Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 14-B: Bài 1-50 Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương ------------------------------------------ Mục Lục:
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabbat, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” Và họ vấp phạm vì Người. Chúa Giêsu liền bảo họ: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình”. Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy. - Ðó là lời Chúa.
Nghe Chúa Giêsu giảng dạy, dân làng Nagiarét đã bỡ ngỡ về giáo lý của Ngài. Hơn nữa, họ còn: TN 14-B1
Nghe Chúa Giêsu giảng dạy, dân làng Nagiarét đã bỡ ngỡ về giáo lý của Ngài. Hơn nữa, họ còn ngạc nhiên về những phép lạ Ngài làm để rồi đưa ra câu hỏi:
- Bởi đâu Ngài được như thế?
Dầu vậy họ vẫn không tin và Phúc âm còn ghi lại: Họ đã vấp phạm đến Ngài. Sự kiện cứng lòng này đã khiến cho Chúa Giêsu phải sửng sốt. Vậy đâu là lý do tạo nên tình trạng đáng buồn ấy? Để trả lời cho câu hỏi trên, trước hết chúng ta phải xác định xem trong thực tế, chúng ta được đức tin như thế nào?
Phần đông các tôn giáo đều tin vào một Đấng tối cao và quan niệm đạo là một sự cố gắng của con người, để tìm tòi và vươn lên tới thế giới thiêng liêng.
Sở dĩ như vậy là vì sống trong một thế giới hữu hạn và đầy khuyết điểm, tự nhiên con người mong ước một thế giới vô biên và hoàn hảo.
Cảm thấy mình yếu đuối và tội lỗi, con người cố tìm một lối thoát, bằng cách tin vào một Đấng linh thiêng có thể cứu mình thoát khỏi vòng tội lỗi và đưa tới quê hương hạnh phúc.
Như thế là con người đã cậy dựa vào sức riêng của mình mình để tìm kiếm một Đấng siêu việt và một thế giới hạnh phúc.
Trong khi đó, quan điểm của Kitô giáo thì trái ngược hẳn.
Thực vậy, trong mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người, sự bắt đầu không phảilà từ phía con người, nhưng là từ phía Thiên Chúa. Con người không thể tự mình vươn tới Thiên Chúa, nhưng chính là Thiên Chúa đã cúi xuông đến tận con người.
Kitô giáo không từ dưới mà đi lên, như các tôn giáo khác, nhưng đã từ trên đi xuống… Chính Thiên Chúa đã can thiệp vào đời sống con người, tỏ lộ cho con người biết ý định và chương trình cứu độ của Ngài. Nếu con người có thể đáp lại và tìm đến với Thiên Chúa, là vì chính Thiên Chúa đã tự ý lên tiếng kêu gọi và tìm đến với họ trước.
Do đó, muốn tìm thấy Thiên Chúa, con người không được dựa vào sức riêng của mình, nhưng phải dựa vào Chúa.
Như vậy đức tin là một ơn Chúa ban, vì đức tin trước khi là sự chấp nhận của con người thì đã là một lời kêu mời của Thiên Chúa. Nếu Ngài không kêu mời, con người chẳng biết gì như lời Đức Kitô đã nói:
- Không ai đến được với Ta mà không được Chúa Cha lôi kéo và không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Ta.
Như thế, đức tin là việc Chúa kêu gọi trước và con người đáp trả lại sau.
Vậy tại sao những người Nagiarét nghe Chúa giảng và nhìn Chúa làm phép lạ mà vẫn không tin?
Như trên chúng ta đã nói: - Đức tin là một ơn Chúa ban. Dầu vậy cũng đừng vội kết luận: - Người không tin là vì không được Chúa ban.
Sở dĩ như thế vì đức tin còn là một sự cộng tác của chúng ta vào ơn Chúa, còn là sự chấp nhận và đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Như vậy phải kết luận rằng:
- Những kẻ nghe lời Chúa giảng và chứng kiến những phép lạ Chúa làm mà không tin, vì họ không chấp nhận. Sở dĩ họ không chấp nhận vì họ đã đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những thành kiến hẹp hòi của họ.
Chẳng hạn vì tinh thần tôn giáo từ ngàn xưa, họ không thế nào chấp nhận Đức Kitô là hiện thân của nước trời, là phản ảnh của sự khôn ngoan Thiên Chúa.
Chẳng hạn vì thành kiến về Thiên Chúa và đường lối của Ngài, họ không thể chấp nhận sự hiện diện của Thiên Chúa nơi một con người đơn giản, khiêm tốn và nghèo khó, là Đức Kitô.
Họ mang sẵn trong đầu óc những ý nghĩ về Thiên Chúa, cho nên thay vì đón nhận sự tỏ lộ, sự mạc khải của Ngài, thì họ lại bắt Ngài phải trở nên giống những điều họ mường tượng.
Chính vì thế khi hình ảnh hoàn toàn của Chúa Cha là Đức Kitô ở trước mặt, họ đã không thể nhận ra.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta thường mang nhiều thành kiến về những phương tiện chúng ta tưởng rằng Chúa dùng để đến với chúng ta và đưa chúng ta về với Ngài.
Do đó, biết bao nhiêu ơn sủng đã bị đóng lại, biết bao nhiêu ân huệ đã trở thành vô ích chỉ vì chúng ta thiếu sẵn sàng đón nhận cái bất ngờ của Thiên Chúa.
Đường lối của Thiên Chúa thì khác với đường lối của chúng ta. Thế nhưng, đường lối ấy sẽ kéo chúng ta tới nguồn ơn cứu độ và tới hạnh phúc vĩnh cửu.
Ông ta là ai vậy? Bởi đâu ông ta . . . . . Phải, đúng lắm. Đó chính là Chúa Giêsu, con của ông: TN 14-B2
Ông ta là ai vậy? Bởi đâu ông ta đã làm được những chuyện lạ lùng như thế? Ông ta không phải là con ông Giuse và bà Maria sao? Họ hàng anh chị em của ông ta không phải là những người láng giềng của chúng ta sao? Ông ta không phải là người đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở đây với chúng ta sao?
Phải, đúng lắm. Đó chính là Chúa Giêsu, con của ông Giuse và bà Maria, đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở Nagiarét 30 năm trời.Nhưng tại sao những người đồng hương lại ngạc nhiên và thắc mắc về Chúa như vậy? Bởi vì ít lâu nay họ đã nghe dư luận đồn thổi về những lời giảng dạy mới lạ, đầy uy quyền của Chúa, cũng như đã nghe dân chúng bàn tán xôn xao về những phép lạ Chúa đã làm ở nơi này nơi kia… Đó là những công việc, những phép lạ Chúa Giêsu đã làm trước khi Ngài về Nagiarét, quê hương của Ngài. Nhưng những người đồng hương của Ngài không tin và không thể tin. Tin làm sao được ông Giêsu đang đứng trước mặt họ đây có thể làm được những điều lạ lùng như thế, nhất là tin làm sao được ông Giêsu đây là Thiên sai, Đấng cứu tinh, là Đấng mà dân tộc họ đang trông đợi cả ngàn năm?
Dân làng Nagiarét không thể nào chấp nhận một người mà họ đã quá biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn. Biết cả họ hàng chẳng danh giá gì. Biết rõ quá như thế thì làm sao người đó có thể là vị cứu tinh, là Đấng cứu thế, là Đấng giải thoát cho dân tộc họ được? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giàu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Chúa Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Chúa làm phép lạ như đã làm ở những nơi khác. Trước thái độ ít cởi mở và hoài nghi của họ, vì họ không tin, nên Chúa không làm phép lạ được. Không phải vì Ngài không thể làm, bằng chứng là Ngài cũng có đặt tay chữa cho mấy người bệnh, nhưng chính vì họ không tin.
Dân làng Nagiarét không tin Chúa Giêsu. Không tin là vì bụt nhà không thiêng, như có lần Chúa đã nói: “Chẳng ngôn sứ nào được danh tiếng nơi quê hương mình”, hoặc tệ hơn, như Chúa nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. Tại sao dân làng Nagiarét không tin? Họ không tin vì thành kiến. Họ đã đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những định kiến hẹp hòi, có sẵn của họ. Vì thế, họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ mà Chúa mở ra cho họ. Họ cũng không thể chấp nhận Chúa Giêsu là hiện thân của nước trời và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Có ai ngờ Đấng cứu thế lại là một người đơn sơ, khiêm hạ như thế. Đối với người Do thái đương thời, Chúa Giêsu đến quá ư bất ngờ và quá khác xa với quan niệm họ sẵn có về Đấng cứu thế. Họ không biết rằng đường lối của Thiên Chúa có thể khác xa với sự toan tính của loài người.
Qua đó chúng ta rút ra được một bài học thực tế: Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả không hay, sai lầm hoặc nguy hại. Thật vậy, ai đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng tối hết; lưỡi đắng thì ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Yêu nên tốt, ghét nên xấu: “Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng”. Lòng chúng ta có khuynh hướng mạnh về điều gì, thì mắt chúng ta hay tìm, trí chúng ta hay tưởng và rồi chúng ta phán đoán người khác cũng giống như chúng ta và hơi chút là chúng ta đoán về đàng đó liền.
Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Đánh giá một người theo bên ngoài có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm. Câu nói: “Trông mặt mà bắt hình dong” không phải là nguyên tắc chính xác, nên chính Chúa Giêsu có lần khuyên chúng ta: “Đừng có xem mặt mà bắt hình dong”. Khổng Tử cũng xác nhận: “Người tôi yêu chưa chắc đã tốt; người tôi ghét chưa chắc đã xấu”. Phong dao cũng có câu: “Người xấu duyên lặn vào trong. Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài”. Lặn vào thì còn lại, bong ra thì mất đi rồi. Và hẳn chúng ta cũng không quên câu nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”,”Xanh vỏ mà đỏ lòng”. Cho nên, đánh giá một người mà chỉ căn cứ vào bề ngoài có thể là nông nổi, thiển cận và nguy hiểm.
Tóm lại, thành kiến đã làm cho dân làng Nagiarét phán đoán sai về Chúa Giêsu. Họ đã không nhận ra Ngài là Đấng cứu tinh. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm chúng ta mù quáng, không nhận định và phê phán một cách khách quan đúng đắn được. Thành kiến làm chúng ta không thể đối thoại, cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về bản thân để khỏi tự ti mặc cảm; cũng như thành kiến về những người chung quanh, để có được một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và một đời sống yêu thương cởi mở hơn.
Đức Giêsu trở về quê hương, với những người dân mà Người đã lớn lên ở giữa họ. Bỗng chốc, họ: TN 14-B3
Đức Giêsu trở về quê hương, với những người dân mà Người đã lớn lên ở giữa họ. Bỗng chốc, họ thấy rõ ràng Người đã thay đổi. Khi rời bỏ Nagiarét, Người đã tìm thấy ơn gọi thật của Người (việc Người làm), và tặng vật của Người (sự giáo huấn và chữa lành bệnh) đã nở rộ. Giờ đây Người nổi tiếng là một thầy dạy và một người hay làm phép lạ.
Thông thường, người ta phải đi xa nhà và xa quê hương mình để được triển nở. Ở nhà người ta cảm thấy gò bó, vướng víu vì thiếu cơ hội, sự thách đố và thừa nhận.
Khi trở lại quê nhà, những người ở quê nhà không sẵn sàng chấp nhận điều đó. Họ muốn nhìn một người đi xa trở về như kẻ đã bỏ họ; họ cảm thấy yên tâm và chấp nhận người ấy. Người ấy không còn là một thách thức đối với họ.
Nếu người đi xa trở về ở tình trạng sa sút càng tốt. Thế là họ cảm thấy xót xa cho người ấy. Nhưng nếu người ấy trở về và trở thành một con người đã thay đổi, có lẽ họ cảm thấy bực bội và chối bỏ người ấy. Chính họ bị kẹt cứng trong những lề thói xưa cũ. Vì thế họ cảm thấy bực bội với một người trở về mà bản thân đã làm được một điều gì . Họ cố gắng cắt gọt người ấy theo kích thước riêng của họ.
Dẫu sao, Đức Giêsu đã trở về, và một cách thân tình muốn chia sẻ quà tặng của Người cho những người dân ở quê nhà. Nhưng thay vì Người được đón tiếp nồng hậu. Người thấy dân giám sát, dò xét và theo dõi Người.
Ngay khi Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường họ có thể thấy Người có một món quà đặc biệt – món quà của sự khôn ngoan. Lúc đầu họ có ấn tượng thậm chí họ rất đỗi ngạc nhiên. Tuy nhiên thay vì vui mừng về điều đó và cởi mở với những điều Người đã ban tặng họ, họ lại hỏi: “Bởi đâu ông ta được như thế?” Đó cũng là câu hỏi mà nhiều cha mẹ hỏi khi nghe con mình biểu lộ một điều làm họ ngạc nhiên. Ở đây chúng ta gặp một mầu nhiệm về sự phát triển của con người. Chúng ta là ai mà đặt giới hạn và biên giới cho khả năng của người khác?
Người dân Nagiarét nhớ lại nguồn gốc khiêm hạ của Đức Giêsu. Vậy thì, Người là ai ngoài một bác thợ tầm thường, họ biết rõ gia đình của Người. Thật vậy, họ đã nói: “Ông ấy nghĩ mình là ai?” Họ cảm thấy họ đã nắm rõ về Người. Họ đã đặt ra những giới hạn cho Người. Một thái độ như thế không cho phép sự trưởng thành và phát triển.
Họ đã từ chối tin Người. Họ đã từ chối nhìn Người một cách nghiêm túc. Bởi thái độ của họ, họ làm cho Người không thể làm gì cho họ, và như thế họ không hưởng được ơn ích từ cuộc viếng thăm của Người.
Đây là một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn – Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận. Thường chúng ta không chịu thừa nhận quà tặng và tài năng của những người gần gũi với chúng ta, trong nhà chúng ta hoặc khu xóm chúng ta. Chúng ta không đánh giá đúng hoặc chấp nhận họ và do đó giới hạn khả năng của họ. Chúng ta không cho họ một cơ hội. Tệ hơn, chúng ta hạ thấp họ. Chúng ta có thái độ bất công rất lớn với họ. Và chúng ta cũng chịu thiệt hại bởi vì chúng ta không được hưởng lợi từ lòng tốt và quà tặng của họ.
Bị chối bỏ là một điều thương tổn. Nhưng đặc biệt thương tổn khi bị những người thân chối bỏ. Đức Giêsu đã ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Người rất muốn giúp đỡ họ nhưng chính Người cũng chịu bó tay. Bạn không thể giúp đỡ những người làm ngược lại ý nuốn của họ. Đức Giêsu buồn rầu vì sự việc đó nhưng Người không tức giận. Sự chối bỏ thường dễ dàng làm cho người ta tức giận.
Chúng ta đều có chút ít kinh nghiệm về điều đó. Chúng ta đã muốn giúp đỡ một người nào đó nhưng người ấy khước từ sự giúp đỡ của chúng ta. Chúng ta cảm thấy bực bội và vô dụng. Khi gặp phải sự chối bỏ, chúng ta có thể bị cám dỗ nói rằng: “Thế đấy! Đừng hòng tôi giúp cho”. Chúng ta quyết định không giúp đỡ một ai nữa. Điều này làm người ta đau khổ.
Đức Giêsu đã không phản ứng như thế. Người không trở nên cay cú. Người đã làm điều nhỏ bé còn có thể làm được ở Nagiarét. Người đã chữa lành một vài bệnh nhân – Rồi người quyết định đem ánh sáng và món quà của Người đi nơi khác.
Trong một giờ phút rất chân thành, thánh Phaolô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã ban cho: TN 14-B4
Trong một giờ phút rất chân thành, thánh Phaolô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã ban cho ngài mọi thứ thị kiến và cho ngài cảm nhận rằng ngài đã đặt một chân vào thiên đàng. Nhưng ngài cũng nói rằng: “Một cái dằm đã đâm vào da thịt tôi” để nhắc ngài nhớ đến sự yếu đuối của mình và để gìn giữ ngài trong sự khiêm nhường.
Một cái dằm trong da thịt – đó là một hình ảnh sống sượng và mạnh mẽ. Chúng ta đều có kinh nghiệm bị dằm đâm vào bàn chân hoặc vào ngón tay. Và chúng ta đã quen thuộc với thành ngữ “Cái gai trước mắt”.
Hình ảnh gợi ra một điều sống sượng và đau đớn – nó liên tục quấy rầy làm người ta không quên được. Nó là một vật ở không đúng chỗ. Nó hết sức phiền hà và làm chúng ta tức giận. Nó có thể là vật rất nhỏ. Tuy nhỏ nhưng lại rất đau.
“Dằm” là hình ảnh của một vấn đề và có thể có nhiều hình thức: một bệnh tật, một điều hối tiếc, một gánh nặng, một nỗi đam mê, một sự cưỡng bách… Nó có thể là những người khó khăn mà chúng ta phải sống với họ. Thánh Phaolô không nói cái dằm của ông là gì. Có lẽ đó là một căn bệnh thể chất tái phát theo định kỳ.
Nhưng ông không nói ông tha thiết muốn thoát khỏi căn bệnh ấy. Nhiều lần ông cầu xin Thiên Chúa lay động cái dằm ấy. Nhưng Thiên Chúa đã không làm. Điều này chứng tỏ rằng chúng ta không được chấp nhận cái dằm mà còn phải tìm cách thoát khỏi nó.
Tình cờ, Phaolô phải chấp nhận sự kiện cái dằm đã có ở đó. Nhưng Thiên Chúa bảo đảm với ông Người sẽ ban cho ông sức mạnh để đối phó với nó: “Ơn của Thầy đã đủ cho con”. Chúng ta cũng phải chấp nhận nếu cái dằm của chúng ta vẫn ở đó. Và những lời “Ơn của Thầy đã đủ cho con” cũng được nói với chúng ta, và cũng là một an ủi to lớn cho chúng ta Thiên Chúa hoạt động vì sự yếu đuối của con người và qua sự yếu đuối ấy.
Cuối cùng, Phaolô phải thừa nhận giá trị và thậm chí khoe mình về cái dằm ấy. Nó giữ ngài khiêm nhường. Nó cho ngài một kinh nghiệm yếu đuối và bất lực. Có nó ngài mới cảm nghiệm quyền năng của ân sủng Thiên Chúa. Chính khi trời êm, con thuyền của mình không đi đâu cả, người thủy thủ mới đánh giá đúng sức mạnh của gió.
Điều như thế cũng xảy đến với chúng ta. Chính trong sự yếu đuối của mình chúng ta mới cảm nghiệm quyền năng của Thiên Chúa. Trong bóng tối của chúng ta, chúng ta mới cảm nghiệm ánh sáng của Người. Trong tội lỗi của chúng ta, chúng ta mới cảm nghiệm lòng thương xót của Người. Nếu “cái dằm” làm chúng ta biết trông cậy nhiều hơn vào quyền năng của Thiên Chúa và gia tăng sự phó thác nơi Người, vậy nó trở nên một suối nguồn của sự trưởng thành và ân sủng cho chúng ta. -------------------------------
Một gánh xiếc đi lưu diễn đóng trại bên ngoài một ngôi làng. Một buổi tối nọ, không lâu trước: TN 14-B5 Web
Có một gánh xiếc đi lưu diễn, đóng trại bên ngoài một ngôi làng.
Một buổi tối nọ, không lâu trước giờ trình diễn, ngọn lửa bùng lên trong một chiếc lều. Ông giám đốc gánh xiếc sai một anh hề, lúc đó đã mặc trang phục cho buổi diễn đi vào làng kế cận để xin được giúp đỡ. Nếu ngọn lửa lan tràn qua cánh đồng chỉ còn những gốc rạ khô, thì cả ngôi làng có cơ may sẽ bị hỏa hoạn.
Anh hề vội vã chạy vào làng. Anh xin người ta ra ngoài làng càng nhanh càng tốt để giúp đỡ dập tắt đám cháy. Nhưng không ai cho rằng anh nói nghiêm túc. Người ta nghĩ đó là một màn quảng cáo khéo léo của giám đốc gánh xiếc. Anh càng cố làm cho họ biết rằng thật sự có hỏa hoạn, thì họ càng cười anh. Sau cùng lửa đã lan đến ngôi làng và thiêu rụi.
Lý do chính mà dân làng không nghe lời cảnh báo là vì họ nhìn người đưa tin chỉ như một anh hề. Điều này làm cho họ hầu như không thể xem xét sự thật trong lời nói anh ta nói với họ.
*****
Có một điều tương tự đã xảy ra với Đức Giêsu, khi Người trở về quê hương Nagiarét. Người ta từ chối nghe lời Người. Họ biết rất nhiều về Người. Sứ điệp không gặp may, vì người ta đã chối bỏ sứ giả. Thật vậy, họ cố gạt bỏ Người.
Người đã nói sự thật nào cho những người đồng hương, để họ thấy đó như một lời đe dọa đến nỗi họ muốn giết chết Người? Người cho họ biết họ là dân được Thiên Chúa chọn. Thế nên người ta phải thấy họ có ít đức tin. Tuy nhiên, Người nói với họ : Người thấy dân ngoại còn có nhiều đức tin hơn họ. Người tiếp tục gợi ý dân ngoại sẽ chiếm chỗ của họ trong Nước Trời. Vì thế, họ muốn giết Người.
Một trong những dấu chỉ Thiên Chúa chăm sóc dân Người là Người hứa gởi đến cho họ những ngôn sứ để kêu gọi họ trở về với chính họ. Cho dù lời của các ngôn sứ thường là lời phê phán, nhưng ời ấy là lời biểu lộ tình yêu.
*****
Thiên Chúa cũng làm thế đối với chúng ta. Người không bỏ mặc chúng ta trong bóng tối sai lầm hoặc làm điều sai trái. Người gởi các ngôn sứ đến với chúng ta, phần lớn ở gần chúng ta. Có thể là ai khác? Nhưng chúng ta cũng có thể chối bỏ các ngôn sứ, đặc biệt khi ngôn sứ mang đến một sứ điệp, mà chúng ta không thích nghe. Sự thật mất lòng.
“Bạn làm việc quá vất vả. Bạn bỏ bê gia đình quá nhiều. Bạn không quan tâm đến đời sống trong gia đình và con cái bạn... Bạn làm hư hỏng con cái bạn... Bạn quá chú trọng về vật chất... Bạn uống rượu nhiều quá... Bạn có quá nhiều thành kiến... Bạn luôn đề cao bạn nhất... Bạn thờ phượng Thiên Chúa chỉ bằng môi miệng...”
- Nếu có ai nói với chúng ta một hoặc nhiều sự việc ấy, chúng ta sẽ phản ứng thế nào?
- Chúng ta không tấn công ông hay bà ngôn sứ đó hay sao?
Sự thật là ít ai trong chúng ta ham thích sự thật. Chúng ta phải cầu nguyện để có can đảm lắng nghe sự thật cho dù có thể đau đớn và đến như cơn gió làm tan đi lòng kiêu ngạo của chúng ta. Sự thật như lời Đức Giêsu nói sẽ giải phóng chúng ta.
Người nào vì yêu thương chúng ta nói với chúng ta sự thật, biết rằng nói ra sẽ làm chúng ta mất lòng và đánh mất tình bạn, người ấy là một người bạn chân thành.
Chúng ta cũng phải cầu nguyện để có can đảm nói ra sự thật với người khác. Kéo một người về với chính lộ là một việc cao cả. Nhưng có một cách để làm việc đó. Đó là làm với tình yêu thương và sự quan tâm. Bí quyết là đồng thời phải có lòng trung thực và nhân hậu.
Bài Tin mừng hôm nay đề cập về phép lạ: Ở quê hương Nagiarét, Đức Giêsu chỉ làm được một ít phép: TN 14-B6
Bài Tin mừng hôm nay đề cập về phép lạ: Ở quê hương Nagiarét, Đức Giêsu chỉ làm được một ít phép lạ bởi vì dân Nagiarét không tin. Nhân dịp này, chúng ta hãy tìm hiểu xem: phép lạ là gì? Và ngày nay phép lạ còn xảy ra nữa không?
Điều chúng ta cần lưu ý trước tiên là người ta dùng chữ phép lạ theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa rộng, phép lạ là một điều gì có vẻ khác thường, xảy ra lạ hơn bình thường và không giống như người ta dự kiến. Thí dụ như người Do thái ngày nay đã vận dụng nhiều cố gắng lao động, kết hợp với khoa học kỹ thuật mà trồng được những vườn cam ngon ngọt trên miền đất trước đây là sa mạc. Người ta đã coi đó là một phép lạ (theo nghĩa rộng). Còn theo nghĩa hẹp, nghĩa chính xác, phép lạ là điều không những kỳ diệu khác thường, mà còn xảy ra ngoài những qui luật tự nhiên nữa. Thí dụ: trong khoa vật lý học, chúng ta biết có qui luật là một vật có trọng lượng thì bị rơi xuống do sức hút của trái đất. Nhưng nếu có một người nào đó té từ một nhà lầu cao nhưng không rơi xuống đất mà cứ lơ lửng giữa chừng, thì khi đó sự kiện không xảy ra theo qui luật tự nhiên nữa, nên được coi là phép lạ.
Sau khi đã hiểu phép lạ là gì theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bây giờ chúng ta tìm hiểu xem có thể xảy ra phép lạ hay không. Phép lạ hiểu theo nghĩa rộng thì ai cũng nhìn nhận rằng có, kể cả những người không có đạo, kể cả những kẻ vô thần. Người ta nói nhiều đến phép lạ cải tạo ruộng đất, làm theo nghĩa hẹp thì những người vô tín ngưỡng lại không nhìn nhận. Bởi vì muốn có phép lạ theo nghĩa hẹp này thì cần có sự can thiệp của quyền năng thần thánh. Kẻ vô tín ngưỡng không công nhận thần thánh nên cũng không công nhận phép lạ.
Còn đối với chúng ta, những người Công giáo thì sao? Dĩ nhiên vì tin vào quyền năng Thiên Chúa nên chúng ta nhìn nhận có phép lạ. Tuy nhiên cũng cần lưu ý thêm điều này là: Thiên Chúa không làm phép lạ một cách bừa bãi đâu. Vì như đã nói trên: phép lạ (theo nghĩa hẹp) là điều xảy ra ngoài qui luật tự nhiên. Qui luật tự nhiên ấy ai đã thiết lập ra? Thưa là chính Thiên Chúa. Vậy nếu Thiên Chúa đã thiết lập những qui luật tự nhiên thì đương nhiên Thiên Chúa cũng muốn cho vạn vật vận hành theo đúng qui luật tự nhiên mà Người đã thiết lập. Chỉ thỉnh thoảng khi nào có một lý do thật quan trọng thì Chúa mới cho một sự kiện xảy ra ngoài những qui luật tự nhiên đó (và khi đó là phép lạ).
Vậy lý do quan trọng khiến Chúa làm phép lạ là gì? Thường là đức tin. Phép lạ xảy ra để đáp ứng một lòng tin mạnh mẽ vững vàng – hoặc để mời gọi những người chứng kiến càng tin mạnh mẽ vững vàng hơn.
Trong các sách Tin mừng chúng ta đã đọc thấy nhiều lần trước khi làm phép lạ chẳng hạn trước khi chữa cho một người mà từ thuở mới sinh Đức Giêsu hỏi “Con có tin không?” Người đó tuyên xưng đức tin thì Chúa mới làm phép lạ. Ngược lại, đối với vua Hêrôđê không tin mà chỉ muốn có phép lạ để xem cho thỏa thích hiếu kỳ thì Đức Giêsu không làm một phép lạ nào hết. Trong đoạn Tin mừng hôm nay cũng thế: những người đồng hương với Đức Giêsu ở Nagiarét một mặt khinh thường Đức Giêsu chỉ là con của một bác thợ mộc nghèo nàn, tầm thường, nhưng mặt khác khi nghe biết Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ ở những nơi khác thì cũng muốn Đức Giêsu làm phép lạ ở quê hương Nagiarét cho họ hưởng nhờ thì Đức Giêsu cũng không chịu làm phép lạ chỉ để thỏa mãn tính vụ lợi của họ.
Có những người rất nhẹ dạ dễ tin: chuyện gì hơi lạ một chút cũng coi là phép lạ.
Có những người rất hay cầu xin phép lạ: phép lạ được trúng số, phép lạ được khỏi bệnh.
Không phải chúng ta không nên tin cũng như không nên cầu xin nữa. Nhưng sau những phân tích nãy giờ, chúng ta hãy lưu ý: điều quan trọng nhất trong các phép lạ không phải là khía cạnh lạ thường, khía cạnh lợi lộc của chúng, mà chính là đức tin: phép lạ xảy ra là vì đức tin: hoặc để đáp ứng đức tin mạnh mẽ của con người, hoặc để mời gọi con người qua đó mà càng tin vững hơn vào Thiên Chúa.
- Ở Lộ Đức, ở Fatima, ở La Salette v.v... khi mà những biến cố lạ thường xảy ra làm nhiều người xôn xao thì Giáo hội vẫn im lặng. Chỉ sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng một thời gian dài rồi thì Giáo hội mới tuyên bố đấy là phép lạ. Giáo hội cẩn thận như vậy là để khỏi rơi vào mê tín dị đoan. Thiết tưởng mỗi người chúng ta cũng phải cẩn thận như thế trước những điều xảy ra có vẻ khác thường, bởi vì đức tin của chúng ta không phải là nhẹ dạ, mê tín, mà là một đức tin có nền tảng vững chắc, trong sáng.
- Rồi trong cuộc sống đạo của chúng ta, điều quan trọng mà chúng ta phải chú ý hơn hết là cố gắng rèn luyện cho đức tin của mình càng ngày càng vững mạnh trong sáng hơn. Nói cụ thể: tôi giữ đạo, tôi làm theo những điều Chúa dạy là vì tôi thực sự tin vào Chúa... chứ không phải vì tôi mong Chúa sẽ làm phép lạ cho tôi giàu có, cho tôi trúng số, cho tôi khỏi bệnh một cách lạ lùng... Những điều đó nếu thấy cần thì chúng ta cứ cầu xin, và Chúa nếu thấy rằng tốt thì sẽ ban cho chúng ta. Nhưng chúng ta không nên chỉ giữ đạo vì những điều đó. Chúng ta giữ đạo vì chúng ta tin vào Chúa. Tin vào Chúa chẳng những khi cuộc sống thoải mái dễ chịu, nhưng dù cuộc đời có gặp lúc gian nan, túng thiếu, bệnh tật, buồn khổ... chúng ta vẫn một niềm tin son sắt vào Chúa. Đó mới là một đức tin vững mạnh.
Tại một vùng của nước Pháp, dân chúng có tập tục rất lạ. Đó là vào sáng sớm Chúa nhật Phục sinh: TN 14-B7
Tại một vùng của nước Pháp, dân chúng có tập tục rất lạ. Đó là vào sáng sớm Chúa nhật Phục sinh khi hồi chuông đầu tiên của nhà thờ vang lên, tất cả mọi người đều trỗi dậy chạy ra giếng làng để rửa mắt với giòng nước mát lạnh.
Nhiều bạn trẻ không hiểu vì sao lại chạy ra giếng rửa mắt, trong khi ngày nay gia đình nào cũng có các vòi nước trong nhà.
Lúc ấy các vị bô lão mới giải thích: Đó là hình thức cầu nguyện bằng hành động, qua đó dân làng cầu xin Thiên Chúa ban cho họ đôi mắt đức tin mới, để họ thấy Đức Giêsu Phục sinh đang hiện diện sống động giữa họ.
Với con mắt định kiến, thiển cận và hẹp hòi, những người đồng hương với Đức Giêsu đã không nhận ra khuôn mặt thật của Người. Họ không tin Người là một tiên tri, lại càng không thể tin Người là Đấng cứu thế, và chắc chắn họ chẳng ngờ mình là người đồng hương với Con Thiên Chúa.
Chính lòng ghen tỵ là một trong những nguyên nhân khiến “các tiên tri không được kính trọng ở quê hương mình”. Mc. Kenzie nói: “Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tỵ nhìn bằng kính hiển vi”.
Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy quá khứ rất đỗi bình thường của Người.
Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy hiện tại của Người không một chút hào quang.
Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy nơi Người một bác thợ mộc rất mực âm thầm, khiêm tốn.
Chính vì không tin nên họ đã không thấy. Thấy đây là thấy toàn vẹn khuôn mặt của Thiên Chúa. Thấy đây là thấy Người bằng cái nhìn luôn đổi mới. Thấy đây là thấy với con mắt đức tin. Tác giả thư Do thái viết: “Đức tin là bảo đảm cho những gì ta hy vọng, là bằng chứng cho những gì ta không thấy”. James Woodbridge viết: “Đức tin là con mắt để nhìn thấy Chúa, là bàn tay để nắm lấy Người, là sức mạnh giúp ta tự hiến cho Người”.
Cho dù Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Ngài có thể làm được mọi sự. Nhưng Người phải bó tay trước sự cứng lòng của con người. Người đã trở nên bất lực trước những kẻ thiếu niềm tin. Và quả thật, “Người đã không thể làm được phép lạ nào” tại quê hương mình. Thế mới biết con người có khả năng cản trở Thiên Chúa, con người có toàn quyền từ chối quà tặng của Người.
Nếu phép lạ là quà tặng của Thiên Chúa, cần được đón nhận với niềm tin; thì chính niềm tin là ân huệ của Thiên Chúa chỉ có thể nhận được với lời cầu nguyện. Cần phải cầu nguyện để có niềm tin. Nhà bác học kiêm triết gia Pascal đã nói: “Để có niềm tin con người phải quì gối cầu xin”.
Trong cuốn sách tựa đề The Inner Game of Tennis (Cuộc Chiến Bên Trong Của Môn Tennis): TN 14-B8
Trong cuốn sách tựa đề The Inner Game of Tennis (Cuộc Chiến Bên Trong Của Môn Tennis) Timothy Gallwey đã tả lại cái cảnh vào một đêm tối mùa đông khi ông đang lái xe trên con đường vắng lặng từ tiểu bang Maine đến tiểu bang New Hampshire
Bất chợt, chiếc xe Volkswagen ông đang lái gặp phải chỗ đường đóng đá nên đã trượt đi đâm vào đống tuyết ở bên lề đường. Cùng một lúc thì chiếc xe cũng bị chết máy. Gallwey đã cố gắng tìm đủ mọi cách để nổ máy xe lại nhưng không có kết quả gì.
Lúc đó, khí trời lạnh buốt tới âm 20 độ và ông chỉ có một chiếc áo lạnh thể thao đang mặc trên mình.
Gallwey mới chỉ có ra khỏi một thành phố độ khoảng chừng 20 phút. Trong 20 phút qua, ông không nhớ là đã nhìn thấy một chiếc xe nào cả. Ông cố gắng tìm xem có nhà nào ở ngoài đồng vắng hay có cột điện thoại nào không, nhưng ông không nhìn thấy một cái gì hết. Ông cũng không biết ông còn cách xa thành phố kế tiếp bao xa.
Gallwey liền xuống xe và chạy đi tìm người giúp. Khí lạnh đã xâm nhập vào cả người ông và dần dần ông cảm thấy đuối sức và ông không còn có thể nào chạy được nữa nhưng phải bước đi.
Sau khi đi bộ được hai phút thì hai cái tai lạnh ngắt và ông tưởng rằng chúng sẽ rơi xuống bất cứ lúc nào. Lại một lần nữa, ông lại bắt đầu chạy, nhưng khí lạnh lại làm cho ông kiệt sức và ông lại phải bước bộ.
Bất chợt, trong tâm trí ông, ông tưởng tượng ra thân xác của ông sẽ nằm trên con đường này và nó bị đóng đá và bị tuyết bao phủ. Nghĩ đến đây, ông rùng mình lo sợ.
Sau đó một vài phút, Gallwey la lớn lên: "OK, nếu sự việc đã định, thì tôi xin sẵn sàng." Sau đó, Gallwey không còn lo ngại gì đến số mạng của ông nữa, và ông lại bắt đầu chạy tiếp.
Sau một vài phút chạy bộ, nhìn lên bầu trời, Gallwey cảm thấy ngạc nhiên về vẻ đẹp của những ngôi sao lấp lánh và những cánh đồng xung quanh ông đều bao phủ tuyết trắng.
Ngoài sức tưởng tượng của ông, Gallwey đã chạy được 40 phút mà không cần nghỉ ngơi. Bất chợt, ông dừng lại bởi vì đằng xa xa, ông nhận ra một ánh đèn phát ra từ một nhà nông trại. Diệu kỳ thay, ông đã qua khỏi cơn thử thách đầy gian nguy này.
Sau cái kinh nghiệm khủng khiếp đó, Gallwey đã tự hỏi mình rằng đâu là nguồn gốc của sức mạnh đã giúp ông để có thể chạy được một quãng đường dài như thế. Rồi, ông nhớ lại rằng chính ông đã biết tự phó mặc đời mình theo thiên mệnh và qua đó, ông đã lãnh nhận được một sức mạnh giúp ông chạy một lèo 40 phút như thế.
Khi biết phó mặc sự sống của mình, Gallwey đã để cho một sự sống thần linh chiếm đoạt con người của ông. Phó mình trong tay Chúa định đoạt về mình, ông mở ra một lối cho một sức mạnh thần linh mà ông không bao giờ hay biết.
Kinh nghiệm của Gallwey giúp chúng ta hiểu được những điều bí nhiệm của Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay.
Thiên Chúa nói với Phaolô, "Sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối." Và Thánh nhân đã chân nhận, "Vì thế, tôi vui thỏa trong sự yếu hèn của tôi... khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ." Nhưng, Thánh Phaolô muốn nói gì, "khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ"?
Ngài có ý muốn nói rằng khi ngài nhận ra sự yếu đuối của mình, ngài biết cậy trông vào Chúa để xin trợ giúp. Khi nhận ra con người yếu đuối của mình, ngài biết mở mình ra và để cho ơn Chúa xuống và tăng sức cho ngài.
Nói một cách khác là nếu Thánh Phaolô đã không bao giờ cảm nghiệm được con người yếu đuối của mình thì ngài sẽ không bao giờ biết giơ tay ra để xin cứu giúp. Và ngài sẽ không bao giờ khám phá ra được sức mạnh tuyệt vời mà con người có thể khám phá: đó là Thiên Chúa.
Chỉ có những lúc như thế, con người mới nhận ra lý do tại sao Ngôi Hai lại xuống thế làm người. Ngài đến bởi vì Ngài biết rằng con người chúng ta bất toàn và cần sự trợ giúp của Ngài.
Vì thế, khi những gian nan thử thách đến trong cuộc sống, và chắc chắn chúng sẽ đến, chúng ta hãy vững tin và đừng thất vọng. Bởi vì chính những lúc đó, chúng ta sẽ khám phá ra được sự cần thiết của Chúa. Chúng ta sẽ biết mở lòng ra, việc mà chúng ta không bao giờ làm từ trước đến nay. Có như vậy, Thiên Chúa mới ngự vào tâm hồn chúng ta, và chúng ta sẽ cảm nghiệm được sứ mạnh của Ngài.
Đó chính là ý nghĩa sâu xa của lời Thánh Phaolô. Đó là Tin Mừng qua bài đọc hôm nay. Đó là mầu nhiệm mà chúng ta đang cùng nhau cử hành nơi đây.
Đức Giêsu giảng dạy ở hội đường tại quê nhà. Phản ứng của dân làng là hết sức ngạc nhiên trước: TN 14-B9
Đức Giêsu giảng dạy ở hội đường tại quê nhà. Phản ứng của dân làng là hết sức ngạc nhiên trước sự khôn ngoan trong lời Ngài giảng. Nếu họ chân thành tìm kiếm họ có thể nhận ra khuôn mặt thật của người họ quá quen. Tiếc thay người làng Nazareth đã không đủ vô tư. Họ bị ám ảnh bởi quá khứ của Ngài, và họ không sao ra khỏi những định kiến sẵn có.
"Ông ta không phải là bác thợ sao?"
Một bác thợ sống bằng đôi tay như bao người. Một bác thợ trong làng, âm thầm và khiêm tốn, sống bao năm ở đây không một chút hào quang. Họ cũng bị ám ảnh bởi cái hiện tại trước mắt: Bà Maria và các anh em, chị em của ông, tất cả vẫn đang sống rất đỗi bình thường, như những người láng giềng gần gũi. Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm.
Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Không chắc chúng ta đã khá hơn người làng Nazareth. Hôm nay chúng ta vẫn có thể bị đóng khung trong một cái nhìn nào đó về Đức Kitô, khiến chúng ta chỉ thấy một phần khuôn mặt của Ngài.
Có những người chúng ta rất quen, sống sát bên ta, nhưng chúng ta chẳng hiểu mấy về họ. Những gì tôi biết về họ là đúng, nhưng không đủ.
Mỗi người là một mầu nhiệm cần khám phá suốt đời. Cần phải ra khỏi mình, ra khỏi cái nhìn khô cứng để gặp được mầu nhiệm tha nhân, để thấy người khác bằng cái nhìn luôn luôn mới.
Chúng ta thường nói đến một Thiên Chúa toàn năng, nghĩa là Đấng làm được mọi sự. Nhưng Đức Giêsu tại Nazareth lại cho ta thấy hình ảnh một Thiên Chúa yếu đuối và bất lực. Ngài bó tay trước sự cứng lòng của con người. Đức Giêsu đã không thể làm được phép lạ nào ở đó. Thế mới hay con người có khả năng cản trở Thiên Chúa, có thể dùng chính tự do Ngài ban để khước từ Ngài.
Phép lạ là quà tặng cần được đón nhận với lòng tin. Phép lạ không phải là phù phép áp đặt trên người nhận.
Có bao điều lạ lùng Thiên Chúa định làm cho đời ta, mà Ngài không làm được, vì không được làm.
Nên thánh là để cho Ngài yêu thương ta, để cho Ngài tự do hoạt động trong đời ta. Lúc đó đời ta sẽ trở nên một kỳ công của Thiên Chúa, và nhờ Ngài, ta có thể làm được những kỳ công.
Gợi Ý Chia Sẻ
Quá khứ của một người có thể làm chúng ta không thấy sự thật về người đó. Bạn có khi nào giống như người Nazareth không?
Có khi nào bạn thấy Thiên Chúa bị bó tay, chỉ vì bạn khăng khăng từ khước không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, dân làng Nazareth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người, Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin. Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
Trong thời Cựu ước, Thiên Chúa phán với loài người qua các tiên và tổ phụ. Cuối cùng Thiên: TN 14-B10
Trong thời Cựu ước, Thiên Chúa phán với loài người qua các tiên và tổ phụ. Cuối cùng Thiên Chúa sai chính Con Một Người đến mạc khải trực tiếp cho nhân loại về tình yêu và đường lối của Người. Các tiên tri được Chúa sai đến thường bị bạc đãi và tẩy chay như Tiên tri Ê-dê-ki-en được sai đến với dân phản nghịch đang nổi loạn (Ed 2:3). Sau cùng chính Chúa Giê-su cũng gặp tẩy chay khi Ngưòi về thăm quê nhà như Phúc âm hôm nay thuật lại. Dân chúng không phàn nàn vì lời Người giảng dạy có tính cách nông cạn. Trái lại họ phải sửng sốt về những lời giảng dạy sâu sắc của Người. Tuy nhiên họ không chấp nhận Người, vì theo họ Chúa Giê-su không đi học trường đào tạo giáo sĩ. Dân chúng trong Phúc Am hôm nay cho rằng họ biết tất cả về gia cảnh, thân thế và sự nghiệp của Chúa.
Họ biết Người là con bà Maria nội trợ, con nuôi ông thợ mộc Giu-se. Thế thì tại sao Người lại có thể biết nhiều về Thánh Kinh như vậy. Những thành kiến của họ có tính cách cố định. Thành kiến đã làm trở ngại cho những cuộc tiếp xúc giữa Chúa Giê-su và người đồng hương. Chính những thành kiến đó làm cản trở ơn thánh đến với họ. Họ nuôi quan niệm sai lầm về Đấng Cứu thế. Theo họ thì vị thiên sai phải là một nhà lãnh đạo chính trị lỗi lạc, một nhà cải cách xã hội tài ba, một vị tướng lãnh tài giỏi, bách chiến bách thắng, có thể đưa dân tộc họ lên hàng bá chủ hoàn cầu. Khi họ nhận ra Chúa Giê-su không thích hợp với với quan niệm họ sẵn có về Đấng cứu thế, thì họ từ khước Người. Vì thế đối với họ, Chúa Giê-su không thể là Đấng cứu thế. Cái thành kiến của họ đã làm cản trở cho đức tin vào Chúa, vào lời Chúa và quyền năng của Chúa như Chúa muốn họ tin tuởng. Phúc Am hôm nay ghi lại: Chúa không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân (Mc 6:5). Sở dĩ Chúa không làm phép lạ nào được vì như lời Phúc âm ghi lại họ cứng lòng tin (Mc 6:6).
Ta có thể thầm trách đám đông trong Phúc Am hôm nay đã tẩy chay Chúa. Tuy nhiên ta đã đáp lại lời Chúa thế nào? Lời Chúa không phải là tiếng nói môt chiều nhưng bao hàm việc đáp trả. Quyền năng Chúa tuỳ thuộc vào ý muốn mở rộng tâm hồn của mỗi người.
