Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 12-B Bài 51-100 Chúa Giêsu dẹp yên giông gió bão tố
------------------------------------------ Phúc Âm: Mc 4, 35-40: “Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ”. Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người. Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?” Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: “Hãy im đi, hãy lặng đi”. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: “Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?” Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: “Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?” - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Ai coi cũng hiền khi nằm ngủ. Lúc thức mới biết hiền hay dữ. Khôn ngoan đến cửa quan mới biết. Lúc bình thường, ngồi trong bàn nhậu, vài li rượu đánh vào, bốc phét đủ thứ trên trời dưới đất. Chuyện gì cũng giỏi tất; đến khi có chuyện, cần xử lí, mới biết là giỏi hay dốt.
Con tàu Titanic, trước ngày hạ thủy, cũng như khi mới xuất phát, thì cả làng báo chí đều tung hô: Con tàu chắc chắn nhất từ khi có con người. Ngang ngửa với con tàu của Ông Noe trong Kinh Thánh. Kẻ có mặt trong chuyến hành trình ấy, được quyền vênh mặt, vì thuộc vào hàng quý tộc; Ai có máu mặt, có tầm cỡ quý tộc mới có vinh dự được làm hành khách của con tàu ấy. Rồi khi, trong cái đêm định mệnh xảy đến: Một tảng băng đụng phải. Con tàu đã vỡ tan tác đẩy 1500 người xuống đại dương, mới biết con tàu bền vững hay không.
Trong khía cạnh Đức Tin cũng thế. Lúc gia đình êm ấm hạnh phúc, hết may này đến may khác dồn về, thì lạy Chúa, con tin Chúa hết lòng. Khi trời vừa gợn sóng; một vài tai họa xảy đến. Bầu trời gia đình đã tối sầm; lòng tin ngã vật xuống đất từ bao giờ. Và ô hay, không biết Chúa đi đâu mất rồi. Hay có khi, lại không có Chúa thì phải. Sự đời vẫn thường diễn ra như vậy đó. Vì thế, ở khía cạnh nào, kể cả khía cạnh Đức Tin, cũng luôn cần có những dịp để thử thách. Qua thử thách người ta sẽ thấy thật rõ về mình.
Câu chuyện trong Máccô 4,35-41 là một thử thách thật hay về niềm tin cho các Tông Đồ. Chúa và các Tông Đồ đang ở trên một con thuyền giữa biển hồ. Chúa thì tựa lưng vào một chiếc gối để ngủ. Các Tông Đồ thì đang quăng lưới, giăng chài để bắt cá. Trời đất bỗng nổi cơn dông bão, làm con thuyền chòng chành, nghiêng nghiêng ngả ngả sắp chìm. Sự khiếp sợ hiện rõ trên khuôn mặt các ông. Coi chừng chết mất. Sợ quá Chúa đâu, Chúa đâu? Lại gọi Chúa dậy. Sao Chúa lại quá vô tư? Không biết gì đến nỗi khổ của cả bọn chúng con. Chúa thức dậy, truyền lệnh. Gió và biển biến đi đâu mất, mặt nước yên lặng như tờ. Sao nhát thế, anh em vẫn chưa có lòng tin sao? Vì đức tin còn non yếu quá, nên mới sợ hãi thế đấy, thưa Thầy. Cám ơn cơn bão ấy, vì nhờ cơn bão ấy mà các Tông Đồ mới biết được mức độ niềm tin của mình.
Trong cơn hoảng loạn, người ta thường quên mất Chúa. Thực ra, Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài lúc nào cũng có mặt trong con thuyền cuộc đời của chúng ta. Ngài lặng lẽ ở đó. Ngài thức nhưng vờ như ngủ, để chờ ta chạy đến kêu cầu, và Ngài sẽ thức dậy, trợ giúp chúng ta.
Gợi ý suy niệm:
1- Khi gặp sóng gió cuộc đời, bạn giải quyết thế nào? 2- Có khi nào bạn kêu cầu, mà Chúa từ chối ?
Trong cuộc đời chúng ta gặp nhiều trường hợp thử thách rất đáng yêu. Chẳng hạn như người mẹ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm. Khi thấy con đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện. Vừa thấy mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết. Và nó càng yêu mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa.
Trong bài TM hôm nay, Chúa Giêsu đang thử thách các tông đồ. Việc thử thách của Chúa phát xuất do tình yêu.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn rèn luyện ta nên người. Để rèn luyện, Chúa gửi những thử thách tới. Cuộc đời ví như mặt biển cả mênh mông. Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên mặt nước. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những việc ở ngoài tầm tay của mình, chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa. Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên chúng ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.
Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chẳng có thử thách nào kéo dài mãi mãi. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian. Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Để từ nay các ngài không còn cuống quít lo sợ mỗi khi gặp gian nan nữa. Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, và vững vàng hơn.
Đời sống không thể thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Hơn nữa Chúa luôn ở bên ta.
Vì thế, mỗi người hãy vững tin, hãy cậy trông phó thác và hãy biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm vững mạnh. Thử thách rồi sẽ qua đi. Thử thách sẽ tạo nên giá trị đời ta. Ước gì mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội, để thêm lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa. Amen Lm. Đỗ Tiến Trình
Con thuyền của các môn đệ trong bài Tin Mừng sáng hôm nay chính là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Thực vậy, cuộc đời chúng ta với bao nhiêu phong ba bão táp, đó là những thất bại của bản thân, những khó khăn của cuộc sống, của xã hội, những khổ đau của những người xunh quanh, làm cho chúng ta nhiều lúc chán nản tuyệt vọng.
Tại sao lại có những sóng gió trong cuộc đời? Phải chăng Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta? Có người cho rằng chính Thiên Chúa thử thách để rèn luyện và củng cố niềm tin nơi chúng ta. Có người lại cho rằng do trình độ hạn chế của con người trước sức mạnh của thiên nhiên. Nhưng có lẽ nguyên nhân trực tiếp nhất vẫn là do cách đối xử của con người đối với con người trong cuộc sống.
Thực vậy, chính thái độ vô trách nhiệm của những người làm cha làm mẹ đã dẫn đến tình trạng tuổi trẻ lang thang, bụi đời. Chính sự ích kỷ tàn nhẫn của một số người đã tước đoạt đi những phương tiện sống và phẩm giá của những người khác.
Nghịch cảnh và sóng gió như vẫn tồn tại song song với số phận và lịch sử con người. Các môn đệ cũng như chúng ta phải đương đầu, phải đối phó với cuồng phong. Thế nhưng chúng ta sẽ tìm thấy niềm an ủi nơi Thiên Chúa bởi vì dưới bàn tay quyền năng và yêu thương của Ngài, sóng gió cũng phải khuất phục và sự bình an sẽ trở lại với chúng ta.
Sự dữ tuy tràn lan, nhưng ơn sủng của Ngài vẫn dư đầy, bởi vì Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài không hề bỏ rơi con người. Bằng chứng là Đức Kitô đã đến, Ngài tìm mọi phương cách, thậm chí cả đến cái chết của mình để cho chúng ta thêm xác tín vào tình thương của Ngài. Một vị Thiên Chúa nhân lành như vậy, nhất định sẽ không bao giờ muốn cho con người phải đau khổ, nhất định Ngài sẽ cứu chúng ta.
Làm sao chúng ta có thể thất vọng và chán nản khi Ngài vẫn ở bên chúng ta và vẫn yêu thương chúng ta. Mặc dù ngày nay Thiên Chúa không còn trực tiếp làm phép lạ để truyền cho sóng gió phải yên lặng, nhưng Ngài dùng bàn tay của những người nhiệt tâm làm vơi giảm những nghịch cảnh, những bất công trong cuộc sống. Và cũng không ít những con người đang đấu tranh cho công bằng xã hội. Nhiều khi họ cũng đã phải trả giá cho những đấu tranh ấy bằng chính mạng sống của mình.
Còn chúng ta thì sao? Niềm tin vào một Thiên Chúa toàn năng và yêu thương lẽ nào lại để cho chúng ta phải buông xuôi và tuyệt vọng bởi vì Đức Kitô chính là niềm hy vọng, chính là sức sống trong cuộc đời chúng ta.
Cũng như hai dụ ngôn ‘hạt giống tự mọc’ và ‘hạt cải nhỏ bé’ được kể trước đó, sự kiện cuồng phong nổi lên và sóng nước ập vào làm cho con thuyền các môn đệ hòng chìm, trong khi đó Đức Giê-su ‘đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ’ buộc ta phải suy nghĩ khi giáp mặt với những nghịch lý đầy thách thức trong chính đời sống Tin Mừng. Tự nhiên, khi nghĩ về Thiên Chúa cũng như về vương quốc của Ngài, thì quyền năng và sức mạnh mới chính là điều mà mọi người thường nghĩ tới trước nhất. Chính vì vậy mà khi nhìn thấy đau khổ tràn lan, bất công ngập tràn và sự ác thống trị, trong khi sự thiện lại thoi thóp trong tuyệt vọng, nhiều người đã cho rằng, đó là một bằng chứng thuyết phục cho thấy không hề có Thiên Chúa; vì nếu Ngài thật sự hiện hữu, thì với tất cả quyền năng và thánh thiện như thế, tại sao lại không can thiệp, không giáng phạt bằng tất cả sức mạnh của Ngài? Thiên Chúa lẽ nào lại vô tâm tới mức đó sao? Giải đáp duy nhất mà người ta thường nại tới để giải quyết nghịch lý này là sự kiên nhẫn chịu đựng có giới hạn của Thiên Chúa, sự nhẫn nhục này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi của cuộc đời này, để rồi tới kiếp sau sự công thẳng và quyền bính của Ngài sẽ hiển trị qua việc nghiêm minh xét xử, với phần thưởng thiên đàng dành cho người thiện, hay hình phạt hỏa ngục dành cho người dữ. Giải đáp này trên thực tế hình như được hầu hết các tôn giáo trưng ra, tuy với những hình thái khác nhau, chẳng hạn như thuyết luân hồi của Phật Giáo.
Vẫn biết Thiên Chúa là quyền năng và quyền năng này vượt trên tất cả mọi sự, ‘Thức dậy, Người ngăn đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’. Thiên Chúa đương nhiên có quyền trên cả sự dữ! Trong trường hợp cụ thể này, theo lối suy nghĩ của các môn đệ, biển cả dậy sóng là hình ảnh quen thuộc của sức mạnh sự dữ, của tà thần (xem Mc 1:25). Có điều là ít tôn giáo nào dám nghĩ rằng quyền năng lớn lao nhất của Thiên Chúa (Thượng Đế…) lại chính là quyền năng buộc Ngài phải câm nín. Ngoài Ki-tô giáo, có tôn giáo nào dám nghĩ rằng có một Thiên Chúa mà quyền năng và bản chất tuyệt hảo nhất của Người lại chính là lòng nhân từ và thứ tha? Đặc tính ‘nhân từ và hay thương xót’ của Thiên Chúa, nếu có tìm thấy trong Do Thái giáo, Hồi giáo…, thì cũng chỉ mang tính tạm bợ và hạn hẹp, và chỉ dành cho một số đối tượng nhất định mà thôi (các tín hữu trung thành, những người công chính chẳng hạn).
Chỉ riêng Tin Mừng của Đức Giê-su mới cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, và bản chất của Tình Yêu đó trước hết và trên hết là thứ tha và hay thương xót. Phải chăng từ muôn thuở yếu tính của Thiên Chúa chính là điều này… và sẽ còn tiếp tục mãi mãi cho tới muôn đời? Mạc khải lớn nhất của Đức Giê-su Ki-tô chính là đây: Thiên Chúa không lên án, Ngài không luận phạt, Ngài chỉ làm một điều duy nhất là cứu độ và xót thương. Luận phạt hay lên án là do chính con người tự quàng vào cổ mình “vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-21). Kể từ mạc khải vĩ đại này, thinh lặng trước sự dữ, thay vì là yếu đuối sợ hãi, lại biểu lộ sức mạnh vô địch nhất của Thiên Chúa. “Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?... Nhưng đức Giê-su vẫn làm thinh” (Mt 26:62-63).
Thần lực Người làm cho gió im biển lặng đã làm cho các môn đệ hoảng sợ, mối hoảng sợ này có lẽ lớn không kém lúc cuồng phong bão tố nổi lên, ‘Các ông hoảng sợ nói với nhau…’ Mô-sê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3:1), hoặc I-sai-a khi thoáng nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa (Is 6:5), hoặc bất cứ ai khác cũng đều run sợ trước mọi biểu hiện của quyền lực thần linh. Chỉ duy uy quyền tình yêu của Thiên Chúa là không gây sợ hãi! Và chỉ có sức mạnh tình yêu tha thứ mới làm cho con người được thư thái và an bình thực sự. “Bình an cho anh em… Thầy đây đừng sợ!” (Lc 24:36). Một khi được Đức Giê-su tỏ cho biết Thiên Chúa là ai trong thực chất của Ngài, và Thần Khí giúp ta khám phá ra Thiên Chúa thật gần gũi, thấu hiểu hết các yếu đuối lỗi lầm của con người cho dù họ có gian ác tội lỗi tới đâu đi nữa, bất cứ ai cũng sẽ cảm thấy tràn ngập một niềm an bình độc đáo, một thứ an bình không ai trên cõi đời này có thể ban cho. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy… không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi…” (Ga, 14:27)
Tuy nhiên, một khi khám phá ra và hiểu rõ hơn về sức mạnh tình yêu tha thứ và xót thương của Thiên Chúa, con người sẽ không khỏi cảm thấy một mối kinh ngạc thú vị, gần giống như một cảm giác ngất ngây. Hy vọng rằng các Ki-tô hữu chúng ta, một khi nghiệm thấy cảm giác tuyệt diệu đó, hãy để cho mối ‘kinh ngạc ngất ngây’ này tiếp tục tràn ngập tâm hồn mình… bây giờ và cho tới muôn đời!
Lạy Vua Tình Yêu nhân ái, cảm tạ Chúa đã một lần cho con nếm cảm được uy lực tình yêu nhân ái Chúa trong đời sống con. Xin cho con luôn nghiệm thấy Thiên Chúa tình yêu đang thinh lặng hiện diện trong con giữa mọi sóng gió cuộc đời. Xin đừng bao giờ cất khỏi lòng con sự bình an ngây ngất của Thần Khí hiện diện trong con, để con luôn có thể mở miệng kêu lên ‘Áp-ba’ giữa mọi nghịch cảnh. A-men.
Một phái đoàn quan khách đến thăm quan một trại cùi. Họ rất cảm phục vì thấy các nữ tu vui TN12 B-55
Một phái đoàn quan khách đến thăm quan một trại cùi. Họ rất cảm phục vì thấy các nữ tu vui vẻ săn sóc cho bệnh nhân. Một người trong phái đoàn hỏi một chị: “Vì sao chị lại sống ở đây? Cho tôi một triệu tôi cũng không dám!” Người nữ tu trả lời: “Cho tôi hai triệu tôi cũng không ở. Sở dĩ tôi muốn ở đây và sống chết ở đây vì tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy tôi.” Với giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô cũng từng nói như vậy: “Lòng yêu mến Đức Kitô thúc bách tôi”. Từ ngày ngài được biết Chúa Kitô và cảm thấy tình thương của Chúa đến độ “hiến thân mình vì tôi” (Ga.2,20), Phaolô như bị đè nặng dưới khối tình yêu của Chúa. Từ trong thâm tâm, người nghe như có tiếng vọng lại: Hãy yêu mến Ta như Ta đã yêu mến ngươi. Hãy tiến lên nữa. Hãy để Ta dùng ngươi để yêu mến kẻ khác. “Chúa Kitô đã chết thay cho hết mọi người, để những ai đang sống không sống cho mình nữa, mà chỉ sống cho Đấng đã chết và sống lại vì ta.”
Đối với tất cả chúng ta, tình yêu Thiên Chúa cũng thúc bách và đè nặng như vậy.
Bài Phúc Âm hôm nay, dưới ngòi bút linh động của Marcô, là một bài phóng sự một cơn bão táp xảy ra trên mặt biển hồ Tiberiade hay có những cơn gió lốc về chiều do bầu khí bị dồn ép trong thung lũng sông Giordan. Sau khi giải tán đám đông, Chúa truyền cho các môn đệ chèo thuyền qua bên kia biển hồ. Ngài lên thuyền. Sau một ngày giảng dạy mệt nhọc, Ngài đến phía sau lái, dựa trên một chiếc gối và ngủ say. Một cơn gió lốc thổi đến, cuộn lên những ngọn sóng lớn làm cho thuyền đầy nước. Các môn đệ tay chống tay tát…, còn Ngài, Ngài vẫn ngủ. Các ông đến thức Ngài dậy: “Chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao?” Ngài bèn đe gió và phán với biển, như một người bị quỉ ám: “Hãy im đi!” Tức thì gió và biển lặng.
Tường thuật cơn bão táp im lặng có ý nghĩa gì? Đối với Chúa Giêsu, Ngài muốn dạy cho chúng ta phải có niềm trông cậy và phó thác nơi Chúa: “Sao các con sợ hãi? Các con không có đức tin ư?” Trong mọi hoàn cảnh, mọi hiểm nguy, chúng ta đều nằm trong bàn tay của Cha trên trời. Trong một hoàn cảnh tương tự, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngã tay chèo, được nghe một câu nói bất hủ: Anh không biết là anh đang chở vua César? Thì huống hồ ở đây, không phải là một vị vua trần thế mà là Vua Cả trên trời, “Ngài làm cho bão táp dừng yên phăng phắc, sóng biển yên lặng như tờ” (Tv. 107, 29).
Đối với nhiều người đã chứng kiến, vì Marcô nói: “Có nhiều thuyền khác theo”, thì đây là một phép lạ nói lên quyền năng của Chúa Giêsu, Đấng chỉ cần phán lên một lời thì gió yên biển lặng, Đấng có quyền trên vạn vật, là Đấng tạo thành vạn vật. Các Thánh Giáo phụ nhìn thấy ở đây tác động của hai bản tính của Chúa Giêsu. Thánh Gioan Kim-Khẩu nói: “Họ vừa nhìn thấy Ngài, dựa trên gối, ngủ say, đó là một con người, họ nhìn thấy Ngài bắt biển cả phải lặng yên, đó là vị Thiên Chúa.” Trong khi các nhà thần học minh giáo lại đề cao ý tưởng “con thuyền Giáo hội” giữa sóng gió ba đào (Tertullien). Chúa Kitô vẫn ở trong con thuyền Giáo hội cũng như Ngài ở trong tâm hồn chúng ta. Một hôm Bà Thánh Catarina Sienna phải chiến đấu mãnh liệt với chước cám dỗ, Bà kêu lên: “Lạy Chúa, trong khi con phải chống lại những ý tưởng nhuốc nha thì Chúa ở đâu? Chúa phán: Ta đang ở trong tâm hồn con, để hỗ trợ con và để chia sẻ sự toàn thắng của con.”
“Lạy Thầy, xin cứu chúng con vì chúng con sắp chết mất!”
Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng hôm nay thánh Maccô thuật lại một hành trình trên biển để “sang TN12 B-56
Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng hôm nay thánh Maccô thuật lại một hành trình trên biển để “sang bờ bên kia” của Chúa Giêsu và các môn đệ. Hành trình này được ví như hành trình đức tin của mỗi chúng ta. Hành trình trên biển gặp sóng gió là chuyện không lạ lắm đối với những người thường xuyên đi biển và sống bằng nghề biển như các môn đệ. Tuy nhiên, chiếc thuyền của Chúa Giêsu và các môn đệ hôm nay không gặp những con sóng ngọn gió hiền lành bình thường, mà là gặp “cuồng phong”… “sóng ập vào”… “thuyền đầy nước”… Các môn đệ lo lắng như “chết đến nơi rồi”, còn Chúa Giêsu thì “chẳng lo gì”… Các môn đệ kêu cầu đến Chúa và Chúa đã ra tay uy quyền, Chúa mắng các môn đệ “làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Chúng ta ngắm nhìn xem, tại sao Chúa Giêsu lại mắng các môn đệ chưa có lòng tin?
Qua trình thuật này chúng ta có thể hiểu rằng, giữa Chúa Giêsu và các môn đệ đã có một tương quan rất thân thiện với nhau rồi. Cùng làm việc và cùng thi hành sứ vụ chung với nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng dễ dàng cảm nghiệm rằng, dường như tương quan ấy chỉ mới có ở bề mặt bên ngoài, có nghĩa là các môn đệ mới chỉ gặp gỡ, gần gũi làm việc chung, mới tương quan trên bình diện công việc và cuộc sống, chứ các môn đệ chưa đi vào tương quan sâu, chưa hiểu hết Chúa như thế nào, quyền năng của Ngài ra sao?
Chúa mắng các môn đệ “chưa có đức tin” quả thật là phải lẽ, vì hành trình của các ông đang có Chúa đó, nhưng các ông chẳng ý thức về sự hiện diện đồng hành của Ngài, các ông không nhận biết quyền năng của Chúa, các ông cũng chẳng trông cậy vào Ngài… Sóng gió ập đến, các môn đệ mới sực nhớ đến Chúa, và rồi các ông vội trách Chúa “chẳng lo gì”.
Cuộc sống thường ngày của chúng ta dường như cũng thế, chúng ta ít khi ý thức sự hiện diện của Chúa, chúng ta thường đi với Chúa cách vô ý thức, coi như Chúa không biết gì, Chúa chẳng quan tâm. Đến lúc nguy khó mới nhớ chạy đến Chúa và kêu la rối rít. Thái độ sống này, chắc chắn sẽ bị Chúa mắng là “chưa có lòng tin”. Tuy nhiên, một thái độ ngược lại cũng đáng quan tâm. Cuộc sống đôi lúc chúng ta cũng rơi vào tâm trạng thất vọng nặng nề, chúng ta cũng chẳng còn nhớ đến Chúa, và quên rằng Ngài ở bên chúng ta và chờ chúng ta khiêm tốn lên tiếng kêu cầu Ngài. Thái độ chỉ kêu đến Chúa khi gặp khó khăn, hoặc là thất vọng đến quên cả Chúa mà lầm lũi bước đi đó là thái độ “chưa có lòng tin”.
Thánh Maccô thuật tiếp, sau khi các môn đệ kêu đến Chúa, tin tưởng vào quyền năng của Chúa, Chúa bắt đầu ra tay. Nhưng sau khi Chúa ra tay truyền sóng biển im lặng, thì các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai…?”
Gặp sóng gió, các môn đệ hoảng sợ, không tin đủ vào Chúa. Sau khi Chúa tỏ quyền năng thì các ông lại thắc mắc “Ngài là ai?” Điều này chứng tỏ nền tảng đức tin của các môn đệ chưa vững chắc, đi bên Chúa, gặp gỡ Chúa nhưng không khao khát tìm biết Chúa là ai? Lẽ ra các ông phải tìm hiểu về Chúa, biết Chúa là ai khi bắt đầu cất bước theo Ngài! Còn nghi ngờ vào chính Thiên Chúa thì chắc chắn là chưa có lòng tin. Tin Chúa là phải học cho biết Ngài là ai và đi vào trong tương quan sâu để cảm nghiệm Ngài như ta đã được học biết. Tin vào Chúa là hiểu điều Chúa làm, mong điều Chúa muốn và phó thác cho Ngài cuộc sống của ta.
Sau phép lạ Chúa làm truyền sóng biển im lặng, chắc chắn các môn đệ phải tìm được câu trả lời Chúa là ai khi quan sát sự kiện và khi tương quan gần gũi song hành với Chúa. Vậy mà không hiểu sao các ông lại còn hoảng sợ và thắc mắc “ông này là ai?” Câu hỏi này chứng tỏ lòng tin của các ông chưa có và bị Chúa mắng thì cũng không oan uổng gì.
Bởi vì các môn đệ chưa có lòng tin, nên chưa ý thức sự hiện diện của Chúa. Chưa có niềm tin nên còn nghi ngờ “ông này là ai?”. Chưa có lòng tin nên còn dành quyền điều khiển và kiểm soát hành trình. Khi các môn đệ dành quyền kiểm soát và điều khiển hành trình đời mình, thì Chúa dành cho họ ưu tiên đó, Ngài nghỉ ngơi. Giả như chúng ta tin tưởng trao phó cho Chúa để Ngài điều khiển và an tâm nghỉ ngơi, thì chính lúc ấy Chúa sẽ giang tay ra hành động, Ngài chở che, bao bọc và cứu giúp.
Thái độ của những người “chưa có lòng tin” là thái độ của những người ưa thích đảo lộn tình thế, đứng vào vị trí điều khiển của Chúa, quên đi vai trò lệ thuộc của chính bản thân mình.
Có lòng tin là ý thức Chúa hiện diện trong mọi nẻo hành trình; Có lòng tin là trả lời xác tín với mọi người về chính Chúa, bằng sự cảm nghiệm của chính cá nhân mình; Có lòng tin là để Chúa điều khiển và kiểm soát cuộc sống của mình; Có lòng tin là khiêm tốn kêu xin khi gặp gian nan khốn khó.
Giờ đây, chúng ta khiêm tốn dâng lên Chúa lời nguyện xin ơn đức tin:
Lạy Chúa Giêsu, Chúng con cám ơn Chúa vẫn hiện diện trong cuộc sống chúng con. Xin cho chúng con tin vào quyền năng Chúa vẫn hiển trị trong cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa, cuộc sống quanh chúng con có biết bao điều xảy đến. Tất cả đều nằm dưới bàn tay tình thương quan phòng của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết cùng với vạn vật dâng lời ca khen quyền năng Chúa. Xin giúp chúng con biết đón nhận ân ban của Chúa trong sự khiêm tốn thẳm sâu. Xin dạy chúng con biết chạy đến với Chúa khi gặp những gian nan thử thách, Xin giúp chúng con biết bám vào Chúa để đi qua những giông bão trong cuộc đời.
Lạy Chúa, Chúa luôn nâng đỡ những ai kêu cầu Chúa. Chúng con xin phó dâng cuộc sống trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây Dương, khách du lịch đang thư thái ngắm cảnh TN12 B-57
Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây Dương, khách du lịch đang thư thái ngắm cảnh hoàng hôn trên boong tàu.
Nơi tít mù xa, mặt trời đỏ cam đang chiếu những ánh vàng cuối cùng của một ngày còn sót lại.
Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, tối sầm cả một vùng trời. Sấm chớp đổ xuống liên hồi, giông tố cuồn cuộn nổi lên, càng lúc càng thét gào dữ dội.
Mọi người trên boong chen lấn nhau chạy về phòng mình. Duy chỉ có một bé trai cứ tiếp tục chạy giỡn trên boong giữa trận cuồng phong.
Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố?
Em thản nhiên đáp lại:
- Vì cha em là người cầm lái con tàu!
***
Giống như khách du lịch trong câu chuyện trên, các môn đệ cũng gặp một trận cuồng phong khi vượt biển. Các ngài kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chững. Bó tay bất lực trước phong ba bão táp, các ngài đã vội đánh thức Đức Giêsu và xin Người ra tay cứu giúp: "Thưa Thầy, chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao" (Mc. 4,38). Người liền đe gió và phán với biển như một người bị quỉ ám: "Hãy im đi". Tức thì sóng yên biển lặng.
Ai cũng thích sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông? Đại dương nào mà không có những bão tố?
Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin.
Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Người. Cũng chính giông tố sẽ giúp ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố.
Thánh Phaolô viết: "Thiên Chúa không ban cho ta một thần khí nhát sợ nhưng mạnh mẽ, bác ái và tự chủ" (2Tm.1,7),
Mỗi người chúng ta không khác chi chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin ở Thiên Chúa tình yêu. Người sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Có Chúa trong đời, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Thánh Phanxicô Salêsiô dạy: "Phải ở lại trong con thuyền mà Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, để hành trình từ cõi đời này về chốn đời sau. Chúng ta phải sẵn sàng ở lại trong sự bình an thanh thản".
Lạy Chúa, thuyền đời chúng con chẳng bao giờ được êm ả, nó chỉ êm ả khi tới bến thiên đàng. Xin cho lòng chúng con luôn bình an ngay cả khi Chúa còn đang ngủ, miễn là có Chúa trong thuyền, vì Chúa chính là thuyền trưởng của đời chúng con. Amen.
Sau một ngày giảng dạy dân chúng, Chúa Giêsu bảo các môn đệ chèo thuyền đưa Ngài sang bên kia Biển Hồ. Biển Galilê dài 21km, rộng 12km, xung quanh có những rặng núi bao bọc. Nhiệt độ ở Galilê thuộc miền Bắc Israel và ở Biển Chết thuộc miền Nam chênh lệch nhau, thỉnh thoảng tạo ra những cơn gió mạnh. Biển Galilê nổi sóng dữ dội vì hình thể lòng chảo với núi non bao quanh. Vì thế, người xưa quan niệm rằng, biển là biểu hiện cho những gì nguy hiểm, tối tăm và sợ hãi. Biển động sóng gào biểu trưng cho một thế giới hỗn loạn và phường tội lỗi (x. Is 57, 20). Ý định băng qua bên kia Biển hồ lúc trời đã về chiều quả là một ý định táo bạo, liều lĩnh, bất chấp hiểm nguy.
Tuy vậy, Chúa Giêsu quyết định ra đi và thực hiện phép lạ trên biển với mục đích củng cố đức tin cho các môn đệ, đồng thời biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa vượt trên mọi thế lực sự dữ.
Chúa Giêsu cùng với các môn đệ và có một số thuyền khác vượt biển giữa trời đêm. Thuyền lướt sóng ra khơi giữa màn đêm. Bão tố cuồng phong bỗng dưng ập đến. Các môn đệ, dù nhiều trải nghiệm về biển cả vẫn hốt hoảng lo lắng hoang mang. Chỉ mình Chúa Giêsu vẫn an nhiên tự tại, vẫn ngủ như không có gì xảy đến. Lạy Chúa, đến nước này mà Ngài vẫn ngủ sao? Trong dòng lịch sử, không ít lần dân Do thái thấy như Chúa ngủ quên: “Lạy Chúa, Ngài quên con mãi tới bao giờ? Tới bao giờ còn ngoảnh mặt làm ngơ? Tới bao giờ hồn con vẫn còn lo lắng và lòng con ủ rũ đêm ngày? Tới bao giờ kẻ thù con thắng mãi?” (Tv 13,1-2).
Các môn đệ cuống cuồng lo sợ và hỏi: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Tiếng kêu cứu trong tuyệt vọng. Gặp bão tố cuồng phong trên biển cả, không lẽ những dân chài thứ thiệt như các ngư phủ lại phải cậy đến sự trợ giúp của một bác thợ mộc ư? Kinh nghiệm thợ mộc giúp được ích gì cho các ông lúc này? Ở đây rõ ràng là các ông cần sự trợ giúp thần linh, cần một phép lạ. Khi con người đối diện với những gian nan khốn khó, với những mãnh lực ác thần, họ mới thấy sức người quá hèn yếu, nhỏ bé. Bài đọc 1 cho thấy con người yếu đuối tìm đâu được một chỗ dựa vững vàng ngoài niềm tin vào Thiên Chúa toàn năng: “Bấy giờ, giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp như sau: Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân?” (G 38,1.8-9). Đứng trước số phận ngàn cân treo sợi tóc, họ mới thấy cần biết bao quyền năng Thiên Chúa trợ giúp. Thiên Chúa sẽ ra tay đúng lúc để đáp ứng tiếng van nài của họ.
Không phải bằng một kỹ năng hàng hải mà bằng uy quyền của trời cao, Chúa Giêsu thức dậy và ra lệnh cho sóng biển: “Im đi! Câm đi!”. Cử chỉ và lời nói của Chúa giống như lúc Ngài trừ quỉ. Lập tức, gió ngừng thổi và biển yên lặng như tờ. Rồi Chúa quở các môn đệ: sao các con lại sợ hãi thế? Đức tin của các con như thế nào? Rõ ràng, Chúa không nói các môn đệ không có đức tin; Chúa cũng không nói các môn đệ có đức tin bé nhỏ; ở đây đức tin của các môn đệ giới hạn quyền năng của Thiên Chúa, thua sức mạnh thiên nhiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không thể cứu nguy cho những người cùng thuyền được nên họ phải đánh thức Chúa dậy.
Khi Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên gió bão, các môn đệ ngạc nhiên và hỏi: "Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?". Thông cảm với các môn đệ vì các ông chưa biết rõ Chúa là ai, quyền năng thế nào để phó thác mạng sống mình cho Chúa. Nhờ phép lạ này, các ông nhận ra Thầy có quyền trên cả gió và biển, có quyền như Thiên Chúa vậy. Từ đó, các ông suy nghĩ, tìm hiểu con người Thầy hơn.
Những trắc trở đến từ thiên nhiên chỉ nói lên một phần nhỏ sự yếu đuối của con người khi phải đối diện với trăm ngàn đợt sóng mãnh liệt từ các dục vọng làm xáo động tâm hồn họ. Những sự ác dữ dội như sóng biển ấy chẳng để ai ngủ yên, mà bắt người ta phải đặt niềm tin vào Chúa trong khi chống cự để có được sự sống muôn đời: “Xin Chúa thấy cho: thù địch con đông vô kể, chúng ghét thân này, ghét cay ghét đắng. Xin bảo toàn sinh mạng và giải thoát con, đừng để con tủi nhục, bởi vì con ẩn náu bên Ngài” (Tv 25,19-20).
Giông bão bắt người ta phải tin, nhưng niềm tin lại cần đến thử thách của giông bão, vì niềm tin cần được thử thách để lớn lên. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta giúp ta biết mình hơn, biết yêu mến cậy trông vào Chúa hơn và giúp đức tin vững mạnh hơn. Chúa phán với ông Gióp trong gió bão, dạy dỗ ông những lẽ khôn ngoan. Ông Gióp đã luôn vững tin vào Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Các Tông đồ cũng gặp bão táp trên biển cả. Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên giông bão. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn, từ nay các ngài không còn cuống quít sợ hãi mỗi khi gặp gian nan nữa. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng hơn. Thánh Phaolô nhắc nhở: vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!” đem đến cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Thiên Chúa.
Tàu thuyền một khi đã lênh đênh trên mặt biển rồi thì không thể nào tránh được những cơn sóng to nhỏ và chẳng có cách chi thoát khỏi những chao đảo, bập bềnh và lắc lư do bão táp và cuồng phong gây nên. Cũng vậy, mọi người không ai tránh khỏi những sóng gió và bão tố to nhỏ do biển đời này gây ra!
- Khi tôi lâm vào cảnh hoang mang, sợ hãi, lúng túng, lo lắng, bất an, phiền muộn, chán chường, thất vọng…
- Khi gia đình tôi chạm trán với những biến cố đau thương như tai nạn xe cộ, tai nạn nghề nghiệp, thất nghiệp, vợ chồng con cái bất hòa xung đột với nhau, đau ốm, tang chế…
- Khi trong cộng đoàn giáo xứ của tôi xảy ra những gương mù, gương xấu: đố kị, ghen tương, kèn cựa, tranh giành quyền lợi, chia bè, kéo phái, tố cáo nhau, mạt sát, thù ghét nhau …
- Khi trong cộng đoàn dòng tu của tôi phải đương đầu với những khủng hoảng về mặt nhân sự, tài chánh, huấn luyện, đào tạo, kỳ thị, chia rẽ, phân biệt, thiên vị…
- Khi Giáo Hội bị bêu xấu, hạ nhục, và bị công kích bởi gương mù gương xấu do một số nhỏ giáo sĩ gây ra…
Thuyền trên biển gặp sóng gió, bão táp là chuyện rất bình thường. Khi thuyền đời của mình không thể tránh được sức va chạm và những ảnh hưởng của sóng gió, bão táp giông tố của cuộc đời này thì tôi phải làm gì để giữ cho thuyền khỏi bị lật úp? Cách hay nhất là bắt chước các môn đệ, chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài dẹp tan sóng gió và bão tố bảo vệ thuyền của mình khỏi bị nhận chìm. Chỉ khi nào tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô, Đấng có quyền năng trên sóng gió mưa bão và mở miệng van xin Ngài ra tay cứu giúp thì lúc đó thuyền đời mới được bình an, bởi lẽ “Không có Thầy thì các con không thể làm gì được!” (Ga 15,5).
Tin mừng hôm nay giúp chúng ta luôn sống an tâm. An tâm, bởi con thuyền cuộc đời chúng ta ra khơi, giữa phong ba bão táp, giữa những thử thách gian truân vẫn luôn có Chúa là thuyền trưởng hướng dẫn thuyền vượt sóng. An tâm, bởi Chúa luôn xuất hiện đúng lúc đúng thời để ra tay nâng đỡ chúng ta trước những khó khăn. An tâm, bởi chúng ta biết chúng ta tin vào Đấng chiến thắng mọi thế lực ác thần và sự chết. An tâm, bởi từ nay, cuộc đời chúng ta đã trao vào tay Chúa, tín thác mọi sự trong sự quan phòng của Thiên Chúa, vì như thánh Phaolô, “tôi biết tôi tin vào ai” (2 Tm 1,12).
Xin cho Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta vững tin vào sự hiện diện của Chúa, để trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, chúng ta luôn có Chúa ở vị trí hoa tiêu để hướng dẫn và can thiệp kịp thời, giúp chúng ta đến bến bờ bình an.
Hôm qua ngồi nghe sư huynh Phong giảng tĩnh tâm tại giáo xứ Lộ Đức, Hoa Kỳ, tôi thấy rùng mình khi thấy những cô bé Việt nam bị bán sang các lầu xanh bên Cambodia. Có những em mới chỉ hơn mười tuổi. Kết quả một số em bị mắc bệnh liệt kháng và đã sớm kết thúc cuộc đời trong hoang lạnh. Có cảnh bé thơ Việt nam bị bán đi với giá hai trăm đô. Nhưng em bị trả lại vì có bệnh liệt kháng. Suýt nữa em đã bị giết ngay trước mặt người mua. May thay, đứng trước cảnh đau lòng đó, người mua đành hy sinh mất hai trăm để cứu mạng em.
Những cảnh tang thương đó đã đập vào mắt các bạn trẻ Việt nam hải ngoại. Sư huynh lạc quan về giới trẻ Việt nam Hải ngoại. Chỉ cần năm ngàn đô để cứu các cô gái kém may mắn. Nhưng các bạn trẻ ở Los Angeles đã lạc quyên được mười lăm ngàn. Với số tiền lớn gấp ba như thế, sư huynh đã hết sức cảm động và đầy tin tưởng xông pha đi tìm đường cứu sống những cô gái đó. Nhiều nơi các bạn trẻ, như tại Lộ Đức, tự động đứng ra rửa xe, lạc quyên, hớt tóc giúp người nghèo khổ, bệnh tật, già nua, xây trường học v.v.
Tất cả những khốn cùng của dân tộc đều do sự nghèo đói. Đứng trước biển cả nghèo đói bao la của dân tộc, nhiều người đã tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Chúa có biết gì về những khốn cùng của kiếp người không? Chúa đang ngủ hay thức? Thất vọng tràn trề. Thất vọng như những môn đệ của Chúa trên khoang thuyền năm xưa.
Hôm ấy, sau khi rời đám đông sang bờ bên kia (x. Mc 5:35), Chúa Giêsu đã lôi cuốn một số thuyền theo Người. Chắc lúc đó trời yên bể lặng nên các thuyền mới có thể nối đuôi nhau như thế. Các thuyền đi đông vừa vui vừa cảm thấy an toàn khi hữu sự. Chúa Giêsu cũng chỉ là một người ngồi trong khoang thuyền nào đó mà thôi. Gió biển thổi lên mát quá. Chúa chìm vào giấc điệp bao giờ không hay. Chắc Chúa phải ngủ say lắm mới không nghe tiếng các môn đệ đang thi nhau thét gào cùng sóng biển.
Gió rít mạnh. Các con thuyền lắc lư quá đến nỗi nước trào vào đầy khoang thuyền (x. Mc 5:38). Mạnh đến thế mà sóng gió cũng không kéo Chúa ra khỏi giấc nồng. Đó là dấu chứng tỏ, sau một ngày hoạt động mục vụ, Chúa bị dân chúng “quần thảo” dữ dội lắm. Nhưng như thế mới biết tâm hồn Chúa bình an chừng nào! Quả thế, “ai có tâm hồn trong sạch, mới ngủ được. Và ai ngủ được đều có tâm hồn trong sạch.”(Péguy 1962:27) Đố ai ngủ được như Chúa!
Nhưng Chúa càng bình an, các môn đệ càng bấn loạn lên. Bao nhiêu chiếc thuyền vẫn không thể nương dựa nhau trong cơn sóng bão. Bao nhiêu ngư phủ lành nghề vẫn không đủ tài trí bảo đảm an toàn cho bấy nhiêu sinh mạng đang treo sợi mành. Vận dụng hết năng lực vẫn không tát hết nước ra khỏi các khoang thuyền. Tình hình càng lúc càng nguy ngập. Bí quá, các môn đệ mới chợt nhớ đến Thày như giải pháp cuối cùng. Các ông vội vàng đến kéo Chúa ra khỏi giấc nồng. Các ông không ngại gài thêm một lời trách móc: “Thày ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thày chẳng lo gì sao?” (Mc 5:38) Đối với các ông, Thày thuộc loại người “vô ăn vô lo.” Sao Thày vô tư đến thế?!
Choàng tỉnh khỏi giấc nồng, Thày liền bắt tay vào việc. Các ông nghĩ, nếu mình không đánh thức, chắc chìm xuống đáy biển Thày vẫn còn ngủ. Nhưng thực ra, họ đánh thức Thày, hay Thày đánh thức họ? Thực tế, họ còn ngủ sâu hơn Thày nữa. Họ ngủ vùi trong sự hèn nhát và vô tín (x. Mc 5:40). Bởi vậy, sau khi dẹp tan biển cả, Chúa lôi các ông ra khỏi cảnh tối tăm. Té ra, chính họ mới cần đánh thức, chứ không phải Chúa. Chứng kiến cảnh Chúa ra tay uy quyền trên biển cả, họ mới ngạc nhiên về quyền năng vô biên của Chúa. Từ đó, họ mới biết Chúa là ai.
Nếu chỉ là người phàm, hẳn Chúa không thể nào có quyền năng lớn lao như vậy. Trước sức mạnh biển cả, họ mất bình tĩnh. Nhưng trước quyền năng của Chúa, họ mới “hoảng sợ.” (Mc 5:41) Biển cả có gầm thét cũng chỉ làm cho các ông đâm lo vì sự bất lực của mình. Nhưng quyền năng Chúa mới thực sự làm cho các ông phải đứng trước một thần lực lớn lao trổi vượt hơn thủy thần như Bơhêmốt, Giao long, Raháp. Biển cả vẫn là nơi quỷ dữ hoành hành. Như thế, “Chúa Giêsu chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.” (Các Giờ Kinh Phụng Vụ 2005:184) Nếu không là Thiên Chúa, làm sao Chúa Giêsu có thể có quyền toàn năng đến như vậy?!
Đứng trước những thống khổ mênh mông như biển cả của hàng triệu người Do thái đã bị Đức Quốc Xã tiêu diệt hồi thế chiến thứ hai, ĐGH Bênêđictô XVI cũng đã ngạc nhiên về sự im lặng của Chúa. Có lẽ cũng như các môn đệ trên biển cả, ĐGH cũng thắc mắc: “Thày chẳng lo gì sao?” (Mc 5,38) Câu hỏi đó đã dẫn nhiều người xa Chúa. Nhưng cũng chính thắc mắc đó lại đặt môn đệ trước một mầu nhiệm vô cùng lớn lao. Mầu nhiệm này vượt quá khả năng con người. Bởi thế, muốn đi sâu vào mầu nhiệm đó, con người phải có đức tin. “Chỉ có lòng tin tưởng vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đã chiến thắng quyền lực sữ dữ, mới cho phép họ vượt qua sự sợ hãi.” (Các Giờ Kinh Phụng Vụ 2005:184) Đức tin trở thành sức mạnh khiến ta đứng vững trước tất cả mọi giông tố cuộc đời. Chỉ có đức tin mới là câu trả lời đích xác nhất cho những gì chúng ta đang quan tâm lo lắng hôm nay. Đức tin sẽ không trình bày một Chúa Kitô theo quan điểm loài người (x. 2 Cr 5:16), nhưng một Chúa Kitô đã chết cho mọi người theo đúng ý định Thiên Chúa.
Cám ơn Chúa vẫn cho đức tin sống mạnh trong các bạn trẻ Việt nam hôm nay. Nhìn kỹ vào niềm tin tuổi trẻ chúng ta sẽ thấy tất cả sức mạnh của niềm tin. Bạn trẻ đã mở ra một lối thoát mới cho những bế tắc hôm nay. Chúng ta có quyền hy vọng và học hỏi nơi các bạn!
Câu chuyện thầy trò Chúa Giêsu và các môn đệ vượt biển đã gặp phải cuồng phong đe dọa, cho chúng ta hình ảnh một Đức Giêsu Con Thiên Chúa đầy quyền năng trừ phong dẹp vũ, trong một con người Giêsu mệt mỏi nằm ngủ trên thuyền sau một ngày làm việc vất vả.
Câu chuyện này gợi lại hình ảnh được nói tới trong Thánh Vịnh 78:
“Bấy giờ Chúa như người đang ngủ, như tướng hùng đã thấm men say, bỗng tỉnh giấc, đánh cho quân thù quay lưng chạy, phải thảm thê nhục nhã muôn đời”.
(Tv 78,65-66).
Kẻ thù ở đây là biển cả cuồng phong. Theo não trạng người Do-thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Mỗi ngày, biển cũng nhắc mọi người nhớ lại thời hỗn mang nguyên thủy: tại đây hải thần thủy quái vẫy vùng và chỉ có một mình Thiên Chúa Toàn Năng mới thách thức và chế ngự được chúng. Khi Chúa Giêsu thức dậy “ngăm đe gió và biển” như khi Người truyền cho ma quỷ ( x. Mc 1,25), cho thấy Chúa Giêsu chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.
Chúa Giêsu chứng minh sức mạnh và sự phát triển không có gì chống lại được của Nước Thiên Chúa. Người chứng tỏ điều này bằng một dấu chỉ quyền năng là phép lạ dẹp tan sóng gió trước khi đi vào miền đất dân ngoại, nghĩa là chiến thắng của Tin Mừng trên ma quỷ vượt ra ngoài biên giới Israel.
