Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 14-B: Bài 51-100 Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương ------------------------------------------ Mục Lục:
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabbat, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” Và họ vấp phạm vì Người. Chúa Giêsu liền bảo họ: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình”. Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy. - Ðó là lời Chúa.
Khi đánh giá và nhận định về một ai đó, dường như có một quan niệm “bất thành văn” đa: TN 14-B51
Khi đánh giá và nhận định về một ai đó, dường như có một quan niệm “bất thành văn” đã, đang và sẽ còn tồn tại trong tâm trí con người. Đó là nhìn họ ở dáng vẻ bên ngoài hay lưu ý đến bảng khai lý lịch, thân thế và sự nghiệp hơn là nhìn ra bản chất bên trong của họ. Quan niệm “thâm căn cố đế” này, bằng nhiều cách, đi sâu vào trong từng quốc gia, từng phong tục tập quán của mỗi dân tộc và không buông tha bất cứ người nào. Nạn nhân tiêu biểu hứng chịu “búa rìu dư luận” này không ai khác chính là Chúa Giêsu – người đến từ Thiên Chúa để mang lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Sau thời gian miệt mài rao giảng ở Caphácnaum và quanh biển hồ Galilê, Chúa Giêsu trở về Nazarét- quê hương dấu yêu. Những tưởng sự hiện diện cũng như những lời rao giảng trong Hội đường Dothái của Người sẽ được người thân cũng như dân làng Nazarét đón nhận hay ít nữa cũng có điều gì đó tự hào về người con của dân làng. Nhưng không. Mặc dù lời giảng dạy của Chúa Giêsu khiến không ít người ngạc nhiên nhưng điều đó không đủ khiến họ thay đổi cách nhìn về nhân thân của Người. Lý do hết sức đơn giản là họ biết quá rõ nguồn gốc xuất thân của Người. Hãy xem cách họ đặt vấn đề cũng đủ hiểu đối với họ, Chúa Giêsu chẳng có gì đặc biệt. “Bởi đâu ông ta được như thế?... Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Gioxê, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”.
Thế đấy. Chính vì họ nhìn Chúa Giêsu là một con người hết sứ bình thường, một con người cụ thể bằng xương bằng thịt đã từng chung sống quanh họ; công việc của Người cũng hết sức tầm thường, quanh năm suốt tháng lam lũ với nghề mộc – một nghề thời đó không chỉ làm ra các vật dụng bằng gỗ mà còn có thể xây nhà và làm ra các vật dụng từ các vật liệu khác nữa. Thế mà giờ đây, sau một thời gian rời xa quê làng, cái ông thợ mộc này lại làm được những điều “quái lạ”, thật chẳng thể nào tin được!
Từ cách nhìn nhận và đánh giá thiển cận ấy, thay vì hãnh diện, người dân Nazarét lại vấp ngã vì Người. Họ vấp ngã vì Người, bởi gia thế của Chúa Giêsu không sáng giá; Họ vấp ngã vì Người, bởi trước mắt họ, Chúa Giêsu chỉ là một người phàm không hơn không kém; Họ vấp ngã vì Người, bởi gia đình ông thợ mộc này nghèo nàn quá, tầm thường quá từ lý lịch xuất thân cho đến nghề nghiệp cũng như địa vị xã hội; Họ vấp ngã vì Người, bởi, dù không nói như các Kinh sư rằng Chúa Giêsu “dựa vào thế quỷ vương” để làm những việc “quái dị”, nhưng chính thái độ khinh thường ra mặt cũng đủ nâng họ lên ngang hàng với mấy ông Kinh sư của họ. Cũng từ những lý do đó mà sau này không chỉ dân làng Nazarét mà còn nhiều người khác nữa đã quay lưng lại với Chúa Giêsu, cùng với sự kiêu ngạo và nổi loạn để rồi cuối cùng kéo bè kéo phái đóng đinh Người vào thập giá.
Dân làng Nazarét đã không nhìn ra sứ mệnh thần linh vẫn âm thầm tiềm ẩn bên trong con người Chúa Giêsu. Có thể nói chính vì quá chú trọng hình thức bên ngoài, chú trọng đến gia thế, địa vị xã hội, chú trọng đến bảng kê khai lý lịch, … đã làm cho tâm hồn của họ trở nên chai cứng, trở nên chướng ngại vật không dễ gì vượt qua để tìm đến chân lý vẹn toàn. Còn chúng ta thì sao, những Kytô hữu của thời đại hôm nay? Rất có thể chúng ta cũng đang đánh giá và nhìn nhận Chúa Giêsu và Tin mừng của Người qua lăng kính do chúng ta dựng nên. Rất có thể chúng ta đang tìm một điều gì đó hấp dẫn hơn nằm bên ngoài Chúa Kytô, nên ngoài Tin mừng bởi cho rằng Chúa Kytô và Tin mừng của Người trải qua hơn hai ngàn năm nên chẳng có gì mới mẻ và thật là nhàm chán. Đây là lúc chúng ta cần phải nhìn lại thái độ và lập trường của mình đối với Chúa Kytô cũng như Tin mừng của Người để từ đó thay đổi cách nhìn, cách đánh giá hầu có thể mang đến cho chúng ta sự bình an và ơn cứu rỗi.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa đã đến thế gian mặc lấy thân phận yếu hèn như chúng con, sống cuộc đời đạm bạc và lam lũ kiếp người để chia sẻ cuộc đời khốn khó của chúng con và cuối cùng đã dùng cái chết để mang lại ơn tha tội và cứu rỗi cho chúng con. Xin cho chúng con được biết nhìn ra Chúa trong thân phận kiếp người ấy để không ngừng yêu mến, quý trọng và nhìn ra những giá trị cao quý nơi anh em đồng loại.
“Vạch phân chia tốt xấu xuyên thâu qua trái tim mỗi người. Và có lòng dạ nào lại nỡ đâm nát chính trái tim mình?” Alexander Solzhenitsyn.
Surah Luqman đã viết rằng nếu đuợc chọn giữa tài tiên tri và óc khôn ngoan, ông ta sẽ không ngần ngại: TN 14-B52
Surah Luqman đã viết rằng nếu đuợc chọn giữa tài tiên tri và óc khôn ngoan, ông ta sẽ không ngần ngại chọn khôn ngoan vì ông không thể chịu đựng đuợc gánh nặng của sự tiên tri. Nếu biết trước những việc tốt xấu có thật sẽ xảy đến và nếu phải gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh thì quả thật ơn tiên tri kia là một gánh nặng khôn cùng.
Tôi linh cảm đuợc gánh nặng ngàn cân kia vào những ngày đầu tu học. Hình ảnh về một linh mục “siêu nhân” trong tuổi ấu thơ và ngay cả lúc còn trai trẻ đã vội vàng tan biến như khói như mây khi gẫm suy bài viết rất thâm sâu của Cha Giáo Tập Michael Buckley thuộc Dòng Tên ở Hoa Kỳ với tựa đề “Are you weak enough to be a priest?”
Vị tiên tri thời đại, nếu có thể mạnh dạn gọi như thế, trong một Thánh Lễ truyền chức, đã nhắn nhủ cùng các ứng viên rằng câu hỏi cần thiết nhất và duy nhất họ phải thành thật tự hỏi lòng mình là “bạn có đủ yếu đuối để là Linh Mục không?” Yếu đuối không thôi cũng chưa đuợc! Điều kiện ắt có và đủ để trở thành môn đệ Chúa Kitô là cần hội đủ yếu đuối. Không cần một ngoại hình tốt. Cũng chẳng phải một đài trán cao. Cần đủ yếu đuối: lời khuyên thật chân thành của một linh mục đàn anh dày dạn kinh nghiệm đạo đời kia phải là hành trang cho những thế hệ chủ chiên mai hậu.
Không như những nghành nghề khác, thiên chức linh mục đòi hỏi phải sống cùng sống với những yếu đuối của tha nhân như lời Solomon ben Meir ha-Levi: “Nếu bạn muốn cứu một người ra khỏi vũng bùn nhơ hôi thối, đừng một phút giây nào nghĩ rằng bạn chỉ cần đứng trên đất cao và đưa tay cho người kia nắm với. Chính bạn phải nhảy vào vũng bùn nhơ hôi thối kia và bằng vòng tay rắn chắc của bạn, ôm chặt người ấy và tự kéo cả hai lên bờ cao ánh sáng.” Hoặc nói như thánh Phaolô: “Với những người yếu đuối, tôi đã nên yếu đuối để đem lợi ích cho những người yếu đuối” (1Cor 9.22).
Một Mẹ Bề Trên Dòng Biển Đức đã chia sẻ cùng các tân tập sinh là một nữ tu cần phải dùng sức mạnh tinh thần mình đạt đến những điều hoàn thiện nhưng cũng không nên ngại ngùng sợ sệt và thậm chí che giấu những hạn hẹp yếu đuối của mình. Và điều nguy hiểm tệ hại nhất cho đời sống cộng đồng là tìm đủ mọi lý do để bênh vực chống chế cho những thiếu sót của mình, vì đó là dấu hiệu của một nội tâm còn rất bề ngoài non yếu. Và cách duy nhất biểu lộ trung trực tình yêu Chúa Kitô là công khai chân thành nhìn nhận những yếu hèn của mình là những yếu hèn có thật và cố gắng vượt qua lướt thắng mỗi ngày.
Không ai biết đuợc “cái dằm đâm vào thịt” của Phaolô là gì nhưng điều cần lưu tâm suy nghĩ là thánh nhân chẳng những không che giấu mà trái lại tự hào “vui thoả về những yếu hèn”kia. Hơn ai hết, Phaolô biết rằng ngay chính Đức Kitô cũng bị khinh bỉ ruồng rẫy về lý lịch nguồn gốc gia phả Người. Và cũng hơn ai hết, Phaolô đã hiểu rằng trong giây phút cô đơn yếu đuối tuyệt vọng nhất trong vườn Cây Dầu và trên cây thập tự cũng chính là lúc Người đạt đến tột đỉnh toàn thiện vinh quang.
Nếu đích thực ta là con cái Chúa, ta cần phải nhận ra lòng yêu thương của Người trong việc: TN 14-B53
Nếu đích thực ta là con cái Chúa, ta cần phải nhận ra lòng yêu thương của Người trong việc Người dạy dỗ và sửa bảo ta. Mặc dù Thiên Chúa đã ban cho ta Lề Luật của Người trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước, nhưng vẫn cần xuất hiện những người nhắc nhở ta phải sống sao cho đúng với chân tính của ta. Những người đó là các vị ngôn sứ, những người nói thay cho Thiên Chúa. Khi Chúa Ki-tô được sai đến trần gian thì thời các ngôn sứ chấm dứt và Người là chính Lời của Thiên Chúa nói với nhân loại. Đề tài ngôn sứ được trình bày qua Phụng vụ Lời Chúa hôm nay.
1. Chức phận của một ngôn sứ (bài đọc Cựu Ước – Ê-dê-ki-en 2:2-5)
Đã có một thời người ta gọi các ngôn sứ là các tiên tri và từ ngôn sứ xem ra còn xa lạ đối với nhiều người Công giáo Việt Nam. Ta vẫn quen gọi tiên tri I-sai-a, tiên tri Ê-dê-ki-en... hơn là ngôn sứ I-sai-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en... Ta gọi các ngài là tiên tri, vì các ngài thường tiên báo tương lai sẽ xảy ra. Nhưng đó chỉ là một phần nhỏ thuộc sứ vụ của các ngài, mà trước hết các ngài phải là những người nói thay cho Thiên Chúa, chuyển sứ điệp của Chúa đến cho một cá nhân hay cộng đồng dân Chúa. Vì lý do đó, ngày nay sử dụng từ “ngôn sứ” xem ra hợp lý hơn.
Ê-dê-ki-en là một trong bốn vị ngôn sứ lớn và cũng là vị ngôn sứ của thời lưu đày tại Ba-by-lon. Ở đây, ngài được Chúa trao cho sứ vụ giúp dân Chúa hiểu biết ý nghĩa của những gì đã và đang xảy ra cho họ, nhờ đó họ giữ vững lòng tin và niềm hy vọng đợi chờ một tương lai sáng sủa. Vậy Ê-dê-ki-en ý thức thế nào về việc thi hành sứ vụ của ngài?
Trước hết Ê-dê-ki-en phải là người hành động dưới ảnh hưởng và hướng dẫn của Thần Khí Thiên Chúa. Thánh Thần là sức mạnh của Thiên Chúa làm cho vị ngôn sứ được “đứng vững” (Ed 2:2). Thánh Thần “làm cho chân tôi đứng vững”, vì sứ vụ sẽ gặp đầy những chống đối thử thách. Có mấy ai muốn người khác nói ra những lầm lỗi của họ đâu! Cho nên mỗi lần vị ngôn sứ nói lên những lỗi phạm của dân Ít-ra-en đối với Chúa là mỗi lần ngài phải chịu đựng những phản ứng bất lợi do những nhà lãnh đạo và dân chúng gây ra. Sách Tin Mừng Mát-thêu dành hẳn ra chương 23, ghi lại những lời Chúa Giê-su tố cáo các kinh sư và Pha-ri-sêu cũng như tổ tiên họ đã bách hại các vị ngôn sứ, chỉ vì các ngài nói thẳng nói thật.
Điểm thứ hai là Ê-dê-ki-en “đã nghe tiếng Chúa phán” (Ed 2:2). Vì là người nói thay cho Thiên Chúa, chuyển sứ điệp của Chúa đến người khác, nên vị ngôn sứ cần lắng nghe rõ ràng sứ điệp. Sứ điệp càng rõ, càng ngắn gọn thì sức mạnh của sứ điệp càng lớn, nhất là khi những kẻ phải đón nhận sứ điệp lại là những người “mặt dầy mặt dạn, lòng chai dạ đá, phản nghịch, nổi loạn chống lại Thiên Chúa”.
Thứ ba, Ê-dê-ki-en đã “được Thiên Chúa sai đi”. Vị ngôn sứ phải ra đi, dấn thân vào chốn nguy hiểm để thi hành sứ vụ. Khi đã tới nơi Thiên Chúa chỉ định, vị ngôn sứ phải ở lại đó. “Chúa Thượng phán: ‘Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng’” (Ed 2:5). Sự hiện diện của ngôn sứ biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa để nhắc nhở, kêu gọi, đôi khi còn “nài nỉ” dân Chúa thi hành điều Người dạy họ phải làm. Do đó, vị ngôn sứ không được trốn chạy hoặc tránh né khó khăn.
Những điều ngôn sứ Ê-dê-ki-en nêu lên ở đây chắc chắn phải làm cho ta ý thức lại chức phận ngôn sứ mà ta được chia sẻ với Chúa Giê-su, từ những vị lãnh đạo là các giám mục, linh mục cho đến thành phần giáo dân. Điều người ta có lẽ phải suy nghĩ nhiều nhất, đó là thái độ hèn nhát. Cha mẹ không dám dạy con, sợ chúng hỗn láo với mình. Truyền thông báo chí sợ làm ăn thua lỗ nên không dám truyền bá sự thật. Chính trị gia sợ thua phiếu đành phải đồng lõa với những thứ luật lệ thiếu đạo đức. Nhiều vị lãnh đạo giáo hội địa phương do cơ chế xã hội nên không dám biểu lộ gương mặt mục tử nhân lành của Chúa Giê-su. Tóm lại, xét lại ý thức chức phận ngôn sứ của Ki-tô hữu quả thực là vấn đề nhức nhối, nhưng vẫn phải làm.
2. Nhìn ngắm Chúa Giê-su, vị Ngôn Sứ đích thực và gương mẫu, được Thiên Chúa sai đến trần gian (bài Tin Mừng – Mác-cô 6:1-6)
Cuộc đời ngôn sứ của Chúa Ki-tô không có gì khác với các ngôn sứ trong Cựu Ước. Hơn thế nữa, Người còn là tuyệt đỉnh mặc khải của Thiên Chúa và cũng ở tột độ của hy sinh để nói lên sứ điệp tình yêu Thiên Chúa qua cái chết trên thập giá. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc bách hại Đức Ki-tô Ngôn Sứ phải chịu ngay tại quê hương Na-da-rét của Người.
Sau những tháng ngày thi hành sứ vụ cứu độ ở khắp miền Ga-li-lê, có lẽ toàn thể Pha-lét-tin nữa, Chúa Giê-su có dịp trở về Na-da-rét và tới giảng dạy tại hội đường. Dân chúng Na-da-rét phản ứng rất mâu thuẫn: một đàng họ công nhận Chúa Giê-su “được khôn ngoan” và “làm được những phép lạ như thế”; đàng khác họ lại có ý khinh thường xuất xứ của Người, coi rẻ cả cha mẹ, bà con họ hàng của Người. Tựu chung cũng chỉ vì lòng ghen tị mà thôi! Chúa Giê-su là con người trầm tĩnh đến thế mà cũng phải mở miệng nói thẳng với họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi!” (Mc 6:4).
Điều làm chúng ta vô cùng cảm phục ở đây là phản ứng của Chúa Giê-su trước sự tiếp đón không thân thiện và đầy miệt thị của dân làng Na-da-rét. Ngoài câu nói thẳng thắn ta vừa kể trên, tuyệt nhiên không thấy một lời cay đắng nào khác. Thêm vào đó, Chúa Giê-su vẫn tiếp tục thi hành sứ vụ, không tránh né, không hờn dỗi. Dân chúng Na-da-rét “rất đỗi ngạc nhiên” về Người một cách khinh dể, thì Người chỉ “lấy làm lạ vì họ không tin”. Người muốn dạy dỗ họ thật nhiều, làm thật nhiều cho họ, nhưng họ không đón nhận. Vì thế “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó”, mà “chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ” (Mc 6:5). Có lẽ ta cũng nên thắc mắc là giữa việc “làm được phép lạ” và việc “đặt tay chữa lành”, có sự khác biệt nào không? Để trả lời, ta nên hiểu mục đích của sứ vụ ngôn sứ là giúp người ta thay đổi tâm hồn và cuộc sống, đó là những “phép lạ” đích thực nhưng khó nhận thấy cần phải được thể hiện và tiếp diễn nơi mỗi người, chứ không phải chỉ ba cái việc chữa lành thể xác. Nói như thế, ta có thể nghĩ rằng Chúa Ki-tô đã thất bại trong sứ vụ ngôn sứ ngay tại quê nhà. Nhưng thành công của Người là Người đã cho dân chúng Na-da-rét biết rằng “có một ngôn sứ đang ở giữa họ” (Ed 2:5). Và thành công khác của Chúa Giê-su là Người không nản lòng bỏ cuộc, nhưng vẫn tiếp tục thi hành sứ vụ bằng cách “đi các làng chung quanh mà giảng dạy” (Mc 6:6).
Quả thực, Chúa Giê-su đã chu toàn sứ vụ ngôn sứ một cách tuyệt hảo không chỉ tại Na-da-rét, mà còn ở bất cứ nơi nào Người đến, và kết thúc sứ vụ bằng cái chết thập giá để nói lên tình yêu bao la và vô điều kiện của Thiên Chúa. Đó cũng là sứ vụ Người mời gọi ta tiếp tục và tiếp tay với Người để làm cho nhân loại biết Thiên Chúa yêu thương ta và muốn cứu độ ta. Thi hành sứ vụ ngôn sứ trong cuộc sống hằng ngày là bổn phận của mọi Ki-tô hữu không miễn trừ ai. Thánh Phao-lô đã đi theo con đường của Chúa Ki-tô và ngài đã trở thành một tấm gương sáng chói về việc thi hành sứ vụ ngôn sứ.
3. Thánh Phao-lô vui sướng khi bị sỉ nhục, bách hại vì làm ngôn sứ cho Chúa Ki-tô (bài đọc Tân Ước – 2 Cô-rin-tô 12:7-10)
Với những điều ta học được nơi ngôn sứ Ê-dê-ki-en và nơi Chúa Giê-su, ta có thể nhìn vào cuộc đời tông đồ của Phao-lô để học hỏi qua cách thi hành sứ vụ ngôn sứ của ngài. Những gì sách Công vụ Tông Đồ và chính những thư của thánh Phao-lô thuật lại, ta biết cuộc đời chứng nhân của thánh Phao-lô đầy gian nan và ngài phải chịu đau khổ rất nhiều trong khi thi hành sứ mệnh. Nhưng đặc biệt ở đây, qua đoạn thư trích thư thứ hai gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô đã chia sẻ một điều khá riêng tư về đời tông đồ của ngài.
Ngài được Chúa gọi làm Tông đồ và ban cho “những mặc khải phi thường”. Trong số các Tông đồ, ngài là một “siêu sao” với nhiều đức tính hiếm quý và trình độ trí thức rất cao. Nhưng đó cũng là điều khiến ngài phải “thức tỉnh” và đề phòng để khỏi trở thành kiêu căng khinh thường người khác. Ngài tự thú là có một “vấn đề” nào đó, hoặc yếu đau thể xác [“thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào”], hoặc một vết thương về tâm lý hay tinh thần [“thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi”], làm cho ngài phải rất đau khổ. Tuy nhiên ngài xác tín mục đích của “vấn đề” khiến ngài đau khổ, đó là để giúp ngài khiêm tốn trong sứ vụ. Do đó, bài học ngài dạy ta trong điều này là phải giữ lòng khiêm tốn khi thi hành sứ vụ ngôn sứ. (Ta mở một cái ngoặc nhỏ ở đây: nếu trong bài giảng, ta có nghe cha “quát mắng, lên lớp”, thì ta cứ cắt nghĩa tốt cho ngài là vì ngài quá sốt sắng muốn nhắc nhở giáo dân thôi). Cha mẹ mà lúc nào cũng “lấy quyền phụ mẫu” sử dụng những lời lẽ không thích hợp với cách dạy dỗ con cái thì đó cũng là một hình thức thiếu khiêm tốn trong sứ vụ ngôn sứ của cha mẹ rồi.
Điều thứ hai ta học nơi thánh Phao-lô là biết cậy vào “ơn Chúa”. Thi hành sứ vụ ngôn sứ là điều gây đau khổ, nản lòng cho ta. Nhưng ta phải xác tín rằng tự sức riêng, ta không thể chu toàn nổi sứ vụ ấy. Cần phải có ơn Chúa, là sức mạnh giúp ta thắng vượt khó khăn. Lúc thánh Phao-lô cảm thấy mình yếu đuối nhất thì lại là lúc ngài nhận thấy sức mạnh của ơn Chúa rõ rệt nhất. Ngài dí dỏm nhận xét: “Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12:10).
Điều thứ ba, từ thái độ khiêm nhượng biết mình yếu đuối và biết ơn Chúa mạnh mẽ, ta sẽ “vui mừng và tự hào” với sứ vụ ngôn sứ của ta.
4. Sống Lời Chúa
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay để lại những bài học vô cùng thực tế, đơn giản, nhưng cũng hết sức sâu sắc và cảm động. Theo chân Chúa Ki-tô, tất cả chúng ta đều là “ngôn sứ” của Thiên Chúa, giuíp Người làm cho thế giới và nhân loại mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Ý thức những khó khăn và thiệt thòi một ngôn sứ phải lãnh chịu khi thi hành sứ vụ, ta học hỏi nơi Chúa Giê-su, nơi các ngôn sứ trong Cựu Ước, nơi thánh Phao-lô và nơi những ngôn sứ thời đại đang âm thầm sống bên cạnh ta, để chính ta cũng trở thành dụng cụ Chúa sử dụng cho việc xây dựng Giáo Hội và xã hội hôm nay.
Suy nghĩ:
Trong chức phận hiện thời, là bậc cha mẹ, giáo viên, công chức, công nhân... tôi đang thi hành sứ vụ ngôn sứ như thế nào?
Tôi có giúp cho Tin Mừng của Chúa Ki-tô được rao giảng không?
Tôi có đóng góp gì để thay đổi gia đình, xứ đạo, khu xóm trở nên tốt hơn không?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa cho kẻ lầm lạc thấy ánh sáng chân lý của Chúa để họ được trở về nẻo chính đường ngay; xin ban cho những người xưng mình là Ki-tô hữu biết tránh mọi điều bất xứng và theo đuổi những gì thích hợp với danh nghĩa của mình. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 15 mùa Thường niên).
Người ta thường nói: “Gần Chùa gọi bụt bằng anh”. Điều này có thể áp dụng cho trường hợp: TN 14-B54
Người ta thường nói:” Gần Chùa gọi bụt bằng anh “. Điều này có thể áp dụng cho trường hợp của Chúa Giêsu bởi vì trong ba năm đi rao giảng cùng với các môn đệ ở khắp nơi nào Galilêa, Giêrusalem, Palestina, Capharnaum và nhiều nơi khác, nơi nào đặt chân đến, Chúa Giêsu cũng được nhiều đám đông đón tiếp, trầm trồ khen ngợi vì những lời giảng dạy hết sức ấn tượng của Ngài, những phép lạ hết sức thuyết phục của Chúa. Nhưng, cái trớ trêu vẫn là người dân làng Na-da-rét, quê hương của Chúa Giêsu đã có thái độ hết sức thờ ơ, lãnh đạm đối với lần đầu tiên Ngài trở về quê nhà. Tại sao những người đồng hương với Chúa Giêsu lại có thái độ đó ?
DÂN LÀNG NA-DA-RÉT ĐÃ NGẠC NHIÊN VỀ CHÚA GIÊSU:
Thực tế, khi trở về làng quê, vào trong Hội Đường, Chúa Giêsu giảng dạy một cách khôn ngoan, thông thái và có thẩm quyền. Người đồng hương lấy làm lạ, nghĩa là họ vừa thán phục, vừa lấy làm kinh ngạc. Tuy nhiên, vì quá biết lai lịch của Chúa Giêsu như Ngài làm nghề thợ mộc và lại là con bác Giuse, thợ mộc. Do đó, từ thái độ thán phục kinh ngạc, họ đâm ra bỡ ngỡ, nghĩa là kinh ngạc rồi nghi ngờ. Chính vì thế, người đồng hương càng nghĩ tới lai lịch, thân thế, nguồn gốc, địa vị xã hội và họ hàng, anh em của Chúa Giêsu, họ càng đâm ra bực bội khó chịu, nên họ châm biếm gọi Ngài là thợ mộc. Họ lý luận một người như Chúa Giêsu làm thợ mộc làm sao có thể là ngôn sứ, là Đấng Mêsia được ư ? Họ bị xúc phạm nghĩa là bị chạm tự ái. Nên, người đồng hương của Chúa không thể chấp nhận một người thợ mộc mà họ đã quá rõ nguồn gốc làm ngôn sứ, làm Đấng cứu tinh của họ dù rằng Chúa Giêsu có nói giỏi, lợi khẩu đến đâu đi nữa và làm nhiều phép lạ, họ nhất mực nghi ngờ Ngài…Dân quê Na-da-rét ngạc nhiên về Chúa, và Chúa cũng ngạc nhiên về họ. Chúa Giêsu ngạc nhiên về người đồng hương vì họ tự cao tự đại, kiêu căng, cố chấp. Do thái độ kiêu căng, cứng lòng của người đồng hương đã khiến Chúa Giêsu không thể làm phép lạ như bài Tin Mừng quả quyết:” Ngài không làm phép lạ nào được vì họ không tin “.
DÂN NA-DA-RÉT CHỈ BIẾT MÙ MỜ VỀ CHÚA GIÊSU:
Dân Na-da-rét tưởng rằng biết rõ về Chúa, nhưng quả thực họ biết Chúa cách rất hời hợt, thiển cận, mù mờ, chẳng hạn nơi sinh của Chúa họ cũng không biết. Họ cứ tưởng Chúa sinh ra và lớn lên tại cái làng nhỏ bé Na-da-rét nghèo nàn. Họ có ngờ đâu Chúa đã chọn Bêlem để sinh ra và Chúa đã nhập thể trong cung lòng trinh khiết của Đức Trinh Nữ Maria vv…Người đồng hương của Chúa biết rất mơ hồ về Chúa, họ không hề biết Ngài là Đấng Thiên sai, là Đấng Mêsia, là Đấng cứu tinh được Thiên Chúa Cha sai tới.” Thiên Chúa đã yêu thương trần gian đến nỗi đã sai Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô, sinh bởi một người nữ…”.Dân làng Na-da-rét đã không hiểu gì về Con Một Thiên Chúa. Họ quan niệm ngôn sứ, là Đấng Mêsia phải là những con người siêu việt khác thường chẳng hạn như Môisê với 40 năm lữ hành sa mạc, Giona với sự thiêu hủy thành Sođoma…Những con người ấy đã khắc ghi nơi tâm hồn họ hình ảnh của những con người siêu việt…
NGÀY NAY CHÚA VẪN NGẠC NHIÊN:
Xưa Chúa Giêsu đã rất đỗi ngạc nhiên về thái độ cứng tin của người Do Thái đồng hương. Ngày nay, Chúa còn ngạc nhiên hơn nữa vì có biết bao Kitô hữu đã cứng lòng tin bởi vì người tín hữu hôm nay phải biết rõ về Chúa hơn những người Do Thái xưa:” người tín hữu hôm nay được học Kinh Thánh, học Giáo lý, nghe giảng dạy, nghe những lời giáo huấn của Hội Thánh”. Tuy nhiên, ngày nay lại có biết bao Kitô hữu vẫn cố tình cứng lòng không tin Chúa Giêsu. Có nhiều người công giáo đi đạo vì gia đình là đạo dòng, vì truyền thống gia đình nhưng kỳ thực họ không hiểu giáo lý, không lắng nghe và không tuân giữ Lời Chúa.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đã vững đức tin hay đức tin của chúng ta hãy còn non yếu. Chúng ta là những Kitô hữu đích thực hay chỉ mang nhãn hiệu là Kitô ? Chúng ta đã học hỏi Giáo lỹ kỹ càng, lắng nghe và tìm hiểu Kinh Thánh thấu suốt hay chỉ hời hợt bề ngoài ? Chúng ta đã sống thế nào để chứng tỏ chúng ta là Kitô hữu đích thật ?
Lạy Chúa xin tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tin nhận Đức Giêsu Kitô là Con Một Thiên Chúa. Amen.
Đức Giêsu rời bỏ quê hương Nazareth đi rao giảng Tin mừng và chọn Capharnaum làm trung tâm truyền: TN 14-B55
Đức Giêsu rời bỏ quê hương Nazareth đi rao giảng Tin mừng và chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo. Tại nơi đây và nhiều nơi khác, Đức Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ như dẹp yên bão tố, chữa người bị qủi ám, chữa lành các chứng bệnh nan y, làm cho kẻ chết sống lại... Danh tiếng Ngài đã vang dội khắp nơi. Nhưng Ngài cũng không quên xứ sở của mình, Ngài cũng trở về thăm quê hương Nazareth. Đây là lần thứ hai Ngài trở về Nazareth (Lần thứ nhất: Lc 4,16-30).
Ngài không có ý trở về quê quán với tính cách riêng tư cốt chỉ thăm lại ngôi nhà và những người thân cũ. Ngài trở về với các môn đệ của mình, nghĩa là Ngài về quê với tư cách một rabbi. Các rabbi vẫn đi đây đó trong xứ với nhóm môn đệ nhỏ của mình. Với tư cách giảng sư Đức Giêsu đã trở về Nazareth với các môn đệ.
2. Tại hội đường Nazareth.
Theo thông lệ, ngày sabbat dân làng đến hội đường nghe đọc Sách Thánh và hát Thánh vịnh từ 9 đến 12 giờ trưa. Đức Giêsu và các môn đệ cũng đến hội đường cầu nguyện với dân làng. Đọc Sách Luật và Thánh vịnh xong, ông trưởng hội đường mời một vị có thế giá và hiểu biết về Thánh Kinh lên giải nghĩa bài đọc. Đức Giêsu cũng được mời lên đăng đàn. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt của Ngài luôn tỏ ra nét dịu hiền mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn, Ý tứ Ngài trình bầy đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Ngài trình bầy một cách khôn ngoan và giọng nói như của Đấng có uy quyền, làm cho họ ngạc nhiên, thì thầm với nhau:”Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế, nghĩa là gì”(Mc 6,2). Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu ở đâu ? Họ muốn tìm về nguồn gốc của Ngài.
3. Phản ứng của dân làng Nazareth.
Trước những lời giảng dạy khôn ngoan và hấp dẫn, cùng với những phép lạ đã làm, Đức Giêsu đã làm cho dân làng Nazareth có nhiều phản ứng khác nhau, và chúng ta có thể gồm tóm những phản ứng ấy trong ba chữ:
a) Tín nhiệm.
Từ Nazareth người ta đã nghe đồn thổi về Ngài rất nhiều, nghe đồn về những phép lạ Ngài đã làm khắp đó đây. Hôm nay, tại hội đường, họ đã trực tiếp được nghe Ngài giảng. Trước đây nghe lời đồn thổi họ đã ngạc nhiên, bây giờ họ càng ngạc nhiên hơn:”Mọi người làm chứng cho Ngài và họ thán phục về ân sủng xuất bởi miệng Ngài”(Lc 4,22).
Những điều trên đây cho ta thấy khi Đức Giêsu trở lại Nazareth, những cảm nghĩ của họ hầu hết là tín nhiệm Ngài.
b) Hoài nghi.
Họ muốn tìm về nguồn gốc của Ngài. Mọi người đều biết mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giôsê, Giuđa và Simon. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nazareth này, một thôn ấp nhỏ bé có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, đóng bàn sửa ghế, đóng giường tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ ông ấy nói năng, làm được việc gì lạ đâu ? Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi chóng thế ?
c) Thất bại.
Đáng lẽ những phép lạ Đức Giêsu đã làm ở những nơi khác cộng với sự rao giảng đầy thuyết phục của Ngài khiến cho dân làng Nazareth phải tin nhận Ngài, nhưng đàng này họ chỉ dựa vào nguồn gốc của Ngài, một nguồn gốc có vẻ tầm thường như họ thấy, nên họ nhìn sai lệch về con người của Ngài. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo cái dáng vẻ bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Vì thế,”họ bị vấp phạm vì Ngài”(Mc 6,3). Còn Ngài, Ngài âm thầm kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ:”Không ai là tiên tri cho xứ sở mình” vì người ta thường nói:”Gần chùa gọi bụt bằng anh”.
Trước sự cứng lòng tin kèm theo sự ghen tương với thành kiến cố hữu của họ, Đức Giêsu không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa lành vài bệnh nhân. Phép lạ đòi hỏi phải có lòng tin, mà phép lạ chỉ là phần thưởng cho lòng tin ấy. Sự cứng lòng của con người như thánh Matthêu nói rõ (Mt 13,58) làm tê liệt phần nào quyền làm phép lạ của Ngài.
II. CĂN BỆNH THÀNH KIẾN.
Theo Đào duy Anh, Thành kiến là ý kiến cố chấp không thể lay động được. Khi đã có ý kiến tốt hay xấu về một người hay một vật gì thì khó lòng có thể thay đổi được. Thành kiến thay đổi sự thật của sự vật, không còn như nó có. Thành kiến đã bóp méo sự thật , giống như người đeo kính xanh thì vật gì cũng xanh, đeo kính đỏ thì vật gì cũng đỏ.
Người ta có thể nhìn sự vật với ba thái độ, đó là yêu, ghét hay dửng dưng. Nhưng thường thì chúng ta ít khi có thái độ dửng dưng, trung lập, mà thường là nghiêng về một phía yêu hay ghét. Chính thái độ yêu hay ghét này làm cho ta nhìn sự vật khác nhau:”Yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Khi yêu thì thì coi mọi cái đều đẹp đều tốt, khi ghét thì thấy mọi cái là xấu:”Yêu ai yêu cà đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng”.
Truyện: Thi sĩ R. Tagore.
R. Tagore là một thi sĩ nổi tiếng của Ấn độ và cả Đông phương nữa. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu.
Một hôm, cậu bé Tagore làm một bài thơ và đưa lên cho cha xem. Ông thân sinh lắc đầu chê:
- Thơ mày là thơ thẩn !
Tagore mới nghĩ ra một mưu: cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và chua xuất xứ là trích sao trong một cuốn thơ cổ. Cậu ta lại không quên đề tên cuốn thơ cổ ấy cẩn thận.
Lần này, ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen:”Tuyệt, tuyệt”. Rồi đem khoe tíu tít với đứa con trai lớn của ông, hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Ông nói:
- Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này.
Ông con trai chủ nhiệm đọc xong cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen là hay đáo để, và muốn trích đăng lên mặt tờ báo văn học của ông.
Bấy giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đưa cuốn thơ cổ kia ra đối chiếu chứng minh và cũng để dễ bề chua xuất xứ trong khi đăng.
Đến đây câu truyện mới vỡ lở ra. Có ai ngờ trên đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của thằng bé Tagore ! Ông thân sinh giận sôi máu lên, nhưng rồi cũng phải nhìn con với cặp mắt thán phục và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình xưa nay.(Vũ minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 333-335)
Qua kinh nghiệm hằng ngày, chúng ta phải công nhận rằng Thành kiến là một căn bệnh phổ quát chung cho mọi người. Thành kiến là chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài nguời, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bề ngoài mà đánh giá thiên hạ.
Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm, mà do người này thì có giá trị, do người kia thì vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở ẹc ra. Người có danh tiếng thì lời nói việc làm nào cũng được coi như vàng ngọc. Người vô danh tiểu tốt thì lời có đẹp như trăng sao, việc có hay như thần thánh, cũng bị thành kiến dìm xuống đến tận bùn đen. Vì thế, Đức Giêsu đã nói:”Không tiên tri nào lại được trọng đãi nơi quê hương mình (Ga 4,44).
Thành kiến làm cho bụt nhà không thiêng, thích những cái lạ; thích gì thì phóng đại tô mầu, ghét thì cũng thế. Nhiều khi lý luận một chiều sai lệch, cái vô lý ngớ ngẩn cũng cho là hay là đẹp, hoặc không hiểu gì cũng cho là hay. Sống hoàn toàn theo dư luận, theo cách của người đời, không dám vượt trên dư luận sai lạc, vượt trên những phán đoán thiên lệch. Ví dụ các bà tin theo thầy bói thì cái gì thầy nói ra cũng đúng, cũng hay, coi như lời sấm, như thánh phán:
Số cô không giầu thì nghèo, Ba mươi Tết có thịt heo trong nhà. Số cô có mẹ có cha, Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông. Số cô có vợ có chồng, Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai. Các bà các cô sẽ phải thốt lên:”Thánh phán. Tuyệt !Tuyệt” !
III. BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG.
1. Đức Giêsu bị rẻ rúng nơi quê hương.
Dân làng Nazareth không thể chấp nhận một người mà họ đã quen biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn, họ hàng chẳng có danh giá gì. Biết rõ như thế thì làm sao người đó có thể là vị Cứu tinh, là Đấng Cứu thế, là Đấng giải thoát cho dân tộc mình được ? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giầu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Đức Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Ngài làm phép lạ như đã làm những nơi khác.
Trước sự cứng lòng và khinh thường của dân Nazareth, Đức Giêsu chẳng biết làm gì hơn ngoài việc đưa ra nhận xét chua cay:”Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quêâ hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”(Mc 6,4). Dân làng Nazareth không tin Chúa thì cũng vì họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo vào trong những định kiến hẹp hòi có sẵn của họ. Đấng Cứu thế phải hiện nguyên hình như định kiến của họ, nghĩa là Đấng Cứu thế phải có đầy quyền lực theo nghĩa thế gian, họ không thể tin nhận được một Đấng Cứu thế như một con người đơn sơ khiêm hạ như họ thấy được.
2. Các tiên tri cũng bị khinh dể.
Trong Tin mừng thánh Luca, Đức Giêsu nhắc đến hai vị tiên tri đã không làm phép lạ ở quê nhà được mà lại làm phép lạ ở dân ngoại:”Và Ta bảo thật các ngươi: có nhiều bà goá tại Israel thời tiên tri Êlia, khi trời khoá lại ba năm sáu tháng, và xẩy ra nạn đói lớn trong toàn xứ, song ÊÙlia không được sai đến với một bà nào trong họ, mà lại đến với bà góa tại Sorepta thuộc hạt Sidon. Cũng có nhiều người phong hủi đời tiên tri Êlisê, song không người nào trong họ được lành sạch cả, trừ phi là Naaman người Syri”(Lc 4, 26-27). Tiên tri Êlisê đã làm nhiều sự lạ ở Guilgal mà không làm được ở quê nhà (2V 4,1-29t). Sự thật và thường tình, tiên tri không được tôn trọng nơi quê nhà.
3. Những tài năng bị coi thường.
Nhiều người có tài năng cao vời bị coi thường trước khi được chấp nhận. Chúng ta có thể đưa ra mấy trường hợp để làm chứng:
- Giám mục Fulton Sheen, một nhà thuyết giáo vĩ đại, đã từng bị giáo sư môn biện luận trường đại học chê:”Anh đúng là diễn giả tồi nhất mà tôi từng gặp”.
- Ernest Hamingway, một tiểu thuyết gia cự phách, đã từng bị các thầy giáo chê:”Hãy quên việc viết lách đi ! Anh không đủ tài để làm việc đó đâu”.
- Richard Hooker, tác giả quyển sách nhan đề “Mash”, đã từng thấy quyển sách của ông bị đến 6 nhà xuất bản từ chối in để rồi cuối cùng quyển ấy đã trở thành một trong những quyển sách bán chạy nhất.
Thành kiến đã làm cho dân làng Nazareth phán đoán sai về Đức Giêsu. Họ đã không nhận ra Ngài là Đấng Cứu thế. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm cho chúng ta mù quáng, không nhận định và phê phán một cách khách quan đúng đắn được. Thành kiến làm cho chúng ta không thể đối thoại , cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người khác. Mc Kenzie nói:”Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tị thì nhìn bằng kính hiển vi”.
4. Số phận người rao giảng Tin mừng.
Cho dù Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Ngài có thể làm được mọi sự, nhưng Ngài phải bó tay trước sự cứng lòng của con người. Ngài đã trở nên bất lực trước những kẻ thiếu niềm tin. Và quả thật, “Ngài đã không làm được phép lạ nào”tại quê hương mình. Thế mới biết con người có khả năng ngăn cản Thiên Chúa, con người có toàn quyền từ chối quà tặng của Thiên Chúa.
Trên con đường truyền giáo, Đức Giêsu vẫn đem các môn đệ đi theo để huấn luyện các ông. Trong việc huấn luyện cũng cần thấy sự thất bại, chứ không phải chỉ nhìn thấy thành công. Sau này trên đường truyền giáo, sự thất bại không làm cho các ông nản lòng.
Các người rao giảng Tin mừng hãy bắt chước Đức Giêsu mà đón nhận thái độ “Bụt nhà không thiêng” của những người được rao giảng. Họ có thể nghi kỵ, không ưa, hoặc chống đối chúng ta đi nữa, thì hãy vững tâm vì “chân lý sẽ thắng”. Ban đầu có thể gặp thất bại nhưng với thời gian người ta sẽ nhìn ra chân lý. Đức Giêsu đã thất bại khi còn sống nhưng đã thành công vẻ vang sau khi sống lại. Người Tông đồ cũng phải đi theo con đường ấy: phải kiên nhẫn chịu đựng, nhưng phải chịu đựng trong vui tươi vớiø tình thương mến.
Truyện: Chú chồn Pepe LePew.
Cách đây nhiều năm, các rạp chiếu bóng thường chiếu phim hoạt hoạ. Có một bộ phim được nhiều người ưa thích tên là Looney Tunes. Một vai được nhiều người hâm mộ trong phim là chú chồn lãng mạn tên là Pepe LePew. Pepe luôn luôn yêu mến mọi người nhưng vì chú có mùi hôi, nên mọi người đều từ chối tình thương của chú. Nhưng Pepe không nản lòng. Chú vẫn tiếp tục yêu thương dù có bị từ chối nhiều lần. Pepe không bao giờ từ chối yêu thương bất cứ một ai. Đó chính là lý do tại sao rất nhiều người coi phim này càng quí mến Pepe.(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật năm B, tr 264).
Chúng ta thấy Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta về tình yêu thương. Ngài không khước từ ai bao giờ. Ngài vẫn tiếp tục yêu thương dù biết bao lần Ngài đã bị từ chối. Chú chồn Pepe trong phim quả rất giống Chúa Giêsu. Đây là bài học cho chúng ta rút ra được từ các bài đọc hôm nay. Chúng ta phải bắt chước cách xử sự của Đức Giêsu, chúng ta có thể bắt chước chú chồn Pepe mà yêu thương mọi người dù có bị chối từ bao nhiêu lần đi nữa. Tóm lại, các bài đọc hôm nay dạy chúng ta hai điều: Trước hết, chúng có thể tin chắc rằng chúng ta sẽ nhiều lần bị người khác khước từ phản đối giống như Đức Giêsu đã từng bị trong đời Ngài. Tuy nhiên, chúng ta cứ tiếp tục yêu thương giống như Đức Giêsu. Dù bị khước từ Ngài vẫn không ngừng ban phát tình yêu của Ngài cho nhân loại.
Lời Chúa hôm nay nói về thái độ của những người Nagiarét, những người đồng hương với Đức: TN 14-B56
Lời Chúa hôm nay nói về thái độ của những người Nagiarét, những người đồng hương với Ðức Giêsu nhưng lại từ chối Tin mừng cứu độ của Ngài. Ðó là thái độ thường xảy ra, vì "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình".
Tuy nhiên, lời ngôn sứ Êdêkien, trong bài đọc 1, cũng cho thấy rằng, dù dân có phản loạn hay "lòng chai như đá", thì Thiên Chúa vẫn tiếp tục sai các Ngôn sứ đến nói lời của Ngài.
| Ngôn sứ là những người nói Lời của Thiên Chúa cho con người. Nhưng suy nghĩ của con người lại thường khác xa hay ngược lại với tư tưởng của Thiên Chúa.
Người Nagiarét có những lý do của họ để từ chối Ðức Giêsu. Bao nhiêu người khác ngày nay cũng vậy, họ từ chối Thượng Ðế, từ chối sống quảng đại và yêu thương với người khác… Lạ một điều là người ta luôn tìm được những lý do ra vẻ chính đáng để bào chữa cho thái độ của mình. Có khi đó là sự lầm lạc, có khi đó là sự tự mãn, có khi là một thái độ bào chữa cho chính mình để khỏi phải thay đổi lối sống… Dù sao, bài học cho chúng ta là: tư tưởng của Thiên Chúa thì cao hơn tư tưởng của con người, nếu chúng ta sẵn lòng chấp nhận sự thật, khiêm tốn nhìn nhận lời chỉ giáo… chúng ta sẽ có nhiều cơ may hơn để nhận ra Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Các Ngôn sứ luôn là người đứng ở giữa, trong thế giằng co giữa sứ mệnh Chúa trao phó và phản ứng của con người. Là Ngôn sứ, nghĩa là chấp nhận cuộc đấu tranh gay gắt, chấp nhận bị từ chối và chấp nhận thân phận "bì xé". Chúa Giêsu, vị Ngôn sứ Cao cả, đã chịu chính những người đồng hương của mình từ chối; đó cũng là "số mệnh" của các ngôn sứ đích thực.
Mỗi người kitô hữu, khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, đều được lãnh nhận đồng thời ba chức vụ: Ngôn sứ, Tư tế cộng đồng, và Hoàng vương. Do đó, người kitô hữu nào cũng có trách nhiệm loan báo Tin mừng cứu độ của Chúa Giêsu, và đều được "báo trước" những khó khăn của sứ vụ. Dù vậy, ta vẫn thấy không thiếu những kitô hữu đã can đảm sống tình yêu trong lòng một xã hội có quá nhiều ganh ghét; sống chân thật trong lòng một xã hội đầy dối trá; sống đức Tin giữa lòng một thế giới trần tục hóa.
