cuộc sống đời thường. Xin cho con mau mắn vâng theo lời dạy bảo của Ngài; xin cho con đừng khép lòng trước những gợi ý dấn thân tích cực hơn trong việc sống niềm tin trong đời sống. Amen.
Chúa Giêsu không còn sống cùng với thân nhân của Người ở Nagiarét nữa. Nhà của Người bây TN 10-B45
Chúa Giêsu không còn sống cùng với thân nhân của Người ở Nagiarét nữa. Nhà của Người bây giờ ở Cápharnaum (Mc 2:1). Gia đình Người phải đi một quãng đường khoảng 40 cây số để tìm Người ở đó và tìm cách giữ Người lại vì họ cho rằng Người bị “mất trí”. Có lẽ họ đã nghe kể lại rằng Chúa Giêsu đã hành xử không bình thường. Có thể họ đã nghĩ rằng Người đang gây nguy hại cho danh dự của gia tộc. Rõ ràng là mối quan hệ của Chúa Giêsu với người thân của Người là sự chịu đựng. Tại Israel thời xưa, gia tộc (đại gia đình của một người) là phương thức bảo đảm việc che chở lẫn nhau, phát huy truyền thống và đề cao bản sắc người Do Thái.
Tại miền Galilêa vào thời Chúa Giêsu, vì hệ thống đế chế La Mã được du nhập và bị áp đặt dưới sự cai trị của vua Hêrôđê Cả (năm 37 TCN đến năm 4 TCN) và con ông ta là vua Herôđê Antipát (năm 4 TCN đến năm 39 sau Công nguyên), tất cả những điều này đã không còn hiện hữu hoặc dần mờ nhạt đi. Gia tộc (cộng đoàn) đang suy tàn. Các khoản thuế phải nộp cho chính phủ và cho Đền Thờ, việc nợ nần cá nhân ngày càng tăng, tâm lý chủ nghĩa cá nhân của văn hóa Hy Lạp, các đe dọa áp bức thô bạo thường xuyên từ phía người La Mã, bổn phận phải đón nhận binh lính La Mã và cung cấp chỗ ở cho họ, điều thách thức hơn bao giờ hết là phải sinh tồn – tất cả những yếu tố này đã khiến cho các gia đình sống xa cách với người khác và tập trung vào các nhu cầu riêng của họ. Lòng hiếu khách không còn được thực hành nữa, không còn việc chia sẻ, cũng không còn việc quây quần quanh bàn ăn, cũng như việc đón nhận những kẻ bị hắt hủi. Sự tập trung vào gia đình trực hệ này được củng cố bởi các tập tục tôn giáo của thời ấy. Việc tuân giữ các chuẩn mực về luật thanh khiết là một yếu tố cho việc gạt bỏ nhiều người: phụ nữ, trẻ nhỏ, người Samaritanô, khách ngoại kiều, người phong cùi, người bệnh, kẻ tật nguyền, người thu thuế, người bại liệt. Những chuẩn mực này, thay vì thiên về đón nhận và chia sẻ, đã tạo cớ cho sự tách biệt và loại trừ.
Các kinh sư trong bài Tin Mừng hôm nay tố cáo Chúa Giêsu bị quỷ ám; “dựa thế quỷ vương mà Ông ấy trừ quỷ.” Họ đã có thành kiến và sẽ không để cho bất cứ điều gì – bất kể việc làm bác ái, bất kể sứ điệp mang lại sự sống, bất kể niềm vui mừng – thấm nhập vào lương tâm và thay đổi chủ kiến của họ. Chúa Giêsu gọi thái độ đó là sự xúc phạm đến Chúa Thánh Thần. Đó là một hình thức tôn thờ ngẫu tượng mà qua đó chúng ta thần thánh hóa giáo điều hay quan điểm riêng của mình, không để cho Chúa hoặc bất cứ ai có thể bước vào để mở rộng tầm mắt của chúng ta. Tội này không thể tha được (“tội muôn đời”) bởi vì người ta sẵn lòng nhốt mình trong bức tường ý thức hệ, ngăn cách với ân sủng và tạo ra nấm mồ cho riêng họ. Lời lên án của Chúa Giêsu đối với thái độ ấy là lời phê bình gay gắt nhất mà Người lên tiếng trong các sách Tin Mừng. Người nói về những kẻ đã tự quá giam hãm mình đến nỗi mà họ chỉ có thể đi từ chỗ tệ đến tệ hơn, cuối cùng là dẫn đến âm mưu đóng đinh Người.
Nhóm còn lại là những người có lẽ bị đánh giá sai lạc mà chúng ta nghe tới là thân nhân của Chúa. Chúa Giêsu bỗng nhiên trở thành người của công chúng và đã làm cho giới chức thẩm quyền tức giận. Có lẽ họ đã có một cuộc họp nào đó trong vòng gia tộc, rồi quyết định cử một nhóm đại diện đi tìm Chúa Giêsu và giúp Người tỉnh trí trở về nhà. Có lẽ họ đã có ý tưởng rằng Chúa phải là một thành viên như thế nào trong vòng gia tộc, và Người đã không tuân theo. Hoặc có thể họ đã đến để xem chuyện ồn ào đó là gì, để điều tra về các lời cáo buộc. Chúa Giêsu tuyên bố rằng mối quan hệ thân thiết nhất của Người không được hình thành bởi huyết thống hoặc gia tộc. Đối với Chúa Giêsu, thân nhân thực sự của Người là những ai liên kết với Thiên Chúa trong tình yêu thương như Người (“Ai làm theo ý của Thiên Chúa…”). Đây là những người mà Chúa sẽ bảo vệ như Người bảo vệ thân mẫu Người và các anh em Người, những người mà Chúa sẽ đối xử như những người đồng thừa tự với Người mọi điều mà Chúa Cha đã hứa. Thay vì sống thu hẹp trong vòng gia đình nhỏ bé của mình, Chúa Giêsu mở rộng ranh giới gia đình và tạo ra cộng đoàn. Người hiểu được ý nghĩa sâu xa của gia đình, dòng tộc, cộng đoàn như một biểu hiện của sự nhập thể của tình yêu Thiên Chúa trong tình yêu đối với người lân cận.
