• Kn 1,13-15; 2,23-24: Thiên Chúa sáng tạo con người cho họ trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên theo hình ảnh bản tính Người.
• 2Cr 8,7.9.13-15: Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: người vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình làm cho anh em trở nên giầu có.
• TIN MỪNG: Mc 5, 21-43
Đức Giêsu chữa một phụ nữ bị băng huyết và cho con gái ông Gia-ia sống lại
(21) Đức Giêsu xuống thuyền lại trở sang bồ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. (22) Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giê-su, ông ta sụp xuống dưới chân Người, (23) và khẩn khoản nài xin: «Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống». (24) Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người.
(25) Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, (26) bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. (27) Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người. (28) Vì bà tự nhủ: «Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu». (29) Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. (30) Ngay lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: «Ai đã sờ vào áo tôi?» (31) Các môn đệ thưa: «Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào tôi?”». (32) Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. (33) Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xẩy ra cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. (34) Người nói với bà ta: «Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh».
(35) Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: «Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?» (36) Nhưng Đức Giêsu nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: «Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi». (37) Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan. (38) Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. (39) Người bước vào nhà và bảo họ: «Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!». (40) Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người vào nơi nó đang nằm. (41) Người cầm lấy tay nó và nói: «Ta-li-tha-kum», nghĩa là: «Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!» (42) Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và người ta kinh ngạc sững sờ. (43) Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Tại sao dân chúng theo Đức Giêsu đông như thế? Họ hy vọng nơi Ngài điều gì? Những người:TN13-B51
1. Tại sao dân chúng theo Đức Giêsu đông như thế? Họ hy vọng nơi Ngài điều gì? Những người đau khổ quanh ta có thường hy vọng nơi ta điều gì không? Tại sao?
2. Đức tin rất cần thiết để nhận được cứu giúp từ Thiên Chúa. Nhưng để cứu giúp tha nhân như Đức Giêsu, đức tin có cần thiết cho ta không? Muốn có một đức tin mạnh mẽ để cứu giúp tha nhân, ta phải làm thế nào?
Suy tư gợi ý:
1. Tại sao người ta theo Đức Giêsu đông thế?
Nhân loại thời nào cũng chìm đắm trong đau khổ. Con người có đủ mọi thứ khổ: giàu cũng khổ, nghèo cũng khổ; có địa vị cũng khổ, không có địa vị cũng khổ; có con cũng khổ, không có con cũng khổ; bệnh thì khổ đã đành, mà không bệnh cũng vẫn thấy khổ… Vì thế, biết ai có thể giúp mình thoát khổ thì mình sẽ chạy đến người ấy. Vì thế, sở dĩ rất đông người đi theo Đức Giêsu vì Ngài luôn luôn có lòng cứu giúp những ai đau khổ, đồng thời Ngài cũng có quyền năng giúp họ thoát khổ.
Chung quanh ta cũng thế, có biết bao người đang đau khổ, nhiều người đau khổ tột cùng. Nhưng có được bao nhiêu người chạy đến với ta, hy vọng ta cứu giúp họ? Họ không hy vọng nơi ta, vì ta chưa có đủ lòng yêu thương để sẵn sàng hy sinh cứu giúp họ, và cũng vì ta không có khả năng cứu giúp họ nữa.
2. Điều kiện phải có để có thể cứu giúp tha nhân đau khổ
Muốn cứu giúp những người đau khổ, điều quan trọng trước tiên là chính ta phải yêu thương họ, thật sự muốn cứu giúp họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh, chấp nhận thiệt thòi, đau khổ cho họ. Đức Giêsu yêu thương mọi người đến nỗi sẵn sàng chịu đau khổ và chết cho họ. Tình yêu đích thực và mãnh liệt ấy đã thúc đẩy Ngài «đi tới đâu thì thi ân giáng phúc tới đó và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế» (Cv 10, 38). Tại sao một người mẹ dám chạy vào trong một căn nhà đang cháy để cứu con mình đang khi những người khác mạnh mẽ hơn lại không dám? Vì bà yêu thương con bằng một tình yêu mãnh liệt, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống cho con mình.
Điều quan trọng thứ hai là ta phải có khả năng cứu giúp họ. Không có khả năng ấy thì có muốn cứu giúp họ cũng không được. Nếu người mẹ vừa nói trên bị què chân không đi được thì dù có yêu con mãnh liệt, bà cũng không thể chạy vào căn nhà cháy được. Nhưng làm sao để có khả năng cứu giúp ấy? Nhờ đâu mà Đức Giêsu có khả năng ấy?
3. Nhờ đâu mà Đức Giêsu có khả năng cứu giúp người khác?
Nếu có ai hỏi ta câu ấy, ta thường trả lời: Ngài là Thiên Chúa đầy quyền năng, làm gì cũng được, vì «đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được» (Lc 1,37). Nói thế rất đúng, nhưng ta quên rằng Ngài cũng hoàn toàn là con người, cũng bị giới hạn như chúng ta khi Ngài nhập thể làm người. Ngài cũng sợ hãi, cũng yếu đuối, mệt nhọc, buồn bã, cũng bị cám dỗ, bị thử thách về đức tin, về lòng trung thành… như chúng ta.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói với những người được Ngài cứu giúp: «Lòng tin của con đã cứu chữa con» (Mc 5,34), «Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi» (5,37). Như vậy, để được cứu giúp, đức tin là chuyện tối cần thiết. Và đó cũng là điều kiện tối cần để có khả năng cứu giúp người khác. Tuy Thánh Kinh không nói trực tiếp như thế, nhưng ta có thể suy ra từ những lời của Đức Giêsu như: «Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em» (Lc 17,5-6). Ngài nói ra câu ấy vì chính Ngài đã cảm nghiệm được chân lý ấy khi tin vào quyền năng của Thiên Chúa ở trong Ngài. Thánh Phaolô cũng nói: «Tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13). Cũng vậy, chúng ta có thể làm được tất cả nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa trong bản thân chúng ta. Chính nhờ tin vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa, cộng với tình yêu và ý chí mãnh liệt muốn cứu giúp tha nhân mà Đức Giêsu có thể chữa lành bệnh tật, đuổi quỷ cho tha nhân, và làm cho người đã chết sống lại. Chúng ta chưa có sức mạnh, chưa làm được những gì chúng ta muốn, chính vì niềm tin vào Thiên Chúa của chúng ta quá yếu kém. Chúng ta chỉ tuyên xưng đức tin mạnh mẽ, rao giảng hùng hồn đức tin ấy, chứ thật sự chúng ta chưa tin đủ vào quyền năng của Thiên Chúa. Đức tin của chúng ta mới chỉ là đức tin lý thuyết chứ chưa phải là đức tin sống động, đích thực.
4. Làm để có đức tin sống động, đích thực?
Muốn tin mãnh liệt và thật sự vào một người nào, ta phải thử nghiệm tính đáng tin của người ấy. Nếu không, ta chỉ là một kẻ cả tin và rất dễ bị lừa dối. Giả như ta là giám đốc một công ty, khi muốn nhận một ai làm quản lý tiền bạc cho mình, hay khi muốn làm ăn lớn với một người khác, ta phải làm gì? Ta cần thử nghiệm tính đáng tin của người đó. Sau khi thử nghiệm cách thật khéo léo, sáng suốt, ta mới dám tin người ấy. Chẳng hạn, ta thử tạo cho người ấy những cơ hội để họ có thể gian lận hay ăn trộm của mình. Ban đầu thử họ bằng một món tiền nhỏ, rồi đến những món tiền lớn hơn, rồi đến những món tiền thật lớn, nếu người ấy vẫn không hề tỏ ra một dấu hiệu muốn gian lận, thì ta mới dám nhận họ làm việc hay làm ăn với mình. Và trong quá trình làm việc hay làm ăn với họ, nếu họ vẫn tỏ ra ngay thẳng, chân thật, thì ta mới giao cho người ấy những công việc quan trọng hơn, hay làm ăn lớn hơn với người ấy.
Cũng vậy, muốn đức tin ta thật sự lớn mạnh chứ không chỉ lớn mạnh trên nguyên tắc hay lý thuyết, ta cũng phải sống đức tin của mình trong những chuyện rất cụ thể hằng ngày. Ban đầu ta cần thật sự dấn thân tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa trong những trường hợp nho nhỏ đòi hỏi sự tin tưởng phó thác. Chắc chắn ta sẽ cảm nghiệm được quyền năng của Ngài tỏ ra những trường hợp ấy nếu ta dám thật sự tin tưởng phó thác cho Ngài. Nhờ kinh nghiệm đó, ta dám dấn thân tin tưởng Ngài trong những trường hợp lớn hơn, và rồi sẽ cảm nghiệm được quyền năng của Ngài trong những trường hợp lớn hơn ấy. Cứ tiếp tục như thế, niềm tin của ta vào Thiên Chúa sẽ lớn mạnh theo thời gian. Nếu không thực nghiệm như vậy, đức tin của ta mãi mãi vẫn chỉ là thứ đức tin lý thuyết, chưa phải là thứ đức tin thực nghiệm và sống động.
Người viết bài này đã và đang thử nghiệm như vậy, nhờ đó ngày càng chứng nghiệm được sự hữu hiệu của niềm tin vào quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa. Điều này tùy thuộc rất nhiều vào việc tôi có “dám” dấn thân thật sự cho niềm tin trong những biến cố hay thử thách lớn hơn mà Ngài để xảy đến cho cuộc đời tôi hay không. Đặc biệt trong những việc đòi hỏi tôi phải “dám” bất chấp nguy hiểm, bấp bênh… để dấn thân làm theo đòi hỏi của lương tâm, của thánh ý Ngài. Nếu tôi vẫn cố bám vào những bảo đảm của trần gian mà không dám liều làm theo thánh ý Ngài, tôi sẽ không chứng nghiệm được quyền năng của Ngài trong những trường hợp ấy, và niềm tin của tôi sẽ ngừng tại đấy, không phát triển nữa. Nhưng quả thật, bất cứ trường hợp dấn thân nào, tôi cũng đều nhận thấy quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện thật sự. Nhờ đó, đức tin của tôi ngày càng tăng trưởng và trở nên vững mạnh hơn.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, sống theo một thứ đức tin rẻ tiền, không dám hy sinh, không muốn chấp nhận mất mát thiệt thòi gì vì đức tin ấy, mà cứ mong muốn được bảo đảm, được an toàn, thì rất dễ, và đức tin ấy không phát triển được. Mãi mãi đó là một thứ đức tin lý thuyết, giả hiệu hay «đức tin chết», không ích lợi cho ai cũng như cho chính bản thân. Xin giúp con dám thật sự liều sống theo đức tin của mình trong đời sống hằng ngày, nhất là trong những gì lương tâm và thánh ý Cha đòi hỏi, để con cảm nghiệm được sự quan phòng bảo vệ đầy quyền năng của Cha cùng với sự an bình và niềm hạnh phúc trong tâm hồn phát xuất từ sự dám liều ấy. Có như thế, đức tin của con mới ngày càng thăng tiến để có thể hữu ích cho Cha, cho tha nhân, và cho bản thân con.
Không biết trong lịch sử loài người có giai đoạn nào mà cuộc chiến bảo vệ và bênh vực sự: TN13-B52
Không biết trong lịch sử loài người có giai đoạn nào mà cuộc chiến bảo vệ và bênh vực sự sống lại quyết liệt như ngày hôm nay không? Những chuyện tiêu cực như tham nhũng, hối lộ, ăn cắp của công, lãng phí tài sản chung, chà đạp nhân phẩm và buôn bán phụ nữ và trẻ em, phá thai, cướp giật, lừa đảo v.v.., chiếm gần hết các trang báo hằng ngày. Người đọc dễ có cảm tưởng rằng thế lực của hủy diệt và tàn phá đang thắng thế và tự hỏi: Phải chăng lực lượng bảo vệ và bênh vực sự sống đang bị yếu thế? - Không, chúng ta không bị yếu thế, vì chúng ta có Thiên Chúa đứng về phía chúng ta, hành động cùng chúng ta. Nhất định chúng ta sẽ chiến thắng!
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: Kn 1,13-15; 2,23-24: Ghen tỵ là nguồn gốc của sự chết chóc.
13 Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. 14 Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất hủy hoại. Âm phủ không thống trị địa cầu. 15 Quả vậy, đức công chính thì trường sinh bất tử.
23 Phải Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. 24 Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết.
(2) Bài đọc 2: 2 Cr 8,7.9.13-15: Của cải dư giả là để giúp đỡ những người túng thiếu.
7 Thưa anh em, cũng như anh em từng trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học được nơi chúng tôi, thì anh em cũng phải trổi vượt về lòng quảng đại trong dịp lạc quyên này nữa. 9 Quả thật, anh em biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có. 13 Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều. 14 Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều, 15 hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 5,21-43: Đức Giê-su chữa một người bị băng huyết và cho con gái ông Gia-ia sống lại (Mt 9:18 -26; Lc 8:40 -56 )
21 Khi ấy, Đức Giê-su xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. 22 Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giê-su, ông ta sụp xuống dưới chân Người, 23 và khẩn khoản nài xin: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống." 24 Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người.
25 Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, 26 bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. 27 Được nghe đồn về Đức Giê-su, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người. 28 Vì bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu." 29 Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. 30 Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: "Ai đã sờ vào áo tôi? " 31 Các môn đệ thưa: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào tôi? " 32 Đức Giê-su ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. 33 Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. 34 Người nói với bà ta: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh."
35 Đức Giê-su còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa? " 36 Nhưng Đức Giê-su nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi." 37 Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an. 38 Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Đức Giê-su thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. 39 Người bước vào nhà và bảo họ: "Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy! " 40 Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. 41 Người cầm lấy tay nó và nói: "Ta-li-tha kum", nghĩa là: "Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! " 42 Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ. 43 Đức Giê-su nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Kn 1,13-15; 2,23-24) là một đoạn văn của sách khôn ngoan cho biết: từ ý định cho đến chương trình và hành động sáng tạo của Thiên Chúa đều là PHÒ SỰ SỐNG. Cái chết, sở dĩ có mặt, là do quỷ dữ ganh tỵ mà ra. Vì ganh tỵ, quỷ dữ mới cám dỗ nguyên tổ phạm tội bất tuân mà ăn trái cấm nên cái chết mới xâm nhập được vào thế gian.
(2) Bài đọc 2 (2 Cr 8,7.9.13-15) là một đoạn văn của thư thứ 2 gửi tín hữu Cô-rin-tô trong đó Thánh Phao-lô vận động họ tham gia cuộc lạc quyên giúp anh chị em đồng đạo ở Giê-ru-sa-lem đang gặp cảnh khó khăn. Lý lẽ mà Thánh Phao-lô Tông đồ đưa ra để thuyết phục tín hữu Cô-rin-tô là hãy noi gương Chúa Giê-su - là Đấng vô cùng quảng đại - mà chia sẻ một phần của cải cho những người túng thiếu, vì của cải dư giả là để “giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu” tức cứu sống những người đang bị cái chết đe dọa.
(3) Bài Tin Mừng (Mc 5,21-43): là tường thuật của Phúc Âm Mác-cô về hai phép lạ mà Chúa Giê-su đã làm, để chữa lành một người phụ nữ bị băng huyết lâu năm và để làm sống lại cô con gái ông Gia-ia là trưởng hội đường. Cả hai câu truyện đều được kể lại cách sinh động với nhiều tình tiết cụ thể và tinh tế. Cả hai câu truyện đều làm nổi bật “lòng tin” của những người chạy đến cầu cứu Chúa và nhất là lòng cảm thông sâu sắc và hành động cứu chữa của Chúa Giê-su, là Đấng đã đến trong thế gian để con người “được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10).
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có hai phần là:
(1o) Thiên Chúa là Đấng đã sáng tạo ra sự sống và là Đấng luôn bảo vệ và bênh vực sự sống ấy, vì sự sống quý giá vô cùng, vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa.
(2o) Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa xuống thế làm người là để bênh vực, bảo vệ và phục hồi sự sống, bằng các phép lạ và bằng chính cái chết và sự phục sinh của Người!
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay bằng cách:
(1o) Luôn trân trọng sự sống mà chúng ta nhận được từ Thiên Chúa và sự sống của người khác. Sự sống được hiểu là sự sống thể lý cũng như sự sống tinh thần và tâm linh.
(2o) Luôn có tâm tình và lời kinh cảm tạ đối với Thiên Chúa là Đấng đã ban sự sống cho chúng ta và cho muôn người, muôn vật.
(3o) Luôn cố gắng bênh vực, bảo vệ và phục hồi sự sống ở nơi ta cũng như ở quanh ta, bằng cách chống lại các thế lực hủy diệt và hỗ trợ các nỗ lực phò sự sống trong gia đình và cộng đồng xã hội.
IV. CẦU NGUYỆN
Kinh của Sự Sống
Lạy Cha rất nhân từ, Sự Sống do chính Cha dựng nên. Cha lại sai Con Một của Cha là Đức Giê-su Ki-tô đến để thánh hoá và duy trì Sự Sống, và chính Thần Khí của Cha là Sự Sống.
Xin Cha thương ngăn chặn ngay những hành vi phá hoại Sự Sống con người, nhất là hành vi nạo phá thai. Vì lầm lỡ, vì yếu đuối, vì ích kỷ, vì hèn nhát, vì thiếu yêu thương, con người chúng con đã mê lầm mà nảy sinh ra điều ác độc. Xin Cha gieo vào lòng con người Tình Yêu và Bình An của Cha, Tình Yêu và Bình An mà thế gian không thể ban cho con người.
Xin Cha hoán cải tâm hồn chúng con, để chúng con luôn nhận ra Cha là Đấng giàu lòng xót thương và đầy nhân ái đối với mọi người. Xin Cha trải lòng thương xót của Cha trên thân phận của chúng con.
Chúng con nguyện xin Cha, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Thánh Cả Giu-se và các Thánh Anh Hài. Amen. Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Nhìn vào số người qua đời trong một cộng đồng tương đối nhỏ trong năm qua, mọi người: TN13-B53
Nhìn vào số người qua đời trong một cộng đồng tương đối nhỏ trong năm qua, mọi người lấy làm lo sợ, vì do tai nạn hay những bệnh khác thì lẻ tẻ, còn do bệnh ung thư thì đã chiếm trên một nửa. Ung thư đúng là chứng bệnh của thời đại: một số tế bào phát triển bất bình thường do sự ô nhiễm và rối loạn của môi sinh, không khí và đồ ăn nhiễm hóa chất độc, quá nhiều tia sóng điện tử làm đảo lộn hệ thống cơ thể, và thêm vào là tình trạng tâm thần bất ổn, luôn bị căng thẳng và quá lo âu trong một xã hội với đà tiến ngột ngạt, khiến nảy sinh mầm mống ung thư. Rồi những mầm ung thư lại phát triển quá nhanh làm hủy hoại tất cả mọi tế bào khác trong một thời gian thật ngắn. Mà cho đến nay thì vẫn chưa tìm ra phương cách nào chữa trị cả.
Đây cũng là điềm thời đại, lúc mà văn minh con người tự phụ đã lên cao điểm, thì cũng là lúc mọi người kinh hoàng nhận ra rằng cả một hệ thống văn minh này đang lâm vào tình trạng ung thư, nghĩa là đang bị lệch hỏng từ cấu trúc, có cái gì mất thăng bằng, không còn hợp với trật tự lớn quân bằng mà Tạo Hóa đã xếp đặt, vì thế mà nẩy sinh sự tự hủy và hủy hoại lẫn nhau một cách khủng khiếp.
NỖI BUỒN THẾ KỶ
Cách đây không lâu, trong báo Time, Robert Wright đã nhận định về hiện trạng “Nỗi Buồn Thế Kỷ” khi mà người Âu Mỹ đang bị cái vòng “văn minh” quay cho xây xẩm mặt mày:
“Trong cuộc sống hằng ngày, có những lúc thật sự có một cái gì không ổn: hoặc là chúng ta bị đè nặng bởi một náo động quá lớn do công việc hằng ngày; hoặc bị làm chai lì vì cảm giác bị xã hội cô lập; hoặc sa lầy trong một tâm tư về cuộc sống vô nghĩa. Cũng có khi bị đảo lộn bởi một tình trạng lo lắng không sao giải tỏa; hoặc không còn cảm thức được ý nghĩa của thời gian vì phải ngụp lặn trong những tuần lễ làm việc dài dài. Dù cho nguồn gốc của những căng thẳng tinh thần là gì, thỉnh thoảng chúng ta vẫn có cảm tưởng đời sống hiện thời không phải là những gì chúng ta mong ước mà chỉ là những gì chúng bị áp đặt.”
Mấy nhà tâm lý về tiến hóa (evolutionary psychology) cho biết lý do: vì cấu trúc xã hội xoay tầm bậy quá khác với cấu trúc di truyền tự nhiên của thân tâm nên sinh bấn loạn. Đưa một hình ảnh bình dân dễ hiểu: một người bị quay một chục vòng rồi buông ra là lảo đảo té xuống ngay, là vì cái nhịp độ ở ngoài và trong cơ thể không đi được với nhau. Cũng giống như một người lần đầu tiên đi tàu, bị nhiều đợt sóng nhồi. Nhịp sóng và nhịp cơ thể không quen nhau thành ra say quá sức.
Như vậy có nghĩa là cấu trúc của xã hội, hay cái nền văn minh này đang bất ổn, không tự nhiên, không hợp cho con người bình thường. Cả một xã hội bị bệnh. Thế giới ngày nay là một môi trường khó sống, thuận lơi để các bệnh tâm thần phát sinh. Con người của thế kỷ này nhiều thô bạo hơn là vị tha hiền hòa. Thân tâm con người không hợp với kiểu sống kỹ thuật quá cao, quá thành thị, mỗi người một hộp vuông tách biệt cô đơn, quá đòi hỏi với những tiêu chuẩn và người mẫu trong Tivi thành luôn cảm thấy bất ổn và bất mãn.
Trước đây “chúng ta đánh giá chúng ta qua người trong làng. Nhưng giờ đây chúng ta so sánh đời sống với rất nhiều giả tưởng trong Ti-Vi. Vợ hoặc chồng mình, cha mẹ, con cái có thể rất là bất tương xứng khi so sánh. Vì thế chúng ta bất mãn với họ, và bất mãn ngay cả với chính chúng ta.”
Các bà cứ phải lo sửa mắt, mũi, miệng, cằm, vì thấy hình người mẫu “model” trên báo mướt thế cơ mà. Các ông thì chê vợ cười chưa tình đủ bằng con tài tử đóng phim. Có biết đâu người ta đã phải tốn cả mấy triệu để kiếm cho ra một đứa tập cười như vậy đấy, chứ về nhà nó là đứa nhăn nhất xóm.
MÁT DÂY CHẠM ĐIỆN
Cách đây mấy năm, giải Nobel về hóa học được trao cho ba nhà bác học khảo cứu về lớp khí ozone bao quanh trái đất là các ông Mario Molina, Sherwood Rowland và Paul Crutzen.
Từ năm 1974 nhiều người đã nói tới lớp khí này bị các chất ga CFC từ những bình xịt, tủ lạnh v.v. ăn mỏng ra, khiến cho khí hậu trở thành nóng lạnh bất thường, vì tầng ozone loãng quá không chắn được sức nóng mặt trời, và không chặn được tia tử ngoại kỹ nữa nên dễ sinh ung thư. Hiện nay ở Nam cực đã bị thủng một lỗ lớn.
Trước đây nhiều nhà buôn chống lại lý thuyết về ozone vì sợ không bán được hàng. Nhưng nay thì các nhà bác học đã chứng minh rành rành! Thì chính con người tạo ra cái bệnh ung thư, mát dây, chạm điện, vì làm mất trật tự của thiên nhiên. Mình đang phải tự trả giá. Hèn chi mấy năm qua xẩy ra nhiều hiện tượng lạ: mùa hè ở miền Bắc Mỹ phía Chicago chết nóng cả mấy trăm mạng; mùa đông lại lạnh quá làm chết nhiều người.
TIN VUI GỬI NGƯỜI TÌM CHỮA BỆNH LẠ
Tách rời khỏi nhịp sống chung của trời đất, đảo lộn trật tự của cuộc tạo dựng và của luân lý là mầm mống của những chứng bệnh bất trị của thời đại. Vì thế mà lâu lâu lại thấy nói tới một thứ bệnh lạ. Như vậy việc chữa trị phải bắt đầu từ một căn bản sâu xa hơn là những kiếm tìm vi khuẩn trong phòng thí nghiệm. Đó là tìm lại niềm tin cho cuộc hiện hữu sinh ra trên mặt đất này, để tìm hòa vào lại nhịp sống đích thật là chính Đấng Tạo Hóa.
Tin Vui tuần này kể lại hai câu truyện chữa bệnh lạ, đặc biệt truyện về "một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã 12 năm, bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: 'Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành'. Lập tức huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh." (Mc 5:25-29).
Niềm tin vào Đức Giêsu là Đấng Toàn Năng đã chữa người đàn bà khỏi thứ bệnh lạ. Mọi rối loạn mất thăng bằng chỉ có thể ổn định khi hòa được vào sức sống mới của Chúa. Mình tin như vậy và rón rén lấy tay chạm đến Người vẫn đang có mặt trong cuộc sống bây giờ. Và mình tìm lại được sinh lực. Đó cũng là cảm nghiệm của một người trẻ sau những rã rời bấn loạn, đã tìm được nhịp sống qua Niềm Tin và ghi lại thành lời tâm sự:
Ta theo nhịp thở miệt mài
Tìm đường lên núi hát bài thánh ca.
Lâu rồi mười mấy năm qua
Bước chân viễn xứ hững hờ niềm Tin.
Soi gương nhìn lại chính mình
Men say đã thấm nhuộm tình đời cay.
Giật mình lạ lẫm thân gầy
Ơ hay có phải ta đây không kìa?!
Kiếp ngắn dài, một mộ bia
Xoay vần cát bụi ngày lìa dương gian.
Dừng chân đếm túi hành trang,
Những gì còn lại chuỗi vàng lời kinh. Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
Không ai có thế đến với tha nhân nếu chính mình không sẵn sàng chạm đến thân thể của ho: TN13-B54
"Không ai có thế đến với tha nhân nếu chính mình không sẵn sàng chạm đến thân thể của họ. Nếu bạn không sẵn sàng chạm đến một người vô gia cư, một người say rượu hoặc một người thật dơ bẩn, thì chính bạn không sẵn sàng phục vụ cho những người đó." (Nhà Tâm Lý Học Charles Gerkin, Đại Học Emory)
Một cử chỉ chạm, một cái ôm và những cử chỉ êm dịu trực tiếp đụng đến thân thể của tha nhân bày tỏ tình yêu thương và chấp nhận họ cách mãnh liệt hơn những lời nói ngọt ngào có thể đem lại được. Cử chỉ chạm là con đường hai chiều: nó ảnh hưởng đến người thụ động cũng như người chủ động.
Trong cuộc sống, chúng ta, ai cũng đã từng đóng vai chủ động và thụ động; nghĩa là ta đã từng chạm đến người khác cũng như được người khác chạm đến. Tôi nhớ lại những lần viếng thăm nhà dưỡng lão cũng như những tháng làm Tuyên Úy trong nhà thương. Mỗi khi đến thăm những người cô đơn cũng như bệnh nhân, họ đều muốn nắm tay tôi khi nói chuyện. Có những lần tôi cầm tay họ cho đến hơn một tiếng mà họ vẫn chưa muốn buông thả. Qua đó, tôi nhận thấy rằng một cử chỉ nhỏ mọn như cầm tay hoặc xoa nhẹ trên vai đều mang lại cho người được chạm cũng như chính tôi một sự bình an, niềm vui và sức sống mới. Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô cũng tả lại hai cử chỉ chạm. Trước hết, người đàn bà bị bệnh xuất huyết hành hạ 12 năm chạm đến Chúa Giêsu. Kế đến là Chúa Giêsu chạm đến em bé gái 12 tuổi. Cả hai cái chạm đều mang lại sự sống và niềm vui cho người chạm cũng như người được chạm. Người đàn bà bệnh đã 12 năm chạm đến Chúa và được chữa lành. Em bé 12 tuổi được Chúa chạm đến được hồi phục sự sống. Trong hai câu truyện, Marcô có đề cập đến một chi tiết giống nhau mà ta cần chú ý, đó là chi tiết 12 năm.
Theo phong tục thời đó, tuổi 12 là tuổi được lập gia đình. Cô bé đã chết trước khi được trở nên một người vợ và người mẹ. Người đàn bà bị bệnh hành hạ làm cho không thể sinh con. Cả hai đều có khả năng cộng tác với Chúa để mang sự sống vào thế gian, nhưng một người bị bệnh hành hạ và một người bị cướp mất chính sự sống. Nhưng, nhờ hai cử chỉ đụng chạm, Chúa Giêsu đã không chỉ cứu hai người nữ này khỏi chết, nhưng đã hồi phục chọ họ khả năng sinh con, một khả năng ban sự sống.
Ta cũng nên nhớ là không phải ai chạm đến Chúa cũng được khỏi. Đám đông chạm đến Chúa nhưng không gì xảy ra. Ngược lại, người đàn bà chạm đến Chúa đã mang lại một phép lạ. Điều khác biệt giữa hai cái chạm là mức độ ĐỨC TIN. Người đàn bà tin mạnh nên được khỏi và đám đông chỉ chạm đến Chúa vì hiếu kỳ nên không gì xảy ra.
Trong cuộc sống hằng ngày, ta chạm đến nhiều người cũng như được nhiều người chạm đến ta. Nhưng, thử hỏi ta chạm đến tha nhân bằng cách nào? Cử chỉ chạm của ta đem lại cho họ một niềm vui, sự bình an và an ủi hay chỉ là một cái chạm thông thường?
Đặc biệt hơn nữa, nếu Chúa Giêsu xuất hiện, đi ngang qua và ta có cơ hội để chạm đến gấu áo của Ngài, ta sẽ chạm đến Ngài với một thái độ hiếu kỳ như đám đông hay với một ĐỨC TIN, như của người đàn bà trong Tin Mừng, là mình sẽ được biến đổi? Thật sự, Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta và chúng ta có cơ hội không chỉ chạm đến gấu áo Ngài, nhưng là chính thân thể Ngài. Đây chính là đặc ân ta được hưởng mỗi khi dự Lễ và rước Chúa vào lòng. Chúng ta đã rước Chúa với thái độ nào?
Xin Lời Chúa hôm nay giúp ta ý thức được đặc ân này và tham dự Thánh Lễ chăm chỉ, dọn mình sốt sàng để rước Chúa vào lòng. Nguyện xin Mẹ Maria, người đã không chỉ được chạm đến Chúa nhưng còn được mang chính Chúa trong lòng, giúp ta luôn biết đặt hết tâm hồn và tấm lòng vào những lời ta đọc trước khi rước Chúa, "Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh."
Nói đến bệnh, có người cho đó là do hậu quả của tội lỗi. Chẳng hạn như: Ăn kẹo sún răng – Uống: TN13-B55
Nói đến bệnh, có người cho đó là do hậu quả của tội lỗi. Chẳng hạn như: Ăn kẹo sún răng - Uống rượu sinh đau bao tử - Ăn nhiều bội thực - Hút thuốc ho lao....
Không phải thế, nhưng tại vì con bệnh đã có sẵn trong mình, khi gặp được môi trường thích hợp thì nó phát triển thêm. Thực ra đau khổ, bệnh, chết... là một vấn đề nan giải. Tất cả nhắc ta nhớ đến sự yếu hèn, mỏng manh của cuộc sống. Nhắc đến sự mất quân bình của thế giới, nhắc ta hướng lòng tìm sự đẹp đẽ hơn ở nơi Chúa.
Bệnh Lao hiện nay có khoảng từ 10 đến 30 triệu người mắc và mỗi năm chết tới 2 triệu người.
Bệnh cùi hơn một triệu. Đó là những bệnh nan y khó trị nhất.
Bài Phúc âm nói đến bệnh loạn huyết người đàn bà chịu 36 năm là một điển hình, nhưng thời Ngài cũng còn bệnh cùi, hủi, đui, điếc, què, liệt, quỉ ám, chết.... mà không vị lang cao tay nào trị được. Còn Chúa Giêsu ngài chữa được hết, nhưng không bằng thuốc mả bằng niềm tin "Tin sao được vậy". Ngài đã làm vì thương họ.
Đáp lại chúng ta có vì thương Chúa mà hiếu kính Chúa cho trọn đạo làm con ? Có trọn nghĩa vụ kẻ thụ ân không ? Có tôn nhận Chúa là Chúa và là Cha nhân hiền không ? Hãy cảm tạ, hiếu kính, tôn nhận Chúa thực trong tâm hồn và trong hành động đáp đền.
Chuyện kể rằng: ông vua kia sinh được người con, ông gửi hoàng tử đi ngoại quốc từ nhỏ để học hành. Sau nhiều năm chiến tranh không liên lạc được và cũng chẳng còn biết con ở đâu. Khi chết vua trối lại cho các cận thần là ông truyền ngôi cho con ở ngoại quốc. Sau ít ngày vua cha chết, bỗng từ 3 nước có ba người con về khóc cha. Các vị cận thần không biết ai là con để truyền ngôi cho. Các vị liền lấy một tấm hình của vua cha vẽ một vòng tròn đen vào đúng trái tim rồi cho ba người nhận làm con bắn với chủ đích: "Ai bắn trung tim vua cha thì người ấy là con, sẽ được nối nghiệp vua cha và chiếm trọn gia tà".
Người thứ nhất dương cung bắn trật. Người thứ hai cũng trật luôn. Người thứ ba dương cung lên nhìn ngắm nhiều lần, nhưng rồi ại buông xuống. Lần cuối cùng chàng ném cung xuống đất rồi òa lên khóc và nói rằng: "Thà rằng tôi mất quyền làm vua, mất của cải chứ không chịu bắn cha tôi".
Mặc dù người con lạc mất, nhưng tâm tình vẫn nhớ đến đấng sinh thành. Người con dù biết làm vua là nối dõi tông đường, nhưng thà mất quyền làm vua và danh vọng để giữ được chữ hiếu, không mướn giết chết lương tâm và sự thật của mình.
Chúng ta cũng được Chúa thương gấp bội như câu chuyện trên, nhưng chúng ta xét lại thấy mình phản bội quá nhiều, yêu chiều ý riêng quá lớn, đam mê đủ thứ, có nhiều khi còn liều lĩnh cả trong luân thường đạo lý.... bắn Chúa đúng tim đem để mình làm chúa, không giống người con thứ ba chút nào. Chúng ta hãy sửa lại, hãy chạy đến với Chúa như viên bách quan biết mình chẳng đáng đón Chúa, hay như bà bị bệnh chỉ cần đụng đến áo Ngài. Chớ gì tấm gương sống động ấy giúp chúng ta suy nghĩ và sống xứng đáng con Chúa, đáng lãnh nhận mão vương nghĩa tử chân thật.
Sau đệ nhị thế chiến, giáo dân thành phố Franfurt tại nước Đức đang trùng tu lại ngôi Thánh: TN13-B56
Sau đệ nhị thế chiến, giáo dân thành phố Franfurt tại nước Đức đang trùng tu lại ngôi Thánh Đường đã bị tàn phá vì bom đạn chiến tranh. Tượng Chúa Chuộc Tội vĩ đại tại chính điện cũng là một công trình nghệ thuật cần phải sửa chữa. Người ta tìm được hết các phần của pho tượng đó, trừ ra hai bàn tay không sao thấy được. Sau nhiều phiên họp bàn tính có nên thuê thợ làm lại hai bàn tay giống hệt như cũ không? Toàn thể giáo dân đều đồng thanh quyết định: Cứ để tượng Chúa không có hai bàn tay; nhưng ở dưới pho tượng đó đề một hàng chữ lớn như sau: "Chúa Kitô không có hai bàn tay, ngoài hai bàn tay của chúng ta".
I. THIÊN CHÚA HẰNG THI ÂN GIÁNG PHÚC
Chúa là Cha Nhân Từ hằng thương yêu săn sóc và thi ân giáng phúc cho chúng ta. Chúa đã tạo dựng nên chúng ta như một thụ tạo đặc biệt tốt lành giống hình ảnh Chúa, được thông phần hữu thể và bản tính Chúa, có hồn thiêng bất tử, không nhiễm nọc độc sự chết, để rồi được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban trên Nước Hằng Sống. Nhưng vì ác quỉ ghen tương, cám dỗ nguyên tổ loài người phản nghịch, bất tuân lệnh Chúa, sa phạm giới răn Người, nên sự chết đã nhập vào trần gian.
Tình thương của Chúa vô cùng rộng lượng, hằng tha thứ mọi tội lỗi của loài người đã xúc phạm đến Chúa. Để thể hiện tình yêu thương tha thứ đó cách hữu hiệu và cân xứng với trọng tội ngỗ nghịch phạm đến Đấng cao cả vô cùng, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể xuống thế làm người, sống kiếp sống phàm nhân như chúng ta, lãnh chịu mọi định luật tự nhiên của con người, để cảm thông chia sẻ mọi nỗi thống khổ, rủi ro bất trắc, khó khăn nghịch cảnh, vất vả như chúng ta. Hơn nữa, Người còn gánh lấy mọi tội lỗi của chúng ta bằng cách lãnh nhận bản án bất công tử hình ô nhục trên Thập Giá, để đền tạ phép công bình Thiên Chúa, cứu chuộc chúng ta.
II. GIÁO THUYẾT BÁC ÁI THI ÂN
Thánh Phaolô trong thư gởi Giáo Đoàn Corintho đã nhắc lại cho chúng ta mẫu gương của Chúa: "Anh chị em đã biết lòng quảng đại của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta; mặc dù giầu sang, Người đã trở thành thân phận nghèo khó, để nhờ sự nghèo khó cùng cực của Người, anh chị em được nên giầu có" (2 Cor 8:9).
Qua gương mẫu cao cả đó, thánh nhân khuyến khích chúng ta, những người được dư giả bù đắp cho những người thiếu thốn, những người giầu có sung túc chia sẻ cho những người nghèo túng, những người khỏe mạnh nâng đỡ những người yếu đuối, những người thông thái khôn ngoan nâng đỡ những kẻ dốt nát quê mùa.
Giáo thuyết bác ái Thánh Tông Đồ dạy chúng ta đây, không chỉ dừng lại nơi những của cải vật chất ở đời này, mà ngài còn khuyên dục chúng ta chia sẻ lòng tin tưởng, sự hiểu biết Thiên Chúa và những ơn phúc chúng ta đã nhận lãnh bởi Chúa cho kẻ khác, để họ cũng được thông phần hạnh phúc của con cái Chúa như chúng ta nữa.
III. HẠNH PHÚC CỦA TÔI LÀ THI ÂN
Trong bài Tin Mừng hôm nay, nhắc lại một vài ơn phúc trong muôn phần, Chúa Cứu Thế đã thực hiện trong cuộc đời công khai truyền bá Tin Mừng lúc sinh thời trên trần gian. Đi tới đâu, Chúa cũng rộng tay thi ân giáng phúc cho nhân loại, Thánh Sử tường thuật biết bao phép lạ Ngài đã thực hiện, để cứu giúp những người cùng khổ nghèo nàn, những kẻ mù lòa, què quặt, câm điếc và mọi thứ bệnh tật... Nhất là Ngài luôn động lòng trắc ẩn thương cảm đến số phận đời đời của tất cả những ai chưa được Ánh Sáng Đức Tin chiếu soi; những kẻ bơ vơ như đoàn chiên không người chăn dắt, những kẻ còn ngồi trong bóng tối sự chết, trong sự tin vơ thờ quấy, trong mê tín dị đoan và tất cả những ai còn bị tội lỗi và quyền lực hỏa ngục cầm buộc.
Kết Luận
Việc làm và quyết định của người Giáo Dân thành phố Franfurt nước Đức trong câu truyện trên đây có một ý nghĩa sâu xa. Họ để cho tượng Chúa Chuộc Tội thiếu hai bàn tay với hàng chữ: "Chúa Kitô không có hai bàn tay, ngoài hai bàn tay của chúng ta", là có chủ ý để nhắc nhở cho họ rằng: Chúa cần dùng hai bàn tay của họ để Ngài tiếp tục sứ mạng Cứu Thế, thi ân giáng phúc cho nhân loại.
Vậy, chúng ta đã thực thi lòng Bái Ái như giáo lý Chúa dạy, như lòng Chúa khát mong và như mẫu gương Chúa đã thực hiện chưa?
- Chúng ta đã chia sẻ cơm bánh, áo quần cho người túng quẫn chưa?
- Chúng ta đã an ủi những người sầu buồn, nản chí thất vọng chưa?
- Chúng ta có thương cảm và cầu nguyện cho những ai chưa nhận biết Chúa để họ cũng được diễm phúc trở nên con cái Chúa như chúng ta chưa?
Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh được bắt đầu từ Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Tuy: TN13-B57
Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh được bắt đầu từ Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Tuy nhiên, ba Chúa Nhật đầu tiên của giai đoạn Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh này lại được Giáo Hội cử hành thứ tự ba Mầu Nhiệm cao cả và hết sức quan trọng đối với đức tin Kitô giáo, đó là Mầu Nhiệm Thánh Thần, Mầu Nhiệm Ba Ngôi và Mầu Nhiệm Thánh Thể, những mầu nhiệm liên quan đến Sự Sống Thần Linh, vì chủ đề của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh là chủ đề về Mầu Nhiệm Chúa Kitô - Sự Sống Tái Sinh, tiếp theo chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tỏ Hiện của Mùa Vọng, Giáng Sinh và Thường Niên Hậu Giáng Sinh, và chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Thông Ban của Mùa Chay và Phục Sinh.
Chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh theo chu kỳ phụng vụ năm B cho thấy rõ ràng qua các bài đọc trong phần Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIII Thường Niên. Trước hết, ở bài đọc một, Sách Khôn Ngoan cho biết sự sống phát xuất từ Thiên Chúa, “Đấng không tạo nên sự chết, cũng không mừng ở tình trạng bị hủy hoại của sinh linh… Vì Thiên Chúa hình thành con người để được bất tử”, còn sự chết phát xuất từ ma quỉ là tên “ghen tương” đã làm cho “sự chết lọt vào thế gian”. Ở bài đáp ca, Thánh Vịnh 30 đã cảm nhận: “Ôi Chúa, Ngài đã đưa tôi lên từ âm phủ, Ngài đã bảo trì tôi khỏi thành phần lao xuống hố thẳm… Ngài đã biến nỗi than khóc của tôi thành niềm hoan hỉ….”. Ở bài đọc thứ hai, bức Thư Thứ Hai của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô đã cho thấy sự sống thực sự của người Kitô hữu là ở chỗ hiệp thông và chia sẻ: “Chính vì anh em được phong phú về mọi phương diện, về đức tin và tài diễn giải, về kiến thức, về tất cả mọi quan tâm cũng như về lòng ưu ái của chúng tôi đối với anh em, mà anh em cũng phải rộng lượng về công việc bác ái nữa… Tình trạng dồi dào của anh em lúc này đây phải đáp ứng các nhu cầu cần thiết của những người khác, để tình trạng dư dật của họ một ngày nào đó lại bù đắp cho cảnh thiếu thốn của anh em…”. Còn ở bài đọc chính là bài Phúc Âm thì sao?
Bài Phúc Âm Thánh Marcô thuật lại hai phép lạ một lúc. Phép lạ chữa cho một người đàn bà bị loạn huyết 12 năm và phép lạ hồi sinh cho đứa con gái của một viên chức hội đường. Tuy nhiên, phần thuật về phép lạ chữa lành bệnh loạn huyết của người đàn bà được Giáo Hội để trong ngoặc đơn, không cần đọc. Nghĩa là Giáo Hội muốn nhấn mạnh đến phép lạ hồi sinh mà thôi, một phép lạ trực tiếp liên hệ tới chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh. Dĩ nhiên Chúa Kitô đến, trước hết và trên hết, không phải là để hồi sinh phần xác con người, mà là phần hồn của họ. Vẫn biết khi cứu độ con người là Chúa Kitô cứu toàn thể con người của họ, tức cứu cả hồn lẫn xác, một thân xác sẽ được phục sinh vào ngày tận thế. Tuy nhiên, nếu cái làm cho con người ra dơ bẩn phát xuất từ bên trong con người mà ra, chứ không phải từ bên ngoài, từ thân xác (x Mt 15:18-20), thì linh hồn con người mới cần cứu trước nhất và trên hết; để rồi, là nguyên lý sống tự nhiên của thân xác, linh hồn chẳng những sẽ là nguyên tố làm cho thân xác sống lại trong ngày sau hết, mà còn là tác nhân sống siêu nhiên cho thân xác nữa, một sự sống thần linh của linh hồn và với linh hồn ngay khi con người con sống trong thời gian và không gian, đến nỗi, như được thấy nơi các vị thánh, thân xác của họ, của các ngài, nhờ được thông phần quyền lực phục sinh của Chúa Kitô, có thể làm được cả những việc phi thường về đức bác ái, (chưa kể đến những đặc sủng làm phép lạ, nói tiên tri v.v.), những việc con người phàm tục và tự nhiên không thể nào tự mình làm được, trái lại, nếu thành tâm, sẽ phải hết lòng cảm phục và nhận ra chân lý.