Quả thực, sức mạnh của Thánh Thần vẫn có và vẫn tác động trong lòng Giáo hội.
Lạy Chúa, Xin cho con luôn sống trong sự hiện diện của Chúa. Chúa luôn luôn đi bên con, trong những hành trình thường ngày của con; Như bà mẹ già vẫn luôn dõi theo bước của đứa con, bằng tình yêu thật đậm đà gắn bó. Xin Chúa giúp con làm việc dưới sự hiện diện của Chúa, Vui sống trong sự hiện diện của Chúa, An nghỉ bên sự hiện diện của Chúa. (Michel Quoist )
Hãy thử đặt mình vào tâm trạng của những người sống cùng thời với Đức Giê-su, cùng sống tại: TN 14-B57
Hãy thử đặt mình vào tâm trạng của những người sống cùng thời với Ðức Giê-su, cùng sống tại một làng quê và là bà con với Ðức Giê-su.
Từ thời niên thiếu, chúng tôi đã biết rõ về Người: chúng tôi cùng thuộc về một cộng đoàn, một "hệ thống xã hội". Chúng tôi cùng có một nền đạo đức, cùng có chung những giá trị: hội đường, ngày sa-bát. Chúng tôi sống với Người rất thân tình. Ðã có những cuộc gặp gỡ tại nhà cô Ma-ri-a, tại nhà ông Giu-đa, ông Si-mon và những người khác. Chúng tôi là những người bà con, những người quen biết nhau cùng sống trong ngôi làng nhỏ bé. Ðức Giê-su đã gây được ấn tượng tốt: dân làng nghĩ rằng Ðức Giê-su là người kín đáo, hay giúp đỡ, siêng năng, "khôn ngoan" ... Nói chung, người ta có thể tin cậy được.
Bỗng nhiên, sau ba mươi năm bình lặng, yên ổn, có một điều gì đó rất lạ lùng. Không còn là anh bạn Giê-su quen thuộc "của chúng tôi nữa". Lời anh nói, việc anh làm, chúng tôi không hiểu nỗi. Một điều gì đó đã xảy ra, và chúng tôi phải thay đổi cách nhìn về anh, về sự việc.
Ðối với chúng tôi, thật là khó để nhận ra người bà con, người bạn này, người đã từng sống với chúng tôi trong suốt quãng thời gian dài. Lời anh nói, việc anh làm làm xáo trộn cuộc đời, cách suy nghĩ của chúng tôi. Khó quá !
Cũng thật là khó khi phải nghĩ rằng nhờ con người đơn giản, bình thường và thân quen này, Thiên Chúa lại có thể nói với chúng tôi một điều gì đó. Anh làm chúng tôi sững sờ: điều anh loan báo về Nước Thiên Chúa, về Ðấng Mê-si-a hoàn toàn khác hẳn quan niệm xưa nay của chúng tôi. Anh quả là người gây khó khăn cho chúng tôi và chúng tôi không chấp nhận nổi.
Theo Tin Mừng, Ðức Giê-su "lấy làm lạ vì họ không chịu tin". Rồi Người "đi khắp các làng chung quanh mà giảng dạy".
Tại những nơi xa lạ, chẳng ai rõ về nguồn gốc của Người, nhờ đó, lời Người nói có thể được dân chúng đón nhận. Các cư dân ở những miền này chẳng thắc mắc gì về nguồn gốc, về thói quen, về nghề nghiệp của Ðức Giê-su ; họ dễ dàng đón nhận lời Người nói và tin vào Người.
Về phần mình, Ðức Giê-su đi hết chỗ này đến chỗ kia: lời của Người không còn bị đóng khung trong Hội đường hay trong vòng bà con thân thuộc, nhưng vang xa hơn. Lời ấy đến với một người nghèo, một người bệnh và họ được giải thoát. Lời của Người không chỉ là những từ ngữ, nhưng còn là hành động cứu người nghe khỏi tình trạng khốn khổ. Họ tín nhiệm vào Người, họ "tin" vào Người. Họ nhận ra lời Người thật "sống động" và họ hiểu rõ: đó là lời Thiên Chúa. Họ nhận ra tính cách thần linh ẩn giấu nơi một con người bình thường
Chuyến đi không thành công
"Hành hương về nguồn", tìm về nguồn cội là một trong những đề tài quen thuộc trong xã hội hiện tại. Thất bại của Ðức Giê-su tại chính quê hương của mình cho thấy những giới hạn của một cuộc ra đi như thế. Ki-tô hữu là người cắm rễ trong lịch sử, nhưng tự bản chất vẫn là người của tương lai, của điều sẽ đến.
Ðức Giê-su bị giam hãm
Theo cái nhìn bình thường, việc Ðức Giê-su xuất hiện trong hội đường của quê hương sẽ là điều kiện thuận lợi để lời giảng của Người có thể tác động đến các thính giả.
Thế nhưng, những người đồng hương với Ðức Giê-su lại muốn xác định, đánh giá "người con của quê hương", thay vì để cho những lời giảng thúc đẩy. Dù những lời Người nói rất chân tình và sống động, nhưng hình như chúng vẫn đủ làm họ quên đi những ấn tượng về nguồn gốc và quá khứ của Người.
Do đó, Ðức Giê-su không thể giảng dạy cho họ điều gì cả. Họ bị giam hãm trong những thói quen và xác tín của mình, nên cũng đóng khung Ðức Giê-su vào trong tình trạng "anh thợ mộc, con của ...". Ðối với các thính giả của Ðức Giê-su, xưa nay Người đã xuất hiện bên họ với tình trạng như thế, thì giờ đây Người cũng chỉ thế thôi. Người không thể nào khác đi được, Người không phải là vị ngôn sứ. Vì vậy, họ thẳng thừng chối bỏ những lời giảng của Ðức Giê-su mà họ cho là không thể lọt tai.
Ðức Giê-su bị ngăn cản
"Người đã không làm được phép lạ nào."
Ðó là chuyện hợp lý, chuyện bình thường sau những sự kiện mới xảy ra. Hoạt động của Thiên Chúa không bức bách con người. Phép lạ, đó là trao ban sự sống, sự sống mới, là làm cho phục sinh. Thiên Chúa không thể làm phép lạ khi con người không muốn. Thiên Chúa không thể bày tỏ uy quyền của Người trước những kẻ có thái độ lãnh đạm đối với lời Thiên Chúa.
Do lòng yêu thương và tôn trọng, Thiên Chúa để con người tự do lựa chọn. Con người phải bày tỏ thái độ là mở ra trong đức tin. Thiếu đức tin của con người, Thiên Chúa không thể làm gì được, và điều đó có thể làm Thiên Chúa ngạc nhiên.
Như thế cuộc trở về Na-da-rét của Ðức Giê-su là một thảm kịch biểu hiện cho thảm kịch của toàn bộ Tin Mừng. Sự từ chối của dân làng Na-da-rét báo trước sự từ chối của nhân loại trước mầu nhiệm Thiên Chúa, trước tình yêu của Ðấng muốn trao tặng tất cả. Thái độ này cũng đã hé mở số phận của Ðức Giê-su, tức là mầu nhiệm thập giá.
Nỗi kinh ngạc của Ðức Giê-su trước thái độ quyết liệt của những người đồng hương cũng là nỗi kinh ngạc của một vị Thiên Chúa mang đến tất cả và bị từ chối tất cả. Ðó cũng là nỗi kinh ngạc của các sứ giả Tin Mừng, khi lời nói và hành động của họ không chiều theo sở thích của con người thời đại.
Thiên Chúa luôn có những đường lối bất ngờ và con người phải chọn lựa, phải đáp lại bằng đức tin. Khi con người muốn đóng khung Thiên Chúa vào những thành kiến hẹp hòi của mình, thì cũng là lúc họ đóng lại con đường ân sủng.
Phải biết hy vọng
Từ trình thuật Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể rút ra hai bài học.
Trước hết, cách đơn giản nhất để làm cho người khác bị tê liệt, không hoạt động gì được là không tin vào họ, là giam giữ họ trong những ý tưởng tiên thiên, những phạm trù có sẵn nơi mình. Biết bao năng lực bị bỏ quên, biết bao tài năng bị dở dang, biết bao niềm hạnh phúc phải tắt ngúm vì những phán đoán, những định kiến về những người mà ta tưởng rằng biết rất rõ. Trong cái nhìn của chúng ta về người khác, phải biết hy vọng.
Sau nữa, Thiên Chúa gọi chúng ta, ngỏ lời với chúng ta, không phải qua những con người có dáng vẻ siêu đẳng, nhưng qua những con người rất bình thường. Thiên Chúa vẫn thường bày tỏ những chân lý siêu việt qua những phương tiện đơn sơ, tầm thường. Chính Thiên Chúa vẫn hiện diện nơi những con người yếu đuối, mỏng manh. Họ là những sứ giả của Thiên Chúa và chúng ta phải nhận ra sự hiện diện kỳ diệu của Người. Họ có thể là người khách trọ hay người bà con, họ có thể là một người bệnh, một người xa lạ, hay là một người thân ; họ có thể là một người bạn thân thiết hay có khi là một người chống lại chúng ta ... Con đường ân sủng vẫn mở rộng nếu chúng ta luôn giữ trong lòng niềm hy vọng sống động.
Quả thật, để tự bày tỏ chính mình, Thiên Chúa cần đến con người.
"Thiên Chúa đi những bước trước, nhưng Người đợi chúng ta đáp trả. Người gõ cửa, nhưng Người chỉ bước vào khi chúng ta lên tiếng mời. Người kêu gọi, nhưng chỉ ban ơn khi chúng ta thực sự ước muốn. Chính vì vậy, Ðức Giê-su chỉ bày tỏ công trình cứu độ của Người cho những ai đón nhận Người trong lòng tin.
"Ðức tin chính là thái độ cởi mở của tâm hổn mà Thiên Chúa chờ đợi để biết chắc rằng những kẻ tìm kiếm Thiên Chúa chỉ kiếm tìm Người vì một mình Người, và được thúc đẩy do lòng mến."
"Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabbat, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?" Và họ vấp phạm vì Người.
Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình". Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
Suy NiỆm:
Chúa nhật trước các bài Kinh Thánh đã nói với chúng ta về đức tin. Hôm nay Lời Chúa nhắc lại những: TN 14-B58
Chúa nhật trước các bài Kinh Thánh đã nói với chúng ta về đức tin. Hôm nay Lời Chúa nhắc lại những kinh nghiệm trong cuộc đời của dân Israel, của Ðức Yêsu và của thánh Phaolô để khuyến khích đức tin của chúng ta trong những hoàn cảnh đặc biệt. Ước gì chúng ta hiểu những lời Kinh Thánh vừa nghe đọc. Và cho được như vậy chúng ta cần tìm hiểu thêm.
1. Kinh Nghiệm Của Israel
Bài sách Ezekiel đưa chúng ta trở về đợt lưu đày đầu tiên của dân Israel, vào khoảng năm 597 trước Ðức Yêsu ra đời. Nhà tiên tri ở trong đám dân khổ sở đó. Bị đày xa quê hương và đền thờ ông cũng như mọi người tưởng rằng như vậy là hết rồi. Giao ước giữa Chúa và dân không còn nữa. Họ đã bất tín đến nỗi Người phải trừng trị. Hoàn cảnh lưu đày này làm chứng Người đã bỏ dân.
Ðang khi họ suy nghĩ như vậy thì này đột nhiên Ezekiel được một thị kiến ngay nơi đất khách. Sự kiện làm ông bàng hoàng tự nghĩ: làm sao Thiên Chúa có thể hiện ra với ông nơi dân ngoại? Yavê có quyền cả ở địa phương này sao? Và hơn nữa Người chưa hoàn toàn bỏ dân ư?
Rồi không những có thị kiến, mà còn có tiếng nói. Lời Chúa nói với Ezekiel và sai ông đi đến với dân phản loạn. Rõ ràng Thiên Chúa không bỏ kẻ có tội. Người ta bất tín, nhưng Người vẫn tín thành.
Người sai Ezekiel đến với họ như đã sai Môsê đến với Pharaon: vì Israel lúc này cũng lòng chai đá, mặt trơ tráo như vua Aicập ngày trước (Xh 7,13). Và như vậy, đoạn Kinh Thánh hôm nay ám chỉ Chúa đã bắt đầu nghĩ đến truyện cứu dân lưu đày. Và cuộc giải cứu này một cách nào đó sẽ lập lại cuộc giải phóng khỏi Aicập mà Israel vẫn nhớ lại với lòng khâm phục cảm mến.
Do đó Ezekiel cũng phần nào đó giống như Môsê. Ông được đặt làm tiên tri đến với dân nhân danh Chúa. Ông sẽ nói với những người đang làm tôi mọi dân ngoại rằng: đừng quên Chúa: Người phán như thế này; Người sẽ ra tay uy hùng cứu kẻ tin vào Người.
Dĩ nhiên bắt đầu người ta sẽ không tin lời cứu độ đâu, cũng như xưa Pharaô từ chối lời của Môsê. Nhưng Chúa sẽ ở với Ezekiel như đã ở với Môsê. Ezekiel sẽ là khí cụ để Chúa biểu dương quyền lực của Người trước mặt dân ngoại. Ông sẽ không làm những việc lạ kỳ như Môsê ở trước nhan Pharaô, vì đối với dân ngoại cần có những dấu hiệu đó để họ nhận biết quyền năng của Chúa. Nhưng còn đối với Israel, dân đã từng thấy những việc kỳ diệu, không cần phép lạ nữa và những phép lạ này cũng không đủ nữa. Ðối với những kẻ đã "thấy", bây giờ phải làm cho họ "biết" và "hiểu". Và vì thế Ezekiel phải mạnh về "Lời", về mạc khải, nói với lòng dân thay vì với mắt họ trước đây, để Israel sẽ thay lòng đổi dạ hầu có một trái tim thịt máu thay vì trái tim chai đá hiện nay.
Do đó Chúa không đặt Ezekiel làm người lãnh đạo dân như Môsê, nhưng làm tiên tri. Và như vậy không phải chính trị sẽ hướng dẫn, nhưng là Lời Chúa sẽ đưa dân đến giải thoát cứu độ. Dân sẽ không thấy có thẩm phán, vua quan hay lãnh tụ ở với mình thay quyền Chúa như trước nữa, nhưng sẽ có tiên tri của Người ở giữa dân và giúp dân đi theo đường lối của Chúa. Sự hiện diện của nhà tiên tri nói lên sự hiện diện của Chúa thay thế cho sự hiện diện của Người nơi đất Thánh và chốn đền thờ, thay thế cho sự có mặt của hoàng đế và tư tế, từng lãnh đạo dân trong nhiều thế kỷ trước đây.
Bài sách Ezekiel, vì thế, mở ra trước mắt dân lưu đày một viễn tượng hoàn toàn mới mẻ. Họ có thể thấy Chúa chưa bỏ họ trong cảnh lầm than. Người đang đi trước họ, giới thiệu con đường cứu độ mới. Từ nay Người sẽ dùng tiên tri và dùng Lời của Người để dạy dỗ và hướng dẫn dân, để ai tin thì sẽ được cứu độ.
Chúng ta không được an ủi sau khi hiểu bài sách Ezekiel như thế. Ðền thờ và hàng tư tế vẫn quý và cần thiết cho đời sống đạo. Nhưng có những lúc Chúa muốn hướng dẫn chúng ta nguyên bằng Lời của Người, tức là bằng sách thánh, và bằng những tiên tri biết đem lời của Chúa trình bày cho anh em. Chúng luôn muốn kêu gọi những tiên tri như vậy. Ai đáp lời không những sẽ như Ezekiel mà còn giống như Ðức Yêsu nữa, vì chính Người mới là vị tiên tri tuyệt diệu của Thiên Chúa mà Ezekiel và mọi tiên tri khác chỉ như bóng sánh với hình. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta cơ hội chiêm ngưỡng vị tiên tri tuyệt diệu ấy.
2. Kinh Nghiệm Của Ðức Yêsu
Cho đến nay người ta vẫn không ngớt thắc mắc về đoạn sách Marcô này. Nó đâu có làm vẻ vang gì cho Ðức Yêsu mà tác giả sách thánh đã viết ra? Và như vậy có lợi gì đâu mà phụng vụ ngày nay còn đem nó ra đọc trong thánh lễ? Nó cho chúng ta thấy một Ðức Yêsu bị thất bại và bất lực ngay nơi các người đồng hương bà con của Người. Nó liệt Người vào thân phận của mọi tiên tri chẳng bao giờ được quý trọng nơi quê quán, nếu không muốn nói rằng Người còn thua kém họ nữa, vì chắc chắn đã có nhiều vị tiên tri tuy không được kính trọng nhưng cũng không đến nỗi bị chống đối, phủ nhận nơi bà con của mình.
Marcô hôm nay cho chúng ta thấy vị tiên tri thành Nadarét bất lực quá: chẳng làm được phép lạ nào trước sự cứng lòng tin của họ hàng thân thuộc. Người còn là vị tiên tri không tự chủ ngay nơi bản thân Người nữa. Vì khi thì như Người thừa hiểu hoàn cảnh; lúc lại như thể Người ngạc nhiên về thái độ của người ta. Hay là Marcô đã dùng những từ ngữ không chỉnh và mâu thuẫn? Trong một câu ông khẳng định cả việc Ðức Yêsu không làm được phép lạ nào, cả việc Người chữa lành một số ít người đau ốm. Những việc chữa lành này không phải là phép lạ sao?
Nhận thấy những lời văn khó hiểu, và nhất là thấy ý tưởng chung bất lợi cho Ðức Yêsu quá, nhiều người thắc mắc không hiểu tạo sao có đoạn văn này trong sách Marcô. Và người ta đưa ra không biết bao nhiêu lý lẽ và giả thiết. Nhưng mọi cố gắng làm suy yếu đoạn văn này đều vấp phải một sự hiển nhiên: đoạn văn nằm đó trong sách của Marcô với những lời lẽ mà chẳng ai có thể tẩy xóa hay sửa chữa được nữa. Và bổn phận của chúng ta bây giờ là phải chấp nhận và tìm hiểu nó.
Nhìn vào vị trí của đoạn văn trong sách của Marcô, chúng ta thấy đã đến lúc Ðức Kitô sắp bỏ Galilêa để xuống thi hành sứ vụ ở Yuđêa. Và như vậy cũng là lúc để có một cái nhìn tổng quát về sứ vụ ở Galilêa, nếu không muốn nói rằng tác giả Marcô đã muốn lợi dụng lúc này để cho chúng ta một cái nhìn chung về những năm giảng đạo của Ðức Kitô. Có thể Marcô cũng muốn tựa vào kinh nghiệm của vị tiên tri thành Nadarét để nói về thân phận của Hội Thánh nói chung và của từng tông đồ nói riêng. Dù sao, đây cũng là một cái nhìn tổng quát về đời hoạt động của một tiên tri.
Thế nên tác giả Marcô có thể lấy lại một cái nhìn cổ điển của Cựu Ước: mọi tiên tri trong các thời đại trước đều đã không được số phận may mắn. Ezekiel chẳng hạn. Hôm nay sách thánh viết rõ ông đã được sai đến với dân phản loạn mặt trơ tráo và lòng chai đá. Nhưng người ta vẫn phải biết ông là tiên tri. Ðức Yêsu cũng là tiên tri và hơn mọi tiên tri nữa. Ở nơi Người các nét tả chính yếu về bậc tiên tri phải nổi hơn, nổi nhất. Người phải đối diện với một dân lòng chai dạ đá. Hơn nữa, họ phải phản đối kình địch với Người hơn mọi tiên tri khác. Sự cay đắng chua xót của Người phải nhiều hơn. Người gặp thấy nó ngay trong hàng bà con thân thích để Yoan có thể viết rằng: Người đã đến nhà của Người, nhưng gia nhân Người đã không chấp nhận Người. Ðó là điều Cựu Ước thường viết về Yavê Thiên Chúa: Người ra tay làm bao việc lạ cho dân mà dân vẫn tỏ lòng chai đá bội bạc.
Nhưng nơi nhà tiên tri không phải chỉ có thất bại. Ðúng hơn nữa, sự chống đối ông gặp phải nói lên tội lỗi của người ta chứ không tố cáo sự bất lực của ông. Nơi ông vẫn có "dấu tay uy quyền của Chúa". Chính vì vậy mà Ðức Yêsu vẫn chữa lành được cho một số ít bệnh nhân khi họ có điều kiện mà đa số không có. Họ có lòng tin đang khi những người khác cứng lòng tin. Nói theo loài người, Ðức Kitô có thể ngạc nhiên về thái độ của đa số: thấy giáo lý khác thường và các phép lạ Người làm mà họ không mềm lòng ra. Nhưng với cái nhìn của Thiên Chúa hay của đức tin, thì điều này cũng không lạ, bởi vì cả lịch sử thánh cho thấy loài người luôn luôn cưỡng lại tình thương của Thiên Chúa. Trừ một số ít. Số ít này là những kẻ được cứu vớt. Họ sẽ làm thành đàn chiên nhỏ. Họ sẽ thừa tự Nước Trời vì họ tin rằng: có nhà tiên tri của Chúa ở giữa họ, mặc dù bề ngoài có nhiều điều cản trở niềm tin này.
Do đó bài Tin Mừng hôm nay là cả một bài học quý giá cho chúng ta. Không nên căn cứ vào câu "chẳng tiên tri nào được kính trọng tại quê nhà" để bao biện cho các khuyết điểm và thất bại trong đời sống tông đồ. Tin Mừng của Chúa không bao giờ muốn an ủi kiểu như vậy. Luôn luôn nó muốn chất vấn lương tâm người ta thường có thái độ nào đối với một Ðấng Thiên Chúa và một Ðức Kitô Người sai đến như vậy? Người ta có sẵn sàng tin sứ điệp tình yêu và cứu độ mà Thiên Chúa gửi đến nơi Lời Kinh Thánh, nơi vị tiên tri, nơi Hội Thánh của Người không? Hay người ta luôn luôn là những người Dothái ở thời Ezekiel và ở thời Ðức Kitô, chỉ muốn tin vào sứ điệp và sứ giả nào hứa hẹn những lợi ích trước mắt? Thiết tưởng bài thư Phaolô cũng phải được hiểu theo chiều hướng này.
3. Kinh Nghiệm Của Phaolô
Người đang nói với giáo dân Côrintô yêu quý của người. Họ đã được nhiều tông đồ có óc Dothái đến viếng thăm. Những người này gièm pha Phaolô đủ điều, cốt để người Côrintô đừng tin vào giáo lý cứu độ của Phaolô nữa. Nhưng nếu bỏ niềm tin này, thì làm sao được cứu độ? Phaolô phải can thiệp ngay. Người gửi thư không phải để chữa mình hay để lấy lại uy tín. Người quá tâm lý để biết rằng làm như vậy sẽ chỉ thêm thất bại. Nhất là lòng đạo đức và tinh thần tông đồ đã giết chết khuynh hướng tự tôn ở nơi người từ lâu rồi. Người viết thư hôm nay là để thi hành sứ vụ tiên tri, rao giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Người không khoe khoang, mặc dù người có rất nhiều điều hay để nói về mình. Không những gia thế, học lực và những nét Dothái cao quý ở nơi người; mà cả những thành quả, lao công trong cuộc đời tông đồ; thậm chí những thị kiến và mạc khải cao siêu nữa... Tất cả đều không được người để ý và gán cho một chút vinh quang nào. Ngược lại, người nhấn mạnh đến một cái "dằm" ở trong thân xác người. Nó làm đau, làm nhục người triền miên. Nó là cái gì người không xác định; nên ai có ý tưởng nào cũng chỉ là suy đoán. Ðiều quan trọng mà Người muốn nói là cái dằm trong xác thịt ấy luôn luôn tố cáo sự yếu đuối của người ở trước mặt Chúa để người ý thức không phải mình sống nhưng là Ðức Kitô sống trong mình, không phải mình mạnh nhưng là quyền năng của Ðức Kitô đậu lại ở nơi mình. Và như thế người sẽ như Ðức Kitô, như Ezekiel, như mọi tiên tri.
Cuộc đời của những vị này luôn mang hình thức yếu đuối, bất lực, thất bại trước mắt thế gian, nhưng dưới cái nhìn của đức tin lại là nơi quyền năng cứu độ của Thiên Chúa đang hoạt động.
Như vậy chúng ta có phải bắt chước các ngài không, tức là tạo ra trong đời sống của mình một hình dạng yếu đuối nào đó? Không cần như vậy. Ðiều cần trước hết là chúng ta phát triển niềm tin vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, cho dù có bao nét bề ngoài của kế hoạch đó dường như muốn làm chúng ta nản lòng. Chúa đã đòi dân Dothái thời Ezekiel phải tin vào Lời Người và vào vị tiên tri khi họ không còn quê hương, đền thờ. Người đã đòi bà con thân thuộc của Ðức Yêsu lướt thắng những cản trở bên ngoài thuộc gia thế và địa vị xã hội của nhà tiên tri thành Nadarét để đón nhận ơn cứu độ. Hằng ngày Chúa vẫn đòi chúng ta phải có niềm tin như vậy qua mọi thử thách trần gian. Hơn nữa Chúa lại muốn chúng ta trở nên các tiên tri của Người để giúp anh em đồng bào nhận ra Tin Mừng cứu độ. Chúng ta có sẵn sàng đi vào đường lối của Ezekie, của Phaolô và của Ðức Kitô không?
Tất cả những điều này sẽ diễn ra trong thánh lễ. Ở đây niềm tin đòi mọi người phải lướt thắng nhiều nét bên ngoài để đạt tới các mầu nhiệm thâm sâu. Ở đây chúng ta phải đón nhận một Ðức Yêsu Kitô tử nạn và phục sinh. Và chính Người lại là Ðấng Cứu thế... Người kêu gọi chúng ta tin vào đường lối của Người, trở thành tông đồ của Người, sống như Người để làm lan rộng ơn cứu độ. Chúng ta có nhiệt tình đáp lại chờ mong của Người không, để Lời Chúa và Mình Thánh Chúa hôm nay đem lại hiệu quả thật sự trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Con người sửng sốt, ngỡ ngàng và khâm phục trước những kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa: TN 14-B59
Con người sửng sốt, ngỡ ngàng và khâm phục trước những kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa, trước muôn ơn lành Ngài ban tặng cho trong cõi sống nhân sinh là điều bình thường và cần thiết. Vì quả thực: “Con người là chi mà Chúa tôi nhớ đến. Con người là chi mà Ngài để mắt trông nom.” Nhưng Thiên Chúa mà cũng ngỡ ngàng và sửng sốt đối với con người, thì đây là một điều khiến con người phải suy nghĩ, phải đắn đo. Bởi vì, con người chẳng là chi và chẳng có gì đáng cho Thiên Chúa phải sửng sốt cả.
Điều làm Thiên Chúa ngạc nhiên nơi con người là Đức Tin của nó. Và điều làm cho Ngài sững sờ nơi con người cũng chính là sự cứng lòng tin của nó.
Thật không thể tưởng tượng nổi một Thiên Chúa rất mực yêu thương, rất mực nhân hậu, và rất mực quyền năng như Ngài mà lại bị con người chối bỏ để đổi lấy chút giầu sang, quyền lực và lạc thú chóng qua, tạm bợ.
Thật không thể tưởng tượng nổi một Thiên Chúa rất mực thánh thiện, rất mực tốt lành, đời đời vinh hiển mà lại bị con người chối bỏ để chọn lấy Satan là đầu mối mọi tội lỗi, đau khổ, xấu xa và thất vọng trầm luân.
Nếu Thiên Chúa có thể buồn, có thể giận, và có thể thất vọng thì đây là sự buồn phiền, bực bội, và thất vọng lớn lao nhất mà Ngài có thể chịu đựng từ phía con người. Do đó, khi Ngài thấy bất cứ ai dám đặt niềm tin nơi Ngài, đón nhận Ngài vào cuộc đời mình, nhất là mật thiết và sống với lời Ngài, thì sự ngỡ ngàng và niềm vui của Ngài không thể kìm hãm được. Ngài thật bỡ ngỡ như Tin Mừng Thánh Máccô đã diễn tả khi Ngài cảm thấy sức mạnh tình thương và chữa lành của Ngài toát ra vì cái động vào áo Ngài của một thiếu phụ.
Cái chạm tay của người thiếu phụ vào áo Chúa đã làm cho Ngài vui mừng đến không dấu nổi xúc động: “Chúa Giêsu nhận thấy có sức mạnh chữa lành từ Ngài phát ra. Đưa mắt nhìn đám đông, Ngài hỏi: “Ai đã chạm đến ta” (Mc 5:30). Và khi đã biết con người giầu lòng tin đó là ai, Ngài nói với bà: “Hỡi con hãy đi bình an và được chữa lành” (Mc 5:34). Thử hỏi nếu con người đụng chạm đến trái tim Ngài, tức là động chạm đến tình yêu của Ngài thì sự vui mừng và sung sướng ấy to lớn đến đâu!
Ngược lại với thái độ ân cần, yêu thương và săn sóc mà Ngài dành cho người thiếu phụ tin tưởng, là thái độ buồn phiền, ưu tư của Ngài trước sự cứng cỏi, lạnh lùng và thờ ơ của dân làng Ngài. Thánh Ký diễn tả: “Người không làm phép lạ nào ở đó, ngoại trừ đặt tay và chữa lành một vài bệnh nhân. Và Ngài lấy làm bỡ ngỡ vì sự cứng lòng tin của họ” (Mc 6:5-6).
Sự cứng cỏi và thờ ơ của đồng hương Ngài là điều khiến Chúa phải bỡ ngỡ, và cũng là điều khiến chúng ta phải suy nghĩ. Phải chăng đó cũng là thái độ và lối sống của nhiều Kitô hữu chúng ta.
Vì tự cho mình biết Chúa, hiểu Chúa, nên chúng ta không còn trọng kính, tin tưởng nơi Ngài. Có lẽ cũng như những đồng hương Ngài, nhiều lần chúng ta cũng tự hỏi: “Ở đâu ông ấy nhận được những điều này. Sự khôn ngoan của ông được ban cho là gì? Tại sao tay ông làm được những phép lạ như thế? Ông ta chẳng phải là anh thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon? Chị em ông chẳng phải là hàng xóm với chúng ta ở đây sao?” (Mc 6:2-3). Đem áp dụng vào đời sống tâm linh và mối dây mật thiết với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu của nhiều Kitô hữu chúng ta lúc này cũng có thể diễn nghĩa: Chúng tôi là người đạo gốc. Chúng tôi chịu phép Rửa từ nhỏ. Chúng tôi thường xuyên dâng lễ, tham dự thánh lễ, chầu Thánh Thể, rước Thánh Thể, nghe đọc Thánh Kinh và cầu nguyện. Nhưng nào đâu thấy Chúa? Nào được việc gì? Chúa vẫn ở đâu đâu, và kiếp sống con người vẫn chẳng là một gánh nặng đè trên cuộc sống chúng tôi sao? Những suy nghĩ ấy, những lối sống ấy đã làm ngạc nhiên, sửng sờ đối với Thiên Chúa. Một phản ứng mang ý nghĩa tiêu cực, một điều mà như Chúa Giêsu đã có đối với đồng hương của Ngài. Nó khiến Ngài không thể làm gì được ngoại trừ một vài ân huệ nho nhỏ mà Ngài có thể thực hiện.
Trong nhiều trường hợp Kitô hữu chúng ta cũng giống như quần chúng thời Ngài. Chúng ta chen chúc đi đến thánh đường. Lô lấn lên hôn chân Chúa. Vội vàng lên rước Thánh Thể. Bực tức vì bỏ lỡ một buổi rước kiệu. Khó chịu vì không được đồng tế trong một thánh lễ long trọng có Giám Mục chủ sự. Không được giảng nhân ngày đại hội đông đảo. Than ôi! Chúng ta chen lấn, giành giật và cố đến gần Chúa, nhưng lại chưa một lần động vào được Chúa như cái chạm áo của người đàn bà mang bệnh loạn huyết.
Thật vậy, những lần chúng ta dâng lễ, tham dự thánh lễ, rước Mình Máu Thánh Chúa nhưng đã không một đụng chạm khiến Chúa ngỡ ngàng. Bởi vì đó chỉ là những hành động, những việc làm mang tính xô lấn, va chạm ồn ào quanh Chúa; nhiều khi còn mang tính cách phô trương, tìm mình nên khiến Ngài dù muốn tâm sự, muốn chia sẻ với chúng ta cũng không được. Cũng thế, bao nhiêu lần chúng ta nghe lời Chúa, đọc lời Chúa, cần xin với Chúa mà vẫn không đụng chạm được đến Chúa. Bởi vì đó cũng chỉ là những tiếng la lối, ồn ào khiến Chúa dù muốn lắng nghe cũng không hiểu ta nói gì và xin gì.
Tâm trạng ấy, lối sống ấy quả thực gây cho Người sự ngạc nhiên. Có lẽ Ngài cũng không hiểu sao sự cứng cỏi, và thờ ơ của con người lại mãnh liệt, mạnh mẽ và ghê gớm đến thế!
Tâm trạng ấy, lối sống ấy như những tâm trạng và thái độ của đồng hương Ngài. Những người cho rằng mình đã hiểu, đã biết rất rõ về gia thế, và con người của Ngài, nhưng lại không chấp nhận Ngài như là một Cứu Chúa!
Khi còn nhỏ, tôi vẫn tự hỏi tại sao Chúa lại phải chết cho nhân loại. Và tại sao Ngài lại phải chịu đóng đinh trên thập giá. Chết như vậy Ngài có đau không?! Trong những lúc suy niệm như thế, tôi cũng muốn thông cảm với nỗi đau và cực hình của Ngài nhưng không sao hiểu nổi và cảm nổi. Nhiều lần, nhất là trong những tuần Thương Khó, một mình âm thầm trong nhà nguyện, tôi đã thử lấy tay véo mạnh vào người để cảm được nỗi đau của Chúa, và để hiểu Ngài thương yêu tôi như thế nào, nhưng tôi vẫn không hiểu.
Sau này khi lớn khôn và nhờ tình yêu thương Chúa, tôi đã từ từ hiểu và cảm được lý do cũng như nỗi đau của Ngài khi phải chết cho con người. Câu trả lời ấy đến từ cảm nghiệm lời Chúa qua Tin Mừng Thánh Máccô mà tôi đang suy niệm hôm nay. Nó đã thức tỉnh lòng tôi và làm cho tôi hiểu rằng Chúa đã chết một lần, nhưng nếu Ngài có thể chết không phải một mà là ngàn lần đi nữa thì vẫn còn có kẻ không tin. Đối với họ, Chúa Giêsu quê quán Nazareth ai mà chả biết. Con bà Maria, anh em với Giacôbê, với Giuse, với Simon và Giuđa ấy ai mà chả biết. Một anh phó mộc ấy ai mà chả biết. Những cái biết ấy họ muốn thay thế cho những cái biết qua ánh mắt Đức Tin. Bởi vì nếu nhìn Ngài bằng cặp mắt Đức Tin, thì họ phải thay đổi lối nhìn và lối sống là điều mà họ không muốn. Và đó cũng là lý do tại sao Đức Tin con người có thể động chạm đến Ngài, khiến sức mạnh chữa lành phát ra từ Ngài, và làm cho Ngài phải bỡ ngỡ.
Bán đại hạ giá "on sale" đã trở thành như một kiểu sống của xã hội tiêu thụ. Mở báo hằng: TN 14-B60
Bán đại hạ giá "on sale" đã trở thành như một kiểu sống của xã hội tiêu thụ. Mở báo hằng ngày, sau khi lướt qua những mục tin tức giật gân nóng bỏng, hầu như ai cũng lật tới những trang quảng cáo bán đại hạ giá in mầu sắc rất đẹp và hấp dẫn với kỹ thuật cao. Từ các loại quần áo giầy dép cho đến đồ ăn thức uống, máy móc, đồ dùng… thôi thì không thiếu một loại nào mà không "on sale". Đang cần mua một bộ bàn ghế cho phòng khách, mình tìm ngay được chỗ bán đồ thật ngon, bộ bàn ghế bằng gỗ quí giá mọi khi tới 4 ngàn tiền Mỹ, mà tuần này nhân dịp lễ Độc Lập bán đại hạ giá chỉ có hai ngàn rưởi thôi. Thế là có lợi và "save" được tới một ngàn rưởi. Dịp may hiếm có, bỏ qua rất uổng.
Thấy thế, một anh bạn liền chen vào lời bàn rất ngang tai nhưng cũng rất hữu lý: không mua gì là lợi và "save" nhất. Khốn nỗi các quảng cáo thôi thúc kích động thế kia làm sao cưỡng lại được?! Nhà người quen mới mua một bộ đẹp lắm với giá phải chăng mà. Sự đua chen là một đòi buộc căng thẳng dường như có sức mạnh phi thường. Nhiều khi đồ cũ vẫn còn ngon lành sài được, nhưng cái sức ép bắt phải chạy theo thời trang nên cũng phải sắm thêm để thay đổi. Thế là mình răm rắp tuân theo một thứ lệnh vô hình. Rồi sau đó đi cầy tối mặt mà trả nợ.
THỜI ĐIỂM CƯỚI "ON SALE"
Kiểu sống bỏ đồ cũ sắm đồ mới không ngờ lại ăn sâu vào máu trong mọi lãnh vực. Ông bà cụ rất có thể bị xếp vào loại đồ cũ không còn ăn nhập bao nhiêu nên cũng trở nên một thứ đồ đáng phế thải. Ngay cả chuyện cưới vợ lấy chồng ngày nay cũng bị ảnh hưởng cái lối suy nghĩ này.
Tiểu bang Louisiana là một trong những tiểu bang đầu tiên thi hành đạo luật cưới thật và cưới chơi. Sau ngày 15 tháng 8 năm 1997, các cặp ra tòa xin giấy phép cưới có thể chọn xin cưới thật hay cưới chơi. Vì thấy tình trạng li dị nhiều quá bởi cái đầu óc cưới nhau theo hứng. Cưới thật là cưới một người trung thành cho đến chết dù bất cứ gì xảy ra, gọi là "covenant marriage". Còn cưới chơi là cưới theo kiểu "on sale", còn hợp thời và hợp nhau thì còn dùng được, mà nếu đã cũ hay không thích nữa thì có quyền thảy đi để tậu đồ mới vừa lợi vừa tiến bộ. Trước kia mỗi lần ra tòa li dị thì phải trưng bằng chứng một bên có lỗi, luật mới bây giờ cho phép bỏ nhau mà không cần nêu bằng chứng như vậy nữa. Không thích và không hợp nữa là dẹp thôi. Để đi tìm đồ "on sale"!
Hội Thánh Anh Giáo ở Louisiana lên tiếng ngay: chỉ chấp thuận cho cưới trong nhà thờ những cặp nào xin phép cưới thật, còn muốn cưới chơi thì đi chỗ khác chơi. Chắc chắc giáo quyền Công giáo cũng sẽ lên tiếng về chuyện lẩm cẩm mà có thật này. Đúng là thời đảo lộn luân lý.
TIN VUI GỬI NGƯỜI THÍCH MUA ĐỒ "ON SALE"
Tìm về nhận ra giá trị của những gì xem ra tầm thường đã có sẵn trong cuộc sống, trong tầm tay, là một trong những thời điểm của con người ngày nay. Sau khi đua đòi chạy theo những ảo vọng và những vật lộn hơn thua trầy da tróc vảy, con người thấy quá căng và mệt mỏi, muốn tìm về với những gì thật giản đơn trong cuộc sống thường ngày.
Khi Chúa Giêsu xuất hiện mở Đạo thì nhiều người thán phục bước theo, vì những phép lạ và Tin Vui có sức thay đổi cả một đời người. Nhưng khi trở về quê nhà là Na-gia-rét thì dân làng bửu môi mai mỉa: Ông đó là cái thá gì, chúng tôi biết quá mà, cũng dân tầm thường như mình chứ có gì mà phải bày đặt. Thấy thế, Chúa Giêsu nói thẳng vào tâm trạng và lối suy nghĩ của họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi" (Mác-Cô 6: 4).
Đúng là quen quá hóa nhàm, đứng núi nọ trông núi kia cao. Người Anh có câu ngạn ngữ cũng gần tương tự: bờ cỏ bên kia xanh hơn bên này. Đứng xa thì thấy ngon lành vậy, mà đến gần thì cũng lơ thơ xờ xạc, nhiều khi còn tệ hơn. Vậy mà nhiều người vẫn mơ màng ảo tưởng! Lối suy nghĩ thành nếp sống ấn sâu vào máu máu này đang hành hạ con người ngày nay, biến thành những tên nô lệ phải tuân theo những thứ lệnh vô hình, bắt phải rướn mình đua đòi bon chen, khiến luôn bị căng và mệt!
MẪU XÂY LẠI TỔ ẤM CHO THIÊN NIÊN KỶ NÀY
Ngày 12 tháng 7 là ngày giỗ một vị thánh nữ duy nhất của Hội Thánh Việt Nam là thánh Lê Thị Thành, người đã biến cuộc sống gia đình xem ra tầm thường hằng ngày thành thiên đàng hạnh phúc. Chính những bí mật tìm lại hạnh phúc theo gia đạo Việt qua gương sống của Thánh Lê Thị Thành mà Hội Thánh muốn giới thiệu cho thế giới. Qua tông thư “Đệ Tam Thiên Nhiên Sắp Đến” Đức Gioan Phaolô II đã đề cao:
“Giáo Hội của đệ nhất thiên niên đã khai sinh trong máu của các vị tử đạo: máu tử đạo là hạt giống sinh tín hữu” (Tertuliano)... Trong thế kỷ chúng ta, các vị tử đạo xuất hiện lại: thường là những kẻ âm thầm, họ như những “chiến sĩ vô danh” cho đại nghĩa Chúa. Bằng mọi cách có thể, đừng nên làm mất đi chứng tá của họ trong Giáo Hội. Như hội nghị hồng y đoàn đã gợi lên, các Giáo Hội địa phương phải làm mọi cách để gương lành của những kẻ đã chịu tử đạo khỏi rơi vào quên lãng; nên cố gắng thu thập các tài liệu cần thiết trong ý hướng này...”
“Trong viễn tượng hướng về đệ tam thiên niên, tòa thánh sẽ ghi vào trang sử tử đạo của Giáo Hội hoàn vũ, lưu ý nhiều đến sự thánh thiện của những người, ngay ở thời đại chúng ta, đã hoàn thành đời mình trong chân lý của chúa Kitô. Một cách hết sức đặc biệt, cần ghi nhận sự anh dũng của các nhân đức nơi những người nam, nữ, đã thực hiện ơn gọi làm người Kitô trong cuộc sống hôn nhân: trong xác tín rằng nhiều hoa trái thánh thiện nảy sinh trong bậc sống này, chúng tôi thấy cần phải tìm ra những phương cách thích hợp nhất để đề cao và nêu lên cho toàn thể Giáo Hội làm mẫu mực và khích lệ những người chồng người vợ Kitô giáo” (trang 40-42).
Trong những rối loạn về gia đình hiện nay, bao nhiêu khảo cứu về phương pháp tâm lý, sinh lý, xã hội học, cũng chẳng làm gì hơn. Vậy mà Mẹ Lê Thị Thành lại có thể cung ứng một đường lối rất hiệu nghiệm mà thật đơn giản. Mẹ biết cách pha chế những gì xem ra nhàm chán quen thuộc hằng ngày, rồi để lửa Trời biến những miếng thịt hay cá tanh thành những món ăn ngon. Con tim Mẹ mới là ngón tay thần, để lửa tình Chúa biến đổi tất cả. Bằng sức mạnh của cầu nguyện, của thánh lễ, của những bổn phận săn sóc con cái với cả thương yêu. Phép lạ là đây. Gia đình êm ấm là đây. Kìa, Mẹ thấy Chúa đang hiện ra ngay trong nhà mình, chứ không bị áp đặt chạy theo những ảo ảnh do xã hội làm căng thẳng xâu xé gia đình.
Ví như Chúa chẳng xây nhà, Thợ nề vất vả cũng là luống công; Thành kia mà Chúa không phòng giữ, Uổng công người trấn thủ canh đêm. (Thánh Vịnh 127)
Bài đọc1: Ez.2,2-5: Đây là nhà phản loạn, và họ sẽ biết rằng giữa họ vẫn có một tiên tri.
Bài đọc 2: Cr.12,7-10: Tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ngự trong tôi.
Phúc âm: Mc.6,1-6: Không tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương.
SUY NIỆM:
Một trong những lãnh tụ quan trọng của phong trào công nhân nước Anh là Will Crooks. Ông ta: TN 14-B61
Một trong những lãnh tụ quan trọng của phong trào công nhân nước Anh là Will Crooks. Ông ta được sinh ra trong một gia đình rất nghèo. Ký ức đầu tiên của ông ghi nhận là hình ảnh mẹ ông đang khóc vì không biết lấy gì để ăn trong bữa sau. Ông bắt đầu làm việc trong một lò rèn, lương hàng tuần là 5 hào. Ông trở thành một tay thợ giỏi, dũng cảm và ngay thẳng nhất thời bấy giờ. Ông tham gia việc chính trị ở ngay thị xã Luân đôn. Nhiều người rất bất mãn khi Will Crooks thành chủ tịch Polar. Ngày nọ, trong đám đông, một mệnh phụ dè bỉu ông: “Người ta bầu Crooks làm chủ tịch à, anh ta chỉ là dân thợ tầm thường mà thôi”. Một người trong đám đông, chính là Crooks, đã quay lại bỏ nón ra và nói: “Hoàn toàn đúng, thưa bà, tôi chỉ là một dân lao động”.
Dân chúng ở Nazaret khinh dể Chúa Giêsu chỉ vì Ngài là một thợ mộc. Vì khi Chúa xuống thế gian, Ngài không hề đòi hỏi sự miễn trừ nào. Ngài bằng lòng nhận lấy cuộc đời với tất cả những công việc tầm thường nhất. Những may rủi về gia thế, giầu nghèo và phổ hệ chẳng có gì quan trọng với nhân cách cả. Chúng ta cần cảnh giác đối với sự đánh giá một người căn cứ vào bề ngoài, vào những cái tạm thời nay còn mai mất, chứ không căn cứ vào giá trị nội tại nơi chính người ấy.
Sự kiện Chúa Giêsu là con trai bà Maria, con bác thợ mộc Giuse, làm cho mọi người không mấy chú ý đến…. Chúa chết chỉ lúc được 33 tuổi, nhưng Ngài đã không lìa bỏ Nazaret trước năm 30 tuổi (Lc. 3,23). Trong suốt thời gian còn ở gia đình, Chúa Giêsu tận tuỵ với công việc, ngay cả trong những việc nhỏ nhặt. Là con bác thợ mộc, Chúa Giêsu bị người ta xem thường. Từ ngữ bác thợ mộc là tekton. Tekton là thợ làm đồ gỗ, nó còn có nghĩa là người làm nghề làm thủ công. Đời xưa và cả ngày nay thợ mộc có thể làm cho bạn bất cứ việc gì, từ việc xây cất nhà, đóng khung cửa, làm tủ, giường, bàn ghế, cho đến cả việc đóng chuồng gà, chuồng bò v.v. Thế nên người làng Nazaret khinh dể Chúa Giêsu vì Ngài là một công nhân, một thường dân.
