Phép lạ cuối cùng trong loạt 3 phép lạ mặc khải uy quyền của Chúa Giêsu trên sự sống và: TN13-B1
Phép lạ cuối cùng trong loạt 3 phép lạ mặc khải uy quyền của Chúa Giêsu trên sự sống và sự chết:
- Nơi đứa con gái của ông Giairô: sự sống đã mất hẳn vì nó đã chết, ai nấy cũng xác nhận cái chết ấy vì họ đã bắt đầu khóc than kêu la ầm ĩ, người ta còn cười khi Chúa Giêsu bảo nó chưa chết.
- Nơi người phụ nữ bị băng huyết: sự sống đang mất dần (máu là biểu tượng của sự sống).
- Chúa Giêsu là chủ và là nguồn của sự sống: a/Người phụ nữ bị băng huyết chỉ cần sờ đến gấu áo Ngài thì sự sống được phục hồi; b/ Ngài gọi cô bé sống lại cách dễ dàng như đánh thức một người khỏi giấc ngủ.
B...nẩy mầm.
1. “Đứa bé có chết đâu. Nó ngủ đấy thôi”. Khi Lazarô chết, Chúa Giêsu nói “Lazarô bạn của ta đang yên giấc. Thầy đi đánh thức anh ấy dậy” (Ga 11,11). Đối với Chúa, chết chỉ là một giấc ngủ, mở mắt thức dậy là một cuộc sống thật, vĩnh cửu.
2. Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng”
Bà cầu nguyện suốt ba ngày cũng lời cầu nguyện ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói ra từ sau bàn thờ: “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện.(Góp nhặt)
Ta chỉ tin suông vào sự sống thật mai sau. Thực chất là ta vẫn còn coi trọng sự sống đời này hơn.
3. Một ông lão ở Marocco đến gặp một nhà truyền giáo để tìm con đường cứu độ, vì ông biết mình chẳng sống được bao lâu nữa. Để giúp ông, nhà truyền giáo dùng một cuốn sách, trong đó trang một màu đen tượng trưng cho tội lỗi, trang hai màu đỏ tượng trưng máu Chúa Kitô, trang 3 màu trắng chỉ lương tâm trong sạch, trang 4 màu vàng chỉ vinh quang nước trời.
Sau khi nhập đạo một ít lâu,người đó lâm cơn hấp hối. Bà vợ là người theo đạo Hồi khuyên ông kêu cầu đức Mahomet, nhưng ông không chịu, bảo Chúa của ông là Đức Kitô. Bà vợ nói: “Vậy ông hãy lấy cuốn sách nhà truyền giáo cho, mở trang 3, hy vọng Chúa sẽ chông sạch tội mà vào thiên đàng. “Ông đáp: “Không, hãy mở trang hai cho tôi.” Và ông chết trong lúc tựa đầu vào trang sách trượng trưng máu Chúa Kitô.(Góp nhặt)
4. Một vị “Giám mục nổi tiếng hiền hòa, dễ mến. Khi đuợc hỏi bí quyết, Ngài đáp bí quyết đó là:
Thứ nhất, tôi nhìn lên trời để nhớ rằng đời tôi phải tới đó. Thứ hai, tôi nhìn xuống đất để thấy phần mộ tôi sau này thật nhỏ hẹp. Thứ ba, tôi nhìn chung quanh để thấy bao người nghèo khổ mà đáng kính trọnh hơn tôi. Thứ bốn, tôi học để biết hạnh phúc thật nằm ở đâu, mọi nỗ lực của tôi sẽ chấm dứt thế nào và những than thở của tôi thật vô cớ biết bao!(Góp nhặt)
Dân xứ Ghêrasa xin Chúa rời khỏi địa hạt của họ, nhưng khi Ngài vượt biển ghé đến Cá-phác: TN13-B2
Dân xứ Ghêrasa xin Chúa rời khỏi địa hạt của họ, nhưng khi Ngài vượt biển ghé đến Cá-phác-na-um thì đã có một đám rất đông dân chúng đang chờ đón Ngài. Nơi nào cần đến Ngài, Ngài không bao giờ từ chối. Nơi nào cần Ngài cứu giúp, Ngài luôn sẵn sàng dù đức tin của họ bất toàn.
Người đầu tiên chen lấn ra khỏi đám đông đến xin cứu giúp là ông chủ nhà hội, tên là Gia-ia, ông khiêm tốn quỳ xuống trước Chúa để xin chữa cho một đứa con gái mười hai tuổi mà ông bảo là đau nặng, và sau đó người nhà báo tin là đã chết.
Chủ nhà hội là một nhân vật quan trọng có địa vị đáng kính trong dân, ông được chọn lựa giữa các trưởng lão. Ông không phải là viên chức giảng dạy, ông phụ trách giữa trật tự bên ngoài giờ thờ phượng và mời người giảng dạy. Bổn phận của ông là không để một điều gì đáng tiếc hay không xứng đáng xảy ra trong nhà hội, và coi sóc tất cả những nhà liên hệ với nhà hội. Các công việc hành chánh thiết thực trong nhà hội đều nằm trong tay ông.
Rõ ràng một người như thế chỉ đến với Chúa Giêsu lúc cùng đường. Ông phải là một trong những người chính thống coi Chúa Giêsu như một tay tà đạo nguy hiểm, và chỉ khi mọi lỗ lực khác đều thất bại, thì trong cơn tuyệt vọng ông ta mới đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu có thể nói với người này: “lúc bình thường thì anh muốn giết tôi, bây giờ việc cần đến anh lại kêu tôi cứu giúp”.
Chúa Giêsu có thể từ chối giúp một người như thế, nhưng Ngài không hề nghiêm trách. Tại đây có một người đang cần đến Ngài thí ước ao duy nhất là được giúp đỡ. Lòng tự ái kiệu hãnh bị tổn thương và tinh thần không tha thứ không hề có trong tâm trí Chúa Giêsu.
Vậy Chúa Giêsu đến nhà riêng của chủ nhà hội, tại đó Ngài thấy một cảnh rất hỗn độn vô trật tự, người Do Thái cho việc than khóc kẻ chết rất thiết yếu, họ nói: “người nào coi thường việc tham khóc cái chết của một người khôn ngoan thì đáng bị thiêu sống”. Trong một nhà có đám tang thì phải luôn có tiếng than van khóc lóc và thường do những người đàn bà khóc mướn. Thomson trong quyển “Xứ thánh và kinh thánh” đã mô tả họ như sau: “trong mỗi thành phố hay mỗi cộng đồng đều có những người đàn bà rất khéo léo trong nghề này, họ luôn luôn sẵn sàng khi được mời đến. khi có người đến phúng điếu, họ liền trở giọng than khóc đến nỗi khác viếng khó cầm được nước mắt. Họ biết lai lịch của mỗi người và tức thì cất tiếng thở than ai oán, trong đó họ kể tên của người bà con mời qua đời, và cả những người đến viếng làm động lòng mỗi người, như vậy mỗi người đều khóc cho chính người chết của mình Cuộc trình diễn đáng lẽ rất khó đó, ở đây lại xúc tiến một cách dễ dàng tự nhiên”. Tiếng than khóc không ngừng của đám người khóc mướn đang ồn ào cả nhà Gia-ia hôm đó. Ghi lại biến cố này, Mát Thêu còn cẩn thận thêm “bọn thổi sáo” nữa. Đàn bà khóc mướn rú lên những tiếng não ruột thâu kết mọi nỗi sầu, tiếng sáo thổi lên những âm thanh ma quái, đó là quang cảnh vô trật tự của một nhà tang Đông phương.
Trong bầu khí hỗn loạn và khích động như vậy, Chúa Giêsu đến với giọng đầy uy quyền, Ngài đuởi tất cả ra ngoài. Chúa Giêsu bình thản bảo em nhỏ này không chết nhưng đang ngủ, vì thế họ chế nhạo Ngài. những kẻ khóc mướn mê say việc buồn thảm đến nỗi bực tức với cả niềm hy vọng nữa! Trong Hy văn người chết thường được gọi là ngủ. Có thể Chúa Giêsu dùng chủ ngữ theo nghĩa đó. Ở Đông phương việc chết ngất thường xảy ra và người ta lo chôn cất ngay sau khi chết vì khí hậu nóng. Và vì chôn cất gấp như thế cho nên có trường hợp người bị chôn lúc xác chưa chết hẳn. Đây là một biến cố không nhấn mạnh đến khía cạnh của Chúa bằng sự chuẩn bệnh thiên thượng và Chúa Giêsu đã cứu em gái này khỏi sự chết kinh khiếp. Một điều chắc chắn là tại Cá-phác-na-um ngày hôm đó là Chúa đã cứu một em bé khỏi tay tử thần.
Có một điều thật đẹp ở đây. “Ta-li-tha-kum” là tiếng Aram, có nghĩa là: “Hỡi con gái nhỏ, hãy chỗi dậy”. Làm thế nào câu nói bằng tiếng Aram đó có thể chen vào quyển Phúc âm bằng tiếng Hy lạp này? Chỉ có một lý do duy nhất, ấy là Mác Cô đã nhận phần tài liệu này từ Phê rô. Ngay đến Phê rô, ít nhất, trong lúc sống ngoài Paléttin, ông cũng phải nói phần lớn tiếng Hy lạp. Như Phêrô đã có mặt đúng lúc xảy ra sự việc, ông vốn là một trong ba môn đệ thân cận đã được chọn để cùng với Chúa Giêsu đến đó và đã mục kích sự việc. Hẳn ông đã không bao giờ quên được giọng nói của Chúa Giêsu. trong tâm trí và kí ức ông vẫn nghe vang vọng “Ta-li-tha-kum” suốt cả cuộc đời. Tình yêu thương, vẻ dịu hiền, sự âu yếm trong câu nói ấy đã buộc chặt vào ông vì kí ức ông chỉ nghe nó bằng giọng nói của Chúa Giêsu, bằng chính lời lẽ mà Chúa Giêsu đã từng thốt ra. Câu chuyện này soi sáng cho chúng ta nhiều điều:
Trước hết về thái độ của ông chủ nhà hội.
Ông là một nhân vật rất quan trọng và khả kính nhất trong cộng đồng, nhưng khi con gái ông ngã bệnh, ông nghĩ ngay đến Chúa Giêsu.
Ông đã quên đi các thành kiến.
Chắc trước đó ông đã xem Chúa Giêsu như một kẻ xa lạ, một người giảng tà giáo rất nguy hiểm, bị các hội cấm cửa, kẻ mà bất luận một người nào coi trọng chính thống giáo cũng phải xa lánh. Nhưng ông đủ khôn ngoan từ bỏ các thành kiến của mình vào giờ cần thiết. Thật ra thành kiến là sự phiê phán, xét đón trước. Đó là một phán đoán đã hình thành trước khi khảo sát bằng chứng hay một án lệnh đưa ra vì không chịu khảo xét chứng cớ. Hầu như mỗi sự tiến bộ đều là một cuộc đấu tranh chống lại các thành kiến trước kia người ta đã nói về nó. Lúc Sir Jamer Simpson phát minh ra cách dùng Chloroform làm thuốc mê, nhất là khi sinh nở, người ta cho rằng đó là “mồi của Xatan, thoạt nhìn dường như đem lại hạnh phúc cho phụ nữ, nhưng rốt cuộc khiến họ cứng lòng và cướp mất của Thiên Chúa nhũng tiếng kêu van sân xa, nhiệt thành đáng lẽ được dâng lên cho Ngài trong cơn hoạn nạn”. Một thành kiến ngự trị trong con người sẽ đóng chặt tân trí khiến không thể nhận được nhiều phước hạnh.
Ông quên đi phẩm giá của mình.
Ong chủ nhà hội mà lại đi gieo mình dưới chân Chúa Giêsu, một ông thầy giảng đạo lang thang. Lắm khi người ta quên đi phẩm giá của mình để cứu lấy mạng sống, cứu lấy linh hồn mình. trong câu chuyện xưa được kể lại, đó chíng là trường hợp của Naaman (2V 5). Ông ta đến với Êlisê để đượ chữa khỏi bệnh phong, Đơn thuốc Elise kê ra là ông ta phải xuống sông Giođan tắm bảy lần. Thật ra cách đối xử hết sức tồi tệ với ngài đại tướng sứ Siri Êlisê cũng không đích thân truyền sứ điệp ấy mà sai đầy tớ bảo Naaman như vậy. Hơn nữa, các sông nước bên sứ Syri không tốt hơn nước của con sông Giođan bé nhỏ, đục ngầu hay sao? Đó là những ý nghĩ đầu tiên của Naaman, nhưng ông đã biết dẹp tánh kiên ngạo của mình qua một bên và bệnh phong của ông đã được sạch. Có một câu nổi tiếng kể về triết gia Diogenes. Ông bị bọn cướp bắt và đem bán làn nô lệ. Khi quan sát đám người đứng xung quanh để trả giá mình, ông ta nhìn vào một người mà “nói hãy bán tôi cho ông này đi,ông ta đang cần một ông thầy (hay là chủ). Người ấy mua ông, giao cho ông làm quản gia và dạy dỗ các con cái mình. Ông ta thường nói “ngày mà Diogenes dặt chân vào nhà tôi thậy là ngày tốt lành”. Điều đó quả đúng như vậy, nhưng nói đòi hỏi phải từ bỏ phẩm giá. Nhưng tiếc thay, nhiều người thích khư khư giữ chặt phẩm giá của mình mà đành đánh mất ân huệ.
Ông đã quên đi tính kiêu ngạo:
Việc đến xin Chúa Giêsu là người nazarét giúp mình là một nỗ lực có ý thức về sự hạ mình mà người chủ nhà hội này phải làm. Thật chẳng ai muốn mắc nợ người khác cả. Chúng ta muốn tự lo liệu lấy cho đời sống mình. Nhưng bước đầu tiên trong đời sống đạo Kitô là nhận thức mình chẳng có thể làm gì khác hơn là chịu mắc nợ Thiên Chúa.
Đến đây chúng ta bước vào điạ hạt của suy luận, vì theo thiển ý, chúng ta có thể bảo người này đã quên hết bạn bè.
Rất có thể họ sẽ chống chế đến cùng việc ông cầu cứu Chúa Giêsu. điềi khá lạ lùng là ông trực tiếp đến với Chúa Giêsu mà không sai người nhà đến. Điều đó cũng khó hiểu là ông chịu bỏ mặc con gái đang hấp hối đó một mình. Có lẽ sở dĩ ông ta phải đi vì chẳng còn ai khác chịu đi. Người nhà ông đều tỏ ra nghi ngờ và bảo ông đừng đi tìm ông Giêsu đó làm gì cho mất công. Theo tinh thần câu chuyện, nếu ông không đi tìm Chúa Giêsu để xin Ngài giúp đỡ, họ còn hài lòng hơn. người chủ nhà hội này đã bất chấp dư luận và thách đố cả những lời khuyên bảo của người nhà khi ông ta đến kêu cứu với Chúa Giêsu. nhiều người đã trở thành không ngoan nhất khi các bạn bè khôn ngoan trên đời này nghĩ họ đang hành động như người ngu dại.
Đây là một người đã quên hết mọi sự, trừ việc muốn được Chúa Giêsu cứu giúp mình, chíng vì ông đã quên hết cho nên ông đã nhớ mãi rằng Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế.
CÂU CHUYỆN NÀY NÊU LÊN NHIỀU TƯƠNG PHẢN.
a. Có sự tương phản giữa sự tuyệt vọng của những kẻ tang chế đang than khóc với niềm hy vọng của Chúa Giêsu. HỌ bảo: “còn phiền Thầy làm gì nữa. Bây giờ còn ai làm được gì nữa đâu?” Chúa Giêsu phán: “Đừng sợ, chỉ tin mà thôi”. Một bên là tiếng nói tuyệt vọng, bên kia là tiếng nói hy vọng.
b. Có sự tương phản giữa cơn bối rối vô bờ bến của những kẻ than khóc và vẻ thanh thản bình tĩnh của Chúa Giêsu. họ khóc lóc, than vãn, bứt tóc, bứt đầu, xé áo trong cơn bối rối cực độ, Chúa thì hoàn toàn bình thản, tự chủ. Tại sao có chỗ khác nhau ấy?
Do Chúa Giêsu hoàn toàn tin cây vào Thiên Chúa. Những điều bất hạnh tệ hại nhất con người có thể đối phó được cách can đảm và nhẹ nhàng khi chúng ta đối phó nó cùng với Thiên Chúa. chúng cười nhạo Chúa Giêsu vì tưởng rằng niềm vui của Ngài vô căn cứ và Ngài đã bình thản sai lầm. Nhưng sự kiện quan trọng trong đời sống Kitô hữu là điều xen như hoàn toàn bó tay đối với loài người thì Thiên Chúa làm được. Điều mà xét trên lĩnh vực con người là việc con người không hề dám mơ ước đã trở thành hạnh phúc thật khi có sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng cười nhạo Ngài, nhưng sự cười nhạo đó trở nên mối kinh ngạc sững sờ khi nhận thức được điều Thiên Chúa làm. Họ tin tưởng sai lầm. Họ nghĩ Chúa Giêsu thất bại, đứa bé vĩnh viễn ra đi. Bây giờ họ sửng sốt khi Chúa Giêsu cứu sống nó, nó bước đi ngay trước mắt họ. Chẳng có gì bất khả đối diện, chẳng có gì không thể chinh phục trong tình yêu của Thiên Chúa được thể hiệc trong Chúa Cứu Thế Giêsu.
Bác sĩ George Lewell đã nhiều năm làm nhà truyền gíao y khoa cho phái tin lành Southern: TN13-B3
Bác sĩ George Lewell đã nhiều năm làm nhà truyền gíao y khoa cho phái tin lành Southern Baptist ở Trung Quốc. Truyền giáo y khoa là một bác sĩ, tá viên hay một người nào đó được huấn luyện để đầu tư thời gian, tài năng vào việc chữa trị đau đớn thể xác như một phương thế để đem linh hồn người ta về cho đức Kitô.
Bác sĩ Lewell nói về một bà lớn tuổi, bà được đem vào bệnh viện Stout Memorial ở Quảng Đông, mà ông là bác sĩ giải phẫu trưởng. Một ai đó đã nói với bà bệnh nhân rằng: Đức Giêsu là bác sĩ sẽ chữa lành bà, nên khi bà thấy bác sĩ trong bộ đồ trắng cúi xuống trên bà, bà nhìn lên bác sĩ và hỏi: “Ông là Giêsu ?”
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô kể rằng: “Một người đàn bà bị hoại huyết, đã 12 năm. Nàng đã chạy chữa nhiều thầy thuốc và tốn kém hết tiền bạc mà không giảm bớt, nhưng còn trầm trọng hơn. Mặc dù đám đông chen lấn nhau quanh Chúa Giêsu, nàng cũng ráng chen vào gần, với tay đụng tới gấu áo của Chúa, với hy vọng được chữa khỏi. Đức Giêsu biết có sức mạnh từ Người xuất ra. Người quay về phiá người đàn bà mắc bệnh và nói: “Hỡi con, đức tin của con đã làm cho con tất cả. Con về bình an và khỏi bệnh”.
Người đàn bà này tượng trưng cho chúng ta, những người đã một vài lần phải đi bác sĩ, hay ít nhất chúng ta cũng dẫn một người thân thương, một người bạn đi bác sĩ.
Như những người theo Chúa Kitô, bạn và tôi cũng có lợi và sự nâng đỡ đặc biệt khi phải cầu cứu bác sĩ hay thầy thuốc. Khi bạn hay một người thân yêu, hoặc người bạn phải đến bac sĩ, bạn hãy tín nhiệm, cộng tác và tin cậy họ như một dụng cụ của Chúa. Một bác sĩ giỏi, tài ba, cũng chỉ có giới hạn. Vì lý do đó, khi bạn phải tìm một bác sĩ, bạn phải đến với Chúa trước. Hơn nữa, trên mọi khả năng, tài khéo của một bác sĩ giỏi nhất. Đức Kitô vẫn còn chữa lành một cách mầu nhiệm.
Khi bạn phải đi bác sĩ, bạn nhớ dâng lời cầu nguyện lên đức Kitô đấng chữa lành để bạn chọn đúng một bác sĩ. Để nhờ ơn Chúa, bác sĩ định bệnh và cho bạn liều thuốc hiệu nghiệm. Ngay cả trước khi bạn phải đi bác sĩ, bạn nhớ cám ơn Chúa về sức khỏe hàng ngày của bạn. Thường thường, người ta chỉ thấy sức khỏe là quí giá sau khi đã mất nó.
Không như người phụ nữ trong bài Tin Mừng hôm nay. Bà đến phải các thầy thuốc trước, chỉ sau cùng, thất vọng, bà buộc phải tìm đến và đụng tới đức Kitô. Bạn và tôi sẽ đến với đức Kitô trước và trong khi được bác sĩ chữa trị. Chúng ta tiếp xúc với đức Kitô trong mỗi phép bí tích, nhất là trong thánh lễ và rước lễ. chúng ta không như những người tin cà dở, họ chối bỏ mọi phương pháp trị liệu y khoa. Trái lại chúng ta dùng người mọi phương pháp y học nhưng không quên chạy đến đấng có thể chữa lành mọi bệnh tật là đức Giêsu Kitô, Chúa mọi thiện hảo, nhất là Chúa mọi sức khỏe linh hồn và thể xác.
Ước gì chúng ta có được niềm tin của người phụ nữ trong bài Tin Mừng. Ước gì đức Giêsu khen thưởng niềm tin của chúng ta bằng ơn trợ giúp nhân từ và quyền năng của Người.
Tôi trông đợi kẻ chết sống lại. Đó là lời tuyên xưng cuối cùng của bản kinh Tin Kính, đó cũng: TN13-B4
Tôi trông đợi kẻ chết sống lại.
Đó là lời tuyên xưng cuối cùng của bản kinh Tin Kính, đó cũng là điều chúng ta cùng nhau chia sẻ giờ đây.
Qua hình ảnh người đàn bà mắc bệnh loạn huyết được chữa lành và hình ảnh đứa con gái của ông Giairô được sống lại, Giáo hội như muốn nói với chúng ta rằng:
- Người đàn bà chỉ cần đụng tới gấu áo của Ngài là đã được Ngài chữa lành, thì vào ngày sau hết mọi bệnh tật, mọi đau khổ của chúng ta cũng sẽ biến mất. Hơn thế nữa Chúa chỉ cần phán một lời, đứa con gái đã chết liền sống lại. Cũng vậy, trong ngày sau cùng, mọi kẻ chết trong mồ sẽ được chỗi dậy và mang lấy một bộ mặt mới.
Nếu một ngày nào đó ra viếng nghĩa địa, chúng ta có thể nghĩ rằng:
- Phải chăng cái chết chỉ là một giấc ngủ dài. Tới một lúc nào đó họ sẽ chỗi dậy.
Thế nhưng chúng ta sẽ sống lại như thế nào ? Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại, đã hé mở cho chúng ta thấy điều ấy. Thánh nhân viết như sau:
- Tất cả chúng ta, những Kitô hữu, chúng ta không thuộc về thế gian, nhưng chúng ta là những người công dân nước trời, và nước trời mới đích thực là quê hương của chúng ta.
Mặc dầu chân chúng ta đạp đất, nhưng đầu chúng ta phải đội trời. Hiện thời chúng ta đang mang lấy một thân xác đau thương, làm mục tiêu cho bệnh tật, đau khổ, tội lỗi và chết chóc. Nhưng tất cả những sự ấy chẳng kéo dài được bao lâu. Chúng ta đang trông chờ ngày Chúa trở lại để biến đổi thân xác tầm thường của chúng ta trở nên một thân xác quang vinh, giống như thân xác Phục sinh của Chúa, không còn đau khổ, không còn đổi thay, không còn chết chóc, nhưng sẽ trở nên thánh thiện vẹn toàn. Để được như vậy, thì ngay từ bây giờ, chúng ta phải ra sức hành động.
Người ta thường nói:
- Sống sao thì chết vậy.
Niềm vinh quang mai hậu lệ thuộc vào cuộc sống hiện tại của chúng ta. Nghĩa là cái tiến trình phục sinh, cái tiến trình vinh quang hóa thân xác phàm trần của chúng ta phải được bắt đầu ngay từ bây giờ. Như một con ngài phải dần dần cắn chiếc kén thì mới có thể hóa kiếp thành một con bướm xinh đẹp.
Nếu như đời sau, chúng ta không còn đau khổ, thì ngay từ giờ, chúng ta phải biết làm chủ những đòi hỏi của giác quan và biết thánh hóa những khổ đau gặp phải.
Nếu như đời sau, chúng ta không còn lệ thuộc vào vật chất, thì ngay từ giờ chúng ta phải biết siêu thoát với tiền bạc, gắn bó nhiệt thành với điều thiện.
Nếu như đời sau, chúng ta tỏa sẽ chiếu sáng bằng một vẻ đẹp tươi trẻ và thánh thiện, thì ngay từ giờ chúng ta phải biết trang điểm cho tâm hồn bằng những nhân đức.
Nói tóm lại, ngay từ giờ chúng ta phải biết uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi khuyết điểm và tẩy trừ tội lỗi ra khỏi cuộc sống, đồng thời chất đầy trên đôi tay chúng ta những công nghiệp là những hành động bác ái yêu thương.
Một trong những phương tiện giúp chúng ta có đủ nghị lực thực hiện những điều ấy, đó là Bí tích Thánh Thể, bởi vì khi rước lễ chúng ta không phải chỉ đụng tới gấu áo Chúa mà còn được tiếp xúc với chính thân xác vinh quang của Ngài.
Hơn nữa, chính Chúa cũng đã phán hứa với chúng ta:
- Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
Có sống như thế và có chuẩn bị như thế, thì giờ chết mới là giờ chúng ta được sinh ra cho hạnh phúc vĩnh cửu, mới là giờ chúng ta được Thiên Chúa đón nhận vào quê hương nước trời trong vòng tay yêu thương của Ngài.
Giữa đám đông chen lấn chung quanh Đức Giêsu, có những người đụng vào áo Ngài. Nhưng: TN13-B5
Giữa đám đông chen lấn chung quanh Đức Giêsu, có những người đụng vào áo Ngài. Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Đó là cái đụng của một người phụ nữ, mười hai năm mắc bệnh băng huyết, mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi, mười hai năm bị coi là ô nhơ: không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Đền thờ. Người phụ nữ đụng vào áo Đức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ. "Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi." Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
Trong đời sống Kitô hữu, chúng ta đã nhiều lần đụng vào Chúa. Đụng đến Lời Ngài, đụng đến Mình Máu Thánh Ngài. Đụng bằng tay, bằng miệng, bằng rung động của trái tim.
Có những lần đụng chạm hời hợt vì thói quen, không để lại một âm vang nào, không đem lại một biến đổi nào trong cuộc sống. Nhưng cũng có lần, như người phụ nữ, ta run rẩy đụng vào Ngài, dù biết mình ô nhơ tội lỗi. Hay nói đúng hơn, vì biết mình ô nhơ tội lỗi mà ta cả dám đụng vào Ngài. Đụng vào Đấng Thánh để được nên trong sạch.
Chúng ta cần đụng đến Đức Giêsu mỗi ngày và chúng ta cũng cần được Ngài đụng đến.
Ông trưởng hội đường xin Ngài đặt tay trên con mình. Ngài đã cầm tay cô bé để kéo cô ra khỏi cái chết.
Như con gái của ông trưởng hội đường, chúng ta cần được Chúa cầm tay và bảo: "Hãy chỗi dậy."
Chỗi dậy khỏi bệnh tật và cái chết. Chỗi dậy và đi lại, ăn uống như người bình thường. Chỗi dậy và sống vui tươi, tự do như con cái Thiên Chúa.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin.
Đức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con" (c.34).
Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Gia-ia: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi" (c.36).
Cần có lòng tin khi đụng chạm Chúa Giêsu. Cần nhạy cảm để nhận ra cái đụng nhẹ của Ngài.
Khi đụng vào Thân Mình Ngài nơi bí tích Thánh Thể, ta được mời gọi đụng đến nỗi khổ của anh em, là những chi thể của Nhiệm Thể Ngài.
Khi đụng đến Lời Chúa nơi những trang Tin Mừng, ta được mời gọi chạm đến Lời Chúa nơi mọi biến cố.
Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn một lần thôi, đời bạn sẽ hoàn toàn đổi mới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có câu nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn?
Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và bạn đụng vào Chúa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Dân làng Nazareth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
Hai người hưởng phép lạ hôm nay đều được đụng chạm đến Chúa. Người đàn bà bị bệnh băng: TN13-B6 FB
Hai người hưởng phép lạ hôm nay đều được đụng chạm đến Chúa.
Người đàn bà bị bệnh băng huyết lén lút sờ vào gấu áo Người. Vừa đụng chạm vào áo Người, lập tức bà thấy có biến chuyển: bệnh tật bao năm hành hạ bà, làm cho bà tốn biết bao công sức tiền của chạy chữa tưởng như vô vọng, nay bỗng tiêu tan trong phút chốc.
Em bé không đụng chạm đến Chúa vì em đã chết. Nhưng chính Chúa đụng chạm đến em. Chúa cầm tay dắt em chỗi dậy. Cuộc tiếp xúc với Chúa đã gây nên những biến đổi mãnh liệt nơi thân xác. Căn bệnh bị xua trừ. Thân xác khỏe mạnh lại. Người phụ nữ được sinh hoạt bình thường với xã hội. Thần chết bị trục xuất. Sự sống trở lại. Em bé được giải thoát khỏi thế giới tử thần, trở về với thế giới sự sống.
Nhưng những biến đổi trong tâm hồn còn mãnh liệt hơn. Khi Đức Giêsu gọi người phụ nữ đến để khen ngợi và khích lệ chị, tâm hồn chị hẳn phải rộn ràng hạnh phúc. Với thái độ khoan dung nhân hậu, Đức Giêsu đã biến đổi sâu xa tâm hồn chị. Từ mặc cảm là người ô uế, bị xã hội khai trừ, chị thấy mình được đối xử một cách trân trọng. Từ thân phận một người lén lút như kẻ ăn trộm phép lạ, chị trở thành người được Đức Giêsu công khai khen ngợi. Từ một người xa lạ, chị trở thành người thân thiết của Đức Giêsu. Chắc chắn, chị sẽ chẳng bao giờ quên được những lời nói và thái độ của Đức Giêsu. Những lời nói, những thái độ ấy đã đem lại cho chị niềm tin, niềm bình an và lòng tự tín.
Còn em bé, khi trở lại sự sống, người đầu tiên mà em nhìn thấy là Đức Giêsu. Hơi ấm đầu tiên em cảm nhận được từ bàn tay Người đã làm em thấy yên tâm. Ánh mắt hiền từ của Người cho em niềm tin yêu phó thác. Và thái độ của Người thật như một người cha hiền. Việc đầu tiên Người bảo mọi người là cho em bé ăn. Thật là một sự quan tâm ân cần. Ơn lớn nhất Người ban là trả lại sự sống cho em bé. Em đã được cứu thoát khỏi bàn tay tử thần. Nhưng chính ánh mắt, cử chỉ và lời nói đầy tình yêu thương đã ghi khắc trong tâm hồn em bé một hình ảnh rất đẹp và rất sâu đậm về Người. Trọn đời em sẽ ghi nhớ mãi hình ảnh Người. Trọn đời em sẽ biết ơn Người. Trọn đời em sẽ sống xứng đáng với tình yêu thương mà em đã cảm nhận được.
Người phụ nữ và em bé đã được Đức Giêsu thương yêu vì họ đã có những phẩm chất đáng quí.
Phẩm chất thứ nhất mà họ có, đó là đức tin mạnh mẽ. Ông trưởng hội đường tin tưởng mãnh liệt nên đã đến tìm Đức Giêsu. Hội đường Do Thái vốn không ủng hộ Đức Giêsu, trái lại còn chống đối và tìm cách giết Người. Thế mà ông trưởng hội đường này vẫn đến cầu cứu Người, chứng tỏ lòng tin của ông mãnh liệt biết bao. Chính Đức Giêsu đã bảo ông: “Chỉ cần tin thôi !”. Còn người phụ nữ tuy sợ hãi không dám nói với Người, nhưng với lòng tin tưởng mãnh liệt đã sờ vào gấu áo Người. Đức Giêsu đã khen ngợi đức tin của họ: “Lòng tin của con đã chữa con”. Đức tin mãnh liệt như thế đã xứng đáng được Chúa thưởng công.
Phẩm chất thứ hai mà họ có, đó là đức khiêm nhường thẳm sâu. Sự khiêm nhường được biểu lộ không những qua sự nhận biết thân phận thiếu thốn, bất lực của bản thân, mà còn diễn tả qua thái độ bên ngoài. “Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp lạy dưới chân Người”. Sau khi bị phát giác, người phụ nữ cũng đến phủ phục dưới chân Người và tỏ bày tất cả mọi sự. Chính thái độ khiêm nhường ấy đã được Chúa thương.
Hằng ngày có nhiều lần ta đụng chạm đến Chúa hoặc Chúa đụng chạm đến ta. Ta đụng chạm đến Chúa trong khi đọc Sách Thánh. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta đụng chạm tới Chúa khi ta lãnh nhận các bí tích. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta tiếp xúc với tha nhân, đặc biệt những anh em bệnh tật, nghèo túng, bị bỏ rơi. Nhưng những đụng chạm ấy dường như chẳng để lại dấu ấn nào trong ta. Điển hình là khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta trực tiếp đụng đến Chúa. Thế nhưng vì ta đã đụng đến Chúa cách hời hợt, máy móc, theo thói quen, thiếu lòng tin, thiếu tình yêu, nên đời sống ta chưa biến đổi.
Hôm nay, ta hãy noi gương ông trưởng hội đường và người phụ nữ bị bệnh băng huyết, đến với Chúa bằng một đức tin mãnh liệt và bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Với đức tin và sự khiêm nhường, ta sẽ cảm nghiệm được Chúa. Chỉ cần một lần nếm cảm được tình yêu Chúa, được thấy ánh mắt nhân từ của Chúa, được lắng nghe những lời êm dịu, khích lệ của Chúa, ta sẽ chẳng còn muốn làm gì khác hơn là đền đáp tình yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con một đức tin mạnh mẽ và một lòng khiêm nhường thẳm sâu. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có câu nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn? 2) Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và bạn đụng vào Chúa? 3) Có lần nào bạn đã cảm nghiệm được Chúa đụng chạm vào bạn chưa?
Trong một trình thuật dài, đôi khi thánh Marcô xen vào một đoạn ngắn, theo lối hành văn riêng: TN13-B7
Trong một trình thuật dài, đôi khi thánh Marcô xen vào một đoạn ngắn, theo lối hành văn riêng của ngài, để nhấn mạnh đến một điểm chung, Chúa Giêsu là Đấng chữa lành.
Chúa Giêsu hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi”. Nhưng người phụ nữ khốn khổ vẫn im lặng, bà đang bối rối. Căn bệnh của bà làm bà trở nên nhơ uế, không được phép đụng đến bất cứ ai. Phải chăng Chúa Giêsu muốn tố giác bà đã chạm đến áo của Ngài ? Dù sợ hãi, bà tin quyền năng chữa lành của Chúa Giêsu đã ban cho bà một sức sống mới. Bà cảm thấy trong thân xác mình quyền năng chữa lành của Chúa, và sự nhơ uế của bà theo luật trong sách Lêvi 15: 25 không còn nữa. Đức tin của bà vào Chúa Giêsu đã làm cho luật trở nên lỗi thời. Chúa Giêsu khẳng định điều này khi Người nói: “Này con, đức tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”.
Trung thành với lối hành văn của mình, thánh Marcô trở lại lời cầu xin của ông Giairô, một vị trưởng hội đường, để nhấn mạnh đến “đức tin vào quyền năng chữa lành của Chúa”. Ông trưởng hội đường cầu xin Chúa cứu giúp. Ông muốn con gái được Chúa chữa lành.
Nhưng trước hết Chúa Giêsu đã chữa lành cho ông trưởng hội đường. Người bảo ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Rồi Người đến với đứa bé, cầm lấy tay nó và nói: “Này bé, Thầy truyền cho con trỗi dậy đi”. Lập tức, con bé đứng dậy và đi lại được. Nó đã được sống lại nhờ bàn tay của Chúa Giêsu, Đấng cứu chữa.
Rõ ràng Chúa Giêsu cho thấy “nỗi sợ” là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Chúa. Nhưng chúng ta vượt thắng nỗi sợ nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu, Đấng chữa lành. Một khi nỗi sợ được thay thế bằng lòng tin vào Chúa Giêsu, chúng ta sẽ cảm nghiệm được sự chữa lành của Chúa, và sẽ được sống trong bình an.
Lạy Chúa, xin Chúa hãy nói với con một lần nữa: “Lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy đi bình an”.
Bài Tin Mừng là hai phép lạ Chúa Giêsu đã làm gần nhau: phép lạ cho một phụ nữ được khỏi: TN13-B8
Bài Tin Mừng là hai phép lạ Chúa Giêsu đã làm gần nhau: phép lạ cho một phụ nữ được khỏi bệnh băng huyết, và phép lạ cho con gái ông trưởng hội đường Gia-ia được sống lại. Chúng ta thấy hai phép lạ như có một số điểm tương đồng: người phụ nữ mắc bệnh đã 12 năm, bằng với số tuổi của em bé kia, vì Tin Mừng cho biết khi em chết em được 12 tuổi. Cả hai phép lạ xảy ra đều do hành động thể lý là chạm tay vào tua áo Chúa và Chúa cầm tay em bé đã chết. Chủ đề của hai phép lạ này là ơn Chúa ban qua lòng tin.
Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhận lời kêu xin của ông Gia-ia đi chữa bệnh cho con gái ông. Dân chúng đông đảo đi theo có vẻ háo hức và chen lấn, các môn đệ cùng đi bên Chúa. Giữa lúc ấy các môn đệ nhận ra một người đến quì trước Thầy mình, nhưng lúc ấy phép lạ đã xảy ra rồi, đó là một phụ nữ đầy lòng tin đã được Chúa cho khỏi bệnh. Thực vậy, giữa đám đông dân chúng dày đặc, phụ nữ này nhận ra một vị Thiên Chúa ẩn dật nhưng đầy quyền năng, bà không dám công khai trực tiếp xin Chúa trước mặt mọi người, có thể là vì xấu hổ hoặc ngại ngùng. Ngoài ra, bà cũng biết luật Lêvi cấm ngặt về loại bệnh này. Đối với người Do Thái, băng huyết là một bệnh được liệt vào số các chứng bệnh nan y và ô nhục, làm cho người bệnh ra dơ bẩn trước mặt Chúa và cộng đồng. Hơn nữa, chứng bệnh này còn làm cho người khác lây sự dơ bẩn của bệnh nhân, tức là họ đụng chạm đến ai hay ai đụng chạm đến họ đều trở thành dơ bẩn và phải dâng lễ tẩy uế mới được sạch.
Vì thế, bà thẹn thùng, e lệ không dám đến trước mặt Chúa xin Chúa chữa, nhưng bà có một lòng tin chắc chắn vào sức mạnh uy quyền toàn năng của Chúa. Bà tự nhủ: “Không cần phải ra mặt, chỉ cần đụng chạm vào tua áo khoác ngoài của Ngài thôi thì chắc chắn sẽ được khỏi”. Chúng ta thấy bà thật khiêm tốn, có thể so sánh với người đàn bà xứ Canaan, hoặc như người trộm lành. Vì thế, bất chấp tất cả những luật lệ phiền phức và nghiêm ngặt, bà lén đến sau lưng Chúa, để thực hiện ý định rút ơn Chúa, và kết quả bà đã được toại nguyện. Bà đã thể hiện đức tin một cách sâu sắc, như chính Chúa đã xác nhận và thưởng công cho lòng tin của bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
Phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm là nơi nhà ông trưởng hội đường Gia-ia. Ông có đứa con gái mắc bệnh nặng thập tử nhất sinh, ông đến xin Chúa cứu chữa con ông. Lòng tin mạnh mẽ của ông được bộc lộ ra qua tất cả con người ông, nghĩa là qua các cử chỉ cũng như lời yêu cầu của ông. Thực vậy, khi đến trước mặt Chúa, ông quì sụp dưới chân Chúa, đây là một cử chỉ dành riêng cho Thiên Chúa Giavê trong Cựu ước, cử chỉ này chứng tỏ ông tin và nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai. Cử chỉ thứ hai là ông xin Chúa đến đặt tay trên con ông, cử chỉ này về sau được Giáo hội dùng vào bí tích Thêm sức. Rồi trong lời kêu xin, chúng ta cũng thấy bộc lộ lòng tin vững chắc của ông. Ông tin chắc chắn chứ không hồ nghi như người cha có đứa con bị quỷ ám từ lúc còn nhỏ. Người cha này thưa với Chúa một cách ngập ngừng: “Nếu Thầy có thể làm gì được thì xin Thầy giúp đỡ chúng tôi”. Nghe thế Chúa kêu lên: “Sao lại nói nếu có thể, tất cả mọi sự đều có thể đối với người tin tưởng”. Còn ông Gia-ia thưa Chúa: “Thưa Thầy, con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”. Chúng ta thấy ông không hồ nghi gì, ông tin chắc chắn sự việc sẽ xảy ra như thế, nếu Chúa muốn, vì Ngài là Chúa sự sống và sự sống lại. Ngài động đến đâu thì sức mạnh và sự sống lan tràn tới đó. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.
Niềm tin, lòng tin hay đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất, nó là một cái gì có thật, nhưng thuộc về tinh thần. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Gia-ia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi lễ, thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa.
Vì thế, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Gia-ia, hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ trên đây, bà không cần kêu xin nài nẵng như ông Gia-ia, bà chỉ có một thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế.
Chứng bệnh loạn huyết mười hai năm của người đàn bà, cái chết của đứa con gái yêu dấu, tất: TN13-B9
Chứng bệnh loạn huyết mười hai năm của người đàn bà, cái chết của đứa con gái yêu dấu, tất cả đều đem lại những khổ đau. Vậy thì khổ đau có ý nghĩa gì.
Giáo lý nhà Phật đã gọi đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là như một cánh bèo trôi dạt trên đó. Đồng thời bốn nguyên nhân chính sinh ra khổ đau, đó là: sinh, bệnh,lão, tử.
Trong kinh lạy Nữ Vương, chúng ta cũng thường đọc:
- Chúng con ở nơi khóc lóc than thở.
Vì thế nhiều người đã có lý khi nói:
- Đời là một thung lũng nước mắt. Bông hồng nào mà chẳng có gai, cuộc đời nào mà chẳng có những đắng cai của nó…
Hơn thế nữa, nhìn vào cách đối sử của Thiên Chúa, chúng ta thấy có một sự khác biệt căn bản.
Đúng thế, khi yêu thương ai chúng ta thường trao tặng cho họ những cánh hồng. Thiên Chúa thì trái lại, khi yêu thương ai, Ngài thường gửi đến cho họ những gai nhọn.
Điều này đã được chứng thực nơi con người Đức Kitô. Thực vậy, chúng ta có thể tự hỏi: Ai là người được Chúa Cha yêu dấu hơn cả nếu không phải là Đức Kitô. Đồng thời ai là người đã phải chịu nhiều khổ đau hơn cả, nếu không phải là Đức Kitô. Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới một kết luận, đó là những người muốn bước theo Chúa, thì cũng phải vác thập giá và chấp nhận khổ đau.
Người tín hữu chấp nhận khổ đau sẽ là một hình ảnh trung thực nhất của Đức Kitô. Trái lại, người tín hữu chối từ đau khổ, thì chỉ là một bức vẽ tồi, làm sai lạc hình ảnh của Ngài mà thôi.
Chúng ta phải xác tín rằng:
- Chính khi đau khổ lại là lúc chúng ta được Chúa yêu thương, lại là lúc chúng ta gần gũi Chúa hơn cả.
Trái lại, khi gặp được may mắn và hạnh phúc, lại là lúc chúng ta phải đề cao cảnh giác, bởi vì rất có thể chúng ta đang xa lìa tình Chúa và đang chôn vùi tình người bằng những hành động bất công và gian tham của mình.
Hơn thế nữa, những giây phút hạnh phúc còn là những giây phút đáng sợ, còn là những giây phút ru ngủ chúng ta.
Trong đêm tối của đau khổ, chúng ta dễ dàng nhìn ra những ánh sao. Còn trong ngày nắng chói chang, những ánh sao ấy bị lấn át và biến mất.
Thánh Gioan đã định nghĩa:
- Thiên Chúa là tình yêu.
Và tình yêu dưới một góc cạnh nào đó cũng có nghĩa là đau khổ. Vì thế, đạo của Thiên Chúa phải là đạo của tình yêu và cũng phải là đạo của đau khổ. Người tín hữu sẽ không thể sống đạo nếu không chấp nhận thập giá.
Vậy thì những đau khổ sẽ đem lại lợi ích gì ?
Tôi xin thưa lợi ích thứ nhất đó là cộng tác với Đức Kitô trong công cuộc cứu độ.
Thực vậy, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu không phải là đã chấm dứt, trái lại nó còn đang được tiếp nối nơi những chi thể của Ngài là các tín hữu như lời thánh Phaolô đã viết:
- Tôi hoàn tất những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Đức Kitô nơi thân xác tôi.
Những khổ đau chúng ta chấp nhận sẽ trở nên là một góp phần nhỏ bé vào thập giá Đức Kitô, để đền bù tội lỗi của bản thân cũng như của những người chung quanh.
Lợi ích thứ hai đó là thanh luyện tâm hồn chúng ta.
Thực vậy, có một câu danh ngôn đã bảo:
- Con người là một anh học trò, còn đau khổ sẽ là một vị thầy tuyệt vời nhất.
Thoạt nhìn qua, đau khổ là một sự dữ khiến cho chúng ta tuyệt vọng và muốn chống lại Thiên Chúa. Thế nhưng, dưới con mắt đức tin, đau khổ sẽ thanh luyện tâm hồn, củng cố các nhân đức, như tục ngữ đã bảo:
- Lửa thử vàng, gian nan thử đức.
Chính nhờ những đau khổ, cuộc đời chúng ta mới sẽ đem lại những hoa trái:
- Hạt lúa mì gieo xuống đất, phải mục nát, thì mới sinh nhiều bông hạt.
Đau khổ là như một lưỡi kéo cắt tỉa cuộc đời, để cuộc đời được sai trái. Đau khổ là như một nhát búa đập xuống trên con người, để con người chúng ta trở nên một tác phẩm nghệ thuật trước mặt Thiên Chúa.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, đau khổ sẽ trở thành những sợi chỉ vàng, kết nên cuộc đời chúng ta.
Trong những giờ phút đen tối, chúng ta hãy ngước nhìn thập giá Đức Kitô, vì chính tại thánh giá Đức Kitô đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Khi chúng ta muốn xin ai hay thỉnh cầu ai điều gì, thì hoặc là chúng ta ưa thích điều đó, hoặc: TN13-B10
Khi chúng ta muốn xin ai hay thỉnh cầu ai điều gì, thì hoặc là chúng ta ưa thích điều đó, hoặc là chúng ta cảm thấy cần thiết điều đó, và chúng ta tin tưởng người kia sẽ đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. Người đàn bà mắc bệnh băng huyết và người cha có đứa con gái bị bệnh nặng gần chết đã làm như thế. Cả hai đã tin Chúa Giêsu nên đến xin Chúa cứu chữa. Chính vì có lòng tin mạnh mẽ mà cả hai đã được hưởng phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng làm sao chúng ta thấy được hay biết được lòng tin của họ? Vì nó đã được biểu lộ ra qua thái độ, cử chỉ, lời nói và hành động của họ.
Chúng ta thấy người đàn bà này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà trước mặt mọi người. Bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa”. Thế là bất chấp tất cả những luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe, bà lén lút chen tới sau lưng Chúa, để thực hiện ý định rút ơn Chúa, và kết quả bà đã được toại nguyện. Đó, chúng ta thấy được, biết được đức tin của bà qua việc làm đầy tin tưởng của bà. Chính Chúa Giêsu đã xác nhận và ban thưởng cho lòng tin ấy: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
Trường hợp của ông trưởng hội đường Giaia cũng thế. Lòng tin của ông được biểu lộ qua tất cả con người của ông, nghĩa là qua cử chỉ, thái độ và lời nói của ông: Khi đến trước mặt Chúa Giêsu, ông đã quì sụp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Phải tin Chúa Giêsu là ai, phải tin Chúa có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ, thái độ và lời kêu xin như thế. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa Giêsu đã nhận lời đến nhà ông và làm phép lạ cho con gái ông sống lại.
Chúng ta hôm nay đã có đức tin, chúng ta đã tin Chúa Giêsu. Chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải sống niềm tin đó. Sống niềm tin có nghĩa là chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy trong đời sống hằng ngày. Đó là cách thẩm định đức tin của chúng ta. Niềm tin ấy, như Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: “Phải được biểu lộ và nuôi dưỡng, dù chỉ bằng một nụ cười hay một ánh mắt cảm thông”.
Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội. Mẹ Têrêxa nói với ông: “Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin”. Người phóng viên hỏi: “Tôi phải làm gì để có đức tin?”. Mẹ Têrêxa đáp: “Ông hãy cầu nguyện”. Ông chống chế: “Tôi không biết và không thể cầu nguyện”. Mẹ Têrêxa dịu dàng nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta”.
Đúng thế, những hành động cụ thể thường hùng hồn hơn, có khả năng thuyết phục hơn những lời nói suông. Những thực hiện trước mắt có giá trị hơn những dự án viễn vông. Đó là cách thẩm định thông thường trong cuộc sống của chúng ta. Những người chung quanh có lẽ cũng đánh giá niềm tin của chúng ta khi nhìn vào cách sống đạo của chúng ta, nghĩa là niềm tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể.
Vì thế, chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô, tin vào bản thân Ngài. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm, để mọi người có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.
Người đàn bà đến với Đức Giêsu đã tuyệt vọng, vì mười hai năm nay, bà chịu đau khổ vì một: TN13-B11
Người đàn bà đến với Đức Giêsu đã tuyệt vọng, vì mười hai năm nay, bà chịu đau khổ vì một chứng bệnh và những lần chữa trị đau đớn và vô hiệu trong đôi tay của nhiều bác sĩ. Bà cũng đã trả tiền chữa trị cho đến những đồng bạc sau cùng. Bà đã tận dụng hết mọi khả năng chữa trị của con người.
Rồi bà nghe nói về Đức Giêsu. Bà tin rằng chỉ cần sờ vào áo của Người, bà sẽ khỏi bệnh (thời đó, người ta tin rằng chỉ cần sờ vào áo của một người thánh thiện sẽ được chữa lành). Bà tỏ quyết tâm khi chen qua đám đông. Tuy nhiên, bà không tìm cách gặp gỡ Đức Giêsu. Điều bà tìm là một sự “sờ lén”, “sờ vội”.
Thường thì, chúng ta cũng chọn cách “sờ lén” cho dù chúng ta biết rằng điều đó không làm chúng ta thỏa mãn và chúng ta bị đánh lừa. Chúng ta đi lễ vội vàng và xưng tội vội vàng (kể tội, đọc kinh ăn năn tội, nhận ơn tha thứ và chuồn!) Cũng thế khi đi khám bệnh – nhận toa thuốc và chuồn.
Vả lại, chúng ta không thích bị đối xử một cách hấp tấp và vô danh. Vậy tại sao chúng ta lại chọn cách “sờ vội” ? Bởi vì trong chúng ta, phần nào có sự e thẹn muốn tránh một sự gặp gỡ riêng tư. Tại sao lại thế? Bởi vì chúng ta biết rằng điều đó là đòi hỏi hơi nhiều. Chúng ta muốn đạt được điều đó một cách mau lẹ và phiền toái vất vả càng ít càng tốt.
