Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 21-B Bài 51-100 Chỉ Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời

Thứ tư - 22/08/2018 10:45
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 21-B Bài 51-100 Chỉ Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 21-B Bài 51-100 Chỉ Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 21-B Bài 51-100 Chỉ Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời

--------------------------------
TN 21-B51. BỎ NGÀI CON BIẾT THEO AI ?. 2
TN 21-B52. CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN - Lm. Augustine, SJ. 4
TN 21-B53. CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN.. 7
TN 21-B54. MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA.. 13
TN 21-B55. LỜI BAN SỰ SỐNG  - Lm. Ignatiô Trần Ngà. 15
TN 21-B56. LẠY CHÚA, BỎ NGÀI CON BIẾT THEO AI?. 17
TN 21-B57. LỜI ĐEM LẠI SỰ SỐNG.. 19
TN 21-B58. NUÔI DƯỠNG NÂNG NIU NHAU.. 21
TN 21-B59. QUYỀT BƯỚC THEO CHÚA - Lm. Giuse Đinh lập Liễm.. 22
TN 21-B60. BỎ THẦY CON BIẾT THEO AI? - Lm. Giacôbê Tạ Chúc. 29
TN 21-B61. TÌNH ĐỜI THAY TRẮNG ĐỔI ĐEN.. 31
TN 21-B62. THÁCH ĐỐ LỚN NHẤT.. 32
TN 21-B63. AI ĐI? AI Ở? -  Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP. 35
TN 21-B64. BÁNH BAN SỰ SỐNG.. 39
TN 21-B65. Bỏ Ngài con biết theo ai?! 44
TN 21-B66. Xác thịt không thể hiểu được xác thịt 46
TN 21-B67. "Thầy mới có lời ban sự sống đời đời". 49
TN 21-B68. CHỌN CHÚA LÀ GIA NGHIỆP ĐỜI TÔI 50
TN 21-B69. CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN. 53
TN 21-B70. TUYÊN XƯNG LÒNG TIN BẰNG CẢ CUỘC SỐNG.. 54
TN 21-B71. BIẾT ĐẾN VỚI AI?. 56
TN 21-B72. PHẦN CHÚNG CON, CHÚNG CON ĐÃ TIN.. 58
TN 21-B73. LỘI NGƯỢC DÒNG.. 61
TN 21-B74. THEO CHÚA CŨNG LẮM HẠNG NGƯỜI 63
TN 21-B75. CHỌN LỰA: MỘT HÀNH VI KHÔNG DỄ.. 65
TN 21-B76. SỐNG LÀ CHỌN LỰA.. 67
TN 21-B77. KIÊN QUYẾT THEO CHÚA.. 69
TN 21-B78. Chúa Giê-su đặt hy vọng nơi chúng ta. 71
TN 21-B79. CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN B.. 72
TN 21-B80. Lời Của Sự Sống Muôn Đời 77
TN 21-B81. Chúa Nhật 21 mùa Thường niên, B.. 79
TN 21-B82. BỎ THẦY CON BIẾT THEO AI ?. 83
TN 21-B83. CHÚA NHẬT 21 QUANH NĂM, B.. 84
TN 21-B84. DÂN CHÚA LÀ DÂN VĨ ĐẠI! 87
TN 21-B85. TRỞ VỀ CÕI PHÚC.. 92
TN 21-B86. Chúa Nhật 21TN  B -26-8-2012. 93
TN 21-B87. Đường đi khó. 95
TN 21-B88. Theo ai?. 96
TN 21-B89. Mầu nhiệm Giêsu. 98
TN 21-B90: Lòng trung thành – Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng. 100
TN 21-B91: Lời Hằng Sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 102
TN 21-B92: TRUNG NGÔN NGHỊCH NHĨ 105
TN 21-B93: BÁNH LỜI CHÚA.. 109
TN 21-B94: "BỎ THẦY, CON BIẾT THEO AI ?". 114
TN 21-B95: THẦY MỚI CÓ LỜI BAN SỰ SỐNG.. 117
TN 21-B96: Lời Ban Sự Sống Đời Đời 119
TN 21-B97: CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN.. 121
TN 21-B98: CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN B.. 123
TN 21-B99: Chúa Nhật XXI Thường Niên B.. 130
TN 21-B100: Chọn lựa. 132

-----------------------------

Phúc Âm: Ga 6, 61-70: “Chúng con sẽ đi đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: “Lời này chói tai quá! Ai nghe được!” Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu nói với họ: “Ðiều đó làm các con khó chịu ư? Vậy nếu các con thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các con là thần trí và là sự sống. Nhưng trong các con có một số không tin”. Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: “Bởi đó, Ta bảo các con rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho”. Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa. Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: “Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?” Simon Phêrô thưa Người: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa”. - Ðó là lời Chúa
------------------------------------------

TN 21-B51. BỎ NGÀI CON BIẾT THEO AI ?


Bỏ Ngài con biết theo ai,
đời lộng gió cánh chim ngàn khơi?
Bỏ Ngài con biết theo ai,
thuyền không lái biết trôi về đâu?
Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ?
Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh…
(LM. Thành Tâm - Trích từ bài hát “Bỏ Ngài Con Biết Theo Ai ?” )


***

Bạn thân mến! 

 

Khi Đức Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời: TN 21-B51


Khi Đức Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi mừng vui. Họ tin tuyệt đối rằng Người chính là Đấng Cứu Thế đến cứu dân tộc Do Thái.  Niềm tin của họ mạnh mẽ đến nỗi khi Đức Giêsu trốn đi, họ vẫn đuổi theo sát nút với ý định tôn Người lên làm vua cai trị họ.

Thế mà hôm nay, khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga .6:54).  Đám đông đã xầm xì với nhau: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" (Ga .6:60).  Họ đã quay lưng bỏ Chúa để ra đi.  Một số môn đệ cũng bỏ Thầy mình mà đi.  Đức tin bồng bột tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước nay đã tan tành như mây khói.  Sự gắn bó tưởng chừng như không gì chia cắt nổi bỗng trở nên nhạt nhẽo lạnh lùng.  Đức tin gặp gian nan thử thách và họ đã không có đức tin đủ mạnh để vượt qua.  Họ đã thất vọng và bỏ cuộc.

Giữa cơn khủng hoảng ấy, Phêrô đã đại diện nhóm 12 đã tuyên xưng niềm tin sắt son vào Đức Kitô:  “Bỏ Thầy con biết theo ai ? Vì Thầy có Lời ban sự sống” (Ga:6.68) . Lời tuyên xưng của Phêrô là lời tuyên xưng tuyệt vời nhất trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và đang quay lưng lìa xa Chúa. Cũng trong lời tuyên xưng đó, Phêrô đã dành cho Đức Giêsu một danh hiệu chưa từng có: “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Ga .6:69). 

Chính việc mạnh mẽ tuyên xưng đức tin đã làm tan biến mọi do dự; tuyên xưng đức tin không phải là gắn bó với những chân lý trừu tượng, nhưng là với con người Đức Giêsu.  Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng.  Nhưng vẫn tin tưởng gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách mới thật sự là niềm tin chân chính và bền vững.

Hành trình đức tin của chúng ta chắc chắn sẽ không khác hành trình đức tin của các Tông đồ xưa kia.  Có những thời gian thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt.  Khi ấy Lời Chúa là những lời êm ái ngọt ngào làm phấn chấn lòng ta.  Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng.  Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa.

Nhưng rồi tới những ngày u ám tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo.  Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách.  Lúc ấy Lời Chúa làm cho cuộc đời ta mất bình an. Lời Chúa gõ vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta.  Lời Chúa gõ vào sức khoẻ ta. Lời Chúa gõ vào gia sản của ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ ra đi từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay.

***

Lạy Chúa! Trong những giờ phút tăm tối và khó khăn nhất của cuộc đời. Niềm tin của con bị chao đảo.  Con muốn đầu hàng.  Con muốn bỏ cuộc.  Xin Ngài luôn nâng đỡ con, thêm niềm tin cho con và giúp con khắc ghi trong lòng lời thánh Phêrô: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Vì Thầy mới có lời ban sự sống”. Amen.

(Tổng hợp từ R. Veritas)

-----------------------------

 

TN 21-B52. CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN - Lm. Augustine, SJ


Cha mẹ ly dị không ngó ngàng đến hai con họ đang than khóc

 

Cách đây không lâu vào ngày 6 tháng 3, 1997, một vụ ly dị ở thành phố Bửu Tân (Brockton), bang: TN 21-B52


Cách đây không lâu vào ngày 6 tháng 3, 1997, một vụ ly dị ở thành phố Bửu Tân (Brockton), bang Mã Sơn Xét (Massachusettes) của Hoa Kỳ gây nên một cảnh tượng hết sức đau lòng. Hai vợ chồng ông Ðặng Danh Mừng (Dana Raymond) và bà Giang thị Dương (Jeanne Ardizoni) đưa nhau ra toà để ly dị, mà cả hai đều không chịu nuôi hai con của họ, khiến cuối cùng toà phải xử cho hai đứa con vào viện mồ côi! Khi toà phán quyết, người ta nghe tiếng khóc nức nở của hai đứa bé tội nghiệp. Thế mà hai bố mẹ vẫn dửng dưng! Cảnh sát được lệnh toà "bắt" hai đứa bé lên xe chở tới viện mồ côi. Chúng vùng vẫy kêu "Cha", kêu "Mẹ", nhưng cha và mẹ đều không buồn ngó ngàng tới hai đứa con của mình!

Bài Tin Mừng hôm nay cũng để lộ ra một cảnh thương tâm theo bề sâu, mặc dầu bề ngoài xem ra chỉ là chuyện trò bỏ thầy vì giáo thuyết thầy dạy không lọt được vào tai trò.

Rabbi Giêsu đâu phải như các bậc thầy khác trong đạo Do Thái. Tác giả Tin Mừng thứ bốn, kể như người môn đệ thân thiết nhất của Ðức Giêsu, trong lời tựa đã giới thiệu Người là Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa "và Ngôi Lời là Thiên Chúa" (Ga 1,1) Nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành và "không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (c.3). Và "Ngôi Lời ấy đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta." (c.14).

Khi Người xuất hiện ở sông Giođan thì chính ông Gioan Tẩy Giả làm chứng về Người rằng "Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Nhưng chính Ðấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy thần khí xuống ngự trên ai, thì người đó chính là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần." (cc.32-33).

Người đã đến nhà mình
mà người nhà chẳng chịu đón nhận!

Chính ông Gioan Tẩy Giả là người giới thiệu hai trong số môn đệ của ông đến nhận Ðức Giêsu làm thầy (c.37). Nhưng với Ðức Giêsu, ai đó trở nên môn đệ của Người phải được chính Người gọi (xem Mc 1,16-20). Giữa đám đông môn đệ, Người đã chọn và thiết lập nên Nhóm Mười Hai, để họ ở lại với Người và để Người sai họ đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa (xem Mc 3,13-15). Nhưng họ vẫn luôn có tự do nhận hoặc khước từ Ðức Giêsu. Ðiều đó được nói lên ngay ở lời tựa của Tin Mừng Gioan: "Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào Danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa." (Ga 1,10-12).

Niềm tin nơi các môn đệ cũng giống như sức khoẻ, cần được bồi dưỡng và triển nở. Tại tiệc cưới Cana, khi Ðức Giêsu hoá nước lã thành rượu ngon, các môn đệ đã tin vào Người (2,11). Nhưng tại Giêrusalem, khi nghe Ðức Giêsu tuyên bố với người Do Thái: "Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại", các môn đệ không hiểu lời đó. Khi Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại, các ông mới nhớ lại lời đó và mới tin vào Kinh Thánh và lời Ðức Giêsu đã nói (20-32). Cả lời tuyên bố của Ðức Giêsu với ông Nicôđêmô rằng "Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (3,14-15), lời tuyên bố ấy vẫn còn là điều bí nhiệm đối với các môn đệ.

Riêng với Tin Mừng Máccô, các môn đệ khi được loan báo về cuộc thương khó và phục sinh lần thứ hai, các ông không những không hiểu lời đó mà còn sợ không dám hỏi lại Người (xem Mc 9,30-32). Hơn nữa, các ông còn hành xử một cách hoàn toàn không xứng hợp chút nào với cuộc thương khó vừa được loan báo là dọc đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả! (Mc 9,34).

Ðức Giêsu vẫn muốn các môn đệ  được tự do nói lên chọn lựa của mình

Xuyên qua Tin Mừng Gioan chương 6, ta liên tiếp thấy diễn ra cảnh thương tâm là Ngôi Lời làm người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người!

Vậy trước hết ta có đông đảo dân chúng một bên và các môn đệ một bên. Dân chúng mặc dầu được ăn bánh no nê nhờ phép lạ hoá bánh ra nhiều, đã từ khước việc nhìn nhận Ðức Giêsu làm mục tử nhân hậu đến chăm sóc họ. Người biết họ sắp đến bắt Người đem đi và tôn lên làm vua, nên Người lánh mặt đi lên núi một mình (c.15). Còn các môn đệ ở lại trên thuyền như Nhóm Mười Hai được Người thiết lập, thì Người đã đi trên mặt nước mà đến với các ông: ngay lúc ấy Người còn cho thuyền các ông lập tức cập bến Caphácnaum, nơi các ông định đến (c.21).

Kế đến, vào ngày hôm sau, đám đông dân chúng lại tìm đến với Ðức Giêsu tại Caphácnaum. Ðức Giêsu bỏ qua sự cố ngày hôm trước là họ đã muốn bắt Người để tôn làm vua, Người khơi dậy nơi họ ý muốn làm công việc Thiên Chúa muốn họ làm, là tin vào Ðấng Thiên Chúa sai đến (c.29), tức là đón nhận Người mang đến cho họ bánh của Ðức Khôn Ngoan là Lời Chúa. Vậy Người nói với họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ" (c.35). Ðó là lúc người Do Thái xầm xì phản đối vì họ không chấp nhận Người là bánh từ trời xuống, mà chỉ kể Người là ông Giêsu, con ông Giuse mà thôi (cc.41-42).

Căng thẳng lên tới tột đỉnh với lời Ðức Giêsu tuyên bố "Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống" (c.51). Thịt nói đây là "sarx" trong Hy ngữ, cũng được dùng trong câu "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14). Tức là trọn con người cụ thể của Ðức Giêsu được ban cho thế gian để thế gian được sống. Nhưng khi giảng dạy trong hội đường, Caphácnaum, Ðức Giêsu lại còn nói: "Nếu các ông không ăn thịt Con Người các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy" (cc.53-56)

Chưa nói gì đến dân chúng, ngay giữa các môn đệ của Ðức Giêsu đã xảy ra một phân rẽ giữa kẻ không tin và người tin. Một bên nhiều môn đệ phản ứng: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" (c.60). Nhưng Ðức Giêsu vẫn kiên nhẫn khơi dậy nơi họ niềm tin mà họ cần đặt nơi Người là Ðấng từ Thiên Chúa mà đến: "Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống" (cc.62-63). Ðáp lại là cả một bi kịch. Nhiều môn đệ đã rút lui, không còn đi với Người nữa.

Còn bên kia là Nhóm Mười Hai, tức Nhóm chính Ðức Giêsu đã thiết lập để họ ở lại với Người. Với họ nữa, Ðức Giêsu vẫn muốn họ được tự do nói lên chọn lựa của mình. Cho nên Người đã nêu thẳng vấn đề là: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" Ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa" (cc.67-69). Nhưng cả giữa nhóm thân cận nhất này của Chúa Giêsu, vẫn không vắng bóng kẻ nộp Chúa, để nhắc nhở loài người phải biết luôn thức tỉnh, "vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé." (1P 5,8)

  Một số câu hỏi gợi ý

Trong câu chuyện gợi ý ở đầu tờ chia sẻ này, bố mẹ là người bỏ rơi hai đứa con của họ. Còn trong bài Tin Mừng hôm nay, ai là người bỏ rơi ai? Mối giây ràng buộc nào khiến sự đứt đoạn này trở nên bi đát?

Ðức Giêsu nói: "Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống" (c.51). Ðức Giêsu có ý nói gì khi nói "Thịt tôi đây" (c.51)?

Khi rước lễ, bạn hay nghĩ tới điều gì nhiều nhất theo Phúc Âm?

Lm. Augustine, SJ

-----------------------------

 

TN 21-B53. CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN


 - Lm. Ignatiô Hồ Thông

 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy có thể được tóm gọn ở nơi những từ ngữ nầy: “Tấn thảm: TN 21-B53


Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy có thể được tóm gọn ở nơi những từ ngữ nầy: “Tấn thảm kịch của sự chọn lựa”. Có những chọn lựa mang tính quyết định đối với cá nhân hay dân tộc.

Gs 24: 1-2a, 15-17, 18b:

Bài Đọc I nhắc lại sự chọn lựa mà ông Gio-suê đề nghị cho dân Ít-ra-en định cư ở đất dân ngoại: chọn phụng thờ ngẫu tượng hay phụng thờ Đức Chúa, Đấng đã bảo vệ họ và dẫn đưa họ đến tận miền Đất Hứa.

Ep 5: 21-32:

Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-sô hôm nay, Thánh Phao-lô thiết lập tình yêu giữa chồng và vợ Ki tô hữu với sự kết hiệp của Đức Giê-su với Hội Thánh của Ngài.

Ga 6: 60-69:

Tin Mừng trình bày một chọn lựa khác: tin vào Đức Giê-su và lời hứa ban thịt và máu của Ngài, hay từ chối tin tưởng Ngài và không chấp nhận mầu nhiệm. Đây là thời điểm của lòng trung tín hay khước từ.

BÀI ĐỌC I  Gs 24: 1-2a, 15-17, 18b

Sách Gio-suê tiếp liền ngay sau bộ Ngũ Thư; sách kể việc dân Thiên Chúa định cư ở Đất Hứa (thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên), những diễn biến của cuộc chinh phục, đoạn việc phân chia lãnh thổ giữa mười hai chi tộc Ít-ra-en.

Ông Gio-suê, kế nghiệp ông Mô-sê, lãnh đạo dân Do thái; ông là vị anh hùng chính của sách mang tên ông. Vào lúc cuối đời, noi gương ông Mô-sê, ông Gio-suê muốn căn dặn dân Do thái lần cuối, vì thế, ông quyết định triệu tập toàn thể các chi tộc ở Si-khem.

Địa điểm mà ông chọn lựa ở trung tâm Đất Hứa, về phương diện địa lý rất thuận tiện (miền nầy sau nầy được gọi là miền Sa-ma-ri); nhưng ngoài ra, miền nầy chất chứa biết bao kỷ niệm tôn giáo rất ý nghĩa: Si-khem là nơi tổ phụ Áp-ra-ham lưu trú đầu tiên khi đặt chân lên đất Ca-na-an và là nơi vị tổ phụ dựng bàn thờ đầu tiên kính Chúa. Đó cũng là nơi mà tổ phụ Gia-cóp đã tậu một thuở đất và đã chôn dưới gốc cây những thần linh ngoại giáo mà thân nhân của ông còn đem theo với mình, dấu chỉ từ bỏ đa thần giáo của họ trước đó, cử chỉ nầy báo hiệu đặc biệt độc thần giáo. Ông Gio-suê đòi hỏi một sự từ bỏ tương tự ở nơi con cái Ít-ra-en.

1. Tấn thảm kịch của sự chọn lựa:

Đoạn văn hôm nay được trích từ bài diễn từ của ông Gio-suê. Khung cảnh là phụng vụ: ông Gio-suê và tất cả các lãnh tụ dân Ít-ra-en “ra trình diện trước nhan Thiên Chúa”. Đây là biểu thức quen thuộc chỉ ra rằng có một đền thánh ở Si-khem (chắc chắn đền thánh chứa đựng hòm giao ước).

Ông Gio-suê đặt các chi tộc trước một sự chọn lựa cơ bản: phụng thờ đa thần giáo của dân ngoại hay phụng thờ Đức Chúa. Sự quyến rủ của đa thần giáo có thể bắt nguồn từ các vị thần linh mà các tổ tiên của họ đã thờ phượng, hay từ sự thờ thượng của dân Ê-mô-ri nơi họ định cư. Dân Chúa chọn phải chọn lựa. Ông Gio-suê đòi hỏi họ long trọng làm mới lại giao ước. Lập luận cốt yếu mà ông đề xuất là sự trung tín của Đức Chúa, chính Ngài đã hướng dẫn dân Do thái đến tận Đất Hứa nầy bất chấp mọi trở ngại và đã thực hiện lời hứa của Ngài. Dân Ít-ra-en phải đáp trả sự trung tín của Thiên Chúa bằng cách cam kết phụng thờ Ngài “vì Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi”.

2. Giao ước ở Si-khem:

Trên bình diện lịch sử, một cuộc triệu tập như vậy rất có thể cho thấy là cần thiết để cấu trúc lại sự duy nhất của dân Chúa chọn, vì dân Do thái vào Đất Hứa, đất mà các tổ phụ đã sống và gặp lại những hậu duệ đã không rời quê hương sang Ai-cập cùng với các con của tổ phụ Gia-cóp. Cốt là sáp nhập các thị tộc khác nhau nầy vào lòng các chi tộc Xuất Hành. Cuối cùng sự hiệp nhất thì cần thiết trước khi phân tán khắp sứ sở Ca-na-an. Chỉ cùng một lời tuyên xưng đức tin mới có thể gắn bó những yếu tố rời rạc của dân Thiên Chúa.

Nhưng về phương diện lịch sử, giao ước Si-khem chắc chắn sao chép phụng vụ, được cử hành theo chu kỳ để công bố sự canh tân Giao Ước. Sách Đệ Nhị Luật xem ra làm chứng điều nầy, một bài thuyết giáo về Giao Ước theo sát sơ đồ của bài diễn từ ông Gio-suê; hay đúng là trong sách Đệ Nhị Luật, ông Mô-sê căn dặn hằng năm dân Ít-ra-en phải tưởng niệm lời cam kết của mình đối với Đức Chúa.

Một ngàn năm sau, việc tưởng niệm như vậy cấu thành yếu tố cốt yếu của “lễ Ngũ Tuần”; hằng năm người ta làm mới lại giao ước Xi-nai (thật lạ kỳ, bài diễn từ của ông Gio-suê không được kể đến).

Cuối cùng chúng ta ghi nhận rằng chính trong suốt cuộc triệu tập vĩ đại ở Si-khem, vào năm 931 trước Công Nguyên sự duy nhất của dân Chúa chọn bị thách đố: mười chi tộc thiết lập vương quốc phương Bắc, còn hai chi tộc thiết lập vương quốc phương Nam, hay vương quốc Giu-đa, thủ đô là Giê-ru-sa-lem. Sự phân ly đau đớn hình thành nên phản đề với hành động hiệp nhất của ông Gio-suê.

BÀI ĐỌC II  Ep 5: 21-32

Chúng ta tiếp tục đọc phần thứ hai thư thánh Phao-lô gởi các tín hữu Ê-phê-sô, phần luân lý và khuyên bảo.

Sau khi đã nói về đời sống mới của người Ki tô hữu, được phép Rửa khai mạc, thánh nhân đưa ra vài lời căn dặn liên quan đến đời sống gia đình: thánh nhân liên tục gợi lên những mối liên hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, chủ và tớ.

Mối liên hệ giữa chồng và vợ mà đoạn văn chúng ta bàn đến hôm nay.

Chúng ta cần thiết phải nhận ra hai khía cạnh khác nhau trong bản văn nầy: một khía cạnh đã lỗi thời, sự phát triễn của những phong tục tập quán đã khiến cho những lời đề nghị của thánh nhân không còn thích hợp nữa; một khía cạnh khác, luôn luôn có giá trị và luôn luôn hiện thực: sự hiệp nhất của Đức Ki tô với Giáo Hội của Ngài được sánh ví với sự hiệp nhất của chồng với vợ Ki tô giáo.

1. Khía cạnh lỗi thời:

Bản văn của thánh Phao-lô không còn đáp ứng tâm thức hiện nay của chúng ta. Quả thật, trong bối cảnh tôn giáo, văn hóa và xã hội của thánh nhân, cần phải điều chỉnh lại lời khuyên “vợ phải tùng phục chồng” trong thế giới “bình đẳng nam nữ” hôm nay. Mặc dầu viết từ Rô-ma, thánh nhân vẫn đứng trong truyền thống Do thái khi nghĩ đến trước tiên bổn phận của người vợ Do thái. Chúng ta cũng phải khảo sát hậu cảnh tôn giáo của lời đề nghị nầy: Giáo Hội tùng phục Đức Ki tô, chấp nhận Tin Mừng của Ngài và tuân giữ các huấn lệnh của Ngài như thế nào thì người vợ phải phục tùng chồng như vậy. Cuối cùng chúng ta nên nhắc lại rằng, về phương diện pháp lý, việc vợ tùng phục chồng, thậm chí ở Đông Phương, ngay cả ở Việt Nam: “xuất giá tòng phu” của chúng ta, từ lâu đã bị hủy bỏ rồi.

Còn đối với lời khuyên: “còn người chồng phải yêu vợ mình như yêu chính thân thể mình” không phải là không xúc phạm đến người phụ nữ sao? Phải nói thực, linh đạo hôn nhân, sau một lịch sử lâu dài đã vượt qua những cách nói như vậy. Tình nghĩa vợ chồng được sống theo Ki tô giáo là lời mời gọi thường hằng ra khỏi cái tôi của mình, yêu người bạn đời như chính người ấy, quên đi bản thân mình. Thánh Phao-lô đã không tiên cảm điều đó khi nói rằng người chồng phải bắt chước Đức Ki tô, Ngài đã “yêu thương và hiến thân mình vì Hội Thánh” đó sao?

Vì thế, trước tiên phải vượt qua những cách nói nầy và những mâu thuẩn bên ngoài, mà cố gắng thấu hiểu tư tưởng của thánh nhân chủ yếu thuộc loại suy.

2. Truyền thống kinh thánh:

Thánh Phao-lô áp dụng cho Đức Ki tô và Hội Thánh Ngài ngôn ngữ của các ngôn sứ, họ diễn tả tình yêu của Đức Chúa đối với dân Ít-ra-en, dân Ngài, bằng những từ ngữ hôn nhân. Hình ảnh lên đến tận ngôn sứ Hô-sê (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên), vị ngôn sứ nầy đã trình bày hình ảnh nầy một cách thống thiết; hình ảnh nầy trở thành kinh điển; chúng ta gặp lại hình ảnh nầy nhất là tại ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en, I-sai-a đệ nhị, hình ảnh xuất hiện một lần nữa, được thiêng liêng hóa, trong sách Khôn Ngoan (thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên). Chính trong trào lưu nầy mà viễn cảnh của thánh Phao-lô được định vị.

Việc so sánh tình nghĩa vợ chồng phàm nhân với tình nghĩa thần linh thì tuyệt vời, dù rằng không phải mọi yếu tố đều thích đáng. Quả thật, sự so sánh vẫn kiếm khuyết ở nơi mức độ người chồng được đồng hóa với Đức Ki tô, được tô điểm bằng sự hoàn thiện, cao cả, uy quyền; trái lại, người vợ xem ra bị lệ thuộc, nhiều kiếm khuyết, cần được tinh tuyền và thánh thiện “để ra mắt Người”.

Cũng vậy, trong Cựu Ước, Đức Chúa là vị hôn phu rất mực thủy chung, không bao giờ quên những lời thề hứa của mình; trong khi vị hôn thê, dân Do thái, thường bội thề, phản bội Thiên Chúa của mình, vi phạm các huấn lệnh của Ngài, chạy theo các ngẫu tượng.

3. Tôn giáo tình yêu:

Nhưng vì so sánh như vậy, tình yêu của vị hôn phu kèm theo những đòi hỏi đặc thù; vị hôn phu đòi buộc phải yêu thương vị hôn thê của mình “cũng như Đức Ki tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh”.

Lời mời gọi chan chứa tình nghĩa chồng vợ nầy tạo nên một dấu nhấn mới làm xôn xao ở giữa lòng xã hội ở đó chỉ người chồng mới có quyền rẩy vợ và ở đó chỉ người phụ nữ ngoại tình bị trừng phạt (dù rằng tội đồng lõa cũng bị trừng trị [Lv 20: 10; Đnl 22: 22], tuy nhiên chúng ta ghi nhận rằng việc người chồng ngoại tình hiếm khi bị kết án).

Trong mức độ rộng lớn, đây cũng là sự mới mẽ giới thiệu những bổn phận hổ tương giữa “kẻ mạnh” và “người yếu”. Kẻ mạnh phải có bổn phận đối với người yếu: đó cũng là bổn phận của cha mẹ đối với con cái, chủ đối với tôi tớ.

Chính ở nơi sự biến đổi sâu xa của tâm thức nầy mà thánh nhân mời gọi khi đề nghị bắt chước Đức Ki tô như mẫu gương tuyệt vời nhất.

4. Hội Thánh là hôn thê và thân thể của Đức Ki tô.

Đoạn trích thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô nầy, vốn phát triển một trực giác đã xuất hiện kể từ thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô (2Cr 11: 2), đây là cách diễn tả đạo lý rõ ràng nhất của thánh Phao-lô về Hội Thánh là “thân thể của Đức Ki tô”.

Đức Ki tô đã thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh, tức các chi thể, “bằng nước và lời hằng

sống”, theo nguyên ngữ của bản văn Hy lạp “bằng việc tắm rửa kèm theo lời”. Thánh Phao-lô sử dụng từ “tắm rửa” vì phép Thánh Tẩy được thực hiện bởi việc nhận chìm vào bể nước, nhưng cũng ám chỉ đến nghi thức tắm rửa của vị hôn thê theo tập tục Do thái cũng như Hy lạp. Còn việc kể ra “kèm theo lời” rõ ràng là biểu thức phép Thánh Tẩy. Dù xác định thoáng qua nhưng thật quý báu biết bao.

Có thể cũng có một sự quy chiếu đến phép Thánh Thể, khi thánh nhân gợi lên “người chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, không ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi dưỡng và săn sóc thân xác mình”; đó là điều Đức Giê-su làm đối với Hội Thánh của Ngài.

5. Chiều kích cao cả của hôn nhân:

Sự kết hợp của Đức Giê-su với Hội Thánh vừa là sự nâng đỡ vừa là dấu chỉ hiệp nhất của đôi vợ chồng trần thế, đó là ý muốn của Đấng Tạo Hóa, vì “cả hai sẽ trở thành một xương một thịt”, như cách diễn tả của sách Sáng Thế mà thánh nhân nhắc lại.

Như vậy, sự hiệp nhất chồng vợ được tháp nhập vào trong một thực tại thánh, thực tại nầy siêu thăng đời sống hôn nhân. Mầu nhiệm thật là cao cả vì hình ảnh hôn ước giữa Đức Giê-su và Hội Thánh nâng đỡ sự cao cả của tình yêu hôn nhân.

TIN MỪNG  Ga 6: 60-69

Đây là một trong những trang Tin Mừng thống thiết nhất.

Đức Giê-su đã hoàn tất diễn từ của Ngài về bánh ban sự sống; Ngài đã loan báo quà tặng thịt và máu của Ngài bằng những từ ngữ hiện thực nhất. Như vậy Ngài đặt để các môn đệ của Ngài trước một sự lựa chọn: hoặc tin vào điều không thể nào tin được và tin tưởng vào Ngài, hay nghi ngờ Ngài và từ bỏ Ngài vì “lời nầy chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”. Đức Giê-su đã không một chút đắn đo, dám liều vì sự thật.

1. Nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa:

Các môn đệ, tức là một nhóm đông hơn nhiều Nhóm Mười Hai, đã hiểu lời của Đức Giê-su theo nghĩa thuần túy vật chất: “lời nầy chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”. Đức Giê-su thử làm cho họ hiểu rằng để có thể hiểu những lời của Ngài, có một cách giải thích khác với cách giải thích của họ, không quá duy vật và “xác thể”, nhưng một cách “thần thiêng”.

“Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?”. Từ “chướng” theo nghĩa đầu tiên, có nghĩa sự trở ngại mà người ta vấp phải, như hòn đá trên đường.

“Thế khi anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” Ngài muốn hướng tâm trí của họ về tương lai và ở bên kia cuộc tử nạn của Ngài, khi Ngài trở về nơi từ đó Ngài đến. Lúc đó ý nghĩa của những lời Ngài hiện ra một cách sáng tỏ.

“Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”. Lời của Đức Giê-su là thần khí và là sự sống, nghĩa là lời Đức Giê-su là Thần Khí làm cho sống, vì chỉ có Thần Khí mới làm cho người tín hữu thấu hiểu được những lời Đức Giê-su nói, những phép lạ Người làm (3: 6) và những thực tại thiêng liêng Người đã biểu lộ qua bản thân của Người (Ga 15: 26a). Trái lại “xác thịt”, tức phàm nhân, chỉ vuông tròn trong ánh sáng của riêng mình, không thể hiểu mầu nhiệm ân ban mà Đức Giê-su hứa. Thật mà nói, lập ngôn như vậy, cộng đoàn Ki tô hữu trung thành với bàn tiệc Thánh Thể dể hiểu hơn các môn đệ chán chường nầy.

2. Nỗi buồn của Đức Giê-su:

“Nhưng trong anh em có những kẻ không tin. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người”. Tư tưởng của ông Giu-đa được nối kết rồi với tư tưởng của Tiệc Ly, điều nầy hé cho thấy rằng ông Giu-đa đã vấp ngã trên mầu nhiệm Thánh Thể và đã bắt đầu nghi ngờ Thầy mình khởi đi từ giáo huấn của Ngài về bánh ban sự sống.

“Từ đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa”. Trước việc các môn đệ rút lui không theo Ngài nữa và trước viễn cảnh về một sự phản bội, Đức Giê-su đặt một câu hỏi đượm buồn cho Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ thầy đi sao?”.

Nhân danh các môn đệ, thánh Phê-rô tuyên xưng đức tin của mình: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại đời sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.

Thánh Phê-rô đặt đức tin trước tiên, rồi mới đến sự hiểu biết. Đức tin, được sinh ra trong ánh sáng của ơn gọi, mở đường đến những ánh sáng còn lớn lao hơn.

Mặc khải phép Thánh Thể đã đặt ra một sự chọn lựa bi thảm. Mặc khải nầy vẫn và sẽ vẫn “mầu nhiệm đức tin” đối với các tín hữu của mọi thời đại.

Lm. Ignatiô Hồ Thông

-----------------------------

 

TN 21-B54. MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA


- Lm. Anphong Trần Ịức Phương

 

Trong những dịp đặc biệt, như đám tang, đám cưới, Tết Nguyên Ịán...  thường có những  người: TN 21-B54


Trong những dịp đặc biệt, như đám tang, đám cưới, Tết Nguyên Đán… thường có những  người thuộc các Tôn giáo bạn đến  dự Thánh Lễ. Nhiều người  thường lấy làm lạ  sao người Công giáo hay qùy gối và cúi đầu kính cẩn thờ lạy khi vào giữa Thánh lễ, vị Chủ Tế nâng cao một tấm bánh, một chén rượu. Rồi lại thấy gần cuối giờ Thánh Lễ, người ta lại nghiêm trang cung kính lên Rước Lễ.

Đối với những người không có “đức tin của người Công giáo”, dù thuộc các giáo phái Tin lành hay các Tôn giáo khác, thì thật khó hiều ‘làm sao chỉ một lời đọc của vị Chủ tế vào quãng giữa Thánh Lễ mà tấm bánh kia lại trở nên Mình Thánh Chúa Kitô, và rượu nho trong Chén Thánh lại trở nên Máu Thánh Chúa’, mà mọi người phải qùy gối, cúi đầu kính cẩn thờ lạy. Rồi khi lên rước Lễ, họ cũng rất nghiêm trang sốt sáng vì không phải họ lên ăn bánh và uống rượu, nhưng là rước Mình và Máu Thánh Chúa, là “Đấng cực cao, cực trọng và thánh thiện” ngự vào lòng mình.

Trong Bài Phúc Âm hôm nay (Gioan 6: 60-69), sau khi nghe Chúa Giêsu nói “Mình Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống”, thì các môn đệ thấy khó chịu và nói với nhau “Lời này nghe chói tai quá!” Nhưng Chúa Giêsu đã không rút lại lời xác quyết đó, dù có những môn đệ bỏ đi, không theo Chúa nữa vì “lời nói chói tai đó!” Chúa Giêsu liền hỏi nhóm 12 Tông đồ: “Các con có bỏ Thày không?” Thánh Phêrô đã đại diện anh em, thưa lại: “Bỏ Thày chúng con biết theo ai… Thày mới có những lời ban sự sống đời đời…”

Bài Phúc Âm hôm nay kết thúc Bài Giảng của Chúa Giêsu về “Bánh Hằng Sống”. Bài giảng này rất quan trọng nhằm củng cố Đức Tin nơi Chúa Giêsu ngự thật trong Hình Bánh và Hình Rượu sau lời truyền phép của vị Chủ Tế . Trong Bữa Tiệc Ly, Bữa Tiệc Tình Thương (Matthêu 26: 26-28), Chúa Giêsu đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể để làm của ăn nuôi dưỡng phần hồn cho chúng ta, và bảo đảm cuộc sống đời đời cho chúng ta. Chúa Giêsu cũng lập Bí Tích Truyền Chức Thánh để thông ban chức Linh Mục đời đời của Chúa cho các Tông đồ và những người Chúa chọn qua các thế hệ nối tiếp. Trên Thánh Giá, Chúa Giêsu đã chịu chết và đổ máu mình ra làm Của Lễ trọn hảo dâng lên Đức Chúa Cha đền vì tội lỗi toàn thể nhân loại. Thánh Lễ các vị có chức Linh Mục dâng qua thời gian đều là thông phần vào Thánh Lễ trọn hảo Chúa Giêsu đã dâng trên bàn Thờ Thập Giá; đồng thời để Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện thật sự qua Hình Bánh và Hình Rượu, để ở giữa chúng ta, và làm của ăn thiêng liêng nuôi sống Linh hồn chúng ta. Đó là tuyệt đỉnh và cũng là sự sâu thẳm của Tình yêu Chúa đối với nhân loại chúng ta ở mọi thời và mọi nơi.

Lời thưa của Thánh Phêrô đại diện cho anh em thưa với Chúa trong Bài Phúc Âm hôm nay, nhắc chúng ta nhớ đến lời của Dân Chúa xưa trong Bài Đọc I (Giosuê 24: 1-2; 15-17; 18). Khi Giosuê hỏi dân chúng muốn tôn thờ thần nào? Toàn dân cùng thưa: “Chúng tôi không bao giờ bỏ Thiên Chúa mà đi tôn thờ thần ngoại. Vì Thiên Chúa chính là Chúa chân thật. Người đã luôn yêu thương và dẫn dắt chúng tôi trong cuộc sống…”

Ngày nay có bao nhiêu phong trào “dị giáo” hoặc “vô thần” lôi cuốn con người từ bỏ Chúa là Thiên Chúa chân thật để tôn thờ Vật Chất, chạy theo những chủ thuyết sai lầm; chối bỏ các Tín điều Chúa đã truyền lại cho Giáo Hội, đặc biệt Tín Điều Chúa Giêsu hiện diện thật sự trong Bí Tích Thánh Thể. Vì thế, chúng ta cần đọc Lời Chúa  và “suy gẫm trong lòng” (Luca 2: 51) như Mẹ Maria, để giữ vững niềm tin nơi các Bí Tích Chúa Giêsu đã lập, nhất là Bí Tích Thánh Thể.

Tạ ơn Chúa, ngày nay nhiều Nhà Thờ tại Hoa Kỳ có những giờ chầu Thánh Thể suốt ngày đêm. Có những tín hữu lần lượt hy sinh thời giờ, dù đêm hay ngày, kể cả vào những ngày mưa gió, mùa đông tuyết sa, vẫn giữ giờ đến nhà thờ kính viếng Chúa Giêsu Thánh Thể.

Chúng ta hãy năng đến thờ lạy Chúa Thánh Thể, và năng đi dâng Lễ, giữ trọn luật đi dâng Lễ cuối tuần. Nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta sẽ có thể thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi, thắng vượt được các cám dỗ vật chất, vô thần, lạc giáo, để luôn đi theo đường lối của Chúa. Đồng thời cố gắng củng cố đời sống gia đình như Thánh Phaolô căn dặn chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay (Ephêsô 5:21-32): vợ chồng yêu thương, nâng đỡ lẫn nhau trong cuộc sống, bảo vệ hôn nhân, tránh những đổ vỡ đáng tiếc, tránh những phong trào luyến ái tự do, ly dị, làm băng hoại đời sống xã hội và truyền thống gia đình tốt đẹp theo Lề Luật Chúa.

Trong “Năm Linh Mục” chúng ta hãy dâng nhiều hy sinh, hãm mình, cầu xin Chúa ban ơn thánh hóa cho các Linh Mục để các ngài xứng đáng cử hành Mầu Nhiệm Thánh, và ban phát Mình và Máu Thánh Chúa cho chúng ta. Chúng ta cũng cầu nguyện và cổ động Ơn Gọi Linh Mục nơi giới trẻ, con cháu chúng ta, để có những người được Chúa gọi làm Linh Mục tiếp nối qua các thời gian. Xin Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu cho chúng ta.

Lm. Anphong Trần Đức Phương

-----------------------------

 

TN 21-B55. LỜI BAN SỰ SỐNG  - Lm. Ignatiô Trần Ngà

 

Bảo rằng lương thực hằng ngày như cơm, như bánh có thể mang lại cho con người sự sống tạm: TN 21-B55


Bảo rằng lương thực hằng ngày như cơm, như bánh có thể mang lại cho con người sự sống tạm bợ đời nầy là điều dễ chấp nhận, vì rõ ràng nhờ cơm bánh mà chúng ta có thêm sức mạnh để lao động hằng ngày.

Bảo rằng thuốc men và các chất bổ dưỡng làm gia tăng sinh lực cho con người thì cũng dễ hiểu thôi, vì chúng ta có thể cảm nhận hiệu quả ấy trước mắt.

Thế nhưng Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay: "Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời” là những lời khó thuyết phục, vì lời nói thoảng bay trong gió, chứ có phải là lương thực, là thuốc men đâu mà có sức kéo dài tuổi thọ của con người.

Thiên Chúa dùng Lời để tác tạo vũ trụ và thông ban sự sống.

Từ nguyên thuỷ, khi tất cả còn hư vô trống rỗng, Thiên Chúa đã dùng Lời mà tác thành vũ trụ và sáng tạo muôn loài. Mọi sự sống trong hoàn vũ, từ sự sống của các loài sinh vật đơn giản cho đến sự sống của loài người đều do Lời Chúa phán mà ra.

Sáng thế ký chương I viết:

Thiên Chúa phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc,. .. liền có như vậy.”

Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy.

Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta..." Và từ Lời thần thiêng đó, con người đã được tạo thành và được thông ban sự sống. (Sáng Thế 1, 20.24.26)

Lời Chúa hồi sinh kẻ chết

Khi xuống thế làm người, Chúa Giê-su cũng dùng Lời thần thiêng của mình để phục hồi sự sống cho những kẻ chết.

Hôm ấy, khi Chúa Giê-su thấy người ta khiêng cậu con trai duy nhất của một bà goá ở thành Na-im đi chôn, người mẹ theo sau xác con gào khóc thảm thiết. Động lòng thương, Chúa truyền cho người khiêng đứng lại và Người dùng Lời của mình ban lại sự sống cho người thanh niên: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho anh hãy chổi dậy" (Lc 7,14), lập tức người chết được hồi sinh.

Rồi đến lượt La-da-rô đã chết đến bốn ngày, xác đã nặng mùi, thế mà Chúa Giê-su cũng chỉ dùng Lời của mình ban lại sự sống cho anh. "La-da-rô, hãy ra ngoài!". Vừa nghe lời quyền năng đó, người chết đội mồ sống lại. (Gioan 11, 43)

Thế thì rõ ràng là Chúa Giê-su có những Lời truyền ban sự sống, nhưng không chỉ thông ban sự sống sinh vật tạm thời mà còn đem lại sự sống vĩnh cửu trên thiên quốc.

Khi giảng tại Hội Đường Ca-phác-na-um, Chúa Giê-su khẳng định Người chính là Bánh hằng sống, ai ăn thịt và uống máu Người sẽ được sống đời đời. Lời đó khiến dân chúng và các môn đệ bị sốc, không chấp nhận và tuần tự bỏ đi. Dầu vậy, thánh Phê-rô vẫn kiên vững tuyên xưng: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời." (Gioan 6, 68)

Chúa Giê-su được mệnh danh là Ngôi Lời, đã hiện hữu từ trước muôn đời, “nhờ Người vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Gioan 1, 1-3) thì chắc chắn Người có đủ quyền năng ban sự sống đời đời cho những ai tin nhận Người.

Nếu hôm nay trên thị trường có thuốc trường sinh, chắc chắn sẽ có nhiều người xô đẩy nhau quyết tìm mua bằng mọi giá. Thế mà nay Chúa Giê-su tặng ban miễn phí những Lời đem lại sự sống đời đời cho nhận loại, lẽ nào chúng ta lại thờ ơ.

Vậy thì cùng với thánh Phê-rô, chúng ta hãy tuyên xưng với tất cả lòng tin: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời".

Cùng với Mẹ Maria là Đấng hằng ghi nhớ và suy niệm Lời Chúa trong lòng, chúng ta hãy hấp thụ Lời Chúa vào tâm hồn, để Lời Chúa sinh hoa kết quả trong cuộc sống hằng ngày, nhờ đó mỗi người chúng ta được hưởng sự sống hoan lạc đời nầy và sự sống vĩnh cửu mai sau.
Lm. Ignatiô Trần Ngà

-----------------------------

 

TN 21-B56. LẠY CHÚA, BỎ NGÀI CON BIẾT THEO AI?


- Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

Ga 6,54a.60-69

 

Theo chân Chúa, được Chúa uốn nắn, dạy dỗ và đào tạo. Các tông đồ, các môn đệ đã được: TN 21-B56


Theo chân Chúa, được Chúa uốn nắn, dạy dỗ và đào tạo. Các tông đồ, các môn đệ đã được chứng kiến muôn vàn phép lạ, đã sống kinh nghiệm làm Con Chúa, đã nghe Chúa giảng dạy, đã chứng kiến mọi gương sáng của Chúa.Do đó, khi được Chúa mạc khải về Bánh trường sinh, khi nghe Ngài nói về Mình Máu của Ngài trở nên của ăn của uống nuôi sống con người, có nhiều người và có một số những môn đệ của Chúa cũng đã đang tâm bỏ Ngài.Phêrô, Vị Tông đồ trưởng đã thay mặt anh em tuyên xưng lòng tin sắt đá: ” Lạy Chúa, bỏ Ngài con biết theo ai ? Chỉ có Ngài mới có Lời ban sự sống đời đời “.