Hôm nay Chúa Giêsu trở về quê hương xứ sở không phải vì lý do riêng tư là thăm lại ngôi nhà và những người thân thuộc ngày trước. Ngài trở về cùng với các môn đệ của mình với tư cách là một Rabi. Chúa Giêsu là Thầy dậy dỗ đến nỗi các Rabi Do Thái phải rất kinh ngạc. Chúa đã làm các phép lạ: Dẹp yên bão tố, chữa lành bệnh nhân, cả những chứng bệnh bất trị; xua đuổi quỉ ám v.v. Những phép lạ này làm sửng sốt mọi người và danh tiếng Ngài đồn ra khắp mọi nơi …. Thế mà Chúa Giêsu lại bị xem thường tại quê nhà chỉ vì “bụt nhà không thiêng”, đến nỗi Chúa không làm phép là nào tại đó và chỉ chữa lành một vài bệnh nhân mà thôi.
Chúa Giêsu bị đồng hương coi rẻ vì những hình thức bên ngoài có vẻ tầm thường, bởi lòng người “quen quá hoá nhàm” hay “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Hơn nữa nhiều người Do Thái thời đó còn quan niệm Đấng Cứu Thế giáng trần với xa mã lộng lẫy, đánh đông dẹp bắc, thống trị địa cầu bằng sức mạnh quân sự và quyền lực của đế quốc, và cho đến nay nhiều người Do Thái vẫn còn đang chờ đợi Đấng Cứu Thế theo quan niệm của họ!
Ngày nay Chúa Giêsu đã về trời nhưng Ngài còn hiện diện khắp nơi trên thế gian. Ngài ngự trị trong bí tích Thánh Thể, nhưng dưới hình thức bánh miến và rượu nho, chúng ta có dễ nhận ra dung nhan khả ái của Ngài không? Các vị đại diện Chúa mà ta vẫn gọi là Chúa Kitô thứ II, danh xưng đó có phù hợp với niềm tin nơi tâm hồn của mình không? Nhất là những vị đại diện Chúa lại là bà con, họ hàng, bạn hữu, đồng hương của chính chúng ta… Chúa Giêsu còn ẩn mình trong mọi tầng lớp giai cấp trong xã hội mà không phân biệt chủng tộc, mầu da, giầu nghèo, học thức v.v. Chúng ta có nhận ra Chúa nơi tâm hồn tha nhân không? Hay chỉ thấy bằng con mắt giác cảm: nhìn nhận qua dáng vẻ béo mập, gầy còm, cao thấp, trắng đen, đẹp xấu v.v. Ước gì chúng ta có đôi mắt tinh ròng sáng suốt nhận ra chân lý, vẻ đẹp tinh thần giữa muôn hình thức của nếp sống trần gian.
Đối với bản thân, chúng ta cũng phải biết nhận ra Đức Kitô trong tâm hồn mình, nhất là khi hiệp lễ, đừng có mặc cảm vì sự tầm thường bên ngoài mà không nhận ra những ơn thánh Chúa luôn ban xuống cho ta. Những dáng vẻ hay tài năng bên ngoài sẽ qua đi hết, cuộc sống quan trọng ở chỗ là làm sao chiếm hữu được nước Thiên Đàng mà mọi người đều có khả năng lãnh nhận. Công việc hằng ngày chỉ là tạm bợ, hành trình nội tâm tiến về quê trời mới có giá trị lâu dài vĩnh cửu.
Sau hết chúng ta xin Chúa cho mình được Đức Tin mạnh mẽ để tuyên xưng danh Chúa như thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt. 16,16). Bây giờ chúng ta không được sống gần bên Chúa như các tông đồ xưa kia, mà chỉ ngắm nhìn Ngài dưới hình bánh hình rượu. Nhưng điều đó đâu có hề gì, vì như thánh Tôma đã nói: “giác quan không giúp được gì cả, và thị giác, xúc giác, vị giác cũng lầm”. Chỉ có đức tin mới làm cho ta nhận biết Thiên Chúa và tin vào lời Đức Kitô tuyên bố: “Đây là mình Ta…. Đây là máu Ta….” Không những thế ước gì Đức tin của ta còn phải đi đến chỗ thực hành cao hơn như các thánh tông đồ đã bỏ cha mẹ, vợ con và mọi sự ở đời này để nối gót sự nghiệp cứu độ của Đức Kitô. Lạy Chúa xin cho chúng con luôn thấy được giá trị và uy quyền của Chúa Giêsu và tin vào Giáo Hội là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Mặc dù thấy Giáo Hội ở trong hoàn cảnh nào đi nữa, mặc dù thấy hiện thân của Chúa trên trần gian là các vị linh mục có xuất thân từ đâu, thân thế và sự nghiệp ra sao, đời sống của các vị có thế nào đi nữa, chúng con vẫn một lòng tin yêu và sống trọn tình đạo nghĩa của người Kitô hữu.
Vì không được giúp đỡ - ngay cả trong Năm Sống Lời Chúa này - để biết cách liên hệ những: TN 14-B62
Vì không được giúp đỡ - ngay cả trong Năm Sống Lời Chúa này - để biết cách liên hệ những bản văn Thánh Kinh, những truyện kể trong Cựu và Tân Ước với đời sống cá nhân và xã hội hiện tại của mình, nên đại đa số giáo dân Việt Nam khi nghe và đọc Thánh Kinh cứ tưởng nghe và đọc những chuyện đâu đâu của quá khứ xa xăm chẳng liên quan gì với đời sống đức tin của mình. Vì thế mà họ không khám phá ra tính “hiện sinh” và “hữu dụng” của Lời Chúa.
Chúng ta sẽ tập liên hệ những nhân vật và sự kiện trong bài sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en 2,2-5 và đoạn Phúc Âm Mác-cô 6,1-6 hôm nay với bản thân và cộng đoàn mình để tìm ra cách sống mà Thiên Chúa mong đợi và ưa thích.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH 2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
Bài đọc 1: Ed 2,2-5: Có một ngôn sứ của Thiên Chúa đang ở giữa dân.
2 Bấy giờ, thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Người phán với tôi và làm cho chân tôi đứng 3 Người phán với tôi: "Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. 4 Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: "ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này." 5 Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.
Bài đọc 2: 2 Cr 12,7-10: Tự hào về yếu đuối của mình.
7 Thưa anh em, để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. 8 Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. 9 Nhưng Người quả quyết với tôi: "Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. 10 Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.
Bài Tin Mừng: Mc 6,1-6: Đức Giê-su về thăm Na-da-rét (Mt 13, 53-58; Lc 4,16-30)
1 Hồi ấy, Đức Giê-su trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2 Đến ngày sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? 3 Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? " Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giê-su bảo họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi." 5 Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. 6 Người lấy làm lạ vì họ không tin.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
Bài đọc 1 (Ed 2,2-5) là một trích đoạn của Sách Ngôn Sứ Ê-dê-ki-en trong đó vị ngôn sứ nói về sứ mạng mà Thiên Chúa đã ép ông phải nhận. Sứ mạng đó là nói Lời Thiên Chúa cho những người Ít-ra-en nổi tiếng là ngỗ ngược và cứng đầu cứng cổ!
Trong đoạn Thánh Kinh này chúng ta khám phá Thiên Chúa là Đấng chịu đựng sự ngỗ ngược và cứng đầu cứng cổ của dân Ít-ra-en và tìm mọi cách thay đổi họ, biến họ thành những người dễ bảo và vâng phục.
Bài đọc 2 (2 Cr 12,7-10) là một đoạn của thứ thứ hai gửi tín hữu Cô-rin-tô trong đó Thánh Phao-lô nói về sự yếu đuối hoặc khiếm khuyết hoặc cám dỗ thiêng liêng mà ngài phải chịu đựng suốt cuộc đời. Chúng ta không rõ đó là gì, vì Thánh Phao-lô nói một cách rất mơ hồ là “một cái dằm”. Cái dằm thì không đủ làm cho người ta chết, nhưng nó làm cho người ta đau đớn và khó chịu. Điều chúng ta cần ghi nhận là nhờ cái dằm ấy mà Thánh Phao-lô sống cách khiêm tốn giữa bao ơn huệ lớn lao mà Thiên Chúa đã ban cho ngài.
Trong đoạn Thánh Thư này chúng ta khám phá Thiên Chúa là Đấng ban mọi ơn cần thiết cho Phao-lô (và chúng ta), để Phao-lô (và chúng ta) sống đẹp lòng Thiên Chúa, làm chứng cho quyền năng của Thiên Chúa và phục vụ kế hoạch giúp dân ngoại trở về với Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng (Mc 6,1-6) là bài tường thuật của Phúc âm Mác-cô về tư tưởng và hành động của những người đồng hương Na-da-rét đối với Đức Giê-su. Khi thấy Đức Giê-su bộc lộ sự khôn ngoan khác người, dân làng Na-da-rét cũng ngạc nhiên và thắc mắc; nhưng họ hoặc chỉ dựa vào những gì họ biết về Người (cha mẹ, họ hàng, nghề nghiệp, tài sản và giai cấp xã hội) hoặc ganh tỵ không muốn Người hơn họ nên sinh ra nghi ngờ và trở thành những kẻ không tin Người, thậm chí còn xô đầy Người xuống vực (xem Lc 4,29).
Trong đoạn Phúc âm này chúng ta khám phá Chúa Giêsu là Đấng rất đơn sơ chân chất và rất hiền hòa, dễ thương: Bằng chứng là Chúa Giêsu tỏ ra ngạc nhiên về thái độ không tin của những người đồng hương và vui vẻ đi đến các làng chung quanh để giảng dạy.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Để khám phá ra sứ điệp của Lời Chúa hôm nay chúng ta thử trả lời hai câu hỏi này:
Tôi, gia đình tôi, giáo hội tôi, dân tộc tôi có là những con người ngỗ ngược và cứng đầu cứng cổ đối với Thiên Chúa, giống như dân Ít-ra-en xưa không? Tôi, gia đình tôi, giáo hội tôi, dân tộc tôi có cứng lòng và nghi ngờ mà từ chối và không tin Chúa Giê-su Ki-tô không?
Trước sự ngỗ ngược, cứng đầu cứng cổ và không tin của tôi cũng như của gia đình, giáo hội và dân tộc tôi, Thiên Chúa có thái độ nào? Chúa Giê-su Ki-tô có thái độ nào? Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô muốn gì ở tôi, ở giáo hội tôi, ở dân tộc tôi?
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Từ hai câu hỏi và trả lời trên, chúng ta sẽ thấy mình phải cố gắng trở thành những người con ngoan ngoãn, dễ thương, dễ bảo, biết lắng nghe và vâng lời Thiên Chúa, vì sống như thế là đẹp lòng Thiên Chúa và ích lợi cho chính mình.
Là người con ngoan ngoãn, dễ bảo của Thiên Chúa thì phải biết trân trọng và thực thi mệnh lệnh của Chúa là kính Chúa yêu người như Chúa đã truyền dạy.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha yêu thương, kiên nhẫn và quảng đại vô cùng, Cha chẳng chấp tội phản nghịch, thói cứng đầu cứng cổ, óc hẹp hòi thiển cận của chúng con. Chúng con xin cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha. Chúng con nài xin Cha ban cho chúng con hai ơn này:
Một là ơn biết noi gương bắt chước Đức Giêsu Kitô, Con Một Yêu Dấu của Cha mà sống như những người con ngoan ngoãn và dễ bảo của Cha, và
Hai là ơn biết quí trọng Thánh Kinh là Lời Hằng Sống của Cha để chúng con tìm vào kho tàng ấy mà học biết Thánh Ý Cha và thi hành Thánh Ý ấy trong đời sống cá nhân, gia đình, cộng đoàn của chúng con. AMEN.
Thánh Phaolô được Chúa ban cho nhiều tài năng, được thấy nhiều điềm thiêng dấu lạ, nhưng: TN 14-B63
Thánh Phaolô được Chúa ban cho nhiều tài năng, được thấy nhiều điềm thiêng dấu lạ, nhưng ông đã phải chịu nhiều đau khổ. Ông xin Chúa cất đi những đau khổ. Chúa phán: "Ơn của Ta đã đủ cho con, vì sức mạnh của Ta biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối". Và Phaolô đã tâm sự: "Giờ đây tôi cảm thấy vui sướng khi bị sỉ nhục, hoạn nạn bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô..."
Esther, một thiếu nữ mù, tâm sự: "Con có nhiều mộng ước, từ khi bị mù con phải bỏ tất cả... Nhưng bất hạnh biến thành hồng phúc... Trước đó con sống không có Thiên Chúa, giờ đây nhờ đau khổ, con học biết Ngài, con tìm thấy Ngài, và con không thể sống không có Ngài... Trước đó niềm vui của con chợt đến chợt đi và không bao giờ con tìm thấy ý nghĩa trọn vẹn của hạnh phúc; giờ đây niềm hạnh phúc của con mãnh liệt, tràn đầy, sâu kín và thường xuyên... Lòng con rực sáng, hay nói đúng hơn, Chúa Giêsu rực sáng trong lòng con, mối hiệp thông giữa con và Thiên Chúa trở nên mãnh liệt... Chúa cất mất nơi con vài hạnh phúc tạm bợ để ban cho con chính Ngài... Trước đó có nhiều lúc con ngồi yên, không biết phải làm gì, giờ đây con cầu nguyện... Và khi con mở lòng ra, không qui về mình mà qui về chính Thiên Chúa, Chúa có thể xuất hiện. Lòng con cảm nghiệm cách mãnh liệt Chúa đang có mặt... Khi con đặt mọi sự trong tay Chúa, con cảm thấy gánh nặng biến mất... Khi cầu nguyện con yêu mến Ngài và bày tỏ cùng Ngài mọi sự... Căn phòng nhỏ bé của con biến thành nhà nguyện để con sống thân mật với Chúa và Mẹ Maria, và con cầu nguyện cho mọi người... Con nhìn mọi người cách khác, và con yêu mến tất cả..." (*)
Đau khổ là một phần quan trọng trong hành trình làm người tiến đến gặp gỡ Chúa và chuyển biến tâm hồn con người thành con Chúa... Đau khổ không bao giờ do Thiên Chúa. Chúa là Tình Yêu. Sau khi tạo dựng vũ trụ và con người, Chúa phán: "Rất tốt đẹp"... Nhưng ma quỷ đã đến gieo cỏ lùng vào vũ trụ và vào lòng người, và con người có tự do chọn lựa Thiên Chúa hay không... Nhưng Chúa dùng đau khổ biến thành hồng ân để con người tiến đến một niềm hạnh phúc đích thực và sâu sa hơn... Niềm đau khổ sau cùng là sự chết đã trở thành đôi cánh nhiệm mầu để con người bay vào thiên đàng...
Đứng trước đau khổ con người có nhiều cách nhìn: sợ hãi, chạy trốn, hoặc phản ứng, hoặc biến thành cơ hội để nên thánh... Thánh Faustina viết: "Giữa những gian truân và nghịch cảnh cam go nhất, tôi không đánh mất bình an nội tâm hoặc sự quân bình bên ngoài, tôi im lặng và cầu nguyện. Sự nhẫn nại sẽ đem lại sức mạnh cho linh hồn..."
Mỗi đau khổ xảy đến là một cơ hội ta chạy đến Cha đầy lòng thương xót và khôn ngoan, Ngài sẽ dạy ta yêu mến đau khổ. Ta sẽ nhìn đau khổ như Đức Giêsu Con yêu dấu của Ngài, như các thánh... Thánh Ignatius thành Antioch đã vui sướng trong cuộc tử đạo của Ngài: "Tôi nghe lời Chúa vang vọng, như dòng nước hằng sống chảy tràn trong hồn tôi: 'Hãy đến hưởng niềm vui của Cha người'."
Đời sống là một hành trình về nhà Cha. Khi gặp đau khổ, hay trong tuổi già, là lúc cần quay hướng sống về đời vĩnh cữu: Con người được tạo dựng để sống không phải để chết. Và sự sống tràn đầy là sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Hãy phó thác mọi sự và sự sống sau cùng trong tay Ngài, và để Ngài giúp ta thánh hoá đau khổ và trong hành trình cuối cùng về nhà Cha... ----------------------------------------------------- (*) Tóm tắt và phỏng theo bài dịch "Đức Tin Của Một Thiếu Nữ Mù" của Sr. Minh Nguyệt, TTDM số 314, tháng 2- 2004. Sr. Tố Nhung
Một nhận xét thực tế giữa xã hội mà ta thường nói: "Bụt nhà không thiêng" chứ không mấy ai: TN 14-B64
Một nhận xét thực tế giữa xã hội mà ta thường nói: "Bụt nhà không thiêng" chứ không mấy ai nghĩ "Vách đất có chạch vàng". Tâm trạng thời chúng ta cũng không khác thời Chúa Giêsu, khiến Ngài phải thốt lên: "Chẳng có ai được vinh danh nơi quê hương mình".
Người đồng hương với Chúa đã nhìn qua nhiều khía cạnh: thán phục - chần chờ xem xét - chê bai ngoài hành động - tìm cách hại Ngài.
Với người chân thành và tin tưởng vào Ngài thì nhận: Ngài là Đấng có quyền có phép - Ngài đã làm phép chữa họ khỏi - Họ được ơn nhận ra lời chân lý Ngài giảng là thật.
Với giới có quyền chức, có địa vị trong dân thì dèm chê vì Ngài vượt quyền họ - Có khả năng hơn họ - có tài đức hơn họ. Nói rõ ra: Họ sợ mất miếng, mắt phần, mất thế giá, mất danh vọng. Do đó họ nhìn nhận theo chiều đi xuống: "Ông ta là con bác thợ mộc và bà Maria, có ai mà chẳng hay biết thân thế và sự nghiệp của gia đình này nữa. Ngay đến anh em họ hàng như Jacobe, Juda, Simon... có tài trí gì đâu, toàn là người sinh trưởng trong làng, ai mà không lạ".
Nhưng họ không hiểu được rằng: Trong con người nghèo khó kia lại là Đấng mà nhiều người vấp phạm (Simeon), là Thiên Chúa nhập thể.
Trong chuyện "The Crossed Sword's - So kiếm" của một văn hào người Anh kể lại: Có một chàng trai nghèo nàn, chất phác được hoàng tử Wales (Hoan Lộ) hoán đổi cho vào cung, còn hoàng tử thì giả dạng du hành nhân gian, mục đích là để tìm hiểu và thông cảm với đời sống của người dân. Đến nơi nào hoàng tử cũng nói cho mọi người biết mình là con vua xứ Hoan Lộ và ngài cũng ra sức thi ân, giúp đỡ mọi người. Có nhiều người mến phục đúc tính từ tâm nhân hậu của Hoàng tử, nhưng cũng không thiếu những kẻ không tin là hoàng tử. Càng xưng mình ra họ càng hoài nghi hơn. Có nhiều lần họ đã bắt bỏ tù, đánh đập. Có lần bị đưa vào sào huyệt sống với những kẻ trộm cướp ....Nhưng dù bị cách nào chàng cũng cứ xưng mình là con vua, mặc dù chẳng ai tin.
Hoàng tử Giêsu cũng sống trong hoàn cảnh tương tự: Con Thiên Chúa ẩn mình trong gia đình đạm bạc, cha mẹ là người chân thành chất phác. Thử hỏi có Thiên Chúa nào lại làm quen với nhát búa, lằn cưa. Bởi đó sinh ra chuyện "Gần chùa gọi Phật bằng anh". Đi xa hơn nữa "Bụt nhà không thiêng". Họ lại còn lấy "phép vua thua lệ làng đề mà quyết đoán nữa."
Chúng ta nhiều lúc tin Chúa là Thiên Chúa quyền phép, nhưng đôi khi cũng cho rằng Chúa không thực tế, vì xin mà không cho như mình muốn. Cầu mãi mà cũng chẳng thấy động. Nhất là khi gặp khổ đau, hất hủi, buồn lòng....
Hãy bắt chước ông Job: Tạ ơn Chúa cả khi con đàn cháu đông, cả khi bị tịch thu hết mọi sự và ngay chính mình bị lở loét đến ngồi trên tro cho bớt ghê hồn. Ông vẫn vui và bình an nói lên được rằng: "Chúa cho Chúa cất là quyền của Ngài". Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho được bình tĩnh nhận định và sẵn sàng vâng phục ý Chúa cho xảy đến trong đời.
Ngày kia, có một anh chàng tên là Dương Bố, lúc ra khỏi nhà để đi thăm bạn bè, thì mặc bộ: TN 14-B65
Ngày kia, có một anh chàng tên là Dương Bố, lúc ra khỏi nhà để đi thăm bạn bè, thì mặc bộ đồ trắng, nhưng dọc đường, chẳng may gặp cơn mưa to, áo quần bị ướt đẫm, anh ta phải ghé vào nhà người quen, mượn tạm được một bộ đồ đen mặc đỡ. Khi trời hết mưa, anh ta trở về nhà, thì bị con chó bông nhà anh ta, xổ ra sủa ầm ĩ, xông tới muốn đớp anh ta, vì coi anh ta như một người xa lạ, khiến anh ta nổi xung đùng đùng, bèn vớ lấy cây gậy toan đập chết con chó một trận nên thân. May nhờ người anh ruột từ trong nhà bất ngờ bước ra, biết được sự thể công việc, nên khuyên can, Dương Bố mới dừng tay không rượt theo để đập chết con chó nữa.
Dương Bố nổi giận với con chó, đó là một điều nông nổi chẳng nên làm, vì nó là loài vật đâu có trí khôn, làm sao nó biết phân biệt người nhà với khách lạ, khi anh ta đang mặc bộ đồ mầu trắng lại đổi ra mầu đen. Nó là con vật, chỉ có thể phân biệt được người này với kẻ kia, qua cách phục sức của họ bên ngoài: Người ra đi, mặc bộ đồ trắng là người quen, còn người trở về đổi bộ đồ đen chắc là người lạ, có thế thôi.
Còn loài người chúng ta mới đáng kết tội; bởi lẽ, chúng ta là loài có trí khôn, biết suy nghĩ, phân biệt phải trái, điều lành điều dữ, điều thiện điều ác, điều chính điều tà... Thế nhưng, thường thường người ta cũng chỉ biết đánh giá trị kẻ khác, theo dáng vẻ bên ngoài của họ, y như con chó không nhìn nhận ra chủ nó, khi ông thay bộ đồ trắng ra bộ đồ đen. Đó mới chính là điều đáng trách khiến chúng ta phải suy nghĩ.
I. NHÃN QUAN HẸP HÒI KIÊU CĂNG
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, những người đồng hương với Chúa, mặc dầu rất sửng sốt khi nghe Chúa giảng dạy những lời khôn ngoan, chứng kiến biết bao việc lạ lùng Chúa đã thực hiện; nhưng với tâm trí kiêu căng tự phụ, thấy ai hơn mình thì ghen tương. Đúng như người ta nói: "Trâu cọc ghét trâu ăn". Lại thêm cái óc yên trí: "Bụt nhà không thiêng". Nên họ đã dám mỉa mai phạm thượng tới Chúa khi nói: "Ông này chẳng phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?" Khi tường thuật lại sự kiện này, Thánh Sử Marcô đã phải kết luận rằng: "Họ đã vấp phạm vì Người", để nói lên cái thực trạng cố chấp của họ.
Chúa Kitô đã thấu tỏ tâm tư của họ, nên Ngài đã công khai vạch trần cái tâm trạng chai đá cứng lòng tin của họ, bằng lời quả quyết: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình, họ hàng mình".
II. SỰ THẬT CỦA XÃ HỘI HÔM NAY
Thông thường trong đời sống hằng ngày của con người thời nay, cũng như người Do Thái thời Chúa Kitô, người ta thường mắc phải cái tật xấu này là hay xét đoán tha nhân theo trí óc hẹp hòi nông cạn của mình như lời Chúa đã nói: "Người ta chỉ xét đoán theo diện mạo bên ngoài, còn Thiên Chúa thì thấu suốt tận tâm can con người". Hơn nữa, người ta lại còn bị cái ác cảm, yên trí về địa vị, dòng tộc, gia cảnh của người khác, để coi thường, để dèm pha, để hạ giá và coi khinh tha nhân. Mặc dầu đôi khi, không thể phủ nhận được những điều hay, điều tốt nơi những việc làm của tha nhân, thì họ lại tìm cách cắt nghĩa khác theo ý nghĩ vạy vò của họ, để mặc cho những việc làm của tha nhân một hình thức không mấy tốt đẹp. Chẳng hạn, khi thấy người này làm việc thiện giúp đỡ những người nghèo túng, thiếu thốn thì lại mỉa mai cho họ là người khoe khoang. Khi thấy kẻ khác được thành công, được may mắn thì lại chụp mũ cho là do mánh khóe mưu mô mà được như thế... Những trường hợp tương tự như vậy, chúng ta thường thấy nơi xã hội loài người chúng ta ngày nay. Thật là bất công, khi thấy kẻ khác hơn mình, được danh giá địa vị hơn mình, được thành công may mắn hơn mình, đã không chung vui chia sẻ chúc mừng, lại còn ghen tương, dèm pha, hạ giá, mỉa mai, bêu xấu và mặc cho họ một chủ ý bất lương.
III. THÁI ĐỘ CỦA CON CÁI CHÚA
Dân Do Thái đã từng được nghe những lời giáo huấn khôn ngoan, những giáo lý cao siêu phát ra từ môi miệng Chúa Kitô, giúp con người đạt được hạnh phúc, làm cho xã hội được lành mạnh, khiến người ta biết sống tương thân tương ái hòa thuận thương yêu nhau, đến làm cho họ phải sửng sốt bỡ ngỡ. Thế rồi, họ còn được chứng kiến bao nhiêu phép lạ Chúa làm để tỏ lòng thương yêu họ, làm cho bánh hóa nhiều nuôi sống họ lúc bị đói lả; chữa lành bao nhiêu người ốm đau bệnh tật, phục sinh kẻ đã chết, khu trừ ma quỉ... Biết bao nhiêu phép lạ Chúa đã thực hiện tỏ lòng yêu thương dân tộc, tỏ quyền năng cao cả của một Thiên Chúa, để cứu dân tộc Ngài tuyển chọn khỏi ách nô lệ Ai Cập... Nhưng họ vốn cứng lòng tin, vốn ương nghạnh chống đối không tin nhận Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai nhân loại đợi trông. Chính vì lòng kiêu căng cố chấp mà họ đã không nhận ra Chúa Cứu Thế, bởi cuộc sống khiêm nhu, tầm thường, nghèo nàn của Chúa đã không hợp với nhãn quan lầm lạc của họ. Vì theo quan niệm tự mãn, tự cao, tự đại, vinh sang oai hùng của dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn, cần phải có một Chúa Cứu Thế uy hùng quyền năng cao cả, đến thống trị, trên Ngai Hoàng Đế Israel, bá chủ Thế giới.
Chính vì cái nhãn quan hẹp hòi nông cạn và quan niệm kiêu căng đó, mà họ đã chẳng khác gì như "Con chó" không nhận ra chủ, không nhận ra Chúa và bao nhiêu ơn phúc Chúa dành cho họ, là dân Ngài đã tuyển chọn.
Kết Luận
Chúng ta là con cái Chúa, đã được Chúa yêu thương tuyển chọn làm con, xin Chúa ban cho chúng ta được những ơn cần thiết sau đây:
1. Biết nhận ra Chúa để tôn thờ Ngài xứng đáng, biết nhận ra các ơn Chúa ban để cảm tạ Ngài, hầu sống xứng đáng hơn địa vị làm con cái Thiên Chúa với biết bao ơn phúc Ngài ban.
2. Học nơi Chúa bài học nhân từ, biết phán đoán cách khách quan và ngay lành cho tha nhân, nhìn nhận điều hay điều tốt của người khác, không chủ quan nông cạn, hẹp hòi xét đoán kết tội tha nhân theo nhãn quan bên ngoài và quan niệm vạy vò, ghen tương, độc đoán, kiêu căng của mình.
Chủ đề của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh là Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh: TN 14-B66
Chủ đề của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh là Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh. Như tuần trước đã chia sẻ, Chúa Kitô đã tái sinh con người bằng việc tỏ mình ra của Người, trước hết bằng “nước” qua các sinh động của nhân tính Người, rồi sau đó bằng “Thần Linh” khi Người từ trong kẻ chết sống lại. Việc Người tái sinh con người bằng “nước”, qua lời Người nói và việc Người làm, là để con người tin vào Người, là để con người được “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn 17:3). Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ con người có biết đáp lại Mạc Khải Thần Linh hay chăng, tức có biết chấp nhận những lời Người nói và việc Người làm hay chăng, đúng hơn có biết chấp nhận chính bản thân Người “là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16) hay chăng? Đó là vấn đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIV Thường Niên Năm B, vấn đề liên quan đến thái độ đáp ứng của dân Do Thái, một thái độ cứng lòng tin của dân này, một dân đã được Thiên Chúa tuyển chọn và được Ngài tỏ mình ra cho suốt giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ, một mạc khải đã lên đến tuyệt đỉnh nơi Lời Nhập Thể là Con Người Giêsu Nazaret, Vị Thiên Sai của Ngài.
Thật vậy, việc dân Do Thái đáp ứng Mạc Khải Thần Linh, (một Mạc Khải được thể hiện qua Giao Ước và Lề Luật của họ do Chúa đã tự ký kết với họ và ban bố cho họ), bằng thái độ cứng lòng của dân Do Thái đã được chính Thiên Chúa minh định qua miệng tiên tri Êzêkiên trong bài đọc một như sau: “Hỡi con người, Ta sai ngươi đến cùng những người Do Thái, đến cùng những kẻ phản loạn chống lại Ta; họ và cha ông họ đã phản chống Ta cho tới ngày hôm nay. Ta sai ngươi đến với họ là những kẻ dầy mặt và cứng lòng”. Thái độ thiếu đáp ứng đến cứng lòng này của thành phần dân tuyển chọn này được bộc lộ rất rõ ràng nơi thánh phần dân Do Thái ở quê quán của Vị Thiên Chúa Làm Người. Ở chỗ, trước Mạc Khải Thần Linh là Chúa Giêsu Kitô, họ đã đặt vấn đề: “Làm sao hắn lại có được tất cả những điều này nhỉ? … Khôn ngoan…? …. Các việc lạ lùng….? Hắn chẳng phải là một tay thợ mộc, đứa con trai của bà Maria, anh em của James, Joses, Judas và Simon hay sao? Và chị em của hắn không phải là dân làng của chúng ta hay sao?” Thánh Ký Marcô tóm lược nội dung thắc mắc của họ như sau: “Họ thấy Người quá sức đối với họ”. Đến nỗi, vị tác giả Phúc Âm này kết luận: “Người không làm một phép lạ nào ở đó, ngoại trừ chữa một ít người bị bệnh bằng cách đặt tay lên họ”. Chưa hết, “Người cảm thấy hết sức buồn phiền trước việc thiếu niềm tin của họ”.
Qua những câu Phúc Âm vừa trích dẫn trên đây, chúng ta thấy, trước hết, muốn thấy phép lạ hay muốn được hưởng phép lạ cần phải có đức tin. Việc Chúa Kitô thực sự có làm một vài phép lạ ở quê quán của Người bấy giờ chứng tỏ không phải tất cả mọi người không tin vào Người. Song kẻ tin vào người thường là thành phần xấu số bất hạnh, như thành phần khốn khổ, thành phần mong được Đấng Quyền Năng giải cứu cho khỏi cảnh khốn khổ của mình, thành phần Đấng Toàn Năng thực sự cũng muốn sử dụng hay lợi dụng để tỏ vinh hiển của Người ra, như trường hợp thiếu rượu ở tiệc cưới Cana (x Jn 2:11), hay trường hợp người mù từ lúc mới sinh (x Jn 9:3), nhất là trường hợp Lazarô ở Bêthania (x Jn 11:4). Tuy nhiên, khi tỏ mình ra cho một cá nhân nào hay nơi một cá nhân nào, Thiên Chúa cũng muốn qua cá nhân ấy tỏ mình ra cho những người khác nữa. Ba trường hợp vừa được viện dẫn trên đây đã cho thấy rõ ý định này của Chúa Giêsu. Thậm chí chính việc Người tỏ mình ra cho riêng chị phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp cũng đã trở thành động lực thúc đẩy chị làm cho dân làng chị tiếp đón Người để rồi đi đến chỗ tự động nhận biết Người (x Jn 4:39-42).
Nếu mục đích của Lời Nhập Thể là để “tỏ Cha ra” (Jn 1:18), và Người đã làm hết mình để cho con người nhận biết Cha qua Người, thì quả thực Người chỉ khao khát được mọi người nhận biết và yêu mến, đúng như Người đã có lần bày tỏ nỗi niềm thao thức của mình: “Thày đến để thắp sáng trên thế gian. Thày muốn cho nó bừng lên biết bao!” (Lk 12:49). Bởi thế, một khi không được mãn nguyện, về bản tính loài người, Người làm sao không thật sự cảm thấy buồn phiền, một nỗi buồn phiền sâu xa day dứt, đúng như Thánh Ký Marcô đã nhận định về Người ở gần cuối bài Phúc Âm “Người cảm thấy hết sức buồn phiền trước việc thiếu niềm tin của họ”. Thế nhưng, Người vẫn không nản. Chính vì thế mà Người càng phải nỗ lực tỏ mình ra hơn nữa cho con người, không ở nơi này thì ở nơi khác, không vào lúc này thì ở lúc kia, nhất là cho thành phần chiên lạc của Người, thành phần nghe thấy tiếng của Người và cũng là thành phần Người đến tìm kiếm cho bằng được, cho đến khi họ đi theo Người (x Jn 10:27,26). Đó là lý do, bài Phúc Âm đã kết luận bằng câu: “Thế nhưng, (tức là cho dù có cảm thấy hết sức buồn phiền về tình trạng thiếu lòng tin nơi quê quán của mình), Người đã rảo khắp các làng mạc lân cận để giảng dạy”.
Nếu Chúa Kitô đã khẳng định với người Do Thái: “Chiên Tôi thì nghe tiếng của Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Jn 10:27), và Người cũng đã khẳng định với tổng trấn Philatô: “Ai tìm kiếm chân lý thì nghe thấy tiếng của Tôi” (Jn 18:37), thì quả thực ai được nghe Lời Chúa đã là một đặc ân và ai nghe được Lời Chúa là càng là một ơn phúc chứ không phải chuyện thường. Tức là muốn nghe được Lời Chúa vô cùng sâu nhiệm như chính Thượng Trí của Người thì con người trần gian cần phải được Người ban cho chính Thần Linh của Người là Thần Chân Lý nữa, một Thần Linh Người quả thực đã thông ban cho Giáo Hội qua các vị tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần sau khi Người từ trong kẻ chết sống lại (x Jn 20:22), họ mới có thể phần nào thấu triệt “tất cả sự thật” (Jn 16:13), thấu triệt “những mạc khải phi thường” mà đạt đến Thực Tại Thần Linh.
Ở bài đọc thứ hai, qua bức thư thứ hai gửi cho giáo đoàn Côrintô, Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã cho thấy hậu quả và thái độ của chính bản thân mình, một con người đã nhận được “những mạc khải phi thường”, những mạc khải được thánh nhân cho biết là “nghe thấy những lời khôn tả không ai có thể nói” trên tầng trời thứ ba (x 2Cor 12:4). Hậu quả mà con người nhận được “những mạc khải phi thường” này phải chịu đó là, như đương sự thành thật chia sẻ trong bài đọc thứ hai: “một cái gia đâm vào xác thịt, một thần của Satan làm tôi bầm dập để giữ cho tôi khỏi kiêu hãnh”. Và thái độ của con người nhận được “những mạc khải phi thường” này cần phải tỏ ra là “bằng lòng với nỗi yếu hèn, với bạc đãi, với buồn đau, với bách hại và các thứ khốn khó vì Chúa Kitô. Vì khi tôi bất lực là lúc tôi mạnh mẽ”. Thái độ của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, một con người không hề ở với Chúa Kitô ngay từ đầu đến cuối như Mathias, vị tông đồ được chọn thay cho Giuđa (x Acts 1:21-22), nhưng vẫn được gọi là Tông Đồ, tức thuộc về thành phần chứng nhân tiên khởi, thành phần phải hội đủ điều kiện được Chúa Kitô đích thân tỏ mình ra cho và trực tiếp sai đi, vì con người này cũng được chính Chúa Kitô tỏ mình và sai đi (x Gal 1:12, 16; Acts 9:3-6, 13:2-3), thực sự là tinh thần của một người môn đệ đích thực của Chúa Kitô, một người môn đệ sau khi nhận được những mạc khải phi thường thì vì Chúa mang đi chia sẻ, bất chấp mọi khó khăn thử thách.
Ở đầu bài Phúc Âm Chúa Nhật XIV năm B cũng nhắc đến sự kiện các môn đệ theo Chúa Giêsu về quê quán của Người, thành phần đi theo Người ấy không thể nào không chứng kiến thấy nỗi khổ tâm buồn phiền của Thày mình trước tình trạng cứng lòng tin nơi dân làng của Thày, hay nói cách khác, tình trạng có vẻ thất bại của Thày, nhưng đồng thời các vị cũng chứng kiến thấy thái độ hăng say không nản chí của Thày, như cuối bài Phúc Âm nói tới, trong việc hoàn thành sứ vụ chứng nhân của Người về chính bản thân Người và về Cha của Người. Các môn đệ được Chúa Kitô tuyển chọn để sống sát bên Người không phải chỉ để nghe lời Người nói và thấy việc Người làm, mà còn để thấy được tinh thần sống của Người nữa hầu bắt chước mà làm theo, như Người khẳng định với các vị sau khi làm gương phục vụ qua việc rửa chân cho các vị trước Bữa Tiệc Ly (x Jn 13:15).
Tóm lại, tất cả những gì phát xuất từ Chúa Kitô là Lời Nhập Thể đều là “những mạc khải phi thường”, những mạc khải trước hết được tỏ ra cho thành phần môn đệ của Người (x Mt 13:16-17), để họ có thể trở thành những chứng nhân của Thày (x Lk 24:48), thành phần sẽ được Người sai đi rao giảng ngay khi Người còn sống, như bài Phúc Âm tuần tới nói đến…
Người ta, ai cũng yêu mến quê hương, yêu mến nơi sinh trưởng, nơi chôn nhau cắt rốn của: TN 14-B67
Người ta, ai cũng yêu mến quê hương, yêu mến nơi sinh trưởng, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Nhưng tình cảm người đồng hương dành cho mình thì khác, đôi khi phải chấp nhận chân lý bất hủ của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay là "không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình". Đây cũng là một quan niệm cố hữu bình dân: "Bụt nhà không thiêng". Chúa Giêsu đã tuyên bố chân lý bất hủ này về chính bản thân Ngài tại quê hương Nagiareth của Ngài. Chúng ta hãy xem xét và sửa đổi quan niệm sai lệch để vui lòng tiến bước trong đường lối và ân sủng của Thiên Chúa.
Người ta thường dễ mắc phải sai lầm do thành kiến, do cái nhìn bề ngoài của mình nên dễ rơi vào lối suy nghĩ coi thường người khác "Bụt nhà không thiêng". Điều này dẫn đến những lời nói, thái độ và hành động lệch lạc gây ảnh hưởng không tốt cho cuộc sống. Thật thế, Phúc âm hôm nay kể lại, Chúa Giêsu trở về quê hương Nagiareth của mình, trong tư cách là một ngôn sứ, là một bậc thầy. Ngài trở về lần này có các môn đệ tháp tùng. Vào ngày Sabat, Ngài vào hội đường đọc sách Thánh và công bố giáo lý của mình. Dân làng ngạc nhiên. Họ bảo nhau: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?" Và họ vấp ngã vì Người. (Mc 6, 2 - 3). Người dân làng Nagiareth ngạc nhiên, vì họ thấy Ngài không đi học ở trường lớp nào mà sao lại có những lời lẽ khôn ngoan, cao siêu, mới lạ. Mặt khác, biết quá rõ về thân thế và lý lịch của Đức Giêsu, biết quá rõ họ hàng của Ngài nên họ không thể nào để cho khôn ngoan và quyền năng của Ngài lay chuyển họ. Họ thấy Ngài chỉ là con bà Maria và ông Giuse thợ mộc, bản thân Ngài cũng chỉ là một anh "thợ mộc con", mà sao có thể giỏi như thế? một người bình thường nếu không muốn nói là dân quê, dốt nát, nghèo hèn,...Càng nghĩ đến thân thế, nguồn gốc, địa vị xã hội và họ hàng Ngài, họ càng thấy khó chịu, nên họ có vẻ châm biếm khi gọi Ngài là thợ mộc. Một người như vậy mà có thể là ngôn sứ, là Đấng Mêsia ư ? Trăm lần không, ngàn lần không và họ đã bị vấp phạm, bị chạm tự ái. Họ không thể công nhận một người như thế làm ngôn sứ, làm Đấng Mêsia của họ, cho dù Ngài ăn nói giỏi hay làm được phép lạ cũng thế. Từ đó, sự hiện diện của Ngài khiến họ không thể chịu nổi. Họ không thể ngờ được giữa bụi đất lại có kim cương, họ không thể hiểu được nơi Chúa có hai bản tính, họ không thể nhận ra yếu tố Thiên Chúa và con người, hữu hạn và vĩnh cửu, trời và đất, hạnh phúc và đau khổ giao hòa lại trong một thực tại duy nhất, là nơi con người Chúa Giêsu. Đó là điều làm cho họ vấp phạm, họ khinh thường Chúa và không thiết nghe lời chân lý của Ngài.
Cái nhìn thiên kiến làm cho họ lệch lạc. Theo họ, Đấng Thiên Sai, phải xuất thân từ dòng dõi Vua Chúa chẳng hạn như Vua Đavit, sống trong cung điện hay trong hàng tư tế chính hiệu hay phải là thuộc người có đầy quyền uy thế lực nổi tiếng. Thế nhưng rõ ràng trước mắt họ đây là một tên thợ mộc Giêsu "không có gì hay" chỉ là người thuộc giới nghèo hèn, không có lấy một tiếng tăm, không có địa vị gì trong xã hội cả, một người quá tầm thường! Như thế, từ lý lịch gia đình đến nghề nghiệp và địa vị xã hội, tất cả rõ ràng như ban ngày. Họ quá biết về Ngài. Điều này đã trở thành chướng ngại cho họ tin Ngài là Đấng Thiên Sai. Vì thế, họ nhạo cười Ngài, không đón nhận Ngài, quay lưng lại với cả Thiên Chúa, Đấng sai Ngài đến, quay lưng lại với sứ mạng Cứu Thế mà Thiên Chúa uỷ thác. Do đó, một lần nữa người đồng hương đã chứng tỏ thái độ kiêu ngạo, phản loạn chống lại Thiên Chúa. Đầy cũng là hình ảnh biểu trưng cho con người thời đại.
Ở đây Thánh Marco cho thấy thái độ của dân làng Nagiareth đối với Chúa Giêsu như thái độ chung của loài người. Ngài là nạn nhân của chủ nghĩa lý lịch như Ngài đã tuyên bố sau thái độ này: " Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi" (Mc 6, 4). Những người đồng hương, bà con của Ngài đã không muốn trở thành bà con đích thật của Ngài nhờ lòng tin, không muốn nhìn nhận Ngài là Đấng Thiên Sai, là Vị Cứu Tinh.
Người Công Giáo nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta là những người đồng hương mới của Chúa Giêsu. Chúng ta trở thành anh em của Chúa Giêsu trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Có thể, chúng ta chẳng còn nhận ra sự khôn ngoan của Chúa trong Phúc âm, trong Lời Ngài, trong quyền năng cứu độ của Chúa trong Giáo Hội và các Bí tích. Rất có thể, chúng ta đã và đang đi tìm sự khôn ngoan, tìm ơn cứu độ ở những người khác, nơi khác. Khi đó, chúng ta làm như thể Chúa Giêsu cũng chỉ là bác thợ mộc làng Nagiareth không hơn không kém, một người Do Thái của thế kỷ thứ nhất. Phúc âm hôm nay một lần nữa mời gọi chúng ta xác định lập trường, thái độ của mình đối với Đức Giêsu Kitô. Đừng đánh giá người ta theo cái nhìn định kiến, theo cái nhìn lý lịch, càng không thể nhìn Đức Giêsu bằng con mắt giống như người Do Thái năm xưa. Thiên Chúa đến chia sẻ thân phận nghèo hèn của con người nơi Đức Giêsu Nagiareth. Thiên Chúa đã mạc khải tình thương và ơn cứu độ của ngài không phải ở bề ngoài, không ở giàu sang danh vọng, càng không giống theo kiểu lý lịch của con người nhưng ở trong người nghèo khổ, trong người bị bỏ rơi...
Ở đây niềm tin mời gọi chúng ta phải vượt qua dáng vẻ bề ngoài để đạt tới mầu nhiệm thâm sâu bên trong của Chúa Giêsu. Ngài là Đấng Thiên Sai, là Vị Cứu Tinh, là Đấng cứu chuộc nhân loại có một không hai trong thế giới. Với cuộc khổ nạn và phục sinh của mình, Chúa Giêsu Kitô đã nói lên tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa tình yêu đối với nhân loại, đối với mọi người, kể cả những kẻ chống đối, kẻ phản bội tình yêu Ngài. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không phải là một thất bại nhưng là một chiến thắng, chiến thắng của tình yêu, là quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện trong sự hèn yếu của con người
Chúng ta có quyền trách dân làng Nagiareth quá vội vàng hoặc tiếc thay cho họ vì họ đã bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, chúng ta sẽ tự trách mình, và còn tiếc nuối biết bao cơ may trong đời chúng ta đã đánh mất vì quan niệm hay cái nhìn hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta kiểm điểm về cách chúng ta phán đoán và đánh giá trị người khác, chúng ta cũng đã nhiều lần phán đoán hay đánh giá người khác hoặc vội vàng, hấp tấp, hồ đồ, hoặc không trung thực vì thành kiến, vì tự ái, vì ganh tị, đôi khi còn bài bác, dèm pha nữa. Chúng ta hãy kiểm điểm và sửa chữa lại tật xấu này để mối tương giao của chúng ta với mọi người được tốt đẹp hơn. Hơn nữa, thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả không hay, sai lầm hoặc nguy hại. Chẳng hạn, yêu nên tốt, ghét nên xấu: "Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng". Lòng chúng ta có khuynh hướng mạnh về điều gì, thì mắt chúng ta hay tìm, trí chúng ta hay tưởng và rồi chúng ta phán đoán người khác cũng giống như chúng ta và hơi chút là chúng ta đoán về đàng đó liền. Chúng ta thường to tiếng lên án lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Đánh giá một người theo bên ngoài có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm. Hẳn chúng ta cũng không quên câu nói: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn", "Xanh vỏ mà đỏ lòng". Cho nên, đánh giá một người mà chỉ căn cứ vào bề ngoài có thể là nông nổi, thiển cận và nguy hiểm.
Tóm lại, dân làng Nagiareth đã không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng cứu tinh. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về tha nhân, để có được một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và một đời sống yêu thương cởi mở hơn.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thiên Chúa của chúng con. Chúng con tin mạnh mẽ và hoàn toàn tín thác vào Chúa. Xin Chúa giúp chúng con can đảm loại bỏ thành kiến, loại bỏ quan niệm đánh giá và hành động theo cái nhìn bề ngoài để chúng con luôn nhìn nhận giá trị đúng mức những gì Chúa thương dành cho chúng con và để chúng con nhìn thấy những giá trị cao quý nơi tha nhân. Amen.
1.LỜI CHÚA: Họ nói: "Nào ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a sao ?" (Mc 6,3).
