Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 14-B: Bài 101-150 Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương ------------------------------------------ Mục Lục:
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabbat, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” Và họ vấp phạm vì Người. Chúa Giêsu liền bảo họ: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình”. Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy. - Ðó là lời Chúa.
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà Nadarét. Ngày Sabát, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến Hội: TN 14-B101
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà Nadarét. Ngày Sabát, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến Hội Đường nghe đọc Sách Thánh và hát Thánh Ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.
Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào Hội Đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một Giáo Dân tham dự vào chức Tư Tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của Nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì ?”
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu ? Họ tìm về nguồn gốc thì chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giôsết, Giuđa và Simôn”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nadarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông ấy bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài ? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế ? Thân nhân bảo Ngài “mất trí”. Kinh sư chụp mũ Ngài “nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ”. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh ?” Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm, Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên Trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng ngàn bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.
Dân làng Nadarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài, họ lấy chủ nghĩa lý lịch để thẩm định về Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. McKenzie nói: “Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi.”
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người.
Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi người ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì người ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì người ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi ( x. Lc 6, 23.26 ).
Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Nỗi lòng của người đi xa khi về lại quê hương, gặp lại người thân quen, bạn bè hay bà con làng xóm, ai cũng muốn mình được đón tiếp thân thiện, tay bắt mặt mừng, hỏi han thân mật. Khi trở về Nadarét, Đức Giêsu cũng muốn vậy, nhưng Ngài đã bị từ chối. Đức Giêsu buồn nhưng không cay cú, phiền nhưng không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác. Những người ở làng quê Nadarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội ngàn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nadarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nadarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối.
Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nadarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một Đức Tin mạnh mẽ. Ánh mắt Đức Tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con. Lạy Chúa Giêsu, xin mở con mắt Đức Tin cho mọi người được thấy những sự khôn ngoan, quyền phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể thấy được, để họ biết ca ngợi Chúa muôn đời. Amen.
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN -------------------------------
Ta bắt gặp thời niên thiếu của chủ hãng Microsoft. Bill Gates chẳng biết học hành sao đó nhưng TN 14-B102
Ta bắt gặp thời niên thiếu của chủ hãng Microsoft. Bill Gates chẳng biết học hành sao đó nhưng bị rớt vài môn còn các bạn thì đậu hết. Hẳn nhiên, các bạn của Bill rất coi thường vì học lực của Bill kém đến như thế.
Chắc có lẽ những người bạn học cùng thời với Bill vui vẻ dèm pha và chỉ trích cũng như trêu chọc với cái thành tích đó. Bill Gates bộc bạch : "Tôi rớt một vài môn cuối kì còn bạn tôi đậu hết. Hiện tại anh ấy là một kĩ sư của Microsoft còn tôi là chủ của Microsoft."
Còn với cựu tổng thống Mỹ George W.Bush chưa bao giờ được đánh giá cao ở khả năng diễn đạt trước đám đông, nhưng ông cũng kịp thời ghi dấu ấn cho bản thân khi có một bài phát biểu khá sâu sắc và ý nghĩa lúc có mặt trong ngày lễ tốt nghiệp của các sinh viên trường đại học Southern Methodist.
Ông nói: "Đối với các bạn trẻ đã tốt nghiệp trong buổi lễ chiều nay với điểm số cao cùng học lực khá giỏi, tôi có lời khen, 'Làm tốt lắm.'
Và tôi cũng dành lời khen này cho các bạn học sinh trung bình: Các bạn nữa, cũng đều có thể trở thành tổng thống."
Với câu nói trên, cựu tổng thống Bush đang tự châm biếm bản thân khi chính ông cũng đã từng đạt được các điểm số rất lẹt đẹt khi còn học cao đẳng. Tuy vậy, cho đến ngày hôm nay - cựu tổng thống Hoa Kỳ lại là một trong những ví dụ kinh điển nhất về việc điểm số thời đi học sẽ không quyết định tương lai sau này của bạn, cũng như là minh chứng cho một cuộc sống luôn đầy ắp những khả năng vô hạn.
Và dù có thích Bush hay không, thì bạn vẫn không thể chối cãi rằng, những gì ông nói trong bài phát biểu trên đây là hoàn toàn chính xác. Trên thực tế, còn nhiều cái tên khác trong lịch sử các tổng thống Mỹ cũng đã từng học rất tệ như John F. Kennedy, Lyndon B. Johnson và cha của Bush - cựu tổng thống George H.W Bush. Bên cạnh danh sách các nhà lãnh đạo "học dở" của cường quốc số một thế giới này, chúng ta còn có thể kể đến những doanh nhân thành công; những con người đã không để dư âm trường học ngăn cản công cuộc chinh phục đỉnh cao vinh quang của mình.
Những cái tên nổi bật nhất đầu tiên có thể kể đến là Steve Jobs khi ông chưa bao giờ học xong đại học - cũng giống như Bill Gates và Mark Zuckerberg. Các trường hợp tương tự như nữ tỉ phú trẻ tuổi nhất thế giới, Elizabeth Holmes, người vẫn đang là niềm cảm hứng cho cuộc cách mạng y học, cũng bỏ ngang đại học Stanford để theo đuổi ước mơ của mình. Theo sau có thể kể đến tỉ phú Richard Branson - người bị chứng khó đọc và đã bỏ học từ năm 15.
Ở đời, người ta vẫn thường hay dán nhãn cho nhau, nhìn nhau bằng ánh mắt khinh khi khi người khác thua kém mình, người khác không bằng mình.
Nảy giờ ta nghĩ chuyện ngoài đời, ta nói chuyện ngoài đời.
Ngay trong Giáo Hội cũng thế ! Ngay thời Chúa Giêsu, người ta vẫn thường có thói quen dán nhãn cho một người nào đó mà như Chúa Giêsu lại chính là nạn nhân.
Hôm nay, trong trang Tin Mừng rất ngắn của Thánh Maccô ta bắt gặp: "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?" (Mc 6, 2-4)
Nhận định của dân hoàn toàn đúng chứ không sai! Thế nhưng, Thiên Chúa thường vẫn làm những chuyện mà con người xem ra là bất thường. Người ta đã dán cho Chúa Giêsu một cái nhãn bình thường và họ nhìn Ngài trong cái nhãn giới tầm thường của họ.
Những kiểu dán nhãn của họ có tính cách cố định. Dán nhãn đã làm trở ngại cho những cuộc tiếp xúc giữa Chúa Giêsu và người đồng hương. Chính những dán nhãn đó làm cản trở ơn thánh đến với họ. Họ nuôi quan niệm sai lầm về Ðấng Cứu thế. Theo họ thì vị thiên sai phải là một nhà lãnh đạo chính trị lỗi lạc, một nhà cải cách xã hội tài ba, một vị tướng lãnh tài giỏi, bách chiến bách thắng, có thể đưa dân tộc họ lên hàng bá chủ hoàn cầu. Khi họ nhận ra Chúa Giêsu không thích hợp với với quan niệm họ sẵn có về Ðấng cứu thế, thì họ từ khước Người. Vì thế đối với họ, Chúa Giêsu không thể là Ðấng cứu thế. Với sự dán nhãn, họ đã làm cản trở cho đức tin vào Chúa, vào lời Chúa và quyền năng của Chúa như Chúa muốn họ tin tuởng. Do đó Chúa Giêsu nói với họ: Ngôn sứ có bị coi rẻ thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình (Mc 6, 4).
Trang Tin Mừng hôm nay ghi lại: Người đã không thể làm phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân (Mc 6, 5). Sở dĩ Chúa Giêsu không làm phép lạ nào được vì như lời Phúc âm ghi lại họ cứng lòng tin (Mc 6, 6).
Ta có thể thầm trách đám đông trong Tin Mừng hôm nay vì họ đã khước từ Chúa, họ đã tẩy chay Chúa.
Tuy nhiên, trong cõi lặng của cuộc đời, ta có thể nhìn ra ta cũng giống như những người trong Tin Mừng hôm nay.
Nếu ta chỉ đi tìm Chúa nơi những người quyền cao chức trọng, hay ở những nơi nguy nga tráng lệ mà thôi, ta sẽ khó tìm thấy Chúa. Thiên Chúa còn hiện diện nơi những người bình thường mà ta thường gặp, cũng như những sự việc xẩy ra thường ngày. Ta khó nhận ra những dấu vết của Chúa nơi người khác cũng như sự việc ta gặp hằng ngày nếu ta để cho thái độ quen quá hoá nhàm xâm chiếm đời sống tư tưởng của ta.
Thiên Chúa không những hiện diện ở những nơi tầm thường như phố nhỏ Nadarét, mà còn ở nơi dơ bẩn, hôi hám như trong máng cỏ Bêlem. Ta có thể tìm thấy Chúa nơi người đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ và tù đầy. Ðó là điều Chúa nói trong Tin Mừng theo thánh Mátthêu : Khi Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn (Mt 25, 35).
Ðể có thể tin, người ta phải giữ tâm hồn rộng mở. Nếu ta để cho thành kiến về đạo giáo làm mù quáng, thì những thành kiến có thể làm cản lối Chúa vào nhà tâm hồn. Nếu ta vịn cớ nọ cớ kia để đóng cửa nhà tâm hồn, thì Chúa cũng chịu, không vào được, vì Chúa đã ban cho loài người được tự do và Chúa tôn trọng tự do của loài người. Ân huệ và quyền năng của Chúa tuỳ thuộc vào việc mở rộng tâm hồn của mỗi người. Chúa không ép buộc ai theo Chúa và sống theo đường lối đức tin. Chúa chỉ mời gọi. Việc chấp nhận hay không là tuỳ thuộc vào mỗi người.
Nếu ta để cho việc dán nhãn và tính ganh tị lấn át, ta sẽ không nhìn thấy những ưu điểm và khả thể nơi tha nhân. Nếu ta phán đoán lời nói hay việc làm của người khác chỉ dựa trên bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền và gia cảnh của họ là ta để cho việc dán nhãn len lỏi vào óc phán đoán của ta.
Lời nói hay việc làm có giá trị thường mang tính chất khách quan chứ không tuỳ thuộc vào bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền hay gia cảnh của người nói hay làm. Nghe những lời nói hay việc làm mang khuyết điểm của người khác mà đóng cửa lòng lại, không tìm đến với họ, không cho họ cơ hội để bầy tỏ lí do, thì có phải là quan niệm hẹp hòi chăng? Gặp người khác lướt qua một vài lần, nói mấy lời xã giao mà đã kết luận người đó tốt xấu, thì không phải là nhận xét nông cạn sao? Bỏ việc thờ phượng hay nghe lời giảng dậy ngày Chúa nhật chỉ vì thắc mắc về khả năng hoạt bát và trình độ học vấn của linh mục cử hành thánh lễ và rao giảng thì có phải là một quyết định không dựa trên đức tin chăng? Buồn giận một linh mục nào đó mà không tìm đến thờ phượng ở bất cứ nhà thờ công giáo nào khác thuận lợi, thì có phải là hành động giận cá băm thớt không?
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta bớt đi chuyện dán nhãn cho người khác nhưng hãy nhìn họ như họ là sự hiện diện của Chúa trong đời ta thật. Có như thế, ta mới vững vàng bước đi trong niềm tin là Chúa luôn luôn ở với ta trong mọi nẻo đường đời.
Sau những ngày tháng cùng với các môn đệ đi rao giảng ở nhiều nơi, danh tiếng của Chúa Giêsu đã: TN 14-B103
Sau những ngày tháng cùng với các môn đệ đi rao giảng ở nhiều nơi, danh tiếng của Chúa Giêsu đã rất nổi vì nhiều người biết Ngài. Hôm nay, Chúa Giêsu trở về quê hương Na-Da-Rét, Ngài vào trong Hội Đường để cầu nguyện và làm những việc tôn giáo. Người ta đưa cho Ngài cuốn Kinh Thánh, Ngài lật giở và đoạn Tin Mừng mà Ngài mở ra là đoạn Phúc Âm Mc 6, 1-6. Dân làng Na-Da-Rét rất ngạc nhiên về Chúa Giêsu khi họ thấy Ngài giảng dạy một cách thông minh, khôn ngoan và đầy thẩm quyền.
Dân làng Na-Da-Rét vì quá quen thuộc Chúa Giêsu và gia đình của Ngài, đáng lẽ họ chân thành tìm kiếm, họ có thể nhận ra Chúa Giêsu là ai dù rằng họ đã biết về Ngài. Tuy nhiên, dù các giảng dạy của Chúa Giêsu đầy khôn ngoan, và đầy uy quyền, nhưng họ đã thiếu vô tư, luôn không ra khỏi thành kiến, do đó họ vẫn ở trong cái vòng luẩn quẩn :” Ông ta không phải là bác thợ mộc, con ông Giuse thợ mộc sao ? Họ cho rằng Chúa Giêsu chỉ là một bác thợ, một người thợ mộc sống nhiều năm trong làng Na-Da-Rét âm thầm, khiêm tốn không có gì là trổi trang, không có gì là hào quang bên ngoài. Dân làng Na-Da-Rét cũng bị ám ảnh bởi những gì đang phô bày trước mát họ:bà Maria, Mẹ của Chúa Giêsu, các anh em của Chúa chỉ là những người bình thường, không có chức vị gì trong xã hội, mà chỉ sống như những người láng giềng bên cạnh họ. Chính vì thế, họ không đủ vô tư, sống định kiến trước một bác thợ mộc và trước một gia đình không có gì là nổi, là hào nhoáng bên ngoài xã hội. Họ không thể tin ngài là một tiên tri, một Đấng Mêsia và càng không thể nào tin được Ngài lại là Con Một Thiên Chúa. Trái lại, Chúa Giêsu cũng ngạc nhiên về họ. Họ định kiến, tự kiêu, tự mãn và cố chấp. Thái độ kiêu căng, cứng lòng của dân làng Na-Da-Rét đã khiến Chúa Giêsu không thể làm một phép lạ nào nơi họ vì họ không có lòng tin.
Ngày nay, Chúa cũng đang ngạc nhiên vì có nhiều người không hơn gì, không khá hơn dân làng Na-Da-Rét bởi vì hôm nay, có thể vẫn có người chưa nhận ra Chúa, họ chỉ nhìn thấy một khía cạnh nào khuôn mặt thật của Chúa Giêsu. Nhiều Kitô hữu vì cứng lòng tin, chưa nhận ra rõ Chúa Giêsu là ai, nên họ vẫn không hơn gì dân làng Na-Da-Rét xưa. Dân Na-Da-Rét cứ tưởng họ đã biết rõ về Chúa, như g kỳ thực họ mù tịt về Ngài. Họ biết Chúa cách hời hợt, thiển cận, họ chỉ nhìn thấy phần nào bề ngoài về Chúa vì Chúa đang sống giữa họ. Nơi sinh của Chúa, họ cũng chẳng biết rõ. Chúa sinh ra ở Bêlem, nhưng họ lại nghĩ Chúa sinh ra ngay trong làng Na-Da-Rét.
Thực tế, hôm nay, có nhiều người Công giáo theo đạo vì cha mẹ là người tín hữu, giữ đạo theo thói quen. Họ giữ đạo nhưng không thực hành đạo, giữ đạo vì truyền thống không hiểu biết gì về đạo, về giáo lý, mặc dù họ cứ tưởng họ đã biết tất cả.Như thế họ cũng không hơn gì những người Na-Da-Rét xưa…
Đức tin là đảm bảo cho con người nhận biết Chúa và phép lạ mới xẩy ra. Chúa Giêsu không thể làm một phép lạ nào nơi quê hương của Ngài vì dân làng không tin. Thế mới biết con người có thể cản trở Thiên Chúa để phép lạ Ngài làm không thể thực hiện được. Chúng ta phải suy nghĩ xem Chúa có ngạc nhiên về chúng ta khi đức tin của chúng ta còn quá non yếu, khi Kinh Thánh và vốn giáo lý của chunh1 ta còn quá hạn hẹp không ?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhìn ra những việc lạ lùng và những phép lạ hằng ngày Chúa vẫn thực hiện nơi thế giới, nơi loài người và nơi mỗi người chúng con.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao dân làng Na-Da-Rét lại không đón nhận Chúa ? 2.Chúa ngạc nhiên về họ như thế nào ? 3.Chúa có làm được phép lạ nào nơi quê hương Na-Da-Rét của Ngài hay không ? 4.Dân Na-Da-Rét nghĩ rằng Chúa sinh ra và lớn lên ở đâu ?
Họ hàng khinh trước, làng nước khinh sau! Đó là câu tục ngữ Việt Nam. Chúa Giê-su đã phải trải qua: TN 14-B104
Họ hàng khinh trước, làng nước khinh sau! Đó là câu tục ngữ Việt Nam. Chúa Giê-su đã phải trải qua tâm trạng bị khinh chê ấy khi Người có dịp trở về quê nhà. Dân làng Na-da-rét chẳng những không đón tiếp Người, mà còn “vấp ngã vì Người” bởi họ nhìn Người dưới lăng kính của những định kiến về gia đình, địa vị xã hội. Tuy nhiên, chúng ta có cảm tưởng thánh Mác-cô không mấy quan tâm đến sự kiện Chúa Giê-su bị dân làng khinh miệt cho bằng thái độ của Chúa Giê-su trước những rẻ rúng của họ. Phải chăng đó cũng là một trong những thái độ phải có đối với chúng ta, những người gieo Tin Mừng hôm nay?
Cuộc trở về quê quán của Chúa Giê-su chắc chắn không phải là một thứ vinh qui bái tổ, mặc dù danh tiếng Người đã lừng lẫy khắp nơi. Nhưng mục đích chính của chuyến trở về này là để “giảng dạy trong hội đường”. Đúng vậy, rao giảng Tin Mừng là công việc chủ yếu của sứ vụ; đến bất cứ nơi nào thì việc đầu tiên Người làm là tới hội đường để giảng dạy. Người hăng say loan báo tin vui ơn cứu độ Thiên Chúa đã bắt đầu thực hiện. Người công bố sứ điệp Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại và muốn họ được sống muôn đời. Nếu Người có thực hiện những phép lạ chữa lành, thì đó chỉ là những dấu chỉ để nói lên tình yêu của Thiên Chúa muốn xoa dịu những khổ đau thể chất và tinh thần của con người.
Đâu phải Chúa Giê-su không quan tâm đến gốc gác của mình! Người hãnh diện được làm thành phần của dân làng Na-da-rét chứ, mặc dù “từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được” (Gio-an 1:46). Nhưng hôm nay, Người trở về Na-da-rét không phải là cho bản thân Người, nhưng là vì ích lợi của dân làng. Chúa cũng muốn cho bà con bạn bè trong làng được đón nhận những phúc lành của Thiên Chúa. Ước ao lớn nhất của Chúa Giê-su là họ nhận biết rằng “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời… Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời” (Gio-an 3:16,35,36). Chúa Giê-su không khoe khoang thành tích nổi tiếng của mình, nhưng rao truyền kế hoạch yêu thương cứu độ của Thiên Chúa. Người mong dân làng Na-da-rét nhìn lên cao, nhận biết sứ mệnh của Người chứ không phải vào gia cảnh trần thế của Người.
Vì vậy, Chúa Giê-su không bị chạm tự ái, không nổi giận trước những khinh chê của những người “họ hàng khinh trước”. Có chăng, Người chỉ buồn… năm phút và “lấy làm lạ vì họ không tin”. Người mong họ tin để họ được sống đời đời, thế thôi! Mà họ đã không tin, thì Người “không thể” làm được phép lạ nào tại Na-da-rét, bởi mục đích của phép lạ là để người ta tin chính đáng, chứ đâu phải để lòe thiên hạ. Rồi hành vi cuối cùng trong thái độ của Chúa Giê-su là cùng các môn đệ “đi sang các làng chung quanh mà giảng dạy”. Chúa Giê-su không nản chí bỏ cuộc, nhưng Người vẫn trung thành tiếp tục thi hành sứ mệnh Chúa Cha trao phó.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúa Giê-su, vị truyền giáo tiên khởi và gương mẫu của chúng ta đã để lại bài học quý giá. Cho dù chúng ta không phải chịu cực khổ, bách hại, tù ngục như các tông đồ và những vị thừa sai (2 Cô-rin-tô 4), nhưng trong cuộc truyền giáo giữa đời sống hằng ngày và với tư cách là Ki-tô hữu đích thực, chúng ta gặp không ít những khinh chê của… họ hàng và làng nước! Thí dụ khi chúng ta tham gia vào những sinh hoạt giáo xứ thì bị chê là tham quyền cố vị; khi chúng ta không ăn gian giờ ở sở làm thì bị coi là khù khờ; khi chúng ta không nhận hối lộ thì bị chê là đạo đức giả… Tóm lại, có rất nhiều cái khinh cái chê chỉ vì chúng ta muốn làm người Ki-tô hữu xứng đáng và đích thực! Nhưng cần thiết là chúng ta cứ trung thành giống như Chúa.
Chúng ta chấp nhận những “thiệt hại” ấy là vì chúng ta muốn cho những người chung quanh tin vào Chúa Ki-tô. Phải, trước hết họ tin những gì mắt thấy tai nghe về chúng ta là Ki-tô hữu, rồi từ đó họ tin vào Chúa Giê-su, Đấng chúng ta tin kính và sống theo Tin Mừng Người đã rao giảng. Vậy là truyền giáo đích thực rồi chứ còn gì nữa!
Đoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Kitô bị những người đồng hương từ chối. Sự từ chối này có TN 14-B105
Đoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Kitô bị những người đồng hương từ chối.
Sự từ chối này có những lý do riêng của nó. Đó là họ chỉ nhận thấy Đức Kitô là con bác thợ mộc Giuse, bà con lối xóm với họ. Hoặc có thể họ không muốn nhìn nhận Ngài như một tiên tri, luôn đòi hỏi mọi người phải sám hối theo ý Thiên Chúa.
Hẳn rằng ngày hôm nay những người tín hữu chúng ta không còn bị nhầm lẫn về Đức Kitô một Thiên Chúa làm người. Nhưng chúng ta vẫn có thể dửng dưng và từ chối sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống hôm nay.
Nếu những thân nhân của Đức Kitô ngày xưa đã vấp phải những yếu tố nhân loại của Ngài, để không nhận ra Ngài, thì đó cũng là những chướng ngại làm chúng ta không nhận ra Ngài ngày hôm nay, một Đức Kitô trong tha nhân.
Không ít người trong chúng ta đã từ chối những giá trị, những việc làm của anh em đồng loại, bởi vì họ là những con người không cùng một niềm tin, hoặc họ bị coi chỉ là những con người tầm thường, có chút lầm lỗi trong dĩ vãng.
Cách nhìn và đánh giá như thế sẽ là một cách sống xa lạ với Tin Mừng, sẽ là một cách sống xa lạ với với điều chính Đức Kitô đã rao giảng vì Ngài đã chỉ đám đông và trả lời: Những ai thi hành ý muốn Thiên Chúa, thì họ chính là anh em, chị em và là mẹ tôi vậy. Những người dám hy sinh cho đồng loại, những người dám sống vì kẻ nghèo, đang là hình ảnh của Thiên Chúa mà mỗi người chúng ta không thể không nhìn nhận.
Cũng có thể ngày hôm nay, mỗi người trong chúng ta đang từ chối Đức Kitô khi xa lánh những đòi hỏi của Tin Mừng, được coi là những phiền nhiễu của Thiên Chúa. Một Tin Mừng kêu gọi phải yêu thương đồng loại như chính mình, phải hy sinh mạng sống cho người mình yêu. Một Tin Mừng kêu gọi phải bán hết của cải, làm phúc bố thí rồi mới bước theo Ngài. Tóm lại, Đó là một Tin Mừng kêu gọi sống trong một con người mới.
Từ chối những đòi hỏi cốt yếu của Tin Mừng chỉ để sống với những hình thức những nghi lễ bên ngoài, chắc hẳn là sẽ êm ái hơn. Nhưng đó chỉ là sự êm ái của những kẻ không muốn bị liên luỵ bởi Tin Mừng, của những kẻ không nhìn nhận Đức Kitô. Ai trong chúng ta khẳng định được rằng là mình đã không từ chối Đức Kitô.
Câu hỏi ngày hôm nay đó là chúng ta hãy tra vấn lương tâm, hãy tìm hiểu cách sống của bàn thân, để xem chúng ta đã thực sự đón nhận hay là đã từ chối Đức Kitô.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Đến ngày Sabbat, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” Và họ vấp phạm vì Người.
Chúa Giêsu liền bảo họ: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình“. Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
+ Chia Sẻ
Chúa Giêsu, xét về nhân tính thì Người là dân Do Thái, quê hương của Người là thành Nazareth, một TN 14-B106
** Chúa Giêsu, xét về nhân tính thì Người là dân Do Thái, quê hương của Người là thành Nazareth, một thành phố nghèo nàn tọa lạc khoảng 30 km về phía Tây biển hồ Galilêa, cũng gọi là biển hồ Giênêzareth.
Đây là lần đầu tiên Chúa trở về thăm quê hương, nơi Ngài đã sống 30 năm, làm nghề thợ mộc như một người bình thường. Lần này, Chúa trở về quê, sau khi đã đi rao giảng tại Carpharnaum và những thành phố, làng mạc khác và, lúc này, danh tiếng của Người đã vang dậy khắp xứ Galilêa, vì Người đã làm vô vàn phép lạ, chữa lành các chứng bệnh nan y, truyền cho gió bão phải im lặng …
Đáng lẽ, cả thành Nazareth phải hoan hô, hân hoan đón mừng một Đấng đầy Quyền Năng, một Vị Thầy lỗi lạc, và vô cùng hãnh diện đón chào một Đấng, xuất thân từ quê hương, xứ sở của mình nay vang danh dường ấy! Nhưng trái lại: Sau khi nghe Chúa Giêsu giảng trong hội đường, trong ngày Sabbath, thì họ: sửng sốt vì sự khôn ngoan và giáo lý của Người, họ than phục vì các phép lạ Người đã làm… nhưng sau đó họ coi thường và xúc phạm Ngài, khi nghĩ rằng: Chúa Giêsu chỉ là một bác thợ mộc con bà Maria, anh em với các ông Giacôbê, Simon và Giuđa…
Trong suốt 30 năm, Chúa Giêsu sống ẩn dật như bao người bình dân khác.Đức Maria cũng không có chi xuất sắc về phương diện trần thế, và các anh em họ của Chúa như các ông Giacôbê, Simon…hầu hết chỉ là những bác thuyền chài…thế thì tại sao bỗng chốc, Chúa Giêsu được trở nên thông thái, làm được nhiều phép lạ…những điều đó làm cho đồng hương của Chúa, tuy than phục, bỡ ngỡ, nhưng kết cục, họ dè bỉu, khinh thường Chúa…Từ sự kinh ngạc và thán phục, họ đã không đi đến những cảm tình tốt, như kính trọng, yêu mến mà ngược lại đã xúc phạm Ngài!
Thái độ đó làm cho Chúa Giêsu cảm nhận được sự khước từ, khinh bỉ, rẻ rúng của người đồng hương đối với Chúa, nên Chúa đã phải thốt lên rằng: “Không có tiên tri nào được trọng đãi nơi quê hương của mình!” (Lc 4:24)
Đáng lẽ tại quê hương của Chúa, thì Người sẽ làm nhiều phép lạ hơn tại các thành phố khác, tuy nhiên, do cự cứng lòng tin nên Chúa Giêsu đã không làm được phép lạ nào, trừ vài trường hợp Ngài đặt tay để chữa cho vài bệnh nhân!(Mc 6: 5)… Họ cứng lòng đến nỗi Chúa Giêsu phải bỡ ngỡ!… Sự cứng lòng tin làm cho Chúa phải bó tay, không thể thực hiện những công việc vĩ đại cho đời chúng ta!… Ngày nay cũng như thời đại trước đây, những tâm hồn hết lòng tin Chúa, thật ít ỏi lắm thay! ** Vì kiêu căng, đồng hương của Chúa đã khước từ Chúa Giêsu, không nhận ra dung mạo vô cùng đáng yêu và Quyền Năng sêu phàm của Chúa, mà chỉ thấy Chúa qua hình dáng bên ngoài, không có chi khác biệt với họ, và đã đánh mất biết bao Ân Huệ và Hồng Ân Cứu Độ!
Vì kiêu căng, tự phụ vào kiến thức của mình mà bao vị thong thái, hiền tríêt đã không nhận ra được các Mầu Nhiệm của Nướd Trời!
Bao thượng Tế, kỳ lão và Kinh Sư thời Chúa Giêsu cũng như Philatô, Hêrôđê đã không nhận ra Chúa Cứu Thế, trong khi các mục đồng, các môn đệ của Chúa toàn là những người chài lưới, ít học…lại tìm đến và bước theo Chúa!… Cũng chính vì thế, họ nhận mình dốt nát, cần sự chỉ dạy của Chúa mà tìm được Nước Trời… Cũng với ý nghĩ đó, nên Chúa Giêsu phán: “Nước Trời dành cho những ai giống như con trẻ…”
Có thể nói, từ Đông chí Tây, từ Bắc chí Nam…khắp nơi trên địa cầu, biết bao nhiêu tâm hồn nhỏ bé, nhận mình tội lỗi, lại ùn ùn bước vào Nước Thiên Chúa: Người trộm lành, Maria Magđala, Phêrô, Phaolô…đã nhận ra chân dung vô cùng Khoan Hậu, khả ái của Chúa Giêsu, và trở nên môn đệ của Người trong khi bao nhiêu vị tiến sĩ, Kinh Sư và những người lãnh đạo tôn giáo thời Chúa Giêsu đã không nhận ra Người!
Chúa Giêsu đã không chọn 1 người nào trong các tiến sĩ kinh Thánh, hay thượng tế, tư tế để làm môn sinh của Người mà lại chỉ chọn 12 Tông Đồ ít học, nhưng thành tâm tin kính Chúa để các ông trở thành các cột trụ trong Tòa Nhà Hội Thánh buổi sơ khai!
** Khi Đức Hồng Y Roncali được bầu làm Gíáo Hoàng Gioan XXIII, thì có nhiều người đã vội nghĩ rằng: Vận mạng Hội Thánh sắp đến ngày tàn, khi các Hồng Y bầu một cụ già 77 tuổi làm Gíao Hoàng!… Tuy nhiên, chỉ sau ít ngày, các báo chí, truyền thanh, truyền hình nhất tề đều ca tụng vị Giáo Hoàng đặc biệt của thời đại, vì Ngài quyết định họp Công Đồng Vatican II để canh tân Hội Thánh, một công cuộc canh tân vĩ đại cho Hội Thánh!…
Thánh Phaolô Tông Đồ cũng được hiểu biết nhiều Mầu Nhiệm cao cả của Nước Trời, trong khi chính Ngài cảm nhận được sự yếu đuối, bất toàn của chính mình, nên Ngài đã phải thốt lên: “Cái dằm đã đâm vào thân xác tôi!” (II Cor 12:7-10)…Cái dằm đó, có thể là những cám dỗ về sự Khiết Tịnh, cảm nhận sự yếu đuối của thân phận con người…tuy nhiên, ông luôn bám lấy Chúa, và Người đáp lời: “Ơn Ta đủ cho con!”…Chúa không lấy đi các cám dỗ đó, nhưng cho ông đủ Thần Lực để khỏi bị sa ngã, và luôn nhận thấy mình nhỏ bé, bất toàn trước Thiên Chúa!
** Chúng ta hãy tự hỏi xem: Mình có tin nhận Chúa một cách chân thành, xác tín và không lung lay hay nhiều lúc lại nghi ngờ hoặc tệ hơn đã khước từ lời Mời Gọi Yêu Thương của Chúa?
Là môn đệ của Chúa, chúng ta có bình thản chấp nhận mọi nghịch cảnh, đố-kỵ, hoặc loại trừ do cả những người thân yêu nhất hay không?
+ Cầu Nguyện
Xin cho con gặp được Chúa qua nghịch cảnh
Lạy Chúa Giêsu! Giữa giá rét của Mùa Đông, Xin cho con gặp Chúa! Giữa những bấp-bênh của phận người, Trước bao đắng cay, ê-chề của cuộc sống, Xin cho con biết Chúa đang ở bên con! Giữa cảnh nghèo đói và trơ trụi, Xin cho con sống thân mật với Chúa! Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng nằm gọn trong máng cỏ, Cho con luôn Đơn Sơ, An Bình ngay giữa những lo-âu hằng ngày! Xin cho con chấp nhận thân phận con người, Đầy bất tòan và quá nhỏ bé! Với bao điều bất như ý… Xin cho con DÁM SỐNG như Chúa, Vì Chúa đã DÁM SỐNG như nhân loại chúng con!
LẮNG NGHE LỜI CHÚA ĐỂ TRỞ NÊN NGƯỜI PHỤC VỤ NHỎ BÉ CỦA ANH EM
Sau khi nghe bài đọc thứ nhất về ơn gọi làm ngôn sứ của Ê-dê-ki-en, chúng ta muốn nói ngay "tiếp TN 14-B107
Sau khi nghe bài đọc thứ nhất về ơn gọi làm ngôn sứ của Ê-dê-ki-en, chúng ta muốn nói ngay "tiếp theo", và rồi qua các bài sách khác hy vọng sẽ nghe được nghe những điều có ý nghĩa hơn cho đời sống của chúng ta. Nghĩ kỹ lại chúng ta không được thị kiến nào cả. Nay nghe tiếng nói của Thiên Chúa gọi chúng ta làm ngôn sứ. Ngay cả khi chúng ta cảm thấy được gọi nói với một người nào, hay hành động về một vấn đề gì, lời gọi ông Ê-dê-ki-en có thể làm chúng ta dừng lại. Thiên Chúa sai ông Ê-dê-ki-en đến với một dân tộc "phiến loạn lòng trơ tráo, mặt chai đá". Chừng ấy cũng đủ làm một phàm nhân trả lời "thôi quên chuyện đó đi".
Nhưng chúng ta không nên vội tiến tới. Thật ra ông Ê-dê-ki-en được Thiên Chúa giao cho một trách nhiệm khó khăn, và ông ta là một phàm nhân như tất cả chúng ta.Ông ta sợ hải, và ai lại không sợ chứ? Chổ này là đoạn thứ hai phần đầu của sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Sách bắt đầu với: trời mở ra với thị kiến thần linh, có gió bão thổi đến, có đám mây lớn và lửa rập rờn, hào quang vang cả xung quanh, và từ giữa như thể kim ngân long lanh từ lửa. Và từ giữa có gì giống tựa bốn sinh vật giống tựa người ta. Mỗi sinh vật có bốn mặt và bốn cánh. Các sinh vật đi trên bánh xe dưới đát. Có gì như kim ngân long lanh coi dường như lửa làm vòng xung quanh. Đó là hình dáng của cái gì giống tựa vinh quang Đức Chúa (Ed 1: 28). Rồi thần linh Thiên Chúa vào trong ông ta để đỡ ông ta "Đứng dậy".
Thiên Chúa có lời phán cho dân chúng, và chọn con người như chúng ta nói lên lời đó. Các ngôn sứ không tự do nghĩ trách nhiệm của họ là gì, nhưng họ là những người Thiên Chúa sai đi. Và đó la tất cả điều khác biệt. Thiên Chúa chọn người; Thiên Chúa bảo chúng ta "đứng dậy đi"; Thiên Chúa cho sứ mạng phải nói gì; Thiên Chúa chọn sứ mạng sẽ như thế nào v.v… Trong tay Thiên Chúa là tất cả: sứ mạng, ngôn sứ, và dân chúng.
Thiên Chúa chọn ông Ê-dê-ki-en nói lời an ủi cho dân Israel đang bị tù đày và thất bại. Thiên Chúa hứa sẽ làm cho họ phấn khởi lên (Ed 36). Thiên Chúa sẽ làm cho núi non, gò mỗng, lòng suối, xương khô trong thung lũng sẽ sống lại và trở nên một dân tộc mới (Ed:37). Đây là bắt đâu trách nhiệm của Ê-dê-ki-en, và ông ta cảm thấy không đủ sức. Ông ta chưa được có thị kiến về việc Thiễn Chúa sẽ làm gì cho dân chúng. Thiên Chúa làm sao thức tỉnh dân chúng trong tù đày và đem họ trở về quê quán của họ? Chỉ có Thiên Chúa mới biết, và mới làm được. Và đó mới là điểm chính: Thiên Chúa nắm giử tất cả. Nhưng, Thiên Chúa cần người thường dân muốn đáp lại lời gọi của Ngài - và đây là bổn phận của chúng ta.
Thiên Chúa có thể đem dân chúng ra khỏi thất bại. Chúng ta có biết một cộng đoàn nào, hay một nhóm người nào trong xã hội đã bị thất bại, chán nãn không? Chúng ta có được gởi đến với họ để nói lời an ủi phấn khởi họ, và hành động theo lời nói của chúng ta hay không? Có thể chúng ta, những Ê-dê-ki-en, không được gởi đến với một cộng đoàn nhưng đến với từng cá nhân. Hãy nhìn xung quanh chúng ta, trong gia đình, nơi sở làm, bạn bè, hàng xóm, hay người nào trong viện dưỡng lão. Chúng ta sẽ nói gì với họ? Chúng ta sẽ làm gì cho họ? Đến bây giờ chúng ta chưa biết được. Nhủng, qua phép rửa tội, chúng ta tất cả được gọi làm ngôn sứ để nói lời an ủi, và thử thách của Thiên Chúa cho những ai cần đến.
Chúng ta sẽ làm gì? Việc đầu tiên bài sách nói với chúng ta là: "như Thiên Chúa đã bảo tôi..." Việc đầu tiên làm ngôn sứ là nghe lời Thiên Chúa. Chúng ta cũng như ông Ê-dê-ki-en sẽ được Thiên Chúa mời gọi, "Và Chúa Thánh Thần ngự trong tôi và đặt trên đôi chân của tôi." đó là Thiên Chúa đã chọn chúng tôi và được giao một sứ vụ cho chúng tôi, như một người lắng nghe Lời Chúa phán. Bài sách Ê-dê-ki-en đưa đến bài phúc âm. Cũng như các ngôn sứ khác, ông Ê-dê-ki-en cho thấy những yếu điểm của người phàm. Hình dáng và lịch sử của người đó có thể làm mất tín nhiệm như chúng ta thấy trong kinh nghiệm ông Ê-dê-ki-en là Thiên Chúa có thể làm nhiều điều vinh quang qua người phàm.
Trong xóm làng của Chúa Giêsu, Ngài chỉ là một "người phàm". Chúa Giêsu đã sinh ra như tẩt cả chúng ta, qua một hài nhi yếu ớt và cần phải được nuôi dưỡng. Lúc Chúa Giêsu là hài nhi, Ngài cần phải có người săn sóc. Phúc âm không phải là thần thoại Hy lạp nói về các chúa của họ sinh ra khôn lớn và ra lệnh ngay. Không, Chúa Giêsu sinh ra như tất cả người phàm, yếu ớt và cần phải có người nuôi dưỡng săn sóc.
Trước đoạn phúc âm đọc ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ như; khi Ngài chịu phép rửa có tiếng từ trời phán xuống "Con là Con yêu dấu của Cha. Cha rất hài lòng về con". Sau khi Chúa Giêsu bị quỷ dữ cám dỗ trong hoang địa, Ngài gọi các môn đệ đầu tiên. Ngài chửa người bị quỷ ám trong hội đường, và ngủỏ#i bại liệt ỏ# Capharnaum; Ngài trừ quỷ ám một người sống trong nghĩa địa ở Ghê ra sa; Ngài cứu con gái ông hội trưởng hội đường đã chết được sống lại; Ngài chửa người phụ nữ bị băng huyết v.v... Chúng ta vẫn còn trong phần đầu phúc âm thánh Mác cô, nhưng Chúa Giê su đã làm nhiều việc lạ lùng, chúng ta đã nghe Ngài nói là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.
Tất cả những việc làm lớn lao đó ngừng ngay khi Ngài trở về quê quán Ngài. Các bạn bè và bà con trong gia đình có đó. Nhưng họ không chấp nhận Ngài. Ngài chỉ là một người thường như họ và như chúng ta. Có thể bà con trong họ hàng muốn có một người có nhiều sức mạnh hơn để cứu thoát họ khỏi ách nô lệ đàn áp của đế quốc La mã, và khỏi cảnh nghèo nàn. Trước kia Chúa Giêsu đã giúp những người cần được giúp đở, nhưng vì sao Ngài lại không tỏ sức mạnh hơn để giúp bà con họ hàng? Thật sự họ chỉ cần thế thôi
Người dân muốn những dấu hiệu mạnh mẽ của Thiên Chúa đến họ với một cánh tay thần lực để giải cứu họ. Nhưng khi Chúa Giêsu nói với họ về dấu chỉ Triều Đại Thiên Chúa khởi sự nhỏ bé như hạt cải "loại hạt giống nhỏ nhất trong các thứ hạt", thì làm sao Thiên Chúa tỏ sức mạnh quyền uy trong hạt cải được? Và vì thế họ thất vọng nên chống đối Ngài.
Chúng ta cũng có thể có thái độ đó nếu chúng ta mong đợi Thiên Chúa tỏ mình trong các việc làm hùng hậu rềnh rang. Trái lại, Chúa Giêsu đã bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa qua quyền uy khác: quyền uy để giúp người khác chứ không phải giúp chúng ta. Một quyền uy dịu dàng, không ép buộc người khác phải làm theo ý mình một quyền uy cảm thông và nhẹ nhàng khi người khác mong đợi sức mạnh.
Đáng lý dùng quyền uy để đánh tan kẻ thù của Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu chấp nhận đau khổ và sự chết. Ngài phó thác mọi sự trong bàn tay Thiên Chúa, và tha thứ cho kẻ thù, ban cho họ một đời sống mới, đời sống mà thế gian không nhận ra vì là đời sống bình thường của những người bình thường như chúng ta. Chúng ta chấp nhận sự yếu đuối và sự thiếu sót của chúng ta, Nhưng chúng ta chấp nhận thần linh Thiên Chúa và Lời Thiên Chúa nói để nâng đở chúng ta và giúp chúng ta "đứng dậy".
Hôm nay, thánh sử Marcô thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu trở về quê quán của Ngài là làng TN 14-B108
Nazareth nhưng lại bị dân làng từ chối đón tiếp. Lý do của họ rất đơn giản. Chỉ vì họ quá quen Ngài.
Có lẽ nhiều người trong họ đã cùng lớn lên với Ngài, cùng chung tuổi trẻ với Ngài, và làm việc thờ phượng chung với Ngài nơi hội đường. Họ quen biết từ lời Ngài nói, việc Ngài làm, và tất cả hoàn cảnh gia đình của Ngài. Họ biết Ngài như một người thường, là con của Ông Giuse và Bà Maria cũng là những người thường.
Hôm nay bỗng dưng Chúa trở về quê, giảng dạy và làm những phép lạ mà từ xưa tới nay chưa có ai làm được. Họ sửng sốt và kinh ngạc về những lời nói việc làm của Chúa, nhưng vì quá quen hoàn cảnh gia đình của Chúa, vì nghĩ Chúa là người cùng làng, chẳng có gì hay, chẳng có gì khác hơn họ, nên họ đã không nhận ra được bàn tay Thiên Chúa ở giữa họ, không chấp nhận được Thiên Chúa ở trong Ngài, và không tin Ngài có thể đem Tin Mừng nước Chúa đến cho họ. Đã không thể nhận ra Ngài là Thiên Chúa, họ còn coi thường và khinh thị Ngài nữa.
Thái độ của dân làng Nagiarét đôi khi cũng là thái độ của mỗi người chúng ta. Nhiều khi quen việc gì hay người nào lâu, chúng ta dễ nhàm chán coi thường. Lẽ ra càng ở gần người nào lâu, chúng ta càng thêm lòng quí mến, kính trọng, mới đúng, nhưng oái ăm thay chúng ta lại dễ coi thường.
Cái nhược điểm lớn của chúng ta là vì quá quen thuộc nên nhiều khi chúng ta chỉ nhìn thấy khuyết điểm của nhau, những lỗi của nhau, thay vì nhìn thấy những sự tốt lành, những ơn cao cả mà mỗi người chúng ta có. "Gần chùa gọi bụt bằng anh" là vậy.
Tệ hơn nữa là nếu chúng ta lại có óc thành kiến. Sự thành kiến làm cho con người ra mù tối không nhận ra sự thật. Khi chúng ta đã yên trí người này người kia là thế này thế nọ rồi, chúng ta khó thoát khỏi sự coi thường hay khinh thị họ. Chúng ta đánh giá con người của họ thấp tháp và tầm thường. Cho dù họ làm gì, nói gì, chúng ta cũng không muốn nghe, không muốn chấp nhận. Dù họ có những ý kiến hay, việc làm tốt, chúng ta cũng có thể gạt qua và cắt nghĩa xấu cho họ.
Chuyện kể rằng, có một anh chàng bị mất búa, anh hồ nghi là anh hàng xóm lấy mất. Vì hồ nghi và yên trí nên từ đó anh nhìn tất cả những ngôn ngữ hành động của người hàng xóm là những ngôn ngữ hành động của kẻ trộm. Cũng may là anh tìm lại được búa sớm, nên người hàng xóm mới thoát khỏi tiếng mang tội ăn trộm. Quả thật, câu nói đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng đen thật là như thế.
Sự thành kiến làm cho chúng ta mù, chỉ nhìn những gì chúng ta muốn nhìn, do đó khó nhận ra sự thật. Người thành kiến kéo mành cửa sổ tâm trí xuống không cho ánh sáng chân lý chiếu vào. Vì thế, họ không thể lớn lên trong trí thức cũng như tinh thần.
Thành kiến làm hại chúng ta, làm cho tâm hồn và tâm trí chúng ta ra nhỏ mọn, vậy chúng ta hãy cố gắng đừng để nó len lỏi vào tâm trí chúng ta, hãy tống nó ra khỏi đời sống chúng ta kẻo nó ngăn cản chúng ta lớn lên trong sự liên đới với Chúa và với anh chị em chúng ta.
