------------------------------------ Phúc Âm: Mc 8, 27-35: “Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: “Người ta bảo Thầy là ai?” Các ông đáp lại rằng: “Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri”. Bấy giờ Người hỏi: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Phêrô lên tiếng đáp: “Thầy là Ðấng Kitô”. Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả. Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó. Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: “Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”. Người tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình”. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Sau khi theo Chúa, nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến gương lành và đối diện với những việc: TN 24-B51
Sau khi theo Chúa, nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến gương lành và đối diện với những việc làm cao cả, những phép lạ lớn lao của Chúa, các môn đệ của Chúa đã hiểu phần nào về Ngài, đã thán phục Ngài.Dù rằng các môn đệ không nhất loạt nói ra những cảm nghĩ của mình về Chúa, nhưng trong thâm tâm mỗi người đều có những cảm nghiệm hết sức sâu xa về Ngài. Chúa đã nghe dân chúng nói to nói nhỏ về Ngài. Người bảo rằng Chúa là Êlia, người nói Chúa là một ngôn sứ vv…Chúa muốn biết thực sự các môn đệ nghĩ về Ngài làm sao ? Phêrô tuyên xưng đức tin. Điều này an ủi Chúa bởi Chúa đã khổ tâm vì nhiều môn đệ không hiểu Ngài. Phêrô hôm nay tuyên xưng đức tin: vậy là các môn đệ đã bắt đầu hiểu Ngài.
Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ, đã chữa nhiều bệnh cho nhiều người, đã trừ quỷ, đã làm cho cả người chết sống lại, đã giảng dạy nhiều điều tốt đẹp.Uy tín và danh giá của Ngài đã vang khắp nơi, người ta đã xôn xao bàn tán về Ngài. Theo dư luận quần chúng mà các môn đệ nghe được, giờ đây trước lời tra vấn của Chúa, họ đã thưa với Ngài về dư luận của dân chúng: có người cho rằng Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả, có người nói Chúa là Êlia hay là một ngôn sứ nào đó. Tất cả những dư luận ấy đánh giá Chúa rất cao, đánh giá Chúa thật tốt nhưng chưa phải là điều Chúa muốn nghe.Nhân đi qua một vùng làng xã của Xê-da-rê Phi-lip, sau khi nghe các môn đệ thuật lại suy nghĩ của quần chúng nhân dân về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu muốn biết ý nghĩ của các môn đệ nói về Ngài để rồi sau đó Ngài sẽ loan báo về cuộc thương khó và phục sinh của Ngài. Dư luận quần chúng thì các ông đã nói với Chúa, còn riêng các ông:” Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ? “( Mc 8, 29 ).Ông Phêrô nhanh nhảu, thay mặt các môn đệ tuyên xưng:” Thầy là Đấng Kitô “ ( Ga 8, 29b ).Đức Giêsu cấm các môn đệ không được nói với ai về điều đó, không phải Ngài không chấp nhận sứ mạng Mêsia, nhưng vì dân chúng chưa thể hiểu được điều đó trước khi Người chịu chết và phục sinh.
Đức Giêsu bắt đầu vén mở cho các môn đệ thấy cuộc đời cứu thế, sứ mạng cứu chuộc của Ngài đầy dẫy đau khổ, thử thách và chông gai, Ngài sẽ bị bắt, bị đánh đập, bị kết án tử hình, Ngài chịu chết và sẽ sống lại. Thánh Phêrô không làm sao chịu nổi số phận của Thầy sẽ phải chịu, cho nên Ông đã can ngăn con đường cứu thế của Chúa, nên Chúa đã mắng nhiếc ông thậm tệ. Từ Satan Chúa gán cho Phêrô nói lên sự bực bội khó chịu của Ngài bởi vì chỉ có ma quỷ mới cản ngăn con đường cứu thế của Chúa.Rồi Chúa vạch ra những tiêu chuẩn để theo Ngài, những điều kiện này không chỉ dành cho các môn đệ mà cho cả đám đông, cho cả mọi người muốn đi theo Ngài. Điều kiện ấy là hãy từ bỏ mình, vác thập giá, tức là liều mạng sống vì Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài.
Người môn đệ của Chúa làm tốt công việc của chính mình, lắng nghe Lời của Chúa mà thôi vẫn chưa đủ nhưng còn phải thực thi Lời Chúa và làm ích cho người khác, cho tha nhân theo tiêu chuẩn của Tin Mừng: phục vụ Chúa tôn kính Chúa và phục vụ tha nhân, dám hy sinh, dám chia sẻ, cảm thông, dám giúp đỡ người khác về vật chất cũng như tinh thần. Theo Chúa, ở với Chúa quả thực là vất vả, khó nhọc nhưng đối với Chúa:” Thập giá là ơn cứu độ, là vinh quang “.
Thánh Giacôbê đã nói:” Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Do đó,tin không vẫn chưa đủ, cầu nguyện cho nhau là một việc tốt, cần thiết nhưng vẫn chưa đủ.Chúa dạy chúng ta là “Hãy yêu như Chúa “ “ Hãy làm như Chúa “. Nên, Chúa muốn chúng ta phải biết cảm thông, phải biết chia sẻ và nâng đỡ nhau.
Đức Giêsu đã hy sinh cả mạng sống của Người để cứu độ nhân loại, Người đã thực hiện công việc cứu thế của Người bằng tình yêu vô vị lợi, tình yêu hiến thân:” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). Thập giá là ý muốn của Thiên Chúa dành cho Chúa Giêsu và cũng là ý muốn Thiên Chúa dành cho chúng ta: đây là con đường dẫn chúng ta tới sự sống vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn tin tưởng bước theo Chúa trên đường tử nạn để chúng con cũng được phục sinh với Chúa. Amen.
Mc 8, 27-35: 27 Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” 28 Các ông đáp:
“Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” 29 Người lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” 30 Đức Giêsu liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người.
31 Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Người Con của Nhân Loại phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. 32 Người nói rõ điều đó, không úp mở. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. 33 Nhưng khi Đức Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phêrô: “Xatan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” 34 Rồi Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: “Ai muốn theo sau tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 35 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.”
Đoạn 8:27-35 được đặt ở vị trí bước ngoặt trong tin mừng theo Marcô. Trong phần đầu của tin: TN 24-B52
Đoạn 8:27-35 được đặt ở vị trí bước ngoặt trong tin mừng theo Marcô. Trong phần đầu của tin mừng nầy (1:14-8:26), Marcô đã trình bày Chúa Giêsu, Đấng đầy quyền năng trong giảng dạy và hành động. Điều nầy dẫn đến kết luận giữa dân chúng là Người được công nhận như là Đấng Kitô; và cũng chỉ từ lúc nầy Người mới cho biết sự thương khó của Người. Như thế, đoạn 8:27-35 có thể được xem như là kết luận của phần thứ nhất của tin mừng nầy, và cũng là dẫn nhập của phần thứ hai (8:27-16:80), nói đến hành trình lên Giêrusalem (8:27-10:52), những hoạt động ở đó (11:1; 13:37); và cuộc thương khó, cái chết và phục sinh tại Giêrusalem (14:1; 16:8).
Đoạn 8:27-35 được chia thành ba: 1- Câu hỏi của Chúa Giêsu về căn tính của Người (8:27-30); 2- Tiên báo lần thứ nhất về định mệnh của Chúa Giêsu (8:31-33); 3- Điều kiện và mục đích của việc theo Người (8:34-35; đúng hơn, phần nầy kéo dài đến câu 9:1). Sau đoạn tra hỏi và khẳng định về căn tính của Chúa Giêsu (8:27-30), đoạn 8:31-33 liên kết xét theo chủ đề rất chặt chẽ với đoạn 8:34-9:1và được trình bày cách đối xứng với đoạn ấy: định mệnh của Chúa Giêsu trong lời tiên báo của Người (8:31-32a) trở nên định mệnh tất yếu cho những ai muốn theo Người (8:34-37); trong khi, hành vi phản đối của Phêrô trước lời tiên báo ấy (8:32b-33) dẫn đến giáo huấn của Người cho những ai muốn chối bỏ Người (8:38-9:1).
Ngay khởi đầu tin mừng, Marcô đã giới thiệu Chúa Giêsu như là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (1:1). Tước hiệu “Đấng Kitô” nầy chỉ xuất hiện trong phần thứ hai của tin mừng (8:29; 9:41; 12:35; 13:21; 14:61; 15:32); trong khi, ở phần thứ nhất cũng có những cách gọi khác liên quan đến căn tính của Người như “Con Yêu Dấu” (1:11), “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (1:24), “Con Thiên Chúa” (3:11), “Con của Thiên Chúa tối cao” (5:7). Hơn nữa, cách nói “Ngài/Ông là”, ở ngôi thứ hai, trong câu hỏi hoặc câu khẳng định, chỉ được dùng để bàn đến căn tính của Người (1:11; 3:11; 8:29; 14:61; 15:2). “Đấng Kitô” (tiếng hy lạp, christos), hay “Đấng Messia” (tiếng do thái, mashiah) nghĩa là “Đấng được xức dầu”. Xức dầu là hành vi quyết định trong việc tôn vương (x. 1Sam 10:1; 1V 1:39). Do đó, Đấng Kitô là vua (15:32). Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định địa vị và quyền năng của Người khi được hỏi về căn tính “Đấng Kitô” của Người (x. 14:61-62). Với dân chúng, Người được cho là một trong các ngôn sứ (8:28). Nhưng thật ra, Người là vị vua duy nhất (x. 12:1-12).
Sự phản đối của chính Phêrô (8:32), những thắc mắc và chế diễu của những người lãnh đạo của người do thái (14:61) và của Philatô (15:2.9.12.18) chứng tỏ tâm thức của họ lúc ấy không thể chấp nhận đấng được gọi là vua của họ có thể chịu số phận khổ đau theo như lời tiên báo của Chúa Giêsu (8:31). Điều đáng chú ý là Phêrô và Chúa Giêsu đã trách mắng lẫn nhau (8:32.33)! Động từ “trách mắng” (epitimaô), ngoài ý nghĩa “ra lệnh” (3:12; 8:30), được dùng trong lời Chúa Giêsu trách mắng các thần ô uế (1:25; 9:25), sóng gió đe dọa (4:39). Khi trách mắng, Người tự đặt mình như là đối thủ của những quyền lực xấu ấy. Lý do Phêrô trách mắng Chúa Giêsu là vì Người đã nói đến điều mà ông không từng nghĩ đến; trong khi Người trách mắng lại ông, cũng vì ông đã không nghĩ tưởng như Người (8:33). Hai bên đã trở thành đối thủ không mong muốn của nhau. Tuy nhiên, lời trách mắng của Chúa Giêsu sắc bén một cách riêng. Một đàng, Người ra lệnh Phêrô đi lui đàng sau Người; nghĩa là trở về lại vị trí của người môn đệ là đi theo sau Người (x. 1:17.20; 8:34), chứ không phải đứng trước để chỉ đường cho Thầy mình. Đàng khác, Người gọi ông là “Satan” nghĩa là “đối thủ” của Thiên Chúa (x. Dân số 22:22, 32; Zac 3:1–2; Gióp 1:6–9, 12; 2:1–7; 1 Niên sử 21:1), vì ông cản trở hành trình của Người. Như thế, Chúa Giêsu đã được công nhận là Đấng Kitô, nhưng theo cách nghĩ tưởng trần thế.
Làm môn đệ của Chúa Giêsu thì phải đi theo sau Người. Đi trước Người sẽ trở thành đối thủ và cản trở công việc của Người. Làm môn đệ của Người cần học và chấp nhận Người là Đấng Kitô chịu đóng đinh và phải chuẩn bị đối diện số phận như Người (x. 1Co 1:23).
Sau khi Tổ Tông phạm tội, Thiên Chúa đã ra hình phạt cho hai ông bà (A-Dong và Evà); đó là: TN 24-B53
Sau khi Tổ Tông phạm tội, Thiên Chúa đã ra hình phạt cho hai ông bà (A-Dong và Evà); đó là tội Nguyên Tổ, nhưng Thiên Chúa cũng hứa sẽ sai một Đấng Cứu Độ đến để chuộc tội và ban ơn Cứu rỗi cho nhân loại (Sáng Thế 3: 15). Đấng được Thiên Chúa hứa sẽ sai đến người Do Thái gọi là “Messiah” (có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu), dịch sang tiếng Hy Lạp “Christos”, chuyển âm sang tiếng Anh và tiếng Pháp là “Christ’ và sang tiếng Việt Nam là “Kitô”. Chính Chúa Giêsu cũng tự nhận mình là Đấng Ki-tô (Matcô 14: 61-62).
Sở dĩ người Do Thái gọi “Đấng Chúa Hứa” là “Đấng Được Xức Dầu” là vì theo truyền thống Do Thái, các vua được xức dầu phong vương (1Samuel 10:1), các Thày Cả Thượng Phẩm cũng được xức dầu (Xuất Hành: 29:7). Người Do Thái quan niệm Đấng Kitô là vị “Vua” trong tương lai. Ngài sẽ đến trong uy quyền để đổi mới mọi sự, để phục hồi lại nước Israel (Daniel 9: 25-26), giải phóng dân tộc Do Thái khỏi mọi áp bức, và đưa dân Chúa tiến lên trong vinh quang.
Nhưng Đấng Kitô đã đến trần gian trong khó nghèo. Ngài đã sinh bởi lòng Đức Trinh Nữ Maria (Luca 2: 10-11), và Ngài được đặt tên là Giêsu như lời Sứ Thần nói với Đức Maria (Luca 1: 31) và Thánh Giuse (Matthêu 1:21). Như vậy, Đấng mà “muôn dân mong đợi” đã đến trong trần gian, tên Ngài được gọi là Giêsu, cùng với danh hiệu Kitô ghép lại thành Giêsu Kitô.
Qua Bài Phúc Âm hôm nay (Matcô 8: 27-35) chúng ta thấy người Do Thái thời Chúa Giêsu chưa nhận ra Ngài chính là “Đấng Kitô” Thiên Chúa sai đến, nên người thì bảo Ngài là Gioan Tẩy Giả, người thì bảo là Êli, người thì bảo là một trong các Tiên Tri…” Chính vua Herôđê cũng cho Ngài là “Gioan Tẩy Giả ta đã giết, nay đã sống lại (Matcô 6:16). Nhưng khi Chúa Giêsu hỏi các Tông đồ, thì Phêrô đã đại diện anh em xác quyết “Thày là Đấng Kitô!”. Xác quyết như vậy tỏ ra Phêrô và các Tông đồ đã nhận biết được Chúa Giêsu chính là Đấng Kitô “mà muôn dân mong đợi”. Tuy nhiên, Phêrô và các Tông đồ chưa hiểu được là “Đấng Kitô sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế và luật sĩ chối bỏ và giết đi, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại…” (Matcô 8:31) Chính tiên tri Isaia cũng đã tiên báo trước về những đau khổ Đấng Kitô sẽ phải chịu để cứu chuộc nhân loại như trong Bài Đọc I hôm nay (Isaia 50: 5-9). Vì chưa hiểu được quan niệm “Đấng Kitô Đau Khổ”, nên khi nghe Chúa Giêsu nói như vậy, Phêrô “đã can ngăn Chúa Giêsu” và Chúa Giêsu đã quở mắng ông: “vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là tư tưởng của loài người!” Tiếp theo, Chúa Giêsu đã dạy cho các Môn đệ bài học thực tế: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình đi, vác Thánh Giá hàng ngày mà theo Ta…”
Bài học “Đấng Kitô Đau Khổ” là bài học Chúa dạy các môn đệ, nhưng cũng là bài học Chúa dạy chúng ta nữa là các tín hữu muốn bước theo Thày Chí Thánh: “Đấng Kitô phải chịu nhiều đau khổ và chết đi rồi mới sống lại trong vinh quang.” Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống và thực hành đức tin của chúng ta như Thánh Giacôbê đã nhắn nhủ chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay (Giacôbê 2: 14-18). Xin cho chúng ta biết can đảm chịu mọi đau khổ trong cuộc sống theo Thánh Ý Chúa, vì “chỉ khi chúng ta biết chịu đau khổ với Chúa Kitô, chúng ta mới được chung hưởng vinh quang với Ngài” (Rôma 8: 17). Mỗi khi phải chịu những đau khổ nặng nề xảy ra cho chúng ta hoặc gia đình chúng ta, chúng ta luôn biết nhìn lên Thánh Giá Chúa để thêm can đảm và sức mạnh hầu tiếp tục “vác thánh giá theo chân Chúa!” Đồng thời cũng biết nhận ra những đau khổ của bao người chung quanh chúng ta “không đủ cơm ăn áo mặc” để biết “chia sẻ cơm áo cho những người thiếu thốn” ấy.
Xin Mẹ Maria đã luôn sống trong cuộc đời đau khổ, nhất là giờ phút dưới chân Thánh Giá, an ủi, nâng đỡ chúng ta. Xin các Thánh, nhất là các Thánh tử Đạo Việt Nam, tất cả đều đã “can đảm vác Thánh Giá theo chân Chúa” cầu cùng Chúa cho chúng ta luôn sẵn sàng “can đảm chịu mọi đau khổ hàng ngày cho nên.” Trong “Năm Linh Mục” chúng ta cũng nhớ cầu nguyện nhiều cho các Linh Mục, các chủ chăn cũng luôn biết suy ngắm những sự đau khổ của Chúa Giêsu để can đảm âm thầm chịu mọi đau khổ hằng ngày trong cuộc đời tận hiến phục vụ Chúa và nhân loại.
Phụng vụ Lời Chúa trước đây đã tường thuật những việc làm và lời giảng của Chúa. Hôm nay, các: TN 24-B54
Phụng vụ Lời Chúa trước đây đã tường thuật những việc làm và lời giảng của Chúa. Hôm nay, các bài đọc hướng đến những người nghe Chúa và nói về đức tin của họ. Đức tin của người Tôi trung trong Cựu Ước và của ông Phê-rô trong Tân Ước đều là những thí dụ điển hình để ta có những ý niệm phong phú về lòng tin ta. Tuy nhiên đức tin không phải là mớ lý thuyết suông, mà phải được thực hành trong cuộc sống. Đó cũng là điều thánh Gia-cô-bê Tông đồ nhấn mạnh qua bài đọc hai.
1. Đức tin của người Tôi trung: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?” (bài đọc Cựu Ước – I-sai-a 50:5-9a)
Vì có lòng tin vững vàng vào Thiên Chúa nên người Tôi trung mới dám thách thức như vậy. Đây là bài thứ ba trong loạt bài ca người Tôi trung trong sách ngôn sứ I-sai-a. Gọi là người Tôi trung, vì người ấy luôn trung thành đặt tất cả niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin ấy giúp họ biết nhận ra những điều Thiên Chúa làm cho mình và sẵn sàng thi hành những gì Chúa muốn. Niềm tin cũng là sức mạnh để nhờ đó họ có thể đương đầu với tất cả những khó khăn, thậm chí những bách hại cũng không làm họ nao núng chút nào. Vậy Thiên Chúa đã làm gì cho người Tôi trung?
Trước hết, Thiên Chúa “mở tai” cho người Tôi trung. Mở tai là để họ có thể lắng nghe lệnh truyền của Thiên Chúa. Tuy nhiên người Tôi trung vẫn có tự do trước lệnh truyền của Người, hoặc đón nhận, hoặc cưỡng lại hay từ chối. Ở đây niềm tin vững mạnh khiến người Tôi trung đặt lệnh truyền của Chúa lên trên hết và quyết tâm thi hành.
Khi người Tôi trung bị thử thách và bách hại, niềm tin ấy là động lực giúp họ can đảm ứng phó với mọi hoàn cảnh. Cử chỉ “đưa lưng cho người ta đánh đòn”, “giơ má cho người ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” diễn tả thái độ bình tĩnh và tự chủ, là những đặc nét của niềm tin lớn lao nơi Thiên Chúa. Để làm vinh danh Chúa, người Tôi trung chấp nhận cả những điều bất công đáng lẽ họ có thể phản kháng. Đối với người Tôi trung, sự phù trợ của Thiên Chúa là một thực tại rõ ràng và tuyệt đối. Không gì có thể làm cho họ mất xác tín vào sự phù trợ ấy. Mối nguy hiểm lớn lao nhất của người Tôi trung là phải làm chứng cho công lý. Nhưng có Thiên Chúa là “Đấng tuyên bố rằng họ công chính và ở kề bên họ” nên họ không sợ bất cứ ai kết tội họ.
Nhưng người Tôi trung đó là ai? Chính là Chúa Giê-su Ki-tô. Trong suốt cuộc sống trên trần gian từ khi xuống thế làm người, thi hành sứ vụ cứu độ cho tới lúc chết trên thập giá, Chúa Giê-su đã sống trọn vẹn những gì ngôn sứ I-sai-a nói về Người. Người là mẫu gương đức tin vào Thiên Chúa. Người rao giảng và chữa lành trong sự trung thành với sứ mệnh Thiên Chúa đã trao phó. Đức tin của Người biểu lộ hùng hồn nhất vào những giờ phút bi thảm của cuộc Thương khó. Sự trung thành đã đem lại cho Người sự phục sinh và vinh quang vĩnh cửu bên hữu Thiên Chúa Cha.
2. Đức tin vào Chúa Ki-tô của người môn đệ (bài Tin Mừng – Mác-cô 8:27-35)
Như Chúa Giê-su đã tin vào Chúa Cha thế nào, ta cũng phải tin vào Chúa Giê-su như vậy. Trong cuộc đào tạo môn đệ, Chúa Giê-su lúc nào cũng ưu tư về đức tin của các môn đệ vào Người. Người muốn mặc khải cho họ biết dần dần về Người. Sách Tin Mừng Mác-cô có lối trình bày rât độc đáo về chân tính của Chúa Giê-su. Người ta quen gọi đó là “bí mật Đấng Mê-si-a. Từ khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho đến lúc chết trên thập giá, Chúa Giê-su luôn luôn cấm người được chữa lành không được nói về Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng hôm nay, sau khi ông Phê-rô tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô”, Chúa Giê-su cũng “cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người”. Chân tính của Chúa Ki-tô chỉ được tiết lộ khi “viên đại đội trưởng đứng đối diện với Chúa Giê-su, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: ‘Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”.
Theo câu truyện Tin Mừng hôm nay về việc ông Phê-rô tuyên xưng đức tin, ta có thể nhận ra một số nét chính về đức tin. Tin nghĩa là nhìn nhận phẩm giá của người mình muốn tin. Tin vào Chúa Giê-su có nghĩa là nhận biết Chúa là Đấng nào và sứ mệnh của Người là gì. Chính vì hai điểm này, đức tin mở đầu với câu hỏi “người ta nói Thầy là ai?” Trả lời cho câu hỏi trên, đức tin đòi hỏi việc nhìn nhận chân tính của Chúa Giê-su phải là nhìn nhận của riêng cá nhân, chứ không thể do những điều nghe người này người kia nói. Do đó, Chúa Giê-su mới hỏi môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Sự nhìn nhận này nảy sinh từ đáy tâm hồn của từng người. Đức tin không thể là điều vay mượn của người khác, nhưng là khởi đầu cho một mối quan hệ giữa ta với Chúa. Quan hệ này sẽ đưa ta đi khám phá thêm con người, đạo lý và sứ mệnh của Chúa Giê-su. Đây chính là điều ông Phê-rô và các bạn chưa biết hoặc không muốn biết. Nói khác đi, đức tin giúp ta tìm hiểu và nhìn nhận sứ mệnh của Chúa Giê-su. Để bổ túc cho thiếu sót rất lớn lao này, Chúa Giê-su “bắt đầu dạy cho các ông biết: Con Người phải chịu đau khổ nhiều…, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Vừa nghe vậy, ông Phê-rô phản kháng, chẳng muốn nhìn nhận một thứ sứ mệnh không đáp ứng với mong mỏi của ông và các bạn. Đối lại, Chúa Giê-su còn phản kháng mạnh hơn, cốt để khắc phục các ông phải nhìn nhận cả điều đi ngược lại mong muốn của mình. Người mắng ông là thứ kỳ đà cản mũi, không muốn đi theo đường lối Thiên Chúa và bắt chước Người làm Tôi trung của Thiên Chúa. Như vậy, điều cốt yếu về đức tin là phải tùy thuộc vào phẩm giá của Chúa chứ không phải tùy thuộc vào điều ta mong mỏi, hoặc đức tin là ta tùy thuộc vào Chúa chứ không phải Chúa tùy thuộc vào ta.
Một điều nữa vô cùng quan trọng về đức tin, là đức tin không là điều nằm trong trí óc, nhưng được thể hiện bằng đời sống và việc làm. Nhận biết chân tính và sứ mệnh của Chúa chưa đủ, ta còn phải đi theo Chúa. Điều này Chúa Giê-su thẳng thắn cho biết cái giá đắt khi ta theo Người. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8:34). Đức tin trở nên nguyên lý sự sống đời đời. Sự sống đời này và sự sống đời đời là hai thực tại khác nhau, nhưng lại liên hệ chặt chẽ với nhau. Đức tin trong sự sống đời này là điều kiện phải có để được sự sống đời đời. Mà trong cuộc sống đời này, đức tin sẽ gặp nhiều thử thách như vàng thử lửa, luôn đòi hỏi ta sẵn sàng “liều mất mạng sống mình vì Chúa và vì Tin Mừng”. Chúa Giê-su không ngại gọi việc liều mất mạng sống đời này như phương thức duy nhất để “cứu được mạng sống đời sau”. Ta mới chỉ liều mất mạng sống vì đức tin, còn Chúa Giê-su thì đã thực sự mất mạng sống vì lòng tin vào Thiên Chúa và nhân loại. Người đã trả giá đắt cho lòng tin vào tình yêu Chúa Cha và nhân loại. Vì mất mạng sống do tin yêu nên Người đã được phục sinh và đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.
3. Đức tin không có hành động là đức tin chết (bài đọc Tân Ước – Gia-cô-bê 2:14-18)
Thánh Gia-cô-bê đi vào thực tế khi ngài quả quyết: Đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết. Đức tin chết đâu có gây được tác động gì, khác chi cái xe hỏng máy nằm ụ một chỗ và không thể chuyên chở ta đi nơi này nơi kia. Ngài lập lại ý tưởng của Chúa Giê-su về chức năng của đức tin là “cứu mạng”. Thực tế hơn nữa, ngài dùng hình ảnh người anh chị em của ta sống trong hoàn cảnh thiếu thốn và cần đến sự giúp đỡ của ta để áp dụng vào việc sống đức tin. Hành động vì đức tin của ta trong hoàn cảnh này là quảng đại giúp đỡ người anh chị em ấy. Hành động là dấu chỉ nói lên đức tin sống động. Ta giúp đỡ anh chị em là vì ta tin lời Chúa dạy ta sống bác ái và thương yêu anh chị em như chính mình. Ta cho anh chị em túng đói cơm ăn áo mặc là vì ta thực hành điều Chúa dạy: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 26:40). Thánh Gia-cô-bê quả quyết không thể chứng minh đức tin khi không được biểu lộ bằng hành động. Trái lại khi ta hành động thì hành động đó sẽ cho người khác thấy động lực khiến ta hành động là vì có đức tin. Một thí dụ cụ thể: hành động ta cho anh chị em túng thiếu ăn khi họ đói, áo mặc khi họ lạnh nói lên rằng ta tin có Chúa nơi anh chị em và họ cùng với ta đều là con cái Thiên Chúa.
Có lẽ việc tách rời đức tin với hành động là điều rất thường thấy nơi nhiều Ki-tô hữu. Chính vì họ tách rời như vậy nên đời sống của họ có hai phạm trù riêng biệt. Họ tưởng hành động của đức tin là đọc kinh cho to, xem lễ cho nhiều, rước sách cho linh đình… Nhưng ra khỏi nhà thờ, hết kinh hết lễ thì đời sống họ vẫn giậm chân tại chỗ, không thêm được một chút tình thương nào đối với những người đói khổ túng thiếu, trái tim họ không hề rung động trước cảnh khốn khó của anh chị em. Cây đức tin của họ khô cằn, thiếu sự sống, nên không sinh được hoa trái nào. Thánh Gia-cô-bê mô tả đức tin hết sức đơn sơ, một đức tin sống hay là chết, nhưng lại là hình ảnh thực tế đòi hỏi mỗi người phải xét lại đức tin của họ.
4. Sống đức tin
Đề tài đức tin của Lời Chúa hôm nay không phải là một bài thần học hoặc giáo lý cao siêu, nhưng nằm ngay trong kinh nghiệm cuộc sống của người Tôi trung, của thánh Phê-rô và thánh Gia-cô-bê cũng như của mọi người muốn làm môn đệ Chúa Ki-tô. Đức tin hệ tại tâm hồn quyết tâm gắn bó với Chúa và sống theo điều Người dạy. Tin vào Thiên Chúa Cha, Chúa Giê-su đã suốt đời sống theo “tư tưởng” hoặc đường lối của Chúa Cha. Cũng vậy, nếu ta tin vào Chúa Giê-su, ta cũng phải uốn nắn đời sống ta theo khuôn mẫu đời sống của Người, sống vì Người và vì Tin Mừng.
Suy nghĩ: Thánh Gia-cô-bê viết: “Tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin”. Vậy để chứng tỏ cho những người chung quanh thấy tôi là người có đức tin, tôi phải có những hành động nào? Đối với những người trong gia đình? Trong sở làm? Trong cộng đoàn? Những hành động ấy nói lên điều gì nơi tôi?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa hằng hữu là Cha chúng con, xin cho lòng chúng con luôn hướng về với Chúa Ki-tô, để khi quyết tâm làm môn đệ Người như việc quan hệ nhất trong đời, và lấy tình bác ái phục vụ anh chị em, chúng con hoàn toàn hiến thân phụng thờ Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay, đặc biệt là đoạn Tin Mừng thường được mệnh danh là cuộc: TN 24-B55
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay, đặc biệt là đoạn Tin Mừng thường được mệnh danh là cuộc tuyên tín của Phêrô ở địa hạt Cêsarê thuộc quyền của Philíp. Chúa Giêsu sau một thời gian dài đi rao giảng, loan báo Nước Thiên Chúa, Ngài đã làm nhiều phép lạ, đã giảng dậy nhiều điều. Do đó, người ta bắt đầu đặt nghi vấn về Ngài.
LỜI TUYÊN XƯNG CỦA PHÊRÔ:
Với những điều dậy mới mẻ, đi ngược lại với các Rabbi và các luật sĩ, biệt phái, với những phép lạ lừng danh, xua trừ ma quỉ, dân chúng thắc mắc về Chúa Giêsu và sứ mệnh của Ngài. Điều này không làm chúng ta ngạc nhiên vì con người cao cả của Chúa Giêsu, con người rất danh tiếng và thế giá của Ngài. Nên, có kẻ bảo Ngài là ngôn sứ Giêrêmia hay một ngôn sứ nào đó, có người bảo Ngài là Gioan tiền hô đã sống lại. Đối với Chúa Giêsu, Ngài vẫn im lặng, vẫn tiếp tục giữ kín về tông tích và sứ mạng của Ngài. Mỗi lần thực hiện một phép lạ nào đó, Chúa lại căn dặn người được lành không được nói với ai. Chúa giữ kỹ tông tích của Ngài. Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, đây là bí mật”Mêsia”. Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn phá vỡ sự im lặng ấy, Ngài mới hỏi các môn đệ nghĩ gì về Ngài, dư luận quần chúng nghĩ gì về Ngài, câu trả lời của các môn đệ sẽ là phản ánh lại dư luận nhân dân, của đám đông, đồng thời là trắc nghiệm về lòng tin của các tông đồ. Lời thưa của Phêrô đại diện các tông đồ:” Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống “. Câu trả lời của Phêrô là câu giải mã về tông tích của Chúa Giêsu. Ngài là Đức Kitô có nghĩa Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân tộc, cứu vớt nhân loại khỏi tội lỗi. Lời tuyên tín của Phêrô theo cái nhìn của ông và hợp với giấc mơ của Phêrô và các tông đồ khác theo nghĩa trần gian: Đức Kitô đến giải phóng dân tộc của các ông khỏi ách thống trị của ngoại xâm và thiết lập nước các ông thành một vương quốc thịnh vượng trong đó các ông được chia chác làm lớn trong vương quốc này. Chính vì thế, khi vừa nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài sẽ phải chịu theo ý Thiên Chúa Cha. Phêrô không thể nào chịu nổi. Ông đã cản ngăn ngay ý định của Thầy mình. Chấp nhận Đức Kitô là Con Thiên Chúa, nhưng Phêrô không thể chấp nhận con đường khổ gía của Ngài. Chúa Giêsu quở trách Phêrô là satan vì chỉ có satan mới dám ngăn cản con đường cứu thế của Chúa.
CÁC MÔN ĐỆ GIỜ ĐÂY MỚI HIỂU RA CON ĐƯỜNG CỨU THẾ CỦA CHÚA:
Con đường cứu thế của Chúa là con đường thập giá, con đường đau khổ. Sở dĩ Phêrô và các môn đệ đã chưa nhận ra được con đường của Thầy: đau khổ, chết trên thập giá và phục sinh khải hoàn là bởi các ông chưa được Thánh Thần soi sáng, tác động. Phêrô và các môn đệ khác chỉ có thể nhận ra con đường cứu độ của Chúa sau khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại. Chữ Kitô có nghĩa gắn liền với thập giá. Mang danh hiệu Kitô hữu cũng có nghĩa gắn liền với sự đau khổ và thập giá của Đức Kitô, Phêrô và các môn đệ khác đã sống tới cùng tận lời tuyên xưng của mình; tất cả đều chết như Đức Kitô. Thập giá là tình yêu. Do đó, Chúa nói:” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mỗi ngày mà theo Ta” ( Mc 8, 34 ). Thập giá không là cây gỗ bất động, nhưng là cây sự sống mang lại quả phúc đời đời. Lời mời gọi của Chúa có tính hoàn toàn tự do. Chúa không bắt buộc ta chọn hay khước từ thập giá, nhưng Chúa cho ta hoàn toàn tự do chọn hay khước từ lời mời gọi của Chúa. Chúa không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nếu không, đạo công giáo chỉ là một thứ đạo đầy ải, làm khổ, đầy đoạ mình; Chúa nói chúng ta vác thập giá mình. Vác thập giá nghĩa là từ bỏ tất cả, từ bỏ mọi sự và sẵn sàng liều ngay cả mạng sống của mình. Chúa không bao giờ bắt chúng ta vác nặng quá sức chịu đựng của chúng ta. Chúng ta có thể khước từ thập giá bằng nhiều cách hoặc từ khước ân huệ sự sống là món quà vô giá Chúa ban tặng, hoặc chúng ta đóng kín cõi lòng, không biết mở ra cho người khác như kẻ đói chúng ta không cho ăn, kẻ khát chúng ta không cho uống, kẻ rách rưới, trần truồng chúng ta không cho mặc vv… Đó là cách khước từ thập giá mà con người hằng ngày và thường xuyên bị cám dỗ, thử thách. Thánh Giacôbê trong bài đọc thức hai cũng viết rõ:” Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Đức tin gắn liền với lòng yêu mến. “ Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống” ( Mc 8, 35 ). Từ bỏ, hy sinh, liều mạng sống sẽ tìm được mối lợi là Đức Kitô. Nói như thánh Phaolô:” Tôi chỉ biết có một Đức Kitô mà là Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá “.
“Còn các con, các con bảo Thầy là ai ?”. Câu hỏi đó vẫn được đặt ra cho mỗi người chúng ta từng phút, từng giờ, từng ngày trong cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con chỉ một lòng mến Chúa và yêu tha nhân. Amen.
Đoạn thư hôm nay là ý tưởng cốt lõi của toàn thể bức thư: đức tin phải được minh chứng bằng: TN 24-B56
Đoạn thư hôm nay là ý tưởng cốt lõi của toàn thể bức thư: đức tin phải được minh chứng bằng hành động. Như chúng ta thấy, không có sự đối lập tư tưởng giữa Gia-cô-bê với Phao-lô. Trong khi Phao-lô trình bày yếu tố tuyệt đối cần thiết cho sự cứu rỗi của chúng ta là đức tin, vì nó phát xuất từ tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa, chứ không phải là những hành động do việc giữ Lề Luật, thì Gia-cô-bê lại muốn nhấn mạnh đến việc chúng ta đáp trả đức tin Thiên Chúa đã ban cho chúng ta bằng cách sống đức tin ấy qua những hành động của mình. Cách trình bày khác biệt này giúp chúng ta có cái nhìn chính xác hơn về vai trò của cả đức tin lẫn hành động, để chúng ta xác tín nguồn gốc đức tin là do Thiên Chúa và đáp trả đức tin là do chúng ta.
a) Đức tin là ân sủng do Thiên Chúa ban
Khi chúng ta tin ai, đó là vì chúng ta chấp nhận thế giá, khả năng hoặc quyền bính của họ. Một học sinh tin thầy cô, vì nghĩ rằng những kiến thức của thầy cô bảo đảm cho những điều thầy cô dạy em. Bệnh nhân tin bác sĩ, vì nghĩ rằng bác sĩ biết nhiều và kinh nghiệm về chữa trị... Như thế, niềm tin của học sinh có được là do thế giá của kiến thức thầy cô, niềm tin của bệnh nhân có được là do bảo đảm về hiểu biết và kinh nghiệm của bác sĩ. Một vài thí dụ như vậy giúp chúng ta hiểu về đức tin của người con cái Chúa. Nói đức tin là ân sủng do Chúa ban cho chúng ta có nghĩa là thế giá và quyền bính của Thiên Chúa làm cho chúng ta được an tâm và giúp chúng ta đặt tất cả tín thác vào Người. Không phải tự chúng ta tìm hiểu và đến với Thiên Chúa được vì Người là Đấng siêu việt, trái lại chính Người đã đến với chúng ta trước và tỏ ra tình yêu vô điều kiện Người dành cho chúng ta. Khởi đầu đức tin của chúng ta phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng “đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Người cho họ.”
Khi chủ trương chúng ta được nên công chính chỉ nhờ đức tin mà thôi (Rm 3:28; Gl 2:16), thánh Phao-lô muốn chúng ta hiểu rằng sở dĩ chúng ta được ơn công chính hóa để khởi đầu cho việc cứu rỗi của mình là nhờ chúng ta tin vào kế hoạch tình yêu cứu rỗi của Thiên Chúa. Thánh Phao-lô cực lực chống lại chủ trương của những người cho rằng người ta được ơn công chính hóa là nhờ người ta giữ trọn những điều Lề Luật Mô-sê và các ngôn sứ dạy. Chủ trương như vậy, thánh Phao-lô chỉ muốn nhấn mạnh rằng chúng ta được nên công chính là hoàn toàn do Chúa thương ban đức tin cho chúng ta, chứ không phải do sức riêng của chúng ta khi chu toàn Lề Luật. “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải do việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện” (Ep 2:8-9).
b) Hành động là cách chúng ta đáp lại ân huệ đức tin Chúa ban. Đề cập đến vai trò thiết yếu của đức tin, thánh Phao-lô không nói đức tin như là cách đơn phương Thiên Chúa dùng để ban cho chúng ta được nên công chính và chúng ta không cần phải làm gì, nhưng ngài còn nói đức tin cần phải được biểu lộ qua hành động nhờ đức ái (Gl 5:6). Đây chính là điểm thánh Gia-cô-bê muốn nói đến trong toàn thể nội dung bức thư của ngài. Đức tin là một quan hệ sống động, chứ không phải như một gói quà im lìm cất kỹ trong rương. Vậy để nói lên lòng tin tưởng của chúng ta nơi Chúa và vì yêu mến Chúa, chúng ta muốn biểu lộ những tâm tình ấy bằng cách làm những gì Chúa muốn. Thánh Gia-cô-bê gọi thứ đức tin được “cất kỹ” và không được biểu lộ qua hành động là loại “đức tin chết và không lợi ích gì.” Để chứng minh đức tin ấy là đức tin chết và không sinh hiệu quả gì, ngài đưa ra một thí dụ cụ thể. Bạn gặp một người vừa đói vừa rét mà bạn chẳng làm gì cho người ấy, lại còn mở miệng bảo người ấy hãy đi bình an và dặn họ nhớ phải ăn cho no mặc cho ấm, thì lời nói đãi bôi của bạn đâu có ích lợi gì cho người ấy! Sau khi nêu lên một thí dụ cụ thể, thánh Gia-cô-bê hùng hồn thách thức: “Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động; còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2:18). Nếu đức tin cần thiết để chúng ta được nên công chính, thì hành động cũng cần thiết để cho chúng ta thấy đức tin ấy có thực hay chỉ là ảo tưởng, có sinh ích lợi hay chỉ là vô bổ.
Những câu tiếp theo đoạn trích dẫn của Chúa Nhật hôm nay tuy không được đưa vào bài đọc, nhưng sẽ giúp chúng ta đi nốt dòng tư tưởng của thánh Gia-cô-bê và hiểu ngài muốn nhấn mạnh đến vai trò của hành động. Những ví dụ cụ thể từ lịch sử Ít-ra-en như ông Áp-ra-ham và bà Ra-kháp chứng minh hành động cũng cần thiết, vì “nhờ hành động mà đức tin nên hoàn hảo” (2:22) và hành động được ví như “hơi thở” của một thân xác sống động.
c) Sống đức tin
Xác tín nguồn gốc của đức tin là do Chúa và việc đáp trả ân huệ đức tin là do chúng ta, chúng ta mới có thể đi tới những kết luận thực hành thích hợp. Đứng trước tình yêu bao la của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương và muốn cứu chuộc chúng ta nên cho chúng ta được lòng tin tưởng vào Người, chúng ta không khỏi cảm thấy được an ủi và đầy tràn hy vọng. Nhận thấy Chúa đã yêu thương chúng ta trước và chính Người khởi đầu việc cứu rỗi, chúng ta hiểu được chúng ta có giá trị trước mặt Chúa. Chúng ta không thể dửng dưng trước những ý tốt của Thiên Chúa. Tình yêu đòi phải được đáp lại bằng tình yêu. Tình yêu là động cơ thúc đẩy tới hành động. Tin, yêu và hành động là những yếu tố tạo nên và làm phát triển mối quan hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa và với anh chị em vậy. Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Có khi nào tôi hiểu đức tin là một mối quan hệ sống động giữa Chúa và tôi không? Hay tôi vẫn lờ mờ hiểu đức tin là “một mớ những tín điều trong kinh Tin kính và những điều Hội Thánh dạy”?
