Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế. Và Người truyền các ông đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: “Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ”. Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân. - Ðó là lời Chúa.
Rất nhiều lần trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã than thở, đã tâm sự với các môn đệ:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít…Ta mang lửa xuống trần gian và chỉ mong cho lửa ấy bừng cháy lên.
Vì thế, nỗi lo lắng số một trong cuộc đời Chúa, đó là huấn luyện các tông đồ, để các ông tiếp nối sứ mạng của Ngài.
Chính Ngài đã tuyển chọn các ông, cắt nghĩa cho các ông được hiểu về giáo lý Tin Mừng, trao ban quyền hành và sai các ông đi truyền giáo. Phần các tông đồ, các ông cũng đã hăng say đáp trả lời mời gọi của Chúa.
Còn chúng ta thì sao?
Với Bí tích Rửa tội, Chúa cũng đã kêu gọi chúng ta trở nên những tông đồ. Với Bí tích Thêm sức, Chúa cũng đã sai chúng ta đi vào cuộc đời để làm chứng cho Ngài. Thế nhưng, chúng ta đã làm được những gì, cho danh Chúa được cả sáng, và nước Chúa được trị đến?
Nhiều người trong chúng ta đã phủi tay trước nhiệm vụ khẩn thiết ấy. Họ cho rằng: Hoạt động tông đồ truyền giáo chỉ là một bổn phận dành riêng cho linh mục và tu sĩ. Còn họ, đang phải vật lộn giữa dòng đời, thì còn hơi sức đâu mà nghĩ tới. Vậy họ đã đưa ra những lý do nào để biện minh cho thái độ của mình.
Lý do thứ nhất như vừa trình bày, họ cho rằng hoạt động tông đồ và truyền giáo không phải là bổn phận của họ.
Nghĩ như vậy là lầm, bởi vì một khi đã là chi thể của Hội thánh, chúng ta phải liên đới chịu trách nhiệm về sự sống còn và phát triển của Hội thánh.
Chính vì thế, Đức Thánh Cha Piô XII đã kêu gọi:
- Hãy liên kết với nhau để xây dựng lại thế giới.
Hơn thế nữa, Kinh thánh đã bảo chúng ta:
- Đức tin không có việc làm thì chỉ là một đức tin đã chết.
Bằng hoạt động, bằng việc làm, chúng ta sẽ biểu lộ được sức sống của niềm tin.
Lý do thứ hai họ đưa ra, đó là tôi không có thời giờ và tiền bạc.
Chúng ta nói rằng, chúng ta yêu mến Chúa hết lòng, nhưng thử hỏi chúng ta đã dành cho Chúa những gì?
Nếu so sánh chúng ta với một đảng viên, một cán bộ, chúng ta sẽ thấy mình thua xa. Trong một tuần lễ mà thôi, một đảng viên, một cán bộ đã bỏ ra bao nhiêu thời giờ để hội họp, để thảo luận, để đi đây đi đó mà phổ biến chính sách đường lối, còn chúng ta thì sao?
Đừng hỏi rằng Chúa đã làm gì cho tôi, mà hãy tự kiểm điểm xem tôi đã làm được những gì cho Chúa.
Lý do thứ ba họ nghĩ rằng: mình không có khả năng.
Thực vậy, tôi vừa quê mùa, lại vừa dốt nát, làm sao có thể đối đầu với những người học rộng biết nhiều và trí thức?
Đọc lại Phúc âm chúng ta thấy các tông đồ là ai? Tôi xin thưa:
- Họ là những ngư phủ đơn sơ và chất phác, học thì ít mà thiện chí thì nhiều.
Chính thiện chí mới là điều cần thiết, như là một câu danh ngôn đã bảo:
- Người ta làm được nhiều điều tốt đẹp với một trái tim hơn là với một cái đầu.
Ngoài ra, làm việc tông đồ đâu có phải chỉ là giảng giải, tranh biện hơn thua mà còn bằng lời cầu nguyện, còn bằng đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của mình nữa.
Trong bàn tay của Chúa, một dụng cụ tầm thường nhất cũng có thể tạo được những thành công rực rỡ.
Ngày nay chúng ta thường kêu ca:
- Đạo đức thì suy đồi, luân thường thì đảo lộn, con người như đã đánh mất niềm tin vào những giá trị thiêng liêng.
Nhưng thử hỏi:
- Chúng ta làm được những gì để cải tạo xã hội, hay là chúng ta cho rằng mình chỉ là một cánh én, làm sao tạo dựng nổi một mùa xuân?
Chúng ta lớn tiếng phê bình chỉ trích, nhưng lại không góp được một phần nhỏ bé vào công cuộc truyền giáo, đem ánh sáng Phúc âm đến cho những người chung quanh…
Thiết tưởng, chúng ta nên ghi nhớ và thực hành lời khuyên sau đây, đó là:
- Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
Lần đầu tiên sai các môn đệ đi thực tập rao giảng Chúa Giêsu đã căn dặn họ nhiều điều. Đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ nói đến hai điều: hành trang phải mang theo là những gì và phải xử trí thế nào trước những thái độ khác nhau của thính giả.
Bình thường, trước khi đi đâu, nhất là khi đi xa, lâu ngày, một người cẩn thận, bao giờ cũng phải chuẩn bị, sửa soạn, sắm sửa hành trang. Chẳng hạn: một người tính đi du lịch Đà Lạt hay Nha Trang, dù chỉ bốn, năm ngày hay một tuần, trước khi đi, người ấy sẽ chuẩn bị quần áo và những vật dụng cần thiết. Một người mẹ cho con gái đi ở riêng, trước khi tiễn con lên xe hoa, bà thường sắm sửa cho con đủ thứ áo xống, vật dụng và căn dặn con đủ cách. Hoặc khi tiễn người con trai đi nghĩa vụ quân sự, bà cũng lo lắng, sắm sửa, căn dặn con nhiều điều. Trong phạm vi nghề nghiệp cũng vậy. Làm nghề gì người ta cũng sửa soạn dụng cụ cần thiết: một bác nông dân đi làm thì phải có cày có cuốc. Trẻ em đi học thì phải có bút mực, sách vở…
Vậy mà chúng ta thấy, trước khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu bảo họ: không được mang gì cả, không mang bị, không mang tiền, không mang hai áo… Tại sao vậy? Bởi vì Chúa muốn họ ra đi truyền giáo phải có tấm lòng từ bỏ tất cả, thoát ly ra ngoài vòng cương tỏa của vật chất. Họ sẽ sống một nếp sống bấp bênh. Có vậy họ mới biết bám víu vào Thiên Chúa quan phòng đã sai họ ra đi.
Vấn đề ở đây, Chúa muốn dạy các môn đệ Ngài phải có một tấm lòng sẵn sàng từ bỏ: từ bỏ cha mẹ, bà con và chính bản thân, từ bỏ những gì cần thiết… để họ thảnh thơi ra đi, không bon chen, không dính bén, không vướng víu; và đi đâu, đến đâu cũng được, nơi đâu cũng là quê hương. Chúa không muốn các môn đệ Ngài trở thành những hành khách được trang bị đầy đủ để rồi không còn lo sợ bất trắc. Không, Chúa muốn các môn đệ Ngài phải biết đặt lòng tin vào Thiên Chúa quan phòng. Ngài muốn họ gặp bất trắc để họ biết phó thác vào Thiên Chúa.
Sau khi căn dặn các môn đệ từ bỏ, tín thác vào Thiên Chúa quan phòng, Chúa cho họ biết ngay rằng: công việc rao giảng của họ không dễ dàng: có người chấp nhận, có người không. Vậy họ phải xử trí thế nào? Chúa bảo: gặp được nhà nào tốt lành, chính đáng, thì ở lại đó cho đến lúc ra đi. Làm như vậy là tỏ lòng kính trọng, trung thành và biết ơn lòng hiếu khách. Còn làm khác đi dễ gây hiểu lầm, bội tín. Sở dĩ có lời khuyên như thế là vì hồi xưa, các nhà truyền giáo không có chỗ ở cố định mà phải nhờ vả rất nhiều vào các tín hữu để truyền giáo dần dần.
Dĩ nhiên và đương nhiên họ sẽ không được một số nơi tiếp nhận và còn ngược đãi nữa. Trường hợp đó, Chúa cho phép ra đi tới một nơi khác, và hãy giũ bụi chân lại cho họ biết lỗi lầm bất kính cảu họ. Người Do thái có thói quen làm như thế khi họ đi từ vùng dân ngoại vào vùng đất của họ để minh chứng họ dứt bỏ mọi liên hệ xấu với dân ngoại. Vậy người môn đệ làm như thế để đánh thức những ai từ chối họ, và cho những người ấy biết rằng cư xử của họ như vậy là đã trở thành dân ngoại.
Việc Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng và căn dặn các ông nhiều điều, nhắc nhở chúng ta cũng hãy làm tông đồ cho Chúa. Và tất cả chúng ta đều biết cách làm tông đồ tốt nhất, được Giáo Hội đề cao và cổ võ nhất, là làm tông đồ bằng chính đời sống tốt lành của chúng ta. Bởi vì đời sống của một người tín hữu chẳng những sống mà còn mang một sứ điệp, là người phát ngôn của Chúa ở nơi mình sống. Thiên Chúa là tác giả viết thư, còn chúng ta là những dòng chữ sống Thiên Chúa viết trên trần gian này. Đọc bức thư là người ta hiểu được ý tưởng, vấn đề người chủ muốn viết. Cho nên, đời sống của người Kitô hữu thánh thiện, tốt lành có giá trị thuyết phục hơn tất cả những bằng chứng khác.
Ngược lại, nếu chúng ta không sống như thế mà còn sống tệ hơn những người khác thì sao? Chẳng hạn như vấn đề được nêu lên trên một tờ báo như sau: Khu xóm tôi là một xóm toàn tòng theo đạo. Những ngày Chúa nhật hoặc lễ trọng, nhà nhà đi lễ, người người đi lễ, rất là nhộn nhịp trong bầu không khí thánh thiện của một ngày lễ. Đó là một điều đáng mừng đáng quí. Thế nhưng còn một điều đáng buồn cũng xảy ra thường ngày trong xóm đạo tôi, đó là thiếu tình thương, thiếu bác ái. Chẳng hạn: hai nhà gần nhau, mấy đứa nhỏ chơi với nhau rồi đánh nhau. Thế là hai gia đình đó cãi nhau chí tử. Chẳng hạn: buôn bán, vay mượn tiền bạc của nhau, không biết quên sót hay thiếu đủ sao đó, rồi cũng đi đến chỗ cãi nhau cả ngày trời, náo động cả khu xóm. Những chuyện như vậy cứ xảy ra thường xuyên ở khu xóm tôi, một xóm toàn những người có đạo. Thế mà mọi người vẫn thản nhiên vui sống, vẫn cứ đi lễ, đọc kinh, vẫn cứ cãi lộn, chửi nhau. Cuối cùng, tác giả bài báo này kết luận: Ước mong xóm đạo tôi ngày càng sống đạo tốt hơn, tức là vẫn siêng năng đi lễ, cầu nguyện, nhưng cũng biết sống bác ái, chia sẻ hơn với mọi người chung quanh.
Có lẽ đó cũng là điều ước mong của chúng ta. Chúng ta hãy sống đạo ở trong nhà thờ, trong gia đình, ở khu phố, ở mọi nơi. Sống đạo thực sự như thế là chúng ta cũng đang đóng góp phần mình vào công cuộc tông đồ của Chúa và Giáo Hội.
Đức Giêsu sai các tông đồ ra đi. Kitô giáo luôn là thế. Nó không bao giờ giữ lại điều gì cho mình. Nó luôn bao hàm sự vươn tới những người khác. Nếu không có yếu tố này, không còn là Kitô giáo nữa. Và điều đó nhiều lần được chứng tỏ bằng sự sẵn sàng hy sinh của mỗi người.
Cho tới lúc đó, các tông đồ ở với Đức Giêsu. Suốt thời gian qua, Người đã giáo huấn họ. Nhưng Người đã chọn họ cho một sứ mạng – giúp truyền bá Tin mừng về nước Thiên Chúa. Đã đến lúc họ phải góp phần vào công việc ấy. Người sai họ đi từng hai người một để họ có thể nâng đỡ nhau và học làm việc với những người khác. Người ban cho họ quyền nói và hành động nhân danh Người.
Hãy nhớ rằng đó chỉ là sứ mạng tạm thời, ngắn hạn và giới hạn trong các thị trấn và làng mạc Do thái. Sứ vụ sau cùng, khi họ được sai đến toàn thế giới, vẫn còn trong tương lai.
Sứ vụ của họ trước tiên là một sứ vụ tâm linh – rao giảng sự sám hối và nước Thiên Chúa đã đến trong thế giới. Nhưng sứ vụ ấy cũng liên quan đến việc chữa lành thể chất và tinh thần. Nó cho thấy Kitô giáo quan tâm đến hạnh phúc tinh thần và vật chất của con người. Nói cách khác, nó quan tâm đến con người toàn diện.
Họ không mang theo những vật chất để cho người ta. Trong bất cứ trường hợp nào, họ không thể có được những thứ ấy. Nếu việc truyền giáo gắn sứ điệp với những quà tặng vật chất luôn luôn là điều nguy hiểm. Bởi lẽ người ta có thể chấp nhận sứ điệp với những lý do sai lầm. Sứ điệp của họ phải tự nó tỏa sáng giá trị xứng đáng, và phải được chấp nhận chủ yếu bởi những lý do tinh thần.
Về những trang bị cá nhân, họ chỉ được mang những cái hoàn toàn cần thiết – dép và gậy. Về lương thực và chỗ ở, họ phải trông cậy vào lòng hiếu khách của những người mà họ được sai đến. Thật vậy, điều đó có nghĩa là trông cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nhưng bằng cách ấy, dân chúng sẽ cảm thấy họ cũng tặng lại một điều gì đó. Sẽ có một sự chia sẻ. Điều này tốt cho các thừa sai: họ cần dân chúng nơi họ được sai đến. Và cũng tốt cho dân ở nơi truyền giáo: tốt cho nhân phẩm của họ, và cũng để khuyến khích lòng quảng đại của họ.
Các thừa sai phải làm chứng về đức nghèo khó bằng sự từ bỏ những của cải vật chất. Và họ phải chứng tỏ sự liên đới với người nghèo bằng cách liên kết trong các cuộc đấu tranh của họ và chia sẻ sự nghèo khó với họ. Nhiệm vụ chính của họ là rao giảng sứ điệp. Nhưng họ không thể kiểm soát, điều khiển sự đáp ứng của dân và cũng không nên làm như thế. Họ phải tôn trọng tự do của người được rao giảng. Và họ phải chờ đợi có người sẽ khước từ nó.
Nếu sự rao giảng của họ bị chối bỏ, họ chỉ được phản ứng với một cử chỉ tượng trưng, phủi bụi dính ở chân. Đây là một hành động có tính tượng trưng cao đối với người Do thái trong thời đó. Dân chúng sẽ hiểu rõ ý nghĩa của hành động đó. Nó có nghĩa là các tông đồ sẽ đoạn giao với họ hoàn toàn và kể từ đó coi họ như người ngoại giáo. Tuy nhiên, cũng có nghĩa như một cữ chỉ quan tâm. Mục đích của nó là làm cho họ nghĩ lại về những điều mà các tông đồ đã đem đến cho họ và những hậu quả của việc khước từ. Nó cho thấy số phận của những người khước từ quà tặng của Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng này rất thích hợp với chúng ta. Tin Mừng vẫn cần được rao giảng và cần có những người chấp nhận nó. Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn còn thích hợp cho các thừa sai hôm nay. Dù những điều kiện đã thay đổi, những nguyên tắc căn bản những giữ nguyên. Những điều kiện ấy thách đố những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng và những người được rao giảng – Nó cho thấy tầm quan trọng của việc cởi mở tâm hồn để đón nhận lời Chúa.
Tất cả chúng ta đều gặp một thách đố lớn là phải trở thành các môn đệ hoạt động, chứ không phải là các môn đệ thụ động; không chỉ là những người đón nhận mà còn là những người ban phát. Không phải là cành cây khô hoặc gốc nho chết mà là những cành cây sống và trĩu quả.
Chúng ta thấy A mốt đã được kêu gọi bỏ công việc bình thường để đi rao giảng sứ điệp (Bài đọc 1). Mười hai tông đồ cũng thế. Không phải chỉ một số ít chúng ta được kêu gọi rao giảng Tin Mừng ngày nay. Nhưng tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm nhân chứng cho Tin Mừng. Chúng ta làm điều đó chủ yếu bằng cách sống Tin Mừng – bằng cách làm môn đệ của Đức Kitô trong thực tế cũng như trên danh nghĩa.
Trong một ý nghĩa, niềm tin vào Thiên Chúa rất phiền nhiễu bởi vì nó gia tăng trách nhiệm của chúng ta. Nếu không có Thiên Chúa, thì cũng không còn trách nhiệm – chỉ còn sự hỗn mang và đêm dài vô tận.
Nếu một người nào đến tìm chúng ta và cầu xin giúp đỡ, chúng ta không thể xua đuổi người ấy với những lời đạo đức: “Bạn hãy có đức tin, hãy dâng sự khó khăn này lên Thiên Chúa và Người sẽ giúp đỡ bạn”. Trong những trường hợp như thế, bạn nên hành động như thể không có Thiên Chúa, như thể chỉ có một người trên thế gian này có thể giúp đỡ, người ấy chính là tôi.
Nương tựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa là một chủ yếu của Kitô giáo. Nhưng nó không được viện dẫn như một cái cớ để không làm việc gì. Chúng ta không nên lùi lại và chờ đợi Thiên Chúa làm hết. Thiên Chúa sẽ không xuống và đích thân Người làm. Thiên Chúa hành động qua chúng ta.
Một ngày mùa đông một người đàn ông đi đến một cậu bé đang ngồi ăn xin trên một cây cầu của thành phố, gió thổi lồng lộng. Cậu bé run lập cập vì lạnh và rõ ràng đang cần một bữa ăn ngon. Nhìn thấy cậu bé, người đàn ông rất tức giận bèn nói với Thiên Chúa:
“Lạy Chúa, tại sao Chúa không làm điều gì đó cho cậu bé này?”
Và Thiên Chúa đáp lại: “Ta đã làm một điều gì đó cho nó rồi”.
Điều này làm người đàn ông ngạc nhiên, vì thế ông nói “Con hy vọng Chúa không nói rằng: Bất cứ điều gì Chúa làm đều có vẻ như không làm”.
“Ta cũng đồng ý với con điều đó” Chúa đáp.
“ Nhưng bằng cách nào Chúa đã làm điều đó?” Người đàn ông hỏi.
“Ta đã làm ra con” Chúa đáp.
Không có gì sai khi yêu cầu Thiên Chúa chỉnh đốn lại những điều sai trái và an ủi nỗi khổ đau. Nhưng chúng ta phải nhớ một điều là Người đã giao phó những nhiệm vụ ấy cho chúng ta.
Chúng ta là những công cụ của Thiên Chúa. Đó là phẩm giá và cũng là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta phải xác tín rằng không có tình yêu thương của chúng ta, những người khác sẽ không hoàn thành những việc mà Thiên Chúa muốn họ làm. Chúng ta thấy điều này rất rõ trong bài Tin Mừng hôm nay. Ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu chia sẻ công việc mở rộng nước Thiên Chúa cho các tông đồ.
Dĩ nhiên, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta có thể làm gì? Chúng ta phải trả lời câu hỏi ấy cho chính mình. Nhưng ví dụ sau đây chỉ cho chúng ta phương hướng đúng.
Một cặp vợ chồng thất nghiệp sống ở Dallas, Texas. Họ rất nghèo và thường đi quanh thành phố nhặt những lon bia bằng nhôm để bán cho những nơi tái chế. Trong công việc của họ, họ phải lục lọi trong những thùng đựng rượu vứt làm rác.
Một buổi sáng họ có một khám phá rất đau buồn trong một thùng bia đặc biệt. Trong đó họ thấy một cái xác của một trẻ sơ sinh. Họ báo cho cảnh sát. Cảnh sát tiến hành một cuộc điều tra nhưng không tìm ra dấu vết của cha mẹ đứa trẻ. Thế là không có ai là người chôn cất cho đứa bé.
Cặp vợ chồng biết ngay việc họ phải làm. Chính họ muốn nhìn thấy đứa trẻ xa lạ được chôn cất tử tế. Nhưng việc này phải tốn tiền, trong khi họ lại có quá ít. Người vợ đem cầm vật duy nhất có giá trị, một chiếc nhẫn cưới hột xoàn, để trả các chi phí mai táng.
Nhờ có sự cố gắng của họ, đứa trẻ đã đến nơi an nghỉ cuối cùng trong một quan tài màu trắng có phủ hoa. Nước mắt của cặp vợ chồng cũng thanh khiết như nước mắt của Đức Giêsu trước nấm mồ của bạn Người, Ladarô.
Để trở nên suối nguồn ánh sáng trong thế gian, người ta không cần giàu sang hoặc có tiếng tăm. Người ta chỉ cần có một tấm lòng yêu thương nồng cháy.
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng: TN15-B5 FB
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng, có một ngôi nhà thờ Công giáo. Bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Đức Kitô. Tuy nhiên, khi cuộc chiến qua rồi bức tượng đã biến mất. Bức tượng đã bị hất ra khỏi bệ vỡ ra từng mảnh trên mặt đất.
Một nhóm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu thập những mảnh vụn. Một cách cẩn thận, họ đã ráp lại pho tượng. Họ tìm thấy tất cả các mảnh vỡ, trừ đôi bàn tay. Họ đề nghị khi trở về Mỹ họ sẽ đặt làm đôi bàn tay ấy. Nhưng vị linh mục đã từ chối.
“Tôi có một ý tưởng hay hơn”, ông nói. “Chúng ta hãy để pho tượng không có bàn tay. Và chúng ta sẽ ghi vào chân đế lời này. “Bạn ơi, hãy cho tôi mượn đôi bàn tay của bạn”. Bằng cách đó, những khách vãng lai sẽ nhìn thấy giờ đây Đức Kitô không có tay nhưng chính tay chúng ta sẽ nâng đỡ người vấp ngã; không có bàn chân chính chân chúng ta sẽ đi tìm người lạc mất, không có tai nhưng chính tai chúng ta sẽ lắng nghe người cô độc, không có lưỡi nhưng chính lưỡi chúng ta sẽ nói những lời an ủi người cô đơn.
Sự cố nhỏ ấy làm sáng tỏ sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu kéo các tông đồ vào công việc của Người. Người chia sẻ sứ vụ thánh thiêng của Người cho họ. Người đã cho họ quyền bính và sức mạnh của Người. Đương nhiên, họ cũng phạm những lỗi lầm, điều này không làm người ta ngạc nhiên khi hiểu rằng họ là những con người bình thường.
A mốt là một mục đồng bình thường (Bài đọc 1). Tuy nhiên Thiên Chúa đã sai ông đi rao giảng sứ điệp hối cải cho dân. Hầu hết các tông đồ là những ngư phủ. Tuy nhiên Đức Giêsu đã không ngần ngại chia sẻ công việc Người cho họ. Càng ngạc nhiên hơn khi một ngày kia Người sẽ giao phó toàn bộ công việc cho họ.
Nhiều người đang nắm quyền hành thường sợ kéo người khác vào công việc, đặc biệt những người được gọi là tầm thường. Vì thế, người khác bị loại ra với cảm giác rằng họ không đóng góp được điều gì. Để cho người khác tham gia là điều tốt. Nó làm cho người ta có trách nhiệm. Nó cho người ta một cơ hội sử dụng tài năng của mình. Nó xây dựng một cộng đoàn tinh thần.
Nhưng một đôi khi người ta không muốn tham gia. Giao việc ấy lại cho các chuyên viên hẳn là dễ dàng hơn. Ngày nay, người ta thường giao việc cho các chuyên môn. Vì thế, việc chữa bệnh được giao cho các bác sĩ và y tá. Việc dạy học giao cho các thầy cô giáo. Còn việc lo cho người nghèo giao cho chính phủ hoặc Hiệp Hội Bác ái Vinh Sơn Phao Lô.
Dĩ nhiên các chuyên gia rất cần trong các việc chuyên môn. Nhưng người không chuyên môn cũng có nhiều việc đóng góp và thường có nhiều nhiệt tình hơn. Người bệnh có thầy thuốc nhưng cũng cần có tình bè bạn. Người già cần có người chia sẻ thời gian với họ. Người trẻ cần có người tỏ ra quan tâm đến họ. Đây là công việc mà chúng ta có thể làm được. Nó không đòi hỏi tài chuyên môn nào mà chỉ cần có một tấm lòng tận tụy.
Kinh Thánh bắt đầu với câu chuyện Thiên Chúa làm con người trở thành những người cộng tác trong công trình sáng thế. Và Đức Kitô đã cho các môn đệ tham gia công trình cứu chuộc của Người. Một trách nhiệm cao cả đã được đặt lên vai chúng ta. Một vinh dự cao quí cũng đã được trao cho chúng ta. Chúng ta có trách nhiệm về thế giới này của Thiên Chúa và về mỗi người khác. Chúng ta là những người quản lý tạo vật và là người đồng cộng tác với Đức Kitô.
Trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, một ngôi làng bị pháo kích nặng nề. Giữa làng có một ngôi: TN15-B6
Trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, một ngôi làng bị pháo kích nặng nề. Giữa làng có một ngôi nhà thờ, trước nhà thờ có một tượng Đức Giêsu được đặt trên một cái bệ. Nhưng sau khi khói lửa của trận pháo kích tan đi, người ta chỉ còn thấy cái bệ, còn pho tượng thì biến đâu mất. Những người lính đồng minh cố gắng đi tìm và cuối cùng cũng tìm thấy tượng Chúa bị văng khỏi đó một khoảng khá xa. Tuy nhiên hai cánh tay của Chúa đã bị hỏng mất. Họ cung cấp một chiếc máy bay để chở pho tượng về Mỹ cho thợ làm lại hai cánh tay. Nhưng cha xứ từ chối. Cha bảo cứ đặt pho tượng lên bệ như cũ, phía dưới viết thêm hàng chữ: “Cácbạnthânmến, hãychotamượn đôicánhtaycủacácbạn”.
Câu chuyện trên giúp ta hiểu sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay: Đức Giêsu kêu gọi các tông đồ tham gia công việc của Ngài. Ngài chia sẻ sứ mạng với họ. Ngài ban cho họ chính quyền năng và uy tín của Ngài. Rồi Ngài sai họ đi loan truyền Tin Mừng. Thực ra, họ chỉ là những người chài lưới, cả tài năng lẫn đức độ đều không có bao nhiêu. Nhưng Ngài vẫn chia sẻ sứ mạng cho họ, vì họ sẽ thi hành sứ mạng không phải bằng sức riêng của họ, mà bằng ơn Chúa.
Ngày nay, có nhiều đấng có thẩm quyền vẫn e ngại không xẻ công việc cho giáo dân; mặt khác, nhiều giáo dân cũng e ngại không dám gánh trách nhiệm trong Giáo Hội. Cả hai phía đều tính toán thành bại dựa trên khả năng của con người. Nhưng đó không phải là tính toán của Thiên Chúa.
Hãy nhớ rằng Sách Thánh bắt đầu bằng chuyện Thiên Chúa giao cho loài người quyền hợp tác với Ngài trong công cuộc sáng tạo vũ trụ; bài đọc 1 hôm nay kể chuyện Thiên Chúa giao cho Amos sứ mạng làm ngôn sứ cho dân Israel mặc dù ông chỉ chuyên nghề chăm sóc cây sung; và bài Tin Mừng kể chuyện Đức Giêsu sai 12 tông đồ vốn là những dân chài sứ mạng truyền giáo.
Bài Tin Mừng này nói đến tinh thần phó thác mà Chúa muốn các tông đồ phải có trong khi đi: TN15-B7
Bài Tin Mừng này nói đến tinh thần phó thác mà Chúa muốn các tông đồ phải có trong khi đi truyền giáo. Phó thác là một nhân đức quan trọng, nhưng nhiều người không hiểu đúng.
. Chẳng hạn một người kia mắc bệnh, không lo chữa trị mà cũng chẳng có biện pháp giữ gìn sức khỏe gì hết, mà lại nói “Tôi phó thác tất cả cho Chúa”. Như thế có phải là phó thác không ? Dĩ nhiên là không.
. Hay một người khác không chăm chỉ làm ăn, tiêu xài thì chẳng tính toán cân nhắc, rồi lâm cảnh túng thiếu. Cũng nói: “Xin phó thác tương lai trong tay Chúa”. Có phải là phó thác không ? Dĩ nhiên cũng là không.
. Xin thêm một thí dụ nữa ; làm cha mẹ chẳng lo sửa dạy con cái, để cho chúng hư thân mất nết, rồi bảo “Phó thác cho Chúa”. Có phải là phó thác không ? Cũng không phải.
Nếu những trường hợp kể trên mà là phó thác, thì phó thác chẳng còn phải là một nhân đức nữa, nhưng là một tính xấu: tính lười biếng, thụ động. Đạo Công giáo mà chủ trương phó thác kiểu đó thì cũng không oan ức gì khi bị người khác chế nhạo là đạo tiêu cực, đạo cản trở sự tiến bộ…
Ngược lại, đứng trước một công việc mà mình lo lắng thái quá, làm như Chúa để một mình mình phải lo, thì cũng không phải là phó thác. Rồi trong khi lo công việc mà quá cậy dựa vào những phương tiện vật chất, thế tục, không tin tưởng vào ơn Chúa giúp, cũng không phải là phó thác.
Vậy phó thác là gì ? Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa dạy các tông đồ có tinh thần phó thác đúng nghĩa: khi các ông ra đi truyền giáo, các ông chỉ cần một số phương tiện vật chất vừa đủ: một cây gậy để chống lại thú dữ dọc đường, một chiếc áo mặc, một đôi dép để đi, thế thôi. Đừng quá lo lắng về vật chất: không cần mang lương thực dự trữ, không cần thủ cho nhiều tiền trong túi, không cần tới hai áo, không cần mang bị theo để đựng quà biếu của người khác. Về nơi ăn chốn ở cũng thế, miễn sao có chỗ trọ là được, nhà nào cho mình trọ, thì cứ trọ bất kể giàu hay nghèo, đừng lựa chọn nhà này hay nhà khác để có tiện nghi hơn. Nhà nào không cho mình trọ thì mình ra đi không chút lưu luyến. Điều chính yếu quan trọng mà các ông phải cậy dựa vào, đó là quyền năng của Chúa.
Qua đoạn Tin Mừng kể trên, chúng ta hiểu phó thác là đứng trước một công việc, một mặt mình không được lười biếng buông trôi nhưng phải vận dụng hết sức mình để làm cho được; mặt khác không ỷ sức riêng mình mà còn phải cầu nguyện xin Chúa ban ơn giúp sức. Và khi đã cố gắng hết sức mình đồng thời đã tin cậy vào ơn Chúa như thế, sau đó công việc diễn tiến thế nào đi nữa mình cũng không quá lo lắng sợ sệt, vì mình đã phó thác cho Chúa.
Như thế, đứng trước một vấn đề khó khăn, nếu ta ngã lòng nản chí thì là thiếu phó thác; nhưng nếu ta quá lo lắng cậy dựa vào khả năng riêng của mình để giải quyết thì cũng thiếu phó thác.
Chúng ta hãy làm như một đứa bé tập đi: bàn tay nhỏ bé của nó nắm chặt bàn tay cha nó, đôi chân nhỏ bé của nó can đảm bước đi từng bước từng bước, và lòng nó thì rất an tâm, vì nó biết chắc có cha nó luôn sẵn sàng nâng đỡ mỗi khi nó xảy chân. Phó thác là như thế.
Sau thế chiến thứ nhất, một linh mục trẻ người Pháp được bài sai đi coi xứ. Tay xách vali, cha mạnh dạn ra đi truyền giáo. Đến nơi chỉ thấy hầm sâu, tường đổ. Nhà thờ, nhà xứ, chỉ còn duy nhất một bức tường xiêu vẹo.
Không một chút sờn lòng, cha cùng với các tín hữu tích cực kiến thiết lại ngôi thánh đường đổ nát. Chẳng bao lâu sau, đền thờ vật chất đã hoàn thành khang trang đẹp đẽ. Giờ đây, cha lại tiếp tục xây dựng đền thờ tâm hồn. Nhờ đời sống gương mẫu, cha đã tu sửa lại lòng đạo đức của cả đoàn chiên.
Tuổi cha chưa cao nhưng đã kiệt sức, giữa lúc tình cha con đang mặn nồng, gắn bó. Dầu vậy, nằm trên giường bệnh, cha vẫn thản nhiên vui vẻ. Giờ hấp hối đến, cha nhỏ nhẹ nói với những người chung quanh:
- Giờ đây tôi vui mừng vì đã trung thành giữ lời nhủ bảo của thân phụ ngày tôi chịu chức linh mục: “Nay con làm linh mục Chúa, cha chỉ cầu ước cho con 3 điều: Thứ nhất, lúc con chết đừng nợ ai xu nào; Thứ hai, khi qua đời con cũng chẳng còn xu nào; Thứ ba, lúc lâm chung con đừng vướng một chút tội nào với Chúa”. Và ngài an bình đi về với Đấng mình đã trọn đời dâng hiến.
Vị linh mục trong câu chuyện trên đây, không những đã làm theo lời khuyên của thân phụ, mà còn thi hành đúng lời dạy của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi sai các tông đồ đi truyền giáo, Chúa phán: “Không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc…”. Hành trang của các ông chỉ là chiếc áo đang mặc, cây gậy và đôi dép đi đường. Vì chính Người đã từng nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, con Người không có chỗ dựa đầu”. Người muốn các ông hoàn toàn nương tựa vào Chúa, phó thác cho tình yêu quan phòng của Người, và cậy dựa vào lòng tốt của tha nhân.
Đó là thân phận của kẻ được sai đi: ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Vì “Phaolô trồng, Apollo tưới và Chúa mới cho mọc lên”.
Hôm nay Chúa cũng sai chúng ta đi vào lòng thế giới, để “rao giảng sự sám hối”. Sám hối rất khó nói vì chẳng mấy ai thích nghe. Đó cũng là thách thức của người tông đồ: can đảm nói lên những điều phải nói. Nói mà không giảm nhẹ những đòi hỏi của Tin Mừng. Nói mà không lợi dụng Tin mừng để mưu cầu cá nhân. Nói mà không trích dẫn Tin mừng để khoe khoang kiến thức. Nói mà không bóp méo Tin mừng để vuốt ve quần chúng. Dù sao Tin mừng vẫn phải được loan báo. Chúng ta hãy xem câu nói của thánh Phaolô như là của chính mình: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”.
Hôm nay, Chúa cũng trao cho chúng ta những quyền năng như hành trang để lên đường. Đó là quyền rao giảng Tin mừng, quyền trừ quỉ và quyền chữa bệnh.
Chúng ta có thể chia sẻ Tin mừng với niềm hân hoan của người tìm được viên ngọc quí.
Chúng ta có thể nói về Chúa như nói về một người bạn thân.
Chúng ta có thể xua trừ quỉ bằng cách đẩy lui những thói hư tật xấu.
Chúng ta có thể chữa bệnh bằng cách lau khô những giọt lệ của bao người quanh ta. Lạy Đức Giêsu, mỗi thánh lễ là một bài sai, mỗi bài Tin mừng là một sứ điệp Chúa gửi cho trần gian qua từng người chúng con. Xin cho chúng con đừng bao giờ cậy dựa sức riêng mình, nhưng tin tưởng vào quyền năng Chúa mà chu toàn sứ vụ Người đã trao ban.
Một cựu chiến binh Việt Nam, đang nằm trên giường bệnh sau khi bị thương do chiến tranh đã viết:
"Ngay cái giây phút tôi bị thương, tôi cảm thấy rất cô đơn. Tôi đã nghe nói rất nhiều lần về cái cảm tưởng lẻ loi khi sắp chết, nhưng bây giờ, tôi mới hiểu nó một cách rõ ràng; đó là khi chết thì sẽ không có một ai khác ngoại trừ chính bạn. Tôi đã bị thương rất trầm trọng. Một đạn cối 4.2 đã rơi cách chỗ của tôi khoảng sáu feet và nó đã lấy đi chiếc chân bên trái của tôi. Còn nữa, nó cắt luôn cánh tay trái của tôi, và đập vào vai, vào đầu, vào hông, và vào cả gót chân và mắt cá chân phải nữa. Hoảng sợ đã chiếm đoạt cả thân tôi, nhưng tôi đã cố gắng phấn đấu... tôi biết rằng nếu tôi không phấn đấu thì tôi sẽ đi đoong.
"Sau đó, ba hoặc bốn lính cứu thương xúm quanh tôi, lay tôi, và cố gắng để giúp tôi; nhưng tôi không thể làm được gì ngoại trừ cố gắng để cầu nguyện. Điều làm tôi đau khổ là tôi không thể tập trung tinh thần được... Tôi biết rằng tôi sẽ chết và tôi cố gắng bao nhiêu có thể để bảo toàn những hơi thở cuối cùng. Tôi biết rằng tôi đang trong tình trạng tội lỗi nặng nề.
"Những người đang đứng chung quanh tôi, dường như họ không nghe tôi nói, mà họ chỉ nói chuyện với nhau. May cho tôi, do sự kiên trì và ý trời, tôi đã cố gắng trải qua được hai tiếng đồng hồ sau khi bị thương.
"Sau khi được chuyển vào trạm y tế, tôi thấy bốn hoặc năm người đang xoa bóp người tôi. Hành động đó đã làm cho tôi mở mắt ra và nhìn thấy một cái chân ở trước mặt tôi... và nó cũng không được lành. Đại khái, tôi nhìn thấy có một người đang cúi xuống nhìn tôi, tôi tưởng người đó là cha tuyên úy quân đội; mặt của ngài đụng gần mặt của tôi. Sau đó, tôi đã bắt đầu cố gắng để xưng tội... Tôi nghĩ rằng đây là lần cuối cùng. Khi xưng tội, tôi chỉ có thể xưng bằng những lời nói nhỏ nhẹ.
"Khi tôi cảm thấy thần chết sắp sửa đến bên tôi, tôi nhắm mắt lại, và tôi nghe vị tuyên úy hỏi tôi rằng "Anh có thống hối những lỗi lầm của anh không?" Với hơi thở còn lại, tôi thưa: "Hell, yes!" Dĩ nhiên! Sau đó một lát, trước khi tôi tưởng mình sẽ ra đi, tôi được Xức Dầu. Một sự việc đã xảy ra và làm cho tôi không thể nào quên được... một cảm nghiệm mà cả đời tôi chưa từng bao giờ có.
"Trong một lúc, tôi đã không cố gắng để níu lại những giây phút cuối đời; tôi cảm thấy sung sướng... Tôi cảm thấy như được chích cả ngàn mũi thuốc giảm đau. Tôi đang ở trên tầng trời thứ chín. Tôi cảm thấy rất tự do khỏi thân xác và tâm trí tôi.
"Sau biến cố này, tôi đã tỉnh lại được ba hoặc bốn lần trong mười ngày kế tiếp; tôi đã không còn lo lắng gì đến cái chết nữa. Ngược lại, tôi còn chờ đón nó."
Cảm nghiệm của người lính trẻ đón nhận Bí tích Xức Dầu Thánh đó thật là cảm động. Đây là một bài diễn tả sống động chưa bao giờ thấy.
Bí tích Xức Dầu Thánh, như chúng ta biết, phát xuất từ chính Chúa Giêsu. Chính Ngài đã đặt tay chữa các bệnh nhân và xức dầu cho họ.
Bài Tin Mừng hôm nay đã diễn tả lại một cách rõ ràng về việc Chúa Giêsu ban phép cho các môn đệ ngài để tiếp tục sứ mệnh chữa lành các bệnh nhân. Phúc Âm đã viết như sau: "Họ đã xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân" (Mc 6:13).
Cũng cùng một cách, trong thư của Thánh Giacôbê đã dạy bảo các giáo đoàn Kitô hữu thời sơ khai như sau: "Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha" (Gc 5:14-15).
Nếu để diễn tả về Bí tích Xức Dầu một cách đơn giản nhất, thì chúng ta có thể diễn tả như là một tiếp diễn trong thời đại chúng ta sứ mệnh chữa bệnh mà Chúa Giêsu đã làm trong thời ban đầu. Như Chúa Giêsu đã chữa người ta trong thời của Ngài qua hành động cụ thể là đặt tay, thì Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục cứu chữa người ta ngày nay qua những hành động phụng vụ bằng chính nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội. Và như vậy, con người cũng cảm nghiệm được cùng một cảm nghiệm mà những người thời Chúa Giêsu đã từng cảm nghiệm.
Qua Bí tích Xức Dầu, người ta có thể lãnh nhận được các ơn về phần xác và phần hồn. Không những Bí tích này đem lại sức khỏe về mặt thể xác, mà còn có những hiệu quả về mặt tinh thần, như là cảm thấy sự thanh thản trong tâm trí và bình an trong lòng. Cũng có những trường hợp khác, Bí tích này còn ban cho người ta được cảm nghiệm được cứu chữa vết thương nội tâm. Họ cảm được tình thương của Chúa, và lòng từ bi của Ngài.
Qua đó, nếu chúng ta đang trong tình trạng đau yếu trầm trọng, đang trong tuổi cao niên, hoặc nếu chúng ta đang sắp phải trải qua một cơn giải phẫu nguy hiểm, thì bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta hãy đến lãnh nhận Bí tích Linh Dược này. Hoặc nếu chúng ta biết có ai đó đang trong tình trạng nguy kịch, chúng ta hãy khuyên nhủ và mời gọi họ đến lãnh nhận Bí tích này.
Điều mà Chúa Giêsu đã làm trong thời của Ngài thì Ngài cũng muốn làm trong thời của chúng ta nếu chúng ta biết chạy đến với Ngài.
Sau một thời gian ở với Ngài (x. Mc 3,14), họ đã được Ngài sai đi rao giảng.
Người được sai đi phải là người có đời sống gần gũi thiết thân với Chúa.
Đức Giêsu sai họ lên đường. Ngài trao cho các ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang lên đường của các ông. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.
Đức Giêsu cấm các ông không được mang theo lương thực, bao bị, tiền bạc... Không lương thực đi đường nên có thể bị đói. Không bao bị nên không thể để dành. Không tiền bạc nên không thể mua sắm. Ngài muốn các ông hoàn toàn nương tựa vào lòng tốt của Thiên Chúa và của con người.
Ra đi mà không có một chút bảo đảm. Các môn đệ đã đi từ nơi nọ đến nơi kia, lê gót qua các làng mạc và thành phố. Họ không đóng đô ở một nơi, dù gặp thành công, vì họ nhớ lời của Thầy: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa” (x. Mc 1,38)
Tính cơ động là đặc tính thiết yếu của người tông đồ. Sẵn sàng đến và cũng sẵn sàng đi.
Các môn đệ loan báo về Nước Thiên Chúa đang đến. Đó là một tin vui, nhưng đòi con người hoán cải.
Hoán cải là điều chẳng ai ưa. Người tông đồ cần can đảm nói điều phải nói. Không làm nhẹ đi những đòi buộc của Tin Mừng, không bóp méo Tin Mừng để tìm thành công cá nhân, cũng không mỵ dân để vuốt ve dư luận. Người tông đồ phải chấp nhận được tiếp đón một cách nồng hậu hay lạnh nhạt.
Họ chỉ là những người phục vụ cho Tin Mừng.
Chúng ta cần cảm nghiệm niềm vui của các môn đệ. Những người đánh cá nay trở thành nhà rao giảng. Những người ít học, bình dân, nay trừ quỷ và chữa bệnh. Họ đem đến cho con người niềm vui, sự giải phóng toàn vẹn cả hồn lẫn xác.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn sai ta đến trong thế giới. Đi từng hai người hay từng nhóm để nâng đỡ nhau. Chúng ta có thể mang theo nhiều đồ trang bị hơn xưa, nhưng không vì thế mà bỏ rơi cậy dựa vào Chúa. Thế giới hôm nay vẫn có nhiều bệnh tật: bệnh tuyệt vọng chán chường, bệnh hoài nghi khép kín... Ước gì chúng ta chữa lành những nỗi đau hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Lên đường là ra đi, nhưng cũng là ở lại môi trường mình đang sống. Bạn thấy làm chứng cho Chúa tại nơi bạn học hành, làm việc, có khó không? Đâu là những cản trở?
Thế giới hôm nay là thế giới bị nô lệ dưới nhiều hình thức. Bạn thấy được những hình thức nào? (nô lệ cho vật chất, tiện nghi, chức vị, xác thịt...)
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Xin sai chúng con lên đường; nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
Được sai đi với quyền bính là một biến cố quan trọng trong đời sống loài người. Không có người ngoại quốc nào ở nước sở tại được kính nể hơn là vị đại sứ. Tiếp nhận vị đại sứ là thừa nhận chính phủ của xứ sở họ. Khi chính phủ đổ thì vị đại sứ cũng không còn đại diện cho ai.
Chính Chúa Giê-su cũng dùng quan niệm được sai đi của loài người để tiếp tục việc rao giảng nước trời. Trong Phúc âm hôm nay, Chúa sai các tông đồi đi rao giảng tin mừng cứu độ nhân danh Người, chữa lành bệnh nhân và xua trừ ma quỉ. Chúa căn dặn các tông đồ đừng mang gì khác ngoài cây gậy, không được mang bị, mang bánh, không được mang tiền trong túi, chân phải mang dép và không được mang hai áo. Nếu áp dụng lời Chúa theo nghĩa đen thì đa số giáo sĩ và giáo dân đi truyền giáo đời nay đều đi trật đường rày. Theo lời Chúa dạy thì các tông đồ không được mang bị, mang bánh, mang tiền, mang hai áo. Tuy nhiên các nhà truyền giáo đời nay mang hai hay ba va-li đồ dùng và quần áo, lại còn mang tiền hay thẻ visa.. Lời Chúa trong Phúc âm hôm nay còn khác với lời Chúa trong Phúc âm Thánh Mát-thê-ô và Lu-ca về hành trang của các tông đồ đi truyền giáo. Điểm này chứng tỏ rằng cắt nghĩa lời Chúa theo nghĩa đen là không thích hợp. Ta cần nhờ đến những nhà chú giải thánh kinh để cắt nghĩa lời Chúa cho thích hợp. Ta cũng cũng cần nhờ đến Giáo hội để cắt nghĩa lời Chúa vì Giáo hội có sứ mệnh bảo toàn kho tàng mạc khải trong thánh kinh để khỏi bị cắt nghĩa sai lạc. Như vậy chi tiết về hành trang truyền giáo không quan trọng.
Lời Chúa dạy các tông đồ về hành trang trên đường truyền giáo là họ chỉ cần mang theo những vật dụng cần thiết mà thôi. Họ phải sống lối sống đơn giản như Chúa để cho sứ điệp rao giảng Phúc âm được tỏ hiện. Và Chúa muốn dạy họ phải đặt tin tưởng vào chương trình quan phòng của Chúa. Phúc âm Thánh Mát-thê-ô trong cùng câu chuyện còn ghi: thợ thì đáng được nuôi ăn (Mt 10:10). Nếu ta câu nệ vào những chi tiết như những vật dụng gì Chúa dạy các tông đồ phải mang, ta sẽ quên đi cái điều quan trọng là việc rao giảng tin mừng cứu độ. Phúc âm hôm nay ghi lại: Các ông đi rao giảng sự thống hối, xua trừ ma quỉ, xức dầu và chữa lành nhiều bệnh nhân ( Mc 6:12-13).
Sứ điệp rao giảng Tin mừng cứu độ mà Chúa truyền cho các tông đồ vẫn được tiếp tục trong Giáo hội do hàng giáo sĩ, do các linh mục và giám mục là những người kế vị các tông đồ thi hành. Các ngài nhận lệnh sai đi qua việc lãnh nhận chức thánh. Cái dụng cụ mà Chúa dùng không tuỳ thuộc vào địa vị xã hội hay trình độ học vấn, hay sự tài khéo của loài người, nhưng là vào quyền năng của Chúa và sự cộng tác của loài người.
Sự kiện trên được chứng minh qua việc Chúa gọi ông A-mốt là người xứ Giu-đê-a miền nam đi nói tiên tri cho người xứ Ít-ra-en miền bắc. Ông phản đối mạnh mẽ việc lạm dụng tôn giáo và tính cách thiếu tôn giáo đang lan tràn tại Ít-ra-en, đặc biệt ông nhấn mạnh việc thờ phượng mà thiếu đời sống luân lý lành mạnh là không có gía trị trước mặt Thiên Chúa. Khi ông tiên báo là vua Gia-rốp-am xứ Ít-ra-en sẽ bị ám sát và Ít-ra-en sẽ bị đi lưu đày, thì vị tư tế A-mát-gia ở đền thờ Bết-Ên phản đối, và khai trừ ông khỏi Ít-ra-en. A-mát-gia gọi A-mốt một cách xách mé là thày chiêm thay vì ngôn sứ hay tiên tri: Này thày chiêm ơi, mau chạy về xứ Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm (Am 7:12). Đọc lịch sử, ta thấy thời đó ở xứ Ít-ra-en có trường dạy làm nghề ngôn sứ, một nghề để kiếm ăn. Do đó mà xuất hiện ra những ngôn sứ giả. A-mốt hiểu nghĩa của từ thày chiêm mà A-mát-gia dùng nên khẳng định, ông chỉ là người chăn chiên và đi hái sung vả, và Chúa đã gọi ông: Hãy đi nói tiên tri cho Ít-ra-en dân của ta (Am 7:15).
Các tông đồ mà Chúa chọn cũng chỉ là những người tầm thường, đa số làm nghề chài lưới. Các giám mục và linh mục của Chúa sau này cũng không nhất thiết phải là những nhà trí thức thông thái, nhà cải cách xã hội tài ba, hay chính trị gia lỗi lạc. Như vậy ta thấy cái dụng cụ Chúa dùng, giáo sĩ cũng như giáo dân, là tuỳ thuộc vào ơn Chúa, vào quyền năng Chúa, tuỳ thuộc vào người được tuyển chọn và sự cộng tác của người được sai đi.
Khi đến trần gian, Chúa Giêsu đã ý thức trách nhiệm và sứ mạng của mình, ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho một dân tộc, một nhóm người, một số dân được ưu tuyển. Nhưng ơn cứu rỗi thuộcvề mọi người:mỗi người đều có giá trị như nhau trước mặt Chúa và mỗi người đều có bổn phận, sứ vụ rao giảng, qui tụ, đi tìm con chiên lạc và đưa chúng vào đồng cỏ xanh tươi, vào ràn chiên duy nhất của Chúa. Mối bận tâm của Chúa là đem ơn giải thoát cho mọi người. Sứ mạng này, Chúa Giêsu cần nhiều người tiếp nối vì tính cách khẩn trương của việc loan báo Tin Mừng.
CHÚA TRAO SỨ MẠNG RAO GIẢNG CHO NHIỀU NGƯỜI:
Bài đọc I thuật lại việc ngôn sứ Amos một mặt khẳng định mình không phải là ngôn sứ, một mặt ông lại nói:" Chúa dẫn tôi đi và nói với tôi rằng: Ngươi hãy đi nói ngôn sứ…". Amos thú nhận ông chỉ là người chăn chiên ở vùng ven sa mạc miền Giuđa, và sau khi chấm dứt sứ mạng nói ngôn sứ, ông lại trở về nghề cũ. Đây là hình ảnh người được Thiên Chúa trao sứ mạng nói lời của Chúa. Amos đã nói ngôn sứ, nhưng từ hàng tư tế, những kẻ có chức, có quyền đã toa rập với nhau để khước từ lời của Amos, nhưng lời của Amos nói ra là chính lời của Thiên Chúa, kẻ đại diện chối từ lời của Amos tức là khước từ lời của chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu, đã qui tụ 12 môn đệ, dậy dỗ họ, yêu thương họ, chỉ cho họ con đường dẫn tới nước trời, trình bầy cho họ về nước Thiên Chúa, cho họ thấy quyền năng của Ngài, rồi sai họ đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng. Sứ mạng rao giảng thật cao quí, khẩn trương. Chúa trao sứ mạng và ban quyền cho các môn đệ. Các môn đệ được sai đi rao giảng Tin Mừng và sự thống hối, ăn năn. Các môn đệ khi rao giảng đã trừ quỉ và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền như Chúa đã từng làm " Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em"( Ga 20, 21 ). Thực tế, nơi đâu các môn đệ đi, đặt chân tới cũng như nơi đâu có Chúa Giêsu vương quốc nước trời được thiết lập và những quyền lực của ác thần, của Satan đều bị đẩy lui. Vì loan báo Đức Kitô là một nhiệm vụ quan trọng, cao cả, nên Chúa đòi hỏi nơi các môn đệ một sự thoát ly trọn vẹn, một sự phó thác tuyệt đối vào Chúa. Các môn đệ phải ra đi một cách thanh thản, không lo âu, không bồn chồn, không bối rối, kèn cựa, các môn đệ không bận tâm đến bị, đến tiền bạc, vật chất. Các môn đệ phải hy sinh tất cả cho sứ mạng truyền giáo, họ phải đi tới sự siêu thoát vì nước trời, không ham tư lợi, không cầu lợi nhuận vv… Các môn đệ chỉ làm công việc của Thiên Chúa mà thôi. Các môn đệ của Chúa cũng là những người phải có thái độ dứt khoát đối với cử tọa. Ai nghe, họ tiếp tục rao giảng. Ai không lắng nghe, họ phải dứt khoát bỏ đi rao giảng nơi khác và cho những người khác. Rao giảng Tin Mừng và đón nhận Tin Mừng tức là không mưu cầu tư lợi riêng tư cho cá nhân các môn đệ hay tìm uy tín cho mình.
CÁC MÔN ĐỆ ĐƯỢC SAI ĐI VÀ GIÁO HỘI CŨNG ĐƯỢC SAI ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG NƯỚC THIÊN CHÚA:
Rõ ràng khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa đã sai, đã ban quyền cho các môn đệ để các môn đệ làm công việc của Chúa đã làm. Giáo Hội và mỗi người chúng ta cũng được sai đi để rao giảng Tin Mừng về nước trời và giới thiệu một trật tự thế giới mới. Nhưng liệu sứ mạng Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội, cho mỗi người và những lời căn dặn chí thiết của Chúa Giêsu đã được thực hiện làm sao? Chúa Giêsu có được rao giảng hay các môn đệ, các sứ giả Tin Mừng của Chúa chỉ nói hời hợt, loan báo cái gì không thuộc về Chúa Giêsu. Giáo Hội là Giáo Hội truyền giáo. Mọi người đã ý thức sứ mạng cao cả ấy chưa? Loan báo nước trời, trình bầy một trật tự mới có theo ý Chúa hay người được sai đi chỉ muốn củng cố uy tín cá nhân, thanh thế của mình hay của tập thể? Rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, người môn đệ sẽ phải đương đầu với thử thách, sức mạnh của tà thần, của Satan, nhưng nếu gắn bó với Chúa, môn đệ sẽ vượt thắng tất cả vì mọi lời rao giảng chỉ có giá trị khi chúng bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa, khi chúng khởi đi từ lòng can đảm, tin tưởng khiêm hạ của người môn đệ đích thực của Chúa Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn có tâm hồn sẵn sàng, trái tim nhạy cảm để mau mắn rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Tại sao Chúa lại chọn 12 tông đồ ?