Niềm tin của người đàn bà được tưởng thưởng. Bà mau chóng được chữa lành. Tuy nhiên ngay khi bà định lẩn vào đám đông vô danh. Đức Giêsu đã tìm thấy bà. Người không ưa chuộng cách chữa bệnh ấy. Một vài người chữa bệnh giản lược đến mức tối thiểu sự tiếp xúc nhân bản. Nhưng Đức Giêsu thì không. Người luôn luôn đối xử với con người trên một bình diện cá nhân. Mặt khác, Đức Giêsu biết có năng lực từ Người phát ra, chứng tỏ có người sờ vào áo Người để được chữa bệnh và lấy năng lực đó từ Người.
Người khẳng định sự gặp gỡ mặt đối mặt với bà. Người không nghĩ đến mình nhưng nghĩ đến người đàn bà. Người biết sau đó bà sẽ lành bệnh; Người biết bà không những cần được chữa lành về thể chất và cả về mặt tâm lý và tinh thần. Sau bấy nhiêu năm bệnh tật bà cảm thấy mình xấu xa và Thiên Chúa cũng xa lánh bà.
Vì thế Người đã gặp bà. Trong cuộc gặp gỡ này, chúng ta thấy sự nhạy cảm và nhã nhặn của Đức Giêsu. Một người đàn bà bị băng huyết bị coi là ô uế về mặt nghi thức. Bà không được phép ở trong đám đông và khi sờ vào Đức Giêsu, bà đã làm cho Người cũng trở nên ô uế về mặt nghi thức, những người khác sẽ cho là thế. Đức Giêsu không quở trách bà về thái độ “đáng trách” ấy. Trái lại, Người khen ngợi đức tin của bà. Và đầy lòng yêu thương Người nói với bà: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”.
Nếu chỉ sờ vào Người không, chưa đủ. Những người khác cũng sờ vào Người. Bà sờ vào Người với đức tin, đức tin làm cho một người đàn bà nghèo nàn, nhút nhát, bệnh tật, hạ tiện có khả năng nhận ra quyền năng của Đức Giêsu, và làm cho quyền năng ấy tỏ hiện với một cái sờ.
Đức Giêsu muốn bà hiểu rằng Người hạnh phúc cho bà. Khi nói với bà “Lòng tin của con đã cứu chữa con”, Người muốn bà hiểu rằng bà có góp phần vào việc chữa lành cho mình. Người xác nhận sự kiện bà được chữa khỏi. Điều này đem đến cho bà sự an ủi và bảo đảm.
Điều ấy làm cho bà cảm thấy tốt đẹp biết bao. Điều ấy tốt đẹp hơn biết bao so với sự chữa lành, vô danh, hối hả và lén lút. Đức Giêsu làm cho bà cảm thấy như bà là người duy nhất trên thế gian này.
Trong việc trị liệu và chữa bệnh, vấn đề luôn luôn là con người toàn diện, chứ không bao giờ chỉ là triệu chứng. Người ta phải đặt ra những câu hỏi thách thức nhân cách toàn diện không phải chỉ có cái chân, hoặc cái tay được điều trị mà là một con người. Đức Giêsu không bao giờ chỉ chữa lành một bệnh, Người chữa lành một người bệnh. Lời Người chữa lành tinh thần: sự đặt tay của Người chữa lành thân xác.
Để thực hiện thành công một điều gì, chúng ta phải đặt vào đó một phần của chúng ta hoặc là: TN13-B12
Để thực hiện thành công một điều gì, chúng ta phải đặt vào đó một phần của chúng ta hoặc là đời sống hoặc là tâm hồn đến nỗi sau đó, chúng ta cảm thấy kiệt quệ. Điều này đặc biệt đúng đối với việc chữa trị.
Chữa trị có thể làm cho người chữa bệnh kiệt sức và đau đớn. Hành động chữa trị tự nó thường là một dịp để đau khổ. Chúng ta không thể cất đi sự đau đớn của một người mà không đi vào nỗi đau ấy một cách nào đó và ở một mức độ nào đó, dù chỉ là nỗ lực để hiểu người bệnh và làm cho người bệnh cởi mở với mình. Một cách nào đó, người chữa bệnh phải chịu đau khổ.
Một đôi khi, điều khiến người ta trở thành người chữa bệnh là một kinh nghiệm chính mình đã bị đau và đã được chữa lành. Người chữa bệnh cần ý thức về sự dễ bị tổn thương của mình. Chính họ dễ bị tổn thương và đó là một phần lý do khiến họ chữa bệnh. Đức Giêsu hoàn toàn dễ cảm thương cho người khác. Người nhận đau khổ của người khác cho mình: Người chịu đau khổ với mỗi người.
Dù khi ở giữa đám đông, nếu có người nào chạm vào Người và được chữa lành, Người biết ngay. Tại sao lại như thế? Bởi vì mỗi sự chữa lành đều lấy đi của Người một điều gì đó. Trong ngôn ngữ của Tin Mừng: “năng lực từ Người thoát ra. Và Người cảm thấy năng lực ấy thoát ra”. Chính năng lực ấy và đức tin của người bệnh tạo ra sự chữa lành.
Thỉnh thoảng Đức Giêsu chữa lành một người và để người ấy lấy đi bớt năng lực của Người. Sự cao cả của Người là Người sẵn sàng trả giá cho việc chữa lành những người khác. Chúng ta theo bước chân của Người khi chúng ta hiến dâng chính mình để giúp đỡ những người khác.
Mỗi người chúng ta có thể làm công việc chữa lành nào đó nếu chúng ta cho phép mình trở nên công cụ của Người. Chúng ta có thể không có khả năng chữa trị, nhưng có khả năng chăm sóc. Và chăm sóc cũng thuộc phần việc chữa trị. Chúng ta băng bó vết thương, nhưng chính Thiên Chúa làm vết thương lành.
Tuy nhiên, mỗi hành động chăm sóc cũng đòi chúng ta phải trả giá. Năng lực thoát ra khỏi chúng ta. Nhưng chúng ta chớ để mình kiệt sức. Nếu chúng ta luôn tiếp xúc với Chúa năng lực trong chúng ta được phục hồi liên tục.
Có những người luôn giữ được niềm tự tin và tính lạc quan. Tính cách này trở thành một thứ thuốc bổ cho người bệnh. Năng lực thoát ra từ họ và đi vào những người khác. Họ sung sướng khi giúp đỡ những người khác, và giúp đỡ những người khác là chữa lành.
Ở một mức độ nào đó, chúng ta đều bệnh tật. Nhưng chúng ta có xu hướng che giấu bệnh tật và thương tích của chúng ta. Người phụ nữ đến với Đức Giêsu mang bệnh nặng và trong trường hợp của bà, bệnh tật quá rõ ràng. Nhưng người ta có thể bị bệnh tật mà không xuất hiện ra bên ngoài. Họ mang những thương tật vô hình – cảm giác mình bị bỏ rơi, thất bại, không có phẩm giá, cô đơn, cay đắng, hờn giận… Vì thế, tất cả chúng ta cần được chữa lành.
Và tất cả chúng ta có thể là những người chữa trị. Đời sống chúng ta luôn luôn xúc phạm đến đời sống của những người khác. Với một chút thiện cảm, chúng ta có thể chữa lành những tâm hồn mang thương tích. Với một chút chăm sóc, chúng ta có thể làm cho một tâm trí, bối rối được nhẹ nhõm. Với một chút thời gian, chúng ta có thể làm vơi nhẹ nỗi đau của một người cô độc. Thỉnh thoảng mỗi người chúng ta nên dừng lại và tự hỏi: “Điều gì thoát ra từ tôi qua công việc, hành vi, và những mối quan hệ – điều gây tổn thương hay điều giúp chữa lành?”.
Chữa lành không chỉ là nhiệm vụ dành cho cá nhân. Nếu chúng ta có thể tạo ra những cộng đoàn ở đó mọi người có thể qui tụ, cùng làm việc và nâng đỡ nhau, lúc đó sự chữa lành trở thành một phần của đời sống hàng ngày.
Ông Giaia, ông trưởng hội đường đến gặp Đức Giêsu để xin Người chữa lành cho đứa con gái: TN13-B13
Ông Giaia, ông trưởng hội đường đến gặp Đức Giêsu để xin Người chữa lành cho đứa con gái mười hai tuổi của ông. Mặc dù cô bé còn sống, nhưng giống như người đàn bà bị băng huyết rõ ràng không một quyền lực trần gian nào còn giúp được cô bé. Lời cầu xin của cha cô bé chứng tỏ rằng ông tin Đức Giêsu có một quyền lực siêu nhiên, đó là quyền lực chữa lành.
Đức Giêsu lập tức khởi hành đi đến nhà ông Giaia. Nhưng khi Người còn đi trên đường các người nhà ông trưởng hội đường đến báo tin con gái ông đã chết, và họ gợi ý không nên làm phiền Đức Giêsu nữa. Thực ra họ muốn nói rằng ngay cả quyền lực của Đức Giêsu không thể thắng nổi sự chết. Chúng ta thấy cùng một thái độ tuyệt vọng ấy được diễn tả trong sự than khóc của những người đưa đám.
Nhưng Đức Giêsu không biết đến những lời của các người nhà đưa tin. Người quở trách và sau cùng đuổi họ ra ngoài. Niềm hy vọng trong sáng của Người tương phản rõ rệt với sự tuyệt vọng của những người ở xung quanh Người. Người thuyết phục ông trưởng hội đường Giaia phải có đức tin để tin rằng cả cái chết của con gái nhỏ của ông không nằm ngoài quyền lực của Người. “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.
Đức Giêsu vào phòng của cô bé cùng với cha mẹ và ba người môn đệ. Rồi Người cầm lấy tay em bé và nói: “Này bé, Thầy truyền cho con hãy đứng dậy”. Lập tức cô bé đứng dậy và đi lại được. Đức Giêsu bảo họ cho cô bé ăn. Có một sự dịu dàng và cảm động trong cảnh tượng ấy. Đức Giêsu bày tỏ tình yêu thương của Người đối với cô gái nhỏ và cha mẹ của cô bé. Chúng ta phải làm gì từ câu chuyện này? Chúng ta phải hỏi các Kitô hữu tiên khởi đã làm gì. Họ cũng chịu đau khổ vì bệnh tật và các thành viên trong cộng đoàn của họ đã qua đời.
Đối với Marcô và các độc giả của ông, câu chuyện là một biểu lộ quyền năng của Chúa Phục sinh chiến thắng chính sự chết. Đức Giêsu làm cho cô bé đã chết đứng dậy bởi vì Người là “Sự sống lại và là sự sống”. Tin vào Đức Giêsu có thể biến đổi đời sống và là chiến thắng trên cái chết. Đó là ý nghĩa câu chuyện này đối với các Kitô hữu tiên khởi.
Đối với những người tin Đức Giêsu, cái chết chỉ là một giấc ngủ mà Người có thể và sẽ đánh thức họ dậy. Trong trường hợp của hầu hết các Kitô hữu, sự đánh thức này sẽ không xảy ra trong đời này, nhưng trong thế giới sẽ đến. Vì thế các Kitô hữu tiên khởi đã mô tả người chết “đang ngủ” bởi vì họ tin rằng một ngày kia họ sẽ được đánh thức dậy, cũng như người đang ngủ được đánh thức. Các Kitô hữu đầu tiên đã dùng từ koimeterion để chỉ nơi an táng và có nghĩa là “nơi nằm ngủ”. Từ chữ koimeterion về sau xuất hiện chữ “cemetery” trong tiếng Anh. Cả hai câu chuyện Tin Mừng cho thấy khi không còn hy vọng, xét về mặt nhân tính thì quyền năng của Thiên Chúa có thể chiến thắng bệnh tật và cả sự chết, Marcô nói với chúng ta rằng quyền năng ấy hiện diện trong Đức Giêsu.
Giả sử như chúng ta đã đi hết nửa đoạn đường, sắp bước chân qua cầu để sang bờ bên kia đi tiếp: TN13-B14
Giả sử như chúng ta đã đi hết nửa đoạn đường, sắp bước chân qua cầu để sang bờ bên kia đi tiếp đoạn đường còn lại, thì bỗng chiếc cầu sụp đổ rơi tòm xuống sông. Khi đó chúng ta làm thế nào? Chắc là muốn quay trở về đoạn đường cũ.
Người đàn bà mắc bệnh loạn huyết và ông Giairô cũng lâm vào một tình cảnh khó xử như vậy:
. Loạn huyết là một chứng bệnh dơ dáy. Người Do thái không chỉ thấy nó dơ dáy về mặt thể lý mà còn coi nó là một thứ ô uế luân lý. Cho nên có luật cấm những kẻ mắc bệnh đó không được đụng chạm tới người khác, chạm tới ai thì người ấy kể như bị lây ô uế đó. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết này cũng không dám cất tiếng kêu xin Đức Giêsu vì sợ người ta biết mình bệnh và xua đuổi mình. Bà định im lặng rờ vào mình Đức Giêsu. Nhưng vậy là phạm luật thánh, là có tội: thật là khó xử.
- Còn ông Giairô thì xin Chúa đến chữa trị cho con gái mình đang bệnh nặng. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì ông được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa!
Cả bà loạn huyết và ông Giairô đều như sắp bước qua cầu thì chiếc cầu sụp gãy. Thế nhưng họ không quay trở lại bỏ dở đoạn đường. Họ vẫn cố gắng tiến bước:
. Bà loạn huyết không dám rờ vào mình Đức Giêsu thì rờ vào cái tua áo của Ngài vậy.
. Còn ông Giairô thì trong lúc chới với đó đã nghe Đức Giêsu an ủi “Đừng sợ, cứ tin”. Và kết quả là bà kia dứt bệnh, con gái ông Giairô sống lại. Đức tin của họ đã nối lại nhịp cầu gãy.
Trên đây là hai trường hợp giúp chúng ta hiểu bản chất của đức tin và sức mạnh của đức tin.
. Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin, đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi.
. Đức tin, một nhân đức căn bản của đạo, phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người, vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ, bởi vì trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa thì có thể là được hết mọi sự.
- Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai, nhưng vâng lệnh Chúa ông đưa con lên núi sát tế và lòng đau như cắt mà vẫn tin rằng Chúa sẽ thực hiện lời hứa làm cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và quả thực Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.
- Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước biển, và ông đã đi được bao lâu ông còn tin vào Chúa. Nhưng khi ông bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
Chúng ta là những tín hữu, nghĩa là những kẻ tin Chúa. Bấy lâu nay chúng ta vẫn tin Chúa. Nhưng có lẽ bấy lâu nay tin Chúa là điều dễ dàng đối với ta, tin Chúa ta được bình an, tin Chúa đời ta thoải mái, gia đình ta yên vui, việc làm của ta xuôi chảy.
- Có một người mẹ kia có một đứa con nhỏ rất dễ thương, vừa biết nói chuyện đã học đọc kinh, hát thánh ca. Rồi nó lâm bệnh, người mẹ cầu nguyện hết sức, nhưng nó vẫn chết. Từ đó người mẹ không còn cầu nguyện nữa, hình như chị đã hết tin.
Chúng ta cũng đã từng dự những đám táng: khi chiếc quan tài được hạ huyệt, người ta khởi sự lấp đất lại và trong lúc đó cũng khởi sự đọc kinh Tin Kính “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Biết bao người đã vừa đọc câu đó mà nước mắt ròng ròng.
- Cũng có một ông kia từ ngày gia đình làm ăn sa sút đã đem tượng Chúa quăng ra ngoài sân và từ đó không còn giữ đạo.
- Và biết bao người đã thành thật thú nhận cùng cha giải tội: “Con đã ngã lòng rồi!” Cũng như có biết bao người những khi buồn khổ đời không cầu nguyện.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa thật nhiều cho những người đáng thương kể trên. Và cầu xin cho chính chúng ta được một đức tin vững chắc để không phải chỉ tin Chúa ngày hôm nay khi đời ta còn bình an, vui vẻ. Nhưng vẫn còn đủ sức để tin nếu mai ngày chúng ta rơi vào một hoàn cảnh khó khăn thử thách. Xin Chúa giúp chúng con vẫn cứ tin luôn, tin rằng Chúa luôn thương yêu chúng con. Xin Chúa giúp chúng con vẫn cứ tin luôn cho dù gặp bao gian nguy.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại hai việc làm của Đức Giêsu. Những việc này không chỉ nhằm: TN13-B15
- Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại hai việc làm của Đức Giêsu. Những việc này không chỉ nhằm chứng tỏ quyền năng của Chúa trên bệnh hoạn và sự chết, mà còn cho chúng ta thấy thái độ và lập trường của Chúa đối với những luật khắt khe và khô cứng của đạo Do thái thời đó.
- Trước hết là việc Chúa chữa cho một người đàn bà mắc bệnh loạn huyết. Theo luật Do thái, người nào mắc chứng bệnh này thì đương nhiên bị liệt vào hàng dơ dáy, ô uế, cho nên không được vào đền thờ, không được tham dự các lễ nghi phượng tự, và cũng không được đụng tới ai vì hễ ai mà bị người ô uế đụng phải thì cũng trở thành người ô uế luôn. Khỏi cần nói nhiều, chúng ta cũng hiểu bà này đau khổ như thế nào. Trong cơn đau khổ, bà đã nảy ra một ý tưởng táo bạo là tìm cách đụng vào gấu áo Đức Giêsu. Ý định này táo bạo ở chỗ là việc đó trái lề luật, và cũng chẳng ai chịu cho bà ta đụng vào mình đâu vì sợ bị lây nhiễm sự ô uế. Vì thế mà bà này phải làm một cách lén lút. Dù vậy Đức Giêsu vẫn biết. Khi Đức Giêsu hỏi “Ai đã đụng đến Ta?” thì bà ta sợ hãi vì thấy việc làm của mình đã bị bại lộ. Nhưng bà ta ngạc nhiên hết sức vì Đức Giêsu chẳng hề quở trách bà một lời nào, trái lại còn làm cho bà khỏi bệnh, và còn an ủi bà “Con hãy đi bình an”.
- Sang câu chuyện của ông Giairô. Ông là trưởng hội đường, nghĩa là một viên chức tôn giáo, một người có trách nhiệm bảo vệ luật đạo. Trước đó ông đã đến xin Đức Giêsu đến nhà ông chữa trị cho con gái ông sắp chết. Đang khi Đức Giêsu cùng đi với ông về nhà thì xảy ra câu chuyện của người đàn bà mắc bệnh loạn huyết mà ta vừa nói ở trên. Bà này đã đụng vào Đức Giêsu nên theo luật thì Đức Giêsu đã trở thành người ô uế. Nếu Đức Giêsu mà vào nhà ông thì cũng theo luật đó, tới phiên nhà ông cũng bị lây nhiễm ô uế luôn. Và việc đó sẽ gây hậu quả to lớn bởi vì như ta đã biết, ông là trưởng hội đường, nếu ông không giữ luật mà còn để nhà ông bị Đức Giêsu làm thành ô uế thì có thể ông mất chức luôn. Đang lúc đó thì lại xảy thêm một diễn tiến nữa: Người nhà ông chạy đến cho hay là con gái ông đã chết rồi, đừng làm phiền Đức Giêsu nữa. Trước những sự kiện dồn dập như thế, ông Giairô không còn ý định mời Đức Giêsu về nhà mình nữa. Nhưng Đức Giêsu bảo ông: “Đừng sợ gì cả (nghĩa là: ông đừng sợ làm phiền tôi, cũng đừng sợ bị lây ô uế), điều cần nhất là lòng tin”. Giairô đã tin Chúa, không còn ngại sợ gì nữa, mời Chúa về nhà, Đức Giêsu cầm lấy tay đưa đứa bé đã chết và truyền cho nó sống lại. Thêm một chi tiết đáng lưu ý: Theo luật thì xác chết cũng là một thứ ô uế, ai đụng tới xác chết thì sẽ bị nhiễm ô uế. Nhưng ta đã thấy, một lần nữa Đức Giêsu đã tỏ ra bất chấp…
- Sau khi nghe giải thích hai việc làm táo bạo của Đức Giêsu, chúng ta nghĩ sao về Chúa? Có phải Ngài chủ trương phá bỏ tất cả mọi lề luật không? Chắc chắn là không, bởi vì Ngài đã từng tuyên bố rõ: “Các ngươi tưởng là Ta đến để hủy bỏ lề luật ư ? Không, Ta không phá bỏ mà Ta làm cho trọn lề luật. Ta nói thật: cho dù trời đất có qua đi, nhưng không một chấm một phết nào của lề luật sẽ qua đi, cho đến khi tất cả được nên trọn”. Nghĩa là những việc là của Đức Giêsu, thoạt xem thì có vẻ như chống đối lề luật, thực chất là nhằm làm cho lề luật được kiện toàn. Thời đó, người ta chỉ giữ luật theo cái hình thức, Đức Giêsu muốn cho cái hình thức ấy có thêm cái tinh thần, chính đó mới là cái cốt tủy của lề luật, đó mới là điều quan trọng. Có lần Đức Giêsu đã nói thẳng với bọn luật sĩ và biệt phái chỉ biết chăm lo giữ cái hình thức khô cứng của lề luật mà không để ý gì đến tinh thần lề luật. Chúa nói rằng: “Các ngươi chỉ là những cái mồ mả. Bên ngoài thì sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì chứa toàn những sự thối tha”. Khi bàn về sự tinh sạch và ô uế, Đức Giêsu đã khẳng định rằng tinh sạch hay ô uế thật là do lòng người chứ không do hình thức bên ngoài. Ngài nói: “Cái gì làm cho người ta ra ô uế? Không phải những cái từ bên ngoài vào (như đồ ăn, thức uống ), mà là cái từ bên trong bài tiết ra”.
Như vậy, lập trường của Chúa Giêsu rất rõ ràng: điều quan trọng cốt lõi của lề luật chính là cái tinh thần của nó. Kẻ nào chỉ bo bo giữ cái hình thức bề ngoài mà quên cái tinh thần cốt lõi của lề luật thì cũng như mồ mả tô vôi, bề ngoài thì đẹp, nhưng bề trong thì xấu xa hôi thối.
Đối với Chúa Giêsu, điều quan trọng cốt lõi của mọi khoản luật chính là cái tinh thần của nó: TN13-B16
Đối với Chúa Giêsu, điều quan trọng cốt lõi của mọi khoản luật chính là cái tinh thần của nó. Kẻ nào chỉ bo bo giữ cái hình thức bề ngoài mà quên cái tinh thần cốt lõi của lề luật thì cũng như những mồ mả tô vôi bề ngoài thì đẹp đẻ, nhưng bề trong thì xấu xa hôi thối. Vật chúng ta sẽ phải sống làm sao ?
- Thứ nhất là việc dự lễ: Bên các nước tiến bộ, ngày nay có một vấn đề được đặt ra, khá ngộ nghĩnh: người ta hỏi có được phép ngồi ở nhà dự thánh lễ được truyền qua màn ảnh vô tuyến truyền hình, khỏi cần đi đến nhà thờ được không? Giáo Hội đã trả lời dứt khoát là không được. Bởi vì dự lễ kiểu đó chỉ là một hình thức cho có cho rồi, chẳng có một chút tâm tình tôn thờ, yêu mến, kết hợp với Thánh Thể. Chuyện bên Tây thì vậy, nhưng bên ta cũng có chuyện tương tự như vậy: nhiều người đi dự lễ nhưng không muốn vào nhà thờ cho dù trong nhà thờ vẫn còn chỗ. Họ đứng ở ngoài, miễn sao là có hướng vào nhà thờ, mắt nhìn về phía bàn thờ. Vậy thì có khác gì xem lễ qua Tivi đâu? Chỉ là hình thức, chẳng có tâm tình.
- Thứ hai là luật thánh hóa ngày Chúa nhật: Điều răn thứ ba dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Nhiều người nghĩ rằng thánh hóa ngày Chúa nhật chỉ là đi xem lễ. Từ quan niệm đó, ai mà có dự lễ thì gọi kể là xong hết bổn phận. Còn ai lỡ kẹt chuyện gì đó không đi xem lễ được thì cũng kể như mình đã lỡ, thôi đành vậy. Chúng ta hiểu điều răn thứ ba như vậy là hời hợt quá, chỉ phớt qua một hình thức bề ngoài là dự lễ thôi. Thực ra điều răn này dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Thánh hóa là làm cho ngày đó nên thánh thiện. Mà muốn làm cho ngày đó nên thánh thiện thì dự lễ chỉ là một việc, ngoài ra còn dành nhiều thời giờ của ngày đó để làm những việc Chúa muốn, như đọc kinh cầu nguyện nhiều hơn, làm thêm những việc lành, lưu ý đến kẻ khác hơn bằng cách dùng ngày nghỉ đó để tới lui thăm viếng, truyện trò, an ủi nhau, giúp đỡ nhau…
- Thứ ba là việc sống đạo giữa đời: Mọi lề luật được đặt ra không phải chỉ là để cho có “hình thức, mà để giúp cho con người có thể sống đạo tốt hơn. Nhưng sống đạo là gì? Không phải chỉ là chu toàn một số hình thức đạo đức như đọc kinh, dự lễ, chịu các bí tích. Sống còn là làm việc, là làm ăn buôn bán, giao tế, biết xử sự tốt, trước những va chạm, khó khăn xảy ra hàng ngày. Giáo Hội thường nói “Sống đạo giữa đời”. Hội đồng Giám mục Việt Nam còn nói rõ hơn: sống đạo là “Sống Tin mừng giữa lòng dân tộc”. Cho nên chỉ mới có đọc kinh xưng tội, dự lễ thì chưa phải là sống đạo, mà chỉ là giữ một số hình thức của luật đạo thôi. Khi nào chúng ta biết để ý làm ăn theo lương tâm của người Kitô hữu, cư xử với mọi hạng người theo tinh thần bác ái của Tin mừng thì mới đúng là chúng ta sống đạo thật sự.
Mười điều luật Chúa và sáu điều luật Hội thánh ai trong chúng ta cũng thuộc lòng từ nhỏ. Hình thức bề ngoài của những luật đó là đọc kinh, dự lễ, xưng tội, ăn chay v.v… Nhưng tinh thần của chúng là “mười điều răn ấy tóm về hai điều này thôi: mến Chúa và yêu người”. Chúng ta hãy cố gắng đem tinh thần yêu thương ấy vào tất cả mọi sinh hoạt của chúng ta, không những chỉ có các sinh hoạt ở nhà thờ mà còn các sinh hoạt làm ăn, buôn bán, giao tế, buồn vui sướng khổ hằng ngày nữa. Đó mới thực sự là sống đạo giữa đời.
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người: TN13-B17
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn “chuyên trách” về bệnh này.
Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:
- Xin cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?
Vị linh mục nói:
- Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.
Bà già la lên:
- Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.
Thánh Antôn tự nhủ:
- Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!
*****
Nếu bà già trong câu chuyện suy niệm bài Tin mừng hôm nay, chắc bà sẽ không làm cho thánh Antôn phải thất vọng. Người phụ nữ xuất huyết trong bài Tin mừng và bà già đau răng trong câu chuyện trên, cả hai đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.
Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”. Mc.Kenzie nói: “Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người. Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người.
- Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum”.
- Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi “có 5 chiếc bánh và 2 con cá”.
- Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt.
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Ngạn ngữ Tây phương có câu: “Hãy tự giúp mình trước rồi trời sẽ giúp sau”.
Đọc Cựu Ước chúng ta thấy từ đầu tới cuối những chuyện chết chóc, giặc giã, lưu đày, di tản: TN13-B18
Đọc Cựu Ước chúng ta thấy từ đầu tới cuối những chuyện chết chóc, giặc giã, lưu đày, di tản: từ chuyện tháp Abel ở trang đầu sách Sáng Thế đến cuộc tàn sát ở Alexandria do tác giả sách Khôn Ngoan ghi lại. Thánh Kinh là pho sách tường thuật một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sự dữ, sự chết. Dân Chúa cảm nghiệm rằng lịch sử dân mình là lịch sử của một cuộc chiến đấu cho cuộc sống còn, sống mãi. Thiên Chúa Israel là Thiên Chúa của kẻ sống. Sự chết do tội lỗi gây nên, nhưng nhân loại sẽ được sống: "Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn".
Rồi một ngày kia, Con Thiên Chúa xuất hiện, trong đau khổ, ô nhục. Ngài đã chết nhưng Ngài đã toàn thắng sự chết. Ngài đã phục sinh, sống lại. Thánh Phaolô hô to niềm hy vọng đó: "Hỡi sự chết, chiến thắng người ở đâu?" Khi mà Chúa đã sống lại!
Xưa nay, các nhà hiền triết vẫn đi tìm câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi: "Sự dữ bởi đâu mà đến? Khoa học cố tìm ra thuốc trị bệnh, nhưng vẫn bó tay trước sự chết. Ai sẽ cho ta câu trả lời thỏa đáng? Thưa: Chỉ một mình Chúa Giêsu. Ngài là câu trả lời ngàn đời của Thiên Chúa. "Ta là sự sống lại và sự sống. Ai tin vào Ta, cho dầu có chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không chết bao giờ" (Ga 11,25-26).
Trong một trang dài, Marcô mô tả Chúa Giêsu hiện diện giữa người bệnh tật, đau khổ. Ngài đến "không phải để cất sự đau khổ mà để hiện diện với người đau khổ" (F. Mauriac).
Hôm nay, Ngài đang ở bờ biển, có đám đông dân chúng tụ họp xung quanh thì có ông trưởng hội đường tên là Giarô đến, sụp lạy van xin Ngài đến cứu con gái ông đang hấp hối. Chúa ra đi với ông. Đám đông dân chúng cùng đi theo, chen lấn Ngài tứ phía. Ngài không phải là một thầy thuốc tầm thường, "người ta vừa mất tiền, vừa không bớt bệnh". Đối với những người hèn mọn nhưng đầy tin tưởng vào Ngài, Ngài ban cho họ một dấu lạ, một sức sống từ nơi Ngài xuất phát ra, ban sự sống xua đuổi sự chết. Một người phụ nữ bị bệnh xuất huyết từ 12 năm nay, cố đến chạm tới áo Ngài, tức thì được khỏi bệnh.
Ngài vào nhà ông trưởng hội đường mà người con gái vừa tắt thở. Người ta kêu la khóc lóc om sòm, khóc thật, hay là khóc mướn, xung quanh thi hài của cô bé. Ngài cầm tay đứa nhỏ và nói: "Talitha, Koumi" – "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy". Và em bé 12, mở mắt chỗi dậy, bước đi. Em đòi ăn, đòi ăn là dấu chỉ sự sống đã tái nhập, đã phục hồi.
Mọi người đều sửng sốt, kinh ngạc.
Đứng trước những dữ kiện "phép lạ" Chúa làm mà Phúc Âm kể lại, (1/3 của Phúc Âm Marcô) chúng ta thấy ngày nay có hai phản ứng trái ngược nhau. Một số người khoa học cho rằng phép lạ chỉ gây rắc rối cho đức tin, dần hồi khoa học sẽ giải quyết nhiều bệnh lý. Trái lại, ngày nay, phong trào Thánh Linh đang phát triển mạnh làm cho người ta tin tưởng rằng trong một cộng đoàn có Chúa Thánh Linh hoạt động, phép lạ không còn là một sự phi thường. Kinh nghiệm bản thân và sự quan sát khách quan minh chứng (Đọc Des Miracles Aujourd" hui, Phép lạ ngày nay, của Sr. Briege Mckenna, O.S.C).
Chúng ta nên nhớ rằng Phúc Âm coi các phép lạ là những "dấu chỉ", "quyền năng", "lạ thường", và đã là dấu chỉ thì hướng về Đấng là dấu chỉ hơn là việc làm. Vậy các phép lạ Chúa làm là dấu chỉ ơn cứu độ đã đến: Sự dữ đã rút lui, satan bị đánh bại và Nước Thiên Chúa đã đến. Các phép lạ còn là dấu chỉ rằng Chúa là chân lý, là sự thật; lời nói của Ngài đi đôi với việc làm để minh chứng. Nhất là dấu chỉ sự phục sinh, phép lạ lớn lao hơn cả. Và sau này, các bí tích mà Chúa thiết lập là dấu chỉ nhờ sự sống lại, Chúa ban cho chúng ta được tái sinh trong đời sống mới.
"Chúa Giêsu không thay đổi, Ngài vẫn là Ngài, hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vẫn là Ngài khi Ngài chữa lành mọi bệnh tật tại Palestine. Ngài vẫn còn tiếp tục giữ lời phán hứa và đáp lại nguyện vọng, nhu cầu của dân Ngài" (Sr. Briege McKenna). Tại Portland tháng 7 năm 1992, một vị linh mục của Phong trào Thánh Linh được "ơn chữa bệnh" đã đến cầu nguyện và chữa bệnh. 14 ngàn người đã đến tham dự. Một người bị bệnh tim nguy ngập, được đặt tay cầu nguyện, đã ngất đi và đã được lành, đi làm việc như trước (theo một nhân chứng).
"Lạy Chúa, tôi ca tụng Chúa, vì đã giải thoát tôi".
Bài Tin Mừng chúng ta vừa đọc được cả ba tác giả trong Tin Mừng Nhất Lãm kể lại. Tuy nhiên: TN13-B19
Bài Tin Mừng chúng ta vừa đọc được cả ba tác giả trong Tin Mừng Nhất Lãm kể lại. Tuy nhiên, Mác-cô kể dài hơn ( 23 câu ), do vậy nhiều tình tiết hơn, cảm động hơn khiến chúng ta bị cuốn hút một cách tự nhiên từ đầu đến cuối câu chuyện. Một điều khá thú vị nữa là Mác-cô đã lồng hai câu chuyện vào với nhau một cách khéo léo, tài tình, nhưng ý nghĩa vẫn là một: Chiến thắng của Đức Giê-su đối với bệnh tật và cái chết, đồng thời nói lên hiệu quả tuyệt vời của lòng tin.
Câu chuyện thứ nhất: “Người đàn bà bị băng huyết”
Mác-cô kể rằng, trong dòng người đông đảo chen lấn nhau đi theo Đức Giê-su, bà này đã trà trộn vào đám đông, thận trọng nhưng cũng đầy gan góc tiến đến phía sau Người bất chấp lệnh cấm theo lề luật Do-thái. Lòng tin còn thúc đẩy người đàn bà này vi phạm một luật cấm còn quan trọng hơn. “Các tua áo” người đàn ông là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa và Lề Luật của Người. Sờ vào đó trong tình trạng ô uế là mắc tội phạm thượng. Mác-cô sau khi nêu lên những ý nghĩ bất bình của bà với các thầy thuốc đã không quên kể về sự liều lĩnh của bà chỉ vì lòng tin của bà vào Đức Giê-su thật mạnh mẽ. Bà tin rằng: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” Và đúng như vậy, bà tức khắc cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Không ai nhận ra được cử chỉ của bà !
Sau khi diễn tả tâm tình sâu kín của người đàn bà, Mác-cô kể tiếp cho chúng ta phản ứng của Đức Giê-su: Đức Giê-su cảm thấy có một sức mạnh xuất ra khỏi Người. Các môn đệ đã chẳng nhận ra hành vi tự ý của người đàn bà và càng không hay biết gì về phép lạ vừa xảy ra trước mắt các ông. Đối với các ông, câu hỏi của Đức Giê-su: “Ai đã sờ vào áo tôi ?” thật khó hiểu và không đúng chỗ chút nào. Nhưng Đức Giê-su nhìn chung quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. Người đàn bà bèn đến phủ phục trước mặt Người, tự thú mà nói cho Người biết hết mọi chuyện đã xảy ra. Đức Giê-su nhân cơ hội ấy liền giải thích cho bà, đồng thời cho các môn đệ, ý nghĩa cử chỉ bà vừa thực hiện: Chính Đức Tin đã thúc đẩy bà, và nhờ Đức Tin đó bà đã được cứu chữa.
Mác-cô đã lưu giữ tâm tình của người đàn bà này theo truyền thống và kể lại cho chúng ta. Xét bề ngoài thì tâm tình, cử chỉ của người đàn bà này xem ra có vẻ là mê tín dị đoan, nhưng hàm ẩn bên trong, Mác-cô muốn nhấn mạnh đến Đức Tin của người phụ nữ đã xuyên thủng được mầu nhiệm Con Người nơi Đức Ki-tô. Trong Đức Ki-tô có một quyền lực ẩn dấu nhưng đích thực mà kẻ vô tín không thể nhận biết mà chỉ được mặc khải cho những ai có con mắt Đức Tin ( Mc 6, 5 – 6 ). Nhiều nơi khác trong Tin Mừng cho ta thấy ma quỷ nhận ra thần lực của Đức Giê-su, nhưng đám đông dân chúng và cả các môn đệ thì không hay biết gì.
Lòng tin của người đàn bà thật đáng ca ngợi vì Đức Giê-su là một Đấng Mê-si-a mai ẩn và không được biết đúng. Người bị bao vây bởi đám đông dân chúng ham muốn điều kỳ diệu và chính các môn đệ cũng đã mỉa mai Người. Lời tuyên bố kết thúc câu chuyện về người đàn bà bị băng huyết của Đức Giê-su: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” nói lên ý nghĩa của phép lạ. Như người phụ nữ bị băng huyết vừa kể, người Ki-tô hữu chúng ta cũng phải tin rằng: Đức Giê-su mang nơi mình một thần lực sinh động và hữu hiệu. Người không chỉ ban ơn chữa lành mà còn ban ơn cứu độ cho những ai tiếp xúc với Người nhờ lòng tin.
Câu chuyện thứ hai: Ông trưởng hội đường Gia-ia và cái chết của cô con gái
Mác-cô kể, ông đến xin Đức Giê-su chữa lành cho con gái ông đã mười hai tuổi ( Mc 5, 42 ). Ong là một trong những viên trưởng hội đường, nghĩa là một kỳ mục Do-thái, chắc hẳn từ một thành nào đó bên bờ Biển Hồ. Thái độ của ông trước Đức Giê-su diễn tả niềm tin của ông: Ong sụp xuống dưới chân Người, và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”. Cử chỉ đặt tay lên ai là ngụ ý chúc lành. Đối với Đức Ki-tô, đây là cử chỉ chữa bệnh ( Mt 9, 18; Lc 4, 40; Cv 9, 12... )
Gia-ia biến mất một lúc giữa đoàn người đi theo Đức Giê-su. Trong thời gian ấy xảy ra việc chữa lành người đàn bà bị băng huyết. Rồi bấy giờ có kẻ đến báo tin cho người cha hay con gái ông đã chết, đồng thời khuyên ông đừng làm phiền Đức Giê-su nữa. Dưới mắt họ, việc người cha tìm đến với Đức Giê-su để xin chữa cho con gái đã quá trễ vì đứa bé đã chết. Qua miệng những kẻ này, ta thấy biểu lộ thái độ không tin, muốn đặt giới hạn cho quyền lực Đức Giê-su. Trái lại, sự im lặng của người cha bày tỏ cho thấy Đức Tin ông vẫn còn đó. Chính vì thế, Đức Giê-su khích lệ ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Thật vậy, ông Gia-ia cần chế ngự nỗi sợ hãi vì ông sắp chứng kiến được cuộc tỏ hiện sức mạnh thần linh trong Đức Giê-su. Đức Giê-su khích lệ ông Gia-ia đừng để lòng tin của mình bị chao đảo, vì “cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin” ( Mc 9, 23 ).
Sự cứng lòng tin của những kẻ đến khuyên can ông Gia-ia cũng chính là thái độ của những người than thuê khóc mướn ầm ỉ trước cái chết của đứa bé theo phong tục đông phương. Họ chỉ biết chế nhạo những lời Đức Giê-su nói: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy !” Dĩ nhiên là đứa bé đã chết rồi, nhưng đối với Đức Giê-su, cái chết chẳng có tính chung cuộc mà chỉ là một giấc ngủ thôi. Người có quyền năng đưa kẻ chết ra khỏi giấc ngủ ấy. Việc những kẻ cứng lòng tin phủ nhận quyền lực thần linh nơi Đức Giê-su tự nhiên khiến họ mỉa mai, châm biếm Đức Giê-su lúc này nhưng về sau những kẻ này sẽ ganh ghét, đố kị Người là điều dễ hiểu.
Đức Giê-su xua đuổi tất cả những người không tin ấy ra ngoài. Lúc đầu, sau việc can thiệp của những kẻ báo tin/ toan tính phá hủy lòng tin của ông Gia-ia, Đức Giê-su chỉ giữ lại các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo Người. Sau đó, Người chỉ cho ba môn đệ và cha mẹ đứa bé vào nơi đứa bé đang nằm. Ba môn đệ này sẽ còn chứng kiến cơn hấp hối và nỗi lo âu của Đức Giê-su trước cuộc thương khó. Nhưng trước đó, họ cũng được mạc khải cho biết vinh quang tương lai của Người trên núi Biến Hình ( Mc 9, 2 ). Ở đây, họ khám phá ra quyền lực của Đức Giê-su mà vinh quang của Người còn ẩn dấu. Sau khi Đức Giê-su từ cõi chết sống lại thì quyền lực ấy mới dư tràn và hiển hiện rõ hơn.
Với cử chỉ đơn sơ cầm tay đứa bé và nói “Ta-li-tha kum”, nghĩa là “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi !” Đức Giê-su đã khiến cho đứa bé đứng dậy và đi lại được. Người còn bảo họ cho đứa bé ăn để chứng thực là nó đã sống lại thật.
Sự sống lại của kẻ chết cũng như việc chữa lành các bệnh tật và việc chiến đấu với ma quỷ đều là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang hành động qua Đức Giê-su và ban ơn cứu độ cho nhân loại. Nhưng chỉ có sự sống lại của Đức Giê-su mới có thể soi chiếu hoàn toàn phép lạ hôm nay.
Thật vậy, một sự sống lại tạm thời có thể không có ý nghĩa gì nếu không có niềm hy vọng vào một sự sống lại dứt khoát và một cuộc sống vĩnh hằng ? Những người chế nhạo Đức Giê-su sẽ không bao giờ có thể tin vào sự sống lại của kẻ chết và dĩ nhiên cũng chẳng tin gì vào sự sống lại của Đức Giê-su sau này. Trái lại, đối với các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an vốn là những chứng nhân chính thức về sự Phục Sinh của Đức Giê-su, thì biến cố này về sau sẽ có ý nghĩa như là chiến thắng của Đức Ki-tô trên sự chết. Từ lúc này, trong sự sống lại của con gái ông Gia-ia, ba môn đệ đã thấy trước được dấu chỉ loan báo sự sống lại trong Đức Ki-tô của tất cả Ki-tô hữu – những người tin. Nhưng cho đến ngày Vượt Qua, Mầu Nhiệm Con Người vẫn chưa được chiếu rọi đủ.
Kết luận
Cả hai phép lạ vừa kể đều cho chúng ta thấy ơn cứu độ được ban cho nhân loại. Gia-ia đến xin Đức Giê-su cho con gái ông được cứu sống; người đàn bà bị băng huyết tìm cách sờ vào áo của Đức Giê-su vì tin chắc sẽ được lành bệnh. Cả hai đã kinh nghiệm về sự bất lực của con người trong việc tìm kiếm ơn cứu độ. Chính trong ý thức ấy đã bật trào tuôn vọt một niềm tin vào Đức Ki-tô, Đấng duy nhất có thể cứu con người ra khỏi tình thế tuyệt vọng mà trong đó họ đã chìm đắm. Nhưng Đức Tin không phải là một sự hiển nhiên, vì Đức Ki-tô bị che dấu giữa đám đông đang mỉa mai Người và đang chuẩn bị từ bỏ Người. Người là Đấng duy nhất có thể cứu, nhưng cũng chỉ những ai tin mới phân biệt được trong sự yếu đuối phàm nhân của Đức Ki-tô sức mạnh của Thiên Chúa và như thế mới nhận được ơn cứu độ.
Nơi ông Gia-ia và người đàn bà bị băng huyết, Mác-cô trình bày cho chúng ta hai tấm gương giống nhau về thái độ tự ý của kẻ tin và việc Đức Giê-su trả lời họ. Bên kia các phép lạ thể lý, tác giả Tin Mừng Mác-cô cho ta cảm nhận được sự sống tràn đầy mà Đức Ki-tô ban cho Ki-tô hữu từ khi Người được tôn vinh nhờ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Người.
Xin được đề nghị một vài hướng suy niệm và ap dụng vào cuộc sống:
1. Đức Tin có thể chuyển núi dời non, lay động được quả tim giàu lòng thương xót của Thiên Chúa: Ông trưởng hội đường Gia-ia tin mà không cần những lý chứng hiển nhiên, những lý luận nhân loại; người đàn bà bị băng huyết tin mà chế ngự được rụt rè, nhút nhát, sợ hãi; người bất toại tin đã dám giỡ mái nhà để cầu cho được lòng tốt của Đức Giê-su; người trộm lành tin vào lòng thương xót vô biên của Đức Giê-su, trong lần hành nghề cuối cùng, đã ăn trộm được Thiên Đàng.
Còn Đức Tin của tôi vào Đức Ki-tô thế nào, có sống động đến nỗi thấm nhiễm vào các nỗi đau khổ của tôi và sự chết của tôi một sức mạnh, một sự sống cao độ không ? Tôi có tin rằng, Đức Ki-tô vẫn quan phòng, lo lắng, chăm sóc tôi cách đặc biệt không ?
2. Bài Tin Mừng hôm cho thấy Đức Tin có nhiều cấp độ khác nhau: Đầu tiên là Đức Tin sơ khai của ông trưởng hội đường Gia-ia lúc mới đến gặp Đức Giê-su. Kế đến là Đức Tin có vẻ tính toán vụ lợi, hơi mê tín của người đàn bà bị băng huyết ngầm lén đến gần Đức Giê-su để mong ăn cắp được sức mạnh kỳ diệu từ nơi Người, nhưng rồi sau khi bị phát giác, Đức Tin của bà tiến cao hơn, trở thành một cuộc gặp gỡ, đối thoại tương giao với Đức Giê-su. Và sau cùng là Đức Tin trọn vẹn của ông Gia-ia, tin vào Đức Giê-su có quyền năng làm cho con gái của ông đã chết có thể sống lại.
Còn tôi, trong đời sống Đức Tin, lòng tin của tôi ở cấp độ nào ? Những khi gặp phải đau thương, thử thách và mất mát trong cuộc đời, tôi có không tin mà chối bỏ tình thương của Chúa không, hay biết lợi dụng những hoàn cảnh ấy để Đức Tin của tôi được thanh lọc mà tiến gần đến Chúa, gặp gỡ Chúa và đối thoại thân mật với Người ?
Lạy Chúa Giê-su, lòng tin của chúng con vào Chúa còn mỏng giòn, non yếu. Xin Chúa thương ban thêm lòng tin cho chúng con.
Lạy Chúa Giê-su, Tin Mừng giải thoát của Chúa đã được loan báo hơn hai nghìn năm nay, nhưng trên thế giới này và ngay tại quê hương Việt Nam thân yêu của chúng con vẫn còn biết bao người vô tín. Xin Chúa ban cho họ có điều kiện nhận ra Chúa là Đấng Cứu Độ trần gian.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã cúi xuống trên nỗi đau khổ tột cùng của loài người chúng con mà ban ơn chữa lành và cứu sống. Xin cho chúng con có được quả tim biết yêu thương của Chúa để chúng con biết cúi xuống với nỗi đau của anh chị em đồng loại hầu xoa dịu vết thương của họ, giúp họ vững tin vào quyền năng và tình thương của Chúa. Amen.
Một điều rất bất hợp lý trong bóng đá, có thể ví không sai là chuyện “cốc mò, cò xơi”, khi cầu: TN13-B20
Một điều rất bất hợp lý trong bóng đá, có thể ví không sai là chuyện “cốc mò, cò xơi”, khi cầu thủ phạm lỗi với đối thủ và bị phạt thẻ – nhẹ thì “vàng”, mà nặng thì “đỏ” ! Lẽ ra người thực sự được hưởng lợi hoặc chí ít cũng đáng được đền bù do bị phạm lỗi, phải là đội đang thi đấu và bị vi phạm, song trớ trêu thay, người được hưởng trọn vẹn, chẳng mất tí công sức, chẳng bị thương tích gì, lại chính là một đội sẽ gặp đội vi phạm ấy. Lại nữa, nhờ sự ‘sẩy chân’ của một đội khi cật lực chiến đấu với một đội khác trong bảng, mà một hoặc những độI kia lọt được vào vòng sau. Trong xã hội, nhan nhản cảnh lắm kẻ không động tay chân, nhưng chực chờ không những chỉ để xí phần, mà còn muốn dành cho được hưởng lợi lớn. Song cũng có những kẻ nhờ may mắn của người khác, mà bản thân cũng được “dự” phần. Có phải đó là trường hợp mà Tin Mừng hôm nay thuật lại: chuyện cô con gái ông Gia-ia và người đàn bà bị băng huyết lâu năm
Cô bé có danh tính và địa vị: là con của một trưởng hội đường và chỉ nhìn vào sự lo lắng của ông bố, thì đủ thấy đây là cô gái rượu cưng yêu. Ông này hẳn là một người hiền lành, dễ mến, được lòng người, cho nên Chúa Giê-su “liền ra đi ngay với ông” (Mc 5, 24 a ) và “đám rất đông đi theo và chen lấn Người” ( Mc 5, 24 b ). Phép lạ sẽ xảy ra và tỏ tường. Cô bé được bảo bọc, yêu thương trong một gia đình danh giá đạo đức. Chúa Giê-su là giải pháp tối ưu mà ông bố nghĩ đến !
Ngay cả không phải là nữ giới, thì ai cũng biết một người mắc bệnh phụ khoa mười hai năm là thế nào ! Một nỗi ám ảnh khủng khiếp, vì luôn thấy mình dơ bẩn, bệnh hoạn. Mặc cảm ấy khiến cho ai bày đâu có thầy hay cũng tới, ai chỉ đâu có thuốc tốt cũng mua, thậm chí ai mách cho thứ gì, cũng tìm cho bằng được. Tiền mất, tật mang: mười hai năm bệnh hoạn khiến người đàn bà điêu đứng, tán gia bại sản. Chúa Giê-su là chỗ cuối cùng để bà hy vọng, là đáp án cuối cùng cho đời bà !
Nhưng chỉ có ông trưởng hội đường mở miệng xin và cũng có thể nói được là tuyên xưng niềm tin của ông nơi Chúa Giê-su. Còn người đàn bà mang mặc cảm dơ bẩn, chỉ như một con “cò”, chờ “cốc” xin, rồi mới “lách qua đám đông” để sờ vào áo Chúa Giê-su, với xác tín rằng sẽ được lành. Và bà đã được như ý, ngay lập tức; trong khi cô gái con ông trưởng hội đường còn phải qua một thời gian và thử thách, mới được ban ơn. Người ta nói đây là sự khác biệt giữa cầu nguyện bằng lời ( khẩu nguyện ) và cầu nguyện bằng tâm hồn ( tâm nguyện ): lời phải qua tai, qua nhiều giác quan bộ phận, rồi mới tới trái tim, và chờ lệnh để được thực hiện ( chưa kể là lời cầu xin phải qua trung gian người khác ); trong khi từ con tim đến con tim là sự trao đổi trực tiếp, vì thế mà mau chóng.