2.CÂU CHUYỆN: TÌNH THƯƠNG CHINH PHỤC LÒNG NGƯỜI
Vào năm 1960, một cuộc bách hại đạo Công Giáo bùng lên tại nước Su-đăng thuộc Phi Châu: TN 14-B68
Vào năm 1960, một cuộc bách hại đạo Công Giáo bùng lên tại nước Su-đăng thuộc Phi Châu. Một sinh viên Công giáo da đen tên là Ta-ban đã bỏ nhà chạy sang nước láng giềng U-gan-đa lánh nạn. Trong thời gian ở đây, Ta-ban đã được nhận vào chủng viện và 7 năm sau, anh được thụ phong Linh Mục. Khi tình hình ở Su Đăng lắng dịu, tân linh mục Ta-ban quyết định trở lại quê nhà để thi hành sứ mệnh linh mục của mình. Cha được Bề trên bổ nhiệm coi sóc một giáo xứ vùng Pa-lo-ta-ka. Tuy nhiên, giáo dân ở đây lại hoài nghi về chức linh mục của cha như chính ngài đã thuật lại sự kiện ấy như sau: "Dân chúng ngờ vực nhìn tôi và nói: "Này anh bạn da đen kia ! Anh nói cái gì vậy ? Anh mà là Linh mục ư ? Thật là khó tin !".
Thực ra trước đây, tại Su Đăng chưa bao giờ xuất hiện một Linh mục nào người da đen cả. Giáo xứ luôn được các Linh mục thừa sai da trắng đến chăm sóc và chia sẻ nhiều thực phẩm, quần áo và thuốc men. Còn bây giờ cha Ta-ban lại là một người da đen nghèo khó giống như họ, nên chẳng có gì để phân phát như các linh mục da trắng kia. Tình hình lại càng phức tạp thêm, khi cha Ta-ban bắt đầu canh tân phụng vụ Thánh lễ theo đường hướng Công đồng Va-ti-can II. Giáo dân đã xầm xì với nhau: "Ông linh mục da đen này còn bày đặt làm lễ bằng tiếng bản xứ thay vì bằng tiếng La tinh. Chắc ông ta không rành tiếng La tinh nên mới làm như vậy ! Không biết ông ta là Linh mục thật hay giả ?". Phải mất 10 năm, sau bao nhiêu vất vả để phục vụ giáo xứ, chịu đựng bao nhiêu sự miệt thị khinh dể, cuối cùng cha Ta-ban mới được giáo dân thừa nhận là Cha Sở của họ.
3.SUY NIỆM:
- Câu chuyện về Linh mục Ta-ban giúp chúng ta hiểu lý do tại sao Đức Giê-su bị dân làng Na-da-rét không tin Người là Đấng Thiên Sai, dù thán phục tài giảng đạo và quyền năng chữa bệnh của Người. Là do họ vấp phạm là vì gia thế hèn kém của Người. Họ nói: "Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? (x Mc 6,2-3). Thời Giáo hội sơ khai, cũng có một nhân vật tên là Xen-xút (Celsus) luôn thù ghét Ki-tô giáo và nhiều lần chế diễu các Ki-tô hữu như sau: "Giê-su Đấng sáng lập của các người chỉ là một gã thợ mộc dốt nát bần hàn, xuất thân từ làng Na-da-rét tầm thường ! Thật khó mà chấp nhận được một Đấng Cứu Thế lại xuất thân từ một xưởng gỗ nhỏ bẻ, phải vất vả kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động hằng ngày như thế !"
- Đức Giê-su phán: "Trò không hơn Thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như Thầy, tớ được như chủ đã là khá lắm rồi !". Ngày nay chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi bị người đời chống đối do chúng ta không chấp nhận phá thai, ly dị, hay khi ta chống lại những bất công mà các phụ nữ và trẻ em đang phải chịu đựng. Chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi có những Ki-tô hữu phản đối chúng ta vì chúng ta khác họ về chủng tộc, tiếng nói, quốc gia hay về tình trạng kinh tế. Cuối cùng, chúng ta cũng đừng ngạc nhiên nếu đôi khi ta bị những người thân ruột thịt chống lại ta, vì chúng ta đã tin Đức Giê-su, như Người đã báo trước: "Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai và con trai chống lại cha, Mẹ chống lại con gái và con gái chống lại mẹ ; Mẹ chồng chống lại nàng dâu và nàng dâu chống lại mẹ chồng" (Lc 12,53). Trong mọi trường hợp, chúng ta cần vững lòng tin cậy vào Thiên Chúa. Người sẽ không để chúng ta phải chịu đựng quá sức chúng ta.
4.THẢO LUẬN: Trong cuộc sống, các tín hữu cần có cách ứng xử thế nào trước thái độ nghi ngờ, khinh thường hay những lời nói khiếm nhã khích bác của những kẻ thù ghét chống lại Chúa Giêsu và Hội thánh của Người ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Là nhà giảng thuyết tài năng, thế mà Chúa cũng đành chấp nhận thất bại trước sự cứng tin của người đồng hương và bà con họ hàng. Nhiều lần chúng con cũng đành phải thất bại khi bị người lương từ chối nói chuyện về Chúa và có khi họ còn thốt ra những lời xúc phạm đến Chúa và Hội Thánh... Xin ban cho chúng con ơn kiên nhẫn chịu đựng những khó khăn gặp phải trên bước đường sống và rao giảng Tin Mừng. Cho chúng con biết tạ ơn Chúa khi vui lúc buồn, khi thành công được người lắng nghe cũng như lúc bị từ chối xua đuổi. Xin cho chúng con biết không ngừng tạ ơn vì biết rằng: Thất bại là mẹ thành công, và chính Chúa xưa cũng đã từng chịu thất bại trước sự cứng tin của người đồng hương.
Trước đây, trên một trang báo Tuổi Trẻ, người ta có đăng hình hai người nhạc sĩ già, hai: TN 14-B69
Trước đây, trên một trang báo Tuổi Trẻ, người ta có đăng hình hai người nhạc sĩ già, hai cây cổ thụ của âm nhạc Việt Nam, đó là nhạc sĩ Phạm Duy và nhạc sĩ Trần Văn Khê. Nội dung bài báo nói lên ước mơ của nhạc sĩ Phạm Duy là được trở về lại quê hương Việt Nam, định cư trên mảnh đất thân yêu này và góp phần làm một điều gì đó cho quê hương đất nước, rồi bài báo ấy kết luận: ai đi xa xứ mà không ao ước được trở lại quê hương của mình. Nếu tâm tình của nhạc sĩ Phạm Duy là như vậy thì chẳng có gì là ngạc nhiên cả, bởi nó rất là con người, rất là nhân bản. Con người có nguồn cội, có quê hương, dù thế nào đi nữa thì con người cũng không thể quên được quê hương của mình.
Quê hương, hai tiếng thân thương và ngọt ngào, thế nhưng quê hương đôi khi cũng làm cho con tim của con người rỉ máu. Chúa Giêsu đã nhiều lần về quê, nhưng lần nào quê hương cũng để lại nơi Ngài một nỗi niềm chua xót, đến nổi Ngài phải đau đớn mà thốt lên: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi". Họ khước từ Chúa Giêsu, có lẽ một phần bởi Chúa Giêsu không cùng quan điểm với họ, nhưng phần khác, vì họ không thể chấp nhận "con một ông thợ mộc lại có thể làm lớn", vì họ nghĩ rằng "con vua thì lại làm vua, con sãi ở Chùa thì quét lá đa". Chính vì thế, Chúa Giêsu đã bị những người đồng hương của Ngài khước từ, chống đối mãnh liệt.
Từ kinh nghiệm của Chúa Giêsu khi trở về quê hương phải chăng cũng là kinh nghiệm của chúng ta khi sống trong một cộng đoàn họ đạo. Một cộng đoàn hiệp thông, một cộng đoàn yêu thương, những từ ngữ rất hay, rất đẹp và rất tình người. Thế nhưng, chẳng phải chúng ta cũng đã từng cảm nghiệm được rằng: Nơi cộng đoàn họ đạo, chúng ta tìm được sự cảm thông, tìm được sự lắng nghe, chia sẻ. Cộng đoàn họ đạo có thể là nơi người anh chị em của mình được chữa lành, nhưng cộng đoàn họ đạo cũng có thể làm cho vết thương của người anh chị em mình mãi rỉ máu.
Trong cuộc sống đời thường, có lẽ chúng ta cũng hiểu được những cái mất đáng thương hơn là đáng trách, có những lầm lỡ đáng tiếc hơn là đáng tội. Với những người lầm lỡ, cuộc đời đã lưu lại nơi tâm hồn họ quá nhiều những vết thương rồi, chúng ta đâu cần phải góp phần làm cho những vết thương trong họ thêm nhức nhối! Chỉ sự cứu vớt mới có khả năng chữa lành, chỉ sự đón nhận quảng đại mới mở ra cho người ta một con đường sống, một chân trời hy vọng. Cho nên, cộng đoàn họ đạo có thể vực dậy một người anh chị em của mình sa ngã, nhưng cộng đoàn họ đạo cũng có thể đẩy người anh chị em đang chao đảo xuống tận đáy vực sâu.
Và đồng thời, chuyện của những người đồng hương của Chúa Giêsu đã khước từ Ngài cũng là chuyện của cái nhìn. Sở dĩ, họ không công nhận Chúa Giêsu là ngôn sứ, là Đấng Cứu Thế, bởi họ đã có cái nhìn khép kín Chúa Giêsu trong những quan niệm của họ, họ không vượt qua được cái nhìn về quá khứ của Chúa Giêsu, về mối dây hàng xóm láng giềng. Và chính từ cái nhìn khép kín về Chúa Giêsu như vậy, cho dù Chúa Giêsu có đến với họ, họ cũng chẳng nhận được ơn nào của Ngài.
Cũng từ kinh nghiệm về cái nhìn khép kín của những người đồng hương với Chúa Giêsu, chẳng phải cũng là kinh nghiệm của chúng ta về cái nhìn khép kín của mình đối với người khác hay sao?
Trong thực tế của cuộc đời, khi nhìn về tha nhân, xem ra chúng ta vẫn hay khép kín người anh chị em của mình trong quá khứ hơn là mở ra với tương lai. Có phải biết bao nhiêu lần trong đời, chúng ta đã từng khóa chặt người anh chị em của mình trong cái quá khứ lỗi lầm, nhiều khi chỉ là một lỗi lầm nhỏ trong đời. Vậy mà chúng ta lấy lỗi lầm ấy bọc kín quá khứ của người anh chị em lại và cứ nhìn họ là nhìn vào lỗi lầm ấy mà phủ nhận, phán đoán và đánh giá chính con người của họ. Chúng ta cũng thường nghe nói: "Mỗi thánh nhân đều có một quá khứ, mỗi tội nhân đều có một tương lai". Thế mà dường như chúng ta dễ dàng chấp nhận cái quá khứ không đẹp của một thánh nhân hơn là tin vào cái tương lai tươi sáng của một người tội nhân. Như vậy chẳng bất công lắm sao?
Chính từ những kinh nghiệm đó mà Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần phải có một cái nhìn lạc quan hơn để dám tin vào những giá trị tốt đẹp nơi cuộc đời, nơi con người. Cũng như câu ngạn ngữ: "Chẳng có hồng nào mà không có gai, nhưng trong bụi gai ấy lại có đóa hồng". Giữa những lầm lỗi thiếu xót của con người thì vẫn luôn có những giá trị tốt đẹp nơi cuộc sống. Thực ra, làm người ai cũng được ban cho nhiều nét đẹp riêng. Có những nét đẹp bị bao bọc bởi cái vỏ bề ngoài sần sùi xấu xí. Để có thể nhìn ra giá trị thực ẩn đằng sau cái lớp vỏ ấy, chúng ta cần phải có một cặp mắt tinh tường và một con tim yêu chuộng cái đẹp. Thật vậy, công trình của người thợ mộc bao giờ cũng bắt đầu với những khúc gỗ sần sùi xấu xí. Nhìn bề ngoài, người ta dễ tưởng rằng chúng vô dụng, chỉ có vứt đi. Phải có cặp mắt tinh tường của người thợ, người ta mới nhận ra được giá trị thực của khúc gỗ. Cũng vậy, để có thể nhìn ra giá trị tốt của một con người đã có những sai lầm lỗi phạm. Chúng ta cần phải có cái nhìn của một con tim bao dung và tha thứ.
Qua Lời Chúa hôm nay, từ những kinh nghiệm của Chúa Giêsu bị khước từ khi trở về quê hương, tôi xin gợi lên một vài kinh nghiệm về đời sống cộng đoàn họ đạo, về cái nhìn của chúng ta đối với người khác, để mỗi người chúng ta sống lại, ý thức lại đời sống của mình, để có thể xây dựng đời sống cộng đoàn họ đạo của chúng ta ngày càng thật sự trở thành một cộng đoàn hiệp thông, một cộng đoàn yêu thương trong tình yêu của Chúa Giêsu. Amen
Sau một thời gian lấy nhau, vợ Mozart ham muốn những thứ khác trên đời, ân hận về sự chọn: TN 14-B70
Sau một thời gian lấy nhau, vợ Mozart ham muốn những thứ khác trên đời, ân hận về sự chọn lựa của mình, nên quyết định li dị với ông. Khi ông nổi tiếng khắp thế giới, bà nói: "Lúc trước tôi chẳng thấy ông ta có gì nổi bật. Tôi chỉ thấy đó là một người nhỏ con."
Với Chúa Giêsu cũng vậy. Nhiều người chẳng thấy nơi Ngài có gì là xinh đẹp, đáng mến, nên họ thất vọng và loại trừ Ngài. Điều đau lòng là chính những người thân, những người hàng xóm loại trừ Ngài. Bài Tin Mừng hôm nay giống như lời tiên tri báo trước về số phận những người đi rao giảng phúc âm "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi". Như bà vợ Mozart không thấy được những điều tốt đẹp nơi chồng mình vì bà ta chỉ nhìn thấy được vẻ bên ngoài mà thôi. Còn những người từ chối không tiếp đón Đức Giêsu vì họ bị những thành kiến che phủ.
Thành kiến thường được phát xuất từ lòng ganh tị, ghen ghét. Chính lòng ghen tỵ là một trong những nguyên nhân khiến "các tiên tri không được kính trọng ở quê hương mình" (Lc.4,24). Mc. Kenzie nói: "Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tỵ nhìn bằng kính hiển vi". Chứ khi người ta thương nhau thì con mắt của họ không có chữ thành kiến đò. Ban đầu, Khi mới trở về quê hương người ta rất ấn tượng về Ngài, thậm chí " Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên". Phải chi họ cứ sống trong niềm cảm phục vui mừng về điều đó và cởi mở với những điều Người đã ban tặng họ thì tốt biết mấy. Ngược lại, họ để thái độ của mình đi lệch hướng . Từ cảm phục thông thường người ta đi đến yêu thương, còn họ từ cảm phục lại đi đến thái độ ganh tị. Họ hỏi: "Bởi đâu ông ta được như thế?" . câu hỏi này không phải là câu hỏi của sự thắc mắc, hiếu kỳ, mà là câu hỏi tràn đầy múi vị thành kiến nhằm hạ bệ người khác. Bản thân ta có là chi mà dám đặt giới hạn cho người khác Người dân làng Nagiarét mang nặng thành kiến về Đức Giêsu. Dưới mắt họ, Người chỉ là một anh thợ mộc tầm thường, nghèo nàn và chẳng có gì đặc biệt. Người xuất thân trong một gia đình nghèo hèn, không danh giá. Họ biết rõ cha mẹ, họ hàng của Người. Thấy Người làm được những việc kỳ lạ. Nghe miệng Người giảng những điều khôn ngoan. Họ ngạc nhiên, nhưng không tin. Đối với họ, Đấng Cứu Thế phải là một Đấng phi thường, không ai biết rõ nguồn gốc. Hơn nữa, Đấng Cứu Thế phải oai phong lẫm liệt, đánh đông dẹp bắc rồi lên ngôi vua trị vì thiên hạ. Đàng này, Đức Giêsu thì họ biết rõ nguồn gốc. Tướng mạo không giống như hình ảnh Đấng Cứu Thế mà họ nuôi trong đầu óc. Làm họ không tin nên Đức Giêsu cũng không thể làm phép lạ nào ở đó. Thường chúng ta không chịu thừa nhận quà tặng và tài năng của những người gần gũi với chúng ta, trong nhà chúng ta hoặc khu xóm chúng ta. Chúng ta không đánh giá đúng hoặc chấp nhận họ và do đó giới hạn khả năng của họ. Chúng ta không cho họ một cơ hội. Tệ hơn, chúng ta hạ thấp họ. Chúng ta có thái độ bất công rất lớn với họ. Và chúng ta cũng chịu thiệt hại bởi vì chúng ta không được hưởng lợi từ lòng tốt và quà tặng của họ. Chắc chắn Đức Giêsu rất thương mến những người thân thuộc, những người hàng xóm mình, Người rất muốn giúp đỡ họ nhưng chính Người cũng chịu "bó tay". Như thánh Augustinô đã từng nói "Khi Chúa dựng nên con Chúa không hỏi con, nhưng khi Ngài cứu chuộc con ngài cần sự đồng ý của con" . Nghĩa là khi cứu mình thì điều kiện đầu tiên Thiên Chúa cần chính là sự đồng ý của mình. Do đó, Thiên Chúa cũng không làm được việc gì cho chúng ta khi mà chúng ta không chịu tiếp nhận Ngài.
Lạy Chúa, Chỉ có yêu thương mới xoá bỏ được hận thù, xoá bỏ được thành kiến, xin cho chúng con biết nhìn anh em bằng cặp mắt tôn trọng, chấp nhận khác biệt nơi họ, xoá tan những thành kiến để ngày chúng con càng gần nhau và gần Chúa hơn. Amen
Ngay khi Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường quê nhà, lúc đầu họ có ấn tượng thậm chí: TN 14-B71
Ngay khi Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường quê nhà, lúc đầu họ có ấn tượng thậm chí họ ngạc nhiên. Tuy nhiên thay vì vui mừng về điều đó và cởi mở với những điều Người làm cho họ, họ lại hỏi: "Bởi đâu ông ta được như thế?". Ở đây chúng ta gặp một mầu nhiệm về sự phát triển của con người. Chúng ta là ai mà đặt giới hạn và biên giới cho khả năng của người khác?
Người dân Nagiarét nhớ lại nguồn gốc của Đức Giêsu. Người là con một bác thợ tầm thường, họ biết rõ gia đình của Người. Thật vậy, họ nói: "Ông ấy nghĩ mình là ai?" Họ cảm thấy mình đã nắm rõ về Người. Họ đặt ra giới hạn cho Người. Một thái độ như thế không cho phép sự trưởng thành và phát triển.
Họ từ chối tin Người. Họ từ chối nhìn Người một cách nghiêm túc. Bởi thái độ của họ, họ làm cho Người không thể làm gì cho họ, và như thế họ không hưởng được ơn ích từ cuộc viếng thăm của Người.
Đây là một sự thật quen thuộc nhưng đáng buồn - Ngôn sứ không được quê hương mình tôn trọng. Thường chúng ta không tôn trọng tài năng của những người gần gũi với chúng ta, trong nhà chúng ta hoặc khu xóm chúng ta. Chúng ta không đánh giá đúng hoặc chấp nhận họ và do đó giới hạn khả năng của họ. Chúng ta không cho họ một cơ hội. Tệ hơn, chúng ta hạ thấp họ. Chúng ta có thái độ bất công rất lớn với họ. Và rồi chúng ta cũng chịu thiệt thòi bởi chúng ta không được hưởng lợi từ lòng tốt của họ.
Bị chối bỏ là một điều thương tổn. Nhưng đặc biệt thương tổn khi bị những người thân chối bỏ. Đức Giêsu ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Người rất muốn giúp đỡ họ nhưng chính Người bó tay!. Đức Giêsu buồn rầu vì sự việc đó nhưng Người không tức giận. Sự chối bỏ thường dễ dàng làm cho người ta tức giận.
Chúng ta đều có chút ít kinh nghiệm về điều đó. Chúng ta muốn giúp đỡ một người nào đó nhưng người ấy khước từ sự giúp đỡ của chúng ta. Chúng ta cảm thấy bực bội và vô dụng. Khi gặp phải sự chối bỏ, chúng ta có thể bị cám dỗ nói rằng: "Vậy thì đừng hòng tôi giúp cho". Chúng ta quyết định không giúp đỡ một ai nữa. Điều này làm người ta đau khổ.
Đức Giêsu đã không phản ứng như thế. Người không trở nên cay cú. Người đã làm điều nhỏ bé còn có thể làm được ở Nagiarét. Người chữa lành một vài bệnh nhân - Rồi người quyết định đem ánh sáng và món quà của Người đi nơi khác.
Lạy Chúa, xin cho chúng con có tấm lòng của Chúa khi đối xử với người khác dù họ làm cho chúng con không hài lòng.
Con người dễ có định kiến về tha nhân. Khi một vĩ nhân về quê hương, thông thường dân: TN 14-B72
Con người dễ có định kiến về tha nhân. Khi một vĩ nhân về quê hương, thông thường dân làng tìm đến vì tò mò hơn là vì kính nể. Nếu ai không có những suy nghĩ sâu xa thì sẽ không xem trọng vĩ nhân đó bao nhiêu, nhất là khi người đó xuất thân từ gia đình nghèo, không có địa vị gì ở quê hương. Chúa Giêsu trở về quê nhà cũng bị dân làng nhìn theo kiểu đó: Giêsu, con của ông thợ mộc Giuse chứ có gì hay đâu và họ không muốn thay đổi quan niệm về Người. Chúa Giêsu biết rõ tâm lý của họ, nên đã nói: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình (Lc 4,24). Tuy Chúa Giêsu về với tư cách là Messia loan báo Tin mừng cho dân làng mình nhưng chẳng mấy ai để ý đến tư cách đó, họ không muốn tìm hiểu thêm về vai trò và con người thật của Người và tự nhốt mình trong những định kiến. Họ chỉ nhìn thấy Ngài với những nét dạng của người đồng hương nghèo khó, học từ làng quê. Tuy họ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài, nhưng những thành kiến đã chôn chặt họ không cho họ nghĩ xa hơn. Họ chỉ thắc mắc cách hời hợt: bởi đâu ông ta được như vậy như thể Chúa Giêsu ngẫu nhiên uyên bác mà thôi. Họ tò mò tìm đến với ý phủ nhận hơn là tin nhận!
Chúa Giêsu nhận thấy rõ thái độ của họ và người đã không làm phép lạ vì họ không có lòng tin, không có lòng thành tìm hiểu về sứ mạng của ngài. Ngày hôm nay, kitô hữu chúng ta biết về Chúa nhiều hơn, biết rõ hơn người Do thái xưa kia về lời giảng và thân phận của người. Tuy nhiên, chính chúng ta nhiều khi cũng chưa tỏ niềm tin của mình trước mặt mọi người. Nhiều lúc tôi cũng tự hỏi mình: có khi nào tôi có thái độ giống như người Do thái xưa đối với Chúa giêsu không. Cuộc sống tôn giáo với những nghi lễ thiêng liêng thánh thiện nhưng tôi không ý thức là mình đang được tiếp xúc với Chúa. Có lẽ vì lòng tin yếu kém hay lo lắng chuyện đời mà không nhận ra Chúa đang hiện diện với mình. Nếu tôi có lòng tin, tôi sẽ rất nghiêm trang, cung kính hết lòng khi khi tham dự thánh lễ, đặc biệt là khi rước Chúa và cầu nguyện vì biết Chúa hiện diện trong lời Kinh thánh và Bí tích Thánh thể, tôi sẽ nhận ra Chúa trong trong lương tâm của mình và trong những biến cố cuộc sống.
Xét lại chính mình, tôi biết Chúa đến cứu chuộc thế giới trong đó có tôi và bổn phận của tôi là nói về Chúa và làm chứng cho Chúa bằng cuộc sống của mình nhưng tôi đã thực hiện bổn phận này như thế nào. Cuộc sống đạo chúng ta nhiều lúc còn bị động, không thua gì những người làng Nazaret bao nhiêu: cho là mình quen biết nên không nhận ra Chúa hiện diện với mình mà chỉ coi ngài như phàm nhân, chỉ hơn mình một chút mà thôi, không hăng hái thêm được bao nhiêu, không biến đổi nên tốt hơn, không vui mừng về tình thương của Chúa đối với mình.
Điều đáng lo ngại nhất cho loài người chúng ta hôm nay là đi tìm những cái trước mắt, không để thời giờ đến với Chúa và tìm hiểu thực hư, hàng quãng cáo nào gây ấn tượng thì mua. Các nhà sản xuất thi nhau kích thích nhu cầu của chúng ta để tăng thu nhập và chúng ta cũng bị ảnh hưởng ít nhiều bởi xã hội hưởng thụ dễ dãi này. Dường như chúng ta không giờ thinh lặng để nghe tiếng Chúa thì thầm và suy nghĩ về chuyện đạo đức bao nhiêu, nhất là thế hệ trẻ dễ bị những phim ảnh hấp dẫn, chat, games cám dỗ nhiều: sau giờ học thì nhiều học sinh "nhào vô" những thứ vui chơi giải trí tiện lợi này, không dành thời gian cho việc thờ phượng Chúa như trước nữa!
Để thắng vượt chính mình và nhận ra Chúa hiện diện trong cuộc sống, mỗi người chúng ta hãy năng đến với Chúa, xin Chúa mở lòng trí, mở đôi mắt đức tin để chúng ta sống đạo cho nên, và nhận biết trong những sự kiện lớn nhỏ đều có sự can thiệp của Chúa. Từ đó, chúng ta có đức tin ngày càng vững mạnh, vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống và giúp cho mọi người xung quanh cảm thấy hạnh phúc vì biết rằng Chúa yêu thương đang mời gọi con người cộng tác vào chương trình của Chúa và mai sau ban thưởng trên nước Ngài hiển trị.
Ca dao tục ngữ Việt nam có câu: "Gần chùa gọi Bụt bằng anh, Thấy Bụt hiền lành bế Bụt: TN 14-B73
Ca dao tục ngữ Việt nam có câu:
"Gần chùa gọi Bụt bằng anh Thấy Bụt hiền lành bế Bụt đi chơi "
Đây là cái nhìn của nhiều người không biết trân trọng, không biết tin tưởng vào Đấng thiêng liêng đang ở kế bên mình. Những người đồng hương với Chúa Giêsu ngày xưa cũng có cái nhìn như thế đối với Người. Những lời giảng dạy và những phép lạ của Chúa Giêsu chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa. Người đến trần gian này để thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó sứ mạng của một Đức Kitô tôi tớ.
Đáng lẽ những người đồng hương với Chúa Giêsu là những trước tiên đón nhận và tin tưởng vào Người. Thế nhưng họ là những người này chính là những người đầu tiên làm cho sứ mạng của Chúa Giêsu bị thất bại.
"Ng ười đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin " (Mc 6, 5 - 6). Có thể Chúa Giêsu muốn ưu tiên đem Tin mừng cứu độ đến cho những người này. Dầu vậy những người này đã bị che phủ bởi quan niệm riêng tư của mình. Họ trông mong một Đấng Cứu Thế theo ý của họ. Do đó, một lần kia Chúa Giêsu đã nói: "Tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống nh ư lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác,và nói: Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không đấm ngực khóc than.
Thật vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: Ông ta bị quỷ ám. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi. (Mt 11, 16 - 19)
Ngày hôm nay sống giữa thế giới tiến bộ của khoa học kỉ thuật nhiều khi chúng ta còn nghi ngờ vào Chúa. Chúng ta chưa thật sự tích cực đón nhận Chúa qua những lời dạy của Chúa cũng như những chỉ dẫn của Giáo hội. Chúng ta muốn thờ một Thiên Chúa theo ý mình. Quả thật đó là một sai lầm hết sức to lớn.
Một trong 3 sứ mạng chúng ta lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội là sứ mạng tiên tri. Do vậy, có lắm lúc sống theo lời dạy của Chúa và của Giáo hội chúng ta bị người khác coi thường. Nhưng chúng ta hãy kiên nhẫn đừng nản lòng. Chính Chúa Giêsu cũng bị người ta từ chối mà Người vẫn kiên trì. Nhờ đó ơn cứu độ mới được tồn tại và phát triển mãi mãi.
Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người". Nghĩ về quê hương ai cũng dành: TN 14-B74
"Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người". Nghĩ về quê hương ai cũng dành cho quê hương mình những tình cảm thân thương gắn bó. Xa quê hương ai cũng mong ngày nào đó được quay trở về. Người ta có nhiều lý do để nghĩ về quê hương của mình. Nhớ quê hương vì nơi đó có nhiều kỷ niệm êm đềm của những ngày thơ ấu. Nhớ quê hương vì nơi đó có người yêu thương đang đợi chờ trông ngóng. Nhớ quê hương vì đó cũng là nơi an nghỉ của những người thân yêu nhất trong đời.
Nỗi nhớ nhung đã trở thành lý do mạnh mẽ để thúc giục con người dù đi xa đến đâu cũng mong quay về nhà. Với cuộc sống vội vã bon chen như ngày nay, dường như người ta không cố tìm chi kỷ niệm xưa cho mất thời giờ. Nhưng ít ra quê hương sẽ là nơi con người tìm được sự thanh thảng sau những ngày vất vả bôn ba. Nơi quê hương tạ tìm ra sự thông cảm chân thành trong cuộc sống. Ta tìm thấy sự thư thái an nhàn nơi những khuôn mặt thân quen. Đó là những khuôn mặt đã từng ủng hộ ta khi ta chưa là gì cả.
Dù quê hương có ở nơi sâu xa hay nghèo nàn thì trong ngăn kéo trí nhớ người ta không bao giờ quên. Quê hương đúng là "chùm khế ngọt" của mỗi con người. Nhìn về quê hương Nazaret của Chúa Giêsu thì hoàn toàn khác. Ngài trở về không được người thân ủng hộ, trái lại họ đã khinh bỉ Ngài và xúc phạm đến Ngài. Nazaret trong lòng Chúa Giêsu dù có đẹp đến đâu thì đó chỉ là tưởng tượng chứ không có trong thực tế. Do đâu quê hương vốn thân thương giờ trở nên chán ngán như vậy?
Lòng người còn ngăn cách
Người sống gần nhau nhưng lòng thì xa cách. Chắc chắn người làng Nazaret đã nghe biết nhiều những việc làm của Chúa Giêsu nhưng họ không chút tự hào. Họ không tự hào trái lại còn tỏ ra xem thường do cái nhìn thiên kiến của họ. Người thiên kiến luôn tìm cách dán nhãn hiệu cho người khác theo cách nghĩ của mình mà không dựa trên sự thật khách quan. Cái nhìn thiên kiến thường do thiếu hiểu biết nên phán đoán không chính xác; do thiếu khiêm tốn nên hay huênh hoang tự đắc tự cho mình là chân lý; do tầm nhìn hạn hẹp kiểu ếch ngồi đáy giếng nên coi trời bằng vung. Đây là lý do dễ làm người ta không thể đến với nhau. Sống chung quê hương là lý do không đủ mạnh để nối kết những người có khoảng cách quá xa về hiểu biết.
Sự đời còn phân tranh
Trong Tin Mừng không thấy có sự cạnh tranh nào giữa Chúa Giêsu và những kẻ đồng hương. Thế nhưng ta có thể đọc được những tranh chấp ngấm ngầm nơi họ. Một tác giả đã viết lý do duy nhất khiến người nào đó ghét bạn là vì họ muốn giống bạn thôi. Những người đồng hương như ngầm muốn mình cũng làm được như Chúa đã làm. Ông Giêsu nghèo nàn như thế mà làm được chuyện lạ, sao mình lại không? Ông Giêsu có xa lạ gì đâu giờ lại đứng ra giảng dạy, mình không làm hơn ông ấy sao? Ông Giêsu có là gì đâu sao lại được nhiều người tiếp rước? Quả thật, có quá nhiều sự cạnh tranh về khả năng, uy tín và tình cảm. Khi cạnh tranh mỗi người đều đeo mắt kín hận thù thì làm sao nhận ra người đối diện là bạn, là anh chi em hay là người đồng hương được. Đáng lẽ quê hương là điểm hẹn tình thương giờ đây đã trở thành bãi chiến trường của sự tranh chấp.
Cơ may bị bỏ lỡ
Bị người đồng hương chối từ nên không phép lạ cả thể nào xảy ra. Chúa Giêsu đã bỏ Nazaret đến các làng khác không hẹn ngày về. Một cơ hội lớn đã bỏ lỡ. Chúa đến luôn là ân ban cho mọi người. Ai chối từ đồng nghĩa với việc khước từ ân ban. Ta bỏ lỡ cơ hội khi không nghe tiếng than van của người bên cạnh; khi ta làm ngơ trước cảnh ngộ nghiệt ngã của một người. Ta bỏ lỡ khi không nghe tiếng Chúa cảnh báo để sám hối quay về qua nhắc nhở của bạn bè, qua khuyên bảo của bề trên, qua các tai nạn hay qua những lời phê phán của kẻ thù ghét ta. Hãy xem tất cả như là cơ may mà Chúa gửi đến từng ngày. Quê hương sẽ nên giàu đẹp khi con người biết tích góp nhiều điều tốt đẹp.
Quê hương Chúa Giêsu không là trái ngọt nhưng là trái đắng: trái đắng của khinh bỉ, trái đắng của chối từ, trái đắng của ganh ghét. Dẫu vậy Ngài không than van, giận dữ hay oán trách quê mình. Ngài vẫn hiện diện trong hiền lành và khiêm hạ để đón nhận thực tế. Chính thái độ đó sẽ làm bớt đi trái đắng mà góp thêm trái ngọt cho quê hương mình.
Từ thuở tạo thành, Thiên Chúa yêu con người và đã cho con người thay Ngài để cai quản vũ: TN 14-B75
Từ thuở tạo thành, Thiên Chúa yêu con người và đã cho con người thay Ngài để cai quản vũ trụ tốt đẹp do chính tay Ngài tạo dựng. Ngài cho con người hưởng tất cả hạnh phúc của Ngài chỉ trừ một điều duy nhất là đừng sờ vào, đừng đụng vào cái cây ở giữa vườn mà Thánh Kinh ghi lại là "cây biết lành biết dữ". Cái cây ấy là dấu chỉ, là lời mà Ngài đã dặn đi dặn lại cho con người nhưng rồi con người đã vi phạm, đã giơ tay ra hái nó. Và từ đó, con người đã đánh mất đi mối tình đẹp giữa Thiên Chúa và con người. Tưởng chừng với biết bao nhiêu kinh nghiệm của cuộc đời, của con người, con người sẽ trở về với Thiên Chúa nhưng không. Con người vẫn mãi mê với cái thế sự thăng trầm này để rồi không còn nhận ra Thiên Chúa nữa, hay có nhận ra thì cũng nhận ra với một hình ảnh dị dạng, hình ảnh bóp méo hay hình ảnh một Thiên Chúa do chính người đó tạo dựng chứ không còn là một Thiên Chúa tuyệt vời, một người Cha nhân hậu nữa.
Cứ đọc lại những trang Thánh Kinh, chúng ta sẽ thấy được một Thiên Chúa tuyệt vời như thế nào. Dẫu cho rằng con người trắc trở, con người quay lưng với Thiên Chúa đi chăng nữa nhưng Thiên Chúa chẳng bỏ rơi bao giờ. Bằng cách này hay cách khác, Thiên Chúa vẫn tiếp cận với con người qua những trung gian của Ngài như các ngôn sứ.
Thiên Chúa luôn hiện diện, luôn đồng hành với con người trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời nhưng liệu rằng con người có nhận ra sự hiện diện, sự đồng hành đó hay không ? Đặc biệt, trong những biến cố đau thương bi đát của cuộc đời.
Hôm nay, chúng ta nghe tâm sự của Isaia:
Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên. Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi! Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội? (Is 50, 5-9a)
Trong cái cảnh bi đát của cuộc đời, Isaia vẫn tin vào Chúa và bám chặt cuộc đời của mình vào Chúa. Hình ảnh người tôi tớ trong Isaia đó chính là hình ảnh Chúa Giêsu - Con Một Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chịu khổ hình, chịu chết ... Dù rơi vào cái cảnh khốn cùng nhất của con người, nhục nhã, đau đớn bi đát nhất của con người nhưng Giêsu vẫn tin vào Thiên Chúa Cha, tin vào sự quan phòng của cha mình.
Thiên Chúa mãi mãi vẫn là thách thức của lòng tin của con người.
"Con ơi Thiên Chúa tốt lành, Đất trời có Chúa định thành mới nên. Trên trời mọi sự do Thiên, Bên nhân bên quả gắn liền với nhau".
Cụ Kh. đã nhìn Thiên Chúa từ câu hỏi về nguồn gốc vạn vật.
Hỡi im lặng thiêng liêng, ngập tràn, ứa vựa, Ta lia gươm rạch ứa máu ngàn không, Để muôn đời không có nữa, Mênh Mông Vẫn ngăn cách Hồn Yêu cùng Đạo lý. Nhưng đau đớn! Ta vấp mồ thế kỷ Chết nơi đây vì xét nghĩa Không Cùng Đem trí người suy đoán nỗi Mông Lung Của Thiên Chúa vẫn muôn đời bí mật.
Đó là một đoạn trong bài "Thể Chất" của Hồ Dzếch, gia nhập kitô giáo khoảng năm 1940. Nhà thơ này đã cúi đầu trước sự huyền nhiệm của Thiên Chúa.
Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người, Thiên Chúa vẫn chờ đợi sự đáp trả của con người về Ngài. Chúa Giêsu Kitô con Thiên Chúa làm người cũng chất vấn mỗi người chúng ta về lòng tin vào Thiên Chúa, về lòng tin vào Ngài.
Hôm nay, Chúa Giêsu thấy chất vấn các môn đệ cũng là chất vấn mỗi người chúng ta. Với mỗi người chúng ta, khi Chúa Giêsu hỏi chúng ta thì liệu rằng chúng ta có can đảm, có tin nhận và trả lời như Phêrô hay không hay là chúng ta cũng nói rằng Chúa Giêsu cũng chỉ là một ngôn sứ như Êlia, như Gioan Tẩy Giả ...
Nhiều lần nhiều lúc trong đầu kitô hữu thì Giêsu Kitô như là Êlia hay Môsê thôi chứ chẳng hơn. Bi đát nhất của cuộc đời đó là người ta tự hoạ cho mình một Thiên Chúa, một Giêsu Kitô theo nét vẽ riêng của họ.
Trong tuần thường huấn nọ ở một nhà dòng kia. Vị thuyết giảng chia sẻ về hình ảnh của một Giêsu chịu đóng đinh, chịu đau khổ như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô cũng như các môn đệ trong Tin mừng mà chúng ta vừa nghe. Vị thuyết giảng trình bày về một Giêsu theo mô tả của Thánh Kinh và một Giêsu lịch sử.
Sau khi trình bày thì nhiều người cứ chất vấn đi chất vấn lại về Giêsu ! Chất vấn đó là quyền tự do của con người nhưng khi đã là tu sĩ, linh mục thì không dừng ở chuyện chất vấn nữa mà là tin và hiểu thêm về diện mạo Chúa Giêsu. Chất vấn là vấn đề, là chuyện dành cho những người chưa tin. Tu sĩ, linh mục mà lại chất vấn đi chất vấn lại Giêsu thì nó làm sao ấy. Nếu như vậy thì niềm tin tu sĩ, linh mục ấy tuyên xưng nó làm sao ấy.
Mỗi người bắt gặp câu hỏi về Thiên Chúa một cách khác nhau. Câu hỏi có khi gay gắt, dồn dập, có khi dịu dàng êm nhẹ, có khi như ray rứt, có khi như ủi an. Có khi, thật lạ lùng, người ta đang đối đầu với câu hỏi về Thiên Chúa bằng cách chối phắt Ngài đi. Nhưng dù dưới hình thức này hay hình thức khác thì mỗi người đều bắt gặp câu hỏi ấy; vào một lúc nào đó trong đời, người ta như chợt thấy. Ai sẵn sàng đón nhận và ra công tìm kiếm thì thế nào cũng gặp được Thiên Chúa. Thiên Chúa không tiếc với ai cả, nhưng phải sẵn sàng đón nhận thì mới gặp được Ngài, còn nếu đã phủ nhận ngay từ đầu thì còn gặp thế nào được. Mở mắt ra và sẽ thấy. Mỗi người gặp được Ngài trong một cảnh ngộ khác nhau, vì mỗi người đã lên đường từ những khởi điểm khác nhau.
Đã hơn một lần, có người hỏi tôi rằng Chúa Giêsu là người da đen, da nâu hay da vàng ? Chúa Giêsu sinh ra chính xác là ngày nào ? Năm nào ?
Tôi trả lời ngay là không cần biết là Giêsu có da đen, da nâu, da vàng hay da đỏ miễn làm sao khi mở quyển Almanack thì bạn sẽ thấy rõ ràng rằng có một Giêsu sinh làm người tại hang đá Belem và sống cái làng Nagiaret nhỏ bé. Chúa Giêsu đã hiện diện rồi trong lịch sử nhưng ai tin vào đó là Đấng nhân danh Chúa mà đến, là Ngôi Hai con Thiên Chúa làm người ?
Về diện mạo, về hình ảnh của một Giêsu lịch sử hay một Giêsu ký ức cũng cần tìm hiểu, cần đào sâu để mở rộng kiến thức để trình bày lại cho những người chưa hiểu hay những người chưa tin. Vấn đề cần ở đây là làm sao ta cũng phải tuyên xưng lòng tin vào Giêsu Kitô như Phêrô giữa nhiều và nhiều người không tin ở thời Chúa Giêsu. Vấn đề đã rõ, giữa biết bao nhiêu người không tin, giữa nhiều sự chất vất nhưng Phêrô đã vượt qua chuyện không tin và Phêrô đã tuyên xưng lòng tin của mình.
Thật sự ra mà nói không đơn giản để mà tuyên xưng được như Phêrô đâu. Có những lúc ta cũng mạnh mẽ tuyên xưng như Phêrô ấy nhưng có những lúc ta chối Chúa bây bẩy thôi.
Nếu chúng ta can đảm tuyên xưng một Giêsu là Đấng Kitô của đời mình như Phêrô thì chúng ta phải sống, phải thể hiện lòng tin ấy như Phêrô cách triệt để chứ không phải là nói suông. Lối sống của người có đức tin chúng ta vừa nghe Thánh Giacôbê mời gọi: Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: "Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin (Gc 2, 14-19)
Nguyện xin Chúa Giêsu Kitô, đấng đang hiện diện trong cuộc đời ta, đang có đứng trước mặt ta ban thêm lòng tin cho chúng ta để ta cũng mạnh dạn tuyên xưng lòng tin ấy vào Giêsu Kitô như Phêrô tông đồ hôm nay vậy. Và cũng xin Chúa ban thêm cho ta lòng mến để chúng ta diễn tả, chúng ta sống lòng tin ấy bằng đời sống thường nhật của chúng ta.
Ở đời trong mọi lãnh vực đâu có ai thích cùng mong muốn mình yếu đâu. Nhưng Thánh Phaolo lại: TN 14-B76
Ở đời trong mọi lãnh vực đâu có ai thích cùng mong muốn mình yếu đâu. Nhưng Thánh Phaolo lại có suy nghĩ khác: Khi tôi yếu là lúc tôi mạnh! ( 2.Cor 12, 10 ).
Vậy đâu là ý nghĩa cùng xác tín của Thánh Phaolô qua câu nói này?
Ai cũng muốn tỏ ra mình mạnh khoẻ thể xác, cũng như tinh thần. Ai cũng muốn tỏ cho người khác thấy mình thắng thế hơn trội, thế nào là sức mạnh thế nào là yếu thế.
Trong đời sống ta thấy mạnh đâu phải là bị khuất phục bị làm nhục, nhưng mạnh là người yếu bị bắt tù tội như một Tổng Thống Mandela bên Nam Phi Châu. Mạnh đâu phải là những đạo quân đi xâm chiếm thuộc địa như người Anh, nhưng mạnh là người dân yếu thế như một Mahatma Gandhi bên Ấn Độ.
Mạnh đâu phải là những người kỳ thị người khác với sức mạnh lấn lướt, nhưng mạnh là người yếu như Mục sư Martin Luther King. Mạnh đâu phải là những vua chúa thống trị với nhiều quyền hành, nhưng mạnh là những vĩ nhân yếu mềm như Thánh Phanxico Assisi, Mẹ Á Thánh Terexa.
Mạnh không phải là tảng khối đá cứng, nhưng mạnh là dòng nước yếu mềm. Mạnh không phải là lưỡi gươm thanh kiếm, nhưng là cây thập gía.
Mạnh không là những lời to tiếng đanh thép, nhưng là những lời nhỏ nhẹ từ tốn không làm người khác bị mất thể diện. Mạnh không phải là sự hận thù, nhưng là tình yêu. Mạnh cũng không là sự chết, nhưng là sự sống.
Thánh Phaolô do lòng xác tín đã đặt lại thang gía trị dựa trên thành tích, trên và dưới, mạnh và yếu, vốn gây ra lẫn lộn hoang mang không rõ ràng và cũng tương đối thôi. Người mạnh sức, mạnh miệng lấn át, người giầu có, nghĩ tưởng đó là thước đo gía trị đời sống con người.
Rất nhiều trường hợp trong đời sống, ai đó vượt qua mặt được người khác, cho rằng mình đã thắng, mình là người mạnh, đang khi người khác yếu thế sống âm thầm yên lặng. Nhưng cái gì cũng có diễn biến trong thời gian lịch sử của nó. Một thời gian sau, người nghĩ rằng mình mạnh đã chiến thắng lại trở thành người yếu thua thiệt về danh dự. Trong khi đó, người sống yếu thế yên lặng lại trở thành người mạnh được kính phục, vì sống cư xử là người có tư cách lễ phép tình người.
Chúa Giêsu người đã trở nên yếu thế trước tòa án xét xử bị kết án ở dinh quan tổng trấn Philato. Nhưng Người đã trở thành sức mạnh đức tin tinh thần ngay nơi chính gia đình quan Philato cùng cho muôn người qua sự chết trên thậy gía.
Thánh Phaolo trong cơn cùng quẫn cảm thấy yếu đuối khi phải chịu đựng đau khổ, đã than thở xin Chúa cho thoát khỏi cảnh này, và Chúa đã nói với Thánh nhân: "Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi „ ( 2 cor 12,9).
Trong cuộc sống làm người ở đời, ta không chỉ cần cơm ăn áo mặc, kiến thức học hành làm việc tốt thành công để trở thành người mạnh khoẻ. Nhưng còn cần đến ơn Chúa trợ giúp nhiều hơn nữa để có sức mạnh vượt qua những khó khăn thử thách, nhất là trong đời sống tinh thần, đời sống đức tin hôm nay và ngày mai.
Nhìn lại lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn ở bên con người và Thiên Chúa dùng đủ mọi cách: TN 14-B77
Nhìn lại lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn ở bên con người và Thiên Chúa dùng đủ mọi cách để tiếp cận với con người. Khi thì nói gián tiếp, khi thì nói trực tiếp, khi thì dùng người này, khi thì dùng người kia. Những người nói Lời Thiên Chúa cho dân là các ngôn sứ của Chúa. Các ngôn sứ chuyển tải thông điệp của Thiên Chúa cho dân.