2. Các Anh Chị hiểu thế nào về câu: "Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt ?”
Tôi hình dung ngày Chúa nhật, Chúa Giêsu gọi tất cả chúng ta đến xum họp chung quanh bàn thờ để hiệp dâng Thánh lễ với Ngài. Rồi sau đó, Ngài sai chúng ta đi đưa Tin mừng, như các môn đệ sống thân mật bên Chúa Giêsu đã được sai đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân. Thực vậy, Chúa Giêsu đã sống hiệp nhất với Chúa Cha và được sai xuống trần gian. Các môn đệ đã chung sống với Chúa Giêsu để rồi được sai đi, thì chúng ta xum họp với Ngài trong Thánh lễ để rồi cũng được sai đi thi hành sứ mạng tông đồ của Chúa Giêsu. Lời chúc cuối Thánh lễ là: Ite, missa est: Hãy đi, thi hành sứ mệnh được ủy nhiệm. Sứ mệnh đó là sứ mệnh tông đồ (Apostolorum missio), cũng là đầu đề của bài Tin mừng này,
Trước khi đi, Đức Giêsu đã gọi nhóm Mười hai lại và sai đi với những lời chỉ dẫn sau đây: “Đi từng hai người một”. Hai người làm chứng thì chứng có giá trị hơn một người. Trước tòa án cần có hai nhân chứng, chứng đó mới thật. Trước dân chúng, cần cóhai người chứng, chứng đó mới mạnh mẽ. Mạnh mẽ hơn nữa khi hai người sống thành cộng đồng thương yêu nhau như Chúa Giêsu đã nói: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con”, “Cứ dấu đó, thế gian sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy”.
Các môn đệ đã chung sống với Thầy, đã được Thầy yêu thương thế nào, các ông cũng phải chung sống và thương yêu nhau như vậy, để làm chứng về Thầy. Đó là ý muốn rõ nhất của Chúa Giêsu khi chỉ thị cho chúng ta thực hiện sứ mệnh tông đồ.
Lối sống yêu thương được thể hiện hơn qua cách sống nghèo: có khó mới bó lấy nhau, nên chỉ thị thứ hai là “Không mang gì đi đường”, đừng mang lương thực, bao bị, tiền bạc, quần áo, thêm phức tạp, nặng nề, phiền toái. Chỉ có giầy và dép là hành trang của kẻ bộ hành luôn luôn sẵn sàng lên đường đến các làng chung quanh, đến các thành thị, qua các bờ biển xa xăm. Chỉ thị của Thầy đòi hỏi chứng nhân sống nghèo khó, thanh bạch, siêu thoát, không cậy dựa vào của cải, giàu sang, không cậy thế, cậy quyền, như Thầy đã trả lời một kinh sư: “Con chồn có hang, con chim có tổ, Con Người không có chỗ dựa đầu”. Quyền thế, danh vọng, chỉ bắt người ta phục vụ mình, còn Đức Giêsu: “Con Người đến phục vụ như một đầy tớ hy sinh mạng sống để cứu người ta”. Cho nên thánh Phaolô nói: “Chính nhờ Máu thánh Đức Kitô mà ta được giải thoát, được tha tội … được hồng ân dồi dào phong phú … được Thiên Chúa đóng ấn bằng Thánh Thần … là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta” (Bài đọc 2).
Chứng nhân chỉ cậy dựa vào Đấng đã sai đi và ban quyền cho mình thôi: “Người ban cho các ông quyền trừ quỷ”. Như Thầy đã trừ quỷ, các môn đệ cũng trừ quỷ. Quỷ là thủ lãnh, là tướng, đầu mối gây ra tội lỗi, sự dữ, sự ác, đau khổ và sự chết. Cho nên các ông đã ra đi rao giảng kêu gọi người ta sám hối, từ bỏ mọi sự của ma quỷ, trở về với Thiên Chúa là nguồn sự sống, sự thánh thiện và ơn phúc.
Sau Thánh lễ chúng ta được Chúa Giêsu sai đi như mười hai tông đồ vậy. Khi chúng ta lo trừ khử tội lỗi, sửa thói hư tật xấu, trừ khử sự dữ, sự ác, đau khổ nơi mình và người khác là chúng ta trừ quỷ, là rao giảng Tin mừng.
Khi chúng ta cầu nguyện kết hợp với Chúa và làm cho người ta sống kết hợp với Chúa để mến Chúa, yêu người, là chúng ta rao giảng Tin mừng.
Khi chúng ta cố gắng làm mọi việc thiện, mọi việc ích lợi cho hồn xác người khác, là rao giảng Tin mừng. Chúa Giêsu đã từng nói: “Kẻ nào cho người bé mọn chỉ một bát nước vì danh nghĩa là môn đệ, sẽ không mất phần thưởng” (Mt. 10, 41 ; Mc. 6, 42).
Rao giảng Tin mừng như thế ai làm cũng được. Bài đọc một cho biết Amos là người chăn bò trồng sung, thế mà Chúa sai ông đi công bố lời Chúa cho dân Israel. Một ông già rách rưới gầy còm như ăn mày, đứng chen chúc trên xe đò, vẫn cầm tràng hạt đọc kinh, hướng lòng lên với Chúa, cầu nguyện cho mọi người đứng chật chội trên xe là rao giảng Tin mừng. Một đứa trẻ học giáo lý, đọc đi đọc lại, rót vào tai người lớn, đó là rao giảng Tin mừng. Một thanh niên biết khéo léo rủ bạn đi làm, xa tránh nghiện ngập rượu chè, đó là rao giảng Tin mừng.
Có trăm ngàn cách rao giảng Tin mừng, vì có trăm ngàn việc thiện đem lại vui mừng cho người ta.
Lạy Chúa, mỗi Thánh lễ là một bài sai chúng con đi thi hành sứ mệnh tông đồ, đi rao giảng công trình cứu độ của Chúa. Xin cho chúng con biết liên kết với nhau và hăng hái đón nhận bài sai của Chúa để làm sáng danh Chúa giữa muôn người.
Trước đây Chúa Giêsu đã chọn 12 tông đồ, mục đích là “để họ ở với Ngài và để Ngài sai họ đi rao giảng” (Mc 3,14). Vậy sau khi họ đã “ở với Ngài” một thời gian, nay Ngài “sai họ đi rao giảng”. Đây là những người còn non yếu, cho nên trước khi họ ra đi, Chúa chỉ dẫn họ những điều cần thiết.
1. Mục đích lần này là “để họ đi rao giảng”. Họ phải giảng điều gì và giảng thế nào ?
- Về nội dung lời giảng, thánh Marcô tóm lược trong công thức rất gọn “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối”. Như thế, đây là nội dung chính, tất cả những lời rao giảng khác đều quy về nội dung chính này. Hơn nữa, đây cũng chính là nội dung rao giảng của Chúa Giêsu (x. Mc 1,15) và của Gioan tiền hô (x. Mc 1,4).
- Về cách giảng: họ không chỉ giảng bằng lời kêu gọi, mà còn bằng a/ việc làm chứng (c 7: Họ đi từng nhóm 2 người, đúng quy định của luật Môsê về điều kiện để sự làm chứng có giá trị) ; b/ việc giải thoát người ta khỏi xiềng xích của thế lực gian tà (“trừ quỷ”) ; c/ việc giải thoát người ta khỏi đau khổ thể xác (“chữa bệnh”).
- Những chỉ dẫn về tác phong người rao giảng có thể tóm lại trong hai điều: Nghèo và tin tưởng vào Chúa quan phòng.
B. ... nẩy mầm.
1. Cách giảng hữu hiệu nhất là làm chứng, và cách làm chứng hữu hiệu nhất là một cuộc sống nghèo, không cần gì khác ngoài ơn Chúa.
“Đã có lần Lênin nói về Thánh Phanxicô Assisi ‘Để có thể thay đổi bộ mặt thế giới, có lẽ chỉ cần 10 con người như vậy’ “(Trích "Mỗi ngày một tin vui")
2. Người giàu nhất: Một chủ nông trại nọ đi thăm người tá điền trung thành của ông đúng lúc người tá điền này ngồi vào bàn ăn. Ông thấy người tá điền dừng lại một phút để cầu nguyện. Ông thắc mắc hỏi người tá điền đã nói với Chúa những gì, và được trả lời: “Thưa ông, tôi cám ơn Chúa vì thức ăn này mà Chúa đã ban cho tôi”. Liếc nhìn bữa ăn đạm bạc, người chủ nông trại nói: “Nếu Chúa ban cho tôi một bữa ăn tồi tệ thế này thì tôi không phải mất thời giờ để cám ơn Ngài”.
Một lúc sau người tá điền nói: “Tôi thật vui mừng vì còn được gặp ông, bởi vì tối hôm qua tôi nằm mơ thấy người giàu có nhất trong làng sẽ qua đời trong đêm nay”. Nghe thế người chủ nông trại rất lo lắng và tự nghĩ: còn ai là người giàu có nhất trong vùng này ngoài ông ta ra. Tối hôm đó, ông cho mời bác sĩ bạn thân của ông đến khám sức khoẻ. Bác sĩ cho biết ông hoàn toàn khoẻ mạnh. Dù vậy, người chủ nông trại vẫn lo lắng không ngủ được. Bỗng có tiếng gõ cửa, một người hớt hãi báo tin: “Thưa ông, người tá điền đã qua đời”. Người chủ nông trại thở phào nhẹ nhõm, bởi vì đã có người khác chết, chứ không phải ông. Tuy nhiên ông chợt nghĩ: người giàu có nhất trong làng này không phải là ông mà là người tá điền của ông !
Người ta thường nói “Của làm ra để trên gác, của cờ bạc để ngoài sân, của phù vân để ngoài ngõ”. Xét cho cùng, có của cải nào trong cuộc sống này mà lại không phải là của phù vân. Bên kia cái chết, có ai đem theo mình một đồng xu nhỏ hay một tấc đất. Của cải đích thực là tất cả những gì tồn tại với con người bên kia cái chết. Thành ra người ta chỉ có thể lượng giá ai là người giàu ai là kẻ nghèo bằng những giá trị vĩnh cửu mà thôi (Chờ đợi Chúa).
3. Ngày kia, thánh Phanxicô Assisi nói với một thày dòng: “Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo.” Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thày dòng thắc mắc hỏi: “Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà !” Thánh Phanxicô đáp: “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó ! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao ?"
Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô-hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chứng tá của họ. (Góp nhặt).
Sau một thời gian đi đó đây rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và được nhiều người tin theo, Đức Giêsu ghé về thăm làng Nadarét là quê hương mà Ngài đã sinh trưởng, để rao giảng Tin Mừng và ban ơn cứu độ bằng việc trừ quỉ và chữa bệnh cho các người đồng hương. Vào ngày Sabát, Người đến hội đường đọc Sách Thánh và giảng dạy. Lúc đầu dân làng ngạc nhiên trước sự khôn ngoan của Người và thán phục trước các phép lạ họ nghe đồn là người đã làm ở nơi khác. Nhưng rồi khi nhìn lại gia cảnh nguồn gốc của Chúa, họ tỏ thái độ hoài nghi, không tin Người là Đấng Thiên Sai. Do đó, Đức Giêsu không thể làm một phép lạ nào khác, trừ việc đặt tay chữa lành vài bệnh nhân. Người ngạc nhiên về sự cứng lòng tin của họ và đã nhận định về họ như sau: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, ngay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”.
2) Chú thích:
- Đức Giêsu ra khỏi đó, và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. Đến ngày Sabát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe đến đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Ong ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? Ong ta làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì ? (Mc 6, 1-2):
+ Ra khỏi đó: là ra khỏi nhà ông trưởng hội đường Gia-ia ở thành Ca-phác-na-um sau khi đã cho đứa bé gái con ông ta được sống lại (x. Mc 5,38).
+ Đến nơi quê quán của Người: Quê hương Đức Giêsu là làng Nadarét (x. Mt 2,23; Lc 4,16). Làng này không mấy nổi danh đúng như ông Na-tha-na-en đã nhận xét: “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được ?” (x. Ga 1,46).
+ Có các môn đệ đi theo: Môn đệ là những người đã “ từ bỏ nhà, bỏ vợ, anh em , cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa” (x. Lc 18,29-30; Mt 19,29; 10,29-30). Đức Giêsu về Nadarét không những để thăm các thân nhân của Người, mà còn thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng Nước Trời nữa.
+ Đến ngày Sabát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường: Tại các hội đường Do thái vào ngày Sabát, dân làng tập trung tại hội đường. Các luật sĩ hay kinh sư có nhiệm vụ đọc Kinh Thánh và giải thích cho dân chúng nghe. Người ta cũng có thể mời một vài bậc vị vọng và có uy tín đến giảng giải nữa. Lần này Đức Giêsu được mời lên bục giảng. Lúc đầu dân làng kinh ngạc về giáo lý của Người, nhất là về các phép lạ Người mới thực hiện là chữa lành cho một phụ nữ mắc bệnh đã 12 năm và phục sinh đứa bé gái tại thành Ca-phác-na-um. Nay họ được trực tiếp nghe lời Đức Giêsu rao giảng, khiến họ càng ngạc nhiên hơn nữa (x. Lc 4,22).
+ Bởi đâu ông ta được như thế ? Ong ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? Ong ta làm được những phép lạ như thế , nghĩa là gì ?: Dân làng Nadarét “rất đỗi ngạc nhiên” về các việc làm và lời giảng dạy của Đức Giêsu. Sau đó họ lại hoài nghi vì gia thế tầm thường của Chúa, và cuối cùng họ đã từ chối không tin nơi Người (x. Mc 6,6).
- Ong ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Gioxê, Giuđa và Simon sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” Và họ vấp ngã vì Người:
+ Làbác thợ: Đức Giêsu tiếp tục nghề thợ mộc của cha nuôi là thánh Giuse. Khi nêu ra nghề chân tay vất vả này, dân làng đã tỏ ra khinh thường Đức Giêsu.
+ Con bà Maria: Dân làng không nói đến ông Giuse là cha của Đức Giêsu, có lẽ vì ông đã qua đời từ lâu. Đàng khác, theo tác giả Máccô thì chỉ có Thiên Chúa mới thực là Cha của Người (x. Mc 8,38; 13,32; 14,36). Dân làng cũng nhắc đến Đức Maria như một người phụ nữ bình dân đang sống bên cạnh họ.
+ Anh em của các anh Giacôbê, Giô-xép, Giuđa và Simon sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?: Anh chị em của Đức Giêsu được nêu tên ở đây để chứng minh gia thế của Người không có gì đặc biệt. Đàng khác , một số người đã dựa vào câu này để cho rằng Đức Maria không trọn đời đồng trinh, vì bà còn có thêm nhiều người con khác ngoài Đức Giêsu. Thực ra các tên được nêu ra ở đây chỉ là anh chị em bà con gần với Đức Giêsu mà thôi. Chẳng hạn: Giacôbê và Giôxép là con của bà Maria vợ ông Cơ-lô-pát (x. Mt 27,56; Ga 19,25), Giuđa là con của ông Giacôbê (x. Lc 6,16). Về lập trường của Giáo Hội Công Giáo thì ngay từ ban đầu, Giáo Hội vẫn luôn khẳng định: Đức Giêsu là “Con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7) và là “Người con duy nhất” của Đức Maria. Ngoài Người ra, Đức Maria không sinh thêm bất cứ người con nào khác. Cũng vì thế mà trước khi tắt thở trên cây thập tự, Đức Giêsu đã trối Mẹ Người cho môn đệ Gioan, và từ giờ đó Gioan đã đón Đức Maria về nhà mình để phụng dưỡng thay cho Thầy mình (x. Ga 19,27). Đàng khác, trong ngôn ngữ Do thái cũng như ngôn ngữ Đông phương, danh từ “anh em” vừa có nghĩa là anh em ruột thịt mà cũng có nghĩa là anh em bà con gần nữa (x. St 13,8; 14,6; 29,15). Cuối cùng, nếu những người được nêu tên trong Tin Mừng này mà thực sự là con của Đức Maria, thì dân làng phải dùng tiếng “các em trai của ông ta”, “các em gái của ông ta”, thay vì chỉ nói “anh em ông” và “chị em ông” như ở đây.
+ Và họ vấp ngã vì Người: Theo Thánh Phaolô: Đối với những kẻ kiêu căng cứng lòng tin, thì Đức Giêsu trở nên viên đá chướng ngại như có lời chép: “Này đây, Ta đặt tại Xion một hòn đá làm cho vấp, một tảng đá làm cho ngã; nhưng kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng” (Rm 9,33). Thánh Phêrô cũng viết: “Còn đối với những kẻ không tin, thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa và số phận của họ là như vậy” (1 Pr 2,7-8). Còn thánh Luca thì dùng hình ảnh viên đá bị loại ra là Đức Giêsu, đã trở nên “viên đá góc” (x. Tv 118,22), và: “Phàm ai ngã xúông đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; Đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt” (Lc 20,18).
- Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” Người đã không làm được phép lạ nào tại đó. Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin (Mc 6,4-6):
+ “Ngôn sứ có bị rẻ rúng …”: Câu này có nghĩa tương tự như câu: “Bụt nhà không thiêng!”. Dân làng Nadarét đã vấp ngã trước những yếu tố nhân loại của Đức Giêsu như: Nghề thợ mộc thấp kém; Thân nhân tầm thường …. Đó là những chướng ngại khiến họ không tin Người thực sự là Đấng Thiên Sai.
+ Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó: Trước khi làm phép lạ cứu nhân độ thế, Đức Giêsu thường đòi người xin phải có đức tin như một điều kiện tiên quyết phải có. Chẳng hạn: Người bảo bệnh nhân rằng: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34) ; Người nói với ông Gia-ia: “Ong đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), hay nói với người mù ở Giêricô: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10,52). Tại làng Nadarét, vì dân làng không tin, nên họ đã không đón nhận được phép lạ nào cả.
II. HOC SỐNG LỜI CHÚA:
1) “Nào ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao ?”:
Câu chuyện: Tình thương sẽ chinh phục lòng người:
Vào năm 1960, một cuộc bách hại đạo Công giáo bùng lên tại nước Suđan thuộc Phi Châu. Một sinh viên công giáo da đen tên là Taban đã phải bỏ nhà chạy sang nước láng giềng Uganđa lánh nạn. Trong thời gian ở đây, Taban đã được nhận vào chủng viện và bảy năm sau, anh được thụ phong Linh mục. Khi tình hình ở Suđan lắng dịu, tân linh mục Taban quyết định trở lại quê nhà để thi hành sứ mệnh linh mục của mình. Cha được Bề trên bổ nhiệm coi sóc một giáo xứ vùng Pa-lo-ta-ka. Tuy nhiên, giáo dân ở đây lại hoài nghi về chức linh mục của cha như ngài đã thuật lại như sau: “Dân chúng ngờ vực nhìn tôi và nói: Này anh bạn da đen kia ! Anh nói cái gì vậy ? Anh mà là Linh mục ư ? Thật là khó tin !”.
Thực ra trước đây, tại Suđan chưa bao giờ xuất hiện một Linh mục nào là người da đen cả. Giáo xứ luôn được các Linh mục thừa sai da trắng đến chăm sóc và chia sẻ nhiều thực phẩm, quần áo và thuốc men. Còn bây giờ Cha Taban lại là một người da đen và nghèo khó giống như họ, nên chẳng có gì để phân phát như các linh mục da trắng trước kia. Tình hình lại càng phức tạp thêm, khi cha Taban bắt đầu canh tân phụng vụ Thánh lễ theo đường hướng cộng đồng Vatican II. Giáo dân đã xầm xì với nhau: “Ong Linh mục da đen này còn bày đặt làm lễ bằng tiếng bản xứ thay vì bằng tiếng La-tinh như trước. Chắc ông ta không rành tiếng La-tinh nên mới làm như vậy ! Không biết ông ta là Linh mục thật hay giả ?”. Phải mất 10 năm, sau bao nhiêu vất vả để phục vụ giáo xứ, chịu đựng bao nhiêu sự miệt thị khinh dể, cuối cùng cha Taban đã được giáo dân thừa nhận là Cha Sở của họ.
Suy niệm:
+ Câu chuyện về Linh mục Taban giúp chúng ta hiểu tại sao Đức Giêsu lại bị dân làng Nadarét không tin là Đấng Thiên Sai. Tuy họ ngạc nhiên về tài ăn nói, về sự khôn ngoan đối đáp của Đức Giêsu, nhưng sau đó họ lại bị vấp phạm trước gia thế của Người. Họ nói với nhau rằng: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Ong ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? Ong ta làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì ? Ong ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giô-xép, Giuđa và Simon sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ? Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6,2-3). Thời Giáo Hội sơ khai, cũng có một nhân vật tên là Xen-xút (Celsus) nuôi lòng thù ghét Kitô giáo. Ong ta đã nhiều lần chế diễu các kitô hữu như sau: “Giêsu là Đấng sáng lập của các người chỉ là một gã thợ mộc dốt nát bần hàn, xuất thân từ làng quê Nadarét tầm thường !”. Thật khó mà chấp nhận được một Đấng Cứu Thế lại xuất thân từ một xưởng gỗ nhỏ bé, lại phải vất vả kiếm sống bằng đôi tay lao động hằng ngày !
+ Đức Giêsu phán: “Trò không hơn Thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như Thầy, tớ được như chủ đã là khá lắm rồi !”. Như vậy: ngày nay chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi thấy ta bị người ta chống đối vì chúng ta không chấp nhận sự phá thai, ly dị, hay khi ta chống lại những bất công mà các phụ nữ và trẻ em đã phải chịu đựng. Chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi có những Kitô hữu phản đối chúng ta vì chúng ta có sự khác biệt họ về chủng tộc, tiếng nói, quốc gia hay tình trạng kinh tế. Cuối cùng, chúng ta cũng đừng ngạc nhiên nếu đôi khi ta bị những người thân ruột thịt chống lại ta, vì chúng ta đã tin Đức Giêsu, như Người đã báo trước: “Họ sẽ chia rẽ nhau ; Cha chống lại con trai và con trai chống lại Cha; Mẹ chống lại con gái và con gái chống lại mẹ; Mẹ chồng chống lại nàng dâu và nàng dâu chống lại mẹ chồng” (Lc 12,53). Trong mọi trường hợp, chúng ta cần vững lòng tin cậy vào Thiên Chúa. Người sẽ không để chúng ta chịu đựng quá sức chúng ta.
Thảo luận: Trong những ngày này, chúng ta sẽ làm gì khi bị người khác nghi ngờ, chống đối hoặc ngược đãi ?
Đáp:Trước hết cần phải tìm hiểu nguyên nhân tại sao ta bị thù ghét chống đối hay bách hại như vậy ? Phải chăng là do lỗi lầm của ta như: đã cư xử bất công, đã gian dối lừa đảo hay thất tín…Nếu thật sự như vậy thì ta phải hồi tâm sám hối và cấp thời tu sửa ngay. Nhưng nếu ta bị người đời thù ghét vì ta quyết định làm theo lời Chúa dạy, dám bênh vực những người yếu đuối thân cô thế cô; Khi ta không vào hùa với đám đông gian ác để kết án cách bất công kẻ vô tội…thì ta cần phải chấp nhận và tìm cách khắc phục các khó khăn do người đời gây ra. Điều cần phải làm là hãy xin Chúa ban ơn giúp ta tránh xử dụng bạo lực để đáp trả bạo lực, nhưng biết dùng tình thương hóa giải hận thù như lời Chúa: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,44-45).
2) Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em:
Câu chuyện: Chú chồn Pi-pi Li-piu (Pepe Lepew):
Cách đây mấy chục năm, các rạp chiếu bóng phần lớn đều chiếu phim hoạt họa. Có một bộ phim được nhiều người ưa thích mang tựa đề là “Lu-ni Tun” (Looney Tunes). Trong phim, vai chính được hâm mộ là một chú chồn lãng mạn tên là Pi-pi Li-piu. Pi-pi luôn tỏ ra quí mến mọi người chú ta có dịp tiếp xúc. Nhưng vì thân mình chú ta có mùi hôi đặc biệt, nên mọi người đều từ chối tình cảm của chú. Trước thực tế ấy, Pi-pi vẫn không nao núng thất vọng. Chú ta vẫn luôn thể hiện tình thương với bất cứ ai, cho dù nhiều lần chú đã bị người ta xua đuổi tàn tệ. Đó cũng là lý do tại sao lại có nhiều người yêu thích chú như vậy.
Suy niệm: Chú chồn Pi-pi đã có những biểu hiện tốt đẹp giống như Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Đây là một bài học mà các tín hữu chúng ta có thể rút ra để cùng nhau học tập. Trước hết cần ý thức rằng: Khi làm việc tông đồ chắc ta cũng không tránh khỏi những trở ngại, những sự khước từ hay phản đối giống như Đức Giêsu đã từng bị dân làng Nadarét nghi ngờ và khinh dể. Cũng như chú chồn Pi-pi Li-piu, chúng ta sẽ tiếp tục yêu thương tha nhân dù có bị từ chối xua đuổi và đối xử tàn tệ đến thế nào đi nữa.
Quyết tâm: Để trở nên môn đệ thực sự của Đức Giêsu, tuần này tôi quyết tâm sẽ làm gì đối với những kẻ đang nuôi lòng thù ghét tôi ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, Là nhà giảng thuyết đầy tài năng, thế mà Chúa cũng đã bị thất bại trước các người đồng hương bà con ruột thịt của Chúa. Đoạn Tin Mừng hôm nay cho chúng con biết: Sau khi đi rao giảng nhiều nơi, làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, danh tiếng Chúa đã được nhiều người biết đến …giờ đây Chúa đem các môn đệ về làng Nadarét thăm thân nhân và cũng để loan báo Tin Mừng Nước Trời . Lẽ ra dân làng phải đón tiếp Chúa với vai trò Đấng Thiên Sai. Thế nhưng thực tế đã không được như vậy: Sau khi nghe Chúa đọc và giải thích Kinh Thánh tại hội đường Nadarét vào ngày Sabát, dân làng tuy có thán phục về sự khôn ngoan của Chúa, nhưng dựa vào nguồn gốc tầm thường và gia cảnh nghèo hèn của Chúa, họ tỏ ra nghi ngờ và cuối cùng đã không tin về vai trò Thiên Sai của Người, nên Người đã không làm một phép lạ nào đáng kể ở đó.
Lạy Chúa Giêsu, nhiều lần chúng con cũng đã bị thất bại khi người ta ngoảnh mặt không muốn nói chuyện với chúng con, khi họ nói những lời xúc phạm đến Chúa và Hội Thánh. Xin cho chúng con luôn biết kiên trì: “Thắng không kiêu, bại không nản”. Khi có người tin Chúa , xin cho chúng con dâng lời tạ ơn Chúa. Nhưng ngay cả những lúc chúng con bị người ta từ chối xua đuổi , xin cho chúng con vẫn tạ ơn Chúa vì biết rằng: “Thất bại là mẹ thành công”, và chính Chúa xưa kia cũng đã từng trải qua nhiều lần thất bại trước sự cứng lòng của dân Do Thái.
X) Hiệp cùng mẹ Maria. –Đ) Xin Chúa nhậm lời Chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Mỗi khi bị người khác cư xử không tốt, chúng con thường có phản ứng tiêu cực như: Xa lánh không muốn tiếp xúc hay nói chuyện với họ, coi họ như người dâng nước lã…Nhưng nếu muốn gia nhập Nước Trời , muốn trở nên môn đệ đích thực của Đức Giêsu và là con cái Thiên Chúa thì đòi chúng con phải có thái độ khác. Điều Chúa muốn chúng con phải làm là: “Hãy yêu kẻ thù, cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình, làm ơn cho kẻ bách hại mình ,tha thứ lỗi lầm vô điều kiện, đi bước trước làm hòa với tha nhân đang có điều chi bất thuận với mình, để lễ vật chúng con dâng xứng đáng được Thiên Chúa vui nhận… Lạy Mẹ Maria. Đây là một điều rất khó thực hành nếu chúng con không được ơn Thánh Thần trợ giúp. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng con ngày một thêm lòng yêu mến Chúa, luôn tìm làm theo Thánh Ý Chúa, hầu mỗi ngày chúng con trở nên hoàn thiện hơn, giống như Chúa Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời Chúng con.
Chủ đề Chúa Nhật XV năm B này là Sứ Vụ. Sứ vụ đem lại cho người lãnh nhận sự cao cả, niềm hân TN15-B15
Chủ đề Chúa Nhật XV năm B này là Sứ Vụ. Sứ vụ đem lại cho người lãnh nhận sự cao cả, niềm hân hoan, nhưng cũng không thiếu nỗi buồn phiền, vị đắng cay. Trong Tin Mừng, Đức Giê-su sai nhóm Mười Hai ra đi thi hành sứ vụ với lời căn dặn phải có tinh thần siêu thoát triệt để, cũng như báo trước những thất bại có thể có. Trong chương trước, thánh Mác-cô đã tường thuật việc Đức Giê-su chọn nhóm Mười Hai và xác định sứ vụ của họ: “Người thiết lập nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (3: 14). Thánh Lu-ca tường thuật cùng một sự kiện và nói thêm: “Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ” (Lc 6: 13).
AddThis Sharing Buttons
Share to FacebookShare to MessengerShare to Google+Share to Twitter CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN
Chủ đề Chúa Nhật XV năm B này là Sứ Vụ. Sứ vụ đem lại cho người lãnh nhận sự cao cả, niềm hân hoan, nhưng cũng không thiếu nỗi buồn phiền, vị đắng cay.
Am 7: 12-15
Trong Bài Đọc I, ngôn sứ A-mốt, vốn xuất thân từ vương quốc miền Nam, vương quốc Giu-đa, được Thiên Chúa sai đi truyền đạt sứ điệp của Ngài cho dân chúng vương quốc miền Bắc, vương quốc Ít-ra-en. Sứ vụ thật khó khăn, dù bị trục xuất trở về vương quốc Giu-đa, nhưng ngôn sứ A-mốt cũng đã hoàn thành sứ vụ ngôn sứ của mình.
Ep 1: 3-14
Trong phần mở đầu thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô cho biết ý định muôn thuở của Thiên Chúa là cứu độ nhân loại. Thiên ý này được Đức Ki-tô mặc khải, hoàn thành và chuyển giao cho Giáo Hội.
Mc 6: 7-13
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su sai nhóm Mười Hai ra đi thi hành sứ vụ với lời căn dặn phải có tinh thần siêu thoát triệt để, cũng như báo trước những thất bại có thể có.
BÀI ĐỌC I (Am 7: 12-15)
Các sự việc diễn ra ở vương quốc miền Bắc, dưới triều đại của vua Gia-róp-am II (787-747 tCN)
1.Hoàn cảnh lịch sử:
Để hiểu rõ hoàn cảnh lịch sử ở đó ngôn sứ A-mốt được Thiên Chúa sai đi thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình, xin được nhắc lại, sau khi vua Sa-lô-mon băng hà, vào năm 931 trước Công Nguyên, mười hai chi tộc Ít-ra-en chia rẽ nhau. Hai chi tộc vẫn trung thành với vương triều Đa-vít, tức vương quốc miền Nam, còn gọi là vương quốc Giu-đa. Mười chi tộc còn lại tách ra khỏi vương triều Đa-vít, tự chọn cho mình một vị vua mới, vua Gia-róp-am, và thiết lập vương quốc miền Bắc, còn gọi là vương quốc Ít-ra-en.
Vương quốc miền Nam có lợi thế là Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đối lại, vương quốc miền Bắc xây dựng hai đền thánh: đền thánh Ghin-gan thuộc cực bắc xứ Pa-lê-tin, và đền thánh Bết-Ên thuộc cực nam cách Giê-ru-sa-lem khoảng chừng 15 cây số, ngỏ hầu dân chúng miền Bắc quên đi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đền thánh Bết-Ên có ưu điểm là nhắc nhớ tổ phụ Gia-cóp; chính ở nơi đây mà vị tổ phụ này đã có một giấc mơ được lưu truyền mãi (một chiếc thang nối liền trời với đất) trong đó ông đã nghe tiếng Đức Chúa phán. Vì thế vị tổ phụ đã gọi nơi nầy là Bết-Ên, nghĩa là “Nhà Thiên Chúa”.
Hai đền thánh nầy, cũng như các tư tế phục vụ chúng, hoàn toàn phụ thuộc vào vương triều, như ông A-mát-gia, tư tế đền thờ Bết-Ên, nói cho ngôn sứ A-mốt biết: “Đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều”.
2.Sứ vụ của ngôn sứ A-mốt: Vốn là người sinh trưởng ở vương quốc miền Nam, vị ngôn sứ đã được Thiên Chúa sai đến vương quốc miền Bắc để thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình. Ngôn sứ xuất thân từ một thị trấn miền Bết-lê-hem; ông làm nghề chăn nuôi súc vật và chăm sóc vườn cây ăn trái, chính xác là châm những trái nho dại để làm cho chúng trở thành trái nho ngọt (phải chăng đây cũng chính là ý nghĩa sứ vụ ngôn sứ của ông?).
Sứ mạng của vị ngôn sứ gặp nhiều khó khăn. Ông phải ngỏ lời với dân chúng đang sống trong cảnh thanh bình, thịnh vượng và phú túc. Tuy nhiên, xã hội đầy dẫy những chuyện bất công. Những kẻ “lắm tiền nhiều của” liên kết với những kẻ “có thế có quyền” áp bức bốc lột những người nghèo hèn trong xứ. Sứ điệp của ngôn sứ gởi đến vương quốc miền Bắc thịnh vượng nầy thật nghiêm khắc: “Chúng ghét người sửa trị nơi cửa công và thù oán kẻ ăn ngay nói thật. Vậy, bởi các ngươi chà đạp kẻ yếu hèn và đánh thuế lúa mì của họ, nên những ngôi nhà bằng đá đẻo các ngươi đã xây, các ngươi sẽ không được ở; những gốc nho ngon ngọt các ngươi đã trồng, các ngươi sẽ không được uống rượu của chúng. Bởi Ta biết tội ác các ngươi nhiều vô kể, tội lỗi các ngươi nặng tầy trời: nào áp bức người công chính, lại đòi quà hối lộ, nào áp bức kẻ nghèo hèn tại cửa công” (5: 10-12).
Vị ngôn sứ phẩn uất trước những lễ hội xa hoa, những đám rước linh đình của những kẻ làm giàu trên xương máu của những người nghèo hèn. Ông nhận thấy ở nơi những lớp vỏ thịnh vượng vật chất giả tạo bên ngoài là thực chất của một xã hội bất công thối nát. Vì thế, vào thời buổi nầy, cách xử thế khôn ngoan nhất là “Dĩ hòa vi quý”, nhắm mắt làm ngơ trước hiện trạng bất công xã hội mà mình đang sống: “Bởi thế thời buổi nầy, ai cẩn trọng thì làm thinh, vì đây là một thời khốn quẩn” (5: 13). Tuy nhiên, ngôn sứ A-mốt không như thế, ông đã nhân danh Thiên Chúa tuyên sấm tố cáo lối sống gian trá của vương quốc nầy: “Vào ngày Ta trị tội Ít-ra-en Ta sẽ triệt hạ các bàn thờ của Bết-Ên: các sừng của bàn thờ sẽ bị bẻ gãy và quăng xuống đất. Biệt thự mùa đông, biệt thự mùa hè, Ta sẽ triệt phá; điện ngọc đền ngà sẽ sụp đổ, lâu đài dinh thự cũng tan hoang” (3: 14-15).
3.Sấm ngôn của A-mốt:
Thật ra, khi thấy hiểm họa xâm lăng của các đạo quân Át-sua, ngôn sứ A-mốt ra sức cảnh báo ngăm đe ngỏ hầu vương quốc Ít-ra-en, vương quốc miền Bắc, có thể hồi tâm trở lại cùng Thiên Chúa của mình, thay đổi đời sống mà tránh khỏi án phạt: “Hãy tìm Đức Chúa thì các ngươi sẽ được sống”. Ngôn sứ A-mốt không nêu đích danh Át-sua, ông chỉ nói đơn giản “quân thù”: “Quân thù sẽ bao vây lãnh thổ, sẽ triệt hạ sức mạnh của ngươi, và đền đài của ngươi sẽ bị cướp phá…” (3: 11). Rảo khắp các thành thị và đền thánh, vị ngôn sứ cảnh báo: liệu Thiên Chúa sẽ gìn giữ dân của Ngài, nếu dân vẫn cứ ngoan cố trong tội ác của mình? Sấm ngôn của ông càng lúc càng vang dội lời cảnh báo ngăm đe: “Hãy tìm kiếm điều lành chứ đừng tìm điều dữ rồi các ngươi sẽ sống”. Sấm ngôn của ông được ứng nghiệm. Vương quốc miền Bắc bị tiêu diệt dưới những cuộc tấn công của quân Át-sua và biến mất vĩnh viễn khỏi lịch sử vào năm 721 trước Công Nguyên.
4.Phẩm chất của ngôn sứ A-mốt:
Trước đó, tư tế A-mát-gia tố cáo ngôn sứ A-mốt với vua Gia-róp-am: “A-mốt âm mưu chống đức vua ngay trên lãnh thổ Ít-ra-en, và đất nước nầy không còn chịu nổi bất cứ lời nào của ông ta nữa. Vì A-mốt nói như thế nầy: Gia-róp-am sẽ chết vì gươm, và Ít-ra-en sẽ bị đày biệt xứ” (7: 10-11). Trong đoạn trích hôm nay, tư tế A-mát-gia, hoặc thừa hành lệnh vua, hoặc nhân danh quyền của mình là tư tế lãnh đạo thánh địa Bết-Ên, truyền lệnh cho ngôn sứ A-mốt ra khỏi thánh địa nầy mà trở về vương quốc Giu-đa: “Nầy thầy chiêm ơi, Mời ông ra khỏi nơi này, cuốn gói về xứ Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm!”.
Tư tế A-mát-gia vu khống ngôn sứ A-mốt khi đồng hóa ông với các ngôn sứ mạo danh, những kẻ xem việc tuyên sấm như một nghề để làm ăn, để kiếm tiền. Trước lời vu khống nầy, ngôn sứ A-mốt đáp lại: ông không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải xuất thân từ trường lớp ngôn sứ, nhưng chỉ là người chăn súc vật và chăm sóc vườn cây. Chính Đức Chúa “đã bắt lấy” ông khi ông đang làm công việc thường ngày của mình, nghĩa là, chính Thiên Chúa đã gọi ông và sai ông đi thi hành sứ vụ của Ngài mà ông không thể cưỡng kháng được. Đó là cứu thoát dân Ít-ra-en khỏi án phạt của Thiên Chúa sắp đến.
5.Sự nghiệp của ngôn sứ A-mốt:
Phải chăng lệnh truyền của tư tế A-mát-gia đã chấm dứt sự vụ của ngôn sứ A-mốt? Chúng ta không biết chính xác; nhưng xem ra sứ vụ ngôn sứ của A-mốt chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, sứ điệp của ông vẫn lưu danh muôn thuở.
Ngôn sứ A-mốt là vị ngôn sứ bút ký sớm nhất mà sứ điệp của ông vẫn còn được bảo tồn bằng văn tự cho đến ngày nay. Ông đã khai sáng “độc thần giáo luân lý”, đây là nét đặc trưng của truyền thống ngôn sứ Ít-ra-en: “đưa đạo vào đời”. Ở nơi sứ điệp của ông, chúng ta gặp thấy âm vang lời dạy của Công Đồng Va-ti-can II: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki-tô, và không có gì thật sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ. Thật vậy, cộng đoàn của họ được cấu tạo bằng những con người đã được quy tụ trong Chúa Ki-tô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc lữ hành về Nước Cha và đã đón nhận Tin Mừng cứu rỗi đem đến cho mọi người. Vì thế, cộng đoàn ấy mới nhận thấy mình thực sự liên đới mật thiết với loài người và lịch sử loài người” (Vui Mừng và Hy Vọng, số 1).
BÀI ĐỌC II (Ep 1: 3-14)
Thánh Phao-lô đã viết bức thư nầy khi ngài bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Chủ đề của bức thư là ý định muôn thuở của Thiên Chúa không gì khác hơn là cứu độ nhân loại. Thiên ý này được Đức Giê-su mặc khải, hoàn thành và chuyển giao cho Giáo Hội.
1. “Chúc tụng Thiên Chúa…”
Đoạn văn mà chúng ta đọc là phần đầu của bức thư ngay sau lời chào hỏi mở đầu. Thánh nhân diễn tả tâm tình tạ ơn theo cách thức cầu nguyện của truyền thống Do thái, được gọi “berakah”: “Chúc tụng Thiên Chúa”. Dù với tư cách cá nhân hay cộng đoàn, lời nguyện nầy bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, không trừu tượng, nhưng luôn luôn vì những ân phúc rõ ràng. “Lời chúc tụng” nầy có thể là lời cầu nguyện tự phát cá nhân, điển hình như những lời kinh nguyện của bà An-na, mẹ ông Sa-mu-en, của ông Tô-bi-a, của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Đây cũng là lời kinh nguyện gia đình trước bữa ăn và đặc biệt long trọng vào bữa ăn Vượt Qua. Đức Giê-su đã đọc “lời chúc tụng” trên bánh và rượu. Sau cùng, lời chúc tụng là hình thức tuyệt vời nhất của kinh nguyện hội đường.
Thánh Phao-lô, trước đây là một Pha-ri-sêu, vẫn trung thành với hình thức chúc tụng nầy. Toàn bộ bài thánh thi nầy kể ra muôn phúc lộc mà Thiên Chúa đã tuôn xuống cho nhân loại. Thánh nhân cũng bắt đầu thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô theo cùng một cách như vậy: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi nhân ái, và là Thiên Chúa hằng sẳn lòng ủi an những ai lâm cảnh gian nan khốn khó…” (2Cr 1: 3).
2.Ý định muôn thuở của Thiên Chúa:
Trước tiên, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng Thiên Chúa là nguyên lý và nguồn mạch của muôn phúc lộc mà Ngài đã chuẩn bị kế hoạch muôn thuở của Ngài trên nhân loại.
Chúng ta ghi nhận rằng “lời chúc tụng” này được xây dựng theo kỷ thuật đóng khung rất quen thuộc với thánh Phao-lô, bắt đầu: “Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (1: 3) và kết thúc: “Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa, anh em đã nghe chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Ki-tô, một khi đã tin, anh em đã được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” (1: 13-14). Như vậy, lời chúc tụng này bắt đầu trong Đức Ki-tô, trong Ngài Thiên Chúa ban xuống muôn vàn phúc lộc của Thánh Thần cho chúng ta, để rồi kết thúc cũng trong Đức Ki-tô mà chúng ta nghe được Tin Mừng cứu độ và cũng trong Đức Ki-tô mà Thiên Chúa đóng ấn chúng ta bằng Thánh Thần, là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta. Nói theo ngôn ngữ của Tin Mừng Gioan: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1: 16).
3.Đức Ki-tô và kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa:
Trong nhiệm cục xưa, mọi sự đều nhằm chuẩn bị cho cuộc giáng trần của Đức Ki-tô; trong nhiệm cục mới, mọi sự đều khởi đi từ Đức Ki-tô. Thánh Phao-lô đặt ở trung tâm lời chúc tụng của mình công trình cứu độ của Đức Ki-tô. Chính nhờ Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, mà kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện. Việc mặc khải thiên ý mầu nhiệm nầy là một sự khai mở diệu kỳ, cao vời khôn ví, vượt quá sự khôn ngoan thông hiểu của loài người (chúng ta nhận ra ở đây một đề tài rất tâm đắc của thánh nhân trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô nầy).
Sau cùng, thánh nhân gợi lên vai trò của Đức Giê-su, “Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô”. Ở đây, động từ Hy lạp “quy tụ” được thánh Phao-lô dùng một lần khác trong thư gởi cho các tín hữu Rô-ma để nói lên rằng giới luật Đức Ái “thâu tóm” tất cả mọi giới luật khác (Rm 13: 9). Trong đoạn trích này, ý nghĩa cũng như vậy. Đức Giê-su “thâu tóm” toàn thể vũ trụ vì ở nơi Người mà muôn loài trên trời dưới đất đều quy hướng về Người để gặp thấy sự hiện hữu của chính mình và ý nghĩa sự hiện hữu của mình. Theo sau thánh Phao-lô, động từ “thâu tóm” đã đi vào trong từ vựng thần học, nhất là với thánh I-rê-nê, và trở thành đối tượng của biết bao sự khai triển.
Nói một cách chính xác, thánh Phao-lô không gán cho Đức Ki-tô vai trò vũ trụ, nhưng triển khai khái niệm “Nhiệm Thể”. Theo cách nầy, thánh nhân chống lại vũ trụ quan của Do thái như trong thư gởi các tín hữu Cô-lô-xê, đồng thời cũng chống lại vũ trụ quan của phái khắc kỷ. Quả thật, trong vài môi trường Do thái, người ta gán cho các thiên thần một vai trò đặc biệt và xem các ngài là những người tổ chức và điều hành vũ trụ. Các Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái giáo duy trì những niềm tin như thế có nguy cơ giảm nhẹ vai trò của Đức Ki-tô. Thánh Phao-lô sửa sai vũ trụ quan này. Đối với phái khắc kỷ, họ thấy sự hòa điệu và trật tự của vũ trụ qua tác động của sức mạnh thần thiêng. Những biểu ngữ của thánh Phao-lô rất gần với phái khắc kỷ, nhưng thánh nhân loại bỏ tất cả khuynh hướng phiếm thần. Về điểm nầy, thánh nhân định vị tư tưởng của mình vào trong truyền thống minh triết Cựu Ước, nghĩa là thánh nhân mượn vài đề tài ở nơi trường phái khắc kỷ, nhưng định vị chúng vào trong viễn cảnh của Đức Chúa cao siêu mầu nhiệm (Hc 43: 26-28; Kn 1: 7; 7: 22-23; 12: 1, vân vân).
4.Kế hoạch của Thiên Chúa được diễn tiến trong lịch sử:
Lúc đó, thánh Phao-lô nhắm đến kế hoạch của Thiên Chúa đối với nhân loại được diễn tiến trong lịch sử, được gọi Lịch Sử Cứu Độ. Lịch sử cứu độ này được bày tỏ qua ba giai đoạn: Chúa Cha hoạch định, Chúa Con thi hành, Chúa Thánh Thần tác động.
Trước tiên, thánh nhân gợi lên việc tuyển chọn Ít-ra-en, dân Chúa chọn, để làm nhân chứng về việc trông đợi Con của Ngài. Ở đây, thánh nhân ngỏ lời với các tín hữu gốc Do thái mà ngài kể mình vào trong số họ với đại từ “chúng tôi”: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Ngài, đã tiền định cho chúng tôi đây…”. Tiếp đó, thánh nhân nói với các Ki-tô hữu gốc lương dân bằng đại từ “anh em”: “Trong Đức Ki-tô cả anh em nữa, anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em…”. Sau cùng, thánh nhân đề cập đến việc Chúa Cha sai phái Chúa Thánh Thần một cách nào đó như là thực hiện lời cam kết theo đó Ngài đã hứa ban gia nghiệp, nghĩa là được sống bên Ngài để “ngợi khen vinh quang Thiên Chúa”.
Diễn ngữ “ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” lập lại đến ba lần (1: 6, 12, 14) như một điệp khúc trong lời chúc tụng nầy. Đó là mục đích tối hậu của kế hoạch Thiên Chúa: đó là cứu cánh của nhân loại.
TIN MỪNG (Mc 6: 7-13)
Trong chương trước, thánh Mác-cô đã tường thuật việc Đức Giê-su chọn nhóm Mười Hai và xác định sứ vụ của họ: “Người thiết lập nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (3: 14). Thánh Lu-ca tường thuật cùng một sự kiện và nói thêm: “Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ” (Lc 6: 13). Thật ra, các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đã tránh dùng danh xưng “Tông Đồ” cho các môn đệ, trong khi thánh Gioan không bao giờ dùng thuật ngữ nầy, vì “Tông Đồ” tức là “người được sai đi” mà chỉ mình Đức Giê-su xứng đáng với danh xưng này: Người là Đấng được Chúa Cha sai đi. Chung chung, các thánh ký thường nói: “nhóm Mười Hai” hay đơn giản “các môn đệ”.
1.Nguồn gốc sứ vụ của các môn đệ:
Sau một thời gian chuẩn bị: “nhóm Mười Hai” đã sống với Người, đã nghe giáo huấn của Người và được Người giải thích mọi điều, đã thấy quyền năng của Người qua các phép lạ của Người, cũng như những thất bại của Người như ở Na-da-rét, Đức Giê-su cho rằng đã đến lúc đặt các ông vào trong thử thách khi sai các ông đi thi hành sứ vụ.
Thái độ nầy của Đức Giê-su thật sự là mới mẽ. Vào thời của Người, các kinh sư quy tụ chung quanh mình một nhóm môn đệ để chia sẻ cuộc sống của thầy; tuy nhiên, họ không bao giờ nghĩ đến việc sai các môn đệ ra đi và ủy quyền cho họ thi hành sứ vụ. Chính Đức Giê-su đích thân sai các ông đi và ủy quyền cho các ông thi hành sứ vụ, như sau nầy Người sẽ nói với họ trước khi từ giả các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em đi” (Ga 20: 21).
2.Sai đi từng hai người một:\
Chúa Giê-su sai các ông đi từng hai người một. Thánh Mát-thêu đã bảo tồn cho chúng ta nhóm từng hai người một nầy: Phê-rô và An-rê, Gia-cô-bê và Gioan, Phi-líp-phê và Ba-tô-lô-mê-ô, Tô-ma và Mát-thêu, Gia-cô-bê và Ta-đê-ô, Si-mon và Giu-đa.
Có phải ở đây Đức Giê-su quan tâm đến tâm lý? Chắc chắn, công việc dễ dàng hơn nếu có hai người cùng nhau bàn bạc, bổ sung cho nhau và giúp đỡ nhau trên dặm đường truyền giáo; nhưng con số “hai” cũng là biểu tượng cộng đoàn, nghĩa là các vị thừa sai không làm việc đơn lẻ một mình, nhưng làm việc cùng nhau theo từng nhóm. Ngoài ra, theo quy định của Lề Luật, một lời chứng chỉ có giá trị nếu có hai nhân chứng (x. Đnl 17: 6; 19: 15; Ds 35: 30). Các môn đệ sẽ làm chứng từng hai người một về những dấu chỉ của Vương Quốc Thiên Chúa: trước hết, quyền năng trên những thế lực sự Dữ; thứ nữa, siêu thoát khỏi những bận lòng trần thế để nhắm đến những của cải tinh thần.
3.Hành trang của vị thừa sai.
Những căn dặn của Đức Giê-su cho các vị thừa sai nhắm đến hành trang thật gọn nhẹ, hay đúng hơn không trang bị gì cả: không lương thực, không bao bị, không tiền giắc lưng, không áo để thay đổi. Có vài chi tiết khác biệt giữa các Tin Mừng Nhất Lãm, tuy nhiên bài học thì rõ ràng: đức khó nghèo và sự phó thác hoàn toàn vào ơn Quan Phòng phải là những dấu ấn mà các vị thừa sai để lại trong lòng mọi người. Phong thái của họ cực kỳ đơn giản giống như những lữ khách lòng không vương vấn bất cứ điều gì cả. Họ được mô tả như những lữ khách luôn luôn sống trong tư thế lên đường, không tìm cách định cư ở một nơi nào nhất định, bởi vì còn có những nơi khác nữa cần đến sứ điệp của họ. Vào lúc dùng bữa sau cùng với các môn đệ, Đức Giê-su sẽ hỏi các ông: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”. Mọi người đồng thanh đáp: “Thưa không” (Lc 22: 35).
Quả thật truyền thống hiếu khách Đông Phương tạo cơ hội thuận tiện cho việc thi hành sứ vụ của các các môn đệ lữ hành. Tuy nhiên, Đức Giê-su căn dặn họ một sự ổn định nào đó: “Khi anh em vào nhà nào mà người ta đón tiếp, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi”.
4.Giũ bụi chân:
Vì là những người được sai đi rao truyền sứ điệp một cách vô vị lợi, nên họ được hưởng quyền được tiếp đón một cách vô vị lợi từ những gia đình mà họ viếng thăm. Nhưng Đức Giê-su cũng tiên liệu sứ điệp kêu gọi hoán cải mà họ rao giảng có thể có những người khước từ: “Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ”.
Đây là tập tục của người Do thái sau cuộc hành trình trở về. Khi đặt chân lên miền đất Pa-lét-tin, họ giũ bụi đường khỏi giày dép để không đưa bụi phàm trần vào đất thánh của mình. Trong lời căn dặn của Đức Giê-su, không có bất kỳ một sự khinh bĩ nào đối với những người khước từ sứ điệp, nhưng hành động “giũ bụi chân” nói lên sự tuyệt giao.
Lời rao giảng của các môn đệ chưa trọn vẹn vì họ chưa rao giảng con người của Đức Giê-su – vả lại vào giây phút này họ chưa có thể hiểu đầy đủ về Ngài – nhưng chỉ chuẩn bị các tâm hồn: kêu gọi hoán cải. Như Đức Giê-su, lời rao giảng của họ kèm theo những dấu chỉ: trừ quỷ, xức dầu bệnh nhân và chữa lành bệnh tật.
5.Xức dầu bệnh nhân:
Vào thời Cựu Ước, người ta xức dầu để làm dịu vết thương; các tông đồ xức dầu, không như một phương thuốc, nhưng như dấu chỉ biểu tượng của một tác động siêu nhiên. Công Đồng Tren-tô đã thấy trong cử chỉ của các tông đồ nầy một trực giác, một phác thảo bí tích xức dầu bệnh nhân. Thư thánh Gia-cô-bê chứng thực rằng bí tích nầy đã được thực hành ngay từ thời các tông đồ: “Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội , thì sẽ được Chúa tha thứ” (Gc 5: 14-15).
Bệnh nhân được chữa lành, ma quỷ bị trục xuất, những cử chỉ này của các thừa sai được ghi khắc trên cùng bình diện với các cử chỉ của Đức Giê-su. Các sự dữ được gán cho tội lỗi, vì thế, việc chúng bị giảm đi loan báo thời đại lòng xót thương của Chúa.
6. Ý nghĩa:
Bài diễn từ sai các môn đệ lên đường nầy rất cổ kính vì mang đậm nét các phong tục thời xưa. Tuy nhiên, sứ điệp của nó rất hiện thực. Tin Mừng được truyền bá bằng những cuộc sống đơn sơ giản dị và trao ban một cách vô vị lợi, vì thế, mời gọi mọi người đón nhận nó cũng một cách vô vị lợi. Sứ điệp được đi kèm theo các dấu chứng chiến thắng của Đức Ki-tô trên sự Ác và Tử Thần là sứ điệp muôn thuở của bài trình thuật cổ kính nầy.
Chúa Giê-su là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, sống thân phận người phàm ở giữa nhân loại. Ngài đã dành 30 năm đầu đời, sống ẩn dật tại Na-da-rét và chỉ dành non 3 năm sau đó để đi rao giảng Tin Mừng và đặt nền móng thiết lập Hội Thánh. Đến năm 33 tuổi, Ngài chịu khổ nạn và phục sinh, chấm dứt cuộc sống hữu hình trên dương thế.