Dân chúng và các môn đệ, những người theo Chúa khi nghe Chúa nói về Bánh trường sinh, mạc khải về chính Thân Thể của Ngài là lương thực nuôi sống nhân loại, nuôi sống con người. Thực tế, nhiều đã khó chịu, lẩm bẩm, trách cứ Chúa: lời gì mà chướng tai thế ? Ông ta làm sao có thể lấy thịt mình mà nuôi sống người ta được ? Dân chúng chán ngán và một số các môn đệ cũng bị khủng hoảng, suy sụp. Tin Mừng thánh Gioan cho biết từ lúc đó một số môn đệ tự rút lui, không còn theo Chúa Giêsu nữa( Ga 6, 66 ). Các môn đệ bỏ Chúa mà đi vì họ không thể nào nhận ra tình thương của Chúa, cũng như số đông dân chúng đi tìm gặp Chúa, không phải vì họ thương Chúa, họ tin Chúa nhưng vì họ đã được Chúa cho ăn no nê.Còn nhóm 12 thì sao ? Đây là nhóm đã được Chúa chọn cách riêng, là cánh tay nối dài để thực hiện công trình cứu độ của Chúa. Nên, Chúa muốn hiểu đức tin của họ ra sao ! Ngài đã hỏi nhóm 12 sau khi một số môn đệ theo dân bỏ Chúa: ” Chúng con muốn bỏ đi không ?”( Ga 6, 67 ). Simon Phêrô đã nhanh nhảu trả lời thay cho các tông đồ: ” Không bao giờ chúng con bỏ Thầy “. Lời tuyên xưng của thánh Phêrô an ủi Chúa biết bao ! Các tông đồ là những cánh tay nối dài của Chúa, là những người Chúa tin cậy nhất đã tuyên xưng lòng tin của họ vào Đức Giêsu Kitô:” Chính Thầy là Con Thiên Chúa, là Đấng thánh của Thiên Chúa “ ( Ga 6, 69 ). Lời tuyên xưng của tông đồ Phêrô và các bạn của Ông đã nói lên sự hiểu biết sâu xa của họ về Thầy của mình. Chính lời tuyên xưng ấy đã là phần thưởng Chúa ban cho họ sau này được chết như Thầy và được phục sinh như Thầy.

Lời tuyên xưng của thánh Phêrô là một ân sủng Chúa ban bởi vì Ngài hoàn toàn được tự do đáp trả. Thánh Phêrô cũng như các tông đồ khác đã làm một cuộc nối kết thân tình, sâu xa với Chúa, dẫu sau này, Phêrô có yếu hèn chối Chúa, hay các tông đồ khác có bỏ chạy Chúa, nhưng họ nhất nhất vẫn trung thành với Đức Kitô qua cái chết của họ để làm chứng cho Chúa.

Chúng ta và con người muôn thời vẫn được Chúa ban cho ân huệ tuyệt vời, Ngài cho chúng ta tự do để đáp trả tình yêu của Chúa. Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích tình yêu. Mỗi lần dâng lễ, chúng ta cũng hãy đến với Chúa như các tông đồ. Khi rước lễ chúng ta hãy tuyên xưng chúng ta rước chính Thịt Máu Chúa, lương thực nuôi dưỡng chúng ta và ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu. Thánh Thể minh chứng Chúa yêu thương chúng ta vô cùng và Ngài cũng muốn chúng ta yêu thương nhau như Chúa yêu thương chúng ta ( Ga 15,12 ). Yêu thương là cho đi, yêu thương là sống trong chân tình, hiệp nhất và huynh đệ. Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích nuôi sống và Bí Tích ban sự sống mới.

Do đó, mỗi lần tham dự thánh lễ, mỗi khi dâng lễ, chúng ta phải gột rửa tâm hồn trong sạch để mau mắn rước Chúa vào lòng để Mình Máu thánh Chúa nối kết chúng ta lại với nhau và giúp ta nhớ lại Mình Máu Chúa dẫn chúng ta sống với nhau chan hòa yêu thương bởi vì Đức Kitô là Lời ban sự sống đời đời mà chúng ta tin Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng thánh của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tuyên xưng như thánh Phêrô: ” Bỏ Ngài con biết theo ai ? Chỉ có Ngài mới có Lời ban sự sống đời đời.” Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

-----------------------------

 

TN 21-B57. LỜI ĐEM LẠI SỰ SỐNG


 - Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Ga 6, 54.60-69

 

Trong cuộc sống nhân sinh, có một thực tế cho thấy rằng, con người một mặt rất quý trọng: TN 21-B57


Trong cuộc sống nhân sinh, có một thực tế cho thấy rằng, con người một mặt rất quý trọng chân lý, không ngừng truy tầm chân lý; nhưng mặt khác, khi đối diện với chân lý, khi chân lý nằm trong tầm tay, họ lại có thái độ coi thường ra mặt. Thật thế, ở những Chúa nhật trước, chúng ta thấy những lời chân lý được Chúa Giêsu công khai rao giảng về việc chính Người là Bánh từ trời xuống, đã bị đám đông dân chúng xầm xì thắc mắc lấy làm khó chịu và phản đối. Lần này cũng vậy. Sau khi Người tuyên bố “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, thật phủ phàng, người phản đối không còn là đám đông dân chúng mà chính là các môn đệ của Người. “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”. Thế đấy! Thật khó hiểu lòng người!

Cũng như ở Tin mừng Matthêu (x.13, 54-57), người Dothái lấy cớ để vấp phạm Chúa chính là vì họ biết “tỏng tòng tong” lý lịch của Người. Họ cho rằng với một người tầm thường như thế ở trong một ngôi làng Nazarét nghèo nàn chẳng có gì đặc biệt thì làm sao có thể khôn ngoan tài đức và làm những việc phi thường. Ở đây cũng vậy. Các môn đệ lấy làm chướng tai, bởi vì Chúa Giêsu- người mà họ biết rất rõ hoàn cảnh xuất thân. Vì thế, họ xem những lời nói của Chúa Giêsu có gì đó chói tai và khó nghe.

Thế nhưng sự thật vẫn là sự thật. Chúa Giêsu vẫn và sẽ còn tiếp tục nói với các môn đệ và dân chúng về những điều “chói tai và khó nghe” như thế. Bởi, như Người đã nói, những điều Người nói mà họ cho là chướng tai thì những chuyện như “Con Người lên nơi đã ở trước kia” thì còn chướng tai gấp bội. Thật vậy, các ông không thể hiểu một người từ trời xuống bằng xương bằng thịt nói sự thật với các ông thì làm sao các ông có thể tin rằng Đấng ấy sẽ lên nơi mà mình đã từ đó đi xuống! Chính vì lẽ đó mà Chúa Giêsu càng nói nữa, họ cũng chả hiểu. Kết quả là nhiều môn đệ rút lui không theo Chúa nữa.

Trước việc rút lui của nhiều môn đệ, Chúa Giêsu quay sang hỏi Nhóm mười hai để xem thái độ của họ trước những lời “chói tai và khó nghe” như thế nào. Phêrô đã nhân danh toàn thể các môn đệ công khai tuyên bố sự gắn kết của các ông đối với Thầy mình. “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai. Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Lời tuyên xưng của Thánh Phêrô mặc nhiên chấp nhận hoàn toàn lời giáo huấn của Chúa Giêsu – điều mà các môn đệ khác không chấp nhận và bỏ đi. Cách tự nhiên, lúc đó có lẽ Phêrô cũng như các môn đệ khác chưa hiểu hết những sứ điệp từ Chúa Giêsu nhưng thay vào đó, các ông có một niềm tin- niềm tin hoàn toàn tuyệt đối vào Chúa Giêsu – Đấng mang lại sự sống cho muôn người. Chúa Giêsu chính là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Đấng có sự sống nơi chính mình và cũng là Đấng thông ban sự sống đó cho những ai tin và phó thác vào Người.

Vâng, thưa thánh Phêrô, ngài quả là chứng nhân đích thực của Chúa Giêsu. Chứng kiến sự phẩn nộ và xa lìa Chúa Giêsu cách phủ phàng của các môn đệ trước lời chân lý của Thầy Chí Thánh – điều mà họ cho là “chướng tai và khó nghe”, chắc hẳn ngài cũng có những cảm nghiệm và chia sẻ nổi mất mát như Thầy mình. Đôi khi, chính thái độ và hành động của họ ít nhiều đã làm ngài dao động và ưu tư lo lắng. Thế nhưng, đó lại chính là động lực giúp ngài nhận rõ sức mạnh thần linh đang tiềm ẩn trong con người Chúa Giêsu - người mà ngài hết mực yêu thương và tín thác. Chính vì thế, lời tuyên xưng của ngài – vô hình trung, trở nên lời củng cố niềm tin không chỉ cho mình mà còn cho tất cả những ai đang có tâm trạng dao động và lo lắng như ngài – có thể, đã từng dao động và lo lắng.

“Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Lời Chúa Giêsu hôm nay không chỉ hướng đến nhóm mười hai mà còn hướng đến chúng ta - những Kytô hữu trong thời đại hôm nay. Thật thế, rất có thể chúng ta cũng đang ở trong tâm trạng như những môn đệ đã lìa bỏ Chúa ra đi vì cảm thấy “chói tai và khó nghe” trước lời giáo huấn của Người. Lời Chúa là lời chân lý. Đúng vậy. Nhưng lời đó cũng là chướng ngại vật cho những ai tự cao tự đại, có tư tưởng “xét lại” hay nghi ngờ tính chân thật đã được lưu truyền. Chính vì thế, đây là lúc chúng ta cần xét lại thái độ của mình, duyệt xét lại niềm tin của mình để xem trước giáo huấn của Chúa Giêsu, của Giáo hội, câu trả lời của chúng ta là gì. Vì nếu không, chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào thái độ thờ ơ với Lời Chúa, với những giáo huấn của Giáo hội.

Xin cho Lời Chúa hôm nay củng cố niềm tin của chúng ta. Và ước mong lời tuyên xưng của thánh Phêrô cũng là lời tuyên xưng của chúng ta trong thế giới hôm nay, giúp chúng ta sống chứng nhân giữa lòng thế giới đang ngày một tục hoá và xa lìa chân lý Chúa.

Lm. Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

-----------------------------

 

TN 21-B58. NUÔI DƯỠNG NÂNG NIU NHAU


 - Lm. Nguyễn Khoa Toàn

 

Damascene Byimira vừa là một thương gia vừa là thợ chụp hình ở Rwanda. Chí thú vào công: TN 21-B58


Damascene Byimira vừa là một thương gia vừa là thợ chụp hình ở Rwanda. Chí thú vào công việc cộng thêm chút vốn liếng học thức và với khả năng thông thạo năm ngôn ngữ, mộng ước của Damascene là đuợc sống hạnh phúc muôn đời bên người vợ hiền Jeanne và Derrick -đứa con trai đầu lòng lúc ấy vừa mới lên ba.

Nhưng mơ ước thật nhỏ nhoi kia vỡ tan như bèo bọt khi bọn quân phỉ thảm sát không tiếc thương 150 người họ hàng nội ngoại trong đó có 11 anh chị em Damascene. Cuộc diệt chủng kinh khiếp tại quốc gia nghèo đói nhất Châu Phi này vào năm 1992 đã làm cả thế giới sửng sốt bàng hoàng.

Mà lòng dạ nào không sửng sốt bàng hoàng khi nhìn từng đoàn trẻ em thơ ngây vô tội ngã rạp chết tức tưởi thảm thương trước một rừng dao và mã tấu. Khi hàng hàng lớp lớp xác thân bị chôn sống tập thể bởi chính những người cùng máu thịt màu da. Có chút gì hao hao giông giống Mậu Thân ở Cố Đô Huế năm xưa. Than ôi! Sao con người lại có thể tàn ác như thế với con người!!!

Và từ ngày kinh hoàng ấy, Damascene đã nghĩ rằng sẽ không bao giờ gặp lại người vợ đang đớn đau thai nghén và đứa con trai đầu lòng nữa. Bọn phỉ quân đã dã man tra tấn và để anh nửa sống nửa chết ngay trước thềm nhà mình. Nhưng Damascene đã không bao giờ mất niềm tin vào Thiên Chúa. Và vào chính mình.

Bằng chút hơi sức còn sót lại, Damascene trốn thoát Rwanda. Đến đuợc Nam Dương, rồi Đông Timor, và sau cùng Darwin năm 2001 nhưng bị tạm giam tại Villawood ngay sau đó vì không có giấy tờ tùy thân.

Nếu Damascene không bao giờ mất niềm tin vào Thiên Chúa và vào chính mình thì Jeanne -người vợ trẻ tuổi đời nhưng già kinh nghiệm sống- cũng đã luôn tràn đầy hy vọng phó thác cuộc đời tuơng lai mình và gia đình vào quyền năng của Đấng Tối Cao.

Jeanne và con trai đầu Derrick được chính quyền Bỉ chấp thuận cho định cư vĩnh viễn ngày 18/01/1999 và trùng hợp làm sao, sáu ngày sau, Jeanne sanh hạ đứa con trai thứ hai vào đúng ngày Quốc Khánh nước Úc.

Bên kia bờ bán cầu, Damascene vẫn không mảy may hay biết vợ và hai con mình đã đuợc tái định cư tại Bỉ. Tuy thế, anh vẫn không một chút suy suyển niềm tin. Ngay sau khi đuợc cấp quyền định cư vĩnh viễn, Damascene đã nhờ Hội Hồng Thập Tự tìm kiếm tông tích vợ con mình.

Và họ đã tái ngộ trùng phùng sau khi vuợt qua muôn ngàn tai biến nghịch cảnh vây quanh. Đầu tháng hai vừa qua, Damascene sang Bỉ gặp lại vợ và hai đứa con trai. Nước mắt chảy dài mừng mừng tủi tủi, Damascene đã không giấu nỗi niềm vui và đùa cùng người vợ hiền đảm đang chung thủy: “Anh tưởng em đã lấy người khác rồi chứ!” Thứ hai vừa qua, cả gia đình đến Sydney bắt đầu một đời sống mới.

Giáo Hội Công Giáo dành Chúa Nhật hôm nay cầu nguyện cho những người Di Dân và Tỵ Nạn. Như khi xưa Thiên Chúa đã dẫn đưa dân Do Thái khỏi vòng nô lệ, Người đã dẫn đưa nhiều đồng bào chúng ta thoát ách ngục tù Cộng Sản. Hãy luôn tạ ơn Người và đừng bao giờ phản bội Người mà “tôn thờ những thần ngoại.” Nhưng hãy dùng “thần trí mới” mà “nâng niu nuôi duỡng” nhau như Đức KiTô đã nâng niu nuôi dưỡng Hội Thánh Người.

Lm. Nguyễn Khoa Toàn

-----------------------------

 

TN 21-B59. QUYỀT BƯỚC THEO CHÚA - Lm. Giuse Đinh lập Liễm

 

Ca bốn bài Tin mừng của bốn Chúa nhật trước và bài Tin mừng hôm nay là phần cuối bài: TN 21-B59


Cả bốn bài Tin mừng của bốn Chúa nhật trước và bài Tin mừng hôm nay là phần cuối bài giảng của Đức Giêsu về Bánh hằng sống. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết thái độ và phản ứng của các thính giả, cách riêng của các môn đệ và đặc biệt của các Tông đồ.

I. CÂU CHUYỆN LỰA CHỌN.

1. Dân Do thái chọn Thiên Chúa.

Bài đọc 1 hôm nay thuật lại cho chúng ta biết: vào khoảng năm 1200 trước kỷ nguyên, dân Do thái đã vượt qua sông Giorđan để vào đất hứa dưới sự hướng dẫn của ông Giosuê. Sau khi chia đất đai cho các chi tộc, ông cảm thấy phải đau lòng truớc sự ngỗ nghịch phản bội của dân Do thái, ông đã triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho các kỳ lão, thủ lãnh các gia tộc, các quan án, các sĩ quan đến trước tôn nhan Chúa, rồi ông nói với họ:”Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần”? Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài, khi thưa với ông Giosuê: ”Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi”.

Dân Do thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát ách nô lệ Ai cập. Ngài đã làm biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ do cánh tay hùng mạnh của Ngài; Ngài đã thi thố biết bao ơn phúc khi dẫn đưa dân tộc họ vào Đất hứa, đất chảy sữa và mật mà Chúa đã hứa với cha ông họ. Mặc dầu họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại để tôn thờ Ngài. Chúa đã chấp nhận lòng sám hối của họ khi họ đồng tâm từ bỏ tà thần, trở lại chọn Chúa để tôn thờ Ngài. Dân Do thái đã quyết định và lựa chọn đúng.. Nhưng thực sự, dân Do thái có trung thành với lời giao ước mà họ đã ký kết khi quyết định chọn Chúa để tôn thờ Ngài hay không ? Lịch sử dân Do thái đã trả lời cho câu trả lời này.

2. Lựa chọn và tin theo Đức Giêsu.

a) Thái độ của dân Do thái.

Trong suốt bài giảng Đức Giêsu nói về Bánh hằng sống, chúng ta thấy các thính giả có những phản ứng như sau:

- Khi Đức Giêsu nói với họ phải tin vào Ngài thì dân chúng thưa với Ngài:”Vậy thì ông làm dấu gì cho chúng tôi thấy mà tin ông ? Ông làm gì nào” (Ga 6,30).

- Khi Ngài hứa ban bánh sự sống thì dân chúng thưa Ngài: ”Thưa Ngài, hãy luôn luôn cho chúng tôi bánh ấy”(Ga 6,34).

- Khi Ngài tự xưng là Bánh bởi trời thì họ kêu ca: ”Ông ấy lại không phải là Giêsu con ông Giuse đó sao ? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết ! Làm sao bây giờ ông ấy dám nói: Ta từ trời xuống”(Ga 6,40-42) ?

- Khi Ngài phán:”Bánh Ta sẽ ban, chính là thịt mình Ta”. Lúc này người Do thái mới la lối rùm beng lên:”Làm sao ông ấy có thể cho chúng ta ăn thịt mình được”(Ga 6,52).

Đọc tất cả những cảm nghĩ đó ta thấy rằng trong giới thính giả, một số người lưỡng lự, một số dứt khoát bỏ Chúa, không nghe Ngài nữa (Trần văn Khả).

b) Thái độ của các môn đệ.

Trước lời tuyên bố của Đức Giêsu: ”Thịt Ta là của ăn, máu Ta là của uống” thì không những đám dân chúng mà nhiều trong số các môn đệ đã phản ứng như những người Do thái khác:”Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi”(Ga 6,60) ? Khi nghe Đức Giêsu nói vậy, nhiều môn đệ, tuy được sống gần Ngài một thời gian, cũng rút lui, từ giã Ngài:”Từ bấy giờ, có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Ngài nữa”(Ga 6,66). Họ đã theo Ngài một thời gian, đã tin, đã trở thành môn đệ, nhưng họ không thể đi tới cùng.

c) Thái độ của Nhóm Mười Hai.

Đứng trước sự tan rã bi đát này, Đức Giêsu quay về Nhóm Mười Hai, những người được coi là thân tín nhất của Ngài. Vậy phản ứng của họ thế nào trước câu hỏi của Đức Giêsu:”Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không”? Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả Nhóm nói lên thái độ của họ:”Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai ? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa “ (Ga 6, 70).

Như vậy, thánh Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên một lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Do đó, những lời tuyên bố, quả quyết và khẳng định trong bài giảng về Bánh Hằng Sống này thực sự là theo nghĩa đen thông thường nói về phép Thánh Thể.

II. LỰA CHỌN VÀ TIN THEO.

1. Nói về sự lựa chọn.

Ngày nay người ta nói nhiều đến dân thân. Dấn thân, nhập cuộc là thân phận của con người. Sống là lựa chọn. Mà chọn lựa là liều lĩnh, vì không bao giờ ta nắm chắc được một cách rành rọt như 2 với 2 là 4 tất cả những lý do lựa chọn và những điều tương lai dành cho sự lựa chọn của ta. Nhưng không vì thế mà ta không dám liều mình. Khi đã dùng trí khôn suy nghĩ, cân nhắc theo như ta có thể, rồi ta cứ tiến bước.

Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ hạnh phúc; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh.

Nói đến lựa chọn là giả thiết phải có sự tự do trong đó. Nếu ai bị ép buộc phải làm một việc gì ngoài ý muốn thì không còn là tự do lựa chọn nữa, mà là sự bó buộc. Chính sự tự do trong lựa chọn làm cho chúng ta phải suy nghĩ, phải day dứt vì phải có trách nhiệm trong việc lựa chọn, phải nhận lấy hậu quả của việc lựa chọn ấy.

Truyện: thần Hercule.

Theo truyện thần thoại của Hy lạp, Hercule là một vị thần, một lần đứng giữa ngã ba đường và tự hỏi xem đi về đâu. Hai người chỉ đường đến với ông. Một người nói:

Hãy theo tôi, đây là con đường thoải mái, hạnh phúc và lối đi dễ dàng.

Người thứ hai nói:

Đây là con đường cố gắng, nỗ lực, khó khăn. Tuy là đường khó khăn, nhưng đưa tới hạnh phúc.

Hercule đã chọn con đường khó khăn và quả thực ông khôn ngoan, ông đã thành công.

Bất cứ cách nào, lựa chọn là phải liều, phải chấp nhận một tương lai bấp bênh, phải chấp nhận hậu quả của việc lựa chọn ấy, mặc dầu phải hy sinh rất nhiều. Trong chọn lựa việc kết hôn, chúng ta sẽ thấy rõ đặc tính của sự lựa chọn ấy:

Nhà anh chẳng chiếu chẳng giường,
Chỉ ấm ổ ra, nàng thương chăng là ?
Yêu nhau chẳng quản cửa nhà,
Chuồng chim cũng lấy, chuồng gà cũng theo.

2. Chúng ta chọn Đức Giêsu.

Đức Gioan Phaolô II thường khuyên những người đến với Ngài rằng: Chúng con phải lựa chọn. Chọn là một quyết định lớn và quan trọng của đời người. Chúng ta đã chọn. Và chúng ta còn phải tiếp tục chọn, vì đời là một tiến trình, đời là một cuộc đổi mới không ngừng nghỉ. Khẩu hiệu của Đức Gioan 23 là: Giờ đây tôi mới khởi sự. Mỗi ngày chúng ta phải khởi đầu với sự lựa chọn.

Mà sự lựa chọn căn bản và quan trọng nhất của cuộc sống là chọn Đấng chúng ta tôn thờ. Chúng ta phải chọn Chúa là thần tượng vì Ngài là một vị thần siêu việt, tuyệt đối đáng tôn thờ. Ta không được bắt chước dân Do thái xưa thờ con bò vàng thay vì Ngài. Chính Đức Giêsu cũng khuyên: ”Không ai có thể làm tôi hai chủ... Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”(Mt 6, 24).

Nhưng Thiên Chúa là Đấng vô hình, ta không thể tiếp cận với Ngài, ta cần phải có một thần tượng nào gần chúng ta hơn, vị thần ấy đã nói:”Ai thấy Thầy là thấy Cha” và Đấng ấy đã nói:”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”(Ga 14,6).

Có một người suốt 2000 năm đã được bao nhiêu người hâm mộ tin theo, thậm chí còn nhận lấy cái chết để tỏ ra trung thành với vị thần ấy !

Vị thần đó là ai ?

Đó là Đức Giêsu Kitô.

Sự lựa chọn của chúng ta sẽ mang lại phần thưởng mà thánh Phêrô và các tông đồ xưa đã nhận lãnh, đó là được chia sẻ tấm bánh hằng sống, Mình và Máu Đức Kitô. Được chết đi với Chúa mỗi ngày để được sống lại với Chúa trong hạnh phúc và vinh quang. Đó là niềm vui của mỗi chúng ta. Đây là một lựa chọn quan trọng có liên quan đến cuộc đời mai hậu của ta.

3. Chúng ta tin theo Đức Giêsu.

Chúng ta đã chọn Đức Giêsu làm thần tượng, làm Chúa của mình, điều đó chứng tỏ không những chúng ta phải có niềm tin và còn hơn nữa chúng ta phải có đức tin. Mà giả như chúng ta chưa có đức tin cho đủ thì hãy theo lời khuyên của triết gia Blaise Pascal:”Nếu bạn muốn có đức tin, hãy qùi xuống và cầu nguyện”.

Sống theo đức tin là đi trong đêm tối, vì đức tin là “khước từ cách hiểu biết thông thường, nhờ giác quan và lý trí, lý luận“ để “tin vào một người khác”, đó là tin mà không thấy, như thánh Gioan sẽ nói rất nhiều lần.

Đối với Đức Giêsu, như chúng ta đã thấy, luôn gây đụng chạm ! Đức tin không hẳn nhiên là thế. Đức tin luôn luôn cho ta thấy chướng. “Đức tin” không phải là một bài học được lặp đi lặp lại “nhưng” là một “dấn thân” trong cuộc sống, là một thôi thúc phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của mình, được coi là có tính khoa học, để đón nhận mạc khải của một người khác mà không thể kiểm chứng được bằng những phương thế nhân loại. Chính Thánh Thể là cớ vấp phạm cho các môn đệ khiến họ từ bỏ Chúa, và ngày nay cũng có những người không chấp nhận được mầu nhiệm này.

Đức tin cũng đòi hỏi phải có thử thách. Qua câu chuyện được kể trong bài Tin mừng hôm nay, tức câu chuyện Đức Giêsu nói với các môn đệ Ngài về bí tích Thánh Thể. Trong cuộc sống cũng sẽ có những giây phút chúng ta cũng bị thách đố như các môn đệ, và có thể chúng ta cũng bị cám dỗ từ bỏ Chúa, không theo Ngài nữa. Những lúc đó, chúng ta đừng để mình vấp phạm những lỗi lầm giống như các môn đệ xưa đã vấp phải, nghĩa là đừng chỉ lo chú tâm đến những vấn đề xẩy đến cho chúng ta, mà hãy đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta hãy xác nhận lại niềm tin vào Ngài như thánh Phêrô đã làm:”Lạy Thầy, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”.

III. TRUNG THÀNH VỚI SỰ LỰA CHỌN.

Trong ngày chịu phép Rửa tội, Linh mục hỏi chúng ta có từ bỏ ma qủi và những việc làm của chúng không ? Cha mẹ chúng ta hay chính chúng ta đã quả quyết thưa từ bỏ. Ta lại còn tuyên xưng và tin theo Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Chúng ta đã chọn Thiên Chúa là gia nghiệp của mình. Rồi trong mỗi dịp lễ Phục sinh, từng người chúng ta lại có dịp bầy tỏ sự lựa chọn của mình một lần nữa khi tuyên xưng đức tin và lại tuyên bố từ bỏ ma qủi và các việc của của chúng.

Chúng ta đã chọn Chúa và chỉ chọn một mình Chúa chứ không thể chọn cả hai, không được thờ hai chủ. Lựa chọn một lần chưa đủ, còn phải lặp đi lặp lại nhiều lần, nó phải được thể hiện qua những lựa chọn nho nhỏ trong mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta chỉ có một sự lựa chọn duy nhất: chọn Chúa. Chọn lựa đúng thì được sống và chọn lựa sai thì chết.

Ở đô thị Jaffa xứ Palestina, có một khu đất gọi là khu đất quyết định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng lữ một lúc rồi mới chảy sang một trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng thì chảy vào khu vườn Sharon xinh đẹp. Còn những sông ngoài theo hướng kia thì chảy vào Biển Chết, biển này không có một sinh vật nào sống nổi. Cuộc đời chúng ta cũng thế. Chúng ta phải chọn một hướng, không ai có thể làm tôi hai chủ:

Một nhà hai chủ không hoà,
Hai vua một nuớc ắt là không yên.

Chọn lựa tự do, nhưng chọn lựa lại là giới hạn. Khi đã có một chọn lựa là chúng ta phải biết tự giới hạn mình. Chính Đức Giêsu khi chọn con đường cứu độ nhân loại, Ngài cũng đã phải chấp nhận thân phận giới hạn con người, và cả cái chết nhục nhã trên thập giá như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2: ”Đức Kitô yêu thương Hội thánh, và phó mình vì Hội thánh, để thánh hóa Hội thánh,...ngõ hầu bầy tỏ cho mình một Hội thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo..., nhưng thánh thiện và tinh tuyền”.

Phải chăng chọn Chúa và theo Chúa là một nghịch ly vì Chúa chỉ hứa cho những sự mất mát ? Người ta thuật lại câu chuyện của một ông tướng kỳ lạ, đó là đại tướng Garibaldi. Một ngày kia, ông nhóm họp quân đội ăn mặc rách rưới mà hiểu dụ rằng: ”Ta cho các ngươi sự đói khát, lạnh lẽo, thương tích và chết trận. Ai vui lòng nhận các điều ấy thì hãy theo ta”. Kết quả: chẳng ai chịu rời bỏ hàng ngũ của mình.

Chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của vị đại tướng ấy ? Có kỳ lạ không ? Có vô lý không ? Có điên khùng không ? Và chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của Đức Giêsu:”Ai gìn giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai vì Ta mà mất mạng sống mình thì lại tìm lại được”(Mt 10,39) ?

Và để kết thúc, chúng ta phải đặt ra câu hỏi: Nếu ta chọn Chúa thì sẽ ra sao ? Và nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao ? Linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã suy diễn câu hỏi bất hủ của thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau:

“Bỏ Ngài con biết theo ai”
Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cách chim bơ vơ trong khung trời lộng gió.
Bỏ Ngài con sẽ theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi.
Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con tuyền lao đao trên biển cả mênh mông.
Bỏ Ngài con biết theo ai, thuyền buông lái biết trôi về đâu ?
Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ.
Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.
Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh.

Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung trời lộng gió, cũng như một con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an (Lm Carolô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 606-607)

Chọn Chúa, đi theo Chúa, trước mắt là một sự hy sinh, một sự mất mát và bị người đời coi như một sự điên rồ, nhưng như thánh Phaolô nói thì đó là sự khôn ngoan trước mặt Chúa. Có lẽ người ta nói đúng: ”Khôn thế gian làm quan địa ngục, dại thế gian làm quan thiên đàng” !

Truyện: Vua Charles V

Vua Charles một lần kêu hoàng tử đến và cho hoàng tử được chọn. Trên bàn vua đặt một thanh kiếm và một vương miện (Triều thiên), Vua nói:

Con chọn cái nào ?

Ngần ngừ một lúc hoàng tử cầm lấy thanh kiếm.

Vua cha hỏi:

Sao con lại chọn thanh kiếm ?

Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào vương miện đáp:

Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được vương miện kia.

Chúng ta đã quen với khẩu hiệu: ”Per crucem ad lucem”: qua thập giá để tới vinh quang. Bước theo Chúa là phải đi vào con đường khổ giá, phải qua cửa hẹp, nhưng chính con đường hẹp hòi khắc khổ lại đem đến vinh quang. Theo gương hoàng tử, chúng ta cũng phải nhờ thanh kiếm đau khổ để có thể chiếm được triều thiên vinh phúc muôn đời, thánh giá phải đi trước triều thiên

Xả thân nếu muốn theo Thầy,

Vác cây khổ giá hằng ngày mà theo.
(Mt 16,24)

Lm. Giuse Đinh lập Liễm

-----------------------------

 

TN 21-B60. BỎ THẦY CON BIẾT THEO AI? - Lm. Giacôbê Tạ Chúc

 

Đời người là một chuỗi liên kết giữa những chọn lựa và quyết định.Chọn lựa luôn đi kèm: TN 21-B60


Đời người là một chuỗi liên kết giữa những chọn lựa và quyết định.Chọn lựa luôn đi kèm theo một trách nhiệm, sự liên đới với những người khác.Chọn lựa đúng, đời sẽ hạnh phúc, nếu không sẽ là bất hạnh.Những người Do Thái không chọn Chúa, vì họ không tin Ngài.Các môn đệ cũng vậy, một số bỏ đi khi Chúa nói về Bí Tích Thánh Thể. Chỉ một số ở lại, vì họ tin Chúa Giêsu có Lời ban sự sống. 

 Thử thách trong chọn lựa 

Có một chủ nông trại nọ thuê một người thanh niên đến nhặt khoai tây cho nông trại.Công việc hết sức đơn giản, hằng ngày anh này chỉ có một việc là ngồi phân lọai các củ khoai tây và cho vào sọt.Lớn theo lớn, trung bình theo trung bình và nhỏ theo nhỏ. Sau một thời gian, anh thanh niên đến gặp ông chủ và xin nghỉ việc. Được hỏi lý do, anh ta giải thích:công việc ông giao phó không phải là công việc nặng nhọc, nhưng điều làm cho tôi nhức óc đó là phải chọn lựa.  

 Dân Do Thái chọn Chúa 

Cách đây gần ba ngàn năm, Giôsuê cũng bảo tòan dân Israel phải dứt khóat chọn lựa:Hôm nay các ngươi phải chọn, hoặc thờ các thần, họăc thờ Thiên Chúa(Gs24,15). Thú vật dường như không có chọn lựa và quyết định, chúng chỉ sống theo bản năng.Con người có lý trí và tự do, nhất là con người biết chọn lựa hướng đi cho cuộc đời của mình. Thánh Phêrô là người đã mạnh mẽ nói lên chọn lựa căn bản và dứt khóat của mình:” Ông Si-mon Phêrô liền đáp:”Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”(Ga 6,68).Quả vậy, sai lầm lớn lao của con người là thay vì chọn Thiên Chúa để tôn thờ, họ lại đi chọn các thụ tạo để suy tôn.Danh vọng, tiền tài, lạc thú, chúng chỉ là những phương tiện, giúp cho con người hòan thành sứ mạng của mình trên trần gian này.Chúng không phải là cứu cánh, càng không phải là đích điểm của cuộc đời. 

 Con người chọn lựa  

Chọn lựa bao giờ cũng phải mất mát và hy sinh.Khi tôi quyết định chọn cuộc đời sống độc thân để tôn thờ Thiên Chúa, và phụng sự anh em, thì đồng thời tôi phải hy sinh cả một đời sống gia đình bình thường như bao người khác.Hoặc khi anh chọn một người phụ nữ làm vợ mình thì anh phải dứt khóat với những người đàn bà khác, nếu không gia đình sẽ tan vỡ và hôn nhân trở thành đại họa.Thiên Chúa ban cho con người có tự do, chính vì điều đó mà con người có quyền chọn thiên đàng hay hỏa ngục. Một khi khước từ Thiên Chúa, con người sẽ không còn xem người khác là anh em mình.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết chọn Chúa làm gia nghiệp của đời mình. Chọn Chúa chứ không phải là công việc hằng ngày. Bởi nếu chọn công việc của Chúa thì lúc thất bại con sẽ dễ dàng bỏ Chúa. Còn khi con chọn Chúa, thì không gì có thể làm con xao động.Mục vụ thì đầy ắp những công việc, bề bộn những chương trình, kế họach thì đan kín thời gian.Sẽ là vô ích, nếu như con không nhận ra thánh ý Ngài là tất cả, có Ngài đời sẽ tràn trề niềm hoan lạc tuổi xuân.Như các môn đệ không bỏ ra đi, con cũng xin thân thửa cùng Chúa:”Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”(Ga,68-69).

Lm. Giacôbê Tạ Chúc

-----------------------------

 

TN 21-B61. TÌNH ĐỜI THAY TRẮNG ĐỔI ĐEN


 - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyến

 

Con người thường đổi trắng thay đen. Lòng người thường thay lòng đổi dạ khiến cho nhiều: TN 21-B61


Con người thường đổi trắng thay đen. Lòng người thường thay lòng đổi dạ khiến cho nhiều người đã chua chát nhìn đời mà bảo rằng: “Còn tiền còn bạc còn  đầy tớ. Hết tiền hết bạc hết ông tôi”. Người ta gắn bó  với nhau thường là vì tình, vì tiền và quyền lợi. Và một khi quyền lợi của mình bị lung lay, họ liền thay lòng đổi dạ để rồi “gió chiều nào xuôi theo chiều đó” để được an toàn bản thân. Xem ra tình cảm giữa con người với nhau thật mong manh. Mọi quan hệ đều được liên kết với nhau bằng những quyền lợi và nghĩa vụ phải thi hành với nhau. Tình đời thường thay trắng đổi đen nên mới có chuyện ‘ông ăn chả bà ăn nem”. Bất trung và phản bội với lời đoan hứa thường là sự mất tín nhiệm nơi nhau và hậu quả là chẳng ai tin ai, ai cũng lo cho chính mình để khỏi bị thiệt hại bản  thân.

Lịch sử cứu độ là một chuỗi dài sự tha thứ của Thiên Chúa và sự bất trung, phản bội của dân tộc được tuyển chọn. Họ hứa rồi quên. Họ đứng lên rồi lại ngã qụy. Dân Do Thái đã từng hứa trung thành với Giavê Thiên Chúa, nhưng rồi họ lại tin thờ thần ngoại bang. Mặc dầu Thiên Chúa luôn bảo vệ họ, chăm sóc họ như tình phụ tử dành cho con cái. Ngược lại, họ thường lãng quên ân huệ của Thiên Chúa. Họ năm lần bảy lượt quay lưng lại với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho họ.

Lời Chúa trong bài đọc thứ nhất là bằng chứng về quá khứ đầy thất trung của dân tộc  được tuyển chọn. Cha ông họ đã từng thờ thần ngoại bang. Hôm nay họ tuyên hứa chỉ tôn thờ  một mình Thiên Chúa Giavê duy nhất, nhưng rồi lời hứa lại đi vào quên lãng chỉ còn lại những thất tín, bội thề. Thiên Chúa đối với họ như là một kho ơn, chỉ đề rút tỉa và một khi không đáp ứng nguyện vọng là họ lại tìm kiếm nơi các thần ngoại bang. Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng tín trung với lời giao ước. Ngài chỉ giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương trọn đời.

Hôm nay, Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ một chọn lựa. Chọn gắn bó với Chúa hay chạy theo thói đời của thế gian “hạnh phúc thì xum vầy, gian nan thì bỏ chạy”. Chúa đòi các môn đệ không lấp lửng, lập lờ “làm tôi hai chủ”, mà phải tỏ rõ lập trường. Bỏ đi hay ở lại. Chọn sự sống đời đời hay sự sống chóng qua đời này. Các môn đệ đã gắn bó với Chúa bao lâu nay nhưng liệu rằng bằng đó thời gian có đủ để niềm tin các ông trưởng thành và có thể nhận ra Thầy là Chúa, là Đấng ban sự sống hay chưa? Trước câu hỏi: “cả anh em, anh em cũng muốn bỏ Thầy đi sao?”. Nhiều môn đệ đã bỏ đi. Và chắc chắn ngay trong số 12 vẫn còn có kẻ muốn bỏ đi. Số còn lại do dự, im lặng, chỉ có một mình Phêrô đã mạnh dạn thưa lên rằng: “bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Vì chỉ có Thầy mới có lời ban lại sự sống đời đời’. Thánh Phêrô đã ở lại với Thầy, vì ông tin vào Thầy mình là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Ông ở lại với Thầy vì chỉ có Thầy mới mang lại sự sống đời đời.

Người xưa thường nói: “Qua gian nan mới biết ai là bạn, là thù”. Chúa Giêsu biết rõ một trong nhóm sẽ  nộp mình. Ngài cũng Phêrô sẽ ba lần chối Thầy và đa số sẽ bỏ Thầy cho người ta hành hạ và treo lên thập tự giá, nhưng Ngài vẫn yêu thương. Ngài vẫn tìm mọi cách cho các môn đệ ở lại mãi trong tình yêu của Ngài. Tình yêu của Thiên Chúa đời đời vẫn thế. Tựa như tình yêu của cha của mẹ sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái. Tình yêu của Thiên Chúa vẫn mãi mãi trung thành với tình yêu ban đầu. Ngài vẫn hằng tha thiết mời gọi con người hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Dù rằng đó là đứa ngỗ nghịch, dù rằng đó là đứa thường phạm sai lầm, đôi khi còn bất hiếu bất trung. Ngài vẫn yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn hỏi chúng ta “phần các con có muốn bỏ Thầy không?”. Chúng ta có dám ở lại với Thầy khi mà nhiều người đã không còn tin có thế giới thần linh? Chúng ta có dám gắn bó với Người khi mà cả khối đông nhân loại đang bỏ đi để chạy theo ma lực của đồng tiền và địa vị? Có lẽ phần nhiều chúng ta do dự, phần nhiều chúng ta im lặng. Vì biết bao lần chúng ta cũng bị cám dỗ bỏ đạo để được tiến thân trên đài cao danh vọng. Vì biết bao lần đồng tiền đã làm mờ con mắt, khiến chúng ta chao đảo đức tin, muốn buông xuôi theo thói gian dối của thế gian để tìm mối lợi cho bản thân của mình. Có thể chúng ta đang đóng vai trò một Giuđa vẫn ở xen lẫn với nhóm 12 nhưng chỉ chờ cơ hội để bán đứng Thầy và bán đứng anh em.

Nguyện xin Thiên Chúa tình yêu tha thứ những yếu đuối, nhỏ nhen đầy ích kỷ của chúng con. Xin Mình Máu Thánh Ngài nâng đỡ chúng con thoát khỏi những cám dỗ trần thế để mãi mãi con có thể nói như thánh Phêrô ngày nào: “Bỏ Ngài chúng con biết đến với ai. Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời”. Amen

Lm. Giuse Tạ Duy  Tuyền

-----------------------------

 

TN 21-B62. THÁCH ĐỐ LỚN NHẤT


 - Lm. Giuse  Đỗ Văn Lực, OP

 

Trên bước đường theo Chúa, các môn đệ gặp rất nhiều thách đố từ ngoại cảnh hay nội tâm: TN 21-B62.


Trên bước đường theo Chúa, các môn đệ gặp rất nhiều thách đố từ ngoại cảnh hay nội tâm. Có bao giờ họ có thể tưởng tượng chính Chúa lại trở thành thách đố lớn nhất ? Thế mà hôm nay, khi lên tiếng đòi hỏi một niềm tin lớn lao về quyền năng Thiên Chúa, chính bản thân Ðức Giêsu đã trở thành một vấn đề khó vượt nhất, vấn đề có tính cách quyết định cho cả định mệnh con người, vì liên quan tới chính sự sống nhân loại.

NGUỒN SỐNG

Trước bao nhiêu đe dọa mạng sống, con người cảm thấy bất lực. Những sản phẩm tử thần phơi bày nhan nhản khắp nơi. Trươc tình cảnh ấy, Ðức Giêsu xuất hiện như một nguồn sống: "Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời." (Ga 6:54a) Lời đề nghị vô cùng lạ lùng, chưa từng nghe thấy bao giờ. "Nghe vậy nhiều môn đệ của Người liền nói: 'Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?" (Ga 6:60) Người trở thành đối tượng của lời xầm xì. Kết quả nhiều môn đệ đã theo Người lâu năm, cũng đành giũ áo ra đi (x. Ga 6:66). Tưởng việc ra đi đó sẽ khiến Người đổi thái độ. Nhưng không, Người vẫn không hề nao núng, dù chỉ còn ít người ở lại: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?" (Ga 6:67) Thật là căng thẳng ! Thật là một thách đố lớn !

Trước sự im lặng đến ngộp thở, ông Phêrô lên tiếng: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa." (Ga 6: 68-69) Chính Chúa Cha đã mạc khải tất cả sự thật về Chúa Con. Thật vậy, "Không ai đến được với Thầy, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho." (Ga 6:65) Bởi đó, niềm tin là một ân sủng vô cùng cao quí. Ðến với Ðức Giêsu tưởng như một hành vi đơn giản. Thực tế phải có một sức mạnh nội tại phát xuất từ Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tin vào Lời Chúa và sự hiện diện đích thực của Chúa nơi con người Ðức Giêsu và nhất là trong bí tích Thánh Thể.

Ðức Giêsu hiện diện thật trong bí tích Thánh Thể. Nhưng sự hiện diện đó vẫn khác với sự hiện diện trong thân xác tại thế của Ðức Giêsu. Nói khác, "thịt và máu" chỉ hiện diện một cách bí tích trong "bánh hằng sống". Ðây là một sự hiện diện sâu xa và đích thực. Bên ngoài chỉ là một tấm bánh hay một chén rượu. Nhưng dấu chỉ bên ngoài đó nói lên sự thật lớn lao bên trong. Ðức Giêsu trở thành của ăn thức uống nuôi sống muôn dân khỏi cơn đói khát thiêng liêng. Bởi đó lấy sự hiểu biết bình thường để đo thực tại Thiên Chúa, con người sẽ bất lực. Trái lại phải có sức mạnh Thần khí mới có thể hiểu nổi Lời Chúa. Thực vậy, "Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống." (Ga 6:63) Bản chất Lời Chúa là thần khí mà lại lấy con mắt xác thịt để nhìn, thật là không cân xứng. Xác thịt chỉ dẫn đến xác thịt, hoàn toàn bất lực trước những đòi hỏi của Thần khí. "Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống." (2 Cr 3:6)

Những người còn ở lại với Chúa vì đã chấp nhận Lời Chúa và tin vào sự hiện diện đích thực của Người trong "bánh hằng sống". Họ đã hiểu Lời Chúa dưới lăng kính Thần khí. "Ai không có Thần Khí của Ðức Kitô, thì không thuộc về Ðức Kitô." (Rm 8:9) Ðó là lý do tại sao "nhiều môn đệ rút lui" (Ga 6:66) và nhiều người "lấy làm chướng" và "xầm xì về vấn đề ấy." (Ga 6:61) Thần Khí sẽ làm im bặt mọi tiếng xầm xì và nghi hoặc, vì Người chính là sức mạnh của Chúa Cha kéo ta lại gần Ðức Kitô. Thần Khí không pha chút vẩn đục mới thấy hết được chiều sâu Lời Chúa. Xác thịt không có độ trong suốt đó để thấy tất cả sự thật. Thách đố chính là cuộc đối đầu giữa Thần Khí và xác thịt. Người môn đệ Ðức Giêsu luôn bị đặt trước sự lựa chọn.