Đối với vấn đề đạo giáo cũng vậy. Để có thể tin, người ta phải giữ tâm hồn rộng mở. Người ta phải loại bỏ những thành kiến và định kiến về đạo cũng như về người có đạo. Những thành kiến cho rằng việc đi lễ, đọc kinh, cầu nguyện, là chuyện của đàn bà con nít chẳng hạn, còn người lớn đàn ông chỉ cần giữ đại tại tâm là đủ. Cái thành kiến đó sẽ làm cản trở cho bước đường đến với Chúa. Nếu ta vịn cớ nọ cớ kia để đóng cửa nhà tâm hồn, thì Chúa cũng chịu, không vào được, vì Chúa tôn trọng tự do của loài người. An huệ và quyền năng Chúa tuỳ thuộc vào việc mở rộng tâm hồn của mỗi người. Chúa không ép buộc ta theo Chúa và sống theo đường lối đức tin. Chúa chỉ mời gọi. Việc chấp nhận hay không là tuỳ thuộc vào mỗi người.
Hôm nay ta cần cảm tạ Chúa đã ban cho ta được ơn nhận lãnh đức tin. Ta cần cảm tạ Chúa cho cha mẹ, đã gieo vãi hạt giống đức tin vào tâm hồn ta khi đưa ta đến giếng nước rửa tội. Ta cũng cần cảm tạ cho những người đã nuôi dưỡng và nâng đỡ đức tin của ta từ nhỏ để hôm nay ta có thể bày tỏ đức tin vào Chúa, vào lời Chúa và quyền năng Chúa.
Có một lực sĩ, trong cuộc tranh tài quốc tế đã đoạt chức vô địch với tấm huy chương vàng. Các: TN 14-B11
Có một lực sĩ, trong cuộc tranh tài quốc tế đã đoạt chức vô địch với tấm huy chương vàng. Các bạn bè hâm mộ anh, đã dựng một tượng đài để tỏ lòng khâm phục anh. Điều đó đã làm cho một lực sĩ khác tỏ ra thèm khát. Anh này, ban đêm đã hì hục trong bóng tối để đào bới với hy vọng phá đổ tượng đài ấy. Trong lúc anh này đang cố gắng xô đẩy bức tượng, người ta nhận thấy bức tượng lắc lư trên chiếc đế, rồi bỗng dưng đổ nhào xuống trên đầu và đè chết anh lực sĩ thèm khát này.
Đó là một câu chuyện tiêu biểu cho tính thèm khát, một tính xấu đã từng thâm nhập vào tâm hồn nhiều người. Tính xấu này cũng đã có mặt qua đoạn Tin mừng hôm nay. Nhiều người bà con lối xóm tại Nagiarét, nơi Đức Kitô sinh trưởng đã tỏ ra bực bội tức tối vì Ngài được tôn kính và ca tụng do những lời Ngài nói và những việc lạ lùng Ngài làm. Họ từ chối không muốn nghe lời Ngài, không muốn tin vào Ngài, không muốn bước theo Ngài. Kết quả là Chúa Giêsu đã không làm được phép lạ nào ở chính quê hương bản quán của Ngài, chỉ vì họ cứng lòng tin.
Thèm khát và ghen tị thì rất gần gũi nhau… Thèm khát thì liên hệ tới cái người khác có. Còn ghen tị thì liên hệ tới sự chú ý và tình cảm người khác được. Phải chăng tôi buồn vì người khác đẹp hơn tôi, nổi tiếng hơn tôi, giàu sang hơn tôi, có nhà cao cửa rộng hơn tôi. Phải chăng tôi buồn vì một ai đó được tôn trọng và được kính nể hơn tôi. Chúng ta cần phải lưu ý: nếu chỉ mơ ước có được một cái gì đó mà người khác đã có thì chưa phải là thèm khát. Mơ ước đó chỉ trở thành thèm khát khi thiếu những cái đó, sẽ làm cho chúng ta buồn phiền, bất mãn và khốn khổ.
Chúa đã qui định hai giới răn để kìm hãm lòng thèm khát của chúng ta. Điều răn thứ chín quy định: chớ muốn vợ chồng người và điều răn thứ mười: chớ tham của người. Và như thế, thèm khát là ham muốn một cách trái phép. Hầu hết các tội lỗi đều do sự ham muốn này gây nên, chẳng hạn: vì ham muốn tài sản của người khác mà mới nảy sinh những tội như ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp, ăn gian.
Sự ghen tị cũng vậy, vì nó mà nảy sinh ra nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian và những hành động mờ ám khác nữa. Sự ghen tị xấu xa nhất đã đem cái chết cho Đức Kitô Đấng cứu độ chúng ta.
Bài Tin mừng hôm nay còn cho chúng ta thấy lòng ghen tị đã làm mù quáng những kẻ mà đáng lẽ có thể tin theo Ngài. Vậy chúng ta có thái độ nào đối với lòng ghen tị. Khi người khác được thành công, được may mắn, được kính nể, chúng ta có biết cảm tạ Chúa cho họ hay không? Còn nếu như chúng ta bị người khác ghen tị, chúng ta có biết xin Chúa giúp họ chế ngự và sửa đổi lầm lỗi ấy hay không? Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ chống đối Ngài, thì giờ đây chúng ta hãy xin Ngài giúp đỡ chúng ta biết vượt thắng sự thèm khát và lòng ghen tị nơi bản thân chúng ta, cũng như nơi những người chung quanh chúng ta.
Đề tài bất trung, thất tín, phản nghịch không phải là đề tài mới mẻ trong Cựu Ước, trong Thánh: TN 14-B12
Đề tài bất trung, thất tín, phản nghịch không phải là đề tài mới mẻ trong Cựu Ước, trong Thánh Kinh. Nhưng đây là một câu chuyện thường gặp trong Kinh Thánh. "Người nhà đã không nhận ra Ngài, đã không đón nhận Ngài" không là chuyện bất thường trong Tin Mừng của Chúa Giêsu. Bài đọc I của ngôn sứ Ézékien hôm nay đã có những ngôn từ nói về con cái Israen như: "dân nổi loạn, phản nghịch, lỗi giao ước, bọn phản loạn vv…". Con cái Israen phải trải qua thử thách, đen tối vì họ bất tín, thất trung và phản bội, nhưng họ vẫn luôn hy vọng: Chúa là Đấng yêu thương và trung tín đến muôn muôn đời. Thiên Chúa đã gửi đến cho con cái Israen vị ngôn sứ này. Tin Mừng Mc 6, 1-6 chỉ ra rằng Chúa Giêsu không những là vị ngôn sứ như các vị ngôn sứ khác mà là chính Con Thiên Chúa làm người cũng đã phải đương đầu với những kẻ đồng quê hương với Ngài.
CHÚA GIÊSU ĐÃ SỐNG ĐỜI SỐNG BÌNH DỊ TRONG GIA ĐÌNH:
Chúa Giêsu khi trở về Nagiarét với thánh cả Giuse và Mẹ Maria, Ngài đã sống một cuộc sống rất bình thường như mọi người dân làng lúc đó. Chúa Giêsu đã lớn lên, đã hưởng thụ một nền giáo dục trong gia đình một cách tuyệt hảo nhất: Ngài đã từng uống từng lời Mẹ Maria dậy bảo, Ngài đã tuân theo sự chỉ bảo của thánh cả Giuse.Cuộc đời của Chúa Giêsu chỉ kéo dài có 33 năm: 30 năm, Ngài đã sống đời ẩn dật nơi gia đình, nơi quê hương Nagiarét. Hẳn cuộc sống của Chúa Giêsu bình dị, bình thường và hết sức người trong những năm tháng ẩn dật làm nghề thợ mộc. Cái bình thường không làm Chúa Giêsu uổng phí quãng đời trần thế, mà đây là giai đoạn giúp Chúa Giêsu sống kiếp người cách trọn vẹn nhất của Ngài. Ngài sống đơn giản, bình dị đến nỗi dân làng Nagiarét không nhận ra Ngài: "Ông ấy không phải bác thợ mộc, con bà Maria sao ? ".
Sự đơn giản, bình dị khiến gây cho nhiều người nên cớ vấp phạm vì Ngài. Tới tuổi trưởng thành khi đến hội đường, mọi người Do Thái đều có quyền phát biểu ý kiến khi tham gia phụng vụ. Chúa Giêsu đã nại vào quyền này khi Ngài tới hội đường và rao giảng Tin Mừng. Lời loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu hẳn có nhiều điều mới lạ, khác với những điều dân làng thường nghe trong hội đường trong các giờ hội họp phụng vụ. Khác đến độ những người trong hội đường ngày hôm đó đã nhận ra và hết sức ngạc nhiên, bỡ ngỡ, khâm phục. Những người đồng hương với Chúa Giêsu hẳn đã chứng kiến những phép lạ, những lời nói đáng giá của Chúa Giêsu và hẳn họ cũng đã một cách nào đó được lay động để khám phá ra những gì mới mẻ nơi Chúa Giêsu. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là những tia sáng lóe lên, rồi vụt tắt vì những người đồng hương với Chúa Giêsu lại trở về với những lý luận tầm thường, những nhận xét theo ý họ, nếu không nói được là những lý luận cùn, lý luận thiển cận, hẹp hòi, ích kỷ. Họ đã không nhận ra cái thực tế đáng lẽ họ đã được hưởng. Họ đã đóng cửa lòng lại, đóng con tim lại để tự tách mình ra khỏi nước trời đang đến với họ. Chúa Giêsu thấy lòng chai dạ đá của họ, nên Ngài đã chẳng làm một phép lạ nào, nghĩa là Ngài đã không tỏ quyền năng nước trời ở giữa họ và Ngài đã bỏ họ, đi giảng dậy, rao giảng ở những làng, những nơi khác. Phản ứng của những người đồng hương của Chúa Giêsu về những lời rao giảng của Ngài trong hội đường và những năm tháng sống ẩn dật tại gia đình ở làng quê Nagiarét xác quyết cho nhân loại hay Chúa đề cao đời sống gia đình. Chúa không sống như một siêu nhân, như một người không thực tế. Cuộc sống bình dị của Chúa như mọi người trong mọi thực tại hằng ngày của cuộc sống gia đình đời thường mang lại cho cuộc sống nhân loại một ý nghĩa, một giá trị cao sâu, tuyệt vời. Đời sống của Chúa mời gọi mọi người nhìn vào đời sống của mình.
THÁI ĐỘ CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐỒNG HƯƠNG VỚI CHÚA GIÊSU CŨNG LÀ THỬ THÁCH CỦA CON NGƯỜI MUÔN THUỞ:
Phản ứng của những người Do Thái đồng hương của Chúa Giêsu cũng có thể là những cám dỗ, những thử thách của nhân loại hôm nay,muôn thuở. Người Kitô hữu vẫn có thể tự mãn với danh hiệu Kitô của mình. Người Kitô hữu có thể tự hào, tự mãn vì mình đã học giáo lý, đã đọc Tin Mừng, đã đi lễ, đã đọc kinh, nhưng đời sống lại không phù hợp, không đi đúng với Tin Mừng. Lời Chúa rao giảng luôn đi đôi với việc làm. Chúa Giêsu đã không nói suông, nói lý thuyết, nói ngoài môi miệng, nhưng Ngài đã luôn nói và làm. Chúa nói:" Hãy yêu thương nhau", Ngài đã thực hiện điều đómột cách tận căn. Ngài đã yêu và yêu cho đến cùng, Ngài đã yêu, đã hy sinh chính cả mạng sống mình vì người mình yêu: "Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của kẻ hiến mạng sống mình vì người mình yêu "(Ga 15, 13). Người Kitô hữu được mời gọi lắng nghe và đem thực hành lời Chúa trong đời sống. Những biến cố, những sự việc xẩy ra trong cuộc đời, trong xã hội, trên thế giới được Chúa mời gọi con người hãy biết nhìn chúng với ánh sáng Tin Mừng của Ngài. Giáo Hội và con người được Chúa trao sứ mạng rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng là chính Đức Giêsu Kitô. Nên, rao giảng không chỉ đóng khung trong những kiến thức có sẵn mà còn phải lắng nghe, đào sâu và loan báo chính Đức Giêsu Kitô.
Lạy Chúa, xin thánh hoá cuộc sống mỗi ngày của chúng con, để chúng con luôn biết cảm tạ tri ân Chúa vì Chúa đã ban cho chúng con sống sung mãn ơn Chúa mọi giây, mọi phút, xin cho chúng con trở nên những nhân chứng tình yêu đích thực của Chúa trước mặt mọi người.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Bạn có phản ứng nào đối với thái độ của những người đồng hương của Chúa Giêsu ? 2. Tại sao Chúa lại sống ẩn dật tại Nagiarét ?
Thánh Marcô đã từng cho thấy thái độ không tin nơi những người bà con của Chúa Giêsu: TN 14-B13
Thánh Marcô đã từng cho thấy thái độ không tin nơi những người bà con của Chúa Giêsu (x. Mc 3,20-21: họ nói Ngài mất trí và muốn bắt người về quê ; Mc 3,31: Họ ngăn cản Ngài rao giảng). Trong đoạn này, Mc ghi nhận thêm thái độ không tin của những người cùng làng với Ngài.
Lý do không tin là thành kiến ‘Bụt nhà không thiêng’: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Gioxê và Simon sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” (câu 3).
Hậu quả của thái độ không tin: “Ngài đã không làm được phép lạ nào tại đó ; Ngài chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ” (câu 5).
B. ... nẩy mầm.
1. Ta dễ ngưỡng mộ tài năng và đức độ của những “người dưng” và coi thường những “người nhà”. Thánh Gioan Tiền hô nói với dân do thái “Có một vị ở giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1,26). Trong nếp sống cộng đoàn, thái độ này không có tác dụng khuyến khích và tôn trọng nhau.
2. “Gần chùa gọi bụt bằng anh”. Phải chăng vì Chúa quá gần và quá dễ dãi với ta nên ta coi thường Chúa ?
3. Tin vào một Chúa Giêsu đang làm những phép lạ hiển hách ở Capharnaum thì dễ hơn là tin vào một Chúa Giêsu là bác thợ mộc, là anh chị em ta. Bài Tin Mừng hôm nay khuyến khích ta làm điều thứ hai, tức là tin vào Chúa Giêsu trong đời thường, trong công việc, trong anh chị em...
4. Một bề trên tu viện công giáo đến tìm một ẩn sĩ ấn giáo tại chân núi Hy mã lạp sơn và trình bày về tình trạng bi đát của tu viện ông: Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu hàng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người, cuộc sống thật là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi tu sĩ ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ ấn giáo ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình.” Và ông giải thích: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Ngài.”
Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ông tập họp mọi người lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang vậy ? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có thể là Đấng Cứu Thế.
Vậy là từ đó mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn. (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabbat, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường: TN 14-B14
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabbat, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc sách thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa. Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Người khác thường. Gương mặt Người luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Người càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Người trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa, của lòng nhân ái Chúa Cha trên trời, của tình yêu. Ngài đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì ?”.
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu ? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông nói năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi chóng thế !
Ở Việt Nam, hồi năm 1945-1950, cũng có những ông canh điền, đầy tớ, mõ làng đi vắng hai ba tuần, trở về diễn thuyết rất hùng hồn. Bởi đâu các ông đã ăn nói thao thao bất tuyệt như vậy? Sau này, người ta mới biết các ông được đi huấn luyện học thuộc lòng mấy bài để về ra mắt dân làng, hô hào đấu tranh chống thực dân Pháp, chống bù nhìn Bảo Đại trói gà không nổi.
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài ? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế ? Thân nhân bảo Ngài mất trí, kinh sư chụp mũ Ngài nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh. Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngửa mặt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên.
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là con một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa, vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.
Còn Ngài, Ngài âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình” vì “Gần chùa gọi bụt bằng anh”.
Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
Chính những điều xâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất mầu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt. Lòng nghĩ “cái nết đánh chết cái đẹp”, mắt vẫn liếc lia lịa người đẹp hơn chiêm ngắm tượng Chúa trên thập giá.
Khi Đức Hồng Y Roncalli (Rông-ca-li) được bầu làm Giáo hoàng Gioan 23, một Giám mục khóc cho Giáo hội sắp đến ngày tàn. Giáo Hội không còn ai lên lãnh đạo, phải bầu một ông già 77 tuổi về hưu lên đỡ vậy. Nhưng chỉ vài ngày sau, báo chí đã đưa những tin giật gân về ông già hồn nhiên, vui vẻ, đang lo canh tân ngôi giáo triều cổ kính, bệ vệ và chẳng bao lâu Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho Ngài tuyên bố họp Công Đồng Vatican 2, thực hiện cuộc canh tân vĩ đại cho Giáo Hội và cả thế giới.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở con mắt đức tin cho mọi người được thấy những sự khôn ngoan, quyền phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể thấy được, để họ biết ca ngợi Chúa muôn đời. Amen.
1. Tâm lý người đời: trọng vọng lời nói của kẻ giàu có, quyền thế, có học vấn
Người ta thường dựa vào những tiêu chuẩn khôn ngoan kiểu loài người để phân định sự việc, điều: TN 14-B15
Người ta thường dựa vào những tiêu chuẩn khôn ngoan kiểu loài người để phân định sự việc, điều đó có thể đúng khi áp dụng vào những việc của thế gian ( làm ăn, ngoại giao, bon chen, tranh quyền đoạt lợi... ). Nhưng nếu áp dụng sự khôn ngoan ấy vào những công việc của Thiên Chúa, vào đời sống tâm linh, vào việc sống đạo... thì thật là sai lầm. Người đồng hương với Đức Giê-su – cùng sinh trưởng tại làng Na-da-rét – mắc phải sai lầm ấy. Họ khó có thể chấp nhận được một người nghèo, ít học, thuộc loại lao động tay chân như Đức Giê-su, lại có thể hiểu sâu xa về Thiên Chúa, lại có thể đưa ra những quan niệm mới về Thiên Chúa, về cách sống đạo, về đời sống tâm linh. Nếu có ai nói về Thiên Chúa khiến họ tin được, thì phải là người xuất thân từ trường lớp thần học và có bằng cấp như những kinh sư Do-thái ( tức các tư tế, luật sĩ, Pha-ri-sêu ).
Nhưng nếu dùng ánh sáng hiểu biết của các Ki-tô hữu ngày nay để nhìn về ngày xưa, ta thấy:
– Đức Giê-su tuy không đỗ đạt bằng cấp ( Ga 7, 15 ), và biết bao người khác tuy ít học nhưng lại hiểu biết về Thiên Chúa sâu sắc hơn những người có học. Trong lịch sử các tôn giáo cũng có những trường hợp tương tự: chẳng hạn trong Phật Giáo có trường hợp của Huệ Năng. Trong số học trò của Ngũ Tổ, Huệ Năng là người ít học lại thuộc sắc dân mọi rợ ( dân tộc ít người, kém văn minh ), nhưng ông lại giác ngộ được chân lý sâu thẳm của đạo pháp. Còn Thần Tú, cũng là học trò của Ngũ tổ, vốn là một vị quan thâm nho của triều đình, học rất rộng biết rất nhiều, nhưng lại chẳng giác ngộ được chân lý.
– Các kinh sư hay thần học gia Do-thái xưa, tuy học rộng biết nhiều, nhưng họ chỉ là những người không biết gì khác hơn ngoài sách vở, ngoài những gì đã học ở trường lớp. Những suy tư của họ chỉ là những điều đã được người khác suy tư sẵn. Họ chẳng khác gì những kẻ nhai lại bã mía, thấy người khác ăn mía khen ngọt, thì mình cũng lấy bã ấy nhai lại và cũng bắt chước khen ngọt. Trong đời sống tâm linh, họ chẳng phân biệt được cái nào là chính yếu và cái nào là phụ thuộc, cái nào là cốt tủy và cái nào là bì phu, cái nào là mục đích và cái nào là phương tiện, nên chẳng biết cái nào quan trọng hơn cái nào. Vì thế, cái không quan trọng thì họ lại đặt rất nặng, còn cái hết sức quan trọng thì họ lại coi rất nhẹ ( x. Mt 15, 20; 23, 16.18 ).
Họ chẳng thông minh, chẳng có tinh thần thích ứng và sáng tạo nào khi áp dụng luật của Thiên Chúa vào đời sống thực tế. Họ chỉ biết áp dụng lề luật một cách nô lệ, hình thức, thiếu hẳn công lý, tình yêu và sự chân thật vốn là cốt tủy của lề luật ( x. Mt 23, 23; 12, 2; 12, 10; Lc 6, 7; 13, 14; Ga 5, 10.18; 9, 16 ). Chính vì thế, Đức Giê-su đã gọi họ là “quân dẫn đường mù quáng !” ( Mt 23, 24 ), là “người mù lại dắt người mù” ( Mt 15, 14 ).
Như vậy, để xét giá trị một lời nói, một hành động, ta phải chủ yếu xét chính lời nói hay hành động ấy xem nó có hợp lý và đúng đắn hay không, chứ không nên chỉ đơn phương căn cứ vào tư cách của người nói điều ấy hay làm hành động ấy.
2. Xét người xưa lại nghĩ đến mình ngày nay
Những người đồng hương với Đức Giê-su xưa khi nghe Ngài nói thì “nhiều người rất đỗi ngạc nhiên”, họ hỏi nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao ? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì ?” Khi nhận xét như vậy, đáng lẽ họ phải nhận ra Ngài là một ngôn sứ của thời đại mới đúng. Nhưng khi nghĩ đến danh phận nghèo hèn của Ngài thì họ lại coi thường Ngài: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” Thế là chỉ vì Ngài ít học, nghèo nàn, mà họ coi Ngài chẳng ra gì, mặc dù họ ngạc nhiên về chính những lời nói khôn ngoan và những phép lạ của Ngài. Và “họ vấp ngã vì Người”.
Xét người xưa lại nghĩ đến mình ngày nay. Rất nhiều khi ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người điên, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Vì thế, nếu ta có tâm lý kiểu đời thường đó mà ở vào trường hợp của những người đồng hương với Đức Giê-su xưa, chắc chắn ta cũng đối xử với Ngài chẳng khác gì họ. Và chắc chắn ngày nay ta cũng sẽ đối xử với các ngôn sứ thời đại mình y như vậy. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi ( x. Lc 6, 23.26 ). Nếu ta hành xử như vậy thì ta chỉ là một người coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Một người như thế không bao giờ thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, dẫu họ có đọc kinh, dâng lễ hay rước lễ siêng năng tới đâu đi nữa. Hãy xem Đức Giê-su coi thường như thế nào những kẻ giàu có, học vấn mà không nghĩ đúng, hành động đúng cho dù người đời có trọng vọng họ tới đâu ( x. Mt 23 ). Là Ki-tô hữu, chúng ta nên bắt chước Đức Giê-su hay bắt chước thói hành xử của người đời ?
3. Để thánh hóa ta, Thiên Chúa cũng phải tùy thuộc vào ta
Bài Tin Mừng cho biết: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó” vì họ không tin. Thì ra Đức Giê-su có thực hiện được phép lạ hay không, điều đó không chỉ tùy thuộc vào quyền năng linh thiêng của Ngài, mà còn tùy thuộc vào lòng tin của chính đối tượng phép lạ nữa. Đức Giê-su rất muốn ưu tiên rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ ở chính quê hương của Ngài, vì thông thường ai cũng yêu nơi chôn nhau cắt rốn hay nơi sinh trưởng của mình hơn những nơi khác. Nhưng vì những người đồng hương của Ngài không tin, nên Ngài không làm được việc ấy.
Tương tự như vậy, Thiên Chúa muốn cứu rỗi ta, thánh hóa ta, muốn ta nên thánh, được thật sự bình an hạnh phúc, và Ngài sẵn sàng làm tất cả để thực hiện điều ấy. Nhưng Ngài có thực hiện được điều ấy hay không còn tùy thuộc vào cả bản thân ta nữa, cho dù Ngài rất quyền năng. Vì thế, thánh Âu-tinh nói: “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài”. Nói tới đây tôi nghĩ đến câu thơ của Nguyễn Du trong truyện Kiều: “Có Trời mà cũng có ta”, nghĩa là ta cũng đóng vai trò quan trọng, thậm chí có tính quyết định, trong công việc cứu rỗi và nên thánh của chính ta.
Trong việc cứu rỗi và nên thánh của ta, Thiên Chúa đã làm tất cả và luôn luôn sẵn sàng làm tất cả những gì Ngài có thể làm được để giúp ta. Phần còn lại rất nhỏ là sự cộng tác và nỗ lực của ta. Phần này Ngài không thể làm thay thế cho ta được. Cũng tương tự như cha mẹ có thể lo lắng đủ mọi thứ để con cái mình được ăn uống đầy đủ. Nhưng có điều cha mẹ không thể làm thay cho con cái mình được, đó là nhai và nuốt thức ăn vào bụng. Hay như cha mẹ có thể lo cho con đủ mọi phương tiện để học hành, nhưng không thể nào học thay, nhớ thay, làm bài thay cho con được.
Trong việc cứu rỗi hay nên thánh của ta, phận sự của ta là tin tưởng vào Thiên Chúa, ý thức sự hiện diện và hoạt động của Ngài ở trong ta, lắng nghe tiếng nói của Ngài ở trong ta và làm theo những điều Ngài chỉ dạy. Đó là những việc cần thiết ta phải làm, không ai làm thay cho ta được. Nếu ta quyết tâm thực hiện những điều ấy, thì việc cứu rỗi hay nên thánh của ta trở nên rất dễ dàng. Nếu ta không làm, thì Thiên Chúa dẫu có muốn cứu ta, muốn thánh hóa ta cách mấy Ngài cũng đành bó tay. Vậy ta hãy ráng làm hết sức phần của mình.
Lạy Cha, quả thật uy quyền, danh vọng, sự sang trọng của những kẻ quyền thế, giàu có, nhiều bằng cấp làm con bị choáng ngợp, khiến con dễ dàng nhận những điều họ nói là đúng mà không cần suy xét gì cả. Nhiều khi chỉ cần suy xét một chút xíu là con có thể nhận ra ngay sự sai trái trong lời nói của họ, mà con lại không chịu suy xét. Còn những kẻ nghèo nàn, nhỏ bé, yếu đuối, ít học mà phát biểu điều gì, thì con tiên thiên bỏ ngoài tai, chẳng cần biết đúng hay sai. Vì thế, nếu con là một người đồng hương với Đức Giê-su xưa, chắc chắn con cũng sẽ coi thường Người. Xin Cha giúp con sửa sai cách hành xử này.
Thánh Mác-cô tường thuật về những suy nghĩ và thái độ của những người đồng hương Nadarét: TN 14-B16
Thánh Mác-cô tường thuật về những suy nghĩ và thái độ của những người đồng hương Nadarét đối với Đức Giê-su. Khi thấy Đức Giê-su tỏ ra khôn ngoan khác người, dân làng Na-da-rét cũng ngạc nhiên và thắc mắc nhưng họ không thoát ra khỏi những thành kiến tầm thường để nhận ra Đức Giê-su là Ai. Trái lại họ dựa vào những gì họ biết về Người để nghi ngờ và không tin Người. Tin Mừng theo Thánh Mác-cô cho ta thấy Đức Giê-su rất đơn sơ. chính Người cũng ngạc nhiên về thái độ không tin của những người đồng hương: “Người lấy làm lạ vì họ không tin” và vì họ không tin nên “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó”.
Tin Mừng còn cho thấy Đức Giê-su rất hiền lành: Từ sự kiện không được người đồng hương kính tin, Người chỉ rút ra một kết luận: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc và trong gia đình mà thôi” và Người đến các làng chung quanh mà giảng dạy cho dân chúng.
Chỉ với 6 câu ngắn ngủi, đoạn Tin Mừng hôm nay có thể gợi cho ta hai ý suy niệm:
1. Con người khó nhận ra Thiên Chúa và các công việc của Người nếu không được Thánh Thần soi dẫn
Tại sao con người khó nhận ra Thiên Chúa và các công việc của Người ? Có thể là vì tính kiêu ngạo, cứng đầu cứng cổ. Cũng có thể vì suy nghĩ hẹp hòi và thành kiến. Thay vì lấy Thiên Chúa làm chuẩn thì con người thích lấy mình làm chuẩn, làm thước đo rối bắt Thiên Chúa phải theo. Con người nặn ra Thiên Chúa theo cách suy nghĩ của mình chứ không chịu tìm biết Thiên Chúa và đón nhận Ngài như chính là Thiên Chúa. Hay nói cách khác Thiên Chúa mà ta biết, Thiên Chúa mà ta vẫn tôn thờ chỉ là một loại ngẫu tượng do trí tưởng tượng rất tuyệt vời của con người tô vẽ nên. Chính Chúa Giê-su đã nhiều lần lên án thái độ thờ phượng ngẫu tượng này khi giảng dạy cho dân chúng trong đền thờ.
Chúng ta hãy xét xem mình có giống dân làng Na-da-rét xưa kia không ? Chúng ta có mang thái độ chỉ cậy dựa vào trí thông minh, kiến thức, kinh nghiệm cá nhân của mình, để đoán xét và tiếp nhận Chúa không ? Chúng ta có loại trừ những sứ ngôn của Chúa như dân làng Na-da-rét đã loại trừ Chúa Giê-su không ? Nếu thành tâm, chắc chúng ta phải nhìn nhận rằng có. Đã có những lần tôi không nhận ra, hay có nhận ra nhưng không tiếp nhận Lời Chúa gửi đến cho tôi qua anh chị em trong gia đình, bà con hàng xóm, đồng nghiệp, hay những người mà tôi tìm cách xa tránh ( tôi xa tránh họ vì họ là người xấu, người chuyên lợi dụng lòng tốt của tôi, người chủ ý sử dụng tôi như một thứ đồ dùng khi họ cần, khi hết cần thì họ vất tôi vào sọt rác ). Thế đáy, tôi vô cùng khôn ngoan đối với Chúa và với anh em !
2. Chúa muốn chúng ta trở nên người con hiếu thảo của Người
Đứng trước thái độ loại trừ của dân làng Na-da-rét, Thánh Mác-cô chỉ ghi lại:”Người lấy làm lạ vì họ không tin” rồi “Người đi các làng chung quanh mà giảng dạy”. Thử đặt mình vào vị trí của một người cha hết mực yêu mến con cái mình và luôn mong chờ con cái mình thành đạt, chúng ta có thể hiểu được sự chờ mong của Thiên Chúa đối với nhân loại. Sự chờ mong mà Thánh Phao-lô hằng cầu xin cho cộng đoàn Cô-rin-tô của ngài “xin cho anh em nên hoàn thiện” ( 2 Cl 13, 9 ). Làm sao có thể hoàn thiện được khi không nhận ra Đấng đã tạo dựng nên vũ trụ và chính bản thân ta ? Làm sao có thể hoàn thiện được khi không nhận ra giáo huấn của Thiên Chúa ? Làm sao nhận ra giáo huấn của Người nếu không nhận ra sứ giả của Người ?
Ở thới đại của chúng ta, Chúa dùng mọi phương tiện, mọi biến cố lớn nhỏ xảy ra cho chính bản thân ta, cho đất nước ta, cho toàn thế giới như là sứ giả để nhắn gửi tới ta một lời yêu thương. Đã là con cái yêu thương Cha trên Trời thì sẽ đón nhận sứ giả của Cha và làm theo lời sứ giả truyền dạy. Ngược lại, con cái mà lại chỉ muốn biến Cha trên Trời thành một thứ “ngân hàng” phục vụ cho nhu cầu vật chất thiêng liêng của mình, thì sẽ chỉ đón nhận những sứ giả nào đem lại lợi ích trước mắt cho mình theo cách suy nghĩ của thế gian. Có một cái gì đó làm cho ta cách biệt Thiên Chúa, không thể tiếp cận được với Người, cho dù ta đi lễ đọc kinh, làm việc đạo đức không sót một thứ gì !
Vậy phải làm gì để trở nên con hiếu thảo của Cha trên Trời ? Chính Chúa Giê-su đã cho ta câu trả lời: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” – “Hãy trở nên như trẻ thơ”, nghĩa là đừng quá khôn ngoan tính toán với Thiên Chúa, nhưng hãy vui sướng sà vào lòng Người và tận hưởng niềm vui, niềm hạnh phúc Người muốn trao ban cho ta. Hãy ký thác đời ta trong tay Chúa...
“Lòng con chẳng dám tự cao, Mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi ! Đường cao vọng chẳng đời nào bước, Việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu: Hồn con, con vẫn trước sau Giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, Trong con hồn lặng lẽ an vui. Cậy vào Chúa Ít-ra-en ơi, Từ đây đến mãi muôn đời muôn năm”. ( TV 131 )
Hai ý suy niệm trên đưa chúng ta đến một kết luận: Cần phải khiêm tốn cầu xin Chúa Thánh Thần mở lòng chúng ta ra để nhận biết và đón nhận Đức Giê-su. Xin Người xóa đi những gì còn u ám tối tăm, để gương mặt Đức Giê-su được tỏa sáng nơi chúng ta và nơi mọi người.
Có lẽ hai ý suy niệm trên cũng là hai ý để chúng ta xem lại mối tương quan giữa chúng ta với Chúa và mối tương quan giữa chúng ta với tha nhân. Nhận biết Chúa là Cha, nhận biết anh em đồng loại đều là con cái của Cha, để chấp nhận nhau thay vì loại trừ nhau, để chịu đựng và tha thứ cho nhau. Làm như thế là để trở nên hoàn thiện như Cha trên Trời là Đấng Hoàn Thiện. Có lẽ chúng ta cần phải tự hỏi chính mình: Những trở ngại nào khiến tôi không nhận ra Chúa nơi người anh em tôi ? Tôi phải làm gì để xóa đi những trở ngại đó ?
QUYẾT MÊ MỘT CUỐN SÁCH: PHÚC ÂM QUYẾT THEO MỘT LÝ TƯỞNG: CUỘC ĐỜI CHÚA GIÊ-SU NGƯỜI CHÍ KHÍ LÀ NGƯỜI THẾ NÀO ?
Người chí khí là người quyết theo một lý tưởng Chúa Giê-su, quyết luyện mình nên người, nên: TN 14-B17
Người chí khí là người quyết theo một lý tưởng Chúa Giê-su, quyết luyện mình nên người, nên con Chúa, bằng đời sống Đức Tin và Đức Ai, bất chấp mọi trở ngại.
TẠI SAO PHẢI TRỞ NÊN NGƯỜI CHÍ KHÍ ?
Ta phải trở nên người chí khí vì: Ta được Chúa mời gọi sống thánh thiện cao đẹp hữu ích. Ta được Chúa trao phó trách nhiệm Tông Đồ trong môi trường sống.
MUỐN TRỞ THÀNH NGƯỜI CHÍ KHÍ TA PHẢI CÓ NHỮNG ĐỨC TÍNH NÀO ?
Muốn trở thành người chí khí ta phải có những đức tính sau đây:
Ngay thẳng, cao thượng, cương quyết, bạo dạn, can đảm, tự chủ, có bản lĩnh, bình tỉnh, biết thinh lặng, có cao vọng, từ bỏ, hy sinh, khiêm tốn, có kỷ luật cá nhân.
Quảng đại, vị tha, bác ái, nhẫn nại, dịu dàng trong cách ăn nói, có tinh thần trách nhiệm.
MUỐN TRỞ THÀNH NGƯỜI CHÍ KHÍ TA PHẢI TRÁNH NHỮNG TINH XẤU NÀO ?
Muốn trở thành người chí khí ta phải tránh những tinh xấu sau đây:
Nhu nhược, nhát sợ, tự mãn, nhẹ tính, nhẹ dạ, nóng nảy, ích kỷ, cầu an...
Lợi dụng quần chúng để tiến thân, nói xấu kẻ khác, tọc mạch xía vào công việc mọi người, ăn nói bừa bãi, gây chia rẽ, thủ đoạn, chua chát chỉ trích, ham cãi và sôi nổi, nặng óc địa phương, bè phái.
Bát cơm bị vỡ
Thánh Biển-đức ( Benedicto ) chào đời năm 480 tại Mercia. Trong thời kỳ đang mãi mê theo đuổi việc học, ngài đã nhận ra Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa muốn ngài vào một khu rừng vắng ở Subiacô cách Roma 40 dặm để sống đời tịch liêu thân mật với Thiên Chúa. Và chính tại nơi đây, ngài đã lập nên đời sống Đan Tu, sống cộng đoàn chiêm niệm và lao động, một lối tu trì lúc đó chưa có ở Âu Châu. Ngày nay, tại Subiaco, vẫn còn tất cả di tích của Tu Viện nguyên thủy.
Tiếng nhân đức của ngài đồn vang khắp nơi, nhiều kẻ đến xin dâng mình cho Chúa theo Luật Dòng của ngài đặt. Phần đông môn đồ đều hăng say, quảng đại, nhưng cũng có một số ít không chịu nổi, muốn ngài nới rộng luật đôi chút. Ngài cương quyết giữ vững lý tưởng tu trì. Thấy thế, ngày nọ, có kẻ lén bỏ thuốc độc vào bát thức ăn của ngài; nhưng lạ thay, lúc ngài làm dấu Thánh Giá, tự nhiên bát thức ăn ấy vỡ ra. Những kẻ ác tâm kia vội quỳ gối thú lỗi.
Đừng ham cãi vã và sôi nổi, con sẽ ra mù quáng. Đam mê như mây mù, che khuất ánh sáng khôn ngoan của Thiên Chúa ( ĐHV 210 )
Đừng đùng đùng quát mắng khi người khác có lỗi. Hãy nhẫn nại đợi chờ, với lời lẽ dịu dàng và tất cả ý ngay lành, con đạt nhiều kết quả hơn là chửi mắng nhau từng giờ. Thành công cho bản thân con và chế ngự tính tình của con ( ĐHV 217 ).
Hãy quay lưng cho hạng người bất nhân, họ rỉ tai con: “Dại gì cho khổ cái đời !” Chúa Giê-su đã đuổi Phê-rô: “Xa-tan hãy cút đi !” ( ĐHV 223 ).
Thiếu phụ can trường
Bá tước Chantal đã tử nạn ! Tin sét đánh ấy đập vào tai Gio-an-na Phan-xi-ca Chantal. Bà bàng hoàng đến ngất xỉu. Lại thêm một Thánh Giá nặng trong đời của bà. Thánh Giá thứ nhất Chúa gởi đến là cái chết của mẹ bà váo lúc bà chưa được hai tuổi. Bây giờ lại một Thánh Giá thứ hai đúng lúc bà mới 28 xuân xanh. Tuy đau khổ trước cái chết của chồng, người thiếu phụ trẻ tuổi ấy vẫn can đảm quyết ở vậy nuôi 4 con thơ và ôm ấp lý tưởng chỉ thuộc về Chúa. Chính lòng đạo đức, bác ái và chí khí của bà đã nâng đỡ bà trong cơn thử thách. Hành động sáng chói sau đây là một bằng chứng cụ thể: bà đã tình nguyện mang đứa con của kẻ bắn chết chồng mình đến nhà thờ chịu phép Rửa Tội và làm mẹ đỡ đầu cho nó.
Nhờ sự hướng dẫn của thánh François de Sales, bà đã dâng mình vào Dòng Thăm Viếng và đã hy sinh đóng góp rất nhiều để làm cho Dòng phát triển mọi mặt.
Người chí khí biết thinh lặng. An nói bừa bãi, thiếu suy nghĩ, gieo rắc chia rẽ, thủ đoạn đó là khí cụ của ma quỷ để hạ đức bác ái ( ĐHV 204 ).
Người chí khí không tọc mạch dòm ngó việc người khác, nhưng đem tất cả ý chí để biết mình rõ hơn ( ĐHV 205 ).
Đừng nói: “Tôi tự nhiên như vậy, sửa sao được”. Không, đó là những khuyết điểm, con phải “nên người”, phải “nên con Chúa”. Những tính ấy bất xứng với con (ĐHV 22 ).
Một thông điệp bí mật
Chế độ Phát-xít cũng như thuyết kỳ thị chủng tộc của Hitler, được quân đội và vũ khí che chở, đang trên đường bành trướng mãnh liệt, thì bỗng dưng đụng phải một tường thành: Tiếng nói bênh vực nhân quyền của Hội Thánh Công Giáo.
Đức Thánh Cha Pi-ô 11 đã cương quyết nói lên tiếng nói của lương tâm và sự thật. Ngài bí mật cho ấn loát và đưa vào nước Đức một bức thông điệp lên án sự sai lạc và tàn ác của thuyết kỳ thị chủng tộc cũng như của chế độ Phát-xít Hitler. Một ngày Chúa Nhật nọ, bức thông điệp ấy được đọc lên trên khắp nơi tòa giảng ở các Nhà Thờ thuộc lãnh thổ nước Đức, trước sự bàng hoàng và tức giận của Hítler cũng như của mật vụ Gestapo. Vì sự thật, Đức Pi-ô 11 cũng như toàn thể Giáo Hội Đức đã sẵn sàng đón nhận mọi hậu quả, và hậu quả sau đó đã thực sự đến. Đức Pi-ô 11 bị thóa mạ. Nhiều Hồng Y, Giám Mục, Giáo Sĩ cũng như Giáo Dân nổi tiếng của Giáo Hội Đức đã bị bắt. Nhưng lịch sử muôn đời sẽ còn khâm phục chí khí và ý thức sứ mạng của Đức Pi-ô 11.
Người ích kỷ tránh trách nhiệm, tránh nhọc mệt, tránh hy sinh; họ muốn tạo hạnh phúc, tạo một “thiên đàng dành riêng” cho họ giữa trần gian, nhưng họ sẽ mất thiên đàng vĩnh viễn ( ĐHV 196 ).
Đừng cho khiếp nhược là khôn ngoan. Chính vì nhiều người còn ánh sáng “khôn ngoan” kiểu đó, mà con cái tối tăm chiếm đoạt nhiều môi trường họ không dám mơ ước ( ĐHV 199 ).
Chúa không sinh con ra để làm đàn cừu, đàn vịt, nhưng để lãnh đạo môi trường của con. Lãnh đạo là thúc đẩy, là lôi cuốn ( ĐHV 214 ).
Đứa con yêu của tổ quốc
Đức Cha Mannix, một Giám Mục gốc Ireland ( Ái-nhĩ-lan ) đã được Tòa Thánh cử sang làm Tổng Giám Mục giáo phận Melbourne ( Úc ). Trong thời kỳ Ireland tranh đấu với Anh Quốc để dành lại độc lập, ngài có một thái độ rất quả cảm và một tiếng nói rất uy tín.
Ngày nọ theo dự tính, ngài về thăm quê hương Ireland bằng tàu thủy, như g khi tàu vừa đến gần Ireland thí chính phủ Anh cho hải quân ra cản đường với pháp lệnh: “Tổng Giám Mục Mannix không được đặt chân lên Ireland mà phải về Anh Quốc. Hơn thế, dù ở Anh, Đức Cha cũng không lên được Scotland ( Tô-cách-lan ) là nơi có nhiều người gốc Ireland đang ở”. Trước lệng đó, Đức Cha Mannix trả lời: “Không được lên Scotland thì tôi sẽ lên một tỉnh gần Scotland vậy”. Sau đó, ngài đã đến New Castle, một tỉnh gần Scotland và các nơi khác đều tựu về New Castle để nghe ngài diễn thuyết về bổn phận của người Công Giáo đối với nền độc lập của tổ quốc. Cuộc diễn thuyết thành công không thể tưởng tượng. Các báo chí đăng tải những bài diễn thuyết của ngài sang đến tận Ireland, gây nên một bầu khí sôi nổi trong mọi tầng lớp dân chúng.
Một thời gian sau, Ireland dành lại được độc lập nhưng vẫn lệ thuộc một phần vào Anh Quốc. Trong Hiến Pháp có ghi một điều khoản buộc Quốc Trưởng hay Thủ Tướng Ireland trước khi nhậm chức phải tuyên thệ bảo vệ Anh Giáo và trung thành với Nữ Hoàng Anh là người đứng đầu Anh Giáo. Trước điều khoản đó, phần đông các vị Giám Mục Ireland đều bảo: “Người Công Giáo không được tuyên thệ như vậy”.
Mà chúng ta biết tại Ireland, 95% dân chúng là người Công Giáo, nên các Thủ Tướng được bầu lên là người Công Giáo, nhưng sau đó ai cũng phải từ chức và nhường ghế Thủ Tướng cho một ứng cử viên Tin Lành vì thấy không thể tuyên thệ như hiến pháp đòi buộc. Liên tiếp mấy nhiệm kỳ, các dân biểu Công Giáo trong Quốc Hội cảm thấy phân vân giữa hai điều phải lựa chọn: Tuyên thệ thì mắc lỗi, không tuyên thệ thì thiệt thòi cho tổ quốc.
Đến một nhiệm kỳ kia, ông Edmond de Valera được bầu lên. Lúc ấy, một bức điện tín từ Úc Đại Lợi đánh sáng cho Quốc Hội Ireland, nội dung gọn lỏn: “Khi ta tuyên thệ mà nước Anh biết là ta sẽ không giữ lời, thì được phép tuyên thệ ! Ký tên: Tiến sĩ Mannix”. Theo lời khuyên, ông Edmond de Valera đã tuyên thệ, trên ghế Thủ Tướng ông đã ra sức hoạt động cho Ireland được độc lập hoàn toàn... và quốc hội đã nhất trí bỏ phiếu xóa hẳn điều khoản trên ra khỏi hiến pháp.
Lợi dụng quần chúng để tiến thân, không phải là tư cách người lãnh đạo. Con sẽ làm lãnh tụ xứng đáng nếu con không tránh quần chúng, nhưng tìm đến với họ và liều thân cứu họ ( ĐHV 198 ).
Va chạm người khác là sự thường. Sống một xã hội không va chạm chỉ có thể là thiên đàng. Một hòn đá nhờ va chạm mà láng hơn, tròn hơn, sạch hơn, đẹp hơn ( ĐHV 211 ).
