Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 12-B Bài 1-50 Chúa Giêsu dẹp yên giông gió bão tố
------------------------------------------ Phúc Âm: Mc 4, 35-40: “Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ”. Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người. Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?” Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: “Hãy im đi, hãy lặng đi”. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: “Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?” Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: “Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?” - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Biển Galilê nhỏ chỉ khoảng 21 km từ bắc chí nam, và chỗ rộng nhất là 13 Km từ đông sang tây, thung lũng Gio-dan là một viết nứt sâu trên mặt đất, và biển galilê là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 210 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phiá tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi tới thì những trũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức mạnh dữ dội, đến nỗi mặt hồ đang phẳng lặng, trong giây lát biến thành sóng gió gầm thét. Những cơn bão trên biển hồ Galilê vừa mãnh liệt vừa bất ngờ độc đáo. Cảnh tượng Phúc âm kể lại là cảnh tượng trên biển hồ galilê. Chúa Giêsu đang ngủ, Ngài ngủ vì mệt mỏi sau khi dùng thuyền làm giảng đài dạy dỗ dân chúng. Các môn đệ đều là các ngư phủ chuyên nghiệp, và vùng biển này là điạ bàn hoạt động của các ông, thế mà lúc này các ông hoảng lên kêu cứu.
1. Chúa ngủ trong thuyền giữa cơn bão.
Theo Chúa không phải lúc nào cũng thuận buồn xuôi gió hay được hưởng thái bình thịnh vượng. Ngay cả những lúc chúng ta gần Ngài nhất, khi mà không có tội lỗi hay nghi ngờ nào có thể chia rẽ, thì giông tố vẫn có thể nổi lên. Chúa không hứa cho chúng ta được thư thái an nhàn, nhưng là chiến đấu, từ bỏ, thậm chí chết…
2. “Thầy không lo cho chúng ta chết sao?” Câu nói biểu lộ sự kinh hãi tột độ và ngụ ý khiển trách Chúa không lo gì hết. Ngài hoặc không hay biết hoặc không lo nghĩ đến nỗi nguy khốn của các môn đệ. Cảm tưởng này chưa hết nơi các môn đệ ngày nay, khi bão tố cuộc đời vùi dập, ta có ý nghĩ Đấng giàu lòng yêu thương trở nên lãnh đạm với nhu cầu của ta. Chẳng những nghĩ mà còn nói ra nữa!
3. “Thầy không lo” hay là “lo cho chúng con là việc của Thầy”.
Khi theo Chúa ta có cảm tưởng như Chúa có nhiệm vụ che chở cho các môn đệ, dù muốn dù không Chúa cũng phải cứu họ. lòng nghi ngờ tình thương đôi khi còn liên kiết với đòi hỏi xấc xược. Giúp đỡ của Ngài được coi như món nợ phải trả chứ không phải ân huệ nhưng không. Ta được xin chứ tuyệt nhiên không được phiền trách.
4. “Người tôi tớ Thiên Chúa” chỉ bằng lời phán làm sóng yên lặng, nhưng trách các môn đệ “chưa đủ tin” nên mới sợ.
Sau khi đã nghe và thấy rõ mọi việc đáng lẽ phải tin rằng khi đi với Chúa thì họ được yên ổn. Chúng ta có nhiều lý do nữa để biệc chứng cho niềm tin của mình, vì không chỉ các phép lạ và lời dạy của Con Người từ Galilê mà cả phép lạ phi thường của Đấng từ cõi chết sống lại.
Trong chuyện này còn có ý nghĩa hơn là dẹp yên bão tố trên biển khơi. Chúa Giêsu thật sự đã quở sóng gio yên lặng trên biển galilê, có lẽ vào khoảng năn 28. Đó là việc lạ lùng, nhưng đối với chúng ta hầu như ít có ý nghĩa, vì nó chỉ là khép lạ lẻ loi chẳng liên quan đến với chúng ta ở thế kỉ 21. Nếu ý nghĩa câu chuyện chỉ có thế, chúng ta sẽ tự hỏi: “Tại sao ngày nay Chúa lại không làm nữa? tại sao Ngài lại để cho những người yêu Ngài chết chìm trong biển sâu mà Ngài không can thiệp?” Nếu chúng ta hiểu câu chuyện chỉ vỏn vẹn là sự quở yên bão tố của thời tiết chắc chắn sẽ phát sinh nhiều vấn đề làm chúng ta nặng lòng. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện này lớn hơn thế nhiều: trong sự hiện diện của Chúa Giêsu chúng ta có được sự yên bình ngay cả trong bão tố khủng khiếp nhất của cuộc sống.
1. Ngài ban cho chúng ta an bình trong bão tố của sầu muộn.
Khi sầu muộn đến như khi nó phải đến, Ngài nói với chúng ta vinh quang của cuộc đời hầu đến. ngài biến đổi bóng tối của sự chết thành ánh sánh của tư tưởng về sự sống vĩnh cửu. Ngài nói với chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa. một câu chuyện cổ nói về người làm vườn, nơi ấy có một bó hoa mà ông rất yêu quí. Một ngàu nọ khi ra vườn thấy bông hoa đó đã mất. Ông vô cùng phật ý, bực tức và thốt ra những lời phàn nàn. Trong lúc đang bực tức ông gặp chủ vườn và phàn nàn với chủ. Chủ vườn nói; “anh yên tâm chính tôi đã hái nó cho tôi”. Giữa lúc bão tố sầu muộn, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những ngời chúng ta yêu thương đã đi với Thiên Chúa và Ngài bảo đảm rằng rồi đây chúng ta sẽ gặp lại những người thân thương mà chúng ta thiếu vắng họ một thời gian.
2. Ngài ban cho chúng ta bình an khi vấn đề cuộc sống cuốn hút chúng ta vào trong những cơn bão của sự nghi ngờ, căng thẩng và không chắc chắn.
Rồi có những lúc chúng ta chẳng biết phải làm gì, khi chúng ta đứng trước ngã rẽ của cuộc sốngkhông biết đi đường nào. Lúc ấy chúng ta quay sang Chúa Giêsu và thưa cùng Ngài rằng: “lạy Chúa, Ngài muốn con làm gì?” Con đường sẽ được khai thông. Thảm kịch không phải là chúng ta không biết phải làm gì, nhưng chính chúng ta thường không hạ mình thuận phục sự hướng dẫn của Chúa Giêsu. Cầu hỏi ý muốn Ngài và thuận phục ý muốn đó là đường đến bình an trong những lúc như vậy.
Ngài ban cho chúng ta bình an trong bão tố của lo âu.
Kẻ thù hàng đầu của bình an là lo lắng, lo lắng cho chíng mình, lo lắng về tương lai ngoài sự hiểu biết, lo lắng về những người mình yêu. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta về một người Cha không bao giờ làm đổ những giọt lệ cần thiết nơi Ngài, và một tình yêu vượt trội giữa chúng ta và những người thân yêu của chúng ta khỏi trôi dạ. Trong bão tố lo âu Ngài đem đến cho chúng ta sự bình an của tìng yêu Thiên Chúa.
Các Tông đồ đã sống một thời gian khá dài bên Chúa Giêsu. Được Ngài dạy dỗ và được chứng kiến những việc l Ngài làm chắc hẳn các ông nghĩ rằng mình đã có một đức tin vững chắc. Nhưng chẳng bao lâu chỉ một cơn bão ngoài biển đã đủ làm các ông nhận ra rằng lòng tin đó còn rất non nớt, chưa được tôi luyện.
Trong cơn bão các ông hoảng sợ đến thất vọng mặc dầu có Chúa Giêsu cùng ở trong thuyền. Chúa Giêsu phải lên tiếng quở trách: "Sao mà sợ hãi dến thế, các con không có đức tin ư?
ĐỨC TIN CẦN ĐƯỢC THỬ THÁCH
Người ta thường nói: tư cách thật của một con người chỉ được bộc lộ thật khi gặp gian nan. Lúc bình thường thì ai cũng như ai, khó thấy được tư cách ấy. Điều này rất đúng.
Đức tin của mỗi người cũng thế. Muốn biết ai vững vàng trong đức tin phải đợi tới lúc đức tin đó chịu thử thách. Lúc bình an vô sự tin vào Chúa tương đối không phải là khó. Vì không khó nên không thế lượng định được phẩm chất của đức tin. Khó khăn, trở ngại là một thứ "kiểm tra chất lượng'. Có kiểm tra thì mới thấy cái gì tốt cái gì xấu, cái gì thật cái gì giả
Có lẽ kinh nghiệm bản thân chúng ta cũng thấy như vậy.
Khi mọi sự êm xuôi chúng ta giữ đạo rất phấn khởi, sốt sắng. Chúng ta đến nhà thờ đông vui, dự lễ rước lễ sốt sắng, ca hát say sưa, xin lễ tạ ơn. Nhưng khi tai họa xảy đến, chẳng hạn làm bệnh, gặp tai nạn, mất của, làm ăn thất bại, không được mình xin. . . lòng tin dễ bị lung lay, nhạt dần. Khi Chúa đòi hỏi một hy sinh lớn để trung thành với Ngài chưa chắc gì chúng ta đã đủ can đảm chọn Chúa, mặc dầu chúng ta vẫn quả quyết mình yêu Chúa hạết lòng. Nói rằng hết lòng nhưng thực ra lòng đã hết.
Đặc biệt lúc còn nhỏ chưa bước chân vào đời để phải đương đầu với những cám dỗ và gương xấu của nó, giữ đạo là chuyện tự nhiên, không gặp khó khăn. Con đường theo Chúa xem ra thuận lợi, rộng rãi thênh thang. Nhưng một khi lớn lên bước vào đời, phải va chạm với thực tế, lúc đó mới thấy Tin mừng của Chúa Giêsu khắt khe, nặng nề, khó chấp nhận. Vì thế nhiều tín hữu lúc còn nhỏ thật trong trắng tốt lành, nhưng càng lớn lên càng lảng xa đời Kitô hữu, chỉ còn giữ một vài tập quán tôn giáo nào đó, sống bên lề Giáo hội. Cũng có những trường hợp bỏ cuộc.
Chính những lúc đó mới thấy lòng tin còn yếu kém biết bao và câu hỏi của Chúa Giêsu lại được đặt ra đúng lúc: "Các con không có đức tin ư ".
TRUỞNG THÀNH NHỜ THỬ THÁCH
Nhưng dầu sao gian lao thử thách cũng vẫn cần thiết cho sự trưởng thành của đức tin. Thử thách có thể gây tai hại, làm sụp đổ những đức tin yếu kém, giống như cơn giông làm gẫy những cành cây mục rỗng. Nhưng đây lại là điều kiện để trưởng thành. Chúng là những trắc nghiệm cần thiết về nhiều mặt. Chúng giúp chúng ta nhận ra sự non nớt của mình để chúng ta khiêm tốn, để phòng suy thoái và phấn đấu vươn lên. Chúng là phương thế tôi luyện chúng ta thếm vững mạnh và trưởng thành từng bước.
Không thể trưởng thành nếu không tôi luyện. Một người đã quen đi nắng, đi gió, đi mưa... nhất định trở nên dầy dạn, có sức đề kháng cao, không còn hơi một chút là bị cảm cúm, nhức đầu, chóng mặt, hoặc nhiễm trùng, nhiễm độc. Một đức tin như vậy có nhiều chất thép.
Trong khi đức tin chịu trắc nghiệm như thế, chúng ta vẫn có thể vững tâm. Bởi vì Thiên Chúa luôn hiện diện ở bên ta trong mọi thử thách, cũng như xưa Ngài ngồi chung thuyền với các Tông đồ trong cơn bão.
Có thể Ngài chỉ hiện diện cách kín đáo nên chúng ta khó nhận ra Ngài. Nhưng kín đáo như vậy cũng có mặt hay. Kín đáo như vậy để xem chúng ta chống đỡ tới mức nào, tự tôi luyện mình ra sao. Nếu thấy cuộc trắc nghiệm vượt quá sức chúng ta thì Ngài sẽ lên tiếng, can thiệp, làm sóng gió im lặng, trả lại cho chúng ta, cũng như cho các Tông đồ xưa, hy vọng và bình an.
Qua hình ảnh mặt biển dạy sóng Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta những gì ?
Mặt biển dạy sóng trước hết là hình ảnh của tâm hồn chúng ta.
Thực vậy, nhiều lúc chúng ta đã cảm thấy: những quyến dũ bất chính, những đam mê mù quáng, những cám dỗ nặng nề, quả thực đã trở nên như những ngọn sóng ngầm. Những quyến dũ ấy, những đam mê ấy, những cám dỗ ấy như muốn đè bẹp con thuyền nhỏ bé là tâm hồn chúng ta, nhận chìm nó xuống đáy nước tội lỗi, nếu như Chúa Giêsu, Đấng có quyền làm cho gió yên biển lặng đã không đến can thiệp và giúp đỡ chúng ta. Vì thế chúng ta hãy kêu xin Chúa như các tông đồ ngày xưa:
- Lạy Chúa, xin hãy cứu giúp chúng con không thì chúng con chết mất.
Mặt biển dạy sóng còn là hình ảnh của thế gian.
Đúng vậy, thế gian là một mặt biển dạy sóng, trong khi đó Giáo hội chỉ là một con thuyền nhỏ bé, mà người cầm lái, là Đức Kitô thì dường như lại đang ngủ say. Những phong ba bão táp và những ngọn sóng trào dâng là những cấm cớ bách hại, là những lập trường bài bác vu khống và chụp mũ, khiến cho chúng ta, những môn đệ của Chúa cũng phải bàng hoàng kinh hãi, nếu không muốn nói là đã đi đến chỗ tuyệt vọng.
Tại sao chúng ta lại sợ hãi ? Phải chăng là vì yếu đức tin. Chúng ta nên nhớ rằng, tình thương và sự quan phòng của Ngài luôn canh giữ chúng ta. Chỉ một cái nhìn của Ngài cũng đã đủ để làm cho sóng yên biển lặng, tất cả trở lại trật tự.
Kinh nghiệm của Giáo hội, cũng như của bản thân mỗi người cũng làm chứng như vậy. Điều quan trọng, chúng ta phải luôn xác tín rằng: Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta. Mặc dù đôi lúc Ngài dường như có vẻ ngủ say, nhưng thực sự thì tình thương của Ngài luôn canh giữ chúng ta. Và một khi Ngài đã ở với chúng ta thì không ai có thể chống lại chúng ta.
Thánh nữ Cartarina Sienna ngày kia đã hỏi Chúa, sau khi đã thoát khỏi sự cám dỗ nặng nề:
- Lạy Chúa, Chúa ở đâu khi con phải chiến đấu. Chúa Giêsu đã trả lời:
- Ta ở bên cạnh con để giúp đỡ con.
Chính vì thế, giữa những gian nguy thử thách, giữa những cám dỗ đe dọa, chúng ta hãy biết chạy đến và kêu van:
- Lạy Chúa, xin cứu chúng con, không thì chúng con chết mất.
Điều quan trọng là làm thế nào để Chúa Giêsu thực sự ở trong chúng ta với tất cả tình thương của Ngài ?
Tôi xin đưa ra một pháp đó là hãy xa tránh tội lỗi. Vì tội lỗi sẽ đẩy chúng ta xa lìa tình Chúa và làm dấy lên trong tâm hồn cũng như xã hội một trận cuồng phong thảm khốc.
Chính vì thế muốn trấn áp cuồng phong, muốn tái lập trật tự, chúng ta phải biết hãm dẹp những dục vọng xấu xa, những khuynh hướng tội lỗi. Tuy nhiên, để bảo đảm sự thành công, chúng ta hãy bắt chước các môn đệ đã kêu lên với Chúa giữa cơn phong ba bão táp:
- Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con, không thì chúng con chết mất.
Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất đáng yêu. Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa: TN12 B-4 FB
Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất đáng yêu. Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm. Và khi thấy nó đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện. Vừa thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết. Và nó càng yêu mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa.
Chúa Giêsu cũng có nhiều lần giả vờ như thế. Lần giả vờ được minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là khi Người cùng hai môn đệ đi trên đường Emmaus. Khi đã đến nơi, Người giả vờ muốn đi xa hơn, làm cho các môn đệ phải tha thiết nài nỉ, Người mới chịu ở lại. Khi Người ở lại, các môn đệ vui mừng khôn xiết. Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh khi các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ bánh.
Hôm nay tuy Tin Mừng không minh nhiên ghi lại, nhưng ta có thể đoán biết Chúa Giêsu đang giả vờ. Vì sóng to gió lớn dập vùi làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, nước tràn vào đến nỗi thuyền có nguy cơ bị chìm đắm, trong khi đó các tông đồ xôn xao chạy ngược chạy xuôi, hò hét nhau tìm cách tát nước ra. Giữa khung cảnh như thế, làm sao có thể nằm ngủ ngon lành được. Chỉ có thể là giả vờ. Việc giả vờ của Chúa phát xuất do tình yêu.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn ta đáp lại tình yêu thương của Chúa. Đó là định luật thông thường trong tình yêu. Khi yêu ai cũng muốn được đáp trả. Chúa không đi ra ngoài định luật thông thường đó. Người tha thiết yêu ta. Người mong ta yêu mến gắn bó với Người, nên đôi khi Người giả vờ lãng quên để ta nhớ mà chạy đến với Người, gắn bó với Người hơn. Như bà mẹ muốn đứa con tỏ ra cần đến mẹ, tha thiết đi tìm mẹ, hốt hoảng khi không thấy mẹ, Chúa cũng mong ta cần đến Chúa, tha thiết đi tìm Chúa và hốt hoảng lo âu khi thấy vắng bóng Chúa.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn rèn luyện ta nên người. Để rèn luyện ta, Chúa gửi những thử thách tới. Cuộc đời ví như mặt biển cả mênh mông. Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên mặt nước. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta trưởng thành ở ba phương diện.
Những thử thách giúp ta biết mình hơn. Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật yếu đuối. Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước thì tưởng mình cũng đi được. Nhưng chỉ được mấy bước đã chìm xuống. Các tông đồ là những bạn chài đã quen với sóng nước. Thế mà vẫn kinh hoảng trước bão tố. Đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp ta biết mình. Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.
Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những việc ở ngoài tầm tay của mình, chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa. Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.
Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chẳng có thử thách nào kéo dài mãi mãi. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian. Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Để từ nay các ngài không còn cuống quít lo sợ mỗi khi gặp gian nan nữa. Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.
Đời sống không thể thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Hơn nữa Chúa luôn ở bên ta. Vì thế ta hãy vững tin, hãy cậy trông phó thác và hãy biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm vững mạnh. Thử thách rồi sẽ qua đi. Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta. Ước gì mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tại sao Chúa cho ta bị thử thách? Thử thách có cần thiết không? 2) Thử thách giúp ta trưởng thành thế nào? 3) Ta phải sống thế nào trong thử thách để vượt lên trên thử thách?
Rufus Jones có thuật lại câu chuyện sau đây: “Một cậu bé đang chơi trên boong tàu, khi đó: TN12 B-5
Rufus Jones có thuật lại câu chuyện sau đây: “Một cậu bé đang chơi trên boong tàu, khi đó một cơn bão tố đang nổi lên. Một hành khách tiến lại hỏi cậu bé: Này cháu, cháu không sợ cơn bão đang đến hay sao ? Cậu bé trả lời: “Không, cháu không sợ. Bởi vì cha cháu đang điều khiển con tàu”.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại một câu chuyện xảy ra trong một cơn bão tố. Nhưng nó chỉ giống ở khung cảnh mà lại khác hẳn về nội dung. Nỗi sợ hãi của các môn đệ hoàn toàn trái nghịch với lòng tín thác của cậu bé trong câu chuyện của Jones, một lòng tín thác xuất phát từ một niềm tin vững mạnh.
Không có gì ngạc nhiên khi chúng ta nghe Chúa Giêsu quở trách: “Tại sao các con nhát gan thế ? Các con vẫn chưa có lòng tin sao ?” Chúng ta cần nhớ lại lời Kinh Thánh đã chép: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”.
Chúng ta không luôn luôn thấy những đối tượng đức tin của chúng ta, đặc biệt khi niềm tin của chúng ta bị che phủ bởi nỗi sợ hãi và lo âu xao xuyến, và nhất là khi chúng ta bị những cơn giông tố trong cuộc đời vùi lấp một cách phũ phàng. Trong những cơn thử thách mãnh liệt như vậy, chúng ta hãy đặt tất cả niềm tin tưởng phó thác vào chính Thiên Chúa. Vào thế kỷ 19, tiểu thuyết gia kiêm thi sĩ người Tô Cách lan George MacDonald đã viết: “Con người hoàn hảo về đức tin là kẻ có thể đến với Thiên Chúa trong sự trống rỗng về cảm giác, không có một chút cảm hứng và an ủi nào, chỉ có những thất bại nặng nề, bị bỏ rơi, bị quên lãng hoàn toàn, và vẫn nói với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là nơi con náu ẩn, là thành lũy che chở con”.
Lạy Chúa Thánh Thần, Chúa là Trạng Sư và là bạn thân thiết của con. Xin Chúa dạy con biết từ bỏ bản thân mà lệ thuộc hoàn toàn vào Chúa Giêsu. Con không muốn trốn tránh trách nhiệm của con đối với cuộc đời của mình, nhưng con muốn để Chúa Giêsu chi phối toàn bộ cuộc sống của con.
Hồ Tibêria nằm ở mạn bắc Palestine, còn gọi là hồ Gênêsarét hay biển Galilê, nhưng quen: TN12 B-6
Hồ Tibêria nằm ở mạn bắc Palestine, còn gọi là hồ Gênêsarét hay biển Galilê, nhưng quen gọi là Biển Hồ, có hình bầu dục, chiều dài 21 km, chiều ngang 12 km, thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải 208m, lại nằm bên rặng núi Hemon cao ngất, luôn có tuyết phủ, vì thế, các luồng gió mạnh đều dốc đổ vào hồ, gây nên những cơn giông và bão tố bất thường.
Cựu ước ít nhắc tới Biển Hồ này, nhưng trong Tân ước, hồ này nổi tiếng, vì nơi đây Chúa Giêsu đã làm một số phép lạ và giảng dạy nhiều điều. Phép lạ kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay xảy ra ở Biển Hồ này, vào một buổi chiều đầy kỷ niệm của một ngày tháng chạp, năm thứ nhất công khai giảng dậy của Chúa.
Hôm ấy, sau khi dùng thuyền làm tòa giảng dạy dân chúng nhiều dụ ngôn, Chúa Giêsu giải tán cho họ ra về, rồi bảo các môn đệ kéo buồm ra khơi sang bờ bên kia đến thành Gêrasa. Khi thuyền ra gần giữa khơi thì gặp biển động mạnh, gió thổi dữ dội, sóng nước quật mạnh vào thuyền khiến thuyền chòng chành, chồm lên chồm xuống muốn chìm. Các môn đệ ra sức chèo chống, tuy là những ngư phủ đã quen với những cơn giông bão trên biển, mà lần này các ông cũng hoảng sợ, vậy mà Chúa Giêsu vẫn nằm ngủ ngon lành ở cuối thuyền như không có sự gì nguy hiểm đang xảy ra.
Các môn đệ không còn biết xoay sở làm sao đưa thuyền vào bờ, trở lui không được vì bị sóng gió cản lại, mà tiến sang bờ bên kia thì còn xa quá. Thật là tiến thoái lưỡng nan, các ông chỉ còn biết cầu cứu đến Chúa, mà Chúa thì lại đang ngủ. Các ông đánh thức Chúa dậy và xin Chúa cứu giúp. Lời kêu cứu này chứng tỏ các môn đệ tin Chúa có quyền phép. Nhưng Chúa đã quở trách các ông: “Sao nhát thế ? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao ?” Chúa trách các môn đệ như vậy là vì mấy tuần qua các ông đã được chứng kiến Chúa làm nhiều phép lạ tỏ ra Chúa là Đấng có quyền phép, nên đáng lẽ các ông phải tin tưởng nơi Chúa mà không hoảng sợ trước cơn giông bão. Nhưng đức tin của các ông còn yếu kém, gặp cơn giông bão, tuy có Chúa ở trong thuyền mà các ông vẫn hốt hoảng sợ hãi, nên Chúa mới quở trách như vậy. Tuy nhiên, Chúa vẫn đứng dậy, truyền cho sóng gió yên lặng, tức khắc biển trở lại bình thường.
Qua phép lạ này, Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ thấy uy quyền Thiên Chúa toàn năng của Ngài, đồng thời cũng cho họ biết: họ phải vững tin vào Ngài, có Ngài ở bên, họ không được sợ hay không phải lo sợ gì cả, vì không có gì Ngài không làm được, mọi sự đều tùy thuộc uy quyền toàn năng của Ngài.
Khi tìm hiểu về cơn bão tố xảy ra trên Biển Hồ, một nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích: “Chúa Giêsu đã muốn đem các môn đệ của mình đi trên biển, giữa bão tố kinh hoàng để cho họ thấy trước những bão tố sau này là những bắt bớ, những hành hạ mà họ sẽ gặp trên đường tông đồ. Đối với họ, là những người sẽ cầm lái thế giới sau này, con thuyền nhỏ bị sóng gió dữ tợn đánh chòng chành sắp chìm, là hình ảnh của những trận bão tố sau này sẽ tấn công Giáo hội mà họ phải kiên gan chống đỡ”.
Các nhà giảng thuyết thường áp dụng việc Chúa Giêsu làm cho sóng gió yên lặng vào việc Chúa luôn ở cùng Giáo hội, và bênh vực gìn giữ Giáo hội trải qua những cơn sóng gió trần gian. Chiếc thuyền của Phêrô là tượng trưng cho con thuyền Giáo hội của Chúa mà Phêrô là đầu. Những cơn sóng gió là những cơn thử thách bách hại mà Giáo hội luôn gặp phải. Cũng như khi xưa các tông đồ trên thuyền đã được an toàn qua cơn sóng gió vì có Chúa Giêsu ở với các ông, thì ngày nay cũng nhờ có Chúa Giêsu luôn hiện diện trong Giáo hội mà trải qua bao cơn thử thách bách hại, Giáo hội vẫn đứng vững và trường tồn.
Nhìn vào lịch sử Giáo hội, qua dòng thời gian, trải qua các thời đại, chúng ta thấy Giáo hội đã gặp phải bao cơn gió bão, thuyền Phêrô, tức là Giáo hội, đã vượt biển được hai ngàn năm, thuyền đó ra đi, mặc dầu gặp bao sóng gió, nhưng vẫn luôn đứng vững, lý do là vì Chúa Giêsu luôn hiện diện trong Giáo hội như Ngài có mặt trên thuyền của các môn đệ xưa kia. Đôi khi xem ra Ngài ngủ và có vẻ buông xuôi tay lái, nhưng thực ra đó chỉ là những cơ hội để nêu cao sự hiện diện đầy quyền năng của Ngài.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy, Thiên Chúa toàn năng cai trị những bão tố bên ngoài, thì Ngài cũng thống trị những cơn bão, những sóng gió trong tâm hồn, trong cuộc sống, trong cuộc đời thăng trầm của mỗi người. Cuộc đời chúng ta là một đời lữ khách, vui buồn chen nhau. Là thân lữ khách, chúng ta biết phận mình là thế, và trong muôn cảnh ngộ, chúng ta luôn có hy vọng về tới bến. Đức tin vững chắc là bánh lái thuyền đưa chúng ta về tới bến cứu độ. Chúa Giêsu luôn ngồi đàng sau con thuyền để trợ giúp chúng ta. Chúng ta cứ yên trí lớn chèo thuyền ra đi, điều cần thiết nhất là chúng ta có luôn tin tưởng vững chắc vào Chúa hay không ?
Vì thế, giữa những bão tố, những sóng gió của biển đời, chúng ta cần bắt chước gương các tông đồ, chạy lại với Chúa Giêsu và xin Ngài cứu giúp: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng con chết mất. Tin tưởng và cầu xin Chúa, chúng ta sẽ được bình an.
Các môn đệ gặp trận cuồng phong khi vượt biển. Họ kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chửng: TN12 B-7
Các môn đệ gặp trận cuồng phong khi vượt biển. Họ kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chửng. Bất lực trước cơn cuồng nộ của sóng gió, họ đã đánh thức Đức Giêsu, xin Ngài giúp đỡ.
Cuộc đời nào tránh được mọi cơn giông tố?
Ai trong chúng ta cũng thích biển lặng sóng yên, nhưng giông tố lại giúp ta nhận ra mình: yếu đuối, chao đảo, mong manh, bất lực, không đủ khả năng đương đầu với bao thách đố.
Giông tố đưa ta đến với Đức Giêsu, và phó thác cho sự trợ giúp của Ngài. "Chúng con chết mất!"
Cái chết thể lý và cái chết tinh thần. Cái chết của bản thân và của tập thể mình gắn bó. Cái chết của những công trình mình xây dựng.
Chúa là sự sống, sao Chúa lặng yên để chúng con chịu chết? Sao Chúa để sự dữ tung hoành trên thế giới? "Mà Thầy không lo sao?". Một lời trách móc?
Nhiều khi chúng ta cũng trách Chúa như vậy. Có vẻ Chúa quá vô tư, lãnh đạm, hững hờ. Chúa yên ngủ khi đời ta gặp cơn giông tố.
Đức Giêsu đã thức dậy, ra lệnh cho gió và biển: "Câm đi! Im đi!". Gió ngừng ngay và biển lặng xuống.
Sự lặng đi của biển đưa đến sự trầm lặng của lòng. Nỗi kinh hoàng tan biến, nỗi sợ chết cũng bay xa.
Nhưng chúng ta không đòi phép lạ biển lặng trong đời. Điều quý hơn, đó là lòng ta được lặng.
Lòng lặng không phải vì biển lặng, mà lặng ngay giữa lúc biển động. Đó là một phép lạ lớn hơn nhiều, và đó cũng là thái độ Chúa muốn ta phải có.
Tại sao các anh lại kinh sợ? Sóng gió làm gì được các anh khi Thầy đang cùng các anh ở chung một con thuyền?
Đức Giêsu đòi các môn đệ không được khiếp sợ.
Thầy đã làm bao phép lạ trước mắt các anh, vậy mà các anh vẫn chưa có lòng tin ư? Nếu có lòng tin thì đâu có cuống cuồng như vậy.
Đức tin chỉ lộ ra khi biển động. Và có thể nói, biển động giúp hình thành đức tin. Đức tin lớn lên ít nhiều sau mỗi lần biển động.
Thuyền đời Kitô hữu chẳng bao giờ êm ả. Nó chỉ êm ả khi về tới bến. Nhưng lòng ta lại phải giữ cho bình yên, ngay cả khi Ngài không thức dậy, dù ta đã gọi Ngài nhiều lần giữa tiếng sóng gào thét. Ta tin rằng Ngài sẽ cứu ta theo cách của Ngài.
Gợi Ý Chia Sẻ
Điều gì khiến bạn sợ hơn cả trong cuộc sống? (Sợ thất nghiệp, sợ thi rớt, sợ không được yêu, sợ mất uy tín, hay sắc đẹp...). Sự sợ hãi có làm đời bạn bớt vui không? Có làm bạn bớt tự do không?
Khi bạn bị căng thẳng, lo âu, mất bình an, bạn thường làm gì để trở lại bình thường? Cầu nguyện có giúp gì cho bạn không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.
Phép lạ dẹp yên bão tố này chứng tỏ uy quyền của Chúa Giêsu trên sức mạnh thiên nhiên: TN12 B-8
Phép lạ dẹp yên bão tố này chứng tỏ uy quyền của Chúa Giêsu trên sức mạnh thiên nhiên:
- Những chi tiết mô tả sức mạnh của thiên nhiên: một trận cuồng phong, sóng ập vào thuyền, thuyền đầy nước, các môn đệ hoảng sợ.
- Những chi tiết mô tả sức mạnh ưu việt của Chúa Giêsu: Ngài vẫn ngủ, Ngài hăm đe gió và truyền lệnh cho biển, sau chỉ một lời truyền của Ngài gió liền tắt và biển lặng như tờ ; sau phép lạ các môn đệ hỏi nhau “Người này là ai mà cả đến gió lẫn biển cũng tuân lệnh”.
B. ... nẩy mầm.
1. Vì Chúa là chúa tể của thiên nhiên nên khi nhìn thiên nhiên, chúng ta phải dâng lời ca tụng Chúa. “Chúc tụng Chúa đi, nguồn nước tận cao xanh ; Chúc tụng Chúa đi mọi cơ binh thượng giới ; Chúc tụng Chúa đi mặt trời với mặt trăng ; Chúc tụng Chúa đi hỡi tinh tú muôn ngàn ; Chúc tụng Chúa đi nào mưa sương tất cả ; Chúc tụng Chúa đi mọi luồng gió cơn giông ; Chúc tụng Chúa đi sức nóng với lửa hồng ; Chúc tụng Chúa đi trời nồng và khí lạnh ; Chúc tụng Chúa đi nào sương đọng mưa tuôn ; Chúc tụng Chúa đi kìa thời đông tiết giá ; Chúc tụng Chúa đi nào băng phủ tuyết rơi ; Chúc tụng Chúa đi hỡi đêm ngày đắp đổi ; Chúc tụng Chúa đi ánh sáng và bóng tối ; Chúc tụng Chúa đi chớp giật với mây trôi...” (Tv 62: Kinh Sáng Chúa nhựt Tuần I).
2. Sức mạnh thiên nhiên cũng là những hiện tượng tự nhiên xảy đến trong cơ thể ta. Thí dụ: lúc ta khoẻ khi ta bệnh, khi ta trẻ lúc ta già... Có lúc sức khoẻ suy sụp làm ta tưởng mình đang trên một chiếc thuyền gặp cuồng phong bão táp. Và khi đó hình như Chúa vẫn ngủ. Nhưng thực sự Ngài không ngủ, Ngài vẫn là người lèo lái dẫn dắt thuyền đời của ta. Hãy phó thác cho Ngài dẫn dắt.
3. Thi sĩ Lord Tennyson và một người bạn đang đi dạo trong vườn hoa và cùng nhau trao đổi về những chủ đề thời thượng của quần chúng. Là một Kitô-hữu, người bạn muốn biết thái độ của thi sĩ đối với đức Kitô. Sau mấy giây thinh lặng, người bạn hỏi: “Anh có khi nào nghĩ về đức Kitô không ?” Tennyson đưa tay ngắt một bông hoa rực rỡ toả hương bên đường, nói: “Như mặt trời đối với đoá hoa thế nào, thì đức Kitô đối với tôi cũng vậy." (Góp nhặt)
Cơn bão số hai đổ bộ vào tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng từ chiều 24 đến 25 tháng 05 năm 1989: TN12 B-9
Cơn bão số hai đổ bộ vào tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng từ chiều 24 đến 25 tháng 05 năm 1989, sức gió giật cấp 12 kèm theo mưa to đổ xuống như thác. Đây là cơn bão mạnh nhất từ trước đến nay ở tỉnh này. Thống kê đầu tiên cho biết gần 500 người bị chết và mất tích. Hàng trăm người bị thương, hàng vạn ngôi nhà, nhiều trường học, bệnh viện, trạm trại, kho tàng … bị sụp đổ, hàng nghìn tầu thuyền bị chìm, hư hỏng, thất lạc. Trên 50.000 mét khối kinh mương thủy lợi bị vỡ lở … Bị tổn thất rất to lớn chưa thể tính hết được.
Chỉ một cơn bão ở một miền nhỏ so sánh với cả nước, và nếu sánh với cả địa cầu nó chỉ là một chấm nhỏ đã phải chịu một cơn bão khủng khiếp như thế, thì trên trái đất này còn phải chịu bao nhiêu cơn bão khủng khiếp đến chừng nào ! Biển cả đối với loài người vẫn là mối nguy cơ lớn đe dọa ghê gớm, một mãnh lực không thể chế ngự được. Trước nguy cơ của biển, con người quá bé nhỏ mong manh không ai dám cậy tài, cậy sức vào bất cứ một con tàu nào, dù nó là con tàu khổng lồ như Titan, hay tối tân như con tàu nguyên tử, chỉ đụng sơ vào tảng băng, đá ngầm đều vỡ tan, chìm mất tích dưới đáy đại dương.
Biển hồ Tibêria xưa tới nay vẫn nổi tiếng sóng gió đột ngột nổi lên dữ dội do những luồng gió thổi từ cao nguyên Giôlăng tới. Thêm vào đó, thời các tông đồ, thuyền bè chỉ là mấy miếng gỗ, tre, nứa thô sơ, khi gặp bão biển, chỉ còn cách nộp mình cho thần chết. May cho các môn đệ, các ông đã biết Đức Giêsu, Đấng đã trừ khử quỷ dữ (Mc. 1, 25), Đấng chế ngự thần chết (Mc. 5, 35-43), Ngài đang ngủ ở đàng sau thuyền, chắc chắn sẽ khắc phục được bão biển.
Nhưng sao Ngài vẫn ngủ yên trước cuồng phong dữ dội ? Thật lạ lùng ! Các ông không thể kiên nhẫn chờ Ngài thức dậy. Sóng đã ập vào thuyền đầy tràn nước rồi, mau mau chạy đến kêu gào Ngài cứu nguy: “Lạy Thầy, xin Thầy cứu vớt, chúng con chết mất”.
Chìm thuyền, chết đến nơi rồi, thế mà Ngài còn than trách: “Sao nhát đảm, hỡi kẻ yếu lòng tin ?”. Lòng tin quá yếu, nhưng các ông vẫn còn một chút tin tưởng cầu xin Ngài, nhờ đó, Thầy đã quát bảo bão biển phải im lặng ngay. Kinh ngạc bao nhiêu, Ngài là ai mà bão tố, sóng gió biển cả phải tuân lệnh. Thứ mãnh lực vô tri, vô giác, sao biết nghe lời Ngài ? Sao những thứ có tri, có giác, không biết nghe lời Ngài mà lặng yên đi, đừng nổi loạn nữa ? Tại sao loài người dám nổi loạn chống lại Ngài ? Phải chăng họ cậy có tri, có giác, có tài ? Vì cậy có tri, có giác, có tài nên đã bị những thứ vô tri, vô giác, vô tài nổi loạn chống lại loài người. Chừng nào loài người mới biết mở mắt ra thấy mình quá yếu đuối, quá bất lực trước thiên nhiên vô tri giác, lúc đó loài người mới biết chạy đến cầu cứu Đấng đã dựng nên và an bài mọi sự. Thiên Chúa nhiều lần đã dạy cho loài người những bài học đích đáng như đại hồng thủy, động đất, cháy rừng, hạn hán, bệnh tật để đừng bao giờ dám cậy mình đòi bằng Thiên Chúa hay chối bỏ Ngài.
Các môn đệ, phải chăng lúc ra khơi cũng tự mãn cho mình là dân biển lành nghề, chẳng sợ chi ai, mặc kệ Thầy nằm đó, Thầy đang nhờ cậy ta vượt biển ! Viết đoạn Phúc Âm này, Marcô không phải chỉ giản dị kể lại một phép lạ, mà chủ đích làm nổi bật câu hỏi: “Ngài là ai mà bão và biển phải tuân lệnh?”. Không phải Ngài vô tình dẫn môn đệ sang bờ biển đối diện bên kia, miền đất của lương dân thù địch với Galilê, miền đất của dân Do thái. Suốt cuộc đời Ngài phải trải qua những cuộc chiến gay go chống lại kẻ tin ma thờ quấy, sự dữ, tội lỗi, bệnh tật và cái chết khốc liệt. Những sự dữ đó Kinh thánh thường gọi đêm tối, vực sâu biển cả, Ngài ngủ trong đêm tối giữa biển cả trần gian, bao nhiêu cuồng phong bão lực đang phá xiềng, phá xích, xổ lồng tung hoành khủng khiếp. Giấc ngủ kinh hoàng của Ngài là cuộc thương khó ; Ngài ở đàng lái, cuối thuyền, dựa đầu vào gối mà ngủ giữa đêm bão biển. Cuối đời Ngài, Ngài cũng phải dựa đầu vào cây thập giá mà chết giữa những địch thù khát máu. Hôm nay, giữa bão biển đêm tối, Ngài muốn thao dượt đức tin non yếu của các ông, để ngày mai giữa cơn khủng hoảng thương khó của Ngài, các ông “đừng sợ”. Nhưng các ông vẫn khiếp sợ chạy trốn. Phúc cho các ông, Ngài thức dậy, dẹp yên sóng gió. Ngài chỗi dậy từ trong kẻ chết cho các ông được bình an ! được chỗi dậy với Ngài trong vinh quang, Ngài bảo trước cho Phêrô: “Khi con chỗi dậy, con hãy làm cho anh em con nên vững mạnh” (Lc. 22, 32).
Giờ đây Phêrô đang kể lại kinh nghiệm sống chết này cho giáo đoàn Rôma đang lâm cảnh cuồng phong bão táp gây nên cảnh chết chóc tử đạo khốc liệt để họ kiên trì vững mạnh trong đức tin mà biết dựa đầu vào Đức Giêsu mà chỗi dậy trong “Đấng đã chết và sống lại vinh quang vì họ” (2Cr. 5, 17).
Lạy Chúa, biển đời đầy dẫy những nguy hiểm: “nguy hiểm về sông ngòi, nguy hiểm về trộm cướp, nguy hiểm về đồng bào, nguy hiểm về dân ngoại, nguy hiểm nơi thành thị, nguy hiểm chốn hoang vu, nguy hiểm trên biển cả, nguy hiểm vì anh em giả dối … nào ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối ? Ai vấp ngã mà tôi không bỏng xót !” (2Cr. 11, 26-29).
Lạy Chúa xin cho chúng con biết dựa đầu vào Chúa mà chỗi dậy luôn luôn.
(cc. 35-37) Vào thời thượng cổ, gió và biển là tượng trưng cho náo loạ n và sự dữ, luôn chiến đấu với Thiên Chúa. Giáo hội tiên khởi được coi như là một con thuyền .
(c. 38) Các môn đệ đã từng thấy Chúa Giê-su chữa nhiều bệnh tật, và trừ được quỷ (chương 1-3). Thế mà khi họ phải lao đao giữa cơn bão biển, Chúa Giê-su lại ngủ. Họ kết luận rằng Chúa Giê-su chẳng lo nghĩ gì đến họ! Sách Cách Ngôn (3:24) dùng giấc ngủ an bình để tả lòng tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Việc Chúa Giê-su có thể ngủ ngay lúc bão táp là dấu chỉ lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa của Ngài.
(c. 39) Những lời Chúa Giê-su dùng để nói với bão biển , "Im đi! Câm đi!", cũng cùng là lời Chúa đã dùng để trừ quỷ (Mác-cô 1:25). Như thế, quyền năng của Chúa Giê-su trên sóng gió ngụ ý nói về quyền năng của Người trên thần dữ.
(c. 40) Chữ "lòng tin" khi dùng trong xã hội Hy Lạp hay Do Thái thời đó có nghĩa là "lòng trung thành". Chúa Giê-su trách các môn đệ đã để sự nhát gan làm lung lay lòng trung thành của họ đối với Người.
(c. 41) Quyền năng trên biển và bão tố là dấu hiệu một quyền năng đến từ Thiên Chúa (Thánh Vịnh 107:23-32).
Một Điểm Chính
Sự hiện diện của Chúa mang bình an đến cho tâm hồn. Đi với Chúa Giê-su là đi trong bình an: TN12 B-10
Sự hiện diện của Chúa mang bình an đến cho tâm hồn. Đi với Chúa Giê-su là đi trong bình an, dù là đi giữa bão tố của đời. Hãy tin tưởng vào Chúa luôn luôn và trong mọi biến cố.
Suy Niệm
Đời tôi hiện nay đang ở trong cơn bão tố nào? Có thể là một biến cố bên ngoài hay một cuộc chiến trong tâm hồn.
Nếu như Chúa Giê-su ở bên cạnh tôi khi tôi lao đao giữa giông tố ngoài biển khơi, thì tôi sẽ làm gì? Tôi có vẫn ngồi bên Người ngay khi khi nước trào ngập thuyền? Tôi có đánh thức Người dậy để xin một phép lạ? Tôi có bỏ đi tìm một quyền năng nào khác để làm lặng xuống những sóng gió trong tôi?
Một sĩ quan người Anh cùng gia đình xuống tầu đi tới một miền xa lạ. Đang lênh đênh trên: TN12 B-11
Một sĩ quan người Anh cùng gia đình xuống tầu đi tới một miền xa lạ. Đang lênh đênh trên biển thì bỗng có giông bão khủng khiếp ập tới. Hành khách trên tầu cuống cuồng lo sợ, nhất là bà vợ của viên sĩ quan. Bà thấy ông vẫn bình thản thì bực bội và trách ông không quan tâm đến nỗi lo lắng của bà và các con. Ông này ra khỏi phòng một lát rồi trở lại. Ông nghiêm nét mặt, rút kiếm ra dí vào ngực vợ. Bà vợ hơi tái mặt, nhưng lát sau bà phá lên cười. Viên sĩ quan hỏi:
- Thấy mũi kiếm sắp đâm vào người mà em không sợ sao? - Việc gì em phải sợ? Em biết anh vẫn thương em mà. - Thế tại sao em bắt anh phải sợ khi anh biết Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta? Và cơn bão này cũng ở trong bàn tay Thiên Chúa?
Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ. Chính vì thế, Chúa nhắc bảo ta luôn nhớ cầu nguyện để xin ơn tăng cường đức tin. Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa có quyền năng, có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa tin vào Chúa hoàn toàn. Chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa làm ra vẻ ngủ say để thử lòng tin các môn đệ. Nhưng cũng có thể Chúa ngủ thực, vì Chúa mang bản tính con người như ta. Chúa mệt mỏi vì bao công chuyện dồn dập mấy ngày qua: đi lại, giảng dạy, chữa bệnh cho bao nhiêu người. Sự mệt mỏi đã đưa Chúa vào giấc ngủ say.
Có những bất trắc, những tai nạn, những rủi ro xảy tới cho đời ta, ta kêu cầu hoài mà không thấy Chúa đáp cứu. Những nhà duy vật thời nay thường nói: “Thiên Chúa đã chết”. Đôi khi, chính chúng ta là tín hữu Kitô, cũng có cảm tưởng như vậy. Chúng ta bị đe doạ, bị xô đẩy, bị chèn ép, chúng ta bất lực mà Thiên Chúa cứ làm thinh cho thiên nhiên hoành hành, cứ để cho bạo động xảy ra, xem ra Thiên Chúa đang ngủ quên.
Tuy hoảng sợ, các môn đệ cũng còn chút tin tưởng ở Chúa, các ông tới đánh thức Chúa: “Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi mà Thầy không quan tâm sao?”. Chúa thức dậy, đứng lên, quát nạt sóng gió và ngay lập tức sóng gió trở nên yên tĩnh.
Sau khi trời yên bể lặng, Chúa bảo các môn đệ: “Sao các con sợ hãi? Các con không có đức tin ư?”. Chúa trách các môn đệ thiếu lòng tin. Không tin rằng có Chúa đang ở với mình trong thuyền. Không tin rằng Chúa vẫn yêu thương săn sóc các ông. Nhiều khi chúng ta còn đáng trách hơn các môn đệ, vì những lần chúng ta than thân trách phận, oán trời, trách Chúa: Sao Chúa để chúng ta đau khổ, kêu mãi kêu hoài mà Chúa vẫn làm ngơ.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh để chúng con lướt thắng mọi thử thách trên đường đức tin. Xin giúp chúng con luôn nhận ra Chúa trong mọi biến cố cuộc đời để chúng con an tâm phục vụ Tin Mừng. Quyền năng và tình thương của Chúa luôn làm cho con vững dạ an lòng.
Chúng ta phải liên lỉ băng qua bờ bên kia. Thường thường biển động. Nhưng Chúa Kitô ở với chúng ta.
Việc băng qua hồ Tibêriát, như thánh Máccô kể lại, mang một ý nghĩa tượng trưng, cho ta thấy một kinh nghiệm quan trọng và sâu sắc mà các môn đệ đã có được. Kinh nghiệm này có một giá trị gương mẫu đối với chúng ta. Thường thường chúng ta phải sống những kinh nghiệm tương tự.
Sang bờ bên kia.
Chúa Giêsu bảo bạn hữu của Chúa sang bờ bên kia. Vấn đề không phải chỉ đơn giản là đi từ nơi này đến nơi khác, nhưng là sống một biến cố sẽ giúp họ lớn lên. Lúc đó họ chưa biết được điều này.
Nhiều lần cả chúng ta nữa, chúng ta đứng trước một tiếng gọi của Chúa Kitô. Gọi vươn lên, gọi sống đời sống Kitô hữu của chúng ta mãnh liệt hơn, gọi dấn thân một cách mới mẻ… Nếu chúng ta đáp trả tiếng gọi ấy chúng ta không biết trước những gì sẽ xảy ra cho mình hoặc nó sẽ đưa mình đến tận đâu.