Một vài câu hỏi riêng:
– Đời sống gia đình đã giúp ích hay ngăn trở việc tham gia vào đời sống cộng đoàn Kitô hữu bằng những cách nào?
– Bạn có chấp nhận Chúa Giêsu theo những điều kiện của Người, hay bạn sẽ chỉ chấp nhận một Đấng Thiên Sai đáp ứng theo sự mong chờ của bạn thôi?
– Bạn hoặc các thành viên trong cộng đoàn của bạn đã bao giờ theo đuổi một ai đó mà bạn nghĩ là “mất trí” chưa? Bạn đã phán đoán việc này dựa theo những tiêu chuẩn nào? Nếu đó là Chúa Giêsu, các tiêu chuẩn của bạn có thay đổi không?
– Lời vu khống (chẳng hạn như lời cáo buộc của các kinh sư nhắm vào Chúa Giêsu rằng: “Ông ấy bị quỷ Bê-endêbun ám”) là vũ khí của kẻ yếu thế. Bạn đã có bao giờ đặt lời vu khống cho ai đó hoặc bị vu khống chưa?
– Để trở thành một phần tử trong vòng thân cận của Chúa Giêsu sẽ đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ mọi đòi hỏi quan trọng dựa trên chủng tộc, giới tính, sắc tộc, của cải, địa vị tôn giáo, v.v. Bạn có sẵn sàng làm những điều đó chưa?
Lời nguyện kết
Lạy CHÚA, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, Biết cả khi con đứng con ngồi, Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, Đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét. Xin Ngài xem con có lạc vào đường gian ác Thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời. Amen.
Tin mừng Mc 3: 20-35: "Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời".
SUY NIỆM
Chúng ta tự hỏi, tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội gì? Vì sao lại ghê gớm và nặng nề đến TN 10-B46
Chúng ta tự hỏi, tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội gì? Vì sao lại ghê gớm và nặng nề đến thế?
1. Tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội Cứng Lòng Tin. Bởi khi ta cứng lòng tin, cũng đồng nghĩa với việc ta từ chối tín thác vào Chúa, từ chối tình yêu của Chúa. Nói đúng hơn, khi không tin ai, ta chẳng để một chút ảnh hưởng nào của người đó trên ta. Cũng vậy, khi không có đức tin nơi Thiên Chúa, nghĩa là ta tự mình hoàn toàn độc lập với Chúa, đẩy Chúa hoàn toàn ra xa khỏi cuộc đời ta. Không có đức tin, ta sẽ không bao giờ nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa của ta. Không có đức tin, ta không bao giờ để Chúa có một chút ảnh hưởng nào trên cuộc đời ta. Mà ơn tha thứ dành cho ta, rất cần đức tin của chính ta. Ta chối từ Chúa, sống độc lập với Chúa, tự giải quyết cuộc đời của mình theo cách thức mà mình muốn, cũng đồng nghĩa với việc ta khước từ không thèm đón nhận ơn tha thứ của Chúa ban. Bởi chính Chúa mà ta còn không đón nhận, thì làm sao có thể đón nhận ơn tha thứ của Người. Không đón nhận ơn tha thứ thì làm sao được tha thứ!
2. Chúa Thánh Thần là tác nhân của đức tin. Trong ngày ta chịu phép rửa tội, Chúa Thánh Thần được ban cho ta, để Người trợ giúp đức tin của ta, Người làm cho ta tin tưởng và thờ phượng Thiên Chúa. Vì thế, tội không tin đồng nghĩa với việc ta xúc phạm đến Chúa Thánh Thần. Nếu không có đức tin, sẽ không thể lãnh ơn tha tội, thì tội phạm đến Chúa Thánh Thần là chối từ đức tin, chắc chắn muôn đời sẽ không được tha. Bởi đức tin là ơn Chúa Thánh Thần trao ban. Không tin là xúc phạm đến Chúa Thánh Thần. Mà không tin thì không được tha, thì xúc phạm đến Chúa Thánh Thần chính là cứng lòng tin, vì thế sẽ đời đời mang bản án của tội.
Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con luôn luôn tín thác cuộc đời mình trong tay Chúa, để Chúa quan phòng và an bài theo thánh ý Chúa. Xin cho chúng con tin tưởng vững vàng tình yêu và ơn tha thứ của Chúa, để chúng con đáng lãnh nhận ơn cứu độ đời đời. Lạy Chúa Thánh Thần, lòng chúng con đang mở rộng. Xin hãy đến mà uốn nắn chúng con, để chúng con sống xứng đáng là con Thiên Chúa trong từng ngày sống của chúng con. Amen.
Truyện kể rằng: “Một nhà đạo sĩ người Ấn Độ lên đường với người đồ đệ đi theo hầu và người TN 10-B47
Truyện kể rằng: “Một nhà đạo sĩ người Ấn Độ lên đường với người đồ đệ đi theo hầu và người đồ đệ này có bổn phận phải chăm sóc con lạc đà. Tối hôm đó, thầy trò vào nghỉ chân ở một quán trọ bên đường. Người đồ đệ đi đường xa mệt mỏi quá nên quên cả việc buộc lạc đà vào cột, vừa lim dim đôi mắt ngủ vừa thầm thì cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, xin Chúa coi dùm con con lạc đà, con xin phó thác nó trong tay Chúa”. Sáng ra, vừa thức giấc người đồ đệ vội đi tìm lạc đà, nhưng không thấy nó đâu nữa. Nhà đạo sĩ mới hỏi: Lạc đà đâu rồi? Người đồ đệ thưa: Thưa thầy con không biết, xin thầy hỏi Chúa xem, tối qua Con đã phó thác lạc đà nhờ Chúa giữ dùm, nên lạc đà chạy trốn hoặc bị mất cắp đâu phải là lỗi của con, đó là trách nhiệm của Chúa, hẳn không phải là Thầy đã dạy bảo con là phải có lòng phó thác tin tưởng nơi Chúa đó sao. Nhà đạo sĩ ôn tồn nói: Con ơi, dĩ nhiên là phải có lòng tin tưởng phó thác nơi Chúa, nhưng trước hết con cũng phải làm tròn bổn phận của con, nên trước khi đi ngủ lẽ ra con phải cẩn thận buộc lạc đà vào cột, bởi vì Chúa không có tay nào khác ngoài hai tay của con.