Niềm tin của ông trưởng hội đường là điều không ai có thế chối cãi được, nhưng ông phải nói ra thì người ta mới biết; trong khi chẳng ai nhận biết niềm tin to lớn của người đàn bà bệnh hoạn, nhưng Chúa Giê-su lại “cảm nhận” hết sức nhanh chóng. Việc Chúa Giê-su “bắt” bà phải thú nhận vừa để làm chứng cho mọi người rằng bà ấy từ nay đã ‘sạch sẽ’, khoẻ mạnh như bao người; song chủ yếu là để nói ra điều quan trọng nhất với bà và tất cả mọi người nhận được phép lạ: “con hãy về bình an” ( Mc 5, 34 b). Quả thật, hằng ngày, hằng giờ, có vô số người chạy đến với Mẹ Ma-ri-a ở các Trung Tâm Hành Hương như Lộ Đức, Fatima, La Vang, v.v... để cầu xin ơn lành xác hồn. Không phải ai cũng được ơn chữa trị phần xác, nhưng chắc chắn tất cả những ai tin và cầu xin với niềm tin vững vàng, thì đều được “bình an”, bình an trong tâm hồn, bình an trong cuộc sống, trong gia đình và không ít người cám ơn Thiên Chúa vì được ơn vui lòng chịu hy sinh vì Chúa, được hiểu ý nghĩa thập tự giá và theo gương Chúa Giê-su. Bình an là nét chủ đạo trong mọI ân sủng và phép lạ.
“Cốc mò, cò xơi”, tuy thế, lại có thể biến thành nỗi bất bình của những kẻ “có Đạo”, là chúng ta, khi thấy ơn phúc, phép lạ, cứ ào ào tuôn đổ trên cho những “kẻ ngoại đạo” ăn theo, trong khi con cái kêu xin ngày này qua tháng nọ, lại xem ra chẳng hề được nhận lời. Không có chúng ta, thì làm gì có... Chúa để cho họ xin xỏ và nhận hết ơn này đến ơn nọ cơ chứ ! Bài ca hôm nay, vì vậy, lạy Chúa, bỗng trở nên chát chúa, đắng cay. Những lời thơ, ý nhạc không còn để ca tụng Chúa nữa, mà để tự dằn vặt mình, sau khi đã ganh tị với anh em, nhất là những người chưa biết Chúa. So bì thế nào được, khi “người ngoại” tôn thờ, cậy tin Chúa, còn chúng con lại chỉ xem Chúa như một... bầu sữa, khi cần thì đến vắt, như một đặc quyền đặc lợi: Chúa hiện hữu chỉ để thoả mãn nhu cầu của chúng con !
Nhiều người gọi giòng nhạc hiện đại là nhạc thương mại ( để phân biệt giòng nhạc bình ca, còn gọi là nhạc Grégorien ). Chẳng lẽ chúng con muốn biến bài ca đời mình thành một thứ mua bán, đổi chác ? Bài tình ca ấy, Chúa không giữ bản quyền, trái lại muốn tất cả mọi người sinh ra trên trần thế đều hát lên để ca tụng Chúa và hưởng ơn phúc lộc Chúa ban, tại sao chúng ta hẹp hòi muốn giữ riêng cho mình, cho đồng đạo của mình, mà đố kỵ và gạt bỏ anh em “ngoại đạo”, chỉ vì họ tin cậy nơi Chúa... hơn chúng ta ?
Có một cách cầu nguyện hiệu nghiệm nhất, đẹp lòng Chúa nhất, ấy là cầu xin cho... người khác !
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Tình Ca Cho Người Được Yêu số 3
Đoạn Tin mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy các tông đồ đang ở vào một tình thế tuyệt: TN13-B21
Đoạn Tin mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy các tông đồ đang ở vào một tình thế tuyệt vọng. Lời van xin của họ dường như bị sóng biển vùi lấp:
- Lạy Thầy, xin cứu chúng con.
Chúa Giêsu rất có thể lên tiếng trách cứ các ông:
- Bộ các con không hiểu rằng bao lâu Thầy còn ở với các con, thì không một tai ương hoạn nạn nào có thể xảy ra.
Thế nhưng lời van xin ấy lại rất bình thường và gần gũi với bản tính của chúng ta. Lời van xin xuất phát từ trái tim của một tạo vật nhỏ bé, như muốn xác quyết rằng: Vấn đề thật vô phương cứu chữa, chỉ mình Chúa mới có thể giúp đỡ.
Thế nhưng ngày hôm nay, liệu chúng ta có còn tìm thấy những lời van xin đầy tin tưởng và hy vọng như thế hay không? Nếu chúng ta hỏi những người lính chiến rằng: Vào những lúc nguy hiểm có bao giờ các bạn đã nghĩ tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Nếu chúng ta hỏi những người lái xe rằng khi xảy ra tai nạn có bao giờ các bạn nghĩ tới đời sau và xin Chúa phù trợ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Chiếc tàu Dora với một ngàn bảy trăm hành khách, chẳng may gặp nạn và chìm dần xuống biển, người ta đã ghi nhận được một cảnh tượng thật trái ngược trong thời điểm hoảng hốt đó. Các cô thì lo giữ lấy đôi giày của mình. Các bà thì lo giữ lấy những bộ áo của mình. Các ông thì lo giữ lấy ví tiền của mình. Chỉ có một em bé năm tuổi là đã quỳ gối cầu nguyện.
Ngay cả bản thân chúng ta cũng thế. Mỗi khi gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vùng vẫy, chúng ta kêu gào, chúng ta làm mọi cách để thoát khỏi tai ương hoạn nạn ấy, nhưng lại không biết mở miệng kêu xin:
- Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp con kẻo con chết mất. Chỉ mình Chúa mới có thể bảo đảm cho con được an toàn.
Chúng ta cũng giống như dân ngoại. Chẳng tìm thấy hướng đi cũng như ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Ngày xưa mỗi khi mất mùa đói kém giặc giã xảy ra, người ta kêu cầu Chúa:
- Lạy Chúa xin giúp đỡ con.
Người ta tổ chức những cuộc rước kiệu, những cuộc hành hương để kêu cầu Chúa. Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao?
Ngày hôm nay, người ta có rất nhiều phương tiện, chẳng hạn như thuốc trụ sinh, công ty bảo bảo hiểm, và người ta cảm thấy không còn cần đến sự trợ giúp của Chúa nữa. Và tệ hơn nữa, người ta muốn trục xuất Thiên Chúa ra khỏi những sinh hoạt cá nhân và xã hội. Người ta muốn thay trời vắt đất làm mưa. Người ta sống như không còn sự hiện diện của Ngài nữa.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới kết luận: Bao lâu Chúa Giêsu còn ở trong chúng ta thì không một tai nạn nào có thể xảy ra. Tuy nhiên con người thời nay lại không hiểu là như thế. Do đó, vấn đề cần phải đặt ra cho mỗi người, đó là Chúa Giêsu có thực ở trong thuyền đời chúng ta hay không. Tôi đã phản ứng và hành động như thế nào trong những hoàn cảnh đen tối. Tôi có biết hướng tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không? Đó là những câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự tìm lấy lời giải đáp.
Đoạn sách thánh hôm nay cho ta thấy một lần nữa rằng các phép lạ của Đức Kitô là những: TN13-B22
Đoạn sách thánh hôm nay cho ta thấy một lần nữa rằng các phép lạ của Đức Kitô là những dấu chỉ tình thương. Đức Kitô là tình thương của Thiên Chúa đi vào trong nỗi khốn cùng và đau khổ của nhân loại để mặc cho chúng niềm tin và hy vọng. Đức Giêsu không phải là một nhà thuyết giáo xa xôi về một lý tưởng cứu rỗi mà con người phải một mình ra sức thực hiện nhờ các ý thức hệ và cách mạng cơ câú. Ngài chính là Thiên Chúa dấn thân vào đời sống nhân loại để cứu lấy nó. Đám đông dân chúng theo Đức Giêsu và chen lấn Ngài tứ phía. Ngài bị ngụp lặn trong đám đông. Nhưng về phía Ngài, đó không phải chỉ là một lúc, sau đó Ngài trở về lại với sự đơn độc của mình. Ngài luôn là Thiên Chúa hiện diện với quần chúng đông đảo nhân loại.
Một nữ bệnh nhân muốn lợi dụng cơ hội Đức Giêsu đi ngang qua để được chữa lành bà nghĩ chỉ cần chạm đến y phục Đức Giêsu để được lành, và bà đã không làm. Bà biết là Đức Giêsu có thể chữa lành bà bằng một lời nói, nhưng muốn thế phải kêu xin. Và giống bệnh của bà làm bà mắc cỡ. Bà không dám trình bày trường hợp của bà. Nhưng bà nghĩ là Chúa có thể chấp nhận lơi cầu xin của bà một cách khác. Chạm vào y phục của Chúa là một loại ngôn ngữ và cầu xin mà Ngài có thể hiểu được. Bà liền chạm vào gấu áo Đức Giêsu và bà được lành.
Người ta cho rằng bà này đã vâng theo sự thúc đẩy của niềm tin ma thuật. Nói thế có lẽ hơi nông cạn. Về vấn đề này, xin mở một ngoặc đơn thuộc phạm vi tổng quát. Dĩ nhiên nhà chú giải có thể có 1 thứ lo lắng là chỉ chấp nhận điêù không thể chối cãi được trong các phép lạ Phúc Âm. Nhưng vô phúc thay, sự lo lắng này đôi khi lại được tiếp nhận do những đâù óc hấp tấp, hơi ngây ngô, lại quá chắc chắn về mảnh vụn kiến thức của mình, mà nội dung chỉ là sự thoả mãn để chiếu lên những Phúc Âm những khẩu hiệu và hình mẫu sẵn có nơi các “khoa học nhân văn”. Nói lên điêù này, để nhắc nhở độc giả Phúc Âm đừng để cho mình bị lay động bởi một số quảng cáo trong thời gian sau này là muốn giản lược con người cao cả cuả Đức Giêsu vào chiều kích con người chúng ta. Người ta đến với Phúc Âm bằng cách để mình lôi kéo lên cao nhờ việc chiêm ngắm Con Thiên Chúa, chứ không phải bằng cách uốn nắn các văn bản để làm cho chúng phù hợp với các dữ kiện chưa tiêu hoá đựợc của việc phân tích ngôn ngữ…
1) Đoạn văn cuả thánh Maccô: ‘Đức Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình’. Từ lâu các nhà thần học đã đề ra những lời giải thích cho phúc hợp với điều họ tưởng có thể đoán được về tâm lý của Đức Giêsu. Về phần chúng ta, chỉ nên nhớ rằng Đức Giêsu luôn phản ứng với một lương tâm thấm nhuần sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, đối với mọi biểu lộ niềm tin nơi ngài.
2) “Hỡi bà, đức tin bà đã chữa bà”. Niềm tin của bà này như thế nào? Chắc hẳn là không cùng một niềm tin như niềm tin của chúng ta. Nhưng cũng đã là một khởi đầu niềm tin, một niềm tin đang khai mào. Đàng khác, nếu chúng ta khiêm tốn, chẳng phải, chúng ta cũng nhìn nhận rằng niềm tin của chúng ta hôm nay cũng chỉ là một niềm tin khai mào sau? Nhưng ngay cả niềm tin này, nếu có thành thật, cũng có thể lôi keó được một lời nói cứu độ. Và đó là điều tốt rồi.
Văn hào Tu-ghê-nít của Nga có kể lại một giai thoại sau: Thời chiến tranh ông bị cảm nặng: TN13-B23 FB
Văn hào Tu-ghê-nít của Nga có kể lại một giai thoại về cuộc đời của mình như sau:
Thời chiến tranh ông bị cảm nặng. Người ta mang ông vào một quân y viện để chữa trị. Khi tỉnh dậy, ông thấy nhà thương đầy người, không có một chiếc giường trống nào, mà bệnh nhân mỗi ngày một thêm đông. Bác sĩ trực phòng của ông đi một vòng đến các giường. Đến bên cạnh ông, bác sĩ dừng lại và hỏi người y tế:
- Hắn vẫn còn sống ư?
Người y tế trả lời:
- Tôi chưa kiểm lại. Nhưng sáng nay thì hắn vẫn còn sống.
Bác sĩ cúi xuống và đặt ống nghe trên ngực ông. Nghe biết tất cả mọi sự, cho nên ông cố gắng thở thật mạnh. Sau khi nhấc ống nghe lên, bác sĩ thở dài và nói:
- Thiên nhiên thật ngu đần, lẽ ra người này phải chết, nhưng không hiểu sao hắn vẫn còn thở và như vậy là hắn chiếm mất chỗ của người khác
Tu–ghê-nít lắng nghe được tất cả những lời ấy. Ông tưởng số phận của ông đã được quyết định, nhưng không ngờ sau đó ông đã được khỏi bệnh một cách lạ lùng trước sự ngạc nhiên của viên bác sĩ trực và nhiều y tá khác trong quân y viện.
--------------
Những bệnh nhân biết được những gì người ta làm cho mình và còn sống sót để kể lại kinh nghiệm của mình như văn hào Nga trên đây không phải là hiếm. Một viên thuốc ngủ, một mũi thuốc mê cực mạnh, nhiều người đã bị cướp mất mạng sống dễ dàng. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu goị con người ngày nay hãy xây dựng một nền văn minh của sự sống chứ không phải của sự chết. Tin Mừng hôm nay có thể được coi như một câu trả lời của lòng tin cho một vấn đề từng gây thắc mắc nơi con người thuộc mọi thời đại: vấn đề sự sống. Hai phép lạ: chữa lành bệnh người phụ nữ băng huyết và cho một bé gái 12 tuổi sống lại, đều minh chứng Đức Giêsu là chủ sự sống, là nguồn cội sự sống, vì Ngài là Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại.
Theo quan niệm của người Do Thái xưa, thì máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi chị mất dần đi, tiêu hao đi, nên coi như chị là người đã chết. Nhất là trong hoàn cảnh của chị, đau khổ không chỉ vì bệnh kéo dài, tiền mất tật mang, mà còn khổ về mặt tinh thần, vì tập quán tôn giáo xã hội khinh khi, ghê tởm và loại trừ ra khỏi xã hội những người mắc chứng bệnh này, cũng giống như bệnh cùi, bệnh hủi. Phải nói là người phụ nữ bị băng huyết này coi như đã chết hai lần, cả về mặt sự sống thể xác lẫn về mặt đời sống tinh thần. Phép lạ Chúa Giêsu làm đã cứu thoát chị, đã đem lại cho chị một cuộc sống dồi dào, cả trong ý nghĩa được sát nhập lại vào trong lòng cộng đồng tôn giáo.
Còn trong phép lạ Chúa Giêsu làm cho em bé sống lại, thì chúng ta thấy hành động của Chúa Giêsu vượt xa điều mà gia đình ông Giairô, trưởng hội đường, mong đợi: khi con gái duy nhất của ông hấp hối, ông đã chạy đi cầu cứu với Chúa Giêsu, vì ông tin rằng Ngài có thể cứu con ông khỏi cái chết. Nhưng khi hay tin con đã chết rồi, thì ông không còn hy vọng nào nữa, không còn muốn làm phiền Chúa Giêsu đến nhà làm gì nữa. Chúa Giêsu phải nâng đỡ tinh thần và niềm tin của ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Và phép lạ đã được thực hiện, trước nỗi kinh ngạc và hạnh phúc của gia đình ông. Trưởng hội đường, kinh ngạc và sung sướng đến nỗi ông và gia đình quên cả việc chăm sóc đến con gái của mình, khiến Chúa Giêsu phải nhắc khéo: “Hãy lo cho cô bé ăn đi!”.
Trong tất cả hai phép lạ, chúng ta đều thây nổi bật lên một yếu tố nối liền giữa Chúa Giêsu và người được phép lạ: đó là lòng tin. Người phụ nữ bị băng huyết, sau khi chạy thầy chạy thuốc không khỏi, mà lại nghe nói về quyền phép của Chúa Giêsu, thì dần dần trong lòng chị hình thành một niềm tin mạnh mẽ: “Tôi mà sờ được áo Ngài thôi, là sẽ được khỏi bệnh”. Chính lòng tin mạnh mẽ đó đã giúp chị vượt qua moị tập quán, mọi nếp suy nghĩ và quan niệm tôn giáo có tính trói buộc và cản trở con người, để mạnh dạn đến gần Chúa Giêsu. Chinh lòng tin mạnh mẽ đó đã như khiến quyền năng của Chúa Giêsu không thể từ chối được: “Chúa Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”.
Lòng tin của ông Giairô cũng là yếu tố quan trong để Chúa Giêsu là cho con ông sống lại. Chắc chắn lòng tin của ông đã được hỗ trợ bằng chính câu chuyện người phụ nữ lành bệnh, cũng như đã được nâng đỡ bởi lời khuyên chủ của chính Chúa Giêsu: “Đừng sợ, ông ạ, cứ vững tin đi!”.
Qua hai phép lạ trên, Chúa Giêsu còn bộc lộ cho thấy thế nào là Thiên Chúa, thế nào là Đấng Kitô của Thiên Chúa và loan báo một thời đại mới, thời đại cứu độ mà các Ngôn Sứ đã loan báo. Trước hết, Thiên Chúa là chủ sự sống, ban phát sự sống cho con người và muôn loài vật. Riêng đối với con người, thì không chỉ là đời sống vật chất, tinh thần mà còn cả đời sống ân sủng, đời sống làm con cái Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình sáng tạo và cứu độ, Thiên Chúa đã hiến dâng cho loài người tất cả, kể cả Người Con yêu dấu, Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Đức Giêsu có sứ mạng bộc lộ về Thiên Chúa, thực hiện chương trình của Thiên Chúa là ban sự sống, là cứu chữa những gì đã hư mất, là tìm đến với người đau ốm cần thầy thuốc. Ngài luôn quan tâm đến mọi nhu cầu cụ thể của con người. Ngài cúi mình ghé mắt nhì xem nhu cầu cụ thể của con người Ngài gặp: anh què, anh mù, chị phụ nữ bị băng huyết cũng như chị phụ nữ ngoại tình, người bị quỷ ám, con trai bà goá thành Naim, cũng như con gái ông Giairô. Tất cả những khổ đau, tật nguyền đều có âm hưởng mạnh mẽ trong tâm hồn Chúa Giêsu Kitô. Chính vì mang trong mình trái tim của Thiên Chúa, nguồn sống của Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu đã cứu chữa người này, bình phục người kia, hồi sinh người khác, đem lại phẩm giá và sự tôn trọng cho những ai đang bị loại trừ, coi rẻ. Đối với Chúa Giêsu, không hề có một tiêu chuẩn nào để lại bỏ, vì tất cả thuộc về gia đình Thiên Chúa. Điều duy nhất ngài đòi hỏi là lòng tin của chúng ta nơi quyền năng và lòng thương của Ngài.
Lòng tin của chúng ta đối với Thiên Chúa là nguồn gốc, là chủ sự sống sẽ dẫn chúng ta đến một thái độ tất yếu này là: chúng ta phải biết tôn trọng sự sống, bảo vệ và phát triển sự sống. Không phải chỉ sự sống thể xác mà cả sự sống tinh thần và sự sống tâm linh nữa. Không chỉ sự sống nơi mình, mà còn sự sống nơi người khác, nơi dân tộc khác nữa.
Thế nhưng, chung quanh chúng ta không biết bao nhiêu sự sống con người đang bị xâm phạm, chà đạp, cách này hay cách khác. Bao nhiêu trẻ em không được quyền sinh ra, không có được những điều kiện thiết yếu nhất về vật chất, tinh thần, để sống một cuộc sống cho ra người.
Chúa Giêsu đã sinh ra làm người là để cho con người được sống và sống một cách dồi dào. Nhưng sự sống của chúng ta đón nhận từ nơi Chúa sẽ không trọn vẹn, nếu chúng ta chưa thực sự chia sẻ sự sống ấy cho những người chung quanh. Bao lâu nhiều người anh em chung quanh chúng ta chưa được sống xứng với phẩm giá con người, bao lâu niềm vui và quyền được sống như những con người vẫn còn bị khước từ nơi nhiều người đang sống bên cạnh chúng ta, thì có lẽ chính chúng ta cũng không thể nào hưởng được một cách dồi dào sự sống mà Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta.
Có chuyện kể rằng Đức Giêsu và một thanh niên đồng hành trên bãi biển. Bốn dấu chân in: TN13-B24
Có chuyện kể rằng Đức Giêsu và một thanh niên đồng hành trên bãi biển. Bốn dấu chân in hằn trên cát. Nhưng lúc gặp chuyện khó khăn, chàng thanh niên nhìn xuống chỉ còn thấy có hai dấu chân thôi. Anh kinh ngạc kêu lên:
- Thưa Thầy, nãy giờ Thầy đi đâu mà để con bước một mình? Đức Giêsu nhỏ nhẹ bảo anh:
- Con nhìn kỹ xem đó là dấu chân của ai nào?
Nhìn kỹ lại, chàng thanh niên mới thấy đó là dấu chân của Chúa.
Anh la lên:
- Vậy thưa thầy, nãy giờ con ở đâu?
Đức Giêsu trả lời:
- Này con, những lúc gặp khó khăn, Thầy biết con không đủ sức chịu đựng, vì thế Thầy đã vác con trên vai đó.
Thực sự, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi kẻ tin cậy Người, nhất là khi thấy niềm tin của ta bị thử thách quá sức, Chúa liền tạo điều kiện để chúng ta vượt qua. Người vác ta trên vai, có nghĩa là triệt để nâng đỡ ta, ngoài sức tưởng tượng của ta.
Người phụ nữ bị hoại huyết trong Tin Mừng hôm nay được chữa lành hoàn toàn do lòng thương của Chúa. Dĩ nhiên, muốn được chữa lành, người ta phải biểu lộ lòng tin. Mà bệnh nhân này theo luật Môisê, là một người ô uế, không được ra trước công chúng, làm sao dám đến xin Chúa chữa bệnh cho mình. Chúa đã soi sáng cho bà, và bà hiểu chỉ cần biểu lộ lòng tin một cách nào đó, cũng hy vọng được ơn lạ. Nghĩ thế, bà đã len lỏi phía sau Chúa, lén chạm vào áo Chúa, và sự lạ đã xảy ra: bà được khỏi bệnh.
Người bệnh chạm vào Chúa là đã vi phạm luật cấm. Nhưng bà nghĩ rằng giữa đám đông chen lấn như thế ai mà biết được. Chính các môn đệ cũng ngạc nhiên khi nghe Chúa hỏi xem đã có ai đụng chạm vào Ngài. Còn Chúa, Ngài biết rõ mọi chuyện. Thay vì lặng thinh để khỏi bị tai tiếng vì đã chạm tới một phụ nữ ô uế, Chúa lại muốn đưa sự thật ra ánh sáng, để mọi người thấy lòng tin của bệnh nhân và thấy rằng Chúa hài lòng với một lòng tin như thế. Nhờ lòng tin, người bệnh chẳng những được chữa lành, lại còn được ơn cứu độ, đó là ơn cao quí hơn được lành bệnh thể lý, và đó là điều Chúa quan tâm hàng đầu. Nhân dịp này, Chúa đã dạy các môn đệ một bài học mà sau này Thánh Phaolô đã khai thác và viết thư khuyên dạy các Giáo đoàn: Nhờ đức tin mà có ơn cứu độ.
Khi Chúa đòi hỏi phải có lòng tin, Người không đòi hỏi quá đáng. Chỉ cần ta thực tâm và cố gắng rồi Chúa sẽ tạo điều kiện cho chúng ta biểu lộ lòng tin và ban thưởng cho lòng kiên trì của ta, dù đó là những phấn đấu nội tâm thầm kín.
Lạy Chúa, xin giúp con biết tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, biết âm thầm cố gắng biểu lộ lòng tin trong cuộc sống, mặc dầu chỉ mình Chúa biết mà thôi.
CON GÁI ÔNG GIAIRÔ VÀ NGƯỜI ĐÀN BÀ MẮC CHỨNG BỆNH BẤT TRỊ
Giống như Matthêu (9,18-26) và Luca (8,40-56) ở đây Maccô cũng gói ghém hai mẩu chuyện: TN13-B25
Giống như Matthêu (9,18-26) và Luca (8,40-56) ở đây Maccô cũng gói ghém hai mẩu chuyện vào chung một trình thuật. Ngoài ra người ta cũng tìm thấy ở đây cách mô tả Maccô vẫn thường dùng (x.3,20-35). Trình thuật diễn tiến như sau: Giairô van nài (c.21-24); chữa lành người đàn bà mắc bệnh bất trị (c.25-34) Phục Sinh con gái ông Giairô (c.35-43).
Sở dĩ các trình thuật được nối với nhau như thế là vì chúng có những điểm chung với nhau. Trước hết hai khuôn mặt chính trong trình thuật này là phái nữ: một người đàn bà và một bé gái. Và ở cả hai trường hợp, đức tin vẫn đóng vai trò trọng tâm trong tiến trình đến gặp Chúa Giêsu.
Vậy là Chúa Giêsu và các môn đệ đã về lại bờ hồ ở mạn tây thuộc vùng đất Israel. Một lần nữa, đám đông đã chờ sẵn ở đó (c.21). Họ tụ lại để xem Chúa Giêsu biểu diễn quyền năng cứu độ của Ngài. “Một ông trưởng hội đường tên là Giairô tiến đến” (c.22a). viên chức sắc Do Thái này tỏ ra rất kính trọng và tin cậy Chúa Giêsu (c.22b). lời cầu xin của ông ta biểu lộ một lòng tin sâu xa. Con gái nhỏ của ông đang trong cơn thập tử nhất sinh (c.23). Chẳng cần thốt một lời, Chúa Giêsu đủ nhạy cảm trước nỗi đau của một con người mang trong lòng niềm tin vào Ngài lớn lao như thế. Ngài liền đi theo ông ta, đàng sau là đám đông chen lần nhau tò mò sấn tới…
Và trong đoàn người chen chúc này xuất hiện một người phụ nữ. Bà ta bị rong huyết mạn tính từ mười hai năm rồi (c.25). trong các tác giả Tin Mừng, chỉ mỗi Maccô nêu rõ tình trạng vô vọng của bệnh nhân, các y sĩ thời đại tiền khoa học ấy chỉ tổ làm cho bệnh của bà ta tệ hơn mà thôi (c.26). Tuy nhiên, điều cần chú ý hơn hết ở đây là theo luật Do Thái, người phụ nữ này bị rơi vào tình trạng ô uế xét về mặt luật pháp, và tuyệt đối cấm không ai được đụng chạm với chị (Lv 15,19-27). Thế mà niềm tin mạnh mẽ đã thôi thúc bà ta rán lấn tới đụng cho được vào áo Chúa Giêsu từ phía sau lưng Ngài, dù chỉ là trong chớp nhoáng (c.27). Đối với chúng ta ngày hôm nay, cử chỉ này xem ra có vẻ khôi hài, nhưng Maccô đã cho chúng ta rõ lý do tại sao bà ta lại làm thế (c.28).
Ở phương Đông thời xưa, y phục là biểu tượng của nhân cách. Chạm vào y phục ai tức là đụng vào chính kẻ ấy. Và thời xưa ấy thường thấy có sự đụng chạm giữa người bệnh và thân thể người điều trị. Ở đây sự đụng chạm này đã có kết quả, bệnh rong huyết của người phụ nữ này dừng lại lập tức. Chi ta cảm thấy mình đã được bình phục (c.29). Về phía Chúa Giêsu, Ngài nhận thức ngay quyền năng nơi Ngài hoàn toàn hữu hiệu (c.30a). Ở đây khía cạnh sinh lý của việc lành bệnh được nhấn mạnh, tuy nhiên màn kế tiếp lại lôi kéo người ta chú ý đến vấn đề tôn giáo có liên quan. Chúa Giêsu hỏi ai đã chạm vào Ngài (c.30b). Âm giọng và câu hỏi Ngài thốt ra nghe như có vẻ trách cứ. Các môn đệ xem ra chẳng chú tâm đến câu Ngài hỏi bởi vì giữa một đám đông đang chen lấn xô đẩy tứ phía như thế mà Thầy lại hỏi: “Ai đã chạm đến Ngài?” thì quả là tức cười! Tuy nhiên, như thường lệ, Chúa Giêsu đảo mắt dò xét đám đông. Ngài muốn biết chủ nhân của hành vi táo bạo ấy (c.32). Bấy giờ người phụ nữ run sợ, thú nhận với Ngài lý do bà ta được chữa lành (c.33). Bà ta cảm thấy ái ngại, chờ đón lời quở trách của vị Tôn Sư thượng tôn luật lệ. Thế mà Chúa Giêsu lại trao cho bà sứ điệp giải phóng: “Lòng tin của con đã chữa con, hãy đi về bình an” (c.34). Lời nói của Chúa Giêsu làm nổi bật ý nghĩa sự cố này, đức tin mang lại ơn cứu rỗi mới là điều quan trọng, còn hơn cả việc lành bệnh về mặt thể lý. Không phải tình cờ mà Chúa Giêsu lập lại thành ngữ người phụ nữ đã sử dụng khi bà ta cầu mong: “Tôi sẽ được chữa khỏi” (c.28b). Và toàn bản văn trên nhằm cho thấy rõ đức tin vào Chúa Giêsu có thể mang lại kết quả là được Ngài ban cho một phép lạ hoàn toàn bất ngờ. Kể từ đó, dù cho người phụ nữ vô danh này không bao giờ được nhắc tới nữa thì Maccô cũng vẫn đã thành công trong công việc chứng tỏ Chúa Giêsu là Đấng giải thoát khỏi mọi sự dữ. Bởi vì ở đây gồm hai chiều kích vừa là căn bệnh bất trị vào thời đó, và còn hơn thế nữa, vừa hầu như bị khai trừ “ra khỏi lề luật” của cộng đoàn tôn giáo khởi nguồn từ các tổ phụ.
Tiếp nối việc chữa lành cho người phụ nữ bị xuất huyết là câu chuyện dang dở về đứa con gái của ông Giairô (c.21-23), Chúa Giêsu đang theo ông ta để tới chữa trị cho con gái của ông đang hấp hối (c,24), thì người nhà chạy tới báo cho ông ta hay đứa bé đã qua đời. Thế thì “làm phiền Thầy chi nữa” (c.35). Lời họ cho thấy rõ họ thiếu đức tin. Chúa Giêsu đâu chịu đầu hàng trước trở ngại mới xảy đến này. Ngài nói với người cha đang chịu thử thách: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (c.36). Trong trường hợp thực sự bi đát này, đây quả là lời kêu gọi hãy cẩn trọng một cách thật phi thường. Và không chần chờ thêm, Chúa Giêsu đã bắt tay vào hành động (c.37). Bên cạnh Ngài là bộ ba môn đệ được Ngài mến chuộng, ba vị này sẽ được Ngài cho tham dự vào cuộc biến hình (9,2) và cơn hấp hối của Ngài (14,33). Điều này đủ nói lên tầm quan trọng của sự kiện Chúa Giêsu sắp làm. Sau khi tới nhà ông Giairô, Chúa Giêsu đụng ngay đám người đang than khóc (c.38). Ở phương Đông tang chế thường om sòm huyên náo như thế muốn khỏa lấp đi sự bất lực của con người trước cái chết. Chúa Giêsu bước vào và muốn thuyết phục đám người than khóc nín đi. Theo Ngài thì đứa bé không chết, nó chỉ ngủ thôi (c,39b). Nghe thế người ta liền chế nhạo Ngài (c.40a). Maccô cẩn thận ghi rõ sự “không tin” của đám người này. Thế rồi Chúa Giêsu đuổi họ ra (c.40b). Và Ngài bước vào trong căn phòng đứa bé đã chết, chỉ bố mẹ đứa bé và ba môn đệ đươc phép theo vào (c.40c). Ở đây, trong bầu khí đức tin thân mật, Ngài thực hiện một cử chỉ đơn giản và thốt ra một lời cứu độ (c.41). Maccô đã cẩn thận bảo tồn những lời chính Chúa Giêsu thốt ra bằng tiếng mẹ đẻ của Chúa, tức tiếng Aram đồng thời dịch lời đó ra cho các độc giả của ông. Nên nhớ kỹ thuật dụng ngữ “hãy chỗi dậy” – nghĩa văn chương là hãy thức dậy – chính là dụng ngữ sẽ được dùng để chỉ cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu (16,6). Em bé lập tức được hồi sinh (c.42). Em đứng dậy bước đi. Sau đó các nhân chứng ra về nhưng như thường lệ Chúa Giêsu yêu cầu họ phải giữ im lặng tuyệt đối (c.43a). Sở dĩ Chúa Giêsu thường đòi buộc các người thân của Ngài giữ bí mật về Đấng Mêsia là vì đám quần chúng không đủ khả năng nhận biết Chúa Giêsu có quyền năng siêu việt trên sự chết. Quyền năng ấy chỉ có thể được nhận biết và được loan báo cho mọi người sau khi Chúa Phục Sinh. Và Maccô đã kết thúc bức tranh đầy màu sắc này bằng một chi tiết thi vị nói lên được nhiều ý nghĩa (c.43b). Toàn thể gia đình Giairô sau khi xáo động về sự cố đứa bé vừa sống lại, có thể trở về cuộc sinh hoạt bình thường và chính cô bé (12 tuổi) nữa cũng thế, như thể không có việc gì xảy ra.
Dù vẫn mang nét rung động trước hành vi nhân đạo của Chúa Giêsu, trình thuật trên vẫn để lộ ra đặc tính truyền đạt giáo lý. Maccô đang ngỏ lời với các Kitô hữu Rôma khá lâu sau biến cố Phục Sinh. Được đọc lại dưới ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu, trình thuật trên giống như một dự báo về những sự cố sẽ đến. Người ta có thể hiểu câu nói “Họ chế nhạo Ngài” là câu ám chỉ đến những giễu cợt, nhạo báng mà sau này Chúa Giêsu sẽ chịu trước mặt các trưởng tế và luật sĩ khi Ngài bị treo trên thập giá (15,31). Và đồng thời người ta cũng nhận ra cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu đã được đề cập tới qua việc Chúa làm cho cô bé đứng dậy (c.41).
Trình thuật này kết thúc một chuỗi bốn hành vi quyền phép của Chúa Giêsu (4,35-5,43). Dẹp yên bão tố, chữa lành kẻ bị quỷ ám ở Giêrasa, chữa lành người phụ nữ vô danh và bé gái con ông Giairô là những bằng chứng về quyền năng tối thượng của Chúa Giêsu trên sự sống lẫn sự chết. Người ta có thể đặt đề tựa cho toàn bộ các hành vi quyền phép này bằng câu tuyên bố trong thư thứ nhất thánh Phaolô gởi Kitô hữu Côrintô: “Hỡi thần chết, chiến thắng ngươi ở đâu” (15,55).
Và sau lời giảng dạy dựa trên dụ ngôn (4,1-34), tiến trình trên đây đã trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là một vị tiên tri quyền năng không chỉ trong lời nói mà còn trong cả hành động. Ngài hoàn toàn chiến thắng sức mạnh Thần dữ và Thần chết. Qua đó các môn đệ hẳn phải suy nghĩ về nhân cách kỳ lạ của Thầy mình!
Ở đây có đầy đủ các yếu tố của một thảm kịch. Khi có một đứa trẻ lâm bệnh, bao giờ cũng là: TN13-B26
Ở đây có đầy đủ các yếu tố của một thảm kịch. Khi có một đứa trẻ lâm bệnh, bao giờ cũng là chuyện đáng lo. Câu chuyện này cho chúng ta biết ông trưởng hội đường có đứa con gái mười hai tuổi ngã bệnh nặng. Theo tập tục Do Thái, một cô gái được kể là trưởng thành vào lúc được mười hai tuổi một ngày. Cô gái này đang đứng trước ngưỡng cửa để trở thành người lớn mà cái chết lại đến đúng vào lúc ấy thì bi thảm gấp bội.
Câu chuyện cho chúng ta biết đôi điều về ông trưởng hội đường này. Người này chắc phải là một nhân vật quan trọng, ông là chủ tịch Ban Quản Trị hội đường và là chủ tịch Hội đồng Kỳ mục có trách nhiệm thu xếp mọi việc trong hội đường cho tốt đẹp. Ông có trách nhiệm trong việc chỉ đạo các buổi hội họp, có trách nhiệm phân phối công việc và xem xét mọi việc thực hiện đúng khuôn phép và trật tự. Ông là nhân vật rất quan trọng và khả kính nhất trong cộng đồng, nhưng khi con gái ông ngã bệnh, ông nghĩ ngay đến Chúa Giêsu.
1/ Ông đã quên đi các thành kiến. Chắc trước đó ông đã coi Chúa Giêsu như một người xa lạ, một người giảng tà giáo rất nguy hiểm, bị các hội đường cấm cửa, một người mà bất luận người nào coi trọng chính thống giáo cũng phải xa tránh. Nhưng ông đủ khôn ngoan để biết từ bỏ các thành kiến của mình vào giờ cần thiết. Thật ra thành kiến có nghĩa là sự phê phán, xét đoán trước. Đó là một phán đoán đã hình thành trước khi xem xét bằng chứng, hoặc một án lệnh đưa ra vì không chịu xem xét những chứng cớ. Hầu như mỗi sự tiến bộ đều là một cuộc đấu tranh chống lại các thành kiến trước kia người ta đã có về nó. Lúc Sir James Simpson phát minh ra cách dùng Chloroform làm thuốc mê, nhất là khi sanh nở, người ta cho rằng đó là “mồi của Satan, thoạt nhìn dường như đem lại hạnh phúc đến cho phụ nữ nhưng rốt cuộc khiến họ cứng lòng và cướp mất của Thiên Chúa những tiếng kêu xin sâu xa, nhiệt thành đáng lẽ phải được dâng lên cho Ngài trong cơn hoạn nạn”. Một thành kiến ngự trị trong con người sẽ phải đóng chặt tâm trí làm mất khả năng lãnh nhận các phúc lộc.
2/ Ông đã quên đi phẩm giá của mình. Ông là trưởng hội đường mà lại đến hạ mình dưới chân Đức Giêsu, là một ông thầy giảng đạo nay đây mai đó. Lắm khi người ta phải quên đi phẩm giá của mình để cứu lấy một mạng sống, cứu lấy linh hồn của mình. Trong câu chuyện xưa được kể lại, có trường hợp của Naaman (2V 5). Ông ta phải đến thưa với Êlisê để được chữa khỏi bệnh phong. Đơn thuốc Êlisê kê ra là ông ta phải xuống sông Giođan tắm bảy lần. Thật là cách đối xử hết sức tồi tệ với ngài đại tướng nuớc Syri. Êlisê cũng không đích thân truyền thông điệp ấy, mà sai đầy tớ ra bảo Naaman như vậy. Hơn nữa, các sông nước bên Syri không tốt hơn nước của con sông Giođan bé nhỏ, ngầu đục hay sao? Đó là những ý nghĩ đầu tiên của Naaman, nhưng ông ta biết dẹp tánh kiêu ngạo của mình qua một bên và bệnh phong của ông ta được sạch.
Có một câu chuyện nổi tiếng kể lại về Diogenes một triết gia phái hoài nghi. Ông ta bị bọn cướp bắt và đem bán làm nô lệ. Khi quan sát đám người đứng chung quanh để trả giá mình, ông ta nhìn vào một người và nói “Hãy bán tôi cho ông này đi, ông ta đang cần một ông thầy (hay là chủ)”. Người ấy mua ông, giao cho ông làm quản gia và dạy dỗ các con mình. Ông ta thường nói “Ngày mà Diogenes đã đặt chân vào nhà tôi, đúng là một ngày tốt lành”. Điều đó quả đúng như vậy, nhưng nó đòi hỏi việc phải từ bỏ phẩm giá. Tiếc thay, con người thích khư khư giữ chặt phẩm giá của mình mà đành đánh mật ân huệ.
3/ Ông đã quên đi tính kiêu ngạo. Việc đến và xin Đức Giêsu, người Nazaret giúp mình là một nỗ lực ý thức về sự hạ mình mà người này phải làm. Thật chẳng ai muốn phải mắc nợ người khác cả. Chúng ta muốn tự lo liệu lấy cho đời sống mình. Nhưng bước đầu tiên của đời sống là nhận thức mình chẳng có thể làm gì khác hơn là chịu mắc nợ Thiên Chúa.
4/ Đến đây chúng ta bước vào địa hạt của suy luận, vì theo thiện ý, chúng ta có thể bảo người này đã quên hết bạn bè. Rất có thể họ sẽ chống đến cùng việc ông cầu cứu Chúa Giêsu. Điều khá lạ lùng là ông đích thân đến với Chúa Giêsu chứ không sai người nhà. Điều cũng khó hiểu là ông lại chịu bỏ mặc đứa con gái đang hấp hối nằm đó một mình. Có lẽ sở dĩ ông ta phải đi vì chẳng còn ai khác chịu đi. Người nhà ông đều tỏ ra nghi ngờ và bảo ông rằng đừng đi tìm ông Giêsu đó làm gì cho mất công. Theo tinh thần câu chuyện, nếu ông không đi tìm Chúa Giêsu để xin Ngài giúp đỡ, họ còn hài lòng hơn. Người này đã bất chấp dư luận và thách đố cả những lời khuyên bảo của người nhà khi ông ta đến kêu cứu Chúa Giêsu. Nhiều người đã trở thành khôn ngoan nhất khi các bạn bè khôn ngoan của họ trên đời này nghĩ họ đang hành động như người ngu dại.
Đây là một con người đã quên hết mọi sự, trừ việc muốn được Chúa Giêsu cứu giúp mình, chính vì ông biết quên hết cho nên ông nhớ mãi rằng Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế.
HY VỌNG CUỐI CÙNG CỦA KẺ ĐANG ĐAU KHỔ (Mc 5,25-29)
Người đàn bà trong câu chuyện này mắc một chứng bệnh hết sức thông thường nhưng rất khó chữa trị. Chính kinh Talmud đã đề ra không dưới mười một cách chữa trị bệnh ấy. Có vài phương pháp là tốt nhưng phần lớn hoàn toàn do mê tín, chẳng hạn như mang tro của một trứng chim đà điểu đựng trong miếng vải lãnh rách vào mùa hè và trong miếng vải bông rách vào mùa đông, hoặc mang theo trong người một bông lúa mạch lượm từ đống phân của con lừa cái lông trắng. Chắc chắn bà này đã khổ công làm thử mọi thứ thuốc, và ngay cả thử những cách trị liệu mê tín này. Điều rắc rối là chứng bệnh đó chẳng những làm hại sức khoẻ, mà còn khiến bà luôn luôn bị ô uế, ngăn trở việc thờ phượng Thiên Chúa, và giao thiệp với bè bạn của bà nữa (Lv 15,25-27).
Ở đây, Maccô có một câu chễ giễu nhẹ nhàng mấy ông thầy thuốc. Bà ta đã tìm đến đủ mặt các lương y rồi, nhưng tiền mất tật mang, chẳng những bệnh không thuyên giảm mà lại nặng thêm. Văn học Do Thái có nhiều ám chỉ lý thú về mấy ông y sĩ. Có một nhân vật bảo “Tôi thường đến với một thầy thuốc mong được chữa bệnh, nhưng ông ta càng xức dầu, bôi thuốc cho tôi, thì hai mắt tôi càng mờ, cho đến khi tôi đui hẳn” (Tb 2,10). Trong khi Mishnah có một đoạn tóm tắt luật truyền thống, đề cập đến những nghề mà người ta có thể truyền lại cho con trai mình. Rabbi Giuđa nói “Bọn “tài” lừa phần đông đều gian ác, bọn “tài” lạc đà đa số là dân thường, thuỷ thủ phần lớn là lương thiện, kẻ tốt nhất trong các thầy thuốc đáng ở địa ngục, còn tên đồ tể quê mùa hơn hết cũng là phe đảng của dân Amaléc”. Nhưng rất may và cũng công bằng, là cũng có những tiếng nói ngược lại. Một trong những sự bày tỏ lòng kính trọng vĩ đại nhất được dành cho các thầy thuốc được nêu trong “Sách của Sirach (một trong ccac1 thứ kinh được viết vào giữa Cựu Ước và Tân Ước)” chương 38,1-15 như sau:
“Hãy bồi dưỡng thầy thuốc tuỳ theo nhu cầu của ông ta, vì ông ta cũng được Thiên Chúa tấn phong. Chính từ nơi Thiên Chúa mà thầy thuốc nhận được sự khôn ngoan, và từ nơi nhà vua mà ông ta được bổng lộc.
Tài năng của người thầy thuốc khiến ông ta ngẩng đầu lên khỏi vai, có thể đứng trước mặt những người quý phái. Thiên Chúa đã khiến thuốc men ra từ đất, vậy người có nhận thức đừng chối từ chúng.
Nhờ thuốc men, thầy thuốc xoa dịu nỗi đau thương, cũng vậy, nhà làm thuốc chế ra dầu, để công trình của Ngài không bao giờ ngưng lại, cũng như sức khoẻ không bị cất khỏi mặt đất.
Hãy dành cho thầy thuốc một chỗ, cũng đừng để ông ấy ở xa vì chúng ta cần đến ông. Có lúc chỉ có tài năng của ông mới tạo được sự giúp đỡ cần thiết. Vì ông cũng cầu khấn Thiên Chúa, giúp cho việc chữa bệnh của mình thành công, và việc chữa trị sẽ khiến bệnh nhân bình phục”.
Nhưng về chứng bệnh của người phụ nữ này thì các y sĩ đều bó tay và bà có nghe nói về Chúa Giêsu. Nhưng bà gặp chuyện khó xử: chứng bệnh của bà thật rắc rối. Công khai ra trước đám đông là việc bà không thể làm được, do đó bà quyết định chỉ lén chạm vào Ngài mà thôi. Vào thời Chúa Giêsu, tất cả những người Do Thái ngoan đạo đều mặc một chiếc áo khoác ngoài có bốn cái tua, ở mỗi góc vạt áo có một cái. Đó là theo sách Dân số 15,38-40, để khi nhìn thấy chúng thì người khác và bản thân người mặc áo nhớ đây là một người thuộc tuyển dân của Thiên Chúa. Các tua đó là dấu hiệu của một người Do Thái tin kính. Người đàn bà nọ đã chen đám đông, lén đến rờ vào một trong các tua áo ấy, và sau khi đã rờ vào, bà kinh ngạc thấy mình được lành bệnh.
Đây là một phụ nữ đã tìm đến Chúa Giêsu như một lối thoát cuối cùng, sau khi đã thử tất cả những gì đời này có thể cung cấp, cuối cùng bà ta phải thử chính Chúa Giêsu. Biết bao người đã đến với Chúa Giêsu khi chính họ lâm vào bước đường cùng. Có lẽ họ từng chiến đấu với cám dỗ cho đến khi sức cùng lực tận, để chỉ còn đưa bàn tay lên và kêu lớn “Lạy Chúa, xin cứu lấy con, con sắp chết mất”. Có lẽ người ấy từng chiến đấu với một trọng trách nào đó cho đến khi kiệt sức, cho đến khi cuối cùng, người ấy chỉ còn có thể kêu cứu một sức mạnh không phải là sức lực riêng mình. Có lẽ người ấy từng khổ tâm nhọc sức để đạt được điều kiện vẫn ám ảnh mình, để thấy cái lý tưởng ấy cứ lùi xa dần cho đến khi thất vọng hoàn toàn. Không ai chịu đến với Chúa Cứu Thế bằng áp lực của hoàn cảnh, nhưng có nhiều người phải đến bằng con đường đó, và cả khi chúng ta đến với Ngài như thế, Ngài cũng chẳng bao giờ để chúng ta ra về tay không.
GIÁ PHẢI TRẢ ĐỂ CHỮA BỆNH (Mc 5,30-34)
Đoạn sách này có nói với chúng ta về ba hạng người.
1/ Chúa Giêsu. Nó cho ta biết giá trị phải trả để chữa bệnh. Mỗi lần Chúa Giêsu chữa lành cho một người, có cái gì đó ra khỏi Ngài. Đây là một định luật phổ quát cho đời sống. Chúng ta sẽ chẳng làm nên chuyện gì lớn lao, nếu không sẵn sàng đặt một cái gì của chính bản thân, chính đời sống và chính tâm hồn chúng ta vào đó. Không một nhạc sĩ nào có thể chơi đàn thật hay nếu chỉ trình tấu khúc nhạc với một kỹ thuật hoàn hảo, ngoài ra chẳng có thêm gì nữa. Sự trình tâú chẳng có gì là vĩ đại nếu cuối cùng nhạc sĩ không kiệt lực vì đã dốc đổ chính bản thân mình. Một kịch sĩ sẽ chẳng bao giờ thể hiện trình diễn cách xuất sắc, nếu anh chỉ lập lại các câu nói cho đúng, làm những động tác phải lẽ, như một người máy. Khi anh khóc trên sân khấu, nước mắt anh ta phải là nước mắt thật, các cảm xúc phải là cảm xúc thật, phải có một cái gì từ chính người anh ta tuôn đổ vào đó khi diễn xuất. Không có một nhà truyền giáo nào giảng một bài giảng có hồn, nếu người ấy không bước xuống khỏi toà giảng với cảm giác đã có một cái gì đó trong người mình như bị vắt cạn, vắt kiệt đi.
Nếu chúng ta sẵn sàng trợ giúp người khác, chúng ta cũng phải sẵn sàng chịu hao tốn, chịu mất đi một điều gì đó của bản thân ta. Mọi sự đều do thái độ của chúng ta đối với tha nhân. Mathew Arnold, nhà phê bình văn học nổi tiếng có lần đã nói về giới trung lưu “Hãy nhìn giới ấy mà xem, nhìn quần áo họ mặc, sách báo họ đọc và cái tạo thành các ý tưởng của họ, liệu có khoản tiền nào bù trừ nổi cho việc họ trở thành người như thế chăng?”. Ý của câu nói ấy có thể đúng, có thể không và vấn đề chính là lòng khinh ghét đã phát sinh. Ông đã nhìn những người này như một thứ đáng ghê tởm; và không một ai nhìn con người theo cách đó lại có thể giúp đỡ họ được.
Mặt khác, hãy nhớ xem tâm tình của Môsê khi thấy dân Israel đúc một con bò vàng lúc ông đang ở trên đỉnh núi. Hãy nhớ lại ông đã xin Chúa xoá tên ông khỏi sổ trường sinh, miễn sao dân được tha tội. Hãy nhớ lại, Phaolô đã nói thà ông chịu hư mất, miễn sao cả thế giới ngoại đạo đang hư mất kia được cứu.
Chỗ vĩ đại của Chúa Giêsu là Ngài sẵn sàng trả giá để chữa lành cho người khác, và giá ấy là một phần sự sống của Ngài bị tiêu hao. Chúng ta chỉ thật sự noi dấu chân Chúa khi phải sẵn sàng chịu hao phí vì kẻ khác, chẳng những là của cải vật chất mà cả đến sức lực, linh hồn nữa.
2/ Các môn đệ. Tại đây chúng ta thâý cách sống động về giới hạn của điều vẫn được gọi là lương tri. Các môn đệ của Chúa có quan điểm theo lương tri. Đi giữa một đám đông như thế làm sao Chúa Giêsu tránh khỏi bị chèn ép, đụng chạm? Đó là cách nhìn mọi sự việc bằng cảm giác. Ở đây đã nổi bật sự kiện lạ lùng và đau lòng là họ chẳng hề nhận thấy hay nhận thức được rằng khi chữa bệnh cho người ta, Chúa Giêsu đã phải trả giá nào đó.
Một trong những tấn thảm kịch ở đời là sự không nhạy cảm của tâm trí con người. Chúng ta thường chẳng nhận biết chút gì về chuyện người khác đang trải qua. Có lẽ bản thân ta chưa hề kinh nghiệm gì về việc đó, nên ta chẳng bao giờ nghĩ một ai đó đã phải trả một giá như thế nào. Có thể một việc gì đó đã đến quá dễ dàng cho ta, nên chẳng bao giờ ta hay biết rằng người khác phải nỗ lực đến mức nào đó mới có thể có được như thế. Chính vì thế lắm khi chúng ta gây tổn thương trầm trọng cho những người mà ta yêu mến. Người ta có thể cầu nguyện để biết cư xử theo lương tri, nhưng nhiều khi chúng ta phải cầu nguyện để có thể nhạy cảm, hiểu biết sáng suốt để thấy được những điều ẩn kín trong lòng người khác.