Thánh Gia-cô-bê nói: “Bạn tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất. Bạn làm phải. Cả ma quỷ cũng tin như thế và chúng run sợ.” Thánh Gia-cô-bê muốn ám chỉ một Thiên Chúa nào? Thiên Chúa của đầu óc tôi hay Thiên Chúa của con tim tôi?
“Tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin.” Vậy ai sẽ là những người nhận ra thế nào là tin qua nơi tôi? Và họ nhận ra đức tin nơi tôi nhờ những gì? Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát bài “Tôi tin, tôi tin Chúa đã thương tôi...” hoặc cùng đọc kinh Tin kính (trong Thánh Lễ) với tất cả niềm xác tín và ước muốn sống những điều mình tuyên xưng.
Môn đệ theo Chúa Giêsu được tuyển chọn đặc biệt, được yêu thương cách riêng. Các ông đã đi: TN 24-B57
Môn đệ theo Chúa Giêsu được tuyển chọn đặc biệt, được yêu thương cách riêng. Các ông đã đi theo Chúa Giêsu nên đã từng nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến nhiều phép lạ... Vì thế, hôm nay Chúa Giêsu cho các ông làm bài kiểm tra, để tỏ ra lòng tin, mến mức độ nào đối với Chúa Giêsu.
Thoạt tiên, Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc thăm dò xem người khác nói về Ngài như thế nào? Ngài hỏi họ "người ta bảo Con Người là ai?". Nhiều ý kiến khác nhau: "Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó" (Mc 8, 28). Như thế, dân chúng đã thấy được một số nét căn bản nơi Con Người Giêsu. Nơi giáo huấn của Ngài người ta thấy được sức sống và sự siêu thoát khỏi những ràng buộc vô lý của lề luật. Thế nhưng điều quan trọng không chỉ biết đúng mà còn phải biết đủ về Chúa Giêsu nữa: "Ngài chính là Con Thiên Chúa thật làm người thật".
Dân chúng đã nhận định về Chúa Giêsu như thế. Bây giờ đến lượt các tông đồ, Chúa Giêsu muốn các ông trả lời cách xác tín về Ngài và về sứ vụ của Ngài nên Ngài hỏi: "Các con nói Thầy là ai?". Đứng trước câu hỏi này, các ông không ngỡ ngàng lắm vì họ đã sống với Ngài lâu rồi, thấy nhiều phép lạ rồi, nghe giảng nhiều rồi. Đây là dịp để các ông bày tỏ niềm tin vào Ngài thôi. Vì thế, Phêrô thay mặt anh em trả lời với Chúa Giêsu: "Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa Hằng Sống" (Mc 8, 29). Câu trả lời này của Phêrô làm cho Chúa Giêsu rất hài lòng. Phải, Thầy là Đức Kitô, chính là Đấng Thiên Sai mà các tiên tri đã loan báo, mà muôn dân đợi trông. Thật thế, chính những người bệnh tật được Ngài chữa lành, người chết được ngài cho sống lại, kẻ tôi lỗi được ngài tha thứ và ban bình an, niềm hạnh phúc thật sự, hết mọi người được nghe loan báo...Tất cả những dữ kiện đó há chẳng phải của Đấng Thiên Sai, chẳng phải được ban trong thời Thiên Chúa cứu độ mà các tiên tri loan báo (x. Lc 4, 18 - 24). Không những Ngài trao ban cho họ sự sống thể lý, vật chất mà Ngài còn trao ban cho họ chính sự sống của Ngài, sự sống thần linh, sự sống đời đời, sự sống mà chỉ có Thiên chúa là chủ tể sự sống mới có và trao ban được mà thôi. Quả thật người Do Thái thời Chúa Giêsu quá hạnh phúc vì chứng kiến và thừa hưởng tình thương, ân sủng và ơn cứu độ của Thiên Chúa một cách tỏ tường. Chính vì thế mà Phêrô tuyên xưng: "Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa Hằng Sống"
Đến lượt chúng ta, ngày nay Chúa Giêsu đang cần chúng ta trả lời, trả lời Ngài là ai trong đời sống hằng ngày sống giữa anh chị em chúng ta? Hẳn thật đây là câu hỏi giúp chúng ta kiểm điểm niềm tin và thái độ sống của mình. Có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường sống không? Và chúng ta đáp trả lại như thế nào?. Hơn nữa, cách sống của chúng ta có làm người ta nhận ra chúng ta là người Kitô không? Chúng ta đã thật sự sống vai trò của người môn đệ, của người thụ ơn Thiên Chúa. Chúng ta có dám rao giảng và can đảm làm chứng có Thiên Chúa hiện diện trong thế giới này, trong bản thân mỗi người chúng ta chưa? Chúng ta có thật sự sống trao ban tình thương mà chúng ta đã nhận lãnh hết từ ơn này đến ơn khác của Thiên Chúa chưa? Thật thế, sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ bất cứ ai, chúng ta hãy thể hiện cho người ta nhận ra chúng ta là người Kitô không, là người được Thiên Chúa yêu thương. Chúng ta hãy can dảm và sẵn sàng yêu thương như Chúa yêu bởi vì chúng ta nhìn nhận rằng: tất cả những gì tôi có đều nhờ bởi ơn Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin mạnh mẽ vào Ngài và can đảm sống chứng nhân về tình yêu thương của Ngài giữa đời trong cuộc sống chúng con đang hiện diện với mọi người. Amen.
Trong quyển sách "Niềm vui sống đạo", Đức Cố Hồng Y PX. Thuận đã kể ra được 10 "khuyết: TN 24-B58
Trong quyển sách "Niềm vui sống đạo", Đức Cố Hồng Y PX. Thuận đã kể ra được 10 "khuyết điểm" của Chúa Giêsu. Và ngài nói là ngài yêu lắm 10 "khuyết điểm" ấy. Một trong 10 "khuyết điểm" mà Chúa Giêsu mắc phải Ngài "không biết làm kinh tế". Chúa Giêsu đã coi 1=99. Khi Ngài thấy mất một con chiên trong đàn thì lại bỏ 99 con kia lại để đi tìm cho bằng được con chiên bị mất. Hơn nữa, Chúa Giêsu cũng không biết cách tiếp thị và quảng cáo. Quảng cáo mời gọi người ta đến với mình thì phải tìm cái gì đó hấp dẫn và lôi cuốn bằng cách "tô son" lên những điều mình nói một chút. Đằng này Chúa Giêsu lại nói: "Ai muốn theo tôi, thì hãy từ bỏ mình, vác thập mình mà theo" (Mc8, 34). Quảng cáo và chiêu mộ lính kiểu này thì "thua" là cái chắc! Bởi lẽ, nghe nói đến thập giá thì ai mà chẳng sợ. Chẳng ai háo hức ôm lấy thập giá vào mình bao giờ! Hơn nữa, theo Thầy tưởng đâu được cái gì hấp dẫn một chút như lãnh vài triệu đồng một tháng, được người ta kính trọng, hoặc có địa vị cao trong xã hội hay cái gì đại loại như thế. Chứ theo Thầy mà chỉ có vác thập giá thôi thì dại gì mà liều mạng như thế! Như vậy, xem ra Chúa Giêsu dở hơn con người ngày nay trong chuyện làm ăn và quảng cáo nhiều lắm!
Nhưng Chúa Giêsu không đến trần gian để làm kinh tế! Ngài cũng không biết dùng ngôn ngữ của quảng cáo của con người thường làm để tô son cho mình và sứ vụ của mình. Ngài đến trần gian với một sứ mạng duy nhất là "nói lên Sự thật, sống cho Sự thật và làm chứng cho Sự thật" (x. Ga 18,37). Ngài đã nói như thế trước mặt tổng trấn Philatô. Và đặc biệt, trong những năm tháng ra đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, Ngài đã từng lớn tiếng nói rằng: "Sự thật sẽ giải phóng các ngươi" (Ga 8,32). Philatô đã hỏi Chúa Giêsu: "Sự thật là cái gì?". Nhưng Chúa đã không trả lời ông ta câu hỏi đó. Bởi lẽ, Sự thật chính là bản thân của Ngài. Ngài là hiện thân của Sự thật. Từng lời nói, từng hành động và trọn cuộc sống của Ngài đều là Sự thật trọn hảo!
*****
Tin mừng hôm nay chỉ cho chúng ta thấy có rất nhiều nội dung, nhiều vấn đề nói lên Sự thật nơi Thiên Chúa. Nhưng tôi xin chọn câu nói mà Chúa Giêsu xem ra rất thao thức, rất tha thiết mời gọi chúng ta thực hiện nó trong cuộc sống của chúng ta. Ngài nói rất rõ rằng: "Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8,35). Đó là sự thật, một Sự thật trọn hảo dành cho những ai dám dấn thân vào con đường của sự hy sinh và từ bỏ- Con đường Thập giá.
Có lẽ việc chọn lựa cho mình một con đường sống là cần kíp và chính đáng nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Theo thói thường thì ai cũng muốn có một cuộc sống dễ dàng, một cuộc sống tiện nghi, sung túc và vui vẻ. . .Nhưng có điều là một cuộc sống dù đáng ước mơ như thế cũng không có gì đảm bảo cho con người ta được sống hạnh phúc. Vì hạnh phúc đích thực không thể tìm thấy được nơi cuộc sống ở trần gian. Thế nhưng, nhiều người lại say mê và đi ra sức tìm kiếm để sở hữu nó! Biết bao nhiêu cố gắng và khó nhọc của con người nhằm tìm kiếm và giữ lại hạnh phúc trần gian đều tan biến. Bởi vì, "con người từ đất mà ra thì cũng phải trở về với đất bụi" (x. St 3, 19). Và con người đã không mang gì vào trần gian thì cũng đừng mong đem gì ra khỏi chốn gian trần. Điều chắc chắn duy nhất là: "ba tấc đất mới thật là nhà, nơi nó ở muôn đời muôn kiếp" (Tv 49, 12).
Con đường đưa con người tới hạnh phúc thật chính là con đường "liều mất mạng sống mình vì Chúa Giêsu và vì Tin mừng". Nói cách khác, đó là con đường của Thập giá. "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất". Kẻ yêu mạng sống mình thì chỉ biết sống cho mình, muốn được mọi người nhìn nhận và phục vụ cho mình. Đó là con đường sống được lót bằng những chiếc thảm hoa êm ái và rực rỡ nhưng sẽ dẫn con người ích kỷ đi tới hố diệt vong. Thật bất hạnh cho những người chỉ biết yêu mình, qui hướng về mình và sống cho riêng mình!
Trong Thần thoại Hy Lạp có kể câu chuyện về một anh chàng có tên là Narcise. Narcise là một chàng trai trẻ đẹp không còn chỗ nào chê được, và cũng không có dung mạo của ai có thể so sánh với anh ta được. Anh ta cũng nhận ra điều đó nên rất tự hào về chính mình. Dần dần anh ta khám phá ra là không ai xứng đáng để anh ta kết bạn cả. Cuối cùng, anh ta chỉ còn cách là quay trở lại để yêu chính mình. Anh ta đã yêu mình cách tha thiết và say mê mình ngây ngất đến độ quên hết mọi sự. Ngày đêm lo tìm cách để nhìn ngắm mình cho đã thèm! Bất cứ nơi đâu có thể soi mình được là anh ta không tiếc thời gian để nhìn ngắm mình cho thoả lòng khao khát. Một hôm, anh ta đi ngang qua một cái giếng sâu, có nước rất trong xanh. Anh chàng Narcise liền soi mình dưới lòng giếng sâu. Tiếc thay, vì không kìm chế được lòng say mê vẻ đẹp của mình, nên anh ta đã lao mình xuống lòng giếng để ôm lấy mình. Nhưng khốn khổ thay, anh ta đã chết chìm một mình trong lòng giếng ấy.
Câu chuyện trên muốn đem đến cho chúng ta một thông điệp này là: kẻ nào quá yêu mình và say mê mình thì khó có thể tránh được cái chết trong cô đơn và tủi nhục. Đó cũng chính là sứ điệp mà Tin mừng hôm nay gửi đến chúng ta: "Ai yêumạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy".
Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết can đảm chọn lấy con đường "thập giá" và vui vẻ vác lấy thập giá đời mình để theo Chúa đến cùng. "Vác thập giá" theo Chúa là chu toàn việc bổn phận của mình hằng ngày, là trung tín sống niềm tin tưởng phó thác vào Chúa qua mọi biến cố buồn vui trong cuộc sống của mình.
Ước gì Lời của Chúa hôm nay luôn vang vọng mãi trong từng ngày sống của chúng ta để chúng ta để chúng ta được sáng suốt nhìn thấy con đường mà Chúa Giêsu đang mời gọi và chờ đợi ta bước theo Ngài, ngõ hầu mai sau được Chúa cho đứng vào hàng ngũ những người Chúa chọn và tìm được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Amen.
Có một đoàn lữ hành đặt biệt, đang vượt chặng đường dài với hành trang trên vai. Nhưng hành: TN 24-B59
Có một đoàn lữ hành đặt biệt, đang vượt chặng đường dài với hành trang trên vai. Nhưng hành trang không phải bình thường, mà là, mỗi người mang một cây Thánh Giá. Địa hình của chặng đường khi thì bằng phẵng, khi thì rất khó khăn, nên mọi người đều thấm mệt. Trong số đó, có một người bổng có một suy nghĩ rất hay. Anh ta cắt bớt đi một phần của cây Thánh Giá. Cũng từ đó anh ta bước đi nhẹ nhàn thoải mái hơn bao nhiêu người khác. Anh ta rất hài lòng về sáng kiến của mình. Nhưng rồi, khi đến một con suối, không có phương tiện gì để vượt qua, mỗi người chỉ còn cách dùng cây Thánh Gia làm chiếc cầu để vượt qua, sau đó, vát Thánh Giá và tiếp tục lên đường. Còn cây Thánh Giá đã mất đi một phần, giờ đây không còn xử dụng được trong trường hợp nầy, nên chủ nhân của nó đành phải ngồi lại bên bờ vực, một mình, cô đơn mà nhìn mọi người từ từ rời xa mình.
"Mọi người chung quanh bảo Thầy là ai ?" Tất cả mọi câu trả lời đều không được Chúa Giêsu chấp nhận. "Còn các con, các con bảo Thầy là ai ?" -- "Thầy là Đức Kitô". Một câu trả lời được Chúa Giêsu chấp nhận. Nhưng rồi khi nghe Ngài nói về cuộc khổ nạn, thì cũng chính môi miệng đó, cũng chính con người đó, lại bị khiển trách nặng nề. Ngài gọi là satan có nghĩa là kẻ thù, vì đã ngăn cản việc làm của Thiên Chúa.
Phêrô đã theo Chúa Giêsu, nhìn thấy và biết những việc làm của Ngài. Oâng cũng mới vừa được khen, ông ngở rằng những gì ông suy tính đều tốt đẹp, nên ông muốn hướng dẫn Đấng ông vừa tuyên xưng là Đức Kitô đi theo con đường của ông. Oâng theo Chúa nhưng sợ con đường mà Ngài dẫn đi, sợ những hành trang mà Ngài trao cho. Theo Chúa nhưng ông muốn mang những hành trang của chính mình, đi trên con đường của riêng mình và ông đòi Chúa phải ở bên ông. May thay, lời quở trách đã làm ông thức tỉnh, bài học tiếp theo đã hướng dẫn và giúp ông đi đến nơi đến chốn bình an. "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất".
Tâm trạng của Phêrô, cũng là tâm trạng cuả mỗi ngưới chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng muốn tìm cho mình sự thoải mái, sung sướng cho thân xác. Chúng ta vẫn tự hào là người Công giáo. Chúng ta vẫn biết vác thập giá hàng ngày theo Chúa. Chúng ta biết rất rỏ những gì Thiên Chúa muốn nơi con người chúng ta. Đôi khi chúng ta còn tự hào vì mình luôn vác Thánh giá hằng ngày theo Chúa. Chính những lúc tự hào như thế, là những lúc chúng ta có hành động như Phêrô: kéo Ngài ra để khuyên can.
Cũng nhiều lần trong cuộc sống, Chúa Giêsu khiển trách chúng ta như đã khiển trách Phêrô ngày xưa. Phêrô biết lắng nghe, còn ngày nay, chúng ta vẫn phớt lờ, vẫn sống với niềm tự hào của chính mình và bước đi trong niềm tự hào đó.
Chúng ta vẫn sống, vẫn giữ đạo, hay nói cách khác là đang vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa. Nhưng coi chừng cây Thánh đã bị mất đi một phần. Bao nhiêu lần nó đã bị cắt mất đi vì những luồn lách của cuộc sống. Những lần thân xác được dung dưỡng để nó được thoải mái trong những cuộc vui không chính đáng. Những lần thân xác cảm thấy thỏa mản khi đạt được mục đích lợi nhuận mà bất cần đến sự chính đáng hay không chính đáng. Những lần chúng ta không chu toàn trách nhiệm chính đáng của một người trong xã hội, trách nhiệm của một người công giáo, trách nhiệm của mình trong gia đình, và với bao nhiêu người chung quanh. Đôi lúc chúng ta cũng mĩm cười mãn nguyện, vì cảm thấy mình khôn ngoan hơn bao nhiêu người khác vì những trò vặt như thế. Đó là những lần chúng ta đã cắt bớt đi Thánh giá cuộc đời của mình, để nó được nhẹ nhàn hơn. Chính những lúc thất bại, bị người đời chỉ trích, những lúc đó nếu biết lắng nghe, đó là lúc Chúa khiển trách và bảo chúng ta vác Thánh Giá hằng ngày theo Chú; những lúc đó Chúa cũng nói với chúng ta: "ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất". Nếu chúng ta không biết lặng thinh khiêm nhường cuối đầu nhận tội như Phêrô, thì chúng ta cũng sẽ không có được cuộc sống tốt đẹp như Ông.
Xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa, xin cho chúng ta biết chấp nhận cuộc sống để biết vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa cho đến cùng.
Giả như có một ngày, chúng ta nhận được một cú điện thoại bảo chúng ta tới một địa điểm nào: TN 24-B60
Giả như có một ngày, chúng ta nhận được một cú điện thoại bảo chúng ta tới một địa điểm nào đó và gặp một người như mô tả qua điện thoại để nhận một món quà lớn. Luùc #où chúng ta sẽ suy nghĩ và đắn đo nhiều. Bởi lẽ, chỉ qua điện thoại làm sao sự tin tưởng của chúng ta trọn vẹn được.
Ðúng vậy, ông bà chúng ta có nói vô tri bất mộ nghĩa là không biết thì không thể tin được. Ðoạn tin mừng hôm nay cho thấy sau một thời gian Chúa Giêsu công khai ra đi rao giảng, hôm nay Người muốn xem dư luận biết mình là ai. "Người hỏi các môn đệ: Người ta nói Thầy là ai? Các ông đáp: Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó." (Mc 8, 27b 28).
Ðó là cái nhìn của những người ngoài. Giờ đây Chúa Giêsu trắc nghiệm cái nhìn của các môn đệ thân tín của mình "Người lại hỏi các ông: Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Ông Phê-rô trả lời: Thầy là Ðấng Ki-tô." (Mc 8, 29)
Chúa Giêsu chính là Ðấng Kitô của Thiên Chúa Giavê - một Ðấng Kitô tôi tớ. Chính tiên tri Isaia đã loan báo về Người trong bài đọc 1: ÐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ". (Is 50, 6)
Chúa Giêsu đến trần gian hoàn toàn do ý định của Thiên Chúa Cha. Ý định hoàn tất tình thương của Thiên Chúa dành cho con người. Do đó, Chúa Giêsu một mực vâng theo thánh ý nhiệm mầu của Cha. Ðể từ đó con người được đón nhận trọn vẹn ơn cứu chuộc.
Thánh Phêrô cũng như các Tông đồ mặc dù tuyên xưng Chúa Giêsu đúng như Người là nhưng các ông chưa cảm nghiệm thật sự về Người. Chỉ sau biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu các ông mới cảm nhận sâu sắc về Người. Cho nên, các ông dám liều mình vì Chúa và vì Tin mừng.
Có nhiều mức độ để biết về một ai đó. Trong đó cái biết trong tim là mức độ cao nhất. Cái biết đó sẽ làm thay đổi cách sống của con người ta. Cái biết đó sẽ làm cho người ta bạo dạn hơn. Cái biết đó sẽ là cho người ta tin tưởng và dấn thân trọn vẹn hơn. Có thể từ lâu chúng ta chưa thật sự biết Chúa Giêsu đến mức độ này nên cuộc sống của mình vẫn chưa được biến đổi nhiều. Hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta mỗi ngày được biết Người bằng chính con tim của mình. Nhờ đó, đời sống đức tin của chúng ta sẽ ngày càng tốt hơn.
Thánh Phêrô đại diện trả lời: "Thầy là Đức Kitô", câu trả lời mạnh mẽ và chính xác nhưng: TN 24-B61
Thánh Phêrô đại diện trả lời: "Thầy là Đức Kitô", câu trả lời mạnh mẽ và chính xác nhưng kết quả là một lời sửa dạy: tư tưởng của con người không phải là tư tưởng của Thiên Chúa và một bài học từ bỏ mình. Chúa Giêsu hỏi các môn đệ của Ngài cũng là hỏi chính bản thân mọi người theo Ngài và Ngài cần có câu trả lời. Không chỉ bản thân mình nhận ra và tuyên xưng Chúa Giêsu là ai mà còn phải trả lời cho người khác biết Ngài là ai.
Kitô hữu là người có Chúa Kitô, đương nhiên gọi Chúa là Chúa, là Thầy và là Đức Kitô; Đấng đã cứu chuộc, luôn ban ơn và yêu thương con người. Dù có gọi Chúa là ai đi nữa điều quan trọng là xác tín mạnh mẽ và sống điều mình tuyên xưng. Giữa biết và sống thường có một khoảng cách, có khi biết rất nông cạn và không rõ nên cần có ơn Chúa, nổ lực của bản thân học hỏi và gắn bó mật thiết với Chúa. Vì vậy làm sao cho hai điều này hoà hợp trở nên một thì mới có trở thành một người kitô hữu đích thực. Sống đời kitô hữu là một đòi hỏi, đó là "từ bỏ mình" để sống theo ý Chúa. Thái độ của thánh Phêrô là thái độ của nhiều người kitô hữu, tuyên xưng niềm tin của mình một cách rõ ràng và mạnh dạn nhưng khi biết được ý Chúa thì ngại ngùng, ngăn chặn và từ chối thánh ý của Thiên Chúa. Trong đời sống của người kitô hữu cũng vậy, gần Chúa hằng ngày như đọc kinh, xem lễ, làm việc bác ái....nhưng rồi có lúc lại là vật cản cho chương trình của Chúa muốn thực hiện cho bản thân mình và cho người khác. Tuyên xưng niềm tin thì dễ nhưng để sống niềm tin này đó là "thánh giá" hằng ngày.
Từ bỏ mình và vác thánh giá mình hằng ngày theo Chúa là sống ý Chúa, không phải để chịu đau khổ nhưng là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Điều còn lại là làm sao cho những người xung quanh nhận ra hạnh phúc đích thực này. Có thể nói đạo Công Giáo đã quen thuộc với thế giới và xã hội ngày hôm nay. Hạnh phúc đích thực của đời người là có Chúa nhưng còn rất nhiều người đứng bên ngoài nhìn vào, không muốn vào hay ngần ngại đón nhận hạnh phúc này. Có phải Chúa quá xa lạ hay cách sống của người kitô hữu xa lạ với ý của Chúa?
Lạy Chúa, xin cho mỗi người con của Chúa sống xứng đáng với Chúa khi mang danh Hữu Kitô. Can đảm từ bỏ mình, kiên trung vác thánh giá đời mình để được hạnh phúc đích thực của Chúa và cho những người khác cũng được hưởng hạnh phúc này.
CÒN ANH EM, ANH EM BẢO THẦY LÀ AI?" Đây là câu hỏi đơn giản, nhưng là câu hỏi lớn TN 24-B62
"CÒN ANH EM, ANH EM BẢO THẦY LÀ AI?" Đây là câu hỏi đơn giản, nhưng là câu hỏi lớn cho mỗi kitô hữu. Câu hỏi ấy như là cửa ngõ dẫn vào đời sống đức tin. Đây là câu hỏi đang chờ đợi câu trả lời mang tính quyết định cho số phận đời đời. Chúa Giêsu đòi buộc đích thân các tông đồ phải xác định dứt khoát. Có lẽ trước đây có nhiều nhận định khiến Chúa Giêsu không hài lòng. Người làng Nagiaret chỉ xem Ngài là bác thợ mộc. Gioan Tẩy Giả giới thiệu Ngài như một Đấng Mêssia uy quyền đáng sợ. Ngài muốn mỗi người có cách trả lời như Phêrô: "Thầy là Đấng kitô?" Câu trả lời đúng đắn sẽ là định hướng chắc chắn níu kéo ta dấn bước theo Ngài.
Biết để đi theo Thầy
Sự hiểu biết đúng đắn đòi hỏi một sự dấn thân chia sẻ sứ mạng với Thầy. Chúa Giêsu tỏ ra rất vội vả muốn các tông đồ hiểu được sứ mạng của mình: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng Kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại". Chúa Giêsu mong muốn các ông chớ lầm tưởng về sứ mạng của Ngài sẽ đem đến vinh quang theo trần thế. Ngài không muốn con người khuất phục bằng chiến thắng vinh quang nhưng bằng tình yêu tận hiến.
Đi theo Thầy là bước theo lối mòn Chúa Giêsu đã qua. Lối mòn ấy được diễn tả là hy sinh, thập giá, khổ đau, cái chết. Mỗi người bước đi theo Chúa đã nhiều năm, chắc đã cảm nghiệm được bao sướng khổ của chặng đường. Ta biết rõ Ngài là Đấng kitô nhưng có khi ta cho Ngài là một quan toà quá nghiêm khắc khi phải đối diện. Có khi ta cho Ngài là một chướng ngại vật làm chậm bước tiến trên đường công danh sự nghiệp. Chúa Giêsu là Thiên Chúa còn dám từ bỏ vinh quang trời cao để sống với con người. Thế sao con người không dám từ bỏ trần đời để sống với Ngài trong tình mến?
Biết để ở lại với Thầy
Việc ở lại là hành động muốn gắn bó với Chúa lâu dài. Dẫu trời lúc nắng lúc mưa, dẫu đường đời vui buồn sướng khổ nhưng người môn đệ vẫn quyết tâm sống gắn bó với Thầy. Ta biết Chúa nhiều, được ban ơn nhiều, được tha thứ nhiều, ta không thể nào là thứ tông đồ hạng hai cứ đứng xa xa nhìn Chúa vác thập giá một mình. Ở lại với Thầy là biết trông cậy khi gặp khổ đau, biết quay về khi lầm đường lạc lối, biết làm hoà kịp lúc khi gặp oán trách buồn đau.
Trần gian có quá nhiều lời mời mộc để ở lại nó: ở lại trong tội lỗi, ở lại trong những đam mê chóng qua, ở lại trong hận thù. Người môn đệ cần nhớ về một lời mời gọi khác đáng tin tưởng hơn "Anh em sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian".
Biết để được sống lại với Thầy
Sống lại với Thầy là cùng đích cho đời sống kitô hữu. Điều kiện để sống lại Chúa Giêsu đã nói rõ: Ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy. "Liều" được nói đến không phải nhắm mắt đưa chân cầu xin may rủi nhưng là sự quyết tâm dấn bước theo Ngà: dám sống niềm tin mạnh mẽ giữa hoàn cảnh còn nhiều cấm cách; dám sống thật giữa cuộc đời còn nhiều dối gian; dám sống theo lương tâm ngay lành giữa lúc con người chỉ biết đến "lương lẹo" và "lương tháng".
Lời mời gọi đi theo Chúa phải vác thập giá, muốn cứu mạng sống phải liều mất nó, khó nghe nhưng rất chân thành. Muốn có hạnh phúc con người phải kinh qua đau khổ. Hạnh phúc càng lớn thì con người càng lắm gian nan. Chấp nhận thập giá khổ đau không phải Chúa muốn con người đi vào tàn lụi nhưng đó là điều kiện để con người khám phá ra hạnh phúc vững bền. Cái chết cho Tin Mừng không là sự tận diệt nhưng là điều kiện để con người được tái sinh và đi vào đời sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi vẫn cứ đặt ra và chờ đợi câu trả lời nơi từng người tín hữu. Mức độ dấn thân để chia sẻ thân phận với Thầy Giêsu sẽ là câu trả lời chính xác nhất. Bởi lẽ, câu trả lời không nằm nơi sự hiểu biết nhưng nơi cuộc sống của mỗi cá nhân.
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: "Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mc 8,34):
2. CÂU CHUYỆN: VƯỢT QUA BẤT HẠNH ĐỂ THÀNH CÔNG
Bà GÔN-ĐA MÊ (Golda Meir), nữ Thủ tướng đầu tiên của nước Ít-ra-en, khi còn là thiếu nữ đã: TN 24-B63
Bà GÔN-ĐA MÊ (Golda Meir), nữ Thủ tướng đầu tiên của nước Ít-ra-en, khi còn là thiếu nữ đã thất vọng về nhan sắc của mình. Bà thuật lại giai đoạn thiếu thời ấy như sau: "Mỗi lần nhìn khuôn mặt của mình trong gương, tôi lại thầm trách sao Ông Trời quá bất công, khi ban cho tôi một khuôn mặt không mấy đẹp đẽ duyên dáng như các bạn đồng trang lứa khác. Mãi về sau tôi mới nhận ra rằng: Chính khuôn mặt không mấy đẹp đẽ của tôi lại là điều may mắn và mang lại sự tốt lành cho tôi. Bởi vì điều ấy buộc tôi luôn phải cố gắng khám phá ra những tài năng sâu kín nơi bản thân và phát triển chúng ngày một tốt hơn. Cuối cùng tôi rút ra được bài học này là: Một phụ nữ đáng quí trọng không phải ở chỗ có một sắc đẹp trời cho, vì nó không mấy bền vững và sẽ phai tàn theo năm tháng. Nhưng giá trị đích thực của một phụ nữ ở chỗ cố gắng phấn đấu làm việc, để khám phá ra khả năng Chúa ban cho mình, rồi phát huy những mặt tích cực, biến những tài năng đó trở thành phương tiện giúp ích cho bản thân, gia đình và xã hội...".
GÔN-ĐA MÊ đã chấp nhận thập giá của mình, không than khóc phản kháng, không tức giận chán nản, nhưng sẵn sàng vác nó lên vai với lòng can đảm vượt qua trở ngại, để cuối cùng đã trở thành vị nữ Thủ tướng đầu tiên của nước Israel (Giảng lễ CN B - M. Link).
3. SUY NIỆM:
1) Người ta bảo Con Người là ai ?:
Câu hỏi này được Đức Giê-su đặt ra cho dân Do thái, cho các môn đệ và cho mỗi tín hữu hôm nay. Dư luận dân Do thái coi Đức Giê-su là ông Gio-an Tẩy giả tái sinh, là ngôn sứ Ê-li-a hay một vị ngôn sứ thời xưa. Riêng Tông đồ Phêrô đã tuyên xưng Đức Giê-su là "Đấng Ki-tô". Tước vị Ki-tô hay "Chris-tus", "Mê-si-a" ám chỉ Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong làm Vua Thiên Sai, để giải phóng dân Ít-ra-en khỏi ách thống trị của đế quốc Rô-ma và trở thành một dân tộc hùng mạnh. Tuy nhiên Đức Giê-su lại mặc khải cho Phê-rô biết sứ mệnh của Người là cứu độ bằng con đường "qua đau khổ vào vinh quang" (x Mt 16,21). Ngừơi là "Tôi trung của Đức Chúa", chịu đau khổ để đền tội thay cho dân và làm cho muôn người được nên công chính như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm (x Is 53,3-11).
2) Để được ơn cứu độ phải tin vào Đức Giê-su:
Tin mừng Gio-an viết: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16); Người ta phải tin Đức Giê-su là "Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16), là "Đường, Sự Thật và Sự Sống", là con đường duy nhất dẫn đưa người ta lên trời: "Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6).
3) Tin là "từ bỏ mình và vác thập giá mình mà theo Chúa" (x Mt 16,24):
- Từ bỏ chính mình: Là bỏ "cái tôi" tự ái, ích kỷ; ham mê tiền bạc, danh vọng, quyền hành và các đam mê bất chính khác. Từ bỏ con người cũ để nên "đồng hình đồng dạng" với Đức Giêsu Con Thiên Chúa (x Rm 8,29), tìm lại hình ảnh ban đầu mới được sáng tạo là "giống như Thiên Chúa" (x Stk 1,26).
- Vác thập giá mình: Thập giá là sự tự chủ, vượt lên những đòi hỏi của bản năng. Thập giá là nỗ lực hoàn thiện, lọai bỏ con người thú tính, để mặc lấy nhân phẩm của thụ tạo duy nhất được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như vậy, "vác thập giá mình" là chấp nhận đau khổ thất bại gặp phải trong cuộc sống, noi gương Đức Giêsu đã chấp nhận đau khổ trong cuộc khổ nạn.
4) Tin là chấp nhận đau khổ: Cuộc đời mỗi người không phải lúc nào cũng thành công. Bên cạnh những điều như ý vẫ#n có những nỗi cay đắng, tủi nhục, những tai nạn rủi ro, những thất bại đau khổ... mà dù muốn hay không chúng ta cũng phải chịu. Đau khổ thất bại vẫn có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến thành công, như người ta thường nói: "Thất bại là mẹ thành công". 'Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành", từ việc tổ phụ Giu-se bị các anh bán làm nô lệ bên Ai Cập, lại trở thành tể tướng triều đình Ai Cập và đưa cả dòng tộc Gia-cóp sang bên Ai cập tránh nạn đói kém. Tin là chấp nhận con đường thánh giá chật hẹp leo dốc như thánh Phao-lô đã khuyên đồ đệ Ti-mô-thê: "Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình (2 Tim 2,12-14).
5) Lửa thử vàng, gian nan thử đức: Thiên Chúa thường sử dụng khổ đau để rèn luyện con người nên tốt hơn. Các vĩ nhân trên thế giới, các thánh nhân trong Giáo hội, đều đã trải qua muôn ngàn khó khăn trong cuộc sống... Nhưng các ngài không nản chí buông xuôi, mà quyết tâm vượt qua để trở nên vĩ đại, nêu cao gương sáng đức tin cho hậu thế noi theo. Thi sĩ RÔ-BỚT BAO-NING HA-MINH-TƠN (Robert Browning Hamilton) trong bài thơ "Dọc đường" (Along the Road), đã tóm lược nội dung Tin Mừng hôm nay bằng những lời đầy ý nghĩa như sau: "Tôi đã cùng bước đi một quãng đường với Nữ Thần Hoan Lạc. Dọc đường, nàng đã cho tôi được sung sướng bằng những lời ve vuốt tự ái của tôi. Nhưng rồi cuối cùng tôi chẳng thấy khôn ngoan hơn bao nhiêu. Sau đó, tôi lại bước đi với Nữ Thần Đau Khổ. Dọc đàng, nàng chẳng nói một lời. Nhưng cuối cùng tôi lại thấy mình lớn lên về kinh nghiệm sống, về sự khôn ngoan, nhờ trải qua kinh nghiệm đau thương suốt thời gian bước đi bên nàng...".
6) Tin là "Qua thập giá đến vinh quang" (Per crucem ad lucem): Như "Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế , rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ?" (Lc 24,26), người tín hữu chúng ta cũng phải trải qua đau khổ rồi mới được thành công. Từ đây thập giá không còn là hình khổ ghê sợ, nhưng là phương tiện vào trong vinh quang. Con người ngày nay thường ngại hãm mình, tránh phải từ bỏ và hy sinh... Nhưng nếu ai muốn cuộc sống có ý nghĩa thì phải chấp nhận gian nan thử thách như người ta thường nói: "Có công mài sắt có ngày nên kim" . Một khi hiểu được ý nghĩa cao cả của thập giá, chúng ta sẽ hãnh diện về cây thập giá như thánh Phaolô: "Vinh dự của tôi là Thập giá Đức Kitô"(Gl 6,14). Chính cây thập giá mới là chiếc cầu dẫn đưa chúng ta về thiên đàng.
4. THẢO LUẬN: Mỗi khi gặp được những điều may lành như ý, chúng ta thường dâng lời tạ ơn Chúa. Nhưng khi gặp rủi ro trái ý, chúng ta nên làm gì theo Lời Chúa dạy: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo ? "
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay nếu con được Chúa hỏi: "Về phần con, con bảo Thầy là ai ? " Con sẽ tuyên xưng lòng tin như thế nào ? Xin Chúa đừng để con chỉ tuyên xưng đức tin ngoài môi miệng, nhưng bằng hành động: Bằng việc cầu nguyện kết hiệp với Chúa; luôn chu toàn bổn phận với lòng yêu mến Chúa; Biết cậy trông phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng; Biết tạ ơn Chúa khi vui lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại... Vì biết rằng tất cả những gì Chúa để xảy đến, đều là hồng ân, và đều mang lại ích lợi cho phần rỗi đời đời của con như thánh nữ Tê-rê-sa đã dạy. Xin giúp con năng nhìn lên thánh giá Chúa, để học sống tình thương hiến thân quảng đại của Chúa, vì: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình" (Ga 15,13).
X. Hiệp cùng Mẹ Maria
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con
Bài ca thứ 3 của người tôi tớ Giavê trong bài đọc I trích từ sách Tiên tri Isaia của phần Ngôn: TN 24-B64
Bài ca thứ 3 của người tôi tớ Giavê trong bài đọc I trích từ sách Tiên tri Isaia của phần Ngôn Lễ Chúa Nhật hôm nay là hình ảnh tiên báo về Đức Kitô, Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi mà thánh Marcô đã giới thiệu trong bài Phúc Âm hôm nay: „Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, trưởng tế và luật sĩ chối bỏ và giết đi nhưng sau 3 ngày sẽ sống lại." (Mc 8,31)
Hình ảnh Đấng Cứu Thế, theo chương trình của Thiên Chúa thật nhỏ bé, khiêm cung, hiền từ, vô danh tiểu tốt, khác hẳn với quan niệm và sự trông đợi của người Do Thái đương thời về một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt xuất hiện trong uy quyền, vinh quang, là vị Cứu Tinh của dân tộc Israel thoát xiềng xích đô hộ của đế quốc La Mã. Vì thế, họ vấp phạm vì Người và họ đã không nhận ra Người mà cứ mỏi cổ hết năm này đến năm nọ, hết thế kỷ này đến thế kỷ khác đợi trông Đấng Cứu Thế.
Đấng Cứu Thế ấy đã nhập thể trong cung lòng một thôn nữ nghèo nàn, sinh hạ trong hang lừa máng cỏ, 30 năm lam lũ trong xưởng mộc Nazareth, 3 năm tụ họp 12 dân chài mộc mạc đi lang thang khắp mọi nẻo đường xứ Palestina rao giảng Tin Mừng Nước Trời, nay đây mai đó vô gia cư, chẳng có văn phòng, trụ sở, bản doanh: „Con chồn có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có hòn đá gối đầu", rồi cuối cùng chết một cách nhục nhã thảm thương trần trụi trên cây khổ giá giữa hai tên trộm cướp, đến lúc tống táng cũng phải mượn mồ của người khác!
Đối với con mắt người phàm quả là một sự thất bại ê chề, nhưng đối với Thiên Chúa đó là đường đưa đến vinh quang vô tận. Vì chính thánh giá khổ nạn mới là con đường Đấng Cứu Thế phải trải qua để tiến vào vinh quang như Người đã xác quyết với hai môn đệ trên đường Emmaus sau ngày Phục Sinh (Lc 24,26).
Nếu không có chiều thứ sáu đau thương tử nạn, thì đâu có bình minh Chúa Nhật Phục Sinh huy hoàng! Nếu không có đồi Calvariô ảm đạm, thì sẽ không có đồi Olivêtê thăng thiên vinh hiển! Chúng ta hẳn cũng thường nghe câu ngạn ngữ nầy: „Chiến đấu không gian khổ, chiến thắng không vinh quang". Một cuộc thi đua nào mà kết quả không khó khăn lắm để đạt được sẽ không có giá trị bao nhiêu.
Đức Phật Thích Ca đã cho rằng: „Đời là bể khổ" và „nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước của đại dương". Kitô giáo trong Kinh Lạy Nữ Vương (Salve Regina) kêu rằng thế giới này là một thung lũng nước mắt, và giáo thuyết Công giáo cho rằng thế gian này chỉ là tạm gửi „sinh ký tử quy", là một cuộc lữ hành, là nơi chiến đấu lập công đền tội, chứ không phải là nơi an hưởng, Thiên đàng mai hậu mới thật là quê hương muôn đời, nơi hưởng phúc thanh nhàn, „Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ" nơi đó sẽ không còn khổ đau, thử thách hay lâm cảnh đoạn trường.
Chúa Kitô đã khai mở một con đường độc đạo, đường hẹp, đường thánh giá, đường hy sinh đau khổ, Ngài đã đi tiên phong chúng ta không có sự chọn lựa nào khác hơn nếu muốn làm môn đệ Ngài và bước vào vinh quang thiên quốc: „Ai muốn theo Ta hãy bỏ mình vác thánh giá mọi ngày mà theo Ta". Cuộc đời của các thánh, mỗi vị có một nét đặc thù nhưng tất cả đều có một mẫu số chung là „đau khổ". Con đường nên thánh không phải lót toàn bằng hoa hồng, hoặc không phải „ngồi bóng mát ăn bát vàng", vì trên thiên đàng, theo thị kiến của thánh Gioan tông đồ, gồm toàn „những người từ đau khổ lớn lao mà đến" (Kh 7,14). Bà thánh Litwine nằm trên giường bệnh 38 năm!
Vậy tren bước đường lữ thứ trần gian chắc chắn có những lúc Chúa sẽ gửi đến cho ta những cây thánh giá để giúp Chúa vác như ông Simon, chúng ta hãy vui vẻ ghé vai vác lấy một cách can đảm vì đó là dấu chỉ ta đi đúng đường và đền ơn Chúa và cộng tác với Ngài để cứu rỗi chính mình cũng như muôn người.
Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo". Đây là một điều kiện: TN 24-B65
"Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo". Đây là một điều kiện Chúa Giêsu đưa ra cho những ai muốn theo Chúa. Và ai muốn theo Chúa thì phải chấp nhận điều kiện của Chúa. Điều kiện đó là vác thập giá. Vác thập giá nghĩa là thế nào ?