Thế nhưng, sự sống của linh hồn đây là gì, nếu không phải là “nhận biết” Thiên Chúa (x Jn 17:3). Ngay từ ban đầu sự chết đã lọt vào thế gian vào chính lúc con người phủ nhận Thiên Chúa của mình, tự động tách khỏi nguồn sống linh thiêng của mình, bằng việc làm theo ý riêng, phản ngược lại với ý muốn tối cao vô cùng chân thiện của Thiên Chúa. Đó là lý do, để hồi sinh sự sống thiêng liêng cho con người, “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) đã tỏ mình ra cho họ, để họ có thể thực sự nhận biết Ngài mà được sự sống, mà được tái sinh (x Jn 3:3,5). Chúa Kitô, Lời Nhập Thể, là tất cả những gì Thiên Chúa muốn tỏ cho loài người biết về bản thân toàn thiện Ngài cũng như về ý định toàn mỹ của Ngài, là tuyệt đỉnh Mạc Khải Thần Linh trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Cựu Ước. Người đến “để tỏ Cha ra” (Jn 1:18), để làm cho chung con người và riêng Giáo Hội, qua thành phần chứng nhân tiên khởi, “nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô” (Jn 17:3), nghĩa là để làm cho con người được sự sống, ở chỗ “nhận biết” Thiên Chúa qua Người và nơi Người. Và để làm cho con người, nhất là thành phần môn đệ làm nền tảng cho Giáo Hội của Người sau này, có thể nhận biết Người thực sự là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, Chúa Kitô đã tỏ mình ra cho họ, qua lời người nói và việc Người làm, lời vô cùng khôn ngoan và việc vô cùng quyền phép, những chứng từ được thành phần thiện tâm, dù bị mù từ lúc mới sinh cũng có thể nhận biết chân lý, nhận biết Người (x Jn 9:33,38).
Trong bài Phúc Âm theo Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật XIII Thường Niên năm B, Chúa Kitô đã tỏ mình ra cho riêng viên chức hội đường đến van xin Người chữa bệnh cho đứa con gái 12 tuổi của ông, cũng như cho chung dân chúng nhạo cười Người khi nghe thấy Người nói “con bé có chết đâu, nó chỉ ngủ thôi”, bằng cách hồi sinh đứa con gái vừa bị chết. Việc hồi sinh về phần xác của bé gái này chỉ là phương tiện để Người hồi sinh, đúng hơn, tái sinh sự sống thần linh nơi đám người Do Thái có mặt ở đó bấy giờ, nghĩa là làm cho họ tin Người hơn, chấp nhận Người thực sự là Đấng Thiên Sai, và qua Người, nhận biết Đấng đã sai Người. Đó là lý do, khi ông bố của em gái này được báo tin là em chết rồi đừng phiền đến Người nữa, Người đã trấn an ông bố: “Đừng sợ. Hãy vững tin”. Kết quả là, như bài Phúc Âm trình thuật, “thấy vậy, họ bàng hoàng sửng sốt”.
Thế nhưng, cho dù con người có tin tưởng nơi Người qua những phép lạ Người làm như thế, đức tin của con người vẫn có thể bị lung lay và thử thách, như thành phần môn đệ ở sát bên Thày, nghe thấy Thày, nhìn thấy Thày, đụng chạm Thày (x. 1Jn 1:2), nhưng vẫn bỏ rơi Thày như tất cả mọi môn đệ, nhất là đã cả gan dại dột phản bội Thày như Giuda, và trắng trợn phũ phàng chối bỏ Thày như Phêrô. Đó là lý do Chúa Kitô Phục Sinh, sau khi tái sinh con người bằng nước, tức tái sinh họ bằng những chứng từ Người thực hiện qua nhân tính của Người, Người còn cần phải tái sinh họ trong Thần Linh nữa (x Jn 3:5), sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết (x Jn 20:22; 7:37-39). Có thế, có được rửa trong Thần Linh, họ mới có thể trở thành nhân chứng của Người (x Lk 24:48), Vị Thần Linh sẽ làm chủ tác động họ như một Quyền Lực từ trên cao (x. Acts 1:8), khi Ngài hiện xuống vào ngày Lễ Ngũ Tuần tại Giêrusalem (x Acts 2:1-4). Bởi thế, đức tin trọn vẹn nhất và nguyên chính nhất là đức tin của thành phần nhân chứng tông đồ, một đức tin tông truyền qua hàng giáo phẩm, thành phần thừa kế Thánh Phêrô và tông đồ đoàn. Cũng là một đức tin đã đực rao giảng khắp thế giới cũng qua các vị thừa sai tông đồ, tiêu biểu nhất là Thánh Phaolô.
Chúa Nhật XIII Thường Niên năm nay 2003 theo chu kỳ phụng vụ năm B là ngày 29/6, tức trùng vào chính ngày Lễ Trọng kính hai Vị Đại Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Lễ hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô không phải là Lễ Buộc Obligation, (tức nếu bỏ không dự mà thiếu lý do chính đáng thì mắc tội trọng), như 1 lễ về Các Thánh 1/11, 2 lễ về Chúa là Lễ Giáng Sinh 25/12 và Lễ Thăng Thiên Thứ Năm sau Chúa Nhật Thứ Sáu Phục Sinh, và 3 lễ về Mẹ là Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12, Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1 và Lễ Mẹ Mông Triệu 15/8. Tuy nhiên, trong bốn bậc lễ của Giáo Hội, lễ tùy - optional, lễ nhớ -memorial, lễ kính – feast, lễ có kinh vinh danh như lễ kính từng vị tông đồ, và lễ trọng - solemnity, lễ có cả vinh danh và tin kính, như Lễ Thánh Giuse 19/3, Lễ Truyền Tin 25/3, Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả 24/6, và Lễ Hai Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ 29/6. Những vị được Giáo Hội cử hành ở bậc Lễ Trọng, dù không buộc, có một vai trò quan trọng trong nhiệm cuộc cứu độ, tức liên quan đến đức tin. Thánh Phêrô tiêu biểu cho quyền bính Chúa Kitô trong việc chăn dắt đàn chiên Giáo Hội (x Mt 16:16-18), còn Thánh Phaolô tiêu biểu cho ánh sáng Chúa Kitô chiếu tỏa trước muôn dân (x Acts 13:47).
Thật vậy, những mầu nhiệm của Kitô giáo không phải chỉ là những thực tại liên quan đến “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), như Mầu Nhiệm Ba Ngôi, Mầu Nhiệm Nhập Thể, Mầu Nhiệm Phục Sinh, Mầu Nhiệm Thánh Thể, Mầu Nhiệm Tiền Định, mà còn bao gồm cả những mầu nhiệm khác nữa, như Mầu Nhiệm Thánh Mẫu, Mầu Nhiệm Đau Khổ, Mầu Nhiệm Đức Tin, Mầu Nhiệm Giáo Hội v.v. Giáo Hội quả thực là một mầu nhiệm, ở chỗ, chẳng những Giáo Hội giống như một hạt cải đức tin nhỏ bé nhất, nhỏ bé đến nỗi giác quan không cảm thấy gì, nhỏ bé nhất trong các hạt giống tôn giáo, nhưng lại là một đức tin mọc lên thành một cây vĩ đại nhất, một tôn giáo vươn khắp nơi trên thế giới, mà còn là một tảng đá đầy những hèn yếu xác thịt, nhưng lại bất khuất trước bất cứ một quyền lực thế gian nào, đến nỗi càng bị bắt bớ sát hại từ đầu tới nay lại càng phát triển. Chính Mầu Nhiệm Giáo Hội bền vững là một bằng cớ hiển nhiên và sống động nhất chứng thực Chúa Kitô quả thực vẫn luôn ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế.
1.LỜI CHÚA: Người nói với bà ta: "Lòng tin của con đã cứu con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh" (Mc 5,34).
2.CÂU CHUYỆN: CHÚA BỒNG TA TRÊN CÁNH TAY CỦA NGƯỜI
Một hôm, một chàng thanh niên đang đi bách bộ trên bãi biển vào lúc chiều tà. Bỗng nhiên: TN13-B58
Một hôm, một chàng thanh niên đang đi bách bộ trên bãi biển vào lúc chiều tà. Bỗng nhiên chàng thấy Đức Giêsu đang đi bên cạnh. Bốn dấu bàn chân của hai thầy trò để lại trên mặt cát ướt sau mỗi bước đi. Chàng ta vừa đi vừa nói chuyện với Người. Tuy nhiên, cũng có lúc mải suy nghĩ nên chàng quên đi sự hiện diện của Chúa bên cạnh mình. Khi đi ngược trở lại, chàng ta rất ngạc nhiên khi thấy trên mặt cát lúc thì có 4 dấu chân của hai thầy trò, có lúc lại chỉ có hai dấu chân. Chàng ta liền hỏi Đức Giêsu: "Lạy Chúa, lúc nãy Chúa ở đâu mà để con phải đi một mình như thế ?" Bấy giờ Đức Giêsu liền ôn tồn nói với chàng ta: "Con hãy nhìn kỹ lại xem hai dấn chân in trên cát này là của ai ?" Sau khi nhìn kỹ chàng thanh niên đã xác định được hai dấu bàn chân kia là của Chúa. Chàng ta lại hỏi: "Vậy lạy Chúa, trong thời gian chỉ có hai dấu chân của Chúa thì con ở đâu ?". Đức Giêsu âu yếm trả lời: "Này con, những lúc con lo âu phiền não, hoặc khi con gặp phải gian nan thử thách, Thầy biết con không thể bước đi một mình được, nên Thầy đã bồng con trên đôi tay của Thầy đó !".
3.SUY NIỆM:
+ Thực ra, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta là những kẻ tin cậy vào Người. Bình thường, Người ban cho ta những phương tiện và những quy luật tự nhiên như: Gieo trồng lúa phải đúng thời vụ mới được mùa bội thu; Phải "Tay làm hàm nhai", nghĩa là phải làm việc chăm chỉ và đúng phương pháp mới có bát ăn bát để; Phải "Có công mài sắt, có ngày nên kim" nghĩa là phải kiên nhẫn làm việc mới có ngày thành công; "Thuốc đắng dã tật" nghĩa là khi mắc những chứng bệnh nghiêm trọng cần phải uống thuốc theo toa bác sĩ và đúng liều lượng mới hy vọng được khỏi bệnh... Do đó, ta hãy cầu xin Chúa cho mình có đủ sức khỏe để làm việc, có đủ khôn ngoan để quyết định sáng suốt, có đủ nghị lực để kiên nhẫn vượt qua trở ngại và đạt kết quả theo thánh ý Chúa. Do đó, khi bị bệnh ta không nên xin Chúa làm phép lạ cho mình được khỏi bệnh, mà chỉ nên xin cho được "gặp thầy gặp thuốc".
+ Người đời thường nói: "Hãy đứng trên đôi chân của bạn !", "Hãy làm hết sức mình rồi Trời sẽ giúp". Do đó, trước mỗi công việc, chúng ta cần sử dụng trí thông minh do Chúa ban để suy nghĩ trước khi hành động: "Tôi có nên làm việc này không ? Việc đó lợi hay hại cho tôi và tha nhân ? Nên dùng phương tiện nào để đạt được kết quả nhất ? Có nên nhờ người khác giúp đỡ không ?" Ngoài ra, chúng ta cũng cần rút kinh nghiệm sau mỗi thành công hay thất bại. Cần ý thức rằng: "Gieo trong nước mắt sẽ gặt giữa vui mừng". Một khi đã suy nghĩ và quyết định làm một việc nào, chúng ta vừa phải làm hết sức và hết khả năng, lại vừa phải cầu xin ơn Chúa trợ giúp. Sau khi kết thúc công việc, chúng ta phải tạ ơn Chúa khi được thành công, và nếu chẳng may bị thất bại, chúng ta cũng vẫn tạ ơn Chúa. Vì với cái nhìn đức tin thì: "Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành" và "Mọi sự đều là hồng ân". Tất cả những gì xảy đến cho ta đều là hồng ân của Chúa và đều giúp ta đón nhận được ơn cứu độ đời đời.
4.THẢO LUẬN: Một tín hữu gặp gian nan thử thách lại chỉ biết xin khấn, mà không cố gắng phấn đấu làm hết sức để vượt qua, thì có đức tin mạnh không ? Có phải là thái độ tin thác vào lòng Chúa thương xót không ? Tại sao ?
5.NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊSU. Nhiều lần con đã đến nhà thờ cầu nguyện và tham dự thánh lễ. Tai con đã bao lần được nghe Lời Chúa dạy, bàn tay và môi miệng con đã nhiều lần được chạm đến Mình Máu Chúa, thế mà sao con vẫn chưa được khỏi các đam mê tội lỗi. Xin hãy gia tăng lòng tin cậy mến và sự quyết tâm xa lánh dịp tội cho con, nhờ đó con hy vọng sẽ được ơn Chúa chữa lành như người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay.
Thiên Chúa là chủ sự sống. Ngài đã tạo dựng nên chúng ta và có quyền trên sự sống của chúng: TN13-B59
Thiên Chúa là chủ sự sống. Ngài đã tạo dựng nên chúng ta và có quyền trên sự sống của chúng ta. Khi con người đánh mất sự sống đời đời, chính Chúa Giêsu đã đến để cứu con người khỏi sự chết bằng sự hy sinh trên thập giá, mang lại sự sống đời đời cho loài người.
Trong bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tỏ mình là Đấng ban sự sống, Đấng cứu chữa bệnh tật để con người được sự sống tròn đầy cho loài người chúng ta.
1. Chúa Giêsu chữa bà bị băng huyết 12 năm:
- Trên đường đi chữa bệnh cho em bé, có người phụ nữ bị xuất huyết 12 năm. Bà đã chịu cực khổ và chạy thuốc nhiều năm nhưng bệnh không thuyên giảm mà tiếp tục tăng nặng hơn, khiến bà lúc nào cũng ở trong tình trạng ô uế, phải tránh xa mọi người, sự sống của bà đang cạn kiệt dần dần. Nhờ chạm vào Chúa Giêsu là nguồn sống với niềm tin chân thật, sức mạnh từ Chúa đã chữa lành bà, đem lại cho bà sức sống mới.
2. Chúa Giêsu cho bé gái hồi sinh:
Khi nghe biết con gái ông trưởng hội đường hấp hối, Chúa Giêsu liền đi với ông, nhưng dọc đường, người nhà báo là con ông đã chết. Gia đình ông định bỏ cuộc nhưng Chúa Giêsu đã củng cố lòng tin của họ. Ngài không để đám đông đi theo nhưng cùng với 3 tông đồ thân tín đi đến nhà ông. Chúa Giêsu là Đấng có quyền trên sự sống nên Ngài không ngại đến nhà ông và ban sự sống cho em bé dù em đã tắt thở.
3. Chúa Giêsu tự mình sống lại:
Chúa Giêsu là chủ sự sống, từng ban sự sống chp người khác, dù là người đang bệnh hay đã chết nhiều ngày như Lazarô. Thế nên, khi Ngài cho đi mạng sống mình để cứu chuộc nhân loại như Chúa Cha đã định thì Ngài cũng có quyền chỗi dậy để chúng ta nắm chắc sự sống lại mai sau trên nước Ngài hiển trị.
Chúa Giêsu là sự sống, chúng ta là môn đệ của Ngài phải là những sứ giả đem Tin mừng sự sống đến cho mọi người. Ai gặp khó khăn trong cuộc sống như nghèo khó về vật chất hay tinh thần thì chúng ta phải giúp đỡ họ: bằng lời an ủi, khích lệ cho những ai gặp khó khăn tinh thần; bằng cơm bánh, của cải vật chất cho những ai gặp cảnh túng thiếu. Đó cũng là những gì mà thánh Phêrô trong Bài đọc II nhắn nhủ các tín hữu Corintô: anh em trổi vượt người khác về lòng tin, về hùng biện, sự hiểu biết, thì cũng phải trổi vượt trong việc phúc đức theo gương Chúa Giêsu. Ngài giàu sang đã trở nên thân phận nghèo khó vì chúng ta để nhờ đó, chúng ta trở nên giàu có, từ thân phân nô lệ trở nên con cái thiên Chúa. Vậy chúng ta cũng phải biết giúp đỡ nhau, đem Sự Sống là Đức Kitô ngự trong chúng ta cho thế giới được tràn đầy bình an đời này và nhất là hạnh phúc đời sau.
Lạy Chúa Giêsu là nguồn sức sống của chúng con, xin cho chúng con được đầy tràn sức sống của Chúa để chúng con trở nên những chứng nhân rao truyền sự sống của Chúa trên khắp địa cầu và nhiều người được ơn cứu độ.
4. TIN TƯỞNG VÀO CHÚA KHI GẶP ĐAU KHỔ
Trong thông điệp Spe Salvi của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, số 36, ngài đã nói đến đau khổ là thành phần của cuộc sống con người. Đối với những đau khổ thể lý, con người đã thực hiện được các tiến bộ đáng kể. Nhưng các khổ đau tinh thần lại gia tăng rất nhiều trong những thập niên vừa qua. Đứng trước hiện trạng như vậy, Đức Giáo Hoàng đã kêu gọi con người phải làm hết sức để vượt thắng đau khổ. Thế nhưng, ngài cũng nhấn mạnh việc loại bỏ hoàn toàn đau khổ ra khỏi thế gian này nằm ngoài tầm tay của con người, vì không ai có đủ khả năng khai trừ quyền lực của sự dữ, của tội lỗi vốn là nguồn gốc của đau khổ. Do đó, Đức Giáo Hoàng đã kêu gọi con người hãy đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa trước sự đau khổ của con người, bởi vì chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể chữa lành được những đau khổ của nhân loại.
Những lời kêu gọi chúng ta của Đức Giáo cũng là lời mời gọi trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Maccô đã cho chúng ta thấy hình ảnh người đàn bà bị bệnh băng huyết và ông trưởng Hội Đường tên là Giairô đã đến với Chúa Giêsu trong sự tuyệt vọng vì phải chịu những đau khổ về thể xác và tinh thần mà họ không thể kêu cầu với ai để cứu giúp họ.
Người đàn bà đã đến với Chúa Giêsu trong sự tuyệt vọng, vì đã 12 năm bà phải chịu đau khổ vì một chứng bệnh mà đã nhiều lần chữa trị đều vô hiệu trong đôi bàn tay của nhiều bác sĩ. Bà cũng đã trả tiền chữa trị cho đến những đồng bạc cuối cùng, bà đã tận dụng hết mọi khả năng chữa trị của con người, nhưng cũng không thể chữa lành bệnh cho bà. Tuy bà phải chịu nhiều đau khổ về thể xác như vậy, nhưng có lẽ không bằng sự đau khổ về tinh thần mà bà phải chịu khi sống trong xã hội, khi sống với những người xung quanh. Đối với người Do Thái, một người đàn bà bị bệnh băng huyết bị coi là ô uế và bị cấm đụng đến người khác, vì ai đụng chạm đến bà cũng sẽ trở nên ô uế. Cho nên, nỗi đau khổ của bà là một tình trạng cô độc vì bị mọi người xa lánh, bà không thể đến được với ai và cũng không ai dám đến với bà để có thể an ủi và cảm thông với sự đau khổ mà bà phải chịu trong một thời gian dài như vậy.
Đồng thời, cùng với sự đau khổ của người đàn bà bị băng huyết này, thì sự đau khổ của ông trưởng Hội Đường cũng không kém, ông rất đau khổ vì đứa con gái của ông đang trong cơn thập tử nhất sinh. Và khi ông đến kêu cầu Chúa Giêsu thì người nhà cho ông biết là con ông đã chết, do đó, sự đau khổ của ông đã tăng lên gấp bội vì phải vĩnh viễn mất đi đứa con yêu quý của mình.
Thế nhưng, trong sự đau khổ lớn lao như vậy, họ không thể kêu cầu đến bất cứ ai được nữa, không còn ai có thể giúp đỡ họ khi mà nhu cầu của họ vượt quá khả năng của con người, thì họ đã đặt trọn niềm tin tưởng vào Chúa và Chúa đã chữa lành cho họ. "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh".
Đau khổ là một thực tế mà không ai trong chúng ta trốn tránh được, không ai mà không có đau khổ trong cuộc đời của mình. Hay nói khác hơn, mỗi người đều mang trong lòng mình một nỗi đau, nỗi đau muôn hình vạn dạng, anh chị em đau vì chồng, khổ vì con, anh chị em đau đớn trong thân xác mà khổ sở trong tâm hồn. Đó là một thực tế chúng ta không thể phủ nhận được. Và việc loại trừ đau khổ này nằm ngoài tầm tay của chúng ta và không ai có đủ khả năng để khai trừ sự đau khổ này ngoài Thiên Chúa như chúng ta thấy trong bài Tin Mừng ngày hôm nay, cũng như lời của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết trong thông điệp Spe Salvi.
Khi nói về vấn đề này, có một hình ảnh mà chúng ta cần phải noi gương trong cuộc sống của mình, đó là Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, trong suốt 13 năm giam cầm trong một tình trạng đau khổ về thân xác và tinh thần hầu như tuyệt vọng. Mặc dầu ngài chẳng có tội lỗi gì, một người hiền lành, đạo đức, cả cuộc đời yêu thương, phục vụ người khác mà cuối cùng phải vào nhà tù. Cái hình ảnh đó cho chúng ta thấy một thực tế, đó là không phải mình cố gắng sống đạo đức, sống yêu thương, sống tốt lành mà cuộc đời của mình không có đau khổ, có khi còn phải chịu đau khổ nhiều hơn người khác nữa. Thế mà Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận vẫn đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Chính vì vậy, khi mà Đức Giáo Hoàng nói về Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận trong thông điệp Spe Salvi ở số 32, ngài viết như sau: "Nếu không còn ai nghe tôi nữa, thì vẫn còn có Chúa lắng nghe tôi. Nếu tôi không còn có thể nói chuyện với ai, nếu tôi không còn có thể kêu cầu đến bất cứ người nào, tôi vẫn luôn có thể thưa chuyện với Chúa. Nếu không còn ai giúp đỡ, khi nhu cầu hay mong đợi vượt quá khả năng hy vọng của con người, thì Thiên Chúa vẫn có thể giúp đỡ tôi".
Chúng ta có thể dùng những lời này làm châm ngôn để an ủi cho mỗi người chúng ta mỗi khi gặp đau khổ, lúc nào cảm thấy cô đơn quá, không ai hiểu mình, không ai nghe mình, không ai thông cảm với mình, thì đừng quên là vẫn còn có Chúa. Hơn nữa, ngay cả khi chúng ta phạm tội, cũng là một sự đau khổ trong tâm hồn của mình, mà không ai có thể chữa lành được cho chúng ta, thì chúng ta hãy mau mắn chạy đến Tòa Giải Tội, nơi đó, Chúa luôn chờ đợi chúng ta, lắng nghe chúng ta và chữa lành cho chúng ta khỏi mọi tội lỗi và đem lại sự bình an trong tâm hồn chúng ta.
Đau khổ là một yếu tố không thể tránh khỏi của nhân loại. Mặc dù con đường đau khổ có thể dẫn chúng ta đến sự tuyệt vọng trong đời sống. Thế nhưng, với niềm tin của chúng ta, chúng ta hãy đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, vì chỉ mình Chúa mới có thể giải thoát chúng ta khỏi mọi đau khổ.
Lạy Chúa, trong chương trình quan phòng cứu độ của Ngài, con tin rằng đau khổ không nhận chìm con, nhưng mời gọi con tỉnh thức trong sự cậy trông và tin tưởng. Đau khổ nhắc nhở con thân phận và kiếp sống mỏng manh của mình, để con không quá bám vào bất cứ điều gì hay bất cứ người nào mà chỉ hy vọng vào một mình Chúa mà thôi. Xin ban cho chúng con sức mạnh của lòng yêu mến Chúa để chúng con luôn bình tâm trong mọi nổi khổ đau của cuộc đời mình. Amen
Một tổng thống có những cuộc thăm viếng thường xuyên những người lính tại một bệnh: TN13-B60
Một tổng thống có những cuộc thăm viếng thường xuyên những người lính tại một bệnh viện. Ông đi từ phòng này tới phòng khác, khích lệ và cảm thông với những bệnh nhân. Ông đến cạnh một anh lính trẻ đang hấp hối và hỏi: "Này bạn, tôi có thể giúp gì cho bạn ?"
Anh nhìn lên và diễn tả điều ao ước: " Ngài sẽ viết thư cho mẹ tôi giúp tôi được không ?"
Ông đồng ý: "Tôi sẽ viết" và yêu cầu lấy giấy bút. Ông ngồi cạnh giường và viết những gì anh đọc cho. Viết xong, ông quay lại nói: "Tôi sẽ gởi thư này ngay sau khi rời khỏi văn phòng. Và bây giờ còn điều gì khác tôi có thể làm không ?"
Anh ngước nhìn, ngập ngừng, và cuối cùng buộc miệng: "Ngài có thể ở lại với tôi ? Tôi muốn ngài nắm tay tôi". Ông nắm tay anh cho đến khi anh chết vài giờ sau đó.
Trong truyện người bệnh dám đòi điều kiện với viên tổng thổng. Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm không dám mở miệng xin Đức Giêsu mà chỉ lén "sờ vào áo của Người". Còn ông Giaia thì đỡ hơn không phải e dè như người đàn bà bị băng huyết. Vì băng huyết là một chứng bệnh dơ dáy. Người Do thái không chỉ thấy nó dơ về mặt thể lý mà còn coi nó là một thứ ô uế luân lý. Cho nên có luật cấm những kẻ mắc bệnh đó không được đụng chạm tới người khác, chạm tới ai thì người ấy kể như bị lây ô uế đó. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết này cũng không dám cất tiếng kêu xin Đức Giêsu vì sợ người ta biết mình bệnh và xua đuổi mình. Bà định im lặng rờ vào mình Đức Giêsu. Nhưng vậy là phạm luật thánh, là có tội: thật là khó xử. Còn ông Giairô thì xin Chúa đến chữa trị cho con gái mình đang bệnh nặng. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì ông được tin con gái đã chết. Cả hai mới bắt đầu nhen nhúm hy vọng thì lề luật khắc khe đó như ngăn cản sự sống của hai con ngưòi khốn khổ này. Nhưng cuối cùng thì rào cảng đó đã bị phá bỏ nhờ tình yêu Đức Giêsu và đức tin của người bệnh.
1. Tình yêu với người bất hạnh
Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng cho tất cả mọi người nhưng Ngài đặc biệt quan tâm đến những người nghèo khổ, bệnh tật. Đôi lúc tự chúng thất vọng như bị Chúa bỏ rơi, có thể đó là những lúc chúng ta chưa cảm nhận được tình yêu Chúa, chứ ơn Ngài luôn đổ tràn và tình thương Người không bao giờ chấm dứt. Cũng tương tự, như người đàn bà bị loạn huyết và ông Giai-rô hôm nay chắc chắn khi Đức Giêsu chưa chữa lành bệnh thì họ vẫn chưa thấy được tình Chúa yêu. Họ đã gặp được Chúa mà họ vẫn còn chưa hoàn toàn tin, bằng chứng là những người xung quanh "chế nhạo Người" mà ông Giai-rô là chủ nhà mà lại không có một lời biện minh, vì ông ta chưa cảm nhận đủ tình yêu mà Thiên Chúa dành cho gia đình ông nên ông không đủ can đảm để làm chứng.
Có câu chuyện kể rằng: Một người vô thần ngày nọ đứng giữa công trường, ngửa mặt thách Chúa trong 5 phút, xem có dám giết ông không. 5 phút trôi qua, chẳng có chuyện gì xảy ra. Anh ngạo nghễ ăn nói xúc phạm đến Chúa. Chợt một bà già hỏi:
- Này ông, ông có đứa con nào không ?
- Ồ, sao bà lại hỏi thế ?
- Nếu một đứa con anh cầm con dao đưa cho anh bảo anh giết nó, anh có làm không ?
- Không, tôi thương chúng lắm.
- Chúa cũng vậy, Ngài thương anh lắm, đâu nỡ giết anh.
Cuối cùng chúng ta nhận ra rằng tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta luôn bao la nhưng nhận được bao nhiêu tùy ở mỗi người.
2. Đức tin
Người được biệt danh là "cha của những kẻ tin" là Abraham, khi đã lớn tuổi mới có được một đứa con trai, nhưng vâng lệnh Chúa ông đưa con lên núi sát tế và lòng đau như cắt mà vẫn tin rằng Chúa sẽ thực hiện lời hứa làm cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và quả thực Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin. Và mẫu gương thứ hai là Phêrô khi tin ông dám bước đi trên mặt nước biển, Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống. Khi có đức tin thì con người sẽ được múc lấy nguồn năng lực từ Đức Giêsu như chính người đàn bà bị bệnh hôm nay, chính nhờ đức mà bà đã được nhận nguồn năng lực từ Đức Giêsu "Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra". Thì ngày hôm nay, đức tin chính là điều kiện cần và đủ để chúng ta được sống và sống dồi dào, vì chính Đức Giêsu đã khẳng định "Ta là sự sống lại và sự sống. Ai tin vào Ta, cho dầu có chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không chết bao giờ" .
Lạy Chúa, Xin giúp chúng con vững tin vào Chúa, và biết chạy đến với Chúa xin Ngài chữa con lành chứng bệnh phần hồn và phần xác . Amen
Bài Tin Mừng tường thuật hai phép lạ Chúa Giêsu đã làm: phép lạ cho một phụ nữ được: TN13-B61:
Bài Tin Mừng tường thuật hai phép lạ Chúa Giêsu đã làm: phép lạ cho một phụ nữ được khỏi bệnh băng huyết, và phép lạ cho con gái ông trưởng hội đường Gia-ia được sống lại. Chúng ta thấy hai phép lạ như có một số điểm tương đồng: người phụ nữ mắc bệnh đã 12 năm, bằng với số tuổi của em bé kia, vì Tin Mừng cho biết khi em chết em được 12 tuổi. Cả hai phép lạ xảy ra đều do hành động thể lý là chạm tay vào tua áo Chúa và Chúa cầm tay em bé đã chết. Chúa Giêsu ban phép lạ này do lòng tin.
Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhận lời kêu xin của ông Gia-ia đi chữa bệnh cho con gái ông. Dân chúng đông đảo đi theo có vẻ háo hức và chen lấn, các môn đệ cùng đi bên Chúa. Gĩưa lúc ấy các môn đệ nhận ra một người đến quỳ trước Thầy mình, nhưng lúc ấy phép lạ đã xảy ra rồi, đó là một phụ nữ đầy lòng tin đã được Chúa cho khỏi bệnh. Thực vậy, giữa đám đông dân chúng dày đặc, phụ nữ này nhận ra một vị Thiên Chúa ẩn dật nhưng đầy quyền năng, bà không dám công khai trực tiếp xin Chúa trước mặt mọi người, có thể là vì xấu hổ hoặc ngại ngùng. Ngoài ra, bà cũng biết luật Lêvi cấm ngặt về loại bệnh này. Đối với người Do Thái, băng huyết là một bệnh được liệt vào số các chứng bệnh nan y và ô nhục, làm cho người bệnh ra dơ bẩn trước mặt Chúa và cộng đồng. Hơn nữa, chứng bệnh này còn làm cho người khác lây sự dơ bẩn của bệnh nhân, tức là họ đụng chạm đến ai hay ai đụng chạm đến họ đều trở thành dơ bẩn và phải dâng lễ tẩy uế mới được sạch. Đó là điều hết sức rắc rối.
Nên bà không dám đến trước mặt Chúa xin Chúa chữa lành, nhưng bà có một lòng tin chắc chắn vào sức mạnh uy quyền toàn năng của Chúa. Bà tự nhủ: "Không cần phải ra mặt, chỉ cần đụng chạm vào tua áo khoác ngoài của Ngài thôi thì chắc chắn sẽ được khỏi". Chúng ta thấy bà thật khiêm tốn. Vì thế, bất chấp tất cả luật lệ phiền phức và nghiêm ngặt, bà lén đến sau lưng Chúa, để thực hiện ý định rút ơn Chúa, và kết quả bà được toại nguyện. Bà thể hiện đức tin một cách sâu sắc, như chính Chúa xác nhận và thưởng công cho lòng tin của bà: "Lòng tin của con đã cứu chữa con".
Phép lạ thứ hai Chúa Giêsu làm là nơi nhà ông trưởng hội đường Gia-ia. Ông có đứa con gái mắc bệnh nặng thập tử nhất sinh, ông đến xin Chúa cứu con ông. Lòng tin mạnh mẽ được bộc lộ ra qua tất cả con người ông, nghĩa là qua các cử chỉ cũng như lời yêu cầu của ông. Thực vậy, khi đến trước mặt Chúa, ông quỳ sụp dưới chân Chúa, đây là một cử chỉ dành riêng cho Thiên Chúa Giavê trong Cựu ước, cử chỉ này chứng tỏ ông tin và nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai. Cử chỉ thứ hai là ông xin Chúa đến đặt tay trên con ông. Ông tin chắc chắn chứ không hồ nghi: "Thưa Thầy, con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu thoát và được sống". Ông tin chắc chắn sự việc sẽ xảy ra như thế, nếu Chúa muốn. Ngài động đến đâu thì sức mạnh và sự sống lan tràn tới đó. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.
Đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất, nhưng thuộc về tinh thần. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Gia-ia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài.
Vì thế, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Gia-ia, hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ trên đây, bà không cần kêu xin mai như ông Gia-ia, bà chỉ có một thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa đang chờ đợi ở chúng ta cónhững tâm tình như thế.
Sợ hãi có lẽ là tâm trạng chung của con người, ngày xưa cũng như hôm nay. Qua đoạn Tin Mừng: TN13-B62
Sợ hãi có lẽ là tâm trạng chung của con người, ngày xưa cũng như hôm nay. Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy: Trong khi các môn đệ và Chúa Giêsu vượt biển, thì bỗng dưng cuồng phong nổi lên, sóng gió ập vào đến nỗi thuyền đầy nước và sắp chìm. Các môn đệ ra sức chèo chống và tát nước, còn Chúa Giêsu vẫn đang ngủ say. Các ông sợ hãi đánh thức Ngài dậy. Chỉ với một lời đầy quyền năng: Hãy im đi, hãy lặng đi. Lập tức sóng liền yên, biển liền lặng và các ông đem thuyền vào bến bình an.
Với chúng ta cũng vậy, cuộc đời người Kitô hữu nói riêng, hay Giáo Hội nói chung, vẫn không thiếu những sóng to và gió lớn. Nó làm cho con thuyền cuộc đời chúng ta bị chao đảo và dường như muốn chìm xuống đáy nước. Trong những giờ phút đen tối, chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu: Đừng sợ.
Đây cũng là lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Đấng kế vị thánh Phêrô, đã lặp lại để động viên chúng ta, ngay từ những ngày đầu lãnh nhận sứ vụ thay mặt Chúa ở trần gian. Và từ đó, Đức Thánh Cha đã không mệt mỏi lặp lại lời này. Nó có giá trị trấn an thế giới đang sẵn sàng bước vào ngàn năm thứ ba.
Tại sao lại đừng sợ? Vì bên trên chiến tranh, tàn khốc, bên trên những xung khắc kinh tế và xã hội, bên trên tính bất khoan dung và sự nghèo đói mà nhân loại đang phải gánh chịu, còn có Tin Mừng mang lại sự sống và sự bình an. Đó chính là nguồn hy vọng cho thế giới ngày mai. Tuy nhiên bản thân chúng ta cần phải làm gì để không còn sợ hãi?
Trước hết chúng ta phải biết làm chủ cảm xúc của mình. Thực vậy, cây cỏ tuỳ vào thời tiết để sinh trưởng, nhưng chúng ta thì khác, chúng ta phải tạo ra thời tiết chung quanh chúng ta. Trong giao tiếp hằng ngày, nếu chúng ta chỉ đem đến mưa bão, gió lạnh và bóng tối, thì những người chung quanh chúng ta cũng sẽ đáp trả lại bằng những mưa bão, gió lạnh và bóng tối. Trái lại, nếu chúng ta đem đến cho họ niềm vui, tiếng cười, lòng hăng say và ánh nắng rực rỡ, thì sọ sẽ phản ứng với niềm vui mừng và hy vọng chan chứa. Cái thời tiết chúng ta đã tạo ra sẽ mang đến cho chúng ta một mùa gặt sung mãn. Gieo gì thì gặt nấy. Nếu chúng ta gieo rắc sự bình an, thì chúng ta cũng sẽ gặt lấy được sự bình an và chúng ta sẽ không còn phải sợ hãi.
Tiếp đến, chúng ta phải xây dựng cuộc đời chúng ta trên nền tảng đức tin. Bởi vì đức tin luôn chiến thắng sợ hãi, đức tin là một sức mạnh mà nỗi sợ hãi không thể nào chống đỡ được. Nếu cõi lòng chúng ta chất đầy niềm tin, thì chắc chắn sẽ không còn chỗ cho sợ hãi nữa. Và như thế, chúng ta chỉ còn một nỗi lo sợ duy nhất đó là lo sợ không mến Chúa và yêu người cho đủ mà thôi.
Đừng sờ!" đó là điều cấm đoán đầu tiên trong thời thơ ấu của chúng ta. Những món đồ chưng: TN13-B63
"Đừng sờ!" đó là điều cấm đoán đầu tiên trong thời thơ ấu của chúng ta. Những món đồ chưng bày mảnh mai, những đồ vật nguy hiểm bị cấm đụng tới, và người lớn đàn áp chúng ta, không muốn chúng ta tiếp xúc với chúng. Trái lại họ tìm cách dụ dỗ chúng ta khi bắt chúng ta sờ con chó khiến chúng ta sợ hãi. Trong cuộc sống, chúng ta có kinh nghiệm là xúc giác hủy bỏ khoảng cách giữa những con người. Người ta có thể nhìn và nghe thấy từ xa nhưng người ta chỉ sờ khi ở gần mà thôi, sờ tức là gần ai đó, thân mật với họ.
Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể, rất thường dùng đến việc tiếp xúc thể lý. Ngài dùng tay sờ mắt, lưỡi, lỗ tai, da thịt bệnh nhân. Ngài ôm hôn trẻ con. Hơn nữa Ngài để cho những người bệnh đụng tới mình và bảo thánh Tôma thọc bàn tay vào cạnh sườn Ngài. Để diễn tả sự thật không chối cãi được của nhân tính Ngài, thánh Gioan viết: "Những gì tay chúng tôi đã sờ nơi Ngôi Lời sự sống... chúng tôi đã loan báo cho anh em" (Ga 1,1). Trong Tin Mừng hôm nay, có hai trường hợp sờ: Một phụ nữ sờ gấu áo Chúa Giêsu; Ngài nắm tay một cô bé đã chết để làm cho cô được sống lại. Lúc ban đầu, người phụ nữ này cũng như ông Giairô không muốn trở nên thân thiện với Chúa Giêsu; họ chỉ muốn được Ngài chữa lành thôi. Tuy nhiên đối với Chúa Giêsu những việc tiếp xúc này không chỉ là hành động thể lý mà thôi; chúng phải dẫn đến một mối tương quan cá vị, mối tương quan của đức tin.
Từ tiếp xúc đến đức tin.
Trong đám đông có một phụ nữ băng huyết. Thất vọng về các y sĩ, bà đã nghe nói về Chúa Giêsu và thấy Ngài là cơ hội cuối cùng để bà được chữa lành. Bà táo bạo vì bệnh của bà hay lây và làm cho bà trở nên ô uế (Lv 15,25). Không sao! Bà vẫn len lỏi tới, sờ vào gấu áo Chúa Giêsu và bà được chữa lành. Chúa Giêsu là ai đối với bà? Bà xem Ngài như thế nào? Bà không nghĩ đến việc này nhưng cử chỉ của bà cho thấy Ngài là ai. Ngài là người chữa lành; còn bà là bệnh nhân. Ngài có thể thỏa mãn nhu cầu về sức khỏe của bà; nơi Ngài có những năng lực chữa lành. Bà muốn được đón nhận năng lực này. Hoàn toàn chỉ quan tâm đến bệnh tật của mình, bà không tìm kiếm tương quan cá vị với Chúa Giêsu. Sờ được vào gấu áo của Ngài là đủ cho bà rồi. Đối với bà, Chúa Giêsu trước hết là một phương tiện để được chữa lành.
Chúa Giêsu sẽ dẫn đưa bà đến một mối tương quan cá vị. Bà muốn lẩn trốn; Ngài kéo bà ra khỏi sự vô danh của bà khi đưa mắt tìm bà. Và này đây bà run rẩy sụp lạy dưới chân Ngài. Lúc này, Ngài chữa lành bệnh cho bà, bây giờ, là Ngài làm cho bà run sợ. Chúa Giêsu không để bà phải sợ hãi, Ngài bảo: "Hãy đi về bằng an. Đức tin của bà đã cứu bà". Ngài trả lại sức khỏe cho bà nhân danh đức tin của bà. Bà được chữa lành không vì đã đụng tới áo Chúa Giêsu như bà tưởng, nhưng vì bà đã tin nơi Ngài. Từ nay, bà biết rằng chính đức tin đã cứu thoát bà. Chúa Giêsu đã dẫn đưa bà từ một tin tưởng ma thuật đến đức tin vào bản thân Ngài.
Trường hợp ông Giairô lại khác hẳn. Với niềm tin tưởng, ông xin Chúa Giêsu đến đặt tay lên con gái ông đang hấp hối để nó được sống. Dọc đường có người đến báo cho ông hay rằng cô bé đã chết và khuyên ông đừng làm phiền Chúa nữa: "...Phiền Thầy làm gì nữa?". Tức khắc Chúa Giêsu đã hỗ trợ đức tin của ông Giairô, duy trì mối liên hệ của ông với Ngài và đồng hành với ông, giúp ông vượt qua nỗi sợ hãi: "Đừng sợ chỉ cần tin mà thôi". Cứ tiếp tục tin, dù sao cũng cứ tin! Khi đến nhà ông, Chúa Giêsu nắm tay cô bé đã chết và cho cô sống lại như Ngài đã làm sống lại đức tin đang tàn lụi của ông Giairô để giúp ông niềm tin vào quyền năng của Ngài, quyền năng làm cho kẻ chết sống lại.
Tin, tức là gặp gỡ.
Người phụ nữ bênh hoạn và ông Giairô đã tin vì họ đã gặp Chúa Giêsu. Từ đó họ có những lý do riêng biệt để tin: Người phụ nữ tin vì bà được chữa lành, nhưng nhất là vì cách mà Chúa Giêsu đã dùng để làm cho đức tin của bà biến chuyển: Ông Giairô tin, vì việc con gái ông được sống lại, nhưng nhất là vì cách mà Chúa Giêsu đã dùng để nâng đỡ niềm tin của ông và giúp ông thắng vượt nỗi sợ hãi.
Bài tường thuật của thánh Marcô hôm nay cũng có liên quan đến Kitô hữu chúng ta: Đức tin của chúng ta có được nuôi dưỡng bằng việc gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Đó là luật của Tin Mừng: Chúng ta tin tùy theo mức độ chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô. Ta hãy nghiêm túc tự đặt câu hỏi này: Tôi đã gặp Chúa Giêsu khi nào? Tin Mừng sẽ chúng ta trả lời. Mỗi lần chúng ta xem Chúa Giêsu như Đấng Cứu Độ chứ không phải như kẻ chữa lành hoặc giúp đỡ điều nọ điều kia, mỗi khi lâm cảnh đau buồn hoặc nguy nan, chúng ta vẫn tiếp tục tin, đó là những khi chúng ta gặp gỡ Ngài.
Mỗi tác giả Phúc Âm đều nhấn mạnh những điểm khác biệt riêng trong Phúc Âm của mình: TN13-B64
Mỗi tác giả Phúc Âm đều nhấn mạnh những điểm khác biệt riêng trong Phúc Âm của mình. Thánh Marco mà Phúc Âm của ngài đang được đọc suốt trong năm nay, nhấn mạnh đến nhân tính của Chúa Giêsu. Tác giả Phúc Âm đã nhấn mạnh đến những chân lý tiết lộ rằng, Con Thiên Chúa thực sự là con của Mẹ Maria, và ngôi vị thần linh đến với chúng ta trong vẻ đơn sơ của bản tính con người. Thánh Marco sung sướng trình bày Chúa Giêsu như một con người, một người hiểu chúng ta, thông cảm với chúng ta.
Trong bài Phúc Âm ngày hôm nay, lúc Ngài sửa soạn rao giảng Phúc Âm cho đám đông, Giairô, một viên trưởng hội đuờng đã yêu cầu Ngài đi với ông ta, đến nhà ông chữa bệnh cho đứa con gái đang bị ốm nặng. Đã để cho chúng ta tưởng tượng ra sự thất vọng của Chúa Giêsu khi bị gọi ra khỏi sứ vụ rao giảng của Người, nhưng thánh nhân trình bày Chúa Giêsu đã đáp trả với lòng thương xót khi nghe lời nài xin của viên trưởng hội đuờng. Tiếp đó, một người đàn bà trong đám đông đã đụng đến áo choàng của Ngài. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh là Ngài biết ai đang đụng đến Mình nhưng không hề khinh bỉ người đàn bà, Ngài nhìn thẳng vào người đàn bà một cách dịu dàng và nói: "Hỡi bà, đức tin của bà đã cứu chữa bà".