Từ biển lặng đến sóng gió.
Không chút do dự, các tông đồ chấp nhận qua bờ bên kia, thậm chí họ còn có sáng kiến chuẩn bị nữa. Lúc khởi hành, mọi sự diễn ra suôn sẻ. Biển hồ yên lặng. Họ là những tay chèo giỏi. Chúa Kitô nằm ngủ ở mạn thuyền.
Rồi gió nổi lên. Đó là giông bão. Các môn đệ hoảng hốt. Từ đáy lòng họ la lên: “Lạy Thầy, chúng con chết mất!”
Sự kiện này có thể áp dụng vào chính cuộc sống của chúng ta. Nhiều lần chúng ta phải đáp lại những lời mời gọi của Thiên Chúa. Không thể nghi ngờ thiện chí của chúng ta: Như các môn đệ, chúng ta thưa vâng trước những tiếng gọi này. Nhưng việc thực hành những gì tiếng gọi ấy đòi hỏi thường có vẻ khó khăn và gắt gao hơn ta tưởng. Các khó khăn nhất thiết sẽ xảy đến. Chúng rất thường nhiều hơn và lớn hơn điều ta dự tính.
Thế giới này trong đó chúng ta sống cũng giống như mặt biển động vậy. Sống đạo trên một mặt biển như thế không dễ dàng, không đơn giản! Không dễ dàng lớn lên về mặt Kitô hữu trong một xã hội như xã hội của chúng ta, đang loan truyền đủ mọi thứ khác trừ sứ điệp của Chúa Kitô và lôi cuốn đến mọi nơi khác trừ những con đường của Tin mừng.
Lúc đó ta bị cám dỗ buông xuôi hết. Trở thành những kẻ không dấn thân. Không đi nhà thờ nữa, chỉ còn sống cho mình, chỉ còn mang tên là tín hữu mà thôi. Người ta vớt vát cho bộ mặt bên ngoài nhưng trong lòng thì không còn gì nữa.
Phải làm một hành vi đức tin.
Giữa cơn giông tố, các tông đồ có ý tưởng rất hay là quay về với Thầy mình và cầu cứu Ngài. Kết quả thật lạ lùng. Chúa Kitô ra lệnh cho biển. Biển lặng như tờ. Ngài trách họ: “Sao lại sợ? Tại sao các con không có lòng tin?”. Phản ứng của các môn đệ có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Thay vì kêu lên: “Lạy Chúa, chúng con tin”, họ lại tự hỏi: “Ngài là ai mà ngay cả đến phong ba và biển cả cũng phải vâng phục Ngài”.
Không phải một sớm một chiều mà ta có được một niềm tin vững chắc và sâu xa. Cần thời gian. Phải trải qua nhiều kinh nghiệm trong cuộc đời làm Kitô hữu.
Ba điểm cần nhớ.
Những gì cần nhớ trong bài Tin mừng hôm nay có thể tóm tắt trong ba điểm:
Một là: Đừng sợ qua bờ bên kia. Đây là một điều kiện phải có để lớn lên. Khi cứ ở lại mãi trên bờ yên tĩnh của thế giới bé nhỏ an toàn của mình, người ta không bao giờ trở thành một Kitô hữu biết nhìn xa thấy rộng được. Chúa Kitô luôn luôn mời gọi đi xa hơn, cao hơn.
Hai là: Đừng ngạc nhiên về những khó khăn gặp phải khi muốn sống một cuộc đời Kitô chân chính. Biển động là thành phần của cuộc sống ấy, đó là dịp để tiến bộ.
Ba là: Không nghi ngờ về sự hiện diện và quyền năng của Chúa Kitô. Ngài ở với chúng ta. Cùng với Ngài, chúng ta luôn luôn tới được những bến bờ khác. Chính Ngài đã đi qua cái chết …. và đã tới bờ của một cuộc sống mới. Những lần chúng ta phải đi từ bờ bên này sang bờ bên kia trong cuộc sống hàng ngày đó là chúng ta được chuẩn bị cho cuộc vượt qua cuối cùng.
Coi chừng những cuộc sống Kitô quá yên ổn, quá an toàn. Chúa Kitô chờ đợi chúng ta trên biển động. Thường thường đó chính là nơi mà Ngài tự mặc khải cho chúng ta cách mạnh mẽ. Và chính ở đó, ở ngoài khơi mà rất thường đức tin của chúng ta có thể được thức tỉnh hơn hết và có thể lớn lên.
Trên con đường theo Chúa Giêsu, mặc dù các môn đệ đã được Người đào tạo, dậy dỗ, uốn nắn…các ông vẫn chưa hiểu gì về đường lối của Chúa: Người đã giảng dậy, đã làm nhiều phép lạ nhưng các môn đệ vẫn sống trong sự mờ ảo của cuộc sống, các ông vẫn chưa làm sao hiểu được ý của Thầy Giêsu. Do đó, đã có lúc các ông tưởng Thầy mình là ma, đã có lúc các ông lánh xa Chúa, đã có lúc các ông phản ứng lại những lời nói, cách sống, cử chỉ, thái độ của Thầy mình. Đức tin của các môn đệ nhiều lúc tưởng như lu mờ, hay nói một cách khác các ông chưa có lòng tin. Tin Mừng Mc 1, 35-41 là một bằng chứng nói lên quyền năng vô biên của Chúa giống như sách Gióp khẳng định:” Chỉ Thiên Chúa là Đấng sáng tạo quyền năng, chủ tể muôn loài, muôn vật, chủ tể mọi sự”. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho sóng to, gió lớn phải im bật nói lên quyền uy của Chúa. Đáng lẽ các môn đệ phải vui mừng vì Thầy có quyền năng khiến gió to, biển động im hơi lặng tiếng, các môn đệ lại hoảng hốt sợ sệt. Chúa Giêsu đã phải lên tiếng:” Sao nhát thế ? Anh em chưa có lòng tin sao ?”.
CÁI TRỚ TRÊU CỦA CÁC MÔN ĐỆ
Theo Chúa gần ba năm, các môn đệ đã được Chúa dậy bảo nhiều điều: Người đã nói thực tế, đã làm những phép lạ, đã dùng những dụ ngôn, những ví dụ xẩy ra chung quanh các môn đệ để làm sáng tỏ lòng tin của các ông, nhưng các ông vẫn còn u tối, các ông vẫn chưa cảm nghiệm được quyền năng và tư cách thần linh của Chúa Giêsu. Các môn đệ luôn tỏ ra không hiểu hay tỏ ra hiểu lờ mờ về Thầy mình. Các ông luôn mơ tưởng đến việc Chúa Giêsu sẽ khôi phục lại nước Israen và rồi các ông được ăn trên ngồi trốc trước mọi người khi Chúa Giêsu đăng quang làm vua theo ý nghĩ trần gian của các ông. Điều đó không lấy gì làm lạ khi phép lạ hôm nay xẩy ra. Bối cảnh phép lạ được Chúa Giêsu thực hiện vào một buổi chiều trên biển hồ. Thuyền của các môn đệ rời bến để qua bờ bên kia. Chi tiết này giúp chúng ta hiểu phép lạ diễn ra trong đêm. Chúa Giêsu ngồi ở đằng lái, gối đầu mà ngủ. Bỗng gió to, sóng lớn nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Các môn đệ hoảng hốt, xôn xao, nhốn nháo đánh thức Chúa: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo sao ?”(Mc 4, 38). Chúa Giêsu liền can thiệp bằng một lời và chỉ một lời truyền của Người: “Im đi ! Câm đi !”(Mc 4,39). Gió liền im. Biển lặng như tờ. Điều làm chúng ta ngạc nhiên không phải là phép lạ, nhưng là cách Chúa Giêsu thực hiện phép lạ: “Tại sao Chúa biết trước sẽ có cuồng phong, biết trước việc Người sẽ làm?. Tại sao Người không can thiệp liền, tại sao Người cứ gối đầu mà ngủ?
Thực ra khi gió to, biển động, sóng gào, các môn đệ xốn xáo, chạy lại đánh thức Chúa dậy, các ông xin Chúa can thiệp hai điều xem ra như là một tối hậu thư: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi”. Điều thứ hai: “Thầy chẳng lo gì sao?”. Câu nói thứ hai của các môn đệ hàm ý sao Thầy vô tư quá, chúng con sắp chết mà Thầy cứ tỉnh bơ ngủ say. Chúa Giêsu đã trả lời cả hai điều các môn đệ yêu cầu. Điều thứ nhất, Chúa truyền cho biển yên, gió lặng. Điều thứ hai, Người khiển trách: “Sao nhát thế? Anh em chưa đủ đức tin hay sao?” (Mc 4, 40). Cái trớ trêu hầu như khờ khạo của các môn đệ ở chỗ Chúa luôn có mặt, luôn hiện diện dù Người đang ngủ, Người hay biết mọi sự nhưng các môn đệ đâu có nhận ra điều ấy. Vậy, khi Người khiếm diện, khi Người không có mặt ở đấy, các môn đệ sẽ ra thế nào!: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”(Mc 4, 40). Anh em để đức tin ở đâu ? Ở đây, trong tình huống này, các môn đệ có thể nghĩ đến những can thiệp của Thiên Chúa đối với số mệnh của dân tộc các ông. Thiên Chúa đã cứu thoát cha ông của các ông, đã giữ lời Giao Ước của Ngài cho dù có lúc Thiên Chúa hầu như im lặng. Thiên Chúa đã không bỏ rơi dân tộc. Bốn mươi năm sau, dân lưu đầy bên Ai Cập đã được Thiên Chúa giải thoát, đoàn người lưu đầy kéo về Giêrusalem được thanh luyện và lớn lên trong thử thách.
CHÚA MỜI GỌI CÁC MÔN ĐỆ VÀ NHÂN LOẠI TIN VÀO CHÚA:
Đối diện với quyền lực của sự dữ, của ma quỷ vì theo não trạng của người Do Thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Các môn đệ cuống quýt đã quên cả lòng tin của mình vào Chúa Giêsu. Vậy phải chăng Tin Mừng hôm nay mời gọi con người, nhân loại hãy tin vào Chúa, hãy bám chặt lấy Chúa, hãy tin vào uy quyền tuyệt đối của Chúa trên mọi loài, mọi vật, mọi sự. Tiếng la hoảng hốt của các môn đệ trước trận cuồng phong bão táp, phải chăng đang là thử thách của con người, của mỗi người khi họ gặp cơn cám dỗ, gặp sự thử thách gian nan giữa cuộc đời, giữa hành trình đức tin đầy cam go ? Liệu Chúa có bỏ con người hay con người chỉ ngờ ngợ, yếu tin chưa có lòng tin mạnh mẽ và gắn chặt vào Chúa Giêsu ? Chúng ta hãy đọc lại nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy nhiều lòng tin làm ta ngạc nhiên. Và khi ta tin thật sự vào Chúa, chắc chắn sự an bình sẽ đến với chúng ta. Thiên chúa không ở xa ta, Ngài ở bên ta, Ngài yêu thương ta, Ngài sẵn sàng can thiệp vào mọi biến cố của đời ta. Nhưng chắc chắn chúng ta cũng có thái độ như các môn đệ hoảng hốt, như ông Môsê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3,1), như ngôn sứ Isaia khi nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa trong đền thờ (Is 6,5). Tất cả đều tùy thuộc vào lòng mến và vào sự phó thác tuyệt đối của mỗi người chúng ta trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn bám chặt lấy Chúa vì Chúa là Đấng uy quyền và hay thương xót.
Mấy người có được một cuộc sống hoàn toàn phẳng lặng, không gặp khó khăn trở ngại gì đáng kể, không bị phong ba bão táp cách này cách khác. Dường như thân phận con người gắn liền với khổ đau, bệnh tật, tai ương, trắc trở. Muốn tránh cũng không khỏi, muốn chạy cũng không thoát!
Vậy giữa sóng gió cuộc đời, chúng ta phải ứng xử và đối phó như thế nào? chúng ta có thể cậy dựa vào đâu? chạy đến với ai?
Các bài Thánh Kinh hôm nay đưa ra cho chúng ta một gợi ý: người mà chúng ta có thể tin tưởng, chạy đến và kêu cứu là THIÊN CHÚA, là CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ! Chúng ta hãy dành thời gian đọc và suy niệm ba bài Thánh Kinh hôm nay để có được sự cậy trông vững vàng trong mọi gian nan thử thách của cuộc đời.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: G 38,1.8-11: Đây là nơi các dợt sóng cao phải vỡ tan tành.
1 Bấy giờ, giữa cơn bão táp, ĐỨC CHÚA lên tiếng trả lời ông Gióp như sau: 8 Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, 9 khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân? 10 Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài; 11 rồi Ta phán: "Ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa, đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành! "
(2) Bài đọc 2: 2 Cr 5,14-17: Cái cũ đã qua, cái mới đã có đây rồi.
14 Thưa anh em, tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người, thì mọi người đều chết.15 Đức Ki-tô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình. 16 Vì thế, từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Ki-tô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa.17 Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 4,35-41: Đức Giê-su dẹp sóng gió (Mt 8,23-27; Lc 8,22-25)
35 Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Chúng ta sang bờ bên kia đi!" 36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người. 37 Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. 38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: "Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? " 39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: "Im đi! Câm đi! " Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. 40 Rồi Người bảo các ông: "Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” 41 Các ông hoảng sợ và nói với nhau: "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? "
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (G 38,1.8-11) là câu trả lời cho những thắc mắc của ông Gióp trước những khó hiểu và bí ẩn của một cuộc đời đầy đau khổ như cuộc đời ông. Lời Chúa muốn ông Gióp hiểu ra là bất cứ khổ đau nào cũng có giới hạn của nó, và trên tất cả những thăng trầm, sóng gió của cuộc đời vẫn có Thiên Chúa là Đấng làm chủ mọi sự. Phó thác, cậy trông vào Người, ông sẽ không bao giờ phải thất vọng!
(2) Bài đọc 2 (2 Cr 5,14-17): là một đoạn của thư thứ hai gửi tín hữu Cô-rin-tô trong đó Thánh Phao-lô nhắc lại việc Chúa Giê-su đã chết để cứu chuộc nhân loại và để biến đổi con người thành một tạo vật mới. Nhận thức được điều ấy sẽ dẫn tới hai hệ quả sau:
* Thứ nhất là vững lòng tin tưởng cậy trông (vào Đấng đã chết cho mình) trước và trong mọi biến cố của cuộc sống;
* Thứ hai là không sống cho chính mình nữa mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình (là Chúa Ki-tô Giê-su); không sống cho chính mình nữa mà sống cho tha nhân theo gương Chúa Giê-su Ki-tô.
(3) Bài Tin Mừng (Mc 4,35-41: là tường thuật của Phúc Âm Mác-cô về một lần Chúa Giê-su cùng với các môn đệ vượt Biển Hồ sang bờ bên kia vào một buổi chiều. Điều đáng nhớ và được Thánh Mác-cô làm nổi bật trong câu truyện này là cuồng phong sóng to gió lớn trên mặt biển đã tan ngay khi Chúa Giê-su ra lệnh: “Im đi! Câm đi!” khiến các môn đệ hết sức kinh ngạc và nói với nhau: "Vậy Người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? "
Hơn nữa trong suy nghĩ và ý hướng của Thánh Mác-cô khi viết lại câu truyện này thì chắc chắn ngài muốn nhắn gửi các tín hữu của Giáo hội thời sơ khai (và mọi thời) là hãy vững tâm và tin tưởng chạy đến với Chúa Giê-su dù con thuyền Giáo hội có gặp phong ba bão táp là những thù nghịch hay bắt bớ, bách hại cách này cách khác từ các thế lực do Xa-tan điều khiển.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là:
* Thiên Chúa làm chủ mọi biến cố của cuộc đời.
* Chúa Giê-su Ki-tô không chỉ là Đấng làm chủ cả biển rộng nước sâu và phong ba bão táp (1) mà còn là Đấng đã tự nguyện chết cho nhân loại.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Vì thế sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là tin tưởng, cậy trông, phó thác cách tuyệt đối vào Thiên Chúa, vào Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta (2).
Trong cụ thể mỗi người, mỗi cộng đoàn cần nhìn lại thái độ và cách hành xử của mình, xem mình có thật sự và tuyệt đối tin tưởng, cậy trông, phó thác vào Thiên Chúa, vào Chúa Ki-tô không?
Cách kiểm chứng dễ nhất là xem trước những khó khăn, trở ngại, khổ đau mình nghĩ tới ai đầu tiên và chạy tới đâu trước hết? Có phải là Thiên Chúa không? hay là ông thày tướng, bà thày bói hoặc là những người có chức, có quyền, có tiền có thể giúp mình thoát khỏi tình trạng bế tắc?
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha và là Đấng Quan Phòng đầy quyền năng và yêu thương trên vũ trụ vạn vật và trên chúng con. Thế nhưng chúng con yếu tin biết chừng nào đối với sự Quan Phòng của Cha! Xin Cha đừng chấp sự yếu tin của chúng con và xin ban thêm sức mạnh cho chúng con được mỗi ngày một tin vững vàng hơn.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã được Cha tôn vinh làm Chúa Tể, làm Vua vũ trụ vạn vật và loài người. Chúa lại đã chết vì chúng con. Thế nhưng chúng con thiếu lòng tin, cả đối với quyền năng của Chúa, cả đối với tình thương của Chúa. Xin Chúa đừng chấp sự yếu tin của chúng con và xin cho chúng con cảm nhận được là Chúa luôn ở bên chúng con và đồng hành với chúng con.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng đổi cũ thành mới, đổi yếu thành mạnh, đổi nhát thành gan, đổi sợ hãi thành can đảm. Xin Chúa hãy ngự trị tâm hồn và cuộc sống chúng con để chúng con có thể tin tưởng, phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa là Chúa yêu thương và quyền phép vô cùng vô tận. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Sàigòn ngày 18.06.2006
------------------------------------
Chú thích:
(1) Theo quan niệm thông thường của những người Ít-ra-en thì núi non là nơi Thiên Chúa ngự trị; còn biển cả nước sâu là thế giới của ma quỷ. Chúa Giê-su dẹp tan sóng gió và đi trên mặt nước (x. Mt 14,22-23; Mc 6,45-52; Ga 6,16-21) có nghĩa là Chúa Giê-su đã chiến thắng và thống trị toàn thể vũ trụ vạn vật, kể cả ma quỷ và thế giới riêng của chúng.
(2) Xin đề nghị đọc đi đọc lại và suy niệm đoạn Phúc Âm nói về tin tưởng vào Chúa Quan Phòng: Mt 6,25-34 và Lc 12, 22-32.
Trong suốt các năm phụng vụ, chỉ có 2 lần trích đọc sách Job. Hôm nay và Chúa nhật 5 TN B. Tuy: TN12 B-15
Trong suốt các năm phụng vụ, chỉ có 2 lần trích đọc sách Job. Hôm nay và Chúa nhật 5 TN B. Tuy nhiên, ông Gióp là gương mặt quen thuộc của Kinh Thánh. Ngay cả những ai ít khi ngó tới Kinh Thánh thì ngôn ngữ và hình ảnh của ông cũng là điều không mấy xa lạ. Mỗi khi linh hồn nào chịu đựng thử thách nặng nề, người ta thường so sánh với ông Gióp và nói: “Nạn nhân đang phải gánh chịu số phận của Gióp”. Như vậy, ngoài việc họa hiếm mới gặp bản văn sách Gióp và gương mặt của ông, hôm nay chúng ta có cơ hội tốt để suy niệm về ông, số phận của ông và các vấn đề khác thuộc nội dung cuốn sách, chứ không riêng chỉ những bất hạnh mà ông gặp phải. Từ đấy chúng ta rút ra những bài học quý giá cho đời sống thiêng liêng của mình.
Theo lệ thường hai bài đọc đầu của thánh lễ được chọn để sửa soạn cho bài Phúc âm. Chúng có liên qua phần nào đến sứ điệp của Tin mừng. Như vậy chắc chắn bài đọc sách Gióp có chút soi sáng cho bài Phúc âm. Khi thừa tác viên khởi đầu với câu: Trích sách Gióp. Chúng ta liên tưởng ngay tới những đau khổ ông sẽ gánh chịu. Nhưng nội dung bài đọc lại không phải như vậy. Và cũng chẳng nói chi đến thân thế ông Gióp. Ong có được nói tới thì cũng như kẻ thụ động lắng nghe. Chúng ta hãy coi lại bài đọc: “Bấy giờ, giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời: Cửa đại dương ai ra tay khép lại ? Khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân ?” Có đụng chạm gì đến ông Gióp đâu ? Bản văn hình như lạc đề. Ong Giób bất quá là chịu trận, lắng nghe Thiên Chúa dạy bảo. Vậy thì làm sao chúng ta liên hệ được với bài Tin mừng ? Ý tưởng nào được đề cập đến ở đây ? Cứ theo như bố cục, thì đoạn văn này ở chương 38 tức phần cuối của cuốn sách: Thiên Chúa trả lời ông Gióp. Sau một hồi lâu, Ngài lắng nghe các lý luận của nạn nhân và các bạn hữu, dài tới 37 chương, lúc này Ngài xuất hiện ở giữa hiện trường và bộc lộ kế họach của mình. Xin lưu ý hoàn cảnh Chúa hiện hiện và cất tiếng nói: “Bấy giờ giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp…”. Bão táp có ý nghĩa gì với ông Gióp lúc này ? rõ ràng ông đang chịu nhiều cơn bão táp hành hạ, tài sản tiêu tán, con cái chẳng còn, mình đầy lở chốc, bạn bè xúi bẩy nói phạm đến Thiên Chúa, ngay cả vợ ông cũng xỉ nhục ông. Chỉ còn cơn bão táp khác, cơn bão táp thần thánh mới có thể vực ông dậy. Đó là cái khéo léo của sự khôn ngoan Đông phương khi dùng hình ảnh cụ thể. Vậy bão táp ở đây không có nghĩa vật lý. Nó có ý nghĩa thiêng liêng. Nó biểu hiện sự có mặt của Thiên Chúa. Ngài xuất hiện để dẹp yên các bão táp cho tôi tớ mình là Gióp.
Vậy nếu cứ thu hẹp cái nhìn vào bản văn hôm nay, chúng ta dễ rơi vào phiến diện, từc chỉ có ấn tượng về sự vĩ đại và vẻ đẹp của tạo vật: “Cửa đại dương ai ra tay khép lại ?” Thực ra, vấn đề rộng lớn hơn nhiều. Thiên Chúa bày tỏ kế hoạch của Ngài cho ông Gióp hay. Ong vốn là người công chính, tốt lành, đạo đức và giàu có. Tất cả những thứ mà quan niệm Do thái ao ước. Satan thách đố Thiên Chúa đưa ông vào thử thách để minh chứng lòng trung thành của ông. Nó nói, nếu Ngài không ban những ơn phước như vậy, thì Gióp hay bất cứ ai, chẳng thể vâng lời và thơ phượng Ngài. Thiên Chúa đồng ý cho Satan đưa Gióp vào thử thách. Thế là hết tai họa này đến tai họa khác đổ xuống đầu ông Gióp và gia đình ông: “Một ngày kia, các con trai, con gái ông đang ăn tiệc uống rượu nhà người anh cả, thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp…dân Sơ va đã xông vào dùng gươm giết chết, chỉ còn mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay. Người ấy còn đang nói, thì một người khác về thưa: Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đốt cháy chiên dê và đầy tớ ông…người ấy còn đang nói…” đến nỗi thân xác ông cũng không còn an toàn, đầy những ghẻ chốc, ròi bọ thối tha. Các bạn hữu ông cho là ông đã phạm tội gì ghê gớm nên mới bị phạt. Ông phải xin Thiên Chúa thứ tha.
Nhưng ông Gióp khăng khăng nói mình vô tội. Ong ta bị phạt không phải vì sự dữ đã làm. Nhưng vì một lý do nào khác mà ông không rõ. Ông cương quyết từ chối xúc phạm đến Thiên Chúa, mặc dầu nỗi đau quá lớn. Ông khát khao được chết. Ông ngồi trên đống tro mà than vãn, xin Thiên Chúa chứng giám những bất công xẩy đến cho mình. Ôg đâu có làm chi nên tội ? Vậy tại sao những khốn đốn này ? Ông không hiểu và chúng ta cũng không hay. Tuy nhiên, theo gương mẫu của ông, chúng ta được phép nêu lên những thắc mắc của mình. Tại sao những khổ đau này ? tại sao những bất công trắng trợn ? Thế giới bưng tai bịt mắt trước những thống khổ của kẻ vô tội, không phương tiện tự vệ ? Tại sao ôm bom tự sát giết hại hàng trăm hàng chục dân thường ? Tại sao kẻ ăn không hết, người lần không ra ? Môn đệ của Chúa Giê Su phải là tiếng nói của những ai thấp cổ bé miệng. Ngôn từ của Gióp phải dóng lên chống lại thế giới đang có khuynh hướng bóp nghẹt sự giận dữ của dân lành.
Sách Gióp đầy dẫy những lời khuyên bảo và dạy dỗ. Tuy nhiên nó chưa thỏa mãn những vấn nạn của chúng ta về màu nhiệm đau khổ của thế giới. Cái trở ngại lớn nhất giúp người ta tìm đến dức tin vào Thiên Chúa, là tại sao Ngài cho phép cay cực xảy ra cho những linh hồn vô tội ? Cuốn sách đặt ra vấn nạn, nhưng lại không trả lời rõ ràng. Các bạn của ông bảo thủ não trạng cũ, cho rằng ông chịu khổ là vì đã phạm tội. Nhưng Gióp nhất mực từ chối, khẳng định mình vô tội. Và khi bênh vực mình như vậy, ông đã trút giận lên Thiên Chúa, Đấng từng là bạn hữu với ông. Tại sao ông gánh chịu tai họa mà không có lý do ? Ngày nay chúng ta cũng vẫn thắc mắc như vậy trước những đau khổ của các kẻ lành thánh, như của các trẻ sơ sinh, người khuyêt tật từ tấm bé, thường dân bị giết hại…
Bài đọc hôm nay là câu Thiên Chúa trả lời. Nhưng thay vì trực tiếp đề cập đến các tai họa, thì Ngài đưa ra lý luận khác: Gióp hãy nhìn vào quyền năng sáng tạo của Ngài, suy gẫm cho kỹ những kỳ công Ngài thực hiện trong vũ trụ ! Gióp ở đâu khi Ngài tạo dựng càn khôn ? Đặt ranh giới cho các sông ngòi, biển cả ? Trả lời những câu hỏi ấy, Gióp sẽ nhận ra thân phận của mình và sự quan phòng của Thiên Chúa trên cuộc đời ông. Ông tự khám phá ra ý nghĩa các thử thách gánh chịu. Đoaon văn bày tỏ thẩm quyền của Thiên Chúa trên tạo vật và vũ trụ. Ngài hoàn toàn tự do trong kế hoạch và hoạt động. Gióp là ai mà dám thách thức phán quyết của Ngài ? Cho nên đứng trước thẩm quyền ấy, Gióp chỉ còn biết chấp nhận. Mà ông nên học qua kinh nghiệm là tin cậy vào Thiên Chúa, chứ đừng tìm giải nghĩa thỏa đáng. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa ai dò cho thấu. Thượng trí của Ngài ai có khả năng lượng định ? Vậy thì tính hợp lý trong vấn đề này ở đâu ? Không có câu trả lời. Chúng ta được mời gọi chấp nhận đức tin, chứ không phải tính hữu lý. Nói gọn lại, tất cả những gì Gióp nói ra và các ý kiến của bạn hữu ông được Thiên Chúa đáp trả nhẹ nhàng. Ngài không nghiêm khắc với ông. Điều này khích lệ chúng ta bày tỏ nỗi niềm của mình khi gặp gian nan khốn khó. Nó cho chúng ta cơ hội để tin cậy Ngài, sống thân tình với Ngài và bị lôi kéo vào các màu nhiệm thẳm sâu.
Một câu hỏi khác cũng được nêu ra hôm nay, là tại sao chúng ta phụng thờ Ngài ? Có phải về phe với Ngài để tránh các tai họa ? Động lực chúng ta phục vụ Ngài là gì ? Ích kỷ hay vô vị lợi ? Có phải chúng ta tôn kính Thiên Chúa toàn năng bởi vì Ngài khép cửa đại dương…. giăng mây làm áo nó mặc ? Tức phục vụ Ngài trong tinh thần sợ hãi và nô lệ ? Hay ngược lại, chúng ta yêu mến và thờ phượng Ngài như con người trưởng thành, ý thức những việc mình làm. Chúng ta không mù quáng khi chứng kiến sự dữ xảy đến cho nhân loại. Chúng ta tin chắc Ngài không phải là nguyên nhân phát sinh ra những thứ đó. Chúng ta tích cực làm việc để xóa sổ sự dữ khỏi môi trường sống của con người, (xin đọc lại bài tội lỗi và sự dữ của Lm Túy, OP). Chúa Giê su trong Phúc âm hôm nay quát mắng biển cả giận dữ, làm cho nó im lặng, là dạy cho loài người bài học đó. Quý vị chẳng thể làm được như Ngài, chẳng thể thỏa mãn mọi thắc mắc về khổ đau của con người. Chẳng thể giải thích tại sao Thiên Chúa xem ra vắng mặt khi chúng ta gặp gian nan thử thách. Nhưng Gióp giúp đỡ thấu hiểu những nội dung sâu xa hơn trong kế hoạch của Thiên Chúa. Tham dự thánh lễ mỗi Chúa nhật cũng là nhằm mục tiêu ấy.
Như vậy bài đọc 1 và 3 trợ giúp nhau để chúng ta hiểu ra chương trình của Đấng Tối Cao. Chúa phán với ông Gióp trong gió bão, dạy dỗ ông những lẽ khôn ngoan. Các Tông đồ cũng gặp bão táp trên biển cả. Cuộc đời các ông cũng gặp nguy hiểm thuyền chìm và Chúa Giê su đã cứu vớt, ban cho các ông bình an và sự sống. Chúng ta nhận ra sự song song giữa sóng gió vật lý và vật lộn tinh thần. Có lẽ thánh Marcô viết Phúc âm để trấn an cộng đoàn của ông, đang gặp bách hại và chúng ta ngày nay cũng được hưởng Phúc âm ấy khi khó khăn nổi lên, bề ngoài cũng như trong tâm hồn.
Các Tông đồ được kinh nghiệm quyền năng của Chúa Giê su trên bão táp và biển cả. Nhưng bài học không dừng ở đó. Thiên Chúa không những tạo dựng nên các sức mạnh ấy mà còn toàn quyền điều khiển chúng. Ngài không những tạo thành biển cả mà còn đủ khả năng cứu vớt con người khỏi chết chìm. Đam mê dục vọng của lòng người cũng nằm trong quyền năng của Thiên Chúa. Vậy chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng, nhưng hãy kiên trì tin tưởng vào sự trợ giúp của Ngài. Ngài chẳng hề bỏ rơi một ai. Câu truyện của Thánh Marcô hôm nay mô tả Chúa Giê su cũng có quyền bính tương tự. Lời của Ngài khiến biển im, gió lặng. Các Tông đồ cập bến bình an. Có lẽ Thánh Marcô cũng muốn cho chúng ta biết Chúa Giê su không những quát mắng các cơn bách hại đổ trên Giáo hội tiên khởi, cứu giúp các tín hữu đang khiếp sợ. Nhưng Ngài còn tiếp tục đe dọa các cơn bão táp của chúng ta hôm nay, quát mắng những chia rẽ, bất hòa trong Giáo hội, địa phương cũng như hoàn vũ. Ngài chẳng thiếp ngủ giữa Hội thánh, trái lại hoàn toàn tỉnh thức để nắm bắt các nhu cầu của chúng ta. Mỗi khi chúng ta kêu lên vì sợ hãi: “Thày ơi, chúng con chết mất.” Ngài liền đáp lại: “Ta đây, Ta vẫn ở với các con với đầy đủ quyền năng của Đấng Tạo hoá, đừng sợ.” Và giống như Gióp, chúng ta đối mặt với những khó khăn, tin tưởng Ngài hằng ở trên thuyền với mình. Liệu còn tương lai nào tươi sáng hơn ? Amen
Những ngày tháng 5 năm nay, do sai lệch tin dự báo và bị lạc giữa cơn bão Chanchu kinh hoàng, cả hàng trăm ngư dân ba tỉnh miền Trung đã chết và mất tích. Những gì người sống sót kể lại, từ việc chống chọi với sức tàn phá ghê rợn của cơn bão, từ những quyết định sống còn do kinh nghiệm nghề đi biển cho đến những chi tiết như tất cả đều vừa làm hết sức mình, vừa khóc, bởi thấy những chiếc thuyền sao mà bé nhỏ đến thế giữa đại dương đang sục sôi, bởi nhìn phận con người sao èo uột vô nghĩa đến thế giữa sức mạnh thiên nhiên và cái chết gần như nắm chắc trong tay.
Ý thức số phận vô cùng mong manh của mình, nhưng vẫn không tuyệt vọng, vẫn mong được sống, được nhìn lại người thân: sự sống mới đẹp làm sao ! Những giọt nước mắt mới đẹp làm sao ! Những khi ấy, nhớ đến bài đọc hôm nay, mới thấy các môn đệ – và Ki-tô hữu chúng ta – đúng là miệng hùm gan sứa: Biển Hồ của vùng đất Palestine so với Biển Đông và Thái Bình Dương, thì chỉ như cái... hồ nước nhỏ và bão ở Biển Hồ cũng chỉ là những cơn gió mạnh, sánh thế nào được với những cơn cuồng phong như Kinda, Katrina, Chanchu, v.v... !
Khó khăn, mệt mỏi trong cuộc đời, sánh làm sao được với sợ hãi, cô đơn, lầm than nơi những anh em của chúng ta đang chịu đựng đủ mọi thử thách gian truân trong những tình thế ngặt nghèo bi quan nhất ! Nhưng có một điều giống nhau ở trong hoạn nạn: ấy là sự hoang mang lo lắng và sợ hãi của con người, của những người trong cuộc. Và người ta bám víu vào bất cứ ai, bất cứ gì mạnh mẽ, vững chắc hơn họ, hay ít ra họ cho là như thế ! Điều khác biệt, chính là cách nghĩ, cách làm: Có những người “biết” tuyệt vọng, sớm tuyệt vọng buông xuôi; có những người thì không ! Họ chỉ biết phải vươn lên, phải vượt qua, phải chiến thắng !
Những ngày qua, chưa phải vào mùa lũ lụt, mà báo chí đã đăng tải những vụ chết đuối thương tâm của nhiều học sinh nam nữ đủ lứa tuổi. Nhưng còn hơn thế nữa, ấy là những vụ “chết đuối” giữa cuộc đời – theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng – của năm cháu nữ sinh đã dùng khăn quàng đỏ buộc vào nhau mà trầm mình: các em thấy cuộc đời đầy phong ba thử thách, mà không tìm ra được một điểm tựa cho cuộc đời.
Những suy nghĩ ấy có thể đầy sai lạc, ích kỷ và ấu trĩ, song chắc chắn không thể là bột phát, mà phải đã âm ỉ bức xúc nhiều tháng ngày. Ngạc nhiên thay: không có đứa trẻ nào mất cha, mất mẹ trong cơn bão Chanchu hay bão Linda, mà cuộc đời và tương lai bỗng phút chốc hoá ra tối tăm, mịt mù, lại đi trầm mình tự vẫn hay tuyệt vọng buông trôi. Không có một đứa trẻ nào sinh ra tật nguyền, bị bệnh tật hoặc tai nạn sinh ra tàn phế, mà đi tìm cái chết để tự... giải thoát.
Báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần ra ngày 16.6.2006 viết về một thanh niên tật nguyền – Nguyễn Công Hùng – đến mức chẳng còn tật nguyền hơn được, cả thân mình chỉ nặng 12 kí-lô, song suy nghĩ khiến người đọc giật mình: ”Em không có gì phải buồn vì mình sinh ra run rủi gặp cảnh tật nguyền, chứ có ai xui mình trở thành người dị dạng đâu. Con người chỉ khác nhau ở chỗ làmđược việc gì và giúp được gì cho mọi người. To khoẻ mà lêu lổng, nghiện hút thì có nghĩa gì. Vì thế em đã không hề nản chí !”
Thế mới hay: ở tuổi nào, ở nơi nào, trong hoàn cảnh nào, con người cũng cảm thấy bất an và cần một điểm tựa cuộc đời, những thứ mà ngay cả các người thân nhất cũng không mang cho được, mà những tiện nghi vật chất cũng chẳng làm sao bù đắp cho. Trái lại, sự phong phú dư dật tiện nghi vật chất trong cuộc đời thường tỷ lệ nghịch với sự bình an chờ mong. Nước Nhật giàu có no đủ, nhưng thống kê năm 2005 có đến hơn 34.500 ca tự tử, chỉ đứng thứ ba sau Nga và Hungary. Nhưng đố ai tìm được một người ăn xin nghèo đói, rách rưới, dơ bẩn, vô gia cư, lại đi tìm cái chết vì những lý do vật chất vốn rất tối thiểu ấy mà họ vẫn chẳng có được.
Khi xem bộ phim Ý đoạt giải Oscar năm 2003: “Life is beautiful”, nhìn cảnh ông bố gốc Do Thái ngày ngày phịa ra hằng trăm câu chuyện, để nói dối với đứa con nhỏ, để che đi cảnh khốn cùng và chết chóc tuyệt vọng nơi trại tập trung Quốc Xã, mà sự sống sót ví ngang ảo tưởng, mà mạng người chỉ giữ được khi còn lợi ích cho công việc khổ sai, để che chở và gieo mầm hy vọng sự sống cho đứa con, người ta mới cảm nhận hết được nét kỳ diệu của Sự Sống và đó là ân sủng lớn lao Thiên Chúa ban cho.
Con có khóc, mẹ mới cho bú ! Người can đảm không phải là người không biết sợ, nhưng là người biết chế ngự và vượt qua nỗi sợ hãi trong... chính mình ! Cầu nguyện chính là tiếng kêu “đòi bú”, mà không ngồi đoán già đoán non là “Chúa hẳn phải thấy biết mọi sự”, để rồi bất bình, thất vọng. Tiếng khóc cũng như tiếng cười trong cầu nguyện, chính là lời cám ơn vì sự hiện hữu và hiện diện của chúng ta trước mắt Chúa, với tình cảm của những đứa con khi nào cũng thiếu thốn và khi nào cũng sẵn sàng... khóc xin bú ! Chúa chỉ chờ có vậy !
Lời cầu nguyện luôn phải là lời cầu cứu, vì không kêu cứu cũng đồng nghĩa với việc ta coi thường những cám dỗ, những thử thách linh hồn và cho rằng ta dư sức đương đầu. Một danh nhân đã nói: khi con người cảm thấy mình vững vàng nhất, chính là lúc sắp bị ngã đau; còn khi con người cảm thấy mình sắp té ngã, đó là lúc con người đang vững vàng nhất ! Cầu nguyện thật sự không bao giờ là nhu nhược ỷ lại.
Một hình ảnh rất đẹp trong thể thao và nhất là trong mùa World Cup này, đó là nhiều cầu thủ không quên làm dấu Thánh Giá khi ra sân, khi đưa được banh vào lưới đối phương, khi chấm dứt trận đấu thành công ( hoặc thiếu may mắn ): chắc chắn không phải vì yếu đuối hoặc nhụt chí ! Họ hiểu rằng: thân thể này, tài trí này, may mắn này, niềm vui này họ có được, không bao giờ do bản thân hay cha mẹ ban cho, mà chính là món quà to lớn của Thượng Đế, không phải ai cũng được ban. Vì thế phải làm sao để xứng đáng ! Vì vậy phải quy mọi sự về Người, như lời cảm tạ tri ân !
“Im đi ! Câm đi !” Chúa Giê-su trấn áp và dẹp tan mọi nguy biến trước, rồi mới quay lại trách cứ môn đệ. Người không trách các ông vì đã đánh thức Người và cầu xin, mà chỉ trách họ vì đã hoảng hốt, không tin, cho rằng “sắp chết đến nơi rồi”. Cầu nguyện mà không tin, thì chẳng khác nào làm chuyện mê tín dị đoan hoặc báng bổ.
“Im đi ! Câm đi !”: cũng là tiếng chúng ta cần la lên, để trấn áp cám dỗ hồ nghi sự hiện diện quan phòng của Chúa. Ma quỷ chỉ cần có vậy: làm cho ta bất an trong tâm hồn và nghi ngờ bản thân, để nghĩ rằng mình tội lỗi bất xứng với ơn lành Chúa và chẳng đáng để được Chúa ban ơn, nghĩa là... thôi cầu nguyện ! Sự “chìm xuồng” bắt đầu từ đó ! Ý nghĩ không tin nơi mình, thực sự là không tin nơi Chúa !
Bài ca con dâng lên Ngài hôm nay, lạy Chúa, là những thao thức khôn nguôi, là những dằn vặt khổ đau trong cuộc đời, của con thì ít, của anh em và của tha nhân, nhất là của những con người tật nguyền thể xác và tâm hồn thì chất ngất đầy dẫy và nặng nề.
Ngạn ngữ Hy Lạp có câu: “Thầy thuốc, hãy chữa lấy mình !” Đó cũng là câu thách thức mà Chúa đã nghe khi hấp hối trên Núi Sọ: ”Nếu mi là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá để chúng ta tin”. Đâu cần Chúa xuống khỏi thập giá, để chúng con tin: trái lại, đau thương tan nát của Chúa, chính là vị thuốc cho mọi tật bệnh của chúng con ! Bài ca ấy, lạy Chúa, chính một người khôn ngoan đạo đức như Đức Hồng Y Roger Etchegaray vẫn chẳng làm sao hiểu được, khi ngài sang thăm nước Việt Nam và nhìn cuộc sống đạo của các tín hữu Công Giáo: “Họ vẫn tươi cười, vẫn hát, cả trong tiếng nấc !” Và suy nghĩ của ngài quay về hình ảnh mà ngài có xa xưa, trong các cuộc thám hiểm leo núi: HOA NỞ TRONG KẼ ĐÁ ! Lời cầu nguyện bền bỉ, cậy tin trong nhọc nhằn, thất vọng, khổ đau, mớI chính là những đóa hoa nở ra từ kẽ đá!
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Tình Ca cho Người Được Yêu số 02
Đoạn Tin mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy các tông đồ đang ở vào một tình thế tuyệt vọng. Lời van xin của họ dường như bị sóng biển vùi lấp:
- Lạy Thầy, xin cứu chúng con.
Chúa Giêsu rất có thể lên tiếng trách cứ các ông:
- Bộ các con không hiểu rằng bao lâu Thầy còn ở với các con, thì không một tai ương hoạn nạn nào có thể xảy ra.
Thế nhưng lời van xin ấy lại rất bình thường và gần gũi với bản tính của chúng ta. Lời van xin xuất phát từ trái tim của một tạo vật nhỏ bé, như muốn xác quyết rằng: Vấn đề thật vô phương cứu chữa, chỉ mình Chúa mới có thể giúp đỡ.
Thế nhưng ngày hôm nay, liệu chúng ta có còn tìm thấy những lời van xin đầy tin tưởng và hy vọng như thế hay không? Nếu chúng ta hỏi những người lính chiến rằng: Vào những lúc nguy hiểm có bao giờ các bạn đã nghĩ tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Nếu chúng ta hỏi những người lái xe rằng khi xảy ra tai nạn có bao giờ các bạn nghĩ tới đời sau và xin Chúa phù trợ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Chiếc tàu Dora với một ngàn bảy trăm hành khách, chẳng may gặp nạn và chìm dần xuống biển, người ta đã ghi nhận được một cảnh tượng thật trái ngược trong thời điểm hoảng hốt đó. Các cô thì lo giữ lấy đôi giày của mình. Các bà thì lo giữ lấy những bộ áo của mình. Các ông thì lo giữ lấy ví tiền của mình. Chỉ có một em bé năm tuổi là đã quỳ gối cầu nguyện.
Ngay cả bản thân chúng ta cũng thế. Mỗi khi gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vùng vẫy, chúng ta kêu gào, chúng ta làm mọi cách để thoát khỏi tai ương hoạn nạn ấy, nhưng lại không biết mở miệng kêu xin:
- Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp con kẻo con chết mất. Chỉ mình Chúa mới có thể bảo đảm cho con được an toàn.
Chúng ta cũng giống như dân ngoại. Chẳng tìm thấy hướng đi cũng như ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Ngày xưa mỗi khi mất mùa đói kém giặc giã xảy ra, người ta kêu cầu Chúa:
- Lạy Chúa xin giúp đỡ con.
Người ta tổ chức những cuộc rước kiệu, những cuộc hành hương để kêu cầu Chúa. Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao?
Ngày hôm nay, người ta có rất nhiều phương tiện, chẳng hạn như thuốc trụ sinh, công ty bảo bảo hiểm, và người ta cảm thấy không còn cần đến sự trợ giúp của Chúa nữa. Và tệ hơn nữa, người ta muốn trục xuất Thiên Chúa ra khỏi những sinh hoạt cá nhân và xã hội. Người ta muốn thay trời vắt đất làm mưa. Người ta sống như không còn sự hiện diện của Ngài nữa.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới kết luận: Bao lâu Chúa Giêsu còn ở trong chúng ta thì không một tai nạn nào có thể xảy ra. Tuy nhiên con người thời nay lại không hiểu là như thế. Do đó, vấn đề cần phải đặt ra cho mỗi người, đó là Chúa Giêsu có thực ở trong thuyền đời chúng ta hay không. Tôi đã phản ứng và hành động như thế nào trong những hoàn cảnh đen tối. Tôi có biết hướng tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không? Đó là những câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự tìm lấy lời giải đáp.
Giai thoại bão táp yên lặng là một cơ hội tốt cho những ai ngã theo khuynh hướng “giải huyền thoại” trong phúc âm (khuynh hướng này ngày nay đã giảm). Để giản lược biến cố vào một sự kiện tự nhiên, họ chỉ cần tưởng tượng và rồi sau khi đã chiều theo sức ép của trí tưởng tượng, quả quyết rằng bão táp tự nó ngưng lại, vừa lúc Đức Giêsu ra lệnh cho biển; và như thế là do tình cờ. Có một loại não trạng tự gọi là khoa học, chủ trương ngay từ đầu chối bỏ mọi can thiệp của Thiên Chúa trong vũ trụ và giải thích một số sự kiện bằng một định kiến như thế thật dễ dàng. Trong trường hợp này chúng ta có thể bám vào lời này: Ở khởi điểm của truyền thống Phúc Âm, có thật là biến cố, nhưng liền được giải thích trong môi trường của Giáo Hội sơ khai, dựa trên một não trạng Kinh Thánh và một niềm tin vào sự “Sống Lại”(X.L. Dufour, Etudes d’Evangile, Paris, 1965).
Ưu tư của Giáo Hội sơ khai là minh chứng: Đức Giêsu có cùng một quyền năng trên tạo vật như Thiên Chúa (não trạng Kinh Thánh) và dẫn đưa người tín hữu đến một niềm tin nơi Đức Giêsu Phục Sinh, một niềm tin trọn vẹn, truyền giáo (Hãy sang bên kia bờ) và có khả năng đương đầu với mọi nghịch cảnh.
Giải quyết xong điều trên, câu chuyện bão táp yên lặng gợi cho chúng ta một vài suy nghĩ rất đơn sơ:
1) ‘Thưa Thày, chúng con chết mất mà Thày không quan tâm đến sao?’
Lời trách móc này cho thấy rõ sự mâu thuẫn giữa nỗi kinh hoàng của các môn đệ và sự yên tĩnh của vị Thày. Một bên sóng gió nguy hiểm, một bên Đức Giêsu vẫn ngủ. Biển hồ Giê-nê-sa-rét, như các biển hồ được núi đồi bao phủ khác, thường có những cơn bão táp đột ngột và dễ sợ. Con thuyền bị sa vào một trong các cơn bão táp như thế. Chúng ta hiểu Đức Giêsu sau một ngày trọn rao giảng mệt nhọc, đã ngủ thiếp đi. Các môn đệ không hiểu được sóng gió mạnh mẽ như thế, lại tràn ngập vào thuyền mà không làm cho Ngài tỉnh dậy. Họ không mường tượng được rằng: chỉ duy có sự hiện diện của Đức Giêsu với họ, đã là một sự bảo đảm an toàn vững chắc.
Họ có lỗi vì đánh thức thày dậy không? Chắc là không. Đó chỉ là phản ứng bình thường của con người hoảng hốt, sự yếu hèn của họ (nhưng họ chưa có niềm tin sau Phục Sinh) ở chỗ họ không đặt sự an toàn của mình nơi con người Đức Giêsu. Chúng ta cũng gặp phải những giây phút thử thách nghiêm trọng. Chúng ta không có lỗi khi kêu đến Thiên Chúa, khi đánh thức Người dậy. Chúng ta không thể chế ngự một số âu lo tự nhiên. Ít là chúng ta nên nhớ Đức Giêsu đang ở với chúng ta để giữ vững niềm tin của chúng ta.