Nếu tiêu diệt được óc thành kiến chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra sự hiện của Chúa trong cuộc đời, trong những biến cố nhỏ mọn quen thuộc của cuộc sống. Thật sự chúng ta không phải tìm Chúa ở đâu xa. Ngài hiện diện trong mọi người, mọi nơi, và mọi biến cố xảy đến với chúng ta. Ngài hiện diện qua sự tốt lành của những người thân, những người hàng xóm, những người chúng ta tiếp xúc hằng ngày.
Vậy, Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta đừng coi thường, đừng từ chối sự hiện diện của Chúa được bày tỏ qua sự tốt lành của gia đình, hay bạn bè thân thuộc của chúng ta. Chúng ta hãy cố gắng biết ơn và khen ngợi sự tốt lành chúng ta đang được hưởng. Thí dụ hãy cho người bạn đời của chúng ta một cử chỉ quí mến, những người đã nấu ăn cho chúng ta một lời khen tặng, những người hàng xóm đã thăm hỏi nói chuyện với chúng ta, hoặc những bạn bè thân thiết đã quan tâm, nâng đỡ, và dành cho chúng ta thời giờ quí báu một lời cám ơn chân thành.
Nếu chúng ta thực hiện những điều vừa nói trên là chúng ta đón tiếp Chúa Giêsu, đón tiếp sự hiện diện của Ngài trong những người quen, trong những biến cố rất quen thuộc của cuộc đời, để nhờ đó Ngài có thể thực hiện những sự lạ lùng nơi tâm hồn chúng ta.
Một người thù ghét chủ tiệm buôn lớn, đã lợi dụng sơ hở của chủ nhân nên lẻn vào cửa tiệm giữa TN 14-B109
Một người thù ghét chủ tiệm buôn lớn, đã lợi dụng sơ hở của chủ nhân nên lẻn vào cửa tiệm giữa đêm khuya để tìm cách phá hoại.
Thấy trong cửa hàng có một bàn thờ bằng gỗ quý, chạm khắc rất mỹ thuật ghi giá bán 30 triệu đồng và một cái thùng rác ghi giá bán 10.000 đồng, người đột nhập gỡ miếng giấy ghi giá 30 triệu ở bàn thờ gắn vào thùng rác và gỡ miếng giấy ghi giá 10.000 đồng ở thùng rác dán vào bàn thờ. Thế là bàn thờ gỗ quý chạm khắc công phu chỉ có giá 10.000 đồng trong khi thùng rác hèn hạ được nâng giá trị lên đến 30 triệu đồng và y tiếp tục thực hiện như thế với những món hàng khác.
Thế là các món hàng quý báu bị mất giá nghiêm trọng còn những món hàng rẻ mạt thì được nâng cao giá trị gấp trăm lần.
Hành động quái ác nầy khiến khách hàng không thể nhận ra đâu là giá trị đích thực của các món hàng nên đã mua lầm một cách tai hại. (Dựa theo ý tưởng của Frère Phong trong cuốn “Mắm muối cho bữa cơm hằng ngày”)
Các giá trị của đời sống con người hôm nay cũng đang bị đảo lộn y hệt như thế, khiến rất nhiều người tôn vinh tiền tài của cải mà xem thường luân thường đạo lý, đánh giá cao những gì phù phiếm bên ngoài mà coi rẻ phẩm chất cao đẹp của con người. Thế là những điều phù phiếm được lên ngôi trong khi những phẩm chất cao đẹp của con người bị đẩy xuống hạng thấp kém.
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô cho thấy người dân thành Na-da-rét cũng đánh giá Chúa Giêsu theo nhãn quan đó.
Mặc dù danh tiếng Chúa Giêsu đã vang dội nhiều nơi nhờ những lời rao giảng khôn ngoan, nhờ việc chữa lành nhiều bệnh nhân và nhờ những phép lạ Người làm, thế nhưng khi trở về quê quán, những người đồng hương nhìn vào gia thế thanh bần của Chúa Giêsu, nhìn đến anh chị em họ hàng của Người thuộc hàng dân dã, và ngay cả bản thân Người trước đây cũng chỉ là một anh thợ mộc bình dị trong làng, nên họ không còn quý trọng và đặt niềm tin vào Người nữa.
Họ xì xào bàn tán với nhau: "Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Người" (Mc 6,3)
Bấy giờ Chúa Giêsu nêu lên một nhận định có phần chua xót: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi."
Thế là Chúa Giêsu chẳng làm được phép lạ nào tại Na-da-rét (Mc 6, 5) cho người đồng hương. Người rời bỏ quê nhà đi rao giảng nơi khác.
Tiếc thay, vì đánh giá Chúa Giêsu theo lớp vỏ bên ngoài, dựa vào gia thế, nghề nghiệp… mà không dựa vào phẩm chất của Người nên dân làng Na-da-rét đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Chúa Giêsu ưu ái dành cho họ. Cách đánh giá như thế khá phổ biến trong xã hội hôm nay.
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên giới trẻ ngày nay đua đòi ăn mặc hợp thời trang, dù phải mặc những loại y phục thiếu nết na và kỳ quái, và cho rằng có như thế mới khẳng định được giá trị của mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên nhiều người sẵn sàng hiến thân làm nô lệ cho tiền bạc, cố tìm cách trở nên giàu sang bằng mọi giá, cho dù phải bán rẻ lương tâm, danh dự và ngay cả thân xác mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên người ta đánh giá con người dựa theo số lượng của cải mà người đó sở hữu chứ không dựa vào phẩm chất cao đẹp bên trong.
Trước thực trạng đó, Công Đồng Vaticano II nhắc nhở mọi người: “Giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu nhưng tuỳ thuộc phẩm chất của mỗi người"
Nguyện xin Chúa Giêsu giúp chúng ta “gắn lại bảng giá cho đúng với giá trị thật của mỗi món hàng”, nghĩa là đặt lại bậc thang giá trị của con người sao cho thỏa đáng. Và xin cho nhân loại hôm nay biết nhận ra đâu là giá trị tinh thần cao quý đáng theo đuổi suốt đời và đâu là điều xa hoa phù phiếm không nên quyến luyến ham mê.
Claude Monet là học sĩ bậc thầy, cha đẻ của trường phái Ấn tượng, hiện vẫn là họa sĩ Pháp được TN 14-B110
Claude Monet là học sĩ bậc thầy, cha đẻ của trường phái Ấn tượng, hiện vẫn là họa sĩ Pháp được thế giới biết đến nhiều nhất. Cảnh trí thiên nhiên trong các bức tranh của ông có sức ám ảnh, mê hoặc lạ. Nó được thể hiện, phản chiếu bởi một thứ màu sắc, ánh sáng đặc biệt bắt mắt. Danh họa Paul Cézanne không hề quá lời khi nhận xét: "Người ta không thể chỉ xem tranh của Monet bằng hai mắt vì Monet còn nhìn đời bằng một con mắt khác".
Tuy nhiên, trong khi vị thế của tranh Monet trên thị trường tranh quốc tế ngày một lên cao, thì tại chính quê hương ông, giới nghiên cứu mỹ thuật lại không mấy "mặn mà" với tác phẩm của Monet. Có lẽ, đó chính là lý do để Giám đốc Bảo tàng d’Orsay, ông Guy Cogeval, đứng ra tổ chức tại Paris một cuộc triển lãm lớn về Monet (bắt đầu từ ngày 22/9/2010 tới ngày 24/1/2011) nhằm góp phần điều chỉnh thái độ "bụt chùa nhà không thiêng" của những người yêu nghệ thuật ở "kinh đô ánh sáng."
Điều này chẳng có gì đáng lạ, vì ngay từ 21 thế kỷ trước, Chúa Giêsu đã phán: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi!” (Mc 6, 4)
1- Rẻ rúng vì quen thuộc
Mặc dù Chúa Giêsu đã đi rao giảng, làm phép lạ cứu chữa bao người, danh tiếng nổi như cồn, nhưng khi về quê nhà Nazareth, thì bị người đồng hương khinh thường, như tâm lý dân gian muôn kiếp, bụt nhà không thiêng. Họ không chấp nhận, vì biết quá rõ lai lịch, gốc gác, nghề nghiệp, địa vị xã hội của gia đình ông thợ mộc Giuse quá bình dị, tầm thường và nghèo nàn. “Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải bà Maria; an hem của ông không phải là các ông Gia cô bê, Giô xếp, Simon và Giu đa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao?” (Mt 13, 55-56).
2- Rẻ rúng vì đố kỵ
Họ ganh tỵ vì thấy Người tài giỏi, danh tiếng qua việc giảng dạy và làm nhiều phép lạ. “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 5, 2) Cái tâm lý con gà ganh nhau tiếng gáy được dịp phát triển vô tội vạ. Cái tâm lý đố kỵ với người có tài hơn mình, bởi tánh kiêu ngạo, bởi mặc cảm thua kém, bởi lòng bất khoan dung, bởi thiếu trưởng thành trong nhân cách và tâm tư, bởi thói hùa theo bầy đàn.
3- Rẻ rúng vì cố chấp, hẹp hòi
Dù “mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người, “(Lc 4, 22), nhưng những người đồng hương Nazareth vẫn cố chấp, hẹp hòi, thành kiến và tỏ ra khinh thường, không chấp nhận Người. Giá như Người sênh sang áo gấm, vinh quy về làng, thì còn cơ may được chào đón. Đàng này, Người chẳng có đến cái gối, chẳng có nhà cửa, dinh thự, chẳng xe xua lụa là, tiền hô hậu ủng, chỉ có mấy môn đệ tầm thường tháp tùng, xuất thân thuyền chài khó nghèo. “Hẳn các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào? ( Lc, 4, 23)
Ngay như sau này, thánh nữ Tiến sĩ Têrêsa Hài Đồng Giêsu thật thánh thiện đến thế, mả các nữ tu sống đồng thời, cùng dòng, cùng tu viện, cũng còn chẳng biết nói gì về ngài, vì chẳng thấy chi khác thường nơi ngài, khi được người ta phỏng vấn, tìm hiểu về sinh thời của thánh nữ.
Lạy Chúa Giêsu, con cũng đang bưng tai, nhắm mắt, không hề nhận ra Chúa hiện diện chung quanh, từ tha nhân, từ các Bí Tích, Thánh Thể và Lời Chúa. Xin Chúa thương tình luôn mở lòng trí con, để nhận biết và nghe theo tiếng Chúa mọi nơi, mọi lúc.
Lạy Mẹ Maria, xin mở lòng dạ con, để luôn cảm nhận có Chúa hiện diện trong từng giây phút đời sống con, để con có thể thánh hóa mọi sự, mọi biến cố trong đời theo Thánh ý Chúa. Amen.
Bs. Charles Drew là anh cả trong năm người. Ông tốt nghiệp từ McGill ở Gia Nã Đại với bằng Bác TN 14-B111
Bs. Charles Drew là anh cả trong năm người. Ông tốt nghiệp từ McGill ở Gia Nã Đại với bằng Bác Sĩ Y Khoa và Tiến Sĩ Phẫu Thuật.
Tại Đại Học Columbia ở Nữu Ước, ông tìm ra một phương cách để gìn giữ máu trong một thời gian dài, sử dụng trong việc tiếp máu.
Trong Thế Chiến II, ông là giám đốc của ngân hàng máu quốc gia, cung cấp máu cho các quân nhân.
Trong khả năng của mình, ông đã đặt nền tảng cho thủ tục lấy máu và dự trữ máu của Hồng Thập Tự. Thật cay đắng, ông là người da đen và vì thế ông không được phép hiến máu cho Ngân Hàng Máu Hồng Thập Tự.
Vào năm 1944, ông trở thành trưởng phòng nhân viên và giám đốc y tế tại bệnh viện Freedman tại Hoa Thịnh Đốn. Ông được rất nhiều giải thưởng và được nhiều người trong ngành y khoa nhìn nhận ông là một trong những y sĩ hàng đầu thế giới.
Vào năm 1950, ông bị tai nạn xe hơi trầm trọng và mất rất nhiều máu. Một bệnh viện kỳ thị chủng tộc ở Burlington, North Carolina, đã từ chối không tiếp máu cho ông. Ông từ trần trên quãng đường dài để đến một bệnh viện khác mà họ chấp nhận người da đen.
Và vì vậy điều xảy ra là vị bác sĩ trẻ tuổi, thông minh đã từ trần khi mới 45 tuổi - ở đỉnh cao sự nghiệp – chỉ vì một bệnh viện kỳ thị chủng tộc đã từ chối không cho ông được hưởng kết quả của chính sự khám phá của ông.
Câu chuyện thương tâm này đưa chúng ta về với bài Phúc Âm hôm nay.
Ở đây chúng ta thấy người dân không thể hiểu được Đức Giêsu, con của một bác thợ mộc, lại có được kiến thức và quyền năng lạ lùng như vậy.
Do đó, cũng vậy, người ta không hiểu được ở đâu Bs. Drew, con của người da đen, lại có được kiến thức và khả năng tài giỏi như vậy.
Đức Giêsu bị tẩy chay bởi chính người dân mà Người quý mến bất kể những việc lạ lùng mà Người đã thi hành.
Tương tự, Bs. Drew bị từ chối quyết liệt bất kể những thành quả đáng kể của ông.
Sau cùng, Đức Giêsu, là người chữa lành và cứu được nhiều người, lại bị mất mạng bởi chính những người mà Đức Giêsu đã chữa lành và cứu vớt.
Tương tự, Bs. Drew, người đã chữa trị và cứu được rất nhiều người, lại bị mất mạng vì những người mà ông đã chữa trị và cứu giúp.
Điều Thiên Chúa nói với ngôn sứ Ê-giê-kien trong bài đọc một hôm nay có thể là câu nói với Đức Giêsu và cả Bs. Drew:
Ta sai con đến với một dân mà nó từng phản nghịch Ta. Dù chúng có nghe con hay không, chúng sẽ biết là ở giữa họ có một ngôn sứ. Ez 2:3-5
Làm thế nào những câu chuyện của Đức Giêsu trong Phúc Âm hôm nay và của Bs. Drew có thể áp dụng vào đời sống chúng ta?
Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi này khi Người cảnh cáo các môn đệ về những bách hại sắp đến mà nhiều môn đệ sẽ phải chịu. Người nói:
“Hãy nghe đây! Thầy sai anh em đi giống như chiên vào đám sói… [Nhiều người] sẽ ghét anh em bởi vì Thầy. Nhưng ai trung thành đến cùng sẽ được cứu…
“Học trò thì không trọng hơn thầy; nô lệ thì không cao hơn ông chủ. Vì vậy một học trò phải bị hy sinh để trở nên giống thầy của nó, và một nô lệ giống ông chủ của nó” Mt 10:16, 22, 24
Nói cách khác, Đức Giêsu nói rằng nếu người ta tẩy chay Người khi còn sống, chúng ta cũng sẽ đừng ngạc nhiên nếu người ta cũng từ khước chúng ta, môn đệ của Chúa, trong thời gian chúng ta sống.
Thí dụ, chúng ta đừng ngạc nhiên nếu người ta tẩy chay chúng ta vì chống đối việc giết hại mạng sống vô tội qua sự phá thai. Chúng ta đừng ngạc nhiêu nếu người ta tẩy chay chúng ta vì lên tiếng bảo vệ việc khai thác các trẻ vị thành niên.
Chúng ta đừng ngạc nhiên khi người ta tẩy chay chúng ta vì đứng lên bảo vệ những gì chúng ta tin là quyền lợi.
Chúng ta đừng ngạc nhiên ngay cả khi các Kitô Hữu khác từ khước chúng ta vì quốc tịch hay tình trạng kinh tế, xã hội của chúng ta.
Chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi chính gia đình tẩy chay chúng ta. Đức Giêsu nói điều này sẽ xảy ra:
“Người ta sẽ nộp chính anh em mình để bị tử hình, và các người cha sẽ thi hành như vậy với con cái; ngược lại, con cái sẽ chống đối với cha mẹ.” Mt 10:21 Thí dụ, một cha mẹ có thể không muốn thật lòng tha thứ cho đứa con. Hoặc một đứa trẻ có thể từ chối không thật lòng tha thứ cho cha hay mẹ.
Khi sự khước từ này xảy ra, chúng ta bị cám dỗ bỏ cuộc. Chúng ta bị cám dỗ ngừng yêu thương. Chúng ta bị cám dỗ trở nên hận thù và hằn học.
Nếu điều này xảy ra, chúng ta không được khoán trắng cho cảm tưởng. Thay vào đó, chúng ta phải bắt chước Đức Giêsu, Người nói chúng ta phải tha thứ cho kẻ thù và “cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em.” Luke 6:28
Hãy nghĩ đến một thí dụ cụ thể. Vào năm 1861, Jefferson Davis, tổng thống của Liên Bang Hoa Kỳ, đang tìm kiếm ai đó để giữ chức vụ then chốt trong nội các. Do đó ông hỏi Tướng Robert E. Lee về một người nào đó tên là Whiting. Tướng Lee rất khen ngợi người này.
Một trong những sĩ quan của Tướng Lee mời ông ra ngoài và hỏi ông có biết về những nhận xét mà Whiting đã xúc phạm đến ông không. Tướng Lee trả lời, “Tôi hiểu rằng Tổng Thống muốn biết ý kiến của tôi về Whiting, chứ không phải ý kiến của Whiting về tôi.”
Tướng Lee đã không để sự cám dỗ làm chủ ông vì những tổn thương, thay vào đó ông đã nhìn đến sự thật và tình thương.
Nói tóm, các bài đọc hôm nay dậy chúng ta hai điều.
Thứ nhất, có khi người ta sẽ tẩy chay chúng ta, cũng như họ đã tẩy chay Đức Giêsu. Thứ hai, chúng ta không thể để sự tẩy chay này khiến chúng ta thù hận, cũng như Đức Giêsu không để sự khước từ khiến Người không còn yêu mến họ nữa.
Chúng ta hãy kết thúc bằng cách lắng nghe những lời của Đức Giêsu nói trong Bài Giảng Trên Núi:
“Phúc cho anh em khi bị người đời ghét bỏ, tẩy chay, sỉ nhục anh em, và nói đủ điều xấu xa cho anh em, tất cả chỉ vì Con Người! Hãy vui lên khi những điều đó xảy ra và hãy nhảy múa mừng rỡ, bởi vì phần thưởng lớn lao được dành cho anh em ở trên trời.” (Lc 6:22-23)
Bản văn Tin Mừng hôm nay tường thuật về việc Đức Giêsu bị những người ở quê hương mình khinh TN 14-B112
Bản văn Tin Mừng hôm nay tường thuật về việc Đức Giêsu bị những người ở quê hương mình khinh thường, và Người không thể thi ân giáng phúc cho họ.
Sau khi chữa lành cho người phụ nữ bị bệnh băng huyết và cứu sống con gái của một ông trưởng hội đường Do thái ở Ca-pha-na-um, Đức Giêsu rời khỏi nơi đó để về quê hương của Người là Na-da-rét.
Đến ngày sa-bát Người vào hội đường để giảng dạy. Những người họ hàng thân thuộc, bạn bè và hàng xóm rất ngạc nhiên về những lời lẽ khôn ngoan và đầy thuyết phục của Đức Giêsu; họ cũng đã nghe truyền tụng về những phép lạ Người làm ở nơi khác, nhưng họ không tin Người là Ngôn sứ của Thiên Chúa, vì họ biết rõ thân thế của Người. Những người này nói với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”
Đức Giêsu trở về Na-da-rét, Người muốn loan báo cho những người thân yêu của mình về ơn Cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện, nhưng Người thất vọng vì sự cứng lòng và thói tật xấu xa của họ, họ đánh giá người khác theo cảm tính và dáng vẻ bề ngoài. Do đó, họ đã tỏ thái độ lạnh nhạt, khinh thường và không tiếp đón Người.
Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” Thực thi sứ vụ yêu thương, Đức Giêsu giảng dạy chân lý cứu độ và Người muốn thi ân giáng phúc cho mọi người nhất là những người đồng hương thân yêu và bằng hữu; nhưng Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó.
Phép lạ gắn liền với lòng tin, Đức Giêsu có làm phép lạ cũng là vì thương yêu và để củng cố đức tin cho người có bệnh tật cũng như cho những người chứng kiến dấu lạ, nhưng ở quê hương của Người, Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Sự cứng lòng và thái độ khinh thường của người Na-da-rét làm cho Đức Giêsu phải ngỡ ngàng.
Qua trình thuật Tin Mừng hôm nay Lời Chúa muốn nói với tôi: Thái độ của người Na-da-rét ngày xưa, hôm nay vẫn còn đang tái diễn khi con người lãnh đạm trước ơn soi sáng thúc dục sống công chính và yêu thương của Chúa Thánh Thần trong lương tâm, cũng như trước lời mời gọi hiệp nhất của Giáo hội. Bởi xu hướng hưởng thụ và quan niệm thực dụng người ta không còn chú ý đến tiếng lương tâm và xem thường những thực tại thiêng liêng, khước từ ân sủng Thiên Chúa ban cho qua Phụng vụ và các Bí tích, nhất là bí tích Hòa giải và bí tích Thánh thể. Chính sự vô cảm về đàng thiêng liêng đã ngăn cản bàn tay yêu thương của Thiên Chúa khi Ngài thi ân giáng phúc. Nhiều người trong chúng ta có lẽ đã trách cứ những người đồng hương của Đức Giêsu về thái độ bất kính đối với Người; nhưng đặt mình trong bối cảnh lúc bấy giờ, thái độ của chúng ta sẽ như thế nào? Năm 2010, Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô 16 ban hành Tông huấn Lời Chúa, ngài nhắc nhở mời gọi người tín hữu hãy yêu mến Kinh Thánh, siêng năng đọc và suy niệm theo phương pháp truyền thống của Hội Thánh là Lectio Divina để kín múc sự sống vĩnh cửu nơi Lời của Đức Giêsu. Thực tế, lời giáo huấn của Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô 16 đã được chúng ta đón nhận như thế nào? Mau mắn và kiên trì thực thi việc đọc KinhThánh vì đó là phương tiện gặp gỡ chính Người; hay quan niệm đây chỉ là quyển sách đạo đức hoặc phương pháp Lectio Divina có vẻ xa rời thực tế, vì thế lãnh đạm hoặc xem thường mà chẳng quan tâm đón nhận?. Đấy là câu trả lời về thái độ của con người chúng ta hôm nay đối với Đức Giêsu và lời rao giảng của Người. Sứ điệp Tin Mừng hôm nay nhắc nhở tôi:
- Hãy quan tâm và tìm kiếm ân sủng của Thiên Chúa thông ban cho qua các phương tiện như Kinh Thánh, Phụng vụ, các bí tích và những việc đạo đức bình dân khác với lòng yêu mến chân thành.
- Hãy có một tấm lòng quảng đại, thân thiện để sẵn sàng đón tiếp sứ giả của Thiên Chúa; đó có thể là những người anh em nghèo túng, khốn cùng; có thể là những người có trách nhiệm hướng dẫn tôi; có thể là những người đang nhắc nhở tôi điều tốt lành - dù họ là ai, họ như thế nào.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, xin cho con biết khiêm tốn để nhận ra Chúa trong cuộc đời và chân thành đón tiếp Người cũng như yêu mến thực thi các huấn lệnh, để nhờ đó con có được diễm phúc sống thân tình với Người và hưởng nếm hạnh phúc Người hứa ban.
Chúa GIêsu nói: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc TN 14-B113
Chúa GIêsu nói: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc trong gia đình mình mà thôi” (Mc.6,4).
Thế vận hội phát xuất từ những môn chơi của Hy lạp diễn ra trên vùng thảo nguyên Olympia vào năm 716 trước công nguyên. Những thị trấn cổ thường tỏ lòng kính trọng những người chiến thắng bằng việc dựng lên những tượng đài danh dự. Có câu chuyện Hy lạp kể về một thị trấn có truyền thống kính trọng vị anh hùng ở địa phương mình. Đối thủ của vị anh hùng ganh tỵ đến nỗi một đêm đập phá và xô đổ bức tượng. Bức tượng đổ xuống và đè anh ta chết.
Câu chuyện nói lên thảm kịch của lòng ghen tỵ dẫn đến “gậy ông đập lưng ông”. Sự lây nhiễm của ghen tỵ là một trong những nguyên nhân khiến các tiên tri thường không được kính trọng ở quê hương mình.
Ghen tỵ là nhân tố đã ảnh hưởng thế nào đến cuộc sống và công việc của tôi? Tôi có thể làm gì giảm đi ảnh hưởng của nó?
“Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính. Còn người ganh tỵ nhìn bằng kính hiển vi” (E.C.Mckenzie) (Trích “Viễn tượng 2000”).
2. Có tin mới thấy
Tại một vùng ở Pháp, dân chúng có tập tục rất lạ. Mỗi sáng sớm Chúa nhật Phục sinh hằng năm, họ thức dậy chạy ra giếng nước, rửa mặt bằng nước lạnh.
Nhiều người trẻ không biết tại sao phải rửa mặt ngoài giếng, vì nhà nào cũng có vòi nước. Các bô lão giải thích:
- Đó là cách cầu nguyện bằng hành động, xin Chúa ban cho đôi mắt đức tin mới, để được thấy Chúa Giêsu Phục sinh hiện diện giữa họ.
***
Với con mắt thành kiến, hẹp hỏi thiển cận, những kẻ đồng hương với Chúa Giêsu không nhận ra Người là ngôn sứ, là Đấng Cứu Thế.
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ: Chính thành kiến và lòng ganh tỵ là nguyên nhân khiến “các ngôn sứ bị rẻ rúng” E.C. Mc Kenzie có nói: “Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính. Còn kẻ ganh tỵ nhìn bằng kính hiển vi”.
Người đồng hương của Chúa Giêsu không tin Người vì họ chỉ nhìn quá khứ của Người là một thợ mộc nghèo nàn. Vì không tin nên họ không thấy, không nhận ra Người là Đấng Cứu Chuộc họ. Do đó Người không thực hiện được phép lạ nào giúp họ. Họ đã bỏ mất một cơ hội ngàn vàng.
Thiên Chúa là Đấng toàn năng. Người làm được mọi sự. Nhưng Người phải bó tay trước sự cứng lòng của con người. Người trở nên bất lực trước những kẻ thiếu lòng tin, vì “đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám” (Dt.11,1-2) và James Woodbridge viết: “Đức tin là con mắt để nhìn thấy Chúa, là bàn tay để nắm lấy Ngài, là sức mạnh giúp ta tận hiến cho Ngài”.
“Nếu phép lạ là quà tặng của Thiên Chúa, cần được đón nhận với niềm tin, thì chính niềm tin là ân huệ của Ngài chỉ có thể nhận được với lời cầu nguyện. Cần cầu nguyện để có niềm tin. Nhà bác học kiêm triết gia Pascal đã nói: “Để có lòng tin, con người phải quỳ gối cầu xin” (Theo “Như Thầy đã yêu”).
3. Những kẻ bị khước từ
Một cuộc bách hại tôn giáo xảy ra tại Sudan thuộc Châu Phi năm 1960. Một sinh viên Công giáo da đen tên là Paride Taban lánh nạn sang Uranda. Trong thời gian ở đây, anh tu học làm Linh mục. Sau khi được thụ phong Linh mục Taban trở lại quê nhà, vì tình hình bắt đạo đã lắng dịu. Ngài được bề trên giao coi giáo xứ Palotaka, nhưng giáo dân không tin ngài thực sự là Linh mục. Vì từ trước đến nay chưa có Linh mục người da đen. Hơn nữa vì Linh mục Taban thuộc bộ lạc Madi cũng nghèo khổ như họ. Nhất là từ khi ngài giới thiệu cho họ những đổi thay của Công đông Vatican II, khiến họ càng nghi ngờ ngài là Linh mục giả. Nhưng ngài vẫn không buồn cũng chẳng nản. Ngài vẫn kiên nhẫn phục vụ họ, giúp đỡ họ. lo lắng cho họ. Sau cùng. Giáo dân cả xứ đạo Palotaka chẳng những tin tưởng chấp nhận mà còn hết lòng quý mến Ngài.
***
Câu chuyện Linh mục Taban là một minh họa thật rõ cho việc Chúa Giêsu bị người đồng hương khinh thường trong Tin mừng hôm nay. Họ kháo láo với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria… chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Nói thế cũng có nghĩa là ông ta nghèo nàm dốt nát, không thể chấp nhận là ngôn sứ của Thiên Chúa.
Chính vì thế mà họ từ khước Người, không tin Người là Đấng Thiên Chúa sai đến cứu giúp họ. Bởi thế, Chúa Giêsu không làm được phép lạ nào cho họ.
Nhưng rồi Chúa Giêsu có bỏ họ không? Không. Người vẫn thương họ. Dù bị khước từ, Người không ngừng ban phát tình yêu của Người cho họ. Chẳng những cho họ mà thôi, mà cho toàn thể nhân loại. Và kết quả là ngày nay đã có nhiều người tin nhận Người là Đấng Cứu Thế của họ.
Phải chăng đó là bài học Chúa Giêsu muốn gởi cho những kẻ đang làm môn đệ của Người?... (Theo “Sunday Homilies”).
4. Người thân từ khước
Đệ nhị thế chiến chấm dứt, một người lính trẻ biên thư về cho cha mẹ, báo tin ngày anh trở về.
- Thưa cha mẹ, con có người bạn đồng hành bị tàn phế. Chiến tranh đã cướp mất của anh một chân.
Người cha hồi âm:
- Con cứ mời bạn con về ở với chúng ta, vì xưởng của cha cũng sử dụng được người còn đủ hai tay.
Nhận được thư, anh lính trẻ biên thư cho cha cậu biết thêm:
- Thưa cha, anh bạn con chẳng những mất một chân mà cả hai tay nữa.
Người cha trả lời:
- Con ơi! Cha không thể nhận một người như thế.
Thế là người lính trẻ đó không trở về với cha mẹ được, vì chính anh là người tàn phế đó!...
***
“Chúa Giêsu đã đến nhà Người, nhưng người trong nhà không tiếp đón Người”.
Không phải người dưng kẻ lạ từ chối, nhưng chính là Người đồng hương đã khước từ Chúa Giêsu và cả chúng ta là con cái Người, môn đệ Người. Không còn đau xót nào bằng!...
Người lính trẻ trong câu chuyện trên nói lên nỗi đau xót đó của Đức Giêsu. Tin mừng hôm nay thuật lại Người về Nadarét quê hương của Người. Người giảng dạy họ, đem Tin mừng cứu rỗi cho họ, định làm nhiều phép lạ giúp họ, nhưng họ không chấp nhận Người, khước từ Người, không nghe Lời Người.
Từ hơn 2000 năm qua, Chúa Giêsu còn tiếp tục bị khước từ, qua các sứ giả của Người, qua những con người nghèo khổ bệnh tật.
Chúng ta có khước từ Người không? Có lần nào chúng ta xua đuổi Người không?... (Theo “Tất cả là hồng ân”).
5. Sẵn sàng tiếp nhận
Cậu David bỏ nhà đi bụi đời. Thời gian sau, cậu thấy khổ quá, nên viết thư về cha mẹ, xin tha cho cậu trở về:
- Thưa cha mẹ, vài ngày nữa con có dịp đi ngang nhà cha mẹ. Nếu cha mẹ bằng lòng nhận con trở lại, xin cha mẹ cột miếng vải trắng lên cây nhãn trước sân nhà.
Đúng như lời đã hẹn, hai ngày sau cậu lên xe trở về. Ngồi trên xe, đầu óc cậu cứ băn khoăn lo lắng, không biết cha mẹ cậu có cho trở về không? Cha mẹ có cột miếng cải trắng lên cây nhãn trước nhà chưa?... Càng gần đến nhà, trái tim cậu càng đập mạnh hồi hộp.
Lúc gần đến nhà, cậu không dám nhìn tới trước mặt, vì sợ không thấy miếng vải trắng cột trên cây nhãn thì khổ thân. Cậu nhờ người ngồi bên cạnh:
- Thưa ông, xin thương giúp cháu một việc: khi đến khúc quẹo trước đây, ông làm ơn nhìn phái tay phải, xem có miếng vải trắng nào cột trên cây nhãn không?
Lúc xe vừa quẹo, cậu liền hỏi:
- Thưa ông, ông có thấy miếng vải trắng nào không?
- Cậu ơi! Cành nhãn nào cũng có miếng vải trắng cả.
***
Tin mừng hôm nay thuật lại Chúa Giêsu về quê quán của Người, nhưng không được người đồng hương tin nhận, mà còn khinh chê từ khước. Ngược lại câu chuyện trên đây nói đến lòng Chúa đối với con người. Con người từ bỏ chối từ Chúa. Chúa vẫn thương họ, sẵn sàng tiếp nhận họ.
Dụ ngôn người cha nhân hậu với đứa con hoang đàng cũng như dụ ngôn đồng bạc bị mất và con chiên lạc là những dụ ngôn tuyệt hảo về lòng quảng đại nhân từ của Thiên Chúa.
“Thiên Chúa thương yêu chúng ta bằng một tình Cha vô cùng rộng lớn sâu đậm. Tình yêu ấy được thể hiện bằng muôn vàn cách thế khác nhau. Đặc biệt nhất là bằng sự tha thứ, tha thứ không điều kiện, tha thứ luôn mãi. Dù tội lỗi chúng ta có nặng nề đến đâu, nhiều đến bao nhiêu, Người cũng sẵn sàng tha thứ, miễn là chúng ta thành tâm sám hối, quay trở về với Người”
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIV Thường Niên năm B nêu lên những khó khăn mà tất cả TN 14-B114
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIV Thường Niên năm B nêu lên những khó khăn mà tất cả các ngôn sứ hay các nhà truyền giáo gặp phải, đặc biệt khi loan báo sứ điệp của Thiên Chúa cho những người đồng hương của mình.
Ed 2: 2-5
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhận được sứ điệp phải loan báo cho những người đồng hương của ông một sứ điệp cứng rắn: “Một dân phản loạn… một bọn người mặt dày mày dạn và lòng chai dạ đá”. Vì thế, ông gặp biết bao khốn khổ trước những đồng hương lòng chai dạ đá nầy.
2Cr 12: 7-10
Thánh Phao-lô hãnh diện về những đặc sủng mà mình đã lãnh nhận, nhưng thánh nhân cũng đã gặp phải không biết bao nhiêu khó khăn trong suốt sứ vụ truyền giáo của mình: thử thách cá nhân (“như một cái dầm đâm vào thân xác”) và những bách hại, chống đối, nhục mạ, vân vân.
Mc 6: 1-6
Trở về Na-da-rét, Đức Giê-su rao giảng cho những người đồng hương của Ngài, nhưng gặp phải thái độ vô tín và ngờ vực của họ.
BÀI ĐỌC I (Ed 2: 2-5)
Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã là tư tế Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, trước khi được Thiên Chúa kêu gọi làm ngôn sứ của Ngài. Đây là trường hợp đặc biệt.
Ê-dê-ki-en đã sống trong một thời đại bi thảm: đế quốc Ba-by-lon đã xâm chiếm vương quốc Giu-đa, triệt hạ thành đô Giê-ru-sa-lem, phá hủy Đền Thờ. Dân chúng bị đưa đi lưu đày và sống ở đất khách quê người trong cảnh nghèo khổ. Họ đã trải qua từ những nghi lễ huy hoàng ở Đền Thờ đến một tôn giáo trơ trụi, nội tâm. Sứ mạng chính yếu của ngôn sứ Ê-dê-ki-en là làm cho những kẻ lưu đày hiểu ý nghĩa của cơn thử thách mà họ đang phải chịu ngõ hầu họ có thể thay đổi “trái tim bằng đá thành trái tim bằng thịt”.
Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay là bài trình thuật về ơn gọi ngôn sứ của tư tế Ê-dê-ki-en. Bài trình thuật nầy nêu bật tiếng gọi bất khả kháng của Thiên Chúa và sự cảm nhận của con người về sự nhỏ bé của mình trước sự siêu việt của Thiên Chúa. Tuy nhiên, bài trình thuật nầy cũng làm cho hiểu rằng dù chỉ là một phàm nhân nhưng ngôn sứ trở nên vĩ đại biết bao dưới tác động của Thiên Chúa.
1. Thần Khí nhập vào tôi:
Theo quan niệm độc thần giáo tuyệt đối của Cựu Ước, thần khí ở đây chưa là một ngôi vị phân biệt với Thiên Chúa, nhưng là một sự thôi thúc đến từ Thiên Chúa, “hơi thở của Ngài”.
Thần khí đã nhập vào “làm cho chân tôi đứng vững” (2: 2), nghĩa là, nếu chỉ cậy dựa vào sức riêng của mình, Ê-dê-ki-en chỉ là một thụ tạo yếu đuối nghiêng ngữa; nhưng khi được thần khí của Thiên Chúa tác động, ông là một con người kiên cường trong sứ mạng của mình.
2. “Hỡi con người”:
Diễn ngữ: “con người”, đơn giản hóa cụm từ: “con cái loài người”. Đây là một đặc ngữ Do thái, có nghĩa “một phàm nhân” (x. Tv 80: 17; Gr 50: 40; 51: 43). Nhưng trong sách Ê-dê-ki-en, đặc ngữ này xuất hiện nhiều lần và có nhiều sắc thái ngữ nghĩa.
Ở đây, qua danh xưng: “con người”, ngôn sứ xem mình như một một con người bình thường như bao nhiêu người khác, không có bất kỳ đặc quyền nào, thậm chí cho dù ông là ngôn sứ, tức là một phát ngôn nhân của Thiên Chúa với dân của Ngài đi nữa. Đặc ngữ này bày tỏ mối liên hệ của vị ngôn sứ với đồng bào của ông, ông không khác với họ về mọi phương diện, ngay cả ông đã được Thiên Chúa ủy thác sứ điệp của Ngài đi nữa. Đúng hơn ông thấy mình đơn thuần như một thành viên của cộng đồng Ít-ra-en mà qua ông Thiên Chúa đang ngỏ lời với họ.
Ở nơi khác, đặc ngữ này chỉ ra rằng khi sánh ví với Đức Chúa, Thiên Chúa toàn năng, Đấng cho ông thoáng thấy vinh quang của Ngài, ông chỉ là một thụ tạo yếu đuối thấp hèn: sứ điệp mà ông có sứ mạng thông truyền thì cao vời khôn ví so với thân phận phàm nhân mõng dòn yếu đuối của ông.
Chính luôn luôn dưới danh xưng “con người” nầy mà vị ngôn sứ được Thiên Chúa chỉ định là người truyền đạt sứ điệp cao vời của Ngài: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en…” (2: 3). Một cách nào đó, Thiên Chúa đòi hỏi nơi vị ngôn sứ đức tính khiêm hạ của một kẻ vô danh, như thử sứ điệp của Thiên Chúa càng cao trọng bao nhiêu thì thừa tác vụ của người ấy càng phải khiêm hạ bấy nhiêu.
Đặc ngữ nầy sẽ mặc lấy một ý nghĩa mới trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7: 13), ở đó “Con Người” viết hoa là một con người có nguồn gốc thần linh. Trong các sách Tin Mừng, Chúa Giê-su áp dụng cho mình đặc ngữ này cả theo truyền thống Ê-dê-ki-en để nhấn mạnh “nhân tính tròn đầy” của Ngài như khi Ngài tiên báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài lần thứ ba: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Ngài và sẽ nộp Ngài cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Ngài, khạc nhổ vào Ngài, họ sẽ đánh đòn Ngài và giết chết Ngài” (Mc 10: 33-34), lẫn theo truyền thống Đa-ni-en để nhấn mạnh “nguồn gốc thần linh” của Ngài, như khi Ngài công bố trước phiên tòa của Thượng Hội Đồng Do thái: “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng toàn năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14: 62).
3. Một dân phản loạn:
Lời của Đức Chúa thật là cứng rắn: “Một dân phản loạn… những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá”. Đây sẽ là ngôn từ của Ê-dê-ki-en, một trong những ngôn từ nghiêm khắc nhất chưa bao giờ được viết ra để kết án tội lỗi của dân Ít-ra-en. Vị ngôn sứ không khoan nhượng một chút nào. Theo ông, dân Ít-ra-en đã chẳng bao giờ thật sự trung thành với Thiên Chúa của mình. Vị ngôn sứ lên án tội lỗi của vua chúa, quần thần, tư tế và toàn dân. Ông loan báo cơn giận khủng khiếp của Thiên Chúa bằng những ngôn từ rắn rõi. Trong cảnh lưu đày của mình, ông thấy thành thánh Giê-ru-sa-lem hoang tàn đổ nát: “Hỡi con người, ngươi hãy nói với con cái dân ngươi; ngươi hãy bảo: Khi Ta cho gươm đến trừng phạt xứ nào, thì dân xứ ấy sẽ chọn một người trong số họ và đặt làm kẻ canh gác cho mình” (33: 2). “Kẻ canh gác” là một trong những hình dung từ chỉ ngôn sứ.
Những biến cố của 587 trước Công Nguyên sẽ sớm chứng tỏ cho dân phản loạn nầy biết rằng “có một ngôn sứ đang ở giữa họ” (2: 5). Tinh thần của Ê-dê-ki-en ảnh hưởng rất sâu xa sau cái chết bất ngờ của ông ở giữa cảnh lưu đày vào năm 571 trước Công Nguyên.
BÀI ĐỌC II (2Cr 12: 7-10)
Trong vô vàn những khó khăn nảy sinh giữa vị tông đồ và các tín hữu Cô-rin-tô, đáng kể là những lời chỉ trích phê bình về sứ vụ tông đồ của thánh nhân đến từ “các Tông Đồ siêu đằng” (11: 5), “những kẻ đội lốt tông đồ của Đức Ki-tô” (11: 13), những kẻ sửa sai giáo huấn của thánh nhân và vu khống hoạt động của thánh nhân là “sống theo tính xác thịt” (10: 2).
Để lấy lại niềm tin tưởng của các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô buộc phải tự biện hộ cho chính mình. Thánh nhân trình bày những đau khổ mà mình phải chịu và những đặc sủng mà mình đã đón nhận (thị kiến, xuất thần, “được nghe những lời khôn tả mà không được phép nói lại”: 12: 4).
1. “Cái dằm đâm vào thân xác”:
Thánh nhân không muốn để cho mình bị mắc vào thói tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường đã nhận được nầy, vì thế, “thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào” (12: 7).
Các nhà chú giải luôn luôn tự hỏi qua lời nầy thánh nhân muốn nói điều gì. Họ đã so sánh bản văn nầy với một đoạn thư gởi tín hữu Ga-lát: “Anh em biết: nhân khi thân xác tôi đau ốm, tôi đã loan báo Tin Mừng cho anh em lần đầu tiên. Mặc dầu thân xác tôi là một dịp thử thách cho anh em, anh em đã không khinh, không tởm; trái lại anh em đã tiếp đón tôi như một sứ giả của Thiên Chúa, như Đức Giê-su Ki-tô” (Gl 4: 13-14). Phải chăng thánh Phao-lô muốn nói đến một cơn bệnh hoạn nào đó mà thánh nhân gặp trong cuộc hành trình truyền giáo đầy gian khổ? Đúng hơn thánh nhân muốn nói đến nỗi buồn phiền day dứt của ngài vì đã không hoán cải được những người đồng hương của thánh nhân, “anh em trong xác thịt của ngài”.
2. “Đã ba lần, tôi xin Chúa…”:
Con số “ba” xem ra không là số đếm chính xác, nhưng nói lên mức độ cầu nguyện thường hằng của thánh Phao-lô; như Đức Giê-su ở trong vườn Ô-liu đã cầu nguyện ba lần. Thông thường thánh Phao-lô cầu nguyện với Chúa Cha (“Theos”), nhưng ở đây thánh nhân cầu nguyện với Đức Ki-tô mà ngài gọi là “Chúa” (“Kurios”). Đây là danh hiệu mà thánh nhân ưa thích: “Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”.
3. “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”:
Chúng ta dễ dàng nhận ra văn phong của thánh Phao-lô ở nơi biện chứng: “mạnh mẽ-yếu đuối” này. Người nào làm việc cho Thiên Chúa càng xóa nhòa công sức của mình bao nhiêu, thì người ấy càng bày tỏ quyền năng Thần Khí ở nơi mình bấy nhiêu. Hễ có dịp là thánh Phao-lô lập lại tư tưởng nầy.
Lời kết của thánh nhân ám chỉ đến những xúc phạm và những xao xuyến mà các tín hữu Cô-rin-tô đã bắt ngài phải chịu: “Vì vậy, tôi cảm thấy sung sướng, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (12: 10). Thánh Phao-lô cho họ hiểu rằng cách hành xử của họ sẽ không làm thay đổi thái độ của ngài là luôn luôn cậy dựa vào quyền năng của Thiên Chúa.
Ở Chương 12 nầy, chúng ta chỉ đọc một đoạn trích, nhưng đây là một chứng liệu duy nhất giúp chúng ta hiểu thánh Phao-lô. Nếu như không có những lời tự thú nồng nàn nầy, chúng ta chỉ có một cái nhìn phiếm diện về những thử thách mà thánh nhân đã kinh qua và những kinh nghiệm thần bí mà thánh nhân đã trải nghiệm. Tính khí bốc lửa của thánh nhân được bày tỏ ở đây rõ hơn nơi nào khác: một sự hòa hợp đáng ngạc nhiên ở nơi con người của thánh nhân giữa tính tự phụ, đức khiêm hạ và niềm tin kiên vững vào Đức Ki tô.
TIN MỪNG (Mc 6: 1-6)
Theo Tin Mừng Mác-cô, đây là lần đầu tiên Đức Giê-su có dịp trở lại nơi sinh trưởng của Ngài kể từ khi Ngài thi hành sứ mạng công khai của mình. Làm thế nào Ngài có thể bỏ quên những đồng hương Na-da-rét mà Ngài đã chia sẻ cuộc sống gần ba mươi năm mà không mang Tin Mừng đến cho họ được chứ?