Thời giờ và sức lực là của Chúa, tại sao phí phạm vì những trở ngại dọc đường. Đại dương bao giờ cũng có sóng, thuyền cứ vững vàng lướt đi, không nghĩ gì đến sóng ( ĐHV 220 ).
Tiếng nói của lương tâm
Trước sự đàn áp tôn giáo của Mao Trạch Đông, Đức Cha Kỳ An đã can đảm đọc trên tòa giảng Nhà Thờ Chính Tòa Thượng Hải một bài diễn thuyết nói rõ lập trường đúng đắn của Hội Thánh và của chính ngài. Trong bài ấy có câu: “Nếu có hai linh hồn, tôi có thể hy sinh một, nhưng bởi chỉ có một linh hồn, một lương tâm, nên tôi không thể hy sinh nó với bất cứ giá nào cả... Bản thân tôi có linh hồn và thể xác: linh hồn tôi xin phó thác cho Chúa, hiến dâng cho Hội Thánh, còn thể xác tôi xin trao tặng tổ quốc...”
Vì trách nhiệm, vị Tổng Giám Mục Thượng Hải đã nói lên tất cả sự thật, dù quá biết những gì đang chờ đợi ngài. Ngài sẳn sàng đón nhận mọi hậu quả. Và thật thế, hai ngày sau, ngài bị bắt và mất tích cho đến hôm nay.
Người chí khí có tinh thần hy sinh, như viên đường, hạt muối ! Chấp nhận tan biến để làm cho thức ăn có mùi vị ngon lành mà không khoe khoang ( ĐHV 201 ).
Người chí khí có tâm hồn ngay thẳng và cảm thấy nhục nhã khi đi bưới móc việc kẻ khác hoặc sống quanh co ( ĐHV 202 ).
Ở tù trong Chúa
Trong thời gian bị cầm tù, Mục Sư Wurmbrand người Roumania phải ở dưới một cái hầm tối tăm, lạnh lẽo. Khổ hơn nữa là phải ăn uống và làm việc vệ sinh tại chỗ ! Các bạn tù với ông la lết trong đó, cuối tuần mới được phép quét dọn. Ông đã chịu lắm nhục hình. Có lần lính gác bắt ông ăn phân, ông xin được phép ăn phân của mình, nhưng họ không chịu, bắt phải ăn phân của người khác.
Suốt 17 năm tù ngục như thế, Mục Sư Wurmbrand vẫn kiên trì, dũng cảm, trước sau như một. Ông luôn hăng hái phục vụ các bạn tù, động viêntinh thần họ, cư xử với mọi người trong tâm tình bác ái, yêu thương. Bí quyết của ông: Tôi đang ngồi tù với Chúa.
Trước trở ngại con hãy đứng vững như một tên khổng lồ. Ơn Chúa không thiếu. Nếu con phải hạn chế hoạt động một thời gian, có cần gì đâu ! Việc con làm là việc của Chúa, hơn là việc của con ( ĐHV 219 )
Chiếu sáng đời con bằng Đức Tin và Đức Ai. Đốt cháy thế gian với ngọn lửa Chúa đặt trong tim con ( ĐHV 226 )
Làm thế nào mà tư tưởng, ngôn ngữ, hành động con khiến người ta phản ứng. Con người này đã say mê một cuốn sách: PHÚC ÂM, đã bị ôi cuốn bởi một lý tưởng: CUỘC ĐỜI CHÚA GIÊ-SU ( ĐHV 227 ).
Cậu bé can đảm
Thời cách mạng Pháp, Giáo Hội bị bách hại dữ dội. Một hôm cha xứ Bretagne cải trang đến dâng lễ tại một gia đình đạo đức trong xứ, là gia đình của cậu Benjamin. Cậu bé rất sung sướng vì đây là lần đầu tiên cậu được giúp lễ, cậu theo cha xứ đi đưa Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt.
Bỗng có tiếng giầy đinh nện trên đường làng, một toán lính đang tiến lại. Cha xứ vội trao Mình Thánh Chúa cho cậu Benjamin rước, dù cậu chưa được Rước Lễ Vỡ Lòng ! Chúa cũng trao cho cậu giữ luôn cà Mặt Nhật, rồi cả hai chia tay nhau, mỗi người chạy một ngả. Vì còn nhỏ, chạy yếu, Benjamin bị toán lính bắt được. Một lát sau, cha xứ cũng bị bắt. Chúng tra hỏi cha: “Mày cất giấu Mình Thánh Chúa ở đâu ?” Cha một mực im tiếng. Tức giận, chúng bắn cha chết tại chỗ. Lục soát một hồi cũng chẳng thấy Mình Thánh Chúa đâu, chúng liền quay sang Benjamin: “Chắc chắn mày đang giữ Mình Thánh Chúa, đưa ngay cho tụi tau kẻo thiệt mạng”. Benjamin vừa can đảm vừa ngây thơ trả lời:
Mình Thánh Chúa tôi đang còn giấu...
Ở đâu ? Ở... trong lòng tôi đây, các ông mổ ra mà lấy !
Điên tiết, bọn lính giết liền Benjamin tại chỗ, bên một cây sồi cổ thụ. Mấy năm sau, Giáo Hội Pháp được bình yên trở lại. Một cơn bão làm đổ cây sồi cổ thụ. Dưới gốc cây bị trốc lên, người ta tìm thấy hai xác: trên xác cậu bé, Mặt Nhật còn đó, sáng ngời.
Con phải tập biết từ chối, biết nói “không” ( ĐHV 224 ).
Nghiêm trang và đứng vững, cử chỉ bên ngoài phải chiếu dọi tâm hồn bên trong: tâm hồn bình an, tự chủ của con, không trẻ nít lúng túng hồi hộp ( ĐHV 228 ).
Đức Cố Hồng Y FX. NGUYỄN VĂN THUẬN ( Lm. Huỳnh San gửi về từ Úc )
Sau một thời gian lên đường truyền dạo, Chúa Giêsu trở lại thăm nơi mà Ngài đã sống hầu như suốt: TN 14-B18
Sau một thời gian lên đường truyền dạo, Chúa Giêsu trở lại thăm nơi mà Ngài đã sống hầu như suốt đới thơ ấu. Sự tương qua rõ rệt Mác Cô nêu ở đây. Vì Chúa vừa hoàn thành một loạt các phép lạ: dẹp yên bão tố, chữa lành người bị quỷ ám, thắng được chứng bệnh bất trị, và cứu sống người chết. Những phép lạ này kết quả là do niềm tin vào Chúa Giêsu, dầu niềm tin này không được hoàn hảo nhưng cũng được Chúa ân thưởng chữa lành cho một số đông người; nhưng khi Ngài trở lại Nazarét thì dầu một niềm tin bất toàn như thế cũng không có được, nên Mác Cô ghi lại: “Ngài không làm phép lạ nào được”.
Kể ra thì cũng chu chát thật, nhất là nơi một người giàu tình cảm đối với quê hương xứ sở như Chúa Giêsu. Lúc mới khởi đầi chức vụ, Chúa Giêsu đã bị những người đồng hương của Ngài khing dể và buậc lòng chốn khỏi Nazarét. Giời đây danh tiếng Ngài đã lẫy lừng khắp nước qua những lời giảng không ngoan và phép lạ dịu kì. Ngài không hề có ý trở về quê quán với cách riêng tư cốt chỉ để thăm lại ngôi nhà và những người thân thuộc cũ. Ngài trở về với các môn đệ của mình, nghĩa là Ngài về quê với tư các là một Rabi. Các Rabio vẫn đi đây đi đó trong xứ với nhóm môn đệ nhỏ của họ. với tư cách gio\áo sư Ngài đã trở về cùng với các môn đệ.
Ngài vào nhà hội và dạy dỗ. Người ta không hào hứng tiếp nhận lời giáo huấn của Ngài, trái lại họ còn tỏ vẻ thù địch. “Họ vấp phạm vì Ngài”. Họ tức giận vì một người xuất thân từ bối cảnh xã hội như Chúa Giêsu lại nói năng và hành động như vậy.Sự quá quen thân thương làm phát sinh thù ghét sai lầm. Họ không chịu nghe những lời Ngài nói vì hai lý do:
Họ bảo nhau: “Anh ta không phải là làm thợ một đó sao?”.
Từ ngữ chỉ người thợ mộc là tekton. Tekton có nghĩa là một người thợ làm đồ gỗ, nhưng không phải chỉ đơn giản là làm đồ gỗ mà thôi, nó còn có nghĩa một người làm nghề thủ công tinh xảo. Đời xưa và cả ngày nay nữa, taị nhiều nơi, trong một thị trấn nhỏ hay làng mạc, người ta có thể tìm ra thợ thủ công có thể làm cho bạn bất cứ việc gì, từ việc đóng chuồng gà đến việc cất nhà, sửa khung cửa, đó là thợ thủ công với ít dụng cụ hay tay không, với một số tối thiểu công cụ thô sơ nhất, có thể làm được bất cứ việc gì. Chúa Giêsu là người như thế. Sở dĩ người làng Nazarét khinh dể Chúa Giêsu vì Ngài là một công nhân, một người thợ, Ngài là một người bình thường, một dân thường, một con người chất phác.
Một trong những lãnh tụ quan trọng trong phong trào công nhân nước Anh là Will Crooks. Ông ta được sinh ra trong một gia đình rất nghèo kí ức đầu tiên của ông ghi nhận là hình ảnh khi mẹ ông đang khóc vì không biết lấy gì để ăn trong bữa sau. Ông bắt đầu làm việc trong một lò rèn, lương hàng tuần là năm hào. Ông trở thành một tay thợ giỏi, dũng cảm và ngay thẳng nhất thời bấy giờ. Ông tham gia việc chính trị ngay tại xã và trở thành chủ tịch đầu tiên của phong trào công nhân lao động thị xã London. Nhiều người rất bất bãn khi Will Crooks thành chủ tịch Poplar. Ngày nọ, trong đám đông, một mệnh phụ dè bỉu ông “người ta bầu Crooks làm chủ tịch à, anh ta chỉ là dân thợ bình thường mà thôi”. Một người trong đám đông, chính là Crooks, đã quay lại, bỏ nón ra và nói “hoàn toàn đúng thưa bà, tôi chỉ là một dân lao động”.
Dân chúng ở Nazarét khinh dể Chúa Giêsu chỉ vì Ngài là một công nhân bình thường. Với chúng ta thì đó là vinh quang của Ngài, vì nó có nghĩa là Thiên Chúa xuống thế gian, Ngài không đòi hỏi sự miễn trừ nào. Ngài bằng lòng nhận thấy cuộc đời tầm thường với tất cả những công việc tầm thường của nó. Những may rủi về gia thế, giàu nghèo và phổ hệ chẳng có gì là quan trọng với nhân cách cả. chúng ta cần cảnh giác đối với sự cám dỗ đánh giá của một người căn cứ vào bề ngoài, vào những cái tạm thời nay còn mai mất, chứ không căn cứ vào giá trị nội tại của chính người ấy.
Họ nói “đây không phải là con trai bà Maria hay sao?”
Sự kiện họ gọi Chúa Giêsu là con trai bà Maria cho chúng ta biết có lẽ ông Giuse đã qua đời. Từ đó, chúng ta hiểu được một trong những điều bí ẩn của đời sống Chúa Giêsu. Ngài chết lúc chỉ được ba mươi ba tuổi, nhưng Ngài đã không lìa bỏ Nazarét trước năm ba mươi tuổi (Lu Ca 3,23). Tại sao Ngài lại rtì hoãn lâu đến thế? Tại sao Ngài vẫn nán lại Nazarét trong khi cả thế gian đang chờ đợi sự cứu rỗi? Đó là vì Giuse đã chết và Ngài phải bảo đảm việc nuôi dưỡng gia đình. Ngài vốn trung tín trong việc nhỏ nhặt, cho nên cuối cùng, Thiên Chúa mới giao cho Ngài làm rất nhiều việc lớn.
Nhưng dân chúng Naarét khinh dể Ngài vì họ biết rõ Ngài và gia đình Ngài. Họ cho rằng nếu thật Ngài là Đấng Messia và có những quyền lực cao cả như lời đồn thì đã được tỏ rõ sớm hơn khi chung sống với họ rồi. Người ta khó tin sự vĩ đại vượt bậc của mộ người được coi ngang hàng với họ trong những ngày niên thiếu và cùng ăn làm với nhau. Thomas Campell là một nhà thơ lớn. Cha ông ta lại chẳng biết gì về thi Cá-phác-na-um. Khi Thomas xuất bản tập thơ đầu tay, với tên tác giả là Thomas, ông gửi một tập tặng cha mình. Ông cụ cầm tập thơ lên xem. Thật ra ông chỉ nhìn vào bià sách chứ chẳng đọc gì trong nội dung. Ông cụ kinh ngạc tự nhủ “có ai nghĩ được nó có thể làm được cuốn sách như vậy nhỉ”. Nhir62củai khi sự thân thuộc đáng lẽ phải tạo ra một sự tôn trọng mỗi ngày càng gia tăng, nhưng nó lại tạo ra sự coi thường, xem nhẹ hơn. Lắm khi chỉ vì chúng ta sống quá gần gũi với một người nào đó nên không thấy được chỗ cao thượng vĩ đại của người đó.
Kết quả của mọi việc vừa kể là Chúa Giêsu không thể làm nhiều phép lạ tại Nazarét. Môi trường không thích hợp, có nhiều điều chỉ thực hiện được trong hoàn cảnh thích hợp.
Ngày nay vẫn thế, nếu một người không chịu để được chữa bệnh thì không thể lành bệnh được.
Người ta kể về cái chết của Chamberlain. Mọi người đều biết chính sách của ông đã khiến chính ông rất đau lòng. Một người đến gặp bác sỹ riêng của Chamberlain là Horder và hỏi “có quí mến ông ấy không?” Horder đáp: “Tôi rất quí mến ông ta, ông ta không muốn sống, khi nào một người đã nói thế chẳng có bác sỹ nào có thể cứu nổi người ấy”. Chúng ta có thể gọi đó là đức tin, là ý chí muốn tồn tại, nhưng nếu không có nó chẳng một ai có thể sống được.
Trong một bầu không khí không thuận lợi, không còn có thể giảng dạy gì được.
Các nhà thờ của chúng ta sẽ khác hẳn nếu dân chúng nhớ rằng họ phải giảng phân nửa bài giảng. Một trong bầu không khí chờ đợi, khao khát thì chỉ cần một ít cố gắng, ngọn lửa cũng có thể bùng cháy lên. Nhưng trong một bầu không khí lạnh lùng chỉ để chê bai, chỉ trích hay với thái độ hờ hững, dửng dưng, thì những lời nói dầu được đầy tràn Thánh Linh, vẫn từ trời rơi xuống đất và bị chết cứng.
Trong một bầu không khí không thuận lợi, thì không thể có sự giải hòa.
Nếu người ta chỉ họp nhau lại chỉ để từ chối, thù ghét nhau, thì họ vẫn cứ thù ghét nhau. Nếu người ta chỉ họp nhau để trình diễn thì họ vẫn cứ hiểu lầm nhau. Nếu người ta chỉ họp nhau để không thấy gì khác lạ hơn là quan điểm riêng của chính mình, họ không còn thấy ai khác nữa. Nhưng nếu mọi người đến với nhau bằng tình thương của Chúa để tìm cách yêu thương nhau, thì dù những kẻ vốn cách xa nhau hơn hết, vẫn có thể hợp nhất trong Chúa.
Chúng ta vốn được trao phó trọng trách, hoặc tiếp tay, hoặc ngăn trở công việc của Chúa Giêsu. chúng ta có thể mở rộng cử cho Ngài, hoặc đóng lại trước mặt Ngài.
Những người cổ Hy Lạp thích thể thao, nhất là những cuộc thi chạy lẹ, thi sức mạnh và dai sức: TN 14-B19
Những người cổ Hy Lạp thích thể thao, nhất là những cuộc thi chạy lẹ, thi sức mạnh và dai sức. Những cuộc tranh tài Olympic ngày nay phát sinh từ những ngày đó. Trong một cuộc tranh tài cổ xưa, một lực sĩ đoạt chức vô địch. Các bạn hâm mộ, ông đã dựng một tượng đài để tỏ lòng khâm phục. Điều đó làm cho một lực sĩ bạn thèm khát. Anh này, ban đêm trong bóng tối, gắng sức phá đổ tượng đài đó. Anh tìm cách xô đẩy bức tượng được vài phân, bức tượng lắc lư vài cái trên đế rồi đổ nhào trên đầu và đè chết anh lực sĩ.
Đó là câu chuyện thèm khát. Tính xấu này đã xâm nhập tâm hồn niều người. Chúng ta thấy tính xấu này trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhiều người trong làng xóm, nơi đức Giêsu sinh trưởng, đã buồn bực vì Người được tôn kính và ca tụng. Do lời nói và việc làm lạ lùng của Người, từ chối tin vào Người, từ chối theo Người, kết quả là Đức Giêsu, không thể làm phép lạ ở đó.
Thèm khát và ghen tỵ rất gần gũi với nhau. Thèm khát liên hệ tới cái người khác có. Ghen tỵ liên hệ tới chú ý và cảm tình người khác được. Phải chăng tôi buồn vì người khác đẹp hơn tôi, nổi tiếng hơn tôi, giàu có hơn tôi, có xe láng hơn tôi, có nhà đủ tiện nghi hơn tôi ? Phải chăng tôi buồn vì một ai đó được để ý và kính nể ? Chỉ mơ ước có một cái gì đó mà người khác đã có, không phải là thèm khát. Nó chỉ trở thành thèm khát khi thiếu những cái đó làm bạn buồn, bất mãn và khốn khổ.
Chúa cho chúng ta 2 giới răn đối lập lòng thèm khát. Giới răn thứ 9: “Ngươi chớ tham muốn vợ người khác”. Và giới răn thứ 10: “Ngươi đừng ham muốn của cải người khác”.
Thèm khát là ý muốn trái phép; ham muốn một người không phải vợ (chồng) của bạn một cách trái phép là nguyên cớ của hàng triệu vụ ly dị trên đất Mỹ năm 1977. Tính thèm khát gây nên bao nhiêu đau thương, bao đổ vỡ.
Hầu hết các tội ác đều do sự ham muốn tài sản của người khác cách trái phép gây nên.
Sự ghen tỵ xấu xa lớn nhất đã đem đến cái chết cho Đấng đáng yêu mến của thời đại. Chúa chúng ta, Đấng cứu chuộc chúng ta, đức Giêsu Kitô, Tin Mừng hôm nay kể lại lòng ghen tỵ đã làm mù quáng những kẻ có thế giá tin theo Đức Kitô.
Chúng ta có thái độ gì được lòng ghen tỵ ? Khi một người thành công, phát đạt, được kính nể ? Chúng ta hay cảm tạ Chúa cho họ. Nếu bạn bị người ta ghen tỵ. Bạn hãy xin Chúa giúp cho họ chế ngự được lỗi lầm của họ. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những người chống đối Người. Chúa Giêsu sẵn sàng giúp đỡ vì Người đã từng chiụ những kẻ ghen ghét hành hạ. Xin Người giúp bạn vượt thắng tính xấu này nơi bạn và nơi người khác.
Chúa nhật thứ mười bốn năm B xoay quanh một vấn đề hết sức tế nhị và phức tạp: Sứ vụ của ngôn: TN 14-B20
Chúa nhật thứ mười bốn năm B xoay quanh một vấn đề hết sức tế nhị và phức tạp: Sứ vụ của ngôn sứ không được ưu đãi nơi quê hương của mình. Vấn nạn được đặt ra nhân việc Chúa Giêsu giảng dậy tại Hội Đường nơi quê hương Nagiarét:” Ngài không phải là con bác thợ mộc Giuse, con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao ? Đức Giêsu trả lời câu hỏi ấy:” Không một ngôn sứ nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình” ( Mc 6, 4 ).
I.Ý NGHĨA CÁC BÀI ĐỌC:
Tin Mừng của thánh Maccô 6, 1-6 dậy cho dân Chúa bài học đích đáng. Người biết Chúa thường thờ ơ, lãnh đạm:” Gần chùa gọi bụt bằng anh”. Đó là thái độ của những người không có lòng chân thật, thường bám víu vào những gì mình có và một khi cảm thấy đầy đủ, hoặc sự thật đầy đủ hoặc chỉ có trong ảo tưởng thì họ đâm ra coi thường tất cả, mặc dầu bản chất họ không được như vậy. Điều ấy, hợp với đoạn Tin Mừng sáng nay, khi mọi người được sống gần Chúa, được nghe những lời khôn ngoan giảng dậy của Ngài, người ta lại đâm ra nghi ngờ về sự chân thật của Ngài và từ thái độ hồ nghi đó, con người đặt vấn đề về Ngài, xem Ngài như một người thường thức, một con người xuất thân từ cha mẹ cũng không có thế giá gì. Chúa Giêsu nói rất rõ về thái độ cứng tin của con người, những người đã được sống gần gũi Chúa, được tiếp xúc với ơn cứu độ của Chúa và được nghe những lời chân thật, quí báu của Ngài. Tại sao họ lại đặt vấn nạn về Ngài giữa lúc họ được nghe lời cứu rỗi của Ngài. Ở đây chúng ta có thể đặt hai vấn nạn: một là con người cố bịt tai, nhắm mắt không chịu nhìn Đấng Cứu Thế. Hai là con người cứng lòng không chịu mở rộng tấm lòng để nhận ơn cứu rỗi của Chúa Kitô. Do đó, Đức Giêsu đã phải thốt lên:” Ngôn sứ mà có bị khinh thì chỉ có ở nơi quê quán, nơi bà con, nơi nhà mình mà thôi” ( Mc 6, 4 ). Ngài có thể làm được nhiều điều tốt đẹp để làm vinh danh Cha Ngài nơi quê hương của Ngài, nhưng Ngài đã không thể làm được gì, ngoài việc đặt tay chữa lành vài người đau ốm”( Mc 6, 5 ).
Đoạn Tin Mừng này làm sáng tỏ vấn đề ngôn sứ Êdêkiên nói tới ở đoạn 2, 2-5. Ngôn sứ lãnh lời của Thiên Chúa truyền đạt cho dân, nhưng dân phản loạn không chịu nhìn nhận vị sứ giả của Thiên Chúa, không nhìn nhận uy quyền của Đấng được sai đi. Thái độ của dân trong đoạn này cũng là thái độ đóng kín, bịt mắt không chịu mở lòng, mở đôi mắt để thấy rõ vị sứ giả của Thiên Chúa sống giữa họ và phục vụ Tin Mừng cho họ. Maccô 6, 1-6 và ngôn sứ Êdêkiên 2, 2-5 dẫn ta tới sự kiện:” Tin và Phó thác”. Phaolô trong thư thứ hai gửi tín hữu Corintô 12, 7-10 đã thú nhận sự yếu hèn của thân xác và xin Chúa cất khỏi sự cám dỗ của xác thịt Ngài, nhưng Thiên Chúa đã chấp nhận sự yếu hèn của Ngài như thử thách của lòng tin:” Ơn Ta là đủ cho Ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối”( 2Co 12, 10 ). Các bài đọc đưa ta tới một kết luận chung: Phó thác và tin tưởng cậy trông vào Chúa, chắc chắn sẽ được Ngài gia ân giáng phúc và cho con người đứng vững trong lịch sử cứu độ của mình.
II. SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA NHẬT HÔM NAY:
Đức Giêsu đã dậy cho dân Chúa, cho mọi người một bài học thích đáng: Không được đóng kín lòng, nhưng phải mở tung tâm hồn để lãnh nhận ơn huệ của Thiên Chúa. Con người sống ở đâu, ở hoàn cảnh nào, trong tình huống nào, lòng tin vẫn là nguồn sống cho họ. Thiếu lòng tin con người sẽ khô cằn và chết. Lòng tin sẽ giúp con người can đảm để sống, giúp họ vươn tiến và bước đi trong bình an. Ích kỷ, tị hiềm, ghen tương sẽ không xây đắp được gì. Chỉ có lòng tin, sự quảng đại, bao dung mới xây nên được sự bình an. Sống trong một thế giới vắng bóng Thiên chúa, xa dần sự thật và ánh sáng. Lòng tin sẽ là đèn pha dọi chiếu để con người nhìn ra thực trạng sống và nhìn ra cùng đích để bước tới. Thực trạng và cùng đích là Chúa Kitô. Đức Kitô là Tình yêu. Tình yêu là nguồn sống của con người. Nơi nào có sự thật, chân lý và tình người, nơi đó có Thiên Chúa ngự trị. Nơi đâu tình yêu nhường chỗ cho hận thù, ghen tương và đố kỵ, nơi đó vắng bóng Thiên Chúa. Tình thương thì xây dựng. Hận thù thì hủy diệt. Tình thương sẽ giúp con người ngồi gần nhau hơn để nói lên sự tin tưởng, tín thác và nâng đỡ nhau. Đức Kitô không đòi hỏi con người điều gì cả ngoài tình thương họ phải đáp trả. Sở dĩ con người không nhận ra Ngài vì họ thiếu tình thương, thiếu lòng tin và phó thác. Đức Kitô vẫn ở đó, vẫn ở bên ta nhưng có người đã nhận ra Ngài, có người chưa nhận ra Ngài và có người không muốn nhìn nhận Ngài như những người ở làng quê Nagiarét xưa.
Woodbridge đã viết một câu thật chí lý:” Đức tin là con mắt để nhìn thấy Chúa, là bàn tay để nắm lấy Người, là sức mạnh giúp ta tự hiến cho Người “.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng biết nhìn thấy Chúa ở khắp nơi.
Chúa nhật 14 Thường niên năm B dạy chúng ta một bài học về những cản trở khiến chúng ta khó nhận: TN 14-B21
Chúa nhật 14 Thường niên năm B dạy chúng ta một bài học về những cản trở khiến chúng ta khó nhận ra Thiên Chúa. Thời ngôn sứ Edêkien thì dân Ítraen tỏ ra là một dân phản nghịch, chống lại Thiên Chúa, mặc dầu Thiên Chúa một mực yêu thương tha thứ cho họ. Thời Đức Giêsu thì dân làng Nadarét đồng hương của Đức Giêsu không tin Người mặc dù họ thấy Người khôn ngoan lạ thường và họ biết Người làm nhiều phép lạ phi thường ở các làng chung quanh. Tất cả chỉ vì lòng người cao ngạo, hẹp hòi, mù quáng và thành kiến. Họ muốn Thiên Chúa phải lệ thuộc vào họ, phải làm những điều họ muốn và theo cách họ nghĩ. Dân Chúa ngày hôm nay và bản thân mỗi người chúng ta phải làm thế nào để trở thành những người con hiếu thảo của Thiên Chúa? Đó là điều chúng ta phải xem xét nếu muốn sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay.
I. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1.1 Bài đọc 1: Ed 2,2-5: Nếu như Thần Khí của Thiên Chúa không nhập vào ngôn sứ Edêkien, thì không biết ông có đủ can đảm mà đến với dân riêng của Thiên Chúa mà nhắc nhở răn dạy họ không. Để giúp ông vững dạ trong sứ vụ khó khăn, Thiên Chúa tỏ cho ông biết là Người biết rõ lòng dạ của dân cùng với sự ngỗ ngược và cứng lòng của họ: ”Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ítraen, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng. Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng” Ngôn sứ Edêkien thấy Thiên Chúa biết rõ ruột gan của dân mà vẫn thương yêu dân thì ông phải cố gắng chu toàn trách nhiệm làm ngôn sứ của Thiên Chúa để nói lời Thiên Chúa cho họ, mặc dù họ có thể nghe mà cũng có thể chẳng thèm nghe lời ngài.
1.2 Bài đọc 2: 2 Cr 12,7-10: là những lời Phaolô viết cho tín hữu Côrintô về một nỗi yếu đuối hoặc khiếm khuyết hoặc cám dỗ thiêng liêng mà ngài phải chịu đựng suốt cuộc đời. Chúng ta không rõ đó là cái gì, vì Phaolô nói một cách rất mơ hồ là “một cái dằm”. Cái dằm thì không đủ làm cho người ta chết, nhưng nó làm cho người ta đau đớn và khó chịu, không lúc nào yên. Nhưng điều chúng ta biết được là Phaolô đã nhờ cái dằm ấy mà sống khiêm tốn trong đời sống tâm linh, giữa bao ơn huệ lớn lao mà Thiên Chúa đã khứng ban cho riêng ngài: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mạc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xatan được sai đến để vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại” Như thế thì sự yếu đuối, mỏng giòn, khiếm khuyết trong đời sống tâm linh cũng là điều có ích cho tâm hồn những người thật lòng yêu mến Chúa, vì nhờ đó mà họ khiêm tốn hơn, tránh khỏi cảnh tự cao tự đại đáng ghét theo tinh thần Phúc âm. Không ít vị thánh đã là các đại tội nhân.
1.3 Bài Tin Mừng: Mc 6,1-6: là bài tường thuật của Máccô về những suy nghĩ và thái độ của những người đồng hương Nadarét đối với Đức Giêsu. Khi thấy Đức Giêsu tỏ ra khôn ngoan khác người, dân làng Nadarét cũng ngạc nhiên và thắc mắc nhưng họ không thoát ra khỏi những thành kiến tầm thường để nhận ra Đức Giêsu là Ai. Trái lại họ dựa vào những gì họ biết về Người (cha mẹ, họ hàng, nghề nghiệp, tài sản và giai cấp xã hội) để nghi ngờ và không tin Người. Phúc âm Máccô cho ta thấy Đức Giêsu rất đơn sơ chân chất: chính Người cũng ngạc nhiên về thái độ không tin của những người đồng hương: “Người lấy làm lạ vì họ không tin” và vì họ không tin nên “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó” Phúc âm Máccô còn cho thấy Đức Giêsu rất hiền lành: Từ sự kiện không được người đồng hương kính tin, Người chỉ rút ra một kết luận: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc và trong gia đình mà thôi” và đến các làng chung quanh mà giảng dạy cho dân chúng ở các làng ấy. Ở một đoạn văn khác, những người bà con thân thuộc của Đức Giêsu tìm cách quản lý Người, vì cho rằng Người khùng dại, mất trí (xem Mc 3,21).
II. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
2.1 Có nhiều cản trở khiến con người không nhận ra Thiên Chúa: Đó là kết luận thứ nhất mà chúng ta có thể rút ra được từ các bài đọc Thánh Kinh hôm nay. Con người không nhận ra Thiên Chúa, có thể vì tính cao ngạo, cứng đầu cứng cổ; cũng có thể vì suy nghĩ hẹp hòi và thành kiến. Thay vì lấy Thiên Chúa là chuẩn thì con người thường thích lấy mình làm chuẩn, làm thước đo mà bắt Thiên Chúa phải theo. Cách nói hình tượng là con người nặn ra Thiên Chúa theo suy nghĩ của mình chứ không chịu chấp nhận sự việc Thiên Chúa làm sao thì đón nhận nhận Người như vậy. Đó cũng là một dạng tội phạm thượng, tội thờ ngẫu tượng, mà Thiên Chúa đã lên án nhiều lần trong Cựu Ước.
Nhìn vào đời sống tâm linh của chúng ta, có lẽ chúng ta cũng phải tự thú rằng chúng ta cũng là những người con ngỗ nghịch, cứng đầu cứng cổ, đầy thành kiến và bảo thủ đối với Thiên Chúa.
Chúng ta có nhận ra và đón rước Chúa trong Thánh Kinh, nhất là trong 4 Phúc âm, như Thiên Chúa đã tự tỏ mình ra và mong đợi không? Càng ngày người ta càng nhận thấy người Công giáo thua kém anh chị em Tin Lành trong lãnh vực hiểu biết và truyền giảng Lời Chúa như thế nào. “Vô tri bất mộ”: không hiểu biết thì làm sao mến mộ, mà hiểu biết thế nào được nếu không chịu tìm tòi, học hỏi. Nhìn vào sinh hoạt tôn giáo của các giáo xứ, thử hỏi có bao nhiêu giáo xứ có các khóa học hỏi Thánh Kinh cho người lớn? Tương tự như thế, mỗi người, mỗi cộng đoàn hãy tiếp tục tự vấn chính bản thân mình: Chúng ta có nhận ra và đón rước Chúa trong Bí tích Thánh Thể như Chúa mong đợi không? Chúng ta có nhận ra và đón rước Chúa trong anh chị em, nhất là trong những người bé mọn, thấp cổ bé miệng và túng nghèo cũng như trong những người sống xa Chúa, chống lại Chúa, như Chúa đã dậy không? Chúng ta có nhận ra và đón rước Chúa trong các biến cố lớn nhỏ, liên hệ tới cá nhân và cộng đồng không? Chúng ta có nhận ra các dấu chỉ của thời đại mà Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đã tạo nên một ý thức sống động trong thời đại của Công đồng Vaticanô II không?
2.2 Là những người con hiếu thảo và dễ bảo của Thiên Chúa: Đó là kết luận thứ hai và là sứ điệp của Lời Chúa hôm nay. Nhưng làm thế nào để chúng ta trở nên những người con hiếu thảo và dễ bảo của Thiên Chúa? Trả lời được câu hỏi gai góc này là chúng ta vạch ra được con đường tiến về Chúa:
2.2.1 Cần có lòng đơn sơ trong trắng của trẻ thơ, vì trẻ thơ thì tin lời cha mẹ một cách tuyệt đối và làm những gì cha mẹ dậy bảo. Cũng vì trẻ thơ thì sằn sàng đón nhận những cái mới, cái hay, cái đẹp đến từ Thiên Chúa, con người và xã hội.
2.2.2 Cần siêng năng chịu khó tìm tòi học hỏi, đọc, suy niệm Thánh Kinh và cầu nguyện vì trong các Sách Thánh, Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng triù mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ. Cũng còn vì Lời Chúa là qui luật tối cao hướng dẫn đức tin (xem Chương VI, số 21, Hiến chế Mạc Khải hay Lời Thiên Chúa, của Công đồng Vaticanô II). Vì thế những người con hiếu thảo của Thiên Chúa sẽ lấy Lời Chúa làm chuẩn, sẽ để sứ diệp của Lời Chúa chất vấn lương tâm và đời sống của mình mỗi ngày.
2.2.3 Cần học tập noi gương Đức Giêsu Kitô: không ai thảo hiếu với Thiên Chúa Cha cho bằng Đức Giêsu Kitô là Con Một Yêu dấu của Cha và là Chúa chúng ta. Đức Giêsu được Chúa Cha ban cho chúng ta, không chỉ để chúng ta được thứ tha mọi tội phản nghịch, mà còn để chúng ta biết đường biết lối tìm về với Chúa Cha là cùng đích và hạnh phúc của mình. Chính vì thế mà Đức Giêsu đã nhiều lần gọi mời: “Hãy học cùng Ta! Hãy đến với Ta! Hãy noi gương bắt chước Ta!”
III. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha yêu thương, kiên nhẫn và quảng đại vô cùng, Chúa chẳng chấp tội phản nghịch, thói cứng đầu cứng cổ, óc hẹp hòi thiển cận của chúng con. Chúng con xin cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha. Chúng con xin Cha ban cho chúng con một tấm lòng thảo hiếu, dễ bảo và biết ơn đối với mọi ân sủng của Cha. Chúng con xin Cha ban cho chúng con ơn biết noi gương bắt chước Đức Giêsu Kitô, Con Một yêu dấu của Cha và ơn biết quí trọng và siêng năng tìm vào kho tàng Thánh Kinh là Lời hằng sống của Cha để chúng con biết Thánh Ý của Cha và thực thi Thánh Ý ấy trong đời sống cá nhân, gia đình, cộng đoàn của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Con Thảo của Cha, xin Chúa dạy chúng con biết sống thảo hiếu với Cha, vâng phục Cha và yêu thương anh em như Chúa đã sống và đă dạy trong Phúc âm.
Lạy Chúa Thánh Thần là Thần Khí của Thiên Chúa, xin Chúa uốn lòng chúng con nên tâm hồn trẻ thơ, mềm dẻo, dễ bảo đối với Cha, để chúng con trở nên những người con thảo hiếu, theo mẫu gương của Đức Giêsu Kitô.
Trước thái độ cứng lòng của dân làng Nagiarét, chúng ta cùng tìm hiểu và chia sẻ về việc lắng: TN 14-B22
Trước thái độ cứng lòng của dân làng Nagiarét, chúng ta cùng tìm hiểu và chia sẻ về việc lắng nghe lời Chúa.
Giữa giòng đời huyên náo và quay cuồng, đôi lúc chúng ta cảm thấy vọng lên từ thẳm sâu cõi lòng lời thì thầm sau đây:
- Hãy dừng lại. Đừng chạy nữa và đừng nói nữa. Hãy để ngoài tai những âm thanh ồn ào. Vì lòng yêu mến Chúa, hãy dành lấy một khoảnh khắc thinh lặng. Hãy lắng nghe tiếng nói từ trời cao, vang lên trong tâm hồn mỗi người chúng ta.
Thực vậy, hãy để ngoài tai những âm thanh ồn ào của thế gian, vì chúng chỉ nói với chúng ta những điều điên cuồng và dối trá, để rồi sẽ dẫn chúng ta tới chỗ diệt vong.
Thật là dại dột, nếu để cho cuộc đời vùi dập chúng ta như cánh hoa bị giòng nước cuốn trôi, vì nguy hiểm đang chờ sẵn. Hãy đề cao cảnh giác và hãy nhớ rằng tất cả những gì tốt đẹp đều xuất phát từ trời cao, đều do Chúa Cha, cội nguồn mọi ánh sáng, đổ xuống.
Chính Ngài đã ban cho chúng ta đời sống ơn sủng là như tấm áo cưới để được đón nhận vào quê hương nước trời. Chỉ mình Ngài mới có thể trao ban cho chúng ta một cuộc sống không bao giờ tàn úa.
Trong khi con người thì thay đổi và chóng qua như một làn khói tỏa, như một áng mây bay, thì chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng trung thành, trước sau như một. Trời và đất sẽ qua đi nhưng lời Chúa sẽ chẳng bao giờ qua đi. Ngài không bao giờ quên mất niềm hạnh phúc vĩnh cửu, như là phần thưởng Ngài hứa ban cho những kẻ yêu mến và phụng thờ Ngài.
Ngay từ thuở đời đời, Ngài đã tạo dựng chúng ta, chọn lựa chúng ta và yêu thương chúng ta, mặc dù chúng ta chẳng có công trạng gì. Bởi đó hãy cảm tạ Ngài không ngớt.
Lời ban sự sống, đó là Tin Mừng, mà chúng ta được nghe ít nữa là trong ngày Chúa nhật. Vậy thì chúng ta đã đón nhận lời Chúa như thế nào ? Chăm chú lắng nghe ? Hay qua lần chiếu lượt, như một bổn phận phải làm cho xong.
Lời đem chân lý đó là Kinh Thánh. Có bao giờ chúng ta mở ra để đọc và suy nghĩ, hay là chúng ta sẽ thầm bảo rằng: làm gì có thời giờ cho những công việc phù phiếm ấy.
Mỗi ngày chúng ta có biết bao nhiêu thời giờ để làm lụng, để ăn uống, để ngủ nghỉ, để giải trí, để cắm đầu vào những cuốn chuyện nhảm nhí như thuốc độc giết hại tâm hồn. Nhưng lại không có lấy một chút hứng thú cho những việc đạo đức, cho những sự thiêng liêng.
Hãy cầu xin với Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong tâm hồn mỗi người, cho chúng ta biết yêu thích lắng nghe lời Chúa, để rồi sẽ ghi nhớ trong cõi lòng của mình, như lời thánh Phaolô khuyên nhủ:
- Hãy mau nghe nhưng chậm nói.
Đúng thế, hãy yêu thích lắng nghe lời Chúa, và lời Chúa sẽ dần dần uốn nắn sửa đổi chúng ta. Lời Chúa là ánh sáng đánh tan sương mù vây bủa cuộc đời. Lời Chúa là tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động. Lời Chúa sẽ đánh động tâm can và là một thứ khí giới bảo đảm cho chúng ta trước mọi cơn cám dỗ của thù địch.
Hãy mau nghe nhưng chậm nói, vì nói nhiều thì thường là nói bậy. Ai kiểm soát được lời nói của mình thì đã xóa bỏ được rất nhiều tội lỗi và sai phạm.
Ước chi lời Chúa được lắng nghe, sẽ đọng lại nơi tâm hồn và trở nên khuôn mẫu cho đời sống người Kitô hữu chúng ta.
Làm sao có thể đem lại niềm hi vọng cho con người giữa một thế giới đầy những bạo loạn và khổ: TN 14-B23
Làm sao có thể đem lại niềm hi vọng cho con người giữa một thế giới đầy những bạo loạn và khổ thống hôm nay? Tất cả những đều bắt nguồn từ vô minh trước chân lý. Bởi đấy, cần lắng nghe ngôn sứ là những người loan báo sự giải thoát cho nhân loại.
CÓ MỘT NGÔN SỨ GIỮA CHÚNG TA
Ngôn sứ là bộ mặt quen thuộc trong Cựu Ước và truyền thống Do thái. Họ là người lặp lại những lời Giavê. Bởi đấy họ trở thành một "chuyên viên" nói về Thiên Chúa, kinh nghiệm về "vinh quang" (Ed 1:26-28), sức mạnh áp đảo (Gr 15:16), sự thánh thiện tuyệt vời của Thiên Chúa (Is 6:1-8). Bắt nguồn từ ý thức sâu xa về tôn giáo và chính trị, ngôn sứ cho thấy Giavê đang hướng dẫn về một tương lai, "ngày" cao điểm Thiên Chúa sẽ thực hiện giao ước và xuất hiện vinh quang, từ khi có một cuộc thay đổi sâu xa tự bên trong (Gr 31:31-37; Ed 34:11-30; 36:23-36).
Chính vì thế, Ðức Giêsu đã giải thích Kinh thánh và nói những lời tiên tri cho người thời đại để hoàn thành lời ngôn sứ: "Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy." (Ðnl 18:18) "Dân chúng cho Người là một ngôn sư," (Mt 21:46) nghĩa là nhận ra Người là ngôn theo truyền thống Do thái. Nhưng những người khác lại thấy nơi Người ứng nghiệm lời sách Ðnl 18:15-18 khi nói: "Ông này thật là vị ngôn sứ." (Ga 7:40) Bởi thế, nguồn gốc của Người thật cao cả: "Chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel." (Ed 2:3)
Hơn một ngôn sứ, Ðức Giêsu còn làm những phép lạ như những dấu chỉ diễn tả tình yêu và quyền năng của Người được Chúa Cha sai đến. Khác hẳn mọi người, Ðức Giêsu có ảnh hưởng trực tiếp trên dân chúng. Trước khi họ mở miệng, Người đã bắt ngay được những tư tưởng và bận tâm của họ (Mc 2:1; Mt 12:25; Lc 9:47). Họ không thể dấu giếm Người điều gì. Người có thể thấu suốt tâm hồn. Thực tế, Người còn ý thức mình "còn hơn" một ngôn sứ, "hơn Giona" (Mt 12:41), "cao cả hơn vua Salomôn" (Mt 12:42), "cao cả hơn Ðền Thờ." (Mt 12:16) Tuy cao cả như thế, Người vẫn không muốn che dấu thân phận bi thương khi phải đối diện với cái chết tàn bạo. Nhưng cái chết đó đã Người cắt nghĩa là việc đền thay tội ác nhân loại. Mầu nhiệm cứu độ chỉ được mạc khải hoàn toàn khi Người phục sinh.
Nếu không phục sinh, không thể nào hiểu được tại sao một ngôn sứ lại gặp bế tắc trên bước đường công bố chân lý giải thoát cho nhân loại. Những lạnh lùng của người thân dẫn đến một viễn tượng đau khổ và cái chết. Ðức Giêsu đã phải cay đắng chừng nào khi thốt lên: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi." (Mc 6:4) Không còn kinh nghiệm nào quí báu hơn ! Không còn thực tế nào phũ phàng hơn !
Chính thực tế phũ phàng đó đã đẩy Chúa vào cõi chết. "Họ vấp ngã vì Người." (Mc 6:3) Nhưng khi phục sinh thân xác Ðức Giêsu, Thánh Linh đã biến Người thành "đá tảng góc tường" (Tv 118:22) xây nên tòa nhà Giáo hội. Như vậy, cái chết của Người đã biến thành một lời tiên tri và một bảo đảm mạnh mẽ nhất cho mọi người thấy giao ước tình yêu Thiên Chúa nên trọn vẹn.
Người ta cứ tưởng lời ngôn sứ bị đóng khung trong giới hạn thân xác hay hoàn cảnh địa dư và văn hóa. Thực tế, lời ngôn sứ hoàn toàn lệ thuộc vào niềm tin. Bởi thế, Ðức Giêsu "lấy làm lạ vì họ không tin." (Mc 6:6) Chính lòng cứng tin này đã làm cho Người bó tay "không thể làm được phép lạ nào tại đó." (Mc 6:5) Nhưng đó lại là lúc Người phá tung biên giới "quê quán của Người" (Mc 6:1) để "đi các làng chung quanh mà giảng dạy" (Mc 6:6) chân lý giải thoát muôn dân. Một số người xóm làng cứng tin. Nhưng sẽ có hàng vạn người mở lòng đón nhận Tin Mừng Cứu độ. Bởi đấy, chắc chắn kèm theo lời giảng là những phép lạ Người sẽ thi thố khắp nơi.
Cái nhìn bà con đóng khung trong những giới hạn rất trần tục, không đi xa huyết thống và những nhu cầu hằng ngày: "Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria và là anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?" (Mc 6:3) Họ nêu thắc mắc rất chính đáng về quyền uy của Người: "Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao ? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì ?" (Mc 6:2) Nhưng làm sao tìm được câu trả lời nếu đóng khung Người trong những giới hạn như thế ?
