Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế. Và Người truyền các ông đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: “Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ”. Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân. - Ðó là lời Chúa.
Trước hết là một vài điểm chi tiết để hiểu đoạn văn dễ dàng hơn:
- Nhóm 12 là 12 tông đồ. Đức Giêsu sai họ đi từng hai người một, để họ có thể nâng đỡ nhau. Cũng có thể là để làm chứng vì luật Do thái về việc làm chứng đòi hỏi có hai người.
- Chiếc gậy là vật trợ giúp thông thường cho những người đi đường. Chúa cấm mang bị. Có lẽ Ngài ám chỉ đến cái bị của các kẻ hành khất làm giàu nhờ của xin được ở các nơi thờ phượng ít nhiều có khuynh hướng ngẫu tượng. Người ta biết rằng trong lịch sử Giáo hội đã có xuất hiện các dòng hành khất. Để tránh những lạm dụng, Giáo hội luôn đề phòng sao cho việc hành khất khỏi lìa xa đối tượng của nó: việc sinh sống, giúp đỡ kẻ nghèo và các việc truyền giáo. Những lúc nẩy sinh các lạm dụng là những giai đoạn xuống dốc: các dòng tu và hàng giáo sĩ không thực hành đức nghèo khó của người môn đệ. Ngược lại người ta biết đến sự phiêu lưu phan sinh (dòng hành khất đầu tiên do thánh Phanxicô Assisi sáng lập), đã đem lại cho Giáo hội sự canh tân Phúc âm.
- Đi đường với hai áo là dấu chỉ của người giàu gi chuyển bằng ngựa.
- Đức Giêsu sai các môn đệ và nói họ cậy trông vào sự tiếp đãi của dân chúng. Sự tiếp đãi đó thuộc phong tục của thời đại và mặc lấy tính cách một bổn phẩn của thành phố và làng mạc với tư cách tập thể cũng như cá nhân. - Phủi bụi chân ám chỉ một tập tục. Người Do thái từ một nước ngoại giáo trở về hay từ một nơi chốn dơ bẩn mà đến, phải phủi bụi chân để khỏi pha trộn đất bị bẩn và đất thánh thiện của xứ Giavê.
Hai câu hỏi được đặt ra:
1) Tại sao Đức Giêsu sai nhóm 12 đi rao giảng? Thưa vì lý do sư phạm. Đức Giêsu muốn giáo dục các mônd đệ. Và sự giáo dục bao hàm một phần thực tập. Các môn đệ đã nghe Đức Giêsu rao giảng. Nhưng người ta chỉ học tốt điều người ta kinh nghiệm, điều người ta thực hành. Sai họ đi rao giảng, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ có được hai kinh nghiệm: Kinh nghiệm sống sự sám hối mà họ rao giảng và kinh nghiệm cảm thấy sự bất túc của con người và vì thế cần phải cầu xin Chúa trong khi chu toàn sứ vụ tông đồ của mình.
Đức Giêsu cũng muốn huấn luyện nhóm 12 về điểm bất vụ lợi tuyệt đối, thật cần thiết cho việc tông đồ đích thật. Cho nên Ngài đòi hỏi phải từ bỏ tất cả những gì không cần thiết cho đời sống. Nhất là Ngài muốn cho họ được cái kinh nghiệm này là: sự từ bỏ chắc chắn sẽ lôi kéo sự quan phòng của Chúa Cha. Con người tự hạn chế về của cải vật chất vì tình yêu đối với TC và để sẵn sàng phục vụ ơn cứu rỗi sẽ không thiếu điều cần thiết.
2) Đức Giêsu gọi 12 tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền... Ngay từ lúc đầu trong đời sống CHUNG với Đức Giêsu, các tông đồ kinh nghiệm rằng Thầy họ sai họ đi. Sứ vụ tông đồ tương lai của họ có được tính cách xác thực cũng là nhờ một nguồn gốc: được Đức GIêsu sai đi rao giảng. Ngày ngay chúng ta nói: Giáo hội là Tông truyền. Điều này có hai nghĩa: trước nhất là xuyên qua các Giám mục, Giáo Hội lên đến các Tông đồ, kế tiếp là các Tông đồ được chính Chúa Kitô sai đi và ban quyền hành. Chúng ta có thể rút ra một hệ luận. Nếu ai muốn đến và nhân danh Phúc âm mà nói với chúng ta, chúng ta hãy xem họ có ở trong hàng ngũ tông truyền không, nghĩa là họ có được sự ủy quyền của các người kế vị các Tông đồ, các Giám mục cùng với Đức Thánh Cha ở đàng đầu không. Đây thật là một điều kiện tối cần thiết để bảo đảm rằng qua lời nói và việc làm của họ, họ có được ơn huệ của Đức Kitô không.
Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam ghi lại tên tuổi hai vị giáo sĩ truyền giáo nổi tiếng: Đức Cha Lambert de la Motte và Đức Cha Francois Pallu. Vào thế kỷ 17, Toà Thánh đã đặt hai giám mục này làm Giám Quản Tông Toà đầu tiên ở Việt Nam: Đức Cha Lambert de la Motte phụ trách Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Camquchia, Lào, Thái Lan. Đức Cha Francois Pallu phụ trách Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung Quốc.
Đức Cha Francois Pallu là người pháp, từ bỏ gia đình và quê hương vào ngày 3.1.1662, ngài dùng tàu buồm vượt qua Địa Trung Hải rồi men theo đường bộ một thời gian lâu dài, qua hết các nước Trung Đông, Vịnh Ba Tư, Ấn Độ mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến miền Bắc Việt Nam, lúc đi ngang qua Huế, thuyền của ngài bị một cơn bão đánh giạt vào Philippin. Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban Nha.Với sự can thiệp của Toà Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha. Tuy phải trải qua nhiều gian khổ, nhưng tim ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng. Ngài nói: “Tôi phải đem Tin Mừng đến tận Trung Quốc”. Vừa được trả tự do, ngài tìm mọi cách đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân xác ngài được chôn vùi tại đây theo như ngài mơ ước. một câu nói của ngài đáng cho chúng ta ghi nhớ: “Tôi tự cho mình hạnh phúc nếu có thể đem xương cốt mình bắc một nhịp cầu tới Bắc Việt và tới Trung Quốc!”.
Thưa anh chị em, cuộc đời truyền giáo của Đức Cha Francois Pallu tại đất nước ta cũng như biết bao nhà truyền giáo khác trên thế giới gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của mười hai Tông Đồ. Chính Chúa Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai để nhóm này ở lại bên Ngài và để được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để các ông trở nên những người được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngay từ khi còn ở trần gian, Chúa Giêsu đã thấy mình đứng trước một cánh đồng mênh mông, có biết bao nhiêu người cần được nghe Tin Mừng cứu độ. Ngài thấy mình cần những cộng tác viên nhiệt thành cho công cuộc truyền bá Tin Mừng. Chúa Giêsu đã trao tất cả những gì mình có cho Nhóm Mười Hai: quyền rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ. Hoạt động của các ông là một sự nối dài và mở rộng sứ vụ của mình Chúa Giêsu.
Chia tay Thầy Giêsu, Nhóm Mười Hai lên đường. Đâu là hành trang của người tông đồ? Chúa Giêsu trả lời: “Không được mang gì khi đi đường”. Không bánh trái, không bao bì, không tiền bạc, không mặc hai áo. Như thế, các ông lên đường với tất cả sự nhẹ nhàng. Càng nhẹ nhàng thì càng dễ thi hành sứ mạng và càng được tự do hơn. Tuy nhiên sự nhẹ nhàng này thật là một thách đố. Khi người tông đồ phải lên đường với hai bàn tay trắng, không có lộ phí, không có lương thực dự trữ, lúc đó họ phải hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và lòng tốt của tha nhân. Ra đi tay trắng như thế là chấp nhận mọi bất trắc có thể xẩy ra dọc đường, nhưng cũng là đặt mình thường xuyên dưới sự quan phòng của Chúa. Chính Chúa lo mọi sự cho tôi, để tôi chuyên tâm lo việc của Chúa. Sự an toàn của tôi không dựa vào những phương tiện trần thế, nhưng vào chính Thiên Chúa.
Chúa Giêsu cũng dạy cho các ông biết thái độ phải có khi đến với dân chúng. Nếu được đón tiếp thì hãy ở lại, không tìm một nhà khác tiện nghi hơn. Người tông đồ cần có đời sống nghèo, đón nhận những gì được trao cho mình với lòng biết ơn. Nếu không được đón tiếp thì cũng không nên nản lòng. Cử chỉ giũ chân ra đi cho thấy người tông đồ chẳng hề muốn lấy đi điều gì ở nơi đã từ chối đón tiếp mình.
Anh chị em thân mến, hôm nay, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng sai chúng ta đến với thế giới. Thế giới không phải là chuyện xa xôi. Thế giới là nơi chúng ta đang sống, đang làm việc. Thế giới là gia đình, bạn bè, là trường học, cơ quan, xí nghiệp. Thế giới là nơi giải trí, nơi du lịch, bãi biển. Thế giới là sách báo, phim ảnh, video, quảng cáo. Thế giới là mọi ngành khoa học, nghệ thuật, văn chương. Chúng ta ở trong thế giới và Chúa muốn sai chúng ta đi vào thế giới của mình trong tư cách là người Kitô hữu. Kitô hữu là người có khả năng biến đổi thế giới mình đang sống để nó biến thành thế giới của Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã rao giảng, đã mời gọi con người hoán cải để đón nhận Nước Thiên Chúa gần bên. Chúng ta cả những gì phá huỷ phẩm giá con người, loại trừ sự sống của Thiên Chúa, đều phải bị loại trừ. Kitô hữu là người phải hoán cải trước khi mời gọi người khác hoán cải, phải tỉnh thức trước khi đánh thức người khác, phải thuộc về Chúa trước khi trừ quỷ.
Thế giới hôm nay cũng là một thế giới bị thương tích, cần được chữa lành. Bệnh tật của thân xác và bệnh tật của tinh thần vẫn hoành hành trên thế giới. Con người đau khổ vì mất lòng tin, lo âu, tuyệt vọng. Con người nô lệ cho chính những sản phẩm của mình. Tiến bộ khoa học kỹ thuật lại đặt ra những vấn đề mới mà tự sức con người không giải quyết được. Kitô hữu là người tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, băng bó vết thương của thế giới bằng sự hiện diện đầy yêu thương.
Chúng ta không rõ nếu hôm nay Chúa Phục Sinh chỉ thị cho chúng ta, thì Ngài sẽ nói gì trước khi ngài sai chúng ta ra đi. Chắc Ngài sẽ nói khác với đoạn Tin Mừng hôm nay, những ý chính vẫn không thay đổi. Ngài dạy chúng ta tin cậy và quyền năng của Thánh Linh hơn là vào khả năng và phương tiện tự nhiên của mình. Ngài nhắc nhở chúng ta tín thác và Cha trên trời và Chuyển cầu cầu nguyện, vì chẳng ai có thể rao giảng Tin Mừng nếu không có tình bạn thân thết với Chúa.
Mỗi Thánh Lễ Chúa Giêsu tập họp chúng ta lại thành một cộng đoàn môn đệ của Ngài, để rồi sai chúng ta ra đi loan truyền Tin Mừng Phục Sinh của Ngài cho mọi người ở mọi nơi. Tin Mừng này chỉ có thể được công bố bằng cuộc sống làm chứng của mỗi người chúng ta và của Giáo Hội, một cuộc sống trung thành với Chúa Giêsu nghèo khó và chịu đóng đinh thập giá. Đó là bằng chứng đáng tin của tình thương cứu độ mọi người.
Gandhi là vị cứu tinh của Ấn Độ, ông rất cảm phục Đức Kitô. Ông đọc Tin Mừng hằng ngày và lấy “bài giảng trên núi” của Chúa làm phương châm hành động. Một hôm, muốn tìm hiểu cụ thể hơn về Giáo Hội, ông đi tới một nhà thờ Công Giáo. Vừa tới cửa nhà thờ, một người chực việc tiến lại bảo ông: “Nếu những người Công Giáo sống đúng theo Tin Mừng Đức Kitô thì dân tộc của tôi bớt khổ”. Ông Gandhi mới có ý nghĩ đó. Nhiều người chúng ta cũng lấy làm tiếc vì không được chính Chúa Giêsu đích thân điều hành sinh hoạt Giáo Hội. Và thấy rằng trong các cộng đoàn nhỏ, có nhiều người ở cấp điều hành đã làm người ta hiểu sai về Tin Mừng ở Đức Kitô. Nhưng biết làm sao được? Khi Chúa Giêsu nhập thể làm người, Chúa phải chịu chi phối do không gian và thời gian. Muốn thiết lập một Giáo Hội trường tồn trong lịch sử, Chúa phải trao Giáo Hội Chúa vào tay con người trần thế. Ngay từ khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa đã huấn luyện các môn đệ để các ông tiếp tục sứ mệnh của Chúa. Cũng vậy, hôm nay đây, Chúa trao sứ mệnh tiếp tục công việc Chúa làm nơi trần gian cho mỗi người chúng ta. Mọi Thánh Lễ chúng ta tham dự, đều kết thúc bằng lệnh truyền sai đi: Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình an.
Theo lệnh Chúa, các Tông đồ ra đi, làm những việc Chúa đã làm: xức dầu cho bệnh nhân, chữa họ lành, rao giảng Tin Mừng, thúc giục người ta cải thiện đời sống. Nhân danh Chúa, các ông làm được nhiều việc lạ, đã trừ quỉ.
Chúa sai các ông đi từng hai người, như vậy, Chúa đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ. Các ông là những chứng nhân, và chứng nhân càng nhiều thì càng có giá trị. Một cộng đoàn, bao giờ cũng có lợi hơn là một người đơn độc. Trong cộng đoàn người ta nhắc nhở nhau, nâng đỡ nhau sống trung thành với luật Chúa, nhất là việc làm chứng tình thương của Chúa ngay trong cộng đoàn. Chúa đòi hỏi các Tông đồ phải nhất thiết trở nên mẫu mực về tình bác ái huynh đệ. Và làm sao thực thi bác ái được, nếu mỗi người chỉ sống một mình. Dân chúng thời các tông đồ đã nhận ra dấu chứng này nơi cộng đoàn tín hữu đầu tiên: “Coi kìa, họ yêu thương nhau biết bao!”. Và đó cũng là định hướng của chính Đức Kitô: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là thấy các con yêu thương nhau”. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng của Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dùng cuộc sống yêu thương để làm chứng cho Tin Mừng ngay trong cộng đoàn và trong môi trường sống của chúng con.
Chúng ta sẽ hiểu rõ đoạn sách này hơn, nếu chúng ta có trong trí một hình ảnh về cách ăn mặc của người Do Thái tại Palestine vào thời của Chúa Giêsu. Có có năm trang phục.
1/ Phần áo lót mặc lên người trước nhất là cái chiton hay sindon, tức là áo trong. Áo này rất đơn giản, chỉ là một mẩu vải dài xếp đôi rồi may một bên. Nó khá dài đủ che phủ đến bàn chân. Hai góc ở phần trên được khoét để làm hai cánh tay ra. Loại áo này thường được bán mà chưa khoét cổ. Điều đó cho ta biết áo vẫn còn mới, để người mua tùy tiện khoét phần cổ sao cho vừa với khổ người của mình. Thí dụ như kiểu cổ áo của nam với nữ khác nhau. Cổ áo phụ nữ phải rộng để có thể cho con bú. Tóm lại chiếc áo trong chỉ khác hơn cái bao một chút có khoét hai lỗ ở hai góc phía trên. Trong hình thức phát triển hơn, nó có hai tay áo dài được khâu dính vào và đôi khi xẻ ở phía trước để tra nút và cài lại.
2/ Chiếc áo ngoài được gọi là himation. Ban ngày nó được dùng làm áo choàng và ban đêm làm mền. Nó gồm một tấm vải dài hơn 2 mét, khổ rộng khoảng 1,4 đến 1,5, rộng khoảng 0,4m mỗi bên được xếp và may lại, khoét lỗ ở phía trên để xỏ tay được. Vì thế nó gần như vuông vức. Thường thường nó là hai khúc vải, mỗi khúc dài hơn 2m, rộng khoảng 0,6-0,7m may dính vào nhau. Đường may nằm phía sau lưng. Nhưng chiếc áo ngoài đặc biệt có thể dệt cẩn thận nguyên tấm không có đường may như chiếc áo dài của Chúa Giêsu vậy (Ga 19,23). Đây là chiếc áo chính trong toàn bộ y phục.
3/ Có dây thắt lưng. Dây thắt lưng để buộc phía ngoài hai chiếc áo vừa kể trên. Khi cần làm việc hay chạy, người ta vén các vạt áo trong lên và giữ lại bằng giây thắt lưng. Có khi chiếc áo ngắn được vén lên ở phía trên dây thắt lưng, chỗ trống phía trước thắt lưng có thể đặt một bao hoặc một gói gì đó để mang đi. Dây thắt lưng thường được may hai lớp khoảng 4 tấc rưỡi từ mỗi đầu. Phần may hai lớp thường dùng làm túi đựng tiền.
4/ Có khăn vuông che đầu. Khăn vuông che đầu bằng vải, rộng khoảng 1m2, thường màu trắng, xanh hoặc đen. Thỉnh thoảng cũng có loại khăn bằng lụa màu, nó được xếp theo đường chéo góc, cột lên đầu để che gáy gò má và mắt cho khỏi sức nóng và tia nắng của mặt trời. Người ta cột nó vòng quanh đầu bằng một sợi dây da co giãn được sao cho dễ mở ra.
5/ Có đôi dép. Dép chỉ là những miếng da bằng phẳng có xoi lỗ, có khi bằng gỗ hoặc bện bằng rơm. Người ta xỏ dây và cột nó vào bàn chân để mang.
Túi tiền có thể là hai vật sau đây:
(a) Nó có thể là chiếc túi đi đường bình thường. Túi này được may bằng da dê con. Thường thì bộ da con vật được lột nguyên miếng nên vẫn giữ được hình dáng con vật, đủ cả chân, đuôi và đầu. Hai túi có dây để đeo trên vai. Trong đó người chăn chiên, khách hành hương, hoặc kẻ đi đường đựng bánh mì, nho, trái ôliu và bánh sữa đủ ăn một hai ngày.
(b) Có một điểm gợi ý rất thú vị ở đây. Từ Hy Lạp pera có nghĩa là chiếc bao quyên góp. Thường thường các thầy tư tế và người sùng đạo ra đi với chiếc bao này để góp nhặt các của đóng góp cho Đền Thờ. Họ được mô tả là “những tên trộm cướp ngoan đạo với các chiến lợi phẩm phình to thêm, từ làng này sang làng khác”. Có một tấm bia của một người tự xưng là nô lệ của nữ thần xứ Syri, cho biết mỗi chuyến đi như vậy, anh ta lại mang về cho nữ thần của mình 70 bao đầy.
Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa thứ nhất thì Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ Ngài đừng mang theo thức ăn khi đi đường, nhưng phải tin cậy vào Thiên Chúa trong mọi sự. Còn theo nghĩa thứ hai, thì lời dạy ấy có nghĩa là họ không nên tham lam mà vơ vét như các thầy tư tế. Họ phải đi đây đi đó để cho đi chứ không phải để thâu gom của cải.
Ở đây còn thêm hai điều lý thú khác nữa:
1/ Theo luật của các Rabbi, thì khi vào đến các sân của Đền Thờ, người ta phải để lại đó chiếc gậy, đôi dép và túi bạc. Mọi vật tầm thường phải được xếp qua một bên khi vào nơi thánh. Có lẽ Chúa Giêsu đang nghĩ đến việc đó và Ngài ngụ ý dạy rằng các căn nhà khiêm tốn mà các môn đệ Ngài vào, đều là những nơi thánh thiêng như các sân trong Đền Thờ vậy.
2/ Bên phương Đông, việc ân cần tiếp đãi khách lạ được xem là một bổn phận thiêng liêng. Khi có người lạ vào làng, người ấy không cần đi tìm nơi trú ngụ vì chính làng ấy có nhiệm vụ tiếp đãi họ. Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Ngài rằng nếu người ta từ chối không chịu tiếp đãi, đóng cửa, bịt tai lại, các ông cứ phủi bụi dính chân họ rồi đi nơi khác. Luật của các Rabbi dạy rằng bụi đất nơi dân ngoại vốn ô uế, nên khi một người từ xứ khác vào Palestine, phải phủi cho sạch không còn một hạt bụi ô uế nào. Chúa Giêsu muốn dạy nếu họ không chịu nghe các ngươi, việc duy nhất các ngươi có thể làm là đối xử với họ như cách người Do Thái khắt khe vẫn đối xử với nhà của người ngoại. Giữa họ và các ngươi chẳng còn có liên hệt gì với nhau nữa cả!.
Vậy chúng ta thấy dấu hiệu của một môn đệ Chúa là sống thật đơn giản, hoàn toàn tin cậy vào Thiên Chúa và phải luôn luôn đem ơn phúc đến cho người khác chứ không phải mong thiên hạ làm phúc cho mình.
THÔNG ĐIỆP VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA NHÀ VUA (Mc 6,12-13)
Nói vắn tắt, đây là bản phúc trình công tác mà các môn đệ đã trình lên Chúa Giêsu sau khi Ngài sai phái họ ra đi.
1/ Họ rao truyền sứ điệp của Chúa Giêsu cho quần chúng. Theo nghĩa đen, từ được dùng chính là từ dùng cho sự công bố của sứ giả tiền trạm. Khi các tông đồ đi ra rao giảng cho mọi người, các vị không hề tạo ra sứ điệp, các vị mang một sứ điệp. Họ không nói với mọi người điều họ tin hay thấy là đúng nhưng chỉ nói lại cho mọi người chân lý của Thiên Chúa. Sứ điệp của các ngôn sứ bao giờ cũng bắt đầu bằng câu “Đức Chúa phán vậy”. Người muốn mang một sứ điệp kiến hiệu và thành công đến cho kẻ khác, trước hết phải nhận từ nơi Chúa.
2/ Các vị mang theo sứ điệp của nhà vua đến cho mọi người và sứ điệp đó là “hãy hối cải”. Đây là một sứ điệp gây khó chịu cho mọi người. Hối cải có nghĩa là thay đối ý, sau đó hành động phù hợp với sự đối ý đó, có nghĩa là đổi ý và thay đổi luôn hành động nữa. Hối cải bao gồm sự thương tổn vì phải tự nhận con đường mình đang đi là sai lầm, đầy cay đắng. Hối cải bao gồm sự xáo trộn, vì nó có nghĩa là người ta phải hoàn toàn đảo ngược nếp sống.
Chính vì thế mà ít người chịu hối cải, vì hầu hết người ta không muốn bị quấy rầy. Trong một câu sống động, bà Asquith đề cập đến số người “lãng phí cho đến chết”. Nhiều người vẫn hành động như thế. Họ oán ghét mọi hành động gây căng thẳng, nỗ lực. Với họ, cuộc đời là “một vùng đất chỉ có buổi chiều”. Theo một vài phương diện, một tội nhân hung hăng, công khai xông vào mục tiêu tự chọn vẫn dễ cuốn hút hơn một người đi rông tiêu cực, ủ rũ trôi giạt cách nhu nhược và chẳng có một chút định hướng gì cho đời sống cả.
Trong tác phẩm Quo Vadis có một đoạn trong đó chàng thanh niên Roma Vinicius yêu một cô gái là Kitô hữu. Vì Vinicius không phải là Kitô hữu nên cô ta không muốn liên hệ với cậu. Cậu theo cô ấy đến những buổi họp thầm lén ban đêm của một số Kitô hữu, tại đó chẳng ai nhận ra cậu, và cậu lắng nghe Phêrô giảng dạy. Lúc đang nghe có một việc đã xảy đến cho cậu: “Vinicius cảm thấy rằng nếu muốn theo lời dạy ấy, cậu phải đặt trên đống lửa hừng tất cả mọi ý nghĩ, thói quen, tính tình, cả bản chất của mình cho đến khoảnh khắc nào đó và thiêu đốt tất cả ra tro, rồi tiếp nhận vào người sự sống khác hẳn, một linh hồn hoàn toàn mới mẻ”.
Đó là hối cải. Nhưng nếu một người không mong ước gì hơn là được để yên một mình thì sao? Sự thay đổi không nhất thiết chỉ từ chỗ trộm cắp, sát nhân, dâm loạn, cùng các tội tỏ tường khác. Sự thay đổi có thể xảy ra ngay trong một đời sống ích kỷ, tham lam, chẳng xem ai ra gì, thay đổi từ chỗ lấy cái tôi làm trung tâm, và mọi sự thay đổi như vậy ắt sẽ gây rất nhiều tổn thương. W. M. Macgregor có trích một câu nói của vị giám mục trong quyển “Những Kẻ Khốn Cùng” của Victor Hugo “Tôi luôn luôn gây rối cho một vài người trong đám họ, vì qua tôi, một luồng không khí từ bên ngoài đã thổi tới họ, sự có mặt của tôi giữa họ khiến họ cảm thấy như có một khung cửa được mở toang và họ ở trong vùng có gió lùa”. Hối cải không chỉ là hối tiếc về mặt tình cảm mà thôi, mà là làm cách mạng. Vì lý do ấy đã có rất ít người chịu hối cải.
3/ Các tông đồ đưa đến cho người ta ơn thương xót của nhà vua. Không phải họ chỉ đem đến cho người ta những đòi hỏi làm đảo lộn mà thôi, nhưng họ cũng cần mang đến sự trợ giúp và chữa bệnh nữa. Họ đem đến sự giải phóng cho những người bị quỷ ám cùng khổ. Ngay từ đầu Kitô giáo đã nhắm mục đích đem sức khỏe, sự lành mạnh cho cả xác lẫn hồn. Kitô giáo không chỉ nhằm cứu rỗi linh hồn mà thôi, nhưng là cứu rỗi con người toàn diện. Kitô giáo không chỉ đưa ra một tay kéo người ta lên khỏi chỗ suy đồi đạo đức, nhưng cũng đưa tay còn lại kéo người ta ra khỏi sự đau đớn, khổ sở của thân xác. Điều rất có ý nghĩa, là các môn đệ còn xức dầu cho mọi người nữa. Đời xưa, dầu được xem là thuốc trị bá chứng. Galen là y sĩ đại tài người Hy Lạp nói “Dầu là thuốc hay nhất để trị bệnh cho thân thể”. Khi đặt trong tay các tôi tớ của Chúa Cứu Thế, dầu được thêm một đặc tính mới. Điều lạ lùng là các môn đệ sử dụng những vật mà tri thức hạn chế của loài người thời bấy giờ vẫn biết rõ, nhưng Thần Khí Chúa đã ban cho họ một quyền phép mới và một đặc tính mới trong cách trị bệnh cổ truyền đó. Quyền năng của Chúa trở thành có giá trị trong mọi việc thông thường khi người ta có đức tin.
Vậy mười hai tông đồ đã đem đến cho nhân loại sứ điệp cứu rỗi, lòng thương xót của Nhà Vua, và cho đến ngày nay, đó vẫn là nhiệm vụ hằng ngày của Kitô hữu.
Mãi đến lúc này Maccô mới kể cho chúng ta biết thoạt đầu Chúa Giêsu gọi vài môn đệ theo Ngài (1,16-20), sau đó Chúa Giêsu thiết lập nhóm Mười Hai để họ “ở với Ngài” và chia sẻ sứ vụ của Ngài (3,13-19). Và giờ đây Ngài mới sai họ đi rao giảng (c. 7). Nhóm Mười Hai sẽ xứng đáng với tước hiệu “tông đồ”, nghĩa là “được sai đi” thi hành sứ vụ (6,30) mà sau này họ sẽ lãnh nhận. Trong chương ngắn gọn này, xem ra Maccô đã sử dụng cuốn tiểu cẩm nang của một thừa sai hoàn hảo. Lối hành văn vấp váp không mạch lạc cho thấy rõ Maccô đã sử dụng lại một truyền thống có trước ông.
Khởi đầu Chúa Giêsu sai các môn đệ đi từng nhóm “hai người một” (c. 76). Đây không hiểu có phải là một tập tục Do Thái không? Theo luật Môsê, cần hai nhân chứng mới xác nhận được một lời khai (Đnl 19,15). Tuy nhiên con số hai cũng là biểu tượng của cộng đoàn, nghĩa là các thừa sai không làm việc đơn lẻ mà làm việc theo từng nhóm. Các Kitô hữu sơ khai đã lặp lại y hệt lối thực hành này của Chúa Giêsu. Trong công vụ sứ đồ, các thừa sai luôn luôn đồng hành từng cặp với nhau: Phêrô và Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phalô và Barnabê (Cv 13,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22b)… Chúa Giêsu cũng ban cho các thừa sai này một phần quyền năng của Ngài, đó là quyền trừ quỷ, như là một trong dấu chỉ xác thực rằng Vương Quốc Thiên Chúa đã được khánh thành.
Điều đáng nhớ trước hết: các lệnh Chúa Giêsu truyền cho các thừa sai (c. 8-9) lại là các lệnh truyền dành riêng cho khách bộ hành. Tuy nhiên, các huấn luyện ấy đặc biệt nhấn mạnh đến đức tính khó nghèo mà các thừa sai phải chứng tỏ cho mọi người thấy. Ngay cả những gì thiết yếu (như bánh mì, tiền túi) thì cũng sẽ chỉ được nhận lãnh như những quà tặng của những người được họ ghé thăm. Phong thái họ cực kỳ đơn giản giống như những lữ khách lòng không hề vướng bận (không túi xách đi đường, không áo dài để thay đổi). Ngược với Matthêu và Luca, để bước đi cho dễ, Maccô cho rằng gậy và dép là cần thiết. Vào thời đó, hầu như người ta thường đi chân không. Tuy nhiên để đi nhưng chặng đường dài, xem ra cần phải có gậy và dép. Có lẽ ở đây Maccô muốn trình bày các trợ tá của Chúa Giêsu như những “khách hành hương” luôn luôn sẵn sàng lên đường, như những kẻ được mô tả trong nghi thức lễ vượt qua: “Nịt thắt ngang hông, giầy dép xỏ vào chân, tay cầm sẵn gậy” (Xh 12,11).
Các lời khuyên liên quan đến việc tiếp đãi còn đáng ngạc nhiên hơn (c. 10-11). Là thừa sai đi rao truyền sứ điệp một cách vô vị lợi, nên họ có quyền được những gia đình mà họ ghé tiếp đón họ một cách vô vị lợi. Tuy nhiên Tin Mừng không mang tính áp đặt, mà chỉ có thể được đón nhận trong tự do. Nếu thành phố hay làng mạc nào từ chối không đón nhận thì người ta sẽ đi qua chỗ khác nhưng đồng thời vẫn tôn trọng sự từ chối đó. Ở đây Maccô mô tả lại nghi thức xưa kia thường được dùng ở phương Đông: Phủi bụi khỏi chân mình khi rời bỏ một nơi chốn thù nghịch để tỏ dấu tuyệt giao!
Giống như Chúa Giêsu (c. 12-13), nhóm Mười Hai lên đường loan báo Nước Thiên Chúa đã đến và mời gọi mọi người hoán cải (1,15). Giống như Ngài, họ cũng chứng thực lời nói của họ bằng việc ban phát những dấu chỉ để giúp người ta tin họ. Việc xức dầu trên bệnh nhân chứng thực đây là một thói quen đã có từ xa xưa. Người ta từng biết công dụng hữu ích của việc xức dầu lên thân thể. Giáo Hội về sau đã nhận ra trong tập tục này mầm giống một phép bí tích đó là bí tích Xức dầu bệnh nhân để chữa lành thể xác và tâm linh của họ (x. Gc 5,14).
Đối với chúng ta ngày nay xem ra rất cổ kính xét về mặt hình thức của nó bởi vì rõ ràng nó chịu ảnh hưởng sâu đậm của các phong tục thời xưa. Tuy nhiên tận căn nó vẫn hiện thực. Tin Mừng phải luôn luôn được cơ động mang đến khắp mọi nơi bằng những phương tiện nghèo khó. Được trao ban vô vị lợi, Tin Mừng này mời gọi lương tâm tự do đón nhân. Đây là lời nói đi kèm theo các dấu chứng sự chiến thắng của Chúa Kitô trên sự Dữ và Thần Chết. Đó chính là sứ điệp trường cửu của trình thuật rất cổ kính này.
Một trong những việc làm đầu tiên của Đức Giêsu, ngay từ bắt đầu cuộc sống công khai, là chọn những cộng tác viên (Mc 1,16). Sau khi đã dần dần bổ sung nhóm môn đệ (Mc 2,14), cuối cùng Đức Giêsu đã chọn 12 vị. Con số tượng trưng ám chỉ ý định của Người muốn thành lập một dân tộc Israel mới, dựa theo mười hai Tổ phụ hay mười hai Chi tộc. Trong phần đầu của Tin Mừng, chúng ta thấy các Tông đồ đi theo Đức Giêsu và ở "với Người" (Mc 3,14).
Hôm nay, có thể nói, Đức Giêsu sắp ẩn mình đi và trao phó sứ vụ của Người trong tay các tông đồ. Lần đầu tiên các ông đi rao giảng một mình, không có Đức Giêsu. Đó là thời kỳ Giáo Hội đang bắt đầu. Trước tiên, chúng ta có thể cầu nguyện dựa trên thái độ này của Người: Thiên Chúa của chúng ta, Người trao cho chúng ta những trách vụ quan trọng: Người không điều khiển chúng ta như những con rối. Tôi có những trách nhiệm nào? Lạy Chúa, Chúa chờ đợi gì nơi con?
Chúa sai họ đi.
Trong năm chương đầu của trình thuật, Maccô đã nhấn mạnh cho chúng ta thấy "Đức Giêsu với các môn đệ", tạo thành một nhóm duy nhất và hợp nhất đối lại với đám đông, với các đối thủ. Vào lúc "kêu gọi" các ông (Mc 3,13-14), Maccô ghi nhận, Đức Giêsu đã "thiết lập Nhóm Mười Hai" để ở với Người và để Người "sai họ đi". Đó cũng chính là chuyển động của trái tim: Tâm trương… tâm thu... máu vào tim rồi chuyển đến các cơ quan. Hoạt động tông đồ thông thường cũng như thế: Sống kết hợp mật thiết với Chúa Kitô, mang Đức Kitô đến khắp nơi trên thế giới. Đó cũng là hoạt động của đời sống Kitô hữu: Tập họp quanh Chúa vào mỗi Chúa nhật, tản mác trong cuộc sống hằng ngày để nên nhân chứng sống động của Chúa.
“Anh hãy đi! Anh em được sai đi" "Ite, Missa est" chữ Messe (Thánh Lễ) có nghĩa là "sự sai đi". Chính Chúa đã thiết lập nhịp sống đó. Tôi có sống như thế không? Tôi có thường sống "với Chúa" trong suy niệm, trong nguyện cầu không? Tôi có ý thức mình được Chúa "sai đi" vào đời sống thướng nhật để làm một việc gì đó, có liên quan đến Chúa không?
Người sai đi từng hai người một.
Phải có hai người thì chứng tá mới có giá trị (Ds 17,6; 19,5). Dân gian đã khôn ngoan đặt ra nhiều câu ngạn ngữ để nói về điều này. "Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy, nhưng khốn cho kẻ đi một mình" (Gv 4,9).
Quy tắc đầu tiên của việc tông đồ là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu, trước khi bàn tới. "Các bạn hãy nhìn xem họ thương nhau biết bao!". Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Đó là ý muốn rõ ràng của Đức Giêsu. Vậy tôi phải tự vấn về thái độ của tôi. Chủ nghĩa cá nhân có nhưng hình thức tinh vi và đáng sợ: Chúng ta không thích những người anh em khác kiểm tra thái độ sống của riêng mình. Tuy nhiên?
Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, trừ cây gậy; không được mang lương thực, mang bao bị, mang tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.
Điều đáng lưu ý là chúng ta không thấy Đức Giêsu dặn dò các Tông đồ về nội dung giáo thuyết, "Sứ vụ” của các ông. Chúa không bảo các ông “phải giảng điều gì". Người chỉ nhắc nhở các ông những chi tiết "phải sống". Đối với Đức Giêsu, chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.
Thực tế lời khuyên duy nhất của Thầy liên quan đến đòi hỏi sống nghèo khó. Những người đại diện Chúa phải tỏ ra mình không cậy dựa vào sự giúp đỡ, vào uy tín nào của con người. Tất cả chỉ dựa vào niềm tin nơi Đấng đã sai họ. Thánh Phaolô sẽ khai triển đòi hỏi này khi khẳng định: "Vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời lên gương mặt Đức Kitô, nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong bình đất, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi" (2 Cr 4,6-7). Thánh Phaolô cũng khoe về sự nghèo khó của mình: "Khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời nói hùng hồn hoặc triết lý cao siêu... nhưng tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy... có vậy đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa" (l Cr 2,1-5).
Vâng, điều Đức Giêsu muốn, đó là những đoàn ngũ phải nhẹ nhàng, không có những hành trang cồng kềnh, luôn sẵn sàng đi nơi khác. Lữ khách, phải là người sẵn sàng. Có lẽ, Giáo Hội không ngừng tự "làm nhẹ bớt" để sẵn sàng theo sự thúc đẩy của Thánh Thần.
Còn tôi? Tôi sống thế nào trước đòi hỏi nghèo khó này? Đức Giêsu đã nói rõ với các bạn hữu của Người, chỉ mang theo những vật hết sức cần thiết. Chiến thắng sự cám dỗ của tiền bạc là chiến thắng đầu tiên của Tin Mừng, là bài giảng đầu tiên rất cần thiết cho một thế giới tham lam, là trận chiến hàng đầu (nơi chính bản thân mình trước hết) chống lại một kẻ thù lớn của nhân loại: Sự chiếm hữu của cải! Nguồn gốc của chia rẽ, tranh chấp và kiêu ngạo!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con đến gần lý tưởng từ bỏ mà Chúa mong muốn.
Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.
Chúng ta ngạc nhiên vi tầm quan trọng của thái độ khước từ “tiếp nhận" trong diễn từ của Đức Giêsu. Nhưng môn đệ của Người có thành công lắm không? Hình như không được khá lắm. Người ta dễ dàng đoán được những ý nghĩ: "Các ông muốn chúng tôi trở lại chăng? Nhưng hiện nay chúng tôi rất tốt! Chúng tôi là những người Do Thái tốt theo truyền thống. Tại sao phải thay đổi những thói quen của chúng tôi? Xin các ông hãy đi giảng đạo nơi khác" Những khó khăn của Kitô hữu khi trình bày đức tin không phải chỉ ngày nay mới có, Đức Giêsu nói với chúng ta hôm nay: "Các con chớ có lo lắng. Đây là điều Thầy đã tiên liệu, Thầy đã báo trước cho các con". "Chúng ta chớ nên ảo tưởng".
Ngày nay cũng như thời Đức Giêsu sứ điệp đích thực của đức tin vẫn bị đa số khước từ, không đón nhận. Vì thế điều Đức Giêsu yêu cầu chúng ta là: Luôn đứng vững đừng ngã lòng: "Nếu người ta không tiếp nhận các con, các con hãy đi nơi khác". Chịu đựng thái độ không tin, lãnh đạm, chối bỏ,... điều đó xem ra hết sức bình thường đối với Đức Giêsu. Sự thật là khó khăn. Đức Giêsu đã báo trước điều đó cho những người được sai đi rao giảng Tin Mừng.
Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
Họ đã làm đúng những gì họ thấy Đức Giêsu làm khi họ "ở với Người". Nội dung của nỗ lực "truyền giáo" gồm 3 giai đoạn:
1. Rao giảng lời Chúa, đòi hỏi một sự thay đổi đời sống, một cuộc hoán cải. 2. Chiến đấu chống sự dữ, xua đuổi ma quỷ ra khỏi con người để giải thoát họ. 3. Hoạt động giúp người nghèo, cải thiện đời sống và chữa lành bệnh tật.
Hoán cải
Đó là nội dung thứ nhất của việc rao giảng: Hãy thay đổi cách sống. Hãy hoán cải. Chúng ta hiểu vì sao các Tông đồ được ít người nghe theo và bị từ chối . Thông thường, con người không thích "thay đổi" cách sống: Hãy để cho chúng tôi yên! Thế mà, Thiên Chúa lại hay gây phiền hà, Người yêu cầu chúng ta dấn thân vào một cuộc sống mới. Chữ Hy Lạp "mitanoa" dịch ra là "hoán cải", có nghĩa là “đổi ngược tinh thần". Vậy là phải đổi hướng: Chúng ta đã đi theo một hướng, bây giờ phải quyết tâm đổi ngược lại. Đây không phải là điều dễ. Tin Mừng luôn mang tính ác liệt. Chúng ta đã biến Tin Mừng trở nên loại gì? Một thứ học thuyết thiếu năng động? Một thứ thuốc ngủ? Một thứ nâng đỡ cho trật tự hiện hành? "Các Ngài đã kêu to" “ékèruxan" phải thay đổi cuộc sống "Metanoôsin".
Trừ quỷ
Chắc hẳn Maccô đã dùng những cách mô tả theo tâm thức của những người đương thời, nhưng rõ ràng sứ vụ mang tính chất bi kịch. Đó là một cuộc chiến! Một cuộc chiến chống lại quyền lực của sự dữ trên thế giới. Những "nhà truyền giáo" những người được Chúa "sai đi" không quảng cáo cho một sản phẩm để bán chạy. Các Ngài đã lên đường để đương đầu với một đối thủ ghê gớm. Sự chống đối mà các Ngài gặp không chỉ đến từ những người khước từ vì không hiểu. Có một lực lượng đối kháng. Một sự chống lại Tin Mừng đến từ xa hơn: Đó là những điều chúng ta gọi là 'tội lỗi thế gian’. Ngày nay, chúng ta có thể diễn tả
Chữa lành
Lôi kéo con người ra khỏi những thế lực xấu làm cho họ hư mất, đó cũng là giúp họ thăng hoa phẩm giá một cách tích cực, là chữa lành họ. Đây là một trong những đòi hỏi rõ ràng của Đức Giêsu. Mệnh lệnh vẫn có giá trị, mặc dù trong bối cảnh văn minh hiện nay, nó mang một hình thức cụ thể khác.
Rao giảng Tin Mừng.
Không phải chỉ là "giảng dạy" mà đặc biệt còn là "giải thoát". Ngày nay rao giảng Tin Mừng phải có những hình thức tân tiến và thích ứng thế nào để phù hợp với thời đại của chúng ta? Chúng ta phải chiến đấu chống lại những sự dữ nào? Xã hội chúng ta cần sự chữa lành nào?
Tin Mừng vẫn luôn mang tính thời sự, nhưng chính chúng ta không còn nghe được lời kêu gọi hoán cải của Tin Mừng nữa.
Ngay từ những trang đầu Tin Mừng của mình, Maccô đã muốn kể lại việc Chúa kêu gọi Simon và anh của ông là Anrê, cùng với hai anh em Giacôbê và Gioan khi Người đang đi dọc theo Biển Hồ Galilê (1,16-20); Người nói với các ông ấy: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá!” Maccô cũng cho ta thấy khi tới Capharnaum vào một ngày Sabát, Đức Giêsu "cùng với các môn đệ đi vào thành” (1,21). Sau đó thánh sử còn cho ta thấy Đức Giêsu "Lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ”(3,14-15). Con số Mười Hai ám chỉ mười hai chi tộc Israel là dấu chỉ Chúa muốn khai sinh một dân Thiên Chúa mới nơi bản thân các ông.
Giờ đây Maccô gợi nhớ lại buổi truyền giáo ban đầu của Nhóm Mười Hai mà Ngài lại đặt vào trong một nghịch cảnh là sau chuyến viếng thăm thất bại của Đức Giêsu khi trở về quê hương Nagiarét. Maccô viết: "Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi”. Hai động từ "Gọi, sai đi" diễn tả rõ rệt ơn gọi của các ông. Các ông sẽ là những "Tông đồ" của Đức Giêsu, nghĩa là những người được Chúa "sai đi”, như Tin Mừng thứ hai sẽ nói đến, khi các ông đi truyền giáo về (6,30).
Những lời tiếp theo là chỉ thị Đức Giêsu ban bố cho các tông đồ trước khi lên đường truyền giáo. M. Quesnel ví những lời đó như "một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo" ("Comment lire un évangile?", Seuil, trang 103).
- Đức Giêsu sai các ông đi: “Từng hai người một".
J. Potin giải thích: đó là tập tục các kinh sư. Vẫn thi hành đối với các môn sinh của họ. Hai người có chứng từ phù hợp nhau chứng tỏ rằng họ cùng được sai đi từ một người. Thực vậy, sứ điệp họ mang đi không phải là của riêng các ông, mà là của Đức Giêsu " (Jésus, l'histoire vraie", Centurion, trang 266-267). Nhóm Mười Hai không được “tính toán cho mình". Sứ mệnh của các ông bắt nguồn từ Đức Giêsu; đây là công việc của nhóm, là hành đông mang tính cộng đoàn .
Và thực tế như vậy, trong Công vụ Tông đồ, chúng ta sẽ thấy các nhà truyền giáo ấy thường lên đường với nhau "từng hai người một”. Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); giuđa và Sila (Cv 15,22).
- Đức Giêsu ra chỉ thị cho các kẻ Người gọi và sai đi như vậy phải có tinh thần khó nghèo và từ bỏ:
+ Khó nghèo xét về hành trang đi đường: "Một cây gậy, một đôi dép" là những gì Người cho phép. Người cũng không đồng ý cho mang hai áo”. Những kẻ được Chúa sai đi sẽ là những con người thanh thoát, không cồng kềnh, mà rong ruổi như Người và luôn sẵn sàng lên đường đi loan báo Tin Mừng.
+ Khó nghèo xét về những phương tiên sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng”. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi tong tư thế tùy thuộc. Họ sẽ nhận lương thực và tiền túi từ tay những ai sẽ tiếp rước họ.
Đức Giêsu không giấu giếm họ: con đường truyền giáo là con đường gian khổ. Cũng như Người họ phải đón nhận rủi ro bị chối từ hay xua đuổi Các ông phải đi theo Người đến độ phải bị chống đối, phải hy sinh thân mình.
2. Một sứ mệnh nối tiếp sứ mệnh của Đức Giêsu.
Sứ mệnh của Nhóm Mười Hai không phải là của riêng các ông, đó chính là sứ mệnh của Đức Giêsu nối tiếp nơi bản thân các ông: các ông rao giảng cùng một sứ điệp như Đức Giêsu là "Sám hối” (Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" Mc 1,14-15); các ông thực hiện cùng những dấu chỉ như Đức Giêsu là "trừ quỷ"và nếu Maccô ghi nhận rằng nhờ việc "xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh" thì hẳn là để ám chỉ rằng các ông hành động nhờ quyền năng của một ai khác là Đức Giêsu vậy.
Là những người được kêu gọi và sai đi, Nhóm Mười Hai không được giới thiệu ở đây như là những chuyên viên có ít nhiều chuyên môn hay là những người chuyên trách rao giảng Tin Mừng. J. Delorme kết luận: "Maccô mang lại cho sứ mệnh của nhóm Mười Hai một chiều kích rộng lớn hơn cả không phủ nhận một sự thật là bất cứ tác vụ nào trong Hội Thánh đều có thể tìm thấy nền tảng nơi sứ mệnh của Nhóm Mười Hai, trình thuật này của thánh Maccô có thể nhắc cho mọi tín hữu nhớ rằng họ thuộc một Hội Thánh được sai đến với mọi người và họ phải là nhân chứng của Đức Giêsu trước mặt người đời”.
BÀI ĐỌC THÊM
1. "Sứ mệnh của Nhóm Mười Hai, một cột mốc quan trọng và mang nhiều ý nghĩa"
(J. Delorme, "Assemblées du Seigneur" số 46, trang 49).
Không những mang giá trị lịch sử, bài trình thuật về sử mệnh của Nhóm Mười Hai ở Galilê, trong Tin Mừng Maccô còn hoàn thành một chức năng cao hơn. Trình thuật ấy ghi một cột mốc quan trọng, có ý nghĩa, ở buổi ban đầu của Hội Thánh cũng như trong sự triển khai một công trình vẫn được theo đuổi trong Hội Thánh và thế giới. Khi đọc trình thuật này Hội Thánh được mời gọi nhận ra ơn gọi của mình. Ơn gọi này bao hàm một sứ mệnh không cho phép Hội Thánh được tự kết cấu thành xã hội khép kín đối với chính mình hoặc đối với bất kỳ mô hình văn hóa-xã hội nào. Trong trình thuật của Maccô, khi sai Nhóm Mười Hai ra đi, không kèm theo một xác định rõ ràng nào về địa điểm, nơi chốn phải tới để hạn định các ông (so sánh với Mt 10, 5-6 và Lc 9,6; 10,1). Mà theo sau đó là cả một bài tập nghề khó khăn đối với các môn đệ, khiến Đức Giêsu phải gia tăng các phép lạ và những lời cảnh giác rút vào ngay trong Do Thái giáo (7,8-13). Theo cái nhìn của Hội Thánh, Nhóm Mười Hai chính là những bảo chứng cho phần vụ mà Hội Thánh phải gánh vác là giới thiệu Tin Mừng cho tất cả mọi người.
2. "Được liên kết với sứ mệnh của Chúa"
"Đức Giêsu cho con người liên kết với công việc chính Người đang thực hiện. Người mở rộng công việc rao giảng, rời bỏ làng mạc cùng gia đình, đi đến các làng chung quanh mà giảng dạy. Người gọi Nhóm Mười Hai để ở bên Người rồi sai họ đi. Các ông sẽ phải lao vào cùng một cuộc chiến như Chúa, nên Người ban cho các ông "quyền trừ quỷ”. Thế là các ông ra đi từng hai người một, kêu gọi người ta ăn năn sám hối, trừ được nhiều quỷ, chữa nhiều người đau ốm khỏi bệnh. Rồi đây cuộc đời của các Tông đồ sau khi Chúa sống lại và ban Thánh Thần, sẽ như thế nào, thì lúc này đã được khởi sự như một bước thí nghiệm vậy. Bởi đấy người môn đệ của Đức Giêsu chia sẻ sứ mệnh của Người. Người môn đệ ấy loan báo và truyền đạt ơn cứu độ, ơn chữa lành ơn giải thoát. Đức Giêsu làm cho người môn đệ ấy trở thành cộng tác viên của Người. Người môn đệ mang cùng một tâm tư, có chung cùng hoạt động và những bận tâm như Thầy mình. Từ nay, những "ưu tư ” của người môn đệ trở nên đơn giản vì "Người chỉ thi cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy, không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng. Đi theo Đức Giêsu, không phải là sống cách biệt với sứ mệnh. Nhưng là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ".
3. “Từ di sản đến cử chỉ đề nghị"
("Thư gởi người Công giáo Pháp", Cerf, trang 36-37).
Cái thời mà Hội Thánh thực Sự hoá thân với đại bộ phận xã hội, dầu gặp phải nhiều chống đối và thách đố, công việc truyền bá đức tin đều được tiến hành gần như tác động, nhờ vào những bộ phận chuyên lo việc truyền bá này còn có mặt ở cả những cơ quan điều hành thông thường của xã hội nửa. Do đó mà kiểm chứng được câu ngạn ngữ cho rằng người ta không sinh ra làm người tín hữu, nhưng cử thành người tín hữu (có đạo theo kiểu cha truyền con nối).
Dần dà với thời gian, chúng ta phải nhìn nhận rằng hoàn cảnh xa xưa này có những điều bất tiện, bởi lẽ khi việc loan báo đức tin ít nhiều bị thu gọn vào công việc thi hành những thủ tục gần như tự động để truyền đạt, người ta khó mà nhận thấy được những lệch lạc có thể xảy ra. Có những lệch lạc thực sự đã dẫn đến một thứ tục hóa đức tin chừng nào đạo Công giáo nhắm trở thành một phận vụ của xã hội và Hội Thánh thì được coi như một dịch vụ bình thường của xã hội.