Khi đối mặt với mọi hình thức sự dữ đang tấn công con người trong các trận cuồng phong nó gây nên, đôi khi chúng ta tự hỏi: Phải chăng Thiên Chúa đang ngủ?
Thật vậy, cảm nhận của con người giữa biển đời lắm khi như Thiên Chúa ẩn mình hay vắng bóng. Và rồi giữa phong ba bão tố cuộc đời, con người lựa chọn đương đầu ít nhất với 3 cách:
- Dùng sức mình để vật lộn với sóng gió để rồi thất bại tuyệt vọng, - Chạy đến với Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc nên không bao giờ sợ hãi, - Gặp khi khó khăn mới chạy đến kêu cứu Chúa, nghĩa là coi Chúa chỉ như một phương thế giải quyết tức thời, mà thiếu đi đức tin thật sự và lòng yêu mến nồng nàn.
Trường hợp thứ ba này là trường hợp của dân Do-thái xưa, sách Xuất Hành và đặc biệt là sách Thủ Lãnh là một câu chuyện lặp đi lặp lại khi dân bị quân thù ức hiếp thì kêu cứu Chúa, Chúa giải cứu rồi lại tiếp tục phản nghịch Ngài…
Và có thể nói, đây cũng là thái độ của các môn đệ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, khi họ chưa có niềm tin và lòng yêu mến Thầy cho đủ, đến nỗi ngay khi chứng kiến phép lạ rồi vẫn ngỡ ngàng không hiểu Thầy là ai. Thầy Giêsu đang ở trên thuyền nhưng có vẻ như không có Người hiện diện, cho đến khi sóng gió bủa vây mà kinh nghiệm chống đỡ của dân làng chài như mấy ông đã bất lực mới chạy đến cầu cứu Thầy.
Đó cũng là cách sống và giữ đạo của không ít người trong chúng ta ngày nay. Khi an vui hạnh phúc chúng ta quên mất sự hiện diện của Thiên Chúa, đến khi gặp khó khăn thất bại mới tìm về cầu cứu Chúa. Sống đạo như thế là hời hợt, thiếu niềm tin đích thật và thiếu lòng lòng mến Chúa Giêsu. Cũng không thiếu những người ỷ lại vào khả năng mình mà thiếu đi lòng tín thác vào Chúa nên khi gặp sóng gió đã dễ ngã lòng kêu trách Người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người chúng con luôn tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa trên con thuyền cuộc đời chúng con giữa biển đời sóng gió. Để chúng con không bao giờ nao núng vì Chúa đã chiến thắng nên chúng con cũng sẽ chung phần chiến thắng và cập bến Nước Trời. Amen.
- Từ đoạn thánh kinh này Mc 4,35-41 đến 5,43, Mác-cô bắt đầu kể về những phép lạ của Chúa Giêsu. Qua đó những hành động quyền năng của Chúa được nêu bật. Vì vậy mà sau đó người ta bắt đầu thắc mắc về Giêsu: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6, 2)
Ngoài ra, tất cả những phép lạ này đều có một khung cảnh chung, đó khung cảnh biển hồ Ga-li-lê-a. Và hình ảnh thuyền đều xuất hiện trong mỗi phép lạ (x. 4, 36.37; 5,2.18.21)
Một điều luôn được nhấn mạnh trong chuỗi phép lạ này. Đó là niềm tin tưởng. (x. 4, 40; 5. 34.36) Thêm vào đó có thể nhắc đến việc thiếu lòng tin trong 6,6. Ngoài ra, một thái độ đi đôi với niềm tin tưởng được nhắc lại 3 lần trong chuỗi phép lạ này. Đó là thái độ bái lạy, sụp xuống và phủ phục trước Đức Kitô (x. 5, 6.22.33) Điều này làm nổi bật sự “chào thua” của những quyền lực đe dọa trước Chúa Giêsu: quyền lực thiên nhiên (4, 35-42), quyền lực ma quỷ 5, 1-20, quyền lực của bệnh hoạn (5, 24-34) và quyền lực của sự chết (5, 21-23 và 35-43)
- Liên quan đến những đoạn thánh kinh về các dụ ngôn trước đó, chúng ta thấy đoạn thánh kinh này nối kết với đoạn 4,1, mở đầu cho các bài giảng với các dụ ngôn: “Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ”. Như vậy, khung cảnh biển hồ đức Giêsu giảng dạy vẫn là khung cảnh của câu chuyện phép lạ này, chỉ khác là giờ đây Giêsu lên thuyền và đi trên biển hồ. Ngoài ra, theo Adolf Pohl thì sau những bài giảng bằng lời nói của Giêsu, thì tiếp nối bằng những hành động của Ngài, để qua đó chứng thực về một Thiên Chúa không chỉ nói hay mà còn làm giỏi nữa. Lời nói và hành động đi đôi với nhau.
- Ngoài ra, khi đọc đoạn Thánh Kinh này, người ta có thể liên hệ ngay với đoạn thánh kinh ở Giona chương 1. Theo Rudfolf Pesch thì đoạn thánh kinh là câu chuyện kể lại câu chuyện của Giona, với sự phụ họa của thánh vịnh 107, 23-30. Mục đích chính là sự tuyên xưng: Giêsu lớn hơn tiên tri.
Ở đây, chúng ta có thể so sánh hai câu chuyện với nhau:
(a) Trong Giona 1, 4 ĐỨC CHÚA tung ra một cơn gió to trên biển. Còn ờ trong đoạn phúc âm của Mác-cô thì gió bão đến như là quyền lực muốn chống lại Thiên Chúa.
(b) Trong Giona 1, 5 Giona đi ngủ vì không muốn tuân phục Thiên Chúa. Còn theo Mác-cô thì Giêsu ngủ vì mệt mỏi sau những ngày tuần phục Thiên Chúa làm việc phục vụ mọi người.
(c) Trong Giona 1, 14 mọi người trên tàu sợ hãi và kêu cầu Thiên Chúa. Còn ở Mác-cô thì chính Giêsu là Thiên Chúa đã lên tiếng.
(d) Trong Giona 1, 14 các người dân ngoại trên tàu có niềm tin vào Chúa, còn các môn đệ trong đoạn Mác-cô này lại là những người thiều niềm tin.
(e) Trong Giona 1, 15 Biển dừng cơn giận dữ, vì Giona đã vâng lời Chúa và đồng ý để người ta quăng xuống biển. Ở Mác-cô thì biển hồ và cuồng phong vâng lệnh Giêsu.
- Trong đoạn Thánh Kinh Mc 4, 35-41 này tích cách Kitô học và Giáo Hội học được nêu bật, trong khi những sự kiện lịch sử cụ thể không đóng vai trò quan trọng.
- Ngoài ra, theo Johannes Bours, trong câu chuyện mà Mác-cô kể lại ở trên, có hai câu hỏi đã đụng độ nhau. Câu hỏi đầy sợ hãi của các môn đệ đã gặp gỡ câu hỏi đầy trách cứ của Giêsu. Khi đọc câu chuyện này, tôi cảm nhận rằng, câu chuyện đang kể về chính cuộc đời của chúng ta. Và câu hỏi sống còn của các môn đệ cũng liên hệ đến chính câu hỏi sống còn của mỗi người chúng ta: Cái gì có thể chiến thắng sự sợ hãi? Ai là người mạnh hơn? Thần Dữ, kẻ muốn nhấn chìm chúng ta xuống biển sâu, hay là Đấng mà trong đoạn Thánh Kinh này đã nhắc đến: “Người thức dậy.”
- Biển hồ Genesareth được người Ả-rập gọi là “Ajn Allah” – Mắt của Chúa”. Biển hồ này theo Adolf Pohl, nằm 212 m dưới mặt nước biển và ba phía của biển hồ được bao bọc bởi ba vách núi cao đến 300 m. Và biển hồ này có khí hậu bán nhiệt đới. Giữa tháng 5 và tháng 6 nhiệt độ nóng đến 40 độ C. Sự điều hòa nhiệt độ nhờ luồng khí lạnh trong miền cao, kết hợp với nhiệt độ nóng nực ở trên biển hồ, có thể được những trận gió lớn kéo theo một cách bất ngờ, như Luca diễn tả: “Một trận cuồng phong ập xuống hồ; các ngài bị ngập nước và lâm nguy” (8,23). Vì sự bất ngờ không thể dự đoán trước của các trận cuồng phong tại biển hồ này, mà các ngư dân ở đây rất sợ hãi. Và để tránh sự bất ngờ này nên các con thuyền đều cố gắng hướng về phía đông, nơi mà các ngư dân qua tiếng gió thổi, có thể đoán được xem có cuồng phong hay không.
* Suy niệm
- “35 Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!”
“Hôm ấy, khi chiều đến” Câu chuyện được bắt đầu như vậy. Chiều đến nghĩa là ngày sống từ từ chào tạm biệt, công việc từ từ được gác xuống, giờ đây là thời gian để nghỉ ngơi. Ngày sống vừa qua của Giêsu là một ngày làm việc miệt mài. Ngài đi giảng dạy ở ven Biển Hồ. Ngài đã giảng gì vậy? Đọc lại các đoạn trước đó, chúng ta nhận ra rằng, Giêsu đã giảng dậy nhiều dụ ngôn khác nhau: Dụ ngôn người gieo giống; dụ ngôn cái đèn và đấu đong, dụ ngôn hạt cải. Từ ở trên thuyền Giêsu đã giảng dạy những điều đó cho dân chúng. Giờ đây khi bóng dương từ từ ngả xuống, Giêsu cũng từ từ muốn ngả lưng, Ngài cũng cần giờ cho mình, cần giờ để nghỉ ngơi, để ngủ nữa chứ. Vì thế, các môn đệ đã chở thầy mình qua bờ bên kia. Trên thuyền Giêsu mệt nhoài đã thiếp ngủ. Theo sau thuyền của Giêsu là rất nhiều thuyền khác nữa.
- 36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người.
Giêsu bỏ đám đông ở lại mà không chia tay gì với họ, là dấu hiệu Ngài mệt mỏi lắm rồi. Điều này được chứng minh qua câu 38 qua sự thiếp ngủ của Chúa. Thuyền mà Giêsu đang ở sẵn trên đó theo Adolf Pohl thì chắc không nhỏ, vì trên đó có cả một nhóm người. Ngoài ra, có những thuyền khác theo Người. Động từ “theo với, ở với” trong Mác-cô luôn hướng về Giêsu (x. 1, 13; 2,19; 3, 14; 5, 18; 14,57). Điều này nói lên tương quan chặt chẽ với Chúa Giêsu. Không chỉ là nhóm 12 thôi, mà còn cả những môn đệ khác nữa (ss. 4, 10)
- 37 Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Hôm ấy, khi chiều đến cũng còn là thời gian ánh dương từ từ lặn dần để nhường bước cho đêm đen.
Và đêm càng đen hơn nữa, khi những con thuyền lênh đênh trên mặt hồ bao la kia. Phải chăng đêm đen này như đang dẫn đời người vào trong cái vòng ma quái? Hay đêm đen kia đang như muốn nuốt chửng không chỉ ánh mặt trời, mà tất cả những con người đang ở trên thuyền kia, những con người mệt mỏi sau một ngày vất vả với công việc?
Không chỉ đen, mà thêm vào đó là một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Ở đây cần nhắc đến một yếu tố. Trong bản gốc của Hy-lạp, câu chuyện này được kể tiếp nối với nhau trong thì hiện tại và quá khứ. Ngoài ra, chữ “Kai” trong tiếng Hy-lạp, có nghĩa là “Và”, được nhắc đến tất cả 12 x. Theo Johannes Bours, thì điều đó làm cho câu chuyện ly kỳ hơn. Cái thảm cảnh trong câu chuyện theo đó được diễn tả thảm não hơn. Thêm vào đó, trong thời cổ đại, thì thần dữ luôn gắn liền với cuồng phong bão táp của biển khơi. Phải chăng đại dương là nơi chốn của thần dữ với sức mạnh tàn phá và nuốt chửng?
Vâng, sự ly kỳ và thảm não của câu chuyện trong Thánh Kinh bắt tôi phải dừng bước một chút, để lật lại những trang sách kể về các chuyến vượt biển của người Việt thân thương. Lênh đênh trên mặt biển chứ không phải là mặt hồ đâu. Đêm đen không chỉ làm đen cả bầu trời xanh ngát, mà còn làm đen cả bao tâm hồn chan chứa hy vọng, khi xuống thuyền ra đi. Rồi chiếc thuyền có lớn lao bao nhiêu đâu. Xăng dầu cũng đã gần cạn rồi. Thuyền nào chẳng may bị bọn hải tặc “ghé thăm” một lần hay nhiều lần, thì còn thê thảm hơn nữa. Có một số thuyền không chỉ đầy nước mà còn bị vỡ tan tành, giờ đây chỉ là những mảnh gỗ của thuyền, làm bè cho một vài thân xác mệt nhoài, lực đã tàn sức đã kiệt, thả cuộc đời trôi theo sóng, trôi theo biển, trôi theo bóng đen, mà không còn nhìn thấy một tia hy vọng, không còn nhận ra một bến bờ để tấp vô. Mà có bờ đâu để tấp để đậu. Phải làm sao đây? Không lẽ đứng chết chân một chỗ? Hay chấp nhận một cái chết thê thảm trong bóng đêm, trong lòng biển? Không, ít nhất cần phải hò hét! Nhưng “hò” thì ai “thưởng thức” và hét thì có ai nghe giữa đại dương mênh mông này không? Đó là câu hỏi của những con người đụng tới đường cùng của cuộc sống. Truớc đường cùng này, tôi cũng xin không chỉ dừng bước, mà với tất cả tấm lòng xin cầu nguyện cho bao người Việt đã qua đời trên biển cả. Xin Chúa thương nhìn đến và đón nhận tất cả vào Nước của Chúa.
Vâng, chúng con dù sao vẫn tin vào lòng nhân từ và ơn giải thoát của Chúa, như Chúa đã nói:
“1 Bấy giờ, giữa cơn bão táp, ĐỨC CHÚA lên tiếng trả lời ông Gióp như sau: 8 Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, 9 khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân? 10 Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài; 11 rồi Ta phán: “Ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa, đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (Gióp 38, 1.8-11)
Dù tin đấy, nhưng không dậm chân tại chỗ. Niềm tin cũng cần biết tạo sáng kiến. Niềm tin cũng cần phải lên tiếng. Vâng, lên tiếng để đánh thức Chúa dậy. Một hành động tuyệt vời. Đến đường cùng rồi, vì thế cần phải đánh thức Ánh Dương, cần phải đánh thức Thiên Chúa đang ngủ dậy. Bóng đêm kia không thể mạnh hơn Ánh Sáng. Cuồng phong kia không thể mạnh hơn Thần Khí Thiên Chúa được. Cuồng phong và biển cả đều phải có ranh giới. Chúng phải ở đàng sau cánh cửa kia. Thiên Chúa chính là người không chỉ vạch ranh giới, không chỉ đặt then cài, mà Ngài còn là người có đủ quyền năng để gài then cửa.
- 38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Và quyền năng của Thiên Chúa cũng được trao cho Giêsu, Người con dấu ái. Vì thế, các môn đệ đã đánh thức thầy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Một câu hỏi chất chứa sợ hãi và âu lo, một câu hỏi mang chút trách cứ và hờn giận Thiên Chúa. Joachim Gnilka, một nhà chú giải thánh kinh đã cắt nghĩa rằng, câu hỏi của các môn đệ đã diễn tả thái độ sai lầm của họ: Khi gặp hiểm nguy họ chỉ nghĩ về mình và về sự an toàn của mình mà thôi. Một cách nào đó họ đã không chia sẻ nỗi hiểm nguy của họ với Thiên Chúa. Họ không để cho Thiên Chúa cùng gánh vác nỗi hiểm nguy của họ. Thái độ này được nhắc lại rất rõ ràng trong biến cố họ chạy trốn trước thánh giá tử nạn của Giêsu. Còn với Rudolf Pesch thì lòng yếu tin của các môn đệ nằm ở chỗ, là họ không hiểu được và chấp nhận được một Thiên Chúa ẩn mình. Và trên con đường thương khó, các ông cũng đã ngựa quen đường cũ, không hiểu được tại sao Giêsu thầy mình phải chịu bắt bớ, tra khảo, kết án và chết tất tưởi trên thập tự.
Đâu rồi niềm tin và sự cậy trông vào một Thiên Chúa đã sinh ra làm người nghèo khổ trong hang lừa, để chia sẻ và gánh vác với đời người những âu lo, những khổ đau? Đâu rồi sứ điệp và tin mừng Phục Sinh của một Giêsu chiến thắng sự chết? Giêsu đó, Thiên Chúa đó ngay từ đầu và mãi mãi nói với con người chúng ta rằng: “Đừng sợ!”
Hay sức mạnh của bóng đêm và sự đe dọa của cuồng phong bão táp đã làm tắt lịm đi chút ánh sáng của niềm tin, và chút hơi ấm của niềm hy vọng? Không, ngay từ ngày đầu tiên, khi Thiên Chúa sáng tạo con người, Thiên Chúa đã thấy rằng, hành động sáng tạo này là hành động tuyệt vời nhất. Còn tạo vật nào hơn con người mà Thiên Chúa yêu thương nữa. Vì thế, dù biển sâu hay cuồng phong, dù bão táp hay đêm đen, dù thần dữ hay lòng người gian dối, không có gì có thể làm cho tình yêu của Thiên Chúa phai nhòa.
Thiên Chúa vẫn hiện diện. “Emmanuel - Thiên Chúa luôn ở cùng với chúng ta”.
Ngay cả trong những đêm tăm tối nhất của cuộc sống, Ngài vẫn không hề bỏ mặc chúng ta một mình. Ngay cả trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời, Ngài vẫn luôn hiện diện với chúng ta. Và thậm chí, ngay cả trong đêm cuối đời, trong giây phút cô đơn hiu quạnh cuối cùng của cuộc sống, vốn dĩ không ai có thể đồng hành cùng với chúng ta, trong đêm cuối cùng trước giờ lâm tử đó, Thiên Chúa vẫn không hề từ bỏ chúng ta.... (Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI)
Lời của Đức Thánh Cha chất chứa niềm hy vọng. Niềm hy vọng này cũng chính là nguồn sống cho Alfred Delp, một linh mục dòng Tên bị phát xít Đức giam cầm trong ngục tù đen tối. Cha Alfred kể lại rằng: “Vào một buổi tối tôi cảm thấy tâm hồn mình chao đảo. Tôi bị hành hạ rất dã man và sau đó bị tống trở lại vào ngục. Những tên lính phát xít giải tôi vào ngục đã nói những lời như sau: “Như vậy là đêm nay mày không thể nhắm mắt được đâu. Mày sẽ cầu nguyện, nhưng không có một Thiên Chúa và cũng chẳng có một thiên thần nào đến, để cứu thoát mày. Phần chúng ta sẽ đánh một giấc ngon lành, và sáng sớm ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục hành hạ mày.’
Alfred kể tiếp: Thiên Chúa đã thử thách tôi. Giờ đây làm thế nào để có thể bền bỉ đứng vững được thôi. Tôi vẫn luôn tin tưởng vững vàng và hy vọng nơi Bàn Tay nhân từ, Bàn Tay đã đón nhận chúng ta và hướng dẫn chúng ta.... và Thiên Chúa đã ban tặng cho tôi một không gian thật đẹp với sự bình tâm thẳm sâu. Tôi cảm thấy lúc này Chúa thật gần và thương tôi thật nhiều....Với tôi có những lúc thật là khó khăn. Tôi đã trải qua những giờ phút rất đau thương với nước mắt và máu. Nhưng tôi đã luôn luôn cố gắng đưa những giọt nước mắt và máu của mình vào trong hai hành động thật nhỏ bé, để nhờ đó có thể đứng vững được. Hai hành động đó là: Cầu Nguyện và Yêu Thương. Tất cả mọi hành động khác trong lúc đó đều sai cả.... Hôm nay là một ngày tồi tệ. Thiên Chúa như đang thử thách tôi , xem tôi có giữ những lời mà tôi đã từng xác tín không: Chỉ với Chúa thì cuộc sống mới tồn tại và phận người mới đứng vững được.
Giờ phút của Phêrô lại đến. Gió bão và sóng lớn lại đe dọa... Phêrô bắt đầu run lẩy bẩy... Giờ đây mọi sự nằm trong bàn tay của Chúa... Ngài có nhiều cách để vực chúng ta dậy và dìu chúng ta tiếp tục tiến bước. Tôi đã thường cảm thấy điều này trong những tuần lễ thê thảm đầy sợ hãi và dài đằng đẵng. Tôi luôn hy vọng vào Thiên Chúa, và vào tình yêu cùng sự trung thành của Ngài...Tôi muốn đốt lên những ngọn lửa cho các bạn. Các bạn đã cùng đi với tôi trong những đêm đen của cuộc đời. Các bạn cũng đã từng bị gió bão và cuồng phong đe dọa, và các bạn đã đứng vững. Vai kề vai chúng ta cùng gánh vác chung với nhau nhé... Giữa đêm đen Ánh Sáng sẽ bừng lên!”
Hành động của Cha Alfred chắc chắn là một bài học thật quý giá cho chúng ta. Thực vậy, trên con thuyền của cuộc đời, chúng ta chỉ cần tin thôi. Chúng ta hãy cứ an tâm. Dù cho Giêsu có ngủ, nhưng ngủ ở đàng lái đấy! Và không chỉ ngủ ở đàng lái, mà theo Hans Urs von Balthasar, thì Giêsu còn nằm nghỉ trong lòng của Chúa Cha, Đấng canh giữ cuộc sống của Giêsu và sứ mạng của Giêsu, không bao giờ cho phép sức mạnh của thiên nhiên ảnh hưởng đến sứ mạng của Giêsu.
Nhưng sứ mạng của Giêsu là gì? Là yêu thương mọi người, là trao ban tình yêu của Cha cho mọi người, là chở che mọi người trước bao nỗi hiểm nguy, là giải thoát con người khỏi mọi nỗi sợ hãi, và đưa mọi người về với bờ bến của bình an, của hạnh phúc. Vâng, chúng ta hãy an tâm và đừng sợ, Giêsu luôn gìn giữ chúng ta, và không bao giờ để cho chúng ta mất đi. Như người mục tử nhân lành, chính Ngài chứ không ai khác sẽ che chở đoàn chiên trước thú dữ đang nhâm nhe đe dọa.
Vì thế, dù gió có lớn, bão có to đến mấy, thì Giêsu vẫn vững tay lái, vững mái chèo trên con thuyền của cuộc đời. Và dù Ngài đang ngủ, nhưng Ngài vẫn hiện diện. Dù vì mệt mỏi đang nghỉ ngơi, nhưng Ngài nghỉ ngơi trên con thuyền của chúng ta, của con người yếu đuối, chứ ngài không nằm nghỉ trên giường êm nệm ấm. Và kìa Ngài đã nghe tiếng kêu của các môn đệ. Chúng ta hãy nhìn xem. Ngài đứng dậy. Rồi Giêsu làm gì? Ngài sẽ mắng các môn đệ chăng? Không, điều đầu tiên là:
- “39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.”
Tuyệt vời quá sức! Tuyệt vời như từ thuở xa xưa:
“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng CHÚA, Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân. Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng, sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng, họ vui sướng, vì trời yên bể lặng và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ.” (Tv 107, 28-30)
Vâng, dù tiếng sóng có gầm vang, có thét lên đến long trời lở đất, thì cũng cần phải im tiếng đi, cần phải nhường bước cho Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, Đấng từ thuở đời đời luôn ở đó bên người con nhỏ yêu dấu của Ngài:
“Sóng nước đã gầm lên, lạy CHÚA, sóng nước đã gầm lên tiếng thét gào. Sóng nước đã gầm lên, long trời lở đất. Nhưng hơn hẳn tiếng nước ngàn trùng, hơn hẳn sóng oai hùng ngoài biển cả, CHÚA oai hùng ngự trị chốn cao xanh.” (Tv 93, 3-4)
Sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa đã làm cho biển phải câm lặng. Quyền năng này các môn đệ ngày xưa không thể hiểu được. Có lẽ chính vậy mà niềm tin của các ông còn nhỏ lắm. Và có lẽ Giêsu hiểu thấu được niềm tin của môn đệ mình, nên Ngài chỉ mắng:
- “40 Rồi Người bảo các ông: Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Ở đây một điều thú vị là, trước hết Giêsu ra lệnh cho biển phải im lặng, sau đó Ngài mới mắng các môn đệ. Vâng, ngài đã hiểu thấu sự sợ hãi của các ông, nên điều đầu tiên cần làm không phải là trách mắng người đang sợ hãi, mà ra tay giúp đỡ giải thoát họ ra khỏi sự sỡ hãi trước, sau đó muốn nói gì thì nói, muốn mắng gì thì cũng không sao.
Lời mắng các môn đệ nhát sợ được Giêsu lập lại nhiều lần khác (x. Mc 4, 13.40; 7,18; 8,17tt.21.33; 9, 19). Nhưng khi mắng các môn đệ như thế, Giêsu có ý chống lại sự nghi ngờ của các môn đệ vào chính Ngài, Thầy của họ, cũng như chống lại sự nhát sợ của người được chọn, người môn đệ Chúa. Như vậy lời mắng của Giêsu như là lời tỉnh thức giúp cho những ai theo Chúa cần dừng bước lại, để nhận ra sự yếu đuối rất hay nhát sợ của con người mình, và ý thức bám vào Chúa nhiều hơn. Vâng, ai càng bám vào Chúa và sống trong tình thân với Ngài, thì sẽ chẳng sợ gì, họ càng ngày càng bình tâm hơn. Một sự bình tâm tín thác và tin tưởng hoàn toàn vào Chúa, đến nỗi không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu và tương tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả, và cái gì đúng theo thánh ý của Chúa mà thôi (ss. Sách Linh Thao số 23)
Điều thứ hai mà Giêsu mắng các môn đệ là việc yếu lòng tin của các ông. Về điều này chúng ta cũng thấy Máccô nhắc đến nhiều lần. Vâng, dù cho các ông đã theo Giêsu và ở với Người (ss. Mc 3, 14), dù cho mầu nhiệm Nước Trời đã được trao cho các ông (ss. Mc 4, 11), và giải nghĩa cho các ông cặn kẽ (ss. Mc 4, 34b), nhưng các ông vẫn chưa có lòng tin. Adolf Pohl chú ý chúng ta về từ ngữ “chưa có lòng tin”. Với từ ngữ này chúng ta có thể nhận ra rằng, sự chậm hiểu và thiếu lòng tin của các môn đệ là dấu hiệu của sự thiếu kinh nghiệm thiêng liêng về Thiên Chúa và về niềm tin.
Phải chăng niềm tin không chỉ là một món quà của Chúa ban tặng một lần là xong, mà niềm tin còn cần phải được chăm bón, cần phải được thử sức và tôi luyện, cần phải luôn luôn được lấy ra khỏi “kinh tin kính”, để đem vào cuộc sống, để nhìn lại và để rút ra thêm kinh nghiệm. Và cũng thật quan trọng, khi ý thức như Luca cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, con tin Chúa, nhưng xin Chúa tăng thêm lòng yếu tin của con.” Thực vậy, không ai dám nói rằng, khi tôi bước theo Chúa và trở thành môn đệ của Ngài, thì niềm tin của tôi vào Ngài đã vững vàng 100%, đến nỗi tôi không cần phải “vào nhà tập lại”, không cần phải đi tĩnh tâm năm, không cần phải cầu nguyện hằng ngày, không còn phải ra sức học hành và trau dồi Lời Chúa nữa.
Ai dám nghĩ như thế, thì thật là “tuyệt”, vì họ là con người hoàn hảo rồi. Mà đã hoàn hảo rồi thì đi tu để làm gì nữa? Vì vậy, thật hay từ ngữ “tu” của Việt Nam ta: Tu là để sửa chữa, để ngày ngày học biết tinh thần của Giêsu và ý thức sửa đổi bắt chước Giêsu mỗi ngày nhiều hơn một chút. Hay theo thiển ý của tôi, có thể nói theo kiểu của Linh Thao: Tu là một chuỗi ngày tập thể thao cho linh hồn của mình, bằng cách ngày ngày ý thức dọn dẹp và chuẩn bị linh hồn để xa bỏ những quyến luyến lệch lạc và sau đó tìm kiếm ý Chúa trong cách xếp đặt cuộc sống để mưu ích cho linh hồn mình (ss. Linh Thao số 1)
- 41 Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
Sau khi chứng kiến quyền năng của Giêsu trên thiên nhiên, thì các môn đệ hoảng sợ. Ở đây, Adolf Pohl so sánh một điều rất hay. Trong câu 37 nói về một trận cuồng phong lớn. Và sau đó ở câu 39 là “biển lặng như tờ” nghĩa là sự thinh lặng lớn. Và ở câu 41 này thì các môn đệ “hoảng sợ”, nghĩa là nỗi sợ thật lớn. Như vậy, nỗi sợ thật lớn này không còn là sự nhát sợ mà Giêsu mắng các ông ở câu 40, mà là sự sợ hãi lớn trước sự mạc khải của Thiên Chúa. Sự sợ hãi này cũng là sự công nhận của con người nhỏ bé trước quyền năng phi thường của Thiên Chúa. Vâng, nỗi sợ lớn lao trước Thiên Chúa này không trói buộc con người lại, mà thúc đẩy con người biết ý thức phủ phục, biết ý thức tỏ lòng thờ lạy Chúa của mình, như trong Giona 1, 16: “Những người ấy sợ ĐỨC CHÚA, sợ lắm; họ dâng hy lễ lên ĐỨC CHÚA và khấn hứa.” Như vậy, trong sự sợ hãi này chứa đựng những điều thật tích cực: Tin tưởng và thờ lạy. Vâng, sau khi biển và cuồng phong đã phải tuân phục và bái lạy Thiên Chúa, thì giờ đây đến lượt con người chúng ta.
Nỗi sợ hãi lớn lao này cũng thúc đẩy con người đi vào trong giao động mới, đó là đi tìm căn tính của Đức Kitô: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Theo R. Pesch thì những ai chứng kiến cảnh tưởng này chỉ có thể trả lời rằng: Đấng mà cả gió và biển phải tuân lệnh thì lớn hơn tiên tri Giona. Ngài hành động với sức mạnh của chính Gia-vê Thiên Chúa. Ngài là Đấng lớn hơn cả sức mạnh và bạo lực của hỗn mang. Phần bạn và tôi, chúng ta hãy luôn để câu hỏi này đi với mình trong cuộc đời: “Đức Kitô là ai đối với tôi vậy?” Chắc chắn rằng, mỗi thời điểm câu trả lời sẽ khác, vì kinh nghiệm về niềm tin và về Giêsu của chúng ta cũng sẽ khác đi và dồi dào hơn.
"Đức Cha Agatho, Giám Mục Giáo Phận Palermo, nước Ý, đi từ đảo Sicily đến Rome. Trong cuộc hành trình, ngài gặp nguy cơ chìm tàu. Một cơn giông tố hãi hùng nổi lên, sắp sửa đánh chìm con tàu ngài đang đi. Không còn hy vọng gì, ngoại trừ lòng thương xót nhân lành của Thiên Chúa toàn năng.
Khi ấy, tất cả mọi người bắt đầu cầu nguyện và dâng lên Chúa lời cầu xin hãy gìn giữ mạng sống cho họ. Trong khi họ cầu nguyện như thế, thì người thủy thủ đang cầm bánh lái, tuy được cột chặt vào tàu, nhưng một cơn giông mạnh mẽ đã làm đứt dây cột và kéo người thủy thủ xấu số kia xuống sóng nước, và Đức Cha Agatho coi anh ta như đã chết.
Sau tai nạn ấy, con tàu vẫn đi, sau những cơn hiểm nguy, đã đến được đảo Ostika. Tại đây, Đức Giám Mục dâng Thánh Lễ cầu cho người thủy thủ không may. Khi con tàu được sửa chữa xong, mọi người tiếp tục hành trình đến Rome. Ngay khi vừa lên bờ, Đức Giám Mục đã thấy anh thủy thủ, người tưởng rằng đã chết, đang đứng trên bờ. Tràn ngập niềm vui, ngài hỏi anh đã thoát những nguy hiểm suốt nhiều ngày qua như thế nào.
Người thủy thủ kể lại là: Anh may mắn bám được vào một chiếc xuồng nhỏ bé cũng bị rơi xuống biển. Lúc nào nó cũng như sắp sửa bị lật úp, nhưng rồi nó lại trồi lên trên những làn sóng. Hết ngày lại đêm, cứ thế anh chinh phục những ngọn sóng. Tuy nhiên rồi anh cũng đuối sức vì đói và khát, chắc chắn sẽ chết chìm nếu như không được phù giúp. Anh ta kể tiếp: “Thế rồi bỗng nhiên, khi tôi đã hoàn toàn vô vọng, như thể xuất thần, không biết mình đang ngủ hay thức, tôi nhìn thấy một người đứng trước mặt và cho tôi bánh. Vừa khi tôi nhận lấy ổ bánh ấy, sức lực của tôi liền hồi phục. Và ngay sau đó, tôi được một con tàu cứu vớt và chở về đây.”
Khi hỏi biết ngày giờ sự việc xảy ra, Đức Giám Mục nhận thấy trùng với ngày giờ ngài dâng Thánh Lễ tại đảo Ostika để cầu cho người thủy thủ xấu số" ( Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể ).
Tin Mừng theo Thánh Máccô hôm nay thuật lại Đức Giêsu dẹp yên sóng gió, cứu các môn đệ khỏi cơn bão bất ngờ, xảy ra khi Người đang say ngủ. Với câu chuyện trên, Chúa Giêsu Thánh Thể đã cứu người tài công rơi xuống biển, theo lời cầu nguyện của Đức Giám Mục Agatho và toàn thể khách trên con tàu bị bão. Trong cuộc đời mỗi người, thường vẫn gặp những sóng gió, ba đào. Chúng càng dữ dội hơn mỗi khi thiếu vắng Thiên Chúa Quan Phòng che chở, ở cùng.
Khi Đức Giêsu ngủ say...
Thực ra, Chúa Giêsu luôn ở cùng, mà con người không nhận ra Người luôn canh thức, che chở lúc nguy nan, tai ương, hoạn nạn, chỉ vì quên mất Người vô hình, chỉ vì sống quá thực dụng, quá dung tục, chỉ luôn biết trông cậy vào hữu hình, vào phương tiện thế gian, vào sức người, sức của, khoa học, kỹ thuật, dịch vụ. Nhưng những thứ hữu hình đó thường không thể giải quyết trọn vẹn như mong đợi, mà chỉ tạm bợ, chắp vá, lưng chừng, nửa vời, bế tắc, chia lìa, đổ vỡ, mất mát, đau khổ, chết chóc, như ly dị, điên loạn hay tự vẫn.
Vì thế, để kính mời Đức Giêsu thức cùng, sống cùng, an ủi, chăm sóc, chở che, Thánh Phaolô khuyên nhủ đừng bắt chước theo thế gian, mà sống theo Lời Chúa đã chỉ dạy, để được cứu giúp an toàn: “Tôi khuyên anh chị em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. Tâm trí họ đã ra tối tăm, họ xa lạ với sự sống Thiên Chúa ban” ( Ep 4, 17-18 ).
Khi Đức Giêsu ngủ say...
Người vẫn còn say ngủ, khi con người kiêu căng, tự phụ, cậy vào sức mình, tài năng, tri thức, chuyên môn, phương tiện, không cần đến Chúa, không cần đến sức mạnh Chúa Thần Linh, không màng đến Lương Thực trường sinh Thánh Thể, không dựa vào Lời Chúa, ngọn đèn soi dẫn, ánh sáng đi đường, không chạy đến với Chủ Chiên, hay những tâm hồn dâng hiến giúp đỡ, chia sẻ.
Để kính mời Đức Giêsu thức dậy đồng hành, thì Thánh Phaolô ân cần khuyên bảo những ai còn do dự, luyến tiếc những phù phiếm, hãy đoạn tuyệt, để mưu cầu bình an và hạnh phúc vĩnh cửu: “Anh chị em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới" ( Cl 3, 1- 2 ).
Khi Đức Giêsu ngủ say...
Người vẫn tiếp tục ngủ say khi người tín hữu Kitô còn thiếu các nhân đức Tin Cậy Mến, còn chưa đặt vào Người hết niềm tin, niềm trông cậy và nhất là tình yêu. Bởi vậy, sau khi dẹp yên bão tố, Đức Giêsu quay lại quở trách các môn đệ yếu niềm tin cậy: “Sao nhát thế ? Làm sao anh em vẫn chưa có lòng tin ?” ( Mc 4, 40 ).
Lo sợ, thất vọng vì thiếu Đức Tin, bất an, khủng hoảng vì thiếu đức cậy, lạc lõng, bơ vơ vì thiếu đức mến, khi người tín hữu Kitô chưa sẵn sàng khẩn khoản, trọng kính mời Đức Giêsu ngự vào trung tâm điểm đời sống, để có thể quy chiếu mọi sự về với Người. Khi hoàn toàn nhờ Người, với Người và trong Người, thì Người sẽ thức dậy và truyền cho sóng gió, ba đào “im đi, câm đi,” tức thì tâm hồn tín hữu liền được bình an giữa biển đời đen tối.
Mặc cho sóng gió đe dọa tứ bề, mặc cho sự dữ hoành hành áp đảo, không sức mạnh thế gian nào uy hiếp được tín hữu Kitô, khi có Chúa cùng đồng hành. Chính các thánh, các người công chính và các chứng nhân đã trân trọng xác tín điều đó qua cuộc đời. “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ? ( Rm 8, 35 ).
“Người Công giáo là ánh sáng giữa đen tối, là muối sống giữa thối nát, là hy vọng giữa một nhân loại thất vọng” ( Đường Hy Vọng, số 950 ).
"Con tưởng rằng con vững tin, tin vào Chúa là Cha nhân hiền, khi cuộc sống nhẹ trôi êm đềm với tháng ngày lặng lẽ bình yên. Nhưng khi đường đời gieo nguy khó, bên trời ngập tràn cơn giông tố. Con lo âu lạc bến xa bờ, con mới biết rằng con chưa vững tin... Thì lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay, con luôn cần đến Chúa từng phút giây. Nhờ ơn Chúa, con kiên trì tín thác kể từ đây, khi yên vui cũng như khi sầu đầy" ( Lm. Nguyễn Duy, Cho con vững tin ).
Lạy Mẹ Maria, Mẹ từng trải qua biết bao sóng gió từ khi thưa hai chữ “Xin Vâng,” nhưng Mẹ chẳng bao giờ nao núng, hoảng sợ, kinh hãi, thậm chí khi cùng Thánh Gia vượt biên, tránh quân Hêrôđê truy sát Hài Nhi, vì Mẹ luôn có Chúa ở cùng. Kính xin Mẹ an ủi, cầu bầu, che chở chúng con trên đường về Quê Trời. Amen.
Sau một ngày giảng dạy dân chúng, Chúa Giêsu bảo các môn đệ chèo thuyền đưa Ngài sang bên kia Biển Hồ. Biển Galilê dài 21km, rộng 12km, xung quanh có những rặng núi bao bọc. Nhiệt độ ở Galilê thuộc miền Bắc Israel và ở Biển Chết thuộc miền Nam chênh lệch nhau, thỉnh thoảng tạo ra những cơn gió mạnh. Biển Galilê nổi sóng dữ dội vì hình thể lòng chảo với núi non bao quanh. Vì thế, người xưa quan niệm rằng, biển là biểu hiện cho những gì nguy hiểm, tối tăm và sợ hãi. Biển động sóng gào biểu trưng cho một thế giới hỗn loạn và phường tội lỗi ( x. Is 57, 20 ). Ý định băng qua bên kia Biển hồ lúc trời đã về chiều quả là một ý định táo bạo, liều lĩnh, bất chấp hiểm nguy.
Tuy vậy, Chúa Giêsu quyết định ra đi và thực hiện phép lạ trên biển với mục đích củng cố đức tin cho các môn đệ, đồng thời biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa vượt trên mọi thế lực sự dữ.
Chúa Giêsu cùng với các môn đệ và có một số thuyền khác vượt biển giữa trời đêm. Thuyền lướt sóng ra khơi giữa màn đêm. Bão tố cuồng phong bỗng dưng ập đến. Các môn đệ, dù nhiều trải nghiệm về biển cả vẫn hốt hoảng lo lắng hoang mang. Chỉ mình Chúa Giêsu vẫn an nhiên tự tại, vẫn ngủ như không có gì xảy đến. Lạy Chúa, đến nước này mà Ngài vẫn ngủ sao ? Trong dòng lịch sử, không ít lần dân Do thái thấy như Chúa ngủ quên: “Lạy Chúa, Ngài quên con mãi tới bao giờ ? Tới bao giờ còn ngoảnh mặt làm ngơ ? Tới bao giờ hồn con vẫn còn lo lắng và lòng con ủ rũ đêm ngày ? Tới bao giờ kẻ thù con thắng mãi ?” ( Tv 13, 1-2 ).
Các môn đệ cuống cuồng lo sợ và hỏi: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao ?” Tiếng kêu cứu trong tuyệt vọng. Gặp bão tố cuồng phong trên biển cả, không lẽ những dân chài thứ thiệt như các ngư phủ lại phải cậy đến sự trợ giúp của một bác thợ mộc ư ? Kinh nghiệm thợ mộc giúp được ích gì cho các ông lúc này ? Ở đây rõ ràng là các ông cần sự trợ giúp thần linh, cần một phép lạ. Khi con người đối diện với những gian nan khốn khó, với những mãnh lực ác thần, họ mới thấy sức người quá hèn yếu, nhỏ bé.
Bài đọc 1 cho thấy con người yếu đuối tìm đâu được một chỗ dựa vững vàng ngoài niềm tin vào Thiên Chúa toàn năng: “Bấy giờ, giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp như sau: Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân ?” ( G 38, 1.8-9 ). Đứng trước số phận ngàn cân treo sợi tóc, họ mới thấy cần biết bao quyền năng Thiên Chúa trợ giúp. Thiên Chúa sẽ ra tay đúng lúc để đáp ứng tiếng van nài của họ.
Không phải bằng một kỷ năng hàng hải mà bằng uy quyền của trời cao, Chúa Giêsu thức dậy và ra lệnh cho sóng biển: “Im đi ! Câm đi !” Cử chỉ và lời nói của Chúa giống như lúc Ngài trừ quỉ. Lập tức, gió ngừng thổi và biển yên lặng như tờ. Rồi Chúa quở các môn đệ: sao các con lại sợ hãi thế ? Đức tin của các con như thế nào ? Rõ ràng, Chúa không nói các môn đệ không có đức tin; Chúa cũng không nói các môn đệ có đức tin bé nhỏ; ở đây đức tin của các môn đệ giới hạn quyền năng của Thiên Chúa, thua sức mạnh thiên nhiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không thể cứu nguy cho những người cùng thuyền được nên họ phải đánh thức Chúa dậy.
Khi Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên gió bão, các môn đệ ngạc nhiên và hỏi: "Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ?" Thông cảm với các môn đệ vì các ông chưa biết rõ Chúa là ai, quyền năng thế nào để phó thác mạng sống mình cho Chúa. Nhờ phép lạ này, các ông nhận ra Thầy có quyền trên cả gió và biển, có quyền như Thiên Chúa vậy. Từ đó, các ông suy nghĩ, tìm hiểu con người Thầy hơn.
Những trắc trở đến từ thiên nhiên chỉ nói lên một phần nhỏ sự yếu đuối của con người khi phải đối diện với trăm ngàn đợt sóng mãnh liệt từ các dục vọng làm xáo động tâm hồn họ. Những sự ác dữ dội như sóng biển ấy chẳng để ai ngủ yên, mà bắt người ta phải đặt niềm tin vào Chúa trong khi chống cự để có được sự sống muôn đời: “Xin Chúa thấy cho: thù địch con đông vô kể, chúng ghét thân này, ghét cay ghét đắng. Xin bảo toàn sinh mạng và giải thoát con, đừng để con tủi nhục, bởi vì con ẩn náu bên Ngài” ( Tv 25, 19-20 ).
Giông bão bắt người ta phải tin, nhưng niềm tin lại cần đến thử thách của giông bão, vì niềm tin cần được thử thách để lớn lên. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta giúp ta biết mình hơn, biết yêu mến cậy trông vào Chúa hơn và giúp đức tin vững mạnh hơn. Chúa phán với ông Gióp trong gió bão, dạy dỗ ông những lẽ khôn ngoan. Ông Gióp đã luôn vững tin vào Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Các Tông đồ cũng gặp bão táp trên biển cả. Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên giông bão. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn, từ nay các ngài không còn cuống quít sợ hãi mỗi khi gặp gian nan nữa. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng hơn. Thánh Phaolô nhắc nhở: vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại !...” đem đến cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Thiên Chúa.
Tàu thuyền một khi đã lênh đênh trên mặt biển rồi thì không thể nào tránh được những cơn sóng to nhỏ và chẳng có cách chi thoát khỏi những chao đảo, bập bềnh và lắc lư do bão táp và cuồng phong gây nên. Cũng vậy, mọi người không ai tránh khỏi những sóng gió và bão tố to nhỏ do biển đời này gây ra !
Khi tôi lâm vào cảnh hoang mang, sợ hãi, lúng túng, lo lắng, bất an, phiền muộn, chán chường, thất vọng…
Khi gia đình tôi chạm trán với những biến cố đau thương như tai nạn xe cộ, tai nạn nghề nghiệp, thất nghiệp, vợ chồng con cái bất hòa xung đột với nhau, đau ốm, tang chế…
Khi trong cộng đoàn Giáo Xứ của tôi xảy ra những gương mù, gương xấu: đố kỵ, ghen tương, kèn cựa, tranh giành quyền lợi, chia bè, kéo phái, tố cáo nhau, mạt sát, thù ghét nhau…
Khi trong cộng đoàn Dòng Tu của tôi phải đương đầu với những khủng hoảng về mặt nhân sự, tài chánh, huấn luyện, đào tạo, kỳ thị, chia rẽ, phân biệt, thiên vị… Khi Giáo Hội bị bêu xấu, hạ nhục, và bị công kích bởi gương mù gương xấu do một số nhỏ Giáo Sĩ gây ra…
Thuyền trên biển gặp sóng gió, bão táp là chuyện rất bình thường. Khi thuyền đời của mình không thể tránh được sức va chạm và những ảnh hưởng của sóng gió, bão táp giông tố của cuộc đời này thì tôi phải làm gì để giữ cho thuyền khỏi bị lật úp ?