Ngày xưa, dân Do thái cũng đứng trước lựa chọn lớn lao đó. Ông Giôsuê đã lên tiếng trước toàn dân: "Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Ðức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ . . . Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa." (Gs 24:15) Giữa bao nhiêu cám dỗ, dân Do thái đã có lúc nghiêng ngả. Ðã đến lúc họ phải dứt khoát. Ông Giôsuê "đã cho họ một cơ hội để canh tân giao ước Sinai (Xh 19-24)" (Faley 1994:557) Họ đã nhớ lại tất cả sự nghiệp hiển hách Chúa đã làm trên đường về Ðất Hứa. Tất cả đều lặp lại lời tuyên xưng đức tin như ông Giôsuê: "Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi." (Gs 24:18b) Tất cả lịch sử Do thái đều xây trên lời tuyên tín này. Như vậy ông Giôsuê đã chinh phục được toàn dân về cho Chúa. Nhưng suốt lịch sử không phải lúc nào niềm tin cũng trong sáng như vậy. Cuộc thách đố không bao giờ chỉ đến một lần. Trái lại, cuộc phấn đấu dai dẳng suốt bốn mươi năm trên sa mạc là cuộc phấn đấu với niềm tin.

NH”NG SỰ KIỆN TRÁI NGƯỢC

Các môn đệ Ðức Giêsu còn phải phấn đấu cam go hơn nữa khi Ðức Giêsu đòi hỏi phải tin "ai ăn thịt tôi và uống máu tôi . . ." (Ga 6:54) Ngày xưa, sau khi Người công bố về bánh hằng sống, "nhiều môn đệ rút lui." (Ga 6:66) Ðức Giêsu đã dám đánh đổi cả sự nghiệp lấy niềm tin đó. Giả sử lúc đó Chúa cũng chiều theo thị hiếu quần chúng, thử hỏi hôm nay Người còn độ hấp dẫn không ?

Chính vì niềm xác tín lớn lao đó, ngày nay Giáo hội vẫn còn là điểm thu hút giới trẻ về với Ðức Giêsu. Bằng chứng gần 3 triệu bạn trẻ khắp thế giới đã tề tựu về Roma trong ngày Quốc Tế Giới Trẻ từ ngày 15 đến 20 tháng 8 năm 2000 để lắng nghe Lời Chúa và tìm kiếm Ðức Giêsu. Một biến cố lớn lao vượt ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Các bạn trẻ đã tuốn về Roma với niềm phấn khởi hân hoan. Họ đã đi bộ hằng chục cây số để vác tượng thánh giá theo gót Ðức Giêsu. Họ đã quì gối giữa phố xá để cùng đọc kinh Truyền tin lúc 12 giờ trưa giữa những tiếng chuông nhịp nhàng nơi kinh thành ánh sáng đó. Ðể chuẩn bị cho ngày Ðại Hội, hằng chục ngàn bạn trẻ đã phải làm việc mệt nhọc hằng tháng hay hằng năm trước. Các bạn trẻ hoàn toàn thoải mái vì được ăn uống ngủ nghỉ hoàn toàn miễn phí. Ðại hội đã chuẩn bị 9 triệu bữa ăn cho các bạn trẻ. Có đủ dịch vụ y tế và vệ sinh đáp ứng nhu cầu của các bạn. Các nhà dân chúng ở Roma đã mở rộng cửa đón tiếp các bạn. Cả Ðức Giáo Hoàng cũng đón tiếp 15 bạn trẻ vào ở chung với Người. Nhiều bạn trẻ thuộc thế giới thứ ba đã được bao vé máy bay về Roma. Các ân nhân đã đóng góp 3.5 triệu đô la giúp đỡ các bạn trẻ. Thật là một ngày vui lớn có tầm mức quốc tế. Niềm vui có thể đo lường được bằng những màn hội diễn văn nghệ, nhảy múa, ca hát. Tất cả đều tìm thấy nhau trong niềm vui hòa hợp với nhau và nhất là với Thiên Chúa. Có khoảng 2.000 linh mục sẵn sàng đáp ứng nhu cầu hòa giải nơi 300 tòa cáo giải ngay tại quảng trường Colossê.

Cũng trên chính quảng trường đó, trước đó hơn một tháng, nghĩa là ngày 8 tháng 7 năm 2000, một cảnh tượng trái ngược đã diễn ra. Cũng một Ðại Hội Giới Trẻ. Cũng vào đầu thế kỷ 21. Những chuẩn bị cũng rất công phu. Ước vọng cũng rất lớn. Người ta hi vọng một triệu người trẻ đồng tính luyến ái sẽ qui tụ về Roma để biểu tình phản đối Tòa Thánh Vatican. Kết quả sau những ngày kêu gọi ầm ĩ và chuẩn bị rầm rộ, chỉ non 7000 bạn trẻ tham dự. Còn đâu hứa hẹn tự do đáp ứng mọi nhu cầu ăn chơi của tuổi trẻ bằng thế giới những người đồng tính luyến ái ? Các bạn trẻ không nghe thấy tiếng kêu gào của những người tổ chức hay sao ? Trong khi đó, một tiếng kêu gọi của một cụ già 80 tuổi đã được các bạn trẻ đón nhận nồng nhiệt. Gần 3 triệu bạn trẻ nghe tiếng nói của lẽ phải. Chưa tới 7000 nghe theo những hò hét điên cuồng. Nguyên con số cũng cho thấy thất vọng về tuổi trẻ là một sai lầm. Tuổi trẻ là niềm hi vọng lớn lao !!!

Lm. Giuse  Đỗ Văn Lục, OP

-----------------------------

 

TN 21-B63. AI ĐI? AI Ở? -  Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP


Biết theo ai bây giờ ?

 

Trong phần cuối diễn từ về bánh trường sinh, Ðức Giê-su vẫn tiếp tục khẳng định: "Ai ăn thịt và uống: TN 21-B63


Trong phần cuối diễn từ về bánh trường sinh, Ðức Giê-su vẫn tiếp tục khẳng định: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời" (Ga 6,54; x. 6,55-58). Câu nói này không chỉ làm cho người Do-thái bực mình, mà ngay cả các môn đệ cũng cảm thấy bối rối. Các ông sửng sốt vì lời tuyên bố của Ðức Giê-su. Các ông cũng lấy làm chướng tai, và các ông cũng phản đối. Một số người không muốn nghe những lời như thế nữa, họ rút lui.

Tại sao thế ?

Ðiều này cũng dễ hiểu. Từ lâu họ vẫn hy vọng sẽ được chứng kiến những giây phút vinh quang của Thầy lẫn trò, nhưng Ðức Giê-su đã bỏ qua cơ hội ấy. Ðang khi dân chúng vui mừng vì được ăn bánh no nê và muốn tôn Người làm vua, Ðức Giê-su đã chẳng lợi dụng lòng nhiệt thành ấy để đăng quang: Người đã giải tán dân chúng và cả các môn đệ nữa.

Lúc này, câu nói của Ðức Giê-su tạo nên phản ứng không chỉ nơi dân chúng mà cả các môn đệ nữa. Các ông có cảm tưởng như gió đã xoay chiều, và các ông cảm thấy chán nản.

Về phần Ðức Giê-su, Người vẫn kiên định với những điều Người vừa tuyên bố. Người hỏi những người thân đang vây quanh:"Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?"

Ðức Giê-su là ai mà vẫn cương quyết không lùi bước ngay cả khi nhìn thấy sự cô đơn hoàn toàn, tức là thất bại ?

Trước câu hỏi của Ðức Giê-su, ông Phê-rô đã thay mặt cho Nhóm Mười Hai để trả lời: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ?" Câu trả lời này chẳng làm sáng tỏ thêm mầu nhiệm sâu xa vừa được tỏ bày. Có thể coi câu trả lời ấy diễn tả rõ thái độ bối rối. Nếu như giữa Ðức Giê-su và các tông đồ không có những tương giao vốn được kiến tạo dần dần, thử hỏi rằng câu trả lời ấy còn cho thấy tình trạng bi đát như thế nào?

Tuy vậy, câu trả lời của ông Phê-rô cũng xuất phát từ lòng khiêm tốn, nên do đó còn là tiếng nói của lòng tin. Ðây không phải là lòng tin mù quáng vì dựa trên xác tín những lời của Ðức Giê-su phải có một ý nghĩa nào đó, mặc dù người nghe chưa hiểu. Thế nhưng lòng tin này phải lần lần bước trong bóng tối, phải trải qua những thử thách mới đạt tới mức hoàn hảo.

Như thế, ngày nay cũng như ngày xưa, con người luôn có những lý do để nghi ngờ, để đặt thành vấn đề. Ðối với những ai Người muốn lôi kéo về phía mình, Thiên Chúa không bao giờ làm cho con đường trở thành dễ dàng hơn. Ai muốn viện cớ những khó khăn để trốn tránh, để che giấu chính mình, người ấy làm một điều vô ích. Nhưng liệu mỗi người, với những kinh nghiệm đã trải qua, có thể nói lên như ông Phê-rô: "Chúng con biết theo ai bây giờ ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời."

Sự chọn lựa gay gắt

"Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa."

Lạ lùng quá ! Tại sao Ðức Giê-su lại nói với đám đông những lời lẽ như thế ? Hôm qua, họ là năm ngàn người, họ sẵn sàng làm thành một đạo binh đi theo Người. Còn Người lại nói cho họ rằng thân xác Người là của ăn và máu Người là của uống. Chẳng lẽ Người coi họ là những kẻ ăn thịt người ?

"Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?"

Thái độ của Ðức Giê-su lạ quá ! Người đến để loan báo lời ban sự sống, và Người nói lên như một lời mời. Vậy mà những kẻ thân cận với Người lại không hiểu được lời ấy, và những ai nghĩ rằng Người là Ðấng Mê-si-a, là Ðấng cứu độ Ít-ra-en lại lấy làm chướng tai.

Hôm trước, Người đã làm cho bánh hoá ra nhiều. Một hành động rất lạ, đám đông chưa bao giờ được chứng kiến. Tất cả đám đông được ăn no. Họ không rời bỏ Người, cứ bám riết lấy Người. Người đi đâu, họ đi theo đó. Nếu ngày nào Người cũng làm như thế thì tuyệt biết mấy. Phải rồi, Người là Vua.

Thế nhưng, vương quyền của Ðức Ki-tô khác hẳn điều họ vẫn mong ước: "Thật tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi ... vì các ông được ăn bánh no nê." Người có ý nói: bánh tôi đem đến là điều gì khác chứ không phải thứ bánh các ông ăn hôm qua. Lời Người nói làm một số người tức giận, số khác lại thất vọng. Tuy vậy, lời của Người buộc họ phải đáp trả, phải chọn lựa, hoặc là "tôi không tin và tôi bỏ đi", hay là "tôi tin và tôi ở lại !"

Một số môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại. Các ông ở lại, nhưng phải chăng các ông đã hiểu được Ðức Giê-su và lời Người nói ? Có thể các ông không hiểu, nhưng ít là các ông cảm thấy vấn đề Ðức Ki-tô nêu lên thật thiết yếu. Sau này, vấn đề trên sẽ được đặt ra lại theo một hình thức khác: "Phần anh em, anh em bảo Thầy là ai ?" Khi đó ông Phê-rô đã nhân danh những người khác thưa lại: "Thầy là Ðấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống."

Ðức Giê-su vẫn tiếp tục nêu lên câu hỏi ấy với mỗi người: Anh em có ở lại không ? Anh em sẽ đi đâu ? Anh em chọn bánh đem lại sự sống hay chọn bánh lúa mì ?

Chọn lựa này chính là cao điểm trong cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người. Họ đã đọc Tin Mừng, nhưng liệu họ có sẵn sàng mở rộng tâm hồn để Thần Khí làm cho sống ? Họ biết rằng con đường phải đi qua thập giá, phải xuyên qua việc trao tặng cuộc sống của chính mình trong suốt mọi ngày. Họ cũng biết rằng con đường ấy bao hàm nhiều niềm vui đồng thời cũng đòi buộc nhiều từ bỏ. Nhưng họ có dám bước đi trên con đường đó ?

Thật không gì rõ ràng hơn ! Quả là một thử thách lớn chứ không phải chỉ là chấp nhận ở đầu môi mà không liều mạng. Câu hỏi Ðức Ki-tô nêu lên thật cấp thiết. Câu hỏi ấy đã làm cho một số môn đệ rút lui. Câu trả lời của mỗi người cũng rất quyết liệt: nó đưa cả cuộc sống của mỗi người vào đó.

Vẫn có những khoảng tối

Nói cho cùng, Ðức Giê-su quả là một vị Thầy làm cho các môn đệ phải lúng túng. Từ trước đến giờ, Người đặt tất cả lý lẽ trên từ ngữ "thịt". Phải ăn thịt Người mới được sống đời đời. Lúc này, Người lại kết luận: "Chính tinh thần mới làm cho sống, xác không ích lợi gì." Rồi cả xác thịt lẫn máu huyết cũng không thể đưa đến lời tuyên xưng: "Thầy là Ðấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16).

Như thế, phải đợi đến khi Ðức Giê-su phục sinh, thịt và máu mới đạt được ý nghĩa chung cuộc, mới được đón nhận trong lòng tin dứt khoát, "khi anh em thấy Con Người ngự trên nơi Người vẫn ngự trước kia ..."

Vì vậy, chúng ta phải đối diện với mầu nhiệm lớn lao này. Tất cả đều tùy thuộc vào lòng tin của chúng ta, vào thái độ của chúng ta đối với Tin Mừng cũng như vào cuộc chiến đấu của chúng ta chống lại những thói quen, những xơ cứng trước bí tích thịt và máu Ðức Giê-su. Nếu không ý thức, cuộc gặp gỡ của chúng ta với Ðức Giê-su sẽ rất nhạt nhẽo, vô vị, và chúng ta sẽ cảm thấy ngại ngùng trước những lời tuyên bố của Ðức Giê-su.

Chấp nhận làm môn đệ Ðức Giê-su là chấp nhận đi trong lòng tin. Chấp nhận Mình và Máu Ðức Giê-su là chấp nhận đi theo Ðức Ki-tô, trong khi vẫn được bổ dưỡng nhờ bánh Người ban tặng, và chỉ nương tựa vào một mình Người. Mỗi người Ki-tô hữu vẫn có những khoảng tối, nhưng đó lại là một tiếng kêu hướng lên Chúa Cha, là một lần xác tín vào Ðức Giê-su, Ðấng có lời "đem lại sự sống đời đời."

Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP

-----------------------------

 

TN 21-B64. BÁNH BAN SỰ SỐNG


- Gm.  Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

Gs 24,1-2a.15-17.18b; Ep 5,21-32; Ga 6,60-69

Phúc Âm: Ga 6, 61-70

"Chúng con sẽ đi đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống".

Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu nói với họ: "Ðiều đó làm các con khó chịu ư? Vậy nếu các con thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các con là thần trí và là sự sống. Nhưng trong các con có một số không tin". Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: "Bởi đó, Ta bảo các con rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho". Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa. Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: "Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?" Simon Phêrô thưa Người: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa".

 Suy NiỆm:

 

Ðể sống tình cảm và đời sống gia đình, trong thực tế có nhiều khó khăn. Không giải quyết và lướt thắng: TN 21-B64


Ðể sống tình cảm và đời sống gia đình, trong thực tế có nhiều khó khăn. Không giải quyết và lướt thắng được, trái tim con người sẽ luôn bất an và buồn chán. Cuộc đời của họ có thể như xây nhà trên cát, vì con sâu buồn bực, hận thù hay thất vọng ở trong ruột gan họ sẽ đục khoét mọi công trình xây cất do bàn tay và trí óc họ làm ra. Các bài Kinh Thánh đọc trong thánh lễ hôm nay không đề ra hết mọi lời khuyên để giải quyết; nhưng nếu thực hành được những lời đạo đức này có lẽ con người sẽ tìm ra lẽ sống cho cuộc đời nhiều khi khó khăn.

 1. Hãy Tin Vào Quá Khứ

Bài sách Yôsua cho chúng ta được chứng kiến cuộc họp mặt cuối cùng giữa nhà lãnh đạo quần chúng và đại biểu con cái nhà Israel. Yôsua bấy giờ đã già. Ông biết giờ chết đã gần. Nhìn vào dân tộc mà ông đã vất vả lãnh đạo đánh chiếm Hứa địa và định cư ở đó, ông không khỏi đau xót và lo lắng. Các chi họ Israel chưa hoàn toàn đoàn kết. Tương quan giữa họ và thổ dân chưa hoàn toàn tốt đẹp. Nhất là yếu tố xây dựng một dân tộc duy nhất là "lòng kính sợ Yavê", chưa được củng cố vững vàng. Con cái nhà Israel đang còn thích nhìn sang các tượng thần của dân bản xứ và của dân ngoại. Và nếu họ chạy theo các ngẫu tượng này thì thôi, sẽ mất tất cả.

Yôsua nhận thấy nguy cơ thật trầm trọng... Ông cố gắng một lần cuối cùng. Thu góp sức lực của tuổi già lại, ông triệu tập một cuộc họp đông đủ các đại biểu con cái nhà Israel. Ông chọn Sikem làm địa điểm nhóm họp. Ðây là nơi tổ phụ Abraham đã dựng bàn thờ đầu tiên để dâng đất Canaan này cho Thiên Chúa (Kn 12,6). Yacob và con cái ông đã để lại nhiều kỷ niệm ở chốn này (Kn 33,35). Chính Yôsua trong thời hoạt động nhất cũng chọn Sikem làm nơi tuyên bố luật pháp để đoàn kết các chi họ Israel trong một lý tưởng chung (Yos 8). Nay ông có lý để chọn nơi này làm chỗ tập họp nung nấu lại tình thương yêu ruột thịt.

Có lẽ đây không phải là một cuộc họp cử hành Phụng vụ, mặc dù sách viết: họ đứng chầu trước nhan Thiên Chúa. Chúng ta không nhận thấy sự hiện diện của hàng tư tế. Và sau khi họp bàn xong, họ đã ra về mà không làm một lễ dân nào. Câu viết kia chỉ có nghĩa là họ ý thức đang đứng trước mặt Yavê, đang ở nơi thánh địa của Người, đang làm việc dưới con mắt vô hình của Ðấng Thiên Chúa toàn năng.

Yôsua khai mạc phiên họp bằng cách nhắc lại quá khứ, để tất cả cùng nhờ Thiên Chúa đã hướng dẫn, bảo hộ, săn sóc dân như thế nào. Rồi ông kết luận: "Bây giờ các ngươi không bằng lòng phụng thờ Yavê thì cứ chọn lấy ai mà thờ, hoặc là các thần của tổ tiên trước khi họ đặt chân đến xứ này, hoặc là các ngẫu tượng của dân bản xứ mà Yavê đã giúp các ngươi đánh đuổi. Phần ta và cả nhà ta, sẽ phụng thờ Đức Chúa".

Nói thực ra, sau những lời này, dân không còn chọn lựa nào khác là cùng nhất trí với Yôsua. Họ vừa nớ lại công ơn của Thiên Chúa. Họ thấy rõ nhờ Người mà họ được như ngày hôm nay. Quá khứ của họ được xây dựng nhờ sự hướng dẫn bảo hộ của Người. Toàn dân mủi lòng nghĩ đến sự vô tâm của họ trước đây đối với Đức Chúa... Họ đồng thanh trả lời với Yôsua: "Quái gỡ thay nếu chúng tôi bỏ Yavê để phụng thờ những thần khác... Vậy cả chúng tôi nữa, chúng tôi cũng sẽ phụng thờ Đức Chúa vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi".

Dĩ nhiên, đọc câu truyện trên đây cho chúng ta nghe hôm nay, phụng vụ chỉ muốn nhắc nhở chúng ta nghĩ lại quá khứ đã ràng buộc chúng ta lại với Thiên Chúa để chúng ta suy nghĩ lại về lòng trung thành của mình đối với Người... Nhưng chẳng có gì cấm chúng ta áp dụng những điều này vào trong đời sống tình cảm và đời sống gia đình của chúng ta. Việc nhớ lại mối tình đầu và những chặng đường đã cùng nhau sát cánh qua bao nhiêu đắng cay ngọt bùi, không có sức giúp chúng ta lướt thắng những trục trặc và khó khăn hiện tại trong tương quan đối với bạn hữu và người thương của mình sao? Nhưng không phải chỉ có quá khứ, còn tương lai nữa. Và điều này chúng ta có thể nhận ra từ bài Tin Mừng Gioan.

 2. Hãy Hy Vọng Ở Tương Lai

Ðoạn văn này kết thúc diễn từ của Ðức Giêsu về bánh ban sự sống. Chúng ta hẳn còn nhớ những lời cuối của Người đã nói: Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống... ai không ăn và không uống Thịt Máu này sẽ không được sống. Còn ai ăn và uống sẽ lưu lại trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy.

Ðó là những lời "sống sượng". Chắc chắn quần chúng đã không chấp nhận. Nhưng lạ kỳ thay: Thánh Gioan không để ý đến phản ứng của quần chúng. Người nhìn vào hàng môn đồ của Ðức Giêsu. Ðây không phải chỉ là nhóm 12. Có nhiều người khác nữa vẫn đi theo Người. Họ đã ở trong đám đông hay ở gần Người trong suốt bài diễn từ. Nhưng tác giả Gioan đã không chú ý đến họ. Nói đúng hơn trong chương 6 của sách Tin Mừng này, ông có lối trình bày kỳ cục. Lúc Ðức Giêsu làm phép lạ bánh hóa nhiều thì có mặt các môn đệ ở giữa quần chúng (6,1-15); sau đó chỉ nguyên có môn đồ trên thuyền gặp sóng gió (6,15-21). Khi đã vào bờ an toàn và gặp đông đủ quần chúng, họ lại có mặt trong khi Ðức Giêsu giảng (6,22-59). Lúc Người giảng xong, trở lại chỉ còn có mình họ mà thôi (6,60-66). Và lần này sự việc cũng xảy ra một cách buồn thảm như khi gặp sóng gió.

Tại sao tác giả Gioan lại bố cục bài trình bày như vậy?

Phải chăng người muốn nói rằng sứ điệp của Ðức Giêsu gồm cả việc làm và lời nói, tuy diễn ra ở trước mặt toàn dân, nhưng cuối cùng sẽ có ảnh hưởng trên một số ít người, những kẻ thân cận với Người hơn cả, để bó buộc người ta phải lựa chọn và sự lựa chọn này sẽ quyết định tương lai của Tin Mừng ở giữa loài người? Chúng ta cứ nghĩ lại mà xem. Sau khi Ðức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều rồi lẫn trốn lên núi để tránh bị lôi vào phong trào muốn có một vị cứu tinh trần tục, tác giả Gioan đã thuật truyện thuyền các môn đồ gặp biển động và cuồng phong. Có thể nói người đưa sự ngỡ ngàng và thắc mắc của tất cả quần chúng trước thái độ ly kỳ của Ðức Giêsu vào trong tâm hồn các môn đồ để nó tụ lại ở đây và làm sóng, làm gió thử thách đức tin của những kẻ đi theo Chúa. Cũng vậy, sau khi Ðức Giêsu đã nói những lời khó nghe về thịt và máu Người là của ăn và của uống, Yoan đã đem tất cả phản ứng của quần chúng vào trong tâm hồn các môn đồ để làm nổi bật tính cách cam go của cuộc phấn đấu mà đức tin đang gặp phải. Những năm sau Công đồng Vatican II không có một hiện tượng như vậy sao? Cuộc khủng hoảng ở trong dân chúng đã làm mưa to gió lớn trong đời sống tu trì và tông đồ.

Vậy phản ứng của môn đồ thật ra là của tất cả mọi người kết tinh lại để đi đến một thái độ phải dứt khoát trong lựa chọn� Họ lấy làm gai chướng về các lời của Ðức Giêsu. Người thương họ và muốn cứu giúp họ như trong trường hợp thuyền họ gặp sóng gió. Hôm ấy, Người đã hiện ra với họ, tỏ mình ra cho họ và lập tức thuyền họ đã cập bến bình an. Hôm nay lẽ ra họ còn phải nhớ câu truyện ấy. Quá khứ lẽ ra phải củng cố niềm tin của họ. Nhưng dường như không phải như vậy. Ðức Giêsu còn gợi lại hình ảnh trước; nhưng Người còn mạc khải cả tương lai nữa để họ biết chấp nhận hiện tại.

Người nói:

 "nếu các ngươi trông thấy Con Người lên nơi Ngài đã có trước..?"  Những chữ "trông thấy" có thể gợi lên cảnh tượng trên mặt hồ sóng gió lúc Người hiện đến với họ. Nhưng lập tức những chữ ấy đã đưa về tương lai, ám chỉ việc Ðức Giêsu sẽ phục sinh, lên trời và hiện đến trong vinh quang. Người muốn ám chỉ rằng nếu lần thấy Người trong quá khứ đã có thể đem bình an lại cho họ, thì huống nữa là những điều họ sẽ thấy trong tương lai!

Tuy nhiên những lời như vậy chỉ có giá trị cho những tâm hồn có một chút thái độ tin tưởng và phó thác. Chứ đối với những con người xác thịt, chỉ muốn nắm ngay những gì ăn chắc, thì những lời đó không có ảnh hưởng gì cả. Thành ra nhiều môn đồ đã rút lui, không còn đi theo Ðức Giêsu nữa.

Nhìn vào đám 12 còn lại, mà từ nay sẽ trở thành Tông đồ, Ðức Giêsu muốn họ xác định lập trường. Simon Phêrô thay mặt anh em nói lên những lời tỏ rõ niềm tin như các sách Tin Mừng khác đã thuật lại khi các ngài đối thoại ở Cêsarê: Ngài là Ðấng Thánh của Thiên Chúa. Ngài có những lời đem lại sự sống đời đời. Chúng tôi sẽ bỏ Ngài đi theo ai?

Thế là từ nay Ðức Giêsu có một số ít đi theo Người. Còn đại đa số đã rút lui. Người sẽ đi với số ít này lên Núi Sọ dẫn đến vinh quang phục sinh, đang khi đại đa số sẽ dùng tay bọn quá khích và tên môn đồ phản bội để giết Người. Bọn này đã không nhớ lại việc làm và lời nói của Người ở trong quá khứ; và cũng chẳng có tinh thần vươn về tương lai mà nhiều lần Người đã gợi ra cho họ.

Nhiều người nơi chúng ta trong đời sống đối với Chúa và Hội Thánh cũng như đối với tha nhân bạn hữu và các người trong gia đình, không lướt thắng nổi các khó khăn, khủng hoảng, cũng chỉ vì đã hết quý hóa mọi tương quan thắm thiết trong quá khứ, và không có đủ sức mạnh tinh thần để tin tưởng vào tương lai. Nhiều cuộc ly dị hôn nhân đã xảy ra vì vậy. Nhiều sự cộng tác gãy gánh cũng thế. Và tất cả như vậy, cuối cùng, chỉ vì những suy nghĩ về quá khứ và tương lai không đủ mạnh đối với bộ mặt cam go của thực tế trong hiện tại. Lời Chúa hôm nay dùng bài Thánh Thư để giúp đỡ chúng ta về điểm này.

 3. Hãy Hiểu Biết Hiện Tại

Thánh Phaolô bắt đầu khuyên tín hữu về các tương giao và tương quan xã hội trong mầu nhiệm Ðức Kitô. Và trước hết người đề cập tới tương quan phu phụ.

Người không có những lý do cụ thể đặc biệt nào để đề cập vấn đề này đâu. Thư Êphêsô ít có tính cách cụ thể hơn cả, theo nghĩa đã không do hoàn cảnh cụ thể nào thôi thúc tác giả viết ra. Có thể nói nó không phải là thư trao đổi tin tức, hay muốn giải quyết vấn đề gì. Nó là một "luân thư", mượn hình thức thư từ để trình bày giáo lý.

Ở đây tác giả ca tụng mầu nhiệm cứu thế của Ðức Kitô đã đem đến cho chúng ta một sự sống mới. Ơn của Người phải phát huy ra trong đời sống, và trong các tương quan xã hội, mà gia đình là một môi trường. Tình yêu phu phụ giữ vai trò trọng yếu. Nó cũng phải được thấm nhuần mầu nhiệm Ðức Kitô.

Vậy nhìn tương quan phu phụ trong mầu nhiệm này, thánh Phaolô một đàng không thể quên hình ảnh Đức Chúa là hôn phu của dân Người; và do đó Ðức Kitô là hôn phu của Hội Thánh. Ðàng khác, ở những trang đầu tiên trong bộ Thánh Kinh (Kn 2,24) người ta đọc thấy: "Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khăng khít với vợ mình và hai chúng sẽ nên một thân xác". Có lẽ câu Kinh Thánh này đã bị nhiều người lợi dụng và cắt nghĩa không chỉnh. Phaolô đem đọc dưới ánh sáng của mầu nhiệm Ðức Kitô và thấy ngay câu ấy viết về sự mật thiết của Ðức Kitô và Hội Thánh. Cả hai là một đến nỗi không thể rời nhau được nữa.

Nhưng không phải là không có thứ tự. Ðức Kitô đã yêu thương trước và đã phó nộp mình để làm ra Hội Thánh trong sạch không một vết nhơ. Người trở thành đầu của Hội Thánh, có uy quyền trên Hội Thánh, nhưng đó là thứ uy quyền của tình yêu, phục vụ.

Và Phaolô kết luận, chồng hãy cư xử với vợ mình như thế; và vợ hãy đối với chồng mình như Hội Thánh đối với Ðức Kitô.

Chắc chắn đây là những tư tưởng rất cao cả mà Phaolô gọi là mầu nhiệm lớn. Chấp nhận như vậy thì mọi vấn đề cụ thể khác dù có to cũng trở thành nhỏ, có khó cũng trở nên dễ. Bởi vì mọi thực tại trần gian đã được cuốn vào đà thăng tiến của mầu nhiệm Ðức Kitô. Và từ nay người có đức tin Kitô giáo có thể nhờ lòng tin cậy mến để chấp nhận và thăng tiến mọi sự kiện và tương quan ở đời.

Do đó không cần những cái nhìn về quá khứ hay về tương lai cho bằng cần có cái nhìn đức tin về hiện tại, là chúng ta có thể tìm ra lẽ sống tốt đẹp và phong phú ở trong hết mọi hoàn cảnh. Nói đúng hơn, quá khứ và tương lai chỉ cần để xây dựng niềm tin hiện tại. Cũng như giờ đây chúng ta cũng cần biết lịch sử thánh gồm cả quá khư và tương lai để tuyên xưng đức tin trong hiện tại hầu cử hành mầu nhiệm thánh. Chính đức tin hiện tại khiến chúng ta công nhận bánh rượu này sẽ là Thịt Máu Chúa Kitô để ban cho ai lãnh nhận với đức tin được sự sống mới, hầu sống cách mới mẻ mọi thực tại và tương quan ở đời.

Như vậy, chính niềm tin sẽ đánh giá thái độ của chúng ta trong giờ phút này và trong khắp đời sống. Chúng ta hãy sốt sắng xin cho mình được niềm tin ấy trong bản tuyên xưng đức tin đọc bây giờ.

 Gm.  Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

-----------------------------

 

TN 21-B65. Bỏ Ngài con biết theo ai?!

 

Sau khi một số trong những người đã đi theo Chúa Giêsu rút lui, ngài đã hỏi Nhóm Mười Hai: TN 21-B65


Sau khi một số trong những người đã đi theo Chúa Giêsu rút lui, ngài đã hỏi Nhóm Mười Hai gồm những người có lập trường vững chắc, tin theo ngài. Ngài hỏi: “Còn anh em nữa, có muốn bỏ ta không?" Gn 6:67). Và Phêrô đã thay mặt anh em mình trả lời: “Lậy Chúa. Bỏ ngài chúng tôi biết theo ai?” (Gn 6:68). Đó là câu trả lời của Phêrô thay mặt anh em mình. Phần Kitô hữu chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có câu trả lời nào cho Chúa Giêsu nếu ngài hỏi riêng từng người trong chúng ta: “Còn con, con có định rút lui không?”

Đứng trước câu hỏi như thế, có thể có nhiều người trong chúng ta sẽ không trả lời mà chỉ lẳng lặng rút lui như một số các kẻ theo ngài lúc bấy giờ đã làm. Và cũng có thể một số không rút lui, nhưng cũng không có câu trả lời nào cho chọn lựa của mình. Có nghĩa là ai sao, tôi vậy. Người ta theo ông Giêsu, tôi cũng theo ông Giêsu. Người theo, kẻ bỏ. Lúc này tôi thấy chưa có lý do gì để rút lui, chừng nào có lý do thêm thì tôi cũng sẽ âm thầm hoặc công khai rút lui. Và có lẽ là chỉ một số rất ít dám đứng lại về phe Chúa Giêsu, dám theo ngài dù rằng lối sống của ngài, giáo thuyết của ngài, và việc làm của ngài có chướng tai, gai mắt, có không hợp với nhãn quan của con người hay của riêng mình.

Nhưng đâu là lý do để chúng ta đứng lại về phe Chúa Giêsu. Thánh Phêrô đã xác định lập trường của mình, và cũng là lập trường của Nhóm ông: “Chúa có những lời hằng sống. Chúng con nhận biết rằng, Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Gio 6:69). Ở một trường hợp khác, khi Chúa Giêsu muốn biết các ông nghĩ gì về ngài, Phêrô cũng đã nhanh nhẩu thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16).

Tóm lại, có 2 lý do để Phêrô không bỏ Chúa, ngược lại, trung thành và sống chết với ngài:

Chúa có lời hằng sống.

Ngài là Đấng Kitô – Đấng Thánh – của Thiên Chúa.

Đức Kitô – Đấng Thánh - của Thiên Chúa:

Thật ra, có lẽ khi nói: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16), hoặc: “Bỏ Chúa, chúng con biết theo ai. Chúa có những lời hằng sống. Chúng con nhận biết rằng, Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Gio 6:68-69),

Chưa hẳn Phêrô đã hoàn toàn thâm tín điều mình nói. Và đó chỉ là những nhận xét bộc phát từ những kinh nghiệm bản thân và từ những giao tiếp, gần gũi thường ngày với Chúa Giêsu. Những điều này còn cần phải có thời gian, và phải được kiểm chứng bằng thử thách.

Rất may mắn cho Kitô hữu chúng ta vì đã có tấm gương của Phêrô và của những Tông Đồ khác. Các ngài đã chọn lựa, đã đi theo, và đã tuyệt đối trung thành với thầy và là Chúa của mình. Chọn lựa, đi theo, và sống trung thành không chỉ trong những hoàn cảnh được thoải mái, được vinh quang, được ca tụng như khi Chúa thực hiện những phép lạ, được nhiều người vây quanh ca tụng, và được chứng kiến những giờ phút huy hoàng của Chúa trên núi Taborê, hay những ngày đầu của biến cố Phục Sinh, và trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Nhưng các ông đã trung thành với Chúa, với thầy mình cả trong những gian lao, thử thách, và đã đổ máu mình minh chứng sự trung thành ấy.

Chúa có lời sự sống đời đời:

“Chúa có lời hằng sống”. Phêrô đã chọn theo Chúa không vì những phép lạ, những tiếng khen, và vì đám đông hiếu kỳ quanh ngài. Nhưng đã nghiệm ra rằng từ nơi ngài, qua những lời ngài giảng dậy, mang ý nghĩa và sức sống thiêng liêng đem lại cho con người sự sống đời đời.

Vậy, những lời đem lại sự sống đời đời đây là gì? Có thấy Chúa nói gì khác với những lời các Tổ Phụ, các Tiên Tri trong Cựu Ước đã nói đâu? Có khác chăng là thay vì “mắt đền mắt, răng thế răng” thì giờ đây là “cầu cho kẻ làm khổ mình. Tha cho kẻ mắc nợ mình. Yêu thương kẻ thù nghịch mình...” Nhưng dù là thế, thì xét nguyên về những giá trị lời nói như vậy cũng đâu phải là những lời của sự sống đời đời được. Bất quá đó chỉ là những tư tưởng mới lạ, và mang ý nghĩa tích cực về một số những nhân đức xã hội và công bằng trong sinh hoạt thường ngày mà thôi. Nhiều câu nói của các Tiên Tri và Tổ Phụ trước ngài, và những phát biểu của các nhà đạo đức xã hội, các triết gia sau này cũng mang những giá trị rất cao về ý nghĩa và đạo đức như những gì ngài đã nói.

Nhưng điều mà Phêrô đã nhìn ra, và đã khám phá thấy không ở nguyên ngữ, hay tự vựng. Nó là chính Thiên Chúa, là Thiên Chúa nói, là lời của Ngài: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống. Là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mt 16:16; Gio 6:-69). Điểm quan trọng ở là chỗ đó. Nó không phải là những lời phát xuất ra từ cửa miệng con người phàm trần dù người đó là bất cứ ai. Chính Chúa Giêsu cũng đã ngạc nhiên về khám phá này, về cái nhìn này của Phêrô. Một cái nhìn, một khám phá mà theo thường tình con người không ai thấu hiểu nổi. Ngài đã nói với Phêrô: “Phúc chon con, Phêrô con ông Giona. Không phải do con người, nhưng là do Cha trên trời của thầy đã mặc khải điều này cho con” (Mt 16:17). Và cũng ở điểm này, Phêrô đáng được Chúa Giêsu tin tưởng để trở nên nền tảng mà trên đó, ngài sẽ xây dựng tòa nhà Giáo Hội của ngài.

Theo ai? Ai theo?

Tóm lại, nếu Chúa Giêsu hôm nay, giữa đám đông bạn bè và người quen thân của tôi, ngài quay lại hỏi tôi một câu như đã hỏi Phêrô và các bạn của ông: “Còn con nữa, con có định bỏ đi không?” thì tôi sẽ trả lời ngài như thế nào? Có thể như Phêrô, tôi cũng sẽ trả lời ngài: “Bỏ Chúa con biết theo ai?” Nhưng chắc không? Tôi có dám xác tín điều đó như Phêrô không? Và nếu có thì tôi căn cứ vào điều gì để dám chắc về niềm tin của mình?

Tôi có tin chắc chắn như Phêrô đã tin rằng, Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống. Ngài chính là Sự Sống Đời Đời, và lời ngài đó chính là Ngài, Đấng ban sự sống đời đời cho tôi và những ai tin nhận ngài không?
Nhưng nhất là tôi có nói, có xác tín, và có sống như Phêrô đã nói, đã xác tín, và đã sống. Một cuộc sống vì Chúa Kitô, cho Chúa Kitô, và trong Chúa Kitô.

 T.s. Trần Quang Huy Khanh

-----------------------------

 

TN 21-B66. Xác thịt không thể hiểu được xác thịt

 

Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI Thường Niên Năm B tuần này là bài kết thúc Bài Giảng về Bánh: TN 21-B66


Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI Thường Niên Năm B tuần này là bài kết thúc Bài Giảng về Bánh Hằng Sống của Chúa Giêsu được Phúc Âm Thánh Ký Gioan thuật lại ở đoạn 6. Chúa Nhật 17 bài Phúc Âm về phép lạ Bánh Hóa Ra Nhiều, Chúa Nhật 18 về việc tìm kiếm của ăn không hư nát, Chúa Nhật 19 về mạc khải “Bánh Tôi sẽ ban là thịt Tôi cho thế gian được sự sống”, Chúa Nhật 20 về mạc khải “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở trong Tôi”, và Chúa Nhật 21 về tác dụng của Bài Giảng Bánh Hằng Sống. Thật vậy, Bài Giảng về Bánh Hằng Sống của Chúa Giêsu đã làm cho “nhiều môn đệ” bỏ đi không theo Người nữa. Tuy nhiên, chính sự kiện bỏ đi này đã cho thấy đức tin của những người còn ở lại với Đấng phán dạy những điều chói tai không ai nghe cho thấu, song lại là những lời ban sự sống đời đời, đối với thành phần, qua tông đồ Phêrô và cùng với tông đồ Phêrô tuyên xưng: “Chúng con còn biết theo ai. Thày mới có lời ban sự sống đời đời”. Bởi vì, như Chúa Kitô đã khẳng định: “Chính thần linh mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng giúp được gì. Những lời Thày nói với các con đều là thần linh và là sự sống”.

Như thế, qua câu khẳng định này, Chúa Giêsu đã gián tiếp cho biết thành phần bỏ không theo Người nữa là thành phần sống theo “xác thịt”, một thứ “xác thịt vô bổ” không giúp gì cho họ về những vấn đề siêu linh, vấn đề thuộc lãnh vực đức tin, thuộc lãnh vực “thần linh và sự sống”, còn thành phần trung thành với Người, dù không hiểu lời Người, hay dù tự nhiên cũng cảm thấy chói tai nghe không lọt như ai, là thành phần sống theo “thần linh”, sống theo “những lời ban sự sống đời đời”. Thật vậy, những gì Chúa Giêsu mạc khải về bản thân Người là Bánh hằng sống bởi trời xuống, và Bánh Người sẽ ban là thịt của Người cho thế gian được sự sống, là những gì thuộc lãnh vực thần linh, không phải tự nhiên mà hiểu được. Đó là lý do, dù đã nhận được mạc khải thần linh, tức được Thiên Chúa tỏ cho biết những mầu nhiệm hay những thực tại siêu việt, tự mình, con người vẫn cần phải có thần linh nữa mới có thể chấp nhận được mạc khải của Người. Bởi thế chẳng lạ gì Chúa Giêsu đã khẳng định thêm “không ai có thể đến được với Thày trừ khi được Cha Thày ban phép”. Người đã khẳng định điều này với chung dân Do Thái, thành phần thắc mắc về thân thế của Người trước đó, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XIX, là “không ai có thể đến được với Tôi, trừ phi được Cha lôi kéo”.

Ở đây có cái lạ là xác thịt không chấp nhận xác thịt, không hiểu được xác thịt. “Xác thịt” ở đây là con người xác thịt, là con người trần gian, một con người xác thịt không thể nào chấp nhận một Thiên Chúa “đã hóa thành nhục thể”, đã hóa thành xác thịt (x Jn 1:14), đã trở thánh bánh bởi trời xuống. Thật ra, cũng cần phải có xác thịt chứ không phải xác thịt hoàn toàn vô bổ. Bằng không Thiên Chúa đã không hóa thành nhục thể. Cần phải có xác thịt, vì xác thịt cần phải nghe thấy, nhìn thấy, sờ thấy (x 1Jn 1:1-2) một cách cụ thể những gì Thiên Chúa muốn tỏ ra, nhất là nơi Lời Nhập Thể, là chính Lời Nhập Thể, nhờ đó, xác thịt mới có thể trở thành dấu chứng cho Mạc Khải Thần Linh, mới có thể đổ máu ra làm chứng cho Chân Lý, cho Lời Nhập Thể. Thế nhưng, sở dĩ Chúa Giêsu khẳng định “xác thịt vô bổ” đây là vì so với Thần Linh thì xác thịt tự mình không thể hiểu được những gì thuộc lãnh giới siêu linh, tức không thể ban cho con người sự sống là nhận biết Thiên Chúa. Những câu nói của người phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp với Chúa Giêsu liên quan đến nước sự sống (x Jn 4:9,11-12,15), hay những câu hỏi của viên chức Hội Đồng Do Thái Nicôđêmô trong cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu ban đêm liên quan đến việc tái sinh (x Jn 3:4,9), đều là những gì phát xuất từ xác thịt. Chính các vị tông đồ cũng thế, bằng con mắt xác thịt, rõ ràng đã thấy được Thày của các vị phục sinh hiện ra sáng láng, với những dấu tử giá còn đó, trên xác thịt của Người, thế mà các vị vẫn chưa chịu tin Thày của các vị đã thực sự sống lại (x Lk 24:39-41), cho tới khi nội tâm các vị được Thần Linh tác động qua những lời dẫn chứng Thánh Kinh của Đấng Phục Sinh (x Lk 24:44-45).

Đó là lý do, kể cả nhân vật tuyên bố trong bài Phúc Âm hôm nay: “Chúng con còn biết theo ai, Thày mới có những lời ban sự sống đời đời”, sau này, cũng đã choáng váng vấp ngã một cách thảm thương trước một mạc khải thần linh khác, đó là mạc khải Đức Kitô Vượt Qua. Thật vậy, sau khi được Cha trên trời (chứ không phải được xác thịt) tỏ cho biết chính căn tính hay thực tại đích thật của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là Thày của mình để có thể chính xác tuyên xưng rằng “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16), vị tông đồ ấy, sau khi nghe thấy Người mạc khải cho biết Đức Kitô Thiên Sai Con Thiên Chúa ấy cũng sẽ là Đấng Tử Giá, vì phản ứng tự nhiên theo xác thịt, không muốn mất Vị Thày vô cùng khả kính khả ái của mình, cũng như không muốn Vị Tôn Sư đệ nhất của mình ấy bị đau thương tử nạn, đã thành tâm lên tiếng can gián Người, liền bị Người hết sức nghiêm nghị nặng lời quở trách: “Hỡi Satan, hãy xéo đi, ngươi chỉ làm cớ cho Ta vấp phạm, vì ngươi chỉ toàn phán đoán theo loài người mà thôi, chứ chẳng có biết phán đoán theo Thiên Chúa gì cả” (Mt 16:23).

Thật ra, nếu “xác thịt vô bổ” đây liên quan đến thế gian, đến loài người, cách riêng đến phán đoán tự nhiên, thì “thần linh tác sinh” đây chẳng những liên quan đến “Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống” (Kinh Tin Kính), mà còn liên quan đến mạc khải thần linh, đến lời Chúa nữa. Đó là lý do Chúa Kitô đã khẳng định “những lời Thày nói với các con đều là thần linh và là sự sống”. Như thế, vì “những lời Thày nói với các con đều là thần linh và là sự sống”, mà chính lúc Chúa Kitô nói với dân Do Thái ngày xưa, với các môn đệ ở bên Người bấy giờ, hay nói với loài người qua Giáo Hội, qua các chứng từ Kitô giáo, cho đến tận thế, là Người đang ban “thần linh và sự sống” cho những ai nghe Người nói. Ngoài ra, không phải chỉ có những lời Chúa Giêsu nói mới ban “thần linh và sự sống”, mà còn bao gồm tất cả những việc Người làm nữa, tức tất cả những gì Người muốn mạc khải cho loài người biết. Tuy nhiên, để có thể lãnh nhận “thần linh và sự sống” phát xuất từ lời Chúa, từ những gì được Chúa Kitô mạc khải cho biết ấy, con người cần phải có lòng tin tưởng và tỏ ra tin tưởng, tức cần phải chấp nhận tất cả những gì không hợp với xác thịt, phản lại xác thịt, làm khổ xác thịt của họ, cho dù có mất mạng sống đi nữa (x Jn 12:25), tóm lại con người xác thịt phải “ăn thịt và uống máu Con Người”.

