Phúc Âm: Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23: “Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: “Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?” Người đáp: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người’. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.
Và Người lại gọi dân chúng mà bảo rằng: “Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế”. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Đối với Maccô, nơi chốn luôn có một giá trị biểu tượng Giêrusalem là nơi chống đối Đức Giêsu. Qua mười một chương đầu của Tin Mừng trong suốt phần đầu của sứ vụ Đức Giêsu, mỗi lần kể tên thành phố này là nhắc đến sự chống đối: Chính từ Giêrusalem, Thủ đô chính trị và tôn giáo này, đã xuất phát mọi cuộc công kích đầy ác ý. Chính nơi đó, những nhà hữu trách của đất nước sau này sẽ kết án tử hình Chúa, và giao nộp Chúa cho dân ngoại.
Lạy Chúa, đây là mầu nhiệm việc loài Người ruồng bỏ Chúa. Và theo đó, Giêrusalem cũng tượng trưng cho toàn thế giới.
Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng.
Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ sinh, mà là tập tục tôn giáo về "sạch" và "nhơ", được ghi thành luật của Môsê trong sách Lêvi (11), được thêm vào nhiều chi tiết và quy định qua truyền thống. Người Pharisêu đã thành lập một thứ đảng phái tôn giáo mà chúng ta có thể lầm lẫn nếu tự động xem họ như những người giả hình. Ngược lại, để trung thành với lề luật tổ tiên, họ tuân giữ kỹ lưỡng từng chi tiết truyền thống: Họ đã kê ra hơn 600 giới răn phải tuân giữ! Để tìm hiểu sự thánh thiện và thể hiện tình yêu tinh tế đối với Chúa, lúc nào trong ngày họ cũng nghĩ về Chúa, dù phải làm đủ thứ việc.
Vậy, người Pharisêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?”.
Có nhiều cách giải thích cho thái độ này:
1) Môn đệ của Đức Giêsu và chính Đức Giêsu, là những người xứ Galilê, những người thuộc tỉnh lẻ, dù vẫn là những tín hữu sốt sắng, nhưng đã cho chen vào tục lệ chung một vài truyền thống địa phương bị những người "trong sạch" ở Giêrusalem coi như những thái độ buông thả. Chúng ta biết rằng Đức Giêsu thường bênh vực những người bị đăt ra "ngoài lề", những người bị khinh chê: Đó là loại người tội lỗi thu thuế, gái điếm. Đức Giêsu đã bày tỏ quan điểm mạnh mẽ về lòng xót thương và độ lượng với những kẻ hèn mọn, nghèo khổ... nghịch lại thái độ xét đoán khắt khe của Giêrusalem. Còn chúng ta thì sao?
2) Nhưng có một lý do khác, có lẽ quyết định hơn: Đó là Đức Giêsu có một đường hướng sâu sắc về "tính phổ quát”. Người huấn luyện dần dần các môn đệ để thành thừa sai trong những quốc gia có văn hóa khác với môi trường Do Thái cổ truyền: Những khuôn khổ chật hẹp và rất cá biệt của đạo Do Thái cần phải bung ra, để chỉ còn giữ những điều cốt yếu, nhằm cho người ngoại giáo có thiện chí, không có những tục lệ về ăn uống như người Do Thái, có thể đón nhận đức tin.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết phân biệt những gì là cốt yếu trong sứ điệp của Chúa với những gì là tục lệ cổ truyền của những thế kỷ trước, thường làm cho những người thuộc thời đại chúng con chán ngán một cách vô lý. Lạy Chúa, sống giữa thời đại biến đổi văn hóa này, xin cho chúng con nhận biết những gì là bất di bất dịch và những gì phải thay đổi, để cho hậu thế không bị nhũng lại trước đức tin, chỉ vì chúng con quá ràng buộc họ vào những "tập tục người xưa".