Cách hay nhất là bắt chước các môn đệ, chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài dẹp tan sóng gió và bão tố bảo vệ thuyền của mình khỏi bị nhận chìm. Chỉ khi nào tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô, Đấng có quyền năng trên sóng gió mưa bão và mở miệng van xin Ngài ra tay cứu giúp thì lúc đó thuyền đời mới được bình an, bởi lẽ: “Không có Thầy thì các con không thể làm gì được !” ( Ga 15, 5 ).
Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta luôn sống an tâm. An tâm, bởi con thuyền cuộc đời chúng ta ra khơi, giữa phong ba bão táp, giữa những thử thách gian truân vẫn luôn có Chúa là thuyền trưởng hướng dẫn thuyền vượt sóng. An tâm, bởi Chúa luôn xuất hiện đúng lúc đúng thời để ra tay nâng đỡ chúng ta trước những khó khăn. An tâm, bởi chúng ta biết chúng ta tin vào Đấng chiến thắng mọi thế lực ác thần và sự chết. An tâm, bởi từ nay, cuộc đời chúng ta đã trao vào tay Chúa, tín thác mọi sự trong sự quan phòng của Thiên Chúa, vì như Thánh Phaolô, “tôi biết tôi tin vào ai” ( 2 Tm 1, 12 ).
Xin cho Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta vững tin vào sự hiện diện của Chúa, để trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, chúng ta luôn có Chúa ở vị trí hoa tiêu để hướng dẫn và can thiệp kịp thời, giúp chúng ta đến bến bờ bình an.
Có lẽ chẳng ai lạ gì với câu ca dao này: “Người ta đi biển có đôi, còn tôi đi biển mồ côi một mình”. Đó là nói về tình trạng một phụ nữ có chồng nhưng chẳng nhờ chồng được gì, cứ phải mình ên lo toan mọi thứ cho gia đình.
Nói đến sóng là nói đến nước, sông và biển. Sóng có nhiều loại: Sóng lớn (to), sóng nhỏ, sóng cao, sóng thấp, sóng cồn, sóng cả, sóng bạc đầu, sóng thần,… Sóng còn mang nghĩa khác như sóng truyền hình, sóng phát thanh, sóng điện từ,… thậm chí còn gọi là làn sóng người. Chắc hẳn nguy hiểm nhất và đáng sợ nhất là sóng cám dỗ, sóng tội lỗi, sóng mê đắm, sóng thù hận,… Các xu hướng xấu càng ngày càng xuất hiện nhiều, đó cũng là những “con sóng” nguy hiểm cần phải lưu ý !
Về điện tử, sóng còn gọi là bước sóng, có chuyển động với tần số dài hoặc ngắn, và có tác dụng khác nhau. Ví dụ: Sóng phát thanh có tần số ngắn thì có thể phát đi xa, sóng phát thanh có tần số dài thì có thể phát đi gần. Trong vật lý, sóng là sự lan truyền của dao động, sóng có thể mang theo năng lượng, lan truyền trong nhiều môi trường khác nhau, cũng có thể bị đổi hướng ( bởi khúc xạ, phản xạ, tán xạ, nhiễu xạ,... ), và có thể thay đổi năng lượng ( bởi hấp thụ, bức xạ,... ), thậm chí là thay đổi cấu trúc ( như thay đổi tần số, môi trường phi tuyến tính,... ).
Trong ca khúc “Sóng Về Đâu”, cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng nói với biển: “Biển sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã dưới chân người; biển sóng biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng về đâu ?”
Sóng là hình tượng của nỗi gian truân, cực khổ của con người. Không ai muốn gặp đau khổ, nhưng chính đau khổ mới làm cho người ta thành nhân. Vả lại, thử thách càng lớn, cơ hội càng lớn. Ngạn ngữ Phi châu có câu: “Biển lặng chẳng tạo nên thủy thủ tài ba”. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Chính gian khổ cho chúng ta biết ai là người đáng là thầy ta hay không.
Thomas Carlyle ( 1795-1881, triết gia, nhà văn châm biếm, nhà viết luận, sử gia và nhà giáo người Tô Cách Lan ) đã nhận định: “Tai ương là bụi kim cương mà Thiên Đường dùng để đánh bóng châu báu” ( Adversity is the diamond dust that Heaven polishes its jewels with ).
Từ cổ chí kim – và có thể cho đến tận thế, có lẽ không ai phải lao đao chịu khốn khổ như Thánh Gióp, thậm chí còn bị Satan thử thách đủ kiểu ( Sách Gióp, chương 1 ). Nhưng dù thế nào thì ông Gióp vẫn một niềm tín trung. Và rồi ngay giữa cơn bão táp, Đức Chúa đã lên tiếng trả lời ông: “Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân ? Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài” ( G 38, 8-10 ). Rồi Thiên Chúa nói với ông Gióp: “Ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa, đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành !” ( G 38, 11 ).
Trong tâm tình tạ ơn vì được Thiên Chúa giải thoát, tác giả Thánh Vịnh cho biết:
“Họ vượt biển ngược xuôi nghề thương mãi,
giữa trùng dương lèo lái con tàu,
mắt đã tường việc Chúa làm nên
và kỳ công Người thực hiện giữa dòng nước lũ. Chúa truyền lệnh khiến bùng lên bão táp,
lớp sóng xô cuồn cuộn dập dồn.
Họ nhô lên tận trời, nhào xuống vực sâu,
lúc nguy hiểm, hồn xiêu phách lạc,
bị quay cuồng, lảo đảo như say,
khéo cùng khôn đã chìm đâu mất”
( Tv 107, 23-27 ).
Thiên Chúa là Tạo Hóa, là Đấng cầm quyền sinh tử, Ngài có quyền “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” ( 1 Sm 2, 6 ). Quả thật, đúng như ông Gióp nhận định: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa !” ( G 1, 21 ). Xác định được như ông Gióp thì không gì phải lo. Nhưng muốn được vậy, vấn đề quan trọng là chúng ta có dám chấp nhận thân phận mình mà vẫn chúc tụng Chúa hay không. Điều này không dễ chút nào !
Có tin tưởng thì mới trung thành, và ai trung thành thì chắc chắn không phải thất vọng. Tác giả Thánh Vịnh nói về những người thành tín với Thiên Chúa: “Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa, Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân. Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng, sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng, họ vui sướng, vì trời yên bể lặng và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần” ( Tv 107, 28-31 ).
Thánh Phaolô cho biết: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người thì mọi người đều chết. Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” ( 2Cr 5, 14-15 ). Tình yêu có sức mạnh hơn cả tử thần, khả dĩ khiến người ta làm được những điều lạ lùng, ngỡ như không bao giờ làm được. Tình yêu biến đổi tất cả. Vì yêu thương mà người mẹ liều lấy thân mình che cho đứa con dù biết mình sẽ bị thương hoặc thiệt mạng. Vì yêu thương mà Thánh Lm. Maximilian Maria Kolbe ( 1894-1941, Dòng Phanxicô ) đã dám chết thay cho một tử tù. Đó là tình yêu vị tha ( vì người khác ) chứ không hề có chút gì vị kỷ ( vì mình ).
Loại tình yêu cao thượng như vậy được Đức Kitô gọi là “tình yêu vĩ đại nhất” ( Ga 15, 13 ). Và chính Ngài đã thể hiện tình yêu này vì yêu thương và để cứu độ các tội nhân chúng ta: Ngài bị đóng đinh vào Thập Giá và chết trên đồi Canvê. Thật hợp lý khi Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta phải “sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”.
Và vì thế, Thánh Phaolô xác định: “Từ đây, chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa. Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” ( 2 Cr 5, 16-17 ). Người ta luôn thích mọi thứ đổi mới ( quần áo, vóc dáng, giày dép, điện thoại, xe cộ,… ), nhưng có lẽ người ta chưa thực sự quan tâm việc đổi mới tâm hồn, đặc biệt là tâm linh. Chúng ta đã được Đức Kitô đổi mới, nhưng chúng ta chưa tích cực duy trì sự đổi mới đó nên tâm hồn chúng ta vẫn có cái gì đó “cũ” lắm !
Mỗi khi con sóng duyềnh lên, nó không chỉ “đổi mới” mà còn đem theo phù sa bồi đắp cho vùng đất đó. Tâm hồn chúng ta cũng cần có những đợt sóng mới để đổi mới, để hoàn thiện. Các đợt sóng đó vẫn hằng ngày như thủy triều: Sóng tình yêu, sóng ân sủng, sóng thứ tha, sóng thương xót,… Ước gì “vùng đất” chúng ta để cho Sóng Tình Chúa biến đổi bất cứ lúc nào !
Trình thuật Tin Mừng hôm nay là đoạn Mc 4, 35-40, nói về việc Đức Giêsu dẹp yên sóng gió ( tương đương với Mt 8, 23-27 và Lc 8, 22-25 ).
Hôm ấy, khi chiều đến, sau khi giảng dạy cho dân chúng về một loạt các dụ ngôn ( người gieo giống, ngọn đèn, cái đấu, hạt giống tự mọc, hạt cải ), Đức Giêsu bảo các môn đệ cho thuyền sang bờ bên kia. Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Ngài đi, có những thuyền khác cũng chèo đi theo Ngài. Bỗng dưng một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ thấy Thầy “vô tư” thế không biết, nên họ vội đánh thức Ngài, gọi giật dậy và hốt hoảng la toáng lên: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao ?”
Có lẽ chúng ta cũng như các môn đệ xưa, chứ chẳng “ngon lành” gì hơn ai, ở ngay bên Thầy Giêsu mà vẫn chưa thấy an tâm khi gặp giông tố cuộc đời. Gọi như điện giật thế thì ai mà chợp mắt nổi. Ngài thức dậy, rồi ngăm đe gió, và truyền cho biển phải “im ngay và câm ngay”. Thế là gió liền tắt, và biển lặng như tờ.
Đâu vào đấy rồi, Ngài nghiêm mặt và nghiêm trách các ông: “Sao nhát thế ? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin ?” Họ chỉ có nước ngậm tăm chứ nói chi được. Đúng quá mà ! Cãi gì nổi ? Các ông hoảng sợ – vừa sợ vì thấy phép lạ vừa sợ vì Thầy mắng thẳng, rồi họ xì xầm với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ?” Theo Thầy vì tin Thầy hay thích điều gì ở Thầy mà giờ này còn hỏi nhau “người này là ai” vậy chứ ?
Vâng, thật buồn ! Buồn cho họ và buồn cho chính chúng ta, vì chúng ta cũng vẫn “thắc mắc” như vậy, dù chúng ta không nói ra thôi. Chúa Giêsu cũng buồn, Ngài không buồn vì Ngài chưa được chúng ta tin thật, mà Ngài buồn cho đức tin của chúng ta còn non nớt, còn ấu trĩ, chỉ chạy theo “sự lạ” chứ chưa “bén rễ sâu” vào đất-ân-sủng và chưa lưu thông “nhựa” của Cây Nho.
Kinh Thánh đã cho chúng ta biết chắc rằng Thiên Chúa là “Đấng gìn giữ chúng ta, không để chúng ta lỡ chân trật bước”, chắc chắn “Ngài không ngủ quên” và cũng “không chợp mắt ngủ quên” bao giờ ( Tv 121, 3-4 ). Thiên Chúa không hề vô tâm vô tính như chúng ta tưởng, đừng suy bụng ta ra bụng người ! Miệng thì nói tin, nhưng khi gặp sóng đời duyềnh lên là chúng ta hốt hoảng ngay, mà sóng đời đâu đã to gì cho cam, chỉ mới “lăn tăn” thôi ! Chúng ta có đáng trách không nhỉ ?
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vững tay chèo, chống, bát, cậy,... dù sóng đời nhỏ hay to. Chúng con không dám xin Ngài đưa thuyền của chúng con ra khỏi vùng biển động hoặc nước xoáy, nhưng xin Ngài làm Hoa Tiêu hướng dẫn chúng con chèo lái để có thể vượt qua mọi con sóng dữ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Quan sát một đứa bé qua một cây cầu chúng ta sẽ thấy nó đi một cách bình tĩnh khi có cha mẹ hay người thân ở phía trước hay cùng đi với nó. Ngược lại nó sẽ cảm thấy hoang mang lo sợ và có thể không dám đi qua nếu tự nó phải một mình đi qua. Với hình ảnh này, chúng ta thấy đứa bé đó nhờ có lòng tin vào những người thân của của mình nên nó rất an tâm. Chắc chắn nó sẽ nghĩ rằng cho dù có té ngã thì họ sẽ không nỡ lòng nào bỏ nó.
Ðoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay cho thấy các Tông đồ cùng ở trên thuyền với Chúa Giêsu. Mà chiếc thuyền đang vượt biển sang bờ bên kia. Bỗng nhiên “một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước” (Mc 4, 37). Ðang khi đó, “Chúa Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ” (Mc 4, 38a). Các Tông đồ hoảng sợ nên đã đến đánh thức Chúa Giêsu “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38b). Sau khi truyền cho gió biển im lặng Chúa Giêsu nói với các ông “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (Mc 4, 40)
Với lời của Chúa Giêsu trên đây, chúng ta thấy mặc dù các Tông đồ được ở cùng với Chúa Giêsu nhưng các ông vẫn chưa nhận ra Ðấng đang ở bên mình là ai. Do đó, các ông vẫn còn hoang mang lo sợ. Nếu các ông nhận ra Ðấng ở bên mình là ai chắc chắn các ông sẽ rất tự tin. Bởi lẽ, Ðấng ấy chính là Chúa trời đất.
“Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28, 20). Ðây là lời hứa của Chúa Giêsu cho những ai thật sự tin vào Người. Tuần vùa qua cùng với Giáo hội chúng ta đã mừng trọng thể lễ Mình Máu Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hiện diện cách thiêng liêng và cao quý nơi Bí Tích Thánh Thể. Sự hiện diện này chúng ta chỉ có thể nhận ra được trong cái nhìn đức tin.
Xin Chúa Giêsu ban cho mỗi người chúng ta thêm tin tưởng vào sự hiện diện cao quý của Người trong đời sống đức tin của mình. Ðể rồi cho dù có vượt qua bao nhiêu khó khăn thử thách nhất là trong đời sống đức tin chúng ta vẫn luôn cảm thấy bình an và tự tin.
DẪU BIẾT DÒNG ĐỜI KHÔNG ÊM ÁI NHƯ DÒNG SÔNG nhưng tôi vẫn thích cách so sánh dòng: TN12 B-66
DẪU BIẾT DÒNG ĐỜI KHÔNG ÊM ÁI NHƯ DÒNG SÔNG nhưng tôi vẫn thích cách so sánh dòng đời giống như dòng sông. Cách so sánh đó gợi lên một hình ảnh rất thực về cuộc sống. Nếu dòng sông khi đầy khi vơi thì dòng đời có khi ngập đầy có khi thiếu thốn. Nếu dòng sông đem nguồn nước tưới mát cho cánh đồng, cho vườn tược thì dòng đời cũng đem lại cho con người nguồn sức sống nơi sự thịnh đạt và những niềm vui. Nếu dòng sông có những đợt sóng dâng trào thì dòng đời cũng có những mênh mông của buồn chán.
Buổi chiều trên biển hồ Tibêriat như là điểm hẹn của từng đợt sóng dữ. Thời điểm ai cũng biết hiểm nguy, vậy mà Thầy Giêsu bảo các môn đệ “Chúng ta sang bờ bên kia đi”. Lời thúc giục tưởng chừng Chúa Giêsu muốn tìm chỗ nghỉ ngơi sau một ngày giảng dạy mệt lã. Thật ra Chúa không tìm nghỉ ngơi, Ngài tiếp tục dạy dỗ. Nếu từ sáng đến chiều Ngài giảng dạy cho đám đông thì giờ đây Ngài muốn dành ưu tiên cho các môn đệ yêu dấu của mình. Chúa Giêsu dạy họ từ những lời được ghi chép trong Thánh Kinh đến những biến cố thường ngày đã xảy ra trong đời sống.
Sang bên kia bờ để nhận ra quyền năng của Chúa
Nơi Thiên Chúa, quyền năng của Ngài không phải để phô diễn làm loé mắt người đời. Ngài không muốn người khác theo Ngài chỉ vì tính hiếu kỳ của họ được đáp ứng. Vì vậy mà Ngài không hoá đá thành bánh, không nhảy xuống từ nóc đến thờ để mọi người tung hô. Ngài không làm phép lạ cách phung phí để “dằng mặt” những kẻ thách thức Ngài.
Quyền năng của Ngài tỏ hiện nhằm đem đến những giá trị sâu xa hơn: nâng đỡ đức tin những người yếu kém, ban niềm vui cho kẻ u sầu, đem bình an cho những ai đang phải khốn đốn. Rõ ràng quyền năng Thiên Chúa không chỉ để giải quyết những vấn nạn tức thời nhưng là củng cố một cuộc sống luôn tiếp nối nhiều bất an.
Sang bên kia bờ để lòng tin được củng cố mỗi ngày
Chúa có mặt trên tàu nhưng sóng dữ vẫn bùng lên. Sóng dữ không kiên nễ người nào vì đó là quy luật mà Thiên Chúa đã đặt để. Điều đó cho ta hiểu rằng bình an của người vượt sóng không phải là sự bất động của dòng sông nhưng là một tâm thái biết cậy nhờ, biết ứng phó để vượt qua sóng gió. Biết rõ buổi chiều biển hồ sóng mạnh, Chúa vẫn bảo sang bờ bên kia. Biết sóng dữ sắp làm đắm con thuyền, Chúa vẫn ngon giấc bình thường như việc gì đến sẽ đến. Tưởng chừng Chúa không biết gì nhưng thật ra Ngài biết tất cả, Ngài lo tất cả.
Dĩ nhiên hiệu quả của niềm tin không do Thiên Chúa làm cách độc lập nhưng cần có sự “tận lực” của con người, “tận nhân lực, tri thiên mênh”. Tận lực của các môn đệ ở chỗ sẵn sàng nghe thầy sang bên kia. Tận lực sau cùng là lời kêu cầu có vẻ trách móc: “Thầy ơi, chúng ta chết tới rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Tận lực của các tông đồ có thế thôi nhưng đó là lời kêu cầu cần thiết.
Chúng ta không thể kêu cầu chấm dứt chiến tranh vì Chúa cho chúng ta có khả năng kiến tạo hoà bình. Chúng ta không thể nài xin Thiên Chúa xoá đi nghèo đói vì Ngài đã ban cho chúng ta của cải để biết cùng nhau chia ngọt sẻ bùi. Chúng ta không xin Chúa dẹp bỏ những nghi kỵ hờn ghen, vì Ngài ban cho chúng ta một lương tâm ngay chính và một trái tim biết cảm thông. Chúng ta cũng không nài xin Chúa cất di sự tuyệt vọng bởi vì Ngài ban cho ta đầy đủ nghị lực để vượt thắng khổ đau mà vươn lên hy vọng.
Sang bên kia bờ để tâm hồn được đổi mới
Từ chỗ thay đổi địa điểm Thầy Giêsu đã thay đổi tâm hồn của các học trò. Khi sang đến bờ bên kia các ông đã có cái nhìn khác hẳn trước đây. Niềm tin đã vững vàng hơn. Các ông không tự mãn vì có Thầy ở bên nhưng tự hào vì mình có thêm sức mạnh. Lời trách cứ về Thầy có vẻ vô tâm giờ đã đổi thành những lời tán dương không ngớt.
Sự yên lặng của biển kéo theo sự lắng đọng của cõi lòng. Chính khi tâm hồn lắng đọng thì hiểu biết mới được khai sáng. Khi tâm trí sáng suốt ta mới hiểu được rằng Chúa luôn có mặt để cùng vượt sóng với ta. Những sóng gió của hiện tại không làm nhạt mờ biết bao điều tốt đẹp Chúa đã ban cho ta. Sợ hãi không làm ta cuống cuồng vì biết rằng Chúa sẽ hướng dẫn ta về tới bến bình an.
Nếu dòng đời còn nhiều nổi trôi thì thuyền đời kitô hữu không bao giờ êm ả. Nó chỉ bình yên khi ta về tới bến mong chờ. Nhưng dù thế nào thì lòng ta vẫn một lòng tin tưởng vào quyền năng của Chúa. Dẫu có lúc ta nghĩ Ngài đã ngủ quên, Ngài không nghe đến tiếng cầu cứu của ta nhưng ta luôn tin rằng Ngài sẽ cứu lấy ta theo cách của Ngài.
Bài giải thích của Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, cha giảng Phủ giáo hoàng, về những bài đọc phụng vụ Chúa nhật này với đề tài: "Chợt có Một Cơn Bão Lớn"
Bài Tin Mừng Chúa nhật này là sự làm yên lặng sóng gió. Trong buổi chiều, sau một ngày làm việc cực nhọc, Chúa Giêsu xuống một chiếc thuyền và bảo các tông đồ chèo qua bờ bên kia. Vì mệt nhọc, Chúa nằm ngủ ở đàng lái.
Lúc đó, một trận bảo lớn nổi lên dọa phá hủy chiếc thuyền
Hoảng sợ, các tông đồ đánh thức Chúa Giêsu dậy, thưa với Người: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?” Sau khi thức dậy, Chúa Giêsu truyền cho biển yên lặng: “Hãy im đi! Hãy lặng đi!” Tức thì gió ngừng và biển lặng như tờ. Rồi Chúa nói với các ông: “Tại sao anh em sợ hãi thế ? Anh em không có đức tin sao?”
Chúng ta cố gắng tìm hiểu sứ điệp gởi đến chúng ta hôm nay trong trang Tin Mừng này.
Sự vượt Biển Galilée chỉ cuộc hành trình sự sống. Biển là gia đình tôi, cộng đồng tôi, chính cõi lòng tôi. Trong những biển nhỏ, như chúng ta biết, những trận bảo lớn và thình lình có thể được tháo xích
Ai không biết một số những trận bảo này, khi tất cả ra tối tăm và con thuyền nhỏ sự sống chúng ta bắt đầu đầy nước tứ phía, đang khi Chúa xem ra vắng mặt hay ngủ thiếp. Một sự chẩn đoán báo động của bác sĩ, và hết sức thình lình chúng ta đang ở trên cao đỉnh cơn bảo.
Phải làm gì? Chúng ta có thể bám vào cái gì và chúng ta phải thả neo phía nào? Chúa Giêsu không cho chúng ta phương pháp ma thuật để trốn thoát mọi cơn bảo. Người không hứa với chúng ta là chúng ta sẽ tránh khỏi mọi sự khó khăn. Tuy nhiên, Người đã hứa ban cho chúng ta sức mạnh để vượt thắng chúng nếu chúng ta xin Chúa cho phép như vậy.
Thánh Phaolo nói với chúng ta về một vấn đề nghiêm chỉnh ngài phải đối mặt trong cuộc sống của ngài, mà ngài gọi là “một cái dầm trong thân xác tôi,” “Ba lần”—nghĩa là, vô số lần—ngài nói ngài xin Chúa giải thoát ngài khỏi nỗi khổ này, và Chúa đã trả lời ngài ra sao?
Chúng ta hãy đọc chung câu này: “Ơn của Thầy đã đủ cho coni, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.”
Từ ngày đó, ngài nói với chúng ta, ngài rất tự hào vì những yếu đuối, nhửng cơn bắt bớ và những nổi âu lo của mình, đến độ có thể nói: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Co 12:7-10).
Sự tin tưởng vào Chúa: Đó là sứ điệp của Tin Mừng. Trong ngày đó điều đã cứu sống các môn đệ khỏi đắm thuyền là hành vi rước Chúa Giêsu trong thuyền, trước khi khởi sự vượt biển.
Đối với chúng ta đó cũng là sự bảo đảm tốt nhất chống lại những cơn bảo sự sống: đưa Chúa Giêsu đi với chúng ta. Những phương tiện rước Chúa Giêsu xuống thuyền của sự sống chúng ta và của gia đình chúng ta là đức tin, sự cầu nguyện và sự tuân giữ các điều răn.
Khi một cơn bảo tung hoành trong biển, ít nhất trong quá khứ, những người thủy thủ có thói quen đổ dầu trên sống để làm yên lặng chúng. Trong những đợt sóng sợ hải và âu lo chúng ta phải đổ sự tin tưởng vào Chúa.
Thánh Pherô khuyên những Kitô hữu đầu tiên tin tưởng vào Chúa trong những cơn bắt bớ, ngài nói: “Mọi âu lo hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1 Pt 5:7). Sự thiếu đức tin của các môn đệ mà Chúa Giêsu quở trách trong dịp này là do sự kiện các ông nghi ngờ Người “quan tâm” về mạng sống và sự an toàn của các ông: “ Thưa thầy chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?”
Thiên Chúa chăm sóc đến chúng ta, người quan tâm về mạng sống chúng ta! Một giai thoại thường được trưng dẫn nói về một người có một giấc mơ. Ông thấy hai cặp dấu chân in trong cát sa mạc và ông hiểu một cặp vết chân là của mình và cặp kia là của Chúa Giêsu, Đấng đi bên mình.
Tới một lúc, một cặp vết chân biến mất, và ông ấy hiểu rằng sự đó đã xảy ra đúng lúc cuộc sống của ông gặp khó khăn.
Lúc đó ông phàn nàn với Chúa kitô, đã để ông một mình trong lúc thử thách. “Nhưng, Ta đã ở với con!” Chúa Giêsu trả lời.
“Làm sao được việc Chúa ở với con, khi chỉ có một cặp vết chân trong cát?” người đó nói.
“Đó là những vết chân của Ta,” Chúa Gêsu trả lời. “Trong những lúc đó, Ta vác con trên vai Ta.”
Chúng ta hãy nhớ điều này khi chúng ta cảm thấy cơn cám dỗ phàn nàn với Chúa là Chúa bỏ chúng ta một mình.
Sau khi kết thúc những loạt bài giảng về các dụ ngôn, Chúa Giêsu cùng với các tông đồ rời bỏ ven biển hồ Galilê lên thuyền đi sang “bờ bên kia”. “Bờ bên kia” chính là thành Gêrasa. Đây là vùng có đông dân cư là người ngoại. Trong khi thuyền đang lướt sóng, thì bổng chốc “một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước”. Thấy cảnh tượng đó, Thánh Phêrô sợ hãi, đánh thức Chúa dậy: "Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? ". Chúa Giêsu chổi dậy, chỉ phán một lời “Im đi, câm đi”. Gió liền tắt, biển lặng như tờ.
Phép lạ này cho chúng ta thấy quyền phép của Chúa Giêsu. Ngài chính là Thiên Chúa. Vì chỉ có Thiên Chúa mới truyền cho gió yên, biển lặng. Con người bình thường không thể làm được điều đó. Phép lạ này cũng kêu mời chúng ta tin tưởng phó thác vào Chúa, nhất là khi gặp thử thách gian nan.
Tại sao Chúa trách các tông đồ chưa có lòng tin? Theo tin mừng Marcô, trước biến cố này, các tông đồ đã từng chứng kiến nhiều phép lạ Chúa Giêsu làm. Phép lạ Chúa Giêsu chữa lành một người bị quỷ ám (Mc 1,21-28). Phép lạ Chúa Giêsu chữa nhạc mẫu ông Simon(Mc 1,29-31). Phép lạ Chúa Giêsu còn chữa cho nhiều người (Mc 1,32-34). Phép lạ Chúa Giêsu chữa người bị phong hủi (Mc 1,41-45). Phép lạ Chúa Giêsu chữa người bị bại liệt (Mc 2,1-12). Phép lạ Chúa Giêsu chữa người bị bại tay (Mc 3,1-6). Chứng kiến nhiều phép lạ như thế, đáng lẽ các tông đồ phải tin tưởng vào Chúa. Các ông không lo sợ khi có Chúa ở cùng. Nhưng các ông vẫn lo sợ, chứng tỏ các ông chưa có lòng tin. Các ông vẫn chưa tin vào quyền năng của Chúa. Cho nên, Chúa trách các ông “chưa có lòng tin”. Dẫu sao, sau khi phép lạ xảy ra, các ông xác tín hơn niềm tin của mình vào Chúa Giêsu. Bằng chứng là các ông hỏi nhau: "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?". Hỏi tức là trả lời. Chỉ có Chúa là Thiên Chúa mới có thể làm được điều đó.
Qua đó cho chúng ta thấy, tuyên xưng đức tin khi bình an, sau khi chứng kiến phép lạ thì rất dễ. Nhưng tuyên xưng đức tin trong đau khổ, trong khi gặp hoạn nạn rủi ro thì không dễ chút nào.
Hội Thánh như con thuyền vượt biển thế gian, luôn gặp sóng to gió lớn là sức chống phá của ma quỷ và tay sai của chúng. Nhìn lại lịch sử Giáo hội chúng ta thấy rõ điều đó. Sự bách hại Giáo hội thời sơ khai. Sự bách hại Giáo hội khắp mọi nơi qua mọi thời đại. Sự bách hại Giáo hội Việt Nam trong thời kỳ đầu. Tuy vậy, Giáo Hội luôn đứng vững và phát triển. Bởi vì, Giáo Hội là của Chúa. Chúa luôn can thiệp và đồng hành với Giáo Hội.
Gia đình, bản thân mỗi kitô hữu chúng ta cũng giống như con thuyền vượt biển thế gian. Có những lúc bình an. Có những lúc gặp sóng to gió lớn. Thử thách về đức tin. Thử thách về đời sống gia đình. Chúng ta có vượt qua được “những cơn cuồng phong” hay không là tuỳ thuộc vào chúng ta. Nghĩa là, trong thử thách, đau khổ, hoạn nạn rủi ro, chúng ta có cầu xin Chúa cứu giúp chúng ta không? Chúng ta có tin tưởng vào quyền năng của Chúa không? Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức riêng của mình, hay dựa vào một thế lực khác ngoài Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ thất bại. Còn nếu chúng ta biết cậy dựa vào Chúa, tin tưởng phó thác vào Chúa chúng ta sẽ được Chúa cứu giúp. Mặc dầu có những lúc chúng ta cảm thấy như Chúa đang ngủ.
Có một người nọ ví cuộc đời của mình như một người lữ hành đang đi trên một bãi biển đầy cát. Khi nhìn lại cuộc hành trình, anh nhận ra hai điều kỳ lạ.
- Khi anh thành công, hạnh phúc, vui sướng… anh thấy có bốn dấu chân trên cát. Đó là hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Thiên Chúa đồng hành để chia sẻ niềm vui với anh.
- Khi anh thất bại, đau khổ, buồn sầu…anh chỉ thấy có hai dấu chân trên cát. Và anh nghĩ đó là hai dấu chân của mình. Thiên Chúa đã bỏ rơi khi anh thất bại. Thiên Chúa đã vắng bóng khi anh đau khổ.
Sau đó, anh thắc mắc với Chúa: “Khi con thành công, hạnh phúc…Chúa lại đồng hành với con, đi với con…Nhưng khi con thất bại, đau khổ…những lúc con cần Chúa nhất thì Chúa lại bỏ rơi con. Tại sao Chúa lại đối xử với con như thế?”. Chúa Giêsu trả lời: “Khi con vui thì Ta đi bên cạnh con, đi với con, song hành cùng con. Còn khi con buồn, đau khổ, thất vọng thì Ta lại vác con trên vai của Ta. Cho nên dấu chân trên cát là của Ta chứ không phải của con”.
Ngày kia, sau khi đã thoát khỏi sự cám dỗ nặng nề Thánh nữ Cartarina Sienna đã hỏi Chúa:
- Lạy Chúa, Chúa ở đâu khi con phải chiến đấu. Chúa Giêsu đã trả lời:
- Ta ở bên cạnh con để giúp đỡ con.
Lạy Chúa, Chúa luôn ở bên cạnh chúng con, đồng hành với chúng con trên mọi nẻo đường trần thế. Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng con. Chúa luôn cứu giúp chúng con trong cơn gian nan khốn khó. Chúng con hết lòng cám ơn Chúa. Xin cho chúng con hằng tin cậy phó thác vào quyền năng vô cùng của Chúa. Amen.
Đời người là một cuộc hành trình lâu dài và khó khăn, bởi vì cuộc đời con người không phải lúc nào cũng xuôi chảy,có lúc giống như mặt nước êm ả, chảy trôi nhưng có lúc không thiếu giông ba bão táp…Với ngòi bút thật linh động của thánh Marcô, thánh sử mô tả một cơn bão tố trên biển hồ Tibêriat hay gió mênh mông, thổi mạnh vào những buổi chiều trong thung lũng sông Giorđăn. Dân chúng đi theo Chúa, nghe Chúa giảng dạy và khi họ được Chúa làm phép lạ nuôi họ, Ngài giải tán dân chúng và ra lệnh cho các môn đệ qua bờ bên kia để nghỉ ngơi một chút…
Chúa lên thuyền bởi vì mệt mỏi sau một ngày giảng dạy không ngơi nghỉ, Ngài xuống cuối mạn thuyền và nằm ngủ. Các môn đệ vẫn cần mẫn chèo thuyền để qua phía kia biển hồ…Các môn đệ đâu có tưởng được bỗng dưng gió thổi mạnh, sóng dâng cao…nước vào đầy thuyền,các môn đệ vẫn tay chèo, tay tát nước. Thế mà, Chúa vẫn ngủ say như không hề để ý gì đến cơn lốc, cơn bão táp. Thực tế, Chúa Giêsu muốn đưa các môn đệ của Người đi trên biển hồ mênh mông, giữa bão táp, sóng to, gió lớn, là để cho các môn đệ thấy trước những bão tố trong cuộc đời sau này sẽ xẩy đến cho các môn đệ là những thử thách, gian nan như bắt bớ, bách hại, tù đầy, hy sinh cả mạng sống mà các môn đệ sẽ gặp phải trên đường loan báo Tin Mừng. Các môn đệ sẽ phải đối diện với nhiều thử thách trên đường truyền giáo. Họ sẽ lèo lái con thuyền Giáo Hội và Giáo Hội sẽ gặp nhiều thử thách, các môn đệ và các tông đồ phải kiên trì, can đảm, mạnh mẽ chống đỡ.Cái trớ trêu là khi Chúa Giêsu đang có mặt, các môn đệ vẫn lo âu, sợ sệt, phải chăng các ngài chưa tin tưởng vào Chúa ? Chúa Giêsu nói tại sao các con sợ sệt ? Sợ sệt đang lúc Chúa đang có mặt chung trong con thuyền ? Sợ như thế thật vô lý ! Chúa muốn, Chúa đòi hỏi các môn đệ không được sợ, không được khiếp đảm! Chúa Giêsu đã làm biết bao phép lạ trước mặt các môn đệ ! Tại sao các môn đệ lại cuống cuồng lên như thế ? Nếu các ngài có lòng tin, chắc chắn các ngài không sợ sệt như thế ! Các môn đệ chỉ hoàn hồn khi Chúa truyền cho biển im, gió lặng…Đức tin chỉ hình thành khi con người phó thác và hiểu quyền năng của Chúa Giêsu.
Vâng, phép lạ Chúa Giêsu làm cho sóng to, gió lớn, biển động im lặng giúp chúng ta hiểu được rắng Giáo Hội trải qua thời gian trong lịch sử, đã gặp biết bao thử thách, đã gặp biết bao sóng to, gió lớn. Tuy nhiên, con thuyền Giáo Hội, cầm đầu là các Đức Giáo Hoàng, đứng đầu là Phêrô, đã vượt qua
Đối với chúng ta, cuộc đời mỗi người là một cuộc hành trình đầy sóng gió, có lúc đức tin chúng ta vững, nhưng cũng cói lúc đức tin chúng ta yếu, không vững vàng. Có lúc chúng ta như thấy Chúa đang hiện diện với ta, nhưng cũng có lúc xem ra chúng ta không còn thấy Chúa nữa. Những lúc đó đức tin của chúng ta thực yếu, thực mệt mỏi, chúng ta như muốn buông xuôi tất cả. Trong những lúc như thế, chúng ta phải bắt chước các môn đệ, đến với Chúa Giêsu, xin Ngài cứu giúp vì Ngài đã hứa:” Ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế “.
Xin mượn lời Cha Christophe Husson,A.a. để kết luận bài chia sẻ này:” …Con thuyền cũng là Giáo Hội của chúng ta, mà chúng ta là thành phần liên đới.Thuyền lướt êm trên biển lặng và thuyền quay cuồng muốn lật úp dưới sóng gió hung tàn. Chúng ta đều thấy rõ, dù là tín hữu, cuộc đời không nhân nhượng với chúng ta, nhưng giữa những thử thách của niềm tin, chúng ta phải giữ vững mũi tàu trong niềm hy vọng, chỉ đơn giản vì Thiên Chúa đang nắm giữ mũi tàu của chúng ta:” Tại sao các con lại sợ ? “.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con vững mạnh, can đảm lướt thắng những thử thách, khó khăn vì tin rằng Chúa đang hiện diện với chúng con. Amen.
(c 35) Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: Chúng ta sang bờ bên kia đi !” (36) Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền. Có những thuyền khác cũng theo Người. (37) Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền đến nỗi thuyền đầy nước. (38) Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao ?” (39) Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi ! Câm đi !” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. (40) Rồi Người bảo các ông: ”Sao nhát thế ? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin ?” (41) Các ông hoảng sợ và nói với nhau:”Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ?”
2.Ý CHÍNH:
Đức Giê-su chứng tỏ quyền năng của Người trên gió và biển, tượng trưng cho những thế lực của ma: TN12 B-70 Đalat
Đức Giê-su chứng tỏ quyền năng của Người trên gió và biển, tượng trưng cho những thế lực của ma quỉ muốn chống lại Thiên Chúa. Người đã dùng lời quyền năng dẹp yên sóng gió để củng cố đức tin yếu kém của các môn đệ. Đồng thời cũng để các ông vững tin khi gặp phải những cơn thử thách bách hại sau này.
3.CHÚ THÍCH:
-C 35-36: +Chúng ta sang bờ bên kia đi": Biển hồ ở đây là hồ Galilê, cũng có tên Giê-nê-sa-rét hay Ti-nê-ri-a. Đây là một các hồ lớn nằm bên trong đất liền xứ Ga-li-lê, dài 21 km và rộng 13 Km. Hồ thấp hơn mặt biển 210 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng thương hay có những trận cuồng phong. Biển hồ theo nghĩa của Thánh Kinh là một thế lực gian ác chống lại Thiên Chúa và con người. Đức Giê-su đã làm nhiều phép lạ tại vùng biển hồ này như: Hóa bánh ra nhiều (x Mt 14,14-31); Đi trên mặt nước (x Mt 14,25); Chữa nhiều bệnh nhân (x Mt 15,29-31); Hiện ra sau khi sống lại (x Ga 21,1); Mẻ cá lạ lùng (x Ga 21,4-8).
-C 37-38: +Và một cơn cuồng phong nổi lên: Cơn cuồng phong đe doạ sẽ nhấn chìm thuyền của các Tông đồ xuống lòng biển, tiên báo những nguy hiểm thử thách mà Hội Thánh sẽ phải trải qua. +Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ: Trong khi chiếc thuyền và những người trên thuyền lâm nguy vì bị bão tố trù dập thì Đức Giê-su vẫn nằm ngủ để thử thách đức tin của các môn đệ. Giấc ngủi còn là hình ảnh ám chỉ về sự chết của Người sau này (x Tv 13, 4; Ep 5, 14).. +Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao ?”: Các môn đệ đánh thức để kêu cầu Đức Giệ-su cứu giúp trong cơn nguy hiểm. Câu này cũng chứng tỏ lòng tin yếu kém của các ông. Các môn đệ hốt hoảng khi thấy thuyền của các ông sắp bị chìm đắm giữa biển khơi mà xem ra thầy các ông vẫn không hề hay biết để có phản ứng phù hợp.
-C 39-41: +Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi ! Câm đi !”: Đức Giê-su bày tỏ uy quyền trên cơn gió bão và biển động. Khi ra lệnh cho ai là chứng tỏ mình có quyền trên người đó. Khi truyền cho sóng gió yên lặng, Đức Giê-su chứng tỏ quyền năng trấn áp thế lực của ma quỷ gian ác. +Lập tức gió ngưng biển lặng: Qua đó cho thấy sự dữ đã phải tùng phục uy quyền của Con Thiên Chúa. +”Sao nhát thế ? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin ?: Đức Giê-su quở trách sự hèn tin của các môn đệ như nhiều lần Người cũng đã trách các ông chậm tin: “Hỡi những kẻ ngu muội và trí lòng chậm tin”(Lc 24, 25); “Người quở mắng sự cứng tin chai đá của họ, bởi họ không tin những kẻ đã thấy Người sống lại” (Mc 16,14). +Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ?: Các môn đệ ngạc nhiên và đầy lòng thán phục Đức Giê-su, khi họ được chứng kiến lời uy quyền của Người trên thiên nhiên là gió và biển.
4.CÂU HỎI:
1) Biển hồ Ga-li-lê còn có những tên gọi nào? Dài rộng bao nhiêu? 2) Đức Giê-su đã làm các phép lạ nào tại vùng biển hồ này? 3) Cơn cuồng phong tượng trưng cho điều gì ? 4-Đức Giê-su ngủ ở đàng lái trong khi cuồng phong nổi lên nhằm mục đích gì? 5) Hành động đánh thức Đức Giê-su nói lên điều gì về đức tin của các môn đệ? 6) Đức Giê-su bày tỏ quyền năng Con Thiên Chúa qua lời nói và hành động nào? 7) Ngoài lần này, Đức Giê-su còn trách thái độ yếu đức tin của các môn đệ trong trường hợp nào khác nữa không? 8) Các môn đệ đã biểu lộ đức tin thế nào sau khi chứng kiến phép lạ Đức Giê-su dẹp yên bão tố?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Môn đệ liền nói:”Người là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh ?” (Mc 4,41).
2. CÂU CHUYỆN:
1) SỨC MẠNH CỦA LÒNG CẬY TIN:
Trên một chuyến đi biển kia có một nhà truyền giáo tên là GIOÓC-DƠ MU-LƠ ở BỜ-RAI-TƠN, dự định sẽ đến nhà thờ lớn ở QUÊ-BÉC giảng đạo vào chiều thứ Bảy cuối tuần. Nhưng do có sương mù quá dầy khiến vị thuyền trưởng phải cho tàu chạy chậm lại và như thế chắc sẽ làm cho nhà truyền giáo phải đến trễ. Bấy giờ nhà truyền giáo mới nói với viên thuyền trưởng là mình có cách sớm làm tan làn sương mù kia đi. Thuyền trưởng nghĩ ông này bị mát dây thần kinh nên không thèm để ý tới lời nói ấy. Bấy giờ nhà truyền giáo liền yêu cầu thuyền trưởng cùng quỳ gối cầu nguyện với mình. Nói xong ông ta quỳ gối xuống dâng lời cầu nguyện thật sốt sắng, đang khi thuyền trưởng chỉ đứng nhìn với con mắt khinh thường. Chờ cho nhà truyền giáo cầu nguyện xong, vị thuyền trưởng liền nói: “Ngài có biết độ dày của sương mù kia đến cỡ nào không ?”. Nhà truyền giáo trả lời:”Không. Nhưng tôi không nhìn vào sương mù. Tôi chỉ nhìn vào Đấng dựng nên sương mù kia thôi”. Nghe thế, thuyền trưởng định quỳ gối xuống cầu nguyện thì nhà truyền giáo đã ngăn lại và nói: “Nếu lòng ông không tin thì cầu nguyện đâu có ích gì ? Hơn nữa, tôi tin chắc Chúa đã nhận lời cầu của tôi rồi nên ông chẳng cần phải cầu xin thêm làm chi ! Tôi đã tin nhận Chúa được 57 năm rồi, và trong suốt thời gian đó không ngày nào mà tôi không thưa chuyện với Người. Bây giờ ông hãy mở cửa ra mà xem việc Chúa làm”. Quả nhiên khi mở cửa ra thì thuyền trưởng thấy làn sương mù dày đặc trước đó đã tan biến hết, con tàu lại tiếp tục tăng tốc và cuối cùng đã cập bến đúng theo lịch trình.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy đức tin mạnh mẽ của nhà truyền giáo. Chính Chúa Giêsu đã luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha và hoàn toàn tín thác cậy trông nơi Cha. Ngày nay, vì thiếu lòng tin nên người ta coi thường việc cầu nguyện. Mỗi khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn hay gặp gian nan thử thách, người ta chỉ biết dựa vào sức riêng mình, đang khi lẽ ra vừa phải xin Chúa ban ơn soi sáng để tìm ra giải pháp tốt nhất, lại vừa phải cố gắng làm hết sức để giải quyết các khó khăn ấy theo hướng tích cực nhất.
2) LUÔN TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA:
Một viên sĩ quan người Anh cùng vợ con xuống tầu đi tới nước Ấn Độ mà ông được cấp trên trao phó nhiệm vụ phải thi hành. Đang lênh đênh trên biển Đại Tây Dương vào ngày thư năm thì một cơn giông bão khủng khiếp sắp ập tới. Mọi hành khách trên tầu đều cuống cuồng lo sợ, nhất là bà vợ của một viên sĩ quan này. Khi bà thấy chồng vẫn tỏ ra bình thản thì bà bực bội và trách ông đã không quan tâm đến nỗi lo lắng sợ hãi của vợ con. Viên sĩ quan liền ra khỏi phòng một lát rồi khi quay lại, ông rút cây kiếm ra khỏi vỏ đeo bên người và dí kiếm vào ngực của vợ. Bà vợ thấy vậy lúc đầu hơi tái mặt, nhưng ngay sau đó bà lại phá lên cười. Viên sĩ quan liền hỏi:
- Thấy mũi kiếm sắp đâm vào ngực mà em không sợ lại còn cười được hay sao? - Việc gì em phải sợ? Em biết là anh luôn yêu thương em mà.
- Thế tại sao em lại bắt anh phải sợ hãi khi anh biết Thiên Chúa hằng yêu thương chúng ta? Và cơn bão này vẫn đang nằm trong bàn tay quyền năng của Ngài?
3. THẢO LUẬN:
1) Một người có đức tin vững mạnh thì có còn bị thất bại hay có gặp phải những sự gian nan khốn khó trong cuộc đời hay không?
2) Khi gặp gian nan thử thách, các tín hữu chúng ta phải làm gì để chứng tỏ đức tin vững mạnh của mình ?