Đúng vậy, nếu “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), để tỏ mình cho loài người qua “xác thịt” (flesh), một biểu hiệu và là yếu tố bao gồm tất cả những lời Người nói và việc Người làm, và việc tỏ mình ra của Lời Nhập Thể đã lên đến tuyệt đỉnh khi Người “tự hiến” (Jn 17:19; x Mt 20:28), bằng việc đổ tất cả “máu” (blood) của Người ra (x Mt 26:28), khiến loài người có thể nhận biết Người (x Jn 8:28), có thể chấp nhận Người (x Jn 1:12), có thể tin vào Người, tức loài người có thể nhờ “ăn thịt và uống máu Con Người” mà được lãnh nhận “sự sống”, hay được thừa hưởng một “sự sống đời đời là nhận biết…” (Jn 17:3). Nếu tự bản chất, “những lời Thày nói với chúng con đều ban thần linh và sự sống”, và con người chỉ cần “ăn thịt và uống máu Con Người” là được “sự sống”, thì quả thực, để được “sư # sống”, Kitô hữu chúng ta phải dứt khoát “phụng sự Chúa” như gia đình Gio-Duệ và dân Do Thái được nhắc đến trong bài đọc thứ nhất hôm nay, nhất là như “vợ phục tùng chồng trong mọi sự như Giáo Hội phục tùng Chúa Kitô”, theo lời khuyên của bài đọc thứ hai hôm nay.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

-----------------------------

 

TN 21-B67. "Thầy mới có lời ban sự sống đời đời"

 

Bài Phúc Âm hôm nay tường thuật một biến cố thử thách cho những môn đệ theo Chúa Giêsu. Có: TN 21-B67


Bài Phúc Âm hôm nay tường thuật một biến cố thử thách cho những môn đệ theo Chúa Giêsu. Có những người bỏ Chúa vì cho rằng lời Chúa nói thật chói tai, khó nghe. Còn Phêrô đại diện cho những tông đồ trung thành tiếp tục theo Chúa, đã tuyên xưng rằng: "Bỏ Thày chúng con biết theo ai? Thày mới có lời ban sự sống đời đời". Những người thật sự tìm kiếm sự sống đời đời và tin rằng Đức Kitô có khả năng ban điều đó, mới giữ được sự trung thành. Chúa nói lời gì mà khiến có người cho rằng chói tai? Tại sao họ bắt đầu theo Ngài, rồi bây giờ lại bỏ đi?

Đoạn Phúc Âm này ở cuối đoạn 6. Ở đầu đoạn 6, thánh sử Gioan thuật lại phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều để nuôi năm ngàn người đàn ông, chưa kể đàn bà, trẻ con. Sau đó Chúa đã ra lệnh cho các môn đệ xuống thuyền sang bên kia hồ, còn Ngài đi vào nơi thanh vắng cầu nguyện. Giữa đêm Chúa đi trên mặt nước đến với các môn đệ đang trên thuyền. Khi thuyền đến bến bờ, dân chúng đã tụ tập đón Chúa. Chúa biết họ theo Chúa vì được ăn no, nên khuyên họ chớ tìm kiếm của ăn hư nát, nhưng phải tìm kiếm điều bền vững đời đời. Người Do Thái thách thức Chúa làm thêm phép lạ để họ tin. Đối lại Ngài thách thức họ tin vào Ngài để được sự sống đời đời. Qua cuộc đối thoại Chúa mạc khải cho họ về bí tích Thánh Thể, là chính thịt máu Ngài ban cho nhân loại làm của ăn ban sự sống đời đời. Nhiều môn đệ cho rằng lời Chúa nói là điều ghê tởm: ai lại đi ăn thịt của Chúa? Họ cho Chúa là kẻ điên khùng, ăn nói tầm xàm. Họ nhận thấy Giêsu không phải là Đấng ban sự sống đời đời.

Phêrô đại diện cho những kẻ trung tín, tuy không hiểu trọn vẹn lời Chúa nói, nhưng tin vào mầu nhiệm Chúa mạc khải. Những người bỏ Chúa có lẽ đã theo Chúa vì được ăn no, được thấy những phép lạ huy hoàng Chúa làm, được hưởng vinh quang, trọng vọng dành cho những người mang danh môn đệ của Chúa. Họ sống theo xác thịt, không theo tinh thần. Họ theo Chúa vì những điều hời hợt bên ngoài. Những điều đó nuôi dưỡng lòng tự ái kiêu căng của họ. Khi nó lớn lên người ta nghĩ rằng mình khôn đủ để phán xét những lời Chúa nói và những việc Chúa làm. Khi Chúa mạc khải bí tích Thánh Thể, họ cho rằng lời Chúa thật chói tai, khó nghe. Họ quay lưng bỏ Chúa ra đi.

Ngày nay vẫn có những người sống theo xác thịt, chạy theo những danh lợi, hào hứng, sôi nổi bên ngoài. Họ tin khi Chúa làm phép lạ đáp ứng những đòi hỏi tham vọng cá nhân, nhưng khi đối diện với mầu nhiệm thập giá, phải đau khổ, phải bách hại, phải khó khăn, họ buông xuôi đức tin, quay lưng bỏ Chúa. Lòng háo danh, tính hiếu kỳ vì những dấu lạ bên ngoài là những điều nuôi lớn lòng tự ái, kiêu căng. Nhiều người đã mù quáng cậy dựa vào những dấu lạ bên ngoài để có thái độ chống đối, qua mặt, hoặc khinh thường các cha xứ, khi các ngài không làm theo ý họ. Đó là lối sống theo xác thịt, vô ích, đưa đến sự chết. Đó là dấu chỉ cho thấy những dấu lạ đó không phải do Thiên Chúa, mà do quyền lực đối nghịch với Ngài. Vì thế nếu muốn sống đời đời, chúng ta cần sống theo thần khí, xa cách những vẻ vang, danh tiếng, khoe khoang dấu lạ. Trung tín theo Chúa trong hy sinh, cầu nguyện và âm thầm phục vụ trong khiêm tốn.

Lm. Nguyễn Hùng

-----------------------------

 

TN 21-B68. CHỌN CHÚA LÀ GIA NGHIỆP ĐỜI TÔI


Ga 6, 54a, 60 – 69

 

Cuộc đời con người là một chuỗi dài những sự chọn lựa. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết: TN 21-B68


Cuộc đời con người là một chuỗi dài những sự chọn lựa. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không có quyền lựa chọn, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Nếu chọn đúng, thì đời mình sẽ tốt đẹp và hạnh phúc, còn nếu chọn sai thi đời sẽ bất hạnh. Sống là phải lựa chọn luôn. Đời là vậy. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn.

Trong bài đọc I hôm nay, chúng ta nghe ông Giôsuê  triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho họ đứng trước nhan Chúa, rồi ông nói với họ: "Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần?" . Dân Do Thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Mặc dù họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại phụng thờ Ngài. Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đã đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài. Họ thưa với Giôsuê: "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi". Đó là một sự lựa chọn của dân Do Thái quyết tâm theo Chúa Giavê. 

Trong Bài Phúc âm hôm nay kể lại việc sau khi dân chúng được ăn no nê, họ được Chúa giảng về Bánh Hằng Sống và lương thực bởi trời; Ngài tự xưng mình là Bánh Hằng Sống và quả quyết với họ rằng: "ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". Đứng trước lời mời gọi này có những kết quả chọn lựa khác nhau, có nhiều người chọn giải pháp không đi theo Ngài nữa và cũng nhóm những tâm hồn thành tâm thiện chí chọn đi theo Chúa Giêsu. Nhiều người cho rằng "lời gì mà nghe chói tai quá" và họ quyết định không đi theo.

Vì thế, sau khi họ bỏ Chúa Giêsu ra đi, Ngài quay lại hỏi các Tông Đồ: "Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy ra đi không?" Thánh Phêrô đại diện các Tông Đồ thưa với Chúa rằng: "Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời". Đó là sự chọn lựa của Phêrô. Như thế, dân Do Thái chọn bỏ Chúa còn Phêrô thì chọn theo Chúa Giêsu, chọn Chúa Giêsu là gia nghiệp đời mình.

Là người Công Giáo, khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta quyết định chọn Chúa và đi theo Chúa, chúng ta tôn nhận Chúa là Thiên Chúa và chỉ tôn thờ, phụng sự, yêu mến duy một mình Người. Đó chỉ là sự chọn lựa của đức tin. Tuy nhiên, trong cuộc sống của mình, chúng ta đứng trước nhiều cơ hội để chọn lựa hơn nữa, để sống và làm chứng cho đức tin. Chúng ta hãy triệt để thi hành những điều phù hợp với ý Chúa, đó là cách chọn lựa thích hợp nhất theo bản vẽ mà Chúa đã thiết kế cho đời chúng ta. Vì thế, chọn sống theo ý Chúa và thực hành theo đức tin là một việc làm liên tục, thường xuyên cho đến chết. Đó là một đòi hỏi của đức tin.

Vì thế, đức tin này là một con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài mà ta sẽ phải đi suốt cuộc đời. Con Đường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ, ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng đường gian nan đầy sóng gió không còn êm trôi. Có khi ta gặp khó khăn thử thách, gặp đau khổ, thất bại. Đôi khi chúng ta không tìm đâu ra lối thoát như chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Lúc đó, chúng ta sẽ cảm thấy mệt mỏi chán chường, muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác, bị cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn. Đó là trường hợp của những người Do Thái và một số môn đệ hôm nay.

Thật thế, Khi Đức Giêsu hóa bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi và mừng vui. Họ tin Người chính là Đấng Cứu thế đến cứu dân tộc Do Thái. Thế nhưng khi Đức Giêsu tuyên bố: "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời", khi nghe nói như thế thì đám đông và một số môn đệ  bỏ Chúa mà đi. Đức tin tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước, nay đã tan biến. Đức tin gặp thử thách và họ không thể vượt qua. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín.

Đức tin phải trải qua thử thách. Chỉ có những người bạn trung thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù chưa hiểu những điều Đức Giêsu nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nước, các môn đệ có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người.  Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách.

Hành trình đức tin và sự chọn lựa của chúng ta chắc chắn sẽ không khác của các tông đồ. Có những lúc thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt. Khi đó Lời Chúa êm ái ngọt ngào. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa, chúng ta dễ dàng chọn Chúa. Nhưng rồi tới những ngày tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy lời Chúa làm cho ta mất bình an. Lời Chúa đánh vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Phúc âm hôm nay, không còn muốn chọn Chúa nữa. Vì thế, trong những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ đến lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực. Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với Chúa như thánh Phêrô: "Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời". Đó là cách chọn lựa phù hợp ý Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khôn ngoan và sáng suốt để biết chọn Chúa là gia nghiệp đời mình. Cho dù chọn Chúa thì chúng con phải can đảm sống đức tin, biết theo Chúa, phụng sự Chúa suốt cuộc đời con. Tuy nhiên, đó là cách chọn lựa bảo đảm sự sống đời đời cho chúng con. Xin cho chúng con biết đáp trả bước đi theo Chúa suốt cuộc đời chúng con. Amen.

-----------------------------

 

TN 21-B69. CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN.


Jn. 6, 54. 60 - 69.

Anh chị em thân mến.

 

Trong thời gian gần đây, nếu anh chị em có dịp đi đến Châu đốc để vía bà, hay đi Cà Mau viếng: TN 21-B69


Trong thời gian gần đây, nếu anh chị em có dịp đi đến Châu đốc để vía bà, hay đi Cà Mau viếng mộ Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp. Quang cảnh của những nơi đó hết sức tưng bừng náo nhiệt, người tới lui tấp nập. Đi vòng quanh, có nhiều bia tạ ơn, bông hoa, nhan, đèn không bao giờ ngớt. Nhìn lại thì thấy đủ mọi hạng người, thuộc đủ mọi thành phần, đủ mọi tôn giáo. Họ đến đây vì nhu cầu riêng tư của cuộc sống: kẻ đã được đáp ứng, đến để tạ ơn, kẻ khác thì đến van xin. Nhìn lại, tất cả đều vì mối lợi riêng tư cho bản thân, vì cuộc sống riêng của mình.

Tôi suy nghĩ: nếu một người nào đã đi đến đó hai, ba lần mà nhu cầu của họ không được đáp ứng, thử hỏi họ có còn can đảm để đến thăm viếng và cầu xin nữa không. Tất cả chỉ vì nhu cầu của cuộc sống, vì quyền lợi riêng tư. Một khi quyền lợi bị đụng chạm, hay nhu cầu không còn cần thiết nữa thì chắc là họ sẽ không đến đó nữa.

Những người Do Thái, đi theo Chúa Giêsu vì Ngài đã đáp ứng nhu cầu của họ. Ngài cho họ ăn, giảng dạy, nói những lời mới lạ họ thích nghe. Nhưng khi Ngài nói những lời không hợp ý họ, họ liền chống đối và rời xa Ngài. Kể cả những người thân tín, những kẻ được gọi là môn đệ cũng bỏ Ngài. Còn lại nhóm 12, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn và hỏi:" Còn các con, các con có muốn bỏ đi không ?"

"Lạy Thầy, chúng con biết đi theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời".

Phêrô đại diện cho cả nhóm nói lên như thế. Ông nhìn thấy được sự sống thật trong vị Thầy mà ông đang theo, ông nhìn thấy được sự cần thiết khi có Thầy bên cạnh. Chính vì thế các ông đã theo Thầy cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, các ông đã đạt được sự sống đời đời.

" Còn các con, các con có muốn bỏ đi không ?"

Chúa Giêsu cũng hỏi từng người trong chúng ta như thế. Không phải chỉ một lần, nhưng rất nhiều lần trong cuộc sống. Nhưng nào chúng ta có nghe thấy gì đâu để mà trả lời cho Ngài, vì chúng ta đã bỏ đi trước khi nghe Ngài hỏi như thế. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta chán nản thất vọng, không kiên nhẫn đủ để chờ đợi Thiên Chúa ban ơn cho mình. Chúng ta quay ra phiền trách Thiên Chúa, vì Ngài không phục vụ cho nhu cầu riêng tư, phục vụ cho lợi ích cá nhân của mình. Chúng ta cầu xin, đòi hỏi, nhưng ít khi nào suy nghĩ rằng: điều mình cầu xin có thật sự cần thiết và hợp thánh Ý Thiên chúa không ? Nếu đó là điều tốt đẹp, thì Thiên Chúa của chúng ta có bị bắt buộc phải vâng lời và thi hành ngay những điều chúng ta đòi hỏi hay không. Thiên Chúa nhìn thấy và Ngài cũng biết trước chúng ta đang nghĩ gì và làm gì. Thế là chúng ta rời bỏ Thiên Chúa của mình vì không đủ kiên nhẫn chờ đợi, hay đúng hơn là không có một con tim chân thành để theo Ngài.

Có khi nào trong cuộc sống, chúng ta lắng nghe và trả lời như Phêrô: "Chúng con biết đi theo ai, Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời". Nói được như thế là khi chúng ta biết để cho Thiên Chúa làm chủ cuộc sống của mình. Còn phần chúng ta biết lắng nghe và vâng theo những gì Ngài đặt để cho chúng ta trong cuộc sống. Chúng ta biết chấp nhận và chu toàn cách tốt đẹp hoàn cảnh sống của mình. Đó là sống kề cận bên Chúa và đó cũng là sự sống đích thực mà Thiên chúa ban cho những kẻ thành tâm theo Ngài.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe và luôn sống kề cận bên Chúa, để xứng đáng là môn đệ trung thành của Ngài.

-----------------------------

 

TN 21-B70. TUYÊN XƯNG LÒNG TIN BẰNG CẢ CUỘC SỐNG


Ga 6, 54a. 60 – 69

 

Cùng với Giáo hội, hôm nay chúng ta suy niệm đoạn tin mừng cuối chương 6 Tin mừng theo: TN 21-B70


Cùng với Giáo hội, hôm nay chúng ta suy niệm đoạn tin mừng cuối chương 6 Tin mừng theo thánh Gioan. Sau một diễn từ dài về Bánh Hằng Sống kết quả từ hơn năm ngàn người theo Chúa Giêsu giờ đây chỉ còn lại nhóm Mười Hai.

Những người bỏ đi cho rằng: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" (Ga 6, 60) vì tại hội đường Capharnaum Chúa Giêsu đã tuyên bố: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống" (Ga 6, 54 - 55)

Có thể, nói những cố gắng của Chúa Giêsu như đổ sông đổ biển. Người muốn dân chúng đến với Người bằng cả lòng tin hơn là bằng thái độ thực dụng. Tiếc thay, động cơ theo Chúa của họ chưa được tinh ròng.

May mắn là còn lại nhóm Mười Hai. Chúa Giêsu hỏi họ: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" (Ga 6, 60). Phêrô thay mặt anh em trả lời: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa." (Ga 6, 68 - 69). Một lời tuyên xưng đức tin một cách mạnh mẽ.

Lời tuyên xưng này không phải có giá trị ngay hôm nay nhưng sẽ có giá trị trong suốt cuộc đời của các ông. Thật vậy, sau biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu các ông đã sống triệt để lời tuyên xưng này. Mỗi người làm chứng cho Chúa bằng cả mạng sống của mình mà chẳng sợ nguy hiểm hay bắt bớ.

Nhân dịp này mỗi người chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của mình. Chúng ta đã đón nhận hồng ân đức tin ngày chịu phép Rửa tội nhưng chúng ta có sống tốt đức tin của mình chưa.

Trong khung cảnh năm giáo dục gia đình những bậc phụ huynh nhìn lại đời sống đức tin của mình có làm gương sáng cho con cái mình chưa. Nếu tôi nhớ không lầm sau khi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan 23 được bầu làm Giáo Hoàng, ngài trở về nhà và khoe với mẹ của mình về chiếc nhẫn Giáo hoàng của mình. Mẹ của ngài liền đưa tay của bà lên và nói: không có chiếc nhẫn này làm sao có chiếc nhẫn đó.Nghĩa là nhờ đời sống đức tin của bà mà ngài mới có được như ngày hôm đó.

Chúng ta cũng vừa cùng với toàn thể Giáo hội mừng trọng thể lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời - một trong 4 đặc ân cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho Mẹ. Chắc chắn Mẹ đã được thừa hưởng đời sống đức tin từ Thánh Gioakim và Thánh Anna nên đời sống đức tin của Mẹ mới được mạnh mẽ như thế. Nhờ đời sống đức tin mạnh mẽ mặc dù gặp không biết bao nhiêu khó khăn thử thách nên Mẹ mới được trọng thưởng như thế.

Hãy noi gương các Tông đồ và Mẹ Maria sống đức tin trong đời sống của mình. Nhất là các bậc phụ huynh hãy tích cực sống đức tin để làm gương sáng cho con cái của mình.

-----------------------------

 

TN 21-B71. BIẾT ĐẾN VỚI AI?


Ga 6, 54a.60-69

 

Đức tin là một vấn đề quan trọng trong đời sống của con người. Ai cũng vậy tin hay không tin: TN 21-B71


Đức tin là một vấn đề quan trọng trong đời sống của con người. Ai cũng vậy tin hay không tin là quyền tự do của mình. Tuy nhiên, giữa tin và không tin như có một cái gì đó xem ra rất xa nhưng lại cũng rất gần. Do đó, trong cuộc sống, con người có lúc bị giao động giữa tin và không tin. Khủng hoảng xẩy ra khi có vấn đề về đức tin.Lịch sử dân Chúa cho chúng ta thấy rõ điều ấy. Và Đức Kitô đã đến trần gian, nhân loại, con người đứng trước sự lựa chọn: tin hay không tin vào Ngài. Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay cho chúng ta hiểu thế nào là khủng hoảng về đức tin. Các môn đệ là những người thân cận với Đức Kitô nhưng vẫn bị khủng hoảng về đức tin..

Các môn đệ, những người được Chúa chọn lựa, cất nhắc nhưng khi nghe Đức Kitô nói: " Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời " ( Ga 6, 54 a ). Trong số các môn đệ, có những người đã phản ứng: " Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi" ( Ga 6, 60 ). Các môn đệ đã khó hiểu khi Chúa Giêsu nói về căn tính của mình. Chúa từ trời xuống, chết, sống lại và lại trở về nơi Thiên Chúa Cha. Tất cả những mạc khải ấy, đối với các môn đệ thật khó hiểu nhất là khi Chúa nói về Mình và Máu của Ngài trở thành lương thực nuôi sống mọi người. Vâng, các môn đệ khi nghe những Lời của Chúa còn không thể nào hiểu nổi, huống hồ gì chúng ta: mầu nhiệm nhập thể, đau khổ, sự chết, phục sinh và về trời là những mầu nhiệm cao vời, ngoài sức hiểu biết của con người. Chúng ta phải như các môn đệ khi được Chúa Thánh Thần đến mới biến đổi tất cả và mới làm cho các Ngài, cũng như chúng ta hiểu được mọi sự xem ra bí nhiệm. Các môn đệ đã yêu mến Chúa, vì yêu các Ngài đã chấp nhận và đã hiểu được những mầu nhiệm khôn dò. Chúng ta ngày hôm nay vì yêu và tin Chúa, chúng ta chấp nhận Chúa và hiểu được những điều vượt ra ngoài tầm hiểu biết của chúng ta.

Chúa Giêsu theo Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay, Ngài đã biết trước ai là kẻ không tin và ai là kẻ sẽ nộp Ngài...Do đó, Tin Mừng thánh Gioan loan báo khi nghe những lời của Chúa Giêsu đã có nhiều môn đệ rút lui và không đi theo Ngài nữa. Thực tế, đã có nhiều môn đệ đi theo Chúa, học hỏi, ở với Chúa một thời gian, đã tin vào Chúa, nhưng những người này không thể đi tới cùng với Ngài vì họ không chấp nhận được những điều Ngài tiết lộ về tông tích, nguồn gốc, tông tích của Ngài. Các môn đệ này đã không dám phiêu lưu, liều lĩnh hơn nữa bởi vì họ không thể hiểu nổi những lời mạc khải của Chúa. Trở nên môn đệ và trở thành người công giáo chưa chắc đã bảo đảm sự trung thành của mình mãi mãi với Đức Kitô. Muốn trung tín với Chúa, mọi Kitô hữu, mọi môn đệ phải luôn dám dấn thân, phiêu lưu luôn khám phá ra sự mới mẻ của Đức Kitô, trung thành để Ngài dẫn đưa mình vào các mầu nhiệm thâm sâu, khôn dò của Ngài. Chấp nhân yêu và tin Chúa sẽ chấp nhận đi vào sự rủi ro, rất liều lĩnh là để Chúa dẫn mình đi trên suốt cuộc hành trình đức tin. Đọc Tin Mừng chúng ta nhận thấy đã có rất nhiều môn đệ của Chúa đã bỏ Ngài mà đi không bao giờ hẹn ngày trở về và ngay những kẻ ở lại, đã có kẻ phản bội, bán Chúa...Chúa đòi mọi Kitô hữu trung tín...

Một bằng chứng thật cảm động và dễ thương, đó là Phêrô đã đại diện nhóm Mười Hai bầy tỏ lòng trung thành với Chúa Giêsu: " Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời " ( Ga 6, 68 ). Các môn đệ và đặc biệt là Phêrô không phải các Ngài đã hiểu được những lời mạc khải của Chúa, nhưng vì các Ngài đã tin và nhận biết Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa " ( Ga 6, 69). Quả thực, Phêrô và các bạn đã chứng kiến Thầy nuôi dân bằng phép lạ làm cho cá và bánh hóa nên nhiều. Họ đã sửng sốt, ngạc nhiên và hết sức khâm phục khi thấy Chúa đi trên biển mà tới với họ. Và lẽ dĩ nhiên, họ đã chứng kiến biết bao phép lạ khác mà Tin mừng đã thuật lại cho chúng ta như phép lạ làm cho con bà góa thành Naim được sống lại, phép lạ cho tên đầy tớ của Ông bách quản được khỏi bệnh, và còn biết bao phép lạ lớn lao, tỏ tường khác. Chính vì thế, các môn đệ này đã xin ở lại với Chúa, đã chấp nhận những lời mà những người khác cho là chướng tai vv...

Trong cuộc sống, có lẽ có những lúc chúng ta cũng bị thử thách, cám dỗ về lòng tin như các môn đệ và chắc có những lúc chúng ta muốn bỏ Chúa, không đi theo Ngài, không muốn ở lại và làm môn đệ Ngài nữa. Khi gặp cám dỗ như thế, chúng ta đừng vấp ngã như một số đông môn đồ xưa, đã đang tâm lìa xa Chúa. Nghĩa là chúng ta đừng dán mắt chỉ chú ý tới những vấn đề đang xảy ra cho chúng ta, mà hãy đưa mắt nhìn vào Chúa Giêsu. Chúng ta hãy xác nhận lại niềm tin vào Chúa như thánh Phêrô, Vị tông đồ trưởng đã làm và hãy thưa cùng Chúa:

" Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa " ( Ga 6, 68-69 ).

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT


-----------------------------

 

TN 21-B72. PHẦN CHÚNG CON, CHÚNG CON ĐÃ TIN


Ga  6: 60-69

 

Đã bao nhiêu lần quý vị đã từng ở trong một nhóm đang gặp khó khăn trong việc đối thoại vì: TN 21-B72


Đã bao nhiêu lần quý vị đã từng ở trong một nhóm đang gặp khó khăn trong việc đối thoại vì những ý kiến khác nhau? Những ngày này, các cuộc đối thoại thường xoay quanh vấn đề tranh cử sắp tới hay những vấn nạn của Giáo hội - đó là hai trong số các vấn đề thường chia một nhóm thành các phe đối nhau. Có thể quý vị cùng nhau ăn tối và không ai thay đổi chủ đề, thế nên nó sẽ dẫn đến kết luận tự nhiên và hiển nhiên của nó. Người ta ở các phe khác nhau ngay từ đầu cuộc trò chuyện và thường vẫn khăng khăng với ý kiến mình cho đến cùng.

Quý vị có lẽ thắc mắc vì sao tôi gọi là "những cuộc đối thoại"; Chẳng phải các cuộc đối thoại nhằm tạo ra một sự trao đổi cởi mở giữa mọi người với nhau đó sao? Có người nói và ta lắng nghe với thái độ cởi mở hết sức có thể. Tác giả người Anh, Rebecca West có lẽ đúng khi phát biểu: "Chẳng có gì là đối thoại cả. Đó chỉ là hư ảo. Chỉ là những cuộc độc thoại xen ngang nhau, thế thôi".

Ngay từ Chúa nhật thứ 17 thánh Gioan đã tường thuật cuộc đối thoại giữa đám đông, những người đã được ăn bánh, và Đức Giêsu. Như thấy xuất hiện trong Tin mừng Gioan, cuộc đối thoại dần chuyển qua diễn từ của Đức Giêsu vì, như chúng ta nói, Người "không cùng tần sóng" với thính giả của mình. Họ đã không cởi mở ngay từ đầu cuộc đối thoại với Đức Giêsu, vì thế họ không nghe được những gì Người nói với họ về các dấu Người đang thực hiện và những dấu này dẫn đến ở một thực tại sâu xa hơn những gì đang xảy ra giữa họ.

Hôm nay, cuộc đối thoại diễn ra giữa Đức Giêsu và các môn đệ; không chỉ về bánh mà Người ban cho, nhưng về điều Người công bố: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời và bánh tôi ban chính là thịt tôi để cho thế gian được sống". Người còn nói: "Đây là bánh từ trời....ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời".

Đám đông đã gặp khó khăn khi đón nhận những gì Đức Giêsu nói trong suốt diễn từ. Nay các môn đệ cũng bị sốc vì những lời Người nói và, như Gioan cho ta biết, "nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa". Trước hết Người nói với họ rằng Người "từ trời xuống" rồi "ai ăn thịt và uống máu tôi sẽ có được sự sống đời đời..." và nay Người còn nói thêm với họ rằng Người sẽ trở lại "nơi Người đã ở trước kia".

Một lần nữa Đức Giêsu nói về sự vô dụng của "xác thịt" trong việc nắm bắt và đáp lại những gì Người nói. Hãy nhớ lại lời Người nói với Nicôđêmô: "Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí" (3,6). Các môn đệ không hiểu những lời Đức Giêsu đang nói về việc "được sinh bởi Thiên Chúa". Không có Thánh Thần của Thiên Chúa thì họ chẳng hiểu được Đức Giêsu có ý gì khi hứa ban cho họ "sự sống đời đời". Nhưng Đức Giêsu vẫn không lùi bước hay nhượng bộ trong những lời khó nghe nhằm giữ lại con số đông đảo các môn đệ. Thế nên, ở cuối bài Tin mừng hôm nay ta thấy chỉ còn lại Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai.

Thánh Phêrô trả lời "chúng con đã tin..." là tất cả những gì ông có thể nói lúc này. Trong Sách thánh TIN là một động từ. Đó là một hành động mà chúng ta ưng thuận và hành động. Nhưng đó còn là một tiến trình. Phêrô và những người khác, như chúng ta, có lòng tin, nhưng nó cần phải lớn lên. Lòng tin của Nhóm Mười Hai trong thời điểm này chưa đủ mạnh. Cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu sẽ thử thách cách nghiệt ngã lòng tin ấy. Nhưng đây mới chỉ là điểm khởi đầu: các mô đệ tin vào Đức Giêsu và trao phó hiện tại cũng như tương lai của mình cho Người. Đức Giêsu, về phần mình, còn phải nhọc công với hạt mầm niềm tin của số môn đệ ít ỏi này. Trước khi ra đi, Đức Giêsu ban Thánh Thần xuống trên họ để hoàn tất công trình Người đã khởi sự.

Câu chuyện bắt đầu với đám đông 5000 người đi tìm Đức Giêsu sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Nay con số lớn lao đó đã bỏ đi hầu như hết. Nếu quý vị đo sự thành công bằng con số thì hẳn dự án của Đức Giêsu đã thất bại. Thậm chí trong Nhóm Mười Hai mà còn có người phản bội Đức Giêsu. Tuy hiên, đây không phải là điều mà con người chỉ "bằng xương bằng thịt" có thể hiểu thấu, nhưng nói về việc Thánh Thần có thể thực hiện nơi những người môn đệ quyết tâm theo Thầy, những người đã nói, như chúng ta thưa lên trong Thánh Lễ: "Lạy Thày, bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thày mới có những lời ban sự sống đời đời".

Còn về những lời chướng tai! Tôi biết nhiều họ đạo hôm nay bỏ qua Bài Đọc Hai trích thư Êphêxô mà thay bằng bài đọc khác. Nhiều nhà phụng vụ cho rằng có quá nhiều điều nhạy cảm về văn hóa liên quan đến bài đọc này: "Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ..."

Bài đọc này là một thách đố đối với chúng ta, những người đang nghe hôm nay. Hôn nhân đã từng, cũng như hiện nay ở nhiều nơi, nặng tính gia trưởng. Thánh Phaolô là người của thời này và ngài lấy mối tương quan hôn nhân mà ngài biết để làm một phép so sánh ẩn dụ về mối tương quan của Đức Kitô và Hội thánh.

Cần lưu ý rằng, thánh Phaolô cũng mời gọi cải biến giao ước hôn nhân. Ý thức được thiết chế hiện hành của thời ngài, thánh Phaolô yêu cầu các Kitô hữu sống một lối sống khác. "Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau". Theo nghĩa đen nó có nghĩa là vâng lời nhau; xem người khác trọng hơn mình. Người làm chồng có mọi quyền trên người vợ, con cái và nô lệ. Nhưng anh vẫn phải xem những người dù nhỏ mọn nhất cũng phải trọng hơn mình. Đức Giêsu là mẫu gương cho thái độ này, Người đã hạ mình xuống vì yêu thương chúng ta. Chúng ta có thể kết luận thay cho thánh Phaolô rằng khế ước hôn nhân là yêu thương và phục vụ lẫn nhau.

Việc quyết định nối kết bài đọc thứ nhất và bài thứ ba lại với nhau. Không phải bất kỳ thứ quyết định nào, nhưng là một quyết định dứt khoát: theo đường lối của Thiên Chúa hay theo đường lối của riêng chúng ta?

Giôsuê đứng trước dân Israel và hỏi họ sẽ phục vụ ai: Thiên Chúa, Đấng đã cưu mang, giải thoát họ khỏi ách nô lệ và dẫn đưa họ suốt 40 năm trong sa mạc, hay thần ngoại mà cha ông họ đã thờ - "các thần khác". Nếu họ phán đoán dựa trên những gì họ đã trải qua thì dân chỉ có một chọn lựa; làm sao có thể không chọn Thiên Chúa, Đấng mà họ đã biết là Đấng Cứu Độ? Chọn lựa của họ được tóm kết trong lời tuyên xưng của Giôsuê: "Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA".

Chẳng phải chứng tá của Giôsuê là những gì mà các bậc phụ huynh trong Thánh lễ hôm nay đang cố gắng làm để nêu gương cho con cái họ hay sao? Họ hy vọng, khi con cái họ trưởng thành thì chúng, giống như cha mẹ chúng trước đây, cũng sẽ nói rằng: "Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA".

Đức Giêsu khuyên rằng, về phía chúng ta, chúng ta là con người nên không thể tự co mình những gì là cốt yếu - "sự sống". Qua dấu lạ nuôi 5000 người và những lời kèm theo của Người, Đức Giêsu cũng đòi những kẻ theo Người phải quyết định thay đổi cuộc sống. Người yêu cầu họ: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?" Nói cách khác, liệu họ có nhìn thấy Người là Đấng họ đang mong đợi hay không? Liệu họ có theo Người dẫu cho những ruồng bỏ đang đợi Người phía trước?

Chắc họ cũng không có nhiều sự chắc chắn để đặt niềm hy vọng của mình; Người đang mất đi các môn đệ vỡ mộng về Người. Rồi Người bị bắt, tra tấn và bị giết chết. Các môn đệ chọn tin tưởng nơi Người và tiếp tục bước theo Đức Giêsu. Chẳng phải đó cũng là điều chúng ta đang làm đó sao? Dù chưa có đủ bằng chứng, nhưng chúng ta muốn một cuộc sống sâu hơn với Thiên Chúa và chúng ta tin, như Phêrô đã tuyên xưng: "Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa".

Lm Jude Siciliano OP


-----------------------------

 

TN 21-B73. LỘI NGƯỢC DÒNG


Ga 6, 54a, 60 – 69

"Đối với loài người thì không có thể,

nhưng đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể".

 

Chúa Giêsu đã đưa ra mô hình sau để chúng ta kiểm nghiệm:  Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ: TN 21-B73


Chúa Giêsu đã đưa ra mô hình sau để chúng ta kiểm nghiệm:

Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa.

Chúa Giêsu không lên án những người giàu, bởi vì giàu có hay nghèo khó đều là của cải Chúa ban trên mặt đất này. Bản thân của cải chưa nói lên điều gì, sở hữu của cải cũng chưa phải là tội hay là phúc. Điều quan trọng, người ta dùng của cải để giúp đỡ anh em hay là họ ham mê của cải đến mức độ tích trữ, thậm chí tìm mọi cách tham lam mưu mô để chiếm đoạt của cải của người khác. Tội hay phúc từ đó mới phát sinh.

Những người mà lòng tham vô đáy, tìm mọi mưu mô và chiếm đoạt của mọi người, để làm giàu cho mình dù là họ không đạt được ý nguyện, có khi trong tay cũng chẳng có tiền của nữa nhưng lòng tham vẫn là lòng tham, giàu có vẫn là giàu có. Những hạng như vậy: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn những người giàu có kiểu đó mà vào được Nước Trời.

Có những người của cải Chúa ban có thể họ được rất nhiều nhưng họ có cơ hội để giúp đỡ anh em, chị em, hoặc là những công việc từ thiện, những công việc truyền giáo, họ có rất nhiều tiền của mà họ vẫn là những người có tinh thần nghèo khó.

Như vậy Chúa Giêsu đề cao tinh thần nghèo khó và Chúa kết án lòng tham vô độ của con người khi chỉ muốn hưởng thụ và đam mê đời này. Một kiểm nghiệm trên để cho chúng ta thấy rằng tiền của hay thế giới vật chất chưa phải là điểm đến của chúng ta, lời mời gọi mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta cao hơn, xa hơn và vì thế khi Phêrô hỏi Chúa Giêsu: "Chúng con đã bỏ mọi sự mà đi theo Thầy, chúng con được gì". Đức Giêsu không ngần ngại cho chúng ta thấy một hoa trái thật là lớn lao: "Thầy nói thật với các con: không ai đã bỏ cha mẹ vợ con ruộng nương vì Thầy, vì Phúc âm mà không được gấp trăm ngay ở đời này và ngày sau được ngự trên tòa xét xử mười hai chi tộc Israel"(Mt 19,29); Khi Giacôbê và Gioan xin được ngồi bên tả bên hữu trong Nước Thầy, Chúa Giêsu từ chối. Thế nhưng hôm nay Chúa Giêsu lại hứa cho tất cả những ai từ bỏ mọi sự mà theo Chúa sẽ được ngồi trên tòa xét xử mười hai chi tộc Israel, tức là ở nơi vinh dự cao sang, nhưng đó là vinh dự cao sang của Nước Trời, mặc dầu thế, ngay ở đời này họ cũng được gấp trăm. Chúa không nói ai bỏ ra một nghìn đồng Chúa sẽ cho một trăm nghìn đồng, ai bỏ ra một triệu đồng Chúa sẽ cho trăm triệu đồng. Nhưng Chúa nói gấp trăm về nhiều phương diện: sự bình an, niềm vui, hạnh phúc... Họ là những người được chúc phúc ngay ở đời này, họ cảm thấy về ý nghĩa đời sống, về sự may lành, về những gì mà Thiên Chúa gìn giữ yêu thương quan phòng dẫn dắt họ, nghĩa là họ đi trong ánh sáng, trong niềm vui, những điều đó gấp trăm gấp nghìn lần những gì mà của cải hứa hẹn hưởng thụ trong mệt mỏi, trong rã rời, trong âu lo thậm chí trong chán nản và thất vọng.

Hôm nay, với mô hình Chúa đưa ra để cho chúng ta lựa chọn và rõ ràng là có những người đã lựa chọn sai cho nên có những kẻ trước hết danh vọng, chức quyền, của cải ngất trời ở đời này thì lại lên sau hết. Còn có những người đã dám hy sinh từ bỏ đến cả mạng sống của mình, từ bỏ của cải, từ bỏ đam mê, từ bỏ hưởng thụ, họ là những người nghèo khó, thậm chí là những người hành khất, họ nên giống Chúa Giêsu lang thang nhưng họ sẽ là những người ở đời này là bé mọn là rốt hết sẽ lên trước nhất.

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đưa ra mô hình mà chúng con thấy khó thực hiện quá!
Tất cả đều là đảo ngược so với những suy nghĩ,
những bước đi tự nhiên của chúng con.
Nhưng chúng con đã thấy các thánh là những người thực hiện
theo những bước đi lội ngược dòng mà Chúa đề ra.
Các thánh đã đạt tới đỉnh điểm của hạnh phúc,
Các thánh đã đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của Nước Trời.
Xin cho chúng con ngày hôm nay dám từ bỏ,
dám lội ngược dòng để chúng con là những người rốt hết,
sẽ được nên những người trước nhất trong ngày sau hết.
Xin đừng để chúng con leo lên bậc trước nhất
để rồi ngày sau hết ngã xuống bậc rốt hết.
Chúa gọi chúng con đi ngược dòng
chính là trở về với cội nguồn ơn cứu độ.
Xin Chúa ban ơn để chúng con đạt tới ơn cứu độ đời đời. Amen.


LM Phêrô Hồng Phúc

-----------------------------

 

TN 21-B74. THEO CHÚA CŨNG LẮM HẠNG NGƯỜI


Ga 6, 54a, 60 – 69

 

Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, làm các phép lạ và dân chúng lũ lượt đi theo Ngài. The: TN 21-B74


Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, làm các phép lạ và dân chúng lũ lượt đi theo Ngài. Thế nhưng những kẻ đi theo Ngài là một đám đông ô hợp, đủ hạng người. Tin Mừng cho chúng ta thấy ít là có 4 hạng người đi theo Chúa.

- Hạng người theo Chúa vì tính hiếu kỳ:

Thấy Chúa Giêsu giảng dạy lôi cuốn, giáo lý mới mẻ hấp dẫn, nhất là được chứng kiến một loạt các phép lạ lớn lao phi thường, họ đi theo. Đây là hạng người theo Chúa chỉ vì tính hiếu kỳ của mình: "Dập dìu người đi, tớ cũng đi"; "Thấy hay thì vỗ tay vào". Chính vì thế khi nghe Chúa Giêsu nói những lời chói tai, khó hiểu, họ đã nghi ngờ không biết ông Giêsu này có thật là Đấng Tiên Tri phải đến hay không; hay ông ta chỉ là người hâm hẩm. Thậm chí có lần người nhà đã từng cho rằng Ngài bị mất trí, nên đi tìm đẩ bắt ngài về. Và một khi lòng hiếu kỳ bị thương tổn, họ đã bỏ Chúa mà không một chút luyến tiếc.

- Hạng người theo Chúa vì mục đích kinh tế:

Đây là những người có lối sống thực dụng. Mối quan tâm của họ chỉ là cơm áo gạo tiền và những nhu cầu đời tạm này, một hình thức "đạo gạo" của thập niên 60, 70 tại Việt Nam chúng ta. Đối với họ, Chúa Giêsu xuất hiện như một vị cứu tinh với vai trò giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ và nghèo đói của kiếp người, qua những phép lạ: hoá bánh ra nhiều, làm nên những mẻ cá lạ lùng, tay không chữa bệnh, phục sinh kẻ chết... Điều này lý giải tại sao họ đã ùn ùn đi theo Chúa Giêsu tựa đàn kiến phát hiện được con mồi. Đơn giản vì theo Chúa Giêsu, họ sẽ không lo vất vả làm lụng, không sợ hạn hán lụt lội, hay kinh tế khủng hoảng,... Theo Chúa Giêsu, họ sẽ có bảo hiểm y tế cả đời. Dịch cúm H1N1 cũng chẳng ngán, nan y Siđa cũng chẳng tè, v.v... Cứ trực chỉ lương y Giêsu là được chữa lành hết, chẳng phải tốn một đồng nào. Tắt một lời, Giêsu đem lại cho họ qúa nhiều lợi lộc về mặt kinh tế.

Thế nhưng, cũng chính vì "Chúa tể họ thờ là cái bụng", nên khi thấy Đức Giêsu suốt ngày chỉ nói đến một thứ lương thực thiêng liêng trừu tượng, đến một thứ của ăn linh hồn đâu đâu, họ đành phải ngậm ngùi giã từ Ngài. Giã từ Ngài để trở về với "án phạt của tổ tông xưa": đổ mồ hôi sôi nước mắt hầu có của nuôi thân. Lơ tơ mơ, vợ con ở nhà chết đói như chơi !

- Hạng người theo Chúa vì động cơ chính trị:

Danh vọng, quyền lực trần thế là điểm nhắm của những người này khi men theo dấu chân của Đức Giêsu. Bởi đó, khi thấy Đức Gêsu ban đầu xuất hiện như một Mêsia trần thế, làm nhiều điều hiển hách phi thường, họ tưởng Ngài sẽ làm một cuộc đại cách mạng lật đổ thế lực Rôma ngoại bang, đem lại hưng thịnh cho đất nước. Dù chưa dám nói ra, nhưng trong lòng họ vẫn nuôi hy vọng một ngày nào đó họ sẽ được đổi đời, sẽ thoát khỏi cái kiếp làm "phó thường dân" dài dài, nhờ vào cái ô dù to tướng của ông Giêsu này. Nói cách khác, đi theo Chúa Giêsu, chắc chắn sẽ kiếm được một chổ đứng, một địa vị nào đó để lên hương với đời và lên mặt với người.

Tuy nhiên, khi nghe Chúa Giêsu chỉ thao thao diễn giải về một thứ đạo lí phục vụ hi sinh, hiến thân quên mình..., họ cảm thấy thất vọng và đành rút lui trong trật tự.

- Hạng người theo Chúa vì xác tín rằng Chúa mới có Lời ban sự sống đời đời:

Tiêu biểu cho hạng người này là Nhóm Mười Hai. Dẫu rằng ban đầu, động cơ đi theo Chúa cũng còn rất trần tục: họ muốn kiếm "chút cháo" cho gia đình và "chút công danh sự nghiệp" cho bản thân... Nhưng khi được Chúa Giêsu thanh tẩy, gạn lọc, họ đã dần xác tín vào Ngài và đã đón nhận mạc khải của Ngài với trọn cả tâm hồn. Họ đã nhận ra Lời của Chúa Giêsu có khả năng mang lại sự sống đời đời và họ cũng tin nhận nguồn gốc thần linh của Chúa Giêsu, qua vị đại diện là Phêrô: "Bỏ Thầy con biết theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Chính Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa." Và từ niềm xác tín đó, các ông đã chân thành tín thác đi theo Chúa trọn đời dù có phải chịu nhiều thử thách gian truân trong cuộc đời. Tất nhiên vòng nguyệt quế mà Chúa Giêsu hứa ban cho người chiến thắng đã thuộc về họ. Sự sống đời đời chính là phần thưởng lớn lao mà họ đã giành được nhờ Đấng đã ban sức mạnh cho họ.

Phần tôi thì sao ? Tôi có được niềm xác tín như các tông đồ là "Bỏ Thầy con biết theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" hay không ?

Thực tế, nhiều người đã tự nguyện bỏ Chúa, bỏ ngày Chúa Nhật để đi theo tiếng gọi của tình ái, tiếng gọi của tiền tài, tiếng gọi của đủ thứ thú vui hưởng thụ... Hậu quả là một khi bỏ Chúa thì đời họ sẽ bơ vơ như cánh chim trong khung trời lộng gió. Một khi bỏ Chúa thì đời họ sẽ như chiếc thuyền dật dờ trên biển cả mêng mông. Một khi bỏ Chúa thì tương lai đời họ sẽ trở nên mịt mờ vô định. Và một khi bỏ Chúa thì đời họ sẽ như một cuộc hành trình cô đơn buồn bã.

Chớ gì trong mọi hoàn cảnh, chúng ta luôn chọn Chúa, chọn Chúa làm gia nghiệp đời mình. Để cuộc đời mình dẫu vẫn là một cuộc hành trình dài, vẫn là cánh chim trong khung trời lộng gió, vẫn như chiếc thuyền giữa biển cả mêng mông; nhưng trong cuộc hành trình đó, đã có Đức Giêsu Kitô đồng hành, cánh chim biết hướng bay, con thuyền có người lèo lái và cuộc đời chúng ta chắc chắn sẽ về tới bến bờ bình an hạnh phúc.


Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

-----------------------------

 

TN 21-B75. CHỌN LỰA: MỘT HÀNH VI KHÔNG DỄ


Ga 6, 54a, 60 – 69

 

Cả anh em nữa, anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không ? Chúa Giêsu không hỏi: anh em có tiếp: TN 21-B75


Cả anh em nữa, anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không ? Chúa Giêsu không hỏi: anh em có tiếp tục theo Thầy không mà lại hỏi thẳng thừng: anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không. Một câu hỏi không thuộc dạng mời gọi như trước đây mà là đặt vấn đề chọn lựa rõ ràng, dứt khoát.

Kitô hữu chúng ta theo đạo không phải là theo một học thuyết mang tính triết lý hay thần học nào đó, nhưng là theo một "con người", theo một "ai đó", một "Đấng nào đó". Đấng hay con người mà chúng ta lựa chọn đi theo, lựa chọn để gắn bó, đó là Đức Giêsu Kitô. Phụng Vụ Lời Chúa ngày Chúa nhật XX TN  B đặc biệt lưu ý chúng ta đến hành vi lựa chọn. Chọn lựa một công việc để làm kế sinh nhai quả không mấy dễ. Chọn lựa một bậc sống thật lắm phân vân đủ bề. Chọn lựa một con người để làm bạn đời trăm năm cũng lắm sự nhiêu khê. Và chọn lựa Đấng để trao gửi hạnh phúc hôm nay và vĩnh cửu chắc chắn sẽ khó khăn hơn nhiều. Vì thế, khi phải chọn lựa trong một vấn đề quan trọng, chúng ta cần có đủ cơ sở một cách nào đó.

Sau khi nhắc lại cho dân tình yêu của Thiên Chúa qua các kỳ công Người đã thực hiện để bảo vệ dân, Giosuê khẳng khái trước toàn dân rằng: "Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa" ( Gs 24,15 ). Và dân đã đáp lại rằng họ không hề có ý định bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác ! Họ sẽ thờ phụng Thiên Chúa, vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của họ dùng quyền năng thực hiện những dấu lạ lớn lao để đem họ cùng với cha ông họ ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ mà vào đất hứa. Như thế, cơ sở để dân Chúa xưa chọn thờ phụng Người đó là vì Người quyền năng đã đưa họ ra khỏi nhà nô lệ.

Trước câu hỏi của Chúa Giêsu, một kiểu đặt vấn đề đòi hỏi có sự chọn lựa dứt khoát thì Phêrô đã thay mặt nhóm Mười Hai trả lời: " Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời" ( Ga 6,68 ). Không kể trường hợp một phần tử trong nhóm không tin, thì câu trả lời của Phêrô nói lên sự chọn lựa của cả nhóm Tông Đồ. Và sự chọn lựa ấy đặt cơ sở trên điều này: vì Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Để nói lên được những lời này, chắc chắn cùng với các bạn, Phêrô đã từng chứng kiến uy quyền của Thầy khi khiến nước lã hóa thành rượu ngon ( x.Ga 2,1-12 ). Các vị đã từng nghe Thầy nói với viên sĩ quan cận vệ nhà vua rằng: "Ông cứ về đi, con ông sống" và đứa con trai của ông ta đang đang hấp hói đã đuợc cứu sống ( x. Ga 4,46-54 ). Và các ngài chưa thể quên lời tạ ơn mới đây của Thầy đã giúp cho năm ngàn người đàn ông chưa kể đàn bà và con trẻ no nê chỉ từ năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá ( x. Ga 6,1-15 ).

Không ai tự nguyện dấn thân theo một lý tưởng, thực hiện một trách vụ hay gắn bó với một con người mà không ấp ủ một hoài bão, một ước mơ hay niềm hy vọng nào đó. Xưa, dân Do Thái chọn tôn thờ Thiên Chúa là để một mặt khỏi bị Người giáng họa, trừng phạt, mà trái lại sẽ được Người chúc phúc và che chở trước các "kẻ thù" lân bang ( Gs 24,19-20 ).

Cái hoài bão, uớc mơ, đúng hơn là cái mục đích việc Phêrô thay mặt anh em chọn gắn bó với Thầy đó là vì "Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời". Sự sống đời đời là một ước mơ của con người, mọi thời và mọi nơi. Dù đủ đầy của cải vật chất, dù nắm trong tay quyền sinh sát của bậc đế vương thì con người vẫn cảm nhận cái hữu hạn của cuộc sống đời này. Danh vọng quyền lực, của cải hay tiền tài không thể giúp ta kéo dài cuộc sống đến vô tận. Một thanh niên có nhiều sản nghiệp đã đến tham vấn Chúa Giêsu: Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời ? Sau khi biểu anh ta giữ các giới răn, Chúa Giêsu đã mời gọi anh ta hãy bán của cải, phân phát cho người nghèo rồi đến mà theo Người ( x. Mt 19,16-22; Mc 10,17-22; Lc 18,28-30 ).

Chọn lựa là hy sinh. Một câu nói cho thấy một lẽ tất yếu của việc chọn lựa, Chọn ra đi thì phải hy sinh chuyện không ở lại, chọn việc cất tiếng nói thì đương nhiên phải mất thái độ giữ im lặng, đã chọn tôn thờ Thiên Chúa thì phải bỏ các thần của dân ngoại ( x. Gs 24,23 )... Tuy nhiên sự hy sinh trong việc chọn lựa không chỉ dừng lại ở các nội dung xem như đối lập của sự chọn lựa mà còn có đó sự hy sinh ngay trong chính hành vi chọn lựa. Sự hy sinh ở đây được hiểu như một sự đánh cược, một sự dân thân, một sự "liều lĩnh" nào đó. Vì chưng, chúng ta vốn khó có được các cở sở một cách chắc chắn kiểu trăm phần trăm khi chọn lựa một điều gì đó. Chúng ta dễ nhận ra ngay hiện thực này qua việc các bạn thanh niên nam nữ chọn bạn đời hay chọn ơn gọi tu trì. Như thế, sự hy sinh ở đây có thể hiếu như sự can đảm dấn thân, chấp nhận nhiều "cái giá" phải trả khi chọn lựa.

Cái giá mà chúng ta phải trả khi chọn lựa đi theo Chúa Giêsu, gắn bó với Người đó chính là "vác thập giá". "Ai không các thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được" ( Lc 14,27 ). Cái giá mà Phêrô sẽ phải trả được Đấng Phúc sinh báo trước: "Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đế nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi Người bảo ông: "Hãy theo Thầy" ( Ga 21,18-19 ).

"Thiên Chúa dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà cần có tôi" ( thánh Âugustinô ). Tự do là một quà tặng cao quý Chúa ban cho loài người, loài cao trọng nhất trong các loài hữu hình Người dựng nên. Tự do là một ân ban cao quý và cũng là một thử thách ắt có của tình yêu. Được sống đời đời hay phải chết đời đời có nghĩa là được hạnh phúc bất diệt hay bị trầm luân mãi mãi, các khả thể này đang tùy ở sự lựa chọn của chúng ta. Ai lại không muốn được sự sống đời đời, được hạnh phúc bất diệt, nhưng vấn nạn khó vượt qua đó là chúng ta thường e ngại phải trả giá.


Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

-----------------------------

 

TN 21-B76. SỐNG LÀ CHỌN LỰA


Ga.6, 60 – 69

 

Tư tưởng xuyên suốt phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 21 năm B hôm nay đặt con người trước sự: TN 21-B76


Tư tưởng xuyên suốt phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 21 năm B hôm nay đặt con người trước sự chọn lựa căn bản. Thật vậy ngay bài đọc I. Giôsuê mời gọi dân phải lựa chọn Chúa hay tà thần, không được bắt cá hai tay(Gs.24,1-2;15-18). Trong bài đọc II thư gửi tín hữu Ephêsô thánh Phaolô khuyên các đôi vợ chồng một khi đã chọn nhau làm bạn đời thì phải trung thành suốt đời với sự lựa chọn đó, phải thủy chung và yêu thương nhau (Eph.5,21-32). Bài Tin Mừng Chúa Giêsu đòi hỏi các mộn đệ một sự chọn lựa quyết liệt hơn " Các con có muốn bỏ Thầy không ?"(Ga.6,60-69).

Sống là chọn lựa, đó là một qui luật, chọn lựa sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình, chọn đúng thì đời mình sẽ tốt, chọn sai thì sẽ gặp bất hạnh. Sống là như thế, và Chúa mời gọi chúng ta phải lựa chọn luôn luôn trong cuộc sống, lựa chọn từng ngày, từng giờ, từng phút.... Bài Tin Mừng tường thuật việc Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân thì họ hồ hởi đi theo để được ăn bánh mà Chúa nói là được sống đời đời, và họ còn muốn phong Người lên làm vua. Thế nhưng khi Người tuyên bố bánh đó là Mình Máu Người thì họ cho là chói tai rồi bỏ đi, trong số đó cũng có một vài môn đệ nên Chúa Giêsu đã phải đặt vấn đề với các ông " Các con có muốn bỏ Thầy không ?"(c.67).

Đã một thời gian theo Chúa và trở thành môn đệ Người, thế mà giờ đây các ông rơi vào cuộc khủng hoảng đức tin " lời này sao mà chói tai thế!", và Chúa chờ đợi câu trả lời của các ông " các con có muốn bỏ Thầy không ?". Các ông chọn Chúa và đi theo Người, nhưng không phải là sự chọn lựa một lần là xong, trái lại phải lựa chọn từng ngày. Bước theo Chúa là bước vào một cuộc mạo hiểm tình yêu, cho nên Chúa Giêsu muốn các môn đệ tự do nói lên sự chọn lựa của mình, Phêrô thay mặt nhóm đã mạnh dạn tuyên xưng " ...Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời, phần chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa"(c.68-69). Các ông đã tự do nói lên tình yêu của mình, sẵn sàng đi vào cuộc phiêu lưu của tình yêu, của lòng tin đầy mạo hiểm và bất trắc, nhưng tin tưởng có Thầy ở bên.

Chúng ta cũng trở thành những Kitô hữu nhờ lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, nhưng đó chưa phải là một bảo đảm chắc chắn là chúng ta sẽ mãi mãi giữ được tấm áo trắng ấy, có thể sẽ lấm lem bẩn thỉu vì sự chọn lựa sai lầm trước sự mời mọc của đồng tiền để rồi gian lận mà không sống công bình, hoặc hung dữ trước một lời sỉ nhục hay hành động lỗ mãng của tha nhân mà không hiền lành nhịn nhục... Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta chọn lựa trước hoàn cảnh riêng tư của mỗi người trên cuộc lữ hành trần thế, chọn Chúa hay chọn tham, sân si?

Hãy liều lĩnh mạnh dạn, đi vào cuộc phiêu lưu tình yêu như các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay, dù có gặp rủi ro, thua thiệt nhưng nên nhớ rằng đó là một cuộc thách đố vô cùng hào hứng và bất ngờ, vì dù có là cánh chim trên khung trời bao la, hay con thuyền trong biển cả bao la thì hãy tin rằng Chúa vẫn luôn đồng hành để hứơng dẫn cánh chim và lèo lái con thuyền đến bến bình an, Người vẫn giang tay đỡ nâng khi chúng ta vấp ngã, chờ đón ôm chúng ta vào lòng khi chúng ta đến bên yêu thương.

Lạy Chúa, đã hơn một lần chúng con tuyên hứa tin vào Người, " Bỏ Ngài con biết theo ai" đó là ngày chúng con được ẵm vào Thánh Đường. Xin giúp chúng con biết chấp nhận những nghịch lý của đời Kitô hữu bằng đời sống luôn gắn bó với Chúa, tin tưởng và phó thác tuyệt đối nơi Người, để chúng con có thể kiên vững hăng say bước theo Chúa.


Sr Mai An Linh OP

-----------------------------

 

TN 21-B77. KIÊN QUYẾT THEO CHÚA


Ga. 6,54a.60-69

 

Cả bốn bài Tin Mừng của bốn Chúa nhật trước đây và cả bài Tin Mừng hôm nay, đã kể lại bài: TN 21-B77


Cả bốn bài Tin Mừng của bốn Chúa nhật trước đây và cả bài Tin Mừng hôm nay, đã kể lại bài giảng của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống đời đời; đồng thời cũng lần lượt cho biết thái độ và phản ứng của các thính giả. Riêng bài Tin Mừng hôm nay cho biết phản ứng của các môn đệ nói chung và của Nhóm Mười Hai nói riêng. Mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giài thích thêm.

Suốt cuộc nói chuyện, hay đúng hơn, suốt bài giảng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa không ngừng mời gọi người ta đến với Ngài, tin vào Ngài, đón nhận Ngài làm của ăn thức uống. Nhưng không những dân chúng mà nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do thái khác: "Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi". Họ lẩm bẩm với nhau như thế. Nhưng Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích thêm cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài. Ngài nói Ngài lên nơi Ngài đã ở trước, nghĩa là lên cùng Chúa Cha, vào trong vinh quang của Chúa Cha, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Chúa Con từ muôn thuở.

Khi nghe Chúa nói như vậy, nhiều môn đệ rút lui, không đi với Chúa nữa. Như vậy, không những dân chúng chán ngán mà cả đến các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm mười hai tông đồ, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Phản ứng của họ thế nào ? Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: họ không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Như vậy, thánh Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên một lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, tin vào sứ mạng của Ngài: Ngài có những lời đem lại sự sống đời đời. Do đó, những lời tuyên bố, quả quyết và khẳng định trong bài giảng về bánh hằng sống này thực sự là theo nghĩa đen thông thường nói về phép Thánh Thể.

Nhìn về chúng ta, đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta đều phải đích thân chọn lựa đứng lại với Chúa hay không ? Đứng lại với Chúa không phải chỉ vì thấy người khác còn đứng lại hay vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng đứng lại với Chúa vì tin rằng Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không còn ai khác để mình đi theo.

Chúng ta là Kitô hữu, tức là chúng ta là người chấp nhận đi theo Chúa Giêsu, là Đấng không những ban cho chúng ta sự sống đời này mà còn ban cho chúng ta sự sống đời đời nữa. Sống ở đời, ai cũng có niềm tin, và bởi thế, có nhiều thứ niềm tin khác nhau, chẳng hạn các vận đông viên thể thao tin ở sức mạnh của bắp thịt và sự dẻo dai của họ. Các chính trị gia đặt tất cả niềm tin nơi đảng phái của họ. Những người hoạt động theo một ý thức hệ cũng tin tưởng ở sự toàn thắng của lý tưởng mà họ đang theo đuổi...

Ngay trong cuộc sống thường ngày, chúng ta cũng bị bắt buộc phải có niềm tin, chẳng hạn: đau bệnh, chúng ta tìm đến thầy thuốc, chúng ta đặt niềm tin nơi khả năng và thiện chí của thầy thuốc. Đi mua hàng, chúng ta cũng phải tin tưởng nơi người bán hàng. Giao tiếp với nhau, chúng ta cũng phải tin tưởng nhau...Đối với chúng ta, những người Kitô hữu, chúng ta không những có niềm tin vào cuộc sống mà chúng ta còn có đức tin nữa. Làm sao có được đức tin ? Triết gia Pát-can nói: "Nếu bạn muốn có đức tin, bạn hãy quỳ gối xuống và cầu nguyện".

Mẹ Tê-rê-xa cũng nói như thế. Người ta kể rằng: một lần kia, Mẹ Tê-rê-xa nói với một phóng viên báo chí: "Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin". Người ấy hỏi: "Tôi phải làm gì để có đức tin ?". Mẹ Tê-rê-xa đáp: "Ông hãy cầu nguyện". Người ấy nói: "Tôi không biết và không thể cầu nguyện". Mẹ Tê-rê-xa nói: "Tôi sẽ cầu nguyện cho ông, phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh. Một nụ cười có thể đánh động người khác. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống".

Chúng ta lãnh nhận được đức tin khi chịu phép rửa tội. Như vậy, tất cả chúng ta đều đã có đức tin. Nhưng cũng như mọi thứ tài năng khác nơi con người, đức tin cần phải được triển nở, cần phải được nuôi dưỡng. Một tài năng không được nuôi dưỡng sẽ mai một với thời gain. Một đức tin không được vun trồng cũng sẽ chết dần chết mòn. Chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm những việc đạo đức là chúng ta nuôi dưỡng đức tin của mình. Ngoài ra, cả cách sống quảng đại, vị tha và yêu thương cũng là cách để nuôi dưỡng đức tin như lời Mẹ Tê-rê-xa khuyên trên đây: mỉm cười với mọi người. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống. Một nụ cười còn có giá trị như thế phương chi những lời nói, những việc làm còn giá trị hơn biết bao.


Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng,OP

-----------------------------

 

TN 21-B78. Chúa Giê-su đặt hy vọng nơi chúng ta


CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Gio-an 6:54a,60-69)

 

Tháng ba vừa rồi tôi có dịp trở lại Thánh Địa.  Cũng như hai lần trước, bên bờ hồ Ga-li-lê, tôi: TN 21-B78


Tháng ba vừa rồi tôi có dịp trở lại Thánh Địa.  Cũng như hai lần trước, bên bờ hồ Ga-li-lê, tôi nhớ đến những gì đã xảy ra gần hai ngàn năm trước đây khi Chúa Giê-su thi hành sứ vụ.  Nhưng đặc biệt tại Ca-phác-na-um, điều cảm động nhất đối với tôi là khung cảnh và câu chuyện được ghi lại trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay:  Các Tông đồ cũng định bỏ Chúa mà đi vì Người đã tuyên bố:  “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống đời đời”.  Chúa Giê-su hỏi các ông:  “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”  Quả là một câu hỏi buồn, nhưng cũng chứa đựng biết bao hy vọng của Chúa Giê-su!

          Như chúng ta đã thấy lần trước, phản ứng lại lời tuyên bố “chướng tai” của Chúa Giê-su, những người bỏ đi đầu tiên là dân chúng, rồi đến lượt “nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”.  Bây giờ chỉ có Nhóm Mười Hai là còn ở lại với Người.  Khả năng họ sẽ bỏ Chúa mà đi cũng không phải là ít.  Đứng trước tình trạng bấp bênh này, Chúa Giê-su vẫn không mất đi niềm hy vọng Người đặt nơi các ông.  Chúng ta cứ đọc đi đọc lại nhiều lần câu hỏi Người hỏi Nhóm Mười Hai, “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”  Rồi tưởng tượng ra những nét biểu lộ trên gương mặt của Chúa, là chúng ta đọc được niềm hy vọng của Người hiện lên trong ánh mắt, trong giọng nói và nhất là trong cử chỉ chờ đợi câu trả lời của các Tông đồ.

          Nhưng tại sao Chúa Giê-su vẫn nắm chắc được niềm hy vọng vào các Tông đồ?  Bởi vì Người rất mực yêu thương các ông.  Hễ người ta thực tình yêu thương thì người ta luôn đặt hy vọng nơi người mình yêu thương.  Chúng ta có thể nghĩ đến niềm hy vọng của người cha trong dụ ngôn “Đứa con hoang đàng” luôn chờ đứa con trở về.  Không những kể dụ ngôn ấy, mà Chúa Giê-su còn sống dụ ngôn ấy nữa.  Vì yêu thương nên Người hy vọng các ông sẽ đáp lại tình yêu chân thành của Người mà không nỡ bỏ Người trong lúc này.  Mặc dù có thể Chúa Giê-su đang ở trong trạng thái chán nản và bắt đầu cảm thấy cô đơn, nhưng nhìn Nhóm Mười Hai, Người tin vào tình yêu của các ông dành cho Người.  Do đó, Người hỏi các ông không phải bằng giọng điệu buồn rầu hay hờn dỗi, nhưng bình tĩnh và tràn đầy hy vọng, với cái nhìn thẳng thắn và như đã biết trước câu trả lời.  Nếu câu hỏi của Chúa Giê-su đầy tràn ý nghĩa và diễn tả lòng tin tưởng cùng hy vọng Người đặt nơi các Tông đồ thế nào, thì đổi lại, chúng ta nhận thấy câu trả lời của ông Phê-rô thay mặt anh em cũng súc tích và diễn tả một tình yêu và đức tin lớn lao như vậy.  “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?  Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.  Ông Phê-rô sẽ có dịp tuyên xưng đức tin vào Chúa.  Nhưng ở đây, ông cũng tuyên xưng tình yêu của ông đối với Chúa, giống như ông sẽ lập lại lời tuyên xưng tình yêu sau khi Chúa sống lại (Gio-an 21:15-19).  Lời của tình yêu đích thực bao giờ cũng ngọt ngào, nhưng đầy niềm tin và hy vọng.  Những lời ấy vẫn còn vang lên khắp nơi và mọi thời, nhưng cảm nghiệm sẽ dễ dàng nhận biết hơn nếu chúng ta có dịp đứng ngay tại Ca-phác-na-um bên bờ hồ Ga-li-lê.

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Hôm nay không phải là khung cảnh diễn ra bên bờ hồ Ga-li-lê nữa, mà là ở ngay trong tâm hồn mỗi người chúng ta.  Cũng Chúa Giê-su ấy, cũng tình huống biết bao người trong Giáo Hội bỏ Chúa mà đi và có thể có chúng ta trong số đó, Chúa Giê-su nhìn vào mỗi người chúng ta bằng ánh mắt yêu thương và hy vọng, Người lập lại cùng một câu hỏi:  “Cả con nữa, con cũng muốn bỏ đi hay sao?”      Nếu chúng ta muốn trả lời giống như ông Phê-rô, thì chúng ta phải thực sự có lòng yêu mến Chúa.  Ông Phê-rô và các bạn ông đã yêu Chúa nên đi theo Người.  Không những các ông yêu con người của Chúa, mà còn yêu cả những lời Chúa nói hay dạy bảo nữa, những lời họ không thể tìm thấy ở đâu ngoài Chúa Giê-su ra.  Từ yêu mến, các ông tiến đến tin vào Người “là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, đức tin của cá nhân các ông chứ không vay mượn.

          Chắc chắn Chúa Giê-su thích nghe chúng ta trả lời câu hỏi của Người mỗi ngày, nhất là trong khi chúng ta cầu nguyện! 
Lm. Đaminh Trần đình Nhi 

-----------------------------

 

TN 21-B79. CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN B


Ga 6, 54a.60-69

Câu chuyện: Một vụ thảm sát tại nhà trường

 

Cách đây ít lâu, một vụ thảm sát ở tiểu ban Côlôrađô Hoa kỳ không những làm người Mỹ, mà: TN 21-B79


Cách đây ít lâu, một vụ thảm sát ở tiểu ban Côlôrađô Hoa kỳ không những làm người Mỹ, mà còn làm cho cả thế giới phải sửng sốt bàng hoàng. Bàng hoàng vì đây không phải là vụ thảm sát đầu tiên xảy ra như thế tại một trường học ở Mỹ, mà trong mấy năm qua, các vụ bạo động tại trường học đã từng xảy ra nhiều lần. Riêng trong vụ này, hai cậu học sinh trung học đã có thể tính toán trước các chi tiết về diễn tiến của vụ thảm sát này. Một điều tồi tệ hơn nữa là thái độ của hai tên sát nhân: Trước khi bị bắt, hai tên này đã dùng súng tiểu liên điên cuồng bóp cò, nhắm vào các thầy cô giáo trong lớp và các bạn học sinh cùng trường. Bọn chúng đã tỏ ra lạnh lùng, dửng dưng trước thảm trạng chết chóc do chúng gây ra.

Suy niệm:

+ Trong bức thư chung Mùa Chay năm 1994, Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã lên tiếng báo động về một nền văn hoá bạo động kích dục, được khuyến khích bằng các phương tiện truyền thông như các phim ảnh đồi trụy kích động bạo lực, được trình chiếu trên các kênh truyền hình, các băng đĩa và sách báo khiêu dâm bày bán công khai tại các nơi công cộng mà giới thanh thiếu niên dễ dàng mua ở bất cứ nơi nào trên đất Mỹ. Quả thật, nhân loại ngày nay đang đứng trước nguy cơ diệt vong, khi họ chọn lựa phương pháp một cuộc chiến tranh bạo động vì thiếu lòng khoan dung tha thứ. Thay vì phải ngồi vào bàn hội nghị để thương thảo bình tĩnh ôn hoà, thì người ta lại thích sử dụng bạo lực để giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp về tài sản, đất đai ... do sự khác biệt nhau về trình độ văn hoá, về sắc tộc, màu da, giai cấp hay tôn giáo ...

+ Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta về sự khủng hoảng đức tin, không những nơi các môn đệ Chúa thời xưa, mà ngay cả nơi các tín hữu chúng ta hôm nay. Nhiều môn đệ Chúa đã bị giao động đức tin, trở nên nghi ngờ Đức Giêsu khi nghe Người giảng về bản thể Thần Linh của Người: "Đấng từ Trời mà xuống" (x Ga 6,38), và sẽ lên nơi đã ở trước kia (x Ga 6,62), sau khi đã chịu chết đền tội thay cho nhân loại (x Ga 6,51), và sẽ ban Bánh Trường Sinh là máu Thịt Người để nuôi dưỡng đức tin của chúng ta (x Ga 6,53). Một số khá đông các môn đệ Chúa đã xì xầm phản đối: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" và đã rút lui không đi theo Người nữa. Họ là những người trước đó đã đi theo Thầy một thời gian, trở thành Môn Đệ của Người. Nhưng khi gặp khủng hoảng, họ đã ngã lòng và bỏ cuộc nửa chừng. Sự khủng hoảng đức tin thể hiện qua thái độ thiếu dứt khoát, chọn làm điều xấu hơn là điều tốt, lười biếng trong công tác phục vụ công ích, làm ngơ trước những người nghèo khổ bất hạnh, những người thấp cổ bé miệng và cô thế cô thân ...

+ Nguyên việc chịu phép Rửa tội để trở nên tín hữu hay môn đệ Đức Giêsu cũng không đảm bảo là ta sẽ trung thành với Chúa mãi mãi. Muốn trung thành với niềm tin của mình thì trước hết phải tìm kiếm Đức Kitô, và để Người dẫn ta đi sâu vào mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh của Người. Đã có nhiều môn đệ Đức Kitô bị khủng hoảng đức tin khi họ không tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, không tin nhận lời dạy của Người liên quan đến mầu nhiệm Thánh Thể, và cuối cùng đã không theo làm môn đệ của Người. Ngay trong Nhóm Mười Hai Tông Đồ chấp nhận ở lại, vẫn còn một Giuđa phản bội: Vì không tin Thầy là Đấng Thiên Sai theo quan niệm trần gian và nhất là cảm thấy nguy cơ Thầy sắp thất bại hoàn toàn: sắp sửa bị bắt và chịu khổ nạn như đã tiên báo, nên anh ta đã chọn thái độ khôn ngoan theo thế gian, là bí mật liên lạc với các đầu mục Do Thái để bán nộp Thầy ! Làm như vậy, Giuđa vừa có lợi là có ba mươi quan tiền, lại vừa tránh khỏi bị bắt chung với Thầy!

Đặt vấn đề: Còn chúng ta, hôm nay chúng ta phải làm gì để đức tin của chúng ta được củng cố vững chắc và ngày một lớn lên ? Nhờ đức tin, chúng ta có quyết tâm trung thành với Đức Giêsu và bước theo chân Người, cùng chịu đau khổ và chịu chết với Người, hy vọng sẽ được phục sinh với Người đời sau hay không ?

Đáp: Muốn cho đức tin vào Đức Giêsu được củng cố và lớn lên, mỗi người chúng ta phải thực hành mấy điều sau: Một là phải cầu xin Chúa ban ơn có đức tin vững mạnh, noi gương các Tông Đồ xưa đã cầu nguyện: "Xin Thầy hãy củng cố đức tin yếu kém của chúng con"; Hai là lắng nghe Lời Chúa, suy nghĩ tìm hiểu ý Chúa và quyết tâm thực thi ý Chúa; ba là sẵn sàng từ bỏ ý riêng, vác thập giá mình là chu toàn bổn phận hằng ngày mà theo chân Chúa; Bốn là luôn chọn đi theo đường hẹp, leo dốc là chặng đàng Thánh Giá, chấp nhận hy sinh và âm thầm phục vụ tha nhân, quảng đại chia sẻ tình thương, cụ thể là giúp đỡ tinh thần vật chất cho những người đói khát cơm ăn áo mặc, bị tật bệnh và cô thế cô thân ...

Câu chuyện: Dân Ítraen chọn tin theo Đức Chúa:

Bài đọc một trong sách Gio-su-ê là một bản tường thuật với nhiều ý nghĩa quan trọng. Vào khoảng năm 1200 trước Công Nguyên, Dân Do Thái đã được Môsê đưa dẫn qua sa mạc và đã đến bờ sông Giôđan, giáp ranh giới xứ Ca-na-an là Miền Đất Thiên Chúa đã hứa ban cho Ap-ram và dòng dõi ông đến muôn đời. Sau đó, Môsê trao quyền cho Gio-suê lãnh đạo dân tiếp tục đánh chiếm xứ chiếm xứ Ca-na-an. Được Đức Chúa ban ơn hổ trợ, dân Ítraen đã chiếm được miền đất này. Cuối cùng, Gio-su-ê đã triệu tập các chi tộc Ítraen và các đầu mục trong một Đại Hội tại Si-khem. Ong cho dân được tự do chọn lựa: Hoặc là tôn thờ yêu mến Một Đức Chúa duy nhất; Hoặc tin theo các tà thần của chư dân. Dân được tự do chấp nhận hay từ chối Lề Luật; Được chọn trung thành hay chống lại Giao Ước mà họ đã ký với Đức Chúa tại núi Khô-rép vùng Si-nai... Bấy giờ toàn dân thưa lại rằng: "Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc mà chúng tôi đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mo-ri" (x. Gs 24,16-18).

Suy niệm:

+ Như dân Ítraen xưa, hôm nay các tín hữu chúng ta cũng có tự do lựa chọn khi chịu phép Thánh Tẩy. Bấy giờ, vị Chủ Lễ hỏi các dự tòng rằng: "Anh chị em có từ bỏ ma quỉ không ? Có tin vào Thiên Chúa toàn năng không ? ...Với lời tuyên bố từ bỏ ma quỉ, tuyên xưng đức tin vào mọi chân lý mà Giáo Hội dạy trong kinh tin kính, các dự tòng sẽ được đổ nước trên đầu hoặc được bước vào giếng dìm mình trong nước Rửa Tội, như xưa dân Do Thái đã vượt qua nước sông Giôđan để vào Đất Hứa là xứ Ca-na-an.

+ Trong đời sống thường ngày, cũng như dân Ítraen xưa, các tín hữu chúng ta cần năng nhắc lại lễ Giao Ước với Thiên Chúa và cần xác tín khi thưa với Chúa rằng: "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Đức Chúa, mà tôn thờ các tà thần của dân ngoại". Sự lựa chọn này đòi hỏi dân Ítraen phải hồi tâm sám hối không ngừng.

+ Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đòi Nhóm Mười Hai Tông Đồ phải dứt khoát lập trường đối với mầu nhiệm Thánh Thể: "Thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống !". Phêrô đã đại diện anh em tuyên xưng đức tin vào Người như sau: "Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Phêrô xác tín như vậy không phải vì ông đã hiểu được lời giảng của Thầy, nhưng vì ông đã tin vào con người của Thầy. Ong tin Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng đã cho dân ăn no nê, Đấng đã từng đi trên mặt biển. Chính nhờ có lòng tin này mà Phêrô và các bạn trong Nhóm Mười Hai đã chấp nhận cả những Lời chướng tai, vì tin rằng Lời ấy sẽ đem lại hiệu quả là sự sống đời đời.

Quyết tâm: Nhiều người trong chúng ta hôm nay cũng rơi vào tình trạng buồn sầu cô đơn, nhưng lại không biết chạy đến với ai để được giúp đỡ cụ thể. Qua bài Tin Mừng hôm nay, thánh Phêrô đã làm gương và chỉ dạy chúng ta là: hãy dứt khoát lựa chọn làm môn đệ Đức Giêsu, để được người nâng đỡ, ủi an và bổ sức cho. Vì "Chỉ mình Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68). Nhất là các bạn trẻ, các bạn hãy đến gặp gỡ Đức Giêsu và ở lại bên Người. Chắc chắn Người sẽ không để chúng ta phải thất vọng hổ ngươi bao giờ. Hãy đặt trọn niềm tin vào Chúa. Hãy dâng cho Chúa tất cả những khó khăn của cuộc sống, và xin Người soi sáng mở lòng cho biết ta phải làm gì trong từng hoàn cảnh cụ thể ? Mỗi lần không biết mình phải làm gì, bạn hãy mở Kinh Thánh và chắc sẽ tìm thấy lời Chúa dạy dỗ ta phải làm gì ?

III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU

1) Lạy Chúa Giêsu . Khi Chúa làm phép lạ nhân bánh ra nhiều nuôi sống phần xác thì dân chúng lũ lượt rủ nhau đi theo Chúa. Nhưng Chúa đến trần gian đâu phải chỉ để giải quyết vấn đề cơm bánh thể xác, mà để "ban ơn cứu rỗi chúng con", giúp chúng con khỏi những bất hạnh và đau khổ do ma quỷ và tội lỗi gây ra. Chúa có ban bánh và cá nuôi sống thể xác thì cũng chỉ là để có dịp mời gọi chúng con đến lãnh nhận Bánh Trường Sinh là Thánh Thể nuôi dưỡng linh hồn chúng con.

Lạy Chúa Giêsu , dân Do Thái xưa theo Chúa khi được ban bánh nuôi xác, và đã bỏ Chúa khi Chúa hứa ban cho họ Bánh Hằng Sống nuôi sống linh hồn. Lạy Chúa, loài người chúng con là như thế đó: tìm kiếm thoả mãn cái đói thể xác bao nhiêu, thì lại dửng dưng coi thường sự thiếu thốn tinh thần bấy nhiêu. Hôm nay xin Chúa giúp con sẵn sàng từ bỏ những đam mê tội lỗi, những quyến luyến đối với của cải vật chất ở đời này, để nhìn lên Chúa, nhận ra những giá trị của những của cải thiêng liêng đời sau, để con luôn chọn theo Chúa, sống lời dạy của Chúa, dù lời đó khó nghe, không đáp ứng những ước mong đời thường trong con, để con thực sự trở thành môn đệ của Chúa.

X. Hiệp cùng Mẹ Maria.

Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con

2) Lạy Mẹ Maria , trong việc thực thi đức tin, con thấy mình còn rất nhiều sai sót trên con đường theo làm môn đệ của Chúa: Khi cầu nguyện, con hay xin Mẹ và các thánh cầu bầu cùng Chúa ban cho chúng con giải quyết những khó khăn trong chuyện làm ăn sinh sống như: Xin được buôn may bán đắt, xin có công ăn việc làm, xin thi đậu, xin được khỏi bệnh ... Chẳng mấy khi con cầu xin những ơn phần hồn như xin chừa các thói hư tật xấu, xin cho các tội nhân được sớm ăn năn trở về cùng Chúa, xin cho gia đình được hoà thuận thương yêu nhau, xin cho Nước Cha mau trị đến trên quê hương con ...

Lạy Mẹ Maria , nhiều lần khi cầu xin mà chưa được Chúa nhậm lời, con thường nản lòng thất vọng, bỏ đi dự lễ, chẳng còn tin vào Chúa nữa. Bấy giờ con dễ dàng làm theo lời mách bảo của người khác, để đến với thầy bói, thầy bùa ngải, đồng cốt và làm những điều mê tín khác ... Lạy Mẹ, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã ngán ngẩm trước thái độ theo Chúa chỉ vì vụ lợi của đám đông dân chúng và các môn đệ: Theo Chúa khi được ăn bánh no nê và thất vọng bỏ Chúa ra đi khi không được toại ý. Có lẽ hôm nay Chúa cũng đang ngán ngẩm khi thấy con chỉ bận tâm tìm kiếm của ăn phần xác, còn phần hồn là điều Chúa quan tâm thì con lại dửng dưng hững hờ. Vậy xin Mẹ giúp con biết: Ưu tiên tìm kiến Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn mọi sự khác như ăn gì mặc gì thì tin tưởng Chúa sẽ thêm cho.

X. Hiệp cùng Mẹ Maria .


Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 Lm. Đan Vinh

-----------------------------

 

TN 21-B80. Lời Của Sự Sống Muôn Đời


Chúa Nhật XXI Thường Niên B

 

Gio 6:60-69: 60 Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà: TN 21-B80


Gio 6:60-69: 60 Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" 61Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: "Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? 62 Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? 63 Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. 64 Nhưng trong anh em có những kẻ không tin." Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. 65 Người nói tiếp: "Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho." 66 Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa. 67 Vậy Đức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? " 68 Ông Simôn Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời. 69 Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa."

Đoạn 6:60-71 là phần cuối của chương 6, kết thúc bằng việc mô tả thái độ của các môn đệ và nhóm Mười Hai trước giáo huấn về Bánh bởi trời. Đoạn nầy được chia thành hai phần dựa trên sự xuất hiện của cụm từ “nhiều môn đệ” (cc. 60.66): 1- Đối thoại của Chúa Giêsu với các môn đệ (6:60-65); 2- Đối thoại với nhóm Mười Hai (6:66-71). Hai đoạn được trình bày gồm những chi tiết hầu như song song và tương phản với nhau: - một số các môn đệ - nhóm Mười Hai (cc. 60.66 và 67); - Lời khó nghe - Lời của sự sống muôn đời (cc. 61 và 68); - Một số môn đệ không tin và bỏ đi - nhóm Mười Hai tin và tiếp tục theo Người (cc. 64.66 và 68.69).

Qua cách dùng từ ngữ và cấu trúc, Gioan muốn cho thấy có một số môn đệ như người Do thái cũng tỏ thái độ phản đối trước lời của Chúa Giêsu về Bánh (6:41.43.61). “Lời của Người” (c. 60) là toàn bộ giáo huấn liên quan đến Bánh (6:31-59). Lời ấy “khó nghe” vì tự bản tính lời ấy rất khó hiểu nếu không được Thiên Chúa dạy dỗ (x. 6:45), nên khó được chấp nhận, khó tin và gây nên sự phản đối về phía người nghe (c. 61; x. 6:52; 8:43).

Để giải thích cho họ, hình ảnh “Người Con của Nhân Loại” được dùng để chỉ nguồn gốc “bởi trời” của Chúa Giêsu (x. 1:51; 3:13; 6:53.62); như thế, lời của Người cũng là lời của Thiên Chúa. Ở đây, “thần khí” và “xác thịt” được phân biệt nhau qua những đặc tính tương phản là “làm cho sống” và “vô dụng”  (c. 63; x. 3:6). Lời của Chúa Giêsu là thần khí, nghĩa là lời bởi trời như thần khí đến bởi trời (1:32); đó là lời đến từ Chúa Cha (x. 14:10). Lời ấy cũng là sự sống, vì chính Chúa Giêsu là sự sống (1:4; 11:25; 14:6). Như thế, lời của Người như là lời của Thiên Chúa, có khả năng làm cho sống những ai tin vào Người. Lời ấy làm cho họ sống bởi sự sống của Thiên Chúa khi đưa họ vào tham dự Nước Thiên Chúa (3:5).

 Nhiều lần trong chương 6, đức tin được đòi hỏi như là điều kiện không thể thiếu để có sự sống: Tin vào “Người được gởi đến” (6:29), vào “Tôi” (6:35), vào “Người Con” (6:40), vào “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (6:69). Ở đây là tin vào lời giáo huấn của Người về Bánh bởi trời. Tóm lại, ai tin vào Người thì có sự sống muôn đời (6:47). Tuy nhiên, ở đoạn cuối nầy của chương 6, Chúa Giêsu cho thấy là có một số người không tin vào Người (c. 64). Họ không chỉ là một số môn đệ được ghi nhận ở đây mà thôi (c.66), mà cả những người đã đến xin Người thực hiện một dấu lạ (x. 6:30). Họ đã thấy Người và những việc Người làm, nhưng họ đã không tin vào Người (6:36). Việc tin vào Chúa Giêsu và đến với Người là công việc của Chúa Cha. Nếu Chúa Cha không ban cho, không ai có thể đến với Người, cũng như không thể hiểu và chấp nhận lời của Người (x. 3:27). Như thế, để có thể nghe và tin vào lời của Chúa Giêsu, cần đến cách tuyệt đối tác động của Cha Người (x. 6:45).

Đối với Gioan, việc lắng nghe Chúa Giêsu luôn đi kèm theo một hành động đức tin như đi theo Người (1:37.40; 5:24); chấp nhận lời Người nói là sự thật (x. 3:32; 4:42); trái lại ở đây, như là hậu quả của việc “không thể nghe Người” (c. 60) và không tin vào Người (c.64), một số môn đệ đã có hành động đối nghịch đức tin đó là tháo lui và không đi với Người nữa (c.66). Tương phản với thái độ ấy, nhóm Mười Hai tiếp tục đi với Chúa Giêsu và tin vào lời của Người. Trong câu trả lời gồm một câu hỏi và một câu khẳng định, Phêrô đã xác định nhân danh nhóm Mười Hai là chỉ nơi Chúa Giêsu mới có sự sống muôn đời. Trong diễn từ về bánh ban sự sống nầy, cụm từ “đến với” Chúa Giêsu được dùng nhiều lần và bao giờ cũng nhắc đến một sự chuyển thông sự sống từ Chúa Giêsu sang bất cứ ai đến với Người (6:35.37.44.45.65). Do đó, nhóm Mười Hai xác tín là họ không thể đi đến với ai khác ngoài Người là nguồn sự sống. Lời của Người cũng ban sự sống muôn đời (6:68), như chính bánh bởi trời (6:33.35.48.51.53) và thịt của Người (6:54.57). Lời tuyên xưng đức tin của Phêrô: “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (6:69) là cao điểm của giáo huấn về Bánh bởi trời đã được trình bày cách tiệm tiến từ việc làm bánh hóa ra nhiều cho năm ngàn người ăn (6:1-13) đến giáo huấn về bánh bởi trời và thịt của Người được ban để làm của ăn (6:31-59). Vậy, chỉ Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa mới có thể ban bánh mang lại sự sống muôn đời cho con người.


Sự sống muôn đời gắn liền với Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh và là Con của Thiên Chúa. Hãy tin vào lời của Người, vào bánh Người ban để có sự sống muôn đời.

Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

-----------------------------

 

TN 21-B81. Chúa Nhật 21 mùa Thường niên, B


2009

 

Kết thúc bài giảng về bánh trường sinh, Chúa Giê-su mời gọi ta:  “Ai ăn thịt và uống máu tôi: TN 21-B81


Kết thúc bài giảng về bánh trường sinh, Chúa Giê-su mời gọi ta:  “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6:56).  Lời mời gọi này đòi người ta phài dứt khoát quyết định:  hoặc bỏ Người mà đi, hoặc trung thành theo Người.  Đó là đề tài của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay được quảng diễn qua sự kiện dân Chúa trong Cựu Ước quyết tâm phụng thờ Đức Chúa và sự kiện các Tông đồ trung thành làm môn đệ của Chúa Giê-su.  Bài học trung thành ấy được áp dụng vào mối quan hệ giữa Chúa Ki-tô và Giáo Hội.

1.  Dân Ít-ra-en quyết tâm trung thành với Chúa (bài đọc Cựu Ước – Gs 24:1-2a.15-17.18b)

          Sau khi hoàn tất nhiệm vụ đưa dân Chúa vào đất hứa và nhận thấy ngày cuối đời đã gần kề, ông Giô-suê triệu tập đại hội toàn dân tại Si-khem.  Nói với họ, ông nhắc lại những điều Thiên Chúa thực hiện cho Ít-ra-en, kể từ thời các tổ phụ tới thời gian sống nhờ bên Ai-cập, cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ của Pha-ra-ô và trở về đất hứa.  Rồi ông yêu cầu họ dứt khoát quyết định phụng thờ Chúa hay phụng thờ các thần ngoại.  Ông cũng không ngại cho dân chúng biết ông và gia đình nhất quyết phụng thờ Thiên Chúa.  Toàn dân đồng thanh đáp lời kêu gọi của ông:  “Chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi” (Gs 24:18b).

          Quả thực đây là một trang sử đẹp của dân Ít-ra-en.  Cảm nghiệm về quyền năng của Thiên Chúa còn đậm nét và những biến cố lịch sử mới xảy ra không lâu đã giúp cho họ dễ dàng nhận ra “Người là Thiên Chúa” thật của họ và họ quyết tâm phụng thờ Người.  Nhưng lịch sử dân Ít-ra-en lại hầu như đầy dẫy những bất trung của họ trong quan hệ với Chúa.  Họ bị lôi cuốn theo lối sống của dân ngoại thay vì theo Lề Luật.  Họ đã lấy các thần ngoại để thay thế chỗ đứng của Thiên Chúa, thí dụ như “các thần cha ông họ đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc các thần của người E-mô-ri” (Gs 24:15).  Câu truyện cha ông họ đúc con bê bằng vàng để tôn thờ (Xh 32) cũng chỉ là một trong rất nhiều câu truyện được ghi lại trong Cựu Ước về sự bất trung của Ít-ra-en.  Trong tình huống này, “ông Mô-sê đứng ở cổng trại và hô:  “Ai thờ Đức Chúa thì theo tôi!”  Tất cả con cái ông Lê-vi đều tập họp bên ông Mô-sê” (Xh 32:26).

          Dân Chúa bất trung như thế đó, vậy mà ngược lại, Thiên Chúa luôn trung thành với dân Người.  Người tìm đủ mọi cách để giúp họ thức tỉnh và sám hối sau những sa ngã tày trời ấy.  Khi thì Người dùng hình phạt, chiến tranh, lưu đày để làm cho họ gắn bó với Người.  Khi khác Người thiếu điều “năn nỉ ỉ ôi”, nhắc lại những việc tốt lành Người đã thực hiện cho họ, để xin họ hãy trung thành với Người.  Câu truyện hôn nhân của ngôn sứ Hô-sê (Hs 1-3) là một biểu tượng sống động diễn tả sự quan tâm và lòng trung thành của Thiên Chúa dành cho Ít-ra-en.  Cho dù Thiên Chúa có phải dùng đến hình phạt để đưa họ về đường ngay nẻo chính thì cũng là yêu cho roi cho vọt mà thôi, giống như cha mẹ một tay đánh con, một tay gạt nước mắt.