3) Nhưng lát nữa, Đức Giêsu còn đưa ra một lý do thứ ba cho thái độ mới mà Người đề cao: Đó là những "tục lệ” không phải do Chúa, mà phát sinh từ con người của những thời trước. Vậy, những tập tục này cần phải tùy thuộc vào sự tiến hóa.
Người trả lời họ: "Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”
Câu trả lời của Chúa thật là mạnh mẽ. Người bắt đầu tấn công. Người dựa trên Kinh thánh để trả lời cho những kẻ tấn công môn đệ của Người (Is 29,13). Các ngôn sứ cũng thường lên án thứ tôn giáo duy hình thức đó. Đối với Thiên Chúa, không phải những cử chỉ bên ngoài là quan trọng, mà là "tấm lòng". Thờ phượng chỉ để thờ phượng, thì không có giá trị. Việc phụng tự phải nói lên những xác tín sâu xa.
Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: "Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ:
Đức Giêsu kêu gọi, cần phải hiểu biết và suy tư. Không cần phải lặp lại những cử chỉ hay tập tục, chỉ vì người ta đã làm như vậy từ lâu.
Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.
Trong Do Thái giáo, luật về sự thanh sạch theo nghi thức có nhiều ảnh hưởng đối với chế độ ăn uống: Cấm ăn thịt một số động vật, chẳng hạn theo sách Lêvi 11. thì bất cứ thịt nào cũng là dơ bẩn, hay những con thú không bị cắt tiết (Lc 17,10-14). Những quy định này làm cho sự đồng bàn đồng tịch giữa người Do Thái và không phải Do Thái không thể nào thực hiện được, nếu không chấp nhận theo tục lệ người Do Thái. Đó là một thứ rào cản để bảo vệ Người Do Thái không được tiếp cận với thế giới ngoại đạo. Còn Đức Giêsu thì tuyên bố: "Tất cả các thức ăn đều thanh sạch" (Mc 7,19). Quan điểm này lúc bấy giờ có vẻ cực kỳ lạ lùng, táo bạo, và phóng khoáng. Như ngày nay chúng ta vẫn thường nói. Chúng ta biết rằng, trong Giáo Hội sơ khai, vấn đề này chưa được giải quyết (Cv 10,15).
Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu:
Yếu tố làm cho con người ra nhơ bẩn thực sự, không phải cái người ta ăn, mà là điều người ta nghĩ. Sự nhơ bẩn không nằm trong vật chất bên ngoài của một hành vi nào đó mà là trong lòng chúng ta? ở đây, Đức Giêsu đưa vào luân lý một nguyên tắc hết sức cốt yếu, nhưng không được tâm tri người thời nay áp dụng thực sự: Có những kiêng kỵ vẫn còn tồn tại, là rất trái ngược với Tin Mừng. Hai hướng tinh thần giáo phái "Cathare" vẫn tồn tại. Giáo phái này lên án thân xác và vật chất. Nhưng Kitô hữu đầu tiên hẳn là đã phải chiến đấu chống lại Ngộ đạo thuyết và thuyết "Ma-nét" là nhưng chủ thuyết khinh bỉ phái tính: “Tất cả những gì Chúa đã dựng nên đều là tốt và không có gì là độc hại nếu ta đón nhận những điều đó trong thái độ tạ ơn".
Thánh Phaolô đã nói như vậy (1Tm 4,4). Chúng ta cần ghi nhận rằng, Đức Giêsu không vì thế mà cố biện minh cho chứ quan thuyết có lẽ sẽ làm mất bản chất tư tưởng của Chúa, nếu hiểu những lời này như là một sự biện minh cho chủ trương "tự do phong tục": Nghĩa là mỗi người có quyền làm những gì theo tiếng nói con tim! Đức Giêsu không loại tự ý niệm về "điều xấu”. Người xác định vị trí điều xấu đó ngay bên trong con người, trong sự thiếu tình thương. Đó là nguyên tắc căn bản của mọi thứ đạo đức mọi nền luân lý không phải sơ đẳng: Chỉ cần làm một cử chỉ nào là tự động phạm một tội thì chưa đủ. Cái xấu không phải ở trong sự vật, nó ở bên trong chúng ta. Vâng, tâm hồn chúng ta là nguồn phát sinh ra thứ nước ô nhiễm do lòng ích kỷ hãy nước trong sạch do tình yêu của chúng ta. Do đó chúng ta không thể xét đoán Người anh em theo bề ngoài, vì chúng ta không thấy được tâm hồn người ấy, lương tâm người ấy.
Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.
Đây là danh mục duy nhất về tội lỗi mà Chúa Kitô đã cho chúng ta biết, ngang qua đời sống của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Tất cả những tội lỗi này liên quan đến tình yêu, đến tha nhân. Đức Giêsu kể ra 4 nhóm mỗi nhóm 3 tật xấu. Trong tiếng Hy Lạp 6 tật xấu đầu tiên được nói theo số nhiều và 6 tật xấu sau được nói theo số ít. Điều đó chỉ nhằm giúp dễ đọc để dễ thuộc lòng. Vậy thì có 12 tội: Con số của sự sung mãn. Tất cả đều ở đấy. Chúng ta phải thương yêu. Chúng ta sẽ bị xét đoán dựa theo tình yêu và tấm lòng của chúng ta (Mt 25).
Rất có thể con người ngày nay không thích kể ra những tật xấu. Thời đại của chúng ta đã đánh mất quá lớn ý thức về một điều cốt yếu trong mọi nền văn minh cổ đại: Đó là vẻ đẹp của đức tính và cái xấu của tội lỗi. Chúng ta cần lưu ý rằng, luân lý của Đức Giêsu là một thứ luân lý phổ quát biết bao! Đức Giêsu biết rõ lòng người. Đó là luân lý căn bản tự nhiên nhất mà Đức Giêsu đặt lại thành giá trị vượt lên trên những tập tục riêng của một nền văn minh. Không có một tục lệ quốc gia nào, một tập truyền tổ tiên nào có thể đi ngược lại những luật căn bản này mà mọi người đều phải công nhận trong thâm tâm của mình .
Hỡi người anh em, không nên lướt đọc quá nhanh danh mục trên, như nó không liên quan gì đến bạn. Bạn hãy tự hỏi sự tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, kiêu ngạo, ngông cuồng đã mang một hình thức rõ rệt nào, hay đội lốt gì đối với bạn?
Lạy Chúa, xin hãy thanh tẩy chúng con và giúp chúng con được gần Chúa hơn.
Câu châm ngôn (maschal) về trong sạch của Chúa Giêsu (bây giờ được phát biểu dưới hình thức đối thoại) ở 7,15 chắc chắn thuộc về tình trạng cổ xưa nhất của truyền thống bản văn. Ngay cả những phê bình khắt khe nhất về truyền thống Nhất lãm cũng không phủ nhận việc gán cho Chúa Giêsu lời này. Nếu cất bớt đi khỏi câu văn một vài thêm thắt về sau, người ta sẽ được một châm ngôn dễ dàng dịch lại sang Aram ngữ và có nhiều đặc tính của văn chương Do thái cổ xưa, như đối ngẫu, vận ép với nhưng lối chơi chữ và một tiết điệu rõ rệt:
"Không gì ở ngoài con người có thể làm cho nó ra nhơ uế”. Nhưng chính cái xuất tự con người là cái làm cho uó ra nhơ uế.
a/ Các yếu tố.
Người ta có thể hiểu phần sau của châm ngôn, như Mc 7,19b đã mạnh dạn tả chân, là nói về phần dơ uế theo nghĩa của sách luật (x. Đnl 23,13-15); nhưng nửa phần đầu thì nói ngược lại sách Luật là sách vốn nhận có nhiều vật "nhơ bẩn" và vì vậy "gây dơ uế" (x. Lv 11-15). Hai mối tương quan khác nhau đó với sách Luật làm nổi bật hai nghĩa của châm ngôn và đó là một sự hàm hồ đánh động thính giả.