2) Hình ảnh con thuyền gợi lên con thuyền Giáo Hội, theo như ngôn từ của các thánh phụ.
Trong thời đại của chúng ta, cũng như trong mọi thời đại, Giáo Hội tựa con thuyền bị lay động và cản trở mạnh mẽ do các lầm lạc, bách hại, thao túng của thế gian. Một vài lầm lỗi hình như xâm chiếm cả Giáo Hội. Những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi thuyền đầy nước. Điều này có lẽ tạo nên nỗi lo âu lớn nhất cho nhiều người ưu tú trong nhóm môn đệ Đức Kitô. Hãy nhớ rằng chỉ một lời của Chúa vào lúc ngài muốn, có khả năng cứu thoát tất cả. Ngài nói: “Im đi….”, tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Điều quan trọng là hãy giữ niềm tin cho sống động và mạnh mẽ. ‘Các con không có đức tin ư?’.
John Newton là con trai một đại uý hải quân người Anh.
Khi John lên 10 tuổi, mẹ cậu qua đời. Từ đó cậu bé thường theo bố đi biển. Nhờ vậy mà cậu rành rẽ đường lối ngoài biển khơi.
Tuy nhiên vào năm cậu 17 tuổi, cậu bé bất mãn với bố. Cậu bỏ thuyền ra đi lao vào cuộc đời gió bụi. Cuối cùng cậu nhận được việc làm trên chiếc tàu hàng buôn nô lệ từ Phi Châu đến Mỹ Châu. Cậu thăng quan tiến chức rất lẹ và chẳng bao lâu đã trở nên thuyền trưởng. Chẳng bao giờ Newton bận tâm suy nghĩ đến việc buôn nô lệ là đúng hay sai. Cậu chỉ làm công việc của mình nhằm mục đích kiếm tiền mà thôi.
Thế nhưng một biến cố quan trọng đã xẩy đến thay đổi tất cả cuộc đời cậu.
*****
Một đêm nọ một cơn bão dữ dội xuất hiện trên mặt biển. Sóng dâng cao như thác núi xô đẩy và quay vòng chiếc thuyền của Newton như món đồ chơi trẻ con. Mọi người trên thuyền vô cùng kinh khiếp. Lúc bấy giờ bỗng dưng Newton buột lời cầu nguyện. Đây là điều cậu không hề làm kể từ khi rời khỏi thuyền của bố cậu. Cậu kêu to:
“Lạy Chúa, nếu Ngài thương, xin cứu vớt chúng con, con nguyện sẽ mãi mãi làm nô lệ cho Ngài”.
Chúa nhậm lời cầu xin của cậu và cứu vớt con thuyền.
Thế rồi, sau khi vào được bờ, Newton đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn nô lệ. Sau đó cậu đi tu, và một thời gian sau, trở thành mục sư, coi sóc một nhà thờ nhỏ ở Olney, nước Anh. Ở đây vị mục sư trở nên một nhà giảng thuyết kiêm nhà soạn thánh ca lừng danh. Một trong những bản thánh ca cảm động nhất mà Newton đã sáng tác là bản nhạc ca ngợi Chúa về cuộc trở lại của cậu.
*****
Giống như Newton, các Tông đồ cũng gặp phải bão biển dữ dội. Giống như Newton, các ông đã kêu to lên cùng Chúa: “Xin hãy cứu chúng con”. Giống như Newton, các ông cũng đã được biến đổi hoàn toàn sau khi Chúa nhậm lời cầu xin. Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Ông này là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”.
“Ông này là ai?”. Đây chắc chắn là một câu hỏi căn bản. Dĩ nhiên câu trả lời đã có sắn trong bài đọc 1 và trong Thánh Vịnh đáp ca hôm nay.
Bài đọc 1 mô tả Chúa là Đấng Tạo Hoá, chính Ngài đã tạo dựng biển cả, đã đặt ranh giới cho chúng và truyền lệnh cho chúng tuân theo ý muốn của Ngài. (x.G 38,1.8-11).
Thánh Vịnh đáp ca là lời kêu cầu Chúa của những thuỷ thủ gặp bão biển. Và Chúa đã ra tay cứu họ. Họ vui sướng, vì trời yên biển lặng. Và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Họ tạ ơn Chúa, vì Chúa từ nhân (x. Tv 107).
Trong cả hai bài đọc Cựu Ước này, chúng ta thấy Chúa đang thi hành chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh cho chúng và chúng tuân phục Ngài. Đây cũng là điều chúng ta thấy Chúa Giêsu đang thực hiện trong Tin Mừng hôm nay.ngài đang biểu lộ chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh và chúng tuân phục ngay. Như thế các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu của Tân Ước là một. Ngài đang thực thi quyền năng của một Thiên Chúa. Thánh Marcô không chỉ muốn nói lên quyền năng của Chúa mà còn muốn khẳng định Ngài chính là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, và mời gọi chúng ta hãy hoàn toàn tin vào Ngài.
Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa quyền năng, có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa hoàn toàn tin vào Chúa. Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ.
Đời tự nó đã là khó. Đi trong cuộc đời với niềm tin theo cách Chúa dạy lại càng khó hơn. Chúng ta đã vâng lệnh Chúa mà nhổ neo ra khơi, đã tin tưởng vì có Chúa ở đàng lái, ở vị trí hoa tiêu, nhưng có thể đã có lần chúng ta đau đớn vì Chúa lại ngủ giữa phong ba. Điều đó có thật, là kinh nghiệm muôn đời của những ai tin Chúa. Niềm tin không phải là giải đáp dễ dãi, không miễn trừ những khó khăn. Cần phải dày công học tập mới chấp nhận được thực tế đó. Người có niềm tin trưởng thành là người “giữa phong ba khốn cùng ngàn nỗi vẫn luôn thành tín ngợi khen Chúa là thuẫn đỡ, là khiên che, là đồn luỹ”. Phải dám ra đi dù trời đã về chiều, dù có thể gặp phong ba. Nếu không thì chẳng bao giờ sang được “bờ bên kia” của cuộc sống. Chúa có thể ngủ, nhưng Chúa luôn thức vào lúc quyết định để trợ giúp những ai bằng lòng để cho “Chúa ở đằng lái”.
Bão lớn, nước sắp đầy thuyền thì ai mà không sợ? Vậy mà Chúa còn trách: “Sao các con sợ thế, các con không có đức tin ư?”. Các môn đệ lâm nguy thật sự. Trong hoàn cảnh đó, chẳng những nên kêu cứu Chúa, mà đúng là phải kêu cứu Chúa. Nhưng đừng kêu cứu với tâm trạng sợ hãi đến tuyệt vọng như vậy. Phải kêu cứu nhưng hãy kêu cứu trong niềm cậy trông tín thác tuyệt đối. Lời trách cứ của Chúa Giêsu khai mở cho chúng ta một kinh nghiệm đức tin quý báu: niềm tin vững vàng làm chúng ta thêm can đảm lắm mới có thể tin. Vì tin Chúa, thực tế chính là “ trao thân gởi phận” cho Chúa. Người tin Chúa thực sự thì không sợ, còn người sợ thực sự thì không tin. Trong rất nhiều trường hợp, “yếu tin” đồng nghĩa với “hèn tin”!
Câu hỏi của các môn đệ sau khi được Chúa cứu nguy: “Ngài là ai mà cả gió lẫn biểu cũng đều vâng lệnh?” phải là câu hỏi căn bản cho những ai muốn tin và muốn đạt tới niềm tin trưởng thành vào Chúa Giêsu. Phải trả lời cho thật, cho đúng, cho sâu và sát với hoàn cảnh đời mình. Tin không phải chỉ là xác tín về một chân lý lý thuyết cho thoả trí óc, nhưng là “trao thân gởi phận” cho Chúa, nên phải biết rõ Chúa là ai, đáng tin đến mức nào. Thánh Phaolô là chứng nhân đức tin kiệt xuất, đã trải qua bao gian nan mà vẫn tín trung với Chúa, vì thánh nhân “biết mình đã tin vào ai” (2Tm 1,13). Nếu thực sự muốn tin, chúng ta cũng phải biết: Chúa Giêsu Kitô là ai? Tin Mừng cho chúng ta biết: Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa. Chân lý ấy quá đơn sơ, chúng ta đều đã biết. Nhưng có thể chúng ta mới biết bằng “cái đầu”, bằng trí óc, chứ chưa biết bằng “con tim”, bằng lòng yêu mến. Tin cuối cùng là yêu, là trung thành gắn bó với Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Vậy lòng ta cần phải biết Ngài là Chúa, nghĩa là không chỉ biết rằng Ngài quyền trên cuộc đời mình, Ngài là Chúa của mình. Khi lòng ta chưa biết điều đó, thì dù không nói hay không dám nói ra, tự thâm tâm ta vẫn nghĩ: Lời Chúa chói tai qúa! Lệnh Chúa truyền khó khăn qúa! Và sẽ bỏ đi như người Do Thái, vì thầy tin Chúa là phải là phiêu lưu và quá khó khăn! Người có đức tin trưởng thành là người “biết điều”: họ nhận ra Đấng mời gọi là Đấng có quyền, nên họ dấn thân theo lời mời gọi của Ngài vì đó là đòi hỏi của tình yêu.
Hãy vận dụng đức tin để dấn thân vào đời, lấy sức chèo chống, ngăn chận sự ác đang hoành hành. Hãy chạy đến Chúa và phó thác cho Ngài mọi lo lắng của cuộc đời, kiên trì tin tưởng Chúa sẽ cứu thoát chúng ta.
Biển hồ Galilê nổi tiếng về bão tố. Những cơn bão từ nguồn đến hết sức thình lình với sự tàn phá kinh khủng. Một tác giả đã mô tả chúng như vậy: “Các trận cuồng phong khủng khiếp lồng lộn trên mặt nước mà bình thường rất phẳng lặng, ngay cả khi bầu trời hoàn toàn trong trẻo, thình lình cơn bão đến không phải là điều không thường thấy. Vô số các thung lũng từ hướng đông bắc và hướng đông trải ra ở phần trên của hồ tạo thành rất nhiều hẻm núi nguy hiểm bọc gió từ cao nguyên Hauran, vùng đồi Tracônít và đỉnh núi Hermon tạo thành một sức nén, ào đến với một lực kinh khủng qua một khoảng trống hẹp rồi thình lình thoát ra làm xao động hồ Giênêdarét bé nhỏ trong một tình trạng kinh hoàng nhất. Những khách vượt hồ luôn luôn có cơ hội phải đối diện với những cơn bão thình lình như vậy”.
Chúa Giêsu đang ở trong thuyền, tại chỗ dành cho bất cứ một vị khách quý nào. Chúng ta được biết, “Trong những thuyền này, tại đó có sắm sẵn một tấm thảm và gối. Người lái thuyền đứng cách đó một chút gần bánh lái thuyền để có thể dễ dàng nhìn phía trước”.
Thật thú vị khi ghi nhận được những lời của Chúa Giêsu truyền cho gió và sóng hoàn toàn giống như điều Người đã truyền cho người bị quỷ ám trong Maccô 1,25. Sức mạnh phá huỷ của bão tố cũng như sức mạnh tàn phá của ma quỷ khi nó nhập vào con người, vì vậy dân chúng tại Palestine vào thời ấy tin rằng quyền lực xấu xa của ma quỷ cũng đang hoạt động trong lãnh vực thiên nhiên.
Thật thiếu công bằng khi chúng ta chỉ suy nghĩ câu chuyện này theo nghĩa đen. Nếu nó chỉ thuật lại một phép lạ vật chất trong đó một cơn bão thực sự yên lặng thì đó là một điều rất lạ lùng và là điều đáng cho chúng ta kinh ngạc, nhưng đó là điều xảy ra một lần. Trong trường hợp đó nó hoàn toàn ở bên ngoài đối với chúng ta. Nhưng nếu chúng ta đọc nó theo ý nghĩa biểu tượng thì sẽ thấy giá trị hơn. Khi các môn đệ nhận thức được sự hiện diện của Chúa ở với họ thì cơn bão yên lặng. Một lần nữa họ kinh nghiệm sợ hãi tan biến và bình an vào trong lòng họ. Ra khơi với Chúa Giêsu là ra khơi an toàn ngay cả trong bão tố. Giờ đây là sự thật cho mọi trường hợp. Đó không phải là điều chỉ xảy ra một lần, nhưng vẫn còn đang xảy ra và có thể xảy ra cho chúng ta. Trong sự hiện diện của Chúa Giêsu chúng ta có được bình an ngay cả trong bão tố khủng khiếp nhất của cuộc sống.
1/ Ngài ban cho chúng ta bình an trong bão tố của sầu muộn.
Khi sầu muộn đến, Ngài nói với chúng ta về vinh quang của cuộc đời sẽ đến. Ngài biến đổi bóng tối của sự chết thành ánh sáng của sự sống vĩnh cửu. Ngài nói với chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa. Một câu chuyện cổ nói về một người làm vườn, nơi ấy có một đoá hoa mà ông rất yêu quý. Một ngày nọ khi ra vườn thấy bông hoa đó đã mất. Ông ta vô cùng phật ý, bực tức và phàn nàn. Trong lúc đang bực tức ông gặp chủ vườn và phàn nàn với chủ. Chủ vườn nói “Anh yên tâm! Chính tôi đã hái nó cho tôi”. Giữa bão tố của sầu muộn, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những người chúng ta thương yêu đã đi ở với Thiên Chúa và Ngài đảm bảo rằng rồi đây chúng ta sẽ gặp lại những người thân thương mà chúng ta đã thiếu vắng họ một thời gian.
2/ Ngài ban cho chúng ta bình an khi những nan đề của cuộc sống cuốn hút chúng ta vào trong cơn bão của nghi ngờ, căng thẳng và không chắc chắn.
Rồi có những lúc chúng ta chẳng biết phải làm gì, khi chúng ta đứng trước ngã ba của cuộc sống không biết đi đường nào. Lúc ấy chúng ta quay sang Chúa Giêsu và thưa cùng Ngài rằng “Lạy Chúa, Ngài muốn con làm chi?”. Con đường sẽ được khai thông. Thảm kịch không phải là chúng ta không biết phải làm gì, nhưng chính là chúng ta thường không hạ mình tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Giêsu. Câu hỏi ý Ngài và tuân phục ý đó là đường dẫn đến bình an trong những lúc như vậy.
3/ Ngài ban cho chúng ta bình an trong bão tố của lo âu.
Kẻ thù hàng đầu của bình an là lo lắng, lo lắng cho chính mình, lo lắng về tương lai ngoài sự hiểu biết, lo lắng về những người mình yêu. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta về một người Cha không bao giờ làm đổ những giọt lệ không cần thiết nơi con Ngài, và về một tình yêu vượt trội giữa chúng ta và những người thân yêu của chúng ta khỏi trôi giạt. Trong bão tố của lo âu, Ngài đem đến cho chúng ta bình an của tình yêu Thiên Chúa.
Giáo huấn bằng dụ ngôn của Đức Giêsu đã nói lên sự phân biệt rõ ràng giữa hai loại người: Đối với những “người ở ngoài”, thì tất cả đều bí hiểm. Còn đối với các “môn đệ”, thì mọi sự đều sáng tỏ trong các mạc khải về mầu nhiệm mà "vị Thầy " đã thông tỏ riêng cho họ. Trong Tin Mừng theo Thánh Mác-cô, tiếp theo một chuỗi những dụ ngôn là bốn phép lạ. Những phép lạ này có đặc tính rõ ràng: Không được thực hiện trước công chúng, nhưng chỉ "trước mặt các môn đệ” . Phải chăng những phép lạ này là những dụ ngôn bằng hành động, phải được hiểu trên bình diện biểu tượng cũng như bình diện thực tế? Các tông đồ giữa cơn bão tố được kể lại hôm nay, gọi Đức Giêsu là “Thầy" (tiếng Hy Lạp là didaskalos có nghĩa là “Thầy dạy dỗ”), việc này phải chăng có một giá trị mạc khải lớn? Vậy chúng ta hãy lắng nghe giáo huấn của Người trong biến cố này. Đọc một biến cố để nêu ý nghĩa thần học, không làm cho biến cố đó mất tính cách lịch sử, nhưng mang lại cho nó chiều kích sâu xa hơn.
Chiều hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi?". Vì Người đang ở trên thuyền, các ông cứ thế chở Người đi bỏ dân chúng ở lại; có những thuyền khác cùng theo Người".
Trên bình diện thực tế lịch sử, tôi tưởng tượng một buổi chiều hè đẹp trời, Đức Giêsu mượn chiếc thuyền của Simon Phêrô và từ từ rời xa bờ biển Ca-phác-na-um. Sau một ngày nóng bức, bây giờ là buổi chiều tà mát mẻ. Sau khi đã tiếp xúc với đám đông ồn ào, bây giờ là lúc thân mật ân tình với nhóm bạn hữu trên biển. Chính Đức Giêsu đã có sáng kiến tạo ra những giây phút yên tĩnh này:
"Chúng ta hãy qua bờ bên kia". Gió tốt, cánh buồm căng phồng đang nhẹ rung - Người ta chỉ nghe tiếng nước vỗ nhẹ vào mạn thuyền đang rẽ sóng và tiếng kêu của một vài con chim biển. Sau một ngày giảng dạy bằng dụ ngôn, Đức Giêsu mệt mỏi thiếp ngủ nơi cuối thuyền. Bên cạnh Người là Phêrô đang cầm bánh lái. Nhưng nếu chỉ dừng ở những trang này thì thật đáng tiếc. Chúng ta biết rằng, từng câu, từng chữ trong trình thuật Tin Mừng, đều được khoa Giáo lý ban đầu chú giải. Do đó chúng ta cũng phải đọc và hiểu theo nghĩa tượng trưng, như những chú giải của các Giáo phụ minh chứng.
“Ngày hôm đó": Đây không phải là một kiểu nói thông thường, có nghĩa là: Ngày giảng dạy bằng dụ ngôn đã chấm dứt. Đối với Thánh Maccô "sự trình bày cán sự kiện nối tiếp nhau là một cấu trúc thần học hơn là một phóng sự "Ngày hôm đó" sẽ không phải một ngày thường. Phêrô sẽ nhớ ngày đó suốt đại. Vì ông gợi nhớ những hình ảnh Thánh kinh: "Ngày hiển hách của "Giavê", "Ngày Thiên Chúa quyền năng can thiệp mạnh mẽ", ngày đó có những tai họa cánh chung đi trước (Ga 2,3).
“Chiều tối đến": Không chỉ là màn đêm buông xuống, mà còn "giờ của bóng tối", giờ thử thách (Mc 14,17; Ga 9,4-13.30).
"Bờ bên kia": Không chỉ là bờ hồ đối diện mà còn là bước đi vĩ đại sang bên kia thế giới. Đó là số kiếp của mỗi người vào lúc hoàng hôn của cuộc đời. Đó là ngày trọng đại Ngày của Thiên Chúa"... Tất cả những ngày khác đều phải chuẩn bị cho ngày đó.
Bỗng nổi lên một trận cuồng phong, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Bão tố thực sự. Ngày nay hồ Tibêria vẫn nổi tiếng về những cơn bão bất ngờ và mãnh liệt từ đồi Gôlăng thổi xuống. Hơn ai hết, vì nghề nghiệp Phêrô đã biết rõ điều này. Những cơn gió thổi mạnh đập vào cánh buồm và làm nghiêng ngả chiếc tàu thật nguy hiểm. Nhưng không cần phải đi biển mới bị những cơn bão tố như thế. Tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều dùng chữ bão tố để ám chỉ "một cơn thử thách bất ngờ đổ xuống trên con người". Trong Thánh Kinh, đề tài bão tố thường được dùng để nói về sức mạnh của sự dữ. Công cuộc tạo dựng ta được hiểu như sự chiến thắng của Thiên Chúa trên cảnh hỗn loạn của biển khơi nổi dậy (St 1,2). Theo khoa huyền thoại xưa của Do Thái. Biển cả là "vực thẳm vĩ đại”, nơi những con rồng, những thủy quái, Lêviathan, biểu tượng của Satan, thống trị (Is 27,1; Tv 74,13; G 9,13; Đn 7; Kh 12,13).
Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ.
Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu đang ngủ, đôi mắt nhắm, hơi thở đều đặn, vẻ bình thản, ở đằng lái thuyền, trong cớn bão tố. Chi tiết này gợi cho tôi tâm tình cầu nguyện nào? Lạy Chúa, Chúa đưa chúng con đi đến đâu? Chúa làm cho chúng con bối rối biết bao? Trong Thánh kinh, có một người khác cùng ngủ trong cơn bão táp, đó là Giona. Người ta phải đến đánh thức ông dậy (Gn 1,3-16). Có phải tình cờ, mà Đức Giêsu nói về "dấu lạ của Gio-na" như một dấu hiệu duy nhất để diễn tả về: Cái chết và sự Phục sinh của Người? (Mt 12,39-40; Lc 11,29-30; Mc 8,12-13). Vả lại các tác giả Kinh thánh thường nói về "cái chết" bằng từ “giấc ngủ” (Tv 13,4; Đn 12,2; Êp 5,14; Ga 11,11; Mc 5,39-41). Hình ảnh này cũng dùng để diễn tả sự "lãnh đạm của Chúa”, sự "vắng mặt của Chúa": Lạy Chúa, xin Chúa chỗi dậy đi, tại sao Chúa lại ngủ? Chúa hãy thức dậy đi (Tv 44,24 ' 45,23 - 59,6 - 78,65; Is 51,9-10). Vâng, đúng vậy trong những cơn bão tố cuộc đời chúng con, dường như Chúa vẫn ngủ. Lạy Chúa, không phải chỉ có con người hiện đại nghĩ ra đề tài "cái chết của Thiên Chúa", nhưng đó là tình cảm tự nhiên của thân phận con người, khi thấy mình bất lực, bị đe dọa trước một Thiên Chúa không can thiệp để cho lực lượng của thần chết hành động, một Thiên Chúa dường như đang ngủ.
Các môn đệ đánh thức Người dậy, và nói: “Thầy ơi! chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?"
Đây là một lời cầu tuyệt diệu, đáng cho chúng ta bắt chước, trước những bão tố cuộc đời.
Người thức dậy, ngăn đe gió, và truyền cho biển: "Im đi? Câm đi?" Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.
Ở đây chữ được dịch là "thức dậy", "diégertheis" cũng chính là chữ được dùng để nói "được sống lại, Phục sinh" (Mc 5,41- 16,6.14).
Qua tình tiết có thực mà Maccô kể lại (đó là bài giảng của Phêrô), chúng ta có lý do chính đáng để nhận ra cuộc khổ nạn của Đức Giêsu là một cơn bão dữ dội: Nó làm lắc lư con thuyền nhỏ bé của cộng đoàn tông đồ, vào lúc Đức Giêsu đã ngủ yên trong cái chết của Người. Nhưng đối đầu với lực lượng thần chết được tượng trưng là "biển cả” Đức Kitô đã Phục sinh. Chúng ta gặp lại kiểu nói của người Do Thái về biển cả, hình ảnh những lực lượng thù địch với con người, vì ở đây, Maccô dùng chính những từ như khi Đức Giêsu "hăm dọa" quỷ dữ để "bắt chúng im lặng" (Mc 1,25; 9,25).
Đức Giêsu nói với họ: "Tại sao lại sợ? Tại sao các người không có đức tin?"
Câu nói rất nghiêm khắc: "Các anh không có đức tin", "các anh đã mất lòng tin", thực sự đã được áp dụng vào lúc Đức Giêsu chịu khổ nạn, lúc này tất cả các tông đồ chạy trốn, chối bỏ, hoài nghi. Chúng ta sẽ nghe lặp lại ba lần rằng, các tông đồ "đã không tin": "Chúa trách sự cứng lòng tin của họ, vì. họ đã không tin những người đã thấy Chúa Phục sinh" (Mc 16,11-13).
Những cơn bão tố đời tôi thế nào? Chúa có làm nhẹ bớt những cơn bão đó không?
Nếu đọc Thánh kinh một cách ngây ngô, chúng ta có thể tin điều đó. Sự bình lặng của hồ Tibêria làm chúng ta mơ tưởng một cuộc sống an bình, trong đó Chúa sẽ thường xuyên can thiệp vào những nguyện nhân tự nhiên để tránh cho chúng ta sự thử thách và cái chết.
Nhưng đọc Thánh kinh cách đúng đắn, sẽ dẫn chúng ta đến sự "thanh tẩy đức tin" theo lời mời gọi của Chúa. Chính qua giấc ngủ của sự chết, Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi những thế lực của hỏa ngục và sự chết.
Không phải đức tin nào cũng dẹp yên được bão tố, mà chỉ đức tin nới "Đức Kitô tử nạn và Phục sinh" mới có khả năng. Sự cứu độ mà chúng ta tin, không làm cho chúng ta thoát khỏi những đau khổ gắn liền với bản chất con người cách lạ lùng và đặc biệt.
Sự xác tín vào quyền lực của Chúa đã không ngăn cản Chúa Kitô trải qua, giấc ngủ ở trong hồ. Chính chúng ta cũng phải trả qua thử thách mới đến được "bến bờ bên kia". Nhưng Đức Giêsu đang ở đó với chúng ta trong những thử thách. Quả thật trang Tin Mừng này có một biểu tượng đáng phục.
Các ông hoảng sợ và nói với nhau: "Người là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?"
Đây là lần đầu tiên Thánh Maccô ghi lại câu hỏi này của các môn đệ. Câu hỏi chủ yếu nhắm đến lai lịch sâu xa của vị “Thầy" trẻ trung. Người phải chăng chỉ là một ông "Thầy" (Rabbi) như bao ông thầy khác? Người là ai? Người sẽ đưa họ đến đâu? Một ngày gần đây, Đức Giêsu sẽ hỏi Phêrô: "Đối với anh, Thầy là ai?" (Mc 8,29).
Không người nào có thể tự miễn cho mình khỏi phải đặt câu hỏi đó. Và nếu không trả lời thì đó là chấp nhận rằng, những cơn bão trong cuộc đời sẽ kết thúc bằng một sự chìm đắm vào hư vô. "Nhưng nếu người nào ở trong Đức Giêsu, người đó sẽ là một tạo vật mới”(1 Cr 5,7). Đức tin được thanh luyện đưa chúng ta vào cuộc sống mới. Lạy Chúa, Chúa đã nói: "Chúng ta hãy sang bờ bên kia".
Đức Giêsu rời bỏ ven Biển Hồ Galilê, nơi Người đã dùng dụ ngôn mà giảng dạy cho dân chúng (x. Tin Mừng CN.11 TN) để phiêu lưu sang "bờ bên kia”, nơi có đông dân cư' là người ngoại. Trình thuật Maccô ta đọc hôm nay nằm trong bối cảnh đó.
Đọc trích đoạn trên, người đọc chỉ có thể thấy cái hời hợt bên ngoài, nếu không biết gió và biển trong Kinh Thánh có ý nghĩa biểu tượng gì, và nếu không để giờ đối chiếu đoạn văn này với câu chuyện Chúa gặp người bị quỷ ám ở hội đường Capharnaum.
Thực vậy, "gió” và "biển" đối với người am tường Kinh Thánh, mang rất nhiều ý nghĩa. M.E.Boismard giải thích: "Trong ngôn ngữ Do Thái, cùng một tiếng "gió" cũng có nghĩa là "Thần trí”. Ngoài ra trong Kinh Thánh, biển thường là biểu tượng những thế lực gian tà mà Thiên Chúa phải đánh gục để kế hoạch của Người toàn thắng. Ở đây, biển động dữ dội do ảnh hưởng của cuồng phong. Ta phải hiểu là có một "thần tríxấu (Satan chăng) đang, tung những ma lực dưới quyền để ùa đến tấn công con thuyền, “tức là tân công các môn đệ" ("Jésus, un homme de Nazareth", Cerf, 1996, trang 78). Quả là một trở ngại lớn lao cho việc loan báo Tin Mừng trên miền đất dân ngoại!
Còn nếu đối chiếu với phép lạ giải thoát người bị quỷ ám ở hội đường Capharnaum (Mc 1,23-27) ý nghĩa lại càng rõ.
+ Nơi Mc 1,25: Đức Giêsu đã quát mắng "thần ô uế". "Câm đi” hãy xuất khỏi người này!". Còn ở đây, sau khi được các bạn đồng hành đánh thức dậy, vì Người đang ngủ ở đàng lái, Đức Giêsu ngăm đe gió và truyền cho biển: "Im đi, câm đi”.
+ Nơi Mc 1,26: thần ô uế, sau khi đã lay mạnh người ấy, thì thét lên một tiếng và xuất khỏi anh ta. Còn ở đây, gió và biển đều tuân phục Đức Giêsu: " Gió liền tắt và biển lặng như tờ”.
+ Nơi Mc 1,27: cảnh kết thúc với lời bàn tán của những người chứng kiến: Mọi người đều kinh ngạc và bàn tán: Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh. Còn ở đây, các môn đệ cũng bàn tán: các ông hoảng sợ và nói với nhau. Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh".
Thế nên, trong chuyện kể về bão táp được dẹp yên, không chỉ đơn thuần là việc Đức Giêsu biểu dương quyền lực đối với thiên nhiên mà chính là vấn đề trữ quỷ đích thực: Đức Giêsu có quyền trấn áp Satan và những thế lực của sự ác đang hoạt động song hành với Người.
Còn về lời bàn tán của các môn đệ "Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh", thì rõ ràng là lời mạc khải. J.Potin chú giải: theo cách nhìn của Kinh Thánh, bão táp là biểu hiện của những ma lực tiềm ẩn trong biển cả. Chỉ mình Thiên Chúa hoặc kẻ được Chúa ban quyền mới có thể chế ngự được những ‘thế lực ấy’. Ở đây các môn đệ được mời gọi khám phá ra chân lý tiềm ẩn đàng sau cảnh dẹp yên sóng gió là: Đức Giêsu được Thiên Chúa trao ban quyền lực để thu hồi mọi lực lượng về phục tùng Thiên Chúa. Nhờ thế lực của Đức Giêsu mà các môn đệ đã khắc phục được hiểm nguy lớn lao. Việc hồi tưởng lại một biến cố rõ rệt đã trải qua, sự hộ phù che chở của Chúa trong chuyến vượt biển nguy hiểm ấy. Đều là biểu tượng ơn nâng đỡ người sẽ ban cho các ông trong lúc con thuyền Giáo Hôi lâm cảnh lênh đênh sóng gió "Jésus, l’histoire vaie", Centurion, 1994, trang 256-257).
2. Khi đọc lại câu chuyện dưới ánh sáng phục sinh.
Một sự đối chiếu khác không kém phần lý thú và chứa đựng nhiều giáo huấn. Đó là cảnh khởi đầu của sách Giona mà trích đoạn Tin Mừng này coi như đã sao họa lại.
Trong cả hai trường hợp, câu chuyện đều cùng mở đầu bằng việc hành khách xuống thuyền (Ga 1,31 Mc 4,35-36).
+ Nếu Giona xuống thuyền để đi Taxê là vì ông nghĩ mình có thể trốn lánh mặt Chúa, Người đã lệnh cho ông phải đi tới Ninivê, một thành phố lớn của dân ngoại để kêu gọi dân thành ở đây trở lại.
+ Còn Đức Giêsu xuống thuyền là để tới ven bờ bên kia của Biển Hồ, miền đất thuộc dân ngoại, cũng là để rao giảng Tin Mừng ở đây. Đây là một khúc quanh quan trọng trong sứ vụ của Người.
Trong cả hai trường hợp đều có một trận cuồng phong nổi lên khiến biển động dữ dội.
Trong khi đó, Giona và Đức Giêsu đều cùng ngủ mệt: Giona ngủ vùi dưới lòng tàu, còn Đức Giêsu thì dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ ở đàng lái, chỗ thường dành cho người thủy thủ cầm lái (T.O.B).
Tất cả đều "cùng sợ hãi": các thủy thủ trong Giona 1,5, các môn đệ Đức Giêsu trong Mc 4,40. Cùng xoay sở và cùng buông lời trách móc. Nói với Giona: "Ông làm nghề gì”? Sao ngủ mê mệt như vậy? Hãy chỗi dậy cầu khẩn cùng Thiên Chúa của ông, may ra Người sẽ đoái đến chúng ta, và chúng ta khỏi chết chăng? Nói với Đức Giêsu trong Mc 4: "Thầy ơi chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao?".
- Cùng cảnh êm ả trở lại.
+ ở Giona 1: Sau khi các thủy thủ đã kêu cầu Chúa, trước khi ném Giona xuống biển theo yêu cầu của ông.
+ Nơi Mc 4: Theo lệnh truyền của chính Đức Giêsu.
- Cùng một phản ứng từ phía những người chứng kiến sự việc:
+ Nơi Giona 1: “Mọi người đều rất kính sợ Chúa, họ làm lễ tế dâng lên Chúa cùng với lời khân hứa”.
+ Nơi Mc 4: "Các ông hoảng sợ và nói với nhau: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?".
Ở đây "dấu chỉ Giona” há chẳng phải là một lối ám chỉ và là một biểu tượng loan báo cuộc đối đầu quyết liệt của Ngày Thứ Sáu Thánh (nhất nữa, giấc ngủ theo Kinh Thánh thường là biểu ttượng của sự chết và động từ chỗi dậy" được trình thuật sử dụng vốn là một trong những động từ thế hệ Kitô giáo ban đầu dùng để chỉ sự phục sinh)?.
J.Hervieux đưa ra nhận xét: "Câu chuyện Chúa dẹp yên sóng gió không chỉ đơn giản là một tường thuật về một phép lạ. Câu chuyện đó được coi như một biểu tượng nói lên một cách cô đọng số phận nghiệt ngã của Đức Giêsu. Nếu Người có đưa các môn đệ vào trận cuồng phong, thì cũng không phải do ngẫu nhiên! Toàn bộ cuộc đời Người là một cuộc chiến cam go với những thế lực của sự ác. Người phải tiến lên đối đầu với một cuộc chạm trán khốc liệt nhất: đối đầu với chính cái chết của mình. Việc Người ngủ - chẳng ai lại ngủ giữa lúc phong ba bão táp - lại là điều rất có ý nghĩa. Trong Kinh Thánh, giấc ngủ thường là biểu tượng sự chết. Ở đây cuộc khổ nạn của Đức Giêsu như được diễn trước bằng kịch câm. Đức Giêsu thiếp ngủ đi như chết giữa cảnh xôn xao náo động của hỏa ngục được gợi hình bằng những đợt sóng lồng lộng điên cuồng. Trong một tình huống như vậy, mà Thầy vẫn ngủ, thì chuyện các môn đệ hoảng sợ cũng là điều dễ hiểu. Trước cảnh tượng của thập giá sau này, cũng như ở đây lúc này, các ông sẽ mất lòng tin là điều hiển nhiên" ("Evanglle de Marc", Centurion, trang 75).
Cũng tác giả J.Hervieux kết luận: “Khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Maccô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo Hội thời ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi sợ hãi, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa, đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc người: "vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè, sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập?
Cuối cùng ta đừng quên, bão táp xảy đến trong lúc Đức Giêsu đã quyết đinh đem các bạn hữu theo mình đi truyền giáo ở phía bên kia Biển Hồ, nơi các dân ngoại. Người ta có thể nghĩ bụng phải chăng các tín hữu đầu tiên ở Rôma không linh cảm việc loan báo Tin Mừng cho những người đương thời của họ là một công việc đáng dễ sợ sao?" (Sđd)
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Vậy người này là ai”.
"Có một thứ mâu thuẫn trong cách phản ứng của các môn đệ: khi sợ hãi trong lúc gặp sóng gió, các ông liền lên tiếng kêu cứu Chúa, đánh thức Người dậy: "Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? Thế nhưng khi Chúa truyền cho gió yên bể lặng rồi, thì các ông lại kinh ngạc: "Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Đức Giêsu biết rõ lòng các ông còn lẫn lộn bán tín bán nghi: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Lắm lúc chúng ta cũng mang một tâm trạng như vậy. Ta cậy dựa vào Chúa, biết rõ mình có thể kêu cầu Chúa, chẳng cần phải đánh thức Người dậy! Cùng lúc ấy, tâm trí ta lại vương nỗi do dự này: "Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, mà Thầy những lo gì sao? Chúa liền ra tay để củng cố lòng tin cho ta. Tin như vậy là tiếng kêu gọi thiết tha, là niềm cậy trông còn nhỏ bé và mong manh thúc đẩy ta chạy đến với Chúa. Rồi lòng tin ấy trở nên tâm tình cảm phục, vững tin khi Chúa cho ta biết Người là ai, Người có thể làm gì cho những ai dám đến cùng Người. "Vậy người này là ai? Lời đó phải vừa là câu hỏi, vừa là tiếng kêu bày tỏ lòng suy tôn vậy".
2. “Từ sợ hãi đến tin tưởng”
"Hãy xem ông Gióp, bị điêu đứng vì những thử thách trăm bề, về mặt vật chất cũng như tinh thần, mặt đạo đức cũng như thiêng liêng. Một người chính trực như ông mà đã phải gánh chịu bao bất công, phải chao đảo vì những tai ương dồn dập, và vì sự thinh lặng của Chúa. Ông tố cáo Chúa, Chúa sẽ chẳng đưa ra lời giải thích nào, và sẽ chẳng vén lên bức màn bao trùm mầu nhiệm khôn dò về sự ác.
Thế nhưng chỉ giữa lúc phong ba bão táp thì Chúa mới nhắc nhở cho ông biết rằng Người là Chúa tể của bão, Người có quyền đặt ranh giới và ngăn chặn những đợt sóng kiêu hùng của bão. Thế là ông Gióp nghiêng mình bái phục Chúa với lòng tin, đồng thời thú nhận sự ngu muội của mình.
Maccô dùng cũng thứ ngôn ngữ ấy để nói với các tín hữu của giáo đoàn Rôma đang hốt hoảng và bị chấn thương vì cơn bách hại. Ngài để lại cho họ một kinh nghiệm bản thân: chính các tông đồ cũng đã từng biết đến một Đức Giêsu ấy nằm ngủ và tỉnh bơ trước thảm cảnh của những bạn đồng hành, hoảng hốt thấy mình sắp “đi đời" rồi, dù họ là những tay ngư phủ dày dạn. Thực tế là các ông đã chỉ thiếu lòng tin mà thôi, hay nói cách khác là lòng tin tưởng và yêu mến, vì theo kiểu nói của thánh Phaolô, họ đã chỉ biết Đức Kitô theo quan điểm loài người (Bài đọc 2).
Đường lối sư phạm của Chúa vẫn trước sau như một. Những lớp sóng vẫn liên lì và ồ ạt vập vào thuyền khiến thuyền đầy nước. Vậy mà Đức Kitô luôn có mặt ở đó, vẫn cứ ngủ. Giống như thời ông Gióp, ta cũng thường tra hỏi, chất vấn, sửng sốt, đòi hỏi Chúa phải giải thích và trình bày. Tại sao vẫn xảy ra những vụ tàn sát những người vô tội, những cảnh anh em chém giết nhau không nương tay, những cuộc bách hại đẫm máu, những trận dịch kinh hoàng, những bất công chỉ biết kêu trời báo oán, những cảnh chết đói khiến phải đào mồ chôn tập thể.
Ta đừng chờ đợi phép lạ, có chăng chính là phép lạ của lòng tin, cậy, mến. Thực ra "Đức Kitô hôm qua, hôm nay và ngày mai" cũng vẫn là một. Hằng ngày ta vẫn còn thấy Người thực hiện những điều kỳ diệu khi làm nẩy sinh những tạo vật mới, khi tạo dựng một thế giới mới. Đó là mỗi lần mà tha thứ thay thế cho hận thù, ích kỷ nhường chỗ cho quảng đại và lòng can đảm quét sạch đi những hèn nhát.
Còn một câu hỏi và nỗi sợ hãi khác từ phía những tín hữu vốn khư khư với những tập quán, quan niệm hẹp hòi, với những chương trình và kế hoạch tương lai cho Giáo Hội do họ suy luận ra, nên họ la ó lên rằng: những hết cả rồi, khi họ nhìn thấy những bảng thống kê sụt giảm, những cơ cấu rạn nứt, những hình thức đổi thay và những cánh cửa canh tân mở toang. Câu trả lời của Chúa vẫn không thay đổi: "Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Há các bạn không nhìn thấy trong "cơn gió chướng mạnh" Thần Khí vẫn đang thổi hơi, làm nổi lên cho mãi tới những gốc cây cổ thụ đang chết một giải đất. bao la đầy những chồi non đang vươn lên ngợi ca sự sống và hy vọng. Bởi lẽ "cái cũ đã biến mất, và cái mới đã có đây rồi" (Bài đọc 2)
1. Người tín hữu thường quên chiều kích vũ trụ trong hành động của Chúa Kitô, trong khi thời đại này, các khoa học kỹ thuật nói nhiều đến việc khai thác, nhân hóa, bảo tồn, chinh phục thiên nhiên, các khoa học nhân văn nói nhiều đến mối liên quan giữa con người và vật chất, thiên nhiên, vũ trụ, môi trường sống. Kitô hữu phải hiểu cùng làm cho người khác hiểu rằng Chúa Kitô không xa lạ với vật chất đã làm nên vũ trụ. Trái lại qua việc nhập thể và phục sinh trong thân xác, Người đã mở rộng ơn cứu rỗi tới cho tất cả những gì hiện hữu. Chúa Giêsu đã đến không phải chỉ để cứu linh hồn con người mà thôi, nhưng cứu toàn thể con người xác hồn, và qua thân xác con người, Người biến đổi sâu xa cả vũ trụ vật chất (x. Rm 8,19): chính vũ trụ vật chất đang trên đường về với Thiên Chúa.
2. Câu chuyện xảy ra được Maccô kể lại theo lời chứng nhân tận mắt là Phêrô nên có nhiều chi tiết. Nhưng một trong những điểm quan trọng, chủ yếu của trình thuật là chính thắc mắc của các sứ đồ sau khi bão yên: “Người là ai mà gió cùng biển phải tuân phục Người?". Ngày nay với phát minh khoa học kỹ thuật, con người khắc phục được thiên nhiên rất nhiều đã từng nghiêng đồng đổ nước, thay trời làm mưa, bắt sông uốn khúc, ép núi cúi đầu, nên dễ quên Đấng Tạo Hóa. Kitô hữu phải biết khám phá thấy trong mọi chuyển động tự nhiên của vũ trụ cũng như trong mọi khắc phục thiên thiên của con người bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
3. "Xảy đến một trận gió táp thổi mạnh, và sóng ập tràn vào đò, làm đò đã hòng ngập đầy”. Ngày nay, đâu là cơn bão tố lớn đang vùi dập con đò Phêrô? Là trào lưu vô thần, là sự tục hóa, là thái độ tấn công tinh vi hay dửng dưng với tôn giáo. Nhưng Kitô hữu đừng lo! Giáo Hội đã trải qua nhiều cơn bão lớn hơn trong lịch sử rồi, như những sa đọa trong hàng ngũ lãnh đạo, sự cấu kết thái quá với thế quyền, sự chểnh mảng trong việc trau dồi đức tin, những xâu xé nội bộ, thế mà Giáo Hội vẫn không chìm đắm. Vì Chúa Kitô và Thánh Thần luôn ở với Giáo Hội.
4. "Tại sao sợ hãi? Các ngươi không có đức tin ư". Lời chất vấn và trách cứ của Chúa Giêsu cũng như lời mời gọi hãy tin tưởng đang được gởi đến những tín hữu mà niềm tin vào Thiên Chúa hôm nay đang bị lung lay vì bao bão tố, đau khổ. Kitô hữu hãy nhớ: tin trước hết là xác tín rằng dù gặp phải bao yêu thương, là hiểu rằng mọi chướng ngại chỉ là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa, là phương tiện giúp ta về với Thiên Chúa.
5. Chúa Giêsu không hứa với Giáo Hội là sẽ che chở cho khỏi cơn bão tố, trái lại người hứa là Giáo Hội sẽ thắng bão tố, sẽ không bị chìm ngập và con thuyền Giáo Hội, cho dầu có xảy ra gì chăng nữa, sẽ đến bờ như đã hứa. Chúa Kitô đã chẳng trải qua cơn bão tố Tử nạn để rồi đạt đến bờ Phục sinh ư? Cuộc sống Giáo Hội và cuộc sống mỗi Kitô hữu chúng ta không thoát khỏi định luật này, là định luật của tất cả những ai, những gì muốn về với Thiên Chúa. Dĩ nhiên, đây không phải là định luật Thiên Chúa ra một cách độc đoán, như thể Ngài muốn ta phải trả giá Nước Trời, hành hạ ta đã rồi mới cho được nghỉ ngơi. Bão tố, gian nan, thử thách chính là những gì xảy ra khi ta quyết tâm trung thành với Thiên Chúa, khi ta từ bỏ chính mình, từ bỏ mọi sự để chiếm đoạt cho được Thiên Chúa là hạnh phúc đích thực của ta.
Trời mùa hè ở các tiểu bang miền nam nước Mỹ như Arizona, New Mexico, Texas, Louisiana… nóng kinh khủng chẳng kém Sài Gòn chút nào. Vùng New Orleans còn thêm độ ẩm nên bước ra ngoài là cảm thấy ngột ngạt thật khó chịu. Vì thế mà nhà và xe luôn luôn phải có máy lạnh. Khi máy lạnh có gì trục trặc thì chỉ có việc đền tội trông thấy! Cứ tưởng tượng coi: xe đang đậu ngoài trời nắng chang chang, sức nóng trong xe lên cao tột độ khiến cho cả những băng nhạc bằng nhựa cũng quăn lại. Vậy mà phải lên xe có máy lạnh, nhưng lại hết lạnh thì sẽ thấy thế nào?
Tôi có chiếc xe cũ bị trục trặc như vậy từ mấy tháng nay. Khi trời còn mát mẻ vào cuối đông và đầu xuân thì không sao, chứ khí nóng ào tới vào đầu mùa hè thì chịu hết nổi. Máy lạnh thì vẫn chạy mà khí lạnh không thổi ra mới phiền. Có người bảo bộ phận thổi khí bị hư. Biết vậy mà có làm gì khác được đâu, nên cứ phải đành chịu trận cả mấy tuần nóng bức đổ mồ hôi hột!
Chịu hết nổi, tôi mới xách xe tới một người quen làm "bác sĩ" chữa xe. Anh ta ngó ngấp một hồi, rồi vác máy đo ra chẩn mạch, thì biết ngay là cái cục nối điện bị hư rồi. Thế là chỉ tốn có mấy chục tiền Mỹ thay cái cục mới vào là khí lạnh ào ào thổi mát mẻ quá chừng.
BÃO LỚN MÀ NGƯỜI LẠI NGỦ!
Trời nóng gắt, xe có máy lạnh vẫn chạy mà hết lạnh chỉ vì cục nối điện bị hư. Chuyện này thật giống truyện Kinh Thánh khi các môn đệ chở Chúa Giêsu qua Biển Hồ mà "chợt có một cơn bão lớn, và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?!"
Thực ra phải nói các môn đệ ngủ mê thì đúng hơn. Con mắt niềm tin mù lại, không thấy được Đấng Toàn Năng đang hiện diện. Chỉ cần bừng mở con mắt niềm tin là tìm thấy sức mạnh mới khiến cho bão táp sóng to gió lớn phải im ngay. Sự khai mở con mắt thứ ba này cũng gọi là phút giác ngộ. Con mắt này có thể được ví như cái cục nối điện ở máy lạnh. Con mắt này bị hư thì cho dù máy lạnh vẫn chạy, Chúa vẫn hiện diện, nhưng mình thấy sao nóng bức khổ sở, rồi sóng to gió lớn bủa vây đe dọa khủng khiếp, gặp toàn chuyện trời ơi đất hỡi điêu đứng khốn cùng!
Lời Chúa vẫn nói: Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế. Và giáo lý thì dạy rằng Chúa ở khắp mọi nơi. Vậy mà những lúc gặp trắc trở lại có cảm tưởng phải khấn vái Chúa mãi ở tầng trời cao xa tít, chứ nào có ngờ Chúa đang bên cạnh mình, mà chỉ vì con mắt mình bị mù tối không trông thấy được! Vẫn nói tin Chúa ở khắp mọi nơi, nhưng lại trừ chỗ mình đang đứng là không thấy vì không tin bao nhiêu!