Tại sao Chúa Giê-su lìa bỏ trần gian sớm đến thế?
Ngài rao giảng thì hẳn là phải thuyết phục và lôi cuốn hơn các môn đệ kém cỏi của mình. Ngài trực tiếp đến với muôn dân để chăm sóc, phục vụ cũng như chữa lành các bệnh tật cho họ thì sẽ có tác dụng lớn lao hơn. Giả như Ngài sống trên mặt đất này lâu hơn, trực tiếp đi đến nhiều nơi trên thế giới, tiếp cận với nhiều dân tộc hơn, ban bố nhiều phúc lành cho mọi người… cho đến sáu, bảy mươi tuổi mới bước vào cuộc khổ nạn và phục sinh, thì ảnh hưởng của Ngài sẽ rộng lớn biết bao! Thành quả đạt được sẽ lớn lao biết chừng nào!
Vậy mà Chúa Giê-su không làm như ta tưởng. Ngài không gom hết mọi việc về mình. Ngài kêu mời các môn đệ và chúng ta cộng tác với Ngài.
Trước hết, như bài Tin mừng hôm nay cho thấy, Ngài sai Nhóm Mười Hai môn đệ ra đi rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ, kêu gọi người ta ăn năn sám hối (Mc 6,12-13).
Sau này, Ngài còn sai Nhóm Bảy Mươi Hai môn đệ lên đường tiếp nối sứ mạng của Ngài (Lc 10, 1-12).
Hôm nay, Chúa Giê-su trao sứ mạng rao giảng (ngôn sứ) cho tất cả những ai đã được lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, tức là những người được trở thành chi thể của Ngài.
Thế là Chúa Giê-su chỉ trực tiếp rao giảng trong vòng ba năm thôi, rồi chuyển giao sứ mạng rất hệ trọng của mình cho con cái Ngài khắp nơi trên thế giới, bởi vì công cuộc rao giảng Tin mừng không phải là việc riêng của Đầu (là Chúa Giê-su) mà là việc của toàn thân mình Ngài là Hội thánh. Ai thuộc về thân mình Ngài đều có trách nhiệm tham gia sứ mạng của Chúa Giê-su.
Chúng ta là chi thể của Chúa Giê-su
Từ ngày lãnh Bí tích Thánh tẩy, chúng ta được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giê-su như cành liền cây, như bàn tay nối liền cơ thể và từ đó, chúng ta được thông dự vào sứ mạng ngôn sứ, tư tế và vương đế của Ngài.
Từ đó, Chúa Giê-su muốn rao giảng qua chúng ta là môi miệng của Ngài; Chúa Giê-su muốn chăm sóc bệnh nhân và người đau khổ qua chúng ta là đôi tay của Ngài; Chúa Giê-su muốn tỏ lòng thương xót nhân loại qua chúng ta là trái tim của Ngài…
Thế nên, chúng ta phải cộng tác với Chúa Giê-su và để Ngài sử dụng chúng ta như chi thể của Ngài mà tiếp nối sứ mạng loan Tin mừng và đem ơn cứu độ cho thế giới.
Chúng ta không thể viện cớ mình nghèo nàn, ít học, yếu đuối… để từ khước sứ mạng Chúa giao, vì mười hai môn đệ đầu tiên được Chúa sai đi cũng không có nhiều khả năng, nhiều điều kiện hơn chúng ta hôm nay. Các vị lên đường theo lệnh Chúa Giê-su và dù không mang lương thực, không tiền bạc, không bao bị, không cả chiếc áo thứ hai mà vẫn đạt được thành quả tốt đẹp khác thường. Chúng ta cũng có thể đạt được hiệu quả như thế nếu chúng ta hiến mình cho Chúa Giê-su sử dụng.
Đừng trở nên bàn tay tê bại
Nhân loại hôm nay đông đảo gấp hàng triệu lần so với thời các môn đệ đầu tiên nên nhu cầu loan báo Tin mừng lúc này càng cấp bách và khẩn thiết hơn bao giờ hết. Hôm nay Chúa Giê-su vẫn liên lỉ kêu mời mỗi người chúng ta tham gia sứ vụ loan Tin mừng như các môn đệ xưa.
Là chi thể của Chúa Giê-su, chúng ta không thể từ chối tham gia vào công việc cứu độ của Ngài.
Một chi thể không tham gia vào các hoạt động của thân mình là một chi thể tê bại.
Một chi thể tê bại chẳng những không mang lợi ích gì cho thân mình mà còn trở nên chướng ngại cho hoạt động của toàn thân.
Chắc chắn không ai trong chúng ta muốn làm một chi thể tê bại trong Thân Mình Chúa.
Vậy thì hãy sẵn sàng hiến thân làm khí cụ cho Chúa Ki-tô.
Khi chúng ta hiến đời mình để Chúa Giê-su sử dụng như bàn tay của Ngài, chắc chắn nhiều điều kỳ diệu sẽ được Ngài thực hiện qua con người mỏng giòn yếu đuối của chúng ta.
Lạy Chúa Giê-su,
Dù con bất xứng, ươn hèn và yếu đuối, nhưng con đã là chi thể của Chúa rồi, xin hãy sử dụng con như đôi tay của Chúa để đem lại ơn cứu độ cho những người chung quanh con.
Sự cao ngạo sẽ không bao giờ có lối dẫn người ta đến gặp Thiên Chúa. Đó là một nguyên tắc đã trở thành kinh nghiệm ngàn đời, không phải của riêng ai, nhưng là của cả nhân loại. Kiêu ngạo làm cho người ta xa Chúa đã vậy, nó còn có thể giết chết sự sống của con người. Tất nhiên không phải sự sống thể lý, nhưng là những giá trị thánh thiêng, những giá trị làm nên sự quý giá của cuộc đời, của mỗi người nói riêng và cả nhân loại nói chung như: Niềm tin, một lòng tin tưởng giữa người với người, giữa con người với Đấng Thượng Đế nào đó chẳng hạn. Hay như đức tin, ấy là lòng tín thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa vô biên của những anh chị em Kitô giáo. Hoặc chí ít là những giá trị thường hằng của đời sống như: tình yêu, lòng khoang dung, sự tha thứ, thái độ siêu thoát đối với của cải, lòng tự chủ đối với bản năng quyền lực… Đó là những giá trị làm nên tương quan sâu đậm trong mỗi tâm hồn con người. Bởi thế, nguy hiểm do cao ngạo là mối nguy hiểm lớn: đánh mất Thiên Chúa và đánh mất cả đồng loại quanh ta. Nó biến ta thành kẻ trơ trụi. Trơ trụi đến mức trần trụi: ta chỉ quay quắt với chính mình, cố thủ trong pháo đài của riêng mình. Những danh từ như lòng tin tưởng, bạn bè, người thân… chỉ còn là những khái niệm mơ hồ, xa xăm. Mà con người có bao giờ thành người trọn vẹn khi tự mình che chắn, bao bộc lấy mình. Vì không là người trọn vẹn, do đó cao ngạo đã xô ta đánh mất chính mình.
Từ thủơ tạo thiên lập địa, Kinh Thánh đã chứng minh nỗi đau, sự nghiệt ngã của lòng người cao ngạo: Tổ tông loài người đã cao ngạo đến mức không thể chấp nhận được. Được làm người hạnh phúc, tự do, và thấm đẫm tình yêu Thiên Chúa đã là một ân phúc tuyệt vời, vậy mà tổ tông đã không coi đó làm đủ, ngược lại dám nuôi một giấc mơ tầm cỡ cho đến mức hư vọng và tội lỗi: đòi bằng Thiên Chúa!
Bởi cao ngạo quá, tổ tông đã kéo theo mất mát quá lớn: Mất Thiên Chúa. Bằng chứng là tổ tông đã tìm cách trốn Thiên Chúa. Mất cả tương quan với đồng loại. Mới ngày nào Ađam còn reo to vui mừng khi được Eva làm bạn: “Đây, xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Nhưng sau khi phạm tội tình nghĩa thấm thiết đã không còn. Nguyên tổ bắt đầu đổ lỗi cho nhau: “Người đàn bà Chúa ban cho con đã hại con”. Và trong tội, nguyên tổ đã đánh mất chính mình, trở thành nhữ kẻ vong thân, sống trong lầm lũi, sợ hãi và nhục nhã…
Và hôm nay, một lần nữa, bài Tin Mừng lại cho thấy người đương thời của Chúa Giêsu, cụ thể là chính đồng hương của Chúa đã sai lầm vì cao ngạo. Chính cái lý lịch xem ra rất tầm thường của Chúa mà họ đã xúc phạm nặng nề với Chúa: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?”. Cũng chính cái lý lịch ấy, làm cho họ, thay vì được nhiều ơn lành từ đôi tay Chúa Giêsu, thì ngược lại, họ đánh mất tất cả: “Người đã không làm phép lạ nào được”. Có Thiên Chúa ở với mình nhưng không biết đón nhận, vì thế, họ cũng đánh mất cả Thiên Chúa: Không những không thể làm phép lạ, Chúa Giêsu còn bỏ ra đi, Người “qua các làng chung quanh mà giảng dạy”. Khi cố tình đẩy Chúa Giêsu ra xa khỏi cuộc đời mình, những người đồng hương của Chúa đã làm tổn thương mối quan hệ với Chúa Giêsu xét như một con người: tổn thương mối tương quan giữa người với người.
Mãi đến hôm nay, vì không nhìn nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa, sự cao ngạo quá mức ấy đã làm cho người Do thái, là những đồng hương của Chúa Giêsu, đã qua hai mươi thế kỷ rồi, vẫn cứ vuột mất ơn cứu độ, vẫn là những người mỏi mòn trông chờ Đấng Cứu Thế của lời hứa. Ngày xưa, vì cao ngạo, tổ tông đã thất bại thảm hại. Bây giờ, cũng vì cao ngạo, quê hương của người Do thái, cũng chính là quê hương của Chúa Giêsu, đã tự mình tách khỏi ơn cứu độ, đó quả là một thất bại thảm hại còn lớn gấp ngàn lần thất bại của tổ tông.
Dấu vết thất bại ấy đã để lại một tấm gương ngàn đời cho muôn thế hệ. Vậy mà bài học trong tội của tổ tông và bài học từ những trang Tin Mừng, lắm khi cả tôi và bạn vẫn chưa thuộc. Sự cao ngạo của ta đã nhiều lần làm gãy đổ tương quan giữa ta với Thiên Chúa, giữa ta với nhau, và với chính ta. Có một cách để chữa trị lòng cao ngạo đó chính là tình thương. Sự cao ngạo của những người đồng hương của Chúa Giêsu, trước hết là một lối mòn của những kẻ không biết yêu thương. Bạn và tôi hãy cho nhau lòng yêu thương. Có yêu, ta sẽ không còn đố kỵ, không còn kỳ thị, không còn chấp nhất, không còn định kiến, không thiển cận và cũng hết hẹp hòi. Tất cả những điều đó (đố kỵ, kỳ thị, chấp nhất, định kiến, hẹp hòi…) là con đẻ của cao ngạo. Bởi đó tình thương sẽ giúp ta dẹp bỏ thói cao ngạo. Bạn và tôi hãy yêu thương. Chỉ có tình yêu thương mới là lời giải pháp trọn vẹn.
Trong Phúc Am Nhất Lãm, đoạn Tin Mừng hôm nay của Thánh Marcô là đoạn duy nhất xác nhận về nghề nghiệp của Chúa Giêsu: “Người Thợ Mộc”. Vì các Thánh sử khác đều ghi hoặc là Con của Bác Thợ mộc hoặc là Con của Bác Giuse thợ mộc. Đồng thời còn kể thêm những bàng hệ của Chúa, nhất là nói về xúc cảm do bản tính nhân loại của Ngài. Chúng ta cùng tìm hiểu xem tại sao người ta lại cứng lòng tin đến thế, rồi do sự cứng lòng tin của người đồng hương mà Ngài đau buồn. Và hôm nay sự đau buồn của Chúa vẫn còn hay đã hết !
Trước hết xin làm sáng tỏ một vấn đề, đó là sự hạn chế về ngôn ngữ khi xưa. Người Xê-mít (Semites) nói tiếng Hy lạp ở vùng Tây nam châu Á dùng chữ adelphos và adelphe để diễn tả chung cho anh chị em ruột, anh chị em họ cũng như cháu trai, cháu gái v.v… Theo Học giả về Thánh Kinh Linh mục Kevin O’Sullivan (O.F.M) thì cả hai ngôn ngữ của người Do Thái là Hebrew và Aramaic (hệ ngôn ngữ Xêmitic), sử dụng thời bấy giờ đều không có chữ anh chị em họ (cousin), bởi vậy phải dùng chung chữ anh em ruột thịt. Dĩ nhiên là Chúa Giêsu không có anh chị em ruột nào cả. Điều này được minh xác lần cuối cùng trên thập giá khi Chúa nói với Mẹ mình về Gioan:”Thưa Bà, đây là con của Bà” (Woman, there is your son) (John 19: 26-27). Gần đây người ta tìm thấy một hòm đựng hài cốt có ghi là Giacôbê, con của Giuse, anh em của Chúa Giêsu. Chúng ta không có gì ngạc nhiên cả, vì người Do Thái hay đặt tên con mình trùng với tên trong họ hàng thân thuộc. Xin trích dẫn Phúc Am của thánh sử Luca đoạn 1 câu 59-61 nói về việc đặt tên cho Gioan Tẩy Giả:”Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Dacaria mà đặt cho em. Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: ”Không, phải đặt tên cháu là Gioan.” Họ bảo bà:”Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả”. Còn việc trùng tên thì rất phổ biến vào thời bấy giờ. Thí dụ trong mười hai tông đồ đã trùng đến 3 cặp: hai Simon, hai Giacôbê, hai Juda. Cũng như Maria (tên của Đức Mẹ), trong Cựu Ước có 2 lần bị trùng, và trong Tân Ước có 6 người trùng tên .
Chúa đã giảng dạy trong đền thờ, làm rất nhiều người ngạc nhiên về khả năng cũng như các phép lạ Ngài làm, họ quá quen biết gia đình cũng như thân nhân của Ngài, nên họ tuy ngạc nhiên nhưng không thể tin Ngài, không thể công nhận Ngài là Thiên Chúa. Họ có lý của mình, ít nhất họ có hai điểm để không tin Ngài là con Thiên Chúa.
*Thứ nhất: Ngài là người thợ mộc, không được học hành như những kinh sư, luật sĩ, mà Thiên Chúa là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Tinh, nên phải có tri thức ghê gớm, phải có bằng cấp cao, địa vị trong xã hội v.vv…
*Thứ hai: Ai cũng biết Thiên Chúa sẽ sinh ra trong dân Do Thái bởi một trinh nữ. Nhưng Mẹ Ngài là Bà Maria vợ ông thợ mộc Giuse, thì dứt khoát Ngài không thể là Thiên Chúa được (Mẹ Ngài đồng trinh chỉ có Cha nuôi Ngài biết mà thôi, hoặc thêm một người bà con có thể biết đó là bà Isave, mẹ của Gioan Tẩy Giả).
Hai ngàn năm sau, hôm nay chúng ta được diễm phúc tin Ngài là Thiên Chúa. Có lẽ chúng ta được may mắn hơn người xưa. Tất cả đều được hệ thống rất khoa học, từ Thánh kinh, Thánh truyền, và thuyết phục nhất là các Thánh Tông Đồ. Vì không ai dại gì lại lấy cái chết của mình để làm chứng cho một điều không có thật. Và tất cả các Tông đồ -trừ Gioan- đều hy sinh mạng sống mình cho sự xác quyết Chúa Giêsu Kitô là con Thiên Chúa. Đặc biệt nhất là Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại. Con người nhiệt tình, học thức, chưa từng thấy mặt Chúa Giêsu lần nào. Thế rồi cũng liều lĩnh đi rao giảng về Chúa Giêsu Phục Sinh cho dân ngoại khắp nơi. Dù biết bao lần bị tù đày, đánh đập, ném đá… Ngài vẫn can trường làm chứng cho đến cùng, mãi cho đến khi bị chém đầu.
Mục đích của Thiên Chúa nhập thể là đem chân lý đến cho thế gian, cứu chuộc thế gian. Nhưng người ta đã chối từ Ngài, không tin vào chân lý, vì xuất xứ của Ngài. Do đó Ngài đau buồn là chuyện đương nhiên ! Thế hôm nay, người ta có còn cứng lòng tin như xưa không ? Xin thưa vẫn còn. Vì Chúa là Sự Thật, mà người đời thì không không muốn nghe về sự thật, bởi vì sự thật đòi hỏi người nghe phải thay đổi con người hiện tại, hay phải thay đổi lối sống của họ. Bởi vậy người ta sợ, rồi từ chỗ sợ biến thành chống đối, tẩy chay hoặc khai trừ. Do đó ngày nay Chúa vẫn đau buồn như xưa, nhiều khi còn hơn xưa nữa. Vì có nhiều người một thời biết Chúa, tin Chúa, nhưng rồi lại bỏ Ngài, và chính những người này nhiều khi lại làm cho Ngài bị tổn thương, đau buồn nhiều nhất.
Tóm lại, bao lâu nhân loại còn chối từ ; phủ nhận Chúa, thì Ngài vẫn đau buồn. Bao lâu Sự Thật chưa được chấp nhận, bấy lâu chương trình cứu độ của Ngài chưa thành tựu. Là những người được may mắn tin nhận Chúa, chúng ta luôn luôn chấp nhận Sự Thật, và hiểu rằng sự thật luôn được cảm nghiệm như một sự phê bình, xét đoán, hay nói cách triệt để hơn nó là sự phán xét. Khi chúng ta đối diện với sự thật, chúng ta có một lựa chọn: hoặc là chấp nhận sự thật rồi thay đổi cung cách sống, hoặc chúng ta chối bỏ sự thật. Nếu chúng ta phủ nhận sự thật, dĩ nhiên Thiên Chúa sẽ không giáng xuống cho chúng ta một sự trừng phạt nào cả. Nhưng nói đúng hơn, chúng ta sẽ bị đau khổ bởi những hệ qủa không thể tránh được do chối từ sự thật. Nếu không chấp nhận sự thật thì bị phán xét, còn chấp nhận sự thật thì được chúc lành, hứa hẹn, và kết qủa của sự hứa hẹn này chỉ đến khi chúng ta biết đi theo con đường của Chúa, biết tuân thủ các giới răn của Ngài. Và cho đến khi nào nhân loại nhận ra Ngài là đường, là sự thật và là sự sống, bấy giờ Thiên Chúa mới thật sự được tôn vinh, vì Ngài không còn phải đau buồn vì người ta cứng lòng tin.
Chúa nhật 14 Thường niên năm B dạy chúng ta một bài học về những cản trở khiến chúng ta khó nhận ra Thiên Chúa. Thời ngôn sứ Edêkien thì dân Ítraen tỏ ra là một dân phản nghịch, chống lại Thiên Chúa, mặc dầu Thiên Chúa một mực yêu thương tha thứ cho họ. Thời Đức Giêsu thì dân làng Nadarét đồng hương của Đức Giêsu không tin Người mặc dù họ thấy Người khôn ngoan lạ thường và họ biết Người làm nhiều phép lạ phi thường ở các làng chung quanh. Tất cả chỉ vì lòng người cao ngạo, hẹp hòi, mù quáng và thành kiến. Họ muốn Thiên Chúa phải lệ thuộc vào họ, phải làm những điều họ muốn và theo cách họ nghĩ. Dân Chúa ngày hôm nay và bản thân mỗi người chúng ta phải làm thế nào để trở thành những người con hiếu thảo của Thiên Chúa? Đó là điều chúng ta phải xem xét nếu muốn sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay.
I. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1.1 Bài đọc 1: Ed 2,2-5: Nếu như Thần Khí của Thiên Chúa không nhập vào ngôn sứ Edêkien, thì không biết ông có đủ can đảm mà đến với dân riêng của Thiên Chúa mà nhắc nhở răn dạy họ không. Để giúp ông vững dạ trong sứ vụ khó khăn, Thiên Chúa tỏ cho ông biết là Người biết rõ lòng dạ của dân cùng với sự ngỗ ngược và cứng lòng của họ: ”Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ítraen, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng. Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng” Ngôn sứ Edêkien thấy Thiên Chúa biết rõ ruột gan của dân mà vẫn thương yêu dân thì ông phải cố gắng chu toàn trách nhiệm làm ngôn sứ của Thiên Chúa để nói lời Thiên Chúa cho họ, mặc dù họ có thể nghe mà cũng có thể chẳng thèm nghe lời ngài.
1.2 Bài đọc 2: 2 Cr 12,7-10: là những lời Phaolô viết cho tín hữu Côrintô về một nỗi yếu đuối hoặc khiếm khuyết hoặc cám dỗ thiêng liêng mà ngài phải chịu đựng suốt cuộc đời. Chúng ta không rõ đó là cái gì, vì Phaolô nói một cách rất mơ hồ là “một cái dằm”. Cái dằm thì không đủ làm cho người ta chết, nhưng nó làm cho người ta đau đớn và khó chịu, không lúc nào yên. Nhưng điều chúng ta biết được là Phaolô đã nhờ cái dằm ấy mà sống khiêm tốn trong đời sống tâm linh, giữa bao ơn huệ lớn lao mà Thiên Chúa đã khứng ban cho riêng ngài: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mạc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xatan được sai đến để vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại” Như thế thì sự yếu đuối, mỏng giòn, khiếm khuyết trong đời sống tâm linh cũng là điều có ích cho tâm hồn những người thật lòng yêu mến Chúa, vì nhờ đó mà họ khiêm tốn hơn, tránh khỏi cảnh tự cao tự đại đáng ghét theo tinh thần Phúc âm. Không ít vị thánh đã là các đại tội nhân.
1.3 Bài Tin Mừng: Mc 6,1-6: là bài tường thuật của Máccô về những suy nghĩ và thái độ của những người đồng hương Nadarét đối với Đức Giêsu. Khi thấy Đức Giêsu tỏ ra khôn ngoan khác người, dân làng Nadarét cũng ngạc nhiên và thắc mắc nhưng họ không thoát ra khỏi những thành kiến tầm thường để nhận ra Đức Giêsu là Ai. Trái lại họ dựa vào những gì họ biết về Người (cha mẹ, họ hàng, nghề nghiệp, tài sản và giai cấp xã hội) để nghi ngờ và không tin Người. Phúc âm Máccô cho ta thấy Đức Giêsu rất đơn sơ chân chất: chính Người cũng ngạc nhiên về thái độ không tin của những người đồng hương: “Người lấy làm lạ vì họ không tin” và vì họ không tin nên “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó” Phúc âm Máccô còn cho thấy Đức Giêsu rất hiền lành: Từ sự kiện không được người đồng hương kính tin, Người chỉ rút ra một kết luận: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc và trong gia đình mà thôi” và đến các làng chung quanh mà giảng dạy cho dân chúng ở các làng ấy. Ở một đoạn văn khác, những người bà con thân thuộc của Đức Giêsu tìm cách quản lý Người, vì cho rằng Người khùng dại, mất trí (xem Mc 3,21).
II. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
2.1 Có nhiều cản trở khiến con người không nhận ra Thiên Chúa: Đó là kết luận thứ nhất mà chúng ta có thể rút ra được từ các bài đọc Thánh Kinh hôm nay. Con người không nhận ra Thiên Chúa, có thể vì tính cao ngạo, cứng đầu cứng cổ; cũng có thể vì suy nghĩ hẹp hòi và thành kiến. Thay vì lấy Thiên Chúa là chuẩn thì con người thường thích lấy mình làm chuẩn, làm thước đo mà bắt Thiên Chúa phải theo. Cách nói hình tượng là con người nặn ra Thiên Chúa theo suy nghĩ của mình chứ không chịu chấp nhận sự việc Thiên Chúa làm sao thì đón nhận nhận Người như vậy. Đó cũng là một dạng tội phạm thượng, tội thờ ngẫu tượng, mà Thiên Chúa đã lên án nhiều lần trong Cựu Ước.
Nhìn vào đời sống tâm linh của chúng ta, có lẽ chúng ta cũng phải tự thú rằng chúng ta cũng là những người con ngỗ nghịch, cứng đầu cứng cổ, đầy thành kiến và bảo thủ đối với Thiên Chúa.
Chúng ta có nhận ra và đón rước Chúa trong Thánh Kinh, nhất là trong 4 Phúc âm, như Thiên Chúa đã tự tỏ mình ra và mong đợi không? Càng ngày người ta càng nhận thấy người Công giáo thua kém anh chị em Tin Lành trong lãnh vực hiểu biết và truyền giảng Lời Chúa như thế nào. “Vô tri bất mộ”: không hiểu biết thì làm sao mến mộ, mà hiểu biết thế nào được nếu không chịu tìm tòi, học hỏi. Nhìn vào sinh hoạt tôn giáo của các giáo xứ, thử hỏi có bao nhiêu giáo xứ có các khóa học hỏi Thánh Kinh cho người lớn? Tương tự như thế, mỗi người, mỗi cộng đoàn hãy tiếp tục tự vấn chính bản thân mình: Chúng ta có nhận ra và đón rước Chúa trong Bí tích Thánh Thể như Chúa mong đợi không? Chúng ta có nhận ra và đón rước Chúa trong anh chị em, nhất là trong những người bé mọn, thấp cổ bé miệng và túng nghèo cũng như trong những người sống xa Chúa, chống lại Chúa, như Chúa đã dậy không? Chúng ta có nhận ra và đón rước Chúa trong các biến cố lớn nhỏ, liên hệ tới cá nhân và cộng đồng không? Chúng ta có nhận ra các dấu chỉ của thời đại mà Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đã tạo nên một ý thức sống động trong thời đại của Công đồng Vaticanô II không?
2.2 Là những người con hiếu thảo và dễ bảo của Thiên Chúa: Đó là kết luận thứ hai và là sứ điệp của Lời Chúa hôm nay. Nhưng làm thế nào để chúng ta trở nên những người con hiếu thảo và dễ bảo của Thiên Chúa? Trả lời được câu hỏi gai góc này là chúng ta vạch ra được con đường tiến về Chúa:
2.2.1 Cần có lòng đơn sơ trong trắng của trẻ thơ, vì trẻ thơ thì tin lời cha mẹ một cách tuyệt đối và làm những gì cha mẹ dậy bảo. Cũng vì trẻ thơ thì sằn sàng đón nhận những cái mới, cái hay, cái đẹp đến từ Thiên Chúa, con người và xã hội.
2.2.2 Cần siêng năng chịu khó tìm tòi học hỏi, đọc, suy niệm Thánh Kinh và cầu nguyện vì trong các Sách Thánh, Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng triù mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ. Cũng còn vì Lời Chúa là qui luật tối cao hướng dẫn đức tin (xem Chương VI, số 21, Hiến chế Mạc Khải hay Lời Thiên Chúa, của Công đồng Vaticanô II). Vì thế những người con hiếu thảo của Thiên Chúa sẽ lấy Lời Chúa làm chuẩn, sẽ để sứ diệp của Lời Chúa chất vấn lương tâm và đời sống của mình mỗi ngày.
2.2.3 Cần học tập noi gương Đức Giêsu Kitô: không ai thảo hiếu với Thiên Chúa Cha cho bằng Đức Giêsu Kitô là Con Một Yêu dấu của Cha và là Chúa chúng ta. Đức Giêsu được Chúa Cha ban cho chúng ta, không chỉ để chúng ta được thứ tha mọi tội phản nghịch, mà còn để chúng ta biết đường biết lối tìm về với Chúa Cha là cùng đích và hạnh phúc của mình. Chính vì thế mà Đức Giêsu đã nhiều lần gọi mời: “Hãy học cùng Ta! Hãy đến với Ta! Hãy noi gương bắt chước Ta!”
III. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha yêu thương, kiên nhẫn và quảng đại vô cùng, Chúa chẳng chấp tội phản nghịch, thói cứng đầu cứng cổ, óc hẹp hòi thiển cận của chúng con. Chúng con xin cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha. Chúng con xin Cha ban cho chúng con một tấm lòng thảo hiếu, dễ bảo và biết ơn đối với mọi ân sủng của Cha. Chúng con xin Cha ban cho chúng con ơn biết noi gương bắt chước Đức Giêsu Kitô, Con Một yêu dấu của Cha và ơn biết quí trọng và siêng năng tìm vào kho tàng Thánh Kinh là Lời hằng sống của Cha để chúng con biết Thánh Ý của Cha và thực thi Thánh Ý ấy trong đời sống cá nhân, gia đình, cộng đoàn của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Con Thảo của Cha, xin Chúa dạy chúng con biết sống thảo hiếu với Cha, vâng phục Cha và yêu thương anh em như Chúa đã sống và đă dạy trong Phúc âm.
Lạy Chúa Thánh Thần là Thần Khí của Thiên Chúa, xin Chúa uốn lòng chúng con nên tâm hồn trẻ thơ, mềm dẻo, dễ bảo đối với Cha, để chúng con trở nên những người con thảo hiếu, theo mẫu gương của Đức Giêsu Kitô. AMEN. (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội).
· Am 7,12-15: (14) Ngôn sứ Amốt nói: «Tôi không phải là ngôn sứ (…) (15) Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi và đã truyền cho tôi: «Hãy đi tuyên sấm cho Ítraen dân Ta».
· Ep 1,3-14: (9) Kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước (10) là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô. · TIN MỪNG: Mc 6,7-13
Đức Giê-su sai Nhóm Mười Hai đi giảng (Mt 10,5-15; Lc 9,1-6)
Khi ấy, (7) Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. (8) Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; (9) được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. (10) Người bảo các ông: «Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. (11) Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ». (12) Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. (13) Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
1. Vì ý gì mà Đức Giêsu sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng «từng hai người một»? để khích lệ, nâng đỡ lẫn nhau? để cộng tác với nhau?
2. Tại sao Đức Giêsu lại yêu cầu các tông đồ đi loan báo Tin Mừng với quá ít hành trang? Ý của Đức Giêsu là gì?
3. Tại sao có những người tông đồ không dám dấn thân đúng như sứ mạng mình đòi hỏi? Có phải vì họ đã ôm lại tất cả những gì họ cam kết từ bỏ?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu sai các môn đệ đi «từng hai người một»
Không phải không hữu ý mà Đức Giêsu sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng «từng hai người một». Nếu đi riêng lẻ thì chắc chắn các môn đệ sẽ đi được nhiều nơi hơn, tiếp xúc được nhiều người hơn, nhưng hiệu quả sẽ kém hơn, vì đi một mình thì khi gặp khó khăn – chẳng hạn khi bị người khác từ chối không tiếp – các ông sẽ không biết bàn hỏi với ai, không được ai khích lệ, nên sẽ dễ nản lòng và bỏ cuộc. Khi sai đi «từng hai người một», Đức Giêsu mong các ông hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn, nhất là biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ Ngài (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ hết sức sống động và lôi cuốn người khác theo mình.
Điều hết sức quan trọng là tinh thần hợp tác khi làm tông đồ. Người Việt ta bị mang tiếng là rất kém về tinh thần hợp tác, kể cả khi làm công tác tông đồ. Chính vì thế khi làm những việc lớn vốn cần sự hợp tác của nhiều người, người Việt thường làm kém hiệu quả. Người ta vẫn nói: khi làm việc riêng lẻ thì người Việt thường làm tốt hơn người Nhật, nhưng khi làm chung với nhau thì hai người Việt làm không bằng hai người Nhật, và tệ hơn nữa là ba người Việt thì làm thua xa ba người Nhật. Tại sao? Vì người Việt thường chỉ có «bụng riêng» mà ít có «bụng chung». Là người Việt, khi phải nói ra sự thật này, ta không khỏi đau lòng và bị chạm tự ái thay cho dân tộc. Ta thấy có khá nhiều trường hợp hai người cùng làm việc tông đồ với nhau nhưng lại không ưa nhau: người này không muốn người kia nổi bật hơn mình, và tỏ ra khó chịu rõ rệt khi thấy người kia được mọi người ưa chuộng hơn mình… Đúng lý ra khi làm tông đồ, người ta phải từ bỏ «cái tôi» của mình trước đã, có thế, công việc tông đồ mới có hiệu quả.
2. Tinh thần siêu thoát của người tông đồ
Khi sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng, nếu theo cách suy nghĩ của đời thường, Đức Giêsu đã phải yêu cầu các ông đem theo đồ này vật nọ, nhất là tiền bạc, để phòng xa có khi phải dùng đến. Nhưng Ngài lại «chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo». Có phải Đức Giêsu không khôn ngoan? Ngày nay, tại Việt Nam, một linh mục khi mới thụ phong thường phải sắm cho mình tối thiểu một chiếc xe gắn máy tương đối tốt, một vài áo chùng thâm (soutane), một số áo lễ, và một lô sách vở (hàng trăm cuốn). Cũng có vị còn trang bị cho mình một dàn máy vi tính thật mạnh, điện thoại cố định hoặc di động… Những giáo dân làm công tác tông đồ ở xa cũng phải trang bị cho mình những vật dụng cần thiết như tiền bạc, một lô quần áo, sách vở… Phải chăng như thế là trái với tinh thần của Đức Giêsu? – Tôi nghĩ không thể hiểu lời nói trên của Đức Giêsu theo nghĩa đen, mà phải hiểu theo nghĩa tâm linh. Vả lại mỗi thời mỗi khác, cần phải thích ứng theo thời đại. Thời nay mà áp dụng theo nghĩa đen lời của Ngài thì rất có thể làm việc tông đồ sẽ không hữu hiệu. Tuy nhiên, điều quan trọng mà Đức Giêsu muốn nhấn mạnh chính là tinh thần siêu thoát của người tông đồ.
Người tông đồ không nên quá lệ thuộc hay câu nệ vào phương tiện này hoặc phương tiện kia. Phương tiện nào thật sự cần thiết cho mục đích tông đồ thì đều có thể sử dụng, thậm chí cần phải sử dụng để việc tông đồ đạt được hiệu quả cao. Tuy nhiên, phương tiện nào không cần thiết thì người tông đồ nên loại bỏ để khỏi bị cồng kềnh, và khỏi bị lệ thuộc vào chúng. Người tông đồ không nên bị lệ thuộc quá nhiều vào ngoại cảnh, vào các phương tiện, vào các vật dụng bên ngoài mình.
Về vấn đề này, thiết tưởng ta nên phân biệt 3 loại nhu cầu:
a) Nhu cầu tự nhiên và cần thiết: như ăn, uống, thở hít không khí, thuốc chữa bệnh, quần áo che thân, nhà cửa, nghỉ ngơi hay giải trí khi mệt mỏi, sự an toàn bản thân… Đây là những nhu cầu mà mọi người đều có bổn phận phải thỏa mãn cho mình để có thể tồn tại và hạnh phúc, để sống khỏe mạnh, giữ cho thân thể tráng kiện, tránh những đau đớn… Tuy nhiên, người tông đồ nên sẵn sàng chấp nhận từ bỏ những nhu cầu tự nhiên và tối cần thiết này khi bổn phận phải làm theo tiếng lương tâm thúc bách. Nhiều người đã sẵn sàng chết, nhịn đói, bị tù… để bảo vệ đức tin, để tranh đấu cho chân lý, công lý và tình thương…
b) Nhu cầu tự nhiên nhưng không cần thiết: như thay đổi bữa ăn cho ngon miệng, quạt khi nóng bức, phương tiện di chuyển (xe cộ), phương tiện làm việc hữu hiệu… Thiết tưởng người tông đồ nên sẵn sàng thỏa mãn loại nhu cầu này để đời sống trở nên thoải mái, nhờ đó thể chất cũng như tâm lý phát triển quân bình. Tuy nhiên, nếu vì nó mà ta phải nhọc nhằn, lo bận, lệ thuộc, làm ta mất tự do, mất uy tín thì ta hãy sẵn sàng từ bỏ.
c) Nhu cầu giả tạo (không tự nhiên cũng không cần thiết): như sự ham mê danh vọng, bạc tiền, thú vui, quyền lực, sự sang trọng thế gian… Thiết tưởng người tông đồ nên thẳng tay từ bỏ loại nhu cầu này.
Thông thường, càng ít nhu cầu, chúng ta càng dễ sống siêu thoát, càng dễ làm theo những đòi hỏi của lương tâm, càng dễ sống thanh khiết, hiên ngang, cao thượng, can đảm… Đó là điều kiện cần thiết để làm tông đồ một cách hữu hiệu. Người bị lệ thuộc vào quá nhiều nhu cầu thì thường phải sống trong sợ hãi, bất an, dễ trở nên hèn nhát, không dám dấn thân theo những đòi hỏi của lương tâm…
3. Siêu thoát để dễ dàng dấn thân cho sứ mạng tông đồ
Hiện nay, việc tranh đấu cho chân lý, công lý, và tình thương – ba điều cốt tủy của lề luật (x. Mt 23,23) – là một bổn phận rất thực tế và quan trọng không thể thiếu trong công việc ngôn sứ, trong đời sống chứng nhân của người tông đồ. Thật không thể hiểu được một người tông đồ rao giảng sứ điệp yêu thương của Đức Giêsu lại có thể ngoảnh mặt làm ngơ như một kẻ vô trách nhiệm trước những đau khổ khốn cùng của đồng loại, trước những cảnh bất công trước mắt của xã hội! Các tín đồ tôn giáo khác cũng cảm thấy đó là một bổn phận thúc bách, đừng nói gì những người làm tông đồ của Đức Giêsu, nhất là những người tông đồ hậu Công Đồng Vatican II (x. Hiến chế Vui mừng và hy vọng, một văn kiện đòi hỏi người Kitô hữu phải dấn thân cho xã hội, thế giới, trần gian)!
Quả thật, tranh đấu cho chân lý, công lý và tình thương – nhất là trong những thể chế độc tài, phi nhân – đòi hỏi một sự dấn thân quyết liệt, một sự can đảm phi thường. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi ta có một tinh thần từ bỏ thật sự, có sẵn sàng từ bỏ mọi sự ta mới trở nên vô úy, can đảm thật sự. Người có quá nhiều cái để mất – nghĩa là bị lệ thuộc vào quá nhiều nhu cầu – sẽ bị chìm ngập trong lo sợ, và sẽ không dám làm gì cả. Trái lại, người không có gì để mất – tức những người có rất ít nhu cầu và sẵn sàng từ bỏ tất cả – thì sẽ không có gì để sợ. Tóm lại, càng ít tham vọng, càng ít nhu cầu thì càng ít sợ hãi, và càng nhiều tham vọng, càng nhiều nhu cầu thì càng dễ sợ hãi. Chỉ những người có thể hạnh phúc được bất cứ trong hoàn cảnh nào, nghĩa là những người không dính bén vào bất cứ vật gì sự gì, có thể chấp nhận mất tất cả mà vẫn hạnh phúc, mới dám dấn thân vào những công cuộc đòi hỏi nhiều hy sinh như vậy!
Thật vậy, một người muốn ăn sung mặc sướng, ham sống trên nhung lụa, muốn được đầy đủ mọi tiện nghi, muốn hưởng mọi đặc quyền đặc lợi, muốn được người đời ưu đãi trong mọi việc… làm sao người ấy dám vì lương tâm, vì sứ mạng, vì lý tưởng mà chấp nhận tù tội, sống kham khổ, hay sống thiếu những đặc quyền đặc lợi ấy? Đừng hy vọng gì hạng người này dám dấn thân cho Giáo Hội hay xã hội nếu sự dấn thân ấy có nguy cơ khiến họ phải từ bỏ những ưu đãi của người đời. Tâm lý của hạng người này là thà sống hèn sống nhục hơn là sống trong thiếu thốn; thà chết đi với tiếng xấu muôn đời còn hơn phải chấp nhận một vài ngày tù tội; thà làm một «mục tử ghẻ» còn hơn phải hy sinh một vài ưu đãi vì lên tiếng bênh vực một con chiên lành bị áp bức bất công; thà làm một ngôn sứ giả được mọi người tôn trọng, ưu đãi còn hơn phải làm một ngôn sứ thật với cuộc đời đầy vất vả chông gai!
Hiện nay ta thấy có rất nhiều người mang danh là tông đồ, đã từng cam kết từ bỏ mọi sự thế gian – nào là gia đình, vợ con, quyền lực, tiền bạc – để sẵn sàng dấn thân cho Chúa, cho dân Chúa, cho chân lý, cho công lý, nhưng trong thực tế lại không dám dấn thân chút nào cả. Tại sao? Chính vì họ đã ôm lại vào mình quá nhiều tham vọng và nhu cầu, trong đó có biết bao nhu cầu giả tạo và tham vọng không xứng hợp với lý tưởng (chẳng hạn tham vọng nắm giữ quyền lực, ham muốn giàu sang, quyết thăng quan tiến chức trong Giáo Hội hoặc xã hội). Tóm lại, họ chỉ cam kết từ bỏ tất cả một cách hình thức đúng theo nghi thức dấn thân đòi buộc mà thôi, còn trong thực tế thì họ chẳng từ bỏ bất cứ một thứ gì, trái lại họ còn ôm vào mình nhiều thứ hơn cả những người không cam kết gì.
Ý của Đức Giêsu khi khuyên các tông đồ không đem gì theo, không nên hiểu là một hành động thực tế cho bằng một thái độ nội tâm: không dính bén vào bất kỳ một vật gì hay sự gì, để có thể từ bỏ chúng bất kỳ lúc nào, trong bất kỳ trường hợp nào mà sứ mạng và lương tâm đòi buộc.
CẦu nguyỆn
Lạy Cha, con vừa muốn làm tông đồ cho Cha, vừa muốn dấn thân phục vụ tha nhân, nhưng cũng vừa muốn sống một cuộc đời sung sướng, đầy đủ, được ăn trên ngồi trốc, được hưởng mọi ưu đãi của thế gian. Xin Cha giúp cho con hiểu rằng con chỉ có thể chọn một trong hai mà thôi. Nếu muốn chọn cả hai, con sẽ đi vào con đường của các ngôn sứ giả, của những «mục tử ghẻ», nghĩa là chỉ mang danh là ngôn sứ, là mục tử, nhưng bản chất chẳng phải ngôn sứ, là mục tử, mà chỉ là lang sói mà thôi. Xin giúp con biết ghê tởm sự giả dối ấy!
Khi suy về lời Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô rằng: "Con là đá, trên đá này thầy xây Giáo Hội của Thầy: TN15-B22
Khi suy về lời Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô rằng: "Con là đá, trên đá này thầy xây Giáo Hội của Thầy. Dù quỷ hoả ngục cũng không thắng được con". Tôi thấy rõ nền tảng của viên đá Phêrô rất vững vàng, không gì có thể làm lay chuyển được. Rồi tôi lại nghĩ đến lời thứ hai "Hãy đi rao giảng cho muôn dân", tôi thấy được sứ mệnh Chúa truyền cho Giáo hội ấy là - Đi Loan truyền và kéo người ta về với Giáo hội.
Việc Truyền Giáo thời sơ khai: Là việc Truyền Giáo dành cho các Tông Đồ, Giám Mục, Linh Mục là những người bước theo ơn gọi đặc biệt để mở rộng nước Chúa và truyền bá Đức Tin.
Sau Công Đồng Vaticanô 2: Giáo Hội coi việc truyền giáo không chỉ là nhiệm vụ của Linh Mục, Tu Sỹ mà cho toàn thể Cộng Đồng Dân Chúa. Vì thế sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân được ban hành để kêu gọi Giáo Dân cùng làm việc Tông Đồ. Lý do: việc truyền rao lời Chúa, đem tinh thần Chúa đến cho mọi người là nhiệm vụ chung và giáo dân là cộng sự viên hạng nhất, họ ở sát bên người khác hơn Linh Mục.
Hôm đó tôi đi dự lễ chịu chức Linh Mục tại nhà thờ Chính Tòa Boston, 12 Thầy Sáu lên lãnh Chức Thánh. Tôi thấy cả một gian thánh đầy những người mang Thánh Chức, nửa cánh phải nhà thờ là những người mang chức Linh Mục. Trên bàn thờ cũng toàn đồ thánh. Nhưng việc quan trọng hơn cả là việc đọc Sách Thánh, loan truyền lời Chúa cho mọi người nghe, lại không phải là thánh: Người nói lên lời Chúa là một giáo dân. Tiếng vang loan ra cho mọi người nghe là cái Micro Phone hơn là các người có chức thánh đứng đó. Chiếc máy quay phim của chuyên viên thu hình rất đời, nhưng nhờ có nó lời Chúa mới tới tai người dự lễ. Hình ảnh, âm thanh mới tới được tai nhiều người đang theo dõi trên màn ảnh khắp nơi trong giờ đó. Những chuyện đời ấy thật rất hữu ích trong việc loan truyền đức tin cho mọi người. Người dâng của lễ lên bàn thờ cũng là giáo dân làm luôn. Sau đó đến phần các cha là cộng tác với anh chị em, phục vụ anh chị em. Sau Thánh Lễ về nhà tôi ở trong khuôn viên nhà thờ còn anh chị em đến, tiếp xúc với hết mọi bậc người....
Tôi nghĩ đến anh chị em gần mọi người trần thế hơn tôi. Anh chị em gặp gỡ, đối thọai với người ngoại nhiều hơn chúng tôi. Anh chị em nói ra những gì anh chị em đã cảm nghiệm nơi Chúa, nơi Giáo Hội, đã thực hành và bắt chước những gì Chúa làm, Chúa nói, Chúa sống cho người đời nhiều hơn chúng tôi... Anh chị em chính là dụng cụ tài tình, sắc bén Chúa muốn dùng để truyền đạo Chúa cho mọi người hơn cả Linh Mục chúng tôi nữa. Anh chị em là sợi dây nối kết mọi người với Giáo Hội qua việc bác ái, giúp đỡ, an ủi, chia sẻ buồn vui, soi theo chân lý, phát huy tình thương của Chúa cho mọi người. Anh chị em là người có sức sống của Đức Kitô, có tinh thần Chúa, là khí cụ bình an của Chúa chuyên chở tin vui cho hết mọi người, phúc âm hóa mọi người.
Đọc bài Phúc Âm hôm nay tôi cũng thấy anh chị em giống các Tông Đồ nhiều lắm, không dày, không dép, không nhiều áo nhiều quần, chen lấn vào mọi chỗ với bộ đồ lao công.... Chúng ta đã ý thức được Chúa gọi làm Tông Đồ giữa trần gian rồi, có hết mọi vẻ bề ngoài rồi, chỉ cần chúng ta thấm sâu tinh thần của Chúa nữa là việc Truyền Giáo của chúng ta thành công. Lương thực của chúng ta là:
1. Suy gẫm và sống theo lời Chúa dạy qua Phúc Âm.
2. Năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Xá Giải và Thánh Thể.
3. Thực hành luật bác ái Phúc Âm: Cùng làm với Chúa Kitô, tức là tin có Chúa hiện hiện trong việc bác ái ta làm.
Các lương thực này như men như muối anh chị em ướp mặn trần gian vậy.
Nhìn vào thực tại còn biết bao người chưa nhận biết Chúa. Ngay xung quanh chúng ta. Miền Boston 20.000 người Việt Nam nới có khoảng 3 ngàn người Công Giáo. Trong số 3 ngàn người có mấy người đi theo Chúa làm việc Truyền Giáo như các cha ? Được bao nhiêu người nghĩ đến mình có nhiệm vụ truyền giáo (gương sáng, cầu nguyện). Bao nhiêu người nghĩ rằng tôi không có nhiệm vụ này ?
Tôi ước mong mỗi người chúng ta ý thức được sứ mạng tông đồ loan tin mừng để chúng ta làm gương, sống đạo, chia sẽ tình bác ái.... với mọi người, hầu nhiều người biết Chúa, biết Giáo Hội mà quay trở lại con đàng hạnh phúc thật, sứ mạng làm gương sáng, sứ mạng nói cho mọi người về Chúa (7/2003)
Đức Giêsu sai 12 Tông đồ đi thực tập truyền giáo. Người chỉ thị cho các ông phải rao giảng sự: TN15-B23
Đức Giêsu sai 12 Tông đồ đi thực tập truyền giáo. Người chỉ thị cho các ông phải rao giảng sự sám hối. Rao giảng vừa bằng lời nói vừa bằng gương sáng. Gương sáng nói đây chính là: Sự hiệp nhất yêu thương giữa hai người cùng trong một nhóm; Là phải sống thanh thoát khó nghèo và luôn cậy trông phó thác cuộc đời cho Chúa quan phòng gìn giữ; Là khiêm tốn phục vụ tha nhân hết khả năng bằng các việc xua trừ ma quỉ và xức dầu chữa lành các bệnh nhân.
2) Chú thích:
- Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỉ (Mc 6,7):
+ Người gọi Nhóm Mười Hai lại: Trước đó, Đức Giêsu đã tuyển chọn và thành lập Nhóm Mười Hai, để các ông “ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (x. Mc 3,13-14). Giờ đây Đức Giêsu mời gọi Nhóm này lại để sai các ông đi thực tập rao giảng Tin Mừng.
+ Sai đi từng hai người một: Tông đồ (A-pos-to-lus) nghĩa là “người được sai đi”. Đức Giêsu sai Nhóm Mười Hai đi để họ làm việc tông đồ. Chúa sai đi từng hai người một là để họ ý thức rằng: Các ông cần phải đồng tâm hiệp lực với nhau khi làm việc tồng đồ và tình yêu thương giữa các ông là dấu hiệu để người ngoài nhận biết các ông chính là môn đệ đích thực của Đức Giêsu (x. Ga 13,35).
+ Ban cho các ông quyền trừ quỷ: Quỷ (diabolos nghĩa là kẻ vu khống), hoặc Xatan (nghĩa là địch thủ), thường được dùng để chỉ về một nhân vật vô hình, chuyên nói dối và xúi giục loài người phạm tội chống lại Thiên Chúa. Sứ mệnh của Đức Kitô đến là để “tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết là ma quỷ” (x. Dt 2,14). Người xua trừ ma quỷ ra khỏi người bị nó nhập vào (x. Mc 5,8.13). Hôm nay sau khi sai các Tông đồ, Người ban cho các ông quyền trừ quỷ và khi trở về các ông đã báo cáo: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, thì cả ma quỷ cũng phải chịu khuất phục chúng con” (x. Lc 10,17).
- Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; Không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo (Mc 6,8-9):
+ Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường: Nghĩa là các ông phải có phong cách bề ngoài đơn giản khi đi truyền giáo.
+ Chỉ trừ cây gậy: Được mang gậy là một vật tối thiểu để hộ thân khi đi đường.
+ Không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng: Không mang theo lương thực, bao bị, tiền bạc vật chất để biểu lộ lòng tín thác cậy trông vào Chúa quan phòng.
+ Được đi dép: Tin Mừng Máccô cho đi dép (x. Mc 6,9) đang khi Tin Mừng Mátthêu lại cấm đi giày hay cầm gậy theo (x. Mt 10,10). Sỡ dĩ có sự khác nhau về một vài chi tiết phụ thuộc này là tùy theo tác giả đứng trên quan điểm văn hóa Hy lạp hay Do Thái khi viết Tin Mừng.
+ Không được mặc hai áo: Người Do Thái khi đi đường thường mặc 2 áo: Ao trong và áo choàng ngoài. Ao trong: là một tấm vải dài xếp đôi rồi may dính liền một bên. Ao này che từ cổ xuống đến bàn chân. Ao ngoài hay áo choàng: Là áo mặc bên ngoài lúc ban ngày. Đến đêm người ta dùng áo ấy làm mền đắp lên người cho ấm. Có loại áo choàng đặc biệt vì được dệt nguyên tấm vải và không có đường may. Chẳng hạn như áo choàng của Đức Giêsu mà quân lính đã bắt thăm xem ai được thì lấy cả áo (x. Ga 19,23). Đức Giêsu không cho các Tông đồ mặc hai áo là áo trong và áo ngoài trong cuộc hành trình truyền giáo ngắn hạn, vì không cần thiết.
- Người bảo các ông: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ” (Mc 6,10-11):
+ Đã vào nhà nào thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi: Theo phong tục Đông phương, dân chúng rất hiếu khách. Do đó, khi các Tông đồ đã vào ở trong nhà một người, thì phải ở đó cho đến lúc ra đi. Nếu các ông tự ý đổi chỗ ở thì sẽ làm cho chủ nhà buồn và các ông cũng bị đánh giá là con người ham hưởng thụ, “chuộng phú khinh bần”, không xứng đáng là môn đệ Chúa Giêsu.
+ Nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ: Giũ bụi chân là một cử chỉ người Do thái quen làm, khi họ đi từ miền đất của dân ngoại trở về miền đất nơi ở của mình. Cử chỉ giũ bụi chân này biểu lộ sự tuyệt giao vì dân Do thái bị cấm tiếp xúc với dân ngoại. Ở đây giũ bụi chân là để làm chứng rằng người ta đã từ chối Tin Mừng được các Tông đồ loan báo cho họ.
- Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh (Mc 6,13):
+ Đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối: An năn sám hối là việc phải làm trước tiên để dọn lòng đón nhận ơn cứu độ. Khi đi thực tập truyền giáo, các Tông đồ mới chỉ được Đức Giêsu trao nhiệm vụ kêu gọi người ta ăn năn sám hối, giống như Gioan Tẩy Giả đã làm tại miền Giuđê: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2). fin
+ Các ông trừ được nhiều quỷ: Các Tông đồ đã trừ được nhiều quỷ nhân danh Đức Giêsu và nhờ quyền năng của Người. Tuy nhiên có những loại quỷ các ông không trừ được như một quỷ câm nọ, vì các ông không có sức mạnh bằng thứ quỷ đó (x. Mc 9,17-18). Các ông chỉ trừ được loại quỷ này khi cậy vào quyền năng mạnh mẽ của Đức Giêsu qua lời cầu nguyện (x. Mc 9,29).
+ Xứ dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh: Xức dầu để chữa bệnh là một việc người ta thường làm ở Đông phương vào thời Đức Giêsu. Có những loại dầu trị bá chứng được dùng để chữa trị mọi thứ bệnh thông thường như trong dụ ngôn người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu: Người này đã dùng dầu và rượu để rửa và băng bó vết thương cho người gặp nạn (x. Lc 10,34).. Ở đây, việc xức dầu mang tính bí tích, nghĩa là Chúa truyền cho các Tông đồ xức dầu bề ngoài thể xác thể xác của bệnh nhân để chỉ ý nghĩa chữa lành cho họ, và Chúa Thánh Thần sẽ tác thành, ban ơn tha tội trong tâm hồn và tha cả hình phạt đáng chịu vì tội nữa, như thánh Giacôbê đã viết như sau: “Ai trong anh em ốm yếu ư ? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến. Họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh. Người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha” (x. Gc 5,14-15).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) Người gọi Nhóm Mười Hai và bắt đầu sai đi từng hai người một (c.7)
Câu chuyện: Rao giảng bằng chứng tích đời sống:
Một hôm thánh Phanxicô gọi một tu sĩ cùng đi theo để rao giảng Tin Mừng. Hai thầy trò im lặng đi bộ suốt mấy tiếng đồng hồ qua nhiều đường phố trong thành At-si-si (Assise). Khi về lại tu viện, tu sĩ kia mới thắc mắc và hói thánh nhân rằng: “Thưa thầy, thầy bảo con theo thầy đi rao giảng Tin Mừng. Thế mà từ lúc ra đi cho đến khi trở về nhà dòng, con chẳng thấy thầy giảng một lời nào với bất cứ một ai. Thế nghĩa là gì ?” Bấy giờ thánh Phanxicô mới ôn tồn giải thích cho tu sĩ kia như sau: “Từ lúc ra đi đến bây giờ, thầy trò chúng ta đã rao giảng được ba giờ đồng hồ rồi mà con không biết hay sao ? Chính thái độ nghiêm túc khi đi ngoài đường, vừa đi vừa suy nghĩ và cầu nguyện của thầy trò chúng ta đã là một bài giảng cho dân thành biết họ phải biểu lộ lòng tin kính mến yêu đối với Thiên Chúa thế nào ?”