Vì lẽ con người thường đi ngược với Thiên Chúa, con người không muốn sống trong vòng tay che chở của Thiên Chúa nên đã đi nghịch lại với thánh ý của Thiên Chúa và con đường mà Thiên Chúa vạch ra nên biết bao nhiêu lần tương quan giữa con người và Thiên Chúa đổ vỡ. Thiên Chúa là đấng chậm bất bình và giàu lòng thương xót đã không nỡ bỏ con người, Thiên Chúa dùng các ngôn sứ để tiếp tục răn đe có, an ủi có, khích lệ có. Đáng tiếc thay bản tính con người ngỗ nghịch nên những lời mà các ngôn sứ nói ra thì có người được đón nhận, có người bị khước từ và thậm chí có người còn bị giết.
Một trong những ngôn sứ thời Cựu Ước đã nói Lời Thiên Chúa đó là ngôn sứ Êdêkien, Êdêkien ý thức rõ rệt mình đã được sai đến trong một thời khủng hoảng: lúc mà Israel phải suy nghĩ lại về số mạng mình. Israel đang bị xâu xé phân chia theo nhiều hướng: hãnh diện trong hiện tại, tủi hổ nghĩ đến thời xưa, tin cậy, và ngã lòng hối hận; hèn nhát mà cũng gan dạ, Êdêkien cũng như các ngôn sứ trong thời lưu đày đã đặt nền móng cho một nền tảng mới đó là lòng tin vào Thiên Chúa.
Đoạn sách mà chúng ta vừa nghe cho chúng ta biết sứ mạng mà Thiên Chúa gửi Ngài đến với dân: "Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại với Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: 'Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này'. Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng". (Ed 2, 2-5). Rõ ràng chúng ta thấy sứ mạng của Êdêkien. Không chỉ mình Êdêkien nhưng nhiều và ngôn sứ cùng chung chịu số phận như Êdêkien.
Trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Máccô thuật lại không còn là xa lạ với chúng ta. Trang Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta về hình ảnh Con Một Thiên Chúa. Các ngôn sứ nói, con người không chịu nghe, Thiên Chúa đã sai chính Con Một của Ngài xuống để nói cho dân nhưng hình như dân cũng đâu có nghe. Hôm nay, Chúa Giêsu trở về quê hương, mang theo sứ điệp cứu độ nhưng đáng tiếc thay Ngài đã đụng đầu với sự cứng lòng tin của những người đồng hương quen thân.
Trình thuật này có thể qui chiếu tới bối cảnh nơi Mc 3, 20-35 ở đó Chúa Giêsu bị hiểu lầm và nghi ngờ, song cũng ở đó sứ điệp thần học về Đấng Thiên sai cứu độ được phác họa một cách hùng hồn. Cũng thế, thảm trạng cứng tin của dân làng Nadaret là một thứ mặt phản tương của mầu nhiệm đức tin.
Để thấy rõ hơn ý nhắm thần học của Máccô, chúng ta thử lưu ý đến lược đồ câu chuyện của thánh ký:
+ Trước hết đó là thái độ kinh ngạc thán phục của những kẻ nghe lời giảng dạy và nghe biết các phép lạ (c. 2) + Vấn nạn về lý lịch của Chúa Giêsu (c. 3a) + Phản ứng cứng tin (c. 3b)
Đó là một thứ lược đồ về mầu nhiệm cứng tin, mặt phản tương của mầu nhiệm đức tin (x. Lc 4,16-30; Ga 7,14-29). Nếu so sánh với bản văn Gioan chẳng hạn, chúng ta sẽ thấy ý nghĩa:
Mc 6,1-6a và Gioan 7,14t
Câu 2: Người lên tiếng giảng dạy trong Hội đường. Nhiều người ngạc nhiên mà rằng: BỞi đâu ông ấy được như thế ? Và là gì vậy sự khôn ngoan ban xuống cho ông ?
Câu 14: Chúa Giêsu lên đền thờ và giảng dạy. Người Do Thái bỡ ngỡ mà rằng: làm sao ông ấy đã chẳng theo học mà lại thông hay chữ nghĩa
Câu 3a: Ông ấy không phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giosê, Giuđa, Simon đó sao ? Các chị em của ông không ở giữa chúng ta sao ?
Câu 27: Nhưng ông ấy, chúng ta đã biết tự đâu ra, còn Đức Kitô khi Người đến, thì nào ai biết được do lai của Người ?
Câu 3b: Và họ vấp phạm vì Người
Câu 28: Chúa Giêsu hô lên: phải các ngươi biết Ta và rõ Ta từ đâu ra. Thế mà nào có phải tự Ta, Ta đã đến đâu. Nhưng Đấng đã sai Ta là Đấng chân thật, các ngươi lại không biết Ngài.
Như vậy, nghe lời giảng dạy, chứng kiến các phép lạ các kỳ công của Chúa Giêsu... điều đó chưa đủ. Người ta cần phải đạt đến một tầm mức cao hơn: tầm mức của đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng Thiên sai cứu độ.
So sánh với bản văn Luca 4,16-21, cách miêu tả của Máccô rất ngắn gọn. Chủ ý của thánh ký chỉ nhằm nêu lên sự kiện cứng tin của người dân quê nhà. Họ ngạc nhiên về những lời giảng giải kinh thánh đầy sự khôn ngoan của Người; họ nhắc đến quyền năng làm các phép lạ của Người (c. 2). Song, họ không tin Người.
Ông ấy chẳng phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giôse, Giuđa, Simon đó ư ?Và các chị em của ông lại không ở giữa chúng ta đây sao ? Và họ vấp phạm vì Người (c. 3)
Người quê nhà của Chúa Giêsu quả thực biết rõ lý lịch của Người. Họ quen biết anh em và chị em của Người. Những chàng dân quê như Giacôbê, Giôsê, Giuđa hay Simon, đâu có xa lạ gì với họ. Như vậy, ông Giêsu này không thể là một nhân vật khác thường. Và cũng chính vì thế mà Người trở thành một thứ viên đá vấp phạm cho họ: họ đã vấp phạm vì Người.
Thành ngữ eskandalizonto en autô được Giáo hội sơ khai sử dụng như thứ ngữ vựng chuyên môn ám chỉ tới sự sa bẫy của đức tin (x. Mc 4,17). Sự kiện này trở nên một lời cảnh giác cho Cộng đoàn tin Chúa: những ai nghĩ rằng họ biết Chúa Giêsu, họ phải coi chừng và duyệt xét lại đức tin của họ: có nhiều trở ngại và nguy cơ trong lãnh vực đức tin.
Chúa Giêsu đã vay mượn một châm ngôn quen thuộc để đáp lời lại các người đồng hương cứng tin "Ngôn sứ mà bị khinh thì chỉ có nơi quê quán".
Trước hết câu châm ngôn này có thể gợi nhắc đến một thứ tâm lý xã hội: không ai nói tiên tri được trong quê nhà mình cũng như không có lương y nào chữa trị được những kẻ quen biết mình. Lời châm ngôn nói lên một kinh nghiệm sống khá chua chát. Các ngôn sứ của Thiên Chúa đã từng gặp phải sự phản kháng bi đát nhất nơi quê hương họ: "Ấy anh em ngươi và gia đình cha ngươi, ngay chúng nó cũng đã phản ngươi. .. Đừng tin chúng khi chúng nói ngon ngọt với người. Phần tôi như con chiên dễ bảo ngưòi ta dẫn tới lò sát sinh, tôi vần không biết rằng chúng âm mưu hãm hại tôi". (Gr 11,18t).
Chúa Giêsu, vị ngôn sứ sau cùng của Thiên Chúa cũng không thoát khỏi số phận đó. Và đây cũng là ý nhắm thần học của Máccô. Thái độ cứng tin của người dân làng Nadarét trở thành lời loan báo mầu nhiệm khổ nạn của Chúa Giêsu. Nó sẽ là cớ vấp phạm cho những kẻ không tin song là dấu chỉ cứu độ cho kẻ tin theo.
Từ đó số phận ngôn sứ của Chúa Giêsu cũng vén mở cho chúng ta ơn gọi của người môn đệ Chúa. Chúa Giêsu đã thành lập một cộng đoàn mới, một gia đình mới (x. Mc 3,35) vượt lên trên tầm vóc "quê quán, bà con, gia đình" (c. 4b). Bởi vậy, kẻ tin theo Chúa sẽ không để cho những liên hệ hoặc những thảm trạng ở tầm vóc tự nhiên tạo nguy cơ cho đức tin của mình.
Do sự cứng tin, Chúa Giêsu không thể làm các phép lạ. .. Nhưng tại sao Người không thể tỏ bày quyền lực trước một thái độ cứng tin ? Thực ra sự không thể liên kết với sự kiện thiếu đức tin: Người ngạc nhiên thấy họ cứng tin (c. 6a). Vì chưng, thánh ký Máccô không hề muốn miêu tả một mối tương quan tâm lý, như thể sự tin tưởng của bệnh nhân là điều kiện của sự chữa trị thành công. Nhãn quan thần học của Máccô nhằm đến chủ đề đức tin.
Nếu thiếu vắng đức tin, một phép lạ của Đấng Thiên sai cứu độ sẽ mất hết ý nghĩa cứu độ. Nó có nguy cơ dẫn tới quan niệm lệch lạc về quyền lực của Chúa Giêsu.
Ngược lại, chỉ có đức tin mới mở mắt cho người ta nhìn thấy quyền năng cứu độ của Người ngang qua các lời nói hay việc làm của Người.
Nguyện xin Chúa Giêsu ban thêm lòng tin cho con người mỏng dòn yếu đuối của chúng ta để chúng ta nhận ra quyền năng, tình thương của Chúa ngày mỗi ngày trong cuộc đời chúng ta. Và cũng xin Chúa mở lòng chúng ta để chúng ta cao rao lòng tin, cao rao quyền năng Chúa cho mọi người mà chúng ta chung sống, chúng ta gặp gỡ.
Khi ấy Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Đến ngày Sabbát, người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt vè giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự la thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacobê, Giuse, Giuda và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?" Và họ vấp phạm vì Người. Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình". Ở đó, Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chũa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
Chúa Giêsu trở về quê nhà
Từ rày đã trở nên bình dân và nổi tiếng vì những phép lạ và lời giảng dạy của Người, Chúa Giêsu: TN 14-B78
Từ rày đã trở nên bình dân và nổi tiếng vì những phép lạ và lời giảng dạy của Người, Chúa Giêsu một ngày kia trở về làng quê, Nadareth, và, như Người có thói quen làm, Người vào giảng trong hội đường. Nhưng lần này, không thấy có sự bày tỏ nhiệt tình nào, không có tiếng "hosanna!" nào. Thay vì nghe điều Người nói và phán đoán Người theo những lời nói của Người, dân chúng lại đưa ra những lời chỉ trích kỳ dị. Sao ông được khôn ngoan như vậy? Ông không học hành gì, chúng tôi biết rõ điều này; đó là bác thợ mộc, con bà Marie! "Và họ bị chướng tai gai mắt sâu sắc vì Người", nghĩa là sự kiện biết rõ về Người lại là một ngăn trở để tin Người.
Chúa Giêsu bình luận cách chua cay: "Một tiên tri chỉ bị khinh bỉ ở quê hương mình, gia đình họ hàng mình". Câu nói đó trở thành một câu ngạn ngữ dưới hình thức rút gọn: "Không ai làm tiên tri nơi quê mình". Đoạn Tin Mừng này cũng đưa đến chúng ta một sự cảnh cáo mặc nhiên mà chúng ta có thể tóm tắt như vầy: ý tứ đừng phạm cũng một sự lầm lẫn như những người Nadareth! Chúa Giêsu trở về cách nào đó tại quê hương Người, mỗi khi Tin Mừng của Người đã được rao giảng tại những xứ, trong một thơi kỳ, nên cái nôi Kitô giáo.
Nước Italie, và phương Tây nói chung, đối với kitô giáo, là điều Nadareth đối với Chúa Giêsu: nơi Người đã được nuôi dưỡng. (kitô giáo sinh ra tại phương Đông nhưng đã lớn lên tại phương Tây, cũng như Chúa Giêsu sinh ra tại Belem nhưng được nuôi dưỡng tại Nadareth!) Những xứ đó ngày nay mắc phải cũng một nguy cơ như người dân Nadareth: không công nhận Chúa Giêsu. Bản hiến pháp tân châu Au hiệp nhất không phải là nơi duy nhất mà ngày nay Kitô giáo bị "xô đuổi" khỏi.
Đoạn Tin Mừng này dạy chúng ta một điều quan trọng. Chúa Giêsu để chúng ta tự do; người đề nghị, người không áp đặt những ân huệ của Người. Ngày đó, đối mặt với những kẻ đồng hương, Chúa Giêsu không đưa ra những ngăm đe hay những lời mắng nhiếc. Người đã không nói, bằng một bộ điệu khinh bỉ, điều mà người ta nói ông Scipion l' Africain công bố khi bỏ thành Rome: "Hỡi quê hương bạc đãi, người sẽ không có bộ xương của tôi!" Chúa Giêsu chỉ ra đi âm thầm. Một ngày kia, người bị hất hủi trong một làng, các môn đệ đề nghị Người cho lửa từ trời xuống đốt làng đó, nhưng Chúa Giêsu quay đi và quở trách các ông (x. Lc 9, 54)
Ngày nay Người cũng làm như vậy. "Thiên Chúa nhút nhát ". Người tôn trọng sự tự do chúng ta nhiều hơn chúng ta tôn trọng sự tự do của nhau. Điều này tạo nên một trách nhiệm lớn. Thánh Augustin nói: "Tôi sợ Chúa Giêsu đi ngang qua" (Timeo Jesum Transeuntem) Trên thực tế Người có thể đi ngang qua mà tôi không biết, đi ngang qua khi tôi không sẵn sàng đón triếp Người.
Sự đi ngang qua của Người luôn là một sự đi ngang qua ban ân sủng. Marco nói, cách tổng hợp rằng một ngày sabbat, đến làng Nadareth, Chúa Giêsu "vào dạy trong hội đường" Nhưng Tin Mừng Luca cũng nói rõ điều Người dạy và điều người công bố, trong ngày sabbat này. Người đã công bố đến " loan báoTin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa." ( Lc 4, 18-19).
Điều Chúa Giêsu đã rao giảng trong hội đường Nadareth như vậy là năm ân xá kitô hữu đầu tiên trong lịch sử, "năm hồng ân" đầu tiên, mà tất cả những năm ân xá và những "năm thánh" chỉ là một sự ghi nhớ.
Lời Chúa xuyên suốt trong ba bài đọc Chúa Nhật 14 QN. hôm nay, Mẹ Hội Thánh mời gọi chúng: TN 14-B79
Lời Chúa xuyên suốt trong ba bài đọc Chúa Nhật 14 QN. hôm nay, Mẹ Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về sứ mạng Ngôn Sứ của mỗi người, nên ngay bài đọc I trích sách (Ez.2,2-5) cho chúng ta thấy Ngôn Sứ Ezêkiel được mời gọi chuyển sứ điệp của Chúa cho dân Israel, một dân cứng đầu cứng cổ, quảb là một sứ mạng thật khó khăn nhưng ngôn sứ luôn trông cậy Chúa (Tv.122). Và chính Thánh Phaolô trong bài đọc II ( 2Cor.7-10) cũng tự bộc bạch rằng: bản thân rất yếu đuối, đôi khi muốn ngã lòng, nhưng Chúa khích lệ "ơn Ta đủ cho con" nên Thánh nhân tin tưởng và tiếp tục sứ mạng. Sau cùng Chúa Giêsu cũng gặp thử thách trong sứ mạng ngôn sứ, họ không tin vào Chúa Giêsu cũng chỉ vì thấy nguồn gốc của Người quá tầm thường (Mc.6,1-6)
Là một ngôn sứ thì phải nói Lời Thiên Chúa, mà Lời Chúa thì luôn nói thẳng nói thật " sự thật hay mất lòng" cho nên người nghe không muốn tiếp nhận, nhiều khi chẳng những không được người ta nghe mà còn bị người ta ghét, như ngôn sứ Ezêkiel kêu gọi người ta sám hối tội lỗi " bàn thờ các ngươi sẽ bị tàn phá..các thành trì sẽ nên hoang tàn đổ nát"(Ez.6,4), lời nói này khiến họ kết án ông và nhiều lần bách hại ông. Thánh Gioan Baotixita vị ngôn sứ lớn nhất thời Cựu ước cũng bị Hêrôdê chém đầu vì đã dám lên tiếng vạch tội loạn luân của vua, còn rất nhiều ngôn sứ khác cũng không thoát khỏi lao đao lận đận do đã thay mặt Chúa nói lên những sự thật mất lòng ấy.
Và Chúa Giêsu vị ngôn sứ trên mọi ngôn sứ cũng rơi vào tình trạng đau thương đó, với con mắt thiển cận, hẹp hòi, họ không chấp nhận Chúa Giêsu vì Người vạch tội họ, nhất là Biệt Phái giả hình, luật sĩ, thượng tế, họ tìm cách tẩy chay Chúa Giêsu, cả những người đồng hương của Chúa, họ không tin Chúa Giêsu vì họ nhìn thấy quá khứ rất đỗi bình thường của Người, không hào quang danh giá mà chỉ là bác thợ mộc âm thầm khiêm tốn. Dù là con Thiên Chúa Người cũng phải bó tay trước sự cứng lòng của con người, Người trở nên bất lực trước những kẻ thiếu niềm tin.
Chúng ta những người Kitô hữu đã lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, nên cũng tham dự vào chứ vụ ngôn sứ, chúng ta cũng phải can đảm lên tiếng nói lời Thiên Chúa cho xã hội đầy bất bất công, một xã hội đang tự hủy diệt mình bằng những phương tiện tối tân của khoa học, để rồi giết hại lẫn nhau bằng chiến tranh, bằng những hóa chất trong thực phẩm, bằng những phá thai và ma túy. Chúng ta có dám lên tiếng không hay giả điếc ngó lơ, chỉ muốn yên thân? Nếu như thế là chúng ta đã không thi hành chứ năng ngôn sứ của mình. Chúng ta hãy thẳng thắn bằng lời bộc trực hoặc bằng lời lẽ từ tốn tế nhị nhưng không bao giờ được ngậm miệng không nói. Đừng sợ trước những khó khăn, những bất trắc. Nên nhớ rằng "ơn Ta đủ cho con", gánh nặng đời ta nặng nề Chúa sẽ thêm ơn, gặp thử thách Người sẽ gửi bình an, gặp đau khổ Người sẽ gia tăng lòng thương xót, và khi thấy sức tàn lực cạn thì ơn Chúa sẽ tràn đầy.
Lạy Chúa, xin trợ giúp chúng con để dù chúng con có phải lâm vào hoàn cảnh bị hiểu lầm, thua thiệt, chống đối vì đã dám nói Lời Chúa, chúng con vẫn không nản chí thất vọng, nhưng luôn trung thành với đức tin đã lãnh nhận và thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình. Sr Mai An Linh OP
Hai người hưởng phép lạ hôm nay đều được đụng chạm đến Chúa. Người đàn bà bị bệnh băng huyết: TN 14-B80
Hai người hưởng phép lạ hôm nay đều được đụng chạm đến Chúa.
- Người đàn bà bị bệnh băng huyết lén lút sờ vào gấu áo Người. Vừa đụng chạm vào áo Người, lập tức bà thấy có biến chuyển: bệnh tật bao năm hành hạ bà, làm cho bà tốn biết bao công sức tiền của chạy chữa tưởng như vô vọng, nay bỗng tiêu tan trong phút chốc.
- Em bé không đụng chạm đến Chúa vì em đã chết. Nhưng chính Chúa đụng chạm đến em. Chúa cầm tay dắt em chỗi dậy. Cuộc tiếp xúc với Chúa đã gây nên những biến đổi mãnh liệt nơi thân xác. Căn bệnh bị xua trừ. Thân xác khỏe mạnh lại. Người phụ nữ được sinh hoạt bình thường với xã hội. Thần chết bị trục xuất. Sự sống trở lại. Em bé được giải thoát khỏi thế giới tử thần, trở về với thế giới sự sống.
Nhưng những biến đổi trong tâm hồn còn mãnh liệt hơn. Khi Đức Giêsu gọi người phụ nữ đến để khen ngợi và khích lệ chị, tâm hồn chị hẳn phải rộn ràng hạnh phúc. Với thái độ khoan dung nhân hậu, Đức Giêsu đã biến đổi sâu xa tâm hồn chị. Từ mặc cảm là người ô uế, bị xã hội khai trừ, chị thấy mình được đối xử một cách trân trọng. Từ thân phận một người lén lút như kẻ ăn trộm phép lạ, chị trở thành người được Đức Giêsu công khai khen ngợi. Từ một người xa lạ, chị trở thành người thân thiết của Đức Giêsu. Chắc chắn, chị sẽ chẳng bao giờ quên được những lời nói và thái độ của Đức Giêsu. Những lời nói, những thái độ ấy đã đem lại cho chị niềm tin, niềm bình an và lòng tự tín. Còn em bé, khi trở lại sự sống, người đầu tiên mà em nhìn thấy là Đức Giêsu. Hơi ấm đầu tiên em cảm nhận được từ bàn tay Người đã làm em thấy yên tâm. Ánh mắt hiền từ của Người cho em niềm tin yêu phó thác. Và thái độ của Người thật như một người cha hiền. Việc đầu tiên Người bảo mọi người là cho em bé ăn. Thật là một sự quan tâm ân cần. Ơn lớn nhất Người ban là trả lại sự sống cho em bé. Em đã được cứu thoát khỏi bàn tay tử thần. Nhưng chính ánh mắt, cử chỉ và lời nói đầy tình yêu thương đã ghi khắc trong tâm hồn em bé một hình ảnh rất đẹp và rất sâu đậm về Người. Trọn đời em sẽ ghi nhớ mãi hình ảnh Người. Trọn đời em sẽ biết ơn Người. Trọn đời em sẽ sống xứng đáng với tình yêu thương mà em đã cảm nhận được.
Người phụ nữ và em bé đã được Đức Giêsu thương yêu vì họ đã có những phẩm chất đáng quí.
· Phẩm chất thứ nhất mà họ có, đó là đức tin mạnh mẽ. Ông trưởng hội đường tin tưởng mãnh liệt nên đã đến tìm Đức Giêsu. Hội đường Do Thái vốn không ủng hộ Đức Giêsu, trái lại còn chống đối và tìm cách giết Người. Thế mà ông trưởng hội đường này vẫn đến cầu cứu Người, chứng tỏ lòng tin của ông mãnh liệt biết bao. Chính Đức Giêsu đã bảo ông: “Chỉ cần tin thôi!”. Còn người phụ nữ tuy sợ hãi không dám nói với Người, nhưng với lòng tin tưởng mãnh liệt đã sờ vào gấu áo Người. Đức Giêsu đã khen ngợi đức tin của họ: “Lòng tin của con đã chữa con”. Đức tin mãnh liệt như thế đã xứng đáng được Chúa thưởng công.
· Phẩm chất thứ hai mà họ có, đó là đức khiêm nhường thẳm sâu. Sự khiêm nhường được biểu lộ không những qua sự nhận biết thân phận thiếu thốn, bất lực của bản thân, mà còn diễn tả qua thái độ bên ngoài. “Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp lạy dưới chân Người”. Sau khi bị phát giác, người phụ nữ cũng đến phủ phục dưới chân Người và tỏ bày tất cả mọi sự. Chính thái độ khiêm nhường ấy đã được Chúa thương.
Hằng ngày có nhiều lần ta đụng chạm đến Chúa hoặc Chúa đụng chạm đến ta. Ta đụng chạm đến Chúa trong khi đọc Sách Thánh. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta đụng chạm tới Chúa khi ta lãnh nhận các bí tích. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta tiếp xúc với tha nhân, đặc biệt những anh em bệnh tật, nghèo túng, bị bỏ rơi. Nhưng những đụng chạm ấy dường như chẳng để lại dấu ấn nào trong ta. Điển hình là khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta trực tiếp đụng đến Chúa. Thế nhưng vì ta đã đụng đến Chúa cách hời hợt, máy móc, theo thói quen, thiếu lòng tin, thiếu tình yêu, nên đời sống ta chưa biến đổi. Hôm nay, ta hãy noi gương ông trưởng hội đường và người phụ nữ bị bệnh băng huyết, đến với Chúa bằng một đức tin mãnh liệt và bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Với đức tin và sự khiêm nhường, ta sẽ cảm nghiệm được Chúa. Chỉ cần một lần nếm cảm được tình yêu Chúa, được thấy ánh mắt nhân từ của Chúa, được lắng nghe những lời êm dịu, khích lệ của Chúa, ta sẽ chẳng còn muốn làm gì khác hơn là đền đáp tình yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con một đức tin mạnh mẽ và một lòng khiêm nhường thẳm sâu. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có câu nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn?
2. Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và bạn đụng vào Chúa?
3. Có lần nào bạn đã cảm nghiệm được Chúa đụng chạm vào bạn chưa?
Trở về quê nhà là niềm vui của một con người bởi vì đi xa nhà, xa quê ai cũng muốn về thăm: TN 14-B81
Trở về quê nhà là niềm vui của một con người bởi vì đi xa nhà, xa quê ai cũng muốn về thăm gia đình của mình, những người thân thương trong họ hàng, đặc biệt là những người làng xóm, láng giềng của mình. Chúa Giêsu cũng nằm trong tâm trạng đó. Ngài trở về quê nhà sau những ngày xa cách trong những chuyến đi truyền giáo, giới thiệu Nước Trời và giới thiệu Đấng Thiên Sai là chính Ngài. Về quê nhà, Chúa Giêsu giảng dạy trong các Hội Đường, dân làng rất ngạc nhiên về sự khôn ngoan, thông thái của Ngài. Những người dân quê Nadarét nếu chân thành tìm kiếm, họ đã có thể nhận ra Người đang nói với họ chính là Đấng họ đang tìm kiếm.
Tuy nhiên, dân làng Nadarét đã có ấn tượng không tốt về Chúa. Họ ngạc nhiên nghĩa là vừa thán phục, vừa kinh ngạc. Nhưng vì họ quá rõ về tông tích và nguồn gốc của Chúa: Ngài là con bác thợ mộc, là chính thợ mộc. Họ thán phục kinh ngạc nhưng rồi đâm ra nghi ngờ. Do đó, họ không tin Ngài là ngôn sứ, là Đấng Mêsia ư ? Họ không tin vì đã bị chạm tự ái, bị xúc phạm nặng nề. Dân làng Nadarét ngạc nhiên về Chúa và Chúa cũng ngạc nhiên về họ. Chúa Giêsu ngạc vì họ cứng lòng không tin.Thực tế họ ấn tượng xấu, cố chấp và cứng đầu. Chính vì họ cứng lòng tin nên Chúa không làm phép lạ nào nơi họ. Các phép lạ đều xẩy ra khi con người có lòng tin hoặc như Ông Bách Quản, Ông trưởng Hội Đường Gia-ia, người đàn bà bị băng huyết, bà góa thành Naim vv…Không có lòng tin phép lạ sẽ không bao giờ được thực hiện.
Vâng, ngày nay chưa chắc chúng ta đã hơn gì người làng Nadarét xưa. Bởi vì, ngày nay chúng ta được học hỏi, được biết Kinh Thánh và Giáo lý của Chúa, chắc chắn chúng ta biết hơn về Chúa Giêsu. Dân làng Nadarét tưởng rằng họ biết cặn kẽ về Chúa. Nhưng kỳ thực họ biết quá hời hợt, quá thiển cận về Chúa, chẳng hạn họ cứ tưởng Chúa sinh ra và lớn lên tại Nadarét, họ cứ nghĩ Mẹ Maria sinh Chúa tại làng quê Nadarét. Họ đóng lòng lại, không chịu học hỏi, không chịu tra cứu Sách Thánh, chẳng chịu học hỏi Giáo lý vv…Ngày nay, nhiều người Công giáo giữ đạo vì truyền thống, vì Cha Mẹ sinh ra mình là người Công giáo, nên đem con đi rửa tội. Do đó, họ là người có Đạo trên giấy tờ, trên lý thuyết. Họ chẳng biết gì về Chúa, về Giáo lý, về Sách Thánh và cũng chẳng biết gì về Đạo họ đang theo. Quả thực, họ chỉ hời hợt theo Đạo bề ngoài mà không biết thực hành đạo như thế nào !
Chúa Giêsu là Đấng nhân từ, Ngài luôn chạnh lòng thương xót, nhưng Ngài chẳng thể can thiệp, chẳng thể làm được gì khi con người không có đức tin. Phép lạ là quà tặng Thiên Chúa tặng ban cho con người. Nhưng con người đã dùng quyền tự do để từ khước Ngài và đã làm cho Ngài phải bó tay không thể làm phép lạ như chính dân làng Nadarét đã làm cản ngăn Chúa không thể làm phép lạ nào nơi họ.
Phép lạ lớn nhất mà Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm cho con người, đó là sự sống. Mỗi người còn đang sống là một phép lạ lớn lao Chúa làm cho con người khi họ còn sinh hoạt, ngủ nghỉ, ăn uống, đi lại vv…Con người phải có đức tin để nhận ra phép lạ lớn lao chúa đang thực hiện nơi con người.
Thiên Chúa vẫn làm nơi chúng ta những điều lạ lùng, nhưng con người nhiều khi vẫn chưa nhận ra không nhiều khi không muốn nhận ra những điều lạ lùng ấy. Chỉ khi nào, chúng ta để cho Ngài hoạt động tự do trong chúng ta thì lúc đó cuộc đời chúng ta mới đầy ắp kỳ công của Chúa và nhờ đó, chúng ta có thể ca tụng những kỳ công của Ngài cách tốt đẹp.
Chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của các bài đọc Chúa nhật hôm nay, nó dạy chúng ta hai điều: Trong đời sống chắc chắn chúng ta đã bị nhiều người khác khước từ phản đối giống như Chúa Giêsu đã bị người đồng hương từ chối, phản đối, nghi kỵ…Nhưng, chúng ta vẫn tiếp tục thông cảm, yêu thương ban phát như chúa Giêsu dù Ngài bị phản đối, từ chối, khước từ vv…
Lời Chúa trong bài giảng trên núi dạy chúng ta:” Phúc cho các ngươi là kẻ hiện giờ khóc lóc. Các ngươi sẽ được vui cười.Phúc cho các ngươi khi bị người ta thù ghét, ghen tương, lăng mạ, nói hành nói xấu các ngươi vì Con Người ! Các ngươi hãy vui mừng hân hoan vì phần thưởng lớn lao trên trời đang dành sẵn cho các ngươi “ ( Lc 6, 21-25 ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao các người đồng hương của Chúa Giêsu lại khước từ và phản đối Chúa Giêsu ? 2.Ông bà cô bác anh chị em có khi nào giống người Nadarét, quê hương của Chúa không ? 3.Chúa sinh ra ở đâu ? 4.Phép lạ xẩy ra có cần lòng tin không ? 5.Thiên Chúa có tiếp tục làm phép lạ không ? Phép lạ nào lớn nhất đối với Ông bà anh chị em ?
Trên đường thi hành sứ vụ, Chúa Giê-su có dịp trở về Na-da-rét, nơi Người đã lớn lên và: TN 14-B82
Trên đường thi hành sứ vụ, Chúa Giê-su có dịp trở về Na-da-rét, nơi Người đã lớn lên và sinh sống. Không cần biết lý do gì khiến Người ghé lại quê nhà, đây vẫn là một cơ hội để sống lại tình thân và những kỷ niệm êm đềm. Mặc dù Chúa Giê-su đã là người của công chúng, nhưng Người không quên mình luôn là một người con của Na-da-rét. Do đó phố xá và người dân Na-da-rét là những gì thân thương của Người. Tuy nhiên giữa lòng Na-da-rét còn một nơi đáng ghi nhớ nhất, đó là hội đường, nơi Chúa Giê-su đã vun trồng đời sống thiêng liêng của mình qua những buổi chia sẻ lời Chúa với anh chị em tại hội đường. Những lời giảng dạy và chia sẻ của Người đầy khôn ngoan làm cho nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Chúa Giê-su, người dân Na-da-rét bắt đầu có vấn đề, vấn đề định kiến.
Việc Chúa Giê-su thi hành sứ vụ đã làm cho Người nổi tiếng. Dân làng Na-da-rét nghe đồn về Người. Hôm nay Người trở về quê nhà và sau khi Người giảng dạy tại hội đường, dân chúng thấy quả thực lời đồn không sai. Sự đố kỵ khiến họ nêu lên một thắc mắc chung: “Bởi đâu ông ta được như thế?” và họ muốn có câu trả lời thỏa đáng. Nhưng đố kỵ và định kiến đã che mất tầm nhìn của họ, để họ không thấy được sự khôn ngoan và quyền năng của Chúa Giê-su là từ Thiên Chúa mà có. Họ nhìn Người không vượt qua những liên hệ nhân loại như bác thợ, con bà Ma-ri-a, anh em với một số người tại Na-da-rét. Rồi vì không thấy được nguồn gốc Thiên Chúa của Chúa Giê-su, họ coi Người chỉ là con người họ đã từng gặp trước đây, điều mà thánh sử Mác-cô gọi là “họ vấp ngã vì Người”. Việc vấp ngã của dân làng Na-da-rét chính là định kiến về xuất xứ của Chúa Giê-su. Với họ, Chúa Giê-su không phải là người Thiên Chúa đã sai đến với con cái Ít-ra-en (Ê-dê-ki-en 2:3), cũng không phải là một ngôn sứ đang ở giữa họ (2:5), mà đơn thuần chỉ là một con người tầm thường.
Tuy nhiên điều quan trọng chúng ta học được ở câu chuyện Tin Mừng hôm nay không phải từ nơi dân làng Na-da-rét, mà là cách Chúa Giê-su ứng phó với thử thách do định kiến và ghen tương của họ. Trước hết Người không sử dụng quyền năng Thiên Chúa của mình để sai lửa từ trời xuống thiêu hủy Na-da-rét (xem Lu-ca 9:51-56). Người chỉ bình tĩnh nói lên một sự thật bình thường: bụt nhà không thiêng! Lòng tin là điều kiện tất yếu để phép lạ xảy ra, cho nên sự kiện Người “không thể làm được phép lạ nào tại đó” không phải vì Người không đủ quyền năng, nhưng vì họ thiếu lòng tin. Chúng ta có thể nghĩ là Người cảm thấy buồn và lấy làm lạ vì họ không tin. Nhưng sự kiên nhẫn đã giúp Người dừng lại ở đó và tìm cách giải quyết sao cho thích hợp với việc thi hành sứ vụ, đó là “đi các làng chung quanh mà giảng dạy”. Ưu tiên của Người là rao giảng Tin Mừng chứ không phải là chỉ tìm kiếm thành công và làm cho người khác ngưỡng mộ. Người coi nhu cầu đón nhận Tin Mừng của những người dân các làng chung quanh lớn hơn cả danh thơm tiếng tốt của cá nhân Người đã bị dân làng Na-da-rét coi thường. Không những Người vững lòng tiếp tục thi hành sứ vụ, mà còn “gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một” để họ nâng đỡ nhau mà đối phó với thử thách (Mác-cô 6:7-13).
Sống sứ điệp Tin Mừng
Đối phó với thử thách do ghen tương, đố kỵ là điều chúng ta không ai tránh khỏi. Nhưng chúng ta thường đối phó theo cảm tính hoặc với não trạng bảo vệ hay trả thù. Không thiếu những trường hợp chúng ta tham gia vào những sinh hoạt cộng đồng hay giáo xứ và trở thành nạn nhân của đố kỵ và ghen tương. Một ca viên nổi trong ca đoàn có thể bị ca viên khác chê bai. Một thành viên đắc lực của hội đồng mục vụ có thể bị đổ oan là muốn quảng cáo cho dịch vụ của mình. Biết bao nhiêu ví dụ nữa khi chúng ta đóng góp xây dựng cộng đoàn. Đố kỵ ganh ghét là con đẻ của lòng kiêu căng. Vì thế chúng ta hãy tập cách đối xử của Chúa Giê-su, Đấng mời gọi chúng ta hãy học với Người, vì Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, luôn bỏ đi thái độ tự ái để tiếp tục chu toàn sứ mệnh Thiên Chúa trao ban. Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Mc 6:1-6: 1Đức Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2 Đến ngày sabbát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? 3 Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” 5 Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. 6 Người lấy làm lạ vì họ không tin.
Câu chuyện xảy ra ở nguyên quán của Chúa Giêsu (6:1-6a) kết thúc đoạn khá dài nói về: TN 14-B83
Câu chuyện xảy ra ở nguyên quán của Chúa Giêsu (6:1-6a) kết thúc đoạn khá dài nói về những việc quyền năng Người đã làm ở Galilêa (3:7-6:6a). Ở nguyên quán dân chúng đã khước từ Người, nên Người đã không làm phép lạ tại đó. Cấu trúc của đoạn: 1- Chúa Giêsu về quê quán với các môn đệ (6:1-2a); 2- Phản ứng của dân chúng tại đó (6:2b- 3); 3- Thái độ của Người trước phản ứng của dân chúng (6:4-6a).
Về lại nguyên quán Nazaréth là sáng kiến riêng tư của Chúa Giêsu. Người “ra khỏi đó”, nghĩa là tách mình khỏi những hoạt động trước đó (4:1-5:43), và tìm đến những người bà con thân thuộc trước đây đã đến tìm Người, và Người đã để họ đứng bên ngoài (3:21.31-35). Như các lần trước, các môn đệ luôn đi với Người để chứng kiến và học hỏi những điều sẽ xảy ra (c. 1). Như lúc khởi đầu, Người vào hội đường ngày sabbát để giảng dạy (c. 2; 1:21-22.27b; 11:18). Phản ứng đầu tiên của dân chúng trong cả hai trình thuật là họ đầy kinh ngạc bởi giáo huấn của Người. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa chúng là trong khi dân chúng ở buổi khởi đầu nhận ra quyền năng của Người trổi vượt mà họ không tìm thấy nơi các biệt phái, dân chúng ở nguyên quán của Người lại đặt vấn đề về bản chất và nguồn gốc của giáo huấn và những việc quyền năng của Người, dựa trên quan hệ dòng tộc trần thế của Người. Họ chỉ biết “Người nầy” là con của bà Maria, anh em của Giacôbê,.... Chừng ấy thôi và không biết gì hơn (cc. 2b-3). Chính sự giới hạn trong nhận thức về Người bằng đức tin đã đóng lòng họ lại trước con người và sứ mạng của Người (x. 7:15). Cũng với một thái độ ấy các thành phần trong hội đồng do thái đã hỏi Chúa Giêsu sau nầy: “Ông lấy quyền nào mà làm việc đó? hay ai đã ban cho ông quyền để làm việc đó?” (11:28; 3:22-23). Như thế, “họ vấp ngã về Người” nghĩa là họ không nhận ra quyền năng Thiên Chúa nơi giáo huấn và công việc Người; nên họ cũng không tin Người là Đấng được Thiên Chúa gởi đến.
Trước phản ứng thiếu lòng tin của dân chúng ở quê quán Người, Marcô ghi nhận là Chúa Giêsu không thể làm phép lạ nào cả (c. 5). Điều nầy xem ra trái nghịch với những điều quyền năng của Người vừa được tường thuật trong đoạn trước (4:1-5:43). Người có thể làm được tất cả nếu Người muốn (x. 1:40; 8:4; 9:22; 15:31). Tuy nhiên, có một điều Người không thể làm là áp đặt lòng tin của những người không muốn tin vào Người. Phép lạ chỉ được thực hiện để dẫn đến lòng tin; nên nếu không có đức tin, Người không thể làm phép lạ (x. 4:40; 5:34; 5:36). Thái độ của dân chúng ở nguyên quán của Chúa Giêsu tương tự thái độ của những người ở vùng Gêrasa (5:17).
Sau một loạt tường thuật những giáo huấn và những việc quyền năng Chúa Giêsu đã làm, sự không thành công ngay tại quê quán tạo nên một tương phản và gây ấn tượng mạnh, ngay cả cho Người, là rất khó chinh phục con người cho Thiên Chúa.
Các chương 10-13 là phần thứ ba của thư 2 Cô-rin-tô, đề cập tới việc thánh Phao-lô phải đương: TN 14-B84
Các chương 10-13 là phần thứ ba của thư 2 Cô-rin-tô, đề cập tới việc thánh Phao-lô phải đương đầu với những khó khăn gây nên do một số người “đội lốt tông đồ của Đức Ki-tô” (11:13) tố cáo ngài là “trong thư thì nghiêm khắc và hùng hổ; nhưng khi có mặt thì nhu nhược, nói chẳng ra hồn” (10:10), đầy tham vọng, lợi dụng cộng đoàn... Qua những trả lời với lý luận đanh thép nhưng cũng đầy khiêm tốn, chúng ta có một hình ảnh rất độc đáo về con người của thánh Phao-lô: vừa khiêm tốn lại vừa tự hào. Tuy nhiên, hậu ý của ngài không phải là muốn chúng ta dừng lại ở chuyện cá nhân của ngài, nhưng là qua kinh nghiệm bản thân, ngài muốn chúng ta đi tới xác tín một chân lý: Thiên Chúa biểu lộ sức mạnh của Người trong sự yếu đuối của chúng ta, hoặc nói khác đi, muốn áp dụng bài học đó thì hãy biết mình để khiêm tốn, biết Chúa để tự hào.
a) Biết mình và biết Chúa
Đoạn thư dùng trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay là một phần nhỏ trong đoạn Phao-lô nổi “cơn điên” tấn công địch thủ của ngài (11:16-12:10). Thực ra thì Phao-lô không điên rồ chút nào, nhưng ngài bất đắc dĩ (12:11) phải nêu lên những thành tích của mình cốt để địch thủ hết còn cớ tấn công ngài, và như thế sẽ có lợi cho tín hữu Cô-rin-tô. Trong khi địch thủ trưng dẫn gốc gác Do-thái của họ, tài ăn nói hùng hồn và những cảm nghiệm thị kiến hay mặc khải họ có, thì trái lại, thánh Phao-lô chỉ tự hào với những đau khổ ngài chịu và sự yếu đuối ngài có. Tại sao có sự khác biệt căn bản ấy? Là vì địch thủ của Phao-lô chỉ muốn biết mình theo họ muốn, chứ không phải trong quan hệ với biết Chúa. Biết mình theo cách của họ lấy họ làm chuẩn đích chứ không phải là Thiên Chúa, do đó họ không nhìn nhận vai trò của Thiên Chúa và họ tự hào “theo tính xác thịt” (11:18) về tất cả những gì họ có. Trái lại, thánh Phao-lô dựa trên nguyên tắc căn bản: “Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa!” Với tinh thần “trong Chúa,” Phao-lô tin chắc rằng tín hữu Cô-rin-tô đều nhận thấy tất cả cuộc sống ngài, từ lời nói tới hành động, nhất nhất đều nhắm mục đích phục vụ Tin Mừng của Đức Ki-tô. “Có Thiên Chúa biết” (11:11), đó là nền tảng để chúng ta biết mình. “Đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào” (1 Cr 3:21). Chúng ta biết mình với cái biết của Thiên Chúa, chứ không phải với cái biết của mình, vì cái biết của chúng ta dễ bị sai lạc do cái không biết của người khác hoặc do tham vọng của chính chúng ta. Biết mình trong cài biết của Chúa luôn luôn đưa chúng ta tới cùng một thái độ của tác giả Thánh Vịnh 139: “Lạy Chúa, xin dò xét để biết rõ lòng con, xin thử con cho biết những điều con cảm nghĩ. Xin Ngài xem con có lạc vào đường gian ác, thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời” (cc. 23-24).
b) Khiêm tốn và tự hào
Đó là hai khía cạnh của cùng một vấn đề. Để biểu lộ cái biết đích thực về mình và về Chúa, chúng ta biểu lộ qua tâm tình khiêm tốn và tự hào, khiêm tốn để nhận ra rằng nếu Chúa không ban cho thì mình chỉ là tay trắng, tự hào để xác tín rằng nếu Chúa không nâng đỡ phù trì thì mình không thể vượt thắng được những khó khăn mệt nhọc. Phao-lô đan cử những thí dụ cụ thể cho thấy mọi sự đều là ân sủng. Những giúp đỡ ngài nhận được từ các cộng đoàn khác, thí dụ như Ma-kê-đô-ni-a, tính độc lập và tự lực cánh sinh của ngài... là những dấu hiệu của ân sủng. Cả đến gốc gác Do-thái của ngài cũng là một ân sủng lớn lao. Nhiều lần thánh Phao-lô đã buộc lòng phải nhắc lại gốc gác của mình khi phải đương đầu với nhóm người gốc Do-thái sống ở hải ngoại. Họ tự hào với xuất xứ của họ: chủng tộc Híp-ri, tôn giáo Ít-ra-en, tổ phụ Áp-ra-ham, Lời Hứa và Giao Ước. Nhưng thánh Phao-lô cũng hội đủ tất cả những điều kiện ấy để ngài có thể xưng mình là người Do-thái trăm phần trăm. Chỉ có một điều Phao-lô hơn họ, đó là ngài luôn nhớ mình thuộc dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn và giờ đây lại trở thành Dân mới, thuộc về Đức Ki-tô.
Nhưng trong cuộc sống, những lúc dễ nhận ra sự yếu đuối của mình và vai trò của ơn Chúa là khi phải đối phó với gian truân lúc thi hành sứ mệnh. Những gian khổ trong cuộc đời tông đồ của Phao-lô cho thấy bản thân Phao-lô không thể nào thắng vượt được nếu không hoàn toàn trông cậy vào sự can thiệp của ơn Chúa. Nhất là khi “thân xác ngài như đã bị một cái dằm đâm vào và một thủ hạ của Xa-tan được sai đến để vả mặt ngài, để ngài khỏi tự cao tự đại,” thì ngài lại càng nhận rõ vai trò của ơn Chúa: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (12:9). Đúng vậy, thái độ khiêm tốn và tự hào bắt nguồn từ chính Đức Ki-tô, Đấng đã biểu lộ sức mạnh của Thiên Chúa qua cái chết của Người trên thập giá. Ma quỷ và thế gian tưởng lấy cái chết để thắng được Đức Ki-tô, thì trái lại, Người lại lấy cái chết ô nhục ấy để đền bù tội lỗi nhân loại và chiến thắng cuối cùng của Người trên cái chết chính là sự Phục sinh.
c) Gương của Phao-lô cho chúng ta một lối sống: sống vui với những giới hạn của mình
Một người thực sự biết giới hạn của mình với thái độ khiêm tốn sẽ không bao giờ thất vọng về mình, trái lại biết cậy trông vào Chúa. Một Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su biết chọn con đường nên thánh qua những việc làm nhỏ nhặt trong ngày sống. Một Mác-ti-nô đệ Porrès bằng lòng với công việc hèn mọn nhất trong tu viện. Quan trọng là mình làm hết khả năng, tất cả những gì còn lại là do Chúa. “Kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể” (1 Cr 3:7). Có được xác tín như vậy, chúng ta sẽ vui sướng chấp nhận giới hạn của mình, đồng thời nhận rõ sức mạnh của ơn Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta học được bài học này, để giúp chúng ta chu toàn bổn phận xây dựng Nhiệm Thể Chúa Ki-tô với những khả năng Chúa ban cho chúng ta.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Tự cao tự đại mang rất nhiều mặt nạ khác nhau và là nguyên nhân gây nên những xáo trộn trong cộng đoàn. Tôi nhận ra tính tự cao tự đại ấy sau những mặt nạ nào nơi tôi? Làm sao lột được chúng?