Tiếp theo đó, Chúa Giêsu đã tiếp tục cuộc hành trình để đến chữa bệnh cho cô gái nhỏ, nhưng có người đến nói cô bé đã chết, không hề bối rối, Chúa Giêsu bước vào căn phòng nơi cô bé đang nằm, cầm tay cô bé và nói những lời sự sống: "Hỡi cô bé hãy chỗi dậy". Cô bé liền chỗi dậy. Hãy tưởng tượng xem cảnh này, cha mẹ vừa khóc vừa cười cùng một lúc, họ ôm choàng lấy đứa con gái nhỏ và khiêu vũ chung quanh cùng với cô ta. Chúa Giêsu luôn luôn chú ý và ý thức đến những nhu cầu của con người, và trở nên rất thực tế. Ngài nói với cha mẹ của đứa bé: "Hãy cho đứa bé ăn cái gì".
Trong đoạn Phúc Âm thời thơ ấu kể lại cho chúng ta rằng, Chúa Giêsu đã dành thời gian cho dân chúng, những người có địa vị quan trọng giống như Giairô là người trường hội đuờng cũng như người đàn bà nghèo khổ vô danh trước mọi người và hầu như thánh Marcô cũng không biết tên. Ngài đã trình bày cho chúng ta rằng, Chúa Giêsu đã quan tâm cách sâu xa đến nỗi đau của người cha và người mẹ có đứa con nhỏ. Nhưng Ngài cũng muốn chúng ta biết Chúa Giêsu không hề xao nhãng việc người đàn bà đang bị ốm, cơn ốm không phải là do số mệnh. Ngài cũng biết sự đau buồn vô vọng nơi người cha người mẹ, Ngài cũng nhận biết người đàn bà, và đã chia sẻ những nỗi khốn khổ của người đàn bà ấy nữa.
Thánh Marcô đã trình bày cho chúng ta rằng, Chúa Giêsu đã yêu mến với trái tim của con người. Thánh nhân nhấn mạnh về nhân tính của Chúa Giêsu, làm cho chúng ta nhận thấy chân lý quan trọng nữa, đó là Chúa Giêsu đã hành động xuyên qua nhân tính của Người trong sứ vụ công khai của Người và bây giờ Ngài hành động qua các thừa tác viên của Giáo Hội và đặc biệt là qua các ý nghĩa của các bí tích của Giáo Hội. Trong bí tích thanh tẩy, Chúa Giêsu đã cầm chúng ta bằng đôi tay của Ngài, gọi tên chúng ta và Phục Sinh chúng ta từ sự chết của tội lỗi và phục hồi cho chúng ta trở nên con cái của Chúa Cha. Chúa Giêsu đã nói với Giáo Hội hãy cho chúng ta một điều gì đó để ăn. Một điều gì đó là bí tích cao vời, Mình và Máu thánh Chúa.
Chúng ta sẽ nhớ rằng, Chúa Giêsu qua thừa tác của Giáo Hội đã dành thời gian cho tất cả chúng ta, dù chúng ta có địa vị quan trọng trong xã hội như Giairô là trưởng hội đuờng, hay làm một người nghèo khó vô danh chẳng ai biết đến tên như người đàn bà bị loạn huyết. Tất cả chúng ta đều quan trọng đối với Chúa Giêsu và tất cả nhu cầu của chúng ta được Ngài quan tâm đến. Chúng ta có một Thiên Chúa, Đấng dành thời gian cho tất cả chúng ta.
Đọc Tin Mừng Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy mỗi tác giả Phúc Âm đều có những nét riêng: TN13-B65
Đọc Tin Mừng Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy mỗi tác giả Phúc Âm đều có những nét riêng biệt diễn tả con người của Đức Kitô. Tuy nhiên, dù có những điểm khác biệt trong Tin Mừng của mình. Nhưng tất cả các tác giả Tin Mừng đều cố gắng với sự linh hứng của Chúa Thánh Thần đều nói lên tính cách trung thực và đồng nhất về Chúa Giêsu Nagiarét, Đấng Cứu Thế đã đến trong thế gian. Thánh Máccô trình bầy Chúa Giêsu như Một- Con -Người-Chúa, một người luôn yêu thương và cảm thông với chúng ta.
Các bài đọc Chúa nhật XIII thường niên, năm B, đặc biệt đoạn Tin Mừng của thánh Máccô nhằm giới thiệu một Đức Kitô nhân từ, giầu lòng thương xót. Ngài luôn quan tâm, săn sóc và yêu thương, giúp đỡ con người. Tin Mừng Mc 5,21-43 thuật lại hai phép lả Chúa Giêsu đã làm để cứu vớt con người.Phép lạ thứ nhất, Chúa làm cho đứa bé con ông trưởng Hội đường Giairô, chết sống lại. Phép lạ thứ hai, Chúa làm cho người đàn bà bị bệnh băng huyết lâu năm được khỏi. Cả hai phép lả được Chúa làm là do lòng tin của con người. Ông trưởng hội đường đã tỏ thái độ tin sâu xa khi Ông khẩn khoản nài xin Chúa Giêsu:” Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu thoát và được sống “ ( Mc 5, 23 ).Còn người đàn bà bị bệnh băng huyết từ lâu đã có một đức tin thật đáng nể:” Tôi mà sờ được vào áo của Người thôi, là sẽ được cứu “ ( Mc 5, 28 ). Nơi Ông Giairô. Lòng tin được biểu lộ cách cụ thể, mãnh liệt, rõ ràng, còn nơi người đàn bà, lòng tin rụt rè, kín đáo. Nhưng dù lòng tin có mãnh liệt hay rụt rè, tất cả đều nói lên đức tin của con người. Và như thế, đức tin là yếu tố quyết định để Chúa làm phép lạ.
Ở đây, chúng ta nhận ra rằng trong đời sống truyền giáo, đời sống phục vụ của Chúa Giêsu, Ngài luôn dành thời gian cho mọi hạng người. Dù người có địa vị như ông trưởng Hội đườung, hay người vô danh tiểu tốt như người đàn bà đang bị bệnh, Chúa luôn yêu thương họ như nhau. Mỗi người đều có chỗ đứng trong trái tim của Người. Tin Mừng cho chúng ta thấy rất nhiều lớp người đã tới với Chúa Giêsu và chính Người cũng đã tới với nhiều lớp người trong xã hội. Chúa luôn yêu mến mọi người với trái tim con người. Người là Chúa, nhưng qua việc Nhập thể, Ngài đã chấp nhận kiếp sống làm người, ngoại trừ tội lỗi, do đó, Người chia sẻ kiếp người và cảm thông với những nỗi vui buồn của con người. Chúa đã cầm tay chúng ta bằng chính đôi tay của Người, gọi tên chúng ta, và làm cho chúng ta sống lại nhờ Người tẩy sạch tội lỗi cho chúng ta. Chúa đã nuôi dưỡng chúng ta bằng chính Mình Máu của Người.
Vâng, cuộc đời của mỗi người chúng ta ở trần gian là một cuộc hành trình đức tin. Con người chúng ta sống bằng đức tin chứ không chỉ duy tình cảm hời hợt bên ngoài. Bởi vì nếu chỉ dựa vào tình cảm chúng ta sẽ dễ chán nản, thất vọng …Đức tin sẽ giúp chúng ta vượt thắng mọi sự. Cuộc đời có lúc vui, có lúc buồn, có lúc thuận, có lúc nghịch nhưng chúng ta vẫn giữ vững một niềm tin.
Chúng ta tin khi có Chúa ở với chúng ta, chúng ta sẽ chiến thắng tất cả bởi vì Chúa đã nói trong Tin Mừng:” Không có ta chúng con thể làm được gì “ và Chúa hứa:” Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế “. Thánh Phaolô đã rất xác tín:” Tôi sống không còn là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “. Đối với Chúa, chúng ta tất cả đều được ngài quan tâm. Chúa Giêsu luôn luôn dành thời gian cho chúng ta.
Chúa đã yêu thương chúng ta như một người Cha nhân hậu tốt lành. Ngài biết chiên và gọi tên từng con chiên:” Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào “ ( Ga 10, 10 ). Chúa luôn tôn trọng sự tự do của chúng ta và để chúng ta đáp trả lại tình yêu ấy. Xin Chúa giúp chúng con luôn biết đáp trả tình thương của Chúa như một đứa con ngoan, một đứa con hết sức thảo hiếu bằng cách luôn hướng về Chúa trong mọi cơn thử thách, nguy nan.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn đặt niềm tin tín thác nơi Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Phép lạ thường xẩy ra khi nào ? 2.Lòng tin của ông Giairô như thế nào ? 3.Đức tin của người đàn bà đang mắc bệnh băng huyết làm sao ? 4.Cuộc đời của chúng ta được ví như thế nào ? 5.Chúa có quan tâm tới những nhu cầu chính đáng của con người không ? Tại sao ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 5:21-43)
Những câu chuyện phép lạ trong sách Tin Mừng đều là những câu chuyện về đức tin. Đức tin: TN13-B66
Những câu chuyện phép lạ trong sách Tin Mừng đều là những câu chuyện về đức tin. Đức tin đã trở thành điều kiện cần thiết để phép lạ được thể hiện. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại hai phép lạ Chúa Giê-su đã làm: chữa lành người đàn bà bị bệnh băng huyết và cho bé gái, con ông trưởng hội đường, đã chết được sống lại. Hai câu chuyện không chỉ kể lại những gì Chúa làm, nhưng còn nói đến cách biểu lộ lòng tin của người đàn bà và ông trưởng hội đường nữa. Vậy chúng ta thử suy nghĩ về hai gương mẫu đức tin ấy để tìm ra một lối sống đức tin cho chính chúng ta.
Trước hết là đức tin của ông trưởng hội đường Giai-a. Đức tin được biểu lộ cách sống động qua những cử chỉ của ông đối với Chúa Giê-su. Mặc dù là người có chức vị, ông vẫn đích thân đến gặp Chúa. Ông “sụp xuống dưới chân Người và khẩn khoản nài xin”. Đây là cử chỉ thờ lạy của con người trước mặt Thiên Chúa. Thánh Mác-cô viết tiếp: “Người liền ra đi với ông”. Trước đức tin sâu xa của con người, Thiên Chúa chẳng khi nào chối từ! Chúng ta còn có cảm tưởng đức tin của ông có thể đã lôi cuốn “một đám rất đông đi theo và chen lấn Người”.
Tiếp theo là thời điểm thử thách đức tin khi người nhà ông Giai-a đến báo tin con gái ông đã chết rồi, và xin ông đừng “làm phiền Thầy chi nữa!” Cứ tưởng tượng lúc này ông chăm chú nhìn vào Chúa, đặt hết tín thác nơi Người. Chúa khích lệ ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Khi tới nhà, thêm một cơ hội nữa để ông tỏ ra đức tin của mình. Chúa Giê-su quả quyết con bé không chết, nhưng nó đang ngủ. Thế là dân chúng chế nhạo Người. Chỉ có ông Giai-a là vẫn một lòng tôn kính Người. Đặt mình trong hoàn cảnh ấy, liệu chúng ta còn đủ lòng tin vào Chúa Giê-su nữa không? Vậy mà ông Giai-a vẫn vững lòng tin, vì ông đã nắm chắc lấy lời Chúa: Đừng sợ, chỉ cần tin thôi!
Trái với cách biểu lộ đức tin qua những cử chỉ bề ngoài rõ ràng, đức tin của người đàn bà mắc bệnh băng huyết lại được tỏ ra cách kín đáo và tế nhị. Những đau khổ vì bệnh tật của bà thật lớn lao, vừa kéo dài nhiều năm vừa làm cho bà tán gia bại sản vì chạy chữa. Giờ đây bà muốn âm thầm đến với Chúa. Tuy nhiên bà cũng vẫn phải vất vả “lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người”. Bà không dám đến trước mặt Chúa vì nghĩ mình không xứng đáng. Đối với bà, Chúa thật quá vĩ đại, quyền năng vô cùng. Cho nên không cần phải trực tiếp gặp Người và để Người chạm đến. Bà tin rằng chỉ một cái áo choàng tầm thường của Người thôi cũng có thể giúp bà nhận được sức mạnh quyền năng ấy. Mà thực đúng như vậy, vì ngay sau khi bà chạm được vạt áo choàng của Chúa, thì Người liền “nhận thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”. Năng lực ấy của Thiên Chúa đã cứu chữa bà. Nhưng ngoài việc chữa lành, Chúa Giê-su còn đưa bà đi xa hơn nữa trên hành trình đức tin. Người muốn đức tin của bà phải là cuộc gặp gỡ riêng tư giữa bà với Người, để bà “nói hết sự thật với Người”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta học được gì nơi hai gương mẫu đức tin trong bài Tin Mừng hôm nay? Đối tượng của đức tin phải là Chúa Giê-su và phát xuất từ Chúa Giê-su. Quyền năng, tình yêu và lòng thương xót của Chúa đã làm cho người ta sẵn sàng phó thác nơi Người. Tin là đáp lại tình yêu và lòng thương xót ấy. Nhưng để đón nhận Chúa, chúng ta phải có thái độ căn bản là khiêm nhượng, như ông Giai-a hoặc như người đàn bà băng huyết đến sụp lạy trước mặt Chúa. Tấm gương ông Giai-a dạy chúng ta bài học trung thành trong đức tin và không sợ hãi, còn người đàn bà băng huyết giúp chúng ta biết giãi bày cõi lòng, “nói hết sự thật” với Chúa để đức tin chúng ta thực sự trở thành mối tương quan sống động với Người.
Hiểu đức tin là một chuyện, nhưng biểu lộ và sống đức tin còn quan trọng hơn. Sống đức tin không chỉ trong những biến cố lớn cuộc đời, mà là ngay trong những tình huống của đời sống thường ngày, để chúng ta luôn luôn xác tín tình yêu và lòng thương xót của Người.
Mc 5:21-43: 21 Khi Đức Giêsu sang lại bờ bên kia bằng thuyền, đám đông đã tụ lại quanh Người, và Người đang ở trên bờ biển. 22 Và một ông trong các trưởng hội đường, tên là Giairô đi tới. Khi thấy Người, ông ta sụp xuống dưới chân Người, 23 và khẩn khoản nài xin: “Con gái nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay lên nó, để nó được cứu thoát và được sống.” 24 Và Người ra đi với ông. Một đám đông đi theo Người và chen lấn Người. 25 Một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, 26 khổ sở nhiều vì chạy thầy thuốc, và đã tiêu hết những gì bà có, và bà vẫn không đỡ hơn, mà còn nên nặng thêm. 27 Khi nghe về Đức Giêsu, đi vào giữa đám đông, từ phía sau bà sờ vào áo Người, 28 vì bà nói: “Nếu tôi sờ được áo Người, tôi sẽ được cứu.” 29 Tức khắc, sự chảy máu của bà cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. 30 Ngay lúc đó, Đức Giêsu biết năng lực phát ra từ nơi Người, quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi?” 31 Các môn đệ của Người thưa với Người: “Thầy xem đám đông đang chen lấn Thầy, thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào tôi?” 32 Người ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. 33 Nhưng bà này sợ phát run lên, biết điều gì đã xảy đến cho mình, bà đến và sụp xuống trước mặt Người và nói với Người hết sự thật. 34 Người nói với bà: “Này con gái, đức tin của con đã cứu chữa con. Hãy đi trong bình an và khỏi hẳn bệnh của con.” 35 Khi Người đang nói, có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến nói: “Con gái ông chết rồi.” “Ông còn làm phiền Thầy chi nữa?” 36 Nhưng Đức Giêsu nghe được câu nói đó, nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ hãy tin.” 37 Rồi Người không cho ai cùng đi theo, trừ Phêrô, ông Giacôbê và Gioan, anh em của Giacôbê. 38 Khi họ đến nhà ông trưởng hội đường, và Người thấy một sự náo động, người ta than khóc quá chừng. 39 Khi bước vào nhà, Người nói với họ: “Tại sao các người lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé đã không chết nhưng đang ngủ.” 40 Họ cười nhạo Người. Nhưng sau khi đuổi họ ra ngoài hết, Người đem theo cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng với Người. Và Người vào nơi đứa bé đang ở. 41 Cầm lấy tay nó, Người nói: “Talitha kum”, nghĩa là: “Này em bé, Thầy truyền cho con: hãy chỗi dậy!” 42 Lập tức em bé chỗi dậy và đi lại. Nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ. 43 Người ra lệnh họ rất nhiều là không ai được biết chuyện nầy, và nói họ cho em bé ăn.
Hai câu chuyện chữa hai “con gái” (thygatçr) (5:34.35) được lồng vào nhau: một người được: TN13-B67
Hai câu chuyện chữa hai “con gái” (thygatçr) (5:34.35) được lồng vào nhau: một người được xem như đã chết (5:2-24. 35-43), một người mang bệnh băng huyết (5:25-35). Người con gái nhỏ ở tại nhà và người cha là trưởng hội đường đến cầu cứu Chúa Giêsu; trong khi, người phụ nữ bị bệnh băng huyết đích thân tìm đến Người và được Người chữa lành tại chỗ. Trong cả hai người, quyền năng phục hồi sự sống của Người đã tỏ hiện; và chỉ có họ - và những người rất thân thiết - được chứng kiến hiệu quả lạ lùng của quyền năng nầy (x. 5:29.40), tuy dân chúng ở bên Người rất đông. Cấu trúc của hai đoạn nầy: Câu chuyện chữa lành người phụ nữ bị bệnh băng huyết (5:25-34) được xen giữa câu chuyện Chúa Giêsu làm cho người con gái của ông Giairô chỗi dậy (5:21-24;35-43). Việc Chúa Giêsu chữa lành người phụ nữ bị băng huyết là dấu hiệu đi trước tiên báo Chúa sẽ cho người con gái của Giairô sống lại.
Bệnh tình của người phụ nữ bị băng huyết là vô phương cứu chữa. Đã “mười hai năm” bà “khổ sở nhiều”, “chạy nhiều thầy thuốc”, nhưng kết qủa là bệnh càng “thêm trầm trọng”. Con người đã bất lực. Điều nầy làm nổi bật quyền năng của Chúa Giêsu khi Người chữa bà lành bệnh. Người có thể làm điều không thể thực hiện đối với con người. Tuy nhiên, để được chữa lành, bà cần có hy vọng và lòng tin vào Người. “Nghe nói về Người” là hy vọng thúc giục bà tìm đến Người (c. 27). Việc bà chạm đến áo Người biểu lộ lòng tin của bà vào Người; rất khác và rất phân biệt với việc dân chúng chen lấn và đụng chạm vào áo của Người, mà các tông đồ không thể nhận ra (x. 5:31). Chúa Giêsu đã nhận ra điều nầy và biết cả quyền năng chữa bà lành bệnh phát xuất ra từ Người. Người đã không đặt tay trên đầu bà để chữa bà lành bệnh (x. 5:23; 3:10, 6:56), nhưng chính lòng tin của bà đã kéo đến trên bà quyền năng chữa lành bệnh từ Chúa Giêsu. Lúc nầy đức tin đã cứu bà một cách dứt khoát không phải là khỏi tội, mà khỏi hậu quả của nó. Cũng bởi lòng tin nầy mà bà được gọi là “con gái”, nghĩa là được kể như là một thành phần trong gia đình Thiên Chúa; chữ nầy cũng được dùng để nối kết phần tiếp theo.
Tình trạng của người con gái của ông Giairô cũng không thể cứu vãn được. Trên đường Chúa Giêsu đến nhà ông thì nghe tin về cái chết của người con gái. Câu “không muốn làm phiền Người” tỏ lộ sự thất vọng và bất lực của những người đến báo tin (c. 35). Điều ấy càng được thấy rõ hơn trong sự náo động và than khóc của họ (cc. 38-39). Chính vì thế mà Chúa Giêsu nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, nhưng hãy tin” (c. 36). Điều nầy hàm ý là ông trưởng hội đường vì đã chứng kiến người phụ nữ bị băng huyết đã được chữa lành nhờ tin vào Chúa Giêsu, ông cũng phải tin vào Người để người con gái của ông được chữa lành. Và bởi thấy ông bị xao động, Chúa Giêsu đã ra lệnh ông “hãy tin”. Thêm một lần nữa, quyền năng của Chúa Giêsu được tỏ hiện trong sự tuyệt vọng của con người. Người phục hồi lại sự sống cho đứa bé gái bằng cách cầm lấy tay và nâng dậy; như thể em vẫn còn sống. Người làm việc nầy cùng một cách thế như Người đã làm cho bà mẹ vợ của ông Phêrô (1:31), cho em bé trai bị quỷ ám (9:26-27). Việc phục hồi sự sống đầy quyền năng nầy có hiệu quả “tức thì”, không cần nhiều thời gian để được thực hiện (1:42; 2:12; 7:35). Đi lại được là dấu hiệu đã được chữa lành (x. 2:9). Kết luận cuối cùng của Marcô là những người chứng kiến phép lạ đều đầy kinh ngạc (c. 41; x. 1:27; 4:41).
Chúa Giêsu tiếp tục tỏ mình ra cho các môn đệ của Người bằng những việc quyền năng để họ có thể tin vào Người. Việc quyền năng lớn lao hơn cả là chính Người sống lại từ cõi chết; nhờ đó họ tin Người chính là Con Thiên Chúa. Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Cộng tác với ơn Chúa là điều tối quan trọng để Chúa ban ơn và làm phép lạ. Bài Tin Mừng của: TN13-B68
Cộng tác với ơn Chúa là điều tối quan trọng để Chúa ban ơn và làm phép lạ. Bài Tin Mừng của thánh Marcô 5, 21-43 là bằng chứng lạ lùng về con người có đầy quyền năng và uy quyền của Chúa. Đức Giêsu cho ta thấy Ngài là Đấng không dựng nên sự chết, Ngài có khả năng chiến thắng sự chết.
ĐỨC GIÊSU LÀ ĐẤNG CHIẾN THẮNG SỰ CHẾT:
Ông Gia-ia tin Chúa có thể cứu sống con gái ông. Với niềm tin tưởng thô sơ như thế nhưng đầy xác tín phép lạ đã xẩy ra. Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu và các môn đệ đi qua bờ bên kia, có đám đông dân chúng đi theo vì hay tin Đức Giêsu sẽ ở đó. Lúc đó có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta liền phủ phục dưới chân của Người và van xin:” Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó qua khỏi và được sống”( Lc 5, 23 ). Ông Gia-ia đã khước từ bám víu vào loài người để đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu. Tuy nhiên cái tin đau đớn về cái chết của con gái ông Gia-ia đã làm tối mày tối mặt ông. Ông cảm thấy nặng chĩu tâm hồn và cõi lòng.
Nghe được tin đó, Chúa Giêsu liền an ủi ông:” Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”( Mc 5,36 ). Điều ông xin Đức Giêsu lúc nãy bây giờ đã vượt quá sức tưởng tượng của ông.
Nhưng có lẽ nhờ đó niềm tin của ông lớn mạnh hơn khi Đức Giêsu mời ông tin…Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan cùng cha mẹ đức bé ra riêng một nơi và nói:” Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy”( Mc 5, 39 ). Đám đông không tin, chế giễu, cười nhạo Người. Qua niềm tin của ông Gia-ia, ta thấy thấp thoáng niềm tin của ông vào Đức Giêsu sẽ làm cho kẻ chết sống lại.
Trong khi Đức Giêsu đang gặp ông trưởng hội đường thì có người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm(Mc 5,25 ), lén từ phía sau đụng vào áo của Người ( Mc 5,27 ).
Bà lách qua đám đông, lén sờ vào gấu áo của Chúa Giêsu. Chữ lén ở đây cho ta thấy tình trạng ô uế của người phụ nữ vì bị băng huyết( Lv 15/25 ). Đoạn này làm nổi bật hai nét chính yếu: lòng tin nguyên sơ của người phụ nữ, nhưng là niềm tin vững chắc vì bà tin chỉ cần đụng vào gấu áo của Chúa Giêsu thì bà sẽ được khỏi bệnh. Nét thứ hai là sức mạnh quyền năng của Đức Giêsu trước bệnh hoạn tật nguyền, thứ bệnh mà các lương y đã hoàn toàn bó tay chịu trận, không chữa nổi. Hai nét chính này được diễn tả dưới những cụm từ:” tức khắc, máu cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh”( Mc 5, 29 ). Tuy nhiên, Đức Giêsu đã bắt bà phải chạm mặt với Người và để bà phải tự giới thiệu công khai chính mình. Do đó, Chúa Giêsu cho bà đi vào mối quan hệ trực diện với Chúa, mối quan hệ cá nhân với Người, soi sáng cho bà cũng như đã soi sáng cho ông Gia-ia và ba môn đệ thân tín, đến nỗi người phụ nữ đã phải trình bầy sự thật ( Mc 5, 33 ). Và khi nói cho bà về niềm tin, Chúa Giêsu đã cho bà về bình an:” Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”( Mc 5, 34 ). Người phụ nữ bị băng huyết đã từ một niềm tin thô thiển đạt tới một đức tin trọn vẹn vào Đáng cứu thế và ông Gia-ia đứng bên cạnh Chúa Giêsu quả thực ông cũng bỏ tất cả sự hờ hững, tin sơ sài để đạt tới niềm tin vững mạnh vào Đức Giêsu, Đấng quyền năng tuyệt đối.
ĐỨC TIN CẦN VIỆC LÀM VÀ CẦN SỰ CỘNG TÁC CỦA CON NGƯỜI:
Chúa cho con người sự tự do để con người hoàn toàn trách nhiệm xử dụng sự tự do của họ. Chúa luôn tôn trọng con người chứ không coi con người chỉ là những con số. Ngài yêu thương và gọi tên từng người một. Sự yêu thương của Ngài quả thực đã tới chỗ cao vời khôn xiết:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Phép lạ chỉ có thể xẩy ra khi có sự cộng tác của con người. Sự cộng tác này trước tiên là lòng tin trọn vẹn vào Đấng có uy quyền và rồi sự cộng tác bằng cả vật chất nữa. Trong phép lạ hôm nay, Chúa chỉ cho con ông Gia-ia sống lại, khi ông tin trọn vẹn vào Người và người phụ nữ bị băng huyết chỉ có thể được bình an và được chữa khỏi khi bà kể rõ sự tình với Chúa, nghĩa là bà đi vào mối thâm sâu tình thân với Đấng có quyền trên mọi sự. Phép lạ tại tiệc cưới ở Cana xứ Galilêa, xẩy ra khi người nhà đám đã đổ đầy các chum như lời Chúa nói ( Ga 2, 7 ).
Để nuôi dân chúng đã đi theo Chúa nghe Người giảng dậy, Chúa Giêsu đã nhờ tới hai con cá và năm chiếc bánh lúa mạch ( Mc 6, 35-43 ). Để chữa anh mù, Chúa đã xin anh xuống hồ rửa mắt, còn Ngài chỉ thoa bùn vào mắt anh mà thôi. Chúa cho ta tự do, nhưng Ngài đòi ta cộng tác vào công việc của Ngài…Thánh Phaolô cũng đã nói:” Đức tin không có việc làm là đức tin chết “. Hay như Mẹ Têrêsa Calcutta:” Khi chạm vào một người nghèo, bạn hãy làm như thể bạn đang chạm vào Chúa Giêsu tình yêu” hoặc như James Woodbridge:” Đức tin là con mắt để nhìn thấy Chúa, là bàn tay để nắm lấy Ngài, là sức mạnh giúp ta tự hiến cho Ngài “.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con chỉ một niềm tin trọn vẹn vào Chúa.
Khạc hồn ra khỏi miệng”, là tâm trạng của nhà thơ, nay rất khổ. Nỗi xác đành câm tiếng, là tình: TN13-B69
“Khạc hồn ra khỏi miệng”, là tâm trạng của nhà thơ, nay rất khổ. Nỗi xác đành câm tiếng, là tình huống người nhà Đạo, vẫn thương tâm. Chúa thương tâm cả nhà thơ lẫn người đời, như có nói ở trình thuật.
Trình thật thánh Mác-cô hôm nay, lại đã ghi về niềm thương tâm Chúa phú ban cho con ông trưởng hội đường và cho cả người đàn bà, bị băng huyết. Những 12 năm. Và thánh Mác-cô nói “bà đã bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đến tán gia bại sản…mà tiền mất tật mang”(Mc 5: 21). Và, đã cả gan sờ vào gấu áo Ngài, và được khỏi.
Vào khi ấy, Đức Giêsu quay lại hỏi: “Ai đã sờ vào áo của tôi?” Hỏi như thế, Ngài biết uy lực thần thiêng vừa ra khỏi mình Ngài. Đây là điều, khiến môn đệ Chúa cứ thắc mắc với tranh luận. Ngay lúc ấy, người nữ phụ đã bước ra, mà nhận lỗi. Vì bà quá hoảng sợ. Chính ra, bà cũng không nên len lỏi vào chốn ấy, vì ô uế? Và đó là lý do mà bà chẳng dám đến, ngay phút đầu. Đây cũng là nỗi hoảng sợ của các bệnh nhân Siđa của thời đại. Một hoảng sợ, không tên tuổi, không lý do.
Từ lúc ấy, bí mật của bà bị lộ ra cho mọi người thấy. Điều này càng khiến bà hốt hoảng hơn nữa. Thế nhưng, bằng một cử chỉ khác thường, bà tiến về phía trước, phủ phục trước mặt Chúa, và nói hết sự thật với Ngài. Về phía Đức Giêsu, Ngài không mảy may nổi nóng hoặc giận dữ, nhưng nhẹ nhàng nói: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Hãy đi bình an và khỏi hẳn bệnh.” (Mc 5: 34)
Bằng việc chữa lành, Đức Chúa của sự sống và sự sống lại, đã đưa bà về lại với sự vẹn toàn của cuộc sống. Bà không chỉ được chữa lành khỏi tật bệnh thể xác thôi; nhưng, còn trở về với tháp nhập cùng xã hội nơi bà sống. Bà đã kiện toàn con người mình, theo mọi ý nghĩa. Qua tư cách cá nhân lẫn cộng đoàn. Nhưng, chính niềm tin sâu sắc vào Chúa, qua cử chỉ “sờ gấu áo Ngài”, là yếu tố chính tạo sự chữa lành.
Với câu truyện đầu ở trình thuật, Đức Giêsu đích thật là Đấng chữa lành mọi tật/bệnh. Nhưng mọi người không kỳ vọng là Ngài sẽ cho người chết được hồi sinh. Nhưng, Ngài vẫn cứ nhấn mạnh đến những câu khiến mọi người cần ghi nhớ trong đời: “Đừng sợ!”, được nhắc đi nhắc lại, trong Kinh thánh, những 399 lần.
Ở trình thuật, Đức Giêsu chỉ cho phép có 3 tông đồ, thành phần cốt lõi là Phêrô, Giacôbê và Gioan, được đi theo. Chúa muốn các Ngài nhận thấy những gì xảy ra; nhưng Ngài không muốn thoả mãn tính tò mò của đám người dễ bị kích động.
Khi mọi người kéo đến nhà bệnh nhân, lại nghe có tiếng ai oán, cùng khóc than. Ngài bèn bảo: “Sao lại náo động và than khóc đến như thế? Đứa bé có chết đâu, nó chỉ ngủ.” (Mc 5: 39) Thế là, họ cười nhạo Ngài. Nhạo và cười, vì chỉ cần nhìn thoáng, họ cũng biết ai chết, ai còn sống. Mọi người còn biết: nếu không có Chúa ở đó, cô kia chắc đã bị chôn rồi.
Chúa vào nhà người lạ, chỉ có cha mẹ cô bé và 3 môn đồ thân cận. Ngài cầm tay có bé lên rồi nói: “Này cô bé. Thầy truyền cho con hãy trỗi dậy!” (Mc 5: 41). Đứa bé lập tức trỗi dậy và đi lại như người bình thường, không có gì xảy ra. Động từ “trỗi dậy” ở đây, gợi cho người nghe nhớ về tình huống sống lại. Tình huống, Đức Giêsu cũng đã “trỗi dậy”, từ cõi chết.
Đây là cách thức thánh sử Mác-cô diễn tả sự việc rõ ràng và dứt khoát hơn thánh Tin Mừng của Gio-an: “Ta là sự sống lại và là sự sống!”. Dù bị hôn mê hay đã chết, cô bé vẫn được tái tạo vẹn toàn về với cuộc sống. Và Đức Giêsu được bộc lộ cho biết Ngài là Chúa của sự sống. Chính vì thế, những ai chứng kiến việc xẩy ra, đều đã “kinh ngạc sững sờ.”
Sững sờ đến độ, Chúa phải nhắc họ cho cô bé ăn. Điều này nói lên chỉ một phần của con người Đức Chúa. Bởi, Ngài là Đấng chỉ biết lo cho người khác. Chăm nom đùm bọc người khác, mà thôi. Với người khác, có thể sẽ xảy ra chuyện là: sẽ ngủ quên trên chiến thắng, những muốn được bái phục. Nhưng ở đây, Chúa tập trung lo cho nhu cầu của trẻ nhỏ, thôi. Cả hai truyện trong cùng một trình thuật, cho thấy Đức Giêsu là nguồn mạch sự sống và chữa lành.
Bài đọc 1, Sách Khôn ngoan nói rõ: “Thiên Chúa chẳng vui gì, khi sinh mạng tiêu vong.”(Kn 1: 13). Và các đoạn khác còn nói tiếp: “Người đã sáng tạo muôn loài thọ tạo trên thế giời, đều hữu ích cho sinh linh.” (Kn 1: 14). Và điểm quan trọng khác, sách này cũng nói: ta được dựng nên theo hình ảnh bản tính của Thiên Chúa. Chính đây là mục tiêu của sự sống trong chúng ta là: để hiểu biết, yêu thương và san sẻ cuộc sống với Ngài mãi mãi không ngưng.
Quả thật, bằng cách này cách khác, tất cả chúng ta đều cần được Chúa chữa lành. Chữa tật bệnh, cho lành mạnh, sự toàn vẹn, lành thánh bên tiếng Anh, là những cụm từ được đan kết, nối với nhau. Khi nguyện cầu, ta xin cho được lành mạnh để có sức khoẻ, trong mọi địa hạt của cuộc đời chứ không chỉ lành và mạnh, nơi thể xác thôi.
Sự thể đem đến cho ta toàn vẹn sức khoẻ lành mạnh, là cốt trở thành con người vẹn toàn. Vẹn toàn, trong đó mỗi phần trong ta –từ tâm linh, trí tuệ, xã hội, tâm lý, cho chí thể xác—đều hoạt động theo chức năng của nó. Hoạt động trong hài hoà cả ở bên trong, với thế giới bên ngoài. Với cả môi trường chung quanh, người và vật.
Bài đọc 2, thánh Phaolô cũng có nói đến sự toàn vẹn này, khi thánh nhân nhắc nhở giáo đoàn Côrinthô về Đức Giêsu: “Ngài vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo, vì anh em. Để anh em nên giàu có, từ cái nghèo của Ngài” (2Cr 8: 9). Chúa chịu mình trần trên thập giá, là để đổ tràn tình yêu xuống cho ta. Ngài ban sự sống của Ngài, để ta được sống. Và vì thế, Ngài sẽ sống mãn đời. Và nhờ đó, ta trở nên giàu sang phú quý.
Thánh Phaolô lấy đó làm mẫu mực, để giáo dân ở Côrinthô biết mà sẻ san bất cứ thứ gì làm được cho những người anh người chị nghèo khó hơn họ, trong Hội thánh. Có điều là, cả vào khi ta san sẻ cho người khác, không phải là được kỳ vọng cho đi những nhu cầu mà ta cần có cho chính mình, nhưng là những gì ta có dư. Và khi ta san sẻ của thặng dư cho người đang có nhu cầu nhiều hơn, ta sẽ hy vọng được đối xử cùng một cách như thế những khi ta cần.
Xử sự theo cách này, cuộc sống sẽ quân bình hơn. Và, thánh Phaolô đã trích dẫn Kinh sách Cựu Ước nói rằng: ai tích tụ nhiều sẽ chẳng có được bao nhiêu, nhưng ai tích luỹ ít, cũng sẽ không thiếu hụt.
Đây chính là mẫu mực của cuộc sống cộng đoàn, trong xã hội. Xã hội Cộng sản đáng lý ra đã phải làm như thế. Nhưng ngày nay, chỉ còn mỗi cộng đoàn dòng tu mới đích thực biến phương cách sống ấy thành hiện thực. Phương cách ấy, là “làm theo khả năng, nhưng hưởng theo nhu cầu.”
Thành phần của việc chữa lành trong toàn bộ cộng đoàn ta sống, là sự toàn vẹn dựa trên sự thật, tình yêu, lòng xót thương và ý nghĩa công bằng đích thực cho mọi người. Và đây chính là sự thánh thiêng, bởi lẽ Thiên Chúa Đấng Thánh Thiêng là thành phần vẹn toàn của sự trọn vẹn. Ngài được biết với Danh hiệu Đấng tạo Dựng, Gìn Giữ và Cùng Đích của tất cả những gì ta phải là và có thể trở thành. Là, tất cả chúng ta đã, đang và sẽ trở thành, như thế.
Vào buổi tiệc thánh hôm nay, ta cầu mong sao Đức Giêsu, Đức Chúa của sự sống giúp ta đạt đến mức độ ấy. Mức độ của sự lành mạnh, toàn vẹn và thánh thiêng, ta vẫn được mời gọi để đạt đến.
Với con người, chết nghĩa là chấm hết. Thật thế, dấu chấm hết cho đời một con người sau khi người: TN13-B70
Với con người, chết nghĩa là chấm hết.
Thật thế, dấu chấm hết cho đời một con người sau khi người đó trút hơi thở cuối cùng.
Theo Thánh Kinh, khi sự dữ, khi sự ác đi vào con người thì khi đó, sự chết đột nhập vào thế gian như những lời trong sách Khôn Ngoan mà chúng ta vừa nghe:
Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết. Người tác thành mọi sự cho có. Người tạo dựng mọi sự trên mặt đất đều lành mạnh, chúng không có nọc độc sự chết, và không có địa ngục ở trần gian.
Vì chưng, công chính thì vĩnh cửu và bất tử. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn. Nhưng bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó Kn 1, 13- 15.
Ngày hôm nay, các môn đệ cũng như đám đông dân chúng chứng kiến hình ảnh lạ. Hình ảnh của một người đàn ông trai tráng không dám nói là bảnh bao. Chắc hẳn ông là người khá đứng tuổi vì ông là trưởng hội đường. Có tuổi, có vị thế là trưởng một hội đường như vậy nhưng đứng trước Chúa Giêsu, ông đã tỏ thái độ hết sức khiêm nhường là sụp lạy và van xin rằng: "Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống".
Và, trước thái độ của ông, Chúa Giêsu đã có thể nói là lập tức lúc ấy đi theo ông, về dến nhà ông và đi vào nhà và nói luôn: "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!"
Trong khi đó, ta vẫn thấy thái độ cứng tin của đám đông dân chúng. Lòng cứng tin của họ không còn để trong lòng nữa, lòng tin của họ đã khép lại khi họ nói: "Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?"
Thế nhưng, đứng trước thái độ cứng tin của đám đông dân chúng, ông trưởng hội đường vẫn tin tưởng, vẫn tín thác vào tình thương của Chúa. Tình thương của Chúa dành cho con người hay nói cách khác dành cho mỗi người tùy theo cách cảm nhận của mỗi người.
Khi ta cảm nhận được Chúa thương ta rồi thì ta lại càng tín thác cuộc đời của ta như ông trưởng hội đường đã tín thác. Niềm tin của ông đã được Thiên Chúa đáp trả bằng việc Chúa cho con ông sống lại.
Cuộc đời ta, ngổn ngang biết bao nhiêu chuyện. Chuyện của người, chuyện của đời và chuyển của chính bản thân chúng ta. Có những chuyện xảy ra làm ta giật cả mình và không hiểu tại sao nó lại là như thế ? Và, trong lắng đọng của cuộc đời ta nhận ra rằng Chúa thương mình hơn là mình nghĩ.
Có những biến cố trong đời không khỏi chạnh lòng tôi.
Hai vợ chồng đứa cháu cưới nhau được vài năm. Chồng cháu gặp rắc rối về răng và chữa trị. Chẳng hiểu sao trên bàn mổ vì lý do nào đó mà chồng đã ra đi vĩnh viễn ở cái tuổi rất đẹp: 30. Cháu hoàn toàn suy sụp. Cha cháu phải dọn về ở chung với cháu vì sợ trong cơn suy sụp cháu sẽ có những hành động thiếu suy nghĩ hay hành động khác người.
Khi được chị kể lại câu chuyện của cháu ở phương trời xa. Tôi chỉ biết nói với chị là chị cùng gia đình và dạy con cái để cho chúng thấy rằng gia đình được như ngày hôm nay đó là hồng ân và tạ ơn Chúa. Hãy tạ ơn Chúa vì không biết ngày nào là ngày cuối của mình và hãy sống cái ngày hôm nay như là ngày cuối của mình cách nào đó cho đẹp.
Hay là, mới đây, khi hỏi thăm hai vợ chồng quen biết về cuộc sống, người vợ không ngần ngại kể cho tôi rằng 2 vợ chồng đã không còn chung bước với nhau 2 năm nay rồi. Chuyện là không biết lý do nào đó anh làm gì đó để vỡ nợ và phải bán luôn cả căn nhà mà suốt bao nhiêu năm trường hai vợ chồng cùng con cái ôm ấp biết bao nhiêu kỷ niệm.
Nghe như thế, nhìn như thế để thấy rằng gia đình của mình còn may mắn là không phải rơi vào cảnh nợ nần và phải bán nhà cũng như chia tay như thế. Nhìn như thế để liệu liệu mà sống để đừng phải bước theo con người đó. Con đường của vỡ nợ, bán nhà, túng thiếu chẳng phải là con đường của nhiều người muốn bước vào. Khi mình may mắn mình không phải rơi vào những hoàn cảnh như thế là minh cũng là người hạnh phúc hơn họ rồi,
Nói như vậy không phải để so đo, tính toán, so sánh … nhưng giật mình nhận ra rằng Chúa thương mình quá sức tưởng tượng. Lẽ ra trong cuộc sống mình phải mất mát nhiều do tội lỗi của mình nhưng sao Chúa thương mình như thế.
Có như vậy, nhìn như vậy để thấy rằng Chúa thương mình nhiều và mình lại tiếp tục tín thác cuộc đời vào lòng bàn tay của Chúa hơn.
Niềm tin của chúng ta luôn luôn bị thách thức. Có khi thách thức do sự yếu lòng của ta, có khi do sự thúc đẩy của đám đông đông dân chúng, có khi lại do ta không cảm nhận được tình Chúa thương ta.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để dù giữa biết bao nhiêu sóng gió của cuộc đời ta luôn chạy đến với Chúa và xin Chúa đặt tay lên cuộc đời của ta để ban ơn lành cho chúng ta.
Cô bé con gái ông trưởng hội đường là hình ảnh ẩn dụ của những con người đang phải ở trong: TN13-B71
“Cô bé con gái ông trưởng hội đường là hình ảnh ẩn dụ của những con người đang phải ở trong thiết chế Do Thái đương thời. Thiết chế đó bất lực trong việc mang lại sự sống cho họ, thậm chí bất lực cả trong việc duy trì sự sống đó. Mở rộng hơn nữa, cô bé này cũng là hình ảnh của mọi người đang ở trong những hệ thống và thiết chế bên ngoài Đức Giêsu. Những thiết chế và hệ thống đó, dù là kinh tế, dù là chính trị, dù là văn hóa, dù là tôn giáo..., một khi từ khước những giá trị Tin Mừng, sẽ không thể làm cho người ta có được sự sống đích thực.”
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 5,21-43) thuật lại hai phép lạ đặc biệt của Đức Giêsu: chữa lành một người phụ nữ bị bệnh băng huyết và làm cho con gái một ông trưởng hội đường được sống lại. Hai nhân vật nữ đó, thực ra, là các hình ảnh ẩn dụ của những khối dân chúng đang phải khốn khổ và tuyệt vọng dưới sức nặng và sự bất lực của thiết chế Do Thái.
Trong bài suy niệm này, chúng ta sẽ chỉ chú ý đến phép lạ Đức Giêsu làm cho con gái ông trưởng hội đường được sống lại, tức là chỉ đọc và suy niệm bài đọc ngắn của Chúa Nhật hôm nay (Mc 5,21-24a.35b-43).