"Bên trong" và "bên ngoài" con người là những hạn từ không những liên hệ tới những đồ ăn đưa từ ngoài vào trong, mà còn nói lên hai lãnh vực khác nhau của con người: lĩnh vực ngoại biên và lãnh vực trung tâm, trung tâm của ngôi vị và "ngoại biên" của con người. Chính trung tâm ngôi vị, theo ngôn ngữ Kinh Thánh: cõi lòng, là cái mà câu châm ngôn nhắm tới, như lời giải thích nó (c.21) và văn mạch tổng quát (c 6) nhấn ngạnh. Ngay trong phần đầu của châm ngôn: "Không có gì ở ngoài người ta có thể làm cho người ta ra nhơ uế, đã nói đến lòng, nói đến trung tâm của con người cách mặc nhiên. Con người không thể bị bên ngoài, ví dụ như đồ ăn "dơ bẩn", làm cho hoen ố được. Nhận xét đó của nữa đầu châm ngôn (maschal) đưa ra câu hỏi sẽ được phần sau giải đáp: nỗi đe dọa của sự dơ bẩn thật sự đè nặng trên con người chỗ nào?
b/ Tầm mức, ý nghĩa
Vấn đề "trong sạch" và "dơ bẩn", một vấn đề đã từng đóng vai trò quan trọng trong các tương quan giữa người Do thái với nhau và trong việc họ tách biệt với “chư dân", không thể tiên thiên gạt đi bằng lối phân biệt (thông thường đối với chúng ta) giữa phạm vi tế tự và phạm vi luân lý. Ý niệm dơ bẩn không chỉ xuất phát từ một phê phán nông cạn và từ một tiên triển của Luật sau này, nhưng còn diễn tả một kinh nghiệm hiện sinh về cái chết, truyền lại từ xưa và không ngang tái tục. Lãnh vực của "trong sạch" thiết yếu là lãnh vực của sự sống (phụng tự diễn tả điều này một cách rất đặc biệt), lãnh vực của "dơ bẩn" là lãnh vực của sự chết (được diễn tả qua phụng tự ngoài dân).
Những quy định về trong sạch của sách Tora, đặc biệt áp dụng cho các tư tế trong việc thi hành phận vụ, ngoài ra đã được hiểu một cách duy luật và được nới rộng thêm do lòng đạo đức của Biệt phái, nhưng ý niệm dơ bẩn tự nó không vì thế mà bị xem là phi lý trong Do thái giáo (như có lẽ đối với lương dân hy lạp). Thành ra lời của Chúa Giêsu, được truyền thống lưu giữ (c.15), không phải là một bác luận thuần lý hay duy lý chống lại ý niệm dơ bẩn như truyền thống cũng đã hiểu sớm. Sự thay đổi quan niệm mà Chúa Giêsu tìm cách gây nên nơi các thính giả nhờ câu châm ngôn của người có tính chất cách mạng hơn, vì nó nằm trên bình diện những ý tưởng thịnh hành lúc ấy. Chúa Giêsu không tuyên cáo, Người không theo phe ủng hộ cái bên trong chống lại cái bên ngoài (cõi lòng vẫn được coi như ổ của sự ác!) cũng chẳng có ý đương đầu với lề luật Giao ước cũ.