          Lịch sử bất trung của Ít-ra-en tuy là một sự kiện cụ thể, nhưng cũng là lịch sử tái diễn nơi tâm hồn ta.  Nhìn vào cuộc sống thiêng liêng của ta, ta dễ dàng nhận thấy những bất trung lớn có, nhỏ có, trong mối quan hệ với Chúa.  Những lúc quyết tâm phụng thờ Chúa thật quá ít so với những lỗi lầm ta xúc phạm đến Chúa và anh chị em.  Vậy mà Chúa vẫn một lòng yêu thương ta, như Chúa Ki-tô đã yêu thương những người tội lỗi và khốn khổ, hoặc như suy niệm của thánh Phao-lô qua bài đọc thứ hai về lòng yêu thương và chăm sóc của Chúa Ki-tô đối với Giáo Hội.

2.  Ki-tô hữu quyết tâm trung thành làm môn đệ Chúa Ki-tô (bài Tin Mừng – Gio-an 6:54a.60-69)

           Bài Tin Mừng ghi lại phản ứng của những người nghe Chúa giảng về Bí tích Thánh Thể và lời mời gọi “chướng tai” của Người.  Lời ấy là:  “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6:54a).  Nghe thế, có nhiều môn đệ không tin và bỏ đi, mặc dù Người đã giải thích:  “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì.  Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống” (Ga 6:63).  Giải thích như vậy, Chúa Giê-su muốn nhắc lại sứ mệnh của Người.  Người là Ngôi Lời nhập thể để trở nên thần khí và sự sống đời đời cho ta nếu ta tiếp nhận Người.

          Tuy nhiên điều mà bài Tin Mừng muốn nhắm đến hôm nay là sự kiện các Tông đồ đã quyết tâm ở lại với Chúa Giê-su, cho dù nhiều môn đệ và dân chúng đã bỏ Người.  Ông Phê-rô thay mặt anh em, tuyên bố một câu bất hủ:  “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?  Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68).  Đúng là cùng một niềm tin, cùng một sự trung thành giống như ông Mô-sê và ông Giô-suê.  Trước hết, ông Phê-rô tuyên xưng sự độc tôn đối với Chúa Giê-su.  Dân Ít-ra-en đã thề hứa trước mặt ông Giô-suê là họ sẽ phụng thờ duy một Đức Chúa mà thôi.  Cũng vậy, Phê-rô muốn phát biểu rằng Chúa Giê-su là Đấng duy nhất ta phải đến, phải gặp gỡ, phải để cho Người biến đổi cuộc sống ta.  Ông đã nhìn nhận chân lý:  chỉ có Chúa Giê-su mới có những lời đem lại sự sống đời đời.  Sứ mệnh và vai trò của Chúa Giê-su thật vô cùng quan trọng đối với tương lai của nhân loại.  Sau khi nói lên chỗ đứng không thể thay thế của Chúa Giê-su, Phê-rô nói về chính mình và các bạn:  “Phần chúng con, chúng con tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6:69).

          Ta nhận ra sự xác tín của ông Phê-rô, sự xác tín mạnh mẽ giữa lúc bị giao động do việc bỏ đi của những người khác.  So sánh với việc tuyên xưng đức tin của ông tại Xê-da-rê Phi-líp-phê, là tuyên xưng theo sự mặc khải của Thiên Chúa (Mt 16:13-20), thì lần tuyên xưng này mới thực sự là những lời phát ra từ đáy lòng của những người quyết tâm làm môn đệ Chúa.  Ông nhấn mạnh đến hành vi “tin” và “nhận biết” rằng Chúa Giê-su là Đấng Thánh của Thiên Chúa.

          Kết thúc câu truyện bài giảng về Bí tích Thánh Thể của Chúa Giê-su dầu sao cũng là kết thúc có hậu.  Ít ra còn có những người quyết tâm theo Chúa và gắn bó với Người giống như ông Phê-rô và các bạn Tông đồ đã làm.  Tuy nhiên kết thúc ấy cũng là lời mời gọi hoặc thách thức Ki-tô hữu mọi thời hãy đáp lại lời tha thiết của Chúa Giê-su “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”.

3.  Chúa Ki-tô luôn trung thành với ta như Người trung thành với Giáo Hội (bài đọc Tân Ước – Ê-phê-xô 5:21-32)

          Ta được kêu gọi hãy tiếp nhận Chúa Ki-tô và trung thành theo Người.  Đó là để đáp lại lòng trung thành yêu thương của Chúa Ki-tô dành cho ta.  Thánh Phao-lô đã cho ta những dòng suy niệm rất sâu xa về lòng trung thành yêu thương và chăm sóc của Chúa Giê-su đối với Giáo Hội.

          Thực ra trong đoạn thư gửi tín hữu Ê-phê-xô 5:21-32, thánh Phao-lô bàn về những cách cư xử trong đời sống gia đình của Ki-tô hữu. Ngài đem mẫu gương Chúa Giê-su yêu thương và chăm sóc Giáo Hội áp dụng vào đời sống gia đình, đặc biệt là cách vợ chồng đối xử với nhau.  Vậy thánh Tông đồ đã nhấn mạnh đến những điểm nào trong cách Chúa Ki-tô đối xử với Giáo Hội?  Ở đây, ta đọc được nhiều điều Chúa Ki-tô đã và đang làm cho Giáo Hội.  Người đã “cứu chuộc Hội Thánh” (câu 23), “yêu thương và hiến mình vì Hội Thánh” (c. 25), “thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước (Bí tích Rửa tội) và lời hằng sống” (c, 26), làm cho Hội Thánh “xinh đẹp lộng lẫy..., thánh thiện và tinh tuyền” (c. 26), “nuôi nấng (Bí tích Thánh Thể) và chăm sóc Hội Thánh” (c. 29).  Tất cả những nghĩa cử này của Chúa Giê-su chứng tỏ lòng trung thành yêu thương của Người đối với Giáo Hội.  Mà Ki-tô hữu là chi thể của Nhiệm Thể Chúa Ki-tô, được bao bọc bằng tình yêu của Đầu là Chúa Ki-tô, nên ta phải trung thành theo Chúa, tùng phục Người, “như Hội Thành tùng phục Đức Ki-tô” (c. 24).

          Qua lịch sử Giáo Hội, mặc dù có những giai đoạn đen tối, ta vẫn thấy thái độ căn bản của Giáo Hội đối với Chúa Ki-tô, đó là sự tùng phục và trung thành.  Thái độ ấy không hẳn chỉ được biểu lộ qua những công thức tuyên tín hoặc những văn kiện chính thức của Giáo Hội, nhưng còn phải là lòng trung thành của mỗi phần tử trong Giáo Hội, cố gắng sống đúng với căn tính Ki-tô và với niềm xác tín:  “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?  Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.  Niềm xác tín ấy không phải chỉ của riêng Phê-rô, nhưng cũng phải là xác tín của mỗi người Ki-tô hữu nữa.

4.  Sống Lời Chúa

          Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến lòng trung thành theo Chúa.  Theo Chúa là điều không dễ dàng, như Chúa Giê-su đã nói:  “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”.  Quả thực, khi ban cho ta Con Một để chứng tỏ lòng yêu thương ta, thì Thiên Chúa Cha đã ban cho ta ơn đến với Đức Ki-tô rồi.  Vậy ý thức chân lý yêu thương ầy và xác tín vai trò “lời đem lại sự sống đời đời” của Chúa Giê-su, ta hãy mạnh dạn đến với Người và nhất là trung thành đi theo làm môn đệ Người.

Suy nghĩ:  “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”.  Điều này có bao giờ xảy ra cho tôi không?  “Lúc đó” là những hoàn cảnh nào trong đời tôi?  Tôi đã xử trí như thế nào?  Kinh nghiệm “rút lui” dạy tôi bài học nào và có giúp tôi trung thành hơn không?

Cầu nguyện:  Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới làm cho chùng con nên một lòng một ý;  xin cho tất cả chúng con biết yêu luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa, để dầu sống giữa cảnh thế sự thăng trầm, chúng con vẫn một lòng thiết tha với cõi phúc chân thật.  Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.  A-men.  (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 21 mùa Thường niên).

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

-----------------------------

 

TN 21-B82. BỎ THẦY CON BIẾT THEO AI ?


CHÚA NHẬT THỨ XXI THƯỜNG NIÊN, năm B

Ga 6, 54a.60-69

 

Dân Do Thái xưa và các môn đệ của Chúa Giêsu luôn bị đặt trước thử thách về lòng trung tín: TN 21-B82


Dân Do Thái xưa và các môn đệ của Chúa Giêsu luôn bị đặt trước thử thách về lòng trung tín đối với Thiên Chúa Giavê. Ông Giosuê cho dân Do Thái hay họ chọn Thiên Chúa hay thần nào khác. Tất cả dân chúng đồng thanh chọn lựa Thiên Chúa:” Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ các thần khác ! Vì Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, chính Người đã đưa chúng tôi và cha ông chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ. Chính Người đã thực hiện trước mắt chúng tôi những dấu lạ vĩ đại…”. Chúa Giêsu cũng đã đặt các môn đệ của Chúa trước một sự lựa chọn giống như dân Do Thái:” Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?”( Ga 6, 67 ) và ông Phêrô đã nhanh nhảu đại diện các tông đồ khác mà thưa với Chúa: “ Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” ( Ga 6,68 ).

I.CÁI CHỚ TRÊU CỦA CÁC MÔN ĐỆ KHI NGHE LỜI CÔNG BỐ VỀ MÌNH MÁU CHÚA:

Trong hội đường Capharnaum, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng:” …thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống “ ( Ga 6, 55 ). Nghe những lời ấy, một số môn đệ đã phản ứng kịch liệt, họ ngờ vực, hồ nghi lời của Chúa:” Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ? “ ( Ga 6, 60 ). Thánh sử Gioan viết tiếp: “ Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa “ ( Ga 6, 68 ). Ở đây Gioan viết có nhiều môn đệ, nghĩa là có một số khá đông đã tin theo Chúa, đã đi theo Ngài, nhưng họ không thể chấp nhận lời mạc khải của Chúa Giêsu. Cho nên, họ đã rút lui, không theo Chúa nữa. Thực tế, theo lẽ tự nhiên, con người rất khó hiểu về lời mạc khải của Chúa về Bí Tích Thánh Thể. Nhưng với đức tin, người Kitô hữu chúng ta cử hành bí tích Thánh Thể suốt cả cuộc đời mà không bao giờ băn khoăn, do dự hoặc nghi hoặc Mình và Máu Chúa Kitô. Bởi vì, “ Đức tin giúp ta nhận ra Chúa, là đôi tay để ta nắm lấy Ngài, là sức mạnh để ta tận hiến cho Ngài “ (James Woolbridge ). Theo Chúa Kitô là chấp nhận chịu thử thách từng giây từng phút, là phiêu lưu vào một cuộc mạo hiểm tình yêu, và  mạo hiểm đức tin. Nhiều môn đệ vì chưa có đức tin vững chắc, nên khi nghe Chúa nói về Mình Máu của Ngài, họ không tin và họ bỏ Ngài. Đây là cái trớ trêu của những môn đệ này.

II.TIN CHÚA LÀ CHẤP NHẬN CON ĐƯỜNG CỦA CHÚA ĐÃ ĐI QUA:

Chúa Giêsu công bố thịt và máu của Ngài làm của ăn của uống nuôi sống nhân loại, nuôi dưỡng con người, Ngài đã loan báo cái chết của Ngài trên thập giá để cứu độ thế gian. Khi báo trước cái chết của Ngài trên thập giá, Chúa Giêsu đã hứa ban sự sống đời cho con người. Ngài đã nói:” Ta là Đường, là sự Thật, là sự Sống “. “ Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống lại “. Lời nói của Ngài đòi con người, đòi các môn đệ không chỉ nghe lời giáo huấn, nhưng là chấp đi theo con đường thập giá của Ngài .” Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá của mình mà theo Ta “.  Mình và Máu Chúa Kitô chúng ta chịu lấy cũng là chịu lấy thần trí của Ngài, tinh thần của Ngài và sự chọn lựa cứu độ loài người theo ý Cha của Ngài. Nơi Chúa Kitô cuộc sống của Ngài là cuộc hy tế thập giá, là thánh lễ nối dài trong cuộc đời. Do đó, theo Chúa,cuộc sống của người Kitô hữu cũng là thánh lễ liên tục, nối dài trong cuộc đời. Người Kitô hữu luôn luôn phải yêu mến bí tích Thánh Thể, vì Mình Máu Chúa Kitô là lương thực ban cho con người sự sống vĩnh cửu.

Người Kitô hữu phải có thái độ lòng tin trước sự chói tai mà nhiều môn đệ đã theo Chúa, rồi lại bỏ Chúa, thái độ lòng tin là kiên trung với Chúa, nhìn ngắm Chúa và vững tin vào Chúa:” Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa “ ( Ga 6, 69 ).

Câu thưa của thánh Phêrô đại diện nhóm mười hai:” Bỏ Thầy, chúng con biết theo ai, vì chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống” ( Ga 6, 68 ). Lời thưa ấy vẫn phải là lời vang lên miệng, trên môi và trong lòng của người Kitô hữu muôn thời.

Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới có những lời đem lại sự sống đời đời, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tôn kính và yêu mến bí tích Thánh Thể. Amen.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

-----------------------------

 

TN 21-B83. CHÚA NHẬT 21 QUANH NĂM, B


Thánh ca và lời nguyện mở đầu

 Kinh Thánh:      Ê-phê-xô 5: 21-32

 

 Đoạn văn Ê-phê-xô 5:21 - 6:9 đề cập đến mối tương quan trong gia đình theo tinh thần Ki-tô: TN 21-B83


          Đoạn văn Ê-phê-xô 5:21 - 6:9 đề cập đến mối tương quan trong gia đình theo tinh thần Ki-tô giáo, giữa vợ-chồng, cha mẹ-con cái, chủ nhân-nô lệ.  Định chế gia đình với những tương quan ấy là định chế chung cho thế giới Hy-La.  Do đó, các thư Ê-phê-xô, Cô-lô-xê và 1 Phê-rô sử dụng cùng một định chế ấy để khuyến dụ các tín hữu tân tòng về đời sống luân lý Ki-tô.  Bài đọc hôm nay là đoạn thư trình bày tương quan vợ chồng như là dấu chỉ và là cách biểu lộ mầu nhiệm kết hiệp giữa Chúa Ki-tô và Hội Thánh.  Tuy nhiên, để khỏi hiểu lầm thánh Phao-lô như là trọng nam khinh nữ, chúng ta nên hiểu qua hoàn cảnh xã hội bấy giờ và phải xác tín điều thánh Phao-lô nhấn mạnh đến bổn phận người vợ phải tùng phục chồng NHƯ Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô và bổn phận người chồng phải yêu thương vợ NHƯ Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh.  Gương mẫu của Giáo Hội và của Đức Ki-tô sẽ loại bỏ mọi bất công của phái yếu (vợ, con cái, nô lệ) phải chịu đối với phái mạnh (chồng, cha mẹ, chủ nhân).

 a)  Hôn nhân phải rập theo khuôn mẫu tương quan giữa Chúa Ki-tô và Hội Thánh
          Văn hóa biến đổi luôn luôn, tuy chậm chạp theo dòng thời gian.  Thời nay, quan niệm về thống trị của chồng trên vợ, của cha mẹ trên con cái và của chủ nhân trên tôi tớ không còn đứng vững nữa.  Thật khó cho thánh Phao-lô và Phê-rô làm một cuộc cách mạng văn hóa, lật đổ định chế về gia đình và xã hội đã có từ lâu.  Ở đây, tuy thánh Phao-lô theo định chế ấy, nhưng ngài lại mặc cho nó bộ áo Ki-tô giáo và dùng những giá trị của tình yêu giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh làm mẫu mực để đôi vợ chồng sống mối tương quan hôn nhân của họ.  Do đó, lời mở đầu của đoạn thư rất quan trọng và là tiêu chuẩn giúp vợ chồng sống đời hôn nhân Ki-tô giáo:  “Vì lòng kính sợ Đức Ki-tô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau” (5:21).  Nêu lên nguyên tắc này, thánh Phao-lô ngầm hiểu ý nghĩa sâu xa nhất của tương quan hôn nhân, là “tùng phục lẫn nhau” chứ không phải người này thống trị người kia.  Như vậy, cả hai vợ chồng đều phải tùng phục lẫn nhau.  Tùng phục không có nghĩa đẳng cấp, nhưng là biểu lộ một tình yêu hy sinh vì lợi ích của người kia.  Chính Đức Ki-tô vì lợi ích của Giáo Hội nên đã “trút bỏ vinh quang” và bằng lòng chịu chết cho nhân loại.

          -  “Như Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô”:  Động lực duy nhất để Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô, đó là vì tình yêu.  Sự tùng phục của Hội Thánh là cách đáp lại tình yêu vô điều kiện của Đức Ki-tô dành cho Hội Thánh.  Vì yêu Hội Thánh, Đức Ki-tô đã giảng dạy và thi hành sứ vụ cứu thế.  Lời giảng và gương sống của Đức Ki-tô là một kho tàng và gia sản để lại cho Hội Thánh.  Cho nên đáp lại tình yêu ấy của Đức Ki-tô, Hội Thánh trân trọng từng lời giảng và từng việc làm của Người, muốn vâng theo mọi điều Đức Ki-tô dạy bảo để được sống đời đời.  Như thế, việc tùng phục của Hội Thánh biểu lộ tình yêu chứ không biểu lộ sự quỵ lụy cưỡng ép của một kẻ thấp cổ bé miệng.  Chính Đức Ki-tô đã nói:  “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa...  nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu” (Ga 15:15).  Thánh Phao-lô nhấn mạnh đến đặc tính của tình yêu:  “Đức mến không vênh vang, không tự đắc” (1 Cr 13:4).  Tóm lại, từ “tùng phục” mà thánh Phao-lô dùng ở đây chỉ là vay mượn của định chế xã hội để diễn tả cách biểu lộ tình yêu của người vợ dành cho người chồng trong hôn nhân Ki-tô giáo.

          -  “Như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh”:  Thánh Phao-lô muốn mời gọi chúng ta trước hết hãy chiêm ngưỡng tình yêu của Đức Ki-tô dành cho Hội Thánh.  Đó là tình yêu của Đấng đã khẳng định:  “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15:13).  Vì muốn thấy “có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền,” nên Đức Ki-tô đã chấp nhận chịu chết trên thập giá để xóa đi tội lỗi của nhân loại và tạo dựng một nhân loại mới.  Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh không phải chỉ nhất thời, nhưng là tình yêu trung thành.  Người vẫn tiếp tục “thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống.”

          Nước rửa tội và lời hằng sống của Đức Ki-tô là khí cụ để mọi Ki-tô hữu biến đổi mỗi ngày một xứng đáng làm con cái Chúa hơn.  Nước rửa tội vẫn phải sống động trong tâm hồn Ki-tô hữu, nhắc nhở họ về những lời hứa từ bỏ ma quỷ và tội lỗi.  Lời hằng sống của Đức Ki-tô phải được suy gẫm, cuộc sống của Người phải được chiêm niệm, để tín hữu được am tường về chính mình và về Chúa, cũng như được sống trong mối tương quan mật thiết với Người.

 b)  Yêu và kính trong hôn nhân Ki-tô giáo  

          Để kết thúc cho đoạn huấn dụ về đời sống hôn nhân, thánh Phao-lô viết:  “Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng.”  Có lẽ lời khuyên này thích hợp hơn lúc nào hết đối với người sống bậc vợ chồng hôm nay.  Nhiều người chồng hôm nay không yêu vợ như chính mình, nhưng như thứ đồ chơi để thỏa mãn dục vọng.  Họ không sống theo mẫu mực tình yêu của Đức Ki-tô, mà chỉ lấy tính ích kỷ của mình để áp bức người vợ.  Họ không chia sẻ trách nhiệm gia đình với vợ, nhưng chỉ tay năm ngón và coi việc giúp đỡ vợ là làm giảm phẩm giá của họ.  Nhưng cũng có nhiều người vợ không kính chồng, vì tương quan hôn nhân của họ đã được đánh giá bằng số tiền lương họ đem về nhiều hơn là tiền lương của chồng.

          Trong tình yêu có sự kính trọng và kính trọng chứa đựng một tình yêu trưởng thành, không thể thiếu điều nào trong hôn nhân.  Mối tương quan giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh là mối tương quan của yêu và kính.  Hai yếu tố này giúp cho Đức Ki-tô và Hội Thánh càng ngày càng khăng khít hơn, để mai ngày được kết hợp với nhau hoàn toàn trong Tình Yêu tuyệt đối là chính Thiên Chúa.  Đề cao gương mẫu ấy, thánh Phao-lô có lẽ muốn chúng ta hiểu rằng hôn nhân Ki-tô giáo là ơn gọi để vợ chồng phản ánh sự kết hợp vẹn toàn giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh.  Như thế, ơn gọi của bậc sống hôn nhân quả thực là cao cả!

 Câu hỏi gợi ý chia sẻ

          Qua những kinh nghiệm của nhiều vợ chồng Việt Nam, tôi thấy vợ chồng phải thay đổi những gì để trở thành hôn nhân Ki-tô giáo đích thực?

          Chúa Ki-tô yêu Hội Thánh như thân thể của Người.  Vậy, là một chi thể của Hội Thánh, tôi cảm nhận được tình yêu ấy

cách nào và như thế nào?  Tôi phải làm gì để đáp lại tình yêu của Người?

          Nếu tôi là bậc cha mẹ phải chuẩn bị cho con cái lập gia đình, tôi sẽ làm gì để chuẩn bị cho chúng sống hôn nhân Ki-tô giáo?

         
Cầu nguyện kết thúc

          Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát bài “Cầu xin Thánh Gia”  (Giu-se trong xóm nhỏ điêu tàn thuở xưa miền Na-da-rét...).

 Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
21-8-2003

-----------------------------

 

TN 21-B84. DÂN CHÚA LÀ DÂN VĨ ĐẠI!


CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN NĂM B (02/09.2012)

[Đnl 4,1-2.6-8; Gc 1,17-18.21b-22.27; Mc 7,1-8a.14-15.21-23]

I. D”N VÀO PHỤNG VỤ

 

Xét về mặt xã hội, người Công giáo ở hầu hết các nước trên thế giới, chỉ là thiểu số; ở nhiều quốc: TN 21-B84


Xét về mặt xã hội, người Công giáo ở hầu hết các nước trên thế giới, chỉ là thiểu số; ở nhiều quốc gia người Công giáo còn bị coi là những công dân hạng hai hạng ba; thậm chí tại một vài nước người Công giáo còn là thành phần bị xem thường, ghét bỏ, đàn áp và bách hại nữa.

Nhưng Thánh Kinh mạc khải cho chúng ta biết rằng: Không có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? Không có dân tộc vĩ đại nào có được những thánh chỉ và quyết định công minh, như Lề Luật và giới răn mà Mô-sê và Đức Giê-su Ki-tô truyền lại cho chúng ta.

Vậy thì chúng ta chẳng có gì phải mặc cảm cả. Trái lại chúng ta có quyền hãnh diện về nhân thân (identity) của mình mà sống hiên ngang với thiên hạ.

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Trong bài đọc 1 (Đnl 4,1-2.6-8): Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa.

1 Khi ấy ông Mô-sê nói với dân Ít-ra-en rằng: “Giờ đây hỡi Ít-ra-en, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em. 2 Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em. 6 Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh. Khi được nghe tất cả những thánh chỉ đó, họ sẽ nói: "Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông minh!" 7 Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? 8 Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?

2.2 Trong bài đọc 2 (Gc 1,17-18.21b-22.27): Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành.

17 Anh em thân mến, mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú; nơi Người không hề có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng. 18 Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người.

21 Vì vậy, anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. 22 Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. 27 Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.

2.3 Trong bài Tin Mừng (Mc 7,1-8a.14-15.21-23): Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm. 1 Khi ấy, những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những người từ Giê-ru-sa-lem đến. 2 Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. 3 Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do Thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; 4 thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. 5 Vậy, người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giê-su: "Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?" 6 Người trả lời họ: "Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. 7 Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. 8 Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm." 14 Sau đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo: "Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: 15 Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.21 Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, 22 ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. 23 Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế."

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG ...  SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

3.1 Chân dung Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)

3.1.1 Bài đọc 1 (Đnl 4,1-2.6-8) là những lời ân cần của Ông Mô-sê nói với dân riêng của Thiên Chúa: Dân Chúa thật hạnh phúc vì họ được có Thiên Chúa ở gần, họ có thánh chỉ của Thiên Chúa hướng dẫn, nên được sống trong chân lý và bình an và được coi là “khôn ngoan và thông minh”.

Trong bài đọc 1 này, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng ở cùng/với dân và Thiên Chúa là Đấng đem hạnh phúc cho dân.

3.1.2 Bài đọc 2 (Gc 1,17-18.21b-22.27) là những lời khuyên của Thánh Gia-cô-bê Tông đồ, gồm hai ý:

(1o) Mọi ơn lành và phúc lộc, nhất là Lời chân lý, đều do Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng cũng là Cha yêu thương ban cho chúng ta.

(2o) Hãy đón nhận Lời có sức cứu độ của Thiên Chúa và đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe xuông mà lừa dối chính mình.

Trong bài đọc 2 này, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành và phúc lộc, nhất là lời chân lý là lời có sức mạnh cứu độ.

3.1.3 Bài Tin Mừng (Mc 7,1-8a.14-15.21-23) là tường thuật của Thánh Mác-cô về một trong những cuộc “đụng độ” giữa Đức Giê-su và các Pha-ri-sêu và kinh sư, xoay quanh vấn đề người ta phải tuân giữ điều răn của Thiên Chúa hay truyền thống của cha ông cũng chỉ là phàm nhân?

Cơ hội thuận lợi là một số Pha-ri-sêu và kinh sư bắt gặp vài môn đệ của Đức Giê-su không rửa tay trước khi ăn. Rửa tay trước khi ăn chỉ là một tập tục, một truyền thống mà người Do-thái giữ gìn rất cặn kẽ, chứ không phải là giới luật của Thiên Chúa, trong khi họ lại xem thường giới răn của chính Thiên Chúa.

Động cơ của người Pha-ri-sêu và kinh sư là tìm dịp, tìm cách bắt bẻ Đức Giê-su và các môn đệ Người. Nguyên nhân sâu xa là những người ấy thích sống giả hình và nuôi ảo tưởng cho mình là đạo đức, thánh thiện mà coi khinh, coi thường và kết án người khác. Chính thái độ và cách sống giả trá này của các kinh sư, luật sĩ đã bị Đức Giê-su vạch trần và lên án.

Theo nhận định lành mạnh của mọi người, cũng là của chính Đức Giê-su, thì cái cần phải thanh tẩy là tâm hồn, là tư tưởng, là các suy nghĩ của con người chứ không phải là bàn tay hay chén bát. Bởi vì một khi tâm hồn con người bất chính, tư tưởng con người tội lỗi, suy nghĩ con người lầm lạc thì con người sẽ gây đại họa, không những cho chính bản thân mình mà còn cho cả gia đình và cộng đồng xã hội nữa.

Trong bài Phúc âm này, chúng ta khám phá ra Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Đấng truyền dậy chân lý một cách trung kiên và dũng cảm.

3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Chúa muốn chúng ta làm gì?

Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy sống theo Thánh Chỉ hay Mệnh Lệnh hay Giáo Huấn của Thiên Chúa thì sẽ được hạnh phúc, vì:

* Thiên Chúa là Đấng Tốt Lành Vô Cùng Vô Tận nên Thiên Chúa chỉ có thể làm những điều tốt lành cho chúng ta mà thôi.

* Thánh Chỉ hay Mệnh Lệnh hay Giáo Huấn hay Giới Răn gì của Thiên Chúa cũng chỉ nhằm giúp chúng ta có được hạnh phúc đích thật mà thôi.

IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA

4.1 Sống với Thiên Chúa là có những tâm tình/lời/hành động chúc tụng, ngợi khen, cảm tạ Thiên Chúa là Đấng luôn ở với chúng ta, luôn có mặt bên cạnh chúng ta. Nếu Thiên Chúa ở với chúng ta thì tại sao chúng ta lại không ở với Người? Vì thế điều đáng làm nhất là chúng ta sống với/bên Chúa.

4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta thực thi thánh chỉ, mệnh lệnh của Thiên Chúa là những giới răn mà Mô-sê và Chúa Giê-su đã truyền lại cho chúng ta. Cụ thể là “hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn” và “hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em.”

V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ CHO THẾ GIỚI

5.1 «Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người?» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho các dân, các nước trên thế giới này, để mọi dân mọi nước nhận ra giá trị thật của họ không phải là ở chỗ giầu mạnh về kinh tế hay có nhiều vũ khí tối tân hiện đại mà là ở chỗ có Thiên Chúa ở cùng hay không.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.2 « Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám Mục, cho các linh mục và các tu sĩ cùng toàn thể Hội Thánh, để mọi thành phần Dân Chúa biết trân trọng nhân thân của mình mà nghiêm chỉnh thực thi các thánh chỉ, các mệnh lệnh của Thiên Chúa được các ngôn sứ và nhất là được Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa, truyền lại.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.3 «Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho giáo dân thuộc giáo xứ chúng ta, cách riêng cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy biết sống khiêm tốn và biết ơn, đối với Đấng ban phát mọi ơn lành và phúc lộc hoàn hảo cho con người và vũ trụ.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.4 «Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho những người yếu đuối, đam mê, tội lỗi, để họ nhận được sức mạnh của Thánh Thần mà hoán cải và thay đổi cuộc sống.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.

-----------------------------

 

TN 21-B85. TRỞ VỀ CÕI PHÚC

 

Đời người ai cũng có lúc thành công và không ai là không gặp phải thất bại. Thế nhưng cho dù TN 21-B85


Đời người ai cũng có lúc thành công và không ai là không gặp phải thất bại. Thế nhưng cho dù thành công hay thất bại cũng không thể làm giảm đi giá trị nếu như người ấy biết đặt dúng giá trị đời mình. Giá trị người Kitô hữu chính là Thiên Chúa.

Cũng vì đặt sai mục đích mà hôm nay một số môn đệ đã không đón nhận Lời của Đức Giêsu khi Ngài mặc khải cho các ông biết rằng chính Ngài là bánh trường sinh từ trời ban xuống cho nhân loại, để ai ăn sẽ được sống muôn đời ( x. Ga 6, 58 ). Mọi người khó đón nhận mặc khải ấy cũng không có gì khó hiểu, vì họ không tin vào Thiên Chúa, họ chưa nhìn nhận ra sự thật về con người Đức Giêsu. Họ đi theo Ngài đó, nhưng chỉ nhìn và  nhắm đến giá trị vật chất, mà không hề thấu hiểu về mầu nhiệm Nước Trời mà Đức Giêsu đang ngày từng ngày mặc khải.

Theo Chúa nhưng không tin Chúa “Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa” ( Ga 6, 66 ). Đây không chỉ là căn bệnh thời cổ đại nhưng còn là bệnh nan y của mọi thời đại. Người ta theo Chúa có vẻ ngày một đông hơn trước, nhưng niềm tin nhiều khi chưa bằng sợi tóc của các tiền bối thời xưa. Lý do cũng không có gì khó hiểu, cũng vẫn là lý do chung của mọi thời, mọi người thôi mà. Sự sống và cùng đích của Thiên Chúa thì thuộc về thế giới tâm linh nhưng cùng đích của con người lại lệ thuộc vào thế giới vật chất. Hai thế giới ấy lúc nào cũng xâu xé, đối nghịch nhau khiến con người không thể thoát ra khỏi nó. Tồn tại trong thế giới vật chất nhưng phải sống cho thế giới tâm linh quả thật không phải dễ dàng.

 “Không ai đến được với Thầy được nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” ( Ga 6, 65 ). Muốn theo Chúa trước hết đó đã phải là một ơn riêng mà Thiên Chúa ban, không phải tự nhiên con người có thể thủ đắc. Phần của con người luôn luôn phải là cộng tác, cùng để cho Ngài nắm tay và dẫn chúng ta đi. Con người thường hay lầm lạc, hay ỷ nại vào sức mình, hay cậy dựa vào tài cán, năng lực bản thân khi mà chọn Chúa, khi mà đi theo Ngài. Thế nên vừa khi gặp gian nan, thử thách đã nhanh chóng, vội vàng bỏ cuộc là vậy.

Nếu như ai ai cũng có thể xác nhận được rằng: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” ( Ga 6, 68 ) thì có phải thế giới đã rất hạnh phúc lắm không. Cứ hỏi làm sao thế gian nhiều đau khổ, vì thế gian không thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ là nơi Ngài gửi con người đến như một lối để đi về. Nếu như ai không biết chọn Thiên Chúa là nơi, là chốn, là lối, là cùng đích để mình đi về, thì mãi mãi trở thành kẻ bất hạnh mà thôi.

Cách chọn đi theo Chúa tốt nhất không gì khác hơn là lắng nghe và thực hành Lời Chúa, là vâng phục và yêu mến Thánh Ý Ngài như là lẽ sống đời mình.

Lạy Chúa, con sinh ra đã không phải là kẻ ngoại đạo. Từ tấm bé con đã được dạy cho biết có Thiên Chúa là Cha và là Tình Yêu, là Cùng Đích đời mình. Thế nhưng ngày theo ngày trôi qua con đã để cho những quyến rũ của trần thế lôi cuốn, khiến con ngày càng xa rời Chúa và chối bỏ Ngài. Không biết bao lần trong cuộc sống con đã từ khước sự hiện diện của Thiên Chúa ngay trong lối sống thường nhật. Con có khác gì các môn đệ xưa khi không đón nhận mặc khải của Đức Giêsu và sống theo ý riêng mình nên đã bỏ Ngài mà đi, rút lui khỏi trận chiến thiên đàng – thế tục.

Xin giúp con biết trở về với cùng đích đời mình để cuộc sống lúc nào cũng trở thành niềm vui và hạnh phúc, bởi đó chính là cầu nối đang dẫn con đến với cõi phúc đấy thôi.

M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG

-----------------------------

 

TN 21-B86. Chúa Nhật 21TN  B -26-8-2012


“... chọn ...” (Ga 6:60-69)

 

Trong kho tàng chuyện cười dân gian Việt Nam. Chuyện kể rằng: Tại một khúc sông no: TN 21-B86


Trong kho tàng chuyện cười dân gian Việt Nam. Chuyện kể rằng: Tại một khúc sông nọ, quang cảnh thơ mộng, hai bên bờ sông có hai ngôi chùa, các sư sãi trong chùa có cuộc sống khá sung túc. Cũng tại khúc sông ấy, c ó một con chó, nó không thuộc chùa bên này cũng chẳng thuộc chùa bên kia. Bởi mỗi khi nghe tiếng chuông nhà cơm bên chùa nào vang lên nó lại bơi sang chùa đó để đánh chén no nê. Rồi đến ngày kia, có lẽ là ngày rằm, người ta trẩy đến chùa rất đông, mang theo đủ thứ lễ cúng. Chó ta bắt đầu chảy nước miếng. Giờ cơm hôm đó như dài hơn. Cuối cùng thì tiếng chuông cũng vang lên. Con chó vội nhảy xuống sông và bơi sang chùa có tiếng chuông. Nhưng khi nó vừa bơi đến giữa sông thì tiếng chuông chùa bên này cũng đã điểm. Con chó phân vân: Thôi ta quay lại, vì có lẽ cơm bên chùa này nhiều món ăn ngon hơn. Và nó quyết định bơi trở lại. Bơi được một đoạn, nó lại tự nhủ: biết đâu chùa bên kia có nhiều món ăn ngon hơn thì sao. Và nó lại quay đầu bơi sang chùa bên kia. Nhưng cũng bơi được một đoạn, nó lại tự hỏi: nếu chùa bên này có nhiều món ăn lạ hơn thì tiếc lắm. Và nó lại bơi trở lại. Cứ thế, con chó bơi trở đi trở lại không biết bao lần, cho đến khi không còn bơi được nữa vì kiệt sức, và nó bị dòng nước cuốn đi.

Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe ông Giô-suê nói với toàn dân và ông đưa ra cho họ những chọn lựa: Các ngươi không bằng lòng chọn Gia-vê thì hôm nay cứ chọn lấy ai mà thờ, hoặc là những thần tổ tiên các ngươi đã phụng thờ bên kia sông cả; hoặc là các thần của dân Amori… Phần ta và cả nhà ta, chúng ta sẽ phụng thờ Gia-vê…

Còn trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu hỏi nhóm mười hai: Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? Ông Phê-rô đã nhanh nhẹn đại diện cho cả nhóm thưa: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai, Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời".Cuộc đời chúng ta là một chuỗi những sự chọn lựa.

Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Ngoài những lựa chọn thông thường hằng ngày như lựa chọn đồ dùng tốt xấu, nơi ăn chốn ngủ, xe cộ, áo quần... Còn có những thứ lựa chọn liên hệ đến cả cuộc đời của mình và những người thuộc về mình nên trước những ngã ba, ngã tư của cuộc đời, con người cần phải biết khôn ngoan lựa chọn và quyết định thế nào cho hợp với thánh ý Thiên Chúa. Có thể nói: Hạnh phúc cho những ai biết quyết định và lựa chọn đúng với thánh ý Thiên Chúa; nhưng trái lại, vô phúc cho những ai quyết định và lựa chọn ngược lại thánh ý Ngài.

Tất cả những gì chúng ta có ngày hôm nay là những gì chúng ta đã làm, đã chọn lựa ngày xưa, chúng ta được tự do lựa chọn. Và trong tương lai chúng ta muốn trở thành như thế nào sẽ tuỳ thuộc vào những gì chúng ta lựa chọn ngày hôm nay.

Theo bác sĩ Scot Peck tác giả cuốn “Con đường không mấy ai đi”. Tiến trình hình thành con người không do những quyết định to lớn đâu, vì con người ít có những quyết định to lớn trong cuộc sống nhưng có rất nhiều những quyết định nho nhỏ từng lần, từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm…. Những quyết định hẹp hòi, nhỏ nhen, ích kỷ thì ngày mai chúng ta sẽ trở thành những con người như thế… Nếu ngày hôm nay chúng ta quảng đại, bác ái, chúng ta yêu thương thì ngày mai chúng ta sẽ bác ái, sẽ yêu thương. Như thế chính những quyết định nho nhỏ sẽ hình thành con người chúng ta trong tương lai. Lạy Chúa, xin soi sáng cho chúng con để chúng con luôn chọn Chúa và những điều đẹp lòng Chúa, khi chúng con phải chọn lựa giữa cuộc sống hằng ngày đầy khó khăn và phức tạp này. Amen.

LM Thiên Minh, CMC

-----------------------------

 

TN 21-B87. Đường đi khó


CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN

(Ga 6,54a.60-69)

 

Tất cả những người Công giáo, cần phải xác nhận hai điều:  1- Theo đạo, là đi theo Chúa Giêsu.: TN 21-B87


          Tất cả những người Công giáo, cần phải xác nhận hai điều:

          1- Theo đạo, là đi theo Chúa Giêsu.

          2- Và hành trình theo Chúa, là hành trình của Niềm Tin.

          Niềm tin sơ khởi, nhưng cũng là niềm tin lớn nhất, đó là tin rằng: Chúa Giêsu chính là Ngôi Hai Thiên Chúa. Để rồi, khởi đi từ đây, ta mới có thể hiểu được những việc Ngài làm, và những lời Ngài nói. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, cho nên, Ngài có thể làm được những điều mà con người không thể làm được. Mà cũng vì vậy, mà có những điều Ngài nói, con người chẳng làm sao có thể hiểu thấu.

          Chẳng hạn, một trường hợp điển hình, như trong câu chuyện hôm nay. Tại hội đường Caphacnaum: Chúa Giêsu nói tới bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ lập: “Ai ăn thịt, và uống máu tôi, thì được sống muôn đời.” Rất đông người đã xầm xì; ngay cả nhiều môn đệ cũng thế. Bởi vì, họ chỉ nghĩ theo suy nghĩ bình thường trần gian. Họ nghĩ rằng: Chúa Giêsu sẽ cho họ ăn thịt sống. Họ không thể nào hiểu nổi rằng: Thiên Chúa có thể cho họ ăn và uống thịt và máu Ngài, nhưng bên ngoài, vẫn chỉ là bánh và rượu. Ngài đã tạo dựng nên bánh và rượu; đã cho chúng một bản thể. Giờ đây, Ngài có thể thay đổi bản thể của chúng, nên thịt và máu Ngài, nhưng bên ngoài, thì không thay đổi.

          Và đó, cũng là một mắt xích trong hành trình của niềm tin. Tin vào Chúa, là hoàn toàn phó thác đời mình trong tay Chúa, mà không thắc mắc, nghi ngờ. Chính vì vậy, khi thấy đã có những người rút lui, không theo nữa: Chúa Giêsu đã hỏi lại các môn đệ: Anh em có muốn bỏ đi không?

          Một sự tự do hoàn toàn. Phêrô đáp: Bỏ Thầy, chúng con biết theo ai. Hay! Phêrô trả lời tuyệt vời. Câu trả lời của ông, một lần nữa, xác nhận niềm tin của mình vào Chúa. Các ông đã nhận ra được, Chúa Giêsu đích thực là Thiên Chúa. Và vì vậy, những việc Chúa Giêsu làm, có thể mình không hiểu, vì mình quá kém, nhưng chắc chắn là KHÔNG THỂ VÔ LÝ.

          Hành trình theo Chúa, phải là hành trình của một đức tin ngời sáng. Bởi nếu không, tiếp sau lời mặc khải chân lý: Máu và thịt này, các ông sẽ ngã ngựa buông trôi, khi chứng kiến cảnh thua cuộc của Chúa Giêsu, khi bước vào tuần thương khó.

Câu hỏi:

1- Có bao giờ, bạn nghĩ, Chúa Giêsu đã nói dối, hay đánh lừa ta khi lập phép Thánh Thể.
2- Đặt niềm tin nơi Chúa Giêsu, hay nơi một người nào đó, bạn nghĩ, chỗ nào sẽ vững chắc hơn?

Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên

-----------------------------

 

TN 21-B88. Theo ai?

 

Cứ nhìn vào các nhà thờ đông nghẹt người xem lễ, thì ai cũng nói lòng đạo đức của người tín hữu TN 21-B88


Cứ nhìn vào các nhà thờ đông nghẹt người xem lễ, thì ai cũng nói lòng đạo đức của người tín hữu hôm nay thật là lớn. Tuy nhiên, cuộc sống của họ có đúng là đạo đức hay không? Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay sẽ giúp chúng ta xác định xem mình đang theo Chúa hay là đã xa lìa Ngài?

Thực vậy, nếu chúng ta chỉ dừng lại ở bí tích Thánh Thể mà thôi thì chưa đủ theo đòi hỏi của Tin Mừng. Bởi vì Lời Chúa phải được đem ra thực hiện thì mới trở thành bánh trường sinh được và mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa càng sâu sắc hơn nếu mỗi người biết chia sẻ cho nhau không những của cải vật chất mà còn cả tình thương trong cuộc sống.

Vẫn còn có nhiều người quan niệm đi lễ, giữ chay, đọc kinh, giữ luật đạo, lâu lâu bố thí cho kẻ nghèo hay dâng cúng cho nhà thờ, thì đã thể hiện được lòng đạo đức của mình. Còn ngay trong cuộc sống hằng ngày, họ không cần biết đến người láng giềng đang sống như thế nào? Không cần biết đến xóm làng đang có những vấn đề gì? Họ không cần để ý đến tình người ngay trong mối quan hệ bình thường với kẻ khác. Và như thế vô tình họ đã khoanh vùng hoạt động cho Chúa ở trong nhà thờ mà thôi, họ chưa đưa Chúa vào trong cuộc đời, đang lúc Chúa Giêsu lại sinh hoạt ngay giữa lòng xã hội loài người. Nếu sống đạo như thế, thì làm sao lời Chúa trở thành bán ban sự sống cho được?

Không ít người đã theo Chúa Giêsu chỉ vì phép lạ bánh hoá nhiều, nhưng rồi họ lại vội vã bỏ Chúa mà đi vì lời Ngài thật chướng tai, không thể chấp nhận được. Chỉ riêng nhóm 12 là đã xác tín rằng: Chỉ mình Chúa mới có Lời ban sự sống. Điều xác tín này đã rõ nét trong khi xây dựng cộng đoàn tiên khởi: mọi người bỏ của chung, chăm lo cho nhau và ai cũng no đủ, hạnh phúc.

Giáo Hội kết hợp với Đức Kitô, không chỉ trong các nghi lễ phụng tự mà mỗi người trong Giáo Hội phải sống với tinh thần của Ngài ngay trong cuộc sống hằng ngày. Xã hội vẫn còn những kẻ thiếu ăn, vẫn còn những bất công và áp bức, thì Giáo Hội vẫn còn có những vấn đề được đặt ra cho mình. Làm thế nào để ngày càng đẩy lùi những bất công, đói khổ và lạc hậu. Điều đó đồng nghĩa với làm thế nào để tỏ lộ khuôn mặt Đức Kitô một cách rõ nét nhất trong cuộc sống hiện tại.

Thiên Chúa không thích những của lễ, nhưng Ngài cần lòng nhân ái. Lễ vật nào có ích gì khi sự thù hận đố kỵ vẫn còn trong người tín hữu hay vẫn còn những kẻ đói khổ đau đớn bên cạnh mình. Xác tín đi theo Chúa trên con đường cứu độ là phải mang lấy nỗi ưu tư, ray rứt về một xã hội chưa được an vui hạnh phúc.

Vậy thì chúng ta đã theo Chúa như thế nào và đã thực hiện lời Chúa ra làm sao để lời Chúa thực sự đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu?

-----------------------------

 

TN 21-B89. Mầu nhiệm Giêsu


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

 

Đức Giêsu là một thực tại. Ngài hiện hữu như một sự kiện lịch sử. Ngài là người không dễ hiểu tuy dù người TN 21-B89


Đức Giêsu là một thực tại. Ngài hiện hữu như một sự kiện lịch sử. Ngài là người không dễ hiểu tuy dù người ta biết cha mẹ và dòng tộc Ngài. Ngài đã có những lời mà người đương thời không hiểu được, nhưng qua đó những người tin vào Ngài biết rằng Ngài có nguồn gốc thần linh: Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.

I. Lời nói của Đức Giêsu khó hiểu

“Mình Ta là thật của ăn, máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, sẽ được sống đời đời”. Làm sao chấp nhận được câu nói này, khi người ta biết Ngài từ nhỏ đã sống ở Nadarét, khi người ta biết cha mẹ Ngài là Yuse và Maria! Ngài không được học hành gì, không có gì trổi trang hơn người khác khi sống tại Nadarét. Không thể chấp nhận được lời nói này của Ngài, đó là chuyện thường tình. Kể cả một số môn đệ, những người đã từng thán phục lời giảng của Ngài trước đó, cũng không thể chấp nhận lời này: “lời chi sống sượng thế, ai nghe cho nổi”. Họ đã bỏ đi, không muốn làm môn đệ của Ngài nữa.