Nhưng trước hết, để hiểu rõ hơn ý hướng của tác giả Mc khi ông kể lại phép lạ này, có lẽ cần phải chú ý đến tình cảnh hiện tại của Đức Giêsu. Cho đến lúc này, Đức Giêsu đang ở vào hoàn cảnh “cơm không lành canh không ngọt” đối với thiết chế Do Thái. Người bị loại trừ một cách công khai. “Nhóm Pharisêu bàn tính với phe Hêrôđê, để tìm cách giết Đức Giêsu” (3,6). “Đức Giêsu cùng với các môn đệ của Người phải lánh về phía Biển Hồ” (3,7). “Các kinh sư từ Giêrusalem xuống thì lại nói rằng Người bị quỷ vương Bêendêbun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ” (3,22). Về phần mình, chính Đức Giêsu cũng tỏ rõ lập trường cắt đứt đối với thiết chế Do Thái. Bằng việc thiết lập Nhóm Mười Hai (3,13tt), Người đã công bố rõ ràng về một sự mới mẻ hẳn trong chương trình của Người và về sự độc lập hoàn toàn của chương trình đó khỏi những thiết chế Do Thái hiện hành. Hơn nữa, Người chẳng ngại nói rõ ý định giựt thoát dân chúng ra khỏi thiết chế Do Thái (3,27). Người lại còn đi sang vùng dân ngoại và hoat động ở đó (5,1tt). Nói tóm lại, đang có một sự đổ vỡ rõ ràng giữa Đức Giêsu và thiết chế Do Thái đương thời.
Trong khung cảnh đó, bài Tin Mừng hôm nay mở đầu bằng chi tiết Đức Giêsu trở về từ vùng Ghêrasa. “Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ” (c.21). Sự kiện đám đông tụ lại quanh Đức Giêsu lúc này là một sự kiện khá đặc biệt. Nó cho thấy dân chúng không đồng ý với lập trường thù nghịch của các nhà lãnh đạo Do Thái đối với Đức Giêsu. Dân chúng có vẻ chẳng đếm xỉa gì đến lời kết án nặng nề của các kinh sư từ Giêrusalem dành cho Đức Giêsu cả (3,22).
Khi Đức Giêsu đang ở trên bờ Biển Hồ và có cả một đám đông bao quanh Người, thì “có một ông trưởng hội đường tên là Giaia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người, và khẩn khoản nài xin: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống" (cc.22-23).
Trong tình cảnh cụ thể lúc này, sự kiện một nhân vật quan trọng của thiết chế Do Thái địa phương tìm đến xin Đức Giêsu giúp đỡ, là một sự kiện đáng ngạc nhiên. Hẳn ông ta đã phải có một ý muốn rất rõ ràng khi vượt qua một đoạn đường để đi ra ngoài thành, đến bên bờ Biển Hồ, nơi Đức Giêsu đang hiện diện. Chắc chắn phải có một lý do gì đó rất mạnh mẽ mới có thể khiến ông ta làm như vậy. Hơn nữa, “vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người và khẩn khoản nài xin”. Ông công khai diễn tả lòng tôn kính và cho thấy vị thế hơn hẳn của Đức Giêsu so với vị trí xã hội mà ông đang nắm giữ. Mặc dù là một vị đại diện thiết chế Do Thái địa phương và đứng đầu cộng đoàn hội đường, ông cũng vẫn sụp xuống dưới chân một người đang bị chính cái thiết chế ấy từ khước. Hơn nữa, ông còn khẩn khoản nài xin Người, chứ không chỉ trình bày một nguyện vọng hay một đề nghị.
Lý do khiến ông trưởng hội đường hành xử một cách đặc biệt như thế, là một tình cảnh rất nghiêm trọng đang xảy ra, như lời ông nói: “Con bé nhà tôi gần chết rồi”. Chắc chắn ông đã làm hết cách để cứu con gái của ông, nhưng ông đã thất bại. Việc ông để cho đến lúc đứa bé gần chết mới cầu cứu đến Đức Giêsu, một người đang bị từ khước bởi chính cái thiết chế mà ông là đại diện, chứng tỏ đây là một quyết định rất nghiêm trọng, chỉ có thể làm khi ông đã thấy rằng mọi cánh cửa đều đã đóng chặt, không có lối thoát nào khác.
Ông xin Đức Giêsu “đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”. Trong văn hóa Do Thái, đặt tay là hành động truyền sức mạnh hoặc để chữa lành hoặc để chúc lành, tức là hành động thông truyền sức sống. Ông Giaia xin Đức Giêsu thực hiện hành động ấy với một mục đích kép “để cháu bé được cứu thoát và được sống”. Được cứu thoát là được đưa ra khỏi tình cảnh tiêu cực. Được sống là được đưa vào tình cảnh tích cực. Trong ý hướng thần học của Mc, hai điều đó bổ túc cho nhau đồng thời ngầm nhắc đến điểm đầu và điểm cuối của cuộc xuất hành: ra khỏi tình cảnh bị áp bức và tiến vào đất hứa. Đáng chú ý là trong quan điểm Do Thái, theo Đnl 4,1; 8,1; 11,8; 30,16 thì chính việc tuân giữ Lề Luật mới làm cho dân được sống và chiếm hữu đất hứa. Điều đó càng cho thấy tính cách ngoại thường trong hành động và lời xin của ông Giaia.
Trước cách hành xử đặc biệt và lời nài xin khẩn khoản của ông trưởng hội đường, Đức Giêsu không nói một lời nào. Người trả lời ông không phải bằng lời, nhưng là bằng hành động: “Người lập tức ra đi với ông” (c.24a). Người luôn luôn sẵn sàng cứu thoát và làm cho sống.
“Chợt có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?" (c.35b). Tác giả Mc không viết “có mấy người từ nhà ông Giaia”, mà viết “có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường”. Họ đến và thông báo về một tình cảnh đáng thất vọng hoàn toàn. Thiết chế Do Thái đã bất lực trong việc thông ban sự sống hoặc chí ít là giữ gìn sự sống cho những người thuộc về nó. Nhưng không chỉ thông báo về một tình hình, những người đến từ nhà ông trưởng hội đường còn nêu lên một hệ luận từ tình hình đó: “Làm phiền Thầy chi nữa?”. Họ gọi Đức Giêsu là “Thầy” với lòng kính trọng. Nhưng câu hỏi của họ đồng thời cũng cho thấy họ không tin rằng Đức Giêsu là Đấng ban sự sống. Họ hy vọng vào Người trong một vài hoàn cảnh, thậm chí là cả trong những hoàn cảnh ngặt nghèo nữa, nhưng đối diện với cái chết, họ không hy vọng là Người có thể giải quyết được vấn đề, không hy vọng là Người có thể có giải pháp cho tình cảnh bi đát tận cùng ấy.
“Nhưng Đức Giêsu nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi" (c.36). Có vẻ Đức Giêsu không quan tâm đến tin tức mà mấy người kia vừa thông báo. Người chỉ chú ý đến những hậu quả mà lời thông báo của họ có thể gây nên nơi tâm hồn của ông trưởng hội đường. Người liền nói với ông một yêu cầu gồm hai khía cạnh gắn chặt với nhau, như Người đã từng yêu cầu các môn đệ của Người trong 4,40: đừng sợ nhưng hãy tin. Những người đưa tin vừa nói với ông Giaia một tình cảnh tuyệt vọng, nhưng Đức Giêsu mời gọi ông “chỉ cần tin thôi”, tức là đối với Người và đối với những ai tin vào Người, thì không có tình cảnh nào là đáng tuyệt vọng và không thể vượt qua. Lòng tin vào Đức Giêsu sẽ không bao giờ khiến người ta phải thất bại. Và ông Giaia chỉ cần phải tin mà thôi.
Rồi Đức Giêsu tiếp tục con đường của mình, hướng đến nhà ông trưởng hội đường.“Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan” (c.37). Từ đây, Đức Giêsu nắm vai trò quyết định. Tại sao Người chỉ cho các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan theo mình đến nhà ông trưởng hội đường? Ba vị này là những người đứng đầu danh sách của Nhóm Mười Hai (x.3,16-19), những người sẽ phải làm chứng về tình trạng chết chóc của thiết chế cũ và về sự sống do Đức Giêsu trực tiếp đem lại.
“Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ” (c.38). Mỗi lần nói đến cái chết hay ám chỉ cái chết trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, tác giả đều cố ý sử dụng lối nói “nhà ông trưởng hội đường” chứ không phải “nhà ông Giaia”. Đối với những người ở trong nhà ông trưởng hội đường, cái chết là một sự kiện không thể đảo ngược. Họ không còn biết làm gì khác ngoài việc khóc lóc và kêu la ầm ĩ. Cái thiết chế mà họ thuộc về đó đã không thể cung cấp cho họ bất cứ giải pháp nào cho tình cảnh tuyệt vọng này. Họ không tìm thấy trong cái thiết chế tôn giáo Do Thái đương thời một sự an ủi nào. Họ chỉ còn biết than khóc và kêu la ầm ĩ mà thôi.
Từ bên ngoài, Đức Giêsu đã nhìn thấy rõ tình cảnh bi thương đó.“Người bước vào nhà và bảo họ: "Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!" Họ chế nhạo Người” (cc.39-40a). Sự náo động và khóc lóc của những người trong nhà ông trưởng hội đường chính là lời giải thích cho tình cảnh của đứa bé gái và của chính họ. Đức Giêsu lên tiếng điều chỉnh lời giải thích ấy. Trước hết, Người đặt một câu hỏi cho thấy sự khóc lóc kia là không đúng đắn, vì tình cảnh không hoàn toàn đáng tuyệt vọng. Nói cách khác, câu hỏi của Đức Giêsu ngầm đề nghị một niềm hy vọng cho tình cảnh có vẻ bi thảm đang xảy ra. Sau đó, Đức Giêsu đưa ra cho họ lời giải thích về sự kiện đang diễn ra: “Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”.
Phần thứ nhất của lời giải thích này hoàn toàn đối nghịch với những gì mà các người đến từ nhà ông trưởng hội đường đã thông báo cho ông ta ở câu 35. Khi ấy Đức Giêsu chỉ ngầm phủ nhận lời khẳng định của họ bằng cách mời gọi ông trưởng hội đường hãy tin. Bây giờ Người phủ nhận một cách hiển ngôn.
Thật ra, không phải là Đức Giêsu không biết rằng đứa bé đã chết thật rồi. Nhưng khi khẳng định rằng nó đang ngủ, Đức Giêsu có ý nói rằng cái chết không phải là thực tại có tiếng nói tối hậu và xác định. Đó chỉ là một tình trạng “chuyển tiếp”, mau qua, tựa như một giấc ngủ. Khi có sự hiện diện của Đức Giêsu, tình cảnh sẽ thay đổi: cái vốn không thể đảo ngược bây giờ sẽ không còn như vậy nữa, vì Đức Giêsu đang đưa ra một thực tại mới trước đây chưa hề có, và thực tại này sẽ cho phép con người vượt quá cái chết, biến sự chết thành một giấc ngủ mau qua.
Phản ứng chế nhạo của những người đang ở trong nhà ông trưởng hội đường cho thấy họ hoàn toàn nghi ngờ, không tin điều đó có thể xảy ra. Họ không thể mở lòng mình ra để đón nhận thực tại mới mà Đức Giêsu muốn mang lại đó. Điều này dễ hiểu, vì xét theo quan điểm thông thường, điều Đức Giêsu vừa nói thật ra rất phi lý. Người ta chỉ có thể chấp nhận điều đó khi tin vào Đức Giêsu mà thôi. Vì thế, lời giải thích của Đức Giêsu cho tình cảnh hiện tại của đứa bé, thật ra, cũng ngầm là lời mời gọi những người đang ở trong nhà ông trưởng hội đường hãy tin vào Người. Nhưng họ từ chối. Họ chưa thể đón nhận một lời đề nghị bên ngoài hệ thống thiết chế mà họ đang ở trong đó.
Đứng trước sự chế nhạo của họ, Đức Giêsu hành động như một người có uy quyền. Trong nhà của ông trưởng hội đường, chính Người lấy quyết định. “Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm” (c.40b). Bắt những người khóc lóc và cười nhạo ra ngoài, Đức Giêsu cho thấy Người không muốn hành động trong bầu không khí thù nghịch và cứng tin. Người chỉ cho cha mẹ đứa bé và ba môn đệ hiện diện. Đáng chú ý là lúc này tác giả Mc không nói đến ông trưởng hội đường, mà nói đến người cha của đứa bé. Chức vụ của ông trong thiết chế Do Thái bị gạt sang một bên, thay vào đó, tác giả nhấn mạnh một thực tại nhân sinh và sự sống. Sự hiện diện của người mẹ, vốn không hề được nói đến từ đầu câu chuyện, càng cho thấy rõ hơn điều đó.
“Người cầm lấy tay nó và nói: "Talitha qum", nghĩa là: "Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!" (c.41). Ông Giaia đã xin Đức Giêsu đến đặt tay trên con gái ông (c.23). Nhưng Đức Giêsu cầm lấy tay nó, khi nó đã chết rồi. Rõ ràng Đức Giêsu đang vi phạm một lệnh cấm rất nghiêm nhặt của Luật liên quan đến sự thanh sạch theo nghi lễ: “Ai đụng vào người chết, bất cứ người chết này là ai, đều bị nhiễm uế trong bảy ngày liền. Ai đụng vào người chết -thi thể của một người đã chết- mà không thanh tẩy mình, người đó làm cho Nhà Tạm của ĐỨC CHÚA bị nhiễm uế, người như thế phải bị diệt trừ khỏi Israel” (Ds 19,11.13). Đối với Đức Giêsu, lệnh cấm này không còn giá trị.
Cùng với hành động cầm tay đứa bé đã chết, Đức Giêsu công bố một lệnh truyền: “Talitha qum”. Lời Đức Giêsu truyền cho cô bé trỗi dậy cho thấy rõ quyền bính của Người. Nhưng cũng như trong trường hợp người bai liệt ở 2,11 chính cô bé phải trỗi dậy, tất nhiên là theo lệnh và với sức mạnh mà Đức Giêsu ban cho; Đức Giêsu thông truyền cho cô bé sự sống có thể làm cho cô thực hiện cuộc sống của mình.
“Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ” (c.42). Khác với các ngôn sứ Êlia và Êlisê trong Cựu Ước (x. 1V 17,17-24; 2V 4,17-37), Đức Giêsu đã không phải thực hiện bất cứ nghi thức hay lời cầu khẩn nào. Người chỉ thi thố quyền năng đặc biệt. Và lời Người lập tức hiệu nghiệm. Em bé đứng dậy và bước đi. Phản ứng của những người hiện diện ở đây tương tự như phản ứng của đám đông Do Thái trong phép lạ chữa người bại liệt ở 2,12: ai nấy đều sửng sốt và kinh ngạc, thậm chí còn mạnh mẽ hơn: “kinh ngạc sững sờ”! Người ta đã không thể hình dung được rằng bên ngoài thiết chế tôn giáo Do Thái lại có thể có một quyền năng vĩ đại và siêu việt như thế, đến độ có thể thông ban sự sống và khiến cái chết chỉ là một giấc ngủ chóng qua.
Nhưng “Đức Giêsu nghiêm cấm họ , và bảo họ cho con bé ăn” (c.43). Thoạt nhìn, quả thực lệnh cấm “không được để một ai biết việc ấy” thật khó hiểu. Sự kiện cô bé chết là một sự kiện công khai, đám đông biết rõ, và đám ma đang được tổ chức với những sự khóc lóc và kêu la ầm ĩ là điều chẳng thể giữ kín được nữa. Bây giờ đám tang đột ngột ngưng lại, cô bé đã chết bây giờ đứng dậy và đi lại được! Một sự kiện như thế mà bảo không được để cho ai biết, thì quả thực kỳ lạ, không thể giải thích được.
Nhưng nếu xét kỹ, ta có thể hiểu ý nghĩa bên dưới của lệnh cấm này. Cô bé vừa được cứu thoát và được làm cho sống mới chỉ 12 tuổi, và cần phải được cho ăn. Nó chưa thể ngay lập tức có cuộc sống tự lập được. Nó chưa thể đứng đối lập với hệ thống Do Thái đương thời được. Vậy điều cần phải được giữ kín trong giai đoạn hiện tại không phải là sự kiện nó được sống, mà là ý nghĩa của sự kiện ấy. Khi nào đủ sức chấp nhận những hậu quả của việc cắt đứt với thiết chế Do Thái đương thời và có thể trưởng thành tin vào Đức Giêsu, cô bé sẽ thực hiện điều đó chứ không được phép giữ kín không tuyên xưng lòng tin, như Đức Giêsu đã đòi hỏi người phụ nữ đã được chữa khỏi bệnh băng huyết ngay trước khi người đến nhà ông Giaia.
Vậy điều quan trọng lúc này phải là giúp cho cô bé lớn lên và trưởng thành.
Tác giả Mc tỏ ra có một cái nhìn rất thực tế.
Câu chuyện Đức Giêsu cứu sống cô bé con gái ông trưởng hội đường trong bài Tin Mừng hôm nay rất ý nghĩa đối với chúng ta. Cô bé con gái ông trưởng hội đường là hình ảnh ẩn dụ của những con người đang phải ở trong thiết chế Do Thái đương thời. Thiết chế đó bất lực trong việc mang lại sự sống cho họ, thậm chí bất lực cả trong việc duy trì sự sống đó. Mở rộng hơn nữa, cô bé này cũng là hình ảnh của mọi người đang ở trong những hệ thống và thiết chế bên ngoài Đức Giêsu. Những thiết chế và hệ thống đó, dù là kinh tế, dù là chính trị, dù là văn hóa, dù là tôn giáo..., một khi từ khước những giá trị Tin Mừng, sẽ không thể làm cho người ta có được sự sống đích thực. Đức Giêsu đến, truyền ban sức sống, làm cho cô bé con gái ông trưởng hội đường được cứu và được sống. Người cũng đang làm như thế, ngay trong thế giới hiện nay của chúng ta. Người cũng đang cầm tay mỗi người chúng ta mà nói: “Talitha qum”...
Nếu có dịp lần giở lại những trang Tin mừng, chúng ta sẽ nhận ra một điều: trong cuộc: TN13-B72
Nếu có dịp lần giở lại những trang Tin mừng, chúng ta sẽ nhận ra một điều: trong cuộc đời hoạt động công khai của Chúa Giêsu, bên cạnh những lời rao giảng về Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu thường làm những phép lạ để chứng minh cho lời rao giảng của mình. Hay nói một cách chính xác hơn, là để thể hiện trọn vẹn sứ mạng cứu độ khi đến trần gian mà Ngài đã lãnh nhận từ nơi Thiên Chúa Cha. Là để chứng minh cho con người thấy Ngài là một vị Thiên Chúa đầy quyền năng, là Cha nhân từ, đang hiện diện, đồng hành để sẻ chia, nâng đở con người trong kiếp sống nhân sinh nếu con người biết chạy đến với Ngài.
Thật vậy, với hai phép lạ vừa nghe, Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho chúng ta thấy Ngài không phải là một vị Thiên Chúa xa vời mà là một vị Thiên Chúa đầy tình thương, luôn gần gũi, luôn ở bên con người, luôn thấu hiểu đời sống con người có những lúc đau khổ, thiếu thốn, mà con người không thể làm gì được, cũng không thể cầu cứu ai được ngoài Thiên Chúa. Ngài muốn chứng minh cho chúng ta thấy rằng, Ngài luôn cảm thông và sẳn sàng chia sẻ nỗi thống khổ và sự bất lực của con người nếu biết tìm đến với Ngài.
Con gái ông chủ hội đường không biết mắc phải bệnh gì, nhưng có lẽ, đã vướng bệnh lâu rồi, đang nằm thui thủi trên giường chờ chết. Ông chủ hội đường là người có địa vị, giàu có thế lực chắc chắn đã chạy thầy chạy thuốc khắp nơi, nhưng giờ này cũng đã chịu bó tay, ông cũng đành bất lực không biết làm sao cho con ông khỏi chết. Và Chúa Giêsu là niềm hy vọng cuối cùng của ông. Thế nên, ông đã tìm đến với Chúa, bằng một thái độ rất cung kính, tin cậy, quỳ sụp xuống trước mặt, ông thưa với Chúa: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đặt tay trên nó, để nó được khỏi và được sống”. Chúa Giêsu không là thầy lang, không học bác sĩ, tại sao ông đến gặp Chúa lại thưa bằng một giọng xác tín như thế?
Phải chăng, trong con mắt và trái tim của ông trưởng hội đường. Chúa Giêsu phải là một vị thần, một vị thánh nào đó, trên cả siêu nhân. Ngài thuộc về thượng giới, cho nên Ngài mới có đủ quyền lực, để chữa bệnh cho con ông ta, mà chữa bệnh chỉ bằng việc “Ngài đặt tay”. Rồi đặt tay, không phải chỉ “khỏi” không thôi, mà hơn nữa, nó sẽ được “sống”. Phải là ai, là Đấng nào mới có quyền trên sự sống và sự chết. Ông không nhìn rõ, chưa thể nhìn rõ, Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng mờ mờ, ông đã nhận thấy, đàng sau vẻ bình thường của một con người mang tên Giêsu, là một quyền năng cao vời, thuộc về trời cao, vượt hẳn cái chữ “người” mà ông cũng đang có. Và rồi, hạnh phúc chưa. Con ông đã được khỏi, niềm tin đã được đáp đền, hay đúng hơn, niềm tin của ông, đã là chìa khóa, để mở được lòng thương xót của Chúa dành cho con ông.
Còn người đàn bà bị băng huyết nghèo khổ, cô thế cô thân, suốt 12 năm bị nhấn chìm trong khó chịu bệnh tật đau đớn và ô uế theo tục lệ. Đối với bà, niềm hy vọng vào thầy thuốc đã lịm tắt từ lâu. Bất chợt hôm nay, trong trái tim mùa đông của bà, bỗng lóe lên một tia hy vọng. Một người mang tên Giêsu: Uy lực trong lời nói, quyền năng trong cứu giúp bệnh nhân. May ra có thể cứu chữa được căn bệnh trầm kha của bà. Và rồi, rất âm thầm lặng lẽ, bà đến gần Chúa Giêsu. Cùng với một niềm tin cháy bỏng, bà nghĩ nếu Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa thì mình chỉ cần chạm đến gấu áo Ngài thôi cũng có thể chữa mình khỏi bệnh. Coi giản đơn, nhưng cũng có thể nói mà không sợ quá đà: Đức Tin của người đàn bà còn cao hơn người trưởng hội đường một bậc. Bởi người đàn ông ấy, còn yêu cầu Chúa đến để “đặt tay”, đằng này, người đàn bà chỉ cần “chạm đến gấu áo” Ngài thôi. Bỗng dưng, người đàn bà thấy mình khỏi bệnh. Vậy đâu là chìa khóa, đâu là yếu tố cốt lõi, để phép lạ xảy ra? Thưa, chính là Lòng Tin, Lòng tin thực sự đã làm nên phép lạ. Hay nói cách khác, phép lạ phát xuất từ hai nguồn: quyền năng đầy yêu thương của Thiên Chúa và lòng tin của con người.
Thế cho nên, Lời Chúa hôm nay, một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta duyệt xét lại niềm tin của mình vào Thiên Chúa đang ở mức độ nào. Vì nhiều lần chúng ta đụng chạm đến Chúa như khi chúng ta rước Mình Thánh Chúa, khi ta lãnh nhận các bí tích, khi ta tiếp xúc với tha nhân, đặc biệt những anh em bệnh tật, nghèo túng, bị bỏ rơi. Nhưng những lần đụng chạm ấy có để lại dấu ấn nào trong ta hay không?. Có làm cho đời sống chúng ta biến đổi hay chưa?
Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục cuối xuống trên nỗi bất hạnh của chúng ta, Ngài vẫn tiếp tục giơ bàn tay quyền năng để chuyển thông sức sống thần linh cho chúng ta. Ước gì mỗi người chúng ta trong thánh lễ hôm nay, xin Chúa ban cho mình một chút đức tin như ông trưởng hội đường và người đàn bà bị băng huyết kia, để từ đây, chúng ta biết đụng chạm đến Chúa với tất cả lòng tin và tình mến. Với lòng chân thành và phó thác, chúng ta cũng xin Chúa nắm lấy đôi tay bé nhỏ của chúng ta và kéo trỗi dậy khỏi những quyến rũ bất chính, những đam mê mù quáng, những tính hư nết xấu, để chúng ta được đổi mới và được sống. Amen.
Bài Tin Mừng Ngày Chúa Nhật Thường Niên XIII Năm B hôm nay thuật lại biến cố Chúa Giêsu: TN13-B73
Bài Tin Mừng Ngày Chúa Nhật Thường Niên XIII Năm B hôm nay thuật lại biến cố Chúa Giêsu chữa lành người đàn bà bị bệnh băng huyết đã mười hai năm và làm cho con gái ông trưởng hội đường sống lại. Trong cả hai trường hợp này, Chúa Giêsu nói đến Đức Tin: “Này bà, lòng tin của bà đã cứu chữa bà. Bà hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh" (Mc 5,34); “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36).
Cộng đoàn phụng vụ chúng ta hãy cùng nhau suy niệm về Đức Tin. Chúa Giêsu đòi buộc phải có một đức tin mạnh mẽ.
Chúa Giêsu khen ngợi đức tin: Ngài khen ngợi đức tin của quan đại đội trưởng người Rôma: "Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Israen nào có lòng tin như thế” (Mt 8,10); Ngài khen ngợi đức tin của người phụ nữ Canaan: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy." (Mt 15,28).
Chúa Giêsu chê trách tất cả những ai kém lòng tin: “Nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!” (Mt 6,30).
Đặc biệt, Chúa Giêsu quở trách nặng nề sự yếu kém đức tin của các Tông đồ: “Chúa Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo Chúa. Bỗng nhiên biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Chúa vẫn ngủ. Các ông lại gần đánh thức Chúa và nói: "Lạy Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất! " Chúa Giêsu nói: "Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin! " Rồi Chúa chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ” (Mt 8,23-27).
Chúa Giêsu đòi buộc phải tin, mới được lành bệnh như chúng ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay: “Này bà, lòng tin của bà đã cứu chữa bà. Bà hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh" (Mc 5,34) / “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36).
Chúa Giêsu nói đến sự cần thiết phải có một đức tin lớn, mạnh, không chút nghi nan: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: "rời khỏi đây, qua bên kia!", nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17,20); “Nếu anh em tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm được điều Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: "Dời chỗ đi, nhào xuống biển! ", thì sự việc sẽ xảy ra như thế. Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được” (Mt 21,21-22).
Con người thời đại bây giờ không coi trọng Đức Tin.
Họ chỉ bíết tin vào khoa học, kỹ thuật: cái gì thấy được bằng mắt, đụng chạm được bàn tay, nghe rõ được bằng tai, họ mới tin là có. Họ sống giữa một thế giới đầy những phản ứng tội lỗi: hận thù, ghen ghét, dối trá, bất công, tham nhũng, trụy lạc, ….
Vì không coi trọng Đức Tin, con người thời đại bây giờ xem đời sống tôn giáo là dư thừa, vô ích, gây trở ngại cho cuộc sống của họ. Sống trong thời đại bây giờ, người Công Giáo chúng ta dễ mất Đức Tin. Do chúng ta chỉ tin hời hợt bên ngoài, tin nơi lỗ miệng, nơi lý thuyết, nhưng không sống Đức Tin sâu đậm bên trong, nên khi gặp khó khăn về Đức Tin, khi phải nếm cảnh buồn phiền, thất vọng, chúng ta dễ lơ đạo, bỏ đạo.
Do kiêu ngạo, ham mê tiền bạc, chạy theo tình dục như bao nhiêu người khác, chúng ta dễ bỏ Đức Tin. Do ảnh hưởng gương xấu của cha mẹ, anh chị em, người thân, bạn bè, chúng ta cũng dễ mất Đức Tin. Do không chịu sống đời hy sinh vì bản tính biếng nhác của con người, chúng ta cũng mất Đức Tin vì muốn sống Đức Tin, chúng ta phải xa lánh tội lỗi, phải tập luyện các nhân đức hằng ngày.
Do sống chung đụng với người duy vật, vô thần hiện nay, nghe những lời người ta công kích Đức Tin, chúng ta cũng dễ mất Đức Tin.
Anh Chị Em thân mến
Đối với người Công Giáo chúng ta, Đức Tin rất quý giá.
Đức Tin dạy chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu, tin vào Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
Đức tin làm cho chúng ta là con người tội lỗi, được trở thành con cái Thiên Chúa. Đức tin làm cho những việc tầm thường trong đời sống của chúng ta trở thành có giá trị vĩnh cửu. Đức Tin làm cho chúng ta có cái nhìn lạc quan tin tưởng vào tình Chúa yêu thương trong mọi biến cố cuộc sống đời mình. Đức Tin giúp chúng ta làm được những điều mà người không có đức tin không hiểu nổi: sống can đảm chấp nhận cái chết đau thương như các thánh tử đạo, sống từ bỏ tất cả để theo Chúa các như thánh tu trì, sống đời gia đình đạo đức thánh thiện bất chấp những khó khăn trên đời này. Đức Tin giúp chúng ta nhận ra bàn tay của Chúa luôn dẫn dắt chúng ta để chúng ta được sống bình an hạnh phúc trong cõi đời tạm này.
Khi chúng ta đau khổ, Đức Tin dạy chúng ta biết Chúa rất thương chúng ta. Khi chúng ta phiền muộn, Đức Tin dạy chúng ta biết Chúa luôn an ủi chúng ta. Khi chúng ta khóc thầm, khi chúng ta buồn tủi, Đức Tin dạy chúng ta biết Chúa đang ở bên cạnh chúng ta, hiểu chúng ta, chia sẻ những nỗi buồn tủi của chúng ta. Khi chúng ta cô đơn, Đức Tin dạy chúng ta biết Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Khi chúng ta bị cám dỗ, khi chúng ta sắp sa ngã, Đức Tin dạy chúng ta biết Chúa có mặt khắp nơi, Chúa biết hết mọi sự. Khi chúng ta khốn nạn, Đức Tin dạy chúng ta biết Chúa cao sang vô cùng, vì thế, chúng ta không mất lòng trông cậy vào Chúa. Khi chúng ta bất lực, Đức Tin dạy chúng ta biết Chúa phép tắc vô cùng, Chúa làm cho chúng ta trở nên mạnh mẽ. Khi chúng ta nếm cảnh bất công, Đức Tin dạy chúng ta hãy sống bình tĩnh vì Chúa vô cùng công minh. Khi chúng ta nghĩ đến quá khứ của minh, Đức Tin dạy chúng ta biết Chúa tha thứ tất cả và chúng ta đợi đến ngày phán xét mới biết rõ mọi sự. Khi chúng ta nghĩ đến tương lai, Đức Tin dạy chúng ta biết những gì chưa xảy ra, đều nằm trong bàn tay toàn năng và đầy yêu thương của Chúa. Khi chúng ta gặp rủi ro hay may mắn, thất bại hay thành công, Đức Tin dạy chúng ta biết mọi sự đều do thánh ý Chúa sắp đặt. Khi người thân chết, Đức Tin dạy chúng ta biết Chúa sẽ cho chúng ta được gặp họ lại sau nầy ở trên thiên đàng. Khi nghĩ dến mình sẽ chết, Đức Tin dạy chúng ta biết Chúa đã phục sinh và chúng ta sẽ được sống lại với Chúa.
Lạy Chúa,
xin cho chúng con có một Đức Tin hoàn toàn: biết đưa Đức Tin vào tận sâu trong cách suy nghĩ của mình, trong các phán đoán của mình đối với những sự tự nhiên cũng như siêu nhiên;
xin cho chúng con có một Đức Tin tự do và ý thức: biết đóng góp phần cá nhân tự nguyện của mình; xin cho chúng con có một Đức Tin hy sinh: biết từ kkhước những gì làm mất lòng Chúa và biết luôn làm trọn mọi viêc bổn phận lớn nhỏ của mình;
xin cho chúng con có một Đức Tin chắc chắn: biết xác tín bằng tất cả những lý trí và lý luận của mình, và nhất là bằng ơn Đức Chúa Thánh Thần soi chiếu bên trong, để luôn vững tâm tin Chúa, để luôn an tâm yêu Chúa, để luôn có được lương tâm bằng an;
xin cho chúng con có một Đức Tin mạng mẽ: biết chống lại bất kỳ ai làm hại đức tin của mình; xin cho chúng con có một Đức Tin vui vẻ: biết rung động sung sướng mỗi khi được cầu nguyện với Chúa, mỗi khi được chịu đau khổ vì Chúa;
xin cho chúng con có một Đức Tin tích cực: biết làm cho Đức Tin của mình được lan rộng ra bằng cuộc sống chứng nhân; xin cho chúng con có một Đức Tin khiêm nhượng: biết luôn lắng nghe sự hướng dẫn của Ơn Chúa, sự hướng dẫn của Giáo Hội. Lạy Chúa,
xin cho chúng con luôn biết bảo vệ Đức Tin và nuôi dưỡng Đức Tin của chúng con bằng cách sống đời cầu nguyện, nhất là siêng năng tham dự Thánh Lễ và nhận lãnh các Bí Tích; bằng cách đọc Lời Chúa, nghe Lời Chúa và sống Lời Chúa; bằng cách học giáo lý suốt đời; bằng cách yêu mến Đức Mẹ Maria và sống theo gương Đức Tin của Mẹ. Amen. Lm. Émmanuel Nguyễn Vinh Gioang
Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Thiên Chúa tạo dựng sự sống nơi thực vật, động vật, con: TN13-B74
Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Thiên Chúa tạo dựng sự sống nơi thực vật, động vật, con người và thiên thần. Chúng ta thấy được sự sống gắn liền nơi các tao vật. Mọi tạo vật đều nhận hơi thở sự sống. Rút hơi thở, chúng sẽ tan biến. Ngay chương đầu của sách Khôn Ngoan, tác giả được linh lứng viết rằng: Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong (Kn 1,13). Sự sống ở mọi tạo vật sinh động sẽ tiêu vong, nhưng sự sống thật sẽ tồn tại muôn đời. Chúng ta có nhiều kinh nghiệm về sự sinh, lão, bệnh và tử. Con người sinh ra và từ từ đi về cõi chết. Đã là người, ai cũng bước qua lúc sinh lúc tử.
Từ muôn thế hệ, dòng dõi này nối tiếp dòng dõi kia để truyền sinh sự sống. Sự sống mà Thiên Chúa trao ban cho tổ tông của loài người vẫn được tiếp tục phát triển và sinh xôi nẩy nở. Sự sống của từng cá nhân sẽ chấm dứt ở đời này, nhưng sự sống của con người sẽ tiếp tục. Với niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh, chúng ta tin rằng sự sống thay đổi chứ không mất đi. Người ta thường nói: Sinh ký tử qui, sống gởi thác về và từ trần hay qua đời. Qua đời này để vào đời khác. Chết không phải là chấm hết mà bước qua một cuộc sống mới.
Sự sống và sự chết là một mầu nhiệm. Chúng ta không hiểu được mầu nhiệm của sự sống, mà chỉ chiêm ngắm và sống mầu nhiệm này. Biên giới giữa sự sống và sự chết là một hơi thở. Có những người được sống cả trăm năm. Có những thân phận bé bỏng chỉ được nương nhờ sự sống nơi cung lòng mẹ ít ngày tháng. Cuộc đời dài vắn của mỗi sinh linh đều khác nhau. Chúng ta không thể so sánh hay phân bì. Mỗi một sự sống là một huyền nhiệm. Sự sống như nhau, nhưng sự sống đi vào cụ thể trong những định mệnh hoàn toàn khác nhau. Mỗi một cá nhân được trao ban một số mệnh cuộc đời. Hạnh phúc biết bao khi chúng ta được mở mắt chào đời và được hiện hữu trên thế gian. Chúng ta hãy trân quí từng giây phút trong cuộc đời. Cuộc đời dù ngắn hay dài đều có một sứ mệnh, một ý nghĩa và cùng đích. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa để sống vĩnh viễn: Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người (Kn 2,23).
Chúa Giêsu là Ngôi Hai và là Con Thiên Chúa. Nhờ Chúa Ngôi Hai mà muôn vật được tạo thành. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga 1, 3-4). Thánh Gioan đã thâu tóm chân lý sáng tạo vũ trụ muôn loài qua một lời tròn đầy ý nghĩa: Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành. Ngôi Lời là trung gian của tất cả vạn vật hữu hình và vô hình. Ngài có quyền năng sáng tạo, biến đổi và tái tạo. Chúa Giêsu đã chứng minh quyền năng bằng các phép lạ và lời uy quyền. Biến đổi vật chất như nước thành rượu, bánh cá hóa nhiều, cho sóng gió im lặng, mẻ cá đầy, chữa các loại bệnh hoạn tật nguyền, cải đổi tâm hồn và quyền cho kẻ chết sống lại.
Suy về cuộc đời vô thường, là người ai trong chúng ta cũng có lúc khỏe mạnh và khi yếu đau, khi vui vẻ và lúc buồn sầu, khi hạnh phúc và lúc bất hạnh, khi may mắn và lúc hiểm họa. Sự sống sự chết cận kề. Ai cũng sợ đau yếu bệnh họan và chết chóc. Ông trưởng hội đường tên Giairô đến sụp lạy và van xin Chúa Giêsu: Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống. Trên đường về nhà ông, có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết. Bà cũng cực khổ tìm thầy chạy thuốc. Bà tự nhủ: Miễn sao tôi được chạm tới áo Người thì tôi được lành. Bà đã chạm và bà đã cảm nhận sự chữa lành trong thân thể bà.
Chúa Giêsu chính là nguồn sự sống và có quyền trên sự sống. Con người là loài thụ tạo, khi đã tắt hơi thở hoàn toàn thì thân xác đi vào cõi tiêu diệt. Không có một quyền lực hay loại thuốc nào có thể cứu gỡ. Đã ra đi là ra đi vĩnh viễn. Con người đành bó tay trước sự chết. Chúa Giêsu nhìn vào sự chết như một giấc ngủ. Thánh Marcô diễn tả về quyền năng của Chúa: Người bước vào nhà và bảo họ: "Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy! (Mc 5, 39). Nhiều người cười nhạo Ngài vì họ đã biết em bé đã tắt thở và đã chết. Nhưng Chúa Giêsu cầm lấy tay nó và nói: "Ta-li-tha kum", nghĩa là: "Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!(Mc 5, 41).
Chỉ Đấng trao ban sự sống mới có quyền ban lại sự sống. Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho em gái sống lại trước mặt đám đông. Sự kiện cho kẻ đã chết được sống lại hoàn toàn mới lạ, vượt ra ngoài sự hiểu biết và suy nghĩ của con người. Đôi khi chúng ta nghe nói có những người đã chết nhưng được hồi sinh. Có những trường hợp con người đã chết lịm đi, hơi thở qúa yếu và các cơ quan lưu chuyển trong cơ thể hầu như ngưng đọng. Tin rằng sự sống vẫn còn hiện diện trong thân xác và họ từ từ được hồi sinh. Khi chúng ta có cơ hội chứng kiến những người trong lúc lìa trần, họ cố gắng hít khí vào phổi, nhưng chỉ thở hắt ra đôi lần. Sự cách biệt giữa sự sống và sự chết chỉ là hơi thở. Khi con người trút hơi thở là vĩnh viễn ra đi.
Chúng ta bước vào đời với hình hài một trẻ thơ bé bỏng. Chúng ta được nuôi nấng dưỡng dục, được học hỏi trau dồi kiến thức, được học làm người và học làm con Chúa. Mỗi người lãnh nhận những khả năng và nguồn vốn khác nhau. Điều quan trọng là chúng ta sinh lời không riêng cho chính mình mà chung cho đồng loại. Thánh Phaolô tông đồ trong thơ gởi tín hữu Corintô đã nhắc nhở rằng: Kẻ được nhiều thì cũng không dư, mà kẻ có ít, cũng không thiếu. Phaolô đã khích lệ tín hữu rằng anh chị em vượt trổi về mọi mặt về sự hiểu biết, lòng tin, sự nhiệt thành và lòng bác ái. Trồng người như trồng cây. Ai mà không mong cây trồng phát triển và sinh hoa trái. Con người có sứ mệnh cao qúi. Mỗi cuộc sống con người cũng phải sinh hoa kết trái cho đời. Người ta thường nói: Cọp chết để da, người chết để tiếng.
Chúng ta sẽ ra đi với hai bàn tay trắng nhưng không thể thiếu hành trang. Cuộc sống bên kia cần có nhiều phước báo và việc thiện như là hoa qủa cuộc đời. Phải tạo nhân tốt mới có qủa tốt. Có lòng bác ái vị tha, chúng ta mới có sự yêu thương ràng buộc. Sự sống rất quí giá và đáng sống. Mỗi giây phút sống trong cuộc đời đều là hồng ân. Chúng ta không có quyền tiêu diệt hay hủy hoại sự sống của người khác hay của chính mình. Ai cũng muốn sống hạnh phúc nhưng đôi khi chúng ta làm ngơ trước những hạnh phúc mà chúng ta đang thừa hưởng. Niềm vui và sự bình an nằm ngay trong cuộc sống hằng ngày. Hạnh phúc ví như một chiếc khăn tinh sạch, đôi khi có điểm vài vết nhơ sầu khổ. Vì quá chú trọng đến những chấm nhỏ buồn phiền của cuộc sống, để rồi có nhiều người bi quan cho rằng cuộc đời là bể khổ. Thực sự đời chỉ buồn khổ đối với những ai chấp ngã không dám buông bỏ.
Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống, xin cho chúng con biết sống xứng đáng với danh phận của con người. Chúa tác thành mọi sự cho có. Chúa tạo dựng con người để được sống hạnh phúc và thông phần sự sống vĩnh cửu. Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sách Thánh dạy chúng ta:”Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài” để con: TN13-B75
Sách Thánh dạy chúng ta:”Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài” để con người được tham dự vào sự sống vĩnh cửu, nhưng chương trình ấy đã bị phá vỡ bởi tội lỗi con người, và từ đó sự chết đã nhập vào thế gian khiến con người phải chết (Kn 1,13-15). Ngoài ra, con người còn phải chịu nhiều đau khổ như bệnh tật, thiên tai, hận thù, chiến tranh#, chém giết nhau... Chúng rình rập chúng ta như săn đuổi con mồi, hòng chộp bắt chúng ta, đánh qụy chúng ta và sớm đẩy chúng ta xuống mồ.
Nhưng sách Khôn ngoan hôm nay dạy chúng ta:”Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi kẻ sống phải chết”(Kn 1,13). Ngài muốn cứu sống chúng ta, đem lại hạnh phúc và bình an cho chúng ta. Vì thế, nếu chúng ta biết tin tưởng và kêu cầu Ngài thì được Ngài cứu sống (Đáp ca:Tv 29).
Chúa sẽ nghe lời chúng ta kêu cầu nhưng đòi hỏi chúng ta phải đặt hết niềm tin vào Ngài và cộng tác với ơn Ngài theo gương người đàn bà băng huyết và ông trưởng hội đường Giairô trong bài Tin mừng hôm nay. Ngoài ra, chúng ta cần có thái độ tích cực và khôn ngoan trước những đau khổ, trước những gian nan thử thách mà Chúa gửi đến cho chúng ta:”Ông đừng sợ, hãy vững tin”(Mc 5,36).
I. TIN THÌ ĐƯỢC SỐNG.
Bài đọc 1 hôm nay nhắc cho chúng ta tư tưởng lạc quan về cuộc sống. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, để con người được tham dự vào sự sống vĩnh cửu, được hạnh phúc đời đời, nhưng con người đã phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa vì phạm tội. Tuy nhiên, Thiên Chúa giầu lòng thương xót sẽ nhận lời những ai thành khẩn kêu xin Ngài (Đáp ca:Tv 29). Tư tưởng này được minh chứùng bằng hai phép lạ dưới đây:
1. Chữa người đàn bà băng huyết.
Bỏ địa hạt Cêsarê, Đức Giêsu lại trở về Capharnaum. Thấy Ngài trở lại, dân chúng đến đón Ngài rất đông để được nghe giảng và xin phép lạ. Trong số đó, ông trưởng hội đường Giairô có đứa con gái bệnh nặng gần chết. Ông đến xin Ngài đến chữa cho con ông. Ngài nhận lời đi ngay.
Đang trên đường đi đến nhà ông Giairô thì dọc đường có một người đàn bà bị bệnh băng huyết đã 12 năm, không dám đến gần Ngài một cách công khai vì luật lệ cấm ky, vì bệnh băng huyết là một thứ bệnh nhơ nhớp, bệnh nhân không được công khai giao thiệp với dân chúng. Bà lén lút đến đàng sau Đức Giêsu với ý nghĩ rằng miễn sao chạm được vào gấu áo Ngài là khỏi bệnh ngay. Bà đã sờ vào được gấu áo Chúa nên bà cảm thấy lập tức trong mình đã được khỏi bệnh. Đức Giêsu biết rõ sự việc đã xẩy ra và hỏi xem ai đã động đến gấu áo Ngài ? Bà thành thật thú nhận việc đã làm, Đức Giêsu đã yên ủi và khích lệ bà:”Hỡi con, đức tin của con đã chữa con”.
2. Cứu sống con gái ông Giairô.
Vừa chữa bệnh cho một người đàn bà bị băng huyết, Đức Giêsu vừa tiếp tục đi tới nhà ông Giairô. Tình cờ người nhà ông đến báo tin con ông đã chết rồi, đừng phiền đến Thầy nữa. Nhưng Đức Giêsu khích lệ ông:”Đừng sợ, hãy cứ tin”.