Qua câu nói uy nghi, Chúa Giêsu kêu mời con người thoát khỏi tình trạng xấu xa của mình để hối cải, chứ không phải để nỗ lực tri thức. Câu "khó hiểu” của Chúa Giêsu thật là dễ hiểu; nó không đòi hỏi nhiều kiến thức, nhưng đòi hỏi một sự hoán cải tận căn: "Công việc này không lớn lao, nhưng gây nhiều hậu kết. Chúa Giêsu cho rằng quyền lực chết chóc của sự dữ - "dơ bẩn" - đè nặng trên con người, và Người cho thấy sự đe dọa của nó phát xuất từ đâu. Nó không chạm tới con người từ bên ngoài do của ăn, nhưng tấn công bên trong con người, và chính từ đó nó tung ra các cuộc tấn công của nó. Lời Chúa Giêsu tập trung ảnh hưởng của sự dơ bẩn trên cái bên trong, trên cõi lòng, trung tâm của mọi quyết định: Như thế, một phần lớn, mà đã không bao giờ bị bỏ quên, của các quan niệm Cựu ước về dơ bẩn nhận được một giá trị tuyệt đối. Sự dơ bẩn đích thực, duy nhất là sự dơ bẩn mà con người mắc phải khi tự do chọn lựa sự ác" (W.Paschen, Rein und Unrein. Eine wortgeschichtlicho Untorsuchung der Vorstellungen im biblischon Hobraisch und ihres Fortlebons in Qumran und in der ro de Jesu, Wurzburg, 1969, tr.275t).
Qua lời nói uy nghi ấy, Chúa Giêsu cho con người một sự tự do lạ lùng; theo ý Chúa Giêsu, tự do đó phải ý thức về trách nhiệm mình trước mặt Thiên Chúa và trước mặt mọi người. Được khỏi mọi thiệt hại do những vật bên ngoài như miếng ăn v.v..., nó càng không có quyền phát xuất ra cái gây dơ bẩn, cái gây tại hại chết chóc cho mọi người; nếu làm như vậy chính nó sẽ bị "hóa ra dơ bẩn", chỉ còn nước chết.
c/ Khung cảnh.
Khung cảnh mà c.14 và 16 tạo ra cho lời Chúa Giêsu tương ứng với hình thức tiên tri của châm ngôn. Hoàn cảnh lúc bấy giờ không phải là cuộc tranh luận thông thái, nhưng là một bài giảng đánh động của Chúa Giêsu: "Hết thảy hãy nghe Ta mà hiểu lấy!". Chính đấy là cách Chúa Giêsu thường trình bày cho dân chúng các dụ ngôn của Người: "Hãy nghe đây!".
Lời kêu gọi chú ý (c.16); "Nếu ai có tai để nghe thì hãy nghe" có lẽ là một thánh ngôn lấy từ Mc 4,23 và được thêm về sau vào đây, nó nhấn mạnh sự khẩn thiết của sứ điệp. (Cũng xin xem các câu kết của 7 bức thư gởi các Giáo Hội trong Kh 2-3).
Thái độ nghe và hiểu, theo Is 6,9 (Mc 4,12) vắng bóng nơi những kẻ cứng lòng vốn đi tìm nguồn gốc của "dơ bẩn" không đúng nơi và vì vậy không đáp ứng ý của Thiên Chúa (và chẳng dùng tự do riêng của họ) nhưng để lòng mình xa cách Ngài (Is 29,13; Mc 7,6).
Rõ ràng Chúa Giêsu đã nhìn thấy tình trạng của những con người Người muốn tiếp xúc như thế; thánh sử còn củng cố cảm tưởng này khi gọi những người thân cận với Chúa Giêsu, tức các môn đồ, như những kẻ ngu độn không hiểu gì hết (Mc 7,18; x. 8,17tt). Tuy nhiên ta sẽ lầm lẫn nếu cho cách thức Chúa Giêsu nhìn xem con người như vậy là bi quan; đúng ra phải gọi là thực tế (tả thực); đó cũng là điều tác giả Tin Mừng thứ 4 đã ghi chú: "Người biết mọi cái có trong con người" (Ga 2,25).