BỨC TRANH THẬT MẮC TIỀN
Một trong những bức tranh mắc tiền nhất thế giới của họa sĩ Vincent van Gogh, trị giá cả mấy chục triệu USD, là bức “Đêm Sao” (Starry Night) đang để trong bảo tàng viện nghệ thuật tân thời MOMA ở thành phố New York. Van Gogh đã vẽ bức tranh này trong những ngày giông bão đen tối nhất đời mình trong những ngày bị bệnh quật ngã phải vào ở dưỡng trí viện vùng St Rémy gần Arles miền Nam nước Pháp.
Ngày 20 tháng 2 năm 1888, Van Gogh rời ga Lyon của thành phố ngột ngạt tù túng Paris để đi “tìm ánh sáng” mở lối của miền nam nắng đẹp. Và ông đã dừng chân tại Arles với những bức tranh mang nhiều sắc vàng của màu nắng miền Provence, như bức Căn Nhà Vàng, Hoa Hướng Dương màu vàng, Thửa Vườn Hoa Vàng Nở... Bức nào cũng vàng óng lên như đang phô diễn vẻ giầu có sang trọng bật sáng cuộc đời.
Ấy thế mà bỗng dưng ông bị bệnh tâm trí quật ngã, tối tăm mặt mày. Mây đen ùa tới. Sóng to gió lớn, thuyền sắp chìm! Điều lạ ở bức tranh Đêm Sao là cả một bầu trời đen thăm thẳm kia đang có một dòng sinh lực cựa mình luân chuyển. Sáng lạ lùng. Mạnh lắm. Những lớp sóng nhấp nhô lên xuống hiện trên mặt cuộc sống cũng chỉ như những bọt bèo trôi nổi. Dòng sông vẫn chảy tới theo hướng và theo một nhịp điệu huyền nhiệm, như sức sống đất trời cựa mình vào buổi sang xuân qua những ngày đông tàn lụi. Nhìn thấy được như vậy thì tranh mắc tiền chẳng có gì lạ.
TIN VUI GỬI NGƯỜI GẶP BÃO
Cái thấy của Đức Mẹ trong đêm đen ngày thứ Bẩy khi con mình nằm chết trong mồ tối. Cái thấy của họa sĩ Van Gogh trong u tối hãi hùng. Cái nhìn của niềm tin là cái thấy lạ lùng. Tất cả mọi đen tối đều được bật sáng nhờ cắm vào một chấu điện: luồng ánh sáng tình thương của Chúa.
Nhìn thấy và chuyển đạt cái thấy này là sứ vụ của người tin Đạo. Họa sĩ Van Gogh đã có thời học giảng đạo và đã thực tập “mang ơn giải thoát” cho những người phu mỏ nghèo khổ thấp cổ bé miệng vùng quê nước Bỉ. Rất tiếc, ông đã không thành công trong nghề này. Nhưng ước mơ của ông vẫn là một: tìm cách nào giúp giải thoát con người trong đêm tối cuộc đời. Và cuối cùng ông đã học vẽ và thành công chuyển được cái nhìn và cái thấy hút hồn của ông, có sức biến đổi và hồi sinh người xem.
Henri Nouwen, một nhà tu đức nổi tiếng gốc người Hòa Lan đã dạy đề tài “Việc truyền đạo của Van Gogh” tại đại học Yale. Quả thực, những bức tranh của Van Gogh đã có sức cảm hóa lòng người. Henri Nouwen trong lời đề tựa cho cuốn “Van Gogh and God” của Cliff Edwards (Loyola University Press), đã nói rõ:
“Tôi chắc chắn rằng những lớp dạy về Van Gogh này đã ảnh hưởng sâu đậm trên các sinh viên hơn bất cứ khóa nào tôi đã dạy. Tôi đã dùng nhiều sách tu đức hiện đại như của Thomas Merton, nhưng tôi chưa từng thấy những sinh viên bị hút hồn về cả đầu óc và con tim, như trong khóa này khi nhìn kỹ những bức tranh của Van Gogh. Tôi còn nhớ, chúng tôi đã để cả mấy giờ cùng với nhau trong thinh lặng, chỉ để nhìn ngắm những bức dương bản của tác phẩm Van Gogh. Tôi không phải cố gắng giải nghĩa hay phân tích gì cả. Tôi chỉ muốn các sinh viên hãy cảm nghiệm trực tiếp những hút hồn và những quằn quại của họa sĩ này đang cố đi tìm ý nghĩa cuộc sống... Thiên Chúa của Van Gogh rất thật, rất trực diện, sờ thấy được nơi thiên nhiên và con người, rất từ bi thương cảm, vì đã từng rất yếu đuối bị thương tích tư bề. Chính vị Chúa này mà tất cả chúng ta muốn đến gần.”
Trong thư gửi cho em trai là Theo, Van Gogh nói rõ ý về bức tranh này: “là một ủi an, hay để dọn đường cho lối vẽ mang chất ủi an lớn hơn” (thư số 595).
Bức tranh “Đêm Sao,” thật đắt giá, không biết bao nhiêu triệu. Đó là bức tranh diễn tả cơn giông bão của Kinh Thánh trong một ngôn ngữ mới của thời đại. Cũng như bức tranh vẽ chiếc xe có máy vẫn chạy mà hết lạnh.
Đâu là bức tranh đang diễn hiện trạng của chính tôi lúc này? Tôi có thể làm gì để tìm lại an bình cuộc sống?
Xin cho con được con mắt niềm tin như trong Thánh Vịnh 107:
Chúa lên tiếng, và Người đã khiến phong ba nổi dậy,
Người đã khiến cho sóng biển dâng cao.
Những người đó lên tới trời xanh, xuống lòng biển thẳm,
Tâm hồn họ bủn rủn trong cảnh gian nguy. Họ đã kêu cầu Chúa trong cơn khốn khó
Và Người đã giải thoát họ khỏi chỗ lo âu.
Người biến đổi phong ba thành gió thổi hiu hiu,
Và bao làn sóng biển đều im lặng.
Tin Mừng Máccô theo một cái khung quen thuộc để kể truyện này: một trở ngại phải vượt qua (một trận cuồng phong trên biển), hành động quyền năng của Đức Giêsu (lệnh truyền im lặng), và sự xác nhận (sự yên lặng hoàn toàn và nỗi sợ hãi của các môn đệ). Bối cảnh của câu truyện này rất có thể là quan niệm cổ xưa của Cận Đông về biển: đây là biểu tượng của những quyền lực của hỗn mang và sự dữ đấu tranh chống lại Thiên Chúa. Các độc giả đầu tiên của Mc nắm được ý nghĩa của biểu tượng này đến mức nào, thì khó mà biết. Nhưng chắc chắn câu hỏi của các môn đệ (“người này là ai ?”) cho thấy là tác giả muốn nhấn mạnh trên chân tính của Đức Giêsu. Câu hỏi ấy trở thành một lời tung hô mặc nhiên mang tính Kitô học nhìn nhận bản tính thần linh của Đức Giêsu, bởi vì Người làm được những việc Thiên Chúa làm.
Ở đầu bản văn, rõ ràng Mc bận tâm tạo ra một móc nối với những phần đi trước. Ngày sắp tàn là ngày đã có bài giảng dài trên hồ (x. 4,1). Chiếc thuyền Đức Giêsu dùng để qua hồ vẫn là chiếc thuyền Người đã dùng làm bệ giảng trên hồ (x. hình ảnh con thuyền trong Mc: 5,1.21; 6,45; 8,31). Bỏ đám đông ở đầu c. 36 cũng là một điểm móc nối. Riêng với chiếc thuyền: Chuyến vượt hồ bằng thuyền tương ứng với việc dừng lại nơi một ngôi nhà; và cũng như có những giáo huấn đặc biệt Đức Giêsu ban cho các môn đệ được nối kết với lần dừng lại nơi một ngôi nhà (x. 7,17-23; 9,28t; 9,33- 50; 10,10-12), thì cũng có những hành vi quyền lực đặc biệt được liên kết với chuyến vượt hồ bằng thuyền. Chiếc thuyền là nơi để Đức Giêsu mạc khải đặc biệt cho các môn đệ (4,35-41; 6,45-52) và là nơi Người chờ đợi các ông tỏ ra hiểu biết các hành vi quyền lực của Người (8,17-21). Chiếc thuyền là nơi có sự hiệp thông đặc biệt chặt chẽ giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Và chính là trong sự hiệp thông rất chặt chẽ này và không thiếu hiểm nguy, mà các hành vi cứu độ và mạc khải quan trọng của Đức Giêsu được thực hiện.
II. BỐ cỤc
Sau khi đã giản lược một số chi tiết, chúng ta có thể xác định bố cục như sau:
1) Đức Giêsu và các môn đệ trước khi gặp sóng gió (4,35-37); 2) Đức Giêsu và các môn đệ trong sóng gió (4,38-39); 3) Đức Giêsu và các môn đệ sau sóng gió (4,40-41).
III. Vài điỂm chú giẢi
- Hôm ấy, khi chiều đến (35): Tác giả quen dùng hai thành ngữ đi liền nhau để chỉ thời gian, trong đó vế thứ hai xác định vế thứ nhất (x. 1,32.35).
- sang bờ bên kia: nghĩa là sang bờ phía đông của Hồ Galilê. Tại sao Đức Giêsu muốn sang đó: để tránh sự chống đối? để tìm một vùng đất mới mà rao giảng? Ta không được rõ.
- ngủ (38): Giữa trận cuồng phong dữ dội, Đức Giêsu vẫn có thể ngủ, có lẽ vì Người quá mệt, nhưng cũng chắc chắn vì Người vừa hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa (x. Tv 4,9; 3,24-26) vừa chứng tỏ Người luôn làm chủ mọi tình huống.
- Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? (38) Câu hỏi này của các môn đệ đã được làm nhẹ đi rất nhiều trong Mt 8,25 (“Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất”) và Lc 8,24 (“Thầy ơi! Chúng ta chết mất!”).
- truyền cho biển (39): x. 1,25. Đức Giêsu có thể kiểm soát biển, đây là mặc nhiên khẳng định rằng Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa, bởi vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể điều khiển biển (x. Tv 73/74,13-14; 88/89,10-12).
- Câm đi! x. 1,25: động từ phimo?. Cơn bão được coi như một thú dữ. Động từ này cho hiểu rằng Đức Giêsu đang chứng tỏ Người có thể kiểm soát các mãnh lực của tà thần.
- Gió liền tắt và biển lặng như tờ: Nhận định này cho thấy Đức Giêsu hoàn toàn kiểm soát được biển.
- nhát (Hl. deiloi, 40): Nhiều lần các tác giả Tân Ước đã cảnh giác về deilia (“sự nhát đảm”). Ở Kh 21,8, những người nhát đảm được kể ra cùng với những người không tin (x. 2 Tm 1,7; Ga 14,1).
- Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Lời trách này rất nặng, do nhắm thẳng vào các môn đệ (x. 8,14-21). Phải chăng họ đã mất niềm tin vào Thiên Chúa hoặc vào Đức Giêsu? Nếu họ đã mất niềm tin vào Thiên Chúa, chính là vì họ đã không chịu noi theo Đức Giêsu đặt hết tin tưởng vào Thiên Chúa (4,38). Nếu họ đã mất niềm tin vào Đức Giêsu, chính là họ vì họ đã không cậy dựa vào quyền lực của Đức Giêsu.
- Vậy người này là ai? (41): Bởi vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể chế ngự gió và biển, câu hỏi này của các môn đệ hàm chứa một lời tuyên xưng mặc nhiên rằng Người làm được những việc mà truyền thống Cựu Ước thường trình bày là chỉ Thiên Chúa mới làm được.
IV. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
Bản văn vừa cho thấy tương quan mật thiết giữa Đức Giêsu và các môn đệ vừa diễn tả lộ trình các môn đệ khám phá ra mầu nhiệm Đức Giêsu: họ bước theo Người, họ chứng kiến các biến cố trong đó Người can thiệp, họ khám phá ra mầu nhiệm bản thân Người. Chi tiết “có những thuyền khác cùng theo” chỉ được nêu ra ở câu đầu, rồi sau đó cho đến cuối, không xuất hiện nữa. * Đức Giêsu và các môn đệ trước khi gặp sóng gió (35-37)
Sáng kiến vượt hồ là sáng kiến của Đức Giêsu. Các môn đệ luôn thinh lặng bước theo Người và tận tình thực hiện những việc Người đề nghị. Đức Giêsu luôn tỏ ra là chủ, nắm vững mọi hướng đi.
* Đức Giêsu và các môn đệ trong sóng gió (38-39)
Nguy hiểm được mô tả bằng các chi tiết về sóng to gió lớn. Nhưng Đức Giêsu vẫn tỏ ra là chúa tể, làm chủ tình hình: Người ngủ. Bình thường các môn đệ chờ đợi Đức Giêsu phản ứng và dạy bảo rồi mới làm theo; nhưng ở đây, thấy bão táp quá nguy hiểm, các ông bị chao đảo trong đức tin, các ông đã phản ứng trước Thầy, các ông thúc bách Thầy bằng giọng hốt hoảng và trách móc. Người đã trỗi dậy, dẹp yên sóng gió. Ở đây, bão và biển được truyền lệnh như những sinh vật; chúng được yêu cầu “im đi!”, “câm mõm lại!”. Quả thật, từ vựng của bản văn là từ vựng của một truyện trừ quỷ.
* Đức Giêsu và các môn đệ sau sóng gió (40-41)
Dù sao chúng ta thấy phản ứng của các môn đệ (hoảng sợ và đánh thức Thầy) là chuyện hợp lý. Khó hiểu hơn, đó là những câu hỏi của Đức Giêsu: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (c. 40). Làm sao có thể cấm các môn đệ sợ hãi khi gặp nguy hiểm chết người? Đức tin này là loại đức tin nào, mà ngay trong nguy hiểm cùng cực vẫn loại trừ được nỗi sợ hãi? Đức Giêsu trách các môn đệ là chỉ nhìn đến nguy hiểm và những sức mạnh đe dọa của thiên nhiên chứ không hiểu biết ai là người đang cùng ở trên thuyền với họ.
Chỉ sau khi đã thực hiện phép lạ, Đức Giêsu mới ngỏ lời với các môn đệ; lúc này, họ lại trở về đúng vị trí là những người bước theo, đón nhận giáo huấn. Câu nói: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” chứng tỏ các môn đệ đã được sống với Đức Giêsu khá lâu rồi. Câu hỏi “Vậy người này là ai…?” vừa nhìn nhận quyền lực của Đức Giêsu vừa như muốn tìm ra câu trả lời nơi những người nghe kể lại sự cố. Ta sẽ gặp câu trả lời được đề nghị trên môi Phêrô ở 8,29.
+ Kết luận
Đoạn văn nêu bật sự cần thiết của đức tin trong đời sống người môn đệ. Nếu chúng ta hiểu rộng ra rằng trận bão trên biển ấy là một hình ảnh báo trước cuộc Khổ Nạn mà Đức Giêsu sẽ đi vào, thì bước theo Đức Giêsu, dù ngày hôm qua hay ngày hôm nay, luôn luôn là bước theo Người xuyên qua Khổ Nạn. Và như thế, cần phải có đức tin. Chỉ với giá ấy, người môn đệ mới được tham dự vào cuộc Phục Sinh vinh quang với sự an bình thẳm sâu được.
V. GỢi ý suy niỆm
1. Hình ảnh con thuyền trong đó các môn đệ sống chung với Đức Giêsu là biểu tượng cho cộng đoàn gồm những môn đệ hôm nay vẫn đang muốn bước theo Người. Đó chính là một cuộc “cộng đồng sinh mệnh”, sống chết có nhau.
2. Sai lầm của các môn đệ là chỉ nghĩ đến mình chứ không sẵn sàng chia sẻ nguy hiểm với nhau và với Đức Giêsu. Hoàn cảnh này sẽ được lặp lại khi họ chạy trốn trong đêm Đức Giêsu bị bắt và bị đưa đi đóng đinh.
3. Phản ứng của các môn đệ trong biến cố này là một tấm gương và một lời nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô hữu là đừng rơi vào một thái độ không tin như thế. Nếu chúng ta gắn bó với Đức Giêsu, thì không có hoàn cảnh nào có thể tiêu diệt chúng ta, bởi vì không có hoàn cảnh nào mà Người không chế ngự được.
4. Lời Đức Giêsu trách các môn đệ: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” rất đúng cho chúng ta là những người đã biết Đức Giêsu từ lâu, đã sống với Người, đã được chứng kiến biết bao nhiêu việc kỳ diệu Người làm trong đời sống chúng ta, mà vẫn không biết phản ứng hay lấy những quyết định tương hợp với kinh nghiệm ấy. Nhận biết đúng đắn chân tính của Đức Giêsu thì sẽ có một thái độ đúng đắn đối với bản thân Người.
Đồng bào chúng ta vẫn tin ở Ông Trời, coi Ông Trời là Đấng làm chủ gió mưa, thời tiết, mùa màng và nắm vận mạng của con người. Phần chúng ta, nhờ đức tin, chúng ta được biết Ông Trời ấy chỉ là một ý thức mơ hồ về Thiên Chúa. Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã cho chúng ta được biết Ngài và chúng ta hãy cố gắng yêu mến thờ phượng Ngài cho xứng đáng, nhất là trong Thánh lễ này.
II. GỢi ý sám hỐi
Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên. Đối với Ngài, chúng ta thường cầu xin ơn này ơn nọ, nhưng ít khi để ý tới việc thờ phượng Ngài.
Thiên Chúa là Đấng quan phòng chăm sóc mọi loài. Nhưng ít khi chúng ta trông cậy phó thác vào Ngài.
Ngày xưa, Đức Giêsu đã trách các môn đệ thiếu đức tin. Huống chi chúng ta, đức tin chúng ta cũng rất yếu kém.
III. LỜi Chúa
1. Bài đọc I G 38,1.8-11
Gióp là một người công chính nhưng phải gặp rất nhiều tai họa. Thân nhân ông trách móc Chúa và không tin vào Chúa nữa. Phần ông, ông không dám trách mà chỉ than thở và cầu xin Chúa cho ông một lời giải đáp về lý do những khổ sở ông đang chịu.
Trong trích đoạn này, Thiên Chúa đưa ra một lời giải đáp gián tiếp: Ngài là chủ tể của thiên nhiên. Chính Ngài điều hành sức mạnh của nước: Ngài tạo dựng ra nó, ấn định cho nó được chảy tới đâu, ngăn không cho nó tràn bờ...
Lời giải đáp hàm chứa trong Lời Chúa là: mọi sự lành hay sự dữ đều được Chúa cho phép mới xảy tới, con người phải biết phó thác vào sự sắp xếp của Ngài.
2. Đáp ca Tv 106
Tv này là một bài ca tụng uy quyền Thiên Chúa trên biển cả.
3. Bài đọc II 2 Cr 5,14-17
Chúng ta có thể tóm tắt ý tưởng của Phaolô trong trích đoạn này là: Đức Giêsu Kitô là tất cả.
Sau đây là các chi tiết trong lập luận của thánh Phaolô:
Vì Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, nên đáp lại chúng ta phải sống cho Ngài chứ đừng sống cho mình nữa.
Chúng ta cũng chẳng cần biết ai khác ngoài một mình Đức Kitô.
Đức Kitô đã ban cho chúng ta một cuộc sống mới, vậy từ nay chúng ta phải bỏ hết những gì thuộc cuộc sống cũ để sống một cuộc sống hoàn toàn mới trong Đức Kitô.
4. Tin Mừng Mc 4,35-41
Biển hồ Galilê thường có bão, nhất là vào buổi chiều. Chiều hôm ấy Đức Giêsu bảo các môn đệ dùng thuyền đi từ bờ bên này sang bờ bên kia. Xem ra Ngài cố ý để cho họ gặp bão.
Khi bão đến, Đức Giêsu lại bình thản dựa vào chiếc gối sau lái mà ngủ. Đây lại là một việc làm cố ý để thử xem các môn đệ phản ứng thế nào trong cơn bão.
Phản ứng của họ là "kinh hãi", lại còn trách Chúa "Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm sao!"
Đức Giêsu đứng lên, và chỉ cần phán một lời, bão liên ngưng. Một bằng chứng rõ ràng Ngài là chủ tể của thiên nhiên.
Sau đó, Đức Giêsu vừa trách các môn đệ vừa kêu gọi họ hãy tin vào uy quyền của Ngài.
IV. GỢi ý giẢng
* 1. Chúa tể thiên nhiên
Bài đọc thứ I của Thánh Lễ hôm nay trích từ sách Gióp, trong đó có một hình ảnh hơi lạ: Chúa đã đóng cửa và gài chốt để ngăn không cho nước chảy tràn lan khắp mặt đất. Đó là một lối diễn tả, dựa theo vũ trụ quan của thời kỳ quyền sách này được biên soạn, tức thế kỷ thứ V trước Công nguyên, nghĩa là cách đây đến 2.500 năm. Thời đó người ta nghĩ rằng trái đất như một cái đĩa nổi bồng bềnh trên mặt đại dương. Chung quanh trái đất và bên dưới trái đất toàn là nước. Phía trên trái đất là vòm trời như một cái chụp tròn úp xuống, và cũng chứa đầy nước. Tất cả lượng nước trên vòm trời và dưới biển ấy được chặn lại bằng những cánh cửa. Khi cửa trời mở ra thì nước mưa rơi xuống; khi cửa biển mở ra thì nước thuỷ triều dân lên; còn khi cả cửa trời và cửa biển đều đóng kín lại trong một thời gian lâu dài thì đó là hạn hán. Và người giữ quyền đóng hay mở các cửa đó chính là Thiên Chúa. Đây quả là một lối nhìn vũ trụ rất là đơn sơ và có phần ngây ngô nữa. Tuy nhiên chúng ta có thể thông cảm với tác giả, vì ông sống cách chúng ta đến 2.500 năm, làm sao ông có thể diễn tả chính xác như các nhà khoa học thế kỷ 21 này được. Chúng ta chỉ cần ghi nhận tư tưởng của ông, đó là: chính Thiên Chúa là Đấng làm chủ thiên nhiên, và điều khiển thiên nhiên vận hành để giúp có thể sinh sống.
Có một điều hay, là tư tưởng ấy được chính các nhà khoa học ngày nay xác nhận. Mặc dù không trực tiếp nói đến Chúa như là Chúa tể thiên nhiên, nhưng các nhà khoa học đã cho thấy thiên nhiên đã vận hành theo một trật tự xít xao, nhờ đó mà loài người mới có thể sinh sống được. Thí dụ như trật tự vận hành của trái đất, mặt trời và mặt trăng. Cả 3 đều di chuyển không ngừng, mỗi cái theo quỹ đạo riêng của nó. Nhưng khoảng cách của chúng thì hình như đã được tính toán và điều khiển thật xít xao: chỉ cần mặt trời và trái đất gần nhau hơn một chút nữa thì trái đất sẽ nóng khủng khiếp, do đó loài người sẽ chết cháy; ngược lại chỉ cần trái đất và mặt trời xa nhau thêm một khoảng nữa thì mặt đất, sẽ giá lạnh, loài người sẽ chết cóng. Còn khoảng cách giữa mặt trăng với trái đất cũng thế: xích gần hơn chút nữa thì thuỷ triều sẽ dâng phủ ngập mặt đất, loài người chết chìm; còn dang xa hơn một chút thì không còn thuỷ triều, mọi loài trên mặt đất sẽ chết khô.
Ngay cả một hiện tượng thiên nhiên mà người ta thường coi là tai hoạ, đó là giông bão, nhưng khoa học cũng xem là có lợi. Khi nào có giông bão? Thưa là khi một vùng quá nóng, không khí bốc lên cao tạo thành một khoảng trống. Không khí ở các vùng khác liền ùa về để lấp đầy khoảng trống đó. Dĩ nhiên, khi mà không khí di chuyển như thế với một tốc độ nhanh thì sẽ tạo ra những luồng gió mạnh, có thể làm gãy cây cối, sập nhà, và có người chết. Nhưng nếu nhìn hiện tượng ấy một cách bao quát thì sẽ thấy giông bão là có lợi, và cần thiết nữa, vì nhờ đó mà không khí trên mặt đất được điều hoà.
Rõ ràng thiên nhiên đã được điều khiển theo một trật tự diệu kỳ bởi một Đấng đầy quyền năng. Đấng quyền năng ấy là ai? Nhiều người chưa được biết, nhưng từ xưa tác giả sách Gióp đã biết và gọi đó là Thiên Chúa. Hôm nay Tin mừng lại nói cho chúng ta biết thêm một lần nữa. Chúng ta hãy nói đến cơn giông bão trên biển hồ Gênêzarét. Vị trí của Biển hồ này hơi đặc biệt: nó giống như một cái lòng chão dưới thấp, chung quanh được bao bọc bởi những rặng núi. Như đã nói ở trên giông bão là do không khí di chuyển đổi vùng với một tốc độ nhanh mạnh. Vậy thì cái Biển Hồ này, do địa thế đặc biệt của nó nên nó rất thường gặp giông bão. Bởi vì khi những luồng gió mạnh thổi qua, gió bị núi ngăn chặn nên không lướt ngay đến vùng khác được., nhưng chạy vòng vòng giữa các rặng núi tạo thành những cơn lốc xoáy, và thế là có bão trên mặt biển. Tuy nhiên những cơn bão này cũng chóng tan. Hôm ấy, Đức Giêsu và các tông đồ đang di chuyển bằng thuyền trên mặt Biển Hồ thì gặp giông bão. Đức Giêsu vì đã nắm rõ bản chất của những cơn bão loại đó nên an tâm cứ nằm ngủ. Còn các tông đồ thì hoảng sợ cuống cuồng. Các ông còn trách móc Chúa "Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi rồi mà Thầy không quan tâm sao?" Đức Giêsu bình tĩnh đứng dậy ra lệnh cho gió và biển, lập tức bão yên, biển lặng. Sau đó Chúa trách lại các tông đồ "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Qua sự kiện này, Đức Giêsu muốn chứng tỏ rằng Ngài chính là chúa tể của thiên nhiên, và mời gọi chúng ta hãy tin vào Ngài.
Thế nào là tin vào Chúa là chúa tể thiên nhiên?
- Trước hết là đừng kiêu căng: có một số người có chút ít kiến thức về khoa học, hay có được một vài công trình khoa học ứng dụng trên thiên nhiên, rồi tưởng mình đã là giỏi lắm, đã hoàn toàn điều khiển được thiên nhiên, và từ đó tự coi mình là chúa tể, phủ nhận cả Thiên Chúa. Thực ra khoa học không tạo ra thiên nhiên, khoa học cũng không sửa đổi được những quy luật điều khiển thiên nhiên. Tất cả những gì mà khoa học có thể làm được chỉ là nghiên cứu thiên nhiên có sẵn, tìm hiểu những quy luật có sẵn trong thiên nhiên, rồi ứng dụng để mưu lợi ích cho loài người. Thí dụ như khoa học làm ra được một chiếc tàu chạy trên mặt biển, thì cũng nhờ dựa vào những quy luật thiên nhiên có sẵn, như luật về sức đẩy Archimède khiến cho thân tàu có thể nổi trên mặt nước, luật về sức đẩy của gió được ứng dụng để thổi những cánh buồm v.v. Có gì là ghê gớm lắm đâu? có gì mà đã lên mặt coi mình giỏi hơn cả Thiên Chúa? Có gì mà kiêu căng?
- Thứ hai là đừng mê tín dị đoan: nếu như người kiêu căng là người quá tự phụ vì những hiểu biết khoa học của mình đến nỗi phủ nhận vai trò của Chúa, thì người mê tín dị đoan là người vì không có những kiến thức cơ bản của khoa học và của giáo lý nên không đủ tin vào Chúa mà lại tin những điều nhảm nhí. Ngày xưa vì ngu dốt nên người ta nhìn đâu đâu cũng cho là có thần: như thần sấm sét, thần gió, thần lửa, thuỷ thần, hà bá... Còn ngày nay cũng có người coi các thứ bệnh tật như là do tà ma, do quỷ ám, do bị thư, bị bùa, bị ngãi... Thực ra bệnh tật là gì? Theo giáo lý, đó là thân phận tự nhiên của loài người kể từ sau tội nguyên tổ. Còn theo khoa học, bệnh là do cô thể suy yếu mà ra. Có bệnh thì phải chữa trị bằng vệ sinh, bằng y dược, chứ không phải chỉ cầu xin, khấn vái hay uống bùa uống ngãi mà hết được, vừa không hết bệnh, lại vừa phạm tội thiếu lòng tin vào Chúa.
- Điều thứ ba để tỏ lòng tin vào Chúa là Chúa tể thiên nhiên là an tâm vui sống dưới ánh mắt Chúa Quan phòng: Chúa đã tạo dựng muôn loài, Chúa còn tiếp tục chăm sóc cho muôn loài, trong đó đương nhiên và hơn hết là loài người chúng ta. Đức Giêsu đã phán "không một sợi tóc nào trên đầu chúng con rụng xuống mà không do ý của Chúa". Vì thế cho dù sự đời có lúc suy, cuộc đời có lúc thăng lúc trầm, nhưng nếu ta biết mọi sự đều năm trong tay Chúa quan phòng thì chúng ta hãy an tâm phó thác đời mình cho Chúa, không có gì phải sợ hãi quá "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"
* 2. Quyền năng Thiên Chúa và phát minh khoa học.
Trong vài thế kỷ gần đây, loài người đã có nhiều phát minh khoa học rất to lớn:
Cuối thế kỷ 19, Lilienthal làm ra chiếc máy bay có 2 cánh rộng để lượn theo chiều gió. Sau đó Ader đã cải tiến cho chiếc máy bay chạy bằng động cơ.
Cũng trong thế kỷ 19 đó, Thomas Edison đã phát minh ra bóng đèn điện. Phát minh đó đã khiến cho người ta mừng rỡ và nhiều người đã coi ông như là Thần Ánh Sáng.
Đến thế kỷ 20, người ta đã bước lên cung trăng và còn đang tiếp tục đi đến các hành tinh khác.
Cách đây vài năm, người ta đã biết phương pháp "nhân bản" sinh vật (cloning), nghĩa là lấy một tế bào của một sinh vật rồi làm cho thụ tinh để sinh ra một hoặc nhiều sinh vật giống y sinh vật gốc.
Và hiện nay người ta đang giải mã bộ gien của người và các sinh vật. Kết quả này sẽ giúp trị được rất nhiều chứng bệnh nan y.
Những thành công to lớn ấy của khoa học đã khiến cho một số người nghĩ rằng loài người có thể làm được mọi sự, không cần đến Thiên Chúa nữa... Có kẻ còn cho rằng chẳng có Thiên Chúa nữa. Có đúng như vậy không?
- Xét kỹ những phát minh khoa học chúng ta sẽ nhận ra rằng loài người thực ra chẳng làm gì hơn là khám phá ra những quy luật có sẵn trong thiên nhiên và áp dụng những quy luật ấy để phục vụ cho đời sống. Chẳng hạn như những phát minh mà chúng ta vừa nói ở trên:
Chiếc máy bay: đây không phải là sáng kiến mới mẻ gì, mà chỉ là bắt chước khả năng của loài chim thôi.
Còn về dòng điện: cũng không phải là do con người sáng tạo ra. Điện đã có sẵn trong thiên nhiên từ khi mới có vũ trụ. Đến cuối thế kỷ 18, Benjamin Franklin mới khám phá ra nó có trong sấm sét. Về sau người ta mới đưa điện vào sử dụng trong nhiều việc.
Và việc người ta tạo ta những bào thai trong ống nghiệm cũng không phải là vượt quyền Chúa sáng tạo nên một con người. Người ta vẫn phải dùng đến những tế bào nam nữ có sẵn và cho kết hợp trong ống nghiệm thay vì kết hợp trong bụng mẹ thế thôi.
Tóm lại, Khoa học chỉ là bắt chước thiên nhiên, làm lại những gì mà thiên nhiên đã từng làm từ ngàn triệu năm trước. Do đó, nếu ai biết nhìn xa cho tới Đấng đã sáng tạo nên thiên nhiên thì người đó càng đi sâu vào khoa học chừng nào thì càng ngưỡng mộ Thiên Chúa bấy nhiêu. Chỉ có những kẻ thiển cận mới tưởng những khám phá ấy là do chính mình sáng tạo và phủ nhận quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta thấy có 2 thái độ nơi những nhà khoa học: một là thái độ khiêm tốn của một nhà thiên văn kia, ông nói "Tôi đã nhìn ra Thiên Chúa qua ống kính viễn vọng của tôi"; và một nhà du hành vũ trụ khác thì ngạo mạn tuyên bố "Tôi đã bay lên tận trời, nhìn khắp nơi mà chẳng thấy có Thiên Chúa đâu cả". Hai thái độ khác nhau ấy xuất phát từ hai lối nhìn khác nhau: một nhìn xa và một nhìn gần; xuất phát từ hai tâm trạng khác nhau: một là khiêm tốn, hai là kiêu căng.
- Bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta xác định rõ ai là chủ thực sự của thiên nhiên: chỉ có Chúa mới là chủ thiên nhiên đích thực và đúng nghĩa. Con người chẳng làm gì hơn là khám phá những bí mật của thiên nhiên. Nếu có nói con người là chủ thiên nhiên thì chỉ là theo nghĩa con người được Thiên Chúa ban quyền quản lý thiên nhiên và ban cho những khả năng để khám phá những bí mật trong thiên nhiên ấy. Con người biết suy nghĩ chín chắn và khiêm nhường không thể nào phủ nhận vai trò của Thiên Chúa được. Con người chỉ khám phá những gì có sẵn thôi. Chừng nào con người không cần dùng tới những gì có sẵn ấy, chỉ nói một lời mà có được mọi sự (như Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay chỉ phán một lời thì gió liền yên, biển liền lặng) thì khi đó con người mới có quyền tuyên bố mình là chủ thực sự của thiên nhiên.
Chúng ta phải nhìn nhận rằng khoa học kỹ thuật ngày nay đang tiến những bước thật xa thật nhanh đến nỗi có thể khiến chúng ta say sưa khâm phục. Sự say sưa khâm phục ấy có thể giúp con người suy nghĩ xa hơn, tìm đến chính Đấng là tác giả của những việc kỳ diệu ấy trong thiên nhiên. Nhưng cũng sự say sưa khâm phục ấy có thể làm choáng mắt con người khiến con người chỉ thấy tài năng của mình mà ngạo mạn phủ nhận vai trò của Thiên Chúa.
- Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi không làm chúng ta xa Chúa nhưng khiến chúng ta càng tới gần Chúa hơn. Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi của chúng ta không biến chúng ta thành những kẻ kiêu căng, nhưng giúp các bạn càng khiêm nhường hơn, như lời của một danh nhân nọ "Càng học thì thấy mình càng dốt".
* 3. Cha em là người cầm lái.
Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây Dương, khách du lịch đang thư thái ngắm cảnh hoàng hôn trên boong tàu.
Nơi tít mù xa, mặt trời đỏ cam đang chiếu những ánh vàng cuối cùng của một ngày còn sót lại.
Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, tối sầm cả một vùng trời. Sấm chớp đổ xuống liên hồi, giông tố cuồn cuộn nổi lên, càng lúc càng thét gào dữ dội.
Mọi người trên boong chen lấn nhau chạy về phòng mình. Duy chỉ có một bé trai cứ tiếp tục chạy giỡn trên boong giữa trận cuồng phong.
Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố?
Em thản nhiên đáp lại:
- Vì cha em là người cầm lái con tàu!
|||
Giống như khách du lịch trong câu chuyện trên, các môn đệ cũng gặp một trận cuồng phong khi vượt biển. Các ngài kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chững. Bó tay bất lực trước phong ba bão táp, các ngài đã vội đánh thức Đức Giêsu và xin Người ra tay cứu giúp: "Thưa Thầy, chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao" (Mc. 4,38). Người liền đe gió và phán với biển như một người bị quỉ ám: "Hãy im đi". Tức thì sóng yên biển lặng.
Ai cũng thích sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông? Đại dương nào mà không có những bão tố?
Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin.
Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Người. Cũng chính giông tố sẽ giúp ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố.
Thánh Phaolô viết: "Thiên Chúa không ban cho ta một thần khí nhát sợ nhưng mạnh mẽ, bác ái và tự chủ" (2Tm.1,7),
Mỗi người chúng ta không khác chi chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin ở Thiên Chúa tình yêu. Người sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Có Chúa trong đời, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Thánh Phanxicô Salêsiô dạy: "Phải ở lại trong con thuyền mà Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, để hành trình từ cõi đời này về chốn đời sau. Chúng ta phải sẵn sàng ở lại trong sự bình an thanh thản".
|||
Lạy Chúa, thuyền đời chúng con chẳng bao giờ được êm ả, nó chỉ êm ả khi tới bến thiên đàng. Xin cho lòng chúng con luôn bình an ngay cả khi Chúa còn đang ngủ, miễn là có Chúa trong thuyền, vì Chúa chính là thuyền trưởng của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Vượt tầm kiểm soát
Chiều hôm ấy, Đức Giêsu và các môn đệ đi thuyền vượt biển. Một cơn bão nổi lên. Ban đầu, các môn đệ còn chèo chống và giữ được con thuyền vẫn còn đứng vững trước phong ba bão táp. Đó là tình trạng còn trong tầm kiểm soát. Khi mọi sự còn trong tầm kiểm soát nghĩa là chúng còn nằm trong khả năng xoay sở của ta. Khi đó ta rất dễ nghĩ rằng mình có đức tin. Lèo lái con thuyền đời mình cũng thế. Khi ta còn kiểm soát được những sự việc xảy ra cho đời mình thì ta cảm thấy hạnh phúc. Ta xác định những mục tiêu, ta hoạch định chương trình, ta làm chủ tình thế. Những khi đó, ta không thực sự cảm thấy cần đến Chúa.
Nhưng giông tố ngày càng lớn. Các môn đệ dù đã làm hết sức mình nhưng vẫn không giữ được con thuyền, nó sắp chìm. Các ông chợt nhận ra rằng tình thế đã vượt tầm kiểm soát của họ. Trong đời chúng ta cũng có những lúc tương tự như thế. Đó là khi ta gặp một hoàn cảnh quá khó khăn, hay khi ta bệnh nặng, ta sắp chết. Những khi đó ta thấy mình như không còn sức lực, ta hoang mang, sợ hãi. Chính những khi đó ta mới biết đức tin của mình còn quá yếu kém, thậm chí không có đức tin thực sự. Ta nghĩ rằng không có Chúa hoặc Chúa đã bỏ ta. Trong bài Tin Mừng này, các môn đệ cũng cảm thấy như thế. Họ chạy đến tìm Đức Giêsu nhưng họ thấy Ngài đang ngủ. Họ còn trách Ngài nữa.
Giữa phong ba bão táp, Đức Giêsu vẫn ngủ. Đó là dấu chỉ một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Ngược hẳn với đức tin yếu kém của các môn đệ. Khi họ kêu cầu Ngài, Ngài thức dậy, và chỉ một lời thôi, Ngài dẹp yên bão táp.
Con thuyền trong bão táp, đó là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Nên nhớ là trong thuyền có Đức Giêsu. Mặc dù Ngài ngủ nhưng Ngài không ở xa và không bỏ chúng ta một mình. Ngài ngủ để thử đức tin của chúng ta đó thôi, để chúng ta biết được đức tin của mình đã vững mạnh hay vẫn còn yếu kém. Chỉ cần chúng ta nhớ đến Ngài, kêu xin Ngài thì Ngài sẵn sàng thức dậy và dẹp yên bão táp đang đe dọa chúng ta.
5. Chuyện minh họa
a/ Câu chuyện của cây vả
Một cây vả kia đã đứng vững suốt mùa đông trước bao cơn gió mạnh. Nhưng đến đầu mùa hè, khi gặp một cơn gió trung bình thôi, nó đã ngã sập xuống. Nhiều người lấy làm lạ.
Thực ra cũng chẳng có gì lạ lắm: Trong mùa đông, cũng như hầu hết các cây khác, cây vả này bị rụng trụi lá. Gió đông có thổi đến thì cũng lọt qua các cành trơ trụi khẳng khiu của nó và bay đi. Bởi thế bao nhiều cơn gió mùa đông cũng không làm cho nó nhúc nhích. Nhưng đông tàn, xuân tới, cây vả bắt đầu đâm chồi nẩy lộc. Đến mùa hè thì cành lá đã xum xuê. Khi gió thổi đến, lá cây cản lại làm sức tấn công của gió càng mạnh hơn. Chính vì thế mà cây vả không còn đứng vững được nữa.
Câu chuyện này giúp ta hiểu thế nào là "giông tố mùa đông" và "giông tố mùa hè". "Giông tố mùa hè" gây hại nhiều hơn "giông tố mùa đông". "Mùa hè" nói đây là lúc cuộc đời ta đang đầy đủ, thoải mái, sung sướng.
*****
b/ Loại máy bay đầu tiên
Ngày kia, tôi đang ngồi trong phòng, một con ruồi vo ve bay vào. Nó bay dập dờn và vù xuống ăn những thức ăn thừa.... Nó làm bất cứ điều gì nó thích và bất cứ khi nào nó muốn.
Một con ruồi chỉ là một sinh vật. Nó hơn hẳn chiếc máy bay.... Nó cất cánh mà không cần chạy như máy bay. Nó đáp xuống ngay tức khắc. Nó không bao giờ rơi và không bao giờ đâm vào bất cứ vật gì hoặc gặp một tai nạn nào. Phi hành đoàn của nó không phải học cách lái hoặc kiểm tra. Nó không có những động cơ trục trặc hay hết nhiên liệu. Và hơn thế nữa: nó có thể sản xuất ra những chiếc máy bay tương tự mà chỉ cần một chút sức lực.
Thật khó có thể kiếm được một thiết bị điện tử hoặc động cơ nào sánh với tất cả những gì một con ruồi có thể làm.
Nó chỉ là một trong nhiều sinh vật của Chúa..... và cho ta thấy rằng có ai đó đã tạo ra nó.
*****
c/ Điều huyền bí.
Một thanh niên đi du lịch tới một thành phố lớn. Đến một nhà thờ, cậu ngả mũ cung kính cúi chào.
Thấy điều này, một hành khách vẻ trí thức bên cạnh cậu nhận định:
- Ồ, tôi biết bạn có đạo. Bạn học gì ở đó?
- Tôi học những điều huyền nhiệm của tôn giáo.
- Huyền nhiệm? Bạn không biết rằng chúng ta chẳng bao giờ tin những gì chúng ta không hiểu? Ít ra đó là nguyên tắc của tôi.
- Vậy anh hãy nói cho tôi biết tại sao ngón tay anh cử động khi anh ngoáy nó?"
- Nó cử động vì sự sống trong tôi làm nó cử động.
- Nhưng tại sao nó cử động?
- Vì tôi muốn thế.
- Tại sao cái tai của anh không cụp lại khi anh muốn?
Lúc đó cuộc đối thoại chấm dứt.
*****
6. Tin vào quyền năng Thiên Chúa Web
Một sinh viên y khoa người Tây Ban Nha đi viếng trung tâm hành hương kính Đức Mẹ tại Lộ Đức.
Ở đại học Madrid, người sinh viên này đã từng nghe các giáo sư vô tín ngưỡng nói về Lộ Đức như xuất xứ của những thứ mê tín dị đoan vẫn còn được loan truyền đi nhiều nơi.
Ba tháng ở Lộ Đức, anh muốn theo dõi việc làm của văn phòng xác minh các phép lạ xảy ra tại trung tâm này.
Vậy thời gian ba tháng ở Lộ Đức, người sinh viên này đã được chứng kiến ba phép lạ. Cả ba trường hợp đều có các bác sĩ vô thần theo dõi để xác minh tính đích thực của phép lạ.
Hãy nghe người sinh viên này chia sẻ điều mắt thấy tai nghe về một trong ba phép lạ đó.
Tại Lộ Đức
"Hôm đó tôi đang ở tiền đường vương cung thánh đường Lộ Đức cùng với các chị của tôi hiện có đó chỉ mấy phút trước khi Kiệu Mình Thánh Chúa đi qua. Khi ấy một người đàn bà tuổi trung tuần đang đẩy chiếc xe lăn qua trước mắt chúng tôi. Một người chị tôi lưu ý chứng tôi khi nói: "Kìa hãy coi cậu con trai đáng thương trên chiếc xe lăn!"
Đó là một chàng trai chừng 20 tuổi bị bệnh bại liệt làm biến dạng. Mẹ của chàng khi ấy lần chuỗi to tiếng, lúc lúc lại thở dài thưa với Đức Mẹ: "Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, xin giúp đỡ chúng con!" Quả là một cảnh tượng cảm động gợi nhớ lại bệnh nhân xưa đã thưa với Đức Giêsu: "Lạy Chúa, xin cho con được sạch khỏi bệnh phong." Người đàn bà đẩy xe lăn không muốn chậm trễ, nhưng đã tới ngay chỗ những người đang chờ Đức Giám Mục rước Mình Thánh đi ngang qua.
Đã đến lúc Đức Giám Mục sắp ban phép lành Mình Thánh cho chàng thanh niên bại liệt. Khi ấy chàng thanh niên nhìn thẳng mặt nhật đựng Mình Thánh Chúa. Đó xem ra là cách anh biểu lộ niềm tin của anh. Thế rồi khi Đức Giám Mục ban phép lành với dấu thánh giá bao quát, cậu thanh niên bại liệt liền chỗi dậy, ra khỏi xe lăn, hoàn toàn khỏi bại liệt! Dân chúng liền hô to trong niềm vui: "Đó là một phép lạ! Đó là một phép lạ!"
Nhờ có giấy phép đặc biệt, tôi được chứng kiến những xác minh tiếp theo để thấy quả thật, Chúa đã chữa lành người thanh niên. Tôi không thể nào diễn tả hết được những điều tôi cảm nhận và tâm trạng tôi lúc đó.
Tôi đến từ trường Y Khoa Đại Học Madrid, nơi có nhiều giáo sư vô tín (và nhiều vị nổi tiếng). Nhiều sinh viên bạn học tôi luôn nhạo báng các phép lạ. Và giờ đây, tôi được thấy tận mắt một phép lạ. Đây là một phép lạ do Đức Giêsu Thánh Thể thực hiện, cũng Đức Giêsu xưa đã từng chữa lành bao người bại liệt và bệnh nhân khác. Tôi nghiệm được một niềm vui lớn lao. Tôi có ấn tượng tôi được ở ngay bên cạnh Chúa. Khi ấy tôi cảm nhận sức mạnh vô song của Chúa và cảm thấy thế giới bao quanh tôi bỗng trở nên cực kỳ nhỏ bé. Tôi đã trở về Madrid, Tây Ban Nha. Những chồng sách, những bài học, những cuộc thí nghiệm tôi đã từng thực hiện với bao là hứng khởi, nay không còn là sức nặng lôi kéo tôi nữa.
Các bạn tôi hỏi tôi: "Điều gì đã xảy ra cho cậu trong niên học này vậy? Điều gì khiến cậu sững sờ?" Quả thật tôi bị sững sờ do kỷ niệm khiến tôi bị khuynh đảo mỗi ngày. Duy hình ảnh Mình Thánh Chúa được giơ lên để ban phép lành khiến cậu thanh niên bại liệt kia nhảy vọt ra khỏi chiếc xe lăn, hình ảnh ấy in sâu vào ký ức và vào trái tim tôi. Ba tháng sau đó tôi nhập Tập Viện Dòng Tên. Đó là ngày 15 tháng 1, 1927."
Tại Nhật Bản
Chàng sinh viên ấy tên là Pedro Arrupe. Suốt đời chàng sẽ không bao giờ quên được phép lạ Chúa làm trước mắt anh. Được củng cố mạnh mẽ do phép lạ như dấu chỉ về quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, anh sẽ không bao giờ lùi bước trên đường dấn thân phục vụ Người:
Bị trục xuất khỏi quê hương Tây Ban Nha ngày 13 tháng 02, 1932 cùng với tất cả các tu sĩ Dòng Tên.
Nhận thừa tác vụ Linh Mục ngày 30 tháng 7, 1936 tại Hà Lan.
Được phái đi truyền giáo tại Nhật Bản ngày 15 tháng 10, 1938
Phục vụ nạn nhân bom nguyên tử giáng trên Hiroshima ngày 6 tháng 8, 1945.
Được bầu làm Tổng Quyền thứ 29 Dòng Tên ngày 22 tháng 5, 1965 sau nhiều năm làm giám đốc Tập Sinh và làm giám tỉnh Dòng Tên ở Nhật.
Quả thật phép lạ xưa cũng như nay chỉ có ý nghĩa khi là dấu chỉ về Nước của Thiên Chúa như lời Đức Giêsu tuyên bố với người Pharisêu: "Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông" (Mt 12,28). Ai nhận ra dấu lạ Chúa làm cũng được thúc đẩy dấn thân hết mình để phục vụ Nước Thiên Chúa.