Câu trả lời chỉ có thể tìm thấy Ðức Giêsu Kitô "một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân." (Lc 24:19) Người đến hoàn thành và thực hiện lời ngôn sứ xa xưa. Nhờ Người, cộng đoàn không ngừng sống trong tương quan với trào lưu ngôn sứ. Trên hết, cơ cấu cộng đoàn tiên khởi nhìn nhận nơi các ngôn sứ có một nguyên tắc căn bản làm nền tảng xây dựng sức sống Giáo hội (x. Ep. 4:11; 1 Cr 12:28). Suốt 20 thế kỷ, Giáo hội đã coi ngôn sứ là một trong những đoàn sủng để Giáo hội thi hành nhiệm vụ làm trung gian mạc khải.
NGÔN SỨ TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY
Nếu ngôn sứ là một đoàn sủng, mọi người có thể xây dựng cộng đoàn (1 Cr 14:3, 29-32) dựa trên Lời Chúa. Chính Thánh Linh hướng dẫn các ngôn sứ trong công tác xây dựng cộng đoàn và cho các ngôn sứ thần hứng nói tiên tri (Cv 2:18; 11:28; 19:6; 21:11; 1 Cr 12:28; 1 Pr 1:11; 2 Pr 1:21). Sứ ngôn là "lời chứng của Ðức Giêsu," (Kh 19:10) mục đích làm cho Lời Chúa trở thành hiện thực, sống động và gần gũi với cộng đoàn. Vì thế, thánh Phaolô kêu gọi ngôn sứ "xây dựng, khích lệ và an ủi" để "xây dựng Hội Thánh." (1 Cr 14:3.4) Những kiểu đe loi, lên án và oán phạt đều biến khỏi những lời ngôn sứ trong Tân Ước.
Ngôn sứ hướng dẫn cộng đoàn hiện tại trong ánh sáng phục sinh và niềm hi vọng Người quang lâm. Muốn thế, ngôn sứ phải cẩn thận tìm hiểu lịch sử hiện tại trong nguồn mạch truyền thống và trong ý thức cánh chung. Nói khác, ngôn sứ phải chuẩn bị đọc được những dấu chỉ thời đại và tạo được những dấu chỉ mới làm cho sứ điệp cứu độ thành sống động cho nhu cầu hiện đại.
Sứ ngôn luôn luôn và tuyệt đối phải là một lời đầy khích lệ, chân thực và hi vọng. Thánh giá Chúa Giêsu là dấu chỉ mang tính ngôn sứ cao cả nhất. Dung nhan của Ðấng chịu đóng đinh chiếu tỏa vinh quang Chúa Cha chính là sứ điệp cuối cùng nói lên ý muốn cứu độ của Thiên Chúa. Khi sang thăm Croatia, ÐGH Gioan Phaolô II đã "mời gọi người dân hãy trở nên "nhân chứng trung thành và tông đồ quảng đại" (Zenit 09.06.2003) cho tình yêu Thiên Chúa. Người còn nói: "Trên khuôn mặt in hằn dấu vết chiến tranh, tôi biết anh chị em rất đau khổ. Nhưng tôi cũng biết anh chị em cương nghị, can đảm và tràn đầy hi vọng. Chắc chắn tương lai sẽ khá hơn."
Là một ngôn sứ, "giáo dân hăng say dấn thân làm việc tông đồ dưới mọi hình thức … Hãy học cùng Ðức Maria để trở nên những chứng nhân trung thành và những tông đồ quảng đại … để góp phần riêng vào công cuộc tân phúc âm hóa." Ðể hoàn thành sứ mệnh cao cả đó, họ phải nguyện xin Mẹ Maria "phù giúp chúng ta làm chứng cho tình yêu đâm hoa kết trái và cuộc đời đầy ý nghĩa đích thực, xin dạy chúng ta cùng Mẹ xây dựng Vương quốc Thánh Tử, Vương quốc công chính, tình yêu và hòa bình." (Zenit 09.06.2003)
Suy Niệm “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương mình!”(Mk 6:4) Nếu một người: TN 14-B24
Suy Niệm “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương mình!”(Mk 6:4) Nếu một người chân thực với chính mình, sẽ không ngần ngại thú nhận rằng dân mình thường ‘thích tây và chê ta’, nghĩa là ưa chuộng người tây phương mà thiếu tinh thần khích lệ để cầu tiến cho dân tộc mình. Trong xứ Đạo cũng thế, nếu có cha khách đến thăm một lần thôi, thì một số người nông cạn vuốt ve cha khách, và chê cha xư đang tận tình làm việc với giáo dân của mình. Thái độ này gọi là bỏ ‘hình bắt bóng’, nói đúng hơn là bạc ơn. Những đứa con bất hiếu trong gia đình cũng vậy, hàng xóm cho ăn cơm chỉ một lần rồi nhớ mãi và khen ngon, mà quên công ơn cha mẹ sinh thành và nuôi dưỡng mình! Đây là căn bệnh trầm trọng đục khoét tâm hồn dân Do Thái cũng như dân ta. Khi Đức Giêsu về với dân làng để đem tin vui mừng, ích lợi cho họ, thay vì hân hoan đón nhận thì quay sang tìm tông tích và chỉ trích gia đình của Ngài! Buồn hơn nữa là chính họ hàng thân thích của Ngài không tin rằng gia tộc mình có ơn phúc Chúa ban cho một người thân. Mà họ chỉ chờ mong và cầu xin ân phúc của ‘người tây’. Nếu ‘người ta’ có điều gì hay, thì lại ghen tương! Và bình phẩm rằng ‘người đó gặp may’ chứ tài cán gì ! Cũng vì có thành kiến tầm thường đó mà các thành phần trong gia đình họ cũng trở thành nạn nhân của nhau! Khi một người trong gia đình có lầm lỡ, mà ăn năn trở lại, hoặc sau nhiều cố gắng và gặp thành công thì không nhận được sự khích lệ trong gia đình, trái lại cứ nhắc chuyện cũ! Đó cũng là nguyên nhân khiến dân ta sống mãi kiếp nô lệ dân tây! Nhân tài của dân ta thì bị chê, không được trọng dụng! Chính Đức Giêsu là nạn nhân từ trong gia tộc cho đến dân làng của Ngài, nên Ngài rất thông cảm với những ai hôm nay đang bị bạn bè gây nhiều đau thương.
Thực Hành: “Đây là nhà phản loạn, và họ sẽ biết rằng giữa họ vẫn có một tiên tri.”(Ezek 2:5) Lời cầu chân thành của tôi hôm nay là tạ ơn Chúa luôn ban ơn, tài năng cho những người đang sống với tôi và phục vụ cho ân Chúa. Xin Chúa ban cho con ơn khiêm nhường đủ để biết cộng tác với những người ta đang nhiệt tình trong công việc xây dựng Giáo Xứ, Cộng Đoàn.
Cả ba thánh sử Mát-thêu, Lu-ca và Mác-cô đều thuật lại câu chuyện Đức Giêsu bị những: TN 14-B25
Cả ba thánh sử Mát-thêu, Lu-ca và Mác-cô đều thuật lại câu chuyện Đức Giêsu bị những người thân thuộc khinh thường vì Người đã sống giữa họ với một cuộc sống thật giản dị, và vì tại Na-da-rét, quê quán của Người, dân làng ai cũng biết Người cả!
Thiên Chúa yêu thương loài người đến nỗi làm mọi cách để đến gần với con người. Người mong chờ nơi con người mở rộng con tim và tin tưởng vào Người, nhưng Người chỉ gặp sự khước từ và hoài nghi. Câu cuối cùng của bài Tin Mừng hôm nay: "Người lấy làm lạ vì họ không tin".
Trong ba năm truyền giáo, Đức Giêsu thường bị người Do-thái ruồng bỏ và từ chối không tin vào Người. Và cho đến hôm nay, hiện tượng không tín ngưỡng, không tin vào đạo vẫn còn! Có biết bao nhiêu phụ huynh đã tận tâm giáo dục con cháu mình trong đạo Chúa, trong tinh thần Giáo Hội. Thế nhưng, con cháu họ bây giờ không còn tin gì nữa hoặc không còn giữ đạo nữa! Chúng ta thấy rằng chính Đức Giêsu đã giảng dạy, nhưng Người vẫn không làm tăng thêm đức tin cho dân làng của Người! ngay trong họ hàng thân thuộc của Người, cũng có những người "khô đạo" và không tin đạo!
Chúa nhật hôm nay, cả ba bài đọc đều nói về "linh đạo của sự thất bại". Trong bài đọc 1, tiên tri Ê-dê-ki-en được Chúa nâng đỡ, khuyến khích trước đám dân lòng chai dạ đá, phản nghịch và chống lại Người. Còn trong bài đọc 2, thánh Phao-lô thú nhận rằng: "thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào" (c. 7). Người tiết lộ sự bất tài và những giới hạn của mình, những công kích mà mình phải chịu. Nhưng trong sứ mệnh gay go đó, vị sứ giả không lẻ loi một mình vì là phái viên của Chúa.
"Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh" (c. 10). Đó là quy luật dành cho những ai làm việc tông đồ. Và những điều kiện chính để làm việc tông đồ được đặt nền tảng trên lời tuyên bố sau đây của Đức Giêsu: "Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối" (c. 9). Như thế, chính ơn Chúa cứu rỗi chứ không phải do công trình của con người!
Khi kể lại việc thất bại của Đức Giêsu tại Na-da-rét, thánh sử Mác-cô nghĩ đến Giáo Hội, đến mầu nhiệm Nhập Thể của Con Chúa vẫn diễn tiến, mà chỉ con mắt đức tin mới nhận ra được tầm quan trọng của nó. Như khi xưa, dân làng Na-da-rét khinh thường Đức Giêsu, hôm nay, một nhóm Kitô hữu tỏ thái độ chống lại một số lập trường của Giáo Hội, khi tuyên bố: "Tin vào Chúa chứ không tin vào Giáo Hội!"
Tuy Giáo Hội gồm những phần tử tội lỗi, Chúa vẫn luôn truyền phán qua Giáo Hội. Người tiếp tục công trình của Người qua con người, qua những người mà chúng ta quen biết, có khi quá quen biết. Nếu việc thiếu đức tin của dân làng Na-da-rét làm cho Đức Giêsu ngạc nhiên và xúc phạm đến Người, phải chăng Giáo Hội hôm nay vẫn còn bị tê liệt bởi sự thiếu đức tin hoặc sự cứng lòng tin đó không ?
Trong mọi thời đại, Chúa đều gửi các ngôn sứ loan báo lời Người. Như các ngôn sứ ngày xưa, Ê-dê-ki-en, thánh Phao-lô chẳng hạn, các ngôn sứ ngày nay: mục sư Martin Luther King, Cha Pierre, Mẹ Têrêxa, v.v... dám đứng lên tố cáo chiến tranh, bất công, những người bé nhỏ bị áp bức. Họ bất chấp những kẻ quyền thế, bất chấp dư luận. Lời lẽ của họ chỉ gây nên những phản ứng thù nghịch. Nếu họ khuyên sống trong sự chung thủy vợ chồng để tránh bệnh Si-đa, họ lại bị quần chúng huýt gió. Nếu họ kêu: "Hãy ngừng mọi bạo động!", người ta lại ám sát họ. Nếu họ mạnh dạn tố cáo bất công xã hội, nhất là đối với những người nghèo, vô gia cư, người ta lại tìm cách bịt miệng họ!
Chúng ta luôn can đến các ngôn sứ của Chúa, nhất là ngày hôm nay, mặc dù các vị ấy quấy rầy chúng ta, và có khi làm cho chúng ta khó chịu. Họ nhắc nhở chúng ta những gì Phúc Âm truyền dạy, luật Chúa và luật con người. Trong xã hội hiện tại, nơi ngự trị những bất công, bạo lực, nhân quyền bị vi phạm, chúng ta cần được các ngôn sứ đó nhắc nhở chúng ta về tình thương yêu và các điểm mốc của cuộc đời.
Chúng ta có biết nghe các thông điệp mà Chúa gửi đến cho chúng ta qua trung gian của những người thân thuộc của chúng ta hay không? hoặc ngay qua trung gian của các em bé? Thay lời kết luận, tôi xin kể một câu chuyện nhỏ.
Một người mẹ nói với đứa con gái 5 tuổi: - Lan, nếu con không ngoan, mẹ sẽ để con ở nhà một mình.
Bé Lan trả lời: - Mẹ ơi, con đâu có ở một mình! - Tại sao con lại nói vậy ?
Bé Lan chỉ vào thánh giá treo trên tường: - Chúa Giêsu kia kìa! Mẹ thấy không, Chúa đang nhìn con đấy!
Truyện cổ tích Trung Quốc kể về sự tích “Con Thỏ Ngọc” trên mặt trăng như sau: Thuở ấy: TN 14-B26 FB
Truyện cổ tích Trung Quốc kể về sự tích “Con Thỏ Ngọc” trên mặt trăng như sau: Thuở ấy, Ngọc Hoàng Thượng Đế, muốn biết dân cư dưới trần gian sinh sống ra sao, sai một ông tiên xuống để quan sát. Ông tiên giả dạng làm một người ăn mày già yếu, ăn mặc rách rưới, đi lang thang vào một buổi chiều mùa đông mưa lạnh. Ông lão đi ăn xin và xin chỗ trọ. Nhà đầu tiên mà ông gõ cửa là nhà con chó sói. Hé cửa nhìn ra, thấy ông lão già nua rách rưới, chó sói nhe nanh đe dọa để xua đuổi. Ông lão sợ hãi vội chạy đi. Nhà thứ hai mà ông gõ cửa là nhà con cáo. Con cáo chửi mắng ông thậm tệ nhưng chẳng cho gì. Buồn tủi, ông lại tiếp tục đi dưới trời mưa lạnh. Sau cùng ông gõ cửa một căn nhà bé nhỏ. Đó là nhà con thỏ trắng. Thấy ông lão run rẩy dưới trời mưa, Thỏ trắng vội vàng mở cửa mời ông vào. Thỏ đưa ông đến ngồi gần bên đống lửa, đem quần áo ướt hong bên đống lửa cho khô. Ông lão rên rỉ: “Cậu thỏ ơi, tôi đói quá, cậu có gì cho tôi ăn không ? Nếu không tôi chết mất”. Thỏ vội vàng thưa: “Thưa ông, mùa đông năm nay kéo dài quá, nên rau cỏ dự trữ cháu đã ăn hết cả rồi. Nhưng cụ yên trí, thế nào cháu cũng tìm được thức ăn đãi cụ”. Thỏ chất thêm củi cho lửa cháy to hơn. Giữa lúc ông lão còn ngạc nhiên chưa biết thỏ định làm gì thì thỏ đã nhảy vào giữa đống lửa ngùn ngụt cháy. Chẳng mấy chốc, một mùi thơm tỏa lan cả căn nhà bé nhỏ. Thì ra thỏ đã tự nguyện hy sinh thân mình, làm một món ăn cho ông lão ăn mày. Ông lão về trời tường trình mọi sự với Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngọc Hoàng Thượng Đế liền cho triệu sói, cáo và thỏ tới. Sói và cáo bị trừng phạt nặng nề. Còn thỏ thì được khen thưởng cho ở trên Cung Trăng như một vị thần. Nên người Trung Quốc cũng gọi mặt trăng là Ngọc Thố.
Đây chỉ là một câu chuyện cổ tích, không có thực. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện đáng cho ta suy nghĩ. Sói và cáo rất ân hận vì đã bỏ lỡ cơ hội. Phải chi chúng biết đó là ông tiên thì chúng đã tiếp đãi ân cần rồi. Nhưng bây giờ thì đã muộn. Chúng chẳng hy vọng gì chuộc lại được lỗi lầm để trở thành thần tiên. Cơ hội chẳng bao giờ trở lại nữa.
Tương tự như thế, những người ở làng quê Nagiarét hôm nay cũng đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa giả dạng làm một người thường đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Người rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Người. Họ không tin Người. Họ hất hủi Người. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Người bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Người sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh ; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc ; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên ; qua các tai nạn ; qua lời khuyên của những người thân ; qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta.
Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình ; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua ; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
Lạy Chúa, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có khi nào bạn đã để lỡ cơ hội đón tiếp Chúa? 2) Bạn đánh giá một người theo giá trị thực sự của họ hay theo cảm nghĩ của bạn dựa trên những hiểu biết về gia cảnh, về lý lịch của họ? 3) Bạn cần chuẩn bị những gì để khỏi lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?
Trong Kinh Thánh, có hai chữ “lòng thành tín” và “lòng thương xót” thường đi đôi với nhau: TN 14-B27
Trong Kinh Thánh, có hai chữ “lòng thành tín” và “lòng thương xót” thường đi đôi với nhau để diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa Giavê đối với lời hứa và giao ước của Người.
Khi tôi tin vào lời của Thiên Chúa, là tôi đón nhận Lời với sự tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa của Người, bởi vì Người có quyền năng và muốn thực hiện lời đã hứa. Thiên Chúa là Đấng chân thật và đáng tin cậy. Nhờ đức tin, tôi phó thác bản thân cho Thiên Chúa là Đấng chân thật và đáng tin cậy. Đức tin là một cam kết dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, chỉ tìm kiếm sự an toàn bảo đảm trong ý muốn cứu độ của Thiên Chúa mà thôi.
Với quan niệm của Kinh Thánh về đức tin như vậy, chúng ta thấy dân làng Nagiarét không thể đặt niềm tin vào Đức Giêsu được, bởi vì họ thấy Chúa chỉ là một con người bình thường. Đức Giêsu chỉ là một người thợ mộc, con trai của bà Maria. Và họ tự hỏi: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan như vậy ?” Dân chúng chỉ thấy được vẻ bề ngoài. Họ không có đức tin, là thứ bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Họ đã đặt Thiên Chúa vào một khuôn khổ theo quan niệm riêng của họ. Chúa Giêsu không sống, không hành động đúng với khuôn khổ đó, vì thế họ không nhìn thấy Thiên Chúa trong Đức Giêsu.
Ngày nay, có nhiều người đặt niềm tin của họ vào các thụ tạo hơn là đặt niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Một số người đặt sự an toàn của mình vào các chất gây nghiện, vào rượu mạnh. Một số khác lại đặt sự an ninh của mình vào súng đạn, vào các loại vũ khí. Một số khác dựa vào những thủ đoạn, vào tiền bạc và quyền lực. Giới thanh niên ngày nay sẵn sàng tiếp nhận các mốt thời trang và những xu hướng hiện đại mà không phân biệt những gì là phi nhân bản, và ngay cả những điều ma quái quỷ quyệt ẩn nấp trong đó. Trong khi đó, Thiên Chúa bị người ta đẩy ra khỏi nhiều khía cạnh trong đời sống. Như thế, liệu chúng ta có khác gì dân thành Nagiarét ngày xưa không ? Trong lời truyền tin, sứ thần Gabriel đã gọi người con của Đức Maria là “Con của Đấng Tối Cao” và Con Thiên Chúa”. Ma quỷ cũng gọi Chúa Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Ở dưới chân thập giá, viên đại đội trưởng cũng tuyên xưng Chúa Giêsu: “Đích thật người này là Con Thiên Chúa”. Thánh Thôma cũng gọi Chúa Giêsu là: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”. Chính Chúa Cha cũng nói về Chúa Giêsu vào ngày Chúa chịu phép rửa tại sông Giocđan: “Đây là Con yêu quý của Ta”. Như thế, tôi còn có thể nghi ngờ như dân thành Nagiarét nữa chăng ? Tôi vẫn còn do dự chưa dám đặt trọn vẹn niềm tin của tôi vào Chúa Giêsu hay sao ?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thiên Chúa của con. Con tín thác vào Chúa. Xin Chúa giúp con càng ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, nhất là cho con được dấn thân phụng sự Chúa trong suốt cả cuộc đời con.
Người ta thường nói “không nơi đâu đẹp bằng quê hương”, “ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục: TN 14-B28
Người ta thường nói “không nơi đâu đẹp bằng quê hương”, “ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Khi nói những điều đó là người ta muốn minh chứng rằng: bất cứ ai cũng yêu mến quê hương, yêu mến nơi sinh trưởng, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Đây là xét về tình cảm cá nhân mỗi người dành cho quê hương, còn về chính quê hương, đối lại với cá nhân, tức là tình cảm của những người đồng hương dành cho cá nhân, thì phải chấp nhận chân lý bất hủ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay là “không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Đây cũng là một quan niệm cố hữu bình dân: “Bụt nhà không thiêng”. Chúa Giêsu đã tuyên bố chân lý bất hủ này về chính bản thân Ngài tại quê hương Nagiarét của Ngài.
Ngài trở về quê hương Nagiarét sau hơn một năm đi giảng dạy khắp nơi. Hôm ấy đúng vào ngày Sabat, mọi người đến hội đường để nghe đọc Kinh Thánh và nghe diễn giảng. Chúa Giêsu cũng vào đây để dự phụng vụ lời Chúa. Hôm nay, sau bài đọc, như luật cho phép, Ngài diễn giảng lời Chúa. Kết quả: dân chúng không nhận ra Ngài là ai và họ khinh khi Ngài, họ có thái độ hiểu lầm Ngài, hiểu lệch lạc về con người của Ngài. Bởi vì Ngài nói như một người có uy quyền, như bậc thầy nói với học trò, như một người muốn gây dựng cho mọi người lòng tín nhiệm nhau để tiến tới tin nhau. Điều Ngài dạy vượt mọi khuôn phép cổ truyền đến nỗi mọi người phải thắc mắc.
Nghĩa là trước những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, dân làng Nagiarét ngạc nhiên, vì họ thấy Ngài không đi học ở trường lớp nào mà sao lại có những lời lẽ khôn ngoan, cao siêu, mới lạ. Mặt khác, họ thấy Ngài chỉ là con bà Maria và bác Giuse thợ mộc, bản thân Ngài cũng chỉ là một anh phó mộc, mà sao có thể đảm nhận chương trình đại sự của Thiên Chúa được ? Họ không thể ngờ được giữa bụi đất lại có kim cương, họ không thể hiểu được nơi Chúa có hai bản tính, họ không thể nhận ra yếu tố Thiên Chúa và con người, hữu hạn và vĩnh cửu, trời và đất, hạnh phúc và đau khổ giao hòa lại trong một thực tại duy nhất, là nơi con người Chúa Giêsu. Đó là điều làm cho họ vấp phạm, họ khinh thường Chúa và không thiết nghe lời chân lý của Ngài.
Nói rõ hơn, dân làng Nagiarét đã ngạc nhiên về Chúa Giêsu khi thấy Ngài giảng dạy một cách khôn ngoan, thông thái và có thẩm quyền, nghĩa là họ vừa thán phục vừa kinh ngạc. Nhưng vì biết quá rõ về Chúa: thợ mộc, con thợ mộc, từ thán phục kinh ngạc họ chuyển sang thái độ bỡ ngỡ, nghĩa là kinh ngạc nhưng nghi ngờ. Càng nghĩ đến thân thế, nguồn gốc, địa vị xã hội và họ hàng Ngài, họ càng thấy khó chịu, nên họ có vẻ châm biếm khi gọi Ngài là thợ mộc. Một người như vậy mà có thể là ngôn sứ, là Đấng Mêsia ư ? Trăm lần không, ngàn lần không, và họ đã bị vấp phạm, có nghĩa là bị xúc động mạnh vì bị chạm tự ái. Họ không thể công nhận một người như thế làm ngôn sứ, làm Đấng Mêsia của họ, cho dù Ngài ăn nói giỏi hay làm được phép lạ cũng thế. Từ đó, sự hiện diện của Ngài khiến họ không thể chịu nổi.
Dân làng Nagiarét ngạc nhiên về Chúa, và Chúa cũng ngạc nhiên về họ, Ngài ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin, kiêu căng và cố chấp. Chính thái độ kiêu căng, cứng lòng đó đã làm tê liệt năng lực làm phép lạ của Chúa như Tin Mừng đã quả quyết: “Ngài không thể làm được phép lạ nào tại đó vì họ cứng lòng tin”.
Chúa Giêsu ngạc nhiên vì dân làng Nagiarét cứng lòng tin, ngày nay chắc Ngài vẫn còn phải ngạc nhiên hơn nữa vì sự cứng lòng tin của nhiều người Công giáo, vì dù sao người Công giáo cũng phải biết Chúa rõ hơn dân làng Nagiarét. Dân làng Nagiarét tưởng rằng họ biết rõ Chúa, nhưng kỳ thực họ biết rất hời hợt, thiển cận, chẳng hạn: ngay nơi sinh của Chúa họ cũng không biết, họ cứ tưởng Ngài sinh ra và lớn lên ở chính Nagiarét, một làng nhỏ bé, nghèo nàn. Nhiều người Công giáo cũng thế, đi đạo vì truyền thống gia đình, vì sinh ra trong gia đình Công giáo, giữ đạo vì thói quen, cho nên tưởng rằng biết Chúa, biết đạo lý, nhưng kỳ thực không biết gì hay biết không được bao nhiêu. Thế nên, mỗi người cần suy nghĩ: Chúa có ngạc nhiên về đức tin non yếu của chúng ta, về sự hiểu biết Chúa quá ít, hiểu biết về Kinh Thánh, giáo lý quá ít, và nhất là có phải Chúa rất ngạc nhiên về cách sống của chúng ta không ?
Đàng khác, bài Tin Mừng hôm nay còn đặt ra cho chúng ta một điều nữa cần suy nghĩ, đó là từ chối hay đón nhận Chúa là thái độ hoàn toàn tự do của con người. Người ta có quyền chối bỏ cũng như có quyền chấp nhận. Thiên Chúa không áp đặt ai hay cố tình đưa ai vào một thế triệt buộc nào đó. Nhưng thời nào cái quyền tự do kia cũng là con dao hai lưỡi khiến phải đề phòng, người khôn ngoan bao giờ cũng dè dặt.
Giả như chúng ta thử đặt mình vào số những người có mặt trong hội đường Nagiarét hôm ấy để nghe Chúa, chúng ta sẽ phản ứng thế nào ? Chúng ta có quyền trách dân làng Nagiarét quá vội vàng hoặc tiếc thay cho họ vì họ đã bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, chúng ta sẽ tự trách mình, và còn tiếc nuối biết bao cơ may trong đời chúng ta đã đánh mất vì quan niệm hay cái nhìn hẹp hòi của chúng ta.
Nói rõ hơn, thái độ từ khước Chúa Giêsu một cách hấp tấp, hồ đồ, chỉ vì thành kiến của dân làng nagiarét. Thái độ đó nhắc nhở chúng ta kiểm điểm về cách chúng ta phán đoán và đánh giá trị người khác, chúng ta cũng đã nhiều lần phán đoán hay đánh giá người khác hoặc vội vàng, hấp tấp, hồ đồ, hoặc không trung thực vì thành kiến, vì tự ái, vì ganh tị, đôi khi còn bài bác, dèm pha nữa. Chúng ta hãy kiểm điểm và sửa chữa lại tật xấu này để mối tương giao của chúng ta với mọi người được tốt đẹp hơn. Chúng ta hãy nhớ: người hay phán đoán, nhất là phán đoán hồ đồ, không sống được với ai, không chơi được với ai, và cũng không ai dám chơi với họ, họ bị mất niềm tin nơi mọi người.
Cổ học tinh hoa có thuật chuyện “Mất búa”, đại khái như sau: Một người thợ mộc làm việc trong: TN 14-B29
Cổ học tinh hoa có thuật chuyện “Mất búa”, đại khái như sau: Một người thợ mộc làm việc trong vườn. Thằng bé con nhà hàng xóm sang ngồi xem. Mải làm, lúc cần đến búa, ông tìm mãi không thấy. Ông nghi thằng bé đã ăn cắp búa. Nhìn mặt nó đúng là mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói đúng là giọng điệu của thằng ăn cắp búa. Hỏi thì nó chối đúng là tâm địa gian manh. Được một lúc, ông lại thấy cái búa nằm khuất đâu đó. Nhìn lại mặt thằng bé thì thấy mặt mũi nó hiền lành dễ thương, khác với mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói, đúng là con nhà gia giáo, khác với lời ăn tiếng nói của thằng ăn cắp búa. Hỏi nó thì nó thưa, đúng là con nhà lương thiện, khác hẳn với thằng ăn cắp búa.
Câu chuyện trên nói lên thiên kiến của con người. Thiên kiến là ý kiến mình có sẵn về một người hay một vấn đề. Người có thiên kiến xét người và vật theo suy nghĩ riêng chứ không dựa trên cơ sở khách quan trung thực. Thiên kiến là mắt kính mầu. Vì đeo kính mầu nên ta thấy mọi vật đều nhuộm mầu của kính. Đeo kính mầu xanh, ta thấy mọi vật đều xanh. Đeo kính mầu hồng ta thấy mọi vật đều hồng. Hồng, xanh là ở mắt kính chứ không ở sự vật. Vì thế phán đoán của người có thiên kiến thường không chính xác.
Thiên kiến có nguồn gốc ở sự thiếu học hỏi. Vì không được học nên hiểu biết giới hạn. Thiếu hiểu biết nên phán đoán thiếu chính xác.
Thiên kiến cũng do đầu óc thiển cận, hẹp hòi. Tục ngữ có câu: “Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”. Con ếch ngồi dưới đáy giếng chỉ nhìn thấy một mảnh trời vừa bằng miệng giếng, cho rằng trời chỉ có thế. Người có đầu óc thiển cận hẹp hòi cũng tưởng mọi chân lý đều chứa trong đầu óc của mình cả.
Thiên kiến thường do sự thiếu khiêm tốn. Sự thật mênh mông. Chẳng ai dám tự hào mình biết tất cả sự thật. Người khiêm tốn là người thấy rõ giới hạn của mình, nên cố gắng đi tìm sự thật. Chỉ những người thiếu khiêm tốn mới hay huênh hoang tự đắc và chủ quan.
Thiên kiến thường dẫn đến những hậu quả tai hại. Vì thiên kiến, vua quan triều Nguyễn đã không chấp thuận những kiến nghị đổi mới của Nguyễn Trường Tộ. Nên đã để đất nước chìm trong lạc hậu. Nếu nghe theo chương trình đổi mới, có lẽ đất nước ta đã tiến nhanh hơn Nhật Bản. Vì Nguyễn Trường Tộ đã nhìn thấy vấn đề và đề nghị từ cuối thế kỷ 19, trong khi Nhật mới chỉ canh tân từ đầu thế kỷ 20.
Nếu trong đời sống xã hội thiên kiến đã đưa đến những hậu quả tai hại, thì trong đời sống thiêng liêng, thiên kiến cũng gây ra những thiệt hại không kém.
Người dân làng Nagiarét mang nặng thiên kiến về Đức Giêsu. Dưới mắt họ, Người chỉ là một anh thợ mộc tầm thường, nghèo nàn và chẳng có gì đặc biệt. Người xuất thân trong một gia đình nghèo hèn, không danh giá. Họ biết rõ cha mẹ, họ hàng của Người. Thấy Người làm được những việc kỳ lạ. Nghe miệng Người giảng những điều khôn ngoan. Họ ngạc nhiên, nhưng không tin. Đối với họ, Đấng Cứu Thế phải là một Đấng phi thường, không ai biết rõ nguồn gốc. Hơn nữa, Đấng Cứu Thế phải oai phong lẫm liệt, đánh đông dẹp bắc rồi lên ngôi vua trị vì thiên hạ. Đàng này, Đức Giêsu thì họ biết rõ nguồn gốc. Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Tướng mạo không giống như hình ảnh Đấng Cứu Thế mà họ nuôi trong đầu óc. Vì thế, họ không tin. Vì họ không tin, nên Đức Giêsu không thể làm phép lạ nào ở đó. Người bỏ họ mà đi. Không bao giờ Người trở lại Nagiarét nữa. Thật là thiệt hại cho làng quê Nagiarét. Họ đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Họ đã để lỡ cơ hội đón nhận ơn cứu chuộc. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở. Chỉ đến một lần trong đời. Rồi thôi. Ai để lỡ sẽ không bao giờ có cơ hội chuộc lại. Thiên kiến đã làm hại họ.
Rất nhiều khi ta cũng mang nặng thiên kiến. Thiên kiến đối với anh em. Thiên kiến đối với Chúa. Hôm nay, rút kinh nghiệm của những người dân làng Nagiarét, ta hãy tránh thiên kiến bằng cách tìm học hỏi để biết Chúa, biết giáo lý của Chúa hơn. Nhất là có tâm hồn mở rộng và khiêm nhường để biết đón nhận Chúa, đón nhận thánh ý Chúa. Nếu ta khiêm tốn đón nhận, Chúa sẽ dạy dỗ ta những chân lý nước trời đem lại hạnh phúc cho ta.
Trong thời gian rao giảng Tin mừng ở Galilê, Đức Giêsu hẳn đã có nhiều dịp trở về Nadarét: TN 14-B30
Trong thời gian rao giảng Tin mừng ở Galilê, Đức Giêsu hẳn đã có nhiều dịp trở về Nadarét. Thế nhưng các tác giả Nhất lãm (Mt 13,54-58; Lc 4,16tt; Mc 6,1-6) đã chỉ ghi lại có một lần viếng thăm này, có lẽ vì các ông cho rằng thái độ khinh thường Đức Giêsu của đồng hương trong lần viếng thăm ấy đã tiêu biểu cho thái độ chối từ Người của dân Israen (đồng bào Người) và thái độ không tin Người đủ của bao kitô hữu (đồng thân thể với Người).
1. Thái độ không tin của đồng hương Đức Giêsu
Phần đầu của cuộc viếng thăm này rất giống với những gì Máccô kể ra ở 1,21 (biến cố tại hội đường Caphácnaum): "Thiên hạ sửng sốt về lời Đức Giêsu giảng dạy". Nhưng phần kết lại khác hẳn. Ở đây, "nơi quê quán Người", khán thính giả nghe mà ngạc nhiên, nhưng rồi chẳng tin gì ráo! Do đâu vậy? «Có thể là vì thời Đức Giêsu, người Do thái có một niềm tin phổ biến cho rằng Đấng Mêsia phải có một nguồn gốc siêu phàm huyền nhiệm. Sau này, trong cuốn "Đối thoại với Tryphon", thánh Giúttinô (khoảng năm 150) sẽ làm vang vọng niềm tin này khi ghi lại ý kiến sau đây của nhiều học giả Do thái: "Nếu có kẻ nói rằng Đấng Mêsia đã đến, thì người ta đâu biết ai. Chỉ khi Người tỏ mình trong vinh quang, thiên hạ mới nhận ra Người". Đó đúng là luận điệu của dân làng Nadarét, mà cũng là luận điệu của dân thành Giêrusalem được Tin mừng Gioan ghi lại: "Ông ấy, chúng ta biết xuất thân từ đâu; còn Đấng Kitô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả" (Ga 7,27), nghĩa là chẳng ai biết rõ nguồn gốc của Người. Đối với dân làng Nadarét cũng thế, Đức Giêsu không thể là Đấng Mêsia được, vì ai nấy biết rõ tông tích họ hàng của Người" (M.E. Boismard).
Thế nên, từ chỗ là niềm hãnh diện, Đức Giêsu đã thành một chướng ngại khiến đồng hương của mình vấp ngã. Họ trở nên điếc lác và mù quáng, do đó, đã không thể đón nhận các ân huệ của Người, nhất là ân huệ Tin mừng cứu rỗi. Thật ra, chẳng phải là họ không có lòng tin. Hằng tuần họ vẫn nhóm họp tại hội đường để thờ phượng Đức Giavê, Tạo Hóa và Chủ Tể lịch sử đấy chứ! Nhưng lòng tin mà Đức Giêsu đòi không chỉ là lòng tin vào Thiên Chúa như Môsê đã truyền dạy, mà còn là lòng tin vào Người, Con Thiên Chúa hóa thân thành bác thợ mộc làng Nadarét. Hơn nữa, lòng tin Người đòi hỏi chẳng phải là một mớ tín điều lề luật, song là sự đảo lộn cuộc sống, là bước theo Người trên đường thập giá, đường yêu thương.
2. Thái độ không tin của môn đồ Đức Giêsu
Phần chúng ta, khi nghe được nhận xét ấy của Máccô ("Người lấy làm lạ vì họ không tin") một nỗi sợ hãi có thể xâm chiếm chúng ta: tôi thì thế nào? Sợ như thế là có phúc, vì chúng ta sẽ chẳng bao giờ chú ý đủ tới tình trạng của đức tin chúng ta, vì việc sống một cái gì đó với Đức Giêsu hoàn toàn tùy thuộc sức mạnh của niềm tin tưởng vào Người. Mà đức tin là cái nhìn của chúng ta về Người, sự hiệp thông giữa chúng ta với Người, việc chúng ta nắm lấy Người, là phương thế để yêu Người ngày càng hơn và chẳng bao giờ "vì Người mà vấp ngã".
Điều đã diễn ra tại Nadarét có thể xảy tới với chúng ta. Câu ngạn ngữ Người nhắc lại cho đồng hương: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình" cũng có thể nhắm chính các kitô hữu. Và đây là trọng điểm của trình thuật.
· Có lẽ Người ngạc nhiên về niềm tin của chúng ta, về cách chúng ta tin Người. Để tin vào Đức Giêsu, phải thường xuyên vượt quá tri thức chúng ta có về Người lúc này đây. Đối với chúng ta, Người chẳng phải là bác thợ mộc làng Nadarét, chúng ta đã chẳng sống với Người trong ba mươi năm tuổi trẻ của Người, các phản ứng của dân làng Nadarét đối với Người chẳng phải là vấn đề của chúng ta. Nhưng có lẽ chúng ta cũng đã sống với Người nhiều năm. Chúng ta đã biết Đức Giêsu của cha mẹ chúng ta, của cha xứ chúng ta, Đức Giêsu của cuốn giáo lý, của một phong trào Công giáo, Đức Giêsu của mọi sách báo ta đã đọc, thậm chí của các sách chống Người và chống đạo Người.
Thình lình, hay dần dần, chúng ta gặp cơn khủng hoảng kiểu dân làng Nadarét. Đức Giêsu là ai đối với tôi khi tôi đau khổ hay khi tôi thấy sự đau khổ? Khi một tình yêu ngây ngất đem tôi xa khỏi Đấng tôi từng nói với: Chúa là tất cả của con? Khi một cuốn sách mạnh mẽ và gây bối rối làm lung lay các xác tín của tôi? Khi một mục tử, đại diện chính thức của Người, làm tôi ngỡ ngàng, bởi lẽ thay vì hy sinh cho đoàn chiên, vị ấy lại hy sinh đoàn chiên để xin xỏ xun xoe với quyền lực?
Người vẫn có thể là Đức Giêsu của đời tôi, nếu tôi học biết Người cách khác. Phải chăng Người đã quá ư là con người, hay quá ư là Thiên Chúa đối với tôi? Mầu nhiệm một kẻ vừa là người vừa là Chúa thật chẳng dễ chấp nhận và cảm nghiệm. Lắm kiểu không tin đã phát xuất từ cái mà thật ra là đá tảng của Kitô giáo này. Thành thử chớ dừng lại trong cuộc tìm kiếm của chúng ta. Đối với mỗi người, có một Đức Giêsu vô danh phải khám phá. Cơn khủng hoảng kiểu Nadarét, đó là do chúng ta có các ý tưởng quá xưa cũ về Người. Phải học hỏi về Người không ngừng qua Thánh Kinh, qua giáo lý, qua lời giảng dạy của Giáo Hội, qua đời sống các kitô hữu chứng nhân.
· Có lẽ Người ngạc nhiên về cách chúng ta sống đức tin vào Người. Để tin vào Người, phải thường xuyên đổi mới và cụ thể hóa cách sống đức tin chúng ta đang có lúc này đây. Chúng ta tưởng mình biết Người, coi Người là thành phần cuộc sống chúng ta. So với những kẻ không tin thì chúng ta cùng làng với Người, đã luôn gặp gỡ Người. Sự thân mật với Người như thế làm chúng ta tự mãn, tự cho mình đã chu toàn bổn phận của một kẻ tin; hay ngược lại, sự thân mật ấy khiến chúng ta thỉnh thoảng mệt mỏi, việc đọc Tin mừng làm chúng ta chán ngán.
Vì chúng ta đã đọc cách đãng trí, uể oải, hay đọc mà chẳng mấy khi đem ra thực hiện. Hãy gỡ mình khỏi những cái nhìn lý thuyết về Đức Giêsu và về Kitô giáo. Hãy luôn tự vấn về sức sống của đức tin mình. Vì càng được đem sống, lòng tin càng giúp ta hiểu rõ về Đức Giêsu; và càng hiểu rõ, đức tin càng có nhiều sáng kiến thực hành cụ thể đích thực. Người lúc đó mới có thể là Đức Giêsu cho chúng ta. Nỗi thất vọng của Người ở Nadarét phải động đến chúng ta thật sâu thẳm. Lạy Chúa, con không muốn làm Ngài thất vọng đến thế, thất vọng vì con chỉ biết tuyên xưng Chúa trên môi, qua những bài giảng thật hùng hồn, đang khi cuộc sống nơi con và quanh con chẳng được biến đổi.
Germaine Cousin (1579-1601) là một thiếu nữ quê mùa ở làng Pibrac, gần Toulouse, Pháp. Mẹ mất sớm, cô phải lớn lên trong hoàn cảnh bị cha ghét bỏ và dì ghẻ đối xử tàn tệ. Do không muốn Germaine chung đụng với con riêng của mình, bà bắt cô phải ngủ trong chuồng vật hoặc dưới gầm cầu thang, lúc nào cũng phải làm việc trong khi ăn uống rất kham khổ. Ngay khi chín tuổi, Germaine đã phải đi chăn cừu. Mặc những lao nhọc và bất công như thế, cô vẫn luôn vui vẻ chấp nhận. Cô cũng rất đạo đức và siêng năng tham dự Thánh Lễ. Mỗi sáng nghe chuông đổ, dù đang chăn cừu, cô cũng vội vã cắm cây gậy xuống đất và chạy đến nhà thờ, phó thác đàn cừu cho các thiên thần chăm sóc · Germaine quá nghèo để có thể chia sẻ vật chất cho người khác. Nhưng tình yêu tha nhân của cô luôn thể hiện qua sự giúp đỡ bất cứ ai cần đến cô, nhất là các trẻ em trong làng. Cô thường dạy cho chúng biết kính sợ Chúa · Sự thánh thiện của Germaine bắt đầu được dân làng chú ý. Nhưng điều này cũng chẳng thay đổi gì tình trạng của cô trong gia đình. Cô vẫn hay bị trừng phạt vì chia sẻ lương thực cho kẻ ăn xin. Có lần vào mùa đông, vì nghi ngờ cô giấu miếng bánh trong vạt áo, bà dì ghẻ đã giật ra nhưng chỉ thấy những bông hoa mùa hè thật đẹp. Gia đình bắt đầu nhận ra sự thánh thiện của cô và mời cô vào sống ở trong nhà, nhưng Germaine xin được tiếp tục cuộc sống như trước. Năm cô 22 tuổi, người ta tìm thấy cô nằm chết trên đống rơm dưới gầm cầu thang. Cô được Đức Piô IX phong thánh năm 1849 và đặt làm quan thầy các thiếu nữ thôn quê.
* Ed 2,2-5: (5) Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.
* 2Cr 12,7-10: (9) Người quả quyết với tôi: «Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối». Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. (10) Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.
* TIN MỪNG: Mc 6,1-6 Đức Giêsu về thăm Nadarét (Mt 13,5358; Lc 4,1630)
(1) Đức Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. (2) Đến ngày sabát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: «Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? (3) Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?» Và họ vấp ngã vì Người. (4) Đức Giêsu bảo họ: «Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi». (5) Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. (6) Người lấy làm lạ vì họ không tin.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Đặt mình vào địa vị những người đồng hương với Đức Giêsu thời ấy, bạn sẽ nghĩ thế nào về Ngài? Bạn: TN 14-B31
1. Đặt mình vào địa vị những người đồng hương với Đức Giêsu thời ấy, bạn sẽ nghĩ thế nào về Ngài? Bạn có nghĩ và hành xử như họ không? Tâm lý nào khiến họ nghĩ và hành xử như vậy?
2. Tại sao Đức Giêsu lại không làm được nhiều phép lạ tại quê hương Ngài? Việc Ngài có làm được phép lạ hay không tùy thuộc vào Ngài hay vào họ? Điều đó khiến ta kết luận thế nào về phần rỗi và việc nên thánh của ta? Thiên Chúa có thể cứu rỗi hay làm ta nên thánh bất chấp sự cộng tác của ta không?
SUY TƯ GỢI Ý:
1. Tâm lý người đời: trọng vọng lời nói của kẻ giàu có, quyền thế, có học vấn
Người ta thường dựa vào những tiêu chuẩn khôn ngoan kiểu loài người để phân định sự việc, điều đó có thể đúng khi áp dụng vào những việc của thế gian (làm ăn, ngoại giao, bon chen, tranh quyền đoạt lợi…). Nhưng nếu áp dụng sự khôn ngoan ấy vào những công việc của Thiên Chúa, vào đời sống tâm linh, vào việc sống đạo… thì thật là sai lầm. Người đồng hương với Đức Giêsu - cùng sinh trưởng tại làng Nadarét - mắc phải sai lầm ấy. Họ khó có thể chấp nhận được một người nghèo, ít học, thuộc loại lao động tay chân như Đức Giêsu, lại có thể hiểu sâu xa về Thiên Chúa, lại có thể đưa ra những quan niệm mới về Thiên Chúa, về cách sống đạo, về đời sống tâm linh. Nếu có ai nói về Thiên Chúa khiến họ tin được, thì phải là người xuất thân từ trường lớp thần học và có bằng cấp như những kinh sư Do-thái (tức các tư tế, luật sĩ, Pharisêu).