Hoàn cảnh hiện nay lại có những khó khăn mới. Thực vậy, việc truyền bá đức tin ngày nay đang bị thỏa hiệp, hoặc rất khó thực hiện trong những khu vực rộng lớn của xã hội Pháp.
Điều có vẻ nghịch lý là hoàn cảnh này đòi buộc chúng ta phải đón nhận chiều kích mới mẻ của đức tin và kinh nghiệm sống đức tin ấy. Chúng ta không còn có thể chỉ hài lòng với một di sản đã thừa hưởng dù nó có phong phú đến đâu. Mà phải mở lòng đón nhận ân huệ Chúa ban trong những điều kiện mới mẻ và đồng thời tìm lại được cử chỉ ban đầu của việc phúc âm hóa đó là thái độ đề nghị đơn sơ mà cả quyết của Tin Mừng đức ki tô (Giáo Hội chỉ rao giảng Tin Mừng như một đề nghị để mỗi người tự ý quyết định lựa chọn).
1) Không phải các sứ đồ tự chọn sứ mệnh cho mình. Như Amos, Phaolô (bài đọc 1 và 2), họ đã được chọn: "Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con" (Ga 15,16). Vì họ rao giảng sứ điệp của Thiên Chúa chứ không phải sứ điệp của họ. Và sứ mệnh họ là Tin Mừng hóa thế gian, dù lúc thuận tiện hay bất thuận tiện, dù phải lưu đày hay phải chết.
2) Lệnh lên đường: không mang bánh, bao bị, tiền bạc, không mặc hai áo. Nghĩa là phải khẩn trương, vì thời gian cấp bách, phải nhẹ nhàng, vì phương tiện chính là phương tiện của Chúa. Bận bịu với của cải, lo cho đầy đủ phương tiện như ý mình thì khó mà cả bước lên đường truyền giáo! Có bao giờ ta cảm nghiệm được tính cách cấp bách này không? Để dứt khoát dấn thân, để khẩn trương hối cải, để chinh phục thế gian ngay trong thế hệ mình! "Hãy cắt đứt xích xiềng ràng buộc con, dù là xích vàng, để tiến tới. Cuối đường có Chúa đón chờ con" (ĐHV 179).
3) Chúa Giêsu sai đi từng hai người, là để trước hết họ cho một chứng tích sống động về điều họ rao giảng: cộng đoàn huynh đệ yêu thương. Người ta cứ dấu đó mà biết họ là môn đồ của Chúa. Sau là để nâng đỡ nhau. Người tông đồ nào không được nâng đỡ hay không tìm sự nâng đỡ, hiệp thông nơi các bạn đồng chí, thế nào cũng cằn cỗi trong công việc rồi xé lẻ tách rời.
4) Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. Quỷ là tên chia rẽ, chia rẽ dưới mọi hình thức: chia rẽ trong chính con người, chia rẽ trong xã hội, chia rẽ giữa con người với Thiên Chúa. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ, là thầy thuốc chữa lành, là Đấng tái tạo sự hiệp nhất trong con người, giữa con người, giữa con người với Thiên Chúa. Người tông đồ phải đặt lại vấn đề khi thấy công việc mình làm không đem lại sự hiệp nhất và bình an trong chính bản thân, trong môi trường hoạt động.
5) Có nhiều hình thức làm tông đồ trong xã hội hôm nay: Tông đồ bằng đau khổ: không rao giảng, không hoạt động, nhưng thinh lặng tế lễ cứu bao linh hồn. Như Chúa Giêsu hấp hối trên thập giá, Đức Mẹ hấp hối trong tâm hồn dưới chân thập giá. Tông đồ bằng hy sinh và thinh lặng: như hạt lúa chôn vùi, thối nát để sinh muôn ngàn hạt khác nuôi nhân loại. Tông đồ bằng chứng tích: tang vật đáng tin hơn. Tông đồ bằng tiếp xúc: "Tâm hồn chúng ta chẳng nóng lên khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó sao?" (Lc 24,32). Tông đồ bằng tư tưởng: nâng đỡ người bạn đang lung lạc, ủi an kẻ sầu buồn ... Tông đồ bằng bữa ăn: ăn là chuyện thường tình. Nhưng Chúa Giêsu ăn ở nhà Mađalêna, ở nhà Simon, Giakêu khác xa chúng ta: "Hôm nay ơn cứu rỗi đã đến với nhà này" (Lc 19,9). Tông đồ bằng thư từ: Phaolô ngồi trong tù, không máy in, vẫn viết thư cho một giáo đoàn, giáo đoàn ấy chép lại rồi chuyển sang cho giáo đoàn khác. Cứ thế, Phaolô đã giữ vững và phát triển đức tin của Hội Thánh sơ khởi. Con hãy để tất cả lòng yêu thương con vào phong bì rồi dán lại, gởi đi.
Đức Giêsu đã thiết lập Nhóm Mười Hai với hai mục tiêu: họ phải ở với Người và phải được Người cử đi loan báo Tin Mừng và trừ quỷ (3,14t). Kể từ khi được Người chỉ định, Nhóm Mười Hai ở với Người, đồng hành với Người, chứng kiến tất cả hoạt động giảng dạy và tất cả các hành vi quyền lực của Người. Như thế, các ông chu toàn mục tiêu đầu tiên mà Đức Giêsu nhắm cho các ông, khi các ông cùng đi với Người trong khi Người chu toàn sứ mạng của Người (x. 1,38).
Đức Giêsu đang đi đường và giảng dạy các làng trong miền Galilê (6,6). Kế đó, Người cử Nhóm Mười Hai đi, để các ông nối tiếp công việc của Người. 2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu ban chỉ thị cho Nhóm Mười Hai (6,7-11):
a- Nhóm Mười Hai được giao phó sứ mạng (c. 7), b- Giáo huấn của Đức Giêsu về hành trang (cc. 8-9), c- Giáo huấn của Đức Giêsu về cách xử sự (cc. 10-11);
2) Nhóm Mười Hai thi hành sứ mạng (6,12-13).
3.- Vài điểm chú giải
- Nhóm Mười Hai (7): Đời tông đồ là một cuộc hành trình để nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu. Điều này được tác giả Mc diễn tả bằng cách dùng thuật ngữ “Nhóm Mười Hai” ở 7 điểm quan trọng. Thuật ngữ này trở đi trở lại theo những khoảng cách đều đặn: từ khi Nhóm được thành lập cho đến khi tan rã vào lúc Giuđa phản bội, Nhóm được nhắc đến ở mỗi chặng quan trọng. Các ông đi theo Đức Giêsu từ lời đầu tiên loan báo về Nước Thiên Chúa cho đến thử thách cuối cùng:
1) Lần đầu, ở ch. 3: Đức Giêsu “thành lập (= tạo thành) Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai đi rao giảng” (3,14). Và xa hơn: “Người thành lập Nhóm Mười Hai” (3,16).
2) Ở ch. 4: “Khi còn một mình Người, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người về các dụ ngôn” (4,10). Lần đầu tiên Nhóm Mười Hai hỏi riêng Đức Giêsu: điều này chứng tỏ Nhóm được tuyển chọn để được đào tạo riêng.
3) Ở ch. 6: “Đức Giêsu gọi Nhóm Mười Hai” (6,7). Trong TM Mc, từ ngữ “tông đồ” chỉ được dùng ở 6,30.
4) Ở ch. 9: Đức Giêsu nhắc bảo các môn đệ vài điều: “Ngài gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người” (9,35).
5) Ở ch. 10: Đức Giêsu loan báo Người sẽ chết và sống lại. Đức Giêsu dẫn các ông; các ông kinh hoàng, còn nhưng kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (10,32).
6) Ở ch. 11: Đức Giêsu đã đi vào Giêrusalem: “Sau khi rảo mắt nhìn xem mọi sự, Người ra khỏi thành…, và tiến về Bêtania cùng với Nhóm Mười Hai” (11,11). Câu 11 là như lời dẫn nhập vào hoạt động của Đức Giêsu tại Giêrusalem (nơi chốn, hoàn cảnh, chương trình hành động), và Nhóm Mười Hai là những người tháp tùng Người.
7) Ở ch. 14 (tại Giêrusalem): Đây là khởi đầu cuộc Thương Khó, Nhóm Mười Hai được nhắc đến thường xuyên, nhưng như là Nhóm trong đó có kẻ phản bội: 14,10.17.20.43. Mỗi lần kẻ phản bội được nhắc tên cũng là mỗi lần Nhóm được nhắc lại. Ở 14,17, Nhóm Mười Hai được nêu lên như là những người tháp tùng Đức Giêsu vào Tiệc Ly và đồng bàn với Người.
Khi nêu bật Nhóm Mười Hai, Mc cho thấy rằng Tin Mừng không phải là một hệ thống các giáo thuyết hoặc luật lệ. Khi nêu bật Nhóm Mười Hai, Mc cho thấy rằng Tin Mừng được mạc khải và đón nhận xuyên qua một quan hệ riêng tư với Đức Giêsu, được truyền đạt bởi những sứ giả được đào tạo từ chính quan hệ này, và, cuối cùng, điều ngài muốn là đưa độc giả đi dần vào quan hệ riêng tư và trọn vẹn này với Đức Giêsu.
- Quyền trừ quỷ: Mc trình bày sứ mạng của Nhóm Mười Hai như là việc nối dài chính sứ vụ của Đức Giêsu là rao giảng và chữa bệnh (chủ yếu là trừ quỷ).
- không được mang gì đi đường (8): Tình trạng thiếu trang bị vật chất như thế phản ánh tính cấp bách của công tác và sự tin tưởng ký thác hoàn toàn vào tay Thiên Chúa.
- chỉ trừ cây gậy: Mt 10,10 và Lc 9,3 cấm các môn đệ cầm gậy đi đường. NJBC giải thích: hoặc bản văn Mc có khuynh hướng chế giảm hoặc đây là cách đọc sai từ A-ram l’ (“không”) thành ’l’ (“ngoại trừ”). Hay là phải chăng vào thời Mc, tình thế còn khá nguy hiểm, nên còn chấp nhận một vài chế giảm như thế?
- bao bị: Từ Hy-lạp pêra là túi xách để đựng hành trang đi đường hoặc của bố thí.
- được đi dép (9): Mt 10,10 và Lc 9,3 cấm các môn đệ đi giày; có lẽ đây là cấm đi một đôi dư ra (Mt dùng từ hypodêma, vật bó dưới chân; còn Mc dùng từ sandalion), bởi vì đi chân không trên các nẻo đường đầy sỏi đá xứ Paléttina thì rất vất vả.
- hai áo: Từ Hy-lạp khitôn là áo trong, mặc sát người.
- giũ bụi chân (11): Khi có nơi nào không đón tiếp mình, người môn đệ được hướng dẫn làm thành một hành vi biểu tượng thôi, chứ không trả đũa thô bạo. Hành vi này nhằm thúc bách những con người tại nơi ấy phải suy nghĩ. Hành vi này cũng có thể có liên hệ với việc giũ bụi chân khi trở lại xứ Paléttina. Khi ấy, ý nghĩa của hành vi này là thành thiếu lòng hiếu khách thì không thuộc về Israel chân chính.
- Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối (12): Câu tóm về lời rao giảng của các môn đệ làm vọng lại câu tóm về lời rao giảng của Đức Giêsu trong 1,14-15: các môn đệ chia sẻ sứ mạng của Thầy (x. c. 13).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu ban chỉ thị cho Nhóm Mười Hai (7-11)
Đức Giêsu đã “gọi lại với mình” Nhóm Mười Hai: điều này chứng tỏ uy quyền của Người và sự chọn lựa của Người. Người cử Nhóm Mười Hai đi, để các ông nối tiếp công việc của Người. Các hình thái cơ bản trong hoạt động của các ông là loan báo Tin Mừng và xua trừ ma quỷ (3,14t; 6,7.12t): đây cũng là những nhiệm vụ của Đức Giêsu (1,14t; 1,21-27; 1,39). Người không chu toàn sứ mạng một mình, nhưng chia sẻ sứ mạng đó cho những người mà Người đã uốn nắn và đào tạo nhờ tiếp xúc thường xuyên với Người. Cũng như Người, các ông cũng phải loan báo Tin Mừng là Triều Đại Thiên Chúa đã gần. Cũng như Người, các ông phải truyền đạt với xác tín cao và vững chắc sứ điệp vui tươi và giải phóng này: chỉ mình Thiên Chúa là Chúa tể; quyền làm chủ của Ngài trên muôn loài muôn vật, vào lúc này, người ta chưa nhận ra được, nhưng đến một lúc nào đó, chắc chắn sẽ tỏ hiện rõ ràng.
Chân lý hệ trọng này, các môn đệ phải loan báo không những bằng lời nói, mà còn phải cho thấy nó có giá trị thực sự bằng hành động nữa. Hành trang của các ông chỉ có những gì cần thiết cho một lữ khách: một cây gậy, một áo choàng và đôi dép. Người ta phải thấy được rõ ràng là các ông không sở hữu gì cả và các ông không có gì mà mang theo cả, ngoại trừ sứ điệp của các ông: các ông chỉ là sứ giả mà thôi. Về lối sống của các ông, Đức Giêsu cho hai chỉ thị: các ông không được đòi hỏi gì và phải ý thức về sứ mạng của các ông. Các ông phải bằng lòng với mọi kiểu nơi ăn chốn ở có được, chứ không đi hết nhà này đến nhà kia để tìm được nếp sống thoải mái hơn. Các ông phải nêu bật ý nghĩa của sứ điệp. Ai không muốn nghe, các ông phải cho họ hiểu rõ ràng rằng khi từ chối như thế, họ đã lấy một quyết định hệ trọng trong quan hệ đối với ơn cứu độ: giũ bụi chân để cho hiểu rằng vừa xảy ra một việc tách biệt quyết liệt, “giữa chúng ta, không còn liên hệ gì nữa!”. Từ chối sứ giả có nghĩa là từ khước sứ điệp. * Nhóm Mười Hai thi hành sứ mạng (12-13)
Giữa phần mô tả hoạt động của Nhóm Mười Hai (6,12t) và việc họ trở về (6,30), TM II không nói gì đến hoạt động của Đức Giêsu. Hoạt động của các tông đồ có trọng lượng riêng, chứ không phải là một chuyện phụ thuộc được che phủ bởi hoạt động của Đức Giêsu. Hoạt động của các ông có trọn vẹn tầm quan trọng của nó. Các ông đã ra đi thi hành hai điều cốt yếu trong chỉ thị của Đức Giêsu: rao giảng và trừ quỷ.
+ Kết luận
Khi đọc đoạn văn trên đây, Giáo Hội (và mỗi Kitô hữu) được mời gọi nhận ra câu truyện về ơn gọi của chính mình. Giáo Hội (và mỗi Kitô hữu) không được khép kín trên chính mình, theo một số tiêu chuẩn xã hội học nào đó. Giáo Hội sẽ phải ra đi đến mọi phương trời vào mọi thời đại. 5.- Gợi ý suy niệm
1. Nhiệm vụ của người Kitô hữu hôm nay cũng không khác nhiệm vụ của Nhóm Mười Hai xưa kia: loan báo Tin Mừng và giảm thiểu ảnh hưởng của sự dữ. Nhưng sức riêng không giúp họ chu toàn được sứ mạng này; họ cần phải liên kết mật thiết với Đức Giêsu (“ở với Người”; x. 3,14).
2. Người Kitô hữu không được chỉ giới hạn vào việc lắng nghe sứ điệp về Triều Đại Thiên Chúa, mà còn phải nhận ra trong đời sống mình có quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động để đưa lại sự giải thoát và niềm vui.
3. Làm chứng bằng lời nói là một khía cạnh của sứ mạng tông đồ. Tuy nhiên, sứ mạng này sẽ khiếm khuyết nếu việc làm chứng bằng lời nói không được phối hợp với việc làm chứng bằng hành động, bằng chính đời sống mình.
4. Người Kitô hữu luôn nhớ rằng mình là người được sai phái đi, nên phải lệ thuộc vào các chỉ thị của Chúa mình và phải trả lời về cách thực hiện các mệnh lệnh của Người. Như thế, ra đi loan báo Tin Mừng không phải là cơ hội để truyền đạt và áp đặt các tư tưởng của riêng mình.
Chúng ta có thể gọi Chúa Nhật XV là Chúa Nhật Sứ Vụ.
Am 7: 12-15
Bài đọc I nhắc nhớ rằng ngôn sứ A-mốt, vốn xuất thân từ vương quốc phương Nam, cũng được gọi vương quốc Giu-đa, được Thiên Chúa sai đi rao giảng cho các con chiên lạc của vương quốc phương Bắc, cũng được gọi vương quốc Ít-ra-en. Sứ vụ thật khó khăn và cuối cùng vị ngôn sứ bị trục xuất.
Mc 6: 7-13
Tin Mừng tường thuật việc Đức Giê-su sai nhóm Mười Hai ra đi thi hành sứ vụ với lời căn dặn phải có tinh thần siêu thoát hoàn toàn, cũng như báo trước những thất bại có thể có.
Ep 1: 3-14
Đề tài chính của đoạn trích thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô hôm nay được trình bày ngay từ phần mở đầu: thiên ý cứu độ nhân loại được Đức Ki tô mặc khải và hoàn tất, và được giao phó cho Giáo Hội.
BÀI ĐỌC I (Am 7: 12-15)
Các sự việc diễn ra ở vương quốc phương Bắc, dưới triều đại của vua Gia-róp-am II (787-747 BC)
Để hiểu rõ hoàn cảnh lịch sử ở đó ngôn sứ A-mốt được Thiên Chúa sai đi thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình, xin được nhắc lại, sau khi vua Sa-lô-mon băng hà, vào năm 931BC, mười hai bộ tộc Ít-ra-en chia rẽ nhau. Hai bộ tộc vẫn trung thành với vương triều Đa-vít và thành lập vương quốc phương Nam, còn gọi là vương quốc Giu-đa. Mười bộ tộc còn lại chọn cho mình một vị vua mới, Gia-róp-am và hình thành nên vương quốc phương Bắc, còn gọi là vương quốc Ít-ra-en.
Vương quốc phương Nam có lợi thế là Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đối lại, vương quốc phương Bắc thiết lập hai đền thánh: đền thánh Ghin-gan ở cực bắc xứ Pha-lê-tinh, bên cạnh một trong những nguồn nước của sông Gio-đan; và đền thánh Bết-En, ở cực nam cách Giê-ru-sa-lem khoảng chừng 15 cây số. Đền thánh Bết-En có ưu điểm là nhắc nhớ tổ phụ Gia-cóp; chính ở nơi đây mà tổ phụ đã có một giấc mơ lưu truyền mãi (một chiếc thang nối liền trời và đất) trong đó ông đã nghe tiếng Đức Chúa phán. Vì thế vị tổ phụ đã gọi nơi nầy là Bết-En, nghĩa là “Nhà của Thiên Chúa”.
Hai đền thánh nầy, cũng như các tư tế phụng sự chúng, hoàn toàn lệ thuộc vương triều, như ông A-ma-xi-a, tư tế đền thờ Bết-En, giải thích cho ngôn sứ A-mốt: “Đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều”.
Vốn là người sinh sống ở vương quốc phương Nam; vị ngôn sứ đã được Thiên Chúa sai đến vương quốc phương Bắc để thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình. Ngôn sứ xuất thân từ một thị trấn miền Bết-lê-hem; ông làm nghề chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung, chính xác là châm những trái nho dại để làm cho chúng trở thành trái ngọt và mau chín (phải chăng đây cũng chính là ý nghĩa sứ mạng ngôn sứ của ông?).
Sứ mạng của vị ngôn sứ thật khó khăn. Ông phải ngỏ lời với dân chúng đang sống trong cảnh thanh bình, thịnh vượng và phú túc. Tuy nhiên, xã hội lắm bất công. Những kẻ lắm tiền nhiều của liên kết với những kẻ có thế có quyền đàn áp những người cùng khổ. Sứ điệp của ngôn sứ gởi đến vương quốc thịnh vượng nầy thật nghiêm khắc: “Chúng ghét người sửa trị nơi cửa công và thù oán kẻ ăn ngay nói thật. Vậy, bởi các ngươi chà đạp kẻ yếu hèn và đánh thuế lúa mì của họ, nên những ngôi nhà bằng đá đẻo các ngươi đã xây, các ngươi sẽ không được ở; những gốc nho ngon ngọt các ngươi đã trồng, các ngươi sẽ không được uống rượu của chúng. Bởi Ta biết tội ác các ngươi nhiều vô kể, tội lỗi các ngươi nặng tầy trời: nào áp bức người công chính, lại đòi quà hối lộ, nào áp bức kẻ nghèo hèn tại cửa công” (5: 10-12). Vị ngôn sứ phẩn uất trước những lễ lạc xa hoa, những đám rước linh đình của những kẻ làm giàu trên xương máu của những người nghèo hèn và nhận thấy ở nơi những lớp võ thịnh vượng vật chất giả tạo bên ngoài là thực chất của một xã hội bất công thối nát. Vào thời buổi nầy, cách xử thế khôn ngoan nhất là “Dĩ hòa vi quý”: “Bởi thế thời buổi nầy, ai cẩn trọng thì làm thinh, vì đây là một thời khốn quẩn” (5: 13). Bởi thế, vị ngôn sứ tuyên sấm tố cáo lối sống gian trá của vương quốc nầy: “Vào ngày Ta trị tội Ít-ra-en Ta sẽ triệt hạ các bàn thờ của Bết-Ên: các sừng của bàn thờ sẽ bị bẻ gãy và quăng xuống đất. Biệt thự mùa đông, biệt thự mùa hè, Ta sẽ triệt phá; điện ngọc đền ngà sẽ sụp đổ, lâu đài dinh thự cũng tan hoang” (3: 14-15).
Quả thật, vị ngôn sứ đã thấy trước mối nguy hiểm của các đạo quân Át-sua và ông ra sức cảnh báo ngõ hầu vương quốc Ít-ra-en thoái khỏi án phạt: “Hãy tìm Đức Chúa thì các ngươi sẽ được sống” và “Hãy tìm kiếm điều lành chứ đừng tìm điều dữ rồi các ngươi sẽ sống”. Ngôn sứ A-mốt không nêu đích danh Át-sua; ông chỉ nói đơn giản “quân thù”: “Quân thù sẽ bao vây lãnh thổ, sẽ triệt hạ sức mạnh của ngươi, và đền đài của ngươi sẽ bị cướp phá…” (3: 11). Rảo khắp các thành thị và đền thánh, vị ngôn sứ cảnh báo: liệu Thiên Chúa sẽ gìn giữ dân của Ngài, nếu dân vẫn cứ ngoan cố trong tội ác của mình? Sấm ngôn của ông càng lúc càng đe dọa. Sấm ngôn của ông sẽ được ứng nghiệm. Vương quốc phương Bắc sẽ sụp đổ dưới những cuộc tấn công của quân đội Át-sua và biến mất vĩnh viễn khỏi lịch sử vào năm 721 BC.
2. Phẩm chất của vị ngôn sứ của Thiên Chúa.
Tư tế A-mát-gia tố cáo vị ngôn sứ với vua Gia-róp-am: “A-mốt âm mưu chống đức vua ngay trên lãnh thổ Ít-ra-en, và đất nước nầy không còn chịu nổi bất cứ lời nào của ông ta nữa. Vì A-mốt nói như thế nầy: Gia-róp-am sẽ chết vì gươm, và Ít-ra-en sẽ bị đày biệt xứ” (7: 10-11). Hoặc thừa hành lệnh vua, hoặc lệnh của mình với tư cách vị tư tế lãnh đạo đền thờ Bết-Ên, A-mát-gia truyền lệnh cho ngôn sứ A-mốt ra khỏi thánh địa nầy mà trở về vương quốc Giu-đa: “Nầy thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm!”.
Tư tế A-mát-gia vu khống ngôn sứ A-mốt khi đồng hóa vị ngôn sứ với các ngôn sứ nghề nghiệp, họ tuyên sấm như một nghề nghiệp để làm ăn, để kiếm tiền. Trước lời vu khống nầy, Ngôn sứ A-mốt đáp lại: ông không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ, nhưng chỉ là người chăn súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa “đã bắt lấy” ông khi ông đang làm công việc của mình, nghĩa là Ngài đã gọi ông và sai ông đi thi hành sứ mạng của Ngài mà ông không thể cưỡng kháng được. Đó là cứu thoát dân Ít-ra-en khỏi án phạt của Thiên Chúa sắp đến.
Phải chăng lệnh truyền của tư tế A-mát-gia đã chấm dứt sự vụ của ngôn sứ A-mốt? Chúng ta không biết chính xác; nhưng xem ra sứ mạng của A-mốt chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, sứ điệp của ông vẫn lưu danh muôn thuở.
Ngôn sứ A-mốt là ngôn sứ xưa nhất mà chúng ta vẫn còn gìn giữ được sứ điệp bằng văn tự của ông. Ông đã khai mào độc thần giáo luân lý của truyền thống ngôn sứ bằng văn tự: đưa đạo vào đời. Ở nơi sứ điệp của ông chúng ta gặp thấy âm vang lời dạy của Công Đồng Va-ti-can II trong Hiến Chế “Vui Mừng và Hy Vọng”: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki tô, và không có gì thật sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ. Thật vậy, cộng đoàn của họ được cấu tạo bằng những con người đã được quy tụ trong Chúa Ki tô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc lữ hành về Nước Cha và đã đón nhận Tin Mừng cứu rỗi đem đến cho mọi người. Vì thế, cộng đoàn ấy mới nhận thấy mình thực sự liên đới mật thiết với loài người và lịch sử loài người” (1).
BÀI ĐỌC II (Ep 1: 3-14)
Vào Chúa Nhật XV nầy, chúng ta khởi sự đọc những đoạn văn chính yếu được trích từ thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô.
Thánh Phao-lô đã viết bức thư nầy khi ngài bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Chủ đề của bức thư là ý định Thiên Chúa trên nhân loại, được Đức Giê-su mặc khải, thực hiện và trao phó cho Giáo Hội tiếp tục hoàn tất.
1. “Chúc tụng Thiên Chúa…”
Đoạn văn mà chúng ta đọc là phần đầu của bức thư ngay sau lời chào mở đầu. Thánh nhân diễn tả tâm tình tạ ơn theo cách thức cầu nguyện theo truyền thống Do thái, được gọi “berakah”: “Chúc tụng Thiên Chúa”. Dù cá nhân hay cộng đoàn, lời kinh nguyện nầy bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, không trong quan điểm trừu tượng, nhưng luôn luôn vì những ân phúc rõ ràng. “Lời kinh chúc tụng” (Berakah) nầy có thể là lời cầu nguyện tự phát của cá nhân mà những lời kinh “magnificat” cung cấp những điển hình của bà An-na, mẹ ông Sa-mu-en, của ông Tô-bi-a, của Đức Ma-ri-a. Đây cũng là lời kinh nguyện gia đình trước bữa ăn và đặc biệt long trọng vào bữa ăn vượt qua. Đức Giê-su đã đọc “lời kinh chúc tụng” trên bánh và rượu. Sau cùng, lời kinh chúc tụng là hình thức tuyệt vời nhất của kinh nguyện hội đường.
Thánh Phao-lô, trước đây là kinh sư, vẫn trung thành với hình thức ngợi khen nầy. Toàn bộ bài thánh thi nầy kể ra muôn phúc lộc mà Thiên Chúa đã đổ đầy cho nhân loại như chúng ta gặp thấy thánh nhân cũng bắt đầu thư thứ hai gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô như vậy: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi nhân ái, và là Thiên Chúa hằng sẳn lòng ủi an những ai lâm cảnh gian nan khốn khó…” (2Cr 1: 3).
2. Ý định muôn thuở của Thiên Chúa.
Trước tiên, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng Thiên Chúa là nguyên lý và nguồn mạch của muôn phúc lộc và Ngài đã chuẩn bị từ muôn thuở kế hoạch của Ngài trên nhân loại.
Chúng ta ghi nhận rằng “lời kinh chức tụng” này bắt đầu với: “Từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ân phúc của Thánh Thần” và được hoàn tất trên viễn cảnh của dân riêng, dân được chọn, được thừa hưởng gia sản được hứa ban, nghĩa là gia sản trên cõi trời. Rõ ràng theo cách thức của thánh nhân, công thức kết thúc chủ ý nhắc lại những gợi ý ban đầu (kỷ thuật đóng khung). Như vậy, chúng ta khởi đi từ cõi trời từ đó đến muôn vàn phúc lộc để gặp lại cùng những thiên ân tối hậu trên cõi trời nầy.
3. Đức Ki tô và chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Chính nhờ Đức Ki tô, Thánh Tử của Người mà chương trình cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện.
Trong nhiệm cục xưa, mọi sự đều nhằm chuẩn bị cho cuộc giáng trần của Đức Giê-su; trong nhiệm cục mới, mọi sự đều khởi đi từ Đức Ki tô. Thánh Phao-lô đặt ở trung tâm lời nguyện ngợi khen của mình công trình cứu chuộc. Đối với trí khôn loài người, mặc khải mầu nhiệm nầy hình thành nên một sự khai mở diệu kỳ và “khôn dò”, tròn đầy khôn ngoan (chúng ta nhận ra ở đó một đề tài rất tâm đắc của thánh nhân trong thư gởi tín hữu Ê-phê-sô nầy).
Sau cùng, thánh nhân gợi lên hành động hiệp nhất của Đức Giê-su, Đấng “quy tụ ở nơi Ngài muôn loài trong trời dưới đất”. Động từ Hy lạp “ana-kephalaïô” dịch “quy tụ” được thánh Phao-lô dùng một lần khác trong thư của thánh nhân gởi cho các tín hữu Rô-ma, để nói lên rằng giới luật Đức Ái “thâu tóm” tất cả mọi giới luật khác (Rm 13: 9).
Trong đoạn văn trích từ thư gởi các tín hữu Ê-phê-sô nầy, ý nghĩa cũng như vậy. Đức Giê-su “thâu tóm” toàn thể vũ trụ vì Ngài là cách thức diễn tả cao nhất của toàn thể vũ trụ, mọi loài đều quy hướng về Ngài. Nối tiếp với thánh Phao-lô, từ “thâu tóm” đã đi vào trong từ vựng thần học, nhất là với thánh I-rê-nê, và trở thành đối tượng của biết bao khai triển.
Nói một cách chính xác, thánh Phao-lô không gán cho Đức Ki tô vai trò vũ trụ, nhưng triển khai khái niệm nhiệm thể. Theo cách nầy, thánh nhân đáp lại những quan niệm Do thái, mà ngài đã chống lại rồi trong thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-sê, đồng thời cũng đáp trả những quan điểm của phái khắc kỷ.
Trong vài môi trường Do thái, người ta gán cho các thiên thần một vai trò đặc biệt và xem các thiên thần là những người tổ chức vũ trụ. Các Ki tô hữu xuất thân từ Do thái giáo gìn giữ những niềm tin như thế nên giảm nhẹ vai trò của Đức Ki tô. Thánh Phao-lô hiệu đính lại mọi việc.
Đối với phái khắc kỷ, họ thấy trong sự hòa điệu và trật tự của vũ trụ ảnh hưởng sức mạnh thần thiêng. Những cách diễn tả của thánh Phao-lô rất gần với phái khắc kỷ, nhưng thánh nhân loại bỏ tất cả khuynh hướng phiếm thần. Về điểm nầy, thánh nhân định vị mình vào trong truyền thống minh triết Cựu Ước, mượn vài đề tài ở nơi trường phái khắc kỷ nhưng định vị chúng vào trong viễn cảnh của sự siêu việt thần linh (Hc 43: 26-28; Kn 1: 7; 7: 22-23; 12: 1, vân vân).
3. Diễn tiến lịch sử của chương trình Thiên Chúa: khía cạnh Ba Ngôi.
Lúc đó thánh Phao-lô nhắm đến việc diễn tiến trong Lịch Sử chương trình Thiên Chúa trên nhân loại. Các giai đoạn bày tỏ ba hành động của Thiên Chúa: hành động của Chúa Cha, hành động của Chúa Con, hành động của Chúa Thánh Thần.
Trước tiên, thánh nhân gợi lên việc tuyển chọn của Ít-ra-en, dân được Chúa chọn để làm nhân chứng về việc trông đợi Con của Ngài; thánh nhân ngõ lời với các tín hữu gốc Do thái mà ngài kể mình vào trong số họ với đại từ “chúng tôi”: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây…”.
Tiếp đó, thánh nhân nói với các tín hữu gốc lương dân bằng đại từ “anh em”: “Trong Đức Ki tô cả anh em nữa, anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em…”.
Sau cùng, việc sai phái Chúa Thánh Thần một cách nào đó hình thành nên lời cam kết mà Thiên Chúa đã hứa là ban gia nghiệp, nghĩa là được sống bên Ngài để “ngợi khen vinh quang Thiên Chúa”.
Diễn ngữ “ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” lập lại đến ba lần như một điệp khúc trong lời kinh chúc tụng nầy. Đó là mục đích tối hậu của chương trình Thiên Chúa: đó là cứu cánh của nhân loại.
TIN MỪNG (Mc 6: 7-13)
Trong chương trước, thánh Mác-cô đã tường thuật việc Đức Giê-su chọn nhóm Mười Hai khi xác định: “Người thiết lập nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (3: 14). Thánh Lu-ca tường thuật cùng một sự kiện và nói thêm: “Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ” (Lc 6: 13). Thật ra, các thánh ký đã tránh dùng danh xưng “Tông Đồ” nầy – thánh Gioan không bao giờ dùng thuật ngữ nầy – vì danh xưng “Tông Đồ” tức là “người được sai đi” mà chỉ mình Đức Giê-su xứng đáng với tước hiệu nầy: Ngài là Đấng được sai đi từ Chúa Cha. Chung chung các thánh ký thường nói: “nhóm Mười Hai” hay “các môn đệ”.
Sau một thời gian chuẩn bị: “nhóm Mười Hai” đã sống với Ngài, đã lắng nghe giáo huấn của Ngài, đã là những nhân chứng về các phép lại của Ngài, cũng như về sự thất bại của Ngài ở Na-da-rét, Đức Giê-su cho rằng đã đến lúc đặt các ông vào trong thử thách khi sai các ông đi thi hành sứ vụ.
Cử chỉ nầy của Đức Giê-su là một sự mới mẽ. Vào thời của Ngài, các kinh sư quy tụ chung quanh mình một nhóm môn đệ, để chia sẻ cuộc sống của mình; họ không bao giờ nghĩ đến việc sai các môn đệ ra đi và ủy quyền cho các môn đệ một sứ mạng.
Chính Đức Giê-su đích thân sai các ông đi, như sau nầy Ngài sẽ nói với họ trước khi từ giả các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em đi”.
1. Sai đi từng hai người một.
Ngài sai các ông đi từng hai người một. Thánh Mát-thêu đã gìn giữ cho chúng ta nhóm từng hai người một nầy: Phê-rô và An-rê, Gia-cô-bê và Gioan, Phi-líp-phê và Ba-tô-lô-mê-ô, Tô-ma và Má-thêu, Gia-cô-bê và Ta-đê-ô, Si-mon và Giu-đa.
Có phải ở đây Đức Giê-su quan tâm đến tâm lý? Chắc chắn công việc dể dàng hơn nếu có hai người cùng chung sức làm, nhưng cũng vì quy định của Lề Luật theo đó một lời chứng chỉ có giá trị nếu nó được hai nhân chứng cung cấp (cf. Đnl 17: 6; 19: 15; Ds 35: 30); thêm nữa, con số hai cũng là biểu tượng cộng đoàn, nghĩa là các thừa sai không làm việc đơn lẻ mà là làm việc theo từng nhóm.
Các môn đệ sẽ làm chứng từng hai người một về những dấu chỉ của Vương Quốc Thiên Chúa:
- quyền năng trên những thế lực của sự ác, - siêu thoát khỏi những bận lòng trần thế để nhắm đến những của cải tinh thần.
2. Hành trang của vị thừa sai.
Đoạn những căn dặn của Đức Giê-su nhắm đến hành trang thật gọn nhẹ của các môn đệ, hay đúng hơn không trang bị gì cả: không lương thực, không bao bị, không tiền giắc lưng, không áo để thay đổi. Có vài chi tiết khác biệt giữa các Tin Mừng Nhất Lãm, tuy nhiên bài học thì rõ ràng: đức khó nghèo và sự phó thác hoàn toàn vào ơn Quan Phòng phải là những dấu ấn mà các thừa sai để lại trong lòng mọi người. Phong thái họ cực kỳ đơn giản giống như những lữ khách lòng không vương vấn bất cứ điều gì cả. Họ được mô tả như những khách hành hương luôn luôn sống trong tư thế lên đường, không tìm cách định cư ở một nơi nào nhất định, bởi vì cón có những nơi khác cần đến sứ điệp của họ nữa. Vào lúc dùng bữa sau cùng với các môn đệ, Đức Giê-su sẽ hỏi các ông: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”. Mọi người đồng thanh đáp: “Thưa không” (Lc 22: 35).
Quả thật truyền thống hiếu khách đông phương tạo cơ hội thuận tiện cho việc thi hành sứ vụ của các các môn đệ trên đường. Tuy nhiên Đức Giê-su căn dặn họ một sự ổn định nào đó: “Khi anh em vào nhà nào mà người ta đón tiếp, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi”.
3. Giũ bụi chân.
Là vị thừa sai đi rao truyền sứ điệp một cách vô vị lợi, nên họ được hưởng quyền tiếp đón một cách vô vị lợi từ những gia đình mà họ viếng thăm. Nhưng Đức Giê-su cũng tiên liệu sứ điệp kêu gọi hoán cải mà họ sẽ ra giảng có thể kéo theo sự khước từ: “Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ”.
Đây là tập tục của người Do thái sau cuộc hành trình trở về. Vào lúc đặt chân lên miền đất Pha-lệ-tinh họ giũ bụi đường khỏi giày dép để không đưa bụi phàm trần vào đất của mình mà họ coi như đất thánh. Trong lời căn dặn của Đức Giê-su, không có bất kỳ một sự khinh bĩ nào đối với những người khước từ sứ điệp, nhưng một ý tưởng tuyệt giao.
Lời rao giảng của các môn đệ chưa trọn vẹn vì họ chưa rao giảng con người của Đức Giê-su – vã lại họ khó hiểu được Ngài vào giây phút nầy – nhưng chỉ chuẩn bị cho các tâm hồn: kêu gọi hoán cải. Như Đức Giê-su, lời rao giảng của họ kèm theo những dấu chỉ: trừ quỷ, xức dầu bệnh nhân và chữa lành bệnh tật.
4. Xức dầu bệnh nhân:
Vào thời Cựu Ước người ta xức dầu để làm dịu vết thương; các tông đồ xức dầu, không như một phương thuốc, nhưng như dấu chỉ biểu tượng của một tác động siêu nhiên. Công Đồng Tren-tô đã thấy trong cử chỉ của các tông đồ nầy một trực giác, một phác thảo bí tích xức dầu bệnh nhân. Thư thánh Gia-cô-bê chứng thực rằng bí tích nầy được thực hành ngay từ thời các tông đồ (Gc 5: 14-15).
Bệnh nhân được chữa lành, ma quỷ bị trục xuất, những cử chỉ của các tông đồ nầy được ghi khắc trong cùng những hàng với các cử chỉ của Đức Giê-su. Các sự dữ được gán cho tội lỗi: việc chúng bị giảm đi loan báo thời đại của lòng Chúa xót thương.
5. Ý nghĩa:
Bài diễn từ sai các môn đệ lên đường nầy rất cổ kính vì ảnh hưởng rất sâu đậm của các phong tục thời xưa. Tuy nhiên sứ điệp của nó rất hiện thực. Tin Mừng được truyền bá bằng những phương tiện tiện nghèo khổ và trao ban một cách vô vị lợi mời gọi mọi người đón nhận nó cũng một cách vô vị lợi. Sứ điệp được đi kèm theo các dấu chứng chiến thắng của Đức Ki tô trên sự Ác và Tử Thần là sứ điệp muôn thuở của bài trình thuật cổ kính nầy.
Hãy nhớ những người lãnh đạo anh em? xem đời họ kết thúc ra sao để noi theo lòng tin của họ.
Một tội nhân được giong đi pháp trường. Ðến nơi hành quyết lính vây quanh thành ba vòng: vòng trong cầm gươm, vòng giữa cầm giáo, vòng ngoài cầm cờ, sĩ quan oai vệ cưỡi ngựa cưỡi voi. Bỗng tội nhân lên tiếng nói đôi lời với những người có mặt, sau đó nói riêng với viên chỉ huy. Với viên chỉ huy tội nhân nói:
"Tôi xin gửi quan 30 đồng tiền để xin quan một ân huệ: xin đừng chém tôi một nhát, nhưng chém ba nhát. Nhát thứ nhất, tôi tạ ơn Chúa đã dựng nên tôi, và đưa tôi đến đất Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành nên tôi. Còn nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí trong đức tin, theo gương vị chủ chăn của mình. Và như thế họ đáng lãnh phần phúc cùng các thánh trên trời."
Tội nhân là Ðức Cha An vừa dứt lời, lính liền trói ngài vào cây cọc hình thập giá. Dân công giáo có mặt oà lên khóc. Lính chém Ðức Cha ba nhát như ngài đã yêu cầu. Ðầu và mình của vị tử đạo bị ném xuống sông. Có hai người lính thấm máu vị tử đạo liền bị tống giam. Ðồ đạc sách vở của Ðức Cha đều bị đốt.
Ðó là ngày 20 tháng 7, 1857. Trước đó hai tháng, Ðức Cha đã viết thư tạm biệt Ðức Giám Mục và các linh mục trong Giáo Phận. Từ nhà ngục tỉnh Nam Ðịnh ngày 28 tháng 5,1857, Ðức Cha An viết:
"Tù nhân trong Chúa gửi lời tạm biệt Ðức Cha và các cha cho tới ngày gặp nhau trên trời. Xin tất cả anh em tha thứ cho những điều lầm lỗi và gương xấu tôi đã làm? Gông xiềng tôi đang mang được coi là những báu vật Chúa Giêsu gửi cho tôi. Tôi vui mừng lắm và chỉ ước ao đổ máu vì Chúa, để máu tôi hoà với máu cực thánh Chúa Giêsu rửa linh hồn tôi được sạch mọi tội lỗi. Xin anh em cầu cho tôi vững tin đến cùng?"
Giuse Diaz Sanjurjo cất tiếng chào đời ngày 26 tháng 10, 1818 tại tỉnh Lugo nước Tây Ban Nha. Cậu là con cả trong gia đình có năm anh em mà một người sau là nữ tu Antonia. Lớn lên cậu theo học chủng viện Lugo. Chiến tranh khiến việc học của cậu bị gián đoạn ba năm nhưng sau được vào đại học, cậu đã tìm đến với tỉnh dòng Ða Minh Rất Thánh Mân Côi là tỉnh dòng đặc trách lo việc truyền giáo tại Viễn Ðông. Ở đây cậu đã lần lượt được nhận vào Tập Viện ngày 23 tháng 9, 1842; được tuyên khấn 24.9.1843. Cha Giuse Diaz Sanjurjo đến địa phận Ðông Ðàng Ngoài ngày 19.9.1845 với tên Việt Nam là An. Sau thời gian học tiếng Việt, cha An được giao nhiệm vụ coi sóc chủng viện tại Nam An.
Nhẹ nhàng để dễ di chuyển
Dưới thời vua Tự Ðức cấm đạo gắt gao năm 1848, cha An đã phải đau lòng gấp rút giải tán chủng sinh, chôn giấu các đồ thờ phượng và nhìn chủng viện bị tàn phá. Trong thư gởi một bạn ở Tây Ban Nha, cha An viết: "Chúng tôi chẳng còn nhà, chẳng còn sách vở và áo quần, chẳng còn gì nữa? nhưng chúng tôi vẫn an tâm vì nhớ lời Thầy Chí Thánh nói "Con Người không có chỗ gối đầu?"
Nhiệt thành với tương lai giáo phận, cha An tái lập chủng viện tại Cao Xá. Thời gian này cha biên soạn cuốn văn phạm La ngữ bằng tiếng Việt.
Qua tông thư đề ngày 05.09.1848, Ðức Piô IX thiết lập giáo phận Trung tách khỏi giáo phận Ðông Ðàng Ngoài. Giáo phận Trung gồm cả Bùi Chu và Thái Bình hiện nay, với dân số khi ấy là 140.000 giáo hữu rải rác trên 624 giáo xứ.
Người có công thuyết phục linh mục Marti Gia nhận chức vụ giám mục giáo phận mới thành lập chính là cha An. Trong bầu khí trao đổi thân tình, cha An đã phân tích các mặt của nhiệm vụ giám mục với những khó khăn trong thời cấm đạo. Kế đến cha nêu những nhu cầu của cộng đoàn dân Chúa mà vai trò phục vụ được giao cần phải đáp ứng. Cha An không ngờ sắc lệnh bổ nhiệm Ðức Cha Marti Gia làm giám mục giáo phận Trung Ðàng Ngoài, có ban quyền chọn giám mục phó. Ðức Cha Gia liền chọn người đã thuyết phục mình nhận chúc giám mục bản quyền, là cha An, làm giám mục phó.
Ðặt mình dưới sự săn sóc của Thiên Chúa
Sau khi thụ phong giám mục, cha An lại trở về Cao Xá tiếp tục coi sóc chủng viện. Trong thư gởi gia đình, đức tân giám mục viết: "Ở đây thì chức vụ cao chỉ thêm công việc, con thường phải đi bộ, có khi phải đi chân không, nhiều lần phải lội bùn đến đầu gối, để trốn tránh những người lùng bắt."
Tháng 3, 1850, Ðức Cha An giao chủng viện cho cha Sampedro Xuyên coi sóc rồi đi kinh lý toàn tỉnh Hưng Yên. Cuộc kinh lý bị bỏ dở. Hai linh mục Việt Nam cùng đi với Ðức Cha bị bắt. Ðức Cha thoát nạn nhưng về bị sốt rét nặng một thời gian. Hai năm sau, Ðức Cha Marti Gia lâm bệnh nặng và qua đời tại Hương Cảng ngày 26.4.1852. Thế là Ðức Cha An phải đến ở toà giám mục Bùi Chu để điều khiển công việc giáo phận mà mũi nhọn là công cuộc truyền giáo. Số người được chịu phép rửa tội năm 1852 lên tới 28.355 người. Ðức Cha An viết: "Ðó quả là phần thưởng đầy khích lệ để các nhà truyền giáo tiếp tục trách nhiệm tông đồ bất chấp âm mưu của thần dữ. Không nản lòng trước những cơ cực thiếu thốn, trước nguy hiểm vây quanh và những nghịch cảnh có thể xảy đến?"
Xảy ra là từ năm 1854, tại miền Bắc có giặc châu chấu của Lê Duy Cự và Cao Bá Quát. Họ kêu gọi người công giáo tham gia nhưng Ðức Cha An lên tiếng cấm bổn đạo không được chống lại chính quyền hợp pháp. Do đó các quan chức địa phương cũng nới tay trong việc thi hành sắc lệnh cấm đạo của nhà vua. Tổng đốc Nguyễn Ðình Tuân biết chính xác trụ sở toà giám mục Bùi Chu nhưng vẫn làm ngơ. Ông còn hứa nếu bất đắc dĩ phải sai quân truy nã thì ông sai người báo trước.
Không may khi ấy có quan thượng thư từ kinh đô về Nam Ðịnh nhằm lúc có người làng Thoại Miên là Chánh Mẹo, lên tỉnh tố cáo rằng có đạo trưởng Tây tên An ở Bùi Chu. Quan Tổng đốc buộc lòng phải ra lệnh truy bắt nhưng cũng cho người đi báo tin cho toà giám mục. Tiếc rằng tin đến nơi thì Ðức Cha An đã bị bắt. Khi lính đến bao vây, Ðức Cha chạy đi ẩn náu liên tiếp ở bốn nơi. Nơi cuối cùng ở giữa bụi tre khá kín. Nhưng đúng lúc Ðức Cha ngó đầu ra để xem lính đã đi chưa thì bị phát hiện và bị bắt.
Ðức Cha An bị giải về Nam Ðịnh và bị biệt giam hai tháng trước khi có án tử hình từ kinh đô truyền chém đầu Tây dương đạo trưởng tên An. Nhưng Ðức Cha An đã không bị cưỡng bức chịu tử hình. Ngài đã vui mừng đón nhận cái chết tử đạo vì yêu mến Ðức Giêsu vị Mục Tử nhân lành. Do đó ngài đã xin được chém ba nhát mà nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của ngài để họ bền chí trong đức tin, theo gương vị chủ chăn của mình.
Cuộc đời tông đồ và cái chết tử đạo của Ðức Cha An được kể vì gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của Mười Hai Tông Ðồ xưa. Mỗi giám mục đều là người kế vị các tông đồ của Ðức Giêsu. Chính Người gọi từng người môn đệ (Mc 1,16-20). Từ số các môn đệ ấy, Người tuyển chọn Nhóm Mười Hai (3,13-19) để Nhóm này ở lại bên Người hầu được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để họ trở nên những người được Ðức Giêsu sai đi như ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay (6,7-13). Họ có sứ mạng khử trừ các thần ô uế (c.7), đó là điều chính yếu. Nhưng họ còn được hướng dẫn về cách ăn vận, về đồ vật nào được mang theo, về nơi nào nên ở lại, về cách xử trí khi bị khước từ? Ðiều quan trọng là họ phải trở nên nhẹ nhàng cho việc di chuyển và phải đặt mình dưới sự săn sóc của Thiên Chúa.
Ðiều mà Tin Mừng Máccô gợi ý đối với các Kitô hữu xưa cũng như nay là chính họ cũng cần ở lại bên Ðức Giêsu để được Người huấn luyện. Ðức Giêsu hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi vẫn là một (Dt 13,8). Chính Người đứng đầu Giáo Hội. Người điều khiển mọi người nhờ Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh là Ðấng làm vang lên tiếng gọi của Chúa Giêsu nơi những tâm hồn quảng đại. Chúa Thánh Linh cũng là Ðấng làm cho cuộc huấn luyện các môn đệ vẫn còn tiếp tục trong Giáo Hội. Thư Do Thái nói rõ tính chất của cuộc huấn luyện đó khi nói "Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo của anh em, họ là những người làm cho anh em được nghe lời của Thiên Chúa và hãy xem cuộc đời của họ kết thúc như thế nào, để noi theo lòng tin của họ" (Dt 13,7).
Vậy bài Tin Mừng hôm nay đi đôi với cái chết tử đạo của các thánh tông đồ cũng như của các vị kế nghiệp Nhóm Mười Hai như trường hợp Ðức Cha An, phải trở nên sức mạnh củng cố ta trong đức tin và thăng tiến ta trong đức ái nhằm vinh danh Chúa hơn.
Một số câu hỏi gợi ý
Bạn tâm đắc được gì về đời tông đồ và cái chết tử đạo của Ðức Cha An: nhát chém thứ ba như lời di chúc cho bổn đạo tôi để họ bền chí trong đức tin? Gông xiềng tôi đang mang được coi là những báu vật Chúa Giêsu gởi cho tôi? Chúng tôi chẳng còn nhà, chẳng còn sách vở và áo quần nhưng được an tâm vì theo gót bước Ðức Giêsu?
Bạn thấy cuộc đời và cái chết tử đạo của Ðức Cha An vọng lại những điểm nào do bài Tin Mừng hôm nay, như về nghèo khó để dễ di chuyển? Về tinh thần phó thác cho Chuá săn sóc? Về nhiệt thành phục vụ Giáo Hội?
Bài đọc I nhắc nhớ rằng ngôn sứ A-mốt, vốn xuất thân từ vương quốc phương Nam, cũng được gọi vương quốc Giu-đa, được Thiên Chúa sai đi rao giảng cho các con chiên lạc của vương quốc phương Bắc, cũng được gọi vương quốc Ít-ra-en. Sứ vụ thật khó khăn và cuối cùng vị ngôn sứ bị trục xuất.