Quang cảnh nhà đứa bé thật nhộn nhịp: tiếng khóc của thân nhân cũng như của những người khóc mướn, tiếng trống tiếng kèn , cùng với lời báo tin của người nhà cũng như thái độ cười nhạo của những người chung quanh không tin vào quyền năng của Đức Giêsu cho thấy cô bé đã chết thật. Nhưng ở đây Đức Giêsu lại bảo:”Cô bé không chết đâu, nó ngủ đấy”. Ngài nói thế là vì Ngài muốn tỏ ra rằng Ngài làm cho kẻ chết sống lại dễ dàng như người ngủ thức dậy, để người khó tin được dễ hiểu.
Trước mặt 5 nhân chứng là cha mẹ cô bé và 3 môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan, Đức Giêsu cầm lấy tay cô bé và nói:”Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy”. Và em bé chỗi dậy mạnh khỏe. Ở đây Đức Giêsu tỏ ra có quyền trên sự chết và sự sống. Ngài làm chủ của kẻ sống và kẻ chết.
II. THIÊN CHÚA MUỐN ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA.
1. Phép lạ và đức tin.
Tất cả các phép lạ Đức Giêsu làm đều có ý khơi dậy lòng tin cho người ta. Không ai có thể chối cãi được những phép lạ Ngài đã làm như chữa bệnh, trừ qủi, dẹp yên sóng gió, làm cho kẻ chết sống lại... Vì những phép lạ này làm công khai trước mặt nhiều người và làm ngay tức khắc nên mọi người phải công nhận. Khi chữa bệnh xong, Đức Giêsu hay nói với bệnh nhân:”Đức tin của con đã chữa con”.
Còn những nơi người ta không tin Ngài thì Ngài không làm phép lạ, như trường hợp ở quê hương Ngài vì “gần chùa gọi bụt bằng anh”; còn đối với những Luật sĩ và Biệt phái chống đối Ngài thì Ngài cũng không làm phép lạ cho họ. Họ không thật lòng xin Ngài làm phép lạ mà chỉ thách thức Ngài thôi. Nếu không tin, không kêu xin Ngài thì làm gì có phép lạ ?
Người đàn bà bị băng huyết này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà, nhưng bà tự nhủ:”Tôi chỉ cần sờ vào gấu áo Ngài thì tôi sẽ được khỏi”. Nghĩ thế và bà đã dám làm, bất chấp luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe. Điều đó chứng tỏ bà đã có đức tin vững mạnh, và thúc đẩy Chúa làm phép lạ. Kết quả là bà đã được như ý khi Chúa nói với bà:”Đức tin của con đã chữa con”.
Trường hợp ông trưởng hội đường Giairô cũng thế. Ông là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá. Thái độ khiêm nhường của ông trước mặt Đức Giêsu diễn tả niềm tin sâu xa của ông, ông đã qùy mọp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin:”Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Như vậy ông này phải tin Đức Giêsu là ai, có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ và thái độ khiêm nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ấy, ông đã được toại nguyện.
2. Phép lạ có còn hợp thời không ?
Đứng trước những dữ kiện “phép lạ” Chúa làm mà Tin mừng kể lại, (1/3 của Tin mừng Marcô) chúng ta thấy ngày nay có hai khuynh hướng trái ngược nhau. Một số khoa học gia cho rằng phép lạ chỉ gây rắc rối cho đức tin, dần dần khoa học sẽ giải quyết nhiều bệnh lý. Trái lại, ngày nay, phong trào Thánh Linh đang phát triển mạnh làm cho người ta tin tưởng rằng trong một cộng đoàn có Chúa Thánh Thần hoạt động, phép lạ không còn là một sự phi thường. Kinh nghiệm bản thân và sự quan sát khách quan đã minh chứng điều đó (Theo Sr Briege Mckenna, O.S.C, Des Miracles d’Aujourd’hui).
Sống trong không khí thực nghiệm và duy vật, người ngày nay, cả trong Kitô hữu, có khi là cả tu sĩ hay giáo sĩ, có khuynh hướng muốn phủ nhận phép lạ và chối bỏ các điều mầu nhiệm của đạo.
- Đối với phép lạ, họ cho là nghịch công lệ tự nhiên, trái với sự bất di dịch của Thiên Chúa. Không nghịch, không trái gì hết. Tin phép lạ là tin Thiên Chúa có thể làm được những việc mà không loài thọ tạo nào tự sức mình có thể làm được. Ta hãy nghe nhà văn hào J.J Rousseau nói:”Thiên Chúa có làm được phép lạ không ? Nghĩa là Ngài có thể làm khác với các định luật Ngài lập không? Câu hỏi ấy mà có ý đặt ra thực, thì quả là ngạo mạn, nếu không là vô lý. Đối với kẻ trả lời rằng không, thì phạt nó còn là quá hân hạnh cho nó, hạng ấy cứ giam vào ngục là xong”.
- Đối với các mầu nhiệm, họ bảo người tin có mầu nhiệm nghĩa là tin cái không hiểu được, là mê tín. Không phải là mê tín. Tin mầu nhiệm chỉ là công nhận rằng sự thông minh của Thiên Chúa vượt hẳn trí khôn ta. Ông Charles Nicolle, một bác học có hạng, khi trở lại Công giáo nói:”May mà còn có những mầu nhiệm của tôn giáo ! Nếu không, thì thật là khả nghi, vì tôi sợ rằng đó chỉ là sản phẩm giả tạo của trí óc loài người. Mầu nhiệm của tôn giáo làm tôi an tâm. Nó là biểu hiệu của Thiên Chúa” (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật năm B, tr 151-152).
Truyện: Phải chăng là phép lạ ?
Trong chương trình “The Extraordinary” có kể câu chuyện lạ, xẩy ra tại Melbourne. Australia vào năm 1987. Buổi sáng đẹp trời, một bà bẹ chở đứa con gái 7 tuổi đến trường. Đang lúc mẹ con trò chuyện vui vẻ, bất chợt một chiếc xe trọng tải đâm thẳng vào hông xe, nơi em bé ngồi. Em bé bị ngất xỉu. Sau khi cứu sống, hội đồng bác sĩ cho biết là em sẽ không bao giờ có thể đi lại được nữa ! Em sống, nhưng mất nhiều khả năng tri giác và cảm xúc. Thật là tin buồn cho người mẹ. Tuy nhiên bà ngoại vẫn điềm tĩnh và có linh cảm rằng cháu của bà sẽ được ơn đặc biệt. Bà thường đến bệnh viện thăm và giúp cháu đọc kinh và cầu nguyện. Những ai thấy bệnh trạng của em bé đều thương hại cho em. Nhiều người ngạc nhiên là trên khuôn mặt của em luôn hiện lên sự bình an từ trong tâm hồn và niềm vui siêu nhiên. Sau khi rời bệnh viện, dần dần em đi học lại và theo kịp các bạn cùng lớp (Hà ngọc Đoài).
Câu chuyện em bé hôm nay và con gái ông trưởng hội đường hôm xưa cũng tương tự. Xưa và nay cũng chỉ là một Thiên Chúa. Ngài luôn tươi trẻ với thời gian và luôn gần gũi trong không gian để an ủi và nâng đỗ những ai tìm đến Ngài.
III. ĐỨC TIN VÀ HÀNH ĐỘNG.
1. Phải cộng tác với Chúa.
Thánh Giacôbê đã khẳng định về sự cần thiết của việc làm song song với đức tin:”Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: “Bạn, bạn có đức tin ; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không có hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin”(Gc 2,17-18).
Tin là cộng tác với ơn Chúa, và muốn sống đời đời cũng phải đồng hành với Chúa như người đàn bà băng huyết, bà nghĩ mình phải làm cái gì đó chứ không chỉ tin suông, nên bà đã đến với Chúa chớ không chờ Chúa đến với mình. Ông Giairô cũng vậy, ông tin Đức Giêsu có thể cứu sống con ông, ông vội vã đến với Chúa. Cả hai đều tin tưởng vào Chúa và nỗ lực cộng tác với Ngài. Vì thế, chúng ta không thể cứ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy xử dụng hết những phương tiện Chúa ban, còn phần kia tùy Chúa định liệu.
Truyện: Hãy tự cứu mình trước
Câu chuyện xẩy ra vào mùa xuân, có một vùng quê bị một trận lụt dữ dội tàn phá, khiến cho một bà già bị kẹt trong căn nhà bà. Đang khi bà ta đứng tựa cửa sổ nhà bếp nhìn ra thì một chiếc thuyền xuất hiện, người lái thuyền bảo bà:”Hãy leo lên thuyền để thoát nạn”. Bà lão đáp lại:”Không, cám ơn, tôi tin vào Chúa, Ngài sẽ cứu tôi”. Người lái thuyền lắc đầu rồi bỏ đi.
Ngày hôm sau, cơn lụt dâng cao đến tầng hai của căn nhà. Đang lúc bà lão đứng tựa cửa sổ tầng hai ngắm nhìn con nước thì một chiếc thuyền khác lại xuất hiện. Người lái thuyền bảo bà:”Hãy lên thuyền để thoát nạn”. Bà già đáp lại:”Không, cảm ơn, tôi tin vào Chúa. Ngài sẽ cứu tôi”. Người lái thuyền lắc đầu rồi bỏ đi.
Ngày kế tiếp cơn nước dâng lên tận nóc nhà. Đang khi bà lão ngồi trên nóc nhà nhìn con nước dâng, một chiếc trực thăng lại hiện ra. Viên phi công dùng loa gọi vọng xuống:”Tôi sẽ thả một chiếc thang dây cho bà, hãy leo lên và bà sẽ thoát nạn”. Bà già lại nói:”Không, cảm ơn, tôi tin vào Chúa, Ngài sẽ cứu thoát tôi”. Viên phi công nhìn bà lắc đầu, rồi bỏ đi.
Ngày sau đó, cơn lụt nhận chìm ngôi nhà và bà lão bị chết đuối. Khi được đưa về trời, bà ta nói với thánh Phêrô:”Trước khi vào đây, tôi xin được phàn nàn một điều. Tôi đã tin chắc Chúa sẽ cứu tôi thoát khỏi trận lụt, thế mà Ngài lại để tôi bị chết chìm”. Thánh Phêrô bối rối nhìn bà lão đoạn lên tiếng:”Tôi chả hiểu Chúa có thể làm thêm điều gì được cho bà nữa, vì Ngài đã gửi tới cho bà những hai chiếc thuyền và một chiếc trực thăng rồi còn gì” (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 254-255) ?
Bà lão trong trận lụt này quá lầm lẫn. Bà quên rằng Chúa thường hoạt động trong đời sống chúng ta xuyên qua những phương tiện bình thường. Bà quên rằng chúng ta phải làm hết phận vụ mình và hợp tác với Chúa bằng cách xử dụng những phương tiện bình thường Ngài ban cho ta. Nói cách khác, chúng ta không thể ngồi thụ động chờ Chúa làm phép lạ, mà phải dùng tất cả mọi phương tiện thông thường Chúa ban để tự giúp mình trước đã.
Tục ngữ Việt nam đã nói lên chân lý này:”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”: con người phải bắt đầu làm đã, còn thành bại thế nào thì sẽ do Trời định liệu. . Nhưng về phía Trời thì chắc chắn:”Thiên thượng bất phụ hảo tâm nhân”, Trời sẽ giúp cho những ai biết cố gắng dùng mọi phương tiện Chúa đã ban cho, đúng như tục ngữ Pháp nói: Aide-toi, le Ciel t’aidera: anh hãy giúp mình trước, Trời sẽ giúp mình sau.
2. Xét lại đức tin của mình.
Qua thái độ của người đàn bà băng huyết và của ông trưởng hội đường Giairô, ta thử xét lại đức tin của chúng ta xem sao: Tin khi đời sống bình an, thuận buồm xuôi gió thì chưa hẳn là đức tin thật, nó phải được tôi luyện trong đau khổ, trong khó khăn, trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên phép lạ. Hay nói đúng hơn, lúc ấy Thiên Chúa mới trợ giúp, mới cứu chữa, vì khi đó chúng ta không tin vào sức riêng mình mà tin vào Chúa, thì Chúa phải thực hiện thôi. Như Abraham xưa, như Phêrô đi trên mặt biển, như người đàn bà và ông Giairô trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta hãy tin tưởng.
Cuộc đời của chúng ta không bao giờ hết đau khổ. Chúng ta có thể cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa cả trong đau khổ. Sự hiện diện của Thiên Chúa không nhất thiết lấy đi đau khổ, nhưng cho chúng ta năng lực chuyển hoá đau khổ. Chúng ta cần Thiên Chúa giúp đỡ để linh hồn chúng ta không bị thu hẹp vào sự thụ động hoàn toàn, gần giống như những đồ vật, bị tác động nhưng không bao giờ hoạt động. Thấu hiểu chân lý này, ông Francois Mauriac đã phát biểu:”Ngài đến không phải để cất sự đau khổ mà để hiện diện với đau khổ”. Như vậy nghĩa là Ngài đến ban đức tin cho chúng ta để chúng ta biết chịu đựng đau khổ, biết chuyển hoá đau khổ, biến nó thành phương tiện để đạt tới ơn cứu độ. Bằng không thì chúng ta chịu đau khổ một cách vô ích và những đau khổ trở nên vô nghĩa.
Những ai không có đức tin thì gặp nhiều bất lợi trước đau khổ. Họ chịu đựng đau khổ gấp ba lần: họ chịu đựng bệnh tật, họ chịu đựng sự vô nghĩa của bệnh tật (vì đối với họ, bệnh tật chỉ là phiền toái, kết quả của một số phận mù quáng) và họ chịu đựng đau khổ vì cuộc sống của họ bị ngưng trệ. Họ coi bệnh tật của họ như một việc phải chịu đựng thay vì một việc phải sống. Đời sống của họ như bị giữ chặt lại vì họ chờ đợi thụ động cho đến khi mọi việc trở lại bình thường để họ có thể bắt đầu cuộc sống trở lại.
Mặt khác, các bệnh nhân có đức tin ở trong một tình thế tốt hơn. Dù đức tin không giải thoát họ khỏi bệnh tật, hoặc làm giảm bớt đau khổ do bệnh tật gây ra, người có đức tin tiếp tục sống một cách mãnh liệt như trước đây, có khi còn mãnh liệt hơn. Họ có thể tìm thấy Thiên Chúa trong bệnh tật cũng như trong lúc khỏe mạnh, và bệnh tật của họ có thể sinh ra kinh nghiệm có lợi là họ sẽ xin Chúa chữa lành cho bệnh tật ấy (Flor McCarthy).
Đằng nào thì cũng là người. Đã là người, thì đằng nào cũng có thân xác bằng thịt. Mà đã có thân xác: TN13-B76
Đằng nào thì cũng là người. Đã là người, thì đằng nào cũng có thân xác bằng thịt. Mà đã có thân xác bằng thịt, thì đằng nào cũng có lúc ốm, lúc đau, và lúc chết. Nhưng câu chuyện hôm nay, lại dồn về phía đàn bà: một trẻ, một già. Cả hai cùng bệnh khó chữa, để rồi một đứa bé gái đã chết.
Với đứa bé gái, ốm nặng quá, không đi được nữa, nên ông bố đã thay con, chạy đến, quỳ mọp xuống trước mặt Chúa, và xin cứu chữa. Chúa Giêsu bằng lòng và ra đi, để đến cứu chữa. Thế mới rõ. Chúa luôn đồng cảm với con người. Vui với người vui, khóc với người khóc. Chúa đã chạnh lòng thương, khi thấy ông bố kêu cầu với Ngài. Nhưng có một điều, ta cần để ý: Con không khóc, mẹ không cho bú; nghĩa là, khi gặp hoạn nạn, ta có biết chạy đến kêu cầu với Ngài hay không? Dĩ nhiên, khi gặp hoạn nạn, nhiều người cũng đã chạy đến với Chúa. Nhưng có một điều quan trọng mà không biết ta có quan tâm không: Đó là ta đến với thái độ nào? Có tuyệt đối tin tưởng, hay chỉ là lơ mơ, nửa chừng.
Rất hay, ta đã gặp được một thái độ tuyệt đối tin tưởng nơi người đàn bà lớn tuổi. Bà ta bị bệnh phụ nữ đã mười mấy năm. Thầy nào cũng đã đi, lang nào cũng đã đến. Buông xuôi tất cả, thất vọng tột cùng. Rất may, chị trông thấy Chúa. Lẫn trong đám đông theo Chúa, chị len lén lại gần. Lên tiếng cầu xin, xấu hổ sượng sùng; chị im lặng bước gần, đưa bàn tay chạm vào gấu áo Chúa. Âm thầm thế thôi, nhưng tin tuyệt đối. Mà “giời ơi” khỏi rồi! Chị thấy cơn đau trong người bỗng dưng nhẹ hẳn. Lòng tin tuyệt đối ở trái tim chị, đã mở được chiếc van của tình thương Chúa. Bỗng Chúa quay lại, đưa mắt kiếm tìm và hỏi: Ai vừa chạm đến ta”. Đám đông chen lấn tứ phía, mà sao Chúa lại hỏi thế? Biết là không thể giấu được, người đàn bà đã phải bước ra thú nhận. “Này con, lòng tin của con đã chữa con”.
Câu chuyện người đàn bà già vừa khép lại, thì câu chuyện đứa bé gái lại nổi lên: Đứa bé vừa chết. Thôi khỏi phải làm phiền Thầy nữa. Nhưng Chúa bảo: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Đứa bé đã chết thật. Và Chúa Giêsu đang đứng trước xác nó. Mọi người kêu khóc thảm thương. Chúa Giêsu lên tiếng: “Này con, Ta truyền cho con hãy trỗi dậy”. Lạ lùng, đứa bé đứng bật dậy, và đi lại được. Mọi người trố mắt ngạc nhiên. Ôi Chúa ơi! Đích thực là Chúa rồi. Vì chỉ có Chúa, mới có quyền cho con người sống lại được.
Câu hỏi:
1- Khi gặp đau khổ, bạn thường giải quyết thế nào? 2- Bạn kiểm tra lại xem. Niềm tin bạn đặt nơi Chúa mạnh hay yếu? Lm Đa Minh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay được cả ba tác giả trong Tin Mừng Nhất Lãm kể lại. Tuy nhiên: TN13-B77
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay được cả ba tác giả trong Tin Mừng Nhất Lãm kể lại. Tuy nhiên, Máccô kể dài hơn, gồm 23 câu, do vậy nhiều tình tiết hơn, cảm động hơn khiến chúng ta bị cuốn hút một cách tự nhiên từ đầu đến cuối câu chuyện. Máccô đã lồng hai câu chuyện vào với nhau một cách khéo léo, tài tình, nhưng ý nghĩa vẫn là một: Đức Giêsu ban tặng sự sống cho những ai vững tin và biết cộng tác với Ơn Thánh.
1. Chúa ban sự sống, con người có lòng tin
Phép lạ thứ nhất, Máccô kể rằng, giữa đám đông chen lấn chung quanh Ðức Giêsu, có những người đụng vào áo Người. Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Ðó là cái đụng của một người phụ nữ, bất chấp lệnh cấm theo lề luật Do Thái. Mười hai năm mắc bệnh băng huyết. Mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi. Mười hai năm bị coi là ô nhơ, không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Ðền Thờ. Người phụ nữ thận trọng và đầy can đảm đã đụng vào áo Ðức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ: "Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi." Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
Phép lạ thứ hai, Máccô kể, ông Giairô đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái ông đã mười hai tuổi. Ông là viên chức trưởng hội đường. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã làm cho ông can đảm. Ông sẵn sàng tin cậy vào một người xa lạ. Ông tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến. Ông chỉ mới nghe danh tiếng về người ấy. Ông đến gặp Chúa và "phủ phục dưới chân Đức Giêsu và năn nỉ". Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa ! Đức Giêsu động viên ông "Đừng sợ, cứ tin".
Khi đến nhà, thấy đông đảo bà con xóm làng đến, Người nói: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy !” Cô bé đã chết rồi, nhưng đối với Đức Giêsu, cái chết chẳng có tính chung cuộc mà chỉ là một giấc ngủ thôi. Người có quyền năng đưa kẻ chết ra khỏi giấc ngủ ấy. Với cử chỉ đơn sơ cầm tay đứa bé và nói “Talithakum”, nghĩa là “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi !” Đức Giêsu đã khiến cho đứa bé đứng dậy và đi lại được. Người còn bảo họ cho đứa bé ăn để chứng thực là nó đã sống lại thật.
Hai phép lạ đều liên quan đến sự sống. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đang mất dần sự sống: máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu liên tục mười hai năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Người trả lại sức sống cho bà. Đứa con gái ông Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho nó sống lại.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin. Ðức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con". Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Giarô: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi".
Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin. Đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi. Đức tin là một nhân đức căn bản của Đạo. Phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người. Vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ. Bởi lẽ, trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa quyền năng làm được mọi sự.
- Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai. Vâng lệnh Chúa, ông đưa con yêu quý lên núi sát tế mà lòng đau như cắt. Ông tin rằng, Chúa sẽ thực hiện lời hứa ban cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.
- Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước. Ông đã đi khi vững tin vào Chúa. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
Đức Giêsu bày tỏ quyền năng trên thiên nhiên, trên ma quỷ, trên bệnh tật và trên sự chết, vì Người là Đấng ban sự sống. Tin vào Người, chúng ta luôn có được sự sống dồi dào.
2. Cộng tác với ơn Chúa
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính Thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn "chuyên trách" về bệnh này. Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị Linh Mục đến thăm. Bà liền hỏi: “Xin Cha nói cho con biết: có phải Thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không ?” Vị Linh Mục nói: “Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.” Bà già la lên: “Trời đất ơi, đúng là một ông Linh Mục... vô thần !” Khi ấy Thánh Antôn mới tự nhủ: “Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị Linh Mục này để hướng dẫn bà. Thế mà...”
Người phụ nữ xuất huyết và bà già đau răng đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.
Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: "Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa". Mc Kenzie nói: "Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể".
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người. Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã "múc nước đổ đầy các chum" ( Ga 2, 7 )
Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi "có 5 chiếc bánh và 2 con cá" ( Mc 6, 35-43 ).
Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt ( Ga 9, 1-40 ).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Cộng tác với Ơn Chúa bằng lòng tin là con đường của hy vọng.
Niềm tin thắp sáng hy vọng
Các phép lạ Đức Giêsu đã làm thường là điểm giao tiếp giữa quyền năng đầy tình yêu của Thiên Chúa và niềm tin của con người. Thiên Chúa giàu lòng xót thương nên ở đâu có niềm tin, ở đó có phép lạ. Chúa nói với người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”; và nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.
Đức Tin là vị thuốc thần đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đức tin là bí quyết đem lại hy vọng cho nơi nào không còn gì để hy vọng ! Sau khi mọi hy vọng, mọi biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Đức Giêsu đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông. Có lần Đức Giêsu đã nói: “Nếu bạn có Đức Tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17, 20 ). Đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu.
Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội. Mẹ Têrêxa nói với ông: “Tôi nghĩ rằng ông nên có Đức Tin”. Người phóng viên hỏi: Tôi phải làm gì để có Đức Tin ?” Mẹ Têrêxa đáp: “Ông hãy cầu nguyện”. Ông chống chế: Tôi không biết và không thể cầu nguyện”. Mẹ Têrêxa dịu dàng nói: Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta.”
Đức Tin thắp sáng niềm hy vọng và trổ sinh hoa trái bằng việc làm.
Kiếp phàm nhân có rất nhiều nỗi khổ, đủ kiểu và đủ mức độ, tóm tắt trong bốn lĩnh vực chính: Sinh: TN13-B78
Kiếp phàm nhân có rất nhiều nỗi khổ, đủ kiểu và đủ mức độ, tóm tắt trong bốn lĩnh vực chính: Sinh, Bệnh, Lão, Tử. Trong tứ khổ đó, cái “đệ nhị khổ” là thứ khổ dai dẳng nhất: Bệnh tật. Bệnh thể lý là cái khổ rõ ràng rồi, nhưng còn cái khổ còn “dữ dội” hơn, đó là “tâm bệnh” và “bệnh tâm linh”. Vì mắc bệnh tật nên mới cần được chữa trị, còn có “lành” hay không lại là chuyện khác. Về thể bệnh, chúng ta cần sự hỗ trợ của các y bác sĩ và dược sĩ; về tâm bệnh, chúng ta cần Đại Lương Y Giêsu. Các lương y phải như từ mẫu để chứng tỏ Ý Chúa thể hiện qua họ, chứ chính họ không thể chữa lành, vì Kinh Thánh xác định: “Không phải lá cây, chẳng phải thuốc đắp đã chữa họ lành, nhưng chính Lời Ngài chữa lành tất cả” ( St 16, 12 ).
Quả thật, chỉ trong ba năm Ngài thi hành sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã chữa lành rất nhiều người – cả thể bệnh và tâm bệnh: Chữa nhạc mẫu của Simôn Phêrô ( Mt 8, 14-15; Mc 1, 29-31; Lc 4, 38-39 ), chữa hai người bị quỷ ám, lũ quỷ xin được nhập vào bầy heo, rồi cả bầy heo lao xuống biển chết đuối hết ( Mt 8, 29-34; Mc 5, 1-20; Lc 8, 26-39 ), chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ ( Mt 8, 16-17; Mc 1, 32-34; Lc 4, 40-41 ), chữa lành người bại liệt ( Mt 9, 1-8; Mc 2, 1-12; Lc 5, 17-26 ), chữa người đàn bà bị băng huyết và phục sinh con gái của một vị thủ lãnh ( Mt 9, 18-26; Mc 5, 21-43; Lc 8, 40-56 ), chữa hai người mù ( Mt 9, 27-31 ), chữa người câm bị quỷ ám ( Mt 9, 32-34 ), chữa con gái bị quỷ ám của người đàn bà Canaan ( Mt 15, 21-28; Mc 7, 24-30 ), chữa nhiều bệnh nhân tại ven Biển Hồ Galilê ( Mt 15, 29-31 )... Và rồi ngay trước lúc bị bắt, Ngài còn chữa lành tai cho tên đầy tớ của thầy thượng tế ( Mt 26, 47-55; Mc 14, 43-49; Lc 22, 47-51; Ga 18, 3-11 ), cuối cùng là làm sáng mắt cho Longinus, kẻ đã cầm lưỡi giáo đâm thâu trái tim Chúa Giêsu khi Ngài đã chết trên Thập Giá ( x. Ga 19, 34 ).
Và ngày nay, cho tới tận thế, đang có và sẽ có biết bao trường hợp được Thiên Chúa chữa lành... Cụ thể là hàng triệu trường hợp thể bệnh được ghi nhận do phép lạ chữa lành ở Lộ Đức.
Thời Cựu Ước, dân Ítraen bị rắn độc hoành hành, Thiên Chúa bảo ông Môsê làm một con rắn đồng để “hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được sống” ( Ds 21, 9 ). Thời Tân Ước, Chúa Giêsu đi tới đâu cũng được người ta tìm đến, họ “tìm cách sờ vào Ngài, vì từ nơi Ngài phát ra một năng lực chữa lành hết mọi người” ( Lc 6, 19 ). Và Ngài xác định: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” ( Ga 12, 32 ). Ai tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người để cứu độ nhân gian thì sẽ được “chữa lành”.
Người ta thường nói: “Chỉ sợ trời hại, chứ không sợ người ta hại”. Thật vậy, Thiên Chúa đã xác nhận: “Ta cầm quyền sinh tử, Ta đánh phạt, rồi Ta lại chữa lành, không ai cứu khỏi tay Ta được” ( Đnl 32, 39 ). Trốn trời không khỏi nắng. Phàm nhân chỉ là thụ tạo, không thể “qua mặt” Thiên Chúa. Ngoan thì được thương, ương thì bị phạt !
Ngày nay, ung thư xuất hiện nhiều, đủ loại, bất cứ độ tuổi nào cũng có thể phải đối mặt với “cái chết được báo trước” này. Không phải ngày nay mới có bệnh ung thư, mà thời Cựu Ước cũng đã có đủ chứng bệnh rồi: “Đức Chúa sẽ làm cho anh em bị ung nhọt Ai Cập, bị u bướu, ghẻ lở, ngứa ngáy, mà không thể chữa khỏi. Đức Chúa sẽ làm cho anh em bị điên khùng, mù loà, loạn trí. Anh em sẽ mò mẫm giữa trưa, như người mù mò mẫm trong bóng tối, và sẽ không thấy đường mà đi. Đức Chúa sẽ làm cho anh em bị ung độc không thể chữa lành ở đầu gối và ở đùi, từ bàn chân cho tới đỉnh đầu” ( Đnl 28, 27-29 và 35 ).
Vì Ông Bà Nguyên Tổ bất tuân lệnh Chúa nên con cháu bị “di truyền”, chứng “ung thư” này “di căn” tới tận thế. Ôi, khốn khổ thay! Và cũng đáng sợ thay, vì loài người có “máu” nổi loạn, lúc nào cũng chỉ rình cơ hội để bạo động, phản trắc, bất tuân. Thế nhưng Thiên Chúa vẫn giàu lòng thương xót, Ngài “tội nghiệp” chúng ta lắm, Ngài “đánh” vì yêu thương chứ không vì ghét bỏ. Chúng ta đau một thì Ngài thương mười: “Người gây thương tích, cũng chính Người băng bó, đánh bầm dập xong, lại ra tay chữa lành” ( G 5, 18 ). Trong “tứ khổ” của phàm nhân, cái “đệ tứ khổ” ( sự chết – tử ) là cái khổ lớn nhất và đáng sợ nhất.
Chúng ta khổ vì “di truyền” chứng ung-thư-tội-lỗi. Kinh Thánh cho biết rõ ràng: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong” ( Kn 1, 13 ). Lý do đơn giản và minh nhiên: “Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất huỷ hoại. Âm phủ không thống trị địa cầu. Quả vậy, đức công chính thì trường sinh bất tử” ( St 1, 14-15 ). Cha mẹ trần gian chỉ là tội nhân, là “người xấu” ( Lc 11, 13 ), mà còn biết yêu thương và muốn điều tốt cho con cái, huống chi Thiên Chúa là Đấng cực tốt cực lành ?
Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng tình yêu muôn thuở ( Gr 31, 3 ) và yêu thương chúng ta thật nhiều ( Gr 31, 20 ). Kinh Thánh cho biết thêm: “Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” ( St 2, 23-25 ). Rất rõ ràng, Satan ghen tỵ với chúng ta nên chúng mới “gài bẫy” chúng ta, chúng muốn kéo chúng ta về phía chúng, chịu cái-chết-đời-đời với chúng nơi vương quốc hỏa ngục của chúng.
Chuyện kể rằng ma quỷ cám dỗ một anh chàng nọ theo phe nó, nhưng anh ta không chịu. Ma quỷ ra ba điều kiện: Một là giết mẹ, hai là giết vợ, ba là uống rượu. Anh ta suy nghĩ: Mẹ là người sinh ra mình, dù chưa đáp đền chữ hiếu thì cũng không thể là nghịch tử mà đành lòng giết mẹ; vợ là người đồng hành với mình, nên một xương một thịt, đầu ắp tay gối, chưa thể yêu thương đủ thì cũng không thể là kẻ sát phu mà giết vợ; cuộc đời có nhiều lúc buồn, người ta bảo “nhất túy giải vạn sầu” ( rượu có thể giải nhiều nỗi sầu ), vả lại uống rược chẳng hại ai, có chăng chỉ khổ mình, thôi thì mình chọn cách này.
Sua những lần làm đệ tử Lưu Linh, riết đâm nghiện. Một lần nọ, anh ta uống rượu say và cố gắng về nhà, anh ta kiếm chuyện rồi đập phá lung tung, mẹ và vợ can ngăn không được, anh ta lấy dao chém chết cả mẹ và vợ. Mưu mô ma quỷ thâm độc vô cùng !
Trước mắt Thiên Chúa, chúng ta thật quý giá, luôn được Ngài trân trọng và mến thương ( Is 43, 4 ). Có bệnh thì vái tứ phương, còn nước còn tát. Thể bệnh còn vậy, huống chi tâm bệnh. Thiên Chúa sẽ chữa lành chúng ta ngay nếu chúng ta sám hối. Vua Đavít phạm “lưỡng tội” ( gián tiếp giết Urigia và cướp vợ của Urigia ), nhưng ông đã sám hối nên được Thiên Chúa “chữa lành” – tha thứ và không kết án tử ( 2Sm 12, 13 ); tướng cướp Dismas ( cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu ) chỉ xin lỗi một lời liền được Chúa Giêsu “chữa lành” tâm bệnh và cho theo vô Thiên Đàng ngay đêm hôm đó ( Lc 23, 42-43 ). Và còn rất nhiều trường hợp như vậy mà chúng ta không biết !
Chúng ta cũng đã bao lần được Thiên Chúa “chữa lành” qua Bí Tích Thương Xót – Bí Tích HòaGiải. Càng sống lâu càng được chữa lành nhiều. Vì thế, chúng ta phải biết chúc tụng và tạ ơn: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” ( Tv 30, 2 ). Với trí óc phàm nhân, chúng ta không thể nào hiểu nổi việc Chúa thực hiện vì yêu thương chúng ta: “Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” ( Tv 30, 4 ).
Chắc chắn tác giả Thánh Vịnh cũng đã được chữa lành nhiều, vì thế mà không thể im lặng: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ Thánh Danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” ( Tv 30, 5-6 ).
Hiệp thông với tâm tình của tác giả Thánh Vịnh, chúng ta cùng dâng lời nguyện tạ ơn và thề hứa: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” (Tv 30, 11-13 ).
Thiên Chúa chan chứa lòng thương xót, Ngài yêu thương chúng ta trước ( 1Ga 4, 19 ), dù chúng ta hoàn toàn bất xứng. Thánh Phaolô nói: “Anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” ( 2Cr 8, 9 ).
Thánh Phaolô giải thích: “Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều, hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu” ( 2Cr 8, 13-15 ). Cách chia sẻ đó là sống yêu thương, thể hiện lòng thương xót, thực hành đức ái, và cũng là “chữa lành” lẫn nhau.
Trình thuật Mc 5, 21-43 cho chúng ta biết Chúa Giêsu chữa lành hai con người, một lớn và một nhỏ.
Hôm đó, Đức Giêsu vừa từ thuyền lên bờ Biển Hồ, một đám người rất đông liền tụ lại quanh Ngài. Lúc đó, có một ông trưởng hội đường tên là Giaia tới sụp xuống dưới chân Ngài và khẩn khoản nài xin Ngài đến đặt tay cứu sống con gái nhỏ của ông, vì nó gần chết. Khi Ngài theo ông về nhà ông, một đám rất đông kéo theo và chen lấn Ngài.
Trong đám đông đó có một bà bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Bà nghe đồn về Đức Giêsu nên cố lách qua đám đông để đến phía sau và sờ vào áo Ngài. Bà chỉ mong sờ được vào áo Ngài thôi thì sẽ được chữa lành ngay. Quả thật, vừa chạm vào áo Ngài thì máu trong bà liền cầm lại, bà cảm thấy trong mình được khỏi bệnh.
Lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Ngài liền quay lại giữa đám đông mà hỏi xem ai đã sờ vào áo Ngài. Các môn đệ vừa ngạc nhiên vừa mắc cười, đám đông chen lấn như thế, ai đã sờ vào Ngài thì có trời mới biết. Đúng, phàm nhân không thể biết, và chỉ có trời biết. Trời là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa chính là Thầy Giêsu đấy thôi. Vâng, Ngài biết rõ nên Ngài ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. Bà này sợ phát run lên vì bà biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Ngài, và thú thật ngọn nguồn. Ngài cười và nhẹ nhàng nói: “Này bà, chính LÒNG TIN của bà đã cứu chữa bà đấy. Bà hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh. An tâm nhé !”
Ngay khi Đức Giêsu còn đang nói với bà như vậy, có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo rằng con gái ông chết rồi, đừng làm phiền Thầy nữa. Đức Giêsu nghe được nói vậy liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần TIN thôi !”. Rồi Ngài không cho ai đi theo mình, trừ ba đệ tử ruột ( Phêrô, Giacôbê và Gioan ). Đến nhà ông trưởng hội đường, Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc thảm thiết, Ngài bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy !” Họ chế nhạo Ngài. Đúng là người trần, mắt thịt !
Chuyện nhỏ ! Chúa Giêsu bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi vào nơi con bé đang nằm. Ngài cầm lấy tay nó và nói: “Talitha Kum” ( Ταλιθά κούμ[ι] ) – nghĩa là “Bé ơi, bé trỗi dậy đi !” ( talitha là “con bé” hoặc “bé gái” ). Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Ai nấy kinh ngạc sững sờ, há hốc nhìn nhau, như kiểu ngày nay người ta thường nói: “Bó tay !” Chứ còn gì nữa ! Tuy nhiên, Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn. Tiếng khóc trở thành tiếng cười, hạnh phúc ngập tràn…
Chúa Giêsu chữa lành thể bệnh, nhưng Ngài muốn chúng ta quan tâm tâm bệnh. Được yêu thương thì phải biết yêu thương, được chữa lành thì cũng phải biết chữa lành: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha. Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình ! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận thì ai sẽ xin tha tội cho nó ? Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn” ( Hc 28, 2-6 ). Đọc mấy câu này mà thấy “nhột gáy” hết sức. Vì thế, rất có thể người ta “ngại” nhắc tới đoạn Kinh Thánh này !
Để được chữa lành, chúng ta cùng chữa lành lẫn nhau bằng cách noi gương tác giả Thiên Chúa cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin đoái thương, này con đang kiệt sức, chữa lành cho, vì gân cốt rã rời ( Tv 6, 3 ); xin thương xót và chữa lành con, quả thật con đắc tội với Ngài” ( Tv 41, 5 ). Và hãy ghi nhớ câu này: “Lành dữ, sống chết, giàu nghèo, tất cả đều do Đức Chúa” ( Hc 11, 14 ).
Ai cũng bị bệnh, cả thể bệnh và tâm bệnh, nên luôn cần được chữa lành. Muốn được chữa lành thì phải thành tâm cầu xin ơn chữa lành.
Lạy Thiên Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con và giúp chúng con biết mau mắn đến với Ngài để được chữa lành cả hồn và xác, đồng thời cũng thúc giục chúng con luôn mau mắn chữa lành cho nhau. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Trái bom nguyên tử nổ ra vào lúc 8 giờ 10 phút, sáng ngày mồng 6 tháng 8 năm 1945. Biến cả thành: TN13-B79
Trái bom nguyên tử nổ ra vào lúc 8 giờ 10 phút, sáng ngày mồng 6 tháng 8 năm 1945. Biến cả thành phố Hiroshima nước Nhật thành tro bụi và giết chết 80.000 người cùng một lúc. Ngôi nhà của chúng tôi là một trong những ngôi nhà chưa bị sụp đổ, nhưng ở trong một điều kiện hết sức tồi tàn: không còn cửa ra vào, các cánh cửa đã bị cơn gió cực mạnh tạo ra do vụ nổ, cuốn đi hết. Chúng tôi chuyển sang ở bệnh viện, nơi tiếp đón, chăm sóc và giúp đỡ cho 200 nạn nhân.
Ngày hôm sau, mồng 7 tháng 8, vào lúc 5 giờ sáng, tôi đang dâng Thánh Lễ ở nhà, trước khi bắt đầu công việc cứu giúp những người bị thương và chôn cất những người chết. Trong những giây phút càng bi thảm, người ta càng gần Thiên Chúa hơn, người ta càng thấy cần thiết phải giúp đỡ nhau, khung cảnh thực không thích hợp cho việc sốt sắng Thánh Lễ. Nhà Nguyện thì một nửa đã bị phá hủy, chật ních những người bị thương nằm chen chúc nhau trên mặt đất. Họ đau khổ ghê gớm và quằn quại vì đau đớn.
Tôi bắt đầu dâng Thánh Lễ giữa đám người không có chút ý niệm về những gì diễn ra trên bàn thờ: họ là những người ngoại đạo chưa bao giờ tham dự Thánh Lễ. Tôi không thể nào quên được cái cảm giác bàng hoàng khi quay lại phía họ để chúc: “Chúa ở cùng anh chị em.” Hồi đó, các Linh Mục làm lễ quay mặt lên bàn thờ. Không thể cử động được nữa, tôi đứng như người bất toại, hai tay dang ra, nhìn ngắm tấm thảm kịch này của nhân loại. Cảnh tượng thật hãi hùng !
Vài phút sau, Đấng mà Gioan Tẩy Giả đã nói: “Ở giữa anh em có một Đấng mà anh em không biết”, ngự xuống bàn thờ. Chưa bao giờ tôi cảm nhận được sự cô độc của những người không biết Chúa Giêsu Kitô như lúc ấy. Cứu Chúa của họ đang hiện diện ở đó. Đấng đã hiến mạng sống cho họ… nhưng họ lại không biết, “Không biết Ngài ở giữa họ” ( Ga 1, 26 ). Lúc đó, chỉ có tôi biết Ngài.
Tự nhiên tôi thốt lên lời nguyện cầu cho những kẻ tàn ác dã man đã ném bom nguyên tử: “Lạy Chúa, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”, và cho những người nằm xoài trước mặt tôi đang quằn quại vì đau đớn: “Lạy Chúa, xin ban cho họ niềm tin để họ thấy và xin ban sức mạnh để họ chịu đựng đau khổ”.
Khi nâng tấm bánh lên trước mặt những thể xác đầy thương tích và rách nát này, tôi kêu lên tự đáy lòng: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa Con, xin thương xót đoàn chiên không có chủ chăn này !” ( Mt 9, 36; Mc 6, 34 ). “Lạy Chúa, để họ tin vào Chúa, xin hãy nhớ họ cũng là những người cần phải nhận biết Chúa” ( 1Tm 2, 4 ).
Những dòng thác ân sủng chắc chắn đã tuôn chảy từ tấm bánh và bàn thờ. Sáu tháng sau, khi đã được chữa lành, tất cả đã từ giã Nhà Dòng chúng tôi ( chỉ có hai người đã chết ở đó ), nhiều người trong số họ đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Tất cả họ đều nhận ra Đức Ái Kitô Giáo thì thông cảm, giúp đỡ, đem lại niềm an ủi vượt trên mọi nâng đỡ con người. ( Phêrô Arrupe, S.J, Thánh Thể trong đời tôi ).
Tin Mừng Chúa Nhật 13 thường niên hôm nay, Thánh Máccô tường thuật người phụ nữ bị hoại huyết 12 năm, âm thầm chạm tay vào áo Đức Giêsu được chữa lành. Rồi con gái của ông Giaia, Trưởng hội đường đã chết, được Người cầm tay, truyền lệnh chỗi dậy, tức thì cô bé 12 tuổi sống lại. Cả hai phép lạ đều có chung mẫu số, đó là niềm tin vững chãi và mãnh liệt, niềm cậy trông hoàn toàn vào quyền năng Thiên Chúa.
Chạm tay
Giữa đám đông chen lấn đến với Đức Giêsu, biết bao người chạm tay vào vạt áo Người, thế mà chỉ có một mình người đàn bà đã chịu 12 năm băng huyết, vô phương cứu chữa, được khỏi bệnh tức thì. Trong khi biết bao người khác cũng có thể bị bệnh này chứng kia về thể xác hay tinh thần, cũng chạm tay vào áo Người, đều không được chữa lành. Chỉ vì người đàn bà bệnh hoạn đó đã hoàn toàn đặt niềm trông cậy, niềm hy vọng tột cùng vào Chúa: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” Một sự khẳng định chắc nịch và dứt khoát, không mảy may cân nhắc, so đo, do dự, cũng không một chút nghi ngờ, lưỡng lự, cầu may.
Chạm tay vào áo Đức Giêsu là thể hiện công khai tâm tình phó thác, cùng tuyên xưng niềm tin, niềm cậy trông và tình mến vào Chúa. Không hề e ngại thế gian săm soi, dè bỉu, chê cười, không sợ những thế lực thù địch với Chúa hăm dọa, hãm hại, gây khó dễ, cấm cản, không lo sợ các thầy tư tế, luật sĩ, kinh sư, Pharisêu mất lòng, kết án. Trước thái độ mau mắn khiêm nhường và cung kính của người đàn bà được chữa lành, Đức Giêsu hân hoan chứng nhận tấm lòng thành khẩn và ân cần chúc phúc: “Này con, lòng tin của con đã cứu con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”
Chạm tay vào áo Đức Giêsu, mỗi khi người Kitô hữu sốt sắng, chăm chú đọc và nghe Lời Chúa, mỗi khi kính cẩn đón rước Thánh Thể, hay tôn kính chầu Mình Thánh Chúa, mỗi khi thành khẩn lãnh nhận các Bí Tích, mỗi khi thành tâm nghe giảng dạy Tin Mừng… Người Kitô hữu cũng có thể noi gương người đàn bà bị bệnh kia, chủ động chạm vào áo Chúa Giêsu, khi cầm lòng, cầm trí cầu nguyện, suy gẫm, kinh nguyện, cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Lòng Thương Xót vô ngần của Thiên Chúa.
Tất cả những ai đặt trọn niềm tin vào Người đều được chữa lành khi cố gắng luôn gần gũi, tiếp cận bên Người. Có khi Người chữa lành thể xác, hay tâm hồn, hoặc nhiều khi cả hai. Điển hình, Chúa Giêsu vẫn còn đang phép lạ, đã cứu chữa cả thể xác lẫn linh hồn gần 200 nạn nhân bom nguyên tử kể trên, ban cho họ vinh hạnh trở nên con cái Thiên Chúa.