Nhưng nếu dùng ánh sáng hiểu biết của các Kitô hữu ngày nay để nhìn về ngày xưa, ta thấy:
- Đức Giêsu tuy ít học (Ga 7,15), và biết bao người khác tuy ít học nhưng lại hiểu biết về Thiên Chúa sâu sắc hơn những người có học. Trong lịch sử các tôn giáo cũng có những trường hợp tương tự: chẳng hạn trong Phật giáo có trường hợp của Huệ Năng. Trong số học trò của Ngũ tổ, Huệ Năng là người ít học lại thuộc sắc dân mọi rợ (dân tộc ít người, kém văn minh), nhưng ông lại giác ngộ được chân lý sâu thẳm của đạo pháp. Còn Thần Tú, cũng là học trò của Ngũ tổ, vốn là một vị quan thâm nho của triều đình, học rất rộng biết rất nhiều, nhưng lại chẳng giác ngộ được chân lý.
- Các kinh sư hay thần học gia Do-thái xưa, tuy học rộng biết nhiều, nhưng họ chỉ là những người không biết gì khác hơn ngoài sách vở, ngoài những gì đã học ở trường lớp. Những suy tư của họ chỉ là những điều đã được người khác suy tư sẵn. Họ chẳng khác gì những kẻ «nhai lại bã mía», thấy người khác ăn mía khen ngọt, thì mình cũng lấy bã ấy nhai lại và cũng bắt chước khen ngọt. Trong đời sống tâm linh, họ chẳng phân biệt được cái nào là chính yếu và cái nào là phụ thuộc, cái nào là cốt tủy và cái nào là bì phu, cái nào là mục đích và cái nào là phương tiện, nên chẳng biết cái nào quan trọng hơn cái nào. Vì thế, cái không quan trọng thì họ lại đặt rất nặng, còn cái hết sức quan trọng thì họ lại coi rất nhẹ (x. Mt 15,20; 23,16.18). Họ chẳng thông minh, chẳng có tinh thần thích ứng và sáng tạo nào khi áp dụng luật của Thiên Chúa vào đời sống thực tế. Họ chỉ biết áp dụng lề luật một cách nô lệ, hình thức, thiếu hẳn công lý, tình yêu và sự chân thật vốn là cốt tủy của lề luật (x. Mt 23,23; 12,2; 12,10; Lc 6,7; 13,14; Ga 5,10.18; 9,16). Chính vì thế, Đức Giêsu đã gọi họ là «quân dẫn đường mù quáng!» (Mt 23,24), là «người mù lại dắt người mù» (Mt 15,14).
Như vậy, để xét giá trị một lời nói, một hành động, ta phải chủ yếu xét chính lời nói hay hành động ấy xem nó có hợp lý và đúng đắn hay không, chứ không nên chỉ đơn phương căn cứ vào tư cách của người nói điều ấy hay làm hành động ấy.
2. Xét người xưa lại nghĩ đến mình ngày nay
Những người đồng hương với Đức Giêsu xưa khi nghe Ngài nói thì «nhiều người rất đỗi ngạc nhiên», họ hỏi nhau: «Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?». Khi nhận xét như vậy, đáng lẽ họ phải nhận ra Ngài là một ngôn sứ của thời đại mới đúng. Nhưng khi nghĩ đến danh phận nghèo hèn của Ngài thì họ lại coi thường Ngài: «Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?». Thế là chỉ vì Ngài ít học, nghèo nàn, mà họ coi Ngài chẳng ra gì, mặc dù họ ngạc nhiên về chính những lời nói khôn ngoan và những phép lạ của Ngài. Và «họ vấp ngã vì Người».
Xét người xưa lại nghĩ đến mình ngày nay. Rất nhiều khi ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người điên, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Vì thế, nếu ta có tâm lý kiểu đời thường đó mà ở vào trường hợp của những người đồng hương với Đức Giêsu xưa, chắc chắn ta cũng đối xử với Ngài chẳng khác gì họ. Và chắc chắn ngày nay ta cũng sẽ đối xử với các ngôn sứ thời đại mình y như vậy. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Nếu ta hành xử như vậy thì ta chỉ là một người coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Một người như thế không bao giờ thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, dẫu họ có đọc kinh, dâng lễ hay rước lễ siêng năng tới đâu đi nữa. Hãy xem Đức Giêsu coi thường như thế nào những kẻ giàu có, học vấn mà không nghĩ đúng, hành động đúng cho dù người đời có trọng vọng họ tới đâu (x. Mt 23). Là Kitô hữu, chúng ta nên bắt chước Đức Giêsu hay bắt chước thói hành xử của người đời?
3. Để thánh hóa ta, Thiên Chúa cũng phải tùy thuộc vào ta
Bài Tin Mừng cho biết: «Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó» vì họ không tin. Thì ra Đức Giêsu có thực hiện được phép lạ hay không, điều đó không chỉ tùy thuộc vào quyền năng linh thiêng của Ngài, mà còn tùy thuộc vào lòng tin của chính đối tượng phép lạ nữa. Đức Giêsu rất muốn ưu tiên rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ ở chính quê hương của Ngài, vì thông thường ai cũng yêu nơi chôn nhau cắt rốn hay nơi sinh trưởng của mình hơn những nơi khác. Nhưng vì những người đồng hương của Ngài không tin, nên Ngài không làm được việc ấy. Tương tự như vậy, Thiên Chúa muốn cứu rỗi ta, thánh hóa ta, muốn ta nên thánh, được thật sự bình an hạnh phúc, và Ngài sẵn sàng làm tất cả để thực hiện điều ấy. Nhưng Ngài có thực hiện được điều ấy hay không còn tùy thuộc vào cả bản thân ta nữa, cho dù Ngài rất quyền năng. Vì thế, thánh Âu Tinh nói: «Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài». Nói tới đây tôi nghĩ đến câu thơ của Nguyễn Du trong truyện Kiều: «Có Trời mà cũng có ta», nghĩa là ta cũng đóng vai trò quan trọng, thậm chí có tính quyết định, trong công việc cứu rỗi và nên thánh của chính ta.
Trong việc cứu rỗi và nên thánh của ta, Thiên Chúa đã làm tất cả và luôn luôn sẵn sàng làm tất cả những gì Ngài có thể làm được để giúp ta. Phần còn lại rất nhỏ là sự cộng tác và nỗ lực của ta. Phần này Ngài không thể làm thay thế cho ta được. Cũng tương tự như cha mẹ có thể lo lắng đủ mọi thứ để con cái mình được ăn uống đầy đủ. Nhưng có điều cha mẹ không thể làm thay cho con cái mình được, đó là nhai và nuốt thức ăn vào bụng. Hay như cha mẹ có thể lo cho con đủ mọi phương tiện để học hành, nhưng không thể nào học thay, nhớ thay, làm bài thay cho con được. Trong việc cứu rỗi hay nên thánh của ta, phận sự của ta là tin tưởng vào Thiên Chúa, ý thức sự hiện diện và hoạt động của Ngài ở trong ta, lắng nghe tiếng nói của Ngài ở trong ta và làm theo những điều Ngài chỉ dạy. Đó là những việc cần thiết ta phải làm, không ai làm thay cho ta được. Nếu ta quyết tâm thực hiện những điều ấy, thì việc cứu rỗi hay nên thánh của ta trở nên rất dễ dàng. Nếu ta không làm, thì Thiên Chúa dẫu có muốn cứu ta, muốn thánh hóa ta cách mấy Ngài cũng đành bó tay. Vậy ta hãy ráng làm hết sức phần của mình.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, quả thật uy quyền, danh vọng, sự sang trọng của những kẻ quyền thế, giàu có, nhiều bằng cấp làm con bị choáng ngợp, khiến con dễ dàng nhận những điều họ nói là đúng mà không cần suy xét gì cả. Nhiều khi chỉ cần suy xét một chút xíu là con có thể nhận ra ngay sự sai trái trong lời nói của họ, mà con lại không chịu suy xét. Còn những kẻ nghèo nàn, nhỏ bé, yếu đuối, ít học mà phát biểu điều gì, thì con tiên thiên bỏ ngoài tai, chẳng cần biết đúng hay sai. Vì thế, nếu con là một người đồng hương với Đức Giêsu xưa, chắc chắn con cũng sẽ coi thường Ngài, chỉ vì thấy Ngài nghèo hèn, thất học. Xin Cha giúp con sửa sai cách hành xử này.
“Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở quê hương mình”.
Anh chị em thân mến,
Chỉ có những người đã cảm nghiệm được những đau khổ mới chia sẻ được những đau khổ của tha nhân: TN 14-B32
Chỉ có những người đã cảm nghiệm được những đau khổ mới chia sẻ được những đau khổ của tha nhân, chỉ có những ai đã bị khinh chê, bị hất hủi, bị rẻ rúng mới hiểu được thế nào là sự tủi nhục.
Chúa Giê-su đã kinh qua điều ấy khi Ngài bị những người trong làng trong họ rẻ rúng coi khinh, vì lí lịch của Ngài đối với họ không ra gì cả: con của bác thợ mộc Giuse.
Vì những thành kiến này, mà Chúa Giê-su đã không làm một phép lạ nào cho họ, vì có làm chăng nữa thì họ cũng không tin Ngài là Đấng Messia.
Thành kiến là mối mọt gặm nhấm tình yêu mà Chúa Giê-su đã phát hiện ra khi trở về quê hương, sau những ngày bôn ba rao giảng Tin Mừng Nước Trời, đáng lẽ, những người ở quê hương phải vui mừng mới phải, nhưng họ đã làm ngược lại: họ đã khinh rẻ Chúa Giê-su vì Ngài xuất thân từ con nhà nghèo, con bác thợ mộc.
Thành kiến là mối mọt gặm nhấm tình yêu giữa người với người, giữa những thành viên trong cộng đoàn với nhau, nó như những con mọt âm thầm phá nát mối giây liên hệ tình người trong cuộc sống, nó không chấp nhận một sự thực tồn tại, đó là cuộc sống của người anh chị em hôm qua và hôm nay không giống nhau, họ chì nhìn thấy cái quá khứ nghèo nàn của Chúa Giê-su, họ chỉ nhìn thấy cái kém cỏi của tha nhân hôm qua mà không thấy cái hay cái tốt của họ hôm nay, cho nên đối với họ, dù cho anh chị em có tài giỏi đến đâu chăng nữa, thì anh chị em ấy cũng vẫn là con bác thợ mộc nghèo nàn, cũng là nói: anh vẫn cứ là một đứa có lí lịch không ra gì.
Thành kiến là chống lại ân sủng của Thiên Chúa nơi người anh em của chúng ta, bởi vì ân sủng của Chúa như giòng nước tuôn chảy trong tâm hồn của người anh em. Nước chảy thì luôn làm cho nơi mà nó chảy qua được sạch sẽ đổi mới và trong lành, cũng vậy khi chúng ta cứ mãi mãi nhìn thấy cái khuyết điểm hôm qua của người anh em để rồi phê bình, khinh bỉ, thì chúng ta chống đối và phủ nhận ân sủng của Chúa nơi người anh em của chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Ở trên đời có rất nhiều sự việc xảy ra mà chúng ta không ngờ tới, không dám nghĩ tới, nhưng nó vẫn cứ xảy ra, huống hồ người anh em của chúng ta, hôm qua họ là người thô lổ cộc cằn, nhưng hôm nay họ trở nên hiền lành dễ thương, hôm qua họ buôn gian bán lận, hôm nay họ trở thành kẻ lương thiện, hôm qua họ là tên không ra gì, nhưng hôm nay họ trở thành một linh mục, một tu sĩ, một nữ tu...
Tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa, không có ân sủng của Ngài thì không ai có thể làm cho mình trở nên tốt hơn, nhưng họ đã cậy nhờ ơn Chúa để thánh hoá mình và vươn lên, vậy chúng ta lấy quyền gì để khinh rẻ anh chị em của mình ?
Nếu Chúa Giêsu cứ nhìn cái ngày hôm qua của chúng ta, nghĩa là Ngài cứ nhìn mỗi tội lỗi của chúng ta, thì thử hỏi, chúng ta được cứu độ chăng ?
Hội đường là nơi hội họp của cộng đoàn Do thái. Đó không phải là Đền thờ với hàng tư tế: TN 14-B33
Hội đường là nơi hội họp của cộng đoàn Do thái. Đó không phải là Đền thờ với hàng tư tế chính thức thi hành một thừa tác vụ hy tế. Cộng đoàn tụ họp lại để cầu nguyện và nghe đọc sách thánh. Bất cứ người nam trưởng thành nào cũng có quyền phát biểu trước cộng đoàn. Vì thế, Đức Giêsu lên tiếng giữa hội đường Nazarét, không phải vì một đặc ân thánh nào cả, nhưng chỉ là 1 thành viên trong cộng đoàn. Rất nhanh các thính viên thoáng thấy rằng người nói với họ không phải là một người như những người khác. Mặc dầu họ đã biết Ngài, thấy Ngài sống nhiều năm tháng giữa họ và không có dấu hiệu gì bên ngoài cho thấy Ngài chuẩn bị ăn nói và hành động. Họ linh cảm một cái gì lạ thường.
Ở đây, chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng tâm lý thông thường. Khi người ta có một hình ảnh nào về ai, họ không chấp nhận cho người ấy tỏ ra có những nét không phù hợp với hình ảnh này. Người ta tưởng biết một người nào đó, nhưng sự thật là họ xếp loại người ấy, họ dán cho người ấy một nhãn hiệu và đương nhiên người ta trở nên mù quáng đối với những gì không phù hợp với nhãn hiệu. Và họ vấp phạm vì Người. Dân chúng Do thái vấp phạm vì không nhận ra Đức Giêsu mà họ đã biết. Cho nên thay vì đón nhận các phần mầu nhiệm thoáng hiện ra, họ loại bỏ nó. Sự chối từ tiếp nhận làm tê liệt sự quảng đại của Đức Kitô. Ngài không thực thi quyền năng làm phép lạ được tại Nagiarét, ngoại trừ một vài việc lành cho một hai người bệnh.
1) ‘Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria sao?
‘Con bà Maria’ có nghĩa là lúc bấy giờ thánh Giuse đã chết. Và Đức Giêsu được nói đến như là người con độc nhất của bà góa Maria. Và người ta cũng biết danh xưng ‘anh em’ áp dụng cho: Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon, ám chỉ một sự liên hệ bà con gần xa nào đó mà thôi. Người ta đã đưa ra giả thuyết ‘người con của bà Maria’ để nói rằng Đức Maria – có thai trước lúc thành hôn với Giuse. Trong ngôn ngữ cảu thánh Marcô, điều này có thể là một xác quyết gián tiếp về việc sinh nở mầu nhiệm của Đức Giêsu, con của bà Maria theo xác thịt, chứ không phải của thánh Giuse.
Có cái gì ẩn núp sau câu hỏi của người Do thái? Đó là một sự khó khăn sẽ luôn luôn làm cản trở niềm tin cho đến tận thế: chính là mầu nhiệm TC tự mặc khải qua con người. Đây là điều làm khó chịu, bức rứt, gây giận dữ cho những đầu óc bướng bỉnh. Thái độ của dân làng Nagiarét từ chối chấp nhận Đấng họ nhận ra là sứ giả TC, loan báo sự khó khăn sẽ đến cho nhiều người là nhận ra trong con người của Đức Kitô, TC thật và đồng thời cũng là người thật.
2) Chúng ta hãy dừng lại ở từ ngữ: Con bà Maria.
Để một bên, ý nghĩa xác thực trong thánh Marcô, từ ngữ này gợi cho ta một thực tại sâu xa có tầm mức quan trọng về phương diện thần học và phong phú về phương diện tu đức. Những ai chọn con đường thẳng để đi đến gặp gỡ Đức Kitô: những người ấy phải nài xin Đức Trinh nữ Maria mặc khải Con Ngài cho họ. Nhận biết Đức Giêsu như là con của Đức Maria, tức là đón nhận Ngài, không như một niềm tin trừu tượng, nhưng như một ngôi vị nhân loại rất thực, kề cận và sát với chúng ta (nhất là nếu chúng ta tự trở nên bé mọn), một ngôi vị thần linh và thần linh hóa trong một bản tính nhân loại chung cho Ngài và cho chúng ta. Những người bạn thân thiết nhất của Đức Kitô biết rõ điều họ phải tùy thuộc vào sự trợ giúp của Đức Maria.
Năm 1958, sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời, các báo chí mô tả ngài như một ngôi sao: TN 14-B34
Năm 1958, sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời, các báo chí mô tả ngài như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc, hấp thụ một nền văn học uyên thâm và đã để lại bao nhiêu công trình lớn lao cho hậu thế, cho Giáo Hội.
Cơ Mật Viện đã bầu Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Giáo Hoàng này xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng mập mạp, quê mùa, chất phát. Người ta bảo, đây chỉ là vị Giáo Hoàng chuyển tiếp cho một vị Giáo Hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền nhiệm của ngài. Nhưng có ngờ đâu con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui tươi ấy đã thu hút mọi người. Và nhất là với Cộng đồng Vatican II mà ngài đã triệu tập, Giáo Hoàng Gioan XXII đã trở thành một “siêu sao”của thời đại, trổi vượt hơn các vị tiền nhiệm của mình.
Đừng đánh giá con người theo lý lịch, tương tự như dân làng Nagiraret đã đánh giá Đức Giêsu Nagiarét: “Nagiarét mà có cái chi hay!”. Thế mà con người làng Nagiarét ấy là Đấng Cứu Thế môn dân trông đợi. Tin Mừng hôm nay kể lại: Chúa Giêsu trở về Nagiarét, quê hương của Ngài, trong tư thế một vị Ngôn Sứ, một bậc thầy, có các môn đệ tháp tùng. Ngày Sabbat, Ngài vào Hội đường đọc Sách Thánh và công bố giáo lý của Ngài. Dân làng Nagiarét lấy làm ngạc nhiên sững sốt. Họ hỏi nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vây nghĩa là làm sao? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”. “Ông ta là ai?”. “Ông ta không phải là chú thợ mộc trong làng, con của bà Maria, không phải là anh em họ hàng với các ông Giacôbê, Giôxê, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”. Họ biết quá rõ lý lịch của Ngài, biết rõ họ hàng nhà Ngài, nên họ không thể nào để cho khôn ngoan và quyền năng của Ngài lay chuyển họ. Họ chẳng nhìn nhận Ngài là ai khác hơn là “chú thợ mộc trong làng”.
Đấng Thiên Sai Cứu Thế thì phải xuất thân từ dòng dõi “trâm anh thế phiệt”, phải là một “trang anh hùng xuất chúng” đầy uy thế và quyền lực chứ! Còn ông Giêsu này thì quá nghèo nàn, tầm thường. từ xuất xứ, lý lịch gia đình đến nghề nghiệp và địa vị xã hội. Tất cả đều trở thành “chướng ngại cho họ tin vào Ngài”. Nói cách khác đi, chưỡng ngại làm cho những người đồng hương vấp ngã chính là dáng vẻ đối nghịch giữa con người bên ngoài của Đức Giêsu và sứ mạng thần linh bên trong của Chúa. Vì thế, họ quay lưng lại với Ngài, với cả Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài, Cái tội lớn nhất của con người không phải là ngu dốt, không biết, nhưng thái độ kiêu ngạo, phản loạn, chống đối Thiên Chúa. Cuộc chống đối này lên đến tột độ khi con người đóng đinh Con Thiên Chúa trên thập giá dựng trên Núi Sọ.
Ở đây, Thánh Marcô cho thấy thái độ của dân làng Nagiarét đối với Chúa Giêsu như thái độ chung của loài người. Ngài là nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. “Không tiên tri nào không bị khinh chê nơi quê hương mình, giữa họ hàng và trong nhà mình”. “Không Ngôn Sứ nào được quí trọng tại địa phương mình”. Biến cố này nói lên cái bi đát trong đời Chúa Giêsu: “Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Ngài” (Ga 1,11). Những người ruột thịt, đồng hương, không muốn trở thành bà con họ hàng thật của Chúa Giêsu nhờ lòng tin, không muốn nhìn nhận Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Câu chuyện này còn tiếp nối trong lịch sử Giáo Hội: dân ngoại đón nhận Tin Mừng, còn những con cái trong nhà thì lại không chịu tin vào Ngài. Đó là một kinh nghiệm sống động của Giáo Hội sơ khai và làm cho mọi người ngạc nhiên như chính Chúa Giêsu đã phải ngạc nhiên.
Người đồng hương Nagiarét của Chúa Giêsu hôm nay là ai? Chính chúng ta là những người đồng hương mới của Chúa Giêsu. Chúng ta đã trở thành anh em của Chúa Giêsu nhờ Thánh Thần Ngài ban cho chúng ta. Nhưng hình như chúng ta lại biết Ngài quá rõ đến độ chẳng thấy ở nơi Ngài cái gì khác hơn là một Chúa Giêsu quen thuộc của các lời kinh, các bải giảng. Người ta nói: “quen quá hoá nhàm”. Chúng ta chẳng còn nhận ra sự khôn ngoan của Chúa trong Tin Mừng, quyền năng cứu độ của Chúa trong Giáo Hội. Chúng ta đi tìm sự khôn ngoan, tìm ơn cứu độ ở những người khác, ở những nơi khác. Chúng ta làm như thế Chúa Giêsu cũng chỉ là “một chú thợ mộc làng Nagiarét”, một người Do Thái của thế kỷ thứ nhất, không hơn không kém, chẳng có gì để đem lại cho chúng ta. Đọc Tin Mừng của Ngài có khi chúng ta cũng thấy hay, lý thú… nhưng chẳng thấy gì hơn. “Bụt nhà không thiêng” vẫn là số phận của Chúa Giêsu phải chịu hôm nay nơi các Kitô hữu.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải xác định lập trường, thái độ của mình đối với Đức Kitô. Chúng ta muốn đứng về phía dân làng Nagiarét hay muốn đứng về phía Chúa Giêsu? Đừng đánh giá con người theo lý lịch, theo thành kiến. Thiên Chúa đã đến chia sẻ thân phận nghèo hèn của con người nơi Đức Giêsu Kitô, người Nagiarét. Thiên Chúa đã mạc khải tình thương của Ngài không ở tiền tài và giàu sang hay chức quyền mà ở trong con người nghèo hèn. Điều này đã nên cớ vấp phạm cho người Do Thái, cho người đồng hương với Chúa Giêsu, nhưng lại mời gọi lòng tin của chúng ta có dám tin như thế không.
Ở đây, niềm tin mời gọi người phải vượt qua dáng vẻ tầm thường bên ngoài để đạt tới mầu nhiệm thâm sâu bên trong của Chúa Giêsu. Ngài là Ngôn Sứ tuyệt vời, là Lời Vĩnh cửu của Thiên Chúa. Ngài đã nói thay Thiên Chúa để đem đến cho nhân loại Tin Mừng cứu độ. Với cuộc tử nạn và phục sinh, Chúa Giêsu đã nói lên tiếng nói cuối cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người phản bội, chống đối Thiên Chúa. Cái chết thập giá của Con Thiên Chúa không phải là một thất bại, nhưng là một chiến thắng của tình yêu, là quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện trong sự yếu hèn của con người.
Cảm tạ Chúa đã cho chúng ta được biết Tin Mừng cứu độ qua Ngôn Sứ, qua chính Con Một Thiên Chúa, qua các Tông Đồ, qua Giáo Hội. Nhờ Tin Mừng này chúng ta được đến với Chúa, sống với Chúa và hoạt động cho Chúa.
Thánh Antôn, người khởi xướng cuộc sống ẩn tu trong Giáo Hội, một hôm sau khi giảng về: TN 14-B35
Thánh Antôn, người khởi xướng cuộc sống ẩn tu trong Giáo Hội, một hôm sau khi giảng về Bài Giảng Trên Núi, có một số giáo dân tới hỏi:
- Thưa cha, chúng con phải làm gì để nên trọn lành?
Thánh nhân trả lời:
- Tin Mừng đã dạy: “Ai tác vào má phải ngươi, hãy giơ má trái cho nó.”
Họ thưa:
- Chuyện này khó quá, chắc làm không nổi.
Thánh Antôn nói:
- Nếu không, ít ra cũng không được báo thù. Phải tha thứ cho những người xúc phạm đến mình.
Nhóm giáo dân thưa:
- Việc này vẫn quá khó, không thể để yên những người xúc phạm đến mình được.
Thánh Antôn nghe xong, quay bảo người môn đệ:
- Con hãy đi nấu cháo cho những người này ăn, vì họ quá yếu đuối, ta hãy cầu nguyện cho họ.
Là nhà giảng thuyết, là nhà truyền giáo, thế nào cũng có lần gặp thất bại trong việc rao giảng Tin Mừng. Ngay Chúa Giêsu, nhà giảng thuyết đại tài mà cũng đã từng thất bại trước nhóm bà con xóm làng quen thuộc.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết từ Capharnaum Chúa trở về thăm quê nhà, giảng trong hội đường. Tại Capharnaum, Chúa đã làm nhiều phép lạ. Có nhiều phép lạ nghĩa là có nhiều người tin Chúa, người ta lũ lượt theo Chúa đến quên ăn quên ngủ. Việc này gây xôn xao khắp miền Galilê, và chắc chắn những người đồng hương của Chúa cũng đã nghe biết. Bây giờ Chúa trở về quê nhà với nhóm môn đệ, có lẽ ai cũng tưởng người anh em đồng hương hân hoan đón nhận. Nhưng tình hình biến chuyển khác hẳn. Khi nghe Chúa đọc và giải nghĩa Thánh kinh ở Hội đường, họ cũng nhận là có những điều hay, nhưng nghĩ tới gốc gác tầm thường của Chúa, họ cho Ngài là một người không đáng tin. Bởi không tin nên họ cũng không nhận được phép lạ nào.
Có thể nói Chúa thất bại nơi quê hương. Cũng vậy, Giáo Hội nhiều lúc đã thất bại. Có người nói: “Tôi tin Đức Kitô, nhưng không tin Giáo Hội”. Thực ra Giáo Hội lại chính là khía cạnh nhân tính của Đức Kitô. Giáo Hội gồm những con người: các giám mục, linh mục, giáo dân. Những con người đó chẳng những quá quen thuộc mà có khi còn bất toàn nữa. Nhiều người thời nay đã vấp ngã vì Giáo Hội, cũng như những người đồng hương của Chúa Giêsu đã từ chối, không tin nhận Ngài. Đoạn Tin Mừng kết thúc bằng những lời than phiền: “Chúa Giêsu ngạc nhiên vì họ thiếu lòng tin”. Thực ra, Chúa đâu có ngạc nhiên vì Chúa đã dựng nên con người có tự do. Chúa quá rõ tâm địa những con người đó, có ngày họ sẽ nổi lên chống lại Chúa, sẽ làm theo ý họ chứ không theo ý Chúa. Nhưng một khi đã cho con người tự do thì Chúa không rút lại, Chúa tôn trọng tự do của con người dù chúng làm cho Chúa buồn lòng. Chính vì vậy, chúng ta thấy ân huệ đức tin thật là cao quí.
Lạy Chúa, chúng con tin Chúa đã nhập thể làm người để cứu chuộc chúng con. Xin ban ơn đức tin cho những người đã được nghe biết Tin Mừng để họ đón nhận Chúa và được Ngài cứu độ. Chúng con xin tạ ơn Chúa.
Chúa Giêsu trở lại làng xưa (c.1). Hình như kể từ khi bắt đầu sứ mệnh công khai, tức là sau khi: TN 14-B36
Chúa Giêsu trở lại làng xưa (c.1). Hình như kể từ khi bắt đầu sứ mệnh công khai, tức là sau khi được Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho (1,9), Ngài chưa trở về nơi này. Caphanaum trở nên điểm Ngài lui tới thường xuyên trong khi Ngài đi giảng đạo đó đây (2,1). Tuy nhiên Nagiarét nơi Ngài đang trở về, lại là mảnh đất Ngài đã trải qua tuổi thơ ấu và thời thanh xuân. Gia đình và bạn bè thân cận của Ngài hiện đang sinh sống nơi đó. Các sự cố xảy ra trước đây đã tạo nên giữa Ngài và họ một sự xa cách nào đó. Và điều gì lại sắp xảy ra ở đây? Chúa Giêsu vẫn không thay đổi gì về những thói quen của Ngài (c.2a). Ngày Sabbat, Ngài vẫn đến hội đường rao giảng. Đám người đồng hương hồ hởi tiếp đón Ngài. Tuy nhiên họ lại thắc mắc về đứa con đồng hương của mình: Do đâu mà anh chàng này giảng dạy khôn khéo, và làm được nhiều phép lạ như vậy? (c.2b). Lẽ ra họ phải khởi sự tin vào Ngài, thì từ ngạc nhiên thán phục họ lại bỗng trở nên thù nghịch công khai với Ngài (c.3). Vị tiên tri ngày hôm nay đã trở thành vấn đề đối với họ!
Quá khứ và nguồn gốc của Ngài vẫn còn nằm rõ trong ký ức họ. Họ biết Ngài quá rõ đến nỗi không thể nào quên được hình ảnh quen thuộc họ đã có về Ngài. Ở đây Maccô rất thích thú khi cung cấp cho độc giả một nét tướng mạo của Chúa Giêsu theo lối nhìn của thân nhân Ngài. Ngài chỉ là một anh thợ mộc trong làng. Sẵn đây chúng ta cần ghi nhận vào thời Chúa Giêsu, nghề mộc không chỉ liên quan đến vật liệu bằng gỗ, mà chỉ chung mọi thứ vật liệu, và thợ mộc cũng có thể xây nhà được. Ngoài nghề nghiệp xưa kia của Ngài, người ta còn biết rõ cả thân quyến Ngài. Ngài là “con trai bà Maria”. Đây là nơi duy nhất trong Tin Mừng này Mẹ Chúa Giêsu được gọi bằng tên Maria. Tên cha của Chúa Giêsu không thấy nhắc đến. Có thể cắt nghĩa sự yên lặng này là khi Maccô soạn cuốn Tin Mừng, Giáo Hội sơ khai đã tin vào việc Chúa Giêsu được thụ thai bởi người mẹ đồng trinh (Mt 1,18-20 và Lc 1,30-35). Còn về anh chị em họ, kể cả họ hàng xa nữa (x. 3,32). Thực sự Giacôbê và Giuse là con của một bà Maria khác chứ không phải Maria Mẹ Chúa Giêsu (15,40).
Dưới mắt dân làng Nagiarét, danh tiếng người đồng hương của họ không dựa trên nền tảng vững chắc “gia phong gia thế” đã khiến cho họ cảm thấy khó chịu (c.4), chướng tai gai mắt. Maccô nêu rõ sự thù nghịch bất ngờ của đám thân nhân Chúa Giêsu đối với Ngài. Trước đây Maccô cũng đã từng nêu ra phản ứng khó chịu của thân quyến Chúa Giêsu (3,20-21). Đây hẳn là vấn đề chủ chốt phủ lên toàn thể cuốn Tin Mừng: Vậy Ông Giêsu Nagiarét này là ai? Và ở đây người ta thấy rõ những đồng hương của Chúa Giêsu đã muốn giản lược chân dung Ngài vào vị trí một người dân làng cũ của họ như trước khi Ngài ra đi thi hành sứ vụ.
Trước sự va chạm này, Chúa Giêsu đã phản ứng lại. Ngài trưng dẫn một câu phương ngôn (c.4). Câu cách ngôn phổ biến hiện nay bắt nguồn từ phương ngôn ấy. “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình”. Đây là một chân lý trường cửu: Hễ ai tiến bộ trước thời đại, trước lân bang mình thì sẽ bị khinh miệt. Và sự tiếp đón tẻ lạnh của dân làng đối với Chúa Giêsu đã gây ra một hậu quả thoạt nhìn ai cũng sẽ ngạc nhiên, là Chúa Giêsu không thể thi thố quyền phép trị bệnh của Ngài ở ngay làng cũ của mình (c.5a). Phải chăng quyền năng Ngài tùy thuộc vào thái độ của loài người? Dầu sao chính Maccô đã cố gắng dung hòa sự tùy thuộc này. Ông ghi nhận Chúa Giêsu cũng có chữa lành vài bệnh nhân ở Nagiarét (c.5b). Tuy nhiên ông nêu rõ cảm nghĩ của Chúa Giêsu trước sự cứng lòng của đám người đồng hương: “Người lấy làm lạ vì họ không chịu tin” (c.6a).
Trong Tin Mừng Maccô, không còn chỗ nào nêu rõ mối tương giao Chúa Giêsu đặt ra giữa đức tin và các phép lạ Chúa làm cho bằng trình thuật này. Người ta bỗng nhớ lại những lời Chúa Giêsu quở trách các môn đệ thiếu đức tin trong trình thuật truyền cho bão tố yên lặng (4,40). Chính vì đám dân ngoại ở Giêrasa không tin nên Đấng Cứu Thế cũng chẳng lưu lại với họ được lâu (5,17). Chính sự hồ nghi của đám người đang than khóc ở nhà ông Giairô đã khiến Chúa Giêsu đuổi họ ra ngoài (5,39-40).
Mặc cho sự cố xảy ra ở Nagiarét, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục sứ mệnh của Ngài ở các làng lân cận (c.6b), Giai đoạn thứ hai của Tin Mừng đã hoàn tất (3,7-6,6). Giai đoạn này đã nêu bật chủ đề nền tảng của Tin Mừng: Dù là nam nữ, quần chúng, môn đệ hay bà con Chúa Giêsu, mọi người đều tự đặt cho mình câu hỏi “gai góc” về thân thế sâu xa của Ngài. Ta đã gặp thấy nhiều thái độ khác nhau của tất cả mọi kẻ Chúa Giêsu gặp gỡ, đối với câu hỏi then chốt nêu trên. Cuối cùng thì khi nào và do ai Chúa Giêsu sẽ được nhìn nhận một cách đích thực? Chúng ta cần phải tiếp tục theo dõi bản văn…
Khi trở về Nagiarét Chúa Giêsu đã tự đặt mình vào một trường hợp chịu thử thách nghiêm trọng: TN 14-B37
Khi trở về Nagiarét Chúa Giêsu đã tự đặt mình vào một trường hợp chịu thử thách nghiêm trọng. Ngài đang trở về thành phố quê hương, chưa có ai chỉ trích Ngài nghiêm khắc cho bằng những người từng quen biết Ngài từ thời thơ ấu. Ngài không hề có ý trở về quê quán cách riêng tư, chỉ thăm lại ngôi nhà và những người thân thuộc cũ. Ngài trở về với các môn đệ của mình, nghĩa là Ngài về quê với tư cách một Rabbi. Các Rabbi vẫn đi đây đi đó trong xứ với nhóm môn đệ của họ. Với tư cách Rabbi, Ngài đã trở về cùng với các môn đệ.
Ngài vào hội đường và dạy dỗ. Người ta không hào hứng tiếp nhận lời giáo huấn của Ngài, trái lại còn tỏ vẻ thù địch. “Họ vấp ngã vì Người”. Họ tức giận vì một người xuất thân từ một bối cảnh xã hội như Chúa Giêsu, lại nói năng và hành động như vậy. Sự quá quen thân thường làm phát sinh thù ghét sai lầm. Họ không chịu nghe những gì Ngài nói, vì hai lý do:
1/ Họ bảo nhau “Ông này không phải bác thợ sao?”.
Từ dùng chỉ thợ mộc là tekton. Tekton có nghĩa là một thợ làm đồ gỗ, nhưng không chỉ đơn giản là một thợ làm đồ gỗ mà thôi, nó còn có nghĩa là một nghệ nhân, một người làm nghề thủ công tinh xảo. Homer đề cập đến tekton như người đóng tàu, cất nhà, xây đền đài. Đời xưa và cả ngày nay nữa, tại nhiều nơi, trong một thị trấn nhỏ hay làng mạc, người ta có thể tìm ra một người thợ thủ công có thể làm bất cứ việc gì, từ việc đóng chuồng gà đến việc cất nhà, người ấy có thể xây tường dặm vá mái nhà, sửa khung cửa. Đó là thợ thủ công với ít dụng cụ hoặc chỉ tay không, với một số tối thiểu công cụ thô sơ nhất, có thể làm được bất cứ việc gì. Chúa Giêsu là người như thế, sở dĩ người làng Nagiarét khinh dể Chúa Giêsu vì Ngài là một công nhân, một người thợ. Ngài là một người bình thường, một thường dân, một con người chất phác.
Một trong những lãnh tụ quan trọng của phong trào công nhân là Will Crooks. Ông sinh ra trong một gia đình rất nghèo, ký ức đầu tiên ông ghi nhận là hình ảnh mẹ ông đang khóc vì không biết lấy gì để ăn trong bữa ăn sau. Ông bắt đầu làm việc trong một lò rèn, lương hàng tuần là năm hào. Ông trở thành một tay thợ giỏi, dũng cảm và ngay thẳng nhất thời bấy giờ. Ông tham gia việc chính trị ở ngay thị xã và trở thành chủ tịch đầu tiên của phong trào Lao động thị xã Luân Đôn. Nhiều người rất bất mãn khi Will Crooks thành chủ tịch tại Poplar. Ngày nọ, trong đám đông, một mệnh phụ dè bỉu ông “Người ta bầu Will Crooks làm chủ tịch á, anh ta chỉ là dân thợ tầm thường mà thôi”. Một người trong đám đông, chính là Will Crooks, đã quay lại bỏ nón ra và nói: “Hoàn toàn đúng, thưa bà, tôi chỉ là một dân lao động”.
Dân chúng ở Nagiarét khinh dể Chúa Giêsu chỉ vì Ngài là một công nhân tầm thường, với chúng ta thì đó là vinh quang của Ngài, vì nó có nghĩa khi Con Thiên Chúa xuống thế gian, Ngài không hề đòi hỏi một miễn trừ nào. Ngài bằng lòng nhận lấy cuộc đời tầm thường với tất cả những công việc tầm thường. Những may rủi về gia thế, giàu nghèo và phổ hệ chẳng có gì quan trọng đối với nhan cách cả. Chúng ta cần cảnh giác đối với sự cám dỗ đánh gía một người căn cứ vào bề ngoài, vào những cái tạm thời nay còn mai mất, chứ không căn cứ vào giá trị nội tại nơi chính người ấy.
2/ Họ nói “Không phải đây là con bà Maria hay sao?
Không phải chúng ta đều biết rõ anh em ông ta sao?” Sự kiện họ gọi Chúa Giêsu là con bà Maria cho chúng ta biết có lẽ Giuse đã qua đời. Từ đó, chúng ta hiểu được một trong nhiều điều bí ẩn của đời sống Chúa Giêsu. Ngài chết lúc chỉ được ba mươi ba tuổi, nhưng Ngài không lìa bỏ Nagiarét trước năm ba mươi tuổi (Lc 3,23). Tại sao Ngài lại trì hoãn lâu đến thế? Tại sao Ngài vẫn nán lại Nagiarét trong khi cả thế gian đang chờ đợi cứu rỗi? Có phải vì Giuse đã chết sớm và Chúa Giêsu phải đảm nhiệm việc nuôi dưỡng mẹ? Ngài vốn trung tín ngay trong những việc nhỏ nhặt, cho nên cuối cùng Thiên Chúa giao cho Ngài làm rất nhiều việc.
Nhưng dân chúng Nagiarét lại khinh dể Ngài vì họ biết rõ gia đình Ngài. Thomas Campell là một nhà thơ lớn. Cha ông lại chẳng biết gì về thi ca. Khi Thomas xuất bản tập thơ đầu tay, với tên tác giả là Thomas, ông gửi một tập tặng cha mình. Ông cụ cầm tập thơ lên xem. Thật ra ông chỉ nhìn vào bìa sách chứ chẳng đọc gì trong nội dung. Ông cụ kinh ngạc tự nhủ “có ai nghĩ được nó có thể làm một cuốn sách như vậy nhỉ”. Nhiều khi sự thân thuộc đáng lẽ phải tạo ra một sự tôn trọng mỗi ngày càng gia tăng, nó lại tạo ra sự coi thường, xem nhẹ hơn. Lắm khi chỉ vì chúng ta sống quá gần gũi với một người nào đó nên không thấy được chỗ cao thượng, vì đại của người ấy.
Kết quả của mọi việc vừa kể là Chúa Giêsu không thể làm nhiều phép lạ tại Nagiarét. Môi trường không thích hợp, có nhiều điều chỉ thực hiện được trong hoàn cảnh thích hợp.
1/ Ngày nay vẫn thế, nếu một người không chịu để chữa bệnh thì không thể lành bệnh được.
Margot Asquith kể lại cái chết của Neville Chamberlain. Mọi người đều biết chính sách của Neville đã khiến ông ta rất đau lòng. Margot đến gặp và nói với bác sĩ của ông ta là Lord Horder “Ông chẳng có khả năng của một bác sĩ, Chamberlain chỉ lớn hơn Churchill vài tuổi và phải nói là ông ta khỏe mạnh lắm, ông có quý mến ông ấy không?”. Lord Horder đáp “Tôi rất quý mến ông ta, tôi thích tất cả những con người khó thương ấy, tôi đã gặp nhiều người như thế rồi. Ông ta bị chứng rụt rè. Ông ta không muốn sống, khi một người nào đã nói thế, chẳng có bác sĩ nào có thể cứu nổi người ấy”. Chúng ta có thể gọi đó là đức tin, là ý chí muốn tồn tại, nhưng nếu không có nó chẳng một ai có thể sống được.
2/ Trong một bầu không khí không thuận lợi, không còn có thể giảng dạy gì được, các nhà thờ của chúng ta khác hẳn nếu tín hữu nhớ rằng chính họ phải giảng hơn phân nửa bài giảng.
Trong một bầu không khí chờ đợi, khao khát thì chỉ cần một ít cố gắng, ngọn lửa cũng có thể cháy bùng lên. Nhưng trong bầu không khí lạnh lùng chỉ để chê bai, chỉ trích hoặc với thái độ hờ hững, dửng dưng, thì những lời nói dù được đầy tràn Thánh Thần, vẫn cứ từ trời rơi xuống đất và bị chết cứng.
3/ Trong một bầu không khí không thuận lợi, thì không thể có sự hòa giải.
Nếu người ta chỉ họp lại để từ chối thù ghét nhau, thì họ vẫn cứ thù ghét nhau. Nếu người ta chỉ họp nhau lại để cảm thông nhau thì họ vẫn hiểu lầm nhau. Nếu người ta chỉ họp nhau lại để không thấy gì khác hơn là quan điểm riêng của chính mình, họ sẽ chẳng còn thấy ai khác nữa. Nhưng nếu mọi người đến với nhau bằng tình yêu của Chúa Giêsu để tìm cách thương yêu nhau, thì dù những kẻ vốn cách xa nhau hơn hết, vẫn có thể hiệp nhất trong Chúa.
Chúng ta vốn được giao phó trọng trách, hoặc tiếp tay, hoặc ngăn trở công việc của Chúa. Chúng ta có thể mở rộng cửa cho Ngài, hoặc đóng nó lại truớc mặt Ngài.
Đức Giêsu ra khỏi đó và trở về quê nhà, có các môn đệ đi theo. Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Nagiarét, làng quê, xứ sở của Người.
Sinh tại Bêlem, vì một cuộc kiểm tra dân số Chúa Giêsu đã trải qua thời thơ ấu và niên thiếu: TN 14-B38
Sinh tại Bêlem, vì một cuộc kiểm tra dân số Chúa Giêsu đã trải qua thời thơ ấu và niên thiếu tại Nagiarét, nơi xa xôi cách trở giao thông. Ở đó có lẽ chỉ có khoảng 150 gia đình. Người ta sống rất đơn giản, trồng ô liu và nho, cùng với một ít lúa đại mạch và lúa mì. Mỗi gia đình có một vài con dê. Hằng ngày, mỗi người tự làm bánh mì cho mình tại nhà. Ngày thứ bảy, tất cả đều đến hội đường để cầu nguyện. Nơi Đức Giêsu, tất cả đều phản ảnh gốc gác của Người, là một nông dân, một người sống bằng đất đai một người "của quê hương".
Tin Mừng hoàn toàn mô tả cuộc sống đồng quê, một tường thuật do những người "nông dân” ghi lại, nói về một “nông dân" sống gia những người "nông dân” và đã diễn tả ý nghĩ của mình bằng nhượng ẩn dụ của "nông dân". Như vậy đâu là đặc tính của một người thợ mộc trong kiểu sống này? Làm bàn ghế, giường, cửa? Tại sao vậy? Mỗi người tự làm những thứ ấy. Người ta ngồi ăn dưới đất, ngủ trên chiếu trải dưới đất. Anh thợ mộc Giêsu, một nông dân trong số những nông dân khác; có thể có một vài sự khéo léo đặc biệt học nơi ông Giuse, một người "sửa chữa" tầm thường, có thể làm hay chữa những cái ách hay những chiếc cày bằng gỗ. Giêsu, một con người không có gì khác biệt với người khác. Tôi hãy suy niệm về điều này.
Đến ngày Sabát, Người vào giảng dạy trong hội trường.
Về điểm này cũng thế, Đức Giêsu cũng như mọi người. Chúng ta đừng lầm lẫn. Đức Giêsu không phải là người cử hành nghi lễ. Người không đóng vai trò tư tế. Người chỉ là một trong những tín hữu đi dự lễ. Trong dân Israel bất cứ một người nam trưởng thành nào, kể từ tuổi thành nhân (12 tuổi) đã là "tư tế", thuộc về "dòng giống tư tế", đều có quyền đọc Thánh Kinh và chú giải Thánh Kinh. Đấy là việc Đức Giêsu đã làm ngày hôm đó, khi Người rời chỗ ngồi để lên "đọc" và "diễn giảng". Thánh Maccô không cho chúng ta biết đề tài của bài giảng hôm đó là đề tài nào.