2. Những lối giải thích thánh ngôn trong Giáo Hội sơ khai.
Vấn đề thanh sạch về thức ăn đã đóng một vai trò quan trọng trong Giáo Hội sơ khai (x. Gl 2,11-14; Cv 10 và 15) đối với việc cùng nhau dùng bữa và nhất là cùng nhau cử hành Tiệc thánh giữa Kitô hữu trở lại từ Do thái giáo và ngoại giáo. Nơi nào mà Kitô hữu gốc Do thái nhấn mạnh đến việc tuân giữ luật thanh sạch thức ăn, thì họ không thể không tìm cách loại ra khỏi bữa tiệc những kẻ "dơ bẩn", những Kitô hữu gốc lương dân, là những người có thói quen dùng hết mọi của ăn, và họ bắt đầu phủ nhận việc những người đó hoàn toàn tham dự vào cộng đoàn. Sự dơ bẩn hiểu một cách vật chất đã là một nguyên nhân chia rẽ, và càng nguy hiểm hơn vì người ta đã khẳng định rằng nó bắt nguồn từ trong luật Cựu ước và có vai trò trong cộng đoàn Kitô hữu Do thái.
Lời Chúa Giêsu, một lần nữa, đã phải thị uy trong hoàn cảnh này, và đã được Giáo Hội sơ khai giải thích nhiều cách mà toàn bản văn cho ta hai ví dụ (cc. 18-20.21-23; x. 1Cr 6, 13: "Của ăn dành cho bụng và bụng dành cho của ăn, và đôi đàng. Thiên Chúa sẽ hủy ra không"; Rm 14,20: "Vì một thức ăn, ngươi đừng phá hủy công trình của Thiên Chúa. Mọi sự đều trong sạch, nhưng ăn mà gây dịp vấp phạm là sự chẳng lành”).
a. Giải thích đầu tiên về lời Chúa Giêsu (cc. 18-20).
Lời giải thích được đặt trong khung cảnh một giáo huấn riêng cho các môn đồ (x. Mc 4,10-12), một khung cảnh nói lên vấn đề đặc biệt của cộng đoàn Kitô hữu lời giải thích lấy lại thể đối ngẫu của châm ngôn (cc.18b-20) và giải thích nửa phần như cách sống sượng (c.19a): của ăn không vào trong thâm tâm, nhưng chỉ vào trong bụng, và từ đó xuất ra nơi nhà xí. Truyền thống Giáo Hội sơ khai đã hiểu đúng hậu quả hàm chứa trong châm ngôn Chúa Giêsu: "Như thế người tuyên bố mọi thức ăn đều sạch" (c.19b; x. Rm 14,20; Cv 10,15: "Những gì mà Thiên Chúa đã tẩy sạch thì ngươi đừng gọi là tục, là nhơ. Tuy nhiên, trọng tâm của lời Chúa Giêsu, tức sự đòi hỏi trong sạch tâm hồn, cùng lúc bị xoay hướng: lời giải thích chỉ đề cập đến sự dơ bẩn đồ ăn, và tuyên bố là trong sạch mọi của ăn mà không nói đến trung tâm thật sự nguy hiểm của sự dơ bẩn là tâm hồn. Vì thế cần một giải thích khác; lời giải thích này có thể đã bắt nguồn từ chính Chúa Giêsu nhưng khoa phê bình Tin Mừng thường không thừa nhận.
b. Giải thích thứ hai (cc.21-23)
Theo trước tác mới của bài Tin Mừng Chúa nhật, thì lời giải thích thứ hai này đi liền sau châm ngôn của Chúa Giêsu. Nó muốn làm nổi bật trọng tâm của châm ngôn đó; nó chủ ý đề cập đến ‘lòng’ như là nơi con người bị đe dọa nhiễm sự nhơ bẩn sẽ mang lại cái chết và chia rẽ nhân loại với nhau. ‘Lòng’ của con người không trong sạch là sào huyệt của mọi tính xấu gây ra sự hư vong cho nó; lòng được trình bày như một kho dự trữ: "Người lành tự kho lành lòng mình mà đem ra sự lành và người ác tự tính ác mà đem ra sự ác: vì lòng chứa đầy những gì thì miệng nó nói ra" (Lc 6,45).