“Từng ngàn bệnh nhân trong nhà Thánh Cottolengo có một nét đặc biệt trên khuôn mặt, lâu lâu máy vi âm lại dịu dàng nhắc: “Chúng ta đang ở bên Chúa.” ( Đường Hy Vọng, số 232 ).
Cầm tay
Đức Giêsu vừa chữa lành và đang an ủi người đàn bà hoại huyết, thì người nhà ông Giaia, Trưởng hội đường, báo tin con gái ông đã chết, đừng làm phiền Người nữa. Đức Giêsu liền trấn an: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” Người đến tận giường, cầm tay cô bé ra lệnh: “Talithakum,” nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi.” Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi”. Thoạt đầu, ông Giaia chỉ cầu xin Đức Giêsu đến đặt tay lên, cứu chữa cháu bé đang hấp hối. Nay Người còn làm hơn thế nữa, ân cần, chủ động và thân thương cầm lấy tay để hồi sinh cháu.
Trong ba phép lạ cho sống lại, như Ladarô ( Ga 11, 43-44 ), con trai bà góa thành Nain ( Lc 7, 12-15 ) và con gái ông Giaia ( Mc 5, 41 ), thì chỉ có duy nhất lần này, Người cầm lấy tay cô bé cho hồi sinh, y như Người đã cầm tay nhạc mẫu ông Phêrô, chữa khỏi cơn sốt ( Mc 1, 31 ), cầm tay dắt anh mù ra khỏi làng, rồi cho anh sáng mắt ( Mc 8, 23 ), cầm tay đứa trẻ chữa khỏi quỷ ám ( Mc 9, 27 ).
Chạnh lòng cầm tay người hoạn nạn, Đức Giêsu chứa chan yêu thương, tràn trề lòng thương xót, ân cần cứu thoát khỏi bệnh tật, khỏi ma quỷ, khỏi cái chết. Người vẫn cầm tay từng người dẫn dắt khỏi chốn nguy khốn, khỏi cám dỗ xác thịt, khỏi tội lỗi bùn nhơ, khỏi án phạt chết muôn đời, những ai tin vào Người, không phân biệt thân sơ, không giới hạn sang hèn, chẳng kỳ thị dân tộc.
“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” ( Tv 23 ).
Đức Giêsu cầm lấy tay cứu giúp những ai trông cậy, tin tưởng vào Người khỏi cơn gian nguy, chết chóc. Người làm gương cho những ai theo Người, biết cầm tay tha nhân an ủi, cứu chữa, giúp đỡ và phục vụ. Người dạy Kitô hữu biết chủ động dấn thân phục vụ bằng hành động cụ thể, thân thiện và trịnh trọng cầm lấy tay những người khó khăn, gặp nạn, bị xã hội bỏ rơi, khinh khi, oán ghét để ân cần chia sẻ, quan tâm, giúp đỡ, tương thân, tương ái.
“Đây là bằng chứng để ta biết được lòng mến: Là Đấng ấy đã thí mạng vì ta. Và ta, ta cũng phải thí mạng vì anh em ( 1Ga, 3, 16 ). Con hỏi Cha: “Đâu là mức độ dấn thân ?” – “Hãy làm như Chúa Giêsu: Thí Mạng.” Nếu con tuyên bố rùm beng, hoạt động khơi khơi, sống đạo lè phè, con sợ cực, sợ nghèo, sợ tù, sợ chết… Nếu con dấn thân lối: “Cứu viện cho người thắng trận” thì thôi, nên dẹp tiệm. Đó là “dấn thân trá hình”, “dấn thân thương mại.” ( Đường Hy Vọng, số 612 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn chạm tay vào áo Người, để được an ủi và cứu chữa. Cũng xin Chúa dạy chúng con biết chạm tay phục vụ tha nhân, chứ không chỉ nói suông, hay a dua làm từ thiện theo phong trào.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, hướng dẫn chúng con noi gương Mẹ, luôn biết cần mẫn tìm đến Chúa, cũng như luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân trong suốt cuộc đời. Amen.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay được chia thành hai màn nhưng cùng chung một khung cảnh, đó là: TN13-B80
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay được chia thành hai màn nhưng cùng chung một khung cảnh, đó là bên bờ hồ với đông đảo dân chúng. Màn thứ nhất đó là ông chủ hội đường đến, phủ phục dưới chân Chúa mà van xin: Lạy Thầy, con bé nhà tôi gần chết xin Ngài đến đặt tay lên cháu để cháu được qua khỏi và được sống. Trước một nguy cơ đang đe doạ nghiêm trọng sự sống của con gái ông, ông đã khước từ hy vọng vào loài người để chỉ trọn vẹn tin vào Đức Kitô. Thế nhưng, cái tin đau đớn về cái chết của cô bé ập xuống trên đầu ông. Tức khắc Chúa Giêsu an ủi ông: Đừng sợ, chỉ cần tin mà thôi. Điều ông xin lúc mới gặp Chúa Giêsu thì bây giờ đã bị vượt qua. Có lẽ nhờ đó mà ông có được một niềm tin lớn hơn, đúng như Chúa Giêsu đã mời ông thực hiện. Ngài đem ba môn đệ thân tình nhất cùng với cha mẹ cô bé ra riêng mà nói với họ: Con bé không chết đâu, nó ngủ đấy, trong khi đó đám đông cười nhạo Ngài. Là người Kitô hữu hôm nay chúng ta hiểu được ý nghĩa sâu xa của câu nói đó. Khi Chúa Giêsu đến thì cái chết không còn là cái chết, mà đó chỉ là giấc ngủ. Xuyên qua niềm tin của Giairô, chúng ta thấy thấp thoáng niềm tin của ông vào Đấng sẽ làm cho kẻ chết sống lại.
Đang khi Chúa Giêsu gặp ông Giairô thì một người đàn bà đến từ phía sau và lén động tới gấu áo của Ngài. Lén, là bởi vì bà ta đang trong tình trạng ô uế, vì bị băng huyết. Ở đây, chúng ta thấy nổi bật lên hai nét: Một thứ tín ngưỡng tin vào sức mạnh thể lý nào đó của người làm phép lạ và quyền năng của Đức Kitô trước thất bại của các lương y khác. Hai ghi nhận đó được diễn tả trong câu: Tức khắc máu cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Đó là niềm tin dưới dạng thức sơ khai của người đàn bà được một thứ tính toán vụ lợi hướng dẫn, nhưng cuối cùng đã được toại nguyện, với cái giá phải trả là chạm mặt với Đức Kitô. Nhưng đó mới là màn một, còn màn hai thì như thế nào.
Màn hai này mang lại cho câu chuyện một tầm vóc khác xa những gì đã diễn ra trước đó. Bởi vì Đức Kitô muốn con người đã lén động đến Ngài vượt ra khỏi cảnh vô danh. Ngài bắt bà ta phải tự giới thiệu công khai và cùng bà ta đi vào một quan hệ cá nhân, một cuộc trực diện có thể soi sang chúng ta. Khi đó, bà ấy đã trình bày sự thật và khi nhấn mạnh tới niềm tin của bà, Chúa Giêsu cho bà ta lui về bình an: Này con, đức tin của con đã chữa con, con hãy đi bình an và khỏi bệnh. Từ một niềm tin sơ khai, người đàn bà đã bước sang một niềm tin trọn vẹn, mang sâu đậm một mối quan hệ của bà với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Và ông Giairô đã trông thấy điều đó khi ông đứng cạnh Chúa Giêsu, cho nên chúng ta dễ hiểu tại sao chính ông cũng đã đạt được đức tin trọn vẹn như chúng ta vừa mới chứng kiến ở trên.
Hãy tự hỏi xem coi long chai đá của chúng ta có thể đi từ sợ sệt đến đức tin, có thể vượt qua mọi e dè để từ từ khai mở cho một đức tin đầy tin tưởng hay không?
Ngày 17/9/1961, máy bay chở ông Đavít Hamacon, Tổng thư ký Liên hiệp quốc, đã ngộ nạn trên không: TN13-B81
Ngày 17/9/1961, máy bay chở ông Đavít Hamacon, Tổng thư ký Liên hiệp quốc, đã ngộ nạn trên không phận nước Congo, Phi Châu. Ông Hamacon không chỉ là người hoạt động cho hòa bình và là một nhà chính trị lỗi lạc, ông còn là một nhà tu đức có chiều sâu. Sau khi ông qua đời, tại căn phòng của ông ở Nữu Ước, người ta đã tìm được tập tài liệu đánh máy, ghi lại những suy tư và cầu nguyện hằng ngày của ông. Trong tập tài liệu này người ta đọc thấy những dòng như sau: "Thiên Chúa sẽ không chết, ngày mà chúng ta không còn tin ở thần linh nào nữa. Nhưng chính chúng ta sẽ chết, ngày nào cuộc sống của chúng ta không còn thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ không ngừng xảy ra, phép lạ mà lý trí chúng ta không biết từ đâu tới".
Cái chết mà ông Đavít Hamacon nói trên đây chính là cái chết của tinh thần con người. Khi tinh thần con người không còn vượt qua khỏi chính mình để đi vào chiêm niệm, nghĩa là đi vào thế giới ở bên ngoài khả năng nắm bắt của lý trí, thì đó là lúc nó trở nên cằn cỗi và chết dần chết mòn.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới ấy, thế giới của những câu hỏi "tại sao", mà lý trí con người không thể lý giải được. Phép lạ một người đàn bà bị băng huyết được chữa lành nhờ chỉ chạm đến áo của Chúa Giêsu, và phép lạ một em bé gái chết được Chúa Giêsu cho sống lại; cả hai phép lạ đều phát xuất từ lòng tin của con người. Ông trưởng hội đường đã biểu lộ lòng tin bằng cách lặn lội tìm đến với Chúa Giêsu xin Ngài tới đặt tay trên con gái của ông; người đàn bà băng huyết tin một cách mãnh liệt nơi sức mạnh phát xuất từ con người Chúa Giêsu. Nơi ông trưởng hội đường, lòng tin được tuyên xưng tỏ tường; nơi người đàn bà băng huyết, niềm tin rụt rè kín đáo. Nhưng dù tỏ tường hay kín đáo, chính lòng tin đã giúp cho phép lạ xảy ra, như Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà: "Lòng tin của con đã cứu chữa con".
Niềm tin làm cho con người được sống, điều này vẫn thường xảy ra trong đời sống con người. Tất cả những thành công trong cuộc sống đều nhờ ở niềm tin, nhưng niềm tin tôn giáo thì quan trọng hơn, bởi vì chính sự sống tinh thần và tâm linh mới là điều cần thiết cho con người đạt được thành công. Có tất cả, nhưng thiếu đời sống tâm linh, con người vẫn như sống dở. Sống sung mãn, sống dồi dào, chính là sống nội tâm. Chỉ có một đời sống nội tâm sung mãn mới giúp con người thấy được, cảm nhận được những gì mà giác quan và lý trí không thể đạt được.
Cuộc sống vốn là một phép lạ, từng hơi thở con người là một phép lạ, mỗi ngày là một phép lạ, mỗi phút giây là một phép lạ. Chỉ có đôi mắt nội tâm mới cho con người cảm nhận được phép lạ triền miên ấy. Sống đích thực, sống dồi dào, là biết chiêm ngưỡng để đón nhận phép lạ từng ngày ấy.
Nguyện xin Chúa ban cho cuộc sống chúng ta luôn được thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ triền miên ấy.
Đức Giêsu thực hiện hai phép lạ: phép lạ chữa bệnh và phép lạ làm cho sống lại. Hai phép lạ này: TN13-B82
Đức Giêsu thực hiện hai phép lạ: phép lạ chữa bệnh và phép lạ làm cho sống lại. Hai phép lạ này liên quan đến hai nghịch cảnh của đời sống con người, trong đó có những người thân yêu của chúng ta và có khi, có cả chúng ta nữa.
- Người cha có đứa con gái mới 12 tuổi đã chết. Sự bất hạnh của em bé, nhưng cũng là nỗi đau của bố, của mẹ, của cả nhà. Theo sách Tin Mừng của thánh Mát-thêu, em bé đã chết rồi, còn theo thánh Mác-cô và thánh Luca, lúc người bố đến kêu xin Đức Giêsu, thì em bé chưa chết; nhưng lúc Ngài đang trên đường tới nhà, cháu bé mới chết. Chi tiết này làm bật lên nỗi đau của người bố và của cả gia đình là một nỗi đau kéo dài.
- Người phụ nữ, có lẽ đã lớn tuổi, mang một thứ bệnh kín đáo trong người đã 12 năm. Có những thứ bệnh ai cũng biết, nhưng cũng có những thứ bệnh chỉ có một mình biết, kéo dài, nỗi đau triền miên.
Hai nghịch cảnh của hai lứa tuổi nói cho chúng ta thật nhiều về thân phận và những vấn đề muôn thủa của con người: bệnh tật và cuối cùng là cái chết, có thể xẩy ra ở bất cứ lứa tuổi nào; bệnh tật và sự chết làm bật lên sự liên đới của nhiều người; bệnh tật và sự chết tất yếu đặt ra con con người vấn đề Thiên Chúa và buộc phải lựa chọn tin hay không tin.
Và Lời Chúa cũng mặc khải cho chúng ta biết cách Thiên Chúa, ngang qua Đức Giêsu-Kitô, liên đới với đau khổ và cả sự chết thuộc về thân phận con người như thế nào.
2. Lòng tin
a. Để được chữa lành, Chúa cần lòng tin và chỉ cần lòng tin mà thôi. Lòng tin của người phụ nữ thật đơn sơ, nhưng mạnh mẽ: “tôi chỉ cần đụng được vào áo của Người thôi, là sẽ được cứu”. Ở những nơi hành hương, người ta vẫn thể hiện lòng tin bằng cách đụng vào các bức tượng hay thánh tích.
Nhưng để được chữa lành thực sự, nghĩa là trọn vẹn, chúng ta được mời gọi đi vào tương quan mãi mãi với một ngôi vị, Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Và đó chính là điều mà người phụ nữ được ban tặng, vượt xa nhu cầu chữa bệnh của bà. Được khỏe là một nhu cầu quan trọng, nhưng điều này vẫn chưa giải quyết được hết những vấn đề liên quan đến “sự sống” của một con người. Đời sống con người cần sức khỏe, nhưng khỏe thôi vẫn chưa đủ. Hơn nữa, xét cho cùng, người ta đâu có khỏe được mãi, và có rất nhiều phận người, sinh ra đã tật nguyền. Hơn nữa, Đức Giêsu còn nói: “lòng tin của con đã cứu con”. “Cứu” ở đây vượt xa vô hạn phép lạ hết bệnh.
b. Cái chết của đứa con, nhưng lòng tin lại là lòng tin của người cha: “con gái tôi mới chết, nhưng xin Ngài đến đặt tay trên cháu, là nó sẽ sống”. Lòng tin của bố cứu được con mình. Điều kì diệu này được ghi lại khắp nơi trong các Tin Mừng. Chính vì thế mà chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho nhau, cho người sống và kẻ chết. Vì Chúa cũng yêu thương những người chúng ta thương yêu trong Chúa.
Đức Giêsu không quan tâm đến tiếng tăm của mình, nhưng quan tâm đến sức khỏe và sự sống của em bé: “Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm” (c. 40). Sau này trong cuộc Thương Khó, Ngài sẵn sàng mang vào mình cái chết đau đớn và sỉ nhục tận cùng, để hiện diện, cảm thông với mọi đau khổ và mọi cách chết của con người, để bày tỏ lòng thương xót và dẫn chúng ta vào niềm Hy vọng. Biến cố cá biệt, nhưng đem lại cho nhân loại chúng ta niềm hy vọng thật lớn: tất cả người chết sẽ sống lại, nếu Đấng Phục Sinh “cầm lấy tay”.
3. Niềm hy vọng
Cách Đức Giêsu đến với mỗi người mỗi khác. Với người phụ nữ, bà cố để đụng được vào gấu áo của Đức Giêsu; nhưng với em bé, Ngài đến tận nơi: “Người đi vào, cầm lấy tay em bé, nó liền trỗi dậy”. Đó chính cũng là cách Chúa ban ơn cứu độ cho từng người, luôn luôn đích thân và duy nhất. Bởi lẽ người ta không thể công thức hóa ơn cứu độ, lề luật hóa lòng tốt của Thiên Chúa được.
Đức Giêsu quan tâm đến sự sống của mỗi người, của cả loài người. Những gì Ngài làm, thật lạ lùng, nhưng cũng thật giới hạn. Vì người phụ nữ cũng sẽ bệnh lại và chết; em bé lớn lên và cũng qua đi. Nhưng đó là những dấu chỉ làm cho chúng ta hướng tới và đặt hy vọng nơi ơn huệ còn lạ lùng hơn: đó ơn huệ sự sống vô hạn trong Chúa và cùng nhau, mà Đức Giêsu Kitô chết và phục sinh hứa ban cho chúng ta.
Chính niềm hy vọng đặt nơi ngôi vị của Đức Kitô phục sinh, làm cho chúng ta bình an và can đảm đảm nhận hôm nay phận người của mình và thân phận của cả những người khác nữa, nhất là những người thân yêu của chúng ta trong Gia Đình và trong ơn gọi dâng hiến.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 5:21-24, 35b-43)
Sợ hãi ảnh hưởng mạnh tới lòng tin. Nó làm cho chúng ta khó có thể nhận định được thực tại, phóng: TN13-B83
Sợ hãi ảnh hưởng mạnh tới lòng tin. Nó làm cho chúng ta khó có thể nhận định được thực tại, phóng đại sự trầm trọng của nghịch cảnh và không tin tưởng vào khả năng của chính mình hay người giúp đỡ mình. Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su nhắc nhở chúng ta về vai trò của lòng tin giúp chúng ta thắng vượt sự sợ hãi ấy, để tín thác nơi quyền năng và nhất là tình yêu của Thiên Chúa.
Nỗi sợ hãi của ông Gia-ia là sắp sửa mất đi đứa con gái mười hai tuổi. Ông yêu dấu nó lắm. Thưa với Chúa Giê-su, ông gọi nó là “con bé nhà tôi”. Nhưng “con bé nhà tôi gần chết rồi” là nỗi lo sợ hiện thời của ông. Trước nỗi lo sợ không ai trong loài người có thể chiến thắng được, ông chỉ còn biết hướng về Thiên Chúa toàn năng. Ông đến với Chúa Giê-su và cử chỉ của ông khi vừa thấy Người là “sụp xuống dưới chân Người”, hành vi thờ phượng của một tạo vật đối với Đấng dựng nên mình. Đó cũng là hành vi biểu lộ lòng tin lớn lao. Chẳng gì ông cũng là một trưởng hội đường có danh giá. Vậy mà ông sẵn sàng sụp lạy Chúa Giê-su và tin chắc rằng: Nếu Ngài đến đặt tay lên cháu, thì nó được cứu chữa và được sống. Đặt tay biểu tượng cho uy quyền. Như thế là ông đã nhìn nhận quyền năng của Chúa Giê-su và tín thác quyền năng ấy.
Ông Gia-ia vừa biểu lộ lòng tin mạnh mẽ, thì sợ hãi lại tiếp tục đến tấn công lòng tin của ông. Mấy người từ nhà ông đến báo tin buồn: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa”. Ông bị giao động mạnh. Điều ông sợ đã thực sự xảy ra rồi, ông biết làm sao đây? Nhưng Chúa Giê-su lập tức can thiệp. Người chẳng sợ bị ai “làm phiền”, nhất là kẻ đến xin Người cứu giúp, giống như Người lập tức đáp lời cầu xin của các môn đệ trên con thuyền gặp cuồng phong. Người bảo ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Người muốn nói: Ông đã có lòng tin rồi, cứ tiếp tục tin là đủ, còn những gì khác hãy để tôi an bài. Rồi lúc về tới nhà, lòng tin của ông lại bị thử thách một lần nữa, khi những người đang khóc lóc con bé quay sang chế nhạo Chúa Giê-su vì Người bảo: “Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Lần này Chúa không cần nói gì nữa, nhưng Người hành động, đưa ông, vợ ông và ba môn đệ vào thẳng phòng đặt xác đứa bé. Người cầm tay nó và truyền cho nó sống lại. Rồi Chúa nghiêm cấm họ không được nói cho ai biết là Người đã làm phép lạ vĩ đại này. Vì Chúa đã bảo với những kẻ chế nhạo Người rằng con bé đang ngủ, thì bây giờ Người tới đánh thức nó dậy! Người không cần phô trương thanh thế. Người chỉ muốn những ai nhận được ân sủng Thiên Chúa thì phải biết cảm tạ Thiên Chúa.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta ai mà chẳng có lúc quá sợ hãi, đến nỗi đức tin bị lung lay. Trong những tình huống bất lực ấy, chúng ta thường phấn đấu tìm đủ cách để giải quyết khó khăn, tin vào khả năng của mình hay sự giúp đỡ của người khác. Nhiều khi chúng ta quên mất Đấng có quyền trên mọi sự, thiên nhiên cũng như bệnh tật phần xác. Đó là Chúa Giê-su, Đấng kêu gọi mỗi người chúng ta, như Người đã khích lệ ông trưởng hội đường Gia-ia: Đừng sợ, chỉ cần tin thôi! Phải, Chúa chỉ cần chúng ta có lòng tin thôi. Vững tin vào Người thì bất cứ sợ hãi nào chúng ta cũng thắng được. Sợ hãi là điều thuộc bản chất con người chúng ta; nó chỉ đe dọa chúng ta làm chúng ta yếu đi lòng tin, chứ không thể tiêu diệt được lòng tin. Cũng như ông Gia-ia, lòng tin của chúng ta thường bị thử thách. Nhưng Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta để nhắc nhở chúng ta hãy vững tin. Người nhắc nhở ta bằng nhiều cách. Có thể một người thân của chúng ta khích lệ: Cố lên, Chúa sẽ giúp mình vượt qua cơn thử thách này. Hoặc một người bạn hứa sẽ cầu nguyện cho chúng ta được vững lòng tin. Hoặc chính chúng ta khi cầu nguyện, cảm thấy như Chúa nói nhỏ: Thầy luôn ở với con cho tới ngày cuối đời con, hoặc cho tới ngày tận thế.
Cũng trong bài Tin Mừng hôm nay, một người phụ nữ bị bệnh băng huyết đã lâu năm, tin rằng mình chỉ cần được đụng vào cái áo choàng của Chúa thôi cũng sẽ được khỏi bệnh rồi. Bà đã được toại nguyện nhờ lòng tin, đúng như điều Chúa muốn: “Đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Phải, chúng ta chỉ cần tin vào Chúa là đủ!
Sau phép lạ dẹp yên bão tố và phép lạ giải thoát người bị quỷ ám, hôm nay chúng ta được nghe trình: TN13-B84
Sau phép lạ dẹp yên bão tố và phép lạ giải thoát người bị quỷ ám, hôm nay chúng ta được nghe trình thuật diễn tả hai phép lạ khác đan kết với nhau một cách chặt chẽ: phép lạ chữa người đàn bà loạn huyết và phép lạ phục sinh con gái ông Giaia. Qua các phép lạ này, ta thấy có một sự tăng trưởng dần dần trong niềm tin của các môn đệ vào quyền năng của Chúa Giêsu. Quyền năng trên các định luật thiên nhiên: làm cho sóng yên biển lặng. Quyền năng trên các thần ô uế: giải thoát người bị quỷ ám ở Ghêrasa. Quyền năng trên bệnh tật: chữa lành người đàn bà bị chứng xuất huyết. Và quyền năng trên sự chết: phục sinh con gái ông trưởng hội đường. Thế nhưng để quyền năng của Chúa Giêsu được biểu lộ, đòi hỏi con người phải có niềm tin. Nói cách khác, tin là điều kiện cần có để được Đức Giêsu thực hiện các phép lạ.
Chính nhờ đức tin mà người đàn bà loạn huyết được chữa lành. Chúa Giêsu đã xác nhận điều này: “Đức tin con đã cứu chữa con” (Mc 5,34). Đức tin đã khai mở quyền năng của Ngài, như thể Chúa Giêsu quy gán phép lạ cho khả năng của con người. Đức tin đã giúp bà tìm đúng địa chỉ để dứt điểm căn bệnh mà bà phải gồng mình chịu đựng trong suốt 12 năm trường. Trình thuật Marccô cho thấy người đàn bà bị loạn huyết đang đối diện với một căn bệnh được xem là nan y thời đó. Căn bệnh đang lấy dần đi sự sống nơi bà, vì máu là căn nguyên sự sống, trong khi bà đang bị băng huyết. Nhưng bà tin Chúa Giêsu có dư năng quyền để chữa bà lành bệnh. Bằng chứng là bà tự nhủ rằng chỉ cần một chút quyền năng phát ra nơi gấu áo của Chúa Giêsu thôi cũng bằng ngàn vạn thầy thuốc giỏi nhất trần gian. Quả đúng như thế. Bà vừa mới sờ vào gấu áo Chúa Giêsu, tức khắc căn bệnh đã “say goodbye” với bà. Kỳ diệu thay quyền năng của Thiên Chúa và cũng diệu kỳ thay đức tin của con người.
Cũng vậy, chính nhờ đức tin của ông trưởng hội đường mà con gái ông được cứu sống. Cứ xem diễn tiến của câu chuyện chúng ta sẽ thấy rõ sự kỳ diệu của đức tin.
Khi hay tin con gái cưng của ông đã chết và những người nhà của ông đã tuyệt vọng, ông vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Con gái của ông không còn là một bệnh nhân, mà đã trở thành một xác chết. Và điều ông nài xin Chúa Giêsu giờ đây đối với gia nhân của ông cũng không còn giá trị nữa, như lời họ khuyến cáo: Con gái ông đã là người thiên cổ rồi còn làm phiền Thầy chi nữa (x. Mc 5,35).
Sự kiện “người ta khóc than kêu la” là dấu chứng con gái ông đã chết. Thánh sử Matthêu còn thêm chi tiết là “đến nơi Chúa Giêsu thấy phường kèn và đám đông xôn xao” (Mt 9,23). Đang sống thì phường kèn không có lý do gì để có mặt ở đó. Điều này chứng tỏ con gái ông rõ ràng đã chết thật, và đức tin của ông lúc này đang bị thử thách nặng nề. Có thể nói được là thử thách đã lên tới đỉnh điểm. Tuy nhiên, khi được Chúa Giêsu khích lệ, ông đã một lòng tin tưởng và tín thác, mặc cho bầu khí kém lòng tin, do những người bà con lối xóm gây ra, đang bao trùm chung quanh. Kết quả là đức tin ấy đã được tưởng thưởng xứng đáng: người con gái yêu quý đã được tử thần trả lại cho ông. Nói cách khác, chính đức tin đã đem con gái ông trở về từ cõi chết. Chẳng phải Chúa Giêsu đã từng có lần nói: “Mọi sự đều có thể đối với người có lòng tin” (x. Mt 21,21-22).
Nói tóm lại, tin là điều kiện cần thiết để Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ. Thế nhưng việc Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ cũng không nằm ngoài mục đích là củng cố niềm tin cho những kẻ đi theo Ngài, để họ tin rằng Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, nhờ đó mà họ được ơn cứu độ. Không bao giờ Chúa Giêsu làm phép lạ để biểu diễn như lời dụ khị của Satan; hay là để cho nhân dân tán thưởng như các võ sĩ, các nhà ảo thuật, hoặc các diễn viên xiếc…
Qua phép lạ, Ngài kiện cường, thanh luyện niềm tin của những kẻ theo Ngài vốn còn nông cạn, thậm chí còn mang hơi hám ma thuật sơ đẳng, như đức tin của người đàn bà bị loạn huyết, hay còn đang bị chao đảo như đức tin của ông trưởng hội đường, trở thành một đức tin chân chính và sâu xa.
Niềm tin của tôi đang mang màu sắc nào? Tôi có để cho Chúa thanh luyện và “nâng cấp” để đức tin của tôi ngày càng trở nên tinh ròng và kiên vững hay không? Xin Chúa gia tăng lòng tin còn non yếu của chúng ta, hầu chúng ta có thể mở các kho tàng ân sủng trào tràn của Thiên Chúa. Amen.
Hai phép lạ được kể lại trong đoạn Tin mừng sáng hôm nay muốn chứng tỏ rằng: Chúa Giêsu: TN13-B85 Lương
Hai phép lạ được kể lại trong đoạn Tin mừng sáng hôm nay muốn chứng tỏ rằng: Chúa Giêsu đã chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Thực vậy, trước hết là phép lạ chữa người đàn bà mắc bệnh xuất huyết. Bà là một người đau khổ, không phải chỉ vì bệnh tật kéo dài, tiền hết mà tật thì vẫn mang, mà còn đau khổ về mặt tinh thần. Kẻ mắc bệnh như ở trong một tình trạng bị rút phép thông công, vì luật Do Thái buộc họ phải ở nhà, vì hễ đụng đến ai hay đến vật gì, thì làm cho vật ấy và người ấy ra ô uế. Mặc dù quan niệm của bà, phần nào có vẻ mê tín nhưng lại biểu lộ một lòng tin chân thành nơi Chúa…
Ngài có thể là Đấng sẽ cứu chữa cho mình. Nhưng hành động của bà thì lại có tính cách liều lĩnh, bà đã dám xuất hiện giữa đám đông và đụng đến người chung quanh khiến họ phải ra ô uế theo như luật dạy. Bà đã vi phạm lề luật, mà lại vi phạm trước mặt viên trưởng hội đường, có thể là một luật sĩ hay một người Biệt phái. Bà đã hoảng sợ khi thấy Chúa Giêsu hỏi đến việc bà làm. Cử chỉ sụp lạy của bà phải chăng là một cử chỉ thất vọng. Bà đành phải thú nhận tất cả, mặc dù bà muốn mọi sự được diễn ra một cách thầm kín, chỉ mình bà biết mà thôi.
Nhưng Chúa Giêsu đã hỏi đến bà không phải để hạch sách hay lên án, mà trái lại là để cứu vớt bà. Ngài đã muốn đưa người mắc bệnh ra khỏi đám đông để trực diện với Ngài, đi vào cuộc đối thoại với Ngài, đặt mình trong mối quan hệ với Đấng có thể cứu chữa mình. Và trong bối cảnh này, phép lạ không còn mang tính cách mê tín… Bà đã được cứu khỏi bởi lòng tin, bởi sự gặp gỡ đích thân với Đấng cứu mình chứ không phải chỉ tiếp xúc với một sức thiêng vô hình.
Lời Chúa phán: Con hãy về bình an và được khỏi bệnh đã trở nên một lời tha thứ và chúc phúc.
Điều Chúa làm cho người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã đặt ông Giairô, một vị trưởng hội đường trước một sự lựa chọn. Ông là một người có thế giá vì ông nắm trong tay quyền điều khiển hội đường. Có thể ông thuộc nhóm Biệt phái. Ông đang ở trong một cái thế rất bí, không phải chỉ vì con ông đang hấp hối. Nếu con ông chết thì sự nghiệp của ông cũng khó đứng vững, vì chiếu theo quan niệm về thưởng phạt thông thường trong dân Do Thái: con cái chết là hình phạt, là bản án trên đầu cha mẹ vì một tội nào đó. Và một kẻ bị coi là có tội, thì làm sao có thể còn được giữ chức trưởng hội đường nữa.
Nhưng cái thử thách lớn đối với ông từ lúc xảy ra phép lạ chữa lành người mắc bệnh loạn huyết. Ông đã thấy được Chúa Giêsu là Đấng cứu chữa, gỡ nạn và tuyên bố ơn cứu giúp là do lòng tin. Nhưng ông cũng lại thấy Chúa Giêsu là một người tự do đối với lề luật Do Thái. Ông không thể không thắc mắc: Một trưởng hội đường như ông, có phận sự bảo vệ lề luật, có thể ngang nhiên dẫn Chúa Giêsu bị uế tạp vào nhà mình hay không. Nếu dẫn Chúa vào thì lại chẳng hóa ra ông cũng tán thành và trở nên tự do đối với lề luật?
Thế nhưng, thái độ của Chúa Giêsu đối với người đàn bà được chữa lành đã trở thành một lời kêu gọi ông hãy dẹp bỏ sự lo âu áy náy về một điều khoản của lề luật, để được đứng hẳn trong lòng tin. Ông đừng sợ, hãy cứ tin. Cuối cùng ông phải tin vì có người đến báo con ông đã chết. Ông còn biết tìm hy vọng ở đâu nữa. Phép lạ diễn ra. Cháu bé sống lại, và từ đó chúng ta đi tới kết luận:
Sự chết không còn là cái bế tắc vô phương cứu chữa, không còn là cái kết cục tuyệt đối của số mạng con người, bởi vì Đức Kitô đã đem đến cho chúng ta niềm hy vọng phục sinh, niềm hy vọng sống lại.
Trong thông điệp Spe Salvi của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, số 36, ngài đã nói đến đau khổ: TN13-B86 Vĩnh Long
Trong thông điệp Spe Salvi của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, số 36, ngài đã nói đến đau khổ là thành phần của cuộc sống con người. Đối với những đau khổ thể lý, con người đã thực hiện được các tiến bộ đáng kể. Nhưng các khổ đau tinh thần lại gia tăng rất nhiều trong những thập niên vừa qua. Đứng trước hiện trạng như vậy, Đức Giáo Hoàng đã kêu gọi con người phải làm hết sức để vượt thắng đau khổ. Thế nhưng, ngài cũng nhấn mạnh việc loại bỏ hoàn toàn đau khổ ra khỏi thế gian này nằm ngoài tầm tay của con người, vì không ai có đủ khả năng khai trừ quyền lực của sự dữ, của tội lỗi vốn là nguồn gốc của đau khổ. Do đó, Đức Giáo Hoàng đã kêu gọi con người hãy đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa trước sự đau khổ của con người, bởi vì chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể chữa lành được những đau khổ của nhân loại.
Những lời kêu gọi chúng ta của Đức Giáo cũng là lời mời gọi trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Maccô đã cho chúng ta thấy hình ảnh người đàn bà bị bệnh băng huyết và ông trưởng Hội Đường tên là Giairô đã đến với Chúa Giêsu trong sự tuyệt vọng vì phải chịu những đau khổ về thể xác và tinh thần mà họ không thể kêu cầu với ai để cứu giúp họ.
Người đàn bà đã đến với Chúa Giêsu trong sự tuyệt vọng, vì đã 12 năm bà phải chịu đau khổ vì một chứng bệnh mà đã nhiều lần chữa trị đều vô hiệu trong đôi bàn tay của nhiều bác sĩ. Bà cũng đã trả tiền chữa trị cho đến những đồng bạc cuối cùng, bà đã tận dụng hết mọi khả năng chữa trị của con người, nhưng cũng không thể chữa lành bệnh cho bà. Tuy bà phải chịu nhiều đau khổ về thể xác như vậy, nhưng có lẽ không bằng sự đau khổ về tinh thần mà bà phải chịu khi sống trong xã hội, khi sống với những người xung quanh. Đối với người Do Thái, một người đàn bà bị bệnh băng huyết bị coi là ô uế và bị cấm đụng đến người khác, vì ai đụng chạm đến bà cũng sẽ trở nên ô uế. Cho nên, nỗi đau khổ của bà là một tình trạng cô độc vì bị mọi người xa lánh, bà không thể đến được với ai và cũng không ai dám đến với bà để có thể an ủi và cảm thông với sự đau khổ mà bà phải chịu trong một thời gian dài như vậy.
Đồng thời, cùng với sự đau khổ của người đàn bà bị băng huyết này, thì sự đau khổ của ông trưởng Hội Đường cũng không kém, ông rất đau khổ vì đứa con gái của ông đang trong cơn thập tử nhất sinh. Và khi ông đến kêu cầu Chúa Giêsu thì người nhà cho ông biết là con ông đã chết, do đó, sự đau khổ của ông đã tăng lên gấp bội vì phải vĩnh viễn mất đi đứa con yêu quý của mình.
Thế nhưng, trong sự đau khổ lớn lao như vậy, họ không thể kêu cầu đến bất cứ ai được nữa, không còn ai có thể giúp đỡ họ khi mà nhu cầu của họ vượt quá khả năng của con người, thì họ đã đặt trọn niềm tin tưởng vào Chúa và Chúa đã chữa lành cho họ. “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”.
Đau khổ là một thực tế mà không ai trong chúng ta trốn tránh được, không ai mà không có đau khổ trong cuộc đời của mình. Hay nói khác hơn, mỗi người đều mang trong lòng mình một nỗi đau, nỗi đau muôn hình vạn dạng, anh chị em đau vì chồng, khổ vì con, anh chị em đau đớn trong thân xác mà khổ sở trong tâm hồn. Đó là một thực tế chúng ta không thể phủ nhận được. Và việc loại trừ đau khổ này nằm ngoài tầm tay của chúng ta và không ai có đủ khả năng để khai trừ sự đau khổ này ngoài Thiên Chúa như chúng ta thấy trong bài Tin Mừng ngày hôm nay, cũng như lời của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết trong thông điệp Spe Salvi.
Khi nói về vấn đề này, có một hình ảnh mà chúng ta cần phải noi gương trong cuộc sống của mình, đó là Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, trong suốt 13 năm giam cầm trong một tình trạng đau khổ về thân xác và tinh thần hầu như tuyệt vọng. Mặc dầu ngài chẳng có tội lỗi gì, một người hiền lành, đạo đức, cả cuộc đời yêu thương, phục vụ người khác mà cuối cùng phải vào nhà tù. Cái hình ảnh đó cho chúng ta thấy một thực tế, đó là không phải mình cố gắng sống đạo đức, sống yêu thương, sống tốt lành mà cuộc đời của mình không có đau khổ, có khi còn phải chịu đau khổ nhiều hơn người khác nữa. Thế mà Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận vẫn đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Chính vì vậy, khi mà Đức Giáo Hoàng nói về Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận trong thông điệp Spe Salvi ở số 32, ngài viết như sau: “Nếu không còn ai nghe tôi nữa, thì vẫn còn có Chúa lắng nghe tôi. Nếu tôi không còn có thể nói chuyện với ai, nếu tôi không còn có thể kêu cầu đến bất cứ người nào, tôi vẫn luôn có thể thưa chuyện với Chúa. Nếu không còn ai giúp đỡ, khi nhu cầu hay mong đợi vượt quá khả năng hy vọng của con người, thì Thiên Chúa vẫn có thể giúp đỡ tôi”.
Chúng ta có thể dùng những lời này làm châm ngôn để an ủi cho mỗi người chúng ta mỗi khi gặp đau khổ, lúc nào cảm thấy cô đơn quá, không ai hiểu mình, không ai nghe mình, không ai thông cảm với mình, thì đừng quên là vẫn còn có Chúa. Hơn nữa, ngay cả khi chúng ta phạm tội, cũng là một sự đau khổ trong tâm hồn của mình, mà không ai có thể chữa lành được cho chúng ta, thì chúng ta hãy mau mắn chạy đến Tòa Giải Tội, nơi đó, Chúa luôn chờ đợi chúng ta, lắng nghe chúng ta và chữa lành cho chúng ta khỏi mọi tội lỗi và đem lại sự bình an trong tâm hồn chúng ta.
Đau khổ là một yếu tố không thể tránh khỏi của nhân loại. Mặc dù con đường đau khổ có thể dẫn chúng ta đến sự tuyệt vọng trong đời sống. Thế nhưng, với niềm tin của chúng ta, chúng ta hãy đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, vì chỉ mình Chúa mới có thể giải thoát chúng ta khỏi mọi đau khổ.
Lạy Chúa, trong chương trình quan phòng cứu độ của Ngài, con tin rằng đau khổ không nhận chìm con, nhưng mời gọi con tỉnh thức trong sự cậy trông và tin tưởng. Đau khổ nhắc nhở con thân phận và kiếp sống mỏng manh của mình, để con không quá bám vào bất cứ điều gì hay bất cứ người nào mà chỉ hy vọng vào một mình Chúa mà thôi. Xin ban cho chúng con sức mạnh của lòng yêu mến Chúa để chúng con luôn bình tâm trong mọi nổi khổ đau của cuộc đời mình. Amen
Kn 1,13-15;2,23-24 ; 2 Cr 8,7-9.13-15 ; Mc 5,21-43.
I.HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Mc 5,21-43
(21) Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. (22) Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người, (23) và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”. (24) Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người. (25) Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, (26) bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. (27) Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người, (28) vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ vào được áo Người thôi, là sẽ được cứu”.(29) Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. (30) Ngay lúc đó, Đức Giêsu cảm thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra. Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”. (31) Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào Tôi ?”. (32) Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ làm điều đó. (33) Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. (34) Người nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (35) Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” (36) Nhưng Đức Giêsu nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. (37) Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông là ông Gio-an. (38) Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường, Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. (39) Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”. (40) Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. (41) Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi !”. (42) Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức người ta kinh ngạc sững sờ. (43) Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.
2.Ý CHÍNH:
Ông trưởng hội đường tên Gia-ia có đứa con gái đau nặng sắp chết đặt trọn niềm tin vào Đức Giêsu: TN13-B87 Dalat
Ông trưởng hội đường tên Gia-ia có đứa con gái đau nặng sắp chết đặt trọn niềm tin vào Đức Giêsu nên đã được Người cho sống lại. Trong lúc đi đường, một phụ nữ bị bệnh băng huyết cũng nhờ tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giêsu nên cũng được lành bệnh. Điều này cho thấy: Đức Giêsu đến để giải thoát loài người khỏi hậu quả của tội lỗi là bệnh tật và sự chết. Tuy nhiên, để được hưởng ơn cứu độ ấy, người ta phải đặt trọn niềm tin vào Người.
3.CHÚ THÍCH:
-C 21-24: + Bờ Biển Hồ: Biển Hồ nói đây có nhiều tên: là Biển Hồ Ga-li-lê hay Ti-bê-ri-a (x. Ga 6,1) hay Ghen-nê-xa-rét (x. Lc 5,1). Đây là Biển Hồ có hình bầu dục dài 21 km, rộng 12 km. Tại Biển Hồ này Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ như: dẹp yên sóng gió (x. Mc 4,35-41), mẻ cá lạ lùng (x. Lc 5,4-7), đi trên mặt biển (x. Ga 6,16-21). Cũng tại vùng Biển Hồ này, Đức Giêsu đã chữa lành các bệnh nhân (x. Mt 14,14.35-36). Hai lần nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,15-21; 15,32-39).+ Viên trưởng hội đường: Là người phụ trách việc phụng tự trong hội đường Do Thái. Khi đi giảng đạo, Đức Giêsu thường đến các hội đường Do Thái vào ngày Sa-bát để rao giảng Tin Mừng và chữa bệnh (x. Mt 4,23; Lc 4,31-37.44). + Ông ta sụp xuống dưới chân Người và khẩn khoản nài xin: Thái độ sụp xuống dưới chân Đức Giêsu và nài xin Người cho thấy đức tin mạnh mẽ của ông. + “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”: Đặt tay là khẳng định mối liên hệ chặt chẽ giữa người đặt tay và vật hay người được đặt tay. Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân ám chỉ các phép bí tích do Đức Giêsu lập ra sau này để ban ơn cứu độ cho các tín hữu.
-C 25-28: + Bà kia bị băng huyết đã mười hai năm: Bệnh băng huyết là một loại bệnh phụ khoa, làm cho người phụ nữ bị ra ô uế theo Luật. Bệnh nhân bị bệnh này không được đụng chạm tới ai để tránh cho họ khỏi trở nên ô uế (x. Lv 15,25-27). + Bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người, vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ vào được áo Người thôi, là sẽ được cứu”: Chính nhờ tin vào quyền năng và tình thương của Đức Giêsu, mà bà này đã vượt qua đám đông để tới gần Đức Giêsu và bà còn dám vượt qua Lề Luật để đưa tay ra chạm vào áo của Người.
-C 29-31: + Bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh: Chạm đến áo Đức Giêsu cho thấy cử chỉ bên ngoài thân xác cũng có giá trị làm phát sinh đức tin trong tâm hồn. Nhờ đức tin mà bệnh nhân được khỏi bệnh. + “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”: Đức Giêsu muốn cho người phụ nữ ý thức rằng: chị ta được khỏi bệnh do quyền năng phát xuất từ Người và do ý định của Người chủ động thực hiện. Câu hỏi của Chúa còn có mục đích cho các môn đệ và đám đông dân chúng biết rõ về phép lạ đó, để họ tin Người thực là Đấng Thiên Sai.
-C 32-34: + Bà này sợ đến phát run, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình: Bà sợ vì việc làm của bà đã vi phạm Luật Mô-sê tưởng là chỉ mình bà biết, nhưng đã bị Đức Giêsu phát hiện. + Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người: Đức tin của người đàn bà này lúc đầu chỉ là sự mê tín dị đoan. Nhưng giờ đây được Đức Giêsu quan tâm sửa dạy, đã trở thành đức tin đúng đắn vững mạnh, thúc bách bà thêm can đảm đến phủ phục và thú nhận sự thật với Người. + “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”: Đức Giêsu cho thấy chính Người đã chữa lành cho người đàn bà vì bà đã tin tưởng cậy trông vào Người, chứ không phải cái áo Người đang mặc chữa lành bệnh cho bà.