4. SUY NIỆM:
Tin Mừng thuật lại cảnh tượng xảy ra trên biển hồ Ga-li-lê: Bấy giờ Đức Giêsu đang ngủ vì mỏi mệt sau khi đã ngồi trên thuyền mà giảng dạy dân chúng. Tuy các môn đệ phần lớn đều là ngư phủ chuyên nghiệp, nhưng khi thấy sóng gió nổi lên có nguy cơ lật thuyền, nên các ông đều mang tâm trạng hoảng loạn.
1) “Chết đến nơi rồi mà Thầy không lo gì sao?”:
Câu nói biểu lộ sự kinh hãi tột độ và hàm ý trách móc Thầy đã không quan tâm trợ giúp khi các môn đệ gặp phải nguy nan. Ngày nay có thể chúng ta cũng có tư tưởng này mỗi khi bị cơn bão cuộc đời vùi dập. Từ khi theo đạo, chúng ta thường nghĩ sẽ đương nhiên được Chúa ban ơn phù giúp khỏi mọi tai nạn đau khổ và coi đó là trách nhiệm của Chúa phải làm cho chúng ta, đang khi lẽ ra chúng ta phải luôn tin cậy phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng, dù gặp phải bất cứ khó khăn thử thách nào. 2) Chúa vẫn đang ngủ trong con thuyền lòng chúng ta trong cơn bão tố:
Nên nhớ rằng: Khi theo đạo chúng ta cũng vẫn phải nằm trong quy luật tự nhiên co Thiên Chúa đã an bài. Do đó, ngay trong lúc chúng ta đang sốt sắng tin yêu kết hiệp mật thiết với Chúa, thì giông tố cuộc đời vẫn có thể xảy ra. Khi theo đạo, Chúa không hứa ban cho chúng ta một cuộc sống dễ dãi ở đời này, nhưng Người đòi chúng ta vẫn phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt, sẵn sàng chịu bách hại vì danh Chúa… Nhưng nên ý thức rằng: Khi chúng ta có đức tin, thì Chúa vẫn luôn ở trong chúng ta mọi lúc mọi nơi. Bão tố là cơ hội để chúng ta thể hiện đức tin của chúng ta ra sao: Thật hay giả, mạnh hay yếu… Bão tố tai nạn là dịp để chúng ta biết tín thác cậy trông vào quyền năng của Chúa, là cơ hội để chúng ta lập công đền tội, hầu xứng đáng hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa ở đời sau.
3) Gió liền tắt và biển lặng như tờ: Khi tin theo Chúa, Chúa không hứa sẽ cất đi những tai ương hoạn nạn mà Người chỉ hứa ban ơn phù giúp cho chúng ta để giúp chúng ta dễ dàng vượt qua các cơn hoạn nạn thử thách với một tâm hồn bình an: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).
4) Chúng tôi phải làm gì ?:
-Khi sự chết đến như nó phải đến: Chúng ta hãy tin rằng Chúa sẽ biến đổi bóng tối của sự chết thành ánh sáng phục sinh vĩnh cửu. Người sẽ giúp chúng ta tin cậy vào tình yêu vô biên của Người. Chằng hạn khi chứng kiến cha mẹ, chồng vợ hay con cái chết, nhờ có đức tin, chúng ta sẽ không quá buồn sầu, vì ý thức rằng: Chết là một quy luật không ai tránh được, nhưng chết đi không phải là hết, mà ai chết trong Chúa sẽ được vượt qua sự chết để vào cõi sống vĩnh hằng như Đức Giê-su đã chết và dã sống lại. Chúng ta sẽ an tâm và hy vọng mai ngày sẽ được gặp lại người thân của chúng ta trên Nước Trời hằng sống.
-Khi gặp một hoàn cảnh khó khăn nan giải trong cuộc sống: Chúng ta hãy thưa với Chúa với lòng tín thác cậy trông: “Lạy Chúa Giê-su, nếu Chúa ở trong hoàn cảnh của con bây giờ thì Chúa sẽ làm gì ?” hoặc: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì t5rong hoàn cảnh này?” Bấy giờ Chúa sẽ nói trong lòng chúng ta để dạy chúng ta biết chúng ta phải làm gì? Và chúng ta sẽ thưa như Chúa Giêsu xưa: "Lạy Cha, này con xin đến để thi hành thánh ý Cha" (x. Dt 10,7).
-Khi gặp cơn lo âu bối rối cho tương lai: Khi chúng ta không biết con cái mình sau này sẽ ra sao… Bấy giờ chúng ta hãy ý thức về lòng nhân từ bao dung của Thiên Chúa để luôn cậy trông phó thác mọi sự xảy đến trong tương lai cho Chúa quan phòng. Ngài luôn muốn cho chúng ta được hạnh phúc và hằng ban ơn giúp chúng ta tìm ra con đường tốt nhất phải đi để chúng ta sẽ được hưởng ơn cứu độ ở đời sau.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con luôn tin vào tình thương quan phòng của Chúa Cha. Cho chúng con biết sử dụng những ơn lành Chúa ban để giải quyết những trở ngại gặp phải trên đường đời. Mỗi khi gặp phải điều trái ý, xin cho chúng con biết cầu nguyện như Chúa khi xưa: “Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng đừng theo ý riêng con, một xin vâng ý Cha” (Mt 26,39). Xin cho chúng con vừa làm việc, lại vừa biết cầu xin ơn Chúa trợ giúp và phó thác cuộc sống trong tay Chúa như lời Thánh vịnh: “Chúa khoan nhân là Mục tử tôi. Tôi không còn thiếu gì. Tôi không còn e sợ nỗi gì” (x. Tv 22). Xin cho con năng dâng lời cảm tạ Chúa vì muôn ơn lành Chúa đã thương ban. Xin cho con noi gương Mẹ Ma-ri-a dâng lời ngợi khen cảm tạ tình thương cứu độ của Thiên Chúa, vì Ngài đã làm cho con biết bao điều lớn lao kỳ diệu: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa” (x Lc 1,46-55).
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 4:35-41)
Con thuyền trên biển cả là hình ảnh thường được sử dụng để ám chỉ Giáo Hội, hoặc gia đình hay: TN12 B-71
Con thuyền trên biển cả là hình ảnh thường được sử dụng để ám chỉ Giáo Hội, hoặc gia đình hay cuộc đời của một người. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay xảy ra trong một con thuyền và trên biển hồ Ga-li-lê. Thánh Mác-cô nói ít, nhưng có lẽ chúng ta thử dùng óc tưởng tượng để làm sống lại biến cố Chúa truyền cho sóng gió yên lặng, và có thể áp dụng phép lạ vào chính cuộc đời chúng ta, để củng cố niềm tin Chúa luôn ở cùng chúng ta trong mọi hoàn cảnh.
Chiều hôm ấy, sau khi giảng dạy dân chúng, Chúa Giê-su cùng các môn đệ đi thuyền sang bờ bên kia biển hồ. Chắc là Thầy trò muốn tìm một chỗ vắng vẻ để nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc, nhưng dân chúng chẳng để các ngài yên, vì “những thuyền khác cùng theo Người”. Cả một đoàn thuyền nối đuôi nhau, chẳng ai nghĩ sẽ có điều gì xảy ra. Tuy biển hồ không lớn lắm, nhưng đôi khi lại có những luồng gió mạnh bất ngờ làm cho mặt hồ nổi sóng lớn. Trận cuồng phong chiều nay mạnh lắm, nên dù những bạn chài kinh nghiệm lão luyện như Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đã cố gắng chèo chống, nhưng “sóng vẫn ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước”. Vậy mà trong khi đó, “Chúa Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ”. Có người nghĩ là Chúa giả vờ ngủ! Không đâu, Người ngủ thật đấy, vì Người quá mệt và các môn đệ phải đánh thức Người dậy. Các ông hốt hoảng nói với Chúa: “Chúng ta chết mất!”, rồi còn trách Chúa: “Thầy chẳng lo gì sao?” Chúa thức dậy ngay, rồi lập tức truyền cho sóng gió im lặng và chúng đã im lặng như tờ. Phản ứng của các môn đệ trước phép lạ là sợ hãi kinh hoàng. Ít phút trước đây các ông sợ hãi sóng gió, bây giờ các ông kinh ngạc hỏi nhau về Chúa: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” Chúa Giê-su là ai? Câu trả lời cho câu hỏi này cũng là câu trả lời Chúa đã nói cho ông Gióp biết (bài đọc thứ nhất). Phải, Chúa Giê-su chính là Đấng đã “ra tay khép lại cửa đại dương”, Đấng đã phán với sóng biển: “Ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa, đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” Nói khác đi, Chúa Giê-su là Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài muôn vật.
Chúa Giê-su là chính Thiên Chúa. Nhưng một điều nữa cũng quan trọng không kém, đó là Người luôn hiện diện giữa chúng ta. Sự có mặt của Chúa ở trên thuyền với các môn đệ là hình ảnh nói lên chân lý ấy. Hơn nữa, Chúa Giê-su còn “đang ở đàng lái”, để sẵn sàng lèo lái con thuyền Giáo Hội, hoặc con thuyền cuộc đời mỗi người chúng ta. Liệu chúng ta có ý thức sự hiện diện của Người hay không mới là vấn đề, bởi vì Người đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mát-thêu 28:20).
Sống sứ điệp Tin Mừng
Giống như các môn đệ và dân chúng trong những thuyền khác cùng đi với Chúa “sang bờ bên kia”, chúng ta cũng từ bến tạm đời này để sang bờ bên kia là nhà Cha trên trời. Chúa Cha đang chờ đợi con cái Người đến, dưới sự dẫn dắt và che chở của Con Một Người là Thuyền Trưởng Giê-su. Trong hành trình vượt biển trần gian này, chúng ta đôi khi sợ hãi vì những cơn sóng gió, cuồng phong, có khi nước ập vào thuyền và thuyền sắp chìm. Nhưng Chúa vẫn hiện diện bên cạnh chúng ta, nhất là Người đang ở đàng lái, rồi “gió và biển cũng tuân lệnh Ngài” nữa. Vững tin như vậy, chúng ta có thể đáp lời tác giả Thánh Vịnh kêu gọi mà cảm tạ Chúa rằng: “Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa,
Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân, đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng, sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng, họ vui sướng vì trời yên bể lặng và Chúa đưa về bờ bến mong chờ. Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần” (Thánh Vịnh 107:28-31) Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Chúa Giê-su vừa trải qua một ngày dài và mệt mỏi. Khi trời tối, ngài bảo các môn đồ: “Chúng ta hãy TN12 B-72
Chúa Giê-su vừa trải qua một ngày dài và mệt mỏi. Khi trời tối, ngài bảo các môn đồ: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia”, tức là bờ bên kia vùng Ca-bê-na-um.—Mác 4:35.
Bờ đông của biển Ga-li-lê là vùng Giê-ra-sa. Vùng này cũng được biết đến là Đê-ca-bô-li. Các thành trong vùng Đê-ca-bô-li là trung tâm văn hóa Hy Lạp, dù cũng có nhiều người Do Thái sống ở đó.
Nhiều người thấy Chúa Giê-su rời khỏi Ca-bê-na-um; cũng có mấy thuyền khác cùng đi với ngài (Mác 4:36). Đây chỉ là một chuyến đi ngắn vì thật ra biển Ga-li-lê giống như một hồ nước ngọt lớn, với chiều dài khoảng 21km và chỗ rộng nhất khoảng 12km, nhưng đáy hồ thì sâu.
Dù là người hoàn hảo, Chúa Giê-su vẫn cảm thấy mệt mỏi sau khi tích cực làm thánh chức. Vì thế, khi họ giong buồm ra khơi, ngài xuống phía sau thuyền và tựa gối nằm ngủ.
Nhiều sứ đồ có khả năng chèo thuyền giỏi, nhưng đây không phải là chuyến đi dễ dàng. Xung quanh biển Ga-li-lê có nhiều núi và mặt biển thường khá ấm. Đôi khi khí lạnh từ núi tràn xuống, gặp khí nóng dưới mặt biển thì bất ngờ tạo nên cơn bão gió dữ dội. Đó là điều đang xảy ra. Các ngọn sóng đánh vào mạn thuyền khiến “nước tràn vào thuyền, rất nguy hiểm” (Lu-ca 8:23). Nhưng Chúa Giê-su vẫn ngủ say!
Những người chèo thuyền gắng sức lèo lái bằng kinh nghiệm vượt bão trước đây. Nhưng lần này thì khác. Hoảng hốt khi tính mạng bị đe dọa, họ đánh thức Chúa Giê-su và kêu lên: “Chúa ơi, cứu với, chúng ta sắp chết rồi!” (Ma-thi-ơ 8:25). Các môn đồ sợ sẽ bị chết chìm! Khi thức giấc, Chúa Giê-su nói: “Sao anh em sợ đến thế, hỡi những người ít đức tin?” (Ma-thi-ơ 8:26). Rồi ngài ra lệnh cho gió và biển: “Suỵt! Yên lặng đi!” (Mác 4:39). Gió lớn liền ngừng, còn biển lặng như tờ. (Cả Mác và Lu-ca đều tường thuật sự kiện đầy ấn tượng này. Trước hết, họ nhấn mạnh việc Chúa Giê-su làm yên bão tố một cách kỳ diệu và sau đó nói đến việc các môn đồ thiếu đức tin).
Hãy hình dung điều này tác động ra sao đến các môn đồ! Họ vừa chứng kiến biển đang cuồn cuộn bão tố bỗng lặng như tờ. Sự khiếp sợ bao trùm lấy họ. Họ nói với nhau: “Thật ra người này là ai? Ngay cả gió và biển cũng vâng lệnh người”. Họ sang đến bờ bên kia an toàn (Mác 4:41–5:1). Còn những thuyền khác có lẽ đã quay lại bờ tây.
Chúng ta thật vững lòng khi biết Con Đức Chúa Trời có quyền năng kiểm soát các lực thiên nhiên! Khi Chúa Giê-su hoàn toàn chú tâm đến trái đất trong triều đại của ngài, nhân loại sẽ được sống yên ổn, không còn lo sợ tai ương!
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay kể lại phép lạ Chúa Giêsu làm cho sóng gió yên lặng. Sự việc được diễn TN12 B-73 Luong
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay kể lại phép lạ Chúa Giêsu làm cho sóng gió yên lặng.
Sự việc được diễn ra trên mặt hồ Giênêgiarét. Đây là một hồ rất sâu, như một lòng chảo giữa những rặng núi cao bao quanh, gió lốc thổi ùa xuống làm cho mặt hồ nổi sóng rất chóng, nhưng đồng thời cũng rất mau trở lại trạng thái bình thường.
Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy có một sự tương phản giữa cảnh trí thiên nhiên và thái độ của Chúa Giêsu. Trong khi thiên nhiên nổi cơn thịnh nộ, sóng nước ùa vào thuyền, khiến cho các tông đồ phải hết sức chống đỡ trong lo sợ tưởng chừng như cái chết đã kề bên: Thưa Thầy, chúng con chết mất. Còn Chúa Giêsu thì lại đang ngủ một cách ngon lành ngay trên con thuyền bị tròng trành vì sóng nước.
Thế nhưng chúng ta không thể nghĩ rằng Chúa Giêsu đã thờ ơ trước những gì xảy ra chung quanh, nhất là trước sự sợ hãi của các tông đồ. Hẳn là Ngài muốn tạo dịp để rèn luyện lòng tin của các ông. Chúng ta biết rằng trước đó, khi rao giảng cho đám đông bằng các dụ ngôn, Ngài cũng đã cắt nghĩa riêng cho các ông, để các ông có thể đi xa hơn nội dung được dành cho quần chúng. Nhưng dù sao thì đây cũng là một thử thách đối với các ông. Các ông bị đặt trước một câu hỏi mà câu trả lời sẽ quyết định thái độ và cách cư xử của các ông. Quyền lực lớn hơn cả hiện nay ở đâu? Nơi thiên nhiên hay nơi Thiên Chúa?
Trước sự thử thách ấy, các ông dườngnhư đã vấp ngã. Thiên Chúa dường như đã biến khỏi lòng trí các ông và các ông chỉ thấy có gió bão đang xô đẩy con thuyền, khiến các ông sợ hãi. Chúa Giêsu có thể đã ngủ yên vì Ngài hiểu rằng những mãnh lực thiên nhiên ấy đều ở trong tay Cha Ngài.
Lời các tông đồ đánh thức Chúa Giêsu, vừa có tính cách trách móc, lại vừa có tính cách trông cậy. Thế nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu bắt các ông phải nhìn vào thực trạng của mình: Tại sao các con sợ hãi? Các con không có lòng tin ư? Bởi vì tin ở đây có nghĩa là đặt trót niềm hy vọng và cậy trông vào Thiên Chúa, chứ không vào những mãnh lực từ bên ngoài.
Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện làm cho chúng ta nhận ra một hình ảnh trung thực về Thiên Chúa. Ngài là Đấng Tạo Hoá đầy quyền năng và siêu việt, nhưng cũng lại rất gần gũi với chúng ta, và sẵn sàng ra tay cứu giúp chúng ta.
Bởi đó, hãy ra sức làm việc, hãy cố gắng hành động, nhưng với một niềm xác tín mạnh mẽ: Chúa luôn ở bên tôi với tất cả quyền năng và tình thương của Ngài.
Hai từ “chất vấn” xem ra ít gây thiện cảm hơn là các từ “hỏi” hay là “đặt vấn đề”. Dù là đặt vấn đề hay TN12 B-74
Hai từ “chất vấn” xem ra ít gây thiện cảm hơn là các từ “hỏi” hay là “đặt vấn đề”. Dù là đặt vấn đề hay đặt câu hỏi hay chất vấn thì mục đích nhắm đều là để được sáng tỏ một vấn đề nào đó mà người chất vấn chưa nắm rõ hay chưa đồng thuận. Dĩ nhiên ở các xã hội độc tài, chuyên chế thì ít có ai dám to gan chất vấn người cầm quyền, vì sợ mang vạ vào thân. Lại có những thể chế muốn chứng tỏ rằng có sự dân chủ nên “cho phép” người tachất vấn nhưng thực chất vẫn không muốn người bị trị có quyền chất vấn.
Nhân dịp mẹ Hội Thánh dọn cho đoàn tín hữubài đọc thứ nhất và bài Tin Mừng trong Chúa Nhật XII TN B, xin đặt câu hỏi là chúng ta có được phép chất vấn Thiên Chúa không? Một trận cuồng phong trên biển cả xem ra là chuyện thường tình của giới tự nhiên. Thế nhưng, khi gió lớn, sóng to ập vào thuyền của tôi, thì đó không còn là chuyện bình thường. Những tai ương, hoạn nạn, dịch bệnh do thiên tai hay do nhân họa vẫn mãi là những sự dữ đối với những người trực tiếp hay gián tiếp gánh chịu. Chúng ta có quyền hỏi Thiên Chúa không hay chúng ta có nên đặt vấn đề không, nhất là những vấn đề liên quan đến sự dữ?
Trước vấn nạn sự dữ thì dường như không chỉ khó hiểu mà còn khó chấp nhận. Người làm sự lành mà phải gánh sự dữ thì vẫn có đó trước mắt chúng ta, không riêng gì mình ông Gióp thuở nào. Về vấn đề này, sách Gióp và Cựu ước nói chung, thường có câu trả lời rằng như chiếc bình sành không thể và không có quyền chất vấn người thợ gốm, thì con người trong kiếp thụ tạo hữu hạn không có quyền chất vấn Thiên Chúa, Đấng dựng nên vũ trụ vạnvật, dựng nên con người từ hư vô. Ông Gióp cuối cùng đã biết phận để rồi “lấy tay che miệng”(x.G 40,4) và “xin rút lại những gì đã nói” (x.G 42,6).
Tân ước lại cho chúng ta một cái nhìn cóvẻ như ngược lại nhưng thực ra là bổ túc, là hoàn thiện cái nhìn của Cựu ước. Đến thế gian, Chúa Kitô không ngại ngần trước các vấn nạn người ta đặt ra. Người còn gợi ý để cho các môn đệ chất vấn bằng việc đặt câu hỏi trước. “Người ta bảo Con Người là ai?... Còn các con, các con bảo thầy là ai? (Mt 16,13). Các tông đồ, các môn đệ đã không ngại ngần “chất vấn” Thầy chí Thánh. “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38). Chúa ơi, Chúa ở đâu khi con đang trong cảnh khốn cùng? Con biết Chúa không vui thích gì khi con người phải khổ, phải chết, thế mà sao cái khổ, cái chết vẫn mãi đe dọa chúng con? Sao con làm người trong cái hình hài này, ở một thời đại, một hoàn cảnh không chút gì thuận lợi? Tại sao những người độc tài, độc quyền, độc ác cứ mãi nhởn nhơ trong nhung lụa? Nhiều câu hỏi tại sao thỉnh thoảng lại đến mà như không có lời giải đáp, đúng hơn là khó làm thỏa lòng thỏa trí chúng ta.
Điểm tới của những lời chất vấn là lòng tin. “Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” Dù như khiển trách, nhưng Chúa Giêsu đã biết các môn đệ vốn có lòng tin vào Người nhưng lòng tin ấy đang còn non yếu. Không tin vào Thầy thì cớ sao các ngài lại đánh thức Thầy dậy để xin cứu giúp. Đức tin không phải là một thực tại đã hoàn thành mà là một quá trình dấn thân. Niềm tin của Kitô hữu là tiến trình bước theo Đức Kitô. Tiến trình ấy không luôn trơn tru, thẳng tắp, kiểu thuận buồm xuôi gió. Có khi chững lại vì gặp vật cản,có khi chệch hướng, thậm chí có lúc bị giật lùi. Những câu hỏi, những lời chất vấn xuất hiện là một trong những động lực hay là cách thế để ta vượt qua vật cản, chỉnh hướng và tiến lên. Như thế, các câu hỏi hay những lời chất vấn trở thành một phương thế củng cố niềm tin, thanh luyện đức tin.
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thời làm HồngY đã từng khẳng định: “Chúng ta đã học biết, đã sống, và đáng khác chúng ta đã thấy đức tin được xây dựng hết sức hoàn hảo và được hệ thống hoá quá đáng, tới độ người ta không còn dễ dàng đến được với đức tin nữa. Vậy tôi nghĩ rằng chúngta cần một thứ cách mạng đức tin, theo một nghĩa phức hợp. Trước hết chúng ta cần đến một cuộc cách mạng này để có được lòng can đảm nói ngược lại với nhữngxác tín tổng quát” (Muối cho đời – trang 42). Khi trên ngai giáo hoàng, mở đầu cho tập sách “Đức Giêsu thành Nagiarét”, ngài cũng thẳng thắn và sẵn sàng đón nhận những ý kiến “chống lại” những “tìm hiểu” của ngài về “diện mạo của Chúa” (x. Phần I - trang 31).
Chúa Kitô không ngần ngại trước những lời chất vấn của người Do Thái và các câu hỏi của các môn đệ, vì nhờ chúng mà căn tính và sứ mạng của Người ngày càng được tỏ bày, và qua đó đức tin của nhiều người được hình thành và vững mạnh. Quả thật, chẳng có ai dám to gan cho rằng mình đã nắm trọn chân lý hay đã vững vàng trong đức tin. Thế mà đã có lúc chúng lại ngại ngần và có khi lại sợ người đồng đạo, sợ người “ngoại đạo” chất vấn niềm tin của chúng ta. Cần thú nhận rằng chính chúng ta cũng rất ngại ngùng chất vấn niềm tin của mình, đúng hơn là đặt vấn đề về một vài nội hàm của đức tin vì sợ rằng sẽ có nguy cơ lạc đạo hay bị gán ghép là rối đạo. Trong tình bạn thì các câu hỏi hay những lời chất vấn là chuyện thường tình như lẽ đương nhiên. Chúng chỉ là bất thường trong mối quan hệ chủ tớ. Chúa Kitô đã khẳng định Người không muốn chúng ta làm người tôi tớ mà là bạn hữu (x.Ga 15,15).
Chúa Kitô mãi là dấu hỏi cho con người đến tận cùng lịch sử. Hiện nay, chúng ta chỉ thấy lờ mờ như trong gương, sau này chúng ta sẽ thấy Người như chính Người là. Ngưòi thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy (x.1Cor 13,12). Chính vì thế, vị trí, vai trò của những câu hỏi luôn còn đó. Và một trong những vai trò chính yếu của chúng là dẫn chúng ta đến với niềm tin. Mỗi khi chúng ta không còn biết đặt vấn đề thì rất có thể là chúng ta đang ở trong tình trạng “cuồng tín” hay là vô tín. Khi chúng ta ngần ngại tha nhân đặt vấn đề hay chúng ta thấy khó chịu khi tha nhân, khi người dưới quyền chất vấn chúng ta thì có lẽ chính chúng ta đang có vấn đề. Một trong những vấn đề thật khó chối cãi, đó là chúng ta chưa thực sự tin vào sự ngay chính của bản thân hay của công việc mình đang thực hiện. Và một điều khá chắc chắn nữa, đó là người ta cũng chưa tin vào chúng ta. Mong sao những lời sau đây của ngài Hồng Y J.Ratzinger mà nay là Đức Bênêđictô XVI có điều kiện thành hiện thực: “Chúng ta phải có can đảm đứng lên chống lại cái được coi như chuẩn mực cho con người vào cuối thế kỷ XX này, và tái khám phá đức tin nguyên tuyền” (Muối cho đời – trang 43).
Phương tiện di chuyển cơ bản của con người có thể là đường bộ, đường sông, đường biển ... hay TN12 B-75
Phương tiện di chuyển cơ bản của con người có thể là đường bộ, đường sông, đường biển ... hay đường hàng không.
Với những phương tiện đó, phải chăng phương tiện đường sông, đường biển có thể nói là làm cho con người có"cảm giác" nhất bởi lẽ nếu bình thường, thời tiết không có gì quan ngại thì không sao nhưng nếu có bất trắc con người sẽ rất sợ hãi. Ai đã một lần ngồi trên chiếc thuyền chòng chành giữa trời dông bão sẽ có cảm nghiệm hơn ai hết.
Với những người đi biển, họ được trang bị kiến thức hay có những khả năng hay kỹ năng để đi trên nước. Có thể có gió, có thể có sóng đó nhưng họ không sợ bằng những người không có kinh nghiệm cũng như không có khả năng với sóng dữ.
Những người dân Việt tị nạn vì lý do nào đó bằng đường biển chắc có kinh nghiệm hơn ai hết. Chính người dì ruột của tôi khi kể lại tình sử vượt biên của bà làm cho nhiều người kinh ngạc. Khi đặt chân lên bờ, dì chỉ còn đúng 1 bộ đồ dính người chứ không hơn không kém. Dì kể lại hành trình vượt biển với biết bao nhiêu sóng gió trên hành trình. Chuyế đi của dì lần đó chỉ còn một số ít người thoát khỏi cơn sóng dữ để đến bến bờ bình an.
Kinh nghiệm đó, hôm nay ta bắt gặp nơi các môn đệ trên chính chiếc thuyền của các ông. Kinh nghiệm nhiều, thuyền của mình để rồi cứ tưởng là "chắc ăn như bắp" như kiểu nhiều người nói nhưng rồi bỗng nhiên có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước.
Bi đát ở chỗ là cái "anh chàng" đi ké lại dựa gối ở đàng lái mà ngủ! Mê ngủ đến độ sóng gió đó không làm chàng ta thức giấc. Các môn đệ hoảng quá nên đành đánh thức anh ta: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?"
Giật mình chỗi dậy và Chúa Giêsu đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi".
Trước lời phán đó, gió ngừng biển lặng như tờ. Sau đó, Chúa mới nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"
Đùa vui! Bớt giỡn đi chứ! Sóng to biển dữ như thế mà bảo là sợ hãi thế! Thầy vừa phải thôi chứ! Chẳng lẽ chúng con lại vất Thầy xuống thuyền như ông Noe ngày xưa trong Cựu Ước.
Giận lắm nhưng cơn kinh hãi vẫn còn chưa tan trong các ông và các ông thầm thì với nhau: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
Thật ra mà nói, kinh nghiệm về những trận cuồng phong như thế trong hành trình người Kitô hữu không phải là hiếm. Những cơn sóng xô của cuộc đời cứ mãi giật trên con đường về quê, trên con đường lữ thứ trần gian của thân phận làm người.
Một anh bạn tri kỷ, khi ngồi lại với nhau, anh không ngần ngại kể lại cuộc đời tưởng chừng như không còn gì để mất của anh nữa nhất là với biến cố cụt 2 chân sau tai nạn nhớ đời. Mẹ góa, con côi với cái nách mang 4 đứa con trong mình và đặc biệt đứa con trai lớn nhất nhà đã làm cho mẹ con mất phương hướng.
Anh kể lại có những lúc anh muốn buông xuôi vì với cái thân phận tật nguyền của anh chỉ có nước đi ăn xin hay cùng lắm cạp đất mà ăn chứ làm nên cái trò trống gì. Thế nhưng, Thiên Chúa đã ra tay để cứu gia đình anh, bản thân anh thoát khỏi những cơn sóng dữ của cuộc đời.
Trong sâu lắng, anh cảm nhận được tình yêu bao la mà Thiên Chúa trao ban cho anh, cho cuộc đời anh, cho gia đình anh.
Ngay như bây giờ cũng vậy! Cuộc sống tưởng chừng yên dù anh muốn yên nhưng vẫn còn đó thử thách của hành trình làm người, là người và nhất là hành trình đức tin. Có những lúc chán nản vì sóng dữ, dường như muốn buông xuôi nhưng rồi anh lại thấy Chúa Giêsu bên đời đang ở cạnh anh để nâng đỡ anh.
Khi đối diện với những sóng xô của cuộc đời như cơn sóng lớn ngày hôm đó. Chúa Giêsu chỉ giản đơn trách các môn đệ kém lòng tin!
Một lần nữa, Chúa lại mời gọi niềm tin của mỗi người chúng ta vào quyền năng của Chúa.
Cũng trong tình thân, anh nói rằng anh cũng như các em có được như ngày hôm nay đó là nhờ anh và các em thụ hưởng gia tài cao quý của mẹ, của cha anh để lại, đặc biệt nơi người cha dù đã khuất mấy chục năm trời. Cha anh ra đi không để lại tài sản gì to lớn cả, chỉ để lại lòng đạo đức và sự hiền lành. Chính đời sống hiền lành và đạo đức cũng như niềm tin vào Chúa mà gia đình anh được như ngày hôm nay.
Ngày hôm nay Chúa nhật thứ 3 trong tháng 6, Chúa nhật mà người ta đặc biệt kính nhớ đến người cha thân yêu của mỗi người.
Tôi với anh cùng may mắn như nhau, cùng được thừa hưởng một người cha hiền lành, khiêm nhường và đạo đức.
Tôi thầm nghĩ, để đối diện với tất cả những cơn sóng dữ của cuộc đời, không có cách nào khác là đặt niềm tin vào Thiên Chúa là Cha nhân lành trên cuộc đời ta. Khi ta đặt cuộc đời của ta trong tay Chúa thì dù cho phong ba bão táp đi chăng nữa, ta vẫn không sợ gì vì có Chúa kề bên.
Trang Tin Mừng ngày hôm nay có phần am hợp với ngày mừng người Cha. Thiên Chúa là người cha luôn luôn yêu thương che chở chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Chuyện quan trọng là ta có tin tưởng, tín thác cuộc đời của ta trong tay Chúa hay không mà thôi.
Đọc qua trang Tin Mừng hôm nay, ta có thể nói: "Thầy chơi xấu!". Vì sao? Ai cũng hiểu rằng ngay TN12 B-76
Đọc qua trang Tin Mừng hôm nay, ta có thể nói: "Thầy chơi xấu!". Vì sao? Ai cũng hiểu rằng ngay lúc xảy ra sóng gió thì Thầy lại "vui vẻ" ... nằm ngủ!
Thử hỏi, ta đặt ta trong tâm trạng, trong trạng thái như các môn đệ ắt hẳn ta sẽ giận lắm bởi lẽ người ta lo muốn chết mà ngủ như chết vậy. Giận quá nên hỏi luôn cho xong chuyện: "Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?" (Mc 4, 38).
Cũng dễ hiểu bởi lẽ ai cũng sợ sóng biển. Sóng biển đã làm cho bao nhiêu con người ra đi không trở lại.
Lần kia, tắm biển Mũi Né, sóng cũng không lớn lắm nhưng cũng không nhỏ. Những cơn sóng nhấp nhô đó làm chùn lòng du khách. Nhiều người ngại sóng nên không dám xuống biển lúc đó. Và, lúc đó chỉ còn ít người gọi là dám "chơi" với biển nên xuống tắm.
Đang tắm, có chàng trai kia ghé vào tai tôi nói: "Sóng như thế này đã thấy ớn! Nếu như sóng 5m thì sao?. Tôi trả lời anh: "chết chắc chứ sao nữa".
Cũng dể thấy hậu quả của những cơn sóng dữ. Nhiều cơn sóng dữ đến đã làm cho bao nhiêu căn nhà và bao nhiêu con người phải ra đi không bao giờ trở lại. Biển cũng cho con người nhiều hải sản, nhiều khoáng sản quý dưới đáy đại dương nhưng biển cũng đã chôn vùi bao nhiêu con người bằng những cơn sóng dữ của mình.
Chiều hôm ấy, có hai cha con nhà nọ tắm gần tôi. Đứa bé được cha đưa ra hơi quá đầu gối anh ta một tí nghĩa là tới khoảng ngực của đứa trẻ. Ban đầu, sóng xô cháu cũng ngại ngùng và không muốn ra nữa. Nhưng, sau đó nhờ có đôi bàn tay của cha, cháu tiếp tục vui đùa dưới sóng bởi lẽ khi ấy, cậu an tâm trước vòng tay của cha mình.
Nhớ lại hình ảnh của các môn đệ, khi Thầy Giêsu thức giấc và Thầy đã ra lệnh cho biển cả lặng yên thì khi đó các môn đệ an tâm và bình an.
Sau khi bảo sóng biển yên lặng thì Chúa Giêsu như trách yêu các môn đệ: "Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?"
Trang Tin Mừng hôm nay sao mà nó thích hợp hay nói đúng hơn là nó quá đúng với cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Trong hành trình vượt biển để về nhà Cha, về nước Chúa ta đã không ít lần hay nói đúng hơn là quá nhiều lần chúng ta hốt hoảng kêu la lên. Kêu la cũng dễ hiểu bởi lẽ ta gặp quá nhiều cơn sóng dữ trong cuộc đời mà dường như ta cảm thấy Chúa bỏ ta bơ vơ, chơ vơ giữa cuộc đời này thì phải? Ta thấy có những cơn sóng tưởng chừng như ập xuống đời ta và ta cảm như là chìm rồi.
Đời ta, không ít lần ta đối diện với sóng dữ là mất cha mất mẹ ở cái tuổi còn quá trẻ! Sóng dữ đến khi ta bị người khác hiểu lầm, bị chà đạp và bị hại. Sóng dữ đến khi ta phải đối diện với chứng bệnh nan y trong người. Sóng dữ khi ta bị chính người thân, ruột thịt ... hại ta, loại trừ ta.
Ai đã hơn một lần sống trong cảm giác đó cũng cảm được như những cơn sóng dữ của cuộc đời. Đối diện với những điều đó ta cũng mất ăn mất ngủ, bất an và ta thầm trách Chúa như các môn đệ: "Thầy chẳng lo gì sao?".
Hẳn nhiên đó là bản tính của con người, là cảm nhận, là đức tin yếu đuối của con người. Ta tưởng chừng như ta chơi vơi, như Chúa đã bỏ ta nhưng khi đó ta đã lầm.
Nhớ lại tác phẩm "Dấu chân trên cát" thật hay và ý nghĩa:
Một đêm kia tôi nằm mơ thấy Chúa. Ngài cùng tôi song hành trên bài biển hoang. Cùng lúc ấy trên trời xanh đang diễn ra những cảnh đời tôi. Mỗi cảnh vui buồn đều có đôi dấu chân ghi trên nền cát trắng. Lòng lâng lâng tôi lặng nghe tiếng sóng vỗ, và xa xa chập chờn đôi cánh hải âu. Chợt sóng gió chẳng biết từ đâu bồng bùng lên khiến tôi kinh hãi. Quay mặt nhìn lui: "ôi kìa! Sao tôi chỉ thấy một dấu chân?" Hốt hoảng thắc mắc tôi vội kêu: "Chúa hỡi! Chúa hỡi! Sao bỏ con. Những lúc sóng gió là những lúc con cần đến Chúa hơn bao giờ hết!"
Chúa đã nói với con rằng: "Sẽ mãi yêu quý con, sẽ luôn nâng đỡ con suốt cuộc đời cho đến chết."
Chợt bên tai tôi nghe được tiếng Chúa nói: "Này con bé nhỏ của ta ơi, đừng hoảng hốt hãi sợ chi. Ta ở đây luôn bên con. Những dấu chân này là của Ta đó! Vì những lúc ấy Ta đang bồng bế con trên tay."
Vâng! Như Chúa nói đó: "Những lúc ấy Ta đang bồng bế con trên tay".
Nghiệm lại cuộc đời ta, trong những giây phút lắng đọng của cuộc đời, ta sẽ thấy Chúa luôn luôn, Chúa mãi mãi ẵm ta trên tay của Chúa. Chuyện quan trọng rằng ta có tín thác, tin tưởng phó thác cuộc đời của ta trong tay của Chúa hay không mà thôi.
Tâm tình Thánh Vịnh 131 thật hay:
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui. Cậy vào Chúa, Israel, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm. (Tv 131, 2.3)
Xin Chúa cho ta luôn luôn sống tâm tình như trẻ nhỏ nép mình vào lòng Chúa để rồi ta vui vẻ bước đi giữa cuộc đời đầy sóng gió nhưng lòng vẫn an vui vì có Chúa ở cùng.
Trang Tin mừng hôm nay thật thú vị! Đang trong cơn sóng dữ, anh em lo chèo chống thì Thầy lại ngủ. TN12 B-77
Trang Tin mừng hôm nay thật thú vị!
Đang trong cơn sóng dữ, anh em lo chèo chống thì Thầy lại ngủ. Hẳn nhiên là nể Thầy lắm đó để cho Thầy nằm trên đầu thuyền mà không phải làm gì. Nhưng rồi đâu phải thấu anh em nể Thầy rồi Thầy muốn làm gì làm, Thầy để mặc anh em.
Vừa lo, vừa sợ, vừa hờn nên các môn đệ hỏi luôn cho ra ngô ra khoai: "Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?" (Mc 4, 38).
Tưởng gì, làm cho biển im lặng! Tài thật! Dĩ nhiên là anh em biết quyền năng của Thầy chứ! Nhưng thôi, "của cho không bằng cách cho", cho biển im lặng rồi thôi, đàng này còn trả treo: "Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?" (Mc 3,40).
Nói thiệt với Thầy, giận Thầy lắm đó! Chúng con chưa áp dụng cái chiêu ngày xưa trong Cựu Ước là con cho Thầy xuống biển như cho ông Nôê là may lắm rồi! Thầy mà làm chúng con giận là chúng con cho Thầy xuống biển như xưa cho xong chuyện.
Thật ra, niềm tin của các môn đệ khi ấy cũng còn vững lắm là không bỏ Thầy xuống biển mà đến cầu cứu Thầy. Nếu sống với niềm tin Cựu Ước thời Nôê thì Thầy chết chắc.
Cuộc đời của chúng ta ắt hẳn cũng có quá nhiều lần nhiều lúc chúng ta cũng gặp sóng gió như các môn đệ ngày hôm nay. Thế nhưng, đứng trước trước những sóng gió của cuộc đời ta có bám vào Chúa, ta có chạy đến Chúa hay ta lại nại sức của ta hay tệ hại hơn là nhờ vào những thế lực của thế gian, của sự dữ.
Một gia đình kia tan nát cũng chỉ vì nại vào thế lực của sự dữ. Tưởng chừng nại vào thế lực của sự dữ thì sẽ bình an nhưng ngày mỗi ngày lại tụt dốc.
Chuyện là người vợ có vấn đề về tâm thần, về tâm lý ... người chồng nghe người này người kia nói và bắt đầu tìm thầy bỏ Chúa. Người chồng loanh quanh đi tìm thầy cao tay để chữa cho vợ mình bất chấp điều đó là sai tín lý, sai lạc đức tin, sai lạc niềm tin vào Thiên Chúa mà họ đã tin theo. Khi đi theo thầy bùa chú và bỏ Chúa thì cuộc sống của vợ chồng đã đi vào bế tắt và cuối cùng chồng đi đường chồng, vợ đi đường vợ.
Lẽ ra trong gia đình có vấn đề thì họ nên và cần bám vào Chúa, đàng này họ bỏ Chúa để đi tìm thế lực khác để cứu mình. Hậu quả là gia đình đã bỏ Chúa và đi theo thế lực khác.
Cùng với kinh nghiệm bỏ Chúa là mất tất cả, bỏ Chúa là sẽ gặp sóng dữ của cuộc đời, tôi được một người thân quen chia sẻ về thế lực của sự dữ. Chuyện là chính bản thân chị, gần nhất là mẹ của chị đã có vấn đề về thần kinh, tâm lý mà theo như người ta nói là bị "ám". Đứng trước cảnh mẹ mình bị "ám" như vậy, chị và gia đình chỉ có một cách, một thế, một phương án duy nhất là bám vào Chúa và cầu nguyện.
Sau biến cố để đời đó, chị khuyên với những ai chị gặp gỡ, trong đó có bản thân tôi là dù cuộc đời thế nào đi chăng nữa cũng chỉ có bám vào Chúa và Chúa mà thôi.
Quả thật, niềm tin vào Chúa nói thì dễ nhưng khi đụng chạm bế tắt, đụng chạm với những khó khăn của cuộc đời ta vẫn thường đi tìm những người có thể giúp chúng ta. Theo kiểu người đời thường dùng đó là "chạy thầy chạy thuốc". Đó là cách nhìn, cách nghĩ, cách giải quyết theo kiểu thế gian vì dù cho có những người có thế lực có thể "gỡ" cho họ những khó khăn trong cuộc sống nhưng rồi tất cả rồi cũng qua đi chứ chẳng có ai mãi mãi và chẳng có ai vĩnh cửu.
Người đời, dù họ có quyền lực đến đâu đi chăng nữa, họ có thể chia sẻ quyền lực của họ cho những người theo phe nhóm của họ để đạt được nguồn lợi nhưng khi họ đối diện với thử thách phong ba của cuộc đời chưa chắc có người cứu được họ. Có khi ở trong đỉnh của vinh quang quyền lực nhưng rồi đến một lúc nào đó cũng ra đi, những người ngày xưa vui vẻ với họ dù muốn cứu họ nhưng cũng đành chịu.
Đó là cái nhìn của quyền lực, của thế gian. Người Kitô hữu thật sự lại được mời gọi vượt qua những sóng dữ của cuộc đời để đạt được Nước Thiên Chúa chứ không phải đạt được những lợi ích của thế gian.
Và, trong hành trình về nhà Cha, mỗi người Kitô ngày mỗi ngày đều phải đối diện với sóng dữ và tìm cách thoát sóng dữ. Ắt hẳn mỗi người cũng sẽ có cách lựa chọn khi đời mình gặp phải phong ba bão táp của cuộc đời. Có khi ta cũng sẽ có suy nghĩ là bám vào Chúa để xin Chúa đến trợ giúp nhưng cũng có khi ta muốn vất Chúa xuống khỏi tàu như ngày xưa trên chuyến tàu Nôê người ta đã sẵn sàng vất Nôê xuống biển.
Chính khi gặp sóng dữ, ta sẽ bám vào ai vẫn là sự tự do lựa chọn của mỗi người. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để dù bất cứ sống trong hoàn cảnh nào của cuộc đời ta cũng chỉ bám vào Chúa mà thôi.
Xin cho ta đừng bao giờ vất Chúa ra khỏi thuyền nhưng cứ mãi xin Chúa ở lại cuộc đời của chúng ta, trên thuyền đời của chúng ta.
Chúa ơi! Chúa bớt giỡn! Chúa cứ ở mãi trên thuyền của con và cứu đời con nha Chúa!
Văn chương Kitô giáo vẫn thường diễn tả cuộc lữ hành trần gian của chúng ta giống như con thuyền TN12 B-78
Văn chương Kitô giáo vẫn thường diễn tả cuộc lữ hành trần gian của chúng ta giống như con thuyền lênh đênh giữa biển khơi ngập đầy sóng gió. Nhiều bài thánh ca khá quen thuộc với những ca từ bình dân, chẳng hạn ‘Ngày tháng chơi vơi như thuyền nan giữa khơi’, hoặc ‘Mẹ ơi thế trần là nơi gian khổ, biển đời con gặp bao cơn giông tố’ khiến chúng ta dễ liên tưởng đến con thuyền mà bài Tin mừng hôm nay nói tới. Con thuyền chở Chúa Giêsu và các môn đệ, đang trực diện với một trận cuồng phong khiến nước ập vào. Các môn đệ thì hoảng loạn, còn Chúa Giêsu vẫn an giấc ngủ say. Hình ảnh con thuyền đó rất gần sát với cuộc sống hiện sinh của chúng ta ngày hôm nay.
Bão tố và những bầm dập trong cuộc sống
Giáo lý Phật giáo khởi đầu với xác quyết: ‘Đời là bể khổ’. Các học thuyết của hầu hết các tôn giáo khác cũng nhằm tìm ra giải pháp cho vấn đề khổ đau, thực tại nhức nhối nhất trong kiếp người. Trong cái nhìn Kitô giáo, đau khổ là hệ quả của tội lỗi do chính con người gây ra. Vì tội của Ađam, sự dữ đã thâm nhập vào trần gian. Con người phải nếm trải khổ đau và phải chết (x. Rm chương 5). Nhưng mầu nhiệm Thập giá và sự Phục sinh vinh thắng của Chúa Giêsu là đáp án tổng thể cho những vấn đề nan giải và hóc búa này.