3/ Người đàn bà đã được chữa lành. Bài học này cho chúng ta biết về sự xưng tội cất được gánh nặng trên con người. Mọi sự trước đó thật khó biết bao, nhục nhã biết bao. Nhưng sau khi nói hết ra sự thật với Chúa Giêsu, nỗi kinh hoàng run rẩy đều tiêu tan, một đợt sóng thoải mái, nhẹ nhõm tràn vào lòng bà. Sau khi đã xưng nhận tình cảnh đáng thương của mình, người đàn bà đã nhận thấy sự nhân từ, dịu hiền của Chúa.
Xưng tội với Đấng vốn thương cảm với chúng ta như Chúa Giêsu chẳng có gì là khó khăn, nặng nề. Và chỉ một mình Ngài mới ban ơn tha thứ toàn diện, chữa lành kỳ diệu, cưú chuộc tâm linh trọn vẹn và phục hồi nhân phẩm nhanh chóng nhất.
THẤT VỌNG VÀ HY VỌNG (Mc 5,35-39)
Các tập tục về tang chế của người Do Thái rất sinh động, tỉ mỉ, nhưng thật ra mọi điều đó chỉ nhằm tăng thêm cô quạnh của sinh ly tử biệt.
Ngay sau khi có người qua đời, thì tiếng khóc vang lên để mọi người đều hay biết là thần chết vừa hành động. Việc than khóc sẽ tái diễn bên cạnh phần mộ. Những người than khóc vây quanh thi thể người chết, thỉnh cầu từ đôi môi im lặng đó một câu trả lời. Họ đấm ngực, bứt tóc, xé áo mình.
Việc xé áo được thực hiện chiếu theo một số luật lệ và quy tắc. Nó được thi hành trước giây phút cuối cùng, khi xác chết bị che khuất không còn nhìn thấy được nữa. Áo bị xé đến chỗ trái tim, cho đến khi da thịt banh ra nhưng không được xé sâu qua rốn. Với bậc cha mẹ, thì chỗ áo bị xé ở về phía bên trên chỗ quả tim về phía trái, còn đối với những người khác thì xé phía bên mặt. Phụ nữ xé áo trong chỗ riêng tư, sau đó, mặc ngược áo từ sau ra trước, tiếp theo là xé áo ngoài, để da thịt khỏi phơi bày ra. Áo bị xé được mặc luôn suốt ba mươi ngày tiếp theo đó. Sau bảy ngày chiếc áo được may sơ sài lại, sao cho chỗ khâu lại cũng được thấy rõ ràng. Sau ba mươi ngày, chiếc áo được may lại hẳn hoi.
Những kẻ thổi sáo đóng vai trò chính yếu trong tang lễ. Hầu như khắp nơi thuộc thế giới thời cổ từ Roma đến Hy Lạp, Phênixi, ASyri và Do Thái, than khóc bằng tiếng sáo, được kết hợp chặt chẽ với chết chóc và chuyện đau buồn. Luật quy định rằng dù người đàn ông nào nghèo đến đâu chăng nữa khi làm đám tang cho vợ, cũng phải có ít nhất hai người thổi sáo. W. Taylor trong bộ từ điển về “Chúa Cứu Thế và Phúc Âm” do nhà xuất bản Hastinh ấn hành, đã dẫn chứng hai thí dụ thú vị về việc sử dụng phường thổi sáo, cho thấy tập tục ấy đã được phổ biến rộng rãi đến mức độ nào. Trong tang lễ của Claudius, hoàng đế Roma có phường thổi sáo. Năm 67 SCN, khi tin Jotapata thất thủ vào tay quân đội Roma được đưa đến Giêrusalem, sử gia Josephus kể lại rằng: “Hầu hết dân chúng thuê phường thổi sáo để hướng dẫn việc than khóc của họ”.
Tiếng sáo kêu gọi người chết, áo xống bị xé rách, bứt đầu, tạo cho nhà tang thành một nơi khiến ai nấy phải xúc động đau lòng.
Khi có người trong nhà chết, kẻ chịu tang bị cấm làm việc, không xức dầu và không mang giày dép. Cả đến những người nghèo nhất cũng phải nghỉ việc ba ngày. Người ấy không được đi ra ngoài mà mang theo hàng hóa, lệnh cấm làm việc cũng lan cả đến tôi tớ của người ấy. Người ấy ngồi trùm đầu lại, không được cạo râu hoặc làm “Bất cứ việc gì để bản thân được thoải mái, dễ chịu”. Người ấy không được đọc sách luật và ngôn sứ, vì đọc các sách ấy là một niềm vui. Người ấy được đọc sách Gióp, Giêrêmia, Aica. Chỉ được ăn trong nhà mình, phải hoàn toàn kiêng cữ rượu thịt, cũng không được phép rời khỏi thành phố hay làng mình đang ở trong ba mươi ngày. Phong tục không cho phép người ấy ăn tại bàn ăn, phải ngồi bệt trên sàn nhà, dùng một chiếc ghế ngồi làm bàn ăn. Theo phong tục vẫn còn thịnh hành ngày nay, người ấy phải ăn trứng chấm tro với muối.
Cũng có một phong tục kỳ dị. Phải đổ hết mọi thứ nước trong nhà và cả ba nhà bên cạnh ở hai phía, vì người ta cho rằng thần chết gây ra cái chết bằng một lưỡi gươm nhúng trong nước lấy từ nơi gần tầm tay. Cũng có một tập tục rất cảm động, với người chết còn quá trẻ, chưa lập gia đình, thì một lễ cưới được thực hiện như một phần trong tang lễ. Suốt thời gian chịu tang, kẻ cư tang được miễn giữ luật, vì người ấy được kể như đang bị bối rối, bị điên đầu vì nỗi buồn khổ gây ra.
Kẻ chịu tang phải đến hội đường. Khi người ấy bước vào, tất cả sẽ nhìn thẳng mặt anh ta và nói “Đáng chúc phúc Đấng an ủi kẻ bị tang chế”. Sách Kinh của Do Thái giáo, có một bài cầu nguyện đặc biệt dùng trước bữa ăn nhà có tang: “Đáng chúc phúc Chúa là Chúa, là vua toàn cõi vũ trụ, Thiên Chúa của các tổ phụ chúng tôi. Đấng Taọ Hóa, Đấng Cứu Chuộc, Đấng khiến chúng tôi nên thánh, Đấng Thánh của Giacóp. Vua của sự sống, Đấng vốn thánh thiện và làm điều thánh thiện. Thiên Chúa của chân lý, Vị quan tòa chân chính, xét đoán trong sự công chính, Đấng đem linh hồn con người ra phán xét, một mình Ngài cai trị cả vũ trụ, làm việc đó theo ý Ngài và mọi đường lối Ngài đều dẫn đến phán xét, còn chúng tôi là dân Ngài, các tôi tớ của Ngài, trong mọi sự chúng tôi cảm tạ, tán tụng Ngài, Đấng che chở mọi tai họa cho dân Israel, sẽ che chở chúng tôi trong tai họa này và do việc tang chế này sẽ đem đến cho chúng tôi sự sống bình an. Lạy Thiên Chúa chúng tôi, xin an ủi toàn thể kẻ tang chế của Giêrusalem, đang khóc lóc vì nỗi đau buồn của chúng tôi. Xin an ủi họ trong tang chế của họ, khiến họ được vui vẻ trong cơn đau đớn như một người được mẹ mình vỗ về an ủi vậy. Đáng cảm tạ Ngài là Thiên Chúa, là Đấng an ủi của Sion, Đấng sẽ lập lại Giêrusalem.
Bài cầu nguyện ấy có từ trước thời Tân Ước cho nên chúng ta đọc câu chuyện về cô bé gái chết ở đây trong bối cảnh xa xưa, nhằm diễn tả trọn vẹn nỗi đau buồn đó.
CHỖ KHÁC NHAU MÀ ĐỨC TIN TẠO RA (Mc 5,40-43)
Có một điều thật đẹp đẽ ở đây. “Talitha kum” là tiếng Aram, có nghĩa là “Hỡi con gái nhỏ, hãy trỗi dậy”. Làm thế nào câu nói bằng tiếng Aram đó có thể chen vào quyển sách Phúc Âm viết bằng chữ Hy Lạp này? Chỉ có một lý do duy nhất, là Maccô đã nhận phần tài liệu này từ Phêrô. Ngay đến Phêrô, ít nhất, trong lúc sống ngoài xứ Palestine, ông cũng phải nói tiếng Hy Lạp. Nhưng Phêrô đã có mặt chính thức lúc xảy ra sự việc, ông vốn là một trong ba môn đệ thân cận đã được chọn để cùng đi với Chúa Giêsu đến đó. Hẳn ông đã không bao giờ quên được giọng nói của Chúa Giêsu. Trong tâm trí và ký ức ông vẫn nghe vang vọng “Talitha kum” suốt cả cuộc đời. Tình yêu thương, vẻ hiền từ, âu yếm trong câu nói ấy đã ở trong ông mãi mãi, cho nên ông không thể nào suy nghĩ về nó bằng tiếng Hy Lạp, vì ký ức ông chỉ nghe nó bằng giọng nói của Chúa Giêsu, bằng chính lời lẽ mà Chúa Giêsu từng thốt ra.
Đoạn sách này là một câu chuyện của những tương phản.
1/ Có tương phản giữa tuyệt vọng của những kẻ tang chế đang khóc than với niềm hy vọng của Chúa Giêsu. Họ bảo “Còn làm phiền thầy chi nữa? Bây giờ còn ai làm được gì nữa đâu? Chúa Giêsu phán “Đừng sợ, chỉ tin mà thôi”. Một bên là tiếng nói tuyệt vọng, bên kia là tiếng nói hy vọng.
2/ Có tương phản giữa cơn bối rối vô bờ bến của những kẻ than khóc và vẻ thanh thản bình tĩnh của Chúa Giêsu. Họ khóc lóc than vãn, bứt tóc, bứt đầu, xé áo trong cơn bối rối cực độ. Chúa thì hoàn toàn bình thản, tự chủ.
Tại sao có chỗ khác nhau ấy? Do Chúa Giêsu hoàn toàn tin cậy vào Thiên Chúa. Những điều bất hạnh tệ hại nhất con người có thể đối phó cách can đảm và nhẹ nhàng nếu chúng ta đối phó cùng với Thiên Chúa. Chúng cười nhạo Chúa Giêsu vì tưởng rằng niềm vui của Ngài vô căn cứ, và Ngài đã bình thản sai lầm. Nhưng sự kiện quan trọng trong đời sống Kitô hữu là điều xem như hoàn toàn bó tay đối với loài người thì Thiên Chúa làm được, điều mà xét trên lãnh vực con người là việc không hề dám mơ ước đã trở thành hạnh phúc thực sự khi có hiện diện của Chúa. Chúng cười nhạo Ngài, nhưng cười nhạo đó trở nên mối kinh ngạc sững sờ khi nhận biết được điều Thiên Chúa làm. Họ tin tưởng sai lầm. Họ nghĩ Chúa Giêsu thất bại, đứa bé đã vĩnh viễn ra đi. Bây giờ họ sửng sốt khi thấy Chúa Giêsu đã cứu sống, nó bước đi ngay truớc mặt họ. Chẳng có gì bất khả đối diện và chinh phục trong tình yêu Thiên Chúa được thể hiện trong Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Đông đảo dân chúng tụ lại quanh Người. Lúc đó Người đang ở trên bờ biển hồ. Có một ông: TN13-B27
Đông đảo dân chúng tụ lại quanh Người. Lúc đó Người đang ở trên bờ biển hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta phủ phục dưới chân Người, và năn nỉ: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đặt tay lên cháu, để nó qua khỏi và được sống". Đức Giêsu liền ra đi với ông. Đông đảo dân chúng đi theo và chen lấn Người.
Tôi bắt đầu đọc lại đoạn này, tả một cảnh rất sinh động. Thánh Maccô ghi lại những lời rao giảng của Thánh Phêrô, một con người thực tế và có óc quan sát đúng đắn. Tôi tưởng tượng khung cảnh; tôi nhìn ngắm con người, tôi ghi nhận những sự kiện như trong một phim xi nê, hay hơn nữa tôi tưởng tượng tôi là một trong những người tham dự, đang ở giữa đám đông.
Có hai chi tiết đáng lưu ý: ông Giairô "khẩn khoản nài xin, khá lâu. Đức Giêsu bề ngoài không đáp tiếng nào, nhưng liền ra đi với ông ấy" và chúng ta thấy hai người cùng sánh vai lên đường với đám đông.
Trong tiếng Hêbdrơ tên Giairô (Yair) có nghĩa là "người soi sáng" hay là "người đánh thức".
Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao năm khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người.
Thánh Maccô nhấn mạnh đến tình trạng tuyệt vọng của người đàn bà này: Bà đã đau đớn “rất nhiều”, chữa trị "lâu rồi", hao tổn "cả tài sản" mà "không thuyên giảm chút nào"; bệnh tình lại có phần "tệ hơn". Điều này muốn nhấn mạnh cho chúng ta rằng, Đức Giêsu có một quyền lực mà không một phương thế nhân loại nào có thế vượt qua được. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một đức tin sâu xa, ngõ hầu chúng con không bao giờ tuyệt vọng!
Vì bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ khỏi".
Theo tâm thức người Do Thái thời đó, người đàn bà này bị coi như "ô nhơ" theo luật Môisen (Lv 15,25) và bà có thể làm cho những người khác cũng bị nhơ chỉ vì tiếp xúc với bà. Tôi cố hình dung ra thái độ của người đàn bà đáng thương này, vừa xấu hổ vừa e sợ: Bà sờ vào áo choàng của Đức Giêsu và cảm nghĩ như mình đang làm một việc bị cấm. Người có thể khước từ sự đụng chạm nhơ bẩn này. Và nếu đám đông biết điều này, mọi người sẽ gớm giếc tránh xa bà.
Và tôi ngắm nhìn Đức Giêsu, Đấng "đã đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì bị hư mất". Người đón tiếp những kẻ nghèo nhất. Không có một sự khốn khổ nào, dù dấu kín, xấu hổ đến đâu mà bị Đức Giêsu xua đuổi. Không có một luật nào đứng vững trước Đức Giêsu, khi cần phải cứu một người.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi thói quen câu nệ lề luật, khỏi mọi sợ hãi và xấu hổ.
Tức khắc máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra. Người liền quay lại đám đông mà hỏi: "Ai sờ vào áo tôi vậy?" Các môn đệ thưa: Thầy coi dân chúng chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: "Ai đụng vào tôi?" Đức Giêsu ngó quanh để xem người phụ nữ nào đã làm điều đó".
Chúa không muốn chỉ tiếp xúc với đám đông vô danh.
Người muốn có một sự tiếp xúc cá biệt, Người cũng muốn cho người đàn bà vượt lên trên sự tin tưởng mang tính ma thuật dị đoan ("nếu tôi sờ được áo Người, tôi sẽ được lành mạnh"), để bước vào một đức tin đích thực là phải nhận biết con người Đức Giêsu - Chúng ta nên nhớ rằng, Đức Giêsu là một nhà sư phạm thật tài ba: Người lưu ý đến đức tin chưa hoàn hảo và hồn nhiên, nhưng Người cũng muốn chúng ta đạt đến một đục tin trưởng thành và hữu lý hơn.
Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa thương yêu con với thực trạng của con. Xin Chúa giúp chúng con trở nên như Chúa muốn.
Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và trình bày hết sự thật. Người nói với bà ta: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy đi về bình an và khỏi hẳn bệnh".
Hai chữ "khỏi bệnh", "được cứu rỗi". Những phép lạ của Đức Giêsu, dưới cái nhìn của người Kitô hữu "Sau biến cố Phục sinh", là những điềm loan báo "sự cứu rỗi do đức tin" mà chúng ta được hưởng nếu ta nhận biết Người.
Vâng, đối với Đức Giêsu, điều cốt yếu không phải là điều "huyền diệu”, phép lạ, nhưng là sự cứu rỗi. Vậy tôi cầu xin Chúa những gì?
Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo ông: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?". Tình cờ nghe được câu nói đó, Đức Giêsu bảo ông trưởng hội đường: "ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi".
Đối với Đức Giêsu, chính đức tin mới quan trọng: ông Giai-rô đã chứng kiến sự hiện diện trước đó. Thánh Maccô kể lại cho chúng ta hai phép lạ này, như lồng vào nhau để cho chúng ta một cảm tướng về sự tăng trưởng trong đức tin: Tin rằng Đức Giêsu có thể chữa lành bệnh tật, tin rằng Người có thể làm cho kẻ chết sống lại.
“Ông còn phiền Thầy làm gì?". Đối với người đồng thời với Đức Giêsu. Họ không thể nghĩ rằng, xin Chúa làm cho người chết sống lại là một việc có thể được. Chữa bệnh thì được, nhưng hồi sinh kẻ chết thì không phiền Thầy làm gì vì điều đó không thể làm được. Điều này nhấn mạnh đến sự nghịch lý trong đức tin.
Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan. Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường.
Một lần nữa, Đức Giêsu không muốn làm điều gì bề ngoài dễ gây kích động. Mỗi lần có thể được, Người kín đáo làm phép lạ. Hôm nay, Người chỉ dẫn theo ba nhân chứng có đủ tư cách nhất. Ba vị này cũng sẽ là nhân chứng lúc Người biến hình (Mc 9,12) và lúc Người hấp hối (Mc 14,33). Chúa không muốn quyền lực của Chúa trở thành một quyền lực ma thuật: Chính Người cũng sẽ có kinh nghiệm đau thương về cơn hấp hối và cái chết. Nhưng điều này đã xảy ra cho cô bé gái. Sự cứu rỗi duy nhất và vĩnh viễn đó là cuộc vượt qua cuối cùng, để bước vào cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Người bước vào nhà và bảo họ: "Sao lại khóc lóc om sòm như vậy? Con bé có chết đâu nó ngủ đấy?". Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết.
Đức tin của ông Giai-rô và của ba Tông đồ bị thử thách nặng nề do thái độ không tin của đám đông chung quanh, và việc họ nhạo báng Đức Giêsu.
Rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người vào nơi nó đang nằm, Người cầm lấy tay nó.
Ôi bàn tay của Đức Giêsu đang làm những điều kỳ diệu! Bàn tay Người đang nắm một bàn tay đã chết. Sự tiếp xúc với thân thể Chúa cũng thế. Khi chúng ta rước Chúa, mầu nhiệm sống động này được tái thực hiện.
Và Người nói: "Talitha Kum". Chỉ mình Maccô ghi lại lời này bằng tiếng Aramên, tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu. Maccô biết đ ược chuyện này do Thánh Phêrô, người hiện diện ở đó thuật lại. Chính những chi tiết nhỏ ấy cho thấy Phêrô là người đã mục kích. Những kỷ niệm này được một nhân chứng đã nghe, đã xúc cảm ghi giữ. Thực vậy, suốt đời Thánh Phêrô luôn nhớ hai chữ "Talitha Kum".
Nghĩa là "Này con, Thầy truyền cho con chỗi dậy đi!".
Thực ra, hai chữ tiếng Aramên này có thể dịch ngắn hơn nhiều: "Bé gái, đứng dậy". Nhưng Thánh sử Maccô đã muốn diễn dịch dài hơn và đã dùng một từ chủ yếu của những Kitô hữu đầu tiên. Sau “Phục sinh": "Hãy chỗi dậy", tiếng Hy Lạp là "egeiré", có nghĩa là “thức dậy". Đó là từ đã được dùng để nói về sự Phục sinh của Đức Giêsu. Chữ này có một ý vị Phục sinh. Đó là chữ đối nghĩa với "ngủ” mà Đức Giêsu đã dùng trước đây để nói về cái chết. Vâng, đối với Đức Giêsu, cái chết không còn thật sự là chết nữa, đó là một giấc ngủ.
Một bài Thánh ca rất xưa của những người Kitô hữu đầu tiên được hát trong nghi lễ rửa tội như sau: "Hỡi người đang ngủ thức dậy đi, ngày đã sáng lên rồi. Từ cõi chết hãy đứng lên. Chúa sẽ chiếu sáng trên ngươi". (Chúng ta đã nói là chữ faire, có nghĩa là "người soi sáng", "người đánh thức", đấy là biểu tượng của phép rửa tội) (Ep 5,14).
Đó là Phép rửa của tôi. Đó là sự sống của tôi, người đã được rửa tội. Tôi có tin thực rằng tôi đã nhận được cùng một ơn lành như cô bé này không? Qua phép rửa tội của tôi tôi đã đi từ cái chết đến sự sống. Cuộc sống vĩnh cửu của tôi đã bắt đầu. Phải chăng tôi là một người không ngừng "chỗi dậy", "thức dậy"? Tôi có nghe Đức Giêsu cũng nói lại với tôi: "Đứng lên", "chỗi dậy", "thức dậy", "sống lại" không? Nói những tình trạng chết chóc mà đức tin giải thoát cho tôi là gì?
Con bé liền đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười tuổi. Vừa thấy thế, người ta kinh ngạc sững sờ. Đức Giêsu căn dặn họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho đứa trẻ ăn.
Sự sống chiến thắng cái chết, đặt những người chứng kiến cảnh này vào trung tâm của huyền nhiệm: Họ bị “xuất hồn" kinh ngạc tột độ. Lệnh Chúa truyền phải im lặng lại càng nhấn mạnh cảm tưởng bí mật mà chúng ta đã có: Mầu nhiệm đích thực của Đức Giêsu không thể hiểu được đối với những người không có đức tin. Cho người ta thấy "phép lạ" bề ngoài là vô ích, người ta sẽ cho đó là "trò ma thuật", và Đức Giêsu không muốn người ta coi Người như một nhà phù thủy. “Người bảo cho cô bé ăn". Đó không chỉ là một sự chăm sóc ưu ái và cảm động. Trong biểu tượng của phép rửa, người "đi từ cõi chết đến cõi sống nhờ phép rửa, được đưa vào bàn Tiệc Thánh Thể: Một người sống thì phải ăn, một người đã được rửa tội phải ăn "Bánh hằng sống", Thánh Thể và Phép rửa tội liên kết mật thiết với nhau. Đó là Mầu nhiệm Đức Tin.
CHỮA LÀNH MỘT PHỤ NỮ BĂNG HUYẾT VÀ PHỤC SINH CON GÁI GIAIRÔ
1) Ơn cứu rỗi được ban trong Chúa Giêsu Kitô.
Cả hai phép lạ đều cho thấy ơn cứu rỗi được ban cho con người. Giairô đến xin Chúa Giêsu: TN13-B28
Cả hai phép lạ đều cho thấy ơn cứu rỗi được ban cho con người. Giairô đến xin Chúa Giêsu cho con gái ông "được sống và được cứu”; bà băng huyết tìm cách sờ đến Chúa Giêsu vì tin chắc sẽ được cứu. Cả hai đã kinh nghiệm về sự bất lực của con người trong việc tìm lấy ơn cứu rỗi. Chính trong ý thức ấy đã vạch ra niềm tin vào Chúa Kitô, Đấng duy nhất có thể cứu con người ra khỏi tình thế tuyệt vọng mà trong đó họ đã chìm đắm. Nhưng đức tin không phải là một sự hiển nhiên, vì Chúa Kitô bị che dấu giữa đám đông đang mỉa mai Người và đang chuẩn bị từ bỏ Người. Người là Đấng duy nhất có thể cứu, nhưng cũng chỉ những ai tin mới phân biệt được trong sự yếu đuối phàm nhân của Người sức mạnh của Thiên Chúa và như thế mới nhận được ơn cứu rỗi. Trong Giairô và người đàn bà bị băng huyết, Maccô trình bày cho ta hai tấm gương giống nhau về thái độ tự ý của kẻ tin và việc Chúa Giêsu trả lại họ. Bên kia các phép lạ của thể lý, thánh sử cho ta cảm nhận sự sống tràn đầy mà Cứu Chúa ban cho Kitô hữu từ khi Người được tôn vinh nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Người.
2) Biến cố.
Nhưng nếu giáo huấn của hai trình thuật song song với nhau, thì độc giả ngày nay có thể thắc mắc: trường hợp sau phải chăng là một cuộc sống lại thực sự? Không thể chấp nhận rằng truyền thống Kitô giáo đã bày đặt toàn thể các phép lạ được gán cho Chúa Giêsu và óc khoa học vô tôn giáo chẳng triệt để từ chối sự có thể có nhiều hiệu quả phi thường do một vài mãnh lực huyền bí phát xuất từ những nhân vật ngoại hạng. Hiển nhiên óc khoa học đó không thể chấp nhận sự phục sinh của Chúa Kitô cũng như của một kẻ nào khác. Còn Kitô hữu tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô và vào quyền lực hiện tại của Người đối với sự chết, quyền lực mà Người sẽ thi thố trên thân xác chúng ta trong ngày cánh chung. Nhưng có phải trình thuật chúng ta quá rõ rệt đến nỗi phải kết luận rằng đây đúng là cuộc phục sinh con gái Giairô không?
Khi lấy lại trình thuật của Maccô, và hơn cả Luca, Matthêô đã nhấn mạnh đến thực tại cái chết của đứa bé; thật vậy nơi ông, Giairô đã minh nhiên đến cầu xin cho con gái sống lại. Ta phải chấp nhận rằng truyền thống Maccô là xưa nhất và cũng là phù hợp với thực tế nhất: thật vậy, người ta không thấy tại sao truyền thống Matthêô là truyền thống tường thuật rõ ràng một cuộc phục sinh, lại có thể đã bị Maccô che dấu đến nỗi trong trình thuật của Mc, lời Chúa Giêsu tuyên bố "Đứa bé không chết, nó ngủ đấy thôi" có thể cho hiểu là theo ông, nó không chết thật. Như cha Lagrange đã viết Maccô "không làm yếu đi những điểm xem ra dẫn đến giả thuyết một sự hôn mê" (Evangile selon saint Marc, Paris, 1942, tr. 146).
Khi thốt lên câu ấy, Chúa Giêsu chưa thấy đứa trẻ và sự vô tri mà Người vừa biểu lộ trong trường hợp người đàn bà băng huyết khiến ta nghĩ rằng Người không biết trạng thái chính xác của đứa trẻ. Không thể giải thích câu "Nó không chết, chỉ ngủ đấy thôi" như là lời khám bệnh của một bác sĩ. Vì thế phải tránh xác định câu đó, dầu trong nghĩa hôn mê hay chết thật. Chúng ta không thể biết điều mà Chúa Giêsu đã nghĩ trong trường hợp ấy và Maccô không cho phép ta trả lời câu hỏi nầy vì ông đã chẳng viết với một não trạng khoa học như não trạng chúng ta ngày nay. Đối với ông, sự khác biệt căn bản mà chúng ta đặt giữa cái chết và hôn mê không có vì trong não trạng tôn giáo của ông, cái chết và bệnh tật đều phát xuất từ ảnh hưởng của tội và của ma quỷ. Thành ra chúng ta không thể xác định lời tuyên bố của Chúa Giêsu, dù cho theo nghĩa chết thật hoặc hôn mê. Chúng ta sẽ không bao giờ biết điều Chúa Ciêsu đã nghĩ trong trường hợp ấy, vì những lời của người được truyền lại cho ta trong một bối cảnh thuần túy tôn giáo muốn loan báo ơn cứu rỗi được ban cho người tin hơn là xác định bản chất đích thực của phép lạ được thực hiện. Vì dù đề cập đến một cuộc chữa lành hay một sự phục sinh thật, thì trình thuật Maccô cũng chỉ muốn thúc giục ta trả lời câu hỏi sau đây: hôm nay chúng ta có tin là Chúa Kitô phục sinh có thể loan ơn cứu rỗi và sự chiến thắng cái chết cho chúng ta không?
Jean Potin, Assemblécs du Setgneur 44, tr.38-47.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Qua bài Tin mừng, ta thấy được thế nào là sức mạnh của đức tin. Đức tin giúp thắng vượt những nghi ngờ: Giairô mà không cần những hiển nhiên, những lý luận nhân loại. Đức tin giúp thắng vượt những rụt rè nhút nhát: nhờ tin mà người đàn bà băng huyết chế ngự được nỗi sợ hãi, sợ gây ô uế cho người ta, sợ đám đông phát giác; bà đã tin rằng năng lực chữa bệnh và cho sống lại của Chúa Giêsu còn mạnh hơn sự truyền nhiễm cơn bệnh mà bà đau khổ đã 12 năm. Thật là một niềm tin mạnh mẽ, mạnh mẽ như niềm tin của người bất toạt dám dỡ mái nhà để moi cho được lòng tốt của Chúa (Mc 2,1-12) như niềm tin của người trộm lành, trong một lần hành nghề cuối cùng, đã ăn trộm Thiên đàng khi tin vào lòng thương xót vô biên của Chúa Giêsu. Đức tin có thể chuyển núi dời non lay động được quả tim Thiên Chúa.
2) Nên chú ý tới hai khía cạnh trong câu hỏi của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ bị bệnh băng huyết. Chúa Giêsu dùng việc chữa lành bệnh mở đầu một cuộc đàm thoại. Thứ đến Người dạy: việc Người làm vượt xa hơn việc chữa lành thể xác: Người cứu được nếu người ta tin vào Người.
Bà ấy không lầm khi hy vọng rằng chỉ sờ vào gấu áo của Chúa Giêsu là sẽ được lành bệnh. Nhưng Chúa Giêsu không phải là một sức mạnh tác động nặc danh. Một thành phần bị quên lãng, bị khuất giữa đám đông đều là người mà Chúa Giêsu lưu ý đến. Tại đây chúng ta thấy Chúa nói với bệnh nhân: Đối với người, bà không phải là một con số giữa đám đông. Người đưa dịp cho bà trở lại, cho bà ý thức, cho bà đàm thoại. Người hành động như thế để cho bà hiểu: đối với Chúa, bà cũng có phẩm giá con người. Cuối cùng Người nói với bà: "Con ơi, đức tin đã cứu con". Trong kiểu nói của thánh Maccô, chữ Cứu có nghĩa là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã đưa chúng ta từ cảnh trụy lạc, tội lỗi đến sự sống lại với Người. Lúc đó bà băng huyết chưa hiểu nổi lời Người. Chúng ta nhờ Tin mừng hiểu được điều ấy.
Đức tin của tôi vào Chúa Kitô có sống động đến nỗi thấm nhiễm vào các nỗi đau khổ của tôi và sự chết của tôi, một sức mạnh, một sự sống cao độ không? Tôi có cảm thấy vui mừng khi thiết rằng Chúa Giêsu lưu ý đến một cách riêng không?
3) Bài Tin mừng hôm nay còn cho thấy đức tin có nhiều cấp độ. Đầu tiên là đức tin sơ khai của ông Giairô lúc mới đến gặp Chúa Giêsu. Bất lực trước đau khổ, ông đi tìm Chúa Giêsu vì nghe rằng Người có một quyền năng thần thông nào đó thứ đến là đức tin tính toán, vụ lợi, hơi mê tín của người đàn bà lén đến bên Chúa Giêsu, mong ăn cắp được sức mạnh kỳ diệu từ nơi Người, nhưng rồi khi bị phát giác, đức tin của bà tiến lên cao hơn, trở thành một cuộc gặp gỡ, đối thoại, tương giao với Chúa Giêsu; và sau cùng là đức tin trọn vẹn của Giairô tin vào Đấng phục sinh được kẻ chết.
Trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, hình như đức tin cũng vượt qua các cấp độ đó. Đầu tiên chúng ta đã tin vào Thiên Chúa vì thất vọng trước sức con người, vì tự bản năng cảm thấy phải bám víu, cầu khẩn một Đấng cao hơn. Rồi tới khi biết được quyền năng của Thiên Chúa, thấy bao kỳ công Ngài đã làm trong lịch sử, qua Thánh Kinh, ta lại có khuynh hướng lợi dụng Ngài, giữ đạo là chỉ mong được muôn ơn phúc hồn xác, bất mãn khi gặp thất bại hoạn nạn. Dần dần đức tin ta được thanh lọc, biến thành một cuộc gặp gỡ đối thoại với Thiên Chúa, gắn bó vào Ngài trải qua mọi thử thách. Nhưng rồi phải tiến lên cao hơn nữa, biến thành đức tin vào sự phục sinh, tin rằng dù bề ngoài có vẻ như tan vỡ, tận diệt, vẫn có một đời sống mới cả hồn lẫn xác chờ ta bên kia thế giới, bên kia cái chết, bên kia thời gian, tin rằng Thiên Chúa có quyền năng đổi mới mọi sự cho ta và cho mọi người.
Phụng vụ hôm nay muốn chúng ta xác tín rằng cho được chấp nhận Tin Mừng cứu rỗi và hưởng: TN13-B29
Phụng vụ hôm nay muốn chúng ta xác tín rằng cho được chấp nhận Tin Mừng cứu rỗi và hưởng các ơn lành của Nước Trời, thì phải có đức tin. Qua bài Tin Mừng hôm nay Thánh Maccô cho ta thấy hai mẫu đức tin: đức tin sáng suốt của ông Trưởng hội đường là Giairô và đức tin chất phác của người đàn bà loạn huyết.
II. SUY NIỆM:
1) "Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia":
Bỏ địa hạt Cêsarê. Chúa Giêsu lại trở về Capharnaum. Thấy Người trở lại, dân chúng đến đón Người rất đông. Họ xúm lại quanh Người, hy vọng Người tiếp tục giảng dậy và làm phép lạ.
2) "Bỗng có một ông Trưởng hội đường tên Giairô đến"
Giairô là Trưởng hội đường nghĩa là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm là một việc có ý thức và có thế giá.
3) "Trông thấy Người ông sụp lạy và van xin rằng":
Thái độ của Giairô trước Chúa Giêsu diễn tả niềm tin của ông: "ông sấp mình dưới chân Thầy".
Thái độ của những người đến cầu khẩn Người (Mc 1, 40; 7, 25) hoặc nhận ra Người là kẻ được Thiên Chúa sai đến (Mc 10, 17; 15, 19).
Thái độ này cũng giống như thái độ của ma quỷ đã nhờ óc thông sáng mà nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa (Mc 3, 11; 5, 6).
4) "Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống":
"Xin Ngài đặt tay trên nó": Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân là cử chỉ Chúa thường dùng khi cứu chữa bệnh nhân được khỏi bệnh (Mc 6,5; 7, 32; 8, 23). Xin Chúa đặt tay tức là tin rằng chỉ có Người mới chữa khỏi được bệnh cho con ông.
"Để nó được khỏi và được sống": Để nó được lành bệnh và được khoẻ mạnh, dù có hấp hối nguy ngập thì nó cũng được khỏi và được khoẻ mạnh. Thái độ này của Giairô biểu lộ một đức tin vững vàng, xác tín vào quyền năng của Chúa Giêsu.
5) Chúa Giêsu ra đi với ông:
Đây là thái độ Chúa Giêsu chấp nhận niềm tin của ông Giairô. Đám đông dân chúng đi theo là muốn được chứng kiến phép lạ Chúa sắp làm cho con ông Giairô.
6) "Vậy có người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã 12 năm":
Theo luật Môisen (Lv 15, 25) bệnh xuất huyết là thứ bệnh dơ nhớp, bệnh nhân không được công khai giao thiệp với dân chúng.
Ở đây nói lên tình trạng cô đơn, khốn khổ của bệnh nhân.
7) "Bà đã chịu cực khổ tìm thầy chạy thuốc..."
Đây là cách diễn tả nói lên nỗi khốn khổ của bà và sự bất lực của con người trước cơn bệnh cay nghiệt này.
8) "Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu..."
"Nghe nói về Chúa Giêsu": Nghe cũng là cách dẫn đến đức tin. Mới chỉ nghe nói mà bà đã tin Chúa Giêsu là Người có thể cứu chữa bà.
"Chạm đến áo Người": Đây là thái độ liều lĩnh của bà đã xé rào luật lệ ngăn cấm, là thái độ chứng tỏ đức tin vững vàng của bà, vì bà tự nhủ.
"Miễn sao tôi chạm vào áo Người thì tôi sẽ lành": Cử chỉ chạm tới áo Chúa Giêsu cũng như cử chỉ Chúa Giêsu đặt tay trên bệnh nhân đã nói lên rằng sự động chạm thể lý rất cần thiết để sức mạnh thiêng liêng tác dụng trên con bệnh. Ở đây ám chỉ Bí tích, cử chỉ bên ngoài biểu lộ ơn thiêng liêng bên trong.
9) "Lập tức bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh":
Đức tin đã dẫn bà đến với Chúa Giêsu và bà đã được khỏi bệnh. "Ai đến với Chúa Kitô thì được cứu rỗi".
10) "Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh phát xuất từ mình":
Con người Chúa Giêsu có một quyền lực ẩn dấu mà kẻ vô tín không thể nhận biết, chỉ được mạc khải cho ai có con mắt đức tin.
11) "Ai đã chạm đến áo Ta?":
Đặt câu hỏi này Chúa Giêsu không có ý hỏi cho mình vì Người biết rõ mọi sự, nhưng hỏi để hướng dẫn, để giáo huấn người khác.
Ở đây cho người đàn bà biết rằng việc bà được khỏi bệnh không phải do việc bà sờ vào áo Người vì đây chỉ là dấu bên ngoài, nhưng là do sức mạnh phát xuất từ Người, nghĩa là hoàn toàn bởi Chúa, và do ý Chúa muốn.
Cho đám dân chúng đang chen lấn chung quang, biết có phép lạ đó. Vì phép lạ này xẩy ra trong âm thầm không ai biết đến trừ chính người bệnh và Chúa Giêsu. Chúa cho họ đang theo Chúa để chứng kiến việc xẩy ra cho con gái ông Giairô.
Cho các môn đệ đang theo Người được biết là có phép lạ, để tin nhận vào quyền năng của Người.
12) "Bà liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người":
Đức tin chất phác khiến bà tìm cách sờ đến áo Chúa, bây giờ được tuyên xưng một cách đích thực, qua thái độ sụp lạy của bà.
13) "Hỡi con, đức con đã chữa con":
Lời này nói lên ý nghĩa của phép lạ đây không phải chỉ là sự lành bệnh thể lý do việc đụng chạm bên ngoài đến con người Chúa Giêsu, nhưng còn là ơn cứu rỗi, là sự sống vĩnh cửu, ban cho những ai lấy đức tin đến cùng Người.
14) "Con gái ông chết rồi còn phiền Thầy làm chi nữa":
Qua lời báo tin này, ta thấy thái độ không tin của người nhà ông Giairô và cũng là thử thách cho đức tin của ông Giairô.
15) "Ông đừng sợ, hãy cứ tin":
Sự im lặng không phản ứng của người cha trước lời về báo tin của người nhà và cái chết của đứa con gái đã cho thấy ông vẫn kiên trì trong đức tin. Chính vì thế Chúa Giêsu đã khích lệ ông "Hãy cứ tin". Qua lời khích lệ này cho thấy Chúa Giêsu muốn cho ông Giairô đừng để lòng tin mình bị chao đảo, vì mọi sự đều có thể cho kẻ tin (Lc 9,23) như Chúa Giêsu sẽ nói với cha đứa trẻ bị kinh phong sau này.
16) "Cô bé không chết đâu, nó đang ngủ đó":
Lời báo tin của người nhà cũng như thái độ cười nhạo của những người chung quanh không tin vào quyền năng của Chúa Giêsu cho thấy cô bé đã chết thật. Nhưng ở đây Chúa Giêsu lại bảo cô bé đang ngủ. Người nói thế là vì Người muốn tỏ ra rằng Người làm cho kẻ chết sống lại cũng dễ dàng như người ngủ thức dậy vậy, đồng thời để người khó tin được dễ hiểu.
17) "Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết":
Chúa đuổi dân chúng đi vì họ chế nhạo Người khi Người nói cô bé đang ngủ. Những người không tin thì không đáng được nhìn xem phép lạ Chúa làm.
Chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Được chứng kiến phép lạ chỉ có 5 người là cha mẹ cô bé và 3 môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê, cũng là 3 môn đệ sẽ chứng kiến việc Chúa Giêsu biến hình (Lc 9, 2) và việc Chúa đổ mồ hôi máu trong vườn Cây Dầu (Mc 14, 33). Đây là những người có thiện chí, có niềm tin nên được chứng kiến. "Đã có thì lại cho thêm".
18) "Người cầm tay đứa bé và nói: hỡi em bé Ta truyền cho em hãy chỗi dậy":
+ "Người cầm tay em bé": Cử chỉ này không những nói lên sự đụng chạm thể lý, nhưng còn ám chỉ sự can thiệp hùng mạnh của bàn tay Thiên Chúa trong việc cứu rỗi dân Người.
+ "Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy": Truyền lệnh cho ai là có quyền trên người đó. Ở đây tỏ ra Chúa có quyền trên sự chết và sự sống. Người làm chủ kẻ chết và người sống
19) "Họ sửng sốt kinh ngạc":
Đây là thái độ kinh ngạc linh thánh của những người được chứng kiến phép lạ tỏ uy quyền Chúa (Mc 1, 27; 2,12; 4,41).
20) "Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết":
Chúa muốn ngăn chân sự bồng bột của dân chúng trong quan niệm về Đấng Cứu Thế của họ. Đồng thời Người muốn tỏ ra chỉ có sự sống lại sau này của Người mới có thể soi chiếu hoàn toàn phép lạ này. Chính các môn đệ được chứng kiến phép lạ này sẽ là người làm chứng cho việc Chúa sống lại sau này.
21) "Và bảo họ cho em bé ăn":
Đây cử chỉ chứng thực em bé đã sống lại và khoẻ mạnh thực sự, đúng như sự khấn xin của người cha, và đây cũng là hiệu quả của niềm tin vào Chúa Kitô.
III. ÁP DỤNG:
1) Áp dụng theo Tin Mừng:
+ Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng này để củng cố niềm tin của chúng ta vào quyền năng của Thiên Chúa và biết tín thác vào Người trong mọi sự.
+ Qua gương tỏ bày niềm tin của ông Giairô và của người đàn bà bị bệnh loạn huyết, Giáo Hội muốn chúng ta thực sự tỏ bày niềm tin của mình vào quyền năng và tình thương của Chúa mỗi khi chúng ta đến cầu xin với Người. + Lời Chúa hôm nay dậy ta: Mọi ơn lành ta được là do quyền năng Chúa ban và đòi hỏi ở ta lòng tin kính biết ơn, đồng thời cũng bảo ta phải lấy đức tin mà đọc Lời Chúa và chịu các Bí tích là những trung gian làm cho ta được tiếp nhận, tiếp xúc với Chúa là nguồn mạch mọi ơn lành ơn.
2) Áp dụng thực hành:
* Nhìn vào Chúa Giêsu:
a) Chúa Giêsu ra đi với ông ấy: Chúa Giêsu sẵn sàng đáp ứng lời van xin của ông Giairô. chúng ta hãy quảng đại và sẵn sàng đáp ứng bằng sự phục vụ và giúp đỡ khi tha nhân cần đến mình.
b) Ai đã chạm đến áo Ta?: Chúa hỏi để gây sự chú ý và nhờ đó Người giáo huấn. Chúng ta cũng cần phải biết dùng mọi biến cố, mọi hình thức cụ thể trước mắt để giáo dục, hướng dẫn và thăng tiến tha nhân.
c) Họ cười chê Chúa: Kẻ có trách nhiệm thì phải kiên nhẫn, chịu đựng lời ra tiếng vào của thiên hạ, để chu toàn công việc của mình và nêu gương can đảm cho người khác.
* Nhìn vào ông Giairô:
a) Đức tin có nhiều cấp độ:
- Đức tin sơ khai: Đến với Chúa vì thấy mình bất lực. - Đức tin trọn vẹn: Tin vào Đấng phục sinh được kẻ chết, tin vào Chúa làm cho con mình sống.
Đức tin của chúng ta cũng phải tiến lên, lớn mạnh:
- Tin vào Chúa vì thấy mình bất lực. - Tin vào Chúa vì thấy quyền năng của Người được bày tỏ qua các kỳ công, qua Thánh Kinh. - Tin vào Chúa đến độ khao khát muốn tìm gặp Chúa, đối thoại với Chúa, gắn bó với Chúa. - Tin vào sự Phục sinh: Dù có trải qua thử thách ta vẫn tin Chúa có quyền năng đối với mọi sự cho ta và cho mọi người.
b) Sự thinh lặng của ông trước lời báo tin con ông chết: chúng ta cũng phải bình tĩnh và duy trì niềm tin vào Chúa trước mọi thử thách, mọi cám dỗ, mọi đe doạ.
* Nhìn vào người đàn bà bị bệnh xuất huyết:
Nhờ tin mà bà đã chế ngự được sự sợ hãi, sợ gây ô uế cho người ta, sợ đám đông phát giác.
Giữa đám đông, bà đã được Chúa lưu ý cách riêng, vì bà biết tin vào Chúa. Dù sống hoàn cảnh nào Chúa cũng lưu ý đến ta, miễn sao ta tin vào Người.
* Nhìn chung cả hai trường hợp:
Ông Giairô và người đàn bà bị bệnh xuất huyết:
+ Hành vi đức tin luôn là một quyết định liều lĩnh (un rissque) + Duy trì đời sống đức tin là một chuỗi liên tục những dấn bước liều lĩnh được vượt thắng. + Công nghiệp của người tín hữu bắt nguồn từ những dấn bước kiểu Abraham ấy.
* Nhìn vào ba môn đệ, nhìn vào đám dân chúng:
"Ai tin ở Người thì được sự sống đời đời" (Ga 3,15) lời hứa đầy phấn khởi.
Đức tin ngày hôm nay của bạn có hiệu lực chung quyết về hạnh phúc vĩnh cửu. Hạnh phúc đó đã có nơi bạn, đang biến đổi bạn và gia tăng mức độ đức tin của bạn.
Thời đại nào cũng vậy, nhiều người có thiện cảm với đạo công giáo nhưng không tin vì đủ loại lý do. Đó là tại chúng ta chưa giới thiệu đủ cho họ về Đức Kitô.
"Nhờ Người mà thế gian được cứu". “Nhờ Người mà được sống đời đời”.
Đời bạn phải như chuyến đò đưa khách sang sông. Chuyến đò tiếp đón mọi thành phần đến với mình, đưa tha nhân sang bến bờ để gặp Thượng Đế.
Khi khách tới nơi, chiếc đò không đòi cám ơn. Và hết ngày này qua ngày khác, nó kiên trì với công việc đến khi không làm được nữa.
Đoạn văn này tổng hợp hai truyện về chữa lành (con gái ông Gia-ia [5,21-24.35-43] và bà băng huyết: TN13-B30
Đoạn văn này tổng hợp hai truyện về chữa lành (con gái ông Gia-ia [5,21-24.35-43] và bà băng huyết [5,25-43]). Đây là một ví dụ nữa về cấu trúc “tháp ghép [sandwich construction]” của tác giả (x. 1,21-28; 2,1-12; 3,21-35; 6,7-33; 11,11-21; 14,1-11). Hai truyện này có nhiều điểm chung: những người đau khổ là những người nữ; con số 12 (5,25.42); và từ vựng (“lòng tin”, “sự sợ hãi”, “khỏi/lành mạnh”, “con [gái]…”). Tuy nhiên, giọng văn của hai truyện này không giống nhau, khiến phải cho rằng đây là hai truyện lúc đầu độc lập với nhau: Truyện con gái ông Gia-ia được kể bằng những câu ngắn, với ít phân từ (participles) và các động từ ở thì hiện tại lịch sử (historic present); còn truyện bà băng huyết được kể bằng những câu dài, dùng nhiều phân từ và ở thì quá khứ aorist và imperfect.
II. BỐ cỤc
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Mở: Khung cảnh, các nhân vật (5,21); 2) Hai truyện về chữa lành (5,22-42a): a- Chữa con gái ông Gia-ia (cc. 22-24.35-42a), b- Chữa bà băng huyết (cc. 25-34); 3) Kết: Phản ứng của dân chúng và lệnh của Đức Giêsu (5,42b-43).
III. Vài điỂm chú giẢi
- lại trở sang bờ bên kia (21): Đức Giêsu trở lại bờ biển phía tây (x. 4,35).
- một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia (22): Ít ra ta biết Gia-ia là một thành viên vị vọng của hội đường Do-thái, thuộc hàng kỳ mục có nhiệm vụ quan tâm đến những vấn đề tôn giáo và xã hội của cộng đồng. Tên Híp-ri Ya’ir (x. Ds 32,41; Tl 10,3-5;Hl. Iaðros) có nghĩa là “ước gì Ngài (= Thiên Chúa) soi sáng”.
- sụp xuống… khẩn khoản nài xin (22-23): “Sụp xuống” (Hl. piptei, x. 3,11; 5,33; 7,25) tương tự động từ proskyneô (“quì xuống”, x. 5,6; 15,19), là thái độ vâng phục bày tỏ với một người trên, và trong ngữ cảnh khác, là sự tôn kính bày tỏ ra với Thiên Chúa. Tác giả dùng hai động từ trên để giới thiệu Gia-ia như là một người cầu xin: vì ở trong một hoàn cảnh bế tắc, một bậc vị vọng Do-thái đã xin Đức Giêsu giúp đỡ.
- con bé: “con gái nhỏ” (Hl. thygatrion, từ giảm nhẹ của thygater). Từ giảm nhẹ này nói lên tình âu yếm của người cha đối với con mình.
- gần chết rồi: Mt nói “vừa mới chết” (Mt 9,18), còn Lc thì nói “đã gần chết (đang hấp hối)” (NTT; Lc 8,42). Mc thì viết “đã gần lâm chung” (NTT) (Hl. eschatôs echei).
- bà băng huyết (25): Chứng bệnh này làm cho người phụ nữ bị ô uế về phương diện tế tự (x. Lv 15,19.25), và do đó, tất cả những gì bà động chạm đến cũng trở nên ô uế.
- khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc (26): Lời kết án các thầy thuốc đây thuộc nguồn riêng của Mc. Lc sẽ nói nhẹ nhàng hơn (x. Lc 8,43).
- sợ phát run lên (33): Bà sợ có lẽ vì thấy mình đã làm cho Đức Giêsu bị luỵ vào tình trạng ô uế theo luật. Nhưng cũng có thể bà sợ vì thấy điều vừa xảy ra cho mình. Sợ và run cũng là một phản ứng của con người khi Thiên Chúa tỏ mình ra (x. Xh 15,16; Đnl 2,25; 11,25; Gđt 15,2).
- lòng tin (34): Đây không phải chỉ là một cuộc chữa lành thể lý nhờ tiếp xúc bên ngoài với bản thân Đức Giêsu, nhưng là ơn cứu độ mà lời Người loan báo và ban cho tất cả những ai tin tưởng đến với Người. Vì thế động từ sesôken có thể dịch là “đã chữa con lành” hoặc “đã cứu con”.
- đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống: Việc đặt tay trên người đau ốm là một cử chỉ thường có trong các nghi thức chữa bệnh ngày xưa, dựa trên ý tưởng người chữa bệnh là một người đầy quyền lực (x. 5,27-30: một kiểu tiến hành ngược lại). Những từ Gia-ia nói ra (“được cứu thoát”, “được sống”) là những từ chuyên môn được các nhóm Kitô hữu tiên khởi sử dụng để nói về sự cứu độ và sự sống được phục hồi (sống lại). Như vậy, rất có thể các Kitô hữu tiên khởi đã coi câu truyện phục hồi sự sống cho con gái Gia-ia là một lời tiên báo hoặc một sự tiền dự vào sự sống lại của Đức Giêsu và của những ai tin vào Người.
- con gái ông chết rồi (35): Gia-ia chìm đi một lúc trong đám đông đang đi theo Đức Giêsu. Trong khoảng thời gian này, bà băng huyết được chữa lành. Đến lúc ấy, Gia-ia nhận được tin chẳng lành: con gái ông đã chết! Vậy thì “làm phiền Thầy chi nữa?”. Dưới mắt những người đưa tin, người cha đã đến gặp Đức Giêsu quá muộn. Chính họ vừa mới nói ra sự không tin của họ; chính thái độ này vừa như muốn giới hạn quyền năng Đức Giêsu lại vừa muốn lung lạc lòng tin của Gia-ia.
- Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi (36): Đức Giêsu đã trấn an ông, bởi vì ông cần phải thắng vượt được nỗi sợ hãi của ông, để sẵn sàng chứng kiến quyền lực thần linh của Đức Giêsu hiển lộ ra. Công thức “Đừng sợ” ở những chỗ khác thường được dành cho các hoạt cảnh mạc khải (x. 6,50; Mt 28,5; Lc 1,13.30); ở đây công thức này cũng đang chuẩn bị một cảnh thuộc loại đó. Mc thường nhấn mạnh đến nỗi sợ hãi, kinh ngạc hoặc kinh hoàng nơi những người đã chứng kiến các phép lạ (x. 1,27; 2,12; 4,41; 5,15; …), nhưng những phản ứng này không đưa tới đức tin. Đức Giêsu khuyến khích Gia-ia đừng chao đảo trong đức tin, bởi vì, như Đức Giêsu sẽ nói với người cha của đứa bé động kinh, “cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin” (9,23).
- người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ (38): Tình trạng ồn ào, với sự hiện diện của những người khóc mướn, dường như chứng tỏ đứa bé đã chết thật rồi.
- nó ngủ đấy (39): Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, cái chết thường được tượng trưng bằng giấc ngủ (Đn 12,2; Ga 11,13; 1 Cr 15,20.51; Ep 5,14; 1 Tx 5,6.10). Bản LXX cũng thường dùng động từ “ngủ” để nói về cái chết. Bản văn Mt 9,18 và Lc 8,53.55 cũng theo ý nghĩa ấy. Nhưng động từ ấy, trong bản văn Mc thì còn có vẻ hàm hồ, lý do là ngay ở đầu, tác giả ghi nhận là đứa bé chưa chết. Dù câu truyện có vẻ là cuộc phục sinh một em bé, biết đâu chừng nó chưa chết, chỉ rơi vào tình trạng hôn mê thôi; và Đức Giêsu với cái nhìn thấu suốt, đã nhận ra tình trạng ấy của đứa bé, nên đã nói như thế? (x. Mann; NJBC). Khi đó, câu truyện này sẽ là truyện về một cuộc chữa lành ngược lại mọi hy vọng và ngược lại sự lượng định khôn ngoan của những người có mặt (x. 5,43).
- Họ chế nhạo Người (40): Phản ứng mạnh mẽ của đám đông được nhắc tới bằng câu này vừa cho thấy họ không tin vừa càng nêu bật tính cách phi thường của những gì Đức Giêsu sắp làm. Cha mẹ em bé ở vào vị trí chứng nhân cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan. Dường như mọi người đều đồng ý là đứa bé đã chết.
- nơi nó đang nằm: Đây là chi tiết của riêng Mc. Câu này chứng tỏ Đức Giêsu vào phòng lần đầu tiên.
- Talitha koum (41): (A-ram tơlitha’ qum). Chi tiết này rất có thể chứng tỏ câu truyện đang được một người đã chứng kiến tận mắt kể lại.
- đứng dậy và đi lại được (42): Hai động từ này được dừng ở hai thì khác nhau. “Đứng dậy”, anestê, ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi vừa làm xong, còn “đi lại”, periepatei, ở thì vị - hoàn (imperfect), diễn tả một hành vi còn kéo dài.
IV.- Ý nghĩa cỦa bẢn văn
* Mở: Khung cảnh, các nhân vật ( 21)
Chúng ta gặp lại những yếu tố quen thuộc trong câu mở đầu này: đám đông quy tụ ở bờ Biển Hồ (x. 4,1), con thuyền (x. 4,1.36), vượt hồ (x. 5,1t) .
* Hai truyện về chữa lành (22-42a)
Đức Giêsu đào tạo các môn đệ không những bằng lời nói mà còn bằng các hành động nữa. Một vài hành động nổi bật hẳn, bởi vì Người chỉ cho Phêrô, Giacôbê và Anrê tham dự thôi (5,35-43; 9,2-9; 14,32-42). Trong truyện cho con gái Gia-ia sống lại, tác giả nói hai lần là Đức Giêsu chỉ đưa ba môn đệ ấy theo thôi (cc. 37.40). Họ không có nhiệm vụ nào cả; họ chỉ phải có mặt mà trực tiếp chứng kiến một hoàn cảnh bế tắc về phương diện con người, nhưng cũng thấy sự tin tưởng người ta đăït vào Đức Giêsu và thấy quyền lực siêu phàm của Người.
Trong sự cố bà băng huyết được lành, họ đã thấy: bà hoàn toàn không mong dựa vào sức lực con người nữa, nhưng bà vẫn không mất hy vọng, bà đặt tin tưởng nơi Đức Giêsu (c. 28). Gia- ia thì hy vọng là nhận được sự trợ giúp cho con gái ông đang hấp hối (c. 23). Nhưng trên đường về có Đức Giêsu cùng đi, ông đã được tin chẳng lành. Đây là điểm gay cấn. Có tương quan nào giữa Đức Giêsu và cái chết? Phải chăng Đức Giêsu có là thầy thuốc tài giỏi nhất, cũng phải bó tay trước cái chết? Người đã kêu mời Gia-ia đừng sợ hãi và thất vọng, nhưng hãy đứng vững trong niềm tin (c. 36). Giữa lời khuyên của các sứ giả (c. 35) và lời khuyến khích của Đức Giêsu, ông đã nghe theo Đức Giêsu và đi với Người đến với đứa con gái vừa tắt thở. Đức Giêsu không rút lại sự giúp đỡ đã hứa và tiếp tục tiến bước, dù bây giờ là tiến bước đến với một người đã chết.
Đến đây, Đức Giêsu muốn ba môn đệ chọn lọc có măït, không phải để họ tích cực làm việc gì, nhưng để họ tham dự vào sự cố thật gần gũi. Khi Đức Giêsu nói rằng em bé chỉ “ngủ” thôi, mọi người đều chế nhạo Người, bởi vì họ chắc chắn em đã chết. Bây giờ, Người lại làm một cuộc phân rẽ nữa: chỉ cha mẹ em bé và ba môn đệ được đi với Người vào gặp em bé đã hết. Họ đã chứng kiến hành động hết sức đơn giản của Người: Người chỉ cầm lấy tay em và gọi em dậy. Thế là chuyện không thể tin nổi đã xảy ra: em đứng dậy và đi lại được. Tác giả còn ghi lại một chi tiết cho thấy Đức Giêsu rất tinh tế: Người bảo họ “cho con bé ăn”.
* Phản ứng của dân chúng và lệnh của Đức Giêsu (42b-43)
Hành vi của Đức Giêsu đã làm nổ tung các giới hạn của mọi niềm hy vọng, và cả những giới hạn của kinh nghiệm của các môn đệ. Họ phải nhìn nhận: Đức Giêsu mạnh hơn sự chết. Các môn đệ không còn như trước nữa; một thực tại mới vừa xuất hiện ở chân trời kinh nghiệm của họ. Đứng trước cái chết, các môn đệ có thể trả lời với nó không chỉ bằng các tiếng than van rỗng tuếch, nhưng bằng niềm tin tưởng vào quyền lực của Đức Giêsu. Họ không mạnh, nhưng họ biết rằng Đức Giêsu rất mạnh.
+ Kết luận
Nơi ông Gia-ia và bà băng huyết, tác giả Mc cho chúng ta thấy hai ví dụ tương tự về bước đi của người tín hữu và câu trả lời họ nhận được từ Đức Kitô. Bên kia phép lạ thể lý, tác giả muốn giúp chúng ta cảm nhận được sự sống viên mãn Đấng Cứu Thế ban cho người tín hữu, lúc này, khi Người đã được tôn vinh bởi cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh.
V. GỢi ý suy niỆm
1. Người Kitô hữu cũng là người được Đức Giêsu tách riêng ra để trải nghiệm quyền lực của Người trên những hoàn cảnh gay go. Chắc chắn Đức Giêsu không muốn chúng ta nhắm mắt khi đứng trước các giới hạn của khả năng con người, hoặc chao đảo giữa ảo tưởng và thất vọng. Chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Là chứng nhân của Đấng là Chúa tể, chúng ta biết mời gọi người ta bình tĩnh giữ vững niềm tin? Hay là chỉ hùa theo số đông, buông xuôi theo hoàn cảnh khó khăn như một định mệnh khắc nghiệt?
2. Gia-ia đã chứng tỏ một đức tin đáng phục. Bà băng huyết cũng có những suy nghĩ và chọn lựa nói lên lòng tín thác. Bởi vì Đức Giêsu có đó để khuyến khích, trấn an, mời gọi họ vững vàng đi tới. Niềm tin vào Đức Giêsu hôm nay có giúp các môn đệ của Người hiên ngang tiến đi và làm điểm tựa cho người khác trong hành trình đức tin của họ?
3. Cũng cần phải hiểu Đức Giêsu có uy quyền như thế, nhưng vì sao Người đã không cho mọi người chết sống lại, tức là hiểu ý nghĩa của việc Đức Giêsu cho em bé này sống lại, dù sau đó em sẽ lại chết. Bên kia phép lạ, Đức Giêsu mời gọi chúng ta khám phá ra mầu nhiệm bản thân Người. Bên kia cái chết thể lý, Người mời chúng ta hướng tới sự sống viên mãn.
4. Trong hành trình phục vụ, nếu tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu, chúng ta sẽ tiếp tục tiến bước, dù con đường trước mắt có vẻ đã khép lại. Trong trăm công nghìn việc nhằm phục vụ hạnh phúc của con người, chúng ta vẫn được mời học lấy cái nhìn tinh tế và ân cần của Đức Giêsu: “cho con bé ăn”. Đức Giêsu thấy nhu cầu nhỏ bé của từng con người, dù bé nhỏ. Người không bao giờ vì số đông mà quên từng cá nhân và coi thường nhu cầu của từng cá nhân.
Chúng ta rất sợ sự chết, chúng ta đau buồn khi một người thân phải chết, và chúng ta sợ hãi khi nghĩ: TN13-B31
Chúng ta rất sợ sự chết, chúng ta đau buồn khi một người thân phải chết, và chúng ta sợ hãi khi nghĩ đến ngày chúng ta chết. Tuy nhiên, đức tin dạy chúng ta rằng Thiên Chúa tạo dựng chúng ta là để cho chúng ta được sống, và đàng sau cái chết thể xác là một cuộc sống vĩnh cửu.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy chăm chú lắng nghe Lời Chúa để củng cố niềm tin của chúng ta, đồng thời hãy sốt sắng cầu xin Chúa cho chúng ta biết sống ở đời này như thế nào để sau đó được sống hạnh phúc muôn đời với Chúa.
II. GỢi ý sám hỐi
Chúng ta quá lo lắng cho cuộc sống thể xác mà không chăm lo cuộc sống linh hồn.
Nhiều khi đức tin của chúng ta bị lung lay khi chứng kiến bệnh tật và cái chết của những người thân.
Chúng ta sớm quên những người thân đã qua đời.
III. LỜi Chúa
1. Bài đọc I Kn 1,13-15; 2,23-24
Sách Khôn ngoan được soạn khoảng thế kỷ thứ I trước công nguyên. Đây là một sưu tập những tư tưởng khôn ngoan của các bậc hiền triết của nhiều thế hệ.
Trích đoạn sách Khôn ngoan này chứa đựng chân lý nền tảng về sự sống và sự chết:
Thiên Chúa tạo dựng loài người giống hình ảnh Ngài, để cho loài người được sống vĩnh viễn.
Nhưng sở dĩ có sự chết là vì tội lỗi.
2. Đáp ca Tv 29
Tv này ca tụng Thiên Chúa như là chủ tể của sự sống. Những ai vì tội lỗi mà bị đẩy đến ngưỡng cửa sự chết nhưng biết kêu cầu Ngài thì sẽ được Ngài cứu sốnhg.
4. Tin Mừng Mc 5,21-43
Trích đoạn này gồm hai phép lạ, và cả hai đều liên quan đến sự sống:
Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đang mất dần sự sống: máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu liên tục 12 năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Ngài trả lại sức sống cho bà.
Đứa con gái ông Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho nó sống lại.
Cả hai trường hợp được cứu sống đều nhờ đức tin: đức tin của người phụ nữ loạn huyết và đức tin của ông Giairô.
Trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta còn nghe một lời giáo huấn rất ý nghĩa của Đức Giêsu: Cái chết thể xác chỉ là một giấc ngủ.
3. Bài đọc II 2 Cr 8,7.9.13-15
Mục đích của Phaolô khi viết đoạn thư này cho tín hữu Côrintô là nhằm lạc quyên giúp cho giáo đoàn Giêrusalem đang bị nạn đói.
Phaolô đưa những lý do động viên họ quảng đại bố thí:
Hãy noi gương quảng đại của Đức Giêsu: dù giàu sang, Ngài đã tự ý trở thành nghèo khó để làm cho loài người được giàu có.
Tín hữu phải biết chia xẻ cho nhau để ai nấy đều có mức sống đồng đều với nhau: sự dư dả của người này bù đắp sự túng thiếu của người kia. Có như thế, "Kẻ được nhiều thì cũng không dư, mà kẻ có ít thì cũng không thiếu".
IV. GỢi ý giẢng
* 1. Đức tin nối lại nhịp cầu đã gãy
Giả sử như chúng ta đã đi hết nửa đoạn đường, sắp bước chân qua cầu để sang bờ bên kia đi tiếp đoạn đường còn lại, thì bỗng chiếc cầu sụp đổ rơi tòm xuống sông. Khi đó chúng ta làm thế nào? Chắc là muốn quay trở về đoạn đường cũ.
Người đàn bà mắc bệnh loạn huyết và Ông Giakêu cũng lâm vào một tình cảnh khó xử như vậy:
Loạn huyết là một chứng bệnh dơ dáy. Người Do thái không chỉ thấy nó dơ dáy về mặt thể lý mà còn coi nó là một thứ ô uế luân lý. Cho nên có luật cấm những kẻ mắc bệnh đó không được đụng chạm tới người khác, chạm tới ai thì người ấy kể như bị lây ô uế đó. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết này cũng không dám cất tiếng kêu xin Đức Giêsu vì sợ người ta biết mình bệnh và xua đuổi mình. Bà định im lặng rờ vào mình Đức Giêsu. Nhưng vậy là phạm luật thánh, là có tội: thật là khó xử.
Còn ông Giairô thì xin Chúa đến chữa trị cho con gái mình đang bệnh nặng. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì ông được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa!
Cả bà loạn huyết và ông Giairô đều như sắp bước qua cầu thì chiếc cầu sụp gãy. Thế nhưng họ không quay trở lại bỏ dở đoạn đường. Họ vẫn cố gắng tiến bước: Bà loạn huyết không dám rờ vào mình Đức Giêsu thì rờ vào cái tua áo của Ngài vậy. Còn ông Giairô thì trong lúc chới với đó đã nghe Đức Giêsu an ủi "Đừng sợ, cứ tin". Và kết quả là bà kia dứt bệnh, Con gái ông Giairô sống lại. Đức tin của họ đã nối lại nhịp cầu gãy.
Trên đây là 2 trường hợp giúp chúng ta hiểu bản chất của đức tin và sức mạnh của đức tin. Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin, đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi.
Đức tin, một nhân đức căn bản của đạo, phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người, vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ, bởi vì trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa thì có thể là được hết mọi sự.
- Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai, nhưng vâng lệnh Chúa ông đưa con lên núi sát tế và lòng đau như cắt mà vẫn tin rằng Chúa sẽ thực hiện lời hứa làm cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và quả thực Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.
- Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước biển, và ông đã đi được bao lâu ông còn tin vào Chúa. Nhưng khi ông bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
Chúng ta là những tín hữu, nghĩa là những kẻ tin Chúa. Bấy lâu nay chúng ta vẫn tin Chúa. Nhưng có lẽ bấy lâu nay tin Chúa là điều dễ dàng đối với ta, tin Chúa ta được bình an, tin Chúa đời ta thoải mái, gia đình ta yên vui, việc làm của ta xuôi chảy.
- Có một người mẹ kia có một đứa con nhỏ rất dễ thương, vừa biết nói chuyện dã học đọc kinh, hát thánh ca. Rồi nó lâm bệnh, người mẹ cầu nguyện hết sức, nhưng nó vẫn chết. Từ đó người mẹ không còn cầu nguyện nữa, hình như chị đã hết tin.
- Chúng ta cũng đã từng dự những đám táng: khi chiếc quan tài được hạ huyệt, người ta khởi sự lấp đất lại và trong lúc đó cũng khởi sự đọc kinh Tin Kính "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Biết bao người đã vừa đọc câu đó mà nước mắt ròng ròng.
- Cũng có một ông kia từ ngày gia đình làm ăn sa sút đã đem tượng Chúa quăng ra ngoài sân và từ đó không còn giữ đạo.
- Và biết bao người đã thành thật thú nhận cùng cha giải tội: "con đã ngã lòng rồi!" Cũng như có biết bao người những khi buồn khổ đời không cầu nguyện
Chúng ta hãy cầu xin Chúa thật nhiều cho những người đáng thương kể trên. Và cầu xin cho chính chúng ta được một đức tin vững chắc để không phải chỉ tin Chúa ngày hôm nay khi đời ta còn bình an, vui vẻ. Nhưng vẫn còn đủ sức để tin nếu mai ngày chúng ta rơi vào một hoàn cảnh khó khăn thử thách. Xin Chúa giúp chúng con vẫn cứ tin luôn, tin rằng chúa luôn thương yêu chúng con. Xin Chúa giúp chúng con vẫn cứ tin luôn cho dù gặp bao gian nguy.
* 2. Đừng sợ
Đức Giêsu nói với ông Giairô: "Đừng sợ. Chỉ cần tin thôi!"
Ông Giairô đã đi tìm Đức Giêsu khi con gái ông hấp hối. Khi mời được Ngài theo ông về nhà thì lòng ông tràn trề hy vọng, nhưng có lẽ cũng hồi hộp lo âu vì không biết về tới có còn kịp không. Đang lúc gấp như vậy thì kẹt chuyện người đàn bà loạn huyết khiến cuộc hành trình bị tạm dừng. Chắc ông Giairô sốt ruột thêm. Cuối cùng thì chuyện người đàn bà ấy cũng giải quyết xong và Đức Giêsu tiếp tục cùng ông về nhà. Hy vọng lại sáng lên. Đột nhiên, người nhà chạy đến báo tin: "Con gái ông chết rồi. Làm phiền Thầy chi nữa". Tất cả hy vọng chợt tắt! Thế là hết. Còn làm gì được nữa. Tiếp tục dẫn Đức Giêsu về nhà chỉ là làm phiền Ngài thêm thôi. Chắc lúc đó Ông Giairô định nói lời cám ơn Đức Giêsu để mau về nhà lo chuyện mai táng cho con gái.
Nhưng, đúng lúc đó, Đức Giêsu nói một câu rất là khích lệ: "Đừng sợ. Chỉ cần tin thôi". Nhờ câu này, Giairô tiếp tục đưa Đức Giêsu về nhà. Và sau đó là phép lạ. Sau nay nghĩ lại, Ông Giairô hẳn là rất vui mừng vì khi đó ông đã không tuyệt vọng.
Xin Chúa hãy thường xuyên nói vào tai con "Đừng sợ, Chỉ cần tin thôi". Con rất cần nghe lời động viên đó, vì rất nhiều lần con thấy không còn làm gì hơn được nữa nên muốn buông xuôi bỏ cuộc.
3. Hình thức lề luật
- Bài Tin mừng hôm nay thuật lại 2 việc làm của Đức Giêsu. Những việc này không chỉ nhằm chứng tỏ quyền năng của Chúa trên bệnh hoạn và sự chết, mà còn cho chúng ta thấy thái độ và lập trường của Chúa đối với những luật lệ khắc khe và khô cứng của đạo Do thái thời đó.
- Trước hết là việc Chúa chữa cho một người đàn bà mắc bệnh loạn huyết. Theo luật Do thái, người nào mắc chứng bệnh này thì đương nhiên bị liệt vào hàng dơ dáy, ô uế, cho nên không được vào Đền thờ, không được tham dự các lễ nghi phượng tự, và cũng không được đụng tới ai vì hễ ai mà bị người ô uế đụng phải thì cũng trở thành người ô uế luôn. Khỏi cần nói nhiều, chúng ta cũng hiểu bà này đau khổ như thế nào. Trong cơn đau khổ, bà đã nảy ra một ý tưởng táo bạo là tìm cách đụng vào gấu áo Đức Giêsu. Ý định này táo bạo ở chỗ là việc đó trái lề luật, và cũng chẳng ai chịu cho bà ta đụng vào mình đâu vì sợ bị lây nhiễm sự ô uế. Vì thế mà bà này phải làm một cách lén lút. Dù vậy Đức Giêsu vẫn biết. Khi Đức Giêsu hỏi "Ai đã đụng đến ta?" thì bà ta sợ hãi vì thấy việc làm của mình đã bị bại lộ. Nhưng bà ta ngạc nhiên hết sức vì Đức Giêsu chẳng hề quở trách bà một lời nào, trái lại còn làm cho bà khỏi bệnh, và còn an ủi bà "Con hãy đi bình an".
- Sang câu chuyện của ông Giairô. Ông là Trưởng Hội Đường, nghĩa là một viên chức tôn giáo, một người có trách nhiệm bảo vệ luật đạo. Trước đó ông đã đến xin Đức Giêsu đến nhà ông chữa trị cho con gái ông sắp chết. Đang khi Đức Giêsu cùng đi với ông về nhà thì xảy ra câu chuyện của người đàn bà mắc bệnh loạn huyết mà ta vừa nói ở trên. Bà này đã đụng vào Đức Giêsu nên theo luật thì Đức Giêsu đã trở thành người ô uế. Nếu Đức Giêsu mà vào nhà ông thì cũng theo luật đó, tới phiên nhà ông cũng bị lây nhiễm ô uế luôn. Và việc đó sẽ gây hậu quả to lớn bởi vì như ta đã biết, ông là Trưởng Hội đường, nếu ông không giữ luật mà còn để nhà ông bị Đức Giêsu làm thành ô uế thì có thể ông mất chức luôn. Đang lúc đó thì lại xảy thêm một diễn tiến nữa: Người nhà ông chạy đến cho hay là con gái ông đã chết rồi, đừng làm phiền Đức Giêsu nữa. Trước những sự kiện dồn dập như thế, ông Giairô không còn ý định mời Đức Giêsu về nhà mình nữa. Nhưng Đức Giêsu bảo ông: "Đừng sợ gì cả (nghĩa là: Ông đừng sợ làm phiền tôi, cũng đừng sợ bị lây ô uế), điều cần nhất là lòng tin". Giairô đã tin Chúa, không còn ngại sợ gì nữa, mời Chúa về nhà, Đức Giêsu cầm lấy tay đưa đứa bé đã chết và truyền cho nó sống lại. Thêm một chi tiết đáng lưu ý: Theo luật thì xác chết cũng là một thứ ô uế, ai đụng tới xác chết thì sẽ bị nhiễm ô uế. Nhưng ta đã thấy, một lần nữa Đức Giêsu đã tỏ ra bất chấp...
- Sau khi nghe giải thích 2 việc làm táo bạo của Đức Giêsu, chúng ta nghĩ sao về Chúa? Có phải Ngài chủ trương phá bỏ tất cả mọi lề luật không? Chắc chắn là không, bởi vì Ngài đã từng tuyên bố rõ: "Các ngươi tưởng là Ta đến để huỷ bỏ lề luật ư? Không, Ta không phá bỏ mà ta làm cho trọn lề luật. Ta nói thật: cho dù trời đất có qua đi, nhưng không một chấm một phết nào của lề luật sẽ qua đi, cho đến khi tất cả được nên trọn". Nghĩa là những việc là của Đức Giêsu, thoạt xem thì có vẻ như chống đối lề luật, thực chất là nhằm làm cho lề luật được kiện toàn. Thời đó, người ta chỉ giữ luật theo cái hình thức, Đức Giêsu muốn cho cái hình thức ấy có thêm cái tinh thần, chính đó mới là cái cốt tuỷ của lề luật, đó mới là điều quan trọng. Có lần Đức Giêsu đã nói thẳng với bọn luật sĩ và biệt phái chỉ biết chăm lo giữ cái hình thức khô cứng của lề luật mà không để ý gì đến tinh thần lề luật. Chúa nói rằng: "Các ngươi chỉ là những cái mồ mã. Bên ngoài thì sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì chứa toàn những sự thối tha". Khi bàn về sự tinh sạch và ô uế, Đức Giêsu đã khẳng định rằng tinh sạch hay ô uế thật là do lòng người chứ không do hình thức bên ngoài. Ngài nói: "Cái gì làm cho người ta ra ô uế? Không phải những cái từ bên ngoài vào (như đồ ăn, thức uống chẳng hạn), mà là cái từ bên trong bài tiết ra".
- Như vậy, lập trường của Đức Giêsu rất rõ ràng: Điều quan trọng cốt lõi của mọi khoản lề luật chính là cái tinh thần của nó. Kẻ nào chỉ bo bo lo giữ cái hình thức bề ngoài mà quên cái tinh thần cốt lỗi của lề luật thì cũng như những cái mồ mã tô vôi bề ngoài thì đẹp nhưng bề trong thì xấu xa hôi thối. Bây giờ chúng ta đã hiểu ý Chúa rồi. Chúng ta sẽ sống làm sao?
- Thứ nhất là việc dự lễ: Bên các nước tiến bộ, ngày nay có một vấn đề được đặt ra, khá ngộ nghỉnh: người ta hỏi có được phép ngồi ở nhà dự Thánh Lễ được truyền qua màn ảnh vô tuyến truyền hình, khỏi cần đi đến nhà thờ được không? Giáo hội đã trả lời dứt khoát là không được. Bởi vì dự lễ kiểu đó chỉ là một hình thức cho có cho rồi, chẳng có một chút tâm tình tôn thờ, yêu mến, kết hợp với Thánh Thể. Chuyện bên Tây thì vậy, nhưng bên ta cũng có chuyện tương tự như vậy: Nhiều người đi dự lễ nhưng không muốn vào nhà thờ cho dù trong nhà thờ vẫn còn chỗ. Họ đứng ở ngoài, miễn sao là có hướng vào nhà thờ, mắt nhìn về phía bàn thờ. Vậy thì có khác gì xem lễ qua Tivi đâu? chỉ là hình thức, chẳng có tâm tình.
- Thứ hai là luật thánh hóa ngày Chúa nhật: Điều răn thứ ba dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Nhiều người nghĩ rằng thánh hóa ngày Chúa nhật chỉ là đi xem lễ. Từ quan niệm đó, ai mà có dự lễ gọi thì kể là xong hết bổn phận. Còn ai lỡ kẹt chuyện gì đó không đi xem lễ được thì cũng kể như mình đã lỡ, thôi đành vậy. Chúng ta hiểu điều răn thứ ba như vậy là hời hột quá, chỉ phớt qua một hình thức bề ngoài là dự lễ thôi. Thực ra điều răn này dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Thánh hóa là làm cho ngày đó nên thánh thiện. Mà muốn làm cho ngày đó nên thánh thiện thì dự lễ chỉ là một việc, ngoài ra còn dành nhiều thời giờ của ngày đó để làm những việc Chúa muốn, như đọc kinh cầu nguyện nhiều hơn, làm thêm những việc lành, lưu ý đến kẻ khác hơn bằng cách dùng ngày nghỉ đó để tới lui thăm viếng, truyện trò, an ủi nhau, giúp đỡ nhau v.v...
- Thứ ba là việc sống đạo giữa đời: Mọi lề luật được đặt ra không phải chỉ là để cho có "hình thức, mà để giúp cho con người có thể sống đạo tốt hơn. Nhưng sống đạo là gì? Không phải chỉ là chu toàn một số hình thức đạo đức như đọc kinh, dự lễ, chịu các bí tích. Sống còn là làm việc, là làm ăn buôn bán, giao tế, biết xử sự tốt, trước những và chạm, khó khăn xảy ra hàng ngày. Giáo Hội thường nói "Sống đạo giữa đời". HĐGMVN còn nói rõ hơn: sống đạo là "Sống Tin mừng giữa lòng dân tộc". Cho nên chỉ mới có đọc kinh xưng tội, dự lễ thì chưa phải là sống đạo, mà chỉ là giữ một số hình thức của luật đạo thôi. Khi nào chúng ta biết để ý làm ăn theo lương tâm của người Kitô hữu, cư xử với mọi hạng người theo tinh thần bác ái của Tin mừng thì mới đúng là chúng ta sống đạo thật sự.
10 điều luật Chúa và 6 điều luật Hội Thánh ai trong chúng ta cũng thuộc lòng từ nhỏ. Hình thức bề ngoài của những luật đó là đọc kinh, dự lễ, xưng tội, ăn chay v.v.... Nhưng tinh thần của chúng là "10 điều răn ấy tóm về 2 điều này thôi: mến Chúa và yêu người". Chúng ta hãy cố gắng đem tinh thần yêu thương ấy vào tất cả mọi sinh hoạt của chúng ta, không những chỉ có các sinh hoạt ở nhà thờ mà còn các sinh hoạt làm ăn, buôn bán, giao tế, buồn vui sướng khổ hằng ngày nữa. Đó mới thực sự là sống đạo giữa đời.
4. Cộng tác với ơn Chúa
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn "chuyên trách" về bệnh này.
Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:
Xin Cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không? Vị linh mục nói:
Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.
Bà già la lên:
Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.
Thánh Antôn tự nhủ:
Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!
XXX
Nếu bà già trong câu chuyện suy niệm bài Tin mừng hôm nay, chắc bà sẽ không làm cho thánh Antôn phải thất vọng. Người phụ nữ xuất huyết trong bài Tin mừng và bà già đau răng trong câu chuyện trên, cả hai đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.
Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: "Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa". Mc.Kenzie nói: "Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể".
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người. Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã "múc nước đổ đầy các chum" (Ga.2,7)
Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi "có 5 chiếc bánh và 2 con cá" (Mc.6,35-43).
Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga.9,1-40).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Ngạn ngữ Tây phương có câu: "Hãy tự giúp mình trước rồi Trời sẽ giúp sau".
XXX
Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con với trái tim của người cha người mẹ. Chúa để chúng con hoàn toàn tự do đáp lại tình yêu Chúa. Xin cho chúng con luôn biết sống ngoan nguỳ, thảo hiếu, đẹp lòng Chúa. Xin dạy chúng con biết cộng tác với ơn Chúa, để được Chúa ban ơn trợ giúp trong những cơn gian nan khốn khó. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
5. Chuyện minh họa
a/ Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: "Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng."
Bà cầu nguyện suốt ba ngày vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ: "Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai."
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện.
b/ Bà De Gaulle cho gọi một nhân viên mai táng đến, bảo tìm nơi an nghỉ cuối cùng cho người chồng quá cố. Người này thân hành chở bà đến một sườn đồi, trước mặt là một thung lũng tuyệt đẹp. Ông nói: "Đây là nơi an nghỉ rất xứng đáng với người chồng vĩ đại của bà, và cũng chỉ tốn 200.000 francs". Trong lúc bà còn đang phân vân, ông ta nói tiếp: "Ông nhà thật đáng hưởng sự ưu đãi đó". Bà đáp: "Nhưng ông chỉ cần nơi ấy 3 ngày thôi mà!"
V. LỜi nguyỆn cho mỌi ngưỜi
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu có thể chữa mọi bệnh tật và làm cho kẻ chết sống lại nữa. Chúng ta hãy tin tưởng và cầu xin Người:
1. Lạy Đức Giêsu / Chúa luôn ở với Hội thánh mọi ngày cho đến tận thế / Xin cho giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân trong Hội thánh / luôn tin tưởng và duy trì sự hiệp thông với Chúa trong mọi nơi mọi lúc.
2. Lạy Đức Giêsu, nhiều nhà cầm quyền trên thế giới không tin có Chúa, không tin quyền năng của Chúa, mà còn chế giễu công việc của Chúa / Xin giúp họ thoát khỏi lầm lạc và tìm ra sự thật về Chúa.
3. Lạy Đức Giêsu, Chúa vẫn có mặt ở khắp nơi trên thế giới / nhưng còn rất nhiều người chưa nhận biết Chúa và chưa tin tưởng Chúa / xin Chúa tỏ quyền năng Chúa cho họ / để họ tìm đến với Chúa.
4. Lạy Đức Giêsu, anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng con đã được biết Chúa và biết quyền năng của Chúa / Xin giúp chúng con được đức tin mạnh mẽ hơn / để chúng con giới thiệu Chúa cho mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã sai Đức Kitô đến cứu thoát chúng con khỏi tội lỗi và chết đời đời, xin cho chúng con biết tin tưởng và chạy đến với Người, mỗi khi gặp bệnh tật và sự chết đe dọa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô...
Một cơn lụt khủng khiếp đã tràn ngập cả một vùng rộng lớn. Một bà bị kẹt ở trong nhà. Khi: TN13-B32
Một cơn lụt khủng khiếp đã tràn ngập cả một vùng rộng lớn. Một bà bị kẹt ở trong nhà. Khi đang đứng ở cửa sổ nhà bếp trông ra ngoài, bà thấy có một chiếc ca-nô tiến đến. Người tài công nói với bà, "Bà leo lên đây và cứu lấy mình."
"Không, cám ơn ông," bà trả lời. "Tôi tin tưởng vào Chúa, Người sẽ cứu tôi." Người tài công lắc đầu bỏ đi.
Ngày hôm sau, nước dâng lên đến lầu hai. Khi đứng ở cửa sổ lầu hai nhìn ra biển nước, một chiếc tầu khác xuất hiện. Người lái tầu bảo, "Bà leo lên tầu đi để cứu lấy mình."
"Không, cám ơn ông," bà trả lời. "Tôi tin tưởng vào Chúa, Người sẽ cứu tôi." Người lái tầu lắc đầu bỏ đi.
Ngày sau nữa, nước đã dâng lên đến mái nhà. Khi ngồi trên nóc nhà, bà trông thấy một chiếc trực thăng xuất hiện. Phi công dùng máy phóng thanh nói với bà, "Tôi sẽ thả thang giây xuống. Bà leo lên và cứu lấy mình."
"Không, cám ơn ông," bà trả lời. "Tôi tin tưởng vào Chúa, Người sẽ cứu tôi." Phi công lắc đầu bay đi chỗ khác.
Ngày hôm sau nước ngập cả căn nhà, và bà bị chết chìm. Khi lên đến thiên đàng, bà nói với Thánh Phêrô, "Trước khi tôi vào đây, tôi phải làm đơn khiếu nại. Tôi tin tưởng là Chúa sẽ cứu tôi khỏi bị lụt, nhưng Người đã bỏ tôi."
Thánh Phêrô nhìn bà với ánh mắt khó hiểu và nói, "Tôi không biết Chúa có thể làm gì hơn cho bà. Người đã gửi đến cho bà hai con tầu và một chiếc trực thăng."
Người đàn bà này chắc phải đọc bài Phúc Âm hôm nay kỹ càng hơn. Trong bài có hai người cần sự giúp đỡ giống như bà. Và cả hai đều tín thác vào Chúa, cũng như bà. Nhưng có sự khác biệt lớn lao giữa sự tín thác của họ và của bà.
Hãy xem đó là gì.
Người đầu tiên là một bà bị bệnh. Bà tin tưởng rằng Đức Giêsu có thể chữa lành cho bà. Nhưng bà cũng biết rằng bà có thể làm một điều gì khác hơn là chỉ tín thác nơi Đức Giêsu. Bà phải tiến thêm một bước nữa. Bà phải thi hành phần của bà. Bà không thể chỉ ngồi đó và chờ đợi Đức Giêsu đến với bà. Bà phải đứng lên, đi đến Đức Giêsu, và tự trình bầy với Người để được chữa lành.
Điều này cũng đúng với câu chuyện thứ hai trong Phúc Âm hôm nay. Ông Giairút cũng tin tưởng rằng Đức Giêsu có thể chữa con gái đang đau nặng của ông. Nhưng ông cũng biết là phải làm điều gì đó hơn là chỉ tín thác vào Đức Giêsu. Ông biết là phải tiến thêm một bước nữa. Ông phải thi hành phần của ông. Ông phải cộng tác với Đức Giêsu. Vì con gái của ông quá đau yếu nên không thể đến với Người, ông phải xin Đức Giêsu đến với đứa con của mình.
Và vì thế cả hai người trong bài Phúc Âm hôm nay đều thi hành điều gì đó hơn là chỉ tín thác vào Đức Giêsu. Họ đã tiến thêm một bước. Họ đã thi hành phần của mình. Họ đã tận dụng các phương tiện bình thường mà Chúa ban để có được sự chữa lành họ cần.
Đây là điểm mà bà bị chết chìm đã sai lầm. Bà quên rằng Thiên Chúa thường hành động trong đời sống chúng ta qua các phương tiện thông thường.
Bà quên rằng chúng ta phải thi hành phần của mình và cộng tác với Thiên Chúa qua việc sử dụng các phương tiện thông thường mà Người đã ban cho chúng ta. Nói cách khác, chúng ta không thể ngồi lì một chỗ và mong Chúa làm phép lạ cho chúng ta. Trước hết chúng ta phải dùng mọi phương tiện thông thường Chúa ban để tự giúp đỡ chúng ta.
Để tôi minh họa bằng một câu chuyện có thật.
Một thầy giáo Anh Văn lớp trung học có một học sinh trong lớp chẳng chịu học hành gì cả. Vào ngày thi cuối năm, người học sinh này đến nói với ông thầy là anh rất tin tưởng rằng anh sẽ được điểm cao. Anh nói, trong tuần qua, hằng đêm anh cầu xin Chúa giúp anh làm bài thi Anh Văn.
Thiên Chúa không bao giờ cho rằng sự cầu nguyện có thể thay thế cho việc học hành. Người không bao giờ cho rằng sự cầu nguyện có thể thay thế cho sự chuyên cần. Nhận được sự giúp đỡ của Chúa là một con đường hai chiều. Nó bao gồm sự cộng tác của chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta phải thi hành phần của mình, và Thiên Chúa sẽ thi hành phần của Người.
Thánh Y Nhã có diễn tả sự cộng tác với Thiên Chúa như sau: "Chúng ta phải làm việc như thể mọi thứ đều lệ thuộc vào chúng ta, nhưng chúng ta phải cầu nguyện như thể mọi thứ đều lệ thuộc vào Chúa."
Nói cách khác, chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa và tận dụng các phương tiện thông thường mà Người ban cho chúng ta trước khi xin Người can thiệp trong một phương cách bất thường. Có câu châm ngôn nói rằng: "Thiên Chúa giúp những ai tự giúp mình."
Nhiều năm trước đây có một tiểu thuyết bán rất chạy tên là Jonathan Livingston Seagull. Trong đó có một câu thật hay được dùng làm chủ đề cho bài hát. Câu ấy như sau: "Nếu bạn yêu mến điều gì đó, bạn phải để nó tự do. Nếu bạn để nó tự do và nó trở về với bạn, thì bạn biết nó là của bạn. Nhưng nếu bạn để nó tự do và nó không trở lại với bạn, lúc ấy bạn biết rằng nó đã không thuộc về bạn ngay tự đầu."
Đó là phương cách Thiên Chúa đối xử với chúng ta khi cần giúp đỡ chúng ta. Người đã để chúng ta tự do. Người không ép buộc chúng ta phải nhận sự giúp đỡ của Người. Mọi sự đều sẵn sàng cho chúng ta và Thiên Chúa để chúng ta được tự do có muốn sử dụng điều đó hay không.
Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những tên bù nhìn. Người đối xử với chúng ta như những cộng sự viên. Nói cách khác, Thiên Chúa ban cho chúng ta mọi tài nguyên cần cho đời sống thường ngày của chúng ta. Chỉ khi các tài nguyên này bị hao hụt trong những hoàn cảnh khẩn cấp chúng ta thường sẽ nghĩ đến việc quay về với Chúa để được trợ giúp.
Khi chúng ta quay về với Thiên Chúa trong những hoàn cảnh này, chúng ta có thể biết chắc rằng Người sẽ giúp chúng ta, vì Người là Cha chúng ta và chúng ta là con cái của Người.
Hãy chấm dứt phần suy niệm với câu trong cuốn Jonathan Livingston Seagull: "Nếu bạn yêu mến điều gì đó, bạn phải để nó tự do. Nếu bạn để nó tự do và nó trở về với bạn, thì bạn biết nó là của bạn. Nhưng nếu bạn để nó tự do và nó không trở lại với bạn, lúc ấy bạn biết rằng nó đã không thuộc về bạn ngay tự đầu."
Lạy Chúa, trong tình phụ tử của Ngài dành cho chúng con, Ngài đã để chúng con được tự do. Xin giúp chúng con chứng tỏ tình yêu của con cái đối với Cha hiền bằng cách quay về với Chúa khi chúng con cần sự giúp đỡ đặc biệt của Ngài. Lm. Mark Link, S.J.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy lòng tin của ông trưởng hội đường và của một phụ nữ bị băng: TN13-B33
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy lòng tin của ông trưởng hội đường và của một phụ nữ bị băng huyết. Cả hai người đã nghe biết về Ðức Giêsu và quyền năng của Ngài. Chúng ta không rõ họ coi Ðức Giêsu là ai, là một tiên tri hay chính là Ðức Kitô muôn dân mong đợi. Nhưng chắc chắn họ coi Ngài là người có thể chữa lành bệnh tật, kể cả những bệnh nan y.
Họ đã chạy đến với Ðức Giêsu khi không còn có thể nương tựa vào bất cứ chỗ dựa nào nơi người đời. Oâng trưởng hội đường đã đến với Ðức Giêsu khi đứa con gái của ông gần chết. Chúng ta phải cảm thấy nỗi thất vọng của người cha, khi mọi cố gắng chữa trị đều không chút hiệu quả. Cái chết cứ từng bước đến gần con gái ông mà ông không sao ngăn chặn nổi. Oâng chỉ còn niềm hy vọng cuối cùng nơi Ðức Giêsu. Oâng tin rằng nếu Ngài đến đặt tay trên con ông, ắt nó sẽ được cứu và được sống. Niềm tin của ông là niềm tin khiêm hạ, bất chấp chức vị của mình, ông phủ phục dưới chân Ngài và nài nẵng kêu xin.
Có lẽ lòng tin của ông đã bị chao đảo khi ông nghe tin con gái ông chết rồi. Ðiều ông lo sợ đã trở thành sự thực. Như thế Ðức Giêsu có cần đến nhà ông nữa chăng? Ðến để làm gì với cái xác của con ông? Bao nhiêu câu hỏi quay cuồng trong đầu ông. Ðức Giêsu đã nâng đỡ đức tin của ông khi bảo: "Ðừng sợ, hãy tin mà thôi!" Có những lúc mà thực tế bi đát làm cho niềm tin tắt ngúm, niềm hy vọng vỡ tan. Chính lúc tăm tối đó, Chúa mời gọi ta như mời gọi ông Giairô: "Ðừng sợ, hãy tin mà thôi!" Tin lúc đó thật khó. Tin khi thấy kế hoạch, ước mơ, dự tính của mình như bị Thiên Chúa từ khước. Người ta tự hỏi tin để làm gì?.
Con đường về nhà ông Giairô bao xa, chúng ta không rõ. Nhưng chắc chắn ông Giairô cảm thấy nỗi đau đớn khi phải trở về và gặp thấy xác đứa con yêu dấu. Ðức Giêsu và ba môn đệ thân tín cùng đi với ông. Oâng không rõ điều gì sẽ xảy ra. Có lẽ ông không dám nghĩ đến việc Chúa cho con ông sống lại. Trước cảnh tượng xôn xao, khóc lóc của tang gia, Ðức Giêsu chỉ nói một câu mà ai cũng cho là bất thường "Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!" Ðức Giêsu chỉ cho cha mẹ cô bé và ba môn đệ được chứng kiến phép lạ mà thôi. Bằng một cử chỉ trìu mến, Ngài cầm lấy tay cô mà nói: "Thầy bảo con, hãy chỗi dậy." Như thế có sự khác biệt giữa ước mơ của người cha muốn xin Ðức Giêsu đến đặt tay để con mình khỏi chết với điều Ðức Giêsu thực hiện trong lúc này: cầm lấy tay và cho cô bé sống lại. Con đường của Chúa không luôn luôn trùng hợp với con đường của chúng ta. Chấp nhận để Chúa dẫn đi qua những lối quanh co và bất ngờ, những lối đi nằm ngoài dự tính của ta, đó là thái độ của người có đức tin. Chúng ta tin rằng cuối cùng Chúa cũng cho ta được hưởng hạnh phúc đích thật, bất chấp những thử thách hiện tại.
"Hãy chỗi dậy!": lời Ðức Giêsu đánh thức cô bé đang thiếp ngủ, lời trả lại sự sống cho người chết. Cô bé liền đứng lên và đi lại được. Cô vừa khỏi chết, vừa khỏi bệnh. Giữa lúc mọi người vui mừng và kinh ngạc sững sờ, thì Ðức Giêsu nhắc họ hãy cho cô bé ăn.
Lòng tin của người phụ nữ
Câu chuyện về người phụ nữ diễn ra trên con đường đến nhà ông Giairô. Máccô đã mô tả kỹ lưỡng tình trạng bệnh tật của bà, một bệnh mà các lương y đều bó tay. Hơn nữa, bệnh băng huyết bị người Do Thái thời đó coi là bệnh làm cho người bệnh trở nên ô nhơ, và ai tiếp xúc với họ cũng trở nên ô nhơ (Lv 15,19-27). Nỗi khổ của bà thật lớn, vì bà không được tham dự các đại lễ ở Giêrusalem. Chỉ nghe đồn về Ðức Giêsu thôi, bà đã có một lòng tin mạnh mẽ, tuy còn bất toàn. Bà tin rằng nếu mình được sờ vào áo của Ngài, ắt mình sẽ khỏi bệnh. Chính vì thế bà len lén đến sau Ðức Giêsu và đụng vào áo Ngài. Tức khắc bà thấy mình bình phục. Trong đám đông đi theo Ðức Giêsu, có nhiều người đụng đến Ngài, nhưng chỉ có một cái đụng nhẹ nơi áo khiến Ngài cảm nhận. Ðó là cái đụng của lòng tin. Ðức Giêsu không phải vì tò mò nên muốn biết mặt người đã làm điều đó. Người muốn trao chính Ngài cho người đã nhận được ơn của Ngài. Ngài muốn trò chuyện, lắng nghe và muốn đích thân ban ơn. Người phụ nữ thì sợ hãi run rẩy. Phải chăng bà sợ vì đã dám đụng đến Ngài và khiến Ngài bị ô nhơ? Hay phải chăng vì bà đã chiếm lấy ơn mà không được Ngài ưng thuận? Dù sao thì bà đã dám thú nhận hết sự thật. Bà đã có tương quan với người đem lại hạnh phúc cho bà, giải phóng bà khỏi cơn bệnh kéo dài mười hai năm. Bà ra đi với lời chúc bình an của Ngài.
Ðức Giêsu, người kiến tạo hạnh phúc
Bệnh tật và cái chết là những nỗi khổ của phận người. Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đã rung động trước những con người đau khổ. Ngài đã không thể chữa hết mọi người đau yếu ở It-ra-en, nhưng Người không lãnh đạm trước lời kêu cầu đầy lòng tin của người bệnh. Bệnh tật không phải chỉ trói buộc thân xác con người, mà còn ảnh hưởng đến tinh thần con người nữa. Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Ðộ, Ngài cứu con người khỏi nô lệ cho tội lỗi, nhưng Ngài cũng không bỏ rơi thân xác con người. Ngài muốn cứu độ con người cả xác lẫn hồn, một sự giải phóng toàn diện. Ðức Giêsu say mê xây dựng hạnh phúc cho con người. "Mù được sáng mắt, què được đi, phung hủi được sạch, điếc được nghe, kẻ chết được sống lại và người nghèo được nghe loan báo Tin Mừng" (Mt 11,5). Chúng ta thường nghĩ đến hạnh phúc của người phụ nữ được khỏi bệnh băng huyết, hay của ông Giairô được sống bên đứa con thân yêu, nhưng chúng ta ít nghĩ đến hạnh phúc của Ðức Giêsu sau mỗi lần Ngài chữa bệnh. Chúng ta cần hình dung khuôn mặt vui tươi của Ngài khi nghe người phụ nữ thuật lại hành động táo bạo của bà. Chúng ta cũng phải thấy được nụ cười trên môi Ðức Giêsu khi cô bé mười hai tuổi ngã vào lòng người cha còn chưa khô dòng lệ. Nỗi buồn của bệnh tật, của tang chế, Ðức Giêsu muốn hủy đi. Ngài muốn con người được vui. Trần gian này đã có quá nhiều nước mắt. Qua những điều Ngài làm, ta thấy Nước Trời đã gần bên; Nước Trời là bữa tiệc (Mt 8,11); Nước Trời là đám cưới (Mt 22,2tt); Nước Trời là niềm vui bất tận.
Người Kitô hữu hôm nay cũng noi gương Ngài, hiến thân vì hạnh phúc con người. Họ có mặt ở mọi môi trường, mọi ngành nghề, mọi lãnh vực. Họ làm hết mình vì say mê con người và say mê Thiên Chúa.
Một số câu hỏi gợi ý
Bạn đang làm nghề gì? Nghề của bạn có giúp cho người khác sống hạnh phúc không? Bạn thấy mình phải sửa đổi gì, để cách phục vụ của bạn được tốt hơn?
Có khi nào bạn gặp nỗi khổ như người phụ nữ trên đây không? Có khi nào đức tin của bạn bị thử thách như đức tin của ông Giairô không? Lúc đó bạn đã làm gì để kiên vững lòng tin?
“Thiên Chúa không làm ra sự chết”, đó là chủ đề của Chúa Nhật nầy. Kn 1: 13-15; 2: 23-24.
Trong Bài Đọc I, tác giả sách Khôn Ngoan cho thấy rằng Thiên Chúa đã không làm ra sự chết; Ngài đã sáng tạo con người theo hình ảnh của Ngài cho họ được hưởng trường tồn bất diệt.
Mc 5: 21-43
Tin Mừng đến củng cố lời khẳng định của Hiền Nhân Ít-ra-en: Đức Giê-su phục sinh bé gái mười hai tuổi. Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống; Ngài nắm giữ quyền năng sự sống, tiêu diệt sự chết và thu tóm nó vào chỉ trong một giấc ngủ chốc lát.
2Cr 8: 7, 9, 13-15
Trong đoạn trích thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô kêu gọi tấm lòng quảng đại và đức ái huynh đệ.
BÀI ĐỌC I (Kn 1: 13-15; 2: 23-24)
Sách Khôn Ngoan là tác phẩm muộn thời nhất của bộ Cựu Ước; sách được soạn thảo vào giữa thế kỷ thứ: TN13-B34
Sách Khôn Ngoan là tác phẩm muộn thời nhất của bộ Cựu Ước; sách được soạn thảo vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, ở A-lê-xan-ri-a, trong môi trường Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp.
Vào thời đại nầy thành phố A-lê-xan-ri-a là thủ đô của văn hóa Hy lạp, nhưng cũng là thành phố lớn nhất của Do thái Hải Ngoại (người ta ước lượng khoảng vài trăm ngàn người Do thái sinh sống ở thành phố nầy).
Tác giả sách Khôn Ngoan thì vô danh; ông viết bằng tiếng tiếng Hy lạp cho đồng bào Do thái của ông, họ không còn biết tiếng Hy bá nữa. Sách Khôn Ngoan đã được soạn thảo trong bối cảnh văn hóa Hy-lạp đã quyến rủ người Do thái và đang làm cho nhiều người lung lay niềm tin truyền thống của dân tộc mình. Tác giả đã muốn ngăn ngừa những nguy cơ bội giáo. Ông cực lực công kích ngoại giáo và thờ ngẫu tượng.