Có nhược điểm nào nơi tôi nhắc nhở tôi phải khiêm tốn không? Làm sao tôi có thể nhận ra sự can thiệp của Chúa qua nhược điểm ấy? Chia sẻ một thí dụ cụ thể chứng tỏ “khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh.”
Tôi có thái độ nào khi nhận ra những điểm yếu của mình? Ghen tương với người khác? Không được làm thì phá? Tiêu cực đến độ thụ động, hoàn toàn không muốn “dính dáng” vào cộng đoàn?... Hoặc càng hăng say và cố gắng hơn, cậy vào ơn Chúa hơn và biết nhận ra những nỗ lực thiện chí của người khác?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài về dấn thân phục vụ, hoặc “Kinh hòa bình” của thánh Phan-xi-cô Át-xi-xi.
Sứ giả là người được chọn lựa và được sai đi để loan truyền Tin Mừng cho muôn dân, là người: TN 14-B85
Sứ giả là người được chọn lựa và được sai đi để loan truyền Tin Mừng cho muôn dân, là người nói nhân danh Thiên Chúa.
Đức Kitô là vị Thiên Sai đến mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa và những ý định của Ngài, nhờ đó chúng ta được cứu độ. Trong đời sống công khai, Ngài đã bị chống đối và khinh miệt, như lời thánh Gioan đã viết: Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng gia nhân đã không tiếp nhận Ngài.
Phải chăng đó cũng chính là sái số phận của người sứ giả, của người tông đồ, vì Chúa Giêsu cũng đã bảo: Môn đệ không trọng hơn Thầy, người ta đã bắt bớ Thầy thì người ta cũng sẽ bắt bớ các con. Thực vậy, ngày hôm nay, Chúa Giêsu trở về Nadarét để rao giảng Tin Mừng, nhưng Ngài đã bị chính những người đồng hương chống đối, rồi trên khắp nẻo đường xứ Palestina, Ngài đã loan truyền Phúc Âm, đã chữa lành những tật bệnh đem lại mọi lợi ích cho con người, thế nhưng họ đã dám cho Ngài lấy quyền phép ma quỷ mà làm những việc đó. Ngài mạc khải Thiên Chúa là Cha và mình là Con, thì họ cho Ngài là kẻ phạm thượng, bị quỷ ám và điên khùng. Ngài đến đem bình an, chân lý và thiết lập nước Thiên Chúa thì bị mang tiếng là xách động là phản loạn. Họ bắt bớ và kết án Ngài tử hình trên thập giá. Sau cùng Ngài đã bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp.
Thân phận của người sứ giả là như thế và Chúa Giêsu cũng đã xác định cho các tông đồ: Các con sẽ phải đau khổ, khóc lóc, sẽ bị bắt bớ và điệu ra toà. Và như chúng ta thấy: Cuộc đời người sứ giả của Thiên Chúa phải gắn liền với thập giá và khổ đau, vì nơi thập giá, ơn cứu độ được biểu hiện qua sự chết và phục sinh của Đức Kitô. Bởi vì đau khổ là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá tới phục sinh và là điểm tựa cho người sứ giả để can đảm loan truyền lời Chúa.
Họ không sợ hãi vì có sức mạnh thần linh yểm trợ. Nơi thập giá, sức mạnh của Thiên Chúa thể hiện và sự yếu đuối của con người gặp được sự khôn ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa. Thập giá giải hoà con người với Thiên Chúa và đem lại ơn cứu độ. Số phận của người môn đệ phải đồng hoá với số phận của Thầy chí thánh, bởi vì chính Chúa cũng đã ra điều kiện: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Người môn đệ không phải chỉ chết cho mình mà còn chết cho người khác. Đúng thế, thập giá họ vác chính là dấu chỉ họ chết cho thế gian. Họ sung sướng và hãnh diện vì được chịu khổ đau như thánh Phaolô đã viết: Phần tôi chẳng bao giờ tôi dám vênh vang, ngại trừ nơi thập giá Đức Kitô, Đấng đã đóng đinh thế gian cho tôi và tôi cho thế gian. Trong những giờ phút đen tối, họ nhìn vào thập giá Đức Kitô và tìm thấy ở đó một lý tưởng, một sức mạnh, một kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình.
Trước những hy sinh gian khổ chúng ta đã có thái độ nào: sẵn sàng chấp nhận chịu đóng đinh với Đức Kitô nghĩa là dám hy sinh, từ bỏ ý riêng để phục vụ ý Chúa hay không? Đức Kitô có phải là nguyên lý cứu độ hay đã trở nên cớ cho chúng ta vấp phạm.
Những điều nghịch lý: đó là những ý kiến hoặc thực tại ngược với những gì vẫn được người: TN 14-B86
Những điều nghịch lý: đó là những ý kiến hoặc thực tại ngược với những gì vẫn được người ta chấp nhận hoặc ngược với những gì phải có theo lẽ bình thường.
Trong những đoạn Kinh Thánh của Chúa nhật hôm nay ta có thể rút ra hai điều nghịch lý: Điều thứ nhất trích từ Tin Mừng; điều thứ hai từ thư thánh Phaolô gởi giáo đoàn Corintô. Chúng ta hãy bắt đầu với điều nghịch lý của Tin Mừng.
Bị người nhà của Ngài chối bỏ.
Sau một chuyến đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu trở về quên hương. Người ta chỉ nghe toàn tiếng vang thuận lợi về Ngài.
Ngài rao giảng như không bao giờ đã có ai rao giảng. Ngài làm phép lạ, Ngài chữa lành bệnh nhân. Vậy nên, nơi hội đường trong ngày Ngài trở về cứ tưởng người ta sẽ đón rước Ngài một cách long trọng. Thế mà không. Con cái của quê hương không được đón tiếp niềm nở. Người ta khó lòng tưởng tượng tượng đứa con trai bác thợ mộc và của bà Maria lại có thể là người đã được ca tụng như thế, liệu ông ta có làm được những gì mà người ta nói rằng ông ta đã làm ở nơi khác chăng? Thánh Marcô viết: “Và họ lấy làm chướng tai gai mắt về Ngài”.
Khi đọc bản văn Tin Mừng hôm nay liền nghĩ đến điều này, là rất thường người ta phải khó nhọc lắm mới có thể bắt chúng ta nhìn nhận tài năng –không phải của con cái hoặc những thành viên trong gia đình chúng ta- nhưng là của những người lối xóm, những người đồng hương với chúng ta. Sự nhỏ nhen này không phải là không có hậu quả tiêu cực, bởi vì chúng làm tổn thương người khác và ngăn cản những dự định tốt.
Khi đọc bài Tin Mừng này tôi cũng nghĩ đến cách mà chúng ta đón nhận (hoặc không đón nhận) và lắng nghe (hoặc không lắng nghe) những kẻ rất gần chúng ta, là chứng nhân của Thiên Chúa: Đứa bé này đặt câu hỏi cho chúng ta do bởi sự sốt sắng của nó; Người hàng xóm này nói về tôn giáo cho chúng ta, người thiếu niên này chống lại cái mà nó gọi là những giá trị giả tạo của chúng ta. Vị linh mục này, nhân danh Chúa Kitô, đặt lại vấn đề về những lối hành động và suy tư của chúng ta. Bởi vì chúng ta quen biết tất cả những người này (có lẽ quá!) bởi vì chúng ta biết những tật xấu và những yếu điểm của họ, nên chúng ta có khuynh hướng hạ giá chứng tá của họ.
“Một ngôn sứ chỉ bị chối bỏ nơi quê hương, bởi bà con và gia đình mình mà thôi”. Đó là điều khiến Chúa Giêsu đã nhận xét. Điều mà chúng ta thường thấy xẩy ra! Nếu chúng ta thuộc về số những kẻ không có quyền lên tiếng với bà con của mình, và không được đón tiếp ân cần trong chính nhà của mình, nơi giáo xứ, môi trường của mình… ta hãy cứ tỏ ra bình thản. Ta hãy tự nhủ rằng Chúa Giêsu đã bị đối xử như thế và môn đệ không thể hơn Thầy được.
Sức mạnh trong nỗi yếu đuối.
Nghịch lý thứ hai chính thánh Phaolô trình bày cho chúng ta khi người đặt trong miệng Thiên Chúa Lời này: “Quyền uy của Ta tỏ hiện tột mức trong sự yếu hèn”. Con người càng mạnh, càng tự hào và tự tin, càng cậy dựa vào những khả năng của mình thì quyền uy của Thiên Chúa càng ít được thể hiện nơi họ. Trái lại họ càng khiêm tốn, bé nhỏ, ý thức giới hạn của mình và hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên Chúa, lúc đó quyền năng của Thiên Chúa càng có thể được tỏ hiện nơi họ.
Nghịch lý thực sự, ngược với những gì chúng ta nghe nói mỗi ngày và những gì nhiều lần chính chúng ta tưởng nữa. Phải thông thái, giàu có, thống trị kẻ khác… mới thành công được ở đời. Đó là triết lý thông thường! Ngược hẳn với những gì Thiên Chúa nghĩ. Thiên Chúa ưa thích làm những điều lớn lao qua những kẻ bé mọn, nghèo nàn, yếu đuối, khiêm tốn, những kẻ không tôn mình lên, những kẻ xác tín rằng nếu mình có làm được điều gì lớn lao, thì đó không phải là nhờ sự cao cả của mình nhưng nhờ sự cao cả của Thiên Chúa được mặc khải nơi mình.
Đức Maria, một phụ nữ mà người ta không để ý đến. Nhưng có biết bao nhiêu điều tuyệt diệu Thiên Chúa đã làm nơi người và nhờ người! Thánh Phaolô, một con người kiêu hãnh và tự mãn đã bị thử thách và tổn thương nhiều nơi thân xác và đã trở thành một người khiêm tốn. Cũng nơi người và nhờ người nữa, Thiên Chúa đã làm những điều cao cả.
Bao giờ cũng thế. Những kẻ ốm đau, Thiên Chúa ưa thích làm việc qua họ. Những kẻ coi như không ra gì, lại chính là những kẻ Ngài rất thường chọn để thực hiện những dự tính đẹp đẽ nhất của Ngài.
Ta hãy kết thúc những suy tư này bằng một cái nhìn về bản thân chúng ta. Nếu chúng ta có khổ vì những yếu đuối, nhựng rụt rè, những nỗi lo sợ, những nỗi bất lực của chúng ta, chúng ta cũng đừng ngã lòng. Trái lại chúng ta hãy phục vụ Chúa hết mình và xin Ngài thực hiện cho chúng ta những gì mà biết bao lần Ngài đã thực hiện cho những người khác. Xin Ngài biểu lộ quyền năng của Ngài nơi nỗi yếu hèn của chúng ta.
CÓ PHẢI CHÚA GIÊSU TRONG GIÁO HỘI THÌ QUÁ NHIỀU CHO CHÚNG TA KHÔNG?
Hầu hết dân chúng hay hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình nhất là những người trẻ, chúng: TN 14-B87
Hầu hết dân chúng hay hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình nhất là những người trẻ, chúng rất ngưỡng mộ những ngôi sao thể thao, những tài tử hoặc những chính trị gia. Chúng rất kiêu hãnh khi từ nơi chúng đã sản xuất ra những nhân vật quan trọng như thế. Vì sao dân chúng của chính thành phố nơi sinh trưởng của Chúa Giêsu lại từ bỏ Người? Phúc Âm nói rằng họ thấy Người có quá nhiều tài năng đối với họ. Quá nhiều đó là gì? Điều đó có ý nghĩa là Ngài làm quá nhiều theo ý kiến của họ, theo cái nhìn của họ, Ngài là một người bình thường, một người thợ mộc, là con của bà Maria. Ai đã làm cho Người trở nên một tiên tri?
Rao giảng như một tiên tri đã làm phát sinh ra sự thù nghịch nơi dân thành phố quê hương của Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu là một nhân vật thể thao, một tài tử, một chính trị gia, có lẽ Ngài không bị đe doạ bởi dân chúng. Họ đã kiêu hãnh về Người. Nhưng còn một tiên tri thì sao? Một tiên tri thì có thể sẽ bị mọi người từ bỏ. Tiên tri có thể giới thiệu thách đố hoặc là lời khiển trách. Tiên tri thì tuyên bố chân lý. Những láng giềng của Chúa Giêsu thì sợ Ngài. Từ sự sợ hãi dẫn đến sự từ bỏ. Dân chúng ở Nazareth trở nên giống như tổ tiên của họ, khi Thiên Chúa đã gởi tiên tri Ezekien đến. Họ đã cau mặt và có trái tim chai đá. Điều đó thật xấu hổ biết bao. Khi mà Chúa Giêsu thật sự còn hơn là một tiên tri nữa, chính Con Thiên Chúa đang ở giữa họ. Chúng ta cũng sẽ quay trở lại chống Chúa Giêsu không?
Chân lý này là Chúa Giêsu vẫn ở lại giữa chúng ta. Ngài nói với chúng ta khi Thánh Kinh được đọc lên trong nghi thức phụng vụ và Ngài đã dạy dỗ chúng ta qua những giáo huấn của Giáo Hội. Những lúc đó chúng ta có sợ lắng nghe không? Chúng ta có sợ phải thay đổi cách sống, cách suy nghĩ và hành động của chúng ta không? Chúng ta có khuynh hướng tự phơi bày chính mình qua những điểm giáo huấn khó khăn bởi vì chúng ta chứng minh vật chất thì có thể gây ra tranh luận và quá phức tạp? Chúng ta có tìm thấy rằng chúng ta có cái nhìn thiển cận đối với giáo huấn của Giáo Hoàng, các Giám mục không?
Công đồng Vatican II cảnh cáo về sự phá thai là một tội không lời nào tả được, mà nhiều xứ sở trong chúng ta lại nói rằng quyền chọn lựa thì quan trọng hơn quyền được sống. Đức Giáo Hoàng đã cảnh cáo chúng ta chống lại văn hoá sự chết, bằng cách làm rõ ràng trong việc trợ giúp tự tử và làm cho chết êm dịu. Cùng với các Giám mục, Đức Thánh Cha đã nài xin hình phạt tử hình chỉ sử dụng trong những trường hợp bất đắc dĩ, khi xã hội không thể ngăn ngừa được phạm nhân có thể phạm tội trở lại, và một số những chính trị gia đã bỏ phiếu ủng hộ việc lên án tử hình. Nhiều người trong số những chính trị gia này thì muốn đổ lỗi cho những dân nhập cư, có tài liệu chứng minh hoặc không có giấy tờ, hoặc đổ lỗi cho kinh tế toàn cầu của chúng ta, nhưng quan điểm của người Công Giáo là tất cả mọi người đều phải được kính trọng như con cái Thiên Chúa, và tất cả những người thuộc về xứ sở này đều đang trên con đường hành hương về nhà Cha.
Một số người tự cho mình là đúng khi họ tỏ ý coi thường bất cứ ai nhận trợ cấp của xã hội, họ khinh bỉ những ai lây nhiễm bịnh HIV, họ kết án những người mắc vào bệnh say sưa chè chén, họ nhìn cách khinh bỉ những người dân tộc thiểu số, những người mà chỉ là một nhóm nhỏ trên đất nước của họ. Ngay cả một số những người Công Giáo cũng đã minh chứng rằng Giáo Hội không được dính líu đến chính trị và chỉ lưu tâm đến những công việc cứu rỗi các linh hồn. Họ đã có một suy nghĩ sai lầm, bởi suy nghĩ chúng ta đang sống trong hai thế giới, một thế giới tôn giáo và thế giới thế tục. Họ kết luận rằng tôn giáo thì không được xâm chiếm vào thế tục. Sự thật là chúng ta chỉ sống trong một thế giới, thế giới của Thiên Chúa. Có phải Giáo Hội thì quá lớn đối với chúng ta không? Điều đó không phải như thế nếu chúng ta nhớ rằng Chúa Giêsu thì không chết. Người vẫn đang sống, Người vẫn tiếp tục nói với chúng ta qua những lời Thánh Kinh, qua những giáo huấn khác của Giáo Hội.
Đức Giêsu ra khỏi đó và trở về quê nhà, có các môn đệ đi theo. Bấy giờ Chúa Giêsu trở về: TN 14-B88
Đức Giêsu ra khỏi đó và trở về quê nhà, có các môn đệ đi theo. Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Nagiarét, làng quê, xứ sở của Người.
Sinh tại Bêlem, vì một cuộc kiểm tra dân số Chúa Giêsu đã trải qua thời thơ ấu và niên thiếu tại Nagiarét, nơi xa xôi cách trở giao thông. Ở đó có lẽ chỉ có khoảng 150 gia đình. Người ta sống rất đơn giản, trồng ô liu và nho, cùng với một ít lúa đại mạch và lúa mì. Mỗi gia đình có một vài con dê. Hằng ngày, mỗi người tự làm bánh mì cho mình tại nhà. Ngày thứ bảy, tất cả đều đến hội đường để cầu nguyện. Nơi Đức Giêsu, tất cả đều phản ảnh gốc gác của Người, là một nông dân, một người sống bằng đất đai một người "của quê hương".
Tin Mừng hoàn toàn mô tả cuộc sống đồng quê, một tường thuật do những người "nông dân” ghi lại, nói về một “nông dân" sống gia những người "nông dân” và đã diễn tả ý nghĩ của mình bằng nhượng ẩn dụ của "nông dân". Như vậy đâu là đặc tính của một người thợ mộc trong kiểu sống này? Làm bàn ghế, giường, cửa? Tại sao vậy? Mỗi người tự làm những thứ ấy. Người ta ngồi ăn dưới đất, ngủ trên chiếu trải dưới đất. Anh thợ mộc Giêsu, một nông dân trong số những nông dân khác; có thể có một vài sự khéo léo đặc biệt học nơi ông Giuse, một người "sửa chữa" tầm thường, có thể làm hay chữa những cái ách hay những chiếc cày bằng gỗ. Giêsu, một con người không có gì khác biệt với người khác. Tôi hãy suy niệm về điều này.
Đến ngày Sabát, Người vào giảng dạy trong hội trường.
Về điểm này cũng thế, Đức Giêsu cũng như mọi người. Chúng ta đừng lầm lẫn. Đức Giêsu không phải là người cử hành nghi lễ. Người không đóng vai trò tư tế. Người chỉ là một trong những tín hữu đi dự lễ. Trong dân Israel bất cứ một người nam trưởng thành nào, kể từ tuổi thành nhân (12 tuổi) đã là "tư tế", thuộc về "dòng giống tư tế", đều có quyền đọc Thánh Kinh và chú giải Thánh Kinh. Đấy là việc Đức Giêsu đã làm ngày hôm đó, khi Người rời chỗ ngồi để lên "đọc" và "diễn giảng". Thánh Maccô không cho chúng ta biết đề tài của bài giảng hôm đó là đề tài nào.
Đa số thính giả rất ngạc nhiên. Họ nói: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?"
Danh tiếng của Đức Giêsu đã về đến làng của Người. Nhưng thay vì hãnh diện, những người đồng hương của Người lại bất bình. Tất cả những điều đó không phù hợp với những gì họ biết về Người. Họ biết rõ Người hơn ai hết. Họ đã thấy Người lớn lên, họ đã cùng đi đến trường học với Người. Người không có quyền trở thành "một người khác” hơn là những gì họ biết về Người.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng tự giới hạn mình trong một hiểu biết nào đó, từ chối tiến xa hơn, không chịu khám phá những điều mới mẻ. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi sự bảo thủ, khỏi những tư tướng cũ mòn, khỏi sự đóng khung về trí tuệ và tâm linh. Xin đẩy chúng con ra khỏi những tập quán thích tiện nghi, khỏi thế giới quá bình lặng của chúng con.
Ông ta không phải là bác thợ con bà Maria, và anh em họ hàng với các ông Giacôbê, Gioan, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?
Tin Mừng của Thánh Maccô rất cụ thể, đến nỗi chúng ta cảm thấy rất gần với Đức Giêsu trong đời thường. Chúng ta hiểu rất rõ những suy nghĩ tầm thường của những nông dân trong một xóm nhỏ hẻo lánh miền quê. Đó là cuộc sống thôn dã: Chân trời dường như dừng lại ở những cánh đồi vây quanh làng. Và người ta kể ra nhiều tên, một danh sách anh chị em bà con. Theo cách thức của phương Đông, người ta gọi họ là "anh em”, không kể họ bên ngoại, vì truyền thống không dành chỗ đứng cho người phụ nữ. Người này là ai mà dám phá đổ những tục lệ của chúng ta, hủy bỏ tổ chức của thế giới nhỏ bé này, nơi đó người ta xác định con người theo một hộ tịch cứng nhắc, những tương quan xã hội được ấn định một lần thay cho tất cả. Cuối cùng, mỗi người phải ở tại vị trí của mình, đóng trong vai trò của mình, không được thay đổi đột ngột.
Và đó là chướng ngại làm cho họ không tin vào Người.
Ba Tin Mừng nhất lãm Matthêu, Luca và Maccô đã kể lại cho chúng ta "sự thất bại" của Đức Giêsu. Người đã sống những biến cố đau thương. Đức Giêsu bị chối từ. Ngày nay, nhiều người vẫn có cùng một thái độ như người dân Nagiarét lúc bấy giờ. Nhiều người nói "Tin Chúa", đồng ý; Nhưng tin Giáo Hội, thì không. Vâng, Giáo Hội, cũng như Chúa, có một khía cạnh con người, rất nhân bản. Các giám mục, linh mục, Kitô hữu, là những người mà người ta biết quá! Ngày nay cũng như ngày xưa, nhiều người "bất bình" với Giáo Hội, cũng như người ta đã bất bình với Đức Giêsu. (Đó là đúng nghĩa chữ Hy Lạp ‘éscandali Zonto’). Giáo Hội gây bất bình! Tin Mừng ghi lại, Đức Giêsu cũng đã gây bất bình sâu xa.
Trang Tin Mừng này là một thử thách nghiêm trọng đối với lý tưởng của chúng ta. Chúng ta phải chấp nhận sự không hoàn hảo của Giáo Hội. Đó là thực tế của việc nhập thể: Thiên Chúa ở trong làng, Thiên Chúa ở góc đường, Thiên Chúa tập đọc ở nhà trường, Thiên Chúa là anh em của một người nào đó.
Đức Giêsu bảo họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi".
Đức Giêsu bị "khinh miệt" nhất trong nhóm thân nhân của Người. Người ta đã hiểu lầm về Người. Thái độ quá thân quen có thể che khuất đi tính chất thâm sâu của những liên hệ. Giản lược Đức Giêsu trong nhiều kích nhân loại đó là khinh miệt Người. Sự gần gũi đích thực với Đức Giêsu không phải là một sự gần gũi thể lý, vật chất. Và chúng ta cũng có thể quan niệm sai lầm về ‘dấu chỉ’ như khi nghĩ rằng: chỉ cần làm những cử chỉ bên ngoài là đương nhiên thuộc về "gia đình" của Đức Giêsu. Tuy nhiên chúng ta vẫn biết, điều làm nên "gia đình" thực sự của Người, không phải là những liên hệ huyết thống, mà chính là đức tin - "Kẻ nào làm theo ý Thiên Chúa, đó là anh em Thầy, chị em Thầy và là Mẹ Thầy" (Mc 3,35). Đức Giêsu đã tự tạo cho mình một gia đình mới: Đó là những người nghe Chúa và đem ra thực hành.
Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ.
Đây là một sự mạc khải lạ kỳ, làm đảo lộn những khuôn khổ sẵn có của chúng ta. Một sự chữa lành, dù là bằng cách đặt tay, không thể là một phép lạ được. Đức Giêsu đã chữa lành nhiều bệnh, nhưng đó không thuộc loại những phép lạ. Như thế, muốn nói lên điều gì? Phải có đức tin mới có phép lạ thực sự. Một sự chữa lành không đưa đến việc đón nhận Đức Giêsu trong đức tin, không phải là một phép lạ thật, vì thiếu ý nghĩa cốt yếu của nó.
Điều này có thể chứng minh cho chúng ta rằng: Phép lạ không đủ để ban đức tin. Những người ở Nagiarét nói: Bởi đâu tay ông làm được những phép lạ phi thường trong những làng lân cận?" - Hoạt động của Đức Giêsu không rõ ràng, cả những phép lạ vĩ đại nhất cũng không đủ để làm cho chúng ta hiểu mầu nhiệm của bản thân Người. Và chúng ta tiếp tục xin Chúa can thiệp để chứng minh "Người là ai". Tuy nhiên, chúng ta đã được khuyến cáo: “Người ta có thể nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu” (Mc 4,12) và "mặc dù Đức Giêsu đã làm những dấu lạ rất lớn trước mắt họ, họ đã không tin Người" (Ga 12,37) Điều đó cho chúng ta hiểu, tại sao một số Kitô hữu nghi ngờ những phép lạ, và Giáo Hội phải thận trọng thế nào, khác với những hạng người “buôn thần b án thánh".
Người lấy làm lạ vì họ không chịu tin.
Sự khước từ đức tin dường như là một đặc điểm trong suốt giai đoạn hai của tác vụ Đức Giêsu. Giờ đây Đức Giêsu đối diện với hiện tượng không tin. Đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng rằng đó là một hiện tượng tiêu biểu của thế giới ngày nay, như thể chỉ có những thời đại trước mới là thời đại của đức tin. Vẫn thường xảy ra là người ta lên án Giáo Hội: "Người ta không còn dạy tôn giáo nữa, người ta không dạy giáo lý nữa". Vì thế khi Đức Giêsu đích thân giảng dạy trong làng của Người, là nơi thanh sạch và dành riêng cho Người cư ngụ, thế mà Người cũng không khơi dậy được đức tin. Ngày nay, biết bao bậc cha mẹ đứng trước một hiện tướng như thế, trước con cái của họ. Chính Đức Giêsu, dù là Đấng chí thánh cũng đã gặp những người không tin trong thân nhân của Người. Sự bất lực của Đức Giêsu trước thái độ không tin của những người đồng hương, biểu lộ sự hoàn toàn tôn trọng tự do của con người: Đây là hình ảnh biểu lộ thái độ tôn trọng của Thiên Chúa đối với tự do mà Người đã tạo ra. Sự bất lực bí nhiệm "thần thiêng" này, phải làm chúng ta suy nghĩ sâu xa: Đức tin của chúng ta có thể không vững phắc như chúng ta tưởng, Đức tin là một thực tại mỏng giòn và thường bị đe dọa.
Rồi Đức Giêsu đi khắp các làng mà giảng dạy.
Ở đây tôi nhận được bài học quý giá cho những thất bại của tôi. Đứng trước thất bại chua cay mà Đức Giêsu đã gặp tại Nagiarét, thay vì chịu thua, Người lại lên đường tiếp tục. Người lấy làm ngạc nhiên vì sự cứng lòng của họ. Thánh Maccô ghi lại vắn tắt như thế? Thật khó mà đón nhận thất bại, và chân thành rút ra từ đó những hệ quả tích cực, nếu không chịu ngã thua.
Ba bài đọc Chúa nhật hôm nay đến với chúng ta về một thứ "linh đạo của thất bại" Chúa ra lệnh cho ngôn sứ Êgiêkiel (2,15) phải đứng vững đương đầu với một dân tộc đang khước từ sứ điệp của Người. Còn Thánh Phaolô (2Cr 22,7-10) ngài thú nhận đã bị một "mũi dằm đâm vào thịt", một thất bại mà Ngài đã không chiến thắng được. Trước một nỗ lực hoán cải mà không tiến bộ, hay trước một tình huống đau thương nào đó chúng ta có vượt thắng được sự chán nản không?
Kinh nghiệm đời sống tâm linh cho thấy nhiều người hoặc vì cứng đầu cứng cổ, hoặc vì thành: TN 14-B89
Kinh nghiệm đời sống tâm linh cho thấy nhiều người hoặc vì cứng đầu cứng cổ, hoặc vì thành kiến mà không nhận ra sứ giả của Thiên Chúa. Con cái Ít-ra-en thời ngôn sứ Ê-dê-ki-en, vì cứng đầu cứng cổ, nên không nhận ra có một ngôn sứ đang ở giữa họ là Ê-dê-ki-en. Vị ngôn sứ là tiếng nói của Thiên Chúa, là người nói thay Thiên Chúa, để chỉ dậy cho dân biết đường lối, ý định, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Còn dân làng Na-da-rét, vì thành kiến và không tin, nên không nhận ra Chúa Giê-su là vị đại ngôn sứ, là chính Lời Thiên Chúa nhập thể làm người và ở giữa dân Người. Kinh nghiệm của người xưa phải giúp mỗi người, mỗi cộng đoàn chúng ta nhậy bén và tỉnh thức trong việc nhận ra các sứ giả của Thiên Chúa! Vậy xin mời các bạn đọc kỹ và tìm hiểu các bài Sách Thánh hôm nay.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Ed 2,2-5): Chúng vốn là nòi phản loạn, chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.
“2 Bấy giờ, thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Người phán với tôi và làm cho chân tôi đứng 3 Người phán với tôi: "Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. 4 Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: "Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này." 5 Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.”
2.2 Trong bài đọc 2 (2 Cr 12,7-10): Tôi tự hào về những yếu đuối của tôi để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi.
“7 Thưa anh em, để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. 8 Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. 9 Nhưng Người quả quyết với tôi: "Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. 10 Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.”
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mc 6,1-6): Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình.
“1 Hồi ấy, Đức Giê-su trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2 Đến ngày sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? 3 Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?" Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giê-su bảo họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi." 5 Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. 6 Người lấy làm lạ vì họ không tin.”
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?):
1o) Bài đọc 1 (Ed 2,2-5) là một trích đoạn của Sách Ngôn Sứ Ê-dê-ki-en trong đó vị ngôn sứ nói về sứ mạng mà Thiên Chúa đã ép ông phải nhận. Sứ mạng đó là nói Lời Thiên Chúa cho những người Ít-ra-en nổi tiếng là ngỗ ngược và cứng đầu cứng cổ!
Trong đoạn Thánh Kinh này chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng chịu đựng sự ngỗ ngược và cứng đầu cứng cổ của dân Ít-ra-en và tìm mọi cách để thay đổi họ, để biến họ thành những người dễ bảo và vâng phục.
2o) Bài đọc 2 (2 Cr 12,7-10) là một trích đoạn của thư 2 Cô-rin-tô trong đó Thánh Phao-lô nói về sự yếu đuối hoặc khiếm khuyết hoặc cám dỗ thiêng liêng mà ngài phải chịu đựng suốt cuộc đời. Chúng ta không rõ đó là gì, vì Thánh Phao-lô nói một cách rất mơ hồ là “một cái dằm.” Cái dằm thì không đủ làm cho người ta chết, nhưng nó làm cho người ta khó chịu và đau đớn. Điều chúng ta cần ghi nhận là nhờ cái dằm ấy mà Thánh Phao-lô sống cách khiêm tốn giữa bao ơn huệ lớn lao mà Thiên Chúa đã ban cho ngài.
Trong đoạn Thánh Thư này chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng ban mọi ơn cần thiết cho Phao-lô (và chúng ta), để Phao-lô (và chúng ta) sống đẹp lòng Thiên Chúa, làm chứng cho quyền năng của Người và phục vụ kế hoạch làm cho dân ngoại nhận biết Thiên Chúa.
3o) Bài Tin Mừng (Mc 6,1-6) là bài tường thuật của Phúc âm Mác-cô về cách suy nghĩ và hành động của những người đồng hương đối với Đức Giê-su ở làng Na-da-rét. Khi thấy Đức Giê-su bộc lộ sự khôn ngoan khác người, dân làng Na-da-rét cũng ngạc nhiên và thắc mắc; nhưng họ hoặc chỉ dựa vào những gì họ biết về Người (cha mẹ, họ hàng, nghề nghiệp, tài sản và giai cấp xã hội) hoặc ganh tỵ không muốn Người hơn họ, nên sinh ra nghi ngờ và không tin, thậm chí còn tìm cách xô đẩy Người xuống vực (xem Lc 4,29).
Trong đoạn Phúc âm này chúng ta thấy Chúa Giê-su là Đấng rất đơn sơ chân chất và hiền hòa, dễ thương. Bằng chứng là Người tỏ ra ngạc nhiên về thái độ không tin của những người đồng hương và vui vẻ đi đến các làng chung quanh để giảng dạy.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?):
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là mỗi người, mỗi cộng đoàn (gia đình/giáo xứ/hội dòng) chúng ta bỏ tính ngỗ ngược và thái độ cứng đầu cứng cổ, bỏ thành kiến và thái độ không tin, mà nhận ra sứ giả của Thiên Chúa trong cuộc đời (cá nhân và cộng đoàn) mình.
Sứ giả của Thiên Chúa có thể là một người đóng vai sứ ngôn nói lời ngay thẳng khó nghe vì lời ấy là lời của Thiên Chúa chân thật; có thể là chính Thiên Chúa dưới vẻ bề ngoài của một người nghèo hèn, bị khinh rẻ và bị bỏ rơi bởi đồng loại.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng đã vì yêu thương chúng ta mà dùng các sứ gỉa để nhắc nhở chúng ta nhớ Lời của Người, để cảnh cáo chúng ta về thái độ cứng đầu cứng cổ hay thành kiến và không tin, mà sống theo Thánh Ý Người.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Chúng ta được mời gọi chuyên cần lắng nghe và thực hành Lời Chúa, và mở rộng tâm hồn và đời sống đón rước các sứ giả mà Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta, rất nhiều khi là một cách hết sức bất ngờ!
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ CHO THẾ GIỚI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho các dân tộc cứng lòng và mù quáng nên không nhận ra các sứ giả và không đón nhận các sứ ngôn của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu nguyện!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Bấy giờ, thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Người phán với tôi và làm cho chân tôi đứng.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, cho các Đức Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, cho các linh mục và phó tế, luôn được Thần Khí Thiên Chúa chiếm hữu và hướng dẫn để các vị vững vàng trong sứ mạng nói lời công lý và bênh vực sự thật.
Xướng: Chúng ta cùng cầu nguyện!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Người lấy làm lạ vì họ không tin.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ chúng ta, cách riêng cho những người tham dự thánh lễ này, để ai nấy có lòng tin mạnh mẽ vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu nguyện!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Chính Ta sai ngươi đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho các chiến sĩ truyền giáo, cho các cá nhân và tổ chức bênh vực nhân quyền, bảo vệ sự sống và môi trường để họ trung kiên trong sứ mạng khó khăn trong các xã hội ngày nay.
Người ta cứ bảo: quê hương là chùm khế ngọt. Nhưng có lẽ, với Chúa Giêsu, quê hương Nazareth của: TN 14-B90
Người ta cứ bảo: quê hương là chùm khế ngọt. Nhưng có lẽ, với Chúa Giêsu, quê hương Nazareth của Ngài lại là một chùm khế chua lè. Về thăm quê, sau một thời gian đi giảng đạo, và đã làm nhiều phép lạ. Ngài vào trong hội đường. Người ta mời Ngài đọc Thánh Kinh, và sau đó giảng. Cả hội đường há hốc mồm lắng nghe, và thán phục. Vui tai quá, nhưng lòng họ vẫn khô khốc. Nghe Lời Chúa là gì? Không phải để vui tai. Nhưng quan trọng là để được biến đổi. Lời Chúa dọi sáng vào tâm hồn ta, làm ta thấy rõ sự thật về mình. Những sai lầm và những lạc lối. Để rồi từ đó, ta soi mình trong gương Lời Chúa, so sánh, và rồi có biến đổi. Nhưng biến đổi ai cũng ngại. Vì gây đau đớn; ngại ngùng lắm, khi phải rời bỏ những thói quen vẫn có từ lâu rồi.
Những người đồng hương của Chúa, ngạc nhiên về những ý tưởng cao siêu Chúa giảng, nhưng không muốn chấp nhận. Vì chấp nhận thì phải thay đổi. Vả nữa, cái nhìn của họ về Chúa, là một cái nhìn khinh thường. Vì Chúa là dân nhà nghèo. Miệng nhà sang mới có gang có thép, chứ đồ nhà khó thì vừa lọ vừa thâm. Thế mới thấy. Sự thiên kiến về một con người, là một sự sai lầm to lớn; nó sẽ ngăn cản, để ta không thể đánh giá đúng về giá trị một người.
Hơn nữa, chính sự tự hào dị hợm của họ, đã khiến họ không tìm thấy được sự thật. Nó tố cáo cái nhận thức nông cạn của họ. Họ đánh giá Chúa theo cái vỏ thân xác bên ngoài. Mà thực ra, giá trị của con người, nằm ở phía tâm linh bên trong. Họ muốn Ngài làm cho họ những phép lạ cho họ xem chơi. Nhưng Ngài từ chối. Họ là ai mà có quyền đòi Thiên Chúa phải làm phép lạ, để thỏa mãn tính tò mò của họ. Nhưng rồi, gặp thấy một số bệnh nhân, Ngài cũng đã chữa lành cho một ít người.
Nhưng những người đứng chứng kiến đó, cũng vẫn không tin. Rõ ràng, họ là những người có đầu mà không có óc. Khi nghe Lời Chúa, người ta phải biết đón nhận rồi ghi nhớ và suy nghĩ.
Ngày nay cũng vậy thôi. Cái thái độ tự hào của những người Nazareth hôm nay, đang được lặp lại ở nhiều nơi. Không thiếu gì những người, đi lễ ngày Chúa Nhật, đã luôn giữ một thái độ hời hợt, chẳng hề chú tâm chút nào, trong những phần về Lời Chúa; chẳng hề có ý tưởng phải chú tâm, lắng nghe xem, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa có ý dạy tôi điều gì.
Câu hỏi:
1 – Bạn thường đánh giá người khác theo tiêu chuẩn nào? 2 – Bạn có thường chú tâm khi nghe giảng không? Lm Đa Minh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu không phải chỉ là một tiên tri như: TN 14-B91
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu không phải chỉ là một tiên tri như những tiên tri khác, mà Ngài chính là Con Thiên Chúa. Thế nhưng Ngài đã phải đụng đầu với sự cứng lòng tin của chính những kẻ đồng hương với Ngài. Theo tập tục thì mọi người Do Thái ở tuổi trưởng thành đều có thể lên tiếng khi tham gia phụng vụ tại hội đường. Chúa Giêsu đã sử dụng quyền này của Ngài và lên tiếng rao giảng Phúc Âm. Nội dung rao giảng hẳn phải có một cái gì khác lạ với những điều từng được rao giảng tại đây. Khác đến độ mọi người đều có thể nhận ra và sửng sốt trước sự khôn ngoan của Ngài. Thực tế trước mắt đã khởi sự lay động họ, kéo họ ra khỏi giấc ngủ yên tĩnh giữa những cái biết rồi, đẩy họ vào con đường của những khám phá mới. Thế nhưng những câu hỏi chỉ loé lên trong thoáng chốc không đủ để chiếu sang cho họ tới được với Đấng đã đến giải phóng họ. Họ đã bỏ thực tế để trở về với lối lý luận thông thường của họ. Họ tưởng rằng họ đã biết quá rõ về Ngài khi nói ra được Ngài là con ai, đã làm gì và ai là những người thân thích với Ngài. Họ đã trở về với những cái họ đã nắm được để rồi quay lưng trước lời kêu gọi của thực tế trước mắt. Điều họ mắt thấy tai nghe đã đánh động để họ phải đặt lại vấn đề, thế nhưng họ đã đóng chặt cửa lòng trước những cái mới mẻ đã từng làm cho họ sửng sốt và ngạc nhiên. Họ tự tách mình ra khỏi Nước Trời đang đến với họ. Phúc Âm còn ghi lại: thấy họ cứng lòng tin, Chúa Giêsu đã không làm một phép lạ nào, nghĩa là Ngài đã không tỏ quyền năng của Nước Trời cho họ và Ngài đi rao giảng ở những làng xung quanh.
Thái độ của dân làng Nadarét cũng có thể là cơn cám dỗ của người Kitô hữu hôm nay. Chúng ta có thể tự hào và tự mãn với những bài giáo lý, những hiểu biết về đạo, để rồi quay lung trước lời mời gọi của Chúa trong những sự kiện, những biến cố đang xảy ra chung quanh chúng ta. Nói cách khác, việc sống đạo của chúng ta hôm nay không thể đóng khung trong một số kiến thức có sẵn về Thiên Chúa, về ơn cứu độ, cũng như trong một số nghi lễ đã được quy định sẵn, trái lại phải được thể hiện qua việc lắng nghe, tìm kiếm ý định của Chúa trong lịch sử, trong chính lòng cuộc đời cá nhân và trong sinh hoạt của cộng đồng xã hội. Vấn đề là chúng ta có thực sự thoát ra được những thành kiến, những quan niệm, những lối nhìn sẵn có để thực sự lắng nghe tiêng nói mới mẻ của Chúa qua các biến cố, qua các sự kiện của thực tế hôm nay. ----------------------------
Cao ngạo khiến con người đánh mất Thiên Chúa, đánh mất đồng loại và đánh mất chính mình.: TN 14-B92
Cao ngạo khiến con người đánh mất Thiên Chúa, đánh mất đồng loại và đánh mất chính mình.
Sự cao ngạo không bao giờ có lối dẫn người ta đến gặp Thiên Chúa. Đó là một nguyên tắc đã trở thành kinh nghiệm ngàn đời, không phải của riêng ai, nhưng là của cả nhân loại.
Cao ngạo làm người ta xa Chúa đã vậy, nó còn có thể giết chết sự sống con người. Tất nhiên không phải sự sống thể lý, nhưng là những giá trị thánh thiêng, những giá trị làm nên sự quý báu, làm nên ý nghĩa của cuộc đời, của mỗi người nói riêng và cả nhân loại nói chung. Chẳng hạn:
* Niềm tin (chưa phải là đức tin của người Kitô giáo). Đó có thể là lòng tin tưởng giữa người với người bị đánh mất. Đó cũng có thể là lòng tin giữa con người với đấng thượng đế nào đó mà con người đặt niềm tin vào, nay bị đánh mất bởi cao ngạo.
* Hay như đức tin của những anh chị em Kitô giáo. Đó là lòng tín thác tuyệt đối mà họ đặt nơi Thiên Chúa vô biên, Đấng luôn yêu thương và quang phòng săn sóc mọi loài, mọi người. Đức tin làm nên giá trị vĩnh cửu của đời người. Nhưng vì cao ngạo, con người có thể hoàn toàn đánh mất đức tin.
* Hay chí ít là những giá trị thường hằng của đời sống như: tình yêu, lòng khoan dung, sự tha thứ, thái độ siêu thoát đối với của cải, lòng tự chủ đối với bản năng quyền lực… cũng bị đánh mất do cao ngạo.
Đó là những giá trị làm nên những mối tương quan tương quan sâu đậm trong mỗi tâm hồn con người. Để gìn giữ những giá trị vô cùng ấy, ta cần loại trừ mọi thứ cao ngạo trong đời mình. Bởi mối nguy hiểm do cao ngạo là mối nguy hiểm lớn. Nó làm ta đánh mất Thiên Chúa, đánh mất cả đồng loại quanh ta.
Sự mất mát do cao ngạo, dù đã quá lớn, nó vẫn chưa dừng. Nó biến ta thành kẻ trơ trụi. Trơ trụi đến mức trần trụi: ta chỉ quay quắt với chính mình, cố thủ trong pháo đài của riêng mình. Những danh từ như lòng tin tưởng, bạn bè, người thân… chỉ còn là những khái niệm mơ hồ, xa xăm. Con người có bao giờ thành người trọn vẹn khi tự mình che chắn, bao bọc lấy mình. Vì không là người trọn vẹn, do đó, cao ngạo xô ta đánh mất chính mình.
Từ thuở tạo thiên lập địa, Kinh Thánh đã chứng minh nỗi đau, sự nghiệt ngã do lòng người cao ngạo gây ra: Tổ tông loài người đã cao ngạo đến mức không thể hiểu nổi. Được làm người hạnh phúc, tự do, và thấm đẫm tình yêu Thiên Chúa đã là một ân phúc tuyệt vời, vậy mà tổ tông đã không coi đó làm đủ, lại dám nuôi một giấc mộng tầm cỡ thiên đàng: đòi bằng Thiên Chúa, Đấng mà mình phải phát xuất từ đó. Tổ tông không ngờ giấc mộng của mình lại chính là ảo vọng và tội lỗi.
Bởi cao ngạo quá đỗi, tổ tông đã kéo theo những mất mát cũng lớn không kém: mất Thiên Chúa. Bằng chứng là tổ tông đã tìm cách trốn Thiên Chúa. Mất cả tương quan với đồng loại. Mới ngày nào Ađam còn reo to vui mừng khi được Eva làm bạn: “Đây xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Nhưng sau khi phạm tội, tình nghĩa thắm thiết đã không còn. Nguyên tổ bắt đầu đổ lỗi cho nhau: “Người đàn bà Chúa ban cho con đã hại con”. Và trong tội, nguyên tổ đã đánh mất chính mình, trở thành những kẻ vong thân, sống trong lầm lũi, sợ hãi và tủi nhục.
Và hôm nay, một lần nữa, bài Tin Mừng lại cho thấy người đương thời của Chúa Giêsu, cụ thể là chính đồng hương của Chúa đã sai lầm vì cao ngạo. Chính cái lý lịch xem ra rất tầm thường của Chúa mà họ đã xúc phạm nặng nề với Chúa: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?”. Cũng chính cái lý lịch ấy, làm cho họ, thay vì được nhiều ơn lành từ Chúa Giêsu, thì ngược lại, họ đánh mất tất cả. “Người đã không làm phép lạ nào được”. Có Thiên Chúa ở với mình, nhưng không biết đón nhận, vì thế, họ đã đánh mất cả Thiên Chúa: Không những không thể làm phép lạ, Chúa Giêsu còn bỏ ra đi. Người “qua các làng chung quanh mà giảng dạy”. Khi cố tình đẩy Chúa Giêsu ra khỏi cuộc đời mình, những người đồng hương của Chúa đã làm tổn thương mối liên hệ với Chúa Giêsu xét như một con người: tổn thương mối tương quan giữa người với người.
Mãi đến tận bây giờ, vì không nhìn nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa, sự cao ngạo quá mức ấy, đã làm cho người Dothái, là những đồng hương của Chúa Giêsu, đã qua hai mươi thế kỷ, vẫn cứ vuột mất ơn cứu độ, vẫn là những người mỏi mòn trông chờ Đấng Cứu Thế của lời hứa. Ngày xưa, vì cao ngạo, tổ tông đã thất bại thảm hại. Bây giờ, cũng vì cao ngạo, quê hương của người Dothái, cũng chính là quê hương của Chúa Giêsu, đã tự mình tách khỏi ơn cứu độ. Đó quả là một thất bại thảm hại còn lớn gấp ngàn lần thất bại của tổ tông.
Dấu vết thất bại ấy, đã để lại một tấm gương ngàn đời cho muôn thế hệ. Vậy mà bài học trong tội tổ tông và bài học từ những trang Tin Mừng, lắm khi cả tôi và bạn vẫn chưa thuộc. Sự cao ngạo của ta đã nhiều lần làm gãy đổ tương quan giữa ta với Thiên Chúa, giữa ta với nhau, và với chính ta. Có một cách để chữa trị lòng cao ngạo đó chính là tình thương. Sự cao ngạo của những người đồng hương của Chúa Giêsu, trước hết là một lối mòn của những kẻ không biết yêu thương. Chúng ta hãy dành tặng nhau lòng yêu thương. Có yêu, ta sẽ không còn đố kỵ, không còn kỳ thị, không còn chấp nhất, không còn định kiến, không thiển cận và cũng hết hẹp hòi. Tất cả những điều đó (đố kỵ, kỳ thị, chấp nhất, định kiến, thiển cận, hẹp hòi…) là con đẻ của cao ngạo. Bởi đó, tình thương sẽ giúp ta dẹp bỏ thói cao ngạo. Mọi người hãy yêu thương. Chỉ có tình yêu thương mới là giải pháp trọng vẹn hòng chữa trị cao ngạo. ----------------------------
“Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương mình” (Mc 6,4).