Đa số thính giả rất ngạc nhiên. Họ nói: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?"
Danh tiếng của Đức Giêsu đã về đến làng của Người. Nhưng thay vì hãnh diện, những người đồng hương của Người lại bất bình. Tất cả những điều đó không phù hợp với những gì họ biết về Người. Họ biết rõ Người hơn ai hết. Họ đã thấy Người lớn lên, họ đã cùng đi đến trường học với Người. Người không có quyền trở thành "một người khác” hơn là những gì họ biết về Người.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng tự giới hạn mình trong một hiểu biết nào đó, từ chối tiến xa hơn, không chịu khám phá những điều mới mẻ. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi sự bảo thủ, khỏi những tư tướng cũ mòn, khỏi sự đóng khung về trí tuệ và tâm linh. Xin đẩy chúng con ra khỏi những tập quán thích tiện nghi, khỏi thế giới quá bình lặng của chúng con.
Ông ta không phải là bác thợ con bà Maria, và anh em họ hàng với các ông Giacôbê, Gioan, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?
Tin Mừng của Thánh Maccô rất cụ thể, đến nỗi chúng ta cảm thấy rất gần với Đức Giêsu trong đời thường. Chúng ta hiểu rất rõ những suy nghĩ tầm thường của những nông dân trong một xóm nhỏ hẻo lánh miền quê. Đó là cuộc sống thôn dã: Chân trời dường như dừng lại ở những cánh đồi vây quanh làng. Và người ta kể ra nhiều tên, một danh sách anh chị em bà con. Theo cách thức của phương Đông, người ta gọi họ là "anh em”, không kể họ bên ngoại, vì truyền thống không dành chỗ đứng cho người phụ nữ. Người này là ai mà dám phá đổ những tục lệ của chúng ta, hủy bỏ tổ chức của thế giới nhỏ bé này, nơi đó người ta xác định con người theo một hộ tịch cứng nhắc, những tương quan xã hội được ấn định một lần thay cho tất cả. Cuối cùng, mỗi người phải ở tại vị trí của mình, đóng trong vai trò của mình, không được thay đổi đột ngột.
Và đó là chướng ngại làm cho họ không tin vào Người.
Ba Tin Mừng nhất lãm Matthêu, Luca và Maccô đã kể lại cho chúng ta "sự thất bại" của Đức Giêsu. Người đã sống những biến cố đau thương. Đức Giêsu bị chối từ. Ngày nay, nhiều người vẫn có cùng một thái độ như người dân Nagiarét lúc bấy giờ. Nhiều người nói "Tin Chúa", đồng ý; Nhưng tin Giáo Hội, thì không. Vâng, Giáo Hội, cũng như Chúa, có một khía cạnh con người, rất nhân bản. Các giám mục, linh mục, Kitô hữu, là những người mà người ta biết quá! Ngày nay cũng như ngày xưa, nhiều người "bất bình" với Giáo Hội, cũng như người ta đã bất bình với Đức Giêsu. (Đó là đúng nghĩa chữ Hy Lạp ‘éscandali Zonto’). Giáo Hội gây bất bình! Tin Mừng ghi lại, Đức Giêsu cũng đã gây bất bình sâu xa.
Trang Tin Mừng này là một thử thách nghiêm trọng đối với lý tưởng của chúng ta. Chúng ta phải chấp nhận sự không hoàn hảo của Giáo Hội. Đó là thực tế của việc nhập thể: Thiên Chúa ở trong làng, Thiên Chúa ở góc đường, Thiên Chúa tập đọc ở nhà trường, Thiên Chúa là anh em của một người nào đó.
Đức Giêsu bảo họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi".
Đức Giêsu bị "khinh miệt" nhất trong nhóm thân nhân của Người. Người ta đã hiểu lầm về Người. Thái độ quá thân quen có thể che khuất đi tính chất thâm sâu của những liên hệ. Giản lược Đức Giêsu trong nhiều kích nhân loại đó là khinh miệt Người. Sự gần gũi đích thực với Đức Giêsu không phải là một sự gần gũi thể lý, vật chất. Và chúng ta cũng có thể quan niệm sai lầm về ‘dấu chỉ’ như khi nghĩ rằng: chỉ cần làm những cử chỉ bên ngoài là đương nhiên thuộc về "gia đình" của Đức Giêsu. Tuy nhiên chúng ta vẫn biết, điều làm nên "gia đình" thực sự của Người, không phải là những liên hệ huyết thống, mà chính là đức tin - "Kẻ nào làm theo ý Thiên Chúa, đó là anh em Thầy, chị em Thầy và là Mẹ Thầy" (Mc 3,35). Đức Giêsu đã tự tạo cho mình một gia đình mới: Đó là những người nghe Chúa và đem ra thực hành.
Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ.
Đây là một sự mạc khải lạ kỳ, làm đảo lộn những khuôn khổ sẵn có của chúng ta. Một sự chữa lành, dù là bằng cách đặt tay, không thể là một phép lạ được. Đức Giêsu đã chữa lành nhiều bệnh, nhưng đó không thuộc loại những phép lạ. Như thế, muốn nói lên điều gì? Phải có đức tin mới có phép lạ thực sự. Một sự chữa lành không đưa đến việc đón nhận Đức Giêsu trong đức tin, không phải là một phép lạ thật, vì thiếu ý nghĩa cốt yếu của nó.
Điều này có thể chứng minh cho chúng ta rằng: Phép lạ không đủ để ban đức tin. Những người ở Nagiarét nói: Bởi đâu tay ông làm được những phép lạ phi thường trong những làng lân cận?" - Hoạt động của Đức Giêsu không rõ ràng, cả những phép lạ vĩ đại nhất cũng không đủ để làm cho chúng ta hiểu mầu nhiệm của bản thân Người. Và chúng ta tiếp tục xin Chúa can thiệp để chứng minh "Người là ai". Tuy nhiên, chúng ta đã được khuyến cáo: “Người ta có thể nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu” (Mc 4,12) và "mặc dù Đức Giêsu đã làm những dấu lạ rất lớn trước mắt họ, họ đã không tin Người" (Ga 12,37) Điều đó cho chúng ta hiểu, tại sao một số Kitô hữu nghi ngờ những phép lạ, và Giáo Hội phải thận trọng thế nào, khác với những hạng người “buôn thần b án thánh".
Người lấy làm lạ vì họ không chịu tin.
Sự khước từ đức tin dường như là một đặc điểm trong suốt giai đoạn hai của tác vụ Đức Giêsu. Giờ đây Đức Giêsu đối diện với hiện tượng không tin. Đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng rằng đó là một hiện tượng tiêu biểu của thế giới ngày nay, như thể chỉ có những thời đại trước mới là thời đại của đức tin. Vẫn thường xảy ra là người ta lên án Giáo Hội: "Người ta không còn dạy tôn giáo nữa, người ta không dạy giáo lý nữa". Vì thế khi Đức Giêsu đích thân giảng dạy trong làng của Người, là nơi thanh sạch và dành riêng cho Người cư ngụ, thế mà Người cũng không khơi dậy được đức tin. Ngày nay, biết bao bậc cha mẹ đứng trước một hiện tướng như thế, trước con cái của họ. Chính Đức Giêsu, dù là Đấng chí thánh cũng đã gặp những người không tin trong thân nhân của Người. Sự bất lực của Đức Giêsu trước thái độ không tin của những người đồng hương, biểu lộ sự hoàn toàn tôn trọng tự do của con người: Đây là hình ảnh biểu lộ thái độ tôn trọng của Thiên Chúa đối với tự do mà Người đã tạo ra. Sự bất lực bí nhiệm "thần thiêng" này, phải làm chúng ta suy nghĩ sâu xa: Đức tin của chúng ta có thể không vững phắc như chúng ta tưởng, Đức tin là một thực tại mỏng giòn và thường bị đe dọa.
Rồi Đức Giêsu đi khắp các làng mà giảng dạy.
Ở đây tôi nhận được bài học quý giá cho những thất bại của tôi. Đứng trước thất bại chua cay mà Đức Giêsu đã gặp tại Nagiarét, thay vì chịu thua, Người lại lên đường tiếp tục. Người lấy làm ngạc nhiên vì sự cứng lòng của họ. Thánh Maccô ghi lại vắn tắt như thế? Thật khó mà đón nhận thất bại, và chân thành rút ra từ đó những hệ quả tích cực, nếu không chịu ngã thua.
Ba bài đọc Chúa nhật hôm nay đến với chúng ta về một thứ "linh đạo của thất bại" Chúa ra lệnh cho ngôn sứ Êgiêkiel (2,15) phải đứng vững đương đầu với một dân tộc đang khước từ sứ điệp của Người. Còn Thánh Phaolô (2Cr 22,7-10) ngài thú nhận đã bị một "mũi dằm đâm vào thịt", một thất bại mà Ngài đã không chiến thắng được. Trước một nỗ lực hoán cải mà không tiến bộ, hay trước một tình huống đau thương nào đó chúng ta có vượt thắng được sự chán nản không?
Phẩm chức thiên sai của Chúa Giêsu không phải là điều dễ chấp nhận đối với những ai đã biết: TN 14-B39
1) Phẩm chức thiên sai của Chúa Giêsu không phải là điều dễ chấp nhận đối với những ai đã biết thời thơ ấu của Người, và nhất là đã cùng chia sẻ niềm tin Do thái về nguồn gốc bí ẩn của Đấng thiên sai: "Chẳng ai biết Người ở đâu mà đến" (x. Ga 7,27). Các kẻ đồng hương với Chúa Giêsu đã có thái độ khinh miệt Người. Những gì thiên hạ nói về Người và những gì họ chứng kiến chẳng có giá trị gì đối với họ cả: họ biết cha mẹ Người mà, tầm thường lắm. Họ từ chối không tin Người. Thái độ của họ cũng là thái độ của chúng ta, của bao nhiêu người chỉ phớt qua Tin mừng mà không suy gẫm và đem ra thực hiện, chỉ tìm hiểu Tin mừng với bao định kiến, bao ý đồ tối đen, bao đam mê bất chính.
2) Những người Nagiarét đã đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong các thành kiến hẹp hòi, vụ lợi và trần tục của họ, vì thế họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ của Ngài. Thí dụ nhân danh tinh thần tôn giáo sẵn có, họ không thể nào chấp nhận Chúa Giêsu là hiện thân Nước Trời và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì thành kiến về Thiên Chúa và đường lối Ngài, họ không thể chấp nhận rằng Thiên Chúa có thể hiện thân nơi con người đơn giản, khiêm tốn là Giêsu. Thiên Chúa bất ngờ và không thể ngờ của tổ tiên họ, Thiên Chúa của những hành tinh dài đằng đẵng và tôi luyện trong đêm tối cùng thử thách, Thiên Chúa mà càng biết Ngài thì càng phải đi tìm Ngài và không bao giờ nắm được Ngài, họ đã thay thế bằng một hình ảnh khác. Nên đến khi hình ảnh hoàn toàn của Chúa Cha ở trước mắt họ, thì họ không thể nhận ra. Ta cũng vậy. Ta thường có nhiều thành kiến tiên thiên về những đường lối mà ta tưởng Thiên Chúa phải dùng để đến với ta và đưa ta đến với Ngài. Chúng ta quên rằng đường lối của Thiên Chúa khác với đường lối của ta và tư tưởng của ta khác tư tưởng của Ngài. Bao nhiêu con đường ân sủng đã đóng lại, bao nhiêu ân huệ đã phải vô ích, chỉ vì ta không cởi mở đón nhận cái bất ngờ của Thiên Chúa.
3) Tính cách khiêm tốn, kỳ lạ, bất ngờ của các phương thế Thiên Chúa sử dụng là: Giáo Hội thánh thiện mà lại có những tội nhân, Giáo Hội siêu việt mà lại được quản lý bởi các thừa tác viên yếu đuối, thực tại ân sủng cao quý mà lại tiềm ẩn trong các dấu chỉ đơn sơ, hữu hình, chân lý sự sống, chân lý ngàn đời mà lại tỏ hiện trong các điều xem ra khó chấp nhận. Vượt qua được những thử thách đức tin đó, ta mới khám phá ra con người đích thực của Giêsu Nagiarét và của Giáo Hội Người.
4) Chúa Giêsu đã không thể làm phép lạ vì người Nagiarét thiếu niềm tin. Thiên Chúa không ép buộc ai phải nhận lấy ân huệ của Ngài, chẳng cưỡng bức con người phải để Ngài cứu rỗi hay ân thưởng Thiên đàng cho kẻ không muốn. Vì yêu thương và tôn trọng, Ngài để con người tự do chọn lấy Ngài, chọn thiên đàng, chọn hạnh phúc. Và cuộc sống hôm nay của ta không gì khác hơn là một cuộc tập chọn lựa Thiên Chúa.
Đức Giêsu Kitô là sứ giả của Chúa Cha, Ngài đến đem Tin mừng và ơn cứu độ cho nhân loại: TN 14-B40
Đức Giêsu Kitô là sứ giả của Chúa Cha, Ngài đến đem Tin mừng và ơn cứu độ cho nhân loại. Sứ mạng đó không được kết thúc ở nơi Ngài mà còn tiếp tục mãi trong trần gian. Vào buổi sáng Thăng Thiên, qua con người của các Tông đồ, Đức Giêsu đã trao phó cho Hội thánh tiếp tục sứ mạng của Ngài cho đến tận thế.
Thi hành sứ mạng rao giảng Tin mừng không phải là chuyện dễ. Chính Đức Giêsu đã tiết lộ cho chúng ta những khó khăn sẽ gặp phải trên bước đường truyền giáo: Ngài đã bị người đồng hương chối bỏ, không chấp nhận sứ mạng Cứu thế của Ngài và còn ghen tị định tâm giết Ngài nữa (x. Lc 48,28-30). Chính vì thế, Ngài kết luận:”Không một tiên tri nào mà không bị khinh dể ở quê hương, gia đình họ hàng mình”(Mc 6,4).
Sở dĩ người đồng hương không chấp nhận Đức Giêsu vì họ có thành kiến nặng nề về con người và gia cảnh của Ngài, đúng là “Bụt nhà không thiêng”. Ngày nay, những người thi hành sứ mạng tiên tri không thể thoát khỏi cái công lệ đó. Họ phải theo gương tiên tri Ezéchiel (bài đọc 1) mà thi hành sứ mạng của mình trong kiên nhẫn, chịu đựng và tin tưởng.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Ed 2, 2-5.
Ezéchiel nói về sứ mạng tiên tri của mình. Ông chỉ là một con người như tất cả mọi người, một con người đơn giản, nhưng được gọi để tuyên sấm lời Chúa cho dân của Ngài, một dân tộc bất tuân đã chống lại Chúa. Đã nhiều lần, Chúa báo cho dân Israel biết rằng: nếu họ cứ cố chấp trong sự bất tuân, họ sẽ bị phạt. Lời răn đe đó đã bị bỏ ngoài tai, chứng nào tật ấy, nên họ đã bị lưu đầy ở Babylon. Ezéchiel cũng đồng chịu số phận của những kẻ lưu đầy.
Trong hoàn cảnh bi đát đó, Thiên Chúa đã trao cho Ezéchiel nhiệm vụ cảnh tỉnh dân chúng, làm cho họ nhận biết tội lỗi và sám hối. Ông phải đương đầu với một dân tộc phản loạn từ nhiều thế kỷ. Đối thủ của ông thì hùng mạnh trong khi đó ông biết thân phận hèn yếu của mình, phương tiện rất nghèo nàn ; tuy thế, ông không do dự nhận lấy trách nhiệm nặng nề ấy.
+ Bài đọc 2: 2Cr 12,7-10.
Thánh Phaolô thành thực chia sẻ tâm tình với chúng ta: Ngài là một Tông đồ sinh sau đẻ muộn, từ một người bách hại đạo Chúa, lại trở nên một Tông đồ nhiệt thành rao giảng đạo ấy. Mặc dầu Ngài đã được Chúa ban cho những ơn mạc khải phi thường như con người đã lên tới tầng trời thứ ba, nhưng Ngài không dám tự cao tự đại về hồng ân ấy.
Để hạ mình trước sự yếu đuối của ông, Chúa để cho cái “dằm” đâm vào thân xác ông (2Cr 12,7). Các chuyên viên Thánh Kinh đang tìm hiểu cái “dằm” này là gì ? Dù chúng ta chưa xác định được cụ thể, nhưng có thể hiểu đó là những sự yếu đuối của Phaolô, hay mối thù địch của những anh em giả mạo. Cũng có thể hiểu được đây là một căn bệnh đang hoành hành thân xác Ngài.
Chính vì ý thức được sự yếu đuối của mình, nhiều lần Ngài đã muốn nản lòng, xin Chúa cất cái dằm ấy đi, nhưng Chúa yên ủi và bảo đảm cho Ngài:”Ơn Ta đã đủ cho con”. Do đó, Ngài lấy lại được sức mạnh và hăng say rao giảng Tin mừng với ý thức rằng “Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh mẽ”.
+ Bài Tin mừng: Mc 6,1-6.
Từ Naazareth đi rao giảng Tin mừng ở nơi xa, thỉnh thoảng Đức Giêsu trở về thăm quê hương, và ngày Sabbat cũng vào cầu nguyện tại hội đường. Đọc Lời Chúa như mọi người, nhưng qua bài Thánh Kinh, Ngài cũng được mời cắt nghĩa bài đọc đó và giải thích rằng:”Ngài chính là Đấng Messia mà toàn dân đang mong đợi”.
Ban đầu, người dân làng Nazareth thán phục về những phép lạ Ngài đã làm khắp nơi và những lời giảng dạy rất khôn ngoan và đầy thế giá của Ngài, nhưng khi nhớ đến nguồn gốc tầm thường của Ngài, họ thắc mắc và không tin Ngài nữa. Tại sao ? Ngài chỉ là một người thợ mộc tầm thường, cha mẹ và anh em Ngài là những người hàng xóm quen thuộc đang ở với họ. Ông Giêsu trước đây cũng chỉ là một người tầm thường có gì đặc biệt đâu, sao bây giờ lại được khôn ngoan như vậy ? Tuy thế, theo như tục ngữ đã nói “Bụt nhà không thiêng” nên họ không tin nhận Ngài nữa.
Vì vậy, Đức Giêsu kết luận:”Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mà thôi”(Mc 6,5). Chính vì thái độ cứng lòng ấy, nên ở Nazareth Đức Giêsu không làm nhiều phép lạ.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Bụt nhà không thiêng.
I. ĐỨC GIÊSU TRỞ VỀ NAZARETH.
1. Cuộc viếng thăm mục vụ.
Đức Giêsu rời bỏ quê hương Nazareth đi rao giảng Tin mừng và chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo. Tại nơi đây và nhiều nơi khác, Đức Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ như dẹp yên bão tố, chữa người bị qủi ám, chữa lành các chứng bệnh nan y, làm cho kẻ chết sống lại... Danh tiếng Ngài đã vang dội khắp nơi. Nhưng Ngài cũng không quên xứ sở của mình, Ngài cũng trở về thăm quê hương Nazareth. Đây là lần thứ hai Ngài trở về Nazareth (Lần thứ nhất: Lc 4,16-30).
Ngài không có ý trở về quê quán với tính cách riêng tư cốt chỉ thăm lại ngôi nhà và những người thân cũ. Ngài trở về với các môn đệ của mình, nghĩa là Ngài về quê với tư cách một rabbi. Các rabbi vẫn đi đây đó trong xứ với nhóm môn đệ nhỏ của mình. Với tư cách giảng sư Đức Giêsu đã trở về Nazareth với các môn đệ.
2. Tại hội đường Nazareth.
Theo thông lệ, ngày sabbat dân làng đến hội đường nghe đọc Sách Thánh và hát Thánh vịnh từ 9 đến 12 giờ trưa. Đức Giêsu và các môn đệ cũng đến hội đường cầu nguyện với dân làng. Đọc Sách Luật và Thánh vịnh xong, ông trưởng hội đường mời một vị có thế giá và hiểu biết về Thánh Kinh lên giải nghĩa bài đọc. Đức Giêsu cũng được mời lên đăng đàn. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt của Ngài luôn tỏ ra nét dịu hiền mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn, Ý tứ Ngài trình bầy đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Ngài trình bầy một cách khôn ngoan và giọng nói như của Đấng có uy quyền, làm cho họ ngạc nhiên, thì thầm với nhau:”Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế, nghĩa là gì”(Mc 6,2). Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu ở đâu ? Họ muốn tìm về nguồn gốc của Ngài.
3. Phản ứng của dân làng Nazareth.
Trước những lời giảng dạy khôn ngoan và hấp dẫn, cùng với những phép lạ đã làm, Đức Giêsu đã làm cho dân làng Nazareth có nhiều phản ứng khác nhau, và chúng ta có thể gồm tóm những phản ứng ấy trong ba chữ:
a) Tín nhiệm.
Từ Nazareth người ta đã nghe đồn thổi về Ngài rất nhiều, nghe đồn về những phép lạ Ngài đã làm khắp đó đây. Hôm nay, tại hội đường, họ đã trực tiếp được nghe Ngài giảng. Trước đây nghe lời đồn thổi họ đã ngạc nhiên, bây giờ họ càng ngạc nhiên hơn:”Mọi người làm chứng cho Ngài và họ thán phục về ân sủng xuất bởi miệng Ngài”(Lc 4,22).
Những điều trên đây cho ta thấy khi Đức Giêsu trở lại Nazareth, những cảm nghĩ của họ hầu hết là tín nhiệm Ngài.
b) Hoài nghi.
Họ muốn tìm về nguồn gốc của Ngài. Mọi người đều biết mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giôsê, Giuđa và Simon. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nazareth này, một thôn ấp nhỏ bé có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, đóng bàn sửa ghế, đóng giường tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ ông ấy nói năng, làm được việc gì lạ đâu ? Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi chóng thế ?
c) Thất bại.
Đáng lẽ những phép lạ Đức Giêsu đã làm ở những nơi khác cộng với sự rao giảng đầy thuyết phục của Ngài khiến cho dân làng Nazareth phải tin nhận Ngài, nhưng đàng này họ chỉ dựa vào nguồn gốc của Ngài, một nguồn gốc có vẻ tầm thường như họ thấy, nên họ nhìn sai lệch về con người của Ngài. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo cái dáng vẻ bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Vì thế,”họ bị vấp phạm vì Ngài”(Mc 6,3). Còn Ngài, Ngài âm thầm kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ:”Không ai là tiên tri cho xứ sở mình” vì người ta thường nói:”Gần chùa gọi bụt bằng anh”.
Trước sự cứng lòng tin kèm theo sự ghen tương với thành kiến cố hữu của họ, Đức Giêsu không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa lành vài bệnh nhân. Phép lạ đòi hỏi phải có lòng tin, mà phép lạ chỉ là phần thưởng cho lòng tin ấy. Sự cứng lòng của con người như thánh Matthêu nói rõ (Mt 13,58) làm tê liệt phần nào quyền làm phép lạ của Ngài.
II. CĂN BỆNH THÀNH KIẾN.
Theo Đào duy Anh, Thành kiến là ý kiến cố chấp không thể lay động được. Khi đã có ý kiến tốt hay xấu về một người hay một vật gì thì khó lòng có thể thay đổi được. Thành kiến thay đổi sự thật của sự vật, không còn như nó có. Thành kiến đã bóp méo sự thật , giống như người đeo kính xanh thì vật gì cũng xanh, đeo kính đỏ thì vật gì cũng đỏ.
Người ta có thể nhìn sự vật với ba thái độ, đó là yêu, ghét hay dửng dưng. Nhưng thường thì chúng ta ít khi có thái độ dửng dưng, trung lập, mà thường là nghiêng về một phía yêu hay ghét. Chính thái độ yêu hay ghét này làm cho ta nhìn sự vật khác nhau:”Yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Khi yêu thì thì coi mọi cái đều đẹp đều tốt, khi ghét thì thấy mọi cái là xấu:”Yêu ai yêu cà đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng”.
Truyện: Thi sĩ R. Tagore.
R. Tagore là một thi sĩ nổi tiếng của Ấn độ và cả Đông phương nữa. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu.
Một hôm, cậu bé Tagore làm một bài thơ và đưa lên cho cha xem. Ông thân sinh lắc đầu chê:
- Thơ mày là thơ thẩn !
Tagore mới nghĩ ra một mưu: cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và chua xuất xứ là trích sao trong một cuốn thơ cổ. Cậu ta lại không quên đề tên cuốn thơ cổ ấy cẩn thận.
Lần này, ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen:”Tuyệt, tuyệt”. Rồi đem khoe tíu tít với đứa con trai lớn của ông, hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Ông nói:
- Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này.
Ông con trai chủ nhiệm đọc xong cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen là hay đáo để, và muốn trích đăng lên mặt tờ báo văn học của ông.
Bấy giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đưa cuốn thơ cổ kia ra đối chiếu chứng minh và cũng để dễ bề chua xuất xứ trong khi đăng.
Đến đây câu truyện mới vỡ lở ra. Có ai ngờ trên đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của thằng bé Tagore ! Ông thân sinh giận sôi máu lên, nhưng rồi cũng phải nhìn con với cặp mắt thán phục và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình xưa nay.
(Vũ minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 333-335)
Qua kinh nghiệm hằng ngày, chúng ta phải công nhận rằng Thành kiến là một căn bệnh phổ quát chung cho mọi người. Thành kiến là chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài nguời, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bề ngoài mà đánh giá thiên hạ.
Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm, mà do người này thì có giá trị, do người kia thì vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở ẹc ra. Người có danh tiếng thì lời nói việc làm nào cũng được coi như vàng ngọc. Người vô danh tiểu tốt thì lời có đẹp như trăng sao, việc có hay như thần thánh, cũng bị thành kiến dìm xuống đến tận bùn đen. Vì thế, Đức Giêsu đã nói:”Không tiên tri nào lại được trọng đãi nơi quê hương mình (Ga 4,44).
Thành kiến làm cho bụt nhà không thiêng, thích những cái lạ; thích gì thì phóng đại tô mầu, ghét thì cũng thế. Nhiều khi lý luận một chiều sai lệch, cái vô lý ngớ ngẩn cũng cho là hay là đẹp, hoặc không hiểu gì cũng cho là hay. Sống hoàn toàn theo dư luận, theo cách của người đời, không dám vượt trên dư luận sai lạc, vượt trên những phán đoán thiên lệch. Ví dụ các bà tin theo thầy bói thì cái gì thầy nói ra cũng đúng, cũng hay, coi như lời sấm, như thánh phán:
Số cô không giầu thì nghèo, Ba mươi Tết có thịt heo trong nhà. Số cô có mẹ có cha, Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông. Số cô có vợ có chồng, Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.
Các bà các cô sẽ phải thốt lên: “Thánh phán. Tuyệt ! Tuyệt” !
III. BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG.
1. Đức Giêsu bị rẻ rúng nơi quê hương.
Dân làng Nazareth không thể chấp nhận một người mà họ đã quen biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn, họ hàng chẳng có danh giá gì. Biết rõ như thế thì làm sao người đó có thể là vị Cứu tinh, là Đấng Cứu thế, là Đấng giải thoát cho dân tộc mình được ? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giầu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Đức Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Ngài làm phép lạ như đã làm những nơi khác.
Trước sự cứng lòng và khinh thường của dân Nazareth, Đức Giêsu chẳng biết làm gì hơn ngoài việc đưa ra nhận xét chua cay:”Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”(Mc 6,4). Dân làng Nazareth không tin Chúa thì cũng vì họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo vào trong những định kiến hẹp hòi có sẵn của họ. Đấng Cứu thế phải hiện nguyên hình như định kiến của họ, nghĩa là Đấng Cứu thế phải có đầy quyền lực theo nghĩa thế gian, họ không thể tin nhận được một Đấng Cứu thế như một con người đơn sơ khiêm hạ như họ thấy được.
2. Các tiên tri cũng bị khinh dể.
Trong Tin mừng thánh Luca, Đức Giêsu nhắc đến hai vị tiên tri đã không làm phép lạ ở quê nhà được mà lại làm phép lạ ở dân ngoại:”Và Ta bảo thật các ngươi: có nhiều bà goá tại Israel thời tiên tri Êlia, khi trời khoá lại ba năm sáu tháng, và xẩy ra nạn đói lớn trong toàn xứ, song Êlia không được sai đến với một bà nào trong họ, mà lại đến với bà góa tại Sorepta thuộc hạt Sidon. Cũng có nhiều người phong hủi đời tiên tri Êlisê, song không người nào trong họ được lành sạch cả, trừ phi là Naaman người Syri”(Lc 4, 26-27). Tiên tri Êlisê đã làm nhiều sự lạ ở Guilgal mà không làm được ở quê nhà (2V 4,1-29t). Sự thật và thường tình, tiên tri không được tôn trọng nơi quê nhà.
3. Những tài năng bị coi thường.
Nhiều người có tài năng cao vời bị coi thường trước khi được chấp nhận. Chúng ta có thể đưa ra mấy trường hợp để làm chứng:
- Giám mục Fulton Sheen, một nhà thuyết giáo vĩ đại, đã từng bị giáo sư môn biện luận trường đại học chê:”Anh đúng là diễn giả tồi nhất mà tôi từng gặp”.
- Ernest Hamingway, một tiểu thuyết gia cự phách, đã từng bị các thầy giáo chê:”Hãy quên việc viết lách đi ! Anh không đủ tài để làm việc đó đâu”.
- Richard Hooker, tác giả quyển sách nhan đề “Mash”, đã từng thấy quyển sách của ông bị đến 6 nhà xuất bản từ chối in để rồi cuối cùng quyển ấy đã trở thành một trong những quyển sách bán chạy nhất.
Thành kiến đã làm cho dân làng Nazareth phán đoán sai về Đức Giêsu. Họ đã không nhận ra Ngài là Đấng Cứu thế. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm cho chúng ta mù quáng, không nhận định và phê phán một cách khách quan đúng đắn được. Thành kiến làm cho chúng ta không thể đối thoại , cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người khác. Mc Kenzie nói:”Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tị thì nhìn bằng kính hiển vi”.
4. Số phận người rao giảng Tin mừng.
Cho dù Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Ngài có thể làm được mọi sự, nhưng Ngài phải bó tay trước sự cứng lòng của con người. Ngài đã trở nên bất lực trước những kẻ thiếu niềm tin. Và quả thật, “Ngài đã không làm được phép lạ nào”tại quê hương mình. Thế mới biết con người có khả năng ngăn cản Thiên Chúa, con người có toàn quyền từ chối quà tặng của Thiên Chúa.
Trên con đường truyền giáo, Đức Giêsu vẫn đem các môn đệ đi theo để huấn luyện các ông. Trong việc huấn luyện cũng cần thấy sự thất bại, chứ không phải chỉ nhìn thấy thành công. Sau này trên đường truyền giáo, sự thất bại không làm cho các ông nản lòng.
Các người rao giảng Tin mừng hãy bắt chước Đức Giêsu mà đón nhận thái độ “Bụt nhà không thiêng” của những người được rao giảng. Họ có thể nghi kỵ, không ưa, hoặc chống đối chúng ta đi nữa, thì hãy vững tâm vì “chân lý sẽ thắng”. Ban đầu có thể gặp thất bại nhưng với thời gian người ta sẽ nhìn ra chân lý. Đức Giêsu đã thất bại khi còn sống nhưng đã thành công vẻ vang sau khi sống lại. Người Tông đồ cũng phải đi theo con đường ấy: phải kiên nhẫn chịu đựng, nhưng phải chịu đựng trong vui tươi với tình thương mến.
Truyện: Chú chồn Pepe LePew.
Cách đây nhiều năm, các rạp chiếu bóng thường chiếu phim hoạt hoạ. Có một bộ phim được nhiều người ưa thích tên là Looney Tunes. Một vai được nhiều người hâm mộ trong phim là chú chồn lãng mạn tên là Pepe LePew. Pepe luôn luôn yêu mến mọi người nhưng vì chú có mùi hôi, nên mọi người đều từ chối tình thương của chú. Nhưng Pepe không nản lòng. Chú vẫn tiếp tục yêu thương dù có bị từ chối nhiều lần. Pepe không bao giờ từ chối yêu thương bất cứ một ai. Đó chính là lý do tại sao rất nhiều người coi phim này càng quí mến Pepe.
(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật năm B, tr 264).
Chúng ta thấy Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta về tình yêu thương. Ngài không khước từ ai bao giờ. Ngài vẫn tiếp tục yêu thương dù biết bao lần Ngài đã bị từ chối. Chú chồn Pepe trong phim quả rất giống Chúa Giêsu. Đây là bài học cho chúng ta rút ra được từ các bài đọc hôm nay. Chúng ta phải bắt chước cách xử sự của Đức Giêsu, chúng ta có thể bắt chước chú chồn Pepe mà yêu thương mọi người dù có bị chối từ bao nhiêu lần đi nữa. Tóm lại, các bài đọc hôm nay dạy chúng ta hai điều: Trước hết, chúng có thể tin chắc rằng chúng ta sẽ nhiều lần bị người khác khước từ phản đối giống như Đức Giêsu đã từng bị trong đời Ngài. Tuy nhiên, chúng ta cứ tiếp tục yêu thương giống như Đức Giêsu. Dù bị khước từ Ngài vẫn không ngừng ban phát tình yêu của Ngài cho nhân loại.
Ngay từ đầu Tin Mừng, tác giả Máccô cho thấy Đức Giêsu hành động với uy quyền trước toàn dân: TN 14-B41
Ngay từ đầu Tin Mừng, tác giả Máccô cho thấy Đức Giêsu hành động với uy quyền trước toàn dân (1,16–3,12). Nhưng sau đó, những trở ngại đã xuất hiện: thân nhân Người đi bắt Người về, vì cho rằng Người đã mất trí (3,21); các kinh sư thì nói rằng Người bị quỉ vương Bêendêbun ám và dùng quyền của nó mà trừ quỉ (3,22); bằng kiểu diễn tả bóng bảy, Người đã nói đến sự cứng lòng của dân Ít-ra-en (4,11-12); trận bão trên biển không nhận chìm được con thuyền của Người, là một hình ảnh cho hiểu là sứ vụ của Người sẽ gặp nhiều khó khăn (4,35t), nhưng vẫn đứng vững; yêu cầu của dân Ghêrasa cũng ở trong chiều hướng ấy (5,17). Bài tường thuật chuyến về thăm Nadarét cũng nói đến thái độ không tin của người dân Nadarét, khiến họ không chấp nhận Đức Giêsu (6,1-6). Như thế, truyện này tóm tắt một vài đề tài đã được triển khai trong các phân đoạn trước: tư cách môn đệ và lòng tin, Đức Giêsu là thầy và là vị làm phép lạ, sự hiểu lầm và sự loại trừ Đức Giêsu.
II. BỐ cỤc
Bản văn này có thể chia thành bốn phần:
1) Đức Giêsu về quê và giảng dạy ngày sa-bát (cc.1-2a); 2) Các thính giả vấp phạm về Người (cc. 2b-3); 3) Sự cứng lòng tin: đánh giá và kết quả (cc. 4-6a); 4) Đức Giêsu tiếp tục ra đi (c. 6b).
III. Vài điỂm chú giẢi
- quê quán của Người (1): Đây là Nadarét thuộc miền Galilê (1,9), cách hồ Ghênêsarét khoảng 30 cs về phía tây. Vào thời đó, Nadarét chỉ là một làng nhỏ, không quan trọng gì (x. Ga 1,46). Trong Cựu Ước, làng này không bao giờ được nói đến. Vì làng ở đọâ cao 300-400 m trên mặt biển, người ta có thể nhận ra làng từ xa.
- có các môn đệ đi theo (1): Khi nói đến các môn đệ, tác giả Máccô luôn luôn đưa vào đề tài “đi theo” (sequela) (x. 2,15; 10,32; 15,41).
- bắt đầu giảng dạy (2): Ta nhớ lại đoạn 1,21-28 giới thiệu Đức Giêsu là thầy và là người chữa bệnh. Phản ứng đầu tiên trước sự khôn ngoan và những việc lẫy lừng của Người là sự ngạc nhiên. Từ đó, câu hỏi đặt ra “Bởi đâu ông ta được như thế ?” mang tính mỉa mai: trong khi những người đồng hương gắng tìm cho ra danh tánh của con người Giêsu, thì quyền lực của Người lại bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa.
- nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên (2): Phản ứng này thường xảy ra trước lời giảng dạy (1,22; 11,18), một phép lạ (7,37) hoặc một câu nói lạ lùng của Đức Giêsu (10,26). Tác giả nhắc đến phản ứng này với nhận định về sự khôn ngoan của Đức Giêsu để cho thấy Người vừa ban một mạc khải, nhưng dân chúng không tin.
- bác thợ (3): Từ Hy-lạp tektôn (La-tinh faber) có lẽ phản ánh từ A-ram naggârâ có thể là một người thợ đóng đồ mộc hoặc là một người thợ xây dựng. Những người thợ ấy thường đi đây đó. Phải chăng Đức Giêsu cũng đã đi đây đó, ít sống tại Nadarét? Bản văn dùng mạo từ Hy-lạp xác định ho cho hiểu rằng dân Nadarét đã quen gọi Đức Giêsu như thế.
- con bà Maria (3): Phải chăng câu này cho phép giả thiết là Giuse đã qua đời? Trong ngữ cảnh ở đây, không có gì bảo đảm là kiểu gọi này có ý nói là Giuse đã chết cả. Chúng ta ghi nhận là trong TM Máccô, Giuse không bao giờ được nêu tên. Dù sao, “con bà Maria” đã trở thành tên gọi của Đức Giêsu. Hoặc tên này được dùng để sỉ nhục, bởi vì người Do-thái được gọi bằng tên của người cha, hoặc để mỉa mai vì muốn ám chỉ đến một cuộc chào đời bất hợp pháp (con hoang). Nếu trường hợp sau là đúng, thì lời sỉ nhục này lại là một khẳng định về cuộc sinh hạ trinh khiết. Để ủng hộ cho cách giải thích này, người ta nêu ra câu hỏi của dân Nadarét về nguồn gốc của Đức Giêsu và sự kiện Mùc tránh nhắc đến người cha.
- ngôn sứ có bị rẻ rúng (4): Có lẽ đây là một câu tục ngữ phát xuất từ Do-thái giáo nhằm diễn tả kinh nghiệm của các nhà du thuyết Do-thái. Ta có những câu hy-lạp tương tự: “Các triết gia khó sống tại quê hương” (Điônê Crisostômô; x. Epittêtô…). Nhưng ở đây Mc mở rộng câu ngạn ngữ mà áp dụng cho cả gia đình dòng họ; như thế là nối dài chiều hướng của sự cố được kể ở 3,20t.
IV. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
* Đức Giêsu về quê và giảng dạy ngày sa-bát (1-2a)
Đức Giêsu đã rời nhà và vùng ông Gia-ia ở để về quê, tức là Nadarét. Nhân dịp cử hành phụng tự tại hội đường vào ngày sa- bát, Người đã giảng một bài. Đó là việc Người vẫn thường làm (x. 1,21.39).
* Các thính giả vấp phạm về Người (2b-3)
Phản ứng của các thính giả chứng tỏ Đức Giêsu vừa ban một mạc khải. Họ đã nêu ra năm câu hỏi: ba câu liên hệ đến hoạt động của Đức Giêsu (bản thân; giáo lý; các phép lạ) và hai câu liên hệ đến gia đình dòng họ của Người. Chỉ đức tin mới nhận biết nguồn gốc đích thực của Đức Giêsu. Người là Con Thiên Chúa. Đối với những người đồng hương, sự hiểu biết về môi trường sinh sống của Đức Giêsu là biến thành một trở ngại không thể vượt qua. Họ từ khước Đức Giêsu và không chấp nhận giáo huấn của Người. Sự vấp phạm đó chính là sự cứng lòng tin của họ.
* Sự cứng lòng tin: đánh giá và kết quả (4-6a)
Đức Giêsu xác định lập trường bằng một câu ngạn ngữ. Câu này vừa giúp Người biện minh cho mình vừa giảm nhẹ tầm mức của các sự kiện. Các môn đệ (theo Mc, các ông lúc nào cũng đi theo Người) phải học lấy bài học kinh nghiệm này: không bao giờ được để cho nỗi thất vọng vì bị từ khước đánh ngã mình. Con Thiên Chúa bị mọi người kể cả gia đình, hiểu lầm, và bị bỏ cô đơn trong thế gian này. Sự kiện Người không thể làm được phép lạ nào ở quê hương cho thấy tương quan giữa phép lạ và đức tin. Điều này không có nghĩa là quyền lực của Đức Giêsu bị hạn chế nhưng có nghĩa là khi ơn cứu độ được ban tặng trong phép lạ bị từ chối, thì không thể xảy ra phép lạ được. Nếu Đức Giêsu làm khác là Người không trung thành với sứ mạng của Người. Lời ghi thêm “Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ” nhằm làm giảm nhẹ nét tiêu cực nơi những gì được nói trước. Nhưng c. 6a kết luận vẫn ghi nhận sự cứng lòng tin và sự ngạc nhiên của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu tiếp tục ra đi (6b)
Tuy nhiên, thất bại này vẫn không làm Đức Giêsu chán nản chùn bước. Người tiếp tục ra đi như Người đã nói với các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (1,38).
+ Kết luận
Đức Giêsu trở lại quê hương Nadarét. Người vào hội đường để giảng dạy, tức là thi hành sứ mạng ngôn sứ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, dù đã biết các phép lạ Đức Giêsu làm và nay vừa nghe Người giảng, dân làng Nadarét lại chỉ coi Người như là “bác thợ, con bà Maria, anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn” (c. 3a) mà thôi. TM Mc cho thấy liên hệ huyết thống cũng như tình đồng hương không giúp người ta nhận biết Đức Giêsu trong chân tính của Người. Muốn khám phá ra mầu nhiệm Đức Giêsu, người ta phải để cho chính Người dẫn dắt và giáo huấn ngày qua ngày.
V. GỢi ý suy niỆm
1. Vấn đề trọng tâm của bản văn là đức tin. Tại nơi nào con người khép kín lại với Thiên Chúa, khi Ngài đang ngỏ với họ trong phép lạ, thì phép lạ trở thành chuyện phi lý. Cũng như quyền lực của Ngài là ơn cứu độ cho chúng ta, thì sự cứng lòng tin của chúng ta là sự bất lực của Ngài (Grasser).
2. Sự từ khước ở Nadarét vẫn tồn tại. Con người hôm nay, những người Nadarét mới, vẫn đang thấy Đức Giêsu là một cớ gây ngạc nhiên và vấp ngã. Do sự từ khước của con người hôm nay, hoạt động cứu thế của Thiên Chúa như bị tắc nghẽn. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người.
3. Người môn đệ của Đức Giêsu không được nản chí khi gặp thất bại hay chống đối. Nhiệm vụ của họ là cứ ra đi để rao giảng Lời Chúa, để làm chứng, không nên bận tâm (và nặng lòng) với kết quả.
Có lẽ anh chị em ít khi ý thức rằng qua bí tích rửa tội và thêm sức, chúng ta được chia xẻ với Ðức Giêsu: TN 14-B42
Có lẽ anh chị em ít khi ý thức rằng qua bí tích rửa tội và thêm sức, chúng ta được chia xẻ với Ðức Giêsu sứ mạng làm ngôn sứ.
Hôm nay chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa để hiểu sứ mạng ấy là thế nào, và hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta chu toàn sứ mạng ấy.
II. GỢi ý sám hỐi
Chúng ta chỉ lo sống đạo cho mình mà không ý thức sứ mạng ngôn sứ của chúng ta. Chúng ta không dám nói về Chúa cho người khác. Chúng ta không can đảm bênh vực sự thật và công bình.
III. LỜi Chúa
1. Bài đọc I Êd 2,2-5
Ngôn sứ Êdêkien kể về ơn gọi của mình:
Ông đã được chính Thiên Chúa kêu gọi Khi gọi ông làm ngôn sứ, Thiên Chúa ban "thần linh" cho ông. Sứ mạng của ông là chuyển sứ điệp của Chúa đến với con cái Israel. Nhưng đó là một sứ mạng khó khăn, bởi vì họ là một dân cứng lòng.
2. Ðáp ca Tv 122
Có thể coi Tv 122 này là những tâm tình của một người lãnh sứ mạng ngôn sứ:
Ngôn sứ luôn nhìn lên Chúa là Ðấng đã kêu gọi mình Trong những lúc khó khăn, ngôn sứ cảm thấy ê chề chán nản Nhưng ngôn sứ luôn trông cậy vào Chúa, xin Ngài cứu giúp.
3. Bài đọc II 2 Cr 12,7-10
Thánh Phaolô chân thành chia xẻ tâm sự của mình:
Bản thân ông rất yếu đuối. Ông cảm thấy như có một cái dằm luôn đâm vào da thịt mình. Các chuyên viên Thánh Kinh đang tìm hiểu "cái dằm" này là gì. Dù chúng ta chưa xác định cụ thể, nhưng có thể hiểu đó là ám chỉ đến những sự yếu đuối của Phaolô.
Chính vì ý thức yếu đuối như thế nên nhiều lần ông ngã lòng, xin Chúa cất khỏi cái dằm ấy.
Nhưng Chúa đã khích lệ ông: "Ơn Ta đủ cho con"
Cuối cùng ông tin tưởng và tiếp tục sứ mạng, "vì khi tôi yếu đuối chính là lúc tôi mạnh mẽ".