Tác giả là một con người đạo hạnh, rất gắn bó với Do thái giáo truyền thống. Tuy nhiên, tư tưởng thần học của ông đã tiếp xúc với triết học Hy-lạp. Việc tiếp xúc nầy rất có lợi: ngôn từ mà ông sử dụng trong sách Khôn Ngoan thì thâm thúy hơn, suy luận hơn, rộng mở hơn với siêu hình học so với các sách minh triết trước đó (sách Gióp, Châm Ngôn, Giảng Viên, Huấn Ca). Thánh Phao-lô và thánh Gioan, hai nhà thần học Tân Ước sẽ gặp thấy ở nơi tác phẩm nầy những trực giác cho Ki tô học của mình.
Tác giả mượn vài tư tưởng của văn hóa Hy lạp như quan niệm về sự bất tử của linh hồn. Nhưng tác giả không chấp nhận quan niệm về con người của văn hóa Hy lạp: ông sáp nhập viễn cảnh nầy vào trong chiều sâu của tư tưởng Do thái giáo truyền thống.
1. Thiên Chúa không làm ra cái chết.
“Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất tử”. Tác giả xác định xa hơn: “Những ai trông cậy vào Người, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Người” (3: 9).
Đây là lần đầu tiên trong Cựu Ước xuất hiện lời khẳng định về cuộc sống sau cái chết, trong sự thân mật với Thiên Chúa. Thật ra, niềm hy vọng về cuộc sống bên kia nấm mồ đã được phát biểu nhiều lần, nhất là trong các Thánh Vịnh, trong số đó Thánh Vịnh nổi tiếng nhất là Tv 16, Thánh Vịnh về Đấng Mê-si-a. Niềm hy vọng nầy là tiếng kêu lớn của người vô tội xin Thiên Chúa xét xử ngõ hầu người công chính không cùng chịu chung số phận như kẻ vô đạo.
Nhưng vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, tác giả sách Khôn Ngoan nêu lên niềm tin vào cuộc sống mai hậu nầy với một niềm xác tín thanh thản. Vấn đề thưởng phạt đã làm bận lòng các nhà ưu tú Ít-ra-en từ lâu nay đã gặp thấy giải pháp. Trong phần thứ nhất của tác phẩm, tác giả đối lập cách sống của kẻ vô đạo và cách sống của những người công chính ở dưới thế, và sự khác biệt số phận của họ sau cái chết. Người công chính chỉ chịu một cái chết bên ngoài, số phận của họ thì bất tử. Kẻ vô đạo biết cả cái chết thể lý lẫn cái chết tinh thần, nghĩa là không được hưởng nhan thánh Chúa.
2. Quan niệm con người theo Kinh Thánh:
Tác giả sách Khôn Ngoan không đơn giản chuyển quan niệm Hy lạp về sự bất tử của linh hồn vào trong tư tưởng Do thái, vì quan niệm về con người của hai nền văn hóa nầy rất khác nhau.
Trước tiên, chúng ta hãy ghi nhận rằng có vài điểm tương đồng về cuộc sống bên kia sự chết giữa quan niệm Do thái và quan niệm Hy lạp.
Theo quan niệm Ít-ra-en cũng như Hy lạp, những vong nhân sống một cuộc sống trong cõi âm ti buồn phiền tăm tối mà Do thái gọi “shéol”, Hy lạp gọi “hadès”. Họ chia sẻ với các dân tộc khác cùng một niềm tin theo đó Mẹ Đất đã sinh ra con người và sẽ tiếp nhận con người vào trong lòng đất mẹ của mình.
Trong huyền thoại Hy lạp, vài vị anh hùng ưu việt đạt đến một cuộc sống tốt hơn, được cất lên bên cạnh các thần linh như Ménelas và Héraclès, hay được mang vào trong Đảo Hạnh Phúc, như Achille, trong sử thi hậu Homère. Cũng vậy, trong truyền thống kinh thánh, ông Kha-nốc (St 5: 24), ngôn sứ Ê-li-a (2V 2: 11) là những người được cất lên trên trời và đang sống.
Trong tư tưởng Hy lạp, vào thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, Socrate khẳng định công khai sự bất tử của linh hồn, và cuộc sống trường cửu bên cạnh các thần linh. Platon sẽ khai triển trong tác phẩm Phédon những bằng chứng về sự bất tử của linh hồn. Tuy nhiên, theo quan niệm “nhị nguyên” của Platon, linh hồn thuộc về một thế giới khác thân xác; nó có trước thân xác; thân xác chỉ là tù ngục giam hãm linh hồn.
Quan niệm Do thái về linh hồn thì rất khác. Linh hồn, bởi tiếng Hy bá “nephesh”, là nguyên lý của sự sống. Nguồn sống nầy chính là hơi thở đến từ hơi thở của Thiên Chúa, tức là thần khí. Nếu Thiên Chúa rút lại hơi thở của Ngài, con người chết. Ảnh hưởng quan niệm Hy-lạp về sự bất tử của linh hồn không làm thay đổi quan niệm kinh thánh về con người, nhưng củng cố nephesh kinh thánh: Sách Khôn Ngoan nói: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa” (3: 1). Linh hồn đón nhận phẩm chất, nhân cách, và có khả năng thấy Thiên Chúa.
Ít-ra-en có một cơ hội lớn lao đạt tới quan niệm về sự sống lại của thân xác trước khi mở lòng ra trước quan niệm về sự bất tử của linh hồn. Như vậy những nhà tư tưởng của họ có thể cưỡng kháng lại nhị nguyên thuyết của Hy-lạp. Thân xác, do từ bàn tay Đấng Tạo Hóa, không bị khinh chê nhưng duy trì chiều kích cao cả của nó: cuộc sáng tạo nguyên thủy là tốt đẹp.
3. Cái nhìn lạc quan về con người.
“Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu” (nghĩa là cho chúng có một cuộc sống bền vững). “Mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh”.
Tư tưởng lạc quan nầy quy chiếu về chương đầu tiên của sách Sáng Thế. “Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp” là điệp khúc tiếp liền sau mỗi một hành vi sáng tạo trong suốt “sáu ngày tạo dựng”.
Niềm lạc quan của tác giả còn đi xa hơn nữa và được diễn tả ở nơi một lời khẳng định bạo dạn: “Âm phủ (quyền lực của tử thần) không thống trị trên mặt đất, vì đức công chính thì trường sinh bất tử”. Vì thế, những sức mạnh của sự dữ và sự chết xem ra hoành hành trên cõi thế và thường chiến thắng, nhưng người công chính đánh bại sự chết vì họ được đảm bảo cuộc sống bất tử.
Tác giả hoàn tất sự chứng minh của mình bởi hai lập luận quan trọng:
- con người được trường tồn bất diệt vì được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa,
- tác giả của sự chết là quỷ dữ.
3.1- Con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa.
Lập luận thứ nhất dựa trên bản văn của sách Sáng Thế: “Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1: 26). Sách Khôn Ngoan nói: “Họ được Thiên Chúa dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người”. Lập luận chủ yếu về sự bất tử của con người như vậy rõ ràng thuần túy Kinh Thánh, không chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy-lạp.
3.2- Tác giả của sự chết là quỷ dữ.
“Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian”. Ở đây, tác giả ám chỉ đến chương 2 của sách Sáng Thế, tức là chuyện tích về sự thử thách và sa ngã. Cái chết mà tác giả nhắm đến trước hết là cái chết tinh thần, cái chết thực sự. Cái chết thể lý được liên kết với con người, nhưng chỉ dẫn kẻ vô đạo đến cái chết tinh thần.
Tác giả sách Khôn Ngoan là người đầu tiên cho chuyện tích sa ngã một giá trị tôn giáo. Đức Giê-su sẽ củng cố quan điểm nầy: “Ngay từ đầu, nó là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó” (Ga 8: 44).
BÀI ĐỌC II (2Cr 8: 7, 9, 13-15)
Thánh Phao-lô đã thực hiện một cuộc lạc quyên giúp Giáo Đoàn Giê-ru-sa-lem: Giáo Đoàn nầy đang lâm cảnh túng thiếu. Sử gia Gio-sê-phút (cuối thế kỷ thứ nhất) kể ra một nạn đói kém dài lâu đã hoành hành xứ Pha-lê-tinh, dưới thời các quan tổng trấn Cút-pi-út Fa-đút và Ti-be A-lê-xan, tức giữa những năm 44-48. Sách Công Vụ 11: 28-30 nói với chúng ta về một nạn đói lớn đã xảy ra dưới thời hoàng đế Cơ-lau-đi-ô (41-45 trước Công Nguyên). “Các môn đệ mới quyết định là mỗi người tùy theo khả năng của mình, sẽ gởi quà giúp đỡ anh em ở miền Giu-đê. Và họ đã làm việc ấy: gởi đến cho hàng kỳ mục qua tay ông Ba-na-ba và ông Sao-lô”.
Vì thế, trong thư gởi cho các tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô nhắc lại việc thánh nhân lên Giê-ru-sa-lem vào thời kỳ nầy (chắc chắn vào năm 46); chính vào thời điểm này thánh Phê-rô, thánh Gioan và thánh Gia-cô-bê, lãnh đạo Giáo Đoàn Giê-ru-sa-lem, quyết định ủy thác cho thánh Ba-na-ba và thánh Phao-lô nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho “các dân ngoại”, còn họ tiếp tục đảm nhận trách nhiệm loan báo Tin Mừng cho “những người được cắt bì”. Nhưng với một điều kiện là “chúng tôi phải nhớ đến những người túng thiếu, điều mà tôi vẫn gắng làm” (Gl 2: 10).
Thánh Phao-lô không bao giờ quên lời hứa của ngài, thậm chí cho dù các Ki tô hữu Giê-ru-sa-lem không còn phải lâm vào cảnh quá túng quẫn đi nữa.
Việc lạc quyên giúp đỡ Giáo Hội Giê-ru-sa-lem chiếm một chỗ quan trọng trong những hoạt động của thánh nhân. Thánh nhân đã đặt bầu nhiệt huyết vào công việc nầy, vì ngài thấy ở đó một cơ hội cho những người tân tòng, dù xuất thân từ Do thái giáo hay lương dân, thực hành đức ái huynh đệ và chia sẻ những của cải; cũng như chứng tỏ sự gắn bó của họ với Giáo Hội-Mẹ. Đây là cử chỉ hiệp nhất, lòng biết ơn đối với Giáo Hội Mẹ từ đó Lời Chúa được tỏa sáng và những ân phúc đức tin được trao ban.
Quả thật, trong thư gởi các tín hữu Rô-ma, thánh nhân viết: “Nhưng bây giờ tôi còn phải đi Giê-ru-sa-lem để phục vụ dân thánh ở đó, vì miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a đã có nhã ý đóng góp để giúp những người nghèo trong số dân thánh ở Giê-ru-sa-lem. Họ đã có nhã ý làm như vậy, nhưng thật ra họ cũng có bổn phận đối với dân thánh ở đó. Bởi vì dân ngoại đã được chia sẻ các phúc lộc thiêng liêng của dân thánh ở Giê-ru-sa-lem, thì họ cũng có bổn phận dùng của cải vật chất mà giúp đỡ lại…” (Rm 15: 16-28). Trong thư thứ hai gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân ám chỉ đặc biệt đến điều nầy: “Về điều nầy …vì anh em là những người đầu tiên, chẳng những đã thực hiện công cuộc đó, mà còn đã quyết định làm ngay từ năm ngoái” (2Cr 8: 10).
Trong đoạn trích hôm nay, thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-rin-tô hãy mở rộng tấm lòng giúp đỡ giúp đỡ các anh em đang lâm cảnh túng thiếu.
1. Mở rộng tấm lòng.
Thánh Phao-lô khéo léo kể ra những đức tính trổi vượt của các tín hữu Cô-rin-tô: đức tin, lời Chúa, sự hiểu biết, lòng hăng say trong mọi lãnh vực, vì thế họ phải bổ sung vào đây tấm lòng quảng đại trong dịp lạc quyên nầy nữa.
Nếu họ nhiệt tâm thực hành đức ái, chính vì chính thánh nhân đã truyền đạt ngọn lửa của ngài cho họ. Vì vậy, họ không thiếu bất cứ cái gì cả!
Nhưng động lực chính yếu, chính là mẫu gương của Đức Ki tô (trọng tâm của đoạn văn này). Trong một công thức rất đánh động, thánh Phao-lô gợi lên rằng Đức Ki tô “vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó, vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có”.
2. “Lá lành đùm lá rách”:
Tuy nhiên, thánh nhân biết rằng các tín hữu Cô-rin-tô không phải là những người giàu có. Thánh nhân tự đặt mình vào hoàn cảnh của họ khi đòi hỏi họ cho không phải những gì cần thiết cho sự sống của mình, nhưng từ sự dư giả của mình: “Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu; để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em. Lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều, hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu”.
TIN MỪNG (Mc 5: 21-43)
Thánh Mác-cô tường thuật cho chúng ta trong cùng một câu chuyện hai phép lạ của Đức Giê-su: phép lạ chữa lành bệnh tật và phép lạ phục sinh kẻ chết. Hai phép lạ được thực hiện một cách kín đáo; phép lạ chữa lành bệnh xuất huyết bất trị của một phụ nữ không thể kiểm chứng được; phép lạ cho một bé gái sống lại chỉ có vài nhân chứng và với lệnh truyền không được để cho ai biết chuyện nầy.
Việc đan kết hai biến cố vào trong cùng một câu chuyện cũng được gặp thấy tại Mt 9: 18-26 và tại Lc 8: 40-56; nhưng câu chuyện của Mác-cô có nhiều tình tiết sinh động nhất. Chúng ta dể dàng nhận thấy ở đây diễn tiến và ý nghĩa của những sự kiện. Đức Giê-su không vội vàng đến nhà ông trưởng hội đường; thời gian trôi qua giữa Đức Giê-su và người phụ nữ mắc bệnh xuất huyết, vì thế đứa bé chết. Cũng vậy, Đức Giê-su không vội vã ra đi khi nghe tin anh La-da-rô đau nặng; Ngài đến sau khi bạn Ngài đã qua đời bốn ngày rồi. Như vậy, trong câu chuyện nầy, Chúa Giê-su có một dấu hiệu khác để loan báo hơn là dấu hiệu chữa lành bệnh tật: Ngài có quyền trên cả sự chết.
1. Bối cảnh và các nhân vật.
Đức Giê-su đã ở vùng đất của dân Ghê-ra-sa, vùng đất dân ngoại, ở đó Ngài đã chữa lành một người bị quỷ ám nguy hiểm; dân làng sợ hãi xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ. Vì thế, Ngài xuống thuyền, trở sang bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất Ít-ra-en. Tức khắc “một đám rất đông tụ lại chung quanh Ngài”.
Đây là nét tiêu biểu của thánh Mác-cô, ông thích ghi lại những chuyển động của dân chúng: “đám đông tuôn đến với Ngài”, “họ đến với Ngài”, “họ đi theo và chen lấn Ngài”, “họ thích thú lắng nghe Ngài” vân vân.
Và nầy, một viên trưởng hội đường rẻ đám đông đến gặp Ngài. Viên chức sắc Do thái nầy bày tỏ lòng kính trọng và niềm tin tưởng vào Đức Giê-su: phủ phục dưới chân Ngài và khẩn thiết nài xin Ngài đến cứu giúp đứa con gái thập tử nhất sinh của ông. Phải nói rằng bản văn của Mác-cô có nhiều sắc thái sinh động hơn bản văn của Mát-thêu và Lu-ca. Viên trưởng hội đường nói lên ước nguyện của mình: “Xin Ngài đến đặt tay trên cháu”. Ông đã chứng kiến nhiều lần Đức Giê-su chữa lành bệnh tật bằng cách đặt tay. Đáp lại niềm tin tưởng đầy cảm động của ông, Đức Giê-su liền ra đi với ông. Nhưng trên đường đi, trong đoàn người chen chúc nầy, xuất hiện một người phụ nữ mắc bệnh băng huyết từ mười hai năm rồi vẫn vô phương cứu chữa.
2. Chúa Giê-su với người phụ nữ mắc bệnh nan y.
Thánh Mác-cô thường giữ cung giọng trực tiếp và bình dân cho câu chuyện của mình: “Có một người phụ nữ kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều lần đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác”. Thánh Lu-ca, thầy thuốc, sẽ giữ chừng mực hơn trong ngôn từ của mình: “Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, không ai có thể chữa được” (Lc 8: 43).
Theo luật Do thái, bệnh tình của bà là trường hợp nghiêm trọng về luật thanh sạch, vì máu là điều cấm kỵ. Vì thế, tuyệt đối cấm không ai được đụng chạm đến bà để khỏi làm cho mình ra ô uế (Lv 15: 19-30). Vì thế, bà lẫn mình vào trong đám đông để không ai nhận ra và rón rén tiến lại phía sau Ngài vì bà không thể công khai cầu xin Ngài chữa bà. Bà hy vọng mình được chữa lành một cách vụng trộm. Cử chỉ của bà thật khiêm tốn: không tìm kiếm bất cứ điều gì ngoài niềm mong ước chỉ đụng được áo Người, với trọn niềm tin tưởng của bà: “Tôi mà sờ được áo Người thôi, là sẽ được cứu”.
“Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”. Đừng hiểu những từ ngữ nầy theo mặt chữ. Đức Giê-su biết người phụ nữ nầy là ai và bà đang nghĩ gì trong lòng. Thánh Mác-cô đề cao quyền năng của Đức Giê-su, được xem như một loại năng lực có thể phát huy tác động một cách riêng biệt và hầu như độc lập, ông diễn tả theo quan niệm dân gian về các thầy thuốc vào thời đó. Chúng ta không gặp thấy một tư tưởng như thế tại thánh Mát-thêu: trong câu chuyện của mình, Đức Giê-su liền quay lại thấy bà, và nói với bà mà không cần chờ đợi lời giải thích của bà: “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mt 8: 22).
Trái lại. thánh Lu-ca bày tỏ cùng một cách thức như thánh Mác-cô. Nhiều lần thánh Lu-ca viết: “Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người” (Lc 6: 19). Trong câu chuyện nầy, thánh Lu-ca diễn tả như thánh Mác-cô: “Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra” (Lc 8: 47).
Những ghi nhận của Mác-cô và Lu-ca nầy đã làm tốn không biết bao giấy mực; thậm chí người ta tự hỏi phải chăng chúng phát xuất từ cách thức của các sách tin mừng ngụy thư. Đối với cử chỉ của người phụ nữ còn thúc đẩy các nhà chú giải đề nghị biết bao lời giải thích. Calvin phát hiện ở nơi cử chỉ của người phụ nữ nầy thái độ tương tự thái độ tôn thờ các thánh tích mà ông kết án. Theo cùng một tinh thần, các nhà phê bình khác so sánh câu chuyện nầy với các câu chuyện được tường thuật trong sách Công Vụ: bệnh nhân được chữa lành nhờ khăn và áo đã chạm đến da thịt của thánh Phao-lô (Cv 19: 11) hay nhờ cái bóng của thánh Phê-rô chạm đến (Cv 5: 15).
Vấn đề vẫn luôn luôn được đặt ra. Tất cả việc chữa lành nhờ đụng chạm đến thánh tích nào đó được định vị trên một đỉnh núi nguy hiểm mà triền dóc nầy là lòng mộ đạo hay triền dóc kia là mê tín dị đoan.
Tuy nhiên, chúng ta phải cẩn trọng khi đọc bản văn Tin Mừng; bài học rất sáng tỏ. Rõ ràng Đức Giê-su giúp người phụ nữ hiểu: bà không được chữa lành vì bà đã chạm đến áo của Ngài nhưng vì bà đã có niềm tin: “Nầy bà, đức tin của bà đã chữa bà”. Quả thật, trong đám đông chen chúc quanh Ngài, không thiếu những người đã chạm đến áo của Ngài nhưng không nhận được bất cứ ân ban nào. Nguồn ân sủng của Đức Giê-su là thái độ sẳn sàng bên trong.
Cũng xảy ra như vậy đối với việc phục sinh con gái của viên trưởng hội đường: sự phục sinh của cô bé là lời đáp trả của Đức Giê-su cho đức tin của người cha.
3. Đức Giê-su với viên trưởng hội đường.
“Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?”. Đó là sứ điệp của người nhà viên trưởng hội đường. Đối với họ, quyền năng của Đức Giê-su cũng chỉ là quyền năng chiến thắng bệnh tật. Chắc chắn viên trưởng hội đường cũng đồng quan điểm với họ. Nghe thế, Đức Giê-su nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Nếu chúng ta muốn nắm bắt nét nghĩa của động từ được Mác-cô dùng ở đây, phải dịch: “Hãy kiên vững trong đức tin của ông”. Trong khi bản văn Lu-ca dùng động từ ở thể truyền lệnh aoriste, có nghĩa: “Hãy thể hiện một hành vi đức tin”, thì bản văn Mác-cô dùng động từ ở thể truyền lệnh hiện tại, điều đó muốn nói rằng ông trưởng hội đường có đức tin rồi và ông phải tiếp tục tin. Như vậy, Ngài mở cho người cha đau khổ nầy một con đường hy vọng. Vì thế, ông không ngăn cản Đức Giê-su nhưng để Ngài vào nhà ông.
Chúng ta sẽ tham dự vào một hoạt cảnh tương tự ở Bê-ta-ni trong câu chuyện phục sinh La-da-rô, em trai của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a. Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày” (Ga 11: 39). Đức Giê-su trả lời bằng cách đòi hỏi chị phải tin vào Ngài: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” (Ga 11: 40).
“Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”. Ngài cũng sẽ nói với các môn đề về La-da-rô một cách như vậy: “La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên giấc” (Ga 11: 11). Đây không là một hình ảnh, như chúng ta gặp thấy nhiều lần trong văn chương kinh thánh cũng như ngoài kinh thánh, nhưng là một sự khẳng định mang tính mặc khải: cái chết chỉ là một giấc ngủ mở ra sự sống. Tất cả chi tiết của hoạt cảnh đều đi theo chiều hướng nầy.
Sau khi vào nhà của viên trưởng hội đường, Đức Giê-su truyền lệnh cho mọi người ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ và ba người môn đệ cùng đi với Ngài vào nơi đứa bé đang nằm. Đức Giê-su cầm lấy tay đứa bé và nói: “Ta-li-tha-kum”: “Ta-li-tha” (“cô bé”) – “kum” (“hãy chỗi dậy”). Mác-cô đã gìn giữ những từ A-ram trong bản văn của mình. Toàn bộ câu chuyện của ông bày tỏ nhiều chi tiết sống động của một chứng nhân mắt thấy tai nghe mà thánh ký nhận được từ nguồn của mình hay từ những kỷ niệm của thánh Phê-rô mà ông chuyển tải, ví dụ như câu trả lời của các môn đệ: “Thầy coi, dân chúng chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi là ai đụng vào Thầy”, thánh ký đã xây dựng thành ngôn ngữ nói: “Thầy coi, dân chúng chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ‘Ai đụng vào tôi?’”.
“Hỡi cô bé, hãy chỗi dậy”, động từ “chỗi dậy” sẽ trở thành thuật ngữ để chỉ biến cố Phục Sinh. Cô bé liền chỗi dậy và đi lại được. Đức Giê-su bảo họ cho đứa bé ăn. Lời dặn dò nầy có một mục đích tức thời, nhằm cho cha mẹ của cô bé hiểu rằng cô bé thật sự sống lại chứ không là một bóng ma. Cũng vậy, sau khi sống lại, Đức Giê-su cũng hỏi các môn đệ còn nghi nan ngờ vực: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24: 41). Tuy nhiên, lời dặn dò nầy còn mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn nữa, cử chỉ nầy mang tính biểu tượng và ngôn sứ: việc chỗi dậy bên kia cái chết mở ra những thực tại thần thiêng mà các ngôn sứ đã diễn tả bằng những hình ảnh về bàn tiệc Thiên Chúa: bữa ăn cánh chung.
“Cô bé đã mười hai tuổi”. Con số “mười hai” cũng có giá trị dấu chỉ: con số của sự tuyển chọn. Thánh Mác-cô đã dùng con số nầy rồi đối với người phụ nữ mắc bệnh băng huyết đã “mười hai” năm. Trong sách Khải Huyền, con số người được tuyển chọn là “một trăm bốn mươi bốn ngàn” người, tức là gấp ngàn lần của 12 x 12 (Kh 7: 4). Mười hai tông đồ, nối nghiệp mười hai chi tộc Ít-ra-en, là dấu chỉ của Vương Quốc Thiên Chúa.
4. Những chứng nhân:
Ngoài cha mẹ của đứa bé ra, những nhân chứng về cuộc phục sinh bé gái là ba Tông Đồ, Phê-rô, Gia-cô-bê, và Gioan. Chính ba vị Tông Đồ nầy được Đức Giê-su sẽ dẫn lên núi để làm chứng cuộc Biến Hình của Ngài.
Trong khi “các ông kinh hoàng ngã sấp mình xuống đất, Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ” (Mt 17: 7). Cũng là cử chỉ và lời nói mà Ngài đã làm và nói với con gái của viên trưởng hội đường. Có một mối liên hệ giữa biến cố phục sinh và biến cố biến hình; đây là hai khía cạnh bất khả phân sau cái chết.
Trước đây đã khá lâu, tôi đã được nghe kể câu chuyện như sau: Một bà mẹ bế đứa con đau: TN13-B35
Trước đây đã khá lâu, tôi đã được nghe kể câu chuyện như sau: Một bà mẹ bế đứa con đau nặng đến xin một bác sĩ ở ven đô Sài Gòn chữa em. Khi gặp bác sĩ, bà nói “Xin bác sĩ thương chữa cháu…tội nghiệp cháu quá…Chúa bắt tội cháu..!” Bác sĩ nhìn bà mẹ và nói “Bà tin Chúa hở!...Tôi cũng tin Chúa…Nhưng sao bà lại nói “Chúa bắt tội cháu!...Chúa là đấng nhân từ…dầu Chúa có bắt tội cháu…Chúa nào mà lại bắt cháu nhỏ phải đau yếu !”
Chúng ta thường có quan niệm: “Chúa phạt…Chúa bắt tội…Chúa làm mưa bão, sấm sét, Chúa làm lụt lội, Chúa gây ra bịnh tật… Chúa luôn nhìn xuống người phàm với con mắt nghiêm khắc để phạt tội người ta, kể cả các trẻ em…Và chúng ta sợ Chúa, xa tránh Chúa!”
Nhưng bài đọc Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta thấy “Chúa là Đấng nhân ái, đầy tình yêu thương với mọi người chúng ta, nhất là những người đau khổ, nghèo khó; kể cả những ai lỡ sa ngã phạm tội.
Bài đọc I (Sách Khôn Ngoan: 1:13-15;2:23-24): “Thiên Chúa đã tạo dựng sự sống chứ không tạo dựng sự chết…Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa và cho được trường sinh bất tử…”
Khi con người vì tội kiêu ngạo đã phản nghịch không giữ các giới răn của Chúa, đã đi vào con đường tội lỗi, chính Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người để cứu chuộc. Ngài đã giáng sinh trong hoàn cảnh khó nghèo, sống đời sống khó nghèo để chia sẻ những đau khổ của chúng ta. Trong thời gian rao giảng, Chúa Giêsu đã luôn chú ý giúp đỡ những người khiêm tốn, tin tưởng cầu xin Chúa khi gặp những hoàn cảnh khổ đau. Trong bài Phúc âm hôm nay (Matcô 5: 21-43), Chúa đã thương an ủi và chữa lành con ông trưởng hội đường khi ông khiêm tốn tự mình đến xin Chúa chữa con của ông. Chúa cũng an ủi và chữa lành người phụ nữ bị bệnh xuất huyết đã 12 năm, bà vừa phải chịu bịnh tật, vừa phải chịu khổ nhục vì người khác coi bà như kẻ nhơ bẩn, bị phạt tội, và ai cũng muốn xa tránh.
Suy gẫm về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta, Thánh Phaolô, trong Bài đọc II hôm nay (2Corinto 8:7.9.13-15), đã nhắn nhủ chúng ta: “…Mặc dù giàu sang, Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận nghèo khó, để nhờ việc nghèo khó của Ngài mà chúng ta được trở nên giàu có… Vì thế, mọi người chúng ta hãy noi gương lòng thương xót của Chúa và quảng đại giúp đỡ những người nghèo khó để sự giúp đỡ của chúng ta bù đắp vào sự thiếu thốn của những anh em khác…”
Thiên Chúa là người Cha hay thương xót, tất cả chúng ta đều là con Chúa, và là anh chị em với nhau trong gia đình nhân loại. Vậy trong tinh thần Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy luôn tâm niệm Thánh vịnh 102: “Thiên Chúa là Đấng hay thương xót…Ngài tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta khi chúng ta khiêm nhường ăn năn sám hối… Như người cha thương con mình thế nào, Chúa cũng cùng thương xót những ai tôn kính Ngài …” Rồi chúng ta hãy noi gương Chúa, biết thương xót và giúp đỡ lẫn nhau khi ai trong chúng ta gặp phải hoàn cảnh đáng thương.
Đừng quy trách Thiên Chúa về sự chết. Đó không phải là ý tưởng của Người. Hoặc là vì tác giả: TN13-B36
Đừng quy trách Thiên Chúa về sự chết. Đó không phải là ý tưởng của Người. Hoặc là vì tác giả Sách Khôn Ngoan đã khẳng định. Đó là một huyển bí hoàn toàn xa lạ, vì mọi sự sống cuối cùng đều phải chết. Đời sống sinh học trải qua trạng thái căn bản của tính chất không đổi của khí trơ và cuối cùng trở về với cát bụi trần gian.
Nhưng thay vì mang đến cho chúng ta một lời khuyên sinh học, Sách Khôn Ngoan biểu đạt điều gì đó quan trọng về Thiên Chúa và sự sống loài người. Nội dung đầu tiên là sự huyền bí vô cùng – sự chết – và sự tác động tiêu cực rằng nó có kế hoạch theo nhận thức của chúng ta. Tại sao một số sự sống lại quá ngắn ngủi và đau thương? Phải chăng có điều gì đó ẩn bên kia cái chết? Cuộc đời có một giai đoạn nhất định của nó?
Sách Khôn Ngoan nhấn mạnh rằng Thiên Chúa thuộc về sự sống và là sự sống duy nhất. Chúng ta không nên suy nghĩ Thiên Chúa bằng những thuật ngữ của chết chóc hoặc cũng không nên coi thế gian được tạo dựng bằng cách đầy sợ hãi hay đối lập. Tất cả những tạo dựng, bao gồm sự sống loài người, đều hoàn thiện. Sự chết không phải là điều gì đó được sáng tạo bởi Thiên Chúa để gây đau khổ và trừng phạt chúng ta. Cái chết mà chúng ta trải qua không phải là định thái bởi Thiên Chúa đối với chúng ta và cũng không phải là cái gì đó mà Thiên Chúa mong muốn. Ý định của Thiên Chúa là sự sống của con người được chia sẻ bằng những phẩm chất thiêng liêng, cao quí, đặc biệt những gì là bất diệt. Để lãnh nhận điều này, Thiên Chúa đã tạo dựng loài người trong một hình ảnh thiêng liêng và giống như Người. Sự tồn tại đích thực là sống trong sự hiện diện bất biến cùng sự nhận thức về Thiên Chúa.
“Ma quỷ” là địch thủ gây trở ngại điều này: sợ hãi, vị kỷ, ao ước của chúng ta đối với quyền năng, ý thức hiệp thông với tha nhân và Thiên Chúa. Chúng ta bị ngăn cản với sự nhận thức trong sáng bản tính đích thực của chúng ta và sự kết thúc được định trước của Thiên Chúa đối với chúng ta nên chúng ta vẫn sống trong sợ hãi của cái chết theo khái niệm sinh học và tuyệt vọng. Sách Khôn Ngoan mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn vượt qua những trải nghiệm thiển cận của riêng mình để hướng tới chân trời xa xôi nơi duy nhất của sự sống – Thiên Chúa – được tìm thấy. Thiên Chúa đã hoạch định những những việc vĩ đại, cao cả cho chúng ta vượt lên trên cái chết.
Không có gì mới mẻ về sự tăng trưởng nguồn tài chính thuộc giáo hội mà thánh Phaolô đã tham gia một cách sành sỏi. Ông phát động ngân sách từ cộng đồng Corintô để ủng hộ giáo hội ở Jerusalem. Đó là một ý tưởng thú vị mà ông đã sử dụng những nguyên tắc tinh thần để đưa ra những cuộc quyên góp trong đám cử tọa của mình. Việc này thể hiện sự quan tâm đến sự cân bằng và chia sẻ, ông cố gắng, và điển hình hoàn thiện bao dung như vậy là hiện thân của Chúa Giêsu. Người sẵn sang đặt sang một bên mọi thứ vì sự thịnh vượng của tha nhân, và các môn đệ của Người cũng vậy. Lòng tự nguyện nhiệt thành chia sẻ với tha nhân sự độ lượng và yêu mến là cách để chúng ta noi gương và phản hồi hình ảnh Thiên Chúa. Giữa lúc những khó khăn kinh tế của chúng ta thì đây là ý tưởng tinh thần đạo đức đề bước theo. Những khó khăn trong thời đại của chúng ta là một thử thách, một cuộc thử nghiệm sức chịu đựng tinh thần.
Những câu chuyện trong Tin Mừng đã chứng minh một cách cụ thể về những giá trị ban sự sống của Thiên Chúa và chúng được biểu thị đầy quyền năng trong con người cùng sự cứu giúp của Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu khởi đầu một sứ vụ chữa lành bệnh trên đường tới nhà của Jairus, chuyến đi của Người bị gián đoạn bởi bất ngờ gặp một phụ nữ bị băng huyết kinh niên. Nệ hình thức, bà bị coi là một người dơ bẩn. Và sự dơ bẩn này, khi bà sờ vào bất cứ thứ gì thì đều bị người ta thay đổi. Nhưng bà không nản lòng bởi sự sợ hãi chê bai, khinh tởm của văn hóa, xã hội, và những tập tục tôn giáo của bà, và sợ hãi sự từ chối của Chúa Giêsu. Với đức tin và hy vọng tràn đầy, bà chỉ cố gắng để được sờ vào gấu áo khoác của Người đó sẽ là đủ để lành bệnh. Chiếc áo của Thiên Chúa không có một phép thuật nào. Đó là niềm tin vào quyền năng Thiên Chúa của bà đã cho bà khỏi bệnh. Nhẫn nại, hy vọng và đức tin là ấn tượng hữu hiệu.
Người tới nhà Jairus thì đứa con gái đã chết. Chúa Giêsu bị vây quanh bởi những tiếng than khóc. Quả quyết của Người rằng cô bé chỉ đang ngủ liền được chào đón bằng những lời nhạo báng, gièm pha. Họ không có đức tin và lúc này cô bé cũng không ở vị trí biểu lộ đức tin nên Chúa Giêsu đã phải giải thích bằng cách đầy ấn tượng rằng Thiên Chúa duy nhất quan tâm đến sự sống. Một cái nắm tay và một lời thỉnh cầu đủ để kéo cô bé trở lại vùng đất của sự sống.
Duy có sự hiện diện của Thiên Chúa đủ để làm dịu bớt nỗi đau và bỏ qua ẩn khuất của sự chết. Nỗi thống khổ của nhân loại không phải do ý định của Thiên Chúa. Đức tin và tính can đảm có thể liên kết chúng ta với sự sống của Thiên Chúa, trong lúc sự ngờ vực, thiếu đức tin là những yếu tố dẫn đến thất bại, bất thành.
Có một ông vua rất đỗi giàu sang và vô cùng quảng đại. Nhà vua có một kho tàng đầy ắp: TN13-B37
Có một ông vua rất đỗi giàu sang và vô cùng quảng đại. Nhà vua có một kho tàng đầy ắp những báu vật mọi người hằng mơ ước. Nhà vua tuyên bố với thần dân rằng bất cứ ai muốn lấy bất cứ thứ gì trong kho tàng vô tận của vua thì cứ lấy, miễn là phải dùng một loại chìa khoá rất đặc biệt mới mở được kho tàng. Chìa khoá ấy, vua cũng chỉ cho biết là đang nằm trong tầm tay mọi người. Tiếc thay, người ta không biết đó là chìa khoá thần kỳ và chưa mấy ai đem ra sử dụng.
Khi nghe tin nầy, nhiều người nao nức hỏi: Vị vua đại lượng đó là ai? Kho tàng nằm ở đâu? Chìa khoá nào mở được kho tàng, xin mau mau cho biết.
Đức vua đó chính là Thiên Chúa quyền năng. Kho tàng của Người là vô vàn phúc lộc không bao giờ vơi cạn. Chìa khoá để mở kho tàng ấy là lòng tin. Ai có lòng tin mạnh mẽ, người đó có thể mở được cửa kho tàng và chiếm lấy những gì mình muốn. Ai không có lòng tin, thì đành bó tay và chẳng thu lượm được gì.
Hai sự kiện thánh sử Mác-cô thuật lại trong Tin Mừng hôm nay minh chứng cho chân lý nầy:
Trường hợp người phụ nữ bị bệnh băng huyết
Một người phụ nữ bị băng huyết đã mười hai năm, đã lắm phen tìm thầy chạy thuốc nhưng bệnh của bà vẫn vô phương cứu chữa. Nay gặp Chúa Giê-su, bà mừng như người sắp chết đuối vớ được tấm phao.
Vì luật cấm những người mang thứ bệnh nhơ uế như bà tiếp cận với người khác (Lv 15, 25) nên bà không dám công khai gặp Chúa Giê-su, chỉ len lén tiến lại phía sau lưng Người, tự nhủ lòng rằng: "mình chỉ cần sờ được vào áo Người thôi là sẽ được cứu". Và điều nhiệm mầu đã xảy ra: bà vừa đụng vào áo Chúa Giê-su thì tức khắc huyết cầm lại và bà được chữa lành.
Chúa Giê-su biết có một năng lượng từ mình xuất ra nên quay lại tìm hiểu và khi người phụ nữ thú nhận việc bà vừa làm, Chúa Giê-su bảo: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh."
Chính Chúa Giê-su xác nhận lòng tin là chìa khoá thần kỳ mở ra cho người đàn bà kho tàng chứa đựng điều mà bà khao khát: được chữa lành chứng bệnh nan y.
Trường hợp ông trưởng hội đường
Đang cùng Chúa Giê-su tiến vội về nhà để nhờ Chúa cứu chữa đứa con gái đang hấp hối, thì người nhà của ông trưởng hội đường chạy đến báo cho ông biết rằng con gái ông chết rồi, đừng phiền Chúa đến nhà làm gì mất công. Nghe vậy, Chúa Giê-su động viên ông ta: "ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi". Tin là được. Thế rồi, nhờ lòng tin, con gái ông đã được cứu sống.
Một lần nữa, Tin Mừng chứng tỏ cho thấy lòng tin là chìa khoá đem lại ân sủng nhiệm mầu: đứa con gái thân yêu chết rồi nay được cứu sống!
Còn nhiều sự kiện khác được ghi lại trong Tin Mừng chứng tỏ cho thấy phải có lòng tin thì mới đạt được điều mong muốn và không có lòng tin thì chẳng được gì (Mt 13, 58). Lòng tin có thể chuyển núi dời non. Với lòng tin, người ta làm được tất cả như lời Chúa Giê-su dạy: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ chuyển qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được" (xem thêm: Mt 17, 19-20; Mt 15, 28; Mt 21, 21-22)
Quả vậy, điểm lại những khuôn mặt đạt được thành công lớn lao trên thế giới, ta thấy rằng nguyên nhân chính giúp họ thành đạt là nhờ mạnh tin. Vững tin rằng mình sẽ làm được thì sẽ được như ý. Như thế, lòng tin là bí quyết để thành công trên đường đời, và cũng là chìa khoá mở vào kho tàng ân sủng của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, lòng tin của chúng con còn yếu kém nên chẳng thu hoạch được gì. Xin ban thêm lòng tin để chúng con có thể mở được kho tàng ân sủng của Chúa.
“Nếu tôi chạm vào gấu áo của Nguời thì tôi sẽ được khỏi bệnh” ( Mc 5, 28 ).
Sự đụng chạm này đã linh nghiệm. Người phụ nữ được chữa lành khỏi bệnh băng huyết. Sức khoẻ của: TN13-B38
Sự đụng chạm này đã linh nghiệm. Người phụ nữ được chữa lành khỏi bệnh băng huyết. Sức khoẻ của bà được phục hồi. “Người cầm lấy tay em bé và nói: Talithakum …lập tức em bé đứng dậy và đi lại được” ( Mc 5,41-42 ). Cái cầm tay này đã linh nghiệm. Em bé đã được hồi sinh. Ôi, có những cái đụng chạm tuyệt vời, những cái đụng chạm làm phát sinh điều tốt đẹp. “ Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã chạm đến Ta ?” ( c. 31 ). Quả thật, trong một ngày, một tuần… không biết bao lần ta đụng chạm, tiếp xúc với tha nhân cách này hay cách khác. Có nhiều cái đụng chạm, tiếp xúc hoá thành sự gặp gỡ và phát sinh hiệu quả tốt đẹp nhưng cũng có nhiều cái đụng chạm, tiếp xúc trở nên sự đụng độ và gây ra hậu quả chẳng hay. Khi sinh thời, rất nhiều người đã tiếp xúc với Chúa Giêsu và họ đã hưởng nhận biết bao ơn lành. Tuy nhiên cũng không ít người tiếp xúc với Chúa mà kết quả xem ra xấu xa và tồi tệ hơn chẳng hạn như phần lớn các luật sĩ, biệt phái… Có thể khẳng định cái yếu tố khiến cho những sự tiếp xúc phát sinh những kết quả trái ngược như thế, đó là ý hướng, thái độ của người tiếp xúc: tin tưởng hay hoài nghi vì đố kỵ.
“Này bà, lòng tin bà đã cứu chữa bà. Bà hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”. “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” ( Mc 5,34.36 ). Những lời của Chúa Giêsu nói với người phụ nữ bị băng huyết và với ông trưởng hội đường qua bài Tin Mừng hôm nay khiến ta liên tưởng đến lòng tin. Thật vậy, đọc Tin Mừng ta phải chân nhận rằng chính do bởi lòng tin của người ta mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ để chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ hay phục sinh kẻ chết... Hình như chỉ mỗi một lần Chúa biểu dương uy quyền để củng cố đức tin người ta như phép lạ hoá nước thành rượu tại Cana. Tuy nhiên xét cho cùng, phép lạ ấy cũng được xuất phát từ lòng tin của Mẹ Maria. Mẹ đã vững tin nên dù nghe câu trả lời như từ chối của Chúa Giêsu thì Mẹ vẫn biểu gia nhân: “ Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” ( Ga 2,5 ). Niềm tin làm phát sinh nhiều hiệu quả tốt đẹp lạ thường. Niềm tin giúp ta vượt qua nhiều trở ngại, khó khăn. Niềm tin có sức chữa lành tật bệnh và khiến ta vui sống. Quả thật nếu không có lòng tin ở nhau thì ta thật khó mà tồn tại và phát triển. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đồ: Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì các con có thể lấp biển, dời non. Điều kiện có vẻ như tiên quyết mà Chúa Giêsu đòi hỏi ở những ai muốn Người thi ân giáng phúc đó là tin vào Người.
Tin Mừng còn dẫn chứng cho ta hay rằng những người không tin vào Chúa Giêsu có thể nói là các Thượng tế, luật sĩ và biệt phái. Dĩ nhiên không phải là tất cả nhưng hầu như đại đa số trong họ. Một trong những nguyên cớ khiến họ không tin vào Chúa Giêsu đó là lòng ganh tương đố kỵ. Bài đọc thứ nhất, sách Khôn ngoan nói rõ: “Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” ( Kn 2,24 ). Vì lòng ganh tương đố kỵ mà nhiều người đang lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ dù có tiếp xúc với Chúa thì cả “những cái họ đang có cũng sẽ bị lấy mất”.
Ganh đua và ganh tị xem ra gần giống nhau ở đích nhắm. Cả hai đều không muốn kẻ khác hơn mình. Trong khi người ganh đua thì tìm cách học hỏi, nỗ lực rèn luyện…để vươn lên cho hơn người thì kẻ ganh tị chỉ loay hoay tìm cách hạn chế, hạ bệ kẻ khác để họ phải thua mình. Dĩ nhiên, kẻ ganh tị sẽ không trừ một thủ đoạn nào. Đặc biệt khi kẻ ganh tị lại lợi thế hơn nhờ chức quyền, địa vị thì thủ đoạn sẽ tinh vi và nhiều khi đi đến chỗ bất nhân cách trắng trợn nếu không muốn gọi là vô liêm sỉ. Như lời tác giả sách Khôn ngoan thì đằng sau kẻ ganh tị luôn có bóng dáng của Thần Dữ và hậu quả là “sự chết” cho cả người bị ganh tị lẫn kẻ ganh tương đố kỵ.
Mẹ Hội Thánh, đặc biệt từ sau Công Đồng Vaticanô II luôn cổ võ con cái mình tích cực gặp gỡ, đối thoại với thế giới, với anh em khác đạo và với cả anh em vô thần. (x.MV 92; TG 12 ). Ai cũng mong cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa ta và tha nhân mang lại kết quả. Thánh Công Đồng dạy ta cần phải khiêm tốn lắng nghe trong chân thành và sẵn sàng đón nhận những khác biệt chính đáng của tha nhân. Để có được thái độ này tiên vàn ta phải có lòng tin vào tha nhân. Tin vào thiện ý và thiện chí của nhau là tiên đề của mọi cuộc tiếp xúc hay đối thoại.
Chúa Giêsu đã làm guơng cho ta về thái độ này. Ngoại trừ một số người mà Chúa Giêsu đã biết rõ lòng dạ chai đá của họ, thì để khơi gợi lòng tin nơi những người mà Người gặp gỡ, Người thường đi bước trước bằng cách tin vào họ. Chính nhờ tin vào một chút thiện hảo nơi tấm lòng thiếu phụ Samaria bên bờ giếng Giacop, Chúa Giêsu đã đốt lên niềm tin của chị. Tin Mừng thứ tư đặc biệt nhấn mạnh đến chủ đề lòng tin. Những bài tường thuật về công việc của Chúa Giêsu cũng như những bài diễn từ khá dài của Người thường xoay quanh chủ đề lòng tin. Mặc dù thấy rõ sự cứng lòng tin của nhiều người Do Thái thế mà Chúa Giêsu vẫn không ngừng rao giảng và dùng việc làm để minh chứng cũng đủ cho ta thấy Chúa luôn hy vọng, tin tưởng. Chúa ban ơn tha thứ vì Người tin ở ta. Chúa không ngần ngại sửa dạy cả những người có chức có quyền thời bấy giờ vì Người tin tưởng sẽ có ngày họ đổi thay.
Giữa Hội Thánh và Chính Quyền các cấp, giữa ta và anh chị em lương dân hay khác đạo, giữa ta với ta, bậc bề trên và người bề dưới trong đạo, điều lý tưởng là có sự tiếp xúc chứ không phải đụng độ, có sự đối thoại chứ không phải đối đầu. Để lý tưởng này được hiện thực, thiết nghĩ cần phải có lòng tin vào nhau. Những người biệt phái, tư tế, luật sĩ thời Chúa Giêsu, họ thiếu lòng tin thường là do bởi lòng ganh tị. Họ ganh tị vì không muốn cái anh thợ mộc Giêsu này hơn mình hay qua mặt mình.
Lòng tin thường phát xuất từ tình yêu. Hiện thực cuộc sống cho ta thấy điều này: tình yêu đến trước rồi đôi nam nữ dần tin nhau chứ không phải vì họ tin nhau trước rồi họ mới yêu nhau. Để xây dựng lòng tin, trước hết ta hãy có một chút tình. Ta hãy đi bước trước trong việc yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương. Nguời không chỉ chăm sóc các môn đệ mà còn tìm mọi cách để cho các ông sinh hoa kết trái và tạo điều kiện để các ông “làm được nhiều việc lớn lao hơn cả những việc Người làm” ( x.Ga 14,11-12 ).
Nếu như Chính Quyền không sợ Hội Thánh gây ảnh hưởng hay ngược lại, nếu như các tôn giáo không sợ nhau chiêu mộ tín đồ, nếu như bề trên không sợ bề dưới tài giỏi hơn mình và nếu… thì sự tiếp xúc, đối thoại chắc chắn sẽ hiện thực. Khi đã có lòng tin ở thiện ý và thiện chí của nhau thì sự gặp gỡ sẽ ở trong tầm tay chúng ta và kết quả là nhiều điều tốt đẹp sẽ diễn ra trước mắt chúng ta.
Bài đọc 1 hôm nay nhắc cho chúng ta tư tưởng lạc quan về cuộc sống. Khi tạo dựng con người, Thiên: TN13-B39
Bài đọc 1 hôm nay nhắc cho chúng ta tư tưởng lạc quan về cuộc sống. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, để con người được tham dự vào sự sống vĩnh cửu, được hạnh phúc đời đời, nhưng con người đã phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa vì phạm tội. Tuy nhiên, Thiên Chúa giầu lòng thương xót sẽ nhận lời những ai thành khẩn kêu xin Ngài (Đáp ca:Tv 29). Tư tưởng này được minh chứng bằng hai phép lạ dưới đây:
1. Chữa người đàn bà băng huyết
Bỏ địa hạt Cêsarê, Đức Giêsu lại trở về Capharnaum. Thấy Ngài trở lại, dân chúng đến đón Ngài rất đông để được nghe giảng và xin phép lạ. Trong số đó, ông trưởng hội đường Giairô có đứa con gái bệnh nặng gần chết. Ông đến xin Ngài đến chữa cho con ông. Ngài nhận lời đi ngay.
Đang trên đường đi đến nhà ông Giairô thì dọc đường có một người đàn bà bị bệnh băng huyết đã 12 năm, không dám đến gần Ngài một cách công khai vì luật lệ cấm ky, vì bệnh băng huyết là một thứ bệnh nhơ nhớp, bệnh nhân không được công khai giao thiệp với dân chúng. Bà lén lút đến đàng sau Đức Giêsu với ý nghĩ rằng miễn sao chạm được vào gấu áo Ngài là khỏi bệnh ngay. Bà đã sờ vào được gấu áo Chúa nên bà cảm thấy lập tức trong mình đã được khỏi bệnh. Đức Giêsu biết rõ sự việc đã xẩy ra và hỏi xem ai đã động đến gấu áo Ngài ? Bà thành thật thú nhận việc đã làm, Đức Giêsu đã yên ủi và khích lệ bà:”Hỡi con, đức tin của con đã chữa con”.
2. Cứu sống con gái ông Giairô
Vừa chữa bệnh cho một người đàn bà bị băng huyết, Đức Giêsu vừa tiếp tục đi tới nhà ông Giairô. Tình cờ người nhà ông đến báo tin con ông đã chết rồi, đừng phiền đến Thầy nữa. Nhưng Đức Giêsu khích lệ ông: ”Đừng sợ, hãy cứ tin”.
Quang cảnh nhà đứa bé thật nhộn nhịp: tiếng khóc của thân nhân cũng như của những người khóc mướn, tiếng trống tiếng kèn, cùng với lời báo tin của người nhà cũng như thái độ cười nhạo của những người chung quanh không tin vào quyền năng của Đức Giêsu cho thấy cô bé đã chết thật. Nhưng ở đây Đức Giêsu lại bảo:”Cô bé không chết đâu, nó ngủ đấy”. Ngài nói thế là vì Ngài muốn tỏ ra rằng Ngài làm cho kẻ chết sống lại dễ dàng như người ngủ thức dậy, để người khó tin được dễ hiểu.