Mc 6: 7-13:
Tin Mừng tường thuật việc Đức Giê-su sai nhóm Mười Hai ra đi thi hành sứ vụ với lời căn dặn phải có tinh thần siêu thoát hoàn toàn, cũng như báo trước những thất bại có thể có.
Ep 1: 3-14:
Đề tài chính của đoạn trích thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô hôm nay được trình bày ngay từ phần mở đầu: thiên ý cứu độ nhân loại được Đức Ki tô mặc khải và hoàn tất, và được giao phó cho Giáo Hội.
Các sự việc diễn ra ở vương quốc phương Bắc, dưới triều đại của vua Gia-róp-am II (787-747 BC)
1. Hoàn cảnh lịch sử.
Để hiểu rõ hoàn cảnh lịch sử ở đó ngôn sứ A-mốt được Thiên Chúa sai đi thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình, xin được nhắc lại, sau khi vua Sa-lô-mon băng hà, vào năm 931BC, mười hai bộ tộc Ít-ra-en chia rẽ nhau. Hai bộ tộc vẫn trung thành với vương triều Đa-vít và thành lập vương quốc phương Nam, còn gọi là vương quốc Giu-đa. Mười bộ tộc còn lại chọn cho mình một vị vua mới, Gia-róp-am và hình thành nên vương quốc phương Bắc, còn gọi là vương quốc Ít-ra-en.
Vương quốc phương Nam có lợi thế là Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đối lại, vương quốc phương Bắc thiết lập hai đền thánh: đền thánh Ghin-gan ở cực bắc xứ Pha-lê-tinh, bên cạnh một trong những nguồn nước của sông Gio-đan; và đền thánh Bết-En, ở cực nam cách Giê-ru-sa-lem khoảng chừng 15 cây số. Đền thánh Bết-En có ưu điểm là nhắc nhớ tổ phụ Gia-cóp; chính ở nơi đây mà tổ phụ đã có một giấc mơ lưu truyền mãi (một chiếc thang nối liền trời và đất) trong đó ông đã nghe tiếng Đức Chúa phán. Vì thế vị tổ phụ đã gọi nơi nầy là Bết-En, nghĩa là “Nhà của Thiên Chúa”.
Hai đền thánh nầy, cũng như các tư tế phụng sự chúng, hoàn toàn lệ thuộc vương triều, như ông A-ma-xi-a, tư tế đền thờ Bết-En, giải thích cho ngôn sứ A-mốt: “Đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều”.
Vốn là người sinh sống ở vương quốc phương Nam; vị ngôn sứ đã được Thiên Chúa sai đến vương quốc phương Bắc để thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình. Ngôn sứ xuất thân từ một thị trấn miền Bết-lê-hem; ông làm nghề chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung, chính xác là châm những trái nho dại để làm cho chúng trở thành trái ngọt và mau chín (phải chăng đây cũng chính là ý nghĩa sứ mạng ngôn sứ của ông?).
Sứ mạng của vị ngôn sứ thật khó khăn. Ông phải ngỏ lời với dân chúng đang sống trong cảnh thanh bình, thịnh vượng và phú túc. Tuy nhiên, xã hội lắm bất công. Những kẻ lắm tiền nhiều của liên kết với những kẻ có thế có quyền đàn áp những người cùng khổ. Sứ điệp của ngôn sứ gởi đến vương quốc thịnh vượng nầy thật nghiêm khắc: “Chúng ghét người sửa trị nơi cửa công và thù oán kẻ ăn ngay nói thật. Vậy, bởi các ngươi chà đạp kẻ yếu hèn và đánh thuế lúa mì của họ, nên những ngôi nhà bằng đá đẻo các ngươi đã xây, các ngươi sẽ không được ở; những gốc nho ngon ngọt các ngươi đã trồng, các ngươi sẽ không được uống rượu của chúng. Bởi Ta biết tội ác các ngươi nhiều vô kể, tội lỗi các ngươi nặng tầy trời: nào áp bức người công chính, lại đòi quà hối lộ, nào áp bức kẻ nghèo hèn tại cửa công” (5: 10-12). Vị ngôn sứ phẩn uất trước những lễ lạc xa hoa, những đám rước linh đình của những kẻ làm giàu trên xương máu của những người nghèo hèn và nhận thấy ở nơi những lớp võ thịnh vượng vật chất giả tạo bên ngoài là thực chất của một xã hội bất công thối nát. Vào thời buổi nầy, cách xử thế khôn ngoan nhất là “Dĩ hòa vi quý”: “Bởi thế thời buổi nầy, ai cẩn trọng thì làm thinh, vì đây là một thời khốn quẩn” (5: 13). Bởi thế, vị ngôn sứ tuyên sấm tố cáo lối sống gian trá của vương quốc nầy: “Vào ngày Ta trị tội Ít-ra-en Ta sẽ triệt hạ các bàn thờ của Bết-Ên: các sừng của bàn thờ sẽ bị bẻ gãy và quăng xuống đất. Biệt thự mùa đông, biệt thự mùa hè, Ta sẽ triệt phá; điện ngọc đền ngà sẽ sụp đổ, lâu đài dinh thự cũng tan hoang” (3: 14-15).
Quả thật, vị ngôn sứ đã thấy trước mối nguy hiểm của các đạo quân Át-sua và ông ra sức cảnh báo ngõ hầu vương quốc Ít-ra-en thoái khỏi án phạt: “Hãy tìm Đức Chúa thì các ngươi sẽ được sống” và “Hãy tìm kiếm điều lành chứ đừng tìm điều dữ rồi các ngươi sẽ sống”. Ngôn sứ A-mốt không nêu đích danh Át-sua; ông chỉ nói đơn giản “quân thù”: “Quân thù sẽ bao vây lãnh thổ, sẽ triệt hạ sức mạnh của ngươi, và đền đài của ngươi sẽ bị cướp phá…” (3: 11). Rảo khắp các thành thị và đền thánh, vị ngôn sứ cảnh báo: liệu Thiên Chúa sẽ gìn giữ dân của Ngài, nếu dân vẫn cứ ngoan cố trong tội ác của mình? Sấm ngôn của ông càng lúc càng đe dọa. Sấm ngôn của ông sẽ được ứng nghiệm. Vương quốc phương Bắc sẽ sụp đổ dưới những cuộc tấn công của quân đội Át-sua và biến mất vĩnh viễn khỏi lịch sử vào năm 721 BC.
2. Phẩm chất của vị ngôn sứ của Thiên Chúa.
Tư tế A-mát-gia tố cáo vị ngôn sứ với vua Gia-róp-am: “A-mốt âm mưu chống đức vua ngay trên lãnh thổ Ít-ra-en, và đất nước nầy không còn chịu nổi bất cứ lời nào của ông ta nữa. Vì A-mốt nói như thế nầy: Gia-róp-am sẽ chết vì gươm, và Ít-ra-en sẽ bị đày biệt xứ” (7: 10-11). Hoặc thừa hành lệnh vua, hoặc lệnh của mình với tư cách vị tư tế lãnh đạo đền thờ Bết-Ên, A-mát-gia truyền lệnh cho ngôn sứ A-mốt ra khỏi thánh địa nầy mà trở về vương quốc Giu-đa: “Nầy thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm!”.
Tư tế A-mát-gia vu khống ngôn sứ A-mốt khi đồng hóa vị ngôn sứ với các ngôn sứ nghề nghiệp, họ tuyên sấm như một nghề nghiệp để làm ăn, để kiếm tiền. Trước lời vu khống nầy, Ngôn sứ A-mốt đáp lại: ông không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ, nhưng chỉ là người chăn súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa “đã bắt lấy” ông khi ông đang làm công việc của mình, nghĩa là Ngài đã gọi ông và sai ông đi thi hành sứ mạng của Ngài mà ông không thể cưỡng kháng được. Đó là cứu thoát dân Ít-ra-en khỏi án phạt của Thiên Chúa sắp đến.
Phải chăng lệnh truyền của tư tế A-mát-gia đã chấm dứt sự vụ của ngôn sứ A-mốt? Chúng ta không biết chính xác; nhưng xem ra sứ mạng của A-mốt chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, sứ điệp của ông vẫn lưu danh muôn thuở.
Ngôn sứ A-mốt là ngôn sứ xưa nhất mà chúng ta vẫn còn gìn giữ được sứ điệp bằng văn tự của ông. Ông đã khai mào độc thần giáo luân lý của truyền thống ngôn sứ bằng văn tự: đưa đạo vào đời. Ở nơi sứ điệp của ông chúng ta gặp thấy âm vang lời dạy của Công Đồng Va-ti-can II trong Hiến Chế “Vui Mừng và Hy Vọng”: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki tô, và không có gì thật sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ. Thật vậy, cộng đoàn của họ được cấu tạo bằng những con người đã được quy tụ trong Chúa Ki tô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc lữ hành về Nước Cha và đã đón nhận Tin Mừng cứu rỗi đem đến cho mọi người. Vì thế, cộng đoàn ấy mới nhận thấy mình thực sự liên đới mật thiết với loài người và lịch sử loài người” (1).
BÀI ĐỌC II (Ep 1: 3-14)
Vào Chúa Nhật XV nầy, chúng ta khởi sự đọc những đoạn văn chính yếu được trích từ thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô.
Thánh Phao-lô đã viết bức thư nầy khi ngài bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Chủ đề của bức thư là ý định Thiên Chúa trên nhân loại, được Đức Giê-su mặc khải, thực hiện và trao phó cho Giáo Hội tiếp tục hoàn tất.
1. “Chúc tụng Thiên Chúa…”
Đoạn văn mà chúng ta đọc là phần đầu của bức thư ngay sau lời chào mở đầu. Thánh nhân diễn tả tâm tình tạ ơn theo cách thức cầu nguyện theo truyền thống Do thái, được gọi “berakah”: “Chúc tụng Thiên Chúa”. Dù cá nhân hay cộng đoàn, lời kinh nguyện nầy bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, không trong quan điểm trừu tượng, nhưng luôn luôn vì những ân phúc rõ ràng. “Lời kinh chúc tụng” (Berakah) nầy có thể là lời cầu nguyện tự phát của cá nhân mà những lời kinh “magnificat” cung cấp những điển hình của bà An-na, mẹ ông Sa-mu-en, của ông Tô-bi-a, của Đức Ma-ri-a. Đây cũng là lời kinh nguyện gia đình trước bữa ăn và đặc biệt long trọng vào bữa ăn vượt qua. Đức Giê-su đã đọc “lời kinh chúc tụng” trên bánh và rượu. Sau cùng, lời kinh chúc tụng là hình thức tuyệt vời nhất của kinh nguyện hội đường.
Thánh Phao-lô, trước đây là kinh sư, vẫn trung thành với hình thức ngợi khen nầy. Toàn bộ bài thánh thi nầy kể ra muôn phúc lộc mà Thiên Chúa đã đổ đầy cho nhân loại như chúng ta gặp thấy thánh nhân cũng bắt đầu thư thứ hai gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô như vậy: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi nhân ái, và là Thiên Chúa hằng sẳn lòng ủi an những ai lâm cảnh gian nan khốn khó…” (2Cr 1: 3).
2. Ý định muôn thuở của Thiên Chúa.
Trước tiên, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng Thiên Chúa là nguyên lý và nguồn mạch của muôn phúc lộc và Ngài đã chuẩn bị từ muôn thuở kế hoạch của Ngài trên nhân loại.
Chúng ta ghi nhận rằng “lời kinh chức tụng” này bắt đầu với: “Từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ân phúc của Thánh Thần” và được hoàn tất trên viễn cảnh của dân riêng, dân được chọn, được thừa hưởng gia sản được hứa ban, nghĩa là gia sản trên cõi trời. Rõ ràng theo cách thức của thánh nhân, công thức kết thúc chủ ý nhắc lại những gợi ý ban đầu (kỷ thuật đóng khung). Như vậy, chúng ta khởi đi từ cõi trời từ đó đến muôn vàn phúc lộc để gặp lại cùng những thiên ân tối hậu trên cõi trời nầy.
3. Đức Ki tô và chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Chính nhờ Đức Ki tô, Thánh Tử của Người mà chương trình cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện.
Trong nhiệm cục xưa, mọi sự đều nhằm chuẩn bị cho cuộc giáng trần của Đức Giê-su; trong nhiệm cục mới, mọi sự đều khởi đi từ Đức Ki tô. Thánh Phao-lô đặt ở trung tâm lời nguyện ngợi khen của mình công trình cứu chuộc. Đối với trí khôn loài người, mặc khải mầu nhiệm nầy hình thành nên một sự khai mở diệu kỳ và “khôn dò”, tròn đầy khôn ngoan (chúng ta nhận ra ở đó một đề tài rất tâm đắc của thánh nhân trong thư gởi tín hữu Ê-phê-sô nầy).
Sau cùng, thánh nhân gợi lên hành động hiệp nhất của Đức Giê-su, Đấng “quy tụ ở nơi Ngài muôn loài trong trời dưới đất”. Động từ Hy lạp “ana-kephalaïô” dịch “quy tụ” được thánh Phao-lô dùng một lần khác trong thư của thánh nhân gởi cho các tín hữu Rô-ma, để nói lên rằng giới luật Đức Ái “thâu tóm” tất cả mọi giới luật khác (Rm 13: 9).
Trong đoạn văn trích từ thư gởi các tín hữu Ê-phê-sô nầy, ý nghĩa cũng như vậy. Đức Giê-su “thâu tóm” toàn thể vũ trụ vì Ngài là cách thức diễn tả cao nhất của toàn thể vũ trụ, mọi loài đều quy hướng về Ngài. Nối tiếp với thánh Phao-lô, từ “thâu tóm” đã đi vào trong từ vựng thần học, nhất là với thánh I-rê-nê, và trở thành đối tượng của biết bao khai triển.
Nói một cách chính xác, thánh Phao-lô không gán cho Đức Ki tô vai trò vũ trụ, nhưng triển khai khái niệm nhiệm thể. Theo cách nầy, thánh nhân đáp lại những quan niệm Do thái, mà ngài đã chống lại rồi trong thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-sê, đồng thời cũng đáp trả những quan điểm của phái khắc kỷ.
Trong vài môi trường Do thái, người ta gán cho các thiên thần một vai trò đặc biệt và xem các thiên thần là những người tổ chức vũ trụ. Các Ki tô hữu xuất thân từ Do thái giáo gìn giữ những niềm tin như thế nên giảm nhẹ vai trò của Đức Ki tô. Thánh Phao-lô hiệu đính lại mọi việc.
Đối với phái khắc kỷ, họ thấy trong sự hòa điệu và trật tự của vũ trụ ảnh hưởng sức mạnh thần thiêng. Những cách diễn tả của thánh Phao-lô rất gần với phái khắc kỷ, nhưng thánh nhân loại bỏ tất cả khuynh hướng phiếm thần. Về điểm nầy, thánh nhân định vị mình vào trong truyền thống minh triết Cựu Ước, mượn vài đề tài ở nơi trường phái khắc kỷ nhưng định vị chúng vào trong viễn cảnh của sự siêu việt thần linh (Hc 43: 26-28; Kn 1: 7; 7: 22-23; 12: 1, vân vân).
3. Diễn tiến lịch sử của chương trình Thiên Chúa: khía cạnh Ba Ngôi.
Lúc đó thánh Phao-lô nhắm đến việc diễn tiến trong Lịch Sử chương trình Thiên Chúa trên nhân loại. Các giai đoạn bày tỏ ba hành động của Thiên Chúa: hành động của Chúa Cha, hành động của Chúa Con, hành động của Chúa Thánh Thần.
Trước tiên, thánh nhân gợi lên việc tuyển chọn của Ít-ra-en, dân được Chúa chọn để làm nhân chứng về việc trông đợi Con của Ngài; thánh nhân ngõ lời với các tín hữu gốc Do thái mà ngài kể mình vào trong số họ với đại từ “chúng tôi”: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây…”.
Tiếp đó, thánh nhân nói với các tín hữu gốc lương dân bằng đại từ “anh em”: “Trong Đức Ki tô cả anh em nữa, anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em…”.
Sau cùng, việc sai phái Chúa Thánh Thần một cách nào đó hình thành nên lời cam kết mà Thiên Chúa đã hứa là ban gia nghiệp, nghĩa là được sống bên Ngài để “ngợi khen vinh quang Thiên Chúa”.
Diễn ngữ “ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” lập lại đến ba lần như một điệp khúc trong lời kinh chúc tụng nầy. Đó là mục đích tối hậu của chương trình Thiên Chúa: đó là cứu cánh của nhân loại.
TIN MỪNG (Mc 6: 7-13)
Trong chương trước, thánh Mác-cô đã tường thuật việc Đức Giê-su chọn nhóm Mười Hai khi xác định: “Người thiết lập nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (3: 14). Thánh Lu-ca tường thuật cùng một sự kiện và nói thêm: “Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ” (Lc 6: 13). Thật ra, các thánh ký đã tránh dùng danh xưng “Tông Đồ” nầy – thánh Gioan không bao giờ dùng thuật ngữ nầy – vì danh xưng “Tông Đồ” tức là “người được sai đi” mà chỉ mình Đức Giê-su xứng đáng với tước hiệu nầy: Ngài là Đấng được sai đi từ Chúa Cha. Chung chung các thánh ký thường nói: “nhóm Mười Hai” hay “các môn đệ”.
Sau một thời gian chuẩn bị: “nhóm Mười Hai” đã sống với Ngài, đã lắng nghe giáo huấn của Ngài, đã là những nhân chứng về các phép lại của Ngài, cũng như về sự thất bại của Ngài ở Na-da-rét, Đức Giê-su cho rằng đã đến lúc đặt các ông vào trong thử thách khi sai các ông đi thi hành sứ vụ.
Cử chỉ nầy của Đức Giê-su là một sự mới mẽ. Vào thời của Ngài, các kinh sư quy tụ chung quanh mình một nhóm môn đệ, để chia sẻ cuộc sống của mình; họ không bao giờ nghĩ đến việc sai các môn đệ ra đi và ủy quyền cho các môn đệ một sứ mạng.
Chính Đức Giê-su đích thân sai các ông đi, như sau nầy Ngài sẽ nói với họ trước khi từ giả các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em đi”.
1. Sai đi từng hai người một.
Ngài sai các ông đi từng hai người một. Thánh Mát-thêu đã gìn giữ cho chúng ta nhóm từng hai người một nầy: Phê-rô và An-rê, Gia-cô-bê và Gioan, Phi-líp-phê và Ba-tô-lô-mê-ô, Tô-ma và Má-thêu, Gia-cô-bê và Ta-đê-ô, Si-mon và Giu-đa.
Có phải ở đây Đức Giê-su quan tâm đến tâm lý? Chắc chắn công việc dể dàng hơn nếu có hai người cùng chung sức làm, nhưng cũng vì quy định của Lề Luật theo đó một lời chứng chỉ có giá trị nếu nó được hai nhân chứng cung cấp (cf. Đnl 17: 6; 19: 15; Ds 35: 30); thêm nữa, con số hai cũng là biểu tượng cộng đoàn, nghĩa là các thừa sai không làm việc đơn lẻ mà là làm việc theo từng nhóm.
Các môn đệ sẽ làm chứng từng hai người một về những dấu chỉ của Vương Quốc Thiên Chúa:
quyền năng trên những thế lực của sự ác,
siêu thoát khỏi những bận lòng trần thế để nhắm đến những của cải tinh thần.
2. Hành trang của vị thừa sai.
Đoạn những căn dặn của Đức Giê-su nhắm đến hành trang thật gọn nhẹ của các môn đệ, hay đúng hơn không trang bị gì cả: không lương thực, không bao bị, không tiền giắc lưng, không áo để thay đổi. Có vài chi tiết khác biệt giữa các Tin Mừng Nhất Lãm, tuy nhiên bài học thì rõ ràng: đức khó nghèo và sự phó thác hoàn toàn vào ơn Quan Phòng phải là những dấu ấn mà các thừa sai để lại trong lòng mọi người. Phong thái họ cực kỳ đơn giản giống như những lữ khách lòng không vương vấn bất cứ điều gì cả. Họ được mô tả như những khách hành hương luôn luôn sống trong tư thế lên đường, không tìm cách định cư ở một nơi nào nhất định, bởi vì cón có những nơi khác cần đến sứ điệp của họ nữa. Vào lúc dùng bữa sau cùng với các môn đệ, Đức Giê-su sẽ hỏi các ông: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”. Mọi người đồng thanh đáp: “Thưa không” (Lc 22: 35).
Quả thật truyền thống hiếu khách đông phương tạo cơ hội thuận tiện cho việc thi hành sứ vụ của các các môn đệ trên đường. Tuy nhiên Đức Giê-su căn dặn họ một sự ổn định nào đó: “Khi anh em vào nhà nào mà người ta đón tiếp, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi”.
3. Giũ bụi chân.
Là vị thừa sai đi rao truyền sứ điệp một cách vô vị lợi, nên họ được hưởng quyền tiếp đón một cách vô vị lợi từ những gia đình mà họ viếng thăm. Nhưng Đức Giê-su cũng tiên liệu sứ điệp kêu gọi hoán cải mà họ sẽ ra gảng có thể kéo theo sự khước từ: “Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ”.
Đây là tập tục của người Do thái sau cuộc hành trình trở về. Vào lúc đặt chân lên miền đất Pha-lệ-tinh họ giũ bụi đường khỏi giày dép để không đưa bụi phàm trần vào đất của mình mà họ coi như đất thánh. Trong lời căn dặn của Đức Giê-su, không có bất kỳ một sự khinh bĩ nào đối với những người khước từ sứ điệp, nhưng một ý tưởng tuyệt giao.
Lời rao giảng của các môn đệ chưa trọn vẹn vì họ chưa rao giảng con người của Đức Giê-su – vã lại họ khó hiểu được Ngài vào giây phút nầy – nhưng chỉ chuẩn bị cho các tâm hồn: kêu gọi hoán cải. Như Đức Giê-su, lời rao giảng của họ kèm theo những dấu chỉ: trừ quỷ, xức dầu bệnh nhân và chữa lành bệnh tật.
4. Xức dầu bệnh nhân:
Vào thời Cựu Ước người ta xức dầu để làm dịu vết thương; các tông đồ xức dầu, không như một phương thuốc, nhưng như dấu chỉ biểu tượng của một tác động siêu nhiên. Công Đồng Tren-tô đã thấy trong cử chỉ của các tông đồ nầy một trực giác, một phác thảo bí tích xức dầu bệnh nhân. Thư thánh Gia-cô-bê chứng thực rằng bí tích nầy được thực hành ngay từ thời các tông đồ (Gc 5: 14-15).
Bệnh nhân được chữa lành, ma quỷ bị trục xuất, những cử chỉ của các tông đồ nầy được ghi khắc trong cùng những hàng với các cử chỉ của Đức Giê-su. Các sự dữ được gán cho tội lỗi: việc chúng bị giảm đi loan báo thời đại của lòng Chúa xót thương.
5. Ý nghĩa:
Bài diễn từ sai các môn đệ lên đường nầy rất cổ kính vì ảnh hưởng rất sâu đậm của các phong tục thời xưa. Tuy nhiên sứ điệp của nó rất hiện thực. Tin Mừng được truyền bá bằng những phương tiện tiện nghèo khổ và trao ban một cách vô vị lợi mời gọi mọi người đón nhận nó cũng một cách vô vị lợi. Sứ điệp được đi kèm theo các dấu chứng chiến thắng của Đức Ki tô trên sự Ác và Tử Thần là sứ điệp muôn thuở của bài trình thuật cổ kính nầy.
Mới đây tôi được cùng dâng Thánh Lễ Tạ Ơn của một “Cha mới”, và hôm đó ca đoàn hát những bài rất cảm động và sốt sáng, đặc biệt bài:
“Thần Khí Chúa đã sai tôi đi… Sai tôi đi loan báo Tin Mừng… Sai tôi đến với người nghèo khó, Sai tôi đến với người lao tù…”
Rồi sau những ngày vui mừng tạ ơn Chúa cùng với cha mẹ, anh chị em trong gia đình và thân bằng quyến thuộc, hôm nay “Cha mới” đó đã được Chúa sai đi “rao giảng Tin Mừng” ở một nước nghèo khó mãi tận bên Phi Châu. Như tôi được biết, trong năm nay (2009) có tới 35 thanh niên Việt nam đã được lãnh nhận chức Linh Mục tại Hoa kỳ; trong số đó đã có một số được Chúa sai đi truyền giáo ở những nước nghèo khó ở Nam Mỹ, hoặc Phi Châu.
Các Bài Đọc Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta thấy việc Chúa chọn một số người trong Cựu Ước cũng như Tân Ước và sai đi làm công việc của Chúa.
Trong Cựu Ước, Chúa chọn một số người làm tiên tri để “đến nói những mệnh lệnh của Chúa cho Dân Chúa.” Trong Tân Ước, chính Chúa Giêsu (Gioan 15:16) cũng chọn một số người làm những Tông đồ để ra đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng cho mọi người (Matcô 16:15). Những người Chúa chọn, dù trong thời Cựu Ước hay Tân Ước, đều hoàn toàn do ý Chúa: “Không phải chúng con đã chọn Thày, nhưng chính Thày đã chọn chúng con!” (Gioan 15:16). Việc ‘Chúa gọi và chọn’ luôn là một mầu nhiệm trong ý định của Thiên Chúa (Ephêsô 1: 8-9). Chính người được chọn nhiều khi cũng bỡ ngỡ, lạ lùng.
Ngoài ra, nhiệm vụ Chúa trao phó cho những người Chúa chọn thường có nhiều khó khăn (Gioan 15: 18-25, 16: 1-2, 33) đòi buộc những hy sinh, từ bỏ, can đảm và khôn ngoan sáng suốt (Mathêu 10:16). Vì thế, có những người muốn từ chối tiếng Chúa gọi như trường hợp tiên tri Giona đã phải ‘trốn đi tránh mặt Thiên Chúa’ để khỏi làm nhiệm vụ tiên tri cho Chúa; nhưng cuối cùng, Chúa vẫn đòi buộc ông phải ra đi làm nhiệm vụ rao giảng sự thống hối cho dân thành Ninivê. Tiên tri Amos trong bài Đọc I hôm nay (Amos 7: 12-15) cũng bị Tư tế Amasia đe dọa: “Tiên tri ơi, ông hãy đi nơi khác đi, đừng có nói tiên tri ở đây…” và Amos cũng thú nhận mình chỉ là người tầm thường, đi chăn chiên, đi hái trái vả mà thôi, nhưng Chúa cứ bảo “Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân của Ta!”
Trong Bài Phúc Âm (Matcô 6: 7-13), Chúa Giêsu chọn 12 Tông đồ và cũng trao cho nhiệm vụ “ra đi rao giảng sự thống hối.” Nhiệm vụ thật khó khăn và tế nhị ( Matthêu 10,16: Thày sai các con đi như chiên giữa sói rừng…), nên Chúa đã sai các Tông đồ đi từng 2 người để gìn giữ và giúp đỡ lẫn nhau. Chúa Giêsu cũng căn dặn các ông những điều rất thực tế trên đường truyền giáo: sống đơn sơ, khó nghèo…làm sao để luôn xứng đáng những ‘Tông đồ của Chúa’ và can đảm rao giảng Lời Chúa cho mọi người trong mọi hoàn cảnh.
Thánh Phaolô cũng được Chúa chọn một cách kỳ diệu để làm nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho những người ‘ngoài Do Thái’, và cũng gặp bao khó khăn, thử thách trên bước đường truyền giáo (2 Corintô 1: 8; 11: 24-29). Trong Bài Đọc II hôm nay (Ephêsô 1: 3-14), Thánh Phaolô nói đến việc Chúa chọn chúng ta ‘từ thuở đời đời’ để làm dân riêng của Chúa; đó là do ‘Thiên Ý nhiệm mầu trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa trong Đức Kitô’.
Mỗi người chúng ta, sau khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, chúng ta cũng được Chúa sai đi, đi vào các môi trường sống hàng ngày để loan báo Tin Mừng ơn cứu độ đến cho mỗi người mà chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống hàng ngày: nơi gia đình, sở làm, xưởng thợ, trường học… Đó là việc tông đồ giáo dân mà Công Đồng Vatican II đã nhấn mạnh trong Hiến Chế “Tông Đồ Giáo Dân”. Chúng ta đều phải là những chứng nhân của Chúa, đều phải tìm mọi dịp để đem Chúa đến cho mọi người, nhất là bằng đời sống tốt lành, lương thiện của chúng ta.
Trong “Năm Linh Mục”, chúng ta cũng cần ý thức bổn phận vun trồng Ơn Thiên Triệu Linh Mục nơi giới trẻ, và dâng những hãm mình, hy sinh, cầu nguyện xin ơn thánh hóa cho những người đã được Chúa gọi và chọn làm Tông đồ đặc biệt của Chúa trong chức vụ Linh Mục.
Mười hai môn đệ lên đường theo lệnh Chúa Giê-su mà chẳng mang theo gì cả: không lương thực, không tiền bạc, không mang thêm chiếc áo thứ hai, không bao bị, ngoại trừ hai vật dụng tối cần là cây gậy và đôi dép (Mc 6, 8-9). Ngoài ra, các môn đệ lại là những người ít học, khả năng khiêm tốn…
Vậy mà các ngài đã đạt được những thành quả tuyệt vời: Xua trừ nhiều ma quỷ, chữa lành nhiều bệnh nhân, kêu gọi người ta ăn năn sám hối! (Mc 6,13)
Nhờ đâu các ngài đạt được những thành quả phi thường nầy?
Tất cả là do quyền năng Thiên Chúa.
Khi sai các môn đệ lên đường không chút hành trang, Chúa Giê-su muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa. Chính Chúa Giê-su hoạt động qua các vị như đôi bàn tay của Người.
Chúng ta là chi thể của Chúa Giê-su
Từ ngày lãnh bí tích rửa tội, chúng ta được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giê-su như cành liền cây, như bàn tay nối liền cơ thể và từ đó, chúng ta được thông dự vào sứ mạng ngôn sứ, tư tế và vương đế của Chúa Giê-su.
Từ đó, Chúa Giê-su muốn rao giảng qua chúng ta là môi miệng của Người; Chúa Giê-su muốn chăm sóc bệnh nhân và người đau khổ qua chúng ta là đôi tay của Người; Chúa Giê-su muốn tỏ lòng thương xót nhân loại qua chúng ta là trái tim của Người.
Thế nên, chúng ta phải cùng hoạt động với Chúa Giê-su và để Người sử dụng chúng ta như chi thể của Người mà tiếp nối sứ mạng loan Tin Mừng và đem ơn cứu độ cho thế giới.
Chúng ta không thể viện cớ mình nghèo nàn, ít học, yếu đuối… để từ khước sứ mạng Chúa giao, vì mười hai môn đệ đầu tiên được Chúa sai đi cũng không có nhiều khả năng, nhiều điều kiện hơn chúng ta hôm nay. Các vị lên đường theo lệnh Chúa Giê-su dù không mang lương thực, không tiền bạc, không bao bị, không cả chiếc áo thứ hai mà vẫn đạt được thành quả tốt đẹp khác thường. Chúng ta cũng có thể đạt được hiệu quả như thế nếu chúng ta hiến mình cho Chúa Giê-su sử dụng.
Đừng trở nên bàn tay tê bại
Nhân loại hôm nay đông đảo gấp hàng triệu lần so với thời các môn đệ đầu tiên nên nhu cầu loan báo Tin Mừng lúc nầy càng cấp bách và khẩn thiết hơn bao giờ hết. Hôm nay Chúa Giê-su vẫn liên lỉ kêu mời mỗi người chúng ta tham gia sứ vụ loan Tin Mừng như các môn đệ xưa.
Là chi thể của Chúa Giê-su, chúng ta không thể từ chối tham gia vào công việc cứu độ của Người. Một chi thể không cùng các chi thể khác tham gia vào các hoạt động của thân mình là một chi thể tê bại hoặc là một chi thể thừa (như ngón thứ sáu -ngón tay thừa- trên một bàn tay).
Một chi thể tê bại (hoặc thừa) chẳng những không mang lợi ích gì cho thân mình mà còn trở nên chướng ngại cho hoạt động của toàn thân. Chắc chắn không ai trong chúng ta muốn làm một chi thể tê bại trong Thân Mình Chúa.
Vậy thì hãy sẵn sàng hiến thân làm khí cụ cho Chúa Ki-tô.
Khi chúng ta hiến đời mình để Chúa Giê-su sử dụng như bàn tay của Người, chắc chắn nhiều điều kỳ diệu sẽ được Người thực hiện qua con người mỏng giòn yếu đuối của chúng ta.
Ngôn sứ được dịch từ từ ngữ "Navi”, có nghĩa là “kêu gọi” hoặc “thông báo”. Navi là người được kêu gọi hoặc là người thông báo. Với những ý nghĩa này, chúng ta có thể hiểu ngôn sứ là sứ giả và là người phát ngôn của Lời Thiên Chúa. Với những hình thức và sự biến đổi, phong trào ngôn sứ có thể nói đã hình thành từ thời thượng cổ, ở các tôn giáo Aicập vùng Trung Đông. Mãi đến thế kỷ XI tcn, thế kỷ VIII tcn và thế kỷ XVIII tcn nó bắt đầu phát triển. Xét về hình thức và nội dung, những sứ điệp của các “Navi” gởi đến nhà vua cũng giống như những sứ điệp của các ngôn sứ cổ của nước Itrael được ghi chép trong Thánh kinh.
Amos một ngôn sứ được Thiên Chúa kêu gọi khi ông còn là một người chăn chiên ở Tơcôa, ven hoang địa Giuđa. Ông làm ngôn sứ dưới triều vua Gia-róp-am II(783-743). Vị ngôn sứ Miền Nam It-ra-el được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ của Miền bắc, trong nột thời kỳ đầy hưng thịnh của vương quốc này. Ông tố cáo sự bất công xã hội, và sự sùng bái ngẫu tượng của con người. Lên án sự bất công của xã hội và kêu mời con người tôn thờ một Chúa duy nhất, đó chính là sứ điệp của vị sứ ngôn này. Dù xuất thân từ cảnh du mục, lang thang đây đó với nghề nuôi bò và châm quả sung(Am 7, 14), Amos vẫn luôn ý thức sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa giao trọng trách cho ông. Cũng vậy, các môn đệ của Đức Giêsu, cũng được gọi làm ngôn sứ trong những hòan cảnh và nghề nghiệp khác nhau, người thì dân chài, kẻ lại nghề thu thuế, kẻ khác thì thương gia.
Nhưng tất cả đều được chọn và nhận lãnh sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Họ là những người sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, cuộc đời của các ngôn sứ hình như luôn kết thúc trong tù đày, trong sự bách hại và không mấy an tòan về cuộc đời cũng như tính mạng của mình. Ra đi và hòan tòan tín thác phận số cho Thiên Chúa, không mang theo gì, kể cả những thứ cần thiết cho nhu cầu cuộc sống. Loan báo Tin mừng, lên án những án xử bất công, họ luôn đứng về phía những người nghèo, bênh vực cho những cô nhi và góa phụ. Không có một quyền lực trần thế nào có thể làm cho các ngôn sứ chùn chân mỏi gối, họ như những chiến sỹ xông pha trận địa, mọi hiểm nguy nào đâu xá kể, tất cả chỉ để Tin Mừng của Đức Giêsu vang vọng đến tận cùng thế giới. Đức Giêsu, vị ngôn sứ vĩ đại mà Thiên Chúa đã gởi đến cho con người là một hình ảnh cao cả và rõ nét nhất của chân dung người ngôn sứ trong thời cựu ước cũng như thời tân ước và mãi đến sau này. Vị ngôn sứ mà chính Gioan Tẩy Giả, người được biết đến như một đại sứ ngôn cũng phải thú nhận mình không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài.
Sống trong một thời đại đầy bất công, sự ác ngày đêm hòanh hành đe dọa tính mạng con người. Những người hiền lành, những người cô thân cô thế không được bảo vệ một cách chính đáng. Những vị ngôn sứ của thời nay hãy mạnh dạn dấn thân và làm chứng cho sứ điệp Tin Mừng của Đức Giêsu. Noi gương ngôn sứ Giêsu, người đã can đảm lấy mạng sống mà làm chứng cho Tin Mừng Nước Trời. Lm. Giacôbê Tạ Chúc
Một cuộc đời đẹp là một cuộc đời dấn thân vì lợi ích cho tha nhân. Một tâm hồn thanh cao là tâm hồn luôn thanh thoát khỏi những bon chen vật chất, những vinh hoa phù phiếm mau qua. Đó chính là mẫu người mà xã hội hôm qua cũng như hôm nay đang cần, rất cần họ để điểm tô cho xã hội thêm phong phú nhờ những cống hiến vô vị lợi và đầy lòng quảng đại của họ.
Đó cũng chính là chân dung của các sứ giả Tin mừng. Họ đã để lại cho nhân thế những bước chân thật thanh thoát, nhẹ nhàng nhưng đầy tình người. Họ là những người được tuyển chọn để cứu nhân độ thế. Họ dấn thân vào đời để giải cứu thế gian khỏi ba thù hiểm độc. Thế gian có quá nhiều mưu mô và xảo quyệt. Ma qủy có quá nhiều phương cách để cám dỗ. Họ cần phải ra đi với đôi chân nhẹ nhàng và lòng thanh thoát. Họ không được mang bao bị, không mang bạc tiền của nhân thế. Họ là những người chấp nhận cuộc sống nổi trôi “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh”. Sứ mệnh của họ là đẩy lùi sự dữ và thi thố tình thuơng. Họ không thể bận tâm đến của cải thế gian. Họ không để lòng mình bị ràng buộc bởi nhu cầu vật chất và tiện nghi. Nếu họ quá quan tâm đến mình sẽ quên đồng loại. Nếu họ quá chú trọng đến vật chất sẽ dẫn đến lo hưởng thụ và tích góp cho bản thân. Thiện chí sẽ mất. Hướng đi sẽ chệch đường lạc lối. Lý tưởng ban đầu sẽ bị đảo ngược. Thay vì cứu đời sẽ chỉ còn lại sự lợi dụng địa vị chức quyền để vun quén cho bản thân.
Người ta kể rằng: có một đệ tử muốn từ bỏ mọi sự của thế gian để sống tu trì. Anh quyết định vào rừng vắng sống ẩn tu. Hành trang duy nhất anh mang là chiếc áo ăn mày để khất thực sống qua ngày. Ngày kia, anh đau đớn vô cùng khi thấy chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn nát tả tơi. Không còn cách nào khác, anh phải vào trong làng xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai này cũng bị cùng chung số phận, nát tả tơi vì chuột cắn. Anh nghĩ rằng chỉ có nuôi mèo mới giữ được chiếc áo. Anh quyết định nuôi mèo. Thế nhưng, khi có mèo anh lại phải lo kiếm thêm phần ăn cho con mèo được nuôi để đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất thực, anh cảm thấy mình như một gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố gắng chắt chiu để kiếm tiền nuôi một con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò lại phải kiếm cỏ cho bò ăn. Chăn nuôi gia súc khiến anh không thể có thời giờ cầu nguyện, tối mặt vì công việc, anh lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng ngày bò càng sinh sản, người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang sơ đã biến thành một trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm ngày càng thêm đông. Con người đã một thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên trở thành một ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to lớn, anh lại muốn có người chia sẻ công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con. Anh trở thành một người chồng, người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là lý tưởng ban đầu đã hết. Anh đã đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một cái áo rách. Chuyện có vẻ hoang đường nhưng lại là thật. Ma qủy thường cám dỗ từng bước. Ma qủy thường gợi lên những điều rất hấp dẫn để dẵn dắt con người đi theo chương trình của nó. Adam – Evà đã nhìn thấy trái táo thơm ngon mà quên đi thân phận phải vâng lời Thiên Chúa. Khi tỉnh lại chỉ còn thất vọng và hổ thẹn lương tâm. Người tu sĩ đã lạc bước khi quá bận tâm đến nhu cầu vật chất, đến đồng tiền bát gạo, khiến tâm hồn anh không còn thời giờ để vun đắp, định hướng cho hướng đi của mình. Cái thất bại của anh thật tẻ nhạt, chỉ vì mải lo gìn giữ một chiếc áo rách.
Thực vậy, vì tiền bạc, mà người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời.Vì tiền mà cái tính bổn thiện của con người ban đầu đã không còn. Vì tiền mà người ta có thể chối bỏ niềm tin. Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Đó là bài học cho tất cả chúng ta. Đồng tiền thật cần thiết cho cuộc sống nhưng không phải là cứu cánh cho cuộc đời. Đừng quá lệ thuộc vào của cải vật chất. Nó chính là con dao hai lưỡi có thể làm hại cuộc đời chúng ta, nếu không khôn ngoan, sáng suốt để nhận định đúng giá trị của nó. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm của cải vật chất, chúng ta cần có đủ nghị lực khước từ mọi hành vi bất chính, mọi thoả hiệp với lừa đảo, gian trá của thế gian. Chúng ta không thể vì tiền mà đánh mất tính người. Vì tiền mà đánh mất tình người. Vì tiền mà lòng mang dạ sói để hại người, hại đời, để làm tôi cho ma quỷ sai khiến ra đi gieo vãi sự dữ cho trần gian. Con người luôn hướng về sự thiện. Con người luôn mong muốn cống hiến cuộc đời mình cho tha nhân. Đó chính là mục đích mà Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Thế nhưng ma quỷ luôn vẽ lối chúng ta đi sai đường Chúa. Ước gì lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta, hãy lo tìm kiếm những điều đẹp ý Chúa hơn là thế gian. Hãy để tâm làm việc phụng sự Chúa hơn là làm tôi cho tiền bạc và tiện nghi. Đừng để lòng mình lệ thuộc vào vật chất mà quên đi gía trị tinh thần. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống theo lời Chúa để được phúc lành mai sau. Vì “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ”. Amen Lm. Giuse Tạ duy Tuyền
Nếu có ai hỏi người ngoại quốc nào trong nước chủ nhà được nể nang hơn cả, người ta sẽ nghe đa số trả lời là ông hay bà đại sứ. Khi tổng thống hay quốc trưởng tiếp nhận đại sứ được gửi đến với uỷ nhiệm thư là thừa nhận chính phủ của xứ sở họ. Khi chính phủ đổ thì đại sứ cũng không còn đại diện cho chính phủ nào cả. Chính Ðức Giêsu cũng dùng quan niệm dược gửi đến hay sai đi của loài người để tiếp tục việc rao giảng nước trời. Trong Phúc âm hôm nay, Ðức Giêsu sai các tông đồi đi rao giảng sự thống hối, xua trừ ma quỉ, xức dầu và chữa lành nhiều bệnh nhân (Mc 6:12-13). Người căn dặn các ông chỉ mang dép, mang gậy, không được mang bị, mang bánh, không được mang tiền trong túi, và không được mang hai áo. Nếu áp dụng lời Chúa theo nghĩa đen thì đa số giáo sĩ đi truyền giáo đời nay đều đi trật lất đường rầy vì họ mang hai hay ba va-li đồ dùng và quần áo, lại còn mang tiền trong túi hay thẻ tín dụng nữa.
Lời Chúa trong Phúc âm hôm nay còn khác với lời Chúa trong Phúc âm Thánh Mát-thêu và Luca về hành trang lên đường của các tông đồ đi rao giảng (Mt 10:5-15; Lc 9:1-6). Sở dĩ có sự khác biệt về hành trang có lẽ vì trí nhớ khác nhau của các thánh sử. Ðiểm này chứng tỏ rằng cắt nghĩa lời Chúa theo nghĩa đen là không thực tế. Vì thế ta cần nhờ đến những nhà chú giải thánh kinh để cắt nghĩa lời Chúa cho thích hợp. Ta cũng cần nhờ đến Giáo hội để giải thích lời Chúa vì Giáo hội có sứ mệnh bảo toàn kho tàng mạc khải trong Kinh thánh để khỏi bị cắt nghĩa sai lạc. Như vậy chi tiết về hành trang truyền giáo không quan trọng cho bằng sứ điệp giảng đạo.
Lời Chúa dậy các tông đồ về hành trang trên đường truyền giáo là họ chỉ cần mang theo những vật dụng cần thiết tối thiểu mà thôi. Vật dụng cần thiết tối thiểu tại đất Do thái thời bấy giờ khác vật dụng cần thiết và tối thiểu thời nay trong quốc gia hoặc thế giới hiện tại. Làm việc tông đồ ở xứ giầu thì có thể sống thế này, nhưng làm việc tông đồ ở xứ nghèo thì phải sống thế khác.
Trong hoàn cảnh nào đi nữa thì Ðức Giêsu muốn dậy ta phải sống lối sống đơn giản để cho sứ điệp rao giảng Phúc âm được tỏ hiện. Và Chúa còn muốn dậy ta phải đặt tin tưởng vào chương trình quan phòng của Chúa để được cung cấp như Phúc âm Thánh Mát-thêu trong cùng câu chuyện có ghi: Thợ thì đáng được nuôi ăn (Mt 10:10). Nếu ta câu nệ vào những chi tiết như những vật dụng gì Chúa dậy các tông đồ phải mang, ta sẽ quên đi điều quan trọng là việc rao giảng tin mừng cứu độ.
Ðược Ðức Giêsu trao ban quyền năng, các tông đồ lại sai cộng sự viên đi rao giảng tin mừng cứu độ. Các giám mục cai quản giáo phận là những người kế vị các tông đồ cũng sai cộng sự viên là các linh mục làm việc tông đồ. Sắc Lệnh về Chức Vụ và Ðời Sống Linh Mục của Công Ðồng Vaticanô II có ghi: Chúa Kitô đã sai các Tông đồ như chính Người được Chúa Cha sai, và rồi qua các tông đồ, Người đã làm cho các đấng kế vị là các giám mục cũng được tham dự việc thánh hiến và sứ mệnh của Người. Người lại trao ban cho các linh mục chức vụ thừa hành ở một cấp độ kế tiếp (Linh mục # 2). Họ nhận lệnh sai đi qua việc đặt tay trong Bí tích truyền Chức thánh.
Trong thời Cựu ước, Thiên Chúa gọi ông A-mốt là người xứ Giuđa miền nam đi nói tiên tri cho người xứ Ít-ra-en miền bắc. Ông phản đối mạnh mẽ đời sống tôn giáo và luân lí sa đoạ và bất công trong xã hội đang lan tràn tại Ít-ra-en. Ông tiên báo là vua Gia-rốp-am xứ Ít-ra-en sẽ bị ám sát và Ít-ra-en sẽ bị đi lưu đầy. Ðể trả thù, A-mát-gia, được nhà vua đặt làm tư tế đền thờ Bết-ên của vương quốc Ít-ra-en, vì sợ nguy hại đến quyền lợi, bèn phản đối, và đòi khai trừ Amốt khỏi Ít-ra-en. A-mát-gia gọi A-mốt một cách xách mé là thầy chiêm thay vì ngôn sứ hay tiên tri và còn mỉa mai: Này thầy chiêm ơi, mau chạy về xứ Giuđê, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm (Am 7:12).
Ðọc lịch sử Ít-ra-en, người ta thấy thời đó có trường dậy làm nghề thầy chiêm, một nghề để kiếm ăn. Do đó mà có nhiều thầy chiêm xuất thân từ trường này, một loại ngôn sứ giả, phò nhà vua, để cầu khẩn cùng thần thánh của họ cho vương quốc được an khang thịnh trị ngay cả khi đồi tệ. A-mốt hiểu nghĩa của từ thầy chiêm mà A-mát-gia dùng, nên khẳng định: ông chỉ là người chăn chiên và đi hái sung vả, và Chúa đã gọi ông: Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân của ta (Am 7:15).
Như vậy, ta thấy dụng cụ mà Chúa dùng không tuỳ thuộc vào địa vị xã hội hay trình độ học vấn, hay sự tài khéo của loài người, nhưng là tuỳ thuộc vào quyền năng của Chúa và sự cộng tác của loài người. Sự kiện này được chứng minh qua việc Thiên Chúa chọn ông Amốt, chỉ là người chăn chiên và hái sung vả đi làm ngôn sứ và việc Ðức Giêsu chọn mười hai tông đồ, đa số làm nghề chài lưới và ít học.
Suy luận và quan sát, ta còn thấy quyền bính trong Giáo hội được trao ban từ trên xuống dưới là nhằm mục đích để duy trì sự hiệp nhất trong nhiệm thể Chúa Kitô hầu cho các việc tông đồ được phối trí và hoà hợp. Nếu không có hệ thống quyền bính trao ban từ trên xuống duới, người ta có thể tranh giành ảnh hưởng và quyền lợi, khó lòng mà hiệp nhất. Lịch sử các giáo phái Kitô giáo đã chứng minh điều đó. Nhìn quanh hay nhìn ra xa, người ta thấy có cả hàng trăm giáo phái Kitô giáo khác nhau trên thế giới. Bất đồng quan điểm hay phản đối vấn đề gì, người ta có thể tách ra, lập giáo phái khác. Các hoạt động trong Giáo hội không những chỉ nhắm đến việc hiệp nhất, mà còn nhắm đến tinh thần hiệp thông hay thông hiệp với gốc nho là Ðức Kitô và thông hiệp với ngành nho là người tín hữu bằng cảm tình và ơn thánh nữa. Thông hiệp là đặc điểm của Giáo hội Công giáo. Những giáo phái khác hoặc các tổ chức chính trị, xã hội có thể có sự hiệp nhất mà không có sự thông hiệp. Thông hiệp bao hàm sự hiệp nhất và thông phần cũng như cảm thông bằng ơn thánh, bằng tình cảm và ước muốn nữa. Chẳng hạn mối ưu tư và quan tâm của những vị lãnh đạo trong Giáo hội cũng phải là mối quan tâm và ưu tư của toàn thể Giáo hội. Trong Giáo hội hay trong giáo xứ có chuyện vui, chuyện buồn thì hàng giáo sĩ cũng như giáo dân đều chia sẻ và thông cảm chuyện vui buồn đó trong tâm tư và lời cầu nguyện như thánh Phaolô dậy: Vui với người vui, khóc với người khóc (Rm 12:15).
Lời cầu nguyện xin được hiệp nhất và hiệp thông với Giáo hội:
Lạy Chúa Giêsu là mục tử tối cao. Con xin tạ ơn Chúa đã thiết lập Giáo hội trên nền tảng các thánh tông đồ. Xin cho các giám mục, linh mục và tu sĩ nam nữ được hiệp nhất và hiệp thông với Ðấng kế vị thánh Phêrô trong việc rao giảng tin mừng cứu thế. Xin cũng dậy con biết hợp tác làm việc tông đồ để duy trì sự hiệp nhất và thông hiệp trong Giáo hội. Amen
Một trong sứ mạng quan trọng nhất của người tín hữu là sống và làm chứng cho Chúa. Làm môn đệ của Chúa nghĩa là được kêu mời truyền giáo, loan báo Đức Giêsu Kitô cho muôn người. Các môn đệ của Chúa được Chúa huấn luyện, đào tạo và cuối cùng được sai đi loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa căn dặn thật kỹ, thật tỉ mỉ và rõ ràng khi các môn đệ ra đi truyền giáo. Chúa phán: ” Không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc…”( Mc 6, 8 ). Gói hành trang của các môn đệ là chiếc quần, chiếc áo đang mặc, cây gậy và đôi dép đi đường.
Tại sao Chúa lại ra lệnh cho các môn đệ như thế ?