Câu chuyện phép lạ chàng thanh niên bại liệt được chữa lành tại Lộ Đức khiến chàng sinh viên Pedro Arrupe được hoán cải như thế nào trên con đường phục vụ Nước Chúa. Cuộc hoán cải ấy không thấm vào đâu so với cuộc hoán cải của Simon Phêrô và các bạn một khi nhận biết quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Phục Sinh. Họ đã hy sinh cả mạng sống mình để phục vụ Nước Thiên Chúa. Họ đã thực sự trở nên giềng cột của Hội Thánh Chúa nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. LỜi nguyỆn cho mỌi ngưỜi
CT: Anh chị em thân mến
Trong niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên, chúng ta hãy dâng lên Ngài những lời cầu xin của chúng ta:
1. Hội Thánh có sứ mạng rao giảng cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là chủ tể của thiên nhiên. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho nhân loại đón nhận lời rao giảng của Hội Thánh.
2. Khoa học kỹ thuật ngày nay rất tiến bộ, phát minh ra nhiều điều kỳ diệu. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những phát minh đó không làm cho loài người kiêu căng chối bỏ Chúa, trái lại giúp loài người càng nhận biết và khâm phục Chúa hơn.
3. Mặc dù y học đã tiến bộ rất nhiều, nhưng cũng đành phải bó tay trước cái chết, nghĩa là không thể làm cho con người thành bất tử được. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người mang những chứng bệnh ngặt nghèo và nhất là những người hấp hối, để họ biết bình an phó thác mạng sống của mình trong tay Chúa.
4. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta thực sự là một cộng đoàn đức tin, một cộng đoàn phượng tự, nghĩa là luôn tin tưởng vào Chúa và thờ phượng Chúa như chủ tể mọi loài.
CT: Lạy Đức Giêsu, ngày xưa Chúa đã trách các môn đệ rằng "Sao các con sợ hãy thế? Các con không có đức tin ư?". Ngày nay cũng vì thiếu đức tin mà chúng con phải sợ hãi nhiều điều. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con, để trong mọi hoàn cảnh chúng con biết hoàn toàn cậy dựa vào Chúa và phó thác trong tay Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
Chúa Giêsu nói với sóng biển, "Hãy yên đi!" Gió dịu hẳn và cả một sự êm đềm. (Mc 4:39).
Ai sống trong những ngày kinh hoàng của Thế Chiến II có thể nhớ đến một bài thơ có tên là "Hoán: TN12 B-27
Ai sống trong những ngày kinh hoàng của Thế Chiến II có thể nhớ đến một bài thơ có tên là "Hoán Cải".
Các minh tinh màn bạc thường trích dẫn bài thơ ấy trong những cuộc biểu tình nói lên sự đoàn kết. Các chính trị gia đề cập đến bài thơ ấy. Các đài phát thanh đọc bài thơ ấy.
Sau khi bài thơ được đọc trên một đài phát thanh, ban giám đốc đã phải thuê thêm nhân viên để thoả đáp thỉnh cầu của hàng ngàn thính giả muốn có một bản sao.
Trong các khu rừng ở Nam Thái Bình Dương, bài thơ ấy được thấy ghim trên một thân cây. Ở Anh, một bản chép tay bài thơ ấy được tìm thấy trong túi của người pháo thủ bị thương nặng, được lôi ra từ chiếc phi cơ tan nát.
Vào ngày quan trọng nhất của Thế Chiến II (D-Day), một tuyên uý tìm thấy bài thơ ấy được nắm chặt trong tay các binh lính tử trận ở bờ biển Normandy.Một bình luận gia nói về bài thơ này như sau:
Bài thơ này hấp dẫn vì nó đơn sơ diễn tả một sự thật lớn lao về tâm linh trong một phương cách mà dân chúng thời ấy có thể thông hiểu được.
Nếu chúng ta không tự đưa mình trở về một thời đại kém hiện đại hơn thời bây giờ-khi hàng ngàn người lính tử trận hằng ngày-chúng ta sẽ thấy khó để cảm kích giá trị hay thông hiểu được.
Bài thơ được bà Frances Angermayer ở Kansas City sáng tác vào mờ sáng hôm 3 tháng Sáu, 1943. Đó là một đêm nóng bức và bà không ngủ được. Bà nghĩ về người em trai của mình đang trong quân ngũ. Sau đó bà nghĩ đến hàng ngàn thanh niên nam nữ khác sẽ phải ra chiến tuyến đêm hôm ấy và, có lẽ, họ không bao giờ trở về. Bà tự hỏi không biết một người lính sẽ nói gì với Thiên Chúa trước khi ra trận nếu trước đây họ chưa bao giờ cầu nguyện.
Bà bước ra khỏi giường và viết bài thơ "Hoán Cải." Bà không ngờ rằng bài thơ ấy đã đánh động hàng triệu con tim.
Bài thơ viết: Chúa ơi, con chưa bao giờ nói chuyện với Chúa... Chúa thấy đó, họ nói là không có Chúa--và như một người điên--con tin ngay như vậy.
Đêm qua từ hầm trú ẩn, con nhìn lên bầu trời của Chúa--ngay tức khắc con hiểu là họ đã nói dối.
Thật buồn cười--con phải đến chỗ khủng khiếp như hỏa ngục này trước khi con có thời giờ để nhìn thấy Dung Nhan Chúa... Nhưng, Chúa ơi, con thực sự vui mừng vì gặp Chúa hôm nay...
Hỏa châu kìa!--Thôi, con phải đi đây Chúa ơi... Có thể đó là một cuộc chiến khủng khiếp--đâu có ai biết được--có lẽ con sẽ đến Nhà Chúa đêm nay--tuy trước đây con không phải là một người bạn của Chúa. Con tự hỏi--không biết Chúa có đợi con ở cửa--Kìa--con đang khóc! Con mà khóc sao! Con ao ước phải chi đã biết Chúa nhiều năm trước... Thật lạ lùng--từ khi gặp Chúa--con lại không sợ chết.
Bài thơ đó đã được viết cách đây 60 năm. Nhưng ý nghĩa của bài thơ và câu chuyện đằng sau đó vẫn có liên quan đến hôm nay như mới được viết tối hôm qua. Đó chính là ý nghĩa trong các bài đọc hôm nay, nhất là bài Phúc Âm.
Trong mọi cuộc sống, có những lúc chúng ta thấy mình rơi vào hoàn cảnh ngoài tầm kiểm soát của chúng ta hoặc không thể đối phó được. Không phải những cơn bão ở biển cả với gió to và sóng cả, nhưng vẫn là cơn bão. Tỉ như, nó có thể là cơn bão tâm linh đe dọa sẽ thổi bay đức tin của chúng ta nơi Thiên Chúa.
Nó có thể là cơn bão tình cảm đe dọa sẽ tiêu hủy hôn nhân của chúng ta hay một tương giao quan trọng với người mà chúng ta yêu mến và chăm sóc cách sâu đậm. Hoặc có thể là một cơn bão tâm lý--một sự hiểu lầm khó để đối phó.
Các cơn bão đời sống có thể bùng lên và có thể trở nên nguy hiểm đến tính mạng, đưa chúng ta ra xa khỏi Thiên Chúa và kết thúc bằng cái chết tinh thần. Hoặc chúng có thể đưa chúng ta về gần với Thiên Chúa, là nguồn mạch sự sống tinh thần.
Sự khác biệt giữa cơn bão đưa chúng ta đến gần với Thiên Chúa và cơn bão đẩy chúng ta ra xa khỏi Người là điều mà bà Frances Angermayer đã làm--và các tông đồ đã làm. Họ đã cầu nguyện. Nhưng không phải là bất cứ sự cầu nguyện nào. Chính là loại cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã dậy các môn đệ. Đó là loại cầu nguyện giúp chúng ta hoàn toàn tín thác vào Chúa. Đó là loại cầu nguyện của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu khi Người nói với Chúa Cha, "Không phải ý con... nhưng ý cha sẽ được thể hiện." Luca 22:42. Đó là loại cầu nguyện mà hoàn toàn tin tưởng rằng Thiên Chúa biết điều gì tốt nhất cho chúng ta. Đó là loại cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã có trong đầu khi Người nói với các môn đệ, "Hãy xin, và các con sẽ nhận được." Mt 7:7
Nhiều người trong chúng ta không nhận được theo kiểu cách chúng ta xin hoặc mong đợi. Nhưng lời cầu của chúng ta sẽ được trả lời-trong một phương cách thích hợp với sự khôn ngoan không cùng và tình yêu không cùng.
Nhưng những người cậy trông ĐỨC CHÚA thì được thêm sức mạnh. Như thể chim bằng, họ tung cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân. (Isaia 40:31)
Ta dẫn người mù tối qua những lối chưa tường, trên nẻo đường mới lạ, sẽ dìu họ bước đi. Ta biến đổi bóng tối thành ánh sáng soi họ, và uốn khúc gập ghềnh thành quan lộ thẳng băng.
Những điều ấy, Ta sẽ thực hiện, không bỏ sót điều nào. (Isaia 42:16)
Chủ đề nổi bật của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay được gặp thấy ở bài đọc I và bài Tin Mừng: TN12 B-28
Chủ đề nổi bật của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay được gặp thấy ở bài đọc I và bài Tin Mừng: quyền chúa tể của Thiên Chúa trên các yếu tố thiên nhiên, nhất là trên phong ba bảo táp, biểu tượng các thế lực của sự Dữ.
G 38, 1-11
Bài đọc I, trích từ sách Gióp, gợi lên hành động của Đấng Sáng Tạo, Ngài ấn định những giới hạn cho biển cả.
Mc 4, 35-41
Tin Mừng thường thuật cử chỉ của Đức Giê-su dẹp yên phong ba bảo tố trên Biển Hồ.
2Cr 5, 14-17
Bài đọc II trích từ thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, trong đó thánh Phao-lô tiếp tục hiện hộ sứ vụ tông đồ của mình.
BÀI ĐỌC I G 38,1. 8-11
Đoạn trích sách Gióp nầy như một lời tựa ngôn cho câu chuyện Tin Mừng tường thuật cử chỉ của Đức Giê-su dẹp yên phong ba bão táp trên biển hồ Ghê-nê-sa-rét. Đức Giê-su sở hữu cùng một quyền năng thần linh như Đức Chúa, khi sáng tạo thế giới, Ngài xác định cho biển cả những giới hạn của nó. Không phải Ngôi Lời đã chủ trì công trình sáng tạo sao?
Theo thể thi ca đối đáp, tác giả vô danh đã phác họa chân dung ông Gióp, một người công chính phải hứng chịu nhiều nỗi bất hạnh. Ông than thân trách phận với ba người bạn và tiếp đó với người bạn thứ tư. Những người bạn nầy một mực trung thành với lời giải thích truyền thống: ác giả ác báo, sự đau khổ của một ai đó cho thấy kẻ ấy đã phạm tội; hay nếu người đó được xem là công chính mà phải chịu đau khổ, chính vì Thiên Chúa muốn ngăn ngừa những lỗi lầm của người ấy để khỏi phải sa vào tính tự cao tự đại.
Lúc đó Gióp nỗi giận đùng đùng; ông kêu gào mình vô tội và xin Thiên Chúa chứng giám sự vô tội của ông. Thiên Chúa trả lời cho ông trong cơn bảo táp, như ở núi Xi-nai khi Ngài ngỏ lời với ông Mô-sê. Đây là câu trả lời uy nghi của Đấng Sáng Tạo vũ trụ. Đức Chúa mô tả công việc của Ngài như nhà kiến thiết tự hào về công trình sáng tạo của mình: Ngài công bố quyền tối thượng của Ngài trên toàn cõi thế, đoạn trên biển cả (đây là đoạn văn được trích dẫn hôm nay), trên ánh sáng và bóng tối, trên gió bảo và mây trời, trên muôn loài muôn vật…
Đây đích thực là bài thi ca về công trình sáng tạo.
Bài thơ nầy là một trong những lý do khiến nghĩ rằng việc soạn thảo sách Gióp được định vị vào thời lưu đày Ba-by-lon.
1. Khung cảnh lịch sử:
Quả thật, hằng năm, ở Ba-by-lon vào lễ Tân Niên, người ta ngâm thiên hùng ca về cuộc sáng tạo ca ngợi cuộc chiến đấu của các vị thần linh chống lại thần hỗn mang và các quái vật của nó, và cuộc chiến thắng khải hoàn của thần Mác-đoút.
Như muốn đáp trả sự tán dương của một vị thần dân ngoại, và các nghi lễ tái diễn hằng năm nầy trong bối cảnh đa thần, những người Do thái lưu đày sáng tác những bài ca và những bài thơ chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Ngài là Thiên Chúa duy nhất và siêu việt, chỉ mình Ngài thật sự sáng tạo vũ trụ và an bài mọi sự.
Chuyện tích về công trình sáng tạo trong sáu ngày ở đầu Kinh Thánh làm chứng điều nầy. Đoạn trích sách Gióp từ chương 38 nầy cũng làm chứng như vậy. Những ám chỉ hay những vay mượn ở bản văn Ba-by-lon thật rõ ràng.
Bài thơ Ba-by-lon kể như thế nầy: sau khi đã chiến thắng thủy thần Ti-a-mát, hiện thân vị thần của vực thẳm nước nguyên thủy, thần Mác-đoút liền phân đôi tử thi của vị ác thần nầy. Với phân nửa tử thi nầy, thần Mác-đoút bao phủ bầu trời…Thần đóng cửa vực thẳm và đặt ngay tại chỗ những người canh cửa, rồi thần truyền lệnh cho họ không được để nước phun trào ra ngoài.
Những cách diễn tả tương tự gợi nhớ hình tượng Ba-by-lon được gặp lại trong vài Thánh Vịnh, như Tv 89,10-11:
“Chính Ngài (Đức Chúa) chế ngự trùng dương ngạo nghễ,
dẹp yên bao sóng cả sóng cồn. Chính Ngài giày xéo thủy thần Ra-háp, như giày xéo tử thi,
tay mạnh mẽ đập tan quân thù”.
Hay Thánh Vịnh 74,12-13:
“Thế mà lạy Chúa, Vua chúng con từ muôn thuở, Đấng từng chiến thắng trên mặt địa cầu, chính Ngài đã ra oai xẻ đôi lòng biển, trên làn nước biếc, Ngài đập vỡ sọ thuồng luồng”.
2. Ôn cố tri tân:
Trong sách Gióp, Thiên Chúa nhắc nhớ quyền năng của Ngài được diễn tả bằng những từ ngữ cao vời. Tác giả hướng phần cuối tác phẩm mình về mầu nhiệm của Thiên Chúa. Đức Chúa dạy cho ông Gióp một bài học: ai có thể tự cho mình vô tội? Ai có thể khoác lác khi đòi xét đoán Thiên Chúa và tính sổ với Ngài? Ấy vậy, Thiên Chúa không phải phân minh với bất cứ ai; Ngài siêu vượt trên muôn loài muôn vật.
BÀI ĐỌC II 2Cr 5,14-17
Đoạn trích nầy thuộc vào những trang mà thánh nhân viết để biện hộ sứ vụ tông đồ của mình.
Sau khi đã nêu lên những gian truân và những niềm hy vọng của sứ vụ tông đồ, thánh Phao-lô vén mở cho thấy ngọn lửa nào đã hun đúc lòng nhiệt thành truyền giáo của thánh nhân: tình yêu của Đức Ki tô.
“Tình yêu của Đức Ki tô” nầy vừa diễn tả tình yêu của thánh Phao-lô đối với Đức Ki tô, vừa diễn tả tình yêu của Đức Ki tô đối với nhân loại (danh từ Đức Ki tô ở génitif mặc lấy hai nghĩa). Chính nghĩa thứ hai nầy: tình yêu của Đức Ki tô đối với nhân loại đã nung nấu lòng nhiệt thành truyền giáo của thánh nhân.
1. “Nếu một người đã chết cho mọi người”:
Tính hữu hiệu hoàn vũ của hy tế Đức Ki tô khiến thánh nhân xúc động sâu xa. Niềm xúc động nầy gắn liền với cái chết của Đức Ki tô. Cái chết nầy không thể nào đánh thức những hình ảnh hung bạo được. Sự chừng mực của các thánh ký đã gìn giữ tính khách quan của các bài tường thuật đầy cảm xúc bao nhiêu, các bức thư với cung giọng cá nhân, như những bức thư của thánh Phao-lô, đã cho thấy độ nhạy cảm bấy nhiêu.
Tuy nhiên độ nhạy cảm của thánh Phao-lô đặc biệt sống động khi thánh nhân gợi lên sự liên đới của Đức Giê-su đau khổ với nhân loại tội lỗi. Ơn cứu độ đã không được đem đến cho một mình dân Ít-ra-en, nhưng cho toàn thể nhân loại. Tâm hồn Do thái của thánh Phao-lô xúc động sâu xa về điều nầy. Thánh nhân sẽ khai triển sâu xa khía cạnh đạo lý về mặc khải nầy trong thư gởi các tín hữu Rô-ma.
2. “Thì mọi người đều chết”:
Tư tưởng rất ngắn gọn; từ ngữ rất giản dị chắc chắn âm vang lời dạy của thánh nhân. Để hiểu đoạn trích nầy, tốt nhất nên quy chiếu đến chương 6 của thư gởi các tín hữu Rô-ma.
“Mọi người đều chết”, nghĩa là, chết đối với tội. Chính “con người xưa cũ” của chúng ta đã bị đóng đinh với Đức Ki tô. Chính vì chết đối với tội nầy mà việc dìm vào trong nước thanh tẩy là dấu chỉ: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6: 8) và “Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ” (Rm 6: 10).
3. “Để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”:
Đây là suy tư thuộc trật tự tổng quát, nhưng đặc biệt nhắm đến các tín hữu Cô-rin-tô và những chia rẽ của họ, vì thánh nhân đặt trọng tâm phần trình bày nầy chung quanh khía cạnh sứ vụ hòa giải. Sống trong Đức Ki tô, chính là không còn biết một ai “theo quan điểm của loài người”, nhưng nhìn tha nhân “theo quan điểm của Thiên Chúa”.
4. “Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Ki tô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa”:
Phải chăng lời phát biểu nầy muốn nói rằng thánh Phao-lô đã biết Đức Giê-su hay ít ra đã thoáng thấy Ngài, có thể đã lắng nghe Ngài nói; tuy nhiên thánh nhân đã thuộc về số người không tin vào sứ điệp của Ngài? Đoạn văn nầy đã gây nên biết bao lời giải thích, nhưng dấu hiệu quá nhỏ nên người ta không thể rút ra một câu kết luận như vậy. Đúng hơn, phải chăng thánh nhân ám chỉ đến thời kỳ thánh nhân là kẻ bách hại, thời kỳ mà thánh nhân khảo sát Đức Ki tô “theo quan điểm loài người”? Lời giải thích nầy cũng không chắc.
Người ta cũng không loại trừ quan điểm bút chiến; đó có thể là chìa khóa của bản văn nầy. Thánh Phao-lô đã viết không bao lâu sau cái chết của Đức Giê-su. Trong đám thính giả của thánh nhân và trong số những người nhận thư thánh nhân, thánh nhân là một trong số người đã biết Đức Ki tô. Vài người trong số họ kiêu hãnh vì mình thuộc “nguồn gốc Do thái”; thậm chí họ dựa trên sự kiện là Đức Giê-su đã thực hành luật Do thái để áp đặt luật nầy trên những Ki tô hữu gốc lương dân. Dường như trong số những đối thủ của thánh nhân ở Cô-rin-tô có những người Ki tô hữu gốc Do thái thuộc loại nầy. Họ đã đề xuất những lập luận dựa trên một quan niệm về Đức Ki tô “theo xác thịt” như bản văn Hy lạp diễn tả để đòi hỏi áp dụng những yêu sách của họ.
Thánh Phao-lô công bố rằng quan niệm nầy đã lỗi thời. Chính không còn ở nơi cuộc sống “theo xác thịt” nhưng ở nơi cuộc sống “theo Thần Khí” mà người Ki tô hữu được mời gọi dự phần vào: họ đã trở thành “một thọ tạo mới”. “Cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi”. Tại thánh Phao-lô có một cái nhìn hướng về tương lai. Không có gì phải kềm chế niềm hưng phấn lao về phía trước của thánh nhân, về Đức Ki tô quang vinh…Thánh nhân nói với các tín hữu Ê-phê-sô khi dùng động từ ở thì hiện tại: “Người cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki tô trên cõi trời rồi” (Ep 2,6). “Cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki tô” là chuyện tương lai (Rm 6: 3-11), nhưng hiệp thông với Đức Ki tô, ngay từ bây giờ chúng ta thật sự đã được cùng sống lại và cùng ngự trị với Ngài trên cõi trời rồi.
TIN MỪNG Mc 4, 35-41
Bài tường thuật nầy của thánh Mác-cô là một trong những bài tường thuật sống động nhất và ý nhị nhất của sách Tin Mừng nầy. Thánh ký cho thấy mình là một người kể chuyện tài ba. Những bài tường thuật sóng đôi của Mt 8,23-27 và Lc 8,22-26 không cung cấp những chi tiết chính xác đến như vậy, ví dụ: “Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào gối mà ngủ”, và không tường thuật với cung giọng rất quen thuộc: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”.
Chúa Giê-su đã giảng dạy đám đông suốt ngày: Ngài muốn tách mình ra khỏi đám đông để có thể nghỉ ngơi một chút. Vì thế, Ngài yêu cầu các môn đệ đưa Ngài sang bờ bên kia. Các môn đệ vâng lệnh ngay lập tức và chở Đức Giê-su đang khi Ngài “đang ở trên thuyền”, nghĩa là cùng trên một chiếc thuyền Ngài đã vừa mới ngỏ lời với dân chúng hiện đang ở trên bờ, như đã được chỉ rõ ở Mc 4,1-2: “Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ. Một đám người rất đông tụ họp chung quanh Người nên Người phải xuống thuyền mà ngồi dưới biển, còn toàn thể đám đông thì ở trên bờ. Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều”.
Bằng những dụ ngôn, Đức Giê-su đã gợi lên rằng Nước Trời đến một cách quyền năng; Ngài sắp chứng minh cho họ bằng hành động. Đối với các đối thủ của Ngài, những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Ngài đã luôn luôn từ chối cung cấp một dấu chỉ ngoạn mục về uy quyền Mê-si-a của Ngài. Riêng cho các môn đệ của Ngài, Ngài sẽ ban cho dấu chỉ nầy.
1. Con thuyền trong phong ba bảo táp:
Những phong ba bảo táp trên Biển Hồ thường bất ngờ xảy đến. Chúng do từ cuộc gặp gỡ giữa ngọn gió tây thổi từ Địa Trung Hải và gió sa mạc lạnh buốt bất ngờ dâng cao vào lúc đêm xuống.
Sự thanh thản bình an của Đức Giê-su tương phản với trận cuồng phong sóng dữ. Kiệt sức sau một ngày giảng dạy, Đức Giê-su “dựa đầu vào gối mà ngủ”. Gối nầy dành riêng cho người lái thuyền luôn luôn ở đằng lái. Dường như người lái thuyền nhường chỗ đằng lái cho Ngài để Ngài ngủ cho lại sức. Đức Giê-su mệt mõi: Ngài thật sự là một con người, nhưng Ngài sẽ cho thấy Ngài còn hơn cả một con người.
Cũng như, sau một dặm đường dài vừa mệt mõi vừa khát, Ngài đã tựa mình vào thành giếng Gia-cóp ở Xy-kha để nghỉ lại sức và xin người phụ nữ Sa-ma-ri một chút nước để giải khát. Ngài đã chọn thời điểm nầy để mặc khải cho chị và dân tộc chị Ngài là Đấng Mê-si-a.
Sự đối lập giữa sự yếu đuối thể lý và sức mạnh thần thiêng ở nơi câu chuyện của Mác-cô cũng mặc khải mầu nhiệm con người của Ngài: Ngài là chủ tể của mọi yếu tố thiên nhiên.
Trong cảnh đêm tối với sóng to gió lớn, các môn đệ sợ hãi đánh thức Ngài. Họ hoảng loạn đến cực độ và tiếng kêu cứu của họ trộn lẫn vừa niềm tin tưởng lẫn lời trách cứ: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”.
2. Mầu nhiệm của Đức Giê-su.
Đức Giê-su truyền lệnh cho biển như một quyền lực được nhân cách hóa. Với cùng những lời như vậy, Ngài đã buộc quyền lực của quỷ ở trong người bị quỷ ám phải câm lặng. Đức Giê-su là Đấng làm cho quyền lực của sự dữ phải thất bại. Những yếu tố thiên nhiên đang điên cuồng gào thét là một biểu tượng.
Sau khi dẹp yên phong ba bảo tố, Đức Giê-su quở trách các môn đệ vì họ thiếu niềm tin vào Ngài. Chỉ mới trước đây thôi, thánh Mác-cô nói với chúng ta, Ngài đã giảng giải cho họ một cách đặc biệt (4,33-34). Sự quan tâm đặc biệt của Ngài đối với họ đã không có một mảy mai tác dụng sao?
Tất cả câu chuyện được xây dựng trên sự căng thẳng liên tục để rồi đạt đến cao điểm ở nơi sự sợ hãi của các môn đệ về mầu nhiệm của Ngài. Nhưng ở đây, sự sợ hãi của các môn đệ thay đổi bản chất và đối tượng. Nỗi sợ hãi linh thánh xâm chiếm lấy họ: “Ông nầy là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”.
3. Ý nghĩa thần học:
Biến cố nầy không đơn thuần chỉ là một phép lạ nhưng còn là một biểu tượng về định mệnh của Đức Giê-su. Khi lôi kéo các môn đệ vào phong ba bảo táp, đó không là một sự tình cờ. Cả cuộc đời Ngài là một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sức mạnh của sữ Dữ. Việc Ngài thanh thản nằm ngủ trong phong ba bảo táp hàm chứa nhiều ý nghĩa. Trong Kinh Thánh giấc ngủ là biểu tượng của cái chết. Như vậy việc Chúa Giê-su bình yên nằm ngủ trong phong ba bảo táp ám chỉ cuộc Tử Nạn của Ngài, cuộc Tử Nạn khiến các môn đệ kinh hoàng vì thiếu niềm tin. Sau giấc ngủ, Đức Giê-su chỗi dậy như một vị Thiên Chúa đầy quyền năng chiến thắng trên quyền lực của sự Dữ và Tử Thần. Trước quyền năng nầy, các môn đệ thắc mắc và nêu lên câu hỏi quan trọng nầy: “Ông nầy là ai mà cả đến gió biển phải tuân lệnh?” Bởi vì trong Kinh Thánh, chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền chế ngự sóng nước của Tử Thần (Tv 107,23-30).
Khi thuật lại câu chuyện nầy, thánh Mác-cô nhắm đến hai mục đích. Trước hết, Đức Giê-su thật sự là một con người, nhưng cũng thật sự là Thiên Chúa. Thứ nữa, các tín hữu Rô-ma đang bị bách hại dữ dội. Trong cơn bách hại dữ dội nầy, dường như Đức Giê-su đang ngủ. Việc Ngài xem ra vắng mặt trong khi họ phải đương đầu với biết bao nỗi truân chuyên, khiến họ nghi nan ngờ vực. Chúa sẽ làm gì để cứu họ khỏi cái chết đang cầm chắc nầy? Câu chuyện nầy là câu trả lời của thánh Mác-cô gởi đến cho họ.
Tôi đã được nghe một câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (1881-1963). Ngài chỉ ở: TN12 B-29
Tôi đã được nghe một câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (1881-1963). Ngài chỉ ở trên ngôi vị Giáo Hoàng trong vòng 5 năm (1958-1963), nhưng được nhiều người sùng mộ.
Sau khi Ngài qua đời, rất nhiều người đã đến viếng mộ của Ngài, đến nỗi di hài của Ngài đã được đưa từ hầm mộ lên trên nền Đền Thờ Thánh Phêrô để dễ dàng cho giáo dân kính viếng. Ngài có một niềm ưu tư đặc biệt về việc hiện đại hóa Giáo Hội. Ngài cũng luôn quan tâm về nền hòa bình thế giới. Một trong những thông điệp nổi tiếng của Ngài là Thông Điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới” (Pacem in Terris), ra ngày 11-4-1963, trong đó Ngài kêu gọi mọi người có thành tâm thiện chí hãy chung tay xây dựng Hòa Bình và sự Công Chính trên thế giới, để “làm cho trái đất này trở nên nơi ở tốt đẹp hơn cho nhân loại!”(Lời kết Thông Điệp) Một đêm khi Ngài đang ngủ, Ngài chợt nghĩ đến bao nhiêu những điều cần phải thực hiện trong Giáo Hội. Ngài mong cho đến sáng để xin vào trình bày với Đức Giáo Hoàng về những việc cần phải làm ngay. Nhưng Ngài sực tỉnh và mới nhận ra chính Ngài đang là Giáo Hoàng! Lúc đó, Ngài cảm thấy hết sức sợ hãi! Nhưng như có tiếng Chúa nói với Ngài: “Giáo Hội là của Cha chứ không phải của con!” Bấy giờ Ngài mới lấy lại can đảm và cầu nguyện xin Chúa soi sáng cho Ngài biết phải làm gì để canh tân Giáo Hội. Rồi Ngài đã mở Đại Công Đồng Vatican II (1962-1965), mời các vị Hồng Y và Giám Mục từ các nơi trên thế giới trở về Rôma họp để cùng nhau đưa ra những ý kiến hiện đại hóa Giáo Hội.
Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay, trong Bài Phúc Âm (Mc 4, 35-41), chúng ta thấy các Thánh Tông Đồ đang chèo thuyền trên Biển Hồ Tibêriat trong đêm tối, thì sóng to gió lớn nổi lên, nước ùa vào trong thuyền đến nỗi thuyền sắp chìm, mà Chúa Giêsu cứ ‘ngủ yên’ trên mạn thuyền, như không biết gì cả. Các Tông Đồ phải đánh thức Chúa dậy: “Chúng con sắp chết đến nơi mà Thày không quan tâm đến sao?” Chúa Giêsu đã ‘thức dậy’ và làm phép lạ cho gió yên, biển lặng! Rồi Chúa trách các Tông Đồ: “Các con không có đức tin ư? Sao mà qúa sợ hãi như vậy!”
Trong cuộc đời mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta có nhiều lúc cũng gặp “bão tố nổi lên” và chúng ta có cảm tưởng Chúa cứ ‘ngủ yên’ mà không thương cứu giúp chúng ta. Y như trong trường hợp khổ đau của ông Gióp trong Bài Đọc I (Gióp 38, 1.8-11). Nhưng ông Gióp đã luôn vững tin nơi Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong Bài Đọc II (2Cr 5,14-17), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: Vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!..”, đem lại cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Chúa.
Là những tín hữu của Chúa, chúng ta hãy noi gương ông Gióp, luôn biết tin tưởng, phó thác nơi Chúa trong mọi biến cố xảy ra cho chúng ta, gia đình chúng ta, thế giới chúng ta và ngay trong Giáo Hội Chúa nữa; vì Chúa là Thiên Chúa toàn năng, và là Cha yêu thương của chúng ta. Trong Phúc Âm Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi sự quan phòng của Chúa là Cha luôn yêu thương chúng ta và lo lắng mọi điều cần thiết cho chúng ta. (Mt 6, 25-34)
Trong thế giới ngày nay, người ta thường thiếu niềm tin nơi Chúa, và vì thế dễ lo lắng, sợ hãi trước những biến cố đau thương xảy ra trong cuộc đời, và trở nên khủng hoảng tinh thần, bất mãn với cuộc đời, tâm trí bị căng thẳng, rồi suy nhược (depressed) và có những trường hợp đưa đến loạn trí, hành động điên rồ gây nên những tội ác khủng khiếp: như tự hủy chính mình, có khi giết hại mạng sống cả gia đình, có khi giết hại những người vô tội, như những cuộc bắn giết tại các trường học, tiệm ăn, sở làm và các trung tâm thương mại v.v...
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho chúng ta được vững niềm tin phó thác nơi tình thương che chở của Chúa là Cha chúng ta. Xin cho chúng ta biết nhìn lên Thánh Giá Chúa để chấp nhận mọi đau khổ, thử thách xảy ra cho chúng ta , gia đình chúng ta. Chính những đau khổ, thử thách tôi luyện đức tin của chúng ta, làm cho đức tin của chúng ta trở nên vững chắc hơn. Đau khổ và thử thách cũng là những dịp để chúng ta được thông phần với sự đau khổ Chúa đã chịu để cứu chuộc chúng ta (Xin xem 1 Pr 1, 6-9; 2 Cr 4, 17-18; Rm 8,18).
“Anh em hãy phó thác mọi nỗi lo âu cho Chúa; vì Chúa luôn lo lắng cho anh em!” (1Pr 5,7).
“Hãy phó thác đường đời cho Chúa, Người sẽ lo liệu mọi sự cho chúng ta!” (TV 37).
“Tôi tin, tôi tin Chúa đã thương tôi, nên Người đã chết, chết vì tôi… “Tôi tin Chúa vẫn thương tôi, cho dù đời tôi bao phen giông tố…”
Cuộc ra khơi nào cũng chứa đựng những bất trắc, những hiểm nguy. Dòng đời nào cũng có biết: TN12 B-30
Cuộc ra khơi nào cũng chứa đựng những bất trắc, những hiểm nguy. Dòng đời nào cũng có biết bao cạm bẫy giăng ngang. Biển khơi luôn làm cho con người sợ hãi. Dòng đời luôn làm cho con người lo âu. Con người luôn cảm thấy mình quá nhỏ bé trước biển khơi và biển đời. Biển đời và biển khơi mãi mãi làm cho con người cảm thất bất lực. Sóng gió vẫn thét gào. Sự dữ vẫn tung hoành. Con người luôn phải đối phó trước những tình huống rủi ro có thể xảy đến.
Thời gian qua báo chí nói nhiều về những nguy hiểm của các ngư dân Việt Nam đánh cá xa bờ. Lênh đênh trên biển. Không được bảo vệ. Một mình đối phó với biết bao hiểm nguy do thiên nhiên đưa đến, và ghê sợ hơn là do chính con người gây ra. Sự táo bạo của bọn cướp biển. Sự tranh giành phần biển đánh cá của các nước lân bang. Nhiều ngư dân cảm thấy sợ hãi khi phải rời bến xa bờ. Họ cảm thấy bất lực trước gian nguy trước mặt. Họ không dám mạo hiểm đánh đổi tính mạng mình để đổi lấy một vài con cá. Họ đành rút lui. Họ sợ không thể đương đầu với bao sóng gió nghi nan. Kẻ bán thuyền. Người để thuyền nằm bờ chờ đợi thời cơ. Có mấy ai đủ can đảm ra khơi lúc này? Họ biết rằng ở nhà thì đói. Nhưng ra đi càng thêm nợ nần, có khi còn mất cả tính mạng!
Năm xưa các tông đồ đã từng hoảng loạn, sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên, của giông bão. Giông bão như muốn nhấn chìm tất cả: con người và tài sản. Con thuyền của họ thật mong manh! Họ đâu nghĩ rằng đêm nay biển dậy sóng trào. Họ đâu lường hết được những rủi ro có thể đến với họ đêm nay. Họ phải đối đầu với nguy nan, với bất trắc, với rủi ro. Một chiếc thuyền nan mong manh trên biển cả biết bám víu vào đâu? Làm sao họ có thể vào bờ an toàn trước gió biển và cuồng phong lồng lộng. Họ bất lực. Họ muốn buông xuôi cho dòng đời xô đẩy. Nhưng may thay, họ đã nhớ đến Thầy. Thầy vẫn hiện diện bên họ. Có Thầy hiện diện tại sao không cầu cứu? Thầy có thể làm cho kẻ chết sống lại. Thầy có thể đẩy lùi sự dữ. Thầy có thể làm mọi sự. Tại sao không chạy đến cùng Thầy? Dầu sao Thầy cũng là một cái phao duy nhất để các ông bám víu trong lúc nguy nan của dòng đời.
Các ông đã chạy đến kêu cầu Thầy: “Thầy ơi, chúng con chết mất!”. Đó là tiếng kêu từ thẳm sâu tâm hồn cần đến sự trợ giúp từ Thầy Chí Thánh. Đó là tiếng cầu cứu nói lên sự bất lực của con người trước sóng gió ba đào.
Đó cũng là tiếng kêu cứu của con người hôm nay khi đứng trước biết bao nghịch cảnh xảy đến trong đời. Biển đời vẫn đưa đẩy những sóng gió nghi nan, những bất trắc đau thương. Thiên tai vẫn ập xuống địa cầu. Sự dữ vẫn đang tung hoành. Có nhiều người như muốn thất vọng buông xuôi vì không tìm được lối thoát. Có nhiều người oán trời oán đất vì quá sức chịu đựng. Có nhiều người ôm phiền muộn trong đau thương một mình vì chẳng tìm được sự an ủi, cảm thông và tin tưởng nơi tha nhân. Dòng đời vẫn còn đó tiếng kêu van tha thiết dâng lên Đấng tối cao. “Xin cứu chữa chúng con, Chúa ơi!”.
Vâng, cuộc đời vẫn còn đó biết bao sóng gió nổi trôi. Cuộc đời tựa như chiếc thuyền nan chòng chành trước bao cám dỗ mời mọc, bao sự dữ bủa vây. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy kêu cầu Chúa. Hãy đưa tay để Chúa dìu chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Dòng đời đâu mấy khi bình yên. Con người mãi chơi vơi trong bể khổ trần gian. Nhưng có Chúa vẫn đang đi trong cuộc đời chúng ta. Hãy tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy tin tưởng vào tình thương quan phòng của Chúa, Ngài sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho con cái của Ngài.
Nguyện xin Chúa Giê-su là Đấng luôn hiện diện bên cạnh các tông đồ và bên cuộc đời chúng ta, xin thương đến những cảnh đời đầy khó khăn thử thách của kiếp người chúng ta. Amen
Trong cuộc hành trình đức tin, người tín hữu quả thực gặp biết bao thử thách, gian nan, gặp biết: TN12 B-31
Trong cuộc hành trình đức tin, người tín hữu quả thực gặp biết bao thử thách, gian nan, gặp biết bao nhiêu sự khó khăn cần phải vượt thắng. Tuy nhiên, với sức riêng của con người những điều ấy con người hầu như vô phương chiến thắng. Vũ trụ luôn có quy luật của nó: động đất, thiên tai, bão lụt. Khoa học tiến bộ cũng chỉ chế ngự được phần nào sức mạnh của thiên nhiên. Riêng mình Thiên Chúa có thể làm được tất cả mọi sự: Ngài khiến cho biển yên, gió lặng
CUỒNG PHONG GIÓ LỚN:
Khi vượt biển, một trận cuồng phong, gió lớn bỗng chỗi dậy, Chúa Giêsu lúc đó đang nằm trên đầu mạn thuyền để ngủ. Các môn đệ kinh hoàng, lo âu sợ sệt vì họ tưởng chừng sẽ bị phong ba bão táp nuốt chửng mất. Các môn đệ bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên, họ liền đánh thức Chúa Giêsu để xin ngài giúp đỡ. “ Chúng con chết mất !“ “Mà Thầy không lo sao ? “. Quả thực, các môn đệ sợ sệt, bó tay trước sức mạnh kinh hồn của gió bão. Chúa vẫn bình tĩnh xem như không có gì xẩy ra, chỉ khi các môn đệ hốt hoảng đánh thức Ngài dậy, Chúa mới thức tỉnh và ra lệnh cho gió bão, biển khơi: ” Câm đi ! Im đi ! “.
Tin Mừng cho hay: ” Gió ngừng ngay và biển lặng liền “. Nỗi kinh hoàng của các môn đệ tan biến, nỗi sợ chết cũng cất cánh bay xa.Bởi vì, Chúa đã dùng uy quyền để khiến gió, bão, biển im lặng. Rồi, Chúa nói với các môn đệ: ” Sao nhát thế ? Anh em chưa có lòng tin sao ? “.
BÃO TỐ CUỒNG PHONG THIỆT VÀ NHỮNG ĐIỀU CHÚA ÁM CHỈ:
Sóng gió, cuồng phong, biển thật là hình bóng Chúa Giêsu tiên báo trước cho các môn đệ thấy những bất trắc, những bắt bớ, những bách hại mà các môn đệ sẽ gặp sau này trong cuộc đời, đặc biệt trong đời làm việc tông đồ.Đối với các môn đệ, con thuyền nhỏ bé bị gió to sóng lớn, bão tố đánh dữ tợn, con thuyền hầu như sắp chìm là hình ảnh Giáo Hội sẽ bị ma quỉ, sự dữ tấn công dữ dội, các môn đệ phải kiên gan, bền vững chống đỡ. Nhìn vào Giáo Hội, con thuyền mà Phêrô là đầu đã trải qua hơn hai ngàn năm bị biết bao cơn gió bão tấn công, nhưng Giáo Hội luôn đứng vững. Giáo Hội luôn vững vàng bởi vì Chúa luôn có mặt như khi xưa Chúa có mặt trên thuyền của các môn đệ lúc gió to, bão lớn. Có lúc, chúng ta cảm tưởng hầu như Ngài ngủ và có vẻ buông xuôi tay lái. Nhưng thực ra Ngài vẫn có đó và luôn biểu dương sự hiện diện đầy uy quyền của Ngài.
CUỘC ĐỜI MỖI CON NGƯỜI NHƯ MỘT BIỂN CẢ:
Đối với mỗi người cuộc đời thật giống như một biển cả đầy sóng gió nào là vật chất, nào là tinh thần. Con người sinh ra và lớn lên không phải ai cũng hoàn toàn xuôi chảy. Đời con người hết tai nạn này tới đau khổ khác. Có người có đủ kinh tế để sống nhưng có người rất chật vật mới có ăn, rồi bệnh này hết bệnh khác lòi ra. Bao nhiêu tiền cũng đổ vào bác sĩ và tiền thuốc. Ai cũng phải mệt nhọc, vất vả để kiếm sống, để chống chọi với bệnh tật. Lúc đó, con người sẽ tự hỏi Chúa đâu rồi ? Tại sao Chúa lại không giúp chúng ta? Nhiều khi chúng ta cảm tưởng như Chúa làm thinh, ngủ yên. Bao nhiêu chuyện dồn dập xẩy ra trong cuộc đời nhiều khi yếu đức tin khiến chúng ta chán nản và buông xuôi thất vọng.
Trong cuộc hành trình đầy cam go ấy, chúng ta hãy bắt chước các môn đệ đến với Chúa, xin Chúa cứu giúp, đặc biệt xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta luôn tin rằng: ” Chúa ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế” và “ Hỡi những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho “.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Cuộc đời con người, đặc biệt trong việc loan báo Tin Mừng, chúng ta sẽ gặp những phong ba bão táp, những nghi kỵ, thử thách, ghen tương, bắt bớ, như các môn đệ xưa, chúng ta hãy mau tìm gặp và ở với Chúa, xin Chúa trợ giúp và cứu chúng ta. Chắc chắn Chúa sẽ truyền lệnh để sóng gió cuộc đời của chúng ta im lặng. Chúng ta hãy chạy tới với Đức Mẹ, xin Mẹ an ủi, nâng đỡ và đưa chúng ta tới gặp Chúa.Chúng ta hãy vững lòng tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa và lòng yêu thương của Mẹ Maria.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn bám chặt vào Chúa và cậy trông vào lòng từ mẫu của Mẹ Maria. Amen.
Thường khi gặp nguy cơ quẫn bách, người ta trở nên khiếp đảm, sợ hãi. Đó là phản ứng tự nhiên: TN12 B-32
Thường khi gặp nguy cơ quẫn bách, người ta trở nên khiếp đảm, sợ hãi. Ðó là phản ứng tự nhiên của loài người. Mỗi người biểu lộ mối lo sợ bằng những cách thế khác nhau tuỳ theo phái tính và gan dạ tính. Theo quan niệm chung, thì người ta cho rằng đàn bà khi gặp gian nguy, thường hay cuống cuồng, la hét ầm ĩ lên. Còn đàn ông thì tự kiềm chế hơn. Có người gặp đối tượng sợ hãi thì buông thả, phó mặc cho hoàn cảnh. Người khác tìm cách chạy trốn. Người gan lì thì ở lại đối phó với những khó khăn nguy hiểm. Ngoài những mối lo sợ có đối tượng rõ rệt, người ta còn có thể mang những tâm trạng sợ hãi, kéo dài lê thê suốt cả cuộc sống mà không có đối tượng.
Phúc âm hôm nay ghi lại khi các tông đồ gặp sóng gió bão táp ập vào thuyển đã trở nên thất đảm, kinh hồn bạt vía. Các ông liền đánh thức Ðức Giêsu dậy vì Người đang ngủ ở đàng lái, xin Người cứu giúp - một điều xem ra là cần thiết phải làm. Không biết Ðức Giêsu có ngủ thật, hay chỉ giả vờ ngủ để thử đức tin của các môn đệ, thì không được biết. Dầu sao đi nữa Người cũng trách móc các ông: Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao? (Mc 4:40). Ðiều Ðức Giêsu muốn nói ở đây là các tông đồ phải có lòng tin vào Chúa một cách liên tục trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, chứ không phải chỉ kêu cầu đến Chúa khi gặp nguy cơ, gian khổ mà thôi.
Cũng như các tông đồ, ta cũng đã có thể gặp sóng gió bão táp ngoài biển khơi khi đi tầu du ngoạn hoặc đánh cá, hoặc khi đi vượt biển tìm tự do. Ta cũng có thể gặp sóng gió bão táp trong tâm hồn. Sóng gió bão táp trong tâm hồn có thể là những cơn cám dỗ nặng nề, những mối tình ngang trái, những dằn vặt trong tâm can, những nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa. Sóng gió bão táp trong tâm hồn có thể xẩy ra cho bất cứ ai: người lành cũng như người dữ, người có lòng tin tưởng cũng như người không tin.
Hôm nay mỗi người cần tự xét xem ta xử sự với Chúa thế nào? Có phải ta chỉ kêu cầu đến Chúa khi gặp gian nguy hoạn nạn như bị lênh đênh trên biển cả. Khi tới được miền đất tự do, ta lại quên Chúa. Ðã có bao giờ ta chỉ kêu cầu đến Chúa khi mang bệnh hoạn tật nguyền? Ðã có bao lần ta chỉ kêu xin Chúa nâng đỡ tinh thần khi bị thất tình, bị người yêu phản bội? Ðã có bao lần ta chi kêu xin Chúa giúp khi mất việc làm, khi công việc buôn bán bị thua lỗ? Nói tóm lại, ta chỉ kêu cầu đến Chúa để xin cho được một ân huệ nào đó như cho được thi đậu, cho có việc làm, cho được khỏi bệnh.. Khi được việc rồi, hay khi sự việc đã qua, ta lại đóng khung Chúa hay xếp Chúa vào hộp cất đi.
Thường người ta chỉ coi Chúa là người cuối cùng để kêu cầu khi gặp nguy hiểm thử thách. Ta đợi cho tới khi sóng gió nổi dậy, mới kêu xin với Chúa. Còn những lúc khác, ta lại quên Chúa. Ta muốn tự mình giải quyết những vấn đề thường ngày, mà không nghĩ đến Chúa, không xin Chúa giúp. Ta chỉ kêu cầu đến Chúa, khi đã dùng mọi phương thế đối phó mà vô hiệu, khi ta ở trong trạng huống vô phương cứu chữa. Trong tình thế vô phương cứu chữa như vậy, ta mới kêu cầu tới Chúa như là cơ hội cuối cùng, để xem may ra Chúa có giúp được gì không.
Ðức tin của ông Gióp trong bài sách Cựu ước hôm nay phải là gương mẫu cho ta noi theo. Ông Gióp là người giầu sang phú quí. Ông lại có lòng biết kính sợ Chúa, luôn tuân giữ giới răn Chúa. Khi gặp cảnh hoạn nạn, bị mất của cải vợ con, ông vẫn giữ một lòng trung kiên với Chúa. Ông coi khổ đau ở đời này là một mầu nhiệm mà trí óc loài người không thể thấu hiểu (G 38:8-11). Ðể có thể trung thành với Chúa trong thử thách lớn, ông Gióp đã phải trung thành với Chúa trong những thử thách nhỏ trong đời sống hằng ngày. Ðể có thể trung thành với Chúa trong thử thách lớn, các vị anh hùng tử đạo đã phải trung thành với Chúa trong những việc nhỏ bé hằng ngày, chứ không phải cứ khơi khơi mà dám xông ra pháp trường cho lí hình hành xử.