Thời Chúa Giêsu, vác thập giá là một cực hình khổ nhất, nhưng thông dụng nhất mà người Rôma đế quốc đã đem áp dụng ở Do thái. Vậy nói tới thập giá, đối với thời Chúa Giêsu, là một khổ hình và chắc chắn chết nhục nhã. Người nào vác thập giá là người bị đưa tới pháp trường để chịu đóng đinh mình vào thập giá đó. Vác thập giá lên vai có nghĩa là bắt đầu đi đến chỗ chết. Vác thập giá cũng có nghĩa là bắt đầu đau khổ thực sự. Vì thế, những đau khổ trong cuộc đời chính là thập giá Chúa bảo chúng ta phải vác mà đi theo Ngài. Đây chính là vấn đề chúng ta muốn hiểu biết: vấn đề đau khổ trong cuộc đời.
Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Cho nên, Kinh Thánh nói: "Đời là thung lũng nước mắt". Đã là thung lũng nước mắt thì cũng là bể khổ, vì sao vậy ? Xưa nay các nhà hiền triết đã nát óc đi tìm một câu trả lời thỏa đáng. Đức Phật Thích ca đi tu cũng vì muốn tìm một câu trả lời cho câu hỏi gai góc ấy.
Không hiểu lý do sự đau khổ, người ta tìm cách hủy diệt người đau khổ mà họ cho là chiếc gai phản tiến hóa. Đã có một thời chính phủ Nhật Bản ra lệnh tập trung tất cả những người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo nằm ở giữa biển Thái Bình Dương và tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo chứa đầy bệnh nhân ấy. Họ mắc bệnh nan y, họ không có quyền sống. Trong thế chiến thứ hai, nhà độc tài Hít-le đã ra lệnh cho giám đốc bệnh viện Bê-then thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh tâm thần, vì họ là thành phần vô dụng, ăn hại xã hội và quốc gia.
Không tin ở Thiên Chúa thì người ta không làm sao hiểu nổi vấn đề đau khổ. Và người ta có thể tuyệt vọng khi không làm sao tránh được đau khổ và bệnh tật. Văn hào vô thần Hen-ri đờ Mông-thơ-lan, thuộc hàn lâm viện Pháp, lúc về già, bị mù. Vì không chịu được sự đau khổ ấy, ông đã dùng súng lục bắn vào họng tự sát.
Vấn đề đau khổ, ai sẻ đem lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng ? Chỉ có một Đấng là Chúa Giêsu mới có thể trả lời cho chúng ta. Và nhờ ánh sáng Tin Mừng của Chúa chúng ta mới hiểu được nguyên do của đau khổ, đó chính là tội lỗi. Đau khổ đã xuất hiện từ khi loài người bắt đầu phạm tội và sẽ còn mãi cho đến tận thế. Mở trang đầu của Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa dựng nên vạn vật, chim trời, cá biển, cầm thú và con người, rồi Kinh Thánh kết luận: "Mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, rất tốt đẹp". Nhưng rồi chương trình tốt đẹp ấy đã bị đổ vỡ. Tội lỗi đã len vào thế gian. Và vì tội thì có sự chết nữa. Nghĩa là từ ngày nguyên tổ phạm tội thì đau khổ báo trước sự chết và sự chết đã ngự trị trên trần gian. Mỗi ngày có biết bao nhiêu tiếng khóc, có biết bao nhiêu dòng nước mắt. Mỗi ngày có hàng vạn ngườichết. Bản án còn vang lên: "Vì ngươi đã phạm tội thì trái đất sẽ sinh gai góc, ngươi phải làm ăn vất vả, đổ mồ hôi trán mới có ăn và ngươi là tro bụi thì sẽ hoàn về tro bụi". Từ đó, đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt. Đau khổ là do tội lỗi phát sinh.
Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Nhờ sự chết và sống lại, Ngài đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Nhưng Ngài không cất đi hình phạt của tội lỗi là gian nan đau khổ. Hơn nữa, Ngài dùng đau khổ làm giá cứu chuộc chúng ta. Vì thế, đời sống Chúa Giêsu là một đời đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận. Ngài mong chờ nữa, vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.
Chúa đã chịu đau khổ để đền tội chúng ta, thì Ngài cũng thánh hóa sự đau khổ để nêu gương sáng cho chúng ta. Hơn nữa, Ngài lấy sự nhẫn nại chịu đau khổ như là một điều kiện để theo Ngài, để làm môn đệ của Ngài: " Ai muốn theo tôi, hãy vác thập giá mình mà theo". Từ đây không ai có thể tự hào là môn đệ Chúa mà không tham gia vào cuộc thương khó của Chúa, không vui lòng lãnh nhận phần đau khổ riêng tư của mình. Vì thế, khi gặp đau khổ, Chúa dạy chúng ta đừng buông xuôi, đừng thất vọng, đừng lồng lộn rủa trời, chửi đất mà hãy đến cầu xin với Chúa: "Hãy đến với tôi, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho".
Người Tôi tớ Giavê bản thân vô tội nhưng phải chịu nhiều đau khổ, và người đương thời với: TN 24-B66
Người Tôi tớ Giavê bản thân vô tội nhưng phải chịu nhiều đau khổ, và người đương thời với Người cho đó là hình phạt của Thiên Chúa, nhưng thực chất Người chịu đau khổ vì tội lòai người (Is.50,5-9a). Đau khổ tột cùng là cái chết trên Thập Giá để cứu độ nhân lọai (Mc.8,27-35) mà Người đã thấy trước và loan báo cho các môn đệ của Người. Dù phải đau khổ nhưng Người vẫn một lòng tin tưởng Thiên Chúa (Đáp ca TV.114). Đó là tư tưởng xuyên suốt của phụng vụ Lời Chúa hôm nay.
Bài Tin Mừng của Thánh Marcô cho thấy, Chúa Giêsu không trực tiếp nói cho các môn đệ biết căn tính của mình, Người dẫn họ trên con đường để họ tự khám phá. Người đời coi Ngài chỉ là một tiên tri như Gioan Baotixita, Elia, hay một tiên tri nào khác, là tiên tri thì rao giảng một học thuyết, ai muốn theo thì theo, không thì thôi. Còn các môn đệ thì sao? - Phêrô đại diện tuyên xưng " Thầy là Đức Kitô", một Mêsia đau khổ - chúng con sẽ theo Thầy dù phải vác Thánh Giá và phải bỏ mình. Phêrô nói thế hoàn toàn do mạc khải chứ chính ông cũng không hiểu hết ý nghĩa của câu nói.
Con đừơng của Chúa Giêsu là chọn kiếp người, là vâng phục ý Thiên Chúa Cha và biết rõ đâu là con đường Thiên Chúa Cha muốn mình đi, và đâu là con đường thế gian đang chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt những toan tính của lòai người. Người nhìn thấy và thông báo cho các môn đệ về định mệnh đang chờ đợi mình, Người biết mình phải đương đầu với các nhà lãnh đạo Do Thái, và bóng dáng cái chết đang rình rập, nhưng Người không thối lui mà tiếp tục trung tín với Cha và phục vụ lòai người. Đó là sự lựa chọn để trung tín với tình yêu, nên sau lời tuyên tín của Phêrô Chúa Giêsu liền thông báo về cái chết.
Lời tiên báo về cuộc khổ nạn làm cho Phêrô bỡ ngỡ không sao hiểu được, vì ông còn mải mê với một Đức Kitô vinh quang, nên ông đã can ngăn Chúa bằng một tình yêu chân thành, nhưng Đức Kitô cảm nhận đó là một cám dỗ nên đã quở Phêrô " Hãy đi sau Ta", nghĩa là hãy ở đúng vị trí của người môn đệ là đi theo chứ không phải là người dẫn đường cho Người, muốn đi trước Người. Lời quở mắng cũng là lời cảnh tỉnh để các môn đệ nhận định lại việc đi theo Chúa Giêsu. Người nói " Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo tôi", muốn làm môn đệ Người thì cũng phải đi theo con đường Người đi, đó là con đường thập giá.
Đi theo Chúa Giêsu đòi buộc phải từ bỏ, từ bỏ tận căn, là từ bỏ chính mình, từ bỏ này là gốc rễ của những từ bỏ khác. Hôm nay Chúa Giêsu cũng hỏi mỗi người chúng ta và đòi chúng ta phải trả lời, câu trả lời bắt nguồn từ kinh nghiệm sống với Người. Nếu chúng ta trả lời như Phêrô " Thầy là Đức Kitô" thì chúng ta hãy ca đảm bỏ mình và vác thập giá đi theo Thầy. Đây là lời mời gọi hoàn toàn tự do, chúng ta có toàn quyền lực chọn, Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Từ bỏ mình là từ bỏ mọi sự kể cả mạng sống, mà từ bỏ mình không phải chỉ một lần là đủ mà là thái độ sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
Từ bỏ chính mình không phải là vong thân mà trở nên giống Đức Kitô " đồng hình đồng dạng" với Chúa Giêsu, nên giống Đức Kitô là tìm lại hình ảnh ban đầu. Từ bỏ để theo Chúa chúng ta không mất gì mà còn được tất cả, bỏ cái mau qua lấy cái vĩnh hằng, bỏ cái tương đối lấy cái tuyệt đối, bỏ cái chết để lấy cái sống. Thế nhưng, sống tận căn thân phận từ bỏ là đi theo con đường của Thầy, con đường độc đạo, con đường nhiều bấp bênh và tăm tồi, chúng ta có dám sống không? Cuộc sống của chúng ta sẽ vén mở căn tính của Đức Kitô, dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Người, để chúng ta có thể nói như Phaolô " anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước Chúa Giêsu".
Lạy Chúa, Chúa đã chấp nhận cuộc sống đau thương và cái chết nhục nhã để đem lại sự sống đời đời cho chúng con. Xin Chúa luôn nhắc nhớ chúng con vấn nạn xưa " còn con, con bảo Thầy là ai" để chúng con tăng thêm lòng mến và niềm tin vững mạnh vào Chúa. Nhờ đó, chúng con biết kiên trì theo Người trên con đường khước từ bản thân, sống nhẫn nhục, hiền hậu, xả thân theo gương Chúa.
Sau khi đã thăm dò dư luận, Đức Giêsu trắc nghiệm các môn đệ: "Còn các con bảo Thầy là ai?: TN 24-B67
Sau khi đã thăm dò dư luận, Đức Giêsu trắc nghiệm các môn đệ: "Còn các con bảo Thầy là ai? Chúng ta đã có câu trả lời của Thánh Phêrô: "Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống". Tôi nghĩ rằng nếu Chúa Giêsu có mặt một hôm nay, Người sẽ đặt thêm một câu hỏi nữa: "Đối với các bạn, người Kitô hữu là ai?"
Lời Chúa của Chúa Nhật này cho chúng ta câu trả lời chính xác về câu hỏi đó.
1. Trước hết người Kitô hữu Tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ
Đó là niềm xác tín nền tảng đức tin của chúng ta. Đức Kitô không chỉ là một con người bình thường, không chỉ là một tiên tri như mọi tiên tri mà Dân chúng đã quan niệm, nhưng Người là "Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống", đúng như lời tuyên tín của Thánh Phêrô, nghĩa là Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát của nhân loại. Làm người kitô hữu trước hết là người TIN vào Đức Kitô đúng như Người "LÀ", không được thêm, không được bớt mặc khải của Thiên Chúa. Và như thánh Phaolô nói: Ai tin thì được cứu độ.
Nhưng tin ở đây không chỉ là tuân giữ một số điều luật của Giáo hội, không có nghĩa là hiểu biết một số chân lý, lý thuyết và giáo lý về Chúa. Trái lại, tin có nghĩa là sống gần gủi, gặp gỡ, gắn bó mật thiết với Đức Kitô mỗi ngày, trong mỗi biến cố cuộc sống, như với một người bạn thân (Jesus is my best friend). Tôi sống là sống "với, vì và cho" Đức Kitô và Đức Kitô sống trong tôi. Đó là một đức tin trưởng thành và mang tính cá vị. Đó là một đức tin mà Chúa chờ đợi mỗi người kitô hữu.
2. Điều kiện để làm người Kitô hữu
"Ai muốn theo Ta, thì hãy từ bỏ chính mình, và vác thập giá mỗi ngày mà theo ta". Đây là lời khẳng đình từ môi miệng Chúa. Lời này tóm tắt tất cả mọi điều kiện để làm người Kitô hữu. Chúng ta cần dừng lại để phân tích câu nói này: "Ai muốn theo Ta": Đấy là một lời mời gọi Chúa ngõ với hết mọi người, từ già đến trẻ, từ giáo dân đến giáo hoàng. Điều kiện trước hết của việc "theo" đó là: "hãy bỏ mình". Tại sao phải bỏ mình?
Bỏ mình ở đây không có nghĩa là bỏ hết những khả năng, tài cán, và nghị lực... của chúng ta. Nhưng là bỏ chính cái TÔI vị kỷ của ta. "Bỏ mình" là không còn quá chú trọng đến mình, không còn tập trung mọi sự về mình, không biến mình là trung tâm của vũ trụ và chú ý của người khác. Nhưng chỉ hướng "mình" về với Chúa, Chúa là trung tâm đời mình, không còn ai khác. Trong chiều hướng đó, Cái Tôi xuất hiện như "hòn đá vấp chân", cản trở chúng ta. Kinh nghiệm cho thấy, thắng được "THẰNG TÔI" là thắng được kẻ thù lớn nhất. Chính vì thế, Chúa mời gọi là hãy bỏ mình, cũng như Đức Phật mời gọi môn sinh: muốn được giải thoát thì hãy diệt dục.
3. Đức Tin thể hiện bằng việc làm
Thánh Giacôbê ở bài đọc II nói rất hay về tương quan giữ TIN và SỐNG đức tin: "Đức tin không việc làm là Đức tin chết tận gốc rễ". Rõ ràng là Tin trong lòng và tuyên xưng ngoài miệng thôi chưa đủ: như Đọc kinh, đi lễ, rước lễ, chịu các bí tích.., nhưng phải thể hiện đức tin đó bằng việc làm. Chúng ta phải thể hiện như thế nào? Thánh Giacôbê cho chúng ta một hướng dẫn rất thích hợp: "Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh chị em lại bảo rằng: "chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm" mà anh chị em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gi?". Việc làm đó chính là lòng bác ái, cảm thông, chia sẽ với tha nhân, và nhất là với người đau khổ. Đó là con đường từ nhà thờ về nhà mình, từ nhà mình tới công sở, con đường đó không có "đèn xanh đèn đỏ" để dừng lại, nhưng là liên tục và nối dài.
Như thế, làm người kitô hữu là người tin vào Đức Kitô và có Chúa Kitô trong đời, và cùng với Người hướng tới tha nhân. Đó là một cuộc sống phong phú và hạnh phúc khi được làm người kitô hữu!
Lạy Chúa, xin giúp con luôn ý thức được sự cao quí của người kitô hữu, xin Chúa giúp con Tin Chúa cách vững vàng, và cùng với Chúa vác thập giá mình mỗi ngày, cùng với Chúa con đến với tha nhân bằng một con tim rộng mở, chia sẻ và cảm thông.
Có một thời người ta đổ xô nhau đi tìm đọc quyển sách "Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu: TN 24-B68
Có một thời người ta đổ xô nhau đi tìm đọc quyển sách "Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu". Nhiều người cho rằng quyển sách này đã viết đúng tâm lý của con người, vì tác giả đã mô tả Chúa Giêsu như một con người thực sự, có khác chăng là người đã vượt thắng được cám dỗ cho tới giờ phút cuối cùng.
Quyển sách "cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu" mô tả về một chàng trai Giêsu đầy sức sống. Đẹp trai và nhiều tài năng. Có một thiếu nữ rất xinh đẹp đã đem lòng yêu mến chàng, tên là Madalêna. Thế nhưng, tình yêu đã không đem lại cho chàng hạnh phúc. Chàng luôn bị thôi thúc bởi một tiếng gọi cao siêu, vượt trên cuộc sống tầm thường như bao bao người khác. Chàng quyết định từ bỏ người yêu và ra đi rao giảng về một Tin mừng có thể đem lại cho con người hạnh phúc đời này và đời sau. Mađalêna thất tình đã buông trôi cuộc đời trong trốn lầu xanh tội lỗi. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng cao siêu. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng cao siêu, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Và sau đó gục đầu tắt thở.
Tác giả đã dựa vào tâm lý chung của con người để viết về nhân tính của Chúa Giê-su. Một con người bình thường, sinh ra, lớn lên, rung cảm với tình yêu đầu đời, nhưng ở chàng thanh niên Giêsu đã từ khước tiếng nói của con tim để theo đuổi một lý tưởng cao siêu. Điều này đáng được con người kính trọng. Nhưng đáng tiếc, lý tưởng đó bị người đời khước từ vì không thực tế, và cho dù cuộc sống của Ngài được nhiều người kính trọng nhưng người ta lại không muốn sống theo lối sống của Ngài.
Thực vậy, con người ngày hôm qua cũng như hôm nay, luôn cần tiền, cần tiện nghi, cần địa vị và cần cuộc sống bất tử để hưởng thụ mãi hạnh phúc ở chốn gian trần. Vì thế, người ta không chấp nhận đường lối của Chúa Giêsu, vì phương thế này không thoả mãn nhu cầu vật chất của con người. Có chăng, họ chỉ kính trọng một Giêsu thánh thiện, một vĩ nhân của nhân loại, nhưng đạo của Ngài thiết lập chẳng giúp ích gì cho cuộc sống thường ngày của họ. Đôi khi còn trở thành gánh nặng khiến họ không thể tuân giữ giới răn của Người. Đôi khi họ còn coi Chúa Giêsu là nguyên nhân gây nên phiền toái cho họ.
Có người nói rằng theo đạo làm chi, phải đi lễ hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng.
Có người nói rằng theo đạo làm chi để bị ràng buộc bởi quá nhiều lề luật.
Có người cho rằng theo đạo phải giữ luật công bằng thì làm sao làm ăn có lời, có lãi.
Có những bà mẹ cho rằng nếu giữ đúng luật Chúa thì gia đình sẽ mất hạnh phúc, con cái sinh ra ai sẽ nuôi cho nổi.
Có biết bao cuộc đời là có bấy nhiêu khó khăn. Càng khó khăn người ta lại đổ tội cho Chúa. Vì Chúa mà họ thiệt thòi. Vì Chúa mà họ phải sống nghèo đói. Vì Chúa mà họ phải thua kém bạn bè. Xem ra phần đông nhân loại nhìn Chúa như một quan toà, một cảnh sát chỉ để ngăn cấm và xét đoán. Và rồi, họ nhìn biết bao nhiêu người không có đạo vẫn sống hạnh phúc, đôi khi lại giầu có hơn mình, có địa vị hơn mình.
Phải, phần đông nhân loại đã nhìn Chúa Giêsu như vậy. Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự do của các môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài vẫn đòi hòi triệt để những kẻ tin theo Ngài phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá, phải đi qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là Ngài vẫn đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường, phải sống làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con người tự do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị những cám dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.
Với những đòi hỏi đó, phải có cái nhìn đức tin như Phêrô mới có thể bỏ mọi sự mà theo Thầy, mới có thể tuân giữ lời Thầy và sống gắn gó mật thiết với Thầy. Phêrô và các môn đệ đã nhìn thấy Thầy là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng: ai bước đi theo Ngài sẽ không phải chết đời đời. Các ông đã dám đánh đổi cuộc đời này để đổi lấy hạnh phúc bất diệt đời sau. Các ông đã dám khước từ vinh hoa phú qúy đời này để lãnh triều thiên vinh hiển ngày mai.
Vâng cuộc đời này sẽ đi qua. Tiền tài, danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ làm chúng ta đoạn tuyệt tất cả. Nếu cuộc đời chết là hết thì chẳng có gì đáng nói. Nếu chết là hết thì cuộc đời là một thảm hoạ đối với bản thân và đồng loại. Người ta đâu cần rèn luyện tài đức. Người ta chỉ cần hơn thiên hạ. Người ta chỉ cần vun quén cho bản thân, và mặc xác đồng loại. Cuộc sống sẽ là một bãi chiến trường mà con người là nguyên nhân và cũng là hậu quả của tất cả khổ đau. Nhưng cuộc đời không dừng lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc đời hôm nay. Vì thế, nếu bạn chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ mọi đam mê bất chính. Từ bỏ đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các tông đồ đã vượt thắng tất cả vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống. Các Ngài đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt ngày mai bên Chúa để can đảm từ khước những đam mê bất chính, những bon chen danh lợi thú để sống theo giáo huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của chúng ta hôm nay?
Ước gì chúng ta có cái nhìn đức tin như Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về một cuộc sống hạnh phúc trường sinh mai sau. Amen
Đã đến lúc Chúa Giêsu cần làm một cuộc thăm dò dư luận (kiểu mini bỏ túi) để biết quan điểm: TN 24-B69
Đã đến lúc Chúa Giêsu cần làm một cuộc thăm dò dư luận (kiểu mini bỏ túi) để biết quan điểm của dân chúng và đặc biệt là của các môn đệ thân tín về căn tính đích thực của Ngài. Dân chúng xem ra còn hoài nghi nên có nhiều ý kiến trái ngược.
Một số người cho rằng Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả. Dựa vào đâu mà họ quả quyết như thế ? Họ dựa vào sự kiện Chúa Giêsu cũng làm phép rửa và cũng kêu gọi người ta sám hối như Gioan. Câu trả lời của họ đúng hay sai ? Chỉ đúng 1/4.
Một số khác lại nghĩ rằng Chúa Giêsu là Êlia. Tại sao lại là Êlia ? Chúa Giêsu có điểm nào giống Êlia ? Vì Chúa Giêsu cũng là người hay làm phép lạ như Êlia đã từng làm. Lời khẳng định của họ đúng hay sai ? Đúng nhưng cũng chỉ mới đúng 1/4.
Một số khác nữa lại khẳng định Chúa Giêsu là một ngôn sứ đại loại như bất kỳ một ngôn sứ nào khác. Vì sao ? Vì họ thấy Chúa Giêsu cũng nói lời của Thiên Chúa, nói nhân danh Giavê Thiên Chúa mà thôi. Khẳng định này cũng chỉ đúng có 1/4.
Đến đây thì Chúa Giêsu muốn nghe một ý kiến khác, ý kiến của chính các môn đệ là những mgười đã từng sống gần gũi thân mật với Ngài. Phêrô đại diện các Tông đồ tuyên xưng cách mạnh mẽ và dứt khoát rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Đây là câu trả lời mà Chúa Giêsu chờ đợi từ lâu, và cũng là câu trả lời làm hài lòng Ngài nhất.
Tuy nhiên xét cho cùng thì câu trả lời này cũng chỉ đúng 1/2, tức là mới chỉ đúng một nửa. Đúng về mặt danh xưng, tức là tước hiệu của Đức Giêsu: Đấng Kitô nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đấng Kitô nghĩa là Đấng thiên sai đến để hoàn tất lịch sử mà mọi người trông đợi. Nếu chỉ dựa vào khía cạnh này mà cho điểm, có lẽ Phêrô sẽ được điểm tuyệt đối, điểm 10/10.
Còn hiểu về sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu thì Phêrô bị lãnh điểm zêrô. Vì ông đã hiểu sai hoàn toàn về cách thức cứu thế, về phương thế cứu độ mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện. Trong tâm thức của Phêrô và của đại đa số dân chúng thì họ vẫn mong đợi một Đấng Cứu Thế uy nghi ngự giá mây trời mà đến như sứ ngôn Đaniel đã loan báo. Họ vẫn trông chờ một Đấng Thiên Sai Vua theo kiểu trần thế, đấng đến làm cách mạng lật đổ ách thống trị của Rôma và tái lập một Israael hùng cường. Nói khác đi, họ vẫn còn quan niệm một Đấng Mêsia đến để thống trị hơn là để phục vụ.
Đâu là lý chứng khẳng định Phêrô đã sai về sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu ? Lý chứng đó là Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở trách khi ông căn ngăn Chúa về con đường cứu thế mà Ngài sẽ đi. Chúa Giêsu quở trách ông là Satan. Ngài cũng điểm chỉ cho Phêrô thấy rằng tư tưởng của ông là tư tưởng của người trần mắt thịt chứ không phải là của Thiên Chúa.
Thế thì con đường cứu thế mà Chúa Giêsu sẽ đi là con đường nào ? Đó là con đường đau khổ, con đường thập giá: "Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại". Đó là con đường của người tôi trung mà ngôn sứ Isaia đã loan báo như chúng ta vừa nghe trong bài đọc I. Đó là con đường phục vụ, con đường hiến dâng: "Ta đến không phải để được phục vụ nhưng đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhiều người". Con đường đó cũng là con đường mà tất cả những ai muốn theo Ngài sẽ phải đi: "Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo"...
Hôm nay Đức Kitô đối với tôi là ai ? Phải chăng Ngài chỉ là một thần tượng như bao thần tượng khác, hay khá hơn Ngài chỉ là một siêu nhân ? Nếu tôi tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất đã đi con đường thập giá tử nạn, con đường hi sinh phục vụ, thì tôi cũng phải đi con đường ấy. Vậy tôi đã chọn lựa con đường mà Chúa Giêsu đã đi hay chưa ? Và nếu tôi đã dứt khoát lựa chọn rồi, thế thì tôi đã can đảm bước theo Ngài chưa hay còn chần chừ e sợ ?
Vì chúng ta, Chúa Kitô đã chịu khổ hình thập giá. Chúa đón nhận thập giá là để nhân loại chúng: TN 24-B70
Vì chúng ta, Chúa Kitô đã chịu khổ hình thập giá. Chúa đón nhận thập giá là để nhân loại chúng ta được thứ tha tội lỗi, được giải hòa với Chúa Cha. Nói nôm na rằng Chúa vác thập giá là để nhân loại chúng ta được hạnh phúc. Vậy thì cớ sao Chúa Kitô lại khẳng định rằng ai muốn theo Ngài thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Người ? ( x.Mc 8,34 ). Vác thập giá là chấp nhận hy sinh, bỏ mình, chấp nhận cả những bất công, nhục hình. Những người Macxit cũng như một vài triết gia thế kỷ ánh sáng đã vin vào điều này để kết án Kitô giáo là một loại thuốc phiện ru ngủ đám đông dân cùng khổ cam chịu cảnh bất công đàn áp với niềm hy vọng sẽ được hưởng phần phúc sau này mà vô tình tạo cớ cho bất công ngự trị, tạo dịp cho kẻ thống trị bốc lột, đàn áp. Dù kết án Kitô giáo nhưng khi đã nắm được quyền thì người ta lại giương khẩu hiệu rằng nhân dân hãy hy sinh chịu khó, chịu khổ vì một tương lai tươi sáng sau này to đẹp gấp mười lần hôm nay, một tương lai mà nhiều người nhận định rằng chỉ là một viễn ảnh khó thành hiện thực, dĩ nhiên là đối với đám dông dân chúng bị trị. Phải chăng cái khẩu hiệu ấy cũng là một thứ thuốc an thần ? Cái vòng lẩn quẩn và cũng là một nghịch lý xem ra khó có câu trả lời.
Không gì hơn là tập chú vào cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu để tìm lời giải đáp cho vấn nạn nêu trên, cho dù biết rằng trong kiếp lữ hành này chúng ta không thể nào đến với sự thật toàn vẹn, vì được mấy ai dám chắc chắn là mình đã mở hết lòng để đón nhận Thần Chân Lý. Trước hết cần khẳng định rằng khi mời gọi chúng ta, mời gọi dân chúng hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo, thì Chúa Giêsu không hề và không bao giờ muốn chúng ta cúi mình cam chịu cảnh khổ, cảnh bất công cách tiêu cực, làm cớ cho những người bóc lột những kẻ gian ác lợi dụng để vinh thân phì da và ngụp lặn trong tội ác của họ. Việc tìm sự sung sướng hay hạnh phúc trong chính sự đau khổ là điều lệch lạc mà ngày nay người ta gọi đó là một dạng tâm bệnh, bệnh khổ dâm. Một điều chắc chắn không kém, là người cha thực sự thì không bao giờ muốn con cái phải khổ đau. Chúa Giêsu đã từng nói rằng dù chỉ là người cha trần thế với nhiều khiếm khuyết thế mà sự thường khi con cái xin bánh thì chẳng ai lại ném cho chúng hòn đá, như thế người cha trên mọi người, là Đấng trọn hảo chỉ muốn và làm điều tốt lành cho con cái ( x.Lc 11,9-13; 12,32 ). Vậy lý giải thế nào về sự hiện hữu của thập giá mà Chúa Giêsu đã gánh trên vai và Người đã minh nhiên mời gọi chúng ta vác lấy để đi theo Người ?
Đường yêu thương, con đường làm người chính là chìa khóa giải đáp cho vấn nạn này. Thiên Chúa là Tình yêu ( 1Ga 4,8 ). Đây không phải là một tình yêu quy ngã nhưng là tình yêu hướng tha từ trong bản thể của cộng đoàn Thiên Chúa Ba Ngôi và rồi được thông chia cho các loài thụ tạo, đặc biệt cho loài người. Yêu thương đích thực thì không sống cho chính mình mà sống cho ai đó và vì ai đó. Chính khi hướng đến tha thể là lúc ta mới thực sự là mình. Chúa Cha thực sự là mình trong tương quan với Chúa Con, trao ban tất cả cho Chúa Con. Ngược lại Chúa Con thực sự là mình khi luôn hướng về Chúa Cha, tìm kiếm và thực hiện ý Chúa Cha, trao ban lại tất cả cho Chúa Cha. Và Chúa Thánh Thần chỉ thực sự là Tình Yêu Ngôi Vị giữa Chúa Cha và Chúa Con khi luôn tìm vinh danh hai Ngôi cực trọng ấy.
Sống trong tương quan liên vị và ra khỏi chính mình là động thái từ bỏ mà Chúa Giêsu đã nhấn mạnh khi khẳng định: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy" ( Mc 8,35 ). Như thế thập giá hay những hy sinh, từ bỏ không phải là sự khổ đau ta đành phải trả giá theo nghĩa tiêu cực mà chính là dữ kiện hay điều kiện ta phải vượt qua trong tiến trình sống yêu thương, tiến trình thể hiện bản thân mình là hình ảnh và là họa ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu.
Hình ảnh con nhộng lột xác để hóa thành bướm, hình ảnh con rắn lột vỏ để lớn lên vẫn thường được gợi lên để minh họa cho ý tưởng này. Chúa Giêsu cũng đã đề cập đến hình ảnh hạt lúa mì chịu mục nát đi để nẩy mầm, thành cây, đơm bông, kết hạt, thì mới thực sự là chính nó khi thể hiện ý nghĩa hiện hữu của nó ( x. Ga 12,24 ). Mọi so sánh dù cố nhắm làm rõ một khái niệm nào đó, nhưng vẫn là khập khiễng, nghĩa là còn hạn chế. Lột xác để thành bướm hay lột vỏ để lớn lên thì vẫn có cái gì đó vì chính mình. Trong khi đó chuyện vác thập giá là vì tha nhân. Chúa Giêsu vác thập giá là vì chúng ta. Người chịu khổ hình là để chúng ta được cứu độ. Người tự nguyện nên nghèo khó là để chúng ta nên sang giàu. Và khi sống vì chúng ta, thì Người thể hiện chính Người là Giêsu, Đấng Cứu Độ, là Kitô, Đấng được Thiên Chúa xức dầu, loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, giải thoát kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng ( x. Lc 4,18-19 ).
"Đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết" ( Gc 2, 17 ). Một trong những hành động để làm sống đức tin theo thánh Giacôbê đó là yêu thương tha nhân cách cụ thể và toàn diện, cả linh hồn lẫn thể xác. Để sống yêu thương thì chuyện vác thập giá là chuyện đương nhiên phải có. Tuy nhiên cần ý thức rằng chúng ta vác thập giá là vì tha nhân, nghĩa là để cho tha nhân được hạnh phúc, cho người nghèo khỏi cảnh khổ, cho người bị áp bức được tự do, cho người tội lỗi biết sám hối ăn năn, cho người gian ác biết quay gót trở về... Hiểu được điều này thì hy vọng chúng ta sẽ biết cách thế vác thập giá như thế nào để thực sự là theo Chúa Giêsu chứ không phải là làm cớ cho sự dữ thống trị, làm cớ cho kẻ gian ác thích chí, cười khì.
Các môn đệ đi theo Đức Kitô một thời gian dài. Các ông đã nghe người ta nói nhiều về Đức Kitô: TN 24-B71
Các môn đệ đi theo Đức Kitô một thời gian dài. Các ông đã nghe người ta nói nhiều về Đức Kitô. Những người này bao gồm kẻ tin theo Người và dân ngoại. Trên đường viếng thăm dân ngoại Ngài chữa lành một người tật nguyền vừa câm vừa điếc. Đức Kitô lên tiếng dò hỏi các môn đệ các ông nghe thấy người ta công luận gì về Ngài.
Chúng ta thường quan tâm nhiều về người khác nghĩ về mình, về thành quả tổ chức công việc và về sự xuất hiện, tư cách cá nhân nơi công chúng. Những nhận xét, bình phẩm, khen chê này quan trọng vì chúng ảnh hưởng đến con người, việc làm và lối xử thế. Chúng tạo cho chúng ta niềm tự tin, tự hào, hãnh diện và can đảm hơn khi xuất hiện trước công chúng. Trái lại, Đức Kitô hoàn toàn không bị lệ thuộc vào những nhận xét, phán đoán, phê bình bên ngoài nơi đại chúng. Ngài luôn tránh các cơ hội người ta muốn tôn vinh Ngài làm vua. Những lần như thế Ngài luôn tìm cách tránh đám đông, đi lên nơi thanh vắng, một mình để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Đức Kitô không màng về tán tụng đại đa số dành cho. Điều Ngài quan tâm chính không phải là những ca tụng, hoan hô nơi đai chúng. Điều Ngài quan tâm chính là sứ mạng Ngài được Chúa Cha sai xuống trần để cứu chuộc nhân loại. Chúng ta thấy rõ trong câu hỏi Ngài hỏi các môn đệ. Ngài không hỏi người ta định giá Con Người ra sao, hay họ nghĩ gì về lối sống, cách giảng dậy hay mức độ ảnh hưởng của phép lạ. Tất cả đều không phải. Ngài quan tâm đến họ coi Ngài lài ai. Điều Ngài quan tâm không phải là cách hành xử, lối sống, cách giảng dậy mà chính là đối với họ Ngài là ai. Đây mới chính là mấu chốt của điều Ngài tìm hiểu. Điều này quan trọng bởi vì người nhận biết Đức Kitô là ai không phải là do khôn ngoan cá nhân, hiểu biết của loài người mà là mặc khải của Thánh Thần Chúa. Chỉ những ai Thánh Thần Chúa mặc khải mới biết được Ngài là ai. Thiếu điều mặc khải này người ta đểu biết thiếu sót về Ngài. Chính vì thế mà khi Phêrô đại diện các tông đồ khác đáp:
Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống. Đức Kitô đã vui mừng ca tụng ông.
Các tông đồ cho Đức Kitô biết ý kiến đám đông. Hầu như mọi người đều coi Ngài là một đại tiên tri. Đây không phải là điều Ngài muốn tìm hiểu. Ngài không muốn tìm hiểu sự khôn ngoan của loài người. Ngài đi tìm kiếm dấu vết, dấu chỉ của Thánh Thần Chúa hoạt động trong tâm hồn con người. Người ta không nhận biết Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế đang sống giữa họ. Điều người ta thất bại, không nhận ra vì thiếu sự cộng tác hay mở rộng tâm hồn đón nhận Thánh Thần Thiên Chúa.
Các tông đồ có thể vui mừng vì thấy nơi đâu người ta cũng ca tụng, đón chào Thầy. Đức Kitô thì không tìm thấy niềm vui nơi những ca tụng, tán dương. Điều Ngài quan tâm chính là sứ mạng cứu độ muôn dân lúc nào cũng đóng vai trò chủ động trong việc Ngài làm, lời Ngài rao giảng. Đây mới chính là điều Ngài quan tâm. Ngài đi tìm dấu vết Thánh Thần để biết khi nào, ngày nào Giờ Con Người sẽ làm vinh danh Chúa Cha. Đó là điều Ngài quan tâm. Chính vì thế mà nhiều lần, mỗi khi có dịp thanh vắng, không có đông, chỉ riêng mấy thầy trò, Đức Kitô tâm sự cùng các tông đồ về cuộc tử nạn Ngài sẽ thực hiện ban ơn cứu độ cho toàn dân.
Người ta bảo Thầy là ai? Qua câu hỏi này, phải chăng Chúa Giêsu đã khởi sự quan tâm tới dư: TN 24-B72
Người ta bảo Thầy là ai? Qua câu hỏi này, phải chăng Chúa Giêsu đã khởi sự quan tâm tới dư luận của quần chúng về Ngài? Hay Ngài muốn làm một cuộc thăm dò ý kiến về kết quả công việc Ngài đã làm? Không phải là như vậy. Ở đây, Chúa Giêsu muốn chuẩn bị các môn đệ của Ngài đón nhận những điều Ngài sắp nói với các ông về điểm then chốt của sứ mạng Ngài và cũng là điểm khó nuốt đối với mọi người.
Dư luận, như các môn đệ ghi nhận được, tuy chưa rõ đích xác Ngài là ai nhưng cũng tỏ ra đã thấy được những điểm khác người trong giáo huấn và trong hành động của Ngài. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu muốn nhắm tới ở đây chính là việc các môn đệ bày tỏ ý kiến của mình về Ngài. Do dó mà Ngài mới đạt thêm câu hỏi thứ hai: Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Tin không phải là lặp lại ý kiến, lập trường của kẻ khác mà là biểu lộ chính ý kiến, chính lập trường của mình. Phêrô đã trả lời đúng câu hỏi Chúa Giêsu đã đặt ra: Thầy là Đức Kitô. Qua câu trả lời, Phêrô đã tuyên xưng lòng tin của ông nơi Thầy mình. Ông đã nhận ra được Thầy mình là ai.
Nhưng sự việc diễn ra sau đó lại chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng lòng tin của Phêrô chưa trọn vẹn. Ông mới chỉ có những hiểu biết đúng về Thầy. Thực ra, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định, chẳng phải tự ông đã biết được Ngài là Đức Kitô, mà là do Chúa Cha mà ông biết được điều đó. Lòng tin ấy, sự hiểu biết ấy chỉ trọn vẹn khi ông chấp nhận đi con đường Chúa Giêsu đang chuẩn bị đi tức là con đường cứu độ, con đường thập giá.
Và ở điểm này, Phêrô đã vấp ngã thật nặng nề, bởi vì ông đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, không phải bằng cái nhìn của Thiên Chúa, hay đúng hơn, theo như Ngài hoạch định, mà là bằng chính cái nhìn của ông, theo cách tính toán của ông. Lời can ngăn của Phêrô đã trở thành việc cản trở chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện. Phêrô không muốn Thầy mình bị bắt, bị giết đi trong khi chính Chúa Giêsu lại thấy rằng đó là con đường Ngài phải đi. Đó là con đường của Ngài và đó cũng là con đường của những ai muốn theo Ngài, muốn trở nên môn đệ của Ngài.
Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Câu hỏi này vẫn tiếp tục được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay. Và chúng ta có thể như Phêrô, đã trả lời đúng câu hỏi của Ngài với tất cả vốn liếng về Thánh Kinh và thần học, về giáo lý của chúng ta. Thế nhưng trong hành động thì sao? Phải chăng trong hành động chúng ta đã là những người ngăn cản việc thực hiện chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa bằng thái độ khước từ đau khổ, khước từ thập giá mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày.
KHÓ NHỌC THAY KHI LÀM CHO NHỮNG KẺ CHÂN THÀNH VỠ MỘNG!
Khởi hành.
Một cô bé mười hai tuổi bơi lội rất giỏi, thầy giáo của cô nhận thấy cô có triển vọng rất lớn: TN 24-B73.
Một cô bé mười hai tuổi bơi lội rất giỏi, thầy giáo của cô nhận thấy cô có triển vọng rất lớn cho thế vận hội Montréal. Khi trở về nhà cô đã vội nói với mẹ dự tính của mình. Bà vạch ra cho cô một bức tranh rất thực tế, thậm chí rất u ám về những đòi hỏi vô cùng khắc nghiệt của việc chuẩn bị cho một cuộc thi đấu như thế. Ngoài việc học mà cô không thể lơ là được, cô phải tập dượt gắt gao sáu ngày mỗi tuần trong bốn năm, những giao tiếp xã hội hầu như không còn nữa, lại không chắc chắn thành công, thêm với những mệt nhọc… Mẹ cô để cô tự do quyết định, sau khi cố gắng vạch cho cô thấy những ảo tưởng của cô.
Dẹp đi những ảo tưởng của những người chân thành: đó là điều mà thánh Marcô muốn làm trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe, và trước hết ngài muốn nhắn nhủ các Kitô hữu thành Roma. Thánh Marcô cảm hứng từ lối ứng xử của Chúa Giêsu với các môn đệ.
1. Chúa Giêsu tìm cách dẹp ảo tưởng của những kẻ muốn theo Ngài.
Nhân dịp Phêrô tuyên xưng đức tin, một lời tuyên xưng hẳn là tuyệt vời, nhưng rõ ràng còn rất bất toàn, Chúa Giêsu đã nói thẳng với các môn đệ “Thầy là Đấng Mêsia”, nghĩa là: “Con đã theo Thầy từ một năm rưỡi nay, con đã nghe Thầy giảng dạy, con đã chứng kiến những phép lạ Thầy làm, con đã nhìn thấy cách Thầy sống, đối với con Thầy là chứng nhân của Thiên Chúa và của Nước Trời. Vì vậy con đã theo Thầy để Thầy dẫn con đến Thiên Chúa”. Phêrô thành thật bày tỏ kinh nghiệm của mình, và Chúa Giêsu không hề phản đối lời tuyên xưng đức tin của ông. Tuy nhiên Chúa tiếp lời ông ngày bằng việc loan báo cuộc tử nạn của Ngài và lần đầu tiên, Ngài dạy cho các ông hay rằng Con Người phải đau khổ nhiều… Lúc đó, Phêrô bị sốc đến nỗi ông tự cho phép mình trách móc Thầy. Nhưng Chúa Giêsu liền đưa ông lại đúng vị trí của ông: “Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy… con không hiểu gì về kế hoạch của Thiên Chúa”. Rồi Ngài thêm: “Ai muốn đi theo Thầy, thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Thầy. Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”
Vậy là Chúa Giêsu tìm cách dẹp đi ảo tưởng của những kẻ chân thành, nhưng Ngài không thành công. Chỉ đến ngày lễ Thánh Thần hiện xuống các tông đồ của Ngài mới sáng mắt ra.