CÁC MÔN ĐỆ ĐƯỢC CHÚA SAI ĐI:
Được Chúa mời gọi, các môn đệ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Các Ngài được Chúa đào tạo, huấn luyện và chuẩn bị để được sai đi rao giảng Tin Mừng.Những năm tháng ở với Chúa được Chúa cho đi thực tập việc truyền giáo, làm việc tông đồ, các môn đệ vẫn chưa ý thức nhiều về việc truyền giáo bởi vì các Ngài chưa lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Biến cố Chúa Giêsu, Thầy của các môn đệ bị bắt, bị treo trên Thập Giá đã làm các Ngài hoàn toàn nao núng, hầu như tan tác. Tuy nhiên, khi Chúa sống lại Ngài đã về Galilê để gặp các môn đệ, để sống với các Ngài, để làm chứng về tất cả những điều Ngài đã nói với các môn đệ khi Ngài còn sống. Và trước khi về trời, Chúa đã sai các môn đệ ra đi làm chứng cho Chúa trên khắp cùng bờ cõi trái đất. Các môn đệ đã nhớ lại Lời của Chúa: ” Ra đi truyền giáo, không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc…”. Lệnh truyền giáo và lời căn dặn của Chúa muốn các môn đệ phải ghi khắc: ” Con chồn có hang, chim trời có tổ, con Người không có chỗ dựa đầu “. Chúa muốn các môn đệ hoàn toàn nương tựa vào Chúa, phó thác tuyệt đối cho tình yêu quan phòng của Chúa và lòng quảng đại vị tha của mọi người. Thân phận của người được sai đi là thế. Ra đi mà không có gì gọi là đảm bảo, không có gì dính bén. Đi đâu cũng đến và luôn sẵn sàng ra đi bất cứ lúc nào. Thành công không vênh vang và thất bại không chán nản vv…
CHÚA TIN TƯỞNG CÁC MÔN ĐỆ:
Mặc dầu với một con số ít ỏi các môn đệ khi Chúa về trời, và dù khả năng của các Ngài xem ra có hạn không đủ để có thể chu toàn sứ mạng lớn lao. Tuy đức tin của các Ngài còn chập choạng, nhưng với ơn sủng và thiện chí thiện tâm, các môn đệ sẽ hoàn tất sứ mệnh Chúa trao phó. Đọc lại Tin Mừng và sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta nhận thấy sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các tông đồ ra đi khắp mọi mọi nơi làm chứng cho Chúa, các Ngài không sợ bất cứ điều gì: roi vot, tù đầy, chết chóc. Lịch sử minh chứng ngoại trừ Gioan, tất cả các môn đệ khác đều đổ máu đào hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Nước Trời thoạt đầu chỉ là một hạt cải nhỏ bé, qua lời rao giảng của các tông đồ và nhiều người kế tiếp đã trở thành cây lớn, cành lá sum xê, bao phủ cả trái đất, chim trời khắp nơi, khắp thế giới đã có nơi cư ngụ, đã có nơi đậu trú chân.
CHÚA SAI CHÚNG TA ĐI:
Là con của Chúa và con của Hội Thánh, Chúa và Hội Thánh vẫn sai chúng ta đi làm chứng cho Chúa, làm chứng cho Nước Thiên Chúa. Từ xưa đến nay đã có biết bao nhiêu lớp người được sai đi loan báo Tin Mừng, làm chứng cho sự thật, cho Chúa Giêsu.” Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng “ ( 1 Co 9, 16 ). Thánh Phaolô đã thốt lên như thế, câu nói ấy cũng phải là câu nói của mỗi người chúng ta. Chúa sai chúng ta đi và vẫn trao cho chúng ta những điều quí giá như là hành trang để chúng ta lên đường. Chúa trao cho chúng ta quyền rao giảng Tin Mừng, quyền trừ quỉ và quyền chữa bệnh. Chúng ta hãy lên đường chia sẻ niềm vui, làm chứng cho Chúa và xua trừ những thói hư tật xấu ra khỏi người khác, đó là xua trừ ma quỉ. An ủi những người gặp khó khăn là phương cách chữa bệnh.
ÁP DỤNG THỰC TẾ:
Chúng ta là những Kitô hữu thế kỷ XXI, chúng ta có phụ lòng Chúa hay không ? Chúng ta có mau mắn lên đường làm chứng cho Chúa và giới thiệu Chúa cho nhiều người hay không ? Chúng ta có đáp ứng lại lời mời gọi của Chúa và ý thức sứ mệnh của Giáo Hội là truyền giáo hay không ?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa sai các tông đồ ra đi loan báo Tin Mừng, hôm nay, giờ đây nhờ lời cầu bầu của các tông đồ, xin Chúa ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ để chúng con làm chứng cho Chúa và làm nhân chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của chúng con. Amen.
Tin mừng hôm nay tường thuật lại việc Chúa gởi 12 tông đồ đi rao giảng. Ðây là một sứ vụ được bảo chứng bằng những phép lạ như trừ quỉ, chữa bệnh…
Vào Ðời, ngôn từ thường được dùng để chỉ việc hội nhập vào xã hội, nhằm thi hành một sứ mệnh nào đó. Con người đã "vào đời" ngay lúc mở mắt chào đời; khi đó, mỗi người đã lãnh nhận ơn gọi làm người để sống. Lớn lên, người ta lại tiếp tục "vào đời" để kiến tạo cuộc đời chính mình và xã hội, với tư cách được Thiên Chúa sai phái đi; bởi lẽ mọi người đều có trách nhiệm về cuộc đời mình và về anh chị em của mình. Hơn nữa, người kitô hữu còn nhận trách nhiệm loan báo Tin mừng khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, bí tích Thêm sức. Thiên Chúa vẫn sai phái con cái Người, tất cả và mỗi người đi vào đời để thi hành sứ vụ của Người.
Trước hết, đó là sứ vụ "đến với con người" để mang lại niềm tin, niềm hy vọng được sống cuộc đời có ý nghĩa. Cuộc sống vốn đầy cạnh tranh, đầy đau khổ, đầy lao nhọc. Những nguy cơ ấy dễ làm cho người mệt mỏi, buông xuôi và rất có thể đi đến mất niềm tin, mất hy vọng và mất ý nghĩa sống. Thế nên, chỉ cần "đến với con người" với sự thông cảm, chi sẻ, thì đã là thi hành sứ vụ.
Thứ đến, đó là sứ vụ "kiến tạo một xã hội trong yêu thương". Con người đã bước vào đời do tình yêu thương của cha mẹ; con người đã lớn lên trong xã hội với những tương trợ cần thiết: nhà nông cho lúa gạo, người công nhân và nhà kinh doanh cung cấp các tiện nghi… Thế nên, sứ vụ kiến tạo một xã hội trong yêu thương là điều tất yếu của ơn gọi làm người.
Sau nữa, vì mọi người đều khao khát hoàn thành cuộc đời mình thật trọn hảo; và khao khát này chỉ có thể được lấp đầy khi con người biết tìm đến ơn cứu độ trọn vẹn trong Thiên Chúa. Do đó, kitô hữu phải là những người có trách nhiệm làm chứng cho anh chị em của mình về ơn cứu độ của Thiên Chúa yêu thương, được ban tặng cho con người qua Ðức Giêsu Kitô.
Phải chăng tôi đã sống trong niềm xác tín mình đang được sai đi để thi hành sứ vụ ? Phải chăng tôi đã chấp nhận anh chị em của mình với tình yêu thương ? Phải chăng tôi cũng có góp sức của mình, theo khả năng và hoàn cảnh riêng của tôi, để góp phần kiến tạo một xã hội yêu thương cho cuộc sống chung quanh tôi ?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Trong tấm bánh nhỏ, Chúa đã ở lại trần gian và đã đến với muôn người. Trong tấm bánh nhỏ, Chúa trở thành "tấm bánh bẻ ra" cho nhân loại. Xin cho chúng con, khi được đón tiếp Chúa vào trong tâm hồn, thì cũng biết lên đường, đến với những người chung quanh và làm chứng cho tình yêu của Chúa.
Làm sao phân biệt một cộng đoàn tiến bộ và thoái hóa ? Chính nhờ có kế hoạch yêu thương, cộng đoàn có thể đánh dấu nét tiến bộ từng giai đoạn. Nhờ đó có thể biết mình đã tiến tới đâu. Kế hoạch yêu thương đó nằm ngay trong tính cộng đoàn, nói khác, thuộc về bản chất cộng đoàn. Hôm nay lắng nghe lời Chúa, chúng ta sẽ khám phá kế hoạch yêu thương kỳ diệu khi "Ðức Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một" (Mc 6:7).
HUYNH ÐỆ CHI BINH
Ơn gọi tưởng như một ân huệ dành riêng cho cá nhân. Một mình ta với Chúa. Một mình Chúa với ta. Thực tế không phải như vậy. Ngay từ đầu Ðức Giêsu đã cho thấy chiều kích cộng đoàn trong ơn gọi và sứ mệnh chứng nhân. Không ai có thể hoàn thành ơn gọi và sứ mệnh trong ốc đảo. Vì tự bản chất ơn gọi luôn phải hướng về Thiên Chúa và tha nhân. Sứ mệnh không phải là một thứ trên mây gió. Sứ mệnh chỉ được thi hành trong xã hội con người. Bởi thế, khi bắt đầu thành lập Giáo hội, "Ðức Giêsu gọi Nhóm Mười Hai"(Mc 6:7a). Chắc chắn khi được gọi như thế, các ông ý thức ngay chiều kích cộng đoàn của ơn gọi. "Sức mạnh chúng ta bắt nguồn từ Thiên Chúa, nhưng Người đáp ứng nhiều nhu cầu hiện tại nhờ việc chúng ta làm việc chung với anh em" (Life Application Study Bible 1991: 1742).
Anh em trở thành một điều kiện tối cần cho ơn gọi chứng nhân. Tình đồng đội, huynh đệ chi binh là chất keo gắn các chứng nhân với nhau và với Chúa. Có thế, Chúa mới tìm được mảnh đất mầu mỡ cho ân sủng Người hoạt động. Người môn đệ chắc chắn đã múc được nguồn sức mạnh nơi Chúa, nhưng cũng từ nơi anh em. Người anh em được sai đi với mình không nằm ngoài "kế hoạch yêu thương Thiên Chúa đã định từ trước trong Ðức Kitô"(Ep 1: 9). Thực tế, dù sống giữa cộng đoàn Tin Mừng, người môn đệ có thể cô đơn hay bị hiểu lầm như ngôn sứ Amos, vì những lời tuyên sấm cứng cỏi nhưng chất chứa đầy sự thật. Dù sao, người môn đệ vẫn cứ trung thành rao giảng, vì ý thức sứ mệnh của mình phát xuất từ Thiên Chúa: "Hãy đi tuyên sấm cho Israen dân Ta" (Am 7:15). Tất cả đều nằm trong "kế hoạch yêu thương" của Thiên Chúa.
Chiều kích cộng đồng càng nổi cộm lên khi Chúa "sai đi từng hai người một" (Mc 6: 7b). Sứ mệnh đòi các môn đệ phải đối diện với thực tế. Một cá nhân không thể nào thấy hết những mọi mặt phức tạp của cuộc sống. Không thấy hết thì không thể chống trả kịp thời. Bởi thế, Ðức Giêsu mới lập một tổ cơ bản gồm hai người. Tự nội tại, tổ cơ bản này cũng có những khó khăn riêng. Giả sử một người thật thà như Phêrô phải ở chung và làm việc với một người nhiều mánh lới gian tham như Giuđa, việc gì sẽ xảy ra ? Nhưng chính khi phải chịu đựng lẫn nhau, người môn đệ trưởng thành dần, đủ sức đương đầu với thực tại nhiều thử thách cam go. Chiều kích cộng đoàn càng lớn, khó khăn càng nhiều. Nhưng muốn làm được việc, người môn đệ không thể nhìn những nét tiêu cực trong cộng đoàn. Chắc chắn, các Tông đồ không bị chết dí dưới sức nặng con người Phêrô nóng nảy, cục cằn. Trái lại, những đức tính chân thật, nhiệt thành của ông đã có sức qui tụ anh em, biến cộng đoàn Mười Hai thành một lực lượng áp đảo thần dữ. "Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh" (Mc 6:13), vì Chúa "đã ban cho các ông quyền trên các thần ô uế" (Mc 6:7).
Nhưng sức mạnh chính yếu của cộng đoàn không dừng lại ở nét tiêu cực đó. Trái lại, sức mạnh chính yếu hệ tại lời "rao giảng" về Nước Trời, và "kêu gọi người ta ăn năn sám hối" (Mc 6:12) vì Nước Trời. Muốn chu toàn được sứ mạng đó, trước hết tất cả cuộc sống cá nhân và cộng đoàn của họ phải là một lời chứng về Nước Trời. Mỗi lời nói và việc làm của người anh em bên cạnh phải là một nhắc nhớ về Nước Trời. Dù anh em bất đồng với mình, Nước Trời vẫn là động lực vượt qua giới hạn trần gian. Ngay cả khi anh em hoàn toàn đồng ý với mình, càng có sức mạnh vươn tới Nước Trời. Bởi thế, theo thánh Phaolô, dù gặp thời thuận tiện hay không, người môn đệ vẫn cứ rao giảng. Giống như nước, người môn đệ có thể luồn lách khắp nơi, dưới mọi dạng thức, nhưng vẫn không đánh mất bản chất. Họ cũng giống như khí trời có thể nhẹ nhàng như cơn gió mùa thu hay vần vũ như cơn giông tố gạt phăng mọi trở ngại. Muốn được thế, họ phải trút bỏ mọi sự như người khinh binh, chỉ giữ lại những gì cần thiết cho cuộc chiến đấu vì Nước Trời. Bản chất linh thiêng của Nước Trời đòi họ phải thanh thoát như thế. Bởi vậy, Ðức Giêsu "chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy ; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng ; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo"(Mc 6:8-9). Khi không còn những bận tâm về những nhu cầu hay tham vọng cá nhân, người môn đệ cũng bớt đi những tranh chấp, ghen tương. Nhưng không được giảm bớt tới mức tối đa khiến người môn đệ không còn phương tiện tối thiểu cho công cuộc làm chứng và xây dựng Nước Trời. Dầu sao cũng phải nương nhẹ con lừa mới mong đi xa được.
KẾ HOẠCH
Khi không còn những tranh chấp nội bộ và những bận tâm cá nhân, người môn đệ hướng tất cả tâm lực và tài lực vào việc xây dựng Nước Trời. Những xung khắc nội bộ cần thiết cho hướng đi lên của cộng đoàn Tin Mừng. Nhưng xung khắc quá mức sẽ gây nguy hại. Ðúng hơn, nếu thực sự tất cả vì Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm được giải pháp tốt đẹp nhất. Thực tế, bao cơ hội đã mất đi chỉ vì những quyền lợi cá nhân hay cộng đoàn lớn hơn quyền lợi Nước Trời. Ðó là lý do tại sao công cuộc rao giảng Tin Mừng thất bại trong lịch sử. Nếu đúng thế, người môn đệ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm vì những hành động tắc trách của mình. Thực ra, quá lo lắng về quyền lợi cá nhân hay cộng đoàn chưa chắc đã làm cho cá nhân hay cộng đoàn thăng tiến ngay về mặt vật chất. Chứng nhân có quyền hưởng lợi lộc do việc rao giảng (1 Cr 9:14). Sở dĩ Chúa đòi hỏi gắt gao người môn đệ phải từ bỏ tất cả, chỉ vì muốn họ hoàn toàn phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Trong chương trình quan phòng đầy lòng yêu thương, trước tiên Thiên Chúa sẽ ưu đãi người đã vất vả vì Nước Trời. Bởi đấy, Chúa Giêsu mới mạnh dạn quả quyết: "Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi" (Mc 6:10). Ðược phép ở lại trong nhà nào tức là đã chiếm được tình cảm chủ đối với sứ điệp Tin Mừng.
Nhưng không phải ai cũng như thế. Không chấp nhận sứ điệp có thể do lỗi của sứ giả hay người nghe sứ điệp. Thái độ bất nhẫn của người nghe đã được Chúa tiên báo: "Còn nơi nào người ta không đón tiếp và không nghe anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi đất dưới chân để tỏ ý cảnh cáo họ" (Mc 6:11). Người nghe sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về thái độ đối với Tin Mừng. Chính khi họ xử tệ với sứ giả Tin Mừng là họ khinh chê Tin Mừng. Ðây là một cơ hội không thuận tiện. Dầu vậy, người môn đệ vẫn rao giảng bằng lời cảnh cáo: "Nước Trời đã đến gần !"
Rao giảng như thế sẽ có sức qui tụ muôn dân "dưới quyền một thủ lãnh là Ðức Kitô" (Ep 1:10a). Nếu chỉ rao giảng cho những người đạo đức, Tin Mừng đánh mất chiều kích cứu độ (Ep 1:13). Chính Chúa Giêsu, tác giả Tin Mừng, cũng đã nói: "Tôi không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi" (Mt 9:13), và "Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất" (Lc 19:10). "Những người tội lỗi" và "những gì đã mất" là những thách đố lớn lao đối với Tin Mừng. Nếu không chinh phục được những người đó, sứ giả Tin Mừng đã tỏ ra bất lực. Nhưng Tin Mừng không bao giờ bất lực. Tin Mừng toàn năng vì là sức mạnh của Thiên Chúa. Nhưng để sức mạnh Tin Mừng thấm sâu vào văn hóa và xã hội, Ðức Giêsu đã vẽ ra cả một "kế hoạch yêu thương". Chúng ta có chấp nhận và thực hiện kế hoạch đó không ?
- Gm Bartolomeo Nguyễn Sơn Lâm Am 7,12-15; Ep 1,3-14; Mc 6,7-13
Phúc Âm: Mc 6, 7-13
"Người bắt đầu sai các ông đi".
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có: quyền trên các thần ô uế. Và Người truyền các ông đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: "Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ". Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.
Những bài Kinh Thánh vừa nghe đọc cho phép chúng ta gọi Chúa Nhật hôm nay là ơn gọi. Chúng ta được nghe nói về ơn gọi của Amos, ơn gọi của các tông đồ, ơn gọi của hết thảy Kitô hữu. Chúng ta đừng tưởng chỉ có bài thư Phaolô nói về ơn gọi Kitô hữu mới trực tiếp liên hệ đến chúng ta. Hai bài Kinh Thánh kia, dễ hiểu hơn, cũng muốn giáo huấn chúng ta trong các sứ mạng tiên tri, vương đế và tư tế của dân Chúa. Chúng ta hãy lần lượt soi gương những người đã thi hành các sứ mạng này.
1. Amos Trung Thành Với Sứ Mạng Tiên Tri
Ðể hiểu bài sách tiên tri Amos trên đây, chúng ta cần nhớ: thời ấy có một cuộc phân tranh ở trong dân Chúa. Mười chi họ phía Bắc làm thành nước Israel; hai chi họ phía Nam thành nước Yuđa. Yêrusalem trở thành thủ phủ miền Nam; đang khi Samaria dần dần trở nên thủ phủ miền Bắc. Ðể dân chúng của mình không đi lại lễ bái nơi Ðền thờ Chúa ở Yêrusalem nữa, các vua Israel lập ra nơi thờ cúng ở Bethel. Hàng tư tế ở đó được chiếu cố đặc biệt để lễ nghi trở nên huy hoàng và sầm uất hầu lấn át và làm quên sinh hoạt tôn giáo ở Yêrusalem. Ðó là một thứ chính trị nhằm đào sâu và củng cố việc chia cắt đất đai và đời sống của một dân đã được Chúa chọn để chuẩn bị công việc tái lập sự hiệp thông mà tội lỗi đã phá vỡ. Thiên Chúa không làm ngơ trước những mưu đồ như vậy.
Người chọn Amos, một người ở gần Bêlem để đưa lên làm tiên tri ở phía Bắc. Ông trở thành vị tiên tri văn sĩ đầu tiên; tức là trước ông chưa có tiên tri nào để lại bút tích. Không phải chính ông đã viết nên tất cả cuốn sách hiện thời mang tên ông. Ðúng ra nó là tác phẩm của môn đệ ông. Nhưng nó làm vọng lại lời giảng của ông nhiều khi rất trực tiếp. Người ta xếp ông đứng đầu số các tiên tri nhỏ không ngoài mục đích muốn nói rằng tác phẩm mang bút danh Amos đứng đầu các sách tiên tri có nội dung ngắn sánh với các sách Tiên tri lớn là Isaia, Yêrêmia, Ezekiel và Ðaniel.
Nguyên sự hiện diện của Amos ở Israel đã là một vấn nạn lương tâm cho những người có óc chia rẽ trục lợi. Nó nói lên chủ trương đoàn kết và hiệp nhất của giao ước cứu độ. Hơn thế nữa, sứ điệp của Amos lại công kích các bất công xã hội, lên án các lễ nghi tôn giáo lấy hào nhoáng che giấu tâm tư tội lỗi. Hàng tư tế và nhà cầm quyền hợp lực với nhau để tống cổ Amos về nguyên quán. Ðoạn sách Phụng vụ đọc cho chúng ta nghe hôm nay thuật lại cuộc đấu khẩu giữa tư tế Amacya và nhà tiên tri. Nhân danh hàng đạo đức ở Bêthel và cậy vào quyền lực của nhà vua, Amacya đuổi Amos trở về Yuđa. Ông tỏ ra chẳng hiểu tí gì về sứ mạng tiên tri. Ông coi Amos như là một thầy bói hay một tiên tri làm nghề nói mò để kiếm tiền. Ông cấm Amos không được tuyên sấm ở Bêthel nữa vì sứ điệp của ông không hợp với chính trị của nhà vua. Nhưng Amos không chịu. Ông cãi lại. Ông nói rằng ông không phải là người làm nghề tiên tri. Trước kia ông chẳng bao giờ nghĩ đến việc tuyên sấm. Ông chăn chiên và trồng sung lấy trái cho chiên ăn. Nhưng một ngày kia, Thiên Chúa đã gọi ông và truyền cho ông phải đi tuyên sấm... Ông yêu nhà Israel lắm chứ, nhưng Chúa lại bảo phải cảnh cáo cho nó biết nó sẽ rơi vào tay quân thù và con cái nó sẽ bị đem đi đày. Sứ điệp ấy là của Chúa. Ông vâng theo và sẽ vâng theo mãi mãi.
Chúng ta không cần hỏi thêm về kết cục của câu truyện. Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta ý thức về sứ mạng tiên tri. Kẻ Người chọn không có khả năng tự nhiên. Chính Người trao Lời của Người cho kẻ ấy. Nhà tiên tri đến nói thay cho Người; và như vậy chỉ là phát ngôn viên của Người. Sứ điệp tiên tri có mục đích đưa người ta trở về giao ước, nối lại sự hiệp thông mà tội lỗi đã phá hủy khi dựng nên những tham vọng bất chính. Lời nói đạo đức ấy không vừa tai nhiều người. Bị xua đuổi, bắt giữ, giết chết là số phận của hầu hết các tiên tri chân chính; đang khi những kẻ tuyên sấm chiều theo sở thích của người đời lại thường được bảo hộ. Nhưng như lời Phaolô nói sau này: tiên tri của Chúa có thể bị cầm giữ nhưng Lời Chúa chẳng bao giờ xích lại. Môn đồ của Amos đã ghi lại lời sấm của ông. Sứ điệp này được loan qua các thời đại và ảnh hưởng của nhà tiên tri luôn mạnh mẽ.
Nếu chúng ta có một niềm tin như vậy đối với sứ mạng tiên tri nơi ơn gọi Kitô hữu! Chúng ta sẽ thấy phải học hỏi và biết rõ sứ điệp Tin Mừng Cứu độ của Chúa hơn nữa. Và chúng ta phải loan truyền bằng đời sống, lời nói những gì chúng ta đã nghe biết về hạnh phúc con người. Chỉ có một điều đáng sợ là chính tiếng nói ích kỷ của các dục vọng ở nơi chúng ta sẽ làm tắt Lời Chúa ghi trong tâm hồn, hay sẽ làm cho Lời ấy trở nên vô hiệu và có thể đáng cười vì nếp sống không đi đôi với lời tuyên sấm của chúng ta. Muốn tập trở thành những tiên tri đích thực của Chúa, chúng ta hãy để mình được chính Người sai đi như các tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay.
2. Các Tông Ðồ Ðược Sai Ði Truyền Giáo
Thánh Marcô cho chúng ta thấy Ðức Yêsu gọi 12 tông đồ lại. Người sai họ đi từng đôi một, sau khi ban cho họ được quyền trên các uế thần. Chúng ta có thể coi đây là quyền vương đế mà ơn gọi Kitô hữu nào cũng có. Và chúng ta thấy rõ ràng các tông đồ đã thi hành quyền ấy khi các ông trừ quỷ và chữa bệnh. Vì có quyền cai trị nào thế lực hơn khả năng xua đuổi được tà thần và chữa lành được các vết thương do tội lỗi gây ra? Nói cách khác, sứ mạng vương đế mà chúng ta thường nghe nói đã được ban cho các Kitô hữu trong bí tích Rửa tội, không phải là hình thức thống trị nào kiểu trần gian, nhưng là khả năng tiêu diệt được quyền lực tối tăm của ma quỷ hằng lôi cuốn và cầm giữ người ta trong vòng nô lệ tội lỗi. Người Kitô hữu kết hợp với Ðức Kitô trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh được tham dự vào sức mạnh chiến thắng của Người. Họ có thể tựa vào ơn Người để sống tự do như con cái Thiên Chúa, giống như Adong trước khi sa ngã "linh ư vạn vật".
Ngày nay để thi hành sứ mạng vương đế ấy, Ðức Yêsu bảo các tông đồ phải có hành trang nhẹ. Họ không được đem gì đi đàng; không bánh, không bị, không tiền. Ðược cầm gậy, được mang hai áo. Ðến đâu, họ cứ vào nhà ai tiếp rước họ và ở đấy cho đến lúc ra đi. Chỗ nào không đón tiếp thì họ hãy đi khỏi nơi ấy, rũ bụi chân để làm chứng trước mặt chúng.
Thật ra, thánh Marcô đã muốn thích nghi lệnh của Chúa vào thời đại của Người... Người nói rằng các tông đồ được cầm gậy, mang dép, đang khi theo thánh Matthêu và Luca, không được làm như vậy. Dù sao tính cách từ bỏ và khó nghèo tuyệt đối vẫn được tôn trọng. Cho cầm gậy và mang dép chỉ để nói lên tính cách lên đường của ơn gọi tông đồ.
Ơn gọi này như đã nói nhằm kéo người ta ra khỏi quyền lực của Satan và tội lỗi để cho phép họ được chia sẻ sứ mạng vương đế của Ðức Kitô khi Người chiến thắng tội lỗi và tử thần. Mầu nhiệm đưa Người lên vinh quang làm "Chúa" là việc tử nạn phục sinh mà Người đã thi hành trong tinh thần khó nghèo và từ bỏ tuyệt đối. Chính vì thế mà Người đã chỉ thị cho các tông đồ khi đi mở rộng Nước Chúa phải tỏ ra khó khăn và từ bỏ, để sức mạnh của Thiên Chúa phát huy và viên thành trong sự yếu đuối và sự hư vô của con người.
Như vậy sứ mạng vương đế của người Kitô hữu thật là độc đáo. Nó không phải là thống trị đối với người khác hay cai trị đối với tạo vật, nhưng là tự chủ chiến thắng dục vọng để vươn lên tới đời sống tự do của con cái Thiên Chúa. Bấy giờ tất cả tạo vật cũng sẽ hân hoan như được đưa ra khỏi cơn đau sinh nở theo lời thánh Phaolô đã nói. Và từ khắp nơi một bài ca tán tụng sẽ được dâng lên Thiên Chúa khiến sứ mạng tư tế của người Kitô hữu cũng được hoàn thành. Về sứ mạng này, chúng ta hãy nghe Lời Chúa trong bài thư hôm nay.
3. Phụng Vụ Tạ Ơn
Ít khi chúng ta gặp một đoạn văn như đoạn thư Êphêsô này. Thánh Tông đồ như hát một hơi dài. Người để lòng mình thốt ra những tâm tình tạ ơn dào dạt. Phụng vụ Dothái giáo đã có nhiều bản văn như vậy. Ở đây tác giả dùng lại mọi chủ đề quen thuộc: tạ ơn Chúa đã tuyển chọn (4-5), đã cứu chuộc (6-7), đã tập hợp lại (8-10), đã ban những gì đã hứa (11-12) và nhất là đã đổ ơn Thánh Thần xuống (13-14). Cái mới nằm ở những câu nói về Ðức Yêsu Kitô và Ðấng Thiên Chúa đã tuyển chọn để ban tất cả những ơn lành trên đây cho chúng ta, khiến mỗi khi nhắc đến chúng ta phải không ngớt lời tạ ơn.
Với bản kinh này, thánh Phaolô cho chúng ta thấy một kiểu mẫu để thi hành sứ mạng tư tế của ơn gọi Kitô hữu. Nói đến tư tế, người ta nghĩ đến con người dâng lễ. Và cụ thể hơn, người ta hình dung con người dâng lễ vật. Hơn nữa lễ vật cụ thể là các tế vật như ở Yêrusalem thời Cựu Ước. Nhưng đó là những quan niệm chưa được thanh lọc. Ðức Kitô đã đến khai mạc một phụng vụ tinh tuyền. Người đến tìm những con người tôn thờ trong chân lý và tinh thần. Lễ dâng của Hội Thánh là thánh lễ tạ ơn, trong đó nhắc nhở và tung hô mọi kỳ công mà Thiên Chúa đã làm trong lịch sử. Ðặc biệt thánh lễ tái hiện mầu nhiệm Ðức Kitô để đem tất cả tạo vật được cứu chuộc vào sự sống mới. Người tín hữu dâng lễ thấy tình thương Thiên Chúa mở rộng, đón nhận mọi người con lạc bước trở về. Những người này không những được tha thứ mà còn được trở nên giàu có nhờ ơn đa diện của Thánh Thần, để từ lòng họ không bao giờ ngớt lời cảm mến và đôi tay họ sẽ đem về bao lễ dâng trên bàn thờ là các việc lành phúc đức họ sẽ làm nhờ ơn Thánh Thể bồi dưỡng. Ngay cả các đau thương ở đời cũng sẽ được họ dâng lên bởi vì thánh lễ đạo mới tập trung vào mầu nhiệm thập giá của Ðức Kitô.
Như vậy sứ mạng tư tế của người tín hữu không bao giờ hết. Họ dâng lễ cho mình và cho mọi tạo vật. Họ đem tất cả vào nơi cơ thể của Ðức Kitô để ca tụng tình yêu của Thiên Chúa đang thi hành kế hoạch cứu độ tình thương đối với mọi loài. Họ chỉ làm được như vậy khi đã được giải thoát khỏi vây hãm của tội lỗi và Satan... Sứ mạng tư tế phải tựa vào sứ mạng vương đế như điều kiện. Và chính sứ mạng này lại phải nhờ sứ mạng tiên tri mà hiểu biết kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa để tham dự vào.
Chính trong thánh lễ này chúng ta cũng thi hành cả ba sứ mạng đó. Lời Chúa nói với chúng ta không những để biến chúng ta nên các tiên tri của Người trong thế giới ngày nay; nhưng cũng kêu gọi chúng ta từ bỏ những gì còn liên quan đến tội lỗi để trở thành con cái tự do của Thiên Chúa mà đồng trị với Ðức Kitô. Nhận biết cương vị của mình như vậy, chúng ta sẽ hiệp dâng thánh lễ với Người để thi hành sứ mạng tư tế... Và tất cả chỉ là khởi sự vì thánh lễ ban sự sống mới của mầu nhiệm Ðức Kitô tử nạn phục sinh, không phải để chấm dứt nơi bàn thờ nhưng để làm sinh động tất cả cuộc sống con người và giúp họ thi hành sứ mạng tiên tri, vương đế và tư tế ở mọi nơi và trong mọi ngày.
Đúng vào ngày sinh nhật Mỹ được 221 tuổi, tức ngày 4 tháng 7 năm 1997, phi thuyền “Đạt Đạo” (Pathfinder) đã đáp xuống hỏa tinh thật thành công, chỉ cách chỗ đã định chừng 30 dặm, và trệch giờ chỉ 25 giây mà thôi. Bầu trời lúc đó thật trong, và lạnh 10 độ F dưới 0. Mọi người thán phục kỹ thuật cao độ của Mỹ. Kỹ sư Brian Muirhead của chương trình đã hãnh diện nói lên: "Thật là một ngày tuyệt vời". Vì ngày thành công nhằm đúng lễ quốc khánh độc lập của Mỹ. Trước đây Mỹ đã đặt chân xuống mặt trăng, thì nay lại bước thêm một bước nữa đến được với hành tinh có vòng bụi đỏ bao quanh như vòng lửa, vì thế mà được gọi là hỏa tinh.
Mục đích của công trình này là tìm xem trên hỏa tinh có sự sống không. Vì có nhiều dấu tích cho thấy có nước vào khảng 4 tỷ năm trước đây, và như thế có thể đã có sự sống trên hỏa tinh. Chẳng lạ gì mà con người cứ nghĩ là có thể có những loại người hành tinh khác với loài người, như phim E.T đã từng diễn tả; hay đặc biệt với những điều thuật lại về hiện tượng đĩa bay U.F.O lâu lâu thấy xuất hiện một cách bí mật.
Nhưng những hình ảnh được gửi về, kể cả hình 3 chiều sống động, cho thấy rõ mặt hỏa tinh chỉ là một sa mạc bao la, đất đá khô chồi hơi giống vùng Tucson, Arizona. Ở sa mạc Arizona dầu sao cũng còn có những cây xương rồng saguaro, côn trùng và một số sinh vật, chứ ở mặt hỏa tinh thì hoàn toàn khô chết. Cũng giống y như trước đây, cuối thập niêm '60, khi người Mỹ đặt chân xuống mặt trăng thì cũng là lúc những hình ảnh "đẹp như trăng rằm" biến mất để chỉ còn thấy một bộ mặt cằn cỗi rỗ chằng rỗ chịt.
NÉT GIẦU CÓ TRONG TẦM TAY
Họa sĩ Vincent van Gogh đã trở thành hiện tượng của hai chục thập niên qua. Những bức tranh của ông vẽ vào khoảng năm 1888-1890 tại Arles và Auvers-sur-Oise bên Pháp đã được bán với giá không thể tưởng tượng được. Năm 1987 đã trở thànhmột mốc ghi: Bức Hoa Hướng Dương được bán với giá 41 triệu đô la vào tháng ba; đến tháng sáu thì bức Cầu ở Trinquetaille giá 20 triệu: và tháng 11 thì một bức Hoa Cầu Vồng (Irises) được bán với giá 53 triệu.
Người ta khám phá ra con mắt nhìn của nhà họa sĩ thiên tài này, nằm ở điểm là cuộc đời giầu sang lắm, sức sống sung mãn đã nằm sẵn trong vạn vật, chứ đâu phải những hăm hở kiếm tìm mệt nhọc của loài người như hiện nay. Chỉ cần dừng chân ngắm nhìn: một cọng cỏ, một bông hoa, một cái cầu, một cái ghế, ngôi nhà đang ở, xem ra tầm thường và nhàm chán, bỗng khám phá ra những lạ lùng. Vì một cành lá cũng đang biểu hiện sức sống của cả vũ trụ. Mà vũ trụ thì giàu có, tại sao lại cứ phải sống nghèo nàn ăn mày ăn xin những đồ viện trợ phế thải cuộc đời.
Khám phá ra được như vậy thì cuộc sống trở nên giầu có sung túc biết bao. Ngay ở vườn đàng sau và ngay trong nhà mình đã có nhiều triệu rồi, cả một kho tàng quí giá đang chờ được khám phá. Người mua bức tranh Hoa Hướng Dương hay Hoa Cầu Vồng của Van Gogh chỉ muốn nói lên sứ điệp đó cho con người mệt mỏi hôm nay: bạn đang quá giàu có rồi. Chỉ cần bừng mở con mắt: nguồn phú túc đang hiển hiện trước mặt mà Chúa Trời Đất đã bày biện ra.
TIN VUI ĐÃ QUÁ DƯ ĐỦ
Cuối hè 1888, họa sĩ Van Gogh thuê một căn gác của ngôi nhà màu vàng ở một góc đường thành phố Arles ở miền Nam nước Pháp. Rồi ông đã vẽ ngôi nhà đó thành một tác phẩm nổi tiếng mang tên là “Ngôi Nhà của Vincent ở Arles”. Có lẽ hơn bất cứ ai, “ông đã sống với nghệ thuật, vì ông đã dành hầu hết thời gian sau này để vẽ những hình ảnh về chính đời sống của ông, những gì ưa thích, bạn bè, phong cảnh nơi sinh sống, căn phòng, ngôi nhà, cái ghế đặc biệt. Đối với Van Gogh, sống và nghệ thuật quả thực là một” (Rita Gilbert, Living with Art, Alfred Knopf, trang 3).
Và chính Vincent Van Gogh đã tâm sự với người em trai tên là Theo: “Anh giàu như Croesus, không phải bằng tiền, mà vì anh dồn cả tâm hồn và tìm thấy trong công việc những hứng khởi và nghĩa sống. Anh tin mãnh liệt vào nghệ thuật. Niềm tin này như dòng nước mạnh đẩy con người vào bến, dù mình cũng phải cố gắng một chút. Thật có phúc mà tìm được công việc như vậy. Mặc dù những khó khăn khá lớn và những ngày đen xám trong đời anh, anh vẫn không cho là xui xẻo” (Thư viết cho em là Theo, Living with Art, trang 24).
“Anh thật hạnh phúc với căn nhà và công việc mà chắc em cũng được may mắn dự phần trong đó” (Thư gửi Theo 16.9.1888).
Van Gogh đã viết nhật ký bằng tranh, nhặt những hòn đá xem ra tầm thường là những biểu hiện cho thấy những lạ lùng từ nguồn sức sống, là những nhịp điệu của dòng sinh lực này, để ghi những bước chân Chúa nhảy băng qua lũng qua đồi đến tìm mình. Những gì nhỏ bé vô danh tiểu tốt mấy cũng đang nở hoa, vì Van Gogh khám phá ra Đường Nở Hoa. Ít thấy cảnh “núi rừng hùng vĩ, sông hồ bát ngát” như nhiều người vẫn nghĩ và vẫn tìm. Tranh giá trị vì cho thấy được thần. Những người đang mất tinh thần mà xem tranh Van Gogh là tìm lại được nét an bình trong rối loạn, nét nẩy mầm sống trong tàn lụi ... Như vậy điều quan trọng là biết cách nhìn và thấy được điều mà nhiều người nhìn mà như “mắt lợn luộc” chẳng thấy gì.
Tin Vui Chúa Nhật tuần này báo cho con người đang hăm hở đi tìm những gì mãi đâu một điều đơn giản nhưng thật là cốt tủy của cuộc sống trên mặt đất này. Chúa Giêsu đã ban cho các môn đệ và những người theo đạo "quyền trừ quỉ, và chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo" (Mc 6:7-9).
Đó là con mắt nhận ra con người thật cao cả, đã được dựng nên thật lạ lùng kỳ diệu, đã được ban tặng quá dư đủ mọi sự, như tâm tình của Tagore: "ân sủng Người ban thì vô biên vô tận, để lãnh nhận tôi chỉ có hai bàn tay nhỏ bé vô cùng." Tất cả những bao bị hay những kiếm tìm chỉ là những lớp bụi dầy che phủ làm méo lệch bản chất con người thật mà Thiên Chúa đã tạo dựng.
Phi thuyền lên hỏa tinh lấy tên là "Đạt Đạo" cũng có thể đúng ở khía cạnh là cuối cùng rồi con người khám phá ra rằng chẳng có gì mà phải tốn công tốn sức nhiều như vậy. Lên mặt trăng hay hỏa tinh để thấy rằng trái đất này thật đáng yêu đẹp đẽ, và sự sống đang có quí báu biết chừng nào. Những gì trân quí nhất đã được trao ban cho con người sẵn cả rồi. Chỉ cần mở mắt để nhận ra những nét đẹp và trân quí ngay trong cuộc sống hằng ngày qua những gì xem ra tầm thường bình lặng, dù ở phố lớn hay làng quê, dù ở nhà tư hay chung cư. Nét trân quí của một cái bút đang viết, cái chất xanh của một cây cảnh trên bàn.
Mình cũng như nhiều người Âu Mỹ đúng là đang hành trình đi tìm nẻo bước sống sung túc thật, trong cuộc sống đơn giản thường ngày: tập luyện con mắt nhìn để thấy được những kỳ diệu như van Gogh. Mình đi Arles tràn ngập nắng vàng nơi van Gogh đã vẽ những bức tranh nổi tiếng nhất, vào xem những bức tranh nghệ thuật của van Gogh trong bảo tàng viện Orsay ở Paris, hay đi lên Auvers-sur-Oise thăm ngôi mộ nhà nghệ sĩ vẫn còn sống mãi bên những bông hướng dương thật tươi do bao người ngưỡng mộ đưa tới.
Sau những bon chen vật lộn của xã hội mới, và những đấm đá ăn thua đủ của các chủ nghĩa, con người đang có khuynh hướng tìm về những gì mà chính Phúc Âm đã đề cao: qua những gì đơn sơ bình lặng, người ta khám phá ra những phép lạ của đời sống. Sự có mặt hít thở từng phút giây trên mặt đất này chẳng phải là một phép lạ của sự sống sao? Cuộc đời thật giầu có, vậy mà nền văn minh hiện đại lại chỉ làm cho con người mỗi ngày mỗi mù tối và nghèo nàn thêm ra! Thế nên con xin ca vang lời thánh vịnh 139:
Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo,
Dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng,
Công trình Ngài xiết bao kỳ diệu,
Hồn con đây biết rõ mười mươi.
Washburne mô tả tướng Grant đã tiến hành chiến dịch trong cuộc nội chiến như thế nào: “Tất cả phụ thuộc vào khả năng di chuyển nhanh. Điều quan trọng với tướng Grant là mang hành lý càng nhẹ càng tốt. Ông không mang theo cận vệ, cũng chẳng có áo khoác ngoài, ngay cả một áo sơ mi sạch”. Lúc đó tôi ở với ông và biết rằng toàn bộ hành trang của ông trong 6 ngày chỉ là một bàn chải đánh răng. Ông ăn uống như những binh sĩ thường nhất, ngủ trên đất và khỏi cần có gì để đắp ngoài trời.
Sứ vụ tông đồ của con dân Thiên Chúa chắc chắn còn quan trọng hơn công tác đặc biệt của tướng Grant nhiều lắm. Chính vì thế Chúa Giêsu dặn dò các tông đồ rất kỹ lưỡng: Đi đường các con đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, đừng mặc hai áo nhưng có thể cầm gậy và chân đi dép. Những điều Chúa căn dặn ở đây ngoài tính cách tự nhiên cho gọn nhẹ, nó còn mang yếu tố siêu nhiên giúp cho các tông đồ trở nên giống Đức Vua Giêsu nghèo nàn, đó là nhân đức cần thiết làm cho ta dễ dàng vươn tâm hồn lên cùng Thiên Chúa, đồng thời cũng là gương sáng cho mọi người biết thoát ly của cải vật chất, tránh xa sự ham hố tiền bạc là thứ dẫn đến hư hỏng ở trần gian. Những hành trang của các tông đồ là chính Đức Kitô, Lời Chúa, quyền phép trên các thần ô uế, đó là linh dược vô cùng quí giá để thánh hoá tha nhân và cứu các linh hồn.
Chúng ta biết rằng về cách ăn mặc của người Do Thái thời Chúa Giêsu có 5 trang phục:
1. Áo trong: Phần áo lót mặc lên người. Áo này đơn giản, đó chỉ là một khúc vải dài xếp đôi rồi may một bên. Nó khá dài đủ che phủ đến bàn chân. Hai góc ở phần trên được khoét để làm hai cánh tay. Loại áo này thường được bán ra mà chưa khoét cổ. Điều đó cho biết áo vẫn còn mới, để người mua tuỳ tiện khoét phần cổ sao cho vừa với khổ người của mình.
2. Áo ngoài: Ban ngày nó được dùng làm áo choàng và ban đêm làm mền đắp. Nó gồm một tấm vải dài hơn hai mét, khổ rộng khoảng 1,5 mét, mỗi bên khoảng 0,4 mét được xếp vào may lại, khoét lỗ ở phía trên để xỏ tay được. Nhưng chiếc áo ngoài đặc biệt có thể dệt cẩn thận nguyên tấm không có đường may như chiếc áo chính trong toàn bộ y phục.
3. Giây thắt lưng: Khi cần làm việc hay chạy, người ta vén các vạt áo trong lên và giữ lại bằng giây thắt lưng, chỗ trống phía trước thắt lưng có thể đặt một bao hay một gói gì đó để mang đi. Giây thắt lưng thường được mang hai lớp khoảng 4 tấc rưỡi từ mỗi đầu. Phần mang hai lớp được dùng làm túi đựng tiền.
4. Khăn vuông che đầu: Bằng vải, rộng gần một mét vuông, thường màu trắng, xanh hoặc đen, nó được xếp theo đường chéo góc, cột lên đầu để che gáy, gò má và đôi mắt cho khỏi sức nóng và tia sáng của mặt trời.
5. Đôi dép: Chỉ là những miếng da bằng phẳng có xoi lỗ, có khi bằng gỗ hoặc bện bằng rơm. Người ta xỏ dây và cột nó vào bàn chân để mang.
Những hành trang đơn giản Chúa dạy môn đệ như thế là Chúa có ý muốn cho các Ngài phải tin cậy vào Thiên Chúa và không nên quan tâm đến vật chất. Sứ mệnh tông đồ là đi ban phát ơn thánh chứ không phải để kinh doanh thương mại. Tuy nhiên chúng ta thấy có vẻ quá là thiếu thôn bấp bênh so với thực tế bây giờ và nó có thể làm cho vị tông đồ phải lo lắng nhiều điều. Nhưng đi vào thực tế hoàn cảnh thời đó thì không có gì phải ngạc nhiên: Ngày xưa ở bên Đông Phương, việc ân cần tiếp đãi khách lạ được xem là bổn phận thiêng liêng. Khi có người lạ vào làng, người ấy không cần tìm nơi trú ngụ vì chính làng ấy có nhiệm vụ tiếp đãi họ. Dầu vậy Chúa Giêsu dậy các môn đệ của Ngài phải tìm nơi ở xứng đáng. Nơi nào kém đạo đức, kém lịch thiệp chắc chắn sẽ gây trở ngại cho chức vụ. Sứ giả của Chúa phải cẩn thận trong việc tiếp rước để khỏi trở ngại cho công tác của mình. Đối lại nơi nào tốt lành thì ở lại đó cho tới khi ra đi, chứ không phải là đi hết chỗ nọ đến chỗ khác để cho thiên hạ tiếp đón, chiều chuộng, ăn chơi. Ngôn sứ của Chúa không bao giờ để cho người ta có ấn tượng mình dụ dỗ dân chúng để được thoả mãn cá nhân. Như vậy dấu hiệu của môn đệ Chúa Giêsu là sống thật đơn giản, và phải luôn luôn đem ơn phước đến cho người khác chứ không mong người ta phục dịch hầu hạ mình.
Sau khi hoàn tất bài học công tác chuẩn bị, tiếp đến là công tác mục tiêu chính sự, công tác này nhằm hoàn thiện hoá tha nhân trên cả phương diện tinh thần lẫn thể xác, tức là rao giảng sự ăn năn thống hối để đổi mới tâm hồn và chữa lành các bệnh tật thân xác. Công việc ở đây rất là tế nhị, khuyên bảo người khác ăn năn tức là gián tiếp nói họ tội lỗi, có tội mới phải ăn năn tội. Lúc đó sẽ chạm tới lòng tự ái sâu thẳm, đụng đến “cái tôi vĩ đại” của lòng người. Từ đó tâm hồn họ nảy sinh nỗi buồn, đôi khi xa cách, thậm chí có người còn chống lại chính Chúa Giêsu Kitô và đóng đinh Ngài vào Thập Giá một cách oan nghiệt.
Theo chân Thập Giá Chúa Giêsu chúng ta cũng không thể khác hơn được, nhưng tin tưởng vào sức mạnh của Thiên Chúa, các vị tông đồ sẽ vượt qua đau khổ để đưa các linh hồn về với Chúa. Đó là một sự giải phóng toàn diện, xoay trở cả cuộc đời người tội lỗi về với Chúa, đem sự lành mạnh và sức khoẻ cho cả xác lẫn hồn. Điều này rất ý nghĩa khi các tông đồ xức dầu cho các bệnh nhân. Đời xưa dầu được xem là môn thuốc trị bá bệnh cho thân thể. Nhất là khi tôi tớ Chúa xức dầu, Chúa Giêsu đã ban cho họ một quyền phép mới trong cách trị bệnh cổ truyền đó. Quyền phép mới của Thiên Chúa trở thành giá trị trong mọi việc thông thường khi người ta có Đức Tin. Vậy 12 tông đồ đã đem đến cho nhân loại thông điệp ơn cứu rỗi. Và cho đến nay đó vẫn là nhiệm vụ hàng đầu của Giáo Hội và mọi người Kitô hữu.
Chúng ta có thể thi hành sứ vụ tông đồ dưới nhiều hình thức:
Bằng cầu nguyện đặc biệt là Thánh lễ Misa. Bằng khuyên dậy hay những lời xây dựng. Bằng gương sáng nhân đức của bản thân. Bằng việc làm trong đời sống thường ngày.
Khi Chúa Giêsu sai các môn đệ của mình ra đi trong sứ mạng truyền giáo: “Ngài truyền dậy các ông đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị, mang bánh, mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo” (Mc 6:8-9). Nhưng Ngài lại sai các ông: “từng hai người” (Mc 5:7) với nhau.
Hình ảnh hai người đi với nhau mà Thánh Ký Máccô ghi nhận hẳn phải có ý nghĩa. Và chúng ta thử tìm hiểu xem Chúa Giêsu muốn nói gì với chúng ta qua hành động “sai đi” này.
1. Đi bên Chúa và đi với Chúa:
Hai người đi với nhau có lẽ chỉ là một biểu tượng cho hành động của tất cả những ai đang phục vụ Chúa và phục vụ tha nhân. Vì không phải mọi nơi và mọi lúc chúng ta đều có hai người cùng đi với nhau trong sứ mạng rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng. Vậy hình ảnh người thứ hai mà Chúa Giêsu nói này là ai. Phải chăng đó là chính Ngài.
Đúng thế! Chúa Giêsu đã nhiều lần nói với chúng ta về vai trò của Ngài trong đời sống tâm linh và trong ơn gọi chứng nhân của người Kitô hữu. Không những Ngài ở bên chúng ta, mà còn là sức sống để chúng ta có thể sống và hoàn thành sứ mạng ấy cách tốt đẹp: “Ai ở trong ta và ta ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái”. Ở một nơi khác, Ngài còn khẳng định: “Không có ta, các con không làm gì được”.
Không làm gì được, thì còn mong gì sinh hoa trái. Do đó, Chúa Giêsu chính là người đồng hành thứ hai mà qua hình ảnh được sai đi đã được Tin Mừng trình bày.
Thánh Vương Đavít trước đó, cũng đã cảm nhận và thâm tín về điều này một cách hết sức sâu sa. Ngài nói: “Chúa là đá tảng, là núi đá che chở tôi.” Thánh nhân còn gọi Chúa là “thành lũy” che chở mình. Thật vậy, nếu không có Chúa thì Đavít cũng chỉ là một anh chăn chiên, suốt đời lẽo đẽo theo sau đoàn chiên của mình mà thôi. Nhưng với sức mạnh của Ngài, với sự chở che của Ngài, Đavít đã chiến thắng nhiều kẻ thù và đã trở thành một đế vương mà lịch sử Do Thái mãi luôn nhắc nhở với lòng kính phục và hãnh diện. Hơn nữa, Đavít còn được liên kết chặt chẽ với công trình Cứu Chuộc của Thiên Chúa. Vì nơi dòng dõi Đavít, Chúa Giêsu đã hạ sinh làm người.