Suy niệm:
+ Thánh Phanxicô sinh năm 1182 tại At-si-si thuộc nước Ý, trong một gia đình giàu có. Được nuông chiều từ nhỏ, nên khi lớn lên, Phanxicô đã chạy theo lối sống xa hoa hưởng thụ, chơi bời phóng túng và đam mê danh vọng chức quyền thế gian. Nhưng một ngày kia, khi theo chân bá tước Gô-thi đi chinh phục các miền đất mới, Phanxicô đã bị bắt làm tù binh. Trong thời gian ở tù với bao nỗi khổ nhục phải chịu là cơ hội thuận tiện giúp Phanxicô nhận biết rằng: Chỉ có Đức Giêsu mới là người lý tưởng. Duy mình Người mới đáng để được ca tụng và phụng sự.
+ Sau khi được trả tự do, Phanxicô trở về quê nhà và bắt đầu một cuộc sống mới tốt đẹp là làm môn đệ Chúa Giêsu: Hằng ngày Phanxicô đi thăm bệnh nhân nghèo liệt giường để động viên và an ủi họ. Ngài cũng siêng năng đến nhà thờ cầu nguyện cho những người bầt hạnh và tham dự Thánh lễ thật sốt sắng. Một hôm đang khi cầu nguyện trong nhà thờ thánh Đa-mi-a-nô, Phanxicô nghe Chúa Giêsu từ trên thánh giá phán rằng: “Hỡi Phanxicô, con hãy mau đi tu sửa Đền Thờ của Ta đang bị hư hỏng !”. Tưởng Chúa nói về các ngôi đền thờ làm bằng gỗ đá vật chất, Phanxicô liền tổ chức các cuộc lạc quyên tiền bạc, rồi xin phép Đấng Bản Quyền cho trùng tu các ngôi đền thờ ở At-si-si bị hư hại. Rồi một ngày kia, khi đang dự lễ, Phanxicô lại được nghe bài Tin Mừng về việc Chúa Giêsu kêu gọi và sai các tông đồ từng hai người đi rao giảng Tin Mừng. Trong đó, Phanxicô chú ý tới những việc phải làm là “Hãy cứu chữa người đau yếu, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phong, xua trừ ma quỷ &” Và những đòi hỏi của Chúa như: “Được cho không thì cũng phải biết cho không; Đừng sắm vàng bạc hay tiền đồng để giắt lưng; Đi đường đừng mang theo bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày hay cầm gậy &” (x. Mt 10,7-10; Mc 6,7-9). Thế là Phanxicô hiểu rằng Chúa muốn tu sửa Đền Thờ thiêng liêng là Hội Thánh, khi ấy đang ở trong tình trạng bi đát: Hàng giáo sĩ và tu sĩ quá lo lắng việc đời, lo xây dựng nhà cửa khang trang, hơn là lo rao giảng Tin Mừng. Còn đời sống giáo dân lại càng sa sút hơn&Phanxicô quyết tâm sống đơn sơ khó nghèo: An mặc quần áo nâu làm bằng vải thô và đi chân đất, đi khất thực&. Phanxicô tìn đến các xóm nghèo để dạy giáo lý cho trẻ em, chắm sóc các bệnh nhân đau ốm liệt giường và nghèo khó ! Người cha của Phanxicô thấy con mình sống hèn kém như vậy thì xấu hổ. Ong ta sai người đến bắt ngài về nhà. Rồi khi Phanxicô cương quyết trung thành với nếp sống khó nghèo của Tin Mừng như vậy thì ông đã tuyên bố từ không nhận Phanxicô làm con nữa !
+ Từ đây, Phanxicô muốn được nên giống Đức Kitô hoàn toàn trong đời sống khó nghèo. Ngài hắng hái đi rao giảng Lời Chúa khắp các nơi từ tỉnh thành đến làng quê trong toàn nước Ý. Đi đếu đâu Phanxicô cũng gieo rắc tình thương ở đó. Ngài đã đưa được nhiều người bỏ Chúa lâu năm được ơn ăn năn trở lại và qui tụ được nhiều người theo làm môn đệ. Ngài xin Tòa Thánh cho lập dòng “Anh Em Hèn Mọn” hay “dòng Phanxicô” với linh đạo là sống khiêm tốn khó nghèo và chuyên lo giảng đạo cho người nghèo.
+ Sau nhiều năm tận tụy truyền giáo, thánh nhân rút vào hang núi để ở ẩn, ngày ngày chuyên tâm với việc hãm mình đền tội và cầu nguyện. Chính trong thời gian này, ngài được Chúa in năm dấu thánh trên tay chân và cạnh sườn giống như các vết thương nơi thân mình Chúa Giêsu tử nạn và phục sinh. Trong hai năm trời các vết thương nơi nắm dấu thánh luôn rỉ máu ra và làm cho Phanxicô bị đau đớn, nhưng thánh nhân sẳn sàng chấp nhận sự đau đớn ấy để kết hiệp với Chúa Giêsu để cứu rỗi các linh hồn.
+ Thánh nhân qua đời ngày mùng 3 tháng 10 năm 1226 và không đầy hai năm sau, đến ngày 16 tháng 7 năm 1228, Đức Giáo Hoàng Ghê-gô-ri-ô thứ IX đã phong ngài lên bậc hiển thánh.
Quyết tâm: Noi gương thánh Phanxicô, mỗi người chúng ta quyết tâm sống tinh thần siêu thoát khó nghèo bằng cách vui vẻ chấp nhận những thiếu thốn phương tiện nếu có và tập hãm dẹp tính nóng nảy, tính mê ăn uống, tính kiêu ngạo hay phê bình chỉ trích kẻ vắng mặt cách bất công& với ý hướng đền tội mình, cầu cho các tội nhân được sớm ăn năn trở về với Chúa, hoặc cầu cho một người lương sớm nhận biết và tin thờ Chúa để được hưởng Ơn Cứu Độ.
2) Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh:
Câu chuyện: Mảnh giấy trong chiếc huy chương:
So-phi Béc-đăng-Ca (Sophie Berdanska) là một tín hữu Công giáo vừa có tài giáo dục trẻ em lại vừa có lòng tin mạnh mẽ. Một hôm cô đã được nhận vào làm gia sư trong gia đình Méc-ton (Merston) giàu có và đạo Do thái. Công việc của cô là dạy kèm cho năm đứa con mới mồ côi mẹ. Ngày đầu mới vào làm việc, khi biết Sophie là người Công giáo, ông Méc-ton chủ nhà đã ra điều kiện cấm cô nói về đạo công giáo cho mấy đứa con ông và cô đành miễn cưỡng chấp nhận. Buổi tối hôm ấy, trong căn phòng riêng ở dưới tầng hầm, sau khi cầu nguyện xong. Sophie đã viết một lời cầu xin vào một mảnh giấy nhỏ, rồi xếp gọn lại và nhét vào hộp nhỏ xíu ở sau chiếc huy chương có hình thánh giá. Đây là kỷ vật của người cha thân yêu của cô đã tặng cho cô khi ông sắp lìa đời. Ông cũng trăn trối cho cô phải chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa trong mọi lúc mọi nơi. Từ ngày đó, Sophie luôn đeo chiếc huy chương để nhắc nhở cô về sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Nói về gia đình Méc-ton, từ ngày cô Sophie làm gia sư, nhờ sự chăm sóc và ân cần dạy dỗ của cô, lũ trẻ ngày càng lễ độ ngoan ngoãn và chăm chỉ học hành khác hẳn lúc trước. Chúng tỏ ra quí mến và vâng nghe lời cô giáo Sophie, coi cô như một bà mẹ thứ hai của chúng. Rồi một ngày kia, tự nhiên tai nạn dồn dập đổ xuống gia đình Méc-ton: Trước tiên là cô bé út Na-ta-cha bị sốt cao khiến ông Méc-ton rất lo lắng. Ông vội mang con đi bệnh viện cấp cứu.
Trong thời gian này cô Sophie luôn túc trực bên giường bệnh và lo lắng mọi sự cho đứa bé. Rồi đến lượt hai đứa khác cũng bị lây bệnh và được đưa đến bệnh viện điều trị. Gánh nặng của Sophie giờ đây lại càng nặng hơn. Tuy nhiên, dù phải lo lắng chăm sóc cho ba bệnh nhân, nhưng cô vẫn vui vẻ và phục vụ như một bà mẹ thân thương của chúng, cho đến khi cả ba đều hoàn toàn bình phục. Sau cùng chính cô Sophie lại bị ngã bệnh ! Đây chính là hậu quả của những ngày vất vả lao nhọc vừa qua. Sau hai tuần lễ liệt giường tại bệnh viện, các bác sĩ đành phải bó tay không thể chữa cho cô lành bệnh. Sophie đã ra đi trong sự tiếc thương vô hạn của mọi thành viên trong gia đình Méc-ton. Trước khi lìa đời. Sophie đã tặng chiếc huy chương thánh giá cho Na-ta-cha cô học trò bé nhỏ của cô. Từ đây mọi người trong gia đình đều coi cô là người thân của họ.
Thấm thoát đã đến giỗ đầy năm của Sophie. Hôm ấy cả gia đình Méc-ton dậy sớm cùng đi nhà thờ dự lễ cầu nguyện cho cô. Tại sao có sự kiện lạ lùng này ? Số là sau khi Sophie chết được một tuần, ông Méc-ton đến thăm các con của ông lúc đó vẫn còn ưu sầu thương nhớ cô gia sư mới qua đời. Tình cờ ông thấy chiếc huy chương đang nằm trong tủ kính. Tò mò cầm lên xem, ông mở hộp nhỏ phía sau huy chương lấy ra một mẫu giấy và đọc thấy mấy hàng chữ như sau: “Lạy Chúa, trong nhà Méc-ton này, con đã bị cấm nói về Chúa với lũ trẻ. Vậy xin Chúa giúp con nói bằng hành động khiêm nhường yêu thương phục vụ. Con hy vọng gia đình này có ngày sẽ tin Chúa và được ơn cứu độ của Chúa giống như con”. Ông Méc-ton rất xúc động khi đọc những lời này. Ông trao cho các con cùng đọc và chúng cũng xúc động tương tự. Rồi cả gia đình Méc-ton đã xin học giáo lý Công giáo và được chịu phép Rửa tội vào lễ Vọng Phục Sinh năm đó.
Suy niệm: Sophie đã thành công trong sứ mệnh truyền giáo không phải bằng lời nói, nhưng bằng tình yêu thương. Chính lối sống quên mình và khiêm tốn phục vụ của cô đã chinh phục được tình cảm mọi thành viên trong gia đình Méc-ton và giúp họ nhận biết Chúa và sẵn sàng đi theo con đường Người chỉ dạy.
Quyết tâm: Tuần này mỗi người chúng ta sẽ làm gì để giúp người khác nhận biết, tin thờ Chúa noi gương cô Sophie trong câu chuyện trên ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, con xin cảm tạ tình thương vô biên của Chúa đã vì yêu thương chúng con nên đã từ trời xuống thế để rao giảng Tin Mừng và mở đường về trời cho nhân loại chúng con. Chúa cũng kêu gọi một số người công tác với Chúa trong sứ mệnh tông đồ truyền giáo. Chúa mời gọi các môn đệ và mọi người tín hữu hôm nay ra đi rao giảng Tin Mừng. Chúa ra chỉ thị cho họ khi đi rao giảng phải mang dấu hiệu tình yêu đối với nhau để người ngoài nhận ra họ là môn đệ đích thực của Chúa. Chúa muốn chúng con phải sống đơn sơ thanh thoát trong cách ăn mặc, tiêu xài và các phương tiện xử dụng hàng ngày. Chúa muốn chúng con phải vượt trên những lo toan đời thường như cơm, áo, gạo, tiền&để dành thời giờ làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu hơn. Chúa muốn chúng con dẹp bỏ đi những tội lỗi và các đam mê bất chính ra khỏi môi trường sống của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho chúng con trở thành khí cụ bình an của Chúa, cho chúng con luôn chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa bằng một đời sống hy sinh quên mình, và phục vụ tha nhân cách chân thành.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa Kitô trong xã hội hôm nay không chỉ là làm một số việc đạo đức hình thức tại nhà thờ như đọc kinh, dự lễ, chầu Mình Thánh Chúa&nhưng chính là tích cực dấn thân trong các công tác bác ái xã hội. Xin Mẹ giúp chúng con ý thức sứ mệnh “được sai đi” rao giảng Tin Mừng Nườc Trời.
Lạy Mẹ Maria, rao giảng Tin Mừng cho con người thời đại hôm nay chính là: Tích cực cộng tác với những người thiện chí để xóa nạn mù chữ, bằng việc tạo điều kiện cho các trẻ em thất học bụi đời có điều kiện theo học tại các lớp học tình thương hay lớp bổ túc văn hóa. Xin Mẹ cho chúng con tích cực góp phần vào công tác xóa đói giảm nghèo, động viên con em học được một nghề kiếm sống để có thể đứng trên chính đôi chân của mình. Xin Mẹ thương nâng đỡ những người đau khổ về cả thể xác cũng như tâm hồn. Xin thương giúp đỡ những ai đang lâm cảnh bệnh tật nghèo đói được sớm có điều kiện vượt qua khó khăn. Xin Mẹ giúp chúng con tích cực tiêu diệt ma quỷ và các tệ nạn xã hội như: sì-ke ma túy, cờ bạc, đĩ điếm, trộm cắp và sự mê tín dị đoan&đang làm băng hoại một bộ phận giới trẻ chúng con. Xin giúp mỗi người chúng con chu toàn được sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa giữa lòng xã hội Việt Nam hôm nay.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Chúa nhật 15 Thường niên Năm B cho chúng ta biết chúng ta có ơn gọi và sứ mạng làm con: TN15-B24
Chúa nhật 15 Thường niên Năm B cho chúng ta biết chúng ta có ơn gọi và sứ mạng làm con, làm ngôn sứ và làm người rao giảng Tin Mừng Cứu độ của Thiên Chúa. Đó là những hồng ân lớn lao nhưng đồng thời cũng là những trách nhiệm nặng nề phải chu toàn. Chúng ta có thể học cùng thánh Phaolô và các Tông đồ, cũng như học cùng ngôn sứ Amót và nhất là học với chính Đức Giêsu Kitô để sống cách trọn hảo ơn gọi và sứ mạng làm con, làm ngôn sứ và người rao giảng Tin Mừng Cứu độ của Thiên Chúa.
I. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1.1 Bài đọc 1: Am 7,12-15: Nhờ lời giảng giải của Amót với tư tế Amátgia mà chúng ta hiểu được tại sao Amót trở thành ngôn sứ của Giavê Thiên Chúa: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật và Đức Chúa đã truyền cho tôi: Hãy đi truyền sấm cho Ítraen dân Ta”
Quả là Amót bị Thiên Chúa “cưỡng bức” làm ngôn sứ chứ bản thân ông không hề muốn làm công việc ấy chút nào. Vì ông biết rõ ông không có tài ăn nói trước công chúng và quan quyền. Cũng có thể vì ông sợ vì ông biết rõ rằng làm ngôn sứ thì chỉ có bị thua thiệt khi thi hành sứ vụ Thiên Chúa giao phó. Ngôn sứ Amót nổi tiếng về các sấm ngôn mà ngày nay chúng ta gọi là “sấm ngôn có tính phê phán xã hội” (prophétisme critique) khi lên án những tình trạng bất công xã hội: kẻ giầu sang, quyền thế bóc lột và áp bức người nghèo hèn. Mỗi một khi ngon sứ lên tiếng bênh vực người nghèo chống lại sự bất công và áp bức của người giầu sang quyền thế là quyền lợi và thậm chí mạng sống của vị ngôn sứ bị đe dọa. Ơn gọi ngôn sứ, theo nhãn quan phàm trần, là ơn gọi bạc bẽo. Nhưng trong nhãn quan của Thiên Chúa thì đó lại là ơn gọi đầy vinh quang vì ngôn sứ là sứ giả của Thiên Chúa, nói lời Thiên Chúa.
1.2 Bài đọc 2: Ep 1,3-14: Thánh Phaolô viết cho các tín hữu Ephêsô và mọi tín hữu khác về ơn gọi làm con và bao hồng ân cao quí khác mà Thiên Chúa đã khứng ban cho chúng ta trong Đức Kitô: “Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, dể ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu”. Cùng với ơn làm nghĩa tử cao quí ấy, chúng ta còn được ơn nghe biết Tin Mừng Cứu độ và được Thánh Thần đóng dấu ấn để chúng ta được đảm bảo phần gia nghiệp của Thiên Chúa hứa ban cho dân riêng của Người.
1.3 Bài Tin Mừng: Mc 6,7-13: Thánh Máccô tường thuật việc Chúa Giêsu sai mười hai môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, trừ quỉ và chữa lành người đau ốm bệnh tật. Các ông được Chúa ban quyền trên các thần ô uế. Các ông còn được Chúa căn dặn tỉ mỉ về hành trang phải chuẩn bị khi ra đi truyền giáo: “không mang gì đi đường, không được mang lương thực, bao bì, tiền giắt lưng, không được mang hai áo”. Các ông còn được Chúa căn dặn kỹ càng về cách ứng xử với mọi người khi được tiếp đón hoặc khi bị từ chối: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và không nghe anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi đất dưới chân để tỏ ý cảnh cáo họ” Phúc âm Máccô ghi lại kết quả khả quan mà các tông đồ gặt hái được khi làm theo chỉ thị của Chúa Giêsu: “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỉ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh”.
II. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
2.1 Mỗi ơn gọi và sứ mạng là một niềm vinh quang và hạnh phúc: Ba bài Sách Thánh nói về ba ơn gọi, ba sứ mạng khác nhau của người tín hữu: ơn gọi và sứ mạng ngôn sứ, ơn gọi và sứ mạng làm nghĩa tử tức làm con và ơn gọi và sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ. Ơn gọi và sứ mạng nền tảng và quan trọng nhất của chúng ta là ơn gọi và sứ mạng làm con mà Thánh Phaolô đã trình bày trong thư gửi tín hữu Ephêsô. Ơn gọi và sứ mạng ngôn sứ và ơn gọi và sứ mạng rao giảng Tin Mừng là cùng một ơn gọi, cùng một sứ mạng, nhưng ở hai giai đoạn khác nhau của lịch sử. Mỗi ơn gọi là một niềm vinh quang lớn lao mà Thiên Chúa đã rộng lòng rộng tay ban cho chúng ta. Mỗi ơn gọi và sứ mạng là một nguồn hạnh phúc tầy trời mà chúng ta được hưởng cách “nhưng không”vì thật ra chúng ta chẳng có công lao gì trong đó cả, mà thuần túy chỉ do lòng nhân ái hải hà của Thiên Chúa dành cho chúng ta mà thôi. Nhìn vào mình, chúng ta thấy rõ sự bất xứng và bất tài của chúng ta: bất xứng với ơn làm nghĩa tử, bất tài với ơn làm ngôn sứ và ơn làm người rao giảng Tin Mừng cứu độ!
Vậy thì tâm tình xứng hợp nhất mà chúng ta phải có ở đây là tâm tình chúc tụng, ngợi khen và cảm tạđối với Thiên Chúa là Cha yêu thương và quảng đại. Cách biết ơn tốt nhất, đẹp lòng Thiên Chúa nhất đã được chính Chúa Giêsu gói gọn trong một câu trong Phúc Âm: “Nhận cách nhưng không thì hãy cho đi cách nhưng không”
Tâm tình xứng hợp thứ hai là tâm tình khiêm nhường, xuất phát từ xác tín căn bản là: tất cả những gì chúng ta có, chúng ta nhận được đều từ Thiên Chúa, đều do Thiên Chúa ban cho. Thế thì chúng ta có gì mà vênh vang, tự đắc, mà kênh kiệu với chính mình hay với anh chị em chung quanh?
2.2 Mỗi ơn gọi và sứ mạng là một trách nhiệm nặng nề: Nhưng không chỉ có thế, vì mỗi ơn gọi, mỗi sứ mạng cũng là một trách nhiệm nặng nề mà chúng ta phải chu toàn. Để sống và thực thi ơn gọi làm ngôn sứ Amót đã phải chịu bao cảnh đắng cay tủi nhục và bị bách hại. Để sống và thực thi ơn gọi làm Con, chính Chúa Giêsu đã phải học biết vâng phục, vâng phục cho đến chết trên thập giá. Để sống và thực thi ơn gọi làm ngôn sứ và làm người rao giảng Tin Mừng Cứu độ, chính Đức Giêsu đã dân chúng và giới cầm quyền ghét bỏ và kết án tử hình như một tên tội phạm. Để sống và thực thi ơn gọi làm người rao giảng Tin Mừng Cứu độ, Phêrô, Phaolô và các tông đồ đã phải chịu muôn khổ hình và bị giết chết. Để sống và thực thi ơn gọi và sứ mạng làm người rao giảng Tin Mừng Cứu độ ở cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã thực hiện hơn một trăm cuộc tông du, đến gần một trăm nước trên thế giới, để chuyển lời Thiên Chúa đến với mọi người lớn bé già trẻ, giầu nghèo sang hèn; đến với mọi dân tộc đã phát triển, đang phát triển và chậm phát triển; đến với mọi thể chế chính trị xã hội tư bản, cộng sản hay xã hội chủ nghĩa. Ngài cũng đã tiếp trong các buổi triều yết không biết bao nhiêu triệu con người tìm đến với Ngài. Ngài cũng đã lên tiếng về hầu như tất cả các vấn đề liên quan tới đời sống con người: chiến tranh, hòa bình, vấn đề toàn cầu hóa, nạn phân biệt chủng tộc, nợ nước ngoài, tình trạng gia đình thoái hóa v.v&
Thế còn chúng ta? Dĩ nhiên chúng ta chỉ có một không gian và thời gian rất giới hạn để chúng ta sống và thực thi ơn gọi và sứ mạng làm con, làm ngôn sứ và làm người rao giảng Tin Mừng. Trước hết trong chính gia đình mỗi người. Sau đó trong môi trường giáo xứ. Và sau cùng trong môi trường nghề nghiệp, xã hội. Trong các môi trường ấy, chúng ta có thể hiện tư cách làm con của Thiên Chúa cho mọi người nhận thấy không? Chúng ta có dám nói lên tiếng nói của chân lý, bênh vực người nghèo, người bị áp bức bóc lột, chống lại bất công chính trị và xã hội không? Chúng ta có mạnh dạn loan báo Tin Mừng Tình Yêu Cứu độ cho mọi người xung quanh không? Để cụ thể hơn, chúng ta có thể tự hỏi những câu sau đây: Tôi đã giúp được mấy người nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa? Tôi đã giúp được mấy người hay mấy gia đình khỏi cảnh nghèo đói túng thiếu? Tôi đã bênh vực và giải thoát được mấy nạn nhân khỏi tình trạng bóc lột, bất công, phân biệt đối xử, tệ nạn xã hội?
Có lẽ tâm tình xứng hợp nhất mà chúng ta phải có ở đây là tâm tình khiêm nhường và sám hối ăn năn vì chúng ta biết rất rõ rằng còn lâu chúng ta mới chu toàn được sứ mạng mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta.
III. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha yêu thương và nhân ái. Chúng con xin cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho mỗi người chúng con: ơn gọi và sứ mạng làm con, ơn gọi và sứ mạng làm ngôn sứ, ơn gọi và sứ mạng làm người rao giảng Tin Mừng Cứu độ của Cha.
Những ơn gọi và sứ mạng ấy là những hồng ân cao quí mà Cha đã ban cho chúng con mặc dầu chúng con không xứng đáng một chút nào. Chúng con lại đã không ý thức được tầm vóc lớn lao của ơn huệ mà Cha đã ban. Chúng con không hình dung được tầm quan trọng của sứ mạng mà Cha đã tin tưởng giao cho chúng con. Nên chúng con chẳng có tâm tình chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ cho xứng hợp. Chúng con cũng chẳng nỗ lực hết sức mình để sống và thi hành ơn gọi và sứ mạng ngôn sứ và rao giảng mà Cha đã giao.
Chúng con chỉ còn biết hổ thẹn trước mặt Cha mà thôi. Xin Cha hãy nhận lấy tâm tình hổ thẹn của chúng con, như của lễ duy nhất mà chúng con có khả năng dâng lên Cha, cùng với của lễ toàn thiêu là Chúa Giêsu Kitô, Con Cha, Chúa chúng con, trên thập giá. Amen.
Hôm nay khai mạc đại hội Truyền giáo tại nhà nguyện dòng Thánh Phaolô.Mình phụ trách: TN15-B25
Hôm nay khai mạc đại hội Truyền giáo tại nhà nguyện dòng Thánh Phaolô.Mình phụ trách phần thuyết trình.Lần đầu tiên trong đời,mình đăng đàn trước một cử toạ có nhiều người tai to mặt lớn như thế.Mình bắt đầu run.Phải hít thật sâu mấy hơi liền mới thấy hết hồi hộp.
Mình chủ trương rằng người truyền giáo phải khởi đầu sự nghiệp bằng việc ra đi.Đi đễ thấy mình phải làm gì,phải làm thế nào và phải làm tới mức độ nào.Đức Giêsu đã đi và đi không ngừng.Thánh Phaolô cũng thế.Mình trích dẫn lời của Thủ tướng Ben Gourion:”Người lính Do Thái phải tìm hiểu và yêu thương quê hương của mình bằng hai bàn chân”.Người truyền giáo có thể đi bằng phương tiện truyền thông xã hội,nhưng đi bằng chính thân xác của mình,để hiện diện và đối thoại với người lương dân là cách đi hoàn hảo nhất.Mặt đối mặt,lời trao lời mới nảy ra tình yêu.Truyền giáo mà không yêu thương thì không thể là truyền giáo được.Muốn thế thì phải đi,phải đến…
Bài thuyết trình của mình có một ưu điểm là rất ngắn gọn,nên được thính giả vỗ tay hơn thông lệ.Vừa rời giảng đài được chừng ba bước thì chạm trán với thầy Hiến Minh.Thầy siết tay mình thật chặt và khen ngợi bằng một câu rất gọn: “Cậu nói được đấy”.
Thái độ niềm nở và lời khen ngợi của Thầy làm mình phấn khởi và thêm xác tín vào lập trường sắn có: “Người Truyển giáo phải khởi đầu sự nghiệp bằng việc ra đi. Đi để thấy mình phải làm gì,phải làm thế nào và phải làm tới mức độ nào” ( Lm Piô Phúc Hậu, Nhật ký truyền giáo trang 177).
Truyền giáo là ra đi,đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân.
Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha” Như Cha đã sai Thầy,Thầy cũng sai anh em”.Đức Giêsu thực hiện sứ vụ bằng việc ra đi.
Suốt mấy năm ra mặt với đời để hành đạo,Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó.Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước của Ngài để truyền đạo.Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23) hay ở ngoài trời,ở ngoài đường.Trên một sườn núi cũng có( Mt 5,1),bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền,thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí.Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng”(Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình liên miên.Theo ngôn ngữ của Marcô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Gio-đan,rồi đến Galilê,dọc theo bờ biển Galilê,và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê.Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum&Ngài ngang qua đồng lúa &Cứ đi và đi như vậy mãi.
Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Ngài bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống.Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng.Cánh huệ mọc ngoài đồng,đàn chim sẻ đang bay.Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời.Một mẻ cá lớn bên biển hồ.Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá.Một đàn cừu, dê,người chăn lùa về buổi chiều tối.Từng tảng đá,từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối để vất đi.Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá&
Việc thu thập môn đệ,Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận&Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20).Chúa Giêsu không dừng lại,yên nghĩ,hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho.Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn “sáng đến,Ngài ra đi vào nơi hoang vắng.Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố giữ Ngài lại,không để Ngài đi khỏi chỗ họ.Nhưng Ngài bảo họ:Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa”( Lc 4,42-43).
Như thế, quả là suốt đời Đức Giêsu đã không hề có trụ sở,không hề có chỗ trụ trì,không hề có nhà thờ.Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài sống.
Đức Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Ghetsêmani hoang vắng.Bị điệu đến Hanna rồi Caipha.Từ toá đạo qua toà đời.Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê,rồi bị đưa trả về cho Philatô.Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường “công ly” của loài người.
Bị kết án thập hình.Hai tay dang rộng,bị đóng đinh thập giá.Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật,niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66).
Thế nhưng,Đức Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết.Ngày thứ ba Ngài sống lại,vượt cái chết qua sự sống bất diệt.
Sau khi phục sinh,Ngài cũng đi nhiều nơi,đến với với các môn đệ,cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo tin mừng.
Hoàn thành sứ mạng, “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha”(Mc 16,19)và luôn đồng hành cùng giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.(Mt 28,20)
Đức Giêsu lập nên Nhóm mười Hai. Họ được Ngài sai đi rao giảng( Mc 6,7).Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân.
Hai động từ Gọi - Sai Đi diễn tả rõ rệt ơn gọi của Nhóm Mười Hai.Các Tông Đồ là những người được sai đi.Chúa căn dặn rằng: người được sai đi phải có tinh thần nghèo khó và từ bỏ.
Nghèo khó về hành trang đi đường: 1 cây gậy, 1 đôi dép,không mang 2 áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát,không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.
Nghèo khó về phương diện sinh sống: không được mang lương thực,bao bị,tiền bạc.Hành trình như vậy đặt càc người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc.Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa muốn.
Đức Giêsu cũng không dấu giếm họ.Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai,lắm gian khó.Cũng như Ngài,họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối,bị xua đuổi.Cần phải hy sinh bản thân.Đó là thân phận kẻ được gọi,được sai đi.Ra đi mà không gì bảo đảm,ra đi mà không mảy may dính bén.Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi.Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay.Bởi lẽ Tôi trồng,Apollô tưới Chúa cho mọc lên.
Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư,tìm an toàn bảo đảm bản thân,an nghĩ trong những thành công tạm bợ&và không muốn ra đi.Càng gắn bó,lúc cách xa càng luyến nhớ.Sâu đậm bao nhiêu,lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu.Vì vậy,Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi,lên đường bao giờ cũng đẹp,hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.
Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ.Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới.Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có.Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là.Như thế,hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.
Đường đi khó,không khó vì ngăn sông cách núi.
Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp,mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa.Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con.Amen.
Chúa nhật 15 Thường Niên-B / 15th Sunday in Ordinary Time
Lời Chúa cho hôm nay: CHẤP NHẬN VÀ TỪ CHỐI - Huyền Đồng
* Acceptance and Rejection *
* BÀI ĐỌC 1: Amốt 7, 12-15 =Chúa dựng một tiên tri: Ông Amos là một trong những người chăn cừu tai Tơ-cô-a trong nước Giuda. Ông thực thiện sứ vụ trong thời vua Gia-op-am 2 / God makes a Prophet: Amos was a shepherd of Tekoa in Judah, who exercised his ministry during the reign of Jeroboam 2 (786-746 B.C)
* BÀI ĐỌC 2: Eph.1, 3-14 = Thư Êphêsô là một thư lớn của Phaolô, ông tả bức tranh tuyệt đẹp của những ai là Tín hữu./ Ephesians is the great Pauline letter about the Church, he outlines a beautiful picture of who we are as Christians.
* BÀI TIN MỪNG (Gospel): Mác-cô 6, 7-13 =Lan rộng Tin Mừng: Sứ vụ của mười hai Tông đồ trong việc rao giảng sự cần thiết của sám hối./ Spreading the Gospel: The mission of the Twelve consists in preaching the need for repentance.
A. Bạn và tôi cùng cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: (Reflections, live out and share )
1/Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu giảng dạy như sau: “Người gọi Nhóm Mười hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một, Người ban cho các ông quyền trừ quỷ.” Chúa muốn tôi có tinh thần đơn sơ, trong sach, có lòng hiếu khách và nối dài hoạt động của Ngài. Có như vậy tôi mới thắng được sự xấu và đưa họ về với Chúa. Kể vài trường hợp tôi đã cải thiện được trong gia đình và khu xóm? (Phúc âm hóa)
Jesus summoned the Twelve and began to send them... two by two and give them authorithy over unclean spirits. (Mc.6, 7)
2/ Các Tông đồ đã thực hiện và kết qua như sau: “..kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, sức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.” Việc làm có tốt cho tha nhân vẫn có hiệu quả hơn nhiều bài giảng hùng hồn. Bạn thấy thế nào trong cuộc sống hôm nay tại hải ngoại cũng như quê nhà. Điều gì bạn đã không đạt được trong trong nỗ lực cải tiến môi trường sống? (Hành đạo)
Preached repentance., drove out many demons, anointed with oil many who were sick and cured them. (Mc.6, 12-13)
3/ Tiên tri A-mốt đã trả lời ông A-mat-gia như sau: “Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và truyền cho tôi: Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta.” Lời Chúa, tài liệu Công Đồng, tông huấn, thông điệp là ánh sáng chỉ đường cho tôi. Hàng ngày tôi đã học hỏi được những gì? ( Đào luyện )
The Lord took me from following the flock, and said to me: Go, prophesy to My people Israel. ( Amos 7, 15 )
4/ Thánh Phaolô quả quyết trong thư gởi Êphêsô như sau: “Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng...” Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong bạn, qua mọi ngườivà qua Giáo hội để giúp bạn sống dồi dào. Lúc nào bạn cảm nhận được Chúa Thành Thần? (Thánh thiện)
The Holy Spiritis the first installment of our inheritance toward redemption as God’s possession... (Eph. 1, 14)
B. Câu Kinh Thánh dánh động tôi làm chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: (The Best God’s Word)
NGƯỜI GỌI NHÓM MƯỜI HAI LẠI VÀ SAI ĐI TỪNG HAI NGƯỜI MỘT. ( Mc. 6, 7 )
“Jesus summoned the Twelve and began to send them out two by two...
C. Ngay bây giờ tôi phải làm gì để giữ Lời Chúa sai đi: (So what am I doing / For Action)
a/ Bạn co thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống.
b/ Tôi hãy xin lỗi bằng việc làm cho gia đình hay hội đoàn trong tuần qua tôi đã làm mất lòng nhau.
D.Tôi cầu nguyện luôn và Sống lơì tôi cầu nguyện: ( I pray and practice / Pray in Action )
1/ Tôi dựa vào những câu Kinh Thánh trên để ca ngợi Chúa hoặc xin một ơn cho việc hành đạo của mình.
2/ Bạn chúc tụng Chúa khi thấy Chúa Thánh Thần đang hiện diện và giúp người khác sống bình an hơn.
Mối quan tâm hàng đầu đối với Giáo Hội Hoa Kỳ trong những năm gần đây đó là số tín hữu Công Giáo rời bỏ Giáo Hội quá đông. Theo tài liệu thống kê trong những thập niên 80, có khoảng 15 triệu người Công Giáo tại Hoa Kỳ rời bỏ Giáo Hội. Những anh chị em này thuộc mọi tầng lớp khác nhau, nhưng phần đông là ở lứa tuổi từ 18 đến 24. Một khi họ đã ra đi, thật khó mong họ trở về. Nếu có ai đó ước mong trở lại, thì thường phải đến mấy chục năm sau.
Chẳng hạn một người bỏ Giáo Hội vào năm 1980, và lúc đó anh ta 20 tuổi, thì năm nay anh đã là 43 tuổi rồi, và vẫn còn ở ngoài Giáo Hội. Số người ra đi từ những năm trước, lại cộng thêm nhiều người trẻ ra đi hàng năm, nên con số cứ mãi tăng dần.
Hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ cũng như các chủ chăn băn khoăn, cố gắng tìm mọi cách níu kéo, và hy vọng con số lớn lao ấy ngày sẽ giảm đi trong những thập niên tới. Nhưng buồn thay, con số ấy chẳng những không giảm đi, mà lại vẫn tiếp tục gia tăng trong những năm gần đây. Cho đến nay, số anh chị em rời bỏ Giáo Hội tại Hoa Kỳ đã lên đến khoảng mười bảy triệu (17.000.000). Một con số khủng khiếp, một mất mát lớn lao. Sự ra đi của họ làm chúng ta đau lòng. Giả sử nhóm người này gom lại thành một giáo phái, thì giáo phái này sẽ có con số đông thứ hai so với tất cả các giáo phái trên đất Mỹ, và nhóm này đông gấp hai lần số người Công Giáo Việt Nam tại quê nhà cũng như rải rác khắp nơi trên thế giới. Cho đến nay, người ta ước tính có khoảng hơn 65 triệu người Công Giáo trong Giáo Hội Hoa Kỳ, nhưng lại mất đi hơn một phần tư -17 triệu - không còn tham dự vào đời sống Giáo Hội. Người ta “ước tính” khoảng 48 triệu người Công Giáo tại Hoa Kỳ còn sống đạo, có nghĩa là còn thỉnh thoảng lui tới nhà thờ và tham dự bí tích. Và trong số những người còn đến với Giáo Hội, có lẽ lại còn có rất nhiều người đang gặp khủng hoảng về đức tin, hoặc sống đạo hời hợt. Thực trạng này gợi cho chúng ta những suy tư về đối tượng truyền giáo hôm nay. Nếu truyền giáo xưa nay làm theo mệnh lệnh của Đức Kitô: rao giảng tin mừng cho muôn dân, rửa tội cho họ, đem anh em “lương dân” trở về với Chúa, thì truyền giáo ngày nay lại đòi hỏi một nhu cầu mới, đó là làm như Đức Kitô đã làm: “đi tìm con chiên lạc,” “tìm đồng bạc bị đánh rơi,” là mở rộng vòng tay của người cha trong dụ ngôn “người con hoang đàng” để đón nhận cả đứa con đi hoang, lẫn người con càm ràm về trong tổ ấm gia đình của cha mình.
Có người nói đùa, nếu có ai hỏi rằng trong năm qua các công ty sản xuất được bao nhiêu triệu cây tăm xỉa răng, thì họ sẽ cho bạn biết con số chính xác không trật một cây. Hoặc nếu bạn hỏi có bao nhiêu điếu thuốc lá được tiêu thụ trong mười năm qua, thì bạn cũng sẽ nhận được câu trả lời chính xác như thế. Nhưng khi hỏi có bao nhiêu triệu người Công Giáo, thì người ta chỉ có thể ước tính với con số gần đúng mà thôi.
Điều này cũng gợi lên một vấn đề đáng lưu tâm hôm nay, đó là sự gắn bó trong các cộng đoàn xứ đạo đang rời rạc lắm rồi. Trong các Hội Thánh Tin Lành có chương trình membership, họ sinh hoạt từng Hội Thánh tương đối nhỏ và phải đóng tiền quỹ hàng năm, nên các Mục sư có thể biết rõ ai còn sống đạo hoặc ai đã bỏ đi. Trong khi đó, các giáo xứ Công Giáo khá lớn mà lại ít linh mục cũng như tu sĩ nam nữ, sinh hoạt cộng đồng chỉ nổi bật ở một số nhóm và đoàn thể, nên số đông còn lại, đến hay đi mà chẳng mấy ai biết tới. Người có thể biết rõ nhất ai còn, ai bỏ đó là người thân thuộc trong gia đình hoặc bạn bè thân hữu.
Thế thì những người bỏ Giáo Hội này chẳng là ai xa lạ, mà có khi là con em của chúng ta, là bè bạn, là xóm giềng, là đồng nghiệp, là những người mình gặp gỡ mỗi ngày nơi công sở, là đứa bạn ngồi chung một bàn trong lớp học, là đứa bạn cùng chơi thể thao với mình mỗi chiều, v.v... Họ có mối quan hệ thân thiết với chúng ta trong gia đình, trong dòng tộc, trong tình người. Họ có mối quan hệ với chúng ta trong Thân Thể Mầu Nhiêm Đức Kitô--Giáo Hội. Nên khi họ ra đi, mình cảm thấy nhói đau.
Nguyên Nhân Đa Dạng
Theo lối nói Việt Nam chúng ta, có người cho rằng những anh chị em này đã bỏ đạo chăng! Không, họ không bỏ đạo, họ không chối bỏ niềm tin. Họ chỉ không còn tha thiết gì với Giáo Hội, với cộng đoàn, với đời sống bí tích. Hàng ngàn cuộc phỏng vấn cho biết có khoảng tám mươi lăm phần trăm số người này vẫn nghĩ đến việc lo cho con cái học hành các lớp ở nhà thờ trong tương lai. Như thế, họ không phải là những người khủng hoảng niềm tin. Họ khủng khoảng vì cơ chế, vì luật lệ, và xung khắc với những con người trong cơ chế ấy.
Vì sao họ ra đi? Hàng loạt cuộc nghiên cứu tiến hành trong vài chục năm qua cho biết có nhiều nguyên nhân khiến họ bỏ Giáo Hội. Đơn cử một số nguyên nhân do Hội Đồng Truyền Giáo Hoa Kỳ nêu lên, có thể đó là những xung đột trong gia đình. Những người này là một số bạn trẻ, lớn lên trong một nền văn hóa tương đối tự do và cởi mở. Họ có khuynh hướng “giữ đạo” theo chiều hướng cá nhân hơn là bị ép buộc bởi lối sống đạo đức truyền thống của bố mẹ. Bắt nguồn từ một lối sống nặng tính cá nhân, nên cách sống đạo cũng thiên về sống đạo cá nhân. Họ cho rằng tôn giáo là mối quan hệ giữa cá nhân với Thiên Chúa, không nhất thiết phải lệ thuộc vào một cơ chế của Giáo Hội. Do đó, những bạn trẻ này thường phản ứng mạnh mẽ trước những lời khuyên răn nặng tính luân lý của bố mẹ. Những phản ứng này thường tạo nên bầu khí căng thẳng giữa hai thế hệ, và kết quả cuối cùng dẫn đến là thôi việc đến nhà thờ hoặc nghỉ luôn các sinh hoạt tôn giáo. Một số bạn trẻ khi rời tổ ấm gia đình vì xung đột, thì cũng là lúc họ bỏ luôn cả Giáo Hội. Tuy nhiên, không phải ai bỏ nhà ra đi cũng bỏ luôn Giáo Hội. Nhưng nếu những bạn trẻ nào có xung khắc về vấn đề tôn giáo ngay trong gia đình, thì họ có khuynh hướng thôi việc giữ đạo.
Nhóm người thứ hai, không bất kỳ ở lứatuổi nào, một khi bị tổn thương do Linh mục, tu sĩ hoặc những người lãnh đạo gây nên, thường có khuynh hướng bất mãn và dẫn đến bỏ luôn Giáo Hội. Có khi là những kinh nghiệm đau lòng từ những lớp giáo lý, sinh hoạt đoàn thể. Có khi là những vấn nạn cá nhân, thay vì cần được nâng đỡ thì lại bị xúc phạm. Hoặc có khi chính các mục tử không nhạy bén với những hoàn cảnh đặc biệt của họ, hoặc gây thêm khó khăn cho họ trong một số trường hợp như tang chế, cưới hỏi, rửa tội v.v... Những anh chị em này cần được lắng nghe từ phía Giáo Hội. Có khi trong sự khiêm tốn của Đức Kitô, các vị lãnh đạo có thể gởi lời xin lỗi, thông cảm, giao hòa và mời gọi chính đương sự trở về với cộng đoàn Giáo Hội. Đây là những phút giây ân sủng quý báu, và chính các mục tử hay những người cộng tác là khí cụ của dòng ân sủng đó.
Nhóm người thứ ba là các bạn trẻ, những người không cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong các cộng đoàn giáo xứ bởi vì phụng vụ buồn tẻ, bài giảng lạnh nhạt không hồn hoặc nặng tính luân lý. Trong khi người trẻ muốn cảm nghiệm được có sự hiện diện thực sự của Thiên Chúa trong một cộng đoàn đức tin, thì họ lại gặp phải những kinh nghiệm ngược lại. Họ không cảm thấy những người chung quanh có sự gắn bó sâu đậm với Đức Kitô. Họ cảm thấy thánh lễ như một thói quen, hoặc đến nhà thờ vì lề luật chứ không thấm sâu trong đời sống tâm linh. Các bạn không cảm thấy thánh lễ lôi cuốn họ đủ. Theo các cuộc phỏng vấn với các bạn trẻ đã bỏ thánh lễ lâu ngày, phần đông phản ứng mạnh mẽ với các bài giảng buồn tẻ, và phụng vụ nhàm chán. Vấn đề này cần được đặt ra từ cả hai phía. Một mặt, nhiều người Công Giáo hôm nay không được đào tạo để có ý thức xây dựng cộng đoàn. Họ đến với cộng đoàn để nhận lãnh, nhưng lại thiếu ý thức đóng góp. Chính vì vậy, khi cộng đoàn không đáp ứng nhu cầu tâm linh cho họ là họ rút lui hoặc đi tìm đến các giáo phái Tin Lành. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tiêu cực từ phía những người bỏ đi, những người ở lại cũng cần suy tư xem thử mình nên làm gì để bầu khí thờ phượng cũng như các sinh hoạt cộng đoàn trở nên sinh động hơn. Chẳng hạn một bài giảng có chiều sâu và thấm chất Tin Mừng sẽ thu hút được nhiều bạn trẻ, vì chính họ đang khao khát cuộc sống tâm linh. Một ca đoàn chuẩn bị chu đáo và hát xướng tâm tình sẽ lôi kéo được nhiều bạn trẻ đến với giáo xứ mình. Theo những cuộc nghiên cứu mới nhất với giới trẻ tại Hoa Kỳ trong năm qua, các bạn cho biết có hai điều lôi cuốn họ đến với thánh lễ: đó là bài giảng sâu sắc và thánh nhạc sinh động.
Bên cạnh nội dung và chất lượng của phụng vụ, nhiều người cần đến bầu khí thân mật, gần gũi và gắn bó của những người trong cùng họ đạo. Sự gắn bó này đóng một vai trò thiết yếu trong việc giúp người khác ở lại với cộng đoàn Giáo Hội. Hiện nay, phần đông giáo hữu tây phương sống đạo theo lối cá nhân, nên khi đến với Giáo Hội họ cũng đến với thái độ cá nhân. Chính vì lối sống đạo cá nhân, mình ít khi để ý đến người chung quanh, những người cùng tham dự phụng vụ và sinh hoạt tôn giáo với mình. Đôi khi một cái bắt tay trong khi chúc bình an cũng gượng ép, lạnh lùng. Từ một thực trạng như thế, một số người cảm thấy họ quá xa lạ với cộng đoàn. Họ cảm thấy mình là một khán giả vô danh trong một nhà hát nhàm chán. Chính lý do này cũng khiến một số người không còn hào hứng đến với cộng đoàn. Một số trong họ tìm đến các Hội Thánh Tin Lành, nơi mà họ cảm thấy được ân cần tiếp đón và có bầu khí thân mật tình người.
Họ cảm thấy mình được quan tâm và có giá trị trong một cộng đoàn tôn giáo. Điều này thật dễ hiểu, bởi vì chẳng ai muốn tham gia vào một tổ chức mà nơi đó tất cả đều xa lạ với nhau. Có lẽ đây cũng là vấn đề gợi cho chúng ta suy tư. Đôi khi mình “sốt sắng quá”, chỉ nghĩ đến Chúa mà quên người anh em bên cạnh chăng! Thái độ nghiêm trang thái quá đôi khi lại trở thành dửng dưng lạnh lùng. Lối sống đạo xưa nay khắt khe đến độ ngại nở một nụ cười ở trong nhà thờ, nên hôm nay mình cũng nhìn nhau bằng ánh mắt tôn giáo nghiêm nghị với nhau. Những anh chị em rời Giáo Hội vì lý do này có lẽ đang khao khát một nụ cười, hay một lời chào đón từ những người trong Giáo Hội. Họ sẽ sẵn sàng quay về, nếu có ai đó thực sự quan tâm đến họ.
Ngoài những vấn đề nêu trên, có một vấn đề tương đối gai góc hiện nay đó là vấn đề giáo huấn về luân lý của Giáo Hội. Một số đông bạn trẻ giằng co với những giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề tình dục trước hôn nhân, ngừa thai nhân tạo, li dị, v.v... Nhiều bạn trẻ phản ứng lại quyền giảng dạy của Giáo Hội về những vấn đề này. Một số khác không phản đối mạnh mẽ, nhưng khi đã quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, hoặc ngừa thai nhân tạo, thường ngại đến xưng tội và lãnh nhận bí tích. Khi không được nuôi dưỡng bằng đời sống bí tích, các bạn trẻ thường có khuynh hướng xa dần đời sống đạo và cuối cùng quyết định thôi hẳn. Bên cạnh những người độc thân, một số người trong đời sống gia đình khi áp dụng ngừa thai nhân tạo cũng có phản ứng mạnh với huấn quyền Giáo Hội. Họ yêu cầu Giáo Hội cần thay đổi lối giảng dạy về luân lý. Thật vậy, đây là một vấn đề tương đối phức tạp trong vấn đề sống đạo giữa một nền văn hóa tự do tại Hoa Kỳ và các nước Châu Âu. Thật ra, trên bình diện luân lý, có những vẫn đề Giáo Hội không thể thay đổi theo não trạng của người đương thời. Có những vấn đề Giáo Hội có thể thay đổi, nhưng không thể thay đổi trong ngày một ngày hai. Cơ cấu của Giáo Hội như một guồng máy hoạt động trên cả hoàn vũ, nên có khi phải mất cả thế kỷ để thay đổi một vấn đề nào đó. Chúng ta có thể nhận ra sự phức tạp này khi trong chính xứ đạo mình có sự thay đổi. Ngay việc đơn giản nhất là khi thay đổi giờ giấc Thánh lễ đã làm xáo trộn sinh hoạt của một giáo xứ, và gây nên phản ứng của biết bao người.
Tuy vậy, nhiều người trẻ hôm nay không chấp nhận quyền giảng dạy về luân lý của Giáo Hội, nên họ từ từ rút lui khỏi Giáo Hội. Vấn đề này cần đặt ra cho những nhà giáo dục trong Giáo Hội hôm nay. Một mặt mình phải trình bày huấn quyền của Giáo Hội, nhưng mặt khác phải nên trình bày vấn đề luân lý dựa trên tính nhân bản và phẩm giá con người để thuyết phục các bạn trẻ về vấn đề luân lý. Do đó, các nhà giáo dục cần đào sâu thêm những tài liệu về nhân bản để đi kèm với Giáo huấn của Giáo Hội trong khi giảng dạy.
Một nhóm người khác thôi giữ đạo vì không có nền tảng căn bản về tôn giáo, nên dễ bị tấn công và bị lôi kéo sai đường do chính bè bạn của mình. Bên cạnh đó, có một số bạn trẻ cặp bạn rồi chung sống hoặc kết hôn với người ngoài Công Giáo, rồi dần dần cảm thấy nguội lạnh khô khan, hoặc chính bạn mình thuyết phục từ bỏ Giáo Hội. Một số người khác rời bỏ cộng đoàn vì phải thay đổi nếp sống và chỗ ở, nên mất liên đới với cộng đoàn cũ của mình và ngại tìm tới cộng đoàn mới. Biết đâu những anh chị em này lại là người đang sống loanh quanh trong lối xóm của mình và họ cần một ai đó bắc nhịp cầu đê liên kết với một cộng đoàn mới. Truyền giáo hôm nay là thế, là bắc một nhịp cầu để anh em mình trở về, là cố gắng xóa đi những rào chắn ngăn cách vô hình giữa những anh em trong cùng một tôn giáo. Một khi họ nhận ra có một cộng đoàn nào đó yêu thương và đón nhận, họ sẽ sẵn sàng gia nhập và trở về với Giáo Hội.
Bao nhiêu lí do nêu trên, còn có một lí do dễ hiểu nhất, nhưng lại lôi cuốn nhiều người nhất đó là vấn đề thiếu hiểu biết nên không cố gắng đủ, không tha thiết với đời sống tâm linh. Những anh chị em này một phần vì quá bận bịu công việc làm ăn, lại cảm thấy chán chường với đời sống đạo nên có nhiều lí do để thoái thác việc đến nhà thờ. Mặc dù những anh chị em này vẫn có những trăn trở vì đã bỏ bê sống đạo, nhưng họ vẫn không vươn nổi ra khỏi cái nặng nề của công việc và bóng tối. Họ cần người khác nâng đỡ, khuyến khích, và mời gọi họ trở lại với đời sống tâm linh. Vấn đê này ông bà cha mẹ mình thường gọi là “ma quỷ níu kéo.” Tuy có những người không tin vào ma quỷ, nhưng thực tế dường như lại luôn có một sức mạnh vô hình nào đó níu kéo chúng ta trì trệ trong việc sống đạo, và dần dần xa Chúa.
Phương Pháp Chữa Trị và Ngăn Ngừa: Bắc Cầu Tình Thương
Trên đây là những vấn đề của Giáo Hội hôm nay, và nó cũng là vấn đề thiết thực đặt ra trong việc truyền giáo nơi chúng ta đang sống tại đất Mỹ này. Thực trạng này mời gọi chúng ta suy tư sâu hơn đê cùng thao thức với Giáo Hội trong việc truyền giáo. Đừng kết án những anh chị em đã bỏ đi, bởi vì mỗi người có một lí do riêng khiến họ ra đi. Hãy cùng cảm thông và lắng nghe những trăn trở và nỗi lòng của họ, và cùng suy nghĩ xem Giáo Hội, cộng đoàn, gia đình và chính mỗi cá nhân nên làm gì và cần thay đổi những gì để mời gọi anh chị em mình trở về. Chúng ta có tòa nhà Giáo Hội, nhưng muốn tòa nhà ấy trở thành tổ ấm thì cần đến bầu khí yêu thương. Do đó, việc truyền giáo nhiều khi lại đòi hỏi trước hết là sự hoán cải của chính Giáo Hội và thay đổi con tim của mỗi cá nhân, là phúc âm hóa đời sống nội tâm của mình trước đã. Bởi vì muốn làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Chúa Kitô, thì trước hết chính mình phải là người môn đệ của Chúa Kitô, thấm đượm cái chất Kitô trong đời sống đạo của mình.
Mặc dù truyền giáo trong thời đại hôm nay thật đa dạng và phong phú, mỗi một Kitô Hữu có thể làm tốt công việc truyền giáo trong chính môi trường và hoàn cảnh của mình với sự thúc đẩy và gợi ý của Chúa Thánh Thần. Tất cả gợi ý và kết quả của công việc truyền giáo là cho chính Thánh Thần hướng dẫn và chính Ngài mang lại hoa trái. Do đó, chúng ta có lí do để hy vọng vào những công việc của mình, bởi vì Thánh Thần sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự trong lòng chúng ta hôm nay. Những năm qua, sự hiện diện của người Công Giáo Việt Nam trên đất Mỹ này đã là một hành vi truyền giáo hết sức ý nghĩa. Sự hiện diện ấy dù âm thầm hay sôi nổi cũng đã làm thay đổi biết bao tâm hồn. Chúng ta không biến đổi người khác, nhưng chính Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn họ qua sự hiện diện và sống đạo của chính mình. Hôm nay, bên cạnh sự hiện diện của người Công Giáo Việt Nam như một hành vi truyền giáo, Chúa Thánh Thần lại tiếp tục gợi ý và mời gọi chúng ta nối dài sự hiện diện ấy bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, và cấp bách hơn. Mỗi một hoàn cảnh sống mới, lại sinh ra những nhu cầu mới, và chính Thánh Thần đang mời gọi chúng ta đáp ứng những nhu cầu mới này.
Có năm đối tượng chính mà hội đồng truyền giáo Hoa Kỳ đặt ra, đó là truyền giáo cho chính các kitô hữu trong Giáo Hội, mời gọi tất cả các tín hữu làm một cuộc hoán cải nội tâm và canh tân niềm tin trong Đức Kitô; rồi truyền giáo cho những anh chị em đã rời bỏ Giáo Hội, những người đang sống bên lề của đời sống bí tích và đời sống cộng đoàn. Mời gọi họ trở về giao hòa với chính Thiên Chúa và với Giáo Hội. Rồi truyền giáo cho chính các em, những môn đệ “tí hon” của Đức Kitô, giúp các em tập sống đức tin và gắn bó với Chúa Kitô ngay từ nhỏ. Đây là công việc trọng tâm của gia đình và của các giáo lý viên trong giáo xứ. Kế đến là truyền giáo cho những anh chị em thuộc Kitô Giáo nhưng không cùng truyền thống với Công Giáo, giúp họ nhận ra sự sung mãn của truyền thống Công Giáo và tiến đến sự hiệp thông Kitô Giáo qua đối thoại và cảm thông. Và cuối cùng là truyền giáo cho những anh chị em không có niềm tin vào Đức Kitô.
Trong số đối tượng truyền giáo của hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ nêu trên, vấn đề truyền giáo cho những anh chị em đã rời bỏ Giáo Hội vẫn là mối quan tâm sâu xa, vẫn là nỗi trăn trở ưu tư của các mục tử, và đó cũng chính là lời mời gọi của mỗi một người trong chúng ta hôm nay. Vì thế, truyền giáo hôm nay là lưu tâm đến những anh chị em đó; họ là con em, là người thân, là bạn hữu của mình. Cố gắng yêu thương và tìm cách mời họ trở về. Trong nhiều cuộc phỏng vấn được thực hiện trong những năm gần đây, dấu hiệu hy vọng cho biết phần đông trong họ muốn quay trở về với Giáo Hội, miễn là có ai đó yêu thương và sẵn lòng dẫn đưa họ về. Thật ra, họ chẳng còn là trẻ thơ để đợi người khác đưa dẫn, nhưng vì khi họ ra đi, chiếc cầu năm xưa đã một lần mục gẫy, và nay họ cần một chiếc cầu mới để nối lại nhịp xưa. Chiếc cầu đó là chính mỗi người Kitô Hữu, là bạn bè, là người thân, là đồng nghiệp của họ. Đừng giảng giải cho họ nhiều điều, nhưng lắng nghe, thông cảm và yêu thương. Chỉ có tình thương chân thành mới cảm hóa được lòng người. Đó cũng chính là bí quyết truyền giáo của Đức Kitô.
Dấu chỉ hy vọng cho thấy đã có hàng trăm ngàn người trở về trong những năm qua. Một khi họ trở về, đời sống đạo của họ sâu sắc hơn và nhiều người trong họ đã trở thành những nhà truyền giáo nhiệt thành. Đời sống của họ sung mãn và hạnh phúc hơn so với những năm tháng sống ngòai Giáo Hội.
Mỗi tín hữu Kitô, hơn ai hết, là chiếc cầu hữu hiệu nhất giúp người khác trở về. Phải thành thật rằng, phần đông các mục tử không làm nổi chuyện này. Phần thì các mục tử không biết nổi hết các con chiên, phần khác mối liên hệ giữa các mục tử và đa số những chiên lạc này chẳng mấy thắm thiết-nếu thắm thiết thì họ đã chẳng ra đi, chưa kể những người ra đi vì xung khắc với mục tử. Những người này khi trở lại thường gia nhập ở một cộng đoàn khác. Dù gia nhập cộng đoàn nào đi nữa, việc họ quay trở về là một nỗi vui cho cả Giáo Hội. Đó là hình ảnh vui mừng của người chủ chiên cõng con chiên lạc trên vai trở về. Chính vì thế, việc “đi tìm anh chị em” gợi cho chúng ta một ưu tư mới trong vấn đề truyền giáo hôm nay.
Qua nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy, phải đến từ 65% đến 90% người ngoài Kitô giáo trở lại là do tiếp xúc cá nhân với người Kitô Hữu. Phần đông họ không trở về với một Thiên Chúa mơ hồ, một Giáo Hội có nề nếp. Họ cũng chẳng trở về vì một nền thần học hấp dẫn, mà là họ trở về trước hết với những con người cụ thể trong cộng đoàn, trong từng mối liên hệ mật thiết mà họ cảm nghiệm được tình yêu thương.
Chữa bệnh không bằng phòng bệnh. Mặc dù số lớn rời bỏ Giáo Hội khi các em lên 18 tuổi, chúng ta cần sửa soạn cho các em ngay từ tuổi thơ. Chúng ta cần xây dựng cộng đoàn yêu thương cho mỗi người và mỗi lứa tuổi, dùng mọi phương cách mà Chúa ban. Cả cộng đoàn cần làm việc với nhau, và chính cách làm việc chung này có thể xây dựng tình thân ái nếu chúng ta làm vì Chúa và vì nhau, hơn là vì công việc hay danh tiếng. Ngay trong lớp giáo lí, một “môn học” chính trong mọi lớp là các em có thể cảm nhận được và diễn tả được tình thương. Các em được “chích ngừa” bằng thuốc yêu thương nên sẽ khó bỏ cộng đoàn, bỏ Giáo Hội rồi chính gương sáng của các em này, cùng với tình thương các em có với người khác, cũng sẽ níu kéo người khác trở về và ở lại trong Giáo Hội. Ngoài lớp giáo lí, các đoàn thể trẻ như Thiếu Nhi Thánh Thể, Hướng Đạo Công Giáo, hay lớp Việt Ngữ cũng là những nơi truyền giáo hữu hiệu và cần thiết. Và dĩ nhiên gia đình là nơi quan trọng nhất, và cộng đoàn có thể giúp cho các gia đình qua các hội đoàn thích hợp như Bà Mẹ Công Giáo và Liên Minh Thánh Tâm, cũng như các buổi cấm phòng giáo xứ và giáo lí cho người lớn.
Cách phòng bệnh này cần được thi hành ngay từ khi lọt lòng mẹ, và phải thích ứng với nhu cầu và sở thích của từng lứa tuổi và từng văn hóa. Một số khá lớn các mục sư Mỹ vừa trao dồi kiến thức về quá trình phát triển con người cũng như phát triển đức tin theo từng lứa tuổi, vừa chuyên cần học hỏi về vấn đề đa văn hóa. Chúng ta lầm to nếu chúng ta nghĩ chúng ta hiểu các em Việt Nam vì chúng ta cùng một văn hóa.
Ngay trên đất Mỹ cũng có những văn hóa khác nhau, mà nếu chỉ nhìn mặt, nhìn tên không thì không biết được. Ngay cả một cô giáo Việt Nam trẻ sanh ra tại Mỹ, học giỏi, đạo đức, đã có một khoảng cách đáng kể với các em Việt Nam học kém trong lớp, huống chi là những người như chúng tôi, sinh trưởng tại Việt Nam. Khoảng cách càng xa ta càng cần tìm hiểu và cố gắng để bắc cầu được với tâm hồn các em. Rồi chính các em này sẽ là những nhà truyền giáo hữu hiệu, ngay bây giờ hay sau này, cho những em khác cùng văn hóa với chúng. Vì một cộng đoàn CGViệt Nam tại hải ngoại rất đa diện và phức tạp, nên cần rất nhiều người, nhiều giới cộng tác.
Trong khung cảnh liên tôn, bắc cầu tình thương với các anh chị em ngoài Công Giáo lại càng cần thiết hơn. Đại Sư Thích Nhất Hạnh viết trong cuốn Living Buddha, Living Christ là từ những nhịp cầu thương yêu của các bạn Thiên Chúa Giáo mà Đại Sư đã đổi từ ác cảm đối với Thiên Chúa Giáo qua thiện cảm, và dự thánh lễ Công Giáo nữa.
Xin Chúa Thánh Thần tiếp tục hướng dẫn và gợi lên trong lòng mỗi Kitô hữu sự nhiệt thành truyền giáo và lưu tâm đến những anh chị em sống chung quanh mình. Bởi vì chia sẽ niềm tin cho người khác chính là cũng cố niềm tin của mình. Bao lâu cộng đoàn giáo xứ hay mỗi một cá nhân không chia sẽ niềm tin, hoặc không cổ võ việc truyền giáo thì niềm tin của chúng ta sẽ dần phai nhạt và khô héo. Chính công việc truyền giáo đã nuôi dưỡng sức sống của Giáo Hội. Như Đức Thánh Cha Phao-lô VI nhấn mạnh, Giáo Hội không những sinh ra để truyền giáo, nhưng chính công việc truyền giáo đã khai sinh Giáo Hội. Thật thế, Đức Kitô đã rao giảng tin mừng trước khi Ngài thành lập Giáo Hội, và Giáo Hội đã không ngừng tiếp tục sứ mạng của Đức Kitô qua mọi thời đại. Xin cho mỗi người chúng ta cũng luôn mang tâm tình và lòng nhiệt thành của Đức Kitô, để Tin mừng được rao giảng, để tình thương của Ngài được chạm đến mỗi một con tim trong gia đình nhân loại. ------------------------------ Sách Thao Khảo
Boyack, K. (Ed.). (1987). Catholic evangelization today: A new Pentecost for the United States . Mahwah, NJ: Paulist Press.
Boyack, K. (Ed.). (1992). The new Catholic evangelization . Mahwah, NJ: Paulist Press. Boyack, K. (1995). “Go and make disciple: The United States BishopsỴ National plan for Catholic evangelization”. In W. Houck, P. Williamson, & M. Ralph (Eds.). John Paul II and the new evangelization: How you can bring the Good News to others. Ft. Collins, CO: Ignatius Press.
Emmons, R.A., & Paloutzian, R. F. (2003). The psychology of religion. Annual Review of Psychology, 54: 377-402.
Fowler, J. (1981). Stages of faith: The psychology of human development and the quest for meaning . New York: Harper Collins Publisher.
Nhất Hạnh. (1997). Living Buddha, living Christ . New York: Riverhead Books. Hoge, D. (1981). Converts, dropouts, returnees: A study of religious change among Catholics . Cleveland, OH: Pilgrim Press.
Houck, W., Williamson, P., & Ralph, M. (Eds.). (1995). John Paul II and the new evangelization: How you can bring the Good News to others . Ft. Collins, CO: Ignatius Press.United States Conference Catholic Bishops (USCCB) Committee on Evangelization. (1998). A time to listen, a time to heal: A resource directory for reaching out to inactive Catholics. Washington, DC: USCCB.
Trong Cựu Ước, đang khi ông A-mốt lo chăn dắt đàn súc vật và chăm sóc cây sung, Thiên Chúa gọi và truyền lệnh cho ông hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en, Dân của Người ( x. Am 7, 15 ). Đến Tân Ước, Đức Giê-su sai các Tông Đồ đi rao giảng với những chỉ thị rõ ràng ( x. Mc 6, 8 – 11 ). Các ông đã vâng lời ra đi, thu gặt được nhiều kết quả ( x. Mc 6, 13 ).
Chúng ta nhận thấy cách Chúa chọn, gọi và sai đi ( cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước) khác hẳn cách làm của thế gian. Các ông đều là những người không có địa vị gì trong xã hội, trình độ học vấn không cáo gì. A-mốt làm nghề chăn nuôi và trồng trọt, còn đa số các Tông Đồ đều làm nghề chài lưới. Thánh Phao-lô cho biết: “Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ” ( Ep 1, 4 ). Như vậy, tiêu chuẩn để được Chúa chọn không phải là tài năng, công phúc, lòng đạo đức... nhưng hoàn toàn do tình thương hải hà của Chúa. Và điều quan trọng là các ông đã đáp lại lời mời gọi của Chúa, ra đi trong tinh thần khó nghèo và phó thác.
Vì yêu thương và muốn cứu độ nhân loại, Chúa dùng nhiều phương cách để bày tỏ ý định của Người cho nhân loại, qua các Ngôn Sứ Cựu Ước, rồi qua chính Con Một yêu dấu của Người, qua các Tông Đồ và những Đấng kế vị, để con người ở mọi thời mọi nơi đều được hưởng nhờ Ơn Cứu Độ của Người.
Những ai đã nhận Bí Tích Thánh Tẩy đều gia nhập cộng đoàn những người được sai đi rao giảng Tin Mừng. Trong Tông Huấn “Giáo Hội tại Á Châu”, Đức Gio-an Phao-lô 2 đã kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa “Hãy ra khơi !” theo định hướng hội nhập văn hóa, hiệp thông, đối thoại để truyền giáo. Vậy mỗi chúng ta cũng ý thức rằng mình cũng được Chúa chọn, gọi và sai đi đến với tha nhân nơi mình đang sinh sống, đang làm việc. Với ý thức mình là Muối, là Men giữa đời, chúng ta cầu nguyện và dâng những hy sinh để Chúa mở lòng người ta được ơn nhận biết và tin theo Chúa.
Tại Giáo Xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài-gòn, hai ba năm nay, sau mỗi Thánh Lễ tại Nhà Thờ Giáo Xứ cũng như tại Nhà Nguyện các Xóm Giáo, cộng đoàn đọc một Kinh Lạy Cha, một Kinh Kính Mừng và một Kinh Sáng Danh có ý cầu nguyện cho những người chưa biết Chúa quanh ta. Hôm qua ra sao không ai biết, chỉ có Chúa biết, thế nhưng việc nhỏ này lại gây được ý thức truyền giáo sâu xa nơi mỗi tín hữu thí dụ Thánh Lễ.
Còn nhớ, sau năm 1975, các vị Thừa Sai DCCT người Canada không còn được tiếp tục làm mục vụ tại Việt Nam nữa. Trong Thánh Lễ tiễn chân tại Nhà Thờ Tu Viện DCCT Sài-gòn hôm ấy, bài Tin Mừng cũng chính là đoạn Mc 6, 7 – 13. Cha chủ sự đã ngậm ngùi ngỏ cùng các anh em của mình: “Xin các anh ra đi thượng lộ bình an, nhưng cũng xin đừng giũ lại bụi đất dưới chân” ( x. Mc 6, 11 ). Các Thừa Sai chỉ đổi nhiệm sở mà thôi, đã hoàn tất nhiệm vụ ở đây để lại nhận nhiệm vụ mới ở nơi khác. Và quả thật, chỉ ngoại trừ một số ít vị đã quá già yếu, các vị khác đã lại tiếp tục bước đường ngược xuôi truyền giáo cho đến cuối đời ở nhiều miền đất lạ đang còn khao khát đón nhận Tin Mừng Cứu Độ.
Lại cũng cần phải nhắc đến câu chuyện từ giữa thập niên 1980 tại một bệnh viện của Sài-gòn thời còn bao cấp. Hằng ngày, cứ cơm chiều xong xuôi, khi các nhân viên bệnh viện đã lần lượt ra về là các bệnh nhân Công Giáo lại lặng lẽ xuống các tầng lầu, đến trước Hang Đá Đức Mẹ trong bệnh viện để cầu nguyện, hát Thánh Ca và đọc Kinh Tối chung với nhau. Chẳng ai bảo ai, lúc đầu chỉ có vài người, sau đông hơn lên đến hàng chục. Đọc kinh xong, lên phòng nghỉ ngơi, rồi thiếp vào giấc ngủ an bình, tâm hồn thấy thoải mái vui tươi. Đến sáng, lại có người tự nguyện rước Mình Thánh Chúa vào bệnh viện cho những ai ước ao đón nhận. Họ đã làm việc này một cách bình thản tự nhiên, như vẫn làm khi khỏe mạnh ở ngoài đời tại các Hang Đá Đức Mẹ Nhà Thờ Giáo Xứ của họ...
Chứng kiến tất cả, biết nhóm người này đã làm gì, đã sống như thế nào, có một bệnh nhân cũng là người Công Giáo đã động lòng ăn năn, thú nhận đã bỏ Chúa từ lâu, muốn được quay trở về giao hòa với Chúa. Thế là, một nhóm đã bàn bạc thu xếp để những người này được Linh Mục vào trao ban Bí Tích Hòa Giải. Ít ngày sau, lại bất ngờ có một bệnh nhân khác xin học Đạo để theo Chúa. Anh gốc ở tận Phan Rang, cha mẹ mất sớm, anh em trong nhà đều nghèo, đưa anh ta vào viện rồi để lại địa chỉ nhờ các soeurs Dòng Vinh-sơn chăm sóc và báo tin khi cần. Anh ta đã được toại nguyện, được Thanh Tẩy, được chăm sóc chu đáo, giúp đỡ tận tình và đã ra đi bình an mấy tháng sau đó...
Thế mới biết, Truyền Giáo khởi đi từ chính việc sống Đạo giữa lòng cuộc đời hôm nay !
Chúa gọi ta theo Ngài, làm môn đệ Ngài, đi rao giảng Phúc Âm.
2. TIẾNG GỌI CỦA CHÚA CÓ NHỮNG ĐẶC TÍNH NÀO ?
Tiếng gọi của Chúa có những đặc tính sau đây:
Rõ ràng, quyết liệt Liên tục, cả trong việc nhỏ Dành sáng kiến thực hiện cho ta.
3. TA PHẢI ĐÁP LẠI TIẾNG GỌI ĐÓ NHƯ THẾ NÀO ?
Ta đáp lại Tiếng Gọi đó cách trọn vẹn, nghĩa là phải:
Dứt khoát theo Chúa, hy sinh cả đời, dù bị cho là điên dại, dù bị cám dỗ bỏ đường Chúa, dù phải chết.
Tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, theo gương Chúa Giê-su, các Tông Đồ và các Thánh.
4. TRÊN ĐƯỜNG THEO TIẾNG GỌI CỦA CHÚA, TA PHẢI TRÁNH NHỮNG THÁI ĐỘ NÀO ?
Ta phải tránh những thái độ sau đây:
Theo Chúa cách nữa vời, vì thiếu xác tín bản thân. Uất ức chán nản và tháo lui khi gặp trái ý, khi bị cám dỗ. Tự mãn về mình và công việc của mình. 1. “Sa-mu-en ! Sa-mu-en !”
Đêm ấy, trẻ Sa-mu-en đang ngủ trong Đền thờ, gần Khảm Giao ước của Thiên Chúa thì có tiếng gọi đích danh cậu: “Sa-mu-en ! Sa-mu-en !” Cậu thưa ngay: ''Này con đây, và vội vàng chạy đến cùng Thầy cả Hêli. Nhưng trong cả ba lần. Hêli không có gọi. Lần thứ tư, Sa-mu-en thưa lớn tiếng: “Lạy Chúa xin Hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”. Và Thiên Chúa đã nói chuyện cùng Sa-mu-en. Từ đó về sau, Samuen ngày càng lớn lên trong Ơn Gọi, có Thiên Chúa luôn ở cùng cậu và cậu không để rơi mất một lời nào của Ngài. Samuen đã trở thành một Ngôn sứ vĩ đại vì nhờ biết lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa ( 1 Sm 3 ).
Tiếng Gọi vẫn tiếp tục nhắc nhở con trong mọi việc nhỏ: “Hãy theo Thầy !” và tiếng “Vâng” của con cũng tiếp tục cho đến hơi thở cuối cùng ( ĐHV 72 ).
2. Tiếng gọi từ bụi gai
“Ta tạt qua nhìn quang cảnh hùng vĩ ấy mới được: tại sao bụi gai lại không cháy thiêu đi ?” Mô-sê nhủ thầm như thế và tiến lại gần. Thiên Chúa liền gọi đích danh ông từ giữa bụi gai: “Mô-sê ! Mô-sê !” – Ông đáp lại: ''Này con đây”. Và Thiên Chúa tâm sự với ông về Danh Tính mình, về nỗi khổ của Dân tộc mình ở Ai-cập. Sau cùng người nói: “Bây giờ con hãy đi”. Mô-sê ngập ngừng: “Con là ai mà dám...” Thiên Chúa phán: “Ta sẽ ở với con”. Ông vẫn chưa an tâm ! Sau đôi ba lần vặn hỏi quanh co, Mô-sê thú thật: “Lạy Chúa xin xá lỗi, con không phải là người có tài ăn nói... Con cứng cả miệng, cứng cả lưỡi !” Thiên Chúa nói ngay: ''Ai cho người phàm có miệng... lại không phải chính Ta đó sao ? Con hãy đi, chính Ta sẽ ở với miệng con và dạy con điều coll phải nói...” Mô-sê đã trẩy đi Ai-cập để cứu dân mình khỏi nô lệ với một vũ khí, một bảo đảm duy nhất: “Gia-vê ở cùng ông” ( Xh 3 – 4 ).
Chọn lựa bao giờ cũng tiếc nuối, do dự, suy nghĩ. nhưng cuối cùng phải quyết định ( ĐHV 62 ).
Con ngạc nhiên sao đủ hạng người tình nguyện làm “cảm tử” theo tiếng gọi của Chúa? Vì Chúa đã nói: “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế” ( ĐHV 67 ).
3. Tiếng kêu trong thị kiến
Đêm ấy đang ngủ, Phao-lô thấy thị kiến một người xứ Ma-kê-đô-ni-a khấn xin với ông rằng: Hãy qua Ma-kê-đô-ni-a cứu giúp chúng tôi ! Và Phao-lô đã trẩy đi Ma-kê-đô-ni-a vì biết rằng chính Thiên Chúa đã gọi ông đến rao giảng Tin Mừng cho họ ( Cv 16,8 ).
“Hãy theo Thầy !” Các Tông Đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa, con có dứt khoát một phen theo Chúa không ? Chúa phải gọi con mấy lần rồi ? ( ĐHV 61 ).
Công đồng Vatican 2 dạy ta “trở về nguồn”. Con hãy khám phá lại đời sống các tông đồ, những người đã sống, đã nghe, đã sờ tận tay Chúa Cứu Thế và làm chứng về Ngài ( ĐHV 75 ).
4. Không hề từ chối sự gì
Trong “Truyện một Tâm Hồn”, Chị Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su thú thực: “Từ lúc có trí khôn cho tới bây giờ, tôi không hề từ chối Chúa sự gì”.
Quyết định theo Chúa của con không phải chỉ là một chữ ký, không phải là một lời tuyên thệ thôi. Nhưng là một sự hiến dâng liên lỉ thực hiện trong cả cuộc sống ( ĐHV 69 ).
5. Hơn nữa ! Hơn nữa !
Vì quá yêu mến Chúa và các linh hồn, nên Phan-xi-cô Xa-vi-ê chất chứa trong tim một nguyện vọng và một chương trình vĩ đại: “Sau khi truyền giáo ở Ấn-độ, Mã-lai-á, Nhật-bản, tôi sẽ đi vào Trung Quốc rồi từ đó vượt qua Mông-cổ, Nga để đi về Âu Châu, tôi lại vòng sang Châu Á một phen nữa”. Thế nhưng chương trình của Thiên Chúa lại khác. Lúc Phan-xi-cô vừa đến đảo Tam Châu, chuẩn bị vào Trung Quốc thì bị một cơn sốt rất nặng. Ngước mắt nhìn vào mảnh đất mình hằng mong ước mang Tin Mừng đến. Phan-xi-cô gục ngã lìa đời khi vừa mới 49 tuổi. Trong suốt mấy mươi năm trường, đức ái là tiếng gọi duy nhất thúc bách ngài liên lỉ. Mỗi lần phải đau khổ, ngài hân hoan thưa với Chúa: “Mas ! Mas !” ( tiếng Tây-ban-nha nghĩa là: Hơn nữa ? Hơn nữa ! ). Phan-xi-cõ luôn sẵn sàng hy sinh “hơn nữa” cho các linh hồn. Khi nhắm mắt lìa trần, ngài đã rửa tội trên 10.000 người. Chương trình ngài còn lớn lao “hơn nữa” nhưng Thiên Chúa lại muốn thế khác.
Chúa bảo con: “Hãy đi rao giảng Phúc Âm”. Chúa không ra thời khóa biểu, không vạch kế hoạch, Chúa để con sáng kiến và vượt đi, miễn là con mang Phúc Âm (ĐHV 74 ).
6. Một cha sở khiêm nhường
Như trước đây đã nói, cha Vianney đã được chuẩn phần kiến thức cần thiết. Ngài được “vớt”, ''đề cử” nhờ bền chí ! Hôm mới về xứ Ars, một xứ vỏn vẹn có 300 Giáo Dân, cha Vianney đã khởi sự xây dựng Giáo Xứ bằng những chất liệu: cầu nguyện, hy sinh, hãm mình... Dần dần, Giáo Dân từ nhiều xứ đổ xô tới xứ Ars nghe ngài dạy Giáo Lý 15 phút trước giờ kinh trưa và nhất là để xưng tội với ngài.
Các bạn đồng nghiệp dều biết trước dây Vianney rất tầm thường, dốt nát, lại thêm bản tính con người không khỏi ghen tỵ khi thấy Giáo Dân đổ xô dến xưng tội với một cha xứ hạng bét như vậy, nên họ đã trình với Đức Cha địa phận như sau: ''Thưa Đức Cha, cha Vianney trước đây học hành kém cỏi mà nay lại cả gan giải tội cho Giáo Dân khắp nơi. Họ bị những lời đồn thổi, phóng đại, mê tín, quyến rũ, nên ào đên xứ Ars ngày càng đông. Có thể có những nố khó mà cha Vianney đã gtải sai các nguyên tắc trong Luân Lý Thần Học !” Đức Cha cũng không khỏi lo lắng. Ngài gọi cha Vianney đến và giao cho ngài một số nố rất khó giải để về giải trên giấy tờ đàng hoàng rồi đem nộp cho Toà Glám mục. Chỉ vài ngày sau, Cha Vianney đã đem lên nạp Toà Giám mục tất cả những lời giải đáp. Các vị chuyên môn Luân Lý Thần Học xem qua đều phải khen rất đúng và khôn ngoan. Ai nấy đều ngạc nhiên lẫn mến phục.
Nhưng chưa hết, càng ngày Giáo Dân càng đến xưng tội với cha Vianney càng đông khiến cha phải giải tội từ nửa đêm. Và một lần nữa, các bạn đồng nghiệp lại làm tờ đơn kiện cha Vianney gởi thẳng lên Toà Giám mục. Trong đơn đại ý nói: “Cha Vianney đảm đương xứ mình chưa xong mà cả gan quyến rũ Giáo Dân các xứ khác đến xưng tội với mình càng ngày càng nhiều. Kiến thức của ngài thì ai cũng rõ là rất giới hạn nên thật nguy hiểm có nhiều nố phức tạp có thể bị ngài giải sai. Hơn nữa, tình thế ấy lại còn làm mất trật tự trong các Giáo Xứ khác vì Gláo Dân không xưng tội ở xứ nhà mà lại ùn ùn kéo nhau qua xưng tội ở xứ Ars. Kính xin Đức Cha ra lệnh cấm cha Glo-an Ma-ri-a Vianney giải tội cho các nơi... “
Một Linh Mục được giao trọng trách đem tờ đơn ấy lên Toà Giám Mục. Nhưng vị này cũng có lòng bác ái muốn giúp đỡ anh em, nên khi ngang qua xứ Ars đã tạt vào thăm cha sở đôi phút. Trong câu chuyện hàn huyên, cha ấy vào đề: “Tôi muốn tâm sự thành thật với cha: anh em rất bất bình về việc cha giải tội từ nửa đêm cho Giáo Dân các xứ đến đây. Cha làm như thế là hạ uy thế của anh em, lại làm mất trật tự trong Giáo Xứ nữa. Đàng khác, cha làm gì cho mệt, cứ lo cho xứ mình là đã đủ. Tôi nói thật với cha, mất lòng trước được lòng sau: Cha cũng tự biết sự học hành của mình có giới hạn... Vì thế, anh em đã làm một tờ đơn trình bày công việc ấy lên Đức Cha và xin ngài cấm cha giải tội cho Giáo Dân các Giáo Xứ khác. Tôi vì tình huynh đệ nên trước khi lên gặp Đức Cha, củng muốn cho cha biết, không giấu giếm chi. Tiện đây, tôi cho cha xem bức thơ để Cha hiểu qua và thu xếp sao cho êm đẹp”.
Nói đoạn, cha ấy trao tờ đơn cho cha Vianney xem, trong lòng rất đỗi ái ngại vì sợ Cha Vianney sẽ nổi tự ái, giận dữ trách móc anh em mình... Nhưng lạ thay, cha Vianney vẫn bình thản đọc thư ! Và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là ngài thong thả lấy bút châm mực. Ngài viết gì thế ? Vị Linh Mục kia hồi hộp theo dõi và thấy cha Vianney hí hoáy viết ở cuối bức thư: ''Việc anh em nói trên đây rất đúng với sự thật. Con cũng xin ký tên vào đơn đồng tình cùng anh em”. Rồi ngài xếp thư, trao lại và cám ơn cha kia cách niềm nở. Dầu sao cũng phải chu toàn sứ mạng với bất cứ giá nào.
Cha kia mang bức thư lên Toà Giám Mục. Đọc xong, thấy bên dưới các chữ ký của các cha lại có cả chữ ký của cha Vianney nữa, Đức Cha mới lấy làm lạ hỏi cha cầm thư. Cha kia trình bày đầu đuôi tự sự. Đức Giám Mục kết luận: “Các cha xem, Cha Vianney phản ứng cách rất khiêm tốn. Có ai lại đồng ý tự kiện mình bao giờ. Ngài thực là người đạo đức. Thôi ta cứ để xem. Nếu là việc Chúa thì sẽ vững bền, ngược lại, nếu là việc của ý riêng ngài thì thế nào cũng sụp đổ...” Cha kia về thuật lại mọi sự cho anh em nghe, ai cũng ngạc nhiên thầm nghĩ: “Đáng lẽ Cha Vianney phải giận dữ căm thù mình mới phải. Ai ngờ ngài lại ký tên vào đơn kiện ngài: Thôi ta cứ chờ xem theo như quyết định của Đức Cha”.
Con muốn tháo lui vì có những sự trái ý, vì gặp những người không thể chịu nổi ? Con theo Chúa hay theo mấy người ấy ? ( ĐHV 66 ).
Thưa: “Vâng” là dễ, nhưng hãy xem Chúa Giê-su theo Tiếng Gọi cho đến chết trên Thánh Giá. Hãy bỏ mình, vác Thánh Giá mỗi ngày và đóng đinh mình trên Thánh Giá ấy. ( ĐHV 73 ).
Lúc con tự mãn về công việc Tông Đồ của con là lúc nguy hiểm nhất. Ma quỷ tập trung lực lượng để đánh úp con. ( ĐHV 79 ).
7. Được gọi để gọi
“Thưa ông bà muốn gặp ai ạ ?” Chị Céline đã nói câu ấy lần đầu tiên cách đây 40 năm. Từ đó ngôi nhà khách với chùm chìa khóa, cái chổi, chiếc ghế đã lrở thành giang sơn của chị. Bổn phận của một chị giữ nhà khách là gọi người khác. trong suốt 40 năm trường, chị Céline chỉ làm ngần ấy công việc ! Câu hỏi trên kia chị phải lặp đi lặp lại đến hơn 10 lần mỗi ngày. Với thời gian, phương thế có đôi phần thay đổi: từ cái kẻng đến chuông điện, rồi điện thoại, sau đó lại trở về chuông kéo, kẻng sắt... nhưng công việc luôn luôn vẫn là gọi nguời khác.
Ôi chao ! biết bao khuôn mặt đă xuất hiện tại nhà khách, bao giọng nói đã vang rền trong điện thoại ! Nhưng có một điều chi Céline hằng đoán chắc: người ta đang gọi, đang xin gặp một người nào đó... trừ ra chị. Vì thế chị thường nói đùa: ''Tôi chỉ được Chúa gọi một lầm duy nhất và từ dạo ấy, tôt đã luôn luôn gọi người khác: tôi được gọi để gọi”. Một ngày của chị bị cắt vụn thành từng miếng, công việc của chị bị chẻ thành từng mảnh, luôn luôn là gián đoạn. Khi cầm chuỗi lần hạt, chị biết mình sẽ không đọc được quá 10 kinh, khi xem sách chị đoán sẽ thưởng thức không quá 10 dòng; trong Nhà Nguyện, chị quỳ ở ghế cuối cùng, gần cửa ra vào, luôn thấp thỏm đợi chờ chuông reo... Luôn bị gián đoạn, nhưng chỉ với “sự gián đoạn” này của mình, chị mới có thể tạo nên “sự liên lạc” của người khác. Chị bao giờ cũng nhanh nhẹn đối với một khách sang cũng như một bà lão nhà quê. Tất cả mọi người đều ăn cắp giờ của chị. Không ai cần gặp chị... Với thời gian, da mặt chị nhợt nhạt hơn, người chị tiều tụy hơn, nhưng nụ cười vẫn tươi nở như thuở nào, lời kinh dâng Chúa mỗi ngày lại càng thêm sốt sắng hơn.
Và rồi một hôm, trong lúc vội vã đi gọi người khác, chị Céline đã ngã quỵ trong hành lang Nhà Dòng ! thổ huyết ! Chị bập bẹ: “Chúa đến gọi tôi lần thứ hai” ( và cũng là lần cuối cùng ). Đôi tay chi run run ôm lấy lồng ngực khiến chùm chìa khóa rơi trên nền gạch hoa. Đàng kia, chiếc ghế vẫn vô tình không biết từ nay mình sẽ là đồ vô chủ... Chị Céline dã suốt đời trung thành với Tiếng Gọi của Chúa và với công việc bổn phận hằng ngày của chị: được gọi để gọi người khác. Giá trị và sự cao cả của chị không phải là ở chỗ đó sao ?
Chúa Giê-su rõ ràng quyết liệt: “Ai muốn theo Ta, hãy...” – “Ai không... chẳng đáng làm môn đệ Ta”. Đường lối sáng tỏ, Tiếng Gọi không úp mở ( ĐHV 63 ).
Đức Cố Hồng Y FX. NGUYỄN VĂN THUẬN ( Lm. Huỳnh San gửi về từ Úc )
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật cho chúng ta nghe biết việc Chúa Giêsu sai các Tông Đồ đi rao giảng về nước của Thiên Chúa, tức là đi làm chứng một niềm tin mà mình đã tin theo. Niềm tin này được Chúa Giêsu củng cố bằng cách trao quyền cho các Tông Đồ chữa lành những bệnh tật, trừ quỷ và xức dầu cho họ nhân danh của Ngài.
Được sai đi là một vinh dự, càng vinh dự hơn khi người sai đi chính là Thiên Chúa, mỗi người trong chúng ta đều đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội tức là được trở nên môn đệ của Chúa Kitô, và có bổn phận rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho mọi người, và như thế cũng có thể nói: bí tích Rửa Tội là bí tích được sai đi vậy.
Chúng ta được sai đi không như các Tông đồ ngày xưa, và cũng không như các linh mục ngày nay, nhưng chúng ta được sai đi trong môi trường sống của mình là gia đình, là trường học, là chợ búa, là công sở, tóm lại ở đâu có chúng ta là ở đó Tin Mừng của Chúa được rao giảng, bằng các việc làm và lời nói chứa đựng tình yêu của Chúa Giêsu cho mọi người, tuy việc rao giảng Tin Mừng của người tín hữu không giống như của các linh mục, nhưng chỉ thị của Chúa Giêsu vẫn là chỉ thị cho chúng ta hôm nay. Chúa Giêsu chỉ thị:
1. Không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy.
Đi đường mà không mang gì cả thì thật sung sướng, bởi vì có thể tự do thong dong ngắm cảnh, không phải mệt nhọc, không phải mang vác nặng nề mồ hôi ướt áo, lấm lem mặt mày, đi truyền giáo mà như thế thì quả là đi dạo cũng không bằng, không mang gì cả nhưng được mang cây gậy, đúng là Chúa Giêsu rất cưng các học trò của mình, nhẹ nhàng ra đi truyền giáo với cây gậy làm vật hộ thân khi có sói rừng, khi gặp nguy hiểm, và nhờ có cây gậy mà người đi đường tự tin hơn.
Không mang gì cả đối với người Kitô hữu chính là hãy để cho tâm hồn mình bằng phẳng, đơn sơ, thật thà, đừng để tâm hồn chứa đựng nặng nề những ghét ghen, những hờn giận khi đi truyền giáo, cũng đừng chất chứa trong lòng những tham lam ích kỉ khi đi rao giảng Lời Chúa cho mọi người, bởi vì nếu tâm hồn chúng ta mang vác những thứ nặng nề ấy, thì sẽ không còn lòng dạ nào nữa để truyền giáo. Người ta sẽ không chấp nhận một nhà truyền giáo lòng đầy thù hận, ích kỉ nhỏ nhen.v.v... nhưng người ta chỉ hân hoan đón nhận một người truyền giáo thật thà đơn sơ, sống hết mình vì niềm tin của mình.
Cây gậy chính là đức tin của chúng ta, chỉ có đức tin mới làm cho chúng ta xác tín vào Lời Chúa mà không thèm mang gì cả khi ra đi truyền giáo, chỉ có đức tin mới làm cho tâm hồn chúng ta biết tin tưởng phó thác mọi sự trong tay Thiên Chúa, người có đức tin thì cuộc sống của họ tràn đầy ân sủng của Chúa. Khi gặp thử thách, chính đức tin làm cho họ trưởng thành hơn, khi gặp cám dỗ thì đức tin làm cho họ mạnh dạn thêm và chiến đấu đến cùng với ma quỷ.
Người Kitô hữu có thể không có gì cả, nhưng “cây gậy đức tin” thì không thể thiếu, bởi vì nó làm cho người Kitô hữu luôn nhìn thấy Chúa hiện diện với họ trong cuộc sống, trong cuộc đời truyền giáo, không có đức tin thì không thể làm gì được kể cả cầu nguyện và đọc kinh, không có đức tin thì công việc truyền giáo của chúng ta chỉ là “hoa trong gương, trăng dưới nước” mà thôi, không tồn tại.
2. Được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.
Đi dép là để cho chân của chúng ta được sạch và khỏi bị giẫm gai, đinh nhọn.v.v... tóm lại là để bảo vệ bàn chân của chúng ta, Chúa Giêsu đúng là một vị sư phụ rất quan tâm đến học trò, lỡ đi đường mà đạp gai nhọn thì chỉ có nước mà vào bệnh viện nằm còn làm ăn gì được nữa chứ, mà đi truyền giáo ở thời đại của Chúa Giêsu và các Tông Đồ thì làm gì mà có xe cộ, máy bay như bây giờ, lại còn phải vượt qua các đồi núi để giảng đạo, thì việc được phép mang dép là một hồng ân vậy.
Được đi dép tức là phải có lòng trông cậy vào Chúa, đi truyền giáo mà chỉ ỷ lại vào các phương tiện của người đời hay là ỷ vào tài năng của mình thì có mà thất bại đau thương. Như bàn chân được đôi dép bảo vệ, người biết trông cậy vào Chúa thì sẽ an toàn trong cuộc sống của mình, vì họ luôn cậy nhờ vào tình thương của Chúa, dù cho thất bại, dù cho gặp nhiều chống đối, dù cho nguy hiểm thì người trông cậy vào Chúa vẫn luôn an toàn không nao núng.
Nhưng không được mặc hai áo, có người giải thích là vì khí hậu ở Palestine rất nóng, cho nên Chúa muốn các Tông Đồ đừng mặc nhiều áo để nhẹ nhàng mà đi lại... cách giải thích nào cũng được chẳng sao cả, nhưng người Kitô hữu chúng ta hiểu là: Chúa muốn người đi rao giảng Tin Mừng đừng có hai lòng ba dạ, nghĩa là cần phải có một tâm hồn công chính minh bạch.
Không được mặc hai áo là đừng có hai lòng ba dạ, đừng có ngoài miệng thì khen lấy khen để, nhưng trong lòng thì ghét cay ghét đắng, đừng có anh anh chị chị rồi sau đó thì tìm cách nói xấu chửi bới anh anh chị chị ấy. Một người làm công việc truyền giáo mà có hai lòng ba dạ thì chỉ là công cụ của ma quỷ mà thôi, họ không thật với chính lòng mình thì không thể sống hết mình ví anh em.
Có người hàng ngày đều có đến tham dự thánh lễ, nhưng lòng dạ thì vẫn cứ hờn giận ghét ghen người hàng xóm, có người vẫn cười cười nói nói thân thiện với mọi người, nhưng lại nói xấu chê bai họ sau lưng với người khác. Lại có người không những “mặc hai áo” mà còn trùm luôn đầu, vì tâm hồn họ chứa đầy mưu mô hãm hại ngừơi anh em chị em, mặc dù ngoài mặt vẫn nắm tay cười cười nói nói...
Anh chị em thân mến,
Hôm nay Chúa Giêsu cũng sai anh chị em ra đi loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người, Ngài không sai anh chị em đi như các Tông Đồ trèo non lặn suối để tìm con chiên lạc, nhưng Ngài muốn anh chị em hãy trở nên những chứng nhân cho Ngài trong gia đình của anh chị em, trong môi trường sống và hoàn cảnh làm việc của anh chị em, bởi vì tất cả chúng ta đều là những môn đệ của Ngài, những cánh tay nối dài của Ngài để đem tình thương và hạnh phúc của Ngài đến cho mọi người bất hạnh đang chờ đợi chúng ta.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 15 thường niên tại nhà thờ Chúa Thánh Thần - Taiwan.
Nếu có lần nào đi cắm trại, nhất là trại huấn luyện, chắc bạn sẽ hiểu: Ý nghĩa đúng của việc cắm trại là hòa hợp với thiên nhiên, là sống hết mình cho thụ tạo, là thở hơi thở của hoang dã, là sống sức sống của ngàn xanh, là đi vào lòng của tự nhiên để khám phá siêu nhiên, đắm mình với tự nhiên để vươn hồn lên tới siêu nhiên, gọi về lòng biết ơn tạo vật đã cho nhau sự sống và dâng muôn muôn lời cảm tạ Tạo Hóa ân ban cho muôn loài sự sống toàn hảo& Vì thế, đi cắm trại cũng đồng nghĩa với trút bỏ một cách tự nguyện. Càng trút bỏ bao nhiêu có thể và biết giữ lại những gì thật cần thiết, và cần thiết đúng mức, người ta càng thanh thoát, càng nhẹ nhõm, không vướng bận hay lo toan điều gì. Bởi đó, hành trang của trại viên càng nhẹ nhàng bao nhiêu, ăn mặc càng giản dị bao nhiêu, lòng khiêm nhường, tinh thần nghèo khó càng lớn bao nhiêu, người ta càng sống hết mình với giây phút hiện tại, hết mình với không gian, với thời gian... Nhất là càng thấm đẫm lòng yêu mến tự nhiên, người ta sẽ càng dễ dàng trở về Nguồn Cội Vĩnh Cửu, Đấng đã tác sinh mọi loài.
Hiểu được sự “trút bỏ” là điều cần thiết của người đi cắm trại, ta sẽ dễ hiểu hơn mệnh lệnh lên đường mà Chúa Giêsu trao cho các môn đệ của Người. Đấy cũng là một sự trút bỏ, nhưng còn hơn cả sự “trút bỏ” của người trại viên, môn đệ của Chúa Giêsu phải trút bỏ đến trở nên nghèo khó, một cái nghèo đúng mức, nghèo trọn nghĩa nhất: “Người truyền cho các ông lên đường, đừng mang gì ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép và đừng mặc hai áo”.
Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng cho người nghèo, Tin Mừng của người nghèo. Do đó chỉ có người nghèo mới có thể nên chứng nhân cho Tin Mừng ấy, mới có thể loan báo Tin Mừng ấy hữu hiệu. Chúa Giêsu không dạy gì mà Người đã không sống lời dạy ấy. Cả cuộc đời của Người là một bài học lớn cho người môn đệ về sự nghèo khó. Chúa Giêsu đã trút bỏ hoàn toàn. Sự trút bỏ của Chúa là sự trút bỏ đúng nghĩa nhất (nghĩa đen lẫn nghĩa bóng). Người đã không dành cho mình một sự riêng tư nào: Là thân phận Thiên Chúa, nhưng đã trở nên người phàm, một sự trút bỏ không thể tưởng tượng. Vậy mà Đấng Thiên Chúa làm người ấy đã chấp nhận sống nghèo, nghèo đến mức không còn gì. Bạn và tôi chắc không giàu có gì, nhưng khi sinh ra, chắc không ai sinh nơi chuồng thú vật, nằm trên rơm rạ xót xa. Ngược lại, dẫu là người nghèo, ta vẫn còn có một mái nhà ấm áp, một chiếc nôi xinh xắn& Nếu mai này, bạn và tôi có chết, chắc cũng chết trong những điều kiện tươm tất. Nhưng Chúa Giêsu, cả một đời, từ lúc bắt đầu sinh ra tới khi trưởng thành, chối từ sự sang giàu đã vậy, đến lúc sinh thì, ngay đến manh áo cuối cùng cũng không có, chết trần treo giữa trời giữa đất, chết chung với kẻ trộm cướp, cùng chịu một hình khổ ngang hàng với kẻ trộm cướp... Chúa Giêsu đã trút bỏ hoàn toàn. Trút bỏ cả cuộc đời, trút bỏ cả mạng sống vẫn chưa làm đủ. Đến khi trao hơi thở sau cùng, lại còn tiếp tục trao dâng cả đến giọt máu cuối cùng. Trái Tim của Thiên Chúa làm người không đòi cho mình bất cứ điều gì, bây giờ lại thuộc về chúng ta tất cả. Chúa Kitô, nhà truyền giáo đại tài, đã trút bỏ để Tin Mừng Tình yêu lớn lên. Chúa chính là bài học ngàn vàng cho những ai là môn đệ của Người.
“Đừng mang gì ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép và đừng mặc hai áo”. Hôm nay khi nghe lại lời dạy ấy của Chúa Giêsu, bạn và tôi nghĩ gì? Ta nhận ra rằng Chúa cũng đang mời gọi mình hãy trút bỏ tất cả những gì là cồng kềnh, những gì là cản trở, là chướng ngại làm cho lời rao giảng Tin Mừng thiếu chứng tá, công cuộc rao giảng Tin Mừng bị khựng lại.
Giống như người đi cắm trại, nếu biết trút bỏ mọi cái không cần thiết, họ mới sống hoàn toàn, sống hết mình cho ý nghĩa của việc cắm trại. Cũng vậy, người đi gieo Lời Chúa, đi cắm rể Lời Chúa sâu trong lòng người, càng phải là người biết trút bỏ mọi vướng bận để việc phục vụ Lời đạt kết quả lớn lao. Bởi thế, Chúa sai chúng ta ra đi, nhưng hành trang của người môn đệ không là gì khác ngoài đức tin dâng hiến và lòng phó thác. Dâng hiến đến trút bỏ hoàn toàn. Phó thác đến mức trở nên nghèo khó, đến không còn gì. Chỉ có thế, người rao giảng Lời mới trở nên chứng tá cho Lời. Vì chứng tá cho Lời quan trọng hơn nói về Lời. Chỉ có một lối đường duy nhất là sự trút bỏ: mặc lấy tinh thần nghèo khó, sống lối sống nghèo của Chúa Kitô, chính bạn và chính tôi mới hy vọng nên chứng tá gieo Lời đạt kết quả.
Thánh Phaolô rất hay, khi một lần nào đó, đã đúc kết bài học trút bỏ của người môn đệ Chúa Kitô bằng những lời rất chân thành và lạc quan: “Bị coi là bịp bợm nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực chúng tôi bị mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực chúnh tôi luôn vui vẻ; coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả” (2Cr 7, 8 - 10). Nếu đồng cảm với thánh Phaolô, ta cũng sẽ hiểu rằng trút bỏ là đánh mất, nhưng kỳ thực, không hề mất mát bất cứ điều gì.
Việc truyền giáo trong đạo của chúng ta ở vào thời đại nào cũng thế, luôn luôn bi vấn đề Kinh tế, tài chánh làm cản trở bước tiến. Các nhà truyền giáo ngày nay muốn phát động một chiến dịch đến với dân ngoại mà không có tài chánh, thì cũng đành bó tay; bởi thế trong dân mới có câu: “Có thực mới vực được đạoỴ qủa là chí lý lắm, từ trung ương Giáo-hội cho chí các Giáo-phận, rồi giáo Hạt, giáo xứ, đều phải có sẵn một qũi dành riêng cho việc truyền giáo thì công việc mới trôi chẩy. Thế mà các nhà truyền giáo tiên khởi của chúng ta, là các Tông đồ, được Chúa Giêsu, là bậc Thầy lỗi lạc của mọi nhà truyền giáo, trực tiếp sai đi xem ra lại coi nhẹ vấn đề tài chánh ấy. Chúa nói: “Khi đi anh em không được mang theo lương thực, tiền bạc, ngoại trừ một đôi dép mang dưới chân và một cây gậy cầm nơi tay để chống thôi, ăn mặc đơn sơ gọn gàng, đừng mặc hai áo.”
Trích đoạn Tin-mừng theo thánh Marcô, đọc trong thánh lễ hôm nay, cho chúng ta thấy người chiến sĩ Phúc âm mẫu được Chúa Giêsu đích thân sai đi, chỉ có hai bàn tay trắng, mọi nhu cầu thiết yếu cho sự sống thân xác, cụ thể như lương thực, tiền bạc đều không được mang theo. Điều đó khiến nhiều người trong chúng ta không khỏi thắc mắc, tại sao Đức Giêsu là Thiên-Chúa mà lại hành sử một cách khờ khạo và vô lý như thế ? hay Chúa chỉ sai đi trong chốc lát thôi, đói bụng thì về nhà ăn. Người chiến sĩ ra mặt trận mà hễ đói bụng thì phải trở về hậu phương để ăn, như thế làm sao có thể chiến đấu thành công được ? Chúng ta phải hiểu Lời Chúa sao đây ? có nên làm theo lời Chúa dậy để nắm chắc lấy cái thất bại không ? Chúng ta hãy cùng nhau chia sẻ để tìm hiểu ý Chúa.
Tiên vàn, chúng ta phải tự giác lãnh lấy trách nhiệm loan báo Tin-mừng mà Chúa trao cho chúng ta trước đã, đừng thoái thác cho rằng việc truyền giáo là việc hay là bổn phận dành riêng cho các vị Thừa sai, cho hàng Giáo sĩ, hay Tu sĩ, chứ Chúa không trao cho người giáo dân chúng tôi. Nếu chưa xác định được lệnh truyền của Chúa xưa sai các môn đệ đi cũng là lệnh truyền sai hết mọi Kitô hữu cho đến từng người một trong chúng ta, thì chẳng còn gì để nói cả, chỉ vì một lý do rất đơn giản là hết thảy những ai đã chịu phép rửa tội đều mang danh là Kitô hữu, nên chúng ta trở thành môn đệ đích thực của Chúa, hơn nữa chẳng ai trong chúng ta muốn chối bỏ danh hiệu này. Thánh lễ chúng ta tham dự hằng ngày, bao giờ cũng được kết thúc bằng một lệnh truyền sai đi. Giáo-hội thay mặt Chúa nói với chúng ta: “Thánh lễ đã xong, chùc anh chị em ra đi bình an” Công đoàn hoan hỷ đáp lại: “Tạ ơn Chúa” Lời cầu chúc ấy là một lệnh sai đi loan báo Tin-mừng, hàm ý nhắc nhở người tín hữu về bao nhiêu ơn lành Chúa thông ban cho chúng ta trong Thánh lễ, đặc biệt những ơn chúng ta lãnh được nơi bàn tiệc Mình và Máu Chúa, không phải để chúng ta mang về cất giấu đi cho mình, bao nhiêu tâm hồn đang đói khát ơn Chúa, không được diễm phúc ăn uống no say Mình và Máu Chúa như chúng ta, chúng ta có bổn phận phải đem chia sẻ ơn Chúa cho họ.
Chỉ cần nói tới đây thôi là ai cũng hiểu được, tại sao hôm nay Chúa sai tôi đi loan báo Tin-mừng lại không muốn cho tôi bận tâm đến vấn đề kinh tế, tài chánh và ẩm thực, tất nhiên Ngài không sai tôi đi chỉ trong chốc lát, công tác phải được thực hiện liên tục và kéo dài suốt cả đời tôi. Đã có ai trước tôi thực hiện nổi Lời Chúa dạy chưa ? Thánh Nữ Têrêxa Hài đồng Jesu chỉ ở trong 4 bức tường của nhà Kín, không tiếp xúc với ngoài xã hội, nhưng chị nhận trách nhiệm được sai đi, chị đã đem được bao nhiệu tâm hồn trở lại, mà Giáo-hội đặt chị thánh làm bổn mạng các xứ truyền giáo ngang hàng thánh Phaxicô Xavier, người chiến sĩ Phúc âm lỗi lạc đã từng đặt chân lên mọi nẻo đường của cả một vùng Đông Nam Á rộng lớn. Thánh nữ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ truyền bá Phúc âm chỉ bằng lời cầu nguyện và sư hy sinh hãm mình mà thôi.
Nếu người Kitô hữu chúng ta phải sống giữa thế gian sô bồ, đầy những bon chen, cạnh tranh, không có môi trường thuận lợi để cầu nguyện và hy sinh hãm mình như Terexa, thì chúng ta rao giang danh Chúa bằng gương sáng đời sống và cách ăn ở của chúng ta, như lời Chúa dậy: “Anh em hãy sống làm sao để mọi người nhìn thấy cách anh em ăn ở mà ngợi khen Cha anh em ở trên trờI”những cách thế loan báo Tin-mừng như vậy không đòi hỏi chúng ta phải mang theo tiền bạc, luơng thực hay phải ăn mặc lịch sự(hai áo) làm gì. Một người sống bần hàn giữa chợ đời, mà sáng chói những đức tính khiêm tốn, thật thà, đạo đức thì có sức lội cuốn được người ta trở về với Chúa gấp hơn cả ngàn lần những bài giảng hùng hồn mà rỗng tuếch.
Nói như thế không có nghĩa là, cách thế Chúa sai các môn đệ đi loan báo Tin-mừng xưa, hiểu theo nghĩa hẹp, các nhà truyền giáo của chúng ta ngày nay chẳng còn ai đem ra áp dụng nữa đâu. Tất cả những ai đã đọc cuốn NHẬT KÝ TRUYỀN GIÁO của Linh mục Nguyễn Phúc Hậu nói về những sinh hoạt truyền giáo của người chiến sĩ Phúc âm ở vùng Năm-căn, Cà mau, một cánh đồng truyền giáo Mầu mỡ, phì nhiêu ngay trên đất nước Việt-nam thân yêu của chúng ta, đều phải công nhận rằng, Lời Chúa hôm nay vẫn còn được đem ra áp dụng từng nét. Sống trong thời kỳ kinh tế thị trường như ở xã hội Việt-nam chúng ta đang sống hiện nay, đối với những người chiến sĩ Phúc âm vùng Năm căn, Cà mau, Chúa vẫn chỉ thị: “Anh em không được mang gì đi đường, trừ cây gậy, không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc, được đi dép, nhưng không mặc hai áo” còn họ thì không có gậy cầm tay, có khi dép cũng chẳng có để đi nữa, thì còn nói chi tới luơng t hực, tiền bạc có đâu mà mang theo, nhưng lời Chúa vẫn được rao giảng rất là kỳ diệu, những người chiến sĩ ấy sống giữa đám dân nghèo, nhà ở cũng như nhà thờ làm tòan bằng Lá dừa nứơc lụp xụp, đến nỗi nhìn nhà thờ, người ta có cảm tương đó là một Cái Chuồng thờ thì đúng hơn.
Trong khi đó Chúa cho tôi được sống trong một hoàn cảnh vô cùng thuận lợi về mọi mặt, hằng ngày tôi đã làm được những gì để hoàn thành nhiệm vụ của người được Chúa sai đi ? đời sống của tôi có vì Phúc âm mà cải thiện được chút nào không ? tôi có dùng đức tin như cây gậy Chúa trang bị cho để đi cho vững khỏi vấp ngã trước bao nhiêu thử thách của cuộc đời không ? tôi có tận dụng được mọi ơn Chúa ban như cơm ăn, áo mặc, nhà ở cùng mọi tiện nghi của cuộc sống, như đôi dép giúp cho đôi chân tôi chống lại mọi chông gai trên đường đi, để tôi an tâm lo việc loan báo Tin-mừng không ? hay ngược lại, tôi lại lợi dụng những ơn lành Chúa ban, làm gương xấu cho những người chung quanh, khiến cho người ta tìm đường xa lánh, không muốn trở về với Hội-thánh của Người.
Ngày nay nói tới Gandhi thì ai cũng biết ông là một vị Cứu tinh của dân tộc Ấn độ. Mặc dù là người theo Ấn giáo, nhưng ông rất cảm phục Chúa Giêsu, qua việc ông chăm chỉ đọc sách Tin-mừng hằng ngày, ông rất tâm đắc với Bài giảng trên núi, Chúa nói về tám mối phúc thật và lấy đó làm phương châm hành động cho mình. Nhờ đó mà ông quyết chọn một đường lối đấu tranh bất bạo động để cứu nguy cho nhân dân Ấn độ. Thế rồi một hôm, đang khi còn là Sinh viên ở Nam Phi, ông muốn tìm hiểu cụ thể hơn về Hội-thánh Công giáo, ông tìm tới một nhà thờ trong giờ Thánh lễ để quan sát sinh hoạt của người Công giáo. Nhưng không may, ông vừa tới cửa định bước vào thì một người chức việc cản ông lại và nói: “Nếu ông muốn đến dự lễ thì xin ông hãy tìm đến một nhà thờ khác, nhà thờ này chỉ dành cho người da trắng thôiỴ. Nghe thế, ông lủi thủi bước ra, và từ đó không bao giờ ông nghĩ đến việc đi vào một nhà thờ nào nữa. Có lần ông phải cay đắng thốt lên: “Nếu như người Công giáo sống đúng như tinh thần Phúc âm của Chúa Giêsu, thì dân tộc của tôi bớt khổ biết mấy”
Nói đúng ra, không phải chỉ mình ông Gandhi mới có ý nghĩ ấy, mà nhiều người Kitô hữu chúng ta cũng đã có lần lấy làm tiếc, vì thấy rằng, chỉ nội trong cộng đoàn người Công giáo nhỏ bé của chúng ta thôi, nhiều lần cũng có người phơi ra trước mặt mọi người cách ăn nết ở chẳng ra gì, khiến cho người ngoài hiểu sai về Tin-mừng của Đức Kitô. Họ công khai lớn tiếng thoá mạ, hạ nhục nhau ngay trước mặt những anh em luơng dân. Phải chi chúng ta phát huy được lối sống của người giáo dân thời các Tông đồ, dân chúng thời đó đã nhận ra dấu chứng này nơi cộng đoàn các tín hữu đầu tiên, khi nhìn các Kitô hữu chung sống với nhau khiến họ phải thốt lên:Coi kìa, họ yêu thương nhau biết bao và đó cũng là định hướng của chính Đức Kitô, đã ban ra cho chúng ta. Ngài nói: Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là thấy anh em yêu thương nhau. Quả thế cuộc sống huynh đệ của chúng ta chẳng những là dấu hiệu chứng tỏ tôi và bạn là người môn đệ Chúa, mà còn là một bài giảng sống động và hùng hồn nhất về Tin-mừng của Chúa.
Còn chần chừ gì nữa, ngay từ hôm nay, từ giậy phút này, chúng ta cùng nhau bắt tay vào việc ngay, thời gian khẩn trương lắm rồi, Chúa đang cần những chứng nhân cho Tin-mừng. Hãy gấp rút sửa lại mọi lệch lạc của đời sống để mở lối cho nhiều tâm hồn đang trên đường tìm về với Chúa và Hội-thánh của Người. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu sai nhóm 12 môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng. Trước khi lên đường, ngoài việc ban quyền trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, Đức Giêsu còn đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho các ông trong đời sống tông đồ. Đó là những điều Chúa đòi hỏi với từng người môn đệ qua mọi thời đại. Nếu dám sống theo những đòi hỏi ấy, chúng ta mới là môn đệ thật sự của Chúa. Vì ngày nay Chúa vẫn sai chúng ta ra đi vào đời với tư cách của người tông đồ.
Là môn đệ Đức Giêsu, mỗi người Kitô hữu phải sống theo những lời chỉ dạy của Chúa. Chỉ dẫn của Đức Giêsu cho các tông đồ cách đây hơn 2000 năm vẫn luôn hợp thời. Nhìn chung những đòi hỏi đó Chúa chỉ muốn các ông tin tưởng vào Ngài. Không cho mang bao bị, tiền bạc, lương thực, mặc hai áo, nghĩa là Ngài muốn người môn đệ phải sống tinh thần khó nghèo. Những thứ đó là nhu cầu vật chất cần thiết cho cuộc sống, nhưng chúng chỉ là phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Chúng chỉ tốt khi giúp con người đạt tới mục đích tốt. Không mang những thứ đó người môn đệ đỡ phải vướng bận lo lắng, vì đôi khi chúng còn chiếm cả thời gian dành cho Chúa của ngườI môn đệ. Một người lên đường mà hành trang gọn nhẹ như các tông đồ được Đức Giêsu chỉ dẫn thì thật là dễ di chuyển đến nhiều nơi. Người tông đồ có sống nghèo mới được tự do, thanh thản, không bị vật chất chi phốI, điều khiển. Người môn đệ nghèo vật chất nhưng rất giàu tấm lòng yêu mến. Càng nghèo người môn đệ càng dễ tín thác vào sự quan phòng của Chúa. Hơn nữ a khi dám sống nghèo người tông đồ sẽ là bạn của người nghèo. Bởi vì Tin Mừng mà Đức Giêsu ủy thác cho Giáo Hội và cho mỗi người Kitô hữu là Tin Mừng cho những người nghèo khó, bị tù đày, đang sầu khổ, đang thiếu cơm ăn áo mặc và vô gia cư. Những người đó được xem là thành phần “thấp cổ bé miệng” trong xã hội, bị người đời khinh thường, nhưng lại được người tông đồ tiếp đón niềm nở.
Thật thế, dám sống theo những chỉ dẫn của Đức Giêsu, người tông đồ sẽ là con người tự do, tự mình suy nghĩ và hành động mà không lo sợ bị mất quyền lợi vật chất. Nếu cần họ sẵn sàng chịu mất tiền bạc và tất cả mọi sự để có được Chúa. Họ luôn ý thức rằng chỉ có Chúa là Cứu Cánh Tối Thượng của cuộc đời mình. Như vậy, dù Chúa có cử họ đi bất cứ nơi đâu, họ cũng hoàn toàn vâng theoThánh Ý Ngài. Mỗi khi gặp khó khăn thử thách xảy ra là dịp để họ bộc lộ lòng yêu mến và tin tưởng vào Chúa.
Ngoài ra Chúa còn đòi hỏi các tông đồ phải có một thái độ kiên nhẫn, biết chịu đựng cả những gì mà xem ra mình không thể chấp nhận được. Có thể khi ra đi rao giảng Tin Mừng người tông đồ sẽ bị người đời từ chối. Nhưng kiên nhẫn chờ đợi với lòng tin tưởng và làm hết mọi việc với tâm sức vào việc Chúa giao, không bao giờ buông xuôi hay chạy trốn việc khó. Biết chấp nhận thực tại bị chối từ người tông đồ sẽ ra đi rao giảng Tin Mừng trong niềm vui tươi phấn khởi. Dù có bị người đời tẩy chay và cô lập hoàn toàn vì lối sống “ngược dòng đời “ của mình, nhưng người tông đồ không cảm thấy trống vắng. Chúa không những sai các ông ra đi, mà Ngài còn đi bên cạnh các ông trên đường sứ vụ. Chính Chúa sẽ lấp đầy mọi khoảng trống trong lòng của các ông.
“Khi anh em vào nhà nào làm được người ta đón tiếp thì ở lại cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em thì ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họỴ Chỉ dẫn này cho thấy Chúa chỉ sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng chứ không phải là cưỡng bức, áp đặt người khác phải tin theo. Việc bây giờ các ông làm chỉ trông chờ vào bàn tay Chúa làm cho có kết quả mĩ mãn.
Lời Chúa dạy các tông đồ năm xưa ngày nay vẫn đang thôi thúc mọi Kitô hữu. Chúa sai chúng ta ra đi đến với con người để sống như người anh em của mọi người. Dĩ nhiên không phải ai trong chúng ta cũng có hạnh phúc được đi đến những nơi xa xăm để rao giảng Tin Mừng như các thừa sai. Tuy nhiên sự ra đi của chúng ta của người Kitô hữu nằm ngay trong cuộc sống đức tin của mỗi người. Sự ra đi đó đặt vấn đề cho niềm tin của chúng ta khi chúng ta phải đương đầu những khó khăn, phải đối diện với những chọn lựa dứt khoát. Để chúng ta biết chọn lựa Chúa và thực hành những đòi hỏi gay gắt của Tin Mừng. Chúng ta không chạy theo tiền tài, danh vọng, chức quyền mà phải tìm kiếm chính Chúa. Chúng ta chỉ có thể giới thiệu Tin Mừng của Chúa cho những người chung quanh bằng một đời sống khiêm tốn, hiền lành và bác ái. Chúng ta sống khó nghèo qua việc chia sẻ vật chất, thăm hỏi. ủi an và kính trọng yêu thương tha nhân.
Lạy Chúa, Chúa đã đến trong trần gian để rao giảng Tin Mừng cứu độ. Và Chúa còn chịu chết vì con người. Chúng con hiểu điều đó và hết lòng tin tưởng vào sứ mạng Chúa đã trao cho mỗi người chúng con là làm tông đồ giữa thời đại ngày nay. Xin cho chúng con biết giương cao những giá trị của Tin Mừng là hy sinh quên mình và yêu thương giữa một xã hộI ai cũng chạy theo hưởng thụ vật chất. Ịể nhờ đời sống của chúng con mà có them nhiều người nhận biết Chúa. Amen
Có một điều gì đó rất là xúc động chung quanh bài Tin mừng tường thuật Đức Chúa Giêsu sai mười hai con người bình thường ra đi rao giảng sứ điệp Lời Chúa, mà bản thân các ông cũng chưa hiểu thấu đáo sau một thời gian tập sự quá ngắn ngủi. Các ông sẽ phải sống giản dị, nghèo khó như Đức Chúa Giêsu và không được lo lắng quá nhiều về những nhu cầu vật chất, cũng không được bực bội trút giận nếu sứ điệp không được người đón nhận. Và chúng ta cũng không ngạc nhiên gì khi thấy sứ vụ của các ông đã thành công tốt đẹp. Bí quyết của thành quả này là các ông thừa hưởng được nhiều điều qua gương mẫu sống động của Đức Chúa Giêsu trong thời gian đi theo Người.
Sai phái Nhóm Mười Hai ra đi chính là bắt đầu sứ mạng của Giáo Hội nơi trần thế. Trải qua bao thế kỷ, biết bao con người bình thường như thế đã từng được để đánh lưới các linh hồn cho Đức Kitô và quy tụ họ vào trong Giáo Hội của Người. Nếu muốn cho Lời Chúa đến được với mọi người thì mỗi người nghe được Lời Chúa đều phải có nghĩa vụ đem Lời Ngài cho người khác biết. Tin Mừng Cứu Độ không nên ôm giữ khư khư cho mình, mà cần phải trải rộng quảng bá và trao cho mọi người. Mỗi Kitô hữu khi chịu thánh tẩy đều được kêu gọi hoàn thành sứ mạng rao giảng tin mừng này. Sứ điệp Cứu Độ được ban cho mọi người, nhưng không hề ép uổng ai, vì mỗi cá nhân đều được quyền chọn lựa chấp nhận hay chối bỏ lời mời gọi của Thiên Chúa. Hôm nay chúng ta vinh dự được đặc ân đáp lại lời Đức Kitô mời gọi chúng ta trở nên những người mang tin mừng đến với mọi người một cách thành công trọn vẹn.
Trong một xã hội mà nền tảng cơ bản của nó là tính ích kỷ, việc trở thành người tôi tớ của Thiên Chúa thực là một chức phận cao cả. Lời mời gọi sống tận hiến như thế đó rất cam go đầy thách thức, và đòi phải có một trái tim biết yêu thương. Nhiều người trong chúng ta đã dừng lại với cảm nghĩ rằng mình không có nhiều nhặn gì để mà cống hiến cho công cuộc mở mang Nước Chúa. Những bậc phụ huynh nên nhớ rằng một trong những lời công bố Tin Mừng hiệu quả nhất có thể được thực hiện tốt đẹp mà không cần phải bước qua ngưỡng cửa nhà mình, đó là giáo dục con cái trong niềm tin và gìn giữ những giá trị Kitô giáo ngay trong gia đình. Đây là công việc mà tất cả mọi gia đình đều có thể làm được và nó đòi hỏi một nỗ lực không nhỏ.
Một cách thức khác công bố Tin Mừng hiệu quả là dùng chứng ta thầm lặng của cuộc sống đời thường gương mẫu. Nhiều người trong chúng ta đã đem lợi ích trần thế chôn đầy tâm tư mình, ngăn không cho mình tiếp xúc những điều quan trọng nhất của cuộc sống. Có rất nhiều thứ chúng ta gom góp tích lũy suốt đời mà nhiều khi vẫn để mặc đấy một cách lãng phí chẵng xử dụng bao giờ. Chúng ta quên rằng hành lý độc nhất chúng ta có thể đem theo khi rời bỏ thế giới này là đức ái, là tình yêu. Làm việc cho Đức Kitô đòi hỏi chúng ta phải dấn thân trọn vẹn trung thành trong những việc nhỏ hằng ngày. Người mong muốn tất cả chúng tham gia vào sứ mạng cứu độ của Người. Qua công việc chúng ta làm, chúng ta trở nên cánh tay của Chúa; qua ngôn từ chúng ta nói, chúng ta trở nên môi miệng của Ngài; qua những nơi, những người thăm viếng, chúng ta trở nên đôi chân của Chúa.
NS Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp - Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.
Đã lâu lắm tôi bỏ, không rao giảng các Thánh vịnh dùng làm đáp ca cho bài đọc 1 thánh lễ Chúa Nhật. Như có lần tôi đã nêu ra lý do, tôi đi giảng thuyết lang thang, nay nhà thờ này, mai xứ đạo khác, ít có cơ hội trụ lại một chỗ, thành thử không nắm chắc nơi tôi đến người ta có sử dụng Thánh vịnh đáp ca như sách các bài đọc chỉ định không hay thay thế bằng bài hát khác tương đương. Nếu tôi chọn Thánh vịnh để rao giảng thì xác xuất hụt hẫng rất cao. An toàn là chọn một hoặc hai bài đọc làm đề tài. Dầu sao điều đó vẫn là một thiếu sót đáng xấu hổ: bởi lẽ thánh vịnh cũng là kho tàng rao giảng phong phú và nhiều ích lợi thiêng liêng. Chúng là những mảng văn chương thơ phú rất gần với tình cảm nhân loại hoặc mô tả những tình huống con người phải vật lộn với Thượng đế, thế gian hay ngay cả với chính mình nữa! Nếu như quý vị có thể vững bụng, ca đoàn nhà thờ không thay đổi bài đáp ca, thì tại sao chúng ta không thử một lần xem sao? Đáp ca là lời cộng đồng thưa lại tiếng Chúa trong bài đọc một, rao giảng về nó quả là đúng lý. Tuần này, tôi cố gắng trình bày một bài mẫu. Có nhiều phương pháp tiếp cận với Thánh vịnh, có thể chúng ta suy gẫm toàn bộ nội dung, rồi liên kết với bài đọc một, hoặc riêng lẻ từng câu, đáp lại từng ý. Phần tôi, tôi sẽ xem xét Thánh vịnh một cách độc lập rồi đối chiếu với Amos để tìm ra những liên quan cần thiết. Nói chung, bài đọc 1 nêu lên tình cảnh thảm thiết của dân Chúa, Thánh vịnh đáp lại bằng lời cầu khẩn tha thiết hoặc, bài đọc kể ra những kỳ công vĩ đại của Đức Chúa và bài đáp ca dâng Ngài tiếng hát ngợi khen. Như vậy ngoài phần thông điệp của Thượng đế và tính toàn vẹn của con người, Thánh vịnh còn thêm phần tài năng nghệ thuật và ý nghĩa đặc biệt dưới ánh sáng của bài đọc 1. Chúng ta thử xem có đúng như thế không?
Thường thường khi Thánh vịnh được dùng như đáp ca, người ta không đọc hoặc hát toàn bộ Thánh vịnh mà chỉ trích ra vài câu có ý nghĩa liên quan với nội dung bài đọc. Như vậy dòng chảy của toàn thể Thánh vịnh bị ngắt đoạn. Thí dụ Thánh vịnh 84 (85) hôm nay: phần đầu bị lược bỏ, chỉ có phần hai được chọn, tức các câu 9-14. Mặc dù phụng vụ chỉ nhấn mạnh đến phần hai, nhưng tôi thấy phần đầu của Thánh vịnh 84 cũng rất hữu ích để hiểu được buổi cử hành này. Bởi lẽ nó nêu ra những lời cầu xin, những van nài trước Đấng tối cao. Cộng đoàn dân thánh chờ đợi trong hy vọng lời đáp trả của Đức Chúa. Mùa Vọng vừa qua phụng vụ cũng dùng Thánh vịnh này, vì nó thích hợp cho tâm tình thời gian đó. Các tín hữu van xin Đấng Cứu thế và cũng lắng nghe Thiên Chúa trả lời. Với giọng điệu khẩn khoản như thường lệ, tác giả lý luận rằng nếu Thượng Đế nghe theo lời cầu khẩn của dân chúng mà giơ tay giải cứu, thì danh thánh Ngài sẽ vinh hiển khắp địa cầu: “Vinh quang Ngài hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta.” Lý luận đó không có chi tinh tế khó hiểu. Bởi lẽ Đức chúa đã ký kết giao ước với tuyển dân. Lúc này họ đang gặp gian truân cùng khốn. Nếu Ngài giải thoát họ, vinh quang Ngài thật quá rõ ràng. Thiên hạ sẽ chứng kiến những điều kỳ diệu. Danh thánh Ngài sẽ được người ta rao truyền khắp nơi. Chư dân sẽ nhận biết Thiên Chúa trung tín với giao ước của Ngài, lúc này họ đang chịu khổ đau. Nhưng Thiên Chúa không hề bỏ rơi họ. Đấng thánh của Israel thật đáng cậy tin.
Khi đọc Thánh vịnh 84 chúng ta thấy trong lòng dâng trào một niềm hy vọng mãnh liệt: “Ngài đã tỏ lòng thương xót thánh địa. Tù nhân nhà Gia-cóp Ngài dẫn đưa về.” Điều mà thuở xưa Ngài đã làm, thì nay Ngài vẫn thực hiện. Tuyển dân chẳng thể tự mình đối phó với hoàn cảnh, họ phải cậy nhờ vào bàn tay oai hùng của Đức Chúa. Đức Chúa sẽ giơ tay giải cứu. Thánh vịnh này không chỉ là lời cổ vũ, ngõ hầu dân Chúa cố gắng hơn, làm việc nhiều hơn, chịu đựng nhiều hơn để thoát khỏi cạm bẫy tạm thời. Nó còn là lời khẳng định. Tuyển dân không tự thân cứu lấy mình. Thiên Chúa sẽ giơ tay giải thoát. Cho nên họ tin tưởng đợi chờ, tai mắt họ mở rộng để đòn ơn cứu độ khi nào, lúc nào sẽ đến. Ơn đó không phải là tinh thần, thiêng liêng ủi an. Mà là một ơn rất cụ thể, nắm bắt được. Những phạm trù thần linh được thể hiện rõ nét “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ. Hoà bình công lý sẽ hôn nhau. Chân lý mọc lên từ đất thấp, công bằng nhìn xuống tự trời cao”. Dân Chúa sẽ chờ đợi bình an và công lý, cuối cùng những điều đó sẽ được công bố trên khắp thế gian và dân Chúa sẽ được hưởng phúc lộc chan hoà trong thời đại mới. Đất nước sẽ có những mùa gặt bội thu. Thiên Chúa sẽ viếng thăm dân Ngài. công lý sẽ dẫn đầu đám rước vương giả.
Hiện thời thì tuyển dân còn chịu đựng sống trong khốn khổ và không thể tự cứu mình. Họ ngước trông lên thượng đế để tin tưởng vào sự trợ giúp đến từ Đức Chúa. Thánh vịnh không chỉ là lời cầu nguyện mà còn là lời khẳng định về Thiên Chúa. Các từ như chân lý, hoà bình, xót thương, nhân hậu, tử tế phải được thể hiện cụ thể chứ không trong ước vọng mà thôi. sự đáp trả của Đức Chúa giống như lời khích lệ của một nhà giảng thuyết cổ vũ dân chúng đang nhát đảm. Công bố hồng ân Thiên Chúa sẽ đến. Ngài sẽ cứu giúp và vinh quang Ngài sẽ hiển hiện giữa tuyển dân.
Theo truyền thuyết, thì Thánh vịnh này là một bài ca của lễ hội mùa thu. Mùa thu là thời gian chấm dứt tiến trình tăng trưởng, để chuyển sang mùa trồng cấy, thu hoạch mới. Nó cũng là thời gian dành cho việc đền tội, bỏ lại phía sau những sai xót quá khứ, xin ơn thứ tha để có thể mạnh dạn khởi sự một tương lai mới, tốt đẹp hơn. Mấy câu thơ mở màn Thánh vịnh gợi ý rằng: Cộng đoàn thành khẩn ăn năn vì lỗi lầm cũ và kêu xin Chúa thứ tha: “Tội vạ dân Ngài, Ngài tha thứ cả. Mọi lỗi lầm cũng phủ lấp đi. Ngài dẹp trận lôi đình, và nguôi cơn thịch nộ.” Mùa cũ đã qua, mùa mới bắt đầu. Vậy xin Thượng Đế tha thứ tội lỗi chúng sinh, nhiều lần chúng con đã phản bội giao ước với Ngài. Thánh vịnh viết: “Ôi lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa, và ban ơn cứu độ chúng con.”(câu 8). Tuy nhiên xin luôn nhớ, phụng vụ đặt trọng tâm vào phần thứ hai của Thánh vịnh. Nhìn kỹ vào nội dung, chúng ta sẽ biết cách suy niệm về Thánh vịnh. Những nhà lựa chọn bài đọc đã nhìn thấy khả năng áp dụng Thánh vịnh cho những ý tưởng của Amos, như chúng ta sẽ làm sau đây:
Lúc ấy, tiên tri Amos phải đương đầu với thầy tế lễ của đền thờ Bethel, tên là Amaziah. Triều đình đã chỉ định ông làm ngôn sứ và tư tế cho nhà vua và ngôi đền thánh quốc gia Bethel. Dưới ông còn nhiều tiên tri và tư tế khác nữa. Họ thuộc giai cấp tiên tri công chức, khác với tiên tri được Thiên Chúa kêu gọi. Họ thuộc về cơ chế quốc gia và có nhiệm vụ cầu mong cho nhà vua và triều đình được an khang thịnh vượng. Tiên tri Amos chỉ trích xã hội dương thời và triều đình thối nát, tiên tri loan báo sự sụp đổ của đền thờ và cả nhà vua. Do đó, Amaziah nổi giận đuổi Amos về quê hương ông ở Miền nam, tức Giuda. Y nói Amos về đó mà bán các lời sấm kiếm ăn, không được nói láo ở Bethel nữa. Tiên tri Amos đang ở Miền bắc tức Israel, làm nghề chăn cừu và hái sung thuê. Thiên Chúa đã gọi ông, sai nói tiên tri chống lại vua Gia-rop-am và vương quốc Miền bắc, đang trong thời kỳ sa đoạ. Do đó rõ ràng có sự đối kháng giữa Amaziah và Amos. Amaziah tâng bốc triều đình, nói toàn lời tốt đẹp, mọi người đều muốn nghe. Còn Amos nói ngược lại, toàn lời trừng phạt và đe doạ sụp đổ, gây sợ hãi. Amaziah gọi tiên tri Amos là kẻ “thấy thị kiến”. Chắc chắn không phải để khen thưởng, ngược lại, để khinh bỉ. Bởi lẽ Amos tuyên sấm toàn điều viễn vông, không có thực. Amaziah đang phục vụ triều đình. Ông liên kết tôn giáo với quốc gia, ủng hộ mọi quyết định của nhà vua và các cấp lãnh đạo, vẫy cờ và chúc lành cho các đạo binh ra trận, cầu mong chiến thắng cho các binh sĩ, bất kể sự thối nát đang tràn lan mọi nơi. “Đức Chúa về phe với chúng ta” bằng mọi giá!
Ngược lại, Amos đứng làm tiêu khiển cho đức tin kiên cường, chăm chú nghe Lời Chúa và đáp trả trung thành. Ông là mẫu gương cho người tín hữu Do thái chân chính lúc ấy và cả cho chúng ta ngày nay. Lời rao giảng của ông không mang lợi lộc nào cho bản thân ông, thực tế, toàn thù ghét và bách hại. Nhưng Thiên Chúa nói, ông lắng nghe và đáp lại ngoan ngoãn. Trong khi Amaziah bênh vực những người có chức quyền lợi lộc bền vững thì Amos đòi hỏi phải có một sự thay đổi tư duy, não trạng, nếp sống, nếu không quốc gia sẽ lâm vào cảnh sụp đổ hoàn toàn.
Như thế trong ánh sáng của bài đọc một, thánh vịnh đáp ca mang một ý nghĩa đặc biệt. Tác giả thánh vịnh muốn nêu lên lòng tin cậy của chúng ta phải đặt vào Thiên Chúa, chứ không vào quyền lực thế gian. Đấng giải cứu phải là Đức Chúa chứ không phải vua quan trần thế. An ninh thịnh vượng của đồng bào, tổ quốc là ân huệ trời ban cho những dân tộc nào, quốc gia nào biết lắng nghe lời Thiên Chúa, chứ không phải tự thân kiếm được. “Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất nước chúng ta sẽ trổ sinh hoa trái.” (câu 13). Amaziah và toàn thể nhà Israel đã không nhận ra giọng điệu đó ở bài đọc thứ nhất. Amos là một sứ giả đích thực của Đức Chúa đem đến lời cảnh cáo lối sống sa đoạ đồng thời lời hứa hẹn thịnh vượng cho những kẻ nào đáp trả thuận lợi đường lối của Thiên Chúa.
Đó là viễn tượng Thiên Chúa muốn tỏ lộ cho xã hội loài người, mà tác giả Thánh vịnh đã đặt thành bài ca. Tổ quốc Hoa Kỳ cũng muốn áp dụng đường lối ấy cho mình, nên đã lấy khẩu hiệu “One nation under God” (một quốc gia dưới cánh tay Thiên Chúa) làm nền tảng hướng dẫn nếp sống và suy nghĩ của mỗi công dân. Nhưng thực tế chúng ta có thực hiện đúng như vậy không? Hay chỉ có dáng vẻ bên ngoài? Tuyên bố xuông chưa đủ, cần phải có nội dung! Chúng ta hy vọng với tác giả Thánh vịnh: “Tín nghĩa và sự thật, công lý và bình an” thực sự ngự trị trên tổ quốc mình, bắt đầu từ những tín hữu Chúa Kitô. Chúng ta phải tha thiết cầu xin Thượng đế biến đổi mình thành những sứ giả bình an và công lý, sự thật và tình thương cho mọi người, kể cả kẻ thù. Trước bàn thờ Thánh Thể hôm nay, chúng ta nhìn lại lối sống của mình ! Chúng ta đã sống thế nào? Có thật vinh quang Thiên Chúa đang toả lan trên chúng ta? Trên xứ đạo chúng ta? Làm thế nào để các phạm trù thiêng liêng: sự thật, tình thương, hoà bình& trở thành cụ thể trong những mối tương giao của chúng ta với người khác? Với ánh sáng Lời Chúa và với ân huệ của Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta có quyền ước vọng một tương lai tươi sáng hơn, tức phản ảnh được vẻ đẹp huy hoàng của Đức Chúa trên đồng bào, trên nhân loại. Amen.
Suy gẫm: Sự nghèo khó cởi trói cho Lời Chúa, nên Chúa Giêsu trong Phúc âm hôm nay đòi buộc các môn đệ phải sống khó nghèo để có thể rao giảng Nước Trời.
Những ngày đầu tiên khi mới bắt đầu ra truyền đạo, Chúa Giêsu đã kêu gọi bốn môn đệ. Khi các người tin theo gia tăng, công việc thêm nhiều, Chúa phải trọn riêng ra mười hai người, các ông này học tập ngay bên Chúa và bây giờ Chúa sai các ông đi làm các tông đồ. Một nhà sư phạm tài khéo, một người lãnh đạo khôn ngoan, không bao giờ làm việc mà không có chương trình, không có kế hoạch trước. Từng bước Chúa Giêsu dạy dỗ các tông đồ, huấn luyện các ông thành những nhà lãnh đạo tương lai của giáo hội, tiếp tục sứ mạng của Ngài sau khi Ngài đã về trời. Các chỉ thị của Chúa Giêsu trong giai đọan này hầu hết có tính cách tạm thời và điạ phương, nhưng qua đó chúng ta học được sự dạy dỗ không ngoan và những nguyên tắc cơ bản của công tác tông đồ.
1. Một đường huấn luyện khôn ngoan: Chúa Giêsu đã cho các môn đệ đi theo sát bên Ngài, nghe Ngài giảng, xem Ngài chữa bệnh, trừ quỉ tiếp xúc với dân chúng, với đủ mọi thành phần. Các ông đã học lý thuyết, giờ đây phải đi vào thực tập. Phải làm, phải đi vòa thực tập mới kiểm tra được sự tiến bộ của học tập, phải thực hành mới rõ được sự tiến bộ của mình. Châm ngôn của giáo dục là: “hãy chỉ cách để tôi tự làm”. Giáo Hoàng Học viện Pio thứ X, Đà lạt, có nột thư viện, để mượn sách các sinh viên phải tiến trình sau đây: hai năm đầu khi mới vào học, các sinh viên chỉ được mược sách do giáo sư giới thiệu. Những năm theo ban Triết và ban Thần học phiếu mượn sách của sinh viên phải có chữ kí chuẩn thuận của giáo sư phụ trách. Hai năm sau cùng trước khi ra trường, sinh viên có thể mượn bất cứ sach nào có trong thư viện và phiếu mược chỉ cần ghi tên mình.
Nhưng các tông đồ là người mới vào nghề, các ông còn nhút nhát với công việc được trao cho, cần phải được nâng đỡ bằng người bạn đồng nghiệp.
2. Huấn thị liên quan đến vật dụng mang theo không nhằm bày tỏ nghèo nàn hay cuộc sống khắc khổ, nhưng mang tính cách thiết thực: công tác ngắn gọn đừng quá kềnh càng nhưng phải đơn giản mau lẹ. Trong tất cả các huấn thị này, Chúa Giêsu không làm cho các tông đồ khó chịu, Ngài chỉ lập lại những lời rất quen thuộc đối với người Do Thái thời đó.
Về cách ăn mặc của người Do Thái thời Chúa Giêsu, họ có năm trang phục:
Ao trong phần áo lót mặc trên người trước nhất. Ao này rất đơn giản, đó chỉ là khúc vải dài xếp đôi rồi may một bên. Nó khá dài đủ che phủ đến bàn chân. Hai góc ở phần trên được khoét để làm hai cánh tay ra. Loại áo này thường được bán ra mà chưa khoét cổ. Điều đó cho biết áo vẫn còn mới, để người mua tùy tiện khoét phần cổ sao cho vừa với phần cổ của người mình.
Ao ngoài: ban ngày nó được làm áo choàng và ban đêm làm mền. Nó gồm một tấm vải dài hơn 2 mét, khổ rộng khoảng 1,4 mét đến 1,5 mét; khoảng 0,4 mét mỗi bên được xếp vào may lại, khoét lỗ ở phía trên để xỏ tay được, vì thế nó gần như vuông vức. Thường thường nó là hai khúc vải mỗi khúc dài hơn hai mét; rộng 0,6 mét đến 0,7 mét may dính vào nhau. Đường may nằm phía sau lưng. Những chiếc áo dài đặc biệt có thể dệt cẩn thận nguyên tấm không có đường may như chiếc áo dài của Chúa Giêsu vậy (Gioan 19,23). Đây là chiếc áo chính trong toàn bộ y phục.
Giây thắt lưng: Giây thắt lưng để buộc phía ngoài hai chiếc áo vừa kể trên. Khi cần làm việc hay chạy, người ta vén các áo trong lên và giữ lại bằng giây thắt lưng. Có khi chiếc áo ngắn được vén lên ở phía trên giây thắt lưng, chỗ trống phía thắt lưng có thể đặt một bao hay một gói gì đó để mang đi. Giây thắt lưng thường được may hai lớp khoảng bốn tấc rưỡi mỗi đầu. Phần may hai lớp được dùng làm túi đựng tiền.
Vuông khăn che đầu: bằng vải, rônng gần một mét vuông, thường màu trắng, xanh hay đen. Thỉnh thoảng cũng có loại khăn bằng luạ màu, nó được xếp theo phần chéo góc, cột lên đầu để che gáy, gò má và đôi mắt cho khỏi sức nóng và tia nắng của mặt trời. Người ta cột nó vòng quanh đầu bằng một sợi dây da co dãn được sao cho dễ mở ra.
Đôi dép chỉ là những miếng da bằng phẳng có xoi lỗ, có khi bằng gỗ hay bện bằng rơm. Người ta xỏ dây và cột nó bằng bàn chân để mang.
Túi tiền có thể là hai vật sau đây:
Nó có thể là chiếc túi đi đường bình thường. Túi này được may bằng da dê con. Thường thì bộ da con vật được lột nguyên miếng nên vẫn giữ hình dáng con vật, đủ cả chân đuôi và đầu. Hai bên túi có dây để đoe trên vai. Trong đó người chăn chiên, khách hành hương, kẻ đi đường đựng bánh mì, trái nho khô, ô liu và bánh sữa đủ ăn một hai ngày. Nó có thể là chiếc ba quyên góp (Pera). Thường thường các thầy tư tế và người sùng đạo đi ra với chiếc bao này hầu góp nhặt các của đóng góp cho nhà thờ và các thần. Họ được mô tả “những quân trộm cướp ngoan đạo với các chn lợi phẩm phình to thêm, từ làng này sang làng khác”. Có một tấm bia của một người tự xưng là nô lệ của nữ thần xứ Syri, cho biết mỗi chuyến đi như vậy, cnh ta mang về cho nữ thần của mình bảy mươi bao đầy.
Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa thứ nhất thì Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ Ngài đừng mang theo thức ăn khi đi đường, nhưng phải tin cây vào Thiên Chúa trong mọi sự. Còn theo nghĩa thứ hai, thì lời dạy ấy có nghĩa là họ không nên tham lam mà vơ vét như các thầy tư tế. Họ phải đi đây đó để ban ra chứ không phải để thâu chức của cải.
Huấn thị liên quan đến nơi ở: bên Đông Phương việc ân cần tiếp đãi khách lạ được xem là một bổn phận thiêng liêng. Khi có người lạ vào làng, người ấy không cần tìm nơi trú ngụ vì chính làng ấy có nhiệm vụ tiếp đãi họ. Dầu vậy Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Ngài phải tìm nơi ở xứng đáng. Ở nơi kém đạo đức, kém lịch thiệp chắc chắn gây trở ngại cho chức vụ. Sứ giả của Chúa phải cẩn thậc trong việc tiếp xúc để khỏi trở ngại trong công tác của mình.
Ở lại cho tới khi ra đi: Có thể bị cám dỗ đi tới một nhà khác được đón tiếp nồng hậu và đầy đủ tiện nghi hơn. sứ giả của Chúa không bao giờ để người ta có ấn tượng mình dụ dỗ dân chúng để được lợi vật chất và mình được đổi chỗ là vì thỏa mã cá nhân.
Nơi nào không tiếp nhận, phủi cả đến bụi chân: thời giờ ngắn ngủi mà cần cho nhiều người được nghe Phúc âm, nên cần đi ngay, không có thời giờ tranh luận để thuyết phục. Họ đã có cơ hội được nghe Phúc âm, nếu họ từ chối không nắm lấy, cơ hội sẽ chẳng còn đến với họ nữa, và họ vẫn phải chịu trácvh nhệm về thái độ từ chối ấy. Nơi từ chối đã phạm vào tội xúc phạm đối với Chúa và tội ấy không đáng cho sự hiện diện của sứ giả của Chúa nữa, ngay cả bụi đất nơi ấy cũng nhiễm lây ô uế của tội phạm ấy.
Vậy chúng ta thấy dấu hiệu của một môn đệ của Chúa Giêsu là: sống thật đơn giản, hoàn toàn tin cậy vào Thiên Chúa, và phải luôn đem ơn phước đến cho người khác chứ không mong thiên hạ làm phước cho mình.
1. Mục tiêu công tác phải làm:
Công tác nhằm làm con người toàn diện cả thuộc linh lẫn thuộc thể. Rao giảng sự ăn năn để đổi mới tâm hồn và chữa lành các bệnh tật thể xác.
a- Khi các sứ giả ra đi, các ông phải rao truyền thông điệp của Chúa Giêsu cho quần chúng. Các vị không hề tạo ra thông điệp, các vị mang đến một thông điệp. Các vị không nói với một người điều họ tin hay là thấy là đúng, nhưng chỉ nói lại cho mọi người biết những gì Chúa Giêsu đã bảo họ. Các sứ không đem ý kiến riêng của mình đến với người khác mà chỉ mang đến cho mọi người chân lý của Thiên Chúa. thông điệp của các nhà tiên tri bao giờ cũng bắt đầu bằng câu “Đức Gia vê phán”. Người muốn mang một thông điệp kiến hiệu và thành công đến cho kẻ khác, trước hết, phải nhận nó từ Thiên Chúa.
b- Các vị mang thông điệp của nhà vua đến cho mọi người và thông điệp đó là “hãy ăn năn”. Đây là một hông điệp gây khó chịu cho mọi người. Ăn năn có nghĩa là thay đổi ý và thay đổi luôn hành động nữa. Ăn năn bao gồm sự thương tổn vì phải nhận con đường mình đang đi là sai lầm, đầy cay đắng. Ăn năn bao gồn sự xáo trộn, vì nó có nghĩa là người ta phải hoàn toàn đổi ngược né6p sống. chính vì thế mà có í người chịu ăn năn, vì điều tối yếu hầu hết mọi người đều ưa thích là không muốn mình bị quấy rầy. Trong tác phẩm Quo Vadis có một đoạn trong đó là chàng thanh niên LamãVinicius yêu một thiếu nữ là Kitô hữu. Vì Vinicius không phải là Kitô hữu nên cô ta không muốn liên hệ với cậu. Cậu theo cô ấy đến những buổi họp thầm lén ban đêm của một nhóm Kitô hữu, tại đó chẳng ai nhận ra cậu và cậu lắng nghe Phêrô giảng dạy. Lúc đang nghe có một việc xảy đến cho cậu:
“Vinicius cảm thấy rằng nếu muốn theo lời dạy ấy, cậu phải đặt trên đống lữa cháy bừng tất cả mọi ý nghĩ, thói quen, tính tình, cả bản chất của mình cho đến khỏng khắc nào đó và thiêu đốt tất cả ra tro, rồi tiếp nhận vào người sự sống khác hẳn, một linh hồn hoàn toàn mới mẻ”. Đó là sự ăn năn, mà đã ăn năn thì phải thay đổi. Sự thay đổi không những từ chỗ trộm cắp, sát nhân, dâm loạn, cùng các tội lỗi tỏ tường khác. sự thay đổi có thể xảy ra ngay trong đời sống ích kỉ, tham lam, chẳng xem ai ra gì cả, thay đổi từ chỗ lấy cái tôi làm trung tâm chuyển sang lấy Thiên Chúa làm trung tâm, và mọi sự thay đổi như vậy ắt sẽ gây nhiều thương tổn. Chúng ta trích một câu nói của một vị Giám Mục trong quyển “những kẻ khốn cùng” của Victor Hugo “Tôi luôn luôn gây rối cho một vài người trong đám họ, vì qua tôi, một luồng không khí từ bên ngoài đã thổi tới họ, sự có mặt của tôi giữa họ khiến họ cảm thấy như có một khung cửa bị mở toang và họ đang ở trong vùng có gió lùa”. Ăn năn không phải chỉ là một cảm thức hối tiếc về mặt tình cảm mà thôi, ăn năn là làm cách mạng, cho nên vì lý do ấy có rất nhiều người không chịu ăn năn.
b- Các sứ giả đưa đến cho thiên hạ ơn thương xót của nhà vua. Không phải các vịa chỉ đem đến cho người ta sự đòi hỏi làm đảo lộn mà thôi, nhưng cũng cần đem đến sự trợ giúp và chữa bệnh nữa. Họ đem đến sự giải phóng cho người bị quỷ ám cùng khổ. Ngay từ đầu, Kitô giáo đã nhằm mục đích đem sức khoẻ, sự lành mạnh cho cả thể xác lẫn tâm hồn. Kitô giáo không chỉ nhằm cứu rỗi linh hồn mà thôi, nhưng là cứu rỗi con người toàn diện. Kitô giáo không chỉ đưa ra một tay để kéo người ta lên khỏi chỗ suy đồi đạo đức, nhưng cũng đưa tay còn lại kéo người ta ra khỏi sự đau đớn, khổ sở cho thân xác. Điều rất có ý nghĩa là các môn đệ còn xức dầu cho người ta nữa. Đời xưa, dầu được xwm là môn thuốc trị bá chứng. Galen là y sĩ đại tài của Hy lạp nói “Dầu là môn thuốc hay nhất để trị bệnh cho thân thể”. Khi được nằm trong tay các tôi tớ của Chúa Giêsu, dầu được thêm một đặc tính mới. Điều lạ lùng là các môn đệ dùng những vật mà tri thức hạn chế của loài người thời bấy giờ biết rất rõ, nhưng thần của Chúa Giêsu đã ban cho họ một quyền phép mới và một đặc tính mới trong cách trị bệnh cổ truyền đó. Quyền năng của Thiên Chúa trở thành có giá trị trong mọi việc thông thường khi người ta có đức tin. Vậy mười hai môn đệ đã đem đến cho nhân loại thông điệp về ơn cứu rỗi, thương xót của nhà vua. Và cho đến nay, đó vẫn là nhiệm vụ hàng đầu của Kitô hữu chúng ta.
Ulysses Grant là tổng tư lệnh liên quân trong trận nội chiến, và sau này là tổng thống Hoa Kỳ trong hai nhiệm kỳ. Ông E. B Washburn, Bộ truởng bộ ngoại giao, làm chứng về lối sống đơn giản của ông Grant như sau:
“Khi ông Grant rời tổng hành dinh, mở một chiến dịch quyết định, ông không đem theo hành trang như thói quen các binh sĩ. Tất cả lệ thuộc vào phản ứng mau lẹ, điều quan trọng là ông không bị cản trở bởi hành trang. Ông không đem theo tùy viên, không ngựa hay tôi tớ, không đem theo áo khoác và ngay cả một chiếc sơ mi. Trọn hành trang của ông trong 6 ngày – tôi có mặt lúc đó – là chiếc bàn chải đánh răng. Ong ăn uống như một người lính trơn, ngủ giữa màn trời chiếu đất”.
Tướng Grant đi tay không. Đức Giêsu và các tông đồ cũng vậy. Chúng ta vừa đọc, Đức Giêsu đã sai phái những người lãnh đạo của Ngài ra sao. Người nói với họ: “Không đem theo đồ ăn, không giỏ xách, không tiền và không áo ngoài nữa.
Chúng ta phải làm gì ? bạn và tôi được mời gọi làm tông đồ để loan truyền sứ điệp của đức Kitô bằng lời nói và việc làm. Chúng ta có thể làm việc khá hơn nếu chúng ta không bị đè nặng với những đồ đạc không cần thiết. Nó có thể làm mất thời gian, mất sự chú ý và mất cả tiền bạc nữa. Một số đồ dùng có thể cho chúng ta tiện nghi, dễ chịu giúp chúng ta làm việc nhanh và hiệu nghiệm hơn. Tuy nhiên có nhiều cái không cần thiết làm mất thời gian, giảm thiểu cố gắng của tinh thần và lý trí.
Phải chăng tôi đề nghị chúng ta bắt chước Mahatma Gabdi, hoặc thánh Ophanxicô Essisiô và sống như người hành khất nghèo hèn nhất sao ? Không phải thế, nhưng tinh thần của Đức Kitô là chúng ta được tự do khỏi những dư thừa không cần thiết, một đống dư thừa đè nặng chúng ta cả thể xác lẫn tinh thần.
Tôi đề nghị chúng ta đừng bắt chước cô nữ sinh trunghọc có 26 chiếc áo lót mà hầu hết cô không bao giờ mặc tới hay như một bà đại sứ bên Anh có hàng ngàn đôi giầy hoặc như một ai đã gây ra nỗi 65% đồ ăn đặt tại khách sạn phải bỏ đi.
Dĩ nhiên, làm việc không có dụng cụ sẽ bị hạn chế. Bác thợ mộc cần cưa, ông bác sĩ cần một căn phòng làm việc mắc tiền. Bà nội trợ cần một dụng cụ trong bếp, ông luật sư cần một giá sách luật. Nhưng tất cả chúng ta, kẻ nhiều người ít, có thể tìm ra cái không cần, những cái làm chúng ta mất tự do và suy nghĩ, nói năng và hành động.
Mới đây, có một vài người lối xóm phải di chuyển đến một thành phố khác, họ tốn công gấp năm lần để thu góp, phân loại, đóng kiện và chuyên chở những cái không quan trọng mà có người gọi là đồ “ve chai lông vịt” – sánh với những cái chính yếu. Chúng ta thường thấy như thế.
Chúng ta đang trên hành trình về quê trời. Bớt hành trang chúng ta có thể tập trung vào điểm chính yếu, cần có thời gian cho vấn đề thiêng liêng. Đi tay không như Chúa Giêsu và những người theo Chúa lúc ban đầu.
Chúa nhật hôm nay đề cập đến vấn đề: “ Con người được Chúa sai đi để nói lời Thiên Chúa”. Thiên Chúa trong kế hoạch cứu rỗi của Người, đã tuyển chọn nhiều ngôn sứ, nhiều tổ phụ và các tông đồ ra để Ngài sai đi loan báo Tin Mừng cứu rỗi. Muốn nói lời Chúa, phải được sai đi và muốn được sai đi, phải được đặt tay và ban Thánh Thần.
I. THIÊN CHÚA TUYỂN CHỌN:
Đọc lại lịch sử cứu độ, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì mọi biến cố xẩy ra trong cuộc đời, mọi sự việc xẩy ra trong đời sống con người, Thiên Chúa đều can thiệp và có mặt đúng lúc. Thiên Chúa đã tuyển lựa con người, cất nhắc con người và sai con người ra đi nói lời Thiên Chúa, đến nỗi không có sự tuyển chọn, ta không thể nào hiểu được ý định và ý muốn của Thiên Chúa đối với con người. Việc tuyển chọn là một sáng kiến tự do và cao cả của Thiên Chúa Giavê, chứ không phải sự chọn lựa theo cách người đời. Ngay từ đầu, những tuyên xưng về việc chọn lựa của Thiên Chúa Giavê đã xuất hiện: “ Ta đã chọn cha các ngươi là Abraham “ ( Gios.24,3 ) và nhấn mạnh:” Hãy chọn lựa người các ngươi muốn phục vụ “( Gios. 24, 15 ). Trước Abraham, việc tuyển lựa chưa rõ ràng, mặc dầu đã có những ưu đãi của Thiên Chúa về việc tuyển chọn dân của Ngài ( Stk 4,4 ). Việc tuyển chọn Abraham là mốc điểm quan trọng, để qua ông, Thiên Chúa chúc phúc cho mọi chư dân trên mặt đất này ( Kn 12, 3 ). Thiên Chúa đã chọn các tổ phụ và Ngài chúc phúc cho các ông để qua các ông toàn dân được chúc lành của Giavê Thiên Chúa. Trong dân được chọn lựa, Thiên Chúa không ngừng tuyển chọn nhiều người để trao phó sứ mạng tạm thời hay vĩnh viễn, Ngài đặt riêng và thánh hiến họ. Thiên Chúa đã chọn các ngôn sứ, các vua, các tư tế, các Lê vi như sứ mạng công khai rao giảng và nói lời Thiên Chúa ( Đnl 10, 8; 18, 5 ). Việc tuyển chọn là sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa, chính Thiên Chúa Giavê đã “ khắng khít với ngươi và đã chọn ngươi “ ( Đnl 7, 7n ). Thiên Chúa đã tuyển chọn Israen nên dân tộc thánh, được thánh hiến cho Giavê” cao sang hơn mọi dân về danh dự, tiếng tăm và vinh quang “( Đnl 26, 19 ). Việc Thiên Chúa tuyển chọn Israen là đưa dân Israen vào một định mệnh phi thường hoặc khốn khổ không đo lường được” ( Đnl 28 ). Tuy nhiên, việc Thiên Chúa tuyển chọn dân Do Thái là để dọn đường cho Con của Ngài: Đức Giêsu đến trần gian. Lời”đây là kẻ Ta tuyển chọn” của Chúa Cha nói về Đức Giêsu, mặc khải điều bí mật này: từ lòng mẹ, Thiên Chúa đã thánh hoá và gọi con người bằng xương bằng thịt là Con mình ( Lc 1, 35 ) và “từ trước khi tạo dựng thế giới “, Thiên Chúa đã đặt định Người để “ thâu lại cả vạn vật dưới một đầu một mối trong Người “ ( Eph. 1, 4.10; 1P1, 20 ). Đức Kitô là Người duy nhất được Thiên Chúa chọn và chỉ trong Ngài mới có nhiều người khác được tuyển chọn” ( 1 P 2, 4 tt ). Nhóm mười hai đại diện cho mười hai chi tộc của dân mới và dân này do Đức Kitô tuyển chọn ( Lc 6, 13; Ga 6, 70). Đức Giêsu đã tuyển chọn các môn đồ và lựa chọn dân riêng để hoàn tất thánh ý của Người ( Eph. 1, 11 ). Do đó, Tin Mừng của thánh Máccô 6, 7-13 nói về việc Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Việc sai đi giả thiết sự tuyển chọn các môn đệ như ý định phổ độ của Thiên Chúa. Lệnh truyền của Chúa Giêsu đặt các môn đệ giữa ngã ba đường phải chọn: ra đi để phục vụ Lời, chứ không phải được hầu hạ. Lời truyền của Chúa có tính cách dứt khoát và quyết liệt: môn đệ ra đi không cần vật chất như cứu cánh của đời mình, mà những của cải vật chất, lương thực chỉ là phương tiện nuôi sống của người làm công đáng lãnh công thợ. Ở đây, Đức Kitô muốn các môn đệ của Ngài sống cuộc sống khó nghèo, một sự khó nghèo phó thác đến tận gốc rễ của đời mình. Chỉ khi nào các môn đệ hiểu rõ sự cùng khốn của đời mình, phục vụ Lời cách dứt khoát và đắc lực, khi đó Lời mới có tác dụng tốt đẹp cho họ và cho mọi người. Ý thức được cái không không, cùng cực của cõi nhân sinh cuộc đời, các môn đệ đã ra đi trong niềm tin và giảng sự sám hối, kèm theo quyền năng làm phép, lạ có Chúa cùng nâng đỡ họ. Sứ mạng của các môn đệ đặt họ trước một quyết định dứt khoát:” phục vụ và làm chứng cho Tin Mừng, ơn cứu rỗi của Đức Kitô”.
II. Ý NGHĨA CỦA VIỆC SAI ĐI:
Chúa Giêsu đã trao sứ vụ cho các môn đệ ra đi giữa mọi người, làm chứng cho sự thật, chân lý và ánh sáng. Các môn đệ đã hiên ngang lãnh nhận sứ mạng của Chúa như ý định cứu rỗi của các Ngài và của Thiên Chúa trên toàn thể vũ trụ và loài người, con người. Được sai đi rao giảng, các môn đệ đã hiên ngang với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, giảng Lời và làm chứng cho bộ mặt đầy yêu thương của Thiên Chúa. Các Ngài đã kiên trì trong sứ mạng, đã gặp nhiều thử thách, đã gặp nhiều chông gai đúng như lời Chúa nói: “ Đầy tớ không lớn hơn chủ “. Các Ngài đã cùng với Thầy mình đổ giọt máu cuối cùng để làm chứng cho sự thật và sự sáng. Việc Đức Kitô sai các môn đệ ra đi cũng có nghĩa Ngài sai toàn dân Chúa ra đi để làm chứng cho Ngài. Dân Chúa được tuyển chọn để trở nên dân thánh ( 1 P 2, 9 ), họ cũng có sứ mạng làm chứng cho Lời và rao giảng Lời. Nhiệm vụ của Giáo Hội hôm nay là làm chứng cho sự cứu rỗi của Thiên Chúa. Nếu thế giới càng ngày càng đi lầm lạc và rơi vào cõi hư vô, thiếu vắng Thiên Chúa, Giáo Hội của Ngài có sứ mệnh cao cả: “ làm cho mọi người tin và tiếp nhận Lời để qua đó, họ nhận ra Nước Trời và nhận ra bộ mặt đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Để kết luận ta hãy dùng lời thánh Phaolô viết nhắn nhủ ta và nhắn nhủ mọi người:” Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như vậy, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, khác nào những người con vẹn toàn của Thiên Chúa giữa một thế hệ gian tà, sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” ( Phil.2, 14-15 ).