Nhìn vào hình ảnh con thuyền chở các tông đồ đang lênh đênh giữa biển hồ Galilê trong cơn bão tố, chúng ta liên tưởng đến cuộc sống của chúng ta hôm nay với biết bao bầm dập và cay đắng. Nhiều khi chúng ta cũng rơi vào tình trạng chán nản và tuyệt vọng đến tột cùng. Khi một người thân thiết nhất trong gia đình bỗng nhiên gặp tai nạn và chết cách thảm khốc, khi người tình mà chúng ta đang xây đắp mộng ước tương lai bỗng lặng lẽ chia tay, hoặc khi công việc làm ăn đang thành đạt bỗng gặp những thất bại ê chề v...v..., tất cả đều là những kinh nghiệm mà mỗi người chúng ta có thể đã từng nếm trải. Những biến cố ấy như những cơn lốc mạnh kèm theo bão tố, khiến chúng ta hoảng loạn. Tâm trạng của các tông đồ năm xưa cũng giống như thế. Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Marcô thuật lại biến cố và nêu bật một sự tương phản rõ rệt. Đang khi các tông đồ hoảng hốt, con mắt mở to vì khiếp hãi, Chúa Giêsu vẫn bình thản, đôi mắt Ngài vẫn khép chặt trong cơn ngủ say. Hình ảnh này hoàn toàn trái ngược với khung cảnh trong vườn cây dầu. Chúa Giêsu thì khiếp sợ khi đối diện trước cái chết, còn 3 người học trò thân tín lại say ngủ đến độ Chúa Giêsu đã nhắc nhở: “Các con không thể thức được với Thầy lấy một giờ hay sao?”.
Trong hình ảnh thứ nhất, các tông đồ hoảng sợ khi nhìn thấy cái chết đang cận kề trong gang tấc, trong khi Chúa Giêsu vẫn bình thản trong giấc ngủ sâu, vì Ngài là Đấng quyền năng, Đấng Hằng Sống, Đấng có thể khuất phục sự chết. Ngược lại, trong hình ảnh thứ hai, Chúa Giêsu thức để cầu nguyện trước giây phút hoàn tất mầu nhiệm hiến tế và tiến nhận cái chết. Khi mang thân phận con người, Chúa cũng sợ hãi đến độ mồ hôi và máu tuôn trào khi đứng trước cái chết kinh hoàng sắp tới. Ngược lại, ba môn đệ lại say sưa trong giấc ngủ vì các ông chưa thể tiến sâu vào mầu nhiệm Thập giá. Hai hình ảnh tương phản này cho ta thấy rằng đau khổ luôn gắn liền với kiếp nhân sinh và cao điểm là chính sự chết. Một nhà tu đức đã nói: “Chúng ta được sinh ra trong tiếng khóc chào đời của chính mình và chết đi trong tiếng khóc tiễn đưa của những người thân quen. Tiếng khóc đầu tiên đan nối với tiếng khóc cuối cùng trong cuộc sống, lột tả về mầu nhiệm đau khổ, luôn bám chặt với cuộc sống hiện sinh của chúng ta ngày hôm nay.
Chúa ở kề bên
Một vị thánh nọ đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, khi con gặp những sóng gió và thử thách, Chúa đang ở đâu?” Để trả lời, Chúa cho chị ta thấy một thị kiến ghi lại những hình ảnh Chúa luôn cận kề bên chị. Những dấu chân in trên cát đã chứng minh điều này. Chúa luôn sánh bước bên chị, thể hiện qua những dấu chân của 2 người mãi ở bên nhau. Nhưng khi chị gặp khó khăn, chỉ còn lại dấu chân của một người, hình như Chúa đã bỏ rơi chị vào lúc đó? Chúa nói với chị ta rằng: “Những lúc con gặp sóng gió như thế, con thấy chỉ còn lại dấu chân của một người, người đó chính là Ta. Chính Ta bồng ẵm con trên đôi tay của Ta”. Các tông đồ trên con thuyền đầy sóng gió đã quên mất Chúa Giêsu đang ở bên cạnh họ. Nhưng rồi các ông đã sớm nhận ra điều ấy và đánh thức Chúa dậy. Tương tự như thế, chúng ta cũng phải ‘đánh thức’ Chúa, phải ‘lay động’ để Chúa tỉnh dậy, tức là chúng ta phải đi sâu vào đời sống cầu nguyện hầu khơi lên cảm thức đức tin, nhận ra Chúa đang đồng hành với chúng ta trong mọi nẻo đường của cuộc sống. Quyền năng của Thiên Chúa có thể dẹp tan những sóng gió và tình yêu của Ngài luôn phủ kín cuộc sống của chúng ta mỗi ngày. Cho dầu xấu xa hay tội lỗi đến mấy, mỗi người trong chúng ta vẫn luôn có chỗ đứng trang trọng trong con tim đong đầy yêu thương của Chúa, chỉ cần chúng ta biết trải lòng mình ra với sự tin tưởng. Chúng ta hãy học lấy bài học của các môn đệ năm xưa, luôn biết đánh thức Chúa dậy qua đời sống cầu nguyện, đặc biệt khi con thuyền đời ta ngập chìm trong bão tố.
Đau khổ là quà tặng của Thiên Chúa
Điều này xem ra có vẻ nghịch lý và khó chấp nhận. Tác giả sách Khôn ngoan đã viết: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong (Kn 1, 13). Cái chết là tột cùng của khổ đau trong kiếp người và Thiên Chúa không bao giờ muốn chúng ta phải đau khổ hay phải chết. Chúa Giêsu cũng đã từng nói: “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào (Ga 10,10). Vậy, tại sao chúng ta lại dám khẳng định rằng, ‘Đau khổ là quà tặng của Thiên Chúa’ hay nói như Thánh Phaolô, ‘Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi’ (Pl 1,21)? Câu trả lời được tìm thấy trong bài đọc 1 hôm nay. Cả cuộc đời của ông Gióp là những chuỗi ngày đầy khổ đau và thử thách. Ông đã nguyền rủa ngày ông chào đời và trải nghiệm biết bao phiền muộn (Gióp chương 3). Nhưng ông đã tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và thâm tín rằng những khổ đau xảy đến với ông chính là quà tặng Thiên Chúa trao ban để giúp ông tôi luyện đức tin (bài đọc 1). Nhờ vậy, tâm hồn ông vẫn bình an cho dầu phải đối diện trước bao bão tố. Chúa phán với ông Gióp:“Các đợt sóng và các cơn bão táp chỉ được đến đây thôi và không được tiến xa hơn nữa. Đây là nơi các đợt sóng cao phải tan tành”. Quyền năng của Thiên Chúa thắng vượt tất cả sức mạnh của thiên nhiên cũng như sự dữ. Ông Gióp đã thể hiện niềm tin vào Đấng quyền năng cách tuyệt đối, và ông đã nêu cho chúng ta mẫu gương về sự kiên định trong niềm tin, mỗi khi chúng ta gặp thử thách.
Kết luận
Tờ báo Digest có viết lại một câu truyện mang tính răn đời như sau. Một bà cụ nọ khá đạo đức, sống trong một căn nhà ọp ẹp tại miền quê nghèo. Bỗng có cơn mưa to ập tới và mực nước ngày càng dâng cao. Bà cầu xin Chúa cứu bà khỏi chết. Nhóm cứu hộ đã cho một chiếc trực thăng và hai chiếc thuyền đến để đưa bà về nơi an toàn, nhưng bà nhất quyết từ chối và vẫn chờ Chúa đến cứu. Đám cứu hộ thất vọng bỏ đi và bà ta đã chết trong cơn lũ lụt. Khi đến trình diện trước mặt Chúa, bà trách móc: ‘Sao Chúa không đến cứu khiến con phải chết?” Chúa trả lời: “Ta đã làm hết cách. Ta đã gửi một chiếc trực thăng và hai con thuyền cứu hộ đến mà con không nhận ra hay sao?”.
Chúa có nhiều cách thức để luôn hiện diện bên chúng ta trong những sóng gió cuộc đời. Chỉ cần chúng ta nhận ra Ngài và đánh thức Ngài dậy, giống như các tông đồ năm xưa.
“Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới” (2 Cor 5,30).
Đã từ lâu, ngay cả trước Darwin, các khoa học gia đã từng nghiên cứu về nguồn gốc của các vật thể. TN12 B-79
Đã từ lâu, ngay cả trước Darwin, các khoa học gia đã từng nghiên cứu về nguồn gốc của các vật thể. Cho dù người ta vẫn nghĩ rằng giữa khoa học và đức tin luôn có sự tranh cãi và đối kháng quyết liệt, nhưng vấn đề không giản đơn chút nào. Trong một lá thư Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị gửi cho linh mục Giorge V. Coyne SJ, giám đốc đài quan sát ở Vatican, Ngài đã nêu vấn nạn: “Nếu vũ trụ học thời cổ đại của thế giới Cận Đông có thể được tinh lọc và xem ra rất phù hợp với những gì được viết ra trong những chương đầu của sách khởi nguyên, thì liệu vũ trụ học hiện đại ngày hôm nay có thể giúp gợi lên những suy tư về công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa hay không?” Trong khi nhiều Kitô hữu vẫn duy trì quan điểm và cho rằng hai chương đầu của sách Sáng thế diễn tả quy trình tạo dựng vũ trụ theo nghĩa đen, thì đa phần người Công giáo vẫn tin rằng Thiên Chúa là đấng tạo thành vạn vật. Ngài là Chúa tể vũ trụ và điều này không trái ngược với khoa học khi khoa học nghiên cứu xem vũ trụ được hình thành ra sao, ngay cả việc tạo dựng cũng có thể hàm chứa cả học thuyết tiến hóa nữa.
Tuy nhiên, điều căn bản và quan trọng nhất mà chúng ta vẫn phải xác tín, đó là Thiên Chúa là căn nguyên vạn vật. Mọi sự hiện hữu đều phát xuất từ nơi Ngài. Ngài tạo dựng vạn vật, và vạn vật được tạo thành như thế nào, khoa học vẫn đang nghiên cứu. Trong bài đọc hôm nay, ông Gióp đã gặp gỡ Thiên Chúa, và Chúa đã đánh đố ông. Ngài hỏi: “ Khi Ta đặt nền móng trái đất, ngươi ở đâu? Hãy trả lời ta, nếu ngươi là người hiểu biết. Cửa đại dương ai đã ra tay khép lại? Đường ranh giới của nó chính Ta đã vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài.”(Gióp 38,1.8.10). Tác giả sách Gióp diễn tả công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa theo văn phong và não trạng của con người thời đó. Ngài xây dựng và sử dụng những dụng cụ giống như con người chúng ta. Đây không phải là một văn bản của khoa học, nhưng là bản văn Kinh thánh hàm ngậm một sứ điệp trọng yếu. Sứ điệp đó là, Thiên Chúa là Đấng tạo hóa, là hữu thể tuyệt đối, còn tất cả chúng ta là tạo vật, là những hữu thể tương đối mà thôi. Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng tác thành, kiến thiết vũ trụ, và Ngài đã dựng nên vũ trụ này từ hư không.
Con người chúng ta được thông dự vào công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, cho dù tự bản chất, chúng ta cũng chỉ là tạo vật. Ngày nay, cho dù khoa học phát triển, đầu óc con người rất mở mang, nhưng chúng ta vẫn phải chấp nhận rằng vũ trụ được tạo thành là một tuyệt tác và sự huy hoàng của nó vượt quá giới hạn mong manh của những nghĩ suy nơi đầu óc con người.
Tuy nhiên công trình tạo dựng của Thiên Chúa vẫn còn đang tiếp diễn. Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa, nhưng không phải Ngài chỉ đóng ấn trên vũ trụ như một dấu ấn của quá khứ. Ngài vẫn còn tiếp tục hiện diện và kiện toàn vũ trụ này với sự cộng tác của con người. Thiên Chúa tiếp tục chăm sóc vạn vật và còn đang tạo dựng những cái mới, ngay cả bây giờ. Công cuộc tạo dựng của Ngài được hiện lộ qua vẻ đẹp và sự hùng vĩ của thiên nhiên, qua nét đẹp của những cơn sóng gầm rú giữa biển khới, qua những tác phẩm điệu nghệ nơi các thảo nguyên mênh mông, qua những ngọn núi chùng chùng cao vút. Đây là vũ trụ mà chúng ta đang sống, và chính Thiên Chúa được mạc khải cho chúng ta qua vũ trụ bao la này.
Tuy nhiên, sự hiện diện siêu phàm của Thiên Chúa mà chúng ta cảm nhận, vẫn luôn vượt quá trí hiểu loài người. Các Tông đồ đã trải nghiệm sự hiện diện linh thánh của Thiên Chúa giữa biển khơi dậy sóng, lúc Đức Giêsu đang ở giữa các ông. Trong cơn bão tố, Đức Giêsu vẫn bình lặng và ngủ yên trên thuyền. Các tông đồ gào lên “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì hay sao”. Ngài thức giấc, ngăn được gió và truyền cho biển “Im đi, câm đi”. Gió liền tắt và biển lặng như tờ. (Mc 4,38 – 39). Các học trò Đức Giêsu quá sợ hãi và kinh hoàng. Đây là một động thái dễ hiểu, bởi vì quyền năng của Thiên Chúa luôn vượt quá những suy nghĩ và toan tính của con người.
Mỗi khi chúng ta không thể trải nghiệm quyền lực siêu phàm của Thiên Chúa nơi một biến cố nào đó làm chúng ta khiếp sợ, chúng ta cảm nhận rằng con người quả là rất mỏng manh, và chúng ta vẫn không thể thoát ra khỏi giới hạn mong manh của mình. Những ai chưa từng chứng kiến phép lạ tự nhiên nơi vũ trụ, vẫn có thể trải nghiệm qua lăng kính đức tin những phép lạ của tình yêu Thiên Chúa được thể hiện trong cuộc sống hằng ngày. Thiên Chúa vẫn đang thực hiện rất nhiều phép lạ. Ngài vẫn đang tạo thành những hữu thể mới nơi những con người tưởng chừng như đã bị mất, hoặc đã bị quên lãng.
Có những người đã từng sống tuyệt vọng bởi vì họ nghĩ rằng Thiên Chúa đã bỏ quên họ. Vì vậy chúng ta phải nhớ rằng, tất cả chúng ta, không ai là người bị Thiên Chúa lãng quên, bị Thiên Chúa loại trừ. Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ, Ngài vẫn luôn hiện diện và hoạt động nơi thiên nhiên, nơi các vật thể được tạo thành, lẽ nào Ngài lại quên chúng ta là những hữu thể quý giá nhất mà Thiên Chúa đã dựng nên. Khi chúng ta chối bỏ căn tính và nguồn gốc của mình, chúng ta đang đi lạc đường. Và khi chúng ta nghĩ mình hoàn toàn vô nghĩa trước mặt Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ hiểu rất sai về quyền lực vô biên của Thiên Chúa, đấng đã dựng nên chúng ta.
Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện và tác động nơi cuộc sống mỗi người. Ngài vẫn phú ban những ân huệ mà chúng ta không nhìn thấy. Ngài đến trần gian để tỏ bày tình yêu. “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng ta và chúng ta thâm tín rằng Người đã chết cho tất cả mọi người”. Mỗi người chúng ta hiện hữu là một phép lạ của tình yêu. Phép lạ xảy ra không phải khi chúng ta xuôi tay nhắm mắt nằm xuống, nhưng trong chính cuộc sống hôm nay qua từng mỗi biến cố, mỗi chặng đường mà chúng ta đã hoặc sẽ đi qua. Đó là lý do mà Thánh Phaolô đã khẳng định “Những ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua và cái mới đây rồi ( 2 Cr 5,17-18). Chúng ta là thọ tạo mới, vì Thiên Chúa vẫn luôn hoạt động trong cuộc sống chúng ta, ngay bây giờ. Đấng Tạo hóa, vượt xa trí hiểu loài người vẫn luôn yêu thương ta và Ngài luôn hiện hiện để làm cho chúng ta được trở nên mới luôn mãi.
Để tái tạo vật mới từ vật cũ thì vật cũ cần phải tháo gỡ cho việc tái tạo. Hành động tháo gỡ mang í TN12 B-80
Để tái tạo vật mới từ vật cũ thì vật cũ cần phải tháo gỡ cho việc tái tạo. Hành động tháo gỡ mang í nghĩa chết và í nghĩa sống. Chết hiểu theo nghĩa từ nay hình dạng cũ thuộc về quá khứ, không còn nữa. Thay vào đó là hình dạng mới với đời sống mới. Thí dụ điển hình nhất là sau cơn hoả hoạn, cây cũ cháy rụi, chết đi nhường chỗ cho mầm non phát sinh.
Thiên tai tàn phá và tái tạo. Quan trọng hơn nữa thiên tai hi vọng giúp ta nhận biết thân phận nhỏ bẻ của con người. So với vũ trụ bao la con người nhỏ hơn hạt cát biển và tàn lụi nhanh hơn hạt sương trước ánh dương. Dù nhỏ bé như thế nhưng con người có tham vọng làm chủ tể của vũ trụ có trước con người nhiều tỉ năm. Tìm hiểu để biết hơn về vũ trụ là điều tốt nhưng tìm cách làm chủ, chối bỏ công trình sáng tạo của Thiên Chúa là việc hạt cát đòi làm chủ đại dương, sương sớm đòi làm chủ mặt trời.
Sóng gió trong đời là điều không thể tránh khỏi và khi chúng đến con người thường có hai chọn lựa. Người có đức tin mạnh mẽ thường chạy đến Chúa trong lời kinh. Khi bão tố đến họ bám chặt hơn vào Thiên Chúa, tìm an bình nơi Ngài. Đồng thời họ cũng tìm sự hỗ trợ của đồng loại. Các tông đồ khi gặp sóng gió các ông cũng vừa chèo chống vừa chạy đến cùng Đức Kitô và các ông kinh ngạc chỉ một lời phán bảo sóng gió im lặng nghe lời Ngài. Con người không có khả năng ra lệnh cho thiên tai. Con người chỉ có những nhà chuyên môn trong ngành có khả năng tiên đoán tai ương có thể sẽ xảy đến và chuẩn bị trước mong tránh càng nhiều thảm hại càng tốt. Con người chấp nhận khi các chuyên gia tiên đoán sai về thiên tai sẽ xảy đến nhưng khi Chúa không đáp đúng lởi chúng ta cầu xin chúng ta phàn nàn Chúa không thương con người. Vì sao lại có thái độ đó? Thưa vì chúng ta đặt í ta trên í Chúa.
Người có đức tin mạnh nơi Đức Kitô tin vào phép lạ và qua phép lạ giúp cho đức tin mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên khi không có phép lạ đức tin vẫn không yếu kém vì đức tin đặt nền tảng trên Đức Kitô, không phải dựa vào phép lạ để tin. Để có phép lạ cần có đức tin như thế đức tin phát sinh phép lạ, không phải phép lạ sinh ra đức tin. Trong Kinh Thánh Đức Kitô luôn khẳng định với người Ngài ban ơn: Đức tin con đã cứu con. Như thế Đức tin luôn đi trước, phép lạ theo sau.
Kitô hữu tin chúng ta sống nơi trần thế chỉ trong giai đoạn và khi đi trọn con đường chúng ta trở về với Chúa. Thời gian khi nào trở về không thuộc về khả năng con người nhưng do Chúa định đoạt. Kitô hữu mong sống hạnh phúc và sống lâu dài nơi trần gian nhưng Kitô hữu cũng biết rằng đó là í muốn của ta; ngoài í ta muốn còn có í Chúa mà ta luôn tôn trọngg và xin lắng nghe và chấp nhận như điều chúng ta tuyên xưng khi đọc kinh Lậy Cha.
Đức Kitô đón nhận sóng gió trong đời với môt niềm tin mãnh liệt nơi Chúa Cha và Ngài đã cảm thấy bình an trước sóng gió cuộc đời. Học từ Đức Kitô khi sóng gió đến chúng ta cũng xin ơn biết đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô, xin ơn khôn ngoan biết xử thế trước sóng gió và nhận ra í Chúa mặc khải qua biến cố cuộc đời.
cc. 35-37) Vào thời thượng cổ, gió và biển là tượng trưng cho náo loạ n và sự dữ, luôn chiến đấu với TN12 B-81
(cc. 35-37) Vào thời thượng cổ, gió và biển là tượng trưng cho náo loạ n và sự dữ, luôn chiến đấu với Thiên Chúa. Giáo hội tiên khởi được coi như là một con thuyền.
(c. 38) Các môn đệ đã từng thấy Chúa Giêsu chữa nhiều bệnh tật, và trừ được quỷ (chương 1-3). Thế mà khi họ phải lao đao giữa cơn bão biển, Chúa Giêsu lại ngủ. Họ kết luận rằng Chúa Giêsu chẳng lo nghĩ gì đến họ! Sách Cách Ngôn (3:24) dùng giấc ngủ an bình để tả lòng tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Việc Chúa Giêsu có thể ngủ ngay lúc bão táp là dấu chỉ lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa của Ngài.
(c. 39) Những lời Chúa Giêsu dùng để nói với bão biển, “Im đi! Câm đi!”, cũng cùng là lời Chúa đã dùng để trừ quỷ (Mác-cô 1:25). Như thế, quyền năng của Chúa Giêsu trên sóng gió ngụ ý nói về quyền năng của Người trên thần dữ.
(c. 40) Chữ “lòng tin” khi dùng trong xã hội Hy Lạp hay Do Thái thời đó có nghĩa là “lòng trung thành”. Chúa Giêsu trách các môn đệ đã để sự nhát gan làm lung lay lòng trung thành của họ đối với Người.
(c. 41) Quyền năng trên biển và bão tố là dấu hiệu một quyền năng đến từ Thiên Chúa (Thánh Vịnh 107:23-32).
Một Điểm Chính
Sự hiện diện của Chúa mang bình an đến cho tâm hồn. Đi với Chúa Giêsu là đi trong bình an, dù là đi giữa bão tố của đời. Hãy tin tưởng vào Chúa luôn luôn và trong mọi biến cố.
Suy Niệm
Đời tôi hiện nay đang ở trong cơn bão tố nào? Có thể là một biến cố bên ngoài hay một cuộc chiến trong tâm hồn.
Nếu như Chúa Giêsu ở bên cạnh tôi khi tôi lao đao giữa giông tố ngoài biển khơi, thì tôi sẽ làm gì? Tôi có vẫn ngồi bên Người ngay khi khi nước trào ngập thuyền? Tôi có đánh thức Người dậy để xin một phép lạ? Tôi có bỏ đi tìm một quyền năng nào khác để làm lặng xuống những sóng gió trong tôi?
Đứng trước biển cả mênh mông, đi tầu vượt biển phải đối diện với sóng to, gió lớn. Chắc chắn ai cũng TN12 B-82 Dalat
Đứng trước biển cả mênh mông, đi tầu vượt biển phải đối diện với sóng to, gió lớn. Chắc chắn ai cũng lo âu sợ hãi.Tâm trạng ấy cũng là tâm trạng của các môn đệ Chúa Giêsu khi đang ở trên thuyền, gặp ngay trận cuồng phong, gió lớn, biển gầm.Chúa có mặt trên thuyền nhưng Ngài ngủ mê mệt. Các môn đệ cuống cuồng, có Chúa đang hiện diện nhưng họ quên có Chúa, do đó, các môn đệ sợ hãi, đánh thức Chúa dậy, các ông vừa sợ vừa trách Chúa, xin Ngài giúp đỡ:” Thưa Thầy, chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao ?” ( Mc 4, 38 ). Người liền đe gió, và phán bảo biển:” Hãy im đi ! “. Tức khắc, gió yên, sóng im, biển lặng như tờ…
Vâng, các môn đệ dù sống bên Chúa, được Ngài hướng dẫn, đào tạo.Tuy nhiên, khi gặp thử thách khó khăn, các ông quên Chúa đang hiện diện, có Ngài không có gì phải sợ hãi bởi Ngài đã hứa:” Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế “. Thánh vịnh 107,6.29 viết:” Trong gian truân chúng ta kêu cầu Chúa
và Ngài đã cứu vớt chúng ta…Ngài dẹp tan cơn bão cuồng phong
và sóng biển trở về lặng yên “. Đọc lời kêu cầu này và những tư tưởng của hai bài đọc Cựu Ước, cũng như thư thánh Phaolô. Chúng ta nhận ra Chúa đang thi hành uy quyền của Ngài trên sóng gió, biển khơi vv… Nên, kết thúc bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ đã tự hỏi, cực kỳ sợ hãi và nói với nhau:” Ngài là ai vậy ? Cả đến gió và sóng biển cũng phải vâng nghe lời Ngài “. Ngài là ai vậy ? Câu trả lời đã có giải đáp trong bài đọc thứ nhất và đáp ca. Bài trích Sách Ngôn sứ Giêrêmia cho thấy “ Chúa dựng nên vũ trụ, biển khơi, sóng nước và truyền cho chúng phải tuân theo ý định của Ngài. Bài đáp ca “ Các thủy thủ gặp nạn trên biển khơi, họ đã kêu cầu Chúa và Chúa đã nhận lời của họ van xin “.Thiên Chúa trong Cựu Ước và Chúa trong Tin Mừng chúng ta mới đọc, chỉ là một Thiên Chúa. Do đó, Chúa truyền cho biển khơi, sóng, gió tuân theo ý Ngài trong Cựu Ước, thì trong Tân Ước đặc biệt trong đoạn Tin Mừng của thánh Máccô 4,35-41 cũng là chính Thiên Chúa trong Cựu Ước ra lệnh cho sóng biển im lặng…Chúa Giêsu đã từng xác nhận:” Cha và Ta là một “ ( Ga 10, 30 ). Câu chuyện trên đây đã trả lời cách dứt khoát, rõ ràng:” Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa “.
Sống trong cuộc sống hằng ngày, có gặp thử thách, khó khăn, khi kêu cầu chúng ta mới nhận ra Lòng Thương Xót của Thiên Chúa: Cha chúng ta ở trên trời, đồng thời cũng nhận ra sự hiện diện của Cha ở dưới đất là Đức Giêsu Kitô.
Khó khăn, thử thách giúp dẫn đưa chúng ta đến gặp Chúa. Chỉ có gặp Chúa chúng ta mới nhận ra tình thương vô biên, kỳ diệu của Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta giống như một chiếc thuyền trôi trên sông, trên biển.Trong cuộc hành trình trần thế tiến về Quê Trời, đức tin là điều quan trọng nhất để chúng ta vững bước trong cuộc hải hành tiến về Nước Thiên Chúa. Trong cuộc hải hành trần thế, như các môn đệ xưa, gặp bão tố, sóng to, gió lớn, biển gầm, họ đã vội chạy tới Chúa, xin Ngài cứu giúp. Chúng ta cũng vậy phải bám chặt lấy Chúa, tin tưởng tuyệt đối vào Ngài vì sự sống sự chết của mỗi người chúng ta tùy thuộc ở Ngài…Như thánh Phaolô quả quyết:” Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi “ hay “ Ơn của Ta đủ cho ngươi rồi “. Chúa là gia nghiệp, là ánh sáng và là ơn cứu độ của ta…Chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Chúa. Có Ngài mọi sự sẽ qua đi, mọi sự sẽ bị xóa nhòa…
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm sức mạnh cho chúng con, xin củng cố đức tin cho chúng con vì Chúa mới có những lời ban sự sống đời đời.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Ông là ai ? Lời này đã được giải đáp ở đâu ? 2.Tại sao các môn đệ lại cuống cuồng, sơ hãi trước gió to, biển gào? 3.Các môn đẹ thưa làm sao với Chúa khi Chúa đang nằm ngủ ? 4.Chúa Giêsu dạy các môn đệ bài học gì ? 5.Cảm nghiệm của O6BACE khi đọc đoạn Tin Mừng này ? ------------------
Trong những năm gần đây, chúng ta được nghe rất nhiều tin làm chấn động cả thế giới: những cơn TN12 B-83
Trong những năm gần đây, chúng ta được nghe rất nhiều tin làm chấn động cả thế giới: những cơn động đất, sóng thần, bão tố, liên tiếp sảy ra ở nhiều nơi trên thế giới làm chết rất nhiều người, phá hủy bao công trình phúc lợi công cộng. Những trận cuồng phong bão táp chúng ta có thể thấy bằng con mắt giác quan, còn có những trận cuồng phong vô hình đã và đang từng ngày đổ ập vào người ta như trường hợp của ông Gióp người đầy tớ của Thiên Chúa, sóng gió hữu hình đến với các môn đệ Chúa Giêsu, và chắc chắn có sóng gió của đời ta.
Sóng gió đến với ông Gióp
Vì ghen ghét với người tín trung với Thiên Chúa, ma quỷ đã tìm mọi cách để đến gần Thiên Chúa và xin được thử thách ông. Chúa đã cho phép ma quỉ toàn quyền, trừ sức mạnh của thần chết. Thế là bằng mọi cách, ma quỉ đã làm gió làm bão lên đời ông Gióp, khiên ông bị vợ bỏ, con chết, súc vật bị phân tán và ngay cả bản thân ông cũng bị bệnh phong cùi lỡ loét, phải ngồi trên đống phân tro ngoài đồng, còn cái cảnh nào bi đát hơn, chán nản hơn, tuyệt vọng hơn. Ma quỷ đã tấn công ông từ tứ phía, lợi dụng cả bạn bè đến để khích bác, chê bai vì đã dại dột tin tưởng vào Thiên Chúa. Trong cơn thất vọng, ông cũng đã có lần buông lời than trách. Vì thế, Chúa đã hiện ra trong cơn gió lốc và cật vấn ông: "Khi biển cả vỡ bờ chảy xiết, ai đã dùng cánh cửa mà ngăn" và chỉ một lời Chúa truyền, sóng cồn đã theo đà đứng nguyên tại chỗ (G 38, 1.8 -11). Bằng lời lẽ phân minh, Chúa đã tỏ cho ông Gióp thấy Ngài là Ðấng thống trị địa cầu, phàm ai trông cậy tin tưởng vào Chúa sẽ được Ngài ấp ủ yêu thương.
Sóng cả ba đào tạt thuyền các môn đệ
Tin Mừng Thánh Marcô thuật lại, Chúa Giêsu truyền các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ" (Mc 4, 35 ) mà không nói lý do như trong Tin Mừng Matthêu sang bờ bên kia vì "đám đông" (Mt 8, 18). Marcô còn ghi rõ: "Cũng có nhiều thuyền khác theo Người" (Mc 4, 36), nhưng không nói rõ liệu các thuyền kia có đi vào trung tâm của bão lớn hay không ? Chỉ biết rằng " Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước" (Mc 4, 37). Các môn đệ quả thực sợ hãi, sợ chết, có khi sợ Thầy đang ở trong thuyền của họ cũng chết nữa ! Cái chết thể xác không thể cưỡng lại nổi, nếu gió to sóng lớn đánh tan thuyền. Rồi các môn đệ than như một lời trách móc cay đắng "Mà Thầy không quan tâm đến sao ?" (Mc 4, 38)
Chúng ta tự hỏi: Chúa Giêsu đã làm gì trong lúc con thuyền vượt biển? Thưa: Người tận dụng thời giờ để nghỉ ngơi và ngủ. Nhưng không phải là Người vắng mặt. Tư tưởng của Người vượt trên chúng ta qua sự nhập thể làm người.
Sau một ngày giảng dạy, khi chiều đến Chúa Giêsu muốn tránh ra xa đám đông. Mệt mỏi, Người nghỉ ngơi đôi chút. Người ngủ trên chiếc thuyền của các môn đệ, dựa gối vào đàng lái mà ngủ. Chìm vào giấc ngủ, bão tố cuồng phong không thể nào làm người tỉnh giấc. Khiến các môn đệ phải hét vào tai đánh thức Người. Chúng ta đọc được những lời thật lo âu của các môn đệ: "Thưa Thầy, chúng con chết mất" (Mc 4, 38). Người chỗi dậy.
Chúa Giêsu đã thức dậy, can thiệp đúng lúc và truyền cho gió bão: "Hãy im đi, hãy lặng đi" ( Mc 4, 39 ). Tức thì, gió bão im lặng. Các môn đệ cảm thấy nhẹ nhõm vì không còn hoang mang, sợ hai và lo lắng nữa. Biển lặng tượng trưng cho lòng con người được an bình, được yên lặng. Sau đó, Người đã quở các môn đệ rằng: "Sao các con sợ hãi thế, các con không có đức tin ư ?" (Mc 4, 40).
Chúng ta đặt mình vào trong tình huống này, cuồng phong nổi lên, sóng khiến nước ập vào thuyển, trong khi đó Chúa Giêsu vẫn ngủ. Một bên là gió rít sóng gào, bên kia là hơi thở nhẹ nhàng và đều đặn của Chúa Giêsu. Một bên là các môn đệ chạy lên chạy xuống kêu la hốt hoảng đến mất lòng tin. Bên kia là tư thế nghỉ ngơi bình an hoàn toàn thoải mái ngay ở đàng lái mạn thuyền của Chúa Giêsu. Như thế, ở giữa sức mạnh của phong ba bão táp, con thuyền được lèo lái, không phải bởi một sức mạnh lớn hơn, nhưng bằng một giấc ngủ ngon lành của Chúa Giêsu, vì Người là Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn là các môn đệ không được hoảng hốt, kêu la và đánh thức Thầy, với sự hiện diện của Thầy lẽ ra các ông phải yên tâm mới phải. Cứ để biển động, gió gào, sóng thét và nhất là cứ để Chúa Giêsu ngủ trong thuyền của các ông.
Con thuyền Giáo hội, thuyền của đời ta
Trong lịch sử, truyền thống Kitô giáo vẫn nhìn nhận con thuyền tròng trành vì bão tố, một hình ảnh của Giáo hội. Khi Marcô viết Tin Mừng, có lẽ Phêrô đã chịu tử đạo và giáo đoàn Rôma bị bách hại tàn bạo: "Chúng ta hãy sang bờ biên kia" (Mc 5, 35) có ý nghĩa. Mặc dù bão tố, Giáo hội phải sống và phát triển trong thế giới ngoại giáo này và không chỉ trong cộng đoàn Kitô giáo gốc Do thái mà thôi, nhưng còn từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, khắp muôn dân trở về với Giáo hội Chúa. Và sự im lặng của Thiên Chúa hiển nhiên có thể làm chúng ta quên đi tình yêu biểu lộ cho nhân loại nơi Đức Giêsu Con Thiên Chúa làm người.
Đời người ai mà chẳng có lúc sóng gió. Có lúc sóng gió tấn công vào chiếc thuyền nhỏ trong thân phận mỏng manh của đời ta. Ðau khổ bệnh tật, thất bại, cô đơn, nghèo đói, hiểu lầm, ghen ghét, tai nạn, rủi ro đó là những bão táp của đưa đẩy cuộc đời. Ðứng trước những cơn phong ba ấy, chúng ta thường hốt hoảng, lo sợ và thậm trí có khi mất niềm tin. Thế nhưng khi nghe Lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy đó chính là sứ điệp đầy hy vọng mời gọi ta hãy tin tưởng vào Chúa vì Người là Đấng quyền năng. Không những Chúa có thể dẹp yên sóng gió của biển động, mà còn đem lại sự bình an cho tất cả những ai luôn biết tin tưởng và gắn bó với Chúa. Niềm tin ấy không làm cho đau khổ biến đi. Nhưng sẽ biến đau khổ thành sức mạnh, giúp ta vượt thắng tất cả những thử thách cam go, sóng to, gió cả của cuộc đời. Ðể cuối cùng đạt đến hạng phúc nguồn cứu độ nơi bến bờ quê hương vĩnh cửu. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ------------------
TN12 B-84: VŨ TRỤ LÀ MỘT CUỐN SÁCH NÓI VỚI CHÚNG TA VỀ THIÊN CHÚA
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Ngày 18 tháng 6 năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố một thông điệp với tựa đề “Chúa TN12 B-84
Ngày 18 tháng 6 năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố một thông điệp với tựa đề “Chúa đáng chúc tụng – Laudato sii”. Nội dung của thông điệp này là lời mời gọi mọi người nhận ra vẻ đẹp của vũ trụ và cùng nhau chung tay bảo vệ.
Trước đó, ngày 14-6, vị Chủ chăn của Giáo Hội đã nói trong bài huấn từ nhân dịp đọc kinh Truyền tin tại quảng trường Thánh Phêrô: “Thông điệp mà tôi sắp công bố ngỏ lời với hết thảy mọi người. Chúng ta hãy cầu nguyện để mọi người cùng đón nhận thông điệp này và ý thức trách nhiệm đối với ngôi nhà chung mà Thiên Chúa trao phó cho hết thảy” (Zenit 14-6-2015).
“Chúa đáng chúc tụng” là điệp khúc của “bài ca tạo vật” rất nổi tiếng do chính Thánh Phanxicô khó khăn biên soạn. Vị Thánh của người nghèo đã ngây ngất trước vẻ đẹp của thiên nhiên hoàn vũ, và nhận ra, ngay cả những cây cỏ, chim muông, hoa lá… đều có ngôn ngữ riêng để ta tụng Chúa. Những tạo vật ấy đều do Thiên Chúa dựng nên, và như vậy, chúng là những anh chị em với con người.
Tác giả sách ông Gióp (Bài đọc I) đã ghi lại lời Chúa nói với ông Gióp về vẻ đẹp của thiên nhiên và sự tuần hoàn của vũ trụ do chính Chúa thực hiện. Ông Gióp là người gặp nhiều bất hạnh. Đang là người giàu có phong lưu, bỗng chốc mất hết con cái, của cải, bạn bè. Ông đang tìm một lời giải đáp cho đau khổ chồng chất ông phải chịu. Những bạn bè đến thăm chỉ đưa ra những lý luận phàm tục, không làm ông thỏa mãn. Chính lúc đó, Chúa hiện ra với ông để đem cho ông nguồn an ủi. Ngài tỏ cho ông biết, Ngài là Đấng quyền năng, đến đại dương hùng mạnh cũng phải vâng lời, vì chính Ngài vạch ranh giới cho chúng.
Đức Giêsu đã tiếp nối mạc khải của Cựu ước để chứng tỏ quyền năng thiên linh của Thiên Chúa nơi Người. Trong truyền thống Do Thái cổ xưa, biển khơi được diễn tả như một loài quái vật hoặc quỷ dữ. Biển cũng tượng trưng cho quyền lực của sự chết. Đối diện với cơn bão tổ trên biển hồ, các môn đệ tưởng mình như đã đến ngày tận số. Các ông kêu la hoảng loạn và kêu Chúa cầu cứu. Giữa cơn khốn khó của họ, Chúa Giêsu đã tỏ rõ quyền năng của Người đối với biển khơi. Với kiểu nói: “Người ngăm đe gió và truyền cho biển: ‘Im đi! Câm đi!’, Thánh Mác-cô muốn diễn tả biển khơi giống như một đối phương hùng mạnh đang tấn công các môn đệ. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã đến thế gian để trừ diệt quyền năng của sự chết. Người thiết lập trật tự mới trong ân sủng và bình an.
Phép lạ dẹp yên sóng gió là dịp để các môn đệ nhận ra quyền năng của Thày mình. Họ hỏi nhau: “Người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Chúng ta ngạc nhiên trước câu hỏi này. Thế ra, từ khi theo Chúa Giêsu cho đến tận bây giờ, các ông vẫn chưa hiểu rõ Thày mình là ai. Chỉ đến khi chứng kiến phép lạ ngoạn mục, các ông mới ngỡ ngàng và thấy rằng Thày mình không phải là một người trần gian.
Trước sự an hòa của trật tự thiên nhiên vũ trụ, người tín hữu nhận ra có một bàn tay khôn ngoan sắp xếp điều khiển. “Bàn tay” ấy chính là Thiên Chúa, Đấng quyền năng vô song. Ngài dựng nên mọi sự cho con người hưởng dùng. Công trình sáng tạo là tác phẩm của tình thương Thiên Chúa.Vũ trụ là một cuốn sách nói với chúng ta về Thiên Chúa.
Môi trường thiên nhiên đang bị con người vô tâm tàn phá nghiêm trọng. Cùng với môi trường thiên nhiên, môi trường đạo đức cũng băng hoại do bị lây nhiễm lối sống phi đạo đức. Nhiều người viện cớ “cuộc sống hiện đại” để coi thường những chuẩn mực đạo đức truyền thống. Họ muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, vì họ tự cho mình có thể tự quyết định được tương lai. Lịch sử đã chứng minh, một xã hội vắng bóng Thượng đế sẽ rơi vào nguy cơ bị hủy diệt.
Thông điệp “Chúa đáng chúc tụng” là mời gọi mỗi người cùng xét mình trước mặt Chúa về trách nhiệm đối với cộng đồng xung quanh trong cách ứng xử của cá nhân cũng như tập thể.
Cuộc đời này cũng được sánh ví như đại dương bao la mà mỗi người chúng ta đang cố gắng chèo chống để vượt qua. Trong cuộc “vượt biển” này, có biết bao sóng gió thử thách vây bọc chúng ta. Có những lúc chúng ta cảm thấy như Chúa vắng bóng trong cuộc đời, giống như các môn đệ kêu van với Chúa: “Thày ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?”. Khi kêu lên những lời đó, các ông nghĩ rằng Chúa đang ngủ và bỏ rơi các ông. Tuy vậy, vào lúc các ông đang gặp gian nguy, Chúa đã can thiệp. Biển trở lại an bình, và niềm vui cũng trở lai với mọi người.
Hãy chúc tụng Chúa là Đấng đã tạo dựng nên vũ trụ và thiên nhiên xinh đẹp, đông thời cộng tác với Chúa để tình nhân ái được nhân lên xung quanh chúng ta. Nhờ đó, chúng ta nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa trong cuộc đời.
Có đôi khi trong cuộc sống chúng ta không hiểu tại sao sóng gió lại đến với chúng ta. Sóng gió cứ TN12 B-85
Có đôi khi trong cuộc sống chúng ta không hiểu tại sao sóng gió lại đến với chúng ta. Sóng gió cứ dồn dập như muốn nhận chìm chúng ta. Nó khiến chúng ta chao đảo, chơi vơi giữa bể khổ trần gian. Lúc đó , chúng ta cầu mong một phép lạ. Chúng ta cầu mong Chúa đến cứu giúp chúng ta. Nhưng dường như Chúa vẫn ở xa chúng ta. Chúa vẫn để chúng ta một mình chơi vơi giữa trăm bề khổ đau.
Sách Cựu Ước đã từng nói về câu chuyện bi thương của ông Gióp. Ông Gióp là một người giàu có và có lòng kính sợ Thiên Chúa, nhưng rồi bao nhiêu tai nạn dồn dập đã xảy ra trên đời sống ông: con chết, tài sản tiêu tan và chính ông mắc phải một chứng nan y không thuốc thang nào chữa trị được. Vợ ông đã không thông cảm lại còn lên tiếng chế nhạo, còn những người bạn thì cho rằng ông tội lỗi đầy mình nên mới nên nông nỗi đó! Thế mà, ông vẫn trung kiên với niềm tin vào Chúa. Ông vẫn có thể nói lên trong những hoạn nạn rằng: “Chúa biết con đường tôi đi, khi Ngài đã thử rèn tôi, tôi sẽ ra như vàng”
Đây là một đức tin “có thể chuyển núi dời non». Đây là đức tin có thể chuyển họa thành phúc. Quả thực, ông Gióp sau những thử thách thì phong ba bão tố cũng yên hàn. Ông đã được Chúa ban lại những gì đã mất. Chúa không bỏ quên những ai tín trung với Ngài. Năm xưa các tông đồ đã từng hoảng loạn, sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên, của giông bão. Giông bão như muốn nhấn chìm tất cả: con người và tài sản. Con thuyền của họ thật mong manh! Họ đâu nghĩ rằng đêm nay biển dậy sóng trào. Họ đâu lường hết được những rủi ro có thể đến với họ đêm nay. Họ phải đối đầu với nguy nan, với bất trắc, với rủi ro. Một chiếc thuyền nan mong manh trên biển cả biết bám víu vào đâu? Làm sao họ có thể vào bờ an toàn trước cuồng phong lồng lộng. Họ bất lực. Họ muốn buông xuôi cho dòng đời xô đẩy. Nhưng may thay, họ đã nhớ đến Thầy. Thầy vẫn hiện diện bên họ. Có Thầy hiện diện tại sao không cầu cứu? Thầy có thể làm cho kẻ chết sống lại. Thầy có thể đẩy lùi sự dữ. Thầy có thể làm mọi sự. Tại sao không kêu cầu Thầy? Dầu sao Thầy cũng là một cái phao duy nhất để các ông bám víu trong lúc nguy nan của dòng đời.
Các ông đã chạy đến thưa Thầy: “Thầy ơi, chúng con chết mất!”. Đó là tiếng kêu từ thẳm sâu tâm hồn cần đến sự trợ giúp từ Thầy Chí Thánh. Đó là tiếng cầu cứu nói lên sự bất lực của con người trước sóng gió ba đào.
Đó cũng là tiếng kêu cứu của con người hôm nay khi đứng trước biết bao nghịch cảnh xảy đến trong đời. Biển đời vẫn đưa đẩy những sóng gió nghi nan, những bất trắc đau thương. Thiên tai vẫn ập xuống địa cầu. Sự dữ vẫn đang tung hoành. Có nhiều người như muốn thất vọng buông xuôi vì không tìm được lối thoát. Có nhiều người oán trời oán đất vì quá sức chịu đựng. Có nhiều người ôm phiền muộn trong đau thương một mình vì chẳng tìm được sự an ủi, cảm thông và tin tưởng nơi tha nhân. Dòng đời vẫn còn đó tiếng kêu van tha thiết dâng lên Đấng tối cao: “Xin cứu chữa chúng con, Chúa ơi!”.
Vâng, cuộc đời vẫn còn đó biết bao sóng gió nổi trôi. Cuộc đời tựa như chiếc thuyền nan chòng chành trước bao cám dỗ mời mọc, bao sự dữ bủa vây. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy kêu cầu Chúa. Hãy đưa tay để Chúa dìu chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Dòng đời đâu mấy khi bình yên. Con người mãi chơi vơi trong bể khổ trần gian. Hãy tin rằng Chúa vẫn đang đi trong cuộc đời chúng ta. Hãy tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy tin tưởng vào tình thương quan phòng của Chúa, Ngài sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho con cái của Ngài.
Nguyện xin Chúa Giê-su là Đấng luôn hiện diện bên cạnh các tông đồ và bên cuộc đời chúng ta, xin thương đến những cảnh đời đầy khó khăn thử thách của kiếp người chúng ta. Amen.
Chỉ những ai từng đi biển mới thấy thế nào là sức mạnh của sóng gió. Trước sức mạnh của sóng biển, TN12 B-86
Chỉ những ai từng đi biển mới thấy thế nào là sức mạnh của sóng gió. Trước sức mạnh của sóng biển, một con tàu cũng chỉ như chiếc lá mong manh, và sức của con người thì không thể chống đỡ được. Nhiều cư dân vùng biển không biết bằng cách nào có thể khống chế được sức mạnh từ đại dương. Vì thế, họ cho rằng đó là sức mạnh đến từ thần biển và họ cúng bái thần biển như thần linh.