2. Thánh Marcô muốn dẹp đi ảo tưởng của các Kitô hữu thành Roma.
Biết rằng các Kitô hữu thành Roma xao xuyến trước những cuộc bách hại nổi lên chống họ và “một số sẵn sàng chối rằng họ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô để khỏi chết”, thánh Marcô phản ứng cách mạnh mẽ. Ai muốn trở nên môn đệ Chúa Kitô thì phải giống như Ngài. Marcô muốn dẹp đi ảo tưởng của các Kitô hữu ngỡ ngàng vì thấy mình phải đương đầu với những cuộc bách hại.
3. Một Kitô hữu không ảo tưởng: Đức Cha Romero.
Tháng ba năm 1980, chúng ta có một chứng tá lẫy lừng từ Châu Mỹ La Tinh. Bất chấp những nguy hiểm đến tính mạng, Đức tổng Giám mục San Salvador, Đức Cha Romero, đã dám nhân danh Tin Mừng tố cáo những bất công trong xứ sở của ngài. Sau đó ngài đã bị ám sát trong nhà thờ lúc đang cử hành Thánh lễ. Đó là một Kitô hữu không ảo tưởng.
Câu hỏi.
Chúng ta nghĩ gì về Chúa Giêsu? Chúng ta chẳng sống trong ảo tưởng khi cho rằng có được sự sống đời đời là điều dễ dàng ư?
Lời Chúa và Thánh Thể.
Khi cử hành Bí tích Thánh Thể vào chiều thứ năm tuần thánh. Thầy chí ái của chúng ta đã hiến dâng mạng sống cho Cha Ngài vì yêu mến Cha và vì ơn cứu độ của tất cả mọi người. Ta hãy cử hành Thánh lễ trong tinh thần phục vụ đó, và sẵn sàng chấp nhận hy sinh theo gương Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay ( Mc 8, 27 – 35 ) gồm ba phần: ( a ) lời tuyên xưng của ông Phêrô: TN 24-B74
Bài Tin Mừng hôm nay ( Mc 8, 27 – 35 ) gồm ba phần: ( a ) lời tuyên xưng của ông Phêrô: cc. 27 – 30; ( b ) số phận Con Người: cc. 31 – 33; ( c ) điều kiện để đi theo Đức Giêsu: cc. 34 – 35. Trong bài suy niệm này, chúng ta sẽ chỉ đọc hai phần đầu.
“Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai ?" Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó" ( cc. 27 – 28 ).
Trước đây, tại 6, 14 – 15, khi nói về ông Hêrôđê và Đức Giêsu, tác giả Mc đã từng nêu ra những ý kiến của dân chúng về bản thân Đức Giêsu: “Vua Hêrôđê nghe biết về Đức Giêsu, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: "Đó là ông Gioan Tẩy Giả từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ." Kẻ khác nói: "Đó là ông Êlia." Kẻ khác nữa lại nói: "Đó là một ngôn sứ như một trong các ngôn sứ”.
Theo tường thuật của các môn đệ, ý kiến của dân chúng về Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay không khác, nếu không nói là khá trùng khớp, với những ý kiến đã được nói với Hêrôđê trước đây. Điều này cho thấy đã không hề có sự tiến triển gì trong nhận thức của dân chúng, cho dù Đức Giêsu đã giảng dạy nhiều và đã thực hiện thêm nhiều dấu lạ. Dân chúng vẫn chưa nhận ra Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia/Kitô. Dân chúng vẫn chỉ nhận thấy nơi con người, sứ điệp và hành động của Đức Giêsu một hình ảnh ngôn sứ mà thôi.
Trong hình ảnh Gioan, dù sao, vẫn có một yếu tố tích cực so với trước kia, vì người ta đã không nối kết vào đây chi tiết “từ cõi chết trỗi dậy” như trong 6, 14 để giải thích về quyền năng làm phép lạ của Đức Giêsu. Việc đồng hóa Đức Giêsu với ông Êlia tiền giả định một cách hiểu, theo đó, Đức Giêsu đang thực hiện việc chuẩn bị cho sự xuất hiện Đấng Mêsia đang được mong đợi. Ý kiến này không thay đổi gì so với ở Mc 6, 15.
Trong 6, 15 có ý kiến cho rằng Đức Giêsu là “một ngôn sứ như một trong các ngôn sứ”, tức là một mắt xích trong chuỗi dài các ngôn sứ. Bây giờ, tại 8, 28, Đức Giêsu được coi là một ngôn sứ nào đó và được đặt song song với ông Gioan đã chết và với ông Êlia đã được cất lên Trời. Điều này cho thấy người ta hiểu Đức Giêsu là một Ngôn Sứ quá khứ đã sống lại. Như vậy, trong cái nhìn của dân chúng, Đức Giêsu là một Ngôn Sứ, tức là một vị được Thiên Chúa sai đến, một nhân vật đặc biệt, nhưng vẫn là một con người của quá khứ. Cùng lắm thì Người cũng chỉ có thể là một nhà cải cách các thiết chế đương thời, chứ chưa phải là Đấng Mêsia được mong chờ.
Nói cách chung, dân chúng chưa nhận thấy sự mới mẻ trong sứ điệp và hoạt động của Đức Giêsu. Thật ra, Người không phải là một nhà cải cách, mà là Đấng đưa người ta đến thực tại hoàn toàn khác với những lý tưởng Do Thái và hoàn toàn khác với mọi cách suy tưởng của nhân loại. Người Do Thái sẽ chẳng thể tìm thấy nơi sứ điệp của Đức Giêsu bất cứ sự ủng hộ nào cho quan điểm đề cao Do Thái của họ.
Sở dĩ dân chúng chưa nhận ra tư cách Mêsia đặc biệt của Đức Giêsu, là vì vẫn còn đó trong tâm trí họ một chướng ngại vật rất lớn. Đó là lý tưởng Do Thái, chờ đợi một vị Mêsia hiển thắng, phô trương, vinh quang, đầy sức mạnh, thi hành bạo lực nhằm đem lại chiến thắng cho dân tộc Do Thái và đè bẹp các dân tộc kẻ thù của Do Thái... Dân chúng vẫn mong chờ một vị vua trần thế hùng mạnh và vẫn chỉ mong được ở lại trong khung cảnh văn hóa Do Thái của họ. Đức Giêsu đã không hề đáp ứng những khát vọng và lý tưởng đó của dân chúng.
Nhưng dù sao, vẫn cần ghi nhận một sự khác biệt rất quan trọng trong ý kiến của dân chúng về Đức Giêsu, so với ý kiến của các kinh sư và của lập trường chính thức của Do Thái Giáo về Người. Trong cái nhìn của những người lãnh đạo Do Thái đương thời, Đức Giêsu là một kẻ thù của Thiên Chúa, một khí cụ của Bêeldêbul ( Mc 3, 23 ). Trái lại, dân chúng coi Đức Giêsu là một ngôn sứ, một vị do Thiên Chúa sai đến. Xem ra càng bị kềm tỏa bởi học thuyết chính thống của Do Thái giáo đương thời, người ta càng khó nhận biết căn tính đích thật của Đức Giêsu.
“Người lại hỏi các môn đệ: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?" ( c. 29a ). Đức Giêu tách các môn đệ khỏi đám đông dân chúng. Người hỏi về lập trường và nhận thức của chính bản thân các ông, khác biệt với đám đông dân chúng. Bởi vì các ông đã tin vào Người, đã đi với Người, đã gắn bó với Người và với sứ điệp Tin Mừng của Người. Người chờ đợi nơi các ông một câu trả lời khác và đúng hơn, so với các ý kiến của đám đông dân chúng. Các ông phải nhận thức khác với tất cả những người bên ngoài nhóm đồ đệ. Các ông phải nhận biết về Người một cách sâu xa và thực chất hơn đám đông ngoài kia. Và nhận thức này, thật ra, phải là kết quả tiệm tiến của cả một quá trình dài sống với Người. Cần nhớ rằng khi cất lời kêu gọi các ông theo Người ( x. 1, 16 – 20; 2, 13 – 14 ), Đức Giêsu đã không hề đưa ra bất cứ danh xưng hay tước hiệu gì để tự giới thiệu về mình, một chỉ bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi !”
“Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô" ( c. 29b ). Ông Phêrô đại diện cho tất cả anh em mà trả lời. Ông nói lên cái ý tưởng của cả nhóm về sứ mạng Đức Giêsu đang thực hiện, như các ông đang được chứng kiến và trải nghiệm.
Để hiểu quan niệm của ông Phêrô được chuyển tải trong câu trả lời này, chúng ta cần phải chú ý cách viết của tác giả Máccô. Đây là lần thứ hai xuất hiện tước hiệu “Kitô” trong Máccô. Lần thứ nhất là trong Mc 1, 1: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa”. Có hai sự khác biệt giữa câu trả lời của ông Phêrô trong 8, 29b và ý tưởng của tác giả Mc được trình bày trong 1, 1: ( a ) Phêrô không nói “Con Thiên Chúa” như ở 1, 1; ( b ) Phêrô sử dụng mạo từ trước hạn từ “Kitô”, còn ở 1, 1 thì không.
Trong Tin Mừng theo Thánh Máccô, tác giả có hai cách dùng khác nhau hạn từ “Kitô”. Ở Mc 1, 1 ( tiêu đề của sách Tin Mừng ) và Mc 9, 41 ( Đức Giêsu nói về chính bản thân Người ), tác giả không đặt mạo từ trước hạn từ “Kitô”. Ở Mc 8, 29 ( lời tuyên xưng của ông Phêrô mà chúng ta đang phân tích ); Mc 12, 35 và 13, 21 ( Đức Giêsu nói về Đấng Kitô theo quan điểm truyền thống ); Mc 14, 61 ( thầy thượng tế hỏi Đức Giêsu ); Mc 15, 32 ( các kinh sư cười nhạo Đức Giêsu đang bị đóng đinh ), tác giả sử dụng mạo từ trước hạn từ “Kitô”. Như thế, khi được sử dụng với mạo từ, tước hiệu “Kitô” trong Máccô quy chiếu về quan niệm truyền thống Do Thái mà Đức Giêsu từ khước hoặc không hoàn toàn đồng ý.
Khi đặt mạo từ trước tước hiệu “Kitô” trong câu trả lời của ông Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ tác giả Mc ngầm cho thấy: thực ra, ông Phêrô và các môn đệ khác, vào lúc này, vẫn chưa hiểu đúng về căn tính Đức Giêsu. Về căn bản, lời tuyên xưng của ông Phêrô đã là một bước tiến lớn so với quan điểm của dân chúng được các môn đệ tường thuật lại. Tuy nhiên, đây vẫn chưa phải là một lời tuyên xưng thích hợp và đúng đắn, vì vẫn chưa thoát khỏi lý tưởng Do Thái giáo chính thống đương thời, tức là vẫn còn bao hàm trong đó niềm hy vọng Đức Giêsu sẽ làm vua Israel, chiến thắng dân ngoại và tái lập vinh quang cho quốc gia Do Thái.
Vì thế, vừa khi nghe lời tuyên xưng của ông Phêrô thay mặt cho cả nhóm anh em, “Đức Giêsu liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người” ( c. 30 ). Người chưa chấp nhận lời tuyên xưng của ông Phêrô, đơn giản là vì nó chưa chính xác. Người “cấm ngặt” ( epitimaô ) các ông nói về Người. Động từ “epitimaô” này, một khi được tác giả Mc đặt trên miệng Đức Giêsu, thì luôn ở trong sự quy chiếu về thế lực xấu: Mc 1, 25; 3, 12; 4, 39. Khi sử dụng động từ này ở đây, có lẽ tác giả Máccô muốn cho thấy rằng câu trả lời của ông Phêrô, vì vẫn nằm trong phạm vi lý tưởng Do Thái, nên vẫn thuộc về tinh thần thế gian, đối nghịch với Thần Khí của Thiên Chúa.
Tình cảnh, như vậy, cũng gần giống ở Mc 1, 24 và 3, 11 – 12. Trong cả ba trường hợp, sau một lời tuyên xưng về Đức Giêsu ( 1, 24: “Đấng Thánh của Thiên Chúa”; 3, 11: “Con Thiên Chúa”; 8, 29: “Đấng Kitô” ) là một lệnh truyền của chính Đức Giêsu, cấm ngặt việc nói về Người; và tác giả sử dụng động từ epitimaô ở cả ba trường hợp ( 1, 25; 3, 12; 8, 30 ). Tất nhiên là cũng có sự khác biệt: trong hai trường hợp đầu, lời tuyên xưng xảy đến ngược với ý muốn của Đức Giêsu, còn trong trường hợp câu trả lời của ông Phêrô, lời tuyên xưng được nói ra theo đề nghị của chính bản thân Người.
Dù sao, Đức Giêsu vẫn phải cấm ngặt các môn đệ phổ biến quan niệm chưa chính xác của họ về Người. Việc cần thiết lúc này là các ông phải có một quan niệm đúng về Đấng Kitô.
“Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” ( c. 31 ).
Đức Giêsu bắt đầu điều chỉnh những yếu tố không đúng đắn trong quan niệm của các môn đệ về Đấng Kitô mà ông Phêrô vừa thưa với Người nhân danh tất cả nhóm. Người đặt ra trước mắt các ông không phải là một hình ảnh Đấng Mêsia vinh quang và hiển thắng như lý tưởng Do Thái Giáo vẫn kỳ vọng. Thay vào đó là mộ số phận đau khổ cùng tận trước khi được tôn vinh trong sự sống lại. Số phận này hoàn toàn đối nghịch với những gì ông Phêrô hiểu khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô.
Nội dung lời giảng dạy của Đức Giêsu về số phận của Con Người, gồm hai phần: “phải chịu đau khổ nhiều” và “sống lại sau ba ngày”. Phần thứ nhất được xác định rõ hơn với hai yếu tố: bị loại trừ và bị giết chết. Con người và hoạt động của Đức Giêsu sẽ bị thẩm quyền chính thức và tối cao của Do Thái loại trừ và tiêu diệt. Sự loại trừ và tiêu diệt đó sẽ mang tính cách chính thức và công cộng.
Nhưng Người sẽ sống lại sau ba ngày. “Ba ngày” trước hết không phải là một dữ kiện thời gian chính xác, mà có một ý nghĩa thần học. Dữ kiện này một đàng ám chỉ Xh 19, 11.16 ( nói về cuộc thần hiện của Đức Chúa trên núi Sinai ), đàng khác, ám chỉ Hs 6, 2 ( loan báo hành động chung cục của Thiên Chúa ). Hơn nữa, trong văn hóa Do Thái, người ta cho rằng cái chết chỉ thực sự đóng ấn chiến thắng của mình sau ba ngày. “Sống lại sau ba ngày”, như thế, có nghĩa là sự sống đã chưa hề bị khuất phục bởi cái chết, trái lại, đã chiến thắng cái chết.
“Người nói rõ điều đó, không úp mở” ( c. 32a ). Thực tế, Đức Giêsu đã bắt đầu cuộc hành trình lên Giêrusalem, và ở đó, các biến cố mang tính quyết định nói trên sẽ xảy ra. Người phải nói rõ cho các môn đệ về tính chất nghiệm trọng của tình cảnh để họ hiểu Người đang đưa những kẻ theo Người đi đâu. Người phải cho họ thấy rõ ràng sự từ khước và tiêu diệt Người sẽ đến từ thẩm quyền tối cao và chính thức của Do Thái giáo, tức là những lý tưởng Do Thái chính thức đương thời và những lý tưởng Tin Mừng của Đức Giêsu đối nghịch nhau gay gắt tận căn. Và đây chính là thời điẻm quyết định. Nếu các môn đệ tiếp tục đi theo Đức Giêsu, họ phải chấp nhận đi vào cuộc đối đầu không khoan nhượng đó, phải từ khước hoàn toàn những lý tưởng trần tục và đắc thắng của Do Thái giáo đương thời, và phải sẵn sàng tham dự vào số phận của Đức Giêsu.
“Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người” ( c. 32b ). Ông Phêrô, như chúng ta đã nói trên kia, vẫn mang nơi mình lý tưởng Do Thái, ngay cả khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Ông tách Người riêng ra khỏi nhóm với ý định gây ảnh hưởng trên Người và làm cho Người thay đổi lập trường. Ông đã không hiểu đúng ý nghĩa cái chết mà Đức Giêsu sắp trải qua, vì ông chỉ thấy đó là một thất bại: của Đức Giêsu và của chính lý tưởng Mêsia mà ông đang ôm ấp trong lòng.
Vấn đề không chỉ là sự hiểu sai của ông Phêrô. Ta có thể thấy: ông Phêrô hành xử với Đức Giêsu như thể một người bề trên hành xử đối với kẻ bề dưới của mình. Hơn nữa, ông “trách” Người. Động từ “trách” này rất đáng chú ý: dịch sát là “cấm ngặt” ( epitimaô ), cũng một động từ tương tự như khi Đức Giêsu cấm ngặt các môn đệ ở c. 30. Trên kia, chúng ta đã nói đến sắc thái nghĩa đặc biệt của động từ epitimaô trong Tin Mừng theo Thánh Máccô. Khi làm hành động “epitimaô” này đối với Đức Giêsu, ông Phêrô đang hiểu rằng một khi chấp nhận số phận bi đát như được nói ở c. 31, là Đức Giêsu đang ở vào vị trí đối nghịch với Thiên Chúa và chương trình của Người. Ông cho rằng chính ông, chứ không phải Đức Giêsu, mới biết đâu là chương trình của Thiên Chúa.
Không chấp nhận ý định của ông Phêrô tách riêng Người ra, Đức Giêsu hướng về nhóm các môn đệ. Vậy “khi Đức Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phêrô: "Satan ! lui lại đàng sau Thầy ! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" ( c. 33 ). Một lần nữa, xuất hiện động từ “epitimaô” ( trách/cấm ngặt/ngăn cản ). Sắc thái nghĩa tiêu cực của động từ này càng được tô đậm khi Đức Giêsu gọi ông Phêrô là Satan. Ngược với những gì ông Phêrô đang nghĩ, chính khi từ chối số phận bị loại trừ của Con Người mà đi theo những lý tưởng Do Thái chính thức đương thời, ông Phêrô đang hành động theo tư trưởng của loài người và của Satan, chứ không phải là của Thiên Chúa.
Chúng ta không biết phản ứng của ông Phêrô và các môn đệ khác trước phản ứng mạnh mẽ và quyết liệt này của Đức Giêsu. Các ông nhận ra sai lầm trầm trọng của mình ? Các ông hối hận ? Hay các ông vẫn tiếp tục ương ngạnh trong lập trường sai lạc ? Tác giả Máccô không nói gì tường minh về những điều đó.
Gợi ý suy niệm
1. Sở dĩ dân chúng chưa nhận ra tư cách Mêsia đặc biệt của Đức Giêsu, là vì vẫn còn đó trong tâm trí họ một chướng ngại vật rất lớn. Đó là lý tưởng về một vị Mêsia hiển thắng, phô trương, vinh quang, đầy sức mạnh, thi hành bạo lực nhằm đem lại chiến thắng cho họ và đè bẹp các dân tộc kẻ thù... Đó có thể cũng là chuyện của chính chúng ta hôm nay.
2. Ông Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, nhưng lại hiểu sai nội dung của tước hiệu Kitô. Chúng ta cũng có thể giống ông: hiểu sai những công thức tuyên xưng Đức Tin. Tuyên xưng ngoài miệng một công thức thôi, chưa đủ. Cần phải hiểu đúng và sống hết mình cho Lòng Tin mà mình tuyên xưng.
Ranh giới giữa sự sống và cái chết mỏng manh như trở bàn tay. Không ai là người có thể nắm: TN 24-B75
Ranh giới giữa sự sống và cái chết mỏng manh như trở bàn tay. Không ai là người có thể nắm giữ mạng sống. Cho dù giàu có, quyền cao chức trọng đến đâu, người ta cũng không thể nào thủ đắc được cuộc sống mình. Thế nhưng, thực tế trong cuộc sống, mọi người đều ra sức bảo tồn cuộc sống. Người khôn thì biết chọn lựa con đường khiến cho sự sống của mình được trường tồn hơn, kẻ dại thì tự hủy diệt chính mình.
Có nhiều cách khiến cho con người tự làm hại mình. Tựu trung cũng chỉ là lối sống ích kỉ, hưởng thụ. Người chỉ biết ăn uống cho thỏa thuê khát vọng nhục dục, thì tự dẫn mình đến sự hủy hoại thân xác, làm mồi ngon cho những căn bệnh tai hại xâm nhập. Đó là cái chết về thân xác. Chưa kể đến cái chết tâm hồn. Những cái chết của lòng tham lam, ích kỉ, ghen tuông và thù hận, đã khiến cho con người sát hại, chiếm giết lẫn nhau.
Vậy thì, đâu là con đường duy nhất để có được sự sống đời đời ? Thưa đó chính là con đường khổ giá. Đức Kitô, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ, mới đến được vinh quang. Vậy thì chúng ta, là những đồ đệ của Ngài, chúng ta cũng không thể đi con đường nào khác ngoài con đường thập tự. Đó là con đường của tự hủy, yêu mến và hy sinh. Chỉ những ai quên bản thân, quên chính mình mới có thể bước đi trên con đường ấy được.
Đường thập giá là gì ? Đó chính là con đường từ bỏ. Từ bỏ bản thân và vác khổ giá của chính mình chứ không phải của người khác. Đức Giêsu đã khẳng định như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” ( Mc 8, 34 ).
Thập tự ở đâu ? Thập giá là ở chỗ nào ? Phải chăng hệ tại chính bản thân ? Bởi nó trái ngược với ý muốn, sở thích, tham vọng của tôi, cho nên nó trở thành thập giá. Thập giá bản thân thì nặng hơn thánh giá của tha nhân. Đức Giêsu, đã gánh trên vai mình cả thập giá và thánh giá nhân loại. Mọi lỗi lầm của con người, Ngài đã đón nhận vào hết thân thể để đưa lên cây thập tự làm của lễ hòa giải nhân loại với Thiên Chúa. Cho nên, bổn phận của chúng ta là phải bước đi theo Ngài, vác lấy thập giá bản thân và gánh đỡ thánh giá tha nhân, để tất cả đều được cứu độ. Chỉ khi nào, thế giới biết chung vai gánh đỡ Thánh Giá của nhau, lúc ấy mới hy vọng có thái bình, thịnh vượng.
Nói vậy, Đức Kitô là ai ? Ngài là ai để phải gánh lấy thập tự nhân loại. Ngài đã làm gì nên tội để phải gánh vác lỗi lầm thế gian ?
Thưa, Ngài chính là Đấng của yêu thương. Ngài chính là đường của Sự Sống. Chỉ có một con đường duy nhất mang lại sự sống vĩnh cửu đó là con đường Kitô. Là con đường yêu thương và tận diệt. Là con đường khổ giá và vinh quang. Tất cả chúng ta, ai cũng có thể bước đi trên con đường ấy và đạt được hạnh phúc bất diệt, không còn đau khổ và phải chết, chỉ cần chúng ta biết từ bỏ… không còn biết mình là ai… !
Lạy Chúa, nhu cầu tự tôn bản thân thiết yếu như nhu cầu ăn mặc, bởi không ai có thể ghét chính bản thân mình. Con người sinh ra, đã được phú bẩm bản năng bảo tồn sự sống. Vậy mà Ngài lại dạy chúng con muốn theo Ngài, muốn sống vĩnh cửu thì phải từ bỏ chính mình. Bỏ Ngài, chúng con còn biết theo ai ? Bởi chỉ mình Thiên Chúa là cội nguồn sự sống, là chốn phải tựa nương. Bỏ Ngài, chúng con biết chọn con đường nào để được hạnh phúc chứ ?
Xin giúp con, đã nhất quyết thì một lòng, kiên trung bước đi đến cùng. Dẫu thế gian là nước mắt, trái ngang và khổ đau… như một hoang mạc hoang vu, thì hệ tại ngay chính nơi ấy đã có bước chân Ngài in dấu. Con không tự quyền chọn lựa nơi để sinh ra, nhưng con có tự do để chọn lựa chốn phải đi về. Xin cho con, chỉ cần can đảm, vững vàng đặt lên dấu chân Ngài, là có thể bước đến chân trời hạnh phúc.
Giòng thơ tinh khôi, thanh sạch như gương lành người cho ra rất mát. Giòng thơ mát, là lời lẽ: TN 24-B76
Giòng thơ tinh khôi, thanh sạch như gương lành người cho ra rất mát. Giòng thơ mát, là lời lẽ thân thương Chúa nhắn bảo ở trình thuật.
Trình thuật hôm nay Thánh Máccô ghi lại tình tự Chúa nhắn bảo mọi người, ở mọi thời. Tình tự Ngài nhắn được giới khảo cổ tìm ra ở vùng Bắc Galilê và Êtruria năm 1998, nơi mà người thời nay gọi là Omrit. Các nhà khảo cổ đã tìm ra được đền thờ cao 24 mét có từ thời đế quốc Rôma hoành tráng, rất sống động. Cầu thang dẫn vào đền thờ, ở phía Đông, nơi mọi người tụ tập nguyện cầu Đấng cao sang, thần thánh.
Đền thờ này, do Hêrôđê xây để dân con mọi người phụng thờ thần Hoàng Augustus sống động. Nơi đây, người Hy Lạp gọi là đền Paneas được dựng xây để tưởng nhớ thần Pan của họ. Cũng tại chốn này, người Do Thái đời sau gọi là đền đài phụng thờ Xêda Philíphê hầu nhớ đến vua cha của họ. Đền đài, do người Do Thái kiểm soát rất chặt cốt làm vừa lòng Xêda. Hêrôđê là bạn thân của vua và coi vua này như thần linh sống động vẫn coi ngó mọi sự trên thế gian. Công cuộc dựng xây đền thờ, đã hoàn tất trước ngày Chúa Giáng Sinh, tức khởi đầu Công Nguyên mới.
Đó là bối cảnh lịch sử, qua đó Thánh Máccô thuật chuyện Chúa làm; đặc biệt hơn cả là ở chương 8 Tin Mừng do Máccô viết song song với chương 16, Tin Mừng theo Thánh Mátthêu. Chừng như, hôm ấy Chúa ra khỏi con đường Ngài vẫn đi để ghé viếng nơi này. Chừng như, hôm ấy là ngày nghỉ lễ để mọi người tưởng niệm thần hoàng của đế quốc. Cũng ở nơi này, thánh Phêrô lại đã tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống, một danh xưng do Augustus tạo ra để mừng đền thờ.
Sinh hoạt ở đền thờ, được kể lại như nội dung Tin Mừng do thánh Máccô đặt nơi miệng thủ lĩnh Phêrô để nói lên lời tuyên tín vào Đức Giêsu là Đấng Mêsia mà mọi người trông ngóng. Đặc trưng Tin Mừng theo Thánh Máccô còn ở điểm là: Máccô không thích viết về các đề tài như thế. Thành thử, Máccô mới đặt nơi Chúa cung cách bác bỏ điều mà người Do Thái thường nhấn mạnh/đặt nặng.
Ở Thánh Máccô, Đức Giêsu không chỉ đưa ra tính cách khích bác như thế, nhưng chính Ngài từng chỉnh sửa những điều mà Ngài bác bỏ theo cách rất rõ ràng. Ngài bác bỏ, bằng lời lẽ rất chắc nịch nên mới công khai khiển trách Thánh Phêrô cứ lập đi lập lại những điều ra như thế. Cụm từ “khiển trách” Thánh Máccô dùng, là để tả việc Chúa tấn công vào những gì cản trở đường lối Ngài chủ trương và coi đó là ác thần/sự dữ, rất Satăng.
Chúa khuyến cáo Thánh Phêrô không nên vội vã gọi Ngài là Mêsia ở chỗ đông người. Đổi lại, thánh Phêrô lại trách Chúa sao lại nói đến việc Ngài phải chết trong tay giới cầm quyền ở thế trần. Chúa khiển trách Thánh Phêrô và coi Thánh nhân như bị quyền lực xấu không chế, tức là điều mà Ngài coi rất nặng như Satăng. Đây, chính là mặt trái bi kịch cuộc đời được Thánh Máccô thường xuyên diễn tả.
Sau khi được Chúa cho biết về Vương Quốc Nước Trời, Thánh Phêrô xem ra vẫn chưa hiểu rõ ý Thầy muốn nói. Phêrô cứ nghĩ: Thầy mình đã lầm đường nên cứ ám ảnh mãi về thần khí xấu hiện diện nơi Ngài. Diễn tả điều ấy một cách huỵch toẹt, là bản tánh của Phêrô thiết thân gần gũi Chúa. Thế nên, Phêrô còn bị coi là kẻ nghịch chống Thầy cả về những chuyện quan yếu như thiên tính của Thầy nữa.
Lời Thánh Phêrô nói không là lời thú nhận của đồ đệ cận thân với Chúa, cho bằng ngài chỉ muốn khích bác những gì Chúa đích thân mạc khải cho thánh nhân. Chẳng thế mà, khi các thánh sử viết về Thánh Phêrô, ai cũng coi vị thủ lãnh các đồ đệ như Phêrô chân phương, quê mùa, cục mịch. Nhưng ở đây, thánh Phêrô không chỉ có thế, mà còn tệ hơn nữa. Tệ là bởi Phêrô dám ra mặt chống lại đường đi/nước bước của Thầy mình. Chống kích, cả bước mở đầu do Thầy tỏ cho biết về ơn cứu độ. Chống đối, coi như xung khắc giữa Thầy – trò, mà thôi. Và, theo các nhà chú giải, thì đặc trưng của Tin Mừng Thánh Máccô hôm nay, là viết cho cộng đoàn tín hữu ở Rôma từng liên kết mật thiết với thủ lãnh các Tông Đồ là Phêrô.
Vậy thì, vấn đề Máccô đặt ra hôm nay là điểm nào ? Nghiêm trọng ra sao ?
Ở đây, Máccô đặt nặng lên cảnh trí thấy tận mắt. Cảnh trí, là sự việc xảy ra ngay tại đền đài thờ kính hoàng đế Augustô, một “ngẫu tuợng” của dân gian thời bấy giờ. Cũng ở đây, thánh Phêrô vẫn lớn tiếng tuyên xưng Thầy mình là Đấng tốt lành và linh thánh hơn cả thần hoàng Augustô, tức bậc chủ quản bi hài kịch phụng thờ đang diễn tiến. Bằng vào thoả thuận mới, Đức Vua của mọi thần linh lãnh chúa cũng như thần hoàng Augustus, Đức Giêsu muốn sự việc ấy xảy đến, một cách cao sang, thật vô giá. Tức, vấn đề đặt ra là ý tưởng về Thiên Chúa Tối Cao quyền thế hơn mọi thần ở trần gian.
Vấn đề, còn hỏi rằng: Thiên Chúa đích thực có là Hoàng Thượng Cao Sang theo kiểu Augustus, hoặc vị nào khác cũng rất thần và rất linh không ? Thật ra thì, có khác biệt ở đây là ở chỗ: Đức Vua của mọi thần vẫn kín đáo, nhân từ, tuy không uy lực nhưng vẫn bị khích bác, coi thường! Khác biệt còn ở điểm: trong khi Thánh Phêrô có trong đầu loại hình thần tượng rất phàm tục, thì Thầy Chí Ái vẫn qui về Đấng Chí Thánh đích thực là Chúa mọi thần linh, thánh ái. Và, mọi người ở dưới thế phải chọn lựa giữa hai vị. Hoặc chọn Thiên Chúa là Đấng Chí Ái ở trên cao, hoặc thần linh ngẫu tưỡng ở dưới thế, rất phàm trần. Nếu không chọn, chẳng một ai hiểu biết tính thánh thiêng Chí ái của Đức Chúa.
Viết Tin Mừng, Thánh Máccô là người ghi chép sự việc xảy đến với Chúa, rất ban đầu. Trong khi đó, thánh Mátthêu và Luca khi viết Tin Mừng, lại đã có sẵn bản Tin Mừng của Thánh Máccô ở trước mặt, để doãn lại sự việc theo quan điểm tư riêng của mỗi vị. Bởi lẽ, các thánh sử đi sau chỉ muốn doãn lại những gì đã được viết, nay thay đổi tình tiết hầu coi đó như một tuyên tín, chứ không muốn đưa ra một đối chọi tư tưởng, nơi trình thuật.
Hôm nay, Hội Thánh Chúa cũng đã yên vị trên nền đá góc tường là Thánh Phêrô, cả về lời tuyên xưng của bậc trưởng thượng ở bên trên các vị lành thánh, ngẫu tượng đến mai rày. Và, Hội Thánh Chúa nay chọn cả hai cách để diễn tả thiên tính của Đức Giêsu đồng thời tuyên dương việc Chúa chấp nhận cái chết khổ nhục trên thập giá. Ở đây nữa, Đức Giêsu đã chiến thắng sự chết để Ngài trở nên cao cả và quyền thế hơn mọi thần linh ngẫu tượng ở thế trần. Có làm thế, niềm tin vào Chúa sẽ là ví dụ cụ thể về sự thể nói lên rằng: Đức Giêsu là Đấng cao cả hơn mọi thần mọi tượng ở trần gian.
Làm như thế, Hội Thánh cũng giống như thánh Phêrô khi xưa, tức cũng đối đầu với Chúa theo cách nghĩ suy của người phàm. Và, hôm nay nữa, Chúa lại cũng yêu cầu dân con mọi người hãy cố tìm cho ra diện mạo của Ngài qua người con bé bỏng, ở thế trần. Bởi, thiên tính của Chúa không như người đời nghĩ vẫn không ngự trị ở chốn cao sang quyền quí, như thần tượng ngự ở cõi thế. Trái lại, Vua của mọi thần và tượng, chỉ ở với người bé bỏng, không quyền lực, chẳng cao sang, giàu có.
Chính vì thế, Chúa mới thách thức đấng bậc trị vì thế gian: “hãy phá huỷ đền thờ này đi, chỉ trong 3 ngày” Ngài sẽ dựng lại, rất y hệt. Nghe Ngài nói, hẳn dân con mọi người sẽ liên tưởng đến vấn đề mọi người đang gặp vấp phải, là: cứ mải mê chạy theo những gì bề thế, uy nghi, lẫy lừng như đền thờ của Xêda Philíphê, rất Augustus. Bởi lẽ, tất cả sẽ phải bỏ ra nhiều hơn 3 ngày mới dựng được ngôi đền đích thực, tức sự việc ta đang sống. Bởi lẽ, ngay cả Chúa cũng thấy vấn đề xảy đến với Hội Thánh và thế trần như đền đài cao sang, bề thế nhưng lại không mang tính nhân vị, nhân bản, giúp mọi người.
Thánh Phêrô khi xưa đã mất rất nhiều ngày mới nhận ra sự thật Chúa bày tỏ ở trên. Những tháng ngày, thánh nhân cứ ngang qua và rong ruổi rồi khích bác, chối bỏ hoặc đấu tranh. Những tháng ngày xảy đến với với Hội Thánh. Với người anh em đồng môn/đồng thuyền trước khi đi đến kết đoạn rất “hậu” là tin vào Chúa qua anh em; qua mọi người con nhỏ bé, ở trong đời. Một kết đoạn đắt giá cho thủ lãnh các đồ đệ, cả vào lúc đi theo Thầy hoặc bắt chước Thầy đặt chân xuống nước, suýt chết chìm.
Là bậc trưởng thượng từng đoan quyết: “Bỏ Thầy con bước theo aI ?” thế mà vị thủ lãnh các đấng thánh vẫn theo, vẫn bước và thuần phục quyền lực thế gian, như Hội Thánh hôm nay. Chính thánh nhân, được coi là đấng bậc hiền lành như “Đức Thánh Cha” vẫn “vô ngộ” như bao giờ, nhưng lại ngã quỵ nhiều hơn ai hết. Bởi thế nên, là người thường, ta dám nói mà không sợ sai lầm, rằng: Thánh Phêrô là mẫu người điển hình cho những người vô cảm coi Chúa và thập giá như mối nhục, cho con người.
Từ đó, câu hỏi cuối đặt ra cho mỗi người và mọi người, là: Cho đến bao giờ, ta mới hiểu và biết rằng: Hội Thánh sẽ không là và không thể là thoả hiệp nhượng bộ giữa hai nhân vật ở đầu mút, tức một Augustus rất cao cả và Đấng Thánh Hiền nhỏ bé tức Đức Chúa của ta ?
Trong tâm tình chờ đợi một quyết định chọn lựa, cũng nên ngâm lại lời thơ vang trên, rằng:
“Ta cho ra một giòng thơ rất mát, Tới tinh khôi và thanh sạch bằng hương. Trời như hớp phải hơi men ngan ngát, Đắm muôn ngôi tinh lạc xuống mười phương.” ( Hàn Mặc Tử – Nguồn Thơm )
Giòng thơ đây, nguồn thơm ấy, vẫn là quyết định chọn Xêda hay Đức Chúa, hôm nay. Chọn sự cao cả ở trần thế hay thương yêu hết mọi người. Đó chính là vấn đề của thời đại. Rất mai ngày.
Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ với đòi hỏi hết sức lạ lùng, đó là “từ bỏ và vác thập giá”.: TN 24-B77
Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ với đòi hỏi hết sức lạ lùng, đó là “từ bỏ và vác thập giá”. Những ai đáp ứng được yêu cầu ấy thì mới “xứng đáng làm môn đệ Thầy”.
Tại Xêdarê Philipphê, Chúa hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai ?". Từ từ Chúa dẫn đưa các ông đến câu hỏi quan trọng nhất, xác tín nhất: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ? ".
Chúa Giêsu có thể tự giới thiệu về mình, tự nói lên căn tính của mình. Nhưng Người đã không làm thế. Chúa muốn người môn đệ phải tự khám phá ra Thầy của mình là ai. Chúa muốn lời tuyên xưng của người môn đệ phải phát xuất từ nỗ lực tìm hiểu và cảm nghiệm chân thực trong cuộc sống sinh hoạt với Người.
Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế, Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người. Con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”.
Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Chúa không lừa mị, không hứa hẹn những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ đường ngay nẻo chính và muốn những ai theo Người phải dũng mạnh, can đảm, quyết liệt. Vì thế, Chúa nói thẳng thắn với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.
Muốn theo Chúa, các môn đệ phải “từ bỏ và vác thập giá”.
1. Từ bỏ
Chúa đòi buộc người theo Chúa phải từ bỏ, phải đặt tất cả dưới Người, phải yêu Người trên mọi sự. Đưa ra đòi hỏi này và biết đó là một chọn lựa khó khăn nên Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ cần biết tính toán cẩn thận rồi mới chọn lựa dứt khoát. Muốn xây tháp cần tính toán có đủ tiền bạc không. Muốn thắng trận cần có lính tráng. Muốn theo Chúa phải từ bỏ. Từ bỏ ý riêng, từ bỏ sự tự do, từ bỏ những điều mình ưa thích khi những điều ấy đi ngược lại với lời dạy của Chúa hay làm cho bản thân xa cách Người.
Từ bỏ là quy luật của cuộc sống và sự phát triển. Thai nhi không thể ở mãi trong lòng mẹ cho dẫu nơi đó an toàn, êm ấm nhất. Đứa trẻ phải từ giã lòng mẹ để sinh ra làm người. Đứa trẻ không thể nào trưởng thành nếu nó cứ sống mãi bằng sữa mẹ, nó phải thôi bú, ăn cơm bánh mới lớn lên. Cuộc sống đặt con người trước những sự lựa chọn. Chọn lựa là giới hạn. Chọn điều này phải bỏ điều kia.
Sống là chấp nhận từ bỏ. Chọn những điều tốt loại bỏ những điều xấu. Có những điều xấu cần từ bỏ như cờ bạc, rược chè, ma tuý, truỵ lạc, trộm cắp, gian dối… Cũng có những điều tốt phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn. Chẳng hạn, khi chọn trường học, chọn nghề nghiệp, chọn nơi ở, chọn bậc sống, chọn bạn bè, chọn vợ chồng. Thanh niên nam nữ khi tìm hiểu nhau thì có nhiều người nhưng khi chọn vợ chồng, chỉ chọn một mà thôi. Từ bỏ đòi hỏi nhiều hy sinh. Mỗi sáng thức dậy đi lễ, bỏ lại chiếc giường êm ấm. Mỗi tối gia đình tắt tivi để cùng quy tụ đọc giờ kinh hạt. Giữ Thánh Lễ Chúa Nhật, bỏ công việc làm ăn có nhiều lợi nhuận. Bỏ đi một tật xấu để tập một nhân đức. Cao cả hơn, bỏ đời sống hôn nhân để sống đời tận hiến cho Chúa…
Sự từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Khi yêu người ta cảm thấy nhẹ nhàng. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập. Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình.
Từ bỏ giống như cuộc leo núi. Leo núi là một cuộc mạo hiểm. Đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ. Nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo, lòng can đảm. Càng lên cao, người leo núi càng hưởng nhiều niềm vui, càng tắm mình trong ánh sáng chan hoà và được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ.
2. Vác thập giá
Theo Chúa giống như đi leo núi. Thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.
Thập giá đi liền với tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng. Nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Thập giá phát xuất từ tình yêu của Đấng Cứu Độ.
Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thập giá. Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó, thập giá là biểu tượng của đau khổ.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người.
Tình yêu như là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến với niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ gánh nặng và buồn chán. Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Hôm nay, nơi nào có bóng thập giá là nới ấy có dấu chân người Kitô hữu. Ba cây thập giá dựng lên chiều thứ sáu tử nạn, Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là Thánh Giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Người đi vào đời sống mới thì cây thập giá khốn khổ ấy trở thành cây cứu rỗi và trở nên thánh thiêng. Sự thánh thiêng ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết và là vinh quang. Không có tình yêu thì thập giá không là Thánh Giá.
Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành Thánh Giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.
Đức Giám Mục Louis Désiré Maigret là vị Đai Diện Tông Tòa ( Vicar Apostolic ) tại Hawaii: TN 24-B78
Đức Giám Mục Louis Désiré Maigret là vị Đai Diện Tông Tòa ( Vicar Apostolic ) tại Hawaii, nhận thấy nhu cầu cần một vị chủ chăn thường trú tại một trại cư trú dành cho người phong, nhưng ngài ngùng không dám “nhân danh Đức Vâng Lời” để chỉ định và bắt buộc một Linh Mục nào chấp nhận “án tử hình”. Ngài muốn các vị chủ chăn tình nguyện cho việc Tông Đồ cao cả này.