Trước mặt 5 nhân chứng là cha mẹ cô bé và 3 môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan, Đức Giêsu cầm lấy tay cô bé và nói:”Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy”. Và em bé chỗi dậy mạnh khỏe. Ở đây Đức Giêsu tỏ ra có quyền trên sự chết và sự sống. Ngài làm chủ của kẻ sống và kẻ chết.
II. THIÊN CHÚA MUỐN ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA
1. Phép lạ và đức tin
Tất cả các phép lạ Đức Giêsu làm đều có ý khơi dậy lòng tin cho người ta. Không ai có thể chối cãi được những phép lạ Ngài đã làm như chữa bệnh, trừ qủi, dẹp yên sóng gió, làm cho kẻ chết sống lại... Vì những phép lạ này làm công khai trước mặt nhiều người và làm ngay tức khắc nên mọi người phải công nhận. Khi chữa bệnh xong, Đức Giêsu hay nói với bệnh nhân: ”Đức tin của con đã chữa con”.
Còn những nơi người ta không tin Ngài thì Ngài không làm phép lạ, như trường hợp ở quê hương Ngài vì “gần chùa gọi bụt bằng anh”; còn đối với những Luật sĩ và Biệt phái chống đối Ngài thì Ngài cũng không làm phép lạ cho họ. Họ không thật lòng xin Ngài làm phép lạ mà chỉ thách thức Ngài thôi. Nếu không tin, không kêu xin Ngài thì làm gì có phép lạ ?
Người đàn bà bị băng huyết này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà, nhưng bà tự nhủ: ”Tôi chỉ cần sờ vào gấu áo Ngài thì tôi sẽ được khỏi”. Nghĩ thế và bà đã dám làm, bất chấp luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe. Điều đó chứng tỏ bà đã có đức tin vững mạnh, và thúc đẩy Chúa làm phép lạ. Kết quả là bà đã được như ý khi Chúa nói với bà:”Đức tin của con đã chữa con”.
Trường hợp ông trưởng hội đường Giairô cũng thế. Ông là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá. Thái độ khiêm nhường của ông trước mặt Đức Giêsu diễn tả niềm tin sâu xa của ông, ông đã qùy mọp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin:”Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Như vậy ông này phải tin Đức Giêsu là ai, có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ và thái độ khiêm nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ấy, ông đã được toại nguyện.
2. Phép lạ có còn hợp thời không ?
Đứng trước những dữ kiện “phép lạ” Chúa làm mà Tin mừng kể lại, (1/3 của Tin mừng Marcô) chúng ta thấy ngày nay có hai khuynh hướng trái ngược nhau. Một số khoa học gia cho rằng phép lạ chỉ gây rắc rối cho đức tin, dần dần khoa học sẽ giải quyết nhiều bệnh lý. Trái lại, ngày nay, phong trào Thánh Linh đang phát triển mạnh làm cho người ta tin tưởng rằng trong một cộng đoàn có Chúa Thánh Thần hoạt động, phép lạ không còn là một sự phi thường. Kinh nghiệm bản thân và sự quan sát khách quan đã minh chứng điều đó (Theo Sr Briege Mckenna, O.S.C, Des Miracles d’Aujourd’hui).
Sống trong không khí thực nghiệm và duy vật, người ngày nay, cả trong Kitô hữu, có khi là cả tu sĩ hay giáo sĩ, có khuynh hướng muốn phủ nhận phép lạ và chối bỏ các điều mầu nhiệm của đạo.
- Đối với phép lạ, họ cho là nghịch công lệ tự nhiên, trái với sự bất di dịch của Thiên Chúa. Không nghịch, không trái gì hết. Tin phép lạ là tin Thiên Chúa có thể làm được những việc mà không loài thọ tạo nào tự sức mình có thể làm được. Ta hãy nghe nhà văn hào J.J Rousseau nói:”Thiên Chúa có làm được phép lạ không ? Nghĩa là Ngài có thể làm khác với các định luật Ngài lập không? Câu hỏi ấy mà có ý đặt ra thực, thì quả là ngạo mạn, nếu không là vô lý. Đối với kẻ trả lời rằng không, thì phạt nó còn là quá hân hạnh cho nó, hạng ấy cứ giam vào ngục là xong”.
- Đối với các mầu nhiệm, họ bảo người tin có mầu nhiệm nghĩa là tin cái không hiểu được, là mê tín. Không phải là mê tín. Tin mầu nhiệm chỉ là công nhận rằng sự thông minh của Thiên Chúa vượt hẳn trí khôn ta. Ông Charles Nicolle, một bác học có hạng, khi trở lại Công giáo nói:”May mà còn có những mầu nhiệm của tôn giáo ! Nếu không, thì thật là khả nghi, vì tôi sợ rằng đó chỉ là sản phẩm giả tạo của trí óc loài người. Mầu nhiệm của tôn giáo làm tôi an tâm. Nó là biểu hiệu của Thiên Chúa” (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật năm B, tr 151-152).
Truyện: Phải chăng là phép lạ ?
Trong chương trình “The Extraordinary” có kể câu chuyện lạ, xẩy ra tại Melbourne. Australia vào năm 1987. Buổi sáng đẹp trời, một bà bẹ chở đứa con gái 7 tuổi đến trường. Đang lúc mẹ con trò chuyện vui vẻ, bất chợt một chiếc xe trọng tải đâm thẳng vào hông xe, nơi em bé ngồi. Em bé bị ngất xỉu. Sau khi cứu sống, hội đồng bác sĩ cho biết là em sẽ không bao giờ có thể đi lại được nữa ! Em sống, nhưng mất nhiều khả năng tri giác và cảm xúc. Thật là tin buồn cho người mẹ. Tuy nhiên bà ngoại vẫn điềm tĩnh và có linh cảm rằng cháu của bà sẽ được ơn đặc biệt. Bà thường đến bệnh viện thăm và giúp cháu đọc kinh và cầu nguyện. Những ai thấy bệnh trạng của em bé đều thương hại cho em. Nhiều người ngạc nhiên là trên khuôn mặt của em luôn hiện lên sự bình an từ trong tâm hồn và niềm vui siêu nhiên. Sau khi rời bệnh viện, dần dần em đi học lại và theo kịp các bạn cùng lớp (Hà ngọc Đoài).
Câu chuyện em bé hôm nay và con gái ông trưởng hội đường hôm xưa cũng tương tự. Xưa và nay cũng chỉ là một Thiên Chúa. Ngài luôn tươi trẻ với thời gian và luôn gần gũi trong không gian để an ủi và nâng đỗ những ai tìm đến Ngài.
III. ĐỨC TIN VÀ HÀNH ĐỘNG
1. Phải cộng tác với Chúa
Thánh Giacôbê đã khẳng định về sự cần thiết của việc làm song song với đức tin: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: “Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không có hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin”(Gc 2,17-18).
Tin là cộng tác với ơn Chúa, và muốn sống đời đời cũng phải đồng hành với Chúa như người đàn bà băng huyết, bà nghĩ mình phải làm cái gì đó chứ không chỉ tin suông, nên bà đã đến với Chúa chớ không chờ Chúa đến với mình. Ông Giairô cũng vậy, ông tin Đức Giêsu có thể cứu sống con ông, ông vội vã đến với Chúa. Cả hai đều tin tưởng vào Chúa và nỗ lực cộng tác với Ngài. Vì thế, chúng ta không thể cứ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy xử dụng hết những phương tiện Chúa ban, còn phần kia tùy Chúa định liệu.
Truyện: Hãy tự cứu mình trước
Câu chuyện xẩy ra vào mùa xuân, có một vùng quê bị một trận lụt dữ dội tàn phá, khiến cho một bà già bị kẹt trong căn nhà bà. Đang khi bà ta đứng tựa cửa sổ nhà bếp nhìn ra thì một chiếc thuyền xuất hiện, người lái thuyền bảo bà:”Hãy leo lên thuyền để thoát nạn”. Bà lão đáp lại:”Không, cám ơn, tôi tin vào Chúa, Ngài sẽ cứu tôi”. Người lái thuyền lắc đầu rồi bỏ đi.
Ngày hôm sau, cơn lụt dâng cao đến tầng hai của căn nhà. Đang lúc bà lão đứng tựa cửa sổ tầng hai ngắm nhìn con nước thì một chiếc thuyền khác lại xuất hiện. Người lái thuyền bảo bà:”Hãy lên thuyền để thoát nạn”. Bà già đáp lại:”Không, cảm ơn, tôi tin vào Chúa. Ngài sẽ cứu tôi”. Người lái thuyền lắc đầu rồi bỏ đi.
Ngày kế tiếp cơn nước dâng lên tận nóc nhà. Đang khi bà lão ngồi trên nóc nhà nhìn con nước dâng, một chiếc trực thăng lại hiện ra. Viên phi công dùng loa gọi vọng xuống: ”Tôi sẽ thả một chiếc thang dây cho bà, hãy leo lên và bà sẽ thoát nạn”. Bà già lại nói:”Không, cảm ơn, tôi tin vào Chúa, Ngài sẽ cứu thoát tôi”. Viên phi công nhìn bà lắc đầu, rồi bỏ đi.
Ngày sau đó, cơn lụt nhận chìm ngôi nhà và bà lão bị chết đuối. Khi được đưa về trời, bà ta nói với thánh Phêrô:”Trước khi vào đây, tôi xin được phàn nàn một điều. Tôi đã tin chắc Chúa sẽ cứu tôi thoát khỏi trận lụt, thế mà Ngài lại để tôi bị chết chìm”. Thánh Phêrô bối rối nhìn bà lão đoạn lên tiếng:”Tôi chả hiểu Chúa có thể làm thêm điều gì được cho bà nữa, vì Ngài đã gửi tới cho bà những hai chiếc thuyền và một chiếc trực thăng rồi còn gì” (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 254-255) ?
Bà lão trong trận lụt này quá lầm lẫn. Bà quên rằng Chúa thường hoạt động trong đời sống chúng ta xuyên qua những phương tiện bình thường. Bà quên rằng chúng ta phải làm hết phận vụ mình và hợp tác với Chúa bằng cách xử dụng những phương tiện bình thường Ngài ban cho ta. Nói cách khác, chúng ta không thể ngồi thụ động chờ Chúa làm phép lạ, mà phải dùng tất cả mọi phương tiện thông thường Chúa ban để tự giúp mình trước đã.
Tục ngữ Việt nam đã nói lên chân lý này: ”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”: con người phải bắt đầu làm đã, còn thành bại thế nào thì sẽ do Trời định liệu.. Nhưng về phía Trời thì chắc chắn: ”Thiên thượng bất phụ hảo tâm nhân”, Trời sẽ giúp cho những ai biết cố gắng dùng mọi phương tiện Chúa đã ban cho, đúng như tục ngữ Pháp nói: Aide-toi, le Ciel t’aidera: anh hãy giúp mình trước, Trời sẽ giúp mình sau.
2. Xét lại đức tin của mình
Qua thái độ của người đàn bà băng huyết và của ông trưởng hội đường Giairô, ta thử xét lại đức tin của chúng ta xem sao: Tin khi đời sống bình an, thuận buồm xuôi gió thì chưa hẳn là đức tin thật, nó phải được tôi luyện trong đau khổ, trong khó khăn, trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên phép lạ. Hay nói đúng hơn, lúc ấy Thiên Chúa mới trợ giúp, mới cứu chữa, vì khi đó chúng ta không tin vào sức riêng mình mà tin vào Chúa, thì Chúa phải thực hiện thôi. Như Abraham xưa, như Phêrô đi trên mặt biển, như người đàn bà và ông Giairô trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta hãy tin tưởng.
Cuộc đời của chúng ta không bao giờ hết đau khổ. Chúng ta có thể cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa cả trong đau khổ. Sự hiện diện của Thiên Chúa không nhất thiết lấy đi đau khổ, nhưng cho chúng ta năng lực chuyển hoá đau khổ. Chúng ta cần Thiên Chúa giúp đỡ để linh hồn chúng ta không bị thu hẹp vào sự thụ động hoàn toàn, gần giống như những đồ vật, bị tác động nhưng không bao giờ hoạt động. Thấu hiểu chân lý này, ông Francois Mauriac đã phát biểu:”Ngài đến không phải để cất sự đau khổ mà để hiện diện với đau khổ”. Như vậy nghĩa là Ngài đến ban đức tin cho chúng ta để chúng ta biết chịu đựng đau khổ, biết chuyển hoá đau khổ, biến nó thành phương tiện để đạt tới ơn cứu độ. Bằng không thì chúng ta chịu đau khổ một cách vô ích và những đau khổ trở nên vô nghĩa.
Những ai không có đức tin thì gặp nhiều bất lợi trước đau khổ. Họ chịu đựng đau khổ gấp ba lần: họ chịu đựng bệnh tật, họ chịu đựng sự vô nghĩa của bệnh tật (vì đối với họ, bệnh tật chỉ là phiền toái, kết quả của một số phận mù quáng) và họ chịu đựng đau khổ vì cuộc sống của họ bị ngưng trệ. Họ coi bệnh tật của họ như một việc phải chịu đựng thay vì một việc phải sống. Đời sống của họ như bị giữ chặt lại vì họ chờ đợi thụ động cho đến khi mọi việc trở lại bình thường để họ có thể bắt đầu cuộc sống trở lại.
Mặt khác, các bệnh nhân có đức tin ở trong một tình thế tốt hơn. Dù đức tin không giải thoát họ khỏi bệnh tật, hoặc làm giảm bớt đau khổ do bệnh tật gây ra, người có đức tin tiếp tục sống một cách mãnh liệt như trước đây, có khi còn mãnh liệt hơn. Họ có thể tìm thấy Thiên Chúa trong bệnh tật cũng như trong lúc khỏe mạnh, và bệnh tật của họ có thể sinh ra kinh nghiệm có lợi là họ sẽ xin Chúa chữa lành cho bệnh tật ấy (Flor McCarthy).
Trong cuộc đời công khai giới thiệu Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã qui tụ một số môn đệ đi: TN13-B40
Trong cuộc đời công khai giới thiệu Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã qui tụ một số môn đệ đi theo Ngài và Ngài đã huấn luyện họ, dạy dỗ họ, làm nhiều phép lạ kèm theo những lời Ngài giảng dạy để chứng tỏ quyền của Ngài. Nhữg phép lạ Chúa Giêsu làm minh chứng Ngài yêu thương nhân loại, yêu thương con người. Chúa Nhật 13 thường niên, năm B, Hội Thánh cho đọc đoạn Tin Mừng của thánh Máccô nói về hai phép lạ: phép lạ cứu chữa con gái ông Gia-ia thoát chết và phép lạ chữa người đàn bà loạn huyết lâu năm được khỏi. Hai phép lạ này đều là kết quảcủa lòng tin…
HAI PHÉP LẠ, HAI LÒNG TIN VỮNG CHẮC:
Chúng ta phải để cho Lời Chúa soi dẫn và Chúa Thánh Thần dùng Lời của Chúa để biến đổi chúng ta. Bài đọc I cho thấy Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh của Ngài cách tốt đẹp, ma quỉ gây ra cái chết vì thù địch với con người, ghen tỵ với con người vì con người được Thiên Chúa ưu đãi, muốn thoát sự kềm tỏa của ma quỉ, con người phải thực hành sự công chính. Bài đọc 2, Đức Kitô đã thí mạng sống để cứu độ con người, do đó, con người phải thí mình vì anh em. Tuy nhiên, bài Tin Mừng hướng chúng ta về lòng nhân hậu và chạnh thương của Chúa khi con người biết chạy tới với Ngài và xin Ngài cứu giúp. Hành động đức tin và gắn bó chặt nơi Chúa sẽ được Chúa cứu vớt.Nơi ông trưởng hội đường, lòng tin được bày tỏ rõ ràng, còn nơi người đàn bà, lòng tin rụt rè, e lệ và kín đáo. Tuy nhiên, dù lòng tin có kín đáo hay rõ ràng, thì chính lòng tin của con người đã giúp cho phép lạ xảy ra. Điều này minh chứng muốn có phép lạ phải có lòng tin vững vàng, lòng tin phải tỏ lộ và minh chứng. Ở đây, hai phép lạ. Hai con người. Hai cách biểu tỏ lòng tin nhờ đó, Chúa sẽ can thiệp và cứu giúp con người. Phải có đức tin mới có phép lạ. Phải có tấm lòng, phải có sự quảng đại cộng tác với nhau, như phải có sự cộng tác của con người với năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa đã làm phép lạ. Ông Gia-ia đã biểu lộ lòng tin lặn lội tìm tới Chúa Giêsu cũng như người đàn bà bị loạn huyết chỉ ao ước được đụng chạm tới Chúa Giêsu thì bà sẽ được khỏi. Quả thực, hai con người, hai cách biểu tỏ lòng tin, Chúa Giêsu đều cứu vớt.
ĐỨC TIN LÀ YẾU TỐ RẤT QUAN TRỌNG TRONG ĐỜI SỐNG CHÚNG TA:
Đức tin sẽ giúp con người vui sống, phấn khởi và hạnh phúc. Không có đức tin, không có niềm hy vọng, niềm tin, con người sẽ đau khổ, thất vọng, buồn nản, ê chề. Đời của mỗi người là một cuộc hành trình đức tin, là một cuộc phấn đấu không ngừng. Đức tin khác với tình cảm buồn vui. Tình cảm luôn thay đổi còn đức tin luôn bền vững. Chính vì thế, đức tin của mỗi người chúng ta phải vững chắc không được sống tình cảm vui buồn. Bởi vì, tình cảm dễ thay đổi. Vui thì khác. Buồn thì khác.Gương đức tin của ông trưởng hội đường, và người đàn bà bị bệnh loạn huyết trong Tin Mừng sáng nay mời gọi chúng ta kiểm điểm lại thái độ sống của mỗi người chúng ta. Đời sống con người chúng ta có phải lúc vui chúng ta biểu lộ đức tin và ngược lại lúc buồn chúng ta biểu lộ đức tin khác. Chúng ta yếu đức tin hay luôn phó thác nơi Chúa. Chúng ta có cậy dựa vào những mưu kế trần gian để lươn lẹo, luồn lách để sống không ?
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Gương đức tin của Abraham, của Môsê, của Isaac, Giacóp và của nhiều người trong Tin Mừng phải là kim chỉ nam cho đời sống của mỗi người. Chúng ta có cậy dựa vào Chúa không ? Bởi Chúa đã nói Ngài là khiên thuẫn chở che chúng ta mà. Ngài nói chúng ta chỉ cần tin. Chúng ta đã tin đủ chưa ? Chúa nói như thế nhưng đó lại là cả một thách đố lớn lao đối với chúng ta. Chúa nói không phải những ai chỉ nói ngoài môi miệng:” Lạy Chúa, lạy Chúa là được rỗi, nhưng là những ai nghe và thực thi Lời Chúa “.
Đức tin quả thật là thách đố lớn lao đối với mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa. Amen.
Trong cuộc sống nhân sinh, “tứ khổ” sinh – lão – bệnh – tử luôn là mối lo canh cánh của con người TN13-B41
Trong cuộc sống nhân sinh, “tứ khổ” sinh – lão – bệnh – tử luôn là mối lo canh cánh của con người. Thật vậy, bất luận là ai, địa vị thế nào, hoàn cảnh ra sao, tất cả đều phải trải qua những vấn nạn nêu trên. Vì thế, con người luôn tìm mọi phương cách để có thể giảm bớt những liên luỵ do những “vị khách không mời” cũng đến này. Người Kytô chúng ta cũng đi tìm và, chúng ta đã tìm ra phương cách hầu có thể giải trừ những vấn nạn nêu trên. Phương cách đó như thế nào? Tin mừng hôm nay giúp chúng ta tìm ra lời giải đáp.
Tin mừng hôm nay cho thấy cả hai trường hợp người đàn bà bị băng huyết ròng rã 12 năm trời và con gái ông Giaia bị bệnh thập tử nhất sinh đều hết phương cứu chữa. Chúng ta biết, theo quan niệm của người Dothái, máu huyết trong cơ thể con người tượng trưng cho sự sống. Chính máu huyết làm cho sự sống con người được tồn tại. Thế mà người đàn bà trong Tin mừng hôm nay lại bị băng huyết. Điều đó cho thấy, sự sống trong con người bà đang bị mất dần; và, cái chết chắc chắn chỉ còn là vấn đề của thời gian mà thôi. Không nói, chắc chúng ta cũng hiểu tâm trạng lo lắng nếu không muốn nói là tuyệt vọng của bà. Bởi ròng rã 12 năm trời, bà đã tìm thầy chạy thuốc, tiêu hao hết gia sản, mà căn bệnh vẫn không thuyên giảm. Lo lắng tuyệt vọng bao trùm cho đến khi bà nghe danh Chúa Giêsu.
Còn ông trưởng hội đường Dothái Giaia thì sao? Con gái rượu của ông đang nằm trên giường bệnh, đang đối diện với lưỡi hái tử thần. Dĩ nhiên căn bệnh của con gái ông cũng đã trải qua rất nhiều thầy thuốc, qua bao nhiêu lương y tài giỏi, nhưng tất cả đều bất lực. Quả thật, dù tài năng đến mấy, không ai dám nói mạnh khi đứng trước bệnh tật và sự chết. Vì thế, ông trưởng hội đường đã đến với Chúa Giêsu và điều ông muốn là xin Người dủ lòng thương, đặt tay trên người con gái yêu quý của ông để nó được cứu thoát và được sống.
Nghe biết danh Chúa, nhưng vì sợ phải phiền luỵ, vì luật Lêvi cấm không ai được đụng chạm đến bà – một con người ô uế (x. Lv 15, 19-27), người đàn bà bị băng huyết chỉ nghĩ một cách hết sức đơn sơ và mộc mạc rằng, “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu”. Quả thật niềm tin đơn sơ và mộc mạc ấy lại phát sinh hiệu quả tức thì. Căn bệnh khốn khổ của bà lập tức được chữa khỏi. Và như thế cũng có nghĩa rằng, từ nay bà đã được cứu sống, và sự sống vẫn còn tồn tại trong bà. Niềm tin đơn sơ ấy của bà được Chúa Giêsu tái xác nhận khi bà lên tiếng tự nhận những ý nghĩ đã dẫn bà đến hành động và được chữa khỏi. “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”.
Còn viên trưởng hội đường Giaia thì sao? Đến với Chúa Giêsu, đặt niềm tin vào Người nhưng quanh ông vẫn còn những tiếng nói hồ nghi, khiến ông hết sức khó xử, không biết phải phân định thế nào cho phải. “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy chi nữa?”. Quả thật lòng ông không rối bời và đau đớn sao được khi nghe hung tin con gái yêu của ông đã chết. Niềm đau ấy dường như tăng lên gấp bội khi ông cố công đến gặp người mà ông đang đặt hết niềm hy vọng, thế mà Người đã chậm bước, con gái ông thật xấu số. Có lẽ hiểu được nổi đau và tâm trạng hoảng loạn của ông, Chúa Giêsu đã lên tiếng trấn an. “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Vâng, chỉ đơn giản vậy thôi, con gái ông từ cõi chết đã sống lại. Bỏ qua tai những lời hồ nghi để tin vào Đấng quyền năng, con gái ông đã được cứu thoát. Cho hay, phép lạ xảy ra hoàn toàn không chỉ đến từ phía Thiên Chúa mà còn đến từ phía con người, đến từ chính niềm tin đôi khi rất đơn sơ và mộc mạc.
Có ở trong trường hợp của người đàn bà bị băng huyết cũng như của ông trưởng hội đường Dothái Giaia, chúng ta mới cảm nghiệm hết thế nào là niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Niềm tin, tự nó là một sức mạnh tinh thần vô hình khiến chúng ta vượt thắng mọi nổi sợ hãi, vượt qua những cản trở do luật lệ quy định, vượt qua những định kiến, những hồ nghi để can đảm tín thác mọi sự vào bàn tay quyền năng của Thiên Chúa. Niềm tin của người Kytô chúng ta có đối tượng, có nguồn gốc rõ ràng chứ không phải là niềm tin mù quáng, nhất thời. Đối tượng là Thiên Chúa và nguồn gốc xuất khởi từ quyền năng vô biên của Người.
Lời Chúa hôm nay một lần nữa giúp mỗi người chúng ta duyệt xét lại niềm tin của mình vào Thiên Chúa. Hãy xem niềm tin mạnh mẽ của người đàn bà bị băng huyết và của ông trưởng hội đường Giaia để thấy được niềm tin ở nơi Thiên Chúa của chúng ta đang ở mức độ nào. Xin Chúa giúp cho niềm tin của chúng ta được lớn mạnh, để, một khi niềm tin được lớn mạnh, nó như viên ngọc quý được đặt đúng chiều và sẽ toả sáng cho muôn người.
Người sống, khi phải nói về người đã chết, thường uất nghẹn và nước mắt chạy vòng quanh: TN13-B42
Người sống, khi phải nói về người đã chết, thường uất nghẹn và nước mắt chạy vòng quanh. Nghẹn ngào hơn khi đối tượng là một người thân mình hằng yêu dấu. Và lại càng tưởng chừng như không thể khi nói về người mẹ đã đứt ruột xé lòng chắt chiu nuôi nấng mình lớn khôn giờ không còn nữa...
Tôi đã làm điều tưởng chừng như không thể kia cách đây non hơn một tuần. Lệ tuôn trào làm nghẹn lại từng chữ từng lời. Mà chữ và lời cũng gần như vô nghĩa khi nói về nỗi đau sâu thẳm nhất trong mọi nỗi khổ đau này.
Đau đớn vì cái chết đã muôn đời miên viễn cách ngăn người ở bên này và kẻ ở bên kia. Chết! Nghe sao quá hãi hùng! Sao quá tang thương! Và sự hãi hùng tang thương càng tăng thêm cường độ khi chung quanh đầy những màu tang tím. Khi chỉ nghĩ đến khoảng không gian cách ly hiện tại mà quên bẵng đi một đời kiếp thiêng liêng hội ngộ tương lai. Khi niềm tin chỉ giới hạn đến những vật chất hữu hình và không thể đưa mắt nhìn sâu nhìn xa đến những gì tinh thần bao la vô tận.
Và thường khi phải cần đến một bàn tay chạm đến để niềm tin vào đời sống mai sau được muôn đời bừng lên thắp sáng. Như Beethoven một ngày nọ đến thăm một thiếu phụ kia đang gập cúi người nức nở khóc bên cạnh xác chồng. Cảm thông với nỗi đau đớn của người goá phụ tuổi còn đang xuân và nhan sắc còn hồng, Beethoven đến trước đàn dương cầm và thiên tài âm nhạc bậc nhất cổ kim kia đã đan tay chuyễn ngón tấu lên một nhạc khúc Phục Sinh rồi lẳng lặng ra về trước đôi mắt quá đỗi kinh ngạc của người thiếu phụ buồn. Và sự sững sờ kinh ngạc kia cũng chính là sự kinh ngạc sững sờ của các môn đệ Chúa trên thuyền giữa biển khơi cuồng nộ sóng.
Như những thương nhân vượt biển, “họ đã nhìn thấy những kỳ công của Chúa nơi chỗ thâm uyên”. Hạt giống đức tin chỉ có thể nẩy lộc đâm chồi khi tâm trí thấu hiểu vũ trụ Chúa tạo dựng cho con người và vì con người; khi không còn biên giới giữa bên này và bên kia sự chết vì “Thiên Chúa không tạo dựng sự chết” và vì “công chính thì vĩnh cửu và bất tử.”
Hal Lindsey đã viết là “con người chỉ có thể sống bốn mươi ngày không cần ăn, ba ngày không cần nước, tám phút không cần không khí, nhưng chỉ một giây thôi nếu không tin yêu và hy vọng.”
Đã chết khi không tin không hy vọng; khi không còn kinh ngạc khi không biết sững sờ và nhất là khi không chu toàn sứ vụ cai quản làm chủ vạn vật mà Thiên Chúa tín cẩn trao ban. Cũng không còn sống nữa khi tâm trí chỉ nghĩ đến mình mà quên bẵng tha nhân. Đức tin cần đôi mắt giương to nhìn thế giới. Và cần thật cần đôi tay chạm đến những tâm hồn đang ngóng chờ một chút hơi ấm thương yêu.
Như đôi mắt khẩn cầu của người cha cho đứa con gái vừa trút hơi thở cuối. Như đôi bàn tay yếu đuối khăng khiu của người đàn bà kinh niên bệnh hoạn. Đời sống đức tin đã biểu hiện vẹn toàn trong khoé mắt người cha. Trên đầu từng ngón tay người mẹ.
Johann Wolfgang von Goethe cảm thấy như đã chết khi mỗi ngày không nhìn một hình ảnh đẹp, ngâm một đoạn thơ hay hoặc nói vài lời có ý nghĩa. Chẳng còn gì chua xót và đau đớn hơn khi tiến dần về cái chết mà đôi mắt vẫn không buồn mở và đôi tay vẫn khư khư không sờ không chạm. Đến tận cùng thế giới. Và đến mỗi tha nhân...
Tin mừng hôm nay trình thuật câu chuyện Chúa Giêsu làm cho con gái của ông trưởng hội: TN13-B43
Tin mừng hôm nay trình thuật câu chuyện Chúa Giêsu làm cho con gái của ông trưởng hội đường Giairô được “chỗi dậy” (Mc 5,40), cùng với việc người đàn bà bị bệnh xuất huyết 12 năm được khỏi bệnh sau khi chạm đến áo Người. Qua hai trình thuật này, chúng ta nhận thấy đức tin là một gặp gỡ, tương giao cá vị, và đem lại ơn giải thoát cho con người.
* Đứa trẻ 12 tuổi, con gái của ông Giairô đã “chết” (Mc 5,35). Nhưng đối với Đức Giêsu, “đứa bé không chết đâu, nó đang ngủ đó” (Mc 5,39) (Thực ra, đứa bé đã chết). Lời này của Đức Giêsu tiên báo việc Người sắp sửa làm, đó là một phép lạ. Như thế, phép lạ là một hồng ân Thiên Chúa khôi phục con người, làm cho họ chỗi dậy, làm cho họ sống, đồng thời đem lại niềm vui và hạnh phúc. Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn đang làm chỗi dậy những tâm hồn “đã chết”.
* Người đàn bà được chữa lành trong Tin mừng hôm nay cho thấy một quan niệm đã có vào thời bấy giờ là “năng lực chữa bệnh xuất phát từ nội lực”. Bà đã chạm đến Đức Giêsu, và bà nghĩ, chỉ cần chạm đến Người là bà được khỏi bệnh hoàn toàn. Nhưng Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình… và “hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh”. Người đã ban cho bà một sự bình an bên trong, Người đã cứu bà, cho bà thấy Thiên Chúa yêu thương bà, bà thật là quý báu đối với Thiên Chúa, và đời sống của bà có một ý nghĩa lớn lao. Như thế, khi chữa bệnh, Chúa Giêsu muốn cứu vớt con người tự bên trong, muốn giải thoát họ khỏi “run sợ”.
Cả hai phép lạ chữa bệnh hôm nay đều cho thấy Đức Giêsu là đấng chiến thắng sự chết và tội lỗi. Đứa bé đã chết được chỗi dậy, người đàn bà bị bệnh xuất huyết 12 năm – bệnh này là dấu hiệu của tội lỗi – được hồi phục. Đồng thời cũng cho thấy: nhờ đức tin, con người được cứu độ. Sau khi mọi hy vọng, biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Ông Giairô đã tin vào Chúa Giêsu khi con gái ông đang hấp hối, còn người đàn ba, sau 12 năm chữa trị, hầu như đã hoàn toàn tuyệt vọng. Hẳn là vào thời điểm gay go này, khi đứa con sắp chết, ông Giairô chỉ còn niềm hy vọng duy nhất vào Chúa Giêsu ? Người đàn bà cũng vậy. Nhưng tất cả đã thay đổi nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu. Người đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông.
Đức Giêsu hẳn đã nói với mỗi người chúng ta: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Lời này gây cho chúng ta một sự ngạc nhiên. Thực vậy, đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu. Hẳn là Mẹ Têrêsa Calcutta đã chẳng hề nghĩ đến những giải thưởng cuộc đời ban tặng Mẹ, nhưng Mẹ đã có được những điều đó nhờ đức tin ?
Liệu chúng ta có “dám tin vào những lời đầy thách thức” này không ? Nhưng chúng ta biết rõ Thiên Chúa là tình yêu, Người sẽ không bỏ rơi những ai trông cậy, tin tưởng vào Người, nhất là những người đang gặp khó khăn và tuyệt vọng. Hãy mở toang cánh cửa tâm hồn cho Thiên Chúa hành động. Hãy tin, dù mọi sự chưa rõ ràng. Hãy chờ đợi Thiên Chúa hành động “ đúng lúc, kịp thời”, nhưng với đức tin.
Lạy Chúa, Hoa trái của đức tin là cầu nguyện.
***
Để đức tin có thể triển nở, xin cho chúng con biết cầu nguyện. Xin cho chúng con biết tin tưởng và cậy trông, ngay cả trong những lúc tuyệt vọng.
***
Lạy Thiên Chúa là Cha, xin dạy cho chúng con biết sống là sống trong niềm tin, niềm cậy trông và tình yêu.
Ở Việt nam hiện nay rất nhiều bạn trẻ đang vật lộn với với nghèo đói, bệnh tật, ngu dốt. Nhưng: TN13-B44
Ở Việt nam hiện nay rất nhiều bạn trẻ đang vật lộn với với nghèo đói, bệnh tật, ngu dốt. Nhưng trầm trọng nhất vẫn là những bệnh xã hội và khủng hoảng tinh thần. Bao nhiêu thế hệ đang bị nhận chìm trong bóng tối tử thần.
Ai sẽ làm cho các bạn trẻ trỗi dậy ?
Thực tế, bên cạnh những tâm hồn sa đọa, vẫn có những bạn trẻ khác quan tâm và nỗ lực cứu vớt những anh em đang sống bên bờ vực thẳm. Có những bạn sẵn sàng đi xin từng đồng, mua từng viên thuốc cho các bạn trẻ đang đối diện với những bệnh thời đại. Họ không phí thời giờ bàn những chuyện xưng hô “cha con” hay vấn đề đối kháng giữa giáo sỹ và giáo dân v.v. Họ chẳng cần ai chú ý hay ghi ơn. Cũng chẳng cần giai cấp, địa vị. Chỉ cần vực anh chị em mình trỗi dậy khỏi cơn nguy khốn hiện tại mà thôi. Họ là những người theo Chúa Giêsu đi tìm cứu những người đau khổ, bệnh tật. Tuy không có quyền năng làm phép lạ như Chúa, nhưng dõi theo bước chân Chúa, họ có thể tạo thành những kết quả tương tự.
Dĩ nhiên, đứng trước cái chết, mọi người phải bó tay. Các phương pháp y khoa hiện đại nhất cũng không thể vượt qua những giới hạn tử thần. Dù có thiện chí và giàu có tới đâu, con người cũng phải đầu hàng. Phải toàn năng mới có thể khiến con gái ông trưởng hội đường sống lại từ cõi chết (x. Mc 5:35-42). Nói khác, chỉ cần nói với cô gái: “Trỗi dậy đi !” (Mc 5:41) Chúa Giêsu đã chứng minh Người là Thiên Chúa toàn năng, vượt trên mọi sức mạnh khoa học tiến bộ nhất.
Chúa không đòi người môn đệ phải toàn năng như Chúa mới cứu được đồng loại. Chúa muốn họ vận dụng sức mạnh tình yêu và hồng ân sẵn có để chặn đứng bước chân tử thần. Thực tế, nhiều người không những không ngăn cản bước chân tử thần, mà còn manh tâm xô đẩy anh em mình vào chỗ chết. Phong trào phá thai chẳng hạn. Có khi họ “án binh bất động” trước sức tấn công vũ bão của tử thần để cầu an hay hèn nhát. Bởi vậy, nhiều người trở thành mồi ngon cho tử thần chỉ vì đồng loại mần thinh trước tiếng thét gào của các nạn nhân.
Không bao giờ Chúa “lạnh lùng” như thế trước nỗi thống khổ của con người. Người phụ nữ băng huyết là một điển hình. Tuy chưa chết, nhưng bà đã đứng trên bờ vực tử thần. Thấy thế, Chúa không xô bà xuống đáy. Sau mười hai năm đau khổ, bà cảm thấy hoàn toàn bất lực và đau lòng vì “tiền mất tật mang.” Cuối cùng, bà đã tìm được sức mạnh tình yêu Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Tình yêu là sức mạnh giải thoát. Nhờ lòng tin mãnh liệt, bà đã được cứu và bình an hoàn toàn (x. Mc 5:34).
Ðức tin đã toàn thắng.
ÐGH Bênêđictô XVI nhận định “Cuộc chiến thắng này chỉ xảy ra vì có quyền năng sáng tạo của Lời Chúa và Tình yêu. Chỉ có Lời Chúa và Tình yêu mới đủ sức mạnh biến cải cơ cấu vật chất một cách tuyệt đối đến nỗi có thể vượt qua những chướng ngại của tử thần.” (www.archspm.org: 30.06.2006) Không có Lời Chúa và Tình yêu, chắc chắn họ đã không thoát khỏi nanh vuốt tử thần.
Không những thoát chết, hai người phụ nữ còn được Chúa phục hồi nhân phẩm và sứ mệnh cao cả. Trong cả hai phép lạ Chúa làm hôm nay, John R. Donahue nhận thấy một vài điểm thú vị. Trước hết, cả hai người lãnh ơn đều thuộc giới phụ nữ. Cô gái được phục sinh ở lứa tuổi mười hai , tuổi đã có thể thành hôn theo phong tục thời bấy giờ. Như thế, “cô bé” đã chết trước khi có thể trở thành vợ và mẹ. Người đàn bà băng huyết cũng mười hai năm. Bà không thể có con. Như thế, không những Chúa cứu cả hai khỏi chết, nhưng còn trả lại cho họ khả năng sinh sản, một vinh dự lớn lao vì được tham gia quyền sáng tạo của Thiên Chúa. Vinh dự đó góp phần làm chứng cho mọi người thấy,“Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt”(Kn 2:23)
Trước tình trạng phụ nữ bị buôn bán và khinh miệt hôm nay, Giáo hội đang làm gì ? Có động lòng trắc ẩn thực sự không ? Có dám vượt qua những cấm kỵ và thành kiến để đem ơn giải thoát đến cho phụ nữ không ?
Nhờ hồng ân Thiên Chúa, biết bao phụ nữ đang chứng tỏ một đức tin kiên cường và dũng cảm. Trong gia đình hay ngoài xã hội họ luôn sống với Chúa. Nhờ đó, chính họ có thể thoát hiểm và cứu vãn tương lai nhân loại. Hôm nay Giáo hội đang cần đến sức mạnh niềm tin nơi phụ nữ rất nhiều. Chính đức tin đã giúp họ chu toàn bổn phận làm mẹ, làm vợ trong gia đình. Họ còn muốn dấn thân làm chứng cho Chúa hơn nữa trong nhiều môi trường xã hội hôm nay. Nhưng Giáo hội có nhận ra đức tin kiên cường của phụ nữ trên toàn cầu để mời gọi họ hay không ?
Lạy Chúa, xin thương giải thoát phụ nữ và cho mọi người biết tôn trọng phẩm giá và sứ mệnh cao cả của họ. Xin Chúa mở ra nhiều con đường và cơ hội cho phụ nữ được tham gia hơn nữa vào sứ mệnh làm chứng của Giáo hội giữa lòng đời hôm nay ! Amen.
Lm. Giuse Đỗ Văn Lục, OP
-----------------------
TN13-B45: HAI PHÉP LẠ VỀ SỰ SỐNG
- Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Mc 5,21-42
Nhờ tin, mọi sự đều có thể
Một đám người rất đông vây quanh Đức Giêsu, chờ đợi một lời nói hay một cử chỉ lạ thường. Bỗng nhiên: TN13-B45
Một đám người rất đông vây quanh Đức Giêsu, chờ đợi một lời nói hay một cử chỉ lạ thường. Bỗng nhiên, có một người, dáng vẻ vội vã, đẩy mọi người ra và tiến đến trước mặt Đức Giêsu. Ông có điều gì muốn thưa với Người. Ông tên là Gia-ia, trưởng hội đường.
Thoạt tiên, người đàn ông này biết rằng mình có thể tín nhiệm vào Đức Giêsu. Ông "phủ phục dưới chân Đức Giêsu và năn nỉ" Người đến chữa con gái ông vừa mới tắt thở. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã làm cho ông can đảm: ông sẵn sàng tin cậy vào một người qua đường, ông tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến, mà cho đến lúc này, ông chỉ mới nghe đồn. Sự sống của đứa con gái ông vẫn hằng bao bọc, nuôi dưỡng, nay không còn nữa, và ông đến xin lại từ một người khác, một người xa lạ.
Đức Giêsu yên lặng đi theo ông trưởng hội đường. Đám đông vẫn tiếp tục vây lấy Người. Họ chen lấn, xô đẩy như muốn đè bẹp Người. Trong đám đông hỗn độn ấy, có một người phụ nữ khốn khổ rất mong được đến gần Đức Giêsu, chạm vào Người, dù chỉ là gấu áo thôi cũng được. Bà tự nhủ:
"Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu."
Bà biết là mình ô uế, bởi vì theo não trạng người Do-thái lúc bấy giờ, một người phụ nữ trong tình trạng như bà bị coi là "không được chạm đến". Không ai được chạm đến bà, và ngược lại bà cũng không được chạm đến ai. Bà là người ô uế và ai đến gần bà cũng bị ô uế.
Bà mong được đến gần, được chạm đến Đức Giêsu, để chấm dứt tình trạng ô uế của mình. Bà tin rằng Đức Giêsu là một con người nhưng không giống những người khác. Bà cảm thấy rằng từ con người này, bà có thể nhận được tất cả:
nhận lại chính mình, được trả lại chính mình.
Bà biết rằng bà đang làm một việc liều lĩnh, bởi vì đó là một điều cấm kỵ. Nhưng chính sự đau khổ đã thúc đẩy bà, và bà đã đến với Đức Giêsu. Phần mình, Đức Giêsu không sợ những điều cấm kỵ, không coi thường những nỗi khổ sâu kín nhất, đáng xấu hổ nhất. Người là Đấng cứu độ đến trần gian để giải thoát mỗi người khỏi nỗi cô đơn và sự sợ hãi.
Ngay tức khắc "bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh" ; và cũng ngay lúc ấy, Đức Giêsu "thấy có một năng lực từ nơi mình phát ra". Một cảm nghiệm sâu xa nảy sinh từ cuộc gặp gỡ cá vị giữa người tin và Thiên Chúa của mình.
Đức Giêsu ngừng lại, đưa mắt nhìn quanh. Bấy giờ người phụ nữ có thể bày tỏ chính mình. Bà phủ phục dưới chân Đức Giêsu và bày tỏ hết sự thật: một thái độ phó thác, tin cậy, hy vọng. Thái độ này chứng tỏ rằng, khi người ta được đón nhận cách trọn vẹn, người ta khám phá ra mình dễ thương, mình xứng đáng được yêu thương và có khả năng yêu thương.
Cũng như hai tác giả Mát-thêu và Lu-ca, thánh Mác-cô nối kết phép lạ này với câu chuyện chữa lành con gái ông Gia-ia.
Khi Đức Giêsu đang trên đường đến nhà ông Gia-ia, có người đến nói với ông: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa ?" Đối với người không tin, như thế là trễ rồi, không còn cứu vớt được nữa. Một khi không có lòng tin tưởng, cậy trông, thì lúc nào cũng trễ. Đức Giêsu nghe được những lời xầm xì, Người nói với ông trưởng hội đường: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi !"
Và sau đó, Đức Giêsu đã gọi cô bé dậy. Người nói: "Này bé, chỗi dậy đi !" Cô bé liền chỗi dậy, vì có ai đó đã gọi cô, chính tên cô.
Những chi tiết về vượt qua
Trong bản văn dài này, người ta có thể rút ra được những chi tiết diễn tả một bước vượt qua, từ sự chết sang sự sống.
* Từ bờ bên này sang bờ bên kia.
Đức Giêsu sang bờ bên kia, và ông Gia-ia chen qua đám đông để đến gặp Đức Giêsu. Sau đó cả hai cùng vượt qua biển người. Cả một đám đông như sóng dậy vây lấy cả hai, dường như muốn nuốt chửng.
* Từ ngôi mộ động đậy đến Nhà sự sống
Căn nhà của ông Gia-ia giống như một ngôi mộ. Một đám đông vây quanh cô bé mới chết. Họ khóc lóc, vật vã, kêu gào. Đức Giêsu đuổi mọi người ra khỏi nhà tựa như làm cho ngôi mộ ra trống không. Người gọi cô bé đang thiếp ngủ dậy, và trong căn nhà nơi sự sống thiếp ngủ, không cần phải có tiếng khóc than.
* Tuổi của sự sống
Con gái ông Gia-ia được mười hai tuổi: tuổi dậy thì, tuổi có thể bắt đầu đem lại sự sống. Trong khi đó, người phụ nữ mắc bệnh đã mười hai năm, và bà trở thành người vô sinh: bà bị coi như đã chết. Cả cô bé lẫn người phụ nữ mắc bệnh đều từ cõi chết bước vào sự sống, nhờ năng lực từ nơi Đức Giêsu phát ra. Chính Người là sự sống.
* Từ đặt tay đến lời
Ông Gia-ia xin Đức Giêsu đến đặt tay trên con gái ông. Nhưng Đức Giêsu không làm đúng như ông yêu cầu. Người nói với cô bé: "Chỗi dậy đi" ; trước đó Người cũng nói với người phụ nữ một lời tương tự. Nhờ lời Đức Giêsu, sự sống đã chỗii dậy, như một hạt giống, một mầm non.
* Phục sinh cho tương lai
Người đàn bà được chữa khỏi bệnh, cô bé được chỗi dậy từ cõi chết: cả hai vẫn chưa đạt được mục tiêu. Cuộc sống vẫn còn ở phía trước. Cô bé “sống lại" ; còn người phụ nữ nghe Đức Giêsu nói: "Con hãy về."
Phục sinh là một cuộc sinh ra, nhưng mới chỉ là điểm khởi hành. Đức Giêsu bảo những người đang đứng đó cho cô bé ăn. Của ăn và sự sống đi liền với nhau.
Đánh thức niềm hy vọng
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được mời gọi suy niệm về sự sống và về niềm hy vọng một cuộc sống không hư hoại. Sự sống là một thực tại, và có lẽ chúng ta càng cảm nhận cách rõ rệt hơn, khi mắc bệnh hay đối diện với cái chết. Bất chấp mọi sự xảy ra như thế nào, chúng ta có dám tin và hy vọng ?
Lòng tin tưởng chân thành và đơn sơ của ông Gia-ia cũng như của người phụ nữ chính là gương mẫu cho chúng ta.
Người phụ nữ có vẻ như mê tín, chỉ mong sờ đến áo Đức Giêsu là được khỏi bệnh. Đức Giêsu không khinh thường bà, trái lại, Người tạo cơ hội gặp gỡ, giúp bà thoát khỏi tình trạng bệnh tật và ban cho bà bình an.
Lòng tin của ông Gia-ia mãnh liệt hơn. Ông vẫn tin vào Đức Giêsu, trong khi đám đông dân chúng nghĩ rằng không ai có thể chống lại cái chết. Đối với Đức Giêsu, cái chết chỉ là một giấc ngủ. Nhờ lòng tin, giấc ngủ này sẽ mở ra một buổi sáng phục sinh.
Những từ ngữ được sử dụng làm cho người ta nhớ đến phép rửa, tức là tham dự vào cuộc phục sinh của Đức Ki-tô.
“Tỉnh giấc đi nào, hỡi người còn đang ngủ ! Từ chốn tử vong, chỗi dậy đi nào ! Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi." (Ep 5,14).
Trong mỗi chúng ta đều có một niềm hy vọng, nhưng nó đang ngủ như cô bé của bài Tin Mừng. Cần đánh thức nó dậy, và thúc đẩy nó tiến tới. Điều kỳ diệu chỉ có thể xảy ra khi chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Đức Giêsu, Đấng có thể mở ra một buổi sáng phục sinh, từ những đêm tối của riêng chúng ta, những đêm tối nhất.
XXX
"Đức Giêsu nói với ông Gia-ia: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi !" Nhưng tin là gì ? Là đưa cánh tay ra, vượt ra khỏi những xôn xao và sợ hãi, để nắm lấy Bàn Tay của Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng, Bàn Tay ấy vẫn luôn giơ ra." (theo A.M.Besnard)
Một giáo sư đại học tự xưng mình là vô thần. Một hôm ông tuyên bố trước mặt các sinh viên: TN13-B46
Một giáo sư đại học tự xưng mình là vô thần. Một hôm ông tuyên bố trước mặt các sinh viên rằng ông sẽ chứng minh được là không có Thiên Chúa. Ông chế diễu: "Này Chúa, nếu Chúa thật sự hiện hữu thì tôi muốn Chúa đánh ngã tôi văng khỏi bục giảng này. Tôi cho Chúa đúng 15 phút."
Cả phòng yên lặng, và mười phút trôi qua, ông lại ngạo mạn: "Tôi đang ở đây, và tôi đang chờ đợi."
Một anh lính mới giải ngũ rời khỏi chỗ ngồi đi lên gặp vị giáo sư và tặng ông một cú đấm thật mạnh vào mặt, khiến ông văng khỏi bục giảng, ngã xuống bất tỉnh. Sau đó, anh lính bình tĩnh về chỗ ngồi.
Vị giáo sư dần dần tỉnh lại, nhìn anh lính và hạch hỏi: "Có chuyện gì với anh vậy? Tại sao anh lại đánh tôi?"
Anh lính trả lời: "Thiên Chúa đang quá bận rộn, nên ngài gửi tôi tới." (God is too busy, so He sent me).
Thiên Chúa của chúng ta là Đấng như thế nào? Phải chăng Ngài tạo dựng vũ trụ và rồi thoải mái ngồi chơi xơi nước không để ý chuyện thế gian hay vẫn tiếp tục quan tâm đến cuộc sống của các thụ tạo? Phải chăng Ngài quá bận rộn chăm sóc những nhân vật quan trọng và vì thế không còn đủ thời giờ để săn sóc quan tâm đến những người tầm thường bé nhỏ?
Qua hình ảnh nhân loại của Chúa Giêsu, tin mừng hôm nay đã trình bày khuôn mặt sống động của một Thiên Chúa luôn yêu thương quan tâm:
Đám đông dân chúng đã đang tụ họp lắng nghe Chúa giảng dạy. Đây là dịp tốt thuận lợi để truyền bá giáo lý, nên chắc hẳn Chúa đã chuẩn bị cẩn thận bài nói chuyện. Đang chia sẻ, bỗng dưng chương trình của Chúa bị xáo trộn, khi ông Giairô trưởng hội đường, đến cắt ngang bài nói chuyện và xin Chúa chữa con gái ông sắp chết. Nhìn thấy nỗi khổ của người cha, Chúa đã sẵn lòng hy sinh bỏ chương trình kế hoạch riêng của Chúa để đáp ứng nhu cầu của người cần cứu giúp. Không thấy tin mừng ghi lại Chúa phàn nàn kêu ca vì phải cắt ngang bỏ dở chương trình.
Rồi trên đường đi, Chúa cảm thấy có người đụng chạm, người đó là một người đàn bà bị bệnh loạn huyết. Thật dễ hiểu nếu Chúa có trở nên bất nhẫn với bà: "Tại sao bà lại làm phiền tôi chứ? Bà không thấy rằng tôi đang phải cứu giúp con ông trưởng hội đường khỏi chết sao? Bà và chuyện của bà có thể đợi được mà?"
Nhưng thay vì bất nhẫn hay trách móc, Chúa Giêsu đã nhận thấy người đàn bà cũng đáng thương, và tuy dù bệnh tật của bà không quan trọng bằng chuyện đứa con sắp chết của ông Giairô nhưng cũng là điều thật quan trọng đối với bà. Với lòng thương cảm, Chúa bảo bà: "Này con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh."