4. Tin Mừng Mc 6,1-6
Ðức Giêsu trở về quê hương mình là Nadarét. Ðến ngày Sabát, Ngài vào hội đường và giảng Thánh Kinh.
Ban đầu những người đồng hương rất ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan của Ngài và vì những phép lạ Ngài làm ở những nơi khác.
Nhưng khi nhớ đến nguồn gốc tầm thường của Ngài (chỉ là một người thợ mộc, bà con với những dân làng bình thường), họ không tin Ngài nữa.
Chính vì thái độ không tin ấy, nên ở Nadarét Ðức Giêsu không làm nhiều phép lạ.
IV. GỢi ý giẢng
* 1. Tiếng nói của những ngôn sứ
Tiếng nói của những ngôn sứ rất lạ thường, vì ngôn sứ không nói tiếng nói của loài người mà là tiếng nói của Thiên Chúa. Loài người thường "lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau", còn Thiên Chúa thì nói thẳng sự thật để dạy dỗ hoặc sửa lỗi. Mà "sự thật mất lòng" cho nên tiếng nói của Thiên Chúa nhiều khi chói tai.
Ngôn sứ nói tiếng nói của Thiên Chúa, nên nhiều khi chẳng những không được người ta nghe mà còn bị người ta ghét. Ngôn sứ Êdêkien thay mặt Chúa kêu gọi dân Do Thái hãy sám hối tội lỗi chứ đừng ỷ lại vào sự kiện họ có Ðền thờ tại Giêrusalem và cũng đừng nương dựa vào thế lực ngoại bang. Những lời nói này đã khiến dân Do Thái kết ông tội phạm thánh và phản quốc. Và họ đã nhiều lần bách hại ông, ông chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc. Gioan Tẩy giả thị bị Hêrôđê chém đầu vì đã dám lên tiếng vạch tội loạn luân của vua. Rất nhiều ngôn sứ khác cũng không thoát khỏi lao đao lận đận do đã thay mặt Chúa nói lên những "sự thật mất lòng".
Ngày nay có biết bao sự thật ê chề trong xã hội cũng như trong Giáo Hội. Thiên Chúa cần những ngôn sứ can đảm nói lên những điều đó. Nhưng buồn thay, đa số kitô hữu, thậm chí những cán bộ Tin Mừng và những tu sĩ, giáo sĩ đã chọn thái độ giả điếc làm ngơ và ngậm miệng. Chỉ vì muốn được yên thân. Như thế là không thi hành chức năng ngôn sứ của mình.
Ta có thể nói thẳng bằng những lời bộc trực, hoặc khéo léo hơn bằng lời lẽ từ tốn tế nhị, nhưng không bao giờ nên ngậm miệng không nói.
2. Tiêu chuẩn Chúa chọn người
Khi chọn ai, Chúa theo những tiêu chuẩn rất lạ: không cần học thức cao, không cần tài ba lỗi lạc, không cần khả năng khéo làm việc... Thánh Phaolô đã liệt kê 5 tiêu chuẩn Chúa theo:
những cái yếu đuối, những cái ngu dại, những cái hèn mọn, những cái bị khinh thường và những cái hư không. (Sunday School Times).
3. "Ơn Ta đủ cho con" (2Cr 12,9)
Thiên Chúa luôn ban cho ta đầy đủ ơn Ngài: Khi gánh đời ta nặng hơn, Ngài ban thêm ơn Khi công việc ta cực nhọc hơn, Ngài ban thêm sức Khi Ngài gởi khổ sầu, Ngài cũng gia tăng lòng thương xót Khi Ngài gởi đến thử thách, Ngài cũng gởi đến bình an
Lúc ta cảm thấy sức mình hầu như cạn kiệt thì đấy là lúc ơn Chúa thực sự tràn đầy. (Góp nhặt).
4. Phép lạ
Bài Tin Mừng hôm nay đề cập về Phép lạ: Ở quê hương Nadarét, Ðức Giêsu chỉ làm được một ít phép lạ bởi vì dân Nadarét không tin. Nhân dịp này, chúng ta hãy tìm hiểu xem: phép lạ là gì? và ngày nay phép lạ còn xảy ra nữa không?
Ðiều chúng ta cần lưu ý trước tiên là người ta dùng chữ phép lạ theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa rộng, phép lạ là một điều gì có vẻ khác thường, xảy ra lạ hơn bình thường và không giống như người ta dự kiến. Thí dụ như người Do thái ngày nay đã vận dụng nhiều cố gắng lao động, kết hợp với khoa học kỹ thuật mà trồng được những vườn cam ngon ngọt trên miền đất trước đây là sa mạc. Người ta đã coi đó là một phép lạ (theo nghĩa rộng). Còn theo nghĩa hẹp, nghĩa chính xác, phép lạ là điều không những kỳ diệu khác thường, mà còn xảy ra ngoài những quy luật tự nhiên nữa. Thí dụ: trong khoa vật lý học, chúng ta biết có quy luật là một vật có trọng lượng thì bị rơi xuống do sức hút của trái đất. Nhưng nếu có một người nào đó té từ một nhà lầu cao nhưng không rơi xuống đất mà cứ lơ lửng giữa chừng, thì khi đó sự kiện không xảy ra theo quy luật tự nhiên nữa, nên được coi là phép lạ.
Sau khi đã hiểu phép lạ là gì theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bây giờ chúng ta tìm hiểu xem có thể xảy ra phép lạ hay không. Phép lạ hiểu theo nghĩa rộng thì ai cũng nhìn nhận rằng có, kể cả những người không có đạo, kể cả những kẻ vô thần. Người ta nói nhiều đến phép lạ cải tạo ruộng đất, làm theo nghĩa hẹp thì những người vô tín ngưỡng lại không nhìn nhận. Bởi vì muốn có phép lạ theo nghĩa hẹp này thì cần có sự can thiệp của quyền năng thần thánh. Kẻ vô tín ngưỡng không công nhận thần thánh nên cũng không công nhận phép lạ.
Còn đối với chúng ta, những người Công giáo thì sao ? Dĩ nhiên vì tin vào quyền năng Thiên Chúa nên chúng ta nhìn nhận có phép lạ. Tuy nhiên cũng cần lưu ý thêm điều này là: Thiên Chúa không làm phép lạ một cách bừa bãi đâu. Vì như đã nói trên: phép lạ (theo nghĩa hẹp) là điều xảy ra ngoài quy luật tự nhiên. Quy luật tự nhiên ấy ai đã thiết lập ra ? Thưa là chính Thiên Chúa. Vậy nếu Thiên Chúa đã thiết lập những quy luật tự nhiên thì đương nhiên Thiên Chúa cũng muốn cho vạn vật vận hành theo đúng quy luật tự nhiên mà Ngài đã thiết lập. Chỉ thỉnh thoảng khi nào có một lý do thật quan trọng thì Chúa mới cho một sự kiện xảy ra ngoài những quy luật tự nhiên đó (và khi đó là phép lạ).
Vậy lý do quan trọng khiến Chúa làm phép lạ là gì? Thường là Ðức Tin. Phép lạ xảy ra để đáp ứng một lòng tin mạnh mẻ vững vàng - hoặc để mời gọi những người chứng kiến càng tin mạnh mẻ vững vàng hơn.
Trong các sách Tin Mừng chúng ta đã đọc thấy nhiều lần trước khi làm phép lạ chẳng hạn trước khi chữa cho một người mà từ thuở mới sinh Ðức Giêsu hỏi "Con có tin không ?" Người đó tuyên xưng đức tin thì Chúa mới làm phép lạ. Ngược lại, đối với vua Hêrôđê không tin mà chỉ muốn có phép lạ để xem cho thoả thích hiếu kỳ thì Ðức Giêsu không làm một phép lạ nào hết. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng thế: những người đồng hương với Ðức Giêsu ở Nagiarét một mặt khinh thường Ðức Giêsu chỉ là con của một bác thợ một nghèo nàn tầm thường, nhưng mặt khác khi nghe biết Ðức Giêsu đã làm nhiều phép lạ ở những nơi khác thì cũng muốn Ðức Giêsu làm phép lạ ở quê hương Nagiarét cho họ hưởng nhờ thì Ðức Giêsu cũng không chịu làm phép lạ chỉ để thoả mãn tính vụ lợi của họ.
Có những người rất nhẹ dạ dễ tin: chuyện gì hơi lạ một chút cũng coi là phép lạ.
Có những người rất hay cầu xin phép lạ: phép lạ được trúng số, phép lạ được khỏi bệnh.
Không phải chúng ta không nên tin cũng như không nên cầu xin nữa. Nhưng sau những phân tích nãy giờ, chúng ta hãy lưu ý: điều quan trọng nhất trong các phép lạ không phải là khía cạnh lạ thường, khía cạnh lợi lộc của chúng, mà chính là Ðức Tin: phép lạ xảy ra là vì Ðức Tin: hoặc để đáp ứng đức tin mạnh mẻ của con người, hoặc để mời gọi con người qua đó mà càng tin vững hơn vào Thiên Chúa.
Ở Lộ Ðức, ở Fatima, ở La Salette v.v.... khi mà những biến cố lạ thường xảy ra làm nhiều người xôn xao thì Giáo Hội vẫn im lặng. Chỉ sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng một thời gian dài rồi thì Giáo Hội mới tuyên bố đấy là phép lạ. Giáo Hội cẩn thận như vậy là để khỏi rơi vào mê tín dị đoan. Thiết tưởng mỗi người chúng ta cũng phải cẩn thận như thế trước những điều xảy ra có vẻ khác thường, bởi vì Ðức Tin của chúng ta không phải là nhẹ dạ, mê tín, mà là một đức tin có nền tảng vững chắc, trong sáng.
Rồi trong cuộc sống đạo của chúng ta, điều quan trọng mà chúng ta phải chú ý hơn hết là cố gắng rèn luyện cho đức tin của mình càng ngày càng vững mạnh trong sáng hơn. Nói cụ thể:: tôi giữ đạo, tôi làm theo những điều Chúa dạy là vì tôi thực sự tin vào Chúa... chứ không phải vì tôi mong Chúa sẽ làm phép lạ cho tôi giàu có, cho tôi trúng số, cho tôi khỏi bệnh một cách lạ lùng... Những điều đó nếu thấy cần thì chúng ta cứ cầu xin, và Chúa nếu thấy rằng tốt thì sẽ ban cho chúng ta. Nhưng chúng ta không nên chỉ giữ đạo vì những điều đó. Chúng ta giữ đạo vì chúng ta tin vào Chúa. Tin vào Chúa chẳng những khi cuộc sống thoải mái dễ chịu, nhưng dù cuộc đời có gặp lúc gian nan, túng thiếu., bệnh tật, buồn khổ... chúng ta vẫn một niềm tin son sắt vào Chúa. Ðó mới là một đức tin vững mạnh.
5. Có tin mới thấy
Tại một vùng của nước Pháp, dân chúng có tập tục rất lạ. Ðó là vào sáng sớm Chúa Nhật Phục sinh khi hồi chuông đầu tiên của nhà thờ vang lên, tất cả mọi người đều trổi dậy chạy ra giếng làng để rửa mắt với giòng nước mát lạnh.
Nhiều bạn trẻ không hiểu vì sao lại chạy ra giếng rửa mắt, trong khi ngày nay gia đình nào cũng có các vòi nước trong nhà.
Lúc ấy các vị bô lão mới giải thích: Ðó là hình thức cầu nguyện bằng hành động, qua đó dân làng cầu xin Thiên Chúa ban cho họ đôi mắt đức tin mới, để họ thấy Ðức Giêsu Phục sinh đang hiện diện sống động giữa họ.
XXX
Với con mắt định kiến, thiển cận và hẹp hòi, những người đồng hương với Ðức Giêsu đã không nhận ra khuôn mặt thật của Người. Họ không tin Người là một tiên tri, lại càng không thể tin Người là Ðấng Cứu Thế, và chắc chắn họ chẳng ngờ mình là người đồng hương với Con Thiên Chúa.
Chính lòng ghen tỵ là một trong những nguyên nhân khiến "các tiên tri không được kính trọng ở quê hương mình" (Lc.4,24). Mc. Kenzie nói: "Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tỵ nhìn bằng kính hiển vi".
Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy quá khứ rất đỗi bình thường của Người. Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy hiện tại của Người không một chút hào quang.
Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy nơi Người một bác thợ mộc rất mực âm thầm, khiêm tốn.
Chính vì không tin nên họ đã không thấy. Thấy đây là thấy toàn vẹn khuôn mặt của Thiên Chúa. Thấy đây là thấy Người bằng cái nhìn luôn đổi mới. Thấy đây là thấy với con mắt đức tin. Tác giả thư Do thái viết: "Ðức tin là bảo đảm cho những gì ta hy vọng, là bằng chứng cho những gì ta không thấy" (Dt.11,1). James Woodbridge viết: "Ðức tin là con mắt để nhìn thấy Chúa, là bàn tay để nắm lấy Người, là sức mạnh giúp ta tự hiến cho Người".
Cho dù Thiên Chúa là Ðấng toàn năng, Người có thể làm được mọi sự. Nhưng Người phải bó tay trước sự cứng lòng của con người. Người đã trở nên bất lực trước những kẻ thiếu niềm tin. Và quả thật, "Người đã không thể làm được phép lạ nào" tại quê hương mình. Thế mới biết con người có khả năng cản trở Thiên Chúa, con người có toàn quyền từ chối quà tặng của Người.
Nếu Phép lạ là quà tặng của Thiên Chúa, cần được đón nhận với Niềm tin ; thì chính Niềm tin là ân huệ của Thiên Chúa chỉ có thể nhận được với lời cầu nguyện. Cần phải cầu nguyện để có Niềm tin. Nhà bác học kiêm triết gia Pascal đã nói: "Ðể có niềm tin con người phải quì gối cầu xin".
XXX
Lạy Chúa, còn bao nhiêu việc lạ lùng Chúa muốn làm cho đời chúng con, xin Chúa ban thêm Niềm tin cho chúng con, để nhờ đó Chúa được tự do thực hiện những kỳ công của Người. Xin giúp chúng con cũng biết gieo rắc Niềm tin Chúa trong lòng mọi người. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
6. Mạnh và yếu
Câu chuyện sau đây có thể giúp chúng ta hiểu được lời của Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay: "Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,10)
Hai người nghèo đi từ thành phố này đến thành phố khác để xin ăn. Một người rất vạm vỡ khoẻ mạnh và không bao giờ đau yếu, còn người kia thì ốm tong teo và hầu như lúc nào cũng bị bệnh. Anh chàng khoẻ mạnh thường cười chê anh chàng ốm yếu khiến chàng này rất buồn, anh cầu xin Chúa trừng phạt anh kia.
Khi hai người đến thủ đô thì vừa gặp lúc trong triều đình có chuyện buồn, là hai vị quan thân cận nhất của nhà vua vừa mới chết. Một người là cận vệ của nhà vua, người khoẻ mạnh nhất nước ; người kia là thái ý của nhà vua, người chữa bệnh giỏi nhất nước. Nhà vua sai người đi khắp nước để tìm hai người thay thế, và cuối cùng người ta cũng tìm được.
Nhưng trước khi bổ nhiệm hai người ấy vào chức vụ, nhà vua bảo họ hãy đưa ra bằng chứng về tài năng của mình. Người ứng cử vào chức cận vệ thưa: "Muôn tâu thánh thượng, hãy mang đến cho hạ thần người nào khoẻ mạnh và to lớn nhất. Thần sẽ giết chết hắn ngay lập tức chỉ bằng một cú đấm". Người ứng cử vào chức thái y thưa: "Xin hãy mang đến cho hạ thần người nào ốm yếu bệnh tật nhất. Thần sẽ chữa người đó hết mọi thứ bệnh chỉ trong vòng một tuần lễ."
Người ta lại đi tìm đối tượng cho hai ứng cử viên ấy thi thố tài năng. Và thật là bất ngờ, chính hai người ăn mày trên được chọn. Chỉ bằng một cú đấm, người ứng cử vào chức cận vệ đã giết chết người ăn mày to khoẻ. Và chỉ trong một tuần lễ, người ứng cử vào chức thái y đã chữa người ăn mày ốm yếu hết mọi thứ bệnh. Thế là sức mạnh của người ăn mày to khoẻ lại khiến anh phải chết, còn sự ốm yếu của người ăn mày bệnh tật lại giúp anh khoẻ mạnh !
Thánh Phaolô đã nói rất đúng: "Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh". Người ta thường không té ngã vì yếu, nhưng vì tưởng mình mạnh. Thánh Phaolô biết mình yếu, nhưng đồng thời Ngài cũng biết bù đắp sự yếu đuối của mình bằng sức mạnh vô địch của Chúa, "vì sức mạnh của Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối (của con người)". (Viết theo Flor McCarthy)
7. Dụ ngôn sống động về chung hiệp đại kết
Năm 1940 một thanh niên Tin Lành người Thụy Sĩ dừng xe đạp trước một ngôi làng hẻo lánh trong cảnh hoang tàn. Một bà cụ khẩn khoản nói với người thanh niên ấy: "Xin ở lại đây với chúng tôi vì anh thấy rõ chúng tôi sống trong cảnh cô lập." Người thanh niên ấy nay được cả thế giới biết đến với danh xưng thân thương là Thầy Roger. Ðối với thầy Roger, lời mời của bà cụ nói lên ý Chúa dành cho thầy. Khi ấy nước Pháp đang trong tình trạng chiến tranh, đất nước bị chia đôi, ranh giới giữa khu chiếm đóng và khu tự do xuyên qua làng Taizé. Thầy Roger đã kiếm cho mình một nơi ở và bắt đầu một đời sống cầu nguyện và suy niệm. Nhưng hoàn cảnh đặt thầy trước những con người cụ thể bị Ðức Quốc Xã truy lùng để tiêu diệt. Thầy đã đón tiếp và che giấu những người Do Thái đáng thương ấy. Một mình thầy đứng ra săn sóc an ủi những người nam và nữ chạy trốn quân đội Hít-le. Nhưng vì quân Ðức Quốc Xã truy lùng đối tượng gắt gao nên thầy buộc phải trở về quê hương Thụy Sĩ. Năm 1944, thầy Roger trở lại Taizé, lần nầy với 3 đồng chí quyết tâm gầy dựng nên cộng đoàn tu sĩ đại kết rộng mở. Mục tiêu mà cộng đoàn này nhắm thể hiện là trở nên như "bài dụ ngôn sống động về một đời sống chung hiệp". Cộng đoàn chủ tâm dâng lời cầu nguyện để góp phần làm cho các Giáo Hội Kitô được hòa giải. Hai chủ đích ở tâm điểm của sứ mạng theo thầy Roger là: Phải dám liều thân dấn mình vào việc giúp đỡ những người nghèo nhất và hoà giải với đức tin công giáo. Ngay từ ban đầu thầy Roger đã nối kết với Roma bằng những mối dây của niềm tin tưởng. Thầy đã kết thân với 3 vị Giáo Hoàng là Ðức Gioan XXIII, Ðức Phaolô VI và Ðức Gioan Phaolô II. Thầy nói: "Ðức Gioan XXIII đã là cha linh hướng đích thực cho chúng tôi. Chính ngài đã ủng hộ để cộng đoàn Taizé mà ngài gọi là mùa xuân, được chào đời."
Ngày nay cộng đoàn Taizé có cả trăm thành viên Công Giáo cũng như Tin Lành thuộc nhiều truyền thống khác nhau, đến từ hơn 25 quốc gia trên thế giới. Họ không nhận quà tặng nhưng tự mình lao động để góp phần nuôi sống cộng đoàn và chia sẻ với người khác. Họ cũng không nhận cho mình tài sản kế thừa nhưng chỉ nhận làm quà tặng cho người nghèo mà thôi. Kể từ những năm 50, cộng đoàn Taizé đã phái thành viên của mình đến sống nơi những môi trường nghèo trên thế giới. Riêng về nữ tu, có hội dòng thánh Anrê từng được thiết lập trong Giáo Hội Công Giáo đã 7 thế kỷ nay. Kể từ 1966, hội dòng này đã phái người đến ở một làng kế cận Taizé để tham gia việc đón tiếp khách từ thập phương.
Ảnh hưởng của Taizé về đại kết nhất là với người trẻ ở Âu Châu, thật là rõ nét. Ðể nâng đỡ người trẻ, cộng đoàn này đã khơi động một cuộc hành trình về tin tưởng lẫn nhau trên toàn cầu. Taizé không tổ chức người trẻ thành phong trào qui về Taizé, nhưng khuyến khích họ mang lại bình an, hoà giải, niềm tin tưởng lẫn nhau ngay nơi những thành phố, những đại học, những sở làm việc, những giáo xứ. Và như vậy, người trẻ được khuyến khích sống chung hiệp với mọi thế hệ. Về cuối mỗi năm dương lịch, Taizé có tổ chức một cuộc tập họp người trẻ tương đối lớn trong 5 ngày. Cuộc họp giới trẻ đại kết vào cuối năm 1994, thu hút hơn một trăm ngàn người trẻ từ nhiều nước tới họp tại Paris của nước Pháp.
Mỗi dịp tập họp như vậy, thầy Roger gửi đến tay người trẻ một bức thư được dịch ra trên 50 thứ tiếng. Nội dung thư đó bao gồm Lời Chúa như chất liệu để suy niệm suốt năm cho tới cuộc họp cuối năm tới. Thư đó vị sáng lập cộng đoàn Taizé thường viết từ một nơi nổi tiếng về mức sống nghèo của người dân như Calcutta, Chili, Haiti, Êtiôpi, Phi Luật Tân, Phi Châu....
Bởi đâu thầy Roger thực hiện được những việc có ý nghĩa thiêng liêng như vậy? Có lần thầy cắt nghĩa cho thấy thầy đã nhận sứ mạng góp phần hoà giải giữa các Kitô hữu từ nơi bà ngoại thầy. Ngoại của thầy đã từng trải qua hai cuộc chiến (1870 và 1914-1918) và đã từng dặn dò cháu Roger Schultz khi còn tấm bé rằng: "Cháu đừng trải qua những điều bà đã phải trải qua ! Ðừng chấp nhận nhìn cách bàng quan những điều bà đã mắt thấy tai nghe ! Hãy góp phần chuẩn bị để Âu Châu được bình an nhờ biết sống hoà giải giữa các Kitô hữu." Tuy là tín hữu Tin Lành, ngoại đã chọn đến nhà thờ Công Giáo để kín múc lấy sức mạnh hoà giải từ bí tích Thánh Thể. Thực ra ngoại không chỉ nói cũng không chỉ cầu nguyện, nhưng đã nêu gương sống động nhờ biết dấn thân tiếp đón những người già, phụ nữ và trẻ em, phải chạy giặc dưới làn bom đạn. Ngoại đã kiên trì làm việc thương người đó hầu như tới phút cuối cùng của đời ngoại.
Biến cố quyết định cho việc thầy Roger hiến dâng đời mình cho công cuộc hoà giải xảy ra khi thầy lên 17. Khi ấy thầy mắc bệnh lao phổi và nghiệm thấy cái chết không xa. Thầy đối diện với ý nghĩa cuộc đời và tự hỏi do đâu xảy ra đau khổ, hằn thù khiến các dân tộc sát hại nhau. Hỏi rằng có con đường nào giúp người này hiểu người kia để cùng nhau xây dựng hoà bình chăng ? Ðiều trở nên minh nhiên nơi nội tâm thầy Roger là cần phải chữa trị trái tim con người. Thầy nghe tiếng nói thúc giục thầy rằng: "Nếu quả thật có con đường hoà giải đó thì tôi hãy bắt đầu dấn thân bước theo con đường đó đi." Kể từ ngày thầy Roger nghe thấy lời thúc giục đó, thầy quyết tâm tận hiến cả cuộc đời để đạt cho được mục đích lý tưởng nầy để có được sự hoà giải và đại kết trong cộng đồng nhân loại. Nay thầy đã 84 tuổi và quyết định ấy càng thêm khởi sắc. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. LỜi nguyỆn cho mỌi ngưỜi
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã về thăm quê hương, nhưng những người đồng hương ở Nazaret đã không tin Người mà còn muốn hại Người. Chúng ta là Kitô hữu mang tên của Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
1. Xin cho mọi người Kitô hữu trong Hội thánh còn yếu đức tin hoặc còn cứng lòng tin / được soi sáng và thông hiểu / để lớn lên trong đức tin và có thể truyền giáo cho mọi người.
2. Xin cho mọi người trên thế giới còn đang chống đối hoặc dửng dưng với Thiên Chúa / đừng bắt buộc hoặc lôi kéo những người khác phải theo họ / nhưng biết tôn trọng tự do tín ngưỡng của mọi người.
3. Xin cho những người đang có những thành kiến hoặc thất vọng về Thiên Chúa / được gặp nhiều chứng nhân về sự thật và về tình yêu Thiên Chúa / để họ tìm ra ánh sáng và hy vọng.
4. Xin cho các Kitô hữu trong họ đạo chúng ta đừng tự hào mình đã biết tất cả về Chúa / không muốn tìm hiểu học hỏi gì thêm / để chỉ khư khư giữ lấy những thành kiến sai lầm về Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa Kitô, chúng con là Kitô hữu mang tên của Chúa, xin cho chúng con càng ngày càng hiểu biết Chúa đầy đủ hơn, để chúng con có thể giới thiệu Chúa cho mọi người thân cận, Chúa là Ðấng hằng sống hiển trị muôn đời.
Năm 1940 một thanh niên Tin Lành người Thụy Sĩ dừng xe đạp trước một ngôi làng hẻo lánh trong cảnh: TN 14-B43
Năm 1940 một thanh niên Tin Lành người Thụy Sĩ dừng xe đạp trước một ngôi làng hẻo lánh trong cảnh hoang tàn. Một bà cụ khẩn khoản nói với người thanh niên ấy: "Xin ở lại đây với chúng tôi vì anh thấy rõ chúng tôi sống trong cảnh cô lập." Người thanh niên ấy nay được cả thế giới biết đến với danh xưng thân thương là Thầy Roger. Ðối với thầy Roger, lời mời của bà cụ nói lên ý Chúa dành cho thầy. Khi ấy nước Pháp đang trong tình trạng chiến tranh, đất nước bị chia đôi, ranh giới giữa khu chiếm đóng và khu tự do xuyên qua làng Tân Giang (Taizé). Thầy Roger đã kiếm cho mình một nơi ở và bắt đầu một đời sống cầu nguyện và suy niệm. Nhưng hoàn cảnh đặt thầy trước những con người cụ thể bị Ðức Quốc Xã truy lùng để tiêu diệt. Thầy đã đón tiếp và che giấu những người Do Thái đáng thương ấy. Một mình thầy đứng ra săn sóc an ủi những người nam và nữ chạy trốn quân đội Hít-le. Nhưng vì quân Ðức Quốc Xã truy lùng đối tượng gắt gao nên thầy buộc phải trở về quê hương Thụy Sĩ. Năm 1944, thầy Roger trở lại Tân Giang, lần nầy với 3 đồng chí quyết tâm gầy dựng nên cộng đoàn tu sĩ đại kết rộng mở. Mục tiêu mà cộng đoàn này nhắm thể hiện là trở nên như "bài dụ ngôn sống động về một đời sống chung hiệp". Cộng đoàn chủ tâm dâng lời cầu nguyện để góp phần làm cho các Giáo Hội Kitô được hòa giải. Hai chủ đích ở tâm điểm của sứ mạng theo thầy Roger là: Phải dám liều thân dấn mình vào việc giúp đỡ những người nghèo nhất và hoà giải với đức tin công giáo. Ngay từ ban đầu thầy Roger đã nối kết với Roma bằng những mối dây của niềm tin tưởng. Thầy đã kết thân với 3 vị Giáo Hoàng là Ðức Gioan XXIII, Ðức Phaolô VI và Ðức Gioan Phaolô II. Thầy nói: "Ðức Gioan XXIII đã là cha linh hướng đích thực cho chúng tôi. Chính ngài đã ủng hộ để cộng đoàn Tân Giang mà ngài gọi là mùa xuân, được chào đời."
Ngày nay cộng đoàn Tân Giang có cả trăm thành viên Công Giáo cũng như Tin Lành thuộc nhiều truyền thống khác nhau, đến từ hơn 25 quốc gia trên thế giới. Họ không nhận quà tặng nhưng tự mình lao động để góp phần nuôi sống cộng đoàn và chia sẻ với người khác. Họ cũng không nhận cho mình tài sản kế thừa nhưng chỉ nhận làm quà tặng cho ngươì nghèo mà thôi. Kể từ những năm 50, cộng đoàn Tân Giang đã phái thành viên của mình đến sống nơi những môi trường nghèo trên thế giới. Riêng về nữ tu, có hội dòng thánh Anrê từng được thiết lập trong Giáo Hội Công Giáo đã 7 thế kỷ nay. Kể từ 1966, hội dòng này đã phái người đến ở một làng kế cận Tân Giang để tham gia việc đón tiếp khách từ thập phương.
Chung hiệp với mọi thế hệ trên toàn thế giới
Ảnh hưởng của Tân Giang về đại kết nhất là với người trẻ ở Âu Châu, thật là rõ nét. Ðể nâng đỡ người trẻ, cộng đoàn này đã khơi động một cuộc hành trình về tin tưởng lẫn nhau trên toàn cầu. Tân Giang không tổ chức người trẻ thành phong trào qui về Tân Giang, nhưng khuyến khích họ mang lại bình an, hoà giải, niềm tin tưởng lẫn nhau ngay nơi những thành phố, những đại học, những sở làm việc, những giáo xứ. Và như vậy, người trẻ được khuyến khích sống chung hiệp với mọi thế hệ. Về cuối mỗi năm dương lịch, Tân Giang có tổ chức một cuộc tập họp người trẻ tương đối lớn trong 5 ngày. Cuộc họp giới trẻ đại kết vào cuối năm 1994, thu hút hơn một trăm ngàn người trẻ từ nhiều nước tới họp tại Paris của nước Pháp.
Mỗi dịp tập họp như vậy, thầy Roger gửi đến tay người trẻ một bức thư được dịch ra trên 50 thứ tiếng. Nội dung thư đó bao gồm Lời Chúa như chất liệu để suy niệm suốt năm cho tới cuộc họp cuối năm tới. Thư đó vị sáng lập cộng đoàn Tân Giang thường viết từ một nơi nổi tiếng về mức sống nghèo của người dân như Calcutta, Chili, Haiti, Eâtiôpi, Phi Luật Tân, Phi Châu?.
Bởi đâu thầy Roger thực hiện được những việc có ý nghĩa thiêng liêng như vậy? Có lần thầy cắt nghĩa cho thấy thầy đã nhận sứ mạng góp phần hoà giải giữa các Kitô hữu từ nơi bà ngoại thầy. Ngoại của thầy đã từng trải qua hai cuộc chiến (1870 và 1914-1918) và đã từng dặn dò cháu Roger Schultz khi còn tấm bé rằng: "Cháu đừng trải qua những điều bà đã phải trải qua! Ðừng chấp nhận nhìn cách bàng quan những điều bà đã mắt thấy tai nghe! Hãy góp phần chuẩn bị để Aâu Châu được bình an nhờ biết sống hoà giải giữa các Kitô hữu." Tuy là tín hữu Tin Lành, ngoại đã chọn đến nhà thờ Công Giáo để kín múc lấy sức mạnh hoà giải từ bí tích Thánh Thể. Thực ra ngoại không chỉ nói cũng không chỉ cầu nguyện, nhưng đã nêu gương sống động nhờ biết dấn thân tiếp đón những người già, phụ nữ và trẻ em, phải chạy giặc dưới làn bom đạn. Ngoại đã kiên trì làm việc thương người đó hầu như tới phút cuối cùng của đời ngoại.
Cần chữa trị trái tim con người
Biến cố quyết định cho việc thầy Roger hiến dâng đời mình cho công cuộc hoà giải xảy ra khi thầy lên 17. Khi ấy thầy mắc bệnh lao phổi và nghiệm thấy cái chết không xa. Thầy đối diện với ý nghĩa cuộc đời và tự hỏi do đâu xảy ra đau khổ, hằn thù khiến các dân tộc sát hại nhau. Hỏi rằng có con đường nào giúp người này hiểu người kia để cùng nhau xây dựng hoà bình chăng? Ðiều trở nên minh nhiên nơi nội tâm thầy Roger là cần phải chữa trị trái tim con người. Thầy nghe tiếng nói thúc giục thầy rằng: "Nếu quả thật có con đường hoà giải đó thì tôi hãy bắt đầu dấn thân bước theo con đường đó đi." Kể từ ngày thầy Roger nghe thấy lời thúc giục đó, thầy quyết tâm tận hiến cả cuộc đời để đạt cho được mục đích lý tưởng nầy đ36 có được sự hoà giải và đại kết trong cộng đồng nhân loại. Nay thầy đã 84 tuổi và quyết định ấy càng thêm khởi sắc.
Hỏi rằng tinh thần hoà giải và đại kết mà thầy Roger khơi dậy nơi các Kitô hữu Aâu Châu và trên thế giới, nhất là nơi người trẻ, có liên quan gì đến bài Tin Mừng hôm nay nói về dân làng Nadarét từ khước Ðức Kitô?
Khởi sự ta nên cùng với Ðức Gioan Phaolô II, nhìn toàn bộ lịch sử Kitô giống như một con sông duy nhất có nhiều nhánh sông mang nước về. Năm 2000 mời gọi chúng ta gặp gỡ nhau với một sự trung thành mới và bằng một sự hiệp thông sâu xa trên bờ sông của con sông lớn này, con sông Mạc Khải, con sông Kitô giáo và con sông Giáo Hội chảy qua lịch sử nhân loại, bắt đầu bằng biến cố xảy ra ở Nadarét, rồi ở Bêlem, cách đây 2000 năm. Ðúng đây là con sông với những chi nhánh của mình, theo cách nói của Thánh Vịnh, "đem niềm vui cho thành đô của Nước Trời" (45/46,5) - Tiến Tới Thiên Niên Kỷ thứ 3, số 25.
Ta lưu ý về sự hiệp thông trên bờ sông thay vì trong con sông Kitô giáo và con sông Giáo Hội. Ðức Thánh Cha có ý nói tới một sự hiệp thông trong tình thần có thể được thực hiện ngay trên bờ sông, không phải chờ cho tới khi có một sự hiệp thông hoàn toàn.
Ðối diện với Ðức Giêsu Ðấng Thiên Sai, ngay từ ban đầu đã có sự bất đồng ý kiến trong việc chấp nhận Người. Ðức Giêsu đã tỏ ra là Ðấng có uy quyền trong lời nói (Mc 4) và trong hành động (Mc 5). Thế nhưng dân làng Nadarét từng sống với Người ba mươi mấy năm lại không tin vào Người! (Mc 6,6) Vấn đề muôn thuở sẽ là: Những ai đã có định kiến về Ðức Giêsu phải là người như thế này thế kia, giống như người này người kia mà thôi, những người ấy không thể nào lãnh hội được điều được mạc khải về căn tính của Ðức Giêsu.
Vượt khỏi thành kiến và óc địa phương để có thể chung hiệp
Vậy khi Ðức Giêsu cất tiếng giảng nơi hội đường về Nước Thiên Chúa đã đến gần (Mc 1,15), thì dân làng Nadarét khởi sự thán phục (Mc 6,2) nhưng rồi trở nên nghi ngờ và chống đối (cc 2b và3a). Cuối cùng họ không tin, tức là khước từ hoàn toàn. Phép lạ mà Ðức Giêsu thực hiện chính là cách Ngài đáp ứng lại niềm tin của con người được ơn phép lạ. Vì thế Người nói với bệnh nhân được chữa lành: "Lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mc 5,34). Ngược lại, Ðức Giêsu từ khước làm phép lạ theo lời yêu cầu của người Pharisêu bởi vì họ không tin (8,11-12). Cũng nên nói thêm rằng bài Tin Mừng hôm nay nói tới "anh em" và "chị em" của Ðức Giêsu thì nguyên văn Hy Lạp là adelphos, chỉ về họ hàng bà con nói chung, không có ý nói về anh chị em ruột thịt.
Công việc hoà giải và đại kết của thầy Roger thật đáng thán phục. Công cuộc ấy, quả thật ngược hẳn với thành kiến địa phương của dân làng Nadarét. Bước tới thiên niên kỷ thứ ba mọi người Kitô thành tâm thiện chí đều ước ao có nhiều vị ngôn sứ như thầy Roger.
Một số câu hỏi gợi ý
Bạn tâm đắc được gì về thầy Roger: Thầy thấy cần phải chữa trị trái tim con người? Bạn hiểu như thế nào về cuộc chữa trị đó? Thầy nói "nếu quả thật có con đường hoà giải đó thì tôi hãy bắt đầu dấn thân bước theo con đường đó đi!" Nhưng thầy còn thâm tín đó là một quyết định có giá trị cho tới khi thầy chết và nay thầy càng lúc càng đến gần hơn giờ phút ấy!
Bạn nghĩ gì về thái độ của dân làng Nadarét ? Nghe Ðức Giêsu giảng, ban đầu họ thán phục, kế đến họ nghi ngờ và chống đối, cuối cùng họ từ khước và hoàn toàn không tin.
Cha Ta hằng làm việc, thì Ta cũng làm việc” (Ga.5: 17). Đó là câu Đức Giêsu nói với người: TN 14-B44
“Cha Ta hằng làm việc, thì Ta cũng làm việc” (Ga.5: 17). Đó là câu Đức Giêsu nói với người Do Thái khi họ tra vấn tại sao Ngài chữa bệnh vào ngày sabát, tức ngày nghỉ theo luật của người Do Thái. Thiên Chúa luôn làm việc: Ngài lôi kéo con người đến với Ngài. Ngài có thể dùng biến cố này biến cố kia, hoặc người này người kia, hoặc ngay cả những giới hạn của mỗi người để giúp con người đến gần Thiên Chúa.
1. Vẫn có một tiên tri ở giữa họ
Tiên tri thường được nhiều người hiểu như người biết trước biến cố sẽ xảy ra. Một người như vậy, cho thấy người đó có quyền năng của Thiên Chúa. Thế nhưng theo đúng nghĩa, tiên tri là ngôn sứ, người đại diện Thiên Chúa nói với dân chúng, người nói với dân chúng theo lệnh của Thiên Chúa. Tiên tri, là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện và quan tâm đến dân Ngài.
Trong lịch sử Do Thái, Thiên Chúa luôn yêu thương và săn sóc dân. Người Do Thái đã nhận ra các thẩm phán, các vua, là những người được Thiên Chúa xức dầu, là những người thay Thiên Chúa dẫn dắt và chăn dắt dân. Môsê là người được Thiên Chúa chọn để dẫn dân ra khỏi Aicập (Xh.3: 9-10), Samson là thẩm phán được Thiên Chúa dùng để giải phóng dân khỏi cảnh đàn áp của người Philitinh (Tp.13-16), Samuel là thẩm phán được sai tới để chăn dắt dân.
Tiên tri là người biết nhìn lịch sử, nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa trong cuộc sống mà nhiều người khác không nhận ra. Cũng có tiên tri không muốn thi hành chức năng “nói nhân danh Thiên Chúa cho dân” vì vị tiên tri biết rằng, mình có loan báo, thì dân chúng và những người lãnh đạo dân cũng chẳng nghe; như vậy, rao giảng chẳng có ích lợi gì mà chỉ chuốc lấy sự thù ghét và tai họa. Về điều này, tiên tri Yêrêmia là một điển hình. Lời Chúa trong sách tiên tri Êdêkiel hôm nay cho thấy, cho dù dân chúng có không nghe lời cảnh báo của Thiên Chúa qua tiên tri, thì ít nhất khi một tiên tri thi hành chức năng ngôn sứ của mình, cũng làm cho con người thời đại đó biết rằng, có một tiên tri đang hiện diện giữa họ: Thiên Chúa vẫn đang quan tâm và săn sóc lo lắng cho họ, cho dù họ có vâng nghe Thiên Chúa hay không.
2. Dầu vậy Đức Giêsu cũng chữa một vài bệnh nhân
Đức Giêsu được dân chúng cho là một tiên tri, và là một tiên tri lớn (Mt.16: 14). Với người Do Thái, Môsê là một tiên tri lớn. Người Do Thái vẫn mong ước vị tiên tri lớn cỡ tầm mức Môsê xuất hiện; vì như xưa Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu qua Môsê, thì khi vị tiên tri lớn tầm cỡ của Môsê xuất hiện, Thiên Chúa cũng sẽ làm những điều trọng đại cho dân tộc Do Thái như ngày xưa Ngài đã làm.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, đã chữa lành nhiều bệnh nhân, đã phục sinh người chết, đã cho kẻ điếc được nghe người câm nói được kẻ què được đi. Ngài là một tiên tri, và là một tiên tri lớn. Chính Gioan tẩy giả cũng nghĩ rằng Đức Giêsu là vị tiên tri phải đến, vị tiên tri mà dân Do Thái hằng mong ước. Có thể đó là lý do tại sao Gioan lại sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến không?” Đã có lúc dân Do Thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, vì họ nghĩ rằng Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân khỏi ách thống trị của người Roma (Ga.6: 15).
Không có tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương mình. Người ta quá thành kiến về quá khứ hoặc thành phần giai cấp xã hội của vị ngôn sứ, nên không nhận ra sứ điệp hoặc sự can thiệp của Thiên Chúa qua họ. Khi Đức Giêsu trở về làng Nadarét, dân chúng đã không tiếp đón Ngài như một tiên tri, cho dù làng Nadarét là một làng nhỏ, và dân chúng nơi đó cũng không thông thái gì hơn những người ở thành thị khác ở đất nước Do Thái. Vì họ thiếu niềm tin, nên Đức Giêsu không thể làm những dấu lạ cả thể, Ngài phải ra đi. Tuy vây, “Ngài cũng đã làm một vài dấu lạ bằng cách đặt tay chữa lành một số người ốm đau bệnh tật”. Thiên Chúa vẫn luôn chứng tỏ sự hiện diện và quan tâm của Ngài đối với con người, cho dù con người có cố tình từ chối. Đức Giêsu là sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa cho con người, không chỉ đối với những người làng Nadarét, nhưng còn cả đối với tất cả người Do Thái thời đó, và còn cho tất cả con người của mọi thời đại sau nữa. Đức Giêsu là dấu chỉ và biểu tượng Thiên Chúa đang ở với con người.
3. Ơn Ta đủ cho con
Trước biến cố ngã ngựa trên đường đi Đamát, Phaolô là nỗi kinh hoàng đối với Kitô hữu. Tuy nhiên một khi được ơn trở lại, Phaolô lại là dấu chỉ của Thiên Chúa quyền năng, Đấng luôn hoạt động và làm con người trở lại với Ngài. Cả cuộc đời còn lại, Phaolô hăng say loan báo Tin Mừng Phục Sinh: Thiên Chúa đã làm những điều cả thể cho con người nơi Đức Giêsu Kitô. “Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi cả, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi”. Với những người biết Phaolô, Phaolô là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa luôn hoạt động nơi con người.
Với cá nhân Phaolô, “cái dằm” đâm vào xác thịt của Phaolô lại là điều Thiên Chúa dùng để làm Phaolô ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa và làm Phaolô gần gũi với Thiên Chúa. “Đã ba lần tôi xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt tôi, nhưng Ngài nói: ơn Ta đủ cho con”. Thiên Chúa không cất “cái dằm” khỏi Phaolô, nhưng Thiên Chúa hứa ban ơn để Phaolô vượt lên được: “Ơn Ta đủ cho con”.
Nhiều người cũng có cái dằm nơi xác thịt mình. Có lẽ những người này cũng có kinh nghiệm xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt mình. Nhiều người trong họ có kinh nghiệm “cái dằm” đó vẫn tồn tại cho dù họ đã thành khẩn kêu xin Chúa nhiều lần. Tuy nhiên, không biết những người này có ý thức được rằng: câu Thiên Chúa nói với Phaolô cũng là câu Thiên Chúa muốn nói với mỗi người không? “Ơn Ta đủ cho con”. Hãy tin tưởng nơi Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã khởi đầu những điều kỳ diệu nơi mỗi người, thì cũng chính Thiên Chúa là Đấng sẽ hoàn thành những gì Ngài đã khởi đầu. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài vẫn đang hoạt động nơi mỗi người qua Thánh Thần của Ngài. Chỉ cần mỗi người tin tưởng và đặt tất cả hy vọng nơi Ngài mà thôi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Xin bạn kể một kinh nghiệm Thiên Chúa đã hoặc đang tác động trên bạn, nếu được.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy nêu lên những khó khăn mà tất cả các ngôn sứ hay các: TN 14-B45
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy nêu lên những khó khăn mà tất cả các ngôn sứ hay các tông đồ gặp phải, đặc biệt khi họ loan báo sứ điệp của mình cho những người đồng hương của mình.
Ed 2: 2-5
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhận được sư điệp phải loan báo cho những người đồng hương của ông, những người lòng chai dạ đá nầy, một sứ điệp cứng rắn về việc phải thay lòng đổi dạ.
2Cr 12: 7-10
Thánh Phao-lô hãnh diện về những ơn đặc sủng mà mình đã lãnh nhận, nhưng thánh nhân cũng đã gặp phải không biết bao nhiêu khó khăn trong suốt sứ vụ tông đồ của mình: thủ thách cá nhân (“như một cái dầm đâm vào thân xác”), những bách hại, chống đối, nhục mạ, vân vân.
Mc 6: 1-6
Đức Giê-su trở về Na-da-rét đem đến cho những người đồng hương của Ngài giáo huấn của mình, nhưng đụng phải thái độ không hiểu và ngờ vực của họ. BÀI ĐỌC I (Ed 2: 2-5)
Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en là tư tế Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, đồng thời cũng lãnh nhận ơn gọi ngôn sứ. Đây là trường hợp đặc biệt.