Khác với các dân tộc chung quanh thờ cúng thiên nhiên như thần mặt trời, thần biển, thần đất hoặc các con vật, thì dân Israel ngay từ xa xưa đã nhận ra rằng: Thiên Chúa Israel tôn thờ là chúa tể của trời đất, là thần của các thần, là Đấng quyền năng vượt trên mọi vật mọi loài. Sách Gióp đã tuyên xưng niềm tin ấy. Ông Gióp là người trung tín với Thiên Chúa, là người giàu có ; thế nhưng, Thiên Chúa đã để cho Satan hành hạ ông, để thử thách sự trung thành của ông với Thiên Chúa. Tuy có những lúc ông dường như cảm thấy chao đảo, nhưng ông vẫn tin Thiên Chúa là Đấng ban cho ông tất cả, thì Ngài cũng có thể lấy đi tất cả từ nơi ông. Đoạn trích trong bài đọc một hôm nay, Thiên Chúa đã cho ông Gióp thấy quyền năng của Ngài là Đấng tạo dựng và điều khiển vũ trụ. Chúa nói với ông: Cửa đại dương ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào ? Đường ranh giới của nó chính tay Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài. Ta phán: sóng chỉ đến đây thôi, không được xa hơn nữa, nó phải vâng nghe.
Câu chuyện Tin Mừng thuật lại: Sau một ngày Chúa Giêsu và các môn đệ vất vả với công việc, Ngài cùng với các ông lên thuyền băng qua bên kia Biển Hồ. Thình lình, một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền. Chúa Giêsu đang ở đàng lái dựa đầu vào gối và ngủ. Trong lúc sợ hãi, các môn đệ đã cầu cứu Chúa: Thầy ơi ! Chúng ta chết mất ! Chúa Giêsu chỗi dậy ngăm đe sóng gió: Im đi ! Câm đi ! Lập tức, gió yên biển lặng. Qua câu chuyện, các môn đệ đặt câu hỏi: Ngài là ai mà cả đến gió và biển cũng phải vâng lệnh ? Đặt câu hỏi như thế, cũng có nghĩa là các môn đệ đã dần nhận ra Thầy của các ông là Đấng quyền năng hơn hẳn các Rabi khác. Không chỉ tin Ngài là Đấng quyền năng, Tin Mừng còn minh chứng Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng, sắp đặt vũ trụ trời đất, có quyền trên mọi sức mạnh thiên nhiên, Ngài chỉ cần ra lệnh là sóng yên biển lặng.
Câu chuyện hôm nay còn muốn diễn tả nhiều ý nghĩa giáo lý sâu xa hơn nữa. Người Do Thái cho rằng, biển không chỉ là nơi có sóng gió tự nhiên, mà còn là nơi cư ngụ của thủy thần hà bá, của ma quỷ và thần dữ, là kẻ chuyên làm hại con người qua những trận sóng gió. Vậy mà hôm nay, đứng trước cuồng phong sóng biển, Chúa Giêsu chỉ cần ra lệnh “Im đi ! Câm đi !” là nó phải im lặng. Điều này có nghĩa: Chúa Giêsu là Đấng có quyền trên ma quỷ và các thứ thủy thần, Ngài buộc nó im là nó phải im ; Ngài ra lệnh câm miệng là nó phải vâng theo, không còn dám há miệng để nuốt chửng con người nữa. Uy quyền ấy chỉ có nơi Thiên Chúa mà thôi, như thế, hẳn Đức Giêsu phải là một vị Thiên Chúa.
Con thuyền có Chúa Giêsu và các môn đệ còn là hình ảnh của Giáo Hội. Các môn đệ là người chèo chống, những cơn sóng dữ là khó khăn bách hại. Các ông phải đương đầu với những cách thức tấn công mới của ma quỷ. Các môn đệ nhiều khi cũng rơi vào sợ hãi, các ông cảm thấy bó tay trước những sóng gió. Câu chuyện muốn nhấn mạnh: những lúc khó khăn như thế, không có nghĩa là Chúa Giêsu vắng mặt, trái lại, Ngài vẫn hiện diện cùng với Giáo Hội, chỉ có điều Ngài đang nghỉ ngơi phía đàng lái của con thuyền. Dù có khó khăn thử thách thì chính Chúa Giêsu vẫn là người đang lái con thuyền Giáo Hội, chỉ cần các môn đệ tin tưởng chạy đến đánh thức Chúa dậy, kêu cứu với Ngài: Chúa ơi, xin cứu chúng con ! Chúa sẽ chỗi dậy dùng quyền năng của Ngài để đem lại cho con thuyền Giáo Hội sự bình an.
Để có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa, các môn đệ phải tin. Chúa Giêsu đã trách các ông: Sao nhát thế ? Anh em vẫn chưa có lòng tin hay sao ? Mặc dù đã nhiều lần thấy Chúa Giêsu làm phép lạ, được nghe những giảng dạy của Ngài, nhưng các môn đệ dường như chưa xác tín mạnh mẽ Thầy của các ông chính là Thiên Chúa, là Đấng không bao giờ làm ngơ trước những khó khăn của các ông. Khi gặp sóng gió, các môn đệ đã tỏ ra quá sợ hãi. Cũng rất may là các ông còn nhớ đến Chúa, kêu cứu Chúa: Thầy ơi ! Chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao ? Tâm trạng của các môn đệ cũng giống như tâm trạng của nhiều tín hữu khi gặp khó khăn. Họ kêu cầu Chúa chưa hẳn vì lòng tin, mà chỉ để trách Chúa. Dầu vậy, Chúa vẫn ra tay cứu giúp các ông, trả lại cho các ông sự bình an.
Chỉ sau khi Chúa phục sinh và được lãnh nhận Thánh Thần, các Tông đồ mới được biến đổi hoàn toàn để trở nên những con người của đức tin, trở nên chứng nhân của niềm tin vào Chúa Giêsu là Đức Chúa. Các ông tin rằng, các ông không hoạt động một mình, nhưng hoạt động trong sự hiện diện của Chúa Kitô và với sự soi sáng của Thánh Thần. Vì vậy, các Tông đồ đã trở thành những con người miệt mài rao truyền quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu-Kitô. Thánh Phaolô đã chia sẻ với cộng đoàn Corintô: Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi. Đó chính là động lực thúc đẩy ông và các Tông đồ căng buồm ra khơi để loan báo Tin Mừng. Các ông đã nhận ra Thiên Chúa đã thể hiện quyền năng tuyệt vời khi làm cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, và chính Ngài cũng làm cho tất cả những kẻ tin vào Chúa Giêsu cũng sẽ được sống lại như Đức Kitô. Chúa Kitô được Thiên Chúa Cha tôn vinh là Đức Chúa qua cái chết và sống lại. Ngài là Đấng làm chủ sự sống và sự chết, ma quỷ và thần chết không làm gì được Ngài nữa. Ngài sẽ ban tặng sự sống cho những ai hết lòng tin theo Ngài.
Chúa Giêsu Kitô là thiên Chúa quyền năng vẫn đang hiện diện trên con thuyền là mỗi gia đình. Ngài đang hiện diện ở đàng lái để điều khiển con thuyền gia đình của mỗi chúng ta. Đừng bao giờ ngăn cản quyền năng của Chúa. Chúng ta sẽ trở thành kẻ ngăn cản quyền năng của Thiên Chúa khi chúng ta cậy dựa vào sức mình, khi kiêu căng vì nghĩ rằng tự tôi có thể giải quyết được tất cả, làm nên tất cả mà không cần ơn Chúa. Con thuyền gia đình của mỗi người cũng đã nhiều lần bị sóng gió vùi dập. Chúng ta đừng sợ hãi, hãy tin vào sự hiện diện quyền năng của Chúa. Những khi bị sóng gió vùi dập, đừng ngại chạy đến đánh thức Chúa để cầu cứu: Thầy ơi ! Cứu gia đình con với ! Chúa sẽ ra tay để bảo vệ chúng ta.
Cuộc đời của mỗi người cũng là một chiếc thuyền lênh đênh trên biển đời. Hãy mời Chúa Giêsu bước lên chiếc thuyền cuộc đời của mình bằng việc siêng năng đến với Chúa qua việc dâng lễ, cầu nguyện và để cho lời của Chúa hướng dẫn con tuyền cuộc đời mỗi người. Con người thường bị cám dỗ cậy dựa vào sức mình: người giàu cậy dựa vào tiền bạc vì cho rằng tiền bạc có thể giải quyết được tất cả, người trẻ bị cám dỗ cậy dựa vào khoa học và kỹ thuật vì cho rằng nó là chìa khóa của thành công, người khác thì cậy dựa vào thế lực quen biết… Nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa, thì tất cả những cái chúng ta cậy dựa ấy sẽ không thể giải quyết được những khó khăn của cuộc sống và càng không thể đương đầu được với những mưu mô cám dỗ của quỷ ma.
Xin Đức Maria giúp chúng ta noi gương Mẹ, nhận ra quyền năng của Thiên Chúa và hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Ngài đang làm chủ và điểu khiển mọi loài cũng như làm chủ và hướng dẫn cuộc đời chúng ta. Amen.
Gió dữ gây nên xáo động, mất ổn định, mang tai họa, biểu tượng cho thần dữ. Khi Chúa Giêsu truyền TN12 B-87
Gió dữ gây nên xáo động, mất ổn định, mang tai họa, biểu tượng cho thần dữ. Khi Chúa Giêsu truyền cho gió dữ im đi, Chúa Giêsu bày tỏ quyền năng của Người trên tất cả thần dữ. Vấn đề ở con người đang ở trên chiếc thuyền cùng Chúa, tại sao lại lo sợ cuồng phong?
Tránh né nỗi sợ.
Tâm lý chung của con người trước những biến cố không hay xảy ra đến với mình là tìm cách né tránh. Do không dám đương đầu với những khó khăn, gai góc do chính mình gây ra, người ta thường tìm cách loại bỏ, mặc dù điều ấy vi phạm nặng nề đến lề luật như: phá thai, hủy diệt nhân chứng, mua sự im lặng, tiêu hủy bằng chứng, đổ lỗi. Ở cấp độ nhẹ hơn, hoặc do hoàn cảnh dẫn đến, người ta thường hay lên tiếng trách móc, như các môn đệ kêu trách: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38).
Né tránh nỗi sợ, không giải quyết được vấn đề. Người ta sẽ lại thấy nỗi sợ dường như càng ngày càng lớn hơn. Chấp nhận sóng gió và tìm cách để giải quyết nó một cách can đảm mới thực sự nhận ra trách nhiệm của mình. Việc Chúa Giêsu ngủ trên chiếc thuyền cùng giông bão với các môn đệ cho thấy: Chúa muốn cho các môn đệ cần lớn lên trong cách lãnh đạo của mình sau này.
Tính lười – sức ỳ.
Không thể xem tính lười là một câu trả lời đúng. Thông thường, sức ỳ, tính lười ấy có những nguyên nhân. Thiếu tin tưởng vào bản thân, làm việc gì cũng lo sợ không thành công dẫn đến do dự, chần chừ. Không tìm được người hỗ trợ tinh thần. Cô đơn khi phải đương đầu với khó khăn nên thường trì hoãn. Thiếu mất động cơ làm việc. Ỷ lại vào người khác làm thay thế cho mình, hoặc chán nản với thời gian dài đòi hỏi kiên nhẫn…
Những nguyên nhân đó làm cho con người mất khả năng tích cực giải quyết hay thực thi sứ vụ. Chúa Giêsu trách các môn đệ: “Sao lại nhát sợ? sao kém lòng tin?” (Mc 4, 40).
Đối diện với khó khăn.
Tĩnh lặng và cầu nguyện: Một trong những điều cần thiết nhất khi gặp trở ngại, khó khăn, Chúa Giêsu dạy “hãy cầu nguyện”. Cầu nguyện để vững niềm tin, cầu nguyện để có một khả năng của ân sủng nâng đỡ. Không ai kém may mắn hơn người khác vì nguồn ân sủng Thiên Chúa trao ban cho mọi người không hề cạn. Cầu nguyện để đủ sáng suốt biết đâu là giới hạn của chính mình, biết giữ kỷ luật, kiểm soát chính mình để tiến tới trong đời sống. Chúa luôn mời gọi sống trưởng thành trong đức tin qua việc Chúa thử thách. Có sóng gió mới biết là đôi khi các môn đệ còn thiếu sức mạnh của niềm tin, thiếu đời sống cầu nguyện để can đảm vững tay chèo, thiếu nghị lực để vượt qua nỗi sợ hãi.
Quả cảm lãnh trách nhiệm.
Chúa Giêsu truyền lệnh cho sóng biển: “im đi, lặng đi” (Mc 4, 39). Chúa trao quyền cho con người kiểm soát thiên nhiên và vạn vật khi dựng lên muôn loài. Thế nhưng, con người vẫn sợ hãi? Sợ hãi vì con người đã phạm tội, và tội đã làm suy yếu đi uy quyền của con người. Uy quyền của từng con người rõ ràng nhất là mỗi người có quyền quyết định mọi điều thuộc về mình; người khác hay tổ chức nào khác chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Uy quyền được trao cho mỗi người để tùy nghi sử dụng theo khả năng. Như đồng bạc Chúa trao, người năm nén, người ba nén, người một nén. Cuối cùng là trách nhiệm trong việc sử dụng quyền của mỗi người. Nhận lãnh trách nhiệm và quả cảm thi hành trong ân sủng Chúa ban, đó là cách thức Chúa mời gọi. Giống như các môn đệ, nếu cứ can đảm lèo lái con thuyền giữa sóng dữ, cứ để Chúa Giêsu ngủ, có chết cùng chết, chắc sự kiện đã xảy ra theo cách khác và các môn đệ đã thấy điều mình hoàn toàn xác tín.
Sống trong cuộc sống không phải lúc nào cũng dễ dàng và nhất là trong đời sống đức tin, nhiều hoàn cảnh thay đổi, niềm tín thác lu mờ, tội lỗi và cám dỗ lan tràn, con người dễ buông xuôi. Xin cho chúng con biết luôn nỗ lực trưởng thành, nhờ ơn Chúa, sống quả cảm, lãnh trách nhiệm, kiên vững lớn lên trong thử thách.
Có một câu chuyện về đôi vợ chồng có 6 người con. Như mọi cha mẹ, đôi vợ chồng này cảm thấy TN12 B-88
Có một câu chuyện về đôi vợ chồng có 6 người con. Như mọi cha mẹ, đôi vợ chồng này cảm thấy cần có một ngày sống riêng với nhau, cho nên họ dặn dò và chuẩn bị con cái chu đáo cẩn thận ở nhà. Sau đó họ lái xe tới một cái hồ, vui hưởng thời giờ và tâm sự với nhau trên một du thuyền nhỏ.
Gió thổi nhè nhẹ và không bao lâu từ từ đưa chiếc du thuyền xa bờ ra giữa hồ. Đang lúc hưởng những giây phút thoải mái, thình lình bầu trời đổi thành sám vì những đám mây đen kéo đến. Gió nhè nhẹ bây giờ trở thành những cơn gió bão, tạo nên những làn sóng lớn và dữ dội đập vào thành thuyền làm cho chiếc du thuyền chao đảo.
Chỉ sau mấy giây phút sau đó, chiếc du thuyền bị đắm và biến mất dưới những ngọn sóng lớn chập chờn. Đôi vợ chồng lấy hết sức bám chặt vào hai chiếc phao cứu cấp nhỏ. Sau 4 tiếng đồng hồ chiến đấu với những cơn sóng lớn dữ dằn và chịu đựng khí hậu lạnh buốt, họ cảm thấy quá mệt mỏi, hết sức, đuối hơi, và nghĩ rằng giây phút cuối cuộc đời của họ gần đến. Lấy hết tất cả sức cuối cùng còn lại, họ cùng nhau cầu nguyện và sau đó buông tay nhau ra để mặc cho những ngọn sóng đưa đẩy.
Năm tiếng sau đó, người chồng thoi thóp, nửa tỉnh nửa mê, trôi nổi trên mặt hồ. Anh lấy hết sức gọi tên người vợ, nhưng không có tiếng trả lời, và anh cảm thấy mất hết hy vọng. Anh nghĩ tới sự đau đớn lúc phải nói với các con mẹ của chúng đã chết chìm, và có cảm giác kinh hoàng không biết mình có thể sống sót không.
Trong lúc nguy khốn đó, anh nghĩ tới một câu trong Thánh vịnh 50 “Hãy kêu cầu Ta trong ngày cùng khốn, Ta sẽ giải thoát, và ngươi sẽ làm hiển danh Ta.” (Tv. 50, 15) Anh bắt đầu kêu cầu Chúa với tất cả lòng tin và cậy trông vào chủ quyền của Chúa. Sau đó một sự kiện xảy ra, trong lúc giọng nói của anh từ từ yếu đi và nhỏ dần, một chiếc thuyền cấp cứu đã nhìn thấy anh và tăng tốc chạy đến. Trong khi anh được dìu kéo lên thuyền từ dòng nước giá lạnh, anh hỏi những người cấp cứu có tin tức gì về vợ anh không. Họ trả lời không. Họ không có tin tức và không nghe thấy gì về vợ anh.
Thình lình, một sự lạ thường xảy ra, họ nhìn thấy hình dáng của vợ anh ở khoảng cách xa xa đang trôi nổi trên mặt hồ. Khi đến nơi, họ thấy người vợ đang run cầm cập vì giá lạnh nhưng còn sống. Sau đó là giây phút trùng phùng trong nước mắt, và họ cùng chung trong lời cầu nguyện tạ ơn Thiên Chúa.
Khi về nhà, vợ chồng và những người con tụ họp lại, tiếp tục cầu nguyện dâng lời cảm tạ tri ân Chúa. Họ cảm tạ Chúa, không những đã cứu thoát họ khỏi chết, mà còn lôi kéo vợ chồng và gia đình đến gần Chúa, và với nhau một cách khắng khít hơn, kết quả sau một cơn nguy khốn trong cuộc đời.
Ông bà anh chị em thân mến. Câu truyện đôi vợ chồng trên đây có một sự tương đồng với câu truyện trong bài Tin mừng hôm nay. Trong hai câu truyện đều có những người có cảm giác kinh hoàng sợ hãi cho tính mạng trong một cơn bão tố trên biển hồ. Cả hai câu truyện đều có những người trong lúc đối diện với sự kinh hoàng và cơn khốn khó đều kêu cầu Chúa giúp đỡ, và được Chúa nghe lời và cứu chữa. Đức tin của họ được củng cố, trở nên vững mạnh hơn, kết quả của một kinh nghiệm khốn khó, sóng gió trong cuộc đời.
Hai câu truyện trên cũng gởi đến cho chúng ta một sứ điệp quan trọng, và sứ điệp này có 2 khía cạnh mà chúng ta thường quên và cần được nhắc lại. Thứ nhất, hai câu truyện trên đây là sứ điệp nhắc nhở chúng ta trong cuộc sống sẽ có những cơn khốn khó, sóng gió xảy ra, nhưng lôi kéo chúng ta đến gần với Chúa và với nhau hơn. Tôi xin nhấn mạnh có những trường hợp xảy ra lôi kéo chúng ta đến với Chúa và với nhau hơn, vì không phải trường hợp nào cũng có kết quả như vậy, sự thật, có những trường hợp ngược lại. Một sự khó khăn hay cơn sóng gió xảy ra trong cuộc sống có thể tách rời và đưa chúng ta xa Chúa, mất đức tin và xa nhau hơn, làm cho cha mẹ, vợ chồng, con cái bất hòa, đưa tới cảnh ly dị, con cái lâm cảnh khốn khổ, xa lìa anh chị em, thân nhân bạn bè, thậm chí xa cả cộng đoàn giáo xứ nữa.
Và tới đây chúng ta nhận thấy, cả hai câu truyện trên đây cho chúng ta bài học quan trọng và giúp chúng ta phân biệt được một sự khác biệt to lớn. Sự khác biệt mà một sự khó khăn, một cơn sóng gió trong đời lôi kéo chúng ta đến gần Chúa và gần nhau hơn, hay tạo nên một khoảng cách, cách biệt chúng ta xa Chúa và xa nhau hơn là cầu nguyện. Nhưng chúng ta phải ý thức rằng không phải bất cứ sự cầu nguyện nào, nhưng là cách cầu nguyện mà Chúa Giê-su dạy các môn đệ cầu nguyện. Cách cầu nguyện Chúa dạy là chúng ta đặt trọn niềm tin nơi Chúa và trong thánh ý của Chúa cho chúng ta. Đó là cách cầu nguyện mà chính Chúa Giê-su đã làm gương cho các môn đệ và cho chúng ta khi Chúa cầu nguyện trong vườn Giệt-si-ma-ni, Chúa thưa với Chúa Cha “Lạy Cha …. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha.” (Lc. 22, 42)
Chúng ta phải biết rằng một sự cầu nguyện mà không có ý nguyệnn hay một niềm tin nhận biết Thiên Chúa biết những gì tốt đẹp cho chúng ta, thì thật sự không phải là lời cầu nguyện. Một cách cầu nguyện không phải là một sự cầu nguyện chính đáng nếu chúng ta có thái độ coi Chúa như là một người tôi tớ, bắt Chúa phải vâng theo ý muốn của chúng ta, phải nghe lời chúng ta phán bảo, hay làm những điều chúng ta mong muốn ngay. Đây là biểu hiệu lòng ích kỷ và không có lòng tin thật. Chúng ta phải có thái độ và lòng tin Chúa là người Cha nhân từ và yêu thương chúng ta như một người mẹ hiền, hay một người cha nhân từ, như chúng ta mừng ngày Hiền phụ hôm nay. Chúng ta phải tin Chúa biết điều gì tốt đẹp nhất cho chúng ta.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận biết trong cuộc sống sẽ có những khó khăn, thử thách, sẽ có những cơn bão hay giống tố xảy đến. Những sự kiện này có thể lôi kéo đưa chúng ta đến gần Chúa hơn, hay ngược lại làm chúng ta xa cách Chúa, và sự khác biệt là cầu nguyện, nhưng là sự cầu nguyện mà Chúa dạy chúng ta cầu nguyện như Chúa phán: “Lạy Cha …. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha.” Chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta luôn đặt trọn niềm tin, cậy trông và phó thác vào Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, chứ không phải chỉ lúc gặp khó khăn hay sóng gió mà thôi.
Né tránh đau khổ, mong muốn bình an trên bước đường mình đi là điều dễ hiểu, vì tâm lý tự nhiên ai TN12 B-89
Né tránh đau khổ, mong muốn bình an trên bước đường mình đi là điều dễ hiểu, vì tâm lý tự nhiên ai cũng sợ đau khổ, sợ phải đối diện với “chướng ngại vật”. Thực ra biển, mấy khi mà không có sóng gió, đường đời không thể lúc nào cũng bằng phẳng, và nếu gặp khó khăn, trở ngại, cũng là dịp để chúng ta rèn luyện đôi chân của mình nên vững chắc hơn. Kinh nghiệm cho biết cây cao bóng cả, thuyền to sóng lớn, không ai thay đổi được “qui trình” ấy, bậc cha mẹ phải có trách nhiệm bao bọc che chở con cái; người lắm tài nhiều đức phải là người đã từng trải qua khổ đau tập luyện, rồi mới có thể đem tài năng để phục vụ anh chị em nhiều mình.
Vì xét thấy ý chí, bản lãnh, rất cần để con người đối phó với biết bao phức tạp nơi cuộc sống này, cha ông chúng ta đã truyền lại cho hậu thế một “quyết tâm căn bản” khi vượt biển trần: chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo. Vì muốn nói với con người qua các thời đại, sóng gió ở biển cả bao giờ cũng dữ dội, nguy hiểm, dù các các bạn là dân chài lưới đầy kinh nghiệm. Bằng mưu trí, khả năng của con người không thể chống trọi được với giông bão bủa vây, hãy nhờ tình yêu thương của anh chị em đang ở bên cạnh mình trợ giúp.
Hành trình vượt biển hồ của thầy trò Giêsu cũng như biết bao người, biển hồ có “cuồng phong” là chuyện bình thường, khác ở chỗ là có phải Đức Giêsu mê mệt đến độ sóng gió, nước tràn vào thuyền mà Thầy vẫn ngủ. Hơi lạ ở chỗ, những con người từng làm nghề “thuyền chài”, đối diện với phong ba bão táp, các ông vẫn cuống cuồng bất lực. Bất thường là các ông có Vị Thầy tài giỏi ở trên con thuyền, nhưng sao các ông lại thiếu bình tĩnh tới mức phải hoảng hốt la lên: “lạy Thầy, chúng con sắp chết rồi mà Thầy không quan tâm sao”? Và đặc biệt, tại sao Thầy Giêsu ra lệnh: “hãy im đi, hay lặng đi”, ngay lúc ấy sóng yên và biển lặng, khiến các ông không khỏi ngạc nhiên nói rằng: “Người là ai mà cả sóng gió cũng vâng lệnh Người”?
Hành trình vượt biển trần gian của mỗi chúng ta hôm nay cũng đầy sóng gió, sợ hãi, khó khăn, phải vất vả chèo chống thì vẫn còn đó, Thầy Giêsu luôn ở trên con thuyền của Giáo Hội, chúng ta có tin, có cậy nhờ Thầy ra tay trợ giúp không ? Đức Giêsu sẽ chẳng trách mắng chúng ta đứng “nản lòng nhụt chí” trên hành trình trần gian, nhưng Ngài sẽ hỏi “sao các con sợ hãi thế ? “Các con chưa có đức tin ư”? nếu khi gặp giông bão chúng ta cứ tự xoay sở một mình.
Biển hồ nào mà không có sóng gió, ơn gọi làm con Chúa, làm môn đệ của Thầy Giêsu, không thể chỉ hoàn toàn là êm xuôi, phẳng lặng. Trong cuộc sống tự nhiên, chẳng ai thành đạt mà không từng nếm mùi đau khổ, Cụ Phan Bội Châu cũng đã chia sẻ ý tưởng đó: nếu cuộc đời bằng phẳng, anh hùng hào kiệt nào có hơn ai. Xét theo mức độ siêu nhiên, có đau khổ, giông tố xuất hiện trong đời, là dịp để ta nhận ra mình là ai: “siêu nhân hay phàm nhân” ? Có tin Thiên Chúa, tin Đức Giêsu là Thầy là Chúa, hay ta vẫn tin vào mình ?
Giông tố luôn là nỗi lo sợ của người đi biển, đau khổ, thua lỗ bao giờ cũng cản trở bước đường của người tìm kiếm bình an, niềm vui. Qui luật hay lề luật, tự nhiên hay siêu nhiên, cũng là điều kiện nhằm đưa dẫn con người tới bến bờ tự do hạnh phúc. Giống tố có thể làm chìm thuyền, nếu các tông đồ khi ấy chỉ cậy dựa vào sức mình hay hiểu biết của các ông. Giông tố cũng là điều kiện để các tông đồ và chúng ta hôm nay, hãy tự tin, cậy trông vào quyền năng của Thầy Giêsu đang đồng hành với chúng ta trên con thuyền vượt biền trần này. Cây lớn lên sinh trái quả, nhờ nắng mưa và người chăm sóc; biển có yên, sóng có lặng là nhờ mỗi chúng ta tin tưởng và kêu cầu Đức Giêsu trợ giúp để con thuyền mình cặp bến an toàn.
Thuyền ơi có nhớ bến chăng, bến thì một dạ khăng khăng đời thuyền. Trong câu ca dao ấy, người ta mượn hình ảnh thuyền và bến để nói tới tình yêu đôi lứa thật đẹp, khi họ biết chung thủy đợi chờ cùng vượt sông nước tới bờ hạnh phúc. Trong hành trình vượt biển hồ hôm nay, sóng gió, sợ hãi là dịp nhắc nhớ các tông đồ và chúng ta hãy kêu cầu Thầy Giêsu trợ giúp để con thuyền tới bến bờ bình an. Trong tâm hồn người môn đệ theo Đức Giêsu, luôn có Đức Giêsu đồng hành, chúng ta không cần phải trang bị thứ vũ khí phòng thân nào, ngoài tình yêu thương và trái tim biết quảng đại với anh chị em mình.
Cuộc sống trần gian, tự nhiên đã có đầy khổ đau bất trắc, vì chuyện ăn uống, vì tương quan giữa tình người bị phân rẽ hiểu lầm ! Bước theo Chúa Kitô, vâng lệnh Ngài nhổ neo đẩy thuyền ra khơi vượt biển, tất nhiên có sóng gió, biển động là không tránh khỏi. Chúa không muốn chúng ta co cụm, chấp nhận số phận hên xui, Ngài lưu ý hãy an tâm, vì con thuyền vượt biền trần gian nếu không có sóng gió thì cũng chẳng cần đến Chúa hiện diện. Nếu mỗi người tin Chúa, kêu cầu Chúa là Vị thuyền trưởng dẫn đưa thuyền chúng ta vượt biển trần, con thuyền sẽ đến bến bờ an bình hạnh phúc. Chúa không hứa sẽ dùng quyền phép để làm cho sóng yên biển lặng, không dẹp hết những hận thù ghen ghét, những đau khổ bệnh tật, nhưng trên hành trình đức tin, Ngài vẫn mời gọi: “chúng ta hãy sang bên kia biển hồ”. Xin Chúa chúc lành, để mỗi người chúng ta không bao giờ nghi ngờ và xa cách tình Chúa yêu thương trên hành trình vượt biển của chúng ta hôm nay. Amen.
(c 35) Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: Chúng ta sang bờ bên kia đi !” (36) Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền. Có những thuyền khác cũng theo Người. (37) Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền đến nỗi thuyền đầy nước. (38) Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao ?” (39) Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi ! Câm đi !” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. (40) Rồi Người bảo các ông: ”Sao nhát thế ? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin ?” (41) Các ông hoảng sợ và nói với nhau:”Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ?”
2/ Ý CHÍNH:
Đức Giê-su chứng tỏ quyền năng của Người trên gió và biển, tượng trưng cho những thế lực của ma TN12 B-90
Đức Giê-su chứng tỏ quyền năng của Người trên gió và biển, tượng trưng cho những thế lực của ma quỉ muốn chống lại Thiên Chúa. Người đã dùng lời quyền năng dẹp yên sóng gió để củng cố đức tin yếu kém của các môn đệ. Đồng thời cũng để các ông vững tin khi gặp phải những cơn thử thách bách hại sau này.
3/ CHÚ THÍCH
– C 35-36:
+Chúng ta sang bờ bên kia đi”: Biển hồ ở đây là hồ Galilê, cũng có tên Giê-nê-sa-rét hay Ti-nê-ri-a. Đây là một các hồ lớn nằm bên trong đất liền xứ Ga-li-lê, dài 21 km và rộng 13 Km. Hồ thấp hơn mặt biển 210 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng thương hay có những trận cuồng phong. Biển hồ theo nghĩa của Thánh Kinh là một thế lực gian ác chống lại Thiên Chúa và con người. Đức Giê-su đã làm nhiều phép lạ tại vùng biển hồ này như: Hóa bánh ra nhiều (x Mt 14,14-31); Đi trên mặt nước (x Mt 14,25); Chữa nhiều bệnh nhân (x Mt 15,29-31); Hiện ra sau khi sống lại (x Ga 21,1); Mẻ cá lạ lùng (x Ga 21,4-8).
– C 37-38:
+Và một cơn cuồng phong nổi lên: Cơn cuồng phong đe doạ sẽ nhấn chìm thuyền của các Tông đồ xuống lòng biển, tiên báo những nguy hiểm thử thách mà Hội Thánh sẽ phải trải qua.
+Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ: Trong khi chiếc thuyền và những người trên thuyền lâm nguy vì bị bão tố trù dập thì Đức Giê-su vẫn nằm ngủ để thử thách đức tin của các môn đệ. Giấc ngủi còn là hình ảnh ám chỉ về sự chết của Người sau này (x Tv 13, 4; Ep 5, 14)..
+Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao ?”: Các môn đệ đánh thức để kêu cầu Đức Giệ-su cứu giúp trong cơn nguy hiểm. Câu này cũng chứng tỏ lòng tin yếu kém của các ông. Các môn đệ hốt hoảng khi thấy thuyền của các ông sắp bị chìm đắm giữa biển khơi mà xem ra thầy các ông vẫn không hề hay biết để có phản ứng phù hợp.
-C 39-41:
+Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi ! Câm đi !”: Đức Giê-su bày tỏ uy quyền trên cơn gió bão và biển động. Khi ra lệnh cho ai là chứng tỏ mình có quyền trên người đó. Khi truyền cho sóng gió yên lặng, Đức Giê-su chứng tỏ quyền năng trấn áp thế lực của ma quỷ gian ác.
+Lập tức gió ngưng biển lặng: Qua đó cho thấy sự dữ đã phải tùng phục uy quyền của Con Thiên Chúa. +”Sao nhát thế ? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin ?: Đức Giê-su quở trách sự hèn tin của các môn đệ như nhiều lần Người cũng đã trách các ông chậm tin: “Hỡi những kẻ ngu muội và trí lòng chậm tin”(Lc 24, 25); “Người quở mắng sự cứng tin chai đá của họ, bởi họ không tin những kẻ đã thấy Người sống lại” (Mc 16,14).
+Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ?: Các môn đệ ngạc nhiên và đầy lòng thán phục Đức Giê-su, khi họ được chứng kiến lời uy quyền của Người trên thiên nhiên là gió và biển.
4/ CÂU HỎI:
1- Biển hồ Ga-li-lê còn có những tên gọi nào? Dài rộng bao nhiêu?
2- Đức Giê-su đã làm các phép lạ nào tại vùng biển hồ này?
3- Cơn cuồng phong tượng trưng cho điều gì ? 4-Đức Giê-su ngủ ở đàng lái trong khi cuồng phong nổi lên nhằm mục đích gì?
5- Hành động đánh thức Đức Giê-su nói lên điều gì về đức tin của các môn đệ?
6- Đức Giê-su bày tỏ quyền năng Con Thiên Chúa qua lời nói và hành động nào?
7- Ngoài lần này, Đức Giê-su còn trách thái độ yếu đức tin của các môn đệ trong trường hợp nào khác nữa không? 8) Các môn đệ đã biểu lộ đức tin thế nào sau khi chứng kiến phép lạ Đức Giê-su dẹp yên bão tố?
II/ SỐNG LỜI CHÚA
1- LỜI CHÚA: Môn đệ liền nói:”Người là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh ?” (Mc 4,41).
2- CÂU CHUYỆN
a/ SỨC MẠNH CỦA LÒNG CẬY TIN
Trên một chuyến đi biển kia có một nhà truyền giáo tên là GIOÓC-DƠ MU-LƠ ở BỜ-RAI-TƠN, dự định sẽ đến nhà thờ lớn ở QUÊ-BÉC giảng đạo vào chiều thứ Bảy cuối tuần. Nhưng do có sương mù quá dầy khiến vị thuyền trưởng phải cho tàu chạy chậm lại và như thế chắc sẽ làm cho nhà truyền giáo phải đến trễ. Bấy giờ nhà truyền giáo mới nói với viên thuyền trưởng là mình có cách sớm làm tan làn sương mù kia đi. Thuyền trưởng nghĩ ông này bị mát dây thần kinh nên không thèm để ý tới lời nói ấy. Bấy giờ nhà truyền giáo liền yêu cầu thuyền trưởng cùng quỳ gối cầu nguyện với mình. Nói xong ông ta quỳ gối xuống dâng lời cầu nguyện thật sốt sắng, đang khi thuyền trưởng chỉ đứng nhìn với con mắt khinh thường. Chờ cho nhà truyền giáo cầu nguyện xong, vị thuyền trưởng liền nói: “Ngài có biết độ dày của sương mù kia đến cỡ nào không ?”. Nhà truyền giáo trả lời:”Không. Nhưng tôi không nhìn vào sương mù. Tôi chỉ nhìn vào Đấng dựng nên sương mù kia thôi”. Nghe thế, thuyền trưởng định quỳ gối xuống cầu nguyện thì nhà truyền giáo đã ngăn lại và nói: “Nếu lòng ông không tin thì cầu nguyện đâu có ích gì ? Hơn nữa, tôi tin chắc Chúa đã nhận lời cầu của tôi rồi nên ông chẳng cần phải cầu xin thêm làm chi ! Tôi đã tin nhận Chúa được 57 năm rồi, và trong suốt thời gian đó không ngày nào mà tôi không thưa chuyện với Người. Bây giờ ông hãy mở cửa ra mà xem việc Chúa làm”. Quả nhiên khi mở cửa ra thì thuyền trưởng thấy làn sương mù dày đặc trước đó đã tan biến hết, con tàu lại tiếp tục tăng tốc và cuối cùng đã cập bến đúng theo lịch trình.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy đức tin mạnh mẽ của nhà truyền giáo. Chính Chúa Giêsu đã luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha và hoàn toàn tín thác cậy trông nơi Cha. Ngày nay, vì thiếu lòng tin nên người ta coi thường việc cầu nguyện. Mỗi khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn hay gặp gian nan thử thách, người ta chỉ biết dựa vào sức riêng mình, đang khi lẽ ra vừa phải xin Chúa ban ơn soi sáng để tìm ra giải pháp tốt nhất, lại vừa phải cố gắng làm hết sức để giải quyết các khó khăn ấy theo hướng tích cực nhất.
b/ LUÔN TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA
Một viên sĩ quan người Anh cùng vợ con xuống tầu đi tới nước Ấn Độ mà ông được cấp trên trao phó nhiệm vụ phải thi hành. Đang lênh đênh trên biển Đại Tây Dương vào ngày thư năm thì một cơn giông bão khủng khiếp sắp ập tới. Mọi hành khách trên tầu đều cuống cuồng lo sợ, nhất là bà vợ của một viên sĩ quan này. Khi bà thấy chồng vẫn tỏ ra bình thản thì bà bực bội và trách ông đã không quan tâm đến nỗi lo lắng sợ hãi của vợ con. Viên sĩ quan liền ra khỏi phòng một lát rồi khi quay lại, ông rút cây kiếm ra khỏi vỏ đeo bên người và dí kiếm vào ngực của vợ. Bà vợ thấy vậy lúc đầu hơi tái mặt, nhưng ngay sau đó bà lại phá lên cười. Viên sĩ quan liền hỏi:
– Thấy mũi kiếm sắp đâm vào ngực mà em không sợ lại còn cười được hay sao?
– Việc gì em phải sợ? Em biết là anh luôn yêu thương em mà.
– Thế tại sao em lại bắt anh phải sợ hãi khi anh biết Thiên Chúa hằng yêu thương chúng ta? Và cơn bão này vẫn đang nằm trong bàn tay quyền năng của Ngài?
3/ THẢO LUẬN
a- Một người có đức tin vững mạnh thì có còn bị thất bại hay có gặp phải những sự gian nan khốn khó trong cuộc đời hay không?
b- Khi gặp gian nan thử thách, các tín hữu chúng ta phải làm gì để chứng tỏ đức tin vững mạnh của mình ?
4/ SUY NIỆM
Tin Mừng thuật lại cảnh tượng xảy ra trên biển hồ Ga-li-lê: Bấy giờ Đức Giêsu đang ngủ vì mỏi mệt sau khi đã ngồi trên thuyền mà giảng dạy dân chúng. Tuy các môn đệ phần lớn đều là ngư phủ chuyên nghiệp, nhưng khi thấy sóng gió nổi lên có nguy cơ lật thuyền, nên các ông đều mang tâm trạng hoảng loạn.
a- “Chết đến nơi rồi mà Thầy không lo gì sao?”
Câu nói biểu lộ sự kinh hãi tột độ và hàm ý trách móc Thầy đã không quan tâm trợ giúp khi các môn đệ gặp phải nguy nan. Ngày nay có thể chúng ta cũng có tư tưởng này mỗi khi bị cơn bão cuộc đời vùi dập. Từ khi theo đạo, chúng ta thường nghĩ sẽ đương nhiên được Chúa ban ơn phù giúp khỏi mọi tai nạn đau khổ và coi đó là trách nhiệm của Chúa phải làm cho chúng ta, đang khi lẽ ra chúng ta phải luôn tin cậy phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng, dù gặp phải bất cứ khó khăn thử thách nào.
b- Chúa vẫn đang ngủ trong con thuyền lòng chúng ta trong cơn bão tố
Nên nhớ rằng: Khi theo đạo chúng ta cũng vẫn phải nằm trong quy luật tự nhiên co Thiên Chúa đã an bài. Do đó, ngay trong lúc chúng ta đang sốt sắng tin yêu kết hiệp mật thiết với Chúa, thì giông tố cuộc đời vẫn có thể xảy ra. Khi theo đạo, Chúa không hứa ban cho chúng ta một cuộc sống dễ dãi ở đời này, nhưng Người đòi chúng ta vẫn phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt, sẵn sàng chịu bách hại vì danh Chúa… Nhưng nên ý thức rằng: Khi chúng ta có đức tin, thì Chúa vẫn luôn ở trong chúng ta mọi lúc mọi nơi. Bão tố là cơ hội để chúng ta thể hiện đức tin của chúng ta ra sao: Thật hay giả, mạnh hay yếu… Bão tố tai nạn là dịp để chúng ta biết tín thác cậy trông vào quyền năng của Chúa, là cơ hội để chúng ta lập công đền tội, hầu xứng đáng hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa ở đời sau.
c- Gió liền tắt và biển lặng như tờ: Khi tin theo Chúa, Chúa không hứa sẽ cất đi những tai ương hoạn nạn mà Người chỉ hứa ban ơn phù giúp cho chúng ta để giúp chúng ta dễ dàng vượt qua các cơn hoạn nạn thử thách với một tâm hồn bình an: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).
d- Chúng tôi phải làm gì ?
-Khi sự chết đến như nó phải đến: Chúng ta hãy tin rằng Chúa sẽ biến đổi bóng tối của sự chết thành ánh sáng phục sinh vĩnh cửu. Người sẽ giúp chúng ta tin cậy vào tình yêu vô biên của Người. Chằng hạn khi chứng kiến cha mẹ, chồng vợ hay con cái chết, nhờ có đức tin, chúng ta sẽ không quá buồn sầu, vì ý thức rằng: Chết là một quy luật không ai tránh được, nhưng chết đi không phải là hết, mà ai chết trong Chúa sẽ được vượt qua sự chết để vào cõi sống vĩnh hằng như Đức Giê-su đã chết và dã sống lại. Chúng ta sẽ an tâm và hy vọng mai ngày sẽ được gặp lại người thân của chúng ta trên Nước Trời hằng sống.
-Khi gặp một hoàn cảnh khó khăn nan giải trong cuộc sống: Chúng ta hãy thưa với Chúa với lòng tín thác cậy trông: “Lạy Chúa Giê-su, nếu Chúa ở trong hoàn cảnh của con bây giờ thì Chúa sẽ làm gì ?” hoặc: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì t5rong hoàn cảnh này?” Bấy giờ Chúa sẽ nói trong lòng chúng ta để dạy chúng ta biết chúng ta phải làm gì? Và chúng ta sẽ thưa như Chúa Giêsu xưa: “Lạy Cha, này con xin đến để thi hành thánh ý Cha” (x. Dt 10,7).
-Khi gặp cơn lo âu bối rối cho tương lai: Khi chúng ta không biết con cái mình sau này sẽ ra sao… Bấy giờ chúng ta hãy ý thức về lòng nhân từ bao dung của Thiên Chúa để luôn cậy trông phó thác mọi sự xảy đến trong tương lai cho Chúa quan phòng. Ngài luôn muốn cho chúng ta được hạnh phúc và hằng ban ơn giúp chúng ta tìm ra con đường tốt nhất phải đi để chúng ta sẽ được hưởng ơn cứu độ ở đời sau.
5/ LỜI CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con luôn tin vào tình thương quan phòng của Chúa Cha. Cho chúng con biết sử dụng những ơn lành Chúa ban để giải quyết những trở ngại gặp phải trên đường đời. Mỗi khi gặp phải điều trái ý, xin cho chúng con biết cầu nguyện như Chúa khi xưa: “Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng đừng theo ý riêng con, một xin vâng ý Cha” (Mt 26,39). Xin cho chúng con vừa làm việc, lại vừa biết cầu xin ơn Chúa trợ giúp và phó thác cuộc sống trong tay Chúa như lời Thánh vịnh: “Chúa khoan nhân là Mục tử tôi. Tôi không còn thiếu gì. Tôi không còn e sợ nỗi gì” (x. Tv 22). Xin cho con năng dâng lời cảm tạ Chúa vì muôn ơn lành Chúa đã thương ban. Xin cho con noi gương Mẹ Ma-ri-a dâng lời ngợi khen cảm tạ tình thương cứu độ của Thiên Chúa, vì Ngài đã làm cho con biết bao điều lớn lao kỳ diệu: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa” (x Lc 1,46-55).
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XII Thường Niên năm B nêu bật quyền chủ tể của Thiên Chúa trên TN12 B-91
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XII Thường Niên năm B nêu bật quyền chủ tể của Thiên Chúa trên các yếu tố thiên nhiên, nhất là trên phong ba bảo tố, biểu tượng các thế lực sự Dữ. Đây là một trong những bài trình thuật sống động nhất và ý vị nhất của Tin Mừng Mác-cô. Thánh ký cho thấy mình là một người kể chuyện bậc thầy. Hai bài tường thuật đối chiếu của Mt 8: 23-27 và Lc 8: 22-26 không cung cấp những chi tiết chính xác đến như vậy, chẳng hạn như “Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào gối mà ngủ”, và không thuật lại với giọng điệu rất thân quen đến như vậy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”. AddThis Sharing Buttons
Share to FacebookShare to MessengerShare to Google+Share to Twitter
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XII Thường Niên năm B nêu bật quyền chủ tể của Thiên Chúa trên các yếu tố thiên nhiên, nhất là trên phong ba bảo tố, biểu tượng các thế lực sự Dữ.
G 38: 1, 8-11
Trong Bài Đọc I, trích từ sách Gióp, Thiên Chúa trả lời những chất vấn của ông Gióp về những khốn khổ mà ông phải chịu bằng cách giúp cho ông hiểu quyền năng của Ngài. Chính Ngài đã dựng nên biển cả, một sức mạnh hung dữ của thiên nhiên, và cũng chỉ mình Ngài mới chế ngự được phong ba bảo tố cuồng dại.
2Cr 5: 14-17
Trong đoạn trích Thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô tiếp tục biện hộ sứ vụ tông đồ của mình.
