------------------------- Phúc Âm: Mc 8, 27-35: “Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: “Người ta bảo Thầy là ai?” Các ông đáp lại rằng: “Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri”. Bấy giờ Người hỏi: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Phêrô lên tiếng đáp: “Thầy là Ðấng Kitô”. Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả. Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó. Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: “Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”. Người tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình”. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Nhìn thấy Chúa Giêsu làm những phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi: TN 24-B1
Nhìn thấy Chúa Giêsu làm những phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:
- Liệu Ngài có phải là Đấng cứu thế hay không ?
Đã từ lâu họ sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã, cho nên cũng đã từ lâu họ, trông chờ một đấng cứu thế đến giải phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.
Sống trong một hoàn cảnh như vậy, các môn đệ phần nào cũng đã chia sẻ quan niệm ấy, thế nhưng Chúa Giêsu thì khác, Ngài đã không suy nghĩ và hành động như họ.
Sau phép lạ bánh hóa nhiều, nuôi sống năm ngàn người giữa chốn hoang vu. Dân chúng đã nồng nhiệt tung hô Chúa và họ muốn tôn Ngài lên làm vua. Trước ý đồ ấy, Chúa Giêsu đã trốn lên núi một mình.
Các môn đệ cũng không hơn gì những người Do thái. Trước khi Chúa Giêsu về trời, các ông đã hỏi Ngài:
- Phải chăng đã đến lúc Thày lập nước Israel ?
Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói cho các ông biết Ngài không đến nhằm mục đích chính trị, nhưng đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi và dẫn đưa họ về cùng Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương họ.
Mặc dù các ông cũng đã tin, nhưng giấc mơ về nền độc lập của dân tộc vẫn âm ỉ cháy trong cõi lòng các ông.
Thái độ của Chúa Giêsu trước vấn đề quyền bính đã là một sự khó hiểu đối với các ông, huống nữa là vấn đề đau khổ, thập giá và cái chết của Ngài. Làm sao các ông có thể dễ dàng chấp nhận ?
Thực vậy, bài Phúc Am hôm nay đã cho chúng ta thấy, sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, Chúa Giêsu đã nói trước cho các ông biết:
- Con Người sẽ đi lên Giêrusalem, ở đó Ngài sẽ phải đau khổ và sẽ phải chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Phản ứng của Phêrô thật là bộc trực và thẳng thắn, ông kéo Chúa Giêsu ra một chỗ và nói:
- Ước chi Thiên Chúa sẽ gìn giữ Thày để Thày khỏi phải như thế.
Có lẽ phản ứng của các tông đồ khác cũng như vậy. Một khi đã yêu mến Chúa, thì làm sao các ông có thể chấp nhận Ngài phải khổ đau. Hơn thế nữa, như mọi người Do thái khác, các ông quan niệm đau khổ là như một sự chúc dữ của Thiên Chúa.
Trước một người mù từ khi mới sinh, các ông đã chẳng hỏi Chúa Giêsu:
- Nó bị mù là do tội của nó hay là do tội của cha mẹ nó ?
Chúa Giêsu hiểu điều ấy, nhưng Ngài cũng không thể chấp nhận để các ông làm cản trở chương trình tình thương của Thiên Chúa. Cuộc thương khó của Ngài phải được nhìn trong toàn bộ chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.
Bởi đó Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô:
- Hỡi satan hãy xéo đi, ngươi làm cản trở cho Ta vì ngươi chỉ nhìn thấy những việc của loài người mà chẳng nhìn thấy những việc của Thiên Chúa.
Ít lần sau Chúa Giêsu lại tiên báo một lần nữa cho các ông:
- Chẳng bao lâu nữa Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta, họ sẽ giết chết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Lần này thì các ông không dám lên tiếng, nhưng Phúc âm đã ghi lại rằng:
- Các ông đã tỏ ra buồn bã.
Rồi cùng với thời gian, những sự việc đã xảy ra đúng như lời Chúa đã tiên báo: Ngài đã bị treo trên thập giá. Dưới mắt các ông thì đây là một thất bại ê chề.
Chính vì thế, hai môn đệ trên đường đi Emmaus đã nói với Chúa Giêsu:
- Chúng tôi hy vọng Ngài sẽ cứu thoát Israel, nhưng những sự kiện đau buồn ấy đã xảy ra ba ngày rồi.
Chỉ dưới sự soi dẫn của Chúa, các ông mới hiểu được rằng: Ngài sẽ phải đau khổ để được bước vào chốn vinh quang, và để đem lại cho chúng ta ơn cứu độ.
Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta có tìm thấy ý nghĩa đích thực của những đau khổ gặp phải, hay là chúng ta cũng đã phản ứng như Phêrô và các tông đồ ngày xưa ?
Sau khi nghe biết dư luận quần chúng, Đức Giê-su đòi các môn đệ phải xác định đức tin vào Người: “Anh em bảo Thầy là ai ?” Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô”. Từ đây Đức Giê-su bắt đầu cho các ông biết con đường Người sắp trải qua là: “qua đau khổ vào vinh quang”. Người trách Phê-rô khi ông cản Người theo con đường này. Người đòi ai muốn làm môn đệ của Người phải bỏ mình vác thập giá mình mà đi theo Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 27-28:
+ “Người ta nói Thầy là ai ?”: Qua các môn đệ, Đức Giê-su muốn biết người ta nghĩ gì về Người.
+ Là Gio-an Tẩy Giả tái sinh: Đây là ý tưởng của đảng Hê-rô-đê (x. Mt 14,2). + Là Ê-li-a: Ngôn sứ Ma-la-ki-a đã tuyên sấm về sứ mệnh của ngôn sứ Ê-li-a là sẽ đi trước dọn đường cho Đấng Thiên Sai: “Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3,23).
+ Là một trong các vị ngôn sứ: Dân chúng tin Đức Giê-su ít ra là Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đến giáo huấn dân Người.
- C 29-30:
+ Người lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ? Đức Giê-su đặt câu hỏi này với các môn đệ để xem nhận thức của các ông về Người.
+ Ông Phê-rô trả lời: “Thầy là Đấng Ki-tô”: Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Ki-tô hay Đấng Cứu Thế. Đây là lời tuyên xưng chính xác về thân thế Đức Giê-su. Do lời tuyên xưng này mà Phê-rô đã được khen ngợi là có phúc (x. Mt 16,16-17). Chính Đức Giê-su cũng thừa nhận Người là Đấng Ki-tô trước tòa án tôn giáo (x Mc 14,61-62). Lời tuyên xưng của Phê-rô tuy đúng, nhưng chưa rõ ràng, vì người ta có thể hiểu sai sứ mệnh cứu thế của Người và gán cho Người sứ mệnh cứu thế trần tục, nhằm giải phóng dân Do thái bằng bạo lực, thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Rô-ma.
+ Đức Giê-su liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người: Đức Giê-su cấm nói ra không phải để phủ nhận lời tuyên tín của Phê-rô, nhưng vì muốn tránh sự cuồng nhiệt của dân Do Thái muốn sử dụng bạo lực để lật đổ nhà cầm quyền Rô-ma. Người cấm các môn đệ nói ra Người là Đấng Ki-tô vì cần có thêm thời gian rao giảng về sứ mệnh cứu thế thiêng liêng tinh thần phù hợp thánh ý Thiên Chúa. Cuối cùng, Người cấm vì “Giờ của Người chưa đến”, vì cần phải nhờ Thần Khí tác động, người ta mới có thể chấp nhận được chân lý này.
- C 31-33:
+ Người bắt đầu dạy các ông biết...: Đây là lúc Đức Giê-su loan báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh mà Người sắp trải qua.
+ Con Người: Khi tự nhận là Con Người, Đức Giê-su vừa khiêm tốn xưng mình là: “kẻ hèn mọn này”, lại vừa theo ý nghĩa biểu tượng của văn chương khải huyền Do Thái về Con Người là Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa (x. Tv 110,1) và sẽ đến trên mây trời (x. Đn 7,13-14). Đức Giê-su đã dùng tước hiệu Con Người nhiều hơn tước hiệu Mê-si-a. là tước hiệu đã bị người Do Thái tục hóa mang mầu sắc chính trị. Trong Tân Ước, từ ngữ Con Người được lặp đi lặp lại tới 70 lần. Con Người có nghĩa là “Người Tôi tớ Gia-vê, bị loại bỏ và bị giết để sau cùng được tôn vinh và cứu rỗi muôn người” (x. Mc 8,31). Trước khi xuất hiện trong vinh quang vào ngày sau hết, Con Người phải tự hạ, sống cuộc đời trần thế, bị nghèo khó (x. Mt 8,20), bị khinh dể (x. Mt 11,19), bị xúc phạm (x. Mt 12,32), bị tử hình thập giá (x. Ga 3,14), rồi mới vào trong vinh quang Phục Sinh (x. Dt 2,6-9). Cuối cùng khi đến ngày tận thế, Con Người sẽ lại đến ngự trên ngai uy quyền mà xét xử muôn dân (x. Mt 25,31-46).
+ Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: Tuy tuyên xưng Đức Giê-su với tước hiệu là Đấng Ki-tô, nhưng Phê-rô chưa hiểu được ý nghĩa thực sự của tước hiệu này. Ông chưa hiểu rằng theo thánh ý Thiên Chúa thì “Đấng Ki-tô phải chịu đau khổ rồi mới vào trong vinh quang” (x Lc 24,26). Ông đã thay mặt anh em can trách Đức Giê-su đừng chịu như vậy, vì các ông đều không muốn thấy Thầy phải chịu thất bại trước rồi sau đó mới chiến thắng. Các ông muốn Thầy sớm lên làm vua Mê-si-a để các ông cũng được chia sẻ quyền cao chức trọng (x. Lc 22,24), được ngồi bên tả bên hữu Thầy (x. Mt 20,21).
+ Người trách Phê-rô: “Xa-tan ! Lui lại đằng sau Thầy !: Khi kéo riêng Đức Giê-su ra mà can trách, ông phê-rô đóng vai trò của Xa-tan, kẻ đã cám dỗ xúi giục Đức Giê-su đi con đường khác với thánh ý Thiên Chúa. Nhưng Đức Giê-su ra lệnh cho Phê-rô phải trở về chỗ của người môn đệ là ở phía sau và phải theo đường lối của Thầy (x. Mc 1,17.20; 8,34).
+ Vì tư tưởng của anh không phải tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”: Ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm: ”Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,9). Ông Phê-rô đã không hiểu thánh ý Thiên Chúa là muốn cho Đức Giê-su cứu thế bằng con đường “qua đau khổ vào vinh quang” và mời gọi người ta đi theo con đường này (x. Mt 16,21-23).
- C 34-35:
+ “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”: Đây là lời Đức Giê-su mời gọi người ta tự nguyện theo Người chứ không ép buộc.
+ Từ bỏ chính mình: “Từ bỏ” ở đây đồng nghĩa với “ghét” hay “yêu ít hơn” hoặc “coi thường” bản thân mình (x. Lc 14,26 ; Ga 12,25).
+ Vác thập giá mình: Thành ngữ “vác thập giá mình” gợi lên thói tục quân lính bắt tử tội phải tự vác cây thập giá của mình đến nơi hành hình. Ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su, cũng phải vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người.
+ “Cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Liều mạng sống mình vì Đức Giê-su và vì Tin Mừng thì cứu được mạng sống ấy”: Câu nói nghịch lý này mời gọi người nghe quan tâm đến giá trị đích thực của cuộc sống đời sau. Một người sống ích kỷ ở đời này, thì sẽ bị mất đời sống vĩnh hằng ở đời sau. Nhưng nếu ai sẵn sàng chịu thua thiệt, chịu chết vì đức tin ở đời này, thì sẽ có được sự sống đời đời do Chúa sẽ ban sau này.
4. CÂU HỎI:
1) Khi được hỏi, các môn đệ đã thuật lại cho Đức Giê-su dư luận của quần chúng về Người thế nào ?
2) Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là ai ? Lời tuyên xưng ấy đúng hay sai ? Người Do thái thời đó có hiểu tước hiệu ấy đúng như thánh ý Thiên Chúa muốn Đức Giê-su thi hành không ?
Bà GÔN-ĐA MÊ (Golda Meir), nữ Thủ tướng đầu tiên của nước Ít-ra-en, khi còn là thiếu nữ đã thất vọng về nhan sắc của mình. Bà thuật lại giai đoạn thiếu thời ấy như sau: “Mỗi lần nhìn khuôn mặt của mình trong gương, tôi lại thầm trách sao Ông Trời quá bất công, khi ban cho tôi một khuôn mặt không mấy đẹp đẽ duyên dáng như các bạn đồng trang lứa khác. Mãi về sau tôi mới nhận ra rằng: Chính khuôn mặt không mấy đẹp đẽ của tôi lại là điều may mắn và mang lại sự tốt lành cho tôi. Bởi vì điều ấy buộc tôi luôn phải cố gắng khám phá ra những tài năng sâu kín nơi bản thân và phát triển chúng ngày một tốt hơn. Cuối cùng tôi rút ra được bài học này là: Một phụ nữ đáng quí trọng không phải ở chỗ có một sắc đẹp trời cho, vì nó không mấy bền vững và sẽ phai tàn theo năm tháng. Nhưng giá trị đích thực của một phụ nữ ở chỗ cố gắng phấn đấu làm việc, để khám phá ra khả năng Chúa ban cho mình, rồi phát huy những mặt tích cực, biến những tài năng đó trở thành phương tiện giúp ích cho bản thân, gia đình và xã hội…”.
GÔN-ĐA MÊ đã chấp nhận thập giá của mình, không than khóc phản kháng, không tức giận chán nản, nhưng sẵn sàng vác nó lên vai với lòng can đảm vượt qua trở ngại, để cuối cùng đã trở thành vị nữ Thủ tướng đầu tiên của nước Israel (Giảng lễ CN B - M. Link).
2) BÀI THƠ “DỌC ĐƯỜNG”:
Thi sĩ RÔ-BỚT BAO-NING HA-MINH-TƠN (Robert Browning Hamilton) trong bài thơ “Dọc đường” (Along the Road), đã tóm lược nội dung Tin Mừng hôm nay bằng những lời thơ đầy ý nghĩa như sau: “Tôi đã cùng bước đi một quãng đường với Nữ Thần Hoan Lạc. Dọc đường, nàng đã cho tôi được sung sướng bằng những lời ve vuốt tự ái của tôi. Nhưng rồi cuối cùng tôi chẳng thấy khôn ngoan hơn bao nhiêu. Sau đó, tôi lại bước đi với Nữ Thần Đau Khổ. Dọc đàng, nàng chẳng nói một lời. Nhưng cuối cùng tôi lại thấy mình lớn lên về kinh nghiệm sống, về sự khôn ngoan, nhờ trải qua kinh nghiệm đau thương suốt thời gian bước đi bên nàng…”.
3. THẢO LUẬN:
1) Mỗi khi gặp được những điều may lành như ý, chúng ta thường dâng lời tạ ơn Chúa. Nhưng khi gặp rủi ro trái ý, chúng ta nên làm gì theo Lời Chúa dạy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” ?
2) “Vác thập giá mình mà theo” Đức Giêsu cụ thể là nhờ Thần Khí giúp chúng ta thanh luyện khỏi các thói hư thuộc về xác thịt và đón nhận hoa quả của Thần Khí như thánh Phaolô đã liệt kê sau đây: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy… Còn hoa quả của Thần Khí là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ... Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,19-24).
4. SUY NIỆM:
1) “Thầy là Đấng Ki-tô”:
Câu hỏi “Người ta bảo Con Người là ai ?” của Đức Giêsu đã được đặt ra cho dân Do thái, cho các môn đệ xưa và cho mỗi tín hữu chúng ta hôm nay. Dư luận dân Do thái coi Đức Giê-su là ông Gio-an Tẩy giả tái sinh, là ngôn sứ Ê-li-a hay một vị ngôn sứ thời xưa. Tông đồ Phêrô đã tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô”. Tước vị Ki-tô hay “Chris-tus”, “Mê-si-a” ám chỉ Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong làm Vua Thiên Sai, để giải phóng dân Ít-ra-en khỏi ách thống trị của Đế quốc Rô-ma và trở thành một dân tộc hùng mạnh. Tuy nhiên sau đó Đức Giê-su lại mặc khải cho ông Phê-rô biết sứ mệnh Kitô của Người là cứu độ nhân loại bằng con đường “qua đau khổ vào vinh quang” (x Mt 16,21). Ngừơi là “Tôi trung của Đức Chúa”, chịu đau khổ để đền tội thay cho dân và làm cho muôn người được nên công chính như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm (x Is 53,3-11).
Lời Đức Giêsu tiên báo về việc Người sẽ trải qua cuộc Tử Nạn rồi mới vào trong vinh quang Phục Sinh đã làm cho Tông đồ Phêrô choáng váng. Ông không sao hiểu được tại sao Thầy của ông lại phải chịu điều khủng khiếp như vậy, bởi ông còn mải mê với một Đức Kitô vinh quang, nên ông đã phản ứng ngay, bằng việc kéo Đức Giêsu lại mà can trách Người. Đức Giêsu nhận thấy đây là một cơn cám dỗ của Satan nói qua miệng Phêrô, nên Người đã bảo ông: "Satan, hãy lui lại sau Ta". Thực vậy: Ngay từ khi gọi Simon Phêrô ở bờ hồ Galilê, Đức Giêsu đã cho thấy chỗ của ông: "Hãy đi sau Thầy". Chỗ đứng của môn đệ là ở đằng sau Thầy. Qua câu này, Đức Giêsu muốn đưa ông Phêrô về đúng chỗ của ông, bởi ông đang muốn đi trước dẫn đường cho Người. Lý do Đức Giêsu nếu ra: "Vì anh không nghĩ những điều của Thiên Chúa, mà chỉ nghĩ những điều của loài người." Đức Giêsu thấy rõ đâu là con đường Thiên Chúa muốn, và đâu là con đường thế gian đang chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt trên những tính toán khôn ngoan của loài người. "Bởi vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người." (1 C 1,25)
2) “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình” (x Mt 16,24):
Đi theo Đức Giêsu là mẫu số chung của mọi Ki-tô hữu, từ hàng giáo phẩm đến giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân. Tất cả mọi thành phần dân Chúa đều được mời gọi đi theo Người. Theo sau Đức Giêsu đòi phải từ bỏ: Các môn đệ đầu tiên đã bỏ nghề chài lưới, bỏ cả cha già cùng những người làm công mà theo Thầy. Ở đây, Đức Giêsu đòi hỏi không phải chỉ từ bỏ một vật hay người nào đó, mà là từ bỏ chính bản thân mình. Từ bỏ chính mình là không còn sống cho chính mình nữa, là vác lấy thập giá của mình mà theo Người. Như thế có thể định nghĩa: Kitô hữu là người vác thập giá mình đi theo sau Đức Giêsu cũng đang vác cây thập giá. Đức Giêsu đã vác thập giá, cái dụng cụ giết người mà cả người Do Thái lẫn Hy Lạp đều coi là nhơ nhuốc. Thập giá của Đức Giêsu là do Ngài tình nguyện gánh lấy tội lỗi của nhân loại. Còn thập giá của chúng ta hôm nay là gì ?:
- Là từ bỏ chính mình, bỏ đi “cái tôi” tự ái, ích kỷ; lòng ham mê tiền bạc, danh vọng, quyền hành và các đam mê bất chính khác. Là từ bỏ con người cũ để nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu Con Thiên Chúa (x Rm 8,29), tìm lại hình ảnh ban đầu tốt đẹp khi mới được sáng tạo “giống như Thiên Chúa” (x Stk 1,26).
- Là vác thập giá mình: Vác thập giá là thái độ tự chủ, vượt lên trên những đòi hỏi của bản năng. Vác thập giá là thái độ nỗ lực muốn nên hoàn thiện, là quyết tâm lọai bỏ con người “thuộc thể”, để mặc lấy con người “thuộc linh” được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như vậy: “vác thập giá mình” là sẵn lòng chấp nhận những đau khổ và rủi ro hoặc thất bại gặp phải trong cuộc sống, noi gương Đức Giêsu đã chấp nhận đau khổ trong cuộc khổ nạn đau thương của Người.
“Vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu” cụ thể là nhờ Thần Khí giúp chúng ta thanh luyện mình khỏi các thói hư thuộc về xác thịt và đón nhận được hoa quả của Thần Khí, như thánh Phaolô đã liệt kê trong thư Galata: “Là dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy… Còn hoa quả của Thần Khí là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ... Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,19-24).
3) Người tín hữu cần vui vẻ đón nhận đau khổ thập giá trong cuộc sống:
Cuộc đời mỗi người không phải lúc nào cũng thành công. Bên cạnh những điều như ý vẫn có những nỗi cay đắng, tủi nhục, những tai nạn rủi ro, những thất bại đau khổ… mà dù muốn hay không chúng ta cũng phải chịu đựng. Đau khổ thất bại vẫn có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến thành công, như người ta thường nói: “Thất bại là mẹ thành công”. “Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành”, từ việc tổ phụ Giu-se bị các anh bán làm nô lệ bên Ai Cập, lại trở thành tể tướng triều đình Ai Cập và về sau đã đưa cả dòng tộc của Tổ phụ Gia-cóp sang bên Ai cập tránh khỏi nạn đói kém. Tin là chấp nhận con đường thập giá chật hẹp và leo dốc đi theo Đức Giê-su như thánh Phao-lô đã khuyên đồ đệ Ti-mô-thê: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình (2 Tim 2,12-14).
4) Cần ý thức đau khổ có giá trị thanh luyện để giúp ta nên thánh:
Thiên Chúa thường sử dụng khổ đau để rèn luyện con người nên tốt hơn. Các vĩ nhân trên thế giới, các thánh nhân trong Giáo hội, đều đã trải qua muôn ngàn khó khăn trong cuộc sống... Nhưng các ngài không nản chí buông xuôi, mà quyết tâm vượt qua để trở nên vĩ đại, nêu cao gương sáng đức tin cho hậu thế noi theo. Như “Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế , rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ?” (Lc 24,26), người tín hữu chúng ta cũng phải trải qua đau khổ rồi mới được thành công. Từ đây thập giá không còn là hình khổ ghê sợ, nhưng là phương tiện để được vào trong vinh quang. Con người ngày nay thường ngại hãm mình, tránh sự từ bỏ và hy sinh… Nhưng nếu ai muốn cuộc sống có ý nghĩa thì phải chấp nhận gian nan thử thách như người ta thường nói: “Có công mài sắt có ngày nên kim” . Một khi hiểu được ý nghĩa cao cả của đau khổ thập giá, chúng ta sẽ hãnh diện về cây thập giá như thánh Phaolô đã nói: ”Vinh dự của tôi là thập giá Đức Kitô” (Gl 6,14). Chính cây thập giá là chiếc cầu duy nhất dẫn đưa chúng ta về tới thiên đàng đời sau.
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay nếu con được Chúa hỏi: “Về phần con, con bảo Thầy là ai ? ” Con sẽ tuyên xưng lòng tin ra sao ? Xin Chúa đừng để con chỉ tuyên xưng đức tin ngoài môi miệng, nhưng bằng hành động: Bằng việc cầu nguyện kết hiệp với Chúa; luôn chu toàn bổn phận với lòng yêu mến Chúa; Biết cậy trông phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng; Biết tạ ơn Chúa khi vui lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại... Vì biết rằng tất cả những gì Chúa để xảy đến, đều là hồng ân, và đều mang lại ích lợi cho phần rỗi đời đời của con như thánh nữ Tê-rê-sa đã dạy. Xin giúp con năng nhìn lên thánh giá Chúa, để học sống tình thương hiến thân quảng đại của Chúa, vì: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).
Có hai loại đức tin. Loại thứ nhất là đức tin của những người tin tưởng vì họ đi theo truyền thống: TN 24-B3
Có hai loại đức tin. Loại thứ nhất là đức tin của những người tin tưởng vì họ đi theo truyền thống của tổ tiên, họ mạnh mẽ duy trì truyền thống đức tin ấy. Đây có thể gọi là đức tin thừa hưởng. Loại thứ hai có thể được gọi là đức tin cá nhân. Có một sự khác nhau quan trọng giữa hai loại ấy. Người sở hữu một đức tin thừa hưởng hoặc kế thừa có lợi thế là họ không bị cám dỗ dễ dàng. Cả khi phải đương đầu với những lý lẽ triết học có thể nói ngược lại đức tin của họ. Đức tin này được duy trì mạnh mẽ vì thuộc về truyền thống mà họ thừa hưởng từ tổ tiên họ. Ngoài ra họ không bao giờ lệ thuộc vào tư duy triết học. Nhưng họ cũng có những sự bất lợi. Đức tin của họ thường không có lý luận hoặc suy tư vững chắc, và thường là một đức tin của tập quán và lề thói cổ xưa.
Người sở hữu một đức tin cá nhân cũng có một lợi thế. Họ đã khám phá Thiên Chúa với lý lẽ của họ, và vì thế, lý lẽ này rất mạnh trong đức tin của họ. Nhưng họ cũng có một điều bất lợi. Họ có thể bị thuyết phục bởi lý luận, và nếu đối đầu với những lý lẽ chống lại mạnh mẽ, họ có thể bị cám dỗ bỏ đức tin. Để có thể chống cự lại những thử thách, đức tin phải có nền tảng trong những gì vượt xa hơn kinh nghiệm cá nhân của mình.
Những người có được đức tin của họ theo hai cách trên được hưởng lợi thế mỗi cách. Họ phụ thuộc mạnh mẽ vào truyền thống của tổ tiên, nhưng đồng thời được hưởng ưu điểm của khả năng tư duy những sự vật khách quan. Vì thế, họ có được đức tin tốt nhất và hoàn hảo nhất.
Sinh ra trong đức tin chưa đủ. Một đức tin thừa hưởng là một đức tin đã qua sử dụng và có thể rất trống rỗng. Nói rằng: “Cha mẹ tôi là những tín hữu” chưa đủ. Mỗi thế hệ phải tòng giáo lại. Có người đã nói rằng nhiều người đi lễ không tốt hơn những người ngoại giáo tân tòng. Điều này xem ra khắt khe quá. Tuy nhiên, chúng ta thấy nhiều khuôn mặt buồn chán và mệt mỏi trong nhà thờ, khuôn mặt của những người đến trễ và bỏ ra về khi thánh lễ chưa xong.
Câu hỏi mà Đức Giêsu hỏi các tông đồ là câu hỏi quan trọng nhất trong Tin Mừng. Nó liên quan đến căn tính của Đức Giêsu. Người hỏi họ câu hỏi ấy không phải vì Người mà là vì họ. Một câu hỏi bắt người ta phải suy nghĩ về niềm tin của họ.
Trước tiên Người hỏi: “Người ta nói Thầy là ai ?” Các môn đệ thuật lại với Người. Những câu đáp là những câu không trúng. Kế đó, Người quay lại họ và hỏi “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Và Phêrô đáp: “Thầy là Đấng Kitô”. Đấng Kitô có nghĩa là Đấng Mêsia. Thánh Matthêu đã ghi lại câu trả lời của Phêrô như sau: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đây là cốt lõi của đức tin trên đó Giáo hội được xây dựng.
Điều quan trọng là chúng ta phải đưa ra câu trả lời của mình tức là có khả năng khẳng định giá trị và niềm tin của mình như những Kitô hữu. Nếu chỉ lặp lại những câu trả lời chính thức sẽ không đủ. Chúng ta phải làm cho đức tin của mình thành xác tín, khi sống đức tin ấy và để nó ảnh hưởng lên đời sống chúng ta. Đức tin của cha mẹ chúng ta không phải là đức tin của chúng ta chừng nào chúng ta chưa tự mình bước đi.
Chúng ta cần trưởng thành trong sự hiểu biết đức tin. Chúng ta phải tin bằng chính niềm xác tín của bản thân. trong Giáo hội, càng có nhiều người như thế, thì Giáo hội càng được thiết lập vững vàng trên đá tảng.
Rõ ràng Phêrô không hoàn toàn hiểu hết những lời ông nói. Khi ông thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia, ông không biết Đức Giêsu là một Đấng Mêsia đau khổ. Đó là một điều ông phải học biết và học biết một cách khó khăn.
Phêrô đã thực hiện một tuyên xưng hoàn hảo về đức tin. Ông có một đức tin hoàn toàn đúng với ngôn ngữ của ông. Nhưng khi phải hành động theo đức tin ấy, ông thất bại. Điểm kém cỏi nhất của ông là khi ông chối Chúa. Điều này cho chúng ta thấy rằng chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa, không chỉ để tuyên xưng đức tin, mà còn để sống đức tin ấy.
Bà O’Reilly đã nhận được tin một người láng giềng bị đau nặng. Bà nói với người đã cho bà: TN 24-B4
Bà O’Reilly đã nhận được tin một người láng giềng bị đau nặng. Bà nói với người đã cho bà hay tin: “Hãy nói với bà ấy rằng tôi sẽ nhớ đến bà ấy trong lúc cầu nguyện và tôi hy vọng rằng bà ấy sẽ sớm bình phục”.
Và bà O’Reilly cũng tốt bụng như lời bà. Tối hôm đó, khi bà đọc kinh tối như thường lệ, bà đã cầu nguyện chân thành và sốt sắng cho người láng giềng. Bà nói với Chúa: “Lạy Chúa, con muốn cầu xin Chúa cho người láng giềng của con. Bà ấy bị bệnh rất nặng. Bà ấy cần được giúp đỡ, cần được an ủi”.
Khi cầu nguyện xong, bà cảm thấy khá hơn. Và tuy vậy, có một điều làm bà băn khoăn, áy náy. Bà ngồi xuống và nghĩ về điều đó. Rồi bà rơi vào một tình trạng thiu thiu ngủ trong đó bà nghe Thiên Chúa nói với bà: “Ta biết con rất quan tâm đến người láng giềng của con”.
“Vâng, thưa Chúa, con thật sự quan tâm”, bà đáp lại với không ít niềm tự hào.
“Và Ta cũng biết rằng người láng giềng con cũng rất cần sự giúp đỡ”, Thiên Chúa nói.
“Con cũng nghe nói như thế”. Bà O’reilly nói.
“Con biết đấy, điều bà ấy cần là một người dành cho bà ấy chút ít thời gian”. Chúa nói.
“Thưa Chúa, Chúa hoàn toàn đúng. Con cũng nghĩ như thế”. Bà O’Reilly đáp.
“Bây giờ, con xin Ta giúp đỡ bà ấy, con không chờ Ta từ trời xuống để thăm bà ấy đó sao ?”
“Không, thưa Chúa, con không mong Chúa làm thế. Cả người láng giềng của con cũng không mong điều đó. Thật vậy, điều đó làm bà ấy xúc động và chết mất”.
“Vậy, bà ấy không cần ai đến thăm sao ?”
“Thưa Chúa, cần ạ”
“Ta có thể sai ai đến ?”
Sau một hồi lâu thinh lặng. Bà O’Reilly nói: “Thưa Chúa, xin Chúa hãy sai con !”
Khi bà tỉnh giấc, bà biết chính xác điều bà phải làm.
Thánh Giacôbê nói: “Nếu như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không có đủ của ăn hàng ngày” mà chúng ta chỉ nói: “Anh, chị đi bình an”. Như thế là không đủ.
Với một người đang cần giúp đỡ mà chỉ nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho anh”. Như thế là không đủ. Chúng ta không nên nghĩ rằng đã làm được một chút gì mỗi khi chúng ta chuyển giao vấn đề cho chúa. Điều ấy nghe có vẻ như đùn đẩy mọi việc cho Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện cho người khác, thực ra chúng ta đang nói cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, này con đây. Xin Chúa hãy sai con”.
Lời cầu nguyện của chúng ta phải dẫn chúng ta đến hành động tích cực nào đó, dù chỉ là một hành động nhỏ. Nhưng cho dù là một hành động nhỏ như một cuộc viếng thăm cũng chứng tỏ đó là một cử chỉ có giá trị, bởi vì nó đưa chính chúng ta đến gần bên người đau khổ. Và làm điều đó là đặt chính mình vào nỗi đau khổ của họ. Chúng ta sẽ không tránh được một phần nỗi đau khổ ấy xâm nhập chúng ta.
Cầu nguyện cho người khác, hoặc mong ước họ được tốt lành, là một điều tốt. Nó mang lại cho họ sự an ủi vì họ biết rằng mình không cô độc. Nhưng chưa đủ. Đó là một đức tin chết. Nếu đức tin của chúng ta sống động, chúng ta cũng sẽ diễn tả sự quan tâm của chúng ta bằng hành động.
Phêrô hoàn toàn đúng khi nhận thức được căn tính của Đức Giêsu. Đức tin của ông trở nên hoàn hảo trong Lời Chúa. Nhưng đến lúc hành động, ông đã thiếu sót một cách đáng thương. Khi Đức Giêsu yêu cầu ông canh thức với Người lúc hấp hối ở trong vườn. Ông đã ngủ quên. Và cũng trong đêm đó, ông đã chối Đức Giêsu.
Có một đức tin chủ yếu chỉ trong lời nói. Và có một đức tin tuôn trào qua các công việc. Chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa không chỉ để tuyên xưng đức tin, nhưng còn để sống đức tin ấy.
G.K.Chesterton có một câu chuyện về người đàn ông nhân đức được nhiều người ưa thích: TN 24-B5 FB
G.K.Chesterton có một câu chuyện về người đàn ông nhân đức được nhiều người ưa thích. Lý do chính của tính quần chúng này là ông không thiếu những lời hài hước ý nhị. Không có một người lo lắng, ưu phiền nào mà không hỏi ông làm thế nào để luôn luôn hạnh phúc. Họ cho rằng ông sinh ra là một con người lạc quan. Nhưng rồi một ngày kia, người ta thấy ông chết trong một trường hợp bí ẩn. Người ta nghi ngờ có một trò bỉ ổi. Tuy nhiên trường hợp này làm lạc hướng điều tra của cảnh sát. Tình cờ, chính thám tử không chuyên của Chesterton là Fr. Browne đã giải quyết vụ việc. Phán quyết của thám tử là người đàn ông ấy đã tự tử.
Trước tiên người ta không chấp nhận phán quyết của Fr. Browne. Người ta không thể tưởng tượng một người hạnh phúc như thế lại có thể phạm tội tự sát. Nhưng như thế càng nổi rõ một khía cạnh nghiêm trọng của con người vui tính ấy. Người làm cho người khác cười, thực ra là một người ưu phiền sâu xa. Nhưng ông không bao giờ có thể nói với bất kỳ ai ông thật sự cảm thấy thế nào.
Ông ấy có hai đời sống. Một đời sống rộng mở cho mọi người nhìn thấy và hiểu biết. Còn đời sống kia thì bí ẩn, chỉ một mình ông ấy biết. Trong đời sống công cộng, ông ấy là một người đàn ông mỉm cười với mọi người. Nhưng trong đời sống riêng tư, người ấy bị tổn thương và tuyệt vọng.
Ông cảm thấy phải sống theo sự mong đợi của những người khác để đổi lấy sự quan tâm và kính trọng. Ông không bao giờ có thể là chính mình. Sau cùng, ông đã nhận thức rằng cả đời ông được đặt trên nền tảng của một sự dối trá. Nỗ lực căng thẳng để duy trì một hình ảnh về mình đối với quần chúng đã trở thành quá to lớn đến nỗi ông không thể đối phó được nữa. Vì thế ông đã phạm tội tự sát.
Mọi người thích được nghĩ tốt về mình. Vì thế, người ta cố gắng tạo thành một hình ảnh thích hợp về mình trong con mắt của người khác. Họ sẽ làm bất cứ điều gì để duy trì hình ảnh đó.
***********
Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu ít quan tâm đến điều người khác nghĩ về Người dù hình ảnh mà người khác có về Người rất thuận lợi. Người ta đã nhìn Người như một ngôn sứ lớn. Phêrô đã đi xa hơn. Ông nói Người là Đấng Kitô (tức là Đấng Mêsia).
Không thể phóng đại ý nghĩa mà người Do thái hiểu về Đấng Mêsia. Nhiều người nghĩ rằng đó là một lãnh tụ quân sự vĩ đại – một vua Đavid khác, Người có thể phục hồi sức mạnh quân sự trước đây. Rõ ràng đó là điều mà Phêrô đã nghĩ đến.
Nhưng đó không phải là ý tưởng về Đấng Mêsia của Đức Giêsu. Người nói với các tông đồ rằng Đấng Mêsia phải chịu đau khổ như Isaia đã tiên báo (xem bài đọc 1) Người không muốn họ có những hy vọng sai lầm để rồi sau này sẽ thất vọng, và cảm thấy rằng Người đã lừa dối họ.
Nhưng Phêrô không ủng hộ ý tưởng Đức Giêsu phải chịu đau khổ. Ông quyết tâm cứu Người khỏi một số phận như thế. Chúng ta có thể có thiện cảm với ông. Chúng ta muốn cứu người chúng ta yêu mến khỏi phải chịu khổ. Nhưng chúng ta càng yêu thương họ, chúng ta càng không có quyền đứng chắn con đường số phận của người ấy.
Đức Giêsu đã quở trách Phêrô. Người không có ý định sống theo sự mong ước của quần chúng. Người không bị ảnh hưởng bởi những gì mà người ta suy nghĩ, hoặc mong muốn, hoặc chờ đợi nơi Người. Người muốn chân thật với chính mình và với điều mà Thiên Chúa mong muốn nơi Người.
Dù đường lối của chúng ta là gì thì điều thật sự quan trọng là chúng ta phải là chính mình, cái bản ngã duy nhất của chúng ta và tốt nhất mà khả năng chúng ta có thể đạt được – một thành phần của dân mà Thiên Chúa muốn chúng ta trở thành. Điều duy nhất quan trọng là phải chân thật với chính mình. Bất cứ đường lối nào khác đều sẽ là sai lầm không làm cho người ta đạt đến sự trưởng thành, hạnh phúc viên mãn và thánh thiện.
Đức Giêsu là ai ? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở: TN 24-B6
Đức Giêsu là ai ? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.
Ngày xưa, nhiều người Do thái trả lời rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Elia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ, tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhưng nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống bình an của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết chết các tiên tri: họ đã lùng bắt Elia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan tẩy giả và họ cũng đã đóng đinh Giêsu.
Riêng Phêrô thì trả lời rằng Giêsu chính là Đức Kitô, nghĩa là một người có thừa khả năng để cứu rỗi đời mình và đáng cho mình đi theo cho đến hơi thở cuối cùng. Chính vì thế mặc dù muốn theo Thầy thì phải bỏ mình vác thập giá, nhưng Phêrô đã sẵn sàng trung thành với Thầy cho đến chết.
Giêsu là ai ? Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo lôi theo một nếp sống khác nhau. Có hai câu trả lời tiêu biểu sau đây ở trong 2 quyển tiểu thuyết:
. Quyển “The last temptation” (Cơn cám dỗ cuối cùng) mô tả Giêsu như một chàng thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai, nhiều khả năng. Chàng có một người yêu tên là Mađalêna. Nhưng một ngày nào đó, Giêsu bỗng bị ám ảnh rằng mình không thể sống nếp sống tầm thường mà phải sống như siêu nhân. Vì thế chàng từ bỏ tình yêu của nàng Mađalêna và lên đường rao giảng một thứ giáo thuyết siêu nhiên. Mađalêna thất tình buông trôi cuộc đời trong nếp sống trụy lạc, đĩ thõa. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng siêu nhiên. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng siêu nhiên, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng). Nhưng sau đó gục đầu tắt thở.
Đó là một câu trả lời, rằng: Giêsu chỉ là một người phàm, tuy người phàm này theo đuổi một lý tưởng siêu nhiên và do đó cũng đáng được người khác kính trọng, nhưng cái lý tưởng đó không thể thực hiện được. Thành thử chúng ta dù kính trọng Ngài nhưng không thể sống theo Ngài được.
Có lẽ đó là câu trả lời của rất nhiều người thời nay. Họ nhìn nhận Giêsu là một vĩ nhân, họ nhìn nhận đạo Đức Giêsu là đạo tốt. Nhưng cái đạo đó chẳng giúp ích gì cho cuộc sống. Cuộc sống của họ cần có vật chất, cần có tiền bạc, cần có sự nghiệp, công danh, chứ không cần đến lý tưởng tôn giáo bao nhiêu. Vì thế họ lao mình vào cuộc sống vật chất, để sang một bên những vấn đề lý tưởng tôn giáo cho hạng đàn bà, trẻ nít, hay có cho mình thì cũng là tới khi về già, gần đất xa trời.
. Câu trả lời thứ hai chúng ta gặp trong quyển “Quovadis”: quyển truyện này lấy khung cảnh thời hoàng đế Néron của đế quốc Lamã đang thịnh trị. Tất cả các nước chư hầu đều phải gửi một con tin sang thủ đô Rôma. Đó là một cách để bảo đảm sự tùng phục của các chư hầu. Trong số các con tin ấy có một nàng con gái đẹp tuyệt vời làm cho người cháu của hoàng đế Néron si mê. Chàng này vừa có địa vị, vừa có thế lực, vừa có bạc vàng. Chàng tin chắc mình sẽ chinh phục được con tim của người đẹp. Lúc đó bạo Cháu Néron cũng đang thẳng tay bắt giết những người theo đạo Đức Giêsu. Phêrô đã phải sợ hãi bỏ thành Rôma chạy trốn. Nhưng đang khi đi trên đường thì Phêrô gặp Đức Giêsu từ ngoài thành vác thập giá đi vào. Phêrô hỏi “Quovadis”, tiếng Latinh nghĩa là “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy ?” Đức Giêsu trả lời: Ta vác thập giá vào Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa, vì con đã không dám chịu đóng đinh. Phêrô nghe vậy vội trở vào Rôma và cùng với các tín hữu khác chịu đựng những cuộc bắt bớ, cho đến chết. Tấm gương anh dũng của các tín hữu Đức Giêsu đã làm cho nàng con gái đang làm con tin ấy cảm phục và tìm ra được lý tưởng cho đời mình.
Đó là câu trả lời: Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống. Con xin theo Thầy cho dù phải vác thập giá và phải bỏ mình vì Thầy !
Đức Giêsu không phải chỉ là siêu nhân mà còn là Con Thiên Chúa . Và vì là Con Thiên Chúa cho nên lý tưởng Ngài đề ra cho ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viển vông không thể thực hiện. Là Con Thiên Chúa, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện được lý tưởng của Ngài cho dù có phải trải qua muôn ngàn gian truân khổ sợ. Mà chính cái lý tưởng ấy mới khiến chúng ta sống xứng đáng là người. Con người nếu chỉ biết mê ăn uống, có tiền bạc, có vật chất, sinh ra để ăn, ăn rồi đói, đói rồi phải kiếm ăn, cứ như vậy cho đến lúc chết thì chẳng khác gì hơn con vật. Đức Giêsu muốn giúp chúng ta sống hơn con vật, cho nên Ngài đã chọn kiếp là người, sống cho chúng ta thấy và sống theo để chúng ta sống xứng đáng là người. Chẳng những là người mà còn là Con Thiên Chúa như Ngài. Mà muốn được như Ngài, chúng ta phải đi theo Ngài, phải bỏ mình đi, phải vác thập giá… Nghĩa là phải cố gắng vươn lên, vươn lên cao hơn những nhu cầu vật chất xác thịt tầm thường. Chúa Giêsu đã tiên phong sống được như thế và Ngài sẽ giúp chúng ta sống được như thế, nếu chúng ta nhớ làm theo Lời Ngài: Ai muốn theo ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ được sống đời đời”.
Trên đây là hai câu trả lời tiêu biểu cho câu hỏi “Giêsu là ai?” Còn câu trả lời của chúng ta là gì ? Nếu chúng ta trả lời như Phêrô “Thầy là Đức Kitô” thì chúng ta cũng hãy can đảm bỏ mình vác thập giá đi theo Thầy”.
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc: “ Họa mi và bông hồng đỏ”. Một sớm: TN 24-B7
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc: “ Họa mi và bông hồng đỏ”. Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: “Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi”. Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này ? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:
- Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không ?
- Họa mi ơi ! Em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.
- Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ? - Họa mi ơi ! Đời cần hoa chi cho thương đau ? - Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình. - Được, nhưng phép mầu cần phải có mầu đỏ. - Bằng mọi giá chị ạ. - Bằng giá sinh mạng ? - Kể cả sinh mạng em.
- Họa mi ơi ! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đóa hồng bí nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đóa hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị… Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đóa hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình”. Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.
Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể “được cả” mà cũng có thể “ngã về không”. Chính cái bấp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.
Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng “Từ bỏ chính mình” không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
“Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống”. Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì “Ai biết chết thì sẽ biết sống”.
Trước khi Đức Giêsu đặt câu hỏi: “Anh em bảo Thầy là ai?”, Ngài đã từng làm nhiều dấu lạ: TN 24-B8
Trước khi Đức Giêsu đặt câu hỏi: “Anh em bảo Thầy là ai?”, Ngài đã từng làm nhiều dấu lạ trước mặt các môn đệ. Tại Galilê, Ngài đã hai lần làm cho bánh hóa nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Ngài đã từng đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Ngài cũng đã trừ quỉ cho một bé gái, chữa một người câm điếc, và một người mù. Tất cả những việc Ngài làm và những lời Ngài dậy đã từ từ vén mở cho họ thấy Ngài là ai, mặc dù họ thường bị Ngài chê là đần độn và chậm hiểu. Đức Giêsu không trực tiếp nói cho các môn đệ biết căn tính của mình. Ngài dẫn họ đi trên con đường để họ tự khám phá ra Ngài. Xê-da-rê Phi-lip-phê là nơi mà Đức Giêsu thấy có thể đặt cho các môn đệ câu hỏi quan trọng này: “Anh em bảo Thầy là ai ?” Người ngoài chỉ có một cái nhìn mơ hồ và thiếu sót về Đức Giêsu. Họ coi Ngài là Gioan tẩy giả, là ngôn sứ Elia hay một ngôn sứ nào đó. Đức Giêsu chờ đợi một câu trả lời rõ ràng và đầy đủ hơn từ phía các môn đệ thân tín. Phêrô, đại diện cho cả nhóm, nói lên niềm xác tín của mình: “Thầy là Đức Kitô”. Phêrô đã nói đúng, nhưng hình ảnh của Phêrô về Đức Kitô vẫn không khác với quan niệm thông thường của đám đông dân chúng: một Đức Kitô oai phong lẫm liệt, không hề biết đến thất bại. Đức Kitô đó không phải là Đức Kitô Giêsu.
ĐỨC KITÔ
Dù sao nhờ câu tuyên xưng của Phêrô mà Đức Giêsu bắt đầu nói đến cuộc khổ nạn của Ngài và nói một cách không úp mở. Đây là điều mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức trình bày. Ngài không dùng dụ ngôn nữa, nhưng nói thẳng về định mệnh đang chờ đợi mình. Có người cho rằng lời tiên báo của Đức Giêsu về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh chỉ là lời được viết dựa trên các biến cố đã xảy ra. Thật ra, Đức Giêsu đã thấy những phản ứng chống đối lời giảng dạy của Ngài, Ngài biết mình phải đương đầu với các nhà lãnh đạo Do thái giáo, và Ngài thấy bóng dáng của cái chết đang rình rập mình. Nhưng Đức Giêsu không thối lui, dù Ngài có thể thối lui. Ngài không đi tìm cái chết, nhưng Ngài muốn tiếp tục trung tín với Cha và phục vụ loài người, dù phải trả giá bằng mạng sống. Đó là sự lựa chọn của Giêsu, lựa chọn của một người có lòng tin. Đức Giêsu tin rằng dù kẻ thù có cướp được sinh mạng của Ngài ở đời này thì Cha cũng chẳng bao giờ bỏ rơi Ngài, chẳng “để cho Ngài phải thấy sự hư nát”. Đức Giêsu mang tâm tình của một chứng nhân hiên ngang ra pháp trường. Cái chết là giá phải trả để trung tín về một tình yêu.
Lời tiên báo về cuộc Khổ Nạn và Tử Nạn của Đức Giêsu làm cho Phêrô choáng váng. Ông không sao hiểu được những điều khủng khiếp như vậy, bởi ông còn mải mê với một Đức Kitô vinh quang. Ông phản ứng ngay, ông kéo Đức Giêsu lại mà trách Ngài. Chẳng rõ ông đã nói gì với Ngài, nhưng chắc chắn đó là những lời can ngăn đầy tình yêu thương chân thành. Một lời can ngăn như thế thật nguy hiểm. Đức Giêsu nhận thấy đây là một cơn cám dỗ của Satan qua môn đệ Phêrô. Ngài bảo ông: “Satan, hãy lui lại sau Ta”. Ngay từ khi gọi Phêrô ở ven hồ Galilê, Đức Giêsu đã cho ông thấy chỗ của ông: “Hãy đi sau Ta”. Chỗ đứng của môn đệ là ở sau Thầy. Đức Giêsu muốn đưa Phêrô về đúng chỗ của ông, bởi ông muốn dẫn đường cho Ngài, muốn đi trước Ngài.:Vì anh không nghĩ những điều của Thiên Chúa, mà chỉ nghĩ những điều của loài người”. Đức Giêsu thấy rõ đâu là con đường Thiên Chúa muốn mình đi, và đâu là con đường thế gian chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt trên những tính toán khôn ngoan nhân loại. “Bởi vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người”.
THÂN PHẬN
Những câu cuối cùng của đoạn Tin mừng trên đây nhắm vào cả dân chúng lẫn môn đệ. Nói cách khác, nhắm đến mọi Kitô hữu, không phân biệt bậc sống. “Nếu ai muốn đi sau Ta”. Đi sau Đức Giêsu là mẫu số chung của mọi Kitô hữu. Từ Đức Giáo Hoàng đến các giáo dân, tất cả đều là môn đệ đi sau Thầy Giêsu, với một lòng tự nguyện. Bất cứ ai muốn thì đều được mời gọi đi theo, mà theo là phải từ bỏ. Các môn đệ đầu tiên đã bỏ chài lưới, bỏ cả thân phụ cùng những người làm công để theo Đức Giêsu. Còn bây giờ, điều Đức Giêsu đòi hỏi thì tận căn hơn nhiều. Không phải chỉ bỏ một vật nào đó, mà là từ bỏ chính mình. Từ bỏ này là gốc rễ của mọi từ bỏ khác.
Từ bỏ chính mình là không còn sống cho chính mình nữa, là vác lấy thập giá của mình mà theo Đức Giêsu. Như thế Đức Giêsu cho chúng ta một hình ảnh về người Kitô hữu. Kitô hữu là người vác thập giá mình đi sau Đức Giêsu vác thập giá. Vác thập giá là công việc dành cho chính tử tội trên đường đến nơi chịu đóng đinh. Có thể chúng ta không được phúc tử đạo, nhưng chắc chắn mỗi Kitô hữu đều được chịu cái chết thiêng liêng, chết cho chính mình để rồi sống cho Thiên Chúa. Con đường Khổ Nạn – Phục Sinh của Đức Giêsu là con đường Phêrô không thể hiểu được và cũng không chấp nhận, nhưng rồi đó cũng sẽ là con đường của ông, và của tất cả chúng ta. “Khi đã về già, anh sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho anh và lôi anh đến nơi anh không muốn”. Đức Giêsu đã vác thập giá, cái dụng cụ giết người mà cả người Do thái lẫn Hy lạp đều coi là nhơ nhuốc. Thập giá của Đức Giêsu là do Ngài gánh lấy tội lỗi của nhân loại. Còn thập giá của chúng ta là do chúng ta lãnh lấy sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu và muốn làm chứng cho Ngài. Chúng ta chấp nhận liều mất mạng sống mình vì Đức Kitô và vì Tin Mừng.
Từ bỏ chính mình là điều kiện tiên quyết, nếu không thì việc gánh vác sứ mạng của Đức Giêsu sẽ chỉ là một ảo tưởng chẳng đi tới đâu. Ngay cả người đã theo Chúa cũng bị cám dỗ vì chính lòng tận tụy trung tín của mình. Điều này đã xảy ra nơi các môn đệ. Sau khi họ đã bỏ cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tài sản… để theo Chúa, họ chợt thấy mình trở nên quan trọng. Cái tôi có nguy cơ lớn lên song song với lòng quảng đại hiến thân của họ. Nhóm mười hai bắt đầu tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm. Vậy trở ngại đầu tiên và cuối cùng vẫn là cái tôi. Từ bỏ cái tôi là nỗ lực liên tục của mọi Kitô hữu, dù là tu sĩ hay giáo dân, già hay trẻ, trí thức hay ít học.
Thanh tẩy tội lỗi của mình nhờ ơn Chúa giúp, là điều không khó lắm. Nhưng thật là khó khi phải thanh tẩy mình khỏi những nhân đức và biết bao công trạng mình đã lập được. Với ơn Chúa, chúng ta có thể làm được điều khó khăn này.
Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Đức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ sau khi họ đã: TN 24-B9
"Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?"
Đức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14), sau khi họ đã thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng.
Hôm nay Đức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho tôi sau khi tôi đã theo đạo một thời gian dài, đã cầu nguyện và tham dự các bí tích...