Ê-dê-ki-en đã sống trong một thời đại bi thảm: đế quốc Ba-by-lon đã chinh phục xứ Pha-lệ tinh, triệt hạ thủ đô Giê-ru-sa-lem, phá hủy Đền Thờ và vương quốc Giu-đa. Dân chúng bị đưa đi lưu đày và sống ở đất khách quê người trong cảnh nghèo khổ, trải qua từ những nghi lễ huy hoàng ở Đền Thờ đến một tôn giáo trơ trụi, nội tâm. Sứ mạng chính yếu của ngôn sứ Ê-dê-ki-en là làm cho những kẻ lưu đày hiểu ý nghĩa của sự thử thách mà họ đang phải chịu để họ thay đổi “trái tim bằng đá thành trái tim bằng thịt”.
Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay là bài trình thuật về ơn gọi của ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Bài trình thuật nầy nêu bật quyền năng bất khả kháng của tiếng gọi Thiên Chúa và trước sự siêu việt của Thiên Chúa, con người cảm thấy mình hư vô và nhỏ bé. Tuy nhiên, bài trình thuật nầy cũng làm cho hiểu rằng dù chỉ là một phàm nhân nhưng ngôn sứ trở nên vĩ đại biết bao dưới tác động của Thiên Chúa.
1. Thần Khí nhập vào tôi:
Thần Khí không là một ngôi vị biệt phân với Đức Chúa, nhưng một sự thôi thúc đến từ Thiên Chúa, “hơi thở của Ngài”.
Thần Khí nhập vào ngôn sứ và làm cho vị ngôn sứ đứng dậy, nghĩa là, nếu chỉ cậy dựa vào sức lực của riêng mình, con người chỉ là thọ tạo yếu đuối và nghiêng ngữa; nhưng khi được Thiên Chúa nắm bắt, vị ngôn sứ là một con người đứng thẳng, kiên cường trong sứ mạng của mình.
2. “Hỡi Con Người”.
Đây là đặc ngữ Do thái, không có nghĩa nào khác ngoài “con người” nhưng muốn nhấn mạnh tính chất “phàm nhân”: một sự đối lập giữa sự vô nghĩa của phàm nhân và chiều kích cao cả của Thiên Chúa. Chính luôn luôn dưới danh xưng nầy: “Hỡi con người, hãy đứng cho thẳng Ta sắp phán với ngươi” mà vị ngôn sứ được Thiên Chúa chỉ định. Một cách nào đó, Thiên Chúa đòi hỏi nơi vị ngôn sứ đức tính khiêm hạ của một kẻ vô danh, như thử Thiên Chúa trao gởi một sứ mạng càng cao trọng bao nhiêu thì thừa tác vụ của ông càng phải khiêm tốn và nhỏ bé bấy nhiêu.
Diễn ngữ nầy sẽ mặc lấy một ý nghĩa khác trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, ở đó “Con Người” vừa là một thành viên của nhân loại vừa thuộc nguồn gốc thần linh. Chính theo ý nghĩa nầy mà Đức Giê-su sẽ áp dụng cho mình tước hiệu nầy.
3. Một dân phản loạn.
Lời của Đức Chúa thì cứng rắn: “Một dân phản loạn…một bọn người mặt dày mày dạn và lòng chai dạ đá”. Đây sẽ là ngôn từ của Ê-dê-ki-en, một trong những ngôn từ nghiêm khắc nhất chưa bao giờ được viết ra chống lại tội lỗi của dân Ít-ra-en. Vị ngôn sứ không khoan nhượng một chút nào. Theo ông, dân Chúa chọn đã chẳng bao giờ thật sự trung thành với Thiên Chúa của mình. Vị ngôn sứ lên án tội lỗi của vua chúa, quần thần, tư tế và của mọi người, và ông loan báo cơn giận khủng khiếp của Thiên Chúa bằng những từ ngữ rắn rõi. Từ cảnh lưu đày của mình, ông thấy thành thánh Giê-ru-sa-lem hoang tàn đổ nát: “Hỡi con người, ngươi hãy nói với con cái dân ngươi; ngươi hãy bảo: Khi Ta cho gươm đến trừng phạt xứ nào, thì dân xứ ấy sẽ chọn một người trong số họ và đặt làm kẻ canh gác cho mình” (33: 2).
Những biến cố của 587 trước Công Nguyên sẽ sớm chứng tỏ cho dân phản loạn nầy rằng “có một ngôn sứ ở giữa họ”. Ảnh hưởng tinh thần của Ê-dê-ki-en rất sâu xa sau cái chết bất ngờ của ông ở giữa cảnh lưu đày vào năm 571 trước Công Nguyên.
BÀI ĐỌC II 2Cr 12: 7-10
Trong vô vàn những khó khăn nảy sinh giữa vị tông đồ và các tín hữu Cô-rin-tô, đáng kể là những lời chỉ trích phê bình về chức vụ tông đồ của thánh nhân, đến từ “các Tông Đồ siêu đằng” (11: 5), “những kẻ đội lốt tông đồ của Đức Ki tô” (11: 13), họ sửa sai giáo huấn của thánh nhân, và vu khống hoạt động của thánh nhân là “sống theo tính xác thịt” (10: 2).
Để lấy lại niềm xác tín của các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô buộc phải tự biện hộ cho chính mình. Thánh nhân trình bày những đau khổ mà mình phải chịu và những ơn đặc sủng mà mình đã đón nhận (thị kiến, xuất thần, “được nghe những lời khôn tả mà không được phép nói lại” [12: 4]).
1. “Cái dằm đâm vào thân xác”.
Thánh nhân không muốn để cho mình bị mắc vào thói tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường đã nhận được nầy, vì thế, “để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dầm đâm vào”.
Các nhà chú giải luôn luôn tự hỏi lời nầy ám chỉ đến cái gì. Họ đã so sánh bản văn nầy với một đoạn văn của thư gởi tín hữu Ga-lát: “Anh em biết: nhân khi thân xác tôi đau ốm, tôi đã loan báo Tin Mừng cho anh em lần đầu tiên. Mặc dầu thân xác tôi là một dịp thử thách cho anh em, anh em đã không khinh, không tởm; trái lại anh em đã tiếp đón tôi như một sứ giả của Thiên Chúa, như Đức Giê-su Ki tô” (Gl 4: 13-14). Người ta đã nghĩ đến một khuyết tật bẩm sinh nào đó. Khoa ảnh tượng xưa trình bày thánh nhân lúc thì với đôi mắt lồi, lúc thì với đôi mắt lé. Người ta cũng đã gợi lên những xao xuyến tâm lý, như nỗi buồn phiền của thánh nhân vì đã không hoán cải được những người Do thái, đồng bào của thánh nhân, “anh em trong xác thịt của ngài”.
2. “Đã ba lần, tôi xin Chúa…”
Con số “ba” xem ra chỉ cường độ lời cầu nguyện của thánh nhân; cũng như Đức Giê-su ở trong vườn Ô-liu đã cầu nguyện ba lần.
Thánh nhân đã luôn luôn cầu nguyện với Thiên Chúa. Thánh nhân không cầu nguyện với Đức Ki tô, nhưng luôn luôn cầu nguyện với Chúa Cha mà ngài gọi ở đây là Chúa, tước hiệu mà thánh nhân thích gán cho “Đức Giê-su Ki tô, Chúa chúng ta” hơn.
3. “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”.
Chúng ta nhận ra rất rõ văn phong của thánh Phao-lô ở nơi biện chứng mạnh mẽ-yếu đuối. Càng xóa nhòa công sức của kẻ làm việc cho Thiên Chúa, càng bày tỏ quyền năng Thần Khí ở nơi mình. Hể có dịp là thánh Phao-lô lập lại tư tưởng nầy.
Lời kết của thánh nhân vừa khái quát vừa ám chỉ đến những xúc phạm và những xao xuyến mà các tín hữu Cô-rin-tô đã bắt ngài phải chịu; ngài cho họ hiểu rằng thái độ của họ sẽ không làm thay đổi thái độ của ngài luôn luôn cậy dựa vào Thiên Chúa.
Chương 12 nầy, mà chúng ta chỉ đọc một đoạn trích, là một chứng liệu duy nhất để hiểu biết thánh Phao-lô. Không có những lời thú nhận nồng nàn nầy, chúng ta chỉ có một cái nhìn đại thể rất bất toàn về những thử thách của thánh nhân và những kinh nghiệm thần bí của ngài. Tâm tính bốc lửa của thánh nhân được bày tỏ ở đây rõ hơn nơi nào khác – một sự trộn lẫn đáng ngạc nhiên của tính tự phụ và đức khiêm hạ - và niềm tin bất trị của thánh nhân vào Đức Ki tô.
TIN MỪNG Mc 6: 1-6
Đây là lần đầu tiên Đức Giê-su có dịp trở lại nơi chôn nhau cắt rốn của Ngài kể từ khi Ngài thi hành sứ mạng công khai của mình. Làm thế nào Ngài có thể bỏ quên những người mà Ngài đã chia sẻ cuộc sống trong nhiều năm mà không mang Tin Mừng đến cho họ được chứ?
Chắc chắn Ngài không mong chờ họ sẽ hồ hỡi đón tiếp Ngài. Mới đây thân nhân của Ngài từ làng Na-da-rét đến thành Ca-phác-na-um toan tính bắt Ngài về, vì cho rằng Ngài mất trí. Đức Giê-su đã không bận lòng đến cách hành xử của họ; Ngài cũng đã ám chỉ một sự đoạn tuyệt: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12: 49-50; Mc 3: 35; Lc 8: 21).
Quả thật, chuyến viếng thăm Na-da-rét của Ngài kết cục là một sự thất bại. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều trình thuật biến cố nầy, bài tường thuật của Lu-ca cung cấp nhiều tình tiết nhất (Lc 4: 16-30).
1. Thân thế và nghề nghiệp.
“Đến ngày sa-bát, Đức Giê-su vào giảng dạy trong hội đường”. Đây là phương thức rao giảng của Ngài. Ngài đã làm như vậy ngay từ đầu sứ vụ công khai của Ngài trong hội đường Ca-phác-na-um (1: 21). Đây cũng là phương thức mà thánh Phao-lô sẽ chọn. Phương thức nầy thành công đến mức các văn sĩ Do thái ghi nhận rằng không có các hội đường, Ki tô giáo sẽ không tràn lan… Chúng ta nên biết rằng hội đường là nơi tụ họp chứ không tế tự, bởi vì những hy lễ chỉ được tiến dâng ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Các tín đồ quy tụ ở đây để cầu nguyện, đọc và giải thích Kinh Thánh, hát những bài Thánh Vịnh, đặc biệt vào ngày sa-bát.
Người đọc và giải thích Lời Chúa được chỉ định trước hoặc được chọn ở giữa những người tham dự. Vào ngày sa-bát nầy, trong hội đường Na-da-rét mà Đức Giê-su đã thường lui tới, Ngài là người đọc và giải thích (Lu-ca xác định bản văn mà Ngài đã đọc và giải thích). Giáo huấn của Ngài làm mọi người kinh ngạc: “Ông ta được khôn ngoan như thế, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” Người ta khâm phục tư tưởng của Ngài, và ngưỡng mộ những phép lạ mà Ngài đã thực hiện ở những nơi khác. Nhưng rồi người ta xúc phạm Ngài khi nghĩ đến thân thế và nghề nghiệp trước đây của Ngài. Mọi người trong làng nầy ai không biết gia đình của Ngài; bạn bè, họ hàng, bà con thân thích của Ngài hiện đang sinh sống ở giữa họ: Đức Giê-su đã là một con trẻ sinh ra và lớn lên trong làng nầy; Ngài là con bà Ma-ri-a. Còn về nghề nghiệp của Ngài, Ngài chỉ là một anh thợ mộc trong làng. Làm thế nào đôi tay mà họ đã từng thấy Ngài cưa, bào, đục, đẻo vân vân, lại có thể thực hiện những phép lạ được? Lẽ ra họ phải khởi sự tin vào Ngài, thì từ ngạc nhiên thán phục họ lại bổng trở nên thù địch công khai với Ngài.
2. Con bà Ma-ri-a.
Mác-cô không nhắc đến cha của Ngài, ông Giu-se. Phải chăng từ đó suy ra rằng ông Giu-se đã qua đời? Lý do nầy chưa đủ, vì để xác định căn tính của một người, công thức quen thuộc là phải trích dẫn tên cả cha lẫn mẹ, cho dù nếu một trong hai người, hay thậm chí cả hai đã qua đời đi nữa. Có lẽ đúng hơn, khi thánh Mác-cô soạn cuốn Tin Mừng nầy, Giáo Hội tiên khởi đã tin vào việc Đức Giê-su được thụ thai bởi người mẹ đồng trinh rồi (Mt 1: 18-20; Lc 1: 30-35); vì thế, khi tránh nêu tên cha Ngài, ông Giu-se, thánh ký muốn nhấn mạnh một cách kín đáo đức đồng trinh của Đức Ma-ri-a.
3. Anh em của Ngài:
Những “anh em” nầy là những anh em họ của Đức Giê-su. Từ “anh em” theo ngôn ngữ Hy bá có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng (tiếng Hy bá không có từ ngữ riêng biệt để chỉ anh em họ). Trong Kinh Thánh, từ “anh em” có thể để chỉ mối quan hệ họ hàng thân thích gần xa giữa bác hay chú và cháu (St 13: 8), hay anh em chú bác, cô cậu, hay con dì (Lv 10: 4; 1Sb 23: 21). Chúng ta biết hai trong số “anh em” nầy của Đức Giê-su: ông Gia-cô-bê, người sau nầy lãnh tụ Giáo Hội Giê-ru-sa-lem và ông Giô-xê mà mẹ của họ là bà Ma-ri-a, vợ ông Cơ-lô-pát đứng dưới chân thập giá (Mt 27: 56; Mc 15: 40-41; Ga 19: 25).
4. Giá trị lịch sử của câu chuyện:
Thân thế và hoàn cảnh sống của Ngài đã là “chướng ngại làm cho họ không tin vào Ngài”. Phản hứng nầy, về phương diện nhân loại có thể hiểu được, dâng hiến cho chúng ta một lợi ích lớn lao. Không kể đến giai thoại về Đức Giê-su lên mười hai tuổi ở giữa các tiến sĩ Luật trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, phản ứng của dân làng Na-da-rét nầy là ánh sáng duy nhất soi sáng cho chúng ta về cuộc đời ẩn dật của Đức Giê-su trong suốt ba mươi năm: một cuộc đời bình lặng không có gì trổi vượt như cuộc đời của bao nhiêu người Na-da-rét khác.
Không ai có thể nghi ngờ căn tính đích thật của Ngài sống ở giữa họ, một cuộc sống của một con người thi hành nghề nghiệp của mình và đã chu toàn công việc của mình; không có bất kỳ một hành động phi thường nào. Thái độ của những người đồng hương của Ngài là một bằng chứng có giá trị.
Trước sự từ chối của họ, Đức Giê-su trả lời bằng trích dẫn câu thành ngữ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình”. Câu thành ngữ nầy đã thường được kiểm chứng trong lịch sử Ít-ra-en. Bài đọc I đã cung cấp cho chúng ta một ví dụ về ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Nhưng biết bao nhiêu ngôn sứ khác có thể được nhắc đến! Ngôn sứ Ê-li-a bị hoàng hậu I-de-ven bắt bớ phải trốn chạy; ngôn sứ I-sai-a, thất vọng trước sự cứng tin của dân Ít-ra-en, cuối cùng dành riêng sứ điệp của mình cho chỉ các môn đệ của mình; ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị nhục mạ, bị bách hại, vân vân.
Dân Na-da-rét từ chối những dấu chỉ của Nước Trời. Đức Giê-su không thể làm được phép lạ nào tại đó, vì Ngài không gặp thấy niềm tin ở nơi họ. Chỉ vài bệnh nhân hưởng được lòng thương xót của Đức Giê-su. Trong Tin Mừng Mác-cô, không chỗ nào nêu rõ mối tương quan Chúa Giê-su đặt ra giữa đức tin và các phép lạ Chúa làm cho bằng bài trình thuật nầy.
Với bài trình thuật nầy, giai đoạn thứ hai của Tin Mừng đã hoàn tất (3: 7-6: 6). Giai đoạn nầy đã nêu bật chủ đề nền tảng của Tin Mừng. Chúng ta đã gặp thấy nhiều thái độ khác nhau của những người đến và gặp gỡ Ngài, dù dân chúng, môn đệ hay các bà con họ hàng của Ngài, đều đặt ra cho mình “câu hỏi gai góc nhưng then chốt về thân thế sâu xa của Ngài”.
Các Bài Đọc trong Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta thấy phải có con mắt Đức Tin mới dễ nhận: TN 14-B46
Các Bài Đọc trong Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta thấy phải có con mắt Đức Tin mới dễ nhận ra và chấp nhận những con người Chúa sai đến giữa chúng ta. Vì những người Chúa gọi và chọn cũng đều xuất thân từ những gia đình ở giữa chúng ta. Có người xuất thân từ gia đình giầu có, danh giá, trí thức; nhưng nhiều người lại xuất thân từ những gia đình khó nghèo, thuộc tầng lớp bình dân, lao động, nông dân…
Các Tiên Tri Chúa sai đến cũng thường bị nhìn nhận cách sai lầm và thường bị bạc đãi do người ta đánh giá các Ngài theo con mắt người đời hơn là với con mắt Đức Tin nơi Thiên Chúa. Tiên tri Ezekiel trong bài Đọc I hôm nay (Ezekiel 2: 2-5) cũng chỉ là một người tầm thường nhưng đã được “Thánh Thần Chúa thánh hóa và sai đi để can đảm làm nhiệm vụ rất khó khăn, đầy thử thách giữa nghững người có tính kiêu căng, phản nghịch. Vị Tiên Tri đã phải chấp nhận những thái độ chống đối, coi thường ; nhưng luôn can đảm thi hành và rao giảng những mệnh lệnh của Chúa cho Dân Chúa; dù đôi khi những mệnh lệnh đó đi ngược với những thói quen, tật xấu của họ.
Trong Bài Đọc II (2 Corintô 12: 7-10), Thánh Phaolô thú nhận Ngài cũng chỉ là con người mang những yếu đuối của con người, nhưng lời Chúa hứa “Ơn Chúa đủ cho con”, đã giúp Ngài can đảm để đến với Dân Chúa và rao giảng, sửa dạy, ban hành những giới răn tình thương của Chúa. Nhiều khi Ngài cũng bị chống đối, dèm pha, nghi kỵ, vì lời khuyên giảng của Ngài đi ngược với sở thích và nếp sống theo thói tục thế gian của họ. Trong mọi hoàn cảnh, Thánh Phaolô luôn cố gắng để sống như một chứng nhân, một ngôn sứ trung thành của Chúa giữa mọi người.
Bài Phúc Âm (Matcô 6:1-6) nói về việc Chúa Giêsu trở về quê hương để giảng dạy. Mặc dù thán phục về những điều Ngài giảng dạy, và ngỡ ngàng trước cách Ngài giảng dạy, nhưng nhiều người vẫn không bỏ được lối đánh giá Ngài theo con mắt trần tục, và coi thường Chúa; vì trước đó, Ngài cũng đã từng sống với họ, cũng “chỉ là một người thợ mộc bình thường, cha mẹ và anh em họ hàng cũng chẳng có gì sáng giá hơn ai; Vì thế, họ coi thường và xúc phạm đến Chúa.” Chính Chúa Giêsu cũng phải “ngạc nhiên về sự cứng lòng tin của họ!” Vì họ thiếu lòng tin, nên Chúa Giêsu đã không làm một phép lạ đặc biệt nào ở chính quê hương của Ngài.
Những con người Chúa chọn và sai đến giữa chúng ta, dù là các Tiên Tri trong Cựu Ước, dù là các Tông Đồ như Phêrô, Phaolô…, các Linh Mục, Tu Sĩ, tất cả đều là những con người. Tất cả vẫn là những con người với những đức tính tốt, và cả những yếu đuối và khuyết điểm. Nhưng Chúa đã chọn và thánh hiến để sai đến giữa chúng ta, chúng ta chỉ có thể nhìn ra và chấp nhận họ với con mắt Đức Tin và lòng khiêm nhường mà thôi.
Hôm nay, chúng ta mừng Lễ Chúa Nhật vào thời gian toàn thể Giáo Hội đang cầu nguyện cách riêng cho các Linh Mục. Trong “Năm Linh Mục” (từ 19/6/2009 đến 19/6/2010), Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn vào gương mẫu Linh Mục rạng ngời của Cha Thánh Gioan Vianney. Xét về gia cảnh, Ngài cũng xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo; chính bản thân Ngài cũng là một người thợ, một người bình dân, trí khôn tầm thường, nhưng Chúa đã chọn và thánh hóa, biến cải Ngài trở nên một Linh Mục tuyệt vời. Trong “Năm Linh Mục”, chúng ta hãy cầu nguyện nhiều cho các Linh Mục đang âm thầm hoạt động khắp nơi trên thế giới để phục vụ Chúa và nhân loại. Xin Chúa ban ơn thánh hóa và gìn giữ các Linh Mục, và những người Chúa sai đến giữa chúng ta, luôn đủ ơn Chúa để sống xứng đáng những chứng nhân của tình thương xót Chúa giữa mọi người, kể cả những người vô thần chống đối Chúa và Giáo Hội Chúa. Xin cho các ngài luôn tin tưởng vào ơn Chúa trợ giúp, vì “Ơn Chúa đủ cho con!”
Tagore (1861-1941) là một đại thi hào của Ấn Độ, đoạt giải Nobel về văn chương năm 1913: TN 14-B47
Tagore (1861-1941) là một đại thi hào của Ấn Độ, đoạt giải Nobel về văn chương năm 1913, có tài làm thơ ngay khi còn nhỏ tuổi. Lúc còn niên thiếu, thỉnh thoảng Tagore làm một vài bài thơ gửi đăng trên tờ báo do thân phụ của mình đảm trách phần biên tập. Khi thấy những bài thơ gửi đến ký tên con mình, người cha chẳng thèm đọc thơ mà quẳng ngay vào sọt rác vì cho rằng con mình còn nhỏ dại thì biết gì thi ca. Khi hiểu rõ sự tình, Tagore chép lại những bài thơ mà cậu đã gửi đăng báo, không ký tên thật của mình nữa mà lấy một bút hiệu khác rồi gửi lại cho toà báo.
Lần nầy, thân phụ của Tagore nhận thấy đây là những bài thơ có giá trị và cho đăng ngay lên báo mà không hề hay biết đó là những bài thơ của con trai mình, những bài thơ mà trước đây ông đã quẳng vào sọt rác.
Đúng là: "Bụt nhà không thiêng", hay nói như Chúa Giê-su: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi" (Mc 6, 4).
Ngay cả Chúa Giê-su cũng phải chịu cùng một số phận đó. Mặc dù danh tiếng Chúa Giê-su đã vang dội nhiều nơi nhờ những lời rao giảng khôn ngoan, nhờ việc chữa lành nhiều người bệnh tật và nhờ những phép lạ Người làm, thế nhưng khi trở về quê quán, những người đồng hương nhìn vào gia thế thanh bần của Chúa Giê-su, nhìn đến anh chị em họ hàng của Người thuộc hàng dân dã, và ngay cả bản thân Người trước đây cũng chỉ là một anh thợ mộc bình dị trong làng, nên họ không còn quý trọng và đặt niềm tin vào Người nữa.
Họ xì xào bàn tán với nhau: "Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Người" (Mc 6,3)
Bấy giờ Chúa Giê-su nêu lên một nhận định có phần chua xót: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi."
Thế là Chúa Giê-su chẳng làm được phép lạ nào tại Na-da-rét (Mc 6, 5) cho người đồng hương. Người rời bỏ quê nhà đi rao giảng nơi khác.
Tiếc thay, vì đánh giá Chúa Giê-su theo lớp vỏ bên ngoài, dân làng Na-da-rét đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Chúa Giê-su ưu ái dành cho họ.
Việc đánh giá Chúa Giê-su dựa vào gia thế, nghề nghiệp mà không dựa vào phẩm chất của Người đã chứng tỏ cho thấy dân thành Na-da-rét đề cao giá trị vật chất mà xem nhẹ giá trị tinh thần.
Có giai thoại kể rằng một người thù ghét chủ tiệm buôn lớn, đã lợi dụng sơ hở của chủ nhân nên lẻn vào cửa tiệm giữa đêm khuya. Y tháo gỡ miếng giấy ghi giá bán của những mặt hàng có giá trị cao, đem dán vào những mặt hàng rẻ mạt, rồi gỡ miếng giấy ghi giá bán những mặt hàng rẻ mạt gắn vào những món hàng quý báu. Thế là các món hàng quý báu bị mất giá nghiêm trọng còn những món hàng rẻ mạt thì được nâng cao giá trị gấp trăm lần. Hành động quái ác nầy khiến khách hàng không thể nhận ra đâu là giá trị đích thực của các món hàng nên đã mua lầm một cách tai hại (ý tưởng của Frère Phong trong cuốn “mắm muối cho bữa ăn hằng ngày”)
Ngày nay, các giá trị của đời sống con người cũng đang bị đảo lộn y hệt như thế, khiến nhiều người đua đòi chạy theo những điều phù phiếm mà rời xa những giá trị tinh thần và văn hoá cao đẹp.
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên giới trẻ ngày nay đua đòi ăn mặc hợp thời trang, dù phải mặc những loại y phục thiếu nết na và kỳ quái, và cho rằng có như thế mới khẳng định được giá trị của mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên nhiều người sẵn sàng hiến thân làm nô lệ cho tiền bạc, cố tìm cách trở nên giàu sang bằng mọi giá, cho dù phải bán rẻ lương tâm, danh dự và ngay cả thân xác mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên người ta đánh giá con người dựa theo số lượng của cải mà người đó sở hữu chứ không dựa vào phẩm chất cao đẹp bên trong.
Trước thực trạng đó, Công Đồng Vaticano II nhắc nhở mọi người: “Giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu nhưng tuỳ thuộc phẩm chất của mỗi người"
Nguyện xin Chúa Giê-su giúp chúng ta đừng theo vết dân thành Na-da-rét ngày xưa, đánh giá con người theo hình tướng bên ngoài, nhưng biết tôn trọng con người vì phẩm chất cao quý của họ và vì họ là chi thể của Chúa Giê-su và là hiện thân của Thiên Chúa.
Và xin cho nhân loại hôm nay biết nhận ra đâu là giá trị tinh thần cao quý đáng theo đuổi suốt đời và đâu là điều xa hoa phù phiếm không nên quyến luyến ham mê.
Nhìn nhận một Đức Giêsu của lịch sử, người ta dễ dàng chấp nhận. Thế nhưng khi đối diện với: TN 14-B48
Nhìn nhận một Đức Giêsu của lịch sử, người ta dễ dàng chấp nhận. Thế nhưng khi đối diện với một Giêsu của niềm tin, con người như rơi vào hòan cảnh lúng túng. Liệu Đức Giêsu thành Nazareth có phải là Đấng Messia không? Não trạng của dân Do Thái ngày xưa cũng chẳng khác gì con người trong thời đại ngày hôm nay. Mãi mãi Ngài vẫn là một ẩn số trong một phương trình hoặc có một nghiệm, nhiều nghiệm hay vô nghiệm. Con người không thể tự sức mình mà khám phá hết về Chúa Giêsu, chỉ khi nào họ biết khiêm nhường và biết nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu với tâm tình tin tưởng và lắng nghe, lúc đó họ mới có thể biết về Ngài.
Tiên tri Êdêkien sống vào khỏang năm 593-571 trước công nguyên, ông có kinh nghiệm về một dân tộc bội ước quên thề, trong thời lưu đày Babylon, Thiên Chúa sai ông đến với nhà Itrael, đến với một dân tộc ương nghạnh:”Người phán với tôi:”Con người hỡi, Ta sai ngươi đến với nhà It-ra-el, đến với những dân phiến lọan, đã từng dấy lọan chống lại Ta, chúng và cha ông chúng đã từng làm nghịch với Ta, cho đến mãi ngày hôm nay”(Ed 2, 3). Quả là bi đát cho số phận của các Tiên tri, họ luôn phải sống với những con người lọan tặc, và tâm trạng của các Tiên tri là khiếp sợ, vì bị chống đối, bị ruồng bỏ. Chúa Giêsu số phận của Ngài cũng chẳng khác gì với những Tiên tri trong thời cựu ước. Ngài trở về quê hương Nazareth, nơi sinh trưởng của mình. Nhưng lạ lùng thay, dân ở đây không tin vào Ngài. Một cuộc tranh luận xảy ra, Đức Giêsu thành Nazareth là ai? Do đâu mà Ngài có quyền năng trên bệnh tật, thiên nhiên và con người. Các phép lạ xảy ra một cách nhãn tiền. Lý luận mãi cũng không xong, sau cùng người ta quy về thân thế của Ngài:” Ông ta không phải bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuda và Simon sao?”( Mc 6,3). Như thế một cách có chủ ý, người ta phủ nhận một Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, điều này được chứng tỏ khi họ không đón nhận và tin vào Ngài. Chi tiết mà thánh Marcô ghi nhận là Ngài bị xem thường ở chính tại quê hương mình. Dân Do thái ngạc nhiên về những việc làm của Chúa Giêsu, nhưng tiếc thay họ vẫn cứng lòng. Chúa Giêsu cũng biết được điều này khi Ngài thốt lên:”Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính tại quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”(Mc 6, 4).Thiên Chúa đến với con người, nhưng con người vẫn không đón nhận và tin vào Ngài. Trái đất này là quê hương của Chúa, nhưng khi Chúa đến con người vẫn chối từ Ngài. Ngài là Con Thiên Chúa, nhưng người ta vẫn khăng khăng khẳng định Ngài chỉ là con ông thợ mộc Giuse và Mẹ Maria là Mẹ Ngài.
Thế giới ngày nay cũng có vô số những con người không nhìn nhận Thiên Chúa có chủ quyền trên cuộc đời mình. Từ chỗ khước từ Thiên Chúa, họ cũng phủ nhận anh em mình. Vì không có niềm tin, con người sẵn sàng hành động theo bản năng của mình. Một khi sống và làm việc theo bản năng hạ đẳng con người không còn biết tôn trọng phẩm giá của mình và anh chị em xung quanh. Chúa Giêsu đến để kêu mời nhân lọai cộng tác với Ngài xây dựng một cuộc sống chan hòa tình yêu thương.
Trong truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức: TN 14-B49
Trong truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cấy cầy để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề đại sư rất nổi tiếng, ông liền xin song thân đến tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:
Được gặp Võ Tề đại sư chẳng bằng gặp Phật
Dương phủ hỏi:
Phật ở đâu?
Lão tăng bảo rằng:
Ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược là chính Đức Phật đó.
Dương phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bấy giờ ông nhìn kỹ, giống như hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả.
Từ đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa mà là chính cha mẹ ở trong nhà. Đúng như cha ông ta vẫn nói: “Tu đâu cho bằng tu nhà – Thờ cha kính mẹ mới là đạo con”. Thế nhưng, thói đời thì vẫn thường là: “Bụt nhà không thiêng” hay “Gần Chùa gọi Bụt bằng anh”. Người ta xem thường những con người đang chung sống với mình. Ít ai nhận ra điều hay, cái đẹp mà những người thân nhất đang cống hiến cho chúng ta. Có khi còn dửng dưng, xem thường và cư xử thiếu kính trọng với những con người đang sống vì chúng ta. Có nhiều người ở ngoài đời thì nhẹ nhàng, tao nhã, lịch sự, về nhà lại gắt gỏng, chửi chồng đánh con hay đánh vợ chửi con. Có nhiều người thì dễ dàng mở miệng khen ngợi hàng xóm láng giếng, kể cả người dưng nước lã, thế mà, người trong gia đình lại suốt ngày cau có, phàn nàn. Có nhiều người luôn nghĩ cách làm vui lòng hàng xóm nhưng lại tàn bạo thô thiển với gia đình dòng tộc. Có nhiều người luôn tỏ ra đáng yêu trước người dưng nước lã, nhưng lại đáng ghét với người thân họ hàng.Họ chính là những người dại khờ mà cha ông ta bảo rằng: “khôn nhà dại chợ”, hay “làm phúc nơi nao để cầu cao rách nát”.
Đó cũng là thái độ của những người đồng hương với Chúa Giêsu. Họ đã vấp phạm với Chúa. Vì họ quá biết về gốc gác, gia cảnh của Chúa. Con bác thợ mộc và bà Maria đang chung sống giữa họ. Đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Chúa Giêsu. Dù rằng họ thán phục về tài ăn nói lưu loát của Chúa. Dù rằng họ thán phục vì sự hiểu biết Kinh Thánh của Chúa. Dù rằng họ đã chứng kiến biết bao phép lạ mà Chúa đã làm để cứu chữa các bệnh nhân khỏi đau khổ bệnh tật và khỏi cái chết đã định. Nhưng vì sự kiêu ngạo, cố chấp, dân Do Thái đã không chấp nhận một vì Thiên Chúa quá giản dị như Giêsu con của bác thợ mộc thành Nagiarét. Đối với một dân tộc đã từng tự hào có Thiên Chúa ở cùng. Có cánh tay quyền năng của Chúa đã giúp họ đánh bại quân thù. Tâm trí họ chỉ trông đợi một Đấng Messia oai hùng, Đấng sẽ đến trị vì muôn nước và sẽ giúp họ làm bá chủ hoàn cầu. Chính vì lẽ đó, người đồng hương đã không nhận ra Chúa là Đấng Messia và còn có những lời nói, cử chỉ bất kính. Với thái độ cực đoan đó, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm ý của họ với một lời thật xót xa “Không một tiên tri nào được kính trọng tại quê hương mình”.
Đó là cách cư xử bất công của con người ngày hôm qua cũng như hôm nay. Họ đánh giá nhau theo định kiến có sẵn trong đầu. Đôi khi còn bị ác cảm, yên trí về địa vị, gia tộc và quá khứ của một người, khiến chúng ta đánh giá sai lệch và nông cạn về nhau. Thực tế là vậy, khi chúng ta đã không có cái nhìn khách quan sẽ dẫn đến những nhận định bất công và thiếu trung thực. Vì “Yêu ai thì nói quá ưa – Ghét ai nói thiếu nói thừa như không”. Người tốt hay xấu tùy thuộc vào cái nhìn của chúng ta. Có người ở đây được coi là xấu, ở nơi khác lại được đánh giá là tốt. Có người ở nhà được coi là vô tích sự nhưng ở ngoài lại hoạt bát nhanh nhẹn. Có người ở đây được tán thưởng, ngợi khen, về nhà bị khinh bỉ, xem thường.
Phải chăng Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở về thái độ vô ơn và bất cập của chúng ta? Tại sao chúng ta không khuyến khích nhau vươn lên thay vì kèn cựa và nói hành nói xấu lẫn nhau? Tại sao chúng ta không có cái nhìn cái tốt về nhau để sống vui tươi lạc quan, thay cho cái nhìn thiển cận và thiếu yêu thương chỉ dẫn đến đau buồn và thất vọng? Xin Chúa giúp chúng ta đủ khôn ngoan nhận ra giá trị lớn lao của nhau, để có thái độ tôn trọng và tri ân. Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn rộng mở và giầu lòng quảng đại để chúng ta đón nhận nhau trong yêu thương, và nhất là biết đối xử tốt với nhau khi còn đang sống bên nhau, đừng để thời gian trôi qua trong sự tiếc nuối xót xa.. . vì mình đã không một lần đối xử tốt với những người thân yêu mà nay đã không còn. Amen
Sứ điệp phụng vụ hôm nay muốn nhấn mạnh với cộng đoàn chúng ta ý nghĩa nầy: nhịp sống cơ bản của: TN 14-B50
Sứ điệp phụng vụ hôm nay muốn nhấn mạnh với cộng đoàn chúng ta ý nghĩa nầy: nhịp sống cơ bản của cộng đoàn Giáo hội, của đời sống đích thực là kitô hữu đó chính là qui tụ nhau lại chung quanh Đức Kitô để lắng nghe Lời Ngài, để tái diễn Hiến Tế của Ngài, để gặp gỡ và chia sẻ chính Thân Mình Ngài. Chính vì thế, Lời Chúa hôm nay sẽ giúp chúng ta tự vấn thường xuyên về thái độ nghiêm túc hay không của chính mình khi đứng trước Lời Chúa và sự hiện diện của chính Chúa.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta …..
GiẢng LỜi Chúa:
1. Sự kiện thường tình nhân loại: Chuộng cái lạ, thích cái mới…
Tâm lý của con người thường giống nhau điểm nầy; thích cái gì mới lạ, chuộng cái gì ở xa, quí cái gì ít gặp, ít thấy; và dĩ nhiên, hay có thái độ ngược lại; coi thường cái ở gần, coi rẽ cái thường gặp, thường thấy, thường đụng chạm trong cuộc sống.
Trong đời sống đức tin cũng không thoát khỏi cái lề thói không hay nầy. Thật vậy, người tín hữu thường hay chuộng hay kiếm tìm những hiện tượng lạ lùng, những biến cố mầu nhiệm hãn hữu, những phép lạ động trời…mà thường lãng quên, lãnh đạm đối với các mầu nhiệm trọng đại đang hiện diện nơi đây, lúc nầy.
Bằng chứng là năm vừa rồi, chỉ với vài vết nhăn trên bức tượng đá cẩm thạch Nữ Vương Hòa Bình trước Nhà Thờ Đức Bà Sài đã lôi kéo hàng vạn con người đổ về để chiêm ngưỡng, cầu nguyện, tôn kính…Trong khi đó, ở phía sau lưng tượng đá Đức Mẹ đó, có Nhà Tạm với Thánh Thể Chúa Kitô hiện diện từng ngày, từng giờ thì vẫn cứ leo lét chiếc đèn chầu với một ít ông già bà già lặng lẽ cầu nguyện…
Vì thế chúng ta cũng chẳng lấy làm lạ khi tại những nơi vào những ngày đại hội giới trẻ quốc tế, khi ĐGH hiện diện thì có hàng triệu người nô nức đón chào, tập họp để sau đó, cũng tại nơi nầy, có biết bao ngôi thánh đường trống không, hoang vắng, dầu cho nơi những thánh đường nầy có chính Đức Kitô đang hiện diện đầy ắp quyền năng và thân thương, Người mà vị giáo hoàng kia, cho dù thánh đến đâu, thông minh đến mấy, tài giõi dường nào, cũng chỉ là kẻ đại diện thấp hèn, bất xứng.
Tôi có thể đánh cá với anh chị em rằng: mai mốt, hay một ngày nào đó, có Đức Giáo Hoàng ở Rôma hay một Đức Hồng Y của Giáo triều sang thăm chính thức Việt nam tại Tuy Hòa nầy, thì chắc chắn có rất nhiều người bỏ công ăn việc làm, hy sinh mọi thứ để đi đón rước “Đấng Nhân Danh Chúa mà đến”…Nhưng ở đây, trong nhà thờ nầy, nơi Nhà tạm nầy, chính Con Thiên Chúa đang hiện diện trọn vẹn, đầy ắp …thì hỏi thử có được bao nhiêu người đến tôn thờ, cung chiêm bái kính ?
2. Sự kiện trong lịch sử cứu rỗi:
Thái độ xem ra đáng trách nầy Không chỉ có trong Giáo hội hôm nay, mà tận xa xăm vào thời sứ ngôn Ê-dê-ki-en, Dân ưu tuyển của Chúa, Ít-ra-en, cũng đã từng trãi nghiệm một thái độ đức tin thiếu nền tảng và thiếu trưởng thành, như chúng ta vừa nghe công bố qua một trích đoạn sách sứ ngôn Ê-dê-ki-en trong BĐ 1: “Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá…chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng”.
Nhưng cụ thể nhất là câu chuyện về cuộc “hồi hương về làng” của chính Chúa Giêsu do Mác-cô kể lại: Khi nghe Chúa giảng dạy trong hội đường quê hương vào ngày sabat, dân Na-da-rét đã “khinh mạng dể duôi: “Ông Ta không phải là bác thợ, con bà Maria và là anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xết, Giu-đa và Si-mon sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” và họ vấp ngã vì Người. Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở quê hương mình, hay giữa đám thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”…
3. Những bài học cho đời sống đức tin hôm nay:
- Hãy trở nên nghèo, khiêm hạ để đón nhận Lời và sự hiện của Đức Kitô:
Như vậy, không thể gặp được một Đức Kitô, không thể tin được một Thiên Chúa khi con người mang theo trên mình cả “bộ giáp sắt” kiêu căng hợm hĩnh của mình. Hêrôđê, Philatô, các tư tế Do Thái, những đại gia tiền của, thế lực kếch xù…những hạng người đó không có trong hàng ngũ nhưng kẻ tin vào Đức Kitô Đấng Cứu Thế. Quan hệ với Ngài nếu có chỉ là để theo dõi, rình chờ cơ hội hãm hại, bắt bẻ trong lời nói việc làm, phê bình chỉ trích thái độ hành động và ứng xử…và nhất là để kết án, loại trừ.
Muốn đến với Thiên Chúa, muốn gặp gỡ Đức Kitô để nhận được hồng ân, để “ăn mày phép lạ”, thì phải bước theo lộ trình của Tin Mừng. Đó chính là những con đường mà Đức Kitô đã vạch lối chỉ đường:
Hãy trở nên như một em bé: “Nếu không trở nên như em sẽ không được vào nước trời”.
Hãy khiêm hạ như mẹ Maria: “Nầy tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”
Hãy trung thành gắn bó như Phêrô và các tông đồ: “Bỏ Thầy con biết đến cùng ai. Thầy có những lời ban sự sống đời đời”.
Hãy phó thác và để Lời dẫn đưa cho dù đói khát nơi hoang mạc như đám dân nghèo khố rách áo ôm nơi hoang mạc: “Ta thương đám dân nầy, vì họ bơ vơ tất tưởi như chiên không kẻ chăn”.
Hãy quỳ xuống với những giọt nước mắt sám hối như những người tội lối hối cải; Người thu thuế, M.Mađalêna, Giakê, tên trộm…”Lạy Chúa xin thương xót con vì con là người tội lỗi”.
Hãy tin tưởng phó thác đầy lòng trông cậy vững vàng như những người xấu số bạc mệnh: mù què đuôi điếc, bệnh hoạn tật nguyền…”Tôi chỉ đụng vào gấu áo của Người thôi”
Và hãy như Thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay ý thức thân phận hèn yếu của chính mình: “Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sĩ nhục hoạn nạn, bắt bớ ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”
Đón nhận Lời và sự hiện hữu của Đức Kitô ở đâu:
Không phải chỉ ở những đại lễ long trọng với âm thanh to, ánh sáng rạng rỡ, trang trí hoành tráng…mà trong mọi thánh lễ hàng ngày, nơi tòa giải tội giản đơn, nơi các buổi sáng âm thầm rửa tội cho các trẻ em và những buổi hoàng hôn cử hành bí tích xức dầu bệnh nhân cho những ông bà già yếu liệt…
Không phải chỉ ở nơi những thánh điện, thánh đường nguy nga to lớn đồ sộ với các cuộc lễ đại trào với các chức sắc cao cấp của Giáo hội, nhưng cũng còn ở những mái tranh lá ọp ẹp của buôn làng dân tộc, những ngôi nhà nguyện xa xôi hẻo lánh của những thôn làng nghèo khổ của những anh chị em nông dân tay lấm chân bùn…
Đó chính là sự hiện diện êm đềm, bình dị như đứa bé oa oa trong máng cỏ hang lừa thuở nào ở Bê Lem, như chàng thợ mộc ở mái tranh nghèo của Giuse và Maria thành Na-da-rét, của vị Thầy mệt mõi ngủ gà ngủ gậc trên chiếc thuyền tròng trành biển động của Phêrô, như người khách lạ trên đường Emmau sẵn sàng chén tạc chén thù với các môn sinh bên quán nhậu bên đường, hay như một tên tội đồ trần trường bị đóng đinh giữa hai người trộm cướp…
Và sự hiện diện của Lời Chúa và của chính Chúa vẫn đang hiện diện nơi đây, trong Nhà Thờ nầy, trong nhà tạm nầy, trong những con người linh mục mõng dòn yếu đuối nầy, trong cộng đoàn còn mang bao dấu vết của bất toàn, khiếm khuyết nầy…
Chính vì thế, điều quan trọng không phải cứ mãi miết đi tìm một hình tượng Giêsu vinh thắng khải hoàn uy nghi trên mây trời hay trong vương quyền chính trị hùng oai…mà hãy đến cúi đầu thờ lạy Chúa Giêsu ở đây trong hình bánh và hình rượu sắp sửa biến thành mình và máu để nuôi dưỡng và ở lại với chúng ta.
Tóm lại, nếu phép lạ đã không xảy ra nơi quê hương Na-da-rét vì nơi đó dân không đón nhận Lời và sự hiện diện của Đức Kitô với niềm tin khiêm hạ, thì ước gì hôm nay, sự kiện nầy sẽ không tái diễn ở đây, nơi quê hương Tuy Hòa nầy, với chúng ta khi chính nơi đây, giờ phút nầy, cũng chính Đức Kitô đó, cũng chính Thầy Giêsu Na-da-rét đó lại một lần nữa đang trở về công bố Lời Chúa cho ta và tái diễn hy tế cứu độ để đem ta vào hạnh phúc vĩnh cửu.
Chúng ta phải reo lên: “Thì ra Chúa vẫn có ở đây. Ôi !