Mc 4: 35-41
Tin Mừng tường thuật Đức Giê-su dẹp yên phong ba bảo tố trên Biển Hồ để con thuyền của các môn đệ Ngài đến bến bờ bình an.
BÀI ĐỌC I (G 38: 1, 8-11)
Đoạn trích sách Gióp nầy có thể được xem như lời dẫn nhập cho câu chuyện Tin Mừng tường thuật việc Đức Giê-su dẹp yên phong ba bão tố trên biển hồ Ghê-nê-sa-rét: Đức Giê-su sở hữu cùng một quyền năng thần linh như Đức Chúa. Khi sáng tạo thế giới, Đức Chúa đã ấn định những giới hạn cho biển cả bằng “lời quyền năng” của Ngài: “Thiên Chúa phán” (St 1: 6-10). Không phải Ngôi Lời đã dự phần vào công trình sáng tạo sao?
Theo thể thi ca đối thoại, tác giả sách Gióp phác họa chân dung ông Gióp, một người công chính phải hứng chịu nhiều nỗi bất hạnh. Ông than thân trách phận với bốn người bạn thân. Những người bạn nầy một mực trung thành với lời giải thích truyền thống: ác giả ác báo, sự đau khổ của một ai đó cho thấy kẻ ấy đã phạm tội; hay nếu người đó được xem là công chính mà phải chịu đau khổ, chính vì Thiên Chúa muốn ngăn ngừa người ấy khỏi sa vào tính tự cao tự đại.
Lúc đó, Gióp nỗi trận lôi đình; ông kêu gào mình vô tội và xin Thiên Chúa chứng giám sự vô tội của ông. Thiên Chúa trả lời cho ông trong cơn phong ba bảo tố, như khi xưa Thiên Chúa đã ngỏ lời với ông Mô-sê trên núi Xi-nai. Đây là câu trả lời uy nghi của Đấng sáng tạo vũ trụ. Đức Chúa mô tả công việc của Ngài như nhà kiến thiết tự hào về công trình sáng tạo của mình: Ngài công bố quyền tối thượng của Ngài trên toàn cõi thế, trên biển cả (đây là đoạn văn được trích dẫn hôm nay), trên ánh sáng và bóng tối, trên gió bảo và mây trời, trên muôn loài muôn vật…
Đây đích thực là bài thánh thi ca ngợi công trình sáng tạo. Bài thơ nầy là một trong những lý do khiến nghĩ rằng công trình biên soạn sách Gióp được định vị vào thời lưu đày Ba-by-lon.
1.Khung cảnh lịch sử:
Quả thật, hằng năm, ở Ba-by-lon vào lễ Tân Niên, người ta ngâm thiên hùng ca về cuộc sáng tạo để tôn vinh cuộc chiến thắng khải hoàn của thần Mác-đút trên thủy thần Ti-a-mát. Như để đáp trả sự tán dương của một vị thần dân ngoại và các nghi lễ hằng năm nầy trong bối cảnh đa thần, những người Do thái lưu đày sáng tác những bài ca và những bài thơ chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Ngài là Thiên Chúa duy nhất và siêu việt, chỉ mình Ngài thật sự sáng tạo vũ trụ và an bài mọi sự.
Chuyện tích về công trình sáng tạo trong sáu ngày ở đầu bộ Kinh Thánh làm chứng điều nầy. Đoạn trích sách Gióp từ chương 38 nầy cũng làm chứng như vậy. Những ám chỉ hay những vay mượn ở bản văn Ba-by-lon thật rõ ràng.
Bài thơ Ba-by-lon kể như thế nầy: sau khi đã chiến thắng thủy thần Ti-a-mát, hiện thân vị thần của vực thẳm nước nguyên thủy, thần Mác-đút liền phân đôi tử thi của vị ác thần nầy. Với phân nữa tử thi nầy, thần Mác-đoút bao phủ bầu trời…Thần đóng cửa vực thẳm và đặt ngay tại chỗ những người canh cửa, rồi thần truyền lệnh cho họ không được để nước phun trào ra ngoài. Những cách diễn tả tương tự với những hình tượng của bản văn Ba-by-lon được gặp lại trong vài Thánh Vịnh, như Tv 89: 10-11:
“Chính Ngài (Đức Chúa) chế ngự trùng dương ngạo nghễ,
dẹp yên bao sóng cả sóng cồn.
Chính Ngài giày xéo thủy thần Ra-háp, như giày xéo tử thi,
tay mạnh mẽ đập tan quân thù”.
Hay Thánh Vịnh 74: 12-13:
“Thế mà lạy Chúa, Vua chúng con từ muôn thuở,
Đấng từng chiến thắng trên mặt địa cầu,
chính Ngài đã ra oai sẻ đôi lòng biển, trên làn nước biếc,
Ngài đập vỡ sọ thuồng luồng”.
2.Quyền năng của Thiên Chúa:
Trong sách Gióp, việc Thiên Chúa nhắc nhớ quyền năng của Ngài được diễn tả bằng những từ ngữ cao vời. Tác giả hướng phần cuối tác phẩm mình về mầu nhiệm Thiên Chúa. Đức Chúa dạy cho ông Gióp một bài học: ai có thể tự cho mình vô tội? Ai có thể khoác lác khi đòi chất vấn Thiên Chúa và tính sổ với Ngài? Thiên Chúa không phải phân minh với bất cứ ai; Ngài siêu vượt trên muôn loài muôn vật.
BÀI ĐỌC II ( 2Cr 5: 14-17)
Trong đoạn trích thư nầy, thánh Phao-lô biện hộ sứ vụ tông đồ của mình. Sau khi đã nêu lên những gian truân và những niềm hy vọng của sứ vụ tông đồ, thánh Phao-lô vén mở cho thấy ngọn lửa nào đã hun đúc lòng nhiệt thành truyền giáo của thánh nhân, đó chính là tình yêu của Đức Ki tô.
Kiểu nói “Tình yêu của Đức Ki tô” mặc lấy hai nghĩa, vừa diễn tả tình yêu của thánh Phao-lô đối với Đức Ki-tô, vừa diễn tả tình yêu của Đức Ki-tô đối với nhân loại. Chính nghĩa thứ hai nầy: tình yêu của Đức Ki tô đối với nhân loại đã nung nấu lòng nhiệt thành truyền giáo của thánh nhân.
1. “Nếu một người đã chết cho mọi người”:
Khi nghĩ đến hy tế của Đức Ki-tô đã đem lại ơn cứu độ cho muôn người, thánh Phao-lô đã xúc động một cách sâu xa. Niềm cảm mến nầy dâng lên từ cuộc tử nạn của Đức Ki-tô. Cuộc tử nạn của Ngài không thể nào khơi dậy những hình ảnh hung bạo được. Sự kiện các thánh ký mô tả chừng mực cuộc tử nạn của Chúa Giê-su đã duy trì tính khách quan của các bài trình thuật đầy cảm xúc bao nhiêu, thì các bức thư với cung giọng cá nhân, như những bức thư của thánh Phao-lô, đã khơi dậy biết bao tâm tư tình cảm dạt dào.
Tuy nhiên, tâm tư tình cảm của thánh Phao-lô sống động một cách đặc biệt khi thánh nhân gợi lên sự liên đới của Đức Giê-su đau khổ với nhân loại tội lỗi. Ơn cứu độ không được đem đến cho một mình dân Ít-ra-en, nhưng cho toàn thể nhân loại. Tâm hồn Do thái của thánh Phao-lô xúc động sâu xa về điều nầy. Thánh nhân sẽ khai triển sâu xa khía cạnh đạo lý về mặc khải nầy trong thư gởi các tín hữu Rô-ma.
2. “Mọi người đều chết”:
Tư tưởng rất ngắn gọn; từ ngữ rất giản dị chắc chắn âm vang giáo huấn của thánh nhân. Để hiểu đoạn trích nầy, tốt nhất nên quy chiếu đến chương 6 thư gởi các tín hữu Rô-ma.
“Mọi người đều chết”, nghĩa là, chết đối với tội. Chính “con người xưa cũ” của chúng ta đã bị đóng đinh với Đức Ki-tô. Chính vì chết đối với tội nầy mà việc dìm mình vào trong nước thánh tẩy là dấu chỉ: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6: 8) và “Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ” (Rm 6: 10).
3. “Để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”:
Đây là suy tư khái quát, nhưng đặc biệt nhắm đến các tín hữu Cô-rin-tô và những chia rẽ của họ, vì thánh nhân đặt trọng tâm phần trình bày nầy chung quanh khía cạnh sứ vụ hòa giải. Sống trong Đức Ki-tô, chính là không còn nhìn tha nhân “theo quan điểm của loài người”, nhưng “theo quan điểm của Thiên Chúa”.
4. “Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Ki-tô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa”:
Phải chăng lời phát biểu nầy muốn nói rằng trước kia thánh Phao-lô đã biết Đức Giê-su trần thế, hay ít ra đã thấy Ngài và đã nghe Ngài nói; tuy nhiên, vào lúc đó, thánh nhân thuộc về số người không tin vào sứ điệp của Ngài? Đoạn văn nầy đã gây nên biết bao lời giải thích, nhưng dấu hiệu quá nhỏ nên người ta không thể rút ra một câu kết luận như vậy. Đúng hơn, phải chăng thánh nhân ám chỉ đến thời thánh nhân đã là kẻ bách hại, thời thánh nhân đã khảo sát Đức Ki-tô “theo quan điểm loài người”? Lời giải thích nầy cũng không chắc.
Người ta cũng không loại trừ quan điểm bút chiến; đó có thể là chìa khóa của bản văn nầy. Thánh Phao-lô đã viết không bao lâu sau cái chết của Đức Giê-su. Trong đám thính giả của thánh nhân và trong số những người nhận thư của thánh nhân, thánh nhân là một trong số họ đã biết Đức Ki-tô. Vài người trong số họ kiêu hãnh vì mình thuộc “nguồn gốc Do thái”; thậm chí họ còn dựa trên sự kiện Đức Giê-su đã thực hành luật Do thái để áp đặt luật nầy trên những Ki-tô hữu gốc lương dân. Dường như trong số những đối thủ của thánh nhân ở Cô-rin-tô có những người Ki-tô hữu gốc Do thái thuộc loại nầy. Họ đã đưa ra những lập luận dựa trên một quan niệm về Đức Ki tô “theo xác thịt” để đòi hỏi áp dụng những yêu sách của họ.
Thánh Phao-lô công bố rằng quan niệm nầy đã lỗi thời. Chính không còn ở nơi cuộc sống “theo xác thịt” nhưng ở nơi cuộc sống “theo Thần Khí” mà người Ki tô hữu được mời gọi dự phần vào: họ đã trở thành “một thụ tạo mới”. “Cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi”. Thánh Phao-lô hướng tầm nhìn về tương lai. Không có gì có thể kiềm chế niềm hưng phấn lao về phía trước của thánh nhân, về Đức Ki-tô quang vinh… Thánh nhân nói với các tín hữu Ê-phê-xô khi dùng động từ ở thì hiện tại: “Người cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời rồi” (Ep 2: 6); ấy vậy “Cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki tô” là chuyện tương lai (Rm 6: 3-11), tuy nhiên qua việc hiệp thông với Đức Ki tô, ngay từ bây giờ chúng ta thật sự đã được cùng sống lại và cùng ngự trị với Ngài trên cõi trời rồi.
TIN MỪNG (Mc 4: 35-41)
Đây là một trong những bài trình thuật sống động nhất và ý vị nhất của Tin Mừng Mác-cô. Thánh ký cho thấy mình là một người kể chuyện bậc thầy. Hai bài tường thuật đối chiếu của Mt 8: 23-27 và Lc 8: 22-26 không cung cấp những chi tiết chính xác đến như vậy, chẳng hạn như “Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào gối mà ngủ”, và không thuật lại với giọng điệu rất thân quen đến như vậy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”.
1.Bối cảnh:
Chúa Giê-su đã giảng dạy đám đông suốt ngày. Giờ đây, Ngài muốn được ở riêng một mình xa khỏi đám đông để có thể nghỉ ngơi đôi chút. Vì thế, Ngài yêu cầu các môn đệ đưa Ngài sang bờ bên kia. Các môn đệ vâng lệnh ngay lập tức đưa con thuyền ra khơi đang khi Ngài “đang ở trên thuyền”, nghĩa là trên cùng một chiếc thuyền Ngài đã vừa mới ngỏ lời với dân chúng hiện đang ở trên bờ, như đã được chỉ rõ ở Mc 4: 1-2: “Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ. Một đám người rất đông tụ họp chung quanh Người nên Người phải xuống thuyền mà ngồi dưới biển, còn toàn thể đám đông thì ở trên bờ. Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều”.
Trong khi giảng dạy cho dân chúng bằng dụ ngôn, Đức Giê-su đã gợi lên rằng Nước Trời đến một cách quyền năng. Giờ đây, Ngài sắp minh chứng cho họ bằng hành động. Đối với các đối thủ của Ngài, những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Ngài đã luôn luôn từ chối yêu sách của họ là thực hiện một dấu chỉ ngoạn mục để cho thấy uy quyền Thiên Sai của Ngài. Riêng đối với các môn đệ của Ngài, Ngài sẽ ban cho họ dấu chỉ nầy.
2.Con thuyền trong phong ba bảo tố:
Những trận phong ba bảo tố trên Biển Hồ thường bất ngờ xảy đến. Chúng do từ cuộc gặp gỡ giữa ngọn gió tây thổi từ Địa Trung Hải và gió sa mạc lạnh giá bất ngờ nổi lên vào lúc đêm xuống.
Trạng thái bình an thanh thản của Đức Giê-su tương phản với trận cuồng phong dữ dội. Kiệt sức sau một ngày giảng dạy, Đức Giê-su “dựa đầu vào gối mà ngủ”. Gối nầy dành riêng cho người lái thuyền luôn luôn ở đằng lái. Dường như người lái thuyền nhường chỗ đằng lái cho Ngài để Ngài ngủ cho lại sức. Đức Giê-su mệt mõi: Ngài thật sự là một con người, nhưng Ngài sẽ cho thấy Ngài còn hơn cả một con người. Cũng như, sau một dặm đường dài vừa mệt mõi vừa khát, Ngài đã tựa mình vào thành giếng Gia-cóp ở Xy-kha để nghỉ lại sức và xin người phụ nữ Sa-ma-ri một chút nước để giải khát (Ga 4: 6). Ngài đã chọn thời điểm nầy để mặc khải cho chị và dân tộc chị Ngài là Đấng Mê-si-a. Sự đối lập giữa sự yếu đuối thể lý và sức mạnh thần thiêng ở nơi câu chuyện của Mác-cô cũng mặc khải mầu nhiệm con người của Ngài: Ngài là chủ tể của mọi yếu tố thiên nhiên.
Trong cảnh đêm tối với sóng to gió lớn, các môn đệ sợ hãi đánh thức Ngài. Họ hoảng loạn đến cực độ và tiếng kêu cứu của họ hòa lẫn vừa niềm tin tưởng lẫn lời trách cứ: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”.
3.Mầu nhiệm của Đức Giê-su.
Đức Giê-su truyền lệnh cho biển như một thế lực sự dữ được nhân cách hóa. Với cùng những lời như vậy, Ngài đã buộc quyền lực của quỷ ở trong người bị quỷ ám phải câm miệng và ra khỏi người ấy. Đức Giê-su là Đấng làm cho quyền lực của sự dữ phải thất bại. Những yếu tố thiên nhiên đang điên cuồng gào thét là một biểu tượng.
Sau khi dẹp yên phong ba bảo tố, Đức Giê-su quở trách các môn đệ vì họ thiếu niềm tin vào Ngài. Chỉ mới trước đây thôi, thánh Mác-cô nói với chúng ta, Ngài đã giảng giải cho họ một cách đặc biệt (4: 33-34). Sự quan tâm đặc biệt của Ngài đối với họ đã không có một mảy mai tác dụng sao?
Tất cả câu chuyện được xây dựng trên sự căng thẳng liên tục để rồi đạt đến cao điểm ở nơi sự sợ hãi của các môn đệ về mầu nhiệm của Ngài. Nhưng ở đây, sự sợ hãi của các môn đệ thay đổi bản chất và đối tượng. Nỗi sợ hãi linh thánh xâm chiếm lấy họ: “Ông nầy là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”.
4.Ý nghĩa thần học:
Biến cố nầy không đơn thuần chỉ là một phép lạ nhưng còn là một biểu tượng về định mệnh của Đức Giê-su. Khi lôi kéo các môn đệ cùng với Ngài trên một con thuyền vào đêm khuya trong phong ba bảo tố, đó không là một sự tình cờ. Cả cuộc đời Ngài là một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sức mạnh của sự Dữ. Việc Ngài thanh thản nằm ngủ trong phong ba bảo tố hàm chứa nhiều ý nghĩa. Trong Kinh Thánh giấc ngủ là biểu tượng của cái chết. Như vậy, việc Chúa Giê-su bình yên nằm ngủ trong phong ba bảo tố ám chỉ cuộc Tử Nạn của Ngài, cuộc Tử Nạn khiến các môn đệ kinh hoàng vì thiếu niềm tin. Sau giấc ngủ, Đức Giê-su chỗi dậy như một vị Thiên Chúa đầy quyền năng chiến thắng trên quyền lực của sự Dữ và Tử Thần. Trước quyền năng nầy, các môn đệ thắc mắc và nêu lên câu hỏi quan trọng nầy: “Ông nầy là ai mà cả đến gió biển phải tuân lệnh?” Bởi vì trong Kinh Thánh, chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền chế ngự sóng nước của Tử Thần (Tv 107: 23-30).
Khi thuật lại câu chuyện nầy, thánh Mác-cô nhắm đến hai mục đích. Trước hết, Đức Giê-su thật sự là một con người, nhưng cũng thật sự là Thiên Chúa. Nói theo viễn cảnh của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh: Đức Giê-su thật sự chết như một con người và thật sự sống lại như một vị Thiên Chúa. Thứ nữa, các tín hữu Rô-ma đang bị bách hại dữ dội. Trong cơn bách hại dữ dội nầy, dường như Đức Giê-su đang ngủ. Việc Ngài xem ra vắng mặt trong khi họ phải đương đầu với biết bao nỗi truân chuyên, khiến họ nghi nan ngờ vực. Chúa sẽ làm gì để cứu họ khỏi cái chết đang cầm chắc nầy? Câu chuyện nầy là câu trả lời của thánh Mác-cô gởi đến họ.
Chúng con vừa được nghe một bài Tin Mừng rất hay. Nội dung là một câu chuyện vừa sợ vừa TN12 B-92
Chúng con vừa được nghe một bài Tin Mừng rất hay. Nội dung là một câu chuyện vừa sợ vừa vui. Sợ khi bão tố sóng gió nổi lên giữa biển khơi làm cho con thuyền như gần chìm. Nhưng vui vì Chúa có mặt giữa lúc mọi người đang sợ, sợ phát run lên tưởng như mình sắp chết đến nơi.
Cha hỏi chúng con qua câu chuyện này Chúa muốn dạy chúng ta bài học gì? Có nhiều bài học nhưng cha muốn nói đến một vài bài học cụ thể nhất.
Trước hết là bài học về hình ảnh một đời người. a/ Văn chương thường ví đời sống con người từ khi sinh ra đến khi chết là một cuộc vượt biển đi từ bờ bên này đến bờ bên kia. Mặt biển trần gian nơi mà cuộc đời của mỗi người phải đi qua không luôn bình an và phẳng lặng. Trái lại có nhiều lúc có thật nhiều phong ba bão tố.
b/ Từ hình ảnh đó chúng ta thấy tiếp một hình ảnh khác. Đời là một cuộc thử thách. Sự thử thách nhiều khi thật cam go. Bài sách thánh thứ nhất hôm nay nói đến Giob. Theo Thánh Kinh thì hình ảnh của Giob có thể được coi là tiêu biểu cho một con người bị cuộc đời thử thách cam go nhất ở trên trần gian này. Chúng ta thử đi vào một vài chi tiết của cuộc đời này.
Kinh thánh cho biết Giob là một người rất giàu có. Tài sản của Ông thật lớn lao: 7000 chiên, 3000 lạc đà, 500 đôi bò, 500 lừa cái. Giob có một gia đình thật hạnh phúc và ấm cúng. Ông có 7 người con trai và ba cô con gái. Đầy tớ trong nhà thì KT bảo là vô số. Vậy mà chỉ trong một thời gian thật vắn, Giob mất tất cả.Thú vật thì bị cướp. Con cái thì bị chết hết vì một tai họa mà chẳng ai lường trước. Bản thân Giob cũng không được yên. Ma quỉ đã xin phép Chúa cho chúng được thử thách trên cả thân xác của ông. Ung nhọt tự nhiên mọc lên khắp cả con người của ông khiến ông trở thành hôi hám khiếp sợ khiến cho mọi người, kể cả người vợ của ông cũng không dám gần gũi ông nữa. Từ một con người giàu có sang trọng bây giờ ông mất tất cả. Thật là kinh khủng.
Có lễ không ai trong chúng ta bị thử thách nặng đến như thế.Thế nhưng ít hay nhiều mỗi người chúng ta đều cảm thấy cuộc đời của mỗi người chúng ta quả thật là một cuộc thử thách.
c/ Cuối cùng một hình ảnh khác…xem ra còn bi đát hơn nữa. Các tông đồ của Chúa và Chúa cùng đi trên một con thuyền. Con thuyền ra giữa biển khơi và sóng gió bão táp nổi lên…xem chừng như chúng chẳng biết gì đến sự có mặt của Chúa trên con thuyền này cả. Các tông đồ đã phải thật vất vả nhưng kết quả chẳng đi đến đâu. Đến lúc dường như tuyệt vọng, cảm thấy sự chết quá gần, lúc đó họ mới đánh thức Chúa dậy.
Sự việc này nói lên cho chúng ta điều này là: Việc Chúa ở với chúng ta mỗi ngày như Chúa đã hứa không có nghĩa là Chúa miễn trừ cho chúng chúng ta khỏi mọi thử thách trên trần gian này. Hoàn toàn không và nhiều khi phải nói ngược lại là đàng khác. Lịch sử của nhiều vị thánh cho chúng ta thấy càng thánh thiện thì sự thử thách càng lớn. Chúa nói với các tông đồ của Ngài:”Ma quỉ sàng chúng con như sàng gạo” Thật là một lời nhắn nhủ chẳng có tính cách an ủi chút nào. Thế nhưng đó lại là một sự thật mà không ai theo Chúa được phép lẩn tránh.
2. Những hình ảnh trên làm cho chúng ta lo sợ. Nhưng Tin Mừng cho chúng ta thấy một hình ảnh khác làm cho chúng ta được an ủi hơn. Đó là hình ảnh của Chúa ở bên cạnh cuộc đời của chúng ta. Chính sự thật này làm cho chúng ta tin tưởng vào lẽ tất thẳng trong cuộc thử thách ở trần gian này.
Chúa cùng đi với các môn đệ của Ngài trên một con thuyền. Sự có mặt của Chúa lý ra đã đủ để các môn đệ không phải sợ hãi trước những đợt sóng to gió lớn. Thế nhưng các môn đệ chưa thấy được điều đó.
Sự việc Chúa ngủ lúc con thuyền bị thử thách ở đây cũng có thật nhiều ý nghĩa. Ngủ không có nghĩa là không có mặt. Việc Chúa ngủ không có nghĩa là sóng gió muốn làm gì thì làm. Quyền lực của sóng gió cũng có giới hạn của nó.
3. Như vậy thái độ phải có của chúng ta là thái độ nào?
Thánh Canut trước kia là Vua xứ Đan mạch. Một hôm khi Ngài đi dạo chơi ở trên một bờ biển thì có một tên nịnh thần đến ca tụng ngài như là Chúa tể của loài người, chúa tể của trời đất, của biển cả. Vua thánh liền tìm cách dạy tên nịnh thần một bài học. Ngài xuống sát bãi biển và hò lên một cách oai hùng:
- Hỡi sóng biển, ta tuyên cho các ngươi không được đụng đến chân của ta.
Nhưng sóng biển chẳng nghe lời. Chúng trào lên tung toé làm ướt cả long bào của vua. Vua quay sang phía tên nịnh thần và nói với nó như thế này:
- Tại sao ngươi gọi ta là chúa tể khi mà một ngọn sóng nhỏ cũng không chịu nghe lời ta. Chủ tể quyền năng của trời đất đó Chúa…Người mới là Chúa tể của Trời đất.
Vậy phải biết tin tưởng vào Chúa.
Người cha gia đình thường nhậu nhẹt say sưa, làm biếng làm việc đạo đức. Vợ ông và đứa con gái cùng nhau cầu nguyện cho ông, nhất là cô con gái. Đức tin cô thật đơn sơ. Cô đọc thấy lời hứa trong Kinh thánh đối với kẻ cầu nguyện tin tưởng. Cô nói với mẹ: “Mẹ ạ, con tin là ba sẽ ăn năn trở lại” Vào một buổi tối kia, ba cô không về nhà đúng giờ như thường lệ. Một giờ, hai giờ trôi qua, người mẹ lo âu và bật khóc. Cô gái nói:
- Mẹ đừng khóc, tối nay ba đến chơi nhà một người công giáo, chứ không có gì đâu. Con đã cầu với Chúa rồi”.
Người mẹ cười khi nghĩ rằng con mình có niềm tin đơn sơ quá. Thời gian lặng trôi.
Đêm đã khuya. Người mẹ nói: “Mẹ thức để đợi ba về”. Cô gái đáp: “Mẹ ạ, ba không sao đâu. Ta hãy tin tưởng vào Chúa và cứ đi ngủ”. Cô lên giường ngủ. Nửa đêm người chồng trở về, kể lại cho vợ nghe mình được người bạn công giáo khuyên nhủ ăn năn trở lại. Bà vợ vui mừng, hai vợ chồng vào phòng cô gái đánh thức con dậy. Vừa ngồi dậy, cô hỏi ngay: “Ba đến chơi nhà bạn công giáo, phải không mẹ?” Ba cô nghe vậy, xúc động đến khóc được.
Lạy Chúa xin thêm đức tin cho chúng con để trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng con cũng luôn được sống trong sự bình an của Chúa. Amen.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
-----------------
Dẫn vào Thánh lễ
Thuyền gặp phong ba sắp sửa chìm Mấy ông môn đệ kém lòng tin Có Thầy bên cạnh lo chi nữa Phó thác đời ta Chúa giữ gìn.
Các bạn thiếu nhi thân mến, hôm nay, Chúa nhật thứ mười hai Thường niên: Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a đầy uy quyền (Mc 4,35-41).
Khi Chúa Giêsu chỗi dậy đe gió và biển “Hãy im đi, hãy lặng đi!” (Mc 4,39) và mọi sự đã xảy ra như vậy, các môn đệ kinh ngạc hỏi nhau: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?" (Mc 4,40). Quả thật, Chúa Giêsu là Đấng Mê-si-a đầy uy quyền. Ngài siêu vượt trên tất cả vì Ngài là Con Thiên Chúa.
Dâng Thánh lễ hôm nay, mời các bạn thiếu nhi cùng ngắm nhìn Chúa Giêsu và các môn đệ trên thuyền giữa sóng gió, để chúng ta dễ dàng nhận ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Có Người ở bên cạnh, chúng ta không phải sợ gì, cho dù phải đối mặt với những nguy hiểm đang rình chờ. Mời cộng đoàn đứng.
Bài đọc 1 (G 38,1.8-11)
Đây là phần quan trọng nhất của sách Gióp. Thiên Chúa đã bày tỏ cho ông thấy: Người là Thiên Chúa quyền năng và yêu thương tất cả mọi tạo vật Người đã dựng nên. Cho dù đang đi trong đêm tối, nhưng Thiên Chúa đã hé mở cho ông nhìn thấy ánh sáng.
Bài đọc 2 (2Cr 5,14-17)
Thánh Phaolô đã khẳng định với các tín hữu Cô-rin-tô rằng: tình yêu Đức Kitô đã thôi thúc ngài làm tất cả mọi sự. Vì Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, để chúng ta không sống cho chính mình nữa, mà sống như những thọ tạo mới của Thiên Chúa.
Lời nguyện chung
Chủ tế: Thiếu nhi chúng con thân mến, Thiên Chúa luôn đồng hành và trợ giúp chúng ta, nhất là trong những lúc gian nan khốn khó. Vững tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo và yêu thương mọi tạo vật Người đã dựng nên. Xin cho mọi thành phần trong Hội thánh/ nhận ra sự hiện diện sống động của Thiên Chúa trong cuộc đời mình. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
2. Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, để mọi người sống như những thụ tạo mới của Thiên Chúa. Xin cho các dân tộc tin nhận Thiên Chúa là Đấng sáng tạo muôn loài, và Đức Kitô là Đấng Cứu Độ muôn dân trông đợi. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
3. Chúa Giêsu là Đấng Mê-si-a đầy uy quyền, siêu vượt trên tất cả. Xin cho các Kitô hữu đang công tác trong ngành y tế/ luôn vững tin vào quyền năng của Đức Kitô. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
4. “Người này là ai mà đến gió và biển cũng tuân lệnh?” Xin cho các thầy cô giáo lý viên, các anh chị trưởng và các bạn thiếu nhi/ ý thức sự trợ giúp liên tục của Thiên Chúa trong những hoạt động thường ngày. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng, Đức Kitô, Con Một Chúa đã trở nên người phàm như chúng con; xin trợ giúp lòng tin yếu kém, để chúng con nhận ra Chúa trong mọi hoạt động của cuộc sống. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Có một câu chuyện kể rằng: đêm nọ, có một người thấy giấc mơ lạ. Anh ta thấy mình đang đi TN12 B-93
Có một câu chuyện kể rằng: đêm nọ, có một người thấy giấc mơ lạ. Anh ta thấy mình đang đi trên bãi biển với Chúa. Những lúc vui, thành công, anh thấy có hai đôi chân in trên cát, một của Chúa và một của anh. Nhưng lúc anh gặp khó khăn, đau buồn thì khi nhìn lại, anh chỉ còn thấy một đôi chân!
Anh trách Chúa rằng: “Tại sao những lúc khó khăn, thất bại, Chúa lại bỏ con?” Chúa trả lời: “Ta không bỏ con đâu, vì những lúc đó, Ta đã cõng con trên vai, vì thế, con chỉ còn thấy có một đôi chân của Ta nữa mà thôi”.
Hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại câu chuyện Đức Giêsu và các môn đệ gặp phải sóng gió trên biển hồ. Ngay trong lúc gặp sóng gió, Đức Giêsu vẫn ngủ yên, còn các môn đệ thì vất vả vì chèo trống. Sứ điệp Tin Mừng chỉ bắt đầu có ý nghĩa lớn khi các ông trách Thầy của mình vô cảm trước sự vất vả của các ông, và, ngược lại, Đức Giêsu quở trách các ông kém lòng tin và ra lệnh dẹp yên bão tố, ban lại sự bình an cho mọi người trên thuyền.
1/ Địa lý của Biển HồGalilê và nỗi hoang mang sợ hãi của các môn đệ
Để thấy được nỗi sợ hãi của các môn đệ và quyền năng của Đức Giêsu, chúng ta cùng nhau tìm hiểu đôi nét về Biển Hồ này để thấy được đâu là nguyên nhân dẫn đến trận cuồng phong dữ dội như vậy.
Khi nói đến biển hồ, chắc có lẽ nhiều người trong chúng ta nghĩ ngay đến độ rộng lớn, mênh mông, nhìn không thấy bờ…. Tuy nhiên, với Biển Hồ Galilê lại hoàn toàn khác! Khác ở chỗ Biển Hồ này chỉ vỏn vẹn 21km chiều dài và 13km chiều rộng. Địa thế nằm ở thung lũng vùng Giodan do một vết nứt sâu trên mặt đất, có thể do núi lửa tạo nên! Biển Hồ Galilê là một phần của vết nứt đó.
Nó thấp hơn mặt biển 210 mét, vì thế, khí hậu rất ấm áp và dễ chịu, nhưng cũng tạo nên tiền đề cho những nguy hiểm bất ngờ ập đến. Lý do: bên phía tây có núi non cao hiểm trở kết hợp với thung lũng và nhiều khe suối. Vì thế, khi có gió nổi lên, thì khu vực trũng của Biển Hồ này giống như cái phễu lớn thu hút những làn gió từ trên cao và nơi các khe suối thổi về. Gió bị dồn nén trong đó và thổi mạnh xuống hồ cách bất thình lình như vũ bão, khiến mặt hồ đang phẳng lặng, bỗng chốc trở nên hung thần, dữ tợn và có thể vùi lấp mọi thứ trên mặt hồ.
Khi các môn đệ và Đức Giêsu có một chuyến vận hành trên Biển Hồ Galilê sau một ngày làm việc mệt nhọc để sang bờ bên kia thì cũng là lúc trận cuồng phong ập tới. Các môn đệ của Đức Giêsu là những nhà ngư phủ chuyên nghiệp và hẳn các ông có rất nhiều kinh nghiệm trong việc chống chọi với những bất trắc xảy ra trên biển, thế nhưng, trận cuồng phong hôm nay vừa bất thình lình vừa vượt quá khả năng của các ông, nên họ rất hốt hoảng, lo sợ và kêu la ầm ĩ: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”(Mc 4, 38). Câu nói này chứng tỏ cho thấy sự nguy hiểm đã lên tới tột độ và vượt sức cũng như kinh nghiệm của các ông. Ngay sau đó, sự nguy hiểm của Biển Hồ và nỗi lo sợ của các ông đã động đến lòng trắc ẩn của Đức Giêsu, vì thế, Ngài đã truyền lệnh dẹp yên bão tố qua lời nói: “Im đi! Câm đi! ” ‘Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’” (Mc 4, 39), khiến các ông không khỏi ngỡ ngàng là bảo nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mc 4, 41).
2/ Có Chúa, chúng ta sẽ sang “bờ bên kia”cách an toàn
Từ câu chuyện Tin Mừng trên, liên tưởng đến đời sống đức tin của chúng ta:
Trong cuộc sống đời thường, người ta thường nói: tư cách thật của một con người chỉ được bộc lộ thật khi gặp gian nan. Lúc bình thường thì ai cũng như ai, khó thấy được tư cách ấy.
Đức tin của mỗi người cũng thế. Muốn biết ai vững vàng trong đức tin phải đợi tới lúc đức tin đó chịu thử thách. Điều này cho thấy, “lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Chỉ khi gặp khó khăn, bất trắc, lúc ấy mới có thể lượng định được phẩm chất của đức tin.
Khó khăn, trở ngại là một thứ “kiểm tra chất lượng”. Có kiểm tra thì mới thấy cái gì tốt, cái gì xấu, cái gì thật, cái gì giả.
Một mẫu số chung cho nhiều người, đó là: đức tin phải được rèn luyện, gọt giũa để đứng vững trước mọi thử thách, giông tố của cuộc đời. Khi có được nền tảng này, lúc gặp thử thách, chúng ta sẽ can đảm, trung thành, vững vàng hơn. Sẵn sàng đối phó với chúng và cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Lúc đó, chúng ta sẽ coi những thử thách ập đến là điều kiện cần thiết để thanh lọc những thứ không phù hợp với giá trị Tin Mừng, nó giống như: “Bão tố quật ngã cây cối, bẻ gẫy cành khô, cành sâu. Nhưng không thể nhổ được cây thánh giá đã cắm vào lòng đất. Đừng tiếc những cành kia, dù không gió cũng gẫy, không gẫy cũng phải chặt vì nó làm hại” (ĐHV. số 691), có thế, mới có những cành cây khác trưởng thành hơn khi chúng đủ sức mạnh đâm trồi nảy lộc.
Từ những nguyên lý trên, chúng ta liên tưởng đến đời sống hôn nhân của người Công Giáo. Lúc mới cưới, ai dám nói là mình không chung thủy! Lúc du ngoạn tuần trăng mật, ai dám bảo mình không vui và hạnh phúc! Chỉ khi nào ốm đau, bệnh tật, thất bại trong công việc, thiếu sự chung thủy, lúc đó mới thực sự có vấn đề! Hay trong đời sống đạo đức cũng thế: lúc xin gì được đấy, hay xin một được mười, đâu cần ai phải nhắc đi lễ, đọc kinh hay chia sẻ bác ái! Chỉ khi xin hoài không được, làm ăn thất bát, lúc đó có đẩy cũng không đi. Hoặc trong đời tu cũng thế: mới khấn, mới chịu chức, sức khỏe dồi dào, chúng ta giống như những vị thánh. Tuy nhiên, lâu ngày, giá trị và ý nghĩa đời dâng hiến bị nhạt phai, sự hiểu lầm, cô đơn, đau bệnh, việc phụng vụ nhàm chán, lúc ấy mới thực sự thấy con người thật của chúng ta. Những trạng thái này, một lần nữa sách Đường Hy Vọng có viết: “Đường con đi, có hoa thơm, cảnh đẹp, có chông gai, có hùm beo, có bạn hiền, có trộm cướp, lúc mưa sa, lúc nắng cháy, chuyện không thể tránh được. Con cứ đi, miễn lòng con đầy Chúa, đi như Phanxicô, như Cyrillô, Athanasiô… đừng mất thì giờ đứng lại, đừng sợ tiếng chửi, đừng ăn mày tiếng khen” (ĐHV. số 693).
Nếu không bền chí cũng như đức tin mạnh thì không phải là người tài đức song toàn. Người tài là người được lớn lên trong thử thách. Người có đức là người biết vượt qua thử thách, trung thành và can đảm trong lòng mến.
Giuđa và Gioan chỉ khác nhau ở lòng mến mà thôi. Trong tâm hồn chúng ta cũng vẫn còn đó hai hình ảnh và hai lối sống lẫn lộn: Gioan và Giuđa. Bao lâu chúng ta còn yêu mến, sẵn sàng hy sinh, kiên trung, bền chí, và hy vọng, ấy là dấu chỉ ta theo Gioan để đi trọn con đường tình yêu dưới chân thập giá. Còn giờ phút nào chúng ta nhát đảm, sợ sệt, ham tiền, ham danh, ấy là lúc chúng ta đã chọn Giuđa làm quan thầy và thắp hương tôn thờ vị “quan thầy phản bội”.
Cần xác tín rằng: Chúa vẫn còn đó. Ngài không bỏ chúng ta. Ngài sẽ lên tiếng, can thiệp, làm sóng gió im lặng, trả lại cho chúng ta niềm hy vọng, qua đó, ta và Ngài, cả hai cùng “sang bờ bên kia” được trọn vẹn trong bình an.
Lạy Chúa Giêsu, con thuyền của cuộc đời chúng con luôn gặp phải những sóng to vũ bão của tội lỗi, hưởng thụ, trụy lạc và những chân lý nửa vời, khiến đôi khi cuộc đời chúng con bị nước ập đầy thuyền làm cho đức tin bị lung lay và tưởng mình đơn côi giữa dòng đời. Xin Chúa ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ và xác tín chắc chắn rằng: Chúa luôn còn đó trên con thuyền cuộc đời của mỗi người, để chúng con vững tin bám chặt lấy Chúa. Amen.
Chúa Nhật XII Thường Niên B G 38, 1. 8-11; 2 Cr 5, 14-17; Mc 4, 35-40
Tuần trước, chúng ta đã bắt gặp lối giảng dạy của Đức Giêsu trong Tin mừng Nhất Lãm. Ngài thường TN12 B-94
Tuần trước, chúng ta đã bắt gặp lối giảng dạy của Đức Giêsu trong Tin mừng Nhất Lãm. Ngài thường dùng cách kể chuyện và trao đổi để soi sáng cũng như khơi dậy đức tin và thực hành đức tin. Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đưa ra một minh chứng trực quan, cho các Tông Đồ có một kinh nghiệm thực tế như là cách giúp các ông hiểu biết Ngài nhiều hơn.
Đức Giêsu cùng các tông đồ rời bỏ đám đông dân chúng và chèo thuyền qua Biển Hồ Galilê. Trong khi Ngài thiếp ngủ, một cơn gió lớn nổi lên khiến con thuyền bị chao đảo, đe dọa tính mạng của cả nhóm. Lo lắng cho sự an toàn của mình, các tông đồ đã đánh thức Đức Giêsu dậy và hỏi tại sao Ngài vẫn có thể ngủ: “Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?”. Thay vì trực tiếp trả lời họ, Đức Giêsu đã chứng tỏ sự chăm sóc bằng cách biểu lộ quyền năng mà dẹp yên sóng gió.
Câu chuyện có thể chấm dứt ở đây, nhưng bài học vẫn chưa kết thúc. Chính Đức Giêsu đã trách các tông đồ bằng những chất vấn như: “Sao các con sợ hãi thế, các con không có đức tin ư?” Những câu hỏi của Đức Giêsu như thách đố sự hiểu biết hạn hẹp của các tông đồ và mời gọi họ có lối suy nghĩ trưởng thành hơn. Sửng sốt, kinh hãi và không hiểu hết được quyền năng của Đức Giêsu, lần này các ông cũng không có câu trả lời mà chỉ đặt câu hỏi Ngài là ai.
Trình thuật ngắn này chứa đựng nhiều ẩn dụ trong Cựu ước. Ví dụ trong sách ngôn sứ Giôna, vị ngôn sứ ngủ mê trên con thuyền đang giữa biển, trong cơn bão tố. Giống như các tông đồ, những người đi cùng với ông Giôna đã thắc mắc làm sao ông có thể ngủ giữa cơn bão tố như vậy. Một cách tương tự, cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và các tông đồ như vang vọng câu xướng của đáp ca hôm nay: “Họ đã kêu cầu Chúa trong cơn khốn khó, và Người đã giải thoát họ khỏi chỗ lo âu. Người biến đổi phong ba thành gió thổi hiu hiu, và bao làn sóng biển đều im lặng” (Tv 107,28). Thánh vịnh 107 là lời cầu nguyện về những trải nghiệm khó khăn trong cuộc sống — bị lạc trong sa mạc, bị giam cầm, bệnh tật, tội lỗi và đối diện cơn bão ở trên thuyền — và tác giả thánh vịnh đã dâng lời tạ ơn về quyền năng và sự giải thoát của Thiên Chúa.
Trong Tin Mừng hôm nay, việc Đức Giêsu dẹp yên sóng gió biểu lộ quyền năng Thiên Chúa trên trần gian này. Quyền làm chủ của Thiên Chúa trên mặt nước là điều nổi bật trong trình thuật Sáng tạo, với việc Thiên Chúa ra lệnh và phân tách nước (St 1,2), và trong câu chuyện lụt hồng thủy, Thiên Chúa quyền năng gây lụt lội rồi sau đó làm nước rút đi (St 7,6 – 8,5). Hành động của Đức Giêsu trên cơn bão cũng tương đồng với câu chuyện Chúa chữa lành đầu tiên trong Tin Mừng Maccô. Khi gặp một người bị thần ô uế ám, Chúa đã quở trách thần dữ và bảo nó hãy im lặng, rời khỏi người ấy (Mc 1,25), giống như cách Chúa đã khiển trách gió bão vậy.
Tại thời điểm này trong Tin Mừng Maccô, Đức Giêsu chỉ mới bắt đầu sứ vụ rao giảng. Ngài cho các tông đồ chứng kiến sự kết hợp giữa việc chữa lành, các cuộc trò chuyện và giảng dạy bằng dụ ngôn; đồng thời việc Chúa dẹp yên bão tố giúp họ cảm nghiệm rõ ràng và có ý nghĩa sức mạnh của Chúa. Câu chuyện này nhắc nhớ chúng ta về quyền năng của Thiên Chúa và thôi thúc chúng ta chú ý đến sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống của mình, đặc biệt là trong những thời điểm khốn khó nhất.
Cảm nghiệm được quyền năng Thiên Chúa trong cuộc đời, các tông đồ sợ hãi là điều có thể thông cảm nhưng các ông cũng không chắc là mình hiểu được ý nghĩa của nó. Đức Giêsu như một người thầy tốt lành, biết rõ nơi mà Ngài muốn các môn đệ đến. Tuy nhiên, Ngài không minh nhiên trả lời họ, thay vào đó Ngài cho họ thông tin và đặt thêm câu hỏi giúp họ tiếp tục phát triển cách hiểu biết cho chính mình. ---------------------------- Bài đọc: https://www.thanhlinh.net/node/20324 Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/05/20/twelfth-sunday-ordinary-time-gospel-reflection-catholic-scripture-240662 Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
Suy niệm Lời Chúa, Chúa Nhật XII Thường Niên – Năm B
Trong những ngày tháng qua, giữa những cơn khủng hoảng, đau khổ và tang thương của đại TN12 B-95
Trong những ngày tháng qua, giữa những cơn khủng hoảng, đau khổ và tang thương của đại dịch, câu hỏi luôn được nhiều người đặt ra: Thiên Chúa đang ở đâu? Tại sao Chúa lại để cho nó xảy ra? Tại sao Chúa không cứu giúp, ngăn cản và đẩy lùi dịch bệnh? Thực ra, vì thường ngày trong cuộc sống, khi Thiên Chúa quan phòng, an bài và để cho mọi sự xảy ra cách bình thường tốt đẹp; thì oái ăm thay, những lúc như vậy, con người lại cho rằng: Tin vào Thiên Chúa là sự mù quáng, là mê tín, là điên dại. Tôn giáo, Đạo Chúa là chỉ để dành riêng cho những ai chưa trưởng thành, những ai còn mê muội, còn nhẹ dạ. Con người trưởng thành-tự chủ thì phải loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống của họ, cho nên, họ đã không còn đi nhà thờ, không đi lễ, đọc kinh, không đọc Kinh thánh, không còn treo ảnh-tượng Chúa và tôn thờ Chúa trong các gia đình, công sở và trường học…Con người đang muốn tự mình phải làm chủ cả vũ trụ này và muốn tự định đoạt cho cuộc sống theo cách của riêng mình. Tạ ơn Chúa, giờ đây, trong cơn khốn khó như thế này, con người lại nhớ đến Chúa là cứu cánh, là chỗ nương tựa, là Đấng duy nhất để con người chạy đến để kêu van, để xin Chúa cứu giúp. Qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta dường như đang được an ủi, đỡ nâng và tìm lại được nguồn trợ giúp đích thực của mình là Thiên Chúa.