Mối liên hệ của ta với Chúa xét về phương diện thời gian và thường trực, giống như mối liên hệ mà vợ chồng hứa với nhau ngày lên xe hoa: Anh T. nhận em làm vợ (em T. nhận anh làm chồng) và hứa sẽ giữ lòng chung thuỷ với em (anh), khi thịnh vượng, cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khoẻ để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời (Nghi thức hôn phối). Người tín hữu còn phải hứa với Chúa hơn thế nữa để đặt cậy trông phó thác vào Chúa khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khoẻ, khi thành công cũng như lúc thất bại mọi ngày suốt đời như vậy.
Chúa muốn ta tìm đến Chúa, đặt tin tưởng, cậy trông phó thác vào Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, chứ không phải chỉ khi gặp khó khăn trắc trở mà thôi. Và Chúa muốn ta đặt tin tưởng phó thác vào Chúa như trẻ thơ đặt tin tưởng phó thác vào cha mẹ chúng như vậy.
Lời cầu nguyện: xin cho được luôn tín thác vào Chúa trong mọi hoàn cảnh:
Lạy Chúa, trên biển đời đã có lần, con cảm thấy lo âu khiếp sợ: lo sợ cho bản thân, cho tương lai đen tối.. Trong khi đứng giữa ngã ba đường chông gai không biết phải theo hướng nào, xin Chúa sai sứ thần đến dẫn dắt con đi. Khi bóng tối bao trùm đường lối, xin Chúa chiếu soi ánh sáng dẫn bước cho con. Nếu trên đường con gặp hoa thơm cỏ lạ và khí mát, xin cũng đừng để con quên Chúa, nhưng dậy con biết cảm tạ. Xin Chúa là chúa tể của con và là gia nghiệp đời con. Amen.
Trong hành trình rao giảng Tin mừng, Biển hồ Galilê là nơi thường xuyên chứng kiến những: TN12 B-33
Trong hành trình rao giảng Tin mừng, Biển hồ Galilê là nơi thường xuyên chứng kiến những phép lạ Chúa Kytô thực hiện. Phép lạ Chúa Kytô thực hiện hôm nay không ngoài mục đích củng cố đức tin cho các môn đệ, đồng thời biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa vượt trên mọi thế lực ác thần.
Ý định băng qua bên kia Biển hồ vào lúc trời đã về chiều của Chúa Giêsu quả là một ý định táo bạo nếu không muốn nói là liều lĩnh, bất chấp hiểm nguy. Lý do là vì, theo quan niệm thời đó, biển luôn được xem là biểu hiện cho những gì nguy hiểm, tối tăm và sợ hãi. Và, biển động sóng gào biểu trưng cho một thế giới hỗn loạn và phường tội lỗi như Ngôn sứ Isaia loan báo (x. Is 57, 20). Mặt khác, sang bờ bên kia, tức phía đông Biển Hồ, thuộc miền Thập tỉnh vào thời điểm trên không chỉ tạo điều kiện cho ma quỷ xuất hiện quậy phá- vốn ưa thích màn đêm, mà còn là miền đất thuộc dân ngoại vốn thù hằn với dân Do-thái.
Mặc dù thế, Chúa Giêsu không chỉ đem theo các môn đệ mà còn dẫn theo một số thuyền khác vượt đại dương giữa trời đêm. Phải chăng đây là dụng ý của thánh sử Máccô đưa một số thuyền khác đi theo Chúa Giêsu và các môn đệ như là những đồng chứng nhân với các môn đệ? Vâng, đúng thế. Chúng ta biết, những phép lạ Chúa Giêsu thực hiện quanh Biển hồ không chỉ cho các môn đệ, mà còn cho dân chúng, cho người Dothái, cho dân ngoại nữa. Chính vì thế, phép lạ Chúa Giêsu sắp thực hiện giữa Biển hồ rất quan trọng không chỉ cho đức tin các môn đệ mà còn cho cả dân chúng – những người “liều mạng” bước theo Người.
Con thuyền lướt sóng ra khơi, hướng về bờ bên kia rẽ sóng giữa màn đêm vây kín. Và, những gì đến tất sẽ đến. Bão tố cuồng phong bỗng dưng ập đến. Xung quanh ngập tràn tiếng thét gào của mãnh lực thiên nhiên. Tất cả như muốn nuốt chửng con thuyền vốn hom hem nhỏ bé chẳng đáng gì trước trận cuồng phong. Các môn đệ, dù kinh nghiệm về biển có thừa vẫn hốt hoảng lo lắng cho số phận không biết sẽ ra sao. Riêng một mình Chúa Giêsu vẫn an nhiên tự tại, đắm chìm trong giấc ngủ như không có gì xảy đến. Lạ quá, lạy Chúa, đến nước này mà Ngài vẫn ngủ sao? Các môn đệ cuống cuồng lo lắng và tự hỏi. Lẽ ra Người phải thức tỉnh cùng các ông để cùng nhau bàn tính lèo lái con thuyền vượt qua cơn hiểm nguy này chứ. Thế mà… Người vẫn ngủ!
“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”. Tiếng nài van của các môn đệ cất lên trong nổi tuyệt vọng. Khi con người đối diện với những gian nan khốn khó, đối diện với những mãnh lực ác thần, họ mới thấy tài hèn sức yếu của mình. Đứng trước số phận ngàn cân treo sợi tóc, họ mới thấy cần biết bao đến quyền năng của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ ra tay đúng lúc để đáp ứng tiếng van nài của họ. Chúa Giêsu thức dậy, và Người ra lệnh cho sóng biển lập tức lặng yên. “Im đi! Câm đi!”. Phép lạ phát sinh hiệu quả. Sóng yên biển lặng như tờ. Chúng ta thấy Chúa Giêsu ra lệnh cho sóng biển giống như Người đã ra lệnh cho quỷ xuất khỏi người bị thần ô uế ám ở Caphácnaum (x. 1, 25). Cho hay, phép lạ Người thực hiện hôm nay- cách nào đó, cho thấy ma quỷ vẫn luôn luôn rình rập để hãm hại con người. Vì thế, điều cần thiết, là con người hãy giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa để có thề thắng vượt trước mọi sự dữ.
Cuộc sống trần gian, tự nó đã là một gian nan khốn khó; bước theo Chúa Kytô, vâng lệnh Người, nhổ neo cuộc đời ra khơi, lại càng không ít những khó khăn thử thách. Thế nhưng Tin mừng hôm nay làm chúng ta an tâm. An tâm, bởi con thuyền cuộc đời chúng ta ra khơi, giữa phong ba bão táp, giữa những thử thách gian truân vẫn luôn có Chúa là viên thuyền trưởng, hướng dẫn con thuyền vượt sóng. An tâm, bởi Chúa luôn xuất hiện đúng lúc đúng thời để ra tay nâng đỡ chúng ta trước những khó khăn. An tâm, bởi chúng ta biết chúng ta tin vào Đấng chiến thắng mọi thế lực ác thần và sự chết. An tâm, bởi từ nay, cuộc đời chúng ta đã trao vào tay Chúa, tín thác mọi sự trong sự quan phòng của Thiên Chúa, vì như thánh Phaolô, “tôi biết tôi tin vào ai” (2 Tm 1, 12).
Xin cho Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta vững tin vào sự hiện diện của Chúa. Để trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, chúng ta luôn có Chúa ở vị trí hoa tiêu để hướng dẫn và can thiệp kịp thời, giúp chúng ta đến bến bờ bình an.
Trong ngôn ngữ Do thái, cùng một tiếng “gió” cũng có nghĩa là “thần trí”. Ngoài ra trong Kinh thánh, biển: TN12 B-34
“Trong ngôn ngữ Do thái, cùng một tiếng “gió” cũng có nghĩa là “thần trí”. Ngoài ra trong Kinh thánh, biển thường là biểu tượng những thế lực gian tà mà Thiên Chúa phải đánh gục để kế hoạch của Người toàn thắng. Ở đây, biển động dữ dội do ảnh hưởng của cuồng phong. Ta phải hiểu là có “thần trí xấu” (Satan chăng?) đang tung những ma lực dưới quyền để ùa đến tấn công con thuyền, tức là tấn công các môn đệ”(Boismard, Jésus, un homme de Nazareth, 1966, tr 78).
Làm cho bão tố yên lặng là một dấu chỉ đặc biệt về quyền năng của Thiên Chúa, bởi vì biển và gió được coi như là những sức mạnh của xấu xa và hỗn loạn, mà chỉ Thiên Chúa mới có thể làm chủ, điều khiển chúng (Bài đọc 1).
2. Biển hồ Tibériade.
Biển hồ này cũng có tên gọi là biển hồ Galilê. Biển có chiều dài 21 km và chỗ rộng nhất là 13 km. Thung lũng Jordan là một vết nứt sâu trên mặt đất và biển Tibériade là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 200 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì thung lũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức gió mạnh dữ dội đến nỗi mặt hồ phẳng lặng biến thành sóng gió gào thét. Vì thể, biển Tibériade hay nổi lên những cơn sóng gió bão táp vào ban chiều hay ban đêm.
II. CHÚA DẸP YÊN SÓNG GIÓ.
1. Câu chuyện giông tố.
Đức Giêsu cũng có một số môn đệ để giúp phổ biến giáo thuyết của Ngài. Các môn đệ này không phải là những nhà trí thức hay ít ra là những người học thức trung bình, nhưng thực ra họ là những người ít học: họ là những người chài lưới. Chúa cần phải giáo dục họ từng bước để trở thành những môn đệ kiên cường và trung thành trong việc rao giảng Tin mừng. Họ cần phải đặt tin tưởng vào Chúa nhất là trong những cơn gian nan khốn khó lúc này và về sau.
Ngài phải thử thách họ bằng những tình huống nguy hiểm. Vi thế, sau một ngày giảng cho dân chúng những dụ ngôn về Nước Trời. Đức Giêsu bảo các môn đệ xuống thuyền sang bờ biển bên kia, là vùng của dân ngoại để truyền giáo cho họ. Nhưng mục đích chính là để thử thách họ và cho họ thấy quyền năng của Ngài. Vì thế, một cơn sóng gió nổi lên hầu nhận chìm con thuyền của các ông mà Đức Giêsu thì nằm ở đàng lái mà ngủ, coi như không có chuyện gì xẩy ra. Các môn đệ vừa cầu cứu vừa có vẻ hơi trách móc Ngài. Lúc ấy Ngài mời bình tĩnh đứng lên, truyền lệnh cho sóng gió phải ngưng hoạt động, tức thì gió im, biển trở nên lặng như tờ. Trước cảnh tượng này các môn đệ hết sức kinh ngạc và thán phục Đức Giêsu nên mới nói với nhau:”Ngài là ai mà cả gió và biển đều phải tuân lệnh Ngài” ? Các ông đã nhìn ra quyền năng của Ngài và tin tưởng vào Ngài hơn.
2. Ý nghĩa câu truyện.
a) Củng cố niềm tin cho môn đệ.
Đức Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền ra biển là có ý tỏ quyền năng của Ngài để các ông tin tưởng vào Ngài. Sóng gió bão táp cũng có nghĩa là những thử thách và đau buồn mà người công chính phải chịu đựng và chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể cứu họ ra khỏi tình trạng ấy.
Các môn đệ chưa hiểu rõ con người Đức Giêsu, các ông coi Ngài cũng chỉ là một đấng tiên tri có quyền phép, làm được nhiều phép lạ để cho nhiều người tin theo nên các ông mới thắc mắc với câu hỏi “Người này là ai” ? Khi bão tố yên lặng, các ông chứng kiến một việc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn thành. Điều đó có ý nghĩa là Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa. Thực ra, họ mới biết Đức Giêsu theo quan niệm của loài người. Đồng thời, nhờ phép lạ này cho thấy Đức Giêsu chăm sóc các môn đệ của Ngài.
Theo suy luận của J. Hervieux thì “khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Marcô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo hội thời Ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi sợ hãi, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Ngài “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè sợ sệt ! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập (Fiches dominicales, năm B, tr 207).
b) Chúa vẫn có mặt ở đó.
Cơn sóng gió nổi lên dữ dội, các môn đệ bất lực, không chèo chống nổi, nước tràn vào đầy thuyền và sắp ngập, khi đó Đức Giêsu lại đang nằm ngủ ở đàng lái ! Ngài ở chỗ quan trọng nhất vì số phận con thuyền tùy ở tay lái. Thế mà đang lúc khó khăn nguy hiểm tột độ, Ngài lại nằm ngủ. Đối với Marcô, Ngài nằm ngủ như thế là hình ảnh về Thiên Chúa như nhắm mắt làm ngơ và ngủ say quên mất rằng loài người chúng ta sắp chết rồi, con thuyền Hội thánh đang sắp chìm và bản thân chúng ta sắp bị vùi giập trong nguy hiểm. Thái độ lạ lùng này khiến loài người phải đặt ra nhiều câu hỏi về vấn đề đau khổ và sự dữ: có Thiên Chúa hay không ? Ngài không biết chúng ta đang đau khổ sao? Ngài bất lực hay đa đoan như người ta thường nói về “Con Tạo” ?
Bài đọc 1 cũng đặt ra cho chúng ta một câu hỏi, giống như thời ông Gióp ; chúng ta cũng tra hỏi, chất vấn, sửng sốt, đòi hỏi Chúa phải giải thích và trình bầy cho ra nhẽ ! Tại sao vẫn xẩy ra những vụ tàn sát những người vô tội, những cảnh chém giết nhau không nương tay, những cuộc bách hại đẫm máu, những trận dịch kinh hoàng, những bất công chỉ biết kêu trời báo oán, những cảnh chết đói khiến phải đào mồ chôn tập thể ?
Thật ra, đường lối sư phạm của Thiên Chúa rất huyền diệu, ta không hiểu nổi, nhưng dầu sao nó cũng nhằm giúp chúng ta tin tưởng rằng trong mọi nơi mọi lúc “Con thuyền Giáo hội lúc nào cũng bị sóng gió dập dồn” (theo Tertullianô), nhưng không sao, không bị chìm được vì luôn có Ngài ở đó, Ngài có vẻ ngủ nhưng thực ra Ngài vẫn thức để theo dõi chúng ta chèo chống và chờ đợi chúng ta kêu cầu Ngài giúp đỡ. Theo nhận xét của chúng ta, dù có Đức Giêsu ở trong thuyền với các môn đệ thì bão tố vẫn xẩy ra. Vì thế, dù bão tố có chụp xuống chúng ta , điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ không nghi ngờ Ngài ở với chúng ta, và chúng ta sẽ hướng về Ngài để cầu xin và tin chắc rằng Ngài sẽ đến giúp đỡ.
Một ngày kia, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngã tay chèo, được hoàng đế phán ra một câu bất hủ:”Anh không biết là anh đang chở hoàng đế César sao”?
Một vị hoàng đế sẽ bất lực trước cơn cuồng phong dữ dội, thế mà dám nói những lời như thế. Thì huống hồ ở đây, không phải là vị vua trần thế mà là vua cả trên trời Ngài làm cho sóng gió bão táp phải lặng yên sao . Thánh vịnh đã nói:
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng Sóng đang gầm, bỗng im tiếng. Họ vui mừng vì trời yên bể lặng Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ. (Tv 107, 29-30)
III. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA.
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay dạy chúng ta bài học: hãy tin cậy vào Chúa và cầu nguyện. Ai cũng thích sóng yên bể lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có giông tố ? Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin. Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Ngài. Cũng chính giông tố sẽ giúp chúng ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố. Khi đã biết con người hoàn toàn yếu đuối và bất lực thì chỉ còn biết trông cậy vào Chúa và xin Ngài đến cứu giúp, không phải chỉ cầu xin khi gặp hoạn nạn, nhưng phải tin Chúa và cầu xin Ngài mọi nơi mọi lúc trong lúc được bình yên.
Truyện: Cầu nguyện khi bình yên.
Có câu chuyện về một đại úy hải quân, khi về hưu làm thuyền trưởng trên một chiếc tầu đưa khách đến đảo Shetland tham quan trong ngày.
Trong một chuyến đi chơi, tầu chở toàn thanh niên. Họ cười nhạo ông đại úy gìa khi thấy ông này cầu nguyện trước lúc ra khơi, bởi vì đó là một ngày trời đẹp và biển êm.
Nhưng biển không êm lâu khi một trận cuồng phong bất ngờ thổi tới và chiếc tầu bắt đầu chồm lên chồm xuống dữ dội. Các hành khách hoảng sợ chạy đến ông đại úy thuyền trưởng để yêu cầu ông cùng cầu nguyện với họ. Nhưng ông đáp:”Tôi đã cầu nguyện lúc trời êm bể lặng. Khi sóng gió nổi lên, tôi phải lo cho con tầu của tôi”.
Đó là một bài học cho chúng ta . Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn tìm đến Thiên Chúa trong những lúc yên tĩnh của đời mình thì chúng ta có lẽ sẽ không tìm thấy Người khi cơn rối loạn chụp xuống. Có lẽ chúng ta hoảng sợ nhiều hơn. Nhưng nếu chúng ta đã biết tìm đến Người và phó thác nơi Người trong những lúc bình yên thì hầu như chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy Người khi sóng gió nổi lên (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật B, tr 458).
Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chồng chềnh giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm ? Chỉ còn có Thiên Chúa. Ngài như người cha lái con tầu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của người Cha trên trời. Có Chúa trong đời, Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Lúc đó, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Truyện: Cha tôi câm lái tầu.
Một thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện như sau:
Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh mông. Bỗng chốc, bầu trời kéo mây đen đặc. Rồi giông tố ầm ầm nổi lên, sấm chớp kinh hoàng. Mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có một em bé cứ ngồi chơi trên boong tầu như không có gì xẩy ra.
Lạ lùng, một thủy thủ dương to đôi mắt hỏi em:
- Em không sợ chết sao ?
- Cậu bé thản nhiên trả lời:
- Sao lại sợ ? Chính ba cháu cầm lái con tầu này mà !
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay thách đố sự tin tưởng của chúng ta vào quyền năng của Thiên Chúa. Khi đã có đức tin, chúng ta không cần đứng ra chỉ huy mọi sự. Đã có Chúa Tình yều, Ngài sẽ làm tất cả.
Mc 4:35-41: 35 Và Người nói với họ hôm ấy, khi chiều đến: “Chúng ta hãy đi sang bờ bên kia!” 36 Để đám đông ở lại, họ đem Người theo, như Người đã ở trên thuyền; những thuyền khác cùng ở với Người. 37 Và một trận cuồng phong lớn nổi lên, sóng đập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. 38 Và Người đã ở đàng lái đang ngủ dựa đầu vào chiếc gối. Họ đánh thức Người dậy và nói với Người: “Thầy ơi, Thầy chẳng quan tâm là chúng ta đang lâm nguy sao?” 39 Thức dậy, Người ngăm đe gió, và nói cho biển: “Im đi! Lặng đi!” Gió liền ngừng và trở nên lặng yên hoàn toàn. 40 Rồi Người bảo họ: “Tại sao anh em lại sợ? Anh em vẫn chưa có lòng tin?” 41 Họ đã đầy hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả gió và biển cũng tuân lệnh Người?”.
Nằm trong văn mạch 4:35-5:43, trình thuật 4:35-41là một trong những đoạn trình bày quyền năng của Chúa Giêsu được biểu lộ cho các môn đệ sau khi Người đã giảng dạy (4:1-34): giải thoát khỏi nguy hiểm sự chết (4:35-41); khỏi quyền lực thù nghịch với Thiên Chúa (5:1-20), khỏi bệnh tật (5:25-34), và khỏi sự chết (5:21-24.35-43). Điểm chung của các trình thuật nầy là: - sự hiện diện của các môn đệ ( 4:35; 5:13; 5:31.37); - sự bất lực của con người - cầu cứu ở Chúa Giêsu (4:38; 5:3; 5:23; 5:26); - Chúa Giêsu giải thoát mọi sự dữ (4:39; 5:12-13; 5:29; 5:41tt); - Người đòi hỏi lòng tin (4:40; 5:34.36). Cấu trúc của đoạn 4:35-41 có thể phân ra như sau: 1- Nhập đề: bối cảnh và nhân vật (cc. 35-36); 2- Chúa Giêsu làm sóng gió lặng yên (cc. 37-29); 3- Kết luận: Thắc mắc của cả Chúa Giêsu và các môn đệ (cc. 40-41).
Câu 4:34 là móc nối giữa hai đoạn 4:1-34 và 4:35-5:43. Như khi ở riêng với các môn đệ, Chúa Giêsu đã thường cắt nghĩa mọi sự cho họ, Người cũng sẽ tỏ chân dung của Người qua những việc quyền năng Người thực hiện khi Người và họ đã tách khỏi dân chúng (x. 3:9.20.32; 4:1). Họ cần “ở với Người” (c. 36) như lần đầu tiên họ được kêu gọi để có thể có kinh nghiệm sâu đậm về Người (3:14; x. 5:37). “Buổi chiều” trong Marcô thường là khung cảnh của những việc không tốt lành sẽ xảy đến (4:35; x. 6:47; 11:11; 14:17; 15:42). Đây là lần duy nhất Marcô nói là các môn đệ “đem Người theo” (paralambanō). Động từ nầy nói đến quan hệ giữa Chúa Giêsu-môn đệ. Thông thường Người đem các môn đệ theo để tỏ cho họ chân tính của Người (9:2), cho họ hiệp thông vào cuộc thương khó của Người (10:32; 14:33). Ngược lại, các môn đệ đem Người theo và cuối cùng tỏ lộ cho Người thấy sự yếu đuối của họ (4: 40).
Trong hành trình sang bờ bên kia, các môn đệ kinh nghiệm ba điều: vũ lực của gió bão kéo theo nguy hiểm chết người, sự bất lực của con người và quyền năng của Chúa Giêsu (cc. 37-39). Gió bão được kể là quyền lực thù nghịch gây hại cho con người. Chúa Giêsu ngăm đe và ra lệnh “Im đi!” cho ma quỷ và gió bão (x. 1:25; 3:12; 4:38; 8:33; 9:25). Các môn đệ thấy lâm nguy cho tất cả “chúng ta”, nhưng lại tỏ ra bất lực chế ngự gió bão, nên phải làm Người chỗi dậy (egeirō). Mỗi lần Chúa Giêsu “làm ai chỗi dậy” là Người đã chữa lành người đó (x. 1:31; 5:41; 9:27). Trái lại, các môn đệ chờ đợi sự can thiệp từ phía Người. Việc Người ngủ trong khi thuyền gặp bão tố cho thấy Người không sợ bị hại do những gì có thể xảy ra (x. 13:36; 14:37.40tt). Không cần ngăn ngừa và tránh né, vì Người làm chủ trên gió bão.
Khi gió bão đã biến mất, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với các môn đệ, cũng như họ cũng tự hỏi về Người là ai. Hai câu hỏi của Người không mâu thuẫn nhau; trái lại, mở một con đường. Trong tình huống gió bão có thể gây chết người, vì đã để mình cuốn lôi bởi vũ lực vô nhân tính, nên các môn đệ đã cảm nghiệm cách thâm sâu sự bất lực mà biểu hiện của nó là sự sợ hãi. Trái lại, cũng trước nguy hiểm ấy, nếu để Chúa Giêsu và sự hiện diện của Người dẫn dắt vô điều kiện, sẽ không cảm thấy bị đe dọa và không sợ hãi. Đó là đức tin vô điều kiện Người muốn nơi môn đệ của Người (x. 11:22). Còn câu tự hỏi của các môn đệ rất giống với những câu hỏi của dân chúng trước đây, chỉ sự kinh ngạc và thán phục trước công cuộc cao cả tỏ hiện quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu (x. 1:27).
Biết Chúa Giêsu không chỉ bằng tri thức, mà cả kinh nghiệm bản thân. Đức tin cần thiết để nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đang thực hiện những điều không thể cho con người, và để sống hiệp thông với Người (x. 4:11).
Khi Chúa Giê-su cùng các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia biển hồ, một trận cuồng phong nổi lên dữ dội, nước xô ập vào thuyền. Các môn đệ hoảng hốt đối phó với sóng to gió lớn. “Trong khi đó, Chúa Giê-su dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ” như chẳng có gì xảy ra.
Khi viết như thế, có lẽ thánh Mác-cô ám chỉ Chúa Giê-su chưa muốn ra tay can thiệp nhưng để cho các môn đệ tự mình đương đầu với nghịch cảnh và tự tìm cách giải quyết vấn đề.
Đối diện với tình thế vô cùng nguy khốn, các môn đệ sợ hãi đánh thức Chúa Giê-su dậy và lên tiếng trách móc: “Thầy ơi! Chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?”
Khi các môn đệ đã bó tay, Chúa Giê-su chỗi dậy, truyền cho gió im biển lặng làm an lòng mọi người. Rồi Chúa khiển trách các ông đã không biết vận dụng lòng tin để đối phó: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Vì thiếu lòng tin nên các môn đệ đâm ra hốt hoảng. Vì thiếu lòng tin mà các ông đã không đẩy lùi được sóng gió. Bài học Chúa Giê-su thường dạy: “nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải thôi, thì dù anh em bảo núi nầy: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì anh em không làm được” vẫn chưa thấm nhập vào tâm hồn các ông. (Matthêu 17,20; Mt 8,26; Mt 9,22; Mt 15, 28; Mt 21, 22)
Lắm khi trong cuộc đời, chúng ta gặp phải nhiều gian truân sóng gió: bị thất bại trong công việc làm ăn, gặp nhiều điều không may lành trong cuộc sống… khiến chúng ta mệt mỏi chán chường, buông xuôi tuyệt vọng. Chúng ta kêu van với Chúa nhưng dường như Người cố tình “ngủ quên” không đáp lại. Thế là chúng ta trách móc Chúa như các môn đệ gặp sóng gió trong Tin Mừng hôm nay: Lạy Thầy, chúng con chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng quan tâm sao?
Thực ra, Thiên Chúa không bao giờ bỏ mặc chúng ta, nhưng Người để cho thử thách xảy đến để rèn luyện chúng ta trưởng thành.
Khi cha mẹ quá nuông chiều con cái, con xin gì cha mẹ cho ngay; lúc nào cũng tìm cách đùm bọc, che chở con cái, lo cho con hết mọi sự từ A đến Z. Nhờ vậy tuy đứa bé lớn lên mập mạp trắng trẻo, nhưng rất yếu ớt, không thể tự đứng trên đôi chân của mình mà phải cần “cặp nạng” mới tiến bước được.
“Nạng” là sự che chở của người cha, là tiền bạc mẹ dúi cho từng ngày, là gia tài mẹ cha để lại... Nếu không có những chiếc “nạng” nầy, đứa con không thể tự mình đứng vững. Giáo dục như thế là làm hại con, làm cho con mình lệ thuộc, mềm yếu và rất khó trưởng thành.
Trong khi đó, phụ huynh nhà bên cạnh để con vừa đi học vừa phải lo làm việc cần cù giúp đỡ gia đình vừa tự liệu lấy những nhu cầu bản thân.
Nhiều năm sau, hai đứa bé cùng lớn lên và cùng mất cha mẹ như nhau. Người con được nâng niu chiều chuộng trong thời niên thiếu cảm thấy hụt hẫng như người què mất cặp nạng, không thể tự đứng trên đôi chân của mình, không biết nương tựa vào ai mà sống. Còn người con kia, nhờ quen lao động cần cù, nhờ được trui rèn trong gian khổ, nay trở thành người đầy bản lĩnh, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào.
Thiên Chúa cũng rèn luyện chúng ta theo hướng đó.
Khi chúng ta cầu xin lương thực, Chúa không cho ngay con cá mà trao cần câu để ta tự câu lấy cá nuôi mình.
Khi chúng ta xin nhà ở, Chúa không phù phép để có ngay một ngôi nhà cho ta trú ngụ, nhưng Người trao cho chúng ta khối óc và đôi tay. Nhờ thế, không những ta có nhà ở mà còn có thêm nhiều tiện nghi khác.
Chúa không thích ban bố theo kiểu người giàu sang bố thí nắm xôi cho kẻ ăn mày, vì làm như thế là hạ thấp nhân cách và phẩm giá người nhận, nhưng Người cung cấp những điều kiện cần thiết giúp ta lao động và phát minh, tạo ra những tiện nghi cần thiết cho đời sống và phát triển toàn diện con người.
Thiên Chúa để cho sóng to gió lớn xảy đến trong cuộc đời chúng ta không phải vì Người ghét bỏ chúng ta, nhưng đó là những bài tập rất cần thiết mà Thiên Chúa gửi đến để rèn luyện chúng ta nên người khôn ngoan, có bản lãnh và trưởng thành.
Bên cạnh đó, Thiên Chúa còn dạy chúng ta biết vận dụng niềm tin như bí quyết thần diệu để giải quyết mọi vấn đề. Đừng để Chúa trách chúng ta như đã trách các môn đệ xưa: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Hình ảnh các môn đệ vượt biển hồ nói lên hành trình vượt biển thế gian. Theo các Giáo phụ, con thuyền ở đây là Giáo hội và cũng là cuộc đời của mỗi người Kitô hữu; biển tượng trưng cho thế gian. Thế gian chưa phải là bến đổ mà chỉ là đại dương cần phải vượt qua mỗi ngày. Bến đổ là sự sống vĩnh cửu mai sau, là quê hương thiên đường vĩnh phúc.
Biển cả không phải lúc nào cũng êm đềm phẳng lặng, trái lại nhiều lúc đầy phong ba bão tố và hiểm nguy (cuồng phong, mưa bão, sóng dữ…). Biển đời cũng vậy. Chẳng phải khi nào cũng bình yên vô sự. Đau khổ, thử thách và gian truân dường như là bạn đường của con người. Thế mới hay “đời là bể khổ”. Thử thách gian truân do nhiều thế lực sự dữ: thế gian, ma quỷ, tai ương… Tuy nhiên cần xác tín một điều là trên hành trình đó, chúng ta không cô đơn vì có Chúa cùng đi, vì có Chúa là “Hoa Tiêu” dẫn đường. Dẫu rằng “Hoa Tiêu” ấy có thể đang “tựa đầu vào chiếc gối mà ngủ”, như câu chuyện trong Tin mừng hôm nay.
Có người bảo rằng Chúa Giêsu thuộc hạng mê ăn mê ngủ, nên dù thuyền có bị sóng đánh tả tơi và các môn đệ của ngài đang đối mặt với nguy cơ làm mồi cho thuỷ quái, ngài vẫn cứ vô tư “kéo gỗ”. Có người lại bảo hôm đó Chúa Giêsu bị say sóng nên nằm li bì như vậy không chừng. Người khác nữa lại cho rằng Chúa giả bộ để thử lòng các môn đệ và để cho các ông một phen “ú tim” chơi. Đó là những suy diễn nghe cho vui vậy thôi.
Thực ra hình ảnh “Chúa Giêsu tựa đầu trên gối mà ngủ” ám chỉ một sự hiện diện vô hình. Và đây là chi tiết quan trọng của trình thuật Tin Mừng thánh Marcô. Các môn đệ đã thiếu tin tưởng vào sự hiện diện vô hình nhưng đầy quyền năng của Chúa Giêsu. Sợ chỉ là tâm lí thường tình của con người khi đối diện với nguy hiểm, nhưng vì thiếu niềm tin nên các ông đã hoảng hốt. Chúa Giêsu đã trách cứ các môn đệ. Không phải trách vì các ông sợ, mà là trách vì các ông không có niềm tin. Sự thiếu niềm tin thể hiện qua câu nói: “Chúng ta cầm chắc cái chết rồi…”, chứ không phải là một lời van xin với lòng tin tưởng.
Cũng dễ hiểu thôi, vì không lẽ những dân chài thứ thiệt như các ông lại phải cậy đến sự trợ giúp của một bác thợ mộc lúc gặp bão tố cuồng phong trên biển cả ư! Kinh nghiệm thợ mộc giúp được ích gì cho các ông lúc này, nếu không muốn nói là vô dụng. Các ông cần sự trợ giúp thần linh, đúng hơn là một phép lạ. Và Chúa Giêsu đã đáp ứng ước nguyện thầm kín trong lòng các ông. Không phải bằng một kỷ năng hàng hải mà bằng uy quyền của trời cao. Niềm tin của các ông đã được củng cố qua dấu chỉ năng quyền: sóng yên biển lặng tức thì.
Trong thế giới hôm nay, người ta thường thiếu niềm tin nơi Thiên Chúa, vì thế dễ lo lắng, sợ hãi trước những biến động xảy ra trong cuộc sống. Thậm chí có thể trở nên khủng hoảng tinh thần, bất mãn với cuộc đời, và có những trường hợp đưa đến loạn trí, hành động điên rồ: như tự hủy chính mình, có khi giết hại mạng sống cả gia đình, có khi giết hại những người vô tội, như những cuộc bắn giết trong thời gian qua tại các trường học, tiệm ăn, công sở và các trung tâm thương mại, v.v… (x. 5 phút cho Lời Chúa mỗi ngày, Chúa nhật 12 TN B).
Phần chúng ta thì sao, chúng ta có tin tưởng vào sự hiện diện và đồng hành của Chúa Giêsu trên thuyền đời của mình hay không? Bao nhiêu lần chúng ta đã hoảng hốt, bao nhiêu lần chúng ta kêu trách Chúa khi gặp đau khổ, thử thách… ?
Xin Chúa dẹp tan những sóng gió trong cõi lòng mình để chúng ta luôn biết vững tin vào quyền năng và tình thương chở che của Ngài trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
Có một câu chuyện kể rằng: Người ta tổ chức một cuộc du lịch xuyên qua Ịại Tây Dương. Trong: TN12 B-38
Có một câu chuyện kể rằng: Người ta tổ chức một cuộc du lịch xuyên qua Đại Tây Dương. Trong lúc tàu chạy yên hàn, mọi người ra hong tàu khoan khoái nhìn ngắm cảnh hoàng hôn tươi thắm. Bỗng sóng to gió lớn nổi lên làm cho chiếc tàu nghiêng ngửa dữ dội. Mọi người hoảng sợ chạy vào phòng, duy chỉ còn một cậu con trai vẫn tiếp tục ở lại xem cảnh. Thấy vậy, nhiều người lo sợ nguy hiểm cho em, nên gọi em vào phòng trú ẩn, nhưng em không vào. Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố hãi hùng như thế. Em thản nhiên trả lời: vì cha tôi là người cầm lái con tàu.
Như khách du lịch sợ hãi trên tàu khi phong ba bão táp, chúng ta bình thường cũng mang nhiều nỗi sợ hãi trong cuộc đời. Người thì sợ lái xe trên xa lộ. Kẻ khác sợ phải nói chuyện trước công chúng. Sợ thi rớt. Sợ bị bệnh ung thư. Sợ bị nhiễm HIV. Sợ cô đơn. Sợ thất nghiệp. Sợ gia đình tan vỡ. Sợ con cái hư hỏng… thậm chí sợ ma nữa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy các Tông đồ sợ bão tố, sợ nguy hiểm và sợ chết. Bão lớn, nước sắp đầy thuyền thì ai mà không sợ. Vậy mà Chúa còn trách các Tông đồ: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?”. Các Tông đồ lâm nguy thật sự. Trong hoàn cảnh đó, chẳng những nên kêu cứu Chúa, mà đúng là phải kêu cứu Chúa. Nhưng đừng kêu cứu với tâm trạng sợ hãi đến tuyệt vọng như vậy. Phải kêu cứu nhưng hãy kêu cứu trong niềm cậy trông và tín thác tuyệt đối. Lời trách cứ của Chúa Giêsu mở cho chúng ta một kinh nghiệm đức tin quý báu: niềm tin vững vàng làm chúng ta thêm can đảm và bớt sợ hãi, thậm chí an bình trong gian nguy. Nhưng cũng phải can đảm lắm mới có thể tin.
Trong câu chuyện trên, vì tin vào tài cầm lái con tàu của cha mình mà cậu con trai thản nhiên không lo sợ nguy hiểm trước mắt.
Cũng vậy, đối với mỗi người chúng ta đang sống trên cuộc đời này cũng giống như con thuyền của các Tông đồ lênh đênh trên biển cả và gặp gió bão. Chúng ta cũng gặp không ít những cơn dông tố bất ngờ.
Thật vậy, có lẽ ai trong chúng ta cũng đã có lần trải qua một nỗi lo sợ nào đó hoặc kinh nghiệm qua những giờ phút đen tối trong cuộc sống. Bởi vì cuộc đời này luôn có những cam go, gian truân, thử thách, nguy hiểm, đau thương… đứng trước những hoàn cảnh như thế, ai cũng lo lắng, sợ hãi. Nhưng đối với chúng ta, những người có đức tin, không phải chúng ta không biết sợ hãi, nhưng chúng ta tin rằng Thiên Chúa ở đàng lái, là Cha yêu thương luôn quan tâm săn sóc chúng ta. Nhưng có thể đã có những lần chúng ta đau đớn vì Chúa lại ngủ giữa phong ba. Niềm tin không phải là giải đáp dễ dãi, không miễn trừ những khó khăn. Nhưng trong những khó khăn đó, chúng ta phải hoàn toàn phó thác vào Chúa. Chúa có thể ngủ, nhưng Chúa luôn thức vào lúc khó khăn, nguy hiểm để trợ giúp những ai bằng lòng để cho “Chúa ở đàng lái”. Với niềm tin đó sẽ giúp chúng ta có thái độ lạc quan hơn trước cuộc sống và bình tĩnh để đối phó với những khó khăn thử thách. Nếu niềm tin không đem lại cho chúng ta sự an bình, thanh thản, thì đó là dấu chỉ cho thấy niềm tin của chúng ta chưa mạnh mẽ đủ, chúng ta cần phải cầu xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta.
Chính vì thế, qua Lời Chúa hôm nay, ước gì mỗi khi chúng ta gặp khó khăn, thử thách, gian nan, vất vả trong cuộc đời, chúng ta biết chạy đến kêu cầu Chúa Giêsu với một niềm tin tưởng sâu xa, phó thác trọn vẹn và cầu nguyện chân thành, xin Chúa cứu giúp. Amen
Trong một chuyến du lịch xuyên Ịại Tây Dương, mọi người ra hong tàu hóng gió và ngắm cảnh: TN12 B-39
Trong một chuyến du lịch xuyên Đại Tây Dương, mọi người ra hong tàu hóng gió và ngắm cảnh thiên nhiên. Bỗng nhiên, sóng to gió lớn nổi lên làm chiếc tàu nghiêng ngửa dữ dội. Mọi người hoảng sợ chạy vào phòng, duy chỉ có một bé trai vẫn tiếp tục ở lại ngắm cảnh. Thấy vậy, nhiều người lo sợ cho em, nên gọi em vào phòng trú ẩn nhưng em không vào. Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố hãi hùng như thế, em thản nhiên trả lời: vì cha tôi là người cầm lái con tàu. (x. LMTV, Minh hoạ lời Chúa, Tập II, Tr. 220)
Niềm tin vào cha làm bé trai được vững tâm, không sợ sóng cả ba đào, trong khi những người khác hoảng hốt lo sợ. Trong Tin mừng hôm nay, các tông đồ khiếp đảm trong trận cuồng phong khi vượt biển hồ. Điều này cho thấy, các tông đồ còn kém lòng tin vào quyền năng của Chúa Giêsu.
1. Lòng tin yếu kém của các tông đồ:
Nếu các tông đồ có niềm tin vững vàng vào Chúa Giêsu, có lẽ các ông cũng chống chọi với sóng gió cật lực nhưng không sợ hãi và cũng không cần đánh thức Chúa Giêsu là Chủ trời đất và biển khơi. Nếu có niềm tin, các Tông đồ sẽ có thái độ như em bé này: có Chúa ở đây, chúng ta lo sợ gì. Thế nhưng, trong tường thuật Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy các Tông đồ sợ hãi lắm. Có lẽ các ông nghĩ: chết đến nơi rồi, đánh thức Thầy dậy xem có cách gì hay không, hay ít nhất cũng có thể giúp các ông một tay. Các ông không biết Thầy mình có thể khiến biển yên gió lặng. Vì vậy, Chúa Giêsu trách các ông yếu lòng tin là phải lắm.
2. Quyền năng của Chúa Giêsu:
Khi Chúa Giêsu trổi dậy, người truyền cho gió yên, biển lặng khiến các Tông đồ lại một phen hoảng sợ và bắt đầu tin tưởng vào Chúa Giêsu, nhận ra quyền năng và con người thật của Thầy mình.
Câu chuyện trong Tin mừng này cũng là câu chuyện của chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta cũng đang ở trong con thuyền đi trên biển trần gian, nhiều lúc cũng có phong ba bão táp, đủ thứ thử thách khó khăn trong cuộc sống khiến chúng ta vất vả lao đao. Nhiều lúc chúng ta tự hỏi: “ Tôi cầu xin Chúa sao Chúa vẫn để tôi nghèo, gia đình tôi gặp khó khăn về tinh thần vật chất, có khi chúng ta cảm thấy như Chúa không nghe thấy lời cầu xin của chúng ta. Những lúc đó, chúng ta hãy nhớ đến lời Chúa trong Tin mừng hôm nay và tiếp tục tin tưởng vào Chúa. Tuy vẫn lo chèo chống nhưng không hoảng hốt mà bình an tin tưởng vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
Có những lúc chúng ta đứng trước những huống cảnh buộc phải chọn lựa, chúng ta hãy xin Chúa soi sáng để biết phải làm gì. Cái khó là chúng ta có thuận phục theo sự hướng dẫn của Chúa hay không. Nếu chúng ta yêu mến và phó thác cho Chúa thì tâm hồn sẽ được bình an. Nếu chúng ta không tín thác thì chúng ta càng khổ sở vì không có bình an.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tin tưởng phó thác vào quyền năng Chúa trước mọi biến cố cuộc đời và xin Chúa ban ơn thêm sức cho chúng con biết vượt qua tất cả những khó khăn thử thách trong sự trung thành để mai sau được hưởng hạnh phúc đời đời bên Chúa.
Trong cuộc đời, kinh nghiệm đã cho chúng ta nhiều bài học về sự dữ. Sự dữ là một thực tại: TN12 B-40
Trong cuộc đời, kinh nghiệm đã cho chúng ta nhiều bài học về sự dữ. Sự dữ là một thực tại khả thể, hiện hữu và hoạt động trong thế trần. Tự sức mình con người chúng ta khó có thể chiến thắng sự dữ, nhưng nếu có ơn Chúa trợ giúp thì chúng ta có thể chiến thắng. Tuy nhiên nhiều khi chúng ta cũng còn lờ mờ, đi trong đêm tối của đức tin để tìm kiếm chân lý, sự thật, Thiên Chúa.
Trên con đường theo Chúa Giêsu, mặc dù các môn đệ được Người đào tạo, dậy dỗ, uốn nắn…các ông vẫn chưa hiểu về đường lối của Chúa: Người đã giảng dạy, làm nhiều phép lạ nhưng các môn đệ vẫn sống trong sự mờ ảo của cuộc sống, các ông chưa làm sao hiểu được ý của Thầy Giêsu. Do đó, có lúc các ông tưởng Thầy mình là ma, có lúc các ông lánh xa Chúa, các ông phản ứng lại bằng lời nói, cách sống, cử chỉ, thái độ của Thầy mình. Đức tin của các môn đệ nhiều lúc tưởng như lu mờ, hay nói một cách khác các ông chưa có lòng tin. Tin Mừng Mc 1,35- 41 là một bằng chứng nói lên quyền năng vô biên của Chúa giống như sách Gióp khẳng định: “Chỉ Thiên Chúa là Đấng sáng tạo quyền năng, chủ tể muôn loài, muôn vật, chủ tể mọi sự”. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho sóng to, gió lớn phải im bật nói lên quyền uy của Chúa. Đáng lẽ các môn đệ phải vui mừng vì Thầy có quyền năng khiến gió to, biển động im hơi lặng tiếng, các môn đệ lại hoảng hốt sợ sệt. Chúa Giêsu phải lên tiếng:” Sao nhát thế ? Anh em chưa có lòng tin sao ?”. Sự dữ trong đời sống đã che mắt đức tin của họ.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin vào Chúa, bám chặt lấy Chúa, tin vào uy quyền tuyệt đối của Chúa trên mọi loài, mọi vật, mọi sự để chiến đấu ới sự dữ cuộc đời. Tiếng la hoảng hốt của các môn đệ trước trận cuồng phong bão táp, phải chăng đang là thử thách của con người, của mỗi người khi họ gặp cơn cám dỗ, gặp sự thử thách gian nan giữa cuộc đời, giữa hành trình đức tin đầy cam go? Liệu Chúa có bỏ con người hay con người chỉ ngờ ngợ, yếu tin chưa có lòng tin mạnh mẽ và gắn chặt vào Chúa Giêsu? Nếu đọc lại nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy nhiều lòng tin làm ta ngạc nhiên. Và khi ta tin thật sự vào Chúa, chắc chắn sự an bình sẽ đến với chúng ta. Thiên chúa không ở xa ta, Ngài ở bên ta, Ngài yêu thương ta, Ngài sẵn sàng can thiệp vào mọi biến cố của đời ta. Nhưng chắc chắn chúng ta cũng có thái độ như các môn đệ hoảng hốt, như ông Môsê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3,1), như ngôn sứ Isaia khi nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa trong Đền Thờ (Is 6,5). Tất cả đều tùy thuộc vào lòng mến và vào sự phó thác tuyệt đối của mỗi người chúng ta trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật yếu đuối. Đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp ta biết mình. Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.
Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.
Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian. Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Đời sống mỗi người chúng ta cũng như vậy. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.
Đời sống không thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Nhưng Chúa luôn ở bên ta. Nên ta hãy vững tin, cậy trông phó thác và biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm mạnh mẽ. Thử thách rồi sẽ qua đi. Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta. Xin Chúa cho mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn bám chặt lấy Chúa vì Chúa là Đấng uy quyền và hay thương xót để chúng con có thể vượt qua thử thách, chiến đấu với sự dữ trong cuộc sống và thêm tin yêu vào Chúa hơn. Gp. Vĩnh Long
"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người".
Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ". Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người. Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
Văn chương thường ví đời sống con người từ khi sinh đến khi chết, như một cuộc vượt biển, đi từ bên này sang bên kia. Và mặt biển trần gian không mấy khi phẳng lặng. Không những thường có gió, có sóng, mà nhiều khi còn nổi bão và sóng cuộn. Và không chắc thời buổi khoa học kỹ thuật cao ít sóng gió hơn những thời đại bè nứa và thuyền nan. Lịch sử thế giới những thập niên gần đây xem ra nhiều biến động và con người ở thời đại chúng ta cũng rất nhiều thử thách. Cụ thể ai có thể bảo: đời sống bản thân, gia đình và xã hội mình đang sống không có những nét bất ổn làm giao động tâm hồn?
Hôm nay Lời Chúa không những tỏ ra thấu suốt các nguy hiểm của đời sống con người, mà còn muốn đem lại bình an hạnh phúc cho tất cả chúng ta đang sống trong sóng gió của cuộc đời. Chúng ta lần lượt đọc lại bài sách Yob, bài Tin Mừng và bài thư Phaolô.
A. Thiên Chúa Có Quyền Trên Sóng Nước
Phụng vụ chọn bài sách Yob đi trước bài Tin Mừng hôm nay. Vì sao không chọn một bài khác? Cựu Ước không thiếu những đoạn sách tương tự. Nhưng sách Yob gợi ngay đến cuộc sống của một người gặp thử thách khác thường. Không những Yob đã trở thành biểu tượng mọi con người gặp đau khổ đớn đau, sách Yob còn chứa đựng mọi suy tư của con người muốn giải thích vì sao cuộc sống lại nhiều khổ đau vô lý như vậy. Các phát biểu nhiều và dài, nhưng chẳng hoàn toàn thuyết phục được ai khác, ngoài chính người đã dựng ra những lý thuyết giải thích kia. Cuối cùng, như không thể chịu đựng được nữa, những tư tưởng ngu xuẩn của những kẻ múa mép một cách tự đại, Thiên Chúa đã nói với Yob "từ cơn giông tố".
Vì sao Người lại dùng giông tố làm bối cảnh? Văn chương Cựu Ước và ở thời của Yob không thể nào tưởng tượng được một cuộc hiển linh mà không thấy có sấm chớp, giông tố và khói lửa. Kể từ ngày mô tả Thiên Chúa ngự xuống trên núi Sinai giữa cảnh trời long đất lở, sấm chớp hãi hùng, các tác giả Cựu Ước luôn diễn tả việc Chúa hiện ra hoặc với loài người kèm theo tiếng gió, tiếng sét, trong lửa, trong khói. Ðó là những bối cảnh đã trở nên quen thuộc.