Người thứ hai trong hành trình đức tin và truyền giáo của Kitô hữu chúng ta chính là Chúa Giêsu. Điều này phù hợp với ý nghĩa của lời Ngài khi căn dặn các Tông Đồ tuy đừng bận tâm nhiều về những đồ tùy thân, nhưng nhất định phải có cây gậy. Và phải chăng Ngài cũng chính là cây gậy mà các Tông Đồ và chúng ta cần phải có trong đời sống tâm linh. Nó chẳng phải là hình ảnh của sự đỡ nâng và cần thiết sao. Cây gậy chẳng phải là vật phòng thân và tự vệ trước lũ chó, rắn rết và những hoang thú trên đường đi sao?! Và trên hành trình đức tin, lũ chó, rắn rết, và những hoang thú, trộm cướp kia chính là ma quỉ, thế gian và sự yếu đuối của con người. Còn cây gậy đó chẳng phải là chính Chúa với sức mạnh của Ngài sẵn sàng đánh tan mọi mưu ma, chước độc để giúp ta đi đường bình an sao!
Tóm lại, Kitô hữu chúng ta khi ra đi vào đời theo một nghĩa nào đó, cần thiết phải đi hai người, và người thứ hai cùng đồng hành với chúng ta và luôn ở bên ta ấy chính là Chúa Giêsu. Ngài là sức mạnh, sự chở che và cũng là động lực thôi thúc chúng ta vững tin tiến về nhà cha cũng như can trường và bền chí trong sứ mạnh chứng nhân Tin Mừng của mình.
2. Đi bên nhau và đi với nhau:
Ngoài Chúa Giêsu, thì người thứ hai kia là anh chị em của chúng ta. Điều này không chỉ nói lên tính chất thông công của các thánh, mà còn nói lên rằng chúng ta cần phải khiêm tốn và hợp tác trong việc phục vụ Chúa và phục vụ nhau.
“Không ai là một hòn đảo”. Đây là một tư tưởng và triết lý sống của sự hiệp nhất và đoàn kết. Hiểu theo một ý nghĩa rất thực tế, thì người thứ hai ấy chính là vợ ta, chồng ta, con cái ta, ông, bà, cha, mẹ ta, anh, chị, em của ta. Và tất cả những người mà chúng ta thường ngày gặp gỡ. Đó là những người mà Chúa sai tới để đồng hành với chúng ta và cùng với chúng ta hoàn tất sứ mạng vào đời, sứ mạng quảng rao Tin Mừng.
Người chồng, người vợ, người con, người cháu. Bố mẹ, ông bà. Và tất cả những bạn hữu quen thân là những người mà cách này hay cách khác chúng ta thật sự cần thiết trong cuộc đời. Vào đời với họ, ra đi rao truyền lời Chúa với họ chẳng phải là một sự hợp tác mang ý nghĩa tích cực về vai trò của Kitô hữu trong lòng Giáo Hội và giữa thế giới nữa đó sao.
Như vậy, người thứ hai đi bên ta và cùng với chúng ta đồng hành trên hành trình đức tin không ai khác, đó là vợ, chồng, con, cháu, anh, chị, em, ông bà nội, ngoại cũng như tất cả các anh chị em mà chúng ta gặp gỡ trên đường.
Hình ảnh hai người còn tạo nên hình ảnh của số đông, của tập thể, và điều này cho chúng ta một ý niệm về sự hợp tác cần thiết với anh chị em trong giáo xứ, trong họ đạo, trong đoàn thể, và cùng với Giáo Hội đồng hành tiến về quê hương vĩnh cửu.
“Nơi đâu hai người họp lại, nơi đó có Chúa ở giữa”. Đây chẳng phải là hình ảnh tích cực nhất về ý nghĩa hợp nhất, và cộng tác sao. Và đó cũng là ý nghĩa của hai người cùng đi trên con đường truyền giáo.
“Từng hai người một”. Hành trình đức tin là một cuộc hành trình không đơn lẻ. Hành trình chứng nhân cũng không phải là một cuộc hành trình đơn độc. Xét về mặt tiêu cực, thì con đường này khó đi và nhiều thảo cấu. Đó chưa kể đến những đoạn đường trơn trượt và hiểm trở, nên việc mọi người đi chung với nhau ít nữa cũng có thể giúp nhau vượt qua những nguy hiểm và thử thách đó. Nếu xét về mặt tích cực, sự hiện diện và khích lệ của bạn đường sẽ là một điều khích lệ hết sức cần thiết, đặc biệt trong những lúc chúng ta gặp thử thách mà có ý định bỏ cuộc.
Trên hành trình đức tin và tông đồ. Kitô hữu chúng ta phải có Chúa và có anh chị em bên mình. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu dậy chúng ta phải có hai người. Một tay nắm lấy Chúa, và một tay nắm lấy anh em.
Trong bài giảng một thánh lễ hôn phối, linh mục chủ tế đặt ra cho đôi bạn một câu hỏi về mục đích của hôn nhân: Đâu là nguyên nhân thúc đẩy họ tiến đến hôn ước vững bền với nhau? Chàng đã hăng hái trả lời vì người con yêu đẹp, dịu hiền và đảm đang; còn nàng thì nói rằng vì để bổ túc hỗ trợ nhau, vì cả hai đều cần đến nhau và không thể thiếu nhau. Câu trả lời thuyết phục ấy đã làm cho vị linh mục chứng hôn hài lòng.
Thật thế, mỗi người chúng ta không ai là một hòn đảo đơn độc. Trong mái ấm gia đình, chúng ta liên kết, tựa nương bên nhau và làm cho cuộc sống này thêm phong phú, ý nghĩa, giá trị hơn. Tiếc thay vì chung sống với nhau hằng ngày nên ít người hiểu hay nhận ra được sức mạnh và giá trị của sự nương tựa, bổ túc cho nhau. Một thuật ngữ trong văn hoá Việt Nam vẫn nói chung đụng, vì con người ta hễ ở chung là có sự đụng độ, va chạm, xích mích.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người suy nghĩ về bổn phận truyền giáo trong chiều hướng liên kết với nhau như thế. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại kế hoạch truyền giáo của Đức Giêsu cũng có gì đó khác thường: Ngài không có nhiều quân số, vỏn vẹn chỉ có 12 người, thế mà lại sai đi từng hai người một, điều đó có nghĩa là chỉ có 6 nhóm; lại không cho mang theo hành trang, tiền bạc, không mặc hai áo, chỉ được mang gậy. Đức Giêsu sai các ông đi đến các thôn xóm để kêu gọi sự thống hối và hoán cải. Hai người cùng đi với nhau để lời chứng mạnh hơn, để bổ túc và hỗ trợ nhau trong công tác ấy. Lời người này nói sẽ được bổ túc thêm bằng sự giải thích, minh hoạ của người kia. Hành động của người này sẽ là chứng tá cho lời giảng dạy của người bạn đồng hành và ngược lại. Như thế, công việc truyền giáo tuy khởi sự từ một số ít các cộng tác viên nhưng vì được đặt trên sức mạnh của sự liên kết, của sự nâng đỡ và bổ túc cho nhau nên đã đạt được những hiệu quả tốt đẹp. Thế mới biết sự nhìn xa và sáng suốt của Đức Giêsu trong kế hoạch truyền giáo thật sâu sắc như thế nào.
Thực tế cuộc sống cũng cho chúng ta thấy sức mạnh của sự hợp quần, liên kết. Đời sống hôn nhân gia đình có vợ chồng cùng nâng đỡ và bổ túc cho nhau; đời sống mục vụ có Cha xứ, Cha phó; đời sống cộng đoàn của các dòng tu có các nam nữ tu sĩ sống và làm việc cùng nhau. Sức mạnh ấy là sức mạnh của sự đoàn kết và liên đới. Sự đồng thuận, hợp tác sẽ làm cho công việc trở nên nhẹ nhàng và khả thi.
Biết Chúa là một hạnh phúc, giới thiệu về Chúa cho tha nhân còn là một hạnh phúc khác lớn hơn. Chúng ta khao khát và ao ước chia sẻ niềm vui làm con Chúa cho người khác, đó chính là truyền giáo. Truyền giáo phải được nhắc nhớ và là bổn phận phải thực thi mỗi ngày của mọi Kitô hữu. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng truyền giáo không phải là công việc của cá nhân, lại càng không phải là công việc của riêng các linh mục, tu sĩ nam nữ. Người Kitô hữu cần phải mạnh dạn nói và sống niềm tin của mình trong một thế giới duy vật và tục hoá, và cũng không được ngại ngùng khi phải mời gọi mọi người chung quanh sẻ chia trách nhiệm truyền giáo. Hãy bỏ đi lối suy nghĩ cá nhân, đầy toan tính, ích kỷ để chỉ nghĩ đến sự hợp tác, liên đới hỗ trợ, nâng đỡ và bổ túc cho nhau để công tác truyền giáo được hiệu quả.
Trong thế kỷ 21 này chúng ta sẽ không phải đi đến một nơi xa lạ để truyền giáo, chúng ta truyền giáo bằng chính cách sống của mình và ngay trong chính gia đình mình. Một gia đình hạnh phúc, đoàn kết và thương yêu nhau, một gia đình biết nương tựa và sẻ chia trách nhiệm với nhau, đó cũng là một trong những cách truyền giáo hữu hiệu, bởi: "Người ta cứ dấu này nhận biết anh em là môn đệ Thầy, đó là anh em hãy sống yêu thương nhau". Giới thiệu về Chúa cho tha nhân xung quanh bằng sức mạnh của sự hợp tác, liên kết với nhau là vậy.
Một người chiến binh kể lại: "Trong trận đánh kinh hoàng tại Khe Sanh, tôi đã được đưa về bệnh viện. Tôi đã bị thương trầm trọng. Một trái đạn cối 4 ly 2 đã rơi vào chỗ tôi, nó khoét đi một chân trái của tôi, nó lại cắt luôn cánh tay phải, đập vào vai, vào đầu, vào mông và cả gót chân phải nữa. Hoảng sợ đã chiếm đoạt thân tôi. Tôi cố gắng phấn đấu để đứng dậy mà không nổi. Sau đó vài phút ba bốn thằng bạn xúm lại bên tôi, chúng lay, chúng lắc tôi nhưng cứ đờ người như chết. Tôi được đưa vào lều cấp cứu. Tôi thấy có bàn tay xoa bóp người tôi, tôi mở mắt ra, nó cũng không được lành, nhưng còn có thể trông thấy cha Tuyên Úy đang cầm sách giải tội cho tôi. Tôi nghĩ rằng đây là lần cuối tôi được giải tội, tôi hết lòng thống hối. Tôi tưởng mình sẽ ra đi sau một vài phút xức dầu, nhưng tôi còn sống, tôi sung sướng như chạm tới thiên đàng".
Bài Tin Mừng hôm nay diễn tả lại cảnh tượng Chúa ban phép xức dầu cho các môn đệ và sai họ đi "Xua trừ ma qủy và xức dầu chữa lành các bệnh nhân" (Mc 6:13). Cũng thế, Thánh Giacôbê đã khuyên: "Ai trong anh chị em đau yếu, hãy cầu nguyện cho họ và xức dầu cứu rỗi để họ được lành và nếu người ấy có tội thì được tha thứ". (Gacôbê 5:14-15).
Qua bí tích Xức Dầu, ta có thể được lãnh nhận ơn hồn xác, không những làm khoẻ về thể xác, còn mạnh về tinh thần như trường hợp cảm thấy thanh thản như người lính chiến. Bài Phúc Âm mời gọi chúng ta hãy lãnh nhận bí tích linh dược này hoặc khuyên nhủ và mờ gọi người ta đến lãnh nhận bí tích này.
Bài chia sẻ tuần trước đã nói đến sự kiện Chúa Kitô chẳng những không nản trước tình trạng cứng lòng tin nơi dân làng của Người, trái lại, Người lại còn hăng say đi rao giảng ở các làng lân cận đó nữa. Chưa hết, trong bài Phúc Âm hôm nay, Người thậm chí còn sai cả các môn đệ của Người đi làm việc rao giảng như Người nữa. Vấn đề được đặt ra ở đây là, chính bản thân Người còn chưa làm cho dân chúng tin tưởng Người, thì thành phần mới theo Người chẳng được bao lâu, thành phần vì thể chưa hiểu được Người là mấy, làm sao có đủ khả năng và tư cách làm chứng cho Người, nhờ đó làm cho Người được nhận biết và yêu mến? Thật thế, sự kiện Chúa Kitô sai các môn đệ sớm đi rao giảng đây đã cho thấy chẳng những tính cách khẩn trương của việc truyền giáo mà còn cho thấy cả cốt lõi của vấn đề thừa sai nữa.
Nếu Lời Thần Linh nhập thể để mạc khải cho loài người biết Mầu Nhiệm Thần Linh bằng chính ngôn ngữ và hành động của một Con Người là Chúa Kitô, thì việc Chúa Kitô sai các tông đồ đi cũng là cách Người muốn dùng chính những con người thuần nhân tầm thường hơn Người để nói với các thành phần dân chúng bình dân. Chính vì thế các vị thừa sai đích thực và trung thực còn được gọi là thành phần ngôn sứ của Thiên Chúa, của Chúa Kitô, Đấng đã được Cha sai thế nào cũng sai các tông đồ như vậy. Như thế, nếu bản chất của Giáo Hội lữ hành là truyền giáo, như Công Đồng Chung Vaticanô II đã ý thức và tuyên ngôn trong Sắc Lệnh Truyền Giáo “Ad Gentes” (đầu đoạn 2), thì ơn gọi của Kitô hữu không phải chỉ là ơn gọi nên thánh mà còn là ơn gọi thừa sai, đúng hơn là một ơn gọi duy nhất lưỡng diện mà người viết vẫn diễn tả bằng cụm từ “sống thánh chứng nhân”. Đúng thế, nếu khi lãnh nhận bí tích rửa tội, con người đã được thánh hóa, được nên thánh, đã là thánh trong Chúa Kitô và bởi Thần Linh của Người, thì đời sống của Kitô hữu chẳng qua là để thể hiện hay bộc lộ bản chất thánh thiện của một người con Thiên Chúa ra mà thôi. Để rồi, càng trung thực phản ảnh bản chất thánh thiện của mình là con Thiên Chúa, bằng một đức mến trọn hảo, được thể hiện ở một nội tâm liên lỉ khao khát Chúa và sẵn sàng tuân hợp ý Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc, cũng như ở một cuộc đời hăng say hoạt động tông đồ, dấn thân phục vụ cho đến tận tuyệt, đến độ hoàn toàn phản ảnh Đấng Thiên Sai Tử Giá.
Vâng, “thừa sai” là gì, nếu không phải là được sai đi, với tư cách là “tông đồ”, một danh xưng theo tiếng Hy Lạp là apostolos có nghĩa là “được sai đi”. Vậy nếu người được sai đi để làm việc cho người sai phái thì họ sẽ được người sai phái cung cấp cho có đủ những gì cần thiết để làm việc cho họ và chu toàn sứ mệnh được ủy thác. Đó là trường hợp của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, dù không được ở từ đầu đến cuối với Chúa Kitô như các Nhóm 12 Vị Tông Đồ, trái lại, còn có một quá khứ hoàn toàn phản lại Kitô giáo, nhưng cũng đã chớp nhoáng trở thành một vị tông đồ, và là một vị có thể nói nổi nhất trong thành phần Tông Đồ, đến nỗi, danh xưng tông đồ đã được đồng hóa với con người Phaolô, ở chỗ, khi nghe trống đến danh xưng Thánh Tông Đồ, dù không nói rõ tên vị nào, cũng hiểu là Thánh Phaolô. Vậy Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã được Đấng Sai Phái ngài trang bị cho ngài ra sao, nếu không phải, như thánh nhân nói đến trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô ở bài đọc thứ hai, đó là “Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để hoàn toàn hiểu được mầu nhiệm, hiểu được dự án Thiên Chúa đã ấn định nơi Chúa Kitô, một dự án được thực hiện khi thời gian viên trọn, tức là làm cho tất cả mọi sự trên trời dưới đất qui phục quyền thủ lãnh của Chúa Kitô”.
Trong bài đọc thứ nhất chúng ta cũng thấy trường hợp tương tự của tiên tri Amos, vị đã bị tư tế Amaziah ở Bethel đuổi đi về đất Do Thái, chứ không cho nói tiên tri ở Bethel của vị tư tế này. Tiên tri Amos đã nói với vị tư tế ấy rằng: “Tôi không phải là tiên tri, tôi cũng không thuộc về nhóm các tiên tri; tôi là một mục tử và là một người hái sung. Chúa đã chọn tôi là một kẻ đang chăn dắt thú vật khi phán cùng tôi rằng ngươi hãy đi nói tiên tri cùng dân Do Thái của Ta”. Chính việc tuân phục và phó thác làm theo ý Đấng đã sai phái mình là tất cả nghệ thuật truyền giáo và là tư cách đích thực của một vị thừa sai, thành phần ra đi để hoàn tất ý Đấng Sai Phái mình, và cũng nhờ tinh thần phục vụ vô tư này họ mới có thể gặt hái được thành quả của việc truyền giáo, ở chỗ làm cho những ai gặp họ đếu thấy rằng họ thực sự được sai đi, để rồi qua họ, Chúa Kitô là Đấng Sai Phái họ được nhận biết và yêu mến.
Riêng các vị tông đồ tiên khởi trong bài Phúc Âm hôm nay đã được Đấng sai phái các vị trang bị cho như thế nào để các vị có thể thi hành vai trò thừa sai của các vị trong cuộc truyền giáo đầu tiên? Nếu không phải, như Chúa Kitô minh định trong bài Phúc Âm, đó là quyền năng khu trừ thần ô uế, và cùng với quyền năng này, Người mong muốn các vị hãy sống tinh thần phó thác khó nghèo, chỉ chuyên lo trước hết và trên hết chu toàn ý định của Đấng sai phái mình (x Jn 4:34). Được trang bị trong ngoài như thế, các vị thừa sai có thực hiện những gì Vị Sai Phái của các vị mong muốn chăng? Ở cuối bài Phúc Âm, Thánh Ký Marcô đã thuật lại thế này: “Các vị ra đi rao giảng việc cần phải ăn năn thống hối. Các vị đã khu trừ nhiều quỉ, xức dầu bệnh nhân và chữa lành nhiều người”. So sánh thành quả truyền giáo với những gì các vị tông đồ thừa sai được trang bị, chúng ta thấy chúng tương hợp với nhau. Thứ nhất, nhờ được Đấng sai phái ban cho quyền năng trừ thần ô uế mà các vị đã có thể “khu trừ nhiều quỉ” và chữa lành bệnh nạn tật nguyền. Thứ hai, nhờ tinh thần phó thác khó nghèo chỉ chuyên tâm rao giảng mà các vị mới có thể “rao giảng việc cần phải ăn năn thống hối”.
Qua hai yếu tố trang bị vị thừa sai như thế, chúng ta thấy một bởi Chúa ban, đó là quyền trừ thần ô uế, và một bởi vị thừa sai, là tinh thần phó thác khó nghèo phục vụ. Đặt trường hợp một vị thừa sai không có tinh thần tông đồ cần thiết, chỉ có quyền trừ thần ô uế thôi, các vị có khả năng trừ tà ma ác qủi được chăng? Thưa không. Như đã xẩy ra ở trường hợp một em bé trai bị thần câm ám song các môn đệ của Chúa Giêsu không thể nào trừ nổi, sau đó được Chúa Giêsu cho biết thứ quỉ này chỉ bị khu trừ bằng lời cầu nguyện mà thôi (x Mk 9:18,29). Thật ra, tự mình, quyền năng của Chúa có thể trừ tà thần ác quỉ dễ như chơi, song quyền năng này, một khi ở nơi vị thừa sai, chỉ có thể phát sinh tất cả mãnh lực của mình khi nó hoàn toàn chiếm đoạt con người thừa sai ấy, đến độ biến con người thừa sai này làm phương tiện để Đấng Sai Phái các vị có thể tỏ mình ra qua các vị. Chỉ có tinh thần phó thác khó nghèo phục vụ như Chúa Kitô Tử Giá, con người thừa sai mới được thông phần quyền toàn năng trời đất của Chúa Kitô Phục Sinh (x Mt 28:18), một thứ quyền năng làm cho chính họ thắng vượt và khống chế mọi sự dữ (x Mk 16:17-18), một thứ quyền năng thực sự mạnh hơn cả sự chết, mãnh liệt như chính chân lý giải phóng (x Jn 8:32).
Mùa Thường Niên được chia làm hai giai đoạn, giai đoạn sau Mùa Giáng Sinh và giai đoạn sau Mùa Phục Sinh. Như hai tuần trước đã chia sẻ, giai đoạn Mùa Thường Niên sau Giáng Sinh nhắm đến chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tỏ Hiện, và giai đoạn Mùa Thường Niên sau Phục Sinh nhắm đến chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh. Việc phân biệt này rất cần để có thể hiểu được việc Giáo Hội chọn lựa và sắp xếp Phụng Vụ Lời Chúa, nhờ đó hiểu được ý nghĩa của chiều hướng Lời Chúa trong giai đoạn Mùa Thường Niên. Nếu Phụng Vụ Lời Chúa của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh được hiểu theo chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tỏ Hiện, ở chỗ, chính Chúa Kitô tỏ bản thân của Người ra cho dân Do Thái nhận biết Người, thì Phụng Vụ Lời Chúa của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh xoay quanh chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh, một Sự Sống hay một Chúa Kitô được tái sinh qua những chứng từ của Giáo Hội về Người, những chứng từ được thể hiện qua các hoạt động truyền giáo trước hết và trên hết của thành phần thừa sai tông đồ.
Vẫn biết Sự Sống Tái Sinh đây, sau khi Chúa Kitô Thăng Thiên về cùng Cha, được nhắm đến Dân Ngoại, đến việc truyền giáo “ad gentes” (nhan đề của sắc lệnh truyền giáo của Công Đồng Chung Vaticanô II được ban hành ngày 7/12/1965, ngay trước ngày Công Đồng bế mạc 8/12/1965, sau 3 năm diễn tiến từ ngày 11/10/1962), tức việc truyền giáo cho muôn dân, một việc truyền giáo đã được Sách Tông Vụ thuật lại, nhưng lại là việc truyền giáo, như Chúa Kitô căn dặn các vị tông đồ, phải được “bắt đầu từ Giêrusalem”, và các vị sau đó phải làm chứng về Người “ở khắp Giuđêa và Samaria, thậm chí cho tới tận cùng trái đất” (Acts 1:8). Trong lời căn dặn cuối cùng này của Chúa Kitô, chúng ta không thấy Người nói đến vùng Galilêa là nơi xuất thân của Người, phải chăng là vì nơi Người gặp gỡ các vị sau khi Phục Sinh để lên trời đã là ở chính Galilêa rồi (x Mt 28:7,16), thì kể như Galilêa là khởi điểm, là điểm phát xuất truyền giáo, nhất là vì miền Galilêa đã được chính bản thân Người rao giảng, lại còn là nơi Người đã sai các môn đệ của Người đi rao giảng nữa?
Sau khi hoàn tất sứ mạng trần gian, Chúa Giêsu trở về trời và được thiên thần Gabriel ra tiếp đón. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay: Lạy Chúa, xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế? Chúa Giêsu đáp: Ta đã chọn 12 tông đồ và Ta đã trao phó cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng bờ cõi trái đất. Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thoả mãn nên hỏi tiếp: Nếu chẳng may họ thất bại thì Chúa có dự tính chương trình nào khác nữa không? Chúa Giêsu mỉm cười: Ta không dự tính một chương trình nào khác, Ta tin tưởng ơ họ.
Đúng thế, Chúa Giêsu hoàn toàn tin tưởng vào các tông đồ, mặc dầu xét về nhiều phương diện, khi Ngài về trời, Ngài đã để lại một nhóm tông đồ ít ỏi xem ra không đủ khả năng để chu toàn sứ mạng đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Hơn thế nữa, ngay cả sau khi Chúa đã sống lại, đức tin của các ông vẫn còn chập chững và chao đảo. Chẳng hạn lần kia Chúa Giêsu gặp gỡ họ trên bờ biển Tibêria, sau khi nghe theo lời Chúa truyền, các ông đã được một mẻ lưới đầy cá. Lên bờ, thấy sẵn có than hồng, với cá đang nướng và bánh. Các ông được Chúa ân cần mời: Hãy ăn đi các con. Tuy nhiên các ông vẫn còn nghi ngờ, chưa nhận ra ngay là Chúa. Và sách Tông Đồ Công Vụ còn cho chúng ta thấy thái độ sợ sệt và khép kín của các ông sau khi Chúa đã về trời. Thế nhưng, chính nơi các ngư phủ quê mùa này mà Chúa Giêsu đã trao phó trọn vẹn sứ mạng hoàn tất chương trình Chúa muốn thực hiện. Đó là chương trình biến trần gian trở thành Nước Trời. Cũng trong sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta còn thấy được một hình ảnh khác hẳn khi các ông nhận lãnh Chúa Thánh Thần.
Thực vậy, các ông đã can đảm ra khỏi những gian phòng đóng kín, nơi các ông đã từng sợ hãi và trốn tránh, để lên đường rao giảng Tin Mừng Đức Kitô ở khắp mọi nơi, bất chấp mọi cấm đoán, mọi đòn vọt, mọi giam cầm, sẵn sàng chấp nhận cái chết để nêu cao niềm tin. Tất cả các tông đồ, ngoại trừ một mình Gioan, đều đã lấy máu đào để minh chứng lời mình rao giảng.
Nước Trời từ một hạt cải nhỏ bé, đã trở thành một cây to cho chim trời tới đậu. Đã hai mươi thế kỷ trôi qua, có biết bao nhiêu người, thuộc đủ mọi thành phần, mọi sắc dân, đáp ứng lời mời gọi của Chúa Giêsu, Đấng là đường là sự thật và là sự sống.
Và bây giờ đến lượt chúng ta. Đúng thế, có lẽ lúc này Ngài đang nhìn mỗi người chúng ta và đưa ra một câu hỏi để chúng ta có được một thái độ dứt khoát. Câu hỏi ấy như thế này: Còn con, con có muốn trở nên tông đồ, cộng tác với Ta bằng lời nói cũng như bằng chính việc làm và cuộc sống của mình, để đem Tin Mừng đến cho những người chung quanh hay không? Thế nhưng, trước câu hỏi ấy, chúng ta đã trả lời như thế nào và chúng ta sẽ làm gì để đáp trả tiếng Chúa.
Hôm nay, xin anh chị em cho phép tôi giảng một bài hơi nhẹ nhàng một chút, một bài giảng cho kỳ nghỉ hè. Tôi muốn nói về gia đình Tremblay tuần rồi đã đi cắm trại lần đầu tiên ra sao.
Điều khiến tôi nói về gia đình này, là Tin Mừng bảo rằng "Lần đầu tiên" Chúa Giêsu sai các môn đệ, từng hai người một, đi rao giảng, và để giúp họ, Ngài dặn dò họ ngay trước lúc lên đường. Tôi không biết các môn đệ có hiểu rõ và nghe theo những lời dặn dò này không, nhưng tôi biết rằng gia đình Tremblay đã không hiểu và không tuân theo, và họ là làm hỏng kinh nghiệm cắm trại của mình. Và khi nói về kinh nghiệm cắm trại của gia đình Tremblay, tôi sẽ nói một chút về các bạn và tôi.
"Đừng mang theo hành lý cồng kềnh".
Lời căn dặn đầu tiên của Chúa Giêsu thật rõ ràng: "Đừng mang theo hành lý cồng kềnh". Vì ông Tremblay không biết điều gì sẽ xảy ra nên ông đã chuẩn bị mọi sự: Hai túi ngủ cho mỗi người, những cây cọc để cắm lều, những chiếc ấm lớn nhỏ, thùng dụng cụ, v.v... Đối với ông Tremblay thà chen chúc nhau trong lều còn hơn là thiếu bất cứ món gì. Cuối cùng ông hầu như đã dọn hết đồ đạc trong nhà đi và đã phải bận rộn chuẩn bị đồ đạc cả tuần.
Một người quen cắm trại, sẽ khôn ngoan hơn. Ít nhất họ biết phải tránh mang theo những hành lý vô ích. Họ đã hiểu ý nghĩa thật của lời Chúa Giêsu căn dặn. Khi nhìn ông Tremblay họ thấy được yếu điểm của ông. Trước một công việc đòi hỏi phải dẹp đi mọi nhu cầu không cần thiết ông lại sợ phải bỏ đi những thói quen và những bảo đảm cho cuộc sống của mình. Thật ra ông Tremblay nghi ngờ rằng việc cắm trại sẽ không lấp đầy được cả một tuần lễ nghỉ ngơi, và ông nghĩ sẽ buồn chán khi thiếu tiện nghi. Thế là, bị kẹt trong đống đồ đạc lỉnh kỉnh của mình, ông không còn thảnh thơi để có được những ngày nghỉ ngơi thực sự nữa.
"Đừng đi lăng xăng khắp nơi!".
Lời căn dặn thứ hai là đừng đi lăng xăng khắp nơi. Nhưng cả ở điểm này nữa, bà Tremblay đã không thành công. Tuy nhiên, bà đã có ý tốt. Đối với bà, trong tuần cắm trại đó sẽ có dịp gặp gỡ nhiều người và bà cũng nghe nói rằng khi đi cắm trại người ta rất tử tế và dễ làm quen. Vậy nên bà không ngồi đấy mà chờ đợi: Bà vội vã đi bước trước, mỗi ngày bà đi thăm hết mọi người, những chẳng tiếp xúc với ai lâu. Cuối tuần, bà đã "quen biết" nhiều người, nhưng lại có ít bạn bè. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã nói: "Khi các con được đón tiếp vào nhà nào thì ở lại đó cho đến lúc ra đi!". Điều này có vẻ ngộ nghĩnh. Hiển nhiên là phải ở nơi nào đó trước khi ra đi. Nhưng, suy nghĩ một chút, ta thấy rằng ta có thể ở nơi nào đó mà không hiện diện, không bao giờ ở với ai cả. Điều này cũng có nghĩa là chỉ có một cách để tạo nên những mối liên hệ thực sự với kẻ khác: Đó là dừng lại, đừng bỏ đi ngay khi vừa gặp sự khó chịu nào đó và đừng sợ làm quen. Chúa Giêsu bảo: Với thái độ ấy làm sao các con có thể loan báo Thầy. Nói về Thầy thế nào nếu không tạo được những cuộc gặp gỡ thực sự? Nếu các con chỉ chạy vội hết nơi này đến nơi khác?
Cuối cùng đừng luyến tiếc gì cả.
Bọn trẻ nhà Tremblay trở về rất thất vọng. Chúng cứ tưởng sẽ gặp được nhiều bạn trẻ cùng lứa tuổi với chúng; dụng cụ thể thao cũ rích; huấn luyện viên về bơi lội bị ốm hai ngày, hai ngày đẹp trời nhất, v.v... Chúng đã mong một cái gì mới mẻ, nhưng bây giờ chúng chán cắm trại lắm rồi. Từ nay chúng đã biết cắm trại chẳng thích thú gì cả. Từ lúc về nhà chúng cứ luyến tiếc mãi những ngày đi chơi thất bại.
Điều Chúa Giêsu căn dặn cuối cùng là: "Nghe đây! Nếu các con đã thất bại ở nơi nào đó, thì hãy bỏ đi và để lại tất cả đàng sau mình, nhất là đừng luyến tiếc gì cả. Vì chúng sẽ chỉ ngăn cản các con bắt đầu lại công việc cách tốt hơn mà thôi".
Tóm lại sứ vụ của các môn đệ, cuộc đời của chúng ta, và cuộc cắm trại của gia đình Tremblay lại chẳng cần những lời căn dặn này sao: "Hãy siêu thoát đối với bản thân; hãy dừng lại để thiết lập những mối liên hệ thực sự; và hãy quên đi những luyến tiếc để bắt đầu lại cách tốt hơn".
Trước khi một tòa nhà được xây dựng, kỹ sư phải hoàn thành bản vẽ. Trước khi một đội bóng đá chuyên nghiệp đến một sân nào thì người huấn luyện viên đó phải có một chiến thuật. Vậy trước khi chúng ta làm một việc gì, phải ý thức về cuộc sống của chúng ta, chúng ta cần phải có một bản thiết kế; cần phải biết chiến thuật của chúng ta là gì.
Chúa Giêsu đã giới thiệu dự định đó trong lúc Ngài ở đây trên mặt đất này, Ngài đã gởi mười hai tông đồ đi trước Ngài trong công cuộc rao giảng, và Ngài tiếp tục rao giảng ngày hôm nay xuyên qua Giáo Hội, tuy nhiên sự thật là dự định của Thiên Chúa không phải là một chân lý lầm lạc hoặc là một ý tưởng xa vời. Dự định của Thiên Chúa là một con người, con người đó là người Con của Ngài, Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu thì giống như là một bản thiết kế đã được mang lấy xác. Chúa Giêsu là chương trình dự định cho đới sống của chúng ta.
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô giải thích dự định mà Thiên Chúa Cha đã hài lòng nơi Đức Kitô, Đấng đã mang hết tất cả mọi sự trên trời dưới đất vào trong quyền thủ lãnh của Đức Kitô. Đức Kitô là Đầu và chúng ta là chi thể của thân mình Ngài. Thân thể mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội, thân thể phải đươc trở nên giống như Đầu.
Bởi vì chúng ta là một với Đức Kitô ở trong Giáo Hội, chúng thông dự vào mối quan hệ của Người với Cha. Vì Người là người Con đời đời của Cha, trong ba ngôi, như thế chúng ta cũng trở thành con cái của Thiên Chúa trong Giáo Hội. Thiên Chúa cũng là một gia đình gồm Cha và Con được hợp nhất trong một Thánh Thần. Giáo Hội là một gia đình thiêng liêng ở trên mặt đất này. Chúng ta được sinh ra trong gia đình này qua phép rửa và phép thêm sức và được củng cố như là con cái của Thiên Chúa qua việc xức dầu của Thánh Thần.
Thánh Phaolô đã viết: "Chúng ta đã được đóng ấn bằng Thánh Thần. Sự diễn tả này ám chỉ lối thực hành của một vị vua hoặc của những người khác, họ đã ấn chiếc nhẫn của mình trên sáp nóng và sau đó đóng dấu ấn vào một bức thư hoặc một văn kiện quan trọng để làm bằng chứng xác thực. Khi người ta nhận thấy con dấu của vua, người đó biết rằng tài liệu này là xác thực. Chúa Thánh Thần cũng xuyên qua bí tích Thêm sức đã in dấu trên linh hồn chúng ta để xác định chúng ta thật sự là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta thật sự là như thế"
Mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa trong Giáo Hội kêu gọi chúng ta đáp trả bằng hai cách. Cách đầu tiên là phụng vụ. Thánh Phaolô đã nhấn mạnh rằng chúng ta phải ngợi khen đặc ân của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta qua người Con Yêu Dấu của Ngài: "Chúng ta đươc tiền định để ngợi khen vinh quang Ngài". Chúng ta làm viên mãn sự đáp trả này chính yếu là trong phụng vụ thánh, lời cầu nguyện của chúng ta được vươn cùng Giáo Hội. Cái đáp trả thứ hai là "cố gắng trở nên thánh thiện và không tì tích trước ánh nhìn của Thiên Chúa, được tràn đầy tình yêu". Lối đáp trả thứ hai được chỉ định như là cách chúng ta sẽ sống. Nó có nghĩa là chúng ta phải trở nên giống Đức Kitô, không chỉ trong hữu thể của mình nhưng còn trong tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta nữa.
Bởi vì Đức Kitô là bản vẽ, là kế hoạch cho đời sống chúng ta, nên phụng vụ không mệt mỏi để giới thiệu Phúc âm cho chúng ta trong mỗi Thánh Lễ. Trong suốt ba năm và Chúa nhật, chúng ta được nghe Lời của Chúa trong bốn Phúc âm. Tất cả các sách Phúc âm đều giúp chúng ta chứng kiến hành động của Chúa Giêsu. Chúng ta thấy bản vẽ của chúng ta, Con Thiên Chúa đã sống như một con người thế nào. Chúng ta cũng được giới thiệu lý tưởng để sống đúng. Trong việc lãnh nhận Thân Mình và Máu của Chúa trong bí tích Thánh Thể, chúng ta được làm cho mạnh sưc1 để có thể theo được kế hoạch của Thiên Chúa dành cho chúng ta: " Hãy ngợi khen Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã ban cho chúng ta trong Đức Kitô mọi phước lành thiêng liêng trên trời".
Có một điều làm cho nhân loại, làm cho chúng ta hết đỗi ngạc nhiên và thán phục: Nhóm mười hai được Chúa kêu gọi và kết nạp. Với một nhóm nhỏ chỉ vỏn vẹn có mười hai người, sau khi họ đã ở với chúa một thời gian thì chính Ngài đã sai họ đi rao giảng…
Nhóm mười hai thực sự đã là những người rất thiết thân với Chúa Giêsu.Bởi vì, các ngài đã được Chúa Giêsu đào tạo, huấn luyến, uốn nắn và giáo dục. Gần gũi với Chúa Giêsu, các môn đệ đã học hỏi nơi Chúa rất nhiều điều từ đời sống nhân bản, đời sống thiêng liêng, các môn đệ đã dược Chúa sai đi truyền giáo, rao giảng. Sai các môn đệ lên đường, Chúa Giêsu đã trang bị cho họ một số kinh nghiệm, đặc biệt giúp họ hiểu được những điều căn bản về Nước Trời và ban cho quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đây là gói hành trang quan trọng nhất Chúa Giêsu trao cho các môn đệ, ngoài ra những việc khác đều chỉ là phụ thuộc. Ngài nói với các môn đệ chỉ mang theo một chiếc áo đang mặc, một cái gậy, và một đôi dép khi đi đường mà thôi…Chúa Giêsu cảnh báo các môn đệ không được mang theo lương thực, mang theo bao bị và tiền bạc. Ngài muốn các môn đệ hoàn toàn phó thác vào Chúa. Không lương thực, không bao bị để tích trữ, không tiền bạc để mua sắm, Chúa Giêsu muốn các môn đệ đừng dính bén vào của cải, vật chất, đừng bám víu vào thế gian, hãy để tâm hồn và con ngưòi thoải mái mà làm việc Chúa. Ngài muốn các môn đệ phải hoàn toàn nương tựa vào lòng tốt của Thiên Chúa và lòng tốt của con người. Ngài muốn các môn đệ ra đi rao giảng mà không có một chút gì là bảo đảm theo nghĩa trần gian, để mặc Chúa định liệu và quan phòng.
Các môn đệ đi khắp mọi nơi, không ở chỗ nào vĩnh viễn, ra đi để cho thấy thành công không tự mãn, thất bại không chán nản.Ra đi để khỏi dính bén những gì ở trần gian này quá nhiều.Ra đi vì các môn đệ nhớ lại lời dặn dò của Chúa:” Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa “ ( Mc 1, 38 ). Các môn đệ phải sẵn sàng đến và cũng phải mạnh dạn, sẵn sàng ra đi. Các môn đệ mang một sứ mạng cao cả, một sứ mạng vinh quang: rao giảng Nước Thiên Chúa sắp tới gần. Nước Trời hay Nước Thiên Chúa sắp đến gần đòi hỏi con người, mọi người phải ăn năn, sám hối, đòi hỏi con người phải ăn năn vv…Các môn đệ có sứ mệnh cao cả phải hiên ngang, can đảm nói lời Thiên Chúa, kêu gọi con người ăn năn, sám hối. Ăn năn, sám hối, sửa sai là những điều chẳng ai thích, chẳng ai muốn cả. Nhưng các môn đệ luôn phải mạnh mẽ, can đảm mời gọi mọi người hoán cải, thống hối.Các môn đệ luôn phải mạnh dạn nói lời Thiên Chúa, nói tất cả những điều phải nói. Các môn đệ không được nói sai lời Chúa, làm nhẹ lời Chúa, không được thỏa hiệp, không được mị dân, vuốt ve, chiều đãi dân để làm vinh quang cho chính mình. Các môn đệ phải chấp nhận mọi hoàn cảnh thuận hay nghịch miễn sao Tin Mừng được rao giảng. Do đó, tới nơi nào họ tiếp đãi tốt, đó là hồng ân, nhưng tới một nơi họ không tiếp đón tốt, các môn đệ cũng không chán nản…Ngày nay chúng ta cũng cảm thấy hạnh phúc và sung sướng vì niềm vui của các tông đồ xưa. Họ chỉ là những người chài lưới nhưng đã trở thành những môn đệ Chúa. Họ trừ được quỷ và làm được nhiều việc lạ lùng. Các tông đồ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho nhân loại.
Người môn đệ Chúa ở muôn thời vẫn được Chúa và Giáo Hội sai đi. Người môn đệ hôm nay có thể ra đi với cung cách xưa là mang theo nhiều đồ đạc, có nhiều phương tiện hơn xưa, nhưng cốt lõi vẫn là rao giảng và giới thiệu Đức Kitô cho những người khác. Thế giới vẫn còn nhiều người xa Chúa, vẫn còn nhiều bệnh hoạn tật nguyền. Người môn đệ vẫn có sứ mạng xoa dịu những nỗi đau khổ của nhân loại và đem sự an bình của Thiên Chúa cho con người.
Lạy Chúa Tể càn khôn, Là Đức Vua, là Thiên Chúa con thờ, Ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm, Cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con Bên bàn thờ của Chúa. Phúc thay người ở trong thánh điện Họ luôn luôn được hát bài mừng Ngài ( Tv 83, 4-5 ).
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn nhiệt thành loan báo Tin Mừng. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Ai là người đã làm nên Nhóm Mười Hai ? 2.Các tông đồ đã được ai sai đi rao giảng ? 3.Chúa dặn dò các môn đệ những gì khi đi rao giảng ? 4.Điều cốt yếu là rao giảng gì ? 5.Tại sao lại phải sám hối ?
Sau một thời gian học hỏi, quan sát Chúa Giê-su thi hành sứ vụ, nhóm mười hai Tông đồ được Chúa Giê-su chính thức sai đi làm những gì Người đang làm. Một người học nghề nay chính thức được làm thợ chắc phải rất phấn khích. Mừng có, mà lo cũng có. Thánh sử Mác-cô ghi lại giây phút trọng đại này của các Tông đồ và tóm tắt hoạt động của các ông như sau: “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh” (Mác-cô 6:13). Tuy nhiên kết quả này không tự trời rơi xuống, mà chắc chắn do sự dạy dỗ của Chúa Giê-su và cố gắng học hỏi của các Tông đồ nữa. Điều này có nghĩa là trước khi được sai đi, các Tông đồ đã thực tập thi hành sứ vụ dưới sự hướng dẫn của Chúa Giê-su.
Nhóm Mười Hai là những người thuộc thành phần xã hội khác nhau như chúng ta thấy kể lại trong những lần Chúa Giê-su kêu gọi họ. Nhưng để tiếp tục sứ vụ của Chúa Giê-su, họ được Người đào tạo theo cùng một đường lối. Người cho họ những huấn dụ liên quan đến việc thi hành sứ vụ. Đây không phải là một trường chuyên nghiệp như chúng ta có ngày nay, nhưng việc đào tạo tông đồ hoàn toàn dựa trên những học hỏi kinh nghiệm và thực tập. Đi với Chúa Giê-su khắp đó đây, nghe những giáo lý Người giảng dạy cho dân chúng, chứng kiến những phép lạ Người làm, hiểu cách đối xử của Chúa Giê-su với những hạng người khác nhau, thậm chí với cả những kẻ thù nữa, tất cả đều trở nên một trường học sống động trong đó Thầy Giê-su cố gắng truyền lại kinh nghiệm cho các môn đệ. Tuy nhiên khác với các trường đào tạo chuyên viên, giữa Thầy và trò còn có mối tương quan mật thiết. Chính mối tương quan này sẽ tạo nên nơi các môn đệ một động lực lạ lùng thúc đẩy họ hăng say lên đường sứ mệnh, động lực ấy chúng ta gọi là hồn tông đồ. Hồn tông đồ giúp cho các môn đệ Chúa hoàn toàn dấn thân cho lý tưởng làm vinh danh Thiên Chúa, chứ không cho ích lợi riêng tư. Hồn tông đồ làm cho người môn đệ hoàn toàn khác với một nhân viên của một sở làm, vì động lực của người môn đệ là vì tình yêu, còn động lực của nhân viên sở làm thường là tiền lương và cùng lắm là vì say mê việc làm.
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ nêu lên một số chỉ thị có tính cách thực tế và thường mang ý nghĩa biểu tượng. Nói chung, những chỉ thị của Chúa đều hàm ý đề cao sự cấp bách và ưu tiên thi hành sứ vụ. Đừng để cho bất cứ quyến rũ nào, cám dỗ nào và cả những cảm tình nào ngăn cản hoặc giữ chân người tông đồ lại. Các ngài được Chúa sai đi chỉ để “rao giảng ơn sám hối, trừ quỷ và chữa lành”, những công việc Chúa Giê-su đã từng làm. Nhưng điều quan trọng nhất, đó là họ hãy bắt chước Chúa làm tất cả những công việc ấy với tình yêu chan chứa, hoặc nói khác đi, làm với hết cả hồn tông đồ của họ.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Trước Công đồng Vatican II, ít khi chúng ta nghe thấy từ Rao giảng Tin Mừng. Nhưng từ quen thuộc và bình dân của chúng ta là làm việc tông đồ. Mà đúng như vậy, chúng ta làm tất cả những việc các tông đồ đã làm khi các ngài được Chúa sai đi! Chúng ta cũng rao giảng Tin Mừng bằng cách sống những điều Chúa đã dạy, nhất là khi chúng ta sống ơn sám hối bằng cách mỗi ngày một sống tốt hơn. Chúng ta trừ quỷ bằng cách làm cho những ảnh hưởng của tội lỗi phải suy giảm đi. Càng sống những giá trị Tin Mừng thì ảnh hưởng của những tệ hại xã hội càng mất dần. Chúng ta chữa lành không chỉ những yếu đau thể xác, nhưng nhất là những nỗi đau tinh thần và thiêng liêng của mình và của anh chị em. Làm việc tông đồ là bổn phận của mọi người, mỗi người làm theo hoàn cảnh và khả năng của mình. Nhưng chúng ta đừng quên: muốn làm việc tông đồ, chúng ta hãy học với Thầy Giê-su của chúng ta ngay từ bây giờ!
Nếu các ngôn sứ là những người nói thay cho Thiên Chúa trong thời Cựu Ước, thì các Tông đồ là những ngôn sứ của Chúa Ki-tô và được Người sai đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật trước đã nói với ta về những đặc nét của ngôn sứ trong Cựu Ước, đồng thời cũng giới thiệu cho ta vị Ngôn Sứ Con Thiên Chúa là Đức Ki-tô. Bài Tin Mừng hôm nay là những lời Chúa Giê-su căn dặn các Tông đồ trước khi sai họ lên đường thực tập việc rao giảng.
1. Ông A-mốt, một nông dân được kêu gọi làm ngôn sứ (bài đọc Cựu Ước – A-mốt 7:12-15)
Câu truyện ngôn sứ A-mốt bị tư tế A-mát-gia sỉ nhục và xua đuổi, cho ta hiểu đâu là điều giúp ta nhận ra một ngôn sứ đích thực. Vốn là một nông dân chỉ biết miệt mài với công việc chăn nuôi và trồng cây, ông A-mốt không hề nghĩ một ngày nào đó Thiên Chúa sẽ gọi ông làm công việc của một vị ngôn sứ. Đáp lời gọi của Chúa, ông rao giảng ở miền bắc vương quốc Ít-ra-en, dưới thời Gia-róp-am II (783-743 trước công nguyên). Với tính tình chất phác của người nông dân, lời giảng của ông giản dị, dễ hiểu, nhưng cũng hết sức mạnh mẽ và thẳng thắn. Chính những lời ông cảnh cáo tội ác của mọi giới trong Ít-ra-en đã khiến cho các nhà lãnh đạo khó chịu và không muốn thấy ông hiện diện tại miền đất của họ nữa. Do đó, A-mát-gia, tư tế đền thờ Bết-Ên, đã quyết tâm xua đuổi ông. Vị tư tế mỉa mai gọi ông A-mốt là “thầy chiêm”, danh từ ám chỉ người phục vụ các thần ngoại chứ không phải Thiên Chúa. Tệ hơn nữa, ông ta còn coi sứ vụ ngôn sứ của A-mốt là một “nghề” để kiếm ăn! Sau cùng ông ta đem cả cái nhãn hiệu “Bết-Ên, thánh điện của quân vương và đền thờ của vương triều” để dọa nạt A-mốt.
Trả lời cho vị tư tế, ông A-mốt đơn giản cho biết: ông không phải là ngôn sứ, hay nói đúng hơn, ông không muốn được người ta xưng tụng là ngôn sứ, mà chỉ là một nông dân thi hành những gì Thiên Chúa truyền dạy ông phải làm, là “đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Chúa”.
Thực thế, ngôn sứ là người đáp lại lời gọi của Chúa để thi hành một tác vụ, chứ đâu phải một nghề nghiệp hay một địa vị xã hội để vênh vang lên mặt. Ơn gọi khác với nghề nghiệp. Linh mục, tu sĩ, ngay cả những người chọn sống bậc gia đình hay độc thân đều là những người sống ơn gọi. Còn bác sĩ, luật sư, kỹ sư... là những người chọn một nghề nghiệp. Ơn gọi là để phục vụ, còn nghề nghiệp thì mục đích chính là để kiếm tiền và nếu hành nghề với lý tưởng phục vụ nữa thì càng hay biết mấy. Nếu vậy thì ngoài các linh mục tu sĩ là những người chọn việc phục vụ, ta là những anh chị em giáo dân cũng vẫn có thể phục vụ mặc dù ta cần phải có nghề nghiệp để sinh sống. Khi ta thi hành nghề nghiệp của ta cho có lương tâm, sử dụng nghề nghiệp để không những kiếm sống, mà còn giúp đỡ mọi người trong khả năng nghề nghiệp của ta tức là ta đang làm công việc phục vụ rồi đó. Ta rao giảng bằng chính công việc của ta, bằng cách giao tiếp với những người liên hệ trong đức ái Ki-tô, trong đức công bằng và bình an như Giáo Hội dạy. Ta sử dụng những tài năng trong lãnh vực nghề nghiệp để xây dựng cộng đồng, lo lắng cho công ích, chú tâm tới những người cần giúp đỡ về mọi phương diện... Đó là ta đang cùng một lúc vừa thi hành nghề nghiệp, vừa làm việc tông đồ, một phương thức thực tiễn nhất để chu toàn tác vụ ngôn sứ của ta.
Trước khi sai các Tông đồ ra đi rao giảng, Chúa Giê-su đã phải huấn luyện và đào tạo các ông. Mặc dù các ông có cơ hội “học việc” với Chúa khi các ông theo Người đi khắp nơi, các ông vẫn cần một thời gian “thử việc” sau khi nghe những lời căn dặn quan trọng của Chúa. Những lời căn dặn của Chúa hôm nay không phải là một bản đề cương chi tiết với những nguyên tắc luật lệ rõ ràng, nhưng là những lời đơn sơ nhắm nói lên tinh thần tông đồ hoặc hồn tông đồ là điều các ông cần phải có. Nên nhớ đây không phải là một “nghề nghiệp” cần phải có bản “mô tả công việc” như ta thấy nơi các sở làm, nhưng là một “ơn gọi phục vụ” Chúa mời gọi để các Tông đồ đáp lời và ra đi phục vụ.
Trước hết Chúa sai họ đi từng hai người một, để họ không lẻ loi, nhưng nâng đỡ và giúp nhau, nhất là khi gặp những gian nan thử thách. Tiếp đến, Chúa “ban quyền” cho các ông, không phải để dùng quyền đó mà hống hách nạt nộ hay áp bức người khác, nhưng là để sử dụng mà giải thoát người khác khỏi quyền lực của ác thần, bệnh tật thể xác cũng như tinh thần.