Sau buổi cầu nguyện tại Nhà Thờ Thánh Antôn, tại Đảo Maui, thì có bốn Linh Mục sẵn sàng tình nguyện thay phiên nhau lần lượt đi giúp Trại Phong Hủi. Cha Damien tình nguyện đi tiên phong, ngày 10 tháng 5 năm 1873. Ngài còn tình nguyện ở lại luôn tại Trại để chăm sóc 816 bệnh nhân cà hồn lẫn xác, không phân biệt tín ngưỡng. Năm đó, cha Damien, mới 33 tuổi, và ngài được tiếng là “khoẻ như voi.”
Vào năm 1875, tự tay ngài đã xây cất được sáu Nhà Nguyện nhỏ, chăm nom y tế cho các bệnh nhân. Ngài đi từng nhà băng bó, phát thuốc và dạy cách giữ vệ sinh. Tự tay đóng được 2.000 chiếc quan tài, và tự mình chôn cất bệnh nhân trong “Vườn Kẻ Chết”. Ngài từ chối tước hiệu do chính quyền Hawaii ban tặng và khoản tiền lương 10.000.USD, vì cho rằng như thế là “can thiệp” vào việc Tông Đồ của ngài, nhưng ngài vui lòng nhận những vật liệu do chính quyền cung cấp để xây một nhà riêng dành cho nam thanh niên và một cư xá cho nữ.
Vào năm 1876, cha Damien, đã nhận thấy có những vết khô trên da thịt, cảm thấy sốt nóng nơi chân, và mất hẳn cảm giác khi đổ nước sôi trên chân trái. Ngài đã sống nhiều năm, chứng kiến cái chết đến với các bệnh nhân. Ngài không sợ chết, cũng không ngần ngại chấp nhận cái chết.
Chúa Nhật đầu tháng 6 năm 1885, cha Damien dâng Thánh Lễ tại Nhà Thờ Thánh Philomena do chính ngài đã xây cất. Sau khi đọc bài Tin Mừng, ngài quay về các bệnh nhân, và không nói những lời chào thưa như mọi khi: “Anh chị em thân mến” nhưng ngài tuyên bố một câu làm rung động khắp Nhà Thờ và chấn động cả thế giới: “Chúng ta, những bệnh nhân phong hủi…” ( We lepers… )
Và ngày 15.4.1889, lúc 8 giờ sáng, ngài tắt hơi thở cuối cùng, thọ 49 tuổi, nét mặt vẫn tươi vui “như em bé đi ngủ”. Ngày 11.10.2009, Đức Giáo Hoàng Bêneditô XVI, tại Đại Thánh Đường Thánh Phêrô, Roma, đã Phong Thánh cho cha Damien và bốn vị Thánh khác.
Như vậy, Thánh Damien đã toàn tâm toàn ý theo chân Chúa, hoàn toàn tuân thù và vâng phục Lời Chúa: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” ( Mc 8, 35 ).
Trình thuật Tin Mừng hôm nay tiết lộ về thân phận Chúa Giêsu, cùng điều kiện theo Người. Tuy chỉ vỏn vẹn 9 câu, nhưng có đến 3 thái độ của Chúa đối với Tông Đồ Phêrô, các môn đệ và dân chúng. Chúa đã tỏ ra vui mừng, tức giận và ôn tồn khoan dung.
Chúa khen
Chúa Giêsu lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Ông Phêrô mau mắn trả lời: “Thầy là Đấng Kitô” ( Mc 8, 29 ). Chúa liền vui mừng khen ngợi: “Này anh Simon, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” ( Mt 16, 17 ). Liền theo lời khen, Chúa giải thích vì sao Tông Đồ Phêrô lại nói rất đúng về Người. Đó chính là nhờ Đức Chúa Cha mặc khải riêng cho Phêrô điều huyền nhiệm đó.
Chúa la
Nhân vì điều mặc khải ấy, Chúa Giêsu thân mật loan báo cuộc khổ nạn sắp đến của Người, để các Tông Đồ cùng hiệp thông chia sẻ. Nào dè, Tông đồ Phêrô quá sức nhiệt tình thương mến Thầy, liền kín đáo kéo Thầy ra can ngăn, phiền trách Người: “Xin Thiên Chúa thương, đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” ( Mt 16, 22 ). Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ đang dõi mắt trông theo, liền công khai la mắng Phêrô: “Vade retro Satana ! Satan xéo ngay đi !”
Lời can ngăn chí tình thầy trò mà bị mắng nhiếc quá nặng lời. Bởi vì Chúa đồng hóa lời can ngăn đó, như lời cám dỗ của Satan trước đây trong hoang mạc, hòng phá hỏng công trình cứu thế. Do vậy, Chúa mới giận dữ, xung thiên nộ khí. Vô tình, ý ngay lành của Tông Đồ Phêrô lại trùng khớp với ý đồ của Satan. Với cái nhìn thiển cận, với cái tâm hạn hẹp, loài người làm sao hiểu thấu nổi Thánh Ý cao cả.
Chúa dạy
Chúa vẫn biết tấm lòng thành của Tông Đồ Phêrô, vẫn luôn yêu mến Thầy. Chẳng qua, Phêrô vẫn chưa hiểu thấu đáo sứ vụ của Người. Hơn nữa, theo tính xác thịt tự nhiên, thì ai mà chẳng ham sống, sợ chết. Nhất là cái chết ấy còn liên lụy đến bản thân mình, đến các môn đệ.
Chính vì thế, Chúa Giêsu mới ôn tồn giảng dạy cho các môn đệ và muôn dân về điều kiện theo Chúa. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” ( Mc 8, 34 – 35 ). Các Thánh Tông Đồ sau này đều liều mạng sống vì Chúa để làm chứng nhân Tình Yêu.
Thánh Damien cũng thế, sẵn sàng đánh đổi cuộc đời vì Chúa và Tin Mừng. Ngài đã “thí mạng cùi” phục vụ tha nhân, không chút ngần ngại e dè. Mạng sống con người tuy cao quý, vì do Chúa tạo dựng, nhưng nếu phục vụ cho mục đích cao cả vì Chúa, thì trở nên phương tiện tốt lành để đổi lấy đời sau vinh phúc. Bằng không, chỉ lo phụng dưỡng “tôn thờ cái bụng” như Thánh Phaolô đã nói, thì cái thân xác rồi cũng dần hao mòn, chết đi và mục nát theo dòng thời gian, nào khác bị phung cùi hủy hoại.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết từ bỏ ý riêng, từ bỏ đam mê, từ bỏ tội lỗi, để sống theo Thánh Ý, theo Tin Mừng, để con khỏi bị Chúa khước từ, xua đuổi.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn mãi đồng hành với con trên nẻo Đường Hy Vọng, để con cùng Mẹ, với Mẹ và nhờ Mẹ, vác thập giá theo chân Chúa trọn đời. Amen.
Thật tội nghiệp cho Phêrô, chỉ vì thương Thầy, không muốn Thầy phải chịu đau khổ mà lại… bị mắng: TN 24-B79
Thật tội nghiệp cho Phêrô, chỉ vì thương Thầy, không muốn Thầy phải chịu đau khổ mà lại… bị mắng ! Nặng nề hơn, lại bị coi là Satan “không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”. Thế nào là việc Thiên Chúa, thế nào là việc loài người ? Chính tôi cũng còn mơ hồ…
Còn nhớ có lần được chứng kiến một vị cha sở ra công xây dựng Nhà Thờ, tôi rất lấy làm kính ngưỡng. Dạo đó, việc xây dựng Nhà Thờ đâu phải dễ dàng gì ! Mức sống người dân còn thấp. Cha phải đi chạy chọt xin chỗ này chỗ nọ… Rồi cha kêu gọi “thắt lưng buộc bụng”… Mọi khoản đóng góp có được đều dành cho việc xây dựng Nhà Thờ. Không có phần thưởng Giáo Lý, không còn bồi dưỡng lễ sinh hay ca đoàn, không cờ quạt, không rước xách… Thậm chí cha còn kêu gọi “quy ra thóc” những quà mừng Bổn Mạng hay kỷ niệm Linh Mục của cha để cha mua… xi măng. Tôi thầm phục quyết tâm cao của cha và thường gọi đó là “lòng nhiệt thành Nhà Chúa”. Nhưng cũng vì tấm lòng “nhiệt thành Nhà Chúa” ấy mà trong quá trình xây dựng, không ít người… lặng lẽ rút lui !
Rồi cũng đến ngày công trình hoàn thành, Đức Cha về dâng lễ khánh thành đặt tấm đá ghi tên cha trang trọng ngay trước tiền đường. Hàng ngày, cha đi ra đi vô đọc Kinh Nhật Tụng đều dừng chân trước tấm đá ấy. Nhưng Nhà Thờ thì chỉ còn có mấy ông bà cụ nghễnh ngãng là năng lui tới. Lớp Giáo Lý thưa thớt, Hội Đoàn rời rạc, Thanh Niên vắng bóng, Thiếu Nhi Thánh Thể chẳng còn, Lễ Sinh chỉ giúp lễ Chúa Nhật. Các ông bà “cựu Hội Đồng Giáo Xứ” ngồi lại hay nhắc về thời hoàng kim khi còn ngôi Nhà Thờ xập xệ cũ với nhiều tiếc nuối…
Thì ra, coi vậy mà không phải vậy ! Tôi cũng từng nghe một Cha giảng trong tuần tĩnh tâm dành cho các bậc cha mẹ: “Satan tinh quái lắm ! Nó không cám dỗ bằng cách rủ rê đi karaoke hay vũ trường đâu. Nếu chỉ như thế, nó không phải là Satan. Nó khôn khéo dụ khị chúng ta đi đọc kinh, tham gia hội đoàn, tổ chức lễ lạc… Rồi từ từ nó thổi phồng cái “tôi” của mỗi chúng ta lên, gieo vào đầu ta ý nghĩ không có ta thì mọi chuyện không suôn sẻ, xúi ta bỏ bê việc nhà để lo việc thiên hạ… Cuối cùng, ta chỉ lo chăm chắm làm cho sáng danh ta chứ không phải sáng Danh Chúa.”
Tôi sống giữa một xóm đạo khá nề nếp, bên phải là nhà bà Hội trưởng các Bà Mẹ Công Giáo, bên trái là nhà ông phó chủ tịch Hội đồng Mục vụ giáo xứ. Tuy nhiên, chén bát trong chạn còn va nhau huống hồ… Một hôm tôi nghe có tiếng nói lớn phát ra từ nhà bên phải:
- Bà có đi cũng vừa vừa phải phải… Bà có biết cha con tôi 3 hôm nay phải ăn mì tôm không ?
- Ơ hay, cái ông này, sắp tới Bổn Mạng Giáo Xứ, các bà mẹ phải tập trung tập mấy cái hoạt cảnh cho đêm diễn nguyện chứ có phải thường xuyên vậy đâu !
- Ừ, thì không thường xuyên. Vậy mà, tuần trước có người bạn đến chơi, tôi lấy bình trà ra chế để mời khách thì thấy bình vẫn còn xác trà mấy ngày lên mốc, rồi mấy cái tách cũng đóng bợn trà vàng ố. Thậm chí, bàn ghế bụi bặm trông mà xấu hổ với khách…
- Thế ông cưới tôi về để phục dịch ông đấy hả ? May là tôi chỉ đi công tác Nhà Thờ chứ ông gặp trúng con mẹ đỏng đảnh nó cũng đi suốt ngày mà lại tốn thêm tiền son phấn giày dép cho nó nữa đấy !
- Thì… công tác gì bà cũng phải dành thời gian cho gia đình với chứ !
- Ông không nhớ hôm lễ Bổn Mạng các Gia Trưởng, Cha xứ nói gì à ? Ngài nói: “Một người phục vụ thì những người khác trong gia đình phải hy sinh”. Ông xem, ông có làm được chút gì cho Giáo Xứ không ? Ngay cả đọc Sách Thánh cũng không tới phần ông. Vậy thì, phải hy sinh một chút chớ. Ăn mì tôm có 3 bữa đã than thì làm sao vác Thánh Giá mỗi ngày ?
Đến đoạn trích dẫn Lời Chúa, lời cha xứ thì ông chồng đành làm thinh…
Một hôm khác tôi lại nghe từ nhà bên trái: - Chiều nay, ông bớt chút thì giờ đi họp phụ huynh cho thằng Út cái. Nó bỏ học cả tuần nay đi chơi game, nhà trường mới gửi giấy mời kìa.
- Trời đất, bà ở nhà làm gì mà nó bỏ học đi chơi game cả tuần nay không biết ? Đúng là, “con hư tại mẹ !”
- Ông có thấy cả trăm thứ việc “không tên” đang chờ tôi đây không. Còn ông, cứ rảnh một chút là nhà thờ, họp hành xong lại… lai rai chút đỉnh. “Một tiếng cha ngăm hơn trăm lời mẹ dặn”, mà ông thì có phút nào quan tâm tới nó đâu ?
- Bà có thấy Nhà Thờ mình đang sơn lại không ? Tôi mà hở ra một cái là tụi nó làm bầy hầy ngay, lại tốn thêm công thêm của. Rồi cũng phải “giao lưu” với tụi thợ một chút để nó làm đàng hoàng cho mình. Bà coi, trong Giáo Xứ này có ai đảm đương được những việc ấy ?
- Tôi thấy thà như anh B. bên kia, chẳng vai vế gì mà dạy dỗ con cái đàng hoàng…
- Bà khéo so sánh quá há? Chúa ban cho ông B. có một nén thì ổng an phận chừng đó, còn Chúa ban cho tôi 5 nén mà bà không cho tôi làm lời ra, mai mốt ra trước tòa phán xét bà phải trả lẽ à !...
Nghe đến đó, chị vợ nín khe !
Qua Lời Chúa hôm nay, tôi đã lờ mờ hiểu ra rằng: Nếu chỉ hệ tại ở những kết quả tốt đẹp, hào nhoáng bên ngoài thì “việc của Thiên Chúa” chẳng khác gì “việc của loài người”. Việc của Chúa đòi tôi phải từ bỏ bản thân như lời tiên tri Isaia: “Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt giấu mày, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi.” (Is. 50, 5-6) Việc của Chúa đòi tôi phải từ bỏ mạng sống: “Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình” ( Mc 8, 35 ). Việc của Chúa đòi tôi phải thực hiện bằng Đức Tin chứ không phải bằng hư danh: “Nếu ai nói mình có Đức Tin, mà không hành động theo Đức Tin, thì nào có ích gì ? Đức Tin như thế có thể cứu được nó ư ?” ( Gc 2, 14 ). Việc của Chúa không nguy nga, hùng vĩ như tôi hằng tưởng tượng:
Việc của Chúa là lặng lẽ quét dọn vệ sinh như Thánh Martino Porres đảm trách.
Việc của Chúa là âm thầm phục vụ người cùi như cố Giám Mục Jean Cassaigne đảm nhận.
Việc của Chúa là vẽ nên Đường Hy Vọng bằng từng Chấm Hy Vọng như Đức Cố Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận đã sống và diễn tả.
Cứ làm mọi việc bằng Đức Tin và lòng yêu mến, còn muốn biết kết quả thì hãy lắng nghe Mẹ Têrêxa Calcutta:
Kết Quả của Thinh Lặng là CẦU NGUYỆN. Kết Quả của Cầu Nguyện là ÐỨC TIN. Kết Quả của Ðức Tin là TÌNH YÊU. Kết Quả của Tình Yêu là PHỤC VỤ. Kết Quả của Phục Vụ là BÌNH AN.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm Đức Tin cho chúng con, để chúng con có thể phân biệt đâu là việc của Thiên Chúa và đâu là việc của loài người. Nhờ đó, chúng con biết dành trọn tâm lực cho những việc đem lại cho chúng con sự sống đời đời cho dù phải chịu nhiều thiệt thòi, chê bai, ruồng bỏ… Amen.
Truyện kể rằng vua Chosroes nước Ba Tư, trong một cơn bệnh trầm trọng, đã suy nghĩ về cuộc sống: TN 24-B80
Truyện kể rằng vua Chosroes nước Ba Tư, trong một cơn bệnh trầm trọng, đã suy nghĩ về cuộc sống của mình. Sau khi bình phục, vua triệu tập các cận thần và hỏi họ: "Trẫm muốn biết những gì các khanh đang chờ đợi nơi trẫm. Các khanh có nghĩ rằng trẫm là một quân vương tốt không? Đừng sợ, cứ nói lên hết sự thật, trẫm sẽ thưởng cho mỗi người một viên ngọc quí". Thế là các quan thay nhau lên tiếng ca ngợi vua. Người nào cũng tìm những lời tốt đẹp nhất khen lao tâng bốc vua. Khi đến lượt Elim, vốn là một người khôn ngoan và chính trực, ông tâu: "Thưa bệ hạ, thiết tưởng thần nên giữ thinh lặng thì hơn, vì sự thật không thể mua bằng tiền bạc". Vua tuyên bố: "Được. Trẫm sẽ không thưởng cho ngươi vật gì cả. Nào, hãy nói những gì khanh đang suy nghĩ trong lòng". Elim thưa: "Tâu bệ hạ, vì bệ hạ muốn biết những điều hạ thần đang nghĩ trong lòng. Hạ thần nghĩ rằng bệ hạ cũng chỉ là người như mọi người khác, cũng có những lầm lỗi và tật xấu. Nhưng những lầm lỗi và tật xấu ấy lại đè nặng trên dân chúng vì siêu cao thuế nặng... Thần nghĩ rằng bệ hạ đã tiêu xài quá nhiều để tổ chức tiệc tùng, để xây cất dinh thự, và nhất là để theo đuổi chiến tranh".
Nghe những lời ấy, nét mặt vua bỗng trở nên trầm ngâm suy nghĩ. Rồi vua sai tặng cho các cận thần mỗi người một viên ngọc như đã hứa. Riêng Elim thì được bổ nhiệm lên chức tể tướng. Ngày hôm sau, các quan nịnh bợ trở lại triều đình tâu vua: "Tâu bệ hạ, kẻ nào bán ngọc qúi cho bệ hạ đáng phải treo cổ. Những viên ngọc ấy toàn là ngọc giả". Bấy giờ vua lên tiếng: "Trẫm biết đó toàn là ngọc gỉả, cũng như những lời tâng bốc giả dối của các ngươi".
Tin mừng theo Thánh Marcô cũng tường thuật Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông lần lượt thưa: "Kẻ thì bảo là Gioan Tẩy Gỉa, kẻ thì bảo là Elia, kẻ khác thì nói đó là một tiên tri" (27-28). Nhưng Chúa Giêsu chưa hài lòng về những câu trả lời đó, Ngài đã thấu rõ lòng các ông thế nào rồi chẳng cần phải nói ra, nhưng để các ông khám phá Ngài là ai trong cuộc sống các ông, nên Ngài hỏi tiếp: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Phêrô thưa: "Thầy là Đức Kitô" (29). Vì được trời cao mạc khải nên Phêrô đã trả lời đúng. Tuy nhiên trong thâm tâm của Phêrô và các môn đệ cũng như người Do thái thời đó đều mong ước một Đấng Kitô đến để giải phóng dân Israel khỏi ách thống trị của Rôma, làm cho nước Israel nên cường thịnh. Một Đức Kitô họ nặn ra theo ý họ hơn là một Đức Kitô do Thiên Chúa Cha sai đến. Vì thế khi Chúa hé mở cho các môn đệ thấy Ngài lên Giêrusalem và phải chịu đau
khổ nhiều, phải chết đi rồi sống lại, Phêrô đã kéo Ngài ra ngoài can ngăn.
Câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ xưa, Ngài cũng muốn hỏi từng người chúng ta hôm nay. Chúng ta không thể chỉ trả lời theo như điều chúng ta học biết trong sách vở hay nghe người khác nói. Nếu như thế, chúng ta theo Chúa chỉ mới hời hợt mà thôi. Nhưng Chúa muốn chúng ta phải nhận thức Ngài là ai, trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Vậy để trả lời đúng, chúng ta phải sống như Ngài đã sống. Chúng ta phải Kitô hoá đời sống mình, nghĩa là phải cố gắng tập nhìn bằng mắt Chúa, nghe bằng tai Chúa, nói năng bằng miệng Chúa, hành động bằng tay Chúa, suy tưởng và phán đoán bằng tâm trí Chúa. Nói cách khác, phải xin Chúa cho tinh thần Ngài thấm nhập vào mọi hành vi cử chỉ của chúng ta. Thế nhưng để nên giống Chúa Kitô chúng ta phải siêng năng chiêm ngắm cuộc đời Chúa Kitô Đấng đã tận hiến mình trọn vẹn cho Cha, hoàn toàn vâng phục Cha đến nỗi sẵn sàng chết và chết trên thập gía để làm trọn ý Cha.
Lạy Cha, chúng con nài xin Cha, qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, xin ban tràn đầy Thánh Thần cho mỗi người chúng con, để soi sang và hướng dẫn lòng trí chúng con luôn theo sát gương Chúa Kitô Con Cha, để chúng con bắt chước Người mọi giây phút trong cuộc sống, hầu chúng con thực đáng gọi là Kitô hữu, là người bạn thân của Chúa Kitô Con Cha. Nếu không, chúng con cũng chỉ là những kẻ nịnh bợ gỉa dối. Rốt cuộc, có lẽ Chúa cũng chỉ thưởng cho chúng con những viên ngọc gỉa.
Lm Gioan B. M.
Tư tưởng, lời nói phải đi đôi với hành động
chúa nhật 24 thường niên, năm B
Môn đệ hỏi thầy: "Thưa thầy đâu là hành động cao trọng nhất con người có thể thực hiện được?"
Sư phụ đáp: "Ngồi suy niệm."
Môn đệ thắc mắc: "Thưa Thầy, ngồi suy niệm như vậy sẽ dẫn đến sự thụ động chứ đâu phải hành động."
Sư phụ: "Đúng vậy, đó là một sự thụ động."
Môn đệ: "Thụ động thì không thể xem là cao trọng, phải không thưa Thầy?"
Sư phụ: "Sự thụ động là sức sống của hành động. Không có sự thụ động sẽ dẫn đến những hành động chết."
(Anthony de Mello, "One minute wisdom"- Double Day, NY 1985)
Bài suy niệm này được soạn trong khi giới điện ảnh và báo chí thi nhau khai thác những dữ kiện liên quan đến cuốn phim "Da Vinci Code". Một số nhà lãnh đạo tinh thần hô hào việc tẩy chay việc xem phim này, vì họ lo sợ những người thiếu hiểu biết sẽ bị lung lay đức tin sau khi xem phim. Một số khác thì bình tĩnh hơn, lợi dụng cơ hội để chọn chính đề tài này trong việc giảng dậy giáo lý hay trên bục giảng. Họ nhấn mạnh rằng đây chỉ là một phim giả tưởng mà người xem chỉ nên tin như tin một câu chuyện tiểu thuyết, không có thật.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cảnh Đức Kitô thẩm vấn các môn đệ của Người: "Người ta bảo Thầy là ai?" Và họ trả lời: "Gioan Tẩy Giả, tiên tri Elijah, hoặc một tiên tri nào đó..." Và chúng ta biết câu chuyện diễn tiến như thế nào. Vấn đề là mỗi người chúng ta phải có sự trả lời cho Đức Kitô về câu hỏi: "Đối với tôi, Đức Kitô là ai?" Và chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi đó một cách sâu xa và chân chính, sau khi chúng ta suy tư, học hỏi và quyết tâm chọn để Đức Kitô chiếm một vị trí quan trọng trong tâm trí của mỗi người chúng ta. Tìm hiểu và học hỏi không chỉ để biết Đức Kitô từ đâu đến, con nhà ai v.v... nhưng điều cốt yếu là tìm hiểu giáo huấn, sứ mạng và cuộc sống của Người. Vô tri bất mộ. Không hiểu thì không yêu được và không yêu thì không chọn ký thác cuộc đời cho người đó được. Một khi đã chọn rồi, thì chúng ta hãy sống chết với sự lựa chọn đó, để mỗi khi những biến cố "Da Vinci Code" khác nổi lên, chúng ta sẽ không bị lay chuyển và nao núng.
Để thực sự chọn Đức Kitô làm đối tượng duy nhất trong cuộc sống, chúng ta phải tìm hiểu, suy niệm, chọn, xác tín và hành động như chính Đức Kitô, những hành động đi ngược với trào lưu của xã hội, những hành động đi ngược lại sự mời gọi của Satan. Nếu chọn những tư tưởng, lời nói hay hành động do thần dữ xui khiến, thì chúng ta sẽ nghe Đức Kitô lên tiếng: "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mc 8:33). Tìm hiểu, tin và theo Đức Kitô không khó, nhưng sống cách sống của người là một thách đố: "Ai muốn theo ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8:34-35).
Bài đọc hai hôm nay trích từ thư Thánh Giacobê tông đồ nhắc nhở cho chúng ta biết "Đức tin không việc làm là đức tin chết." Còn câu chuyện do Anthony de Mello kể trên thì xác định rằng, hành động mà không đi đôi với sự chiêm niệm cũng sẽ dẫn đến sự chết. Phải chăng hai xác quyết này lại là một sự mâu thuẫn? Chiêm niệm và hoạt động là hai thực trạng không thể tách rời được. Cuộc đời của Đức Kitô đầy dẫy những gương cầu nguyện, ăn chay và hành động. Chiêm niệm chuẩn bị cho hành động và hành động phải được nuôi dưỡng bằng sự chiêm niệm. Cuộc sống của các Thánh cũng không thiếu những gương sáng về việc chiêm niệm và hoạt động. Điều quan trọng vẫn là động lực hay đối tượng của việc chiêm niệm và hoạt động. "Các Thánh không phải là những người có nhiều bằng cấp hoặc những con người đạt được nhiều thành công vượt bực. Họ là những người với một hai tính cách rất giống nhau, nhưng ít ai nhận ra. Những gì họ nói luôn đi đôi với cuộc sống và việc làm của họ (Keith Miller).
Lậy Chúa, con muốn noi gương Chúa, để tư tưởng và lời nói luôn đi đôi với hành động trong cuộc đời của con.
(Suy niệm Tin Mừng Mác-cô (8, 27-35) thuộc Chúa Nhật 24 thường niên)
Hôm ấy, “Đức Giê-su và các môn đệ của Người đi tới các làng xã... Như thế, người Do-thái đương: TN 24-B81
Hôm ấy, “Đức Giê-su và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai? " Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” (Mc 8, 27-28)
Như thế, người Do-thái đương thời không biết đích xác Chúa Giê-su là ai. Họ tưởng Người chính là Gio-an Tẩy Giả bị Hê-rô-đê trảm quyết nay sống lại. Có kẻ thì tưởng lầm Người là ngôn sứ Ê-li-a xưa kia được đưa lên trời nay lại giáng lâm. Kẻ khác thì cho rằng Người là một ngôn sứ nào đó.
Sau khi nghe các môn đệ cho biết dư luận quần chúng về mình, Chúa Giê-su quay sang hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? " Ông Phê-rô trả lời: "Thầy là Đấng Ki-tô." (Mc 8, 29)
Thế là ngoài Phê-rô, dường như chẳng ai biết được chân tướng của Chúa Giê-su. Phê-rô quả có phúc lớn vì được biết căn tính của Thầy mình.
Hôm nay, Chúa Giê-su cũng đặt lại câu hỏi nầy với mỗi người chúng ta. Người muốn chúng ta bày tỏ nhận định của ta về Người: “Về phần con, Thầy là ai đối với con?”
Khi câu hỏi nầy được đặt ra với một nhóm thanh niên đang ngồi tận ngoài cổng nhà thờ sáng chúa nhật, vừa hút thuốc vừa dự lễ, thì họ trả lời qua khói thuốc: “Đối với chúng tôi, Chúa Giê-su là một vị Thẩm Phán khắt khe, hay bắt bẻ những người phạm luật. Dù chẳng yêu mến gì Chúa Giê-su, nhưng vì sợ bị khép vào tội bỏ lễ chúa nhật, nên chúng tôi miễn cưỡng đến ngồi đây dự lễ.”
Khi câu hỏi nầy được nêu ra với một số doanh nhân tất bật với việc làm ăn buôn bán, thì họ trả lời rằng: “Đối với chúng tôi, Chúa Giê-su là một ông Thần Tài. Dù chẳng yêu mến gì ổng, nhưng chúng tôi biết đối xử sòng phẳng với ổng. Nếu ổng phù hộ chúng tôi ăn nên làm ra, thì chúng tôi còn đặt ổng lên bàn thờ, có nhang đèn hoa trái hẳn hoi. Nếu ổng không giúp chúng tôi phát đạt, chúng tôi mời ổng đi chỗ khác.”
Khi câu hỏi nầy được nêu lên với một nhóm người khác đang theo đuổi lạc thú, họ đáp: “Chúa Giê-su là ai ư? Thật tình chẳng mấy khi chúng tôi nghĩ đến. Có lẽ khi nào chúng tôi già yếu, lâm bệnh nguy kịch, hoặc gặp gian nan khốn đốn trong cuộc đời, chúng tôi sẽ tìm đến với Ngài… Vâng, lúc đó, chúng tôi sẽ cần đến Ngài như những người đi biển gặp nạn cần đến tấm phao!”
Thế là đối với một số người, Thiên Chúa chỉ là vị Thẩm Phán khắt khe, một Thần Tài xa lạ hay đơn giản chỉ là một tấm phao cứu sinh hay là một nô bộc phục dịch con người. Đúng như lời Chúa Giê-su: “Dân nầy tôn kính Ta ngoài môi miệng còn lòng chúng thì quá xa cách Ta.” (Mc 7,6)
Thiên Chúa đau buồn biết bao khi đoàn con yêu dấu của Người nhận định về Người như thế.
Khi thấy dân chúng chẳng hiểu căn tính của mình, ngay cả các môn đệ cũng chẳng biết Đấng Ki-tô là ai, Chúa Giê-su liền bày tỏ cho họ biết Người chính là Đức Ki-tô, nhưng không phải là một “Đức Ki-tô vinh thắng” chinh phục các lân bang và báo thù cho dân riêng của Chúa như người Do-thái mong đợi, nhưng là một “Đức Ki-tô nhẫn nhục” hiến mạng sống mình chết thay cho muôn dân. Người tỏ cho môn đệ biết: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại.” (Mc 8,31)
Thế đó, Đức Ki-tô là Đấng yêu thương chúng ta hết lòng hết sức trên hết mọi sự, yêu đến nỗi đã hiến mạng vì ta. “Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của Người chết vì bạn hữu mình.” (Gioan 15,13)
Vậy mà tiếc thay, nhiều người không nhận ra tình yêu vô biên của Chúa nên xem Người như kẻ xa lạ, không dành cho Người một chỗ đứng trong trái tim mình, trong cuộc đời mình. Đối với một số người, có Chúa cũng như không.
Dostoyevsky, văn hào vĩ đại nhất của nước Nga vào thế kỷ 19, đã tôn Đức Giê-su làm Thần Tượng của mình và đã tuyên xưng:
“Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ, sâu xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Ki-tô, và hơn thế nữa, dù có ai chứng minh với tôi rằng Đức Ki-tô ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức Ki-tô hơn là chiều theo chân lý”. ( Thư gửi bà Von Vizine )
Lạy Chúa Giê-su,
Nếu hôm nay Chúa đến và hỏi: Về phần con, con bảo Thầy là ai, thì con xin thưa:
Chúa là Đấng đã nộp mình chịu chết để đền tội cho con. Chúa đã hy sinh đời mình cho con được sống. Chúa là Đấng yêu thương con hết lòng hết sức trên hết mọi sự.
Vì thế, con xin chọn Chúa làm Thần Tượng của đời con. Con xin dành chỗ nhất cho Chúa trong trái tim con.
Bài đọc I trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị là bài ca thứ ba trong bốn bài ca về Người: TN 24-B82
Bài đọc I trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị là bài ca thứ ba trong bốn bài ca về Người Tôi Trung chịu đau khổ; Người Tôi Trung nầy tìm gặp nơi Chúa sức mạnh của mình và chấp nhận mọi đau thương thử thách.
Gc 2: 14-18
Trong đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay, thánh nhân dạy rằng “đức tin không hành động là đức tin chết”.
Mc 8: 27-35
Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi đã nghe lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô: "Thầy là Đấng Ki-tô", Đức Giê-su loan báo cuộc Khổ Nạn sắp đến của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 50: 5-9)
Bản văn nầy được trích dẫn từ một trong bốn bài thơ về một dung mạo bí ẩn của một Người Tôi Trung thập toàn của Đức Chúa trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Hai bài thơ sau cùng đều cho thấy Người Công Chính nầy chịu mắng nhiếc phỉ nhổ (bài thơ thứ ba mà chúng ta đọc hôm nay), đoạn bị giết chết một cách nhục nhã nhưng tiếp đó tràn đầy vinh quang (bài thơ thứ tư). Chúng ta gặp thấy ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ nầy, dung mạo của Chúa Giê-su, Đấng chịu đau khổ để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
1. Dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ.
Người Tôi Trung nầy là sứ giả của Thiên Chúa, ông đã được thông báo cho biết: sứ mạng được trao phó cho ông không là dể dàng, nhưng ông “không cưỡng lại cũng chẳng tháo lui”. Sứ mạng này được xác định ở đoạn trên: “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức”. Ông chẳng đón nhận gì ngoài những vô ơn bạc nghĩa: bách hại, đánh đòn, nhục mạ; ông cam chịu mà không hề than vãn một lời. Sức mạnh và sự thanh thản của ông đến từ niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng phù trợ ông, Đấng tuyên bố rằng ông công chính, Người ở kề bên ông. Vì thế chẳng có gì phải nao núng cả: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi ? Cứ thử đến đây coi!”.
2. Dung mạo của Đức Ki tô.
Ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung nầy chúng ta đọc thấy số phận của Đức Ki-tô. Chính Ngài cũng là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Sứ điệp mà Ngài mang đến là Tin Mừng cho những người nghèo khổ. Ấy vậy, chính Ngài phải gánh chịu muôn vàn đau khổ và bách hại mà không hề than van một lời. Và cũng chính Ngài công bố: “Ai có thể bắt lỗi tôi điều gì?”. Ngài biết rằng Chúa Cha sẽ tôn vinh Ngài và Chúa Thánh Thần sẽ minh oan cho Ngài.
BÀI ĐỌC II (Gc 2: 14-18)
Chúng ta tiếp tục đọc Thư của thánh Gia-cô-bê.
1. Đức tin không hành động là đức tin chết:
Đoạn trích hôm nay tập trung vào một chủ đề: “đức tin không hành động là đức tin chết”. Đức tin tích cực năng động là đức tin hướng đến việc thực thi đức ái. Lời khuyên bảo của thánh Gia-cô-bê rất thực tế: lời khuyên nầy được minh họa bởi một ví dụ cụ thể và được trình bày rất thấm thía. Những lời hay ý đẹp chỉ là như gió thoảng qua, thậm chí chỉ là giả hình, nếu người ta không đề ra những phương sách cứu giúp những người anh em đau khổ của chúng ta.
2. So sánh giáo huấn của thánh Gia-cô-bê và của thánh Phao-lô:
Liệu có nên nghĩ rằng thánh Gia-cô-bê có lập trường trái ngược với thánh Phao-lô như được trình bày trong các thư gởi tín hữu Ga-lát và Rô-ma: “Con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Ki-tô” (Gl 2: 16)?. Nói đúng hơn, thánh Gia-cô-bê cố cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái coi chừng một lối giải thích lạm dụng giáo huấn của thánh Phao-lô. Người ta không thể trách cứ thánh Phao-lô là không ca ngợi những việc làm, đặc biệt là đức ái, vì nếu không có đức ái thì đức tin “chỉ là tiếng phèn la inh ỏi”.
Tuy nhiên, thánh Phao-lô, vị Tông Đồ dân ngoại, muốn chứng minh rằng những việc lành phúc đức của luật Mô-sê không thể đạt được ơn cứu độ, từ nay chỉ có một nguồn ơn cứu độ duy nhất là “tin vào Đức Ki tô”. Mục đích của thánh Gia-cô-bê là làm nổi bật những thành quả của luật mới, mà thành quả hàng đầu là Đức Ái. Đành rằng đức tin là Thiên Ân và nhờ đức tin chứ không vì công nghiệp mà chúng ta được nên công chính hóa, nhưng việc làm của chúng ta chứng tỏ rằng đức tin ấy đầy sức sống, chứ không èo uột héo khô.
Liệu có nên nghĩ rằng ở bên kia những tư tưởng này, có một dư âm nào đó về hai thái độ của hai vị thánh nầy xuất hiện ở Công Đồng Giê-ru-sa-lem? Thánh Gia-cô-bê bày tỏ lập trường phải tuân giữ vài mối giây ràng buộc với luật Mô-sê, trong khi thánh Phao-lô muốn giải thoát các Ki-tô hữu tiên khởi khỏi những thực hành Lề Luật…Có thể lắm chứ.
TIN MỪNG (Mc 8: 27-35)
Chúng ta đang ở giai đoạn Đức Giê-su tìm kiếm một sự yên tỉnh ngoài biên giới miền Ga-li-lê để được ở một mình với các môn đệ và dành trọn thời gian vào việc huấn luyện họ.
1. Bối cảnh của cuộc chuyện trò:
Như chúng ta đã biết, Đức Giê-su đã rút lui vào vùng Tia, đoạn miền Thập Tỉnh. Bây giờ Ngài rời Bết-sai-đa để tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp, vùng cực Bắc xứ Pha-lê-tinh. Lãnh địa nầy không thuộc quyền của tiểu vương Hê-rô-đê, nhưng em của ông là Phi-líp, một nhà cai trị cẩn trọng và khôn ngoan. Chính Phi-líp là người xây dựng thành Xê-da-rê mang tên ông để phân biệt với thành Xê-da-rê duyên hải. Như vậy Đức Giê-su đã dẫn các môn đệ đi sâu vào vùng đất lương dân, lên đến thượng nguồn của dòng sông Giô-đan.
Trên lãnh địa nầy, người ta có thể đi lại một cách thanh bình. Đức Giê-su đồng hành với các môn đệ của Ngài. Những dòng suối của sông Giô-đan thì rất gần, cảnh vật êm ả, chính trong khung cảnh êm ả và bầu khí thanh bình nầy mà cuộc nói chuyện giữa Thầy trò diễn ra.
Thánh Lu-ca đặt câu chuyện nầy vào trong bối cảnh Đức Giê-su cầu nguyện một mình và có các môn đệ ở đó với Ngài (Lc 9: 18-21: thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện vào những giờ phút trang trọng), trong khi thánh Mác-cô nói với chúng ta rằng Đức Giê-su và các môn đệ vừa đi vừa trò chuyện với nhau. Đối với thánh Mác-cô, chính nhờ đồng hành với Đức Giê-su, lắng nghe Ngài, mà chúng ta có thể hiểu được khuôn mặt đích thật của Ngài hơn.
2. Thăm dò niềm tin của các môn đệ về Ngài:
Trước hết Đức Giê-su hỏi các môn đệ về dư luận quần chúng: họ nói gì về Ngài, ngõ hầu giúp các ông hiểu rõ hơn niềm tin của họ vào Ngài. Các môn đệ đáp: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả; có kẻ bảo là ông Ê-li-a; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Trong những dư luận nầy, việc đồng hóa Đức Giê-su với ông Gioan Tẩy Giả thật lạ lùng nhưng nhắc nhớ lời phát biểu của tiểu vương Hê-rô-đê khi nghe danh tiếng Đức Giê-su: “Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ” (Mt 14: 1-2). Việc dân chúng nhận biết Đức Giê-su là một trong những đại ngôn sứ đã là một bước tiến đáng kể trên con đường đức tin rồi, tuy nhiên vẫn còn xa với chân lý.
Vì thế, Đức Giê-su muốn trắc nghiệm niềm tin của các môn đệ về Ngài sau những ngày tháng được sống bên Ngài, lắng nghe những lời Ngài nói và thấy những việc Ngài làm: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Thay mặt cho các môn đệ, ông Phê-rô đáp: “Thầy là Đấng Ki tô”. Tại Mát-thêu, thánh Phê-rô còn nói thêm: “Con Thiên Chúa hằng sống”. Tại Lu-ca, thánh Phê-rô nói: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”. Quả thật, đây là một câu trả lời vượt quá khả năng của thánh Phê-rô mà trong cùng một câu chuyện, thánh Mát-thêu ghi lại nhận xét của Đức Giê-su: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều nầy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Bởi vì chỉ mới vừa trước đây thôi Ngài đã quở trách các ông vì lòng trí các ông quá chậm hiểu trước sứ điệp và con người của Ngài.
Ngay lập tức Đức Giê-su cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Lệnh cấm nầy được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin Mừng Mác-cô mà các nhà chuyên môn gọi “bí mật Đấng Mê-si-a”. Bí mật Đấng Mê-si-a nầy thường liên quan đến các phép lạ, bây giờ chính là căn tính Mê-si-a của Ngài. Tại sao lại có lệnh cấm nầy? Bởi vì Ngài sợ người ta hiểu lầm tước hiệu Mê-si-a trên bình diện trần thế và chính trị. Mặt khác, lúc nầy các môn đệ không thể hiểu hết được mầu nhiệm Mê-si-a hàm chứa trong ý định của Thiên Chúa. Rõ ràng, Đức Giê-su sắp vén bức màn mầu nhiệm này.
3. Loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài:
Đây là lần đầu tiên Đức Giê-su loan báo cho họ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, các thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”. Cái tất yếu mà Đức Giê-su nêu lên: “Con Người phải…”, không là tất yếu của định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật tự thần học, chính là cái tất yếu của chương trình Thiên Chúa. Cuộc Khổ Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ sửa sai, nhưng là một phần của mầu nhiệm cứu độ nhân loại. Vào giây phút nầy, Đức Giê-su không cho các ông bất cứ lời giải thích nào khác ngoài cái tất yếu (“phải”) nầy.