Đức Giêsu nói với nhóm 12: cả các anh nữa, các anh có muốn bỏ đi không? Phêrô được một ơn riêng nên trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời. Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Để chấp nhận lời của Đức Giêsu về chính Ngài, con người phải có ơn đặc biệt từ trên, vì những gì Ngài nói vượt trên cái bình thường. Đức Giêsu cũng biết điều này: “Không ai đến được với Ta, trừ phi được Cha Ta ban ơn đó”. Ngài cũng biết những gì Ngài nói không phải chuyện “thuộc hạ giới”.

Những biểu lộ bên ngoài diễn tả điều gì sâu kín bên trong. Lời nói diễn tả nội tâm và bản tính mỗi người. Đức Giêsu không chỉ là một con người; qua lời Ngài, người ta nhận ra còn cái gì rất đặc biệt nơi Ngài. Làm sao lý giải những gì Đức Giêsu nói về chính Ngài, khi những lời này cho thấy như thể Ngài còn hơn là một con người? Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội, thế mà Ngài lại nói: “Tội con đã được tha” (Mc.2, 7); Abraham là ông tổ của cả dân Do Thái, thế mà Đức Giêsu lại nói: “trước khi có Abraham, Ta là Ta” (Ga.8, 58); Thiên Chúa là Đấng vượt trên tất cả, thế mà có lúc Đức Giêsu lại nói: “Ta và Cha Ta là một” (Ga.10, 30). Nếu không phải là người mất trí, thì ắt hẳn còn một điều gì đó mà người ta chưa hiểu về con người Đức Giêsu.

II. Đức Giêsu là một sự kiện khó lý giải

Biến cố Đức Giêsu phục sinh, giúp những người thân thiết với Đức Giêsu, cụ thể là các tông đồ, hiểu hơn về Đức Giêsu. Nếu Ngài thuộc loại gian dối, phạm thượng, thì Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài. Nếu Ngài được phục sinh, ắt hẳn những gì Ngài nói về Ngài phải là sự thật. Vậy Đức Giêsu là ai? Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa như thế nào? Đức Giêsu là một vấn đề cho con người thời đó, và cho cả con người thời nay nữa.

Với những người đơn thuần nghĩ Ngài là người phạm thượng, cái án tử hình dành cho Ngài thật là chính đáng. Nhưng biến cố phục sinh cho thấy cách nghĩ như vậy là không thỏa đáng và sai lầm. Vậy Ngài là ai? Các môn đệ thân tín, nhóm 12, có câu trả lời về người thầy thân yêu của họ. Ngài là tiên tri và còn hơn một tiên tri, Ngài là Đấng Kitô và còn hơn một Đấng Kitô, Ngài là con Thiên Chúa và còn hơn là con Thiên Chúa như những người công chính từng được gọi là con Thiên Chúa. Vậy Ngài là ai?

Tin Mừng Gioan diễn tả Ngài là Lời đã thành xác phàm (Ga.1, 14). Một số người diễn tả Ngài là con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt. Đức Giêsu cũng thắc mắc về điều người ta nói về Ngài: “người ta bảo Con Người là ai?” Đức Giêsu có vẻ hài lòng với câu trả lời của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Tuy nhiên, điều này cũng không rõ ràng lắm với con người ngày nay, vì có nhiều Đức Kitô, nghĩa là nhiều người được xức dầu, nhiều người là Đấng Thiên Sai, chẳng hạn Môsê, Đavít. Cũng có nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn các thiên thần, những người công chính, các vị vua. Công Đồng Chung Nicea sau này (năm 325) xác định, Ngài là con đồng bản tính với Thiên Chúa. Công Đồng Chung Chalcedoine xác định Ngài có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính con người, Ngài thực sự là người và thực sự là Thiên Chúa. Công Đồng Chung Epheso xác định Ngài là một ngôi vị Thiên Chúa trong hai bản tính. Dù thế nào chăng nữa, những tín điều về Đức Giêsu Kitô của Hội Thánh sau này, là để giúp các tín hữu hiểu đúng những mặc khải đã được tỏ lộ cho các tông đồ. Đức tin của Giáo Hội tựa trên nền tảng các tông đồ. Đức tin của các Kitô hữu, là đức tin tông truyền.

III. Mở lòng đón nhận sự kiện Giêsu Kitô

“Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Không thể hiểu lời này, vì xưa nay chưa có lương thực nào cho con người sự sống vĩnh cửu. Vậy làm sao có thể chấp nhận lời nói này! Hơn nữa, con người Giêsu cũng mong manh như bao người, vậy Giêsu lấy gì để bảo đảm cho lời nói của Ngài là đáng tin, là sự thật?

Đức Giêsu là một sự kiện, một biến cố, và là một mầu nhiệm. Những từ ngữ và lý giải, là để hiểu đúng và hiểu hơn về Đức Giêsu Kitô. Người ta chưa hiểu hết về Ngài, người ta đang cố gắng hiểu và diễn tả về Ngài. Có thể, mỗi một diễn tả giúp con người hiểu hơn về mầu nhiệm Giêsu; và có thể, cũng che khuất Ngài dưới một khía cạnh nào đó. Một điều đáng mừng là ngày nay người ta vẫn còn đang truy tìm về Đức Giêsu Kitô, người ta đang cố gắng diễn tả về Đức Giêsu Kitô với hy vọng giúp con người ngày nay hiểu và chấp nhận Đức Giêsu Kitô hơn. Tất cả những điều này cho thấy, Thánh Thần Thiên Chúa vẫn đang hoạt động nơi con người ngày hôm nay một cách rất sống động.

Xin cho con người ngày nay biết mở lòng và đón nhận mầu nhiệm Giêsu Kitô, và xin cho mầu nhiệm Giêsu Kitô soi sáng mầu nhiệm con người, giúp con người sống an bình và hạnh phúc trên đường trần gian này.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Bạn có câu hỏi hoặc thao thức gì về Đức Giêsu?
2. Đức Giêsu có ảnh hưởng nhiều trên đời bạn không? Xin bạn cho biết điều đó.

-----------------------------

 

TN 21-B90: Lòng trung thành – Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

 

Chúng ta vẫn thường hay nghe nói người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Chính bản thân nhiều TN 21-B90


Chúng ta vẫn thường hay nghe nói người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Chính bản thân nhiều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống, đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều có thể bất trung thất tín. Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối dây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả.

Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thuở bình minh của nhân loại, thế giới, theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài. Nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm hai ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó, mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.

Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn…, đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron. Không dừng ở đó, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc để giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu?... Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn…” (Ds 11, 12tt). Trong sa mạc, lòng dân quên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại, nhiều lần họ đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.

Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất trung của dân Người. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ các thần khác”, và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bậc lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoan dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội – nổi giận – tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.

Đó là bài đọc I trích trong sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá… Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến thời điểm diễn ra cuộc thương khó của Thầy, chưa được bao lâu. Vì một chút sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!

Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Hội Thánh mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành trong ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoan dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫn có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.

-----------------------------

 

TN 21-B91: Lời Hằng Sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Sau khi ông Môisen qua đời, ông Joshua, con của ông Nun, lên kế vị dẫn dân Do-thái vượt qua sông TN 21-B91


Sau khi ông Môisen qua đời, ông Joshua, con của ông Nun, lên kế vị dẫn dân Do-thái vượt qua sông Jordan vào miền Đất Hứa. Toàn dân và gia đình ông Joshua đến trước Thiên Chúa ở giữa công đường, ông Joshua gợi ý cho dân chọn lựa tôn thờ Thiên Chúa hay tôn thờ các thần dân ngoại:Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Jos 24, 15). Dân chúng và gia đình ông Joshua đã chọn Thiên Chúa làm phần gia nghiệp. Ông Joshua đã trở thành người lãnh đạo tín trung và can đảm dẫn đưa dân vào miền đất chảy sữa và mật như lời đã hứa.

Dân Do-thái đã chọn đi theo Chúa tiến vào miền Đất Hứa nhưng rồi chẳng được bao lâu, dân chúng quên lời đã thề hứa. Họ bỏ Chúa, chạy theo các thú vui trần thế, tôn thờ các tà thần và sống theo thói tục của dân ngoại. Chúa phạt tội lỗi của họ, nhưng rồi Chúa lại tha thứ. Lịch sử cứu độ cứ thế lập đi lập lại với hết dòng dõi này sang dòng dõi khác. Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn đợi chờ. Qua các thử thách, Thiên Chúa hé mở những mầu nhiệm cao siêu trong cuộc sống bình thường. Từ những biến cố xảy ra hằng ngày, Thiên Chúa lại mở thêm những cánh cửa để dẫn con dân đi tìm về nguồn yêu thương. Không có một sự cố nào xảy ra mà không ghi dấu ấn tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa. Con đường cứu độ là con đường tình yêu và tha thứ. Yêu thương là ban tặng và dâng hiến. Thiên Chúa trao cho nhân loại bánh hằng sống, chính là Con Một của Thiên Chúa.

Sau khi Chúa Giêsu đã mạc khải về bánh ban sư sống bởi trời là thịt và máu Chúa, có nhiều người khó chịu về giáo lý này. Họ nói rằng: Lời này chói tai qúa! Ai nghe được. Chúa Giêsu biết rõ lòng họ nhưng Chúa không rút lại lời đã nói. Chúa không ngại để họ được tự do ra đi. Ngay cả các tông đồ, Chúa đã hỏi: Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không? Phêrô thưa: Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Chúa không muốn mị dân để làm vừa lòng mọi người. Chúa cho chúng ta được tự do chọn lựa thái độ. Chúng ta không thể đi nước đôi theo kiểu bắt cá hai tay. Tông đồ Phêrô đại diện cho anh em tuyên xưng niềm tin một cách xác tín: Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.

Thái độ của Chúa Giêsu khác biệt thái độ của nhiều nhà lãnh đạo. Các lãnh tụ thế gian muốn mình trở thành số một, có quyền hành và muốn được người khác phục vụ. Người cầm quyền dùng nhiều thủ đoạn tìm vinh quang và thu gom cho mình mọi thứ ở trần gian. Họ thường dùng những lời hứa suông vượt trên khả năng và quyền hạn của họ để bảo đảm sự an toàn cho người khác. Họ muốn giới hạn tự do và ngay cả quyền thiêng liêng của con người để phục vụ cho chính sách và đường lối chính trị của phe nhóm họ. Trái lại, Chúa Giêsu không tìm vinh quang cho chính mình. Ngài qui mọi vinh quang và danh dự về Chúa Cha.

Khi Chúa chữa lành cho người phung hủi. Chúa nói với anh: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết (Mc 1, 44). Chúa chối từ sự tôn vinh của người đời. Khi Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no nê, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã từ chối. Chúa Giêsu từ trời hạ sinh làm người, nhưng Chúa lại chọn con đường phục vụ từ dưới thấp đi lên. Chúa khiêm hạ trong phục vụ. Chúa cúi xuống rửa chân cho các tông đồ. Khi Chúa xua đuổi qủy ám ra khỏi người đàn ông Gerasene, ông ta muốn ở lại với Chúa: Nhưng Chúa không cho phép, Người bảo: "Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào (Mc 5, 19). Chúa mời gọi mọi người đi theo Chúa để được lãnh nhận ơn cứu độ, nhưng Chúa không ép buộc hay cưỡng bức. Chúa để họ được hoàn toàn tự do lựa chọn.

Chúa Giêsu là thủ lãnh, là chủ chiên tốt lành và là Chúa đầy lòng xót thương. Chúa đã thí mạng sống vì đàn chiên. Trong vườn Cây Dầu, trước lúc bị bắt trói và dẫn đi, Chúa đã yêu cầu quân lính cho các tông đồ được tự do.Đức Giêsu nói: "Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi (Ga 18, 8). Chúa còn có những sứ mệnh khác cho các tông đồ. Các Ngài sẽ nên nhân chứng cho sự đau khổ, sự chết và sự sống lại của Thầy. Chúa không hứa một cuộc sống sung túc, đầy đủ, an bình và hưởng lạc, nhưng là con đường thánh giá có nhiều chông gai. Chúa đáp lời môn đệ muốn đi theo: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu (Lc 9, 58).

Lời Chúa là thần trí và là sự sống. Tác giả thơ Do-thái đã viết: Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử (Dt 1, 1-2). Qua Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta về tình yêu của ơn cứu độ. Lời của Chúa Giêsu là lời hằng sống. Lời Chúa có uy quyền tác động biến đổi và có hiệu qủa ngay: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy (Ga 6, 56). Chúa Giêsu đã từng chữa lành các bệnh nhân qua lời của Ngài.Người bảo anh bại tay: "Anh giơ tay ra! " Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường (Mc 3, 5). Khi Chúa Giêsu đang ngủ trên tàu gặp sóng gió:Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: "Im đi! Câm đi! " Gió liền tắt, và biển lặng như tờ (Mc 4, 39). Thánh Phêrô chỉ cho chúng tabiết rằng Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.

Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô đã khuyên dạy chúng ta: Anh em hay phục tùng nhau trong sự kính sợ Thiên Chúa (Eph 5, 21). Phaolô dùng hình ảnh của Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội để nói về việc vợ chồng phục tùng lẫn nhau trong đời sống hôn nhân gia đình:Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy (Eph 5, 25). Giáo Hội luôn gắn kết với Chúa Kitô là đầu. Lời Chúa là kim chỉ nam và là nguồn sống của Giáo Hội. Thánh Kinh và Thánh Truyền là hai nguồn bảo chứng giúp Giáo Hội tồn tại.Giáo Hội tin tưởng vào quyền năng thánh hóa qua lời hằng sống:Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống (Eph 5, 26).

Chúng ta lắng nghe, học hiểu, nhận biết và thực hành lời Chúa. Lời Chúa là lời quyền năng giúp chúng ta biến đổi nội tâm. Chúng ta cần học hỏi để có những kiến thức về đạo, nhưng điều quan trọng là tri và hành. Giống như chúng ta cầm được tấm bản đồ, chúng ta học biết các vị thế và nơi chốn nhưng chúng ta chỉ ngồi một chỗ thì sẽ chẳng bao giờ tới nơi. Lời của Chúa Giêsu mở cửa tâm hồn dẫn chúng ta đến hạnh phúc. Thực thi lời Chúa là chúng ta đang đi trên con đường chính thật. Chúng ta không thể đốt giai đoạn, mà hãy suy niệm và sống lời Chúa trong từng giây phút và qua từng cách ăn nết ở trong cuộc sống hằng ngày. Dấu chỉ của người môn đệ của Chúa là:Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau (Ga 13, 35).

Lạy Chúa, bỏ Chúa, chúng con biết theo ai. Chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ và là nguồn an lạc cho đời chúng con. Chúng con xin chọn Chúa làm gia nghiệp và là nơi chúng con nương náu ẩn thân. Chúng con xin chúc tụng và ngợi khen danh Chúa đến muôn ngàn đời.

-----------------------------

 

TN 21-B92: TRUNG NGÔN NGHỊCH NHĨ


Chúa Nhật 21 Thường Niên, năm B

 

Câu thành ngữ “trung ngôn nghịch nhĩ” ( Hán-Việt ) bắt nguồn từ câu chuyện được ghi chép lại trong TN 21-B92


Câu thành ngữ “trung ngôn nghịch nhĩ” ( Hán-Việt ) bắt nguồn từ câu chuyện được ghi chép lại trong Sử Ký Tư Mã Thiên ( * ), trong giai thoại thứ 55 về quân sư tài ba Trương Lương ( 262 – 189 trước Công Nguyên ). Ý nói rằng những lời khuyên chân thành thường nghe không thuận tai và khiến người ta khó chấp nhận.

Đời nhà Hán ( năm 206 trước Công Nguyên đến năm 23 ), Hán Cao Tổ Lưu Bang sống sa hoa với hàng ngàn cung phi mỹ nữ. Phàn Khoái khẩn thiết tấu trình: “Tâu bệ hạ, ngài thấy trong cung có vô số châu báu và hàng nghìn mỹ nữ. Tất cả những thứ này chính là điều đã làm nhà Tần suy vong. Thần mong bệ hạ lập tức trở về doanh trại, bệ hạ không thể ở lại trong cung”.

Tuy nhiên, Lưu Bang bỏ ngoài tai những lời can gián của Phàn Khoái. Nghe vậy, Trương Lương vẫn dám nói thẳng: “Tần vương sống sa hoa, hung bạo và hủ bại. Đó là lý do dân chúng nổi dậy lật đổ ông ta và đánh bại quân Tần. Bệ hạ vừa mới lật đổ một Tần vương hung bạo bức bách dân chúng”. May thay, Lưu Bang đã nhận ra sai lầm mà quay về doanh trại và chấn chỉnh cách sống.

“Trung ngôn nghịch nhĩ” nghĩa là lời nói ngay thẳng thì nghe chướng tai. Người ta cũng nói “thuận ngôn nghịch nhĩ”, và được Việt hóa thành “nói thật mất lòng”. Vâng, thuốc đắng dã tật ( có người nói là giã, đã, đả ). Người dám nói thật là người can đảm, nhưng phải khôn ngoan để phân định nên nói lúc nào, nơi nào và với ai. Nói không đúng lúc, không đúng chỗ và không đúng người sẽ phản tác dụng. Tuy nhiên, phải nói thật vì công ích chứ không để chứng tỏ “bản lĩnh” của mình, và có thể lợi bất cập hại.

Một hôm, ở Sikhem, ông Giôsuê quy tụ mọi chi tộc Ítraen, đồng thời triệu tập các kỳ mục Ítraen, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ hiện diện trước nhan Thiên Chúa. Ông Giôsuê nói với toàn dân: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ, hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người Emôri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa” ( Gs 24, 15 ).
Tự do là điều Thiên Chúa cho chúng ta “tùy ý”, được toàn quyền sử dụng. Rất thoải mái, nhưng phải khôn ngoan mới biết sử dụng đúng đắn. Thật ra gọi là tự do nhưng chính sự tự do cũng có giới hạn nhất định của nó. Cái khó là ở chỗ đó.

Thật may là dân không có ý như ông Giôsuê nghĩ. Họ đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác ! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người Emôri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi” ( Gs 24, 16-18 ).

Ước gì tất cả chúng ta, những người đã được lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, trở nên con cái của Thiên Chúa, sẽ biết quan tâm như ông Giôsuê và dân Ítraen xưa, để có thể kiên trì giữ vững Đức Tin cho đến hơi thở cuối cùng. Có lẽ lúc này chúng ta có thể lặp lại câu ca dao Việt Nam: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, thì tôi vẫn vững như kiềng ba chân”. Cũng có thể coi chiếc kiềng-ba-chân đó là Tin-Cậy-Mến, ba đức đối thần cần thiết lắm.

Ngày xưa, nhiều lần có những lúc nổi lên các bè rối, tà thuyết. Ngày nay không thấy các dạng tương tự, nhưng vẫn luôn có những “làn sóng” nguy hiểm hơn sóng thần, bởi vì càng văn minh hiện đại thì người ta càng tinh vi trong cách chối bỏ Thiên Chúa. Từ nghi ngờ đến chối bỏ Đức Tin không xa bao nhiêu, có thể chỉ như một làn ranh mong manh mà thôi!

Vì thế, chúng ta luôn phải tự nhủ: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa” ( Tv 34, 2-3a ), đồng thời vì yêu thương mà nhắn nhủ với người khác: “Xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” ( Tv 34, 3b ).

Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, luôn chạnh lòng thương những người hèn mọn, thấp cổ, bé miệng, “họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” ( Tv 34, 18 ). Thật vậy, “Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề” ( Tv 34, 19 ), còn người công chính, “khi gặp nhiều nỗi gian truân, Ngài giúp họ luôn thoát khỏi” ( Tv 34, 20 ). Có được một vị Thiên Chúa như vậy thì làm sao có thể rời xa ? Chỉ có những kẻ khờ dại hoặc ngu xuẩn mới có mưu đồ phản loạn, muốn chống lại Ngài, muốn chối bỏ Ngài !

Tác giả Thánh Vịnh minh chứng: “Xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy. Quân gian ác chết vì tội ác, kẻ ghét người lành chuốc án phạt vào thân. Chúa cứu mạng các người tôi tớ, ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt bao giờ” ( Tv 34, 21-23 ).

Ai cũng đã từng được Chúa cứu thoát nhiều lần, bằng cách này hay cách khác, kể cả những người chưa chân nhận Ngài và tôn thờ Ngài. Chính Ngài đã xác định: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng biết Ta” ( Ga 10, 27 ). Nghe và sống Lời Chúa là chứng tỏ niềm tin vào Ngài, là sống đạo. Sống đạo từ đâu ? Từ chính việc tu thân và ngay tại gia đình mình.

Trình thuật Ep 5, 21-32 là lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô về việc “gia đình sống đạo” theo tinh thần Kitô giáo giữa đời thường: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau”. Tùng phục nhau không phải theo hệ lụy chủ nhân với tôi tớ, mà đơn giản là lắng nghe nhau, vâng lời nhau, yêu thương nhau, và phục vụ nhau.

Trước tiên, Thánh Phaolô nói về hệ lụy phu thê: “Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình”. Rất chi tiết và chí lý, vì vợ chồng tuy hai mà một, họ không còn là hai mà chỉ là một mà thôi ( x. Mt 19, 6 ).

Thánh Phaolô phân tích và dẫn chứng: “Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh”. Và ông kết luận: “Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng”. Nói chung, dù là ai cũng phải tôn trọng nhau, đặc biệt là vợ chồng – những người luôn ở bên nhau cả tinh thần và thể lý. Có tôn trọng nhau mới biết yêu thương nhau và phục vụ nhau theo lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô.

Người Anh có thành ngữ: “A friend in need is a friend indeed – Khi hoạn nạn mới biết bạn thật”. Người bạn thật không chỉ ở bên ta khi ta gặp khó khăn, mà còn dám nói thật mà không sợ ta mất lòng.

Trình thuật Ga 6, 61-70 là phần cuối của diễn từ mà Đức Giêsu đã giảng dạy trong hội đường ở Caphácnaum. Sau khi nghe Ngài nói chính Ngài là Bánh Trường Sinh và phải ăn uống Thịt Máu Ngài để được sống dồi dào, người Do Thái lùng bùng lỗ tai. Ngay cả nhiều môn đệ của Ngài còn nói: “Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?” Ôi chao, các môn đệ còn như vậy huống chi người ta ! Ngài biết tỏng là các môn đệ cũng đang xầm xì về vấn đề ấy, nên Ngài bảo họ: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư ? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao ? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”.

Và Ngài nói thẳng: “Nhưng trong anh em có những kẻ không tin”. Xấu hổ quá! Mắc cở hết sức! Mang tiếng là theo Thầy, được Thầy mở lòng trí và được thụ giáo bao điều hay lẽ phải, thế mà lại bị Thầy trách nặng nề như vậy. Sự thật mãi là sự thật, không thể biện hộ, và đừng tưởng mình “ngon lành” hơn người khác. Chúa Giêsu nói sự thật rành rành ra đó đấy thôi !

Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Ngài, vì Ngài thấu suốt mọi sự. Rồi Ngài nói tiếp: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Ngài nữa. Họ chịu không nổi vì “choáng”, vì nghe toàn là những lời “khó lọt lỗ tai”, thôi thì đành “bỏ của chạy lấy người” vậy.

Tùy. Không ép. Hoàn toàn tự do mà. Ngài biết có những người mạnh miệng nhưng nhát đảm, chết khiếp trước khi chết thật, thế nên Ngài hỏi thẳng Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?” Ui da ! Thầy ơi là Thầy, răng mà hỏi chi khó rứa hỉ ? Có lẽ ai cũng ngại trả lời nên ông Simôn Phêrô liền gãi đầu và đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Một câu xác định và tuyên tín mạnh mẽ, “bù lỗ” lần ông hồ nghi nên suýt chết đuối trên biển và bị Thầy chê là kém tin ( Mt 14, 25-31 ), và lần ông dám cản bước Thầy nên bị rủa là Satan ( Mc 8, 33 ).

Đức Giêsu đặt vấn đề: “Chẳng phải Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao ? Thế mà một người trong anh em lại là quỷ !” Ngài muốn nói về Giuđa, con ông Simôn Iscariốt, một môn đệ trong Nhóm Mười Hai, sẽ nộp Ngài. Chắc chắn lúc đó nhìn Chúa Giêsu “thấy thương” lắm, vì mặt Ngài buồn rõ nét nhưng chưa đến lúc tiện nói ra!

Thật không dễ để có thể bình thản sống theo câu “trung ngôn nghịch nhĩ”. Phải thực sự can đảm lắm. Học giả Tuân Tử ( 313-235 trước Công Nguyên, Trung Hoa ) đã phân định rạch ròi ba loại người chúng ta thường gặp trong cuộc sống: “Người chê ta mà chê đúng, đó là THẦY của ta; người khen ta mà khen đúng, đó là BẠN của ta; còn những kẻ nịnh bợ ta chính là KẺ THÙ của ta vậy”. Thầy – Bạn – Kẻ thù, các khoảng cách rất nhỏ. Cẩn tắc vô ưu !

Có một tư tưởng hay trong sách Luận Ngữ của Khổng Tử ( 551-479 trước Công Nguyên ) đáng để chúng ta cùng suy tư: “Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư yên; trạch kỳ thiện giả nhi tùng chi, kỳ bất thiện giả nhi cải chi – Ba người cùng đi, có một người là thầy ta; còn các khuyết điểm của họ, hãy lấy đó làm gương mà hoàn thiện chính mình”.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết chân thành đón nhận những ý kiến xây dựng của mọi người, dù họ già hay trẻ, để con có thể rút kinh nghiệm mà cố gắng hoàn thiện dần dần. Xin tha thứ tội-nhân-con, lạy Chúa, và ban tràn đầy Thần Khí Chúa để làm con nên mới từng ngày. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU
------------------
( * ) Bộ Sử Ký của sử gia lỗi lạc Tư Mã Thiên ( 135-86 trước Công Nguyên ) gồm hơn 130 thiên, ghi lại giai đoạn lịch sử từ năm 2600 đến năm 86 trước Công Nguyên.

-----------------------------

 

TN 21-B93: BÁNH LỜI CHÚA

 

Bài Phúc Âm hôm nay kết thúc Tin Mừng theo Thánh Gioan chương 6 với lời tuyên tín của Thánh Phêrô: TN 21-B93


Bài Phúc Âm hôm nay kết thúc Tin Mừng theo Thánh Gioan chương 6 với lời tuyên tín của Thánh Phêrô: chỉ có Chúa Giêsu mới đem lại Lời ban Sự Sống đời đời.

Khi Chúa Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì có sự sống đời đời”, lập tức nhiều môn đệ phản ứng: "Lời này chói tai quá, ai mà nghe được" ( Ga 6, 60 ). "Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa" ( Ga 6, 66 ). Thấy một số môn đệ bỏ đi, Chúa Giêsu hỏi nhóm mười hai: còn các con, các con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không ?

Thánh Phêrô trả lời: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống đời đời". Phêrô xác tín: Thầy có Lời ban sự sống, nên đã quyết tâm chọn Thầy: bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai ?

Chúa Giêsu là Bánh Trường Sinh – Bánh Thánh Thể và là Lời Ban Sự Sống – Bánh Lời Chúa, lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng nhân loại.

Khi nói đến Lời Chúa, nhiều người nghĩ ngay đến Sách Thánh Kinh. Đối với người Công Giáo, Lời Chúa có nhiều ý nghĩa và vượt trên Sách Thánh Kinh.

Cụm từ Lời Chúa có thể được dùng để nói về:

Lời Hằng Hữu, là Ngôi Hai của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Lời Thiên Chúa lúc tạo dựng, nhờ Người mà mọi sự hiện hữu được tạo thành.

Chúa Giêsu, Ngôi Lời làm người và ở cùng chúng ta.

Thánh Kinh, Lời được Thiên Chúa linh hứng và viết thành văn tự.

Truyền Thống của Giáo Hội, vang vọng cách trung thực Lời của Thiên Chúa cho mọi thế hệ.

1. Lời Hằng Hữu

Lời Chúa là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Lời Hằng Hữu của Thiên Chúa. Tin Mừng theo Thánh Gioan mở đầu: “Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa” ( Ga 1, 1 ).

Ngôi Lời Hằng Hữu vì Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa, và Ngôi Lời chính là Thiên Chúa. Ngôi Lời chính là Đức Giêsu Kitô. Đây là tâm điểm của tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhưng chỉ là Một Thiên Chúa Duy Nhất.

2. Lời Tạo Dựng

Sách Sáng thế mở đầu: “Lúc khởi đầu, khi Thiên Chúa sáng tạo trời đất” ( St 1, 1 ). Thiên Chúa tạo dựng tất cả mọi sự bằng cách dùng Lời mà phán: “Rồi Thiên Chúa phán: Hãy có ánh sáng, và liền có ánh sáng... Rồi Thiên Chúa phán: Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước” ( St 1, 3a.6a ). Mỗi ngày, Thiên Chúa tạo dựng bằng cách phán Lời Ngài. Vào ngày thứ sáu: “Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” ( St 1, 26a ). Lời được phán ra và người nam người nữ đã hiện hữu theo chính hình ảnh Thiên Chúa.

Sách Sáng Thế và Tin Mừng theo Thánh Gioan có một mối liên hệ đặc biệt. Sách Sáng Thế mở đầu với một câu chuyện tạo dựng tất cả mọi sự, bắt đầu với ánh sáng. Tin Mừng theo Thánh Gioan là câu chuyện tái tạo dựng về tinh thần đã được mạc khải và hoàn thành nhờ Đức Giêsu Kitô, ánh sáng thế gian.

Trong Sách Sáng Thế cũng như trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, nhờ Lời Tạo Dựng mà muôn vật được tạo thành: “Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và không có Người, thì không có gì được tạo thành” ( Ga 1, 3a ). Ngôi Lời Hằng Hữu của Thiên Chúa chính là Lời Tạo Dựng.

3. Ngôi Lời làm người

Ngôi Lời Hằng Hữu, Lời Tạo Dựng, nguồn mạch của tất cả những gì hiện hữu, đã làm người và ở giữa chúng ta: “Ngôi Lời đã trở thành nhục thể và ở giữa chúng ta. Và chúng tôi đã thấy vinh quang của Người,như vinh quang của Con Một Chúa Cha, đầy ân sủng và chân lý” ( Ga 1, 14 ).

Ngôi Lời đã làm người đó là Đức Giêsu Nadarét. Người đã ở giữa nhân loại trong một giai đoạn của lịch sử, ở vùng đất Palestina, làm người Do Thái, và sống dưới quyền đô hộ của Đế Quốc Rôma. Người đã chết và đã phục sinh. Người luôn ở giữa nhân loại trong Thánh Kinh, trong các Bí Tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, trong Giáo Hội, trong tha nhân và trong mỗi người chúng ta.

4. Thánh Kinh là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa

Thánh Kinh là Lời mạc khải của Thiên Chúa. Thánh Kinh là Lời được Thiên Chúa linh hứng. Thánh Kinh là Lời Chúa được các Thánh Sử ghi lại bằng văn tự qua dòng Lịch Sử Cứu Dộ.

Thánh Kinh là bức tâm thư Thiên Chúa gởi cho Dân được tuyển chọn. Công Đồng Vaticano II đã dạy: "Trong các Sách Thánh, Chúa Cha trên Trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ. Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội Thánh và là sức mạnh của Đức Tin, lương thực nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái của Hội Thánh” ( MK 21 ).

5. Yêu mến, học hỏi và sống Lời Chúa

Lời Chúa là chính Chúa Kitô. Thánh Giêrônimô nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô”. Học hỏi Lời Chúa để tìm được nguồn năng lực cho sức mạnh Đức Tin, lương thực thần thiêng nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu ( MK 21 ).

Lời Chúa là Sự Thật, “là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” ( Tv 119, 105 ). Chúng ta kín múc ánh sáng và sự khôn ngoan từ Lời Chúa để đời mình được chiếu soi và hướng dẫn.

"Lời Chúa trở thành niềm vui và hạnh phúc của lòng con" ( Gr 15, 16 ). Không có lời nào của loài người có thể đến với con người bằng một sự thâm sâu như Lời Thiên Chúa đến với họ.

"Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người" ( Dt 4, 12 ).

Lời Chúa có sức sống và quyền năng vô cùng bởi lẽ: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống”.

Lời Chúa quý giá như một viên ngọc, như kho báu. Ai yêu mến khám phá sẽ say mê, đến nỗi có thể bán hết mọi của cải tài sản để có được viên ngọc quý, có được kho báu ấy. Có những người chỉ cần khám phá một câu Tin Mừng thôi là thay đổi cả một cuộc đời. Chẳng hạn như Thánh Phanxicô Assisi, câu “Phúc cho những người nghèo khó” đã khiến ngài bỏ hết gia tài của cha mẹ để dấn thân vào một cuộc sống nghèo khó nhưng vô cùng hạnh phúc. Thánh Phanxicô Xaviê được đánh động bởi câu: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì”. Thánh nhân từ bỏ tất cả danh vọng thế tục dấn thân truyền giáo và đã đưa về cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng tìm thấy linh đạo “con đường thơ ấu” từ câu “Nước Trời thuộc về những trẻ nhỏ”…

Ngày Chúa Nhật 5.10.2008, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chủ sự Thánh Lễ khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới lần thứ 12 với chủ đề “Lời Chúa trong Đời sống và Sứ vụ của Giáo Hội”. Đức Thánh Cha đã gọi Đức Trinh Nữ Maria là môn sinh tuyệt hảo của Lời Chúa.

Mẹ Maria là một khuôn mẫu tuyệt vời cho chúng ta trong sứ vụ học hỏi, suy niệm và rao truyền Lời Chúa. Mẹ là người đã đón nhận Lời, đã cưu mang Lời thành xác phàm trong lòng dạ mình. Nhờ đó Mẹ đã sinh Lời cho nhân loại. Quá trình đón nhận, cưu mang, và sinh hạ chính là quá trình mà mỗi Kitô phải đi qua nếu muốn Lời Chúa mang lại hiệu quả cho mình và cho tha nhân. Vì thế, chiêm ngắm Mẹ Maria, học tập với Mẹ và cầu nguyện cùng Mẹ là một trong những cách thế tốt nhất giúp chúng ta chu toàn sứ mạng học hỏi, suy niệm và rao truyền Lời Chúa.

Mỗi Thánh Lễ là một bữa tiệc. Chúng ta được mời đến dự bàn tiệc Lời Chúa trước khi dự bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai đều là lương thực bổ dưỡng cho người tín hữu. Công đồng Vaticano ( PV 7 ) khẳng định rằng, khi chúng ta nghe đọc Lời Chúa trong Phụng Vụ thì Chúa Giêsu "hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội". Như thế Chúa Giêsu vẫn loan báo Tin Mừng trong từng Thánh Lễ ( PV 33 ). Chúa Giêsu vẫn trao cho chúng ta Tấm Bánh là Lời của Người.

Bổn phận của các Linh Mục là phải trình bày Lời Chúa như thế nào để Giáo Dân thấy được giá trị hấp dẫn của Lời Chúa.

Bổn phận của Giáo Dân là phải biết chăm chú lắng nghe để chính mình cũng khám phá ra được giá trị tuyệt vời của Lời Chúa.

Bổn phận của tất cả mọi tín hữu, Linh Mục cũng như Giáo Dân, là phải học hỏi, yêu mến và sống Lời Chúa. Nhờ học hỏi Lời Chúa mà mỗi người biết Chúa Giêsu. Nhờ suy niệm và cầu nguyện mà mỗi người gặp gỡ Chúa Giêsu. Nhờ sống Lời Chúa mà mỗi người yêu mến và bước theo Chúa Giêsu. Đời sống thiêng liêng cốt yếu dựa trên Chúa Giêsu và gắn bó với Người như “Cành nho gắn với thân nho” ( Ga 15, 5 ). Học hỏi, gặp gỡ, chiêm ngắm Chúa Giêsu, chúng ta được Lời Chúa biến đổi mỗi ngày. Từ đó dần dần nên giống Chúa Giêsu hơn, được nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, có được những tâm tình, thái độ và phản ứng của Chúa Giêsu.

Lời Chúa là tấm bánh thơm ngon cho những ai biết lắng nghe và đem ra thực hành. Càng sống Lời Chúa, chúng ta càng gặp được ánh sáng và sức mạnh, nhất là được hiệp thông mật thiết với Chúa Giêsu để cuộc đời mỗi người được biến đổi, có ý nghĩa, có giá trị.

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN

-----------------------------

 

TN 21-B94: "BỎ THẦY, CON BIẾT THEO AI ?"

 

Carlos Ballve được các bạn gọi bằng biệt danh “Litus”, chơi phòng thủ trong đội khúc côn cầu của TN 21-B94


Carlos Ballve được các bạn gọi bằng biệt danh “Litus”, chơi phòng thủ trong đội khúc côn cầu của Tây Ban Nha, đang tranh tài trong Olympic London 2012. Ngay sau khi cuộc tranh tài kết thúc, anh sẽ lên đường đến một Chủng Viện ở Bỉ để bắt đầu quá trình được đào tạo trở thành Linh Mục.

Theo nhật báo El Pais của Tây Ban Nha, mặc dù anh luôn nhận mình là tín hữu, nhưng mãi đến năm 2005, anh mới nhận thức được tầm quan trọng của Thiên Chúa trong cuộc sống của mình. Vào mùa hè năm đó, mọi thứ bắt đầu thay đổi khi anh tranh tài môn khúc côn cầu tại Giải Vô Địch Thế Giới lần thứ 21.

“Chúng tôi bắt đầu tranh đua một cách khủng khiếp. Tệ hơn nữa là vào một Chúa Nhật, tôi đi dự Thánh Lễ và đã đưa ra một thoả thuận với Chúa: Tôi nói với Chúa rằng nếu Người cho tôi đoạt được chức vô địch, tôi sẽ đi Medjugore ( nơi các cuộc Đức Mẹ hiện ra vẫn đang được Vatican nghiên cứu ) với cha tôi. Cuối cùng, chúng tôi đã làm nên lịch sử. Chưa bao giờ đội U-21 giành được huy chương, và chúng tôi đạt được hạng ba”.

Ballve đã giữ lời hứa của mình và hành hương đến Medjugore. Tuy nhiên, anh cho biết cuộc sống của anh vẫn không thay đổi, anh vẫn tiếp tục đi tiệc tùng với các cô gái, vung tiền nơi này chỗ nọ và rất ít khi cầu nguyện hoặc không có chủ ý cầu nguyện với Chúa. Anh kể lại: "Nhưng một điều gì đó trong tôi lên tiếng: Litus, bạn được tự do và bạn có thể làm những gì bạn muốn, nhưng ngay bây giờ chính bạn không thấy hạnh phúc".

Mặc dù đội của anh đứng hạng cao trong cuộc tranh tài, một lần nữa, anh đã quyết định từ bỏ tất cả để chỉ khao khát tìm kiếm Thiên Chúa. Anh nói với Người: “Con không biết mình đã làm sai điều gì. Có những điều kỳ lạ đang diễn ra. Con muốn được thanh sạch trước mặt Ngài, và này con đây, xin hãy làm những gì Ngài muốn." Cuộc sống của anh bắt đầu thay đổi, và anh chỉ cầu xin Chúa cho anh đạt được ước mơ của mình trong kỳ Thế Vận Hội mà thôi.

Ballve gọi thời gian của anh tại các cuộc tranh tài cho đến nay “là một kinh nghiệm lạ thường và quý giá”. Anh nói rằng anh hy vọng “không phải chỉ là giành chiến thắng, mà là được thăng tiến trong đời sống Đức Tin của mình, và chia sẻ điều này với những người từ khắp nơi trên thế giới” ( Mai Trang, Madrid, Tây Ban Nha, 3.8.2012, CNA/EWTN  News ).

Anh Ballve đã đạt đỉnh cao danh vọng trong đời cầu thủ của mình, nhưng anh đã không mê muội, mù quáng tiếp tục chạy theo hư danh phù phiếm, mà chỉ coi đó là cơ hội tìm đến với Chúa. Anh bất ngờ cảm nghiệm được quyền năng vô biên của Thiên Chúa, rồi dấn thân theo Người. Ông Phêrô trong Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay đã tìm ra chân lý cuộc đời: “Bỏ Thầy thì con biết theo ai ?”

Lửa Mến

Khi thân thưa với Đức Giêsu: “Bỏ Thầy, con biết theo ai ?”, ông Phêrô thực sự nồng nàn lửa mến. Không cần dấu diếm che đậy, cũng chẳng mắc cỡ, ngại ngừng thố lộ mối tình chân thành, mà công khai cho mọi người biết con tim của ông đã thuộc hẳn về Người. Ông đã từ bỏ gia đình, vợ con, nhà cửa, của cải, nghề nghiệp và cả tương lai để quyết tâm theo Đức Giêsu. Chẳng còn ai xứng đáng hơn Đức Giêsu để theo. Giờ đây, Người là tất cả tình yêu và hy vọng của Phêrô, là tất cả niềm vui cho những ai theo Chúa.

Vào thập niên 1960, phong trào Hippie lôi cuốn bao người yêu chuộng hòa bình, tình yêu, tự do và hạnh phúc, cũng từng yêu mến Đức Giêsu, tôn vinh Người là “Jesus, Super Star”, nhưng họ không có lòng trông cậy, niềm tin vào Người. Chính vì thế họ mới lao vào ma túy, cần sa, các chất gây ảo giác, để cảm thấy khoan khoái tự do, giải thoát khỏi những định chế xã hội. Lao vào tình dục, lầm tưởng đó là tình yêu, để hưởng thụ, tìm sung sướng nhất thời. Yêu chuộng hòa bình, họ biểu tình chống chiến tranh, bất bạo động, tưởng rằng sẽ cứu vãn thế giới khỏi bom đạn chết chóc, nhưng lại vô tình nhiệt thành ủng hộ cái ác, để cho sự dữ lên ngôi.

Lòng Cậy

Ông Phêrô không chỉ yêu mến Thầy Giêsu, mà còn hoàn toàn cậy trông vào Người. Dâng hiến, phó thác cuộc đời, trao thân gửi phận vào Người. Bởi vì “Thầy mới có những lời ban Sự Sống”. Chẳng có thần thánh nào khác có thể ban phát Sự Sống, chẳng vị thần nào có thể cải tử hoàn sinh, cũng chẳng có thần nào dám nhận lấy thân phận phàm hèn, nghèo khó, khiêm hạ, chịu khổ nạn, chịu đóng đinh và chịu chết để cứu thoát con người khỏi vòng trầm luân như Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Lời khẳng định đanh thép của ông Phêrô không phải ngẫu nhiên, tình cờ tự phát, mà chính là nhờ hồng ân Thiên Chúa mặc khải, soi sáng và hướng dẫn.

Chính ông Phêrô đã được tai nghe, được tận mắt chứng kiến những lời giảng dạy đầy sức thuyết phục và những phép lạ kỳ diệu của Đức Giêsu. Hơn nữa, ông còn được chọn là một trong ba môn đệ thân tín nhất, cùng với các ông Giacôbê và Gioan. Được Đức Giêsu ưu ái cho tiếp cận những sự kiện quan trọng, như cho con gái ông Giaia sống lại, biến hình và trong vườn Ghệtsimani.

Sau này, ông Phêrô còn công khai xác quyết lòng trông cậy trước hàng vạn người: “Ngoài Người ra, không ai đem lại Ơn Cứu Độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ" ( Cv 4, 12 ).

Niềm Tin

Theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha, Đức Chúa Thánh Thần soi sáng cho ông Phêrô mạnh dạn lên tiếng tuyên xưng niềm tin mãnh liệt vào Đức Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa !” mặc dù các vị chức sắc lãnh đạo tôn giáo trong dân luôn phủ nhận thần tính, luôn chống báng Người. Ông Phêrô đã mau mắn tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa, khi Đức Giêsu hỏi các môn đệ Người là ai. Đức Giêsu đã xác nhận chính Thiên Chúa Cha ban ơn khả ngộ đó: "Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên Trời” ( Mt 16, 17 – 18 ).

Niềm tin không đến từ khoa học, từ lý luận, suy gẫm, tìm tòi, lẫn triết học hay thần học, nhưng đến từ con tim, lửa mến, lòng trông cậy vào Thiên Chúa. “Vì ai có, sẽ được cho thêm; còn ai không có, cả điều mình tưởng có cũng sẽ bị lấy đi" ( Lc 8, 18 ). Ngài không bao giờ nỡ bỏ rơi những ai chân tình yêu mến và cậy trông vào Ngài.

“Con run sợ: vấp ngã, khó khăn, hiểu lầm, công kích, sỉ nhục, tử hình… Con quên Phúc Âm sao ? Chúa Giêsu đã chịu tất cả. Cứ theo Ngài con sẽ phục sinh” ( Đường Hy Vọng, số 47 ).

Lạy Chúa Giêsu, lòng trí chúng con còn quá vấn vương tục lụy, còn quá yếu đuối khi nghe rao giảng Lời Chúa, nên nhiều khi chúng con ngã lòng mà xúc phạm thốt lên, như dân Do Thái ngày xưa: “Lời này chói tai quá ! Ai nghe được !" Xin Người lượng tình tha thứ và thương xót đốt lên ngọn lửa mến, gia tăng lòng cậy và củng cố niềm tin, để chúng con biết cố gắng lìa bỏ dần thói đời, xa lánh đam mê, dục vọng phù phiếm, để được Chúa yêu thương, dẫn đưa về nẻo ngay, đường công chính.

Mẹ Maria ơi, xin Mẹ dẫn dắt chúng con trung kiên can đảm chọn Chúa, đi theo Chúa trọn đời như Mẹ, để chúng con được cảm hóa, biến đổi, canh tân, trở nên con ngoan của Mẹ, biết thân thưa với Chúa hai tiếng “Xin Vâng” suốt cuộc đời dưới thế này. Amen.