Ở đây, "giông tố" đã là dấu báo hiệu cho việc Chúa hiện đến. Nó còn nói lên một ý nghĩa nữa. Nó muốn quét sạch mọi luân lý của loài người đã nói ra trước đây để cắt nghĩa vì sao hết sự dữ này đến tai họa khác đã ập xuống trên cuộc đời và thân thể của Yob. Chẳng lý lẽ nào có thể đứng vững trước chân lý của Chúa. Chúng đã tháo lui, rút chạy khi Người sắp mở miệng. Giông tố đã đến quét sạch mặt đất để cho Thiên Chúa xuất hiện. Và để tỏ ra Lời Người sắp nói là Chân lý, khác hẳn các suy tư của con người. Giữa tư tưởng của Người và luận lý của chúng sinh phải có một khoảng cách, một khoảng trống. Ðấng siêu việt không thể ngự đến giữa các vật tầm thường. Chân lý của Người không được xếp hạng chung với các tiếng nói của loài người.
Và quả thật, Người không phát biểu như bạn bè trước đây của Yob. Các người này đi thẳng vào những đau khổ của ông, lấy lẽ này lẽ khác ra mà giải thích. Họ và đối tượng họ giải thích cùng nằm trên một bình diện. Họ đứng cùng tầm mức với các điều họ muốn hiểu. Thiên Chúa thì không. Người siêu việt hơn hết thảy. Người đứng trên mọi sự. Người nắm đầu tất cả. Người bắt chúng phải trả lời, chứ không lờ mờ tìm hiểu chúng.
Thế nên, Người bảo Yob: "Hãy nai nịt như một dũng sĩ (để xứng đáng đứng trước nhan Người). Ta sẽ vặn hỏi ngươi và ngươi hãy cho ta hay: ai đã cài chắc then biển bằng hai cánh xếp, khi nó trào ra từ lòng mẹ; khi Ta phủ mây trên nó như áo quần và mây tối làm tã lót?"
Dĩ nhiên phải biết văn chương của thời Yob mới dễ hiểu những lời vừa nghe. Thời ấy, người ta có những quan niệm rất khác với chúng ta về vũ trụ. Ðối với họ, mọi vật đã từ "vực thẳm" đi ra. Biển cũng từ lòng sâu thẳm ngoi lên. Vực thẳm là lòng mẹ sinh ra vạn vật. Nhưng khi nước biển trào ra như vậy, làm sao nó lại đọng lại một vài nơi và không tràn ra lênh láng? Phải có người vạch ranh giới cho nó và đặt nó trong cửa kín then cài. Ai vậy, nếu không phải là tạo hóa? Người đặt định luật cho các vật để chúng không ngông cuồng và không có kỷ luật...
Viết như trên, tác giả sách Yob cũng cùng quan điểm với tác giả sách Khởi nguyên. Chúng ta quen tư tưởng của sách này từ chương đầu tiên. Ở đó, chúng ta thấy Thiên Chúa đã làm ra mọi sự, một cách thật đơn giản và quyền năng. Người phán hãy có vật nào là vật ấy xuất hiện. Người bảo nước dưới vòm trời hãy tụ lại một chỗ, để cho khô ráo lộ diện. Và đã xảy ra như vậy. Người gọi khô ráo là đất, còn khối nước tụ lại là biển.
Dĩ nhiên, một cách khoa học ngày nay không viết như thế, nhưng con người ở thời Yob không hiểu được văn khoa học thời nay. Ðàng khác sách Yob cũng như sách Khởi nguyên không muốn nói chuyện khoa học, nhưng chỉ muốn dạy đạo. Chân lý chủ yếu ở đây là biển rộng với các định luật của nó là tự Thiên Chúa sắp đặt. Tác giả thời bấy giờ phải dùng các hình ảnh vừa tầm mức của người đương thời để diễn đạt tư tưởng đạo đức. Ông phải mượn hình ảnh then cài và cửa khép hai cánh để nói lên định luật không cho nước lan rộng ra quá mức. Ðịnh luật này cũng do tạo hóa đặt định thôi. Do đó, người xưa nói đến cửa đóng then cài không cho nước thoát ra, và ngày nay chúng ta nói đến hấp lực của trái đất và mặt trăng điều hòa sức nước dâng lên dâng xuống, cũng vậy thôi xét theo quan điểm tìm hiểu: bởi vì cuối cùng vẫn phải nại đến ai làm ra cửa và ai đặt ra định luật. Người thời xưa mộc mạc và thi sĩ hơn người khoa học. Họ thấy sức mạnh của nước, nhưng đồng thời sức mạnh ấy được kiềm chế. Họ nghĩ phải có ai điều khiển đại dương. Họ suy tôn tạo hóa trong các kỳ công của Người.
Cũng như họ thấy mặt biển thường có mây. Họ nghĩ đến ngày sinh của con người phải có tã lót và con người không thể phô bày thân thể mà không mang quần áo. Họ suy biển cũng phải như vậy. Nên ở đây tác giả viết: Tạo hóa phủ mây trên nó như áo quần vá mây tối làm tã lót.
Chúng ta chia sẻ cái nhìn chân thực của tác giả. Chúng ta cùng tác giả nhìn nhận Thiên Chúa, Ðấng tạo thành vạn vật, có quyền trên hết thảy. Người có quyền trên biển rộng. Nhưng điều này ăn nhằm gì với điều Yob đang muốn biết. Ông đang điên đầu vì chẳng hiểu sao mình khổ sở quá như thế này. Bạn bè của ông đã đưa ra những lời giải thích không thể chấp nhận được. Thiên Chúa muốn trả lời thế nào cho ông đây, khi nói đến quyền của Người trên sóng nước?
Sự thật Yob đã hiểu ngay Thiên Chúa muốn nói gì rồi. Ông và đồng bào của ông quá biết sức mạnh của nước, nhất là khi nó phá phách như trong truyện Ðại hồng thủy và truyện binh lính Pharaô chết hết khi nước vùi dập họ nơi Biển Ðỏ. Trong bão táp, sóng nước thật hung dữ. Biển trở thành biểu tượng cho nhiều sức mạnh nguy hiểm. Thế nên không phải chỉ ở Dothái, mà còn ở nhiều nơi, loài người vẫn ví cuộc sống nguy hiểm của họ ở đời này như cuộc vượt biển trăm bề hiểm nguy.
Vậy khi khẳng định uy quyền của Thiên Chúa trên sóng nước, tác giả sách Yob chẳng qua có ý quả quyết: sự dữ cũng dưới quyền của Chúa. Và kẻ gặp sự dữ hãy đến đặt niềm tin tưởng nơi Người.
Nhưng khốn nỗi nhiều khi Người lại như Ðức Yêsu cứ ngủ yên trong khi môn đệ gặp sóng gió dữ dằn. Thái độ của chúng ta như thế nào trong những trường hợp như thế?
B. Các Ngươi Chưa Có Lòng Tin Sao?
Marcô không phải là tác giả không biết kể chuyện. Lời văn của ông vắn tắt nhưng ngụ nhiều ý. Ông biết quá mặt nước mà các môn đệ của Ðức Yêsu sắp bơi thuyền sang, không phải là một đại dương hoặc một mặt biển rộng. Ðây chỉ là một cái hồ, tuy không rộng như chưa thể gọi là biển. Thế mà Marcô làm cho chúng ta thấy thuyền của các Tông đồ như đang vượt biển sóng to gió lớn. Tác giả muốn dùng câu truyện hôm nay để nói đến con đường gian nan nguy hiểm mà các Tông đồ sắp đi vào, và để báo trước cuộc đời của Hội Thánh sẽ phải lênh đênh sóng gió, và đời sống đức tin của mỗi người chúng ta phải lao khổ, hiểm nguy. Bài sách Marcô hôm nay vì thế cũng nằm trong viễn tượng chúng ta vừa trình bày khi nói về bài sách Yob. Cả hai đều muốn gợi lên cuộc đời đầy thử thách gian lao của con người.
Marcô lại khéo dùng vài từ ngữ để làm cho bối cảnh thêm đe dọa, bi đát hơn. Ông viết: "Ngày hôm ấy". Từ ngữ này rơi vào tai những người am hiểu Kinh Thánh, lập tức có thể gợi lên viễn tượng về ngày chung thẩm, khi Thiên Chúa đến phán xét lành dữ trong hãi hùng và thẳng nhặt. Không có gì đáng sợ hơn những gì sẽ xảy ra trong ngày ấy. Thế nên, khi đặt cuộc vượt biển của các tông đồ trong khung cảnh của "ngày hôm ấy", Marcô đã mở ra một chân trời đe dọa. Không những thế, ông còn viết: "Lúc chiều đến". Nghĩa là tối tăm sắp sửa ập xuống. Và ai biết trong bóng tối có những hung thần và nguy hiểm nào?
Chúng ta bảo: Các tông đồ không biết chọn thời điểm. Nhưng họ đâu có quyền lựa chọn. Khi đã nhận làm môn đệ Chúa Yêsu và hấp thụ mầu nhiệm Nước Trời như Người đã mạc khải qua các dụ ngôn hạt giống và hạt cải (đọc trong Chúa nhật trước), họ phải băng "qua bên kia", tức là phải bỏ đời sống cũ, đi vào đời sống mới. Và đây là nếp sống môn đệ từ nay họ phải đi theo.
Nó không yên hàn. Chưa chi đã xảy đến một trận gió táp thổi mạnh, và sóng ập tràn vào thuyền, làm thuyền đã hòng đầy ngập. Marcô đã không tả dài hơn. Vì đây ông không có ý kể chuyện. Mọi người có thể tưởng tượng được hoàn cảnh của một thuyền nhỏ bỗng dưng gặp gió táp sóng cồn. Nó không chìm là may. Ai ai cũng có thể biết như thế. Ai ai cũng đã kinh nghiệm cuộc đời mình nhiều khi tròng trành trong gian truân. Không cần nói, ai cũng biết; nên Marcô tả bấy nhiêu cũng đủ rồi. Ông nói ngay sang việc cốt yếu.
Thuyền đã hòng ngập, mà Ðức Yêsu bây giời đang ở đàng lái, dựa trên ván véo mà ngủ. Người ở chỗ quan trọng vì số phận con thuyền tùy ở tay lái. Thế mà đang lúc khó khăn nguy hiểm tột độ, Người lại nằm ngủ. Ðây không phải chỗ chúng ta khen Người có nếp sống bình dị, nằm đâu cũng ngủ được.
Ðối với Marcô, Người nằm ngủ như thế là hình ảnh về Thiên Chúa như nhắm mắt làm ngơ và ngủ say quên mất rằng loài người chúng ta sắp chết rồi, con thuyền Hội Thánh đã sắp chìm và bản thân chúng ta sắp bị vùi giập trong hiểm nguy. Thái độ lạ lùng, khiến loài người phải đặt ra nhiều câu hỏi về vấn đề đau khổ và sự dữ: có Thiên Chúa hay không? Người không biết chúng ta đang khổ sao? Người bất lực hay là đa đoan như người ta thường nói về "Con Tạo"? Sự dữ này bởi đâu?
Không phải chỉ có thế. Marcô có những nét tả trong câu truyện này khiến chúng ta không thể không nhớ đến câu truyện Yona. Ông này cũng lấy tàu vượt biển. Tàu cũng bị sóng gió. Mọi người trên tàu đều thất kinh tìm cách chống cự. Duy mình Yona tìm chỗ vắng nhất đặt mình xuống ngủ. Và ngủ say ngon giấc nữa. Người ta cũng đến lay ông dậy, cũng nói với ông tương tự như các môn đệ hôm nay thưa với Ðức Yêsu. Nếu vậy thì dưới con mắt của Marcô, Ðức Yêsu đang ngủ không phải chỉ gợi lên hình ảnh về sự vắng mặt của Thiên Chúa trong lúc loài người khổ sở. Nhưng vì truyện Yona đã được chính Ðức Yêsu dùng để ám chỉ việc Người tử nạn-phục sinh, nên các nét tả của Marcô hôm nay hẳn cũng muốn báo trước những việc sẽ xảy ra sau này: Ðức Yêsu sẽ nằm chết trên thánh giá. Người nằm ngủ trong đau thương. Nhưng rồi Người sẽ chỗi dậy và trở thành "Chúa" trong mầu nhiệm Phục sinh. Cũng như hôm nay, tỉnh dậy Người quát bảo gió và biển: Nín đi, im đi! Và gió tắt biển lặng như tờ.
Như vậy chúng ta được phép nghĩ rằng, đối với Marcô không những thái độ yên lặng của Thiên Chúa trong các đau khổ của loài người, đã là điều khó hiểu cho tâm trí chúng ta; Người còn khiến chúng ta khó hiểu Người hơn nữa khi Người đã để cho Con Một Người nằm chết đau thương trên thập giá. Nhưng lại chính khi trở nên khó hiểu hơn hết, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta được cái chìa khóa để mở mầu nhiệm đau khổ ra. Người làm cho Con Một Người sống lại: Ðức Yêsu Kitô tỉnh lại truyền lệnh cho các lực lượng đối nghịch con người; Người tỏ ra là Chúa để môn đệ hoàn toàn tin tưởng. Biết được gió và biển phải vâng phục Người, từ nay họ không còn sợ chúng nữa. Những kẻ đã tin Người tử nạn-phục sinh, không còn sợ gì đau khổ nữa. Có thể họ vẫn chưa hiểu được vì sao Thiên Chúa lại như ngủ quên khi con cái loài người đang khổ sở và lâm nguy. Nhưng biết rằng Người có toàn quyền trên mọi sự dữ, họ có thể đặt hết tin tưởng ở nơi Người.
Ðó chính là bài học mà Marcô muốn đưa ra trong câu truyện này. Và cũng vì vậy mà Ðức Yêsu đã nói với các môn đệ: Các ngươi chưa có lòng tin sao? Chúng ta có thể bảo: Phaolô muốn áp dụng bài học ấy trong đoạn thư hôm nay.
C. Cũ Ðã Qua Ði Và Mới Ðã Thành Sự
Thánh tông đồ nhìn ngắm Chúa Yêsu nằm ngủ trên thập giá giữa bao đau thương khổ sở. Người hiểu Chúa đã chết vì mọi người. Và lòng mến của Chúa thúc bách người, khiến người xác tín rằng: Chúa đã chết vì mọi người, thì đừng ai còn sống cho mình nữa, nhưng là cho Ðấng chết và sống lại vì họ. Và cho được như vậy mọi người phải chết, chết nơi con người cũ, chết nơi con người luôn nghĩ đến mình, để trở thành con người mới, con người sống cho Chúa Yêsu Kitô. Câu thánh Tông đồ nói: Cũ đã qua đi và này mới đã thành sự, có nghĩa là như vậy. Ai đã tin Chúa Yêsu đã chết và sống lại, thì phải chết đi con người cũ, để sống làm con người mới trong sự thánh thiện của Chúa Yêsu phục sinh. Một nền đạo đức học mới phải phát xuất từ đó. Nó có nhiều hệ luận, nhưng tất cả xây trên một niềm tin duy nhất, tin Chúa Yêsu Kitô đã chết và sống lại, đã từ bỏ con người trần gian của Người qua con đường hy sinh thánh giá để trở thành Chúa đứng trên mọi tạo vật. Nơi Người, đau khổ đã có ý nghĩa. Nó đã đưa Người đến vinh quang. Nó trở thành con đường cho những ai muốn theo Người, bước vào con đường này, người ta nhờ đau khổ sẽ dần dần giũ bỏ con người cũ, ích kỷ và xác thịt, để trở thành con người mới, bác ái và thần linh. Người ta không buồn phiền và nản lòng khi gặp đau khổ nữa; nhưng nhìn vào mầu nhiệm thập giá, người ta tin có Chúa đang ở với mình, cho dù bề ngoài xem ra Người đang ngủ, nhưng thật sự Người đã dùng chính sự yên lặng thánh giá để làm im gió và biển của thế giới đầy đau thương này.
Giờ đây chúng ta sắp cử hành mầu nhiệm Thánh giá nơi bàn thờ. Dưới hai hình thức bánh rượu, vừa đơn sơ vừa bất động, biểu tượng cho sự lặng thinh của Thiên Chúa và cho việc Chúa Yêsu nằm yên trên thập giá, chúng ta tin có sự sống của chính Thiên Chúa. Người ban cho những ai tin mà đón nhận, chính sự sống của Người, để với ơn của Người họ được sức khắc phục mọi khó khăn đau khổ ở đời, khiến con người mới được xây dựng mỗi ngày mỗi kiên vững. Chúng ta hãy sốt sắng cử hành và tiếp nhận mầu nhiệm Thánh Thể này, để khi ra về có thể nói được rằng: cũ đã qua đi và này mới đã thành sự. Và chúng ta sẽ sống giữa xã hội như những con người mới, với những tư cách mới.
Người ta vu oan, giáng họa cho con. Con kêu cầu Chúa minh oan và cứu con mà không thấy. Lậy Chúa, Chúa ở đâu?
Trong lúc con bệnh hoạn và đau đớn vì nhiều cách chữa trị năm này qua năm khác. Con kêu cầu Chúa mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Lậy Chúa, Chúa ở đâu?
Gia đình con gặp cơn quẫn bách. Nghèo khổ và túng thiếu. Con cầu xin Chúa cho hằng ngày dùng đủ mà con cái con vẫn đói, vẫn khổ vì nghèo túng. Lậy Chúa, Chúa ở đâu?
Thế giới đầy dẫy bạo loạn, chém giết, và hận thù khủng bố. Nhân loại đang khao khát hòa bình, và mọi người đều cầu xin mà chưa thấy bóng dáng hòa bình xuất hiện. Lậy Chúa! Chúa ở đâu?
Chúa ngủ. Thánh sử Máccô đã trả lời hộ Chúa: “Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Ngài thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ” (Mc 4: 37-38).
Như vậy thì không lẽ những lúc cuồng phong, bão tố nổi lên cuốn trôi bao nhân mạng, nhà cửa như trận bão Katrina chẳng hạn Chúa cũng ngủ sao?
Như vậy thì hàng loạt tấn công, khủng bố, giết người đang xẩy ra trên thế giới Chúa cũng ngủ sao?
Như vậy thì trước cảnh độc tài, thống trị, đói khổ, tù đày, bất công mà nhiều dân nước đang phải gánh chịu Chúa cũng ngủ sao?
Chúa cũng đang ngủ. Thật vậy, Ngài ngồi trên thuyền đang lúc thuyền chao đảo ngoài khơi giữa phong ba bão táp làm cho điên đảo, hốt hoảng các môn đệ là hình ảnh của Ngài giữa những thử thách cá nhân và thế giới. Điều này cũng được Thánh sử Máccô trả lời hộ cho Ngài: “Cuối cùng, họ đánh thức Ngài dậy và nói với Ngài: 'Thưa thầy, chúng tôi đang sắp sửa chìm rồi mà thầy không quan tâm đến sao?' Ngài chỗ dậy quở sóng và nói với biển: 'Hãy im đi!' Gió ngừng thổi và mọi sự trở nên yên lặng. Rồi Ngài nói với họ: 'Tại sao lại hoảng sợ như thế? Tại sao các anh lại yếu tin?'” (Mc 4:38-40).
Như vậy, Chúa ngủ mà lại không ngủ. Vì Ngài ngủ nhưng không để cho các môn đệ của Ngài chết chìm. Ngài biết có sóng to và gió lớn, nhưng sóng gió không làm hại được các môn đệ của Ngài vì họ tin nơi Ngài, và vì có Ngài ở trên thuyền với họ. Và như vậy, có nghĩa là khi Chúa ngủ là lúc Chúa tin tưởng ở các môn đệ và ở chúng ta. Và khi Chúa thức là Ngài tiếp tay với các ông và với chúng ta để thăng hoa đức tin và sự trưởng thành tâm linh của con người.
Chúa ngủ trong ta: Thật vậy, Chúa phải tin tưởng ở các môn đệ lắm mới có thể bình thản nằm ngủ trên một con thuyền gặp lúc sóng to gió lớn. Các ông chẳng phải là những tay chài lưới chuyên nghiệp đó sao? Các ông chẳng phải là những người đã từng có kinh nghiệm về những lần mưa bão trên biển khi các ông đi đánh cá vì sinh kế đó sao? Và như vậy, Ngài biết tài năng của các ông. Ngài tôn trọng và tin tưởng ở tài năng ấy.
Cuộc đời Kitô hữu của chúng ta mỗi khi có sóng gió nổi lên cũng là những dịp mà Chúa muốn nhìn thấy sự trưởng thành tâm linh, đức tin hành động của chúng ta. Chúng ta cầu nguyện. Chúng ta tham dự Thánh Lễ. Chúng ta rước Thánh Thể. Tất cả những việc đó để chỉ nói lên một điều là chúng ta sống, hành động và tin yêu Chúa. Nhưng nếu không có những sóng gió cuộc đời làm sao biết trình độ hiểu biết, yêu mến, và tin tưởng của chúng ta đến đâu.
Chẳng phải là mình có phúc và hãnh diện vì được Chúa tin tưởng và nghỉ ngơi trong tâm hồn và đời sống chúng ta hay sao? Chúa thường ngày bị khua động bỏi muôn tiếng kêu ca, xin xỏ. Ngài cần có những lúc thư dãn để nghỉ ngơi một chút. Như vậy, những lúc Ngài nghỉ ngơi, Ngài ngủ thì không phải là Ngài quên chúng ta và không biết là chúng ta có thể chết chìm. Mà là Ngài tin tưởng nơi chúng ta, một sự tin tưởng và thân thiết đến nỗi Ngài có thể đến và ngủ trong linh hồn chúng ta mà không sợ phiền hà, lo lắng dù ngay lúc biển trần bị giao động, vì biết là chúng ta có khả năng chèo chống được với sóng gió cuộc đời. Được Thiên Chúa tin tưởng và nghỉ ngơi trong tâm hồn mình, trong gia đình mình, như vậy chẳng phải là một ân huệ lớn lao lắm sao.
Chúa thức trong ta: Nhưng như Chúa đã thức dậy kịp thời, và đã cứu nguy các môn đệ như lời các ông đã xin. Ngài cũng kịp thời thức giấc và không để chúng ta phải chết chìm. Mà làm sao có thể chết chìm được, khi có Đấng có thể sai khiến gió và biển phải vâng lời Ngài ở trên thuyền của chúng ta: “Ngài là ai mà gió và biển cũng vâng lời Ngài?” (Mc 4:41).
Vậy khi Ngài thức không phải là lúc Ngài ban ơn cho ta, không phải là lúc Ngài làm cho chúng ta được vui mừng hạnh phúc. Dĩ nhiên những điều này luôn luôn xẩy ra cho tất cả những ai tin tưởng và yêu mến Chúa. Nhưng việc Ngài thức giấc chính là để tăng triển đức tin và đem lại niềm tin để chúng ta tiếp tục cuộc hành trình cho đến bến bờ bình an.
“Tại sao lại hoảng sợ như thế? Tại sao các anh lại yếu tin?” (Mc 4:38-40). Đó là thái độ trưởng thành của người Kitô hữu mà Chúa muốn đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta. Đó là điều mà Chúa muốn chúng ta phải làm trong lúc trời thanh, biển lặng. Không phải là một sự dễ dãi. Cũng không phải là thái độ ỷ lại vào Chúa. Ngài chỉ thức giấc truyền cho sóng gió và biển yên lặng, Ngài không thức để chèo thuyền. Việc chèo chống, việc định hướng. Việc tiếp tục cuộc hành trình. Và việc đưa con thuyền đến bến là việc của những người có mặt trên thuyền, việc của chính mỗi người chúng ta.
“Tại sao lại hoảng sợ như thế? Tại sao các anh lại yếu tin?” (Mc 4:38-40). Tóm lại, Chúa luôn có mặt với chúng ta trong cuộc sống. Và Ngài luôn luôn hiện diện bên ta trên hành trình vượt đại dương trần thế. Đôi lúc Ngài ngủ, nhưng phần đông là Ngài thức. Nhưng dù thức hay ngủ, bổn phận của mỗi người chúng ta là phải dùng tất cả khả năng, sự hiểu biết, và sức lực của mình để đưa con tầu định mệnh của chính chúng ta về tới bến. Chúa không làm việc này cho chúng ta. Ngược lại, như Thánh Kinh vừa trích dẫn đôi khi Ngài còn ngủ quên trên thuyền của chúng ta.
Và Ngài làm thế vì tin tưởng nơi chúng ta. Vì muốn để dành phần lèo lái con thuyền cuộc sống cho riêng mỗi người chúng ta. Ngài yêu thương, tin tưởng, và luôn coi trọng chúng ta. Ngài cũng là một người ở trên thuyền của chúng ta nữa. Và đây là hình ảnh và là ý niệm về hành trình đức tin, về sống đạo, và về sự trưởng thành tâm linh mà mỗi Kitô hữu chúng ta phải đối diện trong suốt cuộc sống của mình.
Đời là bể khổ. Trần gian là một đại dương mà con người như một chiếc thuyền nhỏ bé phải vượt qua để đến bờ bên kia, qua một thế giới mới khác. Biển nào lại không có giông bão, biển nào lại không có đá ngầm. Cuộc hành trình nào mà lại không có hiểm nguy...
Giông bão đến với tôi qua nhiều dạng, nhiều cỡ, dưới nhiều hình thức. Giông bão đời tôi có thể là sự ra đi của một người thân thương trong gia đình, có thể là đứa con bỏ nhà ra đi, hoặc một cơn bệnh ngặt nghèo xảy đến. Giông bão đời tôi có thể là do thiên tai, do ngoại cảnh hoặc do chính tôi gây ra. Nào ai biết được. Khoa học ngày nay cho dù rất mực tiến bộ cũng không sao tiên đoán và ngăn chặn được các cơn sóng thần, bão lốc và những trận động đất.
Các tông đồ xưa, nguyên là dân chài lưới, quanh năm sống trên sóng nước ở biển hồ Galilê, giông bão đối với họ là chuyện thường, họ đã từng kinh nghiệm đối phó. Nhưng đêm nay, khác với mọi lần, sóng quá to, gió quá mạnh, các ông đã vận dụng hết mọi khả năng, tận nhân lực mà con thuyền vẫn chao đảo, chòng chành, nước đã ùa vào, thuyền sắp chìm... Các ông mới đánh thức Chúa dậy. "Lạy Thầy, chúng con chết mất!" Và Đức Giêsu đã cứu họ đêm hôm ấy.
Trong cuộc hành trình dương thế, nhiều khi chúng ta cũng cảm thấy như Chúa ngủ quên, đang khi chúng ta phải vật lộn với cuồng phong bão tố. Hãy đánh thức Người dậy. Đừng cậy sức riêng mình. Dù muốn hay không thì con thuyền chúng ta cũng đang trên đường vượt biển, đã ra khơi, lại còn mang theo đủ mọi thứ, quá tải. Kinh nghiệm vượt biển cho hay, chỉ nên mang theo những thứ thật cần thiết và một điều tối cần là phải mời Chúa lên thuyền của mình.
Hôm nay, thuyền linh hồn tôi đã có Chúa chưa? Hãy mời Chúa lên thuyền. Thuyền gia đình tôi đã có Chúa chưa? Hãy mời Chúa lên thuyền. Thuyền cộng đồng chúng ta đã có Chúa chưa? Hãy mời Chúa lên thuyền. Cùng Người, chúng ta ra khơi. Giông bão nơi đại dương sẽ không tha cho một con thuyền nào, dù thuyền đó có Chúa hay không. Hãy để cho Chúa lái thuyền của mình, để Người chỉ nơi nào nên thả lưới, lúc nào phải nhổ neo.
Có những lúc, dưới con mắt người đời, giông bão là một thảm hoạ, nhưng dưới con mắt đức tin đó là phương tiện đưa ta về với Chúa. Monty, một cậu bé suốt đời gặp toàn những chuyện không may. Cha mẹ mất sớm, sống trong viện mồ côi, lúc 10 tuổi, Polio đã làm cho hai chân cậu teo rúm lại. Di chuyển phải nhờ chiếc xe lăn. Cậu ra sức phấn đấu với tật nguyền với nghịch cảnh. Cậu đi học và tốt nghiệp đại học với bằng cao học ngành thương mại. Có việc làm, có vợ. Cậu thường tâm sự với bạn bè rằng cậu không có gì để cám ơn Chúa cả. Cậu rất tự tin. Cậu tự lực cánh sinh. Đùng một cái, hai võng mạc nơi con mắt bị hư. Cậu bị mù. Đời sao quá chua cay và tàn nhẫn với một người tàn tật như thế này! Nhưng rồi, những bạn đồng nghiệp, những người hàng xóm tự động đứng ra quyên góp, thành lập một quỹ thanh toán mọi chi phí bệnh viện, các bác sĩ, y tá tình nguyện chữa trị miễn phí. Hơn bao giờ hết, cậu cảm thấy mình được yêu thương và săn sóc tận tình. Cậu cảm nghiệm được rằng Chúa đến với cậu qua bàn tay nhân ái và lòng quảng đại của các bạn đồng nghiệp, của những người hàng xóm, của các bác sĩ, y tá... Cậu thấy đời vui lên và hạnh phúc tràn đầy. Qua các cơn giông bão, cậu đã gặp được tình thương của Chúa, và Chúa đang ở trên khoang thuyền của cậu.
Hãy tín thác vào Thiên Chúa và những công việc Người làm. Trời sẽ yên, biển sẽ lặng và chúng ta sẽ đến được bến bờ bình an vì có Chúa ở trên con thuyền của ta.
Kinh nghiệm cho thấy Sợ hãi vẫn đi theo đời sống của con người và mỗi chặng đường cuộc sống là một cái gì đó làm cho con người sợ hãi.
Từ cái sợ mơ hồ của thời còn nhỏ như:
* Sợ người lớn, sợ bóng gió, sợ con vật.
Đến cái sợ chính đáng của tuổi trưởng thành:
* Sợ thất nghiệp, sợ gia đình phân tán, sợ thiên tai, sợ chiến tranh, sợ chết...
Câu chuyện của Phêrô đi trên biển hôm nay gợi lại cho chúng ta thấy phần nào cái sợ của con người và niềm tin mỏng manh vào Chúa.
a. Sợ hãi chiếm một địa vị khá lớn trong cuộc sống:
- Đứng trước một nghịch cảnh, ta thấy lòng nao nao rung động.
- Nhìn núi cao hùng vĩ, ngó vực thẳm hun hút, chân đứng trên đá vững chắc cũng vẫn thất run run trong lòng.
- Gặp một con thuyền lạ tiến đến với súng ống lăm le chĩa vào thuyền, ta thấy nguy cho tính mạng.
- Một tiếng động trong đêm hoang vắng làm ta lạnh xương sống.
- Nhìn vào thực tại cuộc sống còn biết bao nhiêu cái lo cái sợ khác nữa: Thất nghiệp lấy gì mà trả tiền nhà ? Sợ thiếu thuốc men, sợ bệnh tật, sợ con hư thân, sợ cả bà nội tướng la nữa... Sợ hãi chỉ vì lúc đó cái ý tưởng nguy nan ám ảnh làm ta mất bình tĩnh, tâm thần rối loạn.
b. Ngước nhìn về lịch sử con người từ thời thượng cổ:
- Ađam Evà cũng đã mang cái sợ khi lỗi luật Chúa: Ăn trái cấm, trần truồng nên không dám bước ra khỏi bụi cây (Gen 3:9-10).
- Con trẻ sơ sinh vừa lọt lòng mẹ đã cảm thấy sợ hãi mà khóc.
c. Sợ có nhiều cấp bậc và nhiều phương diện:
- Kẻ bạo động giết người vì sợ người khác giết mình. - Kẻ độc tài như Tần Thủy Hoàng tàn sát, đốt làng vì sợ dân hại mình. - Các cường cuốc trên thế giới võ tranh ráo riết cũng vị sợ mình bị tiêu diệt. - Tóm lại, thế giới này là thế giới sợ hãi, ngoại trừ kẻ điếc không sợ súng còn chúng ta ai cũng sợ cả.
Nhưng phải nhận thực: Chỉ nên sợ cái nào đáng sợ, lại phải biết trấn át sợ hãi để mình bình yên.
- Chúa Kitô sau khi truyền cho sóng gió im lặng, Ngài bảo các môn đệ: "Sao các con sợ ? Các con không có đức tin ư ?" Điều đó không khác gì Ngài nói: "Các con không biết Thầy ở cùng thuyền sao ? Các con không biết Thầy có quyền năng lấn át gió biển sao ? Thầy đã chẳng cho Phêrô đi trên mặt biển đến với Thầy sao ? Vậy sao các con sợ chìm thuyền ?"
2. Có Chuyện kể rằng:
a. Một người làm xiệc rất giỏi, ông đi trên một sợi dây từ nóc nhà này qua nóc nhà kia, hai tay kẹp thêm hai người nữa. Ông vừa đi vừa nhảy mà không sao cả. Hai người hai bên còn cười và dẫy dụa mua vui cho khán giả.
Nhìn xuống dưới đất, ông làm xiệc thấy em bé đứng há hốc miệng nhìn lên cách thú vị. Ông hỏi: "Em có tin tôi cũng bế em trên dây được không ?" Em trả lời: "Tôi tin chứ". Nhưng khi ông làm xiệc tới gần, em bé liền chạy mất. Đó là tin tưởng ngoài miệng nhiều hơn là tin tưởng trong lòng. Còn kẻ tin tưởng thật vào Chúa thì khác.
Một Chuyện khác:
b. Một cậu bé 5 tuổi đang ngủ ngon trên thuyền, bỗng thức giấc vì bão nổi lên. Cậu mở mắt thấy mọi sự đang chìm trong bóng tối. Tiếng gió lách qua khe cửa rít lên từng cơn. Bỗng bé xao động, cậu hoảng hốt goị cha:
- Cha ơi. Cha ơi! Con sợ quá.
Người cha nghe tiếng con hối hả đáp lời:
- Cha đây con. Nghe tiếng cha cậu đáp vọng lại: Cha đâu ? Con không thấy ?
Cậu đưa tay quờ quạng lung tung. Đụng được vào cha, cậu níu lất cha. Cha ôm con vào lòng, vỗ về và ru cậu ngủ lại trong giấc ngủ lại.
Mặc dù trời vẫn mưa, bão vẫn lớn, màn đêm vẫn dầy đặc, nhưng sợ hãi trong lòng cậu bé không còn nữa.
Trong những ngày đau khổ của cuộc sống trần gian, những lúc hiểm hoạ cuộc đời, chớ gì chúng ta cũng biết cầu cứu Chúa với niềm tin, một niềm tin phó thác. Chỉ vậy thôi, không cần gì hơn nữa, chúng ta sẽ cảm thấy an tâm với cuộc sống.
Chúa sẽ không cất lấy sự lo lắng của chúng ta cho tới khi ta quyết định phó thác cho Ngài.. Lăng xả vào lòng Ngài và Ngài sẽ vỗ về ta vào trong giây phút bình an. Chúa không chịu thua chúng ta khi chúng ta biết phó thác nơi Ngài.
Lịch sử tường thuật một phép lạ sau đây: Khi Đô Đốc Magella hướng dẫn đoàn tầu thám hiểm Phi Luật Tân, vừa ra giữa biển khơi thì gặp cơn bão dữ dội, khiến đoàn tầu đắm chìm hầu hết, chỉ còn duy chiếc tầu của Đô Đốc đang bồng bềnh trôi dạt trên sóng nước. Mọi người đều kinh hoàng khiếp sợ, tụ họp lại trên bong tầu để chờ đợi tử thần. Nhìn thấy bên cạnh mình, một thiếu phụ ẵm đứa con thơ, Đô Đốc xin được ẵm đứa bé. Rồi ông bồng nó trên tay, dâng lên trời cao và dâng lời cầu nguyện thống thiết lên Chúa: "Lạy Chúa, chúng con là những kẻ tội lỗi, đáng chết chìm dưới vực thẳm này, nhưng xin Chúa hãy đoái thương nhìn đến em bé thơ ngây vô tội này, mà tha thứ tội lỗi cho chúng con". Lịch sử xác nhận sự kiện lạ lùng này bằng lời chứng: "Lời ông nguyện vừa dứt thì cơn bão tố yên lặng" (Trích sách "Gặp Gỡ Chúa" trang 94).
I. TẠI SAO CHÚNG CON SỌ HÃI
Cũng một tâm trạng hoảng sợ như đoàn thám hiểm của Đô Đốc Magella trên đây, các Tông Đồ cũng hãi hùng kinh khiếp khi thấy phong ba nổi lên dữ dội, khiến các ngài tới đánh thức Chúa dậy và có vẻ trách giỗi Chúa: "Thưa Thầy, chúng con hầu chết chìm mà Thầy cứ làm ngơ, không quan tâm gì sao?" Chúa chỗi dậy ngay và quát bảo giông tố: "Hãy im đi! Hãy im đi!" Với lời uy quyền đó của Chúa, lập tức giông tố ngừng và biển lặng như tờ. Quay lại nhìn các môn đệ, Chúa hỏi như quở trách các ông: "Tại sao các con sợ hãi? Các con không có Đức Tin ư?" Thấy phép lạ Chúa làm, lại được nghe lời Chúa khiển trách, các Tông Đồ tự cảm thấy hổ thẹn vì thiếu lòng tin nơi Thầy, nên các ngài kinh hãi nói với nhau: "Người là ai mà gió bão và giông tố cũng đều phải vâng lệnh Người?"
II. TRẦN GIAN LÀ BIỂN KHƠI
Trần gian là biển khơi, lúc phẳng lặng, lúc gợn sóng, lúc phong ba giông tố. Nhân loại như đoàn lữ hành vượt biển, cầu mong tới bến bình an.
Trần gian lúc được sánh ví như là biển khổ, như thung lũng nước mắt; như nơi giao chiến với biết bao kẻ thù, phải vật lộn vất vả, đổ mồ hôi sôi nước mắt vì sinh kế.
Nhưng với cái nhìn hy vọng và lạc quan, Thánh Tông Đồ Phaolô đã nói với chúng ta: "Đây là thời thuận tiện, đây là ngày cứu độ" (1 Cor 6:2). Như thế, thời gian Chúa ban cho chúng ta được sống trên trần gian này, lại không phải là một ơn ban, một cơ hội thuận tiện giúp chúng ta lập công luyện đức, để thánh hóa bản thân và cứu độ tha nhân, cùng nhau phụng sự tôn thờ và yêu mến Thiên Chúa để đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã sắm sẵn cho chúng ta là con cái Chúa trên Quê Trời sao?
Toàn thể nhân loại, nhất là con cái Chúa, sống trên trần gian này là như đoàn lữ hành đang trên đường tiến về Quê Hương vĩnh cửu, lòng luôn khát mong đạt tới bến bình an, nơi hạnh phúc, nơi mà lòng chúng ta được toại nguyện, được thỏa mãn trong Chúa là cùng đích tối chung của chúng ta.
Kết Luận
Để đạt tới cùng đích mong chờ của ơn gọi làm con cái Thiên Chúa, chúng ta cần phải đặt trót niềm tin cậy phó thác nơi một mình Chúa. Có Chúa hiện diện nơi cuộc sống, được Chúa ngự trong tâm hồn, chúng ta còn sợ hãi gì? Chúa đã chết thay cho chúng ta, để tái sinh chúng ta trong ơn thánh, cho chúng ta được phục hồi ơn làm con cái Chúa nhờ công nghiệp Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô Con Chúa, chúng ta còn sợ hãi gi?
Vậy chúng ta hãy sống cho Chúa, hãy biến đổi và trở nên một tạo vật mới của Chúa. Nếu chúng ta có tâm hồn trong sạch thánh thiện, luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, giông tố bão táp có nổi lên mạnh mẽ thế nào đi nữa, đời sống chúng ta cũng sẽ luôn được an bình và được thưởng nếm niềm vui sướng hạnh phúc chân thật của Chúa ngay trên trần gian này. Lm. Minh Vận, CMC
Bài đọc1: Job.38,1.8-11: Sóng cồn của ngươi phải dừng lại đây. Bài đọc 2: 2Cr.5,14-17: Mọi sự đều được trở nên mới. Phúc âm: Mc.4,35-41: Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh.
Blondin là một tay xiếc nổi danh. Ông đi nhiều lần trên sợi dây căng qua thác Niagara, độ cao khoảng 500 thước, tay đẩy chiếc xe cút kít.
Ngày nọ ông mời ai dám ngồi trên xe đó, để ông đẩy qua sợi dây căng. Nhiều người muốn nhưng không ai dám, vì sợ té xuống thác nước là chết. Sau cùng có người chấp nhận. Ông liền cho anh ngồi trên xe và đẩy đi. Trong khi đó nhiều người đánh cá với nhau. Thấy ông ta đi được nửa đường cách dễ dàng, người đánh cá cược nhiều tiền sợ bị thua, nên lén cắt đứt một sợi trong số các dây căng. Tức thì dây căng rung chuyển dữ dội. Ông Blondin biết nguy hiểm sắp đến nên bảo người trong xe:
-Hãy đứng dậy bám sát vào tôi.
Nhưng người đó quá sợ hãi, không dám làm theo lời ông. Ông liền ra lệnh:
-Hãy đưa hai tay ôm cổ tôi, hai chân kẹp vào lòng tôi, bằng không, chúng ta sẽ ngã xuống thác nước mà chết.
Người đó liền bám chặt vào ông. Và ông đã đưa anh ta qua bờ bên kia an toàn ….
Cuộc đời là bể dâu, cho dù có đề phòng đến mấy cũng không sao có thể tránh được bão tố: Hết thiên tai rồi đến hiểm họa do con người gây ra cho nhau. Những đau thương bên ngoài cũng đã quá ghê gớm, thế nhưng những thù nghịch của tâm hồn mới đáng sợ, nhiều lúc nó muốn nhận chìm chúng ta vào vực thẳm tội lỗi khốn nạn. Tuy nhiên đó lại là điểm đáng yêu của mối tình Giêsu, nhờ vậy chúng ta có dịp chạy đến cầu xin sức mạnh vạn năng của Đấng Cửu Trùng như Phúc Âm thuật lại hôm nay:
Biển Ga-li-lê chỉ dài độ 21 km theo chiều từ bắc chí nam, và chỗ rộng nhất là 13 km theo chiều từ đông sang tây, thung lũng Gio-đan là một vết nứt sâu trên mặt đất, và biển Ga-li-lê là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 210 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì những chỗ trũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức mạnh dữ dội, đến nỗi mặt hồ đang phẳng lặng, trong giây lát biến thành sóng gió gầm thét. Những cơn bão biển Ga-li-lê vừa bất ngờ vừa mãnh liệt độc đáo.
Cảnh tượng trong bài Tin Mừng kể lại là cảnh thường xảy ra trên biển Ga-li-lê. Chúa Giêsu đang ngủ, Ngài ngủ vì mệt mỏi sau khi dùng thuyền làm giảng đài dạy dỗ dân chúng. Các môn đệ là các ngư phủ chuyên nghiệp, và vùng biển này là địa bàn hoạt động của các ông, thế mà lúc này các ông hoảng sợ kêu cứu: “Thưa Thầy, chúng con chết mất”.
Chắc ai trong chúng ta cũng hiểu rằng theo Chúa không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió hay được hưởng thái bình thịnh vượng. Ngay cả lúc chúng ta gần Ngài nhất, giông tố vẫn có thể nổi lên. Chúa không hứa cho chúng ta được thư thái an nhàn, nhưng là chiến đấu và thậm chí phải hy sinh cả đến tính mạng.
Hôm nay chúng ta hãy đặt tâm hồn vào hoàn cảnh hôm đó: Vào lúc chiều đến, tức là màn đêm bắt đầu buông xuống, đây là thời gian của sự tăm tối, hình bóng của những sự dữ hoành hành. Chúa Giêsu nhắc nhủ các môn đệ chuẩn bị một cuộc vượt qua những thử thách và nguy hiểm, Ngài nói: “Chúng ta hãy sang bên kia Biển Hồ”. Theo ý nghĩa của Kinh Thánh thì biển được trình bày như một sự hỗn mang, từ đó phát sinh những quyền lực chống lại Thiên Chúa và con người. Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể bắt ba đào hung hăng phải tuân nghe và cứu con người khỏi cơn bão tố. Ở đây bối cảnh diễn tả việc Thiên Chúa giải thoát con người khỏi mọi sự dữ của ma quỉ để đưa họ đến bến bình an là sự sống đời đời. Như vậy chúng ta luôn sẵn sàng đón nhận mọi tình huống tăm tối của cuộc đời bằng cách:
1.Khẩn cầu xin Chúa:
- Cho dù ai có là vĩ nhân đối với con người, thì đối với Thiên Chúa họ vẫn chỉ là rất nhỏ bé. Cho nên chẳng có gì phải ngại ngùng đến van xin ơn Chúa cho bản thân, nhất là những lúc éo le của cuộc đời.
- Tiên vàn trong việc cầu xin là chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, Ngài là Đấng thống trị địa cầu, là vua cả trời đất.
- Chúng ta có thể kêu xin Chúa bằng nhiều cách, như các tông đồ đã đánh thức Chúa, và thắc mắc “sao Thầy không quan tâm đến ….” . Lời trách yêu này biểu lộ một tâm trạng khát mong được Chúa cứu thoát hơn là sự nghi ngờ vào sức mạnh của Ngài.
- Khi theo Chúa chúng ta có cảm tưởng như Chúa có nhiệm vụ che chở cho các mọn đệ của Ngài. Tuy nhiên chúng ta vẫn luôn phải lấy lòng con thảo khiêm tốn nài xin Chúa, chứ không được đòi hỏi theo ý riêng một cách thiếu tế nhị.
2.Bình an tâm hồn:
- Trong cơn bão tố tâm hồn, tự nhiên chúng ta sẽ tự đặt nhiều thắc mắc: Tại sao Chúa lại để cho sự dữ xảy ra? Tại sao Chúa lại để cho nghĩa tử yêu dấu của Ngài phải tan nát tâm tư? Giữa nghịch cảnh khốn khó đau thương, chúng ta còn tìm được sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn không?
- Đứng trước ngã rẽ cuộc đời, chẳng biết phải làm gì, chúng ta hãy thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Trốn tránh đau khổ theo ý riêng, có phải là sự bình an nội tâm không? Theo gương Chúa Giêsu, trước giờ chiến đấu quyết liệt nhất, Ngài đã thưa lên cùng Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa Con. Tuy nhiên, xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha” (Lc.22.42).
Ước gì trong mọi hoàn cảnh chúng ta luôn phó thác nơi tay Chúa như em thơ nương náu ở cung lòng mẹ hiền. Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn nhìn đến những giọt lệ cần thiết nơi con cái loài người. Sự sợ hãi chỉ làm phiền lòng Chúa, nhưng tin tưởng vào Ngài là dịp Chúa tỏ uy quyền trên sự dữ, cứ mỗi lần như thế chúng ta có dịp gần gũi Ngài. Ngày xưa Chúa nói với các tông đồ sang bên kia Biển Hồ trải qua nhiều sóng gió, ngày nay Chúa mời gọi mọi người vượt qua biển thương đau của trần gian để về đến bến bình an đời đời trên Thiên Quốc. Chúng ta hãy mạnh dạn đáp lại tiếng Chúa mà tiến bước: “Có Chúa đi với ta, ta sẽ không còn sợ chi; có Chúa đi với ta, ta sẽ không lo lắng gì……”.
Vẫn biết Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là thời điểm mở đầu cho Mùa Thường Niện Hậu Phục Sinh, tiếp Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh bị cắt quãng bởi Mùa Chay, Tuần Thánh và Mùa Phục Sinh. Tuy nhiên, Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh thường được Giáo Hội mở màn bằng các Lễ Trọng vào 3 Chúa Nhật Liên, trước hết là Lễ Thánh Thần Hiện Xuống, Đấng ban sự sống, sau đó là Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn mạch Sự Sống, tiếp tới là Lễ Mình Máu Thánh Chúa, bí tích Sự Sống, (chưa kể đến Lễ Trọng Thánh Tâm Chúa, động lực Sự Sống, bao giờ cũng được cử hành vào Thứ Sáu sau Chúa Nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa). Chiều hướng Mầu Nhiệm Chúa Kitô Là Sự Sống mở đầu Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh bằng ba Lễ Trọng như thế, cũng được thể hiện ở bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật hay tuần lễ XII Thường Niên, ở chỗ, “caœ gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người”?, một quyền lực phục sinh của Chúa Kitô, Lời Nhập Thể, một quyền lực, dù trong trường hợp được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại Người chưa Vượt Qua, vẫn tiềm tàng nơi Người nhờ Mầu Nhiệm Ngôi Hiệp.