Cầu nguyện không phải đòi buộc Thiên Chúa làm theo ý muốn của ta, Ngài phải phục vụ hay thi hành những dự tính, những chương trình thay đổi bất thường tùy hứng của ta. Nhưng ngược lại, cầu nguyện là xin Chúa cho chúng ta làm theo thánh ý Ngài, cầu nguyện là đặt chúng ta vào trong ý muốn của Chúa và Lời hằng sống của Ngài, để hiểu và thực thi ý Chúa muốn trong đời sống chúng ta, để ta trở nên khí cụ của Chúa. Cho nên, các Bài Lời Chúa hôm nay xoay quanh chủ đề về tầm quan trọng của việc làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I, Trích thơ gửi tín hữu Do-thái, tác-giả Thư Do-Thái đã so sánh giữa 2 lễ vật hy sinh: Máu chiên bò theo Lề Luật của Cựu Ước không thể xóa sạch tội cho con người, nên phải tái diễn mỗi năm, còn Máu Đức Kitô chỉ cần đổ ra một lần là đủ xóa sạch tội cho con người, vì là máu đổ ra tự nguyện để làm theo thánh ý Thiên Chúa. Rồi, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu tuyên bố: mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa không đặt căn bản trên liên hệ ruột thịt, nhưng trên căn bản làm theo thánh ý của Ngài. Cụ thể, trong Tin mừng Thánh Marcô có kể rằng khi hay tin Chúa Giêsu say mê giảng dạy và chữa bệnh cho dân chúng đến nỗi không có thời giờ ăn uống, “thân nhân của Người liền đi bắt Người vì họ nói rằng Người đã mất trí” (Mc 3,21). Nhưng, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục Sứ mạng của Ngài là rao giảng Tin mừng, bất chấp các lời can ngăn của người thân vì Ngài đến trần trần gian là thi hành Thánh ý Cha. Tin Mừng viết hôm đó Chúa Giêsu giảng dạy dân chúng kéo đến rất đông nên “Mẹ Chúa Giêsu và anh em người đến và đứng ở ngoài”, có nghĩa Mẹ và anh em Chúa Giêsu thì “đứng ở ngoài” vòng vây đám đông chứ không phải đứng ngoài cửa, ngoài nhà thờ, còn đám đông nghe Ngài giảng thì “ngồi chung quanh” Ngài. Như thế có ý nói rằng những kẻ nghe Lời Chúa còn gần gũi và thân thiết với Ngài hơn cả người bà con ruột thịt. Vì thế, đối với mình, Chúa Giêsu coi trọng việc rao giảng Lời Chúa hơn việc gặp bà con; đối với người khác, Ngài coi trọng những người nghe Lời Chúa hơn cả bà con của Ngài.
Thế rồi, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn dân chúng đang hiện diện lắng nghe Ngài và Ngài nói, họ mới là anh em đích thực. Chúa Giêsu cũng đang nhìn chúng ta, khi ta chăm chú nghe Lời Chúa trong thánh lễ và nói rằng: “Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là Mẹ Ta”. Với lời khẳng định này, Đức Giêsu loan báo về gia đình của Ngài: + Có một gia đình thuộc huyết thống, đó là những người thân yêu cùng máu mủ đứng đàng kia. + Và còn có một gia đình mới đang ngồi đây này, đó là những người lắng nghe lời Chúa. Đức Giêsu không coi thường hay loại bỏ gia đình ruột thịt. Nhưng Ngài cho thấy Ngài còn có một gia đình lớn hơn nhiều, một gia đình gồm những người rất khác nhau về nhiều mặt, nhưng lại có một mẫu số chung, một điểm giống nhau, đó là cùng muốn thi hành ý Thiên Chúa trong cuộc sống.
Chúa Giêsu cho biết tất cả mọi người đều có thể trở nên anh chị em của Ngài, với điều kiện duy nhất là “làm theo ý Cha Ta”. Mà Thiên Chúa ý muốn chúng ta làm gì trên trần gian này: xin vâng và thi hành Lời Chúa ở bất cứ lúc nào và hoàn cảnh nào dù hạnh phúc hay đau khổ. Vì chưng, khi chúng ta bước đi trong đời bằng Lời Chúa và vâng phục ý Chúa, chúng ta chẳng những không sợ hãi nhưng lại tin tưởng rằng bất cứ điều gì chúng ta làm đều được bao bọc trong ân sủng của Chúa. Ông Phêrô đã vất vả thả lưới suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào mà chỉ khi Chúa Giêsu truyền lệnh và ông vâng Lời Chúa thì được mẻ cá đầy thuyền (Lc 5,1-11). Rõ ràng rằng vì tin và vâng Lời Chúa nên Phêrô bắt được cá, ngược lại chính sự tự cao, quên Chúa, quên Lời Ngài nên cả đêm chẳng bắt được con cá nào. Không phải nhờ vào khả năng của chính mình mà Phêrô bắt được cá, nhưng nhờ tin và thi hành Lời Chúa truyền. Thế rồi, cũng chính vì tin rằng Lời Chúa Giêsu uy lực nên chị phụ nữ tội lỗi cấp thành phố đã sẵn sàng làm tất cả để được thứ tha và đem lại nguồn bình an và hạnh phúc đích thực cho đời chị (Lc 7,37-47).