-C 35-37: + “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa ?: Qua câu này, người nhà ông trưởng hội đường không tin Đức Giêsu có thể phục sinh kẻ chết. Câu này cũng là dịp thử thách đức tin của ông Gia-ia. + “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”: Sự im lặng của Gia-ia khi nghe báo tin con gái ông đã chết, cho thấy ông vẫn kiên trì với đức tin. Vì thế, Đức Giêsu đã khích lệ ông: “Chỉ cần tin thôi” hay “Cứ vững tin là được”. Qua câu này, Đức Giêsu muốn cho Gia-ia đừng để đức tin bị chao đảo, như có lần Người đã nói: “Cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin” (Mc 9,23). + Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an: Ba ông này luôn theo sát Đức Giêsu trong các biến cố quan trọng (x. Mc 5,37; 9,2; 14,33). Dù muốn giữ bí mật đối với đám đông, nhưng Đức Giêsu cũng cho ba môn đệ thân tín đi theo để sau này họ kể lại cho hậu thế biết (x. Ga 19,35). Sở dĩ phải ba ông, vì theo Luật Mô-sê thì lời chứng của ba người mới có giá trị (x. Đnl 19,15; Mt 18,16).
-C 38-40: + “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ?”: Những người khóc lóc kêu la nói đây là những người khóc mướn. Họ được tang gia nhờ cậy để khóc than to tiếng mỗi khi có khách đến viếng người chết. + Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy !: Trong Thánh Kinh, sự chết được diễn tả bằng nhiều kiểu nói: “Một số đã an nghỉ” (x. 1 Cr 15,6); “Về những ai đã an giấc ngàn thu” (x. 1 Tx 4,13); “an giấc trong Đức Giêsu” (x. 1 Tx 4,14). Khi nghe biết La-da-rô chết, Đức Giêsu cũng nói: “La-da-rô bạn của chúng ta đang yên giấc” (Ga 11,11). Ở đây, khi khẳng định cô bé chưa chết, mà chỉ đang ngủ đó thôi, là Đức Giêsu báo trước việc Người sắp cho em sống lại, được thức dậy sau một giấc ngủ. + Họ chế nhạo Người, nhưng Người bắt họ ra ngoài: Sự kiện này cho thấy: Những người không tin và chế nhạo thì không đáng được chứng kiến phép lạ như có lần Người đã nói: “Không nên lấy của thánh mà ném cho chó. Cũng không nên vất ngọc trai trước mặt con heo !”.+ Rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm: Chỉ có 5 người là cha mẹ cô bé, và ba môn đệ là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là những kẻ có thiện chí và đức tin nên được Người cho chứng kiến phép lạ để gia tăng đức tin. Vì “ai có sẽ được cho thêm để nên dư dật !”.
-C 41-43: + “Này bé, Thầy truyền cho con: Chỗi dậy đi !”: Cũng như khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa chỉ cần phán một lời là mọi sự xuất hiện (x. St 1,3.6.9.11.14), ở đây Đức Giêsu cũng chỉ ra lệnh là em bé kia lập tức sống lại. Điều này chứng tỏ Đức Giêsu làm chủ trên cả người sống lẫn kẻ chết (x. Mt 28,18). + Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy: Khi cấm các môn đệ không được nói ra phép lạ này là để tránh sự bồng bột quá khích của dân Do Thái bấy giờ đang có quan niệm ái quốc cực đoan về Đấng Thiên Sai. Phải chờ đến ngày Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, ba môn đệ này mới thuật lại phép lạ mà các ông đã chứng kiến.
4.CÂU HỎI:
1) Biển Hồ nói đây là biển gì ? Đức Giêsu đã làm các phép lạ nào trên Biển Hồ và trong khu vực này ? 2) Trong thời gian giảng đạo, Đức Giêsu thường làm gì tại các hội đường Do thái ? 3) Lòng tin của ông trưởng hội đường vào Đức Giêsu biểu lộ qua thái độ nào ? 4) Cử chỉ đặt tay của Đức Giêsu nói lên điều gì ? 5) Vì sao người đàn bà này lại bị Luật Mô-sê cấm đụng chạm tới người khác ? 6) Lý do nào khiến bà ta dám vượt qua điều Luật cấm để đến gần chạm vào áo Đức Giêsu ? 7) Tại sao Đức Giêsu lại hỏi đám đông: ”Ai đã sờ vào áo Tôi ?” 8) Tại sao người đàn bà bị bệnh lại sợ khi nghe Đức Giêsu hỏi đám đông ? 9)Tại sao Đức Giêsu lại đòi người đàn bà phải công khai thú nhận mình đã được khỏi bệnh ? 10) Đức Giêsu nói câu nào để xác định chính Người chứ không phải áo Người đang mặc đã chữa bệnh cho người đàn bà ? 11) Đức Giêsu đã nói gì với ông Gia-ia để khích lệ ông vững tin ? 12) Ba môn đệ nào được chứng kiến phép lạ Đức Giêsu phuc sinh cô bé ? Ba ông này còn được đi theo Chúa trong những trường hợp nào khác nữa ? 13) Trong Thánh Kinh có những câu nào diễn tả sự chết như một giấc ngủ ? 14) Tại nhà Gia-ia, tại sao Đức Giêsu không cho những kẻ cười nhạo Người ở lại ? Những ai đã được chứng kiến phép lạ Người làm ? 15) Đức Giêsu đã làm gì để phục sinh cô bé ? 16) Tại sao Đức Giêsu cấm Môn đệ nói ra phép lạ này ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Người nói với bà ta: “Lòng tin của con đã cứu con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,34).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Đức Tin vâng phục của tổ phụ Áp-ra-ham:
Ông Áp-ram khi đã già yếu đã gặp được Đức Chúa và được Ngài chọn làm tổ phụ của một dòng giống tin vào Đức Chúa đông như sao trời cát biển. Ngài cũng đổi tên ông từ Áp-ram trở thành Áp-ra-ham, nghĩa là “Cha của những kẻ có lòng tin”. Tổ phụ Áp-ra-ham đã nêu gương tin cậy vâng phục Đức Chúa. Mãi đến năm 90 tuổi Áp-ra-ham mới được Chúa ban cho một đứa con trai đặt tên là I-sa-ác. Nhưng năm I-sa-ác được 12 tuổi, Đức Chúa một lần nữa đã thử thách đức tin của ông bằng việc ra lệnh cho ông đem đứa con trai duy nhất đi sát tế dâng cho Đức Chúa trên núi. Dù khó chấp nhận điều này, nhưng Áp-ra-ham vẫn tín thác cậy trông và tuyệt đối vâng lời Đức Chúa. Ông đã cùng con trai đi leo lên núi cao và lập một bàn thờ để giết con làm lễ vật tiến dâng cho Đức Chúa, theo như phong tục của chư dân thời bấy giờ. Thấy rõ đức tin tuyệt đối của Áp-ra-ham, Đức Chúa đã sai một thiên thần đến ngăn tay ông lại và thay vì dâng con trai, ông được Chúa cho thế bằng một con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Rồi sau đó Đức Chúa đã tái xác nhận những điều Ngài hứa với ông trước đó. Cuối cùng Áp-ra-ham đã thực sự trở thành tổ phụ của một dân tộc tin vào Đức Chúa đông như sao trời cát biển như hiện nay (St 22,1-18).
2. HÃY TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CỦA CHÚA.
Một hôm lúc chiều tà trên bãi biển ẩm ướt, một thanh niên đang đi bách bộ với Chúa Giêsu, hai Thầy trò vừa đi vừa đàm đạo với nhau. Trên mặt cát ướt đều in lại bốn dấu bàn chân của hai thầy trò. Khi đi ngược lại, chàng thanh niên rất ngạc nhiên khi thấy trên mặt cát lúc thì có 4 dấu chân của hai thầy trò, nhưng có lúc lại chỉ thấy còn hai dấu chân. Chàng ta nghĩ đó là hai dấu chân của mình nên hỏi Chúa: “Lạy Thầy, khi nãy Thầy ở đâu để con phải đi một mình như thế ?” Chúa Giêsu liền trả lời: “Con hãy nhìn kỹ lại xem hai dấu chân đó là của ai ?” Sau khi quan sát kỹ, chàng ta công nhận là hai dấu chân của Chúa. Nhưng chàng lại tiếp tục hỏi: “Vậy lạy Chúa, con đang ở đâu trong lúc Chúa đi một mình như thế?”. Đức Giêsu liền âu yếm trả lời anh rằng: “Hỡi con, trong những lúc con bị lo âu phiền não, con không thể tự bước đi được. Đó là lúc Thầy phải bồng ẵm con trên đôi tay của Thầy đó !”.
3.THẢO LUẬN: Một tín hữu gặp gian nan thử thách lại chỉ biết xin khấn, mà không cố gắng phấn đấu làm hết sức để vượt qua, thì có đức tin mạnh không ? Đó có phải là thái độ tin thác vào lòng Chúa thương xót của Chúa không ? Tại sao ?
4. SUY NIỆM:
1) Tầm quan trọng của Đức Tin để được ơn Chúa chữa lành:
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay ghi lại hai phép lạ nói lên tầm quan trọng của Đức tin nếu chúng ta muốn được ơn Chúa cứu độ:
- Phép lạ thứ nhất là người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm. Nhờ có đức tin mạnh vào tình thương và quyền năng của Đức Giê-su, nên cuối cùng bà đã được Người chữa cho lành bệnh loạn huyết.
- Phép lạ thứ hai là một bé gái mới chết đang nằm trên giường. Đức Giêsu đã được cha đứa bé là ông trưởng hội đường Gia-ia mời đến nhà để cứu chữa cho đứa con gái của ông sắp bị chết. Dù đứa bé đã chết, nhưng nhờ vững tin vào lời Đức Giê-su: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Ông trưởng hội đường đã không nản lòng bỏ cuộc và tiếp tục đưa Người đến nhà. Cuối cùng nhờ vững tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giê-su mà đứa bé gái con ông đã được Người truyền cho sống lại: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi !” (Mc 5,41).
Trong cả hai phép lạ này, đức tin của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và đức tin của viên trưởng hội đường Gia-ia là điều tối cần để nhận được ơn cứu độ của Đức Giê-su.
2) Đức tin của người phụ nữ bị loạn huyết: Loạn huyết là một chứng bệnh nhơ uế. Người Do thái không những coi đó là bệnh nhơ uế về mặt thể lý mà còn coi bệnh này là một thứ gây ô uế về phạm vi luân lý nữa. Cho nên Luật Mô-sê cấm những kẻ mắc bệnh này đụng chạm tới người khác. Vì bệnh nhân mắc bệnh này chạm tới ai thì người ấy liền trở nên ô uế. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết trong Tin Mừng hôm nay không dám kêu xin Đức Giêsu chữa bệnh cho mình, vì bà sợ nếu để người khác biết bà mắc chứng bệnh nhơ uế này thì bà sẽ lập tức bị xua đuổi khỏi đám đông. Bà định tâm sẽ giữ im lặng tiến gần đến bên Chúa để chỉ cần sờ vào áo của Người thôi là bà sẽ được khỏi bệnh. Quả thật, bà đã được Chúa chữa cho khỏi bệnh. Nhưng Người muốn bà phải can đảm tuyên xưng đức tin để làm chứng cho Người. Bấy giờ Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”. Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào Tôi ?”. Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ làm điều đó. Bà này sợ phát run lên, vì biết điều gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. Người liền nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,30-34).
3) Đức tin của ông Gia-ia: Ông là trưởng của một hội đường Do thái. Ông tin vào quyền năng và tình thương của Đức Giê-su nên khi có đứa con gái bị bệnh nặng gần chết, ông đã đến kêu xin Đức Giê-su mau đến nhà chữa bệnh cho con ông. Trong lúc cùng đi với Đức Giê-su về nhà, thì ông Gia-ia đã nghe tin con gái ông đã chết! Nhưng Gia-ia đã không nản lòng bỏ cuộc. Ông đã được nghe lời Đức Giêsu động viên: "Đừng sợ, cứ tin". Ông đã tin vào lời Chúa, và cuối cùng con gái ông tuy đã chết, nhưng đã được trỗi dậy sau lời truyền phán của Đức Giê-su: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi !” (Mc 5,41). Chính nhờ ông Gia-ia biết vững tin vào vào quyền năng và tình thương của Đức Giê-su, mà đứa con gái của ông đã nhận được ơn Chúa cứu độ.
4) Sống đức tin trong cuộc sống hôm nay:
- “Lạy Chúa. Xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất!” (Mt 8,25):
Đức tin là một nhân đức quan trọng nhất giúp chúng ta đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào tình thương quan phòng và quyền năng vô biên của Chúa Giê-su. Mỗi khi gặp những điều khó khăn trái ý, hay khi đối diện với những vấn đề vượt quá sức tự nhiên của mình. Như các môn đệ Chúa xưa, chúng ta hãy chạy đến kêu cầu Chúa đang ngủ yên trong tâm hồn chúng ta. Hãy thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa. Xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất!” (Mt 8,25). Chúa có thể cũng sẽ quở trách đức tin yếu kém của chúng ta: “Sao nhát thế ? Làm sao anh em vẫn chưa có lòng tin ?” (Mc 4,40). Nhưng đồng thời Người sẽ cũng sẽ thương ra tay thực hiện những điều lạ lùng để cứu thoát chúng ta. “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
- “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36):
Có nhiều người khi gặp phải những tình huống khó khăn mà cầu xin Chúa không được như ý nên thường ngã lòng cậy trông, không còn cầu xin gì nữa. Khi gặp phải tình huống ấy, chúng ta hãy nghe lời Đức Giê-su trấn an ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Nếu điều chúng ta xin thực sự hữu ích cho phần rỗi đời đời của chúng ta, thì chắc chắn Chúa sẽ ban ơn theo ý chúng ta xin, như lời Chúa Giê-su đã nói về tình thương của Thiên Chúa: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7,11).
- “Đừng theo ý con một xin vâng ý Cha” (Mt 26,39):
Khi tin vào Đức Giê-su, là chúng ta hãy noi gương Người để bỏ cái tôi ích kỷ tự mãn của mình, để đi con đường hẹp, chấp nhận vác tập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện, đừng cầu theo ý riêng mình, nhưng hãy cầu xin theo thánh ý Chúa Cha noi gương Chúa Giê-su: “Đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha”. Chúng ta cũng hãy năng cầu nguyện theo kinh Lạy Cha. Hãy cầu xin cho ta nên khí cụ bình an của Chúa như lời Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người…”.
Trong các phép lạ của Chúa, chúng ta thấy luôn có sự cộng tác của con người. Chẳng hạn: Trong tiệc cưới Cana, Chúa Giê-su chỉ làm phép lạ khi người ta đã "múc nước đổ đầy các chum" (Ga 2,7); Trong phép lạ về nhân bánh ra nhiều, Chúa chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi có “5 chiếc bánh và 2 con cá" (Mc 6,35-43); Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn chính anh mù phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40); Trong cuộc sống đời thường, Chúa luôn muốn cho chúng ta sử dụng hết các khả năng của chúng ta, và Chúa chỉ can thiệp khi cần mà thôi như câu ngạn ngữ: “Hãy thắp lên một ngọn đèn, con hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.
- Tất cả đều là hồng ân: Sau khi kết thúc công việc, chúng ta phải tạ ơn Chúa khi được thành công, và nếu chẳng may bị thất bại, chúng ta cũng vẫn tạ ơn Chúa. Vì với cái nhìn đức tin thì: “Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành” và “Mọi sự đều là hồng ân”. Tất cả những gì xảy đến cho ta đều là hồng ân của Chúa ban và đều sinh ích cho phần rỗi đời đời của ta.
5.LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊSU. Nhiều lần con đã đến nhà thờ cầu nguyện và tham dự thánh lễ. Tai con đã bao lần được nghe Lời Chúa dạy, bàn tay và môi miệng con đã nhiều lần được chạm đến Mình Máu Chúa, thế mà sao con vẫn chưa được khỏi các đam mê tội lỗi. Xin hãy gia tăng lòng tin cậy mến và sự quyết tâm xa lánh dịp tội cho con, nhờ đó con hy vọng sẽ được ơn Chúa chữa lành như người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Sống vui, sống mãi và sống hạnh phúc, nhất là chiến thắng cái chết, không chỉ trong tư tưởng, TN13-B88
Sống vui, sống mãi và sống hạnh phúc, nhất là chiến thắng cái chết, không chỉ trong tư tưởng, nhưng là một khát vọng của con người ở mọi nơi mọi thời. Sự sống lại của Chúa Giêsu khẳng định, khát vọng ấy thực sự có thể, vì cái chết không phải là một phần cấu trúc sáng tạo, về nguyên lý là không thể đảo ngược, Chúa là Sự Sống: "Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết…" (Kn 1,13).
Bởi ác quỉ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian (x. Kn 1, 13-15), nhưng Thiên Chúa "sẽ không thí bỏ mạng tôi cho âm phủ" (Tv 16,10). Lời Thánh Vịnh trên được Chúa Giêsu là đầu và là trưởng tử hoàn tất khi sống lại từ trong cõi chết. Sự chết dẫn Người xuống mồ, nhưng không tiêu tan. Người đã chiến thắng sự chết. Chỉ có Lời quyền năng Thiên Chúa Tình Yêu mới đủ mạnh để phá đổ những rào cản của sự chết.
« Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại » là lời tuyên xưng vào sự hiện hữu thực sự của Thiên Chúa, cho phép chúng ta hát vang lời Alleluia ở giữa một thế giới, bóng tối tử thần đang đe dọa chúng ta.
Đoạn Tin Mừng thánh Marcô hôm nay như một dạng "phóng sự" được thánh Phêrô trực tiếp chứng kiến những sự kiện, chúng ta cần đọc với cái nhìn đơn giản mới thấy được sự phong phú của nó.
Chúa Giêsu đến và đặt tay lên đứa bé
Điều mà Giairô mong đợi nơi Chúa Giêsu là "đến đặt tay lên em bé để nó được khỏi và được sống" (Mc 5, 23). Thái độ của Giairô thật là ấn tượng. Đường đường là trưởng hội đường Do Thái, vậy mà ông "sụp lạy và van xin" Chúa Giêsu (Mc 5, 22), ông quên đi nhân cách, địa vị của mình trước đám đông nhiều người biết ông, ông tiên phong tin cậy vào Chúa Giêsu. Tất nhiên, vì cô gái diệu, ông làm tất cả.
Chúng ta cũng thế, trong lúc ốm đau bệnh tật, vô phương cứu chữa, hy vọng tiêu tan, thì lời kêu cầu vang lên tới Chúa thật tha thiết. Lời van xin của người cha: "Xin Ngài đến…để nó được khỏi và được sống !" Chúa Giêsu không nói một lời nào, lời trấn an Giairô cũng không. Đôi lúc Chúa vẫn im lặng đối với lời van xin của chúng ta, khi nhận lời chúng ta cầu nguyện. Chúa đồng hành và ở với chúng ta, ngay cả khi chưa nhận lời chúng ta.
Ai chạm đến Ta ?
Một câu hỏi cất lên giữa đám đông khiến các môn đệ sửng sốt: "Thầy coi đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vầy mà Thầy con hỏi: Ai chạm đến Ta ?" (Mc 5, 31) Thì ra "có một người đàn bà bị bệnh" (Mc 5, 25) đã đi lẫn vào trong đám đông đến sau Người. Có thể bà sợ đến với Chúa trước nhiều người. Sợ họ biết việc mình làm. "Mười hai năm trời sống với bệnh xuất huyết" (Mc 5, 25), nghe nói về Chúa Giêsu, Đấng đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền trong dân, cơ hội tuyệt vời đã đến, bà quyết định chạm tới áo Chúa.
Phản ứng của Chúa Giêsu không làm bà ngạc nhiên và xấu hổ. Không ai đụng đến áo Chúa mà Chúa không biết. Trước mặt Chúa, chúng ta không phải là người vô danh, mất hút giữa đám đông. Chúa thấy chúng ta kêu cầu, cả lúc chúng ta không thể hiện công khai. Chúa biết tất cả vì Người là Đấng toàn tri, là sức mạnh của Thiên Chúa, là Sự Sống. Người đàn bà đã nhận lại được sự sống qua việc chữa lành nhờ đụng chạm tới áo Chúa Giêsu (x. Mc 5, 33). Bởi trong chính cuộc đối thoại với người đàn bà nhút nhát đang tuyệt vọng này, từ việc chữa lành thể xác Chúa ban cho bà ơn cứu độ, bình an và sức khỏe xác hồn.
Dù đến với Chúa thế nào đi chăng nữa, lời thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta: "Bạn có biết sự hào phóng, ân hạn, nhưng không của các món quà của Chúa Giêsu Kitô" (2Cr 8, 9).
Họ liền chế diễu Người
Những "người nhà" Giairô là những người tốt. Với sự thận trọng, họ sẽ gặp người cha và báo cho ông biết về cái chết của con gái ông: "Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa ?" (Mc 5, 35). Nói thế, không phải họ thiếu lòng tin, nhưng là họ không thể tưởng tượng được một tình huống đã chết rồi có thể sống lại được.
Thoáng nghe lời họ nói, Chúa Giêsu bảo: "Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó" (Mc 5, 39). Họ thấy nực cười, vì chính lúc Giairô vắng nhà thì con gái ông trút hơn thở lần cuối. Chúa mời gọi ông Giairô: "Ông đừng sợ, hãy cứ tin" (Mc 5, 36) Giairô đã tin vào quyền năng chữa bệnh của Chúa. Ông được mời đi xa hơn sự tin tưởng là sống niềm tin vào Chúa.
Chúa Giêsu muốn chúng ta có một niềm tin sắt đá, một đức tin chuyển núi rời non, vượt trên sự chết. Kẻ có tội không bao giờ chết trước mặt Thiên Chúa. Người ấy có thể sống lại nhờ ân sủng Thiên Chúa trao ban, vì Chúa là Sự Sống. "Thiên Chúa không vui mừng khi người sống phải chết" (Kn 1,13).
Hãy cho em bé ăn
Giairô và vợ ông, cùng với ba tông đồ được Chúa mang theo. Chúa Giêsu không cầu xin Chúa Cha, không ban một lời chúc lành nào, vì Chúa là Sự Sống. Người có thể trả lại sự sống cho em bé một cách dễ dàng khi cầm tay nó. Người vẫn cầm tay chúng ta mà chúng ta không biết.
Những người chứng kiến không được chuẩn bị để đánh giá một cử chỉ như vậy có nghĩa gì. Còn quá sớm để giải thích cho họ ý nghĩa đầy đủ về sự sống lại của em bé. Nếu Đức Giêsu giữ bí mật, khác hẳn với việc Chúa chữa người đàn bà chạm vào Chúa, Người đã mang theo ba nhân chứng là những chứng nhân từ núi Chúa biến hình cho đến khi Chúa chịu Khổ Nạn và Phục Sinh. Im lặng là cần thiết, vì sự sống lại như thế được coi là dấu chỉ rõ ràng thời thiên sai.
Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy cho em bé ăn" (Mc 5, 43). Vì em mà Chúa Giêsu đến. "Ăn" là cử chỉ Chúa Giêsu báo trước sự phục sinh của Chúa, vào buổi chiều tối Chúa Phục sinh, Chúa hỏi các môn đệ: " các con có gì để ăn ?" không phải là để ăn cho thể xác, nhưng là để họ có niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô.
Giờ đây, Tiệc Thánh chúng ta cử hành là dấu chỉ của niềm vui được chia sẻ trong đức tin trước Thiên Chúa hằng sống, với sự sống viên mãn tràn đầy chứng thực rằng sự sống mạnh hơn cái chết. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
Thiên Chúa không dựng nên sự chết theo lời của Sách Khôn Ngoan khẳng định. Điều này đã được: TN13-B89
Thiên Chúa không dựng nên sự chết theo lời của Sách Khôn Ngoan khẳng định. Điều này đã được chứng tỏ khi Chúa giựt cô bé của ông Giairô khỏi tay tử thần, Người đã loan báo sự Phục sinh của Người và của mỗi người chúng ta. Hôm nay trong đoạn Tin Mừng của thánh Máccô, chúng ta được chứng kiến quyền năng vô biên của Chúa Giêsu…Cả hai nhân vật mà thánh Máccô thuật lại đều bị giao động giữa sợ sệt và tin tưởng khi đối diện với Chúa Giêsu. Do đó, chúng ta phải có thái độ nào khi đứng trước Chúa Giêsu?
Tin Mừng trong trích đoạn Chúa nhật XIII, năm B của thánh Máccô cho thấy Chúa Giêsu làm hai phép lạ: phép lạ thứ nhất Chúa làm cho con ông Trưởng Hội đường là Giairô có đứa con gái vừa chết được Chúa cho sống lại. Thánh Máccô thuật lại “một ông Trưởng Hội đường tới phủ phục dưới chân Chúa Giêsu, năn nỉ Người: con gái nhà tôi gần chết, xin Ngài đến đặt
tay lên cháu để cháu qua khỏi và được sống “. Chúng ta nhận ra niềm tin khởi đầu của ông bởi vì trước một cơn bạo bệnh, nguy cơ con ông gần chết, ông đã không tìm thầy thuốc, không tìm thầy bói, thầy cúng nhưng ông đã hướng về Chúa, đã đặt hết niềm tin vào Ngài. Tuy nhiên, khi nghe tin cái chết đã cất sự sống của con gái ông thì một khung trời tối đen đã ập xuống trên ông, nhưng Chúa đã an ủi ông:” Ông đừng sợ, chỉ cần tin “. Quả thực ông đã có niềm tin ngay từ đầu và giờ này, cái chết cướp con gái ông, niềm tin của ông lại trở nên to lớn hơn. Giairô vẫn một niềm tin vào Chúa…Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín, cha mẹ cô bé ra riêng và nói với họ:” Con bé không chết đâu, nó ngủ đấy “ giữa lúc đám đông cười nhạo Chúa vì họ biết cô bé đã chết rồi ! Chúa đã chứng tỏ quyền năng của Ngài khi tới nơi, cầm lấy tay cô bé và nói:” Ta-li-tha-kum, nghĩa là:” Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi ! “. Mọi người kinh ngạc sững sờ vì Chúa đã làm cho cô bé sống lại…Đang khi Chúa Giêsu gặp ông Giairô thì một người đàn bà mắc bệnh băng huyết đã mười hai năm, lén đụng vào gấu áo Chúa Giêsu. Sở dĩ lén vì bà đang bị ô uế ( Lv 15, 25 ). Chúng ta ghi nhận sức mạnh của quyền năng tuyệt đối của Chúa Giêsu trước sự bất lực của các lương y, bác sĩ vv…và lòng tin mạnh mẽ tuy âm thầm của người đàn bà mắc bệnh loạn huyết này…Việc ghi nhận này được diễn tả rõ nơi bà bị bệnh loạn huyết:” Tức khắc, máu cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh “ ( Mc 5, 29 ).Thật kỳ diệu. Thật không thể diễn tả nổi sự vui mừng, an bình của người đàn bà mắc bệnh này. Bà đã lén đụng vào áo của Chúa.Nhưng giờ này Chúa buộc bà phải đối diện với Chúa, với mọi người và bà đã công khai thuật lại sự việc và bệnh hoạn của bà ! Bà đã trình bày sự thật, và khi nhấn mạnh tới niềm tin của bà, Chúa Giêsu cho bà ta lui về trong bình an:” Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con.Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”( Mc 5, 42 ).
Cuộc hành trình đức tin của chúng ta là một cuộc chiến đấu lâu dài. Chúng ta phải sống bằng đức tin, chứ không phải bằng tình cảm chóng qua. Tin công khai như ông Trưởng Hội đường hay rụt rè, bẽn lẽn, sợ sệt như người đàn bà bị bệnh băng huyết. Hai đức tin công khai và âm thầm, tất cả đã đưa hai người vào mối quan hệ thâm sâu với Chúa Giêsu, nhờ thế cả hai người đều đạt được đức tin trọn vẹn như chung ta chứng kiến và phép lạ Chúa làm đã xẩy ra.
Qua bài đọc Chúa nhật XIII, năm B hôm nay, chúng ta thử đặt lại đức xem chúng ta đã tin tưởng vào Chúa Giêsu thật sự hay chúng ta lo âu sợ sệt, và không dám đối diện công khai với Chúa Giêsu để xin Ngài cứu chữa ?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn luôn bám chặt và đặt hết lòng tin của chúng con vào sự quan phòng của Chúa. Amen.
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã “ dựng nên con người giống hình ảnh Người” để con TN13-B90
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã “ dựng nên con người giống hình ảnh Người” để con người được tham dự vào sự sống vĩnh cửu, nhưng vì tội lỗi nên con người phải chết (Kn.1,13-15…). Thế nhưng những ai biết kêu cầu Người thì được Người cứu sống ( Đáp ca:TV.29), điển hình là người phụ nữ bị bệnh loạn huyết 12 năm đã tin tưởng kêu xin Chúa Giêsu, đã được Người chữa lành để tiếp tục sống, cũng như ông trưởng hội đường Giairô đã biết trông cậy nài xin Chúa chữa người con gái của ông và Chúa đã cho nó sống lại (Mc.5,21-43).
Muốn được Thiên Chúa tái tạo sự sống thể lý cũng như sự sống thiêng liêng, con người phải có đức tin như người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và ông Giairô trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Qua đó chúng ta thử xét lại đức tin của chúng ta xem sao: Tin khi đời sống bính an, thuận buồm xuối gió thì chưa hẳn là đức tin thật, nó phải được tôi luyện trong đau khổ, trong khó khăn, trong những lúc gặp gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên phép lạ. Hay nói đúng hơn lúc ấy Thiên Chúa mới trợ giúp, mới cứu chữa, vì khi đó không phải ta tin vào sức riêng mình mà tin vào sức Chúa thì Chúa phải thực hiện thôi. Như Abraham xưa, như Phêrô đi trên mặt biển, như người phụ nữ và ông Giairô hôm nay.
Vậy lòng tin của chúng ta lúc này ra sao ? chúng ta vẫn hằng tuyên xưng trong kinh Tin Kính chúng ta đọc, nhưng có lẽ lòng tin đó mới ở trên môi miệng chứ chưa thực sự ở trong hành động. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta một đức tin bền vững để không phải chỉ tin Chúa ngày hôm nay khi cuộc đời ta đang bình an, xuôi chảy, nhưng vẫn còn đủ sức để tin vững mạnh hơn nếu ngày mai chúng ta rơi vào hoàn cảnh khó khăn thử thách.
Ngoài ra tin là cộng tác với ơn Chúa và muốn sống đời đời cũng phải đồng hành với Chúa như người phụ nữ loạn huyết, chị nghĩ mình phải làm một cái gì đó chư không chỉ tin suông, nên chị đã đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Ông Giairô cũng vậy, ông tin Chúa Giêsu có thể cứu sống con ông, ông vội vã đến với Chúa. Cả hai đều tin tưởng vào Chúa và nỗ lực cộng tác với ơn Chúa. Vì thế, chúng ta không thể thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy xử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban, còn phần kia tùy Chúa định liệu.
Chúa đã cho người phụ nữ khỏi bệnh để tiếp tục cuộc sống trần gian và cho con gái của ông Giairô chỗi dậy và Chúa cũng cho mỗi người chúng ta cuộc sống vĩnh cửu qua Bí Tích Thánh Tẩy, đưa chúng ta từ sự chết đến sự sống và Người không ngừng nói với chúng ta: “ Hãy chỗi dậy” vì sự sống đức tin đã giải thoát ta khỏi tình trạng tội lỗi và đưa chúng ta tới bàn tiệc Thánh Thể, để chúng ta được sống muôn đời. Như thế không phải chúng ta chỉ đụng chạm đến Chúa như người phụ nữ, mà còn được ăn thịt máu Người, không phải chúng ta chỉ được Chúa truyền chỗi dậy như con gái ông Giairô, mà còn kết hợp với Người nên một, được sống sự sống của Thiên Chúa hàng ngày.
Lạy Chúa, xin cho chúng con một đức tin vững mạnh và tâm hồn đơn sơ khiêm tốn của người phụ nữ, để được giải cứu chúng con khỏi tình trạng ươn lười thiêng liêng, đã làm cản trở bước tiến chúng con đến với Chúa, hầu giúp cho đời Kitô hữu của chúng con mỗi ngày nên hoàn thiện hơn.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã ghi lại hai mẫu gương đức tin sáng chói. Trước hết là ông Giairô, TN13-B91 Luong
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã ghi lại hai mẫu gương đức tin sáng chói.
Trước hết là ông Giairô, ông đến với Chúa để van nài Ngài: Lạy Thầy, đứa con tôi sắp chết, xin Ngài hãy tới. Khi người ta báo tin đứa bé đã chết, Chúa Giêsu liền bảo ông: Đừng sợ, nhưng hãy tin. Tiếp đến là người đàn bà mắc bệnh loạn huyết. Bà từ phía sau, đến gần Chúa và tự nhủ: Nếu tôi chạm tới gấu áo Ngài thì tôi sẽ được khỏi.
Ước gì mỗi khi lên rước lễ, chúng ta cũng có được một đức tin như thế, khi miệng lưỡi chúng ta chạm tới Mình Máu Thánh Chúa.
Qua đức tin, Phúc Âm cũng dạy cho chúng ta một bài học về đức cậy. Thực vậy, đứa con gái đã chết và người ta cười nhạo Chúa. Thế nhưng Ngài điềm nhiên nói: Đứa bé không chết đâu, nó ngủ đấy. Cũng vậy, khi thân xác Lagiarô bắt đầu rữa thối, nhưng Ngài muốn cho ông ta được sống lại, thì liền nói: Bạn Lagiarô của Ta đang ngủ.
Thực vậy, Đức Kitô, qua cái chết và sống lại, đã giải phóng chúng ta khỏi cái chết. đôn đốc tin vào Đức Kitô cũng có nghĩa là hy vọng Ngài sẽ cho chúng ta được sống lại. Thế nhưng tin có khó hay không? Cha Thomas có viết như sau: Vấn đề gai góc ngày hôm nay, không phải là vấn đề Giáo Hội có bị lung lay chăng, nhưng là vấn đề đức tin của chúng ta hôm nay gặp quá nhiều chướng ngại, nào là văn minh vật chất, nào là óc thực nghiệm và duy khoa học, sợ dấn thân và thích yên ổn. Trong khi đức tin đòi hỏi chúng ta phải dấn thân, phải phó thác, phải hy sinh. Tin đồng nghĩa với bị quên lãng, bị bách hại và phải chấp nhận hy sinh. Tóm lại, tin là phải sống chính thân phận của Đức Kitô, là Thiên Chúa Ngài đã hạ mình xuống, mặc thân phận tôi đòi, đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Là Thiên Chúa Ngài đã chấp nhận thân phận tội nhân, để con người tội lỗi chúng ta được gọi là con Thiên Chúa.
Ngoài ra, tin còn là hiệp thông với Giáo Hội bởi vì Giáo Hội gắn liền với Đức Kitô, cùng thao thức với Giáo Hội trước những vấn đề của thế giới hôm nay. Cùng đau khổ vì những chống đối, những sai phạm và những khinh khi của kẻ khác đối với truyền thống xã hội.
Vậy niềm tin đem lại ích gì? Tôi xin thưa đó là sự an bình đích thực cho tâm hồn. Trong một cuộc động đất kinh hoàng, mọi người đều lo sợ, tuy nhiên có bà cụ vẫn bình tĩnh chăm sóc cho những nạn nhân, mặc dầu nhà cửa của bà cũng đã bị sụp đổ. Người ta hỏi thì bà trả lời: Tôi chẳng bao giờ phải sợ hãi vì tôi tin rằng Thiên Chúa là Cha tôi và Ngài có thể lay chuyển cả trời lẫn đất với tình yêu thương của Ngài.
Chính vì thế, chúng ta hãy kêu lên như các tông đồ ngày xưa: Lạy Chúa, xin hãy củng cố niềm tin bé nhỏ của chúng con.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Tin mừng Chúa nhật 12 đến Chúa nhật 13 như một cuốn phim sống động quay lại cảnh con thuyền các TN13-B92
Tin mừng Chúa nhật 12 đến Chúa nhật 13 như một cuốn phim sống động quay lại cảnh con thuyền các môn đệ gần chìm đắm trong bão biểm đêm tối, đến cảnh người dân ngoại sống dưới ách xiềng xích, cùm kẹp khốn khổ của quỷ dữ giữa mồ mả, đồi núi, hoang dại. Để cứu họ, Đức Giêsu đã dẹp tan bão tố, xua đuổi ác quỷ chui đầu xô đẩy đàn heo lối hai ngàn con xồng xộc chạy theo dốc núi chênh vênh nhào xuống biển chết ngộp.
Sau đó, Đức Giêsu đã lên thuyền trở về với đám đông dân chúng đầy thiện cảm đang chờ đón Ngài bên bờ biển Galilê. Mới lên bờ, ông trưởng hội đường đến sấp mình dưới chân Ngài, tha thiết kêu xin Ngài cứu chữa đứa con gái mười hai tuổi gần chết. Ngài chẳng nói một lời, chỉ vội vàng đi với ông và dân chúng chen nhau kéo theo Ngài. Họ đụng cả vào Ngài.
Tự nhiên, Ngài quay lại hỏi đám đông: “Ai đã sờ vào áo Ta?”. Môn đệ chỉ thấy đám đông chen nhau đụng vào Ngài, còn Ngài thấu suốt tâm tư mọi người. Người phụ nữ như thấy Ngài trực tiếp hỏi mình, sợ run lên, đến sấp mình trước mặt Ngài. Ngài đã ôn tồn nhắn nhủ: “Này con, lòng tin của con đã cứu con, hãy đi bằng an và lành hẳn tật nguyền của con”.
Quá sung sướng, người phụ nữ đã mạnh dạn khai báo hết nỗi lòng đau khổ vì bệnh băng huyết. Suốt 12 năm chạy đủ mọi thầy, mọi thuốc, sạch bách tiền của mà tật bệnh vẫn còn.
Đang lúc đó, người nhà ông hội trưởng nhắn tin con ông đã chết rồi! Như sét đánh ngang tai, ông sợ quá. Đức Giêsu đã trấn an ông: “Đừng sợ, hãy tin”. Ông tin dù mọi người khóc lóc, kêu ầm ĩ, có kẻ còn nhạo cười Ngài. Trước cái chết, loài người chỉ biết khóc than hay cười ra nước mắt vì quá bất lực, quá đau đớn và lặng lẽ cúi đầu!
Thánh Phêrô đã chứng kiến từ đầu đến cuối những phép lạ đó và khi đi rao giảng Tin mừng, ngài đã kể rành mạch mọi chi tiết, kể rõ cả tên ông trưởng hội đường là Giairô và đứa con gái 12 tuổi. Chắc chắn ông Giairô và con gái ông vẫn còn sống để làm chứng cho lời Phêrô giảng. Phêrô muốn cho mọi người thấy Chúa Giêsu là Chúa biển cả trời đất, Chúa thống trị quỷ thần và là Chúa nắm giữ sự sống chết của loài người.
Sự sống, sự chết của mỗi người chúng ta đều thuộc quyền Đức Giêsu, cho nên Phaolô đã quyết tâm thực hiện: “Đối với tôi, sống là chính Đức Kitô” (Phil. 1, 21). Lý do là: “Ngài đã chết thay cho tất cả mọi người, hầu kẻ sống không sống cho chính mình, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại cho họ” (2Cr. 5, 15).
Thánh Xiprianô đã mạnh mẽ trả lời tổng trấn Galêriô khi ông ra lệnh: “Các hoàng đế đã truyền cho ngươi phải tế thần”. Xiprianô đáp: Tôi không tế.
Xiprianô đáp: Thần là quỷ ma giả dối, chỉ có Thiên Chúa là Đấng chân thật, sáng tạo vạn vật. Đó là chân lý, không cần suy nghĩ nữa.
Galêriô nói: Ngươi phải chịu án trảm quyết.
Xiprianô đáp: Xin ngợi khen Chúa.
Vì tin Chúa nắm sự sống chết, nên người sống cho Chúa, coi cái chết nhẹ như lông hồng, như một giấc ngủ. Chính Chúa Giêsu đã bảo cha đứa trẻ: “Con bé không chết, nó ngủ”. Sau này, khi nghe tin Lagiarô chết, Ngài cũng nói: “Lagiarô, người thân của Ta ngủ, Ta đi đánh thức ông dậy”.
Đối với kẻ không nắm được sự sống chết, thì chết là tận diệt, nên phải khóc than, gào thét. Đối với Chúa, sự chết thật là một giấc ngủ. Để được chết an lành như vậy thánh Vinh sơn Phaolô đã tập coi giấc ngủ mỗi đêm là việc lặp đi lặp lại của cái chết thực sự, và thức dậy là dấu của sự sống lại trong ánh sáng của Đức Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Chúa trên thập giá đau đớn đến cùng cực, nhưng vì yêu thương cứu độ loài người chúng con, Chúa đã coi cái chết đó như một giấc ngủ thật nhẹ nhàng, bình an, trong sáng. Xin cho con biết hy sinh, tập chết đi những ích kỷ, kiêu căng vì mến Chúa yêu người để đến giờ chết con được an nghỉ êm ái trong Chúa muôn đời. Amen.
(Suy niệm của Peter Feldmeier - Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong” (Kn 1,13)
Trong giáo xứ tôi coi sóc trước đây, có một phụ nữ tên Irish đã trải qua một cơn ác mộng khủng khiếp: TN13-B93
Trong giáo xứ tôi coi sóc trước đây, có một phụ nữ tên Irish đã trải qua một cơn ác mộng khủng khiếp: Con trai của chị vừa mới chết lúc tuổi đời còn rất trẻ. Chồng của chị cũng đã mất vài năm trước. Khi cậu con trai chết cách đột ngột, tâm hồn chị tan nát, và chị nói rằng trên đời này chẳng còn điều gì tồi tệ hơn thế.
Sau đám tang vài tuần, tôi gặp chị. Chị suy sụp và tuyệt vọng hoàn toàn. Khoảng một tháng sau, tôi không thấy chị đến nhà thờ nữa, và tôi lại phải đến thăm chị. Chị ta bực bội, tâm hồn rối bời và cảm thấy rất bất mãn với chính Thiên Chúa. Chị ta khó chịu và nói với tôi: “Cha xem, tôi đã cho Thiên Chúa rất nhiều. Suốt 50 năm, tuần nào tôi cũng đến nhà thờ, tôi đọc kinh cầu nguyện với Chúa mỗi ngày. Tôi gửi con cái vào học tại các trường công giáo. Thế nhưng, tôi nhận lại được những gì? Đứa con trai tôi đã chết một cách tức tưởi. Đó là điều Thiên Chúa đã tặng cho tôi một cách ác độc. Tôi nói với Chúa rằng sao Ngài lại dã tâm như thế, và tôi hoàn toàn thất vọng về Ngài.”
Lúc đó, có lẽ không cần tôi phải biện minh cho Thiên Chúa để bảo vệ Ngài. Chính Ngài có thể làm điều này. Tôi chỉ thinh lặng lắng nghe và để đồng cảm với nỗi đau của người phụ nữ khốn khổ kia. Nhưng tôi vẫn suy nghĩ mãi một điều: Tại sao Thiên Chúa vẫn để cho cái chết xảy ra? Tại sao Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ và con người chúng ta, lại để cho cái chết tự do tung hoành? Cái chết đến với chúng ta mang chở ý nghĩa gì?.. Câu trả lời giản đơn theo khoa học, thì tất cả vật thể đều sẽ tiêu tan hay biến đổi, và thân xác con người cũng không thoát khỏi định luật vật lý đó. Nhưng câu trả lời theo thần học được nhắc tới trong chính bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, trích từ sách Khôn ngoan. Tác giả viết “ Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong... Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường sinh bất tử. Họ được dựng nên làm hình ảnh của bản tính Ngài” (Kn 1,14; 2,23).
Vậy thì cái chết đến từ đâu? Phần cuối của bài đọc hôm nay đưa ra câu trả lời rất rõ ràng: “Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian, và ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2,24). Thánh Phaolô đã đồng hóa quỷ dữ với con rắn mà sách khởi nguyên phác vẽ. Nó chính là căn nguyên gây nên cái chết, hay nói cách khác sự chết là hậu quả của tội Adam (Rm 5,12). Nhưng chúng ta đừng nên phóng tưởng và nghĩ rằng nếu nguyên tổ không sa ngã, thì sự chết đã không xảy ra. Định luật thiên nhiên luôn còn đó và vẫn mãi chi phối thân xác con người. Tác giả sách Khôn ngoan cũng xác nhận điều này, và còn minh giải thêm rằng ngay cả người công chính cũng sẽ phải chết. Thiên Chúa có là Thiên Chúa của sự sống hay không, thì sự chết vẫn luôn phủ trùm trên thân phận mọi người chúng ta.
Nhưng, sách Khôn ngoan xem cái chết của người công chính chỉ như là một khúc dạo đầu ngắn ngủi, đưa dẫn vào giai đoạn phục sinh vinh quang. Đó là lúc chúng ta được nghỉ ngơi an bình trong tay Chúa. Khi ấy, người công chính sẽ sống một cách sung mãn và ngập tràn hạnh phúc như thuở ban đầu lúc mới được tạo thành. “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và chẳng cực hình nào động tới được nữa... Họ đang hưởng an bình. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa... và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời (Kn 3,2.8).
Thánh giáo phụ Irênê đã viết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”. Thiên Chúa tạo nên sự sống. Ngài luôn muốn chúng ta sống và sống dồi dào, cho dù chính Đức Giêsu đã phải nếm trải khổ đau và kinh qua cái chết. Bài Tin mừng hôm nay cũng gợi mở cho chúng ta chân lý này.
Ông Giairô đã khấn xin Đức Giêsu đến nhà ông để chữa lành cho cô con gái đang ốm nặng sắp chết. Trên đường đi đến nhà ông, một phụ nữ bị bệnh loạn huyết suốt 12 năm đã sờ chạm đến áo của Chúa và bà đã được khỏi bệnh. Rõ ràng, Đấng Thánh của thiên Chúa (Mc 1,24) không bị nhiễm uế khi có người bệnh đụng đến mình, không giống như luật Moise đã viết (Lv 12,4). Ngài nói với người phụ nữ: “Lòng tin của con đã cứu con”. Vào thời điểm đó, cô con gái ông Giairô cũng đã tắt thở và không qua khỏi cơn nguy kịch. Đức Giêsu liền khơi dậy một niềm tin giống như đức tin của người phụ nữ nói ở trên. Ngài đến bên giường, cầm lấy tay đứa bé và nói “Talithakoum”. Marcô sử dụng hạn từ Aram này để nói lên sự thân thiết và lòng thương cảm sâu xa từ sâu tận đáy lòng của Đức Giêsu. “Talithakoum” có nghĩa là “Hỡi con chiên nhỏ bé, hãy trỗi dậy”. Đức Giêsu ám thị rằng Ngài như người chăn chiên nhân lành luôn phủ bóng yêu thương trên tất cả đàn chiên mà Ngài dẫn dắt. Vi mục tử tốt lành ấy muốn các con chiên của mình được sống và sống dồi dào.
Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và cả cô con gái ông Giairô sau này chắc chắn cũng đã chết, giống như tất cả mọi người chúng ta. Điều này xảy ra không phải vì Đức Giêsu đã thất bại trong việc chữa lành, hay Ngài chỉ tạm đình hoãn cái chết nơi cô gái, và cái chết là điều chắc chắn sẽ đến, không ai có thể trốn thoát. Nhìn sâu hơn, chúng ta sẽ nhận ra rằng, cả hai phép lạ trên nhằm khải thị một chân lý. Đó là Đức Giêsu muốn vén mở cho chúng ta một chân trời mới, một hoạch định mới trong vương quốc cánh chung sau cùng. Trong vương quốc đó, chúng ta sẽ được sống và sẽ sống mãi vì được kết hợp nên một với Thiên Chúa, đấng hằng sống và không bao giờ chết.
Những phép lạ được trình thuật hôm nay công bố cho dân chúng thời xưa cũng như cho chúng ta ngày hôm nay biết rằng Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong những bầm dập và khổ đau của phận người. Ngài sánh bước cùng chúng ta với một con tim thương cảm sâu xa. Ngài bảo đảm cho chúng ta rằng cái chết không phải là một dấu chấm kết tận, kết thúc lịch sử cuộc sống con người một cách vô nghĩa. Bởi vì, Thiên Chúa mãi luôn là Thiên Chúa của sự sống. Trong Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ phải chết.
Hai phép lạ lồng vào nhau được Tin Mừng Mác-cô tường thuật nêu lên một vấn nạn mà từ lâu nay tôi TN13-B94
Hai phép lạ lồng vào nhau được Tin Mừng Mác-cô tường thuật nêu lên một vấn nạn mà từ lâu nay tôi vẫn lởn vởn trong đầu: tôi có thật sự tin vào Chúa không, và thế nào là một niềm tin đích thực vào Chúa?
Hai phép lạ Đức Giêsu thực hiện rõ ràng là do lòng tin của các nhân vật trong cuộc: Ông trưởng hội đường Gia-i-a và người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm chắc chắn đã tin vào sức mạnh chữa lành của Thầy Giêsu, khi họ đồng loạt khẩn khoản nài xin Người thi thố quyền phép, tuy với những cách thức rất khác nhau - một người ‘sụp xuống dưới chân Người và khẩn khoản nài xin’, trong khi người kia rón rén ‘đến phía sau Người để sờ vào áo của Người’. Trong cả hai trường hợp Đức Giêsu đều xác định: “Lòng tin của con đã cứu chữa con... Chỉ cần ông tin thôi”. Thế nhưng toàn bộ câu chuyện hình như lại cho thấy một điều gì khác thâm sâu hơn; Đức Giêsu đòi bất cứ niềm tin nào đặt nơi Người, cho dầu tự nó đã là rất vững chãi đi nữa, vẫn còn phải được kèm theo một yếu tố không thể thiếu, đó là phó thác cậy trông dứt khoát và không lay chuyển! Người đàn bà có tin nhưng còn không dám, còn rụt rè và run sợ… gia đình ông trưởng hội đường tin đấy, nhưng còn ngại ngùng ‘làm phiền Thầy chi nữa!’ Rõ ràng tín thác cậy trông đã thiếu trong cả hai trường hợp.
Đối với Đức Giêsu, tin vào quyền năng của Thiên Chúa mà thôi là chưa đủ, nói cách khác, Người chờ đợi nơi Kitô hữu của Tân Ước một thái độ tin tưởng phó thác rất độc đáo, không hề tìm thấy nơi bất cứ một tôn giáo nào khác. Các Kitô hữu chúng ta đều biết, mục đích chính Đức Giêsu đến trần gian chắc chắn không nhằm biểu lộ quyền năng hùng mạnh của Thiên Chúa. Để làm được điều này Cựu Ước đã quá đủ; ‘Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh’ (Lc 1:51) qua không biết bao nhiêu là biến cố oai hùng, nhất là các can thiệp khủng khiếp trong biến cố Xuất Hành giải thoát dân riêng. Ngay cả khi Người thực hiện các phép lạ vĩ đại, Người vẫn cho thấy rằng biểu lộ quyền năng Thiên Chúa chỉ là điều rất thứ yếu. Mục tiêu chính của các phép lạ vẫn luôn là, như Người không ngừng khảng định rằng ‘Thiên Chúa yêu thương trần gian’. Chính vì thế mà, đối với người dàn bà rón rén ‘lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người’, cho dầu lòng tin của bà có mạnh thật đấy, ‘Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu’, nhưng Đức Giêsu vẫn muốn bà nhận ra: có một ‘năng lực tự nơi mình phát ra’ mà chưa ai từng nhận biết, đó là tình yêu xót thương của Thiên Chúa, một tình yêu phải mang đến cho bà tin tưởng và bình an, chứ không phải e dè sợ hãi. “Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”. Cũng vậy trường hợp ông trưởng hội đường (tương tự như cô Mát-ta trong chương 11 Phúc Âm Gio-an); chắc chắn ông đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa, nhưng ông vẫn có phần ngại ngùng rằng yêu cầu của ông đi quá xa, “Con gái ông chết rồi, còn làm phiền thầy chi nữa!” Ngại ngùng đó chứng tỏ ông không hiểu gì về lòng nhân lành thương xót của Đấng mà Đức Giêsu công bố là ‘Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho anh em sao?’ Người phải chấn an ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”, nhưng phải là niềm tin hoàn toàn phò thác và tin tưởng sâu xa nhất.
Tin không chút sợ hãi chắc chắn không phải là một niềm tin bình thường. Niềm tin đó không chỉ dựa vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa, mà quan trọng hơn, phải đặt trên tin tưởng vô hạn đặt cơ sở trên chính sự nhân lành của Thiên Chúa tới độ tín thác không chút e dè. Sự tin tưởng của người lính vào tài bầy binh bố trận của vị tướng cầm quân tài giỏi có thể là rất vững chắc, nhưng không thể nào sánh được với sự phó thác của em bé trong vòng tay âu yếm của mẹ nó; một đàng là tin tưởng đặt nền móng trên nắm bắt được sức mạnh của quyền lực, đàng khác là phó thác dựa trên cảm nghiệm được yêu thương. Niềm tin Kitô hữu, kể từ thời các Tông Đồ, không còn đặt nền tảng trên biến cố oai hùng như Xuất Hành qua Biển Đỏ, nhưng là trên cử hành Hiến Tế thập giá. Vì thế niềm tin này, để trưởng thành và vững chãi, sẽ không cần cầu xin một dấu lạ (xem Mt 12:38), nhưng cần cảm nghiệm được tình yêu của Đấng đã ‘chết cho người mình yêu’. Nói cách khác, ánh sáng đức tin Kitô hữu không giãi sáng từ trí óc nhưng từ con tim (hãy ngắm nhìn bức ảnh ‘Lòng Thương Xót Chúa’). Và do đó câu tuyên xưng đức tin đúng đắn nhất của mọi Kitô hữu sẽ không còn là ‘tôi tin kính một Thiên Chúa toàn năng!’ (I believe in God almighty), nhưng phải là ‘Con tín thác nơi Chúa’ (Jesus, I trust in you), vì chỉ mình Người mới là Đấng không những quyền phép, nhưng trên hết là từ nhân.
Tôi thiết nghĩ cốt lõi của phong trào ‘Lòng Thương Xót’ hệ tại ở việc biến đổi thâm sâu trong đức tin của mỗi Kitô hữu chúng ta.
Lạy Chúa Từ Nhân, như thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng, con xin Chúa cho con được nếm cảm sự an bình thư thái ‘như bé thơ trong vòng tay mẹ hiền’. Xin cho con một đức tin không vương chút âu lo sợ hãi, bất chấp những yếu hèn vô tận của con người mỏng dòn. Xin cho con luôn biết chiêm ngắm Thập Giá như nguồn cậy trông phó thác duy nhất đời con, bây giờ và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
Thật thế, dấu chấm hết cho đời một con người sau khi người đó trút hơi thở cuối cùng. Theo Thánh Kinh, TN13-B95
Thật thế, dấu chấm hết cho đời một con người sau khi người đó trút hơi thở cuối cùng.
Theo Thánh Kinh, khi sự dữ, khi sự ác đi vào con người thì khi đó, sự chết đột nhập vào thế gian như những lời trong sách Khôn Ngoan mà chúng ta vừa nghe:
Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết. Người tác thành mọi sự cho có. Người tạo dựng mọi sự trên mặt đất đều lành mạnh, chúng không có nọc độc sự chết, và không có địa ngục ở trần gian.
Vì chưng, công chính thì vĩnh cửu và bất tử. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn. Nhưng bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó (Kn 1, 13- 15).
Ngày hôm nay, các môn đệ cũng như đám đông dân chúng chứng kiến hình ảnh lạ. Hình ảnh của một người đàn ông trai tráng không dám nói là bảnh bao. Chắc hẳn ông là người khá đứng tuổi vì ông là trưởng hội đường. Có tuổi, có vị thế là trưởng một hội đường như vậy nhưng đứng trước Chúa Giêsu, ông đã tỏ thái độ hết sức khiêm nhường là sụp lạy và van xin rằng: "Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống".
Và, trước thái độ của ông, Chúa Giêsu đã có thể nói là lập tức lúc ấy đi theo ông, về dến nhà ông và đi vào nhà và nói luôn: "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!"
Trong khi đó, ta vẫn thấy thái độ cứng tin của đám đông dân chúng. Lòng cứng tin của họ không còn để trong lòng nữa, lòng tin của họ đã khép lại khi họ nói: "Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?"
Thế nhưng, đứng trước thái độ cứng tin của đám đông dân chúng, ông trưởng hội đường vẫn tin tưởng, vẫn tín thác vào tình thương của Chúa. Tình thương của Chúa dành cho con người hay nói cách khác dành cho mỗi người tùy theo cách cảm nhận của mỗi người.
Khi ta cảm nhận được Chúa thương ta rồi thì ta lại càng tín thác cuộc đời của ta như ông trưởng hội đường đã tín thác. Niềm tin của ông đã được Thiên Chúa đáp trả bằng việc Chúa cho con ông sống lại.
Cuộc đời ta, ngổn ngang biết bao nhiêu chuyện. Chuyện của người, chuyện của đời và chuyển của chính bản thân chúng ta. Có những chuyện xảy ra làm ta giật cả mình và không hiểu tại sao nó lại là như thế? Và, trong lắng đọng của cuộc đời ta nhận ra rằng Chúa thương mình hơn là mình nghĩ.
Có những biến cố trong đời không khỏi chạnh lòng tôi.
Hai vợ chồng đứa cháu cưới nhau được vài năm. Chồng cháu gặp rắc rối về răng và chữa trị. Chẳng hiểu sao trên bàn mổ vì lý do nào đó mà chồng đã ra đi vĩnh viễn ở cái tuổi rất đẹp: 30. Cháu hoàn toàn suy sụp. Cha cháu phải dọn về ở chung với cháu vì sợ trong cơn suy sụp cháu sẽ có những hành động thiếu suy nghĩ hay hành động khác người.
Khi được chị kể lại câu chuyện của cháu ở phương trời xa. Tôi chỉ biết nói với chị là chị cùng gia đình và dạy con cái để cho chúng thấy rằng gia đình được như ngày hôm nay đó là hồng ân và tạ ơn Chúa. Hãy tạ ơn Chúa vì không biết ngày nào là ngày cuối của mình và hãy sống cái ngày hôm nay như là ngày cuối của mình cách nào đó cho đẹp.
Hay là, mới đây, khi hỏi thăm hai vợ chồng quen biết về cuộc sống, người vợ không ngần ngại kể cho tôi rằng 2 vợ chồng đã không còn chung bước với nhau 2 năm nay rồi. Chuyện là không biết lý do nào đó anh làm gì đó để vỡ nợ và phải bán luôn cả căn nhà mà suốt bao nhiêu năm trường hai vợ chồng cùng con cái ôm ấp biết bao nhiêu kỷ niệm.
Nghe như thế, nhìn như thế để thấy rằng gia đình của mình còn may mắn là không phải rơi vào cảnh nợ nần và phải bán nhà cũng như chia tay như thế. Nhìn như thế để liệu liệu mà sống để đừng phải bước theo con người đó. Con đường của vỡ nợ, bán nhà, túng thiếu chẳng phải là con đường của nhiều người muốn bước vào. Khi mình may mắn mình không phải rơi vào những hoàn cảnh như thế là minh cũng là người hạnh phúc hơn họ rồi.
Nói như vậy không phải để so đo, tính toán, so sánh … nhưng giật mình nhận ra rằng Chúa thương mình quá sức tưởng tượng. Lẽ ra trong cuộc sống mình phải mất mát nhiều do tội lỗi của mình nhưng sao Chúa thương mình như thế.
Có như vậy, nhìn như vậy để thấy rằng Chúa thương mình nhiều và mình lại tiếp tục tín thác cuộc đời vào lòng bàn tay của Chúa hơn. Niềm tin của chúng ta luôn luôn bị thách thức. Có khi thách thức do sự yếu lòng của ta, có khi do sự thúc đẩy của đám đông đông dân chúng, có khi lại do ta không cảm nhận được tình Chúa thương ta.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để dù giữa biết bao nhiêu sóng gió của cuộc đời ta luôn chạy đến với Chúa và xin Chúa đặt tay lên cuộc đời của ta để ban ơn lành cho chúng ta.
Một trong những hình ảnh rất ấn tượng mà chúng ta thường thấy trong các kỳ World Cup hay Euro TN13-B96
Một trong những hình ảnh rất ấn tượng mà chúng ta thường thấy trong các kỳ World Cup hay Euro là các cầu thủ và những cổ động viên của các đội vô địch tìm mọi cách để được sờ, được chạm vào chiếc cúp vô địch của mình, hầu mong được may mắn và vinh quang. Có nhiều người còn ôm hôn chiếc cúp thắm thiết như ôm hôn người tình vậy.
Tin Mừng hôm nay nói đến một người phụ nữ cũng mong muốn “được chạm”, “được sờ”; song không phải là chạm hay sờ vào chiếc cúp vô địch, mà là sờ vào gấu áo Chúa Giêsu. Đây là cái sờ, cái chạm của niềm tin, một niềm tin đơn sơ chất phác, nhưng cũng rất mãnh liệt. Không phải sờ để cầu may, nhưng sờ để được chữa lành bệnh. Bà tin chắc như thế. Và sự thật căn bệnh băng huyết của bà đã được chữa lành. Chúa Giêsu đã xác nhận điều này: “Đức tin con đã cứu chữa con” (Mc 5,34).
Đức tin đã giúp bà tìm đúng địa chỉ để “dứt điểm” căn bệnh nghiệt ngã mà bà phải gồng mình chịu đựng trong suốt 12 năm trường. Trình thuật Marcô cho thấy người đàn bà bị loạn huyết đang đối diện với một căn bệnh được xem là nan y thời đó. Căn bệnh đang lấy dần đi sự sống nơi bà, vì máu là căn nguyên sự sống, trong khi bà đang bị băng huyết. Nhưng bà tin Chúa Giêsu có dư năng quyền để chữa bà lành bệnh. Bằng chứng là bà tự nhủ rằng chỉ cần một chút quyền năng phát ra nơi gấu áo của Chúa Giêsu thôi cũng bằng ngàn vạn thầy thuốc giỏi nhất trần gian. Quả đúng như thế. Bà vừa mới sờ vào gấu áo Chúa Giêsu, tức khắc căn bệnh đã “say goodbye” với bà. Kỳ diệu thay quyền năng của Thiên Chúa và cũng diệu kỳ thay đức tin của con người.
Hằng ngày, chúng ta chẳng những được chạm, được sờ vào Chúa qua Lời của Ngài và qua Thánh Thể của Ngài, mà còn ăn uống chính Mình Máu Ngài nữa. Tuy nhiên, chúng ta đang chạm hay đang ăn uống với lòng tin thực sự hay không?
Cách riêng với các anh chị em dự tòng, qua Bí tích Rửa Tội và Bí tích Thêm Sức mà các anh chị sẽ lãnh nhận, các anh chị sẽ được tháp nhập với Chúa Kitô và trở thành Đền thờ Chúa Thánh Thần. Và qua Bí tích Thánh Thể, các anh chị cũng sẽ được ăn được uống Mình Máu Thánh Đức Kitô. Các anh chị hãy ghi nhớ ngày trọng đại và thiêng thánh này. Giáo xứ và Giáo hội hân hoan chúc mừng và đón nhận các anh chị làm thành viên mới. Cầu chúc cho các anh chị lãnh nhận các bí tích khai tâm này với tất cả long tin và nhất là trở thành chứng nhân của niềm tin vào Thiên Chúa cho những người mà các anh chị gặp gỡ, cách riêng cho những người trong gia đình, gia tộc của mình. Amen.
Tại thành phố Pleiku, ngày 28/9/2004, một xác thai nhi đỏ hỏn đã tím tái, bọc sơ sài trong giấy báo, TN13-B97
Tại thành phố Pleiku, ngày 28/9/2004, một xác thai nhi đỏ hỏn đã tím tái, bọc sơ sài trong giấy báo, được đưa đến Lm Phêrô NVĐ, Quản xứ Thăng Thiên, để được chôn cất tại nghĩa trang Đồng Nhi. Khi Lm vừa mở gói giấy báo ra, dù mắt còn chưa kịp mở, thai nhi liền mừng rỡ giơ bàn tay bé xíu, nắm lấy ngón tay vị Chủ Chiên, tìm chút hơi ấm tình người,. Ngài thân thương đặt tên bé là Nguyễn Trung Thu, vì bé bị sát hại đúng vào ngày rằm Tháng Tám, mỉa mai thay Tết nhi đồng.
Câu chuyện đau xót này, gợi chúng ta liên tưởng đến bàn tay Chúa Giêsu, nắm lấy tay em bé cũng đã chết. Ngài truyền lệnh ”Talithakum” có nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con hãy chỗi dậy đi!” Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi.” (Mc 5, 41-42)
Trước đó, một bà cụ bị rong huyết đã mười hai năm, bao phen khốn khổ vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều, đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. (Mc 5, 25-26). Bà đã thừa cơ đông người chen lấn, đụng vào vạt áo Chúa Giêsu, liền được khỏi bịnh. Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã khéo léo ví von, bà đã lén lút như Kẻ Ăn Trộm Phép Lạ.
1- Khiêm hạ
Thái độ của ông Giaia, Trưởng hội đường, khiêm cung, sụp lạy cầu xin Chúa Giêsu cứu giúp con ông sắp chết, cũng như thái độ bà cụ bệnh mãn tính ao ước được chữa lành, đã phủ phục trước mặt Người, đều chứng tỏ lòng khiêm tốn sâu xa. Nhân đức luôn được Chúa đề cao và tưởng thưởng.
2- Phó thác
Không những tha thiết chạy đến với Chúa, hai người đó còn hoàn toàn phó thác, tin cậy vào Chúa Giêsu. Mặc dù được biết đứa con gái đã chết, ông Giaia vẫn một lòng trông cậy vào Chúa đến cứu giúp, không hề ngã lòng. Mặc dù không dám đối diện với Chúa, vì mặc cảm ô uế, bà cụ vẫn một mực ao ước được gần gũi, được chạm vào vạt áo Chúa, để được chữa trị. 3- Đức tin
Chính vì đặt hết niềm tin vững mạnh vào Chúa, bà cụ và ông Giaia đều được Chúa cứu giúp. “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi bệnh.” (Mc 5, 34) Với ông Giaia, cũng với điều kiện duy nhất, Chúa phán: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi!” (Mc 5, 36)
4- Quyền năng Thiên Chúa
Trước bênh hoạn và cái chết, Chúa Giêsu đã tỏ ra quyền năng tuyệt đối trên những sự dữ. Ngài đã chống lại cái chết, cũng như tiên báo cho ngày Chúa chiến thắng sự chết, mà Phục Sinh vinh hiển. Ngài cũng giải phóng con người khỏi cái chết đời đời, nếu tin cậy vào Ơn Cứu Độ.
Lạy Chúa Giêsu nhân ái, xin mở lòng trí con, luôn biết gần gũi với Chúa mọi nơi, môi lúc, khi gặp tha nhân, khi nghe Lời Chúa, khi rước Thánh Thể, để đặt hết niềm tin cậy vào Ngài, hầu được Ơn Cứu Rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con luôn biết khiêm hạ, tin cậy, tín thác vào quyền năng vô biên của Chúa, để con được sống trong cõi phúc đời đời. Amen.
Mỗi sáng thức dậy chúng ta cảm nghiệm một ngày mới và rồi bắt đầu ngày mới với công việc cũ, một TN13-B98
Mỗi sáng thức dậy chúng ta cảm nghiệm một ngày mới và rồi bắt đầu ngày mới với công việc cũ, một ngày bình thường như mọi ngày. Chúng ta ý thức ngày mới trong tuần, ngạc nhiên ngày đầu tháng đến mau và nghỉ làm để mừng ngày đầu năm mới. Đối với con người ngày đầu năm mang ý nghĩa đặc biệt nhưng với thiên nhiên có lẽ ngày đầu năm cũng chẳng khác chi bởi cứ theo chu kì, xoay vần của trời đất mà ngày này qua đi, ngày khác lại đến; mùa này qua mùa khác đến.
Thực ra mỗi ngày mới đều khởi đầu bằng cuộc sống mới bởi ngày cũ đã qua đi, không thể lập lại. Dù làm công việc cũ, việc thường ngày nhưng ngày mới vẫn có cái mới mẻ của nó. Mừng ngày mới mà quên mừng cuộc sống mới là một thiếu sót quan trọng bởi dù ta sống hay chết ngày mới vẫn đến. Ngày mới khởi đầu bằng cuộc sống mới nên cần đón mừng cuộc sống mới mỗi ngày. Không phải tất cả mọi người tối đến đi ngủ sáng mai đều thức dậy đón ngày mới cả đâu. Vì thế mỗi tối đi ngủ tương tự như ta đi vào cõi âm, bóng tối của sự chết và sáng hôm sau thức dậy ta bước ra từ bóng tối màn đêm tiến vào ánh sáng ban mai, huy hoàng. Bỏ lại ngôi mộ trống với chăn màn dùng qua đêm. Kitô hữu ý thức điều đó nên mỗi sáng thức giấc họ đều mừng ngày mới với cuộc sống mới. Việc đón mừng đời sống mới với lời kinh nguyện ban mai nghe rất đơn giản nhưng ý nghĩa của nó cao sâu, nhiệm màu. Cao siêu vì lời kinh đó nói lên tâm tình tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho một đêm ngủ yên lành. Cao siêu vì chúng ta nhận biết mọi sự ta có là của Chúa ban, kể cả giấc ngủ đêm qua. Chúng ta không làm chủ đời mình và tài năng mà chỉ là người quản lí cuộc đời được Chúa tin tưởng, phó thác, trao ban cho chúng ta coi sóc, quản lí. Dâng ngày mới, đời mới cho Chúa giữ gìn, bảo vệ, hướng dẫn tư tưởng và bước đường ta đi đồng thời giúp ta tránh khỏi nguy hiểm, sa ngã cạm bẫy cuộc đời là tìm sự khôn ngoan, hướng dẫn, bảo vệ nơi Chúa của người Kitô hữu. Mỗi ngày chúng ta dâng Chúa tâm tình, tin yêu và cảm tạ mong ơn Chúa thánh hoá giúp chúng ta trở nên giống Chúa nhiều hơn. Chúng ta dâng ngày mới cho Chúa mỗi ngày, và long trọng hơn mỗi tuần một lần nơi thánh đường với anh chị em khác và hai lần tối long trọng hàng năm vào dịp Phục Sinh và mùa Giáng Sinh để cảm tạ Chúa ngày mới với cuộc đời mới Chúa ban và kết hợp với cuộc sống Phục Sinh và vinh quang của Đức Kitô sống lại từ cõi chết.
Jairus trường lãnh binh Đền Thờ tin Đức Kitô có quyền trên sự sống và người phụ nữ mắc bệnh kinh niên tin Đức Kitô có quyền trên các bệnh nan y mà con nguời bó tay không thể chữa trị. Cả hai đã đúng và cả hai tin mãnh liệt vào quyền phép Đức Kitô và cả hai đều được đúng ơn họ xin. Họ tin Đức Kitô quyền phép làm được những sự việc cao cả nhưng vẫn không biết Đức Kitô còn biết rõ tâm tư thầm kín họ. Vì thế người phụ nữ thầm tín nếu bà ta đụng vào gấu áo Đức Kitô bệnh của bà sẽ khỏi. Một mình bà biết điều đó. Bà thì run sợ còn môn đệ thì ngạc nhiên khi Đức Kitô nói ai đã chạm đến gấu áo Ngài. Là môn đệ Đức Kitô với niềm tin mãnh liệt vào Ngài cũng được hưởng những đặc ân như vị lãnh binh đền thờ và như người phụ nữ bệnh kinh niên. Dù đôi khi không cảm nghiệm, dù không bao giờ nhìn thấy nhưng với lòng tin chúng ta biết Đức Kitô luôn đồng hành cùng ta trong mọi bước đường của cuộc sống và Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng trên đường đời.
“Một bà bị băng huyết đã mười hai năm… Bà tự nhủ: Tôi mà sờ được áo Người thôi là sẽ được cứu” (Mc.5,28).
Sandra Hook là giáo viên người Canada đang làm công tác tự nguyện cho mẹ Têrêsa tại những khu ổ chuột TN13-B99
Sandra Hook là giáo viên người Canada đang làm công tác tự nguyện cho mẹ Têrêsa tại những khu ổ chuột Ấn độ. Một ngày kia cô được giao cho tắm rửa một phụ nữ bị ốm. Cô rùng mình sợ hãi khi nghĩ đến việc đó. Chợt cô nhớ lời mẹ Têrêsa:
“Khi chạm vào một người nghèo, bạn hãy làm như thể bạn đang chạm vào Chúa Giêsu tình yêu”.
Lúc đó, cô Sandra nhìn người nữ ốm đau với con mắt đức tin, và thấy chẳng khó khăn gì phải tắm rửa cho cô ta.
Đó cũng là cách biểu lộ đức tin đơn sơ đã chữa lành người đàn bà trong Tin mừng hôm nay: “Bà tiến đến phía sau Chúa Giêsu, chạm vào áo Người… Tức khắc máu cầm lại…”
Niềm tin đơn sơ như trẻ thơ là gì? Làm thế nào để đạt được và làm cho nó trở nên sâu sắc hơn? Cái gì ngăn cản tôi trở nên hơn trong đức tin?
“Đức tin là con mắt để nhìn thấy Ngài, là bàn tay để nắm lấy Ngài, là sức mạnh giúp ta tự hiến cho Ngài” (James Woodbridge) (Trích “Viễn tượng 2000”).
2. Cộng tác với ơn Chúa Web
Một bà mẹ đau răng. Bà làm tuần cửu nhật xin Chúa chữa, vì bà biết trong lúc đi giảng đạo Chúa đã chữa cho người đàn bà bị loạn huyết khỏi bệnh.
Hết tuần 9 ngày, bà vẫn còn đau. Bỗng có một Linh mục đến thăm. Thấy bà bị đau nhức quá thì bảo:
- Tôi cho bà địa chỉ của ông nha sĩ tài giỏi đây. Bà chịu khó đến đó nói là tôi giới thiệu. Ông ấy sẽ chữa cho bà hết ngay.
Bà liền la lên:
- Cha vô thần à? Cha không tin Chúa chữa con hết sao?
----------
Thật tội nghiệp cho bà. Bà cầu xin Chúa chữa bà. Chúa nhận lời cho vị Linh mục đến mà bà không chấp nhận.
Người đàn bà bị xuất huyết trong Tin mừng và bà cụ trên đây đều tin Chúa. Nhưng lòng tin của hai người hoàn toàn khác biệt. Người đàn bà bị xuất huyết nghĩ mình phải làm gì đó chớ không tin suông. Bà đã đến với Chúa, sờ vào áo Chúa và bà được chữa khỏi. Còn bà bị đau răng ngồi chờ phép lạ, không chịu làm gì, nên vẫn bị đau.
Cộng tác với Chúa là điều kiện tối cần để được Chúa cứu chữa. Thánh Inhaxiô Lôyôla đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ: “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta, và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”.
Và Mc Kenzie bảo:
“Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.
Ngạn ngữ Việt Nam có dạy:
“Tận nhân lực, tri thiên mạng”. Và ngạn ngữ Tây phương cũng nói: “Hãy tự giúp mình trước, rồi Trời sẽ giúp sau”.
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người.
Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi các người giúp việc đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga.2,7).
Trong phép lạ hóa bánh ra nhiều, Người đã dùng “5 cái bánh và 2 con cá” của một em bé (Mc.6,35-43).
Khi chữa mắt cho người mù từ lúc mới sinh, Chúa chỉ thoa bùn vào mắt, và anh phải đi rửa ở hồ Silôê (Ga.9,1-40).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết khả năng của mình, rồi Người sẽ cứu chữa hồn xác chúng ta. (Theo “Như Thầy đã yêu”).
3. Sứ điệp của tờ giấy
Một tờ giấy trắng nằm lì trên bàn với nhiều tờ khác. Một hôm nó được đem ra chịu cây viết vẽ lên nhiều dấu hiệu nó không biết gì. Nó phàn nàn với cây viết:
“Anh làm gì thế? Anh vẽ lên mình tôi những dấu gì làm tôi mất sự trong trắng. Anh làm nhục tôi quá vậy. Anh làm dơ bẩn cả đời tôi!...
Cây viết bình thản trả lời:
- Anh giấy hiểu lầm tôi rồi. Tôi không làm dơ bẩn thân anh đâu. Tôi vẽ lên anh những dòng chữ, để từ nay anh mang trên mình một sứ điệp, anh trở nên kẻ cộng tác với con người, lưu trữ những tư tưởng cao siêu đẹp đẽ của con người. Anh sẽ được mọi người nâng niu bảo vệ. Anh sẽ được sống mãi để trợ giúp con người.
Tờ giấy đó chưa kịp nói gì thêm thì nó thấy chủ nhà lấy các tờ kia đem đốt bỏ. Nó mới hiểu việc làm của cây viết, và nó lấy làm hãnh diện hạnh phúc vì được cộng tác với con người.
---------
Tin mừng hôm nay thuật lại: “Ông trưởng hội đường Gia- ia đi tới… và khẩn khoản nài xin”… Người đàn bà bị loạn huyết “tách qua đám đông đến phía sau Chúa và sờ vào áo Người” (Mc.5,22-23.27). Nhờ đó mà Chúa Giêsu làm phép lạ cho họ.
Cuộc đời mỗi người chúng ta như tờ giấy trắng đó. Nếu không chấp nhận để cho Thiên Chúa viết vào những chương trình hành động thì không được diễm phúc trở nên cộng tác viên của Người.
Tờ giấy trắng không hiểu được hành động của cây viết. Chúng ta cũng không thể hiểu hết ý định của Thiên Chúa cho cuộc đời chúng ta.
Thái độ cúi đầu tuân phục và tin tưởng quyền năng của Thiên Chúa là thái độ khôn ngoan, để đưa chúng ta đến hạnh phúc chúng ta hằng mong ước… (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).
4. Đức tin và việc làm
Một người Đức giàu có, trong lần đi nghỉ mát tại một làng nhỏ cạnh biển, dân chúng phần đông là người dân nghèo chất phát. Chiều đến, người khách lạ đi vào các hàng quán mua thức ăn và các thứ cần thiết. Ông nhờ chủ quán đổi cho tờ giấy bạc 1000 Đức mã. Đây là lần đầu tiên chủ quán thấy tờ giấy bạc lớn như thế. Ông lắc đầu nói với người khách:
- Với tờ giấy bạc này, ông không mua được thứ gì ở đây, vì chúng tôi chỉ sử dụng giấy bạc nhỏ thôi.
Nhiều người xúm lại coi tờ giấy bạc đó. Họ bảo nhau:
- Làm gì có tờ bạc 1000 Đức mã? Từ trước đến giờ, chúng ta chỉ thấy có giấy bạc 100 Đức mã thôi.
Thế là dân làng nghi ngờ ông khách này là người bất hảo. Và đáng sợ hơn nữa, đêm đó từ trong nhà trọ ông nghe có tiếng bàn tán:
- Hắn ta là tên bịp bợm. Tốt nhất chúng ta phải tống khứ hắn.
Thế là sáng hôm sau, ông đem tờ bạc đó đến thị trấn gần đó đổi ra những tờ bạc nhỏ và thuê xe chở về làng. Dân chúng thấy thế thì tin ông thực sự có tiền.
----------
Những hành động cụ thể thường hùng hồn hơn lời nói suông. Những công trình trước mắt có giá trị hơn những dự án viễn vông.
Những người xung quanh chúng ta cũng đánh giá niềm tin và cách sống đạo của chúng ta như ngư dân nghèo nhìn vào người giàu trong câu chuyện trên đây. Tờ bạc 1000 Đức mã của người giàu này chỉ có giá trị khi được đổi thành những tờ bạc nhỏ. Cùng thế, niềm tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê xác quyết: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Trong Tin mừng hôm nay, nếu người đàn bà bị xuất huyết tin Chúa chữa khỏi mà không tìm đến Chúa, sờ vào áo Chúa, thì làm sao được lành bệnh?
Đứa con gái đã chết thế nào được sống lại, nếu ông Gia-ia là cha nó không đến “phủ phục dưới chân Chúa Giêsu và nài nỉ”.
“Chúng ta tin có cuộc sống mai hậu vĩnh cửu. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những hy sinh, phấn đấu ngay từ cuộc sống này không?
Cuộc sống mỗi ngày với những phiền toái thử thách của nó chính là nơi để chúng ta sống cụ thể niềm tin của mình. Những mối tương quan hằng ngày với những người chung quanh là môi trường để chúng ta diễn đạt niềm tin” (Theo “Maria, Mẹ tuyệt mỹ”).
Chúng con vừa nghe hai câu chuyện rất hay do thánh Marco kể lại. 1. Cha đố chúng con đó là những TN13-B100
Chúng con vừa nghe hai câu chuyện rất hay do thánh Marco kể lại.
1. Cha đố chúng con đó là những câu chuyện nào đấy?
- Dạ thưa cha. Đó là việc Chúa cho một em bé 12 tuổi đã chết được sống lại và người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm được khỏi.
- Rất đúng! Thế nhưng hai câu chuyện này có liên hệ tới vấn đế gì quan trọng đối với con người không?... Hơi khó phải không chúng con.
Đây cha cắt nghĩa cho chúng con.
Cả hai câu chuyện đều có liên quan đến một vấn đề hết sức quan trọng đối với con người. Đó là vấn đề sự sồng.
Qua hai phép lạ Chúa cho người con gái ông Giairô đã chết được sống lại và người đàn bà bị bệnh loạn huyết suốt 12 năm được khỏi, thánh Marcô muốn chúng ta thấy rằng: cái chết và bệnh tật đang thực sự thống trị trên đời sống của con người. Hơn nữa những nỗ lực yếu ớt từ phía con người nhằm thoát ra khỏi sự phong tỏa của cái chết và bệnh tật dường như đang đi vào ngõ cụt, có nghĩa con người dù có tài năng thế nào đi nữa cũng không thề khống chế được hoàn toàn.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: Ông Giarô là một người giầu có, có địa vị, có thế lực trong xã hội. Con gái của ông ở trong một tình trạng hết sức nguy hiểm có thể đưa đến tử vong. Còn người đàn bà thì nghèo khó, chẳng có địa vị gì trong xã hội. Thậm chí còn bị xã hội coi khinh. Bà bị bệnh tật. Cơn bệnh đã kéo dài suốt 12 năm. Suốt 12 năm trời như thế, bao nhiêu tiền bạc bà đã dốc cả ra để chạy chữa những bệnh tật vẫn còn nguyên đó. Thật là đáng thương.
Cả hai người đều cảm thấy mình hoàn toàn bất lực trước mối nguy của mình. Với ông Giairô thì đứa con ông sắp chết. Với người đàn bà thì tiền bạc đã cạn kiệt mà kết quả thì chưa thấy gì, không những thế bệnh tình có vẻ còn nặng thêm.
Thế nhưng chúng con thấy cả hai đều có chung một niềm hy vọng: Hy vọng được Chúa cứu. Ông Giairô chạy đến cầu cứu Chúa: Đứa con tối sắp chết, xin Thầy đến cứu nó. Còn người đàn bà thì nghĩ ở trong lòng: Nếu tôi được động đến áo của Người.
Thế là họ tìm đến với Chúa: ông Giairô: Ông đến một cách công khai trước mặt mọi người. Còn người đàn bà thì lén lút bí mật kín đáo, không muốn cho ai biết.
Kết quả thế nào thì Tin Mừng kể: Con gái ông Giairô thì được Chúa cho sống lại.
Còn người đàn bà thì được khỏi bệnh hoàn toàn.
Có vui không chúng con?
- Dạ thưa vui.
Quá vui là đàng khác.
B. BÀI HỌC
Bây giờ cha hỏi: Chúng ta có thể học bài học nào qua câu chuyện hôm nay không?
Nói cụ thể hơn qua những sự việc bài Tin Mừng hôm nay kể lại, thử hỏi Chúa muốn gì ở nơi mỗi người chúng ta? Có nhiều câu trả lời nhưng cha tưởng đây là những câu trả lời cụ thế nhất:
Trước hết Chúa muốn chúng ta phải có một đức tin mạnh mẽ vào Chúa.
Đức tin là một điều rất cần thiết để Chúa thực hiện những việc lạ lùng cho chúng ta. Nhưng đức tin chỉ có khi chúng ta hoàn toàn biết ký thác cuộc đời của chúng ta cho Chúa.
Chúng ta biết các ông trưởng Hội đường Do thái thường là người không ủng hộ Đức Giêsu, trái lại còn chống đối và tìm cách giết Người. Thế mà ông trưởng hội đường này vẫn đến cầu cứu Người, chứng tỏ lòng tin của ông đã mạnh. Chính Đức Giêsu đã bảo ông:"Chỉ cần tin thôi!".
Còn người phụ nữ tuy sợ hãi nhưng cũng đã can đảm vượt qua những nỗi sợ hãi đó để đến với Chúa, sờ vào gấu áo Người. Đức Giêsu đã khen ngợi đức tin đó: "Lòng tin của con đã chữa con".
Chúng con hãy nghe câu chuyện này để xem thế nào là một niềm tin mạnh, thế nào là một niềm tin còn yếu.
Một giai thoại kia kể rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò mạo hiểm. Anh mang một chiếc dù nhà binh đến bờ vực sâu, tính chơi cho thỏa chí mạo hiểm của anh. Không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân. Đang trên đà lăn dài xuống vực, anh tình cờ nắm được một nhánh cây mọc chìa ra. Thật hú vía, tuy chưa qua hết nguy hiểm nhưng như thế này còn có hy vọng được cứu thoát.
Ngước mắt nhìn lên bờ vực, anh không thấy bóng dáng một người nào. Nhìn xuống, anh choáng váng mặt mày vì vực quá sâu.
Anh cũng biết không thể nào nắm mãi nhánh cây được. Vì thế anh chỉ còn cách cầu nguyện. Thế là anh cầu nguyện. " Lạy Chúa, xin cứu con. Con xin hứa làm bất cứ điều gì Chúa muốn".
Bỗng có tiếng Chúa từ trời vọng đến:
- Được, Ta sẽ cứu con. Nhưng trước khi cứu, Ta muốn biết là con có thực sự tin rằng Ta làm được việc này không ?
- Lạy Chúa, con tin chứ. Con tin chắc là Chúa cứu được con mà. Cứu ngay con đi Chúa ơi, con mỏi tay lắm rồi.
- Được rồi, nếu con tin thì hãy buông tay ra.
Chàng thanh niên vẫn bám chặt lấy nhánh cây chứ không chịu buông. Rồi chàng ngẩng lên bờ vực và la lớn:
- Có ai trên đó không? Cứu tôi với.
Giả sử chúng ta là chàng thanh niên đó, liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa, qua những nghịch cảnh xảy ra trong đời sống của chúng ta không?
* Sau đó là lòng một khiêm tốn thẳm sâu.
Chẳng cần phải dài lời, chúng ta cũng thấy được kết quả của lòng khiêm tốn đối với ông trưởng hội đường và người đàn bàn bệnh tật ngày hôm nay như thế nào. Chúng ta thấy sự khiêm tốn của hai người không những đã được biểu lộ qua sự nhận biết thân phận thiếu thốn, bất lực của bản thân, mà còn được diễn tả qua thái độ bên ngoài. Với ông trưởng hội đường Tin Mừng ghi: "Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp lạy dưới chân Người". Còn với người đàn bà Tin Mừng cho biết: Sau khi bị phát giác, Người phụ nữ cũng đến phủ phục dưới chân Người và tỏ bày tất cả mọi sự. Chính thái độ khiêm tốn ấy đã được Chúa thương.
Có một tội nhân kia suốt đời được thiên thần khuyến dụ dẫn dắt theo con đường hẹp, nhưng vô ích, ông ta vẫn cứ đắm chìm trong đường tội lỗi. Gần đến ngày ông phải về tính sổ trước mặt Chúa, thiên thần bản mệnh chỉ còn biết khóc thầm thương cho số phận của tội nhân. Không bỏ lỡ cơ hội, ma quỷ liền đến bên ông và gieo vào tâm hồn ông niềm thất vọng, chán nản. Ma quỷ nói với ông:
- Thôi, ông cứ tiến thẳng tới án phạt của ông đi vì đời sống của ông chỉ toàn là những điều gian ác.
Trong chốc lát, ông như tỉnh ngộ. Ông bước đi nhưng mắt vẫn ngước nhìn về ngai vàng nơi Thiên Chúa ngự trị và tấm lòng vẫn còn hy vọng được Thiên Chúa tha thứ vì lòng nhân từ khoan thứ vô biên của Ngài. Thấy vậy, ma quỉ nói với ông:
- Hỡi người tội lỗi cứng lòng, hãy bước đi chứ đừng hy vọng gì nữa.
Tội nhân cứ tiếp tục bước, nhưng trong lòng vẫn cầu nguyện với sự e thẹn:
- Lạy Chúa, Chúa thật là Đấng công chính. Con thật đáng với án phạt nhưng vì tình thương bao la của Chúa, xin tha tội cho con. Tuy dù con bất xứng trăm bề, nhưng Chúa biết rằng niềm hy vọng trong tâm hồn con chẳng bao giờ tắt, vì con luôn tin tưởng vào lòng khoan dung của Ngài. Lạy Chúa, nỡ nào Chúa lên án phạt con sao đành. Nỡ nào Chúa lại thốt lên những lời tuyên phạt con đời đời hay sao ?
Thiên Chúa cảm động trước lời cầu xin khiêm tốn của ông. Ngài truyền cho các thiên thần:
- Hãy dẫn người đàn ông khiêm tốn kia đến trước mặt ta. Lửa yêu thương của Ta sẽ thiêu hủy hết tội lỗi của nó. Mặc dù nó phạm tội nhiều nhưng không bao giờ nó hết nghi ngờ lòng nhân từ vô biên của Ta, vì thế Ta muốn nó được sống trong nước vinh quang của Ta, sống bên cạnh ta để nó sẽ ca ngợi lòng nhân từ của Ta mãi mãi.