Qua đoạn tin mừng hôm nay, chúng ta thấy được hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương quan tâm. Có người bảo: "Ngài không quá bận để điều khiển vũ trụ. Ngài có thời giờ cho những nhân vật quan trọng có tên tuổi như ông Giairô trưởng hội đường, nhưng Ngài cũng có thời giờ cho người tầm thường bé nhỏ như người đàn bà không tên tuổi bị bệnh loạn huyết. Ngài có thời giờ cho Đức Giáo Hoàng, cho các vị lãnh đạo, cho những người quan trọng, và Ngài cũng có thời giờ cho những người tầm thường như chúng ta."
Kiểm điểm lại cuộc sống, có lẽ chúng ta cần phải khiêm nhường xin ơn tha thứ vì rất có thể nhiều lần chúng ta không quá bận như Thiên Chúa nhưng đã không dành thời giờ cho anh chị em khi họ cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Hơn nữa, thay vì ân cần lắng nghe theo dõi đáp ứng những nhu cầu của anh chị em, chúng ta đã nhẫn tâm nhắm mắt bịt tai xua đuổi. Có lẽ còn lâu lắm và không biết đến bao giờ chúng ta mới học được ở nơi Chúa bài học cảm thông nâng đỡ, và được nên giống Chúa?
Nếu ngày hôm xưa Chúa đã có thời giờ cho dân chúng, đáp ứng những nhu cầu của họ, thì ngày hôm nay Ngài cũng có thời giờ cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có đi đến với Chúa, và kêu xin Người giúp đỡ?
Nếu Chúa đã có thời giờ cho chúng ta, phải chăng chúng ta cũng có thời giờ cho anh chị em chúng ta? Chúa và anh chị em đang chờ đợi câu trả lời của mỗi người chúng ta.
Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật trước đã nói đến sự hiện diện không thể thiếu vắng của: TN13-B47
Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật trước đã nói đến sự hiện diện không thể thiếu vắng của Chúa trong cuộc đời ta. Sự hiện diện ấy giúp ta vượt qua những gian nan thử thách trên đường về quê hương vĩnh cửu. Hôm nay Lời Chúa trình bày một khía cạnh đặc biệt trong sự can thiệp của Chúa, đó là lòng quảng đại bao la khi Người chăm sóc và dẫn dắt ta trong cuộc đời. Nhưng đó cũng là lòng quảng đại Người dạy ta phải tỏ ra với những anh chị em lâm cảnh túng thiếu.
1. Lòng quảng đại của Thiên Chúa khi Người tạo dựng nên ta và cứu độ ta (bài đọc Cựu Ước, Khôn Ngoan1:13-15; 2:23-24) Tạo dựng con người là công việc của tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã dựng nên ta với mục đích tốt là cho ta được chia sẻ vinh quang bất diệt của Người. Người còn cho ta được tham dự vào chính công việc tạo dựng khi Người ban cho ta quyền thống trị muôn loài trên mặt đất.Theo như kế hoạch từ ban đầu,“Thiên Chúa đã sáng tạo con người, cho họ được trường tồn bất diệt”(Kn 2:23).
Ý của Thiên Chúa là muốn cho con người “được trường tồn bất diệt”, nhưng con người lại sử dụng sự tự do để tự ý chối bỏ ân huệ cao quý ấy và phá đổ kế hoạch tạo dựng của Thiên Chúa. Ông A-đam và bà E-và đã bất tuân lệnh Thiên Chúa nên bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, tượng trưng cho sự sống vĩnh cửu Người muốn họ được thừa hưởng. Họ đã cộng tác với “quỷ dữ ganh tị” bằng cách nghe theo lời dụ dỗ ngon ngọt của chúng, do đó gây nên một hậu quả vô cùng khốc hại là làm cho “cái chết đã xâm nhập thế gian” (Kn 2:24) và khiến cho mọi người phải chết. Cho nên “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong”. Đó là nỗi lòng của Thiên Chúa trước cảnh con người chối bỏ tình yêu tạo dựng của Người! Người chấp nhận sự đổ vỡ con người đã gây ra cho chương trình sáng tạo của Người vì Người muốn tôn trọng tự do Người đã ban cho họ.
Tuy nhiên lòng quảng đại của Thiên Chúa không chịu thua quyền năng của tội lỗi và ma quỷ. Người đã “dựng nên [con người] làm hình ảnh của bản tính Người” (Kn 2:23), thì Người không thể để cho hình ảnh ấy mất đi một cách dễ dàng được. Trái lại, Người có cách để phục hồi những gì đã mất, lấy lại những nét nguyên vẹn của dung mạo con người được tạo dựng lúc ban đầu. Do đó, Thiên Chúa tái tạo con người trong Chúa Ki-tô, trả lại cho con người những gì đã bị tội lỗi tước đoạt. Như thế, lòng quảng đại của Thiên Chúa được biểu lộ khi Người dựng nên loài người lại càng trở nên rõ ràng và lớn lao hơn nữa trong công việc tái tạo. Tại sao vậy? Bởi vì lòng quảng đại được đo lường theo phẩm chất của những gì được cho đi. Mà ở đây, khi tái tạo ta trong kế hoạch cứu độ, Thiên Chúa đã ban cho ta chính Con Một Yêu Dấu của Người, một quà tặng với phẩm chất Thiên Chúa, một dấu chỉ nói lên tuyệt đỉnh lòng quảng đại của Người rồi.
Đứng trước lòng quảng đại đầy yêu thương của Thiên Chúa, tác giả Thánh Vịnh không cầm lòng nổi, đã phải kêu lên: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con. Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” (Tv 29:2.4). Lời tán dương này phải được lập lại trên môi miệng ta luôn luôn nếu ta nhớ rằng mình đã được đổi đời, được làm con Chúa!
2. Chúa Giê-su biểu lộ lòng quảng đại của Thiên Chúa qua sứ vụ cứu độ Người thi hành (bài Tin Mừng – Mác-cô 5:21-43) Chúa Giê-su là tột đỉnh mặc khải của Thiên Chúa. Để “nói có sách, mách có chứng” rằng Người quảng đại đối với ta, Thiên Chúa đã nhờ chính Con Một Người để cho ta biết Người quảng đại tới mức nào. Những gì Chúa Giê-su dạy và nhất là qua những phép lạ chữa lành, Người cho ta thấy Người thực hiện những phép lạ ấy là để nói lên những gì tốt lành về Cha Người. Thí dụ, khi Người tha thứ cho những kẻ tội lỗi là Người cho ta thấy khuôn mặt nhân từ của Thiên Chúa; khi Người chữa lành thể xác cũng như tâm hồn là Người cho ta cảm nghiệm quyền năng yêu thương của Thiên Chúa, Đấng không muốn thấy con cái mình phải quá đau khổ dưới gánh nặng cuộc đời.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại câu chuyện Chúa Giê-su chữa lành cho người đàn bà bị bệnh băng huyết và đặc biệt là câu chuyện Người cho con gái ông Gia-ia, trưởng hội đường bên kia Biển Hồ Ga-li-lê, đã chết được sống lại. Ta hãy bước theo Chúa Giê-su và ngắm nhìn cung cách của Chúa trong những câu chuyện này để nhận ra sự quảng đại Người đã tỏ ra. Trước hết, khi ông Gia-ia “sụp xuống dưới chân Người và khẩn khoản nài xin”, thì Người “lập tức ra đi với ông”. Lòng quảng đại khiến cho Chúa xếp lại “những việc quan trọng” để mau mắn đáp lại lời cầu xin của ông đến cứu chữa con ông. Tiếp đến là phép lạ chữa người đàn bà bị bệnh băng huyết đã mười hai năm. Lòng quảng đại của Chúa rộng lớn đến độ làm bà ấy cảm thấy tin tưởng rằng không cần phải lên tiếng xin Người chữa lành thì Người cũng đoái thương đến bà. Thánh Mác-cô viết: “Đức Giê-su nhận thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra” có lẽ muốn ám chỉ nhiều điều, và một trong những điều ấy là lòng quảng đại của Chúa đã giải thoát người đàn bà khỏi khổ đau do cơn bệnh đã mười hai năm. Cũng chính lòng quảng đại của Chúa đã làm cho bà mạnh dạn “đến phủ phục trước mặt Người” mà không sợ dân chúng cười nhạo, để đón nhận những lời của Chúa nói với bà, thật khích lệ và quyền năng: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”.
Khi tới nhà ông trưởng hội đường, Chúa Giê-su bị người ta chế nhạo vì Người bảo con bé đang ngủ chứ không phải chết, nhưng Người không phản ứng chi hết và cứ tiến đến chỗ người ta để xác đứa trẻ. Có quảng đại thực sự thì mới kiên nhẫn và tha thứ cho những kẻ chế nhạo mình.
Tuy nhiên, điều làm chúng ta ngạc nhiên nhất, đó là lòng quảng đại của Thiên Chúa đã vượt trên bất cứ mong đợi nào của con người, vượt qua cả những luật lệ tự nhiên để phục hồi sự sống cho một em bé đã chết. Điều này khiến ta nghĩ đến cái chết thiêng liêng do tội lỗi của ta và của biết bao người. Nhờ lòng quảng đại từ bi của Chúa, ta mới được giải hòa với Người qua Bí tích Hòa giải. Quả thực Bí tích Hòa giải là một dấu chỉ nhờ đó ta nhận biết Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, sẵn sàng và quảng đại tha thứ mọi tội lỗi ta phạm đến Người và đến anh chị em.
3. “Anh em cũng phải trổi vượt về lòng quảng đại nữa” (bài đọc Tân Ước–2 Cô-rin-tô 8:7.9.13-15) Đó là lời khuyên thánh Phao-lô gửi đến các tín hữu Cô-rin-tô ngày xưa và các tín hữu hôm nay. Trước hết, ngài mời gọi ta hãy nhìn vào tấm gương quảng đại của Chúa Ki-tô: “Quả thật, anh em biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2 Cr 8:9). Vào thời điểm ấy, Giáo Hội tại Giê-ru-sa-lem đang gặp khó khăn về mọi mặt do cuộc bách hại mỗi lúc một khốc liệt hơn, nên cần sự giúp đỡ cả về phương diện vật chất từ những cộng đoàn khác. Hơn nữa, tín hữu Cô-rin-tô tương đối là những người có khả năng tài chánh và có lòng bác ái, nên cùng với thánh Phao-lô, chính họ có sáng kiến tổ chức cuộc lạc quyên giúp anh chị em tín hữu Giê-ru-sa-lem. Công việc này không chỉ có tính cách bác ái, mà còn nói lên tinh thần liên đới giữa anh chị em tín hữu gốc Do-thái và anh chị em tín hữu gốc dân ngoại. Lòng quảng đại đã xóa bỏ ranh giới giữa những cộng đoàn tín hữu với nhau và giữa những người không cùng chủng tộc. “Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu”. Quả thật đó là giấc mơ ta không thể thực hiện nếu không có lòng quảng đại đích thực. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đã xóa bỏ ranh giới để ơn cứu độ không chỉ hạn hẹp dành riêng cho Ít-ra-en, nhưng đã được ban cho toàn thể nhân loại không trừ một ai. Nhưng nếu Thiên Chúa đã quảng đại ban ơn cứu độ cho ta, thì ta cũng phải quảng đại đáp lại và đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót.
Một cách cụ thể để sống quảng đại như thánh Phao-lô nêu lên, đó là “Anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu” (2 Cr 8:14). Tại rất nhiều cộng đoàn Công giáo Việt Nam tại Hoa-kỳ, thường có những tổ chức, chương trình đặc biệt hoặc những buổi lạc quyên để hỗ trợ Giáo Hội tại quê nhà. Có người lo lắng là làm như thế nhiều quá, tài chánh của cộng đoàn sẽ bị ảnh hưởng. Vậy mà chính những cộng đoàn ấy lại càng vững hơn về tiền quyên góp Chúa Nhật! Bởi vì anh chị em giáo dân tại những nơi ấy là những người quảng đại, sống theo gương Chúa Giê-su và anh chị em tín hữu Cô-rin-tô. Tuy nhiên có nhiều người cũng cần phải xét lại lối sống quá ích kỷ của họ. Họ rất “quảng đại” với mình, không để cho mình phải thiếu thốn gì, cả đến những cái thực sự không cần thiết, nhưng lại keo kẹt với người khác, chi li từng đồng từng cắc. Vấn đề tuy tế nhị, nhưng căn bản là ta hãy chiêm ngưỡng lòng quảng đại Thiên Chúa dành cho ta, để từ đó tập sống quảng đại và “trổi vượt về lòng quảng đại” như thánh Phao-lô khuyến dụ và mong ước.
4. Sống Lời Chúa
Thiên Chúa là Đấng giàu có mọi sự mà lại còn quảng đại nữa. Người không tiếc với ta điều gì, miễn là để ta được hạnh phúc và mai sau hưởng phần gia nghiệp của Người. Vì thế, Người đã phung phí tình yêu vô điều kiện của Người bằng cách trao nộp Con Một Người cho ta, để chuộc mọi lỗi lầm ta đã phạm. Do đó, ta không thể là những đứa con ích kỷ của một người Cha giàu lòng thương xót, không thể là những người em bất xứng của người Anh Trưởng đã quảng đại hiến thân và chết trên thập giá vì ta. Quảng đại không chỉ về mặt vật chất, mà còn quảng đại cả về mặt tinh thần, tâm lý, trong cách đối xử với anh chị em và nhất là trong cách xét đoán anh chị em nữa.
Suy nghĩ: Thánh Phao-lô nói về lòng quảng đại của Chúa Ki-tô: “Người đã lấy cái nghèo của Người mà làm cho anh em trở nên giàu có”. Lời này dạy tôi phải sống quảng đại với anh chị em như thế nào? Có khi nào tôi suy nghĩ và tạ ơn Thiên Chúa về “cái nghèo của Chúa Ki-tô” không?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dủ lòng thương nhận chúng con làm nghĩa tử, để chúng con trở thành con cái của lòng quảng đại Chúa; xin đừng để chúng con sa vào cảnh tối tăm lầm lạc do lòng ích kỷ, nhưng gìn giữ chúng con luôn chiếu sáng lòng quảng đại của Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. (Phỏng theo Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 13 mùa Thường niên).
Thiên Chúa là sự sống và tình thương. Tình thương của Người là tình thương cứu vớt, đem lại cho: TN13-B48
Thiên Chúa là sự sống và tình thương. Tình thương của Người là tình thương cứu vớt, đem lại cho con người được sự sống, tham dự sự sống của cộng đoàn và tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa. Chỉ nơi Ngài, mới có tình thương và sự sống tuyệt đối.
Khi muốn xin ai hay thỉnh cầu điều gì, thì chúng ta tin tưởng vào người chúng ta đang đặt niềm tin. Người phụ nữ mắc bệnh băng huyết và người cha có đứa con gái bị bệnh nặng gần chết đã làm như thế. Cả hai đã tin Chúa Giêsu nên đến xin Ngài cứu chữa. Chính vì có lòng tin mạnh mẽ mà cả hai đã được hưởng phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng làm sao chúng ta thấy được hay biết được lòng tin của họ? Vì nó đã được biểu lộ ra qua thái độ, cử chỉ, lời nói và hành động của họ.
Người phụ nữ này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà trước mặt mọi người. Bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa" (Mc 5, 28). Bà thật khiêm tốn, có thể so sánh với người đàn bà xứ Canaan, hoặc như người trộm lành. Vì thế, bất chấp tất cả những luật lệ phiền phức và nghiêm ngặt, bà lén đến sau lưng Chúa, để thực hiện ý định "rút ơn Chúa", và kết quả bà đã được toại nguyện. Bà đã thể hiện đức tin một cách sâu sắc, như chính Chúa đã xác nhận và thưởng công cho lòng tin của bà: "Lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mc 5, 34).
Tuy nhiên, theo quan niệm của người Do Thái thì máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi chị mất dần đi, tiêu hao di nên có thể coi chị là người đã chết. Nhất là trong hoàn cảnh của bà, đau khổ không chỉ vì bệnh kéo dài, tiền mất tật mang mà bà còn đau khổ về tinh thần vì tập quán tôn giáo xã hội lúc đó coi những người mắc những thứ bệnh này cũng giống như bệnh cùi là những người bị ô uế, đáng bị cộng đoàn khai trừ. Có thể nói người phụ nữ này đã chết hai lần, cả về mặt sự sống thể xác lẫn về mặt đời sống tinh thần. Chị đã được Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật, hay đúng hơn chị đã được cứu thoát và Ngài đã đem đến cho chị sự sống mới sự sống dồi dào, chị được sát nhập vào đời sống cộng đoàn tôn giáo.
Trường hợp của ông trưởng hội đường Giaia cũng thế. Ông đã thể hiện lòng tin của ông vào Chúa Giêsu. Qua cử chỉ, thái độ và lời nói của ông: Khi đến trước mặt Chúa Giêsu, ông đã quỳ sụp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống" (Mc 5, 23). Ông cầu cứu Chúa Giêsu vì ông yin rằng Ngài có thể cứu sống con ông khỏi chết. Phải tin Chúa Giêsu là ai, phải tin Chúa có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ, thái độ và lời kêu xin như thế. Ông không hồ nghi, ông tin chắc chắn sự việc sẽ xảy ra như thế, nếu Chúa muốn, vì Ngài là Chúa sự sống và sự sống lại. Ngài động đến đâu thì sức mạnh và sự sống lan tràn tới đó. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.
Trong cả hai phép lạ, chúng ta thấy nổi bật lên một yếu tố, đó là lòng tin. Người phụ nữ bệnh băng huyết khi đã nghe nói về quyền phép của Chúa Giêsu thì chị tin mãnh liệt vào Ngài, bà tin Ngài có thể chữa chị khỏi bệnh, chính vì thế nên chị nghĩ trong lòng rằng: "Nếu tôi sờ vào được áo choàng của Thầy, thì tôi sẽ được khỏi bệnh". Chính vì tin mà bà vượt qua hàng rào kỳ thị tôn giáo kia, chị vượt qua mọi nếp suy nghĩ và quan niệm của tôn giáo Do Thái lúc bấy giờ để mạnh dạn đến chạm tay vào gấu áo Chúa Giêsu. Chính vì quyền năng đó mà Chúa đã không từ chối chữa lành cho chị. Bên cạnh đó, lòng tin của ông Giaia cũng là yếu tố quan trọng để Chúa Giêsu làm cho con gái ông sống lại. Hai phép lạ trên cho chúng ta thấy Chúa Giêsu có quyền năng trên bệnh tật. Điều này chứng tỏ Ngài chính là Thiên Chúa thật, là vị Cứu Tinh, là Đấng cứu độ con người.
Hai phép lạ này còn loan báo cho chúng ta một sứ điệp tình thương, sứ điệp thời đại mới, thời đại cứu độ mà các tiên tri đã loan báo. Thời đại của Chúa Giêsu Kitô. Trước hết, Thiên Chúa là sự sống, Ngài là chủ sự sống. Ngài ban phát sự sống cho con người và muôn loài muôn vật. Riêng đối với con người, Ngài không chỉ là chủ sự sống đời sống vật chất mà còn là chủ đời sống ân sủng, đời sống làm con cái Chúa. Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã hiến dâng cho loài người tất cả, kể cả Người con yêu dấu, con một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Suy gẫm về bài phúc âm này, chúng ta nhận thấy: Chúa Giêsu đã bộc lộ thiên tính của Ngài, thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa là ban sự sống, là cứu chữa, những gì đã hư mất, là tìm đến những người đau ốm cần thầy thuốc. Ngài luôn quan tâm mọi nhu cầu cụ thể của con người. Ngài quan tâm đến nỗi thống khổ về tinh thần lẫn vật chất của nhân loại. Tất cả nỗi khổ đau của nhân loại đều được Chúa Giêsu cảm thông, chia sẻ và cứu vớt. Chính vì mang trong lòng trái tim yêu thương của Thiên Chúa, nguồn sống từ nơi Chúa Cha nên Ngài đã không khước từ và mau mắn cứu chữa hết người này đến người kia, bình phục cho người này, hồi sinh cho kẻ khác, đem lại phẩm giá và sự tôn trọng cho những ai đang bị loại trừ. Đối với Chúa Giêsu, Ngài không hề loại trừ một ai vì tất cả mọi người đều thuộc về gia đình Thiên Chúa. Điều duy nhất Ngài đòi hỏi chúng ta có tin nơi quyền năng và tình thương của Thiên Chúa hay không?
Niềm tin, lòng tin hay đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất, nó là một cái gì có thật, nhưng thuộc về thần linh. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Giaia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi lễ, thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa. Vì thế, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Giaia, hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ trên đây, bà có một thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế.
Chúng ta tin Thiên Chúa là chủ sự sống, là nguồn gốc sẽ dẫn chúng ta đến thái độ là biết tôn trọng sự sống, bảo vệ và phát huy sự sống. Không đơn thuần là sự sống thể xác, tinh thần mà còn quan tâm đến sự sống thần linh. Không chỉ quan tâm sự sống nơi bản thân mình mà còn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích sự sống nơi tha nhân nữa. Thế nhưng xung quanh chúng ta có rất nhiều sự sống con người đang bị xâm phạm, bị chà đạp, cách này hay cách khác. Biết bao nhiêu trẻ em không có quyền được sinh ra, không có được những điều kiện thiết yếu về mặt vật chất, tinh thần để sống một cuộc sống cho ra người.
Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người để con người được sống và sống dồi dào. Nhưng sự sống mà chúng ta đón nhận từ nơi Chúa sẽ không trọn vẹn nếu chúng ta chưa thật sự chia sẻ sự sống ấy cho tha nhân chung quanh chúng ta. Bao lâu nhiều người anh em chung quanh chúng ta chưa được sống xứng đáng vơi nhân phẩm con người, bao lâu niềm vui và quyền được sống như một con người vẫn còn bị khước từ nơi nhiều người đang sống bên cạnh chúng ta thì có lẽ chính chúng ta cũng không thể nào hưởng được một cách dồi dào sự sống mà Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trân trọng đức tin, sự sống mà Chúa đã ban, để chúng con luôn tin tưởng mạnh mẽ và quyết liệt, bền bĩ và phó thác vào Chúa, vì chúng con được dựng nên bởi tình thương và sự sống của Chúa. Xin cho chúng con biết quý trọng sự sống của mình, của tha nhân và không ngừng phát huy sự sống ấy bằng cách sống yêu thương và giúp đỡ nhau tiến tới sự hoàn thiện như Chúa muốn. Amen
Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng: "Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống". Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía.
Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: "Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành". Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: "Ai đã chạm đến áo Ta?" Các môn đệ thưa Người rằng: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi 'Ai chạm đến Ta?'!" Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: "Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh".
Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: "Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?" Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: "Ông đừng sợ, hãy cứ tin". Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: "Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó". Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: "Talitha, Koumi", nghĩa là: "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!" Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy và bảo họ cho em bé ăn.
Suy NiỆm:
Ðau khổ, bệnh tật, chết chóc: bởi đâu đến? Diệt được không? Làm thế nào? Ba bài Kinh Thánh hôm nay: TN13-B49
Ðau khổ, bệnh tật, chết chóc: bởi đâu đến? Diệt được không? Làm thế nào? Ba bài Kinh Thánh hôm nay gợi lên nhiều suy nghĩ. Cho dù Lời Chúa chỉ dễ hiểu đối với những ai có lòng tin; nhưng khách quan cũng có thể nâng đỡ suy nghĩ của con người. Ít ra đó cũng là quan điểm của tác giả bài đọc I hôm nay.
A. Thiên Chúa Ðã Không Làm Ra Sự Chết
Thật vậy, vào khoảng nửa thế kỷ I trước khi Ðức Yêsu Kitô ra đời, một người trí thức Dothái sống lưu lạc ở Alexandria, thủ đô văn hóa của thế giới Hylạp thời bấy giờ. Ông gặp gỡ nhiều luồng tư tưởng triết học ngoại giáo. Họ luôn đề cập đến các sự dữ ở đời. Họ chưa phân biệt như Gabriel Marcel sau này ở thời đại chúng ta, triết gia công giáo này bảo không nên đặt sự dữ thành "vấn đề", vì nếu là vấn đề thì phải có giải pháp; và rõ ràng cho đến nay không có giải pháp nào xóa bỏ được sự dữ. Tốt hơn hãy coi nó là "mầu nhiệm", và đối với mầu nhiệm, con người đừng tìm cách khắc phục nhưng hãy đưa mình vào để cảm nghiệm.
G. Marcel là triết gia, nên nói tiếng nói của triết học. Tác giả đoạn sách Khôn ngoan hôm nay chỉ là một người Dothái trí thức không biết luật pháp Môsê và mạc khải của Thiên Chúa. Ông muốn đem Lời Chúa nói với những người chỉ quanh quẩn với các lý luận triết học. Ông khẳng định không úp mở: Thiên Chúa không làm ra sự chết. Người chỉ làm ra sự sống. Nơi Người chỉ có tích cực, đến nỗi Người chẳng vui gì khi sinh linh hư diệt.
Như vậy thế giới này là công trình của một ông thiện và một ông ác, của một thần lành và một thần dữ như có thứ triết học chủ trương sao? Chắc chắn tác giả của chúng ta không nghĩ như vậy. Quan niệm lưỡng nguyên coi vạn vật là con đẻ của hai nguyên lý lành-dữ bị chính triết học phi bác, ít ra nơi những suy tư nghiêm chỉnh. Tác giả là người Dothái có mạc khải của Thiên Chúa. Ông nhớ đến trang đầu tiên trong sách Khởi nguyên nói rằng: Thiên Chúa dựng nên vạn vật và Người thấy chúng thật tốt lành. Và ông viết: " Những gì được sinh thành ra trong vũ trụ đều lương hảo". Ông diễn tả đúng niềm tin như Lời Chúa mạc khải.
Tuy nhiên ông phải nói cho người Hylạp hiểu: vì sao lại có sự dữ, là đau khổ, bệnh tật và nhất là sự chết? Sự chết bao trùm mọi sự dữ ở đời. Nó không có mặt trong trời đất khi Thiên Chúa sinh thành vạn vật. Nó đã từ đâu tới để đến nỗi bây giờ nó gieo rắc đau thương, bệnh tật và tang tóc ở mọi nơi? Nhất là nơi con người. Phải nói rằng chỉ nơi con người ta sự chết mới được cảm nghiệm như là sự dữ. Và người ta lấy tâm trạng của mình để phóng lên trên sự vật, khiến chúng ta có thể nói: người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Ở đây không phải là chỗ để chúng ta tranh luận triết học. Nhưng người ta không sai lầm lắm đâu khi quan niệm rằng chính ý thức về sự chết là sự dữ ở nơi mình mà con người đâm ra nhìn thấy các khía cạnh tiêu cực nơi ngoại vật. Một em bé thơ ngây không dễ yếm thế như những người đã có kinh nghiệm đau khổ. Ít ra chúng ta nên tập suy nghĩ rằng: những sự dữ bên ngoài không quan trọng và chủ yếu như sự dữ ngay trong con người chúng ta. Và có thể nói như thánh Phaolô: Tạo vật đang rên xiết vì còn phải chờ ngày con cái Thiên Chúa xuất hiện nơi chúng ta. Hoặc như tác giả hôm nay viết trong bài sách Khôn ngoan: Tử thần không có quyền bá chủ cõi trần (khi cõi trần này được tạo dựng).
Vậy chhính con người mang sự chết và bè lũ của nó là đau khổ, bệnh tật đến sao? Cũng không phải. Con người linh ư vạn vật. Khi do Chúa tạo thành, con người cũng là tạo vật thật tốt lành. Và phải tốt lành hơn mọi vật khác. Con người đã được dựng nên giống hình ảnh tạo hóa, theo như bản chất của Người. Con người cũng phải bất hoại vì lẽ Thiên Chúa không làm ra sự chết và Người không vui khi sinh linh hư diệt. Tác giả chỉ tìm thấy nguyên do sự chết nơi con người trong mạc khải của chính Thiên Chúa. Ở chương 3 sách Khởi nguyên, chúng ta đã được nghe biết về câu truyện cám dỗ và sa ngã của nguyên tổ loài người. Vì tội lỗi của Adam-Evà mà sự chết đã xâm nhập vào thế gian. Nó là hình phạt của tội lỗi. Và tội lỗi do tên cám dỗ mang lại. Do đó tác giả viết: "Còn chết, có nhập vào trần gian, ấy là do quỷ đố kỵ".
Tác giả bài sách Khôn ngoan đã chỉ vắn tắt lập lại giáo lý của sách Khởi nguyên, của truyện Thiên Chúa dựng nên vạn vật và nhất là con người. Người đã sinh thành con người tốt lành và bất tử, với điều kiện loài người không phạm tội. Nhưng chính vì không trung thành với Người, Adam-Evà đã phạm tội và đã chuốc lấy hình phạt được báo trước: đó là sự chết và bè lũ đi theo nó, là đau khổ và tật bệnh.
Tác giả có làmcho các triết gia Hylạp suy nghĩ không? Ông đã làm phận sự của người dân có mạc khải của Thiên Chúa. Dĩ nhiên chỉ ai có niềm tin mới biết đón nhận; nhưng khi con người nhận thấy các suy tư của mình lúng túng trong những điều khó hiểu như các thắc mắc về đau khổ, bệnh tật và chết chóc mà chúng ta thường gọi chung là sự dữ, Lời Chúa có thể là ánh sáng cho những tâm hồn thiện chí và có khả năng nâng đỡ suy tư của con người.
Chúng ta cám ơn Chúa vì có sẵn đức tin. Chúng ta hôm nay hiểu hơn giáo lý về sự dữ. Chúng ta sẽ bắt chước tác giả sách Khôn ngoan, khi có dịp đã không ngần ngại chia sẻ với mọi người chung quanh niềm tin của mình để góp phần suy nghĩ với họ về mọi cái xảy ra trong cuộc sống con người. Hơn nữa, nhờ bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta còn có thể đi xa hơn. Sau khi đã biết sự chết bởi đâu đến, chúng ta còn được mạc khải về đường lối giải thoát cứu độ.
B. Chúa Yêsu Kitô Ðã Cứu Người Ta Khỏi Chết
Ít khi chúng ta thấy các tác giả thánh lồng hai câu truyện vào với nhau như trong bài Tin Mừng hôm nay. Có cả một câu truyện dài tường thuật việc một người phụ nữ khỏi bệnh lồng trong câu truyện Chúa đến chữa một em bé sống lại. Câu truyện nào quan trọng hơn? Nhất là có tương quan mật thiết nào giữa hai câu truyện không? Có thể nói cả hai chỉ nhằm đề cao một chủ đề cho thấy hành trình của đức tin cứu độ.
Thật vậy, có một nét chung rất bề ngoài của hai câu truyện. Người phụ nữ đã bị bệnh 12 năm và trở thành nan trị. Em bé đó cũng 12 tuổi và đã chết. Cả hai trường hợp đều nói lên tình trạng nan giải của nhân loại tội lỗi. Nhưng rồi cả hai đều đã được cứu thoát nhờ việc tiếp xúc với Ðức Yêsu. Người phụ nữ thì rờ vào áo Người; còn em bé thì được Người cầm tay đỡ dậy. Tuy nhiên điều mà có lẽ thánh Marcô muốn chú trọng hơn cả trong hai câu truyện là từ tình trạng bệnh tật, chết chóc đến trạng thái khỏe mạnh, sống vui, con người phải làm một cuộc hành trình đức tin.
Có lẽ vì vậy mà tác giả đã dừng lại lâu ở trên đường đi. Và rõ ràng ông đã coi thường con đường bề ngoài dẫn Ðức Kitô đi. Ông chú ý vào con đường tâm hồn dẫn người ta đến với Người.
Khởi đầu, ông Yairô đến xin Người lại nhà ông đặt tay lên đứa con sắp chết. Lúc ấy Người đang ở giữa đám đông. Không ai có thái độ nào khác thường đối với Người. Nhưng Yairô đã đến sấp mình dưới chân Người. Ðó là cử chỉ thờ lạy; đó là hành vi đức tin, nổi bật hẳn lên giữa đám đông chưa biết nhận ra con người thật của Ðức Kitô. Có thể niềm tin kia còn mơ hồ vì Yairô đã xin Người đến nhà ông và đặt tay trên con bệnh. Ông nhớ lại nhiều hình ảnh về các tiên tri. Có lẽ ông đã thấy nhiều pháp sư có khả năng chữa bệnh như vậy. Dù sao ông đã có niềm tin. Và chút niềm tin này đủ để Ðức Yêsu lên đường đi cứu độ.
"Người ta chen cả vào Người", để Người thật sự là Ðấng Emmanuel tức là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi; và cũng để Người sống như mọi người và để người ta phải đón nhận Người trong nhân tính khiêm cung khó nghèo.
Người phụ nữ bị bệnh 12 năm có niềm tin ấy. Bà coi thường luật "dơ và sạch" cấm bà động vào người ta. Bà âm thầm nói lên niềm tin ở trong lòng trước khi sờ vào áo Người. Bao nhiêu kẻ khác chen vào Người mà Người không để ý, nhưng ơn cứu độ ở nơi Người đón nhận ai là kẻ có lòng tin đến với Người. Người cảm thấy mãnh liệt có một kẻ tin đụng vào mình. Người là Ðấng được sai đến để "khơi nguồn và viên thành đức tin" như lời thư Hipri nói. Thế nên Người lên tiếng, làm nổi khuôn mặt của kẻ có niềm tin lên. Người suy tôn kẻ ấy và đồng thời muốn khơi dậy nhiều niềm tin như vậy.
Khốn nỗi, thế gian luôn muốn chọc phá công việc cứu độ của Thiên Chúa và dập tắt ngọn lửa lòng tin mà Ðức Yêsu vừa nhóm lên. Người nhà viên trưởng hội đường đến báo tin em bé đã chết rồi và bảo ông Yairô đừng phiền hà Ðức Yêsu nữa. Nếu không có phép lạ vừa xảy ra cho người phụ nữ được khỏi bệnh; nếu không có những lời Ðức Yêsu vừa cổ võ lòng tin của bà; và nhất là nếu không có chính lời Người giờ đây bảo ông: Ðừng sợ, hãy tin mà thôi. Ông Yairô có lẽ đã theo lời người ta khuyên và đã xin Người đừng mất công đến nhà ông làm gì nữa. Nhưng may Người đã "viên thành" đức tin cho ông. Ông cứ để Người đi.
Người chỉ để cho Phêrô, Yacôbê và Yoan đi theo. Người muốn cho ba môn đệ đặc biệt này được chứng kiến một việc để sau này đức tin được nâng đỡ khi thấy Người rũ rượi cầu nguyện nơi vườn Ghếtsêmani.
Thế gian lại đặt thêm chướng ngại vật trên con đường đức tin. Những tiếng khóc lóc kêu la ầm ĩ và nhất là những tiếng cười nhạo báng khi nghe Người nói: "Em bé chỉ ngủ thôi", là tất cả những hình ảnh về sự thiếu lòng tin và sự cứng lòng tin của thế gian muốn vây hãm và làm cản bước hành trình đức tin của những người đi theo Ðức Yêsu.
Nhưng khi Người cầm tay cho em bé đã nằm chết mà Người chỉ coi như đang "ngủ" được chỗi "dậy" thì niềm tin của Người trở thành hoàn toàn. Nói đúng ra, niềm tin vào Người sẽ chỉ hoàn toàn, khi người ta tin Người đã "ngủ" và chỗi "dậy" trong mầu nhiệm tử nạn-phục sinh của Người. Khi ấy không những người ta tin Người có phép làm cho kẻ chết sống lại, mà còn làm cho mọi kẻ tin Người sẽ được sống đời đời. Bây giờ Người trở thành sự sống lại và sự sống cho những ai tin Người. Người là Ðấng chiến thắng sự chết và cứu người ta khỏi đau khổ đời đời. Và như vậy như lời Phaolô nói: Cũng như chỉ vì một người mà sự tội đã đột nhập trần gian, và vì tội, thì sự chết nữa... Cũng vậy, công đức của một người đã thành giải án tuyên công đem lại sự sống cho hết mọi người hết thảy (Rm 5,12.18). Và bài sách Khôn ngoan hôm nay phải có bài Tin Mừng này mới đầy đủ. Chúng ta cám ơn mạc khải của Thiên Chúa. Chúng ta tin vào Người là Ðấng đã chiến thắng sự chết để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Chúng ta hãy chia sẻ tin vui mừng ấy với hết mọi người, đặc biệt với những người khổ đau. Và ở đây, chúng ta được bài thư Phaolô hướng dẫn.
C. Chúng Ta Hãy Chia Sẻ Với Những Người Túng Thiếu
Thánh Tông đồ khuyên giáo dân Côrintô rộng rãi trong việc lạc quyên cho anh em tín hữu ở Yuđêa. Sự việc nay đã qua rồi. Nhưng lý lẽ thánh tông đồ đưa ra vẫn luôn hợp thời.
Không phải giáo dân Côrintô giàu có gì. Cho dù bấy giờ họ không gặp cảnh túng đói như tín hữu ở Yêrusalem, nhưng dân Chúa ở mọi nơi vẫn là thành phần nghèo khó trong xã hội. Tuy nhiên người có đức tin phải nhìn đời bằng cách khác. Cho dù về vật chất họ có nghèo, nhưng về tinh thần và lòng đạo đức, họ là những người giàu có. Bởi vì Ðức Yêsu Kitô đã trở nên nghèo khó để làm giàu cho họ. Người đã từ bỏ tất cả, ngay đến bản thân mình trong mầu nhiệm thập giá, để trở nên giàu có mọi ơn Thánh Thần cho những ai tin Người. Theo nguyên tắc, mọi tín hữu khi chịu phép Rửa đã nhận được tất cả mọi Lời Hứa của Thiên Chúa. Họ được "trổi trang về mọi mặt: về lòng tin, về lời nói, về trí tri, về sốt sắng mọi kiểu, về lòng mến...". Họ có cả Nước Trời làm gia nghiệp. Thế thì họ không thể chật hẹp về lòng thương . Có sẵn lòng chia sẻ với người túng thiếu hơn, họ mới tỏ ra biết quý hóa các ơn cao trọng họ đang mang trong mình.
Chia sẻ bao nhiêu? Thánh Tông đồ đáp: miễn sao có sự đồng đều! Không ai buộc làm cho kẻ khác được thư thái, còn mình lại bị túng quẫn. Nhưng sự dư giả của mình phải đắp vào sự thiếu thốn của người khác để rồi ra sự dư giả của họ sẽ bồi vào sự thiếu thốn của mình, và như thế là có đồng đều.
Lập trường của thánh Tông đồ như vậy rất rõ. Người có đức tin phải thấy mình được Thiên Chúa ban cho quá nhiều ơn cao cả. Lòng họ phải rộng rãi. Họ phải biết sống chia sẻ, làm sao trong anh em có sự đồng đều.
Một lập trường như thế còn là lời kêu gọi chúng ta trong thế giới hiện nay mà các chênh lệch về của cải đang tăng thêm nhiều đau khổ cho xã hội loài người. Ðó là kêu gọi đòi hỏi, gắt gao. Chúng ta không dễ tự nguyện nghe theo. Phải nhìn vào gương Chúa Yêsu: giàu có như Người mà vì chúng ta, Người đã trở nên nghèo khó ngõ hầu chúng ta được nên giàu có nhờ sự nghèo khó của Người.
Giờ đây Người sắp hiện diện giữa chúng ta trong mầu nhiệm bàn thờ. Người dùng bánh rượu là những thứ thô sơ để làm dấu chỉ cuộc tử nạn phục sinh của Người. Người trở nên khó nghèo trong mầu nhiệm Thánh giá và Thánh Thể này, để chúng ta được nhận lấy sự sống của chính Thiên Chúa và mọi phúc lộc khác đi theo sự sống này. Chúng ta được nên giàu có khác thường. Chúng ta phải rộng rãi, sẵn lòng chia sẻ với mọi người để có sự đồng đều. Như vậy cũng chẳng tiêu diệt được hết các đau khổ, tật bệnh, chết chóc của đời này đâu. Nhưng không kể phần hạnh phúc cụ thể mà sự chia sẻ của chúng ta sẽ đem lại cho người này người khác, chúng ta còn chứng tỏ đã hiểu nguyên do đích thực của sự chết và sự dữ, cũng như giải pháp đích thực cho các đau khổ và sự chết đời đời nằm ở chân lý nào. Chúng ta hòa mình và sống trong "mầu nhiệm" đau khổ chứ không chỉ nhìn các đau khổ ở đời như một "vấn đề" triết học khách quan. Và chúng ta làm được như vậy nhờ có Lời Chúa hôm nay.
Ðặc biệt, nhờ vào lòng tin nơi Chúa Yêsu Kitô, đấng đã chiến thắng sự chết để ban cho chúng ta sự sống hạnh phúc bất diệt. Chúng ta hãy sốt sắng dọn lòng trí đón nhận Người trong mầu nhiệm cử hành giờ đây nơi bàn thờ. Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Sống trong thế giới hôm nay, bất cứ ai được các bác sĩ dán cho tấm bảng hiệu “ung thư” – cancer: TN13-B50
Sống trong thế giới hôm nay, bất cứ ai được các bác sĩ dán cho tấm bảng hiệu “ung thư” – cancer trên phần thân thể nào là kể như “tiêu tùng” phần thân thể đó, và cơ nguy tiêu mạng cũng gần kề. Chính vì thế mà nhiều người đã khóc thét lên, ngất xỉu đi, hoặc mất ăn mất ngủ luôn vì hai chữ ung thư quái ác.
Ung thư, phong cùi, tai biến mạch máu não, đau tim, và AIDS, những chứng bệnh bên trong cũng như bên ngoài cơ thể đã khiến cho con người dù văn minh, tiến bộ đến đâu cũng đành phải bó tay. Nói một cách môn na, những bác sĩ, những nhà khoa học khi đứng trước những triệu chứng vừa kể cũng tựa như những anh mù đi xem voi trong câu truyện được kể trong giáo khoa thư. Mỗi bác sĩ một chẩn đoán, và mỗi bác sĩ đều kê toa na ná giống nhau, hoặc khác nhau chút đỉnh. Và khi đến lượt mình, những bác sĩ ấy cũng đành bó tay trước huyền nhiệm của Thượng Đế.
Nhưng những chứng bệnh về tấm lý và tâm linh nếu đem so sánh với những chứng bệnh về thể lý thì còn ghê gớm hơn nhiều. Điên loạn, ảo tưởng, ảo giác, ảo ảnh, tự kỷ, lú lẫn, và mất trí nhớ là những căn bệnh mà cho đến nay khoa học vẫn chưa tìm được thuốc chữa. Khủng khiếp nhất là người đánh mất niềm tin. Vì khi con người đánh mất niềm tin là mất tất cả. Mất bình an trong tâm hồn. Mất mối liên hệ với Thiên Chúa là nguồn mạch hạnh phúc. Và nếu không hồi tâm thống hối, họ sẽ đánh mất luôn cơ hội để được vào Nước Trời.
Tuy nhiên, những gì mà con người không làm được thì Thiên Chúa lại làm được, miễn là con người tin vào Ngài. Câu truyện người đàn bà loạn huyết mà Thánh Ký Máccô kể lại trong Tin Mừng hôm nay đã cho thấy sức mạnh của đức tin và quyền lực của Thiên Chúa. Thánh Ký ghi nhận, một người đàn bà bị bệnh hoạn huyết mười hai năm. Tốn tiền chữa chạy và đau đớn. Bà đã cố gắng len lỏi giữa đám đông đang vây quanh Chúa Giêsu. Với lòng tin tưởng và khiêm tốn, bà chỉ mong được chạm đến áo Ngài, vì bà cho rằng chừng ấy đã đủ để bà được khỏi bệnh. Ngay khi bà vừa chạm vào áo Chúa Giêsu bà liền biết mình đã khỏi bệnh (x. Mac 5:25-34).
Chúng ta tất cả bằng cách này, hay cách khác đều mang trong mình những mầm mống hay những căn bệnh khác nhau; bệnh thể lý, bệnh tâm lý, và bệnh tâm linh. Và tất cả đều mong được chữa lành, được khỏi bệnh. Tâm trạng của chúng ta cũng giống như tâm trạng của người đàn bà mắc chứng loạn huyết, là mong mình được chữa lành. Mong được Chúa thi ân ban cho một phép lạ. Nhưng kết quả lại rất khác biệt. Người đàn bà trong Tin Mừng được chữa lành, còn lại phần đông chúng ta thì không. Vậy đâu là sự khác nhau đó. Có phải Chúa thương người này mà không thương người khác? Và đâu là điều mà chúng ta có thể học hỏi qua câu truyện chữa lành của thiếu phụ loạn huyết đó.
Chúa yêu thương tất cả: Đây là một chân lý rất thực tế và hết sức quan trọng. Bởi vì chúng ta không thể nào tồn tại cho đến hôm nay mà không có sự quan phòng, thương yêu và săn sóc của Thiên Chúa. Muốn tìm một chứng minh về chân lý này, nhiều người trong chúng ta cứ nghĩ lại những ngày lênh đênh trên biển cả tìm tự do, gặp gió to, sóng lớn cũng đủ hình dung ra bàn tay quan phòng của Thiên Chúa ở với chúng ta như thế nào. Tuy nhiên, chúng ta phần đông cũng vẫn nghĩ rằng Thiên Chúa không yêu thương tôi; hoặc có thì không bằng người này, người khác, bởi một lẽ đơn giản là chúng ta không được những gì mà chúng ta xin, hoặc chúng ta muốn.
Quan niệm này là một cám dỗ có thể đem chúng ta đến chỗ phủ nhận tình thương Thiên Chúa, hoặc ít nhất cũng làm cho chúng ta mất đi sự bình an là món quà cực quí báu mà Chúa Giêsu đã mang từ trời xuống cho nhân loại và cho mỗi người chúng ta: “Bình an dưới thế cho người Chúa thương” (Luca 2:14)). Vì ai mà chả được Chúa thương.
Đức tin sống động: Trở lại trường hợp người đàn bà trong Tin Mừng, Thánh ký diễn tả như một người có đức tin mạnh, đức tin sống động đến nỗi làm ngạc nhiên Chúa Giêsu: “Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: “Ai đã chạm đến áo của Ta?” (Mc 5: 30).
Giữa đám đông đang chen lấn mong được gặp Chúa, được xem mặt Ngài, nói với Ngài; nhất là mong Ngài thi ân, giáng phúc. Phần bà, bà không mong được trực tiếp bắt tay, hoặc nói với Chúa. Bà cũng không xin Ngài chữa cho mình khỏi bệnh. Bà chỉ ao ước, thầm nghĩ mình có thể được chạm đến áo Chúa là đủ. Và trong cái chen lấn, giữa đám đông bao quanh Chúa hôm ấy, bà đã cố đến gần và chạm vào áo Ngài. Đây là một hình thức thực hành đức tin, một đức tin hành động và sống động. Nhờ đức tin ấy bà đã được khỏi bệnh: “Đức tin con đã chữa con. Hãy đi bình an và được khỏi bệnh” (Mc 5: 34).
Giữa dòng đời và trong cuộc sống thường ngày chúng ta đã bao nhiều lần vây quanh Chúa. Đôi lần tưởng cũng đã đến gần Chúa, động vào áo Chúa với ước mong được Ngài chữa lành. Đó là những lúc chúng ta buồn khổ, chán chường, gặp gian nan và thử thách. Trước những thử thách và đau khổ, chúng ta chợt nghĩ mình cần phải chạy đến với Chúa. Rồi chúng ta cầu xin tha thiết, hoặc khóc lóc thảm thiết. Nhiều người còn ăn chay, dâng cúng chỗn này chỗ kia, bố thí người này người khác. Và trong những xúc động nhất thời ấy, chúng ta tưởng như mình đã gặp và chạm vào được Chúa. Nhưng rồi Chúa đã không chữa lành chúng ta như đã chữa lành người đàn bà trong Tin Mừng.
Thật vậy, nếu nhìn lại những lần chúng ta tưởng như đã gặp Chúa, đã động chạm được đến Chúa ấy, chưa bao giờ thật sự có được một cái động chạm khiến Chúa phải ngạc nhiên, khiến sức mạnh của Ngài phát ra và Ngài phải quay lưng lại để tìm xem ai đã làm việc ấy. Mà vì Chúa không cảm được sự đụng chạm của chúng ta, nên sức mạnh của Ngài đã không phát ra để đem lại cho chúng ta sự chữa lành. Một cách đơn giản là vì chúng ta chưa hoặc rất ít khi đến với Chúa bằng một đức tin sống động, đức tin mạnh, và đức tin thực hành.
Đi vào thực hành, chúng ta đã không để tùy Chúa định đoạt, nhưng là chen lấn và giành giật, xin xỏ cốt mong làm Chúa phải ngạc nhiên, và để Ngài buộc lòng phải thi ân cho chúng ta. Chúng ta đã không đến với Chúa vì yêu mến, tin tưởng, và hoàn toàn phó thác cho quyền năng và tình yêu thương Ngài.
Đức tin hành động: Người đàn bà trong Tin Mừng đã làm tất cả những gì bà cần làm dưới ánh mắt tâm linh và bằng một đức tin sống động.
Bà đã vất vả, cố gắng, và chen lấn để được đến bên Chúa. Trong ánh mắt tâm linh, chúng ta cũng phải chen chúc, phải xô lấn và phải chiến đấu với những ảo tưởng, ảo giác, ảo mộng, với tiền tài, lạc thú, và vinh quang, phú quý để đến gần được với Chúa là nguồn chân, thiện, mỹ. Là đời sống công bằng, bác ái, và khiêm tốn. Là chấp nhận những khó khăn, thử thách của cuộc đời với ý hướng cứu độ và thánh hóa.
Bà đã chạm vào áo Chúa. Như bà, sau khi đã vượt được qua những thử thách, những cám dỗ, chúng ta phải có can đảm chạm vào áo Chúa, tức là phải có can đảm dứt khoát với tội lỗi, với những bất chính, và những cám dỗ vẫn hằng đưa chúng ta đến sự sa ngã, và cái chết tâm linh. Sự động chạm này phải mãnh liệt, phải làm cho Chúa cảm thấy có sự va chạm, tức là có sự hiểu biết, thông cảm và thân tình giữa ta và Chúa.
Bà đã nghĩ thầm trong lòng miễn sao mình chạm vào áo Chúa. Tức là bà hoàn toàn khiêm tốn, và phó mặc cho quyền năng Thiên Chúa. Điều này dạy chúng ta mỗi khi cầu nguyện và mỗi khi mong muốn một điều gì nơi Chúa là chúng ta phải tin tưởng mãnh liệt rằng, Chúa thấu hiểu chúng ta và Ngài luôn ở đó để yêu thương, và nâng đỡ chúng ta. Như vậy, chúng ta đến với Ngài và chạm vào trái tim tình thương Ngài thay vì chạm vào áo Ngài.
Đức tin sống động. Đức tin thực hành. Đức tin đem chúng ta lại gần và dụng chạm vào được Thiên Chúa, khiến Ngài nhận ra chúng ta, và sửng sốt nhìn chúng ta. Đây là cốt lõi và ý nghĩa thực hành của đời sống tâm linh. Không suy ngắm, và không tìm hiểu điều này chúng ta cũng như đám đông chen lấn, vây quanh Chúa, đám đông chỉ gây huyên náo, ồn ào nhưng không gây được sự chú ý của Chúa, mặc dù quyền năng Ngài và tình thương Ngài vẫn luôn sẵn sàng để thi ân, giáng phúc. Bởi vì họ đã không đụng chạm vào áo Ngài. Mà nếu có đụng chạm thì những đụng chạm ấy lại không phát xuất từ một đức tin mạnh mẽ, đức tin sống động, đức tin khiến Chúa phải ngạc nhiên và không thể từ chối chúng ta mặc dù chúng ta rất bất xứng.