Theo Điển Ngữ Đức Tin của Linh mục Hồng Phúc, danh từ tiên tri hay ngôn sứ có nguồn gốc: TN 14-B93
Theo Điển Ngữ Đức Tin của Linh mục Hồng Phúc, danh từ tiên tri hay ngôn sứ có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp là chữ prophẻte, có nghĩa là nói nhân danh người khác. Tiên tri là người được Thiên Chúa soi sáng và sai đến nói cho người ta nhân danh Thiên Chúa, để truyền đạt các mệnh lệnh của Ngài. Họ chuyển đến cho dân những đòi hỏi có trong sách luật, lời cảnh cáo hay lời hứa cho dân.
Không ít lần Thánh Kinh đã nhắc đến cảnh dân Do thái bị lưu đày, sầu khổ, hoạn nạn, truân chuyên, và các ngôn sứ được phái tới để loan báo cho dân một niềm hy vọng hay niềm vui của sự cứu thoát. Tiên tri Êgiêkien, Isaiah, Giêrêmia đã loan báo về lòng thương xót cảm thông của Giavê đối với nỗi khổ của dân, và Ngài sẽ ra tay cứu thoát họ.
Thế nhưng không ít lần các tiên tri cũng vạch cho dân biết các nỗi thống khổ là do họ đã bỏ Thiên Chúa. Các ngài can đảm lên tiếng phê phán, cảnh cáo lối sống sai lạc, và báo trước một hình phạt sẽ sảy đến hoặc sẽ kéo dài nếu người ta không đổi mới cuộc đời.
Kết quả của lời cảnh báo thường sẽ là: “hoặc họ nghe, hoặc họ không nghe” (Ez 2:5). Thậm chí, lắm khi mạng sống của vị ngôn sứ còn bị đe doạ, nhất là khi phải nói lời Chúa cho những vị có quyền lực trong dân.
Ai lại không biết trong một quốc gia phong kiến, vua là trên hết. Mọi uy quyền sức mạnh đều nằm trong tay vua. Đụng đến vua thì chẳng khác chi tự đưa mình vào hang cọp. Thế mà để chu toàn sứ mạng, các tiên tri đã không quản liều mình.
Thánh Kinh có ghi lại hình ảnh của một tiên tri Nathan đầy khôn ngoan, dám tố cáo tội ngoại tình, giết người, cướp vợ của vua Đavít; hay hình ảnh can đảm của tiên tri Elia, dám nói thẳng với hai vợ chồng vua Akhab việc họ đã giết Nabot và chiếm đoạt tài sản của ông cách bất công, nên Thiên Chúa sẽ giáng phạt tội ác của họ; hoặc dưới triều vua Yosya, tiên tri Sophonia đã trách cứ các tư tế và chỉ trích thói tục ngoại lai khi tôn sùng các thần giả.
Trước lời loan báo, cảnh tỉnh của tiên tri, “hoặc là họ nghe, hoặc là họ không nghe”- một là người ta sẽ lùi bước trước điều gian ác để sám hối canh tân hoặc chính các tiên tri sẽ phải chuốc hoạ khổ đau, như trường hợp của ngôn sứ Gioan Tiền hô khi dám lên tiếng phản đối hành động loạn luân của Hêrôđê.
Các tiên tri của Chúa không những dám đánh mất sự sống thân xác khi đụng đến những kẻ có thế lực và quyền hành trong dân, các ngài còn dám hy sinh cả an toàn tình cảm khi lên tiếng cảnh cáo răn đe dân chúng. Như tiên tri Giêrêmia, Amos, Giôna, Nahum, Mica, những vị dám lên án dân Do thái, dám thoá mạ bọn nhà giàu cướp bóc người nghèo, những kẻ cho vay vô lương tâm, những con buôn gian lận, những gia đình chia rẻ, các tư tế tham lam, hay các quan án hối lộ.
Giữa một xã hội vô luân, giữa một dân tộc bị tục hoá, giữa những con người đang chạy theo những điều vô đạo, vô phép, mà một mình dám đứng lên để mở ra một hướng đi mới, dạy dỗ một giáo lý mới nhân danh Chúa, tất khó tránh khỏi cảnh kẻ chê người ghét, kẻ phản đối người hận thù.
Đức Giêsu, vị tiên tri tối cao, cũng không được miễn trừ. Phúc âm nói rõ: khi trở về quê nhà Nazaret, Ngài vào hội đường để giảng dạy. Ngài rao truyền một giáo lý yêu thương “họ không nghe.” Hơn nữa họ còn “vấp phạm vì Người” (Mc 6:3b).
Tất nhiên sự vấp phạm này không chỉ là thái độ thiếu kính trọng đối với “anh thợ mộc con bà Maria” của những người hàng xóm, nhưng còn cả hành vi phủ nhận không tin của bà con thân cận (Ga 7:5). Chính Chúa Giêsu đã phải thốt lên: “Không tiên tri nào mà không bị khinh bỉ nơi quê quán, bà con, họ hàng nhà mình” (Mc 6:4).
Thế nhưng, dù bị ngược đãi khinh khi, dù phải đối diện với lòng chai dạ đá, Đức Giêsu vẫn không ngã lòng từ bỏ sứ vụ. Thánh kinh ghi nhận: lúc đám đông không tin phục thì Ngài đi đến với “một vài bệnh nhân;” khi thành này từ khước Tin Mừng thì Chúa Giêsu lại đi rao giảng cho “các làng chung quanh.” Đây phải là thái độ không thể thiếu được nơi các ngôn sứ, những người được mời gọi rao truyền Lời Chúa cho muôn dân.
Nói đến ngôn sứ xin đừng chỉ liên tưởng đến các vị tiên tri trong Cựu ước hay những đấng “bạo mồm bạo miệng” dám lên tiếng hăm doạ, kết án những kẻ sống đời nghịch luân, nghịch thường. Song, ngôn sứ chính là “tất cả những người Kitô hữu, nhờ phép rửa tội, được hiệp thân với Đức Kitô, kết thành dân của Chúa và do đó, họ tham dự theo cách thế riêng vào chức vụ tư tế, sứ ngôn, và vương giả của Đức Kitô. Theo điều kiện của mỗi người, họ được kêu gọi thực hành sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho Giáo hội chu toàn trong thế giới” (Giáo Luật số 204).
Như thế, ẩn sâu trong bản chất Kitô hữu của tôi là cả một chức năng ngôn sứ. Với chức năng đó, đời sống tôi phải đi đôi với việc loan báo chân lý, bảo vệ luân lý, bênh vực nhân lý nhân danh Thiên Chúa Hằng sống.
Nhưng thử hỏi mấy ai sẽ nghe lời tôi khi đời tôi là một phản chứng. Làm sao người ta nhận ra chân lý khi mà tôi cứ mãi sống trong gian dối, lọc lừa, tham lam. Ai có thể nghe tôi dạy dỗ về luân lý khi mà đời tôi đầy dẫy những thứ vô luân, rối vợ rối chồng, nghiện ngập đam mê. Và ai có thể đồng tình với tôi để bênh vực nhân phẩm đang khi tôi xúc phạm nhân phẩm, huỷ diệt thai nhi, cắt đứt tình người.
Như vậy, để đóng trọn vai trò ngôn sứ, đời tôi phải là một nỗ lực chứng tá liên lỉ. Nhưng tôi tự hỏi: ngay như cuộc đời toàn hảo của Chúa Cứu Thế cũng không được mọi người chấp nhận và bước theo, huống hồ là cuộc đời chứng tá của mình?
Nhưng tính chất cần có của đời ngôn sứ vẫn là không ngã lòng bỏ cuộc. Dù với khó khăn trắc trở của môi trường hay của lòng người, tôi vẫn cứ tiến tới. Trong niềm tin như Thánh Phaolô, tôi dám nói: “Ơn Chúa luôn đủ cho tôi. Vì chính trong sự yếu hèn của tôi mà quyền năng Thiên Chúa được tỏ bày” (2 Cr 12,9). ----------------------------
(1) Đức Giê-su ra khỏi đó, và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. (2) Đến ngày Sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? Ông ta làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì ? (3) Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giu-đa và Si-mon sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” Và họ vấp ngã vì Người. (4) Đức Giê-su bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. (5) Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó. Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. (6) Người lấy làm lạ vì họ không tin.
2.Ý CHÍNH:
Sau một thời gian đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Đức Giê-su đã về thăm quê hương là làng: TN 14-B94
Sau một thời gian đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Đức Giê-su đã về thăm quê hương là làng Na-da-rét. Dân làng ngạc nhiên trước lời giảng khôn ngoan và thán phục trước các phép lạ Người làm ở khắp nơi. Nhưng họ lại đặt nghi vấn về thân thế dòng dõi của Người và không tin Người có thể là Đấng Thiên Sai. vì họ cứng lòng tin nên Đức Giê-su đã không làm nhiều phép lạ tại đó.
3.CHÚ THÍCH:
-C 1-2:
+ Đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo: Đức Giê-su trở về quê hương Na-da-rét của Người (x. Mt 2,23). Làng này không mấy nổi danh như ông Na-tha-na-en đã nhận xét: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được ?” (x. Ga 1,46). Đức Giê-su về Na-da-rét để thăm thân nhân, và cũng để thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nước Trời ở đó nữa.
+ Đến ngày Sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường: Tại các hội đường Do Thái, dân làng có thói quen tập trung vào ngày Sa-bát để nghe các kinh sư đọc và giải thích Kinh Thánh. Trong các buổi cầu nguyện này, người ta cũng thường hay mời các kinh sư hay các bậc vị vọng đến giảng dạy. Đức Giê-su đã nổi tiếng khắp nơi nên cũng được mời lên bục giảng. Dân làng ngạc nhiên về giáo lý của Người, nhất là khi nghe biết các phép lạ Người đã từng làm tại thành Ca-phác-na-um.
-C 3:
+ Là bác thợ: Nhưng rồi dân làng Na-da-rét lại tỏ vẻ khinh thường nghề thợ mộc mà Đức Giê-su đã học cha nuôi là Giô-xép.
+ Con bà Ma-ri-a: Họ không nhắc đến Giô-xép (hay Giu-se), có lẽ vì ông đã qua đời từ lâu, mà chỉ nhắc đến bà Ma-ri-a là một phụ nữ bình thường.
+ Anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xép, Giu-đa và Si-mon sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?: Anh chị em được nêu tên ở đây chứng minh gia thế Đức Giê-su không có gì đặc biệt. Tuy nhiên, có người lại dựa vào câu này để phủ nhận đức đồng trinh trọn đời của Đức Ma-ri-a, vì theo họ: ngoài Đức Giê-su ra, bà còn sinh thêm nhiều con trai con gái khác. Thực ra, anh chị em nói đây chỉ là anh chị em bà con mà thôi (x. St 13,8; 14,16). Chẳng hạn: Gia-cô-bê và Giô-xép là con của bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát (x. Mt 27,56; Ga 19,25), Giu-đa là con của ông Gia-cô-bê (x. Lc 6,16). Ngay từ ban đầu, Giáo Hội Công giáo luôn khẳng định: Đức Giê-su là “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7) và “Người con duy nhất” của Đức Ma-ri-a. Cũng vì thế mà khi sắp tắt thở trên thập giá Đức Giê-su đã trối Mẹ Người cho môn đệ Gio-an, và từ giờ đó Gio-an đã đón bà về nhà mà phụng dưỡng (x. Ga 19,27). Cuối cùng, nếu những người này thực là con của Đức Ma-ri-a, thì dân làng đã phải nói là “các em trai của ông ta”, “các em gái của ông ta”, thay vì nói từ chung chung “anh em ông” và “chị em ông”.
+ Và họ vấp ngã vì Người: Theo Thánh Phao-lô và thánh Phê-rô thì: Đối với những kẻ kiêu căng cứng lòng tin, thì Đức Giê-su đã trở nên viên đá chướng ngại (x Rm 9,33; 1 Pr 2,7-8). Tin Mừng Lu-ca cũng viết “viên đá bị loại ra” là Đức Giê-su, đã trở nên “viên đá góc”. Phàm ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; Đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt” (Lc 20,18).
-C 4-6:
+ “Ngôn sứ có bị rẻ rúng…”: Câu này tương tự như câu: “Bụt nhà không thiêng !”. Dân làng Na-da-rét đã vấp ngã trước những yếu tố nhân loại của Đức Giê-su như: Làm nghề thợ mộc là nghề tay chân hèn kém, có những thân nhân bình thường… Đó là những chướng ngại khiến họ không tin Người thực sự là Đấng Thiên Sai.
+ Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó: Trước khi làm phép lạ cứu nhân độ thế, Đức Giê-su luôn đòi người ta phải có đức tin. Chẳng hạn: Người bảo bệnh nhân: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34); Người nói với ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), hay nói với người mù ở Giê-ri-cô: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh !” (Mc 10,52). Tại làng Na-da-rét, vì không tin, nên dân làng đã không xứng đáng được Đức Giê-su ban ơn là tại đây Người đã không làm nhiều phép lạ như ở những nơi khác.
4.CÂU HỎI:
1) Đức Giê-su về thăm quê hương Na-da-rét nhằm mục đích gì ? 2) Dân làng tập trung tại hội đường vào các ngày Sa-bát để làm gì ? 3) Dân làng Na-da-rét đánh giá thế nào về Đức Giê-su sau khi nghe Người giảng dạy ? 4) Dân làng có thành kiến thế nào về nghề thợ mộc và về thân nhân tầm thường của Đức Giê-su ? 5) Phải chăng Đức Ma-ri-a đã không trọn đời đồng trinh, vì ngòai Đức Giê-su, Tin Mừng hôm nay còn kể ra tên nhiều anh em và chị em khác của Người ? 6) Dân làng Na-da-rét đã dựa vào đâu để không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai ? 7) Tại sao Đức Giê-su đã không làm nhiều phép lạ tại quê hương Người ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1.LỜI CHÚA: Họ nói: “Nào ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a sao ?” (Mc 6,3).
2.CÂU CHUYỆN:
1) BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG:
Trong truyện cổ Trung hoa có câu chuyện như sau: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng vẫn chăm chỉ làm lụng để kiếm tiền về phụng dưỡng tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ. Một hôm nghe bên đất Thục có một vị đại sư tên là Võ Tề rất nổi tiếng, Dương Phủ liền xin phép cha mẹ để đi tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, Dương Phủ gặp một lão ông quen biết. Hai người hàn huyên nói chuyện và sau khi biết Dương Phủ muốn bỏ nhà đi tu học với vị đại sư Võ Tề, lão ông liền khuyên anh như sau: “Gặp đại sư Võ Tề, chẳng bằng gặp Đức Phật”.
Dương phủ lại hỏi: “Gặp Đức Phật ở đâu?”
Lão ông bảo: Anh hãy quay về nhà. Khi thấy người nào quấn vải trên người và đi dép ngược thì đó chính là Đức Phật.
Dương phủ vâng nghe lời lão ông quay về nhà. Trên đường trở về, anh để ý tìm nhưng không gặp một ai có đặc điểm như lão ông đã chỉ. Khi về tới nhà lúc ban đêm, anh gọi cửa. Mẹ anh nghe tiếng con trai rất vui, vội quấn chiếc mền đang đắp lên người để tránh bị lạnh, xỏ chân vào đôi dép nhưng đi ngược mà bà cũng không quan tâm, rồi vội vàng chạy ra mở cửa đón con vào nhà. Bấy giờ anh nhìn kỹ, thấy mẹ anh giống như đặc điểm đức Phật mà lão ông đã nói trước là quấn khăn vải trên người và chân đi dép ngược.
Anh đã ngộ ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa, mà là chính cha mẹ và người thân ở trong cùng nhà với mình. Và anh đã yêu thương phục vụ Đức Phật là chính cha mẹ của anh như câu người xưa dạy: “Tu đâu cho bằng tu nhà; Thờ cha kính mẹ mới là đạo con”.
2) CHINH PHỤC LÒNG NGƯỜI BẰNG LÒNG BÁC ÁI
Vào năm 1960, một cuộc bách hại đạo Công Giáo bùng lên tại nước Su-đăng thuộc Phi Châu. Một sinh viên Công giáo da đen tên là Ta-ban đã bỏ nhà chạy sang nước láng giềng U-gan-đa lánh nạn. Trong thời gian ở đây, Ta-ban đã được nhận vào chủng viện và 7 năm sau, anh được thụ phong linh mục. Khi tình hình ở Su Đăng lắng dịu, tân linh mục Ta-ban quyết định trở lại quê nhà để thi hành sứ vụ linh mục của mình. Cha được Bề trên bổ nhiệm coi sóc một giáo xứ vùng Pa-lo-ta-ka. Tuy nhiên, giáo dân ở đây lại hoài nghi về chức linh mục của cha như cha đã thuật lại: “Dân chúng ngờ vực nhìn tôi và nói: “Này anh bạn da đen kia! Anh nói cái gì vậy? Anh mà là Linh mục ư? Thật là khó tin!”.
Thực ra trước đây, tại Su Đăng chưa bao giờ xuất hiện một linh mục nào người da đen cả. Giáo xứ luôn được các linh mục thừa sai người da trắng đến chăm sóc và đã chia sẻ cho họ nhiều thực phẩm, quần áo và thuốc men. Còn bây giờ cha Ta-ban lại là một người da đen nghèo khó giống như họ, nên ngài chẳng có gì để phân phát như các linh mục da trắng kia. Tình hình lại càng phức tạp thêm, khi cha Ta-ban bắt đầu canh tân phụng vụ thánh lễ theo đường hướng công đồng Va-ti-can II. Giáo dân đã xầm xì với nhau: “Ông linh mục da đen này còn bày đặt làm lễ bằng tiếng bản xứ thay vì bằng tiếng la tinh. Chắc ông ta không rành tiếng la tinh nên mới làm như vậy! Không biết ông ta là linh mục thật hay giả?”. Phải mất 10 năm, sau bao nhiêu vất vả phục vụ giáo xứ, chịu đựng bao nhiêu sự miệt thị khinh dể, cuối cùng cha Ta-ban mới được giáo dân thừa nhận là Cha Sở của họ.
3. THẢO LUẬN: Trong cuộc sống, các tín hữu chúng ta cần ứng xử thế nào trước thái độ nghi ngờ, khinh thường hay những lời khiếm nhã khích bác của những kẻ thù ghét chống lại Chúa Giêsu và Hội thánh?
4. SUY NIỆM:
1)"Ông ta không phải là bác thợ sao?":
Câu chuyện về Linh mục Ta-ban giúp chúng ta hiểu lý do tại sao Đức Giê-su bị dân làng cùng quê Na-da-rét không tin là Đấng Thiên Sai, dù họ có thán phục về tài giảng dạy và quyền năng chữa bệnh của Người. Sở dĩ họ không tin vì họ có thành kiến khi bị vấp phạm về gia thế hèn kém của Người: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? (x Mc 6,2-3). Thời Giáo hội sơ khai, cũng có một nhân vật tên là Xen-xút (Celsus) thù ghét đạo đã có lần chế diễu các Ki-tô hữu như sau: “Giê-su Đấng sáng lập đạo của các người chỉ là một gã thợ mộc dốt nát bần hàn, xuất thân từ làng Na-da-rét tầm thường! Thật khó mà chấp nhận được một Đấng Cứu Thế lại xuất thân từ một xưởng gỗ nhỏ bé, phải vất vả kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động hằng ngày như thế !”
Còn chúng ta hôm nay chắc cũng không hơn gì đức tin của dân làng Na-da-rét khi xưa: Chúng ta thường nghĩ rằng: Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự. Nhưng Tin Mừng hôm nay lại cho thấy một Đức Giê-su Con Thiên Chúa chịu bó tay trước sự cứng lòng của con người, như Tin Mừng đã ghi nhận: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó. Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ (Mc 6,5).
Từ đó cho thấy con người có thể dùng sự tự do Chúa ban để từ chối ơn cứu độ như dân làng Na-da-rét do thành kiến đã không tin và từ chối ơn cứu độ do Đức Giê-su mang lại.
2) Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó:
Phép lạ là món quà đặc biệt Chúa ban cho con người, nhưng người ta chỉ có thể đón nhận được phép lạ với lòng tin. Biết bao điều lạ lùng Thiên Chúa muốn thực hiện cho loài người nhưng người đời đã từ chối, giống như các chủ quán ở Be-lem năm xưa đã xua đuổi Chúa Cứu Thế giáng sinh ra khỏi nhà trọ, như Tin Mừng Gio-an viết: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Thực vậy: Đức Giê-su đến mặc khải Thiên Chúa là Cha yêu thương và Người là Con Thiên Chúa thì họ đã kết án Người là kẻ phạm thượng, là kẻ bị quỷ ám và điên khùng. Người đến đem bình an, chân lý và thiết lập nước Trời thì bị mang tiếng là xách động quần chúng và là kẻ cầm đầu phản loạn. Cuối cùng, các đầu mục dân Do thái đã ra tay bắt bớ và kết án tử hình cho Đức Giê-su rồi còn làm áp lực đòi Tổng Trấn Phi-la-tô kết án tử hình thập giá cho Người.
Ngoài thành kiến thì sự cứng lòng là nguyên nhân khiến người ta cố chấp không muốn nhìn, không muốn nghe, không muốn tin… như Tin Mừng ghi nhận: “Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành (Mt 13,13-15).
3) Và họ vấp ngã vì Người:
Vì các người đồng hương quá biết rõ về dòng dõi, gia cảnh của Đức Giê-su: Người chỉ là con bác thợ mộc Giu-se và bà Maria là những người đang chung sống giữa họ. Do đầu óc thủ cựu đầy thành kiến nên họ đã không nhận ra Thiên tính nơi con người của Đức Giê-su, dù họ có thán phục về tài ăn nói lưu loát và về sự hiểu biết Kinh Thánh của Người. Một số người trong bọn họ cũng đã được chứng kiến nhiều phép lạ Đức Giê-su đã làm ở Ca-phác-na-um và các nơi khác để cứu chữa các bệnh nhân, những người bị quỷ ám, phục sinh kẻ chết... Nhưng do kiêu ngạo, cố chấp, dân làng Na-da-rét đã không tin một Đấng Cứu Thế lại có lối sống quá giản dị, xuất thân từ cha mẹ nghèo hèn như Đức Giê-su, nên họ đã có những lời nói, cử chỉ bất kính thể hiện sự không tin Người.
4) “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình”:
Tiên tri hay ngôn sứ là người được Thiên Chúa soi sáng và sai đến nói cho người ta nhân danh Thiên Chúa, để truyền đạt các mệnh lệnh của Ngài cho họ. Kết quả của lời cảnh báo thường sẽ là: “hoặc họ nghe, hoặc họ không nghe” (Ez 2:5). Thậm chí, lắm khi đe doạ họ còn đe dọa mạng sống của các ngôn sứ, nhất là khi các ông phải tuyên sấm lời Chúa cáo trách tội lỗi của các vua quan. Thánh Kinh đã ghi lại ngôn sứ Nathan dám tố cáo tội ngoại tình, giết người, cướp vợ của vua Đavít; hay tiên tri Elia, dám nói thẳng với vua Akhab việc ông vua này đã giết Nabot và chiếm đoạt tài sản của cách bất công... Kết quả là các ngôn sứ đã bị hận thù giết hại. Chính Đức Giê-su cũng đã bị các người đồng hương Na-da-rét coi thường nên Người đã phải thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4). Dù bị khinh thường, nhưng Đức Giê-su vẫn thi hành sứ vụ: “Người đã đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ”. Rồi Người đi sang các làng khác mà rao giảng Tin Mừng.
Mỗi tín hữu chúng ta khi chịu phép rửa tội cũng được tham phần vào chức vụ ngôn sứ của Chúa Giê-su, nên cũng có bổn phận phải loan báo Tin Mừng, bảo vệ sự sống, bênh vực công lý nhân danh Thiên Chúa. Nhưng thử hỏi người đời có sẵn sàng nghe lời chúng ta rao giảng không khi chúng ta lại có lối sống phản chứng: ăn nói gian ngoa, lọc lừa, tham lam, nghiện ngập, sống thiếu tình người… Cần phải cấp thời tu sửa đời sống trở nên tốt lành noi gương Đức Giê-su, để công việc rao giảng Tin Mừng của chúng ta mới có điều kiện đạt được kết quả tốt đẹp.
5.LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Là nhà giảng thuyết tài năng, thế mà Chúa cũng đành chịu thất bại trước sự cứng tin của người đồng hương và bà con họ hàng. Nhiều lần chúng con cũng đành phải chịu thất bại khi bị người lương từ chối nói chuyện về Chúa và có khi họ còn thốt ra những lời xúc phạm đến Chúa và Hội Thánh… Xin ban cho chúng con ơn kiên nhẫn chịu đựng những khó khăn gặp phải trên bước đường rao giảng Tin Mừng. Cho chúng con biết tạ ơn Chúa khi vui lúc buồn, khi thành công được người khác lắng nghe cũng như lúc bị từ chối xua đuổi. Xin cho chúng con biết không ngừng tạ ơn vì biết rằng: Thất bại là mẹ thành công. Chính Chúa xưa cũng đã từng chịu thất bại trước sự cứng tin của những đồng hương Na-da-rét. Nhưng Người không nản lòng thối lui, mà luôn trung thành đi con đường “qua đau khổ vào vinh quang” của Chúa Cha, qua sự chết để sống lại hầu ban ơn cứu độ cho loài người.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON. LM ĐAN VINH - HHTM
Có lẽ mỗi người chúng ta đều biết câu chuyện Tin Mừng hôm nay, vì nó quá quen thuộc. Theo tục: TN 14-B95
Có lẽ mỗi người chúng ta đều biết câu chuyện Tin Mừng hôm nay, vì nó quá quen thuộc. Theo tục lệ đức Giesu đi đến hội trường mỗi tuần vào ngày Sabbath. Khi đến lượt mình, đức Giesu đọc kinh thánh trong giờ nghi lễ.
Dân trong thành lắng tai nghe lời người giảng bởi vì họ nghe đồn những phép lạ người đã làm ở những thành khác. Cậu con trai này sẽ làm những gì ở nơi tỉnh nhà này đây?
TIÊN TRI KHÔNG ĐƯỢC NỂ TRỌNG VÀ TÔN VINH NƠI QUÊ NHÀ
Trong câu chuyện hôm nay, dân tỉnh nhà của Chúa hoảng sợ vì Chúa quở trách “không có tiên tri nào lại được nể trọng và tôn vinh ở quê nhà của mình”. Dân thành Nazareth đã xúc phạm Chúa, từ chối không nghe những lời người nói. Họ coi thường lời người giảng dạy chỉ vì người thuộc hàng thợ thuyền: là thợ mộc, dân giã tầm thường. Họ coi thường người vì gia đình người chẳng có thế giá gì. Chúa Giesu đã không làm những việc lạ lùng nơi họ vì họ không chịu tin Chúa.
Họ tụ họp lại để ghét bỏ và từ chối không chịu hiểu người thì họ sẽ chẳng biết gì khác hơn là những cái họ đang có. Họ sẽ từ chối không chịu yêu tha nhân và chấp nhận người khác. Câu chuyện này xem ra giống chúng ta? Đã bao nhiêu lần chúng ta cảm thấy mình rơi vào những tình trạng như vậy?
TRỞ VỀ QUÊ NHÀ
Chúng ta thường nghĩ là chỉ có Luca mới ghi lại việc Chúa Giesu về thăm Nazareth, “nơi người đã được nuôi dưỡng và lớn lên” và giai thoại xẩy ra trong hội trường ở Nazareth (Lc 4:16), nhưng đúng ra cả Marco và Mathieu cũng nói tới giai thoại này dù các ông không nhắc tới tên của tỉnh là Nazareth mà chỉ nói là “tỉnh nhà” hay “quê nhà của người” (Mc 6:1; Mt 13:54). Tuy nhiên cũng có khác biệt giữa câu chuyện của Luca và của hai ông Marco và Mathieu. Trong Mathieu và Marco, dân chúng coi gốc gác chúa Giesu tầm thường, là tên thợ mộc (Mc 6:3), là con ông thợ mộc (Mt 13:55), và từ đó nghi ngờ về sứ mạng cao cả của Chúa. Trong khi đó, Luca không nói đến gốc gác tầm thường của chúa Giesu.
Theo Marco, cuộc viếng thăm tỉnh nhà của chúa Giesu không chỉ là bước đầu cuộc hành trình mục vụ của Chúa mà còn sau này suốt chiều dài rao giảng Tin Mừng và chữa lành, ngay cả sau những lúc Chúa nói về các ngụ ngôn (Mc 4:1-34), về người con gái ông Giairo chết rồi được sống lại (Mc 5:21-43). Trong Mathieu thì Chúa cũng báo trước về sứ mệnh của người với 12 tông đồ (Mt 10:2-42).
Các nghi vấn của dân làng về chúa Giesu trong câu chuyện của Marco (6:1-6) có ý nghĩa gì? “Bởi đâu mà người này có được những cái đó? Sao ông lại khôn ngoan như thế? Làm sao mà một mình tay ông lại làm được những điều như vậy! Người này không phải là tên thợ mộc, con bà Maria, anh em với các ông Giacobe, Giuse, Giuda và Simon sao, chị em ông không ở đây với chúng ta sao? Và rồi họ xúc phạm đến người.”
Họ hình như muốn hỏi chúa Giesu “Ông nghĩ ông là ai?” Trước nghi vấn đó chúa Giesu thấy họ có thái độ chiếm hữu và trịch thượng quá rõ ràng: Ông này không phải là tên thợ mộc, con bà Maria sao? Hắn cũng như chúng ta mà thôi! Hắn là một thành phần của chúng ta, do đó hắn phải làm cho chúng ta tất cả mọi sự mà hắn có thể. Hắn thuộc về chúng ta, mắc nợ chúng ta!
Chúa Giesu đã cự lại thái độ chiếm hữu đó của dân làng. “Tiên tri thì được tôn vinh mọi nơi, trừ quê nhà, anh em họ hàng và ngay cả trong gia đình nữa. Những người đồng hương với Chúa đã mắc một bệnh rất trầm trọng là “mù lòa”. Chúa Giesu đã từ chối không ban tặng ân huệ cho quê nhà mà ưu tiên cho những người xa lạ.
VIỄN KIẾN VÀ LÒNG QUẢNG ĐẠI
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy quả là khó khăn để có được một viễn kiến phổ quát. Khi phải đối diện với một người có chí lớn, tâm hồn quảng đại và tầm nhìn xa như chúa Giesu, chúng ta thường tỏ ra ghen tương, chè bửu. Dân làng Nazareth đã không thể nhận ra được sự thánh thiêng của chúa Giesu bởi vì họ chẳng bao giờ thực sự muốn chấp nhận những người của họ. Họ không công nhận chúa Giesu có liên đới với Thiên Chúa bởi vì họ không bao giờ tìm hiểu cặn kẽ, thâm sâu và đầy đủ tình liên đới của họ với Thiên Chúa là họ thuộc về Thiên Chúa. Họ không thể nhìn thấy đấng Thiên Sai đang đứng bên cạnh họ bởi vì ngài để ý quá nhiều giống như một trong những người của họ. Cho đến khi chúng ta tự coi mình được Thiên Chúa yêu thương thì những phép lạ sẽ trở thành hiếm hoi và những tiên tri, sứ giả ở giữa chúng ta sẽ phải phấn đấu để được để ý, chấp nhận và nghe theo.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Marco cho chúng ta thấy chúa Giesu tỏ ra rất thắc mắc vì có những kẻ không tin. Lúc đầu khi nghe lời Chúa Giesu, dân làng rất thán phục và hãnh diện về Người. Sứ điệp giải phóng của người thật là tuyệt vời. Lúc bấy giờ họ mới nhận ra vị tiên tri trẻ này chính là một trong những người mà họ nói: “Người này chẳng phải là tên thợ mộc, con bà Maria sao?”
Những người đả phá mạnh mẽ nhất thường là những kẻ rất quen biết với chúng ta, là thành phần trong gia đình, là bà con thân thuộc, là những người hàng xóm, những người mà chúng ta vẫn kề vai sát cánh hàng ngày. Dân thành Nazareth đã từ chối không công nhận chúa Giesu. Khi tính sở hữu của họ bị cản trở thì sẽ phát sinh ra bạo động. Phản ứng này sẽ gây ra nhiều thảm cảnh như ganh ghét và khổ nạn. Họ xúc phạm chúa Giesu như Marco kể, “Tất cả hội trường nổi cơn thịnh nộ…(Lc 4:28) và họ tìm cách giết người (Lc 4:29). Từ chối không chịu mở rộng lòng trí sẽ đi đến thái độ cực đoan.
ĐÔI LỜI KẾT
Bài Tin Mừng hôm nay khuyến cáo chúng ta hãy cẩn thận đừng có những thái độ không phù hợp với gương sáng của chúa Giesu: Con người thì có khuynh hướng chiếm hữu, ích kỷ và nhỏ nhặt. Đừng quên rằng chúa Giesu là đấng cứu chuộc toàn thế giới (Ga 4:42), không phải cho một làng, một tỉnh, một thị trấn hay một quốc gia nào!
Để đến gấn và bắt chước chúa Giesu, đấng tuyệt mỹ duy nhất, chúng ta cần phải có lòng quảng đại, tâm trí bao dung. Đối nghịch và kẻ thù của lòng quảng đại là sự ghen tương. Ghen tương là một lỗi lầm của con người không nhận biết ra vẻ đẹp đặc thù của tha nhân và không kính trọng họ. Ghen tương làm cho người ta bị “mù lòa” bởi vì mắt bị đóng kín không thể nhìn thấy vẻ đẹp của chính mình và của người khác. Ghen tương sẽ đi đến bạo động và phá hoại, có hại cho bản thân mình và cả những người khác dưới mọi hình thức. Để đến gần và bắt chước chúa Giesu, đấng độc nhất vô nhị, đầy vẻ đẹp huy hoàng, trước tiên chúng ta phải nhận ra được thái độ ganh ghét của chúng ta và hủy bỏ nó đi ngay.
Lòng quảng đại giúp cho người khác được tự do, vì người ta cần trở nên vĩ đại đủ để giống hình ảnh vẻ đẹp của Thiên Chúa. Lòng quảng đại thúc dục mỗi người chúng ta ao ước cho tha nhân được thỏa mãn và hạnh phúc tràn đầy! Lòng quảng đại có thể vươn tới, vượt quá con người mình để mong cho tha nhân có được những thứ mà mình thiếu không có, đồng thời vui sướng vì vẻ đẹp, lòng tốt và sự vĩ đại của họ.
Chúng ta hãy cầu nguyện để Chúa đừng sửng sốt vì lòng trai đá không tin của chúng ta, nhưng xin người vui nhận những hành động trung thành nhỏ bé hàng ngày của chúng ta đối với người và việc chúng ta phục vụ tha nhân, những người anh chị em chúng ta. Chớ gì Thiên Chúa ban cho chúng ta tâm hồn quảng đại để chúng ta có thể nhìn vượt quá chúng ta hầu nhận biết lòng tốt, tính vĩ đại và vẻ đẹp huy hoàng của tha nhân thay vì ganh ghét tỵ hiềm vì những cái họ có. Chỉ có quyền lực của Thiên Chúa mới cứu được chúng ta khỏi tâm hồn trống rỗng và nghèo nàn, khỏi sư nghi ngờ và sai lầm, khỏi sợ chết và thất vọng.
Tin Mừng cứu chuộc quả là “Tin Mừng Vĩ Đại” cho chúng ta ngày nay.
Bị hiểu lầm hay bị từ chối là những điều khiến người ta phiền lòng. Êdêkien, ngay cả Chúa Giêsu: TN 14-B96
Bị hiểu lầm hay bị từ chối là những điều khiến người ta phiền lòng. Êdêkien, ngay cả Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người cũng không đứng ngoài qui luật thường tình ấy. Là ngôn sứ thì dù ở hội đường, hay trong gia đình, cũng sẽ gặp khó khăn và có thể bị ruồng bỏ là kinh nghiệm của Chúa Giêsu và Êdêkien. Êdêkien được Chúa chọn, gọi làm ngôn sứ cho dân đi lưu đầy cùng với ông: "Ta sai ngươi đến để nói với những con cái dầy mặt cứng lòng... Hoặc chúng nghe, hoặc chúng không nghe, vì đây là bọn phản loạn" (Ed 2, 4-5). Chúa Giêsu về hội đường giảng dạy cho người đông hương cũng phát buồn và thốt lên câu nói để đời: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình" (Mc 6, 4). Tại sao vậy ?
Biết rõ
Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại sự lúng túng của dân thành Nagiarét trước Chúa Giêsu người đồng hương của họ đi xa trở về nơi hội đường. Vì họ đã quá biết gia thế của Chúa Giêsu, biết rõ nên họ không đánh giá đúng về Người.
Có lẽ đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu trở về Nagiarét, sau khi đi thi hành sứ mạng công khai. Nagiarét là cái nôi của thời thơ ấu, thời niên thiếu của Chúa Giêsu. Nơi ấy có gia đình, bà con, thân bằng quyến thuộc, bạn bè, quê hương, bản quán, nên khi Chúa Giêsu trở về nhà họ biết ngay. Trong số họ có người đã từng thấy Chúa Giêsu được mẹ ẵm bế, như bao nhiêu trẻ em khác. Con cái họ và Chúa Giêsu đều học chung một lớp, cùng chơi và cười đùa với nhau. Cùng thảo luận những bài học về cái cửa, cái xà. Chúa Giêsu đã từng cầm cưa, bào, đục, và nhất là nói giọng nói miền quê Nagiarét trong suốt 20 năm trời.
Lần trở về này nhằm ngày Sabát, Chúa vào hội đường, dân làng đón tiếp Chúa rất vui vẻ. Tại đây, Chúa bắt đầu giảng dạy: "Nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy?" (Mc 6, 2). Nói xong bỗng nhiên thái độ của họ đổi hẳn vì những cái đã biết về Người. Sự gần gũi, thân thiện gia đình, tình làng nghĩa xóm ấy làm cho họ ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan và lời nói thốt ra từ miệng Người, cũng như các phép lạ Người làm tại Galilê sang từ chối, khiến họ không nhận ra Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người ở giữa làng họ và họ "vấp phạm vì Người" (Mc 6, 3).
Đã nhiều năm qua, gia đình Chúa Giêsu đã để lại những ấn tượng tốt về Người. Trước sự ngạc nhiên và từ chối của dân thánh Nagiarét, cũng như sự thiếu lòng tin của họ, Chúa Giêsu đã buông lời thở dài: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình ! " (Mc 6, 4). Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha Đấng tạo dựng thế gian nhưng thế gian đã không tiếp nhận Người.
Không được đánh giá đúng
Chúa Giêsu buồn vì thành kiến của đông hương về lý lịch của Chúa: cha mẹ, gia đình và nghề nghiệp: "Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?" (Mc 6, 3). Họ không thể đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa làm người.
Ông là ai ? Là câu hỏi được đặt ra trong toàn bộ Tin Mừng Marcô. (1, 24 và 25 – 1, 27 – 1, 34 – 4, 41 – 6, 14 và 15). Căn tính bí ẩn này là gì ? Trên đường hành trình với các môn đệ từ Xêsarê đến Philiphê Chúa hỏi các ông "Phần anh em, anh em bảo Thầy là ai ? "
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật
Ngày hôm nay, Thiên Chúa cần có câu trả lời từ phía con người đang tìm kiếm ý nghĩa của Lời Chúa và bước vào cuộc đối thoại với Chúa. Người thợ mộc thành Gagiarét là Thiên Chúa thật và là Người thật, Người là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta, là Lời Chân lý dẫn đến Sự Sống đời đời. Hãy biết nhận ra Chúa, đừng để Chúa đi qua. Mẹ Maria hòa mình vào đám đông để chiếm ngắm và lắng nghe người ta nói về con Mẹ: "Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria !" (Mc 6, 3) Con bà Maria và là Con Thiên Chúa, đó Bí Mật Tình Yêu của Thiên Chúa, Người bước vào đời sống công khai bằng con đường khiêm tốn và nghèo khó. Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin, và buồn vì họ không chấp nhận bất cứ sự gì đến từ Người. Nghĩa xác thực được thánh Marcô sử dụng ở đây theo tiếng Hy lạp, không phải Chúa Giêsu mong đợi người đồng hương tin vào Thiên Chúa, nhưng là mong đợi phần lớn những người Nagiarét: tin vào Người.
Tin Đức Giêsu là Thiên Chúa
Ngày hôm nay có người nói rằng: Nếu chúng ta sống vào thời các tông đồ, và chứng kiến Chúa Giêsu như họ, chắc chúng ta cũng giống họ". Họ biết quê hương mình có người tên là Giêsu nhưng không biết người đang nói với họ là Chúa Giêsu, Chúa Cả trời đất…... Thực tế ngày hôm nay khác với ngày xa xưa ấy, vì nhiều người hạnh phúc hơn, tin tưởng vào những điều đã đã nghe và đã thấy.
Vì, quả thật, ở giữa những người ẫu trĩ có một người khiêm nhường; là Thiên Chúa thật đến dạy dỗ chúng dân. Người đến với những thu thuế và tội lỗi, đồng bàn ăn uống với họ (Mt 9,11); Vì thế, có người miệt thị nói rằng: "Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?" (Mc 6,3; Ga 6,42) Nhưng Chúa Giêsu vần là Thiên Chúa thật và là người thật, các vua chúa trần gian phải phụng thời Người ... Người hoàn toàn là con người như chúng ta: ăn, uống, ngủ, nghỉ, đổ mồ hôi và mệt mỏi như chúng ta, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Người được gìn giữ khỏi hư nát và khỏi chết giữa muôn người. Giờ đây Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha (Mc 16,19), không gì có thể tách Người với Chúa Cha ...
Thật là kỳ diệu, để có thể nhận biết và tin rằng một người thế là Thiên Chúa, Đấng tạo thành trời đất và mọi sự trên trời dưới đất ... Vì thế, hàng ngày chúng ta nghe Chúa Giêsu thông truyền thánh ý Chúa Cha qua các tác giả Tin Mừng, chúng ta phải vâng nghe, tuân giữ các giới răn của Người và tin vào Người.
Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa là Thiên Chúa thật và là người thật, là Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Khó nghèo là một bất hạnh lớn cho con người, xét theo khôn ngoan của người đời; là những ngườ TN 14-B97
Khó nghèo là một bất hạnh lớn cho con người, xét theo khôn ngoan của người đời; là những người chỉ biết quí trọng giầu sang về vật chất,và chỉ đi tìm danh lợi chóng qua ở đời này, nên khinh thường mọi giá tri tinh thần trong đó có giá trị của sự khó nghèo nội tâm. Nhưng với người có niềm tin Thiên Chúa, tin có sự giầu sang vĩnh cửu trên Nước Trời, thì khó nghèo lại là một nhân đức cần phải có để xứng đáng là những môn đệ lớn nhỏ của Chúa Kitô, Đấng đã thực sự sống khó nghèo từ khi sinh ra trong hàng bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá.
Thế giới ngày nay đang chìm đắm trong đam mê về tiền bạc và của cải vật chất,tôn tờ khoái lạc ( hedonism) khiến dửng dưng – hay lãnh cảm ( numb, insensitive) trước sự đau khổ, nghèo đói của biết bao triệu người là nạn nhân của bóc lột và bất công xã hội đầy rẫy ở khắp nơi trong thế giới tôn thờ vật chất, tục hóa và suy thoái thê thảm về luân lý, đạo đức và lòng nhân đạo..
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một diễn từ mới đây, đã thẳng thắn nói rõ là thế giới hiện nay đang sống với thảm trạng “ tôn thờ tiền bạc ( cult of money ) và dửng dưng với bao triệu người nghèo đói ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia Phi Châu.
Không nói gì đến các nước vốn nghèo sẵn ở Á và Phi Châu, ngay ở Hoa Kỳ là nước được coi là giầu có nhất nhì thế giới mà cũng có biết bao người vô gia cư ( homeless) nghèo đói, sống vất vưởng trên hè phố ở các đô thị lớn như Los Angeles, Houston, Chicago, Nữu Ước… Họ nghèo đến nỗi không có nhà ở và hàng ngày phải đến xin ăn ở các cơ sở từ thiện, trong khi những người triệu phú , tỉ phú không hề quan tâm đến họ. Chính quyền liên bang cũng như tiểu bang , cho đến nay, vẫn không có biện pháp tích cực nào để giúp những người nghèo vô gia cự này.Nhưng mỉa mai và nghịch lý là chánh quyền Mỹ cứ thi nhau đem tiền ra giúp các nước như Irak. Afghanistan, Pakistan, Ai Cập, Syria...vì quyền lợi chiến lược của Mỹ, mặc dù dân các nước trên vẫn chống Mỹ và muốn đuổi quân đội Mỹ ra khỏi đất nước họ ! ( Irak và Afghanistan)
Trước thực trạng nói trên của Thế giới, Đức Thánh Cha Phanxicô, từ ngày lên ngôi Giáo Hoàng, đã tỏ mối quan tâm sâu xa đối với người nghèo khó ở khắp nơi trên thế giới và luôn kêu gọi Thế giới nói chung và Giáo Hội nói riêng phải làm gì cụ thể để thương giúp những người nghèo khó mà Chúa Kitô đang đồng hóa với họ và thách đố chúng ta nhận ra Chúa nơi những người xấu số này để thương giúp họ cách thich hợp theo khả năng của mình.
Đức Thánh Cha nghiêm khắc phê phán thế giới “tôn thờ tiền bạc”vì người thấy rõ sự chênh lệch quá to lơn giữa người quyền thế giầu sang và người nghèo cô thân cô thế ở khắp nơi trên thế giới tục hóa này.Nên khi lên ngôi Giáo Hoàng ngày 13 tháng 3 năm 2013, ngài đã chọn danh hiệu “Phanxicô” cho triều đại Giáo Hoàng (Pontificate) của mình để nói lên ước muốn sống tình thần nghèo khó của Thánh Phan xicô khó khăn Thành Assisi và nhất là tình thần và đời sống khó nghèo thực sự của Chúa Giêsu Kitô, “ Đấng vốn giầu sang phú quí nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có.” ( 2 Cor 8:9)
Như thế, gương khó nghèo của Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha Phanxicô muốn thực hành phải là gương sáng cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hôi noi theo, đặc biệt là hàng giáo sĩ và tu sĩ, là những người có sứ mạng và trách nhiệm rao giảng và sống Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để nên nhân chứng cho Chúa , “Đấng đã đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” ( Mt 20: 28).
Đặc biệt trong thư gửi cho các Tân Hồng Y ngày 13 tháng 1năm 2014 , Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như sau:
“ cái mũ đỏ không có ý nghĩa là được thăng thưởng( promotion) một danh dự hay hào nhoáng bề ngoài( decoration) mà chỉ đơn thuần là một hình thức phục vụ đòi hỏi mở rộng tầm nhìn và con tim…do đó xin quí chu huynh nhận sự bổ nhiệm mới này với lòng khiêm cung, giản dị và vui mừng, nhưng vui mừng không theo cách người đời hay bất cách mừng vui nào xa lạ với tinh thần của Phúc Âm về sự khắc khổ ( austerity) tiết độ ( sobriety) và khó nghèo ( poverty)”.