Chắc chắn khi viếng thăm họ, Ngài không mong chờ họ sẽ hồ hỡi đón tiếp Ngài. Mới đây thân nhân của Ngài từ làng Na-da-rét đến thành Ca-phác-na-um toan tính bắt Ngài về, vì cho rằng Ngài mất trí (3: 21). Vào lúc đó, Đức Giê-su đã không quan tâm đến cách hành xử của họ; Ngài cũng đã ám chỉ một sự đoạn tuyệt: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (3: 35).
Quả thật, chuyến viếng thăm Na-da-rét của Ngài kết cục với một sự thất bại. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều trình thuật biến cố nầy, bài tường thuật của Lu-ca cung cấp nhiều tình tiết nhất (Lc 4: 16-30).
1. Gia thế và nghề nghiệp:
Tin Mừng hôm nay bắt đầu với câu chuyển tiếp nối kết câu chuyện trước đó với câu chuyện theo sau: “Đức Giê-su ra khỏi đó và đến nơi quê quán của mình” (6: 1); tiếp đó, giới thiệu bối cảnh của câu chuyện: “Đến ngày sa-bát, Đức Giê-su bắt đầu giảng dạy trong hội đường” (6: 2a). Đây là phương thức rao giảng của Đức Giê-su. Ngài đã làm như vậy ngay từ đầu sứ vụ công khai của Ngài trong hội đường Ca-phác-na-um (1: 21). Đây cũng là phương thức mà sau nầy thánh Phao-lô chọn trong các cuộc hành trình truyền giáo của thánh nhân. Phương thức nầy thành công đến mức các văn sĩ Do thái ghi nhận rằng nếu như không có các hội đường Do thái, thì Ki-tô giáo sẽ không lan tràn ra khắp nơi.
Chúng ta biết rằng hội đường là nơi tụ họp chứ không tế tự, bởi vì những hy lễ chỉ được tiến dâng ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Các tín đồ tụ họp ở đây để cầu nguyện, cử hành phụng vụ Lời Chúa, hát những bài Thánh Vịnh, đặc biệt vào ngày sa-bát. Trong hội đường, vào ngày sa-bát người ta sẽ mời một người trong số những người tham dự công bố và giải thích Lời Chúa. Vào ngày sa-bát nầy, trong hội đường Na-da-rét nơi Đức Giê-su đã thường năng lui tới trước đây khi sống ở giữa họ, Ngài là người được mời để công bố và giải thích Lời Chúa. Thánh Lu-ca xác định bản văn mà Ngài công bố và giải thích là bản văn I-sai-a (Lc 4: 17-19).
Giáo huấn của Ngài làm cho mọi người thán phục: “Ông ta được khôn ngoan như thế, nghĩa là làm sao?”, và những phép lạ mà họ đã nghe nói khiến họ ngưỡng mộ: “Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (6: 2b). Nhưng rồi từ thái độ thiện cảm lại biến thành ác cảm khi họ nghĩ đến gia thế và nghề nghiệp trước đây của Ngài. Mọi người trong làng nầy ai mà không biết Ngài: cha mẹ của Ngài, họ hàng bà con thân thích của Ngài sinh sống ở giữa họ. Đức Giê-su đã là một con trẻ lớn lên trong làng nầy, mẹ Ngài là bà Ma-ri-a đang sống giữa họ. Khi xét đến gia thế của Ngài, họ nghi ngờ về sự khôn ngoan của Ngài: làm thế nào một người xuất thân từ một gia thế tầm thường ở giữa họ lại có những lời lẽ khôn ngoan được chứ? Cũng như khi xét đến nghề nghiệp của Ngài, họ không thể nào tin rằng những phép lạ của Ngài: làm thế nào đôi tay mà họ đã từng thấy Ngài cưa, bào, đục, đẻo vân vân, lại có thể làm những phép lạ được chứ? Vì thế, từ ngạc nhiên đến thán phục, nay họ bày tỏ thái độ thù địch công khai với Ngài.
2. Con bà Ma-ri-a:
Thánh Mác-cô không nhắc đến cha của Ngài, thánh Giu-se. Phải chăng từ đó suy ra rằng thánh Giu-se đã qua đời? Lý do nầy chưa đủ, vì để xác minh căn tính của một người, người Do thái có thói quen trích dẫn tên người cha, thậm chí cho dù người cha đã qua đời đi nữa. Có lẽ đúng hơn, khi thánh Mác-cô biên soạn sách Tin Mừng của mình, thì Giáo Hội tiên khởi đã tin rằng Đức Giê-su được thụ thai bởi người mẹ đồng trinh rồi (x. Mt 1: 18-20; Lc 1: 30-35). Vì thế, khi tránh nêu tên cha Ngài, thánh ký muốn nhấn mạnh một cách kín đáo đức đồng trinh của Đức Ma-ri-a.
3. Anh em của Ngài:
Những “anh em” nầy là những anh em họ của Đức Giê-su. Từ “anh em” theo ngôn ngữ Hy bá có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng (trong ngôn ngữ Hy bá không có các từ riêng biệt để chỉ anh em họ). Trong Kinh Thánh, từ “anh em” được dùng để chỉ mối quan hệ họ hàng thân thích gần xa giữa chú bác và cháu (x. St 13: 8), hoặc anh em chú bác, cô cậu, hay con dì (x. Lv 10: 4; 1Sb 23: 21).
Chúng ta biết hai trong số “anh em” của Đức Giê-su: ông Gia-cô-bê, người sau nầy lãnh tụ Hội Thánh Giê-ru-sa-lem, và ông Giô-xết mà mẹ của họ là bà Ma-ri-a, vợ ông Cơ-lô-pát đứng dưới chân thập giá (Mc 15: 40-41; Mt 27: 56; Ga 19: 25).
4. Giá trị lịch sử của câu chuyện:
Gia thế và nghề nghiệp của Ngài trở nên chướng ngại khiến “họ vấp ngã vì Người” (6: 3). Phản ứng của những người đồng hương cung cấp cho chúng ta một lợi ích lớn lao. Phản ứng của dân làng Na-da-rét nầy là sự kiện duy nhất soi sáng cho chúng ta cuộc đời ẩn dật của Đức Giê-su trong suốt ba mươi năm: một cuộc đời bình lặng không có gì trổi vượt như bao nhiêu người đồng hương Na-da-rét khác. Không ai có thể nghi ngờ nhân tính của Ngài khi đang sống ở giữa họ: với đôi tay thợ mộc và sức lao động của mình, Ngài đã nuôi sống bản thân và gia đình của mình; không có bất kỳ hành động phi thường nào. Phản ứng của những người đồng hương của Ngài là một bằng chứng có giá trị.
5. Câu trả lời của Chúa Giê-su:
Trước thái độ cứng lòng tin của những người đồng hương, Đức Giê-su trả lời bằng cách trích dẫn câu thành ngữ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình” (6: 4). Câu thành ngữ nầy đã thường được kiểm chứng trong lịch sử Ít-ra-en. Bài Đọc I đã cung cấp cho chúng ta một ví dụ về ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Nhưng còn nhiều ngôn sứ khác có thể được nhắc đến. Ngôn sứ Ê-li-a bị hoàng hậu I-de-ven truy bắt phải trốn chạy; ngôn sứ I-sai-a, vì thất vọng trước sự cứng tin của dân Ít-ra-en, cuối cùng dành sứ điệp chỉ trong vòng các môn đệ thân tính của mình; ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị những người đương thời nhục mạ, làm khổ cách này hay cách khác.
Đức Giê-su không thể làm bất kỳ phép lạ nào tại đó, vì Ngài không gặp thấy niềm tin ở nơi họ. Chỉ vài bệnh nhân hưởng được lòng thương xót của Đức Giê-su. Trong Tin Mừng Mác-cô, không nơi nào nêu rõ mối liên hệ hỗ tương giữa đức tin và phép lạ cho bằng bài trình thuật nầy. Câu chuyện Chúa Giê-su về thăm Na-da-rét kết thúc với lời nhận định thật buồn của Đức Giê-su: “Người lấy làm lạ vì họ không tin” (6: 6).
Với bài trình thuật nầy, thánh Mác-cô hoàn tất Phần thứ hai sách Tin Mừng của mình: “Đức Giê-su và thân nhân” (3: 7-6: 6). Phần thứ hai nầy nêu bật nền tảng của Tin Mừng. Chúng ta đã gặp thấy nhiều thái độ khác nhau của những người đến gặp gỡ Ngài, dù dân chúng, môn đệ hay bà con họ hàng của Ngài, đều tự đặt ra cho mình “câu hỏi gai góc nhưng then chốt về thân thế sâu xa của Ngài”
(Suy niệm của Lm Jude Siciliano, OP - Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP)
Các bài đọc hôm nay giới thiệu ba vị tiên tri cùng chung một số phận. Đó là Ezekiel, Thánh Phaolô TN 14-B115
Các bài đọc hôm nay giới thiệu ba vị tiên tri cùng chung một số phận. Đó là Ezekiel, Thánh Phaolô và Chúa Giêsu. Ba vị đều bị xua đuổi, khước từ, tại chính quê hương mình. Lý do đơn giản chỉ vì sứ điệp mà các vị rao giảng cho họ. Ezekiel sống giữa những người Do thái lưu đầy tại Babylon. Thánh Phaolô bênh vực chức vị và sứ vụ của mình chống lại những kẻ tự xưng là chính thống, nghi ngờ tính hợp pháp của Ngài. Ngài chịu "khổ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì danh Đức Kytô". Chúa Giêsu thì đang ở làng Nazarét cùng với các môn đệ. Cả ba đều gặp sự chống đối quyết liệt của các thính gỉa ương ngạnh trong chính dân tộc mình. Nhưng các vị lại cảm nhận rõ sứ điệp mình rao giảng là từ Thiên Chúa . Chẳng hạn tiên tri Ezekiel nói: "Thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Đức Chúa phán với tôi và làm cho chân tôi đứng vững, tôi đã nghe tiếng Người nói với tôi…." Hiện thời ông đang sống giữa một dân tộc bại trận, bị phát lưu sang đất lạ. Nhưng Thiên Chúa có một sứ điệp gởi đến dân Ngài và Ezekiel phải truyền đạt. Chính Thiên Chúa đã thúc đẩy ông chu toàn nhiệm vụ "Ngài làm cho chân tôi đứng vững".
Ở phép rửa bên sông Giođan, Chúa Giêsu cũng lãnh nhận một công tác tương tự: "Vừa lên khỏi nước Người liền thấy các tầng trời xé ra và Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình" (Mc l,l0) Cả hai Chúa Giêsu và tiên tri Ezekiel, đều phải rao giảng sự thật cho dân tộc mình, cảnh cáo về lối sống và những sai lầm họ đã lựa chọn. Sứ điệp đó khó nghe và dễ mất lòng, cho nên gặp nhiều chống đối. Các sứ giả tiên tri khác đều ở trong những hoàn cảnh tương tự, bị bách hại và bị giết chết. Riêng Chúa Giêsu còn mạnh mẽ tố cáo các nhân vật đồng thời xây dựng đền đài lộng lẫy, tưởng niệm các tiên tri mà tổ tiên họ đã giết hại.
Trong hầu hết các trường hợp Kinh thánh, sứ giả được Thiên Chúa lựa chọn đều thuộc tầng lớp dân dã, rao giảng cho quần chúng bình dân. Thí dụ như bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu rao giảng cho dân làng Ngài. Họ biết rõ cội nguồn của Ngài. Ngài đã từng sống giữa họ, thuộc về giai cấp thấp hèn trong làng, họ chẳng lạ chi nhà cửa, cha mẹ, họ hàng của Ngài. Bề ngoài Ngài chẳng có dáng dấp gì đặc biệt, tầm thường như mọi người, làm nghề thợ mộc, láng giềng với họ. Cho nên họ rất đỗi ngạc nhiên. Làm sao thượng đế tối cao và thánh thiện lại có thể truyền đạt ý muốn qua một người tầm thường như thế? Bây giờ chúng ta có thể đặt câu hỏi tương tự về những biến cố, sự vật, sứ giả đời thường hiện nay! Có thể là Thiên Chúa sử dụng chúng ta để mưu ích cho giáo dân trong giáo xứ? Có thể là Thiên Chúa nói với chúng ta qua thân nhân, bà con chòm xóm? Kinh nghiệm cho hay khi lớn tuổi hoặc về già, nhiều người vẫn còn nhớ lại thời niên thiếu của mình, nhất là những lời dạy bảo hoặc gương lành của ông bà cha mẹ và lấy đó làm kim chỉ nam hướng dẫn mình suy nghĩ và hành động: "Mẹ tôi hồi ấy thường nói với tôi như thế này, thế nọ" … "Cha tôi hiền và tốt bụng với láng giềng. Người yêu tôi lắm, khi tôi còn nhỏ…."
Đúng là cũng chính Đấng Thiên Chúa , xưa kia đã phán bảo dân Do thái lưu đầy qua tiên tri Ezekiel, thì nay cũng đang nói với chúng ta trong cuộc tha hương lữ thứ riêng mỗi người, qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay. Vậy thì chúng ta đang bị đầy ải ở những nơi đâu? Lưu vong như thế nào? Thưa, đó là những lúc chúng ta cảm thấy mình không còn ở "quê hương chân thật" nữa. Bất hạnh vì nghĩ tai họa xẩy đến, những biến cố không có lợi, như bệnh tật yếu đuối, khổ đau. Chúng ta nghiệm ra khi mình không được yên ổn, trái lại đang bị đầy đọa trong trí khôn, thân xác. Những tương quan tồi tệ với người chung quanh, xa lạ về văn hóa ngôn ngữ, không đồng bộ với hàng xóm láng giềng trong các sinh hoạt thường nhật, khát khao mảnh đất quê hương như Thiên Chúa đã hứa, chán ngấy những tin tức chiến tranh, tiêu diệt chủng tộc, nghèo đói, bất công, áp bức, chia rẽ, kỳ thị… Những cuộc tha hương hay vong thân này và còn nhiều nữa khiến chúng ta bồn chồn lo lắng, khi nghe các bài đọc. Đúng thế, chúng ta đang sống kiếp lưu đầy như dân Do thái xưa, chúng ta chưa phải đã định cư trên đất hứa, chưa cảm thấy như ở quê hương chân thật. Tuy nhiên, một ngày nào đó, chúng ta sẽ được ở đất hứa với Thiên Chúa và mọi sự sẽ tốt đẹp. Ngay lúc này chúng ta còn phải vật lộn, trong những cố gắng nho nhỏ, để chống lại điều dữ, phát huy điều lành, phục hồi sự ngay chính cho cá nhân và hoàn cảnh khác nhau. Chúng ta biết rằng công việc như thế chẳng hề có tận cùng trên chốn lưu đầy này.
Tiên tri Ezekiel và Chúa Giêsu cũng đã thi hành sứ vụ như vậy, các Ngài là thành phần của quần chúng mà các Ngài phải rao giảng, để sửa lại những đường lối, não trạng sai lầm, những suy nghĩ lệch lạc. Các Ngài thúc dục họ thực hiện những đổi thay cần thiết trong cuộc sống riêng tư và công cộng. Các Ngài đã gặp nhiều chống đối từ phía lãnh đạo xã hội và tôn giáo. Mặt khác, các Ngài cũng được sai đến để yên ủi khuyến khích các nạn nhân. Những người bị thiệt thòi trong cán cân công lý. Họ được nghe các tiên tri đoan hứa: Một ngày nào đó Thiên Chúa sẽ chấn chỉnh mọi sự. Rứt khoát là như vậy. Thiên hạ sẽ sống trong an lạc và công lý. Đối với những ai bị áp bức, các Ngài tuyên bố Thiên Chúa đã lưu ý đến tình trạng khốn khổ của họ. Ngài sẽ ra tay báo oán ác nhân và sửa chữa những nỗi bất công. Đối với những linh hồn can đảm, dám xả thân vì chính nghĩa, đòi hỏi công bằng xã hội, các ngôn sứ đem lời khuyến khích của Thượng đế, để họ tiến xa hơn trong công việc lành thánh.
Người làng của Chúa Giêsu không phủ nhận các việc làm lạ lùng, sự khôn ngoan thông tuệ của Ngài. Nhưng họ không có khả năng nhìn thâu qua các công việc cụ thể, cảm giác được. Họ không chấp nhận sứ điệp của Ngài bởi chẳng nhìn thấy nó đến từ Thiên Chúa. Làm thế nào, một con người bình thường, hàng xóm thường ngày của họ, lại có thể rao giảng những điều cao siêu nhân danh Thượng đế? Hơn nữa, ông lại có thể giải thoát khỏi tội lỗi? Và khai mở một tương lai hoàn toàn mới? Họ có thể ngạc nhiên về những gì mình xem và nghe thấy. Nhưng vâng theo và thay đổi nếp sống thì không. Thật đáng tiếc! Nếu như họ tin vào sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, chắc chắn họ đã được Lời Chúa hướng dẫn và khích lệ. Nếu họ hiểu được các phép lạ của Chúa Giêsu, họ đã có thể cảm nghiệm cánh tay quyền phép của Thiên Chúa . Sau khi Chúa Giêsu chịu chết họ đã hãnh diện treo trên cổng làng mình tấm bảng ghi nhớ: "Đức Giêsu Kytô đã sinh ra và lớn lên tại đây" hoặc có lẽ họ đã lấy tên Ngài đặt cho một quảng trường hoặc hội quán thể thao nào đó. Nhưng bất hạnh, họ đã để lỡ cơ hội, không nhận ra bàn tay Thiên Chúa với tới họ qua vị tiên tri qúi danh là Giêsu. Đúng như lời các ngôn sứ xưa: "Không một tiên tri nào được tôn trọng nơi quê hương mình".
Như vậy chúng ta có thể lượng định dân làng Nazarét đồng hương, đồng thời với Chúa Giêsu đã lây nhiễm thái độ của những kẻ yếm thế, thất vọng, không còn tin tưởng, cậy trông Thiên Chúa hành động trong cuộc đời mình. Cản trở đường lối Thiên Chúa trong các biến cố sinh hoạt thường ngày, do những tập tục tự mình tạo nên. Họ không thấy Chúa Giêsu là Đấng thiên sai cha ông họ mong đợi.
Nếu như chúng ta cũng theo não trạng Do thái, chờ đợi một Thiên Chúa oai hùng, phán với dân Ngài qua tiếng sấm, tiếng sét, ánh chớp chói lòa, thì chúng ta phải đợi chờ lâu lắm, chẳng biết đến bao giờ. Lại nữa, nếu chúng ta cũng theo não trạng Do thái chờ đợi một ai đó vạch ra con đường tương lai chắc chắn, phân biệt rõ ràng điều dữ phải tránh, điều lành phải làm, để rồi vững bụng biết mình đang đi trên đường chính nẻo ngay, thì chúng ta có lẽ phải đợi chờ đến ngàn năm, vạn kiếp thiên thu.
Phải, Thiên Chúa kêu gọi chúng ta làm tiên tri và chúng ta cũng chỉ là những con người bình thường. Nếu như Ngài sai chúng ta làm ngôn sứ trong chính quê hương mình, thì Ngài sẽ kiện cường chúng ta, công nhận, dậy bảo và nuôi dưỡng chúng ta. Đúng thật, hôm nay Ngài thực hiện điều đó nơi mỗi người chúng ta. Công việc phải làm là lắng nghe Lời Ngài trong buổi phụng vụ này. Bởi lẽ trong các bài đọc chúng ta sẽ được nghe Chúa Thánh thần nhắc nhớ chúng ta đang sống kiếp lưu đầy. Chính Ngài làm cho "đôi chân vững vàng" và sai gởi chúng ta đi loan báo cho anh em đồng bào, đúng như khi xưa Thần khí đã sai phái Ezekiel, Thánh Phaolô và Chúa Giêsu rao giảng cho dân tộc Do thái. Chúng ta cũng cần suy gẫm lại bánh rượu, trên bàn thờ hôm nay, chúng chỉ là những hoa mầu dân dã, nhưng lại là của ăn thức uống cần thiết cho các sứ giả thời nay. Vì sao? Có nhiều lý do, và một trong các lý do đó là ban sức mạnh cho mỗi người trong những cuộc lữ thứ cá nhân: đau khổ bệnh tật, nghèo đói hoạn nạn…
Sống trong tình huống lưu đầy với bao lo lắng trần gian, chúng ta không có nhiều cơ hội hồi tưởng: Trái đất này không phải là quê hương vĩnh cửu. Quê hương vĩnh viễn phải là nước trời. Bàn tiệc Thánh Thể hôm nay chỉ là bữa ăn của những kẻ tha hương. Nó giúp chúng ta mạnh sức và tập trung tư tưởng, ý chí vào đường lối Thiên Chúa. Nó nuôi dưỡng hy vọng vào quê hương chân thật, cho hưởng trước những ngọt ngào vui thỏa của quê hương đó và mạnh dạn làm chứng cho thế gian biết: Có một nơi gọi là thiên quốc, nhân loại phải nỗ lực tiến về, không loại trừ một ai! Xin Chúa cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta, tránh được thái độ vô tín của dân làng Nagiazet, mau mắn tin vào Chúa Giêsu và xứ vụ của Ngài. Ngõ hầu Ngài có thể thực hiện nhiều dấu lạ giữa chúng ta, nhờ đó cộng đoàn giáo xứ nhanh chóng tiến triển trong đức tin. Amen.
Lắng nghe Lời Chúa để trở nên người phục vụ nhỏ bé của anh em.
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XIV - B (Mc 6, 1 - 6)
Phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá những cảm xúc từ Trái Tim Chúa Giêsu đối với TN 14-B116
Phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá những cảm xúc từ Trái Tim Chúa Giêsu đối với những người đồng hương khi vào hội đường rao giảng. Thánh sử Marcô viết rằng, Chúa Giêsu "ngỡ ngàng về sự cứng lòng tin của họ" (Mc 6,6). Đây là một bất lợi cho chính Chúa Giêsu, một đàng có các môn đệ theo cùng về quê, đàng khác ngay tại quê hương, Thầy mình cũng không được đón nhận, vậy tương lai công việc của họ theo Thầy sẽ ra sao? Hẳn các môn đệ Chúa cũng sửng sốt về sự thiếu lòng tin của những người đồng hương với Thầy Giêsu và phản ứng của Thầy sau này nữa. Sự ngạc nhiên của Chúa Giêsu tương ứng với sự sửng sốt của những người đồng hương, theo một nghĩa nào đó cũng lấy làm đau buồn! Mặc dù Chúa biết không tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương, nên Người đã thốt lên câu nói để đời "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình", nghĩa là không có tiên tri nào được đón nhận nơi những người đã nhìn thấy tiên tri ấy sinh ra và lớn lên (x. Mc 6,4).
Cứ sự thường, khi người ta đã nghe biết những việc Chúa Giêsu làm, lẽ ra họ phải chào đón Người bằng tình yêu và lòng mến, hay hơn thế là hồ hởi lắng nghe lời Chúa Giêsu giảng dạy với lòng thán phục. Điều ngược lại là sự thật : "Họ sửng sốt về giáo lý của Người" (Mc 6,3). Những người đồng hương của Chúa "sửng sốt" vì sự khôn ngoan của Chúa, một loạt câu hỏi được đặt ra : "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?" Sự gần gũi, thân thiện gia đình, tình làng nghĩa xóm ấy làm cho họ ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan và lời nói thốt ra từ miệng Người, cũng như các phép lạ Người làm tại Galilê sang từ chối, khiến họ không nhận ra Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người ở giữa làng họ và họ "vấp phạm vì Người" (Mc 6, 3).
Thiên Chúa muốn làm người để cảm thông, thân thiện, chia sẻ thân phận hèn mọn của con người. Nhưng xót xa thay! Chính điều Thiên Chúa muốn gần con người lại là điều làm con người vấp phạm.
Thánh Bernard nói rất hay khi viết : "Con Thiên Chúa đã đến và làm những điều kỳ diệu trong thế giới này, Người xé nát tâm trí chúng ta từ tất cả những điều trên thế gian, để chúng ta suy niệm và không bao giờ ngừng ca tụng những kỳ quan của Chúa. Người mỡ cho chúng ta những chân trời vô tận và dòng sông ý tưởng tuyệt vời, dồi dào đến mức không bao giờ vơi cạn. Có ai hiểu lý do tại sao Đấng uy nghi tối thượng muốn chết để ban cho chúng ta sự sống, để phục vụ cho chúng ta, Người đã sống lưu vong để mang chúng ta trở về quê trời, Người đã hạ thấp bản thân mình, nhận lấy những điều hèn hạ và bình thường nhất để nâng con người chúng ta lên? "
Thời nào cũng thế, thế gian không ưa các tiên tri. Trong Cựu Ước, nhiều vị đã phải chết vì sứ vụ của mình. Như Giêrêmia, Dacaria và nhiều vị khác. Còn tiên tri Êlia chỉ nhờ chạy trốn mới có thể thoát chết. Chúa Giêsu cũng không đi ngoài qui luật ấy. Tuy nhiên, dù bị đe dọa, Chúa Giêsu không nao núng. Dù bị một số người khước từ, Lời của Chúa vẫn được loan truyền đi khắp nơi và không gì có thể ngăn cản Người được.
Chúng ta sống trong một thế giới bất tín và dửng dưng. Nhưng chính trong môi trường khước từ siêu nhiên như thế mà chúng ta được sai đến như các tiên tri của Chúa. Tiên tri là phát ngôn nhân, là người nói thay cho Thiên Chúa. Sứ vụ của tiên tri là loan báo Tin mừng và chứng nhân mang đến niềm hy vọng và các giá trị kitô giáo cho những nơi vắng bóng và thù địch với niềm tin kitô.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu dấn thân vào sứ vụ loan báo Tin mừng cho người nghèo khó mà Thiên Chúa Cha đã giao phó. Người đã đi vào một môi trường hòan toàn bất lợi và xung khắc với Người, nhưng Người đã không lùi bước, trái lại, Người đã trung thành cho đến giây phút cuối cùng. Còn chúng ta, vì đã được rửa tội và thêm sức, tất cả chúng ta được liên kết vào trong sứ vụ ấy. Và cũng như Người, có thể chúng ta sẽ gặp chống đối. Mang trong mình chứng từ của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, ngày nay, người kitô hữu dễ bị phê phán và bị chế nhạo, và phải đi ngược dòng với tâm tưởng của thế gian. Nhưng nếu chúng ta trung thành với Đức Kitô, thì không gì có thể tách rời chúng ta khỏi tình yêu của Người. Lời Người là lời mang lại sự Sống đời đời. Khi tiếp nhận Lời, chúng ta có thể giữ được niềm hy vọng trong ta.
Lạy Chúa, xin ban ơn can đảm cho chúng con, đễ dầu gặp khó khăn thử thách, chúng con vẫn nhất quyết đem Tin Mừng của Chúa đến với anh chị em chúng con. Amen.
Cuộc sống âm thầm, ẩn dật của Chúa Giêsu với cha mẹ Ngài là Thánh Giuse và Mẹ Maria tại làng TN 14-B117 Dalat
Cuộc sống âm thầm, ẩn dật của Chúa Giêsu với cha mẹ Ngài là Thánh Giuse và Mẹ Maria tại làng Nagiarét trong 30 năm, chắc chắn không phải là những năm tháng uổng phí.Đây là giai đoạn chuẩn bị cho sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, Chúa Giêsu dù là Thiên Chúa, Ngài đã sống rất giản dị,bình thường, không làm những gì nổi bật, đến nỗi những người đồng hương với Chúa Giêsu đã phải thốt lên cách kinh ngạc hầu như coi thường Ngài :” Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao ?”.
Chúa Giêsu sống ở Nagiarét với cha mẹ của Ngài làm nổi bật vai trò của đời sống gia đình. Thực vậy, Chúa không sống như một siêu nhân, Ngài không làm những việc phi thường, nổi bật, xuất chúng, nhưng Ngài đã sống cuộc sống bình dị, giản đơn, nghèo hèn như mọi người.Chính vì Chúa Giêsu đã sống và làm những công việc bình thường như mọi người mà những người đồng hương Nagiarét quê hương của Ngài, sau khi Ngài đã đi rao giảng, đã được nhiều người biết đến vì những lời nói, việc làm và những phép lạ Ngài thực hiện, mà khi về thăm quê hương, vào Hội Đường đọc Sách Thánh, Chúa Giêsu đã giải thích Kinh Thánh cách rõ ràng tường tận, uyên bác, có người khen, nhưng có những người vì thành kiến xấu nên đã tỏ vẻ khinh chê Ngài…Người đồng hương của Chúa vì óc hẹp hòi, tính ghen tỵ,thiển cận nên đã không nhận ra khuôn mặt của Ngài. Họ không coi Ngài là một tiên tri, lại càng không tin Ngài là Đấng Cứu Thế. Họ càng không tin người đồng hương với họ lại là Con Thiên Chúa. Những người đồng hương với Chúa Giêsu không tin vì họ chỉ thấy quá khứ bình thường của Ngài mà thôi. Họ cũng không tin vì hiện tại của Chúa Giêsu vẫn không có gì hào nhoáng, vinh quang, họ chỉ nhìn thấy nơi Ngài là con bác thợ mộc Giuse, và con bà Maria nội trợ. Thực thế, vì không tin, họ đã không thấy Chúa, không nhận ra Chúa. Có tin mới nhận ra khuôn mặt đích thực của Chúa. Bởi vì Chúa đã nhận lấy xác phàm để sinh ra như thư Philip 2, 6-11 của thánh Phaolô đã viết…Thấy ở đây là thấy bằng con mắt đức tin.Thánh Phaolô viết :” Đức tin là bảo chứng những gì ta hy vọng, là bằng chứng cho những gì ta không thấy “ ( Dt 11, 1 ).
Theo Tin Mừng và theo suy nghĩ của chúng ta thì Chúa Giêsu, dù Ngài là Thiên Chúa toàn năng, Ngài có quyền trên con người, trên sự sống và sự chết, nhưng trước sự cứng lòng, trước lòng chai dạ đá của những người đồng hương, Ngài đành bó tay. Kinh Thánh viết :” Người đã không thể làm được phép lạ nào “ tại quê hương Nagiarét”. Con người được Chúa cho toàn quyền tự do quyết định nhận hay từ chối Thiên Chúa. Con người có khả năng ngăn cản Thiên Chúa đến với mình và từ khước ân huệ Ngài tặng ban.Chúa cho con người khả năng, quyền tự do để phân định phải trái và đón nhận Chúa hay từ khước Chúa. Tuy nhiên, tất cả phải có đức tin và đòi hỏi sự cộng tác của con người với ơn huệ của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm niềm tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra Chúa và biết chia sẻ niềm tin cho những người khác. Xin đừng để chúng con cứng lòng như những người đồng hương của Chúa Giêsu xưa vì họ thiển cận, hẹp hòi và có thành kiến xấu đối với Chúa, nên họ đã không tin và nhận ra Chúa là Con Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa. Xin ban cho chúng con một trái tim mới, cái nhìn mới để chúng con luôn tin nhận Chúa và những kỳ công tuyệt vời của Chúa đã làm cho nhân loại, cho mỗi người.Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1.Tại sao người đồng hương của Chúa Giêsu lại không tin Chúa là Thiên Chúa ? 2.Những người đồng hương của Chúa Giêsu có thái độ nào đối với Chúa ? 3.Chúa ban cho chúng ta điều gì để nhận, tin và biết Ngài ? 4.Chúa đòi hỏi chúng ta điều gì ? -------------------------------
SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN - NĂM B
(Mc 6, 1 - 6)
Cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 13,53-58; Mc 6,1-6; Lc 4,14-39) đều thuật lại câu chuyện TN 14-B118
Cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 13,53-58; Mc 6,1-6; Lc 4,14-39) đều thuật lại câu chuyện Đức Giêsu không được tiếp đón tại quê nhà và Ngài đều nói đến ý tưởng: “Ngôn sứ không có thế giá tại quê hương mình” (Ga 4,44). Nhưng mỗi Tin Mừng thuật lại câu chuyện với các chi tiết khác nhau và đặt trong những bối cảnh văn chương khác nhau. Tin Mừng Máccô đặt trình thuật “Đức Giêsu bị rẻ rúng tại quê hương mình” (Mc 6,1-6) sau trình thuật “Đức Giêsu chữa lành người đàn bà bị băng huyết và cho con gái ông Giaia sống lại” (Mc 5,21-43).
Đức Giêsu trở về quê hương Nagiaret. Ngài vào hội đường ngày sabat và đứng lên đọc rồi cắt nghĩa Sách Thánh cách rành mạch làm cho mọi người thán phục. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”. Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu. Họ tìm về nguồn gốc thì chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông ấy bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Dân làng Nagiarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài, họ lấy chủ nghĩa lý lịch để thẩm định về Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Chính Nathanael cũng còn mang nặng quan niệm thành kiến đó: “Nagiarét có cái gì tốt đâu?” (Ga 1,46). Những người Do thái cố chấp nhìn Đức Giêsu bằng lăng kính của thành kiến quê hương và họ đã đưa Ngài lên ngọn đồi và định xô xuống vực.
Đức Giêsu nói với những kẻ đặt câu hỏi về sự khôn ngoan và gốc tích của Ngài bằng câu: “Ngôn sứ không bị rẻ rúng ngoại trừ nơi quê hương mình, nơi những người thân thuộc và trong gia đình mình” (Mc 6,4). Đức Giêsu giải thích về việc những người ở quê nhà không tin và không đón nhận giáo huấn của Ngài đến nỗi “Người ngạc nhiên vì sự không tin của họ” (Mc 6, 6a).
Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa màu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
Dân làng Nagiarét “vấp ngã vì Người”, họ không chấp nhận, họ không thể tin vào Đức Giêsu. Ngài mạc khải cho họ về nguồn gốc thiên sai của mình qua những lời giảng dạy khôn ngoan và các phép lạ, nhưng họ lại chỉ bám lấy thành kiến cố hữu. Chính thái độ bám ghì lấy, không dám buông bỏ những hiểu biết giới hạn nên họ không thể nhận biết Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ. Đức Giêsu không thể làm được phép lạ nào tại đó vì họ không tin.
Dân làng Nagiarét không tin vì thành kiến. Họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những định kiến hẹp hòi. Vì thế, họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ mà Đức Giêsu mở ra cho họ. Có ai ngờ Đấng Cứu Thế lại là người đơn sơ, khiêm hạ như thế. Đức Giêsu không sống như một siêu nhân, Ngài sống bình dị như mọi người trong mọi thực tại hằng ngày của cuộc sống gia đình.
Những người đồng hương của Đức Giêsu thật “dại”, thay vì “một người làm quan cả họ được nhờ” nhưng họ lại đánh mất cơ hội khi quan niệm “bụt nhà không thiêng”. Thành kiến kiểu “nhìn mặt là biết số nhà” khiến người ta không ít lần rơi vào sai lầm khi nhìn đến tha nhân.
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi người ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì người ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì người ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Thành kiến là ý kiến có sẵn từ lâu trong đầu óc, không thay đổi được.Thành kiến có thể là của cá nhân hay của tập thể. Nếu là của tập thể thì nó tích tụ từ lâu đời qua nhiều thế hệ và hầu như không thể thay đổi được. Thành kiến là những nếp suy nghĩ, quan điểm, niềm tin chủ quan sẵn có, thường là tiêu cực đối với một người, một nhóm người dựa trên lối sống, nghề nghiệp, quan điểm chính trị, màu da, sắc tộc, quốc tịch, tôn giáo, giới tính…Thành kiến thường được định hình trong con người theo thời gian, từ trải nghiệm của bản thân, do được tuyên truyền, do thế hệ trước truyền lại, do môi trường sống.Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người, không ai thoát khỏi.
Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả sai lầm hoặc nguy hại. Ai đeo kính đen nhìn cái gì cũng tối tăm; lưỡi đắng ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Yêu nên tốt, ghét nên xấu. Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng. Thật dễ để nhận ra hay để nói về sai lầm của người khác.
Thành kiến làm cho người ta mù quáng, không nhận định khách quan nên khó có thể đối thoại, cởi mở với người khác, không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi tha nhân.
Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng sự kiện dân làng Nagiarét ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu rao giảng trong hội đường, và kết thúc bằng sự ngạc nhiên của Chúa khi Ngài thấy họ không tin. Làm sao họ không ngạc nhiên được khi lời rao giảng và những dấu lạ Ngài làm tỏ rõ Ngài là Đấng đầy quyền năng và khôn ngoan? Thế nhưng, sự ngạc nhiên ấy không đủ để thay đổi thành kiến của họ về Ngài. Họ không thể chấp nhận một bác thợ bình thường, là người đồng hương họ quen biết, lại là vị ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến. Và càng không thể chấp nhận được một con người như Ngài lại cả dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa, là Đấng Kitô. Hạnh phúc được tin vào Đức Kitô, đáng lẽ họ nhận được lại bị mất vì một thành kiến.
ĐTC Phanxicô kêu gọi mọi thành phần trong Hội Thánh “không bao giờ đóng kín nơi chính mình, không bao giờ lui về nơi an toàn của mình, không bao giờ chọn thái độ cố chấp hay tự vệ. Nó hiểu rằng nó phải gia tăng sự hiểu biết Tin Mừng và nhận ra các đường lối của Thần Khí, vì vậy nó luôn luôn làm bất cứ điều tốt lành nào có thể, dù trên đường đi, chân nó có thể bị lấm bùn” (Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, số 45).
Đức Maria được ca tụng là có phúc vì đã tin (Lc 1,45). Chúng ta cũng thật có phúc vì đã tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người và là Đấng Cứu Thế của nhân loại. Đức tin là ân huệ quý giá nhất trong cuộc đời, nhờ đó, mọi việc, dù nhỏ bé, âm thầm đến đâu, vẫn có ý nghĩa và có thể đem lại niềm vui, bình an cho cuộc đời.
Mỗi ngày sống, chúng ta hãy bày tỏ lòng tri ân Chúa ban cho mình ơn đức tin qua việc chuyên cần cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, cũng như tham dự Thánh Lễ.
Lạy Chúa Giêsu, con cảm thấy hạnh phúc khi đi theo Chúa, khi làm môn đệ Ngài. Xin Chúa giúp con sống tốt tư thế môn đệ ấy. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An -------------------------------
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIV năm B này nêu lên những khó khăn mà tất cả các ngôn sứ hay TN 14-B119
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIV năm B này nêu lên những khó khăn mà tất cả các ngôn sứ hay các nhà truyền giáo gặp phải, đặc biệt khi loan báo sứ điệp Thiên Chúa cho những người đồng hương của mình.
Ed 2: 2-5
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhận được sứ điệp phải loan báo cho những người đồng hương của ông một sứ điệp cứng rắn: “Một dân phản loạn… một bọn người mặt dày mày dạn và lòng chai dạ đá”. Vì thế, ông gặp biết bao khốn khổ trước những đồng hương lòng chai dạ đá này.
2Cr 12: 7-10
Thánh Phao-lô hãnh diện về những đặc sủng mà mình đã lãnh nhận, nhưng thánh nhân cũng đã gặp phải không biết bao nhiêu khó khăn trong suốt sứ vụ truyền giáo của mình: thử thách cá nhân (“như một cái dầm đâm vào thân xác”) và những bách hại, chống đối, nhục mạ, vân vân.
Mc 6: 1-6
Trở về Na-da-rét, Đức Giê-su rao giảng cho những người đồng hương của Ngài, nhưng gặp phải thái độ vô tri và ngờ vực của họ.
BÀI ĐỌC I (Ed 2: 2-5)
Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã là tư tế Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, đồng thời cũng lãnh nhận ơn gọi ngôn sứ. Đây là trường hợp đặc biệt.
Ê-dê-ki-en đã sống trong một thời đại bi thảm: đế quốc Ba-by-lon đã chinh phục xứ Pa-lét-tin, triệt hạ thành đô Giê-ru-sa-lem, phá hủy Đền Thờ và vương quốc Giu-đa. Dân chúng bị đưa đi lưu đày và sống ở đất khách quê người trong cảnh nghèo khổ. Họ đã trải qua từ những nghi lễ huy hoàng ở Đền Thờ đến một tôn giáo trơ trụi, nội tâm. Sứ mạng chính yếu của ngôn sứ Ê-dê-ki-en là làm cho những kẻ lưu đày hiểu ý nghĩa của sự thử thách mà họ đang phải chịu để họ thay đổi “trái tim bằng đá thành trái tim bằng thịt”.
Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay là bài trình thuật về ơn gọi của ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Bài trình thuật này nêu bật quyền năng bất khả kháng của tiếng gọi Thiên Chúa và con người cảm thấy mình hư vô và nhỏ bé trước sự siêu việt của Thiên Chúa. Tuy nhiên, bài trình thuật này cũng làm cho hiểu rằng dù chỉ là một phàm nhân nhưng ngôn sứ trở nên vĩ đại biết bao dưới tác động của Thiên Chúa.
1. Thần Khí nhập vào tôi
Đối với Cựu Ước, Thần Khí chưa là một ngôi vị phân biệt với Đức Chúa, nhưng một sự thôi thúc đến từ Thiên Chúa, “hơi thở của Ngài”.
Thần Khí nhập vào ngôn sứ và làm cho vị ngôn sứ đứng dậy, nghĩa là, nếu chỉ cậy dựa vào sức riêng của mình, con người chỉ là thụ tạo yếu đuối và nghiêng ngửa; nhưng khi được Thiên Chúa nắm bắt, vị ngôn sứ là một con người đứng thẳng, kiên cường trong sứ mạng của mình.
2. “Hỡi con người”
Diễn ngữ: “con người” viết thường, được dịch theo sát từ là “con cái loài người”. Đây là một đặc ngữ Do thái, có nghĩa “một con người”, “một phàm nhân” (x. Tv 80: 17; Gr 50: 40; 51: 43). Nhưng trong sách Ê-dê-ki-en, đặc ngữ này xuất hiện nhiều lần và có nhiều sắc thái ngữ nghĩa.
Ở nơi này, đặc ngữ này bày tỏ rằng ngôn sứ xem mình như một một con người bình thường như bao nhiêu người khác, không có bất kỳ một đặc quyền nào, thậm chí cho dù ông là một phát ngôn viên của Thiên Chúa đi nữa: đặc ngữ này bày tỏ mối liên hệ của vị ngôn sứ với đồng bào của ông, vì ông không khác với họ về mọi phương diện, ngay cả ông đã được Thiên Chúa ủy thác sứ điệp của Ngài đi nữa. Đúng hơn ông thấy mình đơn giản như một thành viên của cộng đồng Ít-ra-en mà Thiên Chúa đang ngỏ lời qua ông.
Ở nơi khác, đặc ngữ này chỉ ra rằng khi so sánh với Đức Chúa, Thiên Chúa quyền năng, Đấng cho ông thoáng thấy vinh quang của Ngài, ông chỉ là một con người, một thụ tạo yếu đuối thấp hèn: sứ điệp mà ông truyền đạt có khoảng cách khôn sánh giữa Thiên Chúa và con người.
Chính luôn luôn dưới danh xưng này: “Hỡi con người, hãy đứng cho thẳng Ta sắp phán với ngươi” mà vị ngôn sứ được Thiên Chúa chỉ định là người truyền đạt sứ điệp cao vời của Ngài. Một cách nào đó, Thiên Chúa đòi hỏi nơi vị ngôn sứ đức tính khiêm hạ của một kẻ vô danh, như thử Thiên Chúa trao gởi một sứ mạng càng cao trọng bao nhiêu thì thừa tác vụ của người ấy càng phải khiêm tốn và nhỏ bé bấy nhiêu.
Đặc ngữ này sẽ mặc lấy một ý nghĩa khác trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7: 13), ở đó “Con Người” viết hoa là một nhân vật có nguồn gốc thần linh. Trong các sách Tin Mừng Chúa Giê-su áp dụng cho mình đặc ngữ này cả theo truyền thống Ê-dê-ki-en để nhấn mạnh nhân tính tròn đầy của Ngài như khi Ngài tiên báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài lần thứ ba: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Ngài và sẽ nộp Ngài cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Ngài, khạc nhổ vào Ngài, họ sẽ đánh đòn Ngài và giết chết Ngài” (Mc 10: 33-34), lẫn truyền thống Đa-ni-en để nhấn mạnh nguồn gốc thần linh của Ngài, như khi Ngài công bố trước phiên tòa của Thượng Hội Đồng Do thái: “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng toàn năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14: 62).
3. Một dân phản loạn
Lời của Đức Chúa thật là cứng rắn: “Một dân phản loạn… một bọn người mặt dày mày dạn và lòng chai dạ đá”. Đây sẽ là ngôn từ của Ê-dê-ki-en, một trong những ngôn từ nghiêm khắc nhất chưa bao giờ được viết ra để kết án tội lỗi của dân Ít-ra-en. Vị ngôn sứ không khoan nhượng một chút nào. Theo ông, dân Chúa chọn đã chẳng bao giờ thật sự trung thành với Thiên Chúa của mình. Vị ngôn sứ lên án tội lỗi của vua chúa, quần thần, tư tế và toàn dân. Ông loan báo cơn giận khủng khiếp của Thiên Chúa bằng những từ ngữ rắn rỏi. Từ cảnh lưu đày của mình, ông thấy thành thánh Giê-ru-sa-lem hoang tàn đổ nát: “Hỡi con người, ngươi hãy nói với con cái dân ngươi; ngươi hãy bảo: Khi Ta cho gươm đến trừng phạt xứ nào, thì dân xứ ấy sẽ chọn một người trong số họ và đặt làm kẻ canh gác cho mình” (33: 2). “Kẻ canh gác” là một trong những hình dung từ để chỉ ngôn sứ.
Những biến cố của 587 trước Công Nguyên sẽ sớm chứng tỏ cho dân phản loạn này rằng “có một ngôn sứ ở giữa họ”. Tinh thần của Ê-dê-ki-en ảnh hưởng rất sâu xa sau cái chết bất ngờ của ông ở giữa cảnh lưu đày vào năm 571 trước Công Nguyên.