Rồi trong những lúc chúng ta gặp khó khăn, gian nan chúng ta hãy sống Lời Chúa và tuân theo Thánh ý Ngài vì Lời Chúa đem lại cho bạn sức mạnh để chịu đựng đau khổ một trật giúp bạn kiên trì giữ vững đức tin hầu đến một lúc nào đó bạn sẽ thấy Chúa thực hiện những điều kỳ diệu và những điều lớn lao mà chúng ta không tưởng tượng được! Như Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô xác tín rằng vì có được cùng một lòng tin, chúng tôi biết rằng Đấng đã làm cho Chúa Giê-su trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giê-su, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em. Cho nên chúng tôi không chán nản. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới. Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết tin Chúa, thì cũng biết sống Lời Ngài và thi hành thánh ý Chúa vì Lời Chúa sẽ giúp chúng ta sống can trường và bình an trong đau khổ, vui tươi khi hoạn nạn, và lạc quan khi gian khổ. Với lòng tin như thế, mời anh chị em tuyên xứng đức tin…
Bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ X hôm nay, thánh sử Marcô đã kể rất chi tiết về những lời giáo TN 10-B48
Bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ X hôm nay, thánh sử Marcô đã kể rất chi tiết về những lời giáo huấn của Chúa Giêsu khi Người trở về nhà mình.
Đầu tiên, là giáo huấn về sự hiệp nhất: các kinh sư từ Giêrusalem xuống, cho rằng Đức Giêsu đã lấy quyền của quỷ để trừ quỷ, đó là một sự nhục mạ Thiên Chúa, nên Người dạy cho họ biết rằng: “Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. Vậy, Xatan mà chống Xatan, Xatan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số” (Mc 3, 24-26).
Thứ đến, là giáo huấn về tội phạm thánh: “Ai nói phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời” (Mc 3,29). Tội phạm đến Thánh Thần là gán cho thần ô uế một hành động mà Thiên Chúa thực hiện. Cố ý gán ý đồ xấu cho các hành động tốt của người khác, của Giáo Hội hay các nhóm khác là nói phạm thượng đến Thánh Thần (chú giải của CGKPV).
Cuối cùng, là giáo huấn về việc lắng nghe và thi hành ý muốn của Thiên Chúa để trở nên mẹ và anh, chị, em của Người: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3, 34.35).
Giáo huấn của Chúa Giêsu về việc lắng nghe và thi hành lời Chúa là giáo huấn tuyệt diệu, bởi vậy chúng ta chỉ dừng lại để suy gẫm điều tuyệt diệu này:
* Thành quả của việc thi hành lời Chúa
Có lẽ Vịnh gia đã đọc Lời Chúa, sống Lời Chúa cách rất thiết thực và ông đã cảm nhận được rằng, Lời Chúa như là “Kim Chỉ Nam” luôn dẫn đường đưa lối cho ông trong cuộc sống, nên ông đã phải xướng lên: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118,105). Còn ngôn sứ Giêrêmia, tuyệt diệu hơn nữa khi ông cảm nhận được Lời Chúa như là một thứ lương thực đem lại sức sống thần thiêng cho ông, bởi vậy, ông đã sung sướng nuốt ngay Lời Chúa vào lòng mà thốt lên: “Lạy Chúa, là Chúa tể càn khôn, gặp được Lời Chúa con đã nuốt vào. Lời Chúa trở thành hoan lạc cho con, thành niềm vui của lòng con, vì con được mang danh Ngài” (Gr 15,16). Và thánh Giacôbê, trong thư của mình đã khuyên nhủ các tín hữu hãy thực hành Lời Chúa, vì khi thi hành Lời Chúa là người ta sẽ tìm thấy được hạnh phúc trong mọi công việc mình làm: “Anh em hãy đem Lời Chúa ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình… Ai thi hành Lời Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc mình làm” (Gc 1, 22. 25). Nhưng với Chúa Giêsu thì điều cao quý hơn nữa là Người đã trực tiếp ghi nhận những ai nghe và thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì sẽ được gọi là mẹ, là anh chị em, là bạn hữu của Người. Hay nói khác đi, những người thi hành ý muốn của Thiên Chúa là được Chúa Giêsu cho gia nhập vào gia đình thánh thiêng rộng lớn của Người: “Những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3,35).
Thánh sử Marcô đã diễn tả việc Chúa Giêsu đang giảng dạy Lời Chúa trong bối cảnh mà rất nhiều người đang chú ý lắng nghe. Người nhà của Chúa Giêsu thấy vậy và cho rằng Người bị mất trí, nên đến tìm cách bắt Người về, nhưng có lẽ đám đông đã làm cản đường, họ không thể bắt Người về được. Người nhà của Chúa Giêsu đã tiếp tục đưa cả mẹ của Người đến để mong sao có mẹ, Chúa Giêsu sẽ nghe lời và theo về nhà? Một lần nữa, đám đông dân chúng được xem như là “vật cản” làm cho người nhà không thể tiếp xúc được với Chúa Giêsu, vì họ ngồi chật hết cả đường đi, nên có một số người đã mách cho Chúa Giêsu biết có mẹ và anh em của Người đến tìm Người, nhân cơ hội này Chúa Giêsu đã dạy cho họ biết giá trị về việc nghe và tuân hành ý Chúa chính là gia nhập vào gia đình của Chúa: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em, chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy. Nhưng Người đáp lại, ai là mẹ tôi, ai là anh em tôi? Rồi Ngài rảo mắt nhìn những người ngồi chung quanh và nói: đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3, 33-35).
Quả thật, Điều tuyệt diệu là ta có một gia đình huyết tộc bao gồm: ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì… Nhưng còn cao quý biết bao hơn nữa khi chúng ta có thêm một gia đình linh thiêng rộng lớn đến vô chừng, không có “điểm dừng”, cũng chẳng có “đích đến”... được nối kết bởi sợi dây liên kết là Chúa Giêsu, vì ta đã nghe và thi hành ý Chúa. Như thế, đi đâu ta cũng có “Nhà” và tới đâu ta cũng có “Bà Con”; Nhà, chính là nhà của Thiên Chúa; Bà Con chính là những người thuộc con cái của Cha chung Trên Trời.
Để có “Nhà” và có “Bà Con” thì ta cần lắm một trái tim biết yêu thương, biết mở rộng tấm lòng, để đón nhận tha nhân, và luôn hướng về Chúa, thi hành ý Người, vì: “ phàm ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, là Đấng ngự trên trời, thì người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3, 35).