Trong cơn khốn khó của đại dịch như hiện nay, Thánh vịnh 106 trong Đáp ca như đang mời gọi chúng ta, trong mọi lúc, mọi hoàn cảnh và trong mọi sự, tiên vàn hãy chúc tụng cảm tạ Chúa, vì đức từ bi của Chúa thì muôn đời, muôn thuở. “Họ đã kêu cầu Chúa trong cơn khốn khó, và Người đã giải thoát họ khỏi chỗ lo âu. Người biến đổi phong ba thành gió thổi hiu hiu và bao làn sóng biển đều im lặng.” Đây chính là kinh nghiệm sống đức tin của những con người tôn thờ, kính sợ Chúa, những con người này luôn nhận ra rằng: Chúa là Chủ Tể của mọi loài, mọi vật, ngay cả cuộc sống của họ cũng chính là do ơn thánh Chúa ban tặng. Do đó, dầu phải trải qua biết bao gian nan, đau khổ, thử thách giữa sóng gió cuộc đời, những lúc như vậy, Chúa đều biết rõ, nên họ đã tìm đến Thiên Chúa để van xin, kêu cứu thì họ đều được Ngài nâng đỡ, phù trì và ra tay cứu giúp. Thế nhưng, điều quan trọng với mỗi người chúng ta hiện nay là: liệu chúng ta còn tin tưởng vào sự hiện diện, đồng hành và ban ơn cứu chữa của Chúa trong cuộc đời của chúng ta hay không?
Tin mừng theo Thánh Marcô thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu “dựa gối ở đằng lái mà ngủ” trên thuyền cùng với các môn đệ, sau khi Chúa đã hoàn tất một ngày với sứ vụ rao giảng Tin mừng. Marcô đã không nêu ra cho chúng ta biết lý do hay nguyên nhân vì sao mà Chúa lại thiếp ngủ, trong lúc con thuyền thì đang bị một “cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước”. Vậy thì, câu hỏi được đặt ra: Chúa có biết rõ con thuyền của Ngài và các môn đệ đang gặp nguy hiểm vì sóng to, gió lớn, nước đang tràn sắp đầy thuyền và các môn đệ của Ngài đang rất sợ hãi không? Là người có niềm tin vào Chúa, thì chúng ta sẽ trả lời, chắc chắn là Chúa biết rõ, vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng. Ngài biết rõ mọi sự như vậy, nhưng tại sao Ngài vẫn đang ngủ, tại sao Ngài không hành động gì, tại sao Ngài không đi bước trước để cứu giúp các môn đệ? Đây là lúc, là thời khắc mà chúng ta gọi là hãy để cho “Thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa” được thực hiện; trong thánh ý Chúa, chúng ta không thể nào hiểu thấu bằng sự suy luận với khối óc và trí khôn của con người cả. Chúa đang ở đàng lái của con thuyền, mặc dầu là Ngài ngủ, nhưng Ngài đang là chủ của con thuyền, Ngài biết rõ con thuyền của Ngài và các môn đệ phải sang qua bờ bên kia bình an để Ngài còn tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin mừng.
Khi con người phải đối diện với những khó khăn, thử thách và sóng gió của cuộc đời, chúng ta mới nhận ra được cung cách, cư xử và hành động của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác biệt với con người. Khi phải đối diện với cái chết, trong lúc mà sức-trí-tài của con người dường như không thể nào làm gì được, chắc chắn các môn đệ đã rất hoang mang, sợ hãi vì mạng sống của họ bị đe dọa. Nếu đặt vào hoàn cảnh của mỗi người chúng ta, thì chúng ta đã, đang và sẽ làm gì? Dẫu là môn đệ Chúa, được nghe Chúa giảng dạy, chỉ bảo và chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhưng đồng thời các ông vẫn là những con người bình thường, nên họ rất sợ hãi là chuyện đương nhiên, cho dù họ cũng đã làm hết với những khả năng của mình. Trước sự bất lực, vô vọng và sợ hãi của con người, may mắn thay, các ông đã biết đến để van xin, kêu cứu Chúa giúp. “Các ông đánh thức Người và nói: Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?” Còn với Chúa Giêsu, khi các môn đệ đến đánh thức kêu van: “Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: Hãy im đi, hãy lặng đi. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ”. Qua việc Chúa Giêsu làm cho sóng yên, biển lặng, chúng ta nhận ra chính quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa được biểu lộ, vì Ngài là chủ tể của mọi sự trong vũ trụ này. “Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư”? Điều này mời gọi chúng ta, dù trong cơn khốn khó, hãy vững tin vào Chúa, tin vào sự hiện diện, đồng hành, ban ơn phù trì của Chúa, vì ngay cả mạng sống và mọi sự chúng ta đang có, tất cả là ơn thánh Chúa thương ban. Chúa đang có cách của Ngài và Chúa đang muốn mọi sự được tốt lành.
Lạy Chúa, tất cả mọi người chúng con đang lo sợ, vì cuộc sống đang gặp phải những lao đao, sóng gió của đại dịch, tệ hại hơn là đời sống đức tin của chúng con đang bị thử thách, yếu kém và đang bị đánh mất vì những thói hư, tật xấu và tội lỗi của chúng con. Chúng con đã quên Chúa, đã loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống của chúng con. Lạy Chúa, giờ đây xin Chúa hãy dủ lòng thương, đoái đến, nghe lời chúng con van xin mà thương tha thứ và cứu chữa chúng con. Xin gia tăng thêm cho chúng con lòng tin-cậy-mến vào Chúa, để chúng con luôn sống trọn vẹn cho Chúa qua đời sống bác ái, yêu thương và dấn thân phục vụ của chúng con. Amen.
Biển hồ Galilê là hồ lớn có hình bầu dục chiều dài 21km, chiều rộng 12km, nơi các môn đệ Chúa TN12 B-96
Biển hồ Galilê là hồ lớn có hình bầu dục chiều dài 21km, chiều rộng 12km, nơi các môn đệ Chúa Giêsu sinh sống bằng nghề chài lưới, cũng là nơi thân quen vì Chúa Giêsu nhiều lần rao giảng Tin Mừng cho dân chúng ở ven bờ. Chúa cũng làm một số phép lạ ở đây.
Sau một ngày vất vả rao giảng và đón tiếp dân chúng, chiều đến Chúa bảo các môn đệ chèo thuyền qua bờ bên kia. Chúa đồng hành với các môn đệ trên con thuyền đó, đàng khác cũng có những thuyền khác cùng đi theo. Thuyền ra lưng chừng giữa biển thì sóng gió nổi lên nếu lùi lại cũng không xong mà tiến tới thì cũng nguy hiểm. Sóng to gió lớn đến nỗi các môn đệ thấy nước tràn vào làm thuyền muốn chìm. Trong khi đó thì Chúa vẫn vô tư ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Không biết Chúa ngủ thiệt hay Chúa giả vờ ngủ để thử thách đức tin các môn đệ, tương tự như khi Chúa Giêsu đồng hành với hai môn đệ đi Emmaus: Chúa giả vờ muốn đi xa hơn để xem hai môn đệ có lòng hiếu khách mời Chúa ở lại không. Tuy nhiên ở đây họ đã tới đánh thức Chúa dậy tương tự như chuyện ông Giona khi có gió bão ông vẫn ngủ say dưới tầng hầm tầu, và người ta cũng phải xuống đánh thức ông dậy.
Chúa Giêsu chỗi dậy rồi Chúa đe gió và phán với biển:"Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng và biển lặng như tờ. Lời Chúa Giêsu nói với gió biển cũng tương tự như khi trừ quỉ, Chúa truyền cho quỉ phải im đi và ra khỏi người bị quỉ ám. Sau đó Chúa Giêsu cũng không quên trách các môn đệ bằng lời như sau: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"
Thánh Marcô ghi: "Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió và biển cũng đều vâng lệnh Người" Câu nói của các môn đệ tỏ lòng thán phục và muốn nói lên rằng Chúa Giêsu Thầy mình là Thiên Chúa nên mới làm chủ được gió và biển. Còn lúc Chúa Giêsu dựa gối ngủ cho ta thấy Chúa Giêsu cũng là con người, nên Chúa cũng cần ăn uống ngủ nghỉ như chúng ta
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một đề tài thiết thân với đời sống người Kitô hữu: Đó là việc Chúa ngủ tức Chúa không quan tâm nên các môn đệ phải đánh thức Chúa và nói với Chúa: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Nhiều lúc chúng ta cảm thấy như là Chúa lãnh đạm hoặc như là Chúa đi vắng giữa lúc chúng ta cần được sự trợ giúp của Chúa. Tác giả Thánh vịnh cũng phải kêu lên : "Lạy Chúa, xin Chúa chỗi dậy đi, tại sao Chúa lại ngủ? Chúa hãy thức dậy đi" (Tv 44, 24,45, 23...) và chúng ta cũng muốn nôn nóng đánh thức Chúa dậy như các môn đệ.
Trong cuộc khổ nạn Chúa Giêsu cũng phải trải qua tâm trạng như thế, đặc biệt là trên Cây thánh giá, Chúa Giêsu đã phải kêu lên cùng Chúa Cha: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ Con (Mc 15, 34)". Nhiều vị thánh cũng từng nếm trải những ngày tháng khó khăn mà thánh Gioan Thánh giá gọi là "đêm tối đức tin".
Nhưng thực ra Chúa không bỏ rơi con cái Chúa, Chúa muốn thanh luyện lòng tin và lòng phó thác của các thánh cũng như của chúng ta để lòng tin và lòng trông cậy phó thác khi vượt qua thì sẽ được gia tăng hơn lên và vững bền hơn. Ông Gióp là một mẫu gương: ông vẫn tin tưởng và kêu cầu Chúa cả khi gặp hoạn nạn. Thánh Phêrô khuyên chúng ta: "Anh em hãy phó thác mọi lo âu cho Chúa vì Chúa luôn lo lắng cho anh em (1Pr 5, 7). Tác giả Thánh vịnh cũng khuyên chúng ta: "Hãy phó thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay" (Tv 36, 5)
Có một người đi vượt biên kể lại câu chuyện như sau: Con thuyền của họ ra giữa biển khơi thì gặp sóng to gió lớn nổi lên. Ai cũng lo sợ nguy cơ đắm thuyền là rất lớn vì thế lúc này mọi người trên thuyền đều khẩn thiết cầu nguyện: người Công giáo thì cầu nguyện cùng Chúa, cùng Đức Mẹ, người theo đạo Phật thì đọc Nam mô cầu khấn Trời Phật... Có mấy người còn khấn hứa nếu được tai qua nạn khỏi tới bến bình an thì sẽ đi tu. Chúa cho chuyến đi đó được tới bờ tới bến bình yên. Người ta đặt câu hỏi không biết những người hứa sẽ đi tu, có giữ lời hứa không hay bây giờ được giầu có thịnh vượng định cư ở Nước Mỹ thì họ quên hết?
Con thuyền vượt biển cũng là hình ảnh cuộc đờì người kitô hữu chúng ta, có lúc thì được trời yên biển lặng, thuyền lướt đi nhẹ nhàng, chúng ta được an vui phụng sự Chúa, nhưng có lúc gặp phong ba bão táp, chúng ta phải vất vả chèo chống, và nhiều khi còn cảm thấy như Chúa không quan tâm hay quên mất mình nữa. Chính lúc này, chúng ta cần kiên trì cầu nguyện xin ơn Chúa giúp để có thể vượt qua. Hãy gia tăng lòng tin kính Chúa và phó thác cậy trông Chúa trong cơn nguy khốn Chúa sẽ nâng đỡ chúng ta kịp thời như Chúa đã giúp sức cho các tông đồ khi xưa.
Chắc chắn không ai tránh khỏi những sóng gió cuộc đời như con thuyền ra khơi. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời nguyện tắt như thánh Phêrô và các tông đồ đã thưa với Chúa: "Lạy Chúa xin cứu giúp con" (Mt 14, 30) và "Xin ban thêm lòng tin cho chúng con" (Lc 17,5). Amen
Sóng gió” là từ thường được dùng để chỉ những thử thách mà ai cũng có lần gặp trong cuộc đời TN12 B-97.
“Sóng gió” là từ thường được dùng để chỉ những thử thách mà ai cũng có lần gặp trong cuộc đời. Chẳng đời ai hoàn toàn êm đềm như biển lặng. Cả cuộc đời của những người đi theo Đức Giêsu cũng vậy. Các môn đệ không tránh khỏi sóng gió, hiểu theo nghĩa đen. Hồ Galilê thường hay có những cơn bão bất ngờ. Giữa lúc trời yên bể lặng thì sóng gió ập tới.
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện về một kinh nghiệm sóng gió mà Thầy trò trải qua trên hồ Galilê. Có nhiều yếu tố làm tăng độ khó cho kinh nghiệm này. Trời lúc đó đã là chiều tối, chứ không phải ban ngày. Đức Giêsu và các môn đệ đang ở bên này của biển hồ. Chính Thầy đưa ra lệnh: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia đi !” Bờ bên kia là vùng Thập Tỉnh, nơi ở chủ yếu của dân ngoại. Không rõ tại sao khi trời tối, Thầy lại muốn mọi người qua đó. Thầy đã từ thuyền mà ngồi giảng các dụ ngôn cho dân (Mc 4,1). Bây giờ Thầy vẫn đang ở trong con thuyền đó (Mc 4,36).
Hành trình trên biển của Thầy trò xem ra không suông sẻ, vì bất ngờ một trận cuồng phong nổi lên. Cùng với gió mạnh là sóng to. Cùng với sóng to là nước lớn ào vào. Con thuyền chòng chành vì gió, nghiêng ngả vì sóng, và ngập nước đến độ có nguy cơ bị chìm. Các môn đệ quen đánh cá ban đêm có kinh nghiệm này không? Vậy mà Thầy lại nằm ngủ say, trên một chiếc gối, ở đàng lái. Các môn đệ thật không sao hiểu được làm sao Thầy có thể ngủ bình yên trong hoàn cảnh hiểm nghèo như thế (G 11,18-19; Tv 4,9). Họ cuống lên nên trách móc Thầy mình: “Chúng ta sắp chết mà Thầy chẳng quan tâm sao?”(Mc 4,38). Dường như họ muốn Thầy mình làm một điều gì đó.
Thầy Giêsu đang ngủ, bị đánh thức và Thầy đã thức dậy. Thầy ngăm đe gió như đã ngăm đe quỷ (Mc 1,25; 3,12), và ra lệnh cho biển động phải yên lặng như tờ. Những sức mạnh tự nhiên đe dọa con người bị khuất phục. Thầy Giêsu không chỉ có quyền uy trên bệnh tật, ma quỷ, Thầy còn có quyền trên các năng lực tự nhiên trong trời đất. Khi biển lặng, sóng yên, Thầy mới bắt đầu trách môn đệ: “Tại sao anh em nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao.” Khi sống bên Thầy, lẽ ra họ phải có lòng tin vững mạnh, nhưng sóng gió đã làm lộ ra chuyện họ yếu tin. Sau phép lạ của Thầy Giêsu, chỉ bằng một lời quyền năng, các môn đệ hoảng sợ, sợ hơn cả lúc gió to sóng lớn. Nhưng đứng trước Đấng làm chủ cả gió và biển, họ vẫn chưa trả lời được câu hỏi: “Người này là ai?” (Mc 4,41).
Các môn đệ đã trải qua bao kinh nghiệm trong đêm nay: kinh nghiệm bị sóng gió dập vùi, kinh nghiệm cận kề cái chết, kinh nghiệm tuyệt vọng và hoảng loạn, kinh nghiệm trách móc đối với sự thinh lặng của Thiên Chúa, và kinh nghiệm bình an khi biển lặng sóng yên. Con thuyền Giáo hội và thế giới cũng có khi gặp sóng gió. Chúng ta chỉ cần có Chúa trong thuyền, Ngài ngủ cũng được. Cũng cần kêu xin Ngài với lòng tin, chứ không hoảng hốt. Rồi mọi sự sẽ qua, bình an trở lại.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, Sống ở đời chẳng ai thích sóng gió, nhưng sóng gió lúc nào cũng có trong đời người. Các môn đệ đầu tiên đã nhiều lần gặp sóng gió ở hồ Galilê. Sóng gió đến khi Chúa đang ngủ vùi trên thuyền, khiến môn đệ phải vội vàng đánh thức. Sóng gió đến khi Chúa không ở trong thuyền, khiến môn đệ phải chèo chống vất vả.
Chúa không tránh cho đời chúng con khỏi mọi sóng gió, vì Chúa biết sóng gió làm chúng con trưởng thành, tập vượt qua nỗi sợ hãi bằng lòng tin, tập vượt qua nỗi lo âu bằng hy vọng. Chúa để chúng con chiến đấu suốt đêm với gió ngược, nhưng lại đến với chúng con khi trời gần sáng.
Xin cho chúng con yêu quý sự bình an, nhưng lại không ngỡ ngàng trước sóng gió. Giữa cơn sóng gió, xin cho chúng con tin rằng Chúa vẫn hiện diện gần bên chúng con, và đang đưa con thuyền Giáo Hội về đến bến.
Suy Niệm Thánh Vịnh 106 1 Ha-lê-lui-a. Hãy tạ ơn CHÚA vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. 2 Họ sẽ cùng nói lên như vậy, những người được CHÚA thương giải thoát ; giải thoát cho khỏi tay địch thù, 3 triệu tập về từ bao viễn xứ, khắp miền nam bắc, khắp ngả đông tây. 4 Họ lạc bước trong vùng sa mạc, nơi cằn cỗi, không thấy đường về chốn thành thị để định cư, 5 vừa đói vừa khát, mạng sống đã hầu tàn. Khi gặp bước ngặt nghèo, 6 họ kêu lên cùng CHÚA, Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân, 7 dắt họ đi thẳng đường ngay lối về chốn thành thị để định cư. 8 Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần. 9 Họng ráo khô, Chúa cho uống phỉ tình, bụng đói lả, Người cho ăn thoả thích. 10 Họ phải sống trong cảnh tối tăm mù mịt, kiếp lầm than xiềng xích gông cùm ; 11 vì họ chống cưỡng lời Thiên Chúa, dám khinh nhờn lệnh Đấng Tối Cao, 12 Người bắt họ nếm mùi gian khổ, phải lao đao mà không kẻ đỡ nâng. 13 Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng CHÚA, Người ra tay cứu họ thoát ngàn nỗi gian truân : 14 đưa ra khỏi cảnh tối tăm mù mịt và đập tan xiềng xích gông cùm. 15 Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần. 16 Cửa đồng kia, Chúa đã phá tung, then sắt nọ, tay Người bẻ gãy. 17 Họ hoá điên trong cuộc đời lầm lỗi, gánh tội tình đè nặng tấm thân, 18 mọi thức ăn, họ đều chê chán, và tiến gần tới cửa âm ty. 19 Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng CHÚA, Người ra tay cứu họ thoát ngàn nỗi gian truân. 20 Sai lời Người đến, chữa cho lành mạnh, cứu họ khỏi sa vào hố sâu. 21 Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần. 22 Ước chi họ dâng lễ tế tạ ơn Chúa, cất tiếng hò reo, tường thuật việc Chúa làm. 23 Họ vượt biển ngược xuôi nghề thương mãi, giữa trùng dương lèo lái con tàu, 24 mắt đã tường việc CHÚA làm nên và kỳ công Người thực hiện giữa dòng nước lũ. 25 Chúa truyền lệnh khiến bùng lên bão táp, lớp sóng xô cuồn cuộn dập dồn. 26 Họ nhô lên tận trời, nhào xuống vực sâu, lúc nguy hiểm, hồn xiêu phách lạc, 27 bị quay cuồng, lảo đảo như say, khéo cùng khôn đã chìm đâu mất. 28 Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng CHÚA, Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân. 29 Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng, sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng, 30 họ vui sướng, vì trời yên bể lặng và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. 31 Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần. 32 Ước chi họ tán dương Người nơi nhóm họp toàn dân và ca tụng giữa hội đồng bô lão. 33 Chúa khiến sông ngòi cạn đi thành sa mạc, đổi suối nguồn ra hoang địa khô khan, 34 đất mầu mỡ hoá đồng chua nước mặn, vì dân cư độc ác gian tà. 35 Người lại biến sa mạc thành hồ ao và hoang địa khô khan nên nguồn suối. 36 Kẻ nghèo đói, Người cho đến ở, họ lập nên thành thị để định cư. 37 Gieo lúa ngoài ruộng, trồng nho trong vườn, họ thu hoạch hoa màu lợi tức. 38 Chúa chúc lành, họ sinh sôi nảy nở, bầy gia súc, Người không để giảm đi. 39 Nhưng rồi họ phải tiêu hao lụn bại, điêu đứng vì tai hoạ với khổ đau. 40 Chúa đổ nhuốc nhơ xuống hàng quyền thế, bắt phiêu bạt giữa chốn hoang vu, không đường ra lối vào. 41 Nhưng Chúa lại cất nhắc kẻ nghèo hèn thoát cảnh lầm than, ban cho cả giống dòng như chiên cừu sinh năm đẻ bảy. 42 Người chính trực thấy thế mà mừng rỡ, bọn gian tà chẳng dám hé môi. 43 Ai kẻ hiền nhân, hãy để tâm suy nghĩ, thì sẽ am tường lòng CHÚA thương yêu.
Cùng Đọc Với Israel
Dàn bài của thánh vịnh Tạ Ơn này thật rõ ràng. Ta thấy cách cụ thể một cảnh sống động đang diễn TN12 B-98
Dàn bài của thánh vịnh Tạ Ơn này thật rõ ràng. Ta thấy cách cụ thể một cảnh sống động đang diễn ra. Vào ngày đại lễ, tại Giêrusalem, có nhiều khách hành hương, tất cả đều mong muốn tạ ơn Thiên Chúa về một lời mà họ đã hứa với Ngài khi họ đang ở trong một tình trạng nguy hiểm.
Đám đông đứng quanh bàn thờ, nơi đó tế vật làm hy lễ Tạ ơn đã chuẩn bị sẵn. Các tư tế mời bốn nhóm tín hữu quy tụ với nhau để thực hiện một hy lễ chung. Đó là điều đã xảy ra cho thánh Phaolô, đã dâng hy lễ trong Đền Thờ ‘với bốn người khác’ (Cv 21,24).
Nghi lễ bắt đầu với lời mời gọi các ‘người tế lễ’: ‘Hãy tạ ơn Chúa’. Đáp lại lời mời gọi đó, cộng đoàn tham dự đáp: ‘Vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương’. Sau đó các thầy Lêvi tập họp ‘những người được Chúa giải thoát’, những người có lời tạ ơn cần diễn đạt.
Bốn nhóm người tạ ơn đến tham dự vào lễ tế: những người đi đường (c.4)…những tù nhân (c.10)...những bệnh nhân (c.17)…những người đi ghe tàu (c.23)…tất cả đều ở trong nguy hiểm chết người. Trong từng trường hợp nghi thức diễn ra đều giống nhau: a) nêu lên nguy hiểm họ có thể gặp…b) lời họ kêu cứu và sự can thiệp giải thoát của Thiên Chúa…c) lập lại điệp khúc tạ ơn…
Như các bài ca hiện nay của ta, ta lưu ý điều này là thánh vịnh này gồm có hai Điệp khúc, được lập đi lập lại bốn lần. Điệp khúc 1: Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng CHÚA,
Người ra tay cứu họ thoát ngàn nỗi gian truân (trong câu điệp khúc này ta nghe thấy tiếng kêu cầu và sự đáp trả của Thiên Chúa được đặt trong cùng một câu, để điễn tả Thiên Chúa mau chóng đáp lời); Điệp khúc 2: Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa,
và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần…
Thánh vịnh chấm dứt bằng một đoạn kết khôn ngoan, mở rộng viễn ảnh, rút ra những bài học sâu sắc từ bốn tình cảnh cụ thể được cứu thoát: vâng, Thiên Chúa có khả năng thay đổi hoàn cảnh…vâng, Thiên Chúa muốn con người được hạnh phúc…vâng, Thiên Chúa chê ghét sự kiêu căng của tội lỗi, là cái hủy diệt hạnh phúc…Và câu cuối tóm gọn tất cả: Ai kẻ hiền nhân, hãy để tâm suy nghĩ, thì sẽ am tường lòng CHÚA thương yêu, kẻ khôn ngoan cần tập nhận ra trong mọi sự Tình Yêu của Thiên Chúa. Lòng Yêu Thương của Chúa, đó là lời cuối của thánh vịnh.
Cùng Đọc Với Đức Giêsu
Thánh vịnh này, dĩ nhiên được viết để trả lời cho những hoàn cảnh cụ thể của những người nam nữ do thái, đã mang ý nghĩa đầy đủ trọn vẹn nơi con người Đức Giêsu. Có ai ngoài Ngài ‘đã giải thoát khỏi bóng tối tử thần’? Ai ngoài Ngài ‘đã đập tan cửa đồng’ âm phủ? Phía sau lời ca của những người được giải thoát khỏi hiểm nguy chết người, ta nghe thấy lời tạ ơn của Đức Giêsu trong bữa Tiệc Vượt qua của Ngài: Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa,
và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần. Nên nhớ rằng mỗi Thánh lễ là một việc tạ ơn Thiên Chúa: lời tạ ơn ‘rối rít’ của những kẻ được giải thoát. Thánh vịnh này là một thánh vịnh vượt qua tuyệt vời. Những hoàn cảnh đau khổ cụ thể được diễn tả chỉ là một lời loan báo xa về cái nguy hiểm ngặt nghèo là ‘cái chết’, mà chỉ có sự phục sinh mới giải thoát được chúng ta.
Thánh vịnh viết ‘Sai lời Người đến, chữa cho lành mạnh’. Ngày nay ta biết rằng từ Đức Giêsu, phải viết hoa từ ngữ ‘Lời’: Thiên Chúa đã sai Lời làm người để chữa lành chúng ta, Lời hằng hữu của Người đã đến trong thời gian để giải thoát chúng ta. Thánh vịnh còn viết: ‘Họng ráo khô, Chúa cho uống phỉ tình, bụng đói lả, Người cho ăn thoả thích. Và ta biết rằng Đức Giêsu tự giới thiệu mình như đấng thỏa mãn cơn đói khát của con người: ‘Ai ăn thịt và uống máu tôi…’(Ga 6).
Thánh vịnh loan báo việc triệu tập hoàn vũ của những người được cứu: ‘triệu tập về từ bao viễn xứ, khắp miền nam bắc, khắp ngả đông tây. Và Đức Giêsu đã đảm nhận vai trò làm đấng quy tụ này: ‘Đã bao lần ta muốn tập họp con cái người lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh’ (Mt 23,37)… ‘Người sẽ sai các thiên sứ của Người…tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương’ (Mt 24,31)… ‘Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa’ (Lc 13,29). Đó cũng chính là những lời của Thánh vịnh mà Đức Giêsu áp dụng cho chính mình.
Cùng Đọc Với Người Thời Nay
Hoàn cảnh tha hóa, và giải thoát! Đừng chỉ dừng lại nơi bốn tình cảnh được mô tả trong thánh vịnh. Mỗi người chúng ta hiện tại hóa thánh vịnh này. Đàng sau những người bộ hành lang thang trên những con đường dẫn đến hủy diệt, người ta sẽ chẳng chút khó khăn nhận ra biết bao người đương thời, biết bao bạn trẻ tuyên bố rằng cuộc sống của họ chẳng có ý nghĩa gì và chẳng đi đến đâu cả…Đàng sau những người bị tù đày, nêu lên cho ta hình ảnh những người anh em thật sự bị xiềng xích bởi những thói quen hoặc những cơ cấu xã hội tha hóa…Đàng sau những bệnh nhân mà ‘mọi thức ăn đều chê chán’, chúng ta có thể mường tượng ra những con người đã chán sống và thất vọng…Đàng sau những người bị nguy hiểm đắm tàu, ta có thể liệt kê ra những con người ở trong những hoàn cảnh khó thoát ra do số phận, do tai nạn, do những tai họa thể lý bất ưng…Nếu ta thực sự muốn cầu nguyện thánh vịnh này ngay giữa lòng thế giới hôm nay, chỉ cần mở tờ nhật báo, hoặc xem truyền hình, để làm vang lên Thiên Chúa những lời kêu cứu của những người đau khổ. ‘Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa’. Có lẽ nhiều người đã quên làm điều này, hoặc không có sức làm: ta có phải là tiếng nói cho những người không có tiếng nói không?
Đức Giêsu làm im gió bão. Sự diễn tả cơn giông bão ngay giữa thánh vịnh thật đẹp, cả về mặt văn chương. Là một biểu tượng. Đối với người do thái sống trên đất liền, nhìn người thủy thủ lênh đênh trên biển cả như là một người gan dạ, chế ngự sức mạnh của thiên nhiên (con người ngày nay tưởng rằng mình làm chủ tất cả). Nhưng đây, chính con người đó ‘bị quay cuồng, lảo đảo như say’, chỉ cần biển dâng cao sóng thì cái khôn ngoan kia sẽ bị nuốt chìm trong làn sóng nước. Cơn bão là biểu tượng sự đoán xét của Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, lỗi lầm nặng nề và đáng nực cười nhất là, như thánh vịnh nói, ‘vì họ chống cưỡng lời Thiên Chúa, dám khinh nhờn lệnh Ðấng Tối Cao’. Thánh vịnh xác quyết rằng ‘Chúa đổ nhuốc nhơ xuống hàng quyền thế, bắt phiêu bạt giữa chốn hoang vu, không đường ra lối vào’. Nhà vua Pharaon kia tưởng rằng mình mạnh mẽ, cuối cùng chìm giữa lòng Biển Đỏ. Là ảo tưởng cho kẻ kiêu căng, muốn vượt lên trên Thiên Chúa, nhưng thực ra chỉ nhào xuống vực sâu. Nhưng Đức Giêsu là đấng đứng lên đối mặt với những cơn giông bão, Ngài làm lặng im gió bão (Mc 4,39).
Thành thị nơi định cư. Hai lần trong thánh vịnh, ta thấy lập lại công thức này, tượng trưng sự an toàn. Đối với người du mục, luôn đối mặt với những bất ngờ của cuộc sống rày đây mai đó, thành thị với những tường lũy chắc chắn là niềm mơ ước định cư và an bình. Thế giới ngày nay là một thế giới thành thị hóa nên chúng ta không còn có được cái tình cảm đó nữa. Trái lại, những đô thị lớn càng ngày càng trở thành nơi (mà người ta sống) vô danh và bất ổn. Nhưng lời cầu nguyện xưa vẫn luôn hiện thực: ước gì các thành thị của chúng con thành nơi định cư, nơi con người cư ngụ an bình. Thành đô mà người ta đang mơ ước đó là Giêrusalem cứu thế. Thánh Gioan trong sách Khải Huyền, đã thấy ‘thành Thánh Giêrusalem từ trời xuống’, là Giêrusalem mới, là Giáo hội (Kh 21,2). Ta có thể cầu xin và nỗ lực kiến tạo để các thành thị của chúng ta nơi trần thế này giống với thành thánh hơn.
Nhận biết Tình Yêu của Chúa…dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa. Mục đích của việc kiểm điểm đời sống, qua những biến cố thăng trầm của cuộc sống, là biết nhận ra Thiên Chúa đang hoạt động. Thánh vịnh này mời gọi ta trong đời sống hôm nay, đọc lại những biến cố dưới ánh sáng của tình yêu Chúa. Trong điều xảy ra cho tôi, cho thế giới, làm thế nào tôi có thể khám phá rằng Thiên Chúa là đấng cứu độ, đấng giải thoát, đấng quy tụ?
Giải thoát và thông hiệp. Trong khổ thơ thứ hai, thánh vịnh tóm gọn cách tài tình cả hai bình diện không thể tách rời nhau của mọi ‘giải cứu’. Ơn cứu độ có hai mặt, trước hết được giải cứu khỏi một hoàn cảnh áp bức…nhưng để sống sự hiệp thông…Người được cứu vừa là người được cứu thoát khỏi tay kẻ đàn áp, vừa là người được quy tụ về với những kẻ khác. Không có sự giải thoát đích thực nếu không có tình liên đới. Sự sống của Thiên Chúa là hiệp thông giữa Ba Ngôi. Nước Trời được hứa ban cho ta cũng chính là điều đó: sống trong một tình yêu thương hoàn toàn triển nở. Đó là chương trình của Thiên Chúa, là dự định của Người. Tất cả những gì trong cuộc sống hiện nay của ta đi theo hướng đó, đã là sự tham dự vào công trình mà Thiên Chúa đang thực hiện.
Noël Quesson, 50 Psaumes pour tous les jours, Tome II Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê chuyển dịch
John Newton là con của một thuyền trưởng người Anh. Khi John mười tuổi, mẹ chết và cậu TN12 B-99
John Newton là con của một thuyền trưởng người Anh. Khi John mười tuổi, mẹ chết và cậu đi biển với cha mình. Cậu học nghề biển cách thành thạo. Nhưng khi 17 tuổi, John chống lại cha mình, bỏ tầu, và bắt đầu một cuộc sống phóng túng.
Sau đó John nhận việc trên một chiếc tầu chở hàng, đưa nô lệ từ Phi Châu sang Mỹ Châu. Anh được thăng chức mau chóng và không lâu được trở nên thuyền trưởng của chiếc tầu này.
John không bao giờ nghĩ đến việc buôn bán nô lệ là đúng hay sai. Anh chỉ thi hành công việc. Đó là một cách để kiếm tiền. Sau đó một điều xảy ra đã làm đảo lộn tất cả.
Một đêm kia, cơn bão dữ dội như thổi tung biển cả. Những ngọn sóng dâng cao như núi. Chúng nhồi dập con tầu của John như món đồ chơi. Mọi người trên tầu đều ngập tràn sợ hãi.
Sau đó John thi hành một điều mà chưa bao giờ anh làm kể từ khi rời chiếc tầu của cha mình. Anh cầu xin. Bằng cả sức lực, anh nói lớn, “Chúa ơn, nếu Ngài cứu chúng con, con hứa sẽ trở nên nô lệ cho Ngài muôn đời.” Thiên Chúa đã nghe tiếng anh kêu xin và con tầu được thoát nạn.
Khi John đặt chân lên đất liền, anh đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn bán nô lệ. Sau này anh học làm mục sư và đã trông coi một nhà thờ nhỏ ở Olney, Anh Quốc. Ở đây anh trở nên một nhà rao giảng nổi tiếng và là một người sáng tác thánh ca.
Một trong những bài thánh ca cảm động nhất mà John Newton viết là bài ca ngợi Thiên Chúa đã giúp anh hoán cải, với dòng chữ như sau: “Ôi ơn thánh lạ lùng! Dịu ngọt dường bao, đã cứu vớt một người tồi tệ như tôi! Trước đây tôi đã lạc lối, nhưng giờ đây tôi đã biết đường – đã mù, giờ đây đã thấy...
“Tôi đã từng kinh qua những hiểm nguy, lao nhọc, và cạm bẫy; ơn thánh đã đưa tôi đến sự an toàn, và ơn thánh sẽ dẫn tôi về nhà.”
Câu chuyện của John Newton rất tương tự như bài phúc âm hôm nay.
Cũng như Newton, các Tông Đồ cũng gặp một cơn bão dữ dội. Cũng như Newton, các ông đã lớn tiếng xin Chúa, “Hãy cứu chúng tôi với!” Cũng như Newton, các ông cũng đã thay đổi cuộc đời sau khi lời cầu xin được nhận lời.
Bài phúc âm hôm nay chấm dứt tường thuật cơn bão ở biển khi nói về các Tông Đồ: “Họ vô cùng kinh hãi và bắt đầu nói với nhau, ‘Người này là ai? Ngay cả sóng gió cũng phải vâng theo Người!"
“Người này là ai?” Chắc chắn đó là câu hỏi quan trọng. Và dĩ nhiên, câu trả lời nằm trong bài đọc một và thánh vịnh đáp ca.
Bài đọc một diễn tả cách Thiên Chúa tạo nên biển và ra lệnh cho nó những gì có thể hay không thể làm.
Thánh vịnh đáp ca nói về các thủy thủ gặp nạn trong một cơn bão trên biển. Tác giả thánh vịnh nói về họ: “Trong cơn hoạn nạn, họ kêu cầu đến Chúa, và Người đã cứu họ... Người làm yên cơn bão lớn, và dẹp tan sóng cả.” (TV 107:6, 29).
Trong cả hai bài đọc thuộc Cựu Ước này, chúng ta thấy Thiên Chúa sử dụng quyền hành trên sóng gió. Thiên Chúa ra lệnh chúng và chúng tuân theo Người.
Đây chính là điều Đức Giêsu thi hành trong bài phúc âm. Chúng ta thấy Người sử dụng quyền hành trên sóng gió. Người ra lệnh và chúng tuân theo Người.
Do đó, các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu trong Tân ước sử dụng cùng một quyền hành.
Cả hai sử dụng cùng một quyền lực bởi vì cả hai giống nhau. Đức Giêsu nói: “Ai thấy ta là thấy Chúa Cha... Ta ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong ta.” (Gioan 14:9, 11). “Chúa Cha và ta là một.” (Gioan 10:30).
Câu chuyện về cơn bão ở biển trả lời câu hỏi “Người này là ai?” Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Chúng ta hãy trở về điểm thứ hai. Chúng ta hãy xem thử bằng cách nào cơn bão ở biển chứa đựng một thông điệp mỹ miều, thực tế cho các gia đình nhân Ngày Hiền Phụ.
Khi John Newton bỏ tầu của cha mình, cha của anh thật đau lòng. Chúng ta có thể hinh dung cha anh đứng trên sàn tầu đêm ấy và cầu xin Thiên Chúa với những lời như sau:
“Lậy Chúa, sao điều này lại xảy ra? Sao John không nhìn thấy là con thương nó? Sau nó không thấy là Ngài thương nó? Lậy Chúa, ngay cả khi John từ bỏ hai chúng ta, xin Chúa hãy bảo vệ nó. Hãy bảo vệ nó vì hai chúng ta.”
Hoàn cảnh bi thảm này, hay hoàn cảnh tương tự, đã lập lại nhiều lần, trong nhiều mái nhà. Nó không phải là một hiện tượng mới trong thời đại ngày nay. Nó cũ như câu chuyện của người con hoang đàng trong Phúc Âm Luca.
Nhưng ngay cả khi con cái không từ bỏ mái nhà về thể lý, chúng thường rời xa mái nhà về tinh thần.
Chúng không còn đồng lòng với cha mẹ khi đề cập đến Thiên Chúa hay tôn giáo.
Và sự xa lìa tinh thần này có thể đau lòng hơn từ giã mái nhà về thể lý.
Khi điều này xảy ra, cha mẹ không được nghĩ về mình hay về con cái như một thất bại. Đúng hơn, họ phải nhớ lại câu chuyện người con hoang đàng và câu chuyện của John Newton.
Trong cả hai câu chuyện, sau cùng người con đã trở về nhà. Và trong cả hai câu chuyện, khi trở về nhà người con đã tốt hơn là khi từ bỏ, người cha cũng trở nên tốt hơn khi con cái bỏ đi.
Lý do cả hai người – cha và con – trở nên tốt hơn là vì, ở một thời điểm nào đó khi xa cách, cả hai đã kêu cầu đến Chúa xin giúp đỡ. Và đó là khi cả hai trở nên tốt hơn.
Thật không may khi phải nhờ đến một cơn bão để khám phá ra, không chỉ người cha hay người con ở trần thế, nhưng còn biết đến Cha chúng ta ở trên trời và Đức Giêsu, Con của Người.
Do đó, chúng ta hãy hân hoan, và hôm nay hãy cảm tạ vì hai người cha: một người cha trần thế và một người Cha trên trời.
Chúng ta cũng hãy nhớ rằng khi tìm thấy một trong những người cha này, chúng ta cũng thường tìm thấy người cha kia.
Hãy kết thúc bằng cách lập lại những lời thánh ca mà John Newton đã viết để ca tụng Thiên Chúa.
“Ôi ơn thánh lạ lùng! Dịu ngọt dường bao, đã cứu vớt một người tồi tệ như tôi! Trước đây tôi đã lạc lối, nhưng giờ đây tôi đã biết đường – đã mù, giờ đây đã thấy...
“Tôi đã từng kinh qua những hiểm nguy, lao nhọc, và cạm bẫy; ơn thánh đã đưa tôi đến sự an toàn, và ơn thánh sẽ dẫn tôi về nhà.”
Đang trong cơn sóng dữ, anh em lo chèo chống thì Thầy lại ngủ. Hẳn nhiên là nể Thầy lắm đó TN12 B-100
Đang trong cơn sóng dữ, anh em lo chèo chống thì Thầy lại ngủ. Hẳn nhiên là nể Thầy lắm đó để cho Thầy nằm trên đầu thuyền mà không phải làm gì. Nhưng rồi đâu phải thấu anh em nể Thầy rồi Thầy muốn làm gì làm, Thầy để mặc anh em.
Vừa lo, vừa sợ, vừa hờn nên các môn đệ hỏi luôn cho ra ngô ra khoai: "Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?" (Mc 4, 38).
Tưởng gì, làm cho biển im lặng! Tài thật! Dĩ nhiên là anh em biết quyền năng của Thầy chứ! Nhưng thôi, "của cho không bằng cách cho", cho biển im lặng rồi thôi, đàng này còn trả treo: "Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?" (Mc 3,40).
Nói thiệt với Thầy, giận Thầy lắm đó! Chúng con chưa áp dụng cái chiêu ngày xưa trong Cựu Ước là con cho Thầy xuống biển như cho ông Nôê là may lắm rồi! Thầy mà làm chúng con giận là chúng con cho Thầy xuống biển như xưa cho xong chuyện.
Thật ra, niềm tin của các môn đệ khi ấy cũng còn vững lắm là không bỏ Thầy xuống biển mà đến cầu cứu Thầy. Nếu sống với niềm tin Cựu Ước thời Nôê thì Thầy chết chắc. Cuộc đời của chúng ta ắt hẳn cũng có quá nhiều lần nhiều lúc chúng ta cũng gặp sóng gió như các môn đệ ngày hôm nay. Thế nhưng, đứng trước trước những sóng gió của cuộc đời ta có bám vào Chúa, ta có chạy đến Chúa hay ta lại nại sức của ta hay tệ hại hơn là nhờ vào những thế lực của thế gian, của sự dữ.
Một gia đình kia tan nát cũng chỉ vì nại vào thế lực của sự dữ. Tưởng chừng nại vào thế lực của sự dữ thì sẽ bình an nhưng ngày mỗi ngày lại tụt dốc.
Chuyện là người vợ có vấn đề về tâm thần, về tâm lý... người chồng nghe người này người kia nói và bắt đầu tìm thầy bỏ Chúa. Người chồng loanh quanh đi tìm thầy cao tay để chữa cho vợ mình bất chấp điều đó là sai tín lý, sai lạc đức tin, sai lạc niềm tin vào Thiên Chúa mà họ đã tin theo. Khi đi theo thầy bùa chú và bỏ Chúa thì cuộc sống của vợ chồng đã đi vào bế tắc và cuối cùng chồng đi đường chồng, vợ đi đường vợ.
Lẽ ra trong gia đình có vấn đề thì họ nên và cần bám vào Chúa, đàng này họ bỏ Chúa để đi tìm thế lực khác để cứu mình. Hậu quả là gia đình đã bỏ Chúa và đi theo thế lực khác.
Cùng với kinh nghiệm bỏ Chúa là mất tất cả, bỏ Chúa là sẽ gặp sóng dữ của cuộc đời, tôi được một người thân quen chia sẻ về thế lực của sự dữ. Chuyện là chính bản thân chị, gần nhất là mẹ của chị đã có vấn đề về thần kinh, tâm lý mà theo như người ta nói là bị "ám". Đứng trước cảnh mẹ mình bị "ám" như vậy, chị và gia đình chỉ có 1 cách, 1 thế, 1 phương án duy nhất là bám vào Chúa và cầu nguyện.
Sau biến cố để đời đó, chị khuyên với những ai chị gặp gỡ, trong đó có bản thân tôi là dù cuộc đời thế nào đi chăng nữa cũng chỉ có bám vào Chúa và Chúa mà thôi.
Quả thật, niềm tin vào Chúa nói thì dễ nhưng khi đụng chạm bế tắt, đụng chạm với những khó khăn của cuộc đời ta vẫn thường đi tìm những người có thể giúp chúng ta. Theo kiểu người đời thường dùng đó là "chạy thầy chạy thuốc". Đó là cách nhìn, cách nghĩ, cách giải quyết theo kiểu thế gian vì dù cho có những người có thế lực có thể "gỡ" cho họ những khó khăn trong cuộc sống nhưng rồi tất cả rồi cũng qua đi chứ chẳng có ai mãi mãi và chẳng có ai vĩnh cửu.
Người đời, dù họ có quyền lực đến đâu đi chăng nữa, họ có thể chia sẻ quyền lực của họ cho những người theo phe nhóm của họ để đạt được nguồn lợi nhưng khi họ đối diện với thử thách phong ba của cuộc đời chưa chắc có người cứu được họ. Có khi ở trong đỉnh của vinh quang quyền lực nhưng rồi đến một lúc nào đó cũng ra đi, những người ngày xưa vui vẻ với họ dù muốn cứu họ nhưng cũng đành chịu.
Đó là cái nhìn của quyền lực, của thế gian. Người Kitô hữu thật sự lại được mời gọi vượt qua những sóng dữ của cuộc đời để đạt được Nước Thiên Chúa chứ không phải đạt được những lợi ích của thế gian.
Và, trong hành trình về nhà Cha, mỗi người Kitô ngày mỗi ngày đều phải đối diện với sóng dữ và tìm cách thoát sóng dữ. Ắt hẳn mỗi người cũng sẽ có cách lựa chọn khi đời mình gặp phải phong ba bão táp của cuộc đời. Có khi ta cũng sẽ có suy nghĩ là bám vào Chúa để xin Chúa đến trợ giúp nhưng cũng có khi ta muốn vất Chúa xuống khỏi tàu như ngày xưa trên chuyến tàu Nôê người ta đã sẵn sàng vất Nôê xuống biển.
Chính khi gặp sóng dữ, ta sẽ bám vào ai vẫn là sự tự do lựa chọn của mỗi người. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để dù bất cứ sống trong hoàn cảnh nào của cuộc đời ta cũng chỉ bám vào Chúa mà thôi.
Xin cho ta đừng bao giờ vất Chúa ra khỏi thuyền nhưng cứ mãi xin Chúa ở lại cuộc đời của chúng ta, trên thuyền đời của chúng ta.
Chúa ơi! Chúa bớt giỡn! Chúa cứ ở mãi trên thuyền của con và cứu đời con nha Chúa!