BÀI ĐỌC II (2Cr 12: 7-10)
Trong vô vàn những khó khăn nảy sinh giữa vị tông đồ và các tín hữu Cô-rin-tô, đáng kể là những lời chỉ trích phê bình về sứ vụ tông đồ của thánh nhân đến từ “các Tông Đồ siêu đẳng” (11: 5), “những kẻ đội lốt tông đồ của Đức Ki-tô” (11: 13), những kẻ sửa sai giáo huấn của thánh nhân và vu khống hoạt động của thánh nhân là “sống theo tính xác thịt” (10: 2).
Để lấy lại niềm tin tưởng của các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô buộc phải tự biện hộ cho chính mình. Thánh nhân trình bày những đau khổ mà mình phải chịu và những đặc sủng mà mình đã đón nhận (thị kiến, xuất thần, “được nghe những lời khôn tả mà không được phép nói lại”: 12: 4).
1. “Cái dằm đâm vào thân xác”
Thánh nhân không muốn để cho mình bị mắc vào thói tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường đã nhận được này, vì thế, “thân xác tôi như đã bị một cái dầm đâm vào”.
Các nhà chú giải luôn luôn tự hỏi qua lời này thánh nhân muốn nói điều gì. Họ đã so sánh bản văn này với một đoạn thư gởi tín hữu Ga-lát: “Anh em biết: nhân khi thân xác tôi đau ốm, tôi đã loan báo Tin Mừng cho anh em lần đầu tiên. Mặc dầu thân xác tôi là một dịp thử thách cho anh em, anh em đã không khinh, không tởm; trái lại anh em đã tiếp đón tôi như một sứ giả của Thiên Chúa, như Đức Giê-su Ki-tô” (Gl 4: 13-14) khi nghĩ đến một khuyết tật bẩm sinh nào đó. Khoa ảnh tượng xưa trình bày thánh nhân lúc thì với đôi mắt lồi, lúc thì với đôi mắt lé. Người ta cũng đã gợi lên những xao xuyến tâm lý, như nỗi buồn phiền của thánh nhân vì đã không hoán cải được những người Do thái, đồng bào của thánh nhân, “anh em trong xác thịt của ngài”.
2. “Đã ba lần, tôi xin Chúa…”
Con số “ba” xem ra chỉ cường độ lời cầu nguyện của thánh nhân; cũng như Đức Giê-su ở trong vườn Ô-liu đã cầu nguyện ba lần. Thánh nhân đã luôn luôn cầu nguyện với Thiên Chúa. Thánh nhân không cầu nguyện với Đức Ki-tô, nhưng luôn luôn cầu nguyện với Chúa Cha mà ngài gọi ở đây là Chúa, tước hiệu mà thánh nhân thích gán cho “Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” hơn.
3. “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”
Chúng ta nhận ra rất rõ văn phong của thánh Phao-lô ở nơi biện chứng mạnh mẽ-yếu đuối này. Càng xóa nhòa công sức của kẻ làm việc cho Thiên Chúa bao nhiêu, thì càng bày tỏ quyền năng Thần Khí ở nơi mình bấy nhiêu. Hễ có dịp là thánh Phao-lô lập lại tư tưởng này.
Lời kết của thánh nhân vừa khái quát vừa ám chỉ đến những xúc phạm và những xao xuyến mà các tín hữu Cô-rin-tô đã bắt ngài phải chịu: “Vì vậy, tôi cảm thấy sung sướng, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”. Thánh Phao-lô cho họ hiểu rằng cách hành xử của họ sẽ không làm thay đổi thái độ của ngài là luôn luôn cậy dựa vào Thiên Chúa.
Chương 12 này, mà chúng ta chỉ đọc một đoạn trích, là một chứng liệu duy nhất giúp chúng ta hiểu biết thánh Phao-lô. Không có những lời thú nhận nồng nàn này, chúng ta chỉ có một cái nhìn đại thể phiếm diện về những thử thách mà thánh nhân đã kinh qua và những kinh nghiệm thần bí mà thánh nhân đã trải nghiệm. Tâm tính bốc lửa của thánh nhân được bày tỏ ở đây rõ hơn nơi nào khác – một sự hòa hợp đáng ngạc nhiên ở nơi con người của thánh nhân giữa tính tự phụ, đức khiêm hạ và niềm tin kiên vững vào Đức Ki tô.
TIN MỪNG (Mc 6: 1-6)
Theo Tin Mừng Mác-cô, đây là lần đầu tiên Đức Giê-su có dịp trở lại nơi sinh trưởng của Ngài kể từ khi Ngài thi hành sứ mạng công khai của mình. Làm thế nào Ngài có thể bỏ quên những người mà Ngài đã chia sẻ cuộc sống trong nhiều năm mà không mang Tin Mừng đến cho họ được chứ?
Chắc chắn Ngài không mong chờ họ sẽ hồ hỡi đón tiếp Ngài. Mới đây thân nhân của Ngài từ làng Na-da-rét đến thành Ca-phác-na-um toan tính bắt Ngài về, vì cho rằng Ngài mất trí. Đức Giê-su đã không bận lòng đến cách hành xử của họ; Ngài cũng đã ám chỉ một sự đoạn tuyệt: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3: 35).
Quả thật, chuyến viếng thăm Na-da-rét của Ngài kết cục là một sự thất bại. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều trình thuật biến cố này, bài tường thuật của Lu-ca cung cấp nhiều tình tiết nhất (Lc 4: 16-30).
1. Thân thế và nghề nghiệp
“Đến ngày sa-bát, Đức Giê-su vào giảng dạy trong hội đường”. Đây là phương thức rao giảng của Ngài. Ngài đã làm như vậy ngay từ đầu sứ vụ công khai của Ngài trong hội đường Ca-phác-na-um (Mc 1: 21). Đây cũng là phương thức mà thánh Phao-lô sẽ chọn trong các cuộc hành trình truyền giáo của thánh nhân. Phương thức này thành công đến mức các văn sĩ Do thái ghi nhận rằng không có các hội đường, Ki-tô giáo sẽ không tràn lan…
Chúng ta biết rằng hội đường là nơi tụ họp chứ không tế tự, bởi vì những hy lễ chỉ được tiến dâng ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Các tín đồ quy tụ ở đây để cầu nguyện, công bố và giải thích Kinh Thánh, hát những bài Thánh Vịnh, đặc biệt vào ngày sa-bát.
Trong hội đường, vào ngày sa-bát người ta sẽ mời một người trong số những người tham dự công bố và giải thích Lời Chúa. Vào ngày sa-bát này, trong hội đường Na-da-rét nơi mà Đức Giê-su đã thường năng lui tới trước đây khi sống ở giữa họ, Ngài là người được chọn để công bố và giải thích Kinh Thánh. Thánh Lu-ca xác định bản văn mà Ngài công bố và giải thích là bản văn I-sai-a (Lc 4: 17-19).
Giáo huấn của Ngài làm mọi người kinh ngạc: “Ông ta được khôn ngoan như thế, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” Người ta khâm phục tư tưởng của Ngài và ngưỡng mộ những phép lạ mà Ngài đã thực hiện ở những nơi khác. Nhưng rồi người ta xúc phạm Ngài khi nghĩ đến thân thế và nghề nghiệp trước đây của Ngài. Mọi người trong làng này ai mà không biết gia thế của Ngài: bạn bè, họ hàng, bà con thân thích của Ngài hiện đang sinh sống ở giữa họ. Đức Giê-su đã là một con trẻ sinh ra và lớn lên trong làng này, mẹ Ngài là bà Ma-ri-a đang sống giữa họ. Còn về nghề nghiệp, Ngài đã là một anh thợ mộc trong làng. Làm thế nào đôi tay mà họ đã từng thấy Ngài cưa, bào, đục, đẽo vân vân, lại có thể thực hiện những phép lạ được? Vì thế, từ ngạc nhiên đến thán phục, họ bổng trở nên bày tỏ thù địch công khai với Ngài.
2. Con bà Ma-ri-a
Thánh Mác-cô không nhắc đến cha của Ngài, ông Giu-se. Phải chăng từ đó suy ra rằng ông Giu-se đã qua đời? Lý do này chưa đủ, vì để xác minh căn tính của một người, biểu thức quen thuộc là phải trích dẫn tên cả cha lẫn mẹ, cho dù nếu một trong hai người, hay thậm chí cả hai đã qua đời đi nữa. Có lẽ đúng hơn, khi thánh Mác-cô soạn cuốn Tin Mừng này, Giáo Hội tiên khởi đã tin rằng Đức Giê-su được thụ thai bởi người mẹ đồng trinh rồi (Mt 1: 18-20; Lc 1: 30-35). Vì thế, khi tránh nêu tên cha Ngài, ông Giu-se, thánh ký muốn nhấn mạnh một cách kín đáo đức đồng trinh của Đức Ma-ri-a.
3. Anh em của Ngài
Những “anh em” này là những anh em họ của Đức Giê-su. Từ “anh em” theo ngôn ngữ Hy bá có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng (tiếng Hy bá không có từ ngữ riêng biệt để chỉ anh em họ). Trong Kinh Thánh, từ “anh em” được dùng để chỉ mối quan hệ họ hàng thân thích gần xa giữa bác hay chú và cháu (St 13: 8), hoặc anh em chú bác, cô cậu, hay con dì (Lv 10: 4; 1Sb 23: 21).
Chúng ta biết hai trong số “anh em” này của Đức Giê-su: ông Gia-cô-bê, người sau này lãnh tụ Hội Thánh Giê-ru-sa-lem và ông Giô-xê mà mẹ của họ là bà Ma-ri-a, vợ ông Cơ-lô-pát đứng dưới chân thập giá (Mt 27: 56; Mc 15: 40-41; Ga 19: 25).
4. Giá trị lịch sử của câu chuyện
Gia thế và nghề nghiệp của Ngài đã là “chướng ngại làm cho họ không tin vào Ngài”. Phản ứng của những người đồng hương, về phương diện nhân loại chúng ta có thể hiểu được, dâng hiến cho chúng ta một lợi ích lớn lao. Ngoại trừ giai thoại về việc Đức Giê-su lúc lên mười hai tuổi ở giữa các tiến sĩ Luật trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, phản ứng của dân làng Na-da-rét này là sự kiện duy nhất soi sáng cho chúng ta cuộc đời ẩn dật của Đức Giê-su trong suốt ba mươi năm: một cuộc đời bình lặng không có gì trổi vượt như cuộc đời của bao nhiêu người đồng hương Na-da-rét khác. Không ai có thể nghi ngờ căn tính đích thật của Ngài khi đang sống ở giữa họ: với đôi tay thợ mộc và sức lao động của mình, Ngài đã nuôi sống bản thân và gia đình của mình; không có bất kỳ một hành động phi thường nào. Phản ứng của những người đồng hương của Ngài là một bằng chứng có giá trị.
5. Câu trả lời của Chúa Giê-su
Trước thái độ từ chối của họ, Đức Giê-su trả lời bằng cách trích dẫn câu thành ngữ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình”. Câu thành ngữ này đã thường được kiểm chứng trong lịch sử Ít-ra-en. Bài Đọc I đã cung cấp cho chúng ta một ví dụ về ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Nhưng còn biết bao nhiêu ngôn sứ khác có thể được nhắc đến. Ngôn sứ Ê-li-a bị hoàng hậu I-de-ven bắt bớ phải trốn chạy; ngôn sứ I-sai-a, vì thất vọng trước sự cứng tin của dân Ít-ra-en, cuối cùng dành sứ điệp chỉ trong vòng các môn đệ thân tính của mình; ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị nhục mạ, bị bách hại, vân vân.
Dân Na-da-rét từ chối những dấu chỉ của Nước Trời. Đức Giê-su không thể làm bất kỳ phép lạ nào tại đó, vì Ngài không gặp thấy niềm tin ở nơi họ. Chỉ vài bệnh nhân hưởng được lòng thương xót của Đức Giê-su. Trong Tin Mừng Mác-cô, không nơi nào nêu rõ mối liên hệ hỗ tương giữa đức tin và phép lạ cho bằng bài trình thuật này.
Với bài trình thuật này, thánh Mác-cô hoàn tất giai đoạn thứ hai sách Tin Mừng của mình (3: 7-6: 6). Giai đoạn này đã nêu bật nền tảng của Tin Mừng. Chúng ta đã gặp thấy nhiều thái độ khác nhau của những người đến gặp gỡ Ngài, dù dân chúng, môn đệ hay bà con họ hàng của Ngài, đều tự đặt ra cho mình “câu hỏi gai góc nhưng then chốt về thân thế sâu xa của Ngài”.
Khi Đức Giêsu đến trần gian, Ngài đã tuyệt đối trung thành với sứ vụ Thiên Sai của mình, vì thế, TN 14-B120
Khi Đức Giêsu đến trần gian, Ngài đã tuyệt đối trung thành với sứ vụ Thiên Sai của mình, vì thế, khi tiếp xúc với dân chúng, Đức Giêsu đã can đảm, trung thành với sứ vụ. Luôn tỏ ra là một Vị Thiên Chúa sẵn sàng khích lệ, đồng hành, cảm thông và xót thương con người. Dạy dỗ và làm nhiều phép lạ nhằm loan báo Mầu Nhiệm Cứu Chuộc cho dân để họ sám hối, tin theo và được cứu chuộc.
Tuy nhiên, khi thi hành sứ vụ, Đức Giêsu đã gặp phải rất nhiều thử thách đầy cam go do chính những người đồng hương với Ngài gây nên. Những thử thách đó khởi đi từ sự kiêu ngạo, tự phụ và thành kiến của người đồng hương.
Tuy nhiên, khi đối diện với những vấn đề như vậy, Đức Giêsu đã không chùn bước, nhưng Ngài vẫn luôn trung thành cách trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa Cha đã trao gửi cho Ngài trong sự khiêm tốn và can đảm.
1. Nguyên nhân dẫn đến việc cản trở Đức Giêsu khi Ngài trở về quê hương
Hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại việc Đức Giêsu trở về quê hương của Ngài. Trong chuyến thăm quê lần này, cũng giống như những lần khác, Ngài vẫn vào hội đường và cầu nguyện cũng như thi hành sứ vụ Thiên Sai của mình.
Tuy nhiên, Dân Do thái vốn dĩ là một dân cứng đầu, dễ nổi loạn chống đối lại Thiên Chúa. Họ luôn thách thức Thiên Chúa khi Người không đáp ứng nhu cầu của họ. Hơn thế nữa, họ rất coi trọng nguồn gốc sáng giá của một con người.
Bởi thế, thán phục các phép lạ, nhưng lại coi thường Đức Giêsu vì Ngài xuất thân trong một gia đình không mấy nổi nang! Điều này chính những người Do thái đã thắc mắc: cha ông không phải là Giuse, mẹ ông chẳng phải là bà Maria sao? vì thế, họ không tôn trọng Ngài.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên không là gì khác, đó chính là sự kiêu ngạo của những người đồng hương.
Tại sao vậy? Thưa, sự kiêu ngạo đã là đó ngáng chỗ và lòng kiêu căng đã chiếm mất chỗ của Chúa trong cuộc đời của họ.
Trước thái độ trên, Đức Giêsu đã tuyên bố một câu mà muôn đời vẫn giữ nguyên giá trị: đó là: “Tiên tri không bao giờ được tôn trọng trên chính quê hương mình”.
Quả đúng như vậy, vì, xét theo lẽ tự nhiên, một con người dù tài giỏi đến đâu, làm việc hiệu quả thế nào, và thành đạt trên nhiều lãnh vực hay nhiều nơi đi nữa, thì khi trở về gia đình, quê hương, họ luôn bị chính những người thân cận, làng xóm coi ở mức độ “thường thường bậc chung” vì lối suy nghĩ thiển cận, nên: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”.
Điều này Đức Giêsu đã trải qua khi Ngài trở về quê hương của mình!
Nhưng sự coi thường đáng tiếc này đã khiến cho ơn cứu độ của Thiên Chúa vuột mất khỏi họ, và suốt bao thế kỷ, họ vẫn đang chờ đợi một Đấng Kitô khác chứ không phải Đức Giêsu, Đấng đã hiện diện giữa họ cách đây hơn 2.000 năm.
2. Thực trạng kiêu ngạo của con người hôm nay
Thực trạng ấy nơi những người đồng hương với Đức Giêsu khi xưa, hôm nay vẫn còn đây đó nơi chúng ta, vì: thói ích kỷ, kỳ thị, chấp nhất, định kiến, ác cảm, nên ta hay giam người anh chị em mình trong quá khứ hay “tạc tượng” họ trong một lối nhìn tiêu cực và không bao giờ cho họ cơ hội để mở ra một tương lai tốt đẹp hơn....
Lý do họ không nhìn anh chị em mình dưới lăng kính màu hồng, mà toàn màu đen, bởi mắt họ đang đeo cặp kính râm của sự kiêu ngạo! Vì thế, lối suy nghĩ nông cạn, vu vơ và trống rỗng đã dẫn đến việc đánh giá, đối xử lệch lạc và thiếu công bằng cũng như bất nhân. Quả đúng là: “Yêu ai thì nói quá ưa – Ghét ai nói thiếu nói thừa như không”; hay ”Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng”.
Những người nông nổi như vậy, họ đâu có hiểu được rằng: “Sông có khúc, người có lúc”.
Thật vậy, có người bị coi là không tốt, đồ bỏ, vứt đi ở chỗ này, nhưng họ lại được nhiều người coi trọng và kính nể ở một nơi khác.... Còn có nhiều người được xem là nhẹ nhàng, tao nhã, lịch thiệp chốn quan trường, ngoài xã hội, nhưng khi về đến gia đình, họ lại là kẻ bất nhân, vô liêm sỉ với người thân. Mở miệng ra là quát tháo, chửi bới nên “thượng thẳng tay, hạ thẳng chân” với anh chị em họ. Những người này thuộc hạng “khôn nhà dại chợ”; “làm phúc nơi nao để cầu ao rách nát”; ... hay có những người ăn nói ngọt như đường mía lau, nhưng thực ra họ thuộc dạng: “Đội trên, đạp dưới” nên tâm địa bỉ ổi, xấu xa chẳng khác gì kẻ: “Miệng thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”. Hay như Mc Kenzie nói :”Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tị thì nhìn bằng kính hiển vi”.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay vừa nhắc nhở, vừa mời gọi chúng ta ý thức sứ mạng ngôn sứ cũng như lối sống và cách thức loan báo Tin Mừng!
Trước tiên, sứ mạng ngôn sứ được trao ban cho chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Sứ mạng ấy càng thôi thúc mãnh liệt khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức.
Vì thế, mỗi người phải có trách nhiệm loan báo Lời Chúa, thi hành sứ mạng ở mọi nơi, mọi lúc, dù: “Thuận tiện hay không thuận tiện”; được ủng hộ hay chống đối, được đón nhận hay bị khước từ, được tôn vinh hay giết chết.... Mặt khác, khi thi hành sứ vụ, chúng ta không thể chọn lựa theo ý mình, mà phải nói và làm điều Thiên Chúa muốn một cách trung thành (x. 1Cr 9,15-16); không được giả hình và bóp méo Lời Chúa (x. 2Cr 11,10 ; 13,8).
Thứ đến, khi thi hành sứ vụ, cần nhớ nằm lòng câu nói của Đức Giêsu: “Không ngôn sứ nào được kính trọng nơi quê hương mình”.
Cần nhớ rõ một điều, chúng ta đi đến đâu, làm bất cứ điều gì, sẽ có 30% người ủng hộ. 30% người chống đối, loại trừ, số còn lại dửng dưng. Đây cũng chính là số phận và cái giá phải trả của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ.
Bởi vì làm ngôn sứ không phải là chuyện đơn giản, mà là: “Vô cùng phong nhiêu”, phức tạp! Vì Lời Chúa một đàng là lời tình yêu, nhưng một đàng là lời cật vấn lương tâm, vạch trần tội ác, bất công, gian dối, hình thức..., nên: “Nếu thế gian ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Thầy trước …. Đầy tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con” (Ga 15,18-20).
Thật vậy, sứ mạng ngôn sứ đòi chúng ta chấp nhận lội ngược dòng, không thể sống theo phong trào hay “hiệu ứng đám đông”. Đôi khi chấp nhận điên vì sứ vụ, khùng Tin Mừng, khi dám nói lên tiếng nói công lý, công bằng ngay tại những nơi nguy hiểm như: sòng bài, quán rượu, quán karaokê…, nơi những con người đang “quậy” tứ tung hay “điên cuồng” trong những cuộc chơi bất chính....
Khi lựa chọn như thế, sự lẻ loi, cô lập và chống đối hay phải thí mạng là lẽ đương nhiên!
Mong sao, sứ mạng và số phận ngôn sứ của Đức Giêsu trong thời của Ngài, cũng là của chúng ta trong thời đại hôm nay.
Ước gì vì: “Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” là lựa chọn của mỗi người Kitô hữu, vì: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta” nên chúng ta “được Chúa kêu gọi để tỏa sáng như các vì sao giữa lòng thế giới tối tăm này” (Pl 2,15).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sự khiêm nhường và tình yêu của Chúa, để chúng con yêu cả những người thù ghét mình. Xin ban sức mạnh của Chúa, để chúng con can đảm, vững bước trên con đường thi hành sứ vụ.
Xin cho chúng con mặc lấy lòng bao dung, nhân hậu của Chúa, để chúng con đón nhận anh chị em chúng con trong tình Chúa và tình người. Amen.
Nỗi lòng của người đi xa khi trở về cố hương, ai lại chẳng muốn mình được đón tiếp nồng hậu, tay bắt TN 14-B121
Nỗi lòng của người đi xa khi trở về cố hương, ai lại chẳng muốn mình được đón tiếp nồng hậu, tay bắt mặt mừng, khi gặp lại những người thân quen, những bạn bè xưa cũ hay bà con lối xóm. Khi trở về Nazareth, Đức Giê-su đã không có được ước mơ cỏn con ấy. Thái độ của những người đồng hương như một gáo nước lạnh hắt vào mặt Đức Giê-su, khiến Ngài rất ngạc nhiên. “ Bởi đâu ông ta làm được những phép lạ như thế? Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria, và là anh em của các ông Giacôbê, Gio-xét, Giu-đa và Simon sao?... Và họ vấp ngã vì Người”(Mc 6,1-3). Thánh Marcô thuật lại sự kiện này và cho chúng ta thấy thấp thoáng hình bóng thập giá ngay từ giai đoạn khởi đầu sứ vụ rao giảng của Đức Giê-su. Đó là câu chuyện về một vị ngôn sứ bị chối từ ngay tại chính quê hương của mình. Các bài đọc lời Chúa trong phụng vụ hôm nay phác vẽ dung mạo của Đấng bị con người loại trừ và trong số những con người đó, có thể gồm chứa mỗi người nơi chúng ta.
Đức Giêsu, một mầu nhiệm ẩn kín
Đức Giê-su vẫn mãi luôn là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm về Thiên Chúa luôn thách đố mọi người, và Thiên Chúa dường như vẫn còn đang giấu mặt. Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Edêkien nói về dân Israel như là ‘những đứa con mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá… Chúng vốn là loài phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng’ (Ed 2,4-5). Sự cố chấp chai lỳ mà vị ngôn sứ nói tới chính là con đẻ của thói vô ơn và phản bội, trải dài trong suốt lịch sử dân Do Thái năm xưa, có thể còn kéo dài mãi cho đến chúng ta ngày hôm nay. Tân ước cũng nhiều lần nhắc lại sự phản bội và vô ơn này. Mười người phong hủi được Đức Giê-su chữa lành, nhưng chỉ có duy nhất một người trở lại tỏ dấu biết ơn. Bẽ bàng thay, đó lại là một người ngoại giáo, một cư dân Samari. Cả ngàn người được Chúa cho ăn bánh no nê, nhưng chỉ có một người ghé vai vác đỡ Thập Giá khi Chúa oằn vai lê bước trên đường lên núi sọ. Đó cũng lại là một người ngoại giáo, gốc Xyrênê. Cao điểm của sự vô ơn này là toàn dân đồng thanh đả đảo, đòi kết án và xử tử Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng đã đến thi ân và yêu thương mọi người. Tương tự như thế, Thánh Marcô hôm nay nhắc lại sự kiện Đức Giê-su bị chối từ và bị hắt hủi bởi chính những người đồng hương thân thuộc, những con người rất thân quen, ngay cả những người có liên hệ máu mủ ruột thịt đã sống cận kề với Ngài suốt 30 năm ở Nazareth. Đây là một sự thật rất phũ phàng và khó hiểu!
Sự từ khước nơi mỗi người
Sự phũ phàng đó có thể vẫn còn đang được lặp lại ngày hôm nay nơi chính bản thân mỗi người chúng ta. Sự chối từ Thiên Chúa được thể hiện qua nhiều dạng thức khác nhau. Chúng ta vẫn tuyên xưng Thiên Chúa là tình yêu nhưng trong thực tế, chúng ta lại mang theo mình biết bao dao găm và lựu đạn của oán thù. Đó là một sự giả dối và bội phản. Chúng ta vẫn tự mãn nghĩ mình là người có đạo, vẫn tôn thờ Thiên Chúa, nhưng trong cuộc sống chúng ta lại thượng tôn tiền bạc, chạy theo một lối sống ích kỷ và hưởng thụ. Đây cũng là một lối sống vô thần thực hành, dần dần gạt bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài. Giáo hội không sợ tuyên chiến với những con người tự cho mình là vô thần và không tin Thiên Chúa, nhưng Giáo hội lại rất khiếp sợ những con người tuy mang danh nghĩa là tín hữu, mà lại sống còn khủng khiếp hơn cả những người vô thần.
Năm 1904, viện Hàn lâm Hoàng Gia Anh tổ chức một cuộc triển lãm trong đó có một bức tranh khá nổi tiếng của họa sĩ Kosse, tựa đề ‘Đấng bị chối từ’. Bức tranh vẽ Đức Giê-su đang đứng trong sân một ngôi giáo đường lớn. Trên con đường phía trước, cả ngàn người đang rảo bước đi qua. Chỗ này một chàng thanh niên vừa đi vừa huýt sáo với thái độ rửng rưng bất cần đời. Chỗ kia một nhà khoa học đang mải miết suy nghĩ về công trình ông đang nghiên cứu. Chẳng ai thèm để ý và ngó ngàng tới Đức Giê-su. Một vị linh mục đi ngang qua, chỉ mải chăm chú lần hạt. Một nhà thần học vừa bước đi chậm rãi vừa nhăn trán suy nghĩ điều gì đó trong đầu của ông, cũng không màng đến những việc chung quanh. Chỉ có một nữ tu đang vội bước, lấm lét ngoảnh lại nhìn Chúa Giê-su rồi lại tiếp tục tiến bước. Đức Giê-su vẫn đứng đó, vẫn lặng lẽ và cô đơn một mình. Đôi mắt Ngài thoáng buồn vì sự rửng rưng và vô cảm của đám đông ngay trước cửa một ngôi giáo đường nguy nga đồ sộ. Tác giả ghi chú ở dưới bức tranh: “Bạn là ai trong số những người này?”
Tìm câu trả lời
Câu hỏi đó cũng được Giáo hội lập lại ngày hôm nay: “ Đức Giê-su là ai đối với tôi? Phải chăng, Ngài chỉ là một cư dân Galilê bình thường, là con bác thợ mộc và bà Maria, là người anh em lối xóm với chúng ta, chẳng có gì hơn, giống như ngày xưa những người đồng hương của Chúa vẫn nghĩ như thế.
Dân Galilê ngày trước đã có một thành kiến hẹp hòi về Đức Giê-su. Thành kiến thiển cận và tư duy bảo thủ đó đã làm con mắt đức tin của họ khép lại, khiến họ không thể nhận ra Đấng Cứu thế đang ở giữa họ. “ Phá vỡ một nguyên tử còn dễ hơn là phá đổ một thành kiến”. Người Nazareth ngày xưa đã mắc bệnh thành kiến khi nhìn vào Đức Giê-su, và lấy chủ nghĩa lý lịch để thẩm định về Ngài. Chúng ta ngày nay cũng dễ mắc phải căn bệnh này khi nhìn vào Đức Giê-su hiện thân nơi những cận nhân mà chúng ta tiếp xúc hằng ngày. Chỉ qua lăng kính đức tin, chúng ta mới có thể khám phá và tiến sâu vào mầu nhiệm Đức Giê-su. Ngài luôn hiện diện nơi những người mà chúng ta gặp gỡ, nhất là nơi những anh em cùng khổ và bất hạnh. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn mời gọi mọi người hãy lên đường để tìm kiếm Đức Giê-su ở tận những vùng ven (periphery), ở những nơi hẻo lánh và xa xôi nhất. Ngài vẫn ở đó, vẫn đang chờ đợi chúng ta, hiện thân nơi những người bị xã hội gạt bỏ ra bên ngoài.
Kết luận
Đức Giê-su là ai đối với những người đồng hương Galilê năm xưa, cũng như đối với chúng ta ngày hôm nay ? Thiên Chúa dường như vẫn đang giấu mặt, khi chúng ta chứng kiến biết bao bất công xã hội, khi chúng ta đắng lòng nhìn thấy bao trẻ em bị đối xử bất công, khiến chúng tắt lịm niềm hy vọng. Đức Giê-su vẫn luôn là một mầu nhiệm, và chúng ta chỉ có thể đi vào quỹ đạo tình yêu nhiệm mầu của Ngài khi cung chiêm Đấng bị đóng đanh và chết nhục nhã trên Thập Giá. Chúng ta hãy học lấy kinh nghiệm thần bí của Thánh Phaolô để có thể đi vào quỹ đạo tình yêu này. Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô đã viết “Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.” Nơi Thập giá Đức Kitô, thánh nhân đã học được thế nào là nghịch lý của tình yêu. Nghịch lý đó là câu trả lời thuyết phục nhất cho vấn nạn được nêu ra hôm nay: Đức Kitô là ai đối với tôi?
Xem mặt bắt hình dong, hoặc con lợn có béo thì lòng mới ngon, 2 câu thành ngữ rất đáng để chúng TN 14-B122
Xem mặt bắt hình dong, hoặc con lợn có béo thì lòng mới ngon, 2 câu thành ngữ rất đáng để chúng ta cẩn thận hơn về cách suy xét của mình, con người thời nào cũng giới hạn, dễ gục ngã bởi dáng vẻ bề ngoài hình thức. Bằng mắt giác quan, người ta có thể phân biệt đâu là xinh đẹp, là tài giỏi đức độ ; trải qua những kinh nghiệm thực tế “ở lâu mới biết lòng người”, nhưng “bí ẩn” đâu là người tốt, thế nào là người xấu, liệu có ai đủ thông thái mà lý giải ! Cuộc sống vô cùng phức tạp đến độ có người sánh ví: giữa cái có và cái không nơi người phụ nữ chỉ vừa lọt cho một sợi tóc ; như thể gianh giới giữa được và mất, vui và buồn, sai lạc và chính xác, bao giờ cũng mong manh, lý lẽ thuyết phục nhất vẫn là “hãy đợi đấy”.
Có thể nhiều lần chúng ta đã nghe các đấng bậc phán: không biết thì dựa cột mà nghe, nhưng vì nhiệt tâm nhiệt tình, hay do muốn thoả mãn vốn kiến thức của mình, người ta thật khó ngoan hiền, khi phải khoanh tay mà thực hiện “y lệnh”. Tại hội đường Na-gia-rét năm xưa, người ta thích thú vì tai được nghe giáo lý của Đức Giêsu, vì mắt được nhìn xem diện mạo xinh đẹp con bác thợ mộc, nhưng rồi tính kiêu căng đã cản trở việc nhận biết Một Thiên Chúa đang ở giữa họ. Tại bầu khí hiệp nhất cầu nguyện của chúng ta lúc này thì sao, tai mắt và tâm trí chúng ta có thực sự muốn nghe, muốn đón nhận giáo huấn của Đấng là Thầy là Chúa đang hiện diện không ? Tính khiêm tốn và lòng ngạo mạn đối nghịch nhau, tuy nhiên đó cũng là cơ hội, lưu ý từng người chúng ta sẽ nói biết hoặc không về Đấng đã đến, và đang đến cứu độ trần gian.
Người xưa nói: trăm nghe không bằng một thấy, câu thành ngữ lại một lần nữa nhắc nhớ đến khả năng, kỹ thuật tai mắt chúng ta đang sử dụng ra sao, vì thời gian vẫn đang tỉ lệ thuận với chọn lựa, nhằm giúp chúng ta nói biết hoặc nói không về tình yêu Đức Kitô. Người hôm xưa vừa được nghe, vừa được thấy Đức Giêsu, họ thán phục bởi lời hay ý đẹp đụng chạm đến việc “tin không” hoặc “không tin” Con bác thợ mộc có phải là Đấng họ trông chờ ? Cái biết tự nhiên phá hỏng cái biết siêu nhiên, chắc không phải do đấng bậc sinh thành không giáo dục tốt, đúng hơn là tính tự mãn che khuất người ta không thể và không biết mình được yêu thương. Người Do-thái năm xưa họ không mù không điếc, cũng chẳng câm, nhưng lời nói, việc làm đầy ganh tỵ, ích kỷ, dẫn tới sai lạc, và họ không thể ngờ, họ có vinh dự là người đồng hương với Ngôi Hai Thiên Chúa.
Người chẳng có khả năng thiên phú, người không được ở trong hoàn cảnh gia đình trên thuận dưới hoà, họ vẫn đủ nhận ra: kẻ mang kính đen, họ sẽ nhìn mọi vật mầu tối, người ốm đau, ăn cao lương mỹ vị cũng chẳng ngon, kẻ kiêu căng, họ nhìn ai cũng là kẻ tầm thường. Đức Giêsu trở về quê hương, Ngài vẫn mang đủ phẩm chất là Con Thiên Chúa hằng sống, đang chia sẻ sứ mạng yêu thương cho mọi người. Ngài nói to cho những ai tai không thính, Ngài uy nghi trước những phần tử mắt thể lý yếu kém. Nhưng biết và không biết Đức Giêsu là Đấng cứu độ, hệ tại người ta có để phép lạ tình yêu thương biến đổi tâm tính tội lỗi của họ không ? Phản ứng loại trừ và chối bỏ Đức Giêsu, là từ chối bỏ một truyền thống đức tin tiền nhân để lại, cám dỗ ấy sẽ mãi mãi là cám dỗ người ta ù lỳ, ích kỷ: không nghe, không thấy, để không biết.
Người thời nay rất tự hào về khả năng thưởng thức âm nhạc, tự tin với số kiến thức dồi dào đang giúp họ mở được các loại ổ khoá hạnh phúc ở đời này, đúng, sai, biết và không, thời gian sẽ trả lời. Khinh người có tật, trọng người có tài, chúng ta dư biết đó chưa thể gọi là tài giỏi ; khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng đủ, kiêu căng một chút cũng là thừa, biết mình biết ta mới là điều cần cho mọi tương quan. Kinh nghiệm ở đời cho thấy: xem mặt bốc thuốc, thuộc về chuyên môn của ngành đông y ; nói ít hiểu nhiều, thuộc về tính cách của đôi trai tài gái sắc đang yêu ; nhìn, nghe, thấy và hiểu, phải là những người khôn ngoan, biết sử dụng những điều kiện sẵn có của mình.
Chúa Giêsu luôn thao thức con người mọi thời, dù ở hoàn cảnh nào cũng đủ nghe, đủ thấy, và đủ hiểu phép lạ tình yêu thương đang xảy ra hàng ngày xung quanh mình. Dù con người tội lỗi, bất toàn, Chúa Giêsu vẫn coi chúng ta là người đồng hương, là người nhà của Thiên Chúa, là đối tượng được yêu thương, cứu độ. Amen.
Mới đọc câu này, ta thấy khó hiểu. Tại sao thánh Phao-lô lại nói: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh TN 14-B123
Mới đọc câu này, ta thấy khó hiểu. Tại sao thánh Phao-lô lại nói: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”. Tôi yếu là tôi yếu chứ làm sao mà mạnh được ? Cái “Tôi” của thánh Phao-lô đây, đại diện cho “cái tôi” của mỗi người chúng ta. Tôi yếu là do bản thân tôi; do bản tính yếu đuối của con người tôi. Tôi mạnh là do ơn Chúa. Tôi yếu là do con người bình thường; tôi mạnh là do con người đức tin. Tôi yếu là do con người tự nhiên; tôi mạnh là do con người siêu nhiên. Điều này được thấy rõ nơi các thánh Tử Đạo.
Với con người tự nhiên, ai cũng sợ đau, sợ khổ, sợ đòn vọt, sợ tù đày và sợ chết. Thế nhưng, với ơn Chúa, với đức tin, các thánh Tử Đạo, đã dám hy sinh tất cả, kể cả mạng sống mình. Đó là con người siêu nhiên. Trong kinh tiền tụng về thánh Tử Đạo, Giáo Hội tuyên xưng: “Nhờ đó, Cha kiện toàn sức mạnh nơi những con người mỏng giòn và tăng sinh lực cho người yếu đuối, để họ làm chứng cho Cha nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con”.
Chính lúc con tự nhiên của ta yếu, thì con người siêu nhiên của ta sẽ mạnh. Ta yếu là do con người yếu đuối, mỏng giòn; ta mạnh là nhờ ơn Chúa, nhờ đức tin. Chính lúc con người tự nhiên của ta không làm được gì thì con người siêu nhiên, nhờ ơn Chúa, nhờ đức tin mà ta làm được. Đó là một cảm nghiệm sâu sắc của thánh Phao-lô về thân phận con người của Ngài.
Quả thật, với con người tự nhiên, chắc chắn thánh Phao-lô không thể hoàn thành công cuộc truyền giáo to lớn đến như vậy. Tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa; tất cả đều nhờ bởi lòng tin. Những lúc thánh Phao-lô cảm nghiệm mình yếu đuối nhất thì cũng là lúc ngài cảm nghiệm mình mạnh hơn nhất. Thánh Phao-lô cũng là con người như chúng ta, nên cũng yếu đuối, có lúc cũng đã tự cao tự đại. Con người chúng ta là thế, chẳng ai hơn ai. Cái quan trọng là mình có biết chấp nhận con người yếu đuối của mình và cần đến ơn Chúa để ta cố gắng nên thánh nên thiện hay không.
Ta hãy suy gẫm về một số sự yếu đuối của con người chúng ta.
Cái yếu đuối đầu tiên và rõ ràng hơn nhất là, ai trong chúng ta cũng muốn làm điều tốt, điều hay, thế nhưng ta không làm được. Nói thì hay lắm nhưng khi thực hành thì không hay chút nào. May ra cũng được đôi lần. Ta ăn bao nhiêu bữa cũng được, chứ dự hai ba Thánh Lễ chắc hơi khó. Ta ngồi coi ti vi, coi đá banh hay coi phim mấy tiếng đồng hồ cũng không sao, chứ đọc kinh, suy gẫm 30 phút là thấy nó lâu, nó dài và chán ngắt. Cứ ngồi nói chuyện mãi không sao, bắt đầu đọc kinh là ngáp ngắn ngáp dài. Con người yếu đuối của ta là thế đấy.
Tiếp đó là hay quên. Học trước quên sau; mới học đó mà đã quên rồi. Mới nhớ đó, mà lại quên. Đã đời mãi không sao, vừa bóp ổ khóa mới sực nhớ để chùm chìa khóa trong phòng. Nhiều khi ta cố gắng luyện tập cho nhuần nhuyễn, thế mà khi vào việc lại quên tới quên lui. Nhiều lúc ta cũng bực mình với chính mình. Con người yếu đuối của ta là thế.
Ta hay sai lỗi. Chuyên môn là làm sai, làm bậy và làm ngược. Cứ xem các kỳ thi thì biết. Đa số là rớt. Tại vì hiểu sai, đánh dấu sai, làm sai. Học rồi, biết rồi, thế mà vẫn làm sai như thường. Người ta nói là “học tài thi phận” là vậy. Một cái mẹo muốn thì đậu trong kiểu thi trắc nghiệm, ta cứ đánh dấu bình thường, nhưng xong rồi thi đánh dấu ngược lại. Trước đánh đúng, giờ đánh là sai; trước đánh là sai giờ đánh là đúng. Trước đánh dấu chéo, giờ đánh dấu tròn; trước đánh dấu tròn, giờ đánh dấu chéo. Chắc sẽ đậu !!!
Ta hay lầm lạc. Người ta nói : “Con người là lầm lỡ”. Lầm là không biết đâu là đúng, đâu là sai; không biết thế nào là phải, thế nào là trái. Càng học càng cảm thấy mình ngu. Do đó mà phán đoán sai lầm. Sai mà cứ tưởng là đúng; đúng mà cứ tưởng là sai. Trái mà cứ nghĩ là phải; phải mà cứ tưởng là trái, nên cứ đi lạc mãi; cứ đi “đậu phộng” mãi thôi. Con người yếu đuối của ta là thế.
Ai cũng có bệnh. Là con người, ai cũng có bệnh này bệnh kia, chẳng có ai mạnh khỏe 100% cả. Trông thì khỏe khoắn đấy, khi khám thì mới biết có bệnh. Khám mới ra bệnh như “quét nhà ra rác” vậy. Người thì viêm họng, người thì viêm xoang; người thì bệnh gan, người thì bệnh thận; người thì bệnh tim, người thì bệnh phổi; người không đau răng thì cũng bị nhức đầu; không đau lưng thì cũng nhức mình nhức mẩy; không đau chân cũng đau tay; không lở mồm cũng long móng, vv…đâu có ai thoát khỏi. Mà đau cái gì cũng khổ. Mới thấy khỏe đó, chỉ một cơn gió thoảng qua là tay chân nhấc không nổi, ăn không ngon, ngủ không yên. Mới thấy phương phi, bệ vệ thế, mà xạ trị có mấy tháng, đã thấy teo héo như miếng tóp mỡ rồi. Con người yếu đuối của ta là thế.
Không chỉ có bệnh mà còn có tật nữa cơ. Tật đây là những tật xấu ấy. Nào là khoe khoang, kiêu ngạo; nào là giả hình, giả bộ; nào là ghen tương, đố kị; nào là tranh chấp, bè phái; nào là say sưa, chèn chén,…..Làm được một chút thì khoe từ đầu trên đến xóm dưới; thời đại bây giờ thì lên mạng, lên face book; thấy người khác hơn mình thì ghen với tị; khó một tí là chán; cực một tí là nản; làm ít nói nhiều; võ tay không nổi thì võ mồm, đi nói hành nói xấu; làm ít đòi hưởng nhiều,……Con người của ta là như thế đó.
Ta biết con người của ta yếu đuối thế đó, nhưng ta có cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi mình bị sỉ nhục, khi mình bị hoạn nạn, bị nói hành nói xấu hay bị vu khống không ? Nếu không, thì ta vẫn là ta, ta vẫn yếu đuối chứ không có mạnh. Ta không mạnh vì ta không chấp nhận con người yếu đuối của mình và cũng không cần ơn Chúa giúp nữa.
Nhiều khi ta nghĩ, tại sao Chúa lại để ta yếu đuối như thế; tại sao Chúa lại để ta hay quên như thế; tại sao Chúa lại để ta sai lầm như thế; tại sao Chúa lại để ta bệnh và tật như thế ? Câu trả lời đó là để ta khỏi kiêu ngạo. Nhiều lúc ta muốn Chúa cất hết những yếu đuối của ta đi. Thế nhưng Chúa mà cất hết thì ta trở thành Thiên Thần rồi, chứ không còn là con người nữa. Rồi cứ đà này, ta lại chống lại Chúa, không nghe lời Chúa nói, ta nên giống ma quỉ thôi. Điều đó có ích gì cho ta không ?
Bởi đó mà ta hãy chấp nhận thân phận con người yếu đuối của mình. Không chỉ chấp nhận mà còn vui mừngnữa cơ. Khi vui mừng chấp nhận con người yếu đuối của mình, ta mới cần đến ơn Chúa. Chúa nói với thánh Phao-lô: “Ơn Ta đủ cho con rồi, vì sức mạnh của Ta được biểu lộ trong sự yếu đuối của con”(x.2Cor 12,9).
Ta vui mừng chấp nhận con người mình yếu đuối, không phải cứ để ta mãi như vậy mà là để ta cố gắng nhờ ơn Chúa và cố gắng với Chúa. Càng ý thức con người của ta yếu đuối bao nhiêu thì ta càng phải cầu nguyện và càng cần đến ơn Chúa bấy nhiêu. Ai không cầu nguyện thì người đó không cần đến ơn Chúa và Chúa giúp. Ai không cần đến Chúa là người kiêu ngạo, là con cái của ma quỉ. Quả thật, ta mà không cầu nguyện thì ta không có ơn Chúa, ta sẽ không nên thánh nên thiện được đâu.
Vậy bước đầu tiên là ta phải chấp nhận con người yếu đuối của mình, vì đó là thân phận của một con người. Sau đó là vui mừng vì những yếu đuối đó, vì ta có cơ hội ăn năn sám hối và ta hãy siêng năng cầu nguyện. Để với ơn Chúa và sức mạnh Chúa ban, ta sẽ làm cho con người của ta nên mạnh mẽ, nên thánh nên thiện. Đúng như lời xác tín của thánh Phao-lô: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”. Ta cũng hãy nhớ và xác tín lời này cho chính ta nữa.
Chúa Giêsu rảo khắp nơi để rao giảng Tin Mừng. Và khi có dịp, Ngài ghé lại Nadaret, quê hương TN 14-B124
Chúa Giêsu rảo khắp nơi để rao giảng Tin Mừng. Và khi có dịp, Ngài ghé lại Nadaret, quê hương của Ngài để rao giảng cho đồng hương của Ngài.