4. Phản ứng của thánh Phê-rô:
Trong lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn của Ngài, Đức Giê-su cẩn trọng tránh nói đến việc Ngài bị đánh đập và bị đóng đinh vào khổ giá. Nhưng như thế cũng đủ gây nên một sự choáng váng ở nơi các môn đệ. Một cách tế nhị, “thánh Phê-rô liền kéo riêng Người ra mà trách”. Chúng ta có thể hiểu được phản ứng của thánh Phê-rô. Trong tâm trí, thánh nhân đã hình thành nên ở nơi Thầy mình một Đấng Mê-si khải hoàn và vinh quang: thánh nhân ôm ấp những kỳ vọng trần thế; nhưng chắc chắn lời trách cứ của thánh nhân hàm chứa lòng yêu mến của mình đối với Thầy mình. Không ai có thể chấp nhận người mình yêu có thể bị đau khổ.
5. Phản ứng của Đức Giê-su:
Đức Giê-su phản ứng rất mãnh liệt; thái độ của thánh Phê-rô tái hiện trong tâm trí của Ngài cơn cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa; Đức Giê-su đáp trả vị Tông Đồ của Ngài cũng bằng những lời mà Ngài đã dùng để trục xuất Tên Cám Dỗ: “Xa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4: 10), nhưng với thánh Phê-rô, Ngài còn nói thêm: “Lui ra đằng sau Thầy”, nghĩa là “Anh không hiểu rằng nếu là môn đệ trung thành, anh phải bước đi theo con đường của Thầy”.
Và với tất cả những ai muốn làm môn đệ của Ngài, Đức Giê-su cũng căn dặn một lời như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Hễ mỗi lần gợi lên cuộc Khổ Nạn của Ngài, Đức Giê-su đều liên kết các môn đệ của Ngài, và qua họ, tất cả các Ki tô hữu, vào con đường đau khổ nầy: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được mạng sống ấy”. Ở đây Đức Giê-su sử dụng một từ hai nghĩa: “mạng sống” vừa có nghĩa cuộc sống tạm thời ở đời nầy vừa cuộc sống đời đời ở mai sau.
Những lời nầy âm vang xuyên suốt nhiều thế kỷ và đã tạo nên niềm tin tưởng và phó thác vô bờ của các thánh tử đạo mọi thời, hôm qua cũng như hôm nay. Tác giả bài viết: Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Với câu trả lời chính xác, thánh Phêrô được điểm mười. Xứng đáng được 10, bởi đấy là câu hỏi: TN 24-B83
Với câu trả lời chính xác, thánh Phêrô được điểm mười. Xứng đáng được 10, bởi đấy là câu hỏi và trả lời cốt lõi. Chân lý này, là nền tảng cho niềm tin và cuộc sống cho các tông đồ, cũng như mọi tín hữu sau này. Không xác định được chân lý này, thì tất cả cuộc sống của người có đạo, sẽ như đổ hết xuống biển khơi. “Thưa, Thầy là Đấng Kitô”. Nghĩa là: Thầy là Ngôi Hai Thiên Chúa, đến trần gian, để cứu chuộc chúng con. Chúa Giêsu không phải là một con người như bình thường; mà Ngài là Thiên Chúa xuống trần gian để làm người. Vì vậy, mọi việc làm của Ngài, đều có một giá trị vô cùng. Xác định được chân lý ấy, cho nên Phêrô được khen với điểm mười.
Vui lòng với câu trả lời ấy, Chúa Giêsu bắt đầu dẫn các ông đi xa hơn. Ngài chỉ cho thấy, con đường của Đấng Kitô sẽ đi. Một con đường mà khiến tất cả các môn đệ đều ngỡ ngàng; đến độ không thể chấp nhận. Bức xúc quá, không chịu được nữa, Phêrô kéo riêng Chúa ra và cản ngăn oán trách. Thật là có điên không cơ chứ, là một Thiên Chúa, với đầy quyền năng trong tay, mà sao lại phải đi vào con đường thua bại, nhục nhã thế. Con đường của tủi hổ, đắng cay, đắng cay cho đến chết. Một tương lai chìm sâu trong u tối; một viễn tượng chán nản buồn phiền.
Satan, hãy lui ra xa Ta. Phêrô giật thót mình kinh ngạc. Sao Chúa lại nặng lời với mình đến thế. Mình muốn điều tốt cho Thầy, chứ mình có làm điều gì sai đâu? Thực ra, mãi sau này, Phêrô mới hiểu. Ông không thể ngờ rằng, mình đang làm công việc của Satan, đó là công việc cám dỗ.
Đường đau khổ, là con đường Chúa Cha, muốn Ngài phải đi, để cứu chuộc nhân loại. Chính bản thân Ngài cũng thấy ngán. “Lạy Cha, nếu có thể, xin cho con khỏi uống chén này”. Ai mà chả sợ, khi phải đối diện với khổ đau và cái chết. Nhưng tuy dù không thích, Ngài vẫn can đảm và hoàn toàn tự nguyện chấp nhận. Phêrô là người học trò thân tín của Ngài, bây giờ, lại cám dỗ Ngài thay đổi lập trường. Tuy dù Phêrô không cố ý, nhưng dù sao đó cũng là một cơn cám dỗ ngọt ngào. Lời cám dỗ ngọt ngào, có thể làm Ngài lung lay thay đổi lập trường. Vì thế, Ngài phải mạnh tiếng, trong một thái độ cương quyết. Vừa để Phêrô ngạc nhiên, tìm hiểu và thức tỉnh; vừa để cho ông nhận ra rằng: con đường an thân, thoải mái, không bao giờ là con đường Chúa đi. Đường Chúa đi, và Ngài cũng muốn những người theo Ngài phải đi, là con đường gai góc, đớn đau, và từ bỏ đến tận cùng. Một con đường thật hẹp.
Câu hỏi:
1- Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc. Bạn có nhận thấy bạn cần đến Ngài không?
2- Đường bạn đang đi, là đường thoải mái hay gập ghềnh cần nhiều cố gắng?
Kể từ khi xuất hiện trong cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã trở nên một vấn đề thời sự nóng bỏng TN 24-B84
Kể từ khi xuất hiện trong cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã trở nên một vấn đề thời sự nóng bỏng, làm cho người ta phải bàn tán xôn xao.
Dân làng Nadarét đã thầm nghĩ: Ngài chẳng phải là con bác phó mộc, Mẹ Ngài và anh em Ngài chẳng phải là những người đang sống giữa chúng ta đó sao? Bởi đâu mà Ngài lại làm được những việc lạ lùng như vậy? Hêrôđê cũng đã thắc mắc: Gioan thì trẫm đã chém đầu, còn người này là ai mà lại thực hiện được những việc kỳ diệu đến thế? Còn dân chúng, người thì bảo Ngài là tiên tri Elia, hay một tiên tri nào đó. Kẻ thì nói Ngài là Gioan Tiền Hô.
Trước những luồng dư luận khác biệt như vậy, Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ phải xác định lập trường của mình, nên đã lên tiếng hỏi: Còn các con, các con bảo Ta là ai? Phêrô thay mặt cho nhóm 12 đã tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Và như thế, Phêrô đã tuyên xưng đức tin bằng lời nói.
Liền sau đó, Chúa Giêsu tiên báo cho các ông về cuộc tử nạn của Ngài. Và lần này, Phêrô đã lên tiếng can ngăn và đã bị Chúa quở trách nặng lời: Hỡi Satan, hãy xéo đi, vì tư tưởng của ngươi chỉ là tư tưởng của loài người, chứ không phải là của Chúa. Và như vậy, mặc dù ông đã tuyên xưng đức tin bằng lời nói, nhưng rốt cuộc ông đã không tuyên xưng bằng việc làm, bằng chính cuộc sống của mình.
Với chúng ta cũng vậy, hằng ngày chúng ta vốn thường làm dấu thánh giá, đọc kinh Tín Kính và kinh Sáng Danh, chúng ta tuyên xưng những mầu nhiệm chính trong đạo. Tuy nhiên, đó mới chỉ là tuyên xưng bằng lời nói mà thôi. Còn việc làm và cuộc sống của chúng ta thì sao? Rất có thể lúc này chúng ta mới chỉ tuyên xưng đức tin bằng lời nói, bằng miệng lưỡi, chứ chưa hề tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống. Bởi vì bản thân chúng ta còn chìm trong tội lỗi, con người chúng ta còn đang chối từ thập giá để chạy theo ý riêng.
Do đó, cần phải kiểm điểm lại cuộc sống xem chúng ta đã tuyên xưng đức tin của mình như thế nào? Để giúp chúng ta trở nên môn đệ của Chúa cũng như tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống, Chúa Giêsu đã đưa ra hai điểm chính yếu:
Điểm thứ nhất, đó là hãy từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ tất cả những tư tưởng, lời nói và việc làm đi ngược với thánh ý Chúa, từ bỏ con người cũ với những tội lỗi để mặc lấy con người mới với tinh thần của Chúa.
Điểm thứ hai đó là hãy vác lấy thập giá mình. Nghĩa là hãy chấp nhận những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải, bởi vì chính những hy sinh gian khổ này, tuy âm thầm và nhỏ bé, sẽ kết thành cây thập giá đời thường, Chúa muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
Cuộc sống chúng ta, nhất là giới trẻ, ngày hôm nay giới trẻ chạy theo một nền trào lưu, một nền TN 24-B85
Cuộc sống chúng ta, nhất là giới trẻ, ngày hôm nay giới trẻ chạy theo một nền trào lưu, một nền văn hóa đó là văn hóa thần tượng.
Người thích đá banh thì chọn cho mình người nào mà mình thích làm thần tượng cho mình, người thích ca nhạc thì cũng sẽ tìm cho mình một ca sĩ để làm thần tượng, người thích xem phim thì sẽ chọn cho mình một diễn viên điện ảnh nào đó hot để làm thần tượng. Điều này, xem ra thì cũng có lý đó nhưng rồi những ngôi sao ca nhạc, ngôi sao đá banh, ngôi sao điện ảnh đến một lúc nào đó cũng sẽ chìm vào quên lãng để nhường ngôi cho người khác. Thế rồi những thần tượng mà xưa kia người ta tôn lên sẽ chợt tắt, và cứ như thế mãi, thần tượng cứ mãi vần xoay vì lẽ chẳng ai có thể tồn tại mãi trong cõi đời này.
Tất cả những ngôi sao mà người ta chọn đó vẫn chỉ là con người để rồi không thể tồn tại mãi, không bền vững như người ta tưởng.
Thần tượng, vẫn là sự tự do lựa chọn của mỗi người, chẳng ai có quyền ép người khác chọn cho mình thần tượng.
Ngày hôm nay, trong câu chuyện của thầy Giêsu với các môn đệ chúng ta cũng nghe Chúa Giêsu chất vấn các môn đệ của mình về Thầy: "Người ta nói Thầy là ai?". Các môn đệ đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó". Và, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ thì Phêrô trả lời ngay: "Thầy là Đấng Kitô".
Thế đấy! Đi theo Thầy, ở chung với Thầy, sống chung với Thầy nhưng người ta không nhận ra để rồi định nghĩa không đúng hay không dám định nghĩa hay không dám nói về Thầy của mình. Thật là chán! Chỉ có mình Phêrô can đảm nói về Chúa Giêsu.
Sau đó, Chúa bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại.
Nghe những lời đó xong thì ông Phêrô liền kéo riêng Chúa ra và bắt đầu trách Chúa thế nhưng Chúa lại trách ngược lại Phêrô: "Xatan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người".
Như thế, thêm một chuyện nữa là xác nhận Chúa Giêsu là một chuyện nhưng Chúa Giêsu đó là ai trong cuộc đời là chuyện khác. Giêsu thật sự được Isaia vẽ lên trong trang sách mà chúng ta vừa nghe:
Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên. Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi! Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?
Một hình ảnh Giêsu, một hình ảnh thần tượng như thế nghe xong cũng sẽ phản ứng như Phêrô là kéo Thầy ra để bảo Thầy đừng làm như thế nghĩa là lên Giêrusalem chịu đau khổ. Nếu như phản ứng như thế cũng chỉ là phản ứng, suy nghĩ của thế gian. Phản ứng, suy nghĩ của những người có niềm tin vào Chúa sẽ là người đi theo con đường khổ nạn của Thầy Chí Thánh vì lẽ chỉ có con đường thập giá mới đạt đến vinh quang như Thầy của mình.
Ngày hôm nay, nếu có mặt ở đây, Chúa Giêsu cũng sẽ hỏi chúng ta rằng người ta bảo Chúa là ai và ta, ta sẽ trả lời với Chúa rằng Chúa là ai trong cuộc đời chúng ta. Ngày hôm nay, cũng có nhiều người tuyên tín vào Chúa Giêsu nhưng chỉ tuyên tín ngoài môi ngoài miệng. Niềm tin như Thánh Giacôbê trong trang thư của Ngài mà chúng ta vừa nghe không phải ở môi miệng nhưng ở hành động: "Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: "Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin.
Rõ ràng tin là hành động chứ không chỉ dừng lại ở lời tuyên tín.
Với khả năng hạn hẹp cũng như yếu đuối của mình, con người thường dừng lại ở lời tuyên tín hay chỉ ở trên môi miệng. Khoảng cách từ miệng đến bàn tay quả là xa. Nói yêu Chúa, tin Chúa thì dễ nhưng thực hành lời yêu thương không phải là chuyện giản đơn.
Những lời yêu thương, những lời trao nhau niềm tin chúng ta vẫn thường nghe hàng ngày, hàng giờ và thậm chí ngay bản thân chúng ta vẫn nói lời tin yêu đó nhưng lời nói đó thực hiện được như thế nào hay nó chỉ ở bờ môi chót lưỡi mà thôi. Điều nghịch lý là ai trong chúng ta cũng mong những lời nói thành hiện thực nhưng chúng ta lại không thực hiện.
Và với con người bất nhất đó, chúng ta cứ mãi tôn thờ và chạy theo thần tượng nào khác như thần tượng ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên để lấp vào thần tượng căn cốt trong đời chúng ta. Tệ hơn những thần tượng nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên... chúng ta chạy theo thần tượng là tiền, là danh, là vọng. Mà, thật sự chẳng cần phải nói nhiều ai ai trong chúng ta cũng biết những thần tượng đó chỉ là phù vân, bạc bẽo, mau qua chóng tàn...
Cứ nhìn kỹ lại, tất cả những thần tượng vật chất, con người ấy thật mau qua chóng tàn vô cùng. Mỗi người chúng ta, ngày mỗi ngày lại già thêm một tuổi, lại cứ phải gần đất xa trời thêm một tí và thử nhìn lại xem, tất cả chẳng là gì cả. Phù vân và tất cả cũng chỉ là phù vân thôi.
Xin cho chúng ta học nơi tấm gương của Thánh Phêrô là tuyên tín Thầy mình cũng như đã sống niềm tin ấy trọn vẹn. Vẫn mang trong mình phận người yếu đuối, Phêrô không chỉ dừng lại ở chỗ kéo Thầy mình không cho Thầy đi lên Giêrusalem chịu khổ nạn mà còn chối phăng Thầy mình. Thế nhưng đàng sau những vấp ngã của con người ấy Phêrô chợt giật mình tỉnh giấc để sống trọn vẹn niềm tin của mình.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, qua lời chuyển cầu của Thánh Phêrô để chúng ta không chỉ tuyên tín nhưng còn sống lời tuyên tín về Thầy Chí Thánh trong cuộc đời của mình.
Nhiều người đã gặp Chúa, nghe Chúa giảng và chứng kiến các phép lạ Chúa đã thực hiện nhưng TN 24-B86
Nhiều người đã gặp Chúa, nghe Chúa giảng và chứng kiến các phép lạ Chúa đã thực hiện nhưng vẫn chưa biết Chúa là ai. Cho dù nhiều người đã được thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian (Ga 1, 29). Ngay cả những người thân tín nhất là các tông đồ, cũng không biết căn tính thật của Chúa. Người ta đi hết ngạc nhiên ngày tới ngạc nhiên khác, tò mò nhìn xem phép lạ, muốn thưởng thức bánh miễn phí và chứng kiến nhiều sự lạ nhưng nhiều người chỉ nghĩ Chúa Giêsu là một tiên tri nào đó. Hôm nay Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô." (Mc 8, 29).
Sau lời tuyên xưng của ông Phêrô: Thầy là Đấng Kitô, Chúa Giêsu đã hé mở về sứ mệnh của Ngài:Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại (Mc 8,31). Chúa Kitô chọn con đường khổ giá để tới vinh quang sống lại. Con đường Chúa đi là con đường hẹp, con đường thánh giá và đỉnh cao là núi Sọ. Lời tiên báo của Chúa Giêsu ứng nghiệm với những lời diễn tả của tiên tri Isaia về Người Tôi Tớ chịu nhạo báng trong đau khổ: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 5, 6).
Thầy là ai? Chúng ta thử tìm hiểu qua chính lời mạc khải của Chúa Giêsu.Chúa phán: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Ngài nói tiếp: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống."(Ga 8, 12). Chúa Giêsu là đường dẫn chúng ta đến sự sống muôn đời. Chúa chính là ánh sáng soi dẫn đưa chúng ta đến sự thật viên mãn. Ngài là nguồn và là trung gian ban phát sự sống. Có có uy quyền tạo dựng, biến đổi và thánh hóa cả hồn lẫn xác.
Thầy là ai? Chúa Giêsu giới thiệu: Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 11). Thầy đã hy sinh mạng sống để đền bù và chuộc tội cho nhân loại. Ngài là Đấng trung gian giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người. Ngài đã mang lại niềm hy vọng cho những ai đang trong cơn lầm than sầu khổ. Ngài phán: Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ (Ga 10. 9). Chúa Giêsu mở lối cho mọi người tìm đến ơn cứu độ. Muốn vào nước trời, chúng ta phải đi qua cửa chính là Chúa Kitô. Chịu Phép Rửa trong Chúa, tuyên xưng niềm tin, sống và thực hành lời Chúa. Chúng ta không chỉ nói: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào nước trời nhưng là thực hành ý Chúa.
Thầy là ai? Chúa Giêsu phán:"Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! (Ga 6, 35). Thầy là bánh từ trời ban xuống cho nhân loại: "Tôi là bánh từ trời xuống." (Ga 6,41). Thầy là bánh có đủ mọi mùi thơm ngon và là bánh trường sinh. Hãy đến và đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, chúng ta sẽ được nuôi dưỡng thỏa thuê bằng chính nguồn ân sủng của Ngài. Lãnh nhận bánh hằng sống là nguồn sự sống và là sự sống viên mãn. Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống (Ga 11, 25). Niềm hy vọng tuyệt hảo của thân phận của con người là sự sống lại ngày sau để hưởng phúc thanh nhàn.
Thầy là ai? Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tin vào Ngài: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm (Ga 14, 11). Khi Chúa Giêsu biến hình trên núi đã có tiếng phán từ trời cao: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người."(Mc 9, 7). Chúa Giêsu thuộc về thượng giới đã hạ sinh mang thân phận con nguời như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Chúa Giêsu bảo: "Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này (Ga 8, 23). Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống thế gian và khi hoàn tất sứ mệnh Ngài trở về cùng với Cha của Ngài.
Đối với các Kitô hữu, chúng ta xưng tụng Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ. Chúng ta cần lắng nghe của lời Ngài chỉ dạy. Vâng nghe theo lời của Chúa Giêsu là bước theo con đường của Ngài đã đi qua.Đường của Chúa là con đường khiêm hạ, con đường sự thật và con đường khổ giá. Khổ giá sẽ tôi luyện niềm tin. Niềm tin vào Chúa Kitô không phải là học hiểu một số kiến thức, tỏ lòng sùng mộ hay việc cử hành một số nghi lễ, mà chính là sống niềm tin của mình trong cuộc lữ hành trần thế. Chúng ta phải sống đức tin trưởng thành mà chúng ta đã được lãnh nhận qua các Bí Tích trong Hội Thánh. Đức tin là ánh sáng soi đường dẫn chúng ta bước theo gót Chúa Kitô. Thánh Giacôbê tông đồ đã phát biểu rằng: Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết (Giac 2, 17). Lời nói đi đôi với việc làm. Người ta nói: Lời nói mây bay, gương bày lôi kéo. Đời sống đức tin được thể hiện qua cách sống đạo hằng ngày trong ý tưởng, lời nói và việc làm.
Chúa Giêsu mời gọi:Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Chúa Giêsu đầy lòng thương xót với những ai cậy trông vào Chúa. Chúng ta cũng biết rằng Chúa có quyền năng ban phát ân huệ cho mọi loài nhưng theo chương trình và sự quan phòng của Chúa. Chúa ban cho con người có tri thức, có khả năng, có thời giờ và có phương tiện để chế ngự những khó khăn bất thường. Chúng ta phải có gắng với hết sức mình trong mọi lãnh vực cuộc sống để tìm phương hướng giải quyết các vấn đề. Chúng ta đừng khi nào thất vọng, chán nản và bỏ cuộc. Chúa nói điều quan trọng là: Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 29). Lời của Chúa thật ngọt ngào, nhẹ nhàng và thấu đạt tâm hồn.
Lời tâm huyết nhất của Thầy Chí Thánh gởi gắm cho các môn đệ là: Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau."(Ga 13, 35). Dấu chỉ để nhận ra sự hiện diện của Chúa giữa anh chị em là chúng ta hãy yêu thương nhau. Yêu thương là cốt lõi của mọi sinh hoạt sống đạo và là giới răn trọng nhất. Thiếu sự yêu thương, cuộc sống trở thành trống rỗng và vô nghĩa. Không có tình yêu, ngôn từ trở thành sáo ngữ. Vắng bóng tình yêu, các công việc bác ái trở thành sự khoe khoang. Không có lòng yêu thương, mọi cách đối xử giao tế nhân sự trở thành hình thức và giả hình. Yêu thương là chất keo gắn kết tinh thần của mọi người chung hợp với nhau. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, muốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải yêu thương nhau.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa là Con Thiên Chúa, là Đức Kitô, là Thầy, là người chỉ đạo, là nguyên khởi và là cùng đích của cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết đặt niềm tin tưởng nơi Chúa và bước theo con đường Chúa đã đi xưa, để chúng con cùng được chia sẻ đau khổ thập giá và vinh quang sống lại. Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Chúa.
(Suy niệm của Phêrô Trần Đình Phan Tiến – ‘Bước Theo’)
Hành động của Thiên Chúa”, chủ đề CN 24 TN (B) (Mc 8, 27-35), thoạt nhìn ta thấy có hai chủ đề là TN 24-B87
“Hành động của Thiên Chúa”, chủ đề CN 24 TN (B) (Mc 8, 27-35), thoạt nhìn ta thấy có hai chủ đề là “tuyên xưng niềm tin” (c 29) và “Mầu nhiệm Tử nạn” (c31), hay là Hành Động của Thiên Chúa.
Vâng! thật hợp lý với lời giảng giải của thánh Giacôbê ở đoạn( Gc 2, 14-18): “Đức tin và Hành Động”. Qủa thật, Đức tin không thôi chưa đủ, vì Chúa Giêsu kêu gọi phàm nhân “tin vào Người” (Ga 3,15) để đón nhận ơn cứu độ. Nhưng ơn Cứu Độ không phải là lời nói suông, mà là một hành động cụ thể, thật vậy, Thiên Chúa đã hành động.
Hành động của Thiên Chúa thì không phải hành động như phàm nhân. Hành động của Thiên Chúa là hành động yêu thương, hành động quên mình để hy sinh cho kẻ khác. Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ đáng bị tiêu diệt, Thiên Chúa không trừng phạt kẻ đáng bị trừng phạt. Vì Ngài là Thiên Chúa yêu thương, yêu thương là gánh lấy về mình tất cả. Như vậy, thoạt đầu đọc đoạn Tin Mừng (Mc 8,27-35) hôm nay, ta nghĩ rằng có sự mâu thuẫn, vì tại sao con người tuyên xưng niềm tin vào Chúa như Phêrô lại bị quở trách nặng nề.Nhưng suy niệm sâu xa ta thấy ý nghĩa của Lời Chúa hôm nay, không phải là lúc con người tuyên xưng đức tin, hay nói cách khác tuyên xưng niềm tin, nhưng chưa hiểu mầu nhiệm mà ta tuyên xưng. Như vậy vấn đề cho thấy, tin vào Chúa và tín thác vào Ngài, cần phải có hành động cụ thể là thực thi Ý Định của Thiên Chúa, tin vào Thiên Chúa đồng thời phải lắng nghe Lời của Thiên Chúa để thực thi Ý Ngài. Vì tin mà không hành động thì niềm tin ấy không sinh kết quả, như vậy niềm tin ấy không có lợi ích gì. Vì “…tin trong lòng thì được công chính, còn tuyên xưng ngoài miệng thì được ơn cứu độ” (Rm 10,10). Như vậy, muốn đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa cần phải có hai điều kiện là “Tin” và “thực thi” niềm tin vào Thiên Chúa. Vd: Thiên Chúa là tình yêu, khi ta tin vào Thiên Chúa, thì ta cũng phải hành động như Thiên Chúa là ta phải yêu tha nhân như Chúa đã yêu ta. Đó là nguyên lý của niềm tin, nhưng thực tế ta không thể yêu tha nhân như Thiên Chúa đã yêu ta, vì ta chưa trở nên như Thiên Chúa được.Nhưng ít ra ta cũng phải hành động theo ý định của Thiên Chúa, điều nầy phù hợp với chúng ta hơn, vì trong giới hạn của nhân trần. nhưng ta có thể chứng minh lòng tin của ta vào Thiên Chúa bằng nhiều cách, như vậy là niềm tin của ta được hành động. Thánh Giacôbê đã so sánh rất tuyệt vời về “Đức Tin và Hành động” như sau: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?… cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết”. (Gc 2,14.17).
Như vậy Chúa Giêsu không phải quở trách Phêrô vì ông tuyên xưng niềm tin vào Người, mà quở trách Phêrô vì ông đã can thiệp vào mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa cần phải hành động để minh chứng “Lời” của Thiên Chúa từ ngàn xưa. Khi Chúa Giêsu nói: “Ai tin vào tôi thì có sự sống muôn đời” (Ga 3,15), nhưng Người không phải là vị Vua của trần thế. Nếu chi ngồi đó mà nói như vậy, thì quả thật không đáng tin. Nhưng Đấng cứu thế là vị Vua đích thực của Nước Trời, vì vậy Người đã hành động như một vị cứu thế đúng nghĩa. Người đã trở nên con chiên hiền lành bị đem đi giết.
Vâng! Đấng Cứu Thế đã hành đông đúng như lời Isaia đã nói: “Ta đã trao thân cho kẻ đánh Ta, giơ má cho người ta vả; Ta đã chường mặt mình cho họ mắng, họ nhổ” (Is 50,6). Một Đấng cứu thế như vậy, đã được loan báo trong Cựu Ước, nhưng phàm nhân không đón nhận. Vì phàm nhân không thích Thập giá. Nhưng Thiên Chúa lại dùng chính sự từ chối của trần thế để cứu chuộc thế trần. Vì vậy, Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng nề: “Hỡi satan! hãy lui ra đằng sau, vì tư tưởng của ngươi không phải là tư tưởng của Thiên Chúa”. (Mc 8, 33b).
Niềm tin là biết có ánh sáng, nhưng hành động là phải tiếp nhận ánh sáng và chuyển giao ánh sáng cho người khác. Nếu hành động không có niềm tin thì hành động mù quáng, nếu chỉ có niềm tin mà không hành động thì niềm tin ấy không tỏa sáng, bị lu mờ và tắt đi vì thiếu thực tế.
Lời Chúa là ánh sáng, khi tin theo trong cuộc sống hằng ngày phải được chiếu soi cho hành động của con người. Niềm tin cần cho hành động và hành động cần cho niềm tin. Niềm tin có hành động là niềm tin sống. Hành động có niềm tin là hành động tuyệt vời.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã quở trách Thánh Phêrô vì niềm tin của ông chỉ suy nghĩ đơn thuần nông nổi. Niềm tin ấy chưa đủ yếu tố để mang ơn cứu độ đến cho người khác. Niềm tin xác đáng là niềm tin phải hành động, như Chúa đã hành động là chu toàn thánh Ý Chúa Cha một cách tron vẹn. Xin ban cho chúng con là những kẻ mỏng giòn ,yếu đuối cũng có được sức mạnh của lòng tin vào Chúa và những hành động của lòng tin vào Chúa, là những hành động cụ thể của chúng con, để trần gian nhìn thấy hành động của chúng con mà ngợi khen Cha trên trời. Amen.
“Con Người phải chịu nhiều đau khổ, và bị hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục phế thải, bị giết đi, và sau ba ngày sẽ sống lại”
Từ xưa đến nay một vấn đề gai góc, nan giải và làm cho nhiều người thất vọng nhất là vấn đề đau TN 24-B88
Từ xưa đến nay một vấn đề gai góc, nan giải và làm cho nhiều người thất vọng nhất là vấn đề đau khổ. Con người sinh ra bắt đầu bằng tiếng khóc, rồi trải qua cuộc đời với đầy vơi đắng cay và nước mắt, để cuối cùng, nằm xuống và được đưa đi giữa những tiếng khóc, có khi chân thật, có lúc giả dối của kẻ khác. Cho nên không lạ gì khi có người than thở: “Đời là bể khổ.”
Nhưng tại sao đời lại là bể khổ? Có lẽ câu hỏi này đã được các nhà hiền triết từ bao đời nay bóp óc tìm câu giải đáp, nhưng rồi đâu vẫn hoàn đó, đau khổ vẫn là khổ đau. Đau khổ vẫn là một thực trạng trong kiếp sống con người.
Thế rồi vì không hiểu được lý do cũng như không tìm được câu trả lời thích đáng cho vấn đề đau khổ, nên người ta không chấp nhận và tìm mọi cách để hủy diệt nó. Thậm chí, lắm khi người ta cũng đã hủy diệt nó. Thậm chí, lắm khi người ta cũng đã hủy diệt luôn kẻ đang gánh chịu đau khổ. Đã có lần chính phủ Nhật ra lệnh tập trung tất cả mọi người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo ngoài khơi Thái bình Dương, rồi tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo cùng những người mắc bệnh phong cùi trên đó. Đã có lần Hitler đã ra lệnh cho bác sĩ giám đốc bệnh viện Bethel thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh thần kinh, không muốn sự hoạn nạn khốn cùng của họ đè nặng trên “dân tộc và quốc gia.” Đã có vô số lần, chính vì không chịu đựng được đau khổ, hay sâu xa hơn, bởi vì không tìm thấy chân lý trong những khổ đau nên đã có không biết bao bạn trẻ cũng như bạn già tự chấm dứt cuộc đời, đi tìm cái chết để mong đạt được một điều duy nhất: chấm dứt khổ đau.
Chắc chắn không ai có thể đem lại cho con người một câu trả lời thoả đáng ngoài Thiên Chúa. Không ai minh chứng một cách sâu xa và hùng hồn ý nghĩa của sự khổ đau ngoài Thượng đế, được tỏ hiện nơi con người của Chúa Giêsu, Đấng mà Tiên tri Isaia đã gọi là “Tôi tớ Đau khổ của Giavê”.
Nhìn vào con người của Đức Giêsu, người ta phải tự hỏi tại sao một Thiên Chúa toàn năng toàn phép lại chọn lựa con đường khổ đau để cứu nhân loại? Tại sao Ngài cũng đã sinh ra với tiếng khóc, trải qua kiếp sống với những thăng trầm, và cuối cùng chịu chết nhục nhằn tận cùng trên khổ giá, giữa bao nước mắt thảm thiết của những người thân quen?
Càng suy gẫm câu hỏi trên người ta càng có thể khám phá thâm sâu chân lý và ý nghĩa của cuộc đời. Nhưng đây không phải là cuộc đời của bể khổ, song là của bể tình, một biển tình vời vợi. Càng nhìn vào những gì Đức Kitô đã chịu, và qua ánh sáng Phúc Âm, con người càng hiểu ra nguyên do của khổ đau.
Thế thì nguyên do của đau khổ là gì? Xin thưa chính là TỘI. Thưở tạo thiên lập địa con người đã hạnh phúc biết mấy. Mọi sự tốt đẹp biết bao. Kinh Thánh đã xác nhận: tất cả mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp-đẹp từ trăng sao trên trời đến muôn loài cây cỏ dưới đất, đẹp từ con người cho đến muông chim cầm thú, đẹp từ cuộc sống loài người cho đến cuộc sống loài vật.
Ấy thế mà điều tươi đẹp đó đã bị tan nát. Tan nát vì tội. Thánh Phaolô đã viết, “Cũng như vì một người, mà sự tội đã nhập vào trần gian, và vị tội thì sự chết nữa; và như vậy sự chết lan tràn qua hết mọi người” (Rm 5:12). Nói cách khác tội đã kéo theo khổ đau và đau khổ tận cùng chính là sự chết.
Vì tội mà đời mất đẹp, hồn mất vui. Vì tội mà đời mới là bể khổ đấy thôi!
Thế nhưng, vì “là Đấng trung tín và giàu lòng xót thương,” Thiên Chúa không thể không cứu con người. Từ trong Xót-Thương mà Đức Giêsu đã ra đời. Ngài đến bằng con đường đau khổ, và rồi đã chết trong đau khổ để cứu con người. Một linh mục từng suy niệm rằng: “Đời sống Chúa Giêsu là một đời sống đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận, Ngài mong chờ, bởi vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.”
“Không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.” Đúng lắm! Thế nhưng nếu chỉ nhìn vào những đớn đau thể xác cùng trí lòng của Đức Giêsu và nghĩ rằng đau khổ của một người đã làm nên ơn cứu độ cho muôn người thì cũng còn thiếu sót lắm. Bởi vì đọc kỹ Thánh kinh sẽ thấy trên đồi Golgotha có tới ba người chịu đau khổ chứ đâu phải một người. Cả hai tên trộm cướp nữa chứ đâu phải một mình Đức Giêsu. Thế nhưng cả ba người cùng chịu đau khổ, cả ba người cùng chịu cái chết trần truồng nhục nhã, nhưng chỉ một người mang ơn cứu độ đến cho toàn nhân loại. Lý do là vì sự khổ đau của người đó đã được kết tinh trong tình yêu. Nói cách khác vì quá yêu thương nhân loại nên Thiên Chúa đã mang lên mình mọi tội lỗi con người, mọi căn nguyên đau khổ, để đóng đinh chúng vào thập giá; trước là giải thoát nhân loại khỏi sự thống trị của tội, sau là thánh hoá sự đau khổ, để rồi từ nay đau khổ có một chỗ đứng-một giá trị mới trong đời sống con người; giá trị đó chính là nếu đau khổ được ướp đượm trong tình yêu, thì nó sẽ trở thành ân phúc cứu độ.
Đã có không biết bao nhiêu các nhà hiền triết, văn hào thông thái bó tay trước vấn nạn đau khổ, và cũng đã có không biết bao nhiêu nhân vật lừng danh lẫn thấp hèn đã thất vọng, đầu hàng trước khổ đau. Nhưng chính nhờ Đức Giêsu và qua ánh sáng của Lời Ngài mà ta không còn thất vọng. Ta thấy được rằng trong sự chết có mầm sự sống, trong gian lao có tia sáng của chiến thắng vinh quang, trong đau khổ có chồi non của hạnh phúc, nếu như sự chết, nỗi gian lao và đau khổ mà ta đang mang đó có nền tảng của yêu thương: yêu thương Đức Kitô và yêu thương các linh hồn.
Thế nên, mỗi khi gặp đau khổ, ta đừng thất vọng, buông trôi, cũng đừng chửi trời rủa đất, cũng đừng trách móc người khác hoặc chính mình, cũng đừng như Phêrô đã can trách Chúa khi nghe nói đến khổ đau (Mc 8:32), song hãy đưa vào khổ đau một chút hương vị thương yêu, bằng việc than thưa với Ngài: “Lạy Chúa, con xin kết hiệp đau khổ của con với khổ đau của Chúa, để làm sáng danh Chúa và cứu các linh hồn.” Chắc chắn nỗi khổ đau sẽ không còn là một thực tại vô giá trị hoặc đáng nguyền rủa, song nó đã trở thành phần ơn cứu độ mà Chúa Giêsu muốn ban xuống cho nhân trần.
Từ ngày Đức Giêsu dùng thân xác mình để thánh hiến sự khổ đau của con người cho đến nay, đã có hàng triệu tâm hồn được nung đốt bởi lửa yêu thương đến độ dám đón nhận mọi hy sinh, gian lao và khó nhọc, vì muốn mang ơn cứu độ đến cho mình và tha nhân. Trong số đó, gương mặt đáng kể nhất phải là gương mặt của Thánh Phaolô tông đồ. Thánh nhân đã làm mọi sự trong yêu thương, chấp nhận mọi gian nan trái ý trong tình mến. Ngài viết: “Chúng tôi bị ép dồn mọi mặt, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phẳi chết của chúng tôi. Như thế, sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em” (2 Cr 4:8-12).
Đồng hành với Thánh Phaolô là hàng vạn tâm hồn nhiệt thành rao giảng để mở mang Nước Trời, trong đó có bạn và tôi. Cũng như Thánh Nhân, chúng ta chỉ tham vọng một điều là “làm đẹp lòng Chúa” (2 Cr 5;8b).
Thời Chúa Giêsu, vác thập giá là một cực hình khổ nhất, nhưng thông dụng nhất mà người Rôma đế quốc TN 24-B89
Thời Chúa Giêsu, vác thập giá là một cực hình khổ nhất, nhưng thông dụng nhất mà người Rôma đế quốc đã đem áp dụng ở Do thái. Vậy nói tới thập giá, đối với thời Chúa Giêsu, là một khổ hình và chắc chắn chết nhục nhã. Người nào vác thập giá là người bị đưa tới pháp trường để chịu đóng đinh mình vào cây thập giá đó. Vác thập giá lên vai có nghĩa là bắt đầu đi đến chỗ chết. Vác thập giá cũng có nghĩa là bắt đầu đau khổ thực sự. Vì thế, những đau khổ trong cuộc đời chính là thập giá Chúa bảo chúng ta phải vác mà đi theo Ngài. Đây chính là vấn đề chúng ta muốn hiểu biết: vấn đề đau khổ trong cuộc đời.
Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Cho nên, Kinh Thánh nói: “Đời là thung lũng nước mắt”. Đã là thung lũng nước mắt thì cũng là bể khổ, vì sao vậy? Xưa nay các nhà hiền triết đã nát óc đi tìm một câu trả lời thỏa đáng. Đức Phật Thích Ca đi tu cũng vì muốn tìm một câu trả lời cho câu hỏi gai góc ấy.
Không hiểu lý do sự đau khổ, người ta tìm cách hủy diệt người đau khổ mà họ cho là những chiếc gai phản tiến hóa. Đã có một thời chính phủ Nhật Bản ra lệnh tập trung tất cả những người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo nằm ở giữa biển Thái Bình Dương và tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo chứa đầy bệnh nhân ấy. Họ mắc bệnh nan y, họ không có quyền sống. Trong thế chiến thứ hai, nhà độc tài Hitler đã ra lệnh cho giám đốc bệnh viện Bê-then thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh tâm thần, vì họ là thành phần vô dụng, ăn hại xã hội và quốc gia. Không tin ở Thiên Chúa thì người ta không làm sao hiểu nổi vấn đề đau khổ. Và người ta có thể tuyệt vọng khi không làm sao tránh được đau khổ và bệnh tật. Văn hào vô thần Hen-ri đờ Mông-thơ-lan, thuộc hàn lâm viện Pháp, lúc về già, bị mù. Vì không chịu được sự đau khổ ấy, ông đã dùng súng lục bắn vào họng tự sát.
Vấn đề đau khổ, ai sẽ đem lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng? Chỉ có một Đấng là Chúa Giêsu mới có thể trả lời cho chúng ta. Và nhờ ánh sáng Tin Mừng của Chúa chúng ta mới hiểu được nguyên do của đau khổ, đó chính là tội lỗi. Đau khổ đã xuất hiện từ khi loài người bắt đầu phạm tội và sẽ còn mãi cho đến tận thế. Mở trang đầu của Kinh thánh, chúng ta thấy Chúa dựng nên vạn vật, chim trời, cá biển, cầm thú và con người, rồi Kinh Thánh kết luận: “Mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, rất tốt đẹp”. Nhưng rồi chương trình tốt đẹp ấy đã bị đổ vỡ. Tội lỗi đã len vào thế gian. Và vì tội thì có sự chết nữa. Nghĩa là từ ngày nguyên tổ phạm tội thì đau khổ báo trước sự chết và sự chết đã ngự trị trên trần gian. Mỗi ngày có biết bao nhiêu tiếng khóc, có biết bao nhiêu dòng nước mắt. Mỗi ngày có hàng vạn người chết. Bản án còn vang lên: “Vì ngươi đã phạm tội thì trái đất sẽ sinh gai góc, ngươi phải làm ăn vất vả, đổ mồ hôi trán mới có ăn và ngươi là tro bụi thì sẽ hoàn về tro bụi”. Từ đó, đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt. Đau khổ là do tội lỗi phát sinh. Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Nhờ sự chết và sống lại, Ngài đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Nhưng Ngài không cất đi hình phạt của tội lỗi là gian nan đau khổ. Hơn nữa, Ngài dùng đau khổ làm giá cứu chuộc chúng ta. Vì thế, đời sống Chúa Giêsu là một đời đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận. Ngài mong chờ nữa, vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.
Chúa đã chịu đau khổ để đền tội chúng ta, thì Ngài cũng thánh hóa sự đau khổ để nêu gương sáng cho chúng ta. Hơn nữa, Ngài lấy sự nhẫn nại chịu đau khổ như là một điều kiện để theo Ngài, để làm môn đệ của Ngài: “Ai muốn theo tôi, hãy vác thập giá mình mà theo”. Từ đây không ai có thể tự hào là môn đệ Chúa mà không tham gia vào cuộc thương khó của Chúa, không vui lòng lãnh nhận phần đau khổ riêng tư của mình. Vì thế, khi gặp đau khổ, Chúa dạy chúng ta đừng buông xuôi, đừng thất vọng, đừng lồng lộn rủa trời, chửi đất mà hãy đến cầu xin với Chúa: Hãy đến với tôi, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
Đức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14), TN 24-B90
Đức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14), sau khi họ đã thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng.
Hôm nay Đức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho tôi sau khi tôi đã theo đạo một thời gian dài, đã cầu nguyện và tham dự các bí tích...
"Còn anh, anh bảo Thầy là ai?"
Câu hỏi này nhắm thẳng vào tôi, đòi tôi phải trả lời. Tôi không được trả lời qua loa hay máy móc.
Câu trả lời của tôi phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm, kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Đức Giêsu. Chẳng nên theo một người mà mình không quen và tin tưởng.
Đời tín hữu là một hành trình tìm kiếm không ngừng để khám phá ra khuôn mặt luôn mới mẻ của Đức Giêsu.
Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và quá phong phú. Chúng ta chỉ mon men đến gần, nhưng không sao múc cạn được mầu nhiệm ấy. Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.
Người làng Na-da-rét cứ nghĩ Đức Giêsu chỉ là bác thợ. Gioan Tẩy Giả nghĩ Ngài là một Mê-si-a vinh quang toàn thắng.
Phải gột bỏ cái biết cũ về Ngài để đón nhận một Đức Kitô khác, vượt xa điều mình nghĩ.
"Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa".
Cần trở nên trẻ thơ để nhận ra khuôn mặt thật của Giêsu.
Hôm nay, chúng ta dễ dàng trả lời như Phêrô: "Thầy là Đức Kitô", và hơn Phêrô: "Thầy là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa". Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu hỏi mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.
Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi, Đức Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ. Môn đệ chỉ có một con đường, con đường của Thầy.
Thầy đã sống phận người với tất cả bấp bênh tăm tối, tôi có dám sống phận người của tôi trong niềm vui không?
Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật, tôi có dám hiến mạng tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?
Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt, tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?
"Người ta bảo Thầy là ai?"
Ta cần biết cái nhìn của con người hôm nay về Đức Giêsu.
Nhiều cái nhìn đúng nhưng chưa đủ.
Truyền giáo là giúp người ta biết đúng và đủ về Ngài. Không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở, nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ.
Cuộc sống của ta vén mở căn tính của Đức Giêsu.
Dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Ngài.
Đức Giêsu đã nói: "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14,9).
Chúng ta ao ước nói: "Ai thấy tôi là thấy Đức Giêsu".
Gợi Ý Chia Sẻ
"Đức Giêsu là ai?" Bạn hãy trả lời câu hỏi này cho một người bạn trẻ đang tìm hiểu đạo.
Tin là bước theo Đức Giêsu trên con đường khổ giá. Bạn có thấy theo Chúa là khó không? Đoạn Tin Mừng hôm nay có giúp bạn vác thập giá một cách an bình hơn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Chúa đã làm người như chúng con, nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người. Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con người lại yếu đuối mong manh. Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt, và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu, Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến, xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được. Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây, xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc. Xin đồng hành với con, để con không cô đơn. Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu. Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố vì biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
Được gọi là tín hữu Chúa Kitô hay Kitô hữu, ít là một lần chúng ta đã tuyên xưng “tôi tin” vào Chúa TN 24-B91
Được gọi là tín hữu Chúa Kitô hay Kitô hữu, ít là một lần chúng ta đã tuyên xưng “tôi tin” vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xuống thế làm người, chịu đóng đinh chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta, phục hồi cho chúng ta sự sống mới trong Thiên Chúa”.
Hầu hết chúng ta được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội từ nhỏ, vì thế, Cha Mẹ, người đỡ đầu, có bổn phận hướng dẫn chúng ta thành toàn ơn Đức Tin đã được lãnh nhận. Việc thành toàn ấy bao gồm việc học biết về Đấng mình đã Tin và Sống theo ý muốn của Đấng mình đã tin. Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 17). Vậy, muốn cho ĐỨC TIN SỐNG, Đức Tin phải có việc làm.
Lời Chúa hôm nay giúp ta khám phá một vài việc làm của Đức Tin:
1. Tuyên xưng Đức Tin:
Tuyên xưng Đức Tin vào Chúa Giêsu không phải là công bố một công thức hay một kiến thức kinh điển thần học, hoặc một số vốn liếng Giáo Lý. Những người có học thần học hay có ít vốn liếng Giáo Lý cũng không nên xem thường đức tin bậc giáo dân thấp kém hay những người mù chữ, ít học. Bởi đức tin là một ân huệ hơn là một khả năng của lý trí. Và ơn huệ của đức tin được nhân lên mỗi phút giây cho những ai biết rõ Đức Giêsu Kitô, Người mình tin, kết hiệp mật thiết với Người và sống theo điều Người dạy. Một số giáo dân tưởng rất kém cỏi, nhưng thực ra, đức tin của họ thật mãnh liệt. Họ Tuyên Xưng Đức Tin bằng đời sống anh dũng của họ trước những làn tên mũi đạn của cuộc đời, của những cuộc bức bách có tổ chức, nhờ họ có lòng mến thực thà, chân thành.
Trong khi các tông đồ không nhận ra “người mình tin” là ai, thì Phêrô, người đánh cá tầm thường nhất, đại diện cho những con người ít học, đã biết “người mình tin”, sống thiết thân với “người mình tin” và được ân huệ nhân lên do bởi ánh sáng của Chúa Thánh Thần của lòng mến đã công bố: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29), hiểu là “Đấng đã được Thiên Chúa Xức Dầu”, “Đấng Cứu Chuộc Thế Gian”
2. Từ bỏ mình:
Việc làm cụ thể của Đức Tin còn phải là từ bỏ mình, như Chúa Giêsu nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình”. (Mc 8, 34-35)
Từ bỏ mình cũng đồng nghĩa với từ bỏ ma quỷ, từ bỏ con người cũ của ma quỷ, từ bỏ cái tôi kiêu ngạo được ma quỷ nâng đỡ, khuyến khích, xúi giục, từ bỏ những thứ tham sân si thuộc về cõi phù vân, cõi tạm mang tính-hay-chết hoặc không tồn tại trên đời, cũng là từ bỏ tất cả những gì chúng ta không thể mang theo vào cuộc sống mai sau.
Nhiều người đã tập buông bỏ tất cả cho tâm hồn bình an thư thái, thân xác khỏe mạnh, nhưng cách buông bỏ ấy chưa hẳn là cách buông bỏ theo ý muốn của Chúa Giêsu. Bởi thế, Chúa đã thêm vào việc “từ bỏ mình” là “vác thập giá mình mà theo Chúa”. Một đòi hỏi thật tích cực của Đức Tin vào “Đấng Đã Chịu Đóng Đinh” là phải chịu đóng đinh với Đấng mình đã tin. Như vậy, từ bỏ là biến đau khổ thành niềm vui, biến gian nan thử thách thành con đường sống, biến sự chết thành sự sống lại ngay trong bản tính hay chết của mỗi con người. Con mắt Đức Tin nhìn đau khổ và sự chết ở đời này, chính là hạnh phúc và sự sống ở đời sau.
Hãy cảm phục những lời tuyên xưng đức tin cách sống động, những việc làm cụ thể của đức tin, nơi những Kitô hữu đang đau khổ, bệnh tật, phong cùi, bị đàn áp, bị bức bách… Đừng nên xem thường họ, nhưng hãy kiểm lại cách từ bỏ và vác Thập Giá của mình.
3. Làm việc bác ái:
Tuyên xưng Đức tin vào Chúa Giêsu mà không mặc lấy trái tim nhân hậu của Ngài thì quả thật là giả dối, là môi miệng. Bởi thế, Thánh Giacôbê giải thích việc làm của Đức Tin là việc Bác Ái: “Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo họ rằng: “Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm”, mà anh em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì?” (Gc 2, 15-16)
Có những tín hiệu đáng vui mừng nơi những Giáo Dân hôm nay đang khá trưởng thành về việc thực hành Đức Bác Ái trong một xã hội vô cảm. Ý nghĩa “Bác Ái vì Chúa” của người Công Giáo, của các nhóm Công Giáo vẫn luôn là kim chỉ nam để mọi người thể hiện việc làm của Đức Tin hơn là việc làm cách giả hình, cách đạo đức mỵ dân của một xã hội gian dối. Chúng ta được quyền tin tưởng nơi những ủy ban Caritas rằng sẽ không thể có chuyện ăn chặn, bớt xén những phần giúp đỡ người nghèo, người bị thiên tai bão lụt…cũng không có chuyện lạc địa chỉ vào túi ông kia vào nhà bà nọ… bởi vì, tất cả đang trưởng thành về việc phải thực hiện đời sống Đức Tin bằng một Đức Bác Ái chân thành, Đức Bác Ái Kitô Giáo.
4. Hiên ngang sống công chính:
Thánh vịnh Đáp ca hôm nay cũng góp phần vào việc hướng dẫn một đức tin sống động: Hiên ngang sống công chính giữa cuộc đời giả trá điêu ngoa. “Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (Tv.114,9).
Hiên ngang sống công chính vì đã tin vào Đấng Công Chính và có Ngài nâng đỡ, phù trợ, như tiên tri Isaia khẳng định: “Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Đấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với tôi được? Chúng ta hầu toà, ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?” (Is 50, 5-9a)
Vâng, Từ bỏ mình, vác thập giá mình, rồi “theo Chúa”. Theo Chúa là theo cách sống công chính của Chúa. Sự công chính ấy lan tỏa ra cho thế gian bằng một đời sống chứng nhân can đảm: “Tôi đã đưa lưng tôi cho kẻ đánh, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt giấu mày, không tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi”. (x. Tv 114, 1-9).
Người Công Giáo Việt Nam hôm nay đang bị trong đấm vào lưng, ngoài vả vào mặt, trong giật râu, ngoài nhạo cười phỉ báng. Các Kitô hữu Việt Nam, thuộc mọi thành phần, phẩm trật đang bị hành hình đủ kiểu, mà kiểu nào cũng đòi hỏi một sự kiên cường làm chứng cho Đức Tin Công Giáo và hiên ngang sống công chính giữa mọi thế lực trong ngoài đều có thể là gian tà. Trước tình hình nhiễu nhương hư thực, chẳng biết đâu là gian đâu là thật, Người công Giáo Việt Nam chỉ còn có thể Tin vào Chúa Giêsu Kitô đích thực là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống mà nhắm thẳng đích đến trong cuộc sống chứng nhân.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, là Đấng Cứu Chuộc chúng con. Xin cho Đức tin của chúng con được sống và lớn lên nhờ việc từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, sống bác ái với mọi người và anh dũng làm chứng nhân cho Chúa giữa đời. Amen.
Chúa Nhật XXIV này được định vị vào trong viễn cảnh của cuộc Khổ Nạn. Đây là lần đầu tiên Đức TN 24-B92
Chúa Nhật XXIV này được định vị vào trong viễn cảnh của cuộc Khổ Nạn. Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo cuộc Khổ Nạn của Ngài theo Tin Mừng Mác-cô.
Is 50: 5-9
Bài đọc I trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị là bài ca thứ ba trong bốn bài ca về Người Tôi Trung chịu đau khổ; Người Tôi Trung này tìm gặp nơi Chúa sức mạnh của mình và chấp nhận mọi đau thương thử thách.
Gc 2: 14-18
Trong đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay, thánh nhân dạy rằng “đức tin không hành động là đức tin chết”.
Mc 8: 27-35
Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi đã nghe lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Ki-tô”, Đức Giêsu loan báo cuộc Khổ Nạn sắp đến của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 50: 5-9)
Bản văn này được trích dẫn từ một trong bốn bài thơ về một dung mạo bí ẩn của một Người Tôi Trung thập toàn của Đức Chúa trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Hai bài thơ sau cùng đều cho thấy Người Công Chính này chịu mắng nhiếc phỉ nhổ (bài thơ thứ ba mà chúng ta đọc hôm nay), đoạn bị giết chết một cách nhục nhã nhưng tiếp đó tràn đầy vinh quang (bài thơ thứ tư). Chúng ta gặp thấy ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ này, dung mạo của Chúa Giêsu, Đấng chịu đau khổ để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
1. Dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ
Người Tôi Trung này là sứ giả của Thiên Chúa, ông đã được thông báo cho biết: sứ mạng được trao phó cho ông không là dể dàng, nhưng ông “không cưỡng lại cũng chẳng tháo lui”. Sứ mạng này được xác định ở đoạn trên: “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức”. Ông chẳng đón nhận gì ngoài những vô ơn bạc nghĩa: bách hại, đánh đòn, nhục mạ; ông cam chịu mà không hề than vãn một lời. Sức mạnh và sự thanh thản của ông đến từ niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng phù trợ ông, Đấng tuyên bố rằng ông công chính, Người ở kề bên ông. Vì thế chẳng có gì phải nao núng cả: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!”.
2. Dung mạo của Đức Ki-tô
Ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung này chúng ta đọc thấy số phận của Đức Ki-tô. Chính Ngài cũng là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Sứ điệp mà Ngài mang đến là Tin Mừng cho những người nghèo khổ. Ấy vậy, chính Ngài phải gánh chịu muôn vàn đau khổ và bách hại mà không hề than van một lời. Và cũng chính Ngài công bố: “Ai có thể bắt lỗi tôi điều gì?”. Ngài biết rằng Chúa Cha sẽ tôn vinh Ngài và Chúa Thánh Thần sẽ minh oan cho Ngài.
BÀI ĐỌC II (Gc 2: 14-18)
Chúng ta tiếp tục đọc Thư của thánh Gia-cô-bê.
1. Đức tin không hành động là đức tin chết:
Đoạn trích hôm nay tập trung vào một chủ đề: “đức tin không hành động là đức tin chết”. Đức tin tích cực năng động là đức tin hướng đến việc thực thi đức ái. Lời khuyên bảo của thánh Gia-cô-bê rất thực tế: lời khuyên này được minh họa bởi một ví dụ cụ thể và được trình bày rất thấm thía. Những lời hay ý đẹp chỉ là như gió thoảng qua, thậm chí chỉ là giả hình, nếu người ta không đề ra những phương sách cứu giúp những người anh em đau khổ của chúng ta.
2. So sánh giáo huấn của thánh Giacôbê và của thánh Phaolô:
Liệu có nên nghĩ rằng thánh Giacôbê có lập trường trái ngược với thánh Phao-lô như được trình bày trong các thư gởi tín hữu Galát và Rôma: “Con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Kitô” (Gl 2:16)?. Nói đúng hơn, thánh Gia-cô-bê cố cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái coi chừng một lối giải thích lạm dụng giáo huấn của thánh Phao-lô. Người ta không thể trách cứ thánh Phao-lô là không ca ngợi những việc làm, đặc biệt là đức ái, vì nếu không có đức ái thì đức tin “chỉ là tiếng phèn la inh ỏi”.
Tuy nhiên, thánh Phao-lô, vị Tông Đồ dân ngoại, muốn chứng minh rằng những việc lành phúc đức của luật Mô-sê không thể đạt được ơn cứu độ, từ nay chỉ có một nguồn ơn cứu độ duy nhất là “tin vào Đức Ki tô”. Mục đích của thánh Gia-cô-bê là làm nổi bật những thành quả của luật mới, mà thành quả hàng đầu là Đức Ái. Đành rằng đức tin là Thiên Ân và nhờ đức tin chứ không vì công nghiệp mà chúng ta được nên công chính hóa, nhưng việc làm của chúng ta chứng tỏ rằng đức tin ấy đầy sức sống, chứ không èo uột héo khô.
Liệu có nên nghĩ rằng ở bên kia những tư tưởng này, có một dư âm nào đó về hai thái độ của hai vị thánh này xuất hiện ở Công Đồng Giê-ru-sa-lem? Thánh Gia-cô-bê bày tỏ lập trường phải tuân giữ vài mối giây ràng buộc với luật Mô-sê, trong khi thánh Phao-lô muốn giải thoát các Ki-tô hữu tiên khởi khỏi những thực hành Lề Luật…Có thể lắm chứ.
TIN MỪNG (Mc 8: 27-35)
Chúng ta đang ở giai đoạn Đức Giêsu tìm kiếm một sự yên tỉnh ngoài biên giới miền Ga-li-lê để được ở một mình với các môn đệ và dành trọn thời gian vào việc huấn luyện họ.
1. Bối cảnh của cuộc chuyện trò:
Như chúng ta đã biết, Đức Giêsu đã rút lui vào vùng Tia, đoạn miền Thập Tỉnh. Bây giờ Ngài rời Bết-sai-đa để tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp, vùng cực Bắc xứ Pha-lê-tinh. Lãnh địa này không thuộc quyền của tiểu vương Hê-rô-đê, nhưng em của ông là Phi-líp, một nhà cai trị cẩn trọng và khôn ngoan. Chính Phi-líp là người xây dựng thành Xê-da-rê mang tên ông để phân biệt với thành Xê-da-rê duyên hải. Như vậy Đức Giêsu đã dẫn các môn đệ đi sâu vào vùng đất lương dân, lên đến thượng nguồn của dòng sông Giô-đan.
Trên lãnh địa này, người ta có thể đi lại một cách thanh bình. Đức Giêsu đồng hành với các môn đệ của Ngài. Những dòng suối của sông Giô-đan thì rất gần, cảnh vật êm ả, chính trong khung cảnh êm ả và bầu khí thanh bình này mà cuộc nói chuyện giữa Thầy trò diễn ra.
Thánh Lu-ca đặt câu chuyện này vào trong bối cảnh Đức Giêsu cầu nguyện một mình và có các môn đệ ở đó với Ngài (Lc 9: 18-21: thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giêsu cầu nguyện vào những giờ phút trang trọng), trong khi thánh Mác-cô nói với chúng ta rằng Đức Giêsu và các môn đệ vừa đi vừa trò chuyện với nhau. Đối với thánh Mác-cô, chính nhờ đồng hành với Đức Giêsu, lắng nghe Ngài, mà chúng ta có thể hiểu được khuôn mặt đích thật của Ngài hơn.
2. Thăm dò niềm tin của các môn đệ về Ngài:
Trước hết Đức Giêsu hỏi các môn đệ về dư luận quần chúng: họ nói gì về Ngài, ngõ hầu giúp các ông hiểu rõ hơn niềm tin của họ vào Ngài. Các môn đệ đáp: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả; có kẻ bảo là ông Ê-li-a; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Trong những dư luận này, việc đồng hóa Đức Giêsu với ông Gioan Tẩy Giả thật lạ lùng nhưng nhắc nhớ lời phát biểu của tiểu vương Hê-rô-đê khi nghe danh tiếng Đức Giêsu: “Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ” (Mt 14: 1-2). Việc dân chúng nhận biết Đức Giêsu là một trong những đại ngôn sứ đã là một bước tiến đáng kể trên con đường đức tin rồi, tuy nhiên vẫn còn xa với chân lý.
Vì thế, Đức Giêsu muốn trắc nghiệm niềm tin của các môn đệ về Ngài sau những ngày tháng được sống bên Ngài, lắng nghe những lời Ngài nói và thấy những việc Ngài làm: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Thay mặt cho các môn đệ, ông Phêrô đáp: “Thầy là Đấng Ki tô”. Tại Mát-thêu, thánh Phêrô còn nói thêm: “Con Thiên Chúa hằng sống”. Tại Lu-ca, thánh Phêrô nói: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”. Quả thật, đây là một câu trả lời vượt quá khả năng của thánh Phêrô mà trong cùng một câu chuyện, thánh Mát-thêu ghi lại nhận xét của Đức Giêsu: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều này, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Bởi vì chỉ mới vừa trước đây thôi Ngài đã quở trách các ông vì lòng trí các ông quá chậm hiểu trước sứ điệp và con người của Ngài.
Ngay lập tức Đức Giêsu cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Lệnh cấm này được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin Mừng Mác-cô mà các nhà chuyên môn gọi “bí mật Đấng Mê-si-a”. Bí mật Đấng Mê-si-a này thường liên quan đến các phép lạ, bây giờ chính là căn tính Mê-si-a của Ngài. Tại sao lại có lệnh cấm này? Bởi vì Ngài sợ người ta hiểu lầm tước hiệu Mê-si-a trên bình diện trần thế và chính trị. Mặt khác, lúc này các môn đệ không thể hiểu hết được mầu nhiệm Mê-si-a hàm chứa trong ý định của Thiên Chúa. Rõ ràng, Đức Giêsu sắp vén bức màn mầu nhiệm này.
3. Loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài:
Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo cho họ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, các thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”. Cái tất yếu mà Đức Giêsu nêu lên: “Con Người phải…”, không là tất yếu của định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật tự thần học, chính là cái tất yếu của chương trình Thiên Chúa. Cuộc Khổ Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ sửa sai, nhưng là một phần của mầu nhiệm cứu độ nhân loại. Vào giây phút này, Đức Giêsu không cho các ông bất cứ lời giải thích nào khác ngoài cái tất yếu (“phải”) này.
4. Phản ứng của thánh Phêrô:
Trong lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn của Ngài, Đức Giêsu cẩn trọng tránh nói đến việc Ngài bị đánh đập và bị đóng đinh vào khổ giá. Nhưng như thế cũng đủ gây nên một sự choáng váng ở nơi các môn đệ. Một cách tế nhị, “thánh Phêrô liền kéo riêng Người ra mà trách”. Chúng ta có thể hiểu được phản ứng của thánh Phêrô. Trong tâm trí, thánh nhân đã hình thành nên ở nơi Thầy mình một Đấng Mê-si khải hoàn và vinh quang: thánh nhân ôm ấp những kỳ vọng trần thế; nhưng chắc chắn lời trách cứ của thánh nhân hàm chứa lòng yêu mến của mình đối với Thầy mình. Không ai có thể chấp nhận người mình yêu có thể bị đau khổ.
5. Phản ứng của Đức Giêsu:
Đức Giêsu phản ứng rất mãnh liệt; thái độ của thánh Phêrô tái hiện trong tâm trí của Ngài cơn cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa; Đức Giêsu đáp trả vị Tông Đồ của Ngài cũng bằng những lời mà Ngài đã dùng để trục xuất Tên Cám Dỗ: “Xa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4: 10), nhưng với thánh Phêrô, Ngài còn nói thêm: “Lui ra đằng sau Thầy”, nghĩa là “Anh không hiểu rằng nếu là môn đệ trung thành, anh phải bước đi theo con đường của Thầy”.
Và với tất cả những ai muốn làm môn đệ của Ngài, Đức Giêsu cũng căn dặn một lời như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Hễ mỗi lần gợi lên cuộc Khổ Nạn của Ngài, Đức Giêsu đều liên kết các môn đệ của Ngài, và qua họ, tất cả các Ki tô hữu, vào con đường đau khổ này: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được mạng sống ấy”. Ở đây Đức Giêsu sử dụng một từ hai nghĩa: “mạng sống” vừa có nghĩa cuộc sống tạm thời ở đời này vừa cuộc sống đời đời ở mai sau.
Những lời này âm vang xuyên suốt nhiều thế kỷ và đã tạo nên niềm tin tưởng và phó thác vô bờ của các thánh tử đạo mọi thời, hôm qua cũng như hôm nay.
Yêu và ghét là hai động thái trái ngược nhau, nhưng luôn xảy ra song song. Lằn ranh giữa yêu và TN 24-B93
Yêu và ghét là hai động thái trái ngược nhau, nhưng luôn xảy ra song song. Lằn ranh giữa yêu và ghét quá mong manh đến nỗi khó nhận ra. Khi ghét mà người ta cứ tưởng là mình đang yêu, và khi bảo là yêu mà thực ra lại chỉ là ghét!
Không ai lại ghét chính mình, vì thế mà đôi khi người ta yêu mình thái quá. Đó là tự ái - tự yêu mình quá mức. Nhưng Chúa Giêsu dạy “ghét mình” mà “yêu tha nhân”. Vẫn theo chiều hướng “ngược đời”. Vậy Ngài có quá đáng hoặc xúi dại chúng ta không?
Có thể là “hơi quá đáng” đối với chúng ta, nhưng tuyệt đối Ngài không hề xúi dại ai cả! Chúa bảo chúng ta “ghét mình” vì Ngài biết chung ta dễ ỷ lại, thích tự tôn, ưa tự cao tự đại, khoái “nổ” banh-ta-lông, dễ “chứng”, khó thuần hoá, thế nên Ngài phải đặt “hàm thiếc” vào chúng ta để kiềm chế thói “chứng” của chúng ta. Mà cũng rất hợp lý. Vì nếu Ngài không làm vậy thì chúng ta sẽ dám chỉ coi trời bằng… nắp bia mà thôi!
Bài đọc I hôm nay là bài ca thứ ba trong các Bài ca Người Tôi Trung. Tôi trung nào cũng khổ sở “trần ai khoai củ”. Không đâu xa, lịch sử Việt Nam cho thấy có những trung thần mà phải bị hàm oan, trong Giáo hội Công giáo cũng không thiếu những con người bị khổ oan như vậy, thậm chí có những vị thánh đã từng bị vạ tuyệt thông!
Ngôn sứ Isaia kể một mạch: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50,4-5). Ngoan cường quá! Không ngại khó, không sợ khổ, không “tham sanh, uý tử” (ham sống, sợ chết). Thế mới xứng danh Người Tôi Trung. Và đó chính là hình bóng của Đức Kitô.
Ngôn sứ Isaia kể tiếp: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Rất tự tin, rất hiên ngang. Mọi gian truân chẳng là “cái đinh” gì ráo trọi! Tại sao? Thánh nhân cho biết động lực thúc đẩy: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên” (Is 50,7-8a). Càng lúc càng an tâm, vững dạ; càng lúc càng tin tưởng. Ngôn sứ Isaia “đặt vấn đề” rất thẳng thắn, ngỡ như thách thức: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!” (Is 50,8b).
Sống công chính thì chẳng có gì phải sợ, và cũng chẳng ngán bất kỳ ai. Mãi mãi là chính mình!
Nếu theo Chúa và hoàn toàn tín thác vào sự quan phòng của Ngài, chúng ta sẽ không ngại nói: “Lòng tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi khẩn nài, Ngài lại lắng tai ngày tôi kêu cứu” (Tv 116,1-2). Và dù “dây tử thần đã bủa vây chằng chịt, lưới âm ty chụp xuống trên mình” (Tv 116,3), chúng ta cũng vẫn ngước cao đầu mà tiến bước. Nếu gặp gian truân sầu khổ mà chúng ta thành tín kêu cầu danh Chúa: “Ôi lạy Chúa, xin cứu gỡ mạng con!” (Tv 116,4), Ngài sẽ thương cứu ngay, vì Ngài luôn đồng hành với chúng ta, nhất là trên những chặng đường đầy chông gai. Bởi vì Ngài mệnh danh là Thiên Chúa tình yêu (x. 1 Ga 4,8), là Đấng nhân từ chính trực, luôn một dạ xót thương, hằng gìn giữ những ai bé mọn, những người yếu đuối, đặc biệt là luôn giữ lời hứa. Tác giả Thánh vịnh đã là nhân chứng sống động: “Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi chết, giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ, ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân. Tôi sẽ bước đi trước mặt Ngài trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 116,8-9). Thật vậy, Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không của người chết.
Thánh Giacôbê chất vấn: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?” (Gc 2,14), và phân tích: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,16). Thế thì đời sống tâm linh cũng vậy, “đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Một cách định nghĩa đức tin rất ngắn gọn mà sâu sắc và rất hay. Quả thật là thế: “Bạn có đức tin; còn tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2,18). Cứng họng. Không ai có thể đưa ra bất cứ lý do nào để tự biện hộ. Cách biện luận của Thánh Giacôbê rất thuyết phục, chắc hẳn ai cũng phải “tâm phục, khẩu phục”.
Có lần Chúa Giêsu đã từng “ví von” thế này: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn?” (Mt 7,9-10). Chỉ có nước câm miệng chứ ai nói lại được gì? Đó là yêu thương, là sống đức tin, là sống đạo (chứ không chỉ giữ đạo), là thể hiện lòng thương xót của Chúa. Đừng thương xót Chúa mà hãy thương xót nhau, cũng như Chúa Giêsu đã nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23,28).
Một dịp Đức Giêsu và các môn đệ tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” (Mc 8,27). Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8,28). Ngài lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phêrô nhanh nhẹn đại diện trả lời: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8,29). Một câu trả lời trên cả tuyệt vời, Phêrô nhà ta là “số dzách”, là “number one”!
Thế nhưng Đức Giêsu liền nghiêm mặt và cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Rồi Ngài không nói về vinh hoa, phú quý, hoặc chức quyền, địa vị, mà Ngài bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Thánh Máccô cho biết rằng Chúa Giêsu nói rõ về điều đó, không hề úp mở.
Có lẽ Phêrô nhà ta “cụt hứng”, thế nên ông liền kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách Ngài. Nhưng Ngài quay lại nhìn các môn đệ và trách ông Phêrô: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,33). Chúa Giêsu chưa một lần trách ai nặng như đã trách vị Giáo hoàng tiên khởi. Điều đó chứng tỏ Chúa rất công bình, chính trực, hay thì khen mà dở thì chỉnh ngay, không thiên tư hoặc vị nể. Thật vậy, những người khác chỉ bị trách là thế này hay thế nọ, còn Giáo hoàng Phêrô bị nguyền rủa là Satan. Quá nặng!
Nói xong thì thôi, không để bụng, Ngài liền gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34). Thuận ngôn, nghịch nhĩ. Khó quá, Chúa ơi! Thế nhưng Ngài vẫn thật thà và thẳng thắn: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Ngài không ép. Hoàn toàn cho tự do. Tuỳ ý. Thích thì chiều!
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con chỉ là những tội nhân khốn nạn, lúc nào cũng chỉ muốn “nổi dậy” bằng đủ cách, chỉ đòi được Ngài yêu mà không muốn yêu tha nhân, không muốn bị ghét mà chúng con lại lườm nguýt hoặc xỉa xói những người lân cận. Chúng con thật hồ đồ, thật đáng tội. Xin Ngài thương xót, tha thứ, và giúp chúng con quyết “bỏ mình” như Chúa Con đã nêu gương. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Một tháng sau, tôi bị gọi ra Viện Kiểm Sát Nhân Dân làm việc. Viện Kiểm Sát có chức năng điều tra TN 24-B94
“Một tháng sau, tôi bị gọi ra Viện Kiểm Sát Nhân Dân làm việc. Viện Kiểm Sát có chức năng điều tra xác minh dữ kiện để đưa ra toà án. Lần đầu tiên và cả đời tôi chỉ có lần này mới biết Viện Kiểm Sát… Chung quanh tôi độ ba chục giáo gian, tôi quen mặt một số vẫn đến Nhà Xứ đấu tranh.
Ông Viện Trưởng cất tiếng hỏi: "Ông có làm phép đạo cho anh này không ( tôi không nhớ tên ) ?" – Tôi thưa có. – "Khi làm phép thì ông đã nói thế nào ?" – "Điều này luật đạo chúng tôi không được phép nói." – "Ông phải nói, vì đây là pháp luật đòi hỏi." – "Tôi không được phép nói, vì luật chúng tôi dạy rằng: khi giải tội thì không bao giờ được nói điều người ta nói với tôi, dù có phải chết cũng không được nói: đó là bí mật Toà Giải Tội, chúng tôi phải giữ với giá mạng sống chúng tôi." ( Ảnh Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng ).
Họ cứ hỏi đi hỏi lại mãi, tôi vẫn chỉ thưa có một câu: "Tôi không được phép nói." Rồi họ hỏi hàng mấy chục câu hỏi vu vơ, trong đó có một câu quan trọng: "Ông có tôn trọng chính quyền không ?" – "Có, luật đạo chúng tôi dạy điều ấy." Cả một ngày thẩm vấn, chỉ có lời hỏi đáp đó là đàng hoàng.
Ông Viện Trưởng đọc lại biên bản để tôi ký. Khi đọc đến câu: ông có tôn trọng "chính quyền" không ? thì ông ta lại hỏi: ông có tôn trọng luật pháp nhà nước không ? Tôi ngắt lời ông ngay và nói: Ông không hỏi tôi thế. Nếu ông hỏi tôi 'có tôn trọng luật pháp không', thì tôi thưa khác." – "Ông thưa khác thế nào ?" – "Nếu ông hỏi có tôn trọng chính quyền thì tôi thưa có và không điều kiện. Vì luật đạo dạy dù chính quyền là thế nào đi nữa, cũng phải tôn trọng. Còn nếu hỏi: Có tôn trọng luật pháp nhà nước không, thì tôi thưa khác." – "Thưa thế nào ?" Rồi ông ta giơ cao cuốn Hiến Pháp lên: "Đây là luật pháp nhà nước, dù là Tổng Thống, dù là Chủ Tịch Nước cũng phải tuân theo."
Và ông ta trịnh trọng hơn nữa, hỏi dằn từng tiếng: "Ông có tuân theo pháp luật nhà nước không ?" Tôi cũng trịnh trọng và dằn từng tiếng: "Tôi tôn trọng luật pháp nhà nước, khi luật pháp đó không ngược đạo lý chúng tôi." Ông ta lại nói to hơn và dằn từng tiếng: "Đây ! Pháp luật nhà nước ! Ông có tôn trọng không ?" Tôi cũng dằn từng tiếng: "Tôi tôn trọng khi luật pháp đó không có gì đi ngược với đạo lý của chúng tôi. Còn nếu có điều gì ngược với đạo lý chúng tôi, lương tâm tôi không buộc phải theo." – "Thế nào là không hợp với lương tâm ?" Tôi ví dụ: "Ngày xưa vua chúa ra luật cấm đạo, thì dù có chết cũng không tuân luật vua chúa. Đó là cái chết của các Thánh Tử Đạo chúng tôi đó."
Ông Viện trưởng không còn gì mà nói. Tôi cũng thế…" ( trích Hồi Ký của cố Giám Mục Phaolô Lê Đắc Trọng, Phần 3 ).
Tin Mừng Chúa Nhật 24 Thường Niên B hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.” Theo nhà chú giải Kinh Thánh William Barclay, thì nguyên cụm chữ “từ bỏ mình” có thể được hiểu đơn giản theo nghĩa đen trong nguyên văn là “hãy nói không với chính mình.” Nếu ai muốn theo Chúa Giêsu thì luôn luôn phải trả lời “không” với chính mình và đáp “vâng” với Chúa. Đức cố Giám mục Phaolô Lê Đắc Trọng đã can đảm, khẳng khái nói không với chính ngài, để bảo vệ Tin Mừng được nguyên vẹn và thánh thiện tinh tuyền.
Nói không với bản thân
Kẻ nội thù trong mỗi người mới chính là kẻ thù dữ dội, khắc nghiệt nhất, hung hăng, ngoan cố nhất. Người ta có thể dễ dàng đánh thắng kẻ thù bên ngoài, nhưng lại dễ dàng chịu thua kẻ nội thù, đặc công ẩn náu ngay trong tâm can, suy nghĩ, lời nói và hành động của chính mình.
Bản năng sinh tồn chính là một kẻ nội thù, dễ dàng nghiễm nhiên trở thành ông chủ thân xác, chi phối hoàn toàn mọi hoạt động tinh thần, tình cảm lẫn hành vi ứng xử, giao tiếp thường nhật. Nếu không bị hạn chế quyền lực, thì kẻ nội thù này luôn tăng trưởng ngày thêm mạnh mẽ, hung bạo. Được voi đòi tiên. Chẳng bao giờ ngừng đòi hỏi được phục vụ. Bản năng bất chấp đạo lý, luật lệ. Vị kỷ, vị lợi, vô cảm với tha nhân đau khổ, đói khát, bệnh hoạn, cùng cực. Ăn no rồi đòi ăn ngon, có áo mặc rồi đòi mặc đẹp. Có nhà rồi đòi biệt thự xa hoa. Dứt khoát nói không với thân xác hưởng thụ, cũng như nói không với những dục vọng thấp hèn.
Đức Giêsu khuyên đừng quá nặng lòng với nhu cầu căn bản, mà hãy phó thác vào Chúa Quan Phòng, để sống công chính, tìm đến Nước Chúa: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây ? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” ( Mt 6, 31-33 ).
Nói không với cám dỗ
Hai cám dỗ thông thường và phổ biến nhất trong cuộc đời mỗi người là tiền và tình, đã khiến bao người khốn đốn, lao đao quỵ ngã. Đức Giêsu đã ân cần cảnh báo và khuyên nhủ mọi người hãy dứt khoát nói không với đam mê tiền của: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì người sắm sẵn đó, sẽ về tay ai ? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” ( Lc 12, 20-21 ).
Người cũng thật gay gắt nói không với tình: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hỏa ngục." ( Mt 5, 29-30 ).
Nói không với đời
Với đời, ai cũng muốn tìm kiếm danh phận, chức tước, bổng lộc, quyền hành. Nhưng Đức Giêsu khuyên ai muốn theo Người, thì hãy nói không với những phù vân nhất thời chóng qua, như bóng câu qua cửa sổ, như bóng mây qua thềm. Với Người, quyền hành lãnh đạo không phải để lạm dụng, vụ lợi cho mình, cho gia đình, thân nhân mình, mà để phục vụ mọi người: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người" ( Mc 9, 35 ).
Nói không với đời là không bon chen, đua đòi, chạy theo những giá trị nhất thời của thế gian, mà dám lội ngược dòng, quyết vâng theo Bát Phúc của Đức Giêsu: “Nghèo khó, hiền lành, đau khổ, thiện tâm, bác ái, trong sạch, nhân hòa và chịu bách hại.”
“Chúa Giêsu rõ ràng quyết liệt: “Ai muốn theo Ta hãy…" ( Mt 10, 38 ). Đường lối sáng tỏ, tiếng gọi không úp mở” ( Đường Hy Vọng, số 63 ).
Lạy Chúa Giêsu, qua Bí tích Thánh Tẩy chúng con được trở thành con chiên của Chúa, được phúc nhận biết Chúa, được nghe Chúa dạy bảo và mời gọi qua Tin Mừng, nhưng chúng con còn quá nặng nề xác thịt, còn mãi vương vấn, đắm đuối theo thế gian. Xin ban cho chúng con yêu mến Chúa tha thiết nồng nàn hơn, để có thể từ bỏ mình, vác thập giá, mà quyết tâm theo Chúa đến cùng.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con can đảm, dám nói không với chính mình, để noi theo gương Mẹ, thân thưa hai chữ “Xin Vâng”, đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Amen.
Từ xưa đến nay, câu hỏi: “Người ta nói Con Người là ai ?” của Đức Giêsu vẫn luôn là đề tài để người TN 24-B95
Từ xưa đến nay, câu hỏi: “Người ta nói Con Người là ai ?” của Đức Giêsu vẫn luôn là đề tài để người đời suy nghĩ, dù tin hay phủ nhận vẫn phải khắc khoải về Con Người này: Do Thái Giáo, Hồi Giáo, Phật Giáo, Cộng Sản, chính trị…
“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đó là đức tin Kitô giáo. Từ đó phát sinh Kitô giáo vì người tin vào Đức Giêsu thành Nadarét đã tuyên xưng Người là Đức Kitô, là Cứu Chúa của họ. Lời tuyên xưng “Đức Giêsu Kitô” có hai vế: Đức Giêsu thành Nadarét và Đức Kitô. Đức Giêsu thành Nadarét là con người lịch sử đã sống, đã chết và đã phục sinh. Qua biến cố đó, nhiều người đã nhìn nhận và tuyên xưng Người là Đức Kitô. Câu tuyên xưng "Đức Giêsu Kitô” gói trọn con người lịch sử Đức Giêsu thành Nadarét và Đấng được tuyên xưng là Cứu Chúa, là Đức Kitô, Đấng được niềm tin của Kitô hữu tôn vinh.
Ignace Lepp là một chứng nhân của hành trình thao thức tìm kiếm và cuối cùng đã gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô”. Ignace Lepp đã viết cuốn sách “Từ Karl Marx đến Giêsu Kitô”. Tác giả kể lại đời mình và những lý do làm ông tham gia phong trào Cộng Sản thế giới, để rồi sau đó trở thành tín hữu, rồi làm Linh Mục của Giáo Hội Công Giáo.
Thao thức tìm kiếm
Ignace Lepp sinh trong một gia đình giàu có, trưởng giả, ăn mặc sang trọng, nói năng lễ độ, cư xử hòa nhã, lịch thiệp. Giai cấp này khinh bỉ giới thợ thuyền mà họ cho là một bọn thất học, thô lỗ, cộc cằn thiếu tư cách làm người, và đáng sống trong cảnh bần hàn.
Một hôm tình cờ Ignace đọc được cuốn tiểu thuyết “Người Mẹ” của Marxim Gorky trong đó tác giả mô tả đời sống cơ cực, lầm than của dân lao động Nga làm việc trong các nhà máy kỹ nghệ hồi đầu thế kỷ 20. ( Ảnh chụp cha Ignace Lepp ).
Gorky không những đã tả hết những nổi nhọc nhằn, đời sống lam lũ của giới thợ thuyền, và bằng một nhận xét sắc bén ông cho thấy đời sống cơ cực của những người này chính là hậu quả của sư bóc lột của giới chủ nhân, sống sa hoa trên mồ hôi và sự khổ cực của dân lao động. Lần đầu tiên Ignace biết được chi tiết đời sống của hạng người mà bấy lâu cậu vẫn thường khinh rẻ và chỉ nhìn thấy từ xa. Và cũng nhờ cuốn sách đó mà cậu biết rằng chính giai cấp tư sản đã bần cùng hóa dân lao động.
Sau khi đọc thêm một vài cuốn nói về đời sống cùng khốn của dân lao động, như những tác phẩm của Anatole France, Victor Hugo, Tolstoi, v.v…, Ignace cương quyết từ bỏ giai cấp của mình để hoạt động cho giới cần lao. Cậu bị thu hút bởi những hứa hẹn của phong trào cộng sản thế giới: tạo nên một xã hội không có giai cấp, không phân chia ranh giới quốc gia, trong đó mọi người được sống bình đẳng, không bị bóc lột và áp chế. Từ đó, đối với cậu, tất cả những tín điều của thuyết Duy Vật Biện Chứng đều là những chân lý tuyệt đối, hợp với khoa học.
Cậu được thu nhận vào một tiểu tổ Thanh Niên Cộng Sản lúc vừa 15 tuổi. Trong thời gian này, Ignace đã đi phát truyền đơn, dán bích chương, dự những cuộc biểu tình, mít tinh và diễn thuyết nhân các ngày kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mười và Lễ Lao Động.
Việc cậu lên diễn đàn phát biểu trong một buổi lễ lao động đã được báo chí trong thành phố tường thuật chi tiết. Hay được tin này, gia đình cậu đã rất tức giận và buộc cậu phải từ bỏ phong trào nếu không sẽ cắt mọi yểm trợ tài chánh. Nhất quyết theo đuổi lý tưỏng của mình, cậu bỏ nhà ra đi, không mang theo một tý gì, ngoài bộ quần áo đang mặc và ít tiền túi.
Cậu sang ở một thành phố khác và trở lại nhà trường học xong cấp trung học. Ở đó cậu cũng được một tờ báo cộng sản nhận vào làm biên tập và thông tín viên. Cậu bắt đầu viết sách báo, ghi tên vào đại học và học thêm vài ngôn ngữ khác. Vì có trình độ học vấn khá và biết nhiều thứ tiếng, cậu được cất nhấc vào nhiều chức vụ quan trọng trong đảng, như cầm đầu tổ chức tuyên truyền khích động trong một vùng, tổng bí thư một hội trí thức cách mạng quốc tế. Sau đó Ignace được cử đi hầu hết các quốc gia Âu Châu để tuyên tuyền cho chủ nghĩa Cộng Sản và giúp thành lập những tiểu tổ địa phương. Trong giai đoạn này, cậu theo học nhiều lớp do các giáo sư cộng sản giảng dạy và đọc nhiều sách về lý thuyết Cộng Sản.
Trong lúc hoạt động cho phong trào cộng sản trong các nước độc tài và bảo thủ, Ignace bị bắt nhiều lần. Lần cuối cùng ông bị bắt ở Đức, lúc đó Hitler đã lên cầm quyền. Ông bị kết án tử hình, nhưng lúc sắp bị đem ra pháp trường thì ông được cứu thoát và được bí mật đưa sang Nga.
Đỉnh cao danh vọng
Vui mừng được đến nước cầm đầu phong trào cộng sản thế giới, ông xin ở lại Nga để phục vụ cho cách mạng. Ông rất được trọng vọng và được giao phó công tác đi diễn thuyết và được bổ làm giáo sư triết học cộng sản ở nhiều trường đại học. Nhờ chức vụ đó, ông được đi hầu hết khắp nước Nga và tiếp xúc với mọi giới. Kinh nghiệm này đã làm ông vỡ mộng một cách ê chề.
Cái thiên đường vô sản ở Nga mà phong trào Cộng Sản quốc tế thường khoe khoang với thế giới bên ngoài thật ra là một nhà tù khổng lồ, trong đó mọi người, tù nhân cũng như cai ngục, đều sống trong lo âu và sợ hãi. Mỗi lời nói, hành vi và thái độ đều được cân nhắc kỹ lưỡng xem có phù hợp với đường lối của đảng không ( mà đường lối thì thay đổi rất bất thường ) vì mỗi sơ suất, dù nhỏ nhặt đến đâu cũng có thể dẫn đến tù đày.
Vì được xem là một lý thuyết gia lỗi lạc của chế độ nên đi đâu Ignace cũng được đón tiếp nồng hậu. Điều này khiến ông càng thất vọng hơn nữa. Trong khi, vì chính sách kinh tế khắc nghiệt của Stalin, dân chúng Nga sống trong cảnh đói rách bần cùng thì giới lãnh đạo cộng sản sống một cuộc đời vương giả. Họ chiếm cứ những biệt thự sang trọng và những nhà nghỉ mát của giới quý tộc và chủ nhân thời Nga Hoàng. Các bữa tiệc của họ đầy cao lương mỹ vị, rượu volka và trứng caviar không bao giờ thiếu. Các "mệnh phụ phu nhân" cũng khoe khoang áo quần, nữ trang với nhau như giới tư sản trong các xã hội tư bản. Những gia đình quyền quý này cũng có kẻ hầu người hạ mà họ sai bảo và đối xử còn trịch thượng hơn các chủ nhân tư bản Tây Âu.
Thất vọng
Chàng Ignace, bây giờ đã trưởng thành mới nhận thức được rằng xã hội Xô Viết thực chất chỉ là một xã hội phân chia giai cấp, trong đó giai cấp công nhân, thay vì được giải phóng khỏi mọi áp bức như đảng cộng sản rêu rao với thế giới bên ngoài, thực ra bị bóc lột tối đa, và tất cả mọi người, có lẽ chỉ trừ Stalin, đều sống trong sự sợ hãi, nghi kỵ lẫn nhau kể cả bạn bè thân nhất hay vợ chồng, con cái.
Ignace hoàn toàn thất vọng với chế độ Xô Viết, mà chàng cho là đã phản bội lý tưởng cách mạng. Chàng thấy mình không thể nào tiếp tục sống trong bầu không khí ngột ngạt, đầy nghi kỵ và lo lắng như vậy được nữa. Chỉ trích sự sai lầm của chế độ không còn được đặt ra nữa vì Ignace biết sẽ không mang lại lợi ích gì mà còn có thể nguy hiểm cho tính mệnh của mình. Chàng cũng không thể xin ra khỏi đảng hay xin ra nước ngoài, vì làm như vậy người ta có thể buột cậu tội phản đảng, hay nguy hơn nữa, bị nghi là gián điệp của các nước tư bản trà trộn ngay từ đầu để lũng đoạn cách mạng. Với một cáo trạng như vậy, cái chết chắc như cầm trong tay.
May thay trong thời gian đó nhiều người vẫn được phép thư từ với bạn hữu nước ngoài. Dịp may hiếm có đó đã xảy ra khi một "Hội nghị về Hòa bình thế giới" được tổ chức ở Luân đôn, Ignace đã vận động để được mời dự. Với giấy mời trong tay, chàng xin xuất cảnh và rất ngạc nhiên khi được cấp hộ chiếu. Tuy nhiên chàng chỉ thấy an toàn khi ra khỏi biên giới Liên Bang Xô Viết.
Chán nản
Khi trở về lại Tây Âu, Ignace rất chán nản. Lý tưởng mà chàng hăng say phục vụ trong mười mấy năm trời thật ra chỉ là môt sai lầm khổng lồ. Đem thử nghiệm vào một quốc gia, lý thuyết này chỉ đem lại cho nhân dân lao động xứ đó một xã hội đầy bất công, áp bức, thù hận và tạo ra một chế độ độc tài cực kỳ tàn ác. Thất vọng chua cay đó đã làm Ignace mất hết tin tưởng vào cuộc sống mà chàng cho là vô nghĩa. Để lấp khoảng trống trong tâm hồn, chàng đã chìm đắm vào những bê tha trụy lạc. Nhưng ngay sau những cuộc chời bời trác táng đó chàng lại càng chán nản hơn. Có lần chàng đã nghĩ đến tự tử, và đã dự định nhiều lần nhưng không đủ can đảm tự kết liễu đời mình.
Lý tưởng huyền diệu
Một hôm đi chơi về khuya, Ignace tình cờ thấy trên cái bàn của phòng khách, nơi chàng ở trọ, một cuốn sách có nhan đề “Quo Vadis ?” ( Thầy Đi Đâu ? ). Vì khó ngủ, chàng tò mò mở sách ra đọc. Đó là một cuốn tiểu thuyết tả lại cảnh những người Kitô hữu đầu tiên bị bách hại dưới thời Neron. Lần đầu tiên, sau khi thất vọng về chế độ cộng sản Xô Viết, Ignace đọc cuốn sách này một cách say mê, chàng đã đọc thẳng một mạch cho đến sáng. Chàng thấy những nạn nhân của cuộc bách hại này chỉ vì theo đuổi một lý tưởng mà họ cho là cao đẹp đã chịu để cọp và sư tử xé xác ăn tươi nuốt sống mình trong các đấu trường còn hơn là chối bỏ niềm tin đó.
Để tìm hiểu thêm những lý do gì mà những tín đồ Thiên Chúa giáo này đã dám liều chết đến như vậy, chàng tìm đọc thêm những sách khác nói về tôn giáo này. Những sách tả về đời sống của các cộng đồng Thiên Chúa giáo đầu tiên làm chàng thích thú. Chàng thấy họ sống một đời sống đúng như lý tưởng mà chàng thường ấp ủ: chia sẻ của cải cho nhau, thương yêu nhau như anh em môt nhà. Chàng tự hỏi không biết các cộng đồng Thiên Chúa giáo tiên khởi có sống thật như vậy không, hay đó chỉ là những tài liệu tuyên truyền như các chế độ cộng sản thường làm. Chàng tìm đọc thêm nhiều sách khác của nhiều tác giả khác, có người theo Thiên Chúa giáo, có người vô thần. Nội dung những sách đó có khác nhau về chi tiết, nhưng đại cương thì rất giống nhau. Tất cả đều nói lên sự yêu mến, việc chia sẻ của cải cho nhau trong các cộng đồng đó là hợp lẽ phải. Chàng thấy lối sống đó hợp với lý tưởng mà chàng hằng mơ ước, một xã hội Cộng Sản chân chính không dựa trên hận thù và đấu tranh mà dựa trên tình yêu thương vô điều kiện.
Tất cả những sách vở chàng đọc được về lối sống của các cộng đồng nói trên đều dẫn đến lời giảng của một người: Giêsu ở thành Nadarét, và một nguồn tài liệu: các sách Phúc Âm. Ignace cảm thấy bị lôi cuốn vào những lời giảng dạy tuyệt vời của Giêsu. Bài giảng trên núi và các dụ ngôn không những rất thi vị, mà còn chứa một học thuyết huyền diệu. Nhưng điều gây ấn tượng mạnh mẽ nhất cho Ignace chính là con người Giêsu, một người rất mực giản dị và nhân hậu với tất cả những người cùng khổ. Giêsu sống hoàn toàn bình đẳng không những với các môn đệ mà với những người nghèo khó nhất. Cách Giêsu đối xử với những người tội lỗi như bà Marie ở Magdala và những người thâu thuế thật khác xa với các phương pháp mà công an và cảnh sát ở Liên Bang Xô Viết đối xử với công dân của họ.
Sau khi đọc kỹ sách Phúc Âm và nhiều sách khác, Ignace cho rằng những điều viết về Giêsu là có thật. Với một tính tình hiếu động, chàng nhất quyết dâng hiến trọn vẹn đời mình cho lý tưởng mới cũng như trước kia chàng đã từng hăng say hoạt động cho chủ nghĩa cộng sản. Ignace đã xin rửa tội theo đạo Công giáo và xin được làm linh mục để phục vụ mọi người, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, quốc gia hay chủng tộc trong một tình yêu tuyệt đối.
Ignace Lepp thao thức tìm kiếm và cuối cùng đã gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô” và đã trở nên Linh mục. Câu chuyện tuyệt đẹp về một hành trình ơn gọi. Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Còn anh em bảo Thầy là ai ?" là thao thức cho những ai khao khát chân lý.
Ba bức chân dung về Đức Giêsu
Ðức Giêsu đặt một câu hỏi quan trọng cho các môn đệ: "Người ta bảo Thầy là ai ?". Dân chúng chỉ có một cái nhìn mơ hồ và thiếu sót về Ðức Giêsu. Họ coi Ngài là Gioan Tẩy Giả, là Ngôn Sứ Êlia hay một Ngôn Sứ nào đó.
Ðức Giêsu chờ đợi một câu trả lời rõ ràng và đầy đủ hơn từ phía các môn đệ thân tín. "Còn anh em bảo Thầy là ai ?" Phêrô, đại diện cho cả nhóm, nói lên niềm xác tín của mình: "Thầy là Ðức Kitô."
"Thầy là ai ?”, Ðức Giêsu là ai ? Ðó là một câu hỏi được đặt ra cho mọi thời đại. Câu hỏi được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời. Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo theo một nếp sống khác nhau. Tuy nhiên điều quan trọng ở chỗ là mỗi người Kitô hữu đặt cho mình câu hỏi: đối với tôi, Đức Giêsu là ai ? Bức chân dung nào đã điều khiển những tư tưởng, tâm tình và hoạt động của tôi ? Phải làm thế nào để trình bày chân dung sống động của Đức Giêsu cho anh chị em của tôi hôm nay ?
Phần tôi, tôi thích ba bức chân dung về Đức Giêsu: Hài nhi trong máng cỏ, Tử tội trên thập giá và Tấm Bánh trên bàn thờ.
- Là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai, nhưng khi chấp nhận làm người, Đức Giêsu đã được sinh ra trong một chuồng chiên, được mẹ bọc tả đặt nằm trong máng cỏ ( Lc 2, 12 ). Ngôi Hai làm người là “một tin mừng trọng đại” cho toàn dân, lại phải “ở nhờ” nhà súc vật ( Lc 2, 11 ).
- Đức Giêsu lên ngôi vua trên Thập giá. Cái chết đau thương tủi nhục của một tử tội lại trở nên hiến tế, nguồn ơn cứu độ cho nhân loại.
- “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” ( Lc 22, 19 ). Đấng ban sự sống cho muôn loài ( Cv 17, 25 ), Đấng mà vừa nghe Danh thánh thì cả trên trời dưới đất và trong âm phủ, muôn vật phải bái quỳ ( Pl 2, 10 ) đã trở nên Tấm Bánh nuôi nhân loại qua Thánh lễ mỗi ngày.
Máng cỏ là nhà Chúa sinh ra. Thập giá là ngai Chúa lên ngôi vua. Tấm bánh là Mình Thánh Chúa. Bức tranh máng cỏ - chuồng chiên là sự chiến thắng cám dỗ về của cải vật chất. Bức tranh Thập giá- Đồi Sọ mô tả chiến thắng về chức quyền. Bức tranh Tấm Bánh- Thánh Thể giải bày chiến thắng cám dỗ về danh vọng.
Thiên Chúa làm người và đã trở nên tôi tớ. Thiên Chúa đã đóng đinh mọi sức mạnh áp chế, mọi quyền lực thống trị. Người đã trở nên anh em để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho con người.
Đấng mà chúng ta tôn thờ và yêu mến không chỉ là Đức Chúa, Đấng Tối Cao, Đấng Thánh, mà còn là Con Người, là anh em, là người trao ban sự sống dồi dào.
Khi hỏi các môn đệ mình là ai Đức Giêsu đã tiết lộ cho các ông biết Ngài sẽ bị giết chết và ba ngày sau TN 24-B96
Khi hỏi các môn đệ mình là ai Đức Giêsu đã tiết lộ cho các ông biết Ngài sẽ bị giết chết và ba ngày sau sống lại ( x. Mc 8, 31 ). Ngài đã tuyên bố điều đó cách rõ ràng mà không hề úp mở, che giấu. Như vậy Đức Giêsu đã loan báo cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài cho các môn đệ biết. Nhưng khi Phêrô chưa hiểu được mục đích của Thiên Chúa, ông đã kéo riêng Đức Giêsu ra mà can ngăn, liền bị Ngài quở mắng: “Xatan, lui lại đằng sau Thầy ! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” ( Mc 8, 33 ).
Quả thật những suy nghĩ và hành động của con người hoàn toàn khác biệt với Thiên Chúa, có thể nói không hề giống chút nào. Chỉ những ai am hiểu Lời Chúa, yêu mến Lời Chúa người ấy mới có thể thực thi Lời Ngài cách dễ dàng. Ai thực thi Lời Chúa người ấy đã uốn nắn tư tưởng của mình nên giống tư tưởng Thiên Chúa.
Đường lối và hành động của Thiên Chúa luôn đi ngược với những tính toán vụ lợi của con người. Nhân loại chỉ thấy cái họ cần trước mắt: danh vọng, địa vị, quyền lợi, chức tước… đó là tất cả những gì mang lại giá trị vật chất cho họ, nhưng hiếm ai dám hy sinh vật chất mà dám nghĩ đến hành động vì Nước Trời và cho Nước Trời.
Muốn có được tư tưởng của Thiên Chúa, con người không thể đi con đường nào khác hơn ngoài con đường thập giá. Và muốn đi theo Chúa là phải “từ bỏ chính mình vác thập giá mình mà theo Chúa" ( Mc 8, 34 ). Thập giá đây là thập giá của bản thân chứ không phải là thập giá của một ai khác. Nhiều người lầm tưởng rằng khi theo Đức Giêsu họ vác thập giá của nhân loại. Không có đâu, chỉ cần họ vác thập giá của chính bản thân họ thôi cũng còn chưa được, lấy đâu vác thập giá của người anh em ? ( Ảnh chụp ông Arthur Blessitt, hơn 40 năm vác thập giá đi bộ vòng quanh thế giới, bắt đầu từ tháng 8 năm 1971, tính đến nay đã băng qua 7 lục địa và 315 quốc gia ).
Đức Giêsu đã hy sinh mạng sống mình để chết cho muôn loài được sống, chỉ cần chúng ta vác thánh giá mình và đi theo Ngài, chúng ta sẽ có được sự sống mà Ngài đã chết thay cho ta, chết vì ta. Nhưng tại sao thế gian lại từ chối, nhân loại lại khước từ ?
Việc Đức Giêsu chết vì nhân loại và sống lại vì họ đã hiền nhiên rõ ràng, không gì cần phải minh chứng. Đó là một phép lạ nhãn tiền mà bao người đã thấy đã chứng kiến và đã xác nhận, không còn gì phải bàn cãi. Vấn đề là tại sao con người không tin, và vẫn sống với thái độ khước từ ?
Lạy chúa, tất cả cũng chỉ vì đường lối và suy nghĩ của con khác xa đường lối Thiên Chúa. Con luôn đi tìm những thứ ngược với ý muốn của Ngài cho nên chẳng bao giờ được hạnh phúc, được bình an.
Xin Chúa giúp con xác rằng Thiên Chúa đã sống cho con và chết vì con, chỉ cần con tin như thế và sống thật với niềm tin của mình. Ước gì cuộc đời con sẽ không còn là kẻ phản nghịch luôn vác thánh giá đi ngược lối chúa. Xin giúp con biết thực thi thánh ý Chúa mỗi ngày trong đời sống. Không gì hạnh phúc hơn nếu con biết đón nhận thánh ý Ngài như là cùng đích...
Thánh Phaolô có một ước muốn làm “nổi da gà” và “rợn tóc gáy”, hoàn toàn không giống ai: “Ước TN 24-B97
Thánh Phaolô có một ước muốn làm “nổi da gà” và “rợn tóc gáy”, hoàn toàn không giống ai: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” ( Gl 6, 14 ). Hãnh diện về thập giá ? Hãnh diện vì gặp đau khổ ? Hãnh diện vì bị nhục nhã ? Thật là chuyện ngược đời !
Cố Giám Mục Lambert de la Motte ( 16.1.1624 – 15.1.1679 ), vị thừa sai người Pháp, cũng đã có ý tưởng “không giống ai” nên mới sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Chắc hẳn ngài phải cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô nên mới dám có “sở thích” kiểu đó !
Thập giá là biểu tượng của sự đau khổ hoặc bất hạnh, vì đó là hình phạt tồi tệ và ghê gớm nhất thời đó, như ngày nay là án tử hình. Cuộc sống thường nhật cũng chẳng ai “mê” đau khổ, mà cố tránh như tránh quái vật hoặc ma quỷ vậy. Thế mà những người thực sự yêu mến Đức Kitô lại “khoái” đau khổ. Quá ngược đời ! Với người không có niềm tin vào Đức Kitô, thậm chí có thể ngay cả một số người nhận mình là người Kitô giáo, không thể hiểu được ý nghĩa của thập giá. Họ cho đó là dại dột, là ngu xuẩn, là điên rồ, là… “bó tay chấm com”, khi thấy chúng ta suy tôn Thánh Giá và tôn thờ Con Người bị treo trên đó.
Trách nhiệm và bổn phận là “gánh nặng” hằng ngày mà ai cũng có, mỗi người mỗi kiểu và mỗi mức độ khác nhau. Thánh Phaolô tâm sự: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng !” ( 1Cr 9, 16 ). Rao giảng Tin Mừng là một trách nhiệm, kính mến Chúa và yêu thương tha nhân là bổn phận khác – nhưng vẫn song song. Chẳng có trách nhiệm và bổn phận nào dễ dàng, vì thế mà luôn phải cố gắng. Mệt lắm ! Thánh Phaolô cho biết phải “tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó” ( 1Cr 9, 17 ). Làm vì bị bắt buộc, vì miễn cưỡng, thì cũng tốt, nhưng tự nguyện bao giờ cũng tốt hơn. Cái khó đối với chúng ta là Thiên Chúa cho chúng ta hoàn toàn tự do hành động.
Vậy đâu là phần thưởng ? Thánh nhân trả lời: “Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” ( 1Cr 9, 18-19 ). Hoàn toàn tự nguyện. Thánh nhân kể: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” ( 1Cr 9, 22-23 ).
Cũng như “trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải”, vì thế mà ai cũng phải cố gắng hết sức để “chiếm cho được phần thưởng”. Không chỉ vậy, trước đó còn “phải kiêng kỵ đủ điều”. Nghề nào cũng khó, ngành nào cũng mệt, muốn “chuyên nghiệp” về lĩnh vực nào thì phải khổ luyện không ngừng. Người viết lách mà không viết thì bị “xuống tay”, các văn nghệ sĩ không khổ luyện hằng ngày thì chẳng làm được trò trống gì, các vận động viên không cố gắng khổ luyện thì đừng mong tranh tài,… Đơn giản như học sinh đi học mà không chăm chỉ luyện tập thì không thể hoàn thiện bản thân và không mong gì tươi sáng và đầy trách nhiệm như châm ngôn Việt Nam: “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”.
Nhưng tất cả mọi hoạt động đó chỉ là để đoạt “phần thưởng chóng hư”. Còn chúng ta, những người Kitô giáo, có một mục đích cao hơn, đó là “phần thưởng không bao giờ hư nát”, là phúc trường sinh trên Thiên quốc. Không đạt được “phần thưởng” Nước Trời là chúng ta phụ Tình Chúa, làm lãng phí giá Máu Cứu Độ của Đức Kitô, là coi thường Lòng Chúa Thương Xót. Thánh Phaolô nói: “Vậy tôi đây cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không khí. Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” ( 1Cr 9, 26-27 ). Chúng ta cũng phải quyết tâm vậy !
Chính Chúa Giêsu đã từng bảo chúng ta phải “từ bỏ mình” và “vác thập giá mình hằng ngày” ( Mt 10, 37-38; Mc 8, 34; Lc 14, 26-27 ), phải “qua cửa hẹp” ( Mt 7, 13 ), phải ăn chay, phải hãm mình,… Toàn những điều “làm khổ mình” thôi. Khó lắm ! Chúa không “chơi khăm” chúng ta mà chỉ muốn chúng ta “nên người”. Chứ Ngài “hô biến” một cái là chúng ta vào Thiên Dàng cả đám ngay, nhưng Chúa muốn chúng ta tự thân cố gắng để có thể hiểu được ý nghĩa sâu xa và giá trị của sự đau khổ, đồng thời mới xứng đáng nhận phần thưởng. Có ăn lạt mới biết thương mèo. Có khổ mới biết thương người khác.
Khổ luyện mình hằng ngày mới là thật lòng theo Chúa, chứ không thể ung dung tự tại. Có chờ sung rụng thì cũng phải nhặt lấy, bỏ vô miệng, chứ chẳng bao giờ có trái sung nào có thể rơi trúng ngay miệng mình – mà có trúng ngay miệng cũng vẫn phải nhai, nuốt, và tiêu hóa. Việc đơn giản thế mà vẫn… mệt !
Có gian nan mới thành nhân, có đau khổ mới nên khôn, có thất bại mới biết cố gắng vươn lên: “Thất bại là mẹ thành công” ( Tục ngữ Việt Nam ). Đức Phật được người ta kính trọng vì ông đã cảm được nỗi đau khổ qua Tứ Diệu Đế. Các vĩ nhân đều là những người đã từng nếm mùi gian khổ, các chính khách được thế giới tôn vinh đều là những người đã kiên trì “nằm gai nếm mật”. Thật vậy, chẳng nếm mùi gian khổ thì khó nên bậc siêu quần !
Nhưng phàm nhân chúng ta quá yếu đuối, ưa nhàn rỗi chứ không muốn “động chân, động tay”. Kinh Phật nói: “Con người là nô lệ vì chưa hủy diệt được ý tưởng về bản ngã trong nội tâm”. Đời là bể khổ. Có lúc chính chúng ta tự làm khổ mình. Đời càng khổ thì chúng ta càng cần Chúa: “Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi mong tới được khuôn viên đền vàng. Cả tấm thân con cùng là tấc dạ những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng” ( Tv 84, 3 ). Ngài là Chúa Tể càn khôn, là Đức Vua, là Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, “ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm, cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con bên bàn thờ của Chúa” ( Tv 84, 4 ), thế chúng ta lại không đáng hơn chim sẻ ư ?
Phúc thay người ở trong thánh điện và luôn được hát mừng Ngài. Nhưng muốn vậy thì phải khổ luyện, phải dám “ngược đời” như Chúa Giêsu. Nói dễ, làm khó. Ráng mãi vẫn chưa được. Phàm nhân khốn nạn vậy đó. Hứa nhiều mà chẳng giữ bao nhiêu. Trăm voi không được bát nước xáo ! Do đó chúng ta phải không ngừng kêu van: “Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin đoái nghe lời con cầu nguyện. Xin lắng tai, lạy Chúa nhà Giacóp. Lạy Chúa là khiên mộc chở che, xin thương xem nhìn đến gương mặt đấng Ngài đã xức dầu” ( Tv 84, 9-10 ).
Nước Trời cực kỳ quý báu, không thể ví với bất kỳ thứ gì. Thật vậy, “một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày” ( Tv 84, 11a ). Người đời cũng nói: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” ( một ngày ở tù dài đằng đẵng như ngàn năm ), nói lên sự hạnh phúc của cuộc sống tự do. Còn tác giả Thánh Vịnh so sánh: “Thà con ở cổng đền Thiên Chúa vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân !” ( Tv 84, 11b ).
Thiên Chúa là vầng thái dương, là thuẫn đỡ, là khiên che, và tặng ban ân huệ với vinh quang. Thế nên “ai sống đời trọn hảo, Người chẳng nỡ từ chối ơn lành” ( Tv 84, 12 ). Đó không là “dụ dỗ” hoặc “mồi chài” mà chắc chắn như vậy: “Trước khi trời đất qua đi, một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” ( Mt 5, 18 ).
Vào một ngày đẹp trời, Đức Giêsu tỉ tê tâm sự với các môn đệ thế này: “Mù mà lại dắt mù được sao ? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố ?” ( Lc 6, 39 ). Rồi Ngài nói thêm: “Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi” ( Lc 6, 40 ). Chúa Giêsu rất bình dân, Ngài thực tế mà có duyên, nghiêm chỉnh mà cũng có “máu” hài hước. Ngài đặt vấn đề: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới ? Sao anh lại có thể nói với người anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra’, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình ?” ( Lc 6, 41-42a ). Lúc vui thì vui hết mình, mà lúc làm việc thì đâu ra đó. Cười cười mà “chết người” chứ chẳng chơi. Đừng thấy Chúa “nói nhẹ” mà tưởng Ngài “cho qua phà” rồi cả gan “được đằng chân, lân đằng đầu” !
Chúa Giêsu nói thẳng: “Hỡi kẻ đạo đức giả ! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em !” ( Lc 6, 41-42b ). Lại chuyện đạo đức giả. Thế gian nhiều loại người này, dù mức độ khác nhau, nên Chúa Giêsu rất ghét loại người “miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm”.
Không sống giả nhân giả nghĩa, sống trong sạch và cương trực, đó cũng là “vác thập giá mình” mà theo bước Chúa Giêsu lên Canvê. Lên đó không phải để ngắm trời, ngắm đất, hoặc hóng gió mát rồi ngâm thơ và ca hát, hoặc lên đó đốt lửa trại, mà lên đó để “chết”. Chết thật chứ không chết giả !
Nhưng rồi mọi đau khổ sẽ biến thành vinh quang, và người chết sẽ sống lại để được trường sinh. Ngịch lý lại trở thành thuận lý. Cái ngưỡng sinh tử thật kỳ diệu: Cửa sự chết lại chính là cửa sự sống – sống dồi dào, sống mãi mãi. Thật là trên cả tuyệt vời !
Lạy Chúa, xin giúp chúng con đủ can đảm mà sống “ngược đời” như Con Chúa đã tiên phong nêu gương, biết yêu mến Thánh Giá mà dám chết cho tội mình và chết vì chân lý. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
------------------------------------
TN 24-B98: THEO CHÚA PHẢI TỪ BỎ MÌNH, VÁC THẬP GIÁ MÌNH
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XXIV – B
(Mc 8, 27 – 35)
Sau lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29) Phêrô cùng các môn đệ bị Thầy cấm không được TN 24-B98
Sau lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29) Phêrô cùng các môn đệ bị Thầy cấm không được nói với bất cứ ai về Thầy. Liền sau lời cấm là bài học về chính Thầy, Đấng Mêssia: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều…bị giết đi” (Mc 8, 31). Vì không chấp nhận nên Phêrô đã bị khiển trách nặng nề bởi ông đã bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế: “Satan, hãy lui đi, vì người không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người” (Mc 8, 33).
Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được Thiên Chúa. Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu, thực sự họ không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời hay là thần thánh gì hết, họ là những con người bằng xương bằng thịt với đức tính và khuyết điểm như chúng ta. Có thế họ mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.
Vậy, đâu là ý Thiên Chúa?
Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ hiểu rằng “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8, 31). Chương trình trên làm đảo lộn tâm hồn các môn đệ. Làm sao “Ðấng Kitô” (Mc 8, ) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới: “Kéo Người lui ra mà can trách Người” (Mc 8, 32). Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận thập giá.
Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời trách đuổi Phêrô: “Satan, hãy lui đi ” (Mc 8, 33).
Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, lúc ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Người.
Theo Chúa phải từ bỏ
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: ” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8, 34).
Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?
Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu yêu cầu là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy vọng.
Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không đòi chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là“, nhưng điều “chúng ta đã trở nên“. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, bao phủ trên hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất“, ngược với “ảnh trên trời“, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta“, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.
Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác nhau yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói thứ ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói thứ ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.
Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao tiếp với Chúa. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta.
Theo Chúa là chấp nhận thập giá
Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình“, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình“, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, “chịu mất mạng sống” (Mc 8, ) là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Ðức Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại” (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).
Lạy Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã đến thế gian chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng con, chúng con xin theo Chúa, nhưng xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Xin gia tăng lòng tin yêu Chúa nơi chúng con, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Amen.
Ngôn sứ Isaia tiên báo về Đấng Messia sẽ bị người đời đánh đòn, mắng nhiết, phĩ nhỗ. Tuy nhiên, vì TN 24-B99
Ngôn sứ Isaia tiên báo về Đấng Messia sẽ bị người đời đánh đòn, mắng nhiết, phĩ nhỗ. Tuy nhiên, vì có Thiên Chúa phù trợ, nên Ngài không tháo lui, cũng chẳng hỗ thẹn. Chẳng ai dám tranh tụng, kiện cáo vì Thiên Chúa luôn ở kề bên và tuyên bố Ngài là công chính.
Bài Đọc 2: Gc 2, 14- 18
Thánh Giacôbê nói: một đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không có hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin.
Bài Đọc Tin Mừng: Mc 8, 27- 35
Sau khi thăm dò dư luận quần chúng về mình, Đức Giêsu cũng hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai”. Phêrô liền thưa: “Thầy là Đấng Kitô”. Nhưng khi Ngài loan báo cuộc thương khó và phục sinh lần thứ nhất, ông Phêrô lại ngăn cản và Ngài đã quay lại trách mắng ông: “Xa- tan! Lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Sau đó, Ngài nói với đám đông về điều kiện để đi theo Ngài là từ bỏ chính mình vác thập giá mình mà theo.
2. Suy Niệm
Bài Tin Mừng hôm nay nói về lời tuyên xưng đức tin của ông Phêrô, loan báo cuộc thương khó và phục sinh lần thứ nhất, và điều kiện để theo Đức Giêsu. Trong các chủ đề này, còn có nhiều ý tưởng khác phong phú được lòng vào đó, giúp chúng ta có thể dừng lại và suy niệm. Bởi vậy bài chia sẻ hôm nay xin được dừng lại ở chủ đề: VỊ TRÍ CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ, qua câu nói của Chúa Giêsu: “Xa- tan! Lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8, 33).
Đọc lại các trang Tin Mừng, chúng ta thấy Phêrô thuộc trong nhóm các môn đệ thân tín của Đức Giêsu, hầu như trong mọi biến cố quan trọng của Chúa đều có sự hiện diện của ông như: biến cố biến hình của Chúa Giê su (x. Mt 17, 1- 8), cầu nguyện tại vườn Ghết sê mani (x. Mt 26, 36- 44) Còn trong bài Tin Mừng hôm nay, trước câu hỏi mang tính quyết định về đức tin, Phêrô đã trả lời cách xác tín: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8, 29). Thánh sử Mattheu còn thêm: “Thầy là Đấng, con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16).
Tuy nhiên, khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó thì Phêrô đã kéo Ngài riêng ra và trách móc. Như vậy, cho dầu là môn đệ Đức Giêsu, người đóng vai trò quan trọng trong các môn đệ, Phêrô vẫn không thoát ra khỏi não trạng của người Do thái thời bấy giờ về Đấng Messia: Đấng ấy phải là người đầy tài năng và uy quyền để giải phóng Israel khỏi ách đô hộ của Rôma và đưa đất nước lên làm bá chủ hoàn cầu. Hơn nữa, nói về cái chết trên thập giá là một điều ô nhục và không thể chấp nhận đối với người Do thái (x. 1Cr 1, 23). Với não trạng này, Phêrô đã quyên đi vị trí của mình khi theo Đức Giêsu. Ông muốn thầy mình thực hiện những điều vĩ đại, chứ không phải là chấp nhận một cái chết bi đát. Cho nên, Đức Giêsu đã quay lại và trách mắng Phêrô: “Xa- tan! Hãy lui lại đằng sau Thầy!” (Mc 8, 33). Theo chú thích của nhóm các Giờ Kinh Phụng Vụ: “Khi kéo riêng Đức Giêsu ra mà trách, ông Phêrô đang đóng vai trò Xatan, kẻ cám dỗ Đức Kitô đi vào con đường khác với ý muốn của Thiên Chúa. Chỗ của môn đệ là ở đằng sau Đức Giêsu, nhiệm vụ của người môn đệ là đi theo Người. Ông Phêrô đã rời chỗ đó, nghĩa là đã không đi theo Người, đã không cùng đi trên con đường thương khó và phục sinh”.
Như thế, vị trí của người môn đệ là đi sau và thụ huấn, chứ không phải đi trước và bắt thầy theo ý mình. Não trạng thích “cầm đèn chạy trước xe” là não trạng tiêm nhiễm tinh thần thế tục, vụ lợi và chỉ biết nghĩ về mình. Chúa Giêsu muốn các ông đi vào con đường thập giá của mầu nhiệm tự hủy, sẵn sàng chết đi cho bản thân, cho tính ích kỷ để sống cho Chúa và tha nhân. Ngài nói: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo tôi” (Mc 8, 34). Ngài không đặt ra điều kiện theo Ngài phải có bằng cấp, tài giỏi và khôn ngoan hơn người mà chỉ có việc từ bỏ bản thân mình. Có thế, người môn đệ mới có thể tẩy rửa tâm hồn mình khỏi bợn nhơ thế tục, để sẵn sàng mặc lấy tâm tình và ý muốn của Chúa.
Qua câu nói của Chúa Giêsu dành cho Phêrô: “Hãy lui lại đằng sau thầy”, cho ta nhiều suy nghĩ trong chính cuộc sống hôm nay. Chắc hẳn, là kitô hữu, chúng ta biết được mình đã trở nên môn đệ của Chúa, trở thành những chứng nhân Tin Mừng của Ngài giữa trần gian. Vậy mà trong thực hành, chúng ta nhiều khi điều khiển, lèo lái ý Thiên Chúa theo chủ đích của mình. Chúng ta nghĩ làm như thế sẽ tốt hơn cho mình và sứ điệp Tin Mừng cũng được người khác dễ dàng chấp nhận. Tuy nhiên, nó lại tiềm ẩn một nguy cơ là chú tâm nhiều quá vào những cái thứ yếu mà đánh mất hay làm lu mờ cốt lõi Tin Mừng. Những điều thứ yếu có vẻ hấp dẫn nhưng chưa hẳn đã nói lên được trung tâm sứ điệp Tin Mừng. Trong Tông Huấn Evangelii Gaudium số 34, đức giáo hoàng Phanxicô đã nói: “Vấn đề lớn nhất là sứ điệp Tin Mừng chung ta rao giảng dường như bị đồng hóa vào những khía cạnh thứ yếu, cho dù có quan trọng, nhưng tự chúng không trình bày trung tâm sứ điệp của Đức Giêsu Kitô”.
Những gì chúng ta nghĩ là đúng và quan trọng, chưa hẳn đã giúp mình đi đúng hướng và sống đúng căn tính của mình. Những thứ đó nằm ở khía cạnh cảm quan nên có thể là một cái vỏ bọc vắng bóng Tin Mừng. Do đó, bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy bước theo và thụ huấn nơi Ngài để có một sự khôn ngoan đích thực. Nhờ đó, người môn đệ có đủ sáng suốt để biện phân đâu là điều thiện hão mà Thiên Chúa muốn tôi làm; đồng thời nhận ra vai trò, chỗ đứng của mình trong Giáo hội để mỗi người tích cực góp phần xây dựng Giáo hội và hăng say bước theo Đức Kitô trong hành trình chứng nhân.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 8:27-35)
Dầu sao các môn đệ cũng đã theo Chúa được một thời gian rồi! Họ đã có nhiều cơ hội để tự mình tìm TN 24-B100
Dầu sao các môn đệ cũng đã theo Chúa được một thời gian rồi! Họ đã có nhiều cơ hội để tự mình tìm hiểu xem Đấng họ đang theo làm môn đệ là ai. Họ đã nghe Chúa giảng, chứng kiến phép lạ Người làm và nhất là chia sẻ lối sống độc đáo của Người. Ngoài ra các môn đệ cũng nghe từ dân chúng những lời đồn thổi, nhận xét về Chúa Giê-su. Họ đang sống trong tâm trạng hoang mang và đức tin của họ vào Chúa cần phải được trắc nghiệm. Tóm lại, họ phải đối mặt với một quyết định dứt khoát: tiếp tục theo Chúa hay rút lui? Chúa Giê-su hiểu tâm trạng của họ và Người giúp họ tiến tới một quyết định, bằng cách hỏi thẳng họ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Câu trả lời của họ sẽ quyết định cho tương lai của mình.
Để chuẩn bị cho câu hỏi và trả lời quan trọng này, Chúa Giê-su đã đưa các môn đệ đi xa môi trường thi hành sứ vụ của Người. Tại Bét-xai-đa và các thành phố chung quanh Biển Hồ, dân chúng đã biết đến và kính nể Chúa Giê-su. Người không muốn câu trả lời của các môn đệ khi Người hỏi họ nghĩ gì về căn tính của Người bị ảnh hưởng dư luận quần chúng. Cho nên Người đưa các ông lên miền bắc, vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê, nơi dân ngoại và ít người biết các ngài. Như thế, trong khung cảnh chỉ có thầy trò, họ có thể phát biểu ý nghĩ của mình một cách trung thực. Khi hỏi các môn đệ về các nhận xét của dân chúng về Người, Chúa Giê-su muốn họ đừng quan tâm đến những nhận xét ấy, mà quan trọng hơn cả, đó là niềm tin của chính họ đặt nơi Người. Vì thế, Người nhấn mạnh: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Thay mặt cho anh em, ông Phê-rô trả lời: “Thầy là Đấng Ki-tô”. Câu trả lời ngắn gọn và đầy đủ ý nghĩa, nhưng vẫn bị Chúa “cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người”. Lý do là vì các ông vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa về Đấng Ki-tô. Mà chưa hiểu thì Chúa phải giải thích cho mà hiểu! Nhưng các ông vẫn không chịu hiểu. Bằng chứng việc ngoan cố không muốn hiểu này là ông Phê-rô. Ông muốn hiểu Đấng Ki-tô theo ý của ông, nên mới kéo riêng Chúa ra và bắt đầu trách Người. Thế là Phê-rô bị Chúa quở trách nặng nề trước mặt anh em. Chúa muốn dạy Phê-rô và các bạn ông hãy nhìn mọi sự theo “tư tưởng của Thiên Chúa”, chứ đừng theo “tư tưởng của loài người”. Có bị đòn đau thì mới nhớ lâu! Cũng nhờ vậy chúng ta có được một mục tử Phê-rô sẵn sàng hy sinh mạng sống vì tha nhân. Còn đối với dân chúng, Chúa cũng không quên dạy họ bài học làm môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
Câu chuyện đã xảy ra quá lâu rồi và ở tận miền đất xa xôi Xê-da-rê Phi-líp-phê! Nhưng nó vẫn tiếp tục xảy ra trong cuộc đời từng người chúng ta hôm nay. Không phải nó chỉ xảy ra một lần, mà tiếp tục xảy ra trong cuộc sống mỗi Ki-tô hữu. Bất cứ ngày nào, giờ nào và ở nơi đâu, Ki-tô hữu cũng đều văng vẳng nghe tiếng Chúa Giê-su hỏi: Còn con, con bảo Thầy là ai? Họ phải trả lời Chúa, không phải bằng câu trả lời của ông Phê-rô được Chúa Cha mặc khải, nhưng bằng lời nói, hành động và lối sống của người Ki-tô hữu đích thực, phản ánh Tin Mừng của Chúa Ki-tô: Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, là Đấng cứu độ con.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Trong bài Tin Mừng, có một chi tiết làm chúng ta phải suy nghĩ. Sau khi ông Phê-rô tuyên xưng Chúa là Đấng Ki-tô, thì Chúa Giê-su “bắt đầu dạy” cho các ông biết về Đấng Ki-tô. Thế mà học bài xong rồi, ông Phê-rô vẫn không muốn chấp nhận và sống theo, ông cãi lại Thầy! Ông không muốn Thầy Giê-su là Đấng Ki-tô làm ông vỡ mộng công danh sự nghiệp. Nhưng ông muốn vinh hoa danh tiếng, chứ không muốn phục vụ. Tóm lại, ông không muốn phải trả cái giá đắt để làm môn đệ Chúa. Bạn và tôi cũng không hơn gì ông Phê-rô đâu! Cái tôi của chúng ta vĩ đại quá, nên chúng ta tiếc nuối không muốn rời bỏ. Mỉa mai một điều là cái tôi ấy đâu hay ho gì, toàn là tham vọng, ích kỷ, hận thù, ghen ghét, không muốn tha thứ… Vậy mà chúng ta không chịu buông ra để học với Chúa Giê-su và thấm nhuần lối sống của Tin Mừng. Theo một ý nghĩa, chúng ta đều là những tên học trò bướng bỉnh. Xin Chúa ban ơn quảng đại cho chúng con, để chúng con trung thành làm môn đệ theo Chúa Giê-su.