Bởi vậy, hãy sẵn sàng nghe và thi hành ý Chúa để bước vào gia đình rộng lớn của Chúa, để đón nhận mọi người làm cha, làm mẹ, làm anh chị em, bạn hữu... trong tình liên đới với Chúa Giêsu.
* Đức Maria, mẫu gương về việc lắng nghe và thi hành Lời Chúa
Chúa Giêsu đã xác nhận những người đã lắng nghe và thực hành Lời Chúa không chỉ là những người đã được kết hiệp thân tình trong gia đình của Chúa, nhưng cũng còn là cách gián tiếp Chúa đề cao giá trị của Đức Maria, vì chính Mẹ là người đã lắng nghe và tuân hành ý Chúa cách trọn vẹn nhất. Mẹ luôn “ghi nhớ và suy đi, nghĩ lại tất cả những điều đó trong lòng” (Lc 2, 51). Và nhất là Mẹ đã để Chúa thực hiện những kỳ công của Ngài trên cuộc đời của Mẹ qua tiếng đáp xin vâng: “ Này, tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Ngài cứ thực hiện cho tôi những điều sứ thần truyền” ( Lc 1, 38). Chính Đức Maria là người đã thi hành thánh ý Thiên Chúa cách tuyệt hảo nhất, nên Mẹ xứng đáng trở thành mẫu gương cho chúng ta về việc thực thi Lời Chúa.
Noi gương Mẹ Maria, chúng ta cũng được mời gọi luôn lắng nghe Lời Chúa, đáp tiếng xin vâng theo thánh ý Chúa và nhất là thực hành Lời Chúa cho nên trọn, để ta được xứng đáng đón nhận vào gia đình thánh thiêng của Người, như chính Người đã khẳng định: “Những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy chính là anh em tôi, là mẹ tôi” ( Mc 3, 35).
Bài hát “Mùa Đông Của Anh” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có một câu lột tả sự thật của tình TN 10-B49
Bài hát “Mùa Đông Của Anh” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có một câu lột tả sự thật của tình yêu đôi lứa là: “Em chỉ là người điên trong vòng tay tình ái”. Thật vậy, khi yêu nhau, người ta như một “kẻ điên” theo sự rung cảm của con tim hơn là lý trí; người ta biết đau khổ và rắc rối do chính sự lựa chọn đem lại, nhưng vẫn lao vào, thậm chí biết rằng có thể mất tất cả từ danh dự đến sự nghiệp, thậm chí mất cả mạng sống… chỉ vì yêu.
Khi yêu, một vị vua cao sang quyền thế không ngần ngại quỳ xuống cầu hôn một cô thôn nữ quê mùa, một ông chủ sẵn sàng đánh đổi tất cả để được yêu một người nô lệ… và một Đức Giê-su là Chúa đã bỏ ngai vàng trời cao xuống kết thân với con người, đến nỗi phải hy sinh cả mạng sống cho người mình yêu. Tắt một lời, khi yêu làm người ta lắm khi như người mất trí, như người điên.
Cùng với sự soi dẫn của ánh sáng Lời Chúa, chúng ta được mời gọi sống sự “điên rồ của thập giá”, đoàn kết xây dựng Hội thánh Chúa và trở nên như “mẹ và anh em của Chúa”.
1. Bước theo “sự điên rồ” của thập giá.
Bài Tin Mừng hôm nay trước hết kể chuyện thân nhân của Chúa Giê-su phải đi bắt Người về, vì nghĩ là Người bị “mất trí”. Chúa Giê-su như “điên” vì yêu nhân loại, hi sinh cho dân đặc biệt là cho các bệnh nhân, đến nỗi không còn thời giờ để ăn uống ngủ nghỉ.
Thánh sử Mác-cô kể rằng, khi nghe biết Chúa Giê-su và các môn đệ về nhà, dân chúng đã kéo đến đông đảo, làm cho Chúa Giê-su không dùng bữa được. Phải, Chúa luôn sẵn sàng đón nhận mọi người đến bất kỳ lúc nào để chữa lành cho họ.
Cái “điên” của Chúa là tất cả cho con người đến nỗi hy sinh cả mạng sống vì con người. Thánh Phaolô cũng đã nói về sự “điên rồ của thập giá”. Lòng Thương Xót của Chúa Giê-su dành cho con người, đó là yêu đến mức điên cuồng, yêu đến mức như mất trí, lo lắng giảng dạy và chữa lành cho con người đến mức không còn thời gian ăn uống và ngủ nghỉ. Tắt một lời, Chúa yêu con người hơn cả chính mình.
Để rồi từ đó, rất nhiều những tâm hồn bước theo Chúa Giê-su và “điên vì Chúa”…
Xưa cũng như nay, vẫn hàng hàng lớp lớp những chàng trai cô gái trẻ trung bước theo tiếng gọi dâng mình cho Chúa, tuyên giữ sống độc thân và bỏ lại tất cả những gì mà thế gian tìm kiếm. Phải, họ đã điên vì Nước Trời.
Và cũng vì “điên bởi tình yêu dành cho Chúa” mà các thánh tử đạo sẵn sàng đón nhận cái chết để minh chứng cho niềm tin và lòng yêu mến các linh hồn.
2. Chia rẽ sẽ tiêu tan, hiệp nhất nên bền vững.
Trong thời đại hôm nay nhiều giá trị, nhiều nguyên tắc đạo đức và luân lý đang bị đảo lộn trong khắp các tầng lớp xã hội. Nếu đưa mắt nhìn quanh, người ta sẽ thấy trong các tầng lớp xã hội, gia đình và tôn giáo đều có sự chia rẽ. Bao nhiêu giáo phái Ki-tô giáo khác nhau trên thế giới được tìm thấy xuất hiện, phái nào cũng mạo nhân là theo gót chân Chúa một cách trung thực. Chính điều này đã làm cho nhiệm thể Chúa Ki-tô bị phân rẽ và tổn thương. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đã cảnh báo điều đó khi trả lời cho người Do-thái kết án người là lấy quyền quỷ tướng để dẹp quỷ lính.
Nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là Ai Cập hay nơi các tộc ít người, người ta biết cách bùa chú để yểm hại người khác, để trừ được bùa yểm cần phải có một thầy pháp cao tay hơn kẻ yểm bùa. Có lẽ cũng vì ảnh hưởng quan niệm này và vì sự ghen ghét mà một số người Do-thái đã độc miệng nói Chúa Giê-su dùng quyền của quỷ tướng để bắt nạt quỷ con.
Thế nhưng Chúa Giê-su lại nhân cơ hội này để dạy chúng ta bài học về sự đoàn kết, hay nói chính xác hơn là hiệp nhất.
Hình mẫu cho sự đoàn kết là tính hiệp nhất bởi Ba Ngôi Chí Thánh. Hội thánh Chúa từ khắp nơi trên thế giới đều hiệp thông và vâng phục một Đức Thánh Cha, cùng một cử hành phụng vụ, cùng một niềm tin, một Phép Rửa… Và có lẽ không tôn giáo nào có thể sánh được sự hiệp nhất đến mức duy nhất này. Và chính nhờ sự duy nhất này của Hội thánh mà sức mạnh hoả ngục đã không thắng được, dù Sa-tan đã dùng sự thù địch chia rẽ để chống lại.
Ngày nay, nơi này nơi kia trong Hội thánh đang bị những thế lực thù địch bách hại, hơn lúc nào hết, mọi người Công giáo trong tình liên đới, hãy đoàn kết với nhau, để cùng chung lời cầu nguyện…
Thế giới Ki-tô giáo ngày nay đã bị phân tán nhiều. Ngoài Giáo hội Công giáo, còn có Giáo hội Chính thống, các Giáo hội Đông phương và hàng trăm các giáo phái Tin lành khác nhau. Việc phân tán giữa thế giới Ki-tô giáo là một cớ vấp phạm cho những người không tin Chúa, hoặc chưa tin theo Chúa.Vì thế, sứ vụ của người Ki-tô giáo là cầu nguyện cho việc hiệp nhất giữa những người tin theo Chúa.
Tội phạm đến Chúa Thánh Thần.
Chúa Giê-su nói: “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha” (Mc 3,28). Đây là một vấn nạn rất khó giải thích.
Có hai cách hiểu:
– Thứ nhất, theo đoạn Tin Mừng vừa nghe, thì đang khi Chúa Giê-su dùng quyền năng Chúa Thánh Thần để trừ quỷ, thì các Biệt phái lại nói ngài dùng quyền “Tướng Quỷ – Thần Ô Uế” để trừ quỷ. Nghĩa là đã cố tình coi việc của Chúa là việc ma quỷ. Có thể nói, việc này đang xảy ra nơi một số người hiện nay, khi theo những nhóm này nhóm nọ, trong đó có nhóm “sứ điệp từ trời” coi Đức Thánh Cha do công nghị Hồng Y bầu lên là giả, coi công đồng Vatican II là do ma quỷ bày ra…. Mong là mọi người ý thức điều này để đừng bị Sa-tan lừa gạt đi theo nó mà chống lại Giáo hội do Chúa Ki-tô lập.
– Thứ hai: Chúa Thánh Thần là nguồn của bảy ân sủng, là Đấng được ban để tha tội qua công ơn cứu chuộc của Chúa Giê-su Ki-tô. Vì vậy, phạm đến Chúa Thánh Thần, nghĩa là khước từ ơn thánh và khước từ được cứu độ. Chúng ta chỉ được cứu độ nhờ đón nhận, còn khước từ thì Chúa cũng không thể cứu vì sự tự do Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta từ chối thì chúng ta mất linh hồn, không phải là Chúa không tha, mà là chúng ta khước từ sự tha thứ đó. Thánh Augustino từng dạy: “Chúa dựng nên ta không cần ta, nhưng Chúa muốn cứu chuộc ta thì cần có ta cộng tác”. Chúa Thánh Thần hoạt động trong ta, mà ta xúc phạm đẩy Người ra để chỗ cho tà thần, thì làm sao được cứu độ?
Tội nguyên tổ đã cắt đứt con đường giữa ta đến với Chúa, Chúa Giê-su đã nối lại con đường bằng cây cầu thập giá, nhưng nếu ta không chịu bước trên cây cầu thập giá ấy thì vẫn xa lìa Chúa; giống như một người bị giam giữ bởi kẻ thù, có vị tướng đến mở cửa ngục dẫn ra, nhưng tù nhân cứ an than trong đó không chịu ra khỏi ngục thì vị tướng đến giải thoát kia cũng đành chịu thôi.
3. Là mẹ và anh em của Chúa.
Có người khi đọc đoạn Tin Mừng này sẽ nghĩ rằng, Chúa Giê-su xem nhẹ sự hiện diện của Mẹ Người chăng? Không phải thế, Người còn đề cao mẹ Maria nữa là khác, vì trong việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa thì có ai bằng Mẹ được, bởi: “Đức Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”.
Chúa Giê-su coi việc những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành trở nên như ngang hàng với Mẹ và anh em Người, như thế thật phúc cho ai sống và thực hành Lời Chúa.
Thật vậy, chúng ta trờ thành mẹ Chúa – bởi vì đã gián tiếp sinh ra Đức Ki-tô nơi anh em. Như thánh Phaolô đã chia sẻ cảm nghiệm của mình: “Trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1Cr 4:15)
Tuy nhiên, muốn làm mẹ Đức Ki-tô thì điều kiện đầu tiên là phải cưu mang Chúa trong tâm mình: Muốn cưu mang Chúa trong tâm mình thì phải cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa sống động thực sự bằng tâm của mình, chứ không phải bằng lý thuyết suông. Năng suy niệm Lời Chúa cho đến khi cảm nhận như Chúa động đậy trong tâm mình, thì khi đó thực sự Chúa đã ở trong chúng ta và đang lớn lên. Khi có Chúa trong mình, thì chúng ta sẽ sống và hành động như Chúa Giê-su và luôn làm đẹp ý Cha trên trời.
Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu, là biết hy sinh nhiều, không đắn đo tính toán, không chọn lựa phẩm chất của bạn đời, nhưng yêu cả con người, yêu cả đức hay tính dở của họ. Amen.
Bài Tin Mừng (CN X/TN-B – Mc 3,20-35) trình thuật Đức Ki-tô bị đám kinh sư Do Thái cho rằng TN 10-B50
Bài Tin Mừng (CN X/TN-B – Mc 3,20-35) trình thuật Đức Ki-tô bị đám kinh sư Do Thái cho rằng Người bị qủy vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ. Sở dĩ vậy, vì Đức Ki-tô đã chữa lành cho rất nhiều bệnh nhân mắc đủ thứ bệnh; đồng thời Người còn trục xuất những thần ô uế ra khỏi bệnh nhân, khiến chúng nhìn thấy Người là hô lên: “Ông là Con Thiên Chúa”, nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người là ai (Mc 3, 10-12).
Chứng kiến biết bao nhiêu phép lạ chữa bệnh, trừ quỷ… do Đức Ki-tô thực hiện, nhất là thấy dân chúng đi theo Người rất đông; đám kinh sư, luật sĩ Do Thái liền “rình xem Đức Giê-su có chữa người bệnh trong ngày sa-bát không, để tố cáo Người…, nhóm Pha-ri-sêu lập tức bàn tính với phe Hê-rô-đê, để tìm cách giết Đức Giê-su.” (Mc 3, 2-6). Vì nhóm kinh sư luật sĩ bất cứ chuyện gì, bất cứ lúc nào, chúng cũng gài bẫy hoặc tìm cớ giết Đức Ki-tô, chuyện đó còn khả dĩ hiểu được; nhưng đến như những thân nhân của Người cũng đi bắt Người vì cho rằng Người đã mất trí (“Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.” – Mc 3, 20-21), thì quả thật “hết biết”!!!
Riêng về chuyện đám kinh sư cho rằng Đức Giê-su bị quỷ ám (“Còn các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem xuống thì lại nói rằng Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ… Ông ấy bị thần ô uế ám.” – Mc 3, 22.30), Đức Ki-tô “liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. Vậy Xa-tan mà chống Xa-tan, Xa-tan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó.” (Mc 3, 23-27). Cuối cùng, Đức Ki-tô nói thẳng cho họ biết: họ nói Người bị thần ô uế ám thì mặc nhiên họ đã xúc phạm đến Chúa Thánh Thần và như thế thì không tha thứ được (“Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời.”
Thánh sử Mat-thêu và Lu-ca cũng nói rõ: “Vì thế, tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau.” (Mt 12, 31-32); “Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha.” (Lc 12, 10). Khi đi chia sẻ tại các huynh đoàn Đa Minh mà gặp phải bài Tin Mừng như hôm nay, chúng tôi thường bị chiếu bí: “Xin cho biết tại sao tội “nói phạm thượng (phạm đến Chúa Cha), tội nói phạm đến Con Người (Đức Giê-su), thì được tha hết; duy chỉ có nói phạm đến Thánh Thần là không được tha? Xúc phạm đến Ngôi Cha và Ngôi Con thì được tha mà Ngôi Ba lại không được tha – Lạ lùng quá!!!”
Quả thật là hết sức lạ lùng! Bị chiếu bí, về cố gắng lục tìm tài liệu thì chỉ tìm được trong sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 1864): “Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha.” (Mt 12, 31) (x. Mc 3, 29; Lc 12, 10). Lòng Thiên Chúa thương xót không có giới hạn, nhưng ai cố tình không hối cải và khước từ lòng Thiên Chúa thương xót thì cũng khước từ sự tha tội và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban cho (x. DV 46). Lòng chai dạ đá như thế có thể đưa tới chỗ không hối cải trong giờ sau hết và phải hư mất đời đời.” Vẫn chưa thấy rõ ràng, đành lại mò mẫm trên mạng để cố tìm cho ra đáp số. Cuối cùng thì cũng tạm thỏa mãn. Xin được trình bày:
Kinh Thánh nói đến Chúa Thánh Thần bằng nhiều danh xưng như: Thần Khí, Thần Chân Lý, Đấng Bào Chữa, Đấng An Ủi, Đấng Bảo Trợ… (Giáo lý HTCG số 691-693). Vì là Ngôi Ba Thiên Chúa kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Con, nên Thánh Thần đã hiện diện cả trong Cựu Ước và Tân Ước, suốt dọc quá trình lịch sử cứu độ từ khởi nguyên đến tận cùng. Ngay từ tạo thiên lập địa, Thánh Thần đã hiện diện trong sáng tạo vũ trụ và loài người của Thiên Chúa (“Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.” – St 1, 1-2; “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khívào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” – St 2, 7-8).
Thời kỳ Cựu Ước cũng vậy, Thánh Thần luôn hiện diện để soi sáng và hướng dẫn các tiên tri, ngôn sứ – nói chung là dân Chúa – trong mọi trường hợp, điển hình như “Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí ĐỨC CHÚA nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi.” (1Sm 16, 1-13); “Thần khí của ông Ê-li-a đã ngự xuống trên ông Ê-li-sa.” (2V 2, 15) v.v… Không chỉ có sách Sa-mu-en và sách Các Vua như vừa dẫn, mà hầu hết các sách Cựu Ước đều trình thuật những sự kiện chứng minh có sự tác động rất mạnh của Thần Khi vào những việc Thiên Chúa thực hiện thông qua các ngôn sứ, tư tế hay các vua (xc. St 1, 2; G 33, 4; Ed 37, l4; G 34, 14-15; Dcr 7, 12; Mk 3, 8; Ds 11, 16-17.25-26; Ds 27, 28-33; Đnl 34, 9 v.v…),
Đến thời Tân Ước thì phải nói một điều Chúa Thánh Thần luôn hiện diện trong tất cả mọi sự kiện diễn ra trên trái đất, cụ thể là nơi vùng đất được tuyển chọn (It-ra-en). Chính Đức Giê-su cũng luôn luôn nhắc đến vai trò đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng chính là Thiên Chúa vì “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4, 24). Không những Đức Ki-tô giảng dạy cho các môn đệ hiểu về sức mạnh và sự cần thiết của Chúa Thánh Thần trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng; mà chính Người cũng luôn chịu sự tác động của Thánh Linh khi Người chịu phép rửa tại sông Gio-đan (Mt 3, 13-17), khi Người được Thần Khi dẫn vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ (Mt 4, 1-11), khi Người giảng dạy (Mt 10, 19-20 ; Ga 7, 38-39 ; Ga 14, 16-18 ; Ga 15, 26 ; Ga 16, 7-8…) và thậm chí cả khi Người chịu chết trên thập tự rồi sống lại hiển vinh (“Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết.” – Rm 8, 11; – xc thêm Mt 22, 43-44; Tv 110; Cv 1, 16; Cv 28, 15; 1Pr 1, 10-11; 2Pr 1, 20-21; 2Tm 3, 16; Dt 3, 7 v.v…).