Đến ngày sabat, Ngài vào Hội đường và giảng dạy. Theo tục lệ Do Thái, người ta thường mời những người có uy tín hay giỏi về Kinh Thánh giảng dạy. Nhiều người nghe đều thán phục và ngạc nhiên vì lời giảng của Ngài, vì “Ngài giảng như Đấng có uy quyền”. Họ ngạc nhiên vì chưa từng có ai giảng súc tích và lưu loát như thế. Nhưng sau đó họ lại đặt vấn đề: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta khôn ngoan như thế nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta là ai? Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em của ông là các ông Giacôbê…, và thánh Maccô kết luận:“họ vấp ngã vì Ngài”
Các thánh sử khác không đề cập đến bà Maria, nhưng thánh Maccô lại nhấn mạnh đến điều này, ngụ ý cho thấy dân Nadaret muốn khinh dễ và nhục mạ Ngài khi nói rằng Ngài là con bà Maria. Họ bươi móc nguồn gốc của Ngài. Nếu chúng ta không hiểu tập tục Do Thái, chúng ta không thể hiểu tại sao họ không nói là con ông Giuse mà lại nói là con bà Maria.
Theo tục lệ Do Thái, khi hai người đã được đính hôn với nhau hợp pháp thì có quyền thân mật với nhau như vợ chồng, nếu có con trước thì đến ngày cưới người ta vẫn tổ chức đám cưới rình rang như mọi người. Nhưng điều này rất khó được chấp nhận. Những gia đình đạo đức không ai cho phép như thế.
Maria, khi về với Giuse đã mang thai hơn ba tháng. Họ nhắc đến con bà Maria là để nói rằng Ngài không danh giá gì.
Tại sao từ thán phục họ biến sang khinh miệt?
Điều này dễ hiểu thôi. Trong xã hội nào cũng có những hạng người ganh ghét, không chấp nhận người ta hơn mình. Bệnh ganh ghét này là một bệnh khó chữa. Trong cộng đoàn giáo xứ hay dòng tu, ngay cả trong một gia đình cũng thường xảy ra những trường hợp ganh tị như thế.
Cơn bệnh này không bao giờ lành khi người bị ganh tị không bị hạ bệ. Cơn bệnh này có thể kéo dài hàng chục năm…
Chúa Giêsu là nạn nhân của căn bênh trầm kha này và hiệu quả là Ngài bị như tê liệt, không thể làm phép lạ tại quê hương mình, trừ một vài người được chữa lành. Thượng Tế và kinh sư Do Thái đã mang căn bệnh này và họ đã giết Ngài.
Ngài đòi điều kiện tiên quyết để làm phép lạ, cứu giúp những người đang gặp cảnh khốn cùng là lòng tin. Nhiều lần, các thánh sử đã ghi lại câu nói: “Lòng tin của con đã cứu lấy con”. “Con tin thế nào thì được thế ấy”.
Vì kiêu căng và tự ái, không dám nhìn sự thật của chính mình, dân làng Nadaret đã đánh mất cơ hội hưởng nhờ những hồng ân Chúa ban. Thái độ từ chối này làm cho Chúa Giêsu đau lòng: Ngài ngạc nhiên vì họ không tin.
Đứng trước Lời Chúa, dù dưới hình thức nào, dù qua một người nào, Chúa đòi hỏi chúng ta một thái độ chấp nhận thành tâm. Nếu Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta hôm nay như giữa dân Nadaret, chắc Ngài cũng phải ngạc nhiên vì thái độ của nhiều người trong chúng ta, vì tuy không hẳn là từ chối, chúng ta cũng nghe lơ là, cho xong việc. Ra khỏi nhà thờ là quên hết những gì đã nghe. Vì thế mà Lời Chúa không đâm rễ sâu vào tâm trí chúng ta.
Chúng ta thích nghe những gì khác hơn là Lời Chúa. Cũng nên nhớ rằng, Lời Chúa là chính Chúa được trao ban cho chúng ta qua Giáo Hội. Chúng ta không đón nhận, chúng ta sẽ không bao giờ tìm được bình an, vì chỉ có Chúa mới là sự bình an cho chúng ta.
Thế giới hôm nay đã từ chối Chúa, xem Ngài như không cần thiết. Hậu quả là chiến tranh, tội ác, khủng bố, bạo lực bao trùm cuộc sống con người hôm nay. Nền văn minh sự chết tràn ngập thế giới, và nhiều người đang oi ngợp không lối thoát.
Nhiều tâm hồn thiện chí đã kêu gào: “hãy chữa lành thế giới”. Nhưng phương thuốc nào sẽ hữu hiệu? Chỉ có một danh duy nhất dưới gầm trời này có thể cứu vớt được thế giới: Giêsu Nadaret. Chỉ có Ngài mà thôi! Tất cả những nỗ lực của con người chỉ là bọt bèo, mong manh.
Chúng ta vững tin vào Ngài. Dù không cứu được thế giới, chúng ta cũng có thể đem lại bình an cho những người quanh ta đang tìm ánh sáng. Tin Chúa, chúng ta không tin vào một lý thuyết mà tin vào một con người, một Thiên Chúa làm người. Ngài là Thiên Chúa mặc lấy xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Dân Nadaret đã chối từ vì họ mù quáng, còn chúng ta? Chúng ta có sáng suốt hơn họ không?
Đức tin là một hồng ân, chúng ta có quyền lãnh nhận nhưng cũng có quyền từ chối. Thiên Chúa không áp đặt chúng ta, Ngài tôn trọng tự do của chúng ta. Chúng ta có quyền chọn Ngài hay từ chối Ngài.
Hãy mở cửa cho Chúa. Ngài luôn mời gọi. Ngài mong ước chúng ta nghe tiếng Ngài để được sống. Abraham đã nghe tiếng Chúa gọi ông ra đi. Ông không biết ra đi sẽ đem lại cho ông điều gì, nhưng ông tin rằng Đấng kêu gọi ông vẫn lớn hơn ông. Ông vững tin và ra đi, ra đi trong vô định của Thiên Chúa. Ông trao trọn cuộc sống của ông cho Đấng đã gọi ông. Tin là như thế, là nghe theo tiếng gọi của Đấng mà chúng ta nhìn nhận là Đấng nắm quyền sinh tử trên chúng ta, trao trọn cuộc sống chúng ta trong tay Ngài. Dân Nadaret đã biết Abraham là tổ phụ của họ, và đã biết rõ cuộc sống của ông như thế nào, nhưng họ không có can đảm để chấp nhận tiếng gọi của Thiên Chúa qua con người của Giêsu Nadaret.
Tin cũng là tìm Chúa không thôi cho đến khi tìm được, và xác tín rằng chúng ta sẽ tìm được. Chúng ta không nắm Chúa trong bàn tay. Ngài luôn vượt xa, thật xa, những gì chúng ta biết hay hiểu về Ngài. Chúa vẫn vượt xa tầm nhìn của chúng ta. Hãy tìm thì sẽ gặp.
Tin cũng là trở nên như trẻ nhỏ, nhìn mọi sự với cặp mắt ngây thơ như trẻ nhỏ, hoàn toàn tín thác. Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta tin như thế, tức là vô điều kiện, vì Ngài vẫn ở trên chúng ta, và nhờ Ngài mà chúng ta được sống.
Tin là xác tín rằng Chúa vẫn ở với tôi trong mọi nơi, mọi lúc, trong mọi tình huống của cuộc sống.
Dân Nadaret không thể nghĩ rằng Thiên Chúa có thể sử dụng một con người như ông Giêsu, một anh thợ mộc nghèo, để mang đến cho họ những hồng ân cao quí. Họ tưởng rằng Thiên Chúa quá cao cả không thể chú ý đến một con người có lý lịch không mấy tốt đẹp như ông Giêsu, con bà Maria. Họ quên rằng, trong lịch sử của họ, những người Chúa chọn để làm những công việc lớn lao chỉ là những người vô danh, rất đơn thường như Đavít, một tên chăn chiên, tiên tri Amốt là một người tỉa cây vả…
Họ mù quáng vì ganh tị. Họ đã đánh mất cơ hội đón nhận nhiều hồng ân. Họ không thể ngờ rằng, ông Giêsu đó chính là hồng ân tuyệt hảo Chúa dành cho họ. Thay vì hãnh diện vì người đồng hương của mình, họ lại từ chối Ngài.
Chúng ta có nghĩ rằng, mỗi người chúng ta có thể được sử dụng để đem niềm vui và ơn cứu độ cho người khác không? Hãy để cho Chúa có quyền trên chúng ta. Hãy khiêm tốn lãnh nhận những gì Chúa trao ban qua nhữ
Nơi bàn thờ này, chúng ta sẽ gặp Chúa Giêsu Nadaret, cũng là Chúa Giêsu mà ngày xưa dân Nadaret đã từ chối không đón nhận. Chúng ta hãy nhìn Ngài với tất cả niềm tin và lòng biết ơn vì Ngài đã thân hành đến với chúng ta và tự ban mình cho chúng ta. Còn gì êm đềm hơn là thấy Thiên Chúa của chúng ta trở thành bánh nuôi sống chúng ta? Ngài chính là kho tàng tình yêu từ trời ban xuống cho chúng ta. Mặc cho ai từ chối, chúng ta vẫn tin.
Đây chính là thái độ dân chúng nơi làng mạc Đức Kitô đối xử với Ngài. Thực tế cuộc sống là TN 14-B125
Đây chính là thái độ dân chúng nơi làng mạc Đức Kitô đối xử với Ngài. Thực tế cuộc sống là giết chết niềm vui, sẽ tức khắc sanh cái buồn, cái khổ não ào vào chiếm chỗ. Cái buồn mang thai từ lúc nào không ai biết nhưng nó sẵn sàng sanh con bất cứ khi nào có cơ hội. Đức Kitô và các môn đệ trong tâm tình vui mừng trở về quê. Ngài cũng như chúng ta, trong tâm trí cũng rạo rực, vui mừng, mong mỏi, hình dung ra trong đầu khung cảnh làng mạc, cây cổ thụ này, con suối nọ và đồi ôliu cành trĩu trái xanh dương. Trong lòng Ngài cũng mong chờ ngày mẹ con gặp lại nhau, mở rộng vòng tay ôm chằm thân nhân và bàn tay xiết chặt tình thân hữu khi gặp nhau. Tay bắt, mặt mừng vui vầy xum họp gia đình, rồi tiệc tùng chén đũa, tiếng cụng li vang tiếng thuỷ tinh. Ngày cuối tuần Ngài và các môn đệ vào Đền Thờ giảng dậy. Dân chúng rất đỗi ngạc nhiên về giáo huấn của Ngài. Họ ngạc nhiên về sự khôn ngoan, thông thái và phép lạ Ngài thực hiện. Vì điểm này mà họ giết chết niềm vui trong Ngài. Đám đông bắt đầu bàn tán với nhau và họ tự hỏi bởi đâu Ngài được thông thái, khôn ngoan như thế? Kinh thánh ghi lại 'họ vấp ngã vì Người' Mc 6,3. Vấp ngã như thế nào? Họ chối bỏ Đức Kitô về phương diện thể lí và quan trọng hơn là về phương diện tâm linh.
Về thể lí - Xã hội thời đó nặng về giai cấp. Sanh ra trong giai cấp nào thì sau này sẽ sống trong giai cấp đó. Đức Kitô là con bác thợ mộc nên dù thông thái đến đâu cũng là con thợ mộc, không thoát khỏi gốc rễ, nghề thợ mộc. Điểm thứ hai đám đông nhắc đến 'ông ta là bác thợ, con bà Maria' c.3. Điều này tái xác nhận Đức Kitô gốc thợ mộc và là con bà Maria. Việc không nhắc đến tên cha có thể hiểu theo hai cách. Cách tốt hiểu theo nghĩa ông Giuse đã qua đời và bà Maria là mẹ goá, con côi. Hiểu theo nghĩa nói xéo, móc méo câu trên ngụ í nói ông ta là đứa con hoang, không cha vì thế họ cố í nhắc tên mẹ mà lờ tên cha.
Về tâm linh - Đám đông nhận biết sự khôn ngoan, thông thái và phép lạ Đức Kitô thực hiện nhưng thắc mắc bởi đâu mà ra? Từ ma quỷ hay từ quyền năng Thiên Chúa. Chúng ta nhớ lại trước đó nhóm Kinh sư từng nói 'Đức Kitô dựa thế quỷ mà trừ quỷ' Mc. 3,22. Thứ hai, đám đông không nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa đang sống giữa họ. Thứ ba đám đông không có đức tin nơi Đức Kitô. Thứ tư đặt nghi vấn về quyền năng của Đức Kitô chính là nghi ngờ về quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Điểm thất bại khác, Đức Kitô không đạt được mục đích của chuyến đi. Ngài về thăm xóm làng nhưng quan trọng hơn chính là ban Tin Vui cho dân làng nhưng dân làng từ chối đón nhận Tin Vui. Đức Kitô buồn ít khi người ta nói về thời thơ ấu của Ngài nhưng buồn da diết khi người ta từ chối đón nhận Tin Mừng ơn cứu độ Ngài ban. Kết luận, người ta từ chối Ngài và từ chối cả Tin Mừng Ngài ban.
Thiên Chúa có khả năng biến nỗi buồn thành niềm vui, bi quan thành lạc quan. Đức Kitô dùng kinh nghiệm bị dân làng chê bai hướng dẫn các môn đệ bởi trong tương lai các ông sẽ được sai đi rao giảng và chắc chắn sẽ có kẻ đón, người xua. Khi bị xua đuổi khỏi làng các ông biết cách cư xử. Không cần phải nổi nóng, không cần trả đũa, cản trở công việc đang làm nhưng lặng lẽ, âm thầm, nhẹ nhàng bước khỏi làng đó để sang làng khác, tiếp tục công việc rao giảng bởi việc rao giảng là chính, là quan trọng mọi vấn đề khác là thứ yếu.
“Cha Ta hằng làm việc, thì Ta cũng làm việc” (Ga.5, 17).
Đó là câu Đức Giêsu nói với người Do Thái khi họ tra vấn tại sao Ngài chữa bệnh vào ngày sabát TN 14-B126
Đó là câu Đức Giêsu nói với người Do Thái khi họ tra vấn tại sao Ngài chữa bệnh vào ngày sabát, tức ngày nghỉ theo luật của người Do Thái. Thiên Chúa luôn làm việc: Ngài lôi kéo con người đến với Ngài. Ngài có thể dùng biến cố này biến cố kia, hoặc người này người kia, hoặc ngay cả những giới hạn của mỗi người để giúp con người đến gần Thiên Chúa.
I. Vẫn có một tiên tri ở giữa họ
Tiên tri thường được nhiều người hiểu như người biết trước biến cố sẽ xảy ra. Một người như vậy, cho thấy người đó có quyền năng của Thiên Chúa. Thế nhưng theo đúng nghĩa, tiên tri là ngôn sứ, người đại diện Thiên Chúa nói với dân chúng, người nói với dân chúng theo lệnh của Thiên Chúa. Tiên tri, là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện và quan tâm đến dân Ngài.
Trong lịch sử Do Thái, Thiên Chúa luôn yêu thương và săn sóc dân. Người Do Thái đã nhận ra các thẩm phán, các vua, là những người được Thiên Chúa xức dầu, là những người thay Thiên Chúa dẫn dắt và chăn dắt dân. Môsê là người được Thiên Chúa chọn để dẫn dân ra khỏi Aicập (Xh.3, 9-10), Samson là thẩm phán được Thiên Chúa dùng để giải phóng dân khỏi cảnh đàn áp của người Philitinh (Tp.13-16), Samuel là thẩm phán được sai tới để chăn dắt dân.
Tiên tri là người biết nhìn lịch sử, nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa trong cuộc sống mà nhiều người khác không nhận ra. Cũng có tiên tri không muốn thi hành chức năng “nói nhân danh Thiên Chúa cho dân” vì vị tiên tri biết rằng, mình có loan báo, thì dân chúng và những người lãnh đạo dân cũng chẳng nghe; như vậy, rao giảng chẳng có ích lợi gì mà chỉ chuốc lấy sự thù ghét và tai họa. Về điều này, tiên tri Yêrêmia là một điển hình. Lời Chúa trong sách tiên tri Êdêkiel hôm nay cho thấy, cho dù dân chúng có không nghe lời cảnh báo của Thiên Chúa qua tiên tri, thì ít nhất khi một tiên tri thi hành chức năng ngôn sứ của mình, cũng làm cho con người thời đại đó biết rằng, có một tiên tri đang hiện diện giữa họ: Thiên Chúa vẫn đang quan tâm và săn sóc lo lắng cho họ, cho dù họ có vâng nghe Thiên Chúa hay không.
II. Dầu vậy Đức Giêsu cũng chữa một vài bệnh nhân
Đức Giêsu được dân chúng cho là một tiên tri, và là một tiên tri lớn (Mt.16, 14). Với người Do Thái, Môsê là một tiên tri lớn. Người Do Thái vẫn mong ước vị tiên tri lớn cỡ tầm mức Môsê xuất hiện; vì như xưa Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu qua Môsê, thì khi vị tiên tri lớn tầm cỡ của Môsê xuất hiện, Thiên Chúa cũng sẽ làm những điều trọng đại cho dân tộc Do Thái như ngày xưa Ngài đã làm.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, đã chữa lành nhiều bệnh nhân, đã phục sinh người chết, đã cho kể điếc được nghe người câm nói được kể què được đi. Ngài là một tiên tri, và là một tiên tri lớn. Chính Gioan tẩy giả cũng nghĩ rằng Đức Giêsu là vị tiên tri phải đến, vị tiên tri mà dân Do Thái hằng mong ước. Có thể đó là lý do tại sao Gioan lại sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến không?” Đã có lúc dân Do Thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, vì họ nghĩ rằng Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân khỏi ách thống trị của người Roma (Ga. 6, 15).
Không có tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương mình. Người ta quá thành kiến về quá khứ hoặc thành phần giai cấp xã hội của vị ngôn sứ, nên không nhận ra sứ điệp hoặc sự can thiệp của Thiên Chúa qua họ. Khi Đức Giêsu trở về làng Nadarét, dân chúng đã không tiếp đón Ngài như một tiên tri, cho dù làng Nadarét là một làng nhỏ, và dân chúng nơi đó cũng không thông thái gì hơn những người ở thành thị khác ở đất nước Do Thái. Vì họ thiếu niềm tin, nên Đức Giêsu không thể làm những dấu lạ cả thể, Ngài phải ra đi. Tuy vây, “Ngài cũng đã làm một vài dấu lạ bằng cách đặt tay chữa lành một số người ốm đau bệnh tật”. Thiên Chúa vẫn luôn chứng tỏ sự hiện diện và quan tâm của Ngài đối với con người, cho dù con người có cố tình từ chối. Đức Giêsu là sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa cho con người, không chỉ đối với những người làng Nadarét, nhưng còn cả đối với tất cả người Do Thái thời đó, và còn cho tất cả con người của mọi thời đại sau nữa. Đức Giêsu là dấu chỉ và biểu tượng Thiên Chúa đang ở với con người.
III. Ơn Ta đủ cho con
Trước biến cố ngã ngựa trên đường đi Đamát, Phaolô là nỗi kinh hoàng đối với Kitô hữu. Tuy nhiên một khi được ơn trở lại, Phaolô lại là dấu chỉ của Thiên Chúa quyền năng, Đấng luôn hoạt động và làm con người trở lại với Ngài. Cả cuộc đời còn lại, Phaolô hăng say loan báo Tin Mừng Phục Sinh: Thiên Chúa đã làm những điều cả thể cho con người nơi Đức Giêsu Kitô. “Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi cả, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi”. Với những người biết Phaolô, Phaolô là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa luôn hoạt động nơi con người.
Với cá nhân Phaolô, “cái dằm” đâm vào xác thịt của Phaolô lại là điều Thiên Chúa dùng để làm Phaolô ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa và làm Phaolô gần gũi với Thiên Chúa. “Đã ba lần tôi xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt tôi, nhưng Ngài nói: ơn Ta đủ cho con”. Thiên Chúa không cất “cái dằm” khỏi Phaolô, nhưng Thiên Chúa hứa ban ơn để Phaolô vượt lên được: “Ơn Ta đủ cho con”.
Nhiều người cũng có cái dằm nơi xác thịt mình. Có lẽ những người này cũng có kinh nghiệm xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt mình. Nhiều người trong họ có kinh nghiệm “cái dằm” đó vẫn tồn tại cho dù họ đã thành khẩn kêu xin Chúa nhiều lần. Tuy nhiên, không biết những người này có ý thức được rằng: câu Thiên Chúa nói với Phaolô cũng là câu Thiên Chúa muốn nói với mỗi người không? “Ơn Ta đủ cho con”. Hãy tin tưởng nơi Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã khởi đầu những điều kỳ diệu nơi mỗi người, thì cũng chính Thiên Chúa là Đấng sẽ hoàn thành những gì Ngài đã khởi đầu. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài vẫn đang hoạt động nơi mỗi người qua Thánh Thần của Ngài. Chỉ cần mỗi người tin tưởng và đặt tất cả hy vọng nơi Ngài mà thôi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Xin bạn kể một kinh nghiệm Thiên Chúa đã hoặc đang tác động trên bạn, nếu được. 2. Với kinh nghiệm của bạn, Thiên Chúa là ai?
Động thái thản nhiên là một phong cách sống độc đáo – dễ mà khó. Người thản nhiên là người TN 14-B127
Động thái thản nhiên là một phong cách sống độc đáo – dễ mà khó. Người thản nhiên là người bình tĩnh, điềm đạm, điềm nhiên, có thể làm chủ mọi tình huống và chính mình. Họ là người “tự động” và “chủ động”, chứ không “bị động” hoặc “thụ động”. Phong cách “cứ là chính mình” không phải ai cũng làm được – tức là không xu nịnh, không tâng bốc bất cứ ai, nhưng không đè bẹp ai. Phong cách đó được người xưa gọi là “cái dũng của thánh nhân”.
Người có phong cách thản nhiên không vui quá, cũng không buồn quá. Tuy nhiên, họ thường “bị kết án oan sai” vì người ta không đủ hiểu họ nên cho rằng họ “lạnh như tiền”, khinh người, tự kiêu,...
Cuộc sống luôn mang tính thực tế, thế nhưng lại có những dạng “thực tế buồn”. Một người bình thường, không thấy có gì nổi trội, nhất là khi người đó xuất thân từ một gia đình không uy tín, không danh giá, cha mẹ nghèo, ít học,... thế mà bỗng nhiên làm được điều “khác người”. Tuy nhiên, dù họ có làm được việc gì “hơn người” thì cũng chẳng ai tin. Xã hội là thế. Xưa nay vẫn thế. Đó là một dạng “hàm oan”, một trong các dạng thực-tế-buồn thường thấy nhất. Nhưng kinh nghiệm cho thấy một triết-lý-sống thú vị: Chỉ có người giỏi mới nhìn thấy cái giỏi của người khác, và công nhận cái giỏi của họ. Người giỏi luôn thản nhiên.
Chính Chúa Giêsu muốn làm tốt mà vẫn bị người ta ghen ghét, Ngài cũng đành “bó tay” khi về quê hương, và Ngài đã phải lắc đầu mà thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4; Mt 13:57; Lc 4:24). Con người là thế, họ muốn thách thức với ngụ ý như câu tục ngữ: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình!” (Lc 4:23). Con gà tức nhau tiếng gáy. Những người ghét mình, chẳng ai đâu xa lạ, họ chính là những người thân quen nhất. Một sự thật quá phũ phàng và đáng buồn biết bao!
Đời là thế! Chúa Giêsu còn phải “lắc đầu” thì phàm nhân chẳng còn cách nào khác. Đúng là “miệng nam-mô, bụng một bồ dao găm”, chẳng sai chút nào. Mà kể cũng lạ, không làm được thì thôi, người khác làm được thì họ lại ghét, họ kèn cựa đủ cách, gièm pha đủ điều, trù dập tới cùng. Nhóm Pha-ri-sêu, nhóm Sa-đốc, các kinh sư, các nhà thông luật, các tư tế,… là loại “siêu nhân” như vậy, và đã bị Chúa Giêsu nhiều lần thẳng thắn nguyền rủa là “đồ khốn”, vì loại người “mỏ nhọn” (nhỏ mọn) như vậy là hèn hạ!
Thấy mình bị đối xử như vậy, những người “yếu bóng vía” sẽ sợ, có thể “vào hùa” với họ để được “bình an”. Muốn duy trì phong cách thản nhiên cần có sự can đảm, vì có can đảm mới khả dĩ hành động. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en bộc bạch: “Một thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Người phán với tôi và làm cho chân tôi đứng. Người phán với tôi: Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay” (Ed 2:2-3). Đến ăn nói với dân ngang ngược như vậy, chắc chắn ngôn sứ Ê-dê-ki-en phải can đảm lắm. Lòng can đảm đó chính là ơn Chúa.
Họ là “dân anh chị”, là “đại ca” thứ thiệt chứ không phải là dân vừa: “Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: ‘Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này’. Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng” (Ed 2:4-5). Thiên Chúa có phong cách độc đáo là “tùy hỷ”, nghe hay không nghe là tùy ý, không ép.
Những người sống thẳng thắn thì thường thua thiệt, bị ghen ghét. Là con người, họ cũng buồn lắm, nhưng họ không thể “gió chiều nào ngả theo chiều nấy”. Và họ chỉ còn biết tâm sự nỗi lòng với Đấng mà họ luôn tôn thờ và tín thác: “Con ngước mắt hướng nhìn lên Chúa, Đấng đang ngự trên trời. Quả thực như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ, mắt con cũng hướng nhìn lên Chúa là Thiên Chúa của con, tới khi Người xót thương chút phận” (Tv 123:1-2).
Cầu đêm, nguyện ngày, miệt mài kết hiệp với Thiên Chúa ở mọi nơi, mọi lúc, dù họ làm bất cứ việc gì. Nỗi buồn trĩu nặng tâm can, nhưng lời cầu xin của họ như không được đáp lại. Chắc chắn không phải Thiên Chúa lãng tai hoặc làm ngơ, mà Ngài muốn chính họ xác nhận niềm tin tuyệt đối vào Ngài. Dù nhiều khi thất vọng nhưng họ không tuyệt vọng, họ vẫn một lòng tín nguyện: “Dủ lòng thương, lạy Chúa, xin dủ lòng thương, bởi con bị khinh miệt ê chề; hồn thật quá ê chề vì hứng chịu lời nhạo báng của phường tự mãn, giọng khinh người của bọn kiêu căng” (Tv 123:3-4). Tất nhiên Thiên Chúa sẽ “ra tay” đúng thời, đúng lúc, không sớm mà cũng chẳng muộn. Ngài không thể lặng nhìn tôi tớ ngài sa cơ thất thế, gặp nguy hiểm, phải chịu oan uổng quá sức: “Ngài có đó khi ta tưởng cô đơn, Ngài nghe ta khi chẳng ai đáp lại, Ngài thương ta khi tất cả hững hờ” (Thánh Augustinô).
Hiểu biết nhiều giúp tăng thêm tự tin. Tự tin là đức tính cần thiết để sống thản nhiên, nhưng tự tin thái quá có thể dẫn tới kiêu ngạo. Rất lô-gích! Thánh Phaolô tâm sự: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại” (2 Cr 12:7-8a). Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này” (2 Cr 12:7-8). Ai cũng sợ đau khổ, cả thể lý lẫn tinh thần. Thánh Phaolô cũng “nổi da gà” khi đối mặt với đau khổ, ông năn nỉ Chúa cứu thoát, thế nhưng Chúa vẫn tỏ ra như “vô tâm”, và rồi Ngài quả quyết: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12:7-8b). Nhiệm mầu quá, lạy Chúa tôi!
Được lời như cởi tấm lòng. Thế thì chẳng còn gì phải lo nữa. Thánh Phaolô phấn khởi chia sẻ: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12:9-10). Thế cờ hoàn toàn đảo ngược. Nhược điểm (điểm yếu) trở thành yếu điểm (điểm mạnh), sở đoản trở nên sở trường. Kỳ diệu vô cùng, phàm nhân không thể tưởng tượng nổi!
Thiên Chúa luôn như vậy. Ngài chịu đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, Ngài chịu nghèo khó để chúng ta được giàu có, Ngài chịu nhục nhã để chúng ta được rạng rỡ, Ngài chịu yếu đuối để chúng ta được mạnh mẽ, Ngài chịu chê bai để chúng ta được khen ngợi, Ngài chịu bị loại bỏ để chúng ta được đón nhận,... và cuối cùng, Ngài chịu chết một lần để chúng ta được sống mãi.
Cái gì đến sẽ đến. Đời là thế! Một lần nọ, Chúa Giêsu trở về thăm cha mẹ và xóm làng, cũng có các môn đệ đi theo. Đến ngày sa-bát, Ngài bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ bàn tán với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6:2).Lý do rất đơn giả và hiển nhiên: Đức Giêsu làm nghề mộc, là con của bác thợ mộc Giuse, con của Cô Maria, anh em họ với Giacôbê, Giôết, Giuđa và Simôn, chị em của Ngài là bà con lối xóm với họ (Mc 6:3). Hoàn toàn bình thường, chẳng có gì nổi trội. Họ đã vấp ngã vì Ngài với lý do quá đỗi bình thường. Có lẽ người ta không đủ hiểu để phân biệt sự khác nhau giữa điều bình thường và điều tầm thường. Điều bình thường nhưng chưa chắc là điều tầm thường, thậm chí có khi lại là điều phi thường.
Đời là thế! Và Đức Giêsu đưa ra một kết luận tất yếu: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4). Đáng sợ thật, nhưng một khi xác nhận và biết rõ như vậy rồi thì lại không đáng sợ nữa!
Thánh sử Mác-cô cho biết rằng, hôm đó Chúa Giêsu đã không thể làm được phép lạ nào tại đó, mà chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ (Mc 6:5), thậm chí chính Ngài cũng lấy làm lạ vì họ không tin (Mc 6:6). Lạ thật!
Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn thản nhiên, không xốn xang, không nao núng. Khi người ta không thích mình thì “tránh voi chẳng xấu mặt nào”, cứ thản nhiên và im lặng. Ai muốn nói gì thì nói, mình cứ là chính mình!
Lạy Chúa, xin trao ban cho con tặng phẩm là ơn khôn ngoan và hiểu biết, con không dám xin gì khác, nhờ đó con có thể hiểu biết thông thạo những gì cần thiết với một trái tim đầy ắp tình yêu thương và lòng thương xót như Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ con. Amen.
Chúng ta vẫn thường nói: “Giòi từ trong xương giòi ra”. Nghĩa là người ngoài có biết “chuyện kín TN 14-B128
Chúng ta vẫn thường nói: “Giòi từ trong xương giòi ra”. Nghĩa là người ngoài có biết “chuyện kín” của gia đình thì cũng do chính các thành viên trong gia đình đó “xì” ra. Chứ đèn trong nhà chưa tỏ làm sao ngoài ngõ đã hay?
Chuyện đời thường có những chuyện rất bình thường nhưng cũng lại… rất khác thường!
Một thần khí đã nhập vào Tiên tri Êdêkien đúng như lời Chúa phán với ông và làm cho chân ông đứng vững, vì trước đó Thiên Chúa đã báo: “Hỡi con người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây” (Ed 2:1). Ngài gọi ông là “con người”. Và Ngài chỉ nói thôi mà con người phải chuẩn bị tinh thần trước kẻo run sợ. Thiên Chúa phán với ông: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay” (Ed 2:3). “Dân phản nghịch” đó cũng là chính chúng ta. Thiên Chúa gọi chúng ta là “những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá”, và chính Thiên Chúa sai Tiên tri Êdêkien đến thông báo cho dân chúng biết những lời “Đức Chúa là Chúa Thượng phán dạy”. Thiên Chúa nói: “Chúng vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng” (Ed 2:5). Ngài hoàn toàn cho chúng ta tự do, nghe hay là tùy ý, nhưng vẫn phải nhận biết những “dấu chỉ” mà Ngài cho phép xuất hiện, đôi khi các “dấu chỉ” đó rất bình thường nên chúng ta dễ coi thường và bỏ qua.
Chúng ta chỉ là những phàm phu tục tử, đôi khi có mắt mà như không tròng, mặc dù hằng ngày chúng ta vẫn “ngước mắt hướng nhìn lên Chúa, Đấng đang ngự trên trời” (Tv 123:1), và “như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ, mắt chúng ta cũng hướng nhìn lên Chúa là Thiên Chúa chúng ta, tới khi Ngài xót thương chút phận” (Tv 123:2). Rất tha thiết khi cầu xin cho chính mình. Có khi chúng ta ích kỷ ngay trong lúc cầu nguyện!
Quả thật, không có Chúa thì chúng ta chẳng làm được trò trống gì (x. Ga 15:5). Mà ai trong chúng ta có làm được gì “khác” hoặc (có vẻ) “hơn” người một chút thì cũng chẳng được người khác công nhận, thậm chí còn bị ghen ghét và bị miệt thị. Tệ hại thay là người đó bị chính thân nhân và bạn bè xa lánh. Cuộc sống đời thường cho chúng ta thấy có những người khi “ra ngoài” thì được nhiều người khâm phục và ca tụng, nhưng khi về quê nhà thì bị dân làng và người thân nhìn bằng nửa con mắt. Thế cũng may lắm rồi, chứ người đó còn bị chê trách và xa lánh! Là con người, tất nhiên họ cũng không thoát khỏi những lúc cô đơn và buồn não lòng, thậm chí họ không dám làm gì thêm. Thế nên họ đêm ngày than thở với Chúa: “Dủ lòng thương, lạy Chúa, xin dủ lòng thương, bởi chúng con bị khinh miệt ê chề; hồn thật quá ê chề vì hứng chịu lời nhạo báng của phường tự mãn, giọng khinh người của bọn kiêu căng” (Tv 123:3-4).
Tuy nhiên, con người cũng rất dễ kiêu căng và tự mãn, vì kiêu ngạo là “mối tội” hàng đầu trong bảy mối tội. Người ta dễ ảo tưởng và kiêu ngạo hơn nếu có được chút tài năng bẩm sinh (thiên phú) nào đó, đặc biệt là được ơn Chúa, vì họ cứ tưởng mình hơn người, là “cái rốn” của vũ trụ, là niềm mơ ước của người khác. Vì thế, rất cần liệu pháp để chữa kiêu ngạo là khiêm nhường: “Khiêm nhường chớ kiêu ngạo” (Kinh “Cải Tội Bảy Mối”).
Thánh Phaolô tâm sự: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại” (2 Cr 12:7). Chính thánh nhân tự thú: “Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này” (2 Cr 12:8). Nhưng Chúa vẫn “làm ngơ”, và còn quả quyết với thánh nhân: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12:9a). Mạnh mà yếu; yếu mà mạnh. Thiên Chúa luôn có những kiểu “ngược đời” kỳ lạ. Cảm nhận được điều đó, Thánh Phaolô nói: “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi” (2 Cr 12:9b). Thánh nhân hãnh diện nói thêm: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12:7-10).
Một lần nọ, Đức Giêsu về quê quán của Ngài, có các môn đệ đi theo. Đến ngày sa-bát, Ngài bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên về những lời nói khôn ngoan của Ngài, cho nên họ bàn tán: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6:2). Họ hỏi nhau vậy vì họ không muốn tin vào những gì họ chứng kiến tỏ tường, vả lại họ biết tỏng Chàng Giêsu kia là ai. Còn ai trồng khoai đất này! Đúng vậy, Chàng Giêsu chỉ là con trai Bác thợ mộc Giuse và Cô Maria, gia đình nghèo rớt mồng tơi ai mà không biết, còn là anh em họ của mấy anh chàng Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn, và là anh chị em với bà con lối xóm chứ ai xa lạ.
Làm sao mà tin được, làm sao mà coi trọng được, làm sao mà tâm phục khẩu phục khi Chàng Giêsu đã từng sống ở cái làng Nadarét nhỏ bé, từng làm mộc với Bác Giuse, từng chơi đùa với họ chứ? Vì thế, họ dè bỉu Ngài, khinh miệt Ngài, và cuối cùng, “họ vấp ngã vì Ngài” (Mc 6:3).
Đức Giêsu biết họ nghĩ gì nên nói với họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4). Ngài nói nhẹ nhàng mà thâm thúy quá, xoáy vào tận đáy lòng người. Chuyện đời thường như thế vẫn hằng ngày xảy ra khắp nơi, từ thôn quê tới thành thị, từ người nhỏ tới người lớn, từ thường nhân tới người có chức tước, từ người học ít tới người học nhiều, từ người đời tới người có niềm tin tôn giáo,… Chúng ta vẫn nhìn nhau bằng những “ánh mắt mang hình viên đạn”, dành cho nhau những lời nói “sắc như dao cau”, với những động thái “giết người không cần dao”,… Một phần cũng vì “con gà tức nhau tiếng gáy”.
Thánh Mác-cô kể: “Ngài đã không thể làm được phép lạ nào tại đó, chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ” (Mc 6:5). Chúa Giêsu còn “bó tay” trước động thái của những người đồng hương huống chi chúng ta, những người không đáng xách dép cho Ngài!
Từ cổ chí kim, thời nào cũng vậy, nhưng có lẽ ngày nay người ta coi trọng bề ngoài và “nặng” về vật chất hơn. Người nghèo nói chẳng ai nghe, có nói đúng cũng hóa sai; người giàu nói gì cũng được lắng nghe, có nói sai cũng hóa đúng. Tục ngữ Việt Nam nói: “Cả vú lấp miệng em”. Người giàu có thể biến đen thành trắng, có tội thành vô tội, thậm chí biến dạng cả công lý! Có thể nghèo không là tội nhưng là “vạ”. Tục ngữ Việt Nam so sánh: “Văn hay chữ tốt không bằng ngu dốt lắm tiền”. Một sự thật quá phũ phàng!
Chúa Giêsu nói đúng và làm hay, nhưng chỉ vì “tội nghèo” nên không ai thèm nghe, thậm chí còn bị người ta lấy đá ném, bị kết án tử và chết nhục nhã trên thập giá. Chính Ngài cũng lấy làm lạ khi thấy “họ không tin” (Mc 6:6). Chúng ta là môn sinh, là tôi tớ, là bụi tro, tất nhiên cũng không thoát khỏi sự khinh ghét của người khác!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết chân nhận tài năng và công sức của người khác, đừng bao giờ ghen tỵ với người khác. Xin Chúa giúp chúng con luôn biết sống khiêm nhường và yêu thương, tất cả để tôn vinh Ngài mà thôi, đồng thời giúp chúng con đừng bao giờ tỏ ra chút gì kiêu căng tự mãn, dù chỉ là động thái nhỏ nhất. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Con người sống bên nhau thường hay bị “quen quá hóa nhàm” hay còn gọi là “gần Chùa gọi Bụt TN 14-B129
Con người sống bên nhau thường hay bị “quen quá hóa nhàm” hay còn gọi là “gần Chùa gọi Bụt bằng anh”. Xem thường người bên cạnh và ca tụng người xa lạ. Chê sản phẩm của đồng hương lại đề cao sản phẩm nước ngoài. Đôi khi sự chênh lệch chẳng là bao. Có khi ngược lại hàng Việt Nam lại chất lượng cao hơn hàng ngoại. Người Việt Nam hơn hẳn người nước ngoài.
Có một lần tôi qua Mỹ và vào một siêu thị mua sắm, sau khi tìm kiếm mãi tôi cũng chọn cho mình một cái áo thun phù hợp giữa hàng trăm ngàn cái áo. Người bạn đi cùng bảo tôi: coi chừng lại là Made in Việt Nam! Và quả thật khi nhìn kỹ đúng là hàng Việt Nam xuất khẩu qua Mỹ.
Đúng là “Bụt nhà không thiêng” hay nói như lời Chúa Giê-su: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.”
Thực vậy, Chúa Giê-su trong thân phận con người cũng chịu sự đời nghiệt ngã ấy. Người ta đánh giá nhau không phải do tài năng mà do thành kiến có sẵn để rồi dè bỉu chê bai. Và người ta cũng đánh giá Chúa với cái nhìn định kiến có sẵn về gia thế của Người. Mặc dù danh tiếng Chúa Giê-su đã vang dội nhiều nơi nhờ những lời rao giảng khôn ngoan, nhờ việc chữa lành nhiều bệnh nhân, thế nhưng khi trở về quê quán, những người đồng hương chỉ nhìn vào gia thế thanh bần của Chúa Giê-su, chỉ nhìn đến anh chị em họ hàng của Người thuộc hàng dân dã, và ngay cả bản thân Người trước đây cũng chỉ là một anh thợ mộc bình dị trong làng, nên họ đã không nhận ra thiên tính nơi Người mà chỉ xì xào bàn tán với nhau: "Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Người" (Mc 6,3)
Tiếc thay, việc đánh giá Chúa Giê-su dựa vào gia thế, nghề nghiệp mà không dựa vào phẩm chất của Người nên dân làng Na-da-rét đã đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Chúa Giê-su ưu ái dành cho họ.
Và hôm nay chúng ta cũng đánh mất nhiều sự trợ giúp từ những người thân cận chỉ vì chúng ta đã quá xem thường nhau.
Có một lần tôi gặp một bạn trẻ cùng quê với tôi ở Gia Kiệm, anh là một người rất thành đạt. Tôi hỏi: sao không về quê mở mang cho xứ quê nhà? Anh bạn trẻ ấy nói: có ai tin mình đâu mà có thể làm được gì cho xứ nhà!
Một lần tôi đến thăm và ăn cơm với một gia đình người quen. Cơm nấu rất ngon nên tôi khen thế nhưng cô vợ bảo: thế mà chồng con ngày nào cũng chê ăn chẳng ra gì!
Và còn đó những bạn trẻ tài năng vẫn bị cha mẹ xem thường, và vẫn còn đó những người đồng hương bị anh em tẩy chay xem thường, và vẫn còn đó những cặp vợ chồng luôn xem thường nhau bằng những lời khinh khi xúc phạm đến nhau.. .
Cuộc đòi sẽ đẹp biết bao nếu mỗi người biết nhìn nhận giá trị của nhau, biết nhận ra cái tốt của nhau để khích lệ thay vì chỉ tìm cái xấu để bôi nhọ xem thường. Xin Chúa giúp chúng ta đủ khôn ngoan nhận ra giá trị lớn lao của nhau, để có thái độ tôn trọng và tri ân. Xin Chúa giúp sức để chúng ta đừng bao giờ thất vọng về bản thân mà biết nhận giá ưu điểm của mình để cống hiến cho tha nhân trong khả năng của mình.
Cuốn sách của Thiên Chúa đang mở ra. Cuốn sách ghi Lời Chân Lý. Cuốn sách mà Tiên tri Ezêkiel TN 14-B130
Cuốn sách của Thiên Chúa đang mở ra. Cuốn sách ghi Lời Chân Lý. Cuốn sách mà Tiên tri Ezêkiel đã thị kiến với Lời rằng: “Chính ta đã sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân đang phản nghịch chống lại Ta, chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày, mặt dạn, lòng chai dạ đá, chính ta sai ngươi đến với chúng” (Ed 2,3-4).
Cuốn sách ấy tiên báo về chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, và trang Tin Mừng hôm nay, qua tường thuật của Thánh Marcô, quả thực đã ứng nghiệm, không sai. Con người đồng thời, đồng hương của Chúa Giêsu không thể nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa, và tỏ ra “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” trước những lời rao giảng của Ngài. Họ không biết được, và cũng không chịu mở lòng ra để biết được Ngài là Đấng Thiên sai. Họ chỉ muốn nhìn thấy cái trước mắt là thân thế sự nghiệp quá sơ sài của Ngài để rồi trách cứ một cách ngạo mạn: “Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria và là anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm của chúng ta sao?” (Mc 6,3).
Những con mắt thịt hai ngàn năm trước
Thì ra, từ ngàn năm trước, người ta đã có thói quen thẩm định tư cách một con người bằng cách nhìn vào thế, thân, ngân, lý! “Nhất thế, nhì thân, tam ngân, tứ lý”. Họ chỉ nhìn con người bằng con mắt con người, và con người ấy chỉ được trọng vọng khi đáp ứng được cái yêu cầu rất con người vật chất hữu hạn của họ.
Chúa Giêsu đã về thăm quê hương và giảng trong hội đường. Theo cách trình bày của Thánh Marco, thì không phải những người quê hương của Chúa không nhận thấy sự khôn ngoan nổi trội của một con người mang tên Giêsu! “Ông ta được khôn ngoan như thế nghĩa là làm sao?” (Mc 6,2). Họ có thấy, và thấy quá rõ ràng đấy chứ, nhưng họ không muốn chấp nhận nghe và tin vào lời giảng của Ngài, một là vì lòng ganh tỵ và hai là vì chẳng mang lại lợi lộc gì trước mắt có thể nhai nuốt được.
Vì ganh tỵ, lời giảng dạy của một con bác thợ mộc, hay chính người cũng là thợ mộc với nghề cha truyền con nối suốt ba mươi năm trời kia, thì có gì phải đáng nể phục. Con thợ mộc lại giảng trong hội đường lại là chuyện dở hơi hơn nữa!
Vì lợi lộc trần gian, cho nên, dẫu cho ông Giêsu nghèo khó kia có nói lời vàng lời ngọc thì giá trị cũng không bằng lời của người có vàng có ngọc khoe trước mắt họ, ban tặng cho họ.
Thánh Kinh gọi họ là “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” quả là chính xác, vì họ đã không mở lòng ra để thay đổi một não trạng xưa cũ của con người: Não trạng duy vật, lấy vật chất làm cái gốc con người, dựa vào vật chất mà thẩm định giá trị con người. Cùng một xuất xứ địa lý, cùng một cảnh ngộ cơ cực, không thể có ai xuất chúng hơn mình! Và nếu có, cũng không cần phải công nhận làm gì cho mệt xác nếu không có lợi lộc gì cho mình.
Họ không muốn mở con mắt linh hồn ra mà nhìn thấy cái “thế” của Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, chính là Con của Thiên Chúa và cái “thân” của Ngài là “chính Ngài là Thiên Chúa”. Họ càng không thể thấy cái “ngân” của Ngài là kho tàng sự sống vĩnh cửu không mối mọt, không nhàu nát, không hoen gỉ, và đời đời không hề mất nhưng luôn tồn tại. Họ không muốn nghe cái “lý” của Ngài là chân lý thường hằng bất biến đem lại sự sống và hạnh phúc đời đời! Họ “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” vì họ muốn nhìn thấy tận mắt cái hạnh phúc duy vật chất có thể ăn tươi nuốt sống được. Họ đang “đốt căn nhà muôn năm để luộc cho mình một quả trứng ăn liền”. Lòng họ không mở ra. Lòng họ đầy ích kỷ! Đúng như lời Thánh Nicôlas nhận định “Người ích kỷ có thể đốt nhà bạn để luộc cho mình một quả trứng”.
Những con mắt thịt hai ngàn năm sau
Đã hơn hai ngàn năm Thiên Chúa Giáng Sinh làm người, con người vẫn luôn tự hào vì những thành quả văn minh tiến bộ tột bực, nhưng vẫn còn một điều chưa hề tiến bộ, chưa hề thay đổi: lòng ích kỷ vẫn còn tồn tại nơi một số con người, nếu không dám nói là toàn thể.
Lòng ích kỷ phát sinh từ lòng kiêu ngạo! Kiêu ngạo và ích kỷ đẻ ra trăm ngàn thứ tệ hại khác: ganh tị, đàn áp, chà đạp, bất chấp luân thường đạo lý, tẩy chay lẽ phải, thanh trừng chân lý… tất cả để phục vụ cho cái lợi lộc riêng mình, cho cái “trứng luộc ăn liền” của mình.
Có muôn vàn thành tựu lớn lao của khoa học, chính trị, xã hội, nhưng để phục vụ cho một cõi lòng hẹp hòi nhỏ bé tí teo thế sao! Có những văn minh rất đáng phục, nhưng lại là văn minh đưa dẫn con người vào chỗ tự hủy diệt thế sao? Số phận của Tin Mừng, qua các thời đại luôn phải đối mặt với sự tẩy chay của lòng người ích kỷ. Số phận của các ngôn sứ vẫn luôn bị sự thanh trừng tàn sát vì lòng người không muốn ai can thiệp vào cái hủ riêng mình! Cái hủ “trứng luộc ăn liền” chứa đầy những thèm khát hưởng thụ và tìm mọi phương thế để hưởng thụ!
Nghịch lý trầm kha này đã cho thấy rõ chân tướng âm mưu của Satan quỉ dữ, luôn đối lập với Thiên Chúa, đối lập với Tin Mừng. Do đó, hai ngàn năm sau ngày Tin Mừng Giáng Thế, những con mắt thịt trần gian vẫn luôn trong tư thế tẩy chay Tin Mừng chỉ vì một lẽ: Tin Mừng đòi đổi mới. Mà đổi mới là bất lợi. Đổi mới là phải đổi lòng ích kỷ thành quảng đại, đổi lòng chai dạ đá hóa ra mềm mại, đổi mặt dày mặt dạn của satan nên khuôn mặt đầy yêu thương của Thiên Chúa… Đổi mới là phải kiến tạo một thế giới của Thiên Chúa, kiến tạo một cộng đồng nhân loại theo tinh thần Tin Mừng, phải tái lập quan hệ với sự sống vĩnh cửu thay cho sự sống tạm bợ ở đời nầy… Không chấp nhận đổi mới, đồng nghĩa với việc giữ nguyên “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá”, mà “đốt sự sống đời đời để luộc cho mình một quả trứng ăn liền, khoái khẩu”
Những con mắt thịt ở trong nhà mình
Về với thực tế quanh ta, với hơn 80 triệu con người thân thương gần gũi nhất, cùng dòng máu, cùng màu da, cùng trải qua bao cuộc thăng trầm để bảo tồn nòi giống Tiên Rồng hùng anh Dũng Lạc, để nhìn lại hành trình của Tin Mừng Chúa Giêsu Cứu Thế. Số phận của Tin Mừng, của các Ngôn Sứ cũng không khác gì số phận Đức Giêsu ngày ấy. Nhưng niềm tự hào chân chính vẫn trào dâng trong chúng ta vì máu Các Thánh Tử đạo đã trổ sinh muôn ngàn hạt giống Đức Tin trên mảnh đất nầy.
Tuy nhiên, nếu Tin Mừng ở đâu cũng phải chung số phận chịu tẩy chay, chịu thanh trừng, thì ở nhà mình, ở đất nước mình chắc hẳn càng không tránh khỏi. “Thế, thân, ngân, lý” của Tin Mừng và các ngôn sứ Việt Nam chẳng khác gì “thế, thân, ngân, lý” của Chúa Giêsu Kitô ngày ấy- cũng đã bị lòng ích kỷ, tính kiêu ngạo, “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” tẩy chay tới mức triệt để. Một phần mười dân số chấp nhận Tin Mừng và chấp nhận đổi mới chưa đủ làm chứng rằng Chúa Giêsu không bị thanh trừng! Lòng con người đang đóng kín, không muốn cho ánh sáng chân lý lọt vào, sợ đổi mới, vì họ đang có một hạnh phúc ảo. Hơn nữa, họ vẫn đang tìm mọi cách để kéo dài hạnh phúc ảo ấy đến muôn năm! Cái hạnh phúc tức thời của lòng ích kỷ. Là Cha là Mẹ, có lẽ không ai dám “khôn ba năm dại một giờ” mà “đốt nhà mình để luộc quả trứng ăn liền cho tương lai cháu con lâm cảnh màn trời chiếu đất”. Cũng vậy, càng không thể liều lĩnh “đốt sự sống đời đời để luộc cho mình một quả trứng ăn liền, khoái khẩu” ở đời nầy vậy!
Để Tin Mừng được đón nhận trên quê hương, có người nghĩ rằng: chứng nhân tại một đất nước thắm máu các thánh tử đạo mà không chấp nhận tử vì đạo thì quả thật là vô lý! Nhưng cách tử-vì-đạo-cách-có-lợi cho mình và cho Giáo Hội nhất, chắc chắn phải nhờ ơn Chúa Thánh Thần, phải theo sự hướng dẫn của Giáo Hội, để sống tốt cuộc sống Tin Mừng. Trong đó, có cả việc cần thiết phải nói cho những kẻ đốt nhà mình hoặc nhà người khác rằng: quê hương vĩnh cửu của chúng ta không phải ở mảnh đất nầy, ở trần gian nầy, nhưng là ở một Thiên Quốc vĩnh cửu. Anh có thể ăn một quá trứng luộc chính bằng cả giang san nầy đi nữa, thì anh có sống đời đời chăng? Có hạnh phúc đời đời chăng? Đừng cứng lòng, nhưng hãy tin! “Hãy sám hối và tin và Tin Mừng”
Nguyện xin hướng dẫn của Thánh Phaolô “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”giúp chúng con kiên trì, kiên vững theo bước chân khiêm tốn nghèo hèn của Chúa Giêsu - nhưng rất mạnh mẽ, để đem hạnh phúc thật cho nhân loại.. Và cùng xác tín với Thánh Phaolô rằng: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,9-10)
Tin mừng Mc 6: 1-6: Ngay khi Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy trong hội đường quê nhà, nhiều người đã có ấn tượng về Người. Tuy nhiên thay vì vui mừng về điều đó họ lại hỏi: "Bởi đâu ông ta được như thế?"…Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Gioxêt, Giuđa và Simon sao?...
Ngay khi Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy trong hội đường quê nhà, nhiều người đã có ấn tượng TN 14-B131
Ngay khi Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy trong hội đường quê nhà, nhiều người đã có ấn tượng về Người. Tuy nhiên thay vì vui mừng về điều đó họ lại hỏi: "Bởi đâu ông ta được như thế?"… Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Gioxêt, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?" Và họ đã vấp ngã vì người.(Mc 6,3-4).
Thế đấy. Chính vì họ chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu như một con người bình thường, một con người cụ thể bằng xương bằng thịt, đã từng chung sống với họ; công việc cũng hết sức tầm thường, quanh năm suốt tháng lam lũ với nghề thợ mộc. Thế mà giờ đây, sau một thời gian rời xa quê làng, cái ông thợ mộc này lại làm được những điều "lạ lùng", thật chẳng thể nào tin được!
Từ cách nhìn và đánh giá thiển cận ấy, dân làng Nazarét đã vấp ngã vì Người.
Họ vấp ngã vì trước mắt họ, Chúa Giêsu chỉ là một người phàm như bao người khác;
Họ vấp ngã vì thân thế của Chúa Giêsu không có gì là nổi nang trong xã hội;
Họ vấp ngã vì họ biết được tất cả gốc gác của Người.…Và vì thế họ đã khinh thường Người.
Tagore (1861-1941) là một đại thi hào của Ấn Độ, đoạt giải Nobel văn chương năm 1913, có tài làm thơ ngay khi còn nhỏ tuổi.
Lúc còn niên thiếu, thỉnh thoảng Tagore làm một vài bài thơ gửi đăng trên tờ báo do thân phụ của mình đảm trách phần biên tập. Khi thấy những bài thơ gửi đến ký tên con mình, người cha chẳng thèm đọc thơ mà quẳng ngay vào sọt rác vì cho rằng con mình còn nhỏ dại thì biết gì thi ca.
Khi hiểu rõ sự tình, Tagore chép lại những bài thơ mà cậu đã gửi đăng báo, không ký tên thật của mình nữa mà lấy một bút hiệu khác rồi gửi lại cho toà báo.
Lần nầy, thân phụ của Tagore nhận thấy đây là những bài thơ có giá trị và cho đăng ngay lên báo mà không hề hay biết đó chính là những bài thơ của con trai mình, những bài thơ mà trước đây ông đã quẳng vào sọt rác.
Đúng là: "Bụt nhà không thiêng”. Chính Chúa Giêsu cũng phải chịu cùng một số phận như thế.
Con người dễ có định kiến về người khác.
Khi một vĩ nhân trở về quê hương, dân làng thường tìm đến vì tò mò hơn là kính nể. Nếu ai không có những suy nghĩ sâu xa thì sẽ không xem trọng vĩ nhân đó bao nhiêu, nhất là khi người đó xuất thân từ một gia đình nghèo nàn, không có địa vị gì ở quê hương. Chúa Giêsu trở về quê nhà cũng bị dân làng nhìn theo lối đó: Giêsu, con bác thợ mộc Giuse chứ có gì lạ lùng đâu.
Chúa Giêsu biết rõ tâm ý của họ, nên đã nói: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận ở quê hương mình” (Lc 4,24). Chúa Giêsu đã về quê nhà với tư cách là Đấng Messia, loan báo Tin Mừng cho dân làng, nhưng chắng ai thấy được điều đó. Họ đã tự nhốt mình trong định kiến của họ. Họ chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu như một người đồng hương nghèo khó, xuất thân từ làng quê. Tuy họ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, nhưng những thành kiến đã chôn chặt họ không cho họ đi xa hơn. Họ chỉ thắc mắc cách mơ hồ: bởi đâu ông ta được như thế! Họ đến gặp Người với ý định chối từ hơn là tin nhận!
Xét người xưa lại nghĩ đến mình hôm nay. Rất nhiều khi ta phán đoán giá trị của một người dựa trên bằng cấp, địa vị và sự giầu có. Hễ ai có chức có quyền mà nói thì ta cho ngay rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, ít học mà nói thì ta cho ngay rằng lời nói của họ chẳng có giá trị gì. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra là người có quyền thế, trí thức hay giầu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra là một em bé, một người tầm thường thì điều đó cũng vẫn là một chân lý. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì trình độ học vấn của người nói ra điều đó.
Điểm cuối cùng trong bài Tin Mừng hôm nay chắc phải làm chúng ta suy nghĩ: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó” vì họ không tin. Đức Giêsu có thực hiện được phép lạ hay không, điều đó không tùy thuộc vào quyền năng của Người, nhưng còn tùy thuộc vào lòng tin của chúng ta. Đức Giêsu rất muốn ưu tiên rao giảng và làm phép lạ ở chính quê hương của người, vì thông thường ai cũng yêu mến nơi sinh trưởng của mình, nhưng vì những người đồng hương không tin, nên Người không thực hiện được điều ấy.
Cũng vậy, Thiên Chúa muốn cứu rỗi ta, thánh hóa ta, muốn ta nên thánh, muốn ta được hạnh phúc, và Người sẵn sàng làm tất cả để thực hiện điều đó. Nhưng Người có thực hiện được điều đó hay không còn tùy thuộc vào bản thân chúng ta, như thánh Augustinô nói: “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu không có sự cộng tác của ta”. Amen.
Người ta bảo rằng 1 người Việt làm việc hiệu quả bằng 3 người Nhật, nhưng 2 người Việt làm TN 14-B132
Người ta bảo rằng 1 người Việt làm việc hiệu quả bằng 3 người Nhật, nhưng 2 người Việt làm việc chỉ bằng một người Nhật, và 3 người Việt làm việc hiệu quả sẽ thua 1 người Nhật. Vì sao vậy? Thưa đó là vì tinh thần cộng tác làm việc chung của người Việt mình chưa cao. Mình lại có thói quen không tốt đó là hay chê bai người khác. Chê cho ê mặt, chê cho bõ ghét, chê để dìm hàng, chê cho đã miệng, chê vì thích chê. Đơn giản, vì không muốn ai hơn mình.
Trong khi có những người đón nhận và đi theo Chúa vì họ được thu hút bởi lời giảng dạy của Chúa thật khôn ngoan và thâm thúy, bởi việc Chúa trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, thì cùng lúc ấy cũng có những người từ khước, chế nhạo Người bởi hàng loạt câu hỏi: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôseph, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Khi không bắt bẻ được Người trong lời giảng dạy, họ bàn tán chê bai về thân thế của Chúa Giêsu nhằm giảm uy thế của Người.
Dân làng nơi quê hương Nazareth đã đánh giá Chúa Giêsu theo cái nhìn bề ngoài rằng Người chỉ là con bác thợ mộc và bà Maria, vì thế mà từ chối tin vào Chúa. Quả đúng như câu chân lý bất hủ mà ông bà chúng ta bảo rằng “Bụt nhà không thiêng” là vậy. Điều này làm Chúa Giêsu cảm thấy đắng lòng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” Tuy nhiên, dẫu cho những lời ong tiếng ve do sự ghen tỵ và thành kiến, thậm chí cả những khổ hình mà người ta dành cho, Chúa Giêsu không trả đũa nhưng vẫn tiếp tục yêu thương và thứ tha, Người âm thầm đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ rồi tiếp tục sang các làng bên giảng dạy.
Vâng, để có thể có được những ơn lành của Chúa, điều kiện là phải có đức tin. Chỉ có đức tin mới có thể nhận ra Chúa vẫn tiếp tục thực hiện phép lạ hằng ngày trong cuộc sống chúng ta. Và phép lạ trên hết của những phép lạ đó là đó là mọi thứ trong vũ trụ vẫn diễn ra hằng ngày một cách trật tự. Song, chúng ta lại bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Chúng ta bỏ lỡ tiếng Chúa kêu gọi chúng ta nhận ra ăn năn sám hối. Thậm chí, chúng ta cũng bỏ lỡ việc nhận ra Chúa, gặp gỡ Chúa nơi anh chị em xung quanh, nào là trước những người đang gánh chịu thiên tai, hỏa họan, đói kém, trước cảnh ngộ cùng khốn hay những đớn đau đầy nước mắt.
Khi chịu phép Rửa Tội, chúng ta trở nên Kitô hữu, trở thành người nhà, người họ hàng, đồng hương với Chúa. Vậy chúng ta có đón nhận Chúa một cách thành tâm và sẵn lòng qua Lời Chúa, qua việc cử hành các Bí tích, qua Giáo lý Giáo hội giảng dạy, qua việc suy gẫm cầu nguyện riêng với Chúa. Đừng để việc gặp gỡ Chúa trở nên “quen quá hóa nhàm”. Đức tin đòi hỏi chúng ta vượt lên trên những dáng vẻ bề ngoài để nhận ra Chúa. Người hiện diện cách đơn sơ nơi tấm bánh bé nhỏ trên bàn thờ, Người gặp gỡ chúng ta khi ta lặng thinh ngắm nhìn thánh giá Chúa, Người đến với chúng ta qua những người cần đến sự trợ giúp của chúng ta. Và Người cũng mời gọi chúng ta hãy trở nên chứng nhân cho Chúa để giới thiệu Chúa cho anh chị em mình.
Lạy Chúa, không ai được phép viện cớ mình kém cỏi để từ chối nhiệm vụ trở nên môn đệ Chúa, loan báo Tin Mừng nước Chúa cho anh chị em. Vâng, một cử chỉ dù rất đơn sơ nhưng được thực hiện với lòng yêu mến, chúng trở nên những món quà ý nghĩa như lời của thánh Têrêsa thành Calcutta nói: “Điều quan trọng không phải là số công tác đã thực hiện, nhưng là mức độ tình yêu đã đặt vào mỗi công việc ấy”. Xin cho con tập biết sống đức tin được thể hiện bằng đức ái với một nụ cười thân thiện, một lời nói động viên, một cử chỉ sẵn lòng giúp đỡ anh chị em. Amen.
Thiên Chúa qua mỗi thời mỗi buổi, qua nhiều cách thế diễn tả khác nhau, vẫn luôn tạo mọi cơ TN 14-B133
Thiên Chúa qua mỗi thời mỗi buổi, qua nhiều cách thế diễn tả khác nhau, vẫn luôn tạo mọi cơ hội tốt để ban ơn, soi sáng, hướng dẫn và thánh hóa con người, hầu giúp con người nhận ra những dấu chỉ sự hiện diện và tình thương của Thiên Chúa trong mỗi thời đại. Một trong muôn vàn cách thế đó chính là Chúa đã tuyển chọn, thánh hóa và sai các Ngôn sứ đến với dân của Ngài. Vậy thì, Ngôn sứ là ai? Thưa: họ là những con người như tất cả chúng ta, nhưng họ được tuyển chọn để làm sứ giả, Chúa đã sai họ đi, gởi họ đến để thay mặt Chúa, để nói lời của Chúa, để giúp chuyển tải sứ điệp, ơn thánh Chúa cho tha nhân. Ngôn sứ đích thực, mặc dầu vẫn dùng ngôn ngữ của con người, nhưng là người nói Lời của Thiên Chúa, chứ không phải nói bằng lời của chính mình. Ngôn sứ lắng nghe, tiếp nhận thánh ý Chúa và rao truyền những gì mà Chúa đã ủy thác cho.
Trong bài đọc một, hơn bất cứ ai khác, Ngôn sứ Êzêkiel là người được tuyển chọn, người đã được Chúa đặt Lời của Chúa vào trong miệng lưỡi của ông. Đặc biệt hơn, Chúa còn thánh hóa Êzêkiel được bằng lửa và thần khí, để sai ông ra đi, thay mặt Chúa mà nói cho dân biết thánh ý và kế hoạch yêu thương của Ngài. Câu hỏi là: Tại sao Chúa không trực tiếp nói mà lại nói qua Ngôn sứ, vị sứ giả của Ngài? Chúng ta biết, theo Kinh Thánh, trong Cựu ước, không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa và lại càng không thể đối diện trực tiếp với Thiên Chúa mà có thể tồn tại, vì dung nhan, sức mạnh và uy quyền của Thiên Chúa, ngay cả như Môsê cũng chỉ được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa từ phía sau lưng mà thôi. Tuy nhiên, với lòng khoan dung nhân hậu và rất mực công minh, Thiên Chúa qua trung gian của Ngài là những Ngôn sứ, để Chúa vẫn luôn nói với con người chúng ta, luôn đồng hành-hướng dẫn, minh chứng, trao ban và ký kết với chúng ta giao ước tình yêu của Ngài. Qua sứ vụ của Ngôn sứ Êzêkiel, cũng cho chúng ta ý thức hơn về con người thật và sứ vụ đặc biệt của Ngôn sứ, mặc dầu được tuyển chọn, được thánh hóa, được thay mặt Chúa nói và rao giảng ý Chúa cho dân, nhưng đồng thời, những Ngôn sứ đó cũng mang thân phận của con người với những giới hạn, yếu đuối và bất toàn.
Thế nên, Thánh Phaolô trong bài đọc hai, với chính những kinh nghiệm của bản thân, hơn bất cứ ai khác, từ con người yếu đuối, tội lỗi, kém tin nhưng khi đã được Chúa yêu thương tuyển chọn và sai đi làm Tông đồ và Ngôn sứ, Chúa đã dùng con người này để tôn vinh danh Chúa, đem ơn ích cho mọi dân mọi nước. Chính vì lẽ đó mà Phaolô đã nói: “Vậy tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ngự trong tôi”. Điều gì mà Phaolô có được chính là do ơn Chúa ban cho, từ việc được sai đi rao giảng, hay bất cứ sứ vụ gì mà Ngài lãnh nhận, tất cả là do sức mạnh và ân sủng của Thiên Chúa, chứ không do công trạng, tài năng hay sức lực của con người. Qua kinh nghiệm quý báu này của Phaolô, khi Ngài chia sẻ về ơn thánh Chúa trên sự yếu đuối của con người, thật đã ứng nghiệm điều Chúa phán với Phaolô: “Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối”.
Được tuyển chọn, được sai đi và dùng ngay cả những yếu đuối của con người cho thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện. Thật vậy, Chúa có những cách thế rất tuyệt diệu, điều mà bài Tin mừng theo Thánh Marcô hôm nay đã minh chứng cho chúng ta. Thiên Chúa trong thời sau hết, đã dùng chính Người Con Một Yêu Dấu của Ngài mà nói với chúng ta. Ngài vừa chính là Thiên Chúa, là Lời Hằng Sống, giờ đây là Đấng nói trực tiếp với chúng ta về Thiên Chúa và chương trình, kế hoạch yêu thương của Ngài. Thế nhưng, Con Thiên Chúa, Đấng Thánh của Thiên Chúa lại nói với con người trong một cung cách rất khiêm tốn, đơn sơ: “Con của ông Giuse, bác thợ mộc”. Thật không ai có thể hiểu được thánh ý này của Thiên Chúa, tại sao Chúa lại rao giảng và nói trực tiếp với chúng ta qua cách thế này. “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?”
Nơi con người thật và sứ vụ của Chúa Giêsu, giờ đây Thiên Chúa đang biểu lộ, đối diện trực tiếp với con người, Ngài nói và minh chứng cho chúng ta qua những cách thức rất khiêm tốn và những yếu đuối của con người. Ngài đã sinh ra trong thân phận khó nghèo, lớn lên-sinh trưởng trong địa vị là con của ông thợ mộc nơi làng quê Nazareth…thế nhưng, từ những điều khiêm tốn đơn sơ như vậy, Thiên Chúa đang muốn hiện diện, gần gũi cách hữu hình, để ban ơn thánh hóa cho chúng ta. Đồng thời, Ngài cũng đang nói trực tiếp với chúng ta qua những cách thức, công việc và ngôn ngữ rất bình dị của con người. Chỉ những ai tin và có lòng khiêm tốn, mới có thể nhận ra thánh ý nhiệm mầu và tốt lành mà Chúa dành cho mình. Với những ai chưa biết khiêm tốn, mở lòng và tín thác, thì cho dù họ có nghe Lời Chúa nói, có trầm trồ, khen ngợi, thán phục…thì vẫn không thể chấp nhận và họ sẽ khước từ những cách thế mà Chúa đã dùng để nói và trao ban ơn thánh cho con người.
Hôm qua, hôm nay và mãi về sau, Chúa vẫn còn đang nói với chúng ta qua những cách thế và dấu chỉ khác nhau; vì tình thương, Chúa luôn gởi đến cho chúng ta những vị ngôn sứ thừa tác để rao giảng và nói Lời Chúa cho chúng ta. Đồng thời, trong chức vụ ngôn sứ cộng đồng, một khi đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy, Chúa đã chọn, trao ban và sai tất cả chúng ta ra đi, để mỗi người trong phận vụ riêng của mình, nhất là các bậc cha mẹ, thầy cô giáo và những người hữu trách luôn biết nói và chuyển trao thánh ý tốt lành của Chúa cho người khác.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết khiêm tốn, tin tưởng, cậy trông vào ơn Chúa để luôn nhận ra thánh ý Chúa, hầu cố gắng thực thi, sống tốt, sống chu toàn bổn phận Chúa trao. Nhờ đó, mà qua lời nói và hành động của chúng con, luôn làm đẹp lòng Chúa, tôn vinh danh Chúa và đem lại ơn ích cho tha nhân. Amen.
Trong thời Cựu ước, Thiên Chúa phán với loài người qua các ngôn sứ và các tổ phụ. Các ngôn TN 14-B134
Trong thời Cựu ước, Thiên Chúa phán với loài người qua các ngôn sứ và các tổ phụ. Các ngôn sứ được Chúa sai đến thường bị bạc đãi và tẩy chay như ngôn sứ Êdêkien được: Sai đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại (Ed 2:3) Thiên Chúa. Cuối cùng Thiên Chúa sai chính Con Một Người đến mạc khải trực tiếp cho nhân loại về tình yêu và đường lối của Người
Thánh Phaolô cũng chịu chung một số phận như các ngôn sứ: Bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô (2Cr 12:10). Khi Đức Giêsu về thăm quê nhà như Phúc âm hôm nay thuật lại, Người gặp thái độ nghi ngờ và tẩy chay của người đồng hương. Dân chúng không phàn nàn vì lời Người giảng dạy có tính cách nông cạn. Trái lại họ phải sửng sốt về những lời giảng dạy sâu sắc của Người. Dân chúng cho rằng họ biết tất cả về gia cảnh, thân thế và sự nghiệp của Người. Họ biết Người là con bà Maria nội trợ, con nuôi ông thợ mộc Giuse, không được đi học trường đạo tạo giáo sĩ hay kinh sư. Thế thì tại sao Người lại có thể biết nhiều về Kinh thánh như vậy? Vì thế họ không chấp nhận Người.
Những thành kiến của họ có tính cách cố định. Thành kiến đã làm trở ngại cho những cuộc tiếp xúc giữa Đức Giêsu và người đồng hương. Chính những thành kiến đó làm cản trở ơn thánh đến với họ. Họ nuôi quan niệm sai lầm về Đấng Cứu thế. Theo họ thì vị thiên sai phải là một nhà lãnh đạo chính trị lỗi lạc, một nhà cải cách xã hội tài ba, một vị tướng lãnh tài giỏi, bách chiến bách thắng, có thể đưa dân tộc họ lên hàng bá chủ hoàn cầu. Khi họ nhận ra Đức Giêsu không thích hợp với với quan niệm họ sẵn có về Đấng cứu thế, thì họ từ khước Người. Vì thế đối với họ, Đức Giêsu không thể là Đấng cứu thế. Thành kiến của họ đã làm cản trở cho đức tin vào Chúa, vào lời Chúa và quyền năng của Chúa như Chúa muốn họ tin tuởng. Do đó Đức Giêsu nói với họ: Ngôn sứ có bị coi rẻ thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình (Mc 6:4). Phúc âm hôm nay ghi lại: Người đã không thể làm phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân (Mc 6:5). Sở dĩ Đức Giêsu không làm phép lạ nào được vì như lời Phúc âm ghi lại họ cứng lòng tin (Mc 6:6).
Ta có thể thầm trách đám đông trong Phúc âm hôm nay đã tẩy chay Chúa. Tuy nhiên ta có thể mang tội giống như người trong Phúc âm hôm nay. Nếu ta chỉ đi tìm Chúa nơi những người quyền cao chức trọng, hay ở những nơi huy nga tráng lệ mà thôi, ta sẽ khó tìm thấy Chúa. Thiên Chúa còn hiện diện nơi những người bình thường mà ta thường gặp, cũng như những sự việc xẩy ra thường ngày. Ta khó nhận ra những dấu vết của Chúa nơi người khác cũng như sự việc ta gặp hằng ngày nếu ta để cho thái độ quen quá hoá nhàm xâm chiếm đời sống tư tưởng của ta.
Thiên Chúa không những hiện diện ở những nơi tầm thường như phố nhỏ Nadarét, mà còn ở nơi dơ bẩn, hôi hám như trong máng cỏ Bêlem. Ta có thể tìm thấy Chúa nơi người đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ và tù đầy. Đó là điều Chúa nói trong Phúc âm thánh Mát-thêu: Khi Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn (Mt 25:35). Để có thể tin, người ta phải giữ tâm hồn rộng mở. Nếu ta để cho thành kiến về đạo giáo làm mù quáng, thì những thành kiến có thể làm cản lối Chúa vào nhà tâm hồn. Nếu ta vịn cớ nọ cớ kia để đóng cửa nhà tâm hồn, thì Chúa cũng chịu, không vào được, vì Chúa đã ban cho loài người được tự do và Chúa tôn trọng tự do của loài người. Ân huệ và quyền năng của Chúa tuỳ thuộc vào việc mở rộng tâm hồn của mỗi người. Chúa không ép buộc ai theo Chúa và sống theo đường lối đức tin. Chúa chỉ mời gọi. Việc chấp nhận hay không là tuỳ thuộc vào mỗi người.
Nếu ta để cho thành kiến và tính ganh tị lấn át, ta sẽ không nhìn thấy những ưu điểm và khả thể nơi tha nhân. Nếu ta phán đoán lời nói hay việc làm của người khác chỉ dựa trên bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền và gia cảnh của họ là ta để cho thành kiến len lỏi vào óc phán đoán của ta. Lời nói hay việc làm có giá trị thường mang tính chất khách quan chứ không tuỳ thuộc vào bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền hay gia cảnh của người nói hay làm. Nghe những lời nói hay việc làm mang khuyết điểm của người khác mà đóng cửa lòng lại, không tìm đến với họ, không cho họ cơ hội để bầy tỏ lí do, thì có phải là quan niệm hẹp hòi chăng? Gặp người khác lướt qua một vài lần, nói mấy lời xã giao mà đã kết luận người đó tốt xấu, thì không phải là nhận xét nông cạn sao? Bỏ việc thờ phượng hay nghe lời giảng dậy ngày Chúa nhật chỉ vì thắc mắc về khả năng hoạt bát và trình độ học vấn của linh mục cử hành thánh lễ và rao giảng thì có phải là một quyết định không dựa trên đức tin chăng? Buồn giận một linh mục nào đó mà không tìm đến thờ phượng ở bất cứ nhà thờ công giáo nào khác thuận lợi, thì có phải là hành động giận cá băm thớt không?
Hôm nay mỗi người cần cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho ta được ơn nhận lãnh đức tin. Ta cần cảm tạ Chúa cho cha mẹ và người đỡ đầu, đã gieo vãi hạt giống đức tin vào tâm hồn ta khi đưa ta đến giếng nước rửa tội. Ta cần cảm tạ Chúa cho những người đã nuôi dưỡng và nâng đỡ đời sống đức tin của ta để hôm nay ta có thể bầy tỏ đức tin vào Chúa, vào lời Chúa và quyền năng Chúa. Ta cũng xin Chúa ban cho mình biết mở rộng trí óc và tâm hồn đón nhận lời Chúa.
Lời cầu nguyện xin cho được mở rộng tâm hồn: Lậy Đức Giêsu, con xin tạ ơn Chúa đã ban cho con được ơn nhận lãnh đức tin qua bí tích Rửa tội. Xin tha thứ những lần con để cho thành kiến vể đạo và người giảng đạo, làm cản trở đức tin vào Chúa. Xin cho con biết loại bỏ thành kiến sai lầm và ban cho con một tâm hồn rộng mở để con biết nhìn người và sự vật trong nét trung thực, dưới ánh sáng chân lí soi dẫn. Amen.
Khi ấy Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Đến ngày Sabbát, người vào TN 14-B135
Khi ấy Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Đến ngày Sabbát, người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự la thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacobê, Giuse, Giuda và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?" Và họ vấp phạm vì Người. Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình". Ở đó, Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chũa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
Chúa Giêsu trở về quê nhà
Từ rày đã trở nên bình dân và nổi tiếng vì những phép lạ và lời giảng dạy của Người, Chúa Giêsu một ngày kia trở về làng quê, Nadareth, và, như Người có thói quen làm, Người vào giảng trong hội đường. Nhưng lần này, không thấy có sự bày tỏ nhiệt tình nào, không có tiếng "hosanna!" nào. Thay vì nghe điều Người nói và phán đoán Người theo những lời nói của Người, dân chúng lại đưa ra những lời chỉ trích kỳ dị. Sao ông được khôn ngoan như vậy? Ông không học hành gì, chúng tôi biết rõ điều này; đó là bác thợ mộc, con bà Marie! "Và họ bị chướng tai gai mắt sâu sắc vì Người", nghĩa là sự kiện biết rõ về Người lại là một ngăn trở để tin Người.
Chúa Giêsu bình luận cách chua cay: "Một tiên tri chỉ bị khinh bỉ ở quê hương mình, gia đình họ hàng mình". Câu nói đó trở thành một câu ngạn ngữ dưới hình thức rút gọn: "Không ai làm tiên tri nơi quê mình". Đoạn Tin Mừng này cũng đưa đến chúng ta một sự cảnh cáo mặc nhiên mà chúng ta có thể tóm tắt như vầy: ý tứ đừng phạm cũng một sự lầm lẫn như những người Nadareth! Chúa Giêsu trở về cách nào đó tại quê hương Người, mỗi khi Tin Mừng của Người đã được rao giảng tại những xứ, trong một thơi kỳ, nên cái nôi Kitô giáo.
Nước Italie, và phương Tây nói chung, đối với kitô giáo, là điều Nadareth đối với Chúa Giêsu: nơi Người đã được nuôi dưỡng. (kitô giáo sinh ra tại phương Đông nhưng đã lớn lên tại phương Tây, cũng như Chúa Giêsu sinh ra tại Belem nhưng được nuôi dưỡng tại Nadareth!) Những xứ đó ngày nay mắc phải cũng một nguy cơ như người dân Nadareth: không công nhận Chúa Giêsu. Bản hiến pháp tân châu Au hiệp nhất không phải là nơi duy nhất mà ngày nay Kitô giáo bị "xô đuổi" khỏi.
Đoạn Tin Mừng này dạy chúng ta một điều quan trọng. Chúa Giêsu để chúng ta tự do; người đề nghị, người không áp đặt những ân huệ của Người. Ngày đó, đối mặt với những kẻ đồng hương, Chúa Giêsu không đưa ra những ngăm đe hay những lời mắng nhiếc. Người đã không nói, bằng một bộ điệu khinh bỉ, điều mà người ta nói ông Scipion l' Africain công bố khi bỏ thành Rome: "Hỡi quê hương bạc đãi, người sẽ không có bộ xương của tôi!" Chúa Giêsu chỉ ra đi âm thầm. Một ngày kia, người bị hất hủi trong một làng, các môn đệ đề nghị Người cho lửa từ trời xuống đốt làng đó, nhưng Chúa Giêsu quay đi và quở trách các ông (x. Lc 9, 54)
Ngày nay Người cũng làm như vậy. "Thiên Chúa nhút nhát ". Người tôn trọng sự tự do chúng ta nhiều hơn chúng ta tôn trọng sự tự do của nhau. Điều này tạo nên một trách nhiệm lớn. Thánh Augustin nói: "Tôi sợ Chúa Giêsu đi ngang qua" (Timeo Jesum Transeuntem) Trên thực tế Người có thể đi ngang qua mà tôi không biết, đi ngang qua khi tôi không sẵn sàng đón triếp Người.
Sự đi ngang qua của Người luôn là một sự đi ngang qua ban ân sủng. Marco nói, cách tổng hợp rằng một ngày sabbat, đến làng Nadareth, Chúa Giêsu "vào dạy trong hội đường" Nhưng Tin Mừng Luca cũng nói rõ điều Người dạy và điều người công bố, trong ngày sabbat này. Người đã công bố đến " loan báoTin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa." ( Lc 4, 18-19).
Điều Chúa Giêsu đã rao giảng trong hội đường Nadareth như vậy là năm ân xá kitô hữu đầu tiên trong lịch sử, "năm hồng ân" đầu tiên, mà tất cả những năm ân xá và những "năm thánh" chỉ là một sự ghi nhớ.
Đọc Kinh Thánh Cựu ước, chúng ta thấy bất kể thời nào, Thiên Chúa cũng sai sứ giả của Ngài TN 14-B136
Đọc Kinh Thánh Cựu ước, chúng ta thấy bất kể thời nào, Thiên Chúa cũng sai sứ giả của Ngài đến để hướng dẫn dân Do Thái. Dù dân này cứng cổ và phản nghịch, Thiên Chúa cũng không bỏ rơi họ. Ngài vừa là một nhà giáo dục khôn ngoan, kiên nhẫn, mạnh mẽ lên án những sai lầm của dân, nhưng cũng là một người Cha bao dung tha thứ những tội lỗi dân đã phạm. Những sứ giả của Thiên Chúa cũng được gọi là tiên tri hay ngôn sứ, tức là những người được sai đi để chuyển tải sứ điệp của Thiên Chúa. Trong bối cảnh đau thương, thất bại, sa đoạ của dân Do Thái, họ là những người xây dựng hoà bình và gieo niềm hy vọng.
Êdêkien là một vị ngôn sứ sống ở cuối thế kỷ thứ VII, đầu thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Ông cùng chia sẻ thân phận lưu đày tại Babylon với dân tộc mình. Trong cảnh lưu đày xa quê, vào thời điểm không còn đền thờ, không còn nghi thức tế tự, cũng giống các ngôn sứ khác, ông có sứ mạng giúp dân duy trì niềm tin, tránh xa việc thờ ngẫu tượng cũng như những ảnh hưởng ngoại lai. Bài đọc hôm nay kể lại việc Chúa trao sứ vụ cho ngôn sứ Edêkien. Chúa cho ông biết trước, đây là một nhiệm vụ khó khăn và sẽ gặp nhiều chống đối. Lời trấn an «đừng sợ» được lặp đi lặp lại, cho thấy Thiên Chúa luôn ở bên và đồng hành với những sứ giả của Ngài. Chúa cũng hứa trước, Ngài sẽ ban cho vị ngôn sứ sức mạnh can trường, để có thể đương đầu với những nghịch cảnh. Như chúng ta đọc thấy trong sách ngôn sứ mang tên ông, vị ngôn sứ đã nhiệt thành chuyên cần và can đảm để rao giảng Lời Chúa, củng cố đức tin, loan báo niềm hy vọng cho dân chúng. Ông cũng được gọi là ngôn sứ của niềm hy vọng. Ông chuyển tải đến Dân Chúa lời hứa hẹn sẽ có ngày Chúa mở huyệt và đưa mọi người đã chết ra khỏi đó (x. Ed 11,19). Sẽ có ngày Chúa sẽ ban cho dân một quả tim mới, bỏ đi quả tim chai đá, thay vào đó là quả tim bằng thịt biết yêu thương. Ông cũng được gọi là vị Ngôn sứ của Thần Khí Thiên Chúa. Ông loan báo sẽ có ngày Thần Khí Chúa can thiệp làm cho dân được sức sống mới, như những bộ xương khô dường như không còn chút hy vọng sẽ tái sinh và trở thành những con người cường tráng (x. Ed 37,1-14). Những hình ảnh này đã nâng đỡ và khích lệ dân tộc đang lưu đày xa quê và đang chịu ngàn nỗi thống khổ.
Để thực hiện chương trình cứu nhân độ thế, Thiên Chúa đã sai con của Ngài là Đức Giêsu đến trần gian. Người là vị Ngôn sứ vĩ đại nhất trong lịch sử. Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai có sứ mạng cứu nhân độ thế. Lời nói và việc làm của Người đã chứng tỏ quyền năng thiên linh, đồng thời nhằm đem cho con người sự giải thoát. Khi nghe lời Chúa giảng dạy, những người nghe đã thốt lên: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” (Lc 7, 16). Lời Người giảng dạy vừa có uy quyền vừa có sức thu hút lạ kỳ. Hễ người đi đến đâu, dân chúng đi theo rất đông để đón nhận Lời Hằng Sống. Trước uy quyền của Người, những kẻ thù ghét Người cũng phải chùn bước.
Nếu có nhiều người đón nhận giáo huấn của vị ngôn sứ thành Nagiarét, thì cũng có những người khước từ và mưu mô chống đối. Đó là trường hợp những người đồng hương của Chúa Giêsu. Thánh Máccô trong Tin Mừng hôm nay kể lại một chuyến về thăm quê của Người. Người thi hành nhiệm vụ ngôn sứ, khi vào Hội đường để đọc và chú giải Sách Thánh. Đây là một sinh hoạt hàng tuần của các cộng đoàn Do Thái. Rất nhiều người ngạc nhiên vì lời giảng dạy của Chúa sâu sắc và khôn ngoan. Tuy vậy, cũng có những người dè bỉu chế nhạo. Khi không bắt bẻ được Người trong lời giảng dạy, họ bàn tán chê bai về gia đình và thân thế của Người. Họ lôi nghề nghiệp thợ mộc của cha Người để soi mói và nhằm giảm uy thế của Người. Họ chỉ đánh giá Người theo cái nhìn ghen tỵ và thành kiến. “Ngôn sứ không được tôn trọng tại chính quê hương mình…” Chúa Giêsu đã nhắc lại một câu ngạn ngữ thường được sử dụng trong giới bình dân, để chỉ sự cứng lòng của họ.
Nhờ Bí tích Thanh tẩy, người Kitô hữu được trao ba sứ mạng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế. Ngôn có nghĩa là lời; Sứ có nghĩa là được sai đi. Ngôn sứ tức là người được sai đi để nói Lời của Chúa. Nhiệm vụ này, không phải lúc nào cũng dễ dàng, vì “Trung ngôn nghịch nhĩ – Lời nói thẳng thì khó nghe”. Để thi hành nhiệm vụ ngôn sứ, có những lúc người tín hữu giống như người bơi ngược dòng. Trong khi nhiều người dễ dàng chấp nhận sự dối trá, thỏa hiệp để được lợi lộc danh vọng, thì người Kitô hữu phải cân nhắc kỹ càng để không phạm Luật Chúa và không làm trái với lương tâm. Lịch sử ghi lại rất nhiều tín hữu đã chọn con đường thập giá của Chúa Giêsu để làm chứng cho sự thật. Các thánh tử đạo là những ví dụ điển hình và là gương mẫu cho chúng ta về lòng trung thành với Chúa, noi gương Chúa Giêsu.
Trong bối cảnh xã hội còn nhiều bóng tối do bạo lực, ghen ghét, hận thù và tranh chấp, mỗi người tín hữu phải là một ngôn sứ của hy vọng. Niềm hy vọng đối với người Kitô hữu không chỉ là một thái độ sống, nhưng còn là một nhân đức đối thần, đó là đức cậy trông. Khi chúng ta đặt niềm hy vọng nơi Chúa, thì niềm hy vọng ấy là sự trông cậy. Trông cậy vào Chúa tức là chúng ta tin Ngài có thể làm được mọi sự, vì Ngài vừa là Thiên Chúa quyền năng vừa là Đấng thành tín yêu thương. Các ngôn sứ và các thánh vịnh khẳng định với chúng ta : ai tin vào Thiên Chúa sẽ không bao giờ phải thất vọng. Ngài là Cha nhân hậu, luôn muốn những điều tốt đẹp cho con cái mình. Đôi lúc chúng ta không nhận ra những điều tốt đẹp ấy, như người con còn nhỏ không hiểu thiện ý của cha mẹ, mà lại cho đó là những kìm hãm ràng buộc, nên khó chịu và buồn lòng. Kitô hữu là người cậy trông ở Chúa. Kitô hữu cũng là người gieo niềm hy vọng đối với những người đang sống xung quanh. Lối sống thân thiện, lạc quan và hài hoà chính là những hạt giống làm nảy sinh hoa trái của niềm hy vọng đối với những người chung sống. Người Do Thái lưu đày ở Babylon đã nhờ các ngôn sứ, trong đó nổi bật là ngôn sứ Edêkien, mà họ bớt tiêu cực chán nản và họ vững tin vào Chúa. Ước chi nhờ đời sống lạc quan của người Kitô hữu, mà những ai đau khổ chán chường được tiếp sức để biét trân trọng và yêu mến cuộc sống này hơn.
Sống và thực thi ơn gọi ngôn sứ đòi hỏi sự kiên trì. Mặc dù bị chống đối, Chúa Giêsu không nản chí và thối lui. Người tiếp tục lên đường đến các làng mạc khác mà giảng dạy. Thánh Phaolô noi gương Thày mình, ông đã trải qua nhiều khó khăn thử thách trong khi thi hành nhiệm vụ loan báo Tin Mừng. Ông không buồn, trái lại, ông rất lạc quan: «Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô». Phaolô bền tâm vững chí trong sứ mạng, vì ông tin tưởng vào lời Chúa: ơn Ta đủ cho con. Quả vậy, Chúa luôn ban ơn trợ giúp đúng lúc và đủ cho những ai cậy trông vào Ngài.
“Thần khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu cho tôi. Ngài sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó”. Lời Kinh Thánh quen thuộc nhắc chúng ta danh dự và bổn phận của người Kitô hữu. Bất luận già trẻ, nam nữ, giàu nghèo, ai trong chúng ta cũng được Chúa sai đi để làm chứng cho Ngài. Không ai viện cớ mình không có khả năng để từ chối bổn phận này, vì lời chứng cho Tin Mừng rất đơn giản: một lời nói, một nụ cười, và cụ thể hơn cả là lối sống tốt lành của mỗi chúng ta.
Hôm nay, trong bài Tin Mừng chúng ta chứng kiến cảnh Đức Giê-su bị chối từ bởi những người bà TN 14-B137
Hôm nay, trong bài Tin Mừng chúng ta chứng kiến cảnh Đức Giê-su bị chối từ bởi những người bà con trong lần Người về thăm cố hương Na-da-rét. Dân trong làng vẫn nhận ra sự khôn ngoan trong lời giảng dậy của Người. Nhưng khi nhớ lại gốc tích và các kinh nghiệm mà họ đã từng trải qua với Đức Giê-su trong thời thơ ấu thì không một ai trong họ còn nhận ra quyền năng của Thiên Chúa đang hoạt động trong và với Người nữa. Đối với họ, Đức Giê-su vẫn chỉ là con bà Maria. Thân nhân và anh chị em của Người, họ đều biết rõ.
Đức Giê-su sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Cha Người là bác thợ mộc quê mùa. Người thuộc về tầng lớp không được trọng vọng, chẳng có địa vị gì. Và như vậy, dù Người có nổi tiếng và làm được nhiều điều kỳ diệu tại các nơi khác, thì truớc mặt họ, Chúa của chúng ta vẫn chỉ là con bác thợ mộc Giu-se. Với gốc tích bần cùng và nghèo hèn như thế thì Đức Giê-su có thể làm được gì tại Na-da-rét để cho họ khâm phục!
Nói khác đi, Đức Giê-su không có quyền trở thành một người khác hơn là một con người do họ nghĩ ra và tạo nên. Có nghĩa là Đức Giê-su bị nhốt trong lối suy nghĩ và cách nhìn của họ. Người bị giam lỏng như một số người trong chúng ta vẫn thường xuyên nhốt Người trong các cơ sở vật chất, cho dù nguy nga và tráng lệ đến đâu; nhưng thiếu tình yêu, bác ái và lòng thương xót thì các đền đài đó còn có ý nghĩa gì hay không?
Với ngần ấy lý do, chúng ta có thể thông cảm với cách hành xử thiếu tin tưởng của dân làng Na-da rét. Họ từ chối đón nhận sứ điệp của Người. Vì với lối suy nghĩ rất giới hạn và đầy thành kiến như thế thì làm sao họ có thể nhận ra chân tướng đích thật của Đức Giê-su! Làm thế nào họ có thể đón nhận Người là Đấng được Thiên Chúa sai đến để loan báo sứ điệp giải thoát và đem tin vui đến cho họ! Đó là các nguyên nhân đã làm mờ mắt họ khiến họ không còn nhận ra vẻ kỳ diệu và phi thường mà Thiên Chúa muốn tỏ bầy qua con người của Đức Giê-su nữa. Đức Giê-su đối với họ vẫn là con người Na-da-rét.
Truớc tình hình đó, Đức Giê-su còn biết nói gì hơn! Người chỉ biết trích một câu ngạn ngữ rất phổ thông để làm cho tình hình bớt căng thẳng, và đây cũng là dịp nhắc lại cho họ biết về sứ mạng và thân phận của một ngôn sứ. Đó là: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.”
Thưa anh chị em,
Công việc mà Đức Giêsu cần làm trong hoàn cảnh này là thẳng thắn đối diện với tình trạng thiếu niềm tin của họ. Không thể để cho thái độ tiêu cực của họ làm cho Người bị nản chí hay bị gục ngã. Họ không tin. Nhưng các môn đệ cần nhìn vào gương sáng của Thầy. Gương sáng đó là niềm tin và tâm tình phó thác tuyệt đối vào Cha của Người, Đấng hiện diện trong mọi tình huống, nhất là trong những lúc Đức Giê-su cần đến Cha của Người. Bài học là như thế. Đức Giê-su đã trở thành gương sáng cho các môn đệ noi theo. Chu toàn ý định của Thiên Chúa hơn là đi tìm sự chấp thuận của thế gian, cho dù thế gian vẫn không tin Người.
Trạng thái thiếu niềm tin này có thể được cụ thể hoá qua lối sống của những người trẻ trong xã hội mà chúng ta đang sống hôm nay. Biết bao bậc làm cha làm mẹ đã và đang ngao ngán trước lối sống xa cách với niềm tin tôn giáo của con cái họ.
Chính Đức Giêsu, dù là Đấng đuợc Cha sai đến cũng đã gặp những người không tin, nhất là những người đó lại là thân nhân của Người. Đứng trước thái độ không tin của những người đồng hương, Đức Giê-su dường như bị bất lực. Thật ra, không hẳn là như thế. Sự im lặng của Chúa có thể cho chúng ta biết rằng Người hoàn toàn tôn trọng quyền tự do mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Cho dù con người đã nhiều lần xử dụng sai cái thẩm quyền đó. Nhưng vì yêu thương, Người vẫn tôn trọng và tìm cách khác để lôi kéo họ về nẻo chính đuờng ngay.
Có một sự thật vô cùng hiển nhiên mà chúng ta không thể chối bỏ được là Đức Tin tuy là điều cần thiết để nhận ra uy quyền của Thiên Chúa. Nhưng đức tin đó không phải là thành quả phát sinh từ sự cố gắng của con người, cho bằng đó chính là hồng ân cao quí của Thiên Chúa ban cho.
Và, với bản chất mỏng dòn và yếu đuối của con người như thế nào thì niềm tin của chúng ta cũng mỏng dòn và yếu đuối như thế. Chính vì thế, chúng ta cần có sự trợ lực. Sự hỗ trợ này không phát xuất bất cứ từ một sức mạnh nào, cho bằng nhìn nhận sự yếu đuối của bản thân, rồi để cho sức mạnh của Thiên Chúa được tỏ hiện. Đó chính là kinh nghiệm đã được san sẻ bởi Thánh Phao-lô trong bài đọc thứ hai mà chúng ta vừa nghe hôm nay.
Những gì mà Thiên Chúa đã nói với Thánh Phao-lô khi xưa, cũng là Lời mà Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay. Đó là “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” Và Thánh nhân đã rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của mình, để sức mạnh của Đức Ki-tô được biểu dương.
Đây, chính là bài học vô cùng quý giá cho những yếu đuối, thất bại và bị chối bỏ bởi người thân và những ai mà chúng ta quan tâm và hết lòng yêu mến. Chúng ta cần vững tin tiếp tục bước về phía trước, miễn sao chúng ta làm đẹp lòng Chúa là đủ rồi.
Vì thế, đứng trước sự từ khước của thân nhân và bà con lối xóm, Đức Giê-su đã không chấp nhận ngã gục hay thua cuộc, nhưng lại tiếp tục lên đuờng hoàn tất sứ mạng. Thánh Mác-cô nhận xét là Người ngạc nhiên vì họ thiếu lòng tin. Nhưng cũng chính vì ngạc nhiên mà Người tiếp tục tìm kiếm câu trả lời bằng cách thi hành sứ vụ. Câu trả lời đã đến qua việc Người đón nhận sự gục ngã toàn diện trên Thập Giá để củng cố niềm tin cho những ai đi theo Người. Và, đó cũng là cách mà Đức Giê-su muốn tỏ bầy để biểu lộ trọn vẹn kế hoạch của Thiên Chúa thành toàn nơi bản thân Người. Và chúng ta, hôm nay, đang được mời gọi để thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa chứ không phải sự đồng thuận hay hỗ trợ của thế gian. Xin cho những suy nghĩ, hành động và từng bước chân của chúng ta luôn ở trong kế hoạch vẹn toàn của Thiên Chúa. Amen!
Con người là sinh vật cấp cao, hơn các động vật là có khối óc biết suy nghĩ. Phương pháp suy diễn TN 14-B138
Con người là sinh vật cấp cao, hơn các động vật là có khối óc biết suy nghĩ. Phương pháp suy diễn là suy luận từ cái chung tới cái riêng, phương pháp quy nạp là suy luận từ cái riêng đến cái chung. Cách suy diễn có thể tốt hay xấu, ích lợi hoặc bất lợi. Không nên suy diễn lung tung, tùy hứng, hoặc theo định kiến riêng tư.
Không vồn vã với ai và không dửng dưng khinh người, cứ tự nhiên, thoải mái. Đó là cách xử sự không mấy người có được, bởi vì người ta thường thích nịnh bợ nhau. Thản nhiên là phong cách độc đáo và cần thiết, nhưng không dễ thể hiện, phải có đủ sâu sắc nội tâm mới toát ra ngoài.
Nhìn những người thản nhiên có vẻ rất lạnh lùng, người khác cảm thấy không thích. Họ là người bình tĩnh, điềm đạm, có thể làm chủ mọi tình huống và có thể tự kiềm chế bản thân. Họ vừa “tự động” vừa “chủ động,” chứ không “bị động” hoặc “thụ động.” Phong cách “cứ là chính mình” không phải ai cũng làm được – tức là không xu nịnh hoặc tâng bốc bất cứ ai, cũng không áp chế ai. Đó là “cái dũng của thánh nhân” – theo cách gọi của người xưa.
Những người thản nhiên không bao giờ vui quá hoặc buồn quá, trầm tư nên ít nói vậy thôi. Nhưng người ta cứ suy diễn rồi cho rằng họ tự kiêu, ra vẻ, chảnh, khinh người, lạnh như tiền,... Họ bị hiểu lầm và bị kết án oan.
Tín nhân, cuộc đời luôn mang tính thực tế, và có những dạng thực tế buồn. Chẳng hạn, một người bình thường, không thấy có gì nổi trội, nhất là khi người đó xuất thân từ một gia đình không danh giá, nghèo nàn, ít học,... thế mà bỗng nhiên làm được những việc khác người. Mặc dù vậy cũng chẳng ai tin. Xưa nay vẫn thế. Đó là một dạng “hàm oan,” một trong các dạng thực-tế-buồn thường thấy nhất. Người giỏi luôn thản nhiên, không cần biết người ta nghĩ gì về mình. Cuộc sống có một triết-lý-sống thú vị: Chỉ có người giỏi mới nhận ra và công nhận sự thông minh ở người khác.
Ngày xưa, khi về quê hương, Chúa Giêsu cũng “bó tay” và phải thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” (Mc 6:4; Mt 13:57; Lc 4:24) Con người là thế, họ muốn thách thức với ngụ ý như câu tục ngữ: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình!” (Lc 4:23) Con gà tức nhau tiếng gáy. Những người ghét mình, chẳng ai đâu xa lạ, họ chính là những người thân quen nhất. Sự thật quá phũ phàng và đáng buồn. Chúa Giêsu luôn làm điều tốt mà vẫn bị người ta ghen ghét.
Người ta thường nói: “Đời là thế!” Chúa Giêsu còn phải “lắc đầu” thì phàm nhân chẳng còn cách nào khác. Môi miệng nói lời ngon ngọt vì cái lưỡi chứa đầy nọc độc. Kể cũng lạ, mình không làm được thì thôi, người khác làm được thì sao lại ghét? Nhóm Pharisêu, nhóm Sađốc, các kinh sư, các nhà thông luật, các tư tế,… là “siêu nhân” như vậy, nhiều lần họ bị Chúa Giêsu thẳng thắn nguyền rủa là đồ khốn, là mãng xà.
Người yếu thì sợ gió. Khi thấy mình bị đối xử bất công, những người hèn hạ sẽ tức giận, kẻ nhát đảm có thể “vào hùa” với họ để được an thân, trở thành hèn hạ như họ. Muốn giữ lập trường của mình thì phải phân định đúng đắn, phải đủ can đảm hành động. Ngôn sứ Êdêkien bộc bạch: “Một thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Người phán với tôi và làm cho chân tôi đứng. Người phán với tôi: Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay.” (Ed 2:2-3) Dám ăn nói với dân ngang ngược như vậy, chắc chắn ngôn sứ Êdêkien phải can đảm lắm. Nhờ ơn Chúa, người chính trực không sợ hãi gì.
Quả thật, họ là dân “anh chị” thứ thiệt chứ không phải là dân vừa: “Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: ‘Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này.’ Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.” (Ed 2:4-5) Ngôn sứ Êdêkien vẫn thản nhiên, không hề sợ hãi. Thiên Chúa có phong cách rất độc đáo, Ngài không ép buộc mà cho họ tùy ý, nghe hay không nghe là quyền tự do của họ. Nhưng chắc chắn sẽ có hệ lụy kéo theo: “Ta sẽ căn cứ vào lối sống của chúng mà hạch tội.” (Ed 11:21)
Những người sống thẳng thắn thì thường thua thiệt, bị ghen ghét. Là con người, họ cũng buồn lắm, nhưng họ không thể “gió chiều nào ngả theo chiều nấy.” Và họ chỉ còn biết tâm sự nỗi lòng với Đấng mà họ luôn tôn thờ và tín thác: “Con ngước mắt hướng nhìn lên Chúa, Đấng đang ngự trên trời. Quả thực như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ, mắt con cũng hướng nhìn lên Chúa là Thiên Chúa của con, tới khi Người xót thương chút phận.” (Tv 123:1-2)
Dù có thế nào thì vẫn phải không ngừng cầu nguyện, kết hiệp với Chúa ở mọi nơi, mọi lúc, nhưng lời cầu xin của họ như không được đáp lại. Tâm can trĩu nặng nỗi buồn. Chắc chắn không phải Thiên Chúa lãng tai hoặc làm ngơ, mà Ngài muốn chính họ xác nhận niềm tin tuyệt đối vào Ngài. Họ đã từng thất vọng nhiều nhưng họ không tuyệt vọng, vẫn một lòng tín nguyện: “Dủ lòng thương, lạy Chúa, xin dủ lòng thương, bởi con bị khinh miệt ê chề; hồn thật quá ê chề vì hứng chịu lời nhạo báng của phường tự mãn, giọng khinh người của bọn kiêu căng.” (Tv 123:3-4) Thiên Chúa chỉ can thiệp đúng lúc, không sớm và không muộn. Ngài không thể lặng nhìn tôi tớ ngài sa cơ thất thế, gặp nguy hiểm, phải chịu oan uổng. Thật vậy, Thánh Augustinô xác định: “Ngài có đó khi ta tưởng cô đơn, Ngài nghe ta khi chẳng ai đáp lại, Ngài thương ta khi tất cả hững hờ.”
Tự tin nhờ hiểu biết. Tự tin là đức tính cần thiết để sống bình an, nhưng tự tin thái quá có thể dẫn tới kiêu ngạo. Thánh Phaolô chia sẻ kinh nghiệm: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại.” (2 Cr 12:7-8a) Ông cho biết: “Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này.” (2 Cr 12:7-8) Ai cũng sợ đau khổ, cả thể lý lẫn tinh thần. Thánh Phaolô cũng “nổi da gà” khi đối mặt với đau khổ, ông năn nỉ Chúa cứu thoát, thế nhưng Chúa có vẻ như làm ngơ, nhưng rồi Ngài nói rõ: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” (2 Cr 12:7-8b) Thánh ý Thiên Chúa vô cùng mầu nhiệm.
Đúng là “được lời như cởi tấm lòng,” Thánh Phaolô hết sợ, và vui vẻ chia sẻ: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.” (2 Cr 12:9-10) Hoàn toàn đảo ngược thế cờ: Nhược điểm (điểm yếu) hóa thành yếu điểm (điểm mạnh), sở đoản trở nên sở trường. Thật là kỳ diệu!
Phàm nhân khổng thể hiểu kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa. Chính Ngài đã chịu đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, chịu nghèo khó để chúng ta được sung túc, chịu nhục nhã để chúng ta được rạng rỡ, chịu yếu đuối để chúng ta được mạnh mẽ, chịu sỉ nhục để chúng ta được ca ngợi, chịu bị loại bỏ để chúng ta được đón nhận, chịu tan nát để chúng ta được nguyên vẹn,... và cuối cùng, Ngài chịu chết một lần để chúng ta được sống dồi dào và sống mãi.
Một lần nọ, Chúa Giêsu trở về quê hương thăm cha mẹ, cũng có các môn đệ đi theo. Ngày sabát, Ngài giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên nên bàn tán: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6:2) Lý do rất đơn giả và hiển nhiên: Đức Giêsu là con của bác thợ mộc Giuse và Cô Maria, anh em họ với Giacôbê, Giôsết, Giuđa và Simôn, chị em của Ngài là bà con lối xóm với họ. (Mc 6:3) Hoàn toàn bình thường, chẳng có gì nổi trội. Họ đã vấp ngã vì Ngài với lý do rất bình thường. Người ta không đủ hiểu để phân biệt sự khác nhau giữa điều bình thường và điều tầm thường. Điều bình thường nhưng chưa chắc là tầm thường, mà có thể là phi thường. Cuộc đời nhiều vị thánh đã chứng tỏ quy trình lạ lùng như vậy.
Nhưng rồi cái gì đến sẽ đến. Đời là thế! Và Đức Giêsu đưa ra một kết luận tất yếu: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” (Mc 6:4) Đáng sợ thật, nhưng nếu có thể nhận ra và xác định như vậy thì không đáng sợ nữa. Thánh Máccô cho biết rằng hôm đó Chúa Giêsu đã không thể làm được phép lạ nào tại đó, mà chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ, chính Ngài cũng lấy làm lạ vì họ không tin. (Mc 6:5-6) Sự thật quá phũ phàng!
Chúa Giêsu không suy diễn, không quan ngại, không nao núng. Nhưng người ta lại cứ suy diễn nên có lối đối xử không hay – với Chúa và với nhau. Đừng suy bụng ta ra bụng người!
Lạy Thiên Chúa, xin ban ơn thông tuệ và khôn ngoan, xin giúp con hiểu biết và phân định đúng đắn, để con đủ nhận thức và ý thức những gì cần thiết theo ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Sau khi cho chúng ta chứng kiến quyền năng của Đức Giêsu mạnh hơn cả cái chết, thánh Maccô đưa TN 14-B139
Sau khi cho chúng ta chứng kiến quyền năng của Đức Giêsu mạnh hơn cả cái chết, thánh Maccô đưa chúng ta đi theo Người về nơi quê quán là Nadarét. Tiếng đồn về Đức Giêsu đã vang khắp nơi, lôi kéo người bốn phương tìm đến với Người (Mc 3, 7-8), nay về thăm quê, chúng ta tưởng rằng Đức Giêsu sẽ được dân làng đón tiếp linh đình, kèn trống râm ran, như cảnh “trạng về làng vinh quy bái tổ”. Chuyện diễn ra không như chúng ta nghĩ.Tuy về quê quán của mình, nhưng Người cũng chờ đến ngày sabát mới vào hội đường rao giảng. Phản ứng đầu tiên của dân làng là “rất đỗi ngạc nhiên”. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?”. Thế ra họ cũng đã nghe biết về những phép lạ Người làm ở khắp nơi. Họ rất đỗi ngạc nhiên. Nhưng họ bỗng như bị xối nước lạnh lên đầu, khi họ nhìn thấy thân nhân của Người ngồi chung quanh họ trong cùng một hội đường. Thân nhân đã từng bị kích động vì dư luận, cho rằng Người đã mất trí và họ đã kéo nhau đi bắt Người về (Mc 3, 20-21.31-32), nhưng đã về tay không. Nhìn mặt Người thì vẫn là mặt bác thợ con bà Maria, từng làm thuê cho họ. Nhìn quanh, họ thấy anh em, chị em, bà con của Người, những người vẫn chen vai sát cánh với họ hàng ngày, trong cái làng quê nhỏ bé mà ai cũng biết mọi người, mọi nhà. “Và họ vấp ngã vì Người”. Đức Giêsu phải ngao ngán nói với họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. Quả như câu tục ngữ xưa của Việt Nam: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”. Kết cục: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay lên trên một và bệnh nhân và chữa lành họ”. Lại như một câu tục ngữ Việt Nam: “Bụt nhà không thiêng”; “người phụ nữ” đã được Người tuyên dương: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”; ông trưởng hội đường đã được Người khích lệ: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi!” còn dân làng Nadaret thì Người cũng phải “lấy làm lạ vì họ không tin”. Thế là chuyến thăm quê cũ chẳng có gì phấn khởi.(x. Tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan).
***
Cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 13,53-58; Mc 6,1-6; Lc 4,14-39) đều thuật lại câu chuyện Đức Giêsu không được tiếp đón tại quê nhà và Ngài đều nói đến ý tưởng: “Ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình” (Ga 4,44). Nhưng mỗi Tin Mừng thuật lại câu chuyện với các chi tiết khác nhau và đặt trong những bối cảnh văn chương khác nhau. Tin Mừng Máccô đặt trình thuật “Đức Giêsu bị rẻ rúng tại quê hương mình” (Mc 6,1-6) sau trình thuật “Đức Giêsu chữa lành người đàn bà bị băng huyết và cho con gái ông Giaia sống lại” (Mc 5,21-43).
Quê hương Nadaret của Chúa Giêsu chẳng là trái ngọt nhưng là trái đắng với vị chát chối từ, và chua cay thành kiến. Dẫu vậy Ngài không than van, không giận dữ hay oán trách quê nhà. Ngài vẫn hiện diện thật hiền lành và khiêm hạ để đón nhận thực tế. Quê hương là “chùm khế ngọt” của mỗi con người. Nhìn về quê hương Nadaret của Chúa Giêsu, thật khác lạ. Ngài trở về quê mà không được dân làng ủng hộ, trái lại họ đã xem thường Ngài và xúc phạm đến Ngài. Tại sao?
Bởi lẽ, họ tìm về nguồn gốc thì chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nadaret này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, mấy ai quan tâm đâu! Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, đi từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông ấy bỏ quê nhà đi một thời gian, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế nhỉ? Một quá khứ và hiện tại như vậy đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Dân làng Nadaret quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài, họ lấy lý lịch để thẩm định về Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Chính Nathanael cũng còn mang nặng quan niệm thành kiến đó: “Nadaret có cái gì tốt đâu?” (Ga 1,46). Những người Do thái cố chấp nhìn Đức Giêsu bằng lăng kính của thành kiến quê hương và họ đã đưa Ngài lên ngọn đồi và định xô xuống vực.
Đức Giêsu “ngạc nhiên vì sự không tin của họ”. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Dân làng Nadaret “vấp ngã vì Người”, họ không chấp nhận, họ không thể tin vào Đức Giêsu. Ngài mạc khải cho họ về nguồn gốc thiên sai của mình qua những lời giảng dạy khôn ngoan và các phép lạ, nhưng họ lại chỉ bám lấy thành kiến cố hữu. Chính thái độ bám ghì lấy, không dám buông bỏ những hiểu biết giới hạn nên họ không thể nhận biết Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ. Đức Giêsu không thể làm được phép lạ nào tại đó vì họ không tin.
Dân làng Nadaret không tin vì thành kiến. Họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những định kiến hẹp hòi. Vì thế, họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ mà Đức Giêsu mở ra cho họ. Có ai ngờ Đấng Cứu Thế lại là người đơn sơ, khiêm hạ như thế. Đức Giêsu không sống như một siêu nhân, Ngài sống bình dị như mọi người trong mọi thực tại hằng ngày của cuộc sống gia đình.
Những người đồng hương của Đức Giêsu thật “dại”, thay vì “một người làm quan cả họ được nhờ” nhưng họ lại đánh mất cơ hội khi quan niệm “bụt nhà không thiêng”. Thành kiến kiểu “nhìn mặt là biết số nhà” khiến người ta không ít lần rơi vào sai lầm khi nhìn đến tha nhân.
Thành kiến là ý kiến có sẵn từ lâu trong đầu óc, không thay đổi được.Thành kiến có thể là của cá nhân hay của tập thể. Nếu là của tập thể thì nó tích tụ từ lâu đời qua nhiều thế hệ và hầu như không thể thay đổi được. Thành kiến là những nếp suy nghĩ, quan điểm, niềm tin chủ quan sẵn có, thường là tiêu cực đối với một người, một nhóm người dựa trên lối sống, nghề nghiệp, quan điểm chính trị, màu da, sắc tộc, quốc tịch, tôn giáo, giới tính…Thành kiến thường được định hình trong con người theo thời gian, từ trải nghiệm của bản thân, do được tuyên truyền, do thế hệ trước truyền lại, do môi trường sống.Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người, không ai thoát khỏi.
Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả sai lầm hoặc nguy hại. Ai đeo kính đen nhìn cái gì cũng tối tăm; lưỡi đắng ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Yêu nên tốt, ghét nên xấu. Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng. Thật dễ để nhận ra hay để nói về sai lầm của người khác.
Thành kiến làm cho người ta mù quáng, không nhận định khách quan nên khó có thể đối thoại, cởi mở với người khác, không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi tha nhân.
Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng sự kiện dân làng Nagiarét ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu rao giảng trong hội đường, và kết thúc bằng sự ngạc nhiên của Chúa khi Ngài thấy họ không tin. Làm sao họ không ngạc nhiên được khi lời rao giảng và những dấu lạ Ngài làm tỏ rõ Ngài là Đấng đầy quyền năng và khôn ngoan? Thế nhưng, sự ngạc nhiên ấy không đủ để thay đổi thành kiến của họ về Ngài. Họ không thể chấp nhận một bác thợ bình thường, là người đồng hương họ quen biết, lại là vị ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến. Và càng không thể chấp nhận được một con người như Ngài lại cả dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa, là Đấng Kitô. Hạnh phúc được tin vào Đức Kitô, đáng lẽ họ nhận được lại bị mất vì một thành kiến.
ĐTC Phanxicô kêu gọi mọi thành phần trong Hội Thánh “không bao giờ đóng kín nơi chính mình, không bao giờ lui về nơi an toàn của mình, không bao giờ chọn thái độ cố chấp hay tự vệ. Nó hiểu rằng nó phải gia tăng sự hiểu biết Tin Mừng và nhận ra các đường lối của Thần Khí, vì vậy nó luôn luôn làm bất cứ điều tốt lành nào có thể, dù trên đường đi, chân nó có thể bị lấm bùn” (Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, số 45).
Đức Maria được ca tụng là có phúc vì đã tin (Lc 1,45). Chúng ta cũng thật có phúc vì đã tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người và là Đấng Cứu Thế của nhân loại. Đức tin là ân huệ quý giá nhất trong cuộc đời, nhờ đó, mọi việc, dù nhỏ bé, âm thầm đến đâu, vẫn có ý nghĩa và có thể đem lại niềm vui, bình an cho cuộc đời.
Mỗi ngày mới, chúng ta hãy bày tỏ lòng tri ân Chúa đã thương ban cho mình ơn đức tin qua đời sống chuyên cần cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, tham dự Thánh Lễ.
Lạy Chúa Giêsu, con cảm thấy hạnh phúc khi đi theo Chúa, khi làm môn đệ Ngài. Xin Chúa giúp con sống tốt tư thế môn đệ ấy. Xin giúp con luôn quảng đại và khiêm tốn trong lời nói, trong những nhận định về nhau và nhất là xin cho con nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi anh chị me con. Amen.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng biết câu chuyện Tin Mừng hôm nay, vì nó quá phổ thông. Theo tục TN 14-B140
Có lẽ ai trong chúng ta cũng biết câu chuyện Tin Mừng hôm nay, vì nó quá phổ thông. Theo tục lệ Đức Giêsu đi đến hội trường mỗi tuần vào ngày Sabbath để dự lễ. Khi đến lượt mình, Đức Giêsu đọc và giải thích Kinh Thánh.
Dân thành lắng nghe Chúa vì tin đồn Chúa đã làm nhiều phép lạ ở những nơi khác. Họ thắc mắc không biết cậu này sẽ làm những gì ở tỉnh nhà đây?
BỤT CHÙA NHÀ KHÔNG THIÊNG
Dân thành tỏ vẻ coi thường Chúa nên Chúa nói: “Chẳng có tiên tri nào lại được nể trọng và tôn vinh ở quê nhà của mình”. Dân thành Nazareth đã xúc phạm Chúa, không nghe những lời Người nói. Họ coi thường lời Người giảng chỉ vì Người là thợ mộc, dân giã tầm thường, gia đình chẳng có thế giá gì. Chúa Giêsu đã không làm những việc lạ lùng nơi họ vì họ không tin Chúa.
Họ ghét bỏ, từ chối, không tin Chúa thì họ sẽ chẳng biết gì hơn những điều họ đang có. Họ không chịu yêu người khác thì họ cũng không chấp nhận người khác. Chúng ta hẳn có những lần đã rơi vào tình trạng này ?
TRỞ VỀ QUÊ NHÀ
Chúng ta thường nghĩ chỉ có Luca mới ghi lại việc Chúa Giêsu về thăm Nazareth, nơi người đã được nuôi dưỡng và lớn lên và giai thoại xẩy ra trong hội trường ở Nazareth (Lc 4:16). Nhưng thực ra cả Máccô và Mátthêu cũng nói tới giai thoại này dù các ông không nhắc tới tên Nazareth mà chỉ nói là “tỉnh nhà” hay “quê nhà của Người” (Mc 6:1; Mt 13:54). Tuy nhiên cũng có đôi chút khác biệt giữa câu chuyện của Luca và của hai ông Máccô và Mátthêu. Trong Mátthêu và Máccô, dân chúng coi gốc gác Chúa Giêsu tầm thường, là thợ mộc (Mc 6:3), con ông thợ mộc (Mt 13:55), do đó nghi ngờ về sứ mạng cao cả của Chúa. Còn Luca thì không nhắc đến gốc gác tầm thường của Chúa.
Theo Máccô, về thăm tỉnh nhà của Chúa không chỉ là bước đầu cuộc hành trình mục vụ mà còn là suốt chiều dài rao giảng Tin Mừng và chữa lành của Chúa, ngay cả sau những lúc Chúa nói về các dụ ngôn (Mc 4:1-34), về người con gái ông Gia ia chết được sống lại (Mc 5:21-43). Trong Mátthêu thì Chúa cũng báo trước về sứ mệnh của Người với 12 Tông đồ (Mt 10:2-42).
Qua những thắc của dân thành về Chúa Giêsu trong câu chuyện của Máccô (6:1-6) ta học hỏi được gì? “Bởi đâu mà Người này có được những cái đó? Sao ông lại khôn ngoan như thế? Làm sao mà một mình tay ông lại có thể làm được những điều như vậy? Người này không phải là tên thợ mộc, con bà Maria, anh em với các ông Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao, chị em ông không ở đây với chúng ta sao? Và rồi họ xúc phạm đến người.”
Hình như họ muốn hỏi Chúa Giêsu “Ông là ai?” Chúa Giêsu thấy họ có vẻ trịch thượng và vơ vào cho mình quá lố: Ông này không phải là tên thợ mộc, con bà Maria sao? Hắn cũng như chúng ta thôi, là thành phần của chúng ta, do đó hắn phải làm cho chúng ta tất cả mọi sự hắn có thể. Hắn thuộc về phe ta nên mắc nợ chúng ta!
Chúa Giêsu đã phản đối thái độ chiếm hữu đó. “Tiên tri thì được tôn vinh mọi nơi, trừ quê nhà, anh em họ hàng và ngay cả trong gia đình nữa. Họ đã mắc một bệnh gọi là bệnh “mù lòa”. Chúa Giêsu đã từ chối không ban ân huệ cho tỉnh nhà mà ưu tiên cho những người xa lạ.
VIỄN KIẾN VÀ LÒNG QUẢNG ĐẠI
Để hiễu tường tận bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần phải có một tấm lòng, thiện chí và chấp nhận tha nhân. Từ đó ta mới có một viễn kiến đúng mức. Khi đối diện với một người có chí lớn, tâm hồn quảng đại và tầm nhìn xa như Chúa Giêsu, chúng ta thường tỏ ra ghen tức, dè bửu. Dân thành Nazareth đã không nhận ra được sự thánh thiêng của Chúa Giêsu bởi vì tiên khởi họ đã không muốn chấp nhận. Họ không nhận sự liên đới của Chúa Giêsu với Thiên Chúa bởi vì họ không muốn tìm hiểu cặn kẽ và đầy đủ, đồng thời họ cũng chẳng biết là chính họ cũng có liên hệ với Thiên Chúa tức là họ thuộc về Thiên Chúa. Họ không thể thấy được đấng Thiên Sai đang đứng bên cạnh họ bởi vì Người quá giống như những người của họ. Chỉ khi nào tự chúng ta biết mình được Thiên Chúa yêu thương thì những phép lạ sẽ trở thành hi hữu. Lúc đó các tiên tri, sứ giả ở giữa chúng ta mới cần phải phấn đấu để được mọi người chú ý, chấp nhận và nghe theo.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Máccô cho biết Chúa Giêsu lấy làm lạ vì có những kẻ không tin, dù lúc đầu mới nghe Chúa giảng, dân làng rất thán phục và hãnh diện về Người. Sứ điệp giải phóng của Người thật tuyệt vời. Nhưng rồi họ nhận ra vị tiên tri trẻ này chính là một trong những người mà họ nói: “Người này chẳng phải là tên thợ mộc, con bà Maria sao?”
Những người đả phá mạnh mẽ nhất thường là những kẻ rất quen biết với chúng ta, là người trong gia đình, bà con thân thuộc, người hàng xóm, những người thường kề vai sát cánh với chúng ta hằng ngày. Dân thành Nazareth đã từ chối không công nhận Chúa Giêsu vì quá quen biết, là bà con hàng xóm… Khi tính sở hữu của họ bị cản trở thì sẽ thành tự vệ rồi bạo động. Phản ứng này sẽ gây ra nhiều thảm cảnh như ganh ghét và thù hận. Họ xúc phạm Chúa. từ chối không chịu mở rộng lòng trí sẽ đi đến thái độ cực đoan. “Tất cả hội trường nổi cơn thịnh nộ (Lc 4:28) và họ tìm cách giết người (Lc 4:29).
ĐÔI LỜI KẾT
Bài Tin Mừng hôm nay khuyên chúng ta nên cẩn thận, noi gương sáng của Chúa Giêsu. Con người có khuynh hướng chiếm hữu, ích kỷ và nhỏ nhặt. Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc toàn thể nhân loại (Ga 4:42), không riêng cho một làng, một tỉnh, một thị trấn hay một quốc gia nào!
Để bắt chước Chúa Giêsu, Đấng tuyệt mỹ duy nhất, chúng ta phải có lòng quảng đại, tâm trí bao dung. Ghen tương là một tính xấu của con người không nhận biết ra vẻ đẹp của tha nhân nên không kính trọng họ. Ghen tương làm người ta “mù lòa” bởi vì mắt bị che kín không thể nhìn thấy vẻ đẹp của người khác và cả của chính mình nữa. Ghen tương sẽ đi đến bạo động và phá hoại, có hại cho mình và cả những người khác. Để đến gần và bắt chước Chúa Giêsu, tức muốn sửa đổi con người mình, chúng ta phải nhận ra được tính ganh ghét của chúng ta và tự hủy bỏ nó đi ngay.
Lòng quảng đại giúp mình thoát ly khỏi cái “tôi” của mình, muốn người khác được hạnh phúc, tự do để người ta trở nên vĩ đại đủ để giống hình ảnh và vẻ đẹp của Thiên Chúa. Lòng quảng đại thúc dục mỗi người chúng ta ao ước cho tha nhân được thỏa mãn và hạnh phúc tràn đầy! Lòng quảng đại có thể vươn tới, vượt quá con người mình để mong cho tha nhân có được những thứ mà mình thiếu không có, đồng thời vui sướng vì vẻ đẹp, lòng tốt và sự vĩ đại của họ.
Nên cầu nguyện thường xuyên để Chúa không còn phải sửng sốt vì lòng chai đá không tin của chúng ta nữa, nhưng xin Người vui nhận những hành động trung thành nhỏ bé của chúng ta, tính quảng đại với tha nhân của chúng ta trong việc phục vụ tha nhân, những người anh chị em chúng ta. Chớ gì Thiên Chúa ban cho chúng ta tâm hồn quảng đại để chúng ta có thể nhìn vượt quá chúng ta hầu nhận biết lòng tốt, tính vĩ đại và vẻ đẹp huy hoàng của tha nhân thay vì ganh ghét tỵ hiềm vì những cái họ có. Chỉ có quyền lực của Thiên Chúa mới cứu được chúng ta khỏi tính ganh ghét, tâm hồn nghèo nàn, khỏi sư nghi ngờ và sai lầm, khỏi sợ chết và thất vọng.
Tin Mừng cứu chuộc quả là “Tin Mừng Vĩ Đại” cho chúng ta ngày nay.
Phúc Âm tường thuật rằng, ngay sau khi xuất hiện công khai tại vùng Ga-li-lê, Chúa Giêsu đã TN 14-B141
Phúc Âm tường thuật rằng, ngay sau khi xuất hiện công khai tại vùng Ga-li-lê, Chúa Giêsu đã trở thành một nhân vật rất nổi tiếng. Từ miền quê cho đến thành thị, từ vùng biển cho đến vùng núi, trong nhà ngoài đường, nơi phố chợ…chỗ nào thiên hạ cũng trầm trồ, khen ngợi và khâm phục sự khôn ngoan, những lời giáo huấn, và những phép lạ mà Chúa Giê-su đã thi ân giáng phúc cho dân chúng. Chúa Giêsu đã nổi tiếng đến nỗi cả vua Hê- rô-đê cũng nôn nao, cũng ao ước muốn được gặp bởi đã từng nghe [người ta] nói về Người (x. Lc 23:8).
Ấy vậy mà những người hàng xóm của Chúa Giê-su lại nghi ngờ, rồi còn bàn tán với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?...” (Mc 6:2).
Chưa hết, họ đã tỏ thái độ coi thường Chúa Giêsu đến nỗi, Ngài phải thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4).
Tại sao họ lại coi thường Chúa Giêsu như vậy? Tôi nghĩ là vì họ có qua nhiều THÀNH KIẾN.
• Họ biết Chúa Giê-su từ hồi nhỏ, cậu không phải là một người có bằng cấp cao, chẳng đi học đâu xa cả, chỉ loanh quanh trong ngôi trường làng, gia đình thì nghèo, bố làm thợ mộc, mẹ làm nghề may vá và nội trợ, cả họ hàng, anh em bà con cũng thế, chẳng có ai có tài năng gì đặc biệt cả. Vậy mà bây giờ Giêsu lại trở thành một người khôn ngoan, có tài ăn nói lưu loát và đầy sức thuyết phục như vậy, không thể như thế được!
• Trong ba mươi năm trời, Giêsu âm thầm sống với cha mẹ, chẳng bao giờ có ai nói, cũng chẳng có ai nghe là Giêsu có những khả năng phi thường hay có những tài năng đặc biệt gì cả. Vậy mà bây giờ lại nổi tiếng về tài chữa bệnh, làm phép lạ cho người què đi được, kẻ mù xem thấy, kẻ chết sống lại…thì làm sao mà tin cho nổi.
Vì mang nặng những THÀNH KIẾN như vậy cho nên họ đã khinh thường Chúa Giêsu. Và vì thế Ngài không thể làm được phép lạ nào tại [Na-da-rét] cả (x. Mc 6:5).
Thành kiến về tha nhân đã và vẫn đang tồn tại ở trong hãng xưởng, ở chợ, ở văn phòng, ở tiệm, ở trường học, ở trong gia đình, trong dòng tu, và ở trong giáo xứ dưới rất nhiều hình thức khác nhau.
• Con ơi, người ngoại quốc họ hoang phí lắm, họ không biết dành dụm, không biết tiết kiệm, không biết lo cho tương lai, làm đồng nào xào đồng ấy…con mà lấy nó thì cả đời con chỉ có khổ mà thôi!
• Mày là người miền nam mà làm dâu của nhà người miền bắc thì mày chết chắc! Người miền bắc họ lễ nghĩa, khách sáo, khắt khe, và khó khăn lắm đó!
• Phải là dân chơi, dân giang hồ, thì nó mới có những vết xâm ở trên tay như vậy! Tôi sẽ không bao giờ chấp nhận cái thứ ấy là rể trong gia đình tôi!
• Bà Hai cương quyết không chấp nhận cho Hào lấy Huê chỉ tại vì bà tin rằng “Những người mắt trắng môi thâm, trai thì xảo quyệt, gái thì điêu ngoa!”
Bạn có bao giờ có những thành kiến về người khác không? Nếu không thì cám ơn Chúa. Còn nếu chẳng may bạn đã từng có những thành kiến với tha nhân, thì xin bạn hãy suy nghĩ lại! Xin bạn thay đổi đi, bởi vì ở đâu cũng có người tốt kẻ xấu, tất cả mọi người chúng ta đều bất toàn, đều có những sai phạm, đều có những lỡ lầm…
Xin đừng có thành kiến với ai cả, vì khi có thành kiến với người khác, là khi đó ma quỷ sẽ gieo vào trong gia đình, trong cộng đoàn dòng tu, trong giáo xứ, vào trong nơi làm việc, và vào trong tâm hồn chúng mình sự chia rẽ, ghen tương, oán ghét, cạnh tranh, vu khống, nói hành, kiêu căng, hỗn loạn (2 Cr 12:20).
Cầu chúc bạn luôn luôn là một người đại lượng, nhân hậu, và phóng khoáng và nhất là không bao giờ có những thành kiến hay những định kiến tiêu cực về những người chung quanh, đặc biệt là đối với những anh chị em khác màu da, hoặc những người có những phong tục tập quán khác với mình.
Chúa Giê-su đã phán: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40). Nghĩa là mỗi lần bạn và tôi có thành kiến với bất cứ ai, thì lúc đó là chúng mình đã có thành kiến với chính Chúa vậy! Bạn và tôi hãy cầu nguyện cho nhau để đừng ai trong chúng mình có những thành kiến với Chúa nhé! Có thành kiến với Ngài là không ổn đâu! Thật đấy!
Đức Giêsu trở về thăm quê hương, nhưng dân làng không tiếp đón Người. Thành kiến, cố chấp TN 14-B142
Đức Giêsu trở về thăm quê hương, nhưng dân làng không tiếp đón Người.
Thành kiến, cố chấp thường khiến con người mù quáng, thiếu suy xét cho đúng, và dẫn đến loại trừ: Mù quáng vì chỉ có thể nhìn thấy một phía, nhìn sai lệch; Thiếu suy xét vì chỉ hài lòng với những gì đã biết- thường dựa trên cảm tính, trong quá khứ; Loại trừ vì không nhận ra điểm tích cực, đánh giá thấp và không mở lòng chấp nhận.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta thoát ra khỏi thành kiến, để nhận ra những điều kỳ diệu mà Người đang thực hiện nơi những con người rất tầm thường, rất quen thuộc với chúng ta.
Đức Giêsu đã thất bại tại quê nhà Người vì “không thể làm được phép lạ nào tại đó”, trước sự cố chấp và thành kiến của dân làng. Đây thật là một kinh nghiệm thất bại đớn đau: Khi bị dân làng khước từ, khi thân nhân của Người cho rằng Người mất trí (Mc 3, 21), khi các Kinh sư, người Pharisêu không tin Người. Tất cả họ đã khép lòng trước ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa.
Chúng ta cũng thất bại nặng nề: Khi mọi người đang gần gũi, qua lại, thân tình lại “trở mặt”, thay lòng đổi dạ; Khi tài sản tiêu tán, “không cánh mà bay”; Khi không có việc làm phù hợp với khả năng; Khi công việc kinh doanh sa sút hay không lợi nhuận... Kinh nghiệm thất bại thực là một trải nghiệm đớn đau, và thường gây chán nản, bỏ cuộc, thậm chí oán hận, tức giận, “giận cá chém thớt”, cay đắng, nghiệt ngã… và biết bao cảm xúc tệ hại khác. Có lẽ kinh nghiệm thất bại đau đớn nhất là khi tương giao thân tình- vốn nâng đỡ, có ý nghĩa cho cuộc đời, bị gẫy đổ: “Con người chối từ nhau”.
Để có thể vượt qua thời khắc tệ hại này, chúng ta cần:
* QUÊN những cay đắng, buồn phiền- vốn không chỉ có chúng ta phải chịu, mà còn nhiều người cũng phải chịu- có khi còn nặng nề hơn.
* QUY về Thiên Chúa tất cả những thất bại, cũng như thành công, vì “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà”.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta mở lòng đón nhận ân sủng và tình yêu của Người, mở mắt tâm hồn để nhận ra quyền năng của Người, vì Thiên Chúa cũng bất lực trước những khước từ, những tâm hồn khép kín của con người.
Lạy Chúa Giêsu,
Con cám ơn Chúa đã cho con cặp mắt để con thấy vinh quang của Chúa, cho con đôi tai để con nghe chân lý của Chúa, và cho con trí tuệ để con say mê Chúa.
Một lần nữa, chúng ta suy niệm câu chuyện đau lòng: Người đồng hương của Chúa Giêsu khước từ TN 14-B143
Một lần nữa, chúng ta suy niệm câu chuyện đau lòng: Người đồng hương của Chúa Giêsu khước từ Chúa.
Tuy ít nhiều chi tiết, dụng ý, ngụ ý, bối cảnh văn chương khác nhau, nhưng cả ba tác giả Nhất Lãm (Mt 13, 53-58; Mc 6, 1-6; Lc 4, 14-39) đều ghi nhận, Chúa Giêsu, sau thời gian rời gia đình đi rao giảng, trở về quê nhà Nazareth, không được đón tiếp nồng hậu. Cả ba đều cho thấy Chúa Giêsu thất vọng đối với đồng hương: “Ngôn sứ không có thế giá tại quê hương mình” (Ga 4,44).
Người làng Nazareth nói không sai về nguồn gốc nhân tính của Chúa: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon”. Bởi Chúa lớn lên từ đây. Xóm làng này, từ nhiều chục năm nay, còn có ai lạ gì hình ảnh cha của cậu bé Giêsu, bác thợ Giuse hàng ngày tỉ mỉ với cái bào, cái cưa, cái đục lui cui đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ...
Nhưng họ chỉ biết một mà không biết hai. Họ tưởng mình thông suốt về lý lịch của Chúa Giêsu, thực ra họ chỉ là kẻ mù tối. Cái óc phán đoán chỉ biết dựa trên thứ chủ nghĩa lý lịch đã che mù con mắt của họ, đẩy họ xa rời đức tin.
Bởi còn một chân lý quan trọng phía bên trong con người Giêsu ấy chính là nguồn gốc bởi trời, nguồn gốc thần linh tuyệt đối mà ngoài Chúa ra không một ai có được: Chúa là chính Đức Chúa Trời, là Ngôi Hai Thiên Chúa và là Đấng Thiên sai mặc lấy bản tính loài người nhập thể vào trần gian.
Khi có sẵn thành kiến về gốc gác của Chúa, người làng Nazareth cho thấy lòng họ nhiều tiêu cực: kiêu ngạo, ấu trĩ, thiếu cầu tiến, thiếu khôn ngoan...
Trong tất cả những tiêu cực, nổi bậc là sự tầm thường và thái độ ganh tỵ của họ đứng trước sự tự tin, khôn ngoan, uyên bác của Chúa Giêsu. Nhìn Chúa bằng cặp mắt tầm thường, họ đánh giá Chúa cũng bằng sự tầm thường ấy.
Cái tầm thường đã "cư ngụ" sẵn, đã ngốn hết mọi vị trí trong phán đoán của họ. Vì thế, dẫu có nhận ra "ông này được khôn ngoan", thì họ vẫn không chấp nhận thực tế sự "khôn ngoan" của Chúa.
Nhìn người khác bằng ánh mắt tầm thường, cũng có nghĩa là lòng mình chỉ là cõi lòng tầm thường; con người mình chỉ là con người tầm thường.
Mọi suy xét, hiểu biết xuất phát từ cái tầm thường, làm sao có thể ra khỏi cái thế giới tầm thường đang vây lấy nó. Nói cho đúng, đã là kẻ tầm thường, não trạng của kẻ vốn tầm thường, trước sau cũng chỉ tầm thường mà thôi.
Chính cái tầm thường cố hữu của người làng Nazareth khi đứng trước sự khôn ngoan vượt bậc của Chúa, đã không mang lại cho họ bất cứ kết quả hay bài học tốt đẹp nào.
Trái lại, nó khiến họ càng lấn sâu vào sự dè biểu, chê bai. Họ nương vào cái lý lịch của Chúa Giêsu để tự đánh lừa: Giêsu nào có gì hay. Con của lão thợ mộc, con của bà Maria quê mùa. Đó chỉ là một gia đình nghèo kiết xác.
Họ bám víu vào cái lý lịch mà họ tự hiểu về Chúa để tự yên tâm về sự đánh giá mà họ dành cho Chúa. Càng tìm lý lẽ ngụy biện hòng làm bệ đỡ cho lối suy nghĩ tiêu cực, càng cho thấy họ tầm thường. Cái tầm thường ấy chỉ có thể đẻ ra lòng ganh tỵ. Càng tầm thường, càng ganh tỵ mà không tiếp thu được bất cứ điều gì từ sự khôn ngoan của Chúa và từ chân lý mà Chúa mạc khải.
Qua suy nghĩ về cách mà người đồng hương của Chúa thể hiện, ta phải nhìn lại mình, nhìn lại thái độ sống bên cạnh anh em của mình. Ta cũng đầy ganh tỵ tầm thường, đầy những lý lẽ ngụy biện để chối từ anh em, chối từ một hiện thực nào đó, lẽ ra rất cần, rất tốt cho bản thân hay đời sống chung.
Ganh tỵ vì thua kém, bởi anh em, nhất là những kẻ từng ở bên cạnh mình, nay trội hơn mình, là thứ sản phẩm xuất ra từ cái tầm thường của ta.
Tầm thường mà không nhận thấy mình tầm thường, lại chỉ tỏ ra ganh tỵ, cũng là thứ kiêu ngạo. Bởi kiêu ngạo, nên không đón nhận tha nhân, không đón nhận cái hay, cái tốt, không đón nhận những đổi mới đôi khi vô cùng cần thiết cho cá nhân, tập thể, cộng đoàn dòng tu, giáo xứ, giáo phận...
Hãy đứng trên cái tầm thường nhỏ nhen của bản thân. Hãy học cách ngưỡng một thay vì ganh tỵ. Hãy tập cho mình tâm hồn rộng lượng, bao dung để khi thấy ai thành công, ta mừng cho họ. Thấy ai hơn mình, ta chúc phúc cho họ. Trong cuộc sống đời thường, hãy học cách khen ngợi người khác thật lòng, chân thành công nhận thành tựu của người khác.
Hãy nhớ, ganh tỵ bóp méo nhân cách, làm thay đổi bản chất tốt đẹp trong ta. Cuộc sống bản thân vui vẻ, hạnh phúc hay đau khổ tùy vào lựa chọn và cách nghĩ của mỗi người. Ganh tỵ, nhất là ganh tỵ triền miên với người gần bên, sẽ làm ta mất bình an, mất niềm vui, mất hưởng thụ cuộc sống.
Nếu có lúc nhận ra mình ganh tỵ, hãy nhìn Chúa Giêsu hy sinh cho nhân loại, cho chính ta, để học theo Chúa từng chút, từng chút một, suốt đời mình.
Hãy nghĩ về cái tốt ta đang có và tự nhủ: "Nhìn lên không bằng ai, nhưng nhìn xuống không ai bằng", để chuyển ganh tỵ thành ngưỡng mộ, chuyển năng lượng xấu thành tích cực, thành động lực để cố gắng hoàn thiện bản thân.
Chẳng nhận ra cha mẹ mình là ai, suy nghĩ tích cực một chút ta sẽ nói: có thể vì người đó đui TN 14-B144
Chẳng nhận ra cha mẹ mình là ai, suy nghĩ tích cực một chút ta sẽ nói: có thể vì người đó đui mù, câm điếc, hoặc điên khùng. Không thể phát hiện được việc làm tốt của anh chị em mình, suy nghĩ tự nhiên, nhiều người sẽ cho rằng bạn ấy đúng là vô cảm ! Mắt sáng tinh thông, tai nghe tốt, nhưng tâm trí mê muội, phán đoán sai lạc, có ai dám quả quyết kẻ đó bình thường không ? Cuộc sống hối hả, khiến tình bạn có thể phai nhạt, người ta bơn trải vì cơm áo gạo tiền, nhưng không lẽ bận rộn đến độ “lú lẫn” quên mất cội nguồn của mình ! Vâng, nếu không vô tâm vô tình, kẻ làm con sẽ đủ ý thức để hiểu: hạnh phúc nhất của tôi là có mẹ có cha, có mẹ để nói lời yêu, có cha để thực hành đức yêu thương. Yêu là thế, tình là thế, dù con cháu có từ chối lời răn dạy, có ngoảnh mặt làm ngơ món quà tinh thần của cha mẹ, các ngài vẫn hy vọng: con tôi sẽ tới đích, cho dù chúng gặp nhiều gian truân ở bước khởi đầu.
Đức Giêsu hôm qua cũng như hôm nay: tài giỏi, đức độ, dồi dào năng lượng, được diễn tả qua lời nói việc làm, đầy chất yêu thương. Muôn dân ở khắp các vùng lân cận, tâm phục khẩu phục, khi họ được nghe, được xem thấy Đức Giêsu. Người bình dân ở hội đường hôm đó sửng sốt về giáo lý của Ngài, trong khi đó các luật sĩ chỉ nhận ra Ông Giêsu tài giỏi là con bác thợ bình thường. Thực ra, sống ở đời này, ai cũng có quyền tỏa sáng, đáng tiếc kẻ tiểu nhân lại muốn tỏa sáng trên “cái nền” là dập tắt người tốt. Đức Giêsu đến trần gian vì yêu, vì tình, Ngài kêu gọi mọi người mau sám hối vì nước trời đã đến, tại hội đường Nagiarét, Ngài mơ ước người đồng hương cũng giống như các dân dộc, sớm nhận biết Một Thiên Chúa cứu độ đang hiện diện nơi họ.
Con người giới hạn, tinh tế lắm mới nói được: yêu là chết ở trong lòng một tí, vì mấy khi yêu mà chắc được yêu. (Xuân Diệu). Người đồng hương hôm đó đã xúc phạm, từ chối Đức Giêsu, và chúng ta vẫn hiểu như thế nào về câu nói đầy ưu tư: “Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng” ! Phải chăng Đức Giêsu muốn nói riêng với các luật sĩ biệt phái, các bạn đừng ganh tỵ, đừng sợ mất ảnh hưởng, tai tiếng hay nổi tiếng rồi cũng qua đi, bình an, niềm vui ơn cứu mới là điều cần hơn cả. Yêu là thế, có vượt qua được đau khổ, có thắng được sự tự mãn nơi tâm tính bất toàn của mình, rồi bạn sẽ biết: có nhiều thứ ở xung quanh ta còn quan trọng hơn là được nổi tiếng. Hy vọng chúng ta đang tin yêu Thầy Giêsu, đang sống sứ mạng riêng của mình, sẽ không ngã lòng nản chí, dù ta yêu thật, và có bị người thân từ chối, tình yêu thương của ta vẫn không đổi thay.
Lời nói ngọt ngào, bài giảng thu hút, có nhất thiết phải trang bị đủ kiến thức, đủ khả năng diễn giải hay không, ấy vậy, nhiều người cho rằng, thuyết giảng là nghệ thuật nối kết giữa người nghe và người nói trong một tình yêu. Nếu bạn xinh đẹp, có chất giọng, hát đúng nhịp, liệu bạn đủ tố chất để thu phục người nghe, và có thể được gọi là ca sĩ chuyên nghiệp chưa ? Một linh mục giảng hay, ngoài kiến thức, năng khiếu, đầu tư công sức dọn bài, linh mục đó còn phải có Chúa, bài giảng mới có hồn, có đủ lực lay động người nghe ? Chắc chắn người hương của Đức Giêsu năm xưa không mù, không điếc, nhưng có phải vì tự mãn kiêu căng, tai mắt họ không đủ tinh thông, họ không thể nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ ?
Yêu là thế, ngọt, mùi, và còn phải sống động, rõ ràng ai cũng trân trọng người tài giỏi đức độ, nể phục người có uy tín. Thời nào, hoàn cảnh nào: trời cao đất rộng vẫn cho ta những cơ hội để xem, để thấy, để hiểu, hạnh phúc thật luôn ở trong tầm tay của ta. Cuộc đời chúng ta được sánh ví như những trang sách chất chứa đầy kinh nghiệm: kẻ điên khùng, có thể sẽ xem lướt qua, người bình thường nhất, cũng biết đọc xem ứng dụng ; còn bạn, hãy thể hiện mình khôn ngoan: đọc, suy gẫm, và thực hành. Trong đời sống siêu nhiên, có khao khát được gặp Đức Giêsu, có nghiêm túc nghe giáo huấn của Ngài, thì cũng có cơ hội để hiểu, để tin Đức Giêsu là Thiên Chúa luôn đồng hành, chúc phúc cho ta đi tới bến bờ hạnh phúc.
Khối kẻ hiện tại vẫn trăn trở: yêu là gì, mà ngàn năm trước đến nay nhân loại vẫn khổ đau vì tình ? Kinh nghiệm cho thấy, nhiều kẻ yêu nhau lâu quá quên cả cưới, nhiều người cưới nhau lâu quá, quên cả yêu ! Cơ hội gặp Đức Giêsu hôm nay cũng thế, rất tự do, nghe giáo huấn của Đức Giêsu luôn là lời mời gọi, hiểu và sống niềm tin yêu, mãi mãi là một khám phá vừa mới vừa sống động. Có thể ta không đứng núi này trông núi kia, chẳng bận tâm linh mục ở thành thị, hay linh mục ở nông thôn ai giảng hấp dẫn, thu hút, nhưng ta đủ trưởng thành để thấy, để cảm nhận Đức Giêsu đang nói lời yêu, đang hành động vì tình, đang thực thi quyền năng yêu thương trên mỗi tâm hồn người khiêm tốn theo Chúa. Amen
Hiện nay, nhiều nơi trên thế giới và ngay tại Việt Nam chúng ta cũng có một số ngôi nhà úp TN 14-B145
Hiện nay, nhiều nơi trên thế giới và ngay tại Việt Nam chúng ta cũng có một số ngôi nhà úp ngược. Những ngôi nhà nầy giống y như những ngôi nhà khác nhưng mái nhà thì cắm xuống đất, còn nền móng thì chổng lên trời, tất cả đồ đạc bài trí trong nhà đều chúc ngược… khiến cho nhiều du khách mới nhìn qua cảm thấy choáng váng.
Nhìn những ngôi nhà úp ngược như thế, người ta liên tưởng đến các giá trị trong đời sống xã hội loài người hôm nay cũng bị đảo ngược cách đáng buồn.
Những phẩm chất đạo đức cao quý thì bị xem thường, bị dìm xuống, trong khi những điều thấp kém lại được tôn lên cao.
Cụ thể là, một số người xem thường những người tuy nghèo nhưng có tâm hồn cao đẹp, có phẩm chất cao quý, giàu lòng đạo đức và khiêm tốn… trong khi đó lại coi trọng những người thiếu phẩm chất đạo đức mà chỉ có bộ cánh hào nhoáng bên ngoài, có xe sang, nhà lớn…
Nhiều bạn trẻ nông nổi hôm nay tôn những diễn viên ăn mặc lố lăng, phong cách quái đản, tâm hồn rỗng tuếch… lên làm thần tượng, mà không biết quý trọng những người khôn ngoan và đạo đức…
Qua Tin mừng hôm nay, thánh Mác-cô cho thấy người dân thành Na-da-rét cũng đánh giá Chúa Giê-su theo nhãn quan đó.
Mặc dù danh tiếng Chúa Giê-su đã vang dội nhiều nơi nhờ những lời rao giảng khôn ngoan, nhờ việc chữa lành nhiều bệnh nhân và nhờ những phép lạ Ngài làm, thế nhưng khi trở về quê quán, những người đồng hương nhìn vào gia thế thanh bần của Chúa Giê-su, nhìn đến anh chị em họ hàng của Ngài thuộc hàng dân dã và ngay cả bản thân Ngài trước đây cũng chỉ là một anh thợ mộc bình dị trong làng… nên họ không còn quý trọng và đặt niềm tin vào Ngài nữa.
Họ xì xào bàn tán với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giu-se, Giu-đa và Si-mon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Ngài” (Mc 6,3).
Thế là Chúa Giê-su chẳng làm phép lạ nào tại Na-da-rét cho người đồng hương. Ngài rời bỏ quê nhà đi rao giảng nơi khác.
Tiếc thay, vì đánh giá Chúa Giê-su theo dáng vẻ bên ngoài, dựa vào gia thế, nghề nghiệp… mà không dựa vào phẩm chất cao quý của Ngài, nên dân làng Na-da-rét đã xem thường Chúa Giê-su và đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Ngài ưu ái dành cho họ. Cách đánh giá như thế khá phổ biến trong xã hội hôm nay.
Vì đề cao tiền tài, danh vọng, vẻ sang trọng bên ngoài… mà xem nhẹ những phẩm chất tinh thần cao đẹp bên trong nên giới trẻ ngày nay cố tạo cho mình có “lớp sơn” hào nhoáng bên ngoài, tranh đua ăn mặc sao cho hợp thời trang, cho lôi cuốn… còn đầu óc, trái tim và tâm hồn thì trống rỗng.
Vì say mê sự hào nhoáng của giàu sang mà coi rẻ nét đẹp tâm hồn nên nhiều người sẵn sàng hiến thân làm nô lệ cho tiền bạc, cố tìm cách trở nên giàu sang bằng mọi giá, cho dù phải bán rẻ lương tâm, danh dự và ngay cả thân xác mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên người ta đánh giá con người dựa theo số lượng của cải mà người đó sở hữu chứ không dựa vào nhân đức, phẩm hạnh cao đẹp bên trong.
Trước thực trạng đó, Hội thánh nhắc nhở chúng ta rằng: “Giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu nhưng tuỳ thuộc phẩm chất của mỗi người”, còn nhân gian thì nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.”
Lạy Chúa Giê-su,
Xin dạy chúng con nhận ra rằng vẻ sang trọng và hào nhoáng bên ngoài chỉ là “lớp sơn” mỏng không thực sự làm gia tăng giá trị con người.
Xin giúp chúng con biết thẩm định giá trị con người dựa vào phẩm chất cao đẹp của họ, chứ không phải dựa vào những thứ “bao bì”, vỏ bọc bên ngoài.
Và xin cho nhân loại hôm nay biết nhận ra đâu là giá trị tinh thần cao quý đáng theo đuổi suốt đời và đâu là điều xa hoa phù phiếm không nên quyến luyến ham mê.
Ở đời người ta hay nói : “Khôn Nhà Dại Chợ” như ám chỉ cách cư xử của chúng ta thường là thiếu TN 14-B146
Ở đời người ta hay nói : “Khôn Nhà Dại Chợ” như ám chỉ cách cư xử của chúng ta thường là thiếu công bằng với người thân của mình. Hiếm khi chúng ta đánh giá cao về người thân, và càng hiếm khi chúng ta cám ơn về những việc mà người thân đã rất vất vả làm cho chúng ta. Có đôi khi còn có những lời, những việc làm đau lòng người thân.
Người ta nói rằng khó mà có một người đàn ông cư xử với vợ nhã nhặn, ôn hòa như anh ta từng nhỏ nhẹ , ân cần với phụ nữ quen biết ở công ty hay gặp gỡ bên ngoài xã hội.
Và người ta cũng nói rằng khó mà có một người phụ nữ ăn nói nhỏ nhẹ và cười duyên dáng với chồng như cô ta đã từng cư xử với đồng nghiệp nam bên ngoài.
Cuộc sống luôn cho ta cơ hội để vươn lên nhưng đừng quên rằng mỗi bước tiến của chúng ta luôn có sự hỗ trợ của người thân bên cạnh trợ giúp chúng ta. Họ luôn là hậu phương hỗ trợ rất nhiều cho sự thành công của chúng ta, nhưng đáng tiếc , chúng ta thường quên công sức của họ và có khi còn xem thường người thân của mình.
Chính Chúa Giê-su cũng phải chịu cùng một số phận đó. Dầu danh tiếng, địa vị của Ngài được mọi người khắp nơi nhìn nhận, thế mà về quê hương vẫn bị sự thành kiến lấn át đến nỗi chỉ xem Chúa Giê-su là một anh thợ mộc bình dị trong làng. Họ xì ra tán vào với nhau rằng: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6,3). Từ cái nhìn đầy thành kiến của người đồng hương nên Chúa Giê-su đã từng chua xót nói rằng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6, 4).
Thật đáng tiếc cho người đồng hương Nagiaret, vì đánh giá Chúa Giê-su theo lớp vỏ bên ngoài, nên họ cũng đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Chúa Giê-su ưu ái dành cho họ. Ở đời phẩm giá cao trọng hơn chức quyền. Ở đời năng lực quan trọng hơn gia thế. Người có chức quyền mà không có tư cách cũng chỉ làm hại cho xã hội. Người có gia thế giầu có mà không có năng lực thì tiền núi bạc bể cũng tiêu tan. Rất đáng tiếc khi người Do Thái lại đánh giá Chúa Giê-su dựa vào gia thế, nghề nghiệp mà không dựa vào phẩm chất, năng lực mà Chúa đã thể hiện qua lời nói, việc làm đầy uy quyền của mình trên hành trình truyền giáo..
Ở đời có khi “quen quá hóa nhàm” đã làm cho chúng ta không nhìn được ưu điểm của người bên cạnh. Ở đời có đôi khi chúng ta cũng chạy theo xu nịnh những người có gia thế giầu sang và xem thường người nghèo khó, cơ hàn. Chúng ta tôn vinh người quyền thế mà xem thường người bé nhỏ tầm thường. Chúng ta đề cao vật chất mà quên giá trị tinh thần. Chúng ta chạy theo số lượng mà không quan tâm đến chất lượng. Chúng ta mãn nguyện vẻ bề ngoài mà bỏ quên rèn luyện vẻ đẹp tâm hồn.
Khi viết lại cái nhìn lệch lạc của người Do Thái về Chúa Giê-su, hình như thánh Marco cũng nhắc đến con người hôm nay đừng đánh giá nhau trên vẻ bề ngoài mà hãy đánh giá nhau trên giá trị của nhân phẩm. Đừng coi trọng cái áo người mặc mà hãy kính trọng tâm hồn cao đẹp của nhau. Hãy nhìn thấy vẻ đẹp tâm hồn của nhau hơn là trầm trồ vẻ đẹp bên ngoài, vì chưng : “Giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu nhưng tuỳ thuộc phẩm chất của mỗi người” .
Xin Chúa giúp chúng ta biết sống cảm thông nâng đỡ những người bên cạnh và xin đừng vì thành kiến mà chúng ta đối xử với nhau thiếu yêu thương và kính trọng. Amen
Hôm nay, Chúa Giê-su về thăm quê. Chỉ có Ngài và các môn đệ cùng đi, không có cảnh đám đông chen lấn, không có sự đón tiếp nồng hậu như nhiều người thành công danh tiếng ngày nay vẫn nhận được khi họ trở về quê.
Ngày Sa-bát, Ngài vào hội đường giảng, mọi người sửng sốt ngạc nhiên về sự khôn ngoan và Giáo lý mới mẻ của Ngài. Họ nhìn nhau thắc mắc: Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của ông không phải là Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? (x. Mc 6, 2-3).
Người ta sửng sốt ngạc nhiên, vì người làng Na-da-rét dường như rất bị coi thường trong xã hội miền Ga-li-lê. Chính ông Na-tha-na-en đã từng nói với ông Phi-lip-phê: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46). Người ta có định kiến về người Na-da-rét, nhưng chính người dân Na-da-rét cũng tin vào định kiến ấy. Họ cũng nghĩ rằng, từ nơi mảnh đất quê hương của họ, không có người khôn ngoan, không có người tài năng, không có bậc vĩ nhân nào có thể làm vẻ vang làng quê của họ.
Chúa Giê-su đã không được những người đồng hương đón nhận, người ta không tin vào Ngài. Gia đình Thánh Gia đã sống một cách rất bình thường, thậm chí là tầm thường giữa bà con thân thuộc và hàng xóm láng giềng. Chúa Giê-su, suốt ba mươi năm sống ẩn dật cũng không hề phô trương, không làm bất cứ một phép lạ nào. Ngài cũng lớn lên trong sự giáo dục và nếp sống của cha mẹ như bao người bình thường khác. Quá ẩn dật để rồi không có gì gây chú ý, một sự ẩn mình đầy khiêm tốn của Đấng Mê-si-a. Người dân vùng quê nghèo ấy luôn chấp nhận một sự khinh thường từ người làng khác, họ không muốn thay đổi chi, không mong có ai có thể khiến họ được “nở mày nở mặt”. Vậy nên, họ không hiểu sao cái ông Giê-su bình thường ấy lại có thể làm được những điều phi thường như thế. Dân chúng ở những nơi khác tin và đi theo Chúa rất nhiều, còn người làng Na-da-rét lại nghi ngờ, thắc mắc. Họ không tin, hay đúng hơn là họ không thể tin. Chỉ vì những định kiến của bản thân, họ đã không nhận được những món quà từ chính Đấng là Ngôi Hai Thiên Chúa. Bà Harper Lee trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Giết con chim nhại” đã nói: “Định kiến, một từ bẩn thỉu, và đức tin, một từ sạch sẽ, đều có một điểm chung: chúng đều bắt đầu ở nơi lý trí kết thúc”. Thật vậy, tin hay không thì đều tùy thuộc vào lý trí tự do của con người.
Con người ngày nay cũng thường chịu nhiều thất bại, gánh nặng, đau khổ chỉ vì những định kiến của mình hay của người khác. Rất nhiều người trong chúng ta thường chỉ biết đánh giá mọi sự và mọi người dưới lăng kính chủ quan của chúng ta. Có những người đã vì định kiến mà khiến người khác không bao giờ có cơ hội để được làm việc, được thể hiện mình, được thành công hay thậm chí được trở nên một người tốt trong mắt họ hoặc người khác. Vì định kiến, chúng ta sẽ xét đoán, phán đoán sai lệch, có thái độ tiêu cực đối với người khác ngay cả khi chưa bao giờ chuyện trò hay tiếp xúc với họ. Như có người đã nói: “Cuộc sống thường không chật hẹp trong những ngôi nhà, trên những con đường, góc phố, mà chính trong những định kiến và suy nghĩ của con người”. Khi chúng ta có một định kiến không tốt về một ai đó, chúng ta có khi sẽ lôi kéo nhiều người khác về phe mình, rốt cuộc có thể khiến chính bản thân người đó cũng nghĩ tiêu cực về mình như vậy. Họ sẽ phải chịu một sự đối xử thiếu công bình và bác ái, sẽ vấp phải một sự chống đối và đả kích ngầm hoặc công khai. Ai phải sống trong môi trường như vậy, thử hỏi sao họ có thể phát triển toàn diện nhất được.
Định kiến là thứ rất khó để xóa bỏ, thay đổi. Ông Nelson Madela, Tổng thống da màu đầu tiên của Nam Phi, đã từng viết trong cuốn hồi ký của mình: “Một lần lên máy bay, nhìn thấy phi công là người da đen, tôi đã rất lo lắng và cảm giác lo lắng đó kéo dài cho đến hết chuyến bay. Sau đó tôi đã rất xấu hổ, vì bản thân mình cũng là người da đen, cả cuộc đời đấu tranh chống phân biệt chủng tộc, nhưng lại không tin nổi một người da đen có thể lái máy bay an toàn”. Chúng ta không có thái độ phân biệt chủng tộc cách công khai, nhưng rất có thể chúng ta cũng phân biệt về vùng miền, quê quán, dòng họ của người khác.
Hãy tập sống tích cực với môi trường, với con người, với hoàn cảnh cụ thể mà Chúa đang đặt để chúng ta vào. Qua đó, chúng ta sẽ là những nhà truyền giáo thấm nhuần tinh thần Chúa Ki-tô, sẽ đem đến những tín hiệu tích cực và tràn đầy niềm vui, hy vọng đến cho người khác. Đừng để mình bị giới hạn trong những định kiến của người khác, cũng đừng khiến cho người khác bị giới hạn và tổn thương do định kiến của mình. Chúng ta hãy là những Ki-tô hữu biết đón nhận những ân huệ thường ngày của Thiên Chúa, và cũng biết cách giúp cho những người khác cũng đón nhận được những hồng ân như chúng ta.
Chắc hẳn rằng hai từ quê nhà với bạn gợi nhớ biến bao nhiêu những kỷ niệm thân thương và gắn TN 14-B148
Chắc hẳn rằng hai từ quê nhà với bạn gợi nhớ biến bao nhiêu những kỷ niệm thân thương và gắn bó nhưng có lẽ với những người khác nó lại gợi lên những kinh nghiệm về những nỗi đau và sự mất mát. Chúa Giêsu trải qua kinh nghiệm về sự khước từ ngay chính tại quê hương của mình. “Người đã đến nhà mình nhưng người ta lại chuộng bóng tối hơn ánh sáng.”[1] Thực ra, thái độ của dân làng đón tiếp Chúa Giêsu phản ánh thái độ nội tâm của bạn và tôi trong hành trình tiến về quê nhà đích thực trên thiên đàng.
Hai từ quê nhà
Nói đến quê nhà thường bạn nghĩ ngay đến gia đình, tương quan, nơi cảm thấy an toàn, nơi được dưỡng dục hình thành nhân cách. Quê nhà thường gắn với những tương quan, nơi bạn được sinh ra và lớn lên, được nuôi dưỡng và cưu mang những ước mơ. Nó là bệ phóng để bạn bước vào đời. Nói chung quê nhà thường là không gian được bảo vệ và nơi khao khát được trở về. Tuy nhiên không chỉ mang nghĩa cụ thể, quê nhà ở đây còn mang nghĩa trừu tượng.[2] Quê nhà chính là không gian nội tâm, thái độ sống, cung cách và hành vi ứng xử, là nơi ta gặp lại chính ta, là nơi thân mật gặp gỡ Thiên Chúa và chính mình. Quê nhà là quốc gia, là dân tộc[3], là dòng dõi của một người, là quê hương vĩnh cửu mà mỗi người hằng khao khát. Như thế quê nhà ở đây không chỉ là không gian cụ thể nhưng là không gian nội tâm, là điểm đến khi bạn hoàn tất cuộc sống lữ hành. Quê hương gợi nhớ nguồn cội. Tuy nhiên có một nghịch lý khi nói về quê nhà mà bạn ít để ý.
Nghịch lý khi trở về quê nhà
Các bài đọc trong Chúa Nhật Tuần XIV TN Năm B có nói đến nhà hay ít nhiều liên quan đến quê nhà. Bài Đọc I “Thiên Chúa răn dạy nhà Ít-ra-en qua miêng ngôn sứ Êzêkiel bởi vì nhà ít-ra-en đã ra cứng lòng.”[4] Bài Đọc II Thánh Phao-lô biểu lộ sự vui sướng được đón nhận Đức Kitô vào trong ngôi nhà tâm hồn của mình.[5] Bài Tin Mừng: “Ngôn sứ không được tiếp đón khi ở tại nhà mình.”[6] Tin Mừng chỉ ra sự đối lập về sự mù tối của dân làng và sự mặc khải về căn tính của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa, ngôn sứ nói Lời của Chúa, nhưng Ngài đã bị chối từ ngay chính tại quê hương của mình. Ngài bị khước từ ở tại một nơi tưởng chừng như là nơi an toàn nhất. Thái độ dân làng Na-za-rét đón tiếp Chúa Giêsu phản ánh thái đội nội tâm của mỗi người khi đón tiếp Thiên Chúa, khi Ngài bước vào cuộc đời của mình.
Tại sao ngôn sứ không được tiếp đón khi trở về quê nhà? Có nhiều lý do dẫn đến điều này. Đó có thể do ghen tương, định kiến, cố chấp, có thể do bị mù lòa về đức tin, không nhận ra căn tính của Chúa Giêsu. Và có khi bạn không chấp nhận chính mình, khó tha thứ cho chính mình và ngay cả những người khác. Thâm chí không chấp nhận con người thật của mình và chấp nhận chính Chúa. Điều này có thể là cách bạn chối bỏ việc đón tiếp Thiên Chúa. Đôi khi bóng tối trong tâm hồn bạn cũng có thể ngăn cản bạn gặp gỡ Thiên Chúa. Gặm nhấm những vết thương của quá khứ cũng giúp bạn cảm thấy khoan khoái, ở lại trong tội cũng có thể giúp bạn cảm thấy được một chút ủi an.
Vả lại, khi bạn đối diện với những đau khổ và những mất mát trong đời sống, có lẽ bạn chỉ thấy và tập trung vào nỗi đau của chính mình và sự dữ trong đời sống mà quên mất hàng nghìn điều lớn lao hơn mà Thiên Chúa đang quan phòng và chăm sóc cho bạn. Bạn chỉ nhìn thấy những vết đốm nhỏ mà không nhìn thấy bức tranh lớn lao hơn. Có khi bạn đối diện với một sự mâu thuẫn và khó hiểu giữa sự tốt lành của Thiên Chúa, sự tồn tại của sự dữ và sự đau khổ của những người công chính. Đại dịch cũng là một thách đố cho niềm tin của bạn vào một Thiên Chúa tốt lành và sự hiện diện của sự dữ trong đời sống. Vấn đề là bạn có còn thực sự tin và cảm nhận vào sự hiện diện của Ngài giữa những phong ba bão táp của cuộc sống hay không. Phải chăng con sóng cuộc đời xô ngã trái tim tôi.
Khi bạn nhìn vào bức tranh gia đình ngày hôm nay hay nơi chính gia đình của bạn, có thể bạn không tìm thấy được hạnh phúc trong chính ngôi nhà của mình. Con cái suốt ngày bị tra tấn bởi sự cãi vã và bất hòa. Ngôi nhà không còn thực sự là tổ ấm, trường học đầu tiên và là sự hiệp thông của các ngôi vị nhưng gia đình là hỏa lò thiêu đốt tuổi thơ. Tuổi thơ bị lạc mất khỏi vòng tay gia đình. Trẻ em bị khước từ ở một nơi an toàn nhất, nơi cưu mang sự sống và ươm mầm những ước mơ. Chúa Giêsu không được đón nhận ngay cả những tương quan ruột thịt.
Giới lãnh đạo tôn giáo và chính trị Do Thái thời Đức Kitô cũng chối bỏ việc đón nhận Lời của Ngài. “Bởi lẽ Lời này nghe chói tai quá.”[7] Lời Chúa không thể bén rễ trong tâm hồn và trái tim ủa họ. Họ không mở lòng ra với chân lý và sự thật cho nên sự thật không thể giải phóng họ được. Việc từ chối Chúa Giêsu vẫn là một hiện thực đang diễn ra trong xã hội và thế giới hôm nay. Nhiều nhà lãnh đạo chính trị tìm cách ngăn cản Tin Mừng và dập tắt niềm tin của người tín hữu bởi vì họ sợ rằng giáo lý đụng chạm đến lương tâm con người và họ sẽ được biến đổi.
Và thực tế đáng buồn ngay tại những quốc gia có truyền thống Kitô giáo tại Châu Âu cũng đã đang tìm cách chối bỏ chân lý của Đức Kitô cả trên bình diện lý thuyết lẫn thực hành. Có lẽ hơi quá đáng khi nói rằng không có Kitô Giáo thì sẽ không có Châu Âu ngày nay, ít nhất về mặt tổ chức xã hội, ý thức về nhân phẩm và sự tự do liên đới chứ chưa nói đến những giá trị siêu nhiên. Tuy nhiên có một sự thật đáng buồn là sau khi có được Châu Âu họ lại tìm cách loại bỏ chính nền tảng đã kiến tạo nên quê hương của mình. Nói thế không có nghĩa rằng, Giáo Hội và những nhà lãnh đạo tôn giáo đã hoàn thiện và thực sự trở nên tốt lành như người mục tử mà Đức Kitô hằng mong muốn. Trái lại, Giáo Hội cũng cần phải căn tân và hoán cải mỗi ngày. Vậy nếu hôm nay, Chúa Giêsu bước vào căn nhà nội tâm của bạn, Ngài sẽ thấy được điều gì?
Quê nhà trong trái tim tôi
Chúa Giêsu bước vào căn nhà nội tâm của bạn với những ngổn ngang và yếu đuối, những ước mơ còn dang dở, những vết thương chưa được chữa lành, những tội lỗi thầm kín chưa dám xưng ra, những góc khuất mà trong đó ân sủng của Thiên Chúa chưa đụng chạm tới. Rất có thể Chúa Giêsu không có chỗ đứng trong trái tim bạn khi bạn không chấp nhận chính mình và sự tha thứ của Ngài.
Khi đối diện với chính mình và với những khao khát sâu thẳm trong lòng mình bạn thấy được điều gì? Phải chăng đó là khao khát sự nối kết và sự trao tặng chính mình, phải chăng là những yếu đuối và lời mời gọi phía trên cao, và cũng nơi đó bạn gặp được Đấng hiện diện sâu thăm hơn chính sự sâu thẳm trong trái tim bạn. Phải chăng đây là khao khát được là chính mình ngay trong chính căn nhà của mình. Bạn được ở với bạn ngay trong nhà mình, bạn được ở với Ngài ngay trong căn nhà nội tâm của mình. Dĩ nhiên trước khi được ở lại với chính mình trong chính căn nhà của mình, bạn vẫn có thể đang bị “lưu vong.” Điều mà thánh Phaolô gọi là sự yếu hèn. Nhưng điều làm cho thánh Phaolô cảm thấy được an ủi là sức mạnh của Đức Kitô ngự trong sự yếu đuối và mang lấy sự yếu đuối của tôi. Có được điều này, bạn thực sự được “hồi hương.”
Chúa Giêsu nói, trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, và Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Chúa Giêsu không cách xa bạn nhưng Ngài luôn ở với bạn cho dù bạn không ý thức về sự hiện diện của Ngài. Một khi bạn có chỗ trong trái tim và được cư ngụ trong nhà Chúa khi đó bạn thực sự được ở trong nhà mình. Bạn được hưởng Phúc Kiến Nhan Thánh Chúa. Phải chăng đó là hành trình mà mỗi người đang tìm về.
……… [1] Ga 1,11 [2] Rabbi Chaim Weiner, There Is No Place Like Home, https://myhebrewwords.wordpress.com/2015/12/17/19-%d7%91%d7%99%d7%aa-bayit-there-is-no-place-like-home/ (21 June, 2021) [3] https://biblehub.com/greek/3624.htm [4] Ed 2, 2-5 [5] 2 Cr 12, 7-10 [6] Mc 6, 1-6 [7] Ga 6,60
Người tín hữu chân chính là người sống giữa cuộc đời biết bao biến động mà vẫn tin tưởng vào TN 14-B149
Người tín hữu chân chính là người sống giữa cuộc đời biết bao biến động mà vẫn tin tưởng vào Chúa và trung tín với niềm tin ấy. Nói cách khác, tin vào Chúa và trung tín với Ngài, đòi hỏi phải chấp nhận những thiệt thòi trong cuộc sống. Tin vào Chúa cũng được so sánh như người lội ngược dòng giữa cuộc đời đầy rẫy những xáo trộn xung quanh. Giữa những bon chen, nghi ngờ và mưu mô mánh lới, người tin Chúa vẫn giữ tâm trạng an bình và phó thác, vì họ tin Chúa là chủ lịch sử và là Đấng quan phòng yêu thương.
Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta những khó khăn nghịch cảnh mà người tin Chúa phải đối diện trong cuộc sống hằng ngày. Thánh Mác-cô kể lại một chuyến viếng thăm quê hương của Chúa Giêsu và những nhận định của bà con đồng hương về Người. Việc Chúa Giêsu rao giảng và làm phép lạ làm cho những người ở Nagiarét ngưỡng mộ. Tuy vậy, họ chỉ dừng lại ở sự ngưỡng mộ đối với một nhân vật giỏi giang khôn ngoan, mà không chấp nhận gạt bỏ thành kiến để đi xa hơn, tức là nhận ra Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, đến trần gian để cứu độ con người. Quan niệm của họ về Chúa chỉ dừng lại là “một bác thợ con bà Maria”.
Giữa một xã hội đa dạng trong suy tư và trong cách sống, đức tin vào Chúa Kitô nơi chúng ta cũng có nguy cơ bị thu hẹp lại trong một số quan niệm thuần túy trần thế. Khá nhiều tín hữu chỉ giữ Đạo mà không sống Đạo, tức là họ nhận mình là người được rửa tội và mang danh Công giáo, nhưng không thực hành đức tin, hoặc giả như nếu có thì đó là một lối thực hành miễn cưỡng chiếu lệ. Những tín hữu này cũng giống như những người đồng hương của Chúa Giêsu ở Nagiarét ngày xưa. Vì vậy, họ không cảm nhận được Đức Giêsu là Đấng hằng sống trong Giáo Hội và trong tâm hồn của họ. Vì đức tin nơi họ còn non yếu và hời hợt, một lúc nào đó, những biến động của cuộc đời sẽ làm cho đức tin tiêu tan.
Trong bối cảnh phức tạp, sống đức tin đã khó, làm chứng cho đức tin lại khó hơn nhiều. Tuy vậy, trong mọi nghịch cảnh, người tín hữu vẫn là những “tông đồ” và “ngôn sứ”. Theo nguyên nghĩa Hy Lạp, hai danh xưng này đều có nghĩa “được sai đi”. Edêkien là một ngôn sứ sống vào thời kỳ người Do Thái bị lưu đày ở Babylon. Ông can đảm thi hành sứ vụ giữa những gian nan thử thách. Không những gặp khó khăn từ chế độ cai quản, ông còn gặp khó khăn đến từ những kỳ mục và dân Do Thái. Tuy vậy, ông không nản lòng. Nội dung bài đọc I là lời Chúa khích lệ ông, hãy tiếp tục thi hành sứ mạng, mặc cho dân cứng cổ và phản loạn. Lòng tín thác vào Chúa đã giúp ông đứng vững và loan báo sứ điệp của Chúa với lòng can đảm.
Nhờ Bí tích Thanh tẩy, người Kitô hữu được trao ba sứ mạng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế. Ngôn có nghĩa là lời; Sứ có nghĩa là được sai đi. Ngôn sứ tức là người được sai đi để nói Lời của Chúa. Nhiệm vụ này, không phải lúc nào cũng dễ dàng, vì “Trung ngôn nghịch nhĩ – Lời nói thẳng thì khó nghe”. Để thi hành nhiệm vụ ngôn sứ, có những lúc người tín hữu phải kiên trung và phó thác. Trong khi nhiều người dễ dàng chấp nhận sự dối trá, thỏa hiệp để được lợi lộc danh vọng, thì người Kitô hữu phải cân nhắc kỹ càng để không phạm Luật Chúa và không làm trái với lương tâm. Lịch sử ghi lại rất nhiều tín hữu đã chọn con đường thập giá của Chúa Giêsu để làm chứng cho sự thật. Giáo Hội Công giáo Việt Nam đang cử hành Năm Thánh tôn vinh các Thánh Tử đạo Việt Nam. Các ngài đã chọn lựa Chúa và chấp nhận những hệ lụy đi kèm theo sự lựa chọn dứt khoát ấy. Đòn vọt, tù đầy, gông cùm và vu khống không làm các ngài nản chí. Ước chi việc cử hành Năm Thánh giúp mỗi người tín hữu nhận ra sứ mạng nhân chứng trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay, nhờ đó, chúng ta được vững tin giữa cuộc đời đầy biến động.
Qua chức năng ngôn sứ, mỗi chúng ta đều được sai đi để giới thiệu Chúa cho mọi người. Dù ở bậc nào, ai cũng có thể thực hiện được chức năng này, miễn là có thành tâm thiện chí. Được thúc đẩy và soi sáng bởi Đức tin, người được sai đi loan báo Lời Chúa không còn lo sợ. Thánh Phaolô, vị chiến sĩ Đức tin và là Tông đồ dân ngoại, đã cảm nhận được niềm vui khi chịu thử thách trăm chiều. Ngài vui sướng khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ ngặt nghèo vì Đức Kitô. Chính lúc ấy, Ngài lại được thêm sức mạnh thần linh Chúa ban (Bài đọc II).
Không ai chúng ta viện cớ mình kém cỏi để từ chối nhiệm vụ ngôn sứ. Một nụ cười, một lời nói động viên, một cử chỉ thân thiện… dù rất đơn sơ, nhưng nếu được thực hiện với lòng yêu mến, chúng trở nên những món quà ý nghĩa. Món quà quan trọng và ý nghĩa nhất mà chúng ta có thể trao tặng cho mọi người, đó là Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người và đang ở giữa chúng ta.
Những thử thách của cuộc đời không có ý làm ta tê liệt, chúng có ý giúp ta khám phá ra ta là ai(Bernice Johnson Reagon).
Quê hương là chùm khế ngọt, cho con trèo hái mỗi ngày…”. “Quê hương” là cánh diều bay cao TN 14-B150
“Quê hương là chùm khế ngọt, cho con trèo hái mỗi ngày…” (“Quê hương” của Giáp Văn Thạch, thơ : Đỗ Trung Quân). “Quê hương” là cánh diều bay cao, là tiếng sáo mà ngày nào ta cùng đám bạn vui đùa trong mỗi buổi chăn trâu. Quê hương trong ta thật đẹp với bao kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ để mỗi khi nhớ về lòng ta lại bồi hồi, xúc động; dù đi xa vẫn muốn được trở về thăm quê.
Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Ngài chọn một người cha, người mẹ, có một quê hương để lớn lên và để trở về. Hôm nay, Đức Giê-su trở về quê quán cùng các môn đệ của mình. Có lẽ, lòng Ngài cũng thao thức mong chờ được trở về nơi “chôn nhau cắt rốn” để giảng dạy và chữa lành bệnh tật cho những người đồng hương. Tình thương lớn lao trong tâm hồn hối thúc bước chân Ngài. Thế nhưng khi đón nhận những lời giảng dạy đầy khôn ngoan, những phép lạ mà Ngài thực hiện, dân chúng rất đỗi ngạc nhiên và tự hỏi nhiều điều, để rồi họ chỉ nhìn vào thân thế của Đức Giê-su mà vấp ngã. Họ không tự hỏi tại sao Chúa Giê-su làm phép lạ, giảng dạy cách khôn ngoan như thế là bởi từ điều gì. Họ nhận ra những lời giảng dạy đầy khôn ngoan của Chúa nhưng không để Lời Chúa thấm vào lòng. Họ không cảm nhận được niềm vui của người được lành bệnh, không tin vào tất cả những gì Chúa Giê-su thực hiện. Óc thành kiến và cái nhìn hạn hẹp, chỉ biết về thân thế Đức Giê-su nhưng cho rằng đã nắm được tất cả, họ đã tự mình từ chối tình thương của Thiên Chúa. Chỉ có một câu trả lời duy nhất cho những câu hỏi mà họ đã đưa ra, rằng Đức Giê-su là Đấng được Thiên Chúa sai đến và tất cả những gì Ngài thực hiện đều xuất phát từ tình thương yêu con người.
Người Việt Nam có câu thành ngữ: “Xa thì thương, gần thì thường”. Nhìn lại cuộc đời của ta, đã bao lần ta nhìn những người thân quen mà chẳng nhận ra nơi họ những điều tốt đẹp. Ta mang trong mình óc thành kiến và cái nhìn hạn hẹp đầy ích kỷ và đố kỵ khi đến với người khác. Bởi đó ta khó nhìn nhận người khác hơn mình, khó chấp nhận những giới hạn nơi chính mình. Càng không chấp nhận sự thật nơi bản thân, ta càng dễ phủ nhận điều tốt đẹp nơi người khác. Để rồi, Lời Chúa thốt lên khi xưa cũng trở thành lời chất vấn ta: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4).
Lạy Chúa Giê-su yêu mến! Khi nhìn về một người anh chị em, xin Chúa cho con nhìn nhận họ với một tâm hồn chân thành. Xin Chúa cho con hiểu rằng: đằng sau một con người bình dị và có vẻ tầm thường ấy, nơi họ còn ẩn chứa những điều tốt đẹp hơn. Và trên hết, xin cho con khám phá ra quyền năng và tình thương của Chúa được bày tỏ nơi anh chị em con, để con tin rằng nơi họ Chúa đang hiện diện và mời gọi con yêu thương. Amen.