Tai sao phải sống khó nghèo ?
Trước hết, phải nói ngay là khó nghèo ở đây không có nghĩa là phải đói khát rách rưới, vô gia cư, lang thang đầu đường xó chợ thì mới được chúc phúc. Ngược lại, phải lo cho mình và cho người mình có trách nhiệm coi sóc được có phương tiện sống cần thiết tối thiểu như nhà ở, cơm ăn áo mặc, phương tiện di chuyển như xe cộ, vì ở Bắc Mỹ và các quốc gia Âu châu , Úc châu thì linh mục phải có xe hơi thì mới làm mục vụ được, vì không thể đi bộ đến thăm bệnh nhân ở tư gia hay ở các bệnh viện.Nghĩa là không “lý tưởng thiếu thực tế” để chỉ chú trọng đến đời sống tinh thần mà coi nhẹ hay sao nhãng đời sống vật chất đúng mức cho phù hợp với nhân phẩm.
Nhưng điều quan trọng nhất là phải có nhân đức khó nghèo và thực sự sống tinh thần nghèo khó mà Chúa Kitô đã dạy các môn đệ và dân chúng xưa là “ Phúc cho ai có tinh thần (tâm hồn) nghèo khó vì Nước Trời là của họ. ( Mt 5:3; Lc 6: 20)
Sự nghèo khó mà Chúa muốn dạy ở đây không có nghĩa là phải đói khát , rách rưới về phần xác như đã nói ở trên mà chỉ có nghĩa là không được ham mê tiền bạc và của cải vật chất, tiện nghi sa hoa, danh vọng phù phiếm chóng qua ở đời này đến độ vô tình làm nô lệ cho chúng khiến không còn chú tâm vào việc mở mang Nước Thiên Chúa trong tâm hồn của chính mình và nơi người khác; cụ thể là các giáo dân được trao phó cho mình phục vụ và săn sóc về mặt thiêng liêng.
Người tông đồ mà không có nhân đức khó nghèo, không khinh chê tiền bạc và của cải vật chất, thì không thể rao giảng sự khó nghèo của Phúc Âm cho ai được. Không có và không sống tinh thần khó nghèo thực sự mà lại rao giảng nhân đức khó nghèo thì sẽ làm trò cười mỉa mai cho người nghe mà thôi. Chắc chắn như vậy.
Mặt khác, sự thành công của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng không căn cứ ở những giáo đường, nhà xứ , Tòa Giám mục được xây cất sang trọng , lộng lẫy để khoe khoang với du khách mà cốt yếu ở chỗ xây dựng được đức tin và lòng yêu mến Chúa vững chắc trong tâm hồn của mọi tín hữu để giúp họ sống đạo có chiều xâu thực sự, chứ không phô trương bề ngoài với số con số đông tân tòng được rửa tội mỗi năm, đông người đi lễ hàng tuần, đi rước ầm ỹ ngoài đường phố, trong khi rất nhiều người vẫn sống thiếu bác ái và công bình với nhau và với người khác.
Lại nữa,, người tông đồ lớn nhỏ - nam cũng như nữ- mà ham mê tiền của để đôn đáo chạy đi khắp đó đây, đi ra nước ngoài nhiều hơn là đi thăm con chiên bổn đạo chỉ vì mục đích kiếm tiền cho những nhu cầu bất tận, thì sẽ không bao giờ có thể sống và thực hành được tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, Đấng đã sống lang thang như người vô gia cư đến nỗi có thể nói được về mình là “ con trồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” ( Mt 8: 20)
Thử hỏi Chúa có đóng kich “ khó nghèo” từ khi sinh ra trong hang bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá hay không ?
Ai dám nói là có ? Nếu vậy, thì Chúa quả thực đã sống khó nghèo trong suốt cuộc đời tại thế để nêu gương nghèo khó trong tâm hồn và trong cuộc sống cho hết mọi người chúng ta. Nghĩa là các tông đồ của Chúa nói riêng và toàn thể dân Chúa nói chung phải thi hành lời Chúa để đi tìm và “ tích trữ cho mình những kho tàng ở trên trời nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được.” ( Mt 6: 20)
Nếu người tông đồ mà chỉ chú trọng đi tìm tiền của và xây dựng nhà cửa cho sang trọng, thay vì xây dựng cho mình và cho những người mình phục vụ một lâu đài nội tâm hoành tráng, thì mọi lời rao giảng về khó nghèo của Phúc Âm sẽ trở nên trống rỗng và không có sức thuyết phục được ai tin và thực hành, nếu không muốn nói là làm trò cười cho người nghe.. Muốn thuyết phục thì chính mình phải sống và xa tránh hay chống lại những cám dỗ về tiền bạc và của cải vật chất để không đôn đáo đi tìm tiền, làm thân với người giầu có để trục lợi, bon chen để được về những xứ giầu, không chịu đi coi những xứ nghèo ở thôn quê, cũng như không muốn dâng lễ với bổng lễ ( mass stipends) thấp , thì chắc chắn sẽ không thể rao giảng Tin Mừng cách hữu hiệu cho ai được.Và nhiên hậu, cũng sẽ không hơn gì bọn Biệt phái và luật sĩ xưa kia, là những kẻ chỉ dạy người khác sống nhưng chính họ lại không sống điều họ dạy bảo người khác, khiến Chúa Giêsu đã nhiều lần phải nghiêm khắc lên án họ là:“quân giả hình”, bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta , nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào.”( Mt 23: 4).
Như thế, không thể làm nhân chứng cho Chúa Kitô về tinh thần nghèo khó của Phúc Âm mà Chúa đã nêu gương sáng từ khi Người sinh ra cho đến khi chết đi hoàn toàn trong khó nghèo và đau khổ để cho chúng ta được cứu rỗi và trở nên phú quí sang giầu trên Nước Trời mai sau.
Nói rõ hơn, giảng tinh thần khó nghèo của Chúa cho người khác, mà chính mình lại sống phản chứng bằng cách chạy theo tiền của, dùng những phương tiện di chuyển sang trọng như đi các loại xe đắt tiền như Lexus, BMW, Mercedes, Ìnfinity, Volvo… đeo đồng hồ longines, Omega …làm thân với người giầu, không nhận dâng lễ cho người nghèo có ít tiền xin lễ, mà chỉ nhận lễ có bổng lễ cao.. thì chắc chắn sẽ không thuyết phục được ai tin và sống điều mình rao giảng cho họ, chỉ vì chính mình không sống điều mình rao giảng. Dĩ nhiên đây không phải là cách sống của tất cả mọi linh mục, giám mục nhưng dù chỉ có một thiểu số nhỏ cũng đủ gây tai tiếng cho tập thể nói chung vì “ con sâu làm rầu nồi canh” như tục ngữ Việt Nam đã nói.
Tóm lại, Giáo Hội của Chúa phải thực sự nghèo khó theo gương Đấng sáng lập là Chúa Giê su-Kitô, Người đã thực sự sống và chết cách nghèo khó để dạy mọi người chúng ta coi khinh , coi thường sự sang giầu chóng qua ở đời này để đi tìm sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc giầu sang vĩnh cửu mà tiền bạc, của cải ở đời này không thể mua hay đổi chác được.
Chỉ có nghèo khó thực sự trong tâm hồn, thì Giáo Hội mới có thể để lách mình ra khỏi mãnh lực của đồng tiền, và của cải vật chất, tách mình ra khỏi làm tay sai cho thế quyền để trục lợi cá nhân. Có như thế thì mới có thể thi hành có hiệu quả sứ mệnh thiêng liêng của mình là rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô và sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa , Đấng đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta hạnh phúc mà “ mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe , lòng người chẳng hề nghĩ tới, đó là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người. ( 1 Cr 2: 9 )
Nghĩa là phải yêu mến Chúa hơn yêu mến tiền của và mọi sự sang trọng phú quí chóng qua ở trần gian này , thì mới có thể rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cách hữu hiệu cho người khác được.
Nước Thiên Chúa mà Giáo Hội có sứ mệnh mở mang trên trần thế này, không hề phục vụ cho nhu cầu tìm kiếm tiền bạc , danh vọng và của cải vật chất hư hèn mà chỉ cho mục đích kiếm tìm hạnh phúc và bình an vinh cửu trên Nước Trời mà thôi. Lại nữa, không có giáo sĩ và tu sĩ nào có lời khấn sang giầu mà chỉ có lời khấn khó nghèo mà thôi. Có khó nghèo thực sự trong tâm hồn thì mới dễ vươn mình lên cùng Chúa là cội nguồn của mọi phú quý sang giầu đích thực. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với anh thanh niên giầu có kia là “ hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo , anh sẽ được một kho tàng trên trời , rồi hãy đến mà theo tôi.” ( Mc 10: 21)
Lời Chúa trên đây phải là đèn sáng soi cho mọi người tín hữu trong Giáo Hội- cách riêng cho hàng giáo sĩ và tu sĩ- bước đi qua bóng tối đen thui của tiền bạc và của cải vật chất, là những quyến rũ đã và đang mê hoặc con người ở khắp nơi, khiến họ say mê đi tìm kiếm và tôn thờ, thay vì tìm kiếm và tôn thờ một mình Thiên Chúa là cội nguồn của mọi phú quý giầu sang đích thực mà thôi.
Chúa nói: “ ai có tai nghe thì nghe” ( Mt 13:43; Mc 4: 23; Lc 8:8)
Khi sinh ra, mỗi người chúng ta được phú bẩm những cấp bậc tài năng khác nhau. Đặc ân cao quí TN 14-B98
Khi sinh ra, mỗi người chúng ta được phú bẩm những cấp bậc tài năng khác nhau. Đặc ân cao quí nhất là chúng ta được ơn làm người, mang hình ảnh của Đấng Tạo Hóa. Con người có hồn, có xác và có trí khôn vượt trên tất cả các loài thụ tạo hữu hình. Thượng Đế trao ban cho con người có quyền trên các tạo vật. Xã hội con người phát triển không ngừng theo thời gian. Con người xã hội có nhiều khác biệt về mọi phương diện: Mầu da, sắc tộc, ngôn ngữ, văn hóa, niềm tin và các khả năng bẩm sinh…
Con người có tính hợp quần liên kết tổ chức thành xã hội có cương kỷ. Giống như tổ ong, mỗi loại ong phụ trách một công việc: Có nhóm ong làm thợ, ong canh giữ, ong vệ sinh, ong kiếm mật, ong truyền giống và ong Chúa. Mỗi nhóm ong chu toàn nhiệm vụ của mình. Đối với con người, đơn vị gia đình là nồng cốt của xã hội. Mỗi thành viên trong gia đình đều có trách nhiệm và bổn phận bảo vệ, phục vụ và nâng đỡ nhau tạo thành một tổ ấm. Muốn gia đình sống thuận hòa cần tôn trọng lẫn nhau kính trên nhường dưới.
Đời sống con người văn minh hơn, nên có những cơ cấu tổ chức phức tạp hơn. Để điều hành công việc, con người đã phong ban cho nhau muôn ngàn chức tước, địa vị và danh xưng khác nhau. Hình như các dánh tánh và chức tước làm cho con người xem ra bệ vệ hơn, quan trọng hơn, cao quí hơn, uy quyền hơn, oai phong hơn và mãn nguyện hơn. Có những người tài đức và anh hùng lỗi lạc cống hiến khả năng dựng xây đất nước. Có người tự lập công phấn đấu và hy sinh xương máu để đạt được danh xưng địa vị. Còn có những con ông cháu cha hoặc có người mua quan bán tước để được phong hàm. Trong xã hội có muôn vàn cách thế để thăng tiến địa vị.
Tổ chức xã hội cũng giống như sự sắp xếp của các bàn cờ Vua hay bàn cờ Tướng. Quân sĩ xe mã tốt đầy đủ sẵn sàng để bảo vệ chủ tướng, nhưng bất cứ trong cuộc so đấu nào, kết cục cũng có một bên thắng và một bên thua, ‘thắng làm vua, thua làm giặc’. Chức tước địa vị không bảo đảm làm cho con người nên hoàn hảo hơn. Không phải cứ ai có chức to quyền trọng là tốt lành cả đâu. Nếu người ta lạm dụng địa vị để hà hiếp, bóc lột và chủ trương đi ngược lại với luân thường đạo lý, thì không sớm thì muộn, cũng sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn..
Trên thế giới, nơi đâu và thời nào cũng thế, xuất hiện nhiều phe phái thù nghịch chống đối lẫn nhau. Phe phái nào cũng có người theo, người phò. Những phe đối lập không quy thuận sẽ bị tẩy chay, bách hại và loại trừ. Cái lạ ở đời là bất cứ tổ chức nào, dù xấu dù tốt, dù thuận dù nghịch và dù hợp pháp hay bất hợp pháp, đều có người hỗ trợ và đi theo ửng hộ.
Tổ chức xã hội trao quyền cho một số người đại diện để điều hành sinh hoạt chung. Tặng thưởng cho con người những tước vị danh dự tối cao, như Tòa Án Tối Cao, Tối Cao Pháp Viện và ban Lãnh Đạo Tối Cao. Không phải làm việc trong viện tối cao là thông biết mọi sự, có khi cao mà lại tối không chừng. Con người có giới hạn về mọi mặt, cả tinh thần lẫn thể xác. Muốn có được danh cao chức trọng, người ta đều phải trả giá,‘Càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan’. Danh xưng tước vị là để phục vụ cho công ích, chứ không phải để ‘vinh thân phì gia’.
Con người có thể đóng rất nhiều vai trong cuộc sống. Nơi công cộng xã hội, có thể là ông này, bà kia và được ưu ái kính trọng, nhưng khi trở về cuộc sống thường nhật gia đình thì khác. Các tước hiệu như ông vua, bà hoàng hậu, ông/bà tổng thống, ông/bà chủ tịch hoặc ông/bà thủ tướng… khi về gia đình, các tước hiệu được này cất bỏ và tiếp tục sống vai trò của người chồng/vợ, cha/mẹ và con cái…Họ trở về với con người thật đời thường, cần sinh hoạt ăn uống, ngủ nghỉ, thư dãn, làm việc và tiêu khiển riêng. Đây mới thực sự sống đời sống thật của mình.
Người ta thường nói: ‘Quan nhất thời, dân vạn đại’. Đúng thế, chức tước được phong ban hay thủ đắc là những danh hiệu. Người đời rất quý trọng và tôn vinh các danh xưng địa vị trong xã hội. Điều này rất phải lẽ, nhưng điều quan trọng là đòi hỏi các chức sắc đạo đời sống xứng đáng với địa vị của mình là lo phục vụ, xây dựng và ổn định đời sống cho dân. Còn những hạng người chỉ lo rút tỉa, bóc lột, đàn áp, chèn ép và thống trị thì không xứng đáng lãnh nhận chức quyền, dù to hay nhỏ.
Sống trong xã hội bát nháo như hiện nay, lương tâm của chúng ta không bắt buộc phải thi hành những luật lệ trái với luân lý đạo đức. Con người chúng ta còn có một cái gì linh thiêng cao cả hơn, đó là đức tin và tiếng nói lương tâm. Không phải đa số phiếu chấp nhận mà lề luật trở thành sự thật. Sự thật cũng không do thị hiếu của đông người. Chúng ta có quyền nói không với những điều trái với lương tâm chân chính. Chúng ta còn có Đấng cao trọng hơn tất cả, đó là Chúa Giêsu. Khi quan Philatô nói với Chúa Giêsu rằng: “Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao? Chúa Giêsu đáp lại: Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài, thì mắc tội nặng hơn.”(Jn 19, 10-11).
Trong những ngày qua, giới truyền thông được cơ hội mở cờ và những nhóm người phò hôn nhân đồng tính đã vui mừng hân hoan vì quyết định mới đây của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ, đã cấp phép kết hôn cho các cặp vợ chồng đồng tính và công nhận hôn nhân đồng tính của tất cả các Tiểu Bang. Thái độ của các Kitô hữu cần có lập trường kiên vững. Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ mời gọi người Công Giáo hãy can đảm sống chứng nhân cho sự thật của đời sống hôn nhân. Đức Tổng Giám Mục Joseph Kurtz, chủ tịch HĐGMHK nói rằng: Bản chất hôn nhân của loài người vẫn không thay đổi và không thể thay đổi. Ý nghĩa đích thật của hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Đây là một thách đố lớn cho niềm tin Kitô Giáo, chúng ta tiếp tục bước theo chân Chúa Kitô, sống và hành động trong sự thật.
Điều quan trọng là chúng ta hãy sống chứng nhân giữa dòng đời. Trong đời sống xã hội và Giáo hội hiện nay, trào lưu tục hóa và hưởng thụ đã lan tràn khắp nơi. Nhiều nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới cũng đồng thuận theo khuynh hướng tự do cấp tiến này. Ngay trong đời sống của Giáo Hội cũng bị ảnh hưởng rất lớn, có rất nhiều người công giáo không còn muốn kết hôn với nhau qua Bí Tích Hôn Nhân nữa. Quan niệm sống xã hội thay đổi qua nhiều và quá nhanh. Những người đang được hưởng quyền lợi kết hôn thì không muốn, họ muốn sống tự do không kết hôn, sống thử, sống tạm, sống vội, ly thân, ly dị và thích sống hưởng thụ.
Chúng ta cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo, các chức sắc và những ai có trách nhiệm hướng dẫn con dân để bước đi trong con đường chính trực. Cầu nguyện cho mọi người, không phân biệt giới tính, để mọi người biết tôn trọng lẫn nhau. Chúng ta nhớ rằng chỉ cần kiếm được 10 người công chính trong thành, Chúa sẽ cứu dân thành Sôđôma và Gômôra khỏi lửa thiêu. Chúng ta hãy can đảm làm nhân chứng tốt trong đời sống hôn nhân gia đình.
Hình như dạo này tôi không được bình thường. Ai nhìn tôi cũng bảo thế. Đi bác sĩ khám mãi vẫn TN 14-B99
Hình như dạo này tôi không được bình thường. Ai nhìn tôi cũng bảo thế. Đi bác sĩ khám mãi vẫn chưa tìm ra bệnh gì. Chỉ thấy chán hết mọi sự thế gian, muốn thu mình vào một cõi, không muốn tiếp xúc với ai... Thôi thì "bỏ phố lên rừng" một chuyến cho tinh thần bớt căng thẳng, lo lắng, muộn phiền. Và nơi tôi lang thang tìm đến giải sầu là trại tâm thần!
Cách xa nơi đông vui náo nhiệt của cao nguyên Lâm Viên là thị xã Đức Trọng-Lâm Đồng với những con đường uốn lượn rợp bóng thông reo. Đi sâu vào con đường đất đỏ ven đồi, dưới thung lũng xanh lúa, và sườn đồi cà phê rợp bóng, là chốn bình yên ẩn khuất để đón những con người “không bình thường”. Cuộc đời ồn ào, khổ đau, cạnh tranh khốc liệt ngoài kia, bỗng khiến họ một ngày nào đó chẳng còn nhận ra mình. Mọi sự chẳng còn hiện hữu như vốn có, mà có cũng như không, không mà như có, không tính cách, chẳng trí tuệ, chỉ còn những cơn điên loạn gào thét bất thường. Họ gần ba trăm con người, những bệnh nhân tâm thần ở thể nặng, không người thân nào cưu mang, khó có khả năng phục hồi. Những khi tỉnh tỉnh chút, có người nhận mình từng là giáo viên, doanh nhân, sinh viên, ca sĩ, đại gia...
Có khi nào trong đó có tôi không? Vì đôi khi tôi cũng sống trong "hoang tưởng", nghĩ mình phải là thế này, phải là thế nọ, phải nắm được chức vụ này, phải giữ cho được địa vị kia. Mặc dù tôi "bất tài vô đức" nhưng vẫn nghĩ rằng "chỉ có mình là xứng đáng" và "mình không làm thì ai làm được?" Rồi vì không được như mình tưởng, cho nên tôi đâm ra chán đời giận người. Tôi bị bệnh "hoang tưởng" thật rồi. Tôi có hơn gì những bệnh nhân ở trại tâm thần này đâu!
Ấy thế mà nơi đây còn giữ một câu chuyện rất đẹp. Có một sư cô bị điên. Nhà Chùa phải đưa cô lên rừng vì ở đồng bằng đã làm mọi cách cứu mà không được. Chốn cô tịnh tu hành, chẳng lẽ để cô phá phách la hét hay sao ? Họ gởi cô tới đây với chút hi vọng được yên ổn. Cô dọn một góc nhỏ thờ Đức Phật Thích Ca. Mỗi ngày cô tụng kinh ê a, trong khi hàng trăm bệnh nhân khác cầu nguyện Lòng Chúa Thương Xót lúc ba giờ chiều.
Vài tháng sau, tự nhiên cô dõng dạc tuyên bố: “Các người bắt kinh không có hay. Từ nay tôi phải dẫn kinh cho mấy người mới được!” Và thật lạ lùng, cô thuộc kinh làu làu. Hóa ra khi cô niệm Phật ê a, thì tai cô, trí cô lại thu lượm và nhớ thuộc lòng chuỗi kinh lòng thương xót Chúa. Cô dẫn kinh lòng thương xót rất hay. Mọi bệnh nhân dù là Công Giáo, Tin Lành, người Kinh, người K’hor, đều nghe cô răm rắp !
Nơi đây không ai có thể giải thích một hiện tượng rất lạ lùng. Cho dù suốt ngày suốt đêm các bệnh nhân chìm trong cơn điên cuồng, nhưng duy nhất có quãng thời gian trong ngày họ rất tử tế và rất hiền, đó là giờ cầu kinh lòng thương xót Chúa lúc ba giờ chiều.
Sau một thời gian làm “bà quản kinh”, dẫn kinh lòng thương xót cho các nữ bệnh nhân mỗi 3 giờ chiều tại đây, sư cô được khỏi bệnh, tỉnh táo. Nhà Chùa và các phật tử tới rước cô về. Họ bảo cô muốn đọc kinh Chúa, kinh Phật cũng được, miễn cô khỏi bệnh là ân phúc rồi.
Ôi, từ chốn gọi là điên rồ nhất đã phát sinh những sự tuyệt vời, mà kẻ nhận mình tỉnh táo như tôi phải ngỡ ngàng quá đỗi. Huyền diệu thay, lòng Chúa xót thương!
Trở về nhà, tôi cất công tìm hiểu thêm về chứng bệnh gọi là "tâm thần phân liệt hoang tưởng". Đó là một căn bệnh tâm thần mãn tính, trong đó một người bị mất liên lạc với thực tế, có ảo tưởng và nghe những điều không có thực, thính giác ảo giác.
Ảo tưởng là tự quan trọng hoặc hạ mình, tin rằng rằng đang nổi tiếng hay mà có mối quan hệ với một người nổi tiếng. Giữ những niềm tin sai sự thật mặc dù chứng cứ ngược lại. Một mối bận tâm với một hoặc nhiều ảo tưởng.
Thính giác ảo giác là nhận thức về âm thanh - thường là tiếng nói mà không ai nghe thấy nhưng có vẻ thực sự. Những tiếng nói này thường khó chịu. Có thể có những lời chỉ trích liên tục những gì đang suy nghĩ hoặc làm, hoặc có ý kiến độc ác thật hay tưởng tượng về những lỗi lầm.
Những người bị tâm thần phân liệt hoang tưởng, có thể không nhận ra mình cần giúp đỡ hoặc có triệu chứng. Điều này là do ảo tưởng hoặc ảo giác có vẻ rất thực tế. Điều trị bằng cách cố gắng lấy hết can đảm để tâm sự với một ai đó, đó có thể là người thân yêu, tin tưởng, người chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp, một nhà tư vấn, một vị linh hướng, hay ai đó trong cộng đồng đức tin.
Tôi lại chạy đến với Đức Thánh Cha Phanxicô thì thấy bệnh của tôi nằm trong 15 căn bệnh đã được ĐTC bắt mạch kê toa. Đó là bệnh hoang tưởng tâm thần phân liệt trong cuộc sống (existential schizophrenia).
Theo ĐTC, đó là bệnh của những người sống hai mặt, sống một cuộc đời nước đôi (double life). Đó là hậu quả của một thứ giả hình chính hiệu, của một kẻ sống tầm thường, và dần dần đời sống tâm linh trở nên trống rỗng, cho dù khoa bảng, bằng cấp, chức tước, địa vị, cùng với các danh hiệu hàn lâm cũng không thể nào khỏa lấp được.
Đây là một thứ bệnh thường xảy ra nơi những người bỏ bê việc mục vụ, và chỉ giới hạn vào những công việc bàn giấy, thủ tục hành chánh, thu mình vào tháp ngà yên ổn với các công việc quan liêu, luật lệ cứng ngắc, đánh mất sự tiếp xúc với thực tại, với những con người cụ thể. Với cách sống như thế họ tạo cho mình một thế giới song song, một thứ thế giới lưỡng diện (a parallel world), trong đó họ gạt qua một bên tất cả những gì họ nghiêm khắc dạy dỗ người khác, và sống một cuộc đời kín đáo nhưng thường là phóng đãng.
Chết thật! Chắc tôi bị bệnh đó rồi! Vậy mà xưa đến giờ không biết, cứ tưởng mình ngon lành lắm! ĐTC đã bắt đúng bệnh của tôi. Thảo nào tôi thấy lòng mình bất an. Có cái gì đó không thật nơi tôi. Dường như tôi đang sống trong "thế giới ảo"! Khoa học kỹ thuật càng tinh vi bao nhiêu, càng đưa con người xa rời thế giới thật bấy nhiêu. Tất cả đều có và chỉ có trên mạng, trên internet, trên màn hình vi tính, còn trên thực tế người ta chẳng nắm bắt được gì! Từ những chuyện kinh doanh làm ăn buôn bán, trao đổi hàng hóa tiền bạc... cho đến những chuyện chia sẻ tình cảm, kết bạn, trao đổi tâm tình, cái nào thật, cái nào ảo, có ai biết chắc được đâu!
Rồi bây giờ thế giới ảo đó ảnh hưởng đến cả đời sống tâm linh của tôi nữa. Tôi sống 2 mặt trong một con người. Bề ngoài ai cũng thấy tôi đạo mạo, đạo đức, xúng xính với bộ áo dòng, với cuốn sách kinh trên tay. Trên tòa giảng, tôi trổ tài hùng biện, khoa chân múa tay, dạy dỗ răn bảo giáo dân rất hay. Ai cũng khen tôi... khéo nói! Thế nhưng khi rời tòa giảng, tôi cũng để lại đó tất cả những gì tôi đã nghiêm khắc dạy dỗ người khác, tôi sống cái thế giới của riêng tôi, cho tôi, mà chẳng cần quan tâm đến ai. Tôi bỏ bê việc mục vụ, đi du lịch hết nước này đến nước kia cho sướng, tìm đủ cớ để xuất ngoại, nào là "đi cho biết đó biết đây, ở nhà ôm xứ biết ngày nào khôn?"; nào là đi vận động quyên góp để sửa chữa, xây cất cơ sở, nơi thờ phượng; nào là đi tu học để rửa bằng, để có bằng cấp nước ngoài cho oai với thiên hạ, để dễ bề thăng quan tiến chức! Cứ đi học "nước ngoài" là ngon hơn "nước trong" rồi, bất kể học hành thế nào, tiếp thu được những gì, áp dụng ra sao những điều đã học.
Thích bay nhảy, sính bằng cấp, ham chức tước, trọng hình thức, khoái bề ngoài... dần dần đời sống nội tâm của tôi cạn kiệt, đời sống đạo đức của tôi khô như ngói. Tôi không kiên trì làm được việc gì tốt lành. Tôi mau chán, dễ gắt gỏng cáu kỉnh vô cớ.
Tệ nhất là tôi "nói một đàng, làm một nẻo", những gì tôi giảng dạy không ăn nhập gì đến những gì tôi sống. Tôi sống một thế giới "lưỡng diện". Thay vì "khắt khe vơi mình, dễ dàng với người" thì tôi lại "khắt khe với người, dễ dãi với mình". Chúa nói rất đúng về căn bệnh "giả hình chính hiệu" này của tôi: "Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các ngươi nuốt hết tài sản của bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các ngươi sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn... Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các ngươi rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ... Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!..." (Mt 23, 13-32)
Căn bệnh "ảo tưởng" rất trầm trọng này nếu không chữa trị kịp thời bằng việc hoán cải, là điều rất cần thiết và không thể thiếu được, thì sẽ lây lan sang một thứ bệnh khác mà ĐTC gọi là "Bệnh Thần Thánh Hóa Giới Lãnh Đạo-Thần Tượng Hóa Bề Trên" (divinizing directors). Đó là bệnh của những kẻ dua nịnh cấp trên, ve vãn các vị Bề Trên của mình, nịnh hót để lấy lòng của các vị, hy vọng được ban bố "ơn mưa móc". Họ là loại người tham danh vọng (careerism), chộp bắt cơ hội, xu thời (opportunism). Họ tôn kính con người chứ không tôn kính Thiên Chúa. Những người mắc căn bệnh này quên mất lời nhắc nhở của Chúa Giêsu: "Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là 'rap-bi', nghĩa là thầy, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha của anh em trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một người lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên" (Mt 23,8-12).
ĐTC chỉ rõ những người mắc bệnh này là những người khi phục vụ chỉ nghĩ đến điều mà họ "phải đạt" cho bằng được, chứ không nghĩ tới điều mà họ "phải làm". Những người này bủn xỉn, nhỏ nhặt, hèn hạ, và chỉ hành động vì cái tính vị kỷ quái ác của họ. Đó là căn bệnh của những người sống theo tính xác thịt, theo thói thế gian, chứ không theo sự hướng dẫn của Thần Khí, như thánh Phaolô tông đồ viết cho tín hữu Galat: "Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy anh em không còn thỏa mãn những đam mê của của tính xác thịt nữa. Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn. Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa. Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh cãi, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa. Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế. Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê. Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước. Chúng ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tị nhau." (Gl 5,16-26).
Những người sống "hai mặt" thì "đội trên đạp dưới". Một mặt thì khom lưng, luồn cúi, nịnh bợ, lấy lòng cấp trên. Mặt khác thì tác oai tác quái, chà đạp, o ép, bắt nạt người dưới.
ĐTC cho biết, bệnh này cũng có thể xảy ra cho cả các cấp trên khi họ chiêu dụ vài cộng tác viên để được sự tuân phục, trung thành và tùy thuộc về tâm lý. Bệnh này cũng có thể tấn công cả thành phần Bề Trên nữa, khi các vị ve vãn bề dưới để chiếm được lòng thuần phục của họ, chiếm được lòng trung thành của họ. Các vị ấy ban cho bề dưới những "đặc quyền, đặc lợi", ưu ái họ hơn những anh chị em khác trong cộng đoàn, để họ luôn lệ thuộc và thần phục bề trên một cách "tối mặt", mù quáng. Thậm chí các vị ấy còn dùng cả biện pháp chính trị, là "vận động hành lang" với những lời hứa hảo để kiếm phiếu, để được đắc cử, tái đắc cử, để củng cố địa vị, nắm chắc quyền lực... Nhưng kết quả cuối cùng là một sự đồng lõa với nhau thực sự, một "liên minh ma quỷ" chỉ để lợi dụng lẫn nhau mà thôi.
Triệu chứng của "bệnh hoang tưởng tâm thần phân liệt" là "thính giác ảo giác" khi tai tôi thích nghe những lời ngon ngọt, lời đường mật, lời nịnh hót, lời tâng bốc cho tôi lên "chín tầng mây xanh". Chung quanh tôi chỉ toàn những nịnh thần, không ai dám nói thẳng nói thật với tôi, vì sợ mất lòng cấp trên, sợ bị "đì sói trán"! Từ đó tôi sống trong "ảo tưởng", không thấy được bộ mặt thật của mình, sống xa lìa thực tế, không gần gũi với những người thấp cổ bé miệng, không bênh đỡ những người bị ức hiếp chèn ép, bị đối xử bất công. Tôi tiếp tay với những người có chức có quyền gạt họ ra ngoài lề cộng đoàn không một chút thương tiếc, không mảy may chạnh lòng xót thương.
Nếu sống hai mặt như thế trong đời sống dâng hiến, thì làm sao tôi cảm nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, mà trở thành dụng cụ đem ơn cứu độ cho anh em?
Trong buổi tiếp kiến sáng 29-5-2015 dành cho 50 Hồng Y, Giám Mục và linh mục, tu sĩ tham dự khóa họp toàn thể của Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, Đức Thánh Cha khẳng định Năm Thánh Lòng Thương Xót có mục đích làm nổi bật hơn hồng ân Lòng Thương Xót của Chúa. Đức Thánh Cha nhấn mạnh:
“Con người ngày nay đang mong đợi Giáo Hội biết đồng hành với họ, cống hiến cho họ chứng tá đức tin, khiến Giáo Hội liên đới với tất cả mọi người, đặc biệt là những người cô đơn và bị gạt ra ngoài lề. Bao nhiêu người nghèo đang chờ đợi Tin Mừng giải thoát! Bao nhiêu người bị đẩy ra những vùng ngoại biên cuộc sống do xã hội tiêu thụ gây ra, đang chờ đợi sự gần gũi và tình liên đới của chúng ta!"
Đức Thánh Cha đặc biệt nhấn mạnh đến việc các tín hữu phải cảm nghiệm cụ thể lòng thương xót của Thiên Chúa nơi chính bản thân mình để trở thành dụng cụ cứu độ cho anh chị em.
Thánh lễ tuyên phong Chân Phước cho Đức Tổng Giám mục Oscar Romero ngày thứ bảy 23-05-2015 tại quảng trường Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc ở San Salvador, thủ đô của El Salvador, có 7 Hồng Y, 90 Giám Mục và hơn 1,000 linh mục tham dự, cùng với một số nguyên thủ quốc gia, trong đó có tổng thống Ecuador và tổng thống Panama, đã thu hút 250.000 người.
ĐTC Phanxicô đã gửi đến Đức Cha José Luis Escobar Alas, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục El Salvador, một lá thư, Ngài viết:
“Đức Cha Romero đã xây dựng hòa bình bằng sức mạnh của tình thương, làm chứng về đức tin bằng cuộc sống hiến thân đến cùng...
“Trong hòan cảnh rất khó khăn, Đức Cha Romero đã hết lòng hướng dẫn, bênh đỡ và bảo vệ đoàn chiên, luôn trung thành với Tin Mừng và hiệp thông với toàn thể Giáo Hội. Sứ vụ của Đức Cha Romero trổi vượt vì sự quan tâm đặc biệt đối với những người nghèo khổ nhất và bị gạt ra ngoài lề...
"Tiếng nói của vị Tân Chân Phước tiếp tục vang vọng ngày nay để nhắc nhớ chúng ta rằng Giáo Hội, là cộng đồng anh chị em được tập hợp quanh Chúa, là gia đình của Thiên Chúa, trong đó không được có sự chia rẽ nào. Đó là điều mà Giáo Hội ngày nay tại El Salvador, Mỹ Châu và trên toàn thế giới đang được kêu gọi thực thi: một Giáo Hội giàu lòng thương xót, được biến thành men hòa giải cho xã hội.
“Đức Cha Romero mời gọi chúng ta sống hợp với lương tri, tôn trọng sự sống và hòa hợp. Cần từ bỏ “bạo lực gươm giáo, bạo lực oán thù”, và sống “sức mạnh của tình thương mà Chúa Kitô chịu đóng đanh trên thập giá đã để lại, sức mạnh làm cho mọi người vượt thắng ích kỷ và để không còn những chênh lệch tàn bạo giữa chúng ta”.
Đức Cha Romero đã sống rất thật khi luôn "quan tâm đặc biệt đến những người nghèo khổ nhất và bị gạt ra ngoài lề", còn tôi sống rất ảo khi chỉ quan tâm đến những người giầu có, quyền cao, chức trọng.
Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 9-5-2015, dành cho 16 Giám Mục nước Mozambique, ĐTC khích lệ các vị tăng cường mục vụ tại những miền “ngoại ô” của giáo phận và của cuộc sống con người: “Anh em hãy đi vào lòng cộng đoàn tín hữu của anh em, cả trong những khu ngoại ô của giáo phận thuộc quyền, và trong mọi “cảnh vực bên lề” của cuộc sống, nơi có nhiều đau khổ, cô đơn và lầm than của con người. Giám Mục nào sống giữa đoàn chiên của mình, thì có đôi tai rộng mở để lắng nghe tiếng nói của đoàn chiên."
Người mục tử cần có đôi tai rộng mở để chăm chú nghe tiếng nói, tiếng than thở, than khóc của những con chiên cô đơn lầm than, chứ đâu phải để nghe những lời tâng bốc nịnh hót của sói rừng đội lốt chiên non!
Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp tổng thống Cuba, Raul Castro, vào sáng Chúa Nhật 10-05-2015 gần một giờ trong đại thính đường Phaolô VI, và tặng cho tổng thống một bản sao của Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, một huy chương lớn khắc hình Thánh Martin đang bao bọc người nghèo với chiếc áo choàng của mình.
Raul Castro rất vui mừng đón nhận món quà này, vì nó nhắc nhớ nhiệm vụ của ông không chỉ giúp đỡ và bảo vệ người nghèo, mà còn tích cực đề cao phẩm giá con người. Ông sẽ có mặt tại tất cả các Thánh Lễ do Đức Thánh Cha cử hành trong thời gian ĐTC thăm Cuba vào tháng 9-2015.
Trong một cuộc họp báo sau cuộc tiếp kiến với ĐTC Phanxicô, tổng thống Raul Castro nói về sự cởi mở của đảng Cộng sản Cuba với niềm tin tôn giáo: “Tôi xuất thân từ đảng cộng sản Cuba, là đảng không cho phép các đảng viên theo đạo, nhưng bây giờ chúng tôi đã bỏ lệnh cấm đoán này, đó là một bước quan trọng... Nếu Đức Giáo Hoàng giữ vững đường lối hiện nay, tôi sẽ theo đạo Công Giáo!”
Raul Castro, cũng như những người chân chính ngày nay, không "Thần Thánh Hóa Giới Lãnh Đạo-Thần Tượng Hóa Bề Trên" nữa. Họ chỉ "tâm phục khẩu phục" nếu những vị bề trên, những người lãnh đạo, "giữ vững đường lối" như ĐTC Phanxicô, nghĩa là sống những điều mình giảng dạy, và chỉ giảng dạy những điều mình sống mà thôi. Nếu tôi không sống trung thực như thế, mà cứ sống "hai mặt", sống giả hình, thì dù có khéo che đậy cách mấy, trước sau mặt nạ cũng rớt, thần tượng cũng sụp đổ, căn bệnh tâm linh "hoang tưởng" trầm kha sẽ vô phương cứu chữa.
Ôi! Năm "Đời Sống Dâng Hiến" đã được một nửa đường rồi, mà tôi vẫn dậm chân tại chỗ, với "lối sống hai mặt", giả hình chính hiệu, trong căn bệnh "tâm thần phân liệt - thể hoang tưởng" cho đến bao giờ đây ?
Năm Thánh Lòng Thương Xót sắp mở rồi, mà lòng tôi vẫn khép chặt lại với căn bệnh "Thần Thánh Hóa Giới Lãnh Đạo-Thần Tượng Hóa Bề Trên" thì làm sao tôi thành dụng cụ đem ơn cứu độ đến cho anh em được? Mong lắm thay.
Nước Ethiopia Kitô Giáo đã bị cắt đứt liên lạc với Kitô Giáo Châu Âu do sa mạc, vị trí xa xôi và Hồi: TN 14-B100
Nước Ethiopia Kitô Giáo đã bị cắt đứt liên lạc với Kitô Giáo Châu Âu do sa mạc, vị trí xa xôi và Hồi Giáo. Chỉ tới giữa thế kỷ 15, Châu Âu mới biết được thật sự về nước này. Năm 1441, do kết quả đàm phán của Giáo Hoàng với Thượng Phụ Copte ở Alexandria và cộng đồng người Ethiopia ở Giêrusalem, mà một phái đoàn Ethiopia được gửi đi tham dự Công Đồng Florence. Đầu thế kỷ 16, một nhóm Thừa Sai Dòng Phan Sinh được gởi từ Giêrusalem đi Ethiopia nhưng không thành công được bao nhiêu, khi mà Châu Âu đang trong thời kỳ Cải Cách đau đớn.
Đến thập niên đầu tiên của thế kỷ tiếp theo, mới có một Tu Sĩ Dòng Tên được gửi đến Ethiopia trong một phái đoàn, và đó là Pedro Paez. Ông đến vào năm 1607. Nhà Thừa Sai Tây Ban Nha này hết sức khoan dung đối với văn hóa Kitô Giáo Ethiopia. Ông chấp nhận Phụng Vụ Ethiopia và đã thuyết phục thành công người Negus tuyên xưng hai bản tính của Đức Kitô, đồng thời hợp thức hóa sự hiệp nhất Giáo Hội Ethiopia với Rôma. Ngày Sabát của người Do Thái cũng bị bãi bỏ và hàng ngàn người Ethiopia chịu phép rửa, xưng tội và rước lễ từ tay các Thừa Sai.
Tất cả những thành tựu của Paez đã bị thiêu rụi bởi người kế nhiệm ông, Thượng Phụ Dòng Tên Bồ Đào Nha tên là Mendez. Ông này đến đây năm 1625 với tám Thừa Sai khác. Mendez là một người chủ trương Latinh-hóa không khoan nhượng. Ông không chỉ nhấn mạnh đến tiếng Latinh, mà cả lịch Rôma và chủ trương chỉ một lối hiệp thông Kitô hữu thôi. Thêm vào đó, ông còn ra lệnh rửa tội lại tất cả các tín hữu Ethiôpia, phong chức lại cho các Linh Mục, rửa lại các bàn thờ và đưa ra khỏi các Nhà Thờ thánh tích của các Thánh của Ethiôpia.
Kết quả của sự xúc phạm không thể tin được đối với văn hóa cổ xưa và nghi lễ của Giáo Hội Ethiopia này, là họ lập tức quay lại với ly giáo và khôi phục lòng thù ghét cực độ đối với Rôma và tất cả những gì mà Rôma bảo vệ. Tiếp đó, các Thừa Sai Latinh bị thảm sát, và chỉ đến thế kỷ 19 các nhà Thừa Sai Công Giáo mới nhận lại nghi tiết Ethiôpia và sau đó tiến hành truyền chức Linh Mục và Giám Mục ( Hoành Sơn, QM và DS, Ayward Shorter, Ba cuộc Hội Nhập Văn Hóa thất bại trong lịch sử ).
Sự hẹp hòi, thiển cận, bất bao dung đã làm Đạo Công Giáo ở Ethiopia bị khủng hoảng hơn hai thế kỷ cũng vì thất bại về hội nhập văn hóa. Trong Tin Mừng Chúa Nhật 14 thường niên hôm nay, Thánh Máccô thuật lại thất bại của Đức Giêsu, khi trở về quê hương Nadarét, Người đành chịu thúc thủ, không thể làm được phép lạ trước thái độ hẹp hòi, kiêu ngạo và đố kỵ của người đồng hương.
Thiếu Niềm Tin
Dù biết rằng, Đức Giêsu đã rao giảng và làm phép lạ nhiều nơi, nhưng người đồng hương Nadarét vẫn thiếu niềm tin vào Người. Vẫn cố chấp, thành kiến, nông cạn, chỉ vì “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria và là anh em của các ông Giacôbê, Giôxét, Giuđa và Simôn sao ?” chỉ vì thân thế quá đỗi tầm thường, xuất thân từ gia đình lao động nghèo khó, chẳng có vai vế, đẳng cấp nào trong xã hội.
Thành kiến đóng khuôn người khác vào trong chuẩn mực thô thiển, bất di bất dịch, vào trong thân phận nhất định, bất biến và hạn hẹp. Trong khi bất cứ ai cũng đều dễ thay đổi, từ hình hài thân xác đến tâm hồn, từ trẻ dại đến trưởng thành và già đi, từ tâm hồn ngây thơ, biết suy nghĩ, chín chắn tốt lành, hay suy đồi, gian ác, biến đổi tốt xấu tùy môi trường, tùy nhận thức, tùy bản lĩnh và tùy theo xu hướng thế gian. Người thành kiến thì luôn cố chấp, luôn phủ nhận khía cạnh tích cực, phát triển hay tiến bộ của ai đó, chính vì thiếu niềm tin vào người đó.
Người đồng hương Nadarét không thể nhận ra Đức Giêsu là Đấng Messia, Đấng Thiên-Chúa-Ở-Cùng, chỉ vì không tin Người, dù đã nghe vang dội danh tiếng rao giảng và làm phép lạ. Vì trở về quê hương, Người vẫn tiếp tục ẩn mình dưới thân phận bình dân, hem hễ, lam lũ và tầm thường vốn như trước đây, không hề ầm ĩ vinh quy kèn trống, chẳng quyền cao, chức trọng.
Thiếu Lòng Cậy
Không chỉ thiếu niềm tin, họ còn thiếu cả lòng trông cậy vào Đức Giêsu, dù biết Người đã nổi danh như cồn khắp nơi. Khi chê bôi, dè bỉu, dèm pha, khinh miệt, rẻ rúng Đức Giêsu, họ vô tình phô ra tính kiêu ngạo, lòng tự cao tự đại. “Chị em của ông không phải là lối xóm với chúng ta sao ?” Chỉ vì thói kiêu ngạo, họ trâng tráo thốt lên những lời bất nhã, khiến họ trở nên mù lòa, không thế nhận ra vị Ngôn Sứ vĩ đại, Đấng Cứu Chuộc duy nhất đến thế gian.
Thiếu Lửa Mến
Thay vì vui mừng nghênh tiếp, trọng thể đón rước Đức Giêsu về lại quê nhà, thì người đồng hương lại tỏ ra đố kỵ, ganh ghét, tỵ hiềm Người. “Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao ? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì ?” Những thắc mắc, những nghi vấn đó hoàn toàn hợp lý, nhưng không phản ảnh lòng ái mộ, khâm phục, mà chỉ phản ảnh sự ghen tương, nghi kỵ, khi thấy Người tài năng hơn họ. Chỉ vì thiếu hẳn lửa mến, họ chẳng chút gì mến yêu, phục tùng, thiện cảm với Đấng Ban Lời Hằng Sống.
“Yêu nhau trái ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng vuông.“ Con tim, tình cảm luôn gây ảnh hưởng lý trí, ứng xử, xã giao. Ganh ghét ai, thì làm sao nhận ra cái hay, cái tốt của người ấy, nếu có cũng bị xuyên tạc, đổi trắng ra đen. Người đồng hương Nadarét như thế hoàn toàn đố kỵ với Người, chẳng mến, chẳng cậy, cũng chẳng tin, khiến “Người đã không thể làm được phép lạ nào ở đó.”
“Mỗi ngày con phải bớt tự ái, mà thêm bác ái. Mỗi ngày con bớt tự tin, mà tin thêm Chúa.” ( Đường Hy Vọng, số 56 ).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thiếu Đức Tin để nhìn thấy Chúa ở trong anh em, thiếu Đức Cậy để phó thác vào Chúa, thiếu Đức Mến để yêu Chúa thương người. Xin Chúa ban đổ tràn đầy ơn Tin Cậy Mến cho chúng con, để Chúa có thể làm phép lạ nơi chúng con, cảm hóa chúng con thay đổi nếp sống cũ, tái sinh trong ơn Cứu Độ của Chúa luôn.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu chúng con sống khiêm nhường, nhân ái, bao dung, để tìm thấy Chúa đang ẩn náu nơi tha nhân, mà yêu thương, bác ái và phục vụ mọi người. Amen.