Những lời căn dặn của Chúa Giê-su nhắm đến tinh thần tông đồ và cách giao tiếp cũng như ứng phó với hoàn cảnh rao giảng. Nói đến tinh thần tông đồ hoặc hồn tông đồ là nói đến tinh thần tự do, không vướng mắc vào tiền bạc, của cải, đời sống vật chất hoặc danh vọng ở đời. Người tông đồ “không được mang gì đi đường” và chỉ độc nhất có “cây gậy và đôi dép” làm hành trang! Không mang theo gì cả, ngoài lý tưởng phục vụ, bởi vì lỉnh kỉnh với những hành trang nặng nề sẽ làm tổn thương đến lý tưởng phục vụ. Chỉ có cây gậy là lòng tín thác cậy dựa vào tình yêu cũng như quyền năng của Chúa. Chỉ có đôi dép là sức mạnh của Chúa giúp họ bền bỉ và can đảm rảo khắp nẻo đường Chúa muốn họ đi.
Về cách giao tiếp và ứng phó với hoàn cảnh, người tông đồ phải luôn thẳng thắn, đó là điều cần thiết nhất. “Khi anh em đã vào nhà nào” là cách nói ám chỉ người tông đồ đã được người ta tiếp nhận và lắng nghe. Nếu thế thì người tông đồ cứ tác vụ mình mà thi hành, “ở lại đó” mà rao giảng, mà phục vụ, mà làm khí cụ bình an của Chúa, chứ đừng làm gì đi ngược với tinh thần tự do đích thực, đừng vướng mắc bất cứ gì dù là vật chất hay tình cảm. Người tông đồ thẳng thắn khi được tiếp nhận, nhưng cũng thẳng thắn khi bị xua đuổi. Dù không được đón tiếp niềm nở hay thậm chí bị xua đuổi, người tông đồ không cay đắng nguyền rủa những người xử tệ với họ, nhưng chỉ thẳng thắn “cảnh cáo” những kẻ ấy đã không tiếp nhận Tin Mừng để hy vọng ngày nào đó họ sẽ thay lòng đổi dạ.
Lời dặn dò của Chúa Giê-su chẳng cần văn hoa hoặc đao to búa lớn, nhưng là những điều đơn sơ nhất, cần thiết nhất và thực tế nhất. Tinh thần tự do và tinh thần thẳng thắn đã đủ là hành trang của bất cứ ai muốn đáp lời Chúa ra đi rao giảng hoặc làm chứng cho những giá trị Tin Mừng. Có lẽ ta tự hỏi: vậy người giáo dân chúng tôi làm thế nào để áp dụng tinh thần tự do và thẳng thắn ấy? Thì cũng vậy thôi, nghĩa là cứ sống như một người Công giáo không để cho tiền bạc, danh vọng và quyền lực làm chủ mình. Nghĩa là cứ thẳng thắn và thành thực trong những giao tiếp, đối xử với những người chung quanh, lúc nào cũng cố gắng thực thi lời dạy “hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con” của Chúa. Như thế là ta đang làm ngôn sứ của Chúa Ki-tô, làm chứng nhân cho Tin Mừng của Người rồi. Thánh sử Mác-cô kể rằng các Tông đồ đã thực sự lên đường và cũng đã gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Chắc chắn việc lên đường ấy và gặt hái được những hoa trái tông đồ ấy không phải là điều không thể đối với ta, những Ki-tô hữu hôm nay.
3. Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã chọn ta làm nghĩa tử (bài đọc Tân Ước – Ê-phê-xô 1:3-14)
Được Thiên Chúa chọn và gọi làm ngôn sứ là một ân sủng lớn lao. Tuy nhiên được Người chọn làm nghĩa tử còn là một ân sủng lớn lao hơn nữa. Chính vì thế thánh Phao-lô Tông đồ đã cảm nghiệm ân sủng cao sâu đó, nên mở đầu thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, ngài đã dành một đoạn hết sức tuyệt vời để dâng lời chúc tụng Thiên Chúa. Thánh Phao-lô chúc tụng Chúa, vì trong Đức Ki-tô, Chúa đã thực hiện cho nhân loại một điều vô cùng lớn lao mà ngài gọi là “kế hoạch yêu thương”. Kế hoạch này được thực hiện đều là nhờ Chúa Ki-tô. Vậy trong Đức Ki-tô và nhờ Đức Ki-tô, Thiên Chúa làm gì cho ta? Thánh Phao-lô kể ra những việc sau đây: a) Thiên Chúa đã chọn ta và muốn ta nên tinh tuyền thánh thiện (Ep 1:4); b) Thiên Chúa đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Ki-tô (1:5); c) Thiên Chúa cứu độ ta nhờ máu Thánh Tử đổ ra (1:7); d) Thiên Chúa đã chọn các Tông đồ làm gương mẫu đặt hy vọng vào Đức Ki-tô (1:11); e) Thiên Chúa đã cho ta được diễm phúc đón nghe Tin Mừng (1:13); và f) Thiên Chúa ban Thánh Thần làm bảo chứng phần gia nghiệp của ta (1:13). Tất cả những điều này đều là những điều Thiên Chúa đã “tiền định”, tức là đã có kế hoạch từ trước muôn đời. Nói như vậy tức là mọi thứ phúc họa ta gặp ở đời này chỉ là những may rủi hay trùng hợp, chứ không thể là “Chúa định”! Chúa chỉ tiền định có một điều và Chúa chỉ tiền định điều tốt thôi, đó là sắp đặt “kế hoạch yêu thương” để mong ta đáp lại, cộng tác và sau hết được cùng Người hưởng phúc trường sinh. Mà chính khi tiền định để cứu độ ta, Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyền tự do cộng tác của ta, chứ không tiền định một cách độc đoán đến độ “bắt” ta “phải” lên thiên đàng đâu!
Có khi nào trong đời Ki-tô hữu, ta biết dừng lại một chút để suy nghĩ về kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa và dâng lời chúc tụng Người như thánh Phao-lô đã làm không? Hay là cái điệp khúc “ta là con cái Chúa và được Người cứu độ” đã trở thành quá quen thuộc đến độ ta không còn để ý tới ý nghĩa sâu xa của nó nữa, nhất là ta quên rằng đó là một kế hoạch của tình yêu? “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:21; xem 17:18). Chúa Cha đã sai Đức Ki-tô đi thực hiện kế hoạch yêu thương. Giờ đây đến lượt Đức Ki-tô sai ta đi làm ngôn sứ và chứng nhân cho kế hoạch yêu thương ấy bằng chính đời sống yêu thương của ta.
4) Sống Lời Chúa
Chúa Giê-su kêu gọi các thánh Tông đồ, đào tạo họ trong tinh thần truyền giáo và sai họ đi rao giảng Tin Mừng. Tất cả đều nhắm mục đích thực hiện kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Chúa Giê-su đã chu toàn sứ mệnh và Người còn kêu gọi ta tiếp tục sứ mệnh của Người nếu ta sống tất cả những ân sủng đã lãnh nhận được từ kế hoạch yêu thương ấy. Ý thức sứ mệnh tông đồ và truyền giáo ta được chia sẻ với Chúa Ki-tô, ta cố gắng sống cuộc đời Ki-tô hữu gương mẫu, để không chỉ rao giảng bằng lời nói, nhưng bằng việc làm và qua những giao tiếp đầy tình thương bác ái với anh chị em.
Suy nghĩ: Tông đồ nghĩa là người được sai đi. Vậy tôi được Chúa sai đi tới đâu và làm gì với tính cách là tông đồ của Người? Những lời Chúa căn dặn các Tông đồ có ý nghĩa gì đối với tôi?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, nhờ Con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên; xin rộng ban cho các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này: Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 14 mùa Thường niên).
Mc 6:7-13: 7 Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. 8 Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; 9 được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. 10 Người bảo các ông: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi.11 Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” 12 Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. 13 Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
Sau khi bị dân chúng ở Nazaréth chối từ, Chúa Giêsu đi rao giảng ở vùng phụ cận. Đoạn 6:6b-13 nằm trong bối cảnh những sinh hoạt cuối cùng của Chúa Giêsu ở Galilêa (6:6b-8:26), mà việc trước hết là gởi các môn đệ đi (6:6b-13), và họ sẽ trở lại tường thuật cho Người những việc họ đã làm (6:30). Cấu trúc của đoạn: 1- Chúa sai các môn đệ đi trong khi gọi họ đến với Người và ban cho họ quyền năng (6:7); 2- Chỉ thị cho họ những gì họ phải mang theo mình (6:8-9); 3- Cách thức họ phải cư xử (6:10-11) và lời của thánh sử về việc họ đã thi hành bổn phận của họ như thế nào (6:12-13).
Đây là lần đầu tiên các môn đệ được sai đi. Khi thiết lập nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đã nhắm đến hai điều chính: là “ở với Người” và “để sai đi” (3:14). Người đã nói với những người đầu tiên được kêu gọi là họ sẽ trở nên những người đánh cá con người (x. 1:17). Sứ mạng của nhóm Mười Hai chứng tỏ một cách mới mẻ quyền năng của Chúa Giêsu. Người kêu họ đến với Người, sai họ đi, ban cho họ quyền năng và chỉ định cho họ cách hành xử. Họ đi rao giảng và làm chứng không phải cho tin mừng của họ, mà của tin mừng đã lãnh nhận từ Người (x. Mt 18:16). Việc xua trừ ma quỉ trước đây là của Người, bây giờ việc nầy được trao phó cho họ để thi hành (x. 1:23-27.34.39; 3:11-12.22; 5:1-20; 3:15).
Chỉ thị trước tiên là các môn đệ không được có gì cả, ngoại trừ chỉ một cây gậy, đôi dép và một cái áo là những thứ cần thiết của người đi trên đường (c. 9). Họ không mang theo lương thực cần thiết cho bản thân, mà là sứ điệp và quyền hành nhân danh Người để nuôi sống cách thiêng liêng người khác. Phù hợp với điều nầy Phêrô đã nói với người què: “Vàng và bạc tôi không có. Nhưng tôi cho anh điều tôi có là nhân danh Chúa Giêsu Kitô Nazaréth, anh hãy bước đi” (Cvtđ 3:6). Tiếp đến là cách hành xử nếu như người ta từ chối đón nhận sứ điệp họ mang đến. Với cử chỉ giũ bụi khỏi dép các môn đệ cho họ thấy là giữa họ và những người không đón nhận họ không có một điểm chung và quan hệ nào cả (x. Cvtđ 13:51; 18:6).
Sứ mạng của các môn đệ xem ra nằm ngoài thời gian và không gian. Cũng không có một chỉ dẫn đặc thù nào về nơi chốn và thời gian mà họ được sai đến. Tuy nhiên quan hệ giữa họ với Chúa Giêsu được xác định rõ ràng: Người sai họ đi và họ sẽ trở về tường thuật với Người những điều họ đã làm. Như thế, sứ mạng của họ lệ thuộc hoàn toàn vào Người. Marcô không cho biết nội dung của sứ điệp, mà hành động đi rao giảng của họ. Mục đích của việc nầy làm làm cho người ta hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Sứ điệp nầy tương tự với sứ điệp Gioan Tẩy Giả đã rao giảng (1:4); kèm theo đó, họ xua trừ ma quỉ và chữa bệnh họ. Phần Chúa Giêsu, Người kêu gọi không chỉ sám hối mà cả tin vào Tin Mừng nữa (1:14-15).
Từ khi được kêu gọi làm ngư phủ của con người (1:7) đến khi được thiết lập thành nhóm Mười Hai (3:14-15), đây là lần đầu tiên họ được sai đi để học kinh nghiệm bản thân về sứ mạng của họ. Họ lệ thuộc vào Chúa Giêsu, Đấng kêu gọi họ, không chỉ như là môn đệ, mà là tông đồ, người được sai đi.
Thư Ê-phê-xô có thể chia làm hai phần. Trong phần thứ nhất, thánh Phao-lô đề cao việc Thiên Chúa tuyển chọn những người Dân ngoại tòng giáo. Ngài chúc tụng Chúa đã thực hiện kế hoạch nhiệm mầu qua Đức Ki-tô (chương 1), nhắc nhở tín hữu Ê-phê-xô về quá khứ sống trong tội lỗi của họ, nhưng giờ đây trong Đức Ki-tô họ cùng sát vai với người Do-thái để làm thành một nhân loại mới (chương 2 và 3). Phần thứ hai là những huấn dụ luân lý. Vì đã được tuyển chọn, tín hữu Ê-phê-xô đừng sống như Dân ngoại đang sống, nhưng “hãy bắt chước Thiên Chúa” (5:1).
Các dịch giả Kinh Thánh đều công nhận rằng toàn bộ tư tưởng của Phao-lô đã được cô đọng trong đoạn Ep 1:3-14. Đoạn Kinh Thánh này mang những chiều kích khác nhau: về ý nghĩa mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa, rửa tội, phụng vụ, tất cả cốt lõi đều đã được trình bày một cách thật đơn giản. Những nhân vật chính trong kế hoạch nhiệm mầu này là Thiên Chúa Cha, Thánh Tử Giê-su, Thánh Thần, dân Do-thái và Dân ngoại. Trước hết chúng ta xét đến vai trò của Ba Ngôi Thiên Chúa đối với kế hoạch cứu độ, sau đó có lẽ cách tốt nhất để hiểu diễn tiến kế hoạch nhiệm mầu này là chúng ta cứ theo cách trình bày của thánh Phao-lô.
a) Ba Ngôi Thiên Chúa và kế hoạch cứu độ
Đoạn Ep 1:3-14 vẫn được coi là một bài thánh thi trang trọng chúc tụng Thiên Chúa Cha, Đấng đã thực hiện kế hoạch cứu độ, trong và nhờ Đức Ki-tô, cùng với sự tiếp tục và sinh hiệu quả do Thánh Thần. Chúa Cha là chủ từ. Mọi hành động đều quy về chủ từ: Người đã thi ân giáng phúc, Người đã chọn, Người đã tiền định, Người cho ta được biết... Tính cách chủ động của Thiên Chúa Cha ngầm hiểu Người đã yêu thương nhân loại với tình yêu vô điều kiện và muốn nhân loại hãy nhận biết tình yêu ấy mà đáp trả.
Tình yêu của Chúa Cha được biểu lộ qua Đức Ki-tô. Trước khi nói đến mỗi giai đoạn của kế hoạch, thánh Phao-lô đã sử dụng cụm từ “trong Đức Ki-tô,” hoặc “nhờ Đức Giê-su Ki-tô.” Điều ấy nói cho chúng ta biết vai trò độc đáo và vô cùng quan trọng của Đức Ki-tô trong kế hoạch cứu độ. Đức Ki-tô là sự thể hiện kế hoạch. Kế hoạch cứu độ không thể thực hiện ngoài Đức Ki-tô và nhờ một nhân vật nào khác không phải là Đức Ki-tô. Do đó chúng ta có nhiều kết luận quan trọng liên hệ đến vấn đề cứu rỗi của nhân loại là vì những cụm từ này. Không có sự cứu rỗi ngoài Đức Ki-tô. Giáo Hội khẳng định vai trò duy nhất của Đức Ki-tô và chống lại những chủ trương ngoài Đức Ki-tô ra còn có những con đường khác đưa con người tới sự cứu rỗi. Muốn được cứu rỗi, con người cần phải kết hiệp với Đức Ki-tô, như chi thể liên kết với Đầu. Đức Ki-tô quy mọi sự về một mối (recapitulation).
Thánh Thần được ghi nhận như là nguồn ân phúc và bảo chứng gia nghiệp cho chúng ta. Vai trò của Thánh Thần là giúp chúng ta nhận biết những ân huệ, nhất là ơn cứu rỗi, Thiên Chúa ban cho chúng ta (c.3). Thánh Thần giúp chúng ta khởi đầu hành trình được cứu rỗi bằng cách nhận ra kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa, thúc giục chúng ta đáp trả tình yêu ấy nhờ kết hợp với Đức Ki-tô trong đời sống mới, và đưa chúng ta tới đích của hành trình, tức là cho chúng ta được vĩnh viễn hưởng phần gia nghiệp Thiên Chúa dành cho chúng ta (c.14).
b) Thực hiện kế hoạch cứu độ
Nhờ Thánh Thần, chúng ta nhận ra những ân phúc Thiên Chúa khứng ban. Những ân phúc này là những chiều kích phong phú của việc thực hiện kế hoạch cứu độ. Vậy thánh Phao-lô trình bày thứ tự những ân phúc ấy như sau:
Ân phúc thứ nhất là ơn tuyển chọn (c.4). Động lực để Thiên Chúa tuyển chọn con người không phải do con người, nhưng hoàn toàn do lòng yêu thương của Thiên Chúa. Con người không có lý do hoặc xứng đáng bắt Thiên Chúa phải tuyển chọn mình. Khi tuyển chọn con người, Thiên Chúa nhắm mục đích tốt và có lợi cho con người là họ được nên tinh tuyền thánh thiện, chứ không phải vì có lợi cho Thiên Chúa. Tự mình, Thiên Chúa đã đầy đủ rồi, không cần đến sự hiện diện của con người. Chúng ta thường nghe nói về tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa. Thì đây, chính trong việc tuyển chọn chúng ta, đặc tính vô điều kiện ấy trở nên thật rõ ràng.
Ân phúc thứ hai là ơn được làm nghĩa tử của Thiên Chúa (cc. 5-6). Sự liên kết giữa Đức Ki-tô với chúng ta qua việc Ngôi Lời mặc lấy xác phàm và chức phận Con Thiên Chúa của Chúa Giê-su đối với Chúa Cha là căn rễ và gương mẫu cho chúng ta được làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Muốn làm con cái Thiên Chúa, chúng ta phải “nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8:29).
Ân phúc thứ ba là ơn cứu chuộc (cc.7-8). Đây là giai đoạn thực hiện kế hoạch cứu độ. Đức Ki-tô đã đi vào lịch sử nhân lại, sống cuộc sống con người gương mẫu, loan báo Tin Mừng cứu độ và đi tới tột đỉnh của việc loan báo tức là tuân phục Chúa Cha, chấp nhận chết đổ máu trên thập giá để chuộc lại việc bất tuân phục của loài người.
Ân phúc thứ tư là được biết thiên ý nhiệm mầu của Thiên Chúa (cc.9-10). Kế hoạch cứu độ là kế hoạch “Thiên Chúa đã định từ trước trong Đức Ki-tô” và chỉ một mình Người biết. Nhưng Thiên Chúa đã tỏ ra cho loài người biết qua các ngôn sứ, và “vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1:2). Kế hoạch yêu thương đã được hoàn tất nơi Đức Ki-tô, Đấng sẽ quy tụ muôn loài dưới quyền thủ lãnh của Người để đem về với Thiên Chúa Cha. Theo thiên ý này, Do-thái và Dân ngoại không còn tách biệt nhau nữa, nhưng sẽ làm thành một Dân mới tức là Hội Thánh của Đức Ki-tô.
Ân phúc thứ năm là việc Thiên Chúa tuyển chọn dân Do-thái và lịch sử của họ để thi hành kế hoạch của Người (c.11-12). Dân tộc Do-thái là nơi nuôi dưỡng niềm hy vọng mong chờ Đấng Cứu Thế và ơn cứu độ. Kế hoạch của Thiên Chúa là đi từ Ít-ra-en được tuyển chọn của thời Cựu Ước sang Ít-ra-en mới của thời Tân Ước. Thánh Phao-lô cũng muốn nói lên tâm tình biết ơn của ngài vì ngài được vinh dự là thành phần của dân Do-thái.
Ân phúc thứ sáu là Dân ngoại cũng được dự phần ơn cứu độ Thiên Chúa đã hứa cho Ít-ra-en (c.13). Để bảo đảm cho ân phúc này, Thánh Thần đã được ban xuống trên những ai đón nhận Tin Mừng và tin vào Đức Ki-tô.
Đến đây, không còn là “chúng tôi” (Do-thái) hoặc “anh em” (Dân ngoại) nữa, nhưng là “chúng ta”, cả hai đã trở thành một “dân riêng được cứu chuộc của Thiên Chúa” (c.14).
c) Sống trong Hội Thánh của Đức Ki-tô và trong thời đại cứu thế
Ơn Thánh Thần (c.14) vừa kết thúc việc thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa vừa mở đầu giai đoạn cuối cùng của lịch sử cứu độ. Thời điểm kết thúc kế hoạch cứu độ là ngày Đức Ki-tô tái lâm và xét xử muôn loài. Sống trong thời đại cứu thế, chúng ta được mời gọi hãy có một đời sống mới trong Đức Ki-tô, chủ đề được quảng diễn trong các chương 4-6, và Phụng vụ Lời Chúa sẽ trích dẫn trong những Chúa Nhật tiếp theo. Tuy nhiên tư thế của chúng ta trong thời đại này là chờ đợi Đức Ki-tô sẽ trở lại. Chờ đợi như thế nào, đó là lẽ sống của Ki-tô hữu. Dĩ nhiên không phải là chờ cách thụ động, là “chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào” (2 Tx 3:11), nhưng là sống như “con người mới” theo những gì “đã được nghe nói về Đức Giê-su và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giê-su” (Ep 4:21).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Qua kế hoạch cứu độ, tôi nhận ra tình yêu tích cực Thiên Chúa Ba Ngôi dành cho tôi như thế nào? Thánh Phao-lô đã diễn tả tình yêu ấy qua những ân phúc Thiên Chúa ban cho nhân loại. Tôi có thể chia sẻ tâm tình của mình về bất cứ ân phúc nào không?
Người ta thường hiểu lầm về “Chúa tiền định điều này điều kia...” Tư tưởng của thánh Phao-lô ở đây cho thấy chẳng có điều nào được tiền định ngoài kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Vậy tôi cảm thấy thế nào trước tất cả những “tiền định” yêu thương Chúa dành cho tôi và để cho tôi được tự do đáp trả?
Tôi có chương trình gì để sống “con người mới” trong khi chờ đợi Đức Ki-tô trở lại?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc lời nguyện sau đây:
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người. Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em. Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại. Lạy Chúa Giê-su đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa. Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện. (Trích Rabbouni, lời nguyện 46)
Bạn đọc thời nay có lẽ khó chấp nhận chân dung người tông đồ do Chúa Giê-su phác họa trong Tin Mừng Thánh Mác-cô (Mc 6,7-13). Bởi lẽ trong thời hiện đại này, một cuộc sống lang thang là điều không còn phù hợp. Hơn nữa, muốn cho lời rao giảng có tính thuyết phục, cần phải có những phương tiện và vị trí tương xứng trong môi trường xã hội đương thời.
Chúa Giê-su đã đưa ra những lời khuyên cho các môn đệ trước lúc các ông lên đường: đừng mang gì, chỉ trừ cây gậy, không mang lương thực, nhưng được đi dép…Có hai thứ được phép là gậy và dép. “Mang gậy và dép”, đó là hình ảnh của một người lữ hành thời xưa. Vì phải đi qua sa mạc và vì đường rất xa, nên người lữ hành phải mang gậy và dép để có thể tới đích. Qua hình ảnh đó, Lời Chúa diễn tả chân dung của nhà truyền giáo cũng như các tín hữu như những người lữ hành.
Người lữ hành có một mục đích rõ ràng. Ông đi và biết mình đi đâu. Ông cũng biết rằng con đường đó rất xa, cần phải kiên trì và can đảm. Người lữ hành biết rõ ông có thể gặp nhiều cản trở cam go do đường xa, do mệt mỏi hoặc do nguy hiểm cướp bóc dọc đường, nhưng ông vẫn can đảm lên đường. Vì giống như một người bơi ngược dòng, ông có thể bị người ta chế giễu, chê cười. Người lữ hành, nếu có dừng chân ở nơi nào để nghỉ ngơi lại sức, thì cũng không coi nơi đó là đích điểm. Hướng đi của họ đã được định sẵn, và họ tin chắc một điều là khoảng xa đang thu bớt và đích điểm đang đến gần.
Danh từ “người lữ hành” trong truyền thống Thánh Kinh thường được dùng để chỉ những người hành hương. Họ tiến về Giê-ru-sa-lem, nơi có Đền Thánh, tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng ngự trong Cung Cực thánh, có các Kê-ru-bim chầu chực thường xuyên.
Sống trong cuộc đời, mỗi tín hữu chúng ta đều là người lữ hành. Lời Chúa hôm nay không chỉ ngỏ lời với các Giám mục hay Linh mục là những người truyền giáo, nhưng với tất cả mọi người tín hữu. Khởi đầu giây phút làm người, tức là khi sinh ra, chúng ta bước vào cuộc lữ hành trần thế. Vào lúc được làm con Chúa, tức là khi được thanh tẩy, chúng ta bước vào cuộc lữ hành đức tin. Hai cuộc lữ hành cùng hiện hữu nơi một con người, vì vậy mà con người vừa mang tính nhân loại vừa mang tính thần thiêng; vừa có bổn phận xây dựng trần thế, vừa có trách nhiệm kiến tạo Nước Trời; vừa sống sao cho tốt Đạo, vừa cố gắng để đẹp đời. Thể xác hiện diện trên mặt đất mà tâm hồn lại hướng về trời cao. Hạnh phúc vĩnh cửu chính là kết quả của những cố gắng và công lao ấy.
Hành trình đức tin của chúng ta có một mục đích rõ ràng: chúng ta đi theo Chúa, Đấng ban sự sống và ánh sáng chiếu soi cuộc đời chúng ta. “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không còn đi trong tối tăm, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Đức Giê-su dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Cha. “Chính Thày là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thày” (Ga 14,6).
Trong hành trình đức tin, chúng ta không đơn lẻ một mình. Đức Giê-su sai các tông đồ đi “từng hai người một”. Điều đó cho thấy, người tín hữu cần sống và làm việc trong tình hiệp thông với anh em mình. Theo nguyên tắc từ thời Môi-sen, chứng của hai người thì đáng tin (x. Dnl 19,15). Chứng tá Ki-tô hữu chỉ có giá trị khi được thực hiện trong tình hiệp thông với anh chị em đồng đạo. Việc Chúa sai “từng hai người một” cũng cho thấy sự gắn bó của người tín hữu đối với Giáo Hội. Đức tin được tuyên xưng trong Giáo Hội, mới là đức tin trọn vẹn. Chứng tá tin mừng được thực thi trong tình hiệp thông với Giáo Hội mới là chứng tá làm tỏa sáng hình ảnh Đức Giê-su.
Chẳng có ai là “tông đồ chuyên nghiệp”. Mỗi người đều được Chúa trao sứ vụ cao cả ấy, dù có thể thực hiện ở mức độ khác nhau và hiệu quả khác nhau. Đối diện với sự ghen tương và cứng lòng của vị tư tế đền thờ, ông A-mốt đã tuyên bố: “Tôi không phải là ngôn sứ theo kiểu cha truyền con nối… nhưng chính Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo đàn vật và Ngài truyền cho tôi đi thực hiện chức năng của ngôn sứ” (x. Bài đọc I).
Và, thật lạ lùng, nhờ lệnh truyền và sức mạnh của Chúa, các tông đồ ra đi kêu gọi người ta ăn năn sám hối và làm được những điều lạ lùng như xua đuổi ma quỷ, chữa người đau ốm…Hôm nay, Chúa cũng đang sai chúng ta vào lòng cuộc đời. Khi yêu mến Chúa và hiệp thông với anh chị em, chúng ta cũng sẽ làm được những điều kỳ diệu, đó là đem lại cho người bệnh tật, đau khổ niềm vui và sự an ủi, xua đuổi những gì là tối tăm, thù hận, chia rẽ ra khỏi cuộc sống hôm nay.
“Sẵn sàng hy sinh những tiện nghi con thấy không hợp cho một tông đồ đích thực. Đừng tạo nên những sự cần thiết không cần” (Đức HHY Nguyễn Văn Thuận, ĐHV số 303)
Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện, bằng cách cho các môn đệ được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thực tập truyền giáo. Hai động từ "gọi, sai đi" diễn tả rõ rệt ơn gọi của các Tông đồ. Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồ. M. Quesnel ví những lời đó như "một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo" ("Comment lire un évangile?", Seuil, trang 103).
1. Hành trang người tông đồ
a. Hành trang đi đường: cây gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.
Các môn đệ được tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.
] Cây gậy
Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.
] Đôi dép
Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em".
] Tấm áo
Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.
Chúa Giêsu trao cho các ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang quan trọng hàng đầu. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.
b. Phương tiện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không "mọc rễ" bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa muốn.
c. Tương lai bấp bênh: Chúa Giêsu cũng không giấu diếm họ điều gì. Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ như lời Thánh phaolô nòi:Tôi trồng, Apollô tưới, Chúa cho mọc lên.
Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ...và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi. Lên đường bao giờ cũng đẹp. Hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.
2. Phương thức hoạt động:"từng hai người một"
Khi sai đi "từng hai người một ", Chúa Giêsu mong các ông hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn "Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy" (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của C
Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền giáo thường lên đường với nhau "từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22)… Hoạt động tông đồ luôn là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.
3. Tinh thần tông đồ là ra đi
Trao "Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông “phải giảng điều gì". Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết "phải sống". Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.
Suốt mấy năm ra mặt với đời để thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước để truyền giáo. Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23). Đôi khi ở ngoài trời, ở ngoài đường. Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi "mệt mỏi vì đường sá", một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì "Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí. Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng" (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình liên miên. Theo ngôn ngữ của Phúc âm Marcô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan, rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum... Ngài ngang qua đồng lúa ... Cứ đi và đi như vậy mãi.
Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Chúa bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống. Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng. Cánh huệ mọc ngoài đồng. Đàn chim sẻ đang bay. Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời. Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá. Một đàn cừu người chăn lùa về buổi chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối để vất đi. Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá...
Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận... Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho mình. Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn: "Sáng đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa" (Lc 4,42-43).
Như thế, suốt đời Chúa Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài đang sống.
Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng. Bị điệu đến Hanna rồi Caipha. Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường "công lý" của loài người.
Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh trên thập giá. Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). "Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại" (Mt 27,62-66).Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.
Sau khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng.
Hoàn thành sứ mạng, "Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha" (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". (Mt 28,20).
Chúa Giêsu gọi các môn đệ và "thiết lập Nhóm Mười Hai" để họ ở với Ngài và để Ngài sai đi. Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ.
Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.
Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi. Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin Chúa giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.
Chúng ta có thể gọi Chúa Nhật XV là Chúa Nhật Sứ Vụ. Sứ vụ đem lại cho người lãnh nhận sự cao cả, niềm hân hoan, nhưng cũng không thiếu nỗi buồn phiền, vị đắng cay.
Am 7: 12-15
Bài đọc I nhắc nhớ rằng ngôn sứ A-mốt, vốn xuất thân từ vương quốc phương Nam, vương quốc Giu-đa, được Thiên Chúa sai đi thông truyền sứ điệp của Ngài cho dân chúng vương quốc phương Bắc, vương quốc Ít-ra-en. Sứ vụ thật khó khăn, dù bị trục xuất trở về vương quốc Giu-đa, nhưng ngôn sứ A-mốt không đi, vì như thế là làm trái với sứ vụ ngôn sứ của mình.
Mc 6: 7-13
Tin Mừng tường thuật việc Đức Giê-su sai nhóm Mười Hai ra đi thi hành sứ vụ với lời căn dặn phải có tinh thần siêu thoát hoàn toàn, cũng như báo trước những thất bại có thể có.
Ep 1: 3-14
Trong phần mở đầu thư gởi các tín hữu Ê-phê-sô, thánh Phao-lô cho biết ý định muôn thuở của Thiên Chúa là cứu độ nhân loại. Thiên ý này được Đức Ki-tô mặc khải, hoàn thành và chuyển giao cho Giáo Hội.
BÀI ĐỌC I: Am 7: 12-15
Các sự việc diễn ra ở vương quốc phương Bắc, dưới triều đại của vua Gia-róp-am II (787-747 BC)
1. Hoàn cảnh lịch sử.
Để hiểu rõ hoàn cảnh lịch sử ở đó ngôn sứ A-mốt được Thiên Chúa sai đi thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình, xin được nhắc lại, sau khi vua Sa-lô-mon băng hà, vào năm 931 trước Công Nguyên, mười hai chi tộc Ít-ra-en chia rẽ nhau. Hai chi tộc vẫn trung thành với vương triều Đa-vít, tức vương quốc phương Nam, còn gọi là vương quốc Giu-đa. Mười chi tộc còn lại tách ra khỏi vương triều Đa-vít, tự chọn cho mình một vị vua mới, vua Gia-róp-am, và thiết lập vương quốc phương Bắc, còn gọi là vương quốc Ít-ra-en.
Vương quốc phương Nam có lợi thế là Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đối lại, vương quốc phương Bắc xây dựng hai đền thánh: đền thánh Ghin-gan, cực bắc xứ Pha-lê-tinh, và đền thánh Bết-En, cực nam cách Giê-ru-sa-lem khoảng chừng 15 cây số. Đền thánh Bết-En có ưu điểm là nhắc nhớ tổ phụ Gia-cóp; chính ở nơi đây mà vị tổ phụ này đã có một giấc mơ được lưu truyền mãi (một chiếc thang nối liền trời với đất) trong đó ông đã nghe tiếng Đức Chúa phán. Vì thế vị tổ phụ đã gọi nơi nầy là Bết-En, nghĩa là “Nhà của Thiên Chúa”.
Hai đền thánh nầy, cũng như các tư tế phục vụ chúng, hoàn toàn phụ thuộc vào vương triều, như ông A-mát-gia, tư tế đền thờ Bết-En, giải thích cho ngôn sứ A-mốt: “Đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều”.
2. Sứ vụ ngôn sứ của A-mốt:
Vốn là người sinh trưởng ở vương quốc phương Nam; vị ngôn sứ đã được Thiên Chúa sai đến vương quốc phương Bắc để thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình. Ngôn sứ xuất thân từ một thị trấn miền Bết-lê-hem; ông làm nghề chăn nuôi súc vật và chăm sóc vườn cây ăn trái, chính xác là châm những trái nho dại để làm cho chúng trở thành trái nho ngọt và mau chín (phải chăng đây cũng chính là ý nghĩa sứ vụ ngôn sứ của ông?).
Sứ mạng của vị ngôn sứ gặp nhiều khó khăn. Ông phải ngỏ lời với dân chúng đang sống trong cảnh thanh bình, thịnh vượng và phú túc. Tuy nhiên, xã hội đầy dẩy những chuyện bất công. Những kẻ lắm tiền nhiều của liên kết với những kẻ có thế có quyền đàn áp và bốc lột những người nghèo hèn trong xứ. Sứ điệp của ngôn sứ gởi đến vương quốc thịnh vượng nầy thật nghiêm khắc: “Chúng ghét người sửa trị nơi cửa công và thù oán kẻ ăn ngay nói thật. Vậy, bởi các ngươi chà đạp kẻ yếu hèn và đánh thuế lúa mì của họ, nên những ngôi nhà bằng đá đẻo các ngươi đã xây, các ngươi sẽ không được ở; những gốc nho ngon ngọt các ngươi đã trồng, các ngươi sẽ không được uống rượu của chúng. Bởi Ta biết tội ác các ngươi nhiều vô kể, tội lỗi các ngươi nặng tầy trời: nào áp bức người công chính, lại đòi quà hối lộ, nào áp bức kẻ nghèo hèn tại cửa công” (5: 10-12). Vị ngôn sứ phẩn uất trước những lễ hội xa hoa, những đám rước linh đình của những kẻ làm giàu trên xương máu của những người nghèo hèn và nhận thấy ở nơi những lớp vỏ thịnh vượng vật chất giả tạo bên ngoài là thực chất của một xã hội bất công thối nát. Vì thế, vào thời buổi nầy, cách xử thế khôn ngoan nhất là “Dĩ hòa vi quý”: “Bởi thế thời buổi nầy, ai cẩn trọng thì làm thinh, vì đây là một thời khốn quẩn” (5: 13). Bởi thế, vị ngôn sứ nhân danh Thiên Chúa tuyên sấm tố cáo lối sống gian trá của vương quốc nầy: “Vào ngày Ta trị tội Ít-ra-en Ta sẽ triệt hạ các bàn thờ của Bết-Ên: các sừng của bàn thờ sẽ bị bẻ gãy và quăng xuống đất. Biệt thự mùa đông, biệt thự mùa hè, Ta sẽ triệt phá; điện ngọc đền ngà sẽ sụp đổ, lâu đài dinh thự cũng tan hoang” (3: 14-15).
3. Sấm ngôn của A-mốt:
Quả thật, khi thấy hiểm họa xâm lăng của các đạo quân Át-sua, ngôn sứ A-mốt ra sức cảnh báo ngăm đe ngõ hầu vương quốc Ít-ra-en, vương quốc miền Bắc, có thể hồi tâm trở lại cùng Thiên Chúa của mình, thay đổi đời sống mà tránh khỏi án phạt: “Hãy tìm Đức Chúa thì các ngươi sẽ được sống”. Ngôn sứ A-mốt không nêu đích danh Át-sua; ông chỉ nói đơn giản “quân thù”: “Quân thù sẽ bao vây lãnh thổ, sẽ triệt hạ sức mạnh của ngươi, và đền đài của ngươi sẽ bị cướp phá…” (3: 11). Rảo khắp các thành thị và đền thánh, vị ngôn sứ cảnh báo: liệu Thiên Chúa sẽ gìn giữ dân của Ngài, nếu dân vẫn cứ ngoan cố trong tội ác của mình? Sấm ngôn của ông càng lúc càng vang dội lời cảnh báo ngăm đe: “Hãy tìm kiếm điều lành chứ đừng tìm điều dữ rồi các ngươi sẽ sống”. Sấm ngôn của ông được ứng nghiệm. Vương quốc phương Bắc bị tiêu diệt dưới những cuộc tấn công của quân Át-sua và biến mất vĩnh viễn khỏi lịch sử vào năm 721 trước Công Nguyên.
4. Phẩm chất của ngôn sứ A-mốt:
Trước đó, tư tế A-mát-gia tố cáo vị ngôn sứ với vua Gia-róp-am: “A-mốt âm mưu chống đức vua ngay trên lãnh thổ Ít-ra-en, và đất nước nầy không còn chịu nổi bất cứ lời nào của ông ta nữa. Vì A-mốt nói như thế nầy: Gia-róp-am sẽ chết vì gươm, và Ít-ra-en sẽ bị đày biệt xứ” (7: 10-11). Trong đoạn trích hôm nay, tư tế A-mát-gia, hoặc thừa hành lệnh vua, hoặc nhân danh quyền của mình là tư tế lãnh đạo thánh địa Bết-Ên, ông truyền lệnh cho ngôn sứ A-mốt ra khỏi thánh địa nầy mà trở về vương quốc Giu-đa: “Nầy thầy chiêm ơi, Mời ông ra khỏi nơi này, cuốn gói về xứ Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm!”.
Tư tế A-mát-gia vu khống ngôn sứ A-mốt khi đồng hóa ông với các ngôn sứ mạo danh, họ xem việc tuyên sấm như một nghề để làm ăn, để kiếm tiền. Trước lời vu khống nầy, ngôn sứ A-mốt đáp lại: ông không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải xuất thân từ trường lớp ngôn sứ, nhưng chỉ là người chăn súc vật và chăm sóc vườn cây. Chính Đức Chúa “đã bắt lấy” ông khi ông đang làm công việc thường ngày của mình, nghĩa là, chính Thiên Chúa đã gọi ông và sai ông đi thi hành sứ vụ của Ngài mà ông không thể cưỡng kháng được. Đó là cứu thoát dân Ít-ra-en khỏi án phạt của Thiên Chúa sắp đến.
5. Sự nghiệp của ngôn sứ A-mốt:
Phải chăng lệnh truyền của tư tế A-mát-gia đã chấm dứt sự vụ của ngôn sứ A-mốt? Chúng ta không biết chính xác; nhưng xem ra sứ vụ ngôn sứ của A-mốt chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, sứ điệp của ông vẫn lưu danh muôn thuở.
Ngôn sứ A-mốt là vị ngôn sứ bút ký sớm nhất mà sứ điệp của ông vẫn còn được bảo tồn bằng văn tự cho đến ngày nay. Ông đã khai sáng độc thần giáo luân lý, đây là nét đặc trưng của truyền thống ngôn sứ Ít-ra-en: “đưa đạo vào đời”. Ở nơi sứ điệp của ông chúng ta gặp thấy âm vang lời dạy của Công Đồng Va-ti-can II trong Hiến Chế “Vui Mừng và Hy Vọng”: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki-tô, và không có gì thật sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ. Thật vậy, cộng đoàn của họ được cấu tạo bằng những con người đã được quy tụ trong Chúa Ki tô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc lữ hành về Nước Cha và đã đón nhận Tin Mừng cứu rỗi đem đến cho mọi người. Vì thế, cộng đoàn ấy mới nhận thấy mình thực sự liên đới mật thiết với loài người và lịch sử loài người” (1).
BÀI ĐỌC II: Ep 1: 3-14
Thánh Phao-lô đã viết bức thư nầy khi ngài bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Chủ đề của bức thư là ý định muôn thuở của Thiên Chúa không gì khác hơn là cứu độ nhân loại. Thiên ý này được Đức Giê-su mặc khải, hoàn thành và chuyển giao cho Giáo Hội.
1. “Chúc tụng Thiên Chúa…”
Đoạn văn mà chúng ta đọc là phần đầu của bức thư ngay sau lời chào hỏi mở đầu. Thánh nhân diễn tả tâm tình tạ ơn theo cách thức cầu nguyện của truyền thống Do thái, được gọi “berakah”: “Chúc tụng Thiên Chúa”. Dù tư cách cá nhân hay cộng đoàn, lời nguyện nầy bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, không trừu tượng, nhưng luôn luôn vì những ân phúc rõ ràng. “Lời chúc tụng” nầy có thể là lời cầu nguyện tự phát của cá nhân mà những lời kinh nguyện “magnificat” của bà An-na, mẹ ông Sa-mu-en, của ông Tô-bi-a, của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a cung cấp cho chúng ta những ví dụ điển hình. Đây cũng là lời kinh nguyện gia đình trước bữa ăn và đặc biệt long trọng vào bữa ăn vượt qua. Đức Giê-su đã đọc “lời chúc tụng” trên bánh và rượu. Sau cùng, lời chúc tụng là hình thức tuyệt vời nhất của kinh nguyện hội đường.
Thánh Phao-lô, trước đây là kinh sư, vẫn trung thành với hình thức chúc tụng nầy. Toàn bộ bài thánh thi nầy kể ra muôn phúc lộc mà Thiên Chúa đã tuôn xuống cho nhân loại. Thánh nhân cũng bắt đầu thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô theo cùng một cách như vậy: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi nhân ái, và là Thiên Chúa hằng sẳn lòng ủi an những ai lâm cảnh gian nan khốn khó…”(2Cr 1: 3).
2. Ý định muôn thuở của Thiên Chúa.
Trước tiên, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng Thiên Chúa là nguyên lý và nguồn mạch của muôn phúc lộc và Ngài đã chuẩn bị từ muôn thuở kế hoạch của Ngài trên nhân loại.
Chúng ta ghi nhận rằng “lời chúc tụng” này được xây dựng theo kỷ thuật đóng khung rất quen thuộc với thánh Phao-lô, bắt đầu: “Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (1: 3) và kết thúc: “Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa, anh em đã nghe chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Ki-tô, một khi đã tin, anh em đã được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” (1: 13-14). Như vậy, lời chúc tụng này bắt đầu trong Đức Ki-tô mà Thiên Chúa ban xuống muôn vàn phúc lộc của Thánh Thần cho chúng ta để rồi kết thúc cũng trong Đức Ki-tô mà chúng ta nghe được Tin Mừng cứu độ và cũng trong Đức Ki-tô mà Thiên Chúa đóng ấn chúng ta bằng Thánh Thần, là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta. Nói theo ngôn ngữ của Tin Mừng Gioan: “Từ nguồn sung mãn của Ngài, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1: 16).
3. Đức Ki-tô và kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Trong nhiệm cục xưa, mọi sự đều nhằm chuẩn bị cho cuộc giáng trần của Đức Giê-su; trong nhiệm cục mới, mọi sự đều khởi đi từ Đức Ki-tô. Thánh Phao-lô đặt ở trung tâm lời chúc tụng của mình công trình cứu độ của Đức Ki-tô. Chính nhờ Đức Ki-tô, Thánh Tử của Người mà kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện. Việc mặc khải thiên ý mầu nhiệm nầy là một sự khai mở diệu kỳ, cao vời khôn dò và khôn ví, vượt quá sự khôn ngoan thông hiểu của loài người (chúng ta nhận ra ở đó một đề tài rất tâm đắc của thánh nhân trong thư gởi tín hữu Ê-phê-sô nầy).
Sau cùng, thánh nhân gợi lên vai trò của Đức Giê-su, “Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô”. Động từ Hy lạp “ana-kephala#ô”, ở đây được dịch “quy tụ”, được thánh Phao-lô dùng một lần khác trong thư gởi cho các tín hữu Rô-ma để nói lên rằng giới luật Đức Ái “thâu tóm” tất cả mọi giới luật khác (Rm 13: 9). Trong đoạn trích này, ý nghĩa cũng như vậy. Đức Giê-su “thâu tóm” toàn thể vũ trụ vì ở nơi Ngài mà muôn loài trong trời đất đều quy hướng về Ngài để gặp thấy sự hiện hữu của chính mình và ý nghĩa sự hiện hữu của mình. Theo sau thánh Phao-lô, động từ “thâu tóm” đã đi vào trong từ vựng thần học, nhất là với thánh I-rê-nê, và trở thành đối tượng của biết bao sự khai triển.
Nói một cách chính xác, thánh Phao-lô không gán cho Đức Ki-tô vai trò vũ trụ, nhưng triển khai khái niệm “Nhiệm Thể”. Theo cách nầy, thánh nhân đáp trả vũ trụ quan của Do thái, mà ngài đã chống lại rồi trong thư gởi các tín hữu Cô-lô-sê, đồng thời cũng đáp trả vũ trụ quan của phái khắc kỷ.
Xin nhắc lại rằng trong vài môi trường Do thái, người ta gán cho các thiên thần một vai trò đặc biệt và xem các ngài là những người tổ chức và điều hành vũ trụ. Các Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái giáo duy trì những niềm tin như thế nên giảm nhẹ vai trò của Đức Ki tô. Thánh Phao-lô sửa sai vũ trụ quan này.
Đối với phái khắc kỷ, họ thấy sự hòa điệu và trật tự của vũ trụ do bởi tác động của sức mạnh thần thiêng. Những biểu ngữ của thánh Phao-lô rất gần với phái khắc kỷ, nhưng thánh nhân loại bỏ tất cả khuynh hướng phiếm thần. Về điểm nầy, thánh nhân định vị tư tưởng của mình vào trong truyền thống minh triết Cựu Ước, nghĩa là thánh nhân mượn vài đề tài ở nơi trường phái khắc kỷ nhưng định vị chúng vào trong viễn cảnh của Đức Chúa cao siêu mầu nhiệm (Hc 43: 26-28; Kn 1: 7; 7: 22-23; 12: 1, vân vân).
3. Kế hoạch của Thiên Chúa được diễn tiến trong lịch sử:
Lúc đó thánh Phao-lô nhắm đến kế hoạch của Thiên Chúa đối với nhân loại được diễn tiến trong lịch sử, được gọi Lịch Sử Cứu Độ. Lịch sử cứu độ này được bày tỏ qua ba giai đoạn: hành động của Chúa Cha, hành động của Chúa Con, hành động của Chúa Thánh Thần.
Trước tiên, thánh nhân gợi lên việc tuyển chọn Ít-ra-en, dân Chúa chọn, để làm nhân chứng về việc trông đợi Con của Người. Ở đây, thánh nhân ngỏ lời với các tín hữu gốc Do thái mà ngài kể mình vào trong số họ với đại từ “chúng tôi”: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây…”. Tiếp đó, thánh nhân nói với các Ki-tô hữu gốc lương dân bằng đại từ “anh em”: “Trong Đức Ki-tô cả anh em nữa, anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em…”. Sau cùng, thánh nhân đề cập đến việc Chúa Cha sai phái Chúa Thánh Thần một cách nào đó như là thực hiện lời cam kết theo đó Người đã hứa ban gia nghiệp, nghĩa là được sống bên Ngài để “ngợi khen vinh quang Thiên Chúa”.
Diễn ngữ “ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” lập lại đến ba lần (1: 6, 12, 14) như một điệp khúc trong lời chúc tụng nầy. Đó là mục đích tối hậu của kế hoạch Thiên Chúa: đó là cứu cánh của nhân loại.
TIN MỪNG: Mc 6: 7-13
Trong chương trước, thánh Mác-cô đã tường thuật việc Đức Giê-su chọn nhóm Mười Hai và xác định sứ vụ của họ: “Ngài thiết lập nhóm Mười Hai, để các ông ở với Ngài và để Ngài sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (3: 14). Thánh Lu-ca tường thuật cùng một sự kiện và nói thêm: “Đến sáng, Ngài kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ” (Lc 6: 13). Thật ra, các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đã tránh dùng danh xưng “Tông Đồ” cho các môn đệ – thánh Gioan không bao giờ dùng thuật ngữ nầy – vì “Tông Đồ” tức là “người được sai đi” mà chỉ mình Đức Giê-su xứng đáng với danh xưng này: Ngài là Đấng được sai đi từ Chúa Cha. Chung chung các thánh ký thường nói: “nhóm Mười Hai” hay đơn giản “các môn đệ”.
1. Nguồn gốc sứ vụ của các môn đệ:
Sau một thời gian chuẩn bị: “nhóm Mười Hai” đã sống với Ngài, đã nghe giáo huấn của Ngài, đã thấy các phép lạ của Ngài, cũng như sự thất bại của Ngài ở Na-da-rét, Đức Giê-su cho rằng đã đến lúc đặt các ông vào trong thử thách khi sai các ông đi thi hành sứ vụ.
Cử chỉ nầy của Đức Giê-su thật sự là mới mẽ. Vào thời của Ngài, các kinh sư quy tụ chung quanh mình một nhóm môn đệ, để chia sẻ cuộc sống của thầy; tuy nhiên, họ không bao giờ nghĩ đến việc sai các môn đệ ra đi và ủy quyền cho họ thi hành sứ vụ. Chính Đức Giê-su đích thân sai các ông đi, như sau nầy Ngài sẽ nói với họ trước khi từ giả các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em đi” (Ga 20: 21).
2. Sai đi từng hai người một.
Chúa Giê-su sai các ông đi từng hai người một. Thánh Mát-thêu đã bảo tồn cho chúng ta nhóm từng hai người một nầy: Phê-rô và An-rê, Gia-cô-bê và Gioan, Phi-líp-phê và Ba-tô-lô-mê-ô, Tô-ma và Mát-thêu, Gia-cô-bê và Ta-đê-ô, Si-mon và Giu-đa.
Có phải ở đây Đức Giê-su quan tâm đến tâm lý? Chắc chắn, công việc dể dàng hơn nếu có hai người cùng nhau bàn bạc, bổ sung và giúp đỡ nhau trên dặm đường truyền giáo, nhưng, con số “hai” cũng là biểu tượng cộng đoàn, nghĩa là các vị thừa sai không làm việc đơn lẻ một mình, nhưng cùng nhau chung sức theo từng nhóm. Ngoài ra, theo quy định của Lề Luật, một lời chứng chỉ có giá trị nếu có hai nhân chứng (x. Đnl 17: 6; 19: 15; Ds 35: 30). Các môn đệ sẽ làm chứng từng hai người một về những dấu chỉ của Vương Quốc Thiên Chúa: trước hết, quyền năng trên những thế lực sự Dữ; thứ nữa, siêu thoát khỏi những bận lòng trần thế để nhắm đến những của cải tinh thần.