Nếu không có sự phù giúp vô cùng hữu hiệu của Chúa Thánh Thần, Giáo hội không thể lớn lên trong sự thánh thiện và khôn ngoan, cũng như không thể chu toàn được sứ mệnh mà Chúa Ki-tô đã trao phó trước khi Người về trời. Vì thế, Giáo hội luôn cầu xin ơn Thánh Linh trước khi làm bất cứ việc lớn nhỏ nào. Và phong trào, đoàn thể nào có mục đích xin ơn Chúa Thánh Thần để canh tân đời sống thiêng liêng, thêm yêu mến Chúa Ki-tô và ơn cứu độ của Người, thì đều được Giáo hội khuyến khích, nâng đỡ. Nói chung, toàn thể Ki-tô hữu (bao gồm tất cả Giáo sĩ và Giáo dân) đều rất cần ơn Chúa Thánh Linh để sống và tuyên xưng đức tin và mời gọi thêm nhiều người khác nhận biết và tin Chúa Ki-tô, là Đấng duy nhất cứu chuộc loài người qua Hy tế Thập giá.
Điều đó cho thấy, nếu con người còn tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, thì mọi tội lỗi đều có thể được tha thứ. Vậy, nếu nhờ Thánh Thần mà nhận biết Đức Chúa là Cha nhân lành để chạy đến xin tha thứ mọi lỗi phạm vì yếu đuối, vì lầm lạc; thì điều kiện để được tha thứ là phải nhìn nhận tội lỗi của mình và đặt hết tin tưởng nơi lòng thương xót, thứ tha của Thiên Chúa. Ngược lại, nếu chối từ Thiên Chúa, thất vọng hoàn toàn về tình thương tha thứ của Người, cũng như không còn tin và yêu mến Ngôi Cha và Ngôi Con nữa, là xúc phạm nặng nề đến chính Chúa Thánh Thần là Đấng đã giúp người tín hữu nhận biết Thiên Chúa là Cha nhân hậu, nhận biết công trình cứu chuộc vô giá của Chúa Ki-tô, cũng như giúp mọi người nhìn nhận tội lỗi đã phạm.
Chúa Thánh Thần cũng là Đấng đã nung lửa yêu mến Thiên Chúa trong lòng mọi tín hữu. Do dó, xúc phạm đến Chúa Thánh Thần là không tin mọi công việc Người đã làm trong linh hồn mỗi người tín hữu và trong Giáo hội của Chúa Ki-tô. Tắt một lời: xúc phạm đến Chúa Thánh Thần là xúc phạm đến cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Căn cứ vào những phân tích ở trên, có thể nói tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội mang nội dung: * Hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa là Cha nhân lành giầu lòng thương xót và tha thứ. * Từ khước ơn cứu chuộc của Chúa Ki-tô. * Phủ nhận Chân Lý mà Thần Khí Chúa đã mạc khải cho con người. * Không còn nhìn nhận tội lỗi đã phạm để xin được tha thứ. * Thất vọng về ơn cứu rỗi của mình. * Ngoan cố trong tình trạng tội lỗi. * Thà chết mà không chịu hối cải.
Tóm lại, khi con người đã có những định kiến sai lầm cộng với thái độ ngoan cố như nêu trên, nhất là khi được ơn hiểu biết thông suốt mọi tội lỗi đã mắc phạm, nhưng vẫn không sám hối khi còn tại thế, thì điều tất yếu sẽ là: “không được tha thứ cả đời này lẫn đời sau” (“ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời” – Mc 3, 29; “ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau” – Mt 12, 32). Điều này chứng tỏ khi xúc phạm đến Chúa Thánh Thần tức là cùng lúc xúc phạm đến cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Nói cách cụ thể là khi đã biết là có tội nặng, người ta vẫn không chịu thống hối ăn năn trong giờ lâm chung, nghĩa là người ta đồng ý chết trong tội trọng. Tội này không những đã không được tha ở đời này vì người ta từ chối việc đền tội, mà ở đời sau cũng chẳng được tha, vì ở đó (nơi hỏa ngục) không còn cơ hội đẻ hưởng ơn cứu chuộc.
Trong Thông điệp về Chúa Thánh Thần “Dominum et Vivificantem” (số 46), Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II cũng nói về tội phạm đến Chúa Thánh Thần: “Tội phạm đến Chúa Thánh Thần không phải chỉ đơn thuần xúc phạm đến Người bằng lời nói mà hệ tại sự chối từ nhận lãnh ơn cứu chuộc mà Thiên Chúa ban cho con người qua Chúa Thánh Thần hoạt động qua quyền lực của Cây Thập Giá.” Hiểu được như vậy, người Ki-tô hữu hãy luôn luôn nhìn lại mình để nhận biết những sai phạm, tội lỗi đã vướng mắc, cầu xin Đức Ki-tô ban Thánh Linh soi sáng tâm trí và thêm lòng can đảm, ngõ hầu thực hiện nghiêm chỉnh việc “sám hối và canh tân” trong suốt hành trình tiến về quê hương đích thực. Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa là nguồn phát sinh mọi điều thiện hảo, xin đáp lời con cái nài van mà soi sáng cho biết những gì là chính đáng, và giúp chúng con đủ sức thi hành. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN X/TN-B).