Bà cụ tôi năm nay đã hơn 80 tuổi. Lưng bà còng, nên bà không thể đi đứng một cách tự nhiên được như xưa. Và bà đã phải dùng đến cây gậy. Nhờ cây gậy, bước đi của bà được vững chãi, bớt mệt nhọc, và lưng bà đỡ gù hơn. Bước đi vững chãi nhờ cây gậy, bản thân tôi cũng đã có kinh nghiệm này. Thời kỳ còn trai trẻ, trong khi tham dự Phong Trào Hướng Đạo, lúc nhận cây gậy lên đường, tôi nghĩ rằng đó chỉ là một hình thức, một lối trang trí cho cuộc chơi, và cây gậy không hẳn là cần thiết cho hành trang lên đường của một tráng sinh. Nhưng tôi đã nhận ra quan niệm sai lầm của mình, và thấy được cây gậy có một khả năng đặc biệt. Nó đã giúp tôi lúc lên núi, và đoạn đường dài trong khi thực hành buổi thám du lần đó.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã sai các môn đệ Ngài “lên đường” với cây gậy. Ngài đã sai các ông vào đời. Đi vào những ngõ ngách của cuộc đời, và đi vào thực tế cuộc sống để đem Tin Mừng đến với muôn dân. Thật ra, đối với đời sống chài lưới cực nhọc, vất vả, cũng như cuộc sống bôn ba trước khi theo Ngài, thì việc lên đường của các ông xem ra rất nhẹ nhàng và dễ dãi. Thế nhưng Ngài vẫn bảo các ông phải mang theo cây gậy: “Khi đi đường, các con đừng mang theo gì, ngoài trừ cây gậy” (Mc 6:8).
Đọc kỹ trích đoạn Tin Mừng của Máccô, ta cảm thấy một cái gì hơi thắc mắc, tại sao trong cuộc hành trình như thế, Chúa Giêsu lại cấm các môn đệ Ngài không được đem theo gì dù là mặc hai áo, nhưng ngược lại, phải mang theo cây gậy. Nếu cẩn thận theo dõi từ đầu trích đoạn Tin Mừng, ta còn thấy rằng Chúa Giêsu đã cho các ông “có quyền trên các thần ô uế” (Mc 6:7), thế mà Ngài lại bảo các ông đem theo gậy. Phải chăng cây gậy có thế lực hơn cả quyền trừ tà thần, và nó là đòi hỏi cần thiết của sứ mạng gieo vãi Tin Mừng, cho cuộc lên đường, và hành trình đức tin của người môn đệ. Thưa vâng. Chính là thế.
Trở lại câu truyện của một cụ già 80 tuổi với cây gậy, và một chàng tráng sinh với cây gậy lên đường, ta thấy được lờ mờ hình ảnh và ý nghĩa cây gậy mà Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ Ngài phải có trong Tin Mừng: Chính Chúa Giêsu. Vì phải suy niệm, đặt trọn niềm tin nơi Thầy, phải sống chết với niềm tin ấy, và phải chấp nhận thử thách vì niềm tin ấy, thì cuộc sống và cuộc đời của người môn đệ mới thực sự có ý nghĩa. Lúc ấy, lời giảng dậy của họ mới thật sự cảm khích và đi vào lòng người. Tóm lại, do lòng yêu mến và tín thác nơi Chúa Giêsu mà người môn đệ không cần phải dùng đến quyền trừ ma quỉ cũng đủ làm cho ma quỉ phải hoảng sợ, và cũng đủ để thu phục nhân tâm con người. Bởi vì không thể khu trừ ma quỉ được, nếu thực sự không có Ngài trong con người làm việc ấy.
Không chỉ là để phục vụ tha nhân, mà còn cho cả chính mình. Nhờ cây gậy mà ta bước đi nhanh nhẹn, thanh thản, và đỡ mỏi mệt. Trong lãnh vực thiêng liêng, nhờ có Chúa Giêsu mà cuộc đời môn đệ, mà hành trình đức tin của mình được bảo đảm và vững chãi. Ta sẽ không nao núng và hốt hoảng như Ngài đã nói: “Khi họ không tiếp đón các con, cũng không nghe các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ” (Mc 6:11). Thực sự nếu không có Chúa trong cuộc đời và trong cõi lòng, thì những trường hợp thử thách như thế, người môn đệ rất khó thanh thản để phủi bụi chân mà ra đi, ngược lại, sẽ bị trì trệ và chôn bám vào những lời khen chê, những thu thút của cuộc sống, mà ra não nùng, chán nản, và bỏ cuộc.
Chúa Giêsu đòi hỏi thái độ dứt khoát như vậy, là vì Ngài chỉ muốn ta lệ thuộc vào chính Ngài, như bước đi cụ già 80 tuổi phải lệ thuộc vào cây gậy, cũng như chàng tráng sinh cần đến cây gậy trên đoạn đường thám hiểm của mình. Lúc ấy, Chúa Giêsu mới thực sự là cùng đích, là sức mạnh đỡ nâng, và là tất cả cho những vất vả, lao nhọc, và cuộc sống của người môn đệ. Trong Phúc Âm, khi đề cập đến thái độ phó thác vào quan phòng của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã cho biết, Thiên Chúa không để một con chim rơi xuống vì chết đói, và do đó, Ngài lại có thể không nuôi sống một người tin tưởng vào Ngài sao. Vì người môn đệ chắc chắn sẽ không phải lo gì, không phải sợ gì, và cũng không phải thiếu thốn gì nếu như họ có Chúa Giêsu. Đó cũng là lý do tại sao Ngài bảo các môn đệ cần phải thanh thoát, không cần phải “mặc hai áo” (Mc 6:9). Người môn đệ khi đã có Chúa Giêsu là có tất cả.
Cây gậy, ngoài ra, còn nhắc nhở người môn đệ phải biết cảnh tỉnh và sửa mình. Thánh Kinh khi đề cập đến việc Chúa chăn dẫn dân Ngài, Ngài đã dùng đến roi và gậy: “Cây roi và cái gậy là điều an ủi lòng tôi”. Điều này cũng nhắc nhở chúng ta phải tu luyện, và tự chế. Không thể sống thánh giữa đời. Không có chuyện rao truyền chân lý, nếu thiếu kỷ luật và tự chế, thiếu tinh thần xám hối và chay tịnh. Chúa nói: “Đến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó” (Mc 6:10). Đây là hình ảnh người tông đồ phải hòa nhập vào cuộc sống của mọi người. Và nếu hòa nhập như vậy, thì gần bùn liệu có tránh khỏi hôi tanh mùi bùn không. Do đó, cần phải có cây gậy. Cây gậy Giêsu - Lời Hằng Sống. Vì lời Ngài chính là “đèn soi lối con đi”. Nếu không, người môn đệ sẽ bị hủ hóa, và sẽ bị trần tục lôi cuốn.
Tóm lại, không phải là Chúa Giêsu đã tỏ ra quá khe khắt khi đòi hỏi người môn đệ lúc lên đường cần phải có “cây gậy”. Vì cây gậy ấy là chính Ngài. Trong những lúc sốt sắng và đạo đức đến quỉ thần ô uế cũng phải lùi bước. Trong những lúc thành công, vang danh, và được đời ca tụng. Và trong những lúc bị đời thờ ơ, lạnh nhạt, và khinh bỉ. Tóm lại, dù khi nhẹ nhàng bước đi giữa tiếng hoan ca, và trên những nẻo đường rộng rãi. Hoặc khi mệt mỏi, ê chề lê bước giữa những hững hờ và tẻ nhạt của tình cảm con người trên những chặng đường chông gai, thử thách, tất cả trên từng đoạn đường, và từng mảnh đời ấy, Chúa Giêsu chính là cây gậy mà người môn đệ không thể thiếu: “Khi đi đường, các con đừng mang theo gì, ngoài trừ cây gậy” (Mc 6:8).
Đại Tướng Grant là Tổng Chỉ Huy quân đội trong trận nội chiến và sau này trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ thứ 18 với hai nhiệm kỳ. Đại Tướng sống rất đơn sơ, như Ngoại Trưởng Washburne đã viết về ông như sau: "Khi Đại Tướng Grant từ giã Bộ Tổng Tham Mưu để đi tranh cử Tổng Thống, ông chẳng mang theo sắc phục "Lon Tướng" và những vật dụng mà một Tướng Lãnh thường mang theo. Ông chỉ muốn làm sao để có thể di chuyển cho nhẹ nhàng. Vì thế, điều quan trọng đối với ông là càng mang theo ít đồ càng tốt. Ông chẳng cần có cận vệ đi theo, chẳng cần có lừa ngựa để di chuyển, cũng chẳng mang theo áo khoác hoặc nhiều y phục để thay đổi. Tất cả những thứ mà ông mang theo cho cuộc vận động 6 ngày là một bàn chải đánh răng. Tôi đi theo ông, nên tôi biết rõ lắm. Ông sống như một anh binh nhì, ăn như lính, ngủ như lính, lấy trời xanh làm màn che".
I. ƠN TUYỂN CHỌN CAO QUÝ
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Kitô sai các Tông Đồ đi rao giảng, đi vận động cho Tin Mừng Nước Trời, Ngài cũng truyền cho các ông đừng mang theo nhiều đồ kềnh càng, không mang bị mang bánh, không mang theo tiền của, không mang hai áo choàng... để các ông khỏi bận tâm vào của cải, khỏi bị những phù vân đời này ràng buộc chi phối, làm ngãng trở sứ mạng Tông Đồ cao cả Chúa ủy thác.
Tất cả chúng ta đều cũng được Chúa tuyển chọn, như Ngài đã tuyển chọn các Tông Đồ. Thánh Phaolô đã viết trong thư gởi Giáo Đoàn Ephesô khi nói với chúng ta rằng: "Thiên Chúa đã tuyển chọn chúng ta trong Chúa Kitô trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta nên thánh thiện và tinh tuyền trước nhan thánh Ngài trong tình yêu thương" (Eph 1:4).
Ngay từ muôn thế hệ, Chúa đã biết chúng ta, đã yêu thương và tuyển chọn chúng ta, để chúng ta sinh vào đời, làm người rao giảng Tin Mừng, làm chứng nhân cho Chúa, như lời Người đã phán trong sách tiên tri Isaia: "Trước khi tác tạo nên con trong lòng thân mẫu, Cha đã tường hiểu con; trước khi con ra khỏi lòng mẹ, Cha đã thánh hiến con và đặt con làm tiên tri rao truyền danh Cha cho các dân tộc" (Jer.1:4-5). Chúa còn phán: "Cha đã yêu thương con bằng một tình yêu vĩnh cửu; nên Cha đã dủ tình thương mà lôi kéo con lại với Cha" (Jer. 31:3).
II. THÁI ĐỘ CHÚNG TA ĐÁP LẠI
Để đáp lại tình Chúa yêu thương đã tuyển chọn chúng ta; để chu toàn sứ mạng làm Tông Đồ, làm chứng nhân cho Chúa giữa trần gian; cũng như các Tông Đồ, Chúa muốn chúng ta sống thanh thản siêu thoát, không bị ràng buộc vào những của cải vật chất, không bị trói buộc và nô lệ bởi bất cứ một phù vân nào ở đời này; để dễ dàng chuyên lo thực thi sứ mạng Chúa ủy thác và đạt tới cùng đích của cuộc sống làm con cái Chúa.
Dĩ nhiên, bao lâu còn sống trên trần gian, chúng ta còn phải sử dụng tiền của, vật dụng, tiện nghi cho những nhu cầu thân xác hoặc làm việc tông đồ; chúng ta cũng cần phải có những phương tiện vật chất trợ giúp, thiếu nó chúng ta cũng khó chu toàn được nhiệm vụ. Nhưng Chúa truyền dạy chúng ta đừng quá lệ thuộc vào những thứ đó, đến nỗi chúng ta trở nên nô lệ cho vật chất làm choán đoạt tâm trí, kéo ghì con người chúng ta xuống, khó vươn mình lên cao được, khiến chúng ta không thể: "Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước hết".
Các Thánh đã quá hiểu sự ràng buộc bởi của cải vật chất, làm ngãng trở đường tiến tới cùng đích và cản ngăn sứ mạng Tông Đồ, nên các ngài đã khước từ của cải đời này; hoặc phải dùng của cải đời này mà như không dùng, tức là không để cho mình bị chúng chiếm đoạt, đến nỗi trở thành nộ lệ cho những thứ phù ảo đó.
Nhiều vị Thánh, như Thánh Phanxicô Khó Khăn chẳng hạn, đã bán hết của cải, phân phát cho người nghèo, hoặc từ bỏ chức quyền sang trọng để sống một đời nghèo nàn, tầm thường, bình dị, thoát ly khỏi những bon chen trần thế, để dễ dàng thoát ly khỏi những vật chất và ngay cả chính bản thân mình, hầu mau chóng đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của ơn gọi làm con cái Chúa và chu toàn được sứ mạng Tông Đồ làm vinh danh Chúa.
Trái lại, nếu chúng ta không vươn tâm hồn lên khỏi cái bản ngã hư hèn, chúng ta cũng chẳng thể làm được ích lợi gì cho tha nhân, và cũng chẳng thể làm được lợi ích gì cho vinh danh Chúa, mà ngay cả phần rỗi chúng ta cũng khó đạt tới, chẳng hạn như câu truyện sau đây:
Một ông bõ giúp việc trong một giáo xứ nọ ở Miền Bắc Việt Nam, do một Cha Xứ kể lại: "Ông sống trong Nhà Xứ bằng một đời sống khô khan nguội lạnh, hằng ngày với các công việc thông thường như dọn nhà, xay thóc, giã gạo... Cuộc sống cũng nghèo khó đơn bạch, nhưng ông lại có lòng ham mê tiền của, chỉ lo tích góp từng đồng bạc không dám tiêu dùng và cũng chẳng giúp đỡ ai, ông chỉ bo bo như thần giữ của, cho đến khi ông lâm bệnh gần chết, mà cũng chẳng sao xưng tội được để dọn mình ra trước tòa Chúa, khuyên bảo mấy cũng vô ích... Mắt ông cứ đăm chiêu nhìn lên xà nhà, nơi treo bó quần áo rách của ông và lòng thì gắn vào mớ giấy bạc ông đã bó chặt vào đùi ông, mãi sau khi chết người ta mới khám phá ra. Thật thẳm hại thay con người mê tiền của!"
Kết Luận
Xin Chúa ban cho chúng ta biết chuyên lo một điều khẩn thiết là: "Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước tiên", tức là biết chu toàn sứ mạng Chúa ủy thác làm tông đồ vinh danh Chúa, tìm cầu Ơn Cứu Độ và hạnh phúc vĩnh cửu cho chính mình và cho các linh hồn trước hết mọi sự.
Để đạt được điều ước mong trên, Chúa đòi chúng ta phải siêu thoát khỏi mọi ràng buộc và nô lệ bởi những phù ảo trần thế như tiền của, danh vọng, chức quyền, hầu dễ dàng vươn lên với Chúa.
"Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại và sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ qủy. Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy... được đi dép, nhưng không được mặc hai áo... Nơi nào không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ. Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều qủy, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh tật."
Câu chuyện đều được cả 3 Phúc Âm nhất lãm ghi lại. Khi chú giải về biến cố này, Đức Cố Giám Mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi trong sách Phúc Âm Dẫn Giải của Ngài (từ số 228 đến số 230) nêu lên hai chi tiết: Chi tiết thứ nhất chứng tỏ quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Kitô. Vấn đề Chúa Kitô chọn 12 môn đệ và sai họ đi giảng dậy, điều đó là lẽ thường tình. Bởi vì các bậc làm thầy trong bất cứ thời đại nào cũng có khuynh hướng lôi kéo một ít đồ đệ theo mình để họ phụ giúp trong việc truyền bá học thuyết. Điều làm ta ngạc nhiên ở đây là Chúa Kitô chọn 12 môn đệ, không những sai họ đi giảng dậy, mà Ngài còn thông ban cho họ quyền năng làm phép lạ, khử trừ ma quỷ. Không ai có được những quyền năng này trừ ra là Thiên Chúa. Vậy nếu Chúa Kitô có những quyền năng này thì Ngài qủa thực là Thiên Chúa. Hơn thế nữa, Ngài lại còn có thể thông ban những quyền năng ấy cho các môn đệ của Ngài. Mười hai tông đồ đã được Chúa Kitô lựa chọn, và sứ mệnh giảng dậy của các Ngài cũng bởi Chúa Kitô mà đến. Giáo hội Công Giáo là Giáo hội tông truyền, nghĩa là giáo hội bắt nguồn từ các Thánh Tông Đồ. Một Giáo hội được thiết lập do thánh ý và quyền năng của Thiên Chúa. Một Giáo hội tồn tại không do sức con người nhưng là dựa vào lời hứa của Chúa Kitô: "Hỡi Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực của tử thần sẽ không thắng nổi." (Mát-thêu 16:18). "Và đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế." (Mát-thêu 28:20). Thâm tín được chân lý này, chúng ta sẽ không bị nghiêng ngửa, chán nản thất vọng trước những bão tố khó khăn hiện tại trong Giáo hội, nhưng vững lòng tin tưởng vào quyền lực của Chúa đang chèo lái con thuyền Giáo hội.
Chi tiết thứ hai kéo chú ý của chúng ta đến những lời Chúa Kitô căn dặn các tông đồ xem ra có vẻ tỉ mỉ. Đức Cố Giám Mục Phạm Ngọc Chi đã có công so sánh cả 3 Phúc Âm Nhất lãm với nhau và Ngài đã đưa ra nhận xét này: "Chỗ này ta thấy như các thánh ký mâu thuẫn nhau! Ông này bảo được đi giầy mang gậy, ông kia bảo không. Để giải quyết chỗ khác nhau giữa các thánh ký, nhiều người tỉ mỉ ngồi tưởng tượng ra nào là gậy để chống, gậy để tự vệ, gậy nghĩa đen, gậy nghĩa bóng... Lối giải thích ấy không đủ làm ta thỏa mãn trí khôn. Nếu hiểu lời Chúa nói về cái 'gậy' và nguyên chỉ về cái gậy thực mà thôi thì các Thánh ký mâu thuẫn nhau." Không chỉ riêng về cái gậy mà còn những chi tiết khác như nói về áo, về giầy, về lương thực, tiền bạc, hành lý, v.v... các thánh ký cũng nói khác nhau. Nhưng trong cái nhìn suy niệm thiêng liêng thì không nên phân tách dài dòng tỉ mỉ. Chúng ta có thể nhìn chung như một bài học Chúa dậy các môn đệ, những người muốn hiến thân theo Chúa để rao giảng nước trời, đừng qúa lo lắng tích góp, hoặc đeo vào người những của cải vật chất, những tham vọng thành công, hoặc những thứ làm cho phong cách của mình tỏ ra như là 'thầy thiên hạ'. Làm sao để cho mình có được sự tự do thanh thản ra đi phục vụ, và có được một phong cách khiêm nhường đơn sơ và khó nghèo thực sự đang khi phục vụ. Đô đốc Hải quân Richard Burd nhận định rằng: "Phân nửa những sự lộn xộn của thế giới ngày nay là tại không biết rằng rất ít thứ chúng ta cần." Thật vậy, chúng ta nghĩ rằng chúng ta cần nhiều thứ nên chúng ta cố gắng dành thời giờ, sức lực để tìm kiếm những thứ chúng ta cần. Trong khi đó chúng ta quên rằng điều cần trên hết và trước hết là chú tâm vào Thiên Chúa và rao truyền Tin Mừng của Ngài trước, rồi mọi sự khác sẽ đến sau (Mát-thêu 6:33). Chúng ta nhớ câu chuyện của 2 chị em Mát-ta và Maria. Khi đón tiếp Chúa vào nhà, bà Mát-ta có lẽ đã qúa lo lắng bận rộn với những chi tiết khoản đãi khách, nên Chúa đã nhắc khéo với Mát-ta rằng: "Mát-ta, con băn khoăn lo lắng nhiều chuyện qúa! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi." (Luca 10:42).
Khi tâm hồn người tông đồ gắn chặt lấy Thiên Chúa là trung tâm duy nhất, là cùng đích cho mọi hoạt động của mình thì người tông đồ sẽ không bị phân tâm lo lắng về thành qủa của những hoạt động của mình. Cũng như Thầy mình, người tông đồ có thể sẽ bị khinh chê, bị thất bại. Những cố gắng rao truyền chân lý có thể sẽ bị người nghe khước từ. Nhưng người tông đồ không nản chí. Nhớ lời Thầy nhắn nhủ: "Nơi nào không đón tiếp anh em.. . thì hãy ra khỏi đó.. . phủi bụi chân.. ." rồi lại đi tiếp! Không chùn chân, không bực bội, nhưng hân hoan vì được giống Thầy mình, và vẫn quyết tâm theo Thầy trong hành trình truyền giáo.
Lạy Chúa Kitô, xin cho chúng con được bám víu lấy Chúa như kho báu duy nhất của chúng con để khi thi hành trách vụ truyền giáo, chúng con không bận tâm với sự gì khác hơn là làm cho Chúa được mến yêu nơi tâm hồn của anh chị em đồng loại chúng con. Amen.
Chúng ta thường nghe nói tới hai chữ "thừa sai": Giáo Hội chúng ta là một Giáo Hội "thừa sai", mỗi tín hữu chúng ta là một "thừa sai". "Thừa sai" là gì? Là được sai đi. Ngày xưa Ðức Giêsu đã sai 12 tông đồ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Ngày nay Ngài cũng sai chúng ta như thế.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa dạy cho chúng ta hiểu rõ hơn để chúng ta thi hành sứ mạng này.
II. Gợi ý sám hối
* Xưa nay chúng ta chỉ lo "giữ đạo" mà không để ý đến "truyền đạo".
* Chúng ta chưa ý thức mình được Thiên Chúa sai đi để mang Tin Mừng đến cho người khác.
* Trong những lúc khó khăn, chúng ta chưa phó thác đủ vào sự quan phòng của Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Am 7,12-15)
Amos sinh sống ở tiểu vương quốc Giuđa (miền Nam), nhưng Chúa sai ông lên tiểu vương quốc Israel (miền Bắc) để làm ngôn sứ nói lời Ngài.
Vì trung thực nói lời Chúa, nên Amos bị dân Israel ghét. Một vị tư tế tên Amasia còn đuổi ông về Giuđa.
Amos đáp lại: Ông chỉ là một nông dân chứ không thuộc dòng dõi ngôn sứ cho nên không quen làm ngôn sứ. Nhưng chỉ vì Thiên Chúa sai ông nên ông phải vâng theo.
Trong một đoạn khác không thuộc trích đoạn này, Amos còn nói một câu rất ý nghĩa cho thấy sự thúc bách của lệnh Chúa sai đi: "Sư tử gầm lên, ai lại không sợ; Ðức Chúa Giavê phán, ai lại không nói tiên tri?" (Am 3,8)
2. Ðáp ca (Tv 84)
Trích đoạn Tv 84 này có thể được coi là nối tiếp ý tưởng của bài đọc I: người được Thiên Chúa sai đi phải quan tâm "lắng nghe điều Thiên Chúa phán", đó là những lời mang lại bình an và ơn cứu độ.
3. Tin Mừng (Mc 6,7-13)
Trong giai đoạn đầu của việc rao giảng Tin Mừng, trung tâm hoạt động của Ðức Giêsu là thành Caphácnaum và những thành ven bờ hồ Ghênêdarét. Bây giờ bước vào giai đoạn 2, Ngài sai các tông đồ từng hai người một đi đến những vùng khác.
* Sứ mạng của các ông là rao giảng sự thống hối và trừ quỷ, chữa bệnh.
* "Phương tiện" của các ông chỉ có tối thiểu, còn tất cả những điều khác đều phó thác cho Chúa quan phòng lo liệu.
4. Bài đọc II (Êp 1,3-14)
Thánh Phaolô trình bày chương trình cứu độ của Thiên Chúa:
* Ngài đã chọn chúng ta trước khi tạo thành thế gian.
* Tiền định cho chúng ta được phúc làm con Ngài nhờ Ðức Giêsu Kitô.
* Cứu chuộc chúng ta bằng giá máu của chính Ðức Giêsu Kitô.
* Ban Thánh Thần cho chúng ta.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Chúa cần đến chúng ta
Trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, một ngôi làng bị pháo kích nặng nề. Giữa làng có một ngôi nhà thờ, trước nhà thờ có một tượng Ðức Giêsu được đặt trên một cái bệ. Nhưng sau khi khói lửa của trận pháo kích tan đi, người ta chỉ còn thấy cái bệ, còn pho tượng thì biến đâu mất. Những người lính đồng minh cố gắng đi tìm và cuối cùng cũng tìm thấy tượng Chúa bị văng khỏi đó một khoảng khá xa. Tuy nhiên hai cánh tay của Chúa đã bị hỏng mất. Họ cung cấp một chiếc máy bay để chở pho tượng về Mỹ cho thợ làm lại hai cánh tay. Nhưng Cha Xứ từ chối. Cha bảo cứ đặt pho tượng lên bệ như cũ, phía dưới viết thêm hàng chữ: "Các con thân mến, hãy cho ta mượn đôi cánh tay của các con".
Câu chuyện trên giúp ta hiểu sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay: Ðức Giêsu kêu gọi các tông đồ tham gia công việc của Ngài. Ngài chia sẻ sứ mạng với họ. Ngài ban cho họ chính quyền năng và uy tín của Ngài. Rồi Ngài sai họ đi loan truyền Tin Mừng. Thực ra, họ chỉ là những người chài lưới, cả tài năng lẫn đức độ đều không có bao nhiêu. Nhưng Ngài vẫn chia sẻ sứ mạng cho họ, vì họ sẽ thi hành sứ mạng không phải bằng sức riêng của họ, mà bằng ơn Chúa.
Ngày nay, có nhiều đấng có thẩm quyền vẫn e ngại không chia xẻ công việc cho giáo dân; mặt khác, nhiều giáo dân cũng e ngại không dám gánh trách nhiệm trong Giáo Hội. Cả hai phía đều tính toán thành bại dựa trên khả năng của con người. Nhưng đó không phải là tính toán của Thiên Chúa.
Hãy nhớ rằng Sách Thánh bắt đầu bằng chuyện Thiên Chúa giao cho loài người quyền hợp tác với Ngài trong công cuộc sáng tạo vũ trụ; bài đọc I hôm nay kể chuyện Thiên Chúa giao cho Amos sứ mạng làm ngôn sứ cho dân Israel mặc dù ông chỉ chuyên nghề chăm sóc cây sung; và bài Tin Mừng kể chuyện Ðức Giêsu sai 12 tông đồ vốn là những dân chài sứ mạng truyền giáo. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Phó thác trong tay Chúa
Bài Tin Mừng này nói đến tinh thần Phó Thác mà Chúa muốn các Tông đồ phải có trong khi đi truyền giáo. Phó Thác là một nhân đức quan trọng, nhưng nhiều người không hiểu đúng.
* Chẳng hạn một người kia mắc bệnh, không lo chữa trị mà cũng chẳng có biện pháp giữ gìn sức khoẻ gì hết, mà lại nói "Tôi phó thác tất cả cho Chúa". Như thế có phải là phó thác không? Dĩ nhiên là không.
* Hay một người khác không chăm chỉ làm ăn, tiêu xài thì chẳng tính toán cân nhắc, rồi lâm cảnh túng thiếu. Cũng nó: "Xin phó thác tương lai trong tay Chúa". Có phải là phó thác không? Dĩ nhiên cũng là không.
* Xin thêm một thí dụ nữa: làm cha mẹ chẳng lo sửa dạy con cái, để cho chúng hư thân mất nết, rồi bảo "Phó thác cho Chúa". Có phải là Phó thác không? Cũng không phải.
Nếu những trường hợp kể trên mà là Phó Thác, thì Phó thác chẳng còn phải là một nhân đức nữa, nhưng là một tính xấu: tính lười biếng, thụ động. Ðạo Công giáo mà chủ trương Phó thác kiểu đó thì cũng không oan ức gì khi bị người khác chế nhạo là đạo tiêu cực, đạo cảm trở sự tiến bộ....
Ngược lại, đứng trước một công việc mà mình lo lắng thái quá, làm như Chúa để một mình mình phải lo, thì cũng không phải là Phó thác. Rồi trong khi lo công việc mà quá cậy dựa vào những phương tiện vật chất, thế tục, không tin tưởng vào ơn Chúa giúp, cũng không phải là Phó thác.
Vậy Phó thác là gì? Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa dạy các tông đồ có tinh thần Phó thác đúng nghĩa: khi các ông ra đi truyền giáo, các ông chỉ cần một số phương tiện vật chất vừa đủ: một cây gậy để chống lại thú dữ dọc đường, một chiếc áo mặc, một đôi dép để đi, thế thôi. Ðừng quá lo lắng về vật chất: không cần mang lương thực dự trữ, không cần thủ cho nhiều tiền trong túi, không cần tới hai áo, không cần mang bị theo để đựng quà biếu của người khác. Về nơi ăn chốn ở cũng thế, miễn sao có chỗ trọ là được, nhà nào cho mình trọ, thì cứ trọ bất kể giàu hay nghèo, đừng chọn lựa nhà này hay nhà khác để có tiện nghi hơn. Nhà nào không cho mình trọ thì mình ra đi không chút lưu luyến. Ðiều chính yếu quan trọng mà các ông phải cậy dựa vào, đó là quyền năng của Chúa.
Qua đoạn Tin Mừng trên, chúng ta hiểu Phó Thác là đứng trước một công việc, một mặt mình không được lười biếng buông trôi nhưng phải vận dụng hết sức mình để làm cho được; mặt khác không ỷ sức riêng mình mà còn phải cầu nguyện xin Chúa ban ơn giúp sức. Và khi đã cố gắng hết sức mình đồng thời đã tin cậy vào ơn Chúa như thế, sau đó công việc diễn tiến thế nào đi nữa mình cũng không quá lo lắng sợ sệt, vì mình đã Phó thác cho Chúa.
Như thế, đứng trước một vấn đề khó khăn, nếu ta ngả lòng nản chí thì là thiếu Phó thác; nhưng nếu ta quá lo lắng cậy dựa vào khả năng riêng của mình để giải quyết thì cũng là thiếu phó thác.
Chúng ta hãy làm như một đứa bé tập đi: bàn tay nhỏ bé của nó nắm chặt bàn tay Cha nó, đôi chân nhỏ bé của nó can đảm bước đi từng bước từng bước, và lòng nó thì rất an tâm, vì nó biết chắc có Cha nó luôn sẵn sàng nâng đỡ mỗi khi nó xảy chân. Phó thác là như thế.
* 3. Chúa sai tôi đi
Sau thế chiến thứ nhất, một linh mục trẻ người Pháp được bài sai đi coi xứ. Tay xách vali, cha mạnh dạn ra đi truyền giáo. Ðến nơi chỉ thấy hầm sâu, tường đổ. Nhà thờ, nhà xứ, chỉ còn duy nhất một bức tường xiêu vẹo.
Không một chút sờn lòng, cha cùng với các tín hữu tích cực kiến thiết lại ngôi thánh đường đổ nát. Chẳng bao lâu sau, đền thờ vật chất đã hoàn thành khang trang đẹp đẽ. Giờ đây, cha lại tiếp tục xây dựng đền thờ tâm hồn. Nhờ đời sống gương mẫu, cha đã tu sửa lại lòng đạo đức của cả đoàn chiên.
Tuổi cha chưa cao nhưng đã kiệt sức, giữa lúc tình cha con đang mặn nồng, gắn bó. Dầu vậy, nằm trên giường bệnh, cha vẫn thản nhiên vui vẻ. Giờ hấp hối đến, cha nhỏ nhẹ nói với những người chung quanh:
- Giờ đây tôi vui mừng vì đã trung thành giữ lời nhủ bảo của thân phụ ngày tôi chịu chức linh mục: "Nay con làm linh mục Chúa, cha chỉ cầu ước cho con 3 điều: Thứ nhất, lúc con chết đừng nợ ai xu nào; Thứ hai, khi qua đời con cũng chẳng còn xu nào; Thứ ba, lúc lâm chung con đừng vướng một chút tội nào với Chúa". Và ngài an bình đi về với Ðấng mình đã trọn đời dâng hiến.
*
Vị linh mục trong câu chuyện trên đây, không những đã làm theo lời khuyên của thân phụ, mà còn thi hành đúng lời dạy của Ðức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Khi sai các tông đồ đi truyền giáo, Chúa phán: "Không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc..." (Mc.6,8). Hành trang của các ông chỉ là chiếc áo đang mặc, cây gậy và đôi dép đi đường. Vì chính Người đã từng nói: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, con Người không có chỗ dựa đầu". Người muốn các ông hoàn toàn nương tựa vào Chúa, phó thác cho tình yêu quan phòng của Người, và cậy dựa vào lòng tốt của tha nhân.
Ðó là thân phận của kẻ được sai đi: ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Vì "Phaolô trồng, Apollo tưới và Chúa mới cho mọc lên" (1Cr.3,6).
Hôm nay Chúa cũng sai chúng ta đi vào lòng thế giới, để "rao giảng sự sám hối" (Mc.6,12). Sám hối rất khó nói vì chẳng mấy ai thích nghe. Ðó cũng là thách thức của người tông đồ: can đảm nói lên những điều phải nói. Nói mà không giảm nhẹ những đòi hỏi của Tin mừng. Nói mà không lợi dụng tin mừng để mưu cầu cá nhân. Nói mà không trích dẫn Tin mừng để khoe khoang kiến thức. Nói mà không bóp méo Tin mừng để vuốt ve quần chúng. Dù sao Tin mừng vẫn phải được loan báo. Chúng ta hãy xem câu nói của Thánh Phaolô như là của chính mình: "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cr.9,16).
Hôm nay, Chúa cũng trao cho chúng ta những quyền năng như hành trang để lên đường. Ðó là quyền rao giảng Tin mừng, quyền trừ quỷ và quyền chữa bệnh.
Chúng ta có thể chia sẻ Tin mừng với niềm hân hoan của người tìm được viên ngọc quí.
Chúng ta có thể nói về Chúa như nói về một người bạn thân.
Chúng ta có thể xua trừ quỉ bằng cách đẩy lui những thói hư tật xấu.
Chúng ta có thể chữa bệnh bằng cách lau khô những giọt lệ của bao người quanh ta.
*
Lạy Ðức Giêsu, mỗi thánh lễ là một bài sai, mỗi bài Tin mừng là một sứ điệp Chúa gởi cho trần gian qua từng người chúng con. Xin cho chúng con đừng bao giờ cậy dựa sức riêng mình, nhưng tin tưởng vào quyền năng Chúa mà chu toàn sứ vụ Người đã trao ban. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
4. Những lời chói tai
Chúng ta hãy tìm hiểu bài đọc thứ I, được trích từ sách tiên tri Amos.
Amos không phải là một ngôn sứ chuyên nghiệp. Hằng ngày làm ăn sinh sống bằng nghề chăn chiên và hái trái sung. Nhưng một ngày kia Thiên Chúa bảo ông hãy lên miền Israel công bố Lời Chúa. Lúc ấy nước Do thái đang chia cắt thành hai miền vừa khác nhau vừa đối nghịch nhau; miền Nam nơi Amos đang sinh sống là Yuđa, còn miền Bắc là Israel. Mà Israel lúc đó đang vào hồi thịnh vượng, giàu có. Tuy nhiên đó chỉ là thịnh vượng giàu có về mặt vật chất, chứ về tôn giáo và luân lý xã hội thì rất tồi tệ.
* Về tôn giáo: người dân Israel thờ Chúa ở Ðền Thờ Bethel. Họ dâng hiến rất nhiều lễ vật. Nhưng họ cũng ỷ rằng vì họ đã dâng nhiều lễ vật cho nên họ chẳng cần phải sống đạo đức. Chúa đã nhận lễ vật của họ cho nên Chúa có bổn phận phải che chở cho họ. Ðó là một thứ đạo đức bề ngoài.
* Còn về luân lý xã hội thì đầy dẫy những xấu xa: người giàu bóc lột, ức hiếp người nghèo, thói làm ăn gian lận, kẻ có nhiều tiền thì có tất cả, còn kẻ không có tiền thì thua thiệt mọi mặt.
Vì vâng lệnh Chúa, Amos đã từ giả nếp sống bình dị ở miền Nam Yuđa để lên miền bắc Israel. Ông lớn tiếng công kích tất cả những tệ nạn xấu xa vừa kể trên. Ông can đảm vạch tội của mọi hạng người từ vua chúa, đến các tư tế và những người giàu có. Và dĩ nhiên là những người này tức giận. Nhưng người tức giận nhất là Amasia, một ngôn sứ chuyên nghiệp ở đền thờ Bethel. Xưa nay Amasia vẫn cấu kết với giới hoàng gia và những người giàu có, dùng quyền tiên tri để nói những điều vừa ý họ. Bây giờ ông cũng thay mặt họ chống lại Amos. Ðại khái ông mỉa mai Amos rằng: nếu nhà người có muốn kiếm ăn bằng cái nghề ngôn sứ này thì tốt hơn hãy trở về miền Yuđa của nhà ngươi mà nói tiên tri đi. Ở đây mà nói tiên tri giọng đó thì chẳng ăn khách đâu. Ðối lại Amos trả lời: tôi đâu phải là một người kiếm sống bằng nghề ngôn sứ. Tôi chỉ là một nhà nông thôi. Nhưng vì Chúa sai tôi đến đây nói tiên tri thì tôi phải đến và nói, và bổn phận của tôi là phải truyền đạt lại đúng y như lời Chúa. Amasia tức bực. Ông ta vận động với triều đình Israel ra lệnh trục xuất Amos. Thế là Amos phải trở về quê cũ.
Ca dao có câu: "Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Ðó là một thái độ khôn ngoan, khôn ngoan vì lời mình nói không đụng chạm ai và dễ được người ta chấp nhận, người ta còn thích mình nữa. Ðó là kiểu khôn ngoan của tiên tri Amasia: ông đã nói những lời thuận tai vừa lòng những bậc vua chúa và những người giàu có, và họ đã ưu đãi ông, ông được hưởng một cuộc sống sung túc dễ chịu. Nhưng kiểu khôn ngoan đó không đem lại lợi ích thực sự cho dân. Dân Israel bị ru ngủ bởi những lời dễ chịu ấy cứ tiếp tục dấn sâu mãi trong những tội lỗi của mình, để rồi đến khi Thiên Chúa ra tay trừng phạt thì hối tiếc đã muộn. Năm 721 Chúa để cho đất nước họ bị xâm lược, dân chúng bị bắt, đi lưu đày. Tục ngữ cũng có câu "Thuốc đắng đã tật lời thật mất lòng". Những lời nói thành thật, dám vạch ra những cái xấu thì thường không được người ta ưa nghe, lại còn làm cho người ta ghét mình nữa. Có thể coi đó là một thái độ ngu dại. Ðó là cái ngu dại của Amos. Thế nhưng cái ngu dại ấy lại có ích. Nếu như dân Israel chịu nghe lời của Amos mà sửa đổi những tật xấu của mình thì họ đã được Chúa thương tha thứ.
Như vậy là có 2 kiểu nói: Kiểu nói thuận tai của Amasia và kiểu nói chói tai của Amos. Tự nhiên thì chúng ta thích nghe những lời nói kiểu Amasia. Thế nhưng nếu chúng ta muốn hoàn thiện đời mình thì chúng ta phải tập lắng nghe những lời nói kiểu Amos. Vậy ai là những Amos của chúng ta ngày nay? Trước hết đó là những Linh mục có nhiệm vụ giảng dạy Lời Chúa. Kế đó là những người thiện chí muốn sửa đổi chúng ta. Và kế tiếp nữa phải kể cả những người không ưa chúng ta mà chỉ trích chúng ta. Trước những lời nói thẳng nói thật, nhiều người tức bực, chẳng những không là một người muốn kiếm ăn bằng nghề tiên tri. Chúng ta cũng có phản ứng tương tự khi tìm cách nói xấu lại người dám nói thẳng vạch cái xấu của chúng ta: nào là người ấy bịa chuyện, nào là bản thân người ấy cũng chẳng tốt lành gì, có khi còn vạch ra những cái xấu của người ấy hay thậm chí bịa ra những điều xấu gán cho người ấy để làm giảm uy tín của họ và để che giấu chính cái xấu của mình. Nghĩa là trên cương vị người nghe, chúng ta phải tập khiêm nhường để sẵn sàng lắng nghe những tiếng nói chói tai vạch những cái xấu của mình.
Còn trên cương vị người nói, nếu nói kiểu Amasia để làm vừa lòng người ta thì thật là quá đã, nhưng chúng ta phải tập cho có can đảm để dám nói theo kiểu Amos, dám vạch thẳng những cái xấu của người khác. Nhưng chúng ta đừng hiểu lầm Amos, cho rằng Amos đã làm gương cho chúng ta về việc nói xấu nói hành. Amos nói thẳng nói thật chứ không phải nói xấu nói hành. Người nói là thẳng nói thật là người nói trước mặt người nghe. Còn người nói xấu nói hành là người trước mặt thì nói tốt hoặc không dám nói, nhưng sau lưng thì nói xấu. Thực ra, biết được một điều xấu của người khác thì rất dễ, nhưng chỉ cho người ta biết cái xấu của họ một cách thẳng thắn thì là khó, và giúp cho người ta sửa được cái xấu ấy lại càng khó hơn nhiều. Vậy trong thực hành, khi chúng ta biết một điều xấu của người nào đó, nếu chúng ta có can đảm tới nói thẳng với người đó để người đó sửa lỗi thì chúng ta hãy nói, cho dù lời nói của mình có thể làm cho người ta khó chịu, người ta ghét mình. Còn nếu chúng ta không có đủ can đảm như vậy thì thà chúng ta im lặng, đừng nói lén sau lưng, đừng rỉ tai, đừng nói lại cho bất cứ ai nghe, vì như thế chẳng những không có lợi mà chỉ có hại và còn có tội nữa.
Tuy nhiên có lẽ chúng ta nên tìm một giải pháp dung hoà giữa hai thái độ của Amasia và Amos. Amasia chỉ nói ngọt nên được người ta ưa nghe nhưng không làm lợi cho người ta. Còn Amos thì nói lời chói tai nên người ta không chịu nghe, còn bị người ta ghét và xua đuổi. Thái độ dung hoà là nói thật nhưng ngọt ngào. Vừa dễ nghe vừa sửa được lỗi của người khác. Và ngọt ngào thì không gì ngọt ngào bằng yêu thương. Vì yêu thương người có lỗi mà ta nói, và nói làm sao để người nghe hiểu rằng ta nói vì ta thương họ; và kết quả là vì họ biết ta thương họ nên họ sẽ cố gắng sửa mình để đáp lại tình thương của ta.
Con người có tai để nghe và lưỡi để nói. Trong chữ Nho, chữ "Thánh" là do 3 chữ ghép lại: chữ Vương ở dưới có nghĩa là vua, phía trên có chữ Nhĩ là lỗ tai và chữ Khẩu là cái miệng. Vậy Thánh, theo chữ Nho, có nghĩa là người làm chủ được sự nghe và sự nói của mình. Làm chủ được sự nghe là không phải chỉ thích nghe những lời nói khen mà còn dám nghe những lời phê bình thẳng thắn; làm chủ sự nói là không phải bạ đâu nói đó, nói một cách vô trách nhiệm, nói hành nói xấu, nhưng là nói đúng, nói thật, nói khéo, nói với tình thương để lời nói của mình đem lại lợi ích xây dựng cho người khác.
5. Một tấm gương
Một tội nhân được giong đi pháp trường. Ðến nơi hành quyết lính vây quanh thành ba vòng: vòng trong cầm gươm, vòng giữa cầm giáo, vòng ngoài cầm cờ, sĩ quan oai vệ cưỡi ngựa cưỡi voi. Bỗng tội nhân lên tiếng nói đôi lời với những người có mặt, sau đó nói riêng với viên chỉ huy. Với viên chỉ huy tội nhân nói:
"Tôi xin gửi quan 30 đồng tiền để xin quan một ân huệ: xin đừng chém tôi một nhát, nhưng chém ba nhát. Nhát thứ nhất, tôi tạ ơn Chúa đã dựng nên tôi, và đưa tôi đến đất Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành nên tôi. Còn nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí trong đức tin, theo gương vị chủ chăn của mình. Và như thế họ đáng lãnh phần phúc cùng các thánh trên trời."
Tội nhân là Ðức Cha An vừa dứt lời, lính liền trói ngài vào cây cọc hình thập giá. Dân công giáo có mặt oà lên khóc. Lính chém Ðức Cha ba nhát như ngài đã yêu cầu. Ðầu và mình của vị tử đạo bị ném xuống sông. Có hai người lính thấm máu vị tử đạo liền bị tống giam. Ðồ đạc sách vở của Ðức Cha đều bị đốt.
Ðó là ngày 20 tháng 7, 1857. Trước đó hai tháng, Ðức Cha đã viết thư tạm biệt Ðức Giám Mục và các linh mục trong Giáo Phận. Từ nhà ngục tỉnh Nam Ðịnh ngày 28 tháng 5,1857, Ðức Cha An viết:
"Tù nhân trong Chúa gửi lời tạm biệt Ðức Cha và các cha cho tới ngày gặp nhau trên trời. Xin tất cả anh em tha thứ cho những điều lầm lỗi và gương xấu tôi đã làm... Gông xiềng tôi đang mang được coi là những báu vật Ðức Giêsu gửi cho tôi. Tôi vui mừng lắm và chỉ ước ao đổ máu vì Chúa, để máu tôi hoà với máu cực thánh Ðức Giêsu rửa linh hồn tôi được sạch mọi tội lỗi. Xin anh em cầu cho tôi vững tin đến cùng..."
Giuse Diaz Sanjurjo cất tiếng chào đời ngày 26 tháng 10, 1818 tại tỉnh Lugo nước Tây Ban Nha. Cậu là con cả trong gia đình có năm anh em mà một người sau là nữ tu Antonia. Lớn lên cậu theo học chủng viện Lugo. Chiến tranh khiến việc học của cậu bị gián đoạn ba năm nhưng sau được vào đại học, cậu đã tìm đến với tỉnh dòng Ða Minh Rất Thánh Mân Côi là tỉnh dòng đặc trách lo việc truyền giáo tại Viễn Ðông. Ở đây cậu đã lần lượt được nhận vào Tập Viện ngày 23 tháng 9, 1842; được tuyên khấn 24.9.1843. Cha Giuse Diaz Sanjurjo đến địa phận Ðông Ðàng Ngoài ngày 19.9.1845 với tên Việt Nam là An. Sau thời gian học tiếng Việt, cha An được giao nhiệm vụ coi sóc chủng viện tại Nam An.
Dưới thời vua Tự Ðức cấm đạo gắt gao năm 1848, cha An đã phải đau lòng gấp rút giải tán chủng sinh, chôn giấu các đồ thờ phượng và nhìn chủng viện bị tàn phá. Trong thư gởi một bạn ở Tây Ban Nha, cha An viết: "Chúng tôi chẳng còn nhà, chẳng còn sách vở và áo quần, chẳng còn gì nữa... nhưng chúng tôi vẫn an tâm vì nhớ lời Thầy Chí Thánh nói "Con Người không có chỗ gối đầu..."
Nhiệt thành với tương lai giáo phận, cha An tái lập chủng viện tại Cao Xá. Thời gian này cha biên soạn cuốn văn phạm La ngữ bằng tiếng Việt.
Qua tông thư đề ngày 05.09.1848, Ðức Piô IX thiết lập giáo phận Trung tách khỏi giáo phận Ðông Ðàng Ngoài. Giáo phận Trung gồm cả Bùi Chu và Thái Bình hiện nay, với dân số khi ấy là 140.000 giáo hữu rải rác trên 624 giáo xứ.
Người có công thuyết phục linh mục Marti Gia nhận chức vụ giám mục giáo phận mới thành lập chính là cha An. Trong bầu khí trao đổi thân tình, cha An đã phân tích các mặt của nhiệm vụ giám mục với những khó khăn trong thời cấm đạo. Kế đến cha nêu những nhu cầu của cộng đoàn dân Chúa mà vai trò phục vụ được giao cần phải đáp ứng. Cha An không ngờ sắc lệnh bổ nhiệm Ðức Cha Marti Gia làm giám mục giáo phận Trung Ðàng Ngoài, có ban quyền chọn giám mục phó. Ðức Cha Gia liền chọn người đã thuyết phục mình nhận chức giám mục bản quyền, là cha An, làm giám mục phó.
Sau khi thụ phong giám mục, cha An lại trở về Cao Xá tiếp tục coi sóc chủng viện. Trong thư gởi gia đình, đức tân giám mục viết: "Ở đây thì chức vụ cao chỉ thêm công việc, con thường phải đi bộ, có khi phải đi chân không, nhiều lần phải lội bùn đến đầu gối, để trốn tránh những người lùng bắt."
Tháng 3, 1850, Ðức Cha An giao chủng viện cho cha San Pedro Xuyên coi sóc rồi đi kinh lý toàn tỉnh Hưng Yên. Cuộc kinh lý bị bỏ dở. Hai linh mục Việt Nam cùng đi với Ðức Cha bị bắt. Ðức Cha thoát nạn nhưng về bị sốt rét nặng một thời gian. Hai năm sau, Ðức Cha Marti Gia lâm bệnh nặng và qua đời tại Hương Cảng ngày 26.4.1852. Thế là Ðức Cha An phải đến ở toà giám mục Bùi Chu để điều khiển công việc giáo phận mà mũi nhọn là công cuộc truyền giáo. Số người được chịu phép rửa tội năm 1852 lên tới 28.355 người. Ðức Cha An viết: "Ðó quả là phần thưởng đầy khích lệ để các nhà truyền giáo tiếp tục trách nhiệm tông đồ bất chấp âm mưu của thần dữ. Không nản lòng trước những cơ cực thiếu thốn, trước nguy hiểm vây quanh và những nghịch cảnh có thể xảy đến..."
Xảy ra là từ năm 1854, tại miền Bắc có giặc châu chấu của Lê Duy Cự và Cao Bá Quát. Họ kêu gọi người công giáo tham gia nhưng Ðức Cha An lên tiếng cấm bổn đạo không được chống lại chính quyền hợp pháp. Do đó các quan chức địa phương cũng nới tay trong việc thi hành sắc lệnh cấm đạo của nhà vua. Tổng đốc Nguyễn Ðình Tuân biết chính xác trụ sở toà giám mục Bùi Chu nhưng vẫn làm ngơ. Ông còn hứa nếu bất đắc dĩ phải sai quân truy nã thì ông sai người báo trước.
Không may khi ấy có quan thượng thư từ kinh đô về Nam Ðịnh nhằm lúc có người làng Thoại Miên là Chánh Mẹo, lên tỉnh tố cáo rằng có đạo trưởng Tây tên An ở Bùi Chu. Quan Tổng đốc buộc lòng phải ra lệnh truy bắt nhưng cũng cho người đi báo tin cho toà giám mục. Tiếc rằng tin đến nơi thì Ðức Cha An đã bị bắt. Khi lính đến bao vây, Ðức Cha chạy đi ẩn náu liên tiếp ở bốn nơi. Nơi cuối cùng ở giữa bụi tre khá kín. Nhưng đúng lúc Ðức Cha ngó đầu ra để xem lính đã đi chưa thì bị phát hiện và bị bắt.
Ðức Cha An bị giải về Nam Ðịnh và bị biệt giam hai tháng trước khi có án tử hình từ kinh đô truyền chém đầu Tây dương đạo trưởng tên An. Nhưng Ðức Cha An đã không bị cưỡng bức chịu tử hình. Ngài đã vui mừng đón nhận cái chết tử đạo vì yêu mến Ðức Giêsu vị Mục Tử nhân lành. Do đó ngài đã xin được chém ba nhát mà nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của ngài để họ bền chí trong đức tin, theo gương vị chủ chăn của mình.
Cuộc đời tông đồ và cái chết tử đạo của Ðức Cha An được kể vì gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của Mười Hai Tông Ðồ xưa. Mỗi giám mục đều là người kế vị các tông đồ của Ðức Giêsu. Chính Người gọi từng người môn đệ (Mc 1,16-20). Từ số các môn đệ ấy, Người tuyển chọn Nhóm Mười Hai (3,13-19) để Nhóm này ở lại bên Người hầu được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để họ trở nên những người được Ðức Giêsu sai đi như ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay (6,7-13). Họ có sứ mạng khử trừ các thần ô uế (c.7), đó là điều chính yếu. Nhưng họ còn được hướng dẫn về cách ăn vận, về đồ vật nào được mang theo, về nơi nào nên ở lại, về cách xử trí khi bị khước từ Ðiều quan trọng là họ phải trở nên nhẹ nhàng cho việc di chuyển và phải đặt mình dưới sự săn sóc của Thiên Chúa.
Ðiều mà Tin Mừng Máccô gợi ý đối với các Kitô hữu xưa cũng như nay là chính họ cũng cần ở lại bên Ðức Giêsu để được Người huấn luyện. Ðức Giêsu hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi vẫn là một (Dt 13,8). Chính Người đứng đầu Giáo Hội. Người điều khiển mọi người nhờ Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh là Ðấng làm vang lên tiếng gọi của Ðức Giêsu nơi những tâm hồn quảng đại. Chúa Thánh Linh cũng là Ðấng làm cho cuộc huấn luyện các môn đệ vẫn còn tiếp tục trong Giáo Hội. Thư Do Thái nói rõ tính chất của cuộc huấn luyện đó khi nói "Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo của anh em, họ là những người làm cho anh em được nghe lời của Thiên Chúa và hãy xem cuộc đời của họ kết thúc như thế nào, để noi theo lòng tin của họ" (Dt 13,7).
Vậy bài Tin Mừng hôm nay đi đôi với cái chết tử đạo của các thánh tông đồ cũng như của các vị kế nghiệp Nhóm Mười Hai như trường hợp Ðức Cha An, phải trở nên sức mạnh củng cố ta trong đức tin và thăng tiến ta trong đức ái nhằm vinh danh Chúa hơn. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
6. Chuyện minh họa
a/ Ðóng góp
Một vị Thị trưởng mở một Lễ hội lớn và mời mọi thị dân đến dự. Phần thức ăn thì vị Thị Trưởng hứa cung cấp đầy đủ. Phần rượu thì ông kêu gọi mỗi người khi đến dự hãy mang theo một chai, đến đổ vào một thùng rất lớn rồi mọi người sẽ uống chung.
Tới ngày Lễ hội, ai nấy đều mang chai rượu mình đến đổ vào thùng. Khi mọi người đổ xong, vị Thị trưởng cầm ly đến múc từ trong thùng ra, rồi nâng ly tuyên bố "Lễ Hội chính thức bắt đầu".
Tuy nhiên khi ông Thị Trưởng uống, thì ôi thôi chỉ toàn là nước! Bởi vì ai cũng nghĩ rằng người ta sẽ mang rượu thật đổ vào đấy, chỉ một chai nước của mình thì có làm loãng bao nhiêu đâu! Thế là Lễ Hội thất bại thê thảm, chỉ vì sự tiêu cực và ích kỷ của thị dân.
Chúa mời gọi chúng ta cộng tác vào công trình của Ngài. Chúng ta hãy là những người tích cực chứ đừng tiêu cực như những thị dân trong chuyện trên. Chúng ta đừng chỉ biết nhận mà cũng hãy biết cho.
b/ Trang bị đầy đủ
Một chàng hiệp sĩ chuẩn bị làm một chuyến viễn du. Chàng tính trước tất cả mọi tình huống có thể xảy ra, để trang bị tất cả những điều cần thiết để đối phó.