3. Hành trang của vị thừa sai.
Những căn dặn của Đức Giê-su cho các vị thừa sai nhắm đến hành trang thật gọn nhẹ, hay đúng hơn không trang bị gì cả: không lương thực, không bao bị, không tiền giắc lưng, không áo để thay đổi. Có vài chi tiết khác biệt giữa các Tin Mừng Nhất Lãm, tuy nhiên bài học thì rõ ràng: đức khó nghèo và sự phó thác hoàn toàn vào ơn Quan Phòng phải là những dấu ấn mà các vị thừa sai để lại trong lòng mọi người. Phong thái của họ cực kỳ đơn giản giống như những lữ khách lòng không vương vấn bất cứ điều gì cả. Họ được mô tả như những lữ khách luôn luôn sống trong tư thế lên đường, không tìm cách định cư ở một nơi nào nhất định, bởi vì còn có những nơi khác nữa cần đến sứ điệp của họ. Vào lúc dùng bữa sau cùng với các môn đệ, Đức Giê-su sẽ hỏi các ông: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”. Mọi người đồng thanh đáp: “Thưa không” (Lc 22: 35).
Quả thật truyền thống hiếu khách Đông Phương tạo cơ hội thuận tiện cho việc thi hành sứ vụ của các các môn đệ lữ hành. Tuy nhiên Đức Giê-su căn dặn họ một sự ổn định nào đó: “Khi anh em vào nhà nào mà người ta đón tiếp, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi”.
4. Giũ bụi chân.
Vì là những người được sai đi rao truyền sứ điệp một cách vô vị lợi, nên họ được hưởng quyền được tiếp đón một cách vô vị lợi từ những gia đình mà họ viếng thăm. Nhưng Đức Giê-su cũng tiên liệu sứ điệp kêu gọi hoán cải mà họ rao giảng có thể có những người khước từ: “Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ”.
Đây là tập tục của người Do thái sau cuộc hành trình trở về. Khi đặt chân lên miền đất Pha-lệ-tinh, họ giũ bụi đường khỏi giày dép để không đưa bụi phàm trần vào đất thánh của mình. Trong lời căn dặn của Đức Giê-su, không có bất kỳ một sự khinh bĩ nào đối với những người khước từ sứ điệp, nhưng hành động “giũ bụi chân” nói lên sự tuyệt giao.
Lời rao giảng của các môn đệ chưa trọn vẹn vì họ chưa rao giảng con người của Đức Giê-su – vã lại vào giây phút này họ chưa có thể hiểu đầy đủ về Ngài – nhưng chỉ chuẩn bị các tâm hồn: kêu gọi hoán cải. Như Đức Giê-su, lời rao giảng của họ kèm theo những dấu chỉ: trừ quỷ, xức dầu bệnh nhân và chữa lành bệnh tật.
5. Xức dầu bệnh nhân:
Vào thời Cựu Ước, người ta xức dầu để làm dịu vết thương; các tông đồ xức dầu, không như một phương thuốc, nhưng như dấu chỉ biểu tượng của một tác động siêu nhiên. Công Đồng Tren-tô đã thấy trong cử chỉ của các tông đồ nầy một trực giác, một phác thảo bí tích xức dầu bệnh nhân. Thư thánh Gia-cô-bê chứng thực rằng bí tích nầy đã được thực hành ngay từ thời các tông đồ: “Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội , thì sẽ được Chúa tha thứ” (Gc 5: 14-15).
Bệnh nhân được chữa lành, ma quỷ bị trục xuất, những cử chỉ này của các tông đồ được ghi khắc trên cùng bình diện với các cử chỉ của Đức Giê-su. Các sự dữ được gán cho tội lỗi, vì thế, việc chúng bị giảm đi loan báo thời đại lòng xót thương của Chúa.
6. Ý nghĩa:
Bài diễn từ sai các môn đệ lên đường nầy rất cổ kính vì mang đậm nét các phong tục thời xưa. Tuy nhiên, sứ điệp của nó rất hiện thực. Tin Mừng được truyền bá bằng những cuộc sống đơn sơ giản dị và trao ban một cách vô vị lợi, vì thế, mời gọi mọi người đón nhận nó cũng một cách vô vị lợi. Sứ điệp được đi kèm theo các dấu chứng chiến thắng của Đức Ki-tô trên sự Ác và Tử Thần là sứ điệp muôn thuở của bài trình thuật cổ kính nầy.
Chỉ cần một buổi tối theo dõi chương trình thời sự trên các đài truyền hình, chúng ta sẽ thấy được rất nhiều vấn đề lớn nhỏ đang xảy ra trên toàn thế giới. Nào là khủng bố, chiến tranh, các thứ tệ đoan và tội ác, đói nghèo, bệnh tật và chết chóc...Tất cả đều như những bóng đen che phủ cuộc sống con người. Tất cả đều là những chứng từ cho thấy sự hiện diện và hoạt động tích cực của ma quỷ. Không phải chỉ hôm nay, mà ngay từ thời Chúa Giêsu, thậm chí ngay từ buổi ban đầu của cuộc tạo dựng, ma quỷ đã có mặt và không ngừng hoạt động để phá hủy công trình tạo dựng của Thiên Chúa và lôi kéo con người chống lại Ngài. Con người đang trở thành những kẻ nô lệ cho quỷ dữ mà vẫn tưởng mình đang tự do. Đang là những công cụ đắc lực trong bàn tay ma quỷ mà vẫn tưởng mình là chủ nhân của thế giới này. Đang sống trong lầm than mà vẫn không hay biết gì.
Thế nhưng, Ngôi Hai Thiên Chúa, khi đến sống giữa con người, Chúa Giêsu đã thấy và biết tất cả. Ngài xúc động và xót xa cho số kiếp lầm than, khốn khổ của con người. Chính vì thế, dù ở đâu hay đi đến đâu, Ngài vẫn luôn ra tay cứu gỡ con người khỏi ách thống trị của ma quỷ và quyền lực sự dữ. Ngài đã chữa lành các bệnh tật đang huỷ hoại con người và xoa dịu những khổ ải đang đè bẹp họ. Để thực hiện công việc ấy, Chúa không làm một mình, mà Chúa muốn con người cộng tác vào sứ mệnh giải thoát với Ngài. Nên Ngài đã chọn 12 tông đồ và sai các ông ra đi như trong tin mừng chúng ta vừa nghe.
Tuy nhiên, không giống với những vị Sư phụ khác thường trang bị cho các đệ tử của mình một ít tiền lộ phí, một thanh kiếm, một pho bí kíp võ công hay một cuốn cẩm nang để mở ra khi gặp nguy hiểm, còn Chúa Giêsu khi sai các môn đệ của mình lên đường thì đã giao cho các ông một gói hành trang chỉ gồm những chữ “không” và chữ “đừng”: “Đừng mang gì, đừng mặc hai áo…, không mang bị, mang bánh, không mang tiền trong túi…”. Đây quả là một gói hành trang dị thường, một lời khuyên nghịch lý, trái với suy nghĩ khôn ngoan tự nhiên của từng người chúng ta. Thật ra, khi chỉ thị như thế, Chúa không bảo các ông phải sống trong cảnh bần cùng, túng quẫn, đến nỗi đánh mất phẩm giá con người. Nhưng điều Chúa muốn nơi người làm ngôn sứ tin mừng là không vướng bận những lo toan vật chất, tiền bạc, của cải, bởi lẽ một điều dễ hiểu là càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Chúa chỉ muốn nhắc bảo các ông đừng quá gắn bó vào những cái trước mắt, nhưng hãy can đảm phó thác vào Chúa, để Ngài dẫn đi. Chúa muốn các ông không bị cái vòng luẩn quẩn: Danh - Lợi - Thú đè bẹp, nhưng được nhẹ nhàng để chu toàn sứ vụ. Hành trang của người tông đồ phải là “không” đối với mình, để có thể đổ đầy cái “có” là ân sủng của Thiên Chúa. Và từ cái “có” sung mãn nhận được từ nơi Thiên Chúa đó, ngươì tông đồ trao lại cho anh em mình.
Là tín hữu kitô, qua bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta cũng được Chúa kêu gọi, tuyển chọn và sai đi nối tiếp công cuộc rao giảng tin mừng của Chúa. Hôm nay, nhìn lại mình, mỗi người Kitô hữu chúng ta đã làm được gì cho Chúa, đã thực sự sống đời chứng nhân chưa, hay còn mê mãi với bao của cải vật chất, còn so đo tính toán, còn suy hơn tính thiệt khi làm việc tông đồ?. Vậy, lắng nghe lời Chúa hôm nay, chớ gì mỗi người chúng ta, dù đang ở bất cứ môi trường nào, trong hoàn cảnh nào cũng hãy ý thức được bổn phận và trách nhiệm của mình, sẳn sàng ra đi loan báo Tin mừng của Chúa. Tuy chúng ta không được Chúa ban cho những đặc ân, những quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ như các tông đồ xưa, nhưng chúng ta có thể đem niềm vui và hy vọng đến cho những ai đang lầm than vất vưởng, sầu khổ, thất vọng, mất niềm tin, giúp họ vượt qua những thử thách, gian truân trong cuộc sống ; vượt qua mọi thành kiến, mà hoà nhập vào đời sống cộng đoàn trong tình yêu của Thiên Chúa. Một cử chỉ nhỏ nhặt, một câu nói buông trôi giữa trời, một nụ cười thiện cảm, một cái nhìn thông cảm tha thứ, nếu được thực hiện nhân danh Chúa, có thể làm cho biết bao tâm hồn hồi sinh sau khi tưởng mình đã chết, có thể xoa dịu những nổi đau sâu thẳm trong tâm hồn bao người. Có thể hâm nóng con tim của ai đó trở lại sau những năm tháng lầm lạc xa cách Chúa.
Lắng nghe lời Chúa hôm nay, chớ gì hành trang của từng người chúng ta cũng là những chữ “không” và chữ “đừng” như lời dạy của Chúa Giêsu đối với các môn đệ khi xưa. Chúng ta “không mang theo mình cái bị giận dữ, căm hờn; không mang trong túi của mình những tiền của bất công, gian dối; cũng đừng mặc hai áo”, đừng có hai lòng ba dạ, đừng có ngoài miệng thì khen lấy khen để, nhưng trong lòng thì ghét cay ghét đắng, đừng có anh anh chị chị rồi sau đó thì tìm cách nói xấu chửi bới anh anh chị chị ấy. Một người làm công việc truyền giáo mà có hai lòng ba dạ thì chỉ là công cụ của ma quỷ mà thôi, họ không thật với chính lòng mình thì làm sao sống hết mình vì anh em.
Nguyện xin Chúa ban ơn nâng đỡ và cùng đồng hành với mỗi bước chân chúng ta đi, để chúng ta trở nên một tay thợ gặt tầm thường, nhưng rất đắt lực, hăng say và nhiệt thành của Chúa ở thế gian này. Amen
Phúc âm Chúa Nhật hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu sai mười hai Tông đồ đi rao giảng Tin Mừng.
Khi sai các Tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy họ “không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo” (Mc 6,8-9). Chúa muốn họ chỉ chú tâm vào việc nhắc nhở mọi người lo ăn năn sám hối để chuẩn bị tâm hồn đón nhận Tin Mừng Cứu Độ của Chúa, còn mọi sự khác, Chúa sẽ lo liệu cho. Và các Tông đồ, lòng đầy trông cậy vào Chúa, ”ra đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối” (Mc 6,12).
Cộng đoàn phụng vụ chúng ta hãy cùng nhau suy niệm về đề tài “Ăn năn sám hối” như lời Chúa dạy.
«««
Chúa Giêsu không bao giờ muốn chúng ta chết trong tội vì nếu chúng ta chết trong tội, thì kế hoạch cứu chuộc của Đấng Cứu Thế bị tan vỡ. Vì thế, ngay khi bắt đầu cuộc sống công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi ngay mọi người hãy ăn năn sám hối: “Sau khi ông Gioan bị nộp, Chúa Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,14-15). Và Chúa Giêsu đã sai các môn đệ ra đi rao giảng sự ăn năn sám hối để chuẩn bị các tâm hồn sẵn sàng đón nhận Tin Mừng của Chúa.
Để nghe lời Chúa dạy hãy ăn năn sám hối và để sống đời ăn năn sám hối cho đẹp lòng Chúa, chúng ta phải nhớ rằng mình đã phạm tội làm mất lòng Chúa. Có kẻ không nhớ mình đã phạm tội làm mất lòng Chúa. Có kẻ không cho tội mình phạm là điều đáng lưu ý. Họ cứ phạm tội nầy đến tội khác, cứ chất tội nầy lên tội kia: hôm qua, cờ bạc, say sưa rượu chè, chơi bời, biếng nhác, hôm nay cũng biếng nhác, chơi bời, rượu chè, say sưa. Họ bỏ đi dự lễ ngày Chúa Nhật một cách dễ dàng, mà trong lòng không một chút ăn năn đau đớn. Họ phạm tội như uống nước lã: họ không có lòng ăn năn sám hối thật.
Để nghe lời Chúa dạy hãy ăn năn sám hối và để sống đời ăn năn sám hối cho đẹp lòng Chúa, chúng ta phải có sự đau đớn bên ngoài và bên trong. Chúng ta là người có xác hồn. Thân xác biểu lộ ra bên ngoài những gì đang xảy ra bên trong. Nếu bên trong, linh hồn chúng ta ăn năn đau đớn thật, thì thế nào bên ngoài, thân xác chúng ta cũng tỏ ra dằn vặt, buồn phiền, than khóc. Nhưng nếu chỉ có sự đau đớn bên ngoài nơi thân xác, mà trong linh hồn, không có sự đau đớn thật, thì chỉ là sự ăn năn giả hình, chứ không phải là có lòng ăn năn sám hối thật.
Để nghe lời Chúa dạy hãy ăn năn sám hối và sống đời ăn năn sám hối cho đẹp lòng Chúa, chúng ta phải có sự đau đớn siêu nhiên, nghĩa là đau đớn vì đã làm mất lòng Chúa. Chúng ta có thể có sự đau đớn tự nhiên, đau đớn vì mình, nhưng muốn có lòng ăn năn tội cho thật, để được Chúa thứ tha mọi tội lỗi, chúng ta phải đau đớn vì Chúa: đau đớn vì thấy Chúa quá tốt lành, quá yêu thương chúng ta, thế mà chúng ta đã phạm tội, đã làm cực lòng Chúa quá nhiều. Sau khi bán Chúa, Giuđa cũng đau đớn, nhưng chỉ đau đớn tự nhiên, đau đớn vì mình. Vì đau đớn như vậy, nên Giuđa không có lòng ăn năn sám hối thật và chết, mất linh hồn.
Để nghe lời Chúa dạy hãy ăn năn sám hối và để sống đời ăn năn sám hối cho đẹp lòng Chúa, chúng ta phải hết lòng trông cậy vào Chúa. Tuy nhớ mình đã phạm tội quá nhiều, tuy biết mình đã phạm tội quá lớn, nhưng người có lòng ăn năn sám hối thì không dừng lại ở đó, nhưng phó thác tất cả tội lỗi mình cho Chúa, rồi nhắm mắt lại và trông cậy vào lượng từ bi hải hà của Chúa, trong cậy vào tình yêu vô bờ vô bến của Chúa. Nếu không có lòng trông cậy vào Chúa như vậy, người tội nhhân sẽ dễ tuyệt vọng vì thấy tội lỗi mình quá nặng nề to lớn. Đó là trường hợp của Giuđa tuyệt vọng sau khi bán Chúa, vì y cho rằng tội mình quá nặng nề to lớn, không trông mong gì được Chúa thứ tha.
Để nghe lời Chúa dạy hãy ăn năn sám hối và để sống đời ăn năn sám hối cho đẹp lòng Chúa, chúng ta phải thật sự có lòng chê ghét tội lỗi và cương quyết chừa bỏ. Kẻ nào ăn năn sám hối tội mình đã phạm, và sau đó, phạm tội lại một cách dễ dàng, không chịu cố gắng sửa mình cho tốt hơn, không cương quyết xa lánh tội lỗi, kẻ đó chưa có lòng ăn năn sám hối thật. Thánh Ixiđôrô dạy: "Ta giả hình, ta không ăn năn tội cho thật, nếu ta cứ tiếp tục làm điều xấu mà ta đã hối tiếc”. Thánh Bênađô cũng dạy: "Kẻ thật tình trở về với Chúa, là kẻ biết rứt bỏ lòng mình khỏi những điều trần gian tội lỗi chóng qua nầy”.
Anh Chị Em thân mến,
Khi kêu gọi mọi người chúng ta ăn năn sám hối, Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ. Thánh Augustinô dạy: Để dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Chúa cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài. Sự cộng tác này, chính là lòng ăn năn sám hối của chúng ta. Mađalêna đã được Chúa Giêsu tha thứ và biến nàng thành vị thánh trong sạch: lý do là vì nàng đã biết ăn năn sám hối quảng đời nhơ nhớp trong quá khứ của mình. Phêrô đã được Chúa Giêsu hoàn toàn tha thứ vì Phêro đã biết đấm ngực ăn năn sám hối ba tội nặng chối Thầy của mình. Người trộm lành đã được Chúa Giêsu tha thứ vì đã biết ăn năn sám hối trở về với Chúa, mặc dù lúc đó anh ta chỉ còn vài giây phút trước khi lìa đời.
Sự ăn năn sám hối luôn luôn cần thiết cho mọi người trong mọi thời đại, vì bản thân con người bao giờ cũng yếu đuối, và thân phận con người bao giờ cũng mỏng dòn.
Trước mặt Chúa, ai cũng phải nhìn nhận mình là kẻ có tội. Thánh Gioan Tông Đồ nói: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1,8). Thánh Phaolô cũng quả quyết: “Mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa” (Rm 3,23). Và ngài kể ra kinh nghiệm cá nhân của mình là ngay cả khi lương tâm ngài không kêu trách gì, thì ngài vẫn chưa phải là người lành thánh: “Quả thật, tôi không thấy lương tâm áy náy điều gì, nhưng đâu phải vì thế mà tôi đã được kể là người công chính” (1 Cr 4,4). Vì thế, mỗi người chúng ta phải năng cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi.” Giáo Hội ý thức điều nầy rất rõ ràng trong con cái mình, nên để cầu nguyện với Đức Mẹ Chúa Trời, Giáo Hội không thấy từ nào ám hạp cho tất cả mọi người, cho bằng từ “có tội”: “cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nầy và trong giờ lâm tử.”
Trên đời nầy, ma quỷ luôn tìm đủ mọi cách để cám dỗ chúng ta phạm tội, và sau khi cám dỗ chúng ta phạm tội rồi, ma quỷ tìm đủ mọi cách để làm cho chúng ta đừng ăn năn sám hối.
Trên đời này, không gì ma quỷ ghét cho bằng sự chúng ta ăn năn sám hối, vì thế, ma quỷ luôn tìm đủ mọi cách để cám dỗ chúng ta đừng ăn năn sám hối, hoặc xúi giục chúng ta ăn năn sám hối một cách hời hợt, thói quen, tiêu cực, qua loa, vô hiệu quả, và như vậy, chúng ta vẫn luôn sống trong tội lỗi. Bởi vậy, khi còn sống, chúng ta phải luôn ăn năn sám hối cho thật, để được Chúa thứ tha mọi tội lỗi, để được chết lành, chết sạch tội mà về với Chúa khi lìa đời.
Bên kia mồ, sau khi chết, không còn là lúc để cho chúng ta ăn năn sám hối nữa. Amen.
Tiên tri Amos xuất hiện khoảng năm 760 trước Công Nguyên dưới thời của Vua Phương Nam Uzziah (783-742) và Vua Phương Bắc Jeroboam II (786-746). Tiên tri Amos làm việc nơi đồng áng và chăn nuôi súc vật. Ông được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi rao giảng sám hối tại trung tâm miền Bắc Bethel và Samaria. Quan niệm thần học tập trung việc cảnh cáo dân Do-thái rằng Thiên Chúa sẽ trừng phạt và phá hủy dân Israel bởi vì tội lỗi của họ. Amos kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối và cải đổi đời sống theo giới răn của Chúa.
Phúc âm Chúa Nhật hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi. Chúa ban cho các ông quyền trên các thần ô uế. Với lời nhắn nhủ sống đơn sơ chân thành và đi làm nhân chứng với hai bàn tay trắng. Các ông đã ra đi vào các làng mạc chuẩn bị các tâm hồn đón nhận ơn Chúa. Các ông hoàn toàn cậy dựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta biết Chúa Giêsu đã chọn những con người tầm thường, họ không có nhiều tài năng chuyên môn, không có của cải và không có chỗ đứng trong xã hội. Chúa chọn những người bình thường để làm những việc phi thường cho Nước Chúa.
Thật lạ lùng, Chúa Giêsu sai các tông đồ ra đi loan truyền sứ mệnh quan trọng nhưng không ban cho các phương tiện, tiền bạc hay của cải. Ngày nay trong công tác mục vụ, chúng ta thường chuẩn bị rất kỹ càng, nào là tiền mặt, thẻ tín dụng, thức ăn thức uống, bản đồ, áo trong áo ngoài, máy móc đủ loại và các dụng cụ cá nhân. Nếu khi phải ở qua đêm, chúng ta còn cần nhiều thứ lỉnh kỉnh nữa. Chúng ta lo lắng cho những nhu cầu vật chất như chỗ ăn chỗ ở, cái ăn cái mặc và những tiện nghi tối thiểu. Đôi khi chúng ta lại quá lo lắng cậy dựa vào những nhu cầu vật chất của đời thường. Theo thông lệ một số các đấng bậc khi thăm viếng mục vụ, các giáo đoàn phải chuẩn bị đón tiếp long trọng và đôi khi còn phải chi tiêu hao tốn, thiếu đi tinh thần nghèo khó và sự phó thác.
Mỗi năm kết khóa, mùa Hè là mùa ra trường. Các ứng sinh lãnh nhận những mảnh bằng tốt nghiệp đã bắt đầu bước vào đời. Những vốn liếng thu lượm qua việc trau dồi học hỏi trên ghế nhà trường nay đem ra áp dụng theo những sở trường và khả năng. Trong sứ mệnh dâng hiến, mỗi năm Giáo Hội đón nhận nhiều tu sĩ nam nữ khấn dòng, khấn tạm hoặc vĩnh khấn, các chủng sinh lãnh nhận chức đọc sách, giúp lễ, phó tế và các tân chức linh mục. Mỗi tu sĩ hay tân chức sẽ lãnh nhận những bài sai từ bề trên để ra đi làm nhân chứng cho Chúa Kitô. Các sứ giả phúc âm không được tự chọn cho mình nơi chỗ, nhưng được sai đến bất cứ nơi nào để phục vụ Giáo Hội và tha nhân.
Tháng Sáu vừa qua, tôi rất hân hạnh được tham dự thánh lễ truyền chức linh mục tại Đài Đức Mẹ, Tân Hiệp, Địa phận Long Xuyên. Lễ phong chức cho 18 tân linh mục rất là hoành tráng. Với trên hai trăm linh mục trong Giáo phận có mặt và có thêm nhiều vị từ khắp nơi đổ về. Với sự hiện diện trên mười ngàn Giáo dân vui mừng hân hoan tụ về tham dự nghi lễ phong chức linh mục. Ngay sau thánh lễ truyền chức, một vị linh mục đại diện đã công bố Bài Sai của Đức Giám Mục Địa Phận cho từng tân linh mục. Một sự chọn lựa cắt đặt các tân chức vào các sứ vụ tùy theo khả năng thích hợp của mỗi tân linh mục.
Chúng ta biết rằng lãnh nhận thiên chức linh mục không phải riêng cho mình, nhưng cho Giáo Hội và chung cho mọi người. Các tân chức nhận những Bài Sai khác nhau như về trụ sở Tòa Giám Mục, các Giáo Xứ và có những Bài Sai về nơi truyền giáo vùng sâu vùng xa. Niềm vui trào dâng khi nhận lãnh thiên chức cao cả. Khi nghe rao báo Bài Sai, các tân chức cũng có những cảm tình vui buồn lẫn lộn. Có những bà mẹ nhảy cẫng vui mừng vì con mình được về giáo xứ giầu có ổn định. Có những gia đình vỗ tay hãnh diện vì tân linh mục nhà mình được về xứ lớn ở trung tâm thành phố. Có những vẻ mặt không được vui lắm khi nghe Bài Sai sẽ đi phục vụ ở những nơi khai hoang truyền giáo. Thật vậy, được sai đi nơi đâu, cũng là để phục vụ tha nhân. Chúa Kitô vẫn luôn là trung tâm điểm của đời sống mục vụ và phục vụ.
Câu truyện vào thời chiến, có một sự kiện xảy ra nơi một làng nhỏ ở nước Đại Hàn. Trước nhà thờ có một tượng Chúa Giêsu bị trúng mảnh bom làm vỡ bể. Một nhóm binh sĩ Hoa Kỳ đã giúp linh mục lau dọn và thu thập các mảnh vỡ vụn để gắn đặt lại tượng Chúa. Họ tìm thấy mọi phần của tượng Chúa, trừ một cánh tay bị vỡ tan. Các binh sĩ đề nghị với linh mục là đưa tượng Chúa về Hoa Kỳ để tu sửa và làm cánh tay mới. Linh mục bổn sở từ chối. Ngài nói: Tôi có một ý tưởng. Cứ để tượng như thế, thiếu một cánh tay. Chúng ta hãy viết trên bệ cho các khách hành hương chú ý: Hỡi bạn, cho tôi mượn cánh tay của bạn.
Trong cách này, mỗi tu sĩ nam nữ, các thiện nguyện viên hay các linh mục ra đi giúp mọi người nhận ra những nhu cầu trong sứ mệnh phục vụ của mình. Chúng ta sẽ là những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu để xây dựng lại những đổ nát và hư mất. Cùng một suy tưởng, Chúa cần những đôi chân của chúng ta để đi tìm kiếm những ai đã lạc bước. Chúa muốn những đôi tai của chúng ta để nghe những tâm sự cô đơn buồn chán của tha nhân. Chúa dùng miệng lưỡi của chúng ta để nói những lời thân thương, khuyến khích, ủi an và nâng đỡ những kẻ đau buồn, khổ sở và thất vọng.
Trong thơ gởi cho tín hữu Ephêsô, thánh Phaolô đã viết rằng: Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người (Eph 1, 4). Sau khi hồi đầu, Phaolô đặt trọn niềm tin nơi Đức Kitô. Chúa đã chọn và gọi Phaolô một cách đặc biệt. Biến đổi ông từ một người bách hại các Kitô hữu trở nên nhân chứng cho niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Phaolô đã được sai đi rao giảng tin mừng cho dân ngoại. Tông đồ Phaolô đã không ngại gian khó rong ruổi khắp các thành thị và làng mạc để loan báo về công cuộc cứu độ của Chúa Kitô.
Giáo Hội luôn kêu gọi chúng ta cầu nguyện cho ơn gọi dâng hiến. Có rất nhiều tâm hồn đã và đang quảng đại đáp lại tiếng Chúa trong ơn gọi tu trì. Mỗi tín hữu đều có bổn phận góp sức mình, của cải và khả năng để xây dựng và loan truyền tin mừng cứu độ. Chúng ta không thể đổ dồn trách nhiệm cho môt thành phần riêng biệt nào. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận và trách nhiệm sống động trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Sự cộng tác của chúng ta bằng lời cầu nguyện, nâng đỡ tinh thần và khuyến khích hơn là sự chỉ trích, gây chia rẽ, đàm tiếu hoặc phá đổ. Lạy Chúa, cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát, xin Chúa sai thêm những thợ gặt lành nghề. Chúng con cảm tạ Danh Chúa đến muôn ngàn đời. Amen.
Hằng năm cứ vào dịp hè về, các Chủng viện, các Hội Dòng tại Việt Nam thường có những tổ chức cắt cử người thụ huấn đi thực tập mục vụ, truyền giáo, với các văn thư sứ vụ hay còn gọi là “bài sai”. Hình như tâm trạng chung là vừa hí hững khi được dịp khẳng định mình và vừa hồi hộp không biết mình sẽ đi đâu và làm việc gì. Cần khẳng định rằng không phải chỉ có các linh mục, chủng sinh, thỉnh sinh, tập sinh hay tu sĩ nam nữ mới là những người được sai đi.
Những người được sai đi phải là những người được Thiên Chúa chọn gọi. Ngôn sứ Amốt đã trả lời với tư tế Amatgia cách tượng hình rằng: “Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật…”(Am 7, 15). Thánh sử Maccô ghi rõ “Khi ấy Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai và bắt đầu sai đi từng hai người một…”(Mc 6,7). Có thể nói rằng bất cứ ai là Kitô hữu cũng đều được sai đi, đặc biệt khi đã lãnh nhận hồng ân Thánh Thần qua Bí tích Thêm Sức để sống đời Kitô hữu cách trưởng thành, nghĩa là với sự ý thức, tự giác và tinh thần trách nhiệm. Một người dân quê, chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung như Amốt cũng được sai đi. Tất thảy là vì “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn chúng ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, chúng ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1, 4).
Được sai đi để làm những gì?
Chúng ta có thể liệt kê một vài công việc của người được sai đi như sau: Trước hết là nhân danh Chúa truyền đạt ý định của Chúa cho tha nhân. Đây chính sứ vụ làm ngôn sứ mà Cựu ước thường gọi là đi tuyên sấm hay đi nói tiên tri và Tân ước thường gọi là đi rao giảng Tin Mừng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Công việc của người được sai đi còn là xua trừ ma quỷ, chữa lành bệnh tật, nghĩa là thi ân giáng phúc cả phần hồn lẫn phần xác cho nhân trần.
Một định luật dường như là tất yếu: Không ai có thể trao ban những gì mình không có. Để thực thi những điều, những việc vượt lẽ thường tình, thì những người được sai đi phải có khả năng cách nào đó cũng như phương tiện nào đó. Nhìn vào danh sách của Nhóm Mười Hai thì người ta có quyền nghi ngại về khả năng tự bản thân các ngài. Hơn nữa, khi các ngài được sai đi thì như với hai bàn tay trắng. Không tiền bạc, không lương thực, không bao bị, trên thân chỉ mỗi một manh áo, dưới chân chỉ có đôi dép và chiếc gậy trên tay, thế thì các ngài dựa vào đâu để chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, rao giảng tin mừng và kêu gọi người ta ăn năn sám hối? Câu trả lời là đây: Chúa Giêsu ban cho các ngài quyền trên các thần ô uế (6,7).
Một nguồn lực để thực thi sứ mạng tông đồ: Có quyền trên các thần ô uế.
Có quyền trên một ai đó là ta thực sự làm chủ trên họ, ra lệnh cho họ và họ phải tuân theo. Thử hỏi các thần ô uế là những ai? Nếu cho rằng đó là thần dữ, là ma quỷ thì ít ai dám phản đối. Thế nhưng, người mà thần ô uế đành tuân lệnh thì phải Đấng Thánh của Thiên Chúa (x.Mc 1,23-24). Thần ô uế xét như là thế lực bên ngoài thì chính là ma quỷ. Chúng ta tin nhận Chúa Giêsu đã ban quyền cho các Tông đồ cách nào đó trên thế lực này. Xưa lẫn nay, cũng có nhiều đấng được thông ban ơn trừ quỷ. Tuy nhiên số các vị này rất ít. Thế thì những người khác không có ơn này thì không được sai đi để thi hành sứ vụ tông đồ ư? Dễ dàng trả lời là không phải như thế. Thử hỏi có mấy ai dám to gan cho rằng mình đủ khả năng đương đầu với ma quỷ? Trước kẻ thù bên ngoài như “sư tử gầm thét”, thì chúng ta không dám coi thường (x.1 P 5,8), nhưng chúng ta rất có thể xao lãng kẻ nội thù.
Vậy cần phải xem xét thêm một thứ thế lực ô uế bên trong con người chúng ta. Chúa Giêsu đã minh nhiên khẳng định những cái bên trong phát xuất ra làm cho người ta ra ô uế đó là “tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng” (Mc 7,21). Có quyền trên các thần ô uế thì cũng có nghĩa là làm chủ các khuynh hướng xấu, các ý định xấu, các việc làm xấu xa ở trên. Một điều chắc chắn rằng để được sai đi và có khả năng thực thi sứ mạng, thì người đựơc sai phải làm chủ một cách nào đó những cái bên trong vốn có thể làm chúng ta ra ô uế.
Đó đây có thể thiếu người được sai đi, nhưng ở Việt Nam hiện nay thì có thể nói vẫn chưa thiếu nếu không muốn nói là còn thừa. Với những người được sai đi thì Thiên Chúa không bao giờ dè sẻn ân ban. Thế nhưng, những người được sai đi có thực thi được sứ mạng hay thực hiện sứ mạng cách tốt, xấu ra sao, thì vẫn còn tùy ở việc họ có làm chủ được các thần ô uế bên trong, nghĩa là làm chủ những xung lực xấu ở bên trong, khả dĩ có thể làm cho họ ra ô uế như thế nào.
Muốn đất nước phát triển: “Hãy loại trừ tham nhũng”, đó là vấn đề được bàn luận sôi nổi nhất nơi các kỳ họp quốc hội Việt Nam.
Tham nhũng là gì? Tham nhũng không đơn thuần là lấy của công thành của riêng. Tham nhũng không dừng lại ở việc lợi dụng chức quyền để vun quén cho bản thân mà còn cho cả dòng họ. Đúng như cha ông ta đã nói: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Điều tệ hại của tham nhũng đó là lòng tham đã ăn sâu vào xương tủy những người làm quan. Lòng tham khiến họ không còn chí công vô tư khi thi hành chức vụ. Lòng tham khiến họ không thể sống thanh liêm chính trực. Lòng tham dẫn họ đi sâu vào tội ác và dối trá. Nếu xã hội không còn những người thanh liêm thì làm sao tránh khỏi ăn bẩn, ăn chận của người thấp cổ bé miệng và đói nghèo. Nếu xã hội không còn những con người chí công vô tư thì làm sao có công lý và tình thương trong xã hội hôm nay. Tất cả chỉ là dối trả và phỉnh lừa lẫn nhau.
Lời Chúa hôm nay gợi lên một hình ảnh thật đẹp về những sứ giả tin mừng. Họ là những người được tuyển chọn để cứu nhân độ thế. Họ dấn thân vào đời để giải cứu thế gian khỏi ba thù hiểm độc. Thế gian có quá nhiều mưu mô và xảo quyệt. Ma qủy có quá nhiều phương cách để cám dỗ. Họ cần phải ra đi với đôi chân nhẹ nhàng và lòng thanh thoát. Họ không được mang bao bị, không mang bạc tiền của nhân thế. Họ là những người chấp nhận cuộc sống nổi trôi “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh”. Sứ mệnh của họ là đẩy lùi sự dữ và thi thố tình thuơng. Họ không thể bận tâm đến của cải thế gian. Họ không để lòng mình bị ràng buộc bởi nhu cầu vật chất và tiện nghi. Nếu họ quá quan tâm đến mình sẽ bỏ quên đồng loại. Nếu họ quá chú trọng đến vật chất sẽ dẫn đến lo hưởng thụ và tích góp cho bản thân. Thiện chí sẽ mất. Hướng đi sẽ chệch đường lạc lối. Lý tưởng ban đầu sẽ bị đảo ngược. Thay vì cứu đời sẽ chỉ còn lại sự lợi dụng địa vị chức quyền để vun quén cho bản thân.
Người ta kể rằng: có một đệ tử muốn từ bỏ mọi sự của thế gian để sống tu trì. Anh quyết định vào rừng vắng sống ẩn tu. Hành trang duy nhất anh mang là chiếc áo ăn mày để khất thực sống qua ngày.
Ngày kia, anh đau đớn vô cùng khi thấy chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn nát tả tơi. Không còn cách nào khác, anh phải vào trong làng xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai này cũng bị cùng chung số phận, nát tả tơi vì chuột cắn. Anh nghĩ rằng chỉ có nuôi mèo mới giữ được chiếc áo. Anh quyết định nuôi mèo. Thế nhưng, khi có mèo anh lại phải lo kiếm thêm phần ăn cho con mèo được nuôi để đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất thực, anh cảm thấy mình như một gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố gắng chắt chiu để kiếm tiền nuôi một con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò lại phải kiếm cỏ cho bò ăn. Chăn nuôi gia súc khiến anh không thể có thời giờ cầu nguyện, anh lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng ngày bò càng sinh sản, người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang sơ đã biến thành một trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm ngày càng thêm đông. Con người đã một thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên trở thành một ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to lớn, anh lại muốn có người chia sẻ công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con. Anh trở thành một người chồng, người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là lý tưởng ban đầu đã hết. Anh đã đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một “cái áo rách”.
Chuyện có vẻ hoang đường nhưng lại là thật. Ma quỷ thường cám dỗ từng bước. Ma quỷ thường gợi lên những điều hay, điều tốt để dẵn dắt con người đi theo chương trình của nó. Adam – Evà đã nhìn thấy trái táo thơm ngon mà quên đi thân phận phải vâng lời Thiên Chúa. Khi tỉnh lại chỉ còn thất vọng và hổ thẹn lương tâm. Người tu sĩ đã lạc bước khi quá bận tâm đến nhu cầu vật chất, đến đồng tiền bát gạo, khiến tâm hồn anh không còn thời giờ để vun đắp, định hướng cho hướng đi của mình. Cái thất bại của anh thật tẻ nhạt, chỉ vì mải lo gìn giữ một “chiếc áo rách”.
Thực vậy, vì tiền bạc, mà người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời. Vì tiền mà “nhân chi sơ tính bổn thiện” đã không còn. Vì tiền mà người ta có thể chối bỏ niềm tin. Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Đó là bài học cho tất cả chúng ta. Đồng tiền thật cần thiết cho cuộc sống nhưng không phải là cứu cánh cho cuộc đời. Đừng quá lệ thuộc vào của cải vật chất. Nó chính là con dao hai lưỡi có thể làm hại cuộc đời chúng ta, nếu không khôn ngoan, sáng suốt để nhận định đúng giá trị của nó. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm của cải vật chất, chúng ta có đủ nghị lực khước từ mọi hành vi bất chính, mọi thoả hiệp với lừa đảo, gian trá của thế gian.
Con người luôn hướng về sự thiện. Con người luôn mong muốn cống hiến cuộc đời mình cho tha nhân. Đó chính là mục đích mà Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Thế nhưng ma quỷ luôn vẽ lối chúng ta đi sai đường Chúa. Ước gì lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta, hãy lo tìm kiếm những điều đẹp ý Chúa hơn là thế gian. Hãy để tâm làm việc phụng sự Chúa hơn là làm tôi cho tiền bạc và tiện nghi. Đừng để lòng mình lệ thuộc vào vật chất mà quên đi gía trị tinh thần. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống theo lời Chúa để được phúc lành mai sau. Vì “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ” Amen
Hy sinh dường như gắn liền với khổ đau, mất mát. Con người sợ hy sinh vì ngán đau khổ. Người ta rên la đau khổ; người ta tiếc xót mất mát. Rên la, tiếc xót làm chùn bước hy sinh, gây lưỡng lự, do dự nên dự tính thì nhiều mà thực hành chẳng bao nhiêu. Tính để đó, bàn định để đó, cơ hội đến; âm thầm ra đi. Nuối tiếc! vì thiếu hy sinh. Không hy sinh đừng mong tiến thân. Hy sinh là điều cần để tiến thân, thành nhân. Hy sinh cho tình yêu, đau khổ biến mất. Đam mê cũng giúp con người vượt qua nhiều trở ngại nhưng tình yêu mãnh liệt hơn nhiều. Tình yêu nhiệm mầu là thế. Khi yêu người ta dám hy sinh, từ bỏ, vượt qua tất cả để được yêu. Tình yêu làm cho hy sinh nên phong phú, kiên cường và cao quý.
Hy sinh đòi một yếu tố quan trọng khác là liều. Liều dấn thân vào công việc nhưng không mù quáng. Hy sinh gây hy vọng nhưng không bảo đảm sẽ đạt kết quả như ý nguyện. Sống hy sinh ít khi thất vọng. Hoa quả hy vọng thuộc về tương lai. Tương lai trong tầm tay có thể với được nhưng chưa nắm được. Hy vọng tô điểm cho ngày mai. Hy vọng là mầm sống của ngày mai. Không hy vọng con người sống cũng như chết. Chết trong tuyệt vọng đau khổ thê lương khôn tả.
Hy sinh cho ai hay với mục đích gì?
Hy sinh cho tương lai bản thân, cho gia đình, cho tổ quốc, cho lí tưởng, cho niềm tin. Bài này giới hạn hy sinh cho niềm tin của người Kitô hữu.
Kitô hữu hy sinh sống Tin Mừng. Kitô hữu không sống cho riêng mình nhưng cho tập thể cộng đồng nhân loại vì mọi người đều là anh em.
Người ta cứ dấu hiệu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau (Jn 13,35).
Tình yêu thực sự đòi hy sinh. Thiếu hy sinh là yêu trên đầu môi chóp lưỡi. Dân này thờ ta bằng môi bằng miệng còn lòng chúng thì xa ta (Mc 7,7).
Hy sinh trong Phúc âm nhắc đến tinh thần từ bỏ, dấn thân đến chết. Ngôn từ hy sinh trong Phúc âm mạnh đến độ phải liều lĩnh, đôi khi quá khích. Liều bỏ mạng để cứu mạng:
“Ai muốn theo Tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35).
Hy sinh đòi dấn thân, lao mình vào gian nan, thử thách. Đòi hỏi một tinh thần quyết tâm mãnh liệt và dứt khoát. Là một thách đố lớn, một chọn lựa táo bạo và dấn thân liều lĩnh vì phải thí mạng để cứu mạng, mất để lấy lại, từ bỏ để đi theo, liều mất để tìm thấy. Không phải đi theo tay trắng nhưng vác thập giá đi theo. Theo đã khó, vác thập giá theo khó hơn bội phần.
Hy sinh từ bỏ những gì dính bén ở bên ngoài con người đã khó. Như từ bỏ địa vị, của cải, đam mê và danh tiếng. Hy sinh trong tôn giáo đi xa hơn, đòi hỏi từ bỏ những gì thuộc về mình, thuộc đời sống bên trong, đòi thay tâm; đổi tánh. Thực sự và quyết tâm, dứt khoát từ bỏ những gì thuộc về bản thân, điều cản trở Tin Mừng, duyên cớ tác hại niềm tin. Đức Kitô diễn tả điều này bằng ngôn ngữ mạnh bạo nhưng rất gần. Ngài không nói Kitô hữu phải thành kẻ tật nguyền. Ngài muốn nói đến một thái độ dứt khoát từ bỏ, quyết tâm mà không liên quan gì đến việc hủy hoại một phần thân thể.
Thà mất một tay được vào cõi sống còn hơn là mất mạng. Mất một chân đi chậm mà chắc còn hơn cả hai chân đi lẹ nhưng trật đường. Thà mất một mắt mà nhìn chính xác còn hơn có hai mắt nhìn sai lối (Mc 9).
Hy sinh cho đức tin, Tin Mừng là một dấn thân khôn ngoan trong hy vọng. Một bảo đảm chắc chắn thu hoạch thành quả luôn lớn hơn những gì cho đi. Đây là sự khác biệt giữa hy sinh xã hội và hy sinh tôn giáo.
Ngòai xã hội thành quả của hy sinh tùy thuộc vào cơ may, vận hên. Tôn giáo thành quả hy sinh được xác định rõ ràng, chắc chắn.
Anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng đong cho anh em bằng đấy ấy và còn cho anh em hơn nữa. Vì đã có thì được cho thêm. (Mc 4,24)
Hy sinh trong tôn giáo thu hoạch kết quả hai lần. Lần một ngay đời này và lần hai ở đời sau, kết quả cao quý hơn, vĩ đại hơn vì tính trường cửu.
‘Ai bỏ nhà cửa, anh em …. Vì Danh Thầy thì sẽ được gấp bội đời này và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp’ (Mc 10,30).
Thành quả đời sau nằm trong hy vọng nhưng thành quả đời này hiện hữu, cảm nghiệm được, nhìn thấy, bắt nắm được. Chối cãi sao được bình an tìm gặp khi cầu nguyện. Người nào không vui lây khi người mình giúp nở nụ cười. Bình an nội tâm, chia sẻ niềm vui chính là thành quả đời này.
Những khuyến khích hy sinh phục vụ làm việc cho Chúa, đời sau Chúa trả công. Lời khuyến khích trên là một hảo ý mà không diễn tả nổi tình Chúa yêu ta. Hy sinh vì tình yêu nhiệm mầu, cao cả công nào thưởng cho vừa. Thưởng công hiểu theo nghĩa đúng đắn là Chúa yêu ta trước; ta đáp lại tình yêu Chúa. Người yêu ta trước ngay cả khi ta còn là tội nhân. Vì đáp lại tình yêu Chúa nên ta cảm nghiệm được tình Chúa yêu ta thắm thiết hơn, nồng nhiệt hơn mà trước đây ta vì thiếu hiểu biết, kém hy sinh, cảm nghiệm chưa đủ. Hy sinh không phải để nhận công, lãnh thưởng mà là cảm nghiệm được tình Chúa dành sẵn cho. Chỉ những ai sống trong yêu thương chân thành mới nếm được hương vị tình yêu.
Nhận phần thưởng Chúa ban chính là ngụp lặn trong biển yêu thương Chúa dành cho nhân loại từ trước khi tạo thành thế gian.
Cô SO-PHI BÉC-ĐĂNG-CA (Sophie Berdanska) là một tín hữu Công giáo vừa có tài giáo dục trẻ em lại vừa có đức tin mạnh mẽ. Một hôm cô được nhận vào làm gia sư trong gia đình Méc-tơn (Merston) giàu có nhưng lại theo Do thái giáo. Công việc chính của cô là dạy kèm cho năm đứa con mới bị mồ côi mẹ. Ngày dầu tiên, khi biết So-phie là người Công giáo, ông Méc-tơn đã cấm cô giảng đạo cho mấy đứa con của ông và cô đành phải miễn cưỡng chấp nhận. Buổi tối hôm ấy, trong căn phòng riêng ở dưới tầng hầm, sau khi cầu nguyện xong, So-phie đã viết lời cầu vào một mảnh giấy nhỏ, xếp gọn và nhét vào cái hộp nhỏ xíu phía sau chiếc huy chương có hình thánh giá. Đây là kỷ vật mà người cha thân yêu đã tặng cô trước khi ông chết, với lời trăn trối cô phải chu toàn sứ vụ làm chứng cho Chúa mọi lúc mọi nơi. Từ ngày đó, So-phie luôn đeo chiếc huy chương để nhắc nhở cô sứ vụ truyền giáo phải làm trong hòan cảnh không thuận lợi. Nhờ được cô giáo chăm sóc dạy dỗ, lũ trẻ nhà Méc-tơn ngày càng trở nên ngoan ngoãn và chăm chỉ học hành khác hẳn lúc trước. Chúng quí mến và coi cô So-phi như bà mẹ thứ hai của chúng. Rồi một ngày kia, tai nạn dồn dập đổ xuống nhà Méc-tơn:
Trước tiên là cô bé út Na-ta-cha bị sốt cao khiến ông Méc-tơn rất lo lắng. Ông vội mang con đi bệnh viện cấp cứu. Trong thời gian này, cô So-phie luôn túc trực bên giường bệnh và chăm sóc mọi sự cho đứa bé. Rồi đến lượt hai đứa khác cũng bị lây bệnh và đã được cô giáo lo lắng đến nơi đến chốn cho đến khi cả ba anh em đều hoàn toàn bình phục. Sau cùng chính cô So-phie lại bị ngã bệnh ! Đây là hậu quả của những ngày vất vả chăm sóc bệnh nhân. Sau hai tuần lễ liệt giường, các bác sĩ đành bó tay không thể chữa cô lành bệnh. So-phie đã ra đi trong sự tiếc thương vô hạn của cả gia đình Méc-tơn. Trước khi lìa đời, Sophie đã tặng chiếc huy chương có hình thánh giá cho Na-ta-cha là cô học trò bé nhỏ của cô. Thấm thoát đã đến ngày giỗ đầy năm của So-phie. Hôm ấy cả gia đình Méc-tơn dậy sớm và cùng đi nhà thờ dự lễ cầu nguyện cho cô. Tại sao có sự kiện lạ lùng này ? Số là sau khi So-phie chết được một tuần, ông Méc-tơn đến thăm các con của ông lúc đó vẫn còn ưu sầu thương nhớ cô gia sư mới qua đời. Tình cờ ông thấy chiếc huy chương đang nằm trong tủ kính. Tò mò cầm lên xem, ông mở hộp nhỏ phía sau chiếc huy chương lấy ra một mẩu giấy và đọc thấy mấy hàng chữ như sau: “Lạy Chúa, trong nhà Méc-tơn này, con đã bị cấm nói về Chúa với lũ trẻ. Vậy xin Chúa giúp con nói bằng hành động khiêm nhường yêu thương phục vụ. Con hy vọng gia đình này có ngày sẽ tin Chúa và được ơn cứu độ giống như con”. Ông Méc-tơn rất xúc động khi đọc những hàng chữ này. Ông trao cho các con cùng đọc và chúng cũng xúc động tương tự. Rồi cả gia đình Méc-tơn đã xin học giáo lý Công giáo và được chịu phép Rửa Tội vào Đêm Vọng Phục Sinh năm đó.
3.Suy niệm:
a. Bài học về sứ vụ loan báo tin mừng:
So-phie đã thành công trong sứ vụ loan báo Tin Mừng không phải bằng lời nói, nhưng bằng tình yêu thương và chân thành phục vụ. Chính tình thương của cô đã gây được thiện cảm và giúp các thành viên trong gia đình Méc-tơn nhận biết Chúa Giêsu và quyết tâm đi theo làm môn đệ Người. Tuy không có điều kiện giới thiệu Chúa bằng lời nói, nhưng cô So-phie đã loan truyền đức tin bằng hành động quên mình phục vụ. Rồi nhờ ơn Chúa giúp và khi có điều kiện thuận lợi hơn, hạt giống Tin Mừng đã phát sinh hoa trái là đức tin của mọi thành viên trong gia đình Mec-tơn.
b. Loan báo tin mừng là làm chứng cho Chúa:
Đức Giêsu dạy các môn đệ phải làm chứng cho Ngừơi giống như muối mặn ướp đồ ăn khỏi hư hỏng hoặc như ánh sáng việc lành chiếu soi cho người đời nhận biết Chúa như sau: “Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời." (Mt 5,16). Đức Thánh Cha Phaolô VI cũng đã nhấn mạnh giá trị của đời sống chứng nhân trong việc loan báo Tin Mừng như sau: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân”. Chỉ các việc yêu thương kèm theo lời giảng mới có sức thuyết phục con người thời nay tin theo Đức Giêsu.
c. Hai cách làm chứng:
Để việc làm chứng đem lại kết quả, không những cần phải có các chứng tá của mổi ngừơi tín hữu, mà còn cần chứng tá mang tính tập thể như: gia đình, giáo xứ, tu viện, đòan thể công giáo tiến hành… Chính nếp sống yêu thương hiệp nhất của Hội Thánh tiên khởi.đã có giá trị thuyết phục rất lớn đến nỗi anh em lương dân đã phải thốt lên: "Kìa xem: Họ yêu thương nhau là dường nào!" Ngày nay các cộng đòan tín hữu chúng ta không nên đóng khung việc hành đạo trong việc đọc kinh dự lễ tại nhà thờ, mà cần mở rộng bằng các công tác xã hội như phục vụ các người nghèo khổ bệnh tật và neo đơn nữa.
d. Làm chứng trong xã hội hôm nay?
Các tín hữu cần gắn bó với Chúa Giêsu như cành nho tháp nhập vào thân cây nho. Vì nếu không có ơn Chúa giúp, chúng ta sẽ không thể chu tòan sứ vụ làm chứng cho Chúa được (x Ga 15,5). Cần tập nhẫn nhịn chịu đựng và tha thứ các xúc phạm của tha nhân, luôn nghĩ đến người khác và phục vụ trong tinh thần khiêm tốn và yêu thương, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt để được mối lợi là đưa được nhiều linh hồn về làm con Chúa như thánh Phaolô đã quả quyết: “Vì vậy tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, họan nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10).
4.Thảo luận:
Bạn có kinh nghiệm gì về việc truyền giáo bằng đời sống chứng nhân bác ái? Mỗi người chúng ta sẽ giới thiệu Chúa cho bạn bè và người thân như thế nào để noi gương cô Sophie trong câu chuyện trên?
5. Nguyện cầu
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho chúng con trở thành khí cụ bình an của Chúa, cho chúng con luôn chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa bằng lối sống quên mình vị tha, dấn thân hy sinh và khiêm nhường phục vụ tha nhân cách chân thành. Nhờ đó, người ngoài sẽ nhận biết tôn thờ và tin theo Chúa để được hưởng ơn cứu độ đời đời cùng với chúng con. AMEN.
Sau khoá huấn luyện “trung cấp” 2 năm về “kỹ năng” loan báo Tin Mừng, hôm nay Chúa Giêsu đặc phái các môn sinh của mình lên đường thực tập sứ vụ trước khi cấp “chứng chỉ tốt nghiệp ra trường” cho các ông. Ngay trước lúc lên đường, Chúa Giêsu đã không quên ân cần dặn dò các môn sinh cách thức để việc loan báo Tin mừng mang lại hiệu quả như ý. Tựu trung lời dặn dò đó chứa đựng ba bí quyết, như là “kim chỉ nam” cho các nhà truyền giáo mọi thời mọi nơi.
1. Loan báo Tin Mừng – sứ mạng phải được thực hiện trong chiều kích cộng đoàn.
Cá nhân chủ nghĩa không có chổ đứng trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Bởi chưng, Chúa Giêsu không sai các môn đệ đi từng người một, lẽ loi đơn độc, để rồi các ông cứ mãi hát khúc hát “Cô Đơn Một Cõi Đi Về”. Ngài sai họ đi là sai từng hai người một. Cùng với các Tông đồ khác tạo thành nhóm, thành cộng đoàn. Qua đó, các ông được huấn luyện tinh thần làm việc chung, làm việc với người khác. Tinh thần làm việc chung, việc nhóm mới có khả năng tạo nên sức mạnh kỳ diệu (các giải thưởng Nobel trong những năm gần đây chứng minh điều này. Hầu hết đó là những công trình của một tập thể, một nhóm). Hơn nữa, trên phương diện chứng tá, thì chứng của hai người trở lên bao giờ cũng có giá trị. Giá trị còn là vì cộng đoàn tính nói lên tinh thần liên đới và hiệp nhất của người Tông đồ. Cộng đoàn tính còn là lời chứng sống động về tình huynh đệ yêu thương mà họ rao giảng. Bởi thế, ta không ngạc nhiên khi thấy các vị thừa sai thường được phái đi từ 2 hoặc 3 người đến một giáo điểm hay một vùng miền nào đó để làm việc Tông đồ truyền giáo.
Chính Chúa Giêsu khi được Chúa Cha sai đến trần gian, Ngài không đi một mình, nhưng có Chúa Thánh thần cùng đồng hành và cùng hoạt động với Ngài.
2. Loan báo Tin Mừng – sứ mạng cần được thực hiện với tinh thần siêu thoát.
Siêu thoát khỏi những dính bén với của cải vật chất, tiền bạc để sẵn sàng lên đường, sẵn sàng đi đến bất cứ nơi đâu một cách nhanh nhẹn và vui tươi. Siêu thoát với mọi thực tại đời này để toàn tâm, toàn ý cho sứ mạng được giao phó. Thái độ siêu thoát cũng là dấu chứng nói cho người khác biết lòng tin tưởng phó thác của người môn đệ vào sự quan phòng của Chúa. Chúa Quan Phòng phải là người bạn đường của người loan báo Tin Mừng. Nếu gạt Chúa Quan Phòng sang một bên, người tông đồ chỉ còn loay hoay vun vén, “đào hang”, “xây tổ” cho riêng mình.
Chúa Giêsu đã nêu gương cho các môn đệ của Ngài về tinh thần siêu thoát và tín thác. Khi đến trong trần gian, Ngài không mang theo gì ngoại trừ tình yêu của Chúa Cha. Khi sống trong trần gian, cũng như khi đi rao giảng Tin Mừng, Ngài hoàn toàn sống phó thác vào sự quan phòng của Chúa Cha. Chính Ngài đã bộc bạch: “Chim có tổ, cáo có hang; còn Con Người không có chổ tựa đầu” (Lc 9,58).
3. Loan báo Tin Mừng – sứ mạng phải được thực hiện với năng quyền của chính Chúa.
Lệnh truyền và sứ điệp loan báo Tin Mừng không đến từ con người, nhưng đến từ Thiên Chúa. Do đó, để có thể chu toàn sứ mạng, cần đón nhận năng quyền Thiên Chúa ban. Đó là năng quyền rao giảng: công bố Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô. Đó là năng quyền chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống và phong hoá trần gian. Đó còn là năng quyền trừ quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.
Kinh nghiệm của các Tông đồ ngày hôm nay cũng cho thấy Thiên Chúa luôn dẫn dắt chúng ta đi: “Ơn ta đã đủ cho ngươi”. Đức Tổng Giám mục Vacchelli, Tổng Thư Ký Hội Đồng Giám mục Ý quốc, khi được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Trợ lý Tổng Trưởng của Thánh Bộ Rao Giảng Tin Mừng cho các dân tộc và Chủ tịch Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, Ngài cho hay: “Gia nhập vào Thánh Bộ là chịu trách nhiệm trực tiếp với 1.100 giáo phận trên toàn cầu, 2000 giám mục và vô số các giáo sĩ, nam nữ tu sĩ. Và trên hết vấn đề chính không chỉ là nghèo đói, nhưng là xây dựng một đời sống theo đường lối Kitô giáo. Vì thế phạm vi rộng hơn nhiều”.
Đối mặt với lượng công việc đồ sộ như vậy, Ngài vẫn tràn trề hy vọng nói: “Khi anh làm việc cho Thiên Chúa, Người luôn đi trước anh, thu xếp tính hèn yếu của anh bằng ân huệ của Người”. Nếu ý thức được như thế, các vị thừa sai của Chúa sẽ bớt sợ bớt lo khi thấy trách nhiệm năng nề, đồng thời sẽ bớt tự mãn kiêu căng khi làm được việc này việc nọ.
Qua Bí tích Rửa Tội, đặc biệt là Bí tích Thêm Sức, người Kitô hữu, cũng là người được sai đi. Được sai đi cùng với người khác, được sai đi với tính thần siêu thoát và được sai đi với ơn sức của Chúa. Đối tượng mà chúng ta cần nói cho biết về Chúa, không ở đâu xa mà ngay trong gia đình, gia tộc và xứ đạo của mình. Họ là những người thân thích với ta, là bà con lối xóm của ta. Họ là những người đồng hương với ta. Họ là những người cùng nghề cùng sở làm với ta, v.v...
Thế nhưng câu hỏi đặt ra là khi thực hiện ơn gọi loan báo Tin mừng, tôi đã nêu cao tinh thần chung, tinh thần cộng tác với anh chị mình chưa hay vẫn còn cá nhân chủ nghĩa? Tôi đã đề cao tinh thần siêu thoát chưa, hay còn quá dính bén với những thực tại đời này, và quá chú trọng đến việc “xây tổ”, “đào hang” cho mình? Và nhất là tôi đã hết lòng dương cao sức mạnh của Chúa chưa, hay chỉ toàn cậy dựa vào tài cán và sức riêng mình?
Chúa nhật 15 hôm nay cho chúng ta biết: trước khi tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa đã quyết định chọn con người chúng ta làm nghĩa tử nhờ Con yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô (Bài đọc 2). Đồng thời cũng hé mở cho chúng ta biết chúng ta có ơn gọi và sứ mạng làm con, làm tiên tri và làm người rao giảng Tin mừng Cứu độ của Thiên Chúa. Đây thực là một hồng ân cao cả, nhưng đồng thời cũng là trách nhiệm nặng nề phải chu toàn.
Sau một thời gian huấn luyện các Tông đồ, Đức Giêsu cho các ông đi thực tập truyền giáo. Ngài căn dặn các ông đủ điều để làm hành trang trên buớc đường truyền giáo: sống siêu thoát, nhịn nhục chịu đựng, phó thác...(Bài Tin mừng). Nhưng trên bước đường truyền giáo, những người thi hành sứ vụ ấy không phải lúc nào cũng được người ta tiếp nhận vui vẻ, nhiều khi còn bị người ta chống đối, bị xua đuổi như trường hợp tiên tri Amos (Bài đọc 1).
Mỗi người chúng ta có trách nhiệm phải thi hành sứ mạng tiên tri tức là phải làm chứng cho Đức Giêsu như lời Ngài dạy:”Chúng con là chứng nhân của Thầy”. Rao giảng Tin mừng và làm chứng cho Chúa không phải chỉ dùng lời nói suông nhưng phải dùng cả đời sống, cả con người của mình để làm chứng , vì con người chúng ta là phương tiện hữu hiệu để chỉ cho người ta biết Thiên Chúa. Vì vậy, mỗi người phải có đời sống gương mẫu để xứng đáng là chứng nhân của Chúa, ngược lại chỉ là “phản chứng”.
I. NHỮNG SỨ GIẢ ĐƯỢC SAI ĐI
1. Các tiên tri
Ngày xưa, khi Thiên Chúa muốn truyền cho dân điều gì thì Ngài dùng các tổ phụ hoặc các tiên tri. Bài đọc 1 chứng minh cho chúng ta qua việc Thiên Chúa gọi Amos là người xứ Giuđa đi nói tiên tri cho người xứ Israel. Ông phản đối mạnh mẽ việc lạm dụng tôn giáo và tính cách thiếu tôn giáo đang lan tràn tại Israel, đặc biệt ông nhấn mạnh việc thờ phượng mà thiếu luân lý lành mạnh là không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Khi ông tiên báo là vua Joroboam sẽ bị ám sát và Israel sẽ bị đi lưu đầy, thì vị tư tế Amasias ở đền Bethel phản đối và đuổi ông đi khỏi Israel.
Thời đó, ở Israel có trường dạy nghề tiên tri, một nghề để kiếm ăn. Do đó xuất hiện những tiên tri giả. Amos hiểu nghĩa của từ “thầy chiêm” mà Amasias dùng nên khẳng định: ông chỉ là người chăn chiên và đi hái sung vả, ông phải làm nghề này chỉ vì Chúa đã gọi ông:”Hãy đi nói tiên tri cho Israel dân của Ta”(Am 7,15).
2. Các Tông đồ
Khi Đức Giêsu xuất hiện thì thời đại tiên tri chấm dứt với ông Gioan Tẩy giả, ông là tiên tri bản lề giữa Cựu ước và Tân ước. Lúc này Chúa không dùng các tiên tri nữa mà lại dùng các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa. Sau khi đã huấn luyện các Tông đồ một thời gian, Đức Giêsu muốn cho các ông được thử lông thử cánh, cho các ông truyền đạt cho người ta những điều Ngài dạy, biết va chạm vào thực tế với những thành công và thất bại để sau này các ông có kinh nghiệm truyền giáo, sau khi Đức Giêsu đã về trời (Bài Tin mừng).
3. Các nhà truyền giáo
Khi Đức Giêsu đã về trời, các Tông đồ đã chia nhau đi rao giảng Tin mừng, có các người phụ tá và những người cộng tác với các ngài. Khi các ngài đã qua đi thì Giáo hội lãnh nhận công tác tiếp nối công việc của các Tông đồ mà rao giảng Tin mừng cho đến tận cùng thế giới, không kể mầu da sắc tộc, ngôn ngữ. Lời Chúa phải được rao giảng cho mọi người.
Và đến lượt các tín hữu, mọi người có trách nhiệm phải rao giảng cho người khác. Mọi người phải rao giảng Tin mừng, không trừ ai, nhưng Giáo hội trạch cử một số người chuyên đi rao giảng mà ta gọi là “các nhà truyền giáo”. Đức Giêsu không còn trực tiếp rao giảng như ngày xưa nữa mà cần loài người chúng ta phải cộng tác để đi đến các hang cùng ngõ hẻm đem Lời Chúa đến cho mọi người.
Truyện: Chúa cần bàn tay bạn.
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng, có một ngôi nhà thờ Công giáo. Bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Đức Kitô. Tuy nhiên, khi cuộc chiến tranh qua rồi bức tượng đã biến mất. Bức tượng đã bị hất ra khỏi bệ vỡ ra từng mảnh trên mặt đất.
Một hôm lính Mỹ đã giúp vị Linh mục thu thập những mảnh vụn. Một cách cẩn thận, họ đã ráp lại pho tượng. Họ tìm thấy tất cả các mảnh vỡ, trừ đôi bàn tay. Họ đề nghị khi trở về Mỹ họ sẽ đặt làm đôi bàn tay ấy. Nhưng vị Linh mục đã từ chối. Ngài nói:
Tôi có một ý tưởng hay hơn: Chúng ta hãy để pho tượng không có bàn tay. Và chúng ta sẽ ghi vào chân đế lời này: BẠN ƠI, BẠN HÃY CHO TÔI MƯỢN ĐÔI BÀN TAY CỦA BAN” (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật B, tr 494).
II. CÁC MÔN ĐỆ ĐƯỢC SAI ĐI LÀM CHỨNG
1. Chúa sai các Tông đồ đi
Trở lại bài Tin mừng hôm nay, chúng ta biết Đức Giêsu đã chọn cho mình 12 Tông đồ để trở thành những cán bộ nồng cốt cho việc rao giảng Tin mừng. Sau khi đã huấn luyện một thời gian, Ngài muốn sai các ông đi thực tập truyền giáo. Đây là bước sang giai đoạn thứ hai chương trình của Ngài: từ lý thuyết sang thực hành.
Các ông đã sống với Ngài một thời gian, đã chứng kiến cuộc đời Chúa, đã nghe Ngài giảng thuyết, đã chứng kiến phép lạ Ngài làm, đã nhìn thấy những thất bại của Ngài ở Gherasa và ở Nazareth, đã nhận thức thái độ thù ghét của người biệt phái. Nay đã đến lúc thử để biết vàng hay thau. Ngài cần cho các ông biết phải hoạt động theo tinh thần nào và những nguyên tắc nào.
Chúng ta hãy xem cách thức Đức Giêsu sai các Tông đồ như thế nào:
Từng hai người một: Ngài sai các ông đi từng hai người một để giúp đỡ nhau, biểu lộ tinh thần liên đới và hiệp nhất của người Tông đồ, đồng thời để làm chứng tích sống động về điều họ rao giảng là cộng đoàn huynh đệ yêu thương. Nguời ta cứ dấu đó mà biết họ là những môn đệ của Chúa Kitô.
Ban quyền lực: Quyền lực đây phải hiểu là “quyền trừ các thần ô uế”. Câu nói đó phải hiểu theo quan điểm đã ghi chép trong Mt 10,8 và Lc 9,1 nghĩa là khu trừ qủi ám và chữa lành các bệnh tật: vì theo quan niệm thời đó, tất cả các bệnh tật đều coi như là hậu quả của tội lỗi và không ít thì nhiều do ma qủi làm.
Môi trường hoạt động: Trước tiên hãy đến với dân Chúa tức là những người Do thái:”Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Samaria. Tốt hơn là hãy đến với các chiên lạc nhà Israel”(Mc 10,5). Còn đối với dân ngoại, các ông sẽ đến với họ sau khi Chúa đã về trời.
Đề tài rao giảng: Các ông sẽ rao giảng sự thống hối. Vì công cuộc cứu chuộc chưa hoàn tất nên Đức Giêsu không dạy các ông giảng về Ngài. Điều đó Ngài sẽ dạy các ông rao giảng sau này khi Ngài đã chịu chết và sống lại để chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu thế (Rm 1,3-4 ; 1Cr 1,23).
2. Tư cách của vị Tông đồ
Khi sai các Tông đồ đi truyền giáo, Đức Giêsu căn dặn các ông kỹ càng nhiều điều để làm hành trang lên đường. Chúng ta có thể tóm tắt các lời căn dặn đó trong 3 điểm sau:
a. Sống tinh thần khó nghèo
Đức Giêsu đã từng nói về Ngài:”Con chồn có hang, con chim có tổ, Con người không có nơi tựa đầu”. Ngài di chuyển nay đây mai đó, không vướng mắc gì về phần vật chất nghĩa là sống siêu thoát. Vì thế, Ngài khuyên các ông đừng mang gì ngoài cây gậy. Thậm chí không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi. Người Tông đồ không chuẩn bị gì để lên đường, mọi sự đã có Chúa lo: ”Tiên vàn các con hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn các sự khác Ngài sẽ ban cho”.
b. Chấp nhận bị khinh dể
Đức Giêsu đã bị hất hủi nơi quê hương mình:”Không có tiên tri nào mà không bị khinh dể nơi quê hương mình”. Các Tông đồ cũng sẽ rơi vào trường hợp đó. Các ông sẽ không được một số người tiếp nhận và còn bị ngược đãi nữa. Trong trường hợp đó, Ngài cho phép ra đi đến một nơi khác, và giũ bụi chân lại cho họ biết lỗi lầm của họ. Người Do thái có thói quen làm như thế khi họ đi từ vùng dân ngoại vào vùng đất của họ để minh chứng họ dứt bỏ mọi liên hệ xấu xa với dân ngoại. Vậy người môn đệ làm như thế để đánh thức những ai từ chối họ, và cho những người ấy biết rằng cách cư xử của họ như vậy là đã trở thành dân ngoại.
c. Phó thác nơi Chúa
Phó thác được coi như một nhân đức, nhưng phải hiểu cho đúng nghĩa. Phó thác không có nghĩa giao khoán cho Chúa hoàn toàn, còn mình thì thụ động, không cộng tác, không làm gì cả. Ngược lại, phải cộng tác với Chúa theo khả năng của mình, phải có hành động theo sự soi sáng hướng dẫn của Chúa vì, theo thánh Giacôbê:”Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Vậy phó thác là gì ? Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa dạy các Tông đồ phó thác theo nghĩa là khi các ông ra đi truyền giáo, các ông chỉ cần một số phương tiện vật chất vừa đủ: một cây gậy để chống lại thú dữ dọc đường, một chiếc áo mặc, một đôi dép để đi, thế thôi. Đừng quá lo lắng về vật chất: không cần mang lương thực dự trữ, không cần thủ nhiều tiền trong túi, không cần tới hai áo, không cần mang bị theo để đựng quà biếu của người khác. Về nơi ăn chốn ở cũng thế, miễn sao có chỗ trọ là được, không cần tìm đến nhà giầu sang, chỗ nào không tiếp nhận thì đi chỗ khác... Điều chính yếu quan trọng mà các ông cần cậy dựa vào , đó là quyền năng của Chúa.
III. CHÚA SAI CHÚNG TA ĐI LÀM CHỨNG
Mỗi khi tham dự Thánh lễ, trước khi ra về, Linh mục nói lên lời cầu chúc và căn dặn mọi người:”Ite, Misa est”: Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an. Linh mục không cầu chúc mọi người trở về nhà bình an mà cầu chúc mọi người ra đi rao giảng Tin mừng, vì Thánh lễ chưa kết thúc ở đây mà còn kéo dài trong cả ngày, trong cả cuộc sống. Chúng ta đã tiếp nhận được Lời Chúa trong Thánh lễ thì hãy đem lời Chúa gieo rắc khắp nơi nhất là cho những người chưa nhận biết Chúa. Hãy đi làm chứng cho Chúa giữa lòng đời.
1. Làm chứng cho Chúa là gì?
Làm chứng cho Chúa là lấy lời nói, nhất là cách ăn ở, việc làm mà tỏ cho người khác biết Chúa Kitô, vì người ấy giống Chúa Kitô trong tư tưởng, nói năng, xử sự, việc làm. Vì giống như vậy nên khi người ta gặp người ấy, thì người ta nhớ đến Chúa Kitô. Người ấy đã trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô như thánh Phaolô nói:”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Chúng ta chỉ là công cụ của Chúa để nhờ đó người ta biết Chúa. Tuy công cụ nhỏ bé chẳng đáng kể nhưng lại cần thiết. Chúa không trực tiếp tỏ mình ra cho người ta mà dùng con người nhỏ bé của chúng ta để tỏ lộ cho mọi người biết Thiên Chúa cao cả. Chúng ta chỉ là phương tiện để Chúa đến với người ta và người ta đến với Chúa. Ví dụ: một người muốn biết ngôi sao mai trên trời nhưng không biết ngôi nào trong hàng ngàn ngôi sao, nhưng nếu chúng ta dùng bàn tay chỉ cho họ thì họ sẽ nhận ra ngôi sao mai trên trời. Bàn tay chỉ là phương tiện giúp người ta nhìn ra sao mai, nếu không có bàn tay ấy thì người ta không nhìn ra sao mai được.
Truyện: Công cụ của Chúa.
Một ngày mùa đông một người đàn ông đi đến với một cậu bé đang ngồi ăn xin trên một cây cầu của thành phố, gió thổi lồng lộng. Cậu bé run lập cập vì lạnh và rõ ràng đang cần một bữa ăn ngon. Nhìn thấy cậu bé, người đàn ông rất tức giận bèn nói với Thiên Chúa:
Lạy Chúa, tại sao Chúa không làm điều gì đó cho cậu bé này? Thiên Chúa đáp lại:
Ta đã làm một điều gì đó cho nó rồi. Điều này làm người đàn ông ngạc nhiên, vì thế ông nói:
Con hy vọng Chúa không nói rằng: Bất cứ điều gì Chúa làm đều có vẻ như không làm.
Chúa đáp:
Ta cũng đồng ý với con điều đó. Người đàn ông hỏi: Nhưng bằng cách nào mà Chúa đã làm điều đó? Chúa đáp: Ta đã làm ra con (Flor McCarthy, Sđd, tr 492)
2. Cách thức làm chứng cho Chúa
a. Mọi người có thể làm chứng
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã nhắn nhủ các môn đệ những lời sau cùng:”Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật”(Mc 16,15 ; Mt 28,19). Nếu Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân thì lệnh truyền ấy phải có thể thực hiện được: thực tế đã chứng minh, các ông đã đem Tin mừng đến mọi nơi, và từ 2000 năm nay vẫn còn tiếp tục. Dĩ nhiên với thời gian vắn vỏi các ông chưa có thể đi khắp thế giới rao giảng được, nhưng Giáo hội đã tiếp nối sứ mạng ấy và nhờ chúng ta là những phần tử trong Giáo hội tiếp tục sứ mạng ấy. Ai không rao giảng Tin mừng là một điều thiếu sót. Thánh Phaolô đã nói:”Khốn thân tôi, nếu không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16).
Chúa về trời, ngài đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao giảng, mượn đôi tay chúng ta để thi ân, mượn đôi chân chúng ta để đi đến những người cùng khổ. Tuy về trời, Ngài vẫn hiện diện và hoạt động trong cuộc sống chứng nhân của mỗi Kitô hữu.
b. Mỗi người một cách làm chứng
Mỗi công việc đều có phương tiện để đạt tới mục đích. Trên thế giới này có biết bao nhiêu ngành nghề, biết bao lãnh vực cho nên có vô vàn vô số những phương tiện thích hợp. Trong lãnh vực truyền giáo, Chúa cũng dùng đủ mọi phương tiện để nhờ đó người ta có thể nhận biết Chúa, nhưng phương tiện sống động và hữu hiệu nhất là chính con người chúng ta. Chính vì vậy mà Chúa đã bảo các Tông đồ và chúng ta rằng:”Các con là chứng nhân của Thầy”(Lc 24,48).
Chúng ta có thể rao giảng Lời Chúa bằng lời nói, chữ viết hay bất cứ một phương tiện nào , nhưng phương tiện có tính cách thuyết phục nhất là đời sống thực tế của chúng ta, chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa để người ta trông thấy chúng ta thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa. Trong việc phong thánh cho Linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ Ngài về đời sống của Ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ:”Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.
Truyện: Thánh Phanxicô Assisi truyền giáo.
Thánh Phanxicô gọi một thầy dòng cùng đi giảng với ngài. Hai thầy trò cùng đi các đường phố Assisi, cách nghiêm trang, suy tưởng về Chúa... Về nhà, thầy dòng hỏi cha thánh:
Giảng ở đâu?
Cha thánh trả lời:
Giảng là đem Chúa đến bằng gương sáng, bằng cách sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn.
Trong cuộc sống văn minh đầy tiện nghi hôm nay, nhiều Kitô hữu đã lao mình vào cuộc sống vật chất, họ chỉ biết hưởng thụ, thu tích cho nhiều của cải mà quên đi vai trò làm chứng của mình. Họ là những Kitô hữu vô thần. Tại sao đã là Kitô hữu mà lại vô thần được ? Thưa, trên danh nghĩa thì họ là Kitô hữu thật, nhưng trong thực tế, cách sống của họ hoàn toàn là vô thần. Chúng ta có thể nói: họ còn vô thần hơn cả người vô thần nữa. Cách sống thiếu gương mẫu của họ vô tình biến đổi từ nhân chứng đến “phản chứng”, thay vì lôi kéo người ta đến với Chúa lại đẩy người ta ra xa Chúa hơn.
Truyện: Indira tầm đạo.
Inđira đến gặp một đạo sĩ Makia và ngỏ lời:
Xin ngài hãy chỉ cho tôi một thần linh để tôi tôn thờ và một tôn giáo để sống theo.
Đạo sĩ Makia liền đem Indira đến toà nhà rộng lớn, nơi đó mỗi một vị thần được dành cho một căn phòng riêng.
Dừng chân đầu tiên trước tượng thần Batđa đạo sĩ giới thiệu:
Đây là vị thần sẽ cất hết sự đau khổ khỏi thế giới.
Nhưng Indira lắc đầu và xin được sang phòng khác. Trước vị thần thứ hai đạo sĩ Makia giới thiệu:
Đây là nữ thần Sôpha có bí quyết giúp con người tránh được đau khổ.
Nhưng Indira cũng lại xin đạo sĩ đi nơi khác. Cuối cùng hai người dẫn đến trước một vị thần bị treo trên thập giá. Indira tò mò hỏi:
Vị thần này là ai mà bị treo trên thập tự như thế?
Đạo sĩ chậm rải trả lời:
Đây là thần của những người đạo Kitô.
Với chút xúc động lộ trên mặt, Indira xin đạo sĩ giải thích thêm về những gì cần phải làm để trở thành đồ đệ của Đấng chịu treo trên thập giá. Đạo sĩ ngạc nhiên hỏi:
Này anh Indira, anh làm tôi thắc mắc. Hai vị thần anh gặp lúc trước, một đề nghị cất hết mọi đau khổ, một đề nghị giúp tránh sự đau khổ, thế mà anh không thích vị nào cả. Tại sao anh lại thích và muốn làm đồ đệ của Vị chết nhục nhã trên thập tự như thế?
Indira giải thích:
Hứa làm mất đi sự đau khổ trên trần gian này là hứa suông. Người ta không thể nào cất đi được những đau khổ. Và dạy con người tránh đau khổ là dạy con người sống thấp hèn, và người ta cũng không thể nào tránh được đau khổ. Nhưng nhìn vào vị thần của người Kitô chấp nhận sự đau khổ trên thập tự, tôi hiểu được ý nghĩa của đau khổ và chấp nhận nó. Rồi một khi người ta hiểu và chấp nhận đau khổ thì niềm tin và an hòa sẽ trổ sinh trên thế giới này. Đó là lý do tôi bị thu hút bởi Đấng chịu treo trên thập giá kia, và muốn làm đồ đệ của Ngài. Vậy xin đạo sĩ đưa tôi đến nơi người Kitô sống để được trở thành người Kitô.
Đạo sĩ dẫn Indira đến nhà thờ những người Công giáo để xin lãnh bí tích rửa tội. Khi vừa bước vào làng thì hai người đã nhìn thấy những cảnh không tốt đẹp. Đây một nhóm người đang cãi lộn. Nơi khác có những kẻ như đang sắp đánh giết lẫn nhau. Nơi khác nữa thì nghe vẳng lại những lời nói tục tĩu vô lễ. Bảng ghi “Coi chừng bị móc túi” được dán nơi công cộng.
Indira hỏi đạo sĩ:
Đây là đâu ?
Đạo sĩ trả lời:
Thôi, chúng ta hãy đi nơi khác. Tôi mộ mến và tin vào Đấng đã chịu đóng đinh trên thập giá. Nhưng tôi không muốn trở thành người Kitô hữu nữa.
Đức Giêsu đã dạy chúng ta:”Các con sẽ làm chứng về Thầy”. Chúng ta nghĩ thế nào về câu nói đó ? Đời sống đạo của chúng ta hôm nay là một chứng từ hay một phản chứng ?
Mỗi người chúng ta là những môn đệ của Đức Kitô đều có trách nhiệm sống ơn gọi của mình như thế nào để có thể làm chứng cho Chúa trong mọi lúc, mọi hoàn cảnh. “Không ai có thể nhìn thấy Chúa”, nhưng người Kitô hữu có bổn phận thể hiện dung mạo Thiên Chúa cho anh chị em chung quanh. Qua tình thương nhân từ của chúng ta, qua những việc tốt lành chúng ta làm, anh chị em chung quanh có thể hiểu được Thiên Chúa là Đấng tràn đầy tình thương nhân từ. Qua sự sẵn sàng tha thứ của chúng ta cho kẻ khác, anh chị em chung quanh cảm thấy được Thiên Chúa là Đấng giầu lòng tha thứ.
Có lẽ không ai trong chúng ta sống mà lại không có những thao thức, những khát vọng. Khi được dệt vào tấm thảm của lịch sử nhân loại, Chúa Kitô cũng có những thao thức, những khát vọng. Niềm khát vọng của Chúa Kitô đó chính là một đoàn chiên, một chủ chăn; thao thức của Chúa Kitô đó là giáo hội của Chúa mỗi ngày có thêm đồng, thêm lúa, thêm thợ gặt.
Chúa Kitô có một ước vọng rất lớn đó là thiết lập vương quốc của Cha Ngài. Một công việc quá lớn lao, nhưng Ngài lại dùng những cộng tác viên thật nhỏ bé. Bằng cuộc sống của con người, Chúa Kitô đã chia sẻ tất cả với chúng ta. Cha của Ngài là Cha của chúng ta. Mẹ của Ngài lài Mẹ của chúng ta, vậy sứ mạng của Chúa Kitô, thao thức của Chúa Kitô lẽ nào lại không phải là sứ mạng và thao thức của mỗi người chúng ta, những Kitô Hữu, những chi thể của nhiệm thể Chúa Kitô?
Công trình truyền giáo to lớn, nhưng Chúa muốn dùng những dụng cụ bé nhỏ như chúng ta. Chúa sai chúng ta đi để thực hiện khát vọng của Ngài. Mọi người trong mỗi khả năng, hoàn cảnh và ơn gọi đều được mời gọi sống quảng đại cho Tin Mừng. Mang trong mình thao thức của Chúa Kitô các nhà truyền giáo được mời gọi dấn thân một cách quyết liệt, không quản ngại những khó khăn, dù hiểm nguy, đói khát; hiểu lầm bắt bớ hay tù đày để rao giảng, để kể chuyện Chúa Giêsu cho mọi người.
Để thực hiện thao thức của Chúa Kitô trong bối cảnh ngày hôm nay, trước hết mời gọi chúng ta hãy xem lại cung cách sống tin mừng. Sống đạo chắc hẳn đòi hỏi
chúng ta một sự đáp trả quyết liệt hơn là chỉ theo đạo! Việc sống đạo của chính mình còn chưa quan tâm thì làm sao có thể quan tâm đến đời sống đạo của những anh chị em khác!.
Linh đạo truyền giáo và rao giảng tin mừng của Thánh Phụ Đaminh đó là: "Contemplare, contemplata aliis tradere - chiêm niệm và mang kết quả của sự chiêm niệm đó đến cho tha nhân.” Khi nhìn đồng lúa chín bao la mà thợ gặt thì ít, Chúa Giêsu đã không truyền cho các môn đệ phải dấn thân đi rao giảng tin mừng ngay, nhưng Chúa Giêsu đã bảo hãy cầu nguyện để xin chủ ruộng sai thợ đến. Vị thánh Tiến Sĩ trẻ của Giáo hội, Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả cuộc đời không bước chân ra khỏi bốn bức từng Dòng Kín Carmêlô để đi truyền giáo, nhưng lại là vị thánh bổn mạng của các xứ truyền giáo qua đời sống chiêm niệm. Vì chỉ bằng đời sống cầu nguyện, nhà truyền giáo mới có thể công bố Tin Mừng Cứu Độ một cách đáng tin tưởng.
Lời mời gọi và sai đi truyền giáo, không gì khác hơn đó chính là lời mời gọi sống đức tin của mình. Lời mời gọi đó chính là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Đức
Kitô và tình yêu của chúng ta dành cho Ngài. Mang Chúa đến cho tha nhân, thì có lẽ nào trong cuộc sống của chúng ta lại vắng bóng Chúa Kitô? Vì thế, truyền giáo chính là một cuộc trở về của mỗi cá nhân; trở về trong cung cách sống đạo; trở về để gặp gỡ Đức Kitô trong cuộc sống. Chưa gặp được Chúa Kitô, chưa biết Ngài, và nhất là chưa yêu mến Ngài, biết đâu khi rao giảng về Ngài, chúng ta lại rao giảng về một Chúa Kitô nào đó khác với Chúa Kitô của Phúc âm!.
Gia đình chính là môi trường truyền giáo hữu hiệu và thực tế nhất, nơi mà hạt giống Lời Chúa cần được gieo vãi trước hết; nơi được coi là chủng viện đầu tiên
đào tạo và phát xuất những thợ gặt lành nghề trong cánh đồng truyền giáo. Thế nhưng, liệu các gia đình Công giáo Việt Nam ngày hôm nay còn thực sự là những mái ấm, hoặc còn đủ ấm để Lời Chúa có cơ hội nảy mầm và phát triển?
Ngày 15 tháng 07 năm 2011, nguồn tin từ Kolkata, Ấn Độ có đăng một mẩu chuyện về cái chết của một người Mẹ Công Giáo 94 tuổi, đó là bà Elizabeth Anikuzhikat il. Bà có tất cả 15 người con, 8 trai và 7 gái. Người con trai lớn nhất là một Giám Mục, 5 người con trai khác là Linh mục và 4 cô con gái là Nữ tu của hai Dòng Thánh Tâm và Salêgiêng. Gia đình, cung thánh của sự sống và tình yêu, chính là chiếc nôi nuôi dưỡng và làm nảy sinh những ơn gọi truyền giáo trong Giáo hội.
Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi cuốn. Sau hơn hai ngàn năm, nhưng ánh sáng của lời Chúa Kitô chưa lôi cuốn được nhiều người, phải chăng vì trong đêm đen này còn thiếu nhiều những ánh trăng sao phản chiếu ánh sáng của Chúa Kitô!
Vậy Lời Chúa một lần nữa mời gọi và thúc bách chúng ta cùng nhau nhìn lại sứ vụ loan báo tin mừng, cùng nhau khơi dậy niềm thao thức truyền giáo, cùng kể cho nhau nghe về Chúa Giêsu. Bắt đầu từ trong môi trường gia đình, trong giáo xứ, trong cộng đoàn, chúng ta hãy kể cho người khác về Chúa Giêsu, kể bằng lời nói, bằng cuộc sống, bằng những phương thế thích hợp với hoàn cảnh và cuộc sống của mỗi người.
Chớ gì mỗi Kitô hữu là một thợ gặt, mỗi gia đình, mỗi giáo xứ, mỗi môi trường sống là một cánh đồng. Được như thế, thao thức của Chúa Kitô sẽ trở thành hiện thực, Giáo hội Chúa mỗi ngày có thêm đồng, thêm lúa, thêm thợ gặt. Vậy chúng ta hãy đi, hãy kể chuyện Chúa Giêsu cho mọi người. Và đừng quên, xin Mẹ Maria cùng đồng hành với chúng ta. Amen.
Lm. Philip M. Thanh Cao, CMC
-------------------------
Sức Mạnh Của Sự Hợp Tác Truyền Giáo
Trong bài giảng một thánh lễ hôn phối, linh mục chủ tế đặt ra cho đôi bạn một câu hỏi về mục đích của hôn nhân: Đâu là nguyên nhân thúc đẩy họ tiến đến hôn ước vững bền với nhau? Chàng đã hăng hái trả lời vì người con yêu đẹp, dịu hiền và đảm đang; còn nàng thì nói rằng vì để bổ túc hỗ trợ nhau, vì cả hai đều cần đến nhau và không thể thiếu nhau. Câu trả lời thuyết phục ấy đã làm cho vị linh mục chứng hôn hài lòng.
Thật thế, mỗi người chúng ta không ai là một hòn đảo đơn độc. Trong mái ấm gia đình, chúng ta liên kết, tựa nương bên nhau và làm cho cuộc sống này thêm phong phú, ý nghĩa, giá trị hơn. Tiếc thay vì chung sống với nhau hằng ngày nên ít người hiểu hay nhận ra được sức mạnh và giá trị của sự nương tựa, bổ túc cho nhau. Một thuật ngữ trong văn hoá Việt Nam vẫn nói chung đụng, vì con người ta hễ ở chung là có sự đụng độ, va chạm, xích mích.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người suy nghĩ về bổn phận truyền giáo trong chiều hướng liên kết với nhau như thế. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại kế hoạch truyền giáo của Đức Giêsu cũng có gì đó khác thường: Ngài không có nhiều quân số, vỏn vẹn chỉ có 12 người, thế mà lại sai đi từng hai người một, điều đó có nghĩa là chỉ có 6 nhóm; lại không cho mang theo hành trang, tiền bạc, không mặc hai áo, chỉ được mang gậy. Đức Giêsu sai các ông đi đến các thôn xóm để kêu gọi sự thống hối và hoán cải. Hai người cùng đi với nhau để lời chứng mạnh hơn, để bổ túc và hỗ trợ nhau trong công tác ấy. Lời người này nói sẽ được bổ túc thêm bằng sự giải thích, minh hoạ của người kia. Hành động của người này sẽ là chứng tá cho lời giảng dạy của người bạn đồng hành và ngược lại. Như thế, công việc truyền giáo tuy khởi sự từ một số ít các cộng tác viên nhưng vì được đặt trên sức mạnh của sự liên kết, của sự nâng đỡ và bổ túc cho nhau nên đã đạt được những hiệu quả tốt đẹp. Thế mới biết sự nhìn xa và sáng suốt của Đức Giêsu trong kế hoạch truyền giáo thật sâu sắc như thế nào.
Thực tế cuộc sống cũng cho chúng ta thấy sức mạnh của sự hợp quần, liên kết. Đời sống hôn nhân gia đình có vợ chồng cùng nâng đỡ và bổ túc cho nhau; đời sống mục vụ có Cha xứ, Cha phó; đời sống cộng đoàn của các dòng tu có các nam nữ tu sĩ sống và làm việc cùng nhau. Sức mạnh ấy là sức mạnh của sự đoàn kết và liên đới. Sự đồng thuận, hợp tác sẽ làm cho công việc trở nên nhẹ nhàng và khả thi.
Biết Chúa là một hạnh phúc, giới thiệu về Chúa cho tha nhân còn là một hạnh phúc khác lớn hơn. Chúng ta khao khát và ao ước chia sẻ niềm vui làm con Chúa cho người khác, đó chính là truyền giáo. Truyền giáo phải được nhắc nhớ và là bổn phận phải thực thi mỗi ngày của mọi Kitô hữu. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng truyền giáo không phải là công việc của cá nhân, lại càng không phải là công việc của riêng các linh mục, tu sĩ nam nữ. Người Kitô hữu cần phải mạnh dạn nói và sống niềm tin của mình trong một thế giới duy vật và tục hoá, và cũng không được ngại ngùng khi phải mời gọi mọi người chung quanh sẻ chia trách nhiệm truyền giáo. Hãy bỏ đi lối suy nghĩ cá nhân, đầy toan tính, ích kỷ để chỉ nghĩ đến sự hợp tác, liên đới hỗ trợ, nâng đỡ và bổ túc cho nhau để công tác truyền giáo được hiệu quả.
Trong thế kỷ 21 này chúng ta sẽ không phải đi đến một nơi xa lạ để truyền giáo, chúng ta truyền giáo bằng chính cách sống của mình và ngay trong chính gia đình mình. Một gia đình hạnh phúc, đoàn kết và thương yêu nhau, một gia đình biết nương tựa và sẻ chia trách nhiệm với nhau, đó cũng là một trong những cách truyền giáo hữu hiệu, bởi: "Người ta cứ dấu này nhận biết anh em là môn đệ Thầy, đó là anh em hãy sống yêu thương nhau". Giới thiệu về Chúa cho tha nhân xung quanh bằng sức mạnh của sự hợp tác, liên kết với nhau là vậy.
Một trong những nét son của Công Đồng Vatican II là đã khẳng định và nêu cao phẩm giá và địa vị cao trọng của mọi Ki-tô hữu. Thật ra giáo huấn của Công Đồng cũng chỉ là phản ánh của Lời Chúa trong Thánh Kinh mà thôi. Vì thế chúng ta chẳng những có thể khẳng định với Thánh Giê-rô-ni-mô rằng: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Ki-tô” mà còn có thể công bố: “Không biết Thánh Kinh là không biết chính mình chúng ta nữa!” có nghĩa là không biết phẩm giá và địa vị cao trọng của chúng ta cũng như trách nhiệm cao cả và nặng nề của chúng ta.
Lời Chúa trong ba bài Sách Thánh Chúa Nhật 15 Thường Niên Năm B là một trong nhiều ví dụ về điều vừa nói trên. Chúng ta hãy chăm chú nghe/đọc/suy nghĩ và cầu nguyện với những đoạn Thánh Kinh mà Giáo hội chọn cho Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, để được đổi mới trong nhận thức và hành động!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Am 7,12-15): Xung đột với A-mát-gia. Ông A-mốt bị trục xuất khỏi Bết Ên.
12 Bấy giờ A-mát-gia nói với ông A-mốt: "Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! 13 Nhưng ở Bết Ên này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều." 14 Ông A-mốt trả lời ông A-mát-gia: "Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi xúc vật và chăm sóc cây sung. 15 Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: "Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta."
2.2 Trong bài đọc 2 (Ep 1,3-14): Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
3 Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. 4 Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. 5 Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Ki-tô, 6 để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. 7 Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người. 8Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. 9 Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. 10 Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô. Cũng trong Đức Ki-tô, 11 Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, 12 để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Ki-tô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người. 13 Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Ki-tô, một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. 14 Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa. 2.3 Trong bài Tin Mừng (Mc 6,7-13): Đức Giê-su sai Nhóm Mười Hai đi giảng.
7 Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. 8 Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; 9 được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. 10 Người bảo các ông: "Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. 11 Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ." 12 Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. 13 Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VA SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1 Trong bài đọc 1 (Am 7,12-15) nhờ lời giảng giải của ngôn sứ A-mốt với tư tế A-mát-gia mà chúng ta biết được tại sao A-mốt trở thành ngôn sứ: Chính Thiên Chúa đã chọn ông và - có thể nói là - “đã cưỡng bức” ông nói lời sấm ngôn cho dân Ít-ra-en, chứ bản thân ông không hề muốn làm công việc ấy chút nào. A-mốt không muốn làm ngôn sứ, có lẽ vì ông biết rõ mình không có tài ăn nói trước công chúng và quan quyền. Cũng có thể vì ông sợ bị chống đối và bách hại. Nhưng ngôn sứ A-mốt đã hoàn thành nhiệm vụ và trở thành nổi tiếng trong hàng ngũ các ngôn sứ, vì các sấm ngôn của ông “mang tính phê phán xã hội” (prophétisme critique) tức lên án những tình trạng bất công trong xã hội: kẻ giầu sang, quyền thế bóc lột và áp bức người nghèo hèn.
Qua ngôn sứ A-mốt và các sấm ngôn của ông chúng ta khám phá ra một Đấng Thiên Chúa đặc biệt quan tâm và yêu thương người nghèo đến độ đứng về phía họ, bênh vực họ chống lại mọi áp bức, bóc lột từ những người có quyền chức. Đúng là “Thiên Chúa đứng về Phe Tả” như tựa đề của cuốn sách mà Giám mục Luigi Bettazzi (Italia) đã viết cách đây mấy chục năm.
3.1.2 Trong bài đọc 2 (Ep 1,3-14), - là một đoạn thư của Thánh Phao-lô gửi cho các tín hữu Ê-phê-xô, - Thánh Tông đồ nói về ơn gọi làm con và bao hồng ân cao quí khác mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trong Đức Ki-tô. Cùng với ơn làm nghĩa tử cao quí ấy, chúng ta còn được ơn nghe biết Tin Mừng Cứu độ và được Thánh Thần in dấu ấn để chúng ta được đảm bảo phần gia nghiệp của Thiên Chúa hứa ban cho dân riêng của Người. Qua đoạn Thánh Thư này, chúng ta khám phá ra một Đấng Thiên Chúa vô cùng quảng đại và yêu thương đối với nhân loại nói chung và đối với các Ki-tô hữu nói riêng vì Người đã ban muôn vàn hồng ân cao quý cho chúng ta qua và nơi Con Một yêu dấu của Người là Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!
3.1.3 Trong bài Tin Mừng (Mc 6,7-13) Thánh Mác-cô tường thuật việc Chúa Giê-su sai Mười Hai Môn Đệ (Tông Đồ) đi rao giảng Tin Mừng, trừ quỉ và chữa lành những người đau ốm bệnh tật và bị các thần ô uế ám hại. Các Môn Đệ còn được Chúa Giê-su căn dặn tỉ mỉ là trong khi đi truyền giáo thì họ chỉ cậy dựa vào một mình Thiên Chúa mà thôi, chứ không được cậy dựa vào một sức mạnh nào khác (được biểu tượng bằng một hành trang nghèo nàn). Người còn căn dặn các ông về cách ứng xử với mọi người khi được tiếp đón cũng như khi bị từ chối. Vâng theo chỉ thị của Thầy, các Tông Đồ gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp trong khi thi hành sứ vụ Chúa Giê-su trao phó.
Nhờ đoạn Phúc Âm này, chúng ta khám phá ra Chúa Giê-su là Đấng giao phó sứ mạng rao giảng Tin Mừng và chữa lành cho các môn đệ. Sứ mạng này Người đã nhận được từ Chúa Cha và nay Người giao lại cho tất cả các môn đệ, trong đó có chúng ta. Để thực hiện thành công sứ mạng được giao, các môn đệ và chúng ta phải biết cậy trông vào Chúa và chỉ cậy trông vào một mình Chúa mà thôi.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: Vì Tình Yêu “nhưng không và quảng đại”,
Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô đã ban tặng và giao phó cho chúng ta
ơn gọi và sứ mạng làm con Thiên Chúa, ơn gọi và sứ mạng làm ngôn sứ của Người, tức làm người nói Lời Thiên Chúa, rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho người trần thế.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng đã vì yêu thương loài người mà dùng ngôn sứ A-mốt làm phát ngôn viên nói lời Thiên Chúa và đã sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ mà Chúa Giê-su Ki-tô đã đem tới cho nhân loại.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Để thực thi sứ điệp của Lời Chúa hôm nay mỗi người/nhóm/cộng đoàn Ki-tô hữu phải:
* Trước hết là ý thức tầm quan trọng của ơn gọi và sứ mạng của mình: Đó là ơn gọi và sứ mạng được làm con Thiên Chúa, được làm kẻ nói Lời Thiên Chúa (như ngôn sứ A-mốt), và làm người người rao giảng và chữa lành (như các Tông đồ).
* Kế đến là tìm mọi cách thể hiện và thực thi ơn gọi và sứ mạng cao trọng ấy trong gia đình và ngoài xã hội.
[Xin tự hỏi và trả lời trung thực trước mặt Chúa và trước lương tâm của mình:
Hằng ngày tôi làm những gì, tôi sống như thế nào để thể hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa?
Hằng ngày tôi làm những gì để nói Lời Thiên Chúa? để rao giảng Tin Mừng Cứu độ của Thiên Chúa cho những người tôi gặp?]
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ CHO THẾ GIỚI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho thề giới và Giáo hội Công giáo thời nay có được những ngôn sứ can đảm và kiên cường như A-mốt để thức tỉnh lương tâm những người đang ngủ mê trong danh vọng, quyền lực và của cải bất chính và bất lương.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cách đặc biệt cho Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, cho các Đức Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, cho các Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để với ơn Chúa trợ giúp, các ngài chu toàn sứ mạng được Thiên Chúa sai đến với mọi người, nhất là đến với những người nghèo và bị bỏ rơi hơn cả.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ chúng ta, để mọi người biết cảm tạ ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa là Đấng vừa giầu có vừa hào phóng mà ban muôn vàn ơn, nhất là ơn làm con Thiên Chúa, ơn làm ngôn sứ và làm tông đồ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho các chiến sĩ truyền giáo trên mọi nẻo đường thế giới hôm nay để họ cảm nghiệm được sức mạnh của Thiên Chúa mà vững lòng tin cậy mà ra đi thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Trong thời gian gần đây, giáo phận Bà Rịa Vũng Tàu, có phát đi một tin cảnh giác: Có một linh mục giả xuất hiện; ông ta hay trà trộn vào những buổi lễ đồng tế, và hay ghé vào nhiều tư gia công giáo để xin tiền. Đề nghị các cha và bà con giáo dân cảnh giác.
Là linh mục giả, dĩ nhiên là không được nhận lãnh bí tích Truyền Chức Thánh, mà còn là không được ai sai đi. Giáo Hội là do chính Chúa Giêsu thiết lập. Mọi phẩm trật là do Ngài đặt để. Và vì vậy, chính Ngài là Đấng đã ra lệnh cho cả Giáo Hội phải ra đi truyền giáo. Nhưng ai được sai đi, và sai đi đâu, thì phải do Ngài sắp xếp, chỉ đạo.
Đoạn Tin Mừng hôm nay cho ta thấy rõ điều đó. Ngài sai từng hai người một, ra đi. Họ được sai đến một nơi nhất định. Không ai được tự ý chọn lựa nơi đến. Và cung cách của người Tông đồ, phải là một cuộc sống siêu thoát: Không mang gì đi đường, không mang theo lương thực, tiền bạc giắt lưng. Chỉ được mang theo một vật dụng duy nhất là chiếc gậy. Chiếc gậy ở đây mang nhiều ý nghĩa: Vừa là phương tiện để chống đỡ, vừa là cái chỉ uy quyền của người được sai đi. Nhưng trên hết, chiếc gậy ấy vừa nói lên sự yếu đuối của mình, đồng thời nói lên sự cậy trông nơi Chúa. Cây gậy ấy thì ăn thua gì; chỉ có niềm trông cậy nơi Chúa, mới là sức mạnh và điểm tựa để Chúa dẫn ta đi. Người được sai đi, không được quá lo lắng về tiền bạc; đã có Chúa, người sai ta đi, sẽ lo lắng cho ta. Người được sai đi, chỉ nhớ một bổn phận duy nhất là rao giảng. Dĩ nhiên là rao giảng Lời Chúa, chứ không phải lời mình.
Đi rao giảng Lời Chúa, là một trình bày hoàn toàn tự do, cho cả người rao giảng, cũng như người đón nhận. Vì thế, không được ép buộc, nhưng cũng không được dùng tiền bạc của cải để mua chuộc. Dĩ nhiên, để việc rao giảng được kết quả, thì người rao giảng phải sống lời mình rao giảng. Rao giảng là đưa người ta về với Chúa, chứ không phải đưa họ về với mình. Bởi đưa họ về với mình, mình sẽ mất đường về với Chúa, và như thế, Chúa, Đấng đã sai ta, sẽ không thấy ta về.
Câu hỏi:
1- Bạn đã góp được gì qua gương sáng, qua sức khỏe, qua tiền bạc trong công việc rao giảng của Chúa.
2- Theo bạn nghĩ, hình ảnh của một người rao giảng phải là người thế nào?