 AM TRẦN BÌNH AN

-----------------------------

 

TN 21-B95: THẦY MỚI CÓ LỜI BAN SỰ SỐNG


Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN, TN 21-B95năm B

Ga 6, 54a.60-69

 

Trong những tuần này, Tin Mừng của thánh Gioan cho chúng ta hiểu thật rõ về giáo huấn của TN 21-B95


Trong những tuần này, Tin Mừng của thánh Gioan cho chúng ta hiểu thật rõ về giáo huấn của Chúa Giêsu: Ngài quả quyết, Ngài là Bánh Trường Sinh, Bánh từ Trời xuống. Điều làm cho nhiều người ngạc nhiên, bỡ ngỡ và không tin khi Chúa quả quyết Ngài sẽ nuôi nhân loại bằng chính Thịt Máu của Ngài. Lời xác quyết này đã làm cho nhiều người Do Thái và ngay một số môn đệ của Chúa không tin. Do đó, đã có một số môn đệ bỏ Ngài…Tuy nhiên, thánh Phêrô đại diện cho nhóm 12 đã trả lời Chúa một cách hiên ngang, không hề nao núng:” Bỏ Thầy chúng con biết theo ai ? “( Ga 6, 68 ).

Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay cho thấy, các môn đệ có người cũng bị khủng hoảng về đức tin bởi vì chính các ngài đã gần gũi Chúa nhưng thực tế các ngài chưa hiểu gì về căn tính của Chúa. Các ngài khi được Chúa vén mở căn tính:” Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời “ ( Ga 6, 54a).Các ngài phản ứng:” Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi ?. Chúa đã quả quyết: Ngài từ Trời xuống. Điều này đã làm nhiều người Do Thái khó chấp nhận vì họ tưởng là đã biết rõ tông tích của Chúa Giêsu. Thực tế, tuy sống cùng làng với những người dân Nagiarét, họ hay nhiều người Do Thái lúc đó đã không thể tin vào Chúa vì họ quá thiển cận, quá thánh kiến đối với Chúa Giêsu. Chúa đã nói với các môn đệ: Ngài là Bánh bởi Trời, Ngài sẽ trở lại nơi Ngài đã ở trước, sau khi Ngài đã chịu chết cho nhân loại và nuôi con người bằng chính Máu Thịt của Ngài.Ngày nay, thực sự những lời của Chúa vẫn làm chướng tai cho nhiều người, vẫn có nhiều người không tin vào Ngài vì họ không được Thiên Chúa Cha lôi kéo nghĩa là Ngài không ban đức tin cho họ. Họ không có đức tin, nên không thể nào hiểu được công việc của Chúa. Đạo Công giáo la đạo đức tin.Nên, những mầu nhiệm như Nhập Thể, Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu, Mầu Nhiệm lên Trời, vẫn là những mầu nhiệm khôn dò, khó hiểu. Phải có lòng tin, phải được Chúa Thánh Thần soi sáng, phải yêu mến Chúa thật tình, con người mới biết, hiểu, đón nhận Lời Chúa, đón nhận chính Chúa.

Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa ( Ga 6, 66). Các môn đệ là những người đã đi theo Chúa, đã tin Chúa nhưng khi nghe Chúa quả quyết về căn tính, về con người thực của Người, họ đã bỏ Người mà đi. Họ không thể đi hết cuộc hành trình đức tin, họ không thể đi tới cùng cuộc phiêu lưu với Chúa. Trở thành môn đệ của Chúa không chỉ một lần là xong nhưng nó đòi hỏi người môn đệ Chúa luôn luôn phải phấn đấu, luôn luôn phải vượt thắng, luôn luôn phải đổi mới vv…Trở thành Kitô hữu cũng vậy. Nó đòi hỏi con người phải trở về, phải sám hối, phải đổi mới không ngừng. Bước theo Chúa Giêsu là bước vào một cuộc phiêu lưu, một cuộc mạo hiểm. Mạo hiểm của đức tin, mạo hiểm của đức ái vv…Đã có những môn đệ bỏ Ngài mà đi. Ngay nhóm 12 cũng có một môn đệ không đi hết cuộc mạo hiểm của tình yêu…

Đi theo Đức Kitô là bỏ chính mình hơn là bận tâm về mình. Đi theo Đức Kitô là vác thập giá của mình mà theo Ngài…Phêrô và các môn đệ khác đã làm được điều đó vì họ tin Chúa, tin Ngài mới có lời ban sự sống. Tin Ngài là Đường, là sự Thật, là sự Sống. Tin Chúa là Con Thiên Chúa ( Ga 6, 69 ). Họ không dừng lại ở của cải chóng qua, ở sự thiển cận, hời hợt bên ngoài:” Sao ông này lại có thể lấy thịt mình mà cho chúng ta ăn được “ ( Ga 6, 52 ).

Theo Chúa là một cuộc phiêu lưu, một cuộc mạo hiểm đầy gian nan.

Trong đời sống hằng ngày, trong cuộc hành trình đi theo Chúa, người Kitô hữu vẫn còn nhiều thử thách, nhiều chông gai cần phải vượt thắng…Người Kitô hữu sẽ thắng, sẽ vượt qua những chông gai, thử thách một cách anh hùng, nếu họ biết nhìn lên Chúa, biết bám chặt lấy Chúa…Mỗi khi gặp phong ba bão táp trong cuộc sống hãy có lòng tin như Phêrô:” Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa “ ( Ga 6, 52 ) và hãy xác tin như Phêrô:” Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời “ ( Ga 6, 68 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con không bao giờ nao núng trước những thử thách của cuộc đời.Xin cho chúng con luôn biết kêu cầu Chúa, tin tưởng vào Chúa vì chỉ có Chúa mới là Đấng duy nhất ban ơn cứu độ cho chúng con.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1.Chúa Giêsu quả quyết Ngài từ đâu tới ?
2.Ai mới có Lời ban sự sống ?
3.Phêrô tuyên xưng Chúa là ai ?
4.Phêrô có bỏ Chúa không ?
5.Theo Chúa được ví ra sao ?

-----------------------------

 

TN 21-B96: Lời Ban Sự Sống Đời Đời


Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XXI – B

(Ga 6, 61 – 70)

 

Khởi đi từ tình mục tử ấp ủ đoàn chiên bơ vơ không người chăn dắt (x. (Mc 6, 30-34), Chúa Giêsu đã TN 21-B96


Khởi đi từ tình mục tử ấp ủ đoàn chiên bơ vơ không người chăn dắt (x. (Mc 6, 30-34), Chúa Giêsu đã "chạnh lòng thương", làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng (x. Ga 6, 1-15). Từ của ăn vật, Chúa gợi lên trong họ sự khát vọng trường sinh, muốn được họ phải đi tìm Chúa, tin vào Chúa, ăn chính thịt và uống máu Chúa là bánh hằng sống từ Trời xuống (x. Ga 6, 16-60).

Với diễn từ của Chúa Giêsu về bánh hằng sống tại Hội đường Do thái ở Capharnaum, nhiều người bỏ Chúa, còn các môn đệ không chấp nhận điều ấy, họ nói: "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" (Ga 6, 60) Tại sao họ lại có thái độ khước từ Chúa đến như vậy? Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao ?

Có người khước từ

Vấn đề ở đây là "ăn thịt và uống máu" (Ga 6,54) một con người có tên là Giêsu, đồng hương với họ để được sống đời đời. Chúa Giêsu cố tình nói như thế, đây là một vấn đề rất cam go, một khúc quanh trong cuộc đời công khai của Chúa. Dân chúng, và cả các môn đệ, trước đây rất phấn khởi đi theo Chúa, thấy Chúa làm phép lạ; cả việc hóa bánh ra nhiều cũng là một sự mạc khải về Ðấng Messia, khiến họ muốn tung hô và tôn Chúa Giêsu làm vua Israel, nhưng chắc chắn ý Chúa Giêsu không như vậy. Với diễn từ dài, Chúa làm dịu bớt sự phấn khởi trong dân và tạo nên sự bất đồng nơi nhiều người. Chúa giải thích hình ảnh bánh ấy chính là Chúa và khẳng định Người đã được Chúa Cha sai đến để hiến mạng sống, ai muốn theo Người, thì phải kết hiệp mật thiết với Người, và tham gia vào hy tế tình thương của Người.

Khi nghe những lời ấy, dân chúng hiểu rằng ông Giêsu này không phải là Đấng Messia như họ tưởng. Người không tìm kiếm sự đồng thuận để chinh phục thành Giêrusalem; trái lại, Người muốn vào Thành để chia sẻ số phận của các vị ngôn sứ: hiến mạng sống trở nên tấm bánh vì Thiên Chúa và cho loài người. Những tấm bánh đó, được bẻ ra cho hàng ngàn người, không muốn khơi lên một hành trình đắc thắng, nhưng tiên báo hy tế trên Thập Giá, trong đó Chúa Giêsu trở thành Bánh được bẻ ra nuôi nhiều người, trở thành mình và máu được dâng hiến để đền tội cho thế gian được sống. Chúa muốn đám đông dân chúng tỉnh ngộ, nhất là khơi lên nơi các môn đệ một quyết định. Và thực tế là: "Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa " (Ga 6, 66)

Có người quyết tâm theo Chúa

Nếu có môn đệ nói: "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" (Ga 6, 60) trước sự hiến thân trọn vẹn của Chúa, là vì họ không muốn từ bỏ bản thân, để cho mình tham dự và biến đổi đến độ sống nhờ Chúa khi đón nhận hồng ân nay.

"Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" (Ga 6, 60), khó nghe vì người ta lẫn lộn tự do với không bị ràng buộc, coi Thiên Chúa như một giới hạn tự do, gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài. Chính ảo tưởng này tạo ra lo âu sợ hãi và dẫn tới sự tiếc nuối quá khứ. Người Do thái trong sa mạc đã nói: "Ước gì chúng tôi được chết vì tay Chúa ở đất Ai Cập..." (Xh 16, 3); còn Êlia thì thưa: "Lạy Chúa, đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi: vì con chẳng hơn gì các tổ phụ con" (1V 19, 4).

Tại thung lũng Sikhem, nơi tổ phụ Abraham và Xara trú ngụ. Giôsua kêu mời dân ra đứng trước tôn nhan Thiên Chúa và làm một quyết định dứt khoát: "Nếu các người không muốn tôn thờ Thiên Chúa, thì cho các ngươi lựa chọn … tôn thờ ai hơn: hoặc là các thần cha ông đã tôn thờ…hoặc các thần của người xứ Amôrê, nơi các ngươi đang ở, về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa". Dân trả lời "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần Ngoại, Chúa là Thiên Chúa chúng tôi" (x. Jos 24, 15-17).

Bài Tin Mừng hôm nay cũng đòi hỏi thính giả của Chúa Giêsu làm một quyết định tương tự sau khi nghe giảng về Bánh hằng Sống là máu thịt Chúa. Nhưng vì lời chướng tai của mình, họ đã bỏ đi, chỉ còn lại Phêrô và nhóm Mười hai. Phêrô mạnh dạn thưa: "Lạy Thầy chúng con biết sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" (Ga 6, 68).

 Hôm nay, chúng ta thưa với Chúa Giêsu rằng, lạy Chúa, trong sự khiêm nhường thẳm sâu, tin tưởng vào Chúa là Lời cuối cùng và chung kết của Thiên Chúa nhập thể, đến gặp gỡ chúng con. Chúa là Lời vĩnh cửu, trở thành manna đích thực, là bánh sự sống (x. Ga 6,32-35), chúng con muốn trung thành với Chúa bây giờ và mãi mãi, cũng như Phêrô: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" (Ga 6, 68).

Chúa có lời ban sự sống

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II dạy: Những ai ăn Đức Kitô trong Thánh Thể không cần phải chờ đến đời sau mới đón nhận được sự sống vĩnh cửu, nhưng họ đã chiếm hữu sự sống đó ngay đời này, như những hoa quả đầu tiên của sự viên mãn mai sau, sự viên mãn liên quan đến toàn thể con người. Trong Thánh Thể, chúng ta cũng nhận được bảo đảm là thân xác chúng ta sẽ được sống lại trong ngày tận thế: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" (Ga 6,54). Sự bảo đảm này về sự sống lại mai sau bắt nguồn từ sự kiện thân xác của Con Người, được trao ban làm của ăn, là chính thân xác trong tình trạng vinh hiển sau khi sống lại. Với Thánh Thể, chúng ta như thể biết được "bí mật" của sự sống lại. Vì thế, Thánh Inhatiô thành Antiokia đã định nghĩa cách xác đáng Bánh Thánh như là "linh dược đem lại sự bất tử, một phương thuốc diệt trừ sự chết".

Chiều hướng cánh chung được gợi lên trong Thánh Thể…Khi cử hành hy tế của Con chiên, chúng ta được liên kết với "phụng vụ" trên trời và trở nên thành phần của một đoàn người đông đảo lớn tiếng tung hô: "Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta" (Kh 7,10). Thánh Thể quả thật là một thoáng hiện của thiên đàng trên trái đất. Thánh Thể là một tia sáng huy hoàng của Giêrusalem thiên quốc xuyên qua lớp mây mù của lịch sử chúng ta và soi sáng cho cuộc hành trình của chúng ta. (Trích Thông Điệp  Ecclesia De Eucharistia số 18-19)

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

-----------------------------

 

TN 21-B97: CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN


Trung thành đi theo Chúa

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Gio-an 6:54a,60-69)

 

Ca-phác-na-um là nơi Chúa Giê-su khởi đầu sứ vụ.  Tại đây, Chúa đã tuyển chọn những môn đệ TN 21-B97


Ca-phác-na-um là nơi Chúa Giê-su khởi đầu sứ vụ.  Tại đây, Chúa đã tuyển chọn những môn đệ đầu tiên.  Họ bắt đầu tháp tùng Người trên khắp nẻo đường rao giảng Tin Mừng cứu độ, được nghe lời Người giảng và chứng kiến những phép lạ Người làm.  Tình thầy trò và anh em mỗi ngày một thêm thắm thiết.  Họ vui khi thấy dân chúng lũ lượt đến nghe Chúa nói và chen chúc nhau tới gần Người để được chữa lành.  Nhưng đôi khi các môn đệ cũng thất vọng, bực tức, khi người ta không tiếp đón Người, hoặc khi đám kinh sư và Pha-ri-sêu luôn tìm cách hạ uy tín Người trước mặt dân chúng.  Những điều mắt thấy tai nghe đã giữ họ trung thành với Chúa.  Tuy nhiên hôm nay thì thử thách đã xuất hiện.  Thử thách xảy đến do chính những lời giảng của Chúa, “lời chướng tai quá, ai mà nghe nổi” về việc ăn thịt và uống máu Người.

          Những lời “ai mà nghe nổi” này đã khiến cho đám dân chúng đang hồ hởi về phép lạ bánh hóa nhiều nay đổi ý và kéo nhau bỏ đi hết rồi.  Chỉ còn lại các môn đệ thôi!  Họ xầm xì, tuy không dám ra mặt phản đối Chúa như đám dân chúng.  Chúa Giê-su không chịu bỏ cuộc, còn nước còn tát, cố gắng giải thích cho họ hiểu tại sao Người cứ nhất định nói những lời chướng tai ấy.  Sở dĩ chướng tai là vì người nghe không hiểu đúng, chứ không phải vì là những lời không phù hợp với lối suy nghĩ loài người.  Muốn hiểu những lời ấy, người ta phải nhìn nhận được Chúa Giê-su từ đâu đến và Người đến làm gì.  Cho nên Người lập lại với họ rằng Người từ trời xuống để đem sự sống cho nhân loại, vì xác thịt “chẳng có ích gì”.  Muốn đến với Đấng từ trời xuống, phải có ơn của Chúa Cha.  Muốn hiểu ý nghĩa lời Chúa nói về thịt máu Người, phải nhìn nhận vai trò của Thần Khí.  Tóm lại, Chúa Giê-su từ trời đến là để đem cho chúng ta Thần Khí, sự sống của Thiên Chúa.  Chỉ sự sống này mới trường tồn như Thiên Chúa là Đấng vĩnh cửu.

          Đã hết lời giải thích rồi mà các môn đệ vẫn chưa hiểu hoặc chưa muốn hiểu.  Kết quả là “từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”.  Cũng may chỉ nhiều môn đệ rút lui thôi, còn Nhóm Mười Hai thì ở lại đầy đủ.  Nhưng họ cần phải tỏ ra quyết tâm trung thành với Chúa.  Chúa muốn họ biểu lộ quyết tâm này khi Người dứt khoát hỏi họ:  “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”  Câu hỏi sao mà não nề thế, tuy Chúa Giê-su vẫn luôn tôn trọng tự do của họ.  Làm môn đệ Chúa không thể bị ép buộc.  Nếu như họ bỏ đi, chắc chắn Chúa sẽ làm lại từ đầu.  Tuy nhiên chính lúc đen tối nhất lại là lúc ánh sáng cuối đường hầm xuất hiện.  Ông Phê-rô quả là người được tuyển chọn để trung thành và giúp người khác trung thành.  Trong đời, có hai lần ông tuyên xưng đức tin và một lần tuyên xưng tình yêu.  Lần đầu ông tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, là nhờ Thiên Chúa Cha mách bài cho ông.  Còn hai lần sau là ông nói lên tự lòng mình:  “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?  Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”, và “Lạy Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.  Chúng ta thử tưởng tượng xem Chúa Giê-su cảm động biết bao nhiêu, chắc là đến chảy nước mắt!  Ôi, nghe mà sao mát ruột thế!

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Câu chuyện phép lạ bánh hóa nhiều và diễn từ về Bí tích Thánh Thể không dừng lại ở chính sự kiện,      nhưng đưa người ta tới một hệ luận phải có trong đời Ki-tô hữu:  “Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.  Lần này không phải ông Phêrô nói mà không hiểu mình nói gì.  Nhưng ông đã nói bằng trái tim (“chúng con đã tin”) và bằng cả đầu óc (“nhận biết”) của ông nữa!

          Chúa cũng muốn ta đi vào mối tương quan (tin) với Người và xác tín (nhận biết) sứ mệnh của Người là thánh hóa ta bằng lời Chúa cùng với Bí tích Thánh Thể.  Thánh Phao-lô đã nêu lên mối tương quan giữa Chúa Giê-su và Hội Thánh như là gương mẫu cho mối tương quan giữa Chúa và chúng ta (Ê-phê-xô 5:21-32).  Còn lời tuyên xưng của ông Phê-rô vừa nhắc nhở vừa khích lệ chúng ta đến với Chúa Giê-su, vì quả thực Chúa Cha đã ban ơn cho chúng ta được đến với Chúa Giê-su rồi.  Việc của ta là có trung thành hay không!

           Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

-----------------------------

 

TN 21-B98: CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN B


Gs 24,1-2a.15-17.18b ; Ep 5,21-32 ; Ga 6,54a.60-69

THẦY MỚI CÓ NHỮNG LỜI ĐEM LẠI SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Ga 6,54a.60-69

(54a)  Khi nghe Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời”, (60)  nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?” (61)  Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư ? (62)  Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao ? (63)  Thần Khí mới lam cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống. (64)  Nhưng trong anh em có những kẻ không tin”. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. (65)  Người nói tiếp: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. (66)  Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa. (67)  Vậy Đức Giêsu hỏi Nhóm 12: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?” (68)  Ông Si-mon Phê-rô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. (69)  Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.

2. Ý CHÍNH:

 

Sau khi nghe Đức Giêsu giảng về Bánh Hằng Sống, tức là bí tích Thánh Thể mà Người sẽ ban, thì thính TN 21-B98


Sau khi nghe Đức Giêsu giảng về Bánh Hằng Sống, tức là bí tích Thánh Thể mà Người sẽ ban, thì thính giả chia thành hai phe: Một số khá đông, trong đó có cả các môn đệ của Người, cho rằng lời ấy chói tai, không thể chấp nhận được và đã bỏ không còn theo Người nữa (c. 66). Riêng Nhóm 12, khi được hỏi thì Si-mon Phê-rô đã đại diện Nhóm tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68).

3. CHÚ THÍCH:

- C 54a.60: + Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời: “Thịt và Máu” Đức Giêsu là Bánh Thánh Thể sẽ được Người ban trong bữa tiệc Vượt Qua (x Mt 26,26). Do đó Thịt và Máu Đức Giêsu nói đây chính là Thánh Thể của Người, sẽ trải qua cuộc khổ nạn và phục sinh, như một hy lễ đền tội để ban sự sống cho trần gian. + Nhiều môn đệ của Người: Môn đệ là những người nhận Đức Giêsu làm Thầy (Ráp-bi), nghe và thực hành Lời Chúa, tích cực cộng tác với Người thi hành sứ vụ tông đồ. Đức Giêsu có hai nhóm môn đệ là nhóm bảy mươi hai (x. Lc 10,1)  và Nhóm mười hai (x Ga 6,66). + “Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?”: Khi nghe Đức Giêsu nói sẽ lấy Thịt Máu mình cho người ta ăn uống, thì các môn đệ cũng như đám đông dân Do Thái không chấp nhận. Phần vì không ai xẻ thịt mình ra cho người khác ăn, hay lấy máu mình cho người khác uống  ! Đàng khác, Luật Mô-sê cấm ăn máu huyết, vì máu được coi là sinh khí tụ lại, chỉ được dành riêng cho Đức Chúa là chủ tể của sự sống. Luật Mô-sê qui định: “Các ngươi không được ăn máu huyết của bất cứ xác thịt nào, vì mạng sống của mọi xác thịt là máu của nó. Bất cứ ai ăn máu huyết sẽ bị khai trừ” (x. Lv 17,14).

- C 61-62: + Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư ?: Ba điều người Do Thái và môn đệ xầm xì không chấp nhận: Một là Đức Giêsu tự nhận mình là Bánh hằng sống, đang khi cha ông họ xưa dù đã ăn Man-na mà vẫn phải chết (x. Ga 6,49). Hai là Người tuyên bố mình từ trời mà đến, đang khi họ biết rõ tông tích của Người (x Ga 6,42). Ba là Người khẳng định: “Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống” (Ga 6,55), đang khi luật Mô-sê cấm uống máu và ăn thịt các con vật chết ngạt, vì còn có máu trong thịt (x. Lv 17,10). + Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao ?: Đức Giêsu cho các môn đệ bằng chứng để tin Người là Đấng Thiên Sai và tin lời Người giảng là sự thật. Bằng chứng ấy là Người sẽ từ cõi chết sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Ga 3,13), đúng như thị kiến về vai trò và sứ mệnh của Con Người trong sách Ngôn Sứ Đa-ni-en (x. Đn 7,13).

- C 63-64): + Thần khí: Là một từ ngữ mang nhiều ý nghĩa như sau: Một là gió: Có đặc tính vô hình (x Ga 3,8). Gió có khi trở thành bão để Đức Chúa trút cơn lôi đình hủy diệt những kẻ gian ác (x. Ed 13,13). Hai là hơi thở: Tuy yếu ớt, nhưng lại là sức mạnh nâng đỡ và là điều kiện giúp thân xác sống động. Con người sẽ chết khi không còn hơi thở do Thiên Chúa phú ban (x. St 2,7; 6,3). Ba là linh hồn: Bao lâu Thần khí còn ở với con người, nó biến xác thịt bất động thành sống động, Thần Khí ấy gọi là linh hồn (x. St 2,7). Chết là khi con người trút hơi thở trả linh hồn về cho Thiên Chúa (x. Tv 31,6 ; Lc 23,46). Bốn là một đặc tình của Thiên Chúa: “Thiên Chúa là Thần Khí” (Ga 4,24)  nên người ta phải thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và Sự Thật (x. Ga 4,24). + Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì !: Việc tạo dựng con người đã được sách Sáng Thế thuật lại như sau: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Như vậy xác thịt chỉ là bụi đất, không thể sống động nếu không được Thiiên Chúa phú ban thần khí gọi là linh hồn. Chính thần khí ấy mới làm cho con người sống động. Khi thân xác ngừng thở là lúc thần khí xuất ra khỏi thân xác, và thân xác ấy trở thành xác chết, nên chẳng còn ích gì ! + Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống: Lời Chúa chính là Thần Khí thiêng liêng, là Lời phát xuất từ Thiên Chúa, nhằm mặc khải các mầu nhiệm và các việc làm của Thiên Chúa cho loài người (x. Xh 20,2), các giới răn và các điều sắp xảy đến (x. St 15,13-16). Lời Chúa sẽ ban Sự Sống đời đời cho con người (x. Ga 6,68), nếu họ biết lắng nghe (x. Mt 13,23), tìm hiểu và xin vâng (x. Lc 1,34.38), tuân giữ (x. Lc 8,15), và nhất là đem ra thực hành (x. Lc 6,47.49). + Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người: Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã có cái nhìn tiên tri và thấy trước sự bất tín của Giu-đa (x. Mt 26,14-16). Tin mừng Gio-an viết như sau: “Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói “Không phải tất cả anh em đều sạch” (Ga 13,11).

- C 65-66: + Không ai đến với Thầy được nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho: Đức tin là một ơn do Thiên Chúa ban cho loài người, để họ tin Đức Giêsu là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng Sống” (x. Mt 16,16), lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy để được vào Nước Trời và sẽ được sống muôn đời (x Ga 6,44.47). + Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa: Lý do nhiều môn đệ bỏ Đức Giêsu là do họ không tin Người là Đấng Thiên Sai (x. Ga 6,29.40), không tin Người là Bánh Trường Sinh từ trời mà đến (x. Ga 6,32-38), không chấp nhận lời tuyên bố Người sẽ lấy Thịt mình mà cho họ ăn (x. Ga 6,52). + Nhóm Mười Hai: Đức Giêsu đã lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn (x. Mc 3,13) Sau khi cầu nguyện suốt đêm, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ (x. Lc 6,12-13). Nhóm Mười Hai này tượng trưng cho mười hai chi tộc Ít-ra-en Mới là Hội Thánh. Sau này các ông sẽ được ngồi trên mười hai tòa, mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en (x. Mt 19,28). Các ông sẽ được sự sống đời đời (x Mt 19,29), được Người ban “quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1; Lc 9,1), “Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9,2).

- C 67-69: + Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?: Trước mặc khải về bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu đòi Nhóm Mười Hai phải tỏ thái độ dứt khoát: Tin hay không tin, thể hiện qua việc tự do chọn ở lại với Thầy hay bỏ đi. + Ông Si-mon Phê-rô liền đáp: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời”: Dù chưa hiểu hết ý nghĩa của Lời Chúa, nhưng Si-mon vẫn đại diện Nhóm 12 chọn ở lại làm môn đệ Thầy và khẳng định niềm tin Lời Thầy là sự thật và sẽ mang lại sự sống đời đời cho những ai đón nhận (x. Ga 5,24). + “Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”: Trước đó, Si-mon đã tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Ở đây, Si-mon lại công nhận Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x Ga 6,69) giống như sứ thần Gap-ri-en khi truyền tin đã cho Đức Ma-ri-a biết về trẻ Giêsu: “Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35).

5. CÂU HỎI:

1) Tại sao dân Do thái và một số khá đông môn đệ đã bỏ không đi theo Đức Giêsu nữa ?

2) Môn đệ là những ai và Đức Giêsu có bao nhiêu môn đệ ? Tông đồ là ai và khác với môn đệ thế nào ?

3) Người Do thái và các môn đệ lấy làm gai chướng không chấp nhận ba điều nào của Đức Giêsu ?

4) Đức Giêsu đưa ra bằng chứng nào cho thấy Người có quyền nói ra những điều mầu nhiệm ấy ?

 5) Trong Kinh thánh, thần khí mang bốn ý nghĩa nào ?

6) Đức Giêsu đã nói gì về thần khí và xác thịt nơi mỗi con người ?

7) Tại sao Đức Giêsu lại nói Lời Người chính là Thần khí và là Sự sống ?

8) Đức Giêsu biết rõ ai trong Nhóm Mười Hai là người không tin và sẽ phản nộp Người ?

9) Đức Giêsu chó biết đức Tin phát xuất từ đâu ? Ta phải làm gì để giúp người khác tin vào các mầu nhiệm được mặc khải ?

10) Lý do nào khiến nhiều môn đệ đã bỏ không còn theo Đức Giêsu ?

11) Nhóm 12 Tông đồ do Đức Giêsu tuyển chọn từ Nhóm nào ? Nhóm Tông đồ được Người hứa ban các quyền lợi nào và phải chu toàn sứ mệnh gì ?

12) Si-mon Phê-rô đại diện Nhóm Mười Hai trả lời thế nào khi được Đức Giêsu hòi có muốn bỏ đi hay không ? Ý nghĩa của câu trả lời đó thế nào ?

13) Si-mon đã tuyên xưng Đức Giêsu là ai ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Ông Si-mon Phê-rô liền đáp: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (x. Ga 6,68) :

2. CÂU CHUYỆN: CHỌN TIN THEO CHÚA:

Bài đọc một trong sách Gio-su-ê là một bản tường thuật mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Vào khoảng năm 1200 trước Công Nguyên, Dân Do Thái đã được Mô-sê dẫn đi ngang qua sa mạc trong 40 năm và đã đến được bờ sông Giô-đan, giáp ranh giới xứ Ca-na-an là Miền Đất Thiên Chúa đã hứa ban cho Áp-ra-ham và dòng dõi ông đến muôn đời. Sau đó, Mô-sê trao quyền cho Gio-su-ê lãnh đạo dân tiếp tục đánh chiếm Hứa Địa Ca-na-an. Được Đức Chúa hỗ trợ, dân Ít-ra-en đã chiếm được miền đất này. Cuối cùng, Gio-su-ê đã triệu tập các chi tộc Ít-ra-en và các đầu mục trong Đại Hội tại Si-khem. Ông cho dân được tự do chọn lựa: Hoặc là tôn thờ yêu mến Một Đức Chúa duy nhất, hoặc tin theo các tà thần của chư dân. Dân được tự do chấp nhận hay từ chối Lề Luật, được chọn trung thành hay chống lại Giao Ước mà họ đã ký với Đức Chúa tại núi Khô-rép vùng Si-nai... Bấy giờ toàn dân thưa lại rằng: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác ! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc mà chúng tôi đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mo-ri” (x Gs 24,14-28).

3. THẢO LUẬN: 1) Người ta thường bị khủng hoảng đức tin là do những nguyên nhân nào ? 2) Một tín hữu bị khủng hoảng về đức Tin sẽ biểu lộ qua những thái độ và hành vi nào ? 3) Chúng ta phải làm gì để giúp một người đang bị khủng hoảng đức Tin sớm lấy lại đức Tin vào Chúa và Hội Thánh ?

4. SUY NIỆM:

1) Tự do chọn “tin hay không tin”:

Như dân Ít-ra-en xưa, ngày nay mỗi tín hữu chúng ta cũng có quyền tự do chọn tin hay không tin vào Đức Giêsu để đức tin có giá trị giúp đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Khi chịu phép Thánh Tẩy, các dự tòng cũng phải công khai chọn thái độ từ bỏ ma quỉ tội lỗi và tuyên xưng đức tin vào các chân lý đức tin như Hội Thánh dạy, trước khi được chủ sự ban bí tích đổ nước trên đầu hoặc dìm mình trong giếng nước rửa tội để được Thánh Thần tái sinh làm con Thiên Chúa.

Trong đời sống thường ngày, các tín hữu chúng ta cũng cần khẳng định đức tin như dân Ít-ra-en xưa đã khẳng định niềm tin vào Đức Chúa như sau: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Đức Chúa, mà tôn thờ các tà thần của dân ngoại”. Sự chọn lựa tin theo Chúa đòi người tín hữu không ngừng hồi tâm sám hối để thanh luyện đức tin của mình.

2) Cần dứt khóat chọn tin theo Chúa Giêsu:

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng đòi Nhóm Mười Hai Tông đồ phải dứt khoát lập trường trước sự thật về bí tích Thánh Thể do Người mặc khải: “Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống !”. Trước mầu nhiệm này, nhiều môn đệ đã phản đối và rút lui không còn đi theo Người nữa. Riêng ông Phê-rô khi được hỏi đã đại diện Nhóm Mười Hai để tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Qua câu nói này, ông Phêrô đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin dù chưa hiểu rõ nội dung đức tin vào mầu nhiệm bí tích Thánh Thể. Ông chỉ dựa vào thế giá của Thầy để tin lời Thầy dạy về bí tích này cũng như về các chân lý đức tin khác.

Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng hỏi mỗi người chúng ta khẳng định lập trường có trung thành tin theo Chúa hay không như vậy. Chúng ta có dám chọn ở lại với Thầy đang khi nhiều bạn bè khác đã bỏ Chúa qua việc bỏ dự lễ Chúa Nhật, hành xử theo ý riêng của mình chứ dựa vào lời Chúa và lề luật Hội Thánh nữa ? Chúng ta có dám trung thành với Chúa và với tuân giữ các chuẩn mực đạo đức đang khi nhiều bạn bè đã chọn lối sống dễ dãi theo tính xác thịt tội lỗi, chọn làm các điều phi pháp để kiếm được tiền bạc bất chính, chọn chối bỏ Chúa trong lý lịch để được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi và để có được địa vị xã hội ? Có lẽ phần đông chúng ta đã chọn thái độ lập lờ im lặng. Phải chăng thái độ đó đồng nghĩa với thái đô của ông Giuđa, đã được Tin Mừng Gioan hôm nay nói thêm: “Quả thật ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người” (Ga 6,64b). Tuy trong thâm tâm Giuđa đã không còn tin vào Thầy và đã rắp tâm phản bội Thầy, nhưng thực tế ông ta vẫn ở lại trong Nhóm Mười Hai để chờ cơ hội thuận tiện sẽ bán nộp Thầy ! (x. Ga 13,21-27; Mt 26,14-16).

3) Đức tin vào bí tích Thánh Thể dựa trên tin vào Lời Chúa:

Tông đồ Phê-rô tuyên xưng đức tin không phải do ông đã hiểu được mầu nhiệm bí tích Thánh Thể, nhưng chỉ vì tin “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Ông tin Thầy là Đấng đã từng nhân bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no; Đã từng đi trên mặt biển và chỉ cần phán một lời là dẹp yên sóng gió biển khơi; Đã từng xua trừ ma quỷ ra khỏi nhiều người bị ám; Đã từng đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân và phán một lời là phục sinh kẻ chết… Chính nhờ đức tin vào quyền năng của Thầy Giêsu, mà Phê-rô và Nhóm Mười Hai đã tin cả những điều xem ra khó nghe, khó hiểu và khó chấp nhận về bí tích Thánh Thể:“Ai ăn thịt và uống máu Tôi sẽ  được sống muôn  đời”  (Ga 6,54a).

4) Cần làm gì để gia tăng đức tin vào bí tích Thánh Thể?:

Đây là một mầu nhiệm đức tin, vượt trên sự hiểu biết khả giác của lòai người, nên để tin vào bí tích này, mỗi tín hữu chúng ta cần có ba điều kiện như sau:

Một là phải thành tâm lắng nghe và suy niệm Lời Chúa như lời thánh Phaolô: “Có đức Tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Kitô” (Rm 10,17). Do đó, để tin vào mầu nhiệm trong bí tích Thánh Thể, chúng ta cần lắng nghe Lời Chúa khi tham dự thánh lễ hoặc dự các buổi họp nhóm học sống Lời Chúa, rồi còn phải “suy niệm Lời Chúa trong lòng” noi gương Đức Ma-ri-a xưa (x Lc 2,51).

Hai là phải xác tín vào Lời Chúa Giêsu noi gương ông Phêrô trong Tin mừng hôm nay:“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).

Ba là phải ý thức đức tin là ơn Chúa ban như lời Đức Giêsu: “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6,65). Do đó, để tin vào mầu nhiệm Chúa Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể, chúng ta phải năng cầu xin Chúa Giêsu  tăng thêm đức tin cho mình, như người cha có đứa con bị quỷ ám đã thưa với Đức Giêsu:"Tôi tin ! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24).

5. LỜI CẦU:

LẠY CHÚA GIÊSU. Nhiều lần khi xin các ơn phần xác lâu ngày chưa được nhậm lời, con đã nản lòng thất vọng rồi Chúa, bỏ dự lễ và không còn tin tưởng cầu xin Chúa nữa. Tin mừng hôm nay cho thấy: Chúa đã ngán ngẩm trước thái độ vụ lợi của đám đông dân chúng và các môn đệ. Có lẽ hôm nay Chúa cũng đang ngán ngẩm khi thấy con chỉ lo tìm kiếm lợi lộc tiền bạc phần xác, và dửng dưng những lơị ích thiêng liêng phần hồn. Xin giúp con “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).

Lạy Chúa. Mỗi lần tham dự thánh lễ hay chầu Thánh Thể, xin cho con luôn xác tín vào Lời Chúa để tin vững vàng Chúa đang hiến thân dưới hình bánh rượu trên bàn thờ, dù các giác quan của con không cảm nhận được. Nhờ tin vào Lời Chúa mà con sẽ siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ sốt sắng, để có sự sống thần linh của Chúa, là bảo đảm cho cuộc sống vĩnh hằng đời sau, như lời Chúa hứa trong Tin Mừng hôm nay:  “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống, để ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời…. Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6,51.54).

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. – Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH - HHTM

------------------------------

 

TN 21-B99: Chúa Nhật XXI Thường Niên B


Lời Của Sự Sống Muôn Đời

Gio 6:60-69: 60 Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" 61Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: "Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? 62 Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? 63 Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. 64 Nhưng trong anh em có những kẻ không tin." Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. 65 Người nói tiếp: "Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho." 66 Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa. 67 Vậy Đức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? " 68 Ông Simôn Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời. 69 Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa."

 

Đoạn 6:60-71 là phần cuối của chương 6, kết thúc bằng việc mô tả thái độ của các môn đệ và nhóm Mười TN 21-B99


Đoạn 6:60-71 là phần cuối của chương 6, kết thúc bằng việc mô tả thái độ của các môn đệ và nhóm Mười Hai trước giáo huấn về Bánh bởi trời. Đoạn nầy được chia thành hai phần dựa trên sự xuất hiện của cụm từ “nhiều môn đệ” (cc. 60.66): 1- Đối thoại của Chúa Giêsu với các môn đệ (6:60-65); 2- Đối thoại với nhóm Mười Hai (6:66-71). Hai đoạn được trình bày gồm những chi tiết hầu như song song và tương phản với nhau: - một số các môn đệ - nhóm Mười Hai (cc. 60.66 và 67); - Lời khó nghe - Lời của sự sống muôn đời (cc. 61 và 68); - Một số môn đệ không tin và bỏ đi - nhóm Mười Hai tin và tiếp tục theo Người (cc. 64.66 và 68.69).

Qua cách dùng từ ngữ và cấu trúc, Gioan muốn cho thấy có một số môn đệ như người Do thái cũng tỏ thái độ phản đối trước lời của Chúa Giêsu về Bánh (6:41.43.61). “Lời của Người” (c. 60) là toàn bộ giáo huấn liên quan đến Bánh (6:31-59). Lời ấy “khó nghe” vì tự bản tính lời ấy rất khó hiểu nếu không được Thiên Chúa dạy dỗ (x. 6:45), nên khó được chấp nhận, khó tin và gây nên sự phản đối về phía người nghe (c. 61; x. 6:52; 8:43).

Để giải thích cho họ, hình ảnh “Người Con của Nhân Loại” được dùng để chỉ nguồn gốc “bởi trời” của Chúa Giêsu (x. 1:51; 3:13; 6:53.62); như thế, lời của Người cũng là lời của Thiên Chúa. Ở đây, “thần khí” và “xác thịt” được phân biệt nhau qua những đặc tính tương phản là “làm cho sống” và “vô dụng”  (c. 63; x. 3:6). Lời của Chúa Giêsu là thần khí, nghĩa là lời bởi trời như thần khí đến bởi trời (1:32); đó là lời đến từ Chúa Cha (x. 14:10). Lời ấy cũng là sự sống, vì chính Chúa Giêsu là sự sống (1:4; 11:25; 14:6). Như thế, lời của Người như là lời của Thiên Chúa, có khả năng làm cho sống những ai tin vào Người. Lời ấy làm cho họ sống bởi sự sống của Thiên Chúa khi đưa họ vào tham dự Nước Thiên Chúa (3:5).

 Nhiều lần trong chương 6, đức tin được đòi hỏi như là điều kiện không thể thiếu để có sự sống: Tin vào “Người được gởi đến” (6:29), vào “Tôi” (6:35), vào “Người Con” (6:40), vào “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (6:69). Ở đây là tin vào lời giáo huấn của Người về Bánh bởi trời. Tóm lại, ai tin vào Người thì có sự sống muôn đời (6:47). Tuy nhiên, ở đoạn cuối nầy của chương 6, Chúa Giêsu cho thấy là có một số người không tin vào Người (c. 64). Họ không chỉ là một số môn đệ được ghi nhận ở đây mà thôi (c.66), mà cả những người đã đến xin Người thực hiện một dấu lạ (x. 6:30). Họ đã thấy Người và những việc Người làm, nhưng họ đã không tin vào Người (6:36). Việc tin vào Chúa Giêsu và đến với Người là công việc của Chúa Cha. Nếu Chúa Cha không ban cho, không ai có thể đến với Người, cũng như không thể hiểu và chấp nhận lời của Người (x. 3:27). Như thế, để có thể nghe và tin vào lời của Chúa Giêsu, cần đến cách tuyệt đối tác động của Cha Người (x. 6:45).

Đối với Gioan, việc lắng nghe Chúa Giêsu luôn đi kèm theo một hành động đức tin như đi theo Người (1:37.40; 5:24); chấp nhận lời Người nói là sự thật (x. 3:32; 4:42); trái lại ở đây, như là hậu quả của việc “không thể nghe Người” (c. 60) và không tin vào Người (c.64), một số môn đệ đã có hành động đối nghịch đức tin đó là tháo lui và không đi với Người nữa (c.66). Tương phản với thái độ ấy, nhóm Mười Hai tiếp tục đi với Chúa Giêsu và tin vào lời của Người. Trong câu trả lời gồm một câu hỏi và một câu khẳng định, Phêrô đã xác định nhân danh nhóm Mười Hai là chỉ nơi Chúa Giêsu mới có sự sống muôn đời. Trong diễn từ về bánh ban sự sống nầy, cụm từ “đến với” Chúa Giêsu được dùng nhiều lần và bao giờ cũng nhắc đến một sự chuyển thông sự sống từ Chúa Giêsu sang bất cứ ai đến với Người (6:35.37.44.45.65). Do đó, nhóm Mười Hai xác tín là họ không thể đi đến với ai khác ngoài Người là nguồn sự sống. Lời của Người cũng ban sự sống muôn đời (6:68), như chính bánh bởi trời (6:33.35.48.51.53) và thịt của Người (6:54.57). Lời tuyên xưng đức tin của Phêrô: “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (6:69) là cao điểm của giáo huấn về Bánh bởi trời đã được trình bày cách tiệm tiến từ việc làm bánh hóa ra nhiều cho năm ngàn người ăn (6:1-13) đến giáo huấn về bánh bởi trời và thịt của Người được ban để làm của ăn (6:31-59). Vậy, chỉ Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa mới có thể ban bánh mang lại sự sống muôn đời cho con người.

Sự sống muôn đời gắn liền với Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh và là Con của Thiên Chúa. Hãy tin vào lời của Người, vào bánh Người ban để có sự sống muôn đời.

Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

------------------------------

 

TN 21-B100: Chọn lựa.


Cả chúng con nữa, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?

 

Câu hỏi Chúa Giêsu đưa ra đòi buộc các môn đệ phải chọn lựa, phải dứt khoát lập trường. Đây không  TN 21-B100


Câu hỏi Chúa Giêsu đưa ra đòi buộc các môn đệ phải chọn lựa, phải dứt khoát lập trường. Đây không phải là một việc dễ dàng, vì ngay trước đó đã có nhiều môn đệ rút lui, bởi điều Ngài xác quyết một cách mạnh mẽ về thứ lương thực thiêng liêng nuôi sống linh hồn, thật là chói tai không thể nào chấp nhận được theo lẽ tự nhiên: Thịt Ngài là của ăn và Máu Ngài là của uống mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.

Với lời tuyên bố ấy, chúng ta có thể nghĩ tới bí tích Thánh Thể, chúng ta đã cử hành trong suốt cả cuộc đời người công giáo, mà chẳng có lấy một chút băn khoăn hay do dự. Chúng ta cũng đã từng đón nhận Mình và Máu thánh Ngài một cách quen thuộc theo nghi lễ và chúng ta không còn nhận ra tính cách chói tai và những khó khăn mà các môn đệ đã găp phải.

Sự tuyên xưng của các ông chính là một sự dấn thân, một hành đông liên quan tới vận mạng của một con người. Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy nghĩ hơn cả, đó là mặc dầu chúng ta tin tưởng vững chắc vào lời xác quyết của Chúa: Thịt Máu Ngài chính là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đem đến cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, nhưng trong thực tế, chúng ta lại sống, lại hành động trái ngược với niềm tin tưởng ấy.

Đúng thế, có những người công giáo vốn tự xưng là đạo dòng, đạo gốc… Thế mà cả chục năm không rước Chúa lấy được một lần. Có những người khác, ngày Chúa nhật cũng đến nhà thờ nhưng cho qua lần đoạn lượt mà thôi. Họ đứng ở ngoài sân, vừa nói chuyện, vừa phì phèo điếu thuốc lá và vừa tham dự thánh lễ. Mình không tham dự đã đành, mà còn cả trở và làm cho người khác lo ra, chia trí.

Hơn thế nữa, phần đông chúng ta lại tách biệt thánh lễ ra khỏi cuộc sống.

Chúng ta giữ đạo ở trong nhà thờ như một người công chức tới giờ đến sở làm việc. Có nghĩa là khi đến nhà thờ, chúng ta trang nghiêm sốt sắng. Nhưng khi thánh lễ kết thúc, cửa nhà thờ đóng lại và chúng ta trở về với cuộc sống thường ngày. Lúc bấy giờ chúng ta lại vội vã gian than, độc ác và bất công. Trong nhà thờ chúng ta là những con chiên ngoan, nhưng giữa lòng cuộc đời, chúng ta lại hoá kiếp thành một loài sói dữ. Như vậy, thánh lễ cũng chỉ là một chiếc ngăn kéo rất nhỏ bé giữa những ngăn kéo biệt lập khác của cuộc sống.

Thế nhưng, với những người có đức tin thì khác, cuộc sống phải trờ thành thánh lễ, hay nói cách khác, tinh thần thánh lễ phải thấm sâu vào cuộc sống của họ. Có nghĩa là chúng ta phải biến đổi đời sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài, bằng cách thực thi tinh thần yêu thương và hợp nhất, giúp đỡ những người chung quanh, như một bài hát quen thuộc: Ta về thôi khi thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để làm chứng nhân.

Hãy góp nhặt những hy sinh rải rắc trong đời thường, để làm nên tấm bánh và chén rượu, như những của lễ chúng ta dâng lên Chúa. Từ đó chúng ta đi đến một câu hỏi, một kết luận, đó là chúng ta đã thực sự sống tinh thần thánh lễ giữa lòng cuộc đời của chúng ta hay chưa?

-------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây