Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon, đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Ðoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: “Effetha!” (nghĩa là “Hãy mở ra!”), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng. Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!” - Ðó là lời Chúa.
Bà Cẩm Tâm (Constanza Calderon) là nhân vật quan trọng thứ hai trong hệ thống ngân hàng quốc gia: TN 23-B51
Bà Cẩm Tâm (Constanza Calderon) là nhân vật quan trọng thứ hai trong hệ thống ngân hàng quốc gia Eâquađo. Ðặc sắc nơi bà là mối quan tâm xã hội sâu sắc.
Bà nói: "Êquađo có 11 triệu dân mà 15 phần trăm không có việc làm. Vì nông thôn bị bỏ rơi trong phong trào công nghiệp hoá, nên dân chúng tràn về đô thị để kiếm việc làm, tăng thêm những khu nhà ổ chuột với biết bao tệ nạn xã hội.
Bà Cẩm Tâm quan tâm đặc biệt tới số phận của những người tàn tật bị loại khỏi sinh hoạt xã hội. Bà kiên nhẫn tìm cách giúp đỡ họ ngược lại với dư luận có khuynh hướng loại bỏ họ. Bà cho biết khi đảm trách lãnh vực tài chính của ngân hàng bà đã nghĩ ngay tới việc thuê người câm điếc để họ phân biệt giấy bạc thật, với giả. Ðó là sở trường của họ. Ban đầu chỉ mới thử mà thấy đúng như vậy, nên bà đã nhận ngay năm mươi người câm và điếc vào làm việc trong ngân hàng. Bà nói: "Nguyên tắc được áp dụng trong việc thuê nhân viên là phải chú ý trước tiên tới lợi ích của họ."
Vì sáng kiến vừa nói thành công, Bà Cẩm Tâm được giao thêm trách nhiệm. Bà nói: "Nhà nước phải nuôi quá nhiều nhân viên "ngồi chơi xơi nước" nên không có đủ khả năng về tài chánh dành cho những chương trình cần thiết như xây dựng đường sá và cống rãnh cho vùng nông thôn là nơi mà 40% dân số là thổ dân bị gạt ra rìa xã hội.
Bà Cẩm Tâm nói: "Tôi được giao trách nhiệm điều khiển việc thải hồi số nhân viên dư thừa trong ngân hàng mà con số lên tới 1,500 người! Số người này ngồi đó chỉ vì áp lực chính trị chứ không vì nhu cầu thực sự của ngân hàng. Có tới ba người ngồi đó để làm công việc củamột người. Phản ứng tự nhiên của tôi là muốn thoái thác trước trách nhiệm khó khăn. Tôi cảm thấy bản thân tôi tự nguyện nghỉ việc còn hơn phải quyết định cho cả ngàn rưỡi người phải nghỉ việc, nhất là trong số đó có những người đã trở nên rất thân thiết với tôi."
Bà tham khảo ý kiến về phía Giáo Hội thì bà được khuyến khích nên tích cực dấn thân lo cho công ích thay vì lãnh đạm trước nhu cầu xã hội. Dù sao hơn mười năm là thành viên của Phong Trào Tổ ấm đòi bà phải hy sinh vì tình yêu tha nhân.
Bà Cẩm Tâm kể lại từng bước bà đã thực hiện: "Trước hết tôi kiểm tra bộ phận nhân sự trong ngành ngân hàng để thấy rõ hoàn cảnh gia đình của từng người, để biết mỗi cá nhân đã bắt đầu vào làm nhân viên từ bao giờ, được thuê mướn như thế nào, đạt được vị trí hiện nay do bản thân xứng đáng hay do ai giới thiệu? tôi nhận ra nhiều nhân viên đã từng làm cho ngân hàng từ năm năm đến chín năm, mà phần nhiều do mấy chính trị gia giới thiệu. Thêm nữa còn có một số khá lớn nhân viên lẽ ra đã về hưu mà vẫn còn ngồi đó!" Khi cuộc kiểm tra nói trên diễn ra, ai cũng cảm thấy một bầu khí căng thẳng. Riêng bà Cẩm Tâm thì phải làm việc thêm giờ, có khi ngoài giờ làm việc suốt từ 4pm tới nửa đêm, chỉ để nghe trường hợp bản thân mỗi người. Một số người tới khóc xin đừng để cho họ phải nghỉ việc. Một số khác xin đừng cho họ về hưu.
Bà phải tiếp đủ mọi hạng người, có những người mang theo áp lực đáng kể của những ông lớn. Bà luôn lịch sự trả lời bằng thư cả trường hợp đương sự không thể được trở lại làm việc nữa. Bà Cẩm Tâm nhờ một ngân hàng quốc tế chuyên lo vấn đề phát triển đứng ra tổ chức hai khoá học, một về quản trị xí nghiệp nhỏ. Cả hai khoá học này dành cho những nhân viên sắp nghỉ việc. Họ sẽ nhận được tiền nghỉ việc cũng như lương hưu thì phải giúp họ làm cho đồng tiền đó nảy nở thay vì để cho bị sụt giá.
Hai khoá học đã mang lại kết quả cụ thể. Một số công ty kinh doanh nhỏ phát sinh. Chẳng hạn, một công ty chỉ gồm 15 cổ đông, lo săn sóc sức khoẻ người già yếu, chuyên chở họ tới trung tâm vật lý trị liệu ban sáng, rồi ban chiều chở họ về nhà. Trong vòng một tháng, nhiều sáng kiến loại đó được đưa ra, để giúp 1,500 người nghỉ việc ngân hàng sử dụng đồng tiền và thì giờ của mình một cách có lời.
Thành quả của bà Cẩm Tâm trong hệ thống ngân hàng quốc gia được cả nước biết đến. Chính quyền Equađo đang yêu cầu bà đảm trách chương trình canh tân các dịch vụ công cộng trong nước. Bà chưa dám nhận. Bà nói: "Trước tiên tôi có bổn phận chăm sóc bốn con tôi. Sự chăm sóc đó phải được dành ưu tiên." Khi thuê năm mươi người câm và điếc vào làm việc cho ngân hàng, bà Cẩm Tâm đã không chữa một người nào khỏi câm điếc, nhưng bà đã giúp họ có công ăn việc làm, đó là điều đáng kể đối với họ. Từ nay họ được hoà nhập trong xã hội, không còn bị gạt ra bên lề nữa.
Ánh Sáng đích thực từ cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu
Còn Ðức Giêsu, Người không chỉ chữa lành người vừa điếc vừa ngọng như bài Tin Mừng hôm nay cho thấy mà còn chữa nhiều tật bệnh khác nữa của loài người như Tin Mừng Máccô gợi ý.
Trình thuật về cuộc chữa lành người vừa điếc vừa ngọng (Mc 7,31-37) giống như cánh cửa mở ra từ cuộc trừ quỉ khỏi đứa con gái một phụ nữ ở vùng Tia (24-30) đến cuộc chữa lành một người mù ở chương 8 (22-26). Cả hai trường hợp đều có người dẫn kẻ tàn tật đến với Ðức Giêsu (Mc 7,32 / 8,22), đụng chạm tới người ấy, rồi lấy nước miếng mà chữa lành người ấy (Mc 7,33-35 / 8,23-25).
Tin Mừng Máccô như muốn độc giả đọc cả hai trình thuật liên tiếp nhau để được nhắc nhở về lời ngôn sứ Isaia đã tiên báo, nay được Ðức Giêsu đến thể hiện, chứng tỏ Người chính là Vị Cứu Tinh dân Chúa đang chờ đợi: "Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò." (35,5-6)
Nhưng về cuối cả hai trình thuật Ðức Giêsu đều yêu cầu giữ bí mật về phép lạ. Tin Mừng Máccô có ý nhắc nhở độc giả về căn tính đích thực của Ðức Giêsu chỉ được tỏ hiện sau này trong cuộc Thương Khó của Người: "Ðiều chúng ta đã nghe, ai mà tin được? Cánh tay uy quyền của Ðức Chúa đã được tỏ cho ai? Người tôi trung đã lớn lên, tựa chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn. Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì đáng chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mắt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới. Nhưng đó là vì Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta. Thế mà chúng ta lại tưởng Người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng họa, phải nhục nhã ê chề. Thực ra Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm: Người đã chịu sửa phạt để chúng ta được bình an, đã mang thương tích cho chúng ta được chữa lành." (53,1-5).
Ðiều nhắc nhở vừa nói thực ra vẫn còn giá trị. Hãy bỏ qua những chuyện nhảm nhí như về ba ngày ba đêm. Cả những phép lạ đích thực được Giáo Hội xác minh như phép lạ Lộ Ðức, giá trị không qui về sự lạ lùng ta nhận ra như trong trò xiếc, nhưng qui về chính Thiên Chúa. Chính Người biểu lộ quyền năng của Người để ta tín thác và thực thi ý Người.
Dưới cặp mắt đức tin
Tín hữu là người nhìn mọi sự dưới cặp mắt đức tin để nhận ra Thiên Chúa ở nơi mọi sự, vì nếu không có Thiên Chúa hiện diện với đầy uy quyền thì làm gì có bất cứ điều gì trong vũ trụ. Thật vậy, như lời thánh Phaolô tông đồ khẳng định trước hội đồng A-rê-ô-pa-gô rằng: "Chính ở nơi Thiên Chúa mà chúng ta sống, chúng ta cửa động và hiện hữu" (Cv 17,28).
Tín hữu Kitô còn phải bén nhạy với bệnh tật, khổ đau: "Phúc cho những ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương (Mt 5,7) Phương chi khi mà rõ ràng những đau khổ ấy do tội gây nên, thì người Kitô hữu càng không thể dửng dưng. Bởi lẽ Ðức Kitô "đã mang lấy bệnh tật chúng ta? Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm" (Is 53,5)
Hãy coi thế giới trước mắt chúng ta, hàng triệu người lâm cảnh nghèo đói chỉ vì của cải và tài nguyên không được chia đồng đều cho công bằng, chỉ vì tệ nạn phân biệt xã hội, màu da và chính trị. Khắp nơi, sự sống và nhân phẩm đích thực của con người bị chà đạp. Cho dầu thế kỷ ngày nay nắm trong tay những phương tiện kỹ thuật cao, nhưng càng ngày càng thấy rõ con người chưa sẵn sàng chịu hy sinh để kiến tạo một xã hội công bình và nhân đạo hơn.
Nhưng thà thắp lên một ngọn đèn còn hơn là nguyền rủa bóng tối. Quả thật bà Cẩm Tâm đã thắp lên ngọn đuốc sáng khiến cả quốc gia Equađo đều thấy. Ước gì ai là người Kitô hữu cũng đều ý thức mình phải là ánh sáng do nguồn sáng phát sinh từ Ðức Kitô, cả thế giới sẽ trở nên sáng sủa hơn.
Một số câu hỏi gợi ý
Bạn tâm đắc được gì nhờ gương bà Cẩm Tâm: Bà Cẩm Tâm đã nhận 50 người câm và điếc vào làm việc ngân hàng? Bà giải quyết êm đẹp cho 1.500 người nghỉ việc mà không quên giúp họ dự những khoá học bổ ích? Khi thuê người làm, phải chú ý trước tiên đến lợi ích của họ?
Bạn nghĩ lý do nào khiến Ðức Giêsu yêu cầu người ta giữ bí mật về phép lạ Người làm? Lý do đó có thể được cắt nghĩa nhờ lời ngôn sứ trong Cựu Ước chăng?
Hãy so sánh dư luận đồn đại như về: "ba ngày ba đêm" và một phép lạ được xác minh nghiêm túc như tại Lộ Ðức? Ðức tin có thể soi sáng để bạn thấy được gì phía sau một bông hoa nở? Một con người sinh ra và chết đi? Lời nói đầu tiên của đứa bé? Lời cuối cùng của bà nội?
Vào Chúa Nhật XXIII nầy, Phụng Vụ Lời Chúa cho chúng ta thoáng thấy, qua những dấu chỉ, cuộc thay: TN 23-B52
Vào Chúa Nhật XXIII nầy, Phụng Vụ Lời Chúa cho chúng ta thoáng thấy, qua những dấu chỉ, cuộc thay hình đổi dạng của con người được ơn tha thứ tội lỗi.
Is 35: 4-7
Bài đọc I là sấm ngôn loan báo cuộc giải phóng gần kề của những người lưu đày Ba-by-lon. Thiên Chúa sắp can thiệp; những dấu chỉ báo trước ơn cứu độ mà Ngài sẽ đem đến, sẽ là việc chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền của con người và biến đổi sa mạc hoang vu và khô cằn thành vùng đất màu mỡ tốt tươi.
Gc 2: 1-5
Đoạn Thư của thánh Gia-cô-bê nhắc nhở cuộc thay đổi những quan hệ giữa những ai đón nhận Tin Mừng, và chỗ ưu tiên được ban cho người nghèo.
Mc 7: 31-37
Tin Mừng là bài trình thuật của Mác-cô về việc Đức Giê-su chữa lành một người vừa câm vừa điếc ở miền Thập Tỉnh, việc chữa lành là giáo huấn và dấu chỉ thời Mê-si-a về ơn tha thứ của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I Is 35: 4-7
Bản văn nầy được đưa vào trong tác phẩm I-sai-a, vị ngôn sứ của thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, nhưng có những cung giọng của vị ngôn sứ của thời lưu đày, I-sai-a đệ nhị, với một viễn cảnh đặc thù của ông: ngày giải phóng những người lưu đày ở Ba-by-lon sắp đến rồi.
1. Ngày giải phòng sắp đền gần rồi:
Vị ngôn sứ loan báo cho những người lưu đày: “Hãy can đảm lên, đừng sợ!”, vì sắp tới ngày Thiên Chúa báo phục cho dân Ngài và giải phóng họ khỏi những kẻ áp bức họ. Và ông cho hai dấu chỉ cho thấy ơn cứu độ sắp đến rồi: những bệnh hoạn tật nguyền thể lý sẽ biến mất và sa mạc sẽ không còn vùng đất khô cằn nữa, vì trên con đường hồi hương trở về (từ Ba-by-lon đến Giê-ru-sa-lem, phải băng qua sa mạc Sy-ri) Thiên Chúa sẽ làm những điều kỳ diệu: đất đai, cũng như con người, sẽ hoan hĩ vui mầng.
Chắc chắn những hình ảnh nầy là lối nói ngoa dụ để diễn tả niềm hân hoan của những người lưu đày khi gặp lại cố hương. Nhưng sâu xa hơn, những hình ảnh nầy diễn tả một thực tại tinh thần. Thiên Chúa đã bày tỏ lòng xót thương; Ngài đã quên đi những tội lỗi của dân Ngài và đưa họ trở về Đất Hứa, theo cách nào đó, Ngài làm mới lại Giao Ước của Ngài với họ.
2. Giải phóng khỏi những quyền lực của sự ác:
Những người mù sẽ được sáng mắt để được nhìn thấy ý nghĩa sâu xa của biến cố; những người què sẽ nhảy nhót vì vui mừng hớn hỡ. Trong một đoạn văn trước đó theo cùng văn mạch, chúng ta đọc thấy: “Ngày ấy, kẻ điếc sẽ được nghe những lời trong sách, mắt người mù sẽ thoát khỏi cảnh mù lòa tối tăm và sẽ được nhìn thấy. Nhờ Đức Chúa, những kẻ hèn mọn sẽ ngày thêm phấn khởi, và vì Đức Thánh của Ít-ra-en, những người nghèo túng sẽ nhảy múa tưng bừng” (Is 29: 18-19). Chúng ta có thể xác định thêm nữa. Vào thời nầy, cũng như vào thời của Đức Giê-su, những tật nguyền thể lý được coi như những hình phạt vì tội lỗi (Ga 9: 1-3). Vì thế, nếu những người mù được mở đôi mắt để thấy, nếu những người điếc được mở đôi tai để nghe, chính vì những nguyên nhân gây nên những đau khổ của họ đã biến mất: những tội lỗi đã được tha thứ.
Không thể chối cải, sấm ngôn mang cung giọng Mê-si-a: “Chính Người sẽ đến cứu anh em”, nghĩa là Ngài bày tỏ lòng xót thương và ban ơn tha thứ cho tội lỗi của thế giới. Việc chữa lành những tật nguyền là tiên báo việc chữa lành tâm hồn. khi Gioan Tẩy Giả băn khoăn muốn biết phải chăng Đức Giê-su thật sự là Đấng Mê-si-a, Đức Giê-su trả lời cho những người được thánh nhân sai đến: “Các ông cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được…” (Mt 11: 4).
Các ngôn sứ đã loan báo như vậy: đây là những dấu chỉ thời Mê-si-a. Tin Mừng hôm nay khẳng định lời loan báo nầy.
BÀI ĐỌC II Gc 2: 1-5
Chúng ta tiếp tục đọc Thư của thánh Gia-cô-bê. Bản văn là kim chỉ nam thực hành nhân đức ở đó lý tưởng đức khó nghèo chiếm một chỗ quan trọng.
1. Thái độ phản chứng những giá trị Tin Mừng.
Sự kiện kẻ giàu người nghèo được đối xử khác nhau, trong buổi họp cộng đoàn Kitô hữu, là một lời nhắc nhở mạnh mẽ đến thái độ phản chứng những giá trị mà Tin Mừng. Thái độ ân cần vồn vã và khúm núm đối với người giàu và thái độ khinh thường đối với người nghèo lại trở nên kỳ chướng hơn nữa khi những người Kitô hữu họp nhau lại là để cầu nguyện và tán dương “Đức Giê-su Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang”.
2. Tình huynh đệ Ki tô hữu:
Thánh Gia-cô-bê nhấn mạnh rằng tình huynh đệ Ki tô hữu phải được bày tỏ không một chút kỳ thị nào đối với bất cứ ai; xem ra trong cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái mà thánh nhân ngỏ lời có một sự khác biệt đáng kể giữa những người nghèo và những người giàu của cải và có địa vị trong xã hội. Nên nhắc nhở cho những người giàu chỗ mà Thiên Chúa đã ban cho những người nghèo trong ý định của Ngài. Phù hợp với truyền thống kinh thánh liên quan đến “những người nghèo của Đức Chúa”, thánh Gia-cô-bê liên kết tấm lòng rộng mở và tràn đầy niềm tin với quan niệm về sự nghèo khổ: người nghèo thì “giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc”.
TIN MỪNG Mc 7: 31-37
Trong thời kỳ thi hành sứ vụ của Ngài, Đức Giê-su tìm kiếm sự yên tỉnh ngoài miền Ga-li-lê; Ngài lánh xa đám đông dân chúng làm Ngài thất vọng, lánh xa nhóm Biệt Phái quấy rầy Ngài và lánh xa uy quyền của vua Hê-rô-đê mà Ngài có những lý do để sợ. Nỗi bận lòng của Ngài là tận tâm tận lực huấn luyện các Tông Đồ của Ngài. Việc chữa lành người vừa điếc vừa câm là một minh họa.
1. Bối cảnh của câu chuyện:
Trước tiên, Đức Giê-su bỏ vùng Tia, đi qua thành Xi-đon, theo con đường băng qua miền Thập Tỉnh mà đến biển hồ Ga-li-lê, vùng đất không thuộc thẩm quyền của vua Hê-rô-đê. Chính miền Thập Tỉnh này mà chính quyền Rô-ma đã nhượng quyền tự trị chính trị. Đa số dân cư là dân ngoại.
Ở vùng Tia, Đức Giê-su đã chữa lành người con gái của một người phụ nữ xứ Ca-na-an; ở miền Thập Tỉnh, Đức Giê-su chữa lành một người vừa câm vừa điếc.
2. Hiệu quả của việc chữa lành:
Thánh Mác-cô đã dàn dựng cảnh chữa lành nầy khá đặc biệt: “Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”. Vào thời Đức Giê-su, nước miếng có những hiệu lực chữa lành, đặc biệt hơn đối với mắt, như một trong những bản văn của sử gia La-tin, Tacite, làm chứng điều nầy (Tacite, Histoire, IV, 8, 1.). Đức Giê-su cũng sẽ dùng cách thức nầy trong việc chữa lành người mù ở Bết-xai-đa (Ga 9: 6). Đang ở giữa vùng đất dân ngoại nên Chúa Giê-su đã thích ứng với lối chữa bệnh phổ biến của môi trường và thời buổi lúc đó, nên chẳng có gì làm ngạc nhiên những đọc giả đầu tiên của Tin Mừng Mác-cô là những người hiểu biết các tập tục chữa bệnh của những người đương thời với họ.
Tuy nhiên, thành quả chữa lành chính là nhờ vào lời của Đức Giê-su mà thánh Mác-cô trích dẫn bằng tiếng A-ram “Ép-pha-ta” nghĩa là “hãy mở ra”. Ở giữa bản văn Hy ngữ, thánh ký cũng đã gìn giữ bằng tiếng A-ram những lời mà Đức Giê-su đã phán để phục sinh con gái của ông Gia-ia: “Ta-li-tha-khum”, nghĩa là: “Này cô bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!” (5: 41). Đừng thấy ở đây ý muốn gây nên một điều kỳ lạ đến sửng sốt, nhưng đúng hơn nổi bận lòng về tính xác thực: chính những lời nầy của Đức Giê-su chứ không gì khác, đã có hiệu lực chữa lành và cho người chết sống lại
Người ta có thể nghĩ rằng ở nơi việc Đức Giê-su chữa lành người vừa câm vừa điếc nầy có kèm theo lời cầu nguyện: “Người ngước mắt lên trời” chỉ cho thấy chuyển động của lời cầu nguyện. Sau nầy, Đức Giê-su chữa lành bằng lời cầu nguyện một em bé bị quỷ ám, việc chữa lành nầy khiến các môn đệ phải ngạc nhiên vì họ đã không thể làm nổi vì không kèm theo lời cầu nguyện (Mc 9: 28-29).
3. Ý nghĩa cử chỉ của Đức Giê-su:
Dù thế nào, chúng ta cũng thắc mắc những cử chỉ nầy của Đức Giê-su có ý nghĩa gì, khi kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông và chỉ có các môn đệ Ngài là những chứng nhân. Lời giải thích chắc chắn được gặp thấy ở nơi toàn cảnh của các chương 6, 7 và 8 của Tin Mừng Mác-cô. Kể từ phép lạ bánh hóa nhiều, thánh ký nhấn mạnh tâm trí quá ngu muội của các môn đệ: “Các ông đã không hiểu ý nghĩa phép lạ bánh hóa nhiều: lòng trí các ông còn ngu muội” (6: 52). Đức Giê-su quở trách sự mù lòa và câm điếc của các ông trước sứ điệp của Thầy mình: “Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư?” (8: 18).
Đúng là những lời quở trách nầy được thốt lên vào thời điểm phân cách hai việc chữa lành: việc chữa lành người vừa câm và vừa điếc ở đây và chữa lành một người mù ở Bết-xai-đa (8: 22-26). Hai việc chữa nầy được trình thuật gần giống nhau. Trong cả hai trường hợp, Đức Giê-su cách ly bệnh nhân; trong cả hai trường hợp, việc chữa lành không ngay lập tức (việc chữa lành anh mù ở Bết-xai-đa được thực hiện qua hai giai đoạn), trong khi anh mù ở Giê-ri-cô được chữa lành ngay lập tức bởi lời của Đức Giê-su mà không cần đến bất kỳ sự đụng chạm nào (Mc 10: 52). Cuối cùng, trong cả hai trường hợp, chỉ các môn đệ là những chứng nhân.
Làm thế nào chúng ta không hiểu ở nơi cử chỉ nầy ý định biểu tượng, một dấu chỉ được diễn tả bằng hành động như hành động biểu tượng mà các ngôn sứ thực hiện kèm theo những lời cảnh báo của họ. Những hành động biểu tượng được diễn tả bằng những cử chỉ điệu bộ như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đập vỡ từng mãnh một bình gốm trước cổng thành Giê-ru-sa-lem để loan báo cuộc tàn phá thành thánh Giê-ru-sa-lem sắp đến gần rồi, hay như ngôn sứ Ê-dê-ki-en thực hiện dáng điệu của một người bị phát lưu trong nhiều ngày liền để loan báo cho đồng bào của mình số phận đang chờ đợi họ. Theo cách nầy, Đức Giê-su lên án sự chậm hiểu của các môn đệ Ngài; Ngài muốn họ hiểu những nổ lực nào mà Ngài phải phô bày để mở tâm trí của họ trước sứ điệp và con người của Ngài: “Hãy mở ra” cũng được gởi đến từng môn đệ của Ngài như với người vừa câm vừa điếc.
4. Bí mật Đấng Mê-si-a:
Một lần nữa, Đức Giê-su truyền cho các môn đệ của Ngài giữ kín chuyện chữa lành nầy, vì thường hằng Ngài sợ họ hiểu lầm phẩm tính Mê-si-a của Ngài. Thánh ký thường hay nhấn mạnh điều nầy mà các nhà chuyên môn gọi là “Bí Mật Đấng Mê-si-a”. Còn đám đông dân chúng, họ kinh ngạc và tuyên bố: “Ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được” nhắc nhớ sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a…Những cử chỉ của Đức Giê-su là những cử chỉ mà ngôn sứ I-sai-a đã loan báo, những dấu chỉ về sự giải thoát khỏi tội lỗi.
Phép Lạ’ theo nghĩa thông thường là một việc xảy ra kỳ lạ, một may mắn lạ lùng, như mới đây ở vùng: TN 23-B53
‘Phép Lạ’ theo nghĩa thông thường là một việc xảy ra kỳ lạ, một may mắn lạ lùng, như mới đây ở vùng tôi có một chiếc xe chở đầy hành khách, bị lao xuống bên đường, lộn một vòng, mà không ai chết, chỉ có một số bị thương, mọi người đều nói “thật là một phép lạ!” Trong tiếng Anh và tiếng Pháp chữ “Miracle”, gốc từ tiếng La Tinh “Miraculum”, có nghĩa là “Lạ lùng” và được hiểu như một điều gì xảy ra vượt quá sự tự nhiên và lý luận bình thường của con người. Theo nghĩa chuyên biệt, ‘Phép lạ’ là điều xảy ra hoàn toàn vượt quá lý trí và những định luật tự nhiên, do một Sức mạnh Siêu Nhiên, tức là do Thiên Chúa làm. Đối với những người vô thần thì không có ‘Phép lạ’ theo nghĩa chuyên biệt, chỉ có những điều ‘Lạ lùng’ xảy ra mà khoa học chưa thể cắt nghĩa được.
Trở về Thánh Kinh, trong thời Cựu Ước, có nhiều ‘Phép lạ’ Thiên Chúa đã làm cho Dân Chúa qua tay các vị Tiên Tri: như ông Moisê với những ‘Phép lạ’ vĩ đại trong cuộc hành trình vượt Biển Đỏ, đi qua sa mạc Sinai, để trở về ‘Đất Hứa’ ( đã được ghi lại trong Sách Xuất Hành); như Tiên Tri Êli với ‘Phép lạ’ cho con bà chủ nhà được sống lại (1Các Vua 17: 17-24); Êlisê trong ‘Phép lạ’ hóa hai mươi chiếc bánh lúa mạch cho cả trăm người ăn no (2 Các Vua 4: 42-44).
Trong thời gian rao giảng, Chúa Giêsu cũng làm ‘Phép lạ’ nhiều lần: cho người chết sống lại, người mù được thấy, người què đi được, người bệnh được khỏi… Điều đó ‘ứng nghiệm’ lời các Tiên tri đã nói trước về thời Đấng Thiên Sai đến, Người sẽ làm các ‘Phép lạ’ lớn lao như trong Bài Đọc I hôm nay diễn tả (Isaia 35: 4-7). Trong Bài Phúc Âm hôm nay (Matcô 7: 31-37), Chúa Giêsu đã làm ‘Phép lạ’ cho “người vừa điếc vừa nói ngọng nghe được và nói được rõ ràng”. Theo cách tường thuật đặc biệt của Thánh Matcô, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã dùng những dấu hiệu chữa bệnh bề ngoài “đặt ngón tay vào tai anh, lấy nước miếng bôi vào lưỡi anh,” rồi Chúa Giêsu đã “ngửa mặt lên trời” (cử chỉ của sự cầu nguyện) và nói “Hãy mở ra!” tức thì ‘tai anh mở ra và lưỡi anh ta trở nên mềm mại và nói được rõ ràng.”
Đây là một trong nhiều ‘Phép lạ’ Chúa Giêsu đã làm và đã được ghi lại trong các sách Phúc Âm. Tuy nhiên, đó không phải là công việc chính của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến trần gian là để rao giảng Tin Mừng Tình Thương ban ơn cứu độ và hy sinh mạng sống để đền bù tội lỗi nhân loại. Những người được Chúa Giêsu chữa lành chỉ là một con số nhỏ so với bao nhiêu người đau khổ, bệnh tật thời đó. Những ‘Phép lạ’ Chúa Giêsu đã làm khi thật cần thiết, là để chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa của Ngài (Gioan 2: 11). Vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm ‘Phép lạ.’
Thiên Chúa vẫn làm các ‘Phép lạ’ trong đời sống chúng ta. Nhưng chỉ khi chúng ta tĩnh tâm, “xa lánh đám đông ồn ào,” chúng ta mới nhận ra và khiêm nhường tạ ơn Chúa, ca ngợi lòng thương xót Chúa, và cố gắng cải thiện đời sống để ‘sống lại thật’ trong đức tin tinh tuyền. Điều quan trọng là Lời Hằng Sống Chúa Giêsu rao giảng cốt để chữa lành bệnh tật phần hồn của chúng ta; giải thoát chúng ta khỏi bệnh tật và sự chết về phần hồn do tội lỗi gây ra. Sau khi đã được giải thoát khỏi những ràng buộc của thế gian, xác thịt và tội lỗi, chúng ta được sống trong tự do của con cái Chúa. Tai và con mắt linh hồn chúng ta được mở ra để chúng ta có thể nghe được, nhìn thấy được những kỳ công Thiên Chúa đã làm cho chúng ta; đức tin của chúng ta sẽ thêm vững mạnh, chúng ta sẽ mở miệng ra ca tụng và rao giảng Danh Chúa cho mọi người.
Khi Đức tin vững mạnh, thì tình yêu Thiên Chúa cũng triển nở trong lòng chúng ta, và chúng ta nhận ra bao người đau khổ, nghèo đói, cần sự giúp đỡ của chúng ta. Chúng ta cũng sẽ nhìn thấy Chúa nơi mọi người, không còn những kỳ thị giầu nghèo, sang hèn, màu da, sắc tộc… như Thánh Giacôbê nói trong Bài Đọc II hôm nay (Giacôbê 2: 1-5).
Ngày nay, ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Lộ Đức (Pháp), qua Mẹ Maria, Chúa cũng làm những ‘Phép lạ’ rõ ràng để an ủi hoặc chữa lành các bệnh nhân đến khấn xin. Rất nhiều ‘Phép lạ’ chữa lành đã xảy ra ngay tại Lộ Đức, trong số đó, có một số đã được Giáo hội công nhận là ‘Phép lạ’ thực sự mà những nhà khoa học, các bác sĩ có niềm tin Tôn giáo cũng phải công nhận là ‘Phép lạ’ thật sự, sau khi bệnh nhân được chữa lành đã được khám nghiệm về y khoa.
Vậy, khi gặp những gian nan, thử thách trong cuộc đời, chúng ta hãy cầu xin Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta, rồi tin tưởng và phó thác mọi sự vào lòng từ ái của Chúa là Cha nhân lành; chắc chắn Chúa sẽ thực hiện những điều tốt đẹp nhất cho chúng ta, mà không phải là chỉ để cứu chữa tật bệnh thể xác, nhưng quan trọng hơn, là chính đời sống thiêng liêng và ơn cứu độ đời đời của chúng ta. Trong “Năm Linh Mục” này, xin cũng tiếp tục cầu nguyện nhiều cho các Linh Mục, nhất là các Linh Mục đang gặp nhiều khó khăn thử thách, đặc biệt tại Việt- Nam chúng ta hiện nay.
Đứng trước những người câm điếc quả thực chúng ta khó làm cho họ hiểu chúng ta muốn nói: TN 23-B54
Đứng trước những người câm điếc quả thực chúng ta khó làm cho họ hiểu chúng ta muốn nói gì, muốn diễn tả gì. Bởi vì, điếc chẳng nghe được lời nói của chúng ta và người câm lại không thể thốt lên lời điều họ muốn diễn ta với chúng ta. Do đó, chúng ta hiểu được nỗi vui sướng ra sao khi Chúa Giêsu chữa lành cho người vừa câm lại vừa điếc.
Trong bài Tin Mừng Mc 7, 31-37, Đức Giêsu đã chữa lành cho một người vừa câm lại vừa điếc. Ở đời, thường người câm lại hay bị điếc. Bởi vì nếu chỉ bị câm mà không điếc, người này sẽ rất khó chịu khi họ nghe được, đặc biệt khi ai đó làm điều gì họ phật ý. Người câm sẽ điên lên, sẽ tức bực hết chỗ nói khi họ nghe người khác chửi họ hoặc nói những điều xúc phạm đến họ.Người câm như có một sợi dây ràng buộc, trói buộc lưỡi họ khiến họ không để nói được dù họ rất muốn nói. Đức Giêsu đã đụng tới lưỡi anh ta, khiến sợi dây bị tung ra, bị bật ra, khiến người câm có thể nói được rõ ràng và dễ dàng. Làm điều này, Chúa Giêsu giúp ta hiểu bài đọc 1, hiểu được lời ca của Israen thoát khỏi nô lệ, lưu đầy: sa mạc nở hoa, đất đai phì nhiêu, cây cối xanh tươi làm phấn khởi lòng người. Thiên Chúa sẽ đến cứu dân của Ngài cách thực tế, cụ thể, nghĩa là người mù được thấy, kẻ què đi được, người điếc nghe được và người câm nói được. Chính Đức Giêsu đến thực hiện những điều ngôn sứ Isaia loan báo. Chúa Giêsu nói Ep-pha-tha hãy mở ra. Ngài đã làm cho người câm điếc khỏi bệnh hoàn toàn: nói và nghe bình thường. Việc chữa lành của Chúa Giêsu đối với người câm điếc diễn tả hai dấu chỉ mà ngôn sứ Isaia đã nói để cho dân chúng nhận ra được Đấng Mêsia. Việc Chữa lành người câm điếc còn nói lên Đức Giêsu là Đấng giàu lòng xót thương. Bởi vì, khi tách anh ra khỏi đám đông, Chúa Giêsu đánh tan sự lúng túng của anh ta, đồng thời nói lên lòng thương xót thực sự đối với anh. Chúa Giêsu rất nhạy cảm với tình cảnh hết sức đáng thương của người câm điếc.Như vậy, Chúa Giêsu qua việc chữa lành này vừa tỏ cho nhân loại, cho chúng ta Ngài là Đấng Mêsia muôn dân mong đợi và đồng thời, Ngài cũng là Đấng giầu lòng thương xót. Việc chữa lành người câm điếc cũng tạo nên nguồn hy vọng lớn lao cho mọi thế hệ đang sống nơi trần gian đầy cam go, thử thách và bệnh hoạn.
Trong một thế giới, con người vẫn chưa bình đẳng về mọi mặt, mơ ước bình đẳng là một cớ vấp phạm đối với những người bệnh họan tật nguyền vì nhiều người cho rằng thà họ đừng sinh ra thì hơn. Nhưng đối với Chúa Giêsu, Ngài luôn trân trọng những người bệnh hoạn, tật nguyền và luôn bênh vực những mẹ góa con côi. Trước những nghịch cảnh của cuộc đời, những người neo đơn, góa bụa, những trẻ lang thang bụi đời, những kẻ đầu đường xó chợ, những kẻ bơ vơ vất vưởng, các em mồ côi, những cháu tật nguyền, người môn đệ Chúa không được dửng dưng cho rằng những thành phần này đã có những cơ sở xã hội lo cho họ rồi. Mỗi người chúng ta, mỗi môn đệ Chúa phải có trách nhiệm lo cho những người này vì Chúa dạy chúng ta phải yêu thương họ và tỏ tình liên đới gắn bó với họ. Chính thánh Giacôbê trong bài đọc 2 đã nhắn nhủ tất cả những người tin vào Chúa Giêsu đừng đối xử thiên vị, đừng thiên tư, đừng phân biệt giầu nghèo bởi vì những người xem ra không may mắn, khó nghèo lại được Chúa hứa ban nước trời.
Chúng ta và nhiều người có thể không bị câm điếc thật sự về mặt thể lý, nhưng chúng ta đang bị câm điếc về mặt tinh thần. Chúng muốn biến chúng ta thành những hòn đảo. Chúa muốn chúng ta phải chia chia sẻ và cho đi. Vì con người thường chuộng giầu và dễ khinh giầu. Lời Chúa dạy chúng ta thực hiện những dấu chỉ của ơn cứu độ khi chúng ta biết quan tâm tới người khác, biết giúp đỡ những người khó nghèo, biết tha thứ cho những kẻ làm hại chúng ta. Thực hiện được những điều Chúa dạy là chúng ta đã biểu lộ những dấu chỉ của ơn cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để chúng con bị câm điếc trước lời mời gọi giúp đỡ những người khó nghèo và cảm thông với những người đang gặp khó khăn. Amen.
Bài tin mừng Chúa nhật hôm nay xảy ra trong miền Thập tỉnh. Sở dĩ gọi là Thập tỉnh vì đây: TN 23-B55
Bài tin mừng Chúa nhật hôm nay xảy ra trong miền Thập tỉnh. Sở dĩ gọi là Thập tỉnh vì đây bao gồm 10 thành phố nằm ở phía đông sông Jordan. Mặt khác, người Dothái luôn xem vùng Thập tỉnh này là miền đất của dân ngoại giáo và ngoại quốc sinh sống. Chính nơi đây, Chúa Giêsu làm phép lạ chữa lành cho một người vừa câm vừa điếc mà chỉ có tin mừng Máccô ghi lại. Việc Chúa Giêsu chữa cho người bệnh câm điếc có ý nghĩa gì trong cuộc sống nhân sinh? Chúng ta cùng tìm hiểu.
Có ở trong tình trạng của kẻ tật nguyền vừa câm vừa điếc, chúng ta mới cảm nghiệm hết những đau khổ mà bệnh nhân phải gánh chịu. Và, có như thế, chúng ta mới thấy hết tình Chúa yêu thương dân Người, cách riêng đối với những kẻ khốn khổ nghèo hèn biết là dường nào. Trước hết, chúng ta thấy cách thức Chúa Giêsu chữa bệnh rất đơn giản và cũng… rất “người”. Đầu tiên đó là việc đặt ngón tay của Người vào lỗ tai người bệnh. Rồi nhổ nước miếng để bôi vào lưỡi anh. Kế đó ngước mắt lên trời rên một tiếng và nói: “Ephata”. Và kết quả, người bệnh được phục hồi tai và miệng.
Những gì mà Chúa Giêsu dùng để chữa bệnh rất thịnh hành trong các đền thờ ngoại giáo cũng như ở môi trường Kytô giáo. Trong nghi thức thánh tẩy cho trẻ em, chủ sự cũng lấy ngón tay cái rờ vào tai và miệng của em bé, đồng thời cầu xin Thiên Chúa ban cho em sớm có thể đón nhận lời Chúa và tuyên xưng đức tin để ca ngợi và tôn vinh danh thánh Chúa (x. Mc 7, 32 chú thích i).
Việc Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện được xem là một cử chỉ quen thuộc của Người; đồng thời cho thấy nguồn gốc quyền năng chữa bệnh của Người bởi đâu mà có. Quyền năng đó chỉ có thể xuất phát từ trời cao- nơi mà hằng ngày sau những ngày lao động vất vả, Người vẫn hướng về đó, nơi có Chúa Cha hiện diện, để cầu nguyện và chuyện trò với Người.
Còn tiếng rên la của Chúa không gì khác hơn là một lời mời gọi sức mạnh quyền năng uy linh của Thiên Chúa đến phá tan bóng tối của tội lỗi, của đêm đen, đem lại ánh sáng, đem lại nguồn sinh lực tinh thần từ trời cao đến cho con người.
Thánh Máccô chủ ý đặt đoạn tin mừng này trong miền đất dân ngoại với chủ ý rằng lời tuyên xứng của dân ngoại trước kỳ công của Chúa phần nào tiên báo sứ mạng và ơn gọi truyền giáo cho dân ngoại. Đức tin và lời tuyên xưng của cộng đoàn Kytô sẽ nảy nở và sinh nhiều hoa trái trong miền đất dân ngoại. Thật thế, ơn cứu độ Chúa Giêsu mang đến không chỉ dành riêng cho dân tộc Dothái mà còn cho hết mọi dân tộc trên toàn thế giới. Chính nhờ đó mà ngày nay, ơn cứu độ của Thiên Chúa mới lan truyền trên khắp cõi địa cầu. Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện ngày hôm nay cho thấy Người chính là Đấng Thiên sai đã đến như ngôn sứ Isaia loan báo thưở xưa. Người đến để “mắt người mù được thấy, tai kẻ điếc được nghe và kẻ chết được sống lại”. Sứ mệnh đó sẽ và vẫn còn được Giáo hội thực thi mỗi ngày.
Người Kytô chúng ta có lẽ đã quá quen với đoạn Lời Chúa hôm nay. Thế nhưng để tìm ra những ý lực sống đang ẩn chứa trong đoạn Lời Chúa này không hẳn đơn giản. Lý do là vì có lẽ chúng ta cho rằng chúng ta không thuộc “típ” của những anh mù và điếc nên chẳng có gì để nói cả. Thật thế, xét về phương diện thể lý, tất cả mọi giác quan chẳng có gì phàn nàn cả; thế nhưng, ở phương diện tinh thần, cần phải xét lại. Bởi rất có thể các giác quan tinh thần của chúng ta – cách nào đó, đang bị thui chột và què quặt. Rất có thể chúng ta đang bị câm điếc trước lời chân lý của Thiên Chúa, trước tiếng kêu than đau khổ của anh em đồng loại. Khi giác quan tinh thần bị câm điếc, chúng ta khó có thể nhìn ra và lắng nghe những nhu cầu của những người khác, nó khiến chúng ta khép kín lòng mình, khó có thể trải lòng ra để tiếp rước và giúp đỡ anh em đồng loại. Vì thế rất cần sự cứu giúp đến từ Thiên Chúa. Rất cần đến lòng Chúa xót thương.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trải lòng ra với Thiên Chúa, với đồng loại để nhìn ra những gì Thiên Chúa đang cần, để biết nhìn và lắng nghe những bất công đang ngập tràn trong xã hội hôm nay. Trước những bệnh nhân khốn khổ, Chúa Giêsu đã không ngoảnh mặt làm ngơ, còn chúng ta thì sao…?
Giáo lý Công giáo dạy ta biết rằng: “Chúa ở khắp mọi nơi”, có nghĩa là mỗi loài thụ tạo: TN 23-B56
Giáo lý Công giáo dạy ta biết rằng: “Chúa ở khắp mọi nơi”, có nghĩa là mỗi loài thụ tạo đều diễn tả về sự toàn năng, về chân, thiện, mỹ của Thiên Chúa, Đấng đã tạo ra nó, khiến cho dân ngoại tưởng lầm nó là thần, để thờ lạy nó! Nhưng tác giả sách Khôn ngoan cảnh tỉnh dân ngoại rằng: “Tại sao các ngươi không biết tôn thờ Đấng tạo nên những vật kỳ diệu đó? Nếu các ngươi thấy các tạo vật ấy quá tốt đẹp, thì Đấng tạo ra chúng còn tốt đẹp hơn nhiều, phải biết ngợi khen và tôn thờ Đấng đã tạo dựng nên muôn vật kỳ diệu mới phải lẽ !” (x Kn 13)
Như thế loài vô tri, dù nhỏ bé như bông hoa dại, nó cũng biết khoe vẻ đẹp Chúa ban cho nó, để loài người thấy thế ai cũng nhận ra mình là một kiệt tác trong muôn loài Chúa đã dựng nên, thì ai cũng phải biết nói về Thiên Chúa, Đấng tuyệt hảo là Chúa Tể vũ trụ, để quy tụ nhiều người cùng chung với muôn tạo vật mà ngợi khen Chúa mới phải lẽ, nếu không thì ta thua loài vật ! Nhất là nếu ta câm nín, không biết nói về Thiên Chúa, thì ta không được Chúa cứu độ, như lời thánh Phao-lô nói: “Có tin thật trong lòng mới được nên công chính, có tuyên xưng ra ngoài miệng mới được Chúa cứu độ !” (Rm 10,10)
Một điều nghịch lý là trong Tin Mừng của Mác-cô cho biết suốt cuộc đời Đức Giê-su trên dương thế, có biết bao nhiêu người đã từng chứng kiến các phép lạ Người làm, khiến ai cũng phải kinh ngạc và tấm tắc ngợi khen trước uy quyền của Lời Ngài, vì khiến được cả các thần ô uế phải vâng lời và tháo chạy (x Mc 1,22-27). Thế nhưng trong loài người không ai biết nói “Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống”, kể cả các môn đệ đã đi theo Thầy Giê-su suốt ba năm, hằng được ở bên cạnh Thầy và từng chứng kiến bao phép lạ Thầy làm, thế mà họ cứ vẫn thắc mắc hỏi nhau rằng: “Ông này là ai mà cả biển và gió phải vâng phục?” (Mc 4,41)
Có lần Ngài quay lại hỏi các môn đệ: “Các ngươi nói Ta là ai?” Ông Phê-rô, vị thủ lãnh Nhóm 12 đại diện anh em phát biểu: “Thầy là Đức Ki-tô” (x Mc 8,27-29). Ki-tô bởi động từ Christos có nghĩa là được xức dầu, thì có gì là đặc biệt? Vì thời Cựu Ước, các vua chúa và các ngôn sứ đều được xức dầu khi được trao sứ mệnh (x 1Sm 16,13 ; Is 61,1). Điều này Tin Mừng Mác-cô minh chứng: Các Tông Đồ của Đức Giê-su chỉ đạt đỉnh cao về lòng tin của họ đối với Đấng mà họ đã bỏ mọi sự đi theo (x Mc 10,28), là Đức Giê-su cũng chỉ tầm cỡ như các vua chúa trần thế, hay là một ngôn sứ nào đó mà thôi ! Như thế họ không biết nói về căn tính của Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống, nên họ có nói về Ngài cũng chỉ là những kẻ “ngọng” mà thôi! Mãi đến khi Ngài bị đâm nát tim trên thập giá, nước và máu chảy ra, dấu chỉ khơi nguồn các Bí tích,lúc đó Ngài mới mở miệng cho cả dân ngoại, cụ thể ông sĩ quan Ro-ma đã thi hành bản án đóng đinh Ngài, ông hô lên rằng: “Đích thực người này là Con Thiên Chúa !” (Mc 15,39) Mà ai nói về Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, người đó đạt được sự sống đời đời, như lời Đức Giê-su nói: “Sự sống đời đời là chứng nhận Thiên Chúa là Cha duy nhất, chân thật và Đấng Cha sai là Giê-su Ki-tô” (Ga 17,3).
Vậy chỉ nhờ sự chết và sống lại của Đức Giê-su để Ngài thiết lập Phụng Vụ mới, hoàn tất chương trình cứu độ loài người, thì Phụng Vụ về ngày thứ bảy của Luật Cựu Ước đã cáo chung! Để từ đây, bất cứ ai tham dự Phụng Vụ Chúa Giê-su thiết lập và truyền cho Hội Thánh cử hành, thì được Ngài chữa lành họ không còn bị điếc, không còn bị ngọng (câm) về Ngài mà biết mở miệng cùng với muôn tạo vật ca tụng Thiên Chúa, là Đấng yêu thương và là Đấng cứu độ duy nhất! Và như thế muôn loài thụ tạo không còn lâm vào cảnh hư nát của nó ! (x Rm 8,18-27). Chính vì thế mà Tin Mừng Mác-cô chương 7,31-37 mà Hội Thánh công bố trong Thánh lễ hôm nay, đọc lại phép lạ Đức Giê-su chữa lành cho người điếc và ngọng trong bối cảnh một cuộc sáng tạo mới qua dấu chỉ:
Ngài đưa bệnh nhân biệt riêng ra khỏi đám đông và đặt ngón tay vào lỗ tai nó! (x Mc 7,33a) Việc Ngài làm không ai được biết, vì chỉ có Ngài với bệnh nhân, giống như thuở xưa Thiên Chúa dựng nên A-đam, E-và cũng không ai biết (x St 1.2).
Ngài nhổ nước miếng và bôi vào lưỡi anh ta, anh được hết điếc và ngọng tức khắc! (x Mc 7,33b) Đây là dấu chỉ khi tim Ngài bị đâm thủng vào giờ Tử Nạn, nước từ cạnh sườn Ngài dốc ra. Nước ấy là dấu chỉ nước dùng trong Bí tích Thánh Tẩy để tái tạo kẻ tin vào Ngài qua lời rao giảng của Hội Thánh (x Cv 2,41 ; Gc 1,18).
Ta lại biết, trong đời của Đức Giê-su có bốn lần Ngài chữa lành bệnh người ta, thì Ngài đều cấm họ không được nói cho ai biết về Ngài:
Chúa chữa lành người cùi (x Mc 1,44). Chúa phục sinh con gái ông Giai-rô (x Mc 5,41-43). Chúa chữa lành người điếc và ngọng (x Mc 7,36). Chúa mở mắt cho người mù (x Mc 8,26).
Đức Giê-su cấm người ta nói về Ngài vì bốn lý do:
Việc Ngài chữa lành bệnh không phải là mục đích chính Ngài đến trần gian. Vì việc chữa lành bệnh Chúa đã cho nhiều thầy thuốc có khả năng làm điều đó. Thánh Tô-ma Tiến sĩ nói: “Mỗi vấn đề được giải quyết trong lãnh vực của nó”, nghĩa là lãnh vực chữa bệnh phải cần thầy thuốc, phải cần uống thuốc, chứ không phải cứ cầu nguyện, phó thác cho Chúa là hết bệnh, trừ khi người ta đã làm hết cách mà bệnh không thuyên giảm, thì cho bệnh nhân lãnh Bí tích Xức Dầu. Việc Đức Giê-su chữa lành một số bệnh nhân, là dấu chỉ về sứ mệnh chính của Ngài là cứu thoát người ta khỏi tội, thoát tay sa-tan, thoát thần chết !
Chúa cấm người được lành bệnh không cho phép nói về Ngài, vì Ngài không giúp người ta để mong được đáp đền ơn, ơn Ngài ban là ơn nhưng không (không do công nghiệp của ai), Ngài vì thương, hoàn toàn vô vị lợi !
Đức Giê-su chỉ muốn người ta nói về Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại, vì lúc đó Ngài mới hoàn tất chương trình cứu độ loài người.
Đặc biệt nhất là Đức Giê-su không muốn người ta tung hô Ngài là vị lãnh đạo dân Do-thái, dẹp tan mọi đế quốc, đưa dân Do-thái lên siêu cường quốc (x Cv 1,6). Hiểu như thế không đúng với sứ mệnh của Ngài, và làm cho chính quyền Ro-ma hiểu lầm là Ngài đến để tranh quyền với họ, chắc chắn họ sẽ gây khó dễ cho Ngài, giết Ngài sớm !
Bốn lần Đức Giê-su cấm không được nói về Ngài, thì lần I và lần III lệnh cấm không được tôn trọng ! Điều nghịch lý này muốn nhấn mạnh rằng: Việc rao giảng về Chúa Giê-su Ki-tô không phải do Luật dạy hay Luật cho phép, mà phải phát khởi bởi lòng yêu mến, bởi lòng biết ơn Chúa đã quá thương yêu tôi, Ngài cứu chuộc tôi! Nên cả đến Thiên Chúa cũng không thể cấm tôi nói về Ngài được ! Bởi vì “tôi có sự thật về Đức Ki-tô, không ai bịt miệng tôi được !” (2Cr 11,10) Và bởi vì “tình yêu Đức Ki-tô thúc bách tôi !” (2Cr 5,14)
Vậy sau khi Chúa Giê-su phục sinh, chẳng những Ngài không cấm ai, mà Ngài còn ra lệnh cho mọi người phải nói về Ngài cho muôn dân, để tập họp thêm môn đệ cho Ngài (x Mt 28,19-20). Lệnh lên đường rao giảng về Đức Giê-su Ki-tô, đã được báo trước qua lệnh Chúa truyền cho ngôn sứ I-sai-a: “Can đảm lên, đừng sợ !” (x Is 35,4: Bài đọc I) Đây là một thuật ngữ, được dùng riêng để nói về ai, khi Chúa trao sứ mệnh cho họ (x Gs 1,6 ; Mt 1,20 ; Lc 1,13 ; Lc 1,30). Do đó, sau khi Linh mục ban Bí tích Thánh Tẩy cho ai, thì Linh mục dùng tay sờ vào tai, vào miệng người mới được lãnh nhận Thánh Tẩy và đọc: “Xin Chúa mở tai con biết nghe Lời Chúa, và xin Chúa mở miệng con biết nói về Ngài”. Như thế, mỗi Ki-tô hữu phải mở rộng và nối dài lời ngôn sứ I-sai-a: “Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em (khỏi chết). Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc được nghe (nghi thức kết thúc Bí tích Thánh Tẩy). Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò (tội được tha). Vì có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu. Miền nóng bỏng biến thành hồ ao, đất khô cằn có mạch nước trào ra (Chúa biến dữ ra lành)” (x Is 35,4-7a: Bài đọc I).
Sứ mệnh rao giảng cho mọi người biết Đấng Cứu Độ, không chỉ nhằm đến những người giàu có, mà còn phải ưu tiên giảng Lời cho những kẻ thấp cổ bé miệng, kẻ nghèo khó về mọi phương diện, nghèo của, nghèo quyền, nghèo tài, bị xã hội khinh dể, xa tránh, và không được ai quan tâm đến, cụ thể nhất là khi họ có mặt tại đám tiệc. Thế mà Chúa lại muốn chọn chính họ làm cho họ được giàu có về mặt đức tin, được thừa hưởng vương quốc Thiên Chúa đã sắm sẵn cho họ (x Gc 2,1-5: Bài đọc II). Cụ thể trong Tin Mừng ghi lại những kẻ hèn hạ, họ lại làm vinh hiển Chúa hơn những người giàu có quyền quý. Đan cử như bà Ma-ri-a Madalena, kẻ bị bảy quỷ ám, sau khi đã được Đức Giê-su cứu khỏi tay ác thần, bà đã dâng hết tiền của cho Chúa trong việc truyền giáo (x Lc 8,1-3) và trở thành người đưa Tin Mừng Chúa Phục Sinh đầu tiên cho loài người (x Ga 20,11-18) ; hoặc như khi Chúa khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, thì đàn bà, con nít, những người hèn hạ hết lời ca tụng Chúa, thậm chí họ còn cởi áo choàng lót đường cho Chúa đi, trong khi đó những bậc vị vọng lại uất ức khi thấy cảnh này, khiến Chúa phải nói: “Tôi bảo cho các ông biết, họ mà làm thinh thì những viên đá này sẽ la vang lên ! “ (x Lc 19,28-40)
Chúng ta cùng cầu nguyện: “Chúa xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính. Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân”(Tv 146/145, 7-9: Đáp ca).
THUỘC LÒNG.
Tôi có sự thật về Đức Ki-tô, không ai bịt miệng tôi được! (2Cr 11,10) Tình yêu Đức Ki-tô thúc bách tôi ! (2Cr 5,14).
Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng, tự ý làm việc đó thì tôi có công, còn nếu ngoài ý tôi thì đó là trách nhiệm Chúa đã ký thác cho tôi! (1Cr 9,16-17)
Trên thế giới ngày nay còn nhiều người bị câm điếc. Những người câm thường hay bị điếc: TN 23-B57
Trên thế giới ngày nay còn nhiều người bị câm điếc. Những người câm thường hay bị điếc. Người bị câm điếc thường phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, họ bị coi như sống bên lề xã hội nên họ cảm thấy lẻ loi cô đơn. Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành cho người bị câm điếc để đem lại đức tin và niềm vui cho anh ta. Sự chữa lành đó thuộc thể lý, nhưng qua đó, Đức Giêsu muốn nói đến bệnh câm điếc thiêng liêng mà mọi người kẻ ít người nhiều đều mắc phải.
Người bị câm điếc thiêng liêng là những nngười không biết mở tai ra mà đón nhận Lời Chúa mà cũng không biết mở miệng ra mà tôn vinh danh Chúa. Những người bị câm điếc thể lý thì ai cũng biết kể cả đương sự, còn những người bị câm điếc thiêng liêng thì không ai biết và ngay chính đương sự nhiều khi cũng không biết. Đó là những người thiếu đức tin, họ sống trong mù tối không biết gì đến Lời Chúa.
Chúng ta cầu xin Chúa mở tai và mở miệng lưỡi linh hồn chúng ta để biết lắng nghe và đón nhận Lời Chúa. Đồng thời cũng biết đón nhận và chia sẻ cho người khác trong sự quảng đại, hy sinh và tình thương mến chân thành. Chúng ta hãy kêu lên:”Lạy Chúa, xin làm cho con nghe được, và xin làm cho con nói được”.
Những ai bị câm điếc ?
I. BỆNH CÂM ĐIẾC THỂ LÝ
1. Một ân ban của Thiên Chúa
Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Ngài ban cho họ có linh hồn và thân xác. Thân xác con người là một sinh vật hoàn hảo nhất, có đầy đủ ngũ quan. Trong ngũ quan ấy, ta thấy tai và miệng là hai cơ quan rất quan trọng dùng để nghe và nói.
Ai không nghe được hoặc nghe không rõ thì thường trở thành trò cười cho người khác, bởi vì không hiểu đúng ý của người nói, cho nên trả lời hoặc phản ứng thường sai lệch. Người ta gọi những người ấy thuộc hạng “Ông nói gà bà nói vịt”(Tục ngữ). Bởi vậy, người khiếm thính thường rút lui vào sự im lặng và cô đơn.
Nó là khả năng giúp con người giao tiếp và là phương tiện chủ yếu được dùng trong giao tiếp hằng ngày. Người kém khả năng này cũng dễ thành trò cười cho thiên hạ. Vì vậy nghe được và nói được là hồng ân rất lớn Chúa ban cho con người. Chúng ta phải sử dụng hai khả năng ấy cho phù hợp với thánh ý Chúa.
2. Nguyên nhân bệnh câm điếc thể lý
Thường thường những người mới sinh ra đã bị câm thì cũng bị điếc. Người bị câm và điếc thiệt thòi rất nhiều và mất nhiều hạnh phúc trong cuộc đời. Ngoài trường hợp câm điếc bẩm sinh, người ta có thể bị câm điếc vì một bệnh tật hay một tai nạn nào đó.
Theo một vài trường hợp thì điếc còn khó chịu hơn đui. Người điếc biết mình không nghe được, nên trong đám đông khi có người tức tối hét vào tai, cố nói cho người ấy nghe, người ấy càng cảm thấy thất vọng hơn. Vì thế mới có lời kinh của người điếc: “Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà người điếc phải gánh chịu là đa số thiên hạ xem họ như những người làm phiền người khác. Người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc. Kết quả là người điếc thường phải trốn lánh bạn bè và càng ngày càng trở nên khép kín”(William Barclay).
3. Tâm lý người bị câm điếc
Người câm điếc gặp khó khăn khi muốn trình bầy hay diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu ý mình, nhưng họ lại cảm thấy ngại ngùng giống như có một sợi dây vô hình trói buộc, làm cho họ không thể nói ra. Tình trạng bất hạnh ấy dễ làm người ta mặc cảm. Không nói được mà cũng chẳng nghe được, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài càng khó hiểu người bị tật ấy.
Do đó, người bị tật tự nhiên cảm thấy mình lẻ loi như đứng bên lề xã hội, họ có khunh hướng muốn rút lui và sống trong cô đơn. Vì thế, những người bị tật ấy cần những người lành mạnh có thái độ thông cảm, tôn trọng và yêu thương thành thật.
4. Đức Giêsu chữa người câm điếc
Hôm nay chúng ta thấy Đức Giêsu không chữa bệnh đơn giản như mọi khi, nghĩa là chỉ đặt tay hay dùng một lời nói để chữa bệnh: Ta muốn ngươi được khỏi bệnh ! Đức Giêsu lại đưa anh chàng ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào tai người câm điếc, bôi bọt vào lưỡi anh ta và ngước mắt lên trời rên lên: ”Epphata”: Hãy mở ra !
Về cử chỉ xỏ tay vào tai, bôi nước bọt vào lưỡi là cốt để khêu gợi đức tin là điều rất cần để Chúa ban ơn, mà bệnh nhân còn thiếu. Anh này điếc nên không nghe được, chỉ còn làm thế nào cho anh ta hiểu. Xỏ tay vào tai và đụng vào lưỡi để cho anh ta hiểu rằng: đó là những kết quả anh mong đợi.
Phép lạ không chú trọng chữa lành thể chất của anh chàng vừa câm vừa điếc. Đúng hơn phép lạ chú trọng đến việc mở tai cho người ấy để anh ta có thể nghe Lời Chúa, và cởi trói cái lưỡi của anh để anh có thể tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu. Một người có thể nghe tốt, nhưng lại không nghe lời Chúa. Một người có thể nói sõi nhưng không thể tuyên xưng đức tin.
II. BỆNH CÂM ĐIẾC THIÊNG LIÊNG
Khi chữa bệnh cho người câm điếc, Đức Giêsu nhằm đem lại cho người ấy khả năng nghe và nói được, nhưng Ngài còn muốn đi xa hơn, nghĩa là chữa bệnh câm điếc tinh thần hay thiêng liêng của con người. Câm và điếc thể chất thì ai cũng biết, còn bệnh câm điếc thiêng liêng thì chỉ có Chúa biết, và đôi khi đương sự cũng biết. Chúng ta cần bàn tới bệnh câm điếc thiêng liêng mà ai trong chúng ta cũng mắc phải không nhiều thì ít.
Nhiều người rất thính tai thể chất, nhưng lại điếc về tinh thần hay tâm linh. Họ rất thính tai khi nghe những gì liên quan tới danh vọng, tiền tài, sắc dục… nhưng lại trở nên giống như điếc khi nghe những điều hay lẽ phải, những chân lý đem lại sức mạnh tinh thần hay tâm linh, giúp họ sống yêu thương nhiều hơn. Nhiều người nói năng rất hoạt bát về đủ mọi đề tài… nhưng lại hành xử như người câm, hoặc cảm thấy rất ngượng nghịu, mắc cỡ khi phải nói lên lời hay lẽ phải, những lời chân thành yêu thương, những lời làm mát lòng người khác, những lời đem lại bình an, hòa thuận, những lời giúp mọi người hiểu ra đường ngay lẽ thật.
III. ĐỂ KHỎI BỊ CÂM ĐIẾC
1. Bài học cho chúng ta
Đức Giêsu làm phép lạ này như đặt ngón tay vào tai, bôi nước miếng vào lưỡi và phán: ”Epphata” nghĩa là hãy mở ra tức thì tai anh mở ra, lưỡi anh được tháo gỡ và nói được, cũng là bài học cho các môn đệ và chúng ta. Người môn đệ Chúa phải là người cởi mở, vừa đón nhận, vừa thông truyền Lời Chúa. Phải mở tai để nghe Lời Chúa và mở miệng để tuyên xưng đức tin, như lời tiên tri Isaia từng nói: ”Đức Giavê đã cho tôi lưỡi của môn sinh, để tôi biết nâng đỡ người cùng khổ. Và sáng sáng, Người lay tỉnh tai tôi cho tôi biết nghe như những môn sinh”(Is 50,4).
2. Biết lắng nghe và chia sẻ
Chúng ta phải phá bỏ bức tường câm điếc đã làm chúng ta xa cách tha nhân, không còn hiểu nhau, không còn thông cảm và thương yêu nhau, coi nhau như kẻ thù. Trái lại, phải xây lại nhịp cầu thông cảm và yêu thương mà chính Đức Giêsu đã ban cho chúng ta khi chịu phép Rửa tội. Trong ngày đó, chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với người bạn chí thiết.
Truyện: Bức tường Bá Linh.
Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ vơi nhau, nước Đức được thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 175).
Chúa ban cho người câm điếc có thể nghe được và nói được để anh có thể dùng hai khả năng ấy để chia sẻ với mọi người. Đây là hai ân ban của Chúa. Chúng ta cũng phải dùng ân ban ấy cho đúng, bởi vì trong chúng ta, nhiều người có đôi tai tốt nhưng không biết lắng nghe, nhiều người có cái lưỡi tốt nhưng không biết nói những lời đáng nói. Cho nên chúng ta cần phải được Chúa chữa trị để biết chia sẻ cho nhau.
Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta lại cố tình tạo ra sự câm điếc khi chúng ta không bao giờ biết đến anh em, chỉ biết sống ích kỷ, co cụm lại nơi bản thân mình, không để ý đến ai. Do đó, chúng ta trở nên cố chấp trước những lời khuyên bảo của người khác để làm những điều xằng bậy mà không biết hổ thẹn. Những người như thế Được người đời tặng cho cái danh hiệu là: ”Điếc không sợ súng”. Câu tục ngữ ấy có nghĩa là vì ngu dốt, thiếu kinh nghiệm không hiểu biết nên chủ quan làm liều làm bừa bãi, không sợ sai lầm nguy hiểm.
Chúa cũng ban cho chúng ta cái lưỡi tốt để nói năng, chúng ta cũng phải biết dùng nó để chia sẻ với nhau vì lời nói là phương tiện chia sẻ với nhau hữu hiệu, có thể đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác. Dùng lưỡi mà chia sẻ với nhau là một điều tốt, nhưng phải chia sẻ với nhau một cách thành thực chứ không dối trá, bởi vì người ta nói: ”Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”, (Tục ngữ) có nghĩa là lưỡi không có xương nên uốn lắt léo thế nào cũng được. Nghĩa bóng của câu này thường được dùng để chỉ người ăn nói trước sau bất nhất, lúc thế này, lúc thế khác.
Ngoài ra, những người ác độc có những lời lẽ rất ngon lành, tốt đẹp nhưng lại hàm ý nghĩa xấu trong đó.Vì thế người ta nói: ”Lưỡi mềm độc quá đuôi ong”(Tục ngữ), có nghĩa là lưỡi mềm là lưỡi không cứng rắn như đá, không sắc nhọn như dao, lý ưhg không có gì đáng sợ vì không làm đau đớn thương tổn được người ta. Ay vậy mà lưỡi độc quá đuôi ong, châm vào thịt đau buốt và sưng vù lên. Lưỡi nói xấu ai thì người ấy mất bạn bè, mất danh giá; lưỡi vu khống ai thì người ấy bị tù tội, mất cơ nghiệp, có thể mất cả tính mạng (Văn Hòe, Tục ngữ lược giải, 1957, tr 152).
Trái lại, khi chia sẻ với nhau hãy cố gắng dùng những lời lẽ tốt đẹp mà cư xử với nhau, đem lại cho nhau một niềm vui như người đời thường khuyên:
Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
3. Xin Chúa ban thêm đức tin
Khi Đức Giêsu chữa anh điếc nói ngọng này, Ngài khêu gợi đức tin nơi anh. Chắc chắn là anh ta kém đức tin vì Đức Giêsu phải đem anh riêng ra làm những cử chỉ khêu gợi lên trong lòng anh đức tin rất cần thiết để ban ơn khỏi bệnh cho anh. Khi đức tin đã nhóm lên trong lòng, Ngài mới làm phép lạ cho anh khỏi bệnh. Điểm chúng ta muốn nói là sở dĩ anh kém đức tin vì anh điếc, không nghe được Lời Chúa. Ngày nay nhiều thanh thiếu niên kém đức tin hoặc đã mất đức tin vì anh điếc hay giả điếc, không nghe Lời Chúa.
Đa số chúng ta đều cho rằng mù thì tệ hại hơn điếc. Thế nhưng cô Helen Keller vừa bị mù lẫn điếc thì cho rằng bị điếc còn khốn hơn bị mù nhiều. Nếu chúng ta bị điếc không nghe được, thì quả là phần lớn những cánh cửa trong cuộc đời ta đã bị khép chặt lại, chẳng hạn: mở rađiô thì chả hiểu gì, xem truyền hình thì cũng chả thú vị gì mà còn phát chán, và hầu như không thể trò chuyện với ai được cả. Vì thế, sau một thời gian chúng ta sẽ cảm thấy cô đơn như bị bỏ rơi.
Bài Tin mừng hôm nay khuyên chúng ta nên tạo điều kiện thuận lợi cho Chúa Giêsu để Ngài mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, để Ngài đặt ngón tay của Ngài khai mở đôi tai điếc của chúng ta. Nói cụ thể hơn, Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy làm lại những gì chúng ta có thói quen hay làm, tức là bỏ ra ít phút mỗi ngày để cầu nguyện, để Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta điều Ngài đã làm cho người câm điếc ấy, nghĩa là Tin mừng mời gọi chúng ta hãy để Chúa Giêsu chữa lành bệnh câm điếc của chúng ta.
Truyện: Thánh Giêrônimô
Hồi ấy, Giêrônimô (342-420) là một văn hào lỗi lạc về văn chương cổ điển và không biết gì về Thiên Chúa. Ngài say mê đọc các tác phẩm của Cicéron. Một hôm, ngài nghe tiếng Chúa hỏi:
Giêrônimô, con là môn đệ của ai ?
Thưa, con là môn đệ của Chúa.
Không phải, con là môn đệ của Cicéron.
Từ đó, Giêrônimô giác ngộ và quyết chí học hỏi Lời Chúa. Ngài được ơn Epphata. Ngài qua thánh địa vào ẩn tu trong hang đá Belem để phiên dịch Thánh Kinh, để suy niệm Lời Chúa, sống trong khung cảnh Chúa đã sống. Ngài đã nói: ”Ai không hiểu biết Thánh Kinh là không biết Chúa Giêsu”. Bản dịch Vulgata (Phổ thông) của Ngài đã được công đồng Triđentinô (thế kỷ 16) nhìn nhận là phù hợp với đức tin và được coi là bản dịch chính thức của Hội thánh.
Lời Thánh Vịnh 39 vang lên quen thuộc với dân Thiên Chúa: “Tôi đã loan truyền đức công: TN 23-B58
Lời Thánh Vịnh 39 vang lên quen thuộc với dân Thiên Chúa: “Tôi đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực tôi đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi”. Thế nhưng trong cuộc đời con người, có những lúc miệng họ phải ngậm lại vì nhiều thế lực gian tà chung quanh lên tiếng quá lớn, chát chúa và hung hăng. Sứ mạng của Đấng Cứu Thế là trả lại tiếng nói cho người câm, âm thanh cho người điếc và ánh sáng cho người mù. Và hôm nay, Chúa Giêsu một lần nữa dùng quyền năng của mình và lên tiếng: “Ephata”, hãy mở ra.
Dân chúng thấy Chúa Giêsu làm phép lạ, họ kinh ngạc kêu lên: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được”. Người ta kinh ngạc vì họ thấy con người mộc mạc và nghèo khổ như họ, lại có uy quyền khiến âm thanh phải vâng phục. Họ không biết rằng chính Người là Lời làm cho đất trời này thành hình, và nếu Người không lên tiếng thì tất cả đến bây giờ vẫn là hư vô.
Phép lạ chữa người câm điếc được thánh sử Máccô xếp ngay sau phép lạ Chúa trừ quỉ cho con gái của người phụ nữ ngoại giáo. Phải chăng có mối liên hệ nào đó giữa sự kiện quỉ ám và sự kiện người ta câm điếc trước các thực tại trần gian? Có những lúc người ta cũng phải tự hỏi: “Liệu câm điếc có phải luôn luôn là điều xấu không?” Và câu trả lời không đơn giản chỉ là có hay không. Có lúc người ta im lặng vì lời nói là dư thừa, vì rõ ràng người nghe “có tai mà chẳng nghe”, như lúc Chúa Giêsu im lặng trước Philatô. Chỉ có cái câm do quỉ xúi giục mới là cái câm nguy hiểm. Vậy làm sao nhận ra được cái câm lặng nào đáng trách?
Trước hết, câm lặng trước bất công là cái câm đáng trách. Đã thành thói quen, người dân chúng ta ngày hôm nay không còn phản ứng tích cực trước những nghịch lý nhan nhản chung quanh mình. Nhìn những ngổn ngang và bừa bộn trên đường đi mỗi ngày hay những xô xát, ẩu đả giữa nơi công cộng, ta lạnh lùng lảng tránh và coi như chuyện bình thường. Dường như có một sức ép nào đó khiến ta đi qua mà không tự hỏi tại sao những cảnh tượng ấy diễn ra ngang nhiên đến thế. Nhìn đoàn lũ những con người chạy vạy để giành lại từng tấc đất hay giật lại chút công lý còn rơi vãi đó đây, ta lầm lũi đi, đi… mà không ngoái nhìn lại dù chỉ để nói một lời “cố lên”. Ta câm mất rồi, có thể vì ta chẳng còn hơi mà lên tiếng mà cũng có thể vì thiên hạ chẳng còn nhạy cảm để lắng nghe. Trời ơi, sao cái lặng im lạnh lùng cô quánh lại, đến nỗi tất cả cứ đi qua đi qua như dòng kênh đen. Chẳng lẽ cứ mãi mãi là câm?
Câm lặng trước nỗi khổ người nghèo là cái câm đáng trách. Nhìn một em bé đen đúa gầy gò bế một trẻ sơ sinh cũng đen đúa, mệt mỏi không còn cất lên nổi tiếng khóc trẻ thơ, ta cũng lạnh lùng như nhìn một con mèo ngồi ngơ ngác bên hè phố. Nhìn cụ già lang thang như đứa trẻ lúc khóc lúc cười, ta lạnh lùng y như chuyện lề đường chẳng chút liên quan. Thỉnh thoảng lạc vào con hẻm lầy lội, tối tăm dơ bẩn, ta đi như chạy trốn mà không hề tỏ ra đồng cảm với kiếp người. Có những người bạn của Giêsu đang lặng lẽ chờ ta dừng lại với một nụ cười khích lệ họ, mà ta cũng cố gắng giấu đi. Ta câm mất rồi.
Câm lặng để mưu cần danh lợi là cái câm đáng trách. Thời nay thiên hạ dễ im tiếng cho xong chuyện hoặc để đổi lấy sự an thân. Đứng im cười cười bắt tay chụp hình thì quá dễ. Nhận những quà như một bố thí để quay phim thì luôn hấp dẫn. Nhưng phía sau tấm hình đó, đoạn cuối thước phim đó là gì thì ta không quan tâm và ta không dám nói đến. Theo Chúa rồi, tận hiến rồi mà cũng còn mê chút hư danh. Hớn hở cười, hả hê nói, lên TV phát biểu hay được trích lời đó đây, người ta mừng như được gói bánh ngon. Chẳng biết lúc đó người ta nói hay người ta câm, nhưng chắc chắn một điều là những lời ca tụng thế gian không thể “vang lên trong Đại Hội”, và lúc họ nói chính là lúc “ngậm môi”, và “Chúa cũng biết rồi” (xem TV 39).
Có những lúc chúng ta phải thưa với Chúa, thà Ngài để con câm và điếc còn hơn để con có tai mà chẳng nghe, có miệng mà chẳng nói; thà Ngài để con sống giữa rừng sâu cùng hoang thú còn hơn để con giữa đời mà lạnh lùng nhìn anh em đau khổ mà chẳng biết làm gì giúp đỡ họ.
Theo Chúa không chỉ là hướng về vinh quang của ngày Phục Sinh và ngày Chúa Quang Lâm, nhưng còn là đi bằng đôi chân người nghèo khổ bất hạnh, là lăn vào dòng đời với trái tim biết rung cảm, vì nơi người nghèo, Chúa thực hiện chương trình cứu độ. Theo Chúa không chỉ là hát vang lời ca tụng Chúa, mà còn là hoà điệu với tiếng than của người cùng khổ, vì chính tiếng than ấy kéo xuống ơn cứu độ. “Ta đã nghe tiếng dân Ta bên Ai cập”.
Im lặng trước bất công, trước người nghèo là tự mình hoá câm, và khi ta đã tự do câm lặng, Chúa tôn trọng tự do ấy, nhưng người câm lặng thì được gì ? Người can trường lên tiếng luôn chịu thiệt thòi, nhưng chính lúc ấy họ hoà mình vào mầu nhiệm ngôn sứ chịu đóng đinh của Đức Kytô. Đức Tổng Giám Mục Giuse của Hà nội, Đức Giám Mục Phaolô của Vinh và ngày càng nhiều mục tử anh dũng khác đã và đang lên tiếng ca ngợi sự công minh của Thiên Chúa và nhờ đó, các ngài nâng đỡ đức tin cho dân Chúa.
Lạy Cha Thánh Giuse, Cha giữ thinh lặng trong cuộc đời tại thế, và Cha làm gương cho chúng con về sự thinh lặng nội tâm. Nhưng việc vâng phục ý Chúa, đưa Thánh Gia ra đi tránh những bất công và việc Cha lặng lẽ làm thợ để đưa Thánh Gia thoát khỏi cảnh nghèo, dạy cho chúng con biết lên tiếng ca ngợi kỳ công của Chúa và quyết liệt lên tiếng để công lý được thực thi. Và do đó mà Cha được muôn đời ca ngợi là Đấng Công Chính, Đấng sống cho công lý. Xin Cha giúp chúng con biết noi gương Cha mà làm cho trần gian vang tiếng yêu thương.
Tin mừng hôm nay thuật lại phép lạ Đức Giêsu chữa người bị câm điếc. Qua phép lạ này, Đức: TN 23-B59
Tin mừng hôm nay thuật lại phép lạ Đức Giêsu chữa người bị câm điếc. Qua phép lạ này, Đức Giêsu biểu lộ quyền năng của Người, đồng thời báo hiệu thời cứu thế đã đến. "Can đảm lên, đừng sợ: Này đây, Thiên Chúa các ngươi đến. Tai người điếc sẽ mở ra, người câm sẽ nói được" (Is 35,4-6). Hơn nữa, phép lạ Đức Giêsu thực hiện có mục đích đem lại hạnh phúc cho con người, giải thoát họ khỏi gánh nặng đè bẹp.
"Ephata, Hãy mở ra" - Lời Đức Giêsu nói đã chữa lành cho người câm điếc. Về phương diện thiêng liêng, người điếc là người không nghe được Lời Thiên Chúa. Họ đóng cửa lòng lại. Thiên Chúa ban cho chúng ta khả năng nghe Lời Chúa tức là đức tin. Nhưng một đức tin không đủ mạnh không được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa sẽ có nguy cơ trở nên "điếc". Đức Giêsu đến để mở tâm hồn con người, Người không muốn họ chỉ thán phục những gì Người đã làm, nhưng còn muốn họ hiểu được ý nghĩa của những việc đó. Theo một ý nghĩa nào đó, người câm điếc biểu hiện người tội lỗi với tâm hồn khép kín. Mỗi ngày, mỗi chủ nhật, chúng ta được sống trong thế giới Lời Chúa qua các bài đọc thánh lễ, những lời giáo huấn… nhưng liệu chúng ta có mở lòng mở trí để Lời Chúa có thể đi vào đời sống của mình không ?
Khả năng của ngôn ngữ là diễn đạt tình cảm, tư tưởng… Người câm là người mất khả năng này. Thiên Chúa ban cho con người miệng lưỡi để ca ngợi Người, để thông cảm và để xây dựng cho tha nhân. Tuy nhiên, có những người câm khi họ không dám tuyên xưng Thiên Chúa, không chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm của mình cho ai khác, không ngợi khen Thiên Chúa… đó là những người cần Thiên Chúa "mở ra". Qua bí tích Thanh tẩy, Chúa Giêsu chữa ta khỏi "bệnh câm bẩm sinh", chúng ta có thể nói, thưa chuyện, cầu nguyện với Thiên Chúa. "Anh em đã nhận lấy Thần Khí của hàng nghĩa tử, nhờ đó ta kêu lên Áp-ba" (Rm 8,15).
Ephata hãy mở ra là lời Đức Giêsu nói với mỗi người chúng ta. Hãy mở tai để lắng nghe Lời Chúa. Hãy mở miệng để ngợi khen tôn vinh Thiên Chúa. Đức Giêsu vẫn đang thực hiện những phép lạ nơi cuộc đời mỗi người chúng ta, nhất là phép lạ làm cho chúng ta có khả năng để đón nhận Thiên Chúa và tha nhân, miễn là chúng ta mở lòng mở trí và để cho Thiên Chúa hành động.
Lạy Chúa Giêsu, Xin mở lòng chúng con để biết lắng nghe và đón nhận Lời Chúa; Xin mở miệng chúng con để ngợi khen tôn vinh Chúa; Và xin cho cuộc đời chúng con trở thành lời ngợi ca tình yêu Thiên Chúa với nhân loại.
Thế giới tràn ngập những con người nhát sợ. Đó là điều kiện cho sự dữ sinh sôi nảy nở. Sự dữ: TN 23-B60
Thế giới tràn ngập những con người nhát sợ. Đó là điều kiện cho sự dữ sinh sôi nảy nở. Sự dữ càng tăng cường độ khi con người thích tổng quát hóa những thực tại chỉ nhìn thấy từ một góc độ nào đó. Chính vì muốn tránh thảm họa cho nhân loại, Tin mừng đã muốn chúng ta nhìn thấy toàn diện thực tại, nhất là thực tại về Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế đã đến trong thế gian.
ƠN CỨU ĐỘ MUÔN DÂN
Tin mừng Marcô hôm nay mở đầu bằng một dòng vắn tắt mô tả bước đi ngoằn ngoèo của Đức Giêsu tới miền Thập tỉnh. "Hành trình này phần lớn qua những lãnh thổ dân ngoại. Có lẽ thánh Marcô chủ ý nói thế để tiên báo trước về sứ mạng Giáo hội giữa chư dân." (The New Jerome Biblical Commentary 1990: 613) Ngay trong hành trình đã có chiều hướng mở ra, chứ không khép kín trong lãnh thổ Do thái. Người muốn cho mọi người thấy một chiều kích phổ quát và toàn diện của Tin mừng trong cộng đồng nhân loại. Tin mừng không thể đóng khung trong một cái nhìn phiến diện nào. Nhưng càng thấm sâu tinh thần Tin mừng, càng thấy nhiều chiều cạnh mở tung ra thế giới.
Chính vì thế, khi bắt tay vào việc mở mắt cho người mù hôm nay, Đức Giêsu cũng muốn giải thoát mọi người khỏi cảnh tăm tối với những giới hạn vô nghĩa. Quả thực, sau khi chữa cho "một người vừa điếc vừa ngọng," (Mc 7:32) "Đức Giêsu cấm họ không được kể chuyện đó với ai cả." (Mc 7:36) Vừa giải thoát anh, Người lại muốn ngăn chặn đám đông muốn tôn vinh mình. Lệnh cấm đó chỉ muốn giúp mọi người vượt quá tầm nhìn bình thường. Hochết dí vào sự kiện trước mắt, không thể đi xa hơn được. Quả thế, khi chứng kiến phép lạ đó, họ tấm tắc: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được." (Mc 7:37) Dưới cái nhìn của họ, Đức giêsu chỉ là một ông lang tài gioi. Thế thôi ! Một cái nhìn như thế cứ phóng tới chắc chắn sẽ kẹt kinh khủng cho sứ vụ của Chúa. "Có lẽ thánh Marcô muốn nhấn mạnh: Đức Giêsu còn hơn một thầy thuốc chữa bệnh. Căn tính của Người chỉ hoàn toàn được mạc khải trên thập giá và trong ngày phục sinh." (The New Jerome Biblical Commentary 1990: 613)
Quả thực, trên thập giá, Người mới có thể mạc khải hoàn toàn bản chất đầy lòng thương xót của mình. Nhưng ngay hôm nay mọi người đã chứng kiến một phần lòng thương xót đó. Khi nhìn thấy anh chàng điếc và ngọng đó, Đức Giêsu đã động lòng trắc ẩn b iết chừng nào. Đây là một dấu chỉ về tình cảm đặc biệt Chúa dành cho anh: "Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước mếng mà bôi vào lưỡi anh." (Mc 7:33) Đó cũng là một cử chỉ đầy ý nghĩa biểu tượng. Chúa muốn tách anh khỏi đám đông tăm tối.
Ngón tay quyền năng trực tiếp giải thoát các chi thể anh khỏi những giới hạn lầm than và đưa anh vào cuộc sống. Tai và lưỡi là những phương tiện cần thiết để trao đổi với mọi người và nhận những nguồn thông tin cần thiết cho cuộc sống. Trước mặt người đời, anh chỉ là con số không, vì thiếu cả những phương tiện căn bản nhất để sống một cuộc sống bình thường. Bởi thế, khi trả lại cho anh khả năng nghe và nói, Đức Giêsu đã dành lại cho anh tất cả quyền làm người. Anh có cả một cơ hội lớn để tiếp tục hòa nhập và lớn lên như mọi người trần thế. Chỉ cần một lời "hãy mở ra !" (Mc 7:34) Đức Giêsu đã khai thông tất cả. Từ đám đông, anh chẳng có gì. Nhưng nhờ quyền năng Thiên Chúa, anh có tất cả khi trở lại đám đông. Anh có tất cả vì anh đã tin vào quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, "Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu có đức tin và thừa hưởng vương quốc Người hứa cho những ai yêu mến Người hay sao ?" (Gc 2:5)
HẠNH PHÚC ĐÍCH THỰC
Anh thực sự hạnh phúc. Nhưng tại sao anh hạnh phúc như thế ? Anh hạnh phúc vì đã cảm nghiệm sâu xa lòng Chúa xót thương. Chúa biến đổi đời anh. Có lẽ không ai hiểu thấu lòng Chúa thương xót bằng anh. Lòng Chúa xót thương là chỗ dựa duy nhất cho người tín hữu. Có kinh nghiệmvề lòng thương xót đó, mới có thể sống hạnh phúc và bình an.
Khi suy gẫm về lòng Chúa thương xót trong thánh vịnh 50, ĐGH Gioan Phaolô II đã coi Thánh vịnh là "một ốc đảo dành cho việc suy gẫm, nơi đó con người có thể khám phá sự dữ đang ẩn núp trong lương tâm và cầu xin Chúa thanh tẩy và tha thứ. con người thì giới hạn và mỏng dòn, nhưng lại có khả năng xấu xa khi gieo rắc sự dữ và bạo lực, ô uế và sai lầm." (Zenit 30/07/03) Nhân loại thật đáng thương ! Họ rơi vào tăm tối. Vì thế không còn nhận ra ánh sáng chiếu tỏa từ lòng Chúa xót thương.
Giữa một thế gian đầy tăm tối như thế, người tín hữu hãy lắng nghe một "sứ điệp hi vọng": "Thiên chúa có thế 'hủy bỏ, thanh tẩy' lỗi lầm của một tâm hồn biết thống hối. Bởi đấy, người tín hữu ý thức mình được Thiên chúa tha thứ. Chính nhờ trung gian là Đức Giêsu, Đấng đã hiến dâng của lễ toàn hảo lên Thiên Chúa." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 30/07/03) Chỉ trên thập giá Đức Giêsu mới có thể mạc khải tất cả sự thật về lòng Chúa xót thương, nguồn hi vọng duy nhất cho toàn thể vũ trụ. Lời ngôn sứ đã loan báo từ xưa về niềm hi vọng này: "Chính Người sẽ đến cứu anh em." (Is 35:4) Bởi thế, dù bị bao vây tứ bề và đe dọa muôn mặt, người tín hữu vẫn được Chúa khích lệ: "Can đảm lên, đừng sợ !" (Is 35:4) vì "Chúa là thành lũy bảo vệ đời tôi." (Tv 27:1)
Ngày nay, người ta vẫn gặp những đứa trẻ bị giam hãm trong nỗi cô đơn bởi vì chúng bị mù, bị câm,: TN 23-B61
Ngày nay, người ta vẫn gặp những đứa trẻ bị giam hãm trong nỗi cô đơn bởi vì chúng bị mù, bị câm, bị điếc ngay từ lúc mới chào đời. Nhiệt tâm và kỹ thuật chuyên môn của các chuyên viên đôi khi cũng đem lại thành công đôi chút là giúp cho những đứa trẻ tật nguyền này biểu lộ một vài cử chỉ, bập bẹ được vài tiếng. Tuy vậy, có những đôi mắt, những đôi tai và miệng lưỡi bị đóng kín: có rất nhiều người, nhiều đôi vợ chồng "không hiểu được nhau", "không nói với nhau" ! Có biết bao "cuộc đối thoại giữa những người điếc" đang diễn ra tại các quốc gia, nơi những nhóm người, những cộng đoàn: người ta không tin nhau, không đón nhận người khác trong nỗi yếu đuối của họ ...
Những tình trạng này có thể giúp người tín hữu hiểu được ý nghĩa biểu tượng trong câu chuyện Đức Giêsu chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng. Đức Giêsu nhận thấy rằng đám dân được tuyển chọn nay đã trở nên điếc, không nghe được lời giảng của Người, và không lắng nghe lời Người mời gọi thay đổi nếp sống, nên Người du hành sang miền đất thuộc dân ngoại: Tia, rồi Xi-đon và Thập Tỉnh. Đức Giêsu có mặt ở giữa đám dân không có tai để nghe lời Thiên Chúa và không có miệng để ca tụng Người. Họ giống như các ngẫu tượng có mắt có miệng, không nhìn không nói, có mũi có tai, không ngửi không nghe.
Và đây, một minh hoạ cụ thể về đám dân ngoại này: người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu.
Đức Giêsu bắt đầu làm việc. Hình như việc đặt tay không không đủ. Sự dữ lớn quá. Đức Giêsu kéo riêng người bệnh ra một nơi, đặt ngón tay vào lỗ tai anh và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Người còn ngước mắt lên trời cầu nguyện, rên một tiếng... Cái ác thật mạnh ! Đức Giêsu chiến đấu chống lại nó, không phải là không khó nhọc; nhưng cuối cùng Người đã chiến thắng: tai anh đã mở ra, lưỡi anh hết bị buộc lại.
Phép lạ này vừa là việc chữa lành người bệnh, vừa là một Tin Mừng cho dân ngoại, và cũng là một dấu chỉ quý giá cho Hội Thánh.
Chữa lành người bệnh: Đức Giêsu tái tạo miệng lưỡi và đôi tai của anh, cho chúng hoạt động được. Như thế, Người bày tỏ quyền năng sáng tạo của Người.
Tin Mừng cho dân ngoại: Đức Giêsu ban cho họ, như đã ban cho dân Ít-ra-en, đôi tai để nghe lời Thiên Chúa, và miệng lưỡi để ca tụng Người cách đúng đắn. Tất cả đều được mời gọi hưởng ơn cứu độ.
Dấu chỉ quý giá cho Hội Thánh: cử chỉ lấy nước miếng bôi vào tai, và nhất là lời đọc Ép-pha-ta - Hãy mở ra được nhắc lại mỗi khi cử hành bí tích Thánh Tẩy. Nhân loại vẫn khép kín nơi chính mình, giờ đây được mở ra và tái lập cuộc đối thoại với Thiên Chúa của mình.
Như vậy, Đức Giêsu muốn mọi người trở thành "những người có trách nhiệm", những người có khả năng nghe và đi vào cuộc đối thoại đem lại ơn cứu độ do Giao Ước thiết lập. Trước những thái độ khép kín nơi chính mình - thái độ của những người giàu có, những người quyền thế, những người kiêu căng, trước những thái độ vô tâm, tự mãn, ích kỷ, Đức Giêsu vẫn luôn nói: "Hãy mở ra". Hãy mở ra để đón nhận ơn cứu độ đích thực, hãy mở ra để cùng dấn thân với Thiên Chúa ...
Hãy mở ra
Người ta biết nhiều đến bản văn này qua từ ngữ "Ép-pha-ta - Hãy mở ra". Dĩ nhiên chủ đề chính của bản văn này là mở ra, nhưng cần phải hiểu là có nhiều mức độ.
g người chữa bệnh: tách riêng bệnh nhân, tiếp xúc thể lý (đặt tay vào tai), thấm nước miếng và bôi lên người bệnh.
Trong một xứ sở thuộc dân ngoại, tức là miền Thập Tỉnh, Đức Giêsu xuất hiện như một người chữa bệnh. Tuy nhiên, dân ngoại nhận ra Đức Giêsu không giống như những người khác: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được."
* Phép lạ tạo nên hai cuộc cắt đứt:
Đức Giêsu có những cử chỉ giống như người khác, nhưng tự căn bản, những cử chỉ này mang ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Người thực hiện điều ngôn sứ I-sai-a báo trước (35,5) theo một ý nghĩa mới.
Phép lạ xảy ra tại một miền đất ngoài lãnh thổ Ít-ra-en. Điều này cho thấy Đức Giêsu muốn mở rộng mặc khải cho toàn thể nhân loại.
Thái độ mở ra của con người
Kẻ vừa điếc vừa ngọng chính là biểu tượng của tình trạng không có thông tin, không có hiệp thông. Anh ta không đón nhận được tiếng nói, và cũng không phát ra được lời nào. Anh ta tựa như một người đã chết, đã bị vùi lấp và giờ đây anh ta gặp Đức Kitô, Đấng là Lời và là Sự Sống.
Đối với người bệnh, phép lạ này là một cuộc sinh ra mới, là một cuộc phục sinh. Anh ta mở ra với sự sống, với thế giới bên ngoài, với những con người đang sống bên cạnh. Nhận định này cũng tương tự như trường hợp người mắc bệnh cùi. Do sự can thiệp, do lời cầu nguyện của Đức Giêsu, sự sống không thể tắt lịm, và nếu sự sống có sự ác bị ngăn lại, thì cũng được khai thông.
Sự tái sinh này xảy ra do cuộc tiếp xúc với con người Đức Giêsu (đụng chạm, nước miếng). Điều này nhấn mạnh đến một kinh nghiệm thiêng liêng. Sinh ra trong sự sống do Thiên Chúa ban không phải là kết quả của cây đũa thần điều khiển từ xa. Phải có một sự hiện diện, một cuộc tiếp xúc. Chính vì vậy, sự nhập thể của Con Thiên Chúa là một yếu tố không thể tách rời của mặc khải. Chính nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu mà nhân loại yếu đuối có thể chạm đến và cảm được điều thiêng thánh (Thánh Ép-rem).
Đến với dân ngoại hôm nay
Ngày nay cũng như hôm qua, các Hội Thánh của chúng ta, thân thể của Đức Kitô cũng đang du hành sang các miền đất của dân ngoại. Thay vì Tia, Xi-đon, Thập Tỉnh là những tên gọi mới. Khắp nơi, những người đang vây quanh chúng ta chẳng có tai để nghe lời Thiên Chúa, chẳng có miệng lưỡi để nói lên lời ca tụng Thiên Chúa.
Hãy nhìn vào đám đông này với niềm hy vọng chắc chắn rằng họ không ở xa ơn cứu độ. Họ chờ đợi Đức Kitô đến trong chúng ta để chạm vào tai họ, và cởi dây đang buộc lưỡi họ. Khi ấy, sẽ có nhiều tiếng nói vang lên để cùng chúng ta ca tụng Thiên Chúa, miễn là chúng ta để cho Thiên Chúa chạm đến, miễn là tai chúng ta mở ra để nghe lời Thiên Chúa, miễn là lưỡi chúng ta đưa ra để đón nhận bánh từ trời xuống.
Vì vậy, hãy mở ra để lắng nghe và đón nhận những giáo huấn Tin Mừng ! Hãy mở ra để nói lên lòng tin cùng với tất cả cuộc sống ! Hãy mở ra để môi miệng thốt lên lời kinh "Lạy Cha chúng con". Được như thế, đời sống của chúng ta sẽ trở nên một lời nói sống động, và sẽ hoàn toàn quy hướng về Đức Giêsu Kitô.
Và khi ấy, người khác cũng kinh ngạc mà thốt lên: "Ông ấy làm gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được."
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa cho chúng con được sống hôm nay và ngày mai cũng như hôm qua và mỗi ngày trong ân sủng của Chúa, trên mặt đất, với bánh ăn và ánh sáng, với những con người vây quanh.
Chúng con cảm tạ Chúa vì chúng con đang sống ở đây và lúc này, và được cảm nhận cả nỗi buồn lẫn niềm vui. Chúng con cầu xin Chúa để dù tương lai hay sự chết cũng không tách rời chúng con khỏi Đức Giêsu Kitô, khỏi tình yêu của Chúa đối với con người cũng như đối với mặt đất.
"Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon, đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Ðoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: "Effetha!" (nghĩa là "Hãy mở ra!"), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng. Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!"
Suy NiỆm:
Ba bài Kinh Thánh hôm nay diễn tả đúng giáo lý thông thường của Hội Thánh. Với bài sách tiên tri: TN 23-B62
Ba bài Kinh Thánh hôm nay diễn tả đúng giáo lý thông thường của Hội Thánh. Với bài sách tiên tri Isaia, chúng ta được biết Thiên Chúa dùng Cựu Ước hứa ban ơn cứu độ. Người thực hiện mọi lời hứa nơi Ðức Giêsu Kitô là Con Một mà Người đã sai đến trần gian như các sách Tin Mừng cho chúng ta thấy. Nay muốn lãnh nhận ơn cứu độ mà Người đã ban, chúng ta phải thi hành lòng đạo đức theo giáo huấn của các tông đồ. Có thể nói Chúa nhật nào Lời Chúa cũng dạy dỗ ta như vậy. Nhưng mỗi lần, giáo huấn thông thường của Hội Thánh như muốn kéo sự chú ý của chúng ta vào một điểm, hoặc một mặt naò đó, để giúp chúng ta sống đạo một cách thực tế. Bài học cụ thể hôm nay có lẽ nằm trong bài thư Giacôbê; nhưng hai bài đọc kia cũng có những điểm giáo lý quan trọng và có thể đặt nền tảng cho thái độ đạo đức mà bài thư Giacôbê muốn chúng ta thi hành. Chúng ta hãy nhìn lại ba bài Thánh Kinh vừa nghe.
1. Cựu Ước Hứa Ơn Cứu Ðộ
Ðoạn sách Isaia hôm nay nằm trong khâu các lời sấm nhằm an ủi Israel. Dân Chúa đang ở trong tình trạng bi đát. Quê hương bị ngoại bang chiếm đóng. Phần lớn dân chúng bị bắt đem đi phục dịch và nô dịch cho đế quốc xâm lược. Thời gian lưu đày dường như muốn kéo dài đến vô tận. Nhưng bỗng có tin binh động ở một vài nơi. Nhiều người hốt hoảng sợ mất luôn cả sự sống và các phương tiện nhỏ bé còn sót lại, bởi vì lửa chiến tranh đâu có tha gì mái tranh và thân xác hao mòn của người nghèo. Chính lúc ấy, Isaia được Thiên Chúa sai đến với dân để nói lên những lời an ủi của Người.
Người sai ông đến với những kẻ lòng đang "hốt hoảng" và bảo họ: hãy phấn khởi lên, đừng sợ; này Chúa đang đến trả oán (kẻ cường bạo); nhưng với dân của Người thì đó là thời gian cứu độ. Mắt kẻ mù sẽ mở, tai kẻ điếc sẽ thông, lưỡi người câm sẽ nói; và nước sẽ phun trong sa mạc.
Những lời hứa hẹn ấy thực ra chỉ muốn gợi lên một kỷ nguyên mới đẹp đẽ lạ lùng khiến tất cả những người có bệnh tật như cũng được hồi sinh và cả những chỗ đất khô khan cũng trở nên tươi tốt. Chẳng ai nên hiểu theo nghĩa đen từng chữ. Ngược lại, chúng ta phải để ý đến những thực tại tâm linh mà những hình ảnh kia muốn gợi lên. Ơn cứu độ sẽ tái tạo và tái sinh con người cũng như vạn vật. Con người không còn các tật xấu, tức là nết xấu và tội lỗi nữa. Lòng họ chan chứa niềm vui cứu độ, khiến chính Tin Mừng của Chúa sẽ sửa chữa, cải tạo mọi cái hư trước đây ở nơi con người. Trong khi ấy vũ trụ vật chất cũng được chia sẻ và tham dự đổi mới. Chỗ hoang vu cằn cỗi nhất ở nơi sa mạc cũng sẽ có nước phun và suối khe chảy trong sạch.
Isaia là thi nhân, hơn nữa ông còn là phát ngôn viên của Thiên Chúa toàn năng. Lời thơ của ông chỉ có khả năng gợi lên chứ chưa diễn tả hết được những công cuộc kỳ diệu mà Ðấng Toàn Năng hứa sẽ làm cho lịch sử loài người. Chúng ta đang chứng kiến những thay đổi lớn lao trong đời sống con người và trong vũ trụ này. Các thay đổi này còn đẹp hơn biết bao nếu quả thực trong lòng mọi người đều chứa chan niềm vui cứu độ. Những nét còn không hay nơi đời sống xã hội loài người hiện nay không phải do tội lỗi còn sót lại đó sao? Nếu tất cả loài người đều tốt, thì với trình độ và khả năng khoa học kỹ thuật hiện đại, thế giới này không phải là một địa đàng sao?
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy viễn tượng tốt đẹp ấy để kêu mọi người hãy đón nhận ơn cứu độ vào lòng mình, hầu khi lòng đã chan chứa niềm vui cứu độ, đầu óc và tay chân chúng ta sẽ sáng tạo và xây dựng nên một đời sống mới và một kỷ nguyên mới, rất hạnh phúc và văn minh.
Tuy nhiên chúng ta đừng tưởng có thể vươn tới tương lai đẹp đẽ ấy mà không tựa vào Ðức Giêsu Kitô, Ðấng mà Thiên Chúa đã sai đến làm cứu thế cho loài người chúng ta. Chúng ta hãy nhìn xem Người trong bài Tin Mừng hôm nay để biết đi vào đường lối cứu độ của Thiên Chúa.
2. Tân Ước Thi Hành Lời Hứa
Sách Tin Mừng Marcô hôm nay kể bấy giờ Ðức Giêsu đang đi về phía biển hồ Galilêa, tức là đang ở giữa đất dân ngoại. Người là hình ảnh về Hội Thánh luôn sống giữa lương dân... Nhưng tại đây Người cũng chỉ thực hiện các lời hứa trong Cựu Ước. Chính đám dân đi theo Người, nghe Người giảng dạy và thấy các việc Người làm, cũng nhận ra Người là con người đến để thi hành các lời tiên tri.
Hôm nay Người chữa lành một người điếc và câm. Marcô tả cách thức Người làm không khác gì kiểu cách các lang y, hoặc pháp sư thời bấy giờ. Người đưa kẻ có tật ra một chỗ kín để gợi lên vẻ huyền bí. Người chọc ngón tay vào lỗ tai nó để chữa nó khỏi điếc. Rồi lại đụng tay vào lưỡi nó để nó khỏi câm. Nhất là khi giữa lại nguyên vẹn từ "Ephphata", là thổ âm mà Ðức Giêsu vẫn dùng, Marcô muốn làm tăng vẻ mầu nhiệm nơi độc giả của Người không còn nói thổ âm ấy nữa. Nhưng dù có ý diễn tả Ðức Yêsu chữa lành các tật nguyền theo cung cách của các lang y và pháp sư, Marcô vẫn muốn đề cao ý tưởng: đây là một phép lạ, một dấu hiệu làm chứng Ðức Giêsu là Ðấng đang thực hiện các lời tiên tri nói chung và sách Isaia nói riêng. Vì thật ra lang y và pháp sư nào chữa được bệnh tật như vậy, và mau lẹ dễ dàng như thế? Dân chúng đã thấy rõ đây là điềm lạ ứng nghiệm các lời tiên tri, thì Marcô không cần phải nhấn mạnh đến khía cạnh kỳ diệu nữa. Ngược lại, nắm chắc được điều ấy rồi , ông còn cố gắng diễn tả Ðức Yêsu như một người thường, dùng kiểu cách của các lang y và pháp sư thường để làm những việc mà không ai làm được.
Như vậy tác giả muốn nói rằng: Ðức Giêsu bề ngoài là người như mọi người nhưng lại có khả năng mà không ai đạt được, để chúng ta tin Người là Thiên Chúa giáng sinh làm người. Và người ta phải tin như Người muốn; chứ đừng bắt chước người Dothái chỉ muốn Ðấng Thiên Sai cứu thế phải "khác thường". Thế nên Ðức Giêsu luôn muốn cấm họ nói đến các phép lạ Người làm, kẻo khi thấy Người trên thập giá họ sẽ không chấp nhận nổi ý tưởng ơn cứu độ có thể thoát ra từ mầu nhiệm tử nạn. Còn đối với tác giả Marcô thì không; người tin ơn cứu độ đến qua thập giá Ðức Giêsu Kitô; nên trong bài Tin Mừng hôm nay, người đã mô tả thần lực của Ðức Kitô đã thoát ra chữa lành các bệnh tật, tức là tội lỗi của loài người, qua cung cách của một con người thường là Ðức Giêsu thành Nadarét, để chúng ta ngày nay cũng tin ơn cứu độ đang đến với chúng ta qua Hội Thánh là một cơ quan cũng rất thường ở trước mặt thế gian.
Chính vì vậy mà chúng ta có thể đặt một liên hệ giữa tiếng "Ephphata" dùng trong phép lạ này với cũng một tiếng đó dùng trong lễ nghi rửa tội của Hội Thánh. Các bí tích mà Hội Thánh cử hành tiếp nối hành động của Ðức Giêsu cứu thế. Người đã dùng tiếng Ephphata cứu chữa người ta thì Hội Thánh cũng dùng tiếng đó để cứu vớt các linh hồn. Và Hội Thánh hàm ý rằng, người ta chỉ được cứu độ khi mở tai lắng nghe Lời Chúa và để cho Lời ấy cất tiếng lên ở trong tâm hồn và đời sống của người ta hầu ca tụng các quyền năng của Chúa.
Như vậy phép lạ chữa lành người điếc và câm hôm nay có ý nghĩa bí tích hơn là chỉ muốn thuật lại một hành vi của Chúa đã làm trong lịch sử. Người đã làm như thế để nói rằng Người mang ơn cứu độ đến qua đường khiêm cung khó nghèo. Và người ta chỉ đón nhận được khi biết mở tai đón nhận Lời Chúa để rồi phát biểu lại Lời ấy trong đời sống của mình. Do đó, Ðức Giêsu đã thực hiện lời Isaia vì đã chữa lành người câm và điếc, nhưng khi hành động bề ngoài như vậy, Người đã muốn đem đến ơn cứu độ chữa lành các linh hồn để xây dựng một kỷ nguyên mới mà sách Isaia đã mơ hồ cảm thấy. Tất cả chỉ còn tùy ở thái độ của loài người có chấp nhận và thi hành Lời Chúa hay không. Và điều này, nhiều khi cũng khó như chúng ta có thể thấy trong bài thư Giacôbê hôm nay.
3. Chúng Ta Ðón Nhận Lời Chúa
Tác giả không nói những điều đặc biệt... Sự kiện người kể rất hay xảy ra. Chúng ta vẫn quen trọng của khinh người. Gặp người ăn mặc sang trọng, chúng ta lễ phép vồn vã muốn được lòng, còn kẻ ăn mặc rách rưới, chúng ta không muốn để ý tới. Làm như vậy, thánh Giacôbê nói, không còn đạo đức nữa. Ðã có tinh thần thế gian và cư xử theo lề lối thế gian rồi. Người đạo đức thật và có tinh thần của Chúa, ngược lại phải nhớ Người đã chọn những kẻ nghèo và làm cho họ nên giàu sang về đức tin và ơn cứu độ. Chính chúng ta đã được như vậy, thì cớ sao nay lại ăn ở theo quan điểm của thế gian.
Lời thư Giacôbê quả thật rất cụ thể... Nó đòi chúng ta phải kiểm điểm lại đời sống... Quan điểm chúng ta hiện nay là gì? Chúng ta muốn bản thân được giàu có hay muốn cả xã hội được cứu độ? Chúng ta có cái nhìn của Isaia muốn thấy một kỷ nguyên mới, trong đó người vật đều vui tươi hồi sinh; hay chúng ta chỉ nghĩ cho bản thân được dễ chịu? Và nếu chúng ta có cái nhìn của Isaia, tức là cái nhìn cứu thế, thì lúc đó chúng ta sẽ thấy thái độ và hành động của Ðức Giêsu là cụ thể. Quả thật, Người đã sống như để muốn làm gương cho chúng ta. Không ai đòi cho chúng ta phải làm được những kỳ công kiệt tác; nhưng với cung cách bình thường và dùng các phương tiện vừa tầm tay, chúng ta phải có tinh thần mới để làm mọi việc. Ðó là tinh thần do Lời Chúa đã rót vào tai và bây giờ phát biểu ra miệng lưỡi và hành động của chúng ta để giúp người và cứu thế. Chính quan điểm đánh giá công việc chúng ta làm. Kẻ có quan điểm ích kỷ chỉ làm ra những việc bủn xỉn. Người có quan điểm xã hội sẽ góp phần xây dựng tương lai mới.
Ðể giúp chúng ta lướt thắng các cám dỗ của khuynh hướng ích kỷ, giờ đây phụng vụ đưa chúng ta vào cái nhìn của niềm tin công giáo và vào thánh lễ cứu độ. Chúng ta tuyên xưng niềm tin phổ quát và vĩnh cửu; chúng ta tham dự mầu nhiệm Ðức Kitô thiết lập giao ước mới, tức kỷ nguyên mới. Chúng ta phải có quan điểm mới và nếp sống mới, mới có lòng đạo đức thật.
Trong thiên hạ có anh giả điếc, Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây, Chẳng ai ngờ: sáng tai: TN 23-B63
“Trong thiên hạ có anh giả điếc Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây, Chẳng ai ngờ: sáng tai họ điếc tai cày…” (trích bài “Anh giả điếc” của Nguyễn Khuyến)
Sáng tai họ điếc tai cày
Theo nghĩa đen, khi người cày ruộng ra lệnh cho trâu đi cày thì tai trâu như điếc chẳng nghe gì, nên cứ đứng ỳ một chỗ. Tật đó gọi là điếc tai cày. Trái lại khi đang cày ngon trớn mà chợt nghe người cày hô nhỏ: “họ!” (tức là dừng lại) thì tai trâu trở nên sáng tỏ, trâu bèn đứng lại liền. Tật nầy gọi là sáng tai họ.
Thành ngữ nầy ám chỉ có những đôi tai luôn mở ra (sáng tai) đối với những lời có lợi và thường xuyên đóng lại (điếc tai) trước những lời mà lòng chẳng muốn nghe.
Tai của vị hôn quân chỉ sáng trước những lời đường mật của lũ nịnh thần nhưng điếc đặc trước những lời chân thật của các bậc trung thần, vì thế mà triều đình băng hoại và sụp đổ.
Tai của những nhà lãnh đạo tham lam và mù quáng chỉ biết nghe những lời có lợi cho bản thân và điếc hẳn trước những oán than của dân nghèo, vì thế mà nhân dân khốn cùng, Nước nhà mạt vận.
Cách đây 150 năm, giá như triều đình của Vua Tự Đức (trị vì: 1847-1883) sáng tai trước những lời điều trần kêu gọi cải cách về nhiều mặt của Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) thì Việt Nam ngày nay lớn mạnh biết chừng nào.
Và giá như nhân loại sáng tai trước những lời giáo huấn của Chúa Giê-su thì mọi người đã được sống trong yêu thương hạnh phúc, đâu còn cảnh chiến tranh, khủng bố, áp bức, bất công...
Tuy nhiên, nhận ra sự điếc lác của mình trước một số lãnh vực nào đó và tìm cách chữa trị nó là điều không dễ.
Điếc tâm linh
Trong tác phẩm “tự thú”, thánh Âu-tinh nhìn nhận đôi tai của người đã điếc lác trước Lời phán dạy của Chúa trong thời gian lâu dài:
“Con yêu Chúa quá muộn! Này Chúa vẫn ở trong con mà con cứ tìm Chúa bên ngoài… Chúa gọi con. Chúa la to và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng. Chúa chiếu tỏa và đã xua tan sự mù loà của con…”
Cho đến năm 33 tuổi, đôi tai điếc của thánh Âu-tinh đã được Chúa Giê-su khai mở để đón nghe Lời Người.
Chúa Giê-su cho người điếc được nghe:
Qua bài đọc thứ nhất hôm nay, ngôn sứ Isaia đã báo trước một thời đại hồng phúc, thời Chúa Giê-su đến mở mắt cho người mù, mở tai cho người điếc:
“Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai và miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Isaia 35, 5-6)
Lời tiên báo đó đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su qua trình thuật của thánh sử Mác-cô:
“Hôm ấy, Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Ép-pha-tha", nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng” (Mác-cô 7, 31-35)
Hôm nay, nếu không được Chúa Giê-su và Thánh Thần của Người mở tai, chúng ta cũng chỉ là những người điếc trước những lời ban sự sống. Nếu không được Chúa Giê-su và Thánh Thần Người mở mắt, chúng ta mãi mãi vẫn chỉ là những người mù không thể nhận biết Thiên Chúa là Cha.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã mở tai cho người điếc ở miền Thập tỉnh được nghe.
Chúa cũng đã thương cho đôi tai điếc lác của thánh Âu-tinh được mở ra để đón nhận những lời thần thiêng của Chúa.
Nay xin Chúa cũng cúi xuống trên chúng con, đoái thương tình cảnh “điếc lác” của chúng con, cho tai tâm hồn chúng con được sáng trước những lời dạy khôn ngoan của Chúa, là những lời có sức mang lại cho chúng con sự sống muôn đời.
Loài vật vốn có tình bầy đàn. Con người thì có tính xã hội. Con người là hữu thể trong tương: TN 23-B64
Loài vật vốn có tình bầy đàn. Con người thì có tính xã hội. Con người là hữu thể trong tương quan liên vị. Tôi chỉ thực sự là tôi trong tương quan với một ai đó. Chính vì thế sự tương quan liên vị là một nhu cầu sinh tồn của con người. Sự tương quan này được thể hiện rõ nét qua sự tiếp xúc. Một trong những cách thế để tiếp xúc hữu hiệu với tha nhân là đối thoại tức là nghe và nói. Thật bất hạnh cho những ai thiếu hay mất khả năng nói và nghe. Thoạt sinh ra mà bị câm điếc thì đúng là kém may mắn. Dân gian truyền miệng rằng hễ một người câm, không nói được thì trời cho điếc luôn để khỏi uất ức, tức tối khi nghe những lời không hay về mình mà không phản bác lại được. Thế nhưng, y học thì cho thấy ngược lại: chính vì bị điếc, không nghe được nên người ta mới bị câm. Vì không nghe được nên con người không thể tập nói. Trẻ thơ nói được là nhờ bắt chước, lặp lại những gì đã nghe.
Bài Tin mừng Chúa Nhật XXIII TN B kể lại chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm điếc mà dịch chính xác hơn là điếc và ngọng. Đây là một trong những dấu chỉ của thời Thiên Sai mà Thánh kinh đã loan báo. Mất đi khả năng nghe và nói về thể lý là một khốn khổ và bất hạnh. Thế nhưng sự bất hạnh và khốn khỏ ấy dường như chỉ hạn hẹp ở đương sự và có chăng là nơi vài người thân thích. Tuy nhiên nếu xét về bệnh điếc, câm hay ngọng về tinh thần thì sự khốn khổ và bất hạnh nó di hại cho nhiều người và hậu quả cũng thật khó khắc phục. Dù thuộc bình diện thể lý hay bình diện tinh thần, thì luôn có mối liên hệ gần như là nhân quả giữa hai phạm trù nghe và nói. Đó là do bởi sự bất lực hay hạn chế trong khả năng nghe ( không nghe được, không chịu nghe, nghe không rõ, không đúng, không chính xác ), nên người ta mắc bệnh câm hay ngọng là không nói được, nói không rõ, không chính xác hay nói không được những điều cần nói, nên nói và phải nói, hoặc có nói thì cũng như không.
Hẳn nhiên, chúng ta không chỉ thở dài phiền não mà còn bất bình với những người đang nắm trọng trách lãnh đạo vì cớ nào đó đã làm kiếp “chó câm” như kiểu nói của Đức Bênêđictô XVI khi ngài còn là Hồng Y. Chúa Giêsu chỉ im lặng trước Caipha và trước Philatô sau khi đã nói những gì cần nói và phải nói: Tôi là Con Thiên Chúa Hằng Sống; Tôi là Vua, đến thế gian để làm chứng cho sự thật…( x.Mt 26,64; Ga 18,37 ). Ngay phút giây hấp hối trên thập giá Người vẫn nói lời tình yêu, lời chân lý cho đến khi “mọi sự đã hoàn tất”. Chúng ta cũng không chỉ bực mình mà còn phẫn nộ truớc những người thường xuyên nói với kiểu “nói ngọng, nói vẹt”, tức là nói không đúng hiện thực hay chỉ biết nói những gì được chỉ đạo, được lập trình sẵn… Có thể có nhiều nguyên nhân chủ quan hay khách quan gây ra tình trạng này. Tuy nhiên ở đây chúng ta cùng xem xét một nguyên nhân đó là không biết nghe.
Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách thế, tuy nhiên cách thế thông thường mà Người phán dạy chúng ta là qua con người. Đọc lịch sử thánh chúng ta nhận ra điều này là không kể các kỳ công của cuộc tạo dựng và một số dấu lạ điềm thiêng, thì Thiên Chúa thường phán dạy qua những con người bé mọn, nghèo hèn, cụ thể là các ngôn sứ, những người nghèo của Giavê. Đến thời kỳ viên mãn Thiên Chúa lại phán dạy chúng ta qua Người Con. Đó là một người thợ mộc bình thường xuất thân từ Nagiaret, một xứ sở không có gì đáng nói, một gia cảnh không có gì đáng trọng vọng, như lời nhận định bộc trực của Nathanael với Philipphê ( x.Ga 1,46 ). Chúa Giêsu lại chọn gọi 12 người cộng tác để rao giảng Lời Thiên Chúa thì cũng là những người thấp cổ, bé phận. Thánh Giacôbê Tông đồ qua bài đọc thứ hai cảnh tỉnh ta về cái lề thói thích thiên tư, gần gủi với những người sang giàu. Đây là một trong những nguyên cớ khiến ta bị điếc về tâm linh. Rất nhiều nhà lãnh đạo quốc gia hay tôn giáo vẫn có nghe nhưng họ thường nghe lời từ những người có quyền có chức. Họ thường nghe nhân viên thuộc cấp báo cáo, nghe người cộng sự thân cận… mà những người này thì khó tránh được chước cám dỗ nói những gì thuận tai cấp trên, đẹp lòng lãnh đạo, thế là nhiều khi có nghe cũng như không nghe vì không nắm được thực chất của sự kiện hay vấn đề. Một lẽ thường tình: người ta vốn thích nghe những gì dễ nghe.
Để khỏi bị điếc, tức là để nghe đúng, nghe chính xác thì không gì hơn là biết cúi xuống, gần dân, gần những người thấp cổ, bé phận, gần những người nghèo khổ lầm than. Lịch sử cho biết thỉnh thoảng có được một vài minh quân đã biết “vi hành” trong lớp vỏ một dân thường để “nghe-nhìn” cho chính xác hơn tình cảnh dân chúng mà mình đang cai trị. Ngày nay trong sinh hoạt các Hội Dòng vẫn có được chuyện tốt đẹp này khi các Bề trên theo định kỳ, đi kinh lý các cơ sở thuộc quyền và gặp gỡ riêng với từng thành viên của Hội Dòng. Dù mang kiếp “làm dâu trăm họ”, nhưng điều này không chuẩn chước cho việc mục tử phải biết lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của chiên trong lẫn ngoài đàn. Đã là mục tử thì không thể không “biết” chiên. Và một trong những điều kiện ắt có để biết chiên là phải biết lắng nghe. Mong sao việc gặp gỡ giữa mục tử và đàn chiên không dừng lại ở hình thức “tiếp xúc cử tri” như ngoài xã hội dân sự nước nhà chúng ta hiện nay.
Vẫn có những người tuy nghe rõ, nghe đúng nhưng làm như không nghe, không hiểu. Có thể xem nhiều người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu thuộc hạng người này. Chính Chúa Giêsu đã từng lấy lời ngôn sứ Isia để nhận định: “ Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy: vì lòng dân này đã ra chai đá; chúng đã bịt tai, nhắm mắt…” ( Mt 13,14 ). Biểu hiện nơi những người này là không dám nói, có nói thì nói không đúng hay nói kiểu nói ngọng, tức là nói không đúng với hiện thực khách quan, nhiều khi còn cố tình đổi trắng thay đen như trường hợp người ta vu khống Chúa Giêsu dùng tướng quỷ mà trừ quỷ ( x.Mc 3,20-30 ). Không chịu nghe hay không muốn nghe chính là một tình trạng cố chấp và Chúa Giêsu đã từng lên án thái độ này là “chống lại Thánh Thần” ( x.Mt 12,32; Mc 3,29; Lc 12,10 ).
Chúa Giêsu đã từng minh nhiên khen ngợi sự khiêm nhu của vua quan và toàn dân thành Ninivê khi họ biết lắng nghe lời “tuyên họa” của Giona, để rồi ăn năn, sữa đổi đời sống ( x.Lc 11,32 ). Quả thật, để biết lắng nghe thì không nguyên chỉ tìm cách đến với đám đông dân chúng, vì ý của trời thường phản ánh qua ý của dân, mà chúng ta còn cần phải có một tâm hồn khiêm nhu, hướng thiện thực sự.
“Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con …” Lời kinh đầu ngày của các Giờ Kinh Phụng Vụ nhắc nhớ chúng ta chúng ta bổn phận ca ngợi Thiên Chúa. Thiết tưởng rằng lời ngợi ca đẹp lòng Thiên Chúa nhất là nói lời yêu thương trong sự thật và nói lời sự thật trong tình yêu thương. Và chắc hẳn chúng ta sẽ lại nghe lời của Đấng Cứu Độ: Ephrata ! Hãy mở ra ! Hãy mở tai, mở mắt, mở lòng để biết lắng nghe !
Có một câu chuyện vui kể về một tín đồ rất ngoan đạo, bị kẹt trong một cơn lũ lụt mà nước: TN 23-B65
Có một câu chuyện vui kể về một tín đồ rất ngoan đạo, bị kẹt trong một cơn lũ lụt mà nước mỗi lúc một dâng cao. Anh ta từ chối việc di tản. Anh nhất quyết phải chứng minh rằng Thiên Chúa sẽ giải cứu anh.
Nước lụt mỗi lúc lại dâng cao hơn, và người ấy đến lúc đã bị kẹt trên mái nhà mình, đang cầu nguyện xin Chúa một phép lạ. Ba lần người ta dùng thuyền tới cứu, song anh không chịu lên thuyền, bảo họ hãy đi đi. Anh quyết bám vào mái nhà để chờ phép lạ của Chúa. Cuối cùng anh bị nước cuốn đi và bị chết chìm. Khi ra trình diện tại cửa thiên đàng, anh ta phẫn nộ thưa với Chúa:
Lạy Chúa, vì sao Ngài không tôn trọng đức tin của con?
Chúa trả lời:
Ta đã ba lần đưa thuyền đến cứu con, nhưng con đã không chịu bước vào!
Vâng, Thiên Chúa luôn cứu giúp chúng ta qua trung gian con người là hình ảnh của Chúa. Ngài vẫn luôn thể hiện tình thương của Ngài qua tha nhân, qua bạn bè. Đó là lý do mà Ngài tao dựng con người theo hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Ba Ngôi vị liên kết với nhau thành một cộng đoàn tình yêu. Con người cũng được mời gọi liên kết với nhau trong một cộng đoàn của yêu thương và hiệp nhất. Sự liên đới, chia sẻ với nhau đó chính là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa giữa thế gian.
Bài tin mừng hôm nay nói về một người câm điếc từ thuở mới sinh. Sinh ra trong tật nguyền là một thiệt thòi mà chẳng ai mong muốn điều đó xảy đến với mình. Cuộc đời câm điếc đã giới hạn mọi giao tế của anh. Anh không thể nghe người khác tâm sự, và anh cũng không thể thổ lộ hết nỗi lòng của mình cho tha nhân. Một con người sinh ra mà không thể hiểu và thông cảm với tha nhân là một đau khổ triền miên. Có lẽ anh đã sống trong đau khổ thầm lặng và cả những người thân của anh cũng khổ đau như anh.
Nét đẹp của bài phúc âm hôm nay quan yếu là ở tấm lòng những người thân và tình thương của Chúa. Anh sinh ra trong tật nguyền nhưng anh lại được mọi người thương mến, cảm thông với nỗi bất hạnh của anh. Cha mẹ và hàng xóm láng giềng đều mong muốn cho anh có ngày nói được, có ngày nghe được như bao người khác. Họ đã nghe về một Giêsu quê làng Nagiaret đầy tình thương và đầy quyền năng. Một vị cứu tinh của nhân trần có thể sẽ giải thoát và cứu chữa anh khỏi tật nguyền. Họ đã đem anh đến với Chúa. Sự nỗ lực của mọi người đã được Chúa Giêsu bù đắp bằng sự đáp ứng nguyện vọng của họ và chữa lành cho anh.
Thế giới hôm nay vẫn còn đó những con người bị câm điếc do bẩm sinh, do môi trường tác động. Câm điếc về thể xác đã khổ, câm điếc tâm hồn lại còn khổ hơn. Câm điếc tâm hồn khiến họ mất tương quan nghĩa thiết với Thiên Chúa và với tha nhân. Họ không còn nghe được tiếng Chúa và tiếng của tha nhân. Họ không nghe được sự thật và không nói được sự thật. Họ không nghe được tiếng nói của lương tri và không nói được tiếng nói của con tim. Họ đang chôn vùi cuộc đời trong đam mê lầm lạc. Họ là những người cần được khôi phục khả năng để hiểu, để cảm thông và để sống tình liên đới với Chúa và mọi người.
Biết bao người vì những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trói buộc cuộc đời của họ trở thành kẻ tật nguyền đáng tội. Biết bao người đã trở thành câm điếc lương tri, vì ngay từ nhỏ đã không được cha mẹ khai trí mở lòng bằng những lời dạy bảo, những lời hay lẽ phải. Họ không được huấn luyện để nói những lời yêu thương, để lắng nghe tiếng nói của sự thật. Dần dà với thời gian môi miệng của họ không còn khả năng nói lời yêu thương, chân thành đối với tha nhân. Dần dà với thời gian con tim của họ không còn có khả năng để nghe và cảm thông nỗi đau khổ, bất hạnh của anh em. Thay vào đó là những lời độc ác, hận thù, gian dối, và với một trái tim chai cứng, thờ ơ, lãnh đạm với nỗi khổ của anh em. Sự câm điếc tâm hồn khiến họ không còn khả năng để yêu thương, để trao ban và chia sẻ với nỗi bất hạnh của người khác. Điều tệ hại nhất là họ không còn nghe được tiếng nói của lương tâm luôn nhắc nhở họ từ bỏ lối sống u mê, tội lỗi để sống theo lẽ phải, theo lề luật của Thiên Chúa. Họ thật đáng thương vì họ sống trong lầm lạc mà họ không biết. Họ thật bất hạnh vì họ thiếu đi những cảm giác vui tươi, an bình của tâm hồn.
Đôi khi trong cuộc đời chúng ta cũng trở nên kẻ câm điếc giữa tha nhân. Có thể vì thói ích kỷ mà chúng ta làm ngơ trước nỗi khổ của anh em. Có thể vì đam mê và lười biếng chúng ta làm ngơ trước tiếng nói của lương tri.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã đến để phục hồi những gì đã bị hủy hoại bởi tội lỗi, xin Người giúp chúng ta biết lắng nghe tiếng nói của sự thật và biết sống yêu thương với mọi người. Xin Người ban cho chúng ta một tấm lòng quảng đại để chúng ta biết giúp đỡ anh chị em vượt qua những giới hạn và yếu đuối của bản thân để sống hoàn thiện con người mình mỗi ngày nên tốt hơn. Amen Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Thửa Vườn Bí Mật (The Secret Garden) là tựa đề một phim khá nổi tiếng. Nhân vật chính la: TN 23-B66
Thửa Vườn Bí Mật (The Secret Garden) là tựa đề một phim khá nổi tiếng. Nhân vật chính là Mary Lennox, một bé gái mồ côi. Mary được người dượng rất quyền quí là Craven đưa từ Ấn Độ thời còn thuộc địa về Yorkshire bên Anh nuôi nấng. Nhưng ông Craven thì cũng đang trong tình trạng buồn chán cô đơn cùng độ, vì người vợ thân yêu chết sớm, để lại một đứa con trai là Colin khoảng 10 tuổi, cùng tuổi với Mary. Vì thế ông bỏ nhà đi lang thang đây đó cho khuây khỏa, trao Colin và cháu Mary cho một bà vú nuôi chỉ biết có kỷ luật nghiêm khắc. Mary và Colin được giữ gìn thái quá kiểu con nhà giầu: mỗi đứa phải ở trong phòng kín mít vì sợ ánh nắng và gió làm cho cảm cúm.
Đoạn đầu phim này diễn tả ba bộ mặt thật buồn nản: cả ba đều xa lìa tình thương nên không biết cười, và luôn tỏ ra sợ sệt bất an. Colin còn bị chứng sợ ánh sáng và vì không được đi lại chạy nhẩy lâu ngày nên liệt chân phải đi xe lăn. Cả ba người đều bị tàng tật một cách nào đó.
Nhưng sự thay đổi bắt đầu khi Mary tò mò xuống dưới hầm nhà, vào phòng cũ của người dì nay đã đầy bụi và màng nhện. Mary chú tới những tấm hình thật cũ trong ngăn kéo, chụp cảnh đầy ắp yêu thương của dượng Craven đang chơi xích đu với vợ trong thửa vườn tươi mát đầy hoa. Thế rồi Mary lại tìm được một hộp chìa khóa trong một hộc tủ khác. Chắc là chìa khóa thửa vườn "địa đàng hạnh phúc" lý tưởng này đây?
Liều lĩnh bước chân ra ngoài trời lần đầu, Mary cảm thấy có cái gì khác lạ. Cây cỏ xanh ươi, ánh nắng chan hòa, chim hót líu lo. Mary gặp được một chú bé miền quê cỡi ngựa trắng tên là Dickon. Chú bé có nét mặt hồn nhiên, thật tươi và yêu đời, rất thích thiên nhiên. Hai đứa bé kết thân với nhau, và được chú chim nhỏ dẫn đường đến một bức tường cũ phủ đầy cỏ dại. Trong lúc tìm tòi, Mary khám phá ra một cánh cửa bị bụi cây che lấp lâu ngày. A, chắc là cánh cửa thửa vườn bí mật đây rồi. Có sẵn chìa khóa, Mary đã mở được vào thửa vườn thật hoang vắng.
Mary và Dickon bắt đầu dọn cỏ trồng cây. Một thời gian sau, khi mùa xuân đến, cả một thửa vườn bừng lên những mầm non mơn mởn. Rồi hoa nở rộ rực rỡ, ánh nắng nhảy múa với đàn chim tung tăng. Và lạ lắm, Mary cảm thấy sức sống mới nẩy mầm trong tim. Cô bé bắt đầu cười giỡn nhí nhảnh.
Thế là Mary và Dickon nghĩ ngay đến Colin, tìm cách giúp đẩy xe lăn cho Colin ra vườn. Dĩ nhiên là phải trốn tránh bà vú nuôi rồi. Kìa, Colin đang có thể đứng dậy được. Và lạ hơn nữa, có thể bước đi và cười vui chạy nhảy nữa.
Một ngày kia, ông Craven bất chợt trở về nhà. Ông tìm ngay tới phòng Colin để xem con ra sao, thì thấy nó biến đâu mất! Thế là cả nhà náo loạn đổ đi tìm mà không cách nào thấy được. Ông liền có cảm giác lạ, chạy ra thửa vườn bí mật xưa. Một cảnh tượng đang xảy ra trước mặt quá đỗi kinh ngạc: Colin đang chạy tới chạy lui chơi trò "bịt mắt bắt dê", và đã vồ trúng bố. Thế là có cảnh xúc động nước mắt tràn trề, rồi cả ba hò reo sung sướng. Cả ba đã tìm lại nụ cười. Cả ba được chữa lành khi khám phá ra thửa vườn bí mật.
TIN VUI GỬI NGƯỜI BỊ TÀNG TẬT
Trong mục điểm phim của báo Time, Richard Coliss đã viết: "Mỗi người đều mồ côi một cách nào đó. Bạn sinh vào đời nhắm mắt khóc vang; bạn lìa thế gian chẳng mang được gì và cũng chẳng mang theo được ai… Mỗi người như một đứa trẻ tàng tật với một phòng riêng, các cửa đều khóa lại."
Truyện phim "Thửa Vườn Bí Mật" đúng là Thời Điểm, nói lên câu chuyện của nhiều người lúc này: tách lìa thiên nhiên, tách lìa tha nhân, bị đóng kín lại trong cái xã hội đề cao cá nhân chủ nghĩa thái quá, không còn biết cảm thông là gì, như bị chứng vừa câm vừa điếc trong câu truyện Kinh Thánh tuần này: nói không được và nghe không được. Chẳng mấy người hiểu mình muốn nói gì, vì chính mình cũng không rõ mình đang muốn gì trong cuộc sống; và mình cũng chẳng hiểu nổi ai hay chẳng muốn hiểu ai. Tình thương xả kỷ xa vắng mà chỉ còn biết vị kỷ đóng kín lại thành vỏ ốc dầy cứng cô đơn, Cái tôi càng phồng to ra thì cái Ta bị chận vít lại, chỉ biết có mình và gia đình mình. Vuông không còn nối được với tròn nên cuộc sống mất vuông tròn toàn mãn. Nhiều thứ tham sân si bít kín lại làm cho bất an và mất thăng bằng. Vì thế nét mặt có thể đang đầy vẻ lo âu sợ sệt và thiếu vắng nụ cười.
Thì đây có Tin Vui thật lớn: Thửa Vườn Bí Mật ở sâu trong đáy lòng mình. Chỉ cần dừng chân tĩnh lặng. Nhà tiên tri thời đại là Kahlil Gibran trong cuốn "Tiên Tri" có số sách bán nhiều nhất trong thế kỷ này sau cuốn Thánh Kinh, cũng muốn nhắn gửi thông điệp cho thời đại mới:
Bạn hãy để giữa lòng bạn một khoảng trống,
Cho Gió Trời có thể nhảy múa thênh thang.
Ở ngay trong Thửa Vườn Bí Mật này, mình gặp được Chúa như cảm nghiệm Thánh Vịnh 46 (câu 10): "Dừng tĩnh lại thì nhận biết Ta đây là Thiên Chúa."
Đấng Toàn Năng đang mời gọi và giơ tay chạm đến mỗi người: Epphata, hãy mở ra, hãy khai thông mọi tham sân si, hãy xả trống mọi cản ngăn làm ù tai nhức óc mà bước vào thửa vườn lòng mình, tìm lại đời sống cầu nguyện, nối lại vào dòng sức sống mùa xuân toàn mãn.
Và điệu nhạc của phim "Thửa Vườn Bí Mật" đang vang lên. Tiếng sáo vút cao thênh thang quá, vượt mọi giam hãm thường ngày, vượt mọi cản ngăn xa cách. Nhất là đoạn Mùa Xuân Bừng Dậy (Awakening of Spring). Và hình ảnh ba đứa bé đang dẫn nhau vào Thửa Vườn Bí Mật có vòm hoa hồng làm cổng đưa lối rạng lên nụ cười hân hoan.
MÙA XUÂN RA ĐỜI
Hàn Mặc Tử Nguyễn Trọng Trí, một nhà thần bí Công giáo và là một thi hào nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam, trong cơn vật vã hãi hùng của bệnh cùi, trong những giây phút bị tước đoạt nhất bỗng mở mắt sáng khám phá ra những lạ lùng, bỗng thấy được ánh sáng niềm Tin, và bước lại vào Thửa Vườn cuộc đời với một cái nhìn và cái thấy hoàn toàn đổi khác. Và nhà thơ đầy huyền nhiệm này đã mời gọi người khác cũng bước vào mà chiêm ngưỡng Thửa Vườn Bí Mật của lòng mình:
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Phút giây trân trọng khi con mắt niềm tin được khai mở. Trong thửa vườn tĩnh lặng, nhà thơ chạm đến được Đấng Huyền Nhiệm và nghe rõ tiếng gọi Tình Yêu có sức thay đổi tất cả.
Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu...
Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió,
Và để xem Trời giải nghĩa yêu.
Tai của Hàn Mặc Tử đã được khai mở để nghe thấy được mọi cảnh vật dù rất tầm thường cũng đều vang lên bài ca vũ trụ, mang hương vị kỳ diệu như những phép lạ. Tất cả đều rất mượt mà, rất đậm đà, rất ngọc ngà... dù chỉ là áo trắng, hoa đây chỉ là hoa bắp... Bởi vì nhà thơ đã cảm thông được chất Đạo ở tất cả.
Hãy cầu nguyện bằng trăm kinh mây gió.
Hãy dâng cho một tràng chuỗi trăng sao.
Chỉ một câu nói đơn giản “ephpheta” – Hãy mở ra, Chúa Giêsu có thể “thông” được lỗ tai điếc: TN 23-B67
Chỉ một câu nói đơn giản “ephpheta” – Hãy mở ra, Chúa Giêsu có thể “thông” được lỗ tai điếc và “mở” trói cho chiếc lưỡi ngọng cứng của một người. Nếu Chúa Giêsu hôm nay có mặt trên trái đất như đã có mặt tại không gian và thời gian Do Thái trước đây 2000 năm. Nếu ngài mở một bệnh viện chuyên trị “câm và điếc” với bài thuốc rất đơn giản “Ephpheta” thì chắc chắn ngài sẽ được trao giải thưởng Nobel và nhiều giải thưởng cao quí khác thuộc ngành y khoa. Và một điều cũng rất hiển nhiên nữa là bệnh viện ngài không cần quảng cáo nhưng số bệnh nhân sẽ không bao giờ hết.
Qua trích đoạn Tin Mừng mà Thách Marcô tường thuật hôm nay, khiến chúng ta hình dung ra một bậc thầy, một bác sỹ ngoại hạng, mà nếu có mặt ở đây và ngay lúc này thì dù có phải lấy hẹn, xếp hàng dài đến đâu, các bênh nhân câm và điếc cũng sẽ cố gắng chờ đợi để được ngài chữa trị.
Đối với những người mù, việc tiếp cận với thế giới bên ngoài là đôi tai và đôi tay. Họ cảm nhận bằng âm thanh hoặc bằng cách đụng chạm đến người khác hay các đồ vật. Sự mất mát thị giác làm cho thế giới bên ngoài của họ hoàn toàn bị giới hạn.
Với những người câm và điếc thì thế giới bên ngoài lại được họ tiếp nhận bằng cặp mắt, nhưng lại không hề cảm nhận được âm thanh và do đó, sự hiểu biết về thế giới quanh họ cũng bị giới hạn.
Riêng tâm trạng của những người câm có thể phần nào được diễn tả tương tự qua hội chứng Autism, một hội chứng chỉ phát hiện khi em bé lên 2 tuổi. Hội chứng này được chẩn đoán dưa trên 3 yếu tố: Khả năng ngôn ngữ, khả năng giao tiếp xã hội, và tâm tính bất thường của em bé. Yếu tố này quyện lẫn yếu tố kia, nhưng có lẽ điều làm cho một em nhỏ hay một người bị Autism cảm thấy khó chịu nhất là khả năng ngôn ngữ bị giới hạn. Người bệnh không nói và diễn tả cảm nghĩ của mình được, ngoại trừ lặp đi lặp lại vài chữ, hoặc một vài tiếng nghe được như một con vẹt.
Nhưng một hiện tượng khác trái ngược, là có rất nhiều bệnh nhân câm điếc tâm linh mà không hề quan tâm lo lắng chữa chạy, mặc dù ở phương diện này đang có sẵn một bậc thầy, một lương y toàn năng chỉ cần nói một câu “Ephpheta” – Hãy mở ra, là lập tức tai và lưỡi người bệnh được tháo gỡ, và bệnh nhân nói và nghe được. Nói một cách khác, họ sẵn sàng chịu câm và điếc mà không muốn để ai chữa trị, dù là chữa trị miễn phí.
Thực tế cho thấy có rất nhiều người không bao giờ được nghe nói đến Thiên Chúa, đến Tin Mừng của ngài, đến Giáo Hội ngài, đến những chân lý vĩnh cửu. Ngược lại, tai họ đã hầu như bị điếc bởi những tiếng cãi vã, chửi bới, những tiếng hoan hô, đả đảo, những tiếng oán than, trách móc. Nhiều người tuy không bẩm sinh bị điếc, nhưng cũng đã trở thành điếc đối với thế giới âm thanh đạo đức. Vì không phát triển đúng mức khả năng nghe của mình, do đó, việc chuyển dịch và thấu triệt được ý nghĩa của chân lý, của Tin Mừng cứu độ, của những giá trị cuộc đời nơi họ hoàn toàn như không có.
Không những không nghe được và nghe quen những lời nói, âm thanh đạo đức, công lý, hòa bình, bác ái, các bệnh nhân này còn trở nên câm. Họ không nói được hoặc không bao giờ nói những ngôn ngữ ấy. Bùi lại, vì đã nghe quen và quen nghe những âm thanh tục tằn, thô bỉ, gian dối, lừa đảo, và lộng ngôn, nên họ cũng chỉ nói được và xử dụng được những ngôn từ đó. Những âm thanh và từ ngữ như phá thai, ly di, đồng tính, hôn nhân đồng tính, ma túy, rượu, hoặc những tiếng khác như giầu có, địa vị, quyền chức, hối lộ, tham nhũng...
Vì những ngôn ngữ ấy đã len lỏi trong tim óc và đã được nói ra từ cửa miệng của nhiều người, nên đã khiến cho những giao tiếp giữa con người với con người trở thành khó hiểu và khó chấp nhận. Nó thôi thúc và khiêu khích sự tham lam, lừa đảo, giận dữ, thù nghịch, tranh chấp, và hiểu lầm. Và từ đó dẫn đến thanh toán, chém giết, khủng bố, và khống chế lẫn nhau khiến cuộc sống trở nên căng thẳng, khó khăn, và buồn nản.
Làm sao con người có thể thoát ra ngoài triệu chứng câm điếc tâm linh này? Và ai có thể chữa lành, chữa dứt những triệu chứng ấy? Câu trả lời đã được Thánh Ký Marcô cho biết, chỉ có Đức Kitô. Nhưng nếu muốn ngài chữa khỏi, thì ít nhất phải có hai điều kiện:
1) Như người câm và điếc kia, con người phải kêu cầu đến Thiên Chúa. Phải được giới thiệu với ngài, vì trong trường hợp này, kẻ bệnh làm sao có thể diễn tả được điều mình cần và mong muốn. Trong trường hợp bệnh nhân có thể đến với Chúa ở đây, những kẻ đem bệnh nhân đến đó chính là cha mẹ, anh chị em, những người quen thân, những người có trách nhiệm về đời sống tâm linh của bệnh nhân. Có nghĩa là họ phải giới thiệu bệnh nhân với Chúa Giêsu. Đem họ đến với Chúa Giêsu, và phải xin với Chúa Giêsu chữa lành họ. Sự cộng tác của những người thân là bước đầu và hết sức cần thiết.
Vai trò người giới thiệu ở đây cũng nhắc nhở mọi Kitô hữu chúng ta về đời sống truyền đạo, và gương sống chứng nhân của mình. Kitô hữu chúng ta cần phải hỏi mình, tôi đã làm gì để thu hút và đem người khác đến với Chúa Giêsu và Giáo Hội của ngài?
2) Phải được Chúa ra tay chữa cho khỏi. Ngài phải đặt tay, phải động chạm đến bệnh nhân. Ngài sẽ dùng thần khí ngài để nói lời chữa lành “Ephpheta”.
Một khi đã được tiếp xúc với Chúa Giêsu rồi, bệnh nhân phải ngoan ngoãn theo ngài xa rời khỏi đám đông, tức là ra khỏi tình trạng cuộc sống hiện tại của mình. Ra khỏi môi trường dẫn mình đi vào những lý do để tai và lưỡi mình bị trói buộc. Nhất là phải để Chúa Giêsu nói và nghe Chúa nói. Thiên Chúa động chạm đến linh hồn, và nếu linh hồn cộng tác với ơn của ngài, thì ngài sẽ dùng thần khí mà chữa lành bệnh câm điếc cho linh hồn.
Tóm lại, khi đã là bệnh nhân hoặc tự nhận mình có bệnh, thì điều kiện trước hết, chúng ta phải cần đến là người giới thiệu, hướng dẫn để tìm gặp Chúa Giêsu. Những người đó là cha mẹ, anh chị em, bạn bè thân quen, những vị lãnh đạo tinh thần. Đặc biệt, chúng ta phải cần đến Đức Trinh Nữ Maria, người mẹ dịu dàng hằng luôn săn sóc, cầu bầu và lo lắng cho đời sống tâm linh của mỗi người chúng ta.
Rồi sau khi đã được giới thiệu đến với Chúa Giêsu, thì chúng ta phải theo ngài ra khỏi đám đông. Phải để ngài dẫn chúng ta đến nơi mà ngài muốn chữa lành. Đó là từ bỏ những đam mê, tật xấu, và những lý do đưa đến căn bệnh của linh hồn.
Và sau cùng là để bàn tay Chúa đụng chạm đến chúng ta, có nghĩa là để Chúa sửa sai, uốn nắn, và chỉnh đốn lại cuộc đời mỗi người chúng ta. Điều này có thể là rất khó chịu, như việc ngài lấy nước bọt bôi vào lưỡi người bệnh mà Tin Mừng đã tường thuật, một hành động coi có vẻ thiếu vệ sinh và gây khó chịu.
Ephpheta – Hãy mở ra. Bạn và tôi chúng là những người có bệnh. Ít nhiều gì, tất cả mọi người chúng ta cũng mang hội chứng câm điếc. Không nghe được lời Thiên Chúa là điếc. Không chuyển dịch và hiểu lời ngài; nhất là không nói được về ngài, không làm chứng nhân cho ngài là câm. Một hình thức câm và điếc tâm linh. Mà vì là những bệnh nhân, nên tất cả mọi người chúng ta đều cần đến sự chữa trị của bậc thầy và danh y Giêsu.
Lậy Chúa, xin hãy nói lời “Ephpheta” với con để tai và miệng con được mở ra để nghe và hiểu lời ngài. Và để đời con là một lời tri ân, cảm tạ tình yêu vô biên của ngài giữa thế giới hôm nay.
Một buổi sáng đẹp trời nọ, có phụ huynh đưa một cháu 12 tuổi đến xin tôi cho cháu đăng ký: TN 23-B68
Một buổi sáng đẹp trời nọ, có phụ huynh đưa một cháu 12 tuổi đến xin tôi cho cháu đăng ký nhập học lớp mẫu giáo. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Thưa bác, đây là trường Mẫu giáo, chúng cháu chỉ nhận các bé từ 2 đến 5 tuổi thôi ạ!
Người phụ huynh trả lời: - Thưa cô, tôi biết! Cháu đây 12 tuổi, nhưng cháu bị ngọng lại vừa nhãng tai, tôi đã đưa cháu đến nhiều trường nhưng không trường nào chịu nhận cháu, vì cháu đã lớn tuổi, lại bị tật nguyền nữa, tôi được người ta mách cho là cứ đưa đến đây các cô sẽ nhận.
Tôi cười thầm: Không biết ai lại mách bảo điều trớ trêu như thế! Sau cùng tôi cũng phải nhận vì thấy tội nghiệp em bé. Tôi nghĩ: nếu không nhận thì em bé này sẽ phải chịu cảnh mù chữ suốt đời.
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu chữa người câm điếc một cách rất trịnh trọng khác thường. Những lần khác Chúa chỉ nói một tiếng hay làm một cử chỉ đơn sơ như đụng chạm tới, hay đặt tay lên đầu bệnh nhân hoặc cầm tay người chết... thế là phép lạ đã được thực hiện. Thế mà với người câm điếc này, sao Chúa lại "vất vả" thế! Trước hết, Chúa đưa người bệnh ra khỏi đám đông, sau đó Chúa đặt ngón tay vào lỗ tai anh, lại nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Sau cùng Chúa ngước mắt lên trời nói: "Ep-pha-ta" (nghĩa là: hãy mở ra). Lúc đó tai anh mới mở ra và lưỡi anh hết bị buộc lại. Việc Chúa xỏ ngón tay vào tai người điếc tượng trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa. Chúa đặt tay vào tai để chuyển thông sức linh diệu. Chúa bôi nước bọt vào lưỡi người câm điếc để bệnh nhân ngoại giáo này nhận ra một cử chỉ uy quyền của việc Chúa sắp làm.
Chỉ bị câm điếc thể lý, mà người bệnh đã phải chịu nhiều thiệt thòi và đau khổ, (điển hình như em bé 12 tuổi kể trên, hoặc người câm điếc trong Tin Mừng hôm nay) thì người bị câm điếc thiêng liêng còn phải chịu nhiều mất mát thiệt thòi dường nào. Đã câm thì không nói được, và điếc thì chẳng nghe được. Vậy người câm điếc thiêng liêng thì làm sao nghe và nói được Lời Chúa? Lại còn những người cố tình câm điếc để khỏi phải nghe và nói Lời Chúa. Thế mới bất hạnh và đáng thương làm sao?
Tôi tự hỏi lòng: Tôi có phải là loại người trên đây không? Đã nhiều lần tôi không dám tỏ ra mình là người có đạo, tôi không biết dùng miệng lưỡi để ca tụng và tôn vinh Chúa, tôi đã chẳng dám lên tiếng bênh vực cho chân lý? Tôi đã làm ngơ trước lời mời gọi làm việc thiện. Tôi chẳng nghe khi có người dạy tôi điều hay lẽ phải. Làm cha mẹ mà tôi không biết dùng lời nói khôn ngoan, đúng đắn để dạy dỗ con cái. Làm con cái mà tôi không biết vâng lời cha mẹ. Có những người không dám nói sự thật hoặc bẻ cong sự thật. Vì một lợi nhuận nào đó mà tôi đã không dám lên tiếng, hoặc cố tình làm ngơ trước sự bất công đàn áp người lương thiện vv...
Lạy Chúa! Xin chữa con khỏi bệnh câm điếc tâm hồn, để con nghe được điều Chúa dạy và luôn mở miệng loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho hết mọi người.
Trong phần nhập đề của bài giảng về Chúa Nhật 23 Thường Niên Năm B này, Đức Tổng: TN 23-B69
Trong phần nhập đề của bài giảng về Chúa Nhật 23 Thường Niên Năm B này, Đức Tổng Giám Mục Hà Nội, Giuse Ngô Quang Kiệt đã viết những dòng sau đây:
”Khi ở nước ngoài, có dịp gặp những người Việt sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ: “Sống ở nước ngoài, điều gì khiến ông bà buồn khổ nhất”. Họ trả lời: “Khổ nhất là chúng con sống như những người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên ngọng nghiụ, nói chẳng nên lời, thành ra không làm cho người ta hiểu được mình. Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, thật y như người điếc.”
Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với thế giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng, phải nói ra thì người khác mới hiểu. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Phải nghe mới hiểu được người khác. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ.
Nếu điếc và ngọng thể lý đã đáng buồn và đáng sợ, thì điếc và ngọng tâm linh còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội.”
Chúng ta hãy lắng nghe và tìm hiểu Lời Chúa để kiểm điểm xem chúng ta có điếc và ngọng
* trước tiếng nói của Thiên Chúa không?
* trước nỗi thống khổ của người chung quanh không?
và để thoát khỏi tình trạng điếc và ngọng ấy chúng ta phải làm gì?
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: Is 35,4-7a: Tai người điếc sẽ mở ra và người câm sẽ nói được. 4 Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em." 5 Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. 6 Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. Vì có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu. 7 Miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra.
(2) Bài đọc 2: Gc 2,1-5: Phải kính trọng người nghèo.
1 Thưa anh em, anh em đã tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư. 2 Quả vậy, giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, 3 mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: "Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này", còn với người nghèo, anh em lại nói: "Đứng đó! " hoặc: "Ngồi dưới bệ chân tôi đây! ", 4 thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao?
5 Anh em thân mến của tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao?
(3) Bài Tin Mừng: Mc 7,31-37: Đức Giê-su chữa người vừa điếc vừa ngọng.
31 Khi ấy, Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh. 32 Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su, và xin Người đặt tay trên anh. 33 Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. 34 Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Ép-pha-tha", nghĩa là: hãy mở ra! 35 Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. 36 Đức Giê-su truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. 37 Họ hết sức kinh ngạc, và nói: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1: Is 35,4-7a: là những lời sấm ngôn của I-sai-a về sự thay đổi diệu kỳ mà Thiên Chúa sẽ thực hiện vào ngày giờ của lịch sử:
* trên con người: mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhẩy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò;
* trên thiên nhiên: nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu, miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra.
Sự thay đổi kỳ diệu trên không chỉ diễn ra và không chỉ được hiểu trong lãnh vực tự nhiên mà trong cả lãnh vực tâm linh nữa.
(2) Bài đọc 2: Gc 2,1-5: là những lời vàng ngọc của Thánh Gia-cô-bê Tông đồ về cách đối xử phải có trong cộng đoàn Ki-tô hữu. Đó là không thiên vị một ai, không trọng người giầu mà khinh người nghèo; trái lại mọi người phải biết học cùng Thiên Chúa mà quí trọng và yêu thương người nghèo vì người nghèo đã được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt.
Sống được như lời khuyên của Thánh Gia-cô-bê là một thay đổi vừa nhân bả n vừa tâm linh mà phải có Ơn Chúa mới làm được.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 7,31-37: là tường thuật của Thánh Mác-cô về một trong trong những phép lạ mà Giê-su đã thực hiện tại Miền Thập Tỉnh. Đó là việc Chúa chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng bằng cách đặt ngón tay vào lỗ tai, bôi nước miếng vào lưỡi người ấy và ra lệnh “Ep-pha-ta: hãy mở ra”.
Phúc âm không nói lý do tại sao Đức Giê-su chữa người tàn tật này. Nhưng cộng đoàn Mác-cô và Giáo Hội hiểu rằng đây là hành động mang tính “tiên trưng” (1) cho hoạt động chữa lành mà Chúa Giê-su sẽ thực hiện trong/qua các Bí Tích là giải thoát con người khỏi những trói buộc để con người có đầy đủ khả năng nghe nói, nhìn thấy …. trong lãnh vực tâm linh.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa trong ba bài Sách Thánh là Thiên Chúa muốn mọi người có lòng tin biết rằng:
* Những người tật nguyền về mặt thể lý, như mù, điếc, què, câm, là những người bị thiệt thòi và bị gạt ra ngoài lề xã hội nên được Thiên Chúa ưu tiên quan tâm và cứu vớt bằng ơn chữa lành, để họ trở thành người lành lặn, bình thường, có đủ khả năng đi đứng, nhìn thấy, nghe thấy và nói năng được.
* Những người tật nguyền về mặt tâm linh thì Thiên Chúa sẽ chữa lành cho họ để họ được lành lặn và có đủ khả năng tâm linh để biết cách sống với Thiên Chúa và với tha nhân.
- Với Thiên Chúa là nhìn thấy Thiên Chúa, đi đến với Thiên Chúa, nghe được Thiên Chúa nói và nói được với Thiên Chúa.
- Với tha nhân là nhìn thấy tha nhân, nhất là những người nghèo khổ, đi đến với những người đang cần tình thương và sự giúp đỡ của chúng ta, nghe được tiếng nói hay tiếng than của họ và nói được lời chia sẻ và bênh vực họ.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, chúng ta có thể làm những việc sau đây:
1. Nếu chính bản thân chúng ta đang là người tật nguyền: mù, điếc, què, câm… - về mặt thể lý và nhất là về mặt tâm linh - thì chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giê-su để xin Người chữa lành cho chúng ta.
2. Nếu trong cộng đoàn và trong xã hội, chúng ta gặp những người tật nguyền: mù, điếc, què, câm…. - về mặt thể lý và nhất là về mặt tâm linh - thì chúng ta hãy:
* giúp họ chạy đến với Chúa Giê-su để xin Người Ơn chữa lành,
* làm một việc gì đó để giúp họ thoát khỏi cảnh tật nguyền, hay ít ra là bớt đâu khổ, tủi cực vì tật nguyền.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng toàn năng và yêu thương, xin Chúa ban cho con ơn hiểu biết và cảm nhận sâu sắc về đường lối, cách hành động và chọn lựa của Chúa. Chúa là Thiên Chúa cao siêu nhưng lại ưu ái cách đặc biệt những con người bé nhỏ, khó nghèo; thậm chí càng bé nhỏ, càng khó nghèo lại càng được Chúa yêu thương, ưu ái! Còn con, con sống theo tinh thần thế gian, chạy theo và kính trọng, thậm chí nịnh bợ những người quyền chức giầu sang để vụ lợi…. Xin Chúa biến đổi con bằng Thánh Thần của Chúa.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng chữa lành mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền thể xác và nhất là tâm linh, xin Chúa chữa lành thân xác và tâm hồn con:
- mắt con không thấy, xin Chúa mở mắt cho con;
- tai con không nghe, xin Chúa mở tai cho con;
- lòng con khép kín, xin Chúa mở lòng con;
- trí con không hiểu, xin Chúa mở trí con;
- miệng con câm nín, xin Chúa mở miệng con
để với Chúa và với tha nhân, con có thể NHÌN THẤY/NGHE ĐƯỢC/MỞ LÒNG/HIỂU BIẾT/TRAO ĐỔI. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Lễ Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết.
Boston (MA/USA) ngày 29 tháng 8 năm 2006
-----------
Chú thích:
(1) Hành động “tiên trưng” là một hành động vừa có tính biểu tượng, vừa có tính loan báo cho việc Chúa Giê-su sẽ thực hiện trong/qua các Bí Tích là giải thoát con người khỏi những gì trói buộc con người.
Trong đời sống, hẳn đã hơn một lần chúng ta thấy người câm và điếc. Một người mà không: TN 23-B70
Trong đời sống, hẳn đã hơn một lần chúng ta thấy người câm và điếc. Một người mà không sao xử dụng được hai tài năng của mình là cái lưỡi và đôi tai thì thực là khổ. Sống giữa đời mà như bị loại ra khỏi trần gian. Có miệng mà không sao nói được để có thể truyền thông tư tưởng của mình cho kẻ khác; có tai mà không sao nghe và thưởng thức được âm thanh như mọi người. Họ bực rọc và khổ sở, vì sống giữa đám đông mà như ở sa mạc, ngơ ngác như một viên đá cuội giữa chốn hoang vu.
I. CHÚA CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại phép lạ Chúa đã chữa một người câm điếc, cho họ nói được và nghe được. Người dẫn anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, Người ngước mắt lên trời tha thở và truyền lệnh: "Epheta! Hãy mở ra!" Lập tức, tai anh ta mở ra và lưỡi anh ta được tháo gỡ, anh ta nói được thành thạo và nghe được rõ ràng. Dân chúng thấy việc Chúa làm, hết lòng thán phục, ca ngợi Chúa: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
Chúa Kitô đã thực hiện đúng từng nét lời tiên tri Isaia đã tiên báo từ 700 năm trước: "Các ngươi hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Hãy can đảm lên, đừng sợ!. Này Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính người sẽ đến để cứu thoát các ngươi. Bấy giờ, Người mở mắt kẻ mù, mở tai kẻ điếc, cho người què nhảy nhót như nai, người câm nói được..."
II. BỆNH TẬT THỜI ĐẠI HÔM NAY Xin Chúa chữa cho chúng ta khỏi căn bệnh thời đại hôm nay, không phải là tật câm và điếc phần xác, nhưng là bệnh câm và điếc của tâm hồn.
- Có miệng mà sợ nói về Chúa, không biết ca ngợi tôn vinh Ngài. - Có tai mà chán ghét không muốn nghe về Chúa và những sự thuộc về Ngài. - Bệnh thích nghe và nói nhiều về những điều xằng bậy phản nghịch lại giáo huấn, tinh thần của Chúa và Giáo Hội.
Đi sâu vào đời sống người Việt Nam chúng ta tại các cộng đoàn, giáo xứ ở hải ngoại này, chúng ta sẽ thấy cái sự thật đau lòng này, là người ta hay đưa điều, nói hành, dèm pha, châm chọc, phá đổ hạnh phúc của tha nhân. Rất ít người biết xây dựng hạnh phúc cho kẻ khác... Cứ túm đông túm ba lại để đàm tiếu về truyện này truyện khác, có tin gì sốt dẻo là bốc điện thoại lên truyền thông cho nhau cách mau chóng, tin lành thì chẳng thấy đâu còn tin dữ thì nhanh như chớp... Có nhiều khi ngay trong gia đình, họ hàng thân quyến cũng phá vỡ hạnh phúc của nhau. Thấy gia đình người ta có nhà mới, có công ăn việc làm khá giả, có cửa tiệm này cửa tiệm kia phát tài, có tầu mới đánh tôm được mùa cũng ghen tương ganh tỵ, gây hận thù nói hành nói xấu. Thấy vợ chồng người ta đôi khi có những bất hòa, không khuyên nhủ cho họ yêu thương nhau, lại đổ dầu châm lửa thêm, khiến bất hòa lại càng thêm bất hòa, để rồi đi đến chỗ đổ vỡ... Có khi ngay chính cha mẹ đã vô lương tâm, phản trách nhiệm, đã xúi dục con cái ly dị nhau... Biết bao nhiêu tội lỗi gây ra do miệng lưỡi không kiềm chế, thả lỏng tự do, làm tay sai cho quỉ dữ mà không hay biết.
III. THÁI ĐỘ CẦN CỦA CON CÁI CHÚA
Là con cái Chúa, chúng ta hãy lưu tâm suy nghĩ, và thực hành giáo huấn Chúa răn dạy chúng ta: "Thầy bảo thật cho các con hay, đến ngày phán xét, người ta sẽ phải thưa lại tất cả những lời nói vô ích. Lại nữa, cũng bởi lời nói mà các con được trắng án, hoặc bị luận phạt" (Mt 12:36-37).
Chúng ta cũng cần nhắc lại lời căn dặn của Thánh Giacôbê Tông Đồ: "Anh chị em hãy mau nghe và chậm nói, và trì hoãn cơn tức giận" (Jac 1:19). Ngài còn cho chúng ta biết sự tai hại của cái lưỡi không biết kiềm chế: "Lưỡi là một chi thể nhỏ bé, mà khoe khoang được những việc lớn lao. Thử xem một khu rừng lớn, một ngọn lửa nhỏ cũng có thể đốt cháy được. Lưỡi cũng là ngọn lửa nơi chứa chấp gian ác. Lưỡi thuộc chi thể của chúng ta, nó có thể làm dơ nhớp thân xác chúng ta, đốt cháy cả cuộc đời chúng ta, mà chính nó lại bị địa ngục hun cháy" (Jac 3:5-6).
Kết Luận Là con cái Chúa, chúng ta hãy noi gương bắt chước Mẹ Maria, như mẫu gương tuyệt hảo Chúa đã ban cho loài người chúng ta, Mẹ luôn đón nhận và lắng nghe Lời Chúa, suy niệm trong lòng và thực hành trong đời sống. Xin cho chúng ta biết dùng miệng lưỡi để ca ngợi tôn vinh Chúa, bởi các công trình kỳ diệu mà tình thương Chúa đã thực hiện, như chính Mẹ đã hằng ca ngợi Chúa: "Linh hồn Tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi hoan hỷ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ Tôi" (Ca Vịnh Đức Mẹ).
Chớ gì trọn cuộc đời chúng ta là một lời ngợi khen, cảm tạ Chúa không ngừng, bằng chính đời sống thánh thiện, khiêm nhu, bác ái, dịu hiền và trong sạch như Mẹ chúng ta, để Chúa tôn vinh chúc tụng.
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm B tuần này trình thuật việc Chúa chữa lành: TN 23-B71
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm B tuần này trình thuật việc Chúa chữa lành cho một người câm điếc ở miền Thập Thành. Nếu chủ đề của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh là Mầu Nhiệm Chúa Kitô Sự Sống Tái Sinh thì phép lạ chữa lành câm điếc của Chúa Giêsu có liên hệ như thế nào? Trước hết, chúng ta chẳng những cần phải nhớ lại ý nghĩa của bệnh hoạn tật nguyền với tội lỗi, sau đó phải còn để ý tới tiến trình và cách thức chữa lành của Chúa Giêsu nữa.
Về ý nghĩa của bệnh nạn tật nguyền liên quan đến tội lỗi, chúng ta vẫn được Giáo Lý dạy cho biết đau khổ và sự chết nơi thân xác là hậu quả của tội lỗi, của nguyên tội. Tuy nhiên, bệnh nạn tật nguyền, tình trạng bất toàn về sự sống thể lý và không toàn vẹn của thân xác con người, chẳng những là thực tại của đau khổ và là hiện thân của sự chết thể lý, mà còn là tiêu biểu cho tội lỗi nữa. Thật thế, những thứ tật nguyền như mù lòa, câm điếc, bất toại, kể cả chính tình trạng tột cùng tối hậu của đau khổ là chết chóc, thậm chí cả tình trạng bị quỉ ám, cũng đều nói lên ý nghĩa và tác dụng của tội lỗi nơi con người.
Con người tội lỗi không phải là con người mù lòa hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng bị mù lòa hay sao? Đó là lý do Chúa Giêsu đã nói với viên chức trong Hội Đồng Do Thái là ông Nicôđêmô rằng: “Con người chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều gian ác. Ai làm điều gian ác thì ghét ánh sáng; họ không đến gần ánh sáng vì sợ các việc làm của họ bị bại lộ” (Jn 3:19-20). Trong trường hợp chữa lành cho một người mù từ lúc mới sinh, sau khi nghe Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi đến thế gian để phân rẽ thế gian, để làm cho kẻ mù được thấy còn kẻ thấy bị mù”, các người Pharisiêu nói với Người rằng: “Thế thì ông cho chúng tôi toàn là những kẻ mù hay sao?”, nên đã được Người xác nhận: “Nếu quí vị mù thì quí vị vô tội, đằng này quí vị nói ‘chúng tôi thấy’ nên tội của quí vị vẫn còn đó” (Jn 9:39-41). Nguyên tội chính là tác động mù lòa đầu tiên của con người, ở chỗ, con người đã bỏ Đấng Tạo Hóa của mình để đi nghe theo tên cám dỗ bùi tai, và sau khi đã phản bội Chúa là Thiên Chúa của mình rồi, con người đã đâm ra mù quáng, không biết giơ tay hái cây trường sinh cũng được Thiên Chúa trồng ở giữa vườn cùng với cây biết lành biết dữ (x Gen 2:9) mà ăn để tự giải độc gây ra bởi trái cấm oan nghiệt, lại cuống lên sau khi mở mắt ra thấy mình trần truồng liền ẩn trốn và đổ thừa cho nhau (x Gen 3:7,12-13).
Con người tội lỗi không phải là con người câm điếc hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng trở thành câm điếc hay sao? Thật ra, ngay từ ban đầu con người không phải là thành phần câm điếc bẩm sinh, vì ngay sau khi nghe tên cám dỗ xui dại, miệng con người còn nhắc lại những gì tai họ đã nghe thấy chính Chúa là Thiên Chúa của mình dặn bảo (x Gen 3:2-3), những gì đã được Ngài in ấn hay ghi khắc sâu xa trong lương tâm làm người của họ. Và sau khi con người đã sa ngã phạm cái tội đầu tiên được gọi là nguyên tội ấy, con người vẫn còn nghe thấy tiếng Chúa di động trong vườn địa đường như tiếng lương tâm ray rứt, và đã trả lời những vấn đề được Ngài đặt ra (x Gen 3:8-13). Thế nhưng, việc nghe được tiếng Chúa mà còn phạm tội không phải là dấu chứng tỏ con người chủ động muốn trở thành câm điếc hay sao, ở chỗ họ đã muốn bịt tai trước tiếng nói của lương tâm để có thể âm thầm làm theo ý riêng của mình? Ngày nay con người đã đến bậc câm điếc rối loạn, đến nỗi chẳng những không nghe được tiếng lương tâm, ở chỗ đã mất ý thức tội lỗi, nhưng lại nghe được những tiếng quái gở khác, được thể hiện điển hình qua các việc họ cho phép hôn nhân đồng tính và tạo sinh ngoại nhiên.
Con người tội lỗi không phải là con người bất toại hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng trở thành bất toại hay sao? Thật vậy, ngay từ ban đầu, con người đã tỏ ra bất lực trước những gì mình biết là tốt, là sự sống mà không làm theo, không làm nổi, trái lại, làm theo những gì sai trái, những gì mang lại chết chóc cho mình. Hậu quả ngay sau nguyên tội là con người đã không có đủ can đảm để nhận sự thật, lại đi đổ lỗi cho nhau. Nghĩa là, cho dù có thể làm được (theo quyền năng tự do) những gì không được làm (vô luân và tội lỗi) nhưng con người thật sự bị bất toại trước sự lành và hoàn toàn trở thành bất toại trước sự thật. Bởi đó, tự do không phải là muốn làm gì thì làm, mà là làm những gì hợp với sự thật để có thể đạt được sự thiện, tức làm những gì khiến con người nên hoàn thiện hơn, đạt được cùng đích chân thật của mình, bằng không, nó sẽ làm cho con người trở thành một thứ nô lệ phục vụ đam mê nhục dục, làm tay sai của sự dữ, làm hiện thân của tử thần. Một con người nghiện ngập không thể chừa bỏ không phải là một kẻ bất toại hay sao?
Con người tội lỗi không phải là con người bị chết chóc hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng bị chết chóc hay sao? Đúng thế, tội lỗi được thể hiện rõ nhất nơi tình trạng chết chóc của thân xác. Nếu chết là trường hợp linh hồn lìa xác, hay xác trở thành vô hồn, thì một khi con người phạm tội là con người không còn được Thiên Chúa hằng hữu ở với họ nữa, nghĩa là một khi Thiên Chúa là nguyên lý hiện hữu của con người và nơi con người không còn ở với họ nữa thì toàn thể hữu thể của họ trở thành như một cái xác vô hồn, mang đầy những tính chất chết chóc, cho tới ngày họ thực sự là bụi đất trở về với đất bụi (x Gen 3:19). Thực tế cho thấy, sau nguyên tội, thậm chí kể cả sau khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội tái sinh, con người vẫn còn ở trong tội lỗi, vẫn mang trong mình những dấu vết của tội lỗi, mầm mống của tội lỗi, vẫn đầy những tính mê nết xấu trong tâm hồn, và vẫn phải chịu đau khổ rồi chết đi nơi thân xác. Nếu chết là tình trạng phân ly giữa hồn và xác thì cuộc sống con người là một cái chết liên lỉ về tâm linh, ở chỗ, như Thánh Phaolô cảm nghiệm những gì tôi muốn thì tôi không làm, còn cái gì tôi ghét thì tôi lại làm (x Rm 7:15), tôi không làm điều lành tôi muốn làm mà là điều xấu tôi không muốn làm (x Rm 7:19). Nếu hiện tượng lạnh ngắt, cứng đơ và nặng trịch nơi thi thể của người chết là dấu hiệu cho thấy sự sống không còn nơi họ thế nào, thì con người còn sống động nơi thân xác đây thật sự cũng mang trong mình những tính chất hay dấu vết của sự chết thiêng liêng như vậy. Dấu vết chết chóc về tâm linh thứ nhất nơi con người đó là tâm hồn con người “lạnh ngắt” và dửng dưng trước tình trạng cùng khổ của tha nhân, kể cả người thân yêu nhất của mình; việc các cường quốc thực hiện mưu đồ tân thực dân đối với các nhược quốc trong thế giới ngày nay, cùng với trào lưu ly dị và phá thai hiện tại không phải là hiện tượng lạnh ngắt lòng người hay sao? Dấu vết chết chóc về tâm linh thứ hai nơi con người đó là phản ứng của con người “cứng đơ” trước tiếng lương tâm, ở chỗ họ không thể đáp lại sự thật tối cao và sự thiện chân chính là những gì làm cho họ hoàn toàn sống tự do và hạnh phúc trường sinh vinh phúc. Dấu vết chết chóc về tâm linh thứ ba nơi con người đó là hành động của con người “nặng trịch” trước việc làm lành lánh dữ.
Con người tội lỗi không phải là con người bị quỉ ám hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng trở thành ô uế hay sao? Sự kiện hay hiện tượng con người bị quỉ ám là dấu chứng tỏ rõ ràng nhất cho thấy con người không còn sự sống thần linh là Thiên Chúa ở nơi bản thân họ. Con người của họ đã bị thần dữ chiếm đoạt và làm chủ, xui khiến họ làm những gì bất xứng với phẩm giá của họ, và họ trở thành dụng cụ, thành tay sai hay thừa sai gieo rắn “văn hóa sự chết” cho hắn. Ngoài trường hợp bị quỉ ám thực sự, bình thường con người còn bị các thứ thần ô uế ám nữa. Đó là các thứ đam mê nhục dục, tính mê nết xấu nơi họ, nhất là các thứ ngẫu tượng do họ tạo ra, như đã được đề cập đến trong bài chia sẻ tuần trước về “bảy thần ô uế khác”. Trường hợp bị quỉ ám hay các thứ thần ô uế ám là trường hợp con người còn bị chi phối và điều khiển bởi “quyền thống trị của tối tăm” (Col 1:13), “quyền lực sự chết” (Heb 2:14), “quyền lực tội lỗi” (Rm 3:9), “quyền lực của tên gian ác” (1Jn 5:19).
Tóm lại, việc trừ thần ô uế, hồi sinh kẻ chết và việc chữa lành các thứ tật nguyền bệnh hoạn, như việc chữa lành cho một người câm điếc trong bài Phúc Âm tuần này, chúng ta thấy Chúa Giêsu, đúng như lời Thánh Gioan xác tín: “Con Thiên Chúa tỏ mình ra là để phá hủy các việc làm của ma quỉ” (1Jn 3:8), tức là Người đến để cứu con người khỏi tội lỗi và sự chết, đúng hơn Người đến là để tái sinh con người “bởi trên cao” (Jn 3:3), “bởi nước và Thần Linh” (Jn 3:5), nhất là bằng Cuộc Vượt Qua của Người, ở chỗ Người chết đi để tiêu diệt sự chết và sống lại để phục hồi sự sống. Như thế, nơi mỗi phép lạ, cách riêng phép lạ chữa lành, đều có hai phần, phần Chúa tỏ mình ra và phần con người nhận biết, chẳng khác gì như việc ánh sáng chiếu trong tăm tối và xua tan tối tăm vậy. Nếu con người, nhất là thành phần nạn nhân của tật nguyền bệnh hoạn, như người câm điếc trong bài Phúc Âm tuần này, nhờ thân xác họ được chữa lành mà tâm linh họ nhận biết “Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc tôi” (Lk 1:47), thì không phải là họ được Lời Nhập Thể là Chúa Kitô tái sinh hay sao? Vì “sự sống đời đời” chính là ở chỗ nhận biết Chúa là Thiên Chúa của mình (Jn 17:3), là trở về với nguyên lý hiện hữu tối cao của mình.
Chưa hết, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, chúng ta còn thấy cách thức Chúa Giêsu chữa lành ngươi#i câm điếc nữa. Vẫn biết, với quyền năng vô hạn của mình, Chúa Kitô có thể chữa lành bằng bất cứ cách nào dễ nhất và nhàn nhất, chẳng hạn phán một lời “Ephrata”, “hãy mở ra” cũng đủ, đằng này, trước khi phán lời quyết liệt đó, Người còn phải dẫn anh ta ra khỏi đám đông, rồi đặt các ngón tay vào lỗ tai của anh ta và bôi nước bọt lên miệng anh ta nữa mới được. Nếu từng tác động Chúa Giêsu làm đều không phải là vô nghĩa thì những tác động Người chữa lành câm điếc cho nạn nhân của bài Phúc Âm Chúa Nhật này cũng phải có một ý nghĩa nào đó? Trước hết, Chúa Giêsu không chữa lành câm trước mà là điếc trước. Bởi vì, bình thường người bị điếc bẩm sinh sẽ là người cũng bị câm luôn, vì một khi bộ phận tiếp nhận âm thanh của họ là đôi tai bị hỏng thì bộ phận phát thanh của họ là miệng lưỡi của họ cũng bị tịt luôn. Đó là lý do Chúa Giêsu đã chữa thính giác của nạn nhân đã rồi mới tới khả năng phát ngôn của anh ta. Phúc Âm đã ghi lại rõ ràng thứ tự này như sau: “Tức thì tai anh ta mở ra… và bắt đầu nói năng bình thường”. Ở đây chúng ta thấy rằng cần phải nhận được mạc khải đã mới có thể loan truyền mạc khải. Chắc hẳn người câm điếc được chữa lành này không hề nghe thấy lời Chúa Giêsu phán “hãy mở ra”, nhưng chính quyền năng của lời này đã làm cho tai anh ta mở ra và nghe thấy. Ở đây chúng ta còn thấy một điều quan trọng khác nữa, đó là không phải chúng ta tự mình nghe được lời Chúa mà là chính Lời Chúa làm cho chúng ta nghe được Lời Người.
Sau nữa, ba cử chỉ Chúa Giêsu làm nơi nạn nhân trước khi Người phán lời “hãy mở ra” mang ý nghĩa gì, nếu không phải đều là những gì cần thiết để nạn nhân có thể được chữa lành sau lời truyền phán “hãy mở ra” của Người. Tự Người không cần phải làm thêm ba cử chỉ này, nhưng sở dĩ Người làm như thế là vì để sửa soạn cho nạn nhân câm điếc, thành phần cần hội đủ ba điều thiết yếu ấy để có thể nghe thấy và nói được. Tu đức đã cho thấy rõ ba tác động cần thiết đối với một tâm hồn vốn bị câm điếc trước mạc khải thần linh, ba tác động có thể giúp họ chẳng những nghe được tiếng Chúa mà còn đáp ứng lời Chúa là ở chỗ, họ cần phải sống yên tĩnh, xa lánh tình trạng ồn ào của thế gian, để nhờ đó chuyên chú lắng nghe Chúa nói qua những gì Người đã dùng ngón tay của Người ghi khắc trong lòng họ (x Rm 2:15), và sau đó sẵn sàng loan truyền những gì (như nước miếng chẳng hạn) “phát ra từ miệng Thiên Chúa” (Mt 4:4).
Tại viện câm điếc Lái Thiêu có trên 200 em câm điếc. Các em nói chuyện với nhau bằng một: TN 23-B72
Tại viện câm điếc Lái Thiêu có trên 200 em câm điếc. Các em nói chuyện với nhau bằng một thứ ký hiệu riêng. Trong trường có em Lâm văn Lý bị điếc ngay từ khi sinh ra, cha mẹ em đã gửi vào trường từ khi em lên bảy. Các thầy cô vẫn coi em là người chậm chạp và ngu đần. Nhưng khi em lên lớp ba, cô giáo Trần thị Mơ đã nhận ra em có khả năng nghe được. Cô giáo đã tìm cách chạy chữa cho em, cuối cùng em đã nghe được và nói được. Em đã theo đuổi hết lớp trung học và đã ra trường năm em lên 18 tuổi.
Em Lâm văn Lý bị nặng tai cũng giống như người thanh niên trẻ trong Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu đã trực tiếp chữa lành cho anh. Chúa vẫn còn mở tai cho người điếc ngày nay như mở tai cho người thanh niên trong thời của Ngài. Có điều là Ngài không dùng tay một cách trực tiếp để chữa lành, nhưng Ngài dùng cách gián tiếp qua những bàn tay của người khác cũng giống như cô giáo Trần thị Mơ nhờ thầy lang, nhờ bác sĩ mà chữa lành cho em.
Chúa Giêsu muốn mời gọi chúng ta để ban phát sự lành cho những tâm hồn đói khát sự công chính. Chúa muốn mượm trái tim bác ái, nhân từ của chúng ta để Ngài chạm tới các tâm hồn những người khác. Chúng ta có sẵn sàng cộng tác với Ngài không ?
Lạy Chúa, xin cho chúng con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem trái tim đổi mới thế giới như chúng con là những dụng cụ của Chúa dùng.
Phúc âm hôm nay trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu chữa bệnh cho một người vừa câm: TN 23-B73
Phúc âm hôm nay trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu chữa bệnh cho một người vừa câm vừa điếc. Câm là không nói được. Điếc là không nghe được. Như vậy, người vừa câm vừa điếc thì không còn khả năng để sống chung với người khác, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài cũng khó hiểu đối với họ. Và người câm điếc sống trong gia đình nào, thì họ sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình đó. Do đó, hôm nay, Chúa Giêsu chữa lành một người câm và điếc thể hiện lòng thương yêu mà Chúa dành cho người bị tật.
Khi chữa lành người bị tật, Chúa Giêsu không chỉ nhắm đến sự chữa lành để bày tỏ lòng yêu thương mà thôi chứng tỏ mình là Đấng Thiên Sai, quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ, hay trong chính bài tường thuật hôm nay, từ ngữ mà thánh Marcô sử dụng: "mở ra," "hết buộc lại," cho thấy Chúa Giêsu không chỉ chữa lành những gì thuộc thể lý, nhưng Ngài còn chứng tỏ Ngài có quyền cầm buộc và tháo cởi vận mạng đời đời của nhân loại.
Phép lạ chữa lành này cho tôi nhận ra mình, dù mắt tôi vẫn xem thấy, tai tôi vẫn nghe, lưỡi tôi rất bình thường nhưng tôi vẫn bị câm, bị điếc trước rất nhiều vấn đề, rất nhiều lãnh vực. Có những thứ câm và điếc đáng sợ. Càng tệ hại hơn khi chính tôi bịt tai, ngậm miệng để tự mình trở nên kẻ câm và điếc. Đó là nỗi câm điếc của khi tôi không biết yêu mến, học hỏi và cố gắng sống Lời Chúa. Thiên Chúa là viễn vong, chỉ có những gì cảm nhận bằng giác quan, những gì thuộc thế giới thực nghiệm mới xác thực. Hay khi tôi câm điếc không biết yêu thương anh em đồng loại, ngược lại chỉ sống ích kỷ cho riêng bản thân, làm mọi cách để tiến thân trong cuộc đời, miên man trong sự ham hố tiền của, và danh vọng.
Vì thế, nỗi câm điếc chính là thái độ cố tâm ở lỳ trong tội, cố tâm ở lỳ trong nỗi chết của linh hồn. Do đó dù điếc câm thể xác, hay tinh thần đều có thể coi là bất hạnh. Nhưng nỗi câm điếc của linh hồn không chỉ bất hạnh, mà còn gây nguy hiểm. Cái câm, cái điếc ấy nguy hiểm vì nó cản lối tôi hướng về linh thánh, hướng về Thiên Chúa, Đấng là cội là nguồn của tôi, cản lối hướng về ơn cứu độ mà Người rộng ban cho tôi. Nguy hiểm vì lòng tôi thiếu ơn thánh, Thiên Chúa trở thành xa lạ, linh hồn tôi nên chốn hoang tàn và là môi trường xấu làm phát sinh nhiều dịch bệnh: cứng cỏi, kiêu căng, gian tham, ganh tị, ngông cuồng... Quả là nguy hiểm không cùng, nhưng sự điếc câm của linh hồn không phải là vô phương chữa trị. Chỉ cần chúng ta để lòng mình được mềm đi và đừng cứng cỏi nữa, ta sẽ dễ dàng nhận ra con người thật của mình, biết bao gai góc cần gọt giũa; thói xấu cần chữa trị; tư tưởng không lành mạnh, hành động sai quấy cần loại bỏ. Biết khiêm nhu để nhận ra như thế là bước đầu tiên để từ đó, ta có thể phá bỏ dần tình trạng điếc câm của linh hồn mình. Và chính khi biết mình như thế, ta sẽ để Chúa chạm đến bản thân ta, chạm đến cuộc đời ta. Như vậy, có nhiều bức tường ngăn chặn làm cho lỗ tai ta bị điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho miệng của ta trở nên câm nín.
Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được Chúa Thánh Thần mở mắt, lưỡi để chúng ta có thê sống hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân. Tuy nhiên, chúng ta cũng thường điếc khi Chúa nói với chúng ta qua các biến cố hằng ngày. Do kiêu căng, ích kỷ, tôi lỗi đã bịt tai, cột lưỡi chúng ta không cho chúng ta hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đến nói với mỗi người chúng ta: "Hãy mở ra!". Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời tha nhân để san sẻ, giúp đỡ họ. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa và đón nhận tha nhân.
Hãy mở miệng ra để nói được những lời yêu thương với tha nhân và với Chúa. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của mọi tha nhân, mạnh dạn nói những lời sự thật, nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa. Hãy đến với Chúa, thực tâm tôn thờ Chúa. Hãy cầu nguyện. Hãy vâng nghe Lời Chúa dạy và mau mau thực hành Lời của Người trong suốt cuộc đời mình... Chắc chắn khi ta đến với Chúa bằng một tấm lòng chân thành, Chúa sẽ chạm đến linh hồn ta, Ngài sẽ biến đổi chúng ta và ta sẽ sớm lành mạnh. Chúng ta sẽ cảm nhận được những điều kỳ diệu của Chúa "Ngài làm những điều tốt đẹp". Ngài chính là Đấng Thiên Sai, Ngài đến để giải thoát và cứu chữa chúng nhân.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh câm trong tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con biết sống yêu thương tha nhân bằng thái độ tích cực, biết rao giảng Lời Chúa, biết lắng nghe nỗi thống khổ của anh chị em đồng loại và chân thành đi đến với tha nhân bằng tình thương Chúa dành cho chúng con. Amen.
1. LỜI CHÚA: Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Ép-pha-tha", nghĩa là: "Hãy mỡ ra!" Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng (Mc 7,34).
2. CÂU CHUYỆN: KIẾN THỨC UYÊN BÁC DO ĐÂU ?
Một ông già kia nổi tiếng là người có kiến thức rộng. Tuy trình độ văn hóa mới hết bậc phổ thông: TN 23-B74
Một ông già kia nổi tiếng là người có kiến thức rộng. Tuy trình độ văn hóa mới hết bậc phổ thông, nhưng ông lại có vốn kiến thức sâu rộng về nhiều lãnh vực như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, triết lý và thần học... Tiếng đồn về ông già có kiến thức rộng ngày càng lan đi xa và nhiều người đã đến viếng thăm ông để xin giải đáp thắc mắc và hỏi ý kiến về các vấn đề cuộc sống. Họ đã được ông tận tình giải đáp và cho ý kiến. Ngày nọ, một vị giáo sư đại học cũng đến thăm. Sau buổi đàm đạo lâu giờ, vị giáo sư kia đã hỏi ông cụ nguyên nhân khiến ông có sự hiểu biết rộng rãi và đúng đắn như vậy, đồng thời xin ông giới thiệu một số cuốn sách mà ông đã đọc. Nhưng thật bất ngờ: Ông cụ đã trả lời như sau: "Thưa ngài, thực sự tôi chẳng có thì giờ và cũng chẳng có khả năng để đọc các quyển sách cao siêu về khoa học, triết lý hay thần học... Hằng ngày tôi chỉ đọc có 3 cuốn sách mà bất cứ ai cũng có thể đọc được: Cuốn thứ nhất là những công trình lạ lùng kỳ diệu Thiên Chúa đã và đang làm nơi bản thân tôi và chung quanh tôi. Nhờ đó, tôi có dịp dâng những lời ngợi khen ca tụng Người. Cuốn sách thứ hai là những việc đã xảy ra trong cuộc đời tôi. Nhờ đó, tôi có dịp hồi tâm sám hối tội lỗi đã phạm, cảm tạ những ơn lành Chúa ban và cầu xin Người ban các ơn lành hồn xác, nhất là ban ơn cứu độ. Cuốn sách thứ ba là Lời Chúa trong Kinh Thánh. Mỗi ngày tôi luôn dành ra một thời gian vào lúc sáng sớm để đọc một đoạn Lời Chúa, rồi suy niệm và cầu xin Chúa giúp thực hành hằng ngày. Mỗi lần tham dự thánh lễ, tôi luôn để tâm lắng nghe Lời Chúa qua các bài đọc, nhất là bài giảng của vị chủ tế".
3. SUY NIỆM:
+ Xin Chúa mở mắt tâm hồn chúng ta: Đúng như ông lão có kiến thức uyên bác trong câu chuyệ#n trên đã nói: "Thiên Chúa đã làm biết bao việc lạ lùng chung quanh ta mà mọi người đều có thể nhìn xem, lắng nghe và suy nghĩ về những điều kỳ diệu ấy". Nếu chúng ta không hiểu được ý Chúa là do đã không biết mở mắt để nhìn xem, mở tai để lắng nghe, mở lòng để đón nhận, mở trí khôn để khám phá và thi hành theo thánh ý Chúa.
"Ép-pha-ta": Xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết mở mắt tâm hồn bằng cách mở tai mở lòng, mở trí để đón nhận Lời Chúa và tích cực chia sẻ tình người với tha nhân.
+ Xin Chúa mở miệng lưỡi chúng ta: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã chữa một người vừa ngọng (câm), vừa điếc. Người câm ngọng gặp khó khăn khi không thể diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu ý mình, giống như bị một sợi dây vô hình trói buộc miệng lưỡi, làm cho họ không nói ra được điều muốn nói. Nhiều người thiếu sự tự tin, ăn nói ngọng nghịu hay đành nín thinh, vì trong quá khứ đã từng bị kẻ khác miệt thị khinh thường... Ngòai ra còn có# những mối đe dọa buộc người ta phải câm nín, không dám nói ra suy nghĩ trung thực của mình.
"Ép-pha-tha": Xin Chúa mở miệng chúng con, để sẵn sàng làm chứng cho chân lý, giới thiệu Chúa cho tha nhân, an ủi những người đau khổ do tai nạn, do bị ngược đãi bất công, hay phải chịu đựng những điều trái ý cực lòng.
+ Xin Chúa mở đôi tai chúng ta: Người điếc hoặc bị lãng tai do không nghe được những lời kẻ khác. Lắng nghe là điều tối quan trọng trong giao tiếp hằng ngày. Chúng ta thường chỉ lắng nghe điều mình muốn nghe, hoặc dù có nghe người khác nói nhưng lại chỉ hiểu theo ý rịêng chủ quan của mình. Vì thế gây ra hiểu lầm tranh cãi mất tình đoàn kết nội bộ. Nghe bằng tai chưa đủ, chúng ta còn cần nghe bằng trái tim. Chỉ khi biết nghe bằng trái tim yêu thương, chúng ta mới hiểu đúng và hiểu đủ ý nghĩa chứa đựng trong lớp vỏ ngôn từ bên ngoài.
"Ép-pha-tha": Xin Chúa hãy mở đôi tai chúng con để lắng nghe, hiểu biết và cảm thông với những nỗi đau của tha nhân và mau mắn đáp ứng nhu cầu của họ với hết khả năng cùa mình.
+ Xin Chúa mở lòng trí chúng ta: Thế giới hôm nay đang thiếu cảm thông và đối thoại, vì quá nhiều người đang bị câm điếc tinh thần, khiến họ trở thành một hòn đảo giữa đại dương nhân lọai bao la. Bệnh câm điếc tinh thần cũng làm cho con người trở thành ích kỷ, sống khép kín vì tâm hồn hóa thành sơ cứng khi không trao tặng cho ai cái gì và# cũng không muốn đón nhận của ai điều gì. Cuối cùng con người sẽ chết trong nghèo nàn về hiểu biết và tình thương.
"Ép-pha-tha": Xin Chúa hãy mở tai mở miệng và mở lòng, để chúng con dễ dàng giao lưu với Chúa và với tha nhân, để được biến đổi nên người mới sống có tình người hơn. Nhờ đó, chúng ta sẽ làm cho gia đình, khu xóm và xã hội trở nên thiên đàng tình thương đúng theo ý Chú#a muốn.
4. THẢO LUẬN:
1)Mỗi tín hữu chúng ta có thể phá bỏ bức tường ngăn cách giữa mình với tha nhân bằng những việc làm cụ thể nào?
2)Tuần này bạn sẽ làm gì để mở lòng đón nghe Lời Chúa, khám phá ra ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng? Bạn phài mở rộng trái tim như thế nào để nghe được những tâm tư của kẻ bất hạnh và sẵn sàng đáp úng nhu cầu của họ? Bạn sẽ làm gì để những anh em lương dân mở lòng đón nhận niềm vui ơn cứu độ?
5. CẦU NGUYỆN:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. "Ép-pha-tha!", Xin hãy mở rộng tâm hồn con, để con trở thành tay chân cho người tàn tật, trở thành đôi mắt cho kẻ đui mù. Để con biến thành tai nghe cho những người bị điếc, trở thành miệng lưỡi cho nhưng kẻ ngọng câm. Để con trở thành tiếng kêu cho những ai bị áp bức... Lạy Chúa, xin giúp con thực thi đức ái giữa đời thường: Sẵn sàng mở hầu bao chia sẻ cơm bánh vật chất cho kẻ đói ăn, đem nước uống cho những kẻ đang khát; Để con đem thuốc men cho người ốm đau, chia sẻ áo lành cho những kẻ rách rưới, mang mền đắp cho những kẻ lạnh run, đem lại chỗ trú thân cho những kẻ không nhà... Nhất là để con chia sẻ tình thương bao dung của Chúa để tha thứ hòa giải với những kẻ đang thù ghét và làm hại con.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Một trong những khác biệt cơ bản của loài người so với những sinh vật khác là khả năng nghe: TN 23-B75
Một trong những khác biệt cơ bản của loài người so với những sinh vật khác là khả năng nghe hiểu và diễn đạt ý tưởng bằng lời nói. Ai mất hai chức năng này thì thường sống cô đơn vì khó giao tiếp được với cộng đoàn xã hội. Người câm điếc được nhắc đến trong Tin mừng hôm nay đã phải mang nỗi khổ đó, có lẽ phải sống một thế giới riêng, tách biệt với mọi người. Chắc anh phải khổ sở và cô đơn lắm vì anh không hiểu được ai, cũng như không có mấy ai hiểu được anh. Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng duy nhất hiểu rõ nỗi khổ của anh và sẵn sàng cứu giúp anh thoát khỏi cảnh ngộ đáng thương này. Điều này ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; Chính Người sẽ đến cứu anh em." Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. (Is 35, 4-7).
Những gì Isaia loan báo mấy trăm năm trước đã ứng nghiệm. Đó là Đấng Cứu Thế ngự đến giữa dân người, cho người què đi được, người câm nói được, kẻ chết sống lại... và hơn xa mức con người trông đợi nữa là người đến không chỉ để tỏ lòng xót thương những người đau khổ đời này, mà nhắm chương trình xa hơn, rộng lớn hơn là cứu chuộc loài người khỏi khổ đau đời đời.
Tuy nhiên, có lẽ chúng ta lấy làm lạ là tại sao Chúa Giêsu không chữa cho anh câm điếc này trước đám đông mà lại đem anh ta riêng ra để chữa và còn cấm những người chứng kiến cao rao phép lạ này.
Một số ý kiến cho rằng:
Lý do thứ nhất có lẽ là vì Chúa Giêsu biết dân chúng chưa thể hiểu được vai trò cao cả của Người. Do đó, chưa phải lúc cho họ chứng kiến và cao rao phép lạ này kẻo họ đến với Người vì phần xác hơn phần hồn, trong khi mục đích của Chúa Giêsu là nhắm chữa lành cả con người, nhất là phần linh hồn. Thực sự thì Người thương chúng ta cả hồn lẫn xác, không muốn chúng ta phải đau khổ. Chính Chúa Giêsu cũng rất hiểu những nỗi đau khổ của loài người và đứng trước cuộc tử nạn Ngài cũng đã cầu nguyện với Chúa Cha: lạy Cha nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng Con sẵn sàng theo ý Cha đón nhận khổ hình thập giá. Và chúng ta ai cũng biết rằng: thân phận con người đời tạm này không thể thoát được mọi đau khổ và cái chết. Đó là quy luật của kiếp người, chạy trời cũng không khỏi nắng. Chúa Giêsu khi mang lấy thân phận xác phàm để cứu chuộc chúng ta chắc Người cũng biết mình sẽ phải qua đau khổ và cái chết để nói cho chúng ta biết sự thật: do tội nguyện tổ mà con người phải đau khổ và phải chết. Nếu Chúa Giêsu có chữa lành đau khổ bệnh tật hay cho kẻ chết sống lại cũng chỉ là tạm thời để xoa dịu nỗi đau và để tỏ mình là Đấng Messia cho nhân loại được ơn cứu rỗi, chứ không nhằm giải thoát mọi người khỏi mọi đau khổ đời này. Điều Chúa muốn con người là: tin vào ngài để được Chúa Cha ban cho hạnh phúc đời đời. Tuy con người phải trải qua đau khổ và cái chết nhưng ai tin vào Chúa Con sẽ sẽ được hạnh phúc trường cửu, bất diệt bên Chúa Cha. Đó là điều Chúa Giêsu chuẩn bị cho tất cả chúng ta. Như vậy, Chúa không muốn người ta đến với Chúa chỉ vì mục đích được chữa lành thể xác mà thôi. Chúa muốn họ biết nghe lời Chúa và đem ra thực hành để được chữa lành phần linh hồn, để được hạnh phúc bền vững muôn đời trong nhà Chúa.
Lý do thứ hai, có lẽ là tác giả muốn nhấn mạnh việc người ta hăng hái loan truyền Tin Mừng về việc Chúa Giêsu cứu chữa loài người, các tác giả Tin mừng khuyến khích kitô hữu hãy mạnh dạn loan Tin mừng cho người xung quanh. Bởi vì chính những người Do thái xưa kia dù Chúa Giêsu cấm loan báo mà họ cũng không nín lặng được vì lòng quá tràn đầy niềm vui. Huống chi bây giờ Chúa dặn cao rao Tin mừng thì mình càng phải hăng say loan báo hơn nữa cho mọi người. Mình gọi là Tin mừng, là Lời đem lại hạnh phúc thì tại sao mình chưa nói cho anh chị em mình biết để cùng chung niềm vui lớn lao đó.
Mỗi người chúng ta đều được Chúa cho hưởng phép lạ. Đó là trong Bí tích giải tội, mọi tội lỗi của chúng ta qua lời xá giải của linh mục thì liền được tha thứ, hay trong thánh lễ, mỗi khi linh mục đọc Lời Truyền Phép, bánh rượu trở nên Mình Máu Chúa Giêsu làm của ăn nuôi linh hồn ta. Những điều đó chúng ta tin và chứng kiến hàng ngày, chúng ta có loan truyền những dấu lạ đó bằng niềm vui sống đạo hay chưa. Nếu chúng ta được ban ơn trong các Bí tích thì chúng ta hãy sống thế nào để người khác nhận ra ơn Chúa nơi chúng ta. Xem ra chúng ta chưa tỏ rõ thái độ vui mừng, phấn khởi trước tình thương diệu kỳ của thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, người câm điếc còn biết cao rao danh Chúa cho mọi người, còn chúng con vốn được Chúa ban cho khả năng nghe nói biết bao năm qua, xin cho chúng con biết hăng hái cao rao danh Chúa cho mọi người để mai sau được hạnh phúc đời đời bên Chúa. Amen
Thiên Chúa, Đấng mở đường" là một trong những chủ đề lớn trong các sách Tin mừng. Lịch sử: TN 23-B76
"Thiên Chúa, Đấng mở đường" là một trong những chủ đề lớn trong các sách Tin mừng. Lịch sử cứu độ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng trung thành và giàu lòng thương xót. Còn Israel, dù là tuyển dân được Thiên Chúa ưu ái và săn sóc như "gà mẹ ấp ủ con dưới cánh", nhưng họ luôn thay lòng đổi dạ, bất trung, bất tín trước nhiều biến cố của đời sống và trong nhiều giai đoạn của lịch sử.
Trước những lầm lạc của dân Do thái, Thiên Chúa luôn tìm cách sửa dạy. Ngài gửi nhiều tiên tri đến cảnh báo và thức tỉnh họ. Và khi họ đã nhận ra sai lỗi của mình mà ăn năn hối lỗi thì Ngài lại rộng lòng thứ tha. Thiên Chúa không bao giờ đặt một dấu chấm hết cho Dân của Ngài hay cho bất cứ con người nào. Trái lại, Ngài luôn thứ tha bằng cách mở ra nhiều con đường cho con người tiến bước. Đối với Thiên Chúa, khi Ngài đóng một cánh của nào đó lại thì Ngài lại mở ra nhiều cánh của khác. Lịch sử cứu độ của thế giới và của từng người chúng ta đã minh chứng rất rõ về điều đó.
Bài đọc một trích Sách tiên tri Isaia hôm nay cho chúng ta thấy: giữa sa mạc khô cằn, Thiên Chúa sẽ khai thông một dòng suối cho nước vọt lên mang nguồn sống cho con người. Ngài cũng cho những người đui mù, tàn tật, câm điếc . . . được trở lại bình thường. Nói cách khác, Thiên Chúa đã "mở đường" cho họ. Đó là con đường dẫn đưa họ về với cuộc sống bình thường, giúp họ hoà nhịp được với cuộc sống của con người.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy rất rõ hình ảnh của Chúa Giêsu là "Đấng mở đường" đích thực. Ngài đã "mở tai và mở miệng" cho một người bị bệnh câm, ngọng từ lúc bẩm sinh, một điều vượt quá sức tưởng tượng và suy nghĩ của con người. Nhìn thấy anh bệnh nhân "vừa điếc vừa ngọng" từ lúc mới lọt lòng mẹ, chắc có nhiều người thất vọng lắm, vì ai có thể chữa trị cho anh bây giờ!
Theo thói thường, khi đứng trước những khó khăn hay đau khổ trong cuộc đời, con người thường có thái độ bi quan, tuyệt vọng: tuyệt vọng cho chính mình cũng như tuyệt vọng về người khác. Chúng ta thường hay muốn đặt một dấu chấm hết cho cuộc đời mình hay của người khác khi thấy không còn lối thoát trong khả năng của mình nữa. Con người là thế, nhưng Thiên Chúa thì không. Ngài luôn luôn là niềm hy vọng của loài người và Ngài muốn chúng ta cũng hãy biết hành xử trong tin tưởng và hy vọng bằng cách mở ra con đường sống cho chính mình và cho người khác.
Có một chuyện kể rằng: Las Dasir đã dốc lòng chừa cả trăm lần rồi, mà ông vẫn còn sa ngã phạm tội. Lần này, ông nhất quyết phạt mình như sau: cứ mỗi lần phạm tội thì ông bứt bỏ mười sợi tóc trên đầu, và chừng nào không còn tóc nữa thì hình phạt cuối cùng sẽ là giết chết mình.
Chỉ một tháng sau là đầu của Las Dasir đã gần như bị trọc, nhưng ông vẫn nhất quyết thi hành hình phạt, và một tháng sau nữa thì ông hoàn toàn trọc đầu. Nhìn vào gương thấy đầu không còn tóc nữa, Las Dasir tuyệt vọng thầm nghĩ:
"Ngày kết thúc đời tôi đã đến, tôi không còn cách nào để tránh đừng phạm tội hơn là kết liễu cuộc sống mình trên trần gian này".
Ông đưa tay cầm khẩu súng lục định bắn vào đầu thì bỗng một thiên thần hiện ra trao cho ông món quà và nói:
- Khoan đã, đừng kết liễu đời mình như thế!
Ông thưa với thiên thần:
- Nhưng tôi đã thề là sẽ kết thúc đời mình khi không còn sợi tóc nào trên đầu.
Thiên thần đáp lại:
- Nhưng Thiên Chúa thì không đồng ý như vậy, nên Ngài đã sai tôi mang đến cho ông món quà này. Hãy mở ra xem đi.
Las Dasir vội mở món quà Chúa trao cho, đó là một đầu tóc giả và Las Dasir đã hiểu ngụ ý của Thiên Chúa.
Câu chuyện trên đây cho chúng ta bài học về niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng mở đường để tìm phương cách cho con người hưởng hạnh phúc. Thiên Chúa thật sự là Đấng mở đường. Chúng ta không được phép thất vọng về chính mình hay về người khác. Những hoàn cảnh trớ trêu trong cuộc đời này xảy ra, nếu chúng ta biết tận dụng và có cái nhìn linh thánh về nó, thì nó sẽ trở nên linh dược cứu chữa hồn xác chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng như thế. Tin tưởng ngay khi chúng ta không thấy còn dám tin vào chính mình nữa. Chúng ta cũng hãy can đảm sống niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng mở đường để không bao giờ chúng ta đặt dấu chấm hết cho cuộc đời của một con người nào dù họ có lầm lỗi, có xấu xa tới đâu đi nữa! "Epphatha- Hãy mở ra" là câu nói của Chúa Giêsu ngày xưa dành cho người bị ngọng và điếc ngày xưa, ước gì cũng là lời luôn sống động trong cuộc đời của từng người chúng ta khi đối diện với nghịch cảnh và với tha nhân. Amen.
Có lần đi trên chiếc xe đò với đoạn đường dài, và thời gian cũng đã lâu, nên xe tìm chỗ nghĩ. Khi: TN 23-B77
Có lần đi trên chiếc xe đò với đoạn đường dài, và thời gian cũng đã lâu, nên xe tìm chỗ nghĩ. Khi xe vừa dừng lại, thì có nhiều người chạy đến bên xe chào mời đủ thứ món hàng. Có một người chậm chạp hơn, nhưng rồi cũng đến bên xe. Anh ta không chào mời món hàng nào, nhưng anh ta cầm nơi tay một chiếc nón đã cũ. Không phải anh ta bán nón, nhưng anh ta dùng chiếc nón để xin những người trên xe, nếu có lòng hảo tâm thì cho một chút ít tiền vào chiếc nón cũ đó. Anh đi từ đầu đến cuối xe, rồi sang bên kia cũng thế. Xe tiếp tục chuyển bánh. Tôi suy nghĩ: dường như những người ngồi trên xe không nhìn thấy, không nghe được những lời van xin, nên họ cũng không có một lời nào với người hành khất. Không phải những người trên xe không sáng mắt, nhưng trong tường hợp này họ không nhìn thấy. Không phải họ bị câm điếc, nhưng trong trường hợp nầy họ không nghe, cũng không nói được lời nào.
Chúng ta vừa chứng kiến một người câm điếc được tháo mở. Chúa Giêsu kéo anh ra khỏi đám đông, sờ vào tai và lưỡi anh. Người còn bảo: "Hãy mở ra" Lập tức lưỡi và tai anh được tháo cởi. Ngài muốn đem anh ra một nơi riêng biệt, không bị những thứ ồn ào khác làm náo động, không bị bao nhiêu người khác che lấp trói buộc. Ngài muốn chỉ có riêng anh ta với Ngài, thì anh ta mới có thể nghe được Lời Ngài phán bảo. Điều quan trọng là anh ta đã chịu bước đi theo Ngài, không một chút cự tuyệt. Nên anh ta đã được chữa lành.
Ngày hôm nay, còn biết bao nhiêu người câm điếc, nhưng họ đành bó tay. Trái lại, có những người, tai vẫn mở, nhưng không nghe gì hết, miệng vẫn mở, vẫn nói rất nhiều, nhưng họ không nói được gì hết. Đó là vì những người đó không nghe được những lời nói với họ khi cần thiết, họ cũng không nói được những lời tốt đẹp với những người chung quanh, họ chỉ biết nói lời khiến người khác phải đau khổ, khó chịu.
Mỗi người trong chúng ta nhìn lại mình xem, hiện giờ mình đang nghe, hay không nghe gì. Còn môi miệng chúng ta đang mở và luôn phát ra âm thanh, nhưng những âm thanh đó có phải là những lời nói thật sự, hay chỉ là những âm thanh rỗng tuết, hay là những âm thanh mà bao nhiêu người nghe phải bịt tai của họ lại và chạy trốn chúng ta.
Biết bao lần, chúng ta đã để cho những tiếng động của cuộc sống vật chất, những tiếng động của những lời nói êm tai, những lời nịnh hót, tiếng động của lời nói chìu theo sở thích, ý muốn của mình, những tiếng động đó làm ù tai khiến chúng ta không còn nghe được gì nữa hết. Còn những tiếng động của những đồng tiền, qua công việc làm ăn, tiếng động của những bước chân vươn lên cách bất chính và chà đạp kẻ khác. Ngoài ra, âm thanh của những trận cười mãn nguyện, những lời nói say sưa trong chiến thắng, khi thấy người khác thất bại. Tất cả những tiếng động đó, đã làm cho chúng ta trở thành những người điếc. Mặc dù vẫn nghe, nhưng không nghe được những gì Chúa muốn nói qua công việc hằng ngày, qua những người chung quanh. Chính vì không nghe nên chúng ta cũng trở thành một người câm, vì lưỡi đã bị trói buộc bởi lợi nhuận của cuộc sống, bởi danh dự trần gian nầy. Đó là những lúc chúng ta không dám nói sự thật, khi sự thật đó làm cho chúng ta mất đi một chút lợi nhuận nào đó, có thể về tiền bạc, hay về danh dự, hoặc địa vị trong xã hội. Đó là vì sự ích kỷ đã trói buộc con người, trói buộc miệng lưỡi không cho chúng ta nói. Còn những lúc nóng giận, đưa đến sự ngoan cố, thay vì những lời nói tốt đẹp, chúng ta lại thốt ra những lời chua cay gắt gõng. Chính sự ngoan cố trói buộc miệng lưỡi.
Có những lần Chúa Giêsu muốn tách rời chúng ta ra khỏi đám đông, khỏi những tiếng ồn ào đó, khỏi những trói buộc đó để Ngài chữa cho chúng ta khỏi chứng câm điếc. Chính những lúc trong cuộc sống chúng ta biết lắng nghe và sống thật với những gì mình nghe. Những lúc chúng ta biết nói những lời tốt đẹp, yêu thương từ con tim chân thành, nói những lời động viên an ủi, nói những lời chân thật. Đó là những lúc chúng ta đã để cho Ngài dẫn đi, tách rời khỏi đám đông và phán: "Hãy mở ra".
Lạy Chúa, xin mở tai con để biết lắng nghe tiếng Chúa trong mọi hoàn cảnh. Xin mở miệng con để con biết nói những lời yêu thương chân thật với anh em.
Thế giới bình thường là thế giới của những con người bình thường. Tuy nhiên, trong thế giới: TN 23-B78
Thế giới bình thường là thế giới của những con người bình thường. Tuy nhiên, trong thế giới muôn thời không phải tất cả mọi người đều bình thường mà lại có những người mù, người câm, người điếc, người què, người tàn tật ... Đúng là một thế giới muôn mầu muôn sắc. Thời Chúa Giêsu sống cũng vậy, người ta nhận thấy có biết bao người bệnh hoạn, tật nguyền. Hôm nay, Tin Mừng của thánh Máccô 7, 31-37 thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành người câm điếc. Phép lạ này là một trong nhiều phép lạ Chúa đã thực hiện trong ba năm Ngài đi rao giảng khắp nơi...
Đối diện với những người câm điếc, chúng ta như được đặt giữa hai thế giới khác nhau bởi vì chúng ta nói họ không hiểu và họ diễn tả chúng ta cũng chẳng hiểu được.Bài Tin Mừng của thánh Máccô cho hay Chúa đụng đến lưỡi của người câm và lưỡi người câm được tháo cởi. Người câm cảm thấy hạnh phúc vô bờ vì được Chúa chữa lành. Vâng, lần đầu tiên trong cuộc đời người câm nếm được một phần nào vui thú của cuộc sống, của đời người. Và như thế, chúng ta hiểu được tại sao Chúa Giêsu lại chữa lành người câm điếc. Tại sao Chúa khai thông lỗ tai của người câm điếc ? Tại sao Chúa Giêsu lại phục hồi miệng lưỡi người câm điếc ? Chúa Giêsu đã chứng tỏ lời ngôn sứ Isaia 35,4-7 được thực hiện nơi Ngài: " Kẻ điếc được nghe, kẻ câm nói được, kẻ què đi được ...". Chữa lành người câm điếc như trong Tin Mừng hôm nay trình bầy, Chúa Giêsu đã thực hiện được hai dấu chỉ quan trọng. Ngài xác nhận Ngài là Đấng Mêsia muôn dân hằng trông đợi. Việc chữa lành của Đức Kitô hôm nay còn chứng tỏ Ngài là Đấng giầu lòng thương xót.
Người câm điếc Chúa Giêsu chữa lành, một cách nào đó cũng là hình ảnh của nhiều trong chúng ta. Bởi vì, chúng ta không bị câm ngọng điếc về mặt thể lý, nhưng bị câm điếc về mặt thiêng liêng. Đã có biết bao người trở nên, ngọng nghịu, điếc lác về mặt tâm linh. Họ không tha thiết cầu nguyện và ngại ngùng đến với Thiên Chúa. Họ cảm thấy khó khăn tâm sự, đối thoại với Chúa và cũng cảm thấy khó khăn trong việc để lắng nghe Chúa nói với họ. Trong trường hợp này chúng ta phải làm gì đây ? Thưa chúng ta đã có sẵn lời đáp trong bài Tin Mừng: hãy bắt chước người câm điếc trong bài Tin Mừng của thánh Máccô, hãy đi tìm kiếm Đức Kitô, hãy cùng Ngài ra khỏi đám đông và hạnh phúc ở bên Đấng có đầy uy quyền trên sinh mạng của mọi người. Hãy để Chúa mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, hãy để Ngài khai thông đôi tai điếc lác nặng nề của chúng ta. Chúa mời gọi chúng ta hãy nói chuyện, hãy đối thoại với Ngài, nghĩa là chúng ta phải siêng năng cầu nguyện để Chúa thực hiện nơi chúng ta điều Chúa đã làm cho người câm điếc. Chúng ta hãy để Chúa chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng của chúng ta.
Êphata, hãy mở ra. Xin Chúa chữa lành bệnh câm của chúng con để chúng con có thể truyền đạt, nói chuyện với nhau và đặc biệt tâm sự, cầu nguyện với Chúa. Xin Chúa chữa lành đôi tai nặng, điếc của chúng con để chúng lắng nghe được tiếng Chúa nói và nghe được tiếng nói của anh em chúng con. Sống trong cuôc sống, thực tế, chẳng ai muốn ngọng,câm điếc. Nhưng lại nhiều khi chúng ta bị câm khi không muốn trao đổi với anh em xung quanh. Chúng ta bị điếc, bị lãng tai không muốn nghe người khác mà chỉ thích nghe những người chúng ta thích, chúng ta ưa mà thôi. Chúng ta nghe bằng tai chưa đủ mà còn phải nghe bằng cả trái tim. Nghe với con tim yêu thương chúng ta mới hiểu đúng, hiểu khách quan, hiểu sự thật về người khác được.
Bài Tin Mừng và các bài đọc hôm nay giúp chúng ta hiểu rõ ba điều: Thứ nhất, nó tỏ lộ cho chúng ta rõ Đức Kitô chính là Đấng Mêsia muôn dân mong đợi. Ngài đã thực hiện những lời tiên tri Isaia đã tiên báo: " Kẻ đui mù được thấy, kẻ điếc nghe được...người nghèo được nghe giảng Tin Mừng ". Thứ hai, nó mạc khải cho nhân loại, cho chúng ta về một Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai giầu lòng thương xót, luôn chạnh thương đến mọi hoàn cảnh của con người. Thứ ba, nó đặt cho nhiều người vấn nạn, ngày nay người ta lãng quên Chúa nhiều vì không còn cầu nguyện, không tìm kiếm Chúa, do đó, không nghe được Chúa nói và cũng không có cơ hội để thưa chuyện với Chúa. Như thế, nhiều người vẫn đang bị câm điếc.
Chúng ta hãy bắt chước người câm điếc: đi tìm Chúa Giêsu và xin người chữa lành cho chúng ta.
"Lạy Chúa, Ngài quả là chính trực,
Quyết định của Ngài thật công minh.
Với tôi tớ này, xin lấy tình thương mà đối xử ( Tv 118 ).
Lạy Thiên Chúa toàn năng, nhờ Đức Kitô Con Một Chúa,
Chúa đã thương cứu chuộc chúng con và nhận làm nghĩa tử,
Xin lấy tình Cha mà âu yếm đoái nhìn: này chúng con là kẻ tin kính Đức Kitô,
Xin cho chúng con được trở nên những người tự do đích thực và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời" (Lời nguyện Nhập lễ Chúa nhật XXIII thường niên ).
Các phương tiện truyền thông đang nói nhiều đến sự ô nhiễm: ô nhiễm môi trường sinh thái, o: TN 23-B79
Các phương tiện truyền thông đang nói nhiều đến sự ô nhiễm: ô nhiễm môi trường sinh thái, ô nhiễm nguồn lương thực, ô nhiễm âm thanh. Bên cạnh đó, các nhà giáo dục còn nói đến ô nhiễm những mặt trái của văn minh phương tây, ô nhiễm tinh thần tục hoá của một xã hội tiêu thụ và hưởng thụ. Hơn lúc nào hết, chúng ta có quá nhiều cái để nghe và cũng có quá nhiều điều để nói đang khi biết bao điều phải nghe mà chưa nghe được, bao nhiêu điều phải nói mà nói không được. Phải chăng, một cách nào đó, chúng ta cũng không hơn chi anh chàng vừa điếc vừa ngọng trong bài Tin Mừng hôm nay khi anh phải nhờ người khác dẫn mình đến với Chúa Giêsu.
"Hãy sống dùm tôi, hãy nói dùm tôi, hãy thở dùm tôi...". Bài hát của một tác giả như là một lời nhắc nhở chúng ta; hôm nay, Phụng vụ Lời Chúa còn nói với chúng ta nhiều hơn.
Trình thuật Tin Mừng kể chuyện Đức Giêsu chữa lành một người điếc và ngọng. Phép lạ không chú trọng đến việc chữa lành thể chất nhưng đúng hơn, chú trọng đến việc chữa trị tâm hồn. Đức Giêsu mở tai anh, để anh có thể nghe Lời Chúa; mở miệng anh, để anh có thể tuyên xưng niềm tin vào Ngài, chính Ngài là Đấng Thiên Sai đã được Isaia loan báo trước đó hơn tám thế kỷ, Ngài là Đấng mở mắt người mù, mở tai người điếc và mở miệng người câm như bài đọc thứ nhất và bài đáp ca hôm nay nhắc lại.
Vậy thì Lời Chúa hôm nay nói gì với chúng ta?
Hơn bao giờ hết, chủ đề điếc và ngọng thật hấp dẫn và cũng dễ đụng chạm. Nguyên chuyện khoái điếc, thích ngọng và kể cả muốn mù như căn bệnh mãn tính lâu ngày hoá quen và coi như chuyện nhỏ không thành vấn đề đã là một cái gì đụng chạm ghê gớm.
Anh Chị em, chúng ta sẽ đụng ai khi nói đến những căn bệnh mãn tính nầy? Và một loạt câu hỏi được đặt ra: Đụng ai trước nhất? Vì sao phải đụng? Tại sao chúng ta khoái điếc khi không còn muốn nghe? Tại sao chúng ta thích ngọng khi chẳng còn buồn nói? Ai tập cho chúng ta điếc? Ai dạy cho chúng ta câm?
Có lẽ nhiều người đang nín thở, nhưng dường như tất cả chúng ta đã hiểu lầm hết với câu trả lời của mình. Còn đây mới là câu trả lời đúng nhất, chính xác nhất. Đề cập đến việc khoái điếc, thích ngọng và giả mù của chúng ta sẽ đụng chạm đến chính linh hồn, đụng chạm đến bản thân chúng ta trước nhất.
Chúng ta điếc đặc trước Lời Chúa, ù loà trước tiếng lương tâm, lãng tai trước những nhu cầu của anh chị em chung quanh khi chúng ta thoả hiệp với tội lỗi, nhân nhượng với ích kỷ và sống chung với hèn nhát. Chính lúc đó, chúng ta vô tình chuốc lấy cái bệnh trụt lưỡi và cái khiếm thính mãn tính. Chúng ta sợ đối diện với Lời Chúa nên ngại đặt mình trước mặt Ngài. Vì Lời Chúa là gươm hai lưỡi, thấu suốt tâm hồn và dò xét tâm can. Lời Chúa thẳng băng, luôn mới mẻ, sẵn sàng phanh phui, không nể vì, cũng chẳng thoả hiệp. Chúng ta sợ những phút trầm tư, run rẩy, khi phải lặn sâu xuống lòng mình, bởi lẽ ở đó, tiếng Chúa đang mời gọi, tiếng lương tâm đang kêu réo ới ời.
Không chỉ khoái điếc, chúng ta còn thích ngọng. Trước bao gương mù gương xấu, chúng ta ú ớ không nói được chi, không dám sửa bảo cũng không còn tự tin để chấn chỉnh con cái, bạn bè và đồng nghiệp... vì lẽ chúng ta chưa làm gương tốt đủ, ngôn hành bất nhất, chúng ta không hơn chi các người khác; chúng ta giống hệt các biệt phái ham chuộng bề ngoài mà quên mất nội tâm: miệng thì nam mô, bụng thì mưu mô; lời thì bác ái, lòng thì bái ác; ngoài thì thương yêu nhưng dạ thì ưa thiêu; hết lòng với kẻ ở xa mà đoạn tình với người ở gần, rất gần, ngay trong nhà mình, trong cộng đoàn mình. Vì thế, chúng ta ù ù cạc cạc trước bao điều chướng tai gai mắt. Bên cạnh đó, chúng ta sợ liên luỵ, ngại dấn thân và thích an phận...
Làm sao một người làm cha làm mẹ, làm sao một mục tử, một thầy cô giáo hay một chứng tá của Chúa Kitô trong môi trường mình đang sống lại có thể yên thân? Làm sao chúng ta lại hoá như bao người khác? Mà tại sao lại phải yên thân? Đến đây, có người sẽ nói: Cuộc đời phức tạp lắm, các linh mục không biết đâu! Không, tôi biết. Vì nếu không tỉnh thức, chúng ta sẽ vô tình đánh mất sự hồn nhiên, đánh mất cả sự tự do và đánh mất chính mình. Phải, chúng ta mù loà điếc lác và ngọng miệng, một căn bệnh cần được Đức Giêsu chữa lành.
Đức Hồng Y Gracias nói: "Gương mù cho thế kỷ hôm nay là chúng ta y hệt mọi người khác", dửng dưng như người khác, thờ ơ như người khác và lạnh lùng như người khác.
Không, mỗi ngày, mỗi người chúng ta đều được mời gọi hướng thượng: nhanh hơn, cao hơn và xa hơn. Chúng ta là con cháu Hồng Bàng, là đại bàng sải cánh giữa lồng lộng trời cao; chúng ta không thuộc họ nhà gà lệt đệt. Bùn càng tanh, sen càng phải thơm tho. Bùn càng đặc, sen càng phải toả ngát. Cắm sâu giữa bùn nhưng sen vẫn mãi là sen vì chỉ có sen mới được quyền nói về bùn, cũng như chỉ có bùn mới được quyền nhắm mắt không thừa nhận sen. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn là vậy.
Chuyện ngày xưa kể rằng, Mặc Tử ở nước Lỗ sang nước Tề thăm nhà bạn cũ. Người bạn cũ trách Mặc Tử: "Bây giờ thiên hạ còn ai biết đến việc nghĩa, quan lớn cũng như quan bé, mạnh ai nấy sống, lấy cái công làm cái tư, ông tự khổ thân một mình làm việc nghĩa chi cho nhọc xác?". Mặc Tử trả lời: "Tôi hỏi ông, nhà có mười đứa con, một đứa cày, chín đứa ngồi ăn, thì chẳng phải đứa cày phải cày chăm hơn sao? Bởi vì đứa cày thì ít đứa ăn thì nhiều. Thiên hạ bây giờ không ai chịu làm việc nghĩa, ông phải khuyên tôi cần làm việc nghĩa nhiều hơn mới phải chứ, sao lại ngăn tôi?".
Ngày xưa cũng như ngày nay, cám dỗ mạnh ai nấy sống luôn luôn hiện diện. Khoái điếc, thích ngọng từ đó cũng là căn bệnh của chúng ta. Hôm nay, Đức Giêsu cũng sẵn sàng chữa lành nếu chúng ta biết đó là bệnh và ước được chữa lành. Mỗi chúng ta có thể cầu nguyện:
Lạy Chúa, có nhiều bức tường ngăn chặn làm tai con điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm lưỡi con ngọng. Xin cũng nói với con:"Ephata, Hãy mở ra", để con nghe được tiếng Chúa, tiếng lương tâm mà hoán cải tâm hồn, đổi mới con tim. Xin hãy phá đi bức tường định kiến, bức tường ích kỷ để con mở rộng cõi lòng đón nhận Lời Chúa, đón nhận anh em. Xin hãy mở miệng lưỡi con, cắt đứt sợi dây ích kỷ, sợi dây sợ sệt, sợi dây ươn hèn để con mạnh dạn nói lời chân lý, lời thứ tha, những lời ca ngợi tình Chúa, những lời chúc khen tình người, Amen.
Xem lại bản đồ Palestina, thì lộ trình đi rao giảng của Chúa Giêsu như sau. Rời Tyrô, người lữ: TN 23-B80
Xem lại bản đồ Palestina, thì lộ trình đi rao giảng của Chúa Giêsu như sau. Rời Tyrô, người lữ hành sẽ đi về phía Bắc, tức phía Siđôn. Còn nếu muốn tiến xuống phía biển Ghênêsaret (biển Galilêa) ở vùng Dêcapôli tức vùng đông nam biển hồ, thì người ta phải đi ngược lại từ Tyrô.
Ở đây, bản văn Marcô viết: ngang qua Siđôn, đến biển Galilêa băng giữa xứ Dêcapôlia. Như thế, lộ trình này không phù hợp với bản đồ địa lý. Qua sự kiện này, Thánh Sử Máccô gợi nhắc một lần nữa rằng Ngài chỉ muốn trình bày ý nghĩa của những cuộc hành trình của Chúa Giêsu. Người đến đất dân ngoại vì ơn cứu rỗi cũng được trao ban cho các dân ngoại.
Với hành trình như vậy, hôm nay chúng ta được nghe lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ chữa lành anh chàng vừa điếc và vừa ngọng. Trình thuật này được biên soạn theo kiểu kết cấu tương đồng với câu chuyện chữa lành người mù ở Mc 8,22-26. Chúng ta thử phác họa sơ lược vài chi tiết song chiếu:
Mc 7,31-37
Câu 31: Người ta đem đến cho Người một người vừa điếc vừa ngọng.
Câu 33: Kéo người ấy ra xa dân chúng... Người tra ngón tay vào tai, nhổ nước miếng Người đụng vào lưỡi người ấy.
Câu 36: Rồi người căn dặn không được nói cho ai biết.
Mc 8,22-26
Câu 22: Người ta đem đến cho Người 1 người mù...
Câu 23: Dắt tay người mù, Người đưa nó ra ngoài làng; đoạn nhổ nước miếng vào mắt nó đặt tay cho nó.
Câu 26: Ngài cho nó về nhà mà dặn rằng: đừng nói với ai trong làng.
Như vậy, trong nhãn quan thần học Máccô, những phép lạ luôn mang giá trị của dấu chỉ thời đại Thiên sai mà Chúa Giêsu đến khai mở. Ở Thời đại ấy, ở Nước ấy của Thiên Chúa thì sẽ không còn những người đui mù, câm điếc nữa mà ở Nước Thiên Chúa là những người hạnh phúc, bình an và vui mừng. Nước Thiên Chúa, Nước của bình an và hoan lạc ấy được Thánh Sử gợi nhắc ở câu 37. "Bấy giờ mắt mù sẽ mở, tai người điếc sẽ thông. Bấy giờ què quặt sẽ nhảy nhót tựa hươu nai, lưỡi người câm cũng sẽ reo hò". Câu này có nét gì đó tương đồng với đoạn sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta vừa nghe:
" Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ!
Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục,
ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội.
Chính Người sẽ đến cứu anh em."
Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.
Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
Vì có nước vọt lên trong sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.
Miền nóng bỏng biến thành ao hồ,
đất khô cằn có mạch nước trào ra.
Trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc lên. (Is 35, 4-7)
Nước Thiên Chúa còn hơn thế nữa. Nước Thiên Chúa là nơi mà:
Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới,
không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa.
Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan
vì những gì chính Ta sáng tạo.
Phải, này đây Ta sẽ tạo Giê-ru-sa-lem nên nguồn hoan hỷ
và dân ở đó thành nỗi vui mừng.
Vì Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ hoan hỷ, vì dân Ta, Ta sẽ nhảy mừng.
Nơi đây, sẽ không còn nghe thấy tiếng than khóc kêu la.
Nơi đây, sẽ không còn trẻ sơ sinh chết yểu
và người già tuổi thọ không tròn;
vì trăm tuổi mà chết là chết trẻ,
và chưa tròn trăm tuổi mà chết là bị nguyền rủa.
Người ta sẽ xây nhà và được ở,
sẽ trồng nho và được ăn trái.
Người ta sẽ không xây nhà cho kẻ khác ở,
không trồng nho cho kẻ khác ăn;
vì cây được bao nhiêu tuổi, dân Ta cũng sẽ thọ bấy nhiêu;
và những kẻ Ta chọn sẽ được hưởng kết quả do tay chúng làm.
Chúng sẽ không luống công vất vả,
không sinh con cho con chết bất ưng,
vì chúng sẽ là dòng dõi
những người được Đức Chúa ban phúc lành,
bản thân chúng cũng như cả nòi giống.
Trước khi chúng kêu Ta, chính Ta đã đáp lời,
chúng hãy còn đang nói thì Ta đã nghe rồi.
Sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ,
sư tử cũng ăn rơm như bò,
còn rắn sẽ lấy bụi đất làm lương thực.
Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá
trên khắp núi thánh của Ta." Đức Chúa phán như vậy. (Is 65, 17-25)
Qua đoạn sách ngôn sứ Isaia về hình ảnh của Nước Thiên Chúa, ta thấy nước ấy là một nước tràn đầy hoan lạc và bình an. Ở trong nước ấy "chiên con và sói con cùng ăn cỏ, sư tử cùng ăn rơm như bò" chứ không có chuyện thiệt hơn, tranh giành, cãi cọ và chà đạp người khác.
Sự hơn thua, tranh giành và chà đạp người khác thời nào cũng có. Cách riêng, thời của Chúa Giêsu, những người biệt phái, những người pharisêu tự cho mình là hơn người khác để rồi coi thường người khác. Nước Thiên Chúa không có chỗ cho những người như thế.
Chắc có lẽ bực mình và chướng mắt trước những con người chỉ nhìn cái bề ngoài, xét đoán cái bề ngoài mà không trân trọng cái bên trong, cái chất thật của con người nên thánh Phaolô hôm nay đã phải thốt lên: "Quả vậy, giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: "Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này", còn với người nghèo, anh em lại nói: "Đứng đó! " hoặc: "Ngồi dưới bệ chân tôi đây! ", thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao? (Gc 2, 3-4).
Ở Nước của Thiên Chúa thì không có chuyện phân biệt đối xử như vậy. Ở Nước Thiên Chúa là như thế này: Anh em thân mến của tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao (Gc 2, 5).
Nước Thiên Chúa, ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho những người nghèo khổ, những người bị bỏ rơi, những người thấp cổ bé miệng như anh chàng câm điếc hôm nay Chúa Giêsu đã chữa lành. Niềm vui Nước Thiên Chúa đang ở trước chúng ta nếu chúng ta sống trong tâm tình khiêm hạ, nhỏ bé, coi tất cả mọi người như anh em như lời thánh Giacôbê vừa mời gọi chúng ta và chúng ta cũng không miệt thị, không phân biệt đối xử với những người tật nguyền như Chúa trong tin mừng hôm nay.
Xin Chúa mở con mắt chúng ta thật to để chúng ta nhìn thấy những anh chị em thấp cổ bé miệng đang ở gần ta, ở xung quanh ta để ta xoa dịu, chia sẻ nỗi đau, sự thấp bé của họ để ta mang hạnh phúc đến cho anh chị em đồng loại ngay thế gian này và những hạnh phúc ấy chính là những hạnh phúc nho nhỏ mang chúng ta đến hạnh phúc, đến niềm vui ở trên trời mà Chúa đang dọn sẵn và chờ đợi chúng ta.
Bài giảng của Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, cha giảng Phủ giáo hoàng, về những bài: TN 23-B81
Bài giảng của Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, cha giảng Phủ giáo hoàng, về những bài đọc phụng vụ Chúa Nhật XXII B tuần nay như sau:
Đoạn Tin Mừng nhắc chúng ta về một sự chữa lành đẹp do Chúa Giêsu thực hiện.
"Và người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Epphatha",( nghĩa là, "Hãy mở ra!"}, và lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết buộc lại, anh ta nói được rõ ràng" (Mark 7:32-35).
Chúa Giêsu không làm phép lạ như có người vung chiếc đũa thần hay lả bật ngón tay. Tiếng rên thoát ra từ miệng Người lúc Người rờ tới tai người điếc nói với chúng ta rằng Người đồng hóa với sự đau khổ người ta, Người chia sẻ mãnh liệt trong sự rủi ro của họ, đã thành gánh nặng của Người.
Trong một dịp, sau khi Chúa Giêsu đã chữa nhiều người bịnh, tác giả tin mừng bình luận: "Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta" (Matthew 8:17).
Những phép lạ của Chúa Giêsu không bao giờ tự nó là cùng đích, chúng là những dấu. Điều Chúa Giêsu ngày trước đã làm cho một người trên bình diện thể lý, chỉ điều Người muốn làm hằng ngày cho mọi người trên bình diện thiêng liêng.
Người Chúa Giêsu chữa lành đã điếc và ngọng, anh ta không thể thông truyền với những kẻ khác, nghe tiếng nói của anh và bày tỏ những cảm giác và nhu cầu của anh. .Nếu bịnh điếc và ngọng không có khả năng thông truyền đầy đủ với người thân cận mình, để có những tường quan tốt đẹp, thì chúng ta phải hiểu ngay rằng tất cả chúng ta bị điếc và ngọng nhiều hay ít, và đó là lý do Chúa Giêsu rên với tất cả chúng ta tiếng: Epphatha, Hãy mở ra!
Sự khác biệt là bịnh điếc thể lý không tùy thuộc vào cá nhân và người đó hoàn toàn không đáng trách, đang khi bịnh điếc luân lý thì đáng trách.
Ngày nay người ta tránh dùng từ ngữ "điếc" và chúng ta chuộng hơn cách nói " khuyết tật thính giác," chính là để phân biệt sự kiện đơn thuần không nghe nói về sự điếc luân lý.
Chúng ta điếc, xin đan cử ví dụ, khi chúng ta không nghe tiếng kêu cứu với chúng ta và chúng ta thích đặt giữa chúng ta và người thân cận "hai thứ nước men" sự dửng dưng. Cha mẹ điếc khi không hiểu rằng những thái độ kỳ dị và rối loạn của con cái dấu một tiếng kêu xin chú ý và yêu thương.
Một người chồng điếc khi ông không thể thấy trong sự nhút nhát sợ hãi của vợ mình dấu chỉ sự kiệt sức hay sự cần có một sự làm sáng tỏ. Và cũng một sự kiện đó áp dụng cho người vợ.
Chúng ta điếc khi chúng ta khép kín mình, vì kiêu hãnh, trong một sự yên lặng lãnh đạm và đầy phẫn nộ, đang khi có lẽ với chỉ một tiếng xin lỗi hay tha thứ chúng ta co thể mang lại bình an và an toàn cho nhà cửa.
Chúng ta những tu sĩ nam và nữ có những thời gian thinh lặng trong ngày, và thỉnh thoảng chúng ta cáo mình khi xưng tội:" Con đã phá vỡ sự thinh lặng." Tôi tưởng thỉnh thoảng chúng ta phải cáo mình về điều ngược lại và nói: "Con đã không phá vỡ sự thinh lặng."
Điều quyết định chất lượng sự truyền thông, dầu sao, không phải chỉ nói hay không nói, nhưng làm như vậy hay không làm như vậy vì tình yêu. Thánh Augustine nói với dân chúng trong một phát biểu: Không thể biết trong mọi hoàn cảnh phải làm gì: nói hay thinh lặng, sửa chữa hay là buông xuôi.
Đây là một luật đúng đúng cho mọi trường hợp: "Hãy yêu và hãy làm gì anh muốn." Hãy quan tâm có tình yêu trong con tim lúc đó, nếu anh nói, là do tình yêu, nếu anh thinh lặng là do tình yêu, và mọi sự sẽ nên tốt đẹp bởi vì duy chỉ sự lành đến từ tình yêu.
Kinh Thánh giúp chúng ta hiểu nơi nào bắt đầu sự phá vỡ truyền thông, nơi nào sự khó khăn của chúng ta phát sinh để thông cảm với nhau một cách lành mạnh và tốt đẹp. Khi Adam và Eva ở trong những quan hệ tốt với Thiên Chúa, sự liên hệ giũa hai ông bà cũng tốt đẹp và sung sướng: "Đó là thịt bởi thịt tôi." Tương quan của ông bà với Thiên chúa vửa gián đoạn. vì sự bất phục tùng, thì bắt đầu những sự cáo tội lẫn nhau: "Tại ông ấy, tại bà ấy..."
Chính từ đó mà người ta phải bắt đầu trở lại. Chúa Giêsu đến để "hoà giải chúng ta với Thiên Chúa" và như vậy hoà giải chúng ta với nhau. Người làm như vậy hơn hết qua các bí tích. Giáo Hội đã luôn thấy trong những cử chỉ xem ra kỳ dị mà Chúa Giêsu đã làm với kẻ điếc-ngọng (Người đặt ngón tay trong tai anh và động tới lưỡi anh) một biểu trượng của các bí tích nhờ vậy mà Người tiếp tục "rờ" chúng ta phần xác hầu chữa lành chúng ta phần thiêng liêng.
Đó là lý do tại sao trong bí tích rửa tội thừa tác viên thực hiện những cử chỉ trên một người được rửa tội như Chúa Giêsu đã làm trên người điếc-ngọng: Thừa tác viên ấy đặt ngón tay mình vào tai anh và rờ tới đầu lưỡi anh, lập lại lời Chúa Giêsu: "Ephphatha, Hãy mở ra!"
Bí tích Thánh Thể cách riêng giúp chúng ta chiến thắng sự bất lực thông truyền với người thân cận chúng ta, làm cho chúng ta kinh nghiệm sự hiệp thông kỳ diệu nhất với Thiên Chúa.
Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách
------------------------------
TN 23-B82. EPHATA, HÃY MỞ RA, TỨC THÌ TAI ANH TA MỞ RA,
VÀ ANH TA NÓI ĐƯỢC
Mc.7, 31-37
Chắc chúng ta đã có kinh nghiệm "như câm như điếc" khi chúng ta chưa giỏi tiếng Anh mà phải: TN 23-B82
Chắc chúng ta đã có kinh nghiệm "như câm như điếc" khi chúng ta chưa giỏi tiếng Anh mà phải sống ở ngoại quốc. Đó cũng là kinh nghiệm của tôi những năm đầu ở Ý và khi sang đi hè ở Mỹ này. Người ta nói mà mình không có hiểu. Mình có tai mà như điếc vậy. Khó khăn ngôn ngữ là khó khăn lớn nhất của nhưng ai khi ở nước ngoài. Bởi vì tiếng Việt của chúng ta hoàn toàn khác biệt với những ngôn ngữ Tây Phương, khác biệt về cấu trúc, ngữ pháp, cách diễn dạt.. Và nếu nắm vững ngôn ngữ là chúng ta nắm được chìa khóa vạn năng cho các vấn đề khác.
Chúng ta sống và tồn tại là trong tương quan với người khác. Chính nhờ tương quan và hiệp thông với người khác làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên phong phú và giàu có. Không ai là một hòn đảo, nhưng mỗi người đều có tương quan trước hết với Thiên Chúa, với Tha nhân và với chính mình. Muốn xây dựng cuộc đời có ý nghĩa chúng ta phải phát triển mình trong ba tương quan đó.
Và để có tương quan với người khác, với thế giới bên ngoài chúng ta cần có lời nói, ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ chúng ta có thể bày tỏ, chia sẽ những suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta, đồng thời chúng ta có thể lắng nghe được những tâm tư của người khác.
Nếu chúng ta đánh mất khả năng nghe và nói, chúng ta sẽ mất khả năng thông truyền với thế giới bên ngoài. Tự đặt mình trong trường hợp bị câm điếc, chúng ta mới hiểu được nỗi đau của người câm điếc và chúng ta mới thấy quí cái tai và cái miệng của mình. Mình được lành lặn là một hồng ân rồi.
Tim mừng hôm nay nói tới tình cảnh đáng thương của người câm điếc. Anh ta vừa cầm vừa điếc. Bệnh tật đày đọa đã khổ rồi. Nhưng anh còn khổ hơn vì quan niệm của người Dothái cho rằng: bệnh tật là do hậu qủa tội lỗi của anh hay của Cha mẹ anh. Bị loại trừ khỏi cộng đoàn. Và chính Thiên Chúa cũng bỏ rơi nhưng người như thế. Hiểu như thế thì anh ta rất cô đơn trong nỗi đau của mình.
Đức Kitô hiểu được nỗi đau của anh và đã chữa lành anh khi Ngài nói: Ephata, hãy mở ra! Tức thì tai anh ta mở ra và miệng anh ta nói được.
Lời loan báo trong bài đọc I của Tiên Tri Isaia để an ủi Dân tộc Dothái trong cảnh lưu đày đã được Đức Giêsu thực hiện: "Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhãy nhót như nai, và người câm sẽ nói được". Đấy là lời loan báo về thời kỳ cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta.
Kính thưa anh chị em,
Chúng ta không có câm điếc về thể lý, nhưng đối diện người câm điếc hôm nay, chúng ta không thể không nghĩ tới tình trạng câm điếc tinh thần mà mỗi người chúng ta có thể mắc phải.
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình; khi chúng ta không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi niềm ray rứt và tiếng kêu của những người đau khổ xung quang.
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta không nghe Chúa Giêsu để nói những lời sự thật, lời của yêu thương và hòa giải. Nhiều lúc trong một ngày chúng ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho người khác...
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta đánh giá người khác theo tiêu chuẩn bên ngoài, vật chất, trọng người giàu mà coi thường người nghèo như được nói ở bài đọc II.
Đó là một thứ câm điếc tinh thần mà Chúa đã cảnh báo: "Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc".
Ephata, hãy mở ra! Lời đó Chúa cũng nói với chúng ta. Hãy mở ra để cho Chúa chữa lành chúng ta. Hãy mở tai của chúng ta để lắng nghe Tiếng Chúa. Hãy mở miệng chúng ta ra để chỉ nói lời Yêu thương và Sự thật. Hãy mở trái tim của chúng ta để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của người xung quang. Nếu được như thế cuộc sống của chúng ta sẽ đẹp lắm, phong phú và đáng sống lắm.
Nếu chúng ta quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy rất ít chỗ trong Phúc Âm còn lưu truyền lại tiếng: TN 23-B83
Nếu chúng ta quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy rất ít chỗ trong Phúc Âm còn lưu truyền lại tiếng Aram#isch, tiếng mẹ đẻ của Ðức Giêsu, như trong bài Phúc Âm hôm nay: « Effata: Hãy mở ra ! » Tại sao người ta lại lấy tiếng đó làm quan trọng và lưu truyền lại cho tới ngày nay ? Phải chăng người ta còn lưu truyền tiếng đó lại, vì cho rằng nó có một sức mạnh có thể chữa lành các tật bệnh, như thể một tiếng thần chú vậy ? Dĩ nhiên là không phải thế !
Cũng như chính Ðức Giêsu đã không đến trong thế gian để chữa lành tất cả mọi bệnh tật một cách cách có hệ thống, Giáo Hội cũng không cho mình có sứ mệnh như một cơ sở nghiên cứu các phương pháp chữa bệnh một cách kỳ lạ. Vì thế, xưa kia khi Ðức Giêsu chữa lành một bệnh nhân tìm đến với Người, là chỉ muốn qua đó nhắc cho con người đến một sự chữa lành khác quan trọng và cần thiết hơn bội phần, một sự chữa lành có liên hệ với sự tương quan giữa con người với nhau và giữa con người với Thiên Chúa. Cũng vì thế Người đã chữa lành người câm và điếc mà Người đã gặp trên đường đi.
Trong cuộc sống xã hội hằng ngày, nhiều người đã từ từ trở nên tư lự ít nói và cuối cùng thành câm luôn, dĩ nhiên không vì bộ phận phát âm của họ bị bệnh, nhưng vì họ phải sống trong một hoàn cảnh bất thuận lợi: họ nói mà không một ai thèm để ý lắng nghe. Ðó là một thứ bệnh câm phát xuất từ thái độ bịt tai giả điếc của những kẻ khác. Bởi vì những người sống bên cạnh tôi chỉ biết có mình họ và họ tự đóng khung trong chính con người của họ, nên mọi cố gắng tìm thông tin đối thoại của tôi trở thành vô ích. Tôi có nói cũng chỉ nói để mình tôi nghe. Tiếng nói của tôi chỉ là tiếng nói trong sa mạc của tình cảm chết, không có tiếng vọng, không có tiếng trả lời ! Từ từ tôi trở thành câm, quên mất tiếng nói của loài người. Quả thực đây là một căn bệnh mà các vi khuẩn của nó ít nhiều đang đồn trú trong mỗi người chúng ta.
Quả vậy, thường chỉ do một sự hiểu lầm nho nhỏ, một sự khác biệt ý kiến hay một sự bị làm tổn thương nho nhỏ, bỗng nhiên cả toàn bộ những tương quan và tình nghĩa thân thiết trong cuộc sống chồng vợ, cuộc sống gia đình hay cuộc sống xứ đạo hoàn toàn bị đóng băng, bị tê liệt hay bị sụp đổ. Lý do là vì những người trong cuộc muốn giữ thái độ câm nín và giả điếc, chứ không muốn mở miệng để nói với nhau và mở tai để nghe tiếng nói của nhau nữa, hầu cùng nhau tìm ra nguyên nhân đã gây ra cớ sự và giải tỏa đi những vướng mắc. Hoặc mỗi người đều chỉ muốn bày tỏ quan điểm của mình và khư khư bảo thủ quan điểm đó, chứ không còn muốn kiên nhẫn lắng nghe quan điểm của kẻ khác để tìm ra một dung hòa nào đó !
Nếu thành thật với lương tâm, lắm lúc chúng ta phải tự cảm thấy hổ thẹn với chính mình, bởi vì chúng ta đã không rộng lượng với nhau; bởi vì chúng ta thường chỉ nghĩ đến mình, đến lợi ích tư riêng của mình mà thôi!
Nhưng ai sẽ có thể chữa lành chứng bệnh câm và điếc này của chúng ta ? - Xin thưa, không có ai cả ! Ðức Giêsu cũng không ! Ðức Giêsu chỉ có thể chỉ cho ta con đường dẫn tới sự chữa lành căn bệnh ! Người chỉ cho chúng ta cách thức có thể giúp chúng ta tự giải thoát mình khỏi chứng câm và điếc kia: « Effata ! Hãy mở ra ! » Ðức Giêsu chỉ có thể giúp ta phương pháp: « Effata ! Hãy mở ra ! » còn chính hành động « mở ra » thì chúng ta phải tự làm lấy. Chúng ta phải tự mở rộng lòng mình ra. Chúng ta phải tự mở rộng sự quảng đại của mình ra. Chúng ta cần phải tự bắc nhịp cầu nối lại với người khác. Chúng ta cần phải tự giải thoát mình khỏi sự ích kỷ hẹp hòi, khỏi sự tự tôn tự đại, và biết can đảm lắng nghe kẻ khác.
Những ai không muốn cố gắng tập cho mình có thói quen biết quan tâm đến ý kiến người khác, thì làm sao họ có thể nghe được tiếng Chúa ? Bởi vì tiếng Chúa luôn luôn âm thầm nhỏ nhẹ, đến nỗi rất dễ bị các tiếng nói ồn ào khác xuất phát từ môi trường sống chung quanh hay bởi chính nội tâm bất ổn của chúng ta lấn át đi và không thể nghe được nữa
Nếu chúng ta tìm cách giả điếc làm ngơ trước tiếng Chúa, trước tiếng lương tâm mình, hoặc chúng ta không còn muốn lắng nghe người đồng loại, không muốn giao tiếp với họ nữa, chúng ta sẽ trở thành câm và điếc, chúng ta sẽ trở nên bệnh hoạn và cần phải được chữa lành.
« Effata ! Hãy mở ra ! » Tất cả chúng ta cần phải mở rộng cửa lòng mình ra cho Thiên Chúa và cho người đồng loại. Chúng ta cần phải giải thoát mình khỏi sự cô lập của chính bản thân và nối lại mọi quan hệ với Thiên Chúa và với những người khác. Ðó là con đường dẫn tới sự chữa lành căn bệnh bất trị câm điếc của chúng ta.
« Lạy Chúa, xin hãy mở lòng và môi con, đề miệng con cao rao lời ngợi khen Chúa ! Xin Chúa hãy mở miệng con ra để con ca ngợi Chúa, và xin hãy ban cho con một Thần Khí mới ». Amen
Con người sinh ra ai cũng muốn được hoàn bị, không dị tật và đấy là ước mơ, không ai muốn: TN 23-B84
Con người sinh ra ai cũng muốn được hoàn bị, không dị tật và đấy là ước mơ, không ai muốn mình bị tước mất những khả năng nghe, nhìn, nói,. ....Thế nhưng vẫn có tình trạng ấy xẩy ra nên con người đau khổ mong muốn, khao khát được chữa lành. Trong Cựu Ước tiên tri Isaia loan báo Đấng Mesia đến sẽ thực hiện được điều đó(Is.35,4-7a) và Tv.145 trong bài đáp ca cũng công bố Thiên Chúa sẽ giải thoát con người khỏi tù tội, mở mắt cho kẻ mù lòa...đặc biệt trong bài Tin Mừng cho chúng ta thấy niềm ước mong của con người đã được thực hiện khi Chúa Giêsu xuất hiện làm trọn những lời các ngôn sứ đã nói, Người chữa bệnh cho một người bị ngọng và điếc (Mc.7,31-37).
Như thế phung vụ Lời Chúa hôm nay muốn nói đến Đức Kitô là vị lương y tuyệt diệu mà tiên tri Isaia đã báo trước. Người đến và thông cảm những nỗi đau của nhân loại, Người ra tay cứu giúp bằng những phép lạ như bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Lữơi, tai là hai cơ quan để truyền thông của con người, nhưng khi bị ngọng hay câm điếc người ta không còn giao tiếp tự nhiên với người khác nữa, lưỡi như có sợi giây buộc lại, tai như cánh cửa bị khóa kín. Những người này bị tách khỏi thế giới chung quanh vì không hiểu được người khác, cũng như người khác không hiểu được họ. Thấu hiểu nỗi khổ của con người Chúa Giêsu đã mau mắn cứu giúp, nhưng ở đây chúng ta thấy Chúa Giêsu đã dẫn người bệnh đi xa khỏi đám đông rồi mới chữa, vì Chúa không muốn họ bị sai lạc về đức tin khi thấy Chúa Giêsu làm những cử chỉ có vẻ như ma thuật. Chúa muốn người ta theo Chúa vì tin vào Chúa chứ không phải vì mê tín hay được hưởng những chuyện lạ thường lợi lộc vật chất.
Ngày nay chúng ta cũng thường mắc chứng bệnh điếc, mặc dù chúng ta có đôi tai thể lý rất thính, nghe được mọi chuyện mà không nghe được Lời Chúa thì cũng như điếc, chúng ta bị điếc khi để mình mất khả năng lắng nghe kẻ khác, hoặc nghe nhưng lại hiểu theo chủ quan, như thế thì vẫn là không nghe được điều người khác muốn nói. Chúng ta bị điếc khi chúng ta lắng nghe mà không nhận thức được đúng - sai, hay - dở. Vậy điều quan trọng không nằm ở nơi người nói, mà ở chỗ người nghe suy nghĩ và quyết định ra sao. Trong chúng ta không ai muốn mình điếc hay lãng tai, nhưng chúng ta chỉ thích nghe điều mình muốn nghe, những lời nịnh hót hay khen thưởng, còn những điều khiển trách, giáo huấn chúng ta lại không muốn nghe thì cũng là điếc.
Miệng lưỡi tốt có khi còn lợi khẩu, nhưng lại không biết nói những điều tốt, những điều đáng nó, những điều sửa dạy trong cương vị làm cha mẹ, làm thầy dạy, làm bề trên ...thì cũng là câm. Nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất nhưng không biết tuyên xưng lòng nhân lành của Chúa, không biết loan báo Lời thì cũng như câm. Nói để người khác hiểu được mình, đó là ước mơ của chúng ta, nhưng chúng ta lại thấy như có gì trói buộc muốn nói mà không nói được, sợ mất lòng, sợ lụy đến thân, sợ mất chức quyền, sợ nhiều thứ khiến chúng ta ngần ngại, sợ hãi né tránh... Tệ hại hơn có khi người ta bị câm vì bị châm chọc, khinh miệt, khước từ...và họ đã tự động khép lại.
Thế giới ngày nay thiếu cảm thông nên cũng là câm điếc thiêng liêng, bệnh này biến người ta thành hòn đảo, chẳng có gì để cho và cũng cũng có gì để nhận, để rồi chết dần trong sự nghèo nàn của mình, nên cũng cần phải được Chúa chữa trị, kẻo bị Chúa Giêsu quở trách như đã quở các tông đồ xưa" có tai mà không nghe, có mắt mà không nhìn" (x.Mc.8,18). Vì thế, khi nghe bằng tai thôi chưa đủ, mà phải lắng nghe với cả trái tim. Chỉ có trái tim yêu thương chân thành và quảng đại mới có thể hiểu đầy đủ, hiểu chính xác những thông điệp mà người nói muốn truyền đạt, Hơn nữa, không phải thông tin nào cũng nên nghe, cần phải chọn lựa những thông tin bổ ích hữu dụng, không gây phương hại, vẩn đục tâm hồn. Một tác giả kia đã nói " Chúng ta không thể luôn tin vào những gì nghe bằng đôi tai, nhưng luôn có thể tin vào những gì thấy bằng con tim của mình, được hiểu sau lớp ngôn từ"
Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức rằng qua Bí Tích Thánh Tẩy, Hội Thánh nhân danh Chúa Giêsu đã khai mở cho chúng con một đời sống hiệp thông với Thiên Chúa, để chúng con biết phát triển đời sống đức tin và đức mến, luôn lắng nghe tiếng Chúa và không ngừng rao giảng tình thương cứu độ của Chúa qua đời sống chứng nhân của chúng con giữa lòng đời.
Các thứ bệnh điếc và ngọng: thể chất, tinh thần, tâm linh, nơi cá nhân, xã hội và giáo hội Trong TN 23-B85
1. Các thứ bệnh điếc và ngọng: thể chất, tinh thần, tâm linh, nơi cá nhân, xã hội và giáo hội
Trong xã hội con người, có rất nhiều người bị bệnh: bệnh thể chất, bệnh tinh thần, và bệnh tâm linh. Đó là nói về bệnh cá nhân. Ngoài ra, một xã hội cũng có thể có nhiều chứng bệnh: bệnh thể lý như dịch tễ, bệnh tinh thần như sự bất công, áp bức, các tệ nạn xã hội (đĩ điếm, ma túy), bệnh tâm linh như vô tín, đạo đức xuống dốc, tình trạng tội lỗi... Một cộng đoàn tôn giáo có thể bị những bệnh như: cơ cấu làm tê liệt thần khí, hình thức bên ngoài làm mất đi tinh thần bên trong, quyền bính bị lạm dụng, chia rẽ không hiệp nhất, trên dưới không nghe nhau, khô khan nguội lạnh, thỏa hiệp với kẻ ác...
Đức Giêsu đến trần gian để chữa chủ yếu những bệnh tinh thần và tâm linh của con người, của xã hội và giáo hội, nhưng Ngài cũng chữa cả những bệnh thể lý như dấu chỉ khả năng chữa lành tinh thần và tâm linh. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Ngài chữa lành « một người vừa điếc vừa ngọng» thể lý, là dấu chỉ của loại bệnh «vừa điếc vừa ngọng» tinh thần hay tâm linh. Điếc là không nghe được, hoặc không nghe rõ. Ngọng là không nói được, hoặc nói không rõ, khó nghe. Số người điếc, ngọng, câm thể lý chiếm một tỉ lệ tương đối nhỏ trong xã hội. Nhưng số người điếc, ngọng, câm về tinh thần và tâm linh chiếm một tỉ lệ rất cao. Thậm chí có cả bệnh «câm điếc xã hội», nghĩa là có những xã hội bị điếc, ngọng và câm nữa. Nếu Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay có thể chữa lành bệnh điếc và ngọng thể lý, thì Ngài còn có thể chữa lành một cách hữu hiệu hơn nữa bệnh điếc và ngọng về tinh thần, tâm linh, nơi cá nhân cũng như trong xã hội và giáo hội.
2. Điếc, ngọng về tinh thần và tâm linh
Điếc và ngọng về thể chất thì ai cũng biết, thiết tưởng chúng ta không cần đề cập tới trong khuôn khổ nhỏ hẹp của bài chia sẻ Tin Mừng này. Chúng ta cần bàn tới bệnh điếc và ngọng về tinh thần và tâm linh, mà ai trong chúng ta cũng bị không nhiều thì ít.
Nhiều người thính và tinh tai thể chất, nhưng lại điếc về tinh thần và tâm linh. Họ rất thính tai khi nghe những gì liên quan đến tiền tài, của cải, lạc thú, danh vọng, quyền lực, địa vị, nhưng lại trở nên giống như điếc khi nghe những điều hay lẽ phải, những chân lý đem lại sức mạnh tinh thần hay tâm linh, giúp họ sống yêu thương nhiều hơn. Nhiều người nói năng rất hùng biện về kiến thức, triết lý, khoa học, về đủ mọi đề tài... nhưng lại hành xử như người câm, hoặc cảm thấy rất ngượng nghịu, mắc cỡ khi phải nói lên điều hay lẽ thật, những lời chân thành yêu thương, những lời làm mát lòng người khác, những lời đem lại bình an, hòa thuận, những lời giúp mọi người hiểu ra đường ngay lẽ thật.
3. Điếc và ngọng trước chân lý
Nhiều người đã trở thành điếc trước những quan niệm mới, những cách nhìn mới hay những cách diễn tả mới về chân lý. Vì họ luôn luôn cho rằng những quan niệm, cách nhìn hay cách diễn tả chân lý mà họ lãnh hội được trước đây chính là chân lý. Mà đã là chân lý thì không bao giờ thay đổi. Thực ra, chân lý thì bất biến, muôn đời không thay đổi, nhưng cách hiểu, sự lãnh hội và cách diễn tả chân lý của con người thì luôn luôn thay đổi tùy theo khả năng nhận thức của họ. Cũng như cơ cấu của vật chất, từ ngàn xưa đến nay không hề thay đổi, nhưng quan niệm, cách nhìn, cách mô tả của con người về cơ cấu vật chất luôn luôn thay đổi: càng về sau, con người càng quan niệm và diễn tả đúng hơn.
Một khi đã coi một quan niệm, cách nhìn hay cách diễn tả nào đó là chân lý bất biến, con người sẽ không còn khả năng chấp nhận những cách diễn tả khác phù hợp với thời đại mới, với nhận thức mới của con người thời đại. Ta đã thấy gương về sự cố chấp này trong Kinh Thánh: Thiên Chúa thì bất biến, nhưng cách diễn tả Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước rất khác nhau. Các kinh sư Do-thái chính vì cố chấp vào cách diễn tả cũ nên họ đã không chấp nhận được Đức Giêsu, với quan niệm mới, cách nhìn mới, cách diễn tả mới mẻ về Thiên Chúa của Ngài. Vì thế, họ đã nhắm mắt bịt tai trước lời của Ngài: lời Ngài có vẻ như không phù hợp với quan niệm rất hạn hẹp của họ. Tâm trí họ giống như một tách trà đã đầy nước, không thể tiếp nhận thêm một giọt nước nào nữa, nếu cứ rót vào, nước trà sẽ tràn ra ngoài.
Một khi đã điếc trước cách diễn tả mới về chân lý, họ cũng trở thành câm hay ngọng đối với cách diễn tả ấy.
4. Điếc và ngọng trong xã hội và tôn giáo
Trong những xã hội hay tôn giáo độc tài, chỉ có một bè đảng, một phe nhóm hay một giáo phái nào đó được ưu đãi và toàn quyền hành động, thì người dân luôn luôn phải chịu cảnh bất công áp bức. Lúc đó, người dân sẽ trở thành những kẻ điếc và ngọng. Điếc vì họ bị bọn cầm quyền bưng bít không cho nghe những thông tin nào bất lợi cho chúng, khiến cho người dân trở nên bức xúc và đấu tranh. Ngọng hay câm vì họ không thể nói lên được những uất ức, những bực bội, những tư tưởng, những ước muốn của họ. Đương nhiên bị điếc và ngọng thì hết sức bực bội, khổ não, và không hạnh phúc.
Trong những xã hội hay tôn giáo ấy, còn một loại điếc và ngọng khác, đó là bệnh điếc và ngọng của những người theo lý tưởng ngôn sứ. Đó là một lý tưởng cao đẹp tuyệt vời! Lý tưởng này rất cần thiết, đặc biệt trong những xã hội hay tôn giáo đang chịu đầy dẫy bất công áp bức. Lý tưởng đó là « loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, giải phóng những kẻ bị giam cầm, cho người mù được sáng mắt, trả lại công lý cho người bị áp bức» (Lc 4,18). Sách Châm ngôn diễn tả một công việc quan trọng của những người mang lý tưởng đó: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng phán xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9). Nhưng có rất nhiều người mang danh theo lý tưởng ngôn sứ này, đáng lẽ họ phải nói thay cho người câm hay ngọng, nhưng tiếc thay chính họ dường như cũng bị câm và ngọng luôn! Thay vì sáng mắt thính tai để nghe và thấy tình cảnh khốn cùng của những người chung quanh mình hầu lên tiếng thay cho họ, thì họ cố tình giả điếc làm ngơ, bưng tai bịt mắt để khỏi thấy, hầu có thể câm miệng làm thinh cho yên thân, để «cố đấm ăn xôi» hay «ngậm miệng ăn tiền»!
5. «Épphatha», hãy mở ra!
Tuy không điếc và ngọng thể lý, nhưng rất có thể chúng ta đang bị điếc và ngọng về tinh thần hay tâm linh. Điếc và ngọng thể lý thì không phải chịu trách nhiệm về căn bệnh. Nhưng điếc hay ngọng về tinh thần hay tâm linh, thì chúng ta sẽ bị quy kết trách nhiệm trước Thiên Chúa và lương tâm của mình. Vì thế, xét về mặt tâm linh, điếc và ngọng tinh thần hay tâm linh nguy hiểm hơn nhiều. Bị căn bệnh tâm linh này, chúng ta cần chữa cho khỏi. Dù là điếc, ngọng hay câm loại nào, Đức Giêsu cũng có thể chữa lành được, miễn là chúng ta tin vào quyền năng của Ngài và quyết tâm cộng tác với Ngài. Chỉ cần Ngài rờ vào cái tai tâm linh và cái miệng tâm linh của ta và truyền cho chúng: « Épphatha, hãy mở ra!» là bệnh điếc, ngọng, câm tâm linh của ta sẽ được chữa lành. Điều quan trọng là chúng ta phải xác định được mình đang thật sự bị điếc và ngọng về tâm linh thì Ngài mới chữa lành ta được! Nếu bị bệnh mà mình lại cứ nói mình chẳng bệnh gì cả, thì Chúa có quyền năng đến đâu Ngài cũng đành bó tay. Hãy nghe Đức Giêsu nói với người Pharisêu: «Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: "Chúng tôi thấy", nên tội các ông vẫn còn!» (Ga 9,41).
Cầu nguyện
Lạy Cha, con cảm thấy con đang bị điếc và câm - hay ít ra là đang giả điếc và giả câm - trước lời mời gọi của Cha. Cha mời con mở to mắt ra để thấy những nỗi cùng khốn của những người chung quanh con, banh lỗ tai ra để nghe những tiếng rên xiết đau thương của họ, đồng thời mở miệng ra để an ủi họ, xoa dịu đau thương cho họ, và nhất là nói dùm họ, tranh đấu cho họ... Nhưng con đang giả mù giả điếc để có thể câm lặng... hầu được an thân, hầu khỏi bị mất mát những gì mà kẻ áp bức đang ban cho con! Xin Cha hãy chữa lành bệnh ấy cho con!
Cách đây không lâu trên đài truyền hình người ta có nói tới một khám phá mới để nuôi thơ: TN 23-B86
Cách đây không lâu trên đài truyền hình người ta có nói tới một khám phá mới để nuôi thơ nhi sinh ra còn thiếu tháng bằng chính hơi ấm của người mẹ, bằng sự đụng chạm da thịt của người mẹ với đứa con thay vì nuôi trong lồng kiếng với các dụng cụ khoa học như từ trưóc tới nay. Sau thời gian thử nghiệm, phương pháp này đã mang lại những hiệu quả tốt đẹp. Em bé đã phát triển bình thường.
Khoa học tiến bộ theo năm tháng, nhưng qua bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Kitô đã dùng đường lối này để chữa bệnh cho dân chúng từ ngàn xưa. Ngài đã lấy ngón tay đặt vào lỗ tai anh và nhổ nước miếng của mình để bôi vào lưỡi anh. Hành động này nói lên rằng: Ngài đã truyền sinh lực của Ngài cho anh để không những chỉ mở lưỡi và tai nhưng còn mở tất cả con người anh đang bị trói buộc bởi thần dữ, nhờ đó anh có thể nghe, đón nhận, hiểu biết và thực thi lời giáo huấn của Ngài.
Nhìn vào thời đại hiện nay, chúng ta thấy biết bao người đang phải đương đầu với những cảnh sống cô đơn. Tại sao thế! Tại vì họ muốn câm, muốn điếc đối với những người chung quanh, hay có khi họ không muốn hiểu, không muốn liên đới tới thế giới bên ngoài để rồi đóng kín mình trong vỏ ốc cứng của cá nhân và ích kỷ. Chính mình đã làm cho mình trở nên câm điếc mà không hay. Con người chỉ có thể nghe rõ và hiểu rõ, cũng như nói ra những điều hay, lời tốt, khi họ biết xử dụng các giác quan của mình với một trái tim mở rộng và chân thành.
Một bà mẹ nói với con: „Sao hôm nay con bị nặng tai à!- Con đã không hiểu mẹ vì con đã không biết lắng nghe mẹ bằng cả con tim của con."
Tất cả chúng ta sẽ trở thành những người câm điếc nếu chúng ta không biết thành tâm đón nhận Tin Mừng để đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày. Chính vì thế mỗi người chúng ta cũng luôn cần được sự đụng chạm của Chúa và lời tháo gỡ thần lực của Ngài: „Hãy mở ra", để chúng ta không còn bị ràng buộc bởi những sự sợ hãi, những điều xấu lôi kéo. Nhờ sức mạnh mới chúng ta có thể nghe, hiểu được và hăng say rao truyền chân lý của Tin Mừng, không còn phải sống trong tình trạng câm điếc nữa.
Lạy Chúa xin mở miệng lưỡi, mở trái tim con cho con biết ca khen tình thương của Chúa và con hiểu và cảm thông với tha nhân. Xin Chúa hãy cho con luôn cảm nhận được ý nghĩa sâu xa của lời: "Hãy mở ra".
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 7:31-37)
Nghe và nói là hai phương tiện cần thiết để chúng ta giao tiếp, nhận và phát đi mọi thông: TN 23-B87
Nghe và nói là hai phương tiện cần thiết để chúng ta giao tiếp, nhận và phát đi mọi thông tin hoặc sứ điệp. Nếu chúng ta bị điếc hay bị câm, hoặc cả hai, thì những trở ngại trong việc giao tiếp sẽ làm chúng ta vô cùng khó chịu. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể tưởng tượng người điếc và ngọng vui mừng như thế nào sau khi được Chúa chữa lành. Anh vui mừng đến nỗi quên luôn cả lời Chúa căn dặn anh không được nói cho ai biết về việc chữa lành, nhưng “Người càng cấm, họ càng đồn ra”. Tuy nhiên quan trọng hơn, phép lạ chữa lành này mang ý nghĩa thiêng liêng đặc biệt về căn bệnh điếc và ngọng của tâm hồn chúng ta.
Thiên Chúa dựng nên con người có miệng nói tai nghe là để họ sống mối tương quan với nhau, nhưng cũng để họ sống mối tương quan với chính Người. Thực vậy, Chúa đã tạo dựng con người và muôn vật bằng Lời khi Người phán “Hãy có trời, đất, con người, loài vật…” Hơn thế nữa, Chúa còn phán dạy qua Lề Luật, các ngôn sứ, nhất là qua Chúa Giê-su, để con người biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa. Đáp lại, con người cũng dùng lời nói để dâng lên Chúa lời chúc tụng, cảm tạ, cầu khẩn và xin Người tha thứ lỗi lầm. Tuy nhiên trong lịch sử dân Chúa, biết bao lần Chúa đã phán dạy, nhưng họ không muốn lắng nghe. Thậm chí Ít-ra-en còn giết hại những vị ngôn sứ mang sứ điệp của Chúa đến cho họ nữa. Rồi họ đã ngậm miệng không muốn ca tụng Chúa khi họ thờ phượng các thần ngoại thay vì thờ phượng Người. Đó là bệnh điếc và ngọng của cả một dân tộc.
Hình ảnh người điếc và ngọng trong câu chuyện Tin Mừng có thể là chính hình ảnh của nhân loại nói chung, hoặc của dân Chúa, hoặc đặc biệt của mỗi người chúng ta. Khi căn bệnh điếc và ngọng đã trở nên trầm kha thì mối tương quan giữa chúng ta với Chúa đang đi vào bế tắc. Đối với từng cá nhân mắc chứng bệnh điếc và ngọng, Chúa có cách chữa trị độc đáo như chúng ta thấy bài Tin Mừng kể lại. Người sẽ “kéo riêng chúng ta ra khỏi đám đông”, ra khỏi những ồn ào của thế gian để chúng ta dễ dàng hoàn toàn ở trong sự hiện diện với Người. Người sẽ dùng ngón tay quyền năng để thông lỗ tai tâm hồn chúng ta, nhờ đó chúng ta nghe được những lời yêu thương kêu gọi chúng ta hãy gắn bó với Người. Người sẽ bôi nước bọt có sức mạnh chữa lành để tháo gỡ mọi ràng buộc tội lỗi đã làm cho chúng ta không thể mở miệng nói với Chúa và anh chị em. Người sẽ “ngước mắt lên trời” cầu nguyện cho chúng ta được trở lại sống trong tình thân mật với Người. Sau cùng, Người bảo chúng ta: “Hãy mở ra!” Mở tâm hồn để Người ngự vào. Mở tai để nghe lời dịu ngọt của Người. Mở mắt để bước theo Người. Tóm lại là Người mời gọi chúng ta sống trọn vẹn trong sự thông hiệp đầy tràn yêu thương với Người.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Khi cử hành Bí tích Rửa tội cho một em nhỏ, vị linh mục chạm vào tai và miệng em, nhắn nhủ em hãy lắng nghe lời Chúa và rao giảng Tin Mừng. Nhưng có lẽ chúng ta đã quên mất cử chỉ ý nghĩa ấy rồi. Tệ hơn nữa, chúng ta ít nhiều cũng mang chứng bệnh điếc và ngọng. Chúa nói với chúng ta qua Kinh Thánh là Lời Chúa. Vậy mà Kinh Thánh đối với nhiều người vẫn còn là xa lạ! Chúa nói với chúng ta qua việc giảng dạy của Giáo Hội, việc chia sẻ lời Chúa trong Thánh lễ, lời khuyên của bề trên hoặc cha mẹ, lời nhắc nhở của bạn bè… Vậy mà ít khi chúng ta coi những tiếng nói ấy là quan trọng! Chúng ta trở nên ngọng ngịu hoặc câm như hến là vì sợ bị mất quyền lợi và tổn thương nên không dám nói lên sự thật xây dựng hoặc bênh vực cho lẽ phải. Có nhiều bậc cha mẹ mắc bệnh câm khi không dám mở miệng sửa dạy con cái.
Lời “Ép-pha-ta – Hãy mở ra” của Chúa Giê-su luôn nhắc nhở chúng ta ý thức về mối tương quan yêu thương với Người. Trên thập giá, Người đã mở trái tim của Người để cho giọt máu và nước cuối cùng minh chứng Người yêu chúng ta. Người chỉ mong đợi chúng ta cũng biết mở lòng để đón nhận lời Người và mở miệng để tuyên xưng Người là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” và mở lòng đón nhận anh chị em nữa!
Mc 7:31-37: 31 Đức Giêsu lại bỏ vùng Tirô, đi qua ngả Siđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Đêcapôlis. 32 Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. 33 Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt những ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. 34 Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Épphatha”, nghĩa là: hãy mở ra! 35 Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. 36 Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. 37 Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”
Trong văn mạch nói đến những hoạt động cuối cùng của Chúa Giêsu (6:6b-8:26), đoạn 7:31-37: TN 23-B88
Trong văn mạch nói đến những hoạt động cuối cùng của Chúa Giêsu (6:6b-8:26), đoạn 7:31-37 thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành một người câm và điếc trong vùng Tirô và Siđôn, nơi dân ngoại đang sinh sống. Đoạn nầy có thể được phân chia như sau: 1- Khung cảnh mở ra câu chuyện chữa lành người câm điếc (7:31-32); 2- Việc chữa lành của Chúa Giêsu (7:33-35); 3- Sự kinh ngạc của dân chúng (7:36-37).
Tirô và Siđôn đã được nhắc đến rất sớm trong những ngày hoạt động đầu tiên của Chúa Giêsu. Dân chúng tuôn đến với Người khi “nghe những việc Người đã làm” (3:8). Hai việc kỳ diệu Người đã làm cho dân chúng ở Tirô là chữa lành người con gái bị quỷ ám của người phụ nữ hy lạp, gốc Syria-Phôênisê (7:24-30) và người câm và điếc (7:31-37). Những việc Người làm đã được loan báo rộng rãi trong cả vùng Đêcapôlis, nhất là bởi người bị quỷ ám được chữa lành; do đó, dân chúng biết và đem người câm và điếc nầy đến cho Người.
Trình thuật nầy nhấn mạnh việc chữa lành của Chúa Giêsu qua việc đặt tay, được ghi nhận như là mục đích khi dân chúng đem người bệnh nầy đến với Người (6:33-35; x. 5:23). Đặt tay là cử chỉ Chúa Giêsu thường làm để chữa lành bệnh(1:41; 5:23; 6:5; 7:32; 8:23), vì những việc kỳ diệu đều được thực hiện bởi bàn tay của Người (6:2). Ở đây thay vì chỉ là một việc đặt tay đơn thuần, Marcô mô tả chi tiết là Người đã “đặt những ngón tay Người vào lỗ tai người ấy” và “chạm đến lưỡi người ấy” (c. 33). Sự tiếp xúc nầy có khả năng chuyển ban cách trực tiếp năng lực chữa lành từ Người. Người chạm đến người phong hủi để làm cho người không được chạm vào nầy có thể chạm vào đuợc, nghĩa là được nên sạch (1:41) Người nắm tay em bé, thay vì chỉ đặt tay trên em như theo lời người cha yêu cầu, và kéo em chỗi dậy khỏi giấc ngủ (5:39-42). Như thế, qua việc đụng chạm đến tai và miệng luỡi của người câm và điếc, Người đã mang lại cho người nầy khả năng nói và nghe.
Marcô luôn ghi nhận tâm tình cảm thông của Chúa Giêsu trước tình trạng khốn khổ, đói khát và bệnh tật của con người (1:41; 6:34; 8:2; x. 9:22). Tuy nhiên, ở đây khác với tất cả, ông chỉ nói là Người “ngước mắt lên trời và thở dài” (7:34). Tiếng thở dài chỉ phát ra khi con người đứng trước những tình trạng bi đát mà họ bất lực và không thể thay đổi (Gióp 23:2; 30:25; Tv 30:11; Giêr. 4:31). Trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, một đàng Người thở dài thay cho người câm điếc, qua đó biểu lộ sự cảm thông bằng hành vi với người nầy, để Chúa Cha có thể nghe thấy sự khốn khổ của người ấy (TđCv 7:34; Xh3:7). Lời thở dài nầy làm cho lời cầu nguyện thêm sâu thẳm và khẩn thiết (x. 2:24; Tv 78:11). Đàng khác, như là hiện thân của Thiên Chúa giữa con người, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời để nhận lấy quyền năng của Chúa Cha mà cứu chữa người nầy (6:41). Lời đầy quyền năng có thể chữa lành “Éphatha”, Anh hãy được mở ra” được ngỏ trực tiếp với người câm điếc; do đó, tai và miệng người nầy cùng một lúc được mở ra (7:35) và thoát khỏi mọi ràng buộc được ngầm ám chỉ là do ma quỉ (x. Lc 8:28; 13:16).
Lệnh cấm nói cho ai khác biết lần nầy không được áp dụng cho người được chữa lành như trong những trường hợp khác (x.1:44; 5:43; 8:30; 9:9), mà cho dân chúng. Rất có thể vì họ là những nguời đã mang người câm điếc đến và đã chứng kiến kết quả kỳ diệu được thực hiện nơi người ấy (7:37). Nhưng không có một lệnh cấm nào của Người được tôn trọng, vì niềm vui được chữa lành quá lớn lao đến nỗi con người không thể giữ thinh lặng về những gì đã xảy ra cho bản thân được. Hiệu quả của việc Chúa Giêsu đã làm ảnh hưởng cách mạnh mẽ trên dân chúng được thấy qua phản ứng của họ là kinh ngạc quá mức, qua lời nói mà họ nhận định là mọi sự Người đã làm đều tốt đẹp, mà việc làm cho người câm điếc nói và nghe được chỉ là một trong nhiều việc chữa lành Người đã thực hiện.
Công việc của Chúa Giêsu làm là công việc của Chúa Cha. Người mở tai và miệng con người ra để họ có thể nghe và hiểu cách chân thật những điều kỳ diệu Người đã làm; đồng thời, có thể loan báo Người và hành động của Người.
Chúa Giê-su đến để kiện toàn Lề Luật Mô-sê bằng cách thực hiện những gì ghi chép về Người: TN 23-B89
Chúa Giê-su đến để kiện toàn Lề Luật Mô-sê bằng cách thực hiện những gì ghi chép về Người, nhưng nhất là bằng cách phục hồi tinh thần tuân giữ Lề Luật đã bị những nhà lãnh đạo Do-thái làm mất đi khi họ chỉ chú trọng đến hình thức bề ngoài. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay tiếp tục kể lại sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa Giê-su. Một trong những điều ngôn sứ I-sai-a tiên báo về sứ vụ ấy là việc chữa lành bệnh tật của nhân loại, bệnh tật thể xác cũng như bệnh tật thiêng liêng. Bài đọc Cựu Ước và bài Tin Mừng chỉ đan cử một số bệnh tật thể xác, nhưng đó cũng là những biểu tượng cho những căn bệnh thiêng liêng. Tuy nhiên việc Chúa Giê-su chữa lành mới thực sự là đề tài để ta chiêm ngưỡng tình yêu Thiên Chúa đối với ta là những kẻ nghèo hèn trước mặt Người.
1. “Chính Thiên Chúa sẽ đến cứu anh em” (Bài đọc Cựu Ước – I-sai-a 35:4-7a)
Ngôn sứ I-sai-a lấy bối cảnh dân Do-thái bị lưu đày để diễn tả kế hoạch của Thiên Chúa giải phóng nhân loại khỏi những hậu quả của tội lỗi. Trước hết ngài gọi ngày Thiên Chúa đến giải phóng là “ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội”. Gọi là ngày báo phục, vì Thiên Chúa muốn loại trừ ảnh hưởng tội lỗi và lập lại mối quan hệ với loài người đã bị tội lỗi cướp đoạt. Hậu quả lớn lao nhất tội lỗi gây nên là cái chết, chết phần xác và chết phần hồn. Bên cạnh hậu quả to lớn ấy còn biết bao nhiêu những hệ quả khác, nhất là những khuyết tật thiêng liêng, như tâm hồn mù lòa, câm điếc, tê liệt. Môi trường sống cũng bị thay đổi từ cảnh vườn địa đàng biến thành sa mạc khô cằn và hoang vu.
Trước tình huống ấy, ngôn sứ I-sai-a loan báo một tin vui: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35:4). Tiếp đến, ngài nêu ra một vài thí dụ cụ thể nói lên hành động cứu độ của Thiên Chúa: cho người mù trông thấy, người điếc được nghe, người què được đi, đất đai khô cằn có nước tưới tràn trề.
Tuy nhiên đó chỉ là những hình ảnh diễn tả những tình huống tâm hồn ta không thấy được. Đôi mắt thiêng liêng của ta đã mù lòa, không nhận ra những gì Thiên Chúa làm cho ta, mà chỉ nhìn thấy vẻ hào nhoáng xa hoa và quyến rũ của vật chất trần gian. Đôi tai thiêng liêng của ta làm ngơ trước những mời gọi của Thiên Chúa nói với ta qua lề luật, qua các vị ngôn sứ thời xưa và thời nay, qua Giáo Hội, nhất là qua Lời Chúa ta đón nhận khi tham dự Thánh Lễ hoặc khi đọc và suy niệm Lời Chúa. Tay chân thiêng liêng của ta không còn hơi sức để đến với Chúa và anh chị em, hoặc thực hiện những điều tốt lành để phụng thờ Chúa và giúp đỡ anh chị em. Môi trường sống của ta là bãi chiến trường đầy dẫy những ghen ghét, lừa lọc, tham lam, khiến cho những công trình bác ái thương yêu không còn đất mà triển nở. Đó chính là đối tượng của kế hoạch báo phục Thiên Chúa thực hiện qua Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng được ngôn sứ I-sai-a vui mừng loan báo: “Thiên Chúa của anh em đây rồi!” Đúng vậy, Thiên Chúa của ta là Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, là Ngôi Lời nhập thể dựng lều ở giữa chúng ta. Người ở lại với ta cho đến ngày tận thế để thực hiện công trình báo phục của Thiên Chúa. Các sách Tin Mừng ghi lại những gì Chúa Giê-su Ki-tô đã dạy, đã làm để khắc phục quyền năng của tội lỗi và ma quỷ, đồng thời khai mở một cuộc tạo dựng mới theo kế hoạch của Thiên Chúa.
2. “Chúa Giê-su làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được” (bài Tin Mừng – Mác-cô 7:31-37)
Những điều ngôn sứ I-sai-a tiên báo đều được thực hiện từng ly từng nét trong sứ vụ cứu độ của Chúa Giê-su. Bài Tin Mừng hôm nay chỉ đan cử một phép lạ phù hợp với lời tiên báo của I-sai-a: Chúa Giê-su chữa lành cho một người vừa điếc vừa ngọng. Có lẽ trước hết ta cần lưu ý tới tình trạng của người bệnh, là anh ta vừa điếc lại vừa ngọng. Chi tiết này muốn diễn tả thực trạng dây chuyền xảy ra trong tâm hồn ta. Cũng như khuyết tật điếc kéo theo việc ăn nói ngọng nghịu, tâm hồn ta nếu bị điếc thì sẽ trở thành ngọng, không nghe Chúa nói thì làm sao biểu lộ được qua hành động những gì Người muốn ta làm. Tội lỗi không bao giờ gây hại cho ta một cách cố định, nhưng luôn luôn lây lan, từ tật xấu này sinh ra tật xấu khác, giết hại dần dần mọi khả năng của tâm hồn ta để không còn là “đền thờ” cho Thiên Chúa ngự trị, mà là sa mạc khô cằn và hoang vu cho tội lỗi hoành hành.
Hình ảnh Chúa Giê-su “vào miền Thập Tỉnh” cũng là một biểu tượng rất ý nghĩa. Thập Tỉnh coi như nằm ngoài miền Đất hứa, trong ảnh hưởng của dân ngoại. Như vậy vào miền Thập Tỉnh có nghĩa là Chúa Giê-su đi thẳng vào địa bàn hoạt động của ma quỷ, đối đầu với quyền năng của tội lỗi. Không vào hang cọp, sao bắt được cọp con. Chúa Giê-su muốn xông thẳng vào sào huyệt của ma quỷ, “trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó” (Mc 3:27). Người sẽ cướp lại những gì nó lấy đi khỏi Thiên Chúa và đem trở về cho Thiên Chúa. Người sẽ giải phóng nhân loại khỏi nanh vuốt của tội lỗi, đánh bại nó và đưa nhân loại đến sự sống đời đời.
Ngoài ra, hình ảnh Chúa kéo người bệnh ra khỏi đám đông để chữa lành anh ta cũng rất ý nghĩa. Anh ta cần phải rời khỏi đám đông để tiếp xúc riêng với Chúa. Mỗi cuộc chữa lành phải là cuộc gặp gỡ cá nhân giữa ta với Chúa. Ta phải tự mình cộng tác với quyền năng và tình yêu của Chúa để được chữa lành, chứ không thể nhờ người khác làm thay. Thử hỏi nếu ta muốn “xưng tội”, liệu ta có thể nhờ người khác đi xưng tội giùm ta không? Ta muốn sửa đổi một tính xấu hoặc tập tành một nhân đức, liệu ta có thể nhờ người quen làm giúp không? Chữa lành là cải thiện mối quan hệ giữa ta với Chúa. Chúa mở vòng tay yêu thương đón nhận ta, còn ta thì quyết tâm hướng về Chúa và quay lưng lại với tội lỗi. Nếu Chúa là “Đấng chữa lành” của ta, thì mọi bệnh tật tâm hồn của ta sẽ được Người tận diệt và làm cho ta thành người con khỏe mạnh của Thiên Chúa.
Sau cùng là việc Chúa cấm người ta kể chuyện chữa lành đó với người khác. Đây không phải là chuyện Chúa đề phòng cho bản thân Người, mà là đề phòng cho ta. Có lẽ ta quen với những cảnh người ta gắn những bảng “Tạ ơn”, “Merci”, treo nạng tại những nơi linh thánh họ nhận được phép lạ hoặc ơn lành của Chúa. Dĩ nhiên, việc này tốt lành và đáng khuyến khích. Nhưng vô hình chung, nhiều khi nó lại trở thành mốt quảng cáo, tệ hại hơn lại là những cách “làm tiền” khéo léo cho những công trình xây cất, những bảng ghi ơn đã là phương tiện tạo nên sự ganh đua để được tiếng! Ở đây, Chúa Giê-su không cần quảng cáo và người bệnh được chữa lành cũng không cần được nổi tiếng. Trái lại, anh ta vẫn phải tiếp tục gặp gỡ Chúa trong cuộc sống mới để mỗi ngày một phát triển đời sống nội tâm, nghe Chúa rõ hơn và sống Lời Chúa tích cực hơn. Nếu ta tích cực sống cuộc chữa lành Chúa đã thực hiện nơi ta, thì đó đã là một lời ngợi khen Chúa: “Người làm việc gì cũng tốt đẹp cả: Người làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được”. Kẻ điếc và kẻ câm ấy chính là ta chứ không phải ai khác đâu!
3. Ta là những kẻ nghèo khó được Chúa chọn để trở nên giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người (bài đọc Tân Ước – Gia-cô-bê 2:1-5)
Để nhắc nhớ thân phận của ta và lòng thương bao la của Thiên Chúa, thánh Tông đồ Gia-cô-bê không ngại gọi ta là “những kẻ nghèo khó trước mặt người đời”, nhưng ngài cũng khẩn khoản mời gọi ta hãy trở thành “những người giàu đức tin” giữa trần gian.
Sau khi ta được chữa lành khỏi những bệnh tật thiêng liêng, ta trở nên giàu có bằng cách lãnh nhận một sức sống mới, tăng thêm lòng tin vào Chúa và quyết tâm sống như Chúa đã dạy. Thực vậy, có giàu đức tin thì mới tràn ra ngoài, biểu hiện qua lối sống và cách cư xử của ta đối với anh chị em. Người giàu có của thế gian giữ cách “đối xử thiên tư” với những người họ tiếp xúc. Họ xum xoe với những người giàu có và danh tiếng, nhưng lại khinh khi và tàn ác với những người nghèo hèn. Trái lại, ta là Ki-tô hữu “nghèo khó” của cải tiền bạc trước mặt người đời, nhưng có trái tim của Chúa Giê-su, giàu lòng từ bi bác ái, nên ta đối xử với anh chị em theo trái tim, chứ không phải theo “áo quần lộng lẫy” bề ngoài của họ.
Chúa Giê-su mời gọi ta bước theo Người để chữa lành nhân loại và diệt trừ ảnh hưởng của tội lỗi. Người muốn ta cùng với Người “làm việc gì cũng tốt đẹp cả” để gây lợi ích cho anh chị em, cho cộng đoàn và xã hội ta đang sống. Nhưng trước hết ta cần phải xác tín “Thiên Chúa của ta ở đây rồi!” và phải “can đảm lên, đừng sợ!” (Is 35:4). Theo chân Chúa, ta tiến thẳng vào lãnh địa của tội lỗi và ma quỷ, để cùng với Người, ta giải phóng anh chị em khỏi sức mạnh và ảnh hưởng của ma quỷ. Lãnh địa ấy là chính tâm hồn ta, gia đình ta, xứ đạo của ta, sở làm của ta. Chữa lành là công việc đòi hỏi thời gian, can đảm và kiên nhẫn. Ta không thể một sáng một chiều hoàn tất được. Chính Chúa cũng chỉ dành ra ba năm để đặt nền móng cho kế hoạch cứu độ. Người để lại một phần công việc cho ta hoàn tất. Chữa lành chính mình và chữa lành anh chị em là việc ta phải cộng tác với Chúa, vì Người là nguyên lý chữa lành. Ta chữa lành chính mình bằng cách sống tinh thần sám hối và chữa lành anh chị em bằng cách đối xử theo “lòng tin vào Chúa Giê-su Ki-tô”. Đó là phương thức thánh Gia-cô-bê đã đề ra trong đoạn thư hôm nay.
4. Sống Lời Chúa
Sách Tin Mừng ghi lại một vài nét chính thuộc sứ vụ của Chúa Ki-tô, nhất là việc chữa lành. Việc chữa lành vừa nói lên thân phận của ta, vừa diễn tả lòng yêu thương của Thiên Chúa. Người muốn nhân loại được “thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người”. Nhưng để được như vậy, ta cần phải được chữa lảnh khỏi những bệnh tật tội lỗi đã gây nên trong tâm hồn ta. Chúa Giê-su được sai đến để thực hiện cuộc báo phục, loại trừ tội lỗi và ảnh hưởng của nó bằng cách giảng dạy và chữa lành. Điều ấy đòi hỏi ta phải lắng nghe Người và để cho Người chữa lành ta. Điều đó cũng đòi hỏi ta bước theo Chúa để cộng tác với Người mà chữa lành anh chị em.
Suy nghĩ: Tôi đối xử với anh chị em theo cách nào? Đối xử thiên tư giống như lối sống của người đời, hay đối xử theo lòng bác ái yêu thương của Ki-tô hữu? Tôi hãy xét mình trong cuộc sống hằng ngày, nhất là cách đối xử với anh chị em.
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng, nhờ Đức Ki-tô, Con Một Chúa, Chúa đã thương cứu chuộc chúng con và nhận làm nghĩa tử, xin lấy tình Cha mà âu yếm đoái nhìn: này chúng con là những kẻ tin kính Đức Ki-tô, xin cho chúng con được trở nên những người tự do đích thực và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 23 mùa Thường niên).
Đọc Tin Mừng, chúng ta cảm nghiệm sâu xa lòng nhân từ, thương xót của Chúa Giêsu. Ngài: TN 23-B90
Đọc Tin Mừng, chúng ta cảm nghiệm sâu xa lòng nhân từ, thương xót của Chúa Giêsu. Ngài đã làm nhiều phép lạ chữa lành các người bệnh hoạn tật nguyền. Phép lạ được ghi lại trong đoạn Tin Mừng của thánh Marcô 7, 31-37 nói về việc Chúa Giêsu chữa lành một người vừa câm vừa điếc. Việc chữa lành này của Chúa Giêsu không chỉ nói lên lòng thương xót của Ngài mà còn là dấu chỉ của thời cứu rỗi đã đến. Tất cả các ngôn sứ trong Cựu ước đều loan báo về thời Chúa đến, cứu vớt dân người. Ngôn sứ Isaia trong bài đọc I hôm nay đã cho thấy vào thời Chúa đến:” mắt người mù được thấy, tai người điếc được nghe, người què quặt sẽ nhảy nhót như nai và người câm sẽ nói được”.
PHÉP LẠ CHÚA GIÊSU LÀM CHO NGƯỜI CÂM VÀ ĐIẾC ĐƯỢC LÀNH:
Lưỡi và tai là hai cơ quan quan trọng của con người. Câm là bị trói buộc không nói được gì. Điếc không thể nghe được bất cứ điều gì. Người câm và điếc hầu như không hiểu ai mà cũng không ai có thể hiểu họ. Hai cơ quan lưỡi và tai quả thực là hai cơ năng rất cần thiết cho con người. Người câm không thể nói, nên cũng không thể diễn tả được những gì tốt đẹp. Còn người điếc không nghe được gì nên cũng chẳng hiểu người khác. Do đó, người vừa câm và vừa điếc mất đi sự hưng phấn và sinh động của cuộc đời. Người bị câm điếc như bị tách ra khỏi xã hội loài người. Đây là sự đau khổ lớn lao của người câm điếc. Chúa Giêsu hiểu thấu nỗi lòng của người câm điếc, Ngài chạnh lòng thương người câm điếc, nên hôm nay, Chúa Giêsu chữa lành người câm điếc. Tin Mừng ghi rõ:” Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người nguớc mắt lên trời, rên một tiếng mà nói: “ Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra ! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại “ ( Mac 7,33-35 ). Phép lạ Chúa Giêsu chữa cho anh câm điếc hôm nay không chỉ là việc chữa lành thân xác, mà còn là dấu chỉ của một thực tại cao sâu hơn: sự sống đích thực mà Chúa muốn mang lại cho con người. Khi đem lại khả năng nói và nghe cho người câm điếc, chúa Giêsu còn muốn gửi cho chúng ta một thông điệp sâu xa hơn: con người không chỉ sống nhờ cơm bánh mà còn do lời Thiên Chúa. Con người chỉ có thể sống đích thực là con cái Chúa khi họ biết mở tâm hồn đón nhận và sống lời của Chúa.
SỨ ĐIỆP PHÉP LẠ MUỐN NHẮM TỚI:
Đối với người Do Thái thời Chúa Giêsu, những người mắc bệnh hoạn, tật nguyền đều bị người Do Thái gán cho cái nhãn hiệu tội lỗi, đáng khinh, đáng ghét. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Ngài yêu thương mọi người không loại trừ bất cứ người nào cả. Chúa cứu độ và giải phóng những người tội lỗi không phải bằng những phép lạ xem ra thần kỳ, ngoạn mục, mà bằng mối quan tâm chữa lành và đem lại hạnh phúc cho họ. Khi chữa lành cho những con người bệnh hoạn, tật nguyền, Chúa Giêsu muốn khẳng định Ngài yêu thương mọi người, không loại trừ bất cứ ai và rằng những người bị loại bỏ, bị khinh bỉ, bị ruồng rẫy lại là những người được ưu tuyển, những người được quan tâm. Chúa đã đi tới cùng sự chọn lựa này ngang qua cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chính nơi thập giá của Chúa, tình yêu của Chúa được diễn tả một cách trọn hảo nhất. Chết mới nói lên tất cả, chết mới diễn tả hết tình yêu cao sâu của Người:” Khi Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta” hoặc” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Chúa muốn mọi người nhận ra Người là Đấng cứu độ mà muôn dân mong đợi trong chính cuộc thống khổ và cái chết mà Ngài sẽ trải qua. Thời cứu chuộc mà các ngôn sứ loan báo đã đến mang lại sự công bằng cho mọi người, sự an lành cho những con người nhỏ bé, thấp cổ bé họng, những người bị áp bức. Người ta phải sống trong tình yêu thương của Chúa và cộng đoàn yêu thương, cộng đoàn cứu chuộc phải là cộng đoàn hoạ lại hình ảnh của cộng đoàn tiên khởi ; bẻ bánh chung, tiền bạc để chung, của cải để chung vv…Tất cả đều xem nhau như anh em. Cộng đoàn này chắc chắn khác với cộng đoàn mà thánh Giacôbê trong bài đọc thứ 2 đã đề cập: sự chênh lệch giữa kẻ giầu, người nghèo. Thay vì coi nhau như anh em người ta coi người giầu có hơn người nghèo khó. Sự chênh lệch ấy sẽ còn mãi trong thế giới con người, liệu chúng ta có đi ngược dòng để có thể sống giáo huấn của Chúa hay ta cũng rơi vào vết xe cũ của muôn thời: “người giầu được kính nể, người nghèo bị khinh chê vv…”.
Khi chữa lành những người bị bệnh hoạn, Tin Mừng Marcô thường ghi lại Chúa Giêsu ngăn cấm những người đã được Ngài chữa lành không được nói với ai. Đây là bí mật Mêsia. Tuy nhiên, Chúa luôn chứng tỏ với mọi người Ngài là Đấng cứu độ, Đấng Mêsia mà mọi người mong đợi. Dấu chỉ lớn lao nhất là Ngài đã chịu thương khó, đã chết trên thập giá để cứu độ con người và đã sống lại vinh quang.
Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để chúng con câm điếc trước lời mời gọi của tha nhân. Amen.
Đoạn trích thư thánh Gia-cô-bê hôm nay tiếp tục đề tài thực hành Lời Chúa trong môi trường: TN 23-B91
Đoạn trích thư thánh Gia-cô-bê hôm nay tiếp tục đề tài thực hành Lời Chúa trong môi trường xã hội và cộng đoàn. Thánh Tông đồ đã trình bày vai trò của Lời Chúa đối với đời sống Ki-tô hữu. Đối với đời sống nội tâm cá nhân, mỗi Ki-tô hữu có bổn phận đón nhận Lời Chúa và để cho Lời Chúa giúp mình thêm lòng đạo đức và được tinh tuyền trước mặt Chúa. Trong đời sống cộng đoàn và xã hội, thực hành Lời Chúa đòi hỏi nơi Ki-tô hữu cách cư xử hoàn toàn ngược lại với cách cư xử của người đời và cách Ki-tô hữu nhìn nhận phẩm giá của người khác cũng phải theo cách thức của Thiên Chúa, Đấng nhìn thấu tâm can chứ không xét dáng vẻ bề ngoài. Nói khác đi, thánh Gia-cô-bê muốn đặc biệt nêu lên một áp dụng cụ thể sống Lời Chúa trong cách giao tế cộng đoàn, đó là “đừng đối xử thiên tư.” Thế nào là đối xử thiên tư và tại sao phải tránh thái độ này?
a) Anh em là Ki-tô hữu
Trước hết thánh Gia-cô-bê khẳng định chúng ta phải ý thức mình là Ki-tô hữu. “Anh em đã tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.” Ý thức này quan trọng, vì nó nhắc nhở chúng ta về căn tính đích thực của mình. Nếu chúng ta đã tin vào Đức Ki-tô thì chúng ta cũng phải chấp nhận tất cả con người, giáo lý và lối sống của Người. Chúng ta biết rõ lối sống và cách nhìn của Đức Ki-tô hoàn toàn đi ngược lại lối sống và cách nhìn của thế gian. Lời Người giảng dạy đã mặc khải cho chúng ta con đường Thiên Chúa muốn chúng ta “hãy yêu thương anh em như chính mình.” Lối cư xử của Đức Ki-tô là gương mẫu để chúng ta nhìn nhận phẩm giá của anh chị em. Người không đối xử thiên tư với bất cứ một ai (Mt 22:16). Đối với Đức Ki-tô, những người bị tước đoạt phẩm giá, bị gạt ra ngoài lề xã hội, lại là những người ưu tiên được Người tiếp nhận. Người không nhìn ông Da-kêu theo cái nhìn của đám đông, thiên kiến và khinh miệt. Người không quan sát bà góa nghèo bỏ tiền vào thùng tiền Đền Thờ theo tiếng kêu lẻng xẻng của những đồng tiền người giàu có. Người không cảm thấy bị quấy rầy do những nghịch ngợm tự nhiên của đám con nít, trái lại Người còn dạy chúng ta phải trở nên giống như trẻ em. Người vẫn tìm thấy nét cao quý của con người đằng sau lớp da bệnh hoạn ghẻ lở của những người phong cùi. Người quở trách người môn đệ yêu quý là Phê-rô khi ông xét đoán theo tư tưởng của thế gian... Chính vì lối cư xử của Đức Ki-tô với mọi người như anh chị em con cùng một “Cha trên trời” ấy nên chúng ta cần phải luôn ý thức mình là những người tin vào Đức Ki-tô, nghĩa là cũng sẵn sàng noi theo lối cư xử của Người để sống niềm tin của chúng ta.
b) “Không đối xử thiên tư” trong đời sống cộng đoàn
Thánh Gia-cô-bê là con người thực tế. Ngài dùng thí dụ cụ thể để nói về vấn đề “không đối xử thiên tư.” Giữa sinh hoạt cộng đoàn, có lẽ chúng ta đã gặp thí dụ ngài đưa ra. Cứ tưởng tượng trong khung cảnh một cuộc họp của cộng đoàn, có hai người bước vào cùng lúc hoặc hai lúc khác nhau, một người giàu có sang trọng và một người nghèo hèn rách rưới. Cộng đoàn xun xoe tiếp đón người giàu và tỏ ra coi thường người nghèo hèn. Nếu chúng ta thuộc cộng đoàn như vậy, thì quả thực chúng ta đã “tỏ ra kỳ thị” và là những người xét đoán “đầy tà tâm” rồi! Kỳ thị và đầy thành kiến không phải chỉ gặp thấy ngoài xã hội hôm nay, nhưng chúng có mặt ngay giữa cộng đoàn Ki-tô hữu, một cộng đoàn quy tụ mọi người không phân biệt màu da, ngôn ngữ, chủng tộc. Chúng len lỏi vào ngay cả đời sống Giáo Hội, phân cách miền Bắc với miền Nam, nhóm này với nhóm kia trong giáo xứ. Đặc biệt trong cộng đoàn căn bản của Giáo Hội là giáo xứ, ranh giới giữa người giàu với người nghèo, kẻ sang trọng với kẻ tầm thường vẫn là mầm mống gây nên biết bao thiệt hại cho đời sống của giáo xứ. Nhiều khi người nghèo phàn nàn: cha chỉ tới thăm mấy người giàu thôi. Hoặc người giàu cũng lẩm bẩm: cha coi tụi tôi như lũ lạc đà chui qua lỗ kim vậy. Đó là đối xử “thiên tư” của linh mục. Cũng có thật nhiều cách đối xử thiên tư của người giáo dân. Kỳ thị biểu lộ bằng im lặng không thèm chào hỏi, hoặc làm như vẻ thân thiện trước mặt nhưng nói xấu rỉ tai với người khác. Có lẽ những đối xử thiên tư thường thấy hơn cả là cách thức phán đoán quá vội vàng và lên án.
c) Nghèo của cải nhưng giàu đức tin
Tuy đưa ra chứng lý bênh vực cho người nghèo, nhưng thánh Gia-cô-bê muốn trở lại chủ đề sống đức tin và đề cao sự cần thiết của đức tin. Điều khiến chúng ta phải suy nghĩ là tại sao Chúa lại chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời? Thánh Gia-cô-bê trả lời: là “để họ trở nên giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người.” Đúng vậy. thường những kẻ giàu có hay cậy trông vào của cải và coi đó là thước đo giá trị của mình. Họ dừng lại ở của cải tiền bạc và đâu cần Thiên Chúa nữa. Trái lại, người nghèo hèn còn gì khác để tin cậy ngoài Chúa ra. Cho nên Kinh Thánh thường ca tụng những người nghèo hèn biết đặt tin tưởng vào Chúa và gọi họ là anawim, tức là những “người nghèo của Gia-vê.” Đức Ma-ri-a là mẫu “người nghèo của Gia-vê” trong Tân Ước.
Trái với người giàu có, người nghèo hèn không lấy của cải làm cứu cánh cuộc đời. Đối với họ, của cải là những gì chóng qua. Nhưng cứu cánh đích thực của cuộc đời phải là được “thừa hưởng vương quốc” Chúa ban cho những ai yêu mến Người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Thái độ của tôi đối với người nghèo cần phải xét lại không? Phải xét lại như thế nào cho đúng với những gì thánh Gia-cô-bê dạy?
Suy niệm về lối cư xử của Chúa Giê-su đối với người nghèo và bị xã hội khinh khi dạy tôi điều gì? Tôi cần phải chiêm ngưỡng Chúa Giê-su như thế nào để lối sống của Người thực sự ảnh hưởng trên lối sống của tôi?
Trong cộng đoàn, nơi làm việc, tôi đang có thành kiến với những người nào nhiều nhất? Tôi phải làm gì để gột bỏ được những thành kiến ấy? Tôi có một vài quyết định cụ thể nào giiúp tôi thay đổi được cái nhìn tiêu cực về những người ấy?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc lời nguyện sau:
Lạy Chúa Giê-su, dân làng Nazareth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối, trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. A-men.
Thức đêm mới biết đêm dài, Ở lâu mới biết lòng người có nhân. Nếu Chúa Giêsu không xuống trần: TN 23-B92
Thức đêm mới biết đêm dài,
Ở lâu mới biết lòng người có nhân.
Nếu Chúa Giêsu không xuống trần gian, làm người, có lẽ sự hiểu biết về Thiên Chúa của con người sẽ rất mơ hồ; và tình cảm con người dành cho Thiên Chúa, cũng rất nhạt nhòa, xa cách. Chú ý lắng nghe những lời Ngài nói, và để tâm quan sát thái độ và cách sống của Ngài, hẳn người ta có thể hiểu được rất tường tận “cái bụng” của Thiên Chúa là thế nào. Câu chuyện Chúa chữa cho một người vừa câm vừa điếc hôm nay, cũng cho ta thấy được “cái bụng” của Chúa. Thiên Chúa luôn lo lắng cho hạnh phúc con người. Vì thế, Ngài luôn dành tình thương nhân ái, cho những người đau khổ, bệnh tật.
Có một người bị câm và điếc được đưa đến. Cử chỉ đầu tiên của Ngài là đặt tay trên anh ta. Đấy là một hành động đầy tính tâm lý. Người đau khổ, luôn cảm thấy cô đơn. Họ cần lắm, một bàn tay nồng ấm, và gặp gỡ. Với người câm điếc càng đúng hơn. Vì người câm, là người không thể thông giao với người khác; không thể chuyển tải cho người khác, tình cảm và những ý nghĩ của mình. Bên cạnh đó, tình cảm cũng như những ý tưởng của người khác, cũng không thể đến với họ được, vì họ bị điếc. Nói thế, là người bị câm và điếc, là kẻ cô đơn tột cùng, vì họ bị rơi vào trong một ốc đảo. Bàn tay Chúa chạm vào, một sự sống khác đến với người ấy, và người ấy cảm thấy được yên ủi, vì mình còn là một con người đang được yêu. Rồi Chúa dẫn riêng anh ra một nơi. Ngước mắt lên trời, thở dài và nói: Epheta. Hãy mở ra. Không hẳn, Ngài chỉ có ý truyền lệnh cho miệng anh ta mở ra, Ngài còn có ý nói: Cả trái tim và tâm trí anh ta cũng hãy mở ra. Hãy mở tất cả ra, để ca tụng Thiên Chúa. Không mở tâm trí và trái tim ra, thì làm sao có thể mở lớn môi miệng mà ca tụng Thiên Chúa được. Hãy mở ra, để biết nói yêu thương với người khác; để biết nói những lời chân lý, để biết nói những lời xây dựng.
Hãy mở ra; những lời ấy vừa được vang lên, thì không chỉ miệng anh nói được, mà cả hai tai anh cũng mở ra. Tai anh mở ra, để có thể nghe được những lời dạy của Thiên Chúa, để có thể nghe được những lời bảo ban của cha mẹ, cũng như nghe được những lời than thở thống thiết của những người khổ đau nghèo túng. Từ giờ phút này, anh đã là một người bình thường. Nghĩa là có thể nghe và nói được. Anh quay trở về cuộc sống, bước đi, nhưng vẫn không thể nào quên lời Chúa bảo anh: Hãy mở ra.
Câu hỏi:
1- Bạn đã sử dụng môi miệng của bạn, để nói những gì?
2- Tai của bạn, thường được để nghe điều gì nhiều: Lời Chúa, hay những lời vớ vẩn, tầm phào?
Qua việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm và điếc, chúng ta cùng suy nghĩ về việc sử dụng TN 23-B93
Qua việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm và điếc, chúng ta cùng suy nghĩ về việc sử dụng đôi tai và miệng lưỡi của mình.
Trước hết là đôi tai. Chúa đã ban cho chúng ta đôi tai để nghe, nhất là nghe những lời cha mẹ thầy cô và những người có trách nhiệm giáo dục chúng ta, để rồi chúng ta sẽ đem ra thực hành những lời khuyên nhủ đó, hầu trở thành những người hữu ích. Hơn thế nữa, chúng ta còn phải lắng nghe lời Chúa qua việc học hỏi Phúc Âm, qua việc tìm hiểu giáo lý, để sống xứng đáng người con ngoan của Chúa. Thế nhưng tội lỗi cũng thường hay đột nhập vào tâm hồn chúng ta qua đôi tai của mình. Bởi vì có những đôi tai đóng lại không muốn nghe những lời khuyên bảo và khiển trách, thế nhưng lại mở ra để lắng nghe những câu chuyện nhảm nhí do những người bạn xấu thổi vào. Vậy chúng ta thử xét xem mình có như thế hay không?
Tiếp đến là miệng lưỡi. Chúa đã ban cho chúng ta miệng lưỡi để chúng ta thân thưa với Chúa, để cùng với gia đình, chúng ta dâng lên Chúa những lời kinh ban tối và ban sáng, để chúng ta hát những bài thánh ca chúc tụng Chúa, để chúng ta xưng thú tội lỗi nơi toà cáo giải, để chúng ta luôn có những lời nói ôn tồn và thành thực đối với người khác. Trên môi miệng chúng ta phải luôn có những lời lẽ lịch sự, chẳng hạn như hai chữ: Cám ơn. Miệng lưỡi của chúng ta không phải chỉ mở ra đón nhận của ăn phần xác mà còn mở ra để đón nhận của ăn phần hồn, đó là rước lấy Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Ước chi chúng ta sử dụng miệng lưỡi chúng ta như thế.
Ngày xưa ở vùng Bretagne, có một em nhỏ đạo đức và thánh thiện. Em chưa biết đọc biết viết nhưng lại rất yêu mến Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Trong một ngày, nhiều lần em đọc lên lời kinh Ave Maria, kinh Kính Mừng. Ít lâu sau em bị bệnh và chết, nhưng rồi trên mộ em, có một loại huệ mọc lên. Và trên mỗi cánh huệ người ta đều thấy có hai chữa Ave. Người ta từ khắp nơi đến kính viếng và sau cùng đã xây một ngôi thánh đường kính Đức Mẹ trên phần mộ của em nhỏ.
Thế nhưng miệng lưỡi cũng chính là con đường dẫn tới tội lỗi. Thực vậy, có những miệng lưỡi tham ăn tục uống, lúc nào cũng nghĩ đến cái ăn được, lúc nào cũng đòi phần to hơn, tốt hơn và ngon hơn, nếu không được thì vùng vằng và phụng phịu. Chính vì thế chúng ta phải biết làm chủ miệng lưỡi của mình như một câu danh ngôn đã bảo: Người ta ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn, hay như thánh Phaolô đã cảnh cao: Đừng lấy cái bụng của mình làm chúa. Ngoài ra còn có những miệng lưỡi điêu ngoa, xảo trá và gian dối, không tôn trọng sự thật, luôn tìm cách lừa đảo người khác, nói những lời đầy ác ý, hạ nhục uy tín của người khác và tạo nên sự chia rẽ, hay nói những lời tục tĩu làm hoen ố tâm hồn trong trắng của mình. Đồng thời có những cái miệng cái lưỡi bị câm, không biết cầu nguyện và thân thưa cùng Chúa, Không biết nói lời bênh vực đức tin, không biết can ngăn người khác trước những ý đồ đen tối của họ.
Hãy cầu xin Chúa mở tai chúng ta để biết lắng nghe lời Chúa, cũng như mở miệng chúng ta để biết nói về Chúa cho những người chung quanh.
Tám thế kỷ về trước, tiên tri Isaia đã loan báo một thời đại mới, khi Đấng cứu thế đến, Ngài sẽ TN-B94 Lượng
Tám thế kỷ về trước, tiên tri Isaia đã loan báo một thời đại mới, khi Đấng cứu thế đến, Ngài sẽ canh tân và đổi mới. Sẽ không còn đui mù, câm điếc, bệnh tật. Và phép lạ hôm nay chứng minh thời gian cứu độ đã đến, và Đức Kitô chính là Đấng giải phóng thiên hạ đợi trông, bởi vì Ngài đã thực hiện lời tiên tri Isaia: Cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được và người què quặt được nhảy như nai.
Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ chữa lành những tật bệnh phần xác, điều quan trọng là Ngài chữa lành những tật bệnh phần hồn. Ngày hôm nay, qua Giáo Hội Ngài vẫn tiếp tục mở mắt mở tai cho một nhân loại câm điếc đối với lời Chúa, đối với Tin Mừng Phúc Âm.
Chúa Giêsu đem người câm điếc ra một nơi và Ngài chữa lành cho anh ta. Với chúng ta, Ngài cũng chăm sóc đến mọi người như thế, Ngài lo lắng cho mọi người như người mẹ lo lắng cho con mình. Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời chúng ta trong bàn tay quyền năng và đầy tình thương xót của Ngài. Đồng thời chúng ta hãy kêu cầu Ngài: Lạy Chúa, xin mở miệng con để con không nói lời vu khống, phạm thượng, nhưng để ca ngợi Thiên Chúa và xây dựng tình bác ái huynh đệ.
Ngày xưa, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, vị linh mục đã diễn lại động tác của Chúa, khi ngài đặt tay trên tai và trên miệng chúng ta rồi bảo: Ephata, nghĩa là hãy mở ra, để chúng ta biết lắng nghe lời Chúa và biết tuyên xưng những kỳ công của Ngài. Khi lãnh nhận bí tích Thêm Sức, Chúa Thánh Thần tăng cười nghị lực để chúng ta có đủ can đảm làm chứng cho đức tin.
Thế nhưng chúng ta đã sử dụng miệng lưỡi chúng ta như thế nào? Một giáo dân đã phải đau khổ thốt lên: Có những người cho đến cuối đời đã chẳng mở miệng nói về Chúa Giêsu cho một ai, ngay cả cho những người muốn tìm hiểu về Ngài. Chúng ta đã thua những người quảng cáo hàng hoá trên vỉa hè thành phố và những em bé bán báo, cũng như những người cổ động cho một nhân vật chính trị hay một thiên đàng trần thế.
Chúng ta hãy có can đảm như Bazin, một tiểu thuyết gia, trong một bài diễn văn đọc giữa hàn lâm nước Pháp, đã long trọng tuyên xưng đức tin của mình như sau: Với triệu triệu sinh linh, tôi sung sướng và tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa.
Tuy nhiên trước khi nói với người khác về Chúa, thì trong âm thầm chúng ta phải biết lắng nghe tiếng Chúa, qua những giây phút tâm sự và cầu nguyện, vì chúng ta chỉ có thể cho cái chúng ta đã có, chúng ta chỉ có thể nói về những cái chúng ta đã biết và đã kinh nghiệm. Chính vì thế mà Đức Thánh Cha Phaolô VI đã tuyên bố: Nếu không có một đời sống cầu nguyện sâu xa, làm sao người công giáo, giữa muôn vàn tiếng nói ô hợp của thế giới, có thể lớn tiếng ca ngợi Thiên Chúa, làm cho mọi người phải xao xuyến và được cứu rỗi. Và hơn nữa, thế giới đang mong đợi nơi chúng ta một thứ ngôn ngữ được diễn tả bằng hành động, tức là một đời sống trong sạch và ngay thẳng, một đời sống đạo đức và thánh thiện, một đời sống bác ái và yêu thương.
Bởi vì đời sống gương mẫu của chúng ta cũng chính là một tiếng nói hùng hồn nhất để giới thiệu Đức Kitô cho những người chung quanh.
Sứ vụ giảng dậy của tiên tri Isaia tại Giêrusalem vào khoảng năm 742-701 trước Công Nguyên, TN 23-B95
Sứ vụ giảng dậy của tiên tri Isaia tại Giêrusalem vào khoảng năm 742-701 trước Công Nguyên, dưới thời các vua Giuđêa là Uzziah, Jotham, Ahaz và Hezekiah. Isaia đã nói tiên tri về Đấng sẽ đến và giải thoát con dân khỏi sự cùng khổ. Một niềm hy vọng bừng sáng lên cho những ai biết đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35, 4). Tiên tri đã loan báo ơn cứu độ sẽ đến như suối nước chảy vào nơi đồng vắng, tràn ngập vào hoang địa khô cằn và lòng người hoan hỉ được chữa khỏi bệnh hoạn tật nguyền. Họ sẽ được nghe loan báo tin mừng giải thoát khỏi sầu khổ, tội lỗi và sự ràng buộc của ma quỷ.
Isaia nhìn thấy những khổ đau chất chồng trong đời sống của cộng đồng và cá nhân. Những hoang mang xao xuyến, lo lắng sầu muộn và những khiếm khuyết của cá nhân như mù, què và câm điếc. Thiên Chúa sẽ quan tâm chữa lành cho từng người: Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được (Is 35, 5). Những khuyết tật của con người như những cửa ngõ để lãnh nhận lòng thương xót của Chúa. Chúng ta thường không lo lắng chi, khi đang sống an vui khỏe mạnh. Chỉ lúc đau yếu, bệnh hoạn, khiếm khuyết, chúng ta mới cảm nhận được những ân phước may mắn đã lãnh nhận. Khi đau yếu bệnh hoạn chúng ta mới trân qúi sức khỏe. Khi mắt mờ hay mù lòa mới nhận ra hồng ân ánh sáng. Khi tai bị nghễnh ngãng hay câm điếc mới tiếc nuối âm thanh giao tiếp.
Đấng Cứu Thế đến mang lại niềm vui mừng và hy vọng chan hòa cho mọi người đang lữ hành trong đêm tối thế trần. Bài phúc âm hôm nay kể câu truyện Chúa Giêsu chữa người câm điếc bằng cách đặt ngón tay vào tai và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn Ngài cầu nguyện và bảo “hãy mở ra”, tức thì tai anh ta mở ra và lưỡi nói được. Hành động của Chúa Giêsu xem ra thật dễ dàng. Chúa không cần đến thuốc thang và thời gian chữa lành. Với ý muốn, Chúa dùng quyền năng biến đổi và chữa lành ngay lập tức. Đây là phép lạ. Ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã loan báo từ xưa là Người sẽ đến mở miệng người câm và mở tai người điếc. Chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu có thể chữa lành qua ý muốn, cử chỉ, hành động của Ngài và nhờ qua chính đức tin của bệnh nhân.
Bất cứ một sự khiếm khuyết nào trong thân xác cũng gây nỗi phiền muộn ám ảnh cả tinh thần lẫn thể xác. Nếu chúng ta có dịp vào các Trung Tâm Khuyết Tật, chúng ta sẽ nhìn thấy có muôn vàn chứng bệnh khác nhau. Tất cả mọi thứ khuyết tật đều có thể xảy ra nơi thân xác con người. Có những người dị tật, người mù, kẻ đui, người điếc, kẻ thiếu tay, người thiếu chân, tứ chi bất thường, đa số khi sinh ra họ đã mang thân phận như thế. Đạo Phật gọi là Nghiệp. Chúng ta xem đây như là số phận đã an bài. Hầu như những khiếm khuyết tự bẩm sinh rất khó có thể chữa lành. Khoa học kỹ thuật có thể can thiệp để chữa lành một phần qua các cuộc giải phẫu. Cách tốt nhất mà khoa học có thể giúp là sáng chế những dụng cụ thích hợp để những người bị dị tật hay khiếm khuyết có thể tự xử dụng để bước vào đời.
Những người bị khuyết tật rất cần sự giúp đỡ và thông cảm của những người chung quanh. Họ không thể di chuyển nhanh, không nhìn thấy cảnh vật xung quanh, không nghe thấy âm thanh tiếng nói và không thể giãi bày tư tưởng cảm thông. Họ bị đóng kín, bị giới hạn và bị thiệt thòi đủ thứ. Nhiều người khuyết tật và tàn tật đã phải đi xin ăn hay sống tựa dựa vào lòng bác ái của người khác hay các cơ quan từ thiện. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều anh chị em dù bị khiếm khuyết nhưng đã phấn đấu vượt lên trên số mệnh. Nhiều người đã thành công để tự đứng trên chính đôi chân của mình. Trong khi có rất nhiều người lành lạnh, có khả năng, có tiền bạc và có sức khỏe nhưng lại lười biếng và lạm dụng ăn bám vào xã hội.
Tôi có quen biết một ông bị mù cả hai mắt mà rất linh hoạt trong cộng đoàn. Ông đã làm việc nhiều hơn những người bình thường. Để có tiền tiêu pha trong gia đình và giúp đỡ việc bác ái, ông làm nghề nấu rượu. Ông tự làm men, nấu cơm, ủ cơm lên men, nấu rượu và pha chế rượu. Ông còn chế rượu ngâm thuốc bắc và các loại rượu bóp dẹo để bán và để tặng. Đôi khi ông ấy còn làm đồ nhắm rất tuyệt vời đãi bạn bè với rượu đế và thịt nai đồng quê nữa. Có những người bị sút lưng, trật gân hay trẹo tay chân đều tìm đến ông để được xoa bóp và chữa trị. Tuy không nhìn thấy nhưng đôi tay và đôi tai rất bén nhậy. Ông rất nhiệt tình trong việc nuôi dưỡng ơn gọi linh mục như giúp đỡ tiền bạc và nhận đỡ đầu các chủng sinh. Lập hội bác ái giúp người nghèo khổ, phong cùi và các trẻ mồ côi ở Việt Nam. Không quản ngại mưa nắng và gió tuyết lạnh lẽo, ông trung thành trong việc đưa rước tượng Đức Mẹ Maria tới từng gia đình trong cộng đoàn quanh năm suốt tháng. Được biết trong thời gian mới nhập cư tại Hoa Kỳ, ông là người cộng tác đắc lực của linh mục quản nhiệm, là cố vấn và là giáo lý viên đặc biệt dạy tất cả các lớp giáo lý cho các em từ lớp vỡ lòng, xưng tội, rước lễ lần đầu, Thêm Sức, Tân tòng và cả Hôn Phối. Nghĩ rằng ít có ai chạy theo cho kịp những sinh hoạt và nhân đức tốt lành của ông. Nay ông đã về yên nghỉ bên Chúa.
Chúa Giêsu thương yêu và cảm thông những khiếm khuyết của họ. Bất cứ người tàn tật nào đến van xin, Chúa đều chữa lành. Dân chúng đã nhận ra dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa đang ở giữa họ: Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.” (Mc 7, 37). Qua sự chữa lành phần xác, Chúa đưa dẫn họ đến sự chữa lành tâm hồn. Đây là mùa hồng ân, Đấng Cứu Thế xuất hiện rao giảng và làm các phép lạ chỉ trong vòng thời gian rất ngắn. Chúa không xuống thế chỉ để làm phép lạ hóa bánh nuôi dân hay chữa lành các loại bệnh hoạn tật nguyền, nhưng Chúa đến mang tin vui giải thoát. Giải thoát tâm hồn con người khỏi những ràng buộc của sự dữ và tội lỗi. Chúa mở con đường cứu độ qua sự đau khổ, sự tha thứ và yêu thương. Tất cả những khổ đau ở đời là những nấc thang đưa dẫn chúng ta đến gần Chúa hơn. Chấp nhận đau khổ như những thánh giá vác mang đi theo Chúa:Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được (Lc 14, 27).
Thánh Giacôbê khuyên dạy chúng ta đừng thiên vị khi xét xử anh chị em. Chúng ta thường chú ý và đánh giá người khác qua diện mạo bề ngoài. Điều này dễ bị lầm lẫn: Anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: “Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này”, còn với người nghèo, anh em lại nói: “Đứng đó! “ hoặc: “Ngồi dưới bệ chân tôi đây! (Giac 2, 3).Con mắt phàm trần dễ đưa đến những phán đoán sai lạc. Có những sự việc xảy ra ngay trước mắt nhưng chúng ta cũng chẳng nhận ra. Không phải chúng ta có mắt sáng là có thể nhìn biết mọi sự. Chỉ có con mắt tâm linh mới nhìn thấy thấu tỏ và quán chiếu mọi sự. Kho tàng cao qúy của con người nằm ở trong tâm. Chúa Giêsu chữa lành mắt cho người mù, khi được sáng mắt cả thể xác và tâm hồn, anh đã nhận biết Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa mở mắt tâm hồn để chúng con được nhìn, được nghe và được biết rõ hơn. Cho chúng con biết cảm thông những nỗi bất hạnh, những đớn đau và những muộn phiền của những anh chị em chung quanh. Chúng con dâng lời cảm tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một thân xác đầy đủ vẹn toàn. Xin cho chúng con biết dùng tất cả ngũ quan và các khả năng đặc thù để phục vụ Chúa và anh chi em. Chúng con xin phó thác cuộc đời trong tay Chúa, xin Chúa chúc lành và giải thoát chúng con. ------------------------------
Trong Thánh Thư gửi giáo đoàn hôm nay, Thánh Giacôbê mời gọi tín hữu kiểm xét lại cách đối xử TN 23-B96
Trong Thánh Thư gửi giáo đoàn hôm nay, Thánh Giacôbê mời gọi tín hữu kiểm xét lại cách đối xử với anh em. Ngài viết: “Anh em là những người tin vào Đức Kitô vinh hiển thì anh em đừng thiên vị ai”. Người ta có cảm tưởng rằng Thánh Tông đồ đã dự một cuộc họp cộng đoàn, đã mục kích những sự kiện xảy ra và buộc lòng phải lên tiếng. Người ta hay đặt vấn đề giai cấp, trọng người giàu, coi thường kẻ nghèo, miệng hô hào tình huynh đệ bình đẳng, nhưng cách cư xử lại phân chia giai cấp.
“Anh em xét xử thiên vị và trở nên những quan xét đầy tà tâm”. Không phải tiền của, sự giàu sang hay nghèo hèn làm nên giá trị của con người, nhưng là đức tin, nghĩa là sự chấp nhận và đặt để Thiên Chúa vào trong đời mình. Người giàu hay trở nên bần tiện và người nghèo thường hay cởi mở, biết chia sẻ với người khác và “trở nên giàu có và được hưởng Nước Trời”.
Thánh Marcô là vị ngôn sứ duy nhất đã thuật lại việc Chúa chữa lành một người câm và điếc. Những chi tiết rõ rệt và thú vị làm liên tưởng đến Phêrô người đã chứng kiến phép lạ tại chỗ, và đã kể cho đồ đệ chép lại. Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđan, đến gần biển Galilê giữa miền thập tỉnh. Người ta dẫn đến một người câm và điếc. Chúa đã chữa lành.
Câm và điếc là một tật bệnh gây đau khổ nhiều, vì nạn nhân bị cắt đứt mọi đối thoại với kẻ khác và sống một mình lẻ loi. Chúa tỏ ra thông cảm và yêu mến anh, nêu gương cho Giáo hội lập nên những tổ chức bác ái để trợ giúp hạng người xấu số đó, như các nhà gọi là “Nhà Effata” (Hãy mở ra), danh xưng trích từ đoạn Phúc Âm này.
Chúa đã làm gì? Phúc Âm nói: Ngài đem anh ra khỏi đám đông. Vì Ngài không muốn dân chúng coi việc người làm có tính cách phù thủy. Phép lạ là do quyền năng của Chúa thực hiện, thật ra không cần đến sự việc bên ngoài, mà do tình thương của Chúa, như trong phép lạ Chúa chữa người đàn bà loạn huyết. Ở đây, Chúa dùng nhiều tác động bên ngoài, để làm nên phép lạ, như đặt ngón tay vào tai, bôi nước miếng vào lưỡi và phán: “Ephpheta”, nghĩa là “hãy mở ra”, tức thì tai anh mở ra, lưỡi anh được tháo gỡ và nói được.
Phải chăng những tác động và lời nói ấy tiên báo các phép bí tích mà một ngày xưa kia Chúa sẽ thiết lập trong Giáo hội, để thông chuyển sự sống ơn thánh. Chúa sẽ dùng chất liệu bên ngoài như nước, dầu, bánh, rượu, hiệp với lời thánh hóa để ban sự sống thiêng liêng cho chúng ta.
Phép lạ Chúa làm cũng là một bài học cho môn đệ. Người môn đệ Chúa phải là người cởi mở, vừa đón nhận vừa thông chuyển Lời Chúa. Phải mở tai để nghe Lời Chúa và mở miệng để tuyên xưng đức tin, như nhà Tiên tri Isaia từng nói: “Đức Giavê đã cho tôi lưỡi của môn sinh, để tôi biết nâng đỡ người cùng khổ. Và sáng sáng, Người lay tỉnh tai tôi cho tôi biết nghe như những môn sinh” (Isaia 50, 4).
Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta ơn đức tin, ngày chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội. Chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội. Chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với một người bạn chí thiết. Xin Chúa hãy đặt lên câu “Epphata –Hãy mở ra”, trên con để con được nghe, được suy niệm, được biết công bố Lời Chúa. Giáo hội tiên khởi đã đặt nghi thức vào lễ rửa tội.
Hồi ấy, Hiêrônimô (342-420) là một văn hào lỗi lạc về văn chương cổ điển và không biết gì mấy về Thiên Chúa. Người say mê đọc các tác phẩm của Cicéron. Một hôm, người nghe tiếng Chúa hỏi:
- Hiêrônimô, con là môn đệ của ai? - Thưa con là môn đệ của Chúa. - Không phải, con là môn đệ của Cicéron!
Từ đó, Hiêrônimô giác ngộ và quyết chí học hỏi Lời Chúa. Ngài được ơn Epphata. Ngài qua thánh địa vào ẩn tu trong hang đá Bêlem để phiên dịch Thánh Kinh, để suy niệm Lời Chúa, sống trong khung cảnh Chúa đã sống. Ngài đã nói: “Ai không hiểu biết Thánh Kinh là không biết Chúa Giêsu”. Bản dịch Vulgate (phổ thông) của ngài đã được Công đồng Triđentinô (thế kỷ XVI) nhìn nhận là phù hợp với đức tin và được coi là bản dịch chính thức của Giáo hội.
“Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời” (Ga. 1, 14 – Đáp ca).
Bài giảng của Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, cha giảng Phủ giáo hoàng, về những bài đọc phụng vụ Chúa Nhật 23 Thường Niên năm B tuần này như sau:
Đoạn Tin Mừng nhắc chúng ta về một sự chữa lành đẹp do Chúa Giêsu thực hiện. "Và người ta đem một TN 23-B97
Đoạn Tin Mừng nhắc chúng ta về một sự chữa lành đẹp do Chúa Giêsu thực hiện.
"Và người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Epphatha", (nghĩa là "Hãy mở ra!"), và lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết buộc lại, anh ta nói được rõ ràng" (Mc 7,32-35).
Chúa Giêsu không làm phép lạ như có người vung chiếc đũa thần hay lả bật ngón tay. Tiếng rên thoát ra từ miệng Người lúc Người rờ tới tai người điếc nói với chúng ta rằng Người đồng hóa với sự đau khổ người ta, Người chia sẻ mãnh liệt trong sự rủi ro của họ, đã thành gánh nặng của Người.
Trong một dịp, sau khi Chúa Giêsu đã chữa nhiều người bịnh, tác giả tin mừng bình luận: "Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta" (Mt 8,17).
Những phép lạ của Chúa Giêsu không bao giờ tự nó là cùng đích, chúng là những dấu. Điều Chúa Giêsu ngày trước đã làm cho một người trên bình diện thể lý, chỉ điều Người muốn làm hằng ngày cho mọi người trên bình diện thiêng liêng.
Người Chúa Giêsu chữa lành đã điếc và ngọng, anh ta không thể thông truyền với những kẻ khác, nghe tiếng nói của anh và bày tỏ những cảm giác và nhu cầu của anh. .Nếu bịnh điếc và ngọng không có khả năng thông truyền đầy đủ với người thân cận mình, để có những tường quan tốt đẹp, thì chúng ta phải hiểu ngay rằng tất cả chúng ta bị điếc và ngọng nhiều hay ít, và đó là lý do Chúa Giêsu rên với tất cả chúng ta tiếng: Epphatha, Hãy mở ra!
Sự khác biệt là bịnh điếc thể lý không tùy thuộc vào cá nhân và người đó hoàn toàn không đáng trách, đang khi bịnh điếc luân lý thì đáng trách.
Ngày nay người ta tránh dùng từ ngữ "điếc" và chúng ta chuộng hơn cách nói "khuyết tật thính giác," chính là để phân biệt sự kiện đơn thuần không nghe nói về sự điếc luân lý.
Chúng ta điếc, xin đan cử ví dụ, khi chúng ta không nghe tiếng kêu cứu với chúng ta và chúng ta thích đặt giữa chúng ta và người thân cận "hai thứ nước men" sự dửng dưng. Cha mẹ điếc khi không hiểu rằng những thái độ kỳ dị và rối loạn của con cái dấu một tiếng kêu xin chú ý và yêu thương.
Một người chồng điếc khi ông không thể thấy trong sự nhút nhát sợ hãi của vợ mình dấu chỉ sự kiệt sức hay sự cần có một sự làm sáng tỏ. Và cũng một sự kiện đó áp dụng cho người vợ.
Chúng ta điếc khi chúng ta khép kín mình, vì kiêu hãnh, trong một sự yên lặng lãnh đạm và đầy phẫn nộ, đang khi có lẽ với chỉ một tiếng xin lỗi hay tha thứ chúng ta co thể mang lại bình an và an toàn cho nhà cửa.
Chúng ta những tu sĩ nam và nữ có những thời gian thinh lặng trong ngày, và thỉnh thoảng chúng ta cáo mình khi xưng tội: "Con đã phá vỡ sự thinh lặng." Tôi tưởng thỉnh thoảng chúng ta phải cáo mình về điều ngược lại và nói: "Con đã không phá vỡ sự thinh lặng."
Điều quyết định chất lượng sự truyền thông, dầu sao, không phải chỉ nói hay không nói, nhưng làm như vậy hay không làm như vậy vì tình yêu. Thánh Augustine nói với dân chúng trong một phát biểu: Không thể biết trong mọi hoàn cảnh phải làm gì: nói hay thinh lặng, sửa chữa hay là buông xuôi.
Đây là một luật đúng đúng cho mọi trường hợp: "Hãy yêu và hãy làm gì anh muốn." Hãy quan tâm có tình yêu trong con tim lúc đó, nếu anh nói, là do tình yêu, nếu anh thinh lặng là do tình yêu, và mọi sự sẽ nên tốt đẹp bởi vì duy chỉ sự lành đến từ tình yêu.
Kinh Thánh giúp chúng ta hiểu nơi nào bắt đầu sự phá vỡ truyền thông, nơi nào sự khó khăn của chúng ta phát sinh để thông cảm với nhau một cách lành mạnh và tốt đẹp. Khi Adam và Eva ở trong những quan hệ tốt với Thiên Chúa, sự liên hệ giũa hai ông bà cũng tốt đẹp và sung sướng: "Đó là thịt bởi thịt tôi." Tương quan của ông bà với Thiên chúa vửa gián đoạn. vì sự bất phục tùng, thì bắt đầu những sự cáo tội lẫn nhau: "Tại ông ấy, tại bà ấy..."
Chính từ đó mà người ta phải bắt đầu trở lại. Chúa Giêsu đến để "hoà giải chúng ta với Thiên Chúa" và như vậy hoà giải chúng ta với nhau. Người làm như vậy hơn hết qua các bí tích. Giáo Hội đã luôn thấy trong những cử chỉ xem ra kỳ dị mà Chúa Giêsu đã làm với kẻ điếc-ngọng (Người đặt ngón tay trong tai anh và động tới lưỡi anh) một biểu trượng của các bí tích nhờ vậy mà Người tiếp tục "rờ" chúng ta phần xác hầu chữa lành chúng ta phần thiêng liêng.
Đó là lý do tại sao trong bí tích rửa tội thừa tác viên thực hiện những cử chỉ trên một người được rửa tội như Chúa Giêsu đã làm trên người điếc-ngọng: Thừa tác viên ấy đặt ngón tay mình vào tai anh và rờ tới đầu lưỡi anh, lập lại lời Chúa Giêsu: "Ephphatha, Hãy mở ra!"
Bí tích Thánh Thể cách riêng giúp chúng ta chiến thắng sự bất lực thông truyền với người thân cận chúng ta, làm cho chúng ta kinh nghiệm sự hiệp thông kỳ diệu nhất với Thiên Chúa.
Nhớ lại tâm tình của một số người Do Thái khi họ đặt vấn đề với Chúa Giêsu về dấu lạ. Họ đòi Chúa TN 23-B98
Nhớ lại tâm tình của một số người Do Thái khi họ đặt vấn đề với Chúa Giêsu về dấu lạ. Họ đòi Chúa Giêsu làm dấu lạ thì họ mới tin.
Cũng hay đó chứ! Đó là quyền tự do của họ, quyền tự do của mỗi người khi đối diện với Thiên Chúa. Với bản thân tôi, đơn giản, mỗi ngày được thở, mở mắt ra sống với Chúa một ngày mới nữa đó là dấu lạ rồi.
Nhiều và nhiều dấu lạ xung quanh Chúa đã làm cho con người, đã làm cho chúng ta là dấu lạ nhưng chuyện quan trọng là chúng ta không nhận ra.
Một lần kia, lang thang ở trong Viện Tim với một cha đang điều trị. Ngồi trước phòng thay băng, hai bà mẹ bế hai đứa con khoảng 5 tuổi ngồi chờ thông tin về con mình. Đang lúc đó, hỏi thăm thì tôi nghe hai bà nói là 2 đứa bị tim và phải tốn cả vài trăm triệu để phẫu thuật cho hai đứa này.
Nghe xong giật thót cả người. Mình mà bị như hai đứa nhỏ này thôi thì cũng mệt.
Đâu cần nghĩ đâu xa, ngay người anh em vừa phải qua lần phẫu thuật vừa rồi đã là phát khiếp. Một vết mổ thật dài ngay trước ngực! Tạ ơn Chúa là ca mổ thành công và người anh em đang bình phục. Nếu tôi bị như thế không biết tôi sẽ ra sao vì sức khỏe không khá mấy và rất nhát những chuyện dao kéo.
Đó là tim, còn nhiều bộ phận khác trong cơ thể con người. Chi thể nào, bộ phận nào con người cũng cần cả. Chỉ cần khiếm khuyết một cái thôi thì ta sẽ thấy đời ta bao là rắc rối.
Nhớ đến những em bị câm điếc khi có thời gian sống chung với các em. Thật khổ sở, muốn nói cái gì thì phải dùng cái ngôn ngữ riêng của những em khiếm thính. May chăng học được vài từ của chúng để hiểu những cái sinh hoạt thường ngày chứ đâu biết hơn. Với chính bản thân chúng thì quả là khổ sở, để diễn tả tình cảm, tâm tư cho người khác các em phải vận dụng ngôn ngữ của các em, chỉ có thế giới của những người khiếm thính mới hiểu được với nhau.
Và, thử đặt trong trường hợp chúng ta khiếm thính chúng ta sẽ cảm nhận gì?
Dĩ nhiên, thoạt đầu thì cha mẹ và người thân phải tìm đến sự trợ giúp của y khoa cũng như bằng mọi cách hỗ trợ để cho người khiếm thính hội nhập với mọi người. Cuối cùng không làm được gì thì đành phải cho em học ở trường khiếm thính.
Ngày hôm nay, trong hành trình đi rao giảng Tin Mừng của mình, người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Chúa Giêsu và xin Chúa Giêsu đặt tay trên người câm điếc ấy. Chúa Giêsu đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: “Effetha!” (nghĩa là “Hãy mở ra!”), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng.
Sau đó, Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Chúa Giêsu càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!”
Dĩ nhiên, sứ mạng của Chúa Giêsu đến trong cuộc đời này là Ngài băng bó những tâm hồn tan vỡ, Ngài chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền … và chuyện quan trọng nhất đó là cứu độ con người.
Tâm tình đó, lời loan báo đó chúng ta vừa được nghe ngôn sứ Isaia nói: Các ngươi hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi.
Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước.
Vâng! Thiên Chúa đến mang lại bình an, mang lại hạnh phúc, mang lại ơn cứu độ cho con người.
Trong cuộc sống thường ngày, Thiên Chúa vẫn yêu thương, vẫn chở che mỗi người bằng tình yêu thương của Ngài. Thế nhưng, đáng tiếc thay con người đã không nhận ra tình yêu thương đó mà đôi khi cáu gắt, hận thù, hơn thua, ganh tỵ nhau.
Chúng ta vừa nghe tâm tình của Thánh Phaolô: Anh em thân mến, anh em là những người tin vào Đức Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị. Giả sử trong lúc anh em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, mình mặc áo sang trọng; lại cũng có người nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn, nếu anh em chăm chú nhìn người mặc áo rực rỡ mà nói: “Xin mời ông ngồi chỗ danh dự này”. Còn với người nghèo khó thì anh em lại nói rằng: “Còn anh, anh đứng đó”, hoặc: “Anh hãy ngồi dưới bệ chân tôi”.
Đó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em và trở nên những quan xét đầy tà tâm đó sao?
Anh em thân mến, xin hãy nghe: Không phải Thiên Chúa chọn người nghèo trước mắt thế gian, để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến Người đó sao?
Thánh Phaolô nhắc nhớ chúng ta về tâm tình khiêm hạ. Nhiều lần nhiều lúc chúng ta đã coi thường những người nghèo, những người thấp bé hơn chúng ta.
Thật ra, Chúa ban cho chúng ta quá nhiều ơn huệ nhưng chúng ta đã không nhận ra những ân huệ đó để rồi chúng ta cứ than vãn, chúng ta cứ ganh đua nhau.
Ngay cả bản thân chúng ta, như ông bà thường nói nhìn lên chúng ta không bằng ai nhưng nhìn xuống chúng ta hạnh phúc hơn quá nhiều người.
Tại sao chúng ta không nhận ra diễm phúc, ân sủng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta để chúng ta cao rao tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời của chúng ta.
Chúng ta hãy bắt chước anh chàng câm điếc hôm nay để cao rao tình yêu Thiên Chúa trên cuộc đời của chúng ta.
Theo Hiến Chế Mặc Khải của công đồng Vaticano II, Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa nói với TN 23-B99
Theo Hiến Chế Mặc Khải của công đồng Vaticano II, Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa nói với loài người để mặc khải cho họ về chính Thiên Chúa, về tình thương, sự an bài săn sóc, ý định và chương trình cứu độ của Người. (Dei Verbum 25). Đề cập đến Kinh Thánh, thánh Augustinô đã không tiếc lời nói: “Thánh Kinh là bức thư tình mà Thiên Chúa gửi cho chúng ta là bạn hữu của Người” (Augustino, Enarr in Ps 90).
Đúng như thế, Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia (35, 4-7a), hôm nay thật đẹp biết bao, vì nó chứa đầy những dòng chữ yêu thương của Thiên Chúa đối với Dân Ngài. Trong lúc dân Israel đang bị giam cầm, khó lòng thoát khỏi. Họ đã bị quân Babylon đánh bại nặng nề. Họ bị cướp bóc và lôi ra khỏi nhà. Họ phải sống trong thân phận tù đày nơi đất kẻ thù địch. Nhà cửa và thành trì của họ bị tàn phá. Đền thờ bị phá đổ tan hoang. Thời huy hoàng không còn nữa. Họ phải sống cảnh lưu đày, tương lai mù mịt. Không ai có sức cứu họ thoát khỏi cảnh khổ cực này. Và nếu họ có thoát được cảnh lưu đày, thì làm sao có thể vượt qua được sa mạc khô cằn để về nước. Và nếu họ có thể chạy thoát về đất nước của họ thì ở đó không còn gì nữa.
Đang lúc lối tận, đường cùng, quẫn bách như thế, những lời lẽ dịu dàng của Thiên Chúa phán qua miệng Isaia, lời của Thiên Chúa tình thương đầy an ủi, như tiếp thêm nghị lực cho Dân Chúa đang bị xao xuyến trong cảnh lưu đày: “Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các người đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các người” (Is 35, 4).
Tại sao ngôn sứ Isaia phải khuyến khích họ Can đảm lên, đừng sợ? Có lẽ họ đang sợ hãi khủng khiếp. Tại sao ngôn sứ lại nói đến nước chảy lên trong sa mạc, suối chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn thành hồ ao, và hoang địa sẽ trở nên suối nước? Có lẽ dân chúng đang bị hạn hán chăng? Tại sao ngôn sứ lại dùng hình ảnh người mù sáng mắt, tai người điếc sẽ mở ra, và người què quặt nhảy nhót như nai? Nếu không phải vì dân chúng đang gặp lúc khó khăn không nhìn, không nghe, không lê bước được (x. Is 35, 4-7).
Thật ủi an biết bao, bởi dân Chúa cảm thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, mình là đối tượng của lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa. Lòng thương xót ấy nay thể hiện cụ thể nơi lời nói cũng như việc làm của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người.
Tin Mừng Marcô hôm nay thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu “làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được” (Mc 7, 37), giúp chúng ta suy ngẫm về tình yêu và lòng từ bi của Thiên Chúa thể hiện qua việc chữa lành của một “câm điếc” (Mc 7,32).
“Effatà”, có nghĩa là “hãy mở ra” (Mc 7,34). Chúa Giêsu đang đi qua vùng “Thập tỉnh”, giữa Tiro, Sidone và vùng Galilea, vùng đất của dân ngoại. Người ta đem đến cho Chúa một người câm điếc, để Người chữa cho anh, hiển nhiên là danh tiếng Chúa Giêsu đã được đồn thổi cho tới đây. “Effatà - Hãy mở ra” (Mc 7,34). Chúa Giêsu đem anh riêng ra một chỗ, đụng vào tai và lưỡi anh, rồi ngước mắt nhin trời Người thở một hơi sâu, anh câm điếc ấy bắt đầu nghe và nói sõi sàng (x. Mc 7, 35). Thật tốt đẹp biết bao việc Chúa làm. Khởi đầu công trình sáng tạo, sau khi hoàn tất công trình sáng tạo vũ trụ: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người làm: đều tốt đẹp” (St 1, 31). Nay thời Thiên Sai, thời Đấng Cứu Thế đến thực hiện công trình cứu chuộc và sự sáng tạo mới, Tin Mừng cũng nói cùng một cách: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!” (Mc 7, 37) Chúa đã làm cho anh “mở ra”.
“Effatà - Hãy mở ra” (Mc 7,34). Từ việc chữa lành đối với anh câm điếc là một sự “mở ra” cho người khác và cho thế giới, một sự mở ra khởi đầu với các cơ quan nghe Lời Chúa và ca tụng những kỳ công công Thiên Chúa cũng như lòng thương xót của Ngài. Chúa đã làm người để cho con người bị câm điếc bên trong do tội lỗi có khả năng lắng nghe tiếng của Thiên Chúa, tiếng của Tình Yêu nói với con tim, và như thế học nói thứ ngôn ngữ của tình yêu, và thông truyền với Thiên Chúa và với các người khác về công trình tốt đẹp Chúa đã làm.
Chắc chắn, tự bản chất của nó, ngọn lửa không thể tỏa hơi âm, và không thể phát sinh khí lạnh; mặt trời chiếu tỏa ánh sáng, và đương nhiên không thể là nguyên nhận của bóng tối được. Tương tự như thế, Thiên Chúa chỉ có thể làm ra những điều tốt lành bởi vì Ngài là Đấng vô biên tốt lành, là ánh sáng. Ngài là Mặt Trời công chính chiếu tỏa ánh sáng rạng ngời, là lửa hồng tỏa hơi ấm vô biên: “Người làm mọi sự tốt đẹp” (Mc 7,37).
Theo sách Sáng Thế, thì Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành, và Tin Mừng cũng thuật lại: Chúa Giêsu làm mọi sự tốt đẹp (x. Mc 7, 37). Nhưng làm những điều tốt lành không chỉ đơn giản là để làm cho chúng tốt. Nhiều người, thực sự, làm những điều tốt đẹp mà không làm chúng tốt, bọn giả hình chẳng hạn, họ là những người làm những điều tốt đẹp, nhưng trong một tinh thần xấu với một ý định gian tà. Thiên Chúa, Ngài đã tạo dựng tất cả đều tốt lành và làm cho chúng trở nên tốt. “Chúa chỉ là trong tất cả các cách của mình, tín hữu trong tất cả mọi thứ anh ấy làm” (Tv 144, 17)... Và nếu Thiên Chúa biết rằng chúng ta tìm thấy niềm vui của mình nơi những điều tốt đẹp Chúa đã làm, thì Thiên Chúa vui biết mấy.
Xin với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Ngôi Lời nhập thể, Mẹ đã luôn luôn “mở ra” cho tình yêu của Chúa, và trái tim Mẹ liên lỉ lắng nghe Lời Chúa, với lòng từ mẫu giúp chúng ta là con cái Mẹ hàng biết “effatà” mỗi ngày để ca tụng những điều tốt đẹp kỳ diệu Chúa đã làm và nhất là sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân. Amen.
Con người ta thì tai mắt mũi miệng đều là quan trọng và rất cần thiết để giao tiếp với Chúa và với TN23-B100
Con người ta thì tai mắt mũi miệng đều là quan trọng và rất cần thiết để giao tiếp với Chúa và với cộng đồng con người với nhau.
Thế mà trong Tin Mừng nói anh chàng này bị “tịt” đôi tai và miệng lưỡi nên thật đáng thương.
Vì thương anh quá, họ (người ta) đã dẫn anh “vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su, và xin Người đặt tay trên anh”.
Thật tốt lành và may mắn cho anh vì anh đã gặp gỡ được Đức Giêsu và“Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói:
“Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra ! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng”.
Ôh ! thật tội nghiệp chúng tôi quá ! Chúng tôi tai điếc, mắt mù, mồm câm, mũi tịt… nhưng nào chúng tôi có biết mình bị tình trạng bệnh tật như thế đâu.
Chúng tôi lại cứ ung dung, ngẩng mặt cao đầu tự hào tự đắc ta đây “ngon lành” cơ đấy !
Chuyện tâm linh mà mấy ai dễ biết được.
Thực ra, bình thường chúng tôi nghĩ rằng mình đạo đức hơn cả ngàn người…nhưng nếu ai hỏi rằng:
Tương quan thân mật giữa bạn và Chúa HIỆN NAY thế nào?
Nếu tôi ặt cổ ra: đó là là dấu hiệu CÂM ĐIẾC TÂM LINH.
Những người bên ngoài, họ biết được tình trạng của chúng tôi và họ có đến chia sẻ và khuyên chúng tôi đến gặp Đức Giêsu để được chữa lành nhưng chúng tôi chẳng chịu vì chúng tôi đang sống êm đềm yên ổn trong lủi thủi quá quen rồi nên nếu phải lôi ra Ánh Sáng chói lóa thì chúng tôi hổng dám đâu !
Những ai đã liều mạng một phen lầm lũi một mình đến gặp Đức Giêsu (Thánh Thể) sẽ có kinh nghiệm là đúng thật
“Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”.
Chính Người tách riêng ra khỏi đám đông ồn ào náo nhiệt bận bịu công việc mỗi ngày để ở với Người và rồi Người chữa lành “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra ! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng”.
Niềm vui lớn lao không thể kiềm chế được nên khi “Đức Giê-su truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra”.
Càng cấm càng nói nhưng tại sao lại cấm nhỉ ?
Một trong những lý do là vì họ “trưng bảng quảng cáo” sai chính sách đường lối của… Những phép lạ chữa lành đi kèm theo lời rao giảng cũng chỉ là khơi lên ơn Cứu Độ loài người, một Thiên Chúa đã có mặt ở trần gian với lòng thương yêu lớn hơn tất cả những chuyện khác…
Nguy hại nhất là họ lại cứ hô ầm vang lên thầy lang chữa bệnh tài giỏi có một không hai, bà con ơi kéo nhau đến mà chữa bệnh chỉ bằng ngón tay và nước bọt là xong ngay.
Nhưng hãy hoán cải vì Nước Trời đã đến gần. Nước Trời đã đến gần là Nước Trời đã đến rồi, con người có đón nhận không thôi và ai cũng biết cách đón nhận thật dễ dàng rồi. Không thích cách (cầu nguyện) đón nhận thì Nước Trời cũng bó tay chấm cơm nhá.
Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được”.
Vâng, một Thiên Chúa đã đến ở với con người, Ngài liên lụy với con người trong niềm vui nỗi khổ của từng lịch sử đời người.
Từ khởi thiên lập địa (Sách Sáng Thế, Thiên Chúa sáng tạo trời đất: “Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp”) cho đến hôm nay, Thiên Chúa làm việc gì cũng tốt đẹp cả, có làm gì xấu cho ai đâu ?
Có xấu thì chỉ vì phía con người đeo cặp kính râm rồi “gán” (đổ tội) cho Thiên Chúa.
Ngài phải gánh lấy những hậu quả xấu mà chính con người gây ra hay luật thiên nhiên đã ấn định.
Do đó, hoán cải là thay đổi não trạng tức là con người thôi đừng nghĩ xấu cho Chúa nữa.
Câm và điếc thể xác đã là quá khốn khổ rồi huống lọ là câm và điếc đức tin tâm linh còn kinh khủng biết bao.
Thân xác còn sống thì ai cũng biết nhưng đức tin, tâm linh chết từ thuở nào rồi mà chẳng ai biết,
ngay đương sự cũng chẳng biết…
Mỗi người nên biết dùng sự khôn ngoan Chúa ban,
đến gần Chúa mỗi ngày để Chúa mở tai mở mắt mở miệng mở huyệt đức tin tâm linh.
Ngài sẽ đặt ngón tay vào lỗ tai, xức nước bọt vào miệng cho sống lại từ cuộc sống hôm nay trên đời tạm này.