"Còn anh, anh bảo Thầy là ai?"
Câu hỏi này nhắm thẳng vào tôi, đòi tôi phải trả lời. Tôi không được trả lời qua loa hay máy móc.
Câu trả lời của tôi phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm, kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Đức Giêsu. Chẳng nên theo một người mà mình không quen và tin tưởng.
Đời tín hữu là một hành trình tìm kiếm không ngừng để khám phá ra khuôn mặt luôn mới mẻ của Đức Giêsu.
Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và quá phong phú. Chúng ta chỉ mon men đến gần, nhưng không sao múc cạn được mầu nhiệm ấy. Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.
Người làng Na-da-rét cứ nghĩ Đức Giêsu chỉ là bác thợ. Gioan Tẩy Giả nghĩ Ngài là một Mê-si-a vinh quang toàn thắng.
Phải gột bỏ cái biết cũ về Ngài để đón nhận một Đức Kitô khác, vượt xa điều mình nghĩ.
"Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa".
Cần trở nên trẻ thơ để nhận ra khuôn mặt thật của Giêsu.
Hôm nay, chúng ta dễ dàng trả lời như Phêrô: "Thầy là Đức Kitô", và hơn Phêrô: "Thầy là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa". Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu hỏi mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.
Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi, Đức Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ. Môn đệ chỉ có một con đường, con đường của Thầy.
Thầy đã sống phận người với tất cả bấp bênh tăm tối, tôi có dám sống phận người của tôi trong niềm vui không?
Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật, tôi có dám hiến mạng tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?
Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt, tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?
"Người ta bảo Thầy là ai?"
Ta cần biết cái nhìn của con người hôm nay về Đức Giêsu.
Nhiều cái nhìn đúng nhưng chưa đủ.
Truyền giáo là giúp người ta biết đúng và đủ về Ngài. Không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở, nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ.
Cuộc sống của ta vén mở căn tính của Đức Giêsu.
Dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Ngài.
Đức Giêsu đã nói: "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14,9).
Chúng ta ao ước nói: "Ai thấy tôi là thấy Đức Giêsu".
Gợi Ý Chia Sẻ
"Đức Giêsu là ai?" Bạn hãy trả lời câu hỏi này cho một người bạn trẻ đang tìm hiểu đạo.
Tin là bước theo Đức Giêsu trên con đường khổ giá. Bạn có thấy theo Chúa là khó không? Đoạn Tin Mừng hôm nay có giúp bạn vác thập giá một cách an bình hơn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con, nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt, và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu, Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến, xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được. Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây, xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con? Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc. Xin đồng hành với con, để con không cô đơn. Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu. Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố vì biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải giai đoạn hai về sứ mạng cứu độ của Ngài sau những lời vén lộ: TN 24-B10
Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải giai đoạn hai về sứ mạng cứu độ của Ngài sau những lời vén lộ nước trời bằng những dụ ngôn và dấu lạ. Giờ đây, Chúa Giêsu dành riêng những lời mạc khải cho các tông đồ bằng cách nói cho các ông thấy cách thức Ngài sẽ thực hiện để cứu chuộc nhân loại, cứu chuộc con người.
CHÚA GIÊSU GIẢNG DẬY VỀ CÁCH THỨC NGÀI THỰC HIỆN ĐỂ CỨU ĐỘ NHÂN LOẠI, CỨU CHUỘC CON NGƯỜI:
Thánh Marcô trong đoạn Tin Mừng 8, 27-35 cho nhân loại hiểu rõ không úp mở là Ngài phải thực hiện sứ mạng cứu rỗi của Ngài trong sự chống đối hận thù của nhiều lớp người, đặc biệt đối với những lớp người có chức sắc trong dân Do Thái lúc đó và nói cho cùng ngay trong hàng ngũ các môn đệ mà Ngài tuyển chọn cũng hiểu lầm, cũng cản ngăn đường thập giá, đường đau khổ của Chúa. Sự chống đối và hận thù theo kiểu biệt phái đã dẫn tới cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Hận thù, tranh chấp và chống đối của lớp cai quản dân Do Thái, của Hội đồng thượng tọa, hội đồng tư tế, kỳ lão, đầu mục không phải là tiếng nói cuối cùng của Chúa Giêsu để rồi tắt lịm luôn, nhưng Chúa Giêsu sẽ sống lại sau khi bị chôn cất trong mồ ba ngày. Con đường vinh quang của Chúa Giêsu phải kinh qua thử thách chông gai, trải qua thương khó và đau khổ. Nhưng mạc khải quan trọng và cốt yếu này không dễ được mấy ai chấp nhận và hiểu thấu. Ngay đối với các tông đồ, những đệ tử thân tín nhất cũng chỉ được Chúa Giêsu thông báo khi đòi họ tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Phêrô tuyên xưng thay mặt toàn thể các môn đệ:” Thầy là Đấng Kitô” ( Mc 8, 29 ). Tuy Phêrô hay nói cách nôm na, tất cả các môn đệ đã có cái nhìn của Thần khí, nhưng trước mạc khải về sự thống khổ, điều bi đát vẫn xẩy ra vì Phêrô lại có cái nhìn xác thịt để cản ngăn đường đi của Chúa Giêsu.
Phêrô và các môn đệ quả như những người Do Thái cảm thấy chói tai, khó chịu và không thể chấp nhận nổi khi nghe Chúa Giêsu loan báo về sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu. Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở mắng thực sự, không khoan nhượng vì khi cản ngăn con đường cứu chuộc của Chúa, Phêrô đã giữ vai trò của Satan kẻ tìm cách cám dỗ và ngăn cản con đường cứu chuộc của Chúa:” Satan ! lui lại đàng sau Thầy ! Vì tư tưởng của anh không phải tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”( Mc 8, 33 ). Chúa Giêsu quả thực đã mạc khải cho các môn đệ và nhân loại con đường cứu thế của Ngài để tất cả những ai tin và đi theo con đường của Chúa sẽ được ơn tha thứ, được hạnh phúc và được cứu độ.
NỘI DUNG CỦA SỨ MẠNG CỨU CHUỘC CỦA CHÚA GIÊSU:
Chúa Giêsu khi loan báo cuộc thương khó ( Mc 8, 31 ) của Ngài để cứu độ nhân loại đã cho nhân loại thấy tính cách quyết liệt của Tin Mừng Ngài mang lại. Vì Ngài là Tin Mừng cứu độ. Sứ mạng và tính cách thực hiện sứ mạng cứu rỗi của Ngài:” Chúa phải đau khổ mới tới vinh quang”. Đây là điểm làm đảo lộn tất cả mọi trật tự: ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho một số người được ưu tuyển hay được chọn lọc mà ơn cứu rỗi thuộc về mọi người. Chúa đến trần gian không để thỏa hiệp với bất cứ một ai, nhưng Ngài cương quyết, tự do hoàn toàn để loan báo, để giới thiệu nước trời. Chúa Giêsu đòi hỏi con người luôn phải trả lời cho Ngài về ý nghĩa của cuộc sống con người. Mỗi con người tự mình mà có hay con người do Đấng tạo hóa sinh ra:” Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì ?”( Mc 8, 36 ). Con người chỉ có thể hiểu được nội dung Tin Mừng, sứ điệp cứu rỗi của Chúa khi con người sẵn sàng bỏ hết tất cả để theo Đức Kitô:” Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chinh mình, vác thập giá mình mà theo”( Mc 8, 34 ). Tin Mừng của Đức Kitô đòi hỏi con người phải cương quyết, dứt khoát, không thỏa hiệp mà phải thanh thản mà bước theo Chúa Giêsu. Hiểu được như thế, con người sẽ bước đi một cách tự do và thanh thoát mà theo Đức Kitô.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết lắng nghe và thực thi lời Chúa, nhận ra Chúa trong mọi trạng huống của cuộc đời.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Bạn nghĩ sao về con đường cứu độ của Chúa Giêsu ? 2. Bạn hiểu gì về lời tuyên tín của thánh Phêrô ? 3. Tại sao Phêrô lại cản ngăn con đường của Chúa ?
Phúc Âm Maccô được các nhà chú giải gọi là sách giáo lý khai tâm Kitô giáo, vì Phúc Am: TN 24-B11
Phúc Âm Maccô được các nhà chú giải gọi là sách giáo lý khai tâm Kitô giáo, vì Phúc Am Maccô trình bày điều cốt yếu nhất đối với người Kitô hữu: Đức Giêsu là Ai (phần 1)? và muốn đi theo Người thì các môn đệ của mọi thời: xưa cũng như nay, phải đi con đường nào (phần 2)? Bài Phúc âm Phụng vụ đọc hôm nay là đoạn kết của phần 1 và đồng thời cũng là đoạn mở đầu của phần 2. Bài đọc 1 của ngôn sứ Isaia phác họa chân dung và thân phận của Đấng Mêsia đau khổ (là chính Đức Giêsu Nada-ret). Còn bài đọc 2 của thư Giacôbê khẳng định: đức tin phải có việc làm cụ thể, nếu không sẽ chỉ là đức tin chết, chẳng có ý nghĩa và giá trị gì đối với những người xưng mình là Kitô hữu. Chúng ta hãy lắng nghe tiếng Chúa nói trong các bài Thánh Kinh trên để đón nhận và sống sứ điệp của Lời Chúa.
ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
1. Đức Giêsu là Đấng Mêsia đau khổ chứ không phải là Đấng Mêsia vinh quang theo nghĩa trần thế.
Trong Cựu ước, Thiên Chúa đã có lần khẳng định với dân Ítraen: “Tư tưởng của Ta khác xa tư tưởng của các ngươi”. Nói cách tượng hình thì trời đất cách xa nhau bao nhiêu thì tư tưởng của Thiên Chúa cách xa tư tưởng của con người bấy nhiêu. Ap dụng vào trường hợp Đức Giêsu, Đấng Mêsia của Thiên Chúa thì chúng ta thấy chính xác là như thế. Mọi người, kể cả thân nhân và môn đệ của Người, đều ngấm ngầm trông đợi Đức Giêsu thể hiện là một Đấng Mêsia vinh quang. Chẳng ai muốn và đồng tình với Đức Giêsu khi Người đóng vai một Mêsia đau khổ cả. Phêrô đã ngăn cản Chúa. Gioan và Giacôbê đã “tìm cách chạy chọt” để được chỗ tốt nhất trong Vương quốc của một Mêsia vinh quang. Giuđa Ítcariốt đã muốn áp đặt ý muốn của mình lên Đức Giêsu mới bán Thầy cho kẻ địch lấy 30 đồng bạc. Các tông đồ đã bỏ rơi Chúa khi Người bị bắt và bị kết án tử hình trên thập tự giá. Nói tóm lại chọn lựa của Ngôi Hai Thiên Chúa là Đấng Mêsia đau khổ khi đến trần gian là một chọn lựa vượt xa tầm hiểu biết của người phàm.
2. Sống ơn gọi làm môn đệ Đức Giêsu Kitô là sống gắn bó mật thiết với Người và vác thập giá theo chân Người.
(1) Câu hỏi quyết định của Đức Giêsu: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” khiến các môn đệ xưa chới với. Tuy Phêrô, nhờ mạc khải, đã nói lên lời tuyên xưng, nhưng để hiểu và sống trọn vẹn lời tuyên xưng ấy, Phêrô và các môn đệ còn phải “trầy da tróc vẩy” mới dám bước vào con đường thập giá của Thầy. Ngày nay cũng chẳng hơn gì thời xưa. Rất ít người giáo dân Việt Nam hiểu và xác tín rằng Bí tích Thánh Tẩy đã làm cho họ trở thành môn đệ của Đức Giêsu Kitô. Vì thế phần đông giáo dân không biết phải sống ơn gọi môn đệ ấy như thế nào. Tôi đã có nhiều dịp phục vụ các bạn trẻ trong các lớp giáo lý hôn nhân của nhiều giáo xứ và tôi thường gặp cảnh các bạn trẻ ấy không giải thích được ý nghĩa của chữ Kitô hữu. Các bạn trẻ ấy thường lúng túng khi được hỏi về những việc Đức Giêsu Kitô đã thực hiện cho loài người và cho Giáo hội. Các bạn trẻ ấy sẽ hết sức kinh ngạc nếu chúng ta hỏi: “Thế Đức Giêsu có mơ ước hay hoài bão gì?” Và các bạn trẻ ấy sẽ ấp úng nếu chúng ta hỏi về cách họ phải sống với Chúa Giêsu như thế nào. Cùng lắm là có vài bạn trả lời rằng: phải sống với Chúa bằng đọc kinh cầu nguyện. Nhưng nếu bị hỏi dồn thế nào là cầu nguyện thì các bạn trẻ ấy sẽ câm như hến. Vậy thì câu hỏi mà Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ cách đây hơn hai ngàn năm, vẫn còn nguyên giá trị thời sự: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? vì rất nhiều Kitô hữu vẫn không biết cách trả lời hoặc có biết trả lời thì cũng chỉ là những lời học thuộc lòng hay theo sách giáo lý mà thôi, chứ chưa phải là câu trả lời của riêng mình, xuất phát từ cuộc sống tâm linh mật thiết với Chúa Kitô. Vì sống ơn gọi làm môn đệ của Chúa Giêsu đòi chúng ta phải hiểu về Người và phải có mối tương quan riêng tư, mật thiết với Người, điều mà nhiều Kitô hữu chưa có.
(2) Hơn nữa sống ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu Kitô thì không thể thiếu vắng tính chất hay chiều kích thập giá vì Người là Thiên Chúa bị đóng đinh thập giá (Dieu crucifié) trước khi bước vào vinh quang phục sinh. Thầy đã chọn con đường thập giá, từ bỏ, ẩn dật, chôn vùi và tự hủy ra không thì trò cũng không thể chọn lựa con đường nào khác. Thế giới ngày nay không còn tin Chúa như mấy thế kỷ trước vì các môn đệ thời nay của Chúa không làm chứng được rằng họ là môn đệ của Đấng bị đóng đinh thập giá mà là môn đệ của đồng tiền và của quyền lực.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Chúa và là Thầy của chúng con, hôm nay Chúa cũng hỏi chúng con: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” và chúng con phải thú nhận rằng chúng con cũng ấp úng và xấu hổ với lương tâm. Chúng con có thể trả lời theo sách giáo lý rằng: Chúa là Con Một và là Ngôi Hai Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa đã đến trần gian để cứu chuộc nhân loại v.v… Nhưng câu trả lời ấy chẳng có giá trị gì trước mặt Chúa và chẳng thuyết phục được ai! Xin Chúa ban cho chúng con lòng say mê tìm hiểu về Chúa trong Thánh Kinh, nhất là trong bốn Phúc Am. Cũng xin Chúa ban cho chúng con ơn biết sống với Chúa trong các khoảnh khắc thinh lặng để chúng con đủ sức bước theo Chúa trên con đường hy sinh, từ bỏ và tự hiến của thập giá.
Chủ đề: “Ngọc không dũa không sáng, người không bị gian nan thử thách cũng không nên toàn thiện được” (KHỔNG TỬ)
Trong quyển nhan đề: Này tôi tin (This I believe) có một loạt bài khảo luận của một số tác giả: TN 24-B12
Trong quyển nhan đề: Này tôi tin (This I believe) có một loạt bài khảo luận của một số tác giả nổi tiếng. Họ mô tả lại những thời kỳ trong cuộc đời của họ đã tác động trên họ một cách sâu xa. Chẳng hạn, James du Pont thuộc công ty Du Pont kể lại sự kiện xảy đến cho ông khi ông vừa mới 7 tuổi đầu như sau; Một đêm, đang say ngủ, chợt James thức giấc, cậu bé nhìn thấy mẹ đang khóc lớn tiếng. Đây là lần đầu tiên cậu thấy mẹ khóc, James mô tả biến cố này như sau;
“Giọng bố tôi trầm xuống lộ vẻ bối rối trong khi ông cố gắng an ủi mẹ tôi - lúc đó cả hai người đều sầu buồn nên quên mất tôi đang hiện diện ở bên cạnh. Tôi nghe lỏm được những gì các ngài đang nói”. Ông nói thêm: “Khi vấn đề của các ngài đã được giải quyết và bị chìm vào quên lãng lâu rồi, thì “biến cố” quan trọng tôi khám phá được vào đêm khuya ấy và mãi mãi còn lưu lại trong tâm trí tôi. Khám phá ấy được ghi nhận bằng những lời an ủi của bố tôi; “Đời sống đâu phải chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng đâu! Nhiều lúc nó rất là khó khăn và cay đắng”.
***
Chắc chắn chúng ta đều có thể mường tượng được cảnh chú bé 7 tuổi đang nằm trên giường lắng nghe mẹ chú khóc. Chúng ta cũng có thể nhớ lại đã có lần ta nghe mẹ mình khóc, và điều ấy đã gây ấn tượng mạnh trên chúng ta như thế nào, và điều ấy đã khiến chúng ta, có lẽ lần đầu tiên trong đời, ý thức được cuộc đời không chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng, đôi khi nó rất khó khăn và khổ đau. Từ đó chúng ta hiểu được những lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm ngày hôm nay.
“Ai muốn đến với Ta, thì hãy quên mình, vác thập giá mình rồi theo Ta”. Nói cách khác, khổ đau sầu muộn có thể ví như những cơn bão táp, lụt lội xảy đến. Chúng ta là một phần cuộc sống mà chúng ta không thể nào tránh né được. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại tiếp tục biểu lộ một điều kỳ diệu khi Ngài nói:
“Ai muốn cứu lấy mạng mình thì sẽ bị mất nó, nhưng ai liều mất cuộc sống vì ta và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được nó”. Nói cách khác, đối với Chúa Giêsu , điều quan trọng trong cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đớn đau xảy đến trên chúng ta mà chính là thái độ chúng ta đáp ứng chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Có lẽ chúng ta không thể nào tránh được khổ đau phiền muộn nhưng chúng ta vẫn có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay vì huỷ diệt, nguồn mang sức sống thay vì chết chóc, nhờ đó chúng ta trở nên tốt đẹp hơn thay vì chua chát hơn.
Xin hãy nghe một minh chứng qua trường hợp Eugene Oneill: Mãi đến tuổi 25, ông vẫn còn là một người thất bại, cuộc sống thì hầu như không mục đích, không qui củ, không định hướng. Thế rồi một hôm, ông lâm trọng bệnh và được đem vào bệnh viện. Nhờ thời gian nằm viện, ông đã có dịp may làm được điều trước đó ông chưa bao giờ làm được; ông mới có dịp may suy nghĩ và định hướng cho cuộc đời mình. Nhờ đó ông đã khám phá ra tài năng soạn kịch của ông.
Cuối cùng Eugene O’Neill bình phục, ông chọn nghề viết kịch và bắt đầu trở thành người canh tân nền kịch nghệ Hoa Kỳ. Tất cả điều này xảy ra chính là do ông đã biết biến đổi phiền muộn khổ đau thành phương cách xây dựng tích cực, đã biến chúng thành sức sống cho ông.
Trường hợp Golda Meir cũng thế. Khi còn là một thiếu nữ, Golda Meir rất thất vọng về nhan sắc của mình. Cô viết: “Mãi về sau, tôi mới nhận ra rằng không được đẹp lại là một may mắn ẩn chìm, bởi vì điều ấy buộc tôi phải khai triển những tài năng sâu kín hơn, cuối cùng tôi hiểu được rằng phụ nữ không thể ỷ lại vào sắc đẹp của mình, mà phải làm việc chăm chỉ để nhờ đó... mang lại lợi ích cho mình hơn. Nói cách khác, Golda Meir đã biết chấp nhận thánh giá của mình. Cô đã không kêu gào than khóc, không bẳn gắt, căm hờn, cô biết cam nhận vác nó lên với lòng can đảm, để rồi cuối cùng cô đã trở nên nữ thủ tướng đầu tiên của Israel.
Cuối cùng, chúng ta hãy xét đến trường hợp của Oscar Wilde. Ở đỉnh cao nghề nghiệp viết lách, ông đã xác tín sứ mạng luân lý của mình. Sau khi ở tù ra, ông không còn chấp nhận viết những vở hài kịch phù phiếm nữa, không dành trí tưởng tượng cho ba chuyện lăng nhăng lít nhít nữa. Ông đã sáng tác những câu thơ tuyệt vời như:
“Đau khổ chính là mảnh đất thánh”, hay: “Đức Kitô đâu có thể đi vào tâm hồn chúng ta bằng nẻo đường nào khác ngoài trái tim đã vỡ nát”.
Oscar Wilde đã dùng Kinh nghiệm nhục nhã của mình như một dịp để tăng triển tốt đẹp hơn. Giống như tinh thần bài Phúc Âm hôm nay ông đã biết biến đổi Kinh nghiệm ấy thành nguồn ban sức sống chứ không để nó thành nguồn chết chóc huỷ diệt.
Những câu chuyện về Eugene O’Neill, Golda Meir và Oscar Wilde cho ta thấy rõ ràng điều quan trọng trong cuộc sống không phải là những khổ đau phiền muộn xảy đến cho chúng ta, mà chính là cách thức chúng ta đáp lại chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Nếu ta từ chối không chấp nhận khổ đau phiền muộn, không chịu cúi xuống nâng chúng lên, thì chúng ta sẽ đánh mất chính cuộc sống của mình. Ngược lại, nếu chúng ta bắt chước Đức Giêsu can đảm cúi xuống nâng chúng lên, thì chúng ta sẽ biến chúng thành năng lực tích cực, thành nguồn ban sức sống giống như trường hợp Eugene O’Neill, Golda và Oscar Wilde.
Để tóm tắt, chúng ta hãy nhớ lại:
- Như cậu bé bảy tuổi trong câu chuyện mở đầu, sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ khám phá ra rằng đời sống không phải chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng, nó thường là khó khăn và cay đắng.
Nhưng chúng ta cũng khám phá ra một điều khác nữa. Sớm muộn gì chúng ta cũng thấy rằng phiền muộn và khổ đau không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc, hủy diệt. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa Giêsu và Phúc Âm vì phiền muộn và khổ đau có thể biến thành nguồn sống. Thiên Chúa thường dùng khổ đau phiền muộn để biến đổi chúng ta thành người tốt hơn và biết thông hiểu kẻ khác hơn. Khổ đau và phiền muộn có thể mở mắt cho chúng ta để chúng ta thấy được cuộc sống phong phú tốt đẹp, hơn là chúng ta đã từng dám mơ ước.
Thi sĩ Robert Browming Hamiltom tóm tắt tinh thần bài Phúc Âm hôm nay bằng những lời như sau:
“Tôi bước đi một dặm đường với Nữ Thần Lạc Thú, Nàng ve vuốt tôi đủ điều, nhưng cuối cùng chả làm tôi khôn ngoan hơn tí nào qua những điều nàng nói.
“Tôi lại bước đi một dặm với Nữ Thần đau khổ, Nàng chả nói với tôi một lời,
Nhưng tôi lại học được biết bao điều khi nàng bước đi bên cạnh tôi…”
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, và hoạ sĩ Cô-xê (Smith Kosse):TN 24-B13
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, và hoạ sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một bức ảnh tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ”. Hoạ sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính toà Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc ở trung tâm Luân Đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa. Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Đức Kitô. Có một nhà thần học đang hăng say thuyết minh về Đức Kitô mà không nhìn về Người. Duy chỉ có một nữ tu nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp tục con đường đi mình.
Ông Bec-lây (Bilighem Becley), một học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức hoạ: “Những hoàn cảnh này thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Kitô tái xuất hiện có lẽ cũng chả ai chú ý tới. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện, cả những chuyện cao sâu hơn là việc lưu tâm tới Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa.
Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự xảy ra ngay lần Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước. Sau một thời gian Chúa xuất hiện rao giảng Tin Mừng Cứu độ, Người đã làm bao phép lạ sôi nổi. Gây chấn động trong dân chúng, rồi Chúa hỏi các môn đệ xem người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi người lại nói mỗi khác. Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả phục sinh, người nói là Êlia, người khác bảo là một ngôn sứ... Tất cả nói đúng nhưng chưa đủ. Chỉ có Phêrô mới có thể nói đúng và đầy đủ về Chúa: “Thầy là Đấng Cứu Thế”.
Lời tuyên bố của Phêrô là câu trả lời Chúa Giêsu muốn có. Nhưng Chúa cũng nói ngay đó là do Cha trên trời tỏ bày cho, chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu. Phêrô và các tông đồ được ơn soi sáng, được dạy dỗ, và hướng dẫn để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế.
Lời tuyên bố này rõ ràng là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra mà cũng không hiểu tường tận lời mình nói. Ngay lúc đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về số phận của Người. Chúa sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa thất bại, thua kẻ thù. Vì thế, Phêrô kéo Chúa ra một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra. Vì thế, Chúa Giêsu nổi giận mắng ông; “Satan, hãy lui đi!”
Chúa Cứu Thế sẽ cứu chuộc trần gian bằng thập giá. Đó là điều quan trọng vì Chúa đòi buộc các môn đệ của Người cũng đi con đường này: “Ai muốn theo Thầy hãy bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo. Vì ai muốn cứu mạng mình sẽ mất. Còn ai sẵn sàng bỏ mạng sống vì Thầy và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được sự sống mình”.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu biết Chúa hơn để chúng con biết vác thập giá đi theo Chúa và được vào hưởng vinh quang với Chúa.
Charler Lamb sống ở nước Anh hai trăm năm trước đây. Suốt 33 năm ông làm một công việc: TN 24-B14
Charler Lamb sống ở nước Anh hai trăm năm trước đây. Suốt 33 năm ông làm một công việc buồn tẻ là thơ ký trong văn phòng hàng hải. Tuy nhiên ông đã thành một nhà văn được tín nhiệm, đặc biệt ông nổi tiếng vì tính hài hước nhẹ nhàng, lòng thông cảm dịu dàng và lòng nhiệt thành hiếm có đối với gia đình và bạn hữu.
Một buổi chiều kia, dăm sáu người bạn tụ họp trong nhà ông Lamb để bàn luận vài đề tài văn chương như “Chúng ta cảm thấy thế nào nếu chúng ta có thể nói tay đôi với một vài văn sĩ nổi tiếng trên thế giới, họ đã qua đời”. Vài người gợi ý: “Chúng ta sẽ cảm thấy thế nào nếu Dante bước vào trong phòng này. Dante đã viết cuốn “Hài kịch Thánh” về thiên đàng, địa ngục và luyện ngục. Một người khác thêm; “Giả sử Shakespear tham dự với chúng ta đêm nay”. Lamb hô to: “Tôi sẽ giơ tay đầy niềm vui. Đón tiếp một vị vua của các nhà tư tưởng. Hân hạnh biết bao?” Cuối cùng một người tuyên bố: “Giả sử Đức Kitô vào trong phòng này?” Nét mặt Charles Lamb bỗng nghiêm nghị khi ông nói “dĩ nhiên, tất cả chúng ta sẽ quì xuống”. Đó là sự khác biệt giữa Đức Kitô và tất cả mọi người đàn ông khác trong lịch sử. Đức Kitô là Thiên Chúa. Mọi người khác chỉ là người.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu hỏi các tông đồ “Người ta nói Ta là ai?”
Chúa chúng ta hỏi chúng ta cùng câu hỏi ấy; “Con nghĩ Ta là ai?”. Mỗi người chúng ta phải trả lời câu hỏi quan trọng của một thời đại ấy.
Chúng ta cân nhắc những câu trả lời của những người nghĩ Đức Kitô chỉ là một người, có người diễn tả Đức Kitô như một người chữa bệnh bằng niềm tin, người chữa mọi thứ bệnh tật, yếu đau. Họ không nói làm sao Chúa chữa được. Chỉ có cách phải nhận Người đã làm được, vì Người là Thiên Chúa. Có người nói Đức Kitô là một người phù thủy. Người khác lại bảo Người là một người theo chủ nghĩa nhân đạo, chú ý đến loài người và có thể giúp cho họ. Có người diễn tả Chúa Giêsu như một nhà tâm lý hoàn hảo, Người hiểu được cái động lực và nghị lực của con người. Nhiều người mô tả Chúa như một nhà kiến tạo hoà bình hoặc yêu thiên nhiên xuất sắc.
Những người cải tạo xã hội nhìn Đức Kitô như một kiểu mẫu lý tưởng. Cả những người cộng sản cũng hướng về Đức Kitô như một nhà lãnh đạo cách mạng. Người lao động tin cậy Đức Kitô như lý tưởng con người. Cả những người Hippi cũng cố gắng biện minh lối sống vô trách nhiệm của họ khi họ nói về Đức Kitô - Đấng đã phán: “Đừng lo lắng về đồ ăn thức uống hoặc áo quần”.
Nhưng hầu hết những người ngưỡng mộ Đức Kitô như vậy đã nhận rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa, trong số những người đó, bạn đồng ý với những nhóm người nào? Trong suy tư và trong cách sống của bạn, Đức Giêsu có thực là Thiên Chúa không?
Như thánh Phêrô, chúng ta phải tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa, Con Thiên Chúa hằng sống.
Tóm lại, Đức Giêsu là Thiên Chúa thật cũng là người thật, đó là trọng tâm của Kinh Thánh, là trung tâm của lịch sử, là chủ để của ngày lễ hôm nay, trong Thánh lễ này. Đó là lý do chúng ta quì gối tôn thờ Đấng Chúa, Người ngự trên bàn thờ này, như Lamb và các bạn hữu của ông.
Thầy là Đấng Kitô. Đây là một lời tuyên bố long trọng được trình thuật giữa Tin Mừng theo: TN 24-B15
"Thầy là Đấng Kitô".Đây là một lời tuyên bố long trọng được trình thuật giữa Tin Mừng theo thánh Mác-cô. Ngay từ đầu trình thuật, đã có những thắc mắc về thân danh của Chúa: "Ông này là ai?". Thánh sử còn làm cho người đọc hồi hộp khi thuật lại những lần Đức Giêsu cấm không được gọi Người bằng danh hiệu này danh hiệu nọ. Sự im lặng đã nổ bùng và mọi sự đã được tiết lộ với lời tuyên tín của Phêrô, thủ lĩnh nhóm Mười Hai: "Thầy là Đấng Kitô, tức là Đấng Thiên Sai, người mà toàn dân mong đợi Thiên Chúa sẽ sai đến để cứu dân Ngài". Sự vui mừng chưa kịp vỡ lở, thì này, "Ngài đã bắt đầu dạy cho các ông biết Đấng Kitô phải chịu đau khổ... bị giết chết, và ba ngày sau sẽ sống lại". Thủ lĩnh Phêrô cảm thấy đã đến lúc phải "can thiệp". Ông bèn "kéo riêng Ngài ra mà trách". Điều này cho ta thấy có sự trái ngược sâu xa trầm trọng giữa điều mọi người nghĩ về Đấng Thiên Sai và những lời dạy của Chúa, những lời tiết lộ về dung mạo đích thực của Đấng Thiên Sai. Sự hiểu sai của Phêrô đã rất trầm trọng, không thể khoan nhượng được, nên phản ứng của Chúa rất quyết liệt: "Đồ quỉ Satan, xéo đi, lui ra đàng sau!". Chúa quở trách Phêrô, kẻ đã trách móc Chúa. Sở dĩ ông đã trách móc Chúa vì ông không thể nào quan niệm nổi được rằng Đấng Thiên Sai phải chịu đau khổ và chịu chết. Theo quan niệm thông thường của người Do Thái đương thời, Đấng Thiên Sai phải là một vị vua với binh hùng tướng mạnh, bách chiến bách thắng. Ngài đi đến đâu, kẻ thù của dân tộc phải thảm hại đến đấy, đồng thời Ngài sẽ mang lại cho con dân một đời sống thanh bình an lạc. Để chấp nhận một Đấng Thiên Sai đau khổ, phải vượt qua một hố thẳm! Người Do Thái đương thời không công nhận đoạn văn về người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê (quyển 2 Sách Ngôn sứ Isaia) là đoạn văn tiên báo, vẽ ra dung mạo Đấng phải đến. Đối diện với những chống đối, những mưu toan, những thù nghịch chống lại Ngài, đối diện với cái chết đang rình rập Ngài. Đức Giêsu đã nhận thấy từng lời từng chữ trong đoạn văn đau xé lòng đó đã phác họa rất chân thật về vận mạng Ngài. Đối với các Kitô hữu tiên khởi thời các thánh tông đồ còn sinh tiền, đoạn văn này được đánh giá rất cao, vì nó cho thấy cuộc tử nạn của Đức Giêsu không phải là một thất bại, Lời Chúa đã loan báo rõ về Ngài, tuy có dùng lối nói ẩn dụ. Ngày nay, ngắm nhìn dung mạo đẫm máu của Đức Giêsu gục chết trên khổ hình thập giá trên Núi Sọ, người Kitô hữu hiểu rằng, đường lên núi Olivêtê (Núi Cây Dầu, nơi Chúa lên trời) phải đi qua Núi Sọ, đường lên vinh quang phải trải qua đau khổ, đường lên Ánh Sáng phải qua Thập giá.
"Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mc 8,33)
Minh họa
- Mille images 70 C
Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc I (Is 50,5-9a): Hình ảnh Người Tôi Tớ Giavê bản thân vô tội nhưng phải chịu rất nhiều đau khổ vì tội loài người.
- Tin Mừng (Mc 8,27-35): Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ biết Ngài sắp chịu nạn chịu chết.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Ai mà không thích sung sướng và sợ đau khổ. Tuy nhiên có những thứ khổ rất đáng kính trọng: TN 24-B16
Ai mà không thích sung sướng và sợ đau khổ. Tuy nhiên có những thứ khổ rất đáng kính trọng, chẳng hạn cha mẹ chịu cực chịu khổ để nuôi dạy con cái. Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta biết chính Đức Giêsu cũng chọn cách cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ của Thập Giá.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa những đau khổ của chúng ta và xin Ngài giúp chúng ta biết thánh hóa đau khổ, biến đau khổ thành nguồn ơn thánh cho chúng ta và cho mọi người.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Vì sợ khổ và muốn trốn tránh đau khổ bằng mọi giá, nhiều khi chúng ta không chu toàn bổn phận.
- Vì chưa ý thức giá trị của đau khổ nên khi gặp khổ, chúng ta chán nản thất vọng, thậm chí còn kêu trách Chúa.
- Chúng ta không vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Is 50,5-9a)
Trong phần II sách Isaia, còn gọi là Đệ nhị Isaia (Is 40-55), có 4 bài ca viết về một nhân vật rất đặc biệt được gọi là Người Tôi Tớ của Giavê (Is 42,1-4 49,1-6 50,4-9 và 52,13Ụ53,12). Bài ca được trích đọc hôm nay là bài thứ ba.
Người Tôi Tớ Giavê này bản thân vô tội nhưng phải chịu rất nhiều đau khổ vì tội loài người.
Người Tôi Tớ này là ai ? Ý nghĩa đầu tiên của nó là nói về dân Israel, họ phải chịu bao đau khổ trong kiếp lưu đày để chuộc tội cho muôn dân. Về sau, hình ảnh này được hiểu về Đấng Messia. Đức Giêsu làm ứng nghiệm lời tiên tri này: Ngài chịu nạn, chịu chết trên Thập giá để cứu chuộc loài người.
2. Đáp ca (Tv 114)
Tâm tình của người tín hữu trung kiên: dù đang bị bủa vây giữa muôn vàn đau khổ nhưng vẫn một lòng tin tưởng Chúa và hy vọng Chúa sẽ giải thoát.
3. Tin Mừng (Mc 8,27-35)
Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần:
a/ Đức Giêsu dò hỏi các môn đệ xem dư luận nghĩ sao về Ngài. Các môn đệ phản ảnh: có nhiều dư luận hơi khác nhau, nhưng tựu trung mọi người đều nghĩ Đức Giêsu là một ngôn sứ. Phần Phêrô thì lên tiếng nói thay cả Nhóm 12: "Thầy là Đức Kitô".
b/ Sau đó Đức Giêsu tiên báo về cuộc chịu nạn của mình. Phêrô ngăn cản liền bị Chúa trách nặng nề là Xatan. Rồi Ngài cho biết ai muốn làm môn đệ Ngài thì cũng phải đi theo con đường Ngài đi, đó là con đường thập giá.
- Các câu 33-35 "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo"
. "Ai muốn theo tôi" nghĩa là ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu ("đi theo" ai là làm môn đệ cho người đó)
. "Từ bỏ chính mình": xem ra từ bỏ mình nghĩa là tha hoá, vong thân (aliénation), mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt: tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hóa nên giống Đức Giêsu thì thật tuyệt vời. Lý tưởng mà thánh Phaolô luôn nhắm tới là được trở nên "đồng hình đồng dạng" với Đức Giêsu. Hơn nữa đây thực sự không phải là "tha hóa" mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người "giống hình ảnh" Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị "tha hóa". Nay cố gắng trở nên giống Đức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu.
. "Vác thập giá mình": Kiểu nói này có nhiều nghĩa: a/ Đón nhận những khổ cực của mình, cũng như Đức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài ; b/ Theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế, "vác thập giá mình" nghĩa là coi như mình đã bị kết án tử ; c/ câu 35 giải thích câu 34: "Quả thật ai liều mất mạng sống mình vì tôi&". Như thế "vác thập giá" có nghĩa là "liều mất mạng sống", hay nói nôm na là "liều mạng" vì Chúa.
4. Bài đọc II (Gc 2,14-18) (Chủ đề phụ)
Thánh Giacôbê bàn về đức tin và hành động. Cả hai đều cần thiết và phải đi đôi với nhau: "Đức tin mà không có hành động thì là đức tin chết".
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Giêsu là ai ?
Đức Giêsu là ai ? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.
Ngày xưa, nhiều người Do thái trả lời rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ, tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhưng nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống bình an của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết chết các tiên tri: họ đã lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan Tẩy Giả và họ cũng đã đóng đinh Giêsu.
Riêng Phêrô thì trả lời rằng Giêsu chính là Đức Kitô, nghĩa là một người có thừa khả năng để cứu rỗi đời mình và đáng cho mình đi theo cho đến hơi thở cuối cùng. Chính vì thế mặc dù muốn theo Thầy thì phải bỏ mình vác Thập giá, nhưng Phêrô đã sẵn sàng trung thành với Thầy cho đến chết.
Giêsu là ai ? Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo lôi theo một nếp sống khác nhau. Có hai câu trả lời tiêu biểu sau đây ở trong 2 quyển tiểu thuyết:
. Quyển "The last temptation" (Cơn cám dỗ cuối cùng) mô tả Giêsu như một chàng thanh niên khoẻ mạnh, đẹp trai, nhiều khả năng. Chàng có một người yêu tên là Mađalêna. Nhưng một ngày nào đó, Giêsu bỗng bị ám ảnh rằng mình không thể sống nếp sống tầm thường mà phải sống như siêu nhân. Vì thế chàng từ bỏ tình yêu của nàng Mađalêna và lên đường rao giảng một thứ giáo thuyết siêu nhiên. Mađalêna thất tình buông trôi cuộc đời trong nếp sống truỵ lạc, đĩ thoả. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng siêu nhiên. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng siêu nhiên, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Nhưng sau đó gục đầu tắt thở.
Đó là một câu trả lời, rằng: Giêsu chỉ là một người phàm, tuy người phàm này theo đuổi một lý tưởng siêu nhiên và do đó cũng đáng được người khác kính trọng, nhưng cái lý tưởng đó không thể thực hiện được. Thành thử chúng ta dù kính trọng Ngài nhưng không thể sống theo Ngài được.
Có lẽ đó là câu trả lời của rất nhiều người thời nay. Họ nhìn nhận Giêsu là một vĩ nhân, họ nhìn nhận đạo Đức Giêsu là đạo tốt. Nhưng cái đạo đó chẳng giúp ích gì cho cuộc sống. Cuộc sống của họ cần có vật chất, cần có tiền bạc, cần có sự nghiệp, công danh, chứ không cần đến lý tưởng tôn giáo bao nhiêu. Vì thế họ lao mình vào cuộc sống vật chất, để sang một bên những vấn đề lý tưởng tôn giáo cho hạng đàn bà, trẻ nít, hay có cho mình thì cũng là tới khi về già, gần đất xa trời.
. Câu trả lời thứ hai chúng ta gặp trong quyển "Quo vadis": quyển truyện này lấy khung cảnh thời Hoàng Đế Neron của đế quốc Lamã đang thịnh trị. Tất cả các nước chư hầu đều phải gửi một con tin sang thủ đô Rôma. Đó là một cách để bảo đảm sự tùng phục của các chư hầu. Trong số các con tin ấy có một nàng con gái đẹp tuyệt vời làm cho người cháu của Hoàng Đế Néron si mê. Chàng này vừa có địa vị, vừa có thế lực, vừa có bạc vàng. Chàng tin chắc mình sẽ chinh phục được con tim của người đẹp. Lúc đó bạo chúa Neron cũng đang thẳng tay bắt giết những người theo đạo Đức Giêsu. Phêrô đã phải sợ hãi bỏ thành Rôma chạy trốn. Nhưng đang khi đi trên đường thì Phêrô gặp Đức Giêsu từ ngoài thành vác thập giá đi vào. Phêrô hỏi "Quo vadis", tiếng Latinh nghĩa là "Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy ?" Đức Giêsu trả lời: Ta vác thập giá vào Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa, vì con đã không dám chịu đóng đinh. Phêrô nghe vậy vội trở vào Rôma và cùng với các tín hữu khác chịu đựng những cuộc bắt bớ, cho đến chết. Tấm gương anh dũng của các tín hữu Đức Giêsu đã làm cho nàng con gái đang làm con tin ấy cảm phục và tìm ra được lý tưởng cho đời mình.
Đó là câu trả lời: Thầy là Đức Kitô con TC hằng sống. Con xin theo Thầy cho dù phải vác thập giá và phải bỏ mình vì Thầy !
Đức Giêsu không phải chỉ là siêu nhân mà còn là Con Thiên Chúa. Và vì là Con Thiên Chúa cho nên lý tưởng Ngài đề ra cho ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viễn vong không thể thực hiện. Là Con Thiên Chúa, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện được lý tưởng của Ngài cho dù có phải trải qua muôn ngàn gian truân khổ sợ. Mà chính cái lý tưởng ấy mới khiến chúng ta sống xứng đáng là người. Con người nếu chỉ biết mê ăn uống, có tiền bạc, có vật chất, sinh ra để ăn, ăn rồi đói, đói rồi phải kiếm ăn, cứ như vậy cho đến lúc chết thì chẳng khác gì hơn con vật. Đức Giêsu muốn giúp chúng ta sống hơn con vật, cho nên Ngài đã chọn kiếp là người, sống cho chúng ta thấy và sống theo để chúng ta sống xứng đáng là người. Chẳng những là người mà còn là Con Thiên Chúa như Ngài. Mà muốn được như Ngài, chúng ta phải đi theo Ngài, phải bỏ mình đi, phải vác thập giá... Nghĩa là phải cố gắng vươn lên, vươn lên cao hơn những nhu cầu vật chất xác thịt tầm thường. CG đã tiên phong sống được như thế và Ngài sẽ giúp chúng ta sống được như thế, nếu chúng ta nhớ làm theo Lời Ngài: ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ được sống đời đời".
Trên đây là hai câu trả lời tiêu biểu cho câu hỏi "Giêsu là ai ?" Còn câu trả lời của chúng ta là gì ? Nếu chúng ta trả lời như Phêrô "Thầy là Đức Kitô" thì chúng ta cũng hãy cam đảm bỏ mình và vác thập giá đi theo Thầy.
* 2. Từ bỏ chính mình
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc: "Họa mi và bông hồng đỏ". Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: "Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi". Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này ? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nỗi dằn vật bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:
- Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không ?
- Họa mi ơi ! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.
- Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ ? - Họa mi ơi ! đời cần hoa chi cho thương đau ? - Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình. - Được, nhưng phép màu cần phải có màu đỏ. - Bằng mọi giá chị ạ. - Bằng giá sinh mạng ? - Kể cả sinh mạng em. - Họa mi ơi ! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông bồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị... Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
***
Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình" (Mc.8,34). Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.
Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể "được cả" mà cũng có thể "ngã về không". Chính cái bắp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.
Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng "Từ bỏ chính mình" không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
"Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống" (Mc.8,35). Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng Tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì "Ai biết chết thì sẽ biết sống".
******
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng mang mầm ích kỷ ; thích hưởng thụ hơn là hy sinh, thích thu tích hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ.
Xin dạy chúng con biết chiến đấu mà không sợ thương tích, làm việc cực nhọc mà không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà không đòi phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng: chúng con đang thực thi thánh ý Chúa. Amen. (Ignatiô Loyola). (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
3. Hai loại đức tin
Có hai loại đức tin: Loại thứ nhất là tin theo niềm tin của ông bà, cha mẹ, thầy cô& Có thể gọi đây là đức tin thừa hưởng ; Loại thứ hai là tin vì mình đã suy nghĩ, cân nhắc rồi thấy đáng tin nên tin. Có thể gọi đây là đức tin cá nhân.
Người có đức tin thừa hưởng có được cái lợi này là không dễ bị cám dỗ làm lung lạc đức tin: cho dù gặp phải những lập luận ngược với điều anh vẫn tin thì anh cũng không nao núng, bởi vì anh được cả một truyền thống nhiều thế hệ nâng đỡ đức tin của anh. Tuy nhiên anh cũng có cái bất lợi là đức tin ấy không đủ vững để làm nền tảng cho cuộc sống của anh, và cũng không đủ mạnh để thôi thúc anh loan truyền đức tin cho người khác.
Người có đức tin cá nhân cũng có cái lợi là bởi vì đức tin ấy do chính anh nghiền ngẫm suy nghĩ mà tìm ra cho nên nó rất vững mạnh. Tuy nhiên cái bất lợi là nó khiến anh phải tiếp tục tra vấn và suy nghĩ. Có thể một lúc nào đó anh lại hồ nghi và cũng có thể anh sẽ bỏ đức tin. Bởi vì đức tin thực chất là một ơn ban miễn phí chứ không phải là kết quả tìm tòi của con người.
Người hạnh phúc nhất là người có đức tin thuộc cả hai loại: vừa do thừa hưởng từ những thế hệ trước, vừa được củng cố bởi những xác tín cá nhân.
Bởi thế, trong bài Tin Mừng này, trước hết Đức Giêsu hỏi các môn đệ: "Người ta nghĩ Thầy là ai ?" Câu hỏi nhằm kiểm tra những gì các ông thu nhận được từ người khác. Nhưng Đức Giêsu còn hỏi tiếp "Phần chúng con, chúng con nghĩ Thầy là ai ?" Câu hỏi này nhằm khuyến khích các ông suy nghĩ và có lập trường cá nhân, để đạt tới một xác tín cá nhân.
Chúng ta cám ơn Chúa vì cho chúng ta thừa hưởng đức tin từ các thế hệ cha ông. Nhưng chúng ta cũng phải cố gắng suy nghĩ và đào sâu đức tin ấy để nó trở thành một niềm xác tín cá nhân. Và luôn luôn chúng ta hãy xin Chúa gìn giữ và củng cố ơn ban đức tin của chúng ta. (Viết theo Flor McCarthy)
4. Đức tin và việc làm
Một chiếc đồng hồ bằng vàng mà không chỉ đúng giờ thì vô ích. Một cây xum xuê cành lá mà không có trái thì cũng vô ích. Một chiếc đèn cẩn đầy kim cương mà không cháy sáng được thì cũng vô ích.
Cho nên Thánh Giacôbê nói: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết".
Hoa trái của cầu nguyện là đức tin Hoa trái của đức tin là tình yêu Hoa trái của tình yêu là phục vụ Và hoa trái của phục vụ là bình an. (Viết theo Flor McCarthy)
5. Nhận ra Đức Giêsu
Nhận ra Đức Giêsu là Kitô
Trước khi Đức Giêsu đặt câu hỏi: "Anh em bảo Thầy là ai ?", Ngài đã từng làm nhiều dấu lạ trước mặt các môn đệ. Tại Galilê, Ngài đã hai lần làm cho bánh hoá nhiều để nuôi đám đông dân chúng (Mc 6,30-44 ; 8,1-10). Ngài đã từng đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (6,45-52). Ngài cũng đã trừ quỷ cho một bé gái (7,24-30), chữa một người câm điếc (7,31-37), và một người mù (8,22-26). Tất cả những việc Ngài làm và những lời Ngài dậy đã từ từ vén mở cho họ thấy Ngài là ai, mặc dù họ thường bị Ngài chê là đần độn và chậm hiểu (7,18 ; 8,17.21). Đức Giêsu không trực tiếp nói cho các môn đệ biết căn tính của mình. Ngài dẫn họ đi trên con đường để họ tự khám phá ra Ngài. Xê-da-rê Phi-lip-phê là nơi mà Đức Giêsu thấy có thể đặt cho các môn đệ câu hỏi quan trọng này: "Anh em bảo Thầy là ai ?" Người ngoài chỉ có một cái nhìn mơ hồ và thiếu sót về Đức Giêsu. Họ coi Ngài là Gioan Tẩy Giả, là ngôn sứ Êlia hay một ngôn sứ nào đó. Đức Giêsu chờ đợi một câu trả lời rõ ràng và đầy đủ hơn từ phía các môn đệ thân tín. Phêrô, đại diện cho cả nhóm, nói lên niềm xác tín của mình: "Thầy là Đức Kitô." Phêrô đã nói đúng, nhưng hình ảnh của Phêrô về Đức Kitô vẫn không khác với quan niệm thông thường của đám đông dân chúng: một Đức Kitô oai phong lẫm liệt, không hề biết đến thất bại. Đức Kitô đó không phải là Đức Kitô Giêsu.
Đức Kitô: Con Người chịu đau khổ
Dù sao nhờ câu tuyên xưng của Phêrô mà Đức Giêsu bắt đầu nói đến cuộc khổ nạn của Ngài và nói một cách không úp mở. Đây là điều mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức trình bày. Ngài không dùng dụ ngôn nữa, nhưng nói thẳng về định mệnh đang chờ đợi mình. Có người cho rằng lời tiên báo của Đức Giêsu về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh chỉ là lời được viết dựa trên các biến cố đã xảy ra. Thật ra, Đức Giêsu đã thấy những phản ứng chống đối lời giảng dạy của Ngài, Ngài biết mình phải đương đầu với các nhà lãnh đạo Do Thái giáo, và Ngài thấy bóng dáng của cái chết đang rình rập mình. Nhưng Đức Giêsu không thối lui, dù Ngài có thể thối lui. Ngài không đi tìm cái chết, nhưng Ngài muốn tiếp tục trung tín với Cha và phục vụ loài người, dù phải trả giá bằng mạng sống. Đó là sự lựa chọn của Giêsu, lựa chọn của một người có lòng tin. Đức Giêsu tin rằng dù kẻ thù có cướp được sinh mạng của Ngài ở đời này thì Cha cũng chẳng bao giờ bỏ rơi Ngài, chẳng "để cho Ngài phải thấy sự hư nát" (Tv 16,10 bản LXX). Đức Giêsu mang tâm tình của một chứng nhân hiên ngang ra pháp trường. Cái chết là giá phải trả để trung tín về một tình yêu.
Lời tiên báo về cuộc Khổ Nạn và Tử Nạn của Đức Giêsu làm cho Phêrô choáng váng. Ông không sao hiểu được những điều khủng khiếp như vậy, bởi ông còn mải mê với một Đức Kitô vinh quang. Ông phản ứng ngay, ông kéo Đức Giêsu lại mà trách Ngài. Chẳng rõ ông đã nói gì với Ngài, nhưng chắc chắn đó là những lời can ngăn đầy tình yêu thương chân thành. Một lời can ngăn như thế thật nguy hiểm. Đức Giêsu nhận thấy đây là một cơn cám dỗ của Satan qua môn đệ Phêrô. Ngài bảo ông: "Satan, hãy lui lại sau Ta". Ngay từ khi gọi Phêrô ở ven hồ Galilê, Đức Giêsu đã cho ông thấy chỗ của ông: "Hãy đi sau Ta". Chỗ đứng của môn đệ là ở sau Thầy. Đức Giêsu muốn đưa Phêrô về đúng chỗ của ông, bởi ông muốn dẫn đường cho Ngài, muốn đi trước Ngài. "Vì anh không nghĩ những điều của Thiên Chúa, mà chỉ nghĩ những điều của loài người." Đức Giêsu thấy rõ đâu là con đường Thiên Chúa muốn mình đi, và đâu là con đường thế gian chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt trên những tính toán khôn ngoan nhân loại. "Bởi vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người." (1C 1,25)
Thân phận của người môn đệ
Những câu cuối cùng của đoạn Tin Mừng trên đây nhắm vào cả dân chúng lẫn môn đệ. Nói cách khác, nhắm đến mọi Kitô hữu, không phân biệt bậc sống. "Nếu ai muốn đi sau Ta". Đi sau Đức Giêsu là mẫu số chung của mọi Kitô hữu. Từ Đức Giáo Hoàng đến các giáo dân, tất cả đều là môn đệ đi sau Thầy Giêsu, với một lòng tự nguyện. Bất cứ ai muốn thì đều được mời gọi đi theo, mà theo là phải từ bỏ. Các môn đệ đầu tiên đã bỏ chài lưới, bỏ cả thân phụ cùng những người làm công để theo Đức Giêsu. Còn bây giờ, điều Đức Giêsu đòi hỏi thì tận căn hơn nhiều. Không phải chỉ bỏ một vật nào đó, mà là từ bỏ chính mình. Từ bỏ này là gốc rễ của mọi từ bỏ khác.