Đó là lý do việc Người chẳng những tỏ mình ra trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy trước biến cố phục sinh, mà còn cho thấy cả trong đó việc Người tỏ ra câm nín bất lực trên cây thập tự giá, việc Người âm thầm nằm trong lòng đất ba ngày, việc Người gieo giống rồi đi ngủ để cho kẻ thù chẳng những lợi dụng gieo cỏ lòng vực mà còn nhất định không cho nhổ những thứ cỏ rất nguy hại cho lúa tốt này cho tới mùa gặt cánh chung (x Mt 24-30). Đây là Mầu Nhiệm Quan Phòng Thần Linh theo đức tin Kitô Giáo, một mầu nhiệm mà chỉ có đức tin mới có thể giải mã và chấp nhận, ở chỗ, tin rằng Thiên Chúa là Chủ Tế muôn loài và cai quản mọi sự, tới giờ của Ngài thì mọi sự sẽ xẩy ra, tới lúc của Ngài thì Ngài sẽ ra tay (mà thường là lúc cuối cùng, lúc con người cảm thấy bất lực, trần gian bó tay, Ngài mới xuất hiện để cứu độ, hầu con người tin vào Ngài hơn, và không cảm thấy rằng họ là Chúa chứ không phải là Ngài). Chính vì Ngài ngủ (chứ không phải chết) mà Ngài mới nghe được tiếng kêu cứu của họ, như các vị tông đồ trong bài Phúc Âm đã hoảng hốt la lên: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao”?
Tuy nhiên, thực tế đặt ra vấn đề ở đây là, việc Thiên Chúa quá im hơi lặng tiếng, nhất là trong những lúc quá khủng khiếp đối với niềm tin của con người, dường như đối với nhiều người và thật sự đối với một số người, Ngài là Vị Thiên Chúa đã chết, nếu không muốn nói chẳng có chúa bà nào cả, vì tại sao có Ngài, một vị Thiên Chúa, qua Mạc Khải Thánh Kinh Kitô Giáo, là Đấng toàn thiện và toàn năng, mà lại có thể để cho sự dữ xẩy ra, để cho bao nhiêu nạn nhân vô tội bị thảm sát như thế chứ, chẳng hạn như đã xẩy ra ở các Trại Tử Thần Đức Quốc trong Thế Chiến Thứ Hai thuộc thế kỷ 20, hay ở cuộc Sóng Thần Nam Á vào ngày 26/12/2004?
Trước hết, về việc câm nín lặng thinh đến kinh hoàng của Thiên Chúa ở các trại tử thần Đức Quốc Xã hồi Thế Chiến Thứ II, chúng ta hãy đọc lại những lời của chính vị Giáo Hoàng đương kim Đức Quốc của chúng ta cảm nhận và diễn tả trong cuộc tông du mục vụ Balan cuối tháng 5/2006, khi ghé thăm trại tử thần Auschwitz, nơi đã có hai vị thánh Công Giáo là Thánh Maximilian Kolbe người Balan và Thánh Edith Stein, Theresia Benedicta a Cruce, người Đức gốc Do Thái, trước khi ngài lên đường về Rôma Chúa Nhật 28/5, nguyên văn như sau:
“Không thể nào nói được bất cứ điều gì ở nơi kinh hoàng này đây, ở nơi đã xẩy ra vô vàn tội ác chưa từng có phạm đến Thiên Chúa và con người, nhất là lại nói bởi một Kitô hữu, bởi một vị Giáo Hoàng xuất thân từ Đức. Ở một chốn như thế này thì lời nói đành câm nín; để rồi chỉ còn duy nỗi lặng thinh kinh hãi – một thứ lặng thinh tự mình là một lời kêu gào chân tình lên Thiên Chúa: Lạy Chúa, tại sao Chúa lại cứ thinh lặng chứ? Làm sao Chúa lại có thể chịu đựng được tất cả những thứ này? Bởi vậy, trong thinh lặng, chúng ta cúi đầu trước vô tận những ai đã chịu khổ cực và bị sát hại ở nơi đây; tuy nhiên việc thinh lặng của chúng ta lại trở thành một lời van xin tha thứ và hòa giải, một lời van nài Vị Thiên Chúa hằng sống đừng bao giờ để điều này tái diễn nữa.
“Hai mươi bảy năm trước đây, vào ngày 7/6/1979, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đứng ở nơi này. Ngài đã nói rằng: ‘Hôm nay tôi đến đây như một người hành hương. Như anh chị em biết, tôi đã đến đây nhiều lần rồi. Rất nhiều lần rồi! Và nhiều lần tôi đã đi xuống tới ngục thất tử thần của Maximilian Kolbe, dừng lại trước bức tường hành quyết, và bước đi giữa những đổ nát hoang tàn của các lò thiêu Birkenau. Tôi không thể nào không tới đây như một vị Giáo Hoàng’. Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tới đây như là một người con của một dân tộc, cùng với dân Do Thái, đã chịu khổ nhất ở nơi chốn này, nói chung suốt cả cuộc chiến. ‘Sáu triệu người Balan đã bị mất mạng trong Thế Chiến Thứ II, tức 1/5 dân số của quốc gia này, ngài đã nhắc nhở chúng ta như thế. Cũng ở nơi đây, ngài đã trang trọng kêu gọi tôn trọng các thứ nhân quyền và quốc quyền, như các vị tiền nhiệm của ngài là Gioan XXIII và Phaolô VI đã làm trước ngài, và thêm rằng: ‘Con người đang nói những lời lẽ này đây là … người con của một quốc gia theo lịch sử của mình đã bị khổ đau rất nhiều bởi kẻ khác. Ngài nói điều này, không phải là để cáo tối mà là để tưởng nhớ. Ngài nói nhân danh tất cả những quốc gia có quyền lợi bị vi phạm và bị gạt bỏ ra ngoài…’
“Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến đây như là một người con của nhân dân Balan. Tôi đến đây hôm nay như là một người con của nhân dân Đức quốc. Chính vì lý do ấy mà tôi có thể làm vang vọng và cần phải làm âm vang những lời của ngài, đó là tôi không thể nào không tới đây. Tôi cần phải tới nơi đây. Đó là một nhiệm vụ trước sự thật và công lý đối với tất cả những ai đã phải chịu khổ ở nơi đây, một nhiệm vụ trước Thiên Chúa, mà đối với tôi cần phải đến đây như là vị thừa kế của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và là một người con dân Đức quốc – một người con thuộc dân tộc bị một nhóm những tay tội ác nổi lên nắm quyền hành bằng những hứa hẹn liên quan tới cái cao cả mai hậu cùng với việc phục hồi vinh dự, nổi nang và thịnh vượng cho dân tộc , nhưng qua việc khủng bố và đe dọa, hậu quả dân tộc chúng tôi đã phải hứng chịu đó là bị sử dụng và làm dụng như công cụ cho khát vọng hủy diệt và quyền bính của họ. Phải, tôi đã không thể nào không tới nơi đây. Vào ngày 7/6/1979, tôi đã đến đây với tư cách là một vị Tổng Giám Mục ở Munich-Freising, cùng với các vị Giám Mục khác đi hộ tống Đức Giáo Hoàng này, lắng nghe những lời ngài nói và liên kết với việc nguyện cầu của ngài. Vào năm 1980, tôi đã trở lại với nơi chốn rùng rợn này với một phái đoàn đại biểu những vị Giám Mục Đức quốc, những vị cảm thấy kinh hoàng trước sự dữ xẩy ra cho nó, nhưng lại lấy làm biết ơn trước sự kiện xuất hiện một vì tinh tú hòa giải ở bên trên các tầng mây mù vây phủ nó. Đó cũng chính là lý do tại sao hôm nay tôi đã đến đây để xin ơn hòa giải thứ tha – trước hết từ Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể mở lòng chúng ta và thanh tẩy tâm can của chúng ta, từ những con người nam nữ đã chịu khổ đau ở nơi đây, và sau cùng nguyện xin ơn hòa giải cho tất cả những ai, vào chính giây phút lịch sử này đây đang chịu khổ đau một cách mới mẻ bởi quyền lực của hận thù và bởi bạo lực do thù hận gây ra.
“Biết bao nhiêu là vấn đề được xuất phát ở nơi chốn này! Vấn đề liên lỉ hiện lên đó là Thiên Chúa ở đâu trong những ngày ấy? Tại sao Ngài lại thinh lặng chứ? Làm sao Ngài lại có thể để xẩy ra cuộc tàn sát khôn cùng này chứ, cuộc chiến thắng của sự dữ ấy chứ? Những lời của bài Thánh Vịnh 44 đã hiện lên trong tâm trí, đó là lời than vãn của dân Yến Duyên về các kẻ thù địch của họ: ‘Ngài đã vùi dập chúng tôi trong hang động chó rừng, và phủ chụp tăm tối kín mít lên chúng tôi… vì Ngài chúng tôi đá bị sát hại suốt ngày, và đã bị coi như con chiên mang đi làm thịt. Xin Ngài hãy ra tay! Ôi Chúa, tại sao Ngài lại ngủ chứ? Xin hãy tỉnh giấc, đừng mãi mãi bỏ mặc chúng tôi! Tại sao Ngài lại cứ ẩn mặt đi? Tại sao Ngài lại chẳng lưu ý gì tới nỗi đau thương và tình trạng bị đàn áp của chúng tôi chứ? Vì chúng tôi bị dìm xuống cát bụi; thân thể chúng tôi dính liền với mắt đất. Xin hãy vùng lên và ra tay cứu giúp chúng tôi! Xin hãy cứu chúng tôi vì tình yêu trung kiên của Ngài!’ (19,22-26). Tiếng kêu thống khổ này, tiếng kêu được dân Yến Duyên dâng lên Thiên Chúa trong cảnh khổ đau của họ, trong giây phút hết sức sầu thương của họ, cũng là tiếng kêu cứu giúp của tất cả những ai thuộc mọi thời đại – hôm qua, hôm nay và ngày mai – chịu khổ vì tình yêu Thiên Chúa, vì lòng yêu chuộng chân lý và sự thiện hảo. Họ nhiều biết bao, thậm chí ở cả thời đại của chúng ta đây!
“Chúng ta không thể nào nhìn thấu được dự án huyền nhiệm của Thiên Chúa – chúng ta chỉ thấy được một phần nào, và chúng ta có thể sai lầm một khi cho mình là những kẻ thẩm phán của Thiên Chúa và lịch sử. Bấy giờ chúng ta không phải là kẻ đang bênh vực con người mà chỉ góp phần vào việc sụp đổ của con người mà thôi. Không – một khi tất cả những gì đã nói và đã làm, chúng ta cần phải tiếp tục khiêm nhượng song cương quyết kêu lên cùng Thiên Chúa rằng: Xin hãy đứng lên! Đừng quên nhân loại là tạo vật của Ngài! Và lời chúng ta kêu lên Thiên Chúa cũng phải là một tiếng kêu xuyên thấu chính tâm can của chúng ta, một tiếng kêu đánh động trong chúng ta sự hiện diện âm thầm của Thiên Chúa – nhờ đó, quyền năng của Ngài, một quyền năng Ngài đã cấy trồng nơi tâm can của chúng ta, sẽ không bị chôn vùi hay chết nghẹt trong chúng ta bởi bùn lầy của lòng vị kỷ, của tính nhu nhược, của thái độ lạnh lùng hay của chủ trương thời cơ. Chúng ta hãy kêu lên Thiên Chúa bằng tất cả tâm can của mình, vào giờ khác hiện tại này đây, khi đang đổ xuống trên chúng ta những bất hạnh mới, khi tất cả mọi mãnh lực của tối tăm dường như đang xuất phát một cách mới mẻ từ tâm can nhân loại của chúng ta: một là việc lạm dụng danh Thiên Chúa như phương tiện để biện minh cho việc bạo động vô nghĩa phạm tới những con người vô tội, hai là tỏ ra chủ trương yếm thế chối bỏ việc nhận biết Thiên Chúa và nhạo cười niềm tin tưởng vào Ngài.
Chúng ta hãy kêu lên Thiên Chúa, để Ngài làm cho con người nam nữ biết hoán cải và giúp họ thấy được rằng bạo động không phải là những gì mang lại hòa bình song chỉ gây thêm bạo loạn mà thôi – gây ra một cuộc sa lầy tàn hại mà cuối cùng tất cả moị người đều là những kẻ thua cuộc. Vị Thiên Chúa mà chúng ta tin tưởng là một Thiên Chúa của lý trí – một lý trí chắc chắn không phải là một thứ toán học lạnh lùng về vũ trụ này mà là một lý trí biết yêu thương và thiện hảo. Chúng ta hãy dâng lời nguyện cầu lên Thiên Chúa và chúng ta kêu gọi nhân loại, để lý trí này, tức lý lẽ của yêu thương và việc nhìn nhận quyền lực hòa giải và bình an, được thắng vượt những thứ đe dọa xuất phát từ khuynh hướng vô tri hay từ một thứ lý trí sai lạc và phi thần linh”.
Sau nữa, về việc câm nín lặng thinh đến kinh hoàng của Thiên Chúa ở biến cố thiên tai Sóng Thần Nam Á ngày 26/12/2004.
Về nguyên tắc, Thiên Chúa thực sự chủ động muốn sử dụng sự dữ để làm ích cho nhân loại. Thần học Kitô giáo rất cẩn thận về điểm này. Ở chỗ, thường sử dụng chữ “để”, “để sự dữ xẩy ra”, nghĩa là thái độ “mần ngơ” thụ động, chứ không chủ động nhúng tay vào, chủ động sử dụng chính sự dữ, nên tránh cả việc sử dụng chữ “gửi”, “gửi sự dữ đến cho”. Thật ra, như những xác tín đầu tiên trên đây cũng công nhận rằng “Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện không dựng nên sự dữ và không thể nào tạo nên sự dữ”, và “sự dữ phát xuất từ tội lỗi của con người, bắt nguồn từ nguyên tội, từ việc con người có tự do đã tự ý chấp nhận sự dữ”. Tuy nhiên, một khi sự dữ đã xuất hiện như cỏ lùng do kẻ thù của Ngài gây ra (x Mt 13:25,28), Thiên Chúa phải chủ động và tích cực ra tay diệt trừ nó cho con người, bằng cách, nơi Chúa Giêsu Kitô Con Mình, Ngài đã trở thành tội lỗi (x 2Cor 5:21), thành một thứ đồ bị nguyền rủa (x Gal 3:13). Và, chỉ trở thành sự dữ như thế Vị Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng mới làm cho con người thấy được sự chết nơi họ và của họ đã được sự sống của Ngài và nơi Ngài nuốt đi (x 1Cor 15:54).
Việc Thiên Chúa chủ động muốn sử dụng sự dữ để làm ích cho chung nhân loại là những gì rất hiển nhiên trong Thánh Kinh. Trước hết là câu Ngài tuyên bố qua miệng Tiên Tri Isaia: “Ta làm nên ánh sáng và tạo ra bóng tối, Ta làm nên phúc hạnh và gây ra khốn nạn” (45:7). Sau nữa, việc Ngài muốn (bằng cách ra lệnh cho) tổ phụ Abraham sát tế đứa con duy nhất của mình là Isaac (x Gen 22:2), trước con mắt của Dân Ngoại, không phải là một điều quái ác hay sao, không phải là một hành động của một vị ác thần, một vị thần linh ăn thịt người hay sao, tìm vinh danh nơi khổ ải và chết chóc của tạo vật? Cả trong việc Ngài lệnh cho vua Saolê bắt buộc phải sát hại tất cả người lẫn vật của Amalek vì đã cản đường đi của Dân Chúa cũng không quá tàn ác hay sao (x 1Sam 15:2-3,18-19; Ex 17:8)? Thật ra, Chúa ra tay dữ dằn với các Dân Ngoại, như dân Ai Cập, Amalek hay các dân vốn ở Đất Hứa là để cho cả Dân Ngài lẫn Dân Ngoại nhận biết Ngài qua những việc Ngài làm theo quyền năng và phép công bằng của Ngài. Trong trận lụt Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa Hóa Công “để” cho thiên tai vô tiền khoáng hậu này xẩy ra, hay Ngài cố ý muốn gây ra biến cố ấy để thanh tẩy loài người đã quá băng hoại làm ô uế cả mặt đất (x Gen 6:5-7)?? Nếu bảo rằng Thiên Chúa được quyền dùng tai ương để trừng phạt con người tội lỗi thì phải nói làm sao khi Ngài cố tình bắt chính Người Con vô tội vô cùng thánh thiện của Ngài phải uống cạn chén đắng khổ đau (x Mt 26:39 và Rm 8:32), chứ không phải chỉ “để” thập giá xẩy ra cho Người.
Tuy nhiên, việc Thiên Chúa thực sự chủ động sử dụng sự dữ để làm ích cho nhân loại đây, điển hình là trường hợp tử nạn của Chúa Giêsu Kitô, không phải là Ngài chủ động xui bẩy kẻ dữ làm bậy hay phạm tội. Không. Hoàn toàn không phải là như thế. Ở chỗ này đúng là Ngài “để” cho kẻ dữ làm bậy hay phạm tội tùy theo tự do của họ. Sở dĩ Ngài “để” xẩy ra như thế, trước hết, là vì tự do của con người, thành phần chịu trách nhiệm về hành vi cử chỉ của họ; sau nữa, là vì Ngài thấy rằng Ngài có thể lợi dụng sự dữ do họ gây ra để tạo nên một thiện ích lớn hơn; bằng không, sau hết, nếu sự dữ do con người gây ra không mang lại hay chưa tới lúc mang lại lợi ích hơn ít là cho chính đương sự, thì Đấng làm chủ lịch sử con người như Ngài không để cho những sự dữ ấy xẩy ra, như nơi những vụ tự tử không thành hay những vụ thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.
Trong trường hợp tử nạn của Chúa Kitô, thành phần cố tình nhúng tay vào việc giết Con Thiên Chúa, như hầu hết Hội Đồng Do Thái bấy giờ, cũng như thành phần trực tiếp ra tay sát hại Người, như thẩm quyền đế quốc Rôma qua Tổng Trấn Philatô và lực lượng quân đội của họ, đã được Thiên Chúa “để” cho họ phạm đến Con của Ngài, hay cho phép họ thi hành được hành động phạm thượng đáng lẽ họ không làm được (về quyền năng thể lý) và không được làm (về quyền hạn luân lý), bằng cách “để” cho “họ lầm không biết việc mình làm” (Lk 23:34; x Acts 3:17), nhờ đó, chính họ, cũng có thể nhờ chính việc xấu họ làm, nhận ra Chân Lý (x Lk 23:47-48), bằng không, nếu họ biết được mầu nhiệm của Thiên Chúa, họ sẽ không dám làm như họ đã làm (x 1Cor 2:8). Đó là lý do Chúa Kitô đã minh nhiên tuyên bố: “Khi nào Tôi được treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi” (Jn 12:32). Ôi, Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và thượng trí là dường nào! Ôi, Ngài toàn thiện và toàn năng biết bao!!
Phải, chỉ có một mình Thiên Chúa mới là Đấng duy nhất, về phương diện luân lý, chẳng những có quyền hạn (right/authority) được làm, mà còn có cả quyền năng (power/ability) làm được, trong việc sử dụng phương tiện biện minh cho mục đích, tức trong việc sử dụng ngay chính sự dữ để mang lại sự lành thôi. Nếu thấy nhà của mình bị hư hại không thể ở được nữa, chẳng lẽ chúng ta không có quyền phá nó đi để xây lại ngôi nhà mới. Cũng thế, việc Thiên Chúa “phá” con người cũ của nhân loại đã bị băng hoại, như ở thời Noe, bằng những sự dữ, như trận đại hồng thủy bấy giờ, dù là việc dữ hay sự dữ Ngài vẫn muốn làm và cần làm cho họ, để nhờ đó, họ mới được nên tốt hơn, mới được tái sinh bởi trời (x Jn 3:3).
Ngoài ra, bất cứ ai muốn nên ngang hàng với Thiên Chúa hay nên bằng Thiên Chúa (x Gen 3:3-5), trong việc tự mình quyết định lành dữ (như việc hợp thức hóa vấn đề hôn nhân đồng tính chẳng hạn), cũng như trong việc tự động biến sự dữ thành sự lành (như trong việc triệt sinh an tử hay tạo sinh sao bản trị liệu chẳng hạn), họ sẽ thấy rằng những gì họ làm chỉ khiến cho chính họ nói riêng và xã hội của họ nói chung dần dần đi đến chỗ hỗn loạn và diệt vong mà thôi, như hiện trạng thế giới văn minh về vật chất (khoa học và kỹ thuật) cũng như về nhân bản (văn hóa và quyền lợi) ngày nay thê thảm cho thấy.
Chính vì con người văn minh càng ngày càng tội lỗi và băng hoại mà Thiên Chúa đã phải sử dụng đến nhiều sự dữ khủng khiếp, không phải để trừng phạt con người cho bằng để lay tỉnh con người đang quay cuồng say men tự do thái quá của mình, hay nói một cách dung hòa hơn, để trừng phạt con người cho con người có thể bừng tỉnh. Đó là lý do, trong phần Bí Mật Fatima thứ hai, Mẹ Maria cũng đã nói đến vấn đề tai ương liên quan đến việc trừng phạt của Thiên Chúa để cứu độ con người như sau:
“Các con vừa thấy hỏa ngục, nơi tội nhân khốn nạn rơi xuống. Để cứu họ, Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới. Nếu những điều Mẹ dạy được thi hành thì nhiều linh hồn được cứu rỗi và thế giới sẽ có hòa bình. Chiến tranh sắp chấm dứt, nhưng nếu người ta không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến khốc liệt hơn sẽ bùng nổ trong đời Đức Piô XI. Khi các con thấy ánh sáng lạ lùng chiếu giữa ban đêm, thì các con hãy biết rằng đó là điềm lạ vĩ đại Thiên Chúa muốn cho các con hay Ngài sắp sửa trừng phạt thế giới tội lỗi, bằng chiến tranh, đói khát và việc bắt bớ Giáo Hội cùng Đức Thánh Cha. Để ngăn ngừa điều này, Mẹ sẽ đến để xin dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ và xin rước lễ đền tạ các ngày Thứ Bảy Đầu Tháng. Nếu người ta nghe lời Mẹ yêu cầu, Nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình. Bằng không, Nước Nga sẽ truyền bá lầm lạc khắp thế giới, gây chiến tranh và bách hại Giáo Hội. Nhiều người lành bị giết, Đức Thánh Cha sẽ khổ; nhiều nước sẽ biến mất, nhưng cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng hiến Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình”.
Như thế, con người nạn nhân gặp tai ương hoạn nạn về thiên tai hay nhân tai có thể là vì chính tội lỗi của họ, như trường hợp thành Sôđôma và Gômôra trong Cựu Ước (x Gen 18:20-21, 19:4-11,24-25), cũng có thể là vật hy sinh cho việc Thiên Chúa tỏ hiện như trường hợp người mù từ lúc mới sinh (x Jn 9:3).
Chính Chúa Giêsu đã xác nhận tính cách lưỡng đôi của sự dữ gây ra cho cả người vô tội lẫn có tội, khi Người trả lời cho những kẻ báo tin về vụ một số người Galilêa đã bị Tổng Trấn Philatô lấy máu của họ hòa với các lễ tế của họ, như sau: “Quí vị có nghĩ rằng những người Galilê này tội lỗi nhất ở Galilê vì họ phải chịu như thế hay chăng? Không phải đâu! Nhưng Tôi nói cho quí vị nghe là nếu không xám hối tất cả quí vị cũng sẽ phải chịu y như thế thôi. Hay vụ 18 người bị thác Siloe đè chết. Quí vị cho rằng họ là những người tội lỗi hơn các người ở Giêrusalem hay chăng? Chắc chắn không! Thế nhưng, tôi nói cho quí vị hay, nếu quí vị không hoán cải, tất cả quí vị cũng chịu y như thế thôi” (Lk 13:1-5).
Qua câu huấn đáp này, Chúa Giêsu muốn nói rằng, thành phần nạn nhân của vụ nhân tai bị Philatô đổ máu hay của vụ thiên tai bị tháp Siloe đè chết là những người vô tội, nhưng cũng có thể là hình phạt cho ai có tội, cho ai không biết ăn năn hối cải. Qua câu huấn đáp này, Chúa Giêsu còn có ý muốn nói rằng, sự dữ nhân tai hay thiên tai là những gì được Thiên Chúa dùng để cảnh giác con người về đời sống luân lý của họ, nhất là thành phần nghĩ mình công chính hơn người, không có tội nên không bị tai ương hoạn nạn như thành phần tội lỗi xấu số.
Những nạn nhân của thiên tai và nhân tai, nếu là thành phần vô tội thì là vật hy sinh được Chúa dùng để cảnh giác phần rỗi nơi anh chị em đồng loại của họ, (tất nhiên sự hy sinh của họ sẽ được Ngài đền bù cân xứng như trường hợp các Thánh Anh Hài chết thay cho Người được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 2 câu 16, chẳng hạn nhờ sự hy sinh vô tội của họ mà nhiều người còn sống sợ chết nghĩ lại sống tốt lành hơn), và nếu nạn nhân may mắn còn sống là thành phần thực sự có tội thì tai ương họ trải qua chính là một thứ hình phạt được Thiên Chúa dùng để cứu độ họ, nếu họ biết nhìn ra dấu chỉ thời đại mà giác ngộ trở về với Ngài.
Từ những suy tư được căn cứ vào Mạc Khải Thần Linh trên đây, chúng ta cảm nhận được rằng: Qua biến cố nhân tai khủng bố tấn công ngày 11/9/2001 ở Hoa Kỳ, và thiên tai biển động sóng thần ở Nam Á ngày 26/12/2004, Thiên Chúa muốn lay tỉnh loài người càng ngày càng duy vật vô thần hiện đại nhớ rằng: Ngài vẫn còn hiện diện trong lịch sử loài người đấy, chứ chưa có chết như họ tưởng bở đâu, và Ngài là Đấng rất công thẳng, nếu không biết ăn năn thống hối, Ngài sẽ làm hết sức, kể cả bằng các thứ sự dữ do chính con người gây ra, như khủng bố và chiến tranh, để cho họ nhận biết Ngài mới thôi, chỉ vì Ngài yêu thương họ, muốn họ nhận biết chân lý để được cứu độ.
Tóm lại, vì phần rỗi của loài người, và chính vì phần rỗi của loài người là vấn đề hệ trọng trên hết mọi sự trên thế gian này mà Thiên Chúa toàn thiện và toàn năng vô cùng khôn ngoan làm mọi cách, thậm chí sử dụng cả sự dữ, để cứu độ con người yếu đuối và mù tối vô cùng đáng thương. Đó là lý do, trong Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu gửi Các Hồn Nhỏ, Chúa Giêsu đã tâm sự với người nữ sứ giả giáo dân biệt danh Magarita ở Bỉ của mình vào ngày 19/12/1973 như sau:
• “Một Thiên Chúa báo oán chỉ là một người Cha tội nghiệp, khi phải trừng phạt con cái mình để buộc chúng phải hồi tâm nghĩ lại”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, Ngày 19/6/2006, ngày lên đường về thăm quê hương Việt Nam sau 31 năm xa cách.
Chiếc tàu Titanic được chào hàng như một chiếc tàu không bao giờ chìm. Và sau đó là đụng một tảng băng ngay trong cuộc hành trình đầu tiên của nó, chiếc Titanic đã chìm xuống đáy của Đại Tây Dương với hầu hết những người đi trên con thuyền đó trong vài phút. Đại dương quyền năng hơn bất cứ một con tàu nào, đã nuốt trọn con tàu Titanic giống như nó đã nuốt một hộp cá mòi vậy.
Đó là một mầu nhiệm sâu xa về biển cả, và đó không có gì là ngạc nhiên về quyền năng của nước được xem là một thuộc tính của thần linh. Trong sách Gióp chính Thiên Chúa đã làm chứng về quyền năng thần linh của Ngài, bằng việc biểu dương quyền năng của Ngài là chủ tể của nước sâu. Những tông đồ là những người đánh cá, hơn ai hết họ không cần ai nói cho họ biết về việc phải sợ hãi cái vẻ bề ngoài đáng sợ của biển Galilê. Thình lình, tai họa có thể xảy ra một cách bất thường. Biển thì ở 685 bộ bên dưới mực nước biển và bao quanh bởi những ngọn núi. Với một làn không khí lạnh thổi xuống từ những ngọn núi hầu như nhanh chóng biến đổi làn nước đại dương thành những con sóng nguy hiểm cao đến bảy hoặc tám bộ.
Thật chính xác những gì đã xảy ra vào buổi chiều hôm đó, khi Chúa Giêsu vào thuyền của các môn đệ ở trên biển Galilê. Đó giống như một ngày của sáng tạo, những yếu tố tự nhiên đang chờ đợi khoảnh khắc khi mà Chúa là chủ tể của chúng xác quyết quyền năng và tỏ hiện sự thần linh của Ngài. Sau khi Chúa Giêsu làm cho biển bình yên bởi những lời của Ngài, các tông đồ đã kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Người này là ai mà làm cho gió biển phải vâng lời?”
Gió và biển đã biết Chúa Giêsu là ai và cả chúng ta cũng như thế. Chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi của các tông đồ. Nếu chúng ta không có đức tin, chúng ta xem Người một cách giới hạn bởi xét đoán của con người nhưng bởi đức tin mà chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu là Chúa, là Đấng Cứu Độ. Vì Chúa là Đấng cứu độ của chúng ta, Ngài ước ao giải thoát chúng ta khỏi những tai họa của đời sống trên biển. Sự sợ hãi những căn bệnh như ung thư hoặc Siđa, lo lắng về tận cùng của tương lai một cách bất an, những lo lắng về con cái trong một xã hội say sưa và hỗn tạp, sự không vững chắc hay gãy đổ của đời sống hôn nhân, sự khủng hoảng hay sự cô độc, bị bỏ rơi, sự khủng khiếp mà viễn cảnh của sự chết có thể phát sinh.
Trong lời tuyên xưng Thánh Thể chúng ta đã kêu lên: “Bởi thánh giá và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta”. Sau kinh Lạy Cha chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ và ban cho chúng con bình an trong ngày hôm nay, bởi lòng thương xót Chúa sẽ giữ gìn chúng con khỏi tội lỗi và bảo vệ chúng con khỏi mọi lo âu”. Lời nguyện này muốn nói lên lời diễn tả đức tin của chúng ta nhưng cấp độ bình an và quang đãng của chúng ta không tùy thuộc và sự diễn tả đức tin của chúng ta nhưng ở chiều sâu của nó. Đức tin của chúng ta phải sâu như biển cả vậy.
Khi chiếc Titanic chìm xuống, số người bị lâm nạn đã tăng lên gấp bội bởi vì thuyền đã không trang bị đủ những thuyền cứu sinh. Chúng ta còn được hơn thuyền cứu sinh cứu nữa. Chính Chúa Giêsu đã cứu chúng ta khi chúng ta bị chìm trong biển cám dỗ sâu nhất của cuộc đời. Chúng ta có con người của Chúa Giêsu Kitô, luôn luôn hiện diện với chúng ta trong Giáo Hội và hướng về Người, chúng ta có thể cầu nguyện một cách tin tưởng. Trong cơn bão trên biển hồ, các tông đồ đã phàn nàn: “Lạy Thầy chúng con sắp chết mà Thầy không quan tâm đến sao?” Với đức tin chúng ta biết rằng, không có vấn đề gì với Chúa Giêsu. Vấn đề là sự cứu độ của chúng ta không đến từ những lời nói, tuy nhiên ở nơi. Lời quyền năng của Ngài: “Hãy yên lặng, hãy im đi”. Sự cứu độ của chúng ta đến từ hy tế nơi thánh giá. Đức tin của chúng ta là: “Lạy Chúa bởi thánh giá của Người, và sự Phục Sinh của Người xin giải thoát chúng con, Người là Đấng cứu độ chúng con”.
Sóng to gió lớn trên biển cả là thử thách lớn lao đối với tầu, thuyền. Trên đại dương, ngoài biển khơi, tầu thuyền sẽ nhẹ nhàng lướt sóng nếu không gặp phong ba bão táp.Tuy nhiên, nếu gió to, sóng lớn nổi dậy, nguy cơ của những tầu bè không đủ tiêu chuẩn dễ sa vào nguy khốn. Cuộc đời con người ai cũng muốn không có những cơn giông tố xẩy ra, nhưng có giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình. Do đó, chúng ta những người có đức tin phải chạy đến với Chúa Giêsu và xin Ngài trợ giúp.
Đọc Tin Mừng của thánh Marcô hôm nay, chúng ta nhận thấy việc Chúa Giêsu và các môn đệ sang bên kia biển hồ không phải chỉ là một cuộc di chuyển nơi này qua nơi khác, vùng đất này qua vùng đất khác, cũng như sóng gió, bão táp không chỉ là những hiện tượng khí tượng thuần túy, nhưng nó còn mang một ý nghĩa siêu việt, linh thánh. Sự kiện Chúa Giêsu và các môn đệ rời bỏ vùng Israen để đi về phái dân ngoại, nói lên ý nghĩa truyền giáo. Chúa Giêsu và các môn đệ không chỉ ở một nơi nhưng Ngài và các môn đệ hướng về dân ngoại bởi ơn cứu độ không dành riêng cho một dân tộc, một nước hay một nhóm cá nhân nào, ơn cứu độ thuộc về mọi người. Sóng gió, cuồng phong nói lên sức mạnh kinh khủng của sự dữ, của ma quỷ nổi lên chống lại Chúa và các môn đệ của Chúa Giêsu.
Tin Mừng Mc 4, 37 – 38 viết:” Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ “. Chúng ta đọc được những lời thật lo âu của các môn đệ:” Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi “ . Các môn đệ quả thực sợ hãi, họ sợ chết, mà sợ Thầy cũng chết nữa ! Cái chết thể xác không thể cưỡng lại nổi, nếu gió to sóng lớn đánh tan tành thuyền. Rồi các môn đệ than như một lời trách móc cay đắng “ Mà Thầy không lo sao ? “. Các môn đệ cứ tưởng Chúa yên tâm để ngủ khi sóng gió bập bùng nổi lên ! Chúa biết nhưng chưa tới giờ Ngài thực hiện. Chúa ngủ khiến chúng ta liên tưởng tới cái chết tự nguyện theo ý Thiên Chúa Cha trên Thập giá. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá xem ra là thất bại trước mặt con người, các quyền lực sự dữ, ma quỷ, tưởng như đã thành công vì chúng coi như đã tiêu diệt được đối thủ số một của chúng, nhưng chúng đã lầm to, Chúa đã sống lại khải hoàn, sự phục sinh của Ngài biểu trưng sự chiến thắng vinh quang trên mọi quyền lực của ma quỷ, và mọi thế lực chống đối Ngài.
Chúa Giêsu đã thức dậy, đã can thiệp đúng lúc và truyền cho gió bão:” Im đi ! Câm đi “ ( Mc 4, 39 ). Tức thì, gió bão im lặng. Các môn đệ cảm thấy nhẹ nhõm vì không còn hoang mang, sợ sệt, lo lắng. Biển lặng tượng trưng cho lòng con người được an bình, được yên lặng. Sự an bình thực cao quí vì thiếu sự bình an, lòng chúng ta sẽ xôn xao, hoang mang và sợ sệt. Tâm hồn con người có lòng tin sẽ vững luôn gió có gặp sóng gió, bão táp cuộc đời. Chính tin và phó thác vào Chúa sẽ giúp chúng ta bình tĩnh giữa phong ba bão táp cuộc đời.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “ Sao nhát thế ? “. Chúa đang có đó trên thuyền cùng với các môn đệ. Vậy, tại sao các môn đệ lại sợ sệt, nhát đảm, sợ chết !
Chắc chắn các môn đệ hoang mang bởi vì các ngài chưa vững tin hay chưa tin tưởng thật sự vào Chúa ! Do đó, Chúa khiển trách các môn đệ:” Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin ? “ ( Mc 4, 40 ). Các môn đệ sau biến cố biển động, bão táp, đã nhận ra Chúa.
Cuộc hành trình lữ thứ của Hội Thánh và của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Chúa luôn hiện diện, Chúa luôn can thiệp dù rằng có những lúc Giáo Hội và chúng ta tưởng chừng Chúa ngủ quên giữa lúc chúng ta đang gặp phong ba bão táp. Điều quan trọng là chúng ta có biết chạy đến với Chúa để xin Ngài giúp chúng ta vượt qua những cơn phong ba bão táp cuộc đời hay không ?
Chúng ta mượn lời của một nhà bác học để kết thúc bài suy niệm này:” Ôi ân sủng diệu kỳ, âm thanh ngọt ngào biết bao ! Đã cứu kẻ đọa đầy là con đây ! Con như bị lạc mất, giờ được nhìn thấy. Đã mù lòa giờ thấy được ánh dương…Con đã trải qua bao gian khổ, nhọc nhằn, chông gai cạm bẫy. Ơn sủng Ngài đã gìn giữ con an toàn đến ngày hôm nay. Ân sủng Ngài cũng sẽ dẫn con về tới quê nhà “.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Gió im, biển lặng tượng trưng cho gì ? 2.Tại sao các môn đệ lại nhát sợ ? 3.Tại sao Chúa lại khiển trách các môn đệ ? 4.Cuộc đời của chúng ta ví tựa gì ? 5.Tại sao lại ví cuộc chúng ta như một cuộc ra khơi ?
Người ta dùng nhiều hình ảnh để ví cuộc đời, thí dụ đời là bể khổ, đời là một chuyến đò... Những hình ảnh ấy chưa nói lên được chiều kích tâm linh của cuộc đời. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay không ví von, nhưng đưa ta vào thẳng cuộc đời, trong đó có những thực tại khác nữa giúp ta nhìn thấy cuộc đời không phải có một mình ta cô độc, nhưng quan trọng nhất là sự hiện diện của Chúa, bởi không có Người, cuộc đời ta sẽ vô nghĩa. Cuộc đời ông Gióp thăng trầm, nhưng lúc nào cũng có sự can thiệp của Thiên Chúa. Con thuyền đưa các môn đệ sang bờ bên kia hồ Ga-li-lê có sự hiện diện của Chúa Giê-su. Lời Chúa ta đã nghe mời gọi ta suy nghĩ về sự hiện diện ấy.
1. Trong Cựu Ước, ông Gióp là tấm gương phó thác cuộc đời cho Chúa (bài đọc Cựu Ước – Gióp 38:1.8-11)
Câu truyện ông Gióp rất quen thuộc với ta. Cuộc đời của ông đầy gian nan thử thách. Đã có lúc ông mất tất cả, cơ ngơi không còn một chút nào, cả đến con cái cũng chết sạch. Cuối cùng ngay chính thân xác ông cũng khốn khổ, “mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu” (G 2:7). Bà vợ lải nhải chì chiết ông vì ông vẫn tin vào Thiên Chúa. Câu truyện đau khổ của ông trở thành đề tài thảo luận cho những người bạn của ông. Nhưng chẳng ai đưa ra được giải đáp nào cho vấn đề đau khổ, ngoài việc đi tới thái độ im lặng tôn thờ Chúa và nhìn nhận quyền năng của Người. “Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21). Phần thứ tư của sách Gióp ghi lại những lời Đức Chúa phán dạy ông về quyền năng của Người, khiến cho ông xác tín: “Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được, không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu” (G 42:2). Bài đọc Cựu Ước hôm nay lấy lại một ít lời của Đức Chúa nói với ông Gióp, nhưng cũng là những lời Người nói với ta về cuộc đời.
Điều làm chúng ta chú ý trước tiên, đó là hoàn cảnh Thiên Chúa trả lời ông Gióp vào “giữa cơn bão táp”. Thực vậy, chính lúc cuộc đời ta gặp gian nan khốn khó, ta có thể dễ dàng nghe được tiếng Chúa nói với ta về quyền năng và sự can thiệp của Người. Ta là một tạo vật bé nhỏ, làm sao so sánh được với “cửa đại dương, nước tuôn trào, mây giăng, sương mù bao phủ” trong vũ trụ bao la này! Cuộc đời mỏng manh của ta sẽ dễ dàng bị vùi giập, tổn thương dưới những tấn công của đau khổ, nghịch cảnh, thử thách và ảnh hưởng tai hại của tội lỗi, làm cho ta đặt nhiều câu hỏi về cuộc đời, giống như ông Gióp và các bạn của ông. Cũng như họ, ta không có câu trả lời. Nhưng ta có câu trả lời chắc chắn từ Thiên Chúa, là: “Đường ranh giới của nó [đại dương] chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài” (G 38:10). Chúa đã vạch sẵn đường ranh giới giữa đại dương đau khổ và cuộc đời ta, rồi Người phán với đại dương đau khổ thử thách rằng: “Ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa!” (G 38:11). Đường ranh giới ấy chính là sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời ta. Nhờ sự hiện diện ấy, ta được Người che chở giữ gìn trước mọi hiểm nguy, giống như kẻ đi giữa sa mạc gặp bão cát nhưng lại có “núi đá” để núp ẩn. “Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến, duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi, là thành lũy chở che: tôi chẳng hề nao núng” (Tv 62:2b-3).
Ông Gióp đã sống cuộc đời ông ngay tại ranh giới ấy, luôn xác tín sự can thiệp của Chúa và vững lòng tin vào Người. Ông thưa với Chúa: “Vâng, con đây tầm thường bé nhỏ” (G 40:4). Biết mình tầm thường bé nhỏ, ta mới nhận ra sự hiện diện của Chúa và chủ quyền của Người trên ta. Chỉ có những kẻ kiêu ngạo và cho mình là vĩ đại mới gạt Chúa ra khỏi cuộc đời họ, vì họ nghĩ rằng tự mình có thể định đoạt mọi sự và Thiên Chúa không có quyền can thiệp. Họ đặt ra luật lệ riêng cho mình, giành cả quyền làm chủ sự sống để quyết định phá thai hoặc hủy hoại cuộc sống qua những thú vui độc hại.
2. Cuộc sống mới của ta là sống cho Chúa Ki-tô, Đấng đã chết và sống lại vì ta (bài đọc Tân Ước – 2 Cô-rin-tô 5:14-17)
Nếu Thiên Chúa là ranh giới giữ gìn cuộc đời ông Gióp trước đau khổ thử thách, thì Chúa Ki-tô cũng là “ranh giới” đưa ta ra khỏi sự chết và dẫn ta vào cuộc sống đời đời. Đó là suy tư của thánh Phao-lô về vai trò và sự hiện diện của Chúa Ki-tô trong cuộc đời Ki-tô hữu. Sự hiện diện của Chúa Ki-tô giữa nhân loại đã làm thay đổi bộ mặt của trần gian, khiến cho vị Tông đồ vui mừng hô lên: “Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi!” (2 Cr 5:17).
Cái cũ mà thánh Phao-lô nói ở đây là hình ảnh nhân loại bị khống chế dưới hậu quả tai hại của tội lỗi và sẽ bị hư mất đời đời. Sau tội nguyên tổ, con người không được công chính hóa và sống trong tình trạng thù địch với Thiên Chúa. Tình trạng ấy được gọi là tình trạng “mọi người đều chết” (2 Cr 5:14). Nhưng vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa muốn đặt một “ranh giới” để ngăn chặn sức mạnh của tội lỗi, ranh giới ấy là Chúa Giê-su Ki-tô. Sức mạnh và quyền lực của tội lỗi sẽ như “các đợt sóng cao phải vỡ tan tành” G 38:11) khi đụng vào “ranh giới” Ki-tô. Điều kỳ diệu trong kế hoạch đặt ranh giới của Thiên Chúa là Người lại sử dụng chính điều tội lỗi cho là thất bại, tức cái chết của Chúa Chúa Ki-tô, để làm sức mạnh tiêu diệt sự chết và khai mở cho nhân loại một cuộc sống mới. Như thế, vai trò của Chúa Ki-tô là “chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:15).
Thế nào là “sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”? Đó là sống như “thọ tạo mới”. Chúa Ki-tô chính là “cái mới đã có đây rồi”. Người là “trưởng tử” của một nhân loại mới (Cl 1:15.18), mở đầu cho một đời sống mới, đời sống của những người con cái Thiên Chúa. Người cho ta thấy thế nào là sống quan hệ cha con với Thiên Chúa. Người gọi Thiên Chúa là Cha thế nào, ta cũng phải gọi Thiên Chúa là Cha như vậy. Người đã yêu mến, phục vụ, vâng phục Chúa Cha thế nào, ta cũng phải theo gương Người mà sống như thế. Thọ tạo cũ là người sống theo tội lỗi và lối sống của thế gian, còn thọ tạo mới là người sống theo Thần Khí Chúa Ki-tô và lối sống của con cái Thiên Chúa, sống trong sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa.
3. Cuộc đời ta trong cùng một con thuyền với Chúa Giê-su (bài Tin Mừng – Mc 4:35-41)
Thiên Chúa ban cho ta Con Một Người là Chúa Ki-tô để đem lại cho ta đời sống mới. Tuy nhiên như thế vẫn chưa đủ, Thiên Chúa còn dạy ta hãy “ở trong Đức Ki-tô” như là “thọ tạo mới” để cùng Người lên thuyền “sang bờ bên kia” (Mc 4:35).
Thực vậy, đời Ki-tô hữu là một chuyến đò để “sang bờ bên kia” dưới sự dẫn dắt và che chở của Chúa Giê-su. Bờ bên kia là nhà Cha, nơi ta sẽ được chung phần gia nghiệp với Chúa Giê-su. Trí tưởng tượng đưa ta về khung cảnh Biển Hồ Ga-li-lê. Không phải chỉ có Chúa Giê-su và các môn đệ Người lên thuyền sang bờ bên kia, mà còn lũ lượt “những thuyền khác cùng theo Người”. Quang cảnh này quả thực khích lệ ta, vì biết rằng ta không cô đơn trong cuộc đời, nhưng có Chúa và anh chị em cùng đồng hành. Tất cả đều phải chống chọi với cuồng phong và những cơn sóng đe dọa. Cho nên nếu ta tưởng trên thế gian này chỉ có mình ta đau khổ hoặc không ai đau khổ bằng thì quả thực là sai lầm, nhưng phải “trông lên không bằng ai, nhưng trông xuống không ai bằng mình”. Chuyến đó có Chúa Ki-tô còn dạy ta nhiều điều khác, đặc biệt nhất vẫn là sự hiện diện của Người. Có lẽ ta không nên bỏ qua ghi chú rất ý nghĩa của Mác-cô về sự hiện diện này: “Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ” (Mc 4:38). Trước hết, Người “đang ở đàng lái”, chỗ quan trọng nhất trên con thuyền, sự sống còn của những người trong thuyền tùy thuộc vào người ngồi ở đàng lái. Tiếp đến là tuy Người hiện diện, nhưng lại “dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ”. Người ngủ sau một ngày mệt nhọc thi hành sứ vụ rao giảng và chữa lành. Người ngủ để ta biết rằng thân xác Người ngủ, nhưng trái tim Người vẫn thức, chờ ta chỉ cần khẽ gọi chứ không cần “đánh thức Người dậy” như các môn đệ đã làm, là Người cứu giúp ta ngay, là Người sẽ làm cho “gió liền tắt, và biển lặng như tờ” trong cuộc đời ta.
Tuy nhiên ở đây có hai trường hợp có thể ta sẽ rơi vào, trước hết là sau khi gió tắt biển lặng. Thói thường là khi hiểm nguy thì ta mau chạy đến với Chúa, nhưng qua khỏi rồi, ta lại không còn để ý tới sự hiện diện của Người nữa! Nếu lúc nào ta cũng “ngạc nhiên” được như các môn đệ Chúa, luôn hỏi câu hỏi về Chúa “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”, thì cuộc đời ta sẽ được bình an biết mấy. Trường hợp thứ hai là “chưa có lòng tin” hoặc đúng hơn, là “thiếu lòng tin” nơi Chúa. Vì thiếu lòng tin nên ta mới “nhát”, không dám đương đầu với cám dỗ hay thử thách, không dám can đảm để đi “ngược dòng” với lối sống thế gian, không dám làm Ki-tô hữu đích thực và chứng nhân cho những giá trị Tin Mừng. Dầu sao hình ảnh đi cùng con thuyền với Chúa Ki-tô vẫn là lý tưởng cuộc đời và chắc chắn sẽ đưa ta tới bến bờ là quê hương vĩnh cửu.
4. Sống Lời Chúa
Lời Chúa hôm nay giúp ta nhìn cuộc đời theo cái nhìn của Thiên Chúa và ý nghĩa đời sống mới do Chúa Ki-tô đem lại cho ta. Tuy vẫn phải luôn phấn đấu với thử thách, gian nan và đau khổ, ta luôn ý thức sự hiện diện của Chúa qua Đức Ki-tô trong cuộc đời ta để cùng đồng hành với ta trên dương gian mà tiến về nhà Cha. Chính sự hiện diện ấy đem lại ý nghĩa cho cuộc sống và bảo đảm cho tương lai tốt đẹp và vĩnh cửu của đời ta.
Suy nghĩ: Lời kêu hoảng hốt của các môn đệ: “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” có ý nghĩa gì với tôi? Tôi sẽ nói với Chúa thế nào mỗi khi gặp gian nan thử thách?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa quan phòng mọi sự và an bài thật khôn ngoan, tất cả đều xảy ra như Chúa muốn; xin đẩy xa những gì nguy hại và rộng ban muôn điều lợi ích cho chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 9 mùa Thương niên).