Chàng mang theo một thanh gươm và một bộ áo giáp để sẵn sàng chiến đấu với quân thù. Chàng mang thêm một bình dầu chống nắng để thoa lên da phòng khi phải đi giữa trời trưa nắng gắt. Lại mang thêm một cái rìu để đốn củi đốt lên phòng lúc đi lạc ban đêm trong rừng. Chàng còn mang thêm một cái lều và rất nhiều chăn mền phòng khi gặp tiết trời trở lạnh. Lại có cả nồi niêu xoong chão để nấu nướng kẻo có lúc không gặp được quán ăn. Và chàng cũng không quên chở theo mấy bao ngũ cốc cho con ngựa vì sợ dọc đường không mua được. Và với những hành trang rất đầy đủ đó, chàng bắt đầu lên đường.
Nhưng mới đi được một khoảng thì gặp một chiếc cầu cũ kỹ lung lay. Chàng mới đi được đến giữa cầu thì chiếc cầu gãy sụp vì không chịu nổi sức nặng của mớ hành lý. Thế là anh chàng hiệp sĩ chết đuối mà không hoàn thành được cuộc hành trình đã dự định.
Khi Ðức Giêsu sai 12 tông đồ ra đi truyền giáo, Ngài căn dặn họ một mặt đừng mang nhiều hành trang, mặt khác hãy phó thác cho Chúa Quan Phòng. Muốn hành trình đi xa thì hành trang phải nhẹ nhàng. Tuy nhiên ra đi với hành trang nhẹ nhàng đòi hỏi phải có đức tin vững chắc.
c/ Chúng ta là công cụ của Chúa
Một ngày mùa đông, một người bộ hành bắt gặp một cậu bé đang ngồi ăn xin ở dạ cầu. Cậu bé vừa lạnh run vừa rất đói. Người bộ hành cảm thấy bất nhẫn nên nói với Chúa:
- Thưa Chúa, sao Chúa không làm gì hết để giúp cậu bé này?
Chúa đáp:
- Ta đã làm rồi chứ.
Người bộ hành rất ngạc nhiên trước câu trả lời ấy nên vặn lại:
- Nhưng dù Chúa có làm gì đi nữa thì xem ra chẳng có hiệu quả gì cả.
- Ta đồng ý.
- Nhân tiện, xin mạo muội hỏi Chúa một câu nữa: Chúa đã làm gì nào?
- Thì Ta đã tạo dựng nên con đó.
Chúng ta là dụng cụ Chúa dùng để lo cho người khác, và chúng ta có trách nhiệm về hạnh phúc của người khác.
d/ Ánh sáng của Chúa
Ở thành phố Dallas, bang Texas Hoa Kỳ, có một cặp vợ chồng thất nghiệp hàng ngày đi lượm những lon bia và lon nước ngọt để bán lại kiếm tiền sinh sống. Một hôm, đang khi tìm kiếm trong những thùng rác, họ gặp được một cảnh rất đau lòng, đó là một đứa bé bị cha mẹ vất bỏ và đã chết trong thùng rác. Họ báo cảnh sát để tìm cha mẹ đứa bé. Nhưng chẳng tìm ra. Cũng chẳng ai đứng ra lo chôn cất đứa bé xấu số ấy. Thế là hai vợ chồng nghèo này quyết định làm việc đó. Họ lấy hết số tiền đang có để mua một chiếc quan tài nhỏ và một bó hoa, rồi đưa tiễn đứa bé tới nơi an nghỉ cuối cùng. Có thể nói, những giọt lệ của họ trước nấm mồ của đứa bé cũng thánh thiện như những giọt lệ Ðức Giêsu đã đổ ra trước nấm mồ của Ladarô.
Ðể trở thành ánh sáng tỏa chiếu trong thế giới tối tăm này, chúng ta không cần phải có nhiều tiền, mà chỉ cần có một tấm lòng biết hướng tới người khác.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã sai 12 tông đồ đi loan báo Tin mừng. Chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và Thêm sức nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cũng được sai đi để Tin mừng hóa anh chị em đồng bào chúng ta. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
1. Hội thánh có sứ vụ loan báo Tin mừng cho mọi dân tộc mút cùng trái đất / Xin cho các giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân trong Hội thánh luôn hăng say thi hành sứ vụ Chúa đã trao phó / dầu gặp thuận lợi hay bất cứ khó khăn nào.
2. Nhiều nhà cầm quyền trên thế giới còn hạn chế cấm đoán, và bách hại các sứ giả Tin mừng của Chúa / Xin cho họ biết dẹp bỏ mọi thành kiến sai lầm / vì việc Tin mừng hóa chỉ nhằm mục đích đem lại hạnh phúc thật cho con người.
3. Chung quanh chúng ta còn rất nhiều người chưa biết Tin mừng của Chúa / còn sống trong mê tín dị đoan hoặc nô lệ vật chất / Xin cho họ sớm được nghe biết Tin mừng giải phóng của Chúa.
4. Nhiều giáo hữu trong họ đạo chúng ta còn dửng dưng và chẳng quan tâm gì đến nhiệm vụ truyền giáo / Xin Chúa cho họ biết cầu nguyện và góp công góp của cho việc truyền giáo của Hội thánh.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho mọi Kitô hữu chúng con biết nghe theo lệnh truyền của Chúa, để sẵn sàng cộng tác bằng bất cứ cách nào có thể, cho mọi người được nghe biết và đón nhận Tin mừng của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Kitô Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi cùng với Ðức Giêsu dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha trên trời, chúng ta hãy đặc biệt xin cho Nước Cha trị đến.
VII. Giải tán
- Thánh lễ đã xong. Ðây là lúc Chúa sai chúng ta đi. Chúng ta hãy mang tinh thần Tin Mừng của Chúa đến cho tất cả mọi người chúng ta sẽ gặp gỡ trong tuần này.
Trong Chúa Nhật vừa qua, chúng ta đã nghe Lời Chúa phác hoạ cho chúng ta chân dung vị ngôn sứ của Thiên Chúa, và đó cũng chính là hình ảnh đích thực của một người tông đồ của Đức Kitô. Vị ngôn sứ, hay người tông đồ, tất cả đều có một điểm chung, đó là người được chính Thiên Chúa chọn gọi và sai đi làm sứ giả cho Ngài. Tiếp tục tư tưởng đó, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết đâu là hành trang của người tông đồ khi thi hành sứ vụ được sai đi.
1. Một gói hành trang với những chữ “không”:
Chắc chúng ta còn nhớ kết thúc bài Tin Mừng Chúa Nhật vừa qua, thánh sử Marcô cho biết bởi vì những người đồng hương Nazareth cứng tin, không nhận ra Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, nên “Đức Giêsu đã rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy” (Mc 6, 6). Trong cuộc hành trình rao giảng mới này, Đức Giêsu đã không làm một mình, Ngài đã tập hợp các môn đệ lại và bắt đầu “sai từng hai người đi”, để họ cùng cộng tác với Người trong công cuộc rao giảng Tin Mừng. Và cũng giống như bất cứ vị “Sư phụ” nào khác, trước khi cho các đệ tử của mình “xuất sơn”, “xuống núi”, Đức Giêsu cũng có những dặn dò, và chuẩn bị cho các đệ tử thân yêu của mình. Tuy nhiên, lắng nghe lại những lời dặn dò của vị Thầy Giêsu, chúng ta sẽ không khỏi ngạc nhiên, bởi lẽ không giống với những vị Sư phụ khác thường trang bị cho các đệ tử của mình một ít tiền lộ phí, một thanh kiếm, một pho bí kíp võ công hay một cuốn cẩm nang để mở ra khi gặp nguy hiểm, còn Đức Giêsu khi sai các môn đệ của mình lên đường thì đã giao cho các ông một gói hành trang chỉ gồm những chữ “không” và chữ “đừng”: “Đừng mang gì, …, không mang bị, mang bánh, không mang tiền trong túi, …, đừng mặc hai áo”. Đây quả là một gói hành trang dị thường, một lời khuyên nghịch lý, trái với suy nghĩ khôn ngoan tự nhiên của từng người chúng ta.
Và không chỉ các tông đồ thời Chúa Giêsu, ngay cả ngôn sứ Amos thời Cựu Ước cũng thế, từ một người chăn chiên ở miền Nam - Giuđa, ông đã được Thiên Chúa sai đến miền Bắc - Israel để làm ngôn sứ cho Ngài. Ông phải ra đi thi hành sứ vụ với hai bàn tay trắng trước một sức mạnh to lớn của các vua chúa và các tư tế ở Bethel. Chính vị tư tế Amasia ở Bêthel đã cho ngôn sứ Amos thấy rõ cái “không” của ông khi nói đến những cái “có” của các quyền lực thế trần. Ông nói với vị ngôn sứ: “Chớ nói tiên tri ở Bêthel, vì đó là thánh điện của vua, và là đền thờ của vương quốc”. “Thánh điện của vua” chính là sức mạnh của quyền lực chính trị; còn “đền thờ của vương quốc” chính là sức mạnh của thần quyền lúc bấy giờ. Tất cả những sức mạnh đó đã sẵn sàng để chống lại sứ mạng của vị ngôn sứ.
Không tiền bạc, không bị gậy, không bánh ăn cũng chính là hành trang của Đức Giêsu khi Ngài Nhập Thể làm người ở giữa chúng ta. Mặc dù là Thiên Chúa giàu có vô biên, với một quyền năng và danh dự tuyệt đối. Thế nhưng Ngôi Lời Thiên Chúa đã đến trần gian với hai bàn tay trắng, trong nơi ở của súc vật. Quả thật, hành trang của Ngài đem vào trần gian, chỉ có một chữ “không”: Không nhà trọ, không tiện nghi, không bạn bè, không quyền lực thế trần … Và sau này, trong cuộc đời rao giảng công khai của Ngài, hành trang của Đức Giêsu cũng vẫn như thế, chẳng có gì thay đổi: “Chồn có hang, chim trời có tổ, chứ Con Người không có chỗ dựa đầu” (Mt 8, 20).
Nhưng không chỉ là “không”, người của Thiên Chúa cũng có cái “có”. Đối với vị ngôn sứ thì cái “có” duy nhất của ngài, đó là xác tín “Khi tôi đang chăn chiên, thì Chúa dẫn tôi đi và nói cùng tôi rằng: “Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta””. Còn đối với các tông đồ, thì đó chính là “quyền trên các thần ô uế”. Thế nhưng, thực chất quyền này cũng không phải của các ông mà là của Chúa Giêsu ban cho.
Như thế, khi ra lệnh cho người tông đồ: “Đừng mang gì, …, không mang bị, mang bánh, không mang tiền trong túi, …, đừng mặc hai áo”, Đức Giêsu chỉ muốn nhắc bảo các ông đừng quá gắn bó vào những cái trước mắt, nhưng hãy can đảm phó thác vào Chúa, để Ngài dẫn đi, như Ngài đã từng dẫn ngôn sứ Amos. Chúa muốn các ông không bị cái vòng luẩn quẩn: Danh - Lợi - Thú đè bẹp, nhưng được nhẹ nhàng để chu toàn sứ vụ. Hành trang của người tông đồ phải là “không” đối với mình, để có thể đổ đầy cái “có” là ân sủng của Thiên Chúa. Và từ cái “có” sung mãn nhận được từ nơi Thiên Chúa đó, Ngài muốn chúng ta trao ban lại cho anh em mình.
2. Và một sứ mạng trao ban thật nhiều:
Tuy hành trang của Đức Giêsu chỉ có một chữ “không”, nhưng Ngài lại có khả năng trao ban thật nhiều cho những ai đón nhận Ngài. Đến với Ngài, không những chúng ta chỉ nhận được sự giàu sang “nay còn mai mất”, hay một sắc đẹp “sớm nở chiều tàn”, nhưng là một sự sống vĩnh cửu, sự sống của Thiên Chúa, như lời khẳng định của thánh sử Gioan mà chúng ta vừa nghe trong câu xướng trước bài Tin mừng: “Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa”. Tuy nhiên, quyền được làm con Thiên Chúa là một vinh dự không do bởi công trạng của chúng ta, nhưng là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban nhờ Đức Kitô, như xác quyết của thánh Phaolô mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai: “Thiên Chúa đã chọn chúng ta trong Đức Kitô trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta được nên thánh thiện và tinh tuyền … Chiếu theo thánh ý Ngài, Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Đức Giêsu Kitô”.
Và để mọi người có thể tiếp rước Đức Giêsu và nhận được quyền làm con Thiên Chúa, Đức Giêsu đã ra lệnh cho các tông đồ và cả từng người chúng ta phải đi “Rao giảng sự thống hối … trừ quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân” nữa. Điều này quả thật là quá sức của một người tông đồ với gói hành trang chỉ là những chữ “không”. Nhưng chính điều đó, lại cho thấy kết quả những hành động của các tông đồ, không phải của các ông, nhưng là của chính Chúa, vì các ông chỉ có cái “không”. Nhận được sức mạnh của Thiên Chúa, các tông đồ không những có sứ mạng mà còn đủ sức đẩy lùi sức mạnh của các thế lực của sự dữ. Mà bước đầu tiên của tiến trình chiến đấu chống lại sự dữ là kêu gọi người ta sám hối, nghĩa là giúp mọi người nhận ra lỗi lầm của mình và quay lại với Thiên Chúa. Kế đó, là “trừ quỷ”, nghĩa là can đảm dứt khoát với những gì là tối tăm mờ ám, để có thể sống như con cái của sự sáng.
Lắng nghe Lời Chúa hôm nay, chớ gì hành trang của từng người chúng ta cũng là những chữ “không” và chữ “đừng” như lời dạy của Đức Giêsu đối với các môn đệ khi xưa. Chúng ta “không mang theo mình cái bị giận dữ, căm hờn; không mang trong túi của mình những tiền của bất công, gian dối; cũng đừng mặc hai áo”, nghĩa là luôn sống thành thật với chính mình và mọi người trước mặt Thiên Chúa, không nói hành, nói xấu sau lưng người khác. Đồng thời, chúng ta cũng cần luôn ý thức rằng mọi điều chúng ta có, mọi việc chúng ta thực hiện thành công, tất cả đều là bởi ơn Chúa ban cho, còn chúng ta chỉ là người quản lý. Sống được như vậy, chúng ta mới xứng đáng là tông đồ của Đức Kitô. Amen.
Ra đi như các tông đồ, từ bỏ nghề nghiệp, từ bỏ quê hương, từ bỏ những người thân yêu và ra đi như thế có nghĩa là hy sinh.
Ra đi như các tu sĩ, từ bỏ gia đình, từ bỏ bè bạn. Và ra đi như thế cũng có nghĩa là hy sinh.
Hễ đã muốn hiến thân theo đuổi một sự nghiệp trong đạo, thì phải bằng cách này hay cách khác, chấp nhận từ bỏ và hy sinh.
Nhưng từ bỏ những cái bên ngoài mà thôi thì vẫn chưa phải là ra đi đích thực. Ra đi đích thực chính là từ bỏ bản thân, từ bỏ những tập quán và những ý riêng tư để tin vào giá trị vô song của nước trời, một vương quốc mà chúng ta phải hy sinh tất cả để xây dựng. Chấp nhận ra đi, chúng ta sẽ rao giảng, sẽ nhắc lại lời Ngài đã nói:
- Nước trời đã gần.
Đó là tất cả những gì chúng ta phải rao truyền cho các tâm hồn.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy còn quá nhiều người chưa nhận biết nước Chúa. Ngày nay cũng chẳng hơn gì ngày xưa, vì nhân loại luôn đợi chờ một cái gì khác nữa.
Vào thời Chúa Giêsu, người ta mong đợi Thiên Chúa sẽ can thiệp, sẽ làm một phép lạ để đánh đuổi binh đội Rôma, biến nước Israel thành một địa đàng mới, đầy đủ mọi vinh quang. Ngày nay người ta cũng mơ ước như thế. Nhưng khốn nỗi là họ không mong đợi ở Thiên Chúa mà lại mong đỡi ở tài năng con người như khoa học, kỹ thuật. Họ tin tưởng ở quyền lực và tổ chức con người để rồi loại trừ Thiên Chúa. Dĩ nhiên không phải là tất cả, vì còn có những người biết suy nghĩ cách sâu xa hơn, để rồi nghiêng mình suy tôn Thiên Chúa…
Nhưng xét cho cùng, vẫn còn biết bao nhiêu sự phủ nhận về nhiều phương diện, hoặc công khai ngoài xã hội, hoặc âm thầm trong đời sống riêng tư.
Sở dĩ như vậy, vì Chúa Giêsu đã rao giảng một nước trời hoàn toàn khác biệt với mộng ước của người Do Thái, một vương quốc thiêng liêng được thiết lập trong tâm hồn người đón nhận.
Chúng ta cũng phải rao giảng như thế, mặc dù có trái với mộng ước của thời đại. Chúng ta phải chèo ngược dòng nước đang cuốn trôi nhân loại.
Như các tông đồ, chúng ta hãy nhắc lại lời Chúa:
- Nước trời đã gần, và đang ở trong tâm hồn những người thiện chí.
Mọi Kitô hữu đều có bổn phận rao giảng lời Chúa, nhưng rao giảng bằng cách nào ? Trước hết, rao giảng bằng lời cầu nguyện.
Đây là cách rao giảng tốt nhất mà mọi người đều có thể áp dụng. Thánh nữ Têrêxa với 24 tuổi đời trong bốn bức tường tu viện, đã được Giáo hội đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo, phải chăng là nhờ lời cầu nguyện của thánh nữ mà biết bao tâm hồn được ơn ăn năn sám hối.
Tiếp đến là rao giảng bằng gương sáng, bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Các tu sĩ Phanxicô đầu tiên đã áp dụng phương cách này. Họ rao giảng bằng cách sống Phúc âm, thực hiện sự khó nghèo giữa một thế giới đang chạy theo giàu sang, kể cả những người con của Chúa. Họ sống khó nghèo nhưng trên khuôn mặt luôn phản chiếu niềm vui của thiên đàng, và đó là một bài giảng hùng hồn nhất. Bài giảng sẽ vô ích nếu người giảng không sống lời mình giảng, Trái lại, khi đã sống một cách gương mẫu thì bài giảng hoàn tất. Một khi đã sống thánh thiện và làm gương cho người khác, chúng ta có thể rao giảng bằng lời nói, đó là cách thức thứ ba.
Nói càng ít càng tốt, nhưng phải nói những lời xuất phát từ một tâm hồn thánh thiện, những lời được Chúa soi sáng, vì như lời thánh Phaolô: Muốn tin thì phải được nghe biết, muốn nghe biết thì phải có người nói tới. Chúng ta cũng đừng quên rằng đời sống càng thánh thiện thì lời giảng càng hiệu lực.
Sau cùng, rao giảng bằng cách làm tròn bổn phận.
Thực vậy, địa vị nào cũng có thể là một bài giảng sống động, bổn phận nào cũng có thể là một lời kinh, nếu chúng ta biết thánh hóa, hoàn cảnh nào cũng có thể giúp chúng ta nên chứng tá cho Chúa ngay giữa lòng cuộc đời của mình.
Ai đi xa cũng phải chuẩn bị hành trang. Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều. Chuyến: TN15-B45 FB
Ai đi xa cũng phải chuẩn bị hành trang. Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều. Chuyến đi càng quan trọng thì hành trang càng phải chọn lựa, tính toán. Hôm nay Đức Giêsu sai các môn đệ đi một chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin Mừng đến khắp các làng mạc xa xôi. Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này, Đức Giêsu đã giúp các môn đệ sắp xếp hành trang. Sau khi đã loại bỏ những loại hành trang cồng kềnh không cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ những hành trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ tông đồ.
Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời gian sống bên cạnh Người. Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người. Đây chính là hành trang quan trọng nhất. Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng sai mình. Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là chìa khóa thành công của sứ vụ. Đức Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn bó mật thiết với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.
Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác. Khi chỉ thị cho các môn đệ “không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy ; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo”, Đức Giêsu muốn các ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa. Tiền của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là nhờ tài sức riêng mình. Vì thế, dễ tha hóa, làm theo ý mình hơn là làm theo ý Chúa, sắp đặt chương trình cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa. Nghèo khó sẽ giúp người môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của mình. Ý thức đó sẽ giúp người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho Chúa. Tôi chỉ là hư vô, là cát bụi. Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa. Những thành công do tài sức con người sẽ mau tàn. Chỉ có công trình của Chúa mới bền vững. Vì thế đơn sơ phó thác là một hành trang rất cần thiết cho người môn đệ. Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.
Hành trang của người môn đệ là tình liên đới. Đức Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người một. Người biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ mới hoàn thành sứ mạng. Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục. Cần có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể lời chứng mới thực đáng tin. Hơn nữa, Đức Giêsu không sai các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng sai các ngài đến với con người. Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi người giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ. Phải liên đới với con người. Tình liên đới không những cần thiết để giúp các ngài thi hành nhiệm vụ mà còn là một cách làm việc tông đồ một cách hữu hiệu. Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.
Hành trang của người môn đệ là trái tim biết cảm thương. Đức Giêsu sai các môn đệ đến với những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, bị quỷ ma hành hạ. Tức là đến với những người kém may mắn ở đời. Những người nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội bỏ quên. Để đến với những người anh em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim biết cảm thương. Các ngài phải mang trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất tưởi, túng thiếu, đói khát. Phải sẵn sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con chiên lạc. Phải mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang đàng trở về. Phải sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng hối cải ăn năn.
Mỗi người chúng ta đều là môn đệ của Chúa. Khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng của Người. Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa Nam rất tích cực trong việc tông đồ. Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn, không biết làm sao để việc tông đồ có kết quả tốt đẹp. Hôm nay, Đức Giêsu cho ta biết, muốn việc tông đồ có kết quả, ta phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó thác mọi sự cho Chúa, đồng thời phải có tình liên đới và nhất là phải biết cảm thương anh chị em đồng loại. Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Một tình yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong tình yêu mến. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của Chúa. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Chúa sai bạn đi làm tông đồ cho Chúa, bạn có cảm thấy điều đó không?
2) Mỗi khi đi làm việc tông đồ, bạn thường chuẩn bị những loại hành trang nào, những hành trang bạn quan tâm có giống những hành trang Chúa chuẩn bị cho các môn đệ không?
3) Theo bạn, đâu là phương thế hữu hiệu nhất làm cho những người chung quanh nhận biết Chúa?
4) Đâu là những hành trang cần thiết của người môn đệ của Chúa?
Chúa Giêsu mở rộng hoạt động của Người bằng cách sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng: TN15-B46
Chúa Giêsu mở rộng hoạt động của Người bằng cách sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng. “Nhóm Mười Hai” là một nhóm nhỏ các môn đệ, còn được gọi là các tông đồ. Chúa Giêsu đã tuyển chọn để sai đi rao giảng. Họ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu và thúc giục người ta hoán cải cuộc sống, để có thể đón nhận Nước Thiên Chúa đang đến qua con người của Chúa Giêsu.
Qua trình thuật của Tin Mừng, chúng ta thoáng thấy những qui luật truyền giáo của Hội Thánh tiên khởi. Hoạt động truyền giáo của Giáo hội được trình bày như là tiếp nối sứ vụ mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho các tông đồ. Các nhà thừa sai rao giảng bằng lời nói và các hoạt động bác ái. Như vậy, Tin Mừng được chứng minh là công trình của Thiên Chúa nhằm cứu độ những người có lòng tin.
Các giáo phụ luôn luôn nhắc nhở các tín hữu như sau: “Chúa Kitô tiếp tục hoạt động trong các bí tích. Khi vị linh mục làm phép Thánh Tẩy, đó là chính Chúa Kitô thanh tẩy chúng ta. Khi Đức Giám mục ban phép Thêm sức, đó là chính Chúa Kitô tăng sức mạnh cho chúng ta. Khi linh mục ban phép Giải tội, đó là chính Chúa Kitô tha tội cho chúng ta. Các thừa tác viên là những người tiếp nối công trình của Chúa Kitô. Công việc của các ngài là chính hoạt động cứu độ của Chúa Kitô”.
Những thành viên của phong trào Cursillo đã vẽ một bức tranh Chúa Kitô không có tay chân. Mỗi một thành viên của phong trào Cursillo được yêu cầu trở thành tay chân của Chúa Kitô, tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Kitô trong hiện tại. Nếu bức tranh đó mô tả nhiệm vụ của các thành viên trong phong trào Cursillo, thì điều đó càng đúng hơn cho các thừa tác viên trong Giáo hội. Họ tiếp tục công việc “rao giảng lòng thống hối, từ bỏ tội lỗi, xức dầu cho các bệnh nhân và chữa lành cho nhiều người”.
Trở thành một thừa tác viên của Chúa Kitô là một ơn gọi cao quý, nhưng cũng là một ân huệ. Không ai được tự cho mình có ơn gọi đó. Người ta phải cầu nguyện, suy nghĩ và chuẩn bị chu đáo cho ơn gọi đó. Nhiều người được gọi nhưng ít kẻ được chọn. Người ta phải sống gắn bó chặt chẽ với Chúa Kitô, theo sát Chúa Kitô và sống cho Người. Bất cứ một do dự, một nghi ngờ nào về sự trung tín của Thiên Chúa cũng là một sự phản bội. Nếu có một sự bất trung nào thì người ta sẽ thấy đó là do lỗi của chính mình, bởi vì Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi những ai chân thành tìm kiếm và bước theo Người.
Lạy Chúa, xin Chúa cho các bậc làm cha mẹ biết quảng đại dâng hiến con mình trong cuộc sống tận hiến cho việc phụng sự Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con những linh mục thánh thiện như lòng Chúa mong ước.
Tất cả những người đi tu, nhất là để làm linh mục, thường được kêu gọi hai lần: lần thứ nhất: TN15-B47
Tất cả những người đi tu, nhất là để làm linh mục, thường được kêu gọi hai lần: lần thứ nhất, Chúa kêu gọi âm thầm trong lòng mỗi người bằng những ước muốn, yêu thích và qua những biến cố do Chúa quan phòng xếp đặt để hướng dẫn đương sự tới nơi tu trì hay tới bàn thờ. Lần thứ hai, Chúa kêu gọi qua sự tuyển chọn và kêu gọi của bề trên hay Đức giám mục.
Chúa Giêsu cũng đã hành động như thế trong việc kêu gọi các tông đồ, các môn đệ đầu tiên của Ngài. Chúa kêu gọi họ ngay khi bắt đầu sứ vụ công khai truyền giảng Tin Mừng. Ngài đã kêu gọi từng người một trong nhiều hoàn cảnh khác nhau: người thì đang vá lưới, kẻ gặp ở giữa đường, người khác đang ngồi thu thuế… Rồi Ngài qui tụ họ lại cho ở luôn bên cạnh Ngài, huấn luyện, dạy dỗ, cho chứng kiến những phép lạ, các công việc Ngài làm, nghe Ngài giảng dạy dân chúng, thấy gương sáng của Ngài. Giờ đây, muốn sai họ đi truyền giảng Tin Mừng, Ngài lại chính thức gọi họ một lần nữa như bài Tin Mừng kể lại. Sở dĩ Chúa làm như vậy là để cho họ thấy rằng: việc trở thành tông đồ, và linh mục hay cả tu sĩ ngày nay, không phải là sáng kiến của cá nhân họ, nhưng là ơn thiên triệu Chúa ban, là một thứ đoàn sủng.
Trước khi sai các tông đồ đi truyền giảng, Chúa Giêsu đã căn dặn họ nhiều điều. Những điều này được coi là khuôn mẫu, là bộ luật chỉ đạo cho các chiến sĩ truyền giáo. Chúng ta thấy Chúa không bảo họ phải giảng gì và giảng như thế nào, nhưng phải ăn mặc thế nào, mang những gì, sinh sống đối xử làm sao với những người mà họ tiếp xúc, đồng thời dùng quyền năng Chúa ban mà trừ quỷ và chữa bệnh.
Có thể nói: Chúa không dạy các ông phải rao giảng bằng những bài giảng thuyết tràng giang đại hải hay bằng những lý luận đanh thép, khôn ngoan, thông thái nhằm thuyết phục mọi người, nhưng Chúa bảo các ông phải giảng bằng chứng tích, tức là bằng chính đời sống của họ. Còn những điều các ông phải nói, phải giảng, tóm lại vỏn vẹn có hai hay ba điều: chúc bình an – báo tin Nước Trời đã đến hay đã gần – và thúc giục người ta ăn năn hối cải. Nghĩa là Chúa muốn các môn đệ của Chúa nói ít và làm nhiều, dĩ nhiên Chúa không cấm họ kể lại cho mọi người tất cả những giáo huấn mà họ đã được nghe.
Đối với chúng ta hôm nay, Chúa cũng kêu gọi và sai chúng ta đi truyền giảng Nước Thiên Chúa. Bởi vì mỗi người chúng ta khi đã lãnh bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta đều được kêu gọi và sai đi rao giảng: Có người bằng lời nói, nhưng tất cả đều bằng việc làm, tức là bằng đời sống, bằng hành động gương mẫu tốt lành. Nghĩa là tất cả chúng ta đều phải là chứng nhân của Chúa và của Nước Trời, không ai được chuẩn chước, cho dù là một bệnh nhân bất toại nằm trên giường cũng thế.
Rao giảng bằng lời nói của các chiến sĩ Phúc âm, của các vị thừa sai, của các linh mục… cũng rất cần thiết, nhưng với điều kiện là phải đi đôi với bằng chứng đời sống của chính các ngài, nếu không lời nói của các ngài chỉ là tiếng thanh la não bạt rộn ràng. Ngược lại, việc rao giảng bằng đời sống, tự nó có năng lực thuyết phục người ta chấp nhận chân lý mà không cần lời nói, tuy rằng lời giảng vẫn có thể bổ túc một cách hữu hiệu. Chúng ta vẫn nói hay nghe người khác nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, lời nói mới chỉ làm lung lay lòng người, nhưng đời sống sẽ lôi kéo người ấy về hẳn phía mình.
Mỗi Kitô hữu, mỗi người Công giáo là một chứng nhân cho Chúa, cho đạo. Nếu chúng ta thiếu đời sống tốt lành, thiếu đời sống gương mẫu là chúng ta đã bỏ mất ơn thiên triệu làm chứng nhân và không thi hành đầy đủ sứ mệnh tông đồ của mình. Như vậy, cách rao giảng, cách làm chứng cho Chúa, cho đạo tốt nhất, hữu hiệu nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta. Nghĩa là làm bất cứ việc gì, ở đâu, với ai, chúng ta hãy để ý đối xử với họ thế nào để gây được thiện cảm cho đạo, dù đó chỉ là những cử chỉ nhỏ nhặt hay những câu nói buông trôi giữa trời, bởi vì chính những cử chỉ không tên tuổi, những câu nói giữa trời, những thái độ dường như vô tình ấy cũng rất có ảnh hưởng và có khi còn ảnh hưởng sâu xa nữa.
Phương ngôn Ả Rập có câu: “Nếu anh không làm được ngôi sao trên trời, anh hãy làm cái đèn trong nhà anh”. Nếu đa số chúng ta không có điều kiện để đi đây đó làm tông đồ, thì tất cả chúng ta đều có thể làm tông đồ bằng gương sáng. Làm gương sáng là một nhiệm vụ chính Chúa Giêsu đã truyền adỵ: “Các con là cái đèn sáng, sự sáng của các con phải tỏa chiếu trước người ta, để người ta thấy công việc của các con mà ngợi khen Cha trên trời”. Chúng ta làm tông đồ bằng cách gây ảnh hưởng tốt và gây ảnh hưởng bằng ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ… Vậy nếu một lời nói, một cử chỉ, một thái độ có thể ảnh hưởng đến người khác, thì phương chi một hành động, một công việc và nhất là một nếp sống. Làm gương sáng bằng hành động của chúng ta có sức lôi cuốn hơn những lời nói hoặc những bài giảng hay.
Gương sáng cụ thể nhất là những việc làm thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Có một người đàn bà kia đã khuyên đứa con cưng của bà như sau: “Con ơi, ngày con mới sinh, đôi mắt con vừa nhìn thấy ánh sáng, mọi người đều mỉm cười với con, mà con lại khóc. Con hãy sống thế nào để một ngày kia, đến giờ sau hết, mọi người đều tràn lệ mà con lại mỉm cười”. Sống thế nào để được như thế ? Chỉ có một cách duy nhất là gieo vào tâm hồn những người chung quanh một tình thương mến, để đến giờ cuối đó họ phải khóc vì thương tiếc, và chúng ta mỉm cười vì đã thực thi được tình người, muốn như vậy cần phải biết yêu thương và thể hiện tình yêu thương.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức nhiệm vụ tông đồ và cố gắng thực hiện bằng cách làm gương sáng và thể hiện tình yêu thương để danh Chúa được rạng sáng và nước Chúa được mở rộng.
Công Đồng Vatican II đã khẳng định: “Mọi lời giảng dạy trong Giáo Hội cũng như chính Đạo: TN15-B48
Công Đồng Vatican II đã khẳng định:
“Mọi lời giảng dạy trong Giáo Hội cũng như chính Đạo Thánh Chúa Ki-tô phải được Kinh Thánh nuôi dưỡng và hướng dẫn. Thực thế, trong các sách Thánh, Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ. Lời Chúa còn có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội (1).
Tin tưởng vào lời khẳng định trên của Công đồng chúng ta sẽ khám phá sự phong phú khôn lường của Lời Chúa trong ba bài Sách Thánh Chúa Nhật 15 Thường Niên Năm B. Đồng thời chúng ta biết mình phải sống như thế nào cho tròn vai là “con Thiên Chúa”, là “ngôn sứ” và là “người rao giảng” Tin Mừng Cứu độ của Thiên Chúa.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: Am 7,12-15: Xung đột với A-mát-gia. Ông A-mốt bị trục xuất khỏi Bết Ên.
12 Bấy giờ A-mát-gia nói với ông A-mốt: "Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! 13 Nhưng ở Bết Ên này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều." 14 Ông A-mốt trả lời ông A-mát-gia: "Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. 15 Chính ĐỨC CHÚA đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và ĐỨC CHÚA đã truyền cho tôi: "Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta."
(2) Bài đọc 2: Ep 1,3-14: Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa
3 Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. 4 Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. 5 Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Ki-tô, 6 để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. 7 Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người. 8 Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. 9 Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. 10 Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô. Cũng trong Đức Ki-tô, 11 Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, 12 để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Ki-tô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người. 13 Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Ki-tô, một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. 14 Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 6,7-13 Đức Giê-su sai Nhóm Mười Hai đi giảng (Mt 10, 5-15; Lc 9,1-6).
7 Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. 8 Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; 9 được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. 10 Người bảo các ông: "Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. 11 Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ." 12 Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. 13 Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Am 7,12-15) Nhờ lời giảng giải của ngôn sứ A-mốt với tư tế A-mát-gia mà chúng ta biết được tại sao A-mốt trở thành ngôn sứ: Chính Thiên Chúa đã chọn ông và - có thể nói là - “đã cưỡng bức” ông nói lời sấm ngôn cho dân Ít-ra-en, chứ bản thân ông không hề muốn làm công việc ấy chút nào. A-mốt không muốn làm ngôn sứ, có lẽ vì ông biết rõ mình không có tài ăn nói trước công chúng và quan quyền. Cũng có thể vì ông sợ bị chống đối và bách hại.
Nhưng ngôn sứ A-mốt đã hoàn thành nhiệm vụ và trở thành nổi tiếng trong hàng ngũ ngôn sứ, vì các sấm ngôn của ông “mang tính phê phán xã hội” (prophé-tisme critique) tức lên án những tình trạng bất công trong xã hội: kẻ giầu sang, quyền thế bóc lột và áp bức người nghèo hèn.
Qua A-mốt và các sấm ngôn của ông chúng ta khám phá ra một Đấng Thiên Chúa quan tâm và đặc biệt yêu thương người nghèo đến độ đứng về phía họ, bênh vực họ chống lại mọi áp bức, bóc lột từ những người có quyền chức. Đúng là “Thiên Chúa đứng về Phe Tả” như tựa đề của cuốn sách mà một Giám mục Italia đã viết cách đây vài chục năm (2).
(2) Bài đọc 2 (Ep 1,3-14) là một đoạn thư của Thánh Phao-lô gửi cho các tín hữu Ê-phê-sô trong đó Thánh Tông đồ nói về ơn gọi làm con và bao hồng ân cao quí khác mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trong Đức Kitô. Cùng với ơn làm nghĩa tử cao quí ấy, chúng ta còn được ơn nghe biết Tin Mừng Cứu độ và được Thánh Thần in dấu ấn để chúng ta được đảm bảo phần gia nghiệp của Thiên Chúa hứa ban cho dân riêng của Người.
Qua đoạn Thánh Thư này, chúng ta khám phá ra một Đấng Thiên Chúa vô cùng quảng đại và yêu thương đối với nhân loại nói chung và với Ki-tô hữu nói riêng vì Người đã ban muôn vàn hồng ân cao quý cho chúng ta qua và nơi Con Một yêu quý của Người là Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!
(3) Bài Tin Mừng (Mc 6,7-13) là tường thuật của Thánh Mác-cô về việc Chúa Giê-su sai Mười Hai Môn Đệ đi rao giảng Tin Mừng, trừ quỉ và chữa lành những người đau ốm bệnh tật và bị các thần ô uế ám hại. Các Môn Đệ còn được Chúa Giê-su căn dặn tỉ mỉ về hành trang phải mang theo, về cách ứng xử với mọi người khi được tiếp đón cũng như khi bị từ chối. Vâng theo chỉ thị của Thày các Tông Đồ gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp trong khi thi hành sứ vụ Chúa Giê-su trao phó.
Nhờ đoạn Phúc âm này, chúng ta khám phá ra Chúa Giê-su là Đấng giao sứ mạng rao giảng Tin Mừng và chữa lành cho các môn đệ. Sứ mạng này Người đã được Cha giao cho và nay Người giao lại cho tất cả các môn đệ, trong đó có mỗi người chúng ta. Để thực hiện thành công sứ mạng được giao, các môn đệ phải biết cậy trông vào Chúa và chỉ cậy trông vào một mình Chúa mà thôi.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta? Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: Vì Tình Yêu “nhưng không và quảng đại”,
Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô đã ban và giao cho chúng ta ơn gọi và sứ mạng làm con và làm ngôn sứ của Người, ơn gọi và sứ mạng làm người rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là:
(1) Mỗi Ki-tô hữu nhận thức được ơn gọi và sứ mạng của mình - là con Thiên Chúa, là kẻ nói Lời Thiên Chúa (như ngôn sứ A-mốt), rao giảng và chữa lành (như các Tông đồ) - mà có lời chúc tụng, ngợi khen, cảm tạ Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô.
(2) Mỗi Ki-tô hữu nhận thức được ơn gọi và sứ mạng của mình - là con Thiên Chúa, là kẻ nói Lời Thiên Chúa (như ngôn sứ A-mốt), rao giảng và chữa lành (như các Tông đồ) - mà tìm mọi cách thực thi sứ mạng ấy trong môi trường gia đình và xã hội của mình.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha yêu thương và nhân ái. Chúng con xin cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho mỗi người chúng con: ơn gọi và sứ mạng làm con, ơn gọi và sứ mạng làm ngôn sứ, ơn gọi và sứ mạng làm người rao giảng Tin Mừng Cứu độ của Cha.
Chúng con thấy vô cùng hổ thẹn vì chúng con chẳng những không chu toàn ơn gọi và sứ mạng cao quý mà Cha đã ban cho chúng con mà chúng con cũng chẳng có nhận thức đúng đắn về ơn gọi và sứ mạng cao quý ấy. Chúng con chỉ là những kẻ vô ơn và vô tình!
Xin Cha hãy nhận lấy tâm tình hổ thẹn của chúng con, như của lễ duy nhất mà chúng con có thể dâng lên Cha, cùng với của lễ toàn thiêu là Chúa Giê-su Ki-tô, Con Cha, Chúa chúng con. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Sàigòn ngày 09.07.2006 ------------------------------- Chú thích: (1) Hiến chế Mạc Khải “Lời Thiên Chúa”, 21. (2) Đó là Đức Cha Luigi Bettazzi, nguyên Giám Mục Ivrea (Italia).
Một trong những ưu tư lớn trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, đó là tìm những người cộng tác với mình trong công cuộc truyền bá Phúc âm, bởi vì Ngài luôn ý thức rằng: Lúa chín thì nhiều, mà thợ gặt thì ít. Chính vì thế Ngài đã kêu gọi và chọn lựa các môn đệ. Ngài đã để cho các ông sống bên cạnh mình và trực tiếp huấn luyện các ông, bằng cách để cho các ông được nghe những lời Ngài giảng, xem những việc Ngài làm. Và cắt nghĩa cho các ông những điều các ông chưa hiểu.
Rồi hôm nay, Ngài đã sai các ông đi để thực tập truyền giáo. Và trước khi các ông lên đường, Ngài đã căn dặn: Đừng mang theo bao bị, đừng mang theo cơm bánh, đừng mang theo tiền bạc và đừng mặc hai áo, nghĩa là Ngài bảo các ông phải ra đi trong một hoàn cảnh bấp bênh nhất, để tập trung vào việc rao giảng Tin Mừng, cũng như luôn phó thác vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa.
Lầm lỗi nặng nề nhất của người tông đồ hăng say và nhiệt thành, đó là họ quá cậy dựa vào tài năng riêng của mình mà quên mất tác động và sự trợ giúp của Chúa, bởi vì không có Chúa, chúng ta không thể làm được gì. Hay như lời thánh Phaolô xác quyết: Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng đem lại kết quả.
Đối với chúng ta cũng vậy, một khi đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức, chúng ta cũng được Chúa kêu mời cộng tác với Ngài trong công cuộc truyền bá đức tin, để rồi chúng ta cũng sẽ là những môn đệ của Ngài. Và cách thức để chúng ta thể hiện ơn gọi và sứ mạng của mình một cách hiệu quả nhất vẫn là đời sống gương mẫu của chúng ta.
Vì thế, sau khi công bố tám mối phúc thật, Chúa Giêsu đã truyền dạy: Các con là ánh sáng thế gian. Ánh sáng ấy phải chiếu dãi trước mặt thiên hạ, để mọi người nhìn thấy những công việc của các con mà ngợi khen Cha các con là Đấng ở trên trời.
Tục ngữ Việt Nam cũng bảo: Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo. Chính đời sống gương mẫu của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn có sức lôi cuốn và hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.
Tuy nhiên, nói tới việc tông đồ, nhiều người trong chúng ta vẫn cảm thấy xa lạ bởi vì họ cho rằng đó là bổn phận của giới tu hành, chứ không phải là bổn phận của họ, những người giáo dân sống giữa lòng đời. Đây là một quan niệm sai lạc, bởi vì đã là con cái Giáo Hội, chúng ta đều có bổn phận làm cho Giáo Hội được phát triển, được rộng mở, tùy theo hoàn cảnh và đấng bậc của mình.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại một mẩu chuyện cảm động như sau: Ngày kia có một thiếu phụ cùng tám đứa con đến gõ cửa xin gạo. Mẹ đích thân trao cho bà ta một bao. Bà nhận gạo rồi chia làm hai phần, Mẹ ngạc nhiên hỏi tại sao thì bà trả lời: Tôi dành một phần cho gia đình Hồi giáo bên cạnh vì đã mấy ngày qua, họ không có gì để ăn.
Người nghèo khổ nhất cũng có thể thực thi tinh thần chia sẻ huynh đệ, nghĩa là họ vẫn có thể làm việc tông đồ, làm sáng danh Chúa bằng chính đời sống của họ.
Khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng và chữa lành, Người ban cho họ một huấn lệnh bất thường: "Anh em đừng mang theo bất cứ gì."
Tại sao Chúa Giêsu lại bảo các môn đệ đừng mang theo bất cứ gì nhưng hãy đi xin?
Nếu sống trong thời đại ngày nay, liệu Chúa Giêsu có ban cho cùng một huấn lệnh ấy hay không?
Điều gì sẽ xảy ra nếu Người làm như vậy? Thiên hạ sẽ phản ứng ra sao nếu có một môn đệ gõ cửa và xin ăn?
Và ngay cả nếu người ta cho ăn ở đi nữa, làm thế nào môn đệ ấy có thể mời gọi chủ nhà hãy ăn năn sám hối và được chữa lành-tối thiểu là phần tinh thần?
Một vài năm trước đây, một linh mục trẻ tuổi dòng Tên, Richard Roos, cũng thắc mắc những câu hỏi trên. Người quyết định đi tìm câu trả lời.
Người được bề trên chấp thuận cho thực hiện 40 ngày Chay bằng cuộc hành hương đi bộ 800 dặm từ San Diego đến San Francisco. Các Kitô Hữu thời tiên khởi cũng hành hương với nhiều lý do-tỉ như, để bày tỏ sự tín thác vào Chúa, để thực sự tin tưởng vào lòng tốt của người dân, để cảm nghiệm thế nào là nghèo khổ.
Và vì thế người lên đường theo con đường truyền giáo xưa-bây giờ là xa lộ-của các thừa sai Tây Ban Nha đến truyền giáo tại California trong khoảng 1700.
Cha Roos đi bộ qua mưa nắng, gió to. Người tiếp tục đi, hết ngày này sang ngày nọ, bất kể đôi chân sưng vù và rướm máu-giống như các nhà thừa sai trước đây đã thi hành.
Tuy nhiên, có một sự khác biệt. Người chỉ xưng mình là một Kitô Hữu đang làm cuộc hành hương mùa Chay.
Người đã được câu trả lời gì cho những thắc mắc của người? Cha Roos viết:
Mỗi buổi chiều vào lúc hai hay ba giờ là tôi bắt đầu lo lắng không biết sẽ ngủ đêm như thế nào...
Và dĩ nhiên, tôi cảm thấy bất lực vì nghèo. Khi bạn phải gõ cửa từng nhà... và xin tá túc cũng như thực phẩm... bạn sẽ thấy mình thật khiêm tốn.
Bạn hoàn toàn trông nhờ vào người khác. Bạn không còn quyền lợi và sức lực gì.
Người ta phản ứng thế nào khi thấy Cha Roos? Người viết:
Tôi chưa bao giờ bị đối xử cách tệ hại hay thiếu tử tế. Những người tiếp đãi tôi đều là Kitô Hữu thuộc đủ mọi giáo phái và ngay cả những người không có tôn giáo gì cả. Tất cả đều bàng hoàng với ý nghĩa của cuộc hành hương.
Người kết thúc bài tường trình với một nhận xét không ngờ. Nó liên hệ trực tiếp đến cách người rao giảng Phúc Âm. Người viết:
Nói chung, tôi thấy rằng sự hiện diện của tôi và cuộc đối thoại đã đem đến cho họ cũng như kiên cường niềm hy vọng của họ vào Thiên Chúa và vào sự tốt lành của con người.
Tôi không quen biết với Cha Roos. Nhưng từ những gì người viết, tôi biết Cha Roos là một người siêng cầu nguyện với đức tin sâu đậm và tin tưởng mãnh liệt vào Thiên Chúa và vào con người.
Tôi nghĩ ngay ở đây chúng ta đã có câu trả lời về cách Cha Roos rao giảng Phúc Âm trong cuộc hành hương.
Người đã rao giảng bằng đức tin và gương mẫu của người. Chính đức tin này và gương mẫu này đã lộ ra khi người nói chuyện với dân chúng.
Nói cách khác, người không rao giảng Phúc Âm bằng lời. Người rao giảng bằng một phương cách mạnh mẽ hơn: bằng sự hiện diện, đức tin, và gương mẫu của người.
Một vài năm trước đây, một số Kitô Hữu trẻ tham dự một cuộc cắm trại quốc tế. Họ đến từ nhiều quốc gia trên thế giới. Một vấn đề được đặt ra cho họ là hãy nghĩ ra các phương cách hữu hiệu nhất để rao giảng Phúc Âm trong thế giới hiện đại ngày nay.
Sau khi các người trẻ nói về việc sử dụng đến truyền hình, truyền thanh, trình diễn nhạc kích động, và các đại siêu thị, một cô gái người Phi Châu đã đánh động tâm hồn mọi người khi cô nói:
Khi Kitô Hữu ở quê hương tôi nghĩ rằng một làng ngoại giáo nào đó sẵn sàng để theo đạo, họ không gửi sách vở hay các nhà truyền giáo. Họ gửi đến một gia đình Kitô Hữu tốt lành. Đời sống gương mẫu của gia đình này hoán cải cả làng.
Và điều đó đưa chúng ta đến việc áp dụng bài Phúc Âm hôm nay cho mỗi một người trong chúng ta ở đây.
Chúa Giêsu muốn chúng ta rao giảng Phúc Âm trong thế giới ngày nay. Người muốn chúng ta thi hành việc ấy giống như Cha Roos đã làm, nhưng với một ngoại lệ.
Người không muốn chúng ta thi hành điều đó trong một cuộc hành hương mùa Chay. Người muốn chúng ta thi hành điều đó ngay trong gia đình, nơi sở làm, và trong cộng đoàn chúng ta. Người muốn chúng ta thi hành điều đó theo phương cách mà cô gái Phi Châu đã đề nghị.
Người muốn chúng ta thi hành điều đó bằng đời sống của một người có đức tin sâu xa vào Chúa và vào con người. Người muốn chúng ta thi hành điều đó bằng sự hiện diện và bằng gương mẫu của chúng ta hơn là bằng lời nói.
Và nếu chúng ta thi hành theo phương cách đó, không những chúng ta sẽ kiên cường đức tin của những người chung quanh chúng ta, nhưng còn mời gọi họ bắt chước đức tin và đời sống cầu nguyện của chúng ta.
Thi sĩ Edgar Guest đã có lý khi ông nói:
Tất cả sẽ là phù phiếm khi rao giảng chân lý Cho những đôi tai muốn lắng nghe của người trẻ... Lời nói có thể chải chuốt cho sự khuyên giải Nhưng người trẻ sẽ học từ cách bạn sống.
Và một người Bà La Môn ở Ấn Độ đã có lý khi nói với nhà truyền giáo Kitô Hữu như sau:
Nếu Kitô Hữu các anh ở Ấn, ở Anh Quốc, hay ở Hoa Kỳ mà giống như trong Phúc Âm, anh sẽ chinh phục nước Ấn này trong năm năm.
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu của Đức Hồng Y Newman:
Lậy Chúa Giêsu, xin giúp con lan tỏa hương thơm của Người ở bất cứ đâu con đến. Xin hãy tràn ngập linh hồn con với thần khí và sự sống của Người.Xin hãy thấm nhập toàn thể con người con.Xin hãy chiếu tỏa qua con và trong con để bất cứ linh hồn nào con tiếp xúc sẽ cảm thấy sự hiện diện của Chúa...Không có gì là của con, tất cả đều là của Chúa soi sáng người khác qua con.Con xin ca tụng Chúa theo cách Chúa ưa thích nhất...Không bằng lời rao giảng, nhưng bằng đời sống gương mẫu của con.
Trước hết là một vài điểm chi tiết để hiểu đoạn văn dễ dàng hơn:
- Nhóm 12 là 12 tông đồ. Đức Giêsu sai họ đi từng hai người một, để họ có thể nâng đỡ nhau. Cũng có thể là để làm chứng vì luật Do thái về việc làm chứng đòi hỏi có hai người.
- Chiếc gậy là vật trợ giúp thông thường cho những người đi đường. Chúa cấm mang bị. Có lẽ Ngài ám chỉ đến cái bị của các kẻ hành khất làm giàu nhờ của xin được ở các nơi thờ phượng ít nhiều có khuynh hướng ngẫu tượng. Người ta biết rằng trong lịch sử Giáo hội đã có xuất hiện các dòng hành khất. Để tránh những lạm dụng, Giáo hội luôn đề phòng sao cho việc hành khất khỏi lìa xa đối tượng của nó: việc sinh sống, giúp đỡ kẻ nghèo và các việc truyền giáo. Những lúc nẩy sinh các lạm dụng là những giai đoạn xuống dốc: các dòng tu và hàng giáo sĩ không thực hành đức nghèo khó của người môn đệ. Ngược lại người ta biết đến sự phiêu lưu phan sinh (dòng hành khất đầu tiên do thánh Phanxicô Assisi sáng lập), đã đem lại cho Giáo hội sự canh tân Phúc âm.
- Đi đường với hai áo là dấu chỉ của người giàu gi chuyển bằng ngựa.
- Đức Giêsu sai các môn đệ và nói họ cậy trông vào sự tiếp đãi của dân chúng. Sự tiếp đãi đó thuộc phong tục của thời đại và mặc lấy tính cách một bổn phẩn của thành phố và làng mạc với tư cách tập thể cũng như cá nhân. - Phủi bụi chân ám chỉ một tập tục. Người Do thái từ một nước ngoại giáo trở về hay từ một nơi chốn dơ bẩn mà đến, phải phủi bụi chân để khỏi pha trộn đất bị bẩn và đất thánh thiện của xứ Giavê.
Hai câu hỏi được đặt ra:
1) Tại sao Đức Giêsu sai nhóm 12 đi rao giảng? Thưa vì lý do sư phạm. Đức Giêsu muốn giáo dục các mônd đệ. Và sự giáo dục bao hàm một phần thực tập. Các môn đệ đã nghe Đức Giêsu rao giảng. Nhưng người ta chỉ học tốt điều người ta kinh nghiệm, điều người ta thực hành. Sai họ đi rao giảng, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ có được hai kinh nghiệm: Kinh nghiệm sống sự sám hối mà họ rao giảng và kinh nghiệm cảm thấy sự bất túc của con người và vì thế cần phải cầu xin Chúa trong khi chu toàn sứ vụ tông đồ của mình.
Đức Giêsu cũng muốn huấn luyện nhóm 12 về điểm bất vụ lợi tuyệt đối, thật cần thiết cho việc tông đồ đích thật. Cho nên Ngài đòi hỏi phải từ bỏ tất cả những gì không cần thiết cho đời sống. Nhất là Ngài muốn cho họ được cái kinh nghiệm này là: sự từ bỏ chắc chắn sẽ lôi kéo sự quan phòng của Chúa Cha. Con người tự hạn chế về của cải vật chất vì tình yêu đối với TC và để sẵn sàng phục vụ ơn cứu rỗi sẽ không thiếu điều cần thiết.
2) Đức Giêsu gọi 12 tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền... Ngay từ lúc đầu trong đời sống CHUNG với Đức Giêsu, các tông đồ kinh nghiệm rằng Thầy họ sai họ đi. Sứ vụ tông đồ tương lai của họ có được tính cách xác thực cũng là nhờ một nguồn gốc: được Đức GIêsu sai đi rao giảng. Ngày ngay chúng ta nói: Giáo hội là Tông truyền. Điều này có hai nghĩa: trước nhất là xuyên qua các Giám mục, Giáo Hội lên đến các Tông đồ, kế tiếp là các Tông đồ được chính Chúa Kitô sai đi và ban quyền hành. Chúng ta có thể rút ra một hệ luận. Nếu ai muốn đến và nhân danh Phúc âm mà nói với chúng ta, chúng ta hãy xem họ có ở trong hàng ngũ tông truyền không, nghĩa là họ có được sự ủy quyền của các người kế vị các Tông đồ, các Giám mục cùng với Đức Thánh Cha ở đàng đầu không. Đây thật là một điều kiện tối cần thiết để bảo đảm rằng qua lời nói và việc làm của họ, họ có được ơn huệ của Đức Kitô không.