Từ bỏ chính mình là không còn sống cho chính mình nữa, là vác lấy thập giá của mình mà theo Đức Giêsu. Như thế Đức Giêsu cho chúng ta một hình ảnh về người Kitô hữu. Kitô hữu là người vác thập giá mình đi sau Đức Giêsu vác thập giá. Vác thập giá là công việc dành cho chính tử tội trên đường đến nơi chịu đóng đinh. Có thể chúng ta không được phúc tử đạo, nhưng chắc chắn mỗi Kitô hữu đều được chịu cái chết thiêng liêng, chết cho chính mình để rồi sống cho Thiên Chúa. Con đường Khổ Nạn - Phục Sinh của Đức Giêsu là con đường Phêrô không thể hiểu được và cũng không chấp nhận, nhưng rồi đó cũng sẽ là con đường của ông, và của tất cả chúng ta. "Khi đã về già, anh sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho anh và lôi anh đến nơi anh không muốn." (Ga 21,18). Đức Giêsu đã vác thập giá, cái dụng cụ giết người mà cả người Do Thái lẫn Hy Lạp đều coi là nhơ nhuốc. Thập giá của Đức Giêsu là do Ngài gánh lấy tội lỗi của nhân loại. Còn thập giá của chúng ta là do chúng ta lãnh lấy sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu và muốn làm chứng cho Ngài. Chúng ta chấp nhận liều mất mạng sống mình vì Đức Kitô và vì Tin Mừng (c.35).
Từ bỏ chính mình là điều kiện tiên quyết, nếu không thì việc gánh vác sứ mạng của Đức Giêsu sẽ chỉ là một ảo tưởng chẳng đi tới đâu. Ngay cả người đã theo Chúa cũng bị cám dỗ vì chính lòng tận tụy trung tín của mình. Điều này đã xảy ra nơi các môn đệ. Sau khi họ đã bỏ cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tài sản& để theo Chúa, họ chợt thấy mình trở nên quan trọng. Cái tôi có nguy cơ lớn lên song song với lòng quảng đại hiến thân của họ. Nhóm Mười Hai bắt đầu tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong Nhóm (Mc 9,33). Vậy trở ngại đầu tiên và cuối cùng vẫn là cái tôi. Từ bỏ cái tôi là nỗ lực liên tục của mọi Kitô hữu, dù là tu sĩ hay giáo dân, già hay trẻ, trí thức hay ít học.
Thanh tẩy tội lỗi của mình nhờ ơn Chúa giúp, là điều không khó lắm. Nhưng thật là khó khi phải thanh tẩy mình khỏi những nhân đức và biết bao công trạng mình đã lập được. Với ơn Chúa, chúng ta có thể làm được điều khó khăn này. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu Kitô đã cứu độ mọi người bằng đi qua đường thập giá để đem họ vào vinh quang Nước Trời ; đó cũng là đường mà mọi người phải đi qua để có thể vào Nước Trời. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
1. Xin cho các vị chủ chăn và mọi con chiên trong Hội thánh không lùi bước trước khó khăn gian khổ / nhưng luôn trung thành bước đi theo Đức Giêsu trên đường thập giá.
2. Xin cho các nhà cầm quyền và dân chúng trong các nước chậm tiến, kém phát triển / biết sẵn sàng chấp nhận mọi gian nan thử thách / để xây dựng đất nước theo công lý và hòa bình.
3. Xin cho mọi người đang gặp khổ nạn / biết liên kết với cuộc khổ nạn của Đức Giêsu Kitô / để tìm thấy ý nghĩa và niềm hy vọng cho cuộc sống.
4. Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta là môn đệ Chúa / biết trung thành đi theo Chúa / và sẵn sàng liều mạng sống vì Chúa và vì Tin mừng của Người.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, xin cho Lời Chúa và Thánh Thể Chúa bồi dưỡng chúng con, để chúng con luôn sẵn sàng chia sẻ với cuộc khổ nạn của Chúa, và cũng được chia sẻ vinh quang thiên quốc với Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Thánh Kinh nói "Chúa luôn gần gũi những tấm lòng tan nát khiêm cung". Mỗi người chúng ta đều mang cõi lòng tan nát vì bao nỗi khổ đau. Chúng ta hãy dâng hết lên Chúa cùng với Lời kinh Lạy Cha.
- Trước lúc rước lễ: Đức Giêsu mà chúng ta sắp rước vào lòng chính là Con Chiên Thiên Chúa gánh lấy mọi đau khổ và mọi tội lỗi của loài người.
VII. GIẢI TÁN
Thánh lễ đã xong. Khi về nhà, anh chị em hãy ghi nhớ Lời Chúa dạy hôm nay: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác Thập giá mình mà theo".
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN NĂM B (17.09.2006) I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Đoạn Phúc âm Phụng Vụ đọc hôm nay thường được gọi là đoạn văn “bản lề” của Phúc Âm theo TN 24-B17
Đoạn Phúc âm Phụng Vụ đọc hôm nay thường được gọi là đoạn văn “bản lề” của Phúc Âm theo Thánh Mác-cô, vì cùng một lúc là đoạn kết của phần 1 và là đoạn mở đầu của phần 2. Phúc Âm này được các nhà chú giải gọi là Sách Giáo Lý Khai Tâm Ki-tô giáo, vì trình bày điều cốt yếu nhất trong đời sống của người Ki-tô hữu: Đức Giê-su là Ai? (phần 1) và muốn đi theo Người thì các Ki-tô hữu phải đi con đường nào? (phần 2)
Vậy chúng ta hãy dành tâm trí và thời gian cho việc lắng nghe và tìm hiểu sứ điệp Lời Chúa để sống xứng danh là Ki-tô hữu (1).
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: Is 50,5-9a: Tôi đã đưa lưng người ta đánh đòn
5 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. 6 Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. 7 Có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. 8 Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên. Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi! 9 Này, có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?
(2) Bài đọc 2: Gc 2,14-18: Đức tin không việc l àm là Đức Tin chết.
14 Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? 15 Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, 16 mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? 17 Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. 18 Đàng khác, có người sẽ bảo: "Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin
(3) Bài Tin Mừng: Mc 8,27-35: Thày là Đấng Ki-tô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều (Mt 16, 13 -28; Lc 9,18 -27).
27 Khi ấy, Đức Giê-su và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai? " 28 Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó." 29 Người lại hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? " Ông Phê-rô trả lời: "Thầy là Đấng Ki-tô." 30 Đức Giê-su liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người. 31 Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. 32 Người nói rõ điều đó, không úp mở. Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. 33 Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phê-rô: "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." 34 Rồi Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 35 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1: Is 50,5-9a: là những lời mô tả của ngôn sứ Isaia về Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa mà các nhà chú giải Thánh Kinh đều hiểu là chính Đức Giê-su Na-da-rét. Đó là những lời tiên tri loan báo trước những việc xẩy ra cho người Tôi Tớ của Thiên Chúa trong cuộc Khổ Nạn Thập Giá. So sánh lời mô tả của Isaia với những trang tường thuật về cuộc Thương Khó của Đức Giê-su trong cả 4 Phúc Am, chúng ta thấy y trang như nhau.
(2) Bài đọc 2: Gc 2,14-18: là những lý luận đầy sức thuyết phục của Thánh Gia-cô-bê Tông đồ về tầm quan trọng của hành động đối với những người có lòng tin. Tin mà không có hành động chứng minh, tin mà không có việc làm cụ thể thể hiện niềm tin ấy, thì chẳng đem lại ích lợi gì cho chính bản thân kẻ tin cũng như cho tha nhân sống xung quanh. Vậy thì lòng tin phải được thể hiện cách cụ thể bằng việc làm thì mới được coi là lòng tin đích thực và mới sinh ích cho cuộc đời.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 8,27-35: là tường thuật của Thánh Mác-cô về một biến cố mang tính quyết định trong cuộc đời của các môn đệ -thời xưa cũng như thời nay của Chúa Giê-su. Chúa Giê-su đặt ra hai câu hỏi: “Người ta nói Thầy là ai” và “Anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Câu hỏi thứ nhất chỉ là phần dẫn nhập vào câu hỏi thứ hai, vì điều quan trọng đối với nhóm Mười Hai cũng như đối với các Ki-tô hữu mọi thời đại, là nhận thức về Chúa Giê-su là Đấng nào? Người sống và chết ra sao? Người mời gọi các môn đệ đi con đường nào để theo Người?
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay có hai phần quan trọng ngang nhau và liên kết chặt chẽ với nhau:
* Phần thứ nhất là về chính Chúa Giê-su:
- Chúa Giê-su là Ai?
- Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô tức là Đấng được Thiên Chúa xức dầu (tấn phong) và gửi đến với nhân loại, là Đấng Mê-si-a mà Ít-ra-en (và thế giới) hằng mong đợi, là “Con Người" phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại.
* Phần thứ hai là về con đường theo Chúa Giê-su:
- Theo Chúa Giê-su bằng con đường nào?
- Theo Chúa Giê-su bằng con đường từ bỏ: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Sống sứ điệp Lời Chúa hôm chính cũng chính là sống ơn gọi làm môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô:
* Với tôi/gia đình/cộng đoàn tôi, Chúa Giê-su Ki-tô là Ai? Người có là Con Thiên Chúa hằng sống, là Đấng được Chúa Cha xức dầu và sai đến để cứu nhân nhân loại bằng Khổ Nạn Thập Giá và Phục Sinh không?
* Tôi/gia đình/cộng đoàn tôi chọn con đường nào để theo Chúa Giê-su Ki-tô, để làm môn đệ Người? Có phải là con đường hy sinh, từ bỏ, vác thập giá hay là con đường thênh thang, nhàn hạ?
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa và là Sư Phụ của con, hôm nay Chúa cũng hỏi con: “Còn anh (chị), anh (chị) bảo Thầy là ai?” và con phải thú nhận rằng con cũng ấp úng và xấu hổ không biết phải trả lời Chúa và Sư Phụ thế nào.
Con có thể trả lời theo sách giáo lý rằng: Chúa là Con Một và là Ngôi Hai Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa đã đến trần gian để cứu chuộc nhân loại v.v…
Nhưng câu trả lời mà Chúa thật sự chờ đợi ở con là:
* Chúa là Ai với riêng con, * Chúa quan trọng như thế nào với riêng con? * Con sống với Chúa như thế nào từ sáng đến tối, từ tối đến sáng hôm sau? * Con nghe theo ai, tìm kiếm ai trong cuộc sống? * Con đi con đường nào để bước theo Chúa? Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, xin Chúa giúp con trả lời được các câu hỏi trên một cách thành thực mà vui lòng Chúa. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Boston (MA/USA) ngày 8 tháng 9 năm 2006
---------- Ghi chú:
(1) Nếu quí vị nào muốn hiểu sâu hơn về Tin Mừng theo Thánh Mác-cô xin mời đọc ‘Các Anh hãy theo tôi” hay “Ơn gọi làm môn đệ Chúa Giê-su” trong đề mục Thăng Tiến Giáo Dân của chungnhanduckito.net; hay “Tiều luận về Tìn Mừng theo Thánh Mác-cô” của Nguyễn Văn Nội trong đề mục Phòng Tâm Linh của dunglac.net.
Như chúng ta đã biết: qua lời giảng dạy, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình, Chúa: TN 24-B18
Như chúng ta đã biết: qua lời giảng dạy, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã trở thành một vấn đề, một câu hỏi cho những kẻ còn nghi ngờ về Ngài. Vậy Ngài là ai? Kẻ thì bảo Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy giả, là một tiên tri. Mỗi người một câu trả lời. Nhưng điều quan trọng chính là niềm xác tín vào Chúa của mỗi người chúng ta, bởi vì chính Chúa đã hỏi các môn đệ:
- Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Câu hỏi ấy Chúa cũng không ngừng đặt ra cho chúng ta ngày hôm nay và qua chúng ta, mọi người cũng sẽ tiếp tục tự hỏi:
- Kitô hữu, bạn là ai?
Đúng thế, người Kitô hữu qua lời nói, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình phải là một câu hỏi cho những người chung quanh. Dù âm thầm nhỏ bé đến đâu chăng nữa, thì đời sống của người Kitô hữu phải làm cho những người chung quanh thắc mắc.
Dĩ nhiên câu hỏi càng trở nên khẩn thiết hơn khi cuộc sống của người Kitô hữu mang tính cách chứng nhân giữa một xã hội đầy giành giật và bon chen, đầy bạo lực và bất công. Đời sống của họ sẽ là một câu hỏi nếu như họ thực thi tinh thần nghèo khó, chấp nhận thua thiệt mất mát hơn là bán đứng lương tâm của mình để chạy theo những lợi lộc bất chính.
Có những kẻ đã lấy hận thù làm luật sống, thì người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi, nếu như họ vẫn yêu thương mọi người, kể cả kẻ thù địch và bước theo Chúa cho đến cùng.
Giữa một xã hội mà nhiều người đang buông xuôi thất vọng, người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi nếu họ biết sống lạc quan, tin tưởng vào một Đấng có tình yêu thương trải dài trong suốt lịch sử con người.
Giữa một xã hội mà sự thành thật đã trở nên như một đồ dùng xa xỉ, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi nếu họ vẫn tiếp tục sống tử tế, cư xủ tốt đẹp với mọi người.
Sống như thế quả là một đòi hỏi cam go, nhưng đó không chỉ là một cố gắng suông, mà còn là kết quả của việc chúng ta gắn bó mật thiết với Chúa. Bởi vì không có ơn Ngài trợ giúp, chúng ta sẽ không bao giờ thực hiện được như vậy.
Kết thúc thông điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới”, Đức Thánh Cha Gioan 23, đã viết như sau:
- Mỗi người Kitô hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, một tụ điểm của tình yêu, một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Người Kitô hữu sẽ đóng trọn vai trò ấy hơn khi họ còn sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Sống trọn vẹn những cam kết trên, thì quả thật người Kitô hữu là một thách thức, một câu hỏi đối với người khác…
Đúng thế, người Kitô hữu không sống cho mình, nhưng sống cho người khác.
Một mảnh sao băng chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó.
Một hạt men nhỏ bé vô danh mất hút trong đống bột, nhưng cũng đủ làm dạy cả khối bột.
Sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo nên những ấn tượng tốt nơi người khác, nếu như chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Chúa.
Lý tưởng là như vậy, còn trong thực tế thì sao? Liệu cuộc sống của chúng ta đã trở thành một câu hỏi, một vấn đề cho những người chung quanh phải băn khoăn và suy nghĩ hay chưa?
Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc: TN 24-B19 FB
Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng rằng trái đất đứng yên và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa học tiến bộ đã minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay chung quanh mình và chung quanh mặt trời.
Trong đời sống đạo cũng đã có những hiểu lầm như thế. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện đến. Không ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải uy quyền lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do Thái lên địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế là một ông vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ.
Có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, người ta cũng sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được chức cao quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giêbêđê mới xin Chúa cho 2 người con là Gioan và Giacôbê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng, được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai trong anh em muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em”. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công. Được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo”.
Hôm nay, sau khi nghe các môn đệ báo cáo về dư luận quần chúng, Đức Giêsu thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò Cứu thế của Người, về con đường cứu chuộc. Nên Người đã dậy rõ ràng cho các môn đệ biết Đấng Cứu thế thực là Con Thiên Chúa. Nhưng con đường Người đi là con đường thập giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải chịu chết.
Người cũng cho các môn đệ biết ai muốn theo Người cũng sẽ phải đi vào con đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người.
Phải chăng Thiên Chúa muốn hành hạ con người, muốn con người tàn lụi chứ không muốn con người phát triển, muốn con người phải chịu đau khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc? Tại sao trên trần gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc sung sướng mà Chúa thì làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và đau khổ ?
Thưa, chắc chắn Chúa muốn cho con người được hạnh phúc. Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua. Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Những vất vả đau đớn không phải là vì Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những đau đớn từ bỏ mình không phải là vì Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật, là điều kiện để được sự sống, được hạnh phúc đích thật.
Chính Đức Giêsu cũng phải đi qua con đường thập giá khổ nhục mới đến hạnh phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết đau đớn mới tới ngày phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Thành ra, đau khổ Chúa hứa không phải để hành hạ con người, nhưng là con đường dẫn con người đến hạnh phúc đích thực. Thập giá và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người được tái sinh và triển nở trong đời sống mới, đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.
Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe và khó chấp nhận. Nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu. Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta phải dũng mạnh, can đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành lấy hạnh phúc nước trời.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà bước theo Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đâu là những hiểu sai lầm về Chúa? 2) Đâu là những hiểu sai lầm về người môn đệ của Chúa? 3) Có phải Chúa muốn ta khổ sở khi bảo ta phải từ bỏ mình không? 4) Tại sao Chúa phải chịu đau khổ?
Nhóm 12, tức là các tông đồ, sau một thời gian dài được ở bên Chúa, được nghe những lời Chúa: TN 24-B20
Nhóm 12, tức là các tông đồ, sau một thời gian dài được ở bên Chúa, được nghe những lời Chúa giảng dạy, và được chứng kiến những việc Chúa làm, nay đến Chúa muốn các ông phải dứt khoát lập trường, phải bày tỏ lòng tin của các ông. Nhưng đây cũng là khúc quanh quan trọng: Chúa bắt đầu tỏ ra cho các môn đệ biết con đường đau khổ Ngài phải đi để hoàn thành sứ mạng. Bởi vậy việc ông Phêrô tuyên xưng lòng tin và việc Chúa Giêsu báo trước con đường đau khổ của Ngài là một biến cố bản lề trong quá trình thi hành sứ mạng của Chúa cũng như trong quá trình huấn luyện các môn đệ, vì khi nói về con đường đau khổ của Ngài thì Chúa cũng nói về con đường mà những ai tin Ngài phải đi. Đó là nội dung bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ba điều rõ ràng: Thứ nhất, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: dân chúng nói Ngài là ai và chính các ông nói Ngài là ai? Thứ hai, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết về con đường đau khổ của Ngài. Thứ ba, Chúa Giêsu cho biết đây cũng là con đường của các môn đệ và của mọi người khi đi theo Ngài. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu điều thứ nhất mà thôi.
Dân chúng nói Chúa Giêsu là ai và các môn đệ nói Chúa Giêsu là ai? Từ hai câu hỏi của Chúa chúng ta có thể đặt ra hai câu hỏi cho chúng ta: chúng ta tự hỏi và tự trả lời: đối với tôi, Đức Kitô là ai? và đối với mọi người, tôi là ai? Trước hết, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Đây là một câu hỏi quan trọng, câu hỏi này dẫn chúng ta vào việc kiểm điểm niềm tin và cách sống của mình: có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường sống không? Nếu tin như thế thì cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp, hay chúng ta vẫn tin một đàng, sống một nẻo, xem ra niềm tin và cuộc sống là hai thực thể tách rời nhau, không ăn nhập gì với nhau.
Có thể nói, đối với một số không nhỏ người Công giáo, thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung, mờ nhạt thuộc niềm tin. Vì thế, trả lời được câu hỏi: đối với tôi, Đức Kitô là ai? Không phải chỉ là chuyện kiến thức, sách vở, lặp lại những gì đã đọc được trong sách báo hay nghe được qua các bài giảng, nhưng trả lời được câu hỏi ấy chính là chuyện của cuộc sống, của chọn lựa cá nhân thâm tín và dấn thân.
Chúng ta hãy nhìn vào ông Nây Am-troong, ông là một phi hành gia đầu tiên của Mỹ đã đặt chân lên mặt trăng ngày 20.7.1969. Khi còn là một sinh viên, ông đã ghi trong cuốn sổ tay câu hỏi của Chúa Giêsu: “Anh em bảo Thầy là ai ?” và ông đã trả lời: “Ngài là người không hề phạm tội, là người vị tha, là người biết quan tâm săn sóc kẻ khác, là người gần gũi Thiên Chúa”. Như vậy, ông Am-troong đã không trả lời theo thần học hay giáo lý cho câu hỏi “Anh em bảo Thầy là ai ?”, nhưng ông đã đưa ra câu trả lời của riêng mình, ông đã nhìn sâu vào tâm hồn mình và nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong cuộc sống riêng tư của ông.
Mỗi người chúng ta cũng phải làm giống như ông Am-troong, chúng ta cũng phải nhìn sâu trong tâm hồn mình để nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong chính cuộc sống của mình, và cảm nghiệm này mang tính riêng tư không ai giống ai. Vậy, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Nói chính xác hơn, mỗi người chúng ta hãy hỏi: “Hôm nay, đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi ?”. Phải thêm hai chữ “hôm nay” và chữ “rồi” vào câu hỏi, bởi vì “hôm nay” chứ không phải hôm qua hay hôm nào khác, và chữ “rồi” cũng thật quan trọng, bởi vì có thể trong quá khứ, chúng ta đã gặp Ngài, đã yêu Ngài hết mình, nhưng rồi hôm nay, Ngài thì không thay đổi, nhưng tình chúng ta yêu Ngài có đổi thay chăng? Thế nên, mỗi ngày chúng ta phải tự hỏi để đừng bao giờ Đức Kitô trở thành kỷ niệm, chỉ còn là một niềm tin trong quá khứ, để đừng bao giờ bỏ Ngài lủi thủi bước bên cạnh đời chúng ta.
Câu hỏi thứ hai, đối với mọi người, tôi là ai? trong những dòng cuối của sứ điệp “Hòa bình dưới thế”, Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo Hoàng nhân từ, dễ thương, đã đưa ra cho chúng ta một định nghĩa: thế nào là một người Kitô hữu chân chính như sau: “Mỗi người tín hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Nếu người tín hữu đóng trọn vai trò ấy, họ sẽ là người Kitô hữu chân chính”.
Sống trọn những cam kết trên quả thật người Kitô hữu luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy đối với mọi người. Thực vậy, một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt men bé nhỏ, mất hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy nên cả khối bột. Một thể hiện yêu thương, dù nhẹ nhàng đơn giản cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức chinh phục hay cảm hóa bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều kiện họ phải sống đúng danh nghĩa người Kitô. Và như thế, qua cuộc sống của mình, sự hiện diện của chúng ta cũng luôn là một câu hỏi cho những người chung quanh, nghĩa là nhìn vào đời sống chúng ta, họ bảo chúng ta là ai ?
Tóm lại, người ta có nhận ra tôi là người Kitô không? Nghĩa là sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ bất cứ ai, người ta có nhận ra chúng ta là người Kitô không? Không phải chúng ta tự xưng, tự giới thiệu mà cách sống của chúng ta khiến người khác phải đặt câu hỏi hoặc phải cảm phục đời sống tốt đẹp của chúng ta. Và như thế chúng ta đã trả lời được câu hỏi: đối với mọi người, tôi là ai? Tôi là một người Kitô hữu, đơn giản thế thôi.
Đọc toàn bộ Tin Mừng thứ hai, chúng ta thấy tác giả Mác-cô muốn minh chứng Đức Giê-su: TN 24-B21
Đọc toàn bộ Tin Mừng thứ hai, chúng ta thấy tác giả Mác-cô muốn minh chứng Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa, là Đấng Mê-si-a – Đấng Cứu Độ trần gian. Nhưng để có niềm xác tín và lời giải đáp thoả đáng ấy, trong Tin Mừng Mác-cô, ta thấy vang lên một câu hỏi với đầy vẻ kinh ngạc của đám đông dân chúng: “Người này là ai ?” ( Mc 4, 41; 1, 27; 2, 7; 6, 2 )
Với cái nhìn tổng quát nhưng không kém phần quan trọng ấy, cùng với nội dung và văn mạch của đoạn Tin Mừng vừa đọc, xin được chia sẻ với cộng đoàn ba ý sau đây:
Lời tuyên xưng đức tin của ông Phê-rô ( Mc 8, 27 – 30 )
Mác-cô kể rằng, Đức Giê-su cùng các môn đệ bỏ Ga-li-lê ( Mc 7, 24 ) – nơi mà về sau các Ngài chỉ ghé lại một lần ( Mc 9, 30 – 33 ) – để tiến về Giê-ru-sa-lem là trọng tâm sứ vụ và công cuộc cứu độ của Đức Giê-su. Lúc này, Người dẫn các môn đệ đi tới vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê, vào các làng dân ngoại, đến gần chân núi Hermon, nơi có nguồn nước chảy vào sông Gio-đan. Vùng đất này, vua Phi-líp đã cho xây một thành để tặng Hoàng đế Xê-da-rê Au-gus-tô. Do vậy, nên có tên là thành Xê-da-rê Phi-líp.
Trên đường, Đức Giê-su hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai ?” Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” Dù nghe các ông trả lời như thế nhưng hình như Đức Giê-su chẳng mấy quan tâm đến các ý kiến của dân chúng về Người cho bằng Người muốn nghe chính các môn đệ xác tín Người là ai. Do vậy, Người mới hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Nghe câu hỏi ấy, Phê-rô đã nhanh nhẩu thay mặt Nhóm Mười Hai trả lời: “Thầy là Đấng Ki-tô”.
Tin Mừng Mác-cô chỉ ghi vắn gọn có thế, còn trong Tin Mừng Mát-thêu lại ghi nhận thêm với câu nói của Đức Giê-su hàm ý Phê-rô là tảng đá nền của Hội Thánh mà quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Và Người còn trao cho ông chìa khóa Nước Trời với quyền cầm buộc và tháo cởi: Dưới đất, ông cầm buộc và tháo cởi điều gì thì trên trời cũng cầm buộc và tháo cởi như vậy.
Theo ngôn ngữ Do Thái và A-ram thì “Đấng Ki-tô” có nghĩa là “Đấng được xức dầu”. Trong Cựu-Ước, cụm từ này dùng để chỉ về các vua, các tư tế và ngôn sứ; dần dần để chỉ về Đấng được xức dầu đến phục hồi uy quyền quốc gia như vua Đa-vít. Nhưng sau vua Đa-vít, các vua khác hầu hết đều bất xứng khiến đất nước Do Thái nhiều phen rơi vào cảnh điêu linh, tăm tối. Thế nên, khi Đức Giê-su đến với uy lực, quyền năng và sự thánh thiện thì người Do Thái đã thắc mắc ( Ga 4, 29; 7, 40; Mt 12, 23 ); họ thúc giục Người tuyên bố rõ ràng ( Ga 10, 24 ). Họ cũng mong Người trở thành Đấng Ki-tô theo quan niệm trần thế của họ: Một vị quân vương điều binh khiển tướng đánh đuổi người Rô-ma, khôi phục lại đất nước.
Phê-rô được Chúa Cha soi sáng, nhận ra đúng thần tính của Đức Giê-su nên mới tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô”. Dù vậy, trong lời tuyên xưng của ông, nội dung vẫn còn mang viễn ảnh vương quyền thế gian như người Do Thái mong đợi ( Ga 6, 15 ). Có lẽ vì thế mà Đức Giê-su cấm ngặt các môn đệ không được nói với ai về Người. Chỉ sau khi Người chịu Thương Khó và Phục Sinh, các môn đệ mới hiểu đúng về Thầy mình.
Lời loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh lần thứ nhất ( Mc 8, 31 – 33 )
Chúng ta nghe tác giả Mác-cô kể tiếp: “Người bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các Kỳ Mục, Thượng Tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại. Người nói rõ điều đó không úp mở.”
Quả thực, Đức Giê-su đúng là Đấng Mê-si-a như Phê-rô và các môn đệ đã tuyên xưng. Nhưng Người là Đấng Mê-si-a hết sức nghịch lý ngoài sức tưởng tượng của các ông và của đám đông dân chúng. Nghịch lý ở chỗ Người là Con Thiên Chúa, có uy quyền tuyệt đối như Chúa Cha, nhưng vì vâng phục Chúa Cha, Người phải đến trần gian để chấp nhận nỗi khổ đau tận cùng và cái chết thảm khốc nhất trên bình diện nhân loại: Cái chết thập giá – chứ không phải là vinh quang tột đỉnh của một vị vua theo kiểu thế gian.
Điều đáng lưu ý là những đau khổ và cái chết của Người lại do giới lãnh đạo Do Thái đang nắm giữ quyền bính và đặc quyền lúc bấy giờ gây ra: Đó là các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư. Họ quyết tâm loại trừ Người cho bằng được bằng cách bắt và giao nộp Người cho nhà cầm quyền Rô-ma xử án chết.
Giáo huấn của Đức Giê-su dành cho những ai muốn làm môn đệ Người ( Mc 8, 34 – 35 )
Sau khi Đức Giê-su quở trách Phê-rô và gọi ông là Xa-tan vì đã cản trở Người thực hiện công trình cứu độ nhân loại theo thánh ý của Chúa Cha thì Đức Giê-su gọi đám đông dân chúng và các môn đệ lại mà giáo huấn họ như sau: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” ( Mc 8, 34 – 35 ).
Từ bỏ chính mình theo Chúa quả là điều kiện phải có trước tiên đầy cam go đối với người Ki-tô hữu. Tuy nhiên đây không phải là điều vượt quá khả năng con người. Trái lại còn là cơ hội để con người bày tỏ mối tương quan thâm tình được gọi Thiên Chúa là “Abba – Cha ơi !”
Chúng ta tìm hiểu thêm cụm từ “mạng sống”. Ở đây, “mạng sống” có hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất là mạng sống thân xác vật chất hữu hạn mau hư nát. Nghĩa thứ hai là mạng sống linh hồn bất tử với niềm hạnh phúc vô biên vĩnh hằng. Ai sáng suốt thì hy sinh mạng sống thân xác hữu hạn mau hư nát để chọn sự sống linh hồn bất tử ( dĩ nhiên cùng với thân xác đã được biến đổi sau khi được Thiên Chúa cho sống lại trong ngày sau hết ).
Tóm lại, là Ki-tô hữu, chúng ta đã tháp nhập vào thân mình mầu nhiệm của Đức Giê-su nhờ Bí Tích Rửa Tội. Mà Đức Giê-su chỉ được tôn vinh khi Người phục sinh vì Người đã bằng lòng bước qua cuộc Thương Khó và chịu chết trên thập giá theo đúng chương trình của Chúa Cha. Do vậy, bất cứ ai là “Ki-tô hữu”, đều phải sống cái nghịch lý nơi bản thân Đức Giê-su, một nghịch lý Ki-tô giáo. Đó là muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn chấp nhận mất mạng sống mình vì Đức Giê-su thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Amen.
Thế giới chúng ta đang sống có nhiều người đã biết Đức Giê-su bằng cách nào đó nhưng ngay chính trong cuộc sống, họ đã loại trừ Người. Ngược lại, cũng đã có biết bao người chẳng cần biết Đức Giê-su là ai, nếu có cơ may để biết, họ cũng chẳng tin. Còn với tôi, Đức Giê-su là ai ? Tôi có xác tín Người là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của tôi không ? Thái độ sống hằng ngày của tôi có phù hợp với Tin Mừng và Giáo Hội của Người không ?
Để hoàn thành chương trình cứu độ nhân loại, Đức Giê-su đã đồng thân đồng phận sống kiếp người như chúng ta chỉ trừ tội lỗi. Người chấp nhận từ bỏ tất cả: ý muốn riêng tư ( Mc 8, 33 ), thành quả công việc, sự ủng hộ và dư luận tốt đẹp của quần chúng ( Mc 8, 28 – 29 ), thậm chí ngay cả mạng sống của bản thân cũng từ bỏ ( Mc 8, 31 ). Còn tôi, khi quyết định đi theo Đức Giê-su để được sự sống đời đời, tôi đã từ bỏ những gì ? Và tôi có vui lòng chấp nhận vác thập giá Chúa trao với lòng yêu mến, tin tưởng, cậy trông, phó thác vào Người không ?
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã đến chịu thương khó, chịu chết trên thập giá vì tội lỗi chúng con để cho chúng con được sống. Xin Chúa tha thứ những lần chúng con đóng thêm đinh nhọn vào mình Chúa bằng tội lỗi chúng con. Xin tha thứ những lần chúng con phàn nàn kêu trách Chúa vì thập giá chúng con phải mang vác. Xin tha thứ những lần chúng con không an ủi, nâng đỡ những người kiệt sức vì thập giá họ phải gánh chịu.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa là sức mạnh và là nguồn hy vọng của chúng con. Xin nâng đỡ chúng con khi chúng con phải mang vác thập giá về bệnh tật, đau khổ phần xác; khi chúng con phải mang vác thập giá của sự lo âu, bối rối; khi chúng con phải mang vác thập giá của cảnh cô đơn, thất vọng; khi chúng con mang vác thập giá của sự hiểu lầm, nghi kỵ; khi chúng con phải mang vác thập giá của cảnh ghen ghét, hận thù; khi chúng con phải mang vác thập giá của cảnh gia đình chia ly, phân tán và đổ vỡ; khi chúng con phải đối mặt với văn hóa sự chết cùng đạo quân xa-tan và bè lũ theo chúng hằng tìm cách đẩy chúng con vào chốn hư mất sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giê-su, xin ban ơn nhẫn nại và lòng can đảm để chúng con biết chấp nhận thập giá trong cuộc sống mỗi ngày. Xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan để chúng con tìm ra ý nghĩa và mục đích của việc mang vác thập giá. Xin đổ tràn đầy tình yêu vào tâm hồn chúng con để chúng con có thể biến đổi thập giá là dụng cụ của hình phạt tội lỗi thành dụng cụ toàn thắng tội lỗi, sự chết và đem lại Ơn Cứu Độ muôn đời cho chúng con.
Chúng ta họp nhau trong ngày Chúa Nhật nầy phải chăng là để cùng nhau ôn lại bài học đức tin: TN 24-B22
Chúng ta họp nhau trong ngày Chúa Nhật nầy phải chăng là để cùng nhau ôn lại bài học đức tin, hay đúng hơn, để một lần nữa trả lời lại câu hỏi của chính Chúa Giêsu: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”.
Cho dù đã có sẵn câu trả lời đúng phóc 100% của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô”, thì một niềm tin đích thực, một câu trả lời đúng nghĩa của người môn đệ Đức Kitô hôm nay, dĩ nhiên không phải là chuyện cứ lặp lại thuộc lòng câu trả lời của Thánh Phêrô như một điệp khúc, như một công thức, một tín điều… là đủ, mà đằng sau câu trả lời đó là cả một cuộc dấn thân phục vụ Tin Mừng đầy nhiêu khê và anh hùng, một cuộc lên đường làm chứng cho Chúa Kitô trong đắng cay và thập giá. Và đó chính là sứ điệp phụng vụ được đề nghị cho cộng đoàn và cho mỗi người chúng ta hôm nay.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng đáng cử hành …
Giảng Lời Chúa:
Thế giới trong năm vừa qua, đặc biệt trong lãnh vực văn học và điện ảnh, đã sôi động hẳn lên với cuốn tiểu thuyết trinh thám dã tưởng cùng với bộ phim mang tên “Mật Mã Da Vinci” của nhà văn Dan Brown. Sự kiện văn học và nghệ thuật thứ bảy nầy đã thu hút sự quan tâm của cả thế giới, đặc biệt thế giới Kitô giáo, một thế giới mà có thể nói được, là chính đối tượng để cuốn tiểu thuyết của Dan Brown kết án và phủ nhận cách trơ trẻn, với đầy luận cứ lịch sử và khoa học ngụy biện. Đây không phải là lần đầu tiên Chúa Giêsu trở thành đối tượng cho sự báng bổ và xúc phạm. Mấy chục năm về trước, Ngài đã từng bị lột trần xúc phạm như một kẻ phàm phu tục tử trong tác phẩm tiểu thuyết “Cơn cám dỗ cuối cùng” của Nikos Kazant-zakis…Thì ra, Giêsu Na-da-rét, sau 2000 năm, vẫn còn sống mãi giữa lịch sử nhân loại. Nói cách khác, Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn còn là một vấn nạn cho muôn con người, một vấn nạn mà chính Ngài đã đặt ra cho các môn sinh cách đây 2000 năm trước: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai ?”.
Đức tin của chúng ta, đức tin của người Kitô hữu, phải chăng chính là câu trả lời dứt khoát và thường xuyên cho vấn nạn đó.
1. Đức tin: một lời đáp, một câu trả lời thiết yếu:
Quả thật, trong đời sống, có những câu trả lời thật quan trọng, ảnh hưởng trên toàn bộ vận mệnh của cả một dân tộc, của cả một đời người. Chỉ một câu trả lời “không” của Nhật Hoàng trước đề nghị đầu hàng vô điều kiện của phe Đồng Minh, hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật bị tiêu hủy bởi hai quả bom nguyên tử của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Bởi một câu trả lời của con gái bà Herodia: “Con muốn đầu Gioan Tẩy Giả…”, lập tức cuộc đời của nhà đại tiên tri của cựu ước bị xóa sổ ! Trong những ngày vừa qua toàn thế giới đang như nín thở chờ đợi câu trả lời của Nhà nước I-Ran đối với Liên-Hiệp-quốc về vấn đề hạt nhân. Chỉ cần môt câu trả lời “chấp thuận ngưng lại việc làm giàu chất uranium”, ngưng lại việc nghiên cứu hạt nhân…” hàng triệu trẻ em I-ran sẽ không còn thiếu dinh dưỡng, hàng triệu người dân nghèo I-ran sẽ được no cơm ấm áo…vì hàng rào cấm vận được tháo dỡ.
Trong lãnh vực niềm tin, có thật sự câu trả lời cho vấn nạn: “Thầy là ai” là cần thiết ?
Nếu quả thật, câu trả lời cho vấn nạn đó chỉ là một cụm từ, một mệnh đề, cho dù là một cụm từ hay mệnh đề hoa mỹ, trau chuốt, nhưng không liên hệ gì đến con người, đến lịch sử nhân loại, đến vận mệnh cuộc đời, đến sự sống sự chết…thì quả thật câu trả lời đó chả cần thiết, và cũng chẳng đáng phải quan tâm.
Để hiểu tầm quan trọng của vấn nạn Chúa Giêsu đặt ra cho các môn sinh và tính quan trọng, nghiêm túc tuyệt đối cần thiết của câu trả lời của thánh Phêrô, chúng ta hãy trở về khung cảnh diễn ra câu vấn nạn và trả lời trên cách đây 2000 năm về trước:
Vùng đất Xêdarê Philipphê hoàn toàn nằm ngoài ranh giới xứ Galilê, không thuộc lãnh thổ của Hêrôđê, nhưng là đất thuộc về Philipphê. Đây là một thành phố có lịch sử ly kỳ. Từ thời xưa nó được gọi là Balias, vì nó từng là trung tâm quan trọng cho việc thờ thần Baan. Ngày nay, nó hãy còn được gọi là Banias vốn từ hình thức của Panias. Sở dĩ nó có tên Panias bởi trên một sườn đồi tại đấy có một hang đá mà người ta bảo là chỗ sinh của Pan, thần sáng tạo cõi thiên nhiên của dân Hylạp. Hơn nữa từ một hốc đá bên sườn đồi ấy lại phát xuất một dòng suối mà người ta cho rằng đó là nguồn phát sinh của sông Giođan. Cao hơn trên sườn đồi, sừng sững một đền thờ sáng chói bằng đá trắng, Philipphê đã xây để thờ thần tính của Xêda, hoàng đế Lamã, người đang trị vì thế giới thời ấy, người được xem như một vị thần. Có thể nói đựoc rằng, từ nơi đây, bầu không khí tôn giáo cổ xưa bao trùm xứ Paletin: những kỷ niệm về Baan được nhìn thấy khắp nơi. Các thần của thế giới cổ Hylạp cũng ngự trị tại đó, người ta vẫn như còn nghe tiếng sáo của thần Pan, và còn thoáng thấy các nữ thần sống trong các khu rừng. Sông Giođan chắc gợi cho người ta nhớ lại từng giai đoạn trong lịch sử dân Israel và việc chinh phục xứ ấy. Và đưới ánh sáng mặt trời từ phương Đông, đền thờ bằng đá trắng đang phản chiếu đó như nhắc nhở mọi người rằng Xêda là một vị thần.
Chính trong cái không gian đa thần và tín ngưỡng hổ lốn ấy, Chúa Giêsu đặt vấn nạn về thái độ tín ngưỡng của dân chúng và của riêng các môn sinh về chính Ngài: “Thầy là ai ?”. Làm sao một Phêrô cục mịch dốt nát, trong bối cảnh “mê tín” như thế, lại trả lời một câu như một lời tuyên tín gãy gọn, chính xác, về một anh chàng thợ mộc đến từ Na-da-rét: “Thầy là Đức Kitô”. Chúng ta chỉ hiểu được: đó chính là câu trả lời của niềm tin như chính Đức kitô nhận xét: “Nầy anh Simon con ông Gio-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16,17).
Trong một thế giới “vàng thau lãn lộn”, một thế giới đang trưng bày không biêt bao nhiêu “thần tượng” trên bệ thờ của tri thức kiêu căng và não trạng hưởng thụ: thần tiền bạc, thần quyền lực chính trị, thần dục vọng, thần sắc đẹp, thần kỷ thuật tiên tiến, thần võ khí hiện đại, thần kinh tế bá chủ, thần năng lượng, thần khủng bố…thì quả thật, câu hỏi “Thầy là ai” vẫn rất cần thiết được đặt ra cho mỗi người kitô hữu chúng ta và cho những ai còn thao thức và trăn trở đi tìm chân thiện mỹ. Và dĩ nhiên, điều quan trọng không kém chính là câu trả lời.
Thật vậy, vào chính thời điểm câu hỏi đó đặt ra, thì đối với những con người như vua Hêrôđê, như quan tổng trấn Philatô, như các bậc đại gia ăn trên ngồi trước và chức quyền đạo đời ung dung bề thế ở thủ đô Giêrusalem, với vợ đẹp con khôn, với tiền bạc và phương tiện dồi dào… thì “Thầy là ai” mặc kệ Thầy, có liên quan gì đến họ, miễn là đừng làm gì ảnh hưởng đến sự an toàn của họ, vị thế chính trị của họi, sự hưởng thụ của họ. Nếu có, coi chừng họ sẽ loại trừ Thầy như nhỗ một cái đinh.
Tuy nhiên, cũng trong thời điểm đó, câu trả lời “Thầy là ai” lại tuyệt đối quan trọng và cần thiết cho rất nhiều người: là những thân phận khố rách áo ôm, những kẻ què mù đuôi điếc, những người phong cùi, những người đỉ điếm, những kẻ bị loại trừ và cách ly vì hành nghề thu thuế…Tất cả họ là những người đang dõi mắt trông chờ ngày hiện thực của những lời sấm ngôn thuở trước về một Đấng Kitô như: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Ngài đã xức dầu tấn phong tôi để tôi đem Tin mừng cho kẻ nghèo…”. Với họ, niềm hy vọng duy nhất khi câu trả lời: “Thầy là Đức Kitô,” sẽ biến thành hiện thực. Vì nếu phải là Đấng Kitô thì: Kẻ mù mới hy vọng được sáng mắt, kẻ què mới hy vọng nhảy cửng lên như nai, kẻ phung hủi bị đọa đầy cách ly ngoài hoang mạc mới có cơ may trở về sống kiếp con người, kẻ lầm đường lạc lối như Maria-Mađalêna, Giakê, Matthêu… mới còn sinh lộ làm lại cuộc đời, và kẻ chết như con trai bà góa Naim, như Lazarô ở Bêtania mới có ngày được thấy lại mặt trời sự sống…
Và suốt 2000 năm nay, có hàng hàng lớp người nhờ câu trả lời như thế mà tìm được ý nghĩa cho cuộc đời, tìm được hạnh phúc đích thực. Và nhất là thế giới đã, đang và sẽ mãi mãi cần Ngài, Đức kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, vì:
- Thầy phải là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống để thế giới hôm nay hòa bình hơn, huynh đệ hơn khi nhờ Thầy mà nhân loại nhận ra mình là con cái Thiên Chúa và là anh em một nhà.
- Thầy phải là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống để những giá trị tinh thần được thăng hoa, để hạnh phúc các gia đình được thiết định trên nền tảng Tin Mừng, để tình yêu hôn nhân được liên kết và vững bền bằng giao ước thánh, để thiếu nhi được chăm sóc yêu thương và giáo dục, để người trẻ sống có lý tưởng và can đảm dấn thân xây dựng nền văn minh tình thương và sự sống, để những người già được yêu thương và kính trọng…
- Thầy phải là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống để người giàu biết sẻ chia, người nghèo biết khiêm nhu đón nhận, kẻ bịnh hoạn tật nguyền luôn mỉm cười hy vọng được ủi an, người tội lỗi biết mở lòng sám hối để làm lại cuộc đời…
Vâng, câu trả lời “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” không chỉ để trả lời một vấn nạn mà là một tuyên xưng niềm tin, một xác tín, một niềm hy vọng ngút ngàn, một tiếng kêu òa vỡ của hạnh phúc và niềm vui khi chợt khám phá ra “Nước Trời đang đến”, ơn cứu độ đã được trao ban, Thiên Chúa đã nhập thể và đang đồng hành cùng nhân loại. Quả thật, đằng sau câu trả lời là một trời hy vọng đã mở ra !
2. Đức tin: lời đáp trả đòi hỏi phải dấn thân lên đường
Tuy nhiên, đó lại là môt câu trả lời kèm theo một đòi hỏi phải dấn thân chọn lựa. Ở đây, chính là chọn lựa đi con đường thập giá mà Đức Kitô đã đi qua để cứu chuộc muôn người. Khước từ con đường nầy, chọn lựa này chính là sự thỏa hiệp với Satan, là chắp cánh cho sự dữ, là ngăn cản công trình của Thiên Chúa. Phêrô mới vừa được khen tặng trước đó với câu trả lời xuất thần “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”, lại bị quở trách thật nặng lời kế liền sau đó cũng chỉ vì muốn tránh né con đường và chọn lựa nầy: “Satan, lui lại đằng sau Thầy ! vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người”. Tuy nhiên, cuối cùng tại thủ đô Rôma của đế quốc La mã, Phêrô đã viết lại nguyên vẹn câu trả lời hôm xưa tại vùng Cê-sa-rê Philip bằng chính chọn lựa nghiêm túc của mình: chịu đóng đinh ngược đầu xuống đất để trung thành trọn vẹn với chính Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng mà Ngài phụng sự, yêu mến và loan báo không mệt mõi.
Cũng như Phêrô ngày xưa, hôm nay rất nhiều người trong chúng ta có thể trả lời câu hỏi đó của Chúa Giêsu một cách gọn ghẽ, ngon ơ. Tuy nhiên, cũng như Phêrô, sẽ có không ít người tránh né chọn lựa con đường thập giá, khước từ chọn lựa những đòi hỏi dấn thân anh hùng và gian khổ của Tin Mừng để uốn mình nô lệ cho những giàu sang và đam mê thế tục. Để minh họa cho ý nghĩa nầy, xin hãy nghe một người kể lại giấc mơ của mình:
Tối hôm qua, tôi mơ thấy mình đang cầu nguyện, bỗng chốc một luồng ánh sáng xuất hiện; trong ánh sáng huy hoàng đó, tôi nhận ra Chúa Giêsu đang đứng trước mặt tôi, Ngài mỉm cười nhìn tôi và nói:”Con hãy đến ngồi trên tấm thảm này với Ta”. Lòng tràn đầy vui sướng, tôi tiến lại gần bên Chúa và ngồi xuống tấm thảm bên cạnh Ngài. Tấm thảm từ từ bay bổng lên không trung đưa theo Chúa Giêsu và tôi ngồi trên đó. Tôi mỉm cười, lòng đầy vui sướng và tự nhủ: thật không còn gì hạnh phúc cho bằng được ở gần bên Chúa.
Một lúc sau, tôi quay nhìn Chúa Giêsu để bày tỏ niềm vui của tôi; thế nhưng tim tôi bắt đầu đập mạnh, vì tôi có cảm tưởng như Chúa Giêsu không còn bận tâm đến tôi nữa, bởi lẽ Ngài đang chăm chú rút từng sợi chỉ của tấm thảm, chẳng mấy chốc tấm thảm chỉ còn lại phân nửa. Hết sợi chỉ này đến sợi chỉ khác từ từ bay lên theo gió, chân tay tôi bắt đầu run lên vì hoảng sợ, thế nhưng Chúa Giêsu vẫn thản nhiên tiếp tục rút từng sợi chỉ. Sau cùng tôi kêu lên:”Lạy Chúa, Chúa đang làm gì thế ? Chúa không thấy là chẳng còn mấy chốc nữa tấm thảm của chúng ta sẽ tan tành hay sao ?” Chúa Giêsu mỉn cười nắm lấy tay tôi và nói:”Sao con lại nhát đảm và kém lòng tin như thế? Con hãy bám chặt vào Ta, con sẽ không phải sợ gì nữa, mặc dù con sẽ bị tước đoạt hết mọi sự, cả đến sợi chỉ cuối cùng”. Chúa Giêsu vừa dứt lời, thì qủa thực sợi chỉ cuối cùng của tấm thảm cũng bị rút đi luôn, tôi giật mình thức giấc.
Chọn lựa Đức Kitô và con đường của Ngài, chính là chọn lựa những nổi bấp bênh và trắc trở, những hy sinh và từ bỏ, những tăm tối và khổ cực, và nếu cần, cả ngục tù và cái chết. Có biết bao nhiêu người đã anh hùng chon lựa như thế. Trong số đó phải kể tới 118 anh hùng Tử Đạo Việt nam được Giáo Hội tôn vinh trên bàn thờ.
Bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay có thể nói được là một câu trả lời hiện thực nhất: “Thầy là Đức Kitô” cũng có nghĩa: “Thầy là mình máu được trao ban cho chúng con được nuôi sống hôm nay và mang mầm vĩnh cửu, Thầy là lời chân lý và tình yêu được sẻ chia để chúng con no đầy sự sống, Thầy là sự tha thứ và giao hòa để mở đường cho chúng trở về với Chúa Cha và với anh chị em…”.
Lạy chúa Giêsu, chúng con đang thật sự cần Ngài, vì Ngài là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.
Theo quan niệm Do thái thời bấy giờ, thì Ðấng cứu thế phải là nhà lãnh đạo trổi vượt, một nhà cải: TN 24-B23
Theo quan niệm Do thái thời bấy giờ, thì Ðấng cứu thế phải là nhà lãnh đạo trổi vượt, một nhà cải cách xã hội tài ba, một tướng lãnh lừng danh, bách chiến bách thắng để có thể lật đổ ách thống trị của ngoại bang là người La mã đang cai trị họ thời vua Hêrođê và đưa dân tộc họ lên hàng số một, làm bá chủ hoàn cầu. Ngay cả các tông đồ đã theo Chúa ba năm, nghe lời Người giảng dạy và chứng kiến phép lạ Người làm, cũng còn nuôi quan niệm sai lầm về Ðấng cứu thế.
Tới lúc mà Ðức Giêsu muốn biết xem người ta nói gì về Người khi hỏi các tông đồ: Người ta bảo Thầy là ai (Mc 8:27)? Sau khi họ thuật lại về việc người ta gán cho Thầy các ông là nhân vật nọ nhân vật kia như ông Gioan Tẩy Giả, ông Êlia hay một ngôn sứ nào đó trong Thánh kinh, thì Chúa muốn biết xem các tông đồ nghĩ Người là ai? Ðối với Ðức Giêsu, người ta bảo Người là ai không quan trọng cho bằng việc các tông đồ bảo Thầy của họ là ai. Phêrô đại diện các tông đồ trả lời: Thầy là Ðấng Kitô (Mc 8:29).
Mặc dù nhận ra Thầy mình là Ðấng Kitô, thánh Phêrô vẫn chưa hiểu đủ về bản tính của Ðấng Kitô cũng như vai trò và sứ mệnh của Người. Nói cách khác tầm hiểu biết của thánh Phêrô về Ðức Kitô lúc đó còn giới hạn và mơ hồ. Do đó các tông đồ không thể nào quan niệm được rằng Thầy mình có thể chịu đau khổ. Ðối với các tông đồ thì việc Thầy họ chịu đau khổ không thể nào chấp nhận được. Vì thế ông Phêrô lên tiếng can ngăn Thầy mình khỏi phải chịu đau khổ. Ông muốn Ðấng Kitô đi theo đường lối của loài người, nghĩa là tránh cảnh khổ nạn. Sở dĩ có sự can ngăn như thế là vì các tông đồ chưa hiểu lời Thánh kinh. Các ông chưa biết rằng người đầy tớ của Giavê chịu đau khổ mà ngôn sứ Isaia nói đến hôm nay ám chỉ về Ðấng Cứu thế, là Thầy của họ. Và trong Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu cũng áp dụng lời tiên tri về người đầy tớ của Giavê về cho Người.
Ðể loại bỏ những quan niệm sai lầm về Ðấng Cứu thế, Ðức Giêsu lập tức tiên báo về cuộc khổ hình và tử nạn mà Người sẽ phải chịu. Ðây là lần thứ nhất Ðức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn thập giá của Người. Và sau này Chúa còn tiên báo hai lần nừa về của khổ nạn của Người. Như vậy Ðức Giêsu cho ta thấy điều nghịch lí của đạo Kitô giáo. Khi ta chịu đau khổ thiệt thòi vì yêu mến Chúa, ta sẽ tìm được sự sống mới trong Chúa. Do đó mà thánh Augustinô mới đặt bút viết: Ðâu có yêu, đó không còn đau khổ. Giả như có khổ đi nữa, người ta lại chấp nhận đau khổ vì yêu.
Chìa khoá để mở cửa cho sự hiểu biết và đương đầu với đau khổ là ý nghĩa và mục đích. Chúa Cứu thế đến để đem lại ý nghĩa và mục đích cho đau khổ và sự chết. Người tín hữu không chuốc lấy đau khổ chỉ vì muốn khổ, như là một đường cùng không lối thoát. Nếu dừng lại ở đau khổ thánh giá là ta chọn đi con đường cụt và ta sẽ bị bế tắc. Nói như vậy có nghĩa là khi gặp những đau khổ về phần xác như bệnh tật hoặc phần tinh thần như những lo âu, sợ hãi, ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị. Bác sĩ và thuốc men là dụng cụ Chúa dùng để chữa trị bệnh tật loài người. Ðôi khi Chúa còn chữa trị bệnh tật loài người cách trực tiếp mà không cần đến bác sĩ hay thuốc men. Cách thế chữa trị như vậy, được gọi là phép lạ. Vậy khi phải mang bệnh tật về phần xác hay tinh thần và sau khi đã tìm cách chữa trị, mà vẫn không thuyên giảm, ta cần học chịu đựng vì yêu mến Chúa, để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa, thì việc chịu đựng mới mang lại ý n1g1h1ĩa và ơn ích thiêng liêng. Chịu đau khổ như vậy vì lòng mến Chúa, thì được kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa để cầu cho phần rỗi linh hồn. Ta cũng cần tiếp tục cầu nguyện, xin Chúa ban thêm đức tin và sức mạnh để ta có thể chịu đựng vì yêu mến Chúa.
Mang lấy gánh nặng của cuộc sống đòi hỏi người tín hữu một đức tin kiên trì và một tâm hồn tín thác vào Chúa. Chỉ bằng việc suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa, bằng kinh nghiệm đau khổ cá nhân và bằng lời cầu nguyện, ta mới có thể cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: Hỡi những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11:28).
Lời cầu nguyện xin cho được chịu đau khổ vì yêu mến:
Lạy Chúa Giêsu là Thiên Chúa!
Chúa đã chấp nhận đau khổ vì yêu mến loài người.
Con xin dâng lên Chúa những đau khổ của con
về phần xác, phần hồn và tinh thần:
những nỗi lo âu, sợ hãi, cơ đơn và buồn chán
những hiểu lầm và nghi kị,
những thiệt thòi và tủi hổ của đời con.
Xin Chúa đến ở bên con và đồng hành với con
để biến đổi đời sống con. Amen.
"Cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy".
Khi ấy, lúc Chúa Giêsu đã nói với dân chúng xong, Người vào Capharnaum. Bấy giờ một viên sĩ quan: TN 24-B24
Khi ấy, lúc Chúa Giêsu đã nói với dân chúng xong, Người vào Capharnaum. Bấy giờ một viên sĩ quan có tên đầy tớ thân tín bị bệnh gần chết. Nghe nói về Chúa Giêsu, ông sai vài người kỳ lão Do-thái đi xin Người đến cứu chữa đầy tớ ông. Họ đến gần Chúa Giêsu và van xin Người rằng: "Ông ta đáng được Thầy ban cho ơn đó, vì thật ông yêu mến dân ta, và chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta". Chúa Giêsu đi với họ, và khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này sai mấy người bạn đến thưa Người rằng: "Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh. Vì tôi cũng chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi có những lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; bảo người khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm".
Nghe nói thế, Chúa Giêsu ngạc nhiên và quay lại nói với đám đông theo Người rằng: "Ta nói thật với các ngươi, cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy". Và những người được sai đi, khi về tới nhà, thấy tên đầy tớ lành mạnh.
Suy Niệm:
Sức Mạnh Của Lời Chúa
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về lời quyền năng của Chúa. Thông thường, Chúa Giêsu chữa trị bằng cách đặt tay hoặc sờ đến bệnh nhân. Cũng có trường hợp Ngài làm một cử chỉ hay chỉ nói một lời, như được ghi lại trong trình thuật chữa bệnh cho người đầy tớ của viên bách quản.
"Xin Ngài chỉ nói một lời". Lời thỉnh cầu của viên bách quản gợi lại câu Thánh vịnh 106: "Thiên Chúa sai lời của Ngài đi chữa trị". Qua lời thỉnh cầu này, viên bách quản mặc nhiên nhìn nhận Chúa Giêsu thực sự đến từ Thiên Chúa và lời của Ngài là lời quyền năng và hữu hiệu. Lời thỉnh cầu của viên bách quản thể hiện một niềm tin sâu sắc, đến độ đã được Giáo Hội lặp lại mỗi ngày trong Thánh lễ, để nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của lời Chúa, cũng như bổn phận rao truyền lời Chúa trong cuộc sống chúng ta.
Thế giới ngày nay đang bước vào kỷ nguyên của thông tin. Lời nói xem chừng tràn ngập khắp nơi, nhưng liệu con người có nghe được lời quyền năng có sức chữa trị và giải phóng con người không? Các phương tiện truyền thông đại chúng càng gia tăng và tinh vi, thì lời nói càng được tung ra, nhưng tác hại không kém. Có những lời đường mật dụ dỗ người trẻ sa vòng trụy lạc, nô lệ; có những lời dối trá của chính trị gia; có những lời thất vọng, chán chường của những tiên tri chỉ biết loan báo thảm trạng. Ngược lại, cũng không thiếu những hình thức tước đoạt quyền tự do tư tưởng và phát biểu của con người.
Trong một hoàn cảnh như thế, những người mà niềm tin được xây dựng trên lời quyền năng của Thiên Chúa, hẳn phải nói lên lời của Ngài hơn bao giờ hết. Ngày nay, có biết bao viên bách quản đang chờ đợi một lời nói can đảm, chân thật và hữu hiệu từ các Kitô hữu. Trong một xã hội chỉ có những lời của hận thù, đố kỵ, thì lời của các Kitô hữu phải là lời của yêu thương, hòa giải và tha thứ. Lời của Chúa là lời chân thật và hữu hiệu, lời ấy không chỉ được các Kitô hữu nói bằng môi miệng, mà còn phải được nhập thể vào cuộc sống của họ.
Nguyện xin Chúa, Ðấng nói một lời thì linh hồn chúng ta được lành mạnh, ban sức mạnh, để chúng ta can đảm sống và nói lời Ngài, nhờ đó những người xung quanh nhận ra phép lạ của Ngài.
Có lẽ danh từ Kitô đã trở nên quá quen thuộc, cho nên nhiều người tín hữu đã quên mất đi ý: TN 24-B25
Có lẽ danh từ Kitô đã trở nên quá quen thuộc, cho nên nhiều người tín hữu đã quên mất đi ý nghĩa của danh xưng này. Kitô là chữ Việt Nam hay Kristós trong tiếng cổ Hy Lạp, hay Mýh, Mêsia, trong tiếng cổ Do Thái có nghĩa là Đấng [được] Xức Dầu. Vua Saolê và vua Đavít, hai vị vua đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu độ cũng có thể được gọi là kitô và mêsia, bởi họ đã từng được Thiên Chúa xức dầu qua bàn tay của ngôn sứ Samuel (1Samuel 9:26-27; 10:1; 16:12-13). Cho nên, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đức Kitô hay Đấng Mêsia, chúng ta đang muốn nói tôi tin rằng Đức Giêsu chính là Vua [được] Xức Dầu. Bàn về danh từ thần học Kitô, câu hỏi được đặt ra trong bài tiểu luận này là, Đức Kitô, Ngài là ai?
Do Thái vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên nằm dưới ách thống trị của đế quốc La Mã. Sống trong tình trạng nô lệ, bị kìm kẹp bởi người ngoại bang, dân Do Thái cầu nguyện và chờ đợi Giavê Thiên Chúa sẽ ra tay can thiệp, gửi tới một Đấng Thiên Sai, hay là Đấng Kitô, hay là Đấng Mêsia. Đấng Thiên Sai này sẽ lãnh đạo dân chúng đánh đuổi người La Mã ra khỏi đất của sữa và mật ong—tương tự như trong thời Cựu Ước, Giavê Thiên Chúa đã từng xức dầu phong vương cho Vua Saolê và Vua Đavít, hai vị vua này đã đánh đuổi người Philistine ra khỏi đất hứa. Sau đó cả hai đã thống nhất và xây dựng nước Do Thái, biến vùng Đất Hứa trở thành một cường quốc trong vùng Trung Đông vào thế kỷ thứ 10 và thứ 9 trước Công Nguyên.
Vào một ngày kia, trong vùng đất của dân ngoại, kế cận thành Cêsarê Phêlípphê, nằm phía đông bắc của Galilê, Đức Giêsu hỏi các môn đệ một câu hỏi bất ngờ,
— Người ta nói Thầy là ai?
Các môn đệ tranh nhau nhắc lại tên của những vị ngôn sứ trong thời Cựu Ước,
— Người ta nói Thầy là Êlia.
— Có người nói Thầy là tiên tri Giêrêmia,
— Có người nói Thầy là Gioan Tẩy Giả.
Sau khi lắng nghe các môn đệ tranh nhau tường thuật lại những điều người dân đương thời đồn đại về căn tính của mình, Đức Giêsu một lần nữa lại cất tiếng hỏi,
— Vậy [riêng các con], các con nghĩ Thầy là ai?
Phêrô khẳng khái trả lời,
— Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (Mt 16:13-20).
Qua câu nói này, Phêrô tuyên xưng hai điều,
(1). Ông tin rằng Đức Giêsu chính là Đấng Xức Dầu bởi Thiên Chúa, và nhiệm vụ của Ngài là lãnh đạo dân Do Thái, đánh đuổi người La Mã, giải cứu dân chúng thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang;
(2). Điều này khá mới lạ, Phêrô tin rằng Đức Giêsu chính là Con của Thiên Chúa.
Không giống như các dân tộc lân bang thờ phượng đa thần, người Do Thái chỉ thờ phượng một Giavê Thiên Chúa là Thiên Chúa duy nhất, “Hỡi Israel, Giavê là Thiên Chúa của chúng ta, Thiên Chúa duy nhất” (Đệ Nhị Luật 6:4). Nhưng từ cửa miệng của Phêrô, một tư tưởng thần học mới đã hé nụ, đó là, Đức Giêsu Kitô chính là Con Thiên Chúa.
Phêrô là một trong những Kitô hữu đầu tiên, theo như thánh Matthêu, đã tuyên xưng mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa, đó là, Giavê Thiên Chúa có ba bản thể (essence): Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Linh. Tín điều này loài người không bao giờ hiểu được, nên được gọi là một Mầu Nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Cho nên, sau lời tuyên xưng của Phêrô, Đức Giêsu đã cất tiếng khen ngợi người thủ lãnh của nhóm Mười Hai là ông đã được Thiên Chúa chúc lành, bởi chính Thiên Chúa đã mạc khải cho Phêrô biết mầu nhiệm của tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi. Sau đó, Đức Giêsu đổi tên Simon sang Phêrô, Kêphas, nghĩa là đá. Bắt đầu từ giây phút đó, Phêrô trở thành nền đá vững chắc trường tồn của Giáo Hội Kitô. Sau cùng, người ngư phủ Biển Hồ cũng được trao ban chìa khóa Nước Trời. Điều gì Phêrô cầm buộc, trên trời cũng sẽ cầm buộc. Điều gì Phêrô tháo cởi, trên trời cũng sẽ tháo cởi (Matt 16:19).
Một vị tu sĩ kể lại, ngày kia trong khi đang dạo chơi trên những con đường tấp nập người của kinh thành Nữu Ước, ông gặp lại một người bạn cố tri từ hồi bên Việt Nam. Sau một vài câu chuyện hàn huyên tâm sự, người bạn nhìn vị tu sĩ e dè hỏi,
— Ông vẫn tin vào Thượng Đế?
Vị tu sĩ đáp,
— Vâng, tôi vẫn tin vào Thiên Chúa.
Tới phiên vị tu sĩ, ông hỏi lại người bạn,
— Còn ông thì sao, ông tin vào ai?
Người bạn móc ví, lôi ra tờ giấy 20$ đô la xanh lè, cười đáp,
— Tôi, tôi tin vào tấm hình này.
Bạn thân,
Ngày xưa, Đức Giêsu đã hỏi các người thân của mình, “Các con nghĩ Thầy là ai?”. Câu hỏi đó, ngày hôm nay, Chúa không hỏi các môn đệ của Ngài nữa, nhưng Ngài đang hỏi chúng ta,
— Con nghĩ Thầy là ai?
Sống trong một xã hội, tiền bạc là trên hết, có tiền mới có nhà, có bồ, có xe hơi BMW, Mercedez, có, gần như rất nhiều, chúng ta rất dễ dàng quên đi sự hiện hữu của Thiên Chúa. Bởi thế, trước câu hỏi, “Con nghĩ Thầy là ai?”, có thể bạn và tôi bắt đầu gãi đầu, xoa trán, lúng túng tìm kiếm câu trả lời,
— Hình như… Hình như Thầy không còn là nơi con ẩn náu! Hình như Thầy không còn phải là Đấng con kiếm tìm. Hình như Thầy không phải là Thiên Chúa của con nữa, nhưng là tiền, như người bạn của vị tu sĩ trong câu chuyện đã từng khẳng định. Ngày hôm nay, trong một cuộc sống ngập tràn những tiện nghi vật chất, Laptop mỏng dính, iPod nhẹ tênh, hình như con không còn cảm thấy nhu cầu cần phải có sự hiện hữu của Thầy trong đời sống nữa. Trong một cuộc sống siêu hành tinh, siêu liên mạng, siêu điện tử, và siêu xa lộ, Thầy, Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã được con hạ bệ.
Lạy Chúa, một lần nữa, con lại xin lỗi Chúa bởi con đang lúng túng với chính con khi Chúa đang hỏi con, “Con nghĩ Thầy là ai?” Lạy Chúa, xin ban lại cho con một quả tim trong sạch. Lạy Chúa, xin ban lại cho con một niềm tin quyết liệt để con không còn phải lúng túng với niềm tin, với chính con trong ngày hôm nay, ngày mai và vào ngày cuối đời khi con đang đứng trước mặt Chúa.
Kinh nghiệm cho thấy: Đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người. Giáo lý nhà Phật: TN 24-B26
Kinh nghiệm cho thấy: Đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người. Giáo lý nhà Phật thì cho rằng: Đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Tuy nhiên, đau khổ không phải chỉ là một cái gì đáng nguyền rủa và lẩn tránh, trái lại nó còn có một giá trị tích cực, đem lại nhiều lợi ích cho chúng ta như tục ngữ đã bảo: Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Hay như Khổng Tử cũng đã bảo: Ngọc không dũa không sáng, người không bị gian nan thử thách, thì cũng khó mà trở nên hoàn thiện.
Cũng trong chiều hướng ấy mà Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Sau đây tôi xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể để nói lên sự thật ấy.
Trường hợp thứ nhất là của O’Neill. Mãi đến năm 23 tuổi, ông vẫn còn là một kẻ thất bại, sống không mục đích, không định hướng, không kỷ luật. Thế rồi ông bị đau và chính nhờ thời gian nằm điều trị tại bệnh viện, ông mới có được dịp may để suy nghĩ và định hướng cho cuộc đời mình. Ông đã khám phá ra tài năng soạn kịch của ông, để rồi ông đã trở thành một người nổi tiếng.
Trường hợp thứ hai là của bà Golda Meir. Lúc ban đầu bà rất thất vọng vì mình chỉ là một cô gái trời bắt xấu. Thế nhưng về sau, bà mới nhận ra rằng: không được đẹp đối với bà lại là một may mắn, bởi vì điều đó đòi buộc bà phải phát triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng bà hiểu ra rằng phụ nữ không được ỷ lại vào sắc đẹp của mình, nhưng trái lại phải làm việc chăm chỉ, nhờ đó mang lại lợi ích cho bản thân. Nói cách khác, bà đã biết chấp nhận thập giá của mình, can đảm vác nó lên vai để rồi cuối cùng bà đã trở thành vị nữ thủ tướng đầu tiên của người Do Thái.
Một tác giả nổi tiếng, Oscar Wilde đã viết: Đau khổ chính là mảnh đất thánh. Đức Kitô không thể đi vào tâm hồn chúng ta bằng nẻo đường nào khác ngoài trái tim đã tan nát.
Từ những kinh nghiệm trên, chúng ta đi tới kết luận: Cuộc đời không phải lúc nào cũng chỉ là một mầu hồng, trái lại rất nhiều khi nó bị nhuộm bởi một màu đen với những đau khổ và cay đắng.
Tuy nhiên, dưới ánh sáng Phúc âm, thì đau khổ không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc và hủy diệt, bởi vì nó có thể trở nên một nguồn sống. Thiên Chúa thường dùng khổ đau để biến đổi chúng ta thành người tốt lành hơn, thánh thiện hơn, khiêm nhường hơn, cảm thông hơn. Đau khổ có thể mở mắt cho chúng ta thấy được cuộc đời tốt đẹp hơn là chúng ta đã từng mơ ước.
Ngoài ra, đau khổ sẽ giúp chúng ta nhận ra bàn tay yêu thương của Thiên Chúa bởi vì giữa ánh nắng chói chang của mặt trời, chúng ta không thể nào nhìn thấy những vì sao. Trái lại, vào những đêm khuya tăm tối chúng ta sẽ dễ dàng thấy được những ánh sao trên bầu trời. Cũng vậy, nhiều người trong chúng ta đã tìm thấy Chúa giữa những đêm đen của khổ đau, mà trong những lúc hạnh phúc chói chang họ đã quên lãng Ngài. Hãy biết đón nhận thập giá cuộc đời, bởi vì mọi sự đều là hồng ân.
Với đoạn phúc âm theo thánh Maccô này, chúng ta gặp một đường cao điểm, thật vậy, cho tới đây: TN 24-B27
Với đoạn phúc âm theo thánh Maccô này, chúng ta gặp một đường cao điểm, thật vậy, cho tới đây, thánh Marcô cho thấy Chúa Giêsu dần dần tỏ mình ra bằng lời giảng dạy và các phép lạ Người làm, nhưng Chúa để cho người ta ngạc nhiên, thắc mắc. Người ta như thể được dự một cảnh chờ đợi, hồi hộp và tự hỏi: Ong này là ai? Cả những môn đệ cũng thắc mắc, tuy nhiên thấy Chúa không phải là một thầy rabbi khác. Thầy sắp dẫn họ đến chỗ tuyên xưng đức tin bằng một câu do Phêrô thay mặt các môn đệ nói lên. Chúa hỏi: còn các ngươi, các ngươi nói Ta là ai? –kẻ sau này sẽ là thánh Phêrô, trả lời: Ngài là Đức Kitô, tức là Đấng cứu thế. Khi họ nhận ra Đấng cứu thế trong Đức Giêsu, các môn đệ vượt được chặng đầu có tính cách quyết định trong tiến trình đức tin của các ông.
Tuy nhiên, một câu hỏi khác rất nghiêm trọng được nêu lên: Chúa là vị Cứu-thế nào? Dân Do thái mong đợi một Đấng Cứu-thế có quyền uy trần tục. Thế mà Đức Giêsu là Đấng Cứu-thế dùng sự thống khổ và cái chết để cứu chuộc. Các môn đệ sẽ làm thế nào để có thể chấp nhận cái thực tại họ không thể nào quan niệm được. Lời đáp cho câu hỏi này nổi bật lên trong phần ký sự còn lại, và người ta sẽ thấy, chỉ mãi sau này Chúa sống lại rồi, các môn đệ mới thấu hiểu bản tính đích thật cứu thế của Chúa. Từ sự kiện đó chúng ta có thể rút ra vài suy niệm:
1) Chúa đưa ra một câu đáp rất cứng cỏi, cho Phêrô là kẻ không muốn chấp nhận lời Chúa tiên báo cuộc Thương khó của Người: ‘Xéo ra phía sau Ta, hỡi Satan; vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người’. Chúa phản ứng giống như trước đây Người phản ứng chống lại trước cám dỗ, với một phản xạ nóng nảy; quyền hành, cương quyết. Những ý tưởng theo thói thường của Phêrô mang theo một cám dỗ giống như cám dỗ đã đến với Chúa trong hoang địa, nó dự tính làm cho Chúa đi trật con đường sứ mạng của Người, nhưng ở đây nó cũng đụng phải bản tính thánh-thiện của Chúa trước sau vẫn thế.
Đàng khác, những lời tuyên bố của Chúa đẩy các môn đệ vào một thử thách ghê gớm. Chắc chắn là các ông đã phải cần có một sự trợ giúp nội tâm mãnh liệt để không bỏ Chúa vì Người làm đảo lộn ý niệm của họ về Đấng Cứu thế.
Hai câu hỏi: Ta phải nghĩ gì về những kẻ lợi dụng phúc âm làm mạch nuôi dưỡng một ý thức hệ của thế gian, một chuyền thuyết cứu nhân độ thế của trần tục? Phải chăng ngày nay đang có những môn đệ diễn lại, bên cạnh Đức Kitô của Giáo hội, thái độ của Phêrô?
2) Khi loan báo cuộc khổ nạn và sống lại của Người, Chúa đề nghị một thử thách đích thật cho đức tin. Niềm tin vào Chúa thật sự bắt đầu từ khoảnh khắc người ta nhận ra Con Thiên Chúa - Đấng cứu chuộc chết trên thập giá và sống lại.
Đó là niềm tin của các môn đệ, 1 niềm tin bỡ ngỡ như ta thấy trong ký sự của thánh Marcô -nhưng được củng cố sau ngày Chúa Giêsu sống lại và Chúa Thánh-Thần hiện xuống. Đó là niềm tin của chúng ta hôm nay. Trên bình diện tri thức, chúng ta không gặp khó khăn để có được niềm tin ấy. Chỉ gặp khó khăn khi Chúa mời chúng ta chia sẻ khổ nạn và Thập giá với Người. Chừng nào chúng ta phát hiện Đức Kitô chịu đóng đinh là ai, lúc đó chúng ta mới cảm thấy sự thử thách về đức tin, nhưng hạnh phúc thay, thử thách của chúng ta, đã chói loà bởi hào quang của sự sống lại vinh hiển. Điều mà các môn đệ lúc đó chưa có được, ngày nay chúng ta đã nắm vững rồi, đó là niềm hy vọng được dự vào sự sống lại của Chúa chúng ta.
Một bé gái bảy tuổi đã lái một máy bay xuyên qua đất nước, đi theo có cha của bé và một người: TN 24-B28
Một bé gái bảy tuổi đã lái một máy bay xuyên qua đất nước, đi theo có cha của bé và một người huấn luyện viên bay. Cuộc bay kết thúc bằng một tai nạn. Nhiều người trẻ đã quyết định trèo lên một ngọn núi cao nhất khi họ đi du lịch mặc dù họ không có kinh nghiệm. Một tảng đá bất chợt bị sút ra, một người đã bị trượt xuống và kéo tất cả cùng chết. Động cơ thúc đẩy người ta liều lĩnh đó là gì? Để lướt thắng sợ hãi, để vượt lên phía trước những nguy hiểm qua những cuộc phiêu lưu nguy hiểm? Đối với một đứa bé gái, Jessica Dubroff và cha của cô bé, họ đã làm như thế để nhận một phần thưởng. Đối với những người leo núi, điều đó là niềm tự hào của sự chinh phục. Đôi khi những người tìm kiếm cảm giác thì đổ cho định mệnh. Họ nói rằng cần có sự liều lĩnh bất cứ khi nào anh lái một chiếc xe hơi và như vậy chúng ta sẽ không phải lo lắng về sự may rủi, để sống một đời sống thật tràn đầy.
Chúa Giêsu không phải là một người tin vào định mệnh, nhưng Ngài biết cuộc sống của Ngài sẽ chấm dứt thế nào. Đó là kế hoạch của Cha Ngài muốn cho Ngài sẽ chết trên thánh giá, không phải để Ngài nhận một phần thưởng như ước ao nồng nhiệt của bố Jessica, nhưng là Người có thể mang lại cho chúng ta món quà sự sống đời đời. Người biết rằng sứ vụ của Người giống như các tiên tri có trước Người, sẽ phải chịu sự giận dữ của kẻ thù và những kẻ thù đó mạnh mẽ đủ để kết án tử Người, Người sẵn lòng trèo lên núi Calvario để giang cánh tay của mình trên thánh giá, để âu yếm tất cả chúng ta trong tình yêu thần linh của Người. Cái chết của Người không phải là một tai họa nhưng là hoàn thành sứ vụ của Ngài trên mặt đất này. Đó là một cuộc chinh phục vĩ đại trên tội lỗi và cái chết đời đời.
Không có sự liều lĩnh nơi Chúa Giêsu, liều lĩnh có nghĩa là một cơ hội của sự tổn hại hay sự chết. Chúa Giêsu đã chết là một điều chắc chắn. Khi thánh Phêrô với chủ ý tốt nhất đã cố gắng ngăn cản Người đừng theo con đường thánh giá, Chúa Giêsu đã đáp lời một cách mạnh mẽ: Người đã nói với Phêrô rằng ông không được xét đoán theo loài người nhưng là theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Trong mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa, cái chết của Con Người thì thật cần thiết cho sự cứu độ của chúng ta.
Chúng ta có thể cảm thấy rằng có một sự liều lĩnh khi theo Chúa Giêsu, nhưng không phải vậy. Đó là một sự chắc chắn. Nếu chúng ta theo Người cách trung thành, chúng ta sẽ nghe Người dạy: “Ai từ bỏ chính mình mang lấy thập giá của mình mà theo Ta”. Thánh giá của chúng ta không có nghĩa là hình khổ đóng đinh theo nghĩa chữ. Trong từ chuyên môn Công giáo, chúng ta nói về những người đặc biệt có những gánh nặng khó khăn phải chịu đựng trong cuộc sống thì người đó đang mang một thánh giá nặng. Chúng ta hiểu rằng thánh giá đối với chúng ta có nghĩa là mất môt công việc, hoặc là mắc một cơn bệnh nặng, hoặc cần thiết làm một hy sinh có ý nghĩa để chăm sóc gia đình hoặc những phần tử trong gia đình đang bị đau khổ hay bị sốc. Thánh giá dành cho cha mẹ có thể là nhìn thấy con cái của mình rời bỏ Giáo Hội hoặc sa vào rượu chè say sưa, hoặc trai gái. Thánh giá đối với con cái có thể là đau buồn trong cuộc sống, thấy cha mẹ say sưa hoặc đau buồn khi họ ly dị khiến cho gia đình tan tác. Thánh giá cho tất cả chúng ta là cái chết của một người thân yêu.
Thánh giá trong cuộc sống của chúng ta không thể trở thành một bi kịch. Điều đó sẽ không chinh phục được sự chú ý của cả nước như chuyến bay của Jessica Dubroff đã làm, nó có liên hệ đến việc thách đố, nó cũng không liên quan tới nỗi say mê của những người leo núi. Nhưng quan trọng hơn thánh giá không mang đến một bi kịch. Nó không có nghĩa là một tai họa. Thay vào đó, mang thánh giá đối với chúng ta là theo ý muốn của Thiên Chúa mà Ngài sẽ dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Thánh giá có nghĩa là sống trong sự hợp nhất với Chúa Giêsu, điều đó có nghĩa là chia sẻ những đau khổ của Chúa Giêsu và cái chết của Người, Đấng sẽ ban cho chúng ta những đặc ân của Cha, là hạnh phúc đời đời của Người và Thánh Thần trên thiên đàng. Chúng ta sẽ không sợ thánh giá. Thánh giá là ý muốn của Thiên Chúa dành cho chúng ta, đó là con đường thật sự để sống một đời sống viên mãn.
Một giai thoại kể lại rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò mạo hiểm để tìm cảm giác mạnh: TN 24-B29
Một giai thoại kể lại rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò mạo hiểm để tìm cảm giác mạnh. Anh đem theo một chiếc dù đến bên bờ vực thẳm, định chơi cho thoả chí mạo hiểm. Không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân. Đang trên đá lăn dài xuống vực sâu, may mắn được một cành cây mọc chìa ra. Thế là anh lơ lửng trên cành. Thật hú vía, tuy chưa qua hết nguy hiểm, nhưng thế này còn có hy vọng thoát được.
Ngước mắt lên bờ vực, anh không thấy bóng dáng một ai. Nhìn xuống, anh choáng váng vì vực quá sâu. Anh cũng biết không thể nào đu lơ lững mãi trên cành được, vì thế, cách cuối cùng là anh cầu nguyện. Thế là anh cầu nguyện: lậy Chúa, xin cứu con, con xin hứa làm bất cứ điều gì Chúa muốn.
Bỗng anh nghe như có tiếng Chúa nói: Được, Ta sẽ cứu con. Nhưng trước khi cứu, Ta muốn biết là con có thực sự tin rằng Ta làm được việc này không?
- Lạy Chúa, con tin chứ! Con tin chắc là Chúa cứu được con mà! Cứu ngay đi Chúa ơi, con mỏi tay lắm rồi!
- Được, nếu con tin Ta thì hãy buông tay ra.
Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào cành cây chứ không chịu buông. Rồi anh ngẩng lên bờ vực và la lớn: “Có ai trên đó không, cứu tôi với’.
Thưa anh chị em, giả sử chúng ta là chàng thanh niên đó, liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh đang xẩy ra trong đời, hay chúng ta sẽ tìm cách bám víu vào những thực tại khác?
Muốn đi theo ai, muốn ở với ai, thì phải biết rõ người ấy, biết người ấy xuất thân từ đâu và có đáng tin không. Muốn “đi theo Chúa Giêsu và ở với Chúa Giêsu” thì người Kitô hữu phải biết Chúa Giêsu là ai, đường lối của Ngài như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta hiểu về con người Giêsu ấy.
Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ câu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai?” trước khi đòi hỏi chính các môn đệ của mình phải bày tỏ ý kiến riêng, Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc thăm dò ngay trong nội bộ mình xem người khác nói về Ngài như thế nào? Có nhiều ý kiến, nhưng rõ ràng dân chúng đã thấy được một số nét căn bản nơi con người Giêsu. Nơi giáo huấn của Ngài, người ta thấy được sức sống và sự siêu thoát khỏi những ràng buộc vô lý của lề luật. Thế nhưng, điều quan trọng không phải chỉ biết đúng về Chúa Giêsu mà con phải biết đủ về Ngài nữa: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật.
Nhờ các phương tiện truyền thống và nhờ học hành, kiến thức của ta ngày càng gia tăng. Nhưng ta có một sự hiểu biết sâu xa về Chúa chưa? Cần phải xác tín như Thánh Phaolô: “Cái lợi tuyệt vời là được biết Chúa Giêsu kitô, Chúa của tôi”(Pl 3,8).
Các môn đệ là những người “ở với Chúa Giêsu”, cũng ăn cùng uống, gắn bó, gần gũi với Ngài và được Ngài dạy dỗ đặc biệt cùng chứng kiến nhiều phép lạ, giờ đây, các ông phải bày tỏ lập trường. Chắc hẳn giây phút thinh lặng nặng nề khi bị hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô thay mặt anh em tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Kitô”. Phêrô đã cứu nguy cho anh em! Thế nhưng sau đó ông lại can ngăn Thấy Giêsu. Ông đã cản Chúa Giêsu làm theo ý Chúa Cha. Và như vậy là đi theo đường lối của Satan. Rõ ràng ông chưa hiểu bao nhiêu về đường lối của Chúa. Thực ra, ông và các bạn đã hiểu Đấng Kitô theo nghĩa trần thế, một Đấng Cứu thế hiển hách, oai phong… thành ra ông không sao hiểu được việc “Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ và phải chết…”.
Thưa anh chị em,
Để biết Chúa Giêsu Kitô là ai và đâu là đường lối của Ngài, ta cần phải giũ bỏ những hình ảnh trần tục ta vẫn có về Chúa Kitô, những hình ảnh do con người tạo ra: một Đức Kitô của quyền lực, của thống trị… Nên nhớ bài học cùng Ngài: “Anh em hãy học cùng Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”.
Vậy thì, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Sau khi đã tin vào Chúa một thời gian, ta vẫn có thể đặt lại câu hỏi này: Bấy lâu nay, Đức Giêsu là ai đối với tôi? Đức Giêsu không thay đổi, “hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi” Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất. Nhưng mỗi ngày, sau mỗi biến cố, có khi ta lại khám phá ra những nét mới mẻ nơi sự phong phú của Ngài. Đời ta luôn là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Còn con, con bảo Thầy là ai?”. Và cuộc đời của ta sẽ chuyển biến tuỳ theo câu trả lời này của mình.
Trong đêm canh thức với hai triệu bạn trẻ từ các nước trên thế giới về Rôma tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 15 (15-20/8/2000) Đức Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II đã hỏi lại các bạn trẻ câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các con nói Đức Giêsu là ai?” – Có khó tin trong thế giới hôm nay không? Có khó tin trong Ngàn Năm Thứ Ba này không? Vâng, khó đấy. Không cần phải dấu diếm điều này. Khó khăn, nhưng với sự trợ giúp của ơn thánh, điều đó vẫn có thể làm được, như Chúa Giêsu đã giả thích cho Phêrô: “Chẳng phải bởi xác thịt hay máu huyết đã mạc khải cho anh điều đó, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”(Mt 16,17).
“Ngày nay, để tin vào Chúa Giêsu, để theo Chúa như Phêrô, Tôma, các Tông Đồ tiền khởi và các chứng nhân, như trong quá khứ, đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn một lập trường, sự lựa chọn này nhiều khi gian nan đến độ là một cuộc tử đạo mới: cuộc tử đạo của những người, hiện tại cũng như quá khứ, được mời gọi lội ngược giòng chảy để đi theo Thầy Chí Thánh”… Hôm nay các bạn tụ họp nơi đây để tuyên xưng rằng trong thế kỷ này, chúng ta sẽ không để mình trở thành trong thế kỷ này, chúng ta sẽ không để mình trở thành dụng cụ của bạo lực và tàn phá. Chúng ta sẽ đấu tranh gìn giữ hoà bình dù có phải hy sinh tính mạng. Chúng ta sẽ không thối lui trước một thế giới mà người ta còn chết vì đói, thất học và không có việc làm. Chúng ta sẽ bảo vệ sự sống ở mỗi thời kỳ của nó. Chúng ta sẽ chiến đấu tới cùng để làm trái đất này dễ sống hơn cho mọi người”.
Các bạn trẻ thân mến của thế kỷ đang bắt đầu, khi nói “vâng” với Chúa Giêsu, các bạn có thể nói “vâng” với tất cả các lý tưởng cao đẹp của các bạn. Tôi cầu xin Chúa Giêsu thống trị trong lòng các bạn và trong tất cả nhân loại trong thế kỷ mới này cũng như trong ngàn năm mới này. Đừng sợ phó thác cho Ngài. Ngài sẽ dẫn dắt các bạn, sẽ ban cho các bạn sức mạnh để theo Ngài trong mọi ngày và trong mọi tình huống.
Cầu xin Đức Mẹ rất thánh, người Trinh Nữ nói “Xin vâng” với Thiên Chúa trong suốt cuộc đời Người, xin Thánh Phêrô và Phaolô và các Thánh đã thắp sáng cuộc hành trình của Giáo Hội qua mọi thế hệ, gìn giữ các bạn luôn trung tín với quyết tâm thánh thiện này (ĐGH Gioan Phaolô II 19/8/200).
Xêdarê Philipphê hoàn toàn nằm ngoài ranh giới xứ Galilê, không thuộc lãnh thổ của Hêrôđê: TN 24-B30
Xêdarê Philipphê hoàn toàn nằm ngoài ranh giới xứ Galilê, không thuộc lãnh thổ của Hêrôđê, nhưng là đất thuộc về Philipphê. Đây là một thành phố có một lịch sử ly kỳ. Từ thời xưa, nó được gọi là Balinas, vì nó từng là một trung tâm quan trọng cho việc thờ thần Baan. Ngày nay, nó hãy còn được gọi là banias, vốn là hình thức của chữ Panias. Sở dĩ nó có tên Panias bởi trên một sườn đồi tại đấy có một hang đá mà người ta bảo chỗ sinh ra của Pan, là Thượng Đế, là thần tạo dựng cõi thiên nhiên của dân Hy lạp. Hơn nữa, từ một hốc đá bên sườn đồi ấy lại xuất phát một dòng suối mà người ta cho rằng đó là nguồn phát sinh sông Giođan. Cao hơn trên sườn đồi, sừng sững một Đền Thờ sáng chói bằng đá trắng. Philipphê đã xây dựng Đền Thờ thần tính của Xêda, hoàng đế Roma, người đang trị vì thế giới thời ấy, người đuợc xem như một vị thần. Điều lạ lùng chính tại đây chứ không phải ở một nơi nào khác, Phêrô lại thấy một người thợ mộc không nhà, dân xứ Galilê, là con Thiên Chúa. Bầu không khí tôn giáo cổ xưa vốn bao trùm xứ Palestine, những kỷ niệm về Baan được nhìn thấy khắp nơi. Các thần của thế giới cổ Hy Lạp cũng ngự trị tại đó, người ta vẫn còn nghe tiếng sáo của thần Pan và còn thoáng thấy các nữ thần sống trong các khu rừng. Sông Giođan chắc gợi cho người ta nhớ lại từng giai đoạn trong lịch sử dân Israel và việc chinh phục xứ ấy. Và dưới ánh sáng của mặt trời từ Phương Đông, Đền Thờ bằng đá t rắng đang phản chiếu như nhắc nhở mọi người rằng Xêda là một vị thần. Ở đây, hơn bất cứ nơi nào khác, trong bối cảnh có đủ thứ tôn giáo và suốt dòng lịch sử, Phêrô lại khám phá vị giáo sư lưu động từ Nadarét, và đang tiến về hướng thập giá, là Con Thiên Chúa. Qua các sách Phúc Âm, thật không thể tìm được một câu chuyện nào khác bày tỏ sức mạnh cao cả nhân cách của Chúa Giêsu như trong trường hợp này.
Biến cố này xảy đến ngay ở giữa sách Phúc Âm Maccô và như đã có ý sắp xếp vậy, vì chuyện đã xảy ra đúng vào khoảnh khắc tuyệt đỉnh của Phúc Âm. Ít ra theo một phương diện, khoảnh khắc này là một băn khoăn của Chúa Giêsu, cho dù các môn đệ Ngài có nghĩ gì. Chúa Giêsu biết chắc chắn ở phía trước, sừng sững một thập giá chẳng thể tránh né, mọi sự không còn kéo dài bao lâu nữa. Thế lực chống đối đang tập trung lực lượng để tấn công. Vấn đề Chúa Giêsu phải đối đầu là: đời sống của Ngài đã gây được chút ảnh hưởng gì chưa? Ngài có thực hiện được gì? Hay nói cách khác, đã có người nào khám phá được Ngài thật sự là ai chưa? Nếu Ngài đã sống, đã giảng dạy, đã đi đây đó giữa loài người nhưng chẳng một ai thoáng thấy được Thiên Chúa nơi Ngài, thì tất cả công lao của Ngài đã bỏ ra chẳng đi đến đâu cả. Phương pháp duy nhất Ngài có thể để lại một thông điệp cho loài người, đó là viết nó vào lòng một số người, vì thế, trong thời gian này, Chúa Giêsu đã đem mọi sự đưa vào một trắc nghiệm. Ngài hỏi các môn đệ thiên hạ đang nói gì về Ngài, để Ngài nghe từ chính họ tiếng đồn và dư luận quần chúng. Tiếp theo là một khoảnh im lặng nghẹt thở. Ngài đặt một câu hỏi thật nhiều ý nghĩa: “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?”. Thình lình Phêrô nhận ra được điều ông vẫn biết từ nơi sâu thẳm của lòng mình. Đây là Đấng Mêsia, là Đức Kitô, Đấng được xức dầu, là Con Thiên Chúa. Qua câu trả lời này, Chúa Giêsu biết Ngài không thất bại.
Nhưng giờ đây, chúng ta đến một vấn đề đã được nêu lên và đã giải đáp nửa phần trước đây, cần được giải đáp cách chi tiết, nếu không cả câu chuyện Phúc Âm sẽ không được thấu hiểu đầy đủ. Ngay sau khi Phêrô khám phá điều đó, Chúa Giêsu bảo ông không được nói điều này với ai. Tại sao? Trước nhất và trên hết, Chúa Giêsu phải dạy Phêrô và những người khác về sứ vụ Mêsia thực sự có nghĩa gì. Vậy, muốn hiểu rõ nhiệm vụ mà Chúa Giêsu đang nắm trong tay, muốn hiểu được ý nghĩa đích thực sự cần yếu đó, chúng ta cần xem lại các ý niệm liên hệ đến Đấng Mêsia vào thời Chúa Giêsu thật sự là gì.
Các ý niệm về Đấng Mêsia của dân Do Thái.
Suốt quá trình tồn tại, người Do Thái chẳng khi nào quên họ là tuyển dân của Chúa theo một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Vì lý do ấy, họ trông mong được một địa vị đặc biệt trên thế giới. Vào thời xa xưa, họ trông đợi chiếm được một địa vị đó bằng điều mà chúng ta có thể gọi là các phương tiện tự nhiên. Họ luôn luôn xem những ngày trọng đại nhất trong lịch sử của họ như các ngày của Đavít, và họ mơ ước một ngày kia họ sẽ có một vua khác thuộc dòng dõi Đavít, một vua sẽ làm cho họ trở thành vĩ đại trong sự công chính và thế lực (Is 9,7; Gr 22,4; 23,5; 30,9). Nhưng thời gian trôi qua, sự vĩ đại mà họ mơ ước đó rõ ràng một cách đáng thương hại là sẽ chẳng bao giờ có thể thực hiện được bằng các phương tiện tự nhiên. Mười chi phái bị đày sang ASyri và đã vĩnh viễn thất lạc, người Babylon chinh phục Giêrusalem, bắt dân Do Thái đem về nước làm tù binh. Rồi đến người Ba Tư trở thành chủ nhân ông của họ, tiếp theo là người Hy Lạp, sau đó là người Roma. Thế là đã chẳng chinh phục, cai trị được ai, mà qua nhiều thế kỷ, dân Do Thái cũng chẳng biết đến tự do là gì nữa. Cho nên có một dòng tư tưởng khác nẩy sinh. Ý niệm về một nhà vua vĩ đại thuộc dòng Đavít vẫn chưa bao giờ tan biến hẳn, luôn luôn ở trong tư tưởng của họ dưới một hình thức nào đó, càng ngày họ càng mơ ước về một ngày khi Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử bằng những phương tiện siêu nhiên, sẽ thực hiện điều mà các phương tiện tự nhiên chẳng bao giờ thành tựu được. Họ trông mong quyền năng của Chúa sẽ làm cho họ những gì mà khả năng của con người phải bó tay.
Trong giai đoạn giữa Cựu và Tân Ước, đã có hàng loạt các sách về những giấc mơ, những dự báo về các thời đại mới đó và sự can thiệp của Thiên Chúa. Các sách ấy được xếp vào một loại được gọi là các sách Khải Huyền. Từ này có nghĩa là vén màn. Các sách này là phương tiện nhằm vén lên những bức màn đang che giấu tương lai. Chúng ta phải quay sang các sách ấy để tìm hiểu xem dân Do Thái thời Chúa Giêsu đã tin gì về Đấng Mêsia, về công tác của Ngài và về thời đại mới. Chúng ta phải đặt giấc mơ của Chúa Giêsu trong bối cảnh các giấc mơ của họ.
Trong các sách ấy, đã xuất hiện một số ý niệm căn bản. Ở đây chúng ta theo cách xếp loại các ý niệm ấy của Schurer, tác giả của “Lịch Sử Dân Do Thái Thời Chúa Giêsu”.
1/ Trước thời Đấng Mêsia đến, sẽ có một giai đoạn đại nạn. Đó là cơn quặn thắt Mêsia. Đó sẽ là cơn chuyển bụng của kỷ nguyên mới. Tất cả những gì khủng khiếp có thể quan niệm được sẽ bùng nổ trên đất, mọi tiêu chuẩn về vinh dự, về luân lý đạo đức đều bị đánh đổ, thế gian này sẽ trở thành một cảnh hỗn mang cả về phương diện thể chất luôn cả tinh thần.
“Và vinh hiển sẽ biến thành nhục Và sức mạnh sẽ bị hạ bệ, bị khinh bỏ Và sự chân thật bị tận diệt Và đẹp đẽ trở thành xấu xí Và tham lam sẽ dấy lên trong lòng những kẻ chẳng hề nghĩ mình ra gì. Và đam mê sẽ bắt lấy kẻ vốn an phận Và nhiều người sẽ bị xách động để nổi giận, gây tàn hại người khác. Và thiên hạ sẽ dấy binh để gây đổ máu Và cuối cùng, họ sẽ chết chung với nhau” (II Barúc 27)
Sẽ có: “nhiều cơn động đất, nhiều dân tộc náo loạn, nhiều quốc gia mưu đồ, nhiều lãnh tụ bối rối, nhiều vua chúa lo âu” (Xh 9,3).
“Sẽ có nhiều tiếng nói khủng khiếp từ trời vang xuống đất. Những tia chớp vừa to lớn, vừa sáng chói lóe lên giữa loài người và địa cầu, là mẹ của vũ trụ sẽ chuyển động, trong các ngày đó, bởi tay Đấng Vĩnh Cửu. Cả dưới biển, thú vật trên đất, vô số loài vật hay linh hồn người ta cùng biển cả sẽ run rẩy, kinh hoàng trước Đấng Vĩnh Cửu. Và những đỉnh núi, các đồi lớn sẽ bị xé ra và mọi người sẽ nhìn thấy các vực sâu, các thung lũng, trên các núi cao sẽ đầy dẫy xác người, những khối đá sẽ tuôn tràn máu và mọi thác sẽ đổ máu xuống làm tràn ngập các đồng bằng… Và Chúa sẽ phán xét mọi người bằng chiến tranh, bằng gươm, sẽ có diêm sinh từ trời xuống, phải, sẽ có đá, có mưa, có băng giá liên tục và trầm trọng. Sự chết sẽ giăng trên loài thú bốn chân… Phải, chính đất sẽ uống máu người chết, thú rừng sẽ ăn thịt họ” (Các sấm ký của Sybille 3,363).
Kinh Mishnah kể ra các dấu hiệu cho biết lúc Đấng Mêsia gần đến.
“Sự khoe khoang tăng thêm, tham vọng nảy sinh, cây nho ra trái và rượu nho được ưa chuộng. Các chính quyền biến thành tà giáo. Không còn có sự dạy dỗ nữa, các hội đường bị dành cho việc dâm đãng. Galilê bị tàn phá. Gabian bị hoang vu. Dân chúng của một khu vực đi từ thành phố này sang thành phố khác nhưng chẳng được ai thương xót. Sự khôn ngoan của người học thức bị thù ghét, kẻ tin kính bị khinh dể, chân lý vắng bóng. Con nít mắng chửi người già cả, người già phải chịu cho con trẻ xét xử. Con trai khinh cha, con gái chống đối mẹ, dâu nghịch cùng mẹ chồng. Kẻ thù của người ta là người nhà mình”.
Thời kỳ trước khi Đấng Mêsia đến là thời kỳ mà thế gian bị xé ra từng mảnh và mọi dây ràng buộc đều bị nới lỏng. Trật tự vật thể và tinh thần đều sụp đổ.
2/ Giữa cảnh hỗn mang đó. Êlia đến với tư cách sứ giả tiền trạm, báo trước việc Đấng Mêsia giáng lâm. Ông có nhiệm vụ hàn gắn các vết thương và lập lại trật tự cho cảnh hỗn mang để dọn đường cho Đấng Mêsia đến. Đặc biệt là ông phải dàn xếp những bất hòa, tranh chấp. Thật ra, luật truyền khẩu của Do Thái giáo có quy định rằng tất cả tiền bạc, tài sản đạng bị tranh chấp về chủ quyền hoặc bất cứ vật gì người ta không biết sở hữu chủ thì phải chờ đợi “cho tới khi nào Êlia đến”. Khi Êlia đến, thì Đấng Mêsia không còn bao xa nữa.
3/ Rồi Đấng Mêsia sẽ đến. Từ Messiah và từ Christ vốn đồng nghĩa, chỉ về Đấng được xức dầu (Messiah là chữ Do Thái, còn Christ là chữ Hy Lạp). Trước khi lên làm vua, nhà vua phải được xức dầu, Đấng Mêsia là nhà vua được Thiên Chúa xức dầu. Điều quan trọng cần nhớ là Christ không phải là tên mà là tước vị. Lắm lúc người ta nghĩ rằng Đấng Mêsia là nhà vua thuộc dòng dõi vua Đavít, nhưng thường hơn, người ta nghĩ về một nhân vật vĩ đại, một thần nhân, một siêu nhân, xuất hiện trong lịch sử để tái tạo thế giới và cuối cùng sẽ báo thù cho dân của Chúa.
4/ Các dân, các nước sẽ liên minh với nhau để chống nhà vô địch của Thiên Chúa.
“Các vua của các dân tộc sẽ xông vào đất này để tự thanh toán lấy nhau. Khi đã đến xứ này, họ sẽ tìm cách cướp phá Đền Thờ của Thiên Chúa quyền năng và những nhà quyền quý. Các nhà vua đáng nguyền rủa ấy cùng với đoàn dân vô đạo sẽ bao vậy thành phố và đặt ngai mình tại đó. Và rồi, bằng một tiếng phán lớn. Thiên Chúa sẽ nói với người vô kỷ luật đầu óc trống rỗng đó, và phán xét sẽ giáng trên chúng từ Thiên Chúa toàn năng, khiến tất cả đều chết dưới tay Đấng Vĩnh Cửu” (các sấm ký của Sybille 3, 363-372).
“Chuyện sẽ xảy ra là khi các dân nước nghe tiếng Ngài (Đấng Mêsia) mọi người sẽ rời bỏ xứ mình, ngưng chiến tranh chống lại nhau, vô số người không đếm xuể sẽ tụ họp, muốn chống lại Ngài” (Xh 13,33-35).
5/ Kết quả là các thế lực chống đối sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt, Philo bảo rằng Đấng Mêsia sẽ “ra trận đánh giặc và tiêu diệt các nước lớn và dân đông”.
Ngài sẽ trừng phạt chúng nó vì tội bất kính Quở trách chúng vì sự bất chính Trách mắng tận mắt chúng vì sự phản bội của chúng Và khi quở trách chúng, Ngài sẽ tiêu diệt chúng (Xh 12,32-33)
“Và việc đã xảy ra trong những ngày đó, sẽ chẳng có một ai được cứu, hoặc là nhờ vàng hay bạc, sẽ chẳng một ai thoát thân được, và sẽ không có sắt cho chiến tranh, cũng chẳng có ai mặc áo giáp. Đồng sẽ thành vô dụng, thiếc sẽ không còn được ưa chuộng, sẽ không còn ai thích chì, mọi vật sẽ bị tiêu diệt khỏi mặt đất” (Hênóc 52,7-9).
Đấng Mêsia sẽ là nhà chinh phục gây nhiều tàn hại nhất trong lịch sử, đàn áp các kẻ thù Ngài cho đến khi chúng hoàn toàn bị tiêu diệt.
6/ Tiếp theo đó, thành Giêrusalem sẽ được làm mới lại. Đôi khi người ta nghĩ thành phố hiện có sẽ được thanh tẩy nhưng thông thường hơn thì nghĩ rằng thành Giêrusalem mới sẽ từ trời xuống. Ngôi nhà cũ sẽ được cuốn lại và đem đi chỗ khác, ngôi nhà mới được thế vào “tất cả cột trụ đều mới và đồ vật trang trí đều mới và đồ vật trang trí đều lớn hơn trong nhà cũ” (Hênóc 90,28-29).
7/ Dân Do Thái đã bị tản lạc khắp thế gian sẽ được gom về thành Giêrusalem mới. Nhằm hướng về ngày đó, bài cầu nguyện của người Do Thái mỗi ngày có lời khấn xin “Xin hãy giương lên một ngọn cờ để thu góp những kẻ tản lạc của chúng tôi khắp bốn phương trời lại”. Có một bức tranh cao quý về việc hồi hương đó: “Hãy thổi kèn trong Sion, để kêu gọi các thánh hãy làm cho người ta nghe trong Giêrusalem tiếng của kẻ mang Tin Mừng vì Thiên Chúa đã thương với dân Israel và thăm viếng họ. Hỡi Giêrusalem, hãy lên đỉnh núi cao mà nhìn xem con cái người, từ Đông sang Tây. Đức Chúa đang thu gom chúng lại, từ phương Bắc, chúng đến trong niềm vui của Chúa mình, từ các đảo xa, Chúa đã thu gom chúng lại, các núi cao hạ thấp xuống thành đồng bằng cho chúng, các đồi chạy trốn cho chúng đi vào, khi chúng đi qua, cây cối sẽ che chúng. Chúa khiến đủ thứ cây cối có hương thơm mọc lên vì chúng, để dân Israel có thể đi qua khi vinh quang của Chúa mời gọi chúng. Hỡi Giêrusalem, hãy mặc áo vinh quang, hãy chuẩn bị sẵn áo dài thánh thiện của ngươi; vì Chúa đã nói sự tốt đẹp cho Israel mãi mãi. Nguyện Đức Chúa thực hiện điều Ngài đã phán liên hệ với Israel và Giêrusalem. Nguyện Đức Chúa và lấy danh vinh quang Ngài thúc đẩy Israel. Nguyện lòng thương xót của Đức Chúa ngự trên Israel đời đời”.
Thật dễ thấy thế gian này sẽ được làm mới lại theo cách nào dưới mắt người Do Thái. Lòng yêu nước của họ bao giờ cũng là yếu tố nổi bật.
8/ Xứ Palestine sẽ là trung tâm thế giới, và cả thế gian sẽ quy phục nó. Tất cả mọi dân tộc sẽ bị đè bẹp, thỉnh thoảng người ta nghĩ đến điều này như một sự quy phục hòa bình “Và mọi cù lao, mọi thành phố sẽ nói: Chúa thương yêu dân ấy biết bao. Vì mọi sự đều hợp lại làm ích lợi và giúp đỡ họ… hãy đến, sấp mình xuống đất và cầu khẩn vua đời đời, là Chúa toàn năng và vĩnh cửu, hãy diễu hành đến Đền Thờ Ngài. Vì Ngài là Đấng Toàn Năng duy nhất” (các sấm ký của Sybille 3,690tt)/
Thương hơn nữa, số phận của các dân ngoại là bị tiêu diệt, do đó dân Israel sẽ được nhắc đến và vui mừng. “Và Ngài sẽ hiện ra để trừng phạt các dân ngoại, tiêu diệt các thần tượng của chúng, rồi ngươi, hỡi Israel, hãy vui mừng, ngươi sẽ cỡi lên cỏ, lên đôi cánh của chim phượng hoàng (nghĩa là Roma, con chim phượng hoàng-sẽ bị tiêu diệt), chúng sẽ bị tiêu diệt và Chúa sẽ tôn cao ngươi. Và từ trên cao ngươi sẽ nhìn xuống, thấy các kẻ thù mình trong địa ngục, ngươi sẽ nhận ra chúng và vui mừng” (Quyết Đoán của Môsê 10,8-10).
Thật là một bức tranh ảm đạm. Dân Israel sẽ vui mừng khi thấy các kẻ thù mình bị đập tan và ở trong hỏa ngục. Cả đến những người chết của dân Israel cũng sẽ được sống lại và dự phần vào thế giới mới.
9/ Cuối cùng một thời đại mới hòa bình và tốt đẹp sẽ đến và tồn tại mãi mãi.
Trên đây là các ý niệm về Đấng Mêsia vốn ở trong tâm trí người Do Thái lúc Chúa Giêsu đến thế gian này. Các ý niệm ấy vốn là tàn bạo, đầy tinh thần quốc gia cực đoan, gây tàn hại và báo thù. Thật ra chúng cũng được cho kết thúc bằng sự trị vì trọn vẹn của Thiên Chúa, nhưng muốn đạt đến đó, phải trải qua trận tắm máu và một sự nghiệp chinh phạt. Hãy nghĩ về Chúa Giêsu bị đặt trong một bối cảnh như vậy, cho nên chẳng có gì để ngạc nhiên nếu Ngài cần huấn luyện các môn đệ mình về ý nghĩa của Đấng Mêsia và chẳng có gì lạ nếu cuối cùng, chúng đã đóng đinh Ngài vào thập giá vì tội giảng tà giáo. Trong một bức tranh như thế, làm sao có chỗ cho một thập giá, cũng chẳng hề có một chỗ trống nào dầu thật nhỏ hẹp cho tình thương chịu khổ được.
KẺ CÁM DỖ LỢI DỤNG TIẾNG NÓI CỦA NGƯỜI BẠN THÂN (8,31-33)
Chúng ta phải đặt câu chuyện này trong bối cảnh vừa thấy về quan niệm thông thường liên hệ đến Đấng Mêsia. Khi Chúa Giêsu kết hợp chức vụ của Đấng Mêsia với đau khổ và sự chết là Ngài đang khẳng định với các môn đệ Ngài những điều khó tin, khó hiểu. Suốt đời họ vẫn quan niệm về một Đấng Mêsia bách chiến bách thắng, thế mà bây giờ họ lại được nghe một ý niệm họ phải choáng váng. Chính vì thế, nên Phêrô đã mạnh mẽ phản đối. Với ông toàn thể vấn đề không thể nào xảy ra như vậy được.
Tại sao Chúa Giêsu quở trách Phêrô quá nghiêm khắc như vậy? Vì lời ông nói ra cũng chính là cám dỗ đang tấn công Chúa Giêsu lúc đó, Chúa Giêsu không hề muốn chết, Ngài biết rằng Ngài có quyền năng để sử dụng cho việc chinh phục và chiến thắng. Lúc này cuộc chiến đấu với cám dỗ trong hoang địa đang tái diễn. Chính ma quỷ lại cám dỗ Ngài một lần nữa là hãy sấp mình xuống thờ lạy nó, hãy chấp nhận đường lối của nó thay vì đường lối của Thiên Chúa.
Việc kẻ cám dỗ nói với chúng ta bằng giọng nói của một người bạn thân thiết là điều hết sức kỳ lạ, lắm khi còn là khủng khiếp nữa. Có lẽ chúng ta đã quyết định tiến hành công việc phải lẽ mà không thể nào tránh được rắc rối, mất mát, bị chê bai và phải hy sinh. Thế rồi, đúng lúc đó, có thể có một người bạn thân thiết, đến với ý định tốt, để cố gắng can ngăn chúng ta. Tôi biết một người đã quyết tâm tiến hành một công việc hầu như chắc chắn sẽ đưa người ấy lâm cảnh rắc rối. Một người bạn đến và cố thuyết phục, can ngăn ông ta, người bạn nói “Hãy nhớ anh còn vợ và gia đình, anh không nên làm thế!”. Có thể một người vì rất yêu mến chúng ta đến nỗi người ấy muốn chúng ta tránh chuyện rắc rối để tìm kiếm một nếp sống an toàn.
Kẻ cám dỗ không thể tìm được cách tấn công nào khủng khiếp hơn là tấn công bằng tiếng nói của những người yêu thương chúng ta và những người chỉ nghĩ đến việc mưu tìm điều tốt đẹp cho chúng ta. Đó chính là chuyện đã xảy ra cho Chúa Giêsu ngày hôm ấy và cũng chính vì thế mà Ngài đã đáp lại thật nghiêm khắc. Cả đến tiếng van nài của tình thương cũng không thể lấn át tiếng nói cấp thiết của Thiên Chúa.
CON ĐƯỜNG LÀM MÔN ĐỆ CHÚA (8,34)
Phần này của Phúc Âm Maccô rất gần với trung tâm niềm tin Kitô giáo nên chúng ta phải học từng câu một. Nếu mỗi ngày, một người chỉ cần một trong những câu này ghi khắc vào tâm trí và làm chủ đời sống mình, thiết tưởng chừng đó cũng đã đầy đủ lắm rồi, để có thể tiếp tục tiến tới.
Thoạt nhìn có hai điều nổi bật ở đây:
1/ Sự thành thật của Chúa Giêsu gần như đáng gây ngạc nhiên. Chưa hề có ai nói rằng mình đã bị xúi giục đi theo Chúa Giêsu. Ngài không hề mua chuộc người ta bằng cách đề nghị môt con đường dễ dãi. Ngài không đề nghị với con người sự bình an, Ngài chỉ đề nghị với họ sự vinh quang. Nói với một người phải sẵn sàng vác thập giá nghĩa là nói với người ấy phải sẵn sàng chịu người ta nhìn mình như một tội phạm và phải lãnh án tử hình. Lòng thành thật của các đại lãnh tụ luôn luôn là một trong những đặc điểm của họ. Trong thế chiến thứ hai, lúc Sir Winston Churchill lên nhận chức, tất cả những gì ông đề nghị với mọi người là “máu, nhọc nhằn, mồ hôi và nước mắt”. Nhà ái quốc lừng danh người Ý Garibaldi đã hiệu triệu các tân binh bằng những lời lẽ sau đây: “Tôi không trao cho anh em lương bổng, nhà cửa, lương thực. Tôi chỉ cho đói, khát, hành quân, chiến trận và chết. Ai là người yêu xứ sở bằng con tim của mình, chớ không chỉ bằng môi miệng, hãy theo tôi”. “Hỡi các chiến hữu, mọi nỗ lực của chúng ta chống lại những lực lượng hùng mạnh hơn đã không thành công. Tôi có gì để cho anh em ngoài đói, khát, nhọc nhằn và chết chóc; nhưng tôi kêu gọi tất cả những ai yêu tổ quốc, hãy theo tôi”. Chúa Giêsu không bao giờ nghĩ chuyện lừa gạt, bảo người ta theo Ngài bằng cách hứa hẹn cho họ một con đường dễ đi. Ngài đã tìm cách thách thức họ, khơi dậy chí khí đang ngủ trong tâm hồn họ, bằng cách đề nghị với họ một con đường ngày càng lên cao hơn, càng gian khổ hơn. Ngài không hứa hẹn sẽ khiến đời sống họ được dễ dàng hơn, nhưng sẽ khiến họ trở thành vĩ đại hơn.
2/ Sự nêu gương của Chúa Giêsu, Ngài không hề kêu gọi con người thực hiện hay đối diện bất cứ chuyện gì mà chính Ngài không sẵn sàng đương đầu và thực hiện trước. Chắc chắn đó là đặc tính của một lãnh tụ được một số người nối gót. Lúc Alịchsơn Đại đế truy kích Đariút, nhà vua đã thực hiện một trong những cuộc trường chinh kỳ diệu trong lịch sử. Suốt 11 ngày, nhà vua đã thúc giục đạo quân của mình đi được 663 km. Binh sĩ hầu như sắp bỏ cuộc vì khát nước. Plutarch kể lại câu chuyện sau đây: “Lúc họ đang khốn đốn, có mấy người Makêđônia cỡi lừa đi tìm nước từ các con sông gần đó trở về, thấy nhà vua hầu như đang nghẹt thở vì khát, họ dâng một chiếc mũ sắt đựng nước lên cho vua. Vua hỏi họ đem nước cho ai? Họ bảo là cho các con của họ và thêm rằng chỉ cần cứu được mạng của vua. Bấy giờ nhà vua nhận chiếc mũ sắt đựng nước của họ, nhìn quanh thì thấy mọi người đứng quanh đều ngóng cổ cổ lên, tỏ ra rất thèm được uống nước. Nhà vua liền trả lại chiếc mũ sắt, chẳng nếm lấy một giọt và cám ơn họ. Vua nói “Nếu chỉ một mình ta uống nước thì số người còn lại đều ngã lòng”. Binh sĩ thấy ngay tính tự chế và rộng lượng của nhà vua nên nhất quyết yêu cầu nhà vua hãy mạnh dạn truyền lệnh lên ngựa, bắt đầu ra roi. Một khi họ đã có vị vua như vậy, họ bất chấp đói khát mệt mỏi và tự xem mình chẳng kém gì những nhân vật bất tử. Thật dễ nối gót một lãnh tụ chẳng bao giờ đòi hỏi thuộc hạ những gì mà chính mình không chịu được. Vì tướng Roma lừng danh là Quintus Fabius Cuncator, một hôm đang thảo luận với bộ tham mưu về chiến thuật đánh chiếm một vị trí khó thanh toán. Có người đề nghị một phương cách hành động. Vị cố vấn này nói “Làm thế thì chỉ cần hy sinh một số ít người thôi”. Fabius nhìn thẳng vào vị cố vấn ấy và hỏi “thế ông có sẵn lòng làm một trong số ít người đó không?” Chúa Giêsu không phải là một lãnh tụ chỉ ngồi xa đùa giỡn với sinh mạng con người như những con tốt phí vậy. Nếu Ngài đòi hỏi người ta phải đương đầu với điều gì, chính Ngài cũng sẵn sàng đối đầu với nó. Chúa Giêsu có quyền kêu gọi chúng ta hãy vác thập giá, bởi vì chính Ngài đã từng vác.
3/ Chúa Giêsu dạy ai muốn làm môn đệ Ngài “phải liều mình”. Ta sẽ hiểu câu này rõ hơn theo nghĩa đen thật đơn giản trong nguyên văn. Câu này có nghĩa là “Hãy nói không với chính mình”. Nếu ai muốn theo Chúa Giêsu thì luôn luôn phải trả lời “không” với chính mình và đáp “vâng” với Chúa. Người ấy phải đáp không với tính tự nhiên ưa thích dễ dãi, an vui cho chính mình. Người ấy phải trả lời không với hành động đặt nền tảng trên ý riêng và nhằm tìm lợi lộc, thoải mái cho riêng mình. Người ấy phải trả lời vâng với tiếng nói và lệnh truyền của Chúa Giêsu mà không chút phân vân. Người ấy phải đồng hành với Phaolô để nói rằng: không phải tôi sống nữa, nhưng Chúa Kitô đang sống trong tôi. Người ấy sẽ không sống để theo đuổi ý riêng nữa, nhưng để theo ý của Chúa, và trong khi phục vụ Ngài, người ấy thực sự cảm thấy mình được tự do hoàn toàn.
ĐƯỢC LẠI ĐỜI SỐNG BẰNG CÁCH LIỀU BỎ MẠNG SỐNG (8,35)
Có nhiều điều hễ muốn giữ thì mất, nhưng nếu đem ra sử dụng thì lại giữ được. Bất cứ tài năng nào của con người cũng như vậy. Nếu sử dụng nó, nó sẽ phát triển trở thành tinh vi, vĩ đại hơn. Nếu chúng ta không chịu dùng đến nó, cuối cùng nó sẽ bị mai một đi. Trên hết mọi sự, cuộc đời của con người vốn giống như vây.
Lịch sử đầy dẫy những tấm gương về những con người liều bỏ mạng sống mà được sự sống đời đời. Bên phương Đông, cuối thế kỷ 4 SCN có một tu sĩ tên là Telemachus. Ông đã quyết định từ bỏ thế gian để sống riêng biệt trong cầu nguyện, suy gẫm, chay tịnh, và mong nhờ đó cứu rỗi linh hồn. Trong nếp sống tách biệt đó, ông chẳng tìm kiếm gì khác hơn là được tiếp xúc với Chúa, nhưng ông vẫn cảm thấy có một cái gì đó còn trục trặc, sai lầm. Một ngày nọ, lúc ông từ chỗ đang quỳ đứng lên, thình lình một tia sáng lóe lên trong tâm trí ông: cuộc sống của ông không đặt trên tình yêu vô ngã đối với Chúa mà là tình yêu ích kỷ. Ông được cho thấy nếu muốn phục vụ Chúa, ông phải phục vụ con người, sa mạc không phải là chỗ để Kitô hữu sống, nhưng là các đô thị đầy dẫy tội lỗi dang có rất nhiều nhu cầu. Vậy ông nhất định giã từ sa mạc và đến ở một thành phố lớn nhất thế giới là thành phố Rôma ở phương Tây. Ông vừa xin ơn vừa vượt biển vừa băng trên đất liền để đến Roma. Vào thời đó Roma đã được Kitô giáo hóa. Ông đến Roma nhằm lúc tướng Roma là Sitilicho vừa thắng được dân Gót một trận lớn. Roma đã dành nhiều vinh quang cho Sitilicho. Khác với thời bách hại, bấy giờ thiên hạ đổ xô vào các nhà thờ Kitô giáo chứ không phải đến các đền thờ ngoại đạo nữa. Người ta tổ chức những cuộc diễu hành, lễ mừng và Sitilicho cỡi ngựa đi qua các đường phố Roma với tư cách kẻ chiến thắng, bên cạnh có hoàng đế trẻ tuổi Honorius. Nhưng trong thành phố Roma theo Kitô giáo vẫn còn sót lại một điều: đấu trường và những cuộc giác đấu. Bấy giờ, các Kitô hữu không còn bị ném cho sư tử xé xác nữa nhưng hãy còn các tù binh chiến tranh bị đưa ra để đánh giết nhau, cho dân chúng Roma ăn mừng các ngày lễ của họ. Mọi người reo hò khi thấy máu chảy trong các cuộc giác đấu. Hôm ấy, Telemachus tìm đường đến đấu trường. 80.000 người đang có mặt tại đó. Cuộc đua chiến xa vừa chấm dứt, thiên hạ đang nhốn nháo vì các lực sĩ giác đấu sắp tranh tài. Họ vào đấu trường và tung hô “Xêda vạn tuế, chúng tôi là những kẻ chết, xin chào hoàng đế”. Cuộc đấu bắt đầu Telemachus cảm thấy kinh hoàng. Những người mà Chúa Kitô đã chịu chết thay cho đó lại đang giết nhau để mua vui cho đám đông tự nhận là Kitô hữu. Ông nhảy qua hàng rào, ông đứng giữa hai lực sĩ giác đấu đang đánh nhau, họ dừng lại một chút. Đám đông gào lên “Hãy để các trò vui tiếp tục”. Họ đẩy ông lão qua một bên, ông vẫn còn mặc bộ áo tu sĩ ẩn tu. Ông lại xông vào giữa họ. Đám đông bắt đầu lượm đá ném ông. Họ kêu các lực sĩ giác đấu hãy giết ông để dẹp cho trống chỗ. Người chỉ huy các trò vui ra lệnh, một lực sĩ giác đấu vung gươm lên, chém xuống. Telemachus ngã lăn ra chết. Thình lình cả đám đông yên lặng như tờ. Họ bị xúc động mạnh vì một thánh nhân vừa bị giết. Chuyện quá đột ngột và đám đông bỗng hiểu giết người có mang một ý nghĩa. Hôm đó, các trò vui giác đấu bị ngưng và từ đó không còn tiếp tục nữa. Bằng cái chết của mình, Telemachus kết thúc các trò chơi ấy. Gibbon đã nói về ông “cái chết của ông hữu ích cho nhân loại hơn đời sống của ông”. Liều bỏ mạng sống, ông đã làm được nhiều việc hơn là lúc ông tự đầy ải nó bằng cách biệt riêng để tĩnh tâm trong sa mạc.
Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống để sử dụng chứ không phải đem giấu đi hay giữ lại. Nếu chúng ta sống cách cẩn thận luôn dành ưu tiên suy nghĩ về lợi lộc, thoải mái, an toàn, sung túc của riêng mình, nếu mục đích duy nhất của chúng ta là kéo dài cuộc đời trốn tránh gian khổ càng nhiều càng hay, nếu chúng ta chịu nỗ lực khi nào có lợi cho riêng mình, chúng ta luôn luôn đánh mất đời sống. Nhưng nếu chúng ta dùng đời sống mình vì tha nhân, nếu đầu tư thì giờ, sức khỏe, tài sản vào một việc gì đó cho Chúa Giêsu và cho những người Ngài đã chịu chết thay cho, chúng ta luôn luôn thắng cuộc trong đời sống. Việc gì sẽ xảy đến cho thế giới này nếu các bác sĩ, các nhà khoa học, những phát minh đều không chịu liều mạng làm các thí nghiệm mà thường thường là trên chính thân thể họ. Chuyện gì sẽ xảy đến cho thế giới này, nếu mọi người chỉ muốn sống an nhàn vô sự ở nhà, chẳng ai chịu đi tiên phong thực hiện những cuộc thám hiểm? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu không có bà mẹ nào chịu mang nặng đẻ đau? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu mọi người tiêu dùng tất cả những gì họ có cho riêng họ? Yếu tính của đời sống là đánh liều và sử dụng đời sống mình chứ không phải là bảo vệ, giấu kín nó. Chúng ta sẽ ngày càng hao mòn kiệt quệ, tàn tạ thật sự, khi tận hiến cuộc sống mình. Ngày nào cũng làm cho đời sống mình bùng cháy lên, thì vẫn còn hơn là để nó han rỉ, vì đó chính là con đường hạnh phúc, đường đến với Chúa.
Chúa Giêsu đưa các môn đệ đi rất xa (c.27a). Chỉ cần nhìn sơ trên bản đồ Palestin thời đó là: TN 24-B31
Chúa Giêsu đưa các môn đệ đi rất xa (c.27a). Chỉ cần nhìn sơ trên bản đồ Palestin thời đó là chúng ta cũng rõ: Xêdarê Philipphe nằm tuốt ở mạn bắc, cận dòng sông Giođan và chân núi Hecmon. Đây là một vùng xa xôi giữa miền đất dân ngoại.
Lợi dụng cuộc đi bộ đường dài với các bạn hữu, Chúa Giêsu đã thăm dò ý kiến của họ về Ngài (c. 27b). Các từ ngữ được dùng ở đây đều nhằm mục đích đó. Chính nhờ đồng hành với Chúa Giêsu, lắng nghe Ngài đặt ra câu hỏi mà chúng ta có thể hiểu được khuông mặt đích thực của Ngài hơn. Câu đầu tiên Ngài hỏi các môn đệ là: “Người ta bảo Thầy là ai?” (c. 27c). đây đúng là một sự thăm dò ý kiến. Trước hết cần phải biết quảng đại quần chúng nghĩ gì về thân thế của Thầy. Đây là một câu hỏi trắc nghiệm thú vị có thể tiết lộ cho thầy được nhiều điều. Trước đây Maccô đã vén lên bức màn cho thấy những ý nghĩ đang lưu hành trong quần chúng Do Thái từ tầng lớp thấp nhất đến tầng lớp cao nhất (x. 6,14- 16). Từ quần chúng vô danh đến ngay chính bản thân Hêrôđê Antipa cũng đưa ra những ý kiến tương tự các ý kiến hiện đang được chính miệng các môn đệ nói ra. Đối với một số người, Chúa Giêsu được đồng hoá với Gioan Tẩy Giả hoặc Êlia; đối với một số khác, Chúa Giêsu được đồng hoá với một trong các tiên tri thời xưa (c. 28). Cái nhìn của quảng đại quần chúng này quả thật thú vị bởi vì nó liệt Thầy vào hàng một vị Mêsia. Tuy nhiên đây cũng chỉ là cái nhìn của người mù ở Betsaiđa lúc mới được Chúa chữa sơ, nghĩa là anh ta vẫn còn thấy lờ mờ (x. 9,23b-24a). Nhận biết Chúa Giêu là vị đại tiên tri như thế cũng rất có giá trị bởi vì đó là bước đầu tiên của của đức tin. Tuy nhiên điều này vẫn còn xa vời chân lý. Vì thế mà Chúa Giêsu đã yêu cầu nhóm môn đệ nói lên rõ ràng hơn về thân thế của Ngài (c. 29).
Và ngay lúc này đây đặt ra cho các môn đệ câu hỏi về thân thế của Thầy họ quả thực là khẩn thiết. Từ nhiều tháng nay, có lẽ khoảng một hai năm rồi, nhóm môn đệ này đã theo nghe Chúa Giêsu giảng dạy cũng như đã chứng kiến các hành vi và cử chỉ của Ngài. Họ đã sát cánh bên Ngài trải qua một cuộc hải hành không chỉ thuộc bình diện địa lý mà còn thuộc bình diện thiêng liêng nữa. Bẫy giờ đã đến lúc thuận tiện để vị Sư Phụ trắc nghiệm các đệ tử sau một thời gian đào tạo đức tin lâu dài cho họ. Chúng ta hoàn toàn có quyền tự hỏi liệu đám bạn hữu Chúa Giêsu có còn bị nhốt kín trong sự “mù loà” mà Ngài từng trách cứ không? (8,17- 18). Liệu họ đã có một nhận thức rõ rệt hơn về thân thế đích thực của Thầy mình chưa?
Câu trả lời của Phêrô vang dội như một tia chớp sáng ngời trong bầu trời tăm tối (c. 29). Cuối cùng thì đây là một lời tuyên xưng đức tin rành mạch. Qua miệng người huynh trưởng, đám môn đệ chứng tỏ được rằng cuối cùng thì họ đã nhận ra được thân thế chính xác của Chúa Giêsu: Ngài là “Đấng Mêsia” nghĩa là Đặc Sứ của Thiên Chúa, Ngài đã được Thiên Chúa chính thức “thánh hiến” để dứt khoát thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian này.
Maccô để cho phần đầu của Phúc Âm đạt tới tột đỉnh ở đây. Từ đầu tác phẩm, ông không ngừng chứng tỏ Chúa Giêsu là Đấng đã dùng lời nói và hành động của mình để đặt ra câu hỏi này: “Người này là ai vậy?”. Lũ ma quỷ thì đưa ra được câu trả lời rất hay (1,24; 3,,11 v.v…) còn đám người đương đại thì vẫn u mờ tăm tối. Trong tư tưởng của dân Do Thái thời đó, Đấng Mêsia mang khuôn mặt một nhà giải phóng chính trị hơn là một nhà giải phóng tôn giáo. Vì đó trước hết phải phục hồi các quyền lợi của Thiên Chúa bằng cách đẩy bọn Rôma chiếm đóng ra khỏi bờ cõi vương quốc của Đavit, phải mang lại cho dân lợi lộc kinh tế dồi dào, phải tiêu diệt mọi đớn đau bệnh hoạn. Đây phải là vị anh hùng “trần gian” khét tiếng (x.Mt 4,1-11). Như người ta đã thấy, chính Chúa Giêsu đã từng phải điều chỉnh những niềm kỳ vọng lệch lạc về thân thế Ngài sau mỗi khi Ngài đã thực hiện các phép lạ cũng như gặt hái thành công qua việc chiến thắng sự Dữ và sự Chết. Ngài phải không ngừng đưa các thính giả ra khỏi hình ảnh lầm lạc về một Đấng Mêsia thuần tuý trần gian đến để phục hồi cho Israel “thiên đàng đã mất”.
Maccô đã nhấn mạnh thái độ dè dặt của Chúa Giêsu trước những sự đợi chờ quá trần tục này: Ông đã lặp đi lặp lại không ngớt ‘bí mật về Đấng Mêsia”. Và không gì phải ngạc nhiên khi thấy ở đây một lần nữa ông lại đề cập đến “bí mật” này (c. 30). Đây chính là sự câm nín mà Chúa Giêsu từng truyền bảo lũ quỷ (1,25.43- 44), đám bệnh nhân được chữa lành (5,43: 7,36), và ngay cả các môn đệ nữa. Lý do thật đơn giản. Phải theo dõi tiếp trình thuật, quan sát đám môn đệ thời đó, cũng như các độc giả mà họ đại diện, ta mới có thể có được một ý niệm đúng đắn về Chúa Giêsu là loại Mêsia nào. Chỉ nhờ cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài, Chúa Giêsu mới có thể ban cho những kẻ theo Ngài mãi tới lúc đó, phương cách nắm bắt được chân lý toàn vẹn về mầu nhiệm của thân thế và sứ mệnh Ngài.
Tuy nhiên, chúng ta tin rằng cùng với lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, ngưỡng cửa tưởng như không thể vượt đó đã bị vượt qua. Đức Giêsu Nadaret không thể bị giản lược và hình ảnh chung chung người ta có về Ngài: một người như mọi người (x. 6,3), Ngài cũng không thể bị giản lược vào hình ảnh một lương y nổi tiếng có tài năng khiến mọi người kinh ngạc (x. 37- 11); đồng thời cũng không thể đồng hoá Ngài với khuôn mặt một vị tiên tri (x. 6,4- 6). Ngài không phải chỉ là một tiên tri mà Ngài chính là “Đấng Kitô” (từ Hy Lạp này được dùng để dịch tước hiệu “Mashia” trong tiếng Hy Bá có nghĩa là Đấng Mêsia).
Đóng vai kiểu mẫu đức tin tông đồ ở đây, đức tin của Phêrô sẽ là đức tin của Giáo Hội sơ khai sau cuộc Phục Sinh của Ngài. Chúa Giêsu “Kitô” sẽ được công bố là Đấng đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người: Do Thái cũng như dân ngoại. Ngài giải phóng họ triệt để khỏi mọi tôi ác nặng nề để từ đây họ có thể hợp thành một “nhân loại mới” (Ep 2,13- 22).
LẦN ĐẦU TIÊN LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN (8,31-33)
Điều mà bây giờ Chúa Giêsu bắt đầu nói với các môn đệ không phải là một lời giảng dạy bổ sung mà là một giáo huấn đích thực thiết lập nên một bước khởi đầu mới mẻ. Trường hợp ở đây quả thực tiện lợi. Các môn đệ, đứng đầu là Phêrô, vừa mới nhìn nhận Thầy mình là Đấng Mêsia (8,29). Lẽ ra khám phá mới có được này phải cho phéphọ nghĩ ngơi chút ít.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã quyết định cách khác. Ngài bắt đầu nói ngay cho họ biết là Ngài là Đấng Mêsia sẽ chịu đau khổ (c. 31a). Lời Chúa Giêsu dùng đã được Ngài chọn lựa một cách khôn ngoan. Kể cũng lạ, Ngài không sử dụng tước hiệu “Kitô” mà họ vừa gán cho Ngài, bởi vì tước hiệu này vẫn còn quá mơ hồ trong tâm trí họ, nhằm đến các mục đích chính trị hơn là thiêng liêng. Ngài chủ ý sử dụng tên gọi nổi tiếng “Con Người” mà ngay từ nhận cho mình (x. 2,10 v.v…). Từ ngữ này nhắc nhở đến một nhân cách dấn thân sâu xa và mầu nhiệm của Thiên Chúa cũng như vào ý định Chúa muốn cứu độ trần gian (Đnl 7,13- 14). Tuy nhiên nét mới mẻ ở đây là “Con người” được chỉ định mang lại chiến thắng của Vương Quốc Thiên Chúa trên sự Dữ lại phải chịu khổ nạn và chết đi. Chúng ta cần ghi nhận rằng số phận của “ Con Người” ấy sẽ không phải là một sự kiện mà người ta không biết được cứu cánh của nó. Thành ngữ vắn gọn “sẽ phải” muốn ám chỉ kín đáo sự đau khổ và sự chết của Đấng Mêsia nằm trong ý định khôn dò của Thiên Chúa là muốn cứu độ nhân loại (x. Lc 24,25- 27).
Như thế, Chúa Giêsu đặt các môn đệ trước một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu biết của họ. Ngài nói cho họ về cái chết không thể nào tránh khỏi của Ngài, đồng thời xác định cho họ đôi điều về cái chết này. Đây là cái chết do những kẻ tội lỗi gây ra, nó mặc lấy hình thức bị các vị cầm quyền tôn giáo của dân Chúa chọn khai trừ của cộng đoàn Do Thái (c. 31b). Đặc biệt là Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ chịu một cái chết hung bạo, nghĩa là sẽ bị người ta giết (c. 31c). Theo quan niệm đương thời về Đấng Mêsia thì tất cả điều này hoàn toàn không thể chấp nhận được. Trong tâm trí người Do Thái thời đó, Đấng Mêsia sẽ không thể nào bị đau khổ, chứ đừng nói là sẽ bị giết chết. Ngài phải là một “mẫu” người đặc biệt gần như là thần thoại, được thiên Chúa miễn trừ cho số phận hay chết vốn là thuộc tính chung cho cả loài người. Người ta chờ đợi Ngài sẽ đến qua cuộc trở lại của Êlia, vị tiên tri có khuôn mặt thần thoại là được Chúa lôi về trời mà không phải trải qua cái chết (2V 2,1-18; Mc 6,15; 8,28). Chúa Giêsu đã đưa ra lời phủ nhận tính cách thần thoại của một kiểu mẫu Mêsia lý tưởng, thần bí thoát khỏi mọi quy luật nghiệt ngã của bản tính loài người. Chắc hẳn ngài cũng có phụ hoạ thêm vào lời loan báo về các chết của Ngài một động cơ giúp các môn đệ hy vọng: đó là Ngài sẽ Phục Sinh (c. 31c). Tuy nhiên ngay lúc này, thì lời hứa ấy chỉ được các môn đệ nghe một các rất hời hợt. Dù sao thì lần đầu tiên này về một cái chết dữ dằn đang chờ đón Ngài cũng làm các môn đệ thất điên bát đảo. Maccô đã nêu bật tính chất rõ ràng không úp mở trong các lời nói của Chúa Giêsu (c. 32a).
Phần đầu của Phúc Âm đã đóng lại (1,1-8,30). Trong phần này cái chết của Chúa Giêsu xem ra chỉ thoáng hiện nơi một cuộc tạo phản có thể xẩy ra do phía các địch thủ Ngài (3,6). Còn giờ đây thì Chúa Giêsu mặc khải rõ số phận đang chờ đón Ngài. Chuyện này hẳn làm cho các môn đệ choáng váng. Người ta thấy điều đó qua sự bác bỏ thẳng thừng của người đứng đầu trong họ (c. 32b). Thủ lãnh nhóm Mười Hai, người mà mới thay mặt họ tuyên xưng đức tin vào Đấng Mêsia giờ đây đang dùng hết sức mình phản kháng lại. Ông còn dám la rầy Thầy mình: bởi vì làm sao có thể đi theo một người tự ý gieo mình vào cái chết? Có lý do để ông mất niềm tin đó chứ!
Tuy nhiên Chúa Giêsu vẫn không muốn để cho các môn đệ rơi vào ảo tưởng về sống phận mà họ mường tượng về Ngài. Quang cảnh được ghi nhận ở đây sống động đến độ làm ta ngỡ ngàng giống hệt bức tranh tả chân (c. 33a). người ta như trông thấy rõ diễn biến. Theo thói quen của các đạo sư Do Thái thời ấy, Chúa Giêsu bước đi trước các môn đệ Ngài, họ đi theo sau cách Ngài chừng vài bước. Vì thế Ngài đã phải quay quắt lại để khiển trách Phêrô và ban ông. Lời Ngài quở trách thực sự rất gay gắt (c.33b) có thể nói được rằng đây là một thứ mệnh lệnh. Lập tức vị tông đồ phải trở về vị trí của mình tức là lùi lại phía sau Thầy mình. Ông không có quyền thay thế cho Chúa Giêsu là người duy nhất biết được con đường mình phải đi. Và Chúa Giêsu đã không ngần ngại gán cho người thủ lãnh nhóm bạn hữu Ngài tên gọi “Satan”. Trong tiếng Hy Bá, Satan có nghĩa rõ ràng là “kẻ đối nghịch” nghĩa là kẻ xúi giục con người bất tuân ý Thiên Chúa. Ở đây qua bản thân Phêrô, Chúa Giêsu đã vạch mặt tên cám dỗ là kẻ đã nổi lên chống lại Ngài ngay khi Ngài vừa bắt đầu thi hành sứ mệnh của mình (x. 1,12- 13).
Sự tình có vẻ quá bi đát. Thực ra qua việc bác bỏ mãnh liệt ý định của Chúa Giêsu, Phêrô chỉ muốn diễn tả niềm hy vọng hoàn toàn mang tính trần tục được dân Do Thái thời đó cưu mang trong lòng: đó là Đấng Mêsia phải là một kẻ chiến thắng, khổ đau và chết chóc không thể làm gì được Ngài. Và để đưa các môn đệ vào lại chính lộ, Chúa Giêsu buộc phải tiêu huỷ giấc mộng ngu dốt của họ về Ngài: tư tưởng của họ thuộc về con người chứ không thuộc về ta (c. 33c).
Có một hố sâu phân cách giữa ý định của Thiên Chúa và những tầm nhìn của loài người. Sẽ còn phải lâu lắm mới vượt qua nổi “điều kỳ chướng” về cái chết của Đấng Mêsia. Trong khi Maccô thảo ra đoạn văn này, Giáo Hội sơ khai vẫn còn luôn luôn đụng phải viên đá vấp phạm của sứ điệp Kitô giáo: “Phần chúng tôi, chúng tôi công bố Đức Kitô chịu đóng đinh, đó là điều kỳ chướng đối với dân Do Thái, là sự điên rồ với dân ngoại” (1Cr 1,23).
Người ta có thể hiểu được tại sao Maccô sẽ dành trọn vẹn phần thứ hai của Phúc Âm (8,31 - 16,20) chinh phục độc giả của ông về cái nhìn then chốt trong đức tin Kitô giáo: đó là Thiên Chúa đã muốn cho Đấng Mêsia của Ngài mặc lấy trọn vẹn thân phận loài người, kể cả việc phải chịu đau khổ và chết, trước khi ban cho Đấng Mêsia ấy, qua cứu cuộc Phục Sinh, quyền xét xử và cứu độ toàn cầu vào thời gian chung cục.
THEO CHÚA GIÊSU BẰNG CÁCH HIẾN DÂNG MẠNG SỐNG CHO NGÀI (8,34-9,1)
Chúa Giêsu đang kêu gọi đám đông theo làm môn đệ Ngài (c. 34a). Có lẽ nào Maccô quên rằng Chúa Giêsu hiện đang ở trong vùng đân dân ngoại và chung quanh Ngài chỉ có các môn đệ mà thôi? (x. 8,27). Điều này không chắc. Nếu ở đây Maccô nối kết “đám đông” vào vòng đai thân hữu của Chúa Giêsu là chính vì ông nghĩ đến “giáo huấn mới mẻ” của Chúa về việc Ngài cần phải chết có liên quan đến quần chúng độc giả của ông. Tác giả Phúc Âm đã lợi dụng Lời loan báo đầu tiên về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (8,31) để đựa vào đây một bài giáo lý hợp thời nói về cách thức các Kitô hữu được kêu gọi bước theo Thầy mình (c.34b). Lời mời gọi này quả thật khá khó nghe. Và ở chỗ này Phúc Âm đã sử dụng những từ ngữ đáng gây kinh ngạc! Thập giá là thứ nhục hình quân Rôma sẽ bắt Chúa Giêsu chịu. Vào lúc này đây, Maccô không thể nào biết được Chúa sẽ bị chết kiểu đó. Vì thế, khi soạn lại lời khuyên này và quãng ba mươi lăm đến bốn mươi năm sau khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, hẳn thành ngữ “vác thập giá để theo Ngài” mang một ý nghĩa cực kỳ sâu đậm. Giáo Hội Rôma hiện đang trải qua cơn bách hại. Việc tử đạo, hay nói chính xác hơn, con đường thập giá, đang chờ đón tất cả mọi Kitô hữu đang bị dẫn tới cùng giống y hệt số phận Đấng Mêsia. Bất cứ ai muốn thức sự theo chân Chúa Kitô thi chắc chắn đều bị đòi hỏi phải từ bỏ mình hoàn toàn.
Lý do Chúa Giêsu đưa ra bao hàm một nghịch lý kỳ lạ! (c. 35). Từ chối không dâng hiến mạng sống mình cho Chúa Kitô- tức là cho Phúc Âm- thì đồng nghĩa với đánh mất đi chính mình. Đối với mỗi người, “ơn cứu độ” không hệ tại ở việc cứu vớt cuộc sống hiện tại của mình.
Các nhà chú giải Tin Mừng theo Thánh Maccô đều đồng ý công nhận rằng, trong bài Tin Mừng: TN 24-B32
Các nhà chú giải Tin Mừng theo Thánh Maccô đều đồng ý công nhận rằng, trong bài Tin Mừng mà chúng ta sắp suy niệm là đỉnh cao của Tin Mừng ông. Cho tới đây, Maccô mới viết trình thuật để minh chứng rằng mọi người vẫn còn thắc mắc về con người đích thực của Đức Giêsu, vị ngôn sứ thuộc Nagiarét:
“Đây là gì?” (Mc 1,27). “Chúng tôi chưa bao giờ thấy như vậy" (Mc 2,12). “Ong ấy mất trí rồi " (Mc 21). “Thực sự ông này là ai " (Mc 4,41). “Tất cả mọi người đều kinh ngạc" (Mc 5,20). “Bởi đâu ông ta được như thế” (Mc 6,2). “Đó là ma" (Mc 6,49). “Ong ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả" (Mc 7,37).
Vâng, sự nhận biết Thiên Chúa trong Đức Giêsu, cũng như sự nhận biết toàn diện con người phát triển dần dần từ trong tâm hồn con người tự do, những con người đã cùng sống và quan sát người. Con đường Đức tin luôn tiệm tiến. Tôi có tiến lên không?
Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ:
Đó là làng Xêdarê Philípphê: Maccô xác định vị trí rõ ràng và chính xác. Tin Mừng không phải được viết trên không. Vùng này, dưới chân núi Hécmôn, là một nơi xanh tươi nước chảy trên những sườn đồi có tuyết: Nguồn của sông Giođan phát xuất từ đó. Đức Giêsu đã dẫn dắt các bạn hữu đến giữa cảnh thiên nhiên, xa các đám đông. Người biết Người muốn gì? Người sẽ trắc nghiệm đức tin của các môn đệ.
Người ta nói Thầy là ai?
Đây là một cuộc thăm dò dư luận. Những tổ chức Sofrès và Ifop đã dành thời giờ của họ để thăm dò xem ta nghĩ gì về những nhân vật chính trị, về trường học, về một sản phẩm nào đó. Ngày nay, chúng ta có chấp nhận câu hỏi trên đây của Đức Giêsu không?
Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.
Vậy thì dư luận cũng khá nhất quán: Người ta cho rằng Đức Giêsu là một vĩ nhân, là Gioan Tẩy giả đã sống lại thì cũng không phải là việc thường, là ngôn sứ Êlia, kẻ phải đến liền trước Đấng Mêsia. Do đó Đức Giêsu được coi như là phát ngôn viên của Thiên Chúa. Ngày nay, đa số người ta cũng vẫn coi Đức Giêsu như là một nhân vật siêu phàm. Ngu dốt thì mới quả quyết ngược lại, hay xem thường Người. Không một người hiểu biết nào đã học lịch sử mà lại có thể chối bỏ sự kiện Đức Giêsu Nagiarét đã ghi dấu ấn của Người lên lich sử hành tinh chúng ta.
Người lại hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?
Ngày nay, câu hỏi này vẫn còn đặt ra cho chúng ta: Người ta nói gì về Đức Giêsu chung quanh chúng ta?
Không nên trả lời bằng những câu sẵn có. Các bạn hãy nhìn xem những gì các bạn đã sống trong tuần qua, nơi khu phố, trong công viên, trong những ngày nghỉ "Giêsu? Tôi có bao giờ nghĩ nói về ông ấy".
Giêsu ư? Ta đâu cần biết tới. Trong một khóa huấn luyện thể thao mà người ta hoàn toàn không để ý đến một yếu tố luân lý sơ đẳng nào, tôi đã tự hỏi xem có phải mình đã bất bình thường, khi không làm như những người khác? Nhưng còn bạn, bạn nói gì về tôi? Trong nhóm người kinh doanh, giải trí, làm việc, bạn có bị ‘người ta hạch hỏi về nội dung đức tin của mình không?’ Có thể chúng ta không thích điều đó lắm, vì nó quá bó buộc.
Có thể chúng ta sống một cách nào đó mà không ai nảy ra ý kiến đặt câu hỏi như trên. Điều này không đáng lo ngại sao? Đức tin của chúng ta nơi Đức Giêsu không làm thay đổi gì cuộc sống chúng ta sao? Như Thánh Giacôbê đã nghiêm khắc nhắc nhở chúng ta? (2,14-18).
Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô”
Nói lên quan điểm của người khác chưa đủ. Mỗi người chúng ta cần phải trả lời. Chúng ta nói lên lời "Tuyên xưng đức tin" nào?
Do đó, nhóm Mười Hai mà Thánh Phêrô đứng đầu, sẽ trả lời vượt xa hơn những câu trả lời thông thường của quần chúng. Họ là một thiểu số rất nhỏ. Không ai nghĩ ra một điều như thế, chỉ trừ nhóm này.
Tước vị "Christos" "Meshiah" trong tiếng Hêbrơ có một nghĩa rất mạnh như biến cố bùng nổ tại Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đó là Đấng được mọi người mong đợi để đến "hoàn tất lịch sử". Đấng các Ngôn sứ đã báo trước, Đấng sẽ cho cuộc sống con người có ý nghĩa.
Đức Giêsu liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người
Bản kịch đã làm nhẹ bản văn Hy Lạp. Đúng ra phải dịch là: ‘Chúa đã la mắng họ để họ đừng nói điều đó với ai cả’. "Bí mật về Đấng Mêsia" là một trong những đề tài của Maccô. Đức Giêsu đã luôn yêu cầu người ta đừng công bố tước vị của Người (Mc 1,34; 1,44-45; 3,11; 5,43; 7,33-36; 8,26; 8,30).
Đó không phải là không công nhận tước vị Mêsia mà Thánh Phêrô gán cho Người, nhưng chỉ là đề cao cảnh giác để người ta đừng tiết lộ Người quá sớm. Thái độ chờ đợi Đấng Mêsia nơi người Do Thái đã quá hàm hồ. Lát nữa chúng ta sẽ nhận ra điều này, khi nghe Phêrô nói. Thiên Chúa không giống như chúng ta thường mong đợi. Thiên Chúa không tìm kiếm vinh hiển, quyền năng, thành công theo nghĩa của loài người. Thiên Chúa ưa ẩn dật. Thiên Chúa thích thinh lặng. Thiên Chúa lánh mình sau tạo vật của Người. Thánh Phaolô sẽ nói rằng: "Người là mầu nhiệm được bao phủ trong im lặng” (Rm 16,25).
Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại Đây là khúc ngoặt lớn của Tin Mừng Đức Giêsu đang rời xứ Galilê, bắt đầu tiến lên Giêrusalem, và biết rõ mình sẽ bị giết chết tại đó. Thập giá đã hiện ra trước Đấng Mêsia của Thiên Chúa.
Maccô sẽ kể lại cho ta ba lần Chúa loan báo rõ ràng cuộc thương khó của Người (Mc 8,31; 9,31; 10,33). Đây là cớ vấp phạm cho con người.
Về mặt lịch sử, chắc chắn Đức Giêsu đã phân tích rất kỹ những phản ứng bất lợi đối với lời rao giảng của Người: Người đã thấy trước sự kết thúc số phận đời mình và Người đã ý thức tự mình đối chất với nhưng nhà lãnh đạo Do Thái Người kể ra ở đây ba nhóm người làm nên Thượng Hội Đồng, là cấp xét xử tôn giáo cao nhất bây giờ. Người bắt đầu nói với họ rằng cần phải Người bắt đầu nói với họ, Người sẽ bị đau khổ, ruồng bỏ, trục xuất ra khỏi dân tộc và phải chết dữ dằn. Mỗi lần Đức Giêsu loan báo với họ về biến cố đó. Người đều khẳng định về sự Phục sinh của Người. Nhưng lạ thay, các tông đồ hình như không bao giờ nghe được lời cuối này.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta không bao giờ nghe Chúa nói đến cùng. Do đó, chúng ta tiếp tục bị khựng lại trước sự dữ trên thế gian, trước những thử thách riêng của ta: Như thể thế gian và những thử thách đó thắng thế luôn mãi, như thể sự Phục sinh, sự sống đời đời không thể có bao giờ. Chúng ta cần thú nhận điều đó.
Người nói rõ điều đó, không úp mở
Tiếc thay, một lần nữa bản dịch lại làm nhẹ bớt bản văn Hy Lạp. Lẽ ra phải dịch như sau: "Một cách quả quyết, Đức Giêsu đã nói Lời". Lạy Chúa, con cần biết như Maccô đã nói, Chúa đã phát biểu những lời đó "một cách quả quyết" không chút sợ hãi, đầy can đảm. Con cần biết rằng, Chúa là Lời Thiên Chúa qua kiểu nói mạnh mẽ này (Người đã nói lên lời Chúa). Con đoán rằng, nhân cách của Chúa không chỉ là nhân cách của nhà hiền triết, một bậc Thầy, một vĩ nhân, nhưng là sự "hiện diện" của Ngôi Lời Thiên Chúa. "Từ khởi thủy đã có Ngôi Lời" (Ga 1,1) "Người nói Lời cách quả quyết". Con Người phải bị giết và sống lại; chữ "phải" này làm chúng ta chìm đắm trong "ý định đời đời và không hiểu được" của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa thấy cái chết và sự Phục sinh của Chúa hoàn toàn khác hẳn với biến cố ngẫu nhiên. Đó là chương trình mầu nhiệm của Chúa Cha. Chúng ta cũng cần lưu ý, đây là kinh "Tin kính" đầu tiên, từ chính môi miệng Đức Giêsu thốt lên.
Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phê-rô: "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy!”
Do đó, lệnh truyền giữ bí mật không phải là vô ích.
Mặc dù vừa gán cho Thầy mình tước vị đẹp đẽ, nhưng Phêrô đã không hiểu gì cả. Ong vẫn đợi một Đấng Mêsia vinh quang, chiến thắng theo kiểu loài người, một Đấng Mêsia hoạt động chính trị, một nhà giải phóng trần gian.
Còn chúng ta thì sao? Không phải chỉ đọc kinh "Tin kính" thật đúng là đã đủ. Những từ đúng nhất cũng có thể hàm chứa sai lầm, và những từ không đúng lắm cũng có thể diễn tả chân lý. Các bạn tin ở Đấng Mêsia nào? Có phải Đấng Mêsia của Thánh Phêrô ngày đó không? Con người do trời sai đến để tái lập cách kỳ diệu trật tụ dưới thế gian này? Con người mà chúng ta có thể trút đổ vào tay người đó những trách nhiệm của chúng ta?
Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." Rồi Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy
Đức Giêsu kiên quyết loan báo thập giá cho Phêrô. Liền sau đó, Người cũng loan báo điều đó "cho chúng ta", cho các môn đệ của Người, sau khi đã hỏi: "Anh em nói Thầy là ai?" Người hỏi: "Anh em nói anh em là người thế nào?". Anh em cho cuộc sống của mình ý nghĩa nào? Sự sống được ban cho anh em để làm gì? Để giữ nó ư? Để cho nó ư? Để yêu thương? Hay để làm gì?
LỜI TUYÊN XƯNG CỦA PHÊRÔ VÀ LẦN LOAN BÁO ĐẦU TIÊN VỀ CUỘC KHỔ NẠN
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Ngày nay có nhiều kẻ nhắc đến Chúa Giêsu, ca tụng con người và sự nghiệp giải phóng của: TN 24-B33
1. Ngày nay có nhiều kẻ nhắc đến Chúa Giêsu, ca tụng con người và sự nghiệp giải phóng của người; nhưng cũng lắm kẻ không biết đúng Người là ai, nên hoặc sinh nghi ngờ đố ky, hoặc phớt lờ không muốn nghe nói đến. Còn đối với ta. Chúa Giêsu là ai? Một bóng ma ám ảnh hàng thế kỷ? Một quan toà phải đối chất vào phút chót? Một kỷ niệm đáng nhớ? Một bảo đảm cho thành công? Một chướng ngại trong sơ yếu lý lịch? Câu trả lời đúng, chính là xác tín Người là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống của ta và làm cho cuộc sống cùng thái độ sống hằng ngày của ta phù hợp với Tin Mừng và Giáo Hội của Người.
2. Vì tin không chỉ là nhìn nhận Chúa Giêsu là một vĩ nhân, một ngôn sứ của Thiên Chúa, cũng không chỉ là noi gương Người để sống bác ái huynh đệ. Tin là tuyên xưng sự cứu rỗi của nhân loại là hoàn toàn ở nơi Chúa Giêsu, rằng chỉ mình Người mới có thể mặc khải trọn vẹn và đã mang đến đầy đủ cho ta ơn cứu rỗi bằng cuộc sống và cái chết-phục sinh của Người.
3. Để đi đến cùng đích đời mình và hoàn thành sứ mệnh, Chúa Kitô phải từ bỏ hết ý muốn riêng tư (8,33), thành quả công việc, sự ủng hộ và dư luận tốt của quần chúng (cc 28-29) cùng ngay cả mạng sống bản thân (c.31). Người phải từ bỏ tất cả để được Đấng là Tất Cả. Đấy là con đường tất yếu cho những ai muốn sự sống thật, hạnh phúc thật. Và Chúa Giêsu cũng dạy cho các kẻ muốn đi theo con đường này (cc 34-35). Bởi vì mọi cái ngoài Thiên Chúa chỉ mang lại những hạnh phúc thoáng qua. Thiên Chúa muốn chúng như là những phương tiện, những bậc thang để dẫn đến Ngài. Từ bỏ những phương tiện hấp dẫn này (nghĩa là coi chúng chỉ như phương tiện) luôn luôn gây đau đớn cho ta. Vác thập giá theo Chúa Kitô là như thế. Nhưng có vậy mới đạt đích như Người.
Đến đây, Gioan quay về với câu chuyện lạ lùng của Cựu Ước đã được kể lại trong Dân Số: TN 24-B34
Đến đây, Gioan quay về với câu chuyện lạ lùng của Cựu Ước đã được kể lại trong Dân Số 21,4-9. Trên hành trình qua hoang địa, dân Israel lẩm bẩm than phiền và tiếc rẻ việc bỏ xứ Ai Cập ra đi. Để trừng phạt, Chúa cho tai họa rắn độc đến cắn họ chết. Dân chúng ăn năn và kêu xin Đức Chúa thương xót, nên Ngài dạy Môsê làm một con rắn bằng đồng, treo lên cao, hễ ai nhìn lên con rắn ấy thì được chữa lành và thoát chết. Câu chuyện đã gây ấn tượng sâu đậm trong dân Israel. Họ kể lại rằng về sau con rắn bằng đồng đó đã trở thành thần tượng. Dưới thời Khitkigia, đã phải hủy vì dân chúng thờ lạy nó (2V 18,4). Dân Do Thái có phần bối rối về biến cố ấy, vì họ bị cấm tuyệt đối trong việc làm các tượng. Pharisêu giải thích như sau: “Không phải con rắn đã ban sự sống. Khi Môsê treo con rắn lên thì người Israel nhìn và tin Đấng đã truyền lệnh cho Môsê làm như thế. Chính Chúa đã chữa lành cho họ”. Quyền phép chữa lành không ở trong con rắn. Con rắn chỉ là một dấu hiệu, một biểu tượng, chỉ cho người ta hướng tư tưởng mình về Chúa, và khi họ nghĩ đến Ngài thì được chữa lành.
Gioan dùng câu chuyện này như môt loại dụ ngôn về Chúa Giêsu.Ông nói: “Con rắn bị treo lên, người ta nhìn nó, tư tưởng họ hướng về Chúa, do quyền phép của Chúa, Đấng họ tin cậy thì họ được lành bệnh. Chúa Giêsu cũng phải bị treo lên như thế, để khi loài người hướng tư tưởng về Ngài, tin Ngài, thì cũng được sự sống đời đời”.
Một điểm gợi ý rất lạ ở đây. Động từ treo lên là hupsoun. Từ này được dùng cho Chúa Giêsu theo hai nghĩa. Nó được dùng cho việc Chúa bị treo trên thập giá; và nó cũng được dùng cho việc Chúa được cất lên đểvào vinh hiển lúc Ngài về trời. Nó được dùng chỉ thập giá trong Ga 8,28; 12,32, và được dùng chỉ Chúa Giêsu lên trời vinh quang trong Công Vụ 2,33; 5,31; Pl 2,9. Có hai lần Ngài được đưa lên vào cõi vinh quang; cả hai liên hệ với nhau bất khả phân ly. Điều này không thể xảy ra mà không có điều kia. Với Chúa Giêsu, thập giá là con đường tiến đến vinh quang. Nếu Ngài khước từ thập giá, tránh né, tìm cách để thoát khỏi đó –là việc Ngài có thể làm thật dễ dàng nếu muốn- thì Ngài đã không thể bước vào cõi vinh quang. Với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể chọn con đường dễ đi, có thể khước từ thập giá mà mỗi Kitô hữu được gọi phải vác, nếu thế, chúng ta sẽ mất phần vinh hiển. Đó là một trong những định luật bất biến của đời sống: không có thập giá thì không có triều thiên.
Trong câu 15 chúng ta gặp lại hai thành ngữ mà không thể rút tỉa hết ý nghĩa trong đó, vì cả hai vượt xa những gì chúng ta có thể khám phá được. Nhưng chúng ta phải cố gắng lãnh hội ít nhất là một phần trong ý nghĩa của chúng.
1. Thứ nhất là tin Chúa Giêsu. Mệnh đề này có ít nhất ba nghĩa:
a. Hết lòng tin Thiên Chúa vốn đúng như điều Chúa Giêsu tuyên bố. Chúa yêu thương chúng ta, lo lắng chăm sóc mỗi người, Ngài chẳng mong gì hơn là tha tội cho chúng ta. Chúa là tình yêu. Không phải dễ cho người Do Thái tin như vậy. Họ nhìn vào Chúa của luật, áp đặt các luật lệ Ngài trên dân chúng để trừng phạt khi họ vi phạm. Nên dân Do Thái nhìn Chúa như một vị Thẩm Phán, và loài người là tội nhân trước tòa án của Ngài. Họ nhìn Chúa như một Chúa hay đòi hỏi sinh tế và của lễ. Muốn ra mắt Chúa, loài người phải trả giá mà Chúa đã định. Thật khó cho họ nghĩ là Chúa không phải là một quan tòa chuyên tìm cách trừng phạt. Một ông cai chỉ chờ tìm cách vồ lấy công nhân, mà Ngài là người Cha tha thiết trông chờ đứa con đi hoang trở về nhà. Chúa Giêsu đã phải trả giá bằng đời sống và sự chết của Ngài để công bố cho loài người biết điều đó. Và chúng ta không thể trở thành Kitô hữu nếu chưa hết lòng tin như vậy.
b. Làm thế nào chúng ta biết chắc Chúa Giêsu hiểu rất rõ những gì Ngài nói? Có gì bảo đảm Phúc Âm kỳ diệu ấy là thật? Đến đây chúng ta đụng đến tín điều thứ hai. Chúng ta phải tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là tâm trí của Thiên Chúa, biết rất rõ Chúa Cha, thân cận mật thiết với Chúa Cha, vốn là một với Chúa Cha, đến mức Ngài có thể nói cho chúng ta biết chân lý tuyệt đối về Chúa Cha. Chúng ta phải tin chắc Chúa Giêsu biết rõ những gì Ngài nói, Ngài đã nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha, vì tâm trí của Chúa Cha vốn ở trong Ngài.
c. Nhưng lòng tin còn một yếu tố thứ ba nữa. Chúng ta tin Chúa là Cha yêu thương, vì chúng ta tin Chúa Giêsu là con của Chúa Cha, vì thế những gì Ngài nói về Chúa Cha đều đúng thật. Đến yếu tố thứ ba, chúng ta phải đặt mọi sự trên cơ sở những gì Chúa Giêsu nói là đúng thật. Chúng ta phải làm theo tất cả những gì Ngài chỉ dạy. Khi Ngài dạy, chúng ta phải đặt mình, không chút do dự, vào lòng nhân từ của Thiên Chúa, thì chúng ta làm theo như vậy. Chúng ta phải tin lời của Ngài. Mỗi hành vi, cử chỉ nhỏ nhất trong đời sống đều phải được thực hiện trong sự vâng lời Ngài không chút nghi ngờ.
Như vậy, niềm tin có ba yếu tố: tin Chúa là Cha yêu thương của chúng ta; Chúa Giêsu là Con Chúa Cha, do đó Ngài cũng nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha và đời sống; và vâng phục Chúa Giêsu cách vững vàng không chút nghi ngờ.
2. Mệnh đề quan trọng thứ hai là sự sống đời đời. Chúng ta đã học biết sự sống đời đời là chính sự sống của Chúa, hãy đặt vấn đề: “Nếu được sự sống đời đời, cụ thể là chúng ta được gì?”. Được sự sống đời đời thì đời sống sẽ như thế nào? Khi hưởng sự sống đời đời thì mọi mối liên hệ trong đời sống đều được bao phủ bằng sự bình an.
a. Sự sống đời đời cho chúng ta sự bình an với Chúa, chúng ta không còn sợ sệt như trước mặt một vị vua độc tài, hay tìm cách lẩn tránh một quan tòa nghiêm khắc, nhưng chúng ta được ở trong nhà với Cha mình.
b. Sự sống đời đời là an hòa với mọi người. Nếu chúng ta được tha thứ, chúng ta phải biết tha thứ, nó khiến ta có thể nhìn người khác như Chúa nhìn họ, có thể hòa hợp với mọi người thành một đại gia đình sống trong thương yêu.
c. Sự sống đời đời cho chúng ta sự an hòa với đời sống. Nếu Chúa là Cha, thì Ngài điều hành mọi sự để tất cả trở thành tốt lành. Lessing thường nói, nếu được hỏi con Nhân sư (Sphin, con vật đầu người mình sư tử, theo truyền thuyết Ai Cập, thông suốt mọi sự) một câu thì ông sẽ hỏi nó, “Vũ trụ này có phải là một vũ trụ thiên thần không?” Khi chúng ta tin Chúa là Cha, thì phải tin bàn tay của người cha chẳng bao giờ làm con cái mình nhỏ lệ cách không cần thiết. Chúng ta có thể không hiểu rõ về cuộc đời, nhưng chúng ta sẽ không còn oán tránh nó nữa.
d. Sự sống đời đời khiến chúng ta an hòa với chính mình. Nói cho cùng, con người sợ chính mình hơn bất cứ gì khác. Ta biết sự yếu đuối của mình, biết sức mạnh của những cơn cám dỗ, biết các công việc và những đòi hỏi của đời sống mình. Ta biết mình vẫn đương đầu với mọi điều đó nhưng có Chúa ở cùng. Không phải là ta sống nữa, nhưng là Chúa Cứu Thế sống trong ta, trong đời mình có sự bình an được thiết lập bằng sức mạnh.
e. Sự sống đời đời khiến ta biết chắc sự bình an sâu xa nhất của thế gian chỉ là cái bóng của sự bình an tuyệt vời sắp đến. Nó cho ta một hy vọng, một mục đích để tiến tới đời sống kỳ diệu quang vinh trên đất này, và đồng thời một đời sống tốt đẹp vô cùng ở tương lai.
TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA (Ga 3,16)
Tất cả các vĩ nhân đều có những đoạn văn riêng mình ưa thích. Đoạn văn trên đây là “Bản Văn Của Mọi Người”. Đây chính là Phúc Âm cho tất cả những tấm lòng đơn sơ. Bản văn này nói với chúng ta một số điều quan trọng.
1. Nguồn gốc và khởi đầu của cứu rỗi là từ Thiên Chúa. Đôi khi Kitô giáo đã được trình bày như là chúng ta phải đến thuyết phục Chúa để xin Chúa chấp thuận hòa giải với chúng ta, như là Chúa phải được thuyết phục mới bằng lòng tha tội cho chúng ta. Có khi người ta vẽ ra một bức tranh về Thiên Chúa nghiêm khắc, giận dữ, không dung thứ và khư khư nắm chặt lề luật. Nhiều khi người ta trình bày thông điệp Kitô giáo như là Chúa Giêsu đã làm một điều gì đó thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với loài người, từ xử phạt ra tha thứ. Nhưng câu Kinh Thánh trên cho chúng ta biết rằng mọi sự là do Chúa khởi đầu. Chính Chúa đã sai Con Ngài đến thế gian vì Ngài yêu thương nhân loại. Đằng sau mọi sự đó là tình thương của Chúa.
2. Nguồn mạch chính của bản chất Chúa là tình yêu. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang nhìn vào nhân loại vô tâm, không vâng lời, phản loạn, và phán rằng: “Ta sẽ đánh gục chúng, kỷ luật chúng, trừng trị, xử phạt và giáng tai họa cho đến chừng nào chúng chịu hồi tâm”. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang tìm cách đàn áp loài người để thỏa mãn quyền hành của Ngài, để hoàn toàn chế phục vũ trụ. Nhưng bản văn phi thường này cho chúng ta thấy Thiên Chúa đang hành động, không phải vì chính Ngài, mà vì chúng ta. Ngài không hành động để thỏa mãn ước muốn cầm quyền của Ngài, để giầy đạp vũ trụ dưới gót chân, nhưng là nhằm thỏa mãn tình yêu của Ngài. Ngài không phải là vị bạo chúa độc tài, đối xử với mọi người như thần dân, bắt phải tuân phục vô điều kiện. Ngài là người Cha không thể vui, cho đến khi những đứa con hoang đàng của mình trở về. Ngài không đàn áp loài người khiến họ phải đầu phục, Ngài trông mong và dịu dàng kêu gọi họ trở lại với tình thương của Ngài.
3. Chiều rộng của tình yêu Chúa là cả thế gian. Ở đây không phải là một quốc gia, không phải chỉ những người tốt lành, thánh thiện, không phải chỉ những người biết yêu mến Ngài, nhưng toàn thể nhân loại. Toàn thể những người khó yêu và chẳng có gì đáng yêu, người cô đơn chẳng được ai yêu, người yêu mến Chúa lẫn người chối bỏ tình yêu của Ngài, người chẳng bao giờ suy nghĩ đến Ngài cùng người yên nghỉ trong tình yêu của Ngài, tất cả đều được bao gồm trong tình yêu bao la, bao hàm tất cả của Thiên Chúa. Thánh Augustinô đã nói: “Chúa yêu mỗi người chúng ta dường như chỉ có một mình ta để Ngài yêu mà thôi”.
Trong trí óc của chúng ta, Thánh Giá liên kết với ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Và ngày Thứ: TN 24-B35
Trong trí óc của chúng ta, Thánh Giá liên kết với ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Và ngày Thứ Sáu Tuần Thánh vẫn còn là dịp để suy niệm về sự “đau khổ" là cuộc khổ nạn, cho dù Tin Mừng của Thánh Gioan với bài tường thuật ngày hôm đó thật ra đã nhấn mạnh đến “cường quyền " của Đức Giêsu. Một truyền thống Phụng vụ lâu đời đã muốn cử hành lễ Suy tôn Thành Giá, cây Thập Giá Vinh quang, từ ngày 14 tháng chín năm 335 lúc hoàng đế Constantin vùa mới trở lại đạo. Và vợ vua, thánh nữ Hélène, cho xây dựng Vương cung Thánh đường Anastasis (tiếng Hy-lạp nghĩa là Phục sinh) tại Giêrusalem, trên địa điểm đồi Gôn-gô-tha và Mộ thánh. Lúc đó ngày lễ Suy tôn Thánh Giá mau chóng trở thành lòng sùng kính của đại chúng ở Phương Đông và từ thế kỷ thứ V chuyển sang Phương Tây.
Lời cầu nguyện trong ngày lễ này, không quên những khổ đau của thập giá, nhưng làm nổi lên giá trị của vinh quang thập giá “cây cao quý hơn mọi cây, là biểu hiệu vinh dự được chọn để mang Đấng Cứu Thế”.
Oi Thánh giá cao quý hơn cây bá hương, nơi sự sống của thế gian bị đóng đinh.
Trên ngươi, Đức Kitô đã chiến thắng, sự chết của Người tiêu diệt sự chết.
Lạy Cứu Chúa Giêsu, vinh quang thuộc về Chúa, thánh giá của Chúa, đem lại cho chúng con sự sống.
Thánh ca ngày hôm đó, do Venance Fortunat, vị Giám mục tương lai của thành Tours soạn năm 568, lần đầu tiên được hát ngày 19 tháng 11 năm đó trong một đám rước do Thánh Grêgôri thành Tours dẫn đầu cũng tán dương khía cạnh vinh quang của thánh giá.
Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống
Đoạn văn này rút ra từ diễn từ bài nói với ông Nicôđêmô. Người ta nhớ rằng Nicôđêmô một thân hào Pharisêu, thầy dạy Luật đã đến gặp Đức Giêsu ban đêm khung cảnh ban đêm này thấm đẫm một bầu khí mầu nhiệm. Thật vậy tất cả chúng ta đều ở trong đêm tối trước mặt Thiên Chúa. Như Nicôđêmô, tất cả chúng ta đều là những người "mò mẫm đi tìm trong đêm tối". Ở đây, Đức Giêsu mạc khải rằng những chuyện trên trời chỉ người nào từ trời xuống mới biết được Thập giá là một phần của các thực tại thánh thiêng và chỉ có thể hiểu được trọn vẹn bởi "Đấng từ trời xuống".
Chúng ta hãy ở trong tình trạng sẵn sàng để lắng nghe sự mạc khải sẽ được bày tỏ cho chúng ta trong đêm tối.
Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc
Tin Mừng thường dùng những kỷ niệm của Kinh Thánh. Giai thoại "con rắn bằng đồng" rất nổi tiếng. Trong cuộc xuất hành trong sa mạc Sinai, những người Do Thái đã bị những con rắn có vết cắn cháy bỏng tấn công (Ds 21, 6-9). Nọc độc của chúng làm chết người. Môsê đã cho treo một con rắn bằng đồng trên một cây gậy cắm ở giữa trại. Cây gậy rắn thần ấy là hình ảnh thần thoại mà các thầy thuốc tiếp tục dùng làm huy hiệu, và họ thường gắn vào xe họ. Con rắn bằng đồng này là "Rắn chữa lành": "Vì bất cứ ai ngước trông lên đều được cứu, không phải do bởi vật họ nhìn, nhưng là do chính Ngài, Đấng cứu độ muôn dân hết thảy" (Kn 16,7). Chúng ta thấy rằng theo cách giải thích này của sách Khôn Ngoan, thì điều chính yếu không phải là một cử chỉ ma thuật, và như thể tự động, mặc dù bề ngoài là thế. Cái nhìn ngước lên con rắn bằng đồng không tự nó cứu sống, như thể đó là một cử chỉ phù thủy hướng về một thứ bùa ngải. Quả thực, cách giải thích của các giáo trưởng cho rằng cách cụ thể ấy là dấu chỉ của đức tin, đó là hành động quay về với Thiên Chúa Đấng cứu chữa!
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy
Như thể đến lượt mình, chúng ta được mời gọi người trông lên thánh giá, để được chữa lành. Chúng ta phải dám nhìn vào Đấng chịu đóng đinh, Đấng được giương cao trên đời và trên thập giá.
Có khi nào tôi nhìn thẳng vào ảnh chuộc tội để cầu nguyện không?
Và như thế, hôm nay chúng ta được đưa vào mầu nhiệm đặc biệt của vinh quang thập giá. Gioan thánh sử đã chọn từ "giương lên" (uspathènai trong tiếng Hy Lạp) một cách có chủ ý, để đồng thời nói rằng Đức Giêsu được thập giá đưa lên khỏi mặt đất về mặt thể chất nhưng còn được đưa lên một cách mầu nhiệm trong vinh quang của thánh giá. Tin Mừng của Gioan sẽ dùng cách chính xác cùng một từ để nói với chúng ta rằng Đức Giêsu được đưa lên bên hình của Chúa Cha, bởi sự sống lại và lên trời (Ga 3,16; 8,28; 12, 32-34). Buổi chiều thứ sáu ấy, Thánh Gioan là người duy nhất trong các tông đồ còn dám đứng lại dưới chân thánh giá. Ngài đã không bao giờ quên được hình ảnh đó từ lúc được ánh sáng Phục sinh chiếu rọi. Từ đó, trong suốt 70 năm, ngài đã suy niệm về thánh giá và ngài đã mang lại cho chúng ta kết quả suy niệm ấy bằng cách đặt nó vào chính miệng của Đức Giêsu, bởi một phương thức cổ điển trong thời cổ đại.
Đối với Gioan, Thánh Giá và Phục sinh là cùng một mầu nhiệm được diễn tả bằng một từ duy nhất này: Đức Giêsu đã được nâng lên khỏi mặt đất! Đối với Ngài "chịu đóng đinh" tương đương với "được suy tôn". Đối với Gioan, sự thăng thiên được cất lên bắt đầu từ ngày thứ Sáu tuần Thánh. Thật vậy nếu sự sống lại của Đức Giêsu như một chữ ký của Thiên Chúa trên mọi công việc của Đức Giêsu, thì sự sống lại không phải là một sự biện minh "sau đó". Lễ Phục sinh không đến để xóa bỏ Thánh giá, như thể Thánh giá đã là Vinh quang của Thiên Chúa. "Giờ đây Con Người được tôn vinh" (Gioan 13,31), Đức Giêsu đã nói ngay khi tiến trình Cứu nạn mới bắt đầu bởi sự phản bội của Giuđa. "Phần tôi một khi giương cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.
Vậy NGÀY HÔM NAY, chúng tôi được mời gọi ngước mắt nhìn lên Đấng đã được "giương cao". Một người HyLạp có văn hóa chỉ có thể nhìn trong thập giá của Đức Giêsu một sự điên rồ dã man, một công dân La Mã chỉ nhìn thấy ở đó hình phạt cho dân nô lệ, một người Do Thái chỉ nhìn thấy ở đó một nguyền rủa của Chúa. Nhưng đối với Thánh Phaolô, đó chính là sự "khôn ngoan của Thiên Chúa" (1Cr 1,23). Cái chết tự nguyện của Đức Giêsu rõ ràng là một cái chết vì yêu chứ không phải là do phạm tội sát nhân. Thánh giá của Đức Giêsu là đỉnh cao của đời sống yêu thương. Tình yêu mến của Chúa Con đối với Cha Người. Tình yêu thương huynh đệ phổ quát với các anh em tội lỗi.
Là đỉnh cao của sự đau đớn nơi con người, Thánh giá cũng là đỉnh cao của sự Mạc khải của Thiên Chúa. Thánh giá là lễ hiển linh của Ba ngôi! Ý nghĩa sâu nhất của Thánh giá là phải tìm hiểu trong chính hữu thể của Thiên Chúa: "Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”. Thánh giá mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là ai: hành động thuần túy của tình yêu, sự hiến thân thuần túy. Hành động tình yêu tối cao này mà chúng ta gọi là một tình yêu điên rồ thì hoàn toàn và mãi mãi "tự nhiên" đối với Con của Chúa Cha. Thật ra Thánh giá chỉ là sự diễn tả cụ thể điều mà Ngôi Lời không ngừng thực hiện từ muôn thuở: Hiến dâng mình cho Đấng Khác (tha thứ tuyệt đối) không giữ lại điều gì lại cho chính mình.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một
Vâng, tình yêu tột cùng ấy đã đốt cháy trái tim của con người ấy, Đức Giêsu, và làm cho Người chết vì tình yêu tình yêu này chính là dấu chỉ của một tình yêu tột cùng khác, tình yêu của Chúa Cha, Đấng cũng yêu thương bằng một tình yêu điên rồ đến nỗi đã ban Con Một của Người. Như thế, nghịch lý của Thánh giá đã được khám phá: Vốn là dấu chỉ của ô nhục, Thánh giá trở thành dấu chỉ của vinh quang. Trong đức tin, thế giới này mà sự ác, sự chết, sự phi lý thống trị trở thành một thế giới "được Thiên Chúa yêu thương". Thánh giá dựng lên ở Giê-ru-sa-lem. Và ở trung tâm của mọi đời sống Kitô hữu không ngừng cao rao rằng cả điều phi lý không còn là phi lý nữa, trong ánh sáng tăm tối của Thiên Chúa. Nếu chúng ta chấp nhận cách nhìn của Thiên Chúa, những đau khổ của chúng ta có thể thay đổi dấu chỉ": Từ tiêu cực chúng có thể trở thành tích cực trong Đức Giêsu.
Để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời
Chấp nhận cái nhìn của Thiên Chúa chính là “tin”. Đức tin cho chúng ta là một cái nhìn mới về mọi sự, đặc biệt về tội lỗi, sự chết và sự ác. Thế giới này đối với chúng ta đôi khi có vẻ quá xấu xa với nhtlng thù hận, áp bức, những thói ích kỷ của nó, thế mà Thiên Chúa yêu thương nó! Không, Người không yêu sự ác này, nhưng bởi vì Người biết nó chưa hoàn tất. Người đã tạo dựng thế giới này để "dẫn đưa nó về sự hoàn thiện". Một ngày kia, sẽ không còn nước mắt, khóc than, tang tóc" (Khải Huyền 21,4). Nhưng không có một sự suy luận thuần túy nào dẫn chúng ta đến kết luận đó. Duy chỉ đức tin cho chúng ta đi trước thời gian và nhìn thấy điều không thể thấy (Dt 11,1) khi "chiếm hữu được điều mà chúng ta hy vọng".
Phải, đời sống vĩnh cửu đã bắt đầu đối với những ai tin. Nhớ đến điều đó há chẳng quan trọng sao, khi người ta đương đầu với những đau khổ triền miên và không thể chữa lành được.
Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ
Thiên Chúa là Đấng Hằng sống đích thực. Bên trên sự phi lý của sự chết. Người ban cho chúng ta sự sống của chính Người. Đó là sứ điệp chính yếu của toàn bộ Tin Mừng. Thiên Chúa muốn cứu tất cả mọi người. Thiên Chúa muốn cứu toàn thể thế gian. Người đã làm tất cả vì điều đó. Sứ mạng của Đức Giêsu là của Thánh Giá của Người, là dấu chỉ chiến thắng, vinh quang. Lạy Cứu Chúa Giêsu, vinh quang thuộc về Chúa, Thánh giá. Chúa ban cho chúng con sự sống.
Đây là cây sự sống, nơi Ađam mới hiến dâng máu Người để quy tụ mọi người trong một Nhiệm Thể duy nhất. Đây là cây sự sống nơi Đấng Chí ái của Chúa Cha mở những cánh cửa của Nước Thiên Chúa cho nhân loại. Đây là cây sự sống nơi Đấng vô tội bị nhục mạ gánh hết tội lỗi của chúng ta, để giao hòa đất với trời.
Trong khi bầu khí căng thẳng do việc Chúa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ gây ra chưa lắng: TN 24-B36
Trong khi bầu khí căng thẳng do việc Chúa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ gây ra chưa lắng dịu, thì ông Nicôđêmô, một kỳ mục trong dân tìm gặp Đức Giêsu. ông đến vào lúc đêm tối, nhằm giữ kín sự việc, nhưng dưới ngòi bút của Gioan nó mang một ý nghĩa tượng trưng: phải chăng Nicôđêmô đang ở trong bóng tối tim đến ánh sáng?
Cuộc đối thoại mở đầu với đề tài phải tái sinh. Đức Giêsu tuyên bố: "Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bới nước và Thần Khí" (3, 5).
Rồi từ câu 11 trở đi, cuộc đối thoại biến thành độc thoại. Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy bằng cách kể lại những biến cố trong lịch sử dân Israel. Người nhắc đến biến cố bí ẩn trong sách Xuất Hành: con rắn đồng được treo lên làm dấu hiệu, chẳng những được hoàn tất, mà còn bị vượt lên trên trong biến cố khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa của Người.
+ Ngày xưa, thời xuất hành trong hoang địa, con cái Israel vì kêu trách và thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa, nên đã bị rắn độc tràn ra cắn chết nhiều người. Sách Dân Số thuật lại (21,4-9): bấy giờ ông Môsê treo một con rắn đồng lên cao: hễ ai nhìn lên con rắn đồng vòi lòng tin thi được thoát chết. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): "Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người" (Kn 1 6,7).
+ Dấu chỉ giờ đây nhường chỗ cho thực tại mà nó ám chỉ, đó là sự hiện diện của Đức Giêsu, Môsê mới, là Lời hằng sống ban sự sống của Thiên Chúa. Bị treo lên", Đức Giêsu cũng sẽ bị treo lên bởi những kẻ đóng đinh Người vào thập giá; Người sẽ được nâng lên bởi Chúa Cha, Đấng đón nhận Người vào hưởng vinh quang với Thiên Chúa (8,28-30). Và cũng như xưa, hễ ai nhìn lên con rắn đồng thì được sống, ngày nay hễ ai nhìn lên "Con người" bị đóng đinh và " phục sinh thì được Người ban cho sự sống đời đời.
- Nguồn gốc của hành vi cứu độ này không cần tìm đâu xa, nó ở ngay trong tình thương điên dại của Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô đối với thế gian. X. Léon-dufour diễn tả: “Ở trọng tâm của tất cả mọi sự và đặc biệt của vai trò Con Người và của con đường đi đến thập giá, ta thấy Thiên Chúa yêu thương thế gian. Lời xác quyết nêu bật Thiên Chúa và tình thương của Người như thực tại tuyệt đối. Tình thương đi trước mọi sự, cũng như trong Lời Mở Đầu, ánh sáng thần linh của Ngôi Lời soi chiếu mọi người trong bóng tối. Thiên Chúa thương yêu chỉ có một ý định là ban ơn cứu độ và sự sống (Lecture de L'evangile selon Jean, cuốn 1, Seuil, trang 305-306).
Như thế, ở đây, thập giá được trình bày như địa điểm mạc khải tình thương của Thiên Chúa, một biểu lộ tối hậu là nguồn mạch sự sống.
2. Mời gọi ta đáp trả
Đến đây coi như Nicôđêmô biến mất. Đức Giêsu xem như đối thoại với một nhóm thính giả, chính là chúng ta ngày nay:
Tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa tỏ bày qua Đức Giêsu Con Ngài, luôn kêu mời sự đáp lại của con người có tự do. Và nó đòi một lời đáp ngay lúc này, đối diện với Đức Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến, Đấng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa Cha. Bởi vì ngay bây giờ, cuộc xét xử đang được thực hiện:
Hoặc từ khước Thiên Chúa, đóng cửa không đón tiếp, mù quáng không muốn nhận ánh sáng, chìm đắm trong tối tăm và bị luận phạt. Hoặc cởi mở đón nhận ánh sáng, đón nhận sự cứu độ của Thiên Chúa, và như thế tất cả đều thay đổi, vì mọi hoạt động của ta sẽ được nhìn nhận như những hoạt động của Thiên Chúa, và trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Người.
X. Léon Dufour giải thích thêm: "trong những câu chúng ta vừa đọc, thái độ lựa chọn hay từ chối đều thể hiện trong lời đáp trả của con người trước Đấng Thiên Chúa sai đến. Một đặc điểm quan trọng khác là: sự sống vĩnh cửu và luận phạt đời đời không chỉ được thi hành vào ngày thế mạt, nó được thực hiện ngay trong giây phút hiện tại, ngay khi gặp gỡ Đức Giêsu. Tin vào Đức Giêsu, lập tức được sống, trái lời, từ khước tin Chúa, con người tự ý chọn lựa cái chết (vĩnh viễn), mà Thánh Kinh thường ám chỉ bằng câu "bị xét xử”. (Sđd, trang 308-309).
BÀI ĐỌC THÊM
1. "Cái nhìn cứu sống"
(G. Bessière, trong "Dieu si proche" năm B, DDB, trang 42-43).
Đem câu chuyện con rắn đồng so sánh với Đức Giêsu, kể cũng hơi lạ thường! Câu chuyện lạ thường này có ý nghĩa gì đây? Truyền thống Thánh Kinh có thuật rằng, trong cuộc Xuất hành, khi dân Do thái bị đói, bị khát đã kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Họ đã phải chịu hình phạt: những con rắn lửa bò ra gieo chết chóc cho dân. Nhưng rồi Thiên Chúa đã xót thương. Người truyền cho ông Môsê treo con rắn bằng đồng lên cột cao: "Ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống" (Ds 21, 8)
Ở đây sự so sánh nằm ở từ "treo lên”, Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ "sống”. Ai bị rắn độc cắn trong hoang địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tìm kiếm sự sống vĩnh cửu, sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu, nếu kẻ ấy "tin" Đức Giêsu ban sự sống, và Ngài ban cách sung mãn. Không phải sự sống nhân tính, mà “sự sống vĩnh cửu”. Bởi đâu có ân huệ vô biên thoả mãn mọi ước muốn như vậy: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi Người đã ban chính Con duy nhất của Người”. Nguồn gốc không thể diễn tả đó, chính là tình thương phát xuất từ mầu nhiệm cao siêu mãnh liệt đối với muôn loài muôn vật.
Viễn tượng thật hết sức lạc quan. Có người chủ trương rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến tiêu diệt những kẻ ô nhơ, tội lỗi. Đức Giêsu lại bày tỏ thái độ chống lại chủ trương tàn bạo này. Thiên Chúa không sai Con của Người đến để phán xét, nhưng "để nhờ Người mà thế gian được cứu sống".
Nếu có ai cố tình giam hãm mình trong sự dữ, hay trong bóng tối, thì không phải Chúa luận phạt, mà chính họ đã chọn bóng tối cho mình.
Phải chăng như vậy là nói rằng những người ngoài Kitô giáo, nghĩa là không gắn bó với Đức Giêsu, đều bị mất phần rỗi? Thánh Gioan nhìn nhận rằng sự gặp gỡ Thiên Chúa còn sâu xa hơn; nó được thể hiện trong sự thành tâm, trong giá trị của các hành động và trong sự mở rộng tâm hồn ra với người khác. Thánh sử đề cập cuộc tranh luận này khi viết: "Phàm ai thực thi chân lý, thì đến với ánh sáng”
2. Một cuộc sống được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện
(Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Pháp "Thư gởi những người công giáo Pháp", Cerf, trang 55-56).
Sau hết, tin vào ơn cứu độ của Thiên Chúa làm thay đổi cách thế hoạch định cả cuộc sống trần thế, và khiến ta hiểu khác đi lịch sử của ta trong thế giới này, và cả cách hoàn tất lịch sử đó nữa. Bởi vì "cho dầu sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8,38-39).
Mặc dầu chúng ta chia sẻ những ưu tư của thế giới này, chúng ta vẫn tin rằng cuộc sống con người như được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện, mà không gì làm thay đổi được và rằng ân sủng của Thiên Chúa hằng theo dõi và sẽ còn theo dõi trong mọi hoàn cảnh của lịch sử chúng ta. Và chúng ta cũng hy vọng rằng cái chết, đôi khi là cái chết tàn bạo, không chấm dứt số phận chúng ta, bởi vì Chúa hứa cho ta sống lại và sống vĩnh cửu.
Đứng trước những nỗi sợ hãi của thời đại chúng ta, chúng ta không thể im lặng về kết cục của số phận con người, dưới ánh sáng của Tình Thương. Giao ước của Thiên Chúa sẽ được thực hiện trong thế giới mới, thế giới đã được biến đổi, mà chúng ta mong đợi. Niềm hy vọng này luôn nâng đỡ những người (nam cũng như nữ) đang đấu tranh chống lại sự chết và những quyền lực của sự chết, những người dám hiến dâng sự sống mình vì tình yêu Đức Giêsu Kitô.
Những ai trưởng thành trong những năm tháng sau 1975, nay vẫn giật mình, khi nhớ đến việc: TN 24-B37
Những ai trưởng thành trong những năm tháng sau 1975, nay vẫn giật mình, khi nhớ đến việc khai lý lịch lúc bị chính quyền gọi để tra hỏi một điều gì hoặc khi cần nộp đơn làm công việc gì. Lý lịch “rõ ràng” luôn được yêu cầu, có nghĩa là phải khai hết chi tiết về bản thân và tất cả những người thân, cả bên vợ lẫn bên chồng khiến cho những ai đông anh chị em không khỏi ngại ngùng. Việc khai lý lịch đó cũng giúp nhà cầm quyền nắm được dân chúng, không để lọt những kẻ họ không muốn vào được trong bộ máy Nhà Nước Cộng Sản, hoặc học lên đại học và cấp cao hơn trong các ngành chủ chốt ( sư phạm, y khoa ). Tất nhiên không thể có chuyện thi vào các ngành sĩ quan Quân Đội và Công An.
Nhưng điều chúng ta muốn nói đến hôm nay, không phải là tờ khai lý lịch hay chứng minh thư, mà là “căn tính” của một con người, trước hết là của Chúa Giêsu và kế đến là của mỗi người đi theo Chúa. Ở cả ba trường hợp, tiếng nước ngoài đều dùng từ “identity”.
Những ngày qua ở Trung Quốc, nàng Mona Lisa cũng như Chúa Giêsu và các môn đệ đều cử động mắt miệng, chân tay và sẵn sàng trả lời các câu hỏi của khách tham quan. Chúng ta đang nói về những kiệt tác “La Joconda” và “Tiệc Ly”. Vua David và thần Appolo – dĩ nhiên chỉ là những pho tượng điệu khắc – cũng vươn vai, múa chân tay, chào khách đến thăm.
Đây tất nhiên chỉ là kỹ xảo sử dụng công nghệ cao, để tạo vui cười cho các tác phẩm của các bậc thầy nghệ thuật như Leonard de Vinci hay Michel Ange. Không còn ai nhận ra nụ cười bí hiểm đã làm cho bức La Joconde trở thành bất hủ và cũng khó lòng tưởng tượng cảnh buồn thảm im ắng của Tiệc Ly năm xưa, khi các nhân vật, trong đó cả nhân vật Giêsu đều tranh luận trao đổi, chuyện trò rôm rả.
Trong văn chương, chỉ cần viết sai một từ, thậm chí một dấu trong hai thanh trắc bằng, hoặc trong nghệ thuật – đặc biệt là hội họa – chỉ cần thêm bớt, bỏ sai một chi tiết nhỏ nhất, thì tác phẩm văn chương hay hội họa ấy sẽ bị biến dạng, mất hết giá trị, gây phản cảm. Sau cùng, thói quen “thêm mắm thêm muối” dẫn tới tam sao thất bản, làm sai lệch hiểu biết của người khác hoặc về người khác, là điều không thể chấp nhận được.
Giả dụ bây giờ chia Kitô hữu của ngày 13.9.2009 này thành hai nhóm, để tập trung trả lời câu hỏi Chúa Giêsu đặ ra trong Tin Mừng hôm nay, từ tất cả những gì họ nghe biết mọi quốc gia trên thế giới, những tổ chức lớn nhỏ – hữu thần và vô thần, quốc gia và quốc tế – những cá nhân hiểu biết sâu xa về mọi lãnh vực, nói về Chúa Giêsu, thì thật ngạc nhiên, vì tổng hợp này sẽ cho ra một tác phẩm kép – văn chương và hội hoạ – về nhân vật Giêsu rõ ràng, cùng với vô số những lời ngợi khen thán phục.
Nếu chỉ xét về cuộc đời và những lời Chúa Giêsu giảng dạy, thì trên thế gian này không tìm được một người trung thực nào dám phản bác chê bai. Người ta có thể thù ghét Giáo Hội Công Giáo, chống lại Giáo Lý và những giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo ( nhất là về mặt đạo đức sinh học ), cố tình có dã tâm phỉ báng hình ảnh và cuộc đời của Chúa Giêsu bằng văn chương, điện ảnh, nhưng những tâm địa xấu xa vụ lợi của những người hèn hạ ấy, rất dễ nhận diện và không làm giảm chút nào ánh hào quang nơi nhân vật vô tiền khoáng hậu Giêsu, nhân vật mà những người như Mahatma Gandhi kính ngưỡng, kể cả được nhiều người vô thần trích dẫn và noi theo.
Nhóm thứ hai là các tín hữu Công Giáo. Ngạc nhiên chưa: Tập hợp những mô tả về Chúa Giêsu từ hàng tỉ môn đệ Chúa, đa phần là “đạo ròng”, mà nói theo sách “Ngắm 15 Sự Thương Khó”, bản của Giáo Phận Vinh, là “Đức Chúa Giêsu đã nuôi nó nhiều năm, dạy dỗ những sự hiền lành”, hoá ra cũng chỉ hơn về độ dài và độ dày, nhưng vẫn nông cạn hời hợt, không thể nào cho ra được một tác phẩm đồng nhất hoặc một bức tranh hoàn chỉnh về Chúa Giêsu, một Giêsu bị ‘trấn tục hoá’ ( secularized ), được “nặn” rất tùy tiện trong các bài giảng Lễ không buồn dọn trước của một số Linh Mục nào đó, một Giêsu như ông Thần Tài nghe liệt kê đủ thứ lời cầu may, một Giêsu mà người ta bắt gia nhập đảng, phe, của họ, để chứng minh “chân lý” của mình và sai lầm của đối phương.
Giáo Hội Chúa – Nhiệm Thể mà Đầu chính là Chúa Kitô – bị băm nát, chia năm sẽ bảy, càng ngày ý tưởng và khát vọng hiệp nhất càng trở nên xa vời, không tưởng. Tội nghiệp Chúa Giêsu: câu trả lời của Tông Đồ Trưởng Phêrô mà Người hài lòng, khen lấy khen để, thì các môn đệ của hôm nay dường như “bằng mặt chứ không bằng lòng” và muốn chỉnh sửa cho thành thời thượng, cho dễ dàng hơn trong các đối thoại liên tín, liên tôn, liên văn hoá, theo kiểu suy luận của Tôn Thọ Tường: ”Thà mất lòng anh, được bụng chồng” ( chuyện Tôn phu nhân quy Thục ). Thà hy sinh Giáo Lý, giáo huấn Giáo Hội, để giữ hoà khí và để dễ đối thoại. Người ta cắt xén hình ảnh Chúa, Lời Chúa, cái chết và cuộc Phục Sinh của Chúa, không thương tiếc, không run tay, miễn là đối phương hay “đối tác” chấp nhận và hài lòng. Không chừng ngay cả Chúa Giêsu cũng không tài nào nhận ra Người chính là nhân vật ấy.
Người Công Giáo Việt Nam và những người có lòng ngay, có lý khi đánh giá những kẻ đã cố tình cắt xén xuyên tạc lời một vị Tổng Giám Mục đáng kính, cho bọn họ là hạng tiểu nhân. Kitô hữu bất bình, tức giận vì những bôi nhọ, xuyên tạc Giáo Lý, Kinh Thánh đầy ác ý, qua các tác phẩm văn chương, hội hoạ, phim ảnh nhan nhản trong lịch sử nhân loại, đặc biệt thời gian gần đây, nhưng chính chúng ta muốn “sống theo mục đích” do chính mình đề ra, đã khăng khăng bắt Lời Chúa phải uốn theo, giới hạn ở vai trò làm lá chắn, làm phông nền ( background ) cho lập trường và hoạt động sai trái của mình.
Rõ ràng tác hại khi người ta vì tin tưởng vào chúng ta, mà không thể phân biệt đúng. Những nhà Thần Học Giải Phóng xỏ mũi Lời Chúa và dắt Kinh Thánh đến đầu quân làm môn đệ của chủ nghĩa Mác – Lê. Đã có những vị Linh Mục hưởng bao ơn huệ Nhà Chúa, lại đặt Chúa Kitô ngang hàng với ông này ông kia, đồng thời lại dám khẳng định lời của những ông ấy, chủ thuyết của những ông ấy cũng mang chân lý cứu rỗi cho con người như Lời Chúa vậy.
Hôm nay, thay vì câu quen đọc trong bài Tin Mừng ( “người ta bảo Thầy là ai ?” ), Chúa muốn nghe chúng con trả lời một câu thứ ba: “Thế người ta bảo các con là ai ?” Những câu trắc nghiệm Chúa ra, chúng con trả lời đủ hết và… đúng hết, chỉ có điều là đem so với đáp án, thì không được mấy câu trùng khớp.
Con là Linh Mục, nhưng thích được tôn vinh ca ngợi, thích tiện nghi vật chất, thích ăn mặc bảnh bao, sợ sống nghèo và sợ bị chê là nghèo; ươn ái trong đời sống tu đức và mục vụ, không minh bạch rạch ròi trong tiền bạc. Hoàn toàn là những gì không tìm thấy trong Tin Mừng, trong ước mong và mục đích đào tạo Linh Mục của Giáo Hội. Từ người phục vụ, Linh Mục trở thành người muốn phải được người khác phục vụ. Và khi nghèo khó không được yêu mến, thì Khiết Tịnh và Vâng Phục chỉ là những khẩu hiệu rỗng tuếch.
Con là Giáo Dân, tự ban cho mình quyền kém một bậc đối với hàng Giáo Sĩ, không chỉ về thánh chức, mà cả về trách nhiệm, một thứ phó công dân Giáo Hội trần thế: giữ đúng giữ đủ và phạm sáu luật Giáo Hội như mọi Giáo Dân khác; tuân giữ và… sai phạm Mười Điều Răn như mọi Kitô hữu bình thường; đóng góp mọi khoản khi Giáo Xứ thông báo hoặc kêu gọi như mọi Giáo Dân bình thường, vẫn làm bổn phận đối Giáo Dân, công dân và với gia đình như một người bình thường. Đời tư của con, vì thế, xin đừng ai xía vào, khi con không phạm vào vật chất, tinh thần, danh dự của ai. Xay lúa, ắt khỏi phải bế em.
Lần nữa, Chúa không tài nào nhận ra Bát Phúc và Mười Điều Răn, cũng như Lời Chúa qua cách nghĩ, cách làm nơi các truyền nhân của Người ! Quá thất vọng, Chúa chỉ có thể dùng lại câu Người đã quở trách Thánh Phêrô năm xưa: ”Xatan ! Lui lại đàng sau Ta, vì tư tưởng của ngươi không phải là tư tưởng của Ta, mà là tư tưởng của loài người” ( Mc 8, 33b ).
Những ngày này ở đất nước Việt Nam, 40 năm sau ngày mất của nguyên chủ tịch đảng Cộng Sản và Nhà Nước Việt Nam, người ta ùn ùn vận động học tập và làm theo gương Bác Hồ, vì không thể lấy bàn tay che kín mặt trời, không bưng bít được nguy cơ do biến chất, tham nhũng, quan liêu, sa hoa, trụy lạc, bè phái… Cơn bệnh trầm kha không thể tìm đâu khác được một phương thuốc tốt hơn.
Gẫm người, phải nghĩ đến mình: nhiều Kitô hữu sống như thể nhận Bí Tích Rửa Tội rồi, là được “miễn dịch” sự dữ và nắm chắc được cứu rỗi, vì dù tội lỗi đến đâu, Chúa cũng sẽ vì thương yêu con cái mà tha hết. Câu của Thánh Phaolô được trích dẫn rất tài tình: ”Ở đâu tội lỗi đầy tràn, ở đó ân sủng chan chứa” ( Rm 5, 20 ). Và cùng với đời sống thiêng liêng xuống dốc, họ làm cho không còn ai nhận dạng ra khuôn mặt của Chúa Kitô như lời tuyên xưng của Giáo Hội ( qua Thánh Phêrô ). Còn Giáo Hội ? Đức Thánh Cha Biển Đức XVI gọi tình trạng Giáo Hội mà không còn nguyên vẹn căn tính Nhiệm Thể Chúa Kitô này, tình trạng mang “tư tưởng của loài người” này ( Mc 8, 33 ) – Chúa Giêsu đồng hoá nó với Xatan – là “tự trần tục hoá” ( self-secularization ). Tiếng Việt nôm na thẳng thừng là... “tự vả vào măt” !
Hoá ra câu “người ta bảo thầy là ai ?” và câu “người ta bảo các con là ai ?”, có cùng một hướng và cùng nội dung trả lời: Thầy là Cây Nho, các con là ngành nho ( Ga 15, 5 ), không phải ngành cam quýt hay ngành cây gai, cỏ dại. CON SAI RỒI khi làm cho Tình Yêu Chúa biến dạng qua cuộc sống biến dạng của con. Câu trả lời rành mạch và chỉ có một: từ bỏ bản thân và vác thập giá mình theo Chúa. Nếu có cách thế khác, con đường khác hay hơn, thì Chúa đã làm rồi !
HÃY HÁT LỜI TÌNH YÊU – THÁNH VỊNH 14
Với những lời thật đơn sơ, dễ nhớ, diễn tả sự thật định mệnh cuộc sống chúng ta, lời cầu nguyện ngắn gọn này đặt ra một câu hỏi mà bất cứ người nào chú tâm tới sự cứu rỗi của mình, cũng phải nêu lên: “Lạy Chúa, ai sẽ được tiếp đón dưới lều Người ? Ai sẽ được nghỉ ngôi trên Núi Thánh của Người ?” Người đối thoại với Chúa Giêsu trong Phúc Âm theo Thánh Máccô hỏi: ”Phải làm gì để đạt được sự sống đời đời ?” ( Mc 10, 17 ). Thánh Phaolô khi bị quật ngã vì luồng ánh sáng từ trên cao, đã nói: ”Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì ?” ( Cv 22, 10 ).
Câu trả lời, Chúa Giêsu đã đưa ra ngay từ đầu cuộc đời rao giảng công khai: ”Phúc thay những tâm hồn thanh khiết, vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa” ( Mt 5, 8 ). Tâm hồn thanh tịnh, lòng đầy thiện tâm, trước hết đối với anh chị em mình, đơn sơ và chân thành trong cuộc sống thường ngày, lại là những gì bảo đảm cho những kẻ tin, đến mức họ có thể lập lại: ”Ai hành động như thế, chẳng có gì có thể lay chuyển được” ( Tv 14, 8 ), vì đó chính là hình ảnh Chúa muốn thấy nơi các môn đệ của Người.
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Đường Tình Chúa Dẫn Con Đi số 14
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm tranh, trong đó có: TN 24-B38
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm tranh, trong đó có trưng bày một bức họa tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ”. Bức hoạ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố ở trung tâm thành phố Luân đôn. Đây là khu đông đúc dân cư nhưng không một ai để ý tới Ngài. Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Chúa. Một nhà thần học đang hăng say thuyết giảng về Đức Kitô mà không nhìn thấy Ngài. Duy nhất chỉ có một nữ tu nhìn thấy Chúa, nhưng vẫn dửng dưng bước đi trên con đường của mình.
Ông William Barclay, một học giả Kinh Thánh nổi tiếng trong thành phố Luôn Đôn đã bình luận về bức họa như sau: “ Hoàn cảnh này cũng thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Giêsu tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai chú ý tới Ngài. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện cao siêu hơn là việc lưu tâm tới Chúa, chẳng ai thắc mắc “Đức Giêsu là ai ?”
*******
Bạn thân mến ! Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến câu hỏi: ”Đức Giêsu là ai? “. Phúc âm tường thuật về việc Chúa Giêsu và các môn đệ cùng đi tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường Ngài đã gây ý thức cho các ông về người Thầy của họ bằng câu hỏi vô thưởng vô phạt: ”Người ta bảo thầy là aỉ ?“. Sau đó Ngài đặt vấn đề cho các ông, bắt các ông phải trả lời câu hỏi quan trọng hơn: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?"
Đức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ khi các ông còn đang ở với Ngài, đã thấy việc Ngài làm, đã nghe lời Ngài giảng dạy.
Hôm nay Đức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho tôi và bạn: "Con bảo Thầy là ai?" Ngài nhắm thẳng vào mỗi người trong chúng ta, đòi ta phải trả lời. Và câu trả lời của ta không phải là câu trả lời máy móc, không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở, nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ, phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Đức Giêsu. Nếu không thì chẳng lẽ ta lại đi theo một người mà mình không quen biết và tin tưởng sao ?
Hôm nay chúng ta dễ dàng trả lời như Phêrô: "Thầy là Đức Kitô", và hơn Phêrô: "Thầy là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa". Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu hỏi mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.
Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi, Thầy Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ. Môn đệ chỉ có một con đường duy nhất, đó là con đường Thập Giá của Thầy mình đã đi qua.
Thầy đã sống phận con người với tất cả bấp bênh tăm tối, đã phải chịu đau khổ, chịu hành hạ và sỉ nhục, chịu vác thập giá và chịu chết. Tôi có dám sống phận con người của tôi trong niềm vui không? Tôi có dám từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ngài không ?
Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật, tôi có dám hiến mạng sống của tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?
Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt, tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?
Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và phong phú. Ta chỉ mon men đến gần, nhưng không sao múc cạn được mầu nhiệm ấy. Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.
***
Lạy Chúa Giêsu! Cuộc đời này có biết bao cạm bẫy mời mọc mà con thì lại yếu đuối mong manh. Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc. Xin đồng hành với con, để con không cô đơn. Xin cho con biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà bước đi theo Chúa đến cùng. Amen.
Môn đệ hỏi thầy: "Thưa thầy đâu là hành động cao trọng nhất con người có thể thực hiện: TN 24-B39
Môn đệ hỏi thầy: "Thưa thầy đâu là hành động cao trọng nhất con người có thể thực hiện được?"
Sư phụ đáp: "Ngồi suy niệm."
Môn đệ thắc mắc: "Thưa Thầy, ngồi suy niệm như vậy sẽ dẫn đến sự thụ động chứ đâu phải hành động."
Sư phụ: "Đúng vậy, đó là một sự thụ động."
Môn đệ: "Thụ động thì không thể xem là cao trọng, phải không thưa Thầy?"
Sư phụ: "Sự thụ động là sức sống của hành động. Không có sự thụ động sẽ dẫn đến những hành động chết."
(Anthony de Mello, "One minute wisdom"- Double Day, NY 1985)
Bài suy niệm này được soạn trong khi giới điện ảnh và báo chí thi nhau khai thác những dữ kiện liên quan đến cuốn phim "Da Vinci Code". Một số nhà lãnh đạo tinh thần hô hào việc tẩy chay việc xem phim này, vì họ lo sợ những người thiếu hiểu biết sẽ bị lung lay đức tin sau khi xem phim. Một số khác thì bình tĩnh hơn, lợi dụng cơ hội để chọn chính đề tài này trong việc giảng dậy giáo lý hay trên bục giảng. Họ nhấn mạnh rằng đây chỉ là một phim giả tưởng mà người xem chỉ nên tin như tin một câu chuyện tiểu thuyết, không có thật.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cảnh Đức Kitô thẩm vấn các môn đệ của Người: "Người ta bảo Thầy là ai?" Và họ trả lời: "Gioan Tẩy Giả, tiên tri Elijah, hoặc một tiên tri nào đó..." Và chúng ta biết câu chuyện diễn tiến như thế nào. Vấn đề là mỗi người chúng ta phải có sự trả lời cho Đức Kitô về câu hỏi: "Đối với tôi, Đức Kitô là ai?" Và chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi đó một cách sâu xa và chân chính, sau khi chúng ta suy tư, học hỏi và quyết tâm chọn để Đức Kitô chiếm một vị trí quan trọng trong tâm trí của mỗi người chúng ta. Tìm hiểu và học hỏi không chỉ để biết Đức Kitô từ đâu đến, con nhà ai v.v... nhưng điều cốt yếu là tìm hiểu giáo huấn, sứ mạng và cuộc sống của Người. Vô tri bất mộ. Không hiểu thì không yêu được và không yêu thì không chọn ký thác cuộc đời cho người đó được. Một khi đã chọn rồi, thì chúng ta hãy sống chết với sự lựa chọn đó, để mỗi khi những biến cố "Da Vinci Code" khác nổi lên, chúng ta sẽ không bị lay chuyển và nao núng.
Để thực sự chọn Đức Kitô làm đối tượng duy nhất trong cuộc sống, chúng ta phải tìm hiểu, suy niệm, chọn, xác tín và hành động như chính Đức Kitô, những hành động đi ngược với trào lưu của xã hội, những hành động đi ngược lại sự mời gọi của Satan. Nếu chọn những tư tưởng, lời nói hay hành động do thần dữ xui khiến, thì chúng ta sẽ nghe Đức Kitô lên tiếng: "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mc 8:33). Tìm hiểu, tin và theo Đức Kitô không khó, nhưng sống cách sống của người là một thách đố: "Ai muốn theo ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8:34-35).
Bài đọc hai hôm nay trích từ thư Thánh Giacobê tông đồ nhắc nhở cho chúng ta biết "Đức tin không việc làm là đức tin chết." Còn câu chuyện do Anthony de Mello kể trên thì xác định rằng, hành động mà không đi đôi với sự chiêm niệm cũng sẽ dẫn đến sự chết. Phải chăng hai xác quyết này lại là một sự mâu thuẫn? Chiêm niệm và hoạt động là hai thực trạng không thể tách rời được. Cuộc đời của Đức Kitô đầy dẫy những gương cầu nguyện, ăn chay và hành động. Chiêm niệm chuẩn bị cho hành động và hành động phải được nuôi dưỡng bằng sự chiêm niệm. Cuộc sống của các Thánh cũng không thiếu những gương sáng về việc chiêm niệm và hoạt động. Điều quan trọng vẫn là động lực hay đối tượng của việc chiêm niệm và hoạt động. "Các Thánh không phải là những người có nhiều bằng cấp hoặc những con người đạt được nhiều thành công vượt bực. Họ là những người với một hai tính cách rất giống nhau, nhưng ít ai nhận ra. Những gì họ nói luôn đi đôi với cuộc sống và việc làm của họ (Keith Miller).
Lậy Chúa, con muốn noi gương Chúa, để tư tưởng và lời nói luôn đi đôi với hành động trong cuộc đời của con. Sr. Thanh Thủy, LHC
Trong một tuần lễ sinh hoạt học hỏi và huấn luyện của các anh chị Huynh Trưởng Thiếu Nhi: TN 24-B40
Trong một tuần lễ sinh hoạt học hỏi và huấn luyện của các anh chị Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể từ các Xứ Đoàn gửi về. Ngày cuối chúng tôi được tham dự một buổi viễn du ngoài xã hội: đi thăm một viện dưỡng lão người già tại thung lũng Valley d'Amoure. Trong viện có chừng 60 bệnh nhân đủ mọi hạng người: già khớ đến, mù, đui, điếc, què và những bệnh nhân ngồi xe lăn. Chúng tôi đến thăm viện từ sáng sớm, nhiều người còn đang ngủ, nên nhận xét được rất nhiều: Có bà già co quắp chân tay, nằm èo ẹt trên giường còn xông mùi nước tiểu nồng nặc. Có cụ già gù và điếc ngồi trên xe lăn, hướng mắt nhìn ra cửa chính. Cụ là người già nhất và cô đơn nhất, ngày ngày cụ ra ngồi chỗ cửa chính để ngóng con trai vào thăm nom. Trong gian nhà chơi trống rỗng vài ba ông bà già ngồi chụm quanh bàn chơi cờ tây, lâu lâu mới được nụ cười thích thú. Trong một căn phòng kê đủ 3 chỗ ngủ, một thiếu nữ trạc độ 20 tuổi, cụt hai chân, đang quấn trong chăn, miệng ngồm ngoàm nhai bữa điểm tâm sáng. Phòng bên cạnh là một bà già đứng tuổi đang dương đôi mắt mờ mờ nhìn sát màn ảnh Tivi mầu. Bà mở cho máy kêu oang oang phát ra cửa. Đi phòng nào cũng ngửi thấy mùi hôi ban sáng, khiến tôi bị nôn mữa, phải chạy ra ngoài để lấy không khí. Chúng tôi giúp đỡ họ làm sạch vệ sinh ban sáng rồi tụ họp họ lại nhà hội để làm văn nghệ mua vui cho họ. Một buổi sáng hôm đó, chúng tôi đã làm cho biết bao guôm mặt rạng rỡ nụ cười. Ngay chính chúng tôi cũng cảm thấy hạnh phúc và sung sướng.
Câu chuyện trên đây thật thích hơp với bài Tin Mừng hôm nay "Thầy còn phải khổ nhiều". Chúa còn phải đau khổ nhiều khi nhìn đến nỗi khổ của dân chúng, đặc biệt là những kẻ khốn cùng. Trên thế giới này biết bao người tàn tật, bệnh hoạn về thể xác, già cả, khổ đau về tinh thần.... Cần được giúp đỡ, cần phải phục vụ . Làm cho họ chính là làm cho mình sung sướng vì họ là hình ảnh của Chúa hiện diện nơi đám dân nghèo. Chúa còn nói:"Những gì ngươi làm cho một anh em nghèo khổ là làm cho chính Ta" (Mt. 25:40).
Lạy Chúa, xin cho con thấu hiểu điều này là: Biết phục vụ người khác mới tìm được hạnh phúc thật. Lm. Thu Băng, CMC
Văn hào Charles Lamb sống ở Anh Quốc 200 năm trước đây. Suốt 30 năm, ông chỉ là một: TN 24-B41
Văn hào Charles Lamb sống ở Anh Quốc 200 năm trước đây. Suốt 30 năm, ông chỉ là một viên thư ký tầm thường trong một xưởng đóng tầu. Thế mà ông đã trở nên một văn hào nổi tiếng vì những bài trào phúng thanh nhã, duyên dáng và nhất là ông có một tình yêu thương hiếm có đối với gia đình và bạn bè của ông. Một buổi chiều nọ, các bạn hữu hội họp tại nhà ông để thảo luận về văn chương. Một người trong nhóm đặt câu hỏi: "Chúng ta sẽ nghĩ sao, nếu Dant, tác giả của vở hài kịch Divine Comedy, sẽ bước vào phòng họp của chúng ta chiều này?" Một người khác lại tiếp lời: "Giả thử Shakespeare tới họp với chúng ta bây giờ thì sao?" Ông Charles Lamb vội vàng trả lời: "Tôi sẽ giang hai tay vui mừng nồng hậu đón tiếp vị "Vua" của các nhà tư tưởng danh tiếng đó". Cuối cùng, một người khác đặt giả thiết: "Vậy giả như Chúa Kitô bước vào phòng họp này thì chúng ta có thái độ nào?" Văn Hào Charles Lamb nghe vậy, vội nghiêm nét mặt trả lời: "Dĩ nhiên, tất cả chúng ta đều cung kính quì xuống tôn thờ Ngài".
Tại sao văn hào Charles Lamb lại phát biểu tư tưởng đặc biệt này? Tại vì giữa Chúa Kitô và các vĩ nhân của lịch sử nhân loại có sự khác biệt vô cùng: Chúa Kitô là Thiên Chúa đáng tôn kính sùng mộ, còn các vĩ nhân kia, dầu sao cũng chỉ là con người phàm như bất cứ ai trên trần gian này.
I. NGÀI LÀ MỘT VĨ NHÂN SIÊU VIỆT
Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Sử Marcô tường thuật câu truyện trao đổi giữa Chúa Kitô và các môn đệ Ngài, đang trên đường tiến về miền Xêsarê Philipphê. Chúa hỏi các môn đệ cho biết, người ta đã nghĩ thế nào về Ngài.
Qua lời đối đáp của các môn đệ, cho chúng ta thấy quan niệm của người Do Thái đương thời, thì Ngài Chính là Gioan Tẩy Giả đã bị chém đầu nay sống lại. Có những người lại cho rằng, Ngài là tiên tri Elia đã xuất hiện; những kẻ khác lại cho rằng, cùng lắm thì Ngài cũng chỉ là một vị tiên tri như bất cứ tiên tri nào khác.
Với những quan niệm của người thời nay: Có những người tôn Ngài là một vị quân tử, một nhà hiền triết, giống như các triết gia Hy Lạp Aristote hay Socrate chẳng hạn. Có những người sùng mộ hơn thì lại cho Ngài là một vĩ nhân, một nhà lập đạo, một lãnh tụ tôn giáo như Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử hoặc như Thích Ca Mâu Ni, ông tổ Phật Giáo; Ngô Văn Chiêu, ông tổ Cao Đài Giáo; Huỳnh Phú Sổ, ông tổ Phật Giáo Hòa Hảo; Đỗ Hữu Thuần, ông tổ Pháp Lý Vô Vi hay ông Đạo Dừa chẳng hạn... Rồi có người lại coi Ngài là thần tượng của giới trẻ, ông tổ của giới Hippi; hoặc hơn nữa, Ngài là một siêu nhiên cao cả có quyền năng trong lời nói và trong hành động.
II. NGÀI LÀ ĐỨC KITÔ CON THIÊN CHÚA
Sau khi nghe các môn đệ thuật lại ý kiến của các người Do Thái nghĩ về Chúa, Chúa mới hỏi lại các môn đệ: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Thánh Phêrô đã lên tiếng đại diện cho các môn đệ tuyên xưng rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!".
Đức Kitô, chính là Đấng Thiên Sai, Đấng Messia Thiên Chúa sai đến trần gian, để truyền bá giáo thuyết và huấn lệnh của Thiên Chúa, như phương thế cứu độ trần gian. Nhưng Ngài không phải là Đấng Thiên Sai theo quan niệm sai lầm của người Do Thái, vì họ chỉ chấp nhận một Đấng Thiên Sai uy quyền về phương diện chính trị, đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách đô hộ đế quốc Roma, cũng giống như quan niệm tầm thường của các môn đệ của Ngài lúc ban đầu, họ đã thường tranh luận với nhau xem ai trong nhóm họ, sẽ làm lớn trong "Nội Các" tương lai của Thầy.
Thực ra, Đức Kitô là chính Đấng Thiên Sai được mệnh danh là Người Tôi Tớ Thống Khổ của Thiên Chúa, như bài sách tiên tri Isaia chúng ta vừa nghe đã tiên báo. Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa đã mặc hình tôi đòi giống như người phàm, Ngài đã hủy mình đi, lãnh nhận mọi án lệnh như một tội nhân, Ngài đã tự nguyện hiến dâng bản thân làm lễ vật hy sinh, chịu chết để đền tạ phép công bình Thiên Chúa, hầu cứu độ nhân loại.
Sau khi nghe Chúa nói về những thống khổ Ngài sẽ chịu, bị các trưởng tế, kỳ lão, luật sĩ chối bỏ và giết chết. Phêrô đã kéo Ngài lui ra và can ngăn Ngài, Ngài đã nặng lời quở trách ông: "Satan, hãy lui đi, con không biết việc của Thiên Chúa, mà chỉ biết việc của loài người". Những lời đó đã đánh tan quan niệm sai lầm của các môn đệ, làm cho các ông được hiểu biết đúng về Ngài, để niềm tin của các ông thêm vững mạnh, thêm xác tín hơn. Do đó, Thánh Phêrô đã đại diện các môn đệ cao lời tuyên xưng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!".
III. CÒN CHÚNG CON, CHÚNG CON LÀ AI
Cùng với các Tông Đồ và toàn thể Giáo Hội, chúng ta tuyên xưng Chúa là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Đó là lời tuyên xưng đã được Chúa chấp nhận và hài lòng. Nhưng Chúa muốn chúng ta phải trở nên chứng nhân và sống niềm tin chúng ta vừa tuyên xưng, bằng cách chúng ta hãy chân thành đáp lại lời Chúa có thể hỏi chúng ta: "Còn chúng con, chúng con là ai?"
Chúng ta là Kitô Hữu, là người thuộc về Chúa Kitô, là môn đệ của Chúa, là con Thiên Chúa. Chúng ta tuyên xưng Chúa là Đức Kitô. Vậy chúng ta đã thực trở nên chứng nhân của Chúa bằng cuộc sống cho niềm tin đó, xứng với danh nghĩa diễm phúc chúng ta là Môn Đệ, là con Thiên Chúa chưa?
Để trở nên môn đệ đích thực của Chúa, nên con Thiên Chúa, Chúa đòi chúng ta phải nên giống Chúa: "Các con hãy học cùng Cha, vì Cha nhân từ và khiêm nhu". Điều kiện để nên môn đệ của Chúa: "Ai muốn theo Cha, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Cha". Và: "Ai không từ bỏ chính mình, không vác thập giá mình, không thể làm môn đệ Cha được"
Kết Luận
Với lòng tôn kính và sùng mộ, chúng ta tuyên xưng Chúa là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, là Thiên Chúa thật, chúng ta hết lòng tôn thờ, phụng sự và yêu mến Ngài. Nhưng để chứng minh lòng tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa xứng đáng, Chúa đòi chúng ta hãy sống xứng đáng với danh nghĩa diễm phúc là môn đệ, là con Thiên Chúa, bằng cách cố gắng mô phỏng đời sống thánh thiện của Chúa Kitô ngay trên trần gian này.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo chúng ta vác Thánh Giá mình mà theo Chúa: TN 24-B42
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo chúng ta vác Thánh Giá mình mà theo Chúa, nhưng Thánh Giá là gì?
Nhiều người xem Thánh Giá như một đơn vị kinh tế để xác định giầu nghèo. Thánh Giá bằng vàng thì quí hơn Thánh Giá bằng gỗ. Và Thánh Giá bằng vàng cũng còn tuỳ to nhỏ mà có giá trị khác nhau. Người giầu có Thánh Giá bằng vàng đã đành, kẻ nghèo túng cũng tìm mọi cách để sắm cho được Thánh Giá vàng để khoe với mọi người rằng mình “chẳng thua kém gì ai”. Dĩ nhiên người môn đệ đích thực của Đức Kitô không nhìn Thánh Giá như đơn vị kinh tế để khoe khoang như thế.
Người khác lại dùng Thánh Giá để xuống đường. Họ vác Thập Giá không phải để chịu đóng đinh như Chúa Giêsu, nhưng đòi biểu tình, để đòi đóng đinh kẻ khác. Thánh Giá bị lợi dụng để tranh giành ảnh hưởng, để tiêu diệt kẻ thù, thay vì đem sự sống, đem bình an hạnh phúc đến cho mọi người, kể cả kẻ thù của mình.
Ý nghĩa đích thực của Thánh Giá cần tìm thấy ở giáo huấn của Chúa Giêsu, hoặc nhìn thấy chính Đức Giêsu chịu treo trên Thập Giá để thực hiện ơn Cứu Chuộc cho con người. Người Kitô hữu đích thực vác Thập Giá đi theo Đức Kitô vì yêu mến Ngài, chứ không phải lợi lộc trần thế. Trước khi đi sâu vào mầu nhiệm Thập Giá chúng ta tìm hiểu ý nghĩa bài Tin Mừng hôm nay:
Khi ấy Chúa Giêsu và các môn đệ của Người đang trên đường đi tới các làng, xã vùng Cêsarê, Người hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” Các ông thưa: “Họ bảo thầy là Gioan Tẩy giả, người thì nói là Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Rõ ràng là dân chúng đã thấy Chúa Giêsu là nhân vật của Thiên sứ, nhưng họ vẫn chưa tỏ tường hẳn về Ngài. Mà “vô tri thì bất mộ”, họ chưa nhận ra được dung nhan cứu thế của Đức Kitô thì làm sao họ có thể thấu đáo được mầu nhiệm Thập Giá của Ngài. Riêng ông Phêrô thấy được Con Thiên Chúa xuất thân từ gia đình thợ mộc nghèo nàn là một ơn rất đặc biệt…. Lúc đó Chúa Giêsu thấy niềm tin của Phêrô, Ngài liền bắt đầu mở chìa khóa cửa trời và tỏ cho các môn đệ biết mầu nhiệm sinh ơn cứu độ, Ngài cho các ông biết: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết và sau ba ngày Ngài sống lại. Rồi Chúa Giêsu kết hợp chức vụ Đấng Mêsia với sự đau khổ và sự chết mà Ngài đang khẳng định với các môn đệ. Đó là những điều khó tin khó hiểu, vì suốt đời họ vẫn quan niệm về một Đấng Mêsia bách chiến bách thắng, thế mà giờ đây họ lại được nghe những điều trái ngược:
Suốt quá trình cuộc sống, người Do Thái chẳng khi nào quên được họ là tuyển dân của Chúa theo ý nghĩa hết sức đặc biệt, họ trông mong được một địa vị cao cả trong thế gian. Họ luôn xem những ngày trọng đại nhất trong lịch sử của họ như các ngày của Đavit. Họ mơ ước một ngày kia có một vua khác thuộc dòng dõi Đavit sẽ khiến họ trở thành vĩ đại trong lịch sử công chính và thế lực. Thế nhưng thời gian trôi qua, mơ ước của họ thật đáng thương hại. Họ bị lưu đầy sang A-sy-ry, người Babilon chinh phục Giêrusalem, bắt dân Do Thái đem về nước làm tù binh. Rồi họ còn bị làm tôi cho người Ba Tư, Hy Lạp, sau đó là người La Mã. Thế là họ chẳng chinh phục được ai, cho nên có một giòng tư tưởng khác nảy sinh, họ càng ngay càng mơ ước về một tương lai khi Thiên Chúa can thiệp lịch sử bằng những phương tiện siêu nhiên, họ mong quyền năng Thiên Chúa sẽ làm những gì mà khả năng con người đành bó tay, người ta nghĩ về một nhân vật vĩ đại, một thần dân, một siêu nhân xuất hiện trong lịch sử để tái tao thế giới và cuối cùng báo thù cho tuyển dân của Thiên Chúa… Lúc đó các dân nước khác sẽ liên minh với nhau để chống lại nhà vô địch của Thiên Chúa. Kết quả là các thế lực chống đối sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt. Hiền giả Phi-lô bảo rằng “Đấng Mêsia sẽ là nhà chinh phục gây nhiều tai hại nhất trong lịch sử, đàn áp các kẻ thù Ngài cho đến khi chúng hoàn toàn bị tiêu diệt.
Trên đây là các ý niệm về Đấng Mêsia vốn ngự trị trong tâm trí người Do Thái, họ cũng đang chờ đợi thành Giêrusalem mới sẽ được làm lại, dân Do Thái đã bị tản mát khắp thế giới sẽ được gom về thành phố Giêrusalem mới, lời cầu nguyện hằng ngày của người Do Thái là: “Xin hãy giương lên một ngọn cờ để thu góp những kẻ tản mát của chúng tôi khắp bốn phương trời lại”. Còn cao vọng hơn thế nữa, dân Do Thái tin là xứ Palestine sẽ là trung tâm thế giới và cả thế gian sẽ qui phục nó…. Chính vì những lý do đó, nên Phêrô đã mạnh mẽ phản đối, ngăn cản Chúa Giêsu. Nhưng Chúa lại quở trách đuổi Phêrô như xưa Chúa đã đuổi Satan cám dỗ Chúa trong thời kỳ chay tịnh 40 ngày ở sa mạc (Mt.4,10). Ngày trước Chúa nói với Satan là “phải thờ phượng Chúa”, còn bây giờ Chúa nói với các môn đệ và quần chúng rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập Giá mình mà theo Ta”. Đây là điều ngược hẳn với mơ ước trần gian.
Thập Giá khi mà Chúa báo trước thì Phêrô đã can gián Ngài. Thập Giá khi mà Phêrô theo Chúa vào sân tiền đình của thượng tế Caipha, Phêrô đã chối Chúa, còn các môn đệ khác đã bỏ chạy đi nơi khác hết. Thế mà Chúa lại mời gọi mọi người vác lấy. Ngài mời gọi con người lựa chọn chứ không bắt buộc. Nếu biết Đức Kitô là ai, hẳn chúng ta cũng biết Thập Giá là gì. Nếu vui lòng vác Thập Giá, Thập Giá sẽ đưa dẫn chúng ta vào Nước Trời. Thập Giá đắng cay sẽ cho chúng ta hương vị ngọt bùi của Thiên Đàng.
Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta xác tín hơn về Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu treo trên Thập Giá; để biết bỏ mình, biết chia sẻ với tha nhân hơn là hưởng thụ; biết phục vụ mọi người hơn là thích thống trị; biết phân phát hơn là lãnh nhận. Càng theo theo sát bước chân Chúa chúng ta càng phải chịu hao mòn, chịu mất mát và thậm chí phải chịu chết để được sống vinh hiển đời đời với Đức Kitô. Chúa đã say mê vác Thập Giá, chúng ta là môn sinh của Ngài cũng phải hân hoan bước theo Ngài lên đồi Canvê. Vì nếu cùng chết với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài. Và nếu chia sẻ đau khổ của Chúa, chúng ta cũng được chung phần vinh quang của Người.
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm B tuần này, theo Phúc Âm Marcô, không: TN 24-B43
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm B tuần này, theo Phúc Âm Marcô, không phải là bài Phúc Âm tiếp tục ngay sau bài Phúc Âm tuần trước. Bởi vì, ngay sau bài Phúc Âm tuần trước Thánh Ký Marcô trình thuật về biến cố Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ hai, về men gương mù gương xấu của nhóm Pharisiêu và về phép lạ chữa lành người mù ở Bethsaida. Bài Phúc Âm tuần này cho thấy mạc khải về chính bản thân nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, vị đã kêu gọi Nhóm 12 Tông Đồ, tỏ mình riêng cho các vị và dạy dỗ các vị hơn quần chúng. Chúng ta nên để ý ở đây là Chúa Giêsu không biến hình trên núi rồi mới tỏ cho các tông đồ biết mạc khải cốt lõi nhưng đầy kinh hoàng đối với các vị này, một biến cố biến hình, trái lại, theo Phúc Âm Thánh Marcô, chỉ xẩy ra ngay sau mạc khải này. Chúng ta đã biết là Chúa Giêsu, trong bộ Phúc Âm Nhất Lãm, đã tỏ cho các tông đồ biết về mầu nhiệm Đức Kitô Vượt Qua tất cả là 3 lần, và lần đầu tiên xẩy ra trước biến cố Người biến hình trên núi cao. Thế nhưng, vì là một mầu nhiệm hết sức kinh hoàng trước con mắt các tông đồ, bởi thế, Chúa Giêsu đã phải thăm dò xem khả năng chịu đựng của các tông đồ tới đâu, bằng cách hỏi các vị xem dân chúng nghĩ về Người ra sao, nhất là tâm tưởng của chính các vị xác tín về Người như thế nào, sau bao ngày tháng các vị được ở bên Người, được nghe lời Người nói, được thấy việc Người làm v.v. Nếu các vị trả lời trật lấc, hay không đúng là bao, hoặc chẳng khác gì câu trả lời của dân chúng, chắc Chúa Giêsu đã không tỏ mình ra hay chưa dám tỏ mình ra hoàn toàn cho các vị đâu. Bằng không, thay vì có lợi cho các vị thì chỉ gây thêm bất lợi cho các vị mà thôi, làm cho một số nữa hay hầu như tất cả bỏ đi, như nhóm môn đệ sau khi nghe Bài Giảng về Bánh Hằng Sống cách đây ba tuần.
Thật vậy, lời tuyên xưng của các tông đồ, qua vị tông đồ Phêrô đại diện, “Thày là Đức Kitô!”, là Đấng Thiên Sai, đã cho thấy các tông đồ quả thật đã nhận biết Thày của các vị thực sự là Đấng nào, thực tại của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là gì, đúng như Người muốn tỏ ra, muốn chứng thực chẳng những cho dân Do Thái mà còn cho cả Dân Ngoại nhất là các Tông Đồ thấy, những lần chứng thực được Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại trong toàn bộ Phúc Âm của ngài, đến nỗi, mầu nhiệm Đấng Thiên Sai này và mầu nhiệm Vượt Qua của Người không thể tách rời nhau trong Phúc Âm Thánh Gioan. Với dân Do Thái: “Bao giờ quí vị treo Con Người lên, quí vị sẽ biết Tôi là ai” (Jn 8:28); với Tổng Trấn Philatô: “Lý do Tôi được sinh ra, lý do Tôi đến thế gian đó là để làm chứng cho chân lý” (Jn 18:37); với các tông đồ: “vì họ mà Con tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý” (Jn 17:19).
Thế nhưng, trong tâm can của các vị tông đồ, sự thật “Thày là Đức Kitô“ đây mới chỉ là một hạt cải nhỏ nhất trong các hạt giống chứ chưa thành cây vĩ đại (x Mt 13:31-33). Bởi đó, hạt cải này vẫn chịu sự chi phối bởi môi trường được gieo xuống. Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần tới sẽ cho chúng ta thấy rõ căn nguyên tại sao các vị tông đồ đã tỏ ra thái độ hoàn toàn mâu thuẫn nơi vị đại diện của mình là Thánh Phêrô, vị đã vừa tuyên xưng chân lý “Thày là Đức Kitô” liền bị Thày quở trách hết sức thậm tệ: “Hãy xéo đi khỏi mặt Ta, đồ Satan, Ngươi chẳng phán đoán theo kiểu cách của Thiên Chúa gì cả mà chỉ theo kiểu cách của loài người thôi”. Cũng khó mà trách các vị tông đồ được, vì các vị bấy giờ chỉ mới được tới đó, trình độ đức tin của họ mới chỉ có thế thôi. Đó là lý do có lần các vị đã phải lên tiếng “xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” (Lk 17:5).
Đúng vậy, Chúa Giêsu đã lợi dụng một trường hợp để tăng thêm đức tin cho các tông đồ môn đệ của Người, thành phần được Người tuyển chọn để sau này làm chứng cho Người. Những lần Ngài làm tăng thêm đức tin cho các vị, điển hình nhất là lần họ gặp phong ba bão táp trên biển hồ song Người đã ra tay cứu các vị (x Lk 8:22-25), hay lần các vị đánh cá thâu đêm mà chẳng bắt được gì theo kinh nghiệm nghề nghiệp đầy mình của các vị, song chỉ vì vâng lơi#i Người mà các vị đã bắt được những mẻ cá lạ lùng (x Lk 5:5-11). Tuy nhiên, đức tin của các vị dầu sao cũng mới chỉ biết mặt phải của Thày mình, ở chỗ chỉ biết được Thày của các vị đầy quyền năng, có thể chữa lành các thứ bệnh nạn tật nguyền, có quyền trên các thần ô uế, có quyền trên cả thiên nhiên vạn vật v.v., chứ chưa biết mặt trái của “Thày là Đức Kitô”, một Đức Kitô khổ nạn và tử giá rồi mới được vinh quang, một Đức Kitô đầy quyền năng nhưng không thể thoát khỏi bàn tay lông lá của loài người, không thể tự mình xuống khỏi thập giá.
Tiếc thay, chính mặt trái này của Đức Kitô mới thật là chân dung của Người, chân dung của môt Đấng Thiên Sai thực sự, tức của một người tôi tớ được tiên tri Isaia nói tới (42:1), một người tôi tớ cùng khổ cũng được vị tiên tri này diễn tả trong bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật tuần này, của một vai trò thừa hành, của một vai trò thừa sai, vai trò đến không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai (x Jn 6:38). Việc “Người đã vâng lời cho đến chết và chết thập giá” (Phil 2:8) chính “là để làm chứng cho chân lý” (Jn 18:37) Người được Cha sai, Người chính là Đấng Thiên Sai, Cha là Đấng đã sai Người, Cha Người là “Thiên Chúa chân thật duy nhất” (Jn 17:3) đúng như Ngài đã mạc khải cho dân Do Thái trong suốt Lịch Sử Cứu Độ Cựu Ước của họ, một mạc khải đã được hé mở từ cuộc thần hiển ở bụi gai cháy mà không bị thiêu rụi để Ngài tỏ đích danh của Ngài là “hiện hữu” cho Moisen (x Ex 3:14), “hiện hữu” ở chỗ “chân thật duy nhất”, ở chỗ trước sau như một, nghĩa là một khi Ngài đã tự động hứa những gì với cha ông tổ phụ họ là Abraham, Isaac và Giacóp thì Ngài sẽ thực hiện đúng ý như vậy nơi giòng dõi của các vị (x Acts 13:32-33), dù dân của Ngài đã muôn vàn lần bội hứa, đã không ngớt lỗi phạm lề luật thánh của Ngài, đã đáng bị Ngài tận diệt ngay từ đầu (x Ex 32:10).
Chính vì chân dung của Đức Kitô, của Đấng Thiên Sai không phải ở mặt phải với đầy những quyền năng, mà là ở mặt trái đầy tuân phục, đau khổ và tủi nhục, mà thành phần được Người tuyển chọn, thành phần muốn đáp lại lời Người mời gọi, thành phần muốn thực sự trở thành môn đệ của Người, muốn theo Người cho tới cùng, “đi đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới” (Rev 14:4), như Mẹ Maria “đứng bên thập giá” (Jn 19:25), cần phải thực hiện những gì Người đã nói với chẳng những với các tông đồ mà còn cả với dân chúng ở cuối bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này: “Ai muốn theo Tôi họ phải chối bỏ chính bản thân mình, vác thập giá của mình mà theo Tôi. Ai muốn giữ sự sống mình thì sẽ đánh mất sự sống, còn ai mất sự sống mình vì Tôi và vì phúc âm thì sẽ giữ được sự sống”. Đó là lý do, trong bài đọc thứ hai hôm nay, Thánh Giacôbê đã nhấn mạnh đến việc thực hành những gì mình tuyên xưng. Phải chăng những lời khuyên này của vị tông đồ Giacôbê đã phản ảnh cảm nghiệm của ngài từ bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, từ việc các tông đồ tuyên xưng “Thày là Đức Kitô” bằng môi miệng song trên thực tế đã sống mâu thuẫn với sự thật các vị tuyên xưng, mâu thuẫn đến nỗi đã đi đến chỗ phản nộp Người nơi tông đồ Giuđa Ích-Ca, đến chỗ “tất cả đã bỏ Người mà tẩu thoát” (Mk 14:50) khi “Đức Kitô” bị bắt trong vườn Cây Dầu, hay thậm chí đã đi tới chỗ trắng trợn chối bỏ Người ba lần nơi chính cửa miệng của người tông đồ tuyên xưng “Thày là Đức Kitô”, và đến nỗi đã phủ nhận Người khi Người từ trong kẻ chết sống lại đúng như Người đã báo trước (x Lk 24:37; Jn 20:25). Chính vì con người chỉ tìm kiếm bộ mặt phải của Chúa Kitô, và sợ đụng đầu với bộ mặt trái của Người, một bộ mặt bị khạc nhổ như tiên tri Isaia trong bài đọc một tiên báo, mà họ hãy coi chừng kẻo sẽ gặp toàn là Kitô giả xuất hiện để lừa đảo nhiều người (x Mt 24:24).
• Is 50,5-9a: (6) Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
• Gc 2,14-18: (14) Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? (17) Đức tin không có hành động là đức tin chết.
• TIN MỪNG: Mc 8,27-35
Ông Phêrô tuyên xưng đức tin
(27) Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: «Người ta nói Thầy là ai?» (28) Các ông đáp: «Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó». (29) Người lại hỏi các ông: «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?» Ông Phêrô trả lời: «Thầy là Đấng Kitô». (30) Đức Giêsu liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người.
Đức Giêsu loan báo lần thứ nhất cuộc Thương Khó và Phục Sinh
(31) Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. (32) Người nói rõ điều đó, không úp mở. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. (33) Nhưng khi Đức Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phêrô: «Xatan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người».
Những điều kiện để theo Đức Giêsu
(34) Rồi Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: «Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. (35) Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin: TN 24-B44
1. «Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy» (Mc 8,35). Bạn có thấy điều này nghịch lý không? Bạn lý giải câu này thế nào?
2. Có điều gì tốt đẹp trên đời bạn có được mà không phải trả giá không, hoặc chính bạn trả giá hoặc người khác trả giá thay cho bạn?
3. «Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo» (Mc 8,34). Dựa vào câu này, bạn thử tự xác định xem mình đã theo Chúa đích thực chưa? Bạn có còn thiếu điều gì phải làm để là người theo Chúa đích thực? Suy tư gợi ý:
1. Những điều nghịch lý những lại là định luật tự nhiên
Cuộc đời này có rất nhiều nghịch lý, nhưng lại là những quy luật tự nhiên mà muốn tồn tại và hạnh phúc thì phải tuân theo: «Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong». Một trong những nghịch lý ấy được Đức Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: «Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy» (Mc 8,35). Điều Ngài nói thật lạ thường: muốn cứu mạng thì sẽ mất, có liều mạng mới được sống! Nhưng sự thật là như thế! Người mà lúc nào cũng chỉ nghĩ đến hạnh phúc mình, muốn nắm chắc hạnh phúc trong tay, và bằng mọi giá tránh tất cả mọi đau khổ xảy đến, thì hạnh phúc sẽ vuột khỏi vòng tay và sẽ suốt đời lâm vào tình trạng đau khổ. Cổ nhân có câu: «Ghét của nào trời trao của nấy», rất đúng! Ngược lại, người không quan tâm đến hạnh phúc hay đau khổ của mình mà chỉ mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân và tìm cách giúp tha nhân khỏi đau khổ, thì người ấy lại hạnh phúc hơn cả và ít phải đau khổ nhất. Nghe thì thật nghịch tai, nhưng người có kinh nghiệm trường đời đều nghiệm ra như thế. Nói chung, càng ích kỷ thì càng dễ đau khổ, càng vị tha thì càng dễ hạnh phúc. Điều ấy rất đúng trong đời sống thực tế, và lại càng đúng trong lãnh vực tâm linh. Cứ thử sống như thế ta sẽ thấy đúng như vậy.
Con người quá sợ đau khổ và luôn luôn muốn tránh đau khổ bằng mọi giá, kể cả làm điều xấu, nên con người đã tự gây đau khổ cho mình và tha nhân. Trái lại, khi con người sẵn sàng và dám chấp nhận đau khổ để thực hiện điều tốt thì con người mới có được hạnh phúc lâu dài và đích thực.
2. Chấp nhận đau khổ để được hạnh phúc, đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa
Tại sao Đức Giêsu lại tuyên bố Ngài phải chịu thương khó và tử nạn sau khi các môn đệ tuyên xưng Ngài là Đấng Kitô? Vì đó chính là lúc thuận tiện nhất để Ngài – với tư cách và uy tín của Đấng Kitô, cũng là Thiên Chúa – công bố quy luật «vượt qua» hay mầu nhiệm «vượt qua» đầy nghịch lý của Ngài: phải trải qua tử nạn để sau đó phục sinh, phải trải qua đau khổ thì mới được hạnh phúc. Chính Ngài là Thiên Chúa đã chọn cách ấy. Nếu có cách làm nào tốt hơn, khôn ngoan hơn, chắc chắn Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan vô cùng, sẽ chọn cách ấy. Nhưng không có cách nào khác khôn ngoan và chắc chắn hơn cách này. Muốn cứu cả nhân loại khỏi đau khổ do tội lỗi, muốn đem lại hạnh phúc cho họ, thì Ngài phải chấp nhận chịu đau khổ đến tột cùng và chết cách thảm thương nhục nhã. Những người có lý tưởng cứu khổ xã hội, muốn đem hạnh phúc đến cho mọi người mà lại muốn tránh đau khổ, khó khăn, thiệt thòi, muốn sống hưởng thụ, ăn ngon mặc sang, được trọng vọng hơn người… đều là những người ảo tưởng hoặc những kẻ đạo đức giả hiệu.
Nói chung, con người không muốn hành động theo cách của Thiên Chúa, mà muốn làm theo cách của mình, nên con người cứ gây ra không biết bao nhiêu đau khổ. Con người có tâm lý «sợ quả chứ không sợ nhân, tránh quả chứ không tránh nhân», mà nhân của đau khổ là sự ác. Làm ác thì có thể được một thứ hạnh phúc rất mỏng dòn và chóng qua, nhưng hậu quả của nó là đau khổ lâu dài và chắc chắn. Còn làm thiện thì phải chấp nhận đau khổ, một thứ đau khổ chóng qua nhưng đem lại hạnh phúc bền vững và lâu dài. Do đó, người khôn ngoan thì «sợ nhân chứ không sợ quả, tránh nhân chứ không tránh quả». Nếu đã lỡ gây ra nhân xấu thì luôn sẵn sàng chấp nhận hậu quả xấu, chứ không tránh nó bằng cách gây nên một nhân xấu khác. Cố gắng tránh hậu quả xấu bằng cách gây một nhân xấu khác chỉ làm cho mình lún sâu vào tội lỗi và làm hậu quả xấu ấy trở nên trầm trọng hơn.
3. Điều kiện để theo Đức Giêsu
Theo Đức Giêsu là đi vào con đường sống, con đường khôn ngoan đem lại hạnh phúc thật sự. Muốn sống phong phú, muốn hạnh phúc đích thực và lâu dài thì phải chấp nhận con đường khôn ngoan của Ngài. Vì thế, Ngài nói: «Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo» (Mc 8,34). Nếu có phương cách nào khôn ngoan hơn chắc chắn Ngài đã không nói như thế! Điều kiện Ngài nói thật rõ ràng: từ bỏ «cái tôi» ích kỷ của mình và sẵn sàng chấp nhận đau khổ. Từ bỏ «cái tôi» ích kỷ là không sống vì mình, không đặt quá nặng hạnh phúc hay đau khổ, quyền lợi hay thiệt hại, thuận lợi hay khó khăn của mình. Thay vào đó, hãy sống vì tha nhân, quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân nhiều hơn. Sẵn sàng chấp nhận đau khổ là sẵn sàng hy sinh, chịu mất mát, thiệt thòi để tha nhân được hạnh phúc, được giảm bớt đau khổ… nhất là những người mà ta thường gặp trong đời sống thường ngày. Cứ thử sống như thế, ta sẽ thấy tâm hồn mình tràn ngập bình an và hạnh phúc, một thứ bình an hạnh phúc sâu xa khác hẳn với thứ hạnh phúc mà chúng ta thường tìm kiếm theo lối ích kỷ.
Chúng ta có thể dựa vào tiêu chuẩn rõ ràng này để biết mình có phải là người thật sự theo Chúa hay không. Theo Chúa mà không thật sự thực hiện hai điều kiện ấy thì chỉ là theo Chúa cách «hữu danh vô thực». Nhiều người tưởng mình đang theo Chúa cách tích cực chỉ vì mình đang là Kitô hữu, là tu sĩ, là linh mục, giám mục, hoặc đang làm tông đồ, tham gia hội này dòng kia. Nhưng nếu người ấy chưa từ bỏ được «cái tôi» của mình, ai nói động chạm đến mình là nổi đóa lên ngay, thì họ chưa phải là người theo Chúa đích thực. Hoặc khi nào phải hy sinh một chút cho người khác là tìm cách tránh né, từ chối, thì đó chỉ là kẻ giả danh theo Chúa thôi. Lời Chúa nói thật rất rõ ràng để mỗi người tự xét và tự biết mình trong việc này.
4. Tinh thần «từ bỏ mình», sẵn sàng «vác thập giá» là bí quyết để sống bình an và hạnh phúc
Tinh thần của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng là như vậy. Ngài đã «từ bỏ mình» một cách triệt để: từ ngôi vị Thiên Chúa vô cùng cao sang, Ngài đã «từ bỏ mình» đến nỗi trở nên một người chết nhục nhã như một tên tội phạm. Chính vì «từ bỏ mình» triệt để như thế, mà Ngài đã trở nên vinh quang nhất, được tôn vinh nhất (x. Pl 2,6-9). Và Ngài cũng đã «vác thập giá», chịu biết bao đau khổ ở trần gian này, nên Ngài đã trở nên người hạnh phúc nhất. Ngài đã làm gương như thế, để chúng ta, những kẻ theo Ngài, bắt chước. Thánh Phaolô quả quyết: «Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ sống với Người; nếu ta cùng đau khổ với Người, ta sẽ thống trị với Người» (2Tm 2,11-12a). Mang danh là theo Ngài, mà sống ngược lại với tinh thần «từ bỏ mình», «vác thập giá mình» của Ngài, thì ta chỉ là kẻ theo Ngài một cách «hữu danh vô thực» mà thôi.
Tại sao cuộc sống của chúng ta hiện nay không hạnh phúc, dù chúng ta được thuận lợi hơn, giàu có hơn, học thức hơn, mạnh khỏe hơn, đỡ vất vả hơn… biết bao người khác? Và cũng có những người khó khăn hơn, nghèo nàn hơn chúng ta rất nhiều, thế mà tâm hồn họ vẫn thanh thản, an lạc, hạnh phúc hơn ta? Chính vì chúng ta chưa «từ bỏ mình», vì «cái tôi» của ta vẫn còn lớn quá. Chúng ta mang danh là từ bỏ nhiều thứ, nhưng cái quan trọng cần từ bỏ nhất là chính «cái tôi» của mình, thì ta không chấp nhận từ bỏ. Bằng chứng là ai nói động đến ta, đến danh tiếng hay quyền lợi của ta, là ta phản ứng mãnh liệt. Chúng ta chỉ muốn được đề cao, khen tặng, tôn vinh, và tìm mọi cách để được như thế. Ta muốn mình phải hơn mọi người, có ai hơn ta một chút là ta khó chịu và tìm cách dìm họ xuống. Ta muốn mọi người phải chú ý đến ta, coi ta là quan trọng, muốn mình phải là «cái rốn của vũ trụ». Chúng ta chỉ muốn sống «vì mình», «vị kỷ» chứ không «vị tha», không biết sống «vì người khác». Và chúng ta chưa hạnh phúc cũng vì chúng ta không chấp nhận đau khổ: hơi khổ một chút là ta kêu van, bực bội, khó chịu, và tìm cách trút đau khổ cho người khác nếu được. Chính vì chúng ta sống như vậy, mà chúng ta mới đau khổ, đồng thời gây đau khổ cho bao người khác. Điều nghịch lý nhưng luôn luôn đúng, đó là: chỉ những ai thật sự «từ bỏ mình» và dám chấp nhận đau khổ mới có được tự do và hạnh phúc thật sự! Hãy thử sống như thế xem, ta sẽ thấy điều đó rất đúng, đúng như Đức Giêsu đã xác định.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con mang danh và tự hào là người theo Đức Kitô đã mấy chục năm nay. Nhưng nghiêm túc xét lại thì việc đó chỉ là ảo tưởng! Hai điều kiện để theo Ngài là «từ bỏ mình» và sẵn sàng «vác thập giá» để theo Ngài thì con chưa thực hiện được. Cả dấu chỉ «yêu thương nhau» mà ai là môn đệ đích thực của Ngài cũng đều thể hiện ra ngoài, con cũng không có. Xin giúp con ý thức được ảo tưởng ấy để tự chấn chỉnh lại hầu trở nên người môn đệ đích thật của Ngài. (JK)
Ông Phêrô đã trả lời đúng câu hỏi của Chúa Giêsu: “Còn anh em, anh em bảo thầy là ai?” (Mc 8:29).: TN 24-B45
Ông Phêrô đã trả lời đúng câu hỏi của Chúa Giêsu: “Còn anh em, anh em bảo thầy là ai?” (Mc 8:29). Trong câu hỏi này, chỉ có mình Phêrô đã có câu trả lời đúng: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8:29).
Cùng một Chúa Nhật 24 thường niên, nhưng bài trích Tin Mừng của Mátthêu ở chu kỳ phụng vụ năm A, Chúa Giêsu được mô tả như một Thiên Chúa đầy tình thương tha thứ, qua câu trả lời mà Phêrô đã hỏi ngài. Ông muốn xác định bao nhiêu lần cần phải tha thứ cho những người đã xúc phạm đến ông, và ngài đã nói: “Thầy không bảo anh phải tha đến bẩy lần, nhưng bẩy mười lần bẩy” (Mt 18:24). Rồi trong trích đoạn Tin Mừng của Luca ở chu kỳ năm C, Chúa Giêsu lại nói với mọi người về lòng thương tha thứ của Thiên Chúa qua hình ảnh người con hoang đàng: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn chín mươi chín người công chính không cần hối cải” (Lc 15: 7).
Nếu đem nối kết hai tư tưởng của Thánh Mátthêu và Thánh Luca, chúng ta sẽ tìm thấy được hình ảnh rõ nét của một Thiên Chúa nhân từ, yêu thương và tha thứ. Điều này đã cho biết tại sao câu trả lời của Thánh Phêrô trong Tin Mừng Marcô hôm nay làm vui lòng Chúa: “Thầy là Đức Kitô”.
Đức Kitô là Thiên Chúa. Mà Thiên Chúa luôn luôn yêu thương và chan chứa tình thương đối với con người, dù khi con người chối bỏ ngài, xúc phạm đến ngài. Nhưng nếu Chúa không phiền trách con người về những lỗi lầm của nó, thì việc con người phủ nhận tình thương của ngài lại là một lỗi lầm mà ngài không thể chấp nhận được. Ngài đã phản ảnh điều này khi Phêrô can ngăn ý định của ngài muốn minh chứng tình yêu đối với con người. Và việc làm của Phêrô đối với ngài là một sai lầm lớn. Chính vì thế, ngài đã nói với ông như nói với Satan: “Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người” (Mc 8:33).
Việc con người, ngay cả khi được soi dọi từ trời cao mà nhận ra ngài là “Đức Kitô” vẫn khác với việc của Thiên Chúa. Đó là việc con được soi dọi để nhận ra Thiên Chúa, nhưng lại không hiểu nổi và chấp nhận được tại sao Thiên Chúa lại yêu mình, yêu đến độ hy sinh thí mạng sống mình vì con người. Những điều này như đã được tường thuật của Máttthêu và Luca nói đến.
Cũng chính vì vậy, mà khi con người xúc phạm đến tha nhân, xúc phạm đến anh chị em mình, là con người đã làm một điều tội lỗi hết sức lớn lao. Sự xúc phạm này, Thiên Chúa con như xúc phạm đến chính ngài. Và cũng ở đây, ý nghĩa của đức bác ái trọn hảo, ý nghĩa của tình yêu thương tha thứ mới được rõ nét. Đạo Chúa, do đó, được gọi là đạo của tình thương. Và mến Chúa hay yêu tha nhân cũng là một.
Phêrô tưởng như đã biết rõ về Chúa Giêsu khi ông trả lời câu hỏi mà Chúa muốn hỏi riêng nhóm của ông - những người được ưu tuyển - Một câu trả lời khiến ngài phải ngỡ ngàng, một câu trả lời do Cha trên trời mạc khải cho: “Thầy là Đức Kitô”. Một câu trả lời không giống bất cứ câu trả lời nào của quần chúng, của “người ta” bảo Chúa là ai? Đối với những người khác, Chúa Giêsu chỉ là một triên tri cỡ lớn như Êlia, như Gioan Tẩy Giả. Nhưng chỉ có những người như Phêrô mới nhìn ra ngài là Đức Kitô. Mới biết được ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế.
Nhưng biết và sống lại khác nhau. Và đây là thân phận của con người. Biết thầy là Đức Kitô nhưng không chấp nhận thầy phải hy sinh và chịu chết. Vì nếu thầy chết thì hào quang vinh hiển của Đức Kitô coi như tiêu tan. Và nếu thế thì việc theo ngài, làm tông đồ, làm môn đệ ngài cũng uổng công. Không những uổng công mà còn mang họa vào thân, phải chịu nhiều điều đau thương, thử thách. Do đó, cần phải can ngăn Chúa, để nếu ngài ra khỏi sự hy sinh, thử thách ấy, họa chăng mình sẽ dễ dàng, sẽ có lợi hơn.
Áp dụng vào đời sống thực hành và qua việc sống đời bác ái đối với tha nhân, nhiều khi Kitô hữu chúng ta cũng ứng xử và hành động như Phêrô. Có nghĩa là lúc sốt sắng, lúc được an ủi, được mọi điều may lành, chúng ta không khó lòng để nhìn ra Chúa nơi mọi biến cố cuộc sống, và qua anh chị em mình. Nhưng khi đức ái bị thử thách, đó là, khi phải chịu thiệt thòi, phải tha thứ, phải bỏ qua những lỗi lầm của anh chị em, phải cố mà nhìn ra Chúa Giêsu trong khuôn mặt của người thù ghét mình, của người làm cho mình phải khổ, lúc đó, chúng ta cũng muốn bỏ cuộc, và tháo lui.
Nhưng vì thầy là Đức Kitô thì không thể không chấp nhận bị ghét bỏ, bị hành hình, và bị tử hình thập giá. Vì chỉ có thế thầy mới thật sự là Đức Kitô, và hình ảnh của một Thiên Chúa nhân lành, yêu thương, và tha thứ mới được thể hiện nơi thầy. Phêrô mới nhìn thấy hào quang của thầy, nhưng chưa nhìn thầy bằng cái nhìn “cứu thế” thực sự.
Đời sống Kitô hữu cũng sẽ mất đi ý nghĩa. Việc chúng ta theo Chúa sẽ không đi đến cùng đích. Và một vài hành động đạo đức nhất thời không nói lên được rằng chúng ta thật sự biết Chúa, biết ngài là ai, nếu như chúng ta không đi vào thực hành ý nghĩa Kitô hữu, một căn tính chuyên biệt và duy nhất của mỗi người chúng ta khi đón nhận phép rửa tội, khi gia nhập Giáo Hội Công Giáo, và khi bước đi theo ngài trong ơn gọi Kitô hữu của mình. Tất cả đều được gói gọn trong đức bác ái. Trong những thực hành cụ thể hằng ngày như cho người đói ăn, người khát uống, rách rưới áo quần để mặc, thăm viếng, an ủi kẻ tù tội, bệnh tật... Nhưng nhất là phải tiếp tục hành động như thế mặc dù đôi lúc cảm thấy khó chịu, thiệt thòi, và không lợi lộc gì.
“Thầy là Đức Kitô”. Nhưng là một Đức Kitô tha thứ, yêu thương, và yêu thương cho đến chết. Khi nhìn ra được điều này, và nói được câu nói này như Phêrô, nhưng về phương diện thực hành thì sao?! Liệu chúng ta có bị Chúa phiền trách như đã phiền trách Phêrô không? Và điều mà ngài có thể phiền trách chúng ta nhất, đó là đã không khám phá và sống đúng với ơn gọi Kitô hữu của mình. Một ơn gọi được củng cố và xây dựng hoàn toàn trên đức bác ái. Một đức ái bền bỉ, đi vào thực tế, và quên mình.
Lá vàng mùa thu "còn ở trên cây" mà lá xanh công nương Diana nổi tiếng như vậy lại rụng: TN 24-B46
Lá vàng mùa thu "còn ở trên cây" mà lá xanh công nương Diana nổi tiếng như vậy lại rụng xuống trước, khiến nhiều người phải than lên: Trời ơi hỡi Trời!
DIANA LÁ XANH RỤNG XUỐNG
Biến cố công nương Diana bị tử nạn vì xe hơi tại Paris đêm 31 tháng 8 năm 1997 đã gây chấn động cả thế giới. Hình ảnh và những bài bình luận tiếp diễn dài dài trên TiVi và báo chí. Quan tài mang xác người đẹp "hồng nhan bạc mệnh" đã được đưa về thủ đô nước Anh, nơi cách đó 16 năm Diana đã huy hoàng tiến lên ngôi hoàng hậu tương lai vào ngày 29 tháng 7 năm 1981 lúc mới 20 tuổi phơi phới xuân tình, và cũng là nơi cách đó một năm nàng đã chính thức li dị với hoàng tử Charles sau những giằng co cay đắng trong hoàng cung đến nỗi có lần đã toan tự tử. Vì ông hoàng này nhiều chuyện quá đi. Vợ đẹp con khôn chẳng muốn, lại đi tù tì với bà Camilla Parker Bowles đã có chồng. Báo chí nghe lén được cả những lời tán tỉnh trộm vụng thật tồi tệ của ông hoàng mà đăng lên đàm tiếu chả còn ra thể thống gì cả.
Ai đâu ngờ câu truyện kết thúc lại thê thảm như thế. Cả triệu người tuốn ra đường. Dân chúng lũ lượt chen nhau đưa hoa xếp đầy chung quanh cung điện Kensington của Diana tỏ dấu mến thương. Có người bực mình bảo là truyện xấu hổ cho cả nước Anh do hoàng gia mà ra, dẹp quách trò vua đi cho rồi. Có người còn suy đoán hay đây là vụ bịt miệng. Người thì tố cáo mấy tay nhà báo săn tin săn hình xâm phạm quấy rầy đời tư người khác một cách thái quá đã khiến thành chuyện vấy máu tay giết người. Vì cũng chính mấy tay này đã kèm sát chiếc xe Mercedes chở công nương Diana với anh chàng nhà giầu bạc tỉ Dodi Fayed để kiếm cho được những bức hình hái ra tiền về mối tình mới quá ư hấp dẫn này, nên đã làm cho tài xế đánh mất thăng bằng. Thế là cả hai được anh tài xế Henri Paul đang cơn say rượu phóng tốc độ 125 dặm một giờ chở tuốt về thế giới bên kia luôn cho khỏi vấn vương tục lụy. Thôi thì cũng là kết thúc một câu chuyện đời, nhưng rồi câu chuyện thần thoại xem ra bắt đầu. Diana không còn có thể trở thành hoàng hậu của nước Anh, nhưng lại đã trở thành nữ hoàng của muôn con tim cảm mến. Nhất là những năm gần đây, cô nàng như thoát được cảnh tù túng của cung vua những năm trước mà hòa lẫn vào đám dân nghèo, đi săn sóc những nạn nhân chiến tranh và bệnh nan y. Những bộ quần áo sang trọng hồi còn trong hoàng cung đã cho đưa bán đấu giá mỗi bộ được cả mấy chục ngàn để làm việc từ thiện. Tội cho hai hoàng tử William và Harry chưa chi đã mồ côi mẹ. Vua tương lai của nước Anh là William mới 15 tuổi có khuôn mặt và nụ cười giống mẹ quá sức. Mấy chục năm nữa làm vua, chắc William lại phong mẹ mình làm hoàng thái hậu chứ còn gì.
ĐIỀM GÌ TỪ VỤ KẾT THÚC THẢM THƯƠNG?
Thì ra câu nói của người mình thật đúng quá đi: thấy vậy mà chẳng phải vậy, Thấy cảnh sang trọng quyền quí của đôi uyên ương hoàng gia tươi mát trong đám cưới lộng lẫy như trong phim Cinderella vậy thì chắc phải hạnh phúc rất mực chứ đâu lại đi than buồn chán tù túng cô đơn đến đòi tự tử! Rồi chồng ăn chả vợ ăn nem chẳng còn mặt mũi hoàng tộc gì nữa! Ai cũng viện lý do để bào chữa cho việc lem nhem của mình. Thì thiếu gì lý do. Nào là không hợp nhau. Chồng già 32 tuổi, vợ trẻ 20 tuổi chênh nhau như đôi đũa lệch so sao cho vừa. Nào là tính chàng khép kín xa cách và khô khan như không có tim. Diana đã tâm sự như vậy trong cuốn truyện do Andrew Morton xuất bản (Diana: Her True Story). Đang khi đó thì ông hoàng Charles lại bật mí trong cuốn The Prince of Wales của Jonathan Dimbleby rằng ông sẽ rất vui mừng được đổi chỗ cho ông bạn nào, các luôn cả công nương xinh đẹp Diana cho chắc ăn. Rằng đổi xong có thể chưa hết một ngày thì đã ân hận cả đời chưa biết chừng. Rồi ông còn giõng giạc phát ngôn rằng không hề yêu Diana bao giờ, tại sao mình lại có thể sai lầm đến như thế (how could I have got it all so wrong)! Chẳng khác gì một số cặp vợ chồng yêu nhau đã tới năm sáu đứa con mà cũng bày đặt rên lên rằng không còn yêu nữa, chứ không phải vì đàng sau đã đèo thêm một bến đậu sẵn sàng bốc rước hay sao?!
Người Mỹ đặt câu "bờ cỏ bên kia xanh hơn bên này", và người mình thì trích kinh nghiệm tổ tiên "đứng núi nọ trông núi kia cao" vào hoàn cảnh này thì trúng quá đi chứ.
Dẫu vẫn biết rằng ai cũng phải chết, nhưng cái chết của Diana có cái gì ray rứt tức tưởi làm sao ấy. Nó xoáy sâu vào tim con người thời đại, và trở thành như dấu chỉ của nhiều cảnh "hỏa ngục trần gian" mà cái vòng tình ái thì cong cong, kẻ hòng ra khỏi người mong bước vào. Rồi trượt vỏ dưa chưa xong lại tưởng bến bờ hạnh phúc nằm ở vỏ dừa Dodi Fayed hay Camilla Parker Bowles. Không cho lấy nhau thì la hét giẫy giụa lên án cha mẹ là cổ lỗ lỗi thời, mà cho lấy nhau rồi thì cắn cấu đầy đọa nhau. Sao mà cái tình đời nó thảm quá vậy?! Bước vào thế kỷ 21, con người vẫn tiếp tục khắc khoải trước một viễn tượng về gia đình: Hạnh phúc nó là cái gì mà sao chân lấm tay bùn lam lũ đầu tắt mặt tối quá đi?! Sang giầu và quyền quí mà ai cũng mơ ước như trong truyện hoàng tử tìm thấy công chúa ngủ trong rừng 100 năm như vậy mà cũng không toại nguyện nữa thì cũng chịu thôi. Chắc chắn phải có cái gì sai trệch căn bản từ lối tìm và xây hạnh phúc của con người thời đại rồi chứ còn gì nữa.
TIN VUI NÀO GỬI NGƯỜI ÍT CHỊU THUỐC ĐẮNG
Ngày xưa còn bé tôi có một thói xấu về việc uống thuốc. Mẹ bắt uống thì cũng phải nghe, nhưng khi uống thì thay vì hất vào miệng, tôi lại rất nhanh tay hất ra đàng sau. Mẹ thì khen thằng con chịu khó mà kỳ thực tôi đã chọn thà nằm bệnh thêm mấy ngày chứ thuốc đắng quá làm sao nuốt nổi!
Cũng chính vì thấy được căn bệnh của thời đại này là ít chịu uống thuốc đắng nên Chúa Giêsu đã chỉ cho vị thuốc khác hiệu nghiệm nhưng còn đắng hơn nữa: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập Giá mà theo Ta. Quả thực, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình". Và chính Ngài đã bước theo con đường ấy: "Con người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại". Thập giá là chén đắng, là con rắn đáng sợ chẳng ai muốn tới gần. Vậy mà Chúa bảo Ngài cũng bị treo lên như vậy, để những ai dám nhìn lên với niềm tin tưởng và chấp nhận được thập giá, thì được chữa khỏi, được cứu thoát. Chẳng lạ gì ở cửa phòng bác sĩ thường có biểu hiệu con rắn đang cuộn lấy cây thập tự. Như vậy con rắn chính là những nhát dao giải phẫu, những mũi kim chích làm đau da thịt, những viên thuốc đắng mắc tiền. Bên Âu Mỹ mà lạng quạng phải lên bàn mổ là tiêu tùng mấy chục ngàn tiền Mỹ như chơi. Vậy mà Chúa gửi thập giá, dao mổ và thuốc đắng đến miễn phí mà Ông Phêrô dám cản ngăn và từ chối vì ngán sợ nên đã bị Chúa chửi thẳng vào mặt. Hai anh em Giacôbê và Gioan thích thành đạt ngon lành thì Chúa cũng đã chỉ cho cách uống chén đắng.
Thời nay người Âu Mỹ chế tạo được loại cà phê cấp tốc (instant coffee) xem ra tiện và nhanh, nhưng uống thì lãng nhách như nước cống rãnh. Kiên nhẫn một tí ngồi chờ ly cà phê "cái nồi ngồi trên cái cốc" thì thú vị biết bao. Từng giọt đắng chen vào kẽ răng, ngấm nghía cả ngày vẫn còn chất cà phê làm hoan lạc đến cả tâm can.
Người ta cũng đang muốn chế loại hạnh phúc gia đình giống kiểu cà phê cấp tốc. Trước khi lấy nhau đã phải "hỏa tốc" chẳng kịp đợi lễ cưới. Tình đã nhẵn mặt nhau, đôi khi phát nhàm chán rồi, nguội cả ra rồi, không còn "tình nóng hổi vừa thổi vừa cưới" nữa. Ấy cũng bởi người ta đang dạy cách sài cấp tốc, nên hạnh phúc dễ trở thành lãng xẹc. Ngôn ngữ kiên nhẫn chờ đợi và tập âm thầm chịu đựng hình như biến mất trong cái sổ sửa soạn đám cưới (checklist). Con đường tập hy sinh quên mình theo "con đường nghiền nát trầu cau, nên màu đỏ thắm nên màu sắt son" đã được thay thế bằng tục đút bánh ngọt cho nhau, xúi dại nhau chờ cuộc đời cũng phải đút cho ngọt ngào, nhưng khi đụng vào thực tế nhiều cay đắng quá thì đứt luôn chịu không nổi.
Lạy Chúa, con đang xây hạnh phúc theo kiểu nào đây? Con nghe rõ Lời Chúa nói qua thánh vịnh 126 về con đường kiên tâm chịu đựng:
Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở,
Mang hạt giống vãi gieo;
Lúc trở về, về reo hớn hở.
"Thầy là Đấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều".
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông đáp lại rằng: "Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri". Bấy giờ Người hỏi: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy là Đấng Kitô". Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả.
Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó. Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: "Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người".
Người tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình". Suy Niệm:
Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm B
Ysaia 50,5-9a; Yacôbê 2,14-18; Marcô 8,27-35
Chúa nhật trước đã cho chúng ta thấy Đức Yêsu chữa lành một người điếc và câm, để thực hiện: TN 24-B47
Chúa nhật trước đã cho chúng ta thấy Đức Yêsu chữa lành một người điếc và câm, để thực hiện lời Ysaia loan báo rằng đến thời cứu độ kẻ điếc sẽ nghe thấy và kẻ câm sẽ nói được. Hơn nữa phép lạ chữa lành kia còn ám chỉ muốn được ơn cứu độ người ta phải mở tai đón nhận Lời Chúa và phát biểu lời này ra trong đời sống.
Bài đọc I hôm nay nói ngay đến người tôi tớ sáng láng lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, không sợ gian lao khổ sở. Như vậy, giáo huấn của Hội Thánh trong ngày Chúa nhật hôm nay dường như muốn tiếp nối các bài học của Chúa nhật trước, và sẽ dạy sâu hơn về đời sống của các tôi tớ Chúa. Mà cách tốt nhất để làm công việc này là hay giương cao hình ảnh Người Tôi Tớ lý tưởng lên, để tất cả chúng ta cùng bắt chước. Thế nên Chúa nhậ này thật đáng gọi là "Chúa nhật người tôi tớ".
Chúng ta sẽ xem hình ảnh người tôi tớ này ở trong Cựu Ước, rồi Tân Ước, trước khi kết luận chúng ta phải sống thế nào để trở thành tôi tớ Chúa. 1. Bài Ca Về Người Tôi Tớ
Cựu Ước gọi nhiều người là tôi tớ Chúa. Abraham, Môsê, Đavít, các tiên tri đều là những tôi tớ xứng đáng. Toàn dân Chúa chọn cũng được gọi là tôi tớ của Người. Nhưng trong sách Ysaia có 4 bài ca được mệnh danh là các bài ca về Người Tôi Tớ. Tác giả không nêu tên người nào: cũng không dứt khoát coi người đó là một cá nhân hay là một tập thể. Đoạn văn chúng ta nghe hôm nay là đoạn văn thứ ba. Nó bắt đầu bằng những nét tả chính xác về người tôi tớ. Đó là con người có đôi tai "môn đệ". Sáng sáng chú tâm nghe lời Chúa. Rồi ông quyết tâm đem ra thực hành, không sợ gì nguy khó. Phần lớn bài ca hôm nay nói đến những khổ đau mà ông phải chịu vì trung thành giữ Lời Chúa và nói Lời Chúa. Ông bị người ta đánh đập, giựt râu và khạc nhổ vào mặt. Khổ đau dường như cứ tăng dần. Nhưng ông vẫn giơ mặt ra cứng như đá và không hổ thẹn vì ông tin có Chúa hằng nâng đỡ ông.
Tác giả Ysaia muốn nói về ai đây? Dường như không phải về dân Chúa vì lời văn có vẻ chỉ hợp cho một cá nhân. Hơn nữa văn mạch cho phép nghĩ ở đây dân Chúa đóng vai trò hành hạ người tôi tớ thì đúng hơn. Nghĩa là đoạn văn này nói đến một người tôi tớ Chúa bị chính dân Chúa hành hạ. Người ấy là ai? Một người công chính vô danh bị đời bạc đãi? Hay lại là một trong số nhiều tiên tri đã bị đồng bào của mình hất hủi? Nhiều người đã nghĩ đến Yêrêmia, vì nhà tiên tri này quả thật đã bị bắt bớ. Tuy nhiên có lý do khiến chúng ta suy luận và khẳng định người tôi tớ được nói ở đây, không phải là một nhân vật đã sống trong quá khứ, hay đang lúc hiện tại cùng thời với tác giả bài ca này. Người ấy sẽ là một vị sẽ đến trong tương lai, bởi vì các bài ca về Người Tôi Tớ nằm trong khâu các lời sấm an ủi Israel, tức là đưa về hậu vận và nói đến thời Thiên Chúa sẽ ra tay cứu độ dân. Người tôi tớ chính là công cụ mà Người sẽ dùng để làm công việc cứu thế này. Do đó bài ca hôm nay nói về Đấng cứu thế là Người Tôi Tớ lý tưởng của Thiên Chúa. Và có lẽ tác giả chỉ dựa vào cuộc đời đau khổ của một Yêrêmia để gợi lên hình ảnh Người Tôi Tớ lý tưởng này thôi. Thế nên phụng vụ hôm nay rất có lý khi đọc bài sách Ysaia này trước bài Tin Mừng Marcô hôm nay về việc Đức Yêsu chịu đau khổ. Chúng ta ghi lấy tư tưởng: Người Tôi Tớ của Chúa phải can đảm đi qua gian khổ, để đi vào bài Tin Mừng. 2. Mạc Khải Về Cuộc Tử Nạn
Thánh Marcô kể: bấy giờ Đức Yêsu đang đi với các môn đệ ở vùng Caisaria của Philip, tức là miền cực Bắc đất Dothái, nơi bắt nguồn của dòng sông Yorđan sẽ chảy xuống phía Nam. Người ta gọi nơi này là Caisaria của Philip, vì chính Hêrôđê Philip đã xây ở đây một thành mang tên Caisarê, tức là tên của hoàng đế Lamã. Do đó, đặt chân đến chốn này, ai cũng phải nghĩ tới hoàng đế và uy quyền thống trị của ông. Và mặc nhiên người ta cũng phải nghĩ đến thân phận của mình.
Có lẽ vì vậy mà Đức Yêsu đã quay sang hỏi các môn đệ: "Theo như người ta nói, thì Ta là ai?". Họ không ngần ngại trả lời, vì dư luận về Người kể ra đã khá rõ rệt. Ai ai cũng nghĩ Người là bậc xuất chúng, ít nhất cũng như Yoan Tẩy giả, hoặc như Êlia, hay một vị tiên tri nào đó. Còn đối với chính họ thì sao? Họ là môn đệ của Người, luôn ở với Người và được Người chăm sóc. Họ phải có một cái nhìn về Người hơn những người khác. Thế nên Phêrô đã thay mặt anh em thưa Người rằng: "Ngài là Đức Kitô".
Không thể có lời tuyên xưng nào đúng hơn nữa. Đó là lời tuyên xưng của Hội Thánh sau khi tin mầu nhiệm phục sinh đã đưa Người lên làm Chúa. Phêrô hôm ấy nói được như vậy là nhờ ở Thánh Thần hoạt động trong lòng trí ông. Ông thốt ra lời rất đúng nhưng vượt quá tầm hiểu biết của ông như nhiều khi các tiên tri phát biểu những lời của Thiên Chúa mà họ chưa quán xuyến được tất cả nội dung phong phú.
Chính vì vậy mà Đức Yêsu đã lập tức cấm môn đệ lập lại lời Phêrô vừa tuyên xưng. Họ không nên nói những điều họ chưa hiểu biết, kẻo có thể gây ra những sự hiểu lầm. Họ phải đợi đến khi chân tướng của Người đã lộ ra hết rồi hãy tuyên xưng Người bằng tước hiệu đúng hơn hết. Vì "giờ" của Người chưa đến. Người ta còn phải chờ đến giờ đó mới hiểu được Người. Và cái diện quan trọng nhất của Người trong giờ ấy sẽ là cuộc khổ nạn; thế nên hôm nay và từ nay, Người bắt đầu mạc khải cho môn đệ biết khía cạnh quan trọng này.
Người nói với họ: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ... và bị giết đi, và sau ba ngày sẽ sống lại". Người không nói theo kiểu nhìn về tương lai; nhưng coi như đang sống mầu nhiệm tử nạn và phục sinh này. Điều đó làm cho các môn đệ khó hiểu, và nhất là không thể chấp nhận được. Có lẽ nào Người lại để các niên trưởng phế thải và giết đi? Thay mặt anh em, Phêrô kéo Người ra và trách Người đã nói như vậy. Vì nhiệt thành, ông đã quá trớn. Là môn đệ, ông phải đi theo, chứ sao lại muốn dẫn đầu Người.
Thế nên Người bảo ông trở về cương vị. Và Người muốn cho tất cả các môn đệ hiểu bài học này, nên Người không nhìn vào một mình Phêrô, nhưng vào hết thảy bọn họ. Người bảo ý tưởng của họ là cảm nghĩ do Satan chứ không theo như ý Chúa. Satan đã có lần cám dỗ Người làm lớn khi bày ra trước mắt Người mọi uy quyền và phú quý của thế gian để xúi Người vồ vập lấy. Nhưng ý của Thiên Chúa Cha lại không phải như vậy. Những bài ca về người tôi tớ lý tưởng đang còn đó... Đức Kitô sẽ phải chịu đau khổ và bị đóng đinh... và ai muốn theo Người để trở thành môn đệ của Người cũng phải vác lấy thập giá và đi theo Người đang vác thập giá lên Núi Sọ.
Thật ra không phải hết mọi môn đệ đều phải vác những thập giá cụ thể bằng gỗ nặng và phải đi đến những nơi xử hình. Nhưng mọi người, không trừ ai, đều phải từ bỏ mình và sẵn sàng chịu mọi sự khó vì Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay nói rõ như vậy, sau khi khẳng định Đức Kitô phải đi vào con đường khổ nạn. Nó cho chúng ta thấy các bài ca về Người Tôi Tớ trong sách Ysaia đã muốn nói về ai. Chính Đức Kitô là Người Tôi Tớ đau khổ này. Và mọi Kitô hữu cũng một phần nào là người tôi tớ ấy... Chúng ta chưa hiểu vì sao lại phải như vậy! Nhưng rõ ràng đó là ý muốn của Thiên Chúa và là kế hoạch cứu thế của Người. Người muốn cứu độ bằng đường thánh giá; ai muốn được ơn cứu độ của Người, phải bằng lòng đi vào con đường ấy. Nhiệm vụ của chúng ta hằng ngày là phải tự hỏi Thiên Chúa muốn cho tôi ngày hôm nay, trong giờ phút này vác thập giá nào đây để tôi được cứu độ và góp phần vào việc cứu thế? Bài thư Yacôbê không muốn trả lời một cách đầy đủ, nhưng cũng khá tổng quát và đồng thời cũng khá cụ thể để giúp chúng ta suy nghĩ và đem ra thực hành. 3. Hãy Liệu Cho Đức Tin Có Việc Làm
Như lần trước đã nói, điều quan trọng là phải có quan điểm tốt. Vác thập giá đi theo Đức Kitô không phải là làm việc khó này, chịu sự cực kia; nhưng trước hết là phải có phương hướng và luôn đi theo phương hướng đó. Mà phương hướng của cuộc đời tín hữu đã được quy định ngay từ đầu bởi chính niềm tin mà họ đã lãnh nhận. Đức tin có những đòi hỏi của nó; nếu không, nó chỉ là một mớ, hay một hệ thống những ý tưởng trừu tượng, chứ không phải là sự sống đức tin Kitô giáo hơn mọi niềm tin khác, khi đưa người ta lại gần Đức Kitô, sát nhập vào với Người, trở nên chi thể của Người để lãnh được sự sống ở nơi Người, hầu sống ở trong Người và để Người ở nơi mình. Đức tin ấy là một sự sống. Và như mọi sự sống nó phải sinh hoạt, phải làm ra việc này việc khác... Nếu không, nó đã chết tiệt rồi, như lời thư Yacôbê hôm nay nói.
Như vậy, người có đức tin phải làm những việc của đức tin. Và chính khi làm những việc này, người ta phải vác thập giá và đi theo Chúa.
Tại sao vậy?
Thưa vì đức tin đưa người ta đi vào đường lối cứu thế và là đường lối thương người. Công việc của đức tin trở thành những công việc của đức ái. Thế nên thánh Yacôbê hôm nay cho chúng ta một thí dụ. Có người anh chị em đến với chúng ta, mình thân trần trụi và thiếu thốn lương thực. Nếu chúng ta chỉ bảo người ấy: "Hãy về đi, mặc áo cho ấm và ăn cho no" mà không giúp đỡ người ấy một tí phương tiện nào thì há chẳng phải chúng ta đã biết phương hướng phải giải quyết mà đã không làm hay sao? Và sở dĩ chúng ta đã không muốn làm, chính là vì công việc này sẽ gây phiền lụy cho chúng ta khiến chúng ta phải khổ. Chúng ta đã tránh vác thập giá đi theo Đức Kitô vậy.
Do đó sẽ không ích gì cho chúng ta và cho ai nếu chúng ta đã hiểu rõ bài sách Ysaia và bài Tin Mừng để biết rằng Người Tôi Tớ Chúa phải chịu đau khổ, mà lại không thi hành lời thư Yacôbê để biến niềm tin của chúng ta vào Sách Thánh và vào Đức Kitô nên đức tin sống động có việc làm. Và cũng chẳng sẽ ích gì nếu chúng ta chỉ tuyên xưng niềm tin ở đây, trong lúc này, khi đọc Kinh Tin Kính và các kinh lễ, mà không đem các lời đó ra thực hành trong đời sống. Chúng ta muốn là những người tôi tớ thật của Chúa thì hãy làm như Đức Kitô dạy, là lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, cho dù có gặp khó khăn khổ sở; vì có như vậy mới là Tôi Tớ đau khổ của Chúa. (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Có thể nói đoạn 8,27-30 đưa quyển TM II sang một khúc quanh, vì chúng ta ghi nhận được: TN 24-B48
Có thể nói đoạn 8,27-30 đưa quyển TM II sang một khúc quanh, vì chúng ta ghi nhận được nhiều khác biệt giữa phần này với phần trước. Có những thay đổi về từ vựng và cách hành văn như: không còn nhắc đến “bánh” nữa; không còn minh nhiên nhắc đến sự tối tăm (không hiểu) của các môn đệ nữa (dù đề tài này vẫn được đề cập đến dưới một dạng khác); Đức Giêsu nói thẳng ra với các môn đệ … Có những thay đổi trong cách trình bày dung mạo của Đức Kitô: tác giả bắt đầu giới thiệu Đức Giêsu với định mệnh của Người bằng câu “Con Người phải chịu đau khổ” (8,31). Đây là định mệnh nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Số phận ấy trở thành nền tảng để Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (8,34).
Về nội dung, ta thấy trước đó, Đức Giêsu đã liên tục đặt cho các môn đệ một số câu hỏi (x. 8,17-21). Các câu hỏi này cho hiểu rằng các môn đệ phải hiểu chuyện gì đó, nhưng các ông lại không hiểu. Lý do: lòng các ông còn ngu muội (8,17: dịch sát: “trái tim các ông còn chai cứng”).
Có thể nói rằng: sau khi đã chứng kiến Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa ngọng (7,31-37) và chữa người mù (8,22-26), và đặt mình vào vị trí của những người ấy, các môn đệ hẳn phải biết là những người ấy tượng trưng cho tình trạng mù lòa điếc lác của chính các ông trước mầu nhiệm Đức Giêsu, và chỉ mình Người có thể giúp các ông đánh tan sự tăm tối ngu muội khiến các ông không hiểu biết Người. Và khi đã được mở tai, mở miệng, mở mắt, hẳn các môn đệ có thể tuyên xưng niềm tin vào Người và chấp nhận mọi đòi hỏi của đời môn đệ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần: 1) Lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (8,27-30); 2) Lời loan báo Thương Khó lần đầu (8,31-33); 3) Giáo huấn về đời các môn đệ (8,34-35).
3.- Vài ghi chú về chú giải
- Xêdarê Philipphê (27): Đức Giêsu tiến về miền Iturê, nơi có thành Xêdarê Philipphê trấn ngữ. Thành này là nơi cư trú của Hêrôđê Philipphê, được gọi là “Xêdarê” để tôn vinh hoàng đế Rôma. Nó nằm tại nguồn sông Giođan trên sườn núi Khemôn. Trong khi “đi đường” tiến gần đến trung tâm quyền lực chính trị này, Đức Giêsu hỏi các môn đệ về dư luận liên can đến chân tính của Người.
- Họ bảo Thầy…, có kẻ thì bảo…, kẻ khác… (28): Những ý kiến mà các môn đệ nêu ra thì tương tự với ba ý kiến trước đây liên hệ đến Gioan Tẩy Giả (x. 6,15). Sự tương đồng giữa Đức Giêsu và vị Tẩy Giả đã khiến một số người tin rằng Đức Giêsu là vị Tẩy Giả đã sống lại. Có những người lại nghĩ rằng Người là ngôn sứ Êlia, nay đã trở lại để hoạt động lần thứ hai. Lại có những người chỉ coi Đức Giêsu là như một ngôn sứ. Những phỏng đoán trên xuất hiện theo cùng một thứ tự vào thời gian Gioan bị chém đầu. Đấy là quan điểm của những người quan sát Đức Giêsu và những hoạt động của Người từ xa.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó là nhận định của những người ở gần bên Đức Giêsu, những người đã gắn bó với Đức Giêsu như là môn đệ của Người, và những người sẽ nhận tác phẩm Mc: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”
- Anh em bảo Thầy là ai? (29): Đức Giêsu đã được gọi bằng nhiều danh hiệu: “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (1,24), “Con Thiên Chúa” (3,11), “Thầy” (4,38), “Con Thiên Chúa tối cao” (5,7), “Ngài (Chúa)” (7,28). Nhưng Người không hề tỏ ra muốn làm cho những kẻ đi theo Người xác định Người là Đấng Mêsia. Người chỉ cho thấy rằng Người hiểu mình có sứ mạng như “Con Người”, có quyền hành động trên trái đất nhân danh Thiên Chúa (x. 2,10).
Vào thuở đầu, các môn đệ gọi Đức Giêsu là “Thầy” (4,38). Với thời gian đi theo Người, các ông đã chứng kiến các tà thần bị trục xuất (1,21-27; 5,1-20), những bệnh nhân được chữa lành (1,29-31; 1,40-45…), những người chết được sống lại (5,21-24.35-43) và đông đảo những người nghèo đói được ăn no (6,30-44; 8,1-10). Lời nói và việc làm được Đức Giêsu liên kết với nhau. Người vừa là Đấng công bố vừa là Đấng hoàn tất Tin Mừng của Thiên Chúa.
Nhưng các môn đệ thời Đức Giêsu cũng như thời Mc đã ý thức về những điều đó đến mức nào? Họ nghĩ Đức Giêsu là ai, và như thế, họ nghĩ làm môn đệ Đức Giêsu nghĩa là gì? Lần đầu tiên họ đã nêu lên câu hỏi về chân tính Đức Giêsu khi chứng kiến trận bão bị dẹp yên (4,35-41; x. 1,27). Bây giờ dường như các môn đệ đã có một câu trả lời mà Phêrô vừa nói ra như là người phát ngôn: “Thầy là Đấng Kitô”.
- Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô”: Tên “Phêrô” đã biến mất sau 5,37, nhưng từ đây tên này sẽ được nhắc đến thường xuyên. Phêrô đã nhận thức được những gì khi tuyên xưng như thế? Tất cả những gì chúng ta có thể nói là, ít ra, ông coi Đức Giêsu hẳn là Đấng hoàn tất những niềm hy vọng từ lâu đời là tái thiết Dân Thiên Chúa. Bản văn Lc thêm “của Thiên Chúa”, và bản văn Mt: “Con Thiên Chúa hằng sống”.
- Đức Giêsu liền cấm ngặt (30): Hẳn là câu trả lời của Phêrô đúng, thế mà Đức Giêsu đã cấm không những ông mà tất cả những môn đệ nữa là “không được nói với ai về Người”. “Cấm ngặt”, epitimaô, đã được dùng trong các câu truyện trừ quỷ” (1,25; 3,12). Với từ ngữ này, chúng ta hiểu không phải Đức Giêsu muốn che giấu chân tính đích thực của Người, mà là muốn tránh cho người ta khỏi hiểu sai hoàn toàn Người là ai và Người đang làm gì. Các tông đồ không được phổ biến một lối nhìn sai lạc như thế.
Xuyên qua Cựu Ước, danh hiệu Mêsia (Kitô) gợi lên nơi tâm trí đám dân đen cũng như giới lãnh đạo hình ảnh một vị vua ngự trên đỉnh kim tự tháp xã hội kinh tế để mà điều khiển kim tự tháp này. Để cho triều đại được tồn tại mãi mãi, ngài dùng quân đội, thu thuế, và nâng đỡ một đền thờ có giới tư tế phục dịch. Giống như vua Đavít, Đấng Mêsia phải là vị thủ lãnh được xức dầu mang uy quyền thần thánh mà điều hành xã hội sao cho có công bình về mọi mặt. Nhưng các cơ cấu của xã hội này là cơ cấu hàng dọc, chúng đưa đến sự áp chế và bóc lột, nên chúng phi nhân.
Luật lệ của Thiên Chúa mà Đức Giêsu thiết lập trong tư cách là con người mới là trật tự luân lý mới, theo chiều ngang, hoàn toàn bình đẳng, trong đó định mệnh con người được thể hiện vừa theo cách cá nhân vừa theo cách tập thể. Vậy, cần giữ lại lời tuyên xưng của Phêrô, nhưng cần phải lấp đầy lời tuyên xưng ấy bằng một nội dung mới. Vì thế, Đức Giêsu bắt đầu dạy các ông về số phận của Con Người.
- Con Người phải chịu đau khổ nhiều (31): Trong nửa đầu của quyển TM Mc, Đức Giêsu đã nối kết Con Người với tư cách chúa tể và với uy quyền (2,10.28). Nhưng bây giờ, phản ứng lại lời tuyên xưng của Phêrô, Người đưa vào một viễn tượng gắn liền với chân tính của Con Người: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều”. Người diễn tả hai đối cực trong một khái niệm. Một đàng, Người được ngự trên ngai cùng với Đấng Tạo Hoá, và như thế, cùng có quyền chủ tể với Đấng Tạo Hoá. Đàng khác, Người phải chịu đau khổ và chịu chết, bởi vì Người chia sẻ mọi phương diện của thân phận con người. Tuy nhiên, sự sống, chứ không phải sự chết, mới có tiếng nói cuối cùng. Cho dù Người có bị giết, Người sẽ lại trỗi dậy. Không gì có thể cản trở việc thể hiện nhân tính mới để loài người hoàn toàn sống theo luật Thiên Chúa. “Phải; cần thiết”, dei, diễn tả một điều nằm trong chương trình của Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Đấng Mêsia, như Phêrô (và các anh em) đã tuyên xưng. Nhưng Người là Đấng Mêsia một cách nghịch lý: là vị đại diện của Thiên Chúa, Người có quyền tối cao. Nhưng tương lai gần lại đưa Người đến đau khổ và cái chết, chứ không phải là sự huy hoàng và vinh quang của một vị vua.
- bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ: Điều đáng lưu ý là những đau khổ và cái chết của Người lại bị gây ra bởi giới ưu tuyển đang nắm giữ quyền bính và đặc quyền trên đỉnh cao kim tự tháp Do Thái: đó là các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư. Họ sẽ loại trừ Người và giao nộp Người cho nhà cầm quyền Rôma xử tử. Họ làm như thế, bởi vì luật lệ của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đang thiết lập có nghĩa là đã đến lúc chấm dứt cái trật tự mà họ cho là phát xuất từ Thiên Chúa và họ đang ra sức bảo vệ bằng mọi phương thế có thể được.
- Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người (32): Phêrô (và các anh em) không thể chấp nhận được rằng trong khái niệm Đấng Mêsia họ vẫn hiểu, lại có sự đau khổ và sự chết. Ông liền kéo Đức Giêsu ra một bên và trách Người (epitimaô).
- Satan! Lui lại đằng sau Thầy (33): Đức Giêsu đã mắng ngược lại: “Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Ý kiến của Phêrô không diễn tả nếp sống môn đệ mà ông được mời gọi theo. Tư cách Mêsia mà ông tuyên xưng và cách hiểu đời môn đệ tương ứng với Đấng Mêsia ấy không thể hài hoà với cách Đức Giêsu hiểu thánh ý Thiên Chúa. Ý kiến của Phêrô chỉ dựa trên những quan điểm của loài người, nên đã tương đương với những nỗ lực của Satan nhằm kéo Đức Giêsu ra khỏi đường sứ mạng (so với Mt 4,10). Trong Mc 8,31-33, tác giả đề cập đến những hậu quả của tư cách Mêsia đối với chính Đức Giêsu. Trong 8,34-38; 9,1, ngài sẽ đề cập đến hậu quả đối với các môn đệ của Đức Giêsu.
Lời tuyên xưng duy nhất về Đấng Mêsia mà Đức Giêsu chấp nhận được, là lời tuyên xưng đưa các môn đệ đến chỗ hiểu về tư cách môn đệ phù hợp với đường lối của Thiên Chúa về mầu nhiệm Đức Kitô.
- Đức Giêsu gọi đám đông cùng vói các môn đệ (34): Đức Giêsu tiếp tục giải thích chân lý trên đây thật rõ ràng cho các môn đệ, nhưng, bởi vì điều này hết sức quan trọng, Người gọi cả đám đông lại mà nghe.
- Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình …: Nẻo đường tuân thủ thánh ý Thiên Chúa bắt đầu với cái chết, như chính Đức Giêsu đã cho thấy. Aparneomai, “chối mình”, nghĩa là không màng tới quyền lợi hoặc sở thích của mình. Vì Phêrô không chịu “chối mình” (aparneomai), sau này ông đã chối (arneomai) Thầy (14,68).
- ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được (35): Lời này cho thấy Đức Giêsu tự đồng hoá với Tin Mừng của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu, Con Người, sẽ hướng dẫn người ta đi vào một cuộc tái lập trật tự cho thế giới chúng ta, trong đó giá trị của con người không nằm ở “sở hữu” (cái “có”), nhưng ở “hiện hữu” (cái “là”). Người môn đệ Đức Giêsu sẽ đạt được sự sống vĩnh cửu ở bên kia kinh nghiệm về cái chết được diễn tả bằng công thức “vác thập giá bước theo Đức Giêsu”. Đây là sự sống vĩnh cửu bởi vì đạt được xuyên qua cuộc tái tạo bằng hơi thở ban sự sống của Thiên Chúa và bằng việc tháp nhập vào trong đời sống không bao giờ chấm dứt của Con Người (nhân loại mới).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (27-30) Tác giả TM II đã nêu bật tầm quan trọng của câu hỏi của Đức Giêsu khi đặt câu hỏi ấy ở trung tâm của tác phẩm của ngài. Những gì ngài tường thuật trước đó (trong phân đoạn 1,1–8,26) nhắm đưa tới câu hỏi này và cung cấp các nền tảng để trả lời. Các môn đệ đã đồng hành với Đức Giêsu trong mọi chuyến đi và đã chứng kiến tất cả hoạt động của Người, phải có thể trả lời câu hỏi Người đặt ra.
Đức Giêsu không nhấn mạnh tổng quát về tình trạng thiếu hiểu biết của các môn đệ nhưng, với một độ tăng dần, Người nêu ra cho họ hai câu hỏi: ý kiến của dân chúng và của chính các ông về bản thân Người. Các môn đệ, qua Phêrô, đã tỏ ra hiểu hơn về bản thân Người: họ thấy Người là Đấng Mêsia, Đấng Xức dầu của Đức Chúa, Vị Sứ giả tối hậu và vĩnh viễn của Thiên Chúa, sẽ thực hiện ơn cứu độ trọn vẹn cho loài người bằng quyền lực và nhân danh Thiên Chúa. Câu đáp của Phêrô sẽ được triển khai bởi mạc khải của Thiên Chúa đến sau đó: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (9,7). Chính vì Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà các môn đệ phải nghe lời Người và để cho Người hướng dẫn.
* Lời loan báo Thương Khó lần đầu (31-33)
Phêrô vừa tuyên xưng niềm tin xong, Đức Giêsu tức khắc nói về cuộc Thương Khó. Đây là lần đầu tiên Người nói rõ ra những gì đang chờ đợi Người ở cuối “con đường”. Người sẽ còn ngỏ lời với các ông về đề tài này hai lần nữa (9,31; 10,33-34). Vì các ông đã nhận biết và tuyên xưng Người là Đấng Mêsia, các ông phải được chuẩn bị đi trên con đường mà Đấng Mêsia sẽ rảo qua. Đức Giêsu coi như các môn đệ có khả năng đón nhận lời loan báo này. Nhưng bây giờ lại chính là Phêrô phản đối Người (c. 32). Ông muốn cho Đức Giêsu hiểu rằng lộ trình Người loan báo đó là một lộ trình điên rồ, phi lý. Nhưng Đức Giêsu cũng đã đẩy ông đi với một sự quyết liệt không kém. Lộ trình Người theo là lộ trình Thiên Chúa muốn, nên khi phản đối Người, Phêrô đã trở thành hiện thân của ma quỷ mà chống lại Thiên Chúa.
* Giáo huấn về đời các môn đệ (34-35)
Kế đó, vì biết rằng giáo huấn Người sắp ban có giá trị cho mọi người, Đức Giêsu đã nói với toàn dân và các môn đệ: Ai muốn làm môn đệ Người, thì phải mô phỏng đời mình theo lối sống của Người. “Vác thập giá mình mà theo” là công thức nói lên một công việc sẽ kéo dài, công việc đưa lại nhiều tủi nhục đau đớn, như chuyến đi vác thập giá đến nơi chịu đóng đinh, tiến bước giữa hai hàng người say sưa chế nhạo, căm hờn chửi bới, ... Đấy chính là chấp nhận thua thiệt vì trung thành sống theo Tin Mừng, cũng chính là trung thành bước theo Đức Kitô.
+ Kết luận
Cuộc sống của người Kitô hữu tham dự vào nghịch lý của bản thân Đức Kitô. Đức Kitô đã chỉ đạt được vinh quang thiên sai nhờ đi qua Khổ Nạn và cái chết, theo đúng chương trình của Thiên Chúa. Bất cứ ai tự hào mang danh “Kitô hữu”, đều phải sống nghịch lý Kitô giáo: muốn cứu mạng sống mình, là mất mạng; chấp nhận mất mạng vì Đức Kitô, là cứu được mạng. Các môn đệ phải thích ứng với nẻo đường của Đức Giêsu, mặc dù trái tim chai đá sẽ toan tính đủ cách để tránh xa con đường này, để đẩy nó đi.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu không chỉ muốn có những môn đệ chấp nhận phần nào giáo huấn của Người với một chút thiện cảm hoặc một chút quan tâm. Họ phải biết rõ Người là ai và tương quan của Người với Thiên Chúa là thế nào, để dám bỏ hết mọi sự mà ký thác trọn vẹn cuộc đời vào tay Người. Phản ứng của Phêrô sau khi Đức Giêsu loàn báo Thương Khó (8,32b) cũng như chuyện các ông tranh cãi về sự cao cả và danh dự (9,33-34), và lời thỉnh cầu của hai anh em nhà Dêbêđê (10,37) cho hiểu rằng các môn đệ xác tín rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, nhưng lại gán cho Người những quan niệm, những ước muốn và hy vọng của riêng họ, tức họ chưa hoàn toàn biết rõ Người trong cái nhìn của Thiên Chúa. Muốn biết rõ Người, phải “bước theo” Người (x. 1,17).
2. Phản ứng theo bản năng con người chúng ta rất có thể khiến ta ở trong thế chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Những lời Đức Giêsu trách mắng Phêrô cho hiểu là chúng ta không được để cho ý muốn của bản năng phàm trần hướng dẫn, nhưng phải bước theo Đức Giêsu và đón nhận những lời dạy dỗ của Người, bởi vì chỉ Người mới hiểu rõ mục tiêu và biết con đường đưa tới đó. Ai muốn cung cấp cho Người những chỉ dẫn về những gì Người phải làm hoặc phải bỏ, thì đã tuyên xưng Đức Kitô với những lời vô nghĩa.
3. Như vậy, người nào nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô thì cũng bị bó buộc bước theo Người vô điều kiện, tức là cho dù việc tiến bước này hàm chứa việc vác thập giá của mình và bước đi như Người, bên cạnh Người, được Người nâng đỡ, để tiến về với Chúa Cha. Như thế là phải chấp nhận rằng để đưa lại một ý nghĩa mới mẻ đích thực và mang tính Kitô giáo cho đời sống và niềm tin của chúng ta, chúng ta phải đón nhận cả đau khổ.
4. Thật ra con đường thập giá, với những hy sinh, những đau khổ, không phải là thời gian Thiên Chúa thử thách chúng ta nhằm thỏa mãn “ý chí hùng cường” của Người, khiến chúng ta phải sự hãi và khuất phục Người như những tên nô lệ khiếp nhược. Đấy chính là lộ trình giúp chúng ta loại bỏ dần dần “con người cũ”, để nhận lấy “con người mới”. Kho tàng phong phú là sự sống muôn đời trong hạnh phúc với Thiên Chúa khiến chúng ta thấy rằng chấp nhận đi vào lộ trình này cũng bõ công!
Theo Đức Giêsu, các môn đệ đã được Chúa huấn luyện, uốn nắn, dạy bảo. Từng lời nói, từng việc: TN 24-B49
Theo Đức Giêsu, các môn đệ đã được Chúa huấn luyện, uốn nắn, dạy bảo. Từng lời nói, từng việc làm, cử chỉ của Chúa luôn giúp các môn đệ hiểu ra các Ngài đang ở với Đấng cao cả, tuyệt vời. Đặc biệt các phép lạ Chúa làm đã cho các môn đệ thấy Chúa là Đấng quyền năng: mọi việc trên trời dưới đất đều thuộc về Ngài và Ngài có quyền trên cả sinh mạng của con người. Chính vì thế, danh tiếng của Chúa đã vang ra nhiều nơi. Người ta đã đồn thổi về Ngài. Đã có nhiều nhân vật, nhiều danh xưng được người ta gán ghép cho Ngài. Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn biết các môn đệ gọi Ngài là ai ?
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”. Câu hỏi này làm cho các môn đệ choáng váng. Bởi vì, đã có nhiều danh xưng được gán cho Chúa Giêsu. Người thì bảo Chúa Giêsu là Ông Gioan Tẩy Giả, người khác bảo Ngài là Ông Êlia và có người lại bảo Ngài là một ngôn sứ nào đó.Tất cả các danh xưng ấy một cách nào đó cũng chỉ nói lên được một khía cạnh nào đó về Chúa Giêsu. Chúa muốn biết các môn đệ đã hiểu, đã nghĩ về Chúa như thế nào ? Các môn đệ phải có một sự dấn thân, phải có một sự quyết định mạnh mẽ và dứt khoát của đức tin.Phêrô đã thay mặt các môn đệ khác thưa với Chúa Giêsu:” Thầy là Đấng Kitô “. Đúng, lời tuyên tín của thánh Phêrô đã làm cho Chúa mát dạ an lòng. Sống với Chúa, Ngài chỉ muốn được nghe lời ấy và hôm nay Phêrô đã đáp trả đúng ý của Chúa. Đây không phải lời tự ý Phêrô nói ra nhưng là do Thiên Chúa Cha mạc khải cho Phêrô. Thế nên, nhân cơ hội này, Chúa đã mạc khải ý định của Chúa Cha về Ngài: Ngài sẽ chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế và kinh sư loại bỏ, bị bắt và bị giết nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Phải có đức tin mạnh mẽ, sâu xa, phải có con mắt của Chúa mới hiểu được ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Đúng thế, bởi vì Phêrô vừa được Chúa khen thì lại cùng lúc bị Chúa mắng là “ Xa-Tan ! lui lại đằng sau Thầy ! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người “ ( Mc 8, 33 ). Chúa la mắng Phêrô vì sợ lời nói cản ngăn con đường của Chúa sẽ làm ảnh hưởng các môn đệ khác. Dù sao, lời tuyên tín của Phêrô cũng làm Chúa vui mừng vì Phêrô cũng như các môn đệ khác đã dấn thân, đã dám liều mình vì Chúa qua lời nói đó.
Sau đó, Chúa Giêsu đã nói công khai với các môn đệ và mọi người:” Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo “ ( Mc 8, 34 ). Từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo Chúa là những tác động quan trọng và là những điều kiện tiên quyết để theo Chúa. Điều Chúa muốn con người từ bỏ chính mình, vác thập giá của mình ma theo Chúa, không phải con người chỉ làm một lần là xong, là chấm dứt, nhưng nó đòi hỏi con người phải lập đi lập lại không ngừng trong đời sống. Người thanh niên giầu có trong Tin Mừng cũng đã được Chúa mời gọi và chỉ bảo sau khi anh ta đã làm nhiều việc được Chúa khen ngợi, nhưng khi Chúa đề nghị với anh:” Hãy về bán hết tài sản, phân chia cho những kẻ nghèo khó, rồi đến theo Chúa “. Người thanh niên này đã không dám làm điều Chúa đề nghị. Các môn đệ, đặc biệt Nhóm Mười Hai đã dám bỏ tất cả mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Nếu chúng ta đi ngược dòng lịch sử để xem Nhóm Mười Hai là những người nào ; một điều rất thú vị là chúng ta hiểu được trong Nhóm Mười Hai đã có vợ, có người đã có gia sản, có người đã thành đạt trong cuộc sống nhưng rồi khi nghe tiếng Chúa gọi nhất nhất, họ đã bỏ tất cả để theo Chúa Giêsu. Do đó, lời tuyên xưng của thánh Phêrô hôm nay thật có giá trị. Bởi vì, Phêrô đã nói đúng ý Chúa.
Chúa khẳng định rõ ràng với Phêrô và các tông đồ:” Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy “ ( Mc 8, 35 ). Theo Chúa chỉ có một con đường là đường mà Chúa đã đi: con đường đau khổ, con đường hẹp, con đường thập giá để đạt tới vinh quang.
Người ta bảo Thầy là ai ? Tất cả các tên gọi như người ta dự đoán về Chúa đều chỉ đúng một khía cạnh. Phêrô đã được Thiên Chúa Cha mạc khải và Ngài nói đúng: “ Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa”.
Vâng, ca nhập lễ Chúa nhật XXIV thường niên viết: “ Lạy Chúa, xin ban bình an cho những người trông đợi Chúa. Xin cho các ngôn sứ của Ngài được luôn luôn trung thực. Xin nghe tiếng nguyện cầu của toàn thể dân Chúa.
“Lạy Thiên Chúa, Tình thương Ngài quí trọng biết bao. Phàm nhân tìm bóng Ngài trú ẩn ( Tv 35, 8 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mau mắn thưa với Chúa như thánh Phêrô xưa:” Thầy là Đức Kitô “.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao Chúa Giêsu lại muốn biết Nhóm Hai nghĩ sao về Ngài ? 2.Phêrô đã bảo Chúa Giêsu là ai ? 3.Có phải Phêrô tự nghĩ ra câu tuyên xưng đó không ? 4.ÔBACE bảo Chúa Giêsu là ai ? 5.Bạn sẽ nói với người tân tòng như thế nào về Chúa Giêsu ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 8:27-35)
Các sách Tin Mừng Nhất lãm đều ghi lại giáo huấn của Chúa Giê-su nói về việc chúng ta phải: TN 24-B50
Các sách Tin Mừng Nhất lãm đều ghi lại giáo huấn của Chúa Giê-su nói về việc chúng ta phải theo Người như thế nào. Theo Chúa đòi chúng ta phải chấp hành ba điều kiện: từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày, và bước theo Chúa. Chúng ta không thể thi hành điều kiện thứ ba mà bỏ hai điều kiện đầu, nghĩa là muốn bước theo Chúa, chúng ta phải từ bỏ mình và vác thập giá hằng ngày. Như thế có phải việc theo Chúa đòi hỏi quá đáng hay không?
Trước hết chúng ta hãy nhìn lại bối cảnh trước khi Chúa Giê-su đưa ra giáo huấn này. Tin Mừng Mác-cô thuật lại ba lần Chúa Giê-su tiên báo cuộc Thương khó của Người. Sau mỗi lần đều có một sự kiện về hành vi của các môn đệ khiến Chúa Giê-su phải dạy họ một bài học: a) ông Phê-rô can gián Chúa đừng để cuộc Thương khó xảy ra; b) các môn đệ cãi nhau xem ai là người lớn nhất, và c) hai anh em ông Gia-cô-bê và Gio-an đến xin Chúa cho được ngồi bên phải bên trái Người khi Người được vinh quang. Phản ứng lại sự can gián của ông Phê-rô, Chúa Giê-su đã nặng lời quở trách ông đi theo đường lối của Xa-tan, rồi sau đó Người dạy các môn đệ về điều kiện họ phải chấp nhận nếu muốn đi theo Người.
Giáo huấn này chúng ta đã nghe nhiều lần. Chúng ta cũng đã hiểu rõ ý nghĩa của việc từ bỏ mình và vác thập giá hằng ngày. Nhưng có lẽ chúng ta vẫn thắc mắc tại sao Chúa nhấn mạnh đến việc phải từ bỏ mình, phải vác thập giá hằng ngày. Tính cách gắt gao và đòi hỏi của những điều kiện ấy quả thực rõ ràng khi Chúa Giê-su dùng thí dụ người xây tháp hoặc ông vua đi giao chiến đã tính toán kỹ càng trước khi khởi sự (Lu-ca 14:28-33). Rồi Người kết luận: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Nếu vậy làm sao chúng ta có thể chấp nhận và thi hành những điều kiện gắt gao ấy để theo Chúa? Điều gì có thể biến đổi tính cách gắt gao của những điều kiện ấy thành lời mời gọi tha thiết dịu dàng của Chúa Giê-su? Thưa chính là tình yêu. Chỉ có tình yêu đích thực mới giúp chúng ta nhìn những điều kiện Chúa đòi hỏi là chính đáng và nhẹ nhàng! Một thí dụ cụ thể là khi hai người thanh niên thiếu nữ quyết định kết hôn, họ cũng đã từ bỏ: rời cha mẹ, bỏ hút thuốc, bỏ shopping, quên bạn bè… để đi theo nhau. Áp dụng vào việc chúng ta đi theo Chúa cũng vậy. Tất cả chỉ là động lực tình yêu sẽ giúp chúng ta thưa “xin vâng” với Chúa, giống như Mẹ Ma-ri-a đã thưa “xin vâng” vì lòng yêu mến Thiên Chúa và nhân loại.
Thực ra Chúa không đòi chúng ta phải từ bỏ mình đến phải hy sinh mạng sống như Người đã chết trên thập giá. Nhưng Người muốn chúng ta bỏ đi con người cũ và tội lỗi để sẵn sàng mặc lấy con người mới là chính Chúa và lối sống của Người. Người muốn chúng ta vác thập giá hằng ngày không phải là để chúng ta phải luôn luôn đối phó với những đau khổ thật lớn lao, mà là chấp nhận những hy sinh nho nhỏ mỗi ngày để chúng ta được “thông phần vào cuộc Thương khó của Chúa Ki-tô”. Nói tóm lại, tính cách gắt gao của việc theo Chúa không phải nhắm đến sự khó khăn của điều kiện, nhưng là nhắm đến quyết tâm và động lực tình yêu của chúng ta nếu muốn theo Chúa mà thôi.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Hầu hết chúng ta đều đang trên đường đi theo Chúa và làm môn đệ Người. Những khó khăn những môn đệ tiên khởi của Chúa ngày xưa đã gặp cũng là những khó khăn của chúng ta hôm nay. Chúng ta có thể là một Phê-rô không muốn hành xử theo đường lối của Chúa, nhưng theo đường lối của ma quỷ. Chúng ta có thể giống những môn đệ chỉ muốn là người lớn hơn cả, đứng đầu và chỉ tay năm ngón, chứ không muốn noi gương Chúa phục vụ người khác, nhất là những người nghèo khổ. Hoặc chúng ta có thể giống như hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an, đi theo Chúa là để tìm tư lợi và danh vọng cho mình. Vậy chúng ta hãy thành thực trả lời: Có phải tôi đi theo Chúa chỉ vì tôi thực lòng yêu mến Người hay không? Với trái tim quảng đại chứ không phải với đầu óc tính toán, chúng ta sẽ thấy điều kiện theo Chúa không còn gắt gao nữa, trái lại là đầy phấn khởi và hy vọng.