Theo chiều kích của chính câu nói Chúa Giêsu, lời giải thích chỉ kể ra những "kho tàng" của lòng xấu xa, tồi bại. Những tư tưởng xấu và hậu quả của chúng đều được trình bày dưới hình thức cổ truyền của một bảng liệt kê các thói xấu. Phân tách các nhãn hiệu "những suy tính xấu xa" (c.21a) và "những điều bậy bạ" (c.23), thấy có mười hai danh từ, sáu ở số nhiều và sáu ở số ít, chỉ cái thật sự gây nên dơ bẩn: dâm bôn, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam và (mọi loại) độc ác; giảo quyệt, phóng đãng, phân bì, gièm pha, kiêu hãnh và (mọi thứ) vô lương tri. Hai loại, mỗi loại gồm ba cặp tính xấu, đều kết thúc bằng một "tính xấu” nói chung. Việc trích dẫn nhiều thói hư như vậy có mục đích cho thấy lòng người có khả năng đáng sợ đến thế nào" (R. Schnackenburg).
Sự "vô lương tri" đã được chủ tâm đặt cuối hai loại: nó là nguồn gốc của mọi sự ác, vì làm cho ta đánh giá lầm lẫn (ví dụ quá nhấn mạnh đến sự dơ bẩn bên ngoài) thực tại (xét như thực tại trước mặt Thiên Chúa). Con người vô lương tri, con người ngu độn, là kẻ "không biết Thiên Chúa", quên Thiên Chúa và khinh bỉ Ngài (Tv 10,3t; 14,1), là con người mù quáng và chai đá. Điều đó soi sáng lần nữa lời Chúa Giêsu kêu gọi hãy nghe và hiểu (cc. 14.18).
So sánh bảng danh sách các thói xấu và khung cảnh của nó với Châm Ngôn 6, 16-l9 vốn có thể là khuôn mẫu, ta có lẽ được phép nghĩ rằng lời giải thích thứ hai này bắt nguồn từ chính Chúa Giêsu. Tuy nhiên cho dù chính cộng đoàn đã chú giải lời Chúa Giêsu như vậy, thì cộng đoàn đã hiểu đúng chính cõi lòng tà mang lại giữa con người sự chia rẽ và cái chết chứ không phải tâm hồn đã hoán cải; của ăn không thể chia rẽ con người với Thiên Chúa và với nhau; các luật về thức ăn không thể trói buộc họ thực sự; cái chia rẽ con người chính là tâm hồn xấu; cái kết hợp họ lại chính là tâm hồn mới mẻ mà Thiên Chúa tạo nên trong họ hết thảy, trong họ là những kẻ tội lỗi, Do thái và lương dân (như Giáo Hội sơ khai và thánh sử hiểu).
II. TRUYỀN THỐNG TIỀN NHÂN VÀ GIỚI RĂN THIÊN CHÚA
1. Phụng tự và luân lý?
Nửa phần đầu của bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay (cc 18) là dưới hình thức bởi chỉ là một đoạn trích từ bản văn Mc, đã liên kết một cách hữu lý vấn đề "trong sạch và dơ bẩn" với việc phụng tự Thiên Chúa (cc.6-7). Tư tưởng và hành động của con người, sự chia rẽ và quy tụ loài người không nằm trong một lãnh vực luân lý độc lập với việc phụng tự; nhưng bảng thứ hai của bộ luật Môisen, mà danh sách các thói xấu ám chỉ đến (cc.21-23), không được đặt ngay liền với bảng thứ nhất, mà câu trích dẫn ngôn sứ đã nhắc lại (cc.6b-7).
Khi việc phụng thờ Thiên Chúa trở nên một sinh hoạt độc lập thì con người trở nên những kẻ "giả hình" (c.6a), chỉ có "ngoại điện" và chỉ lo những cái "ngoại biên"; bấy giờ họ nhìn thấy mối nguy dơ bẩn không đúng chỗ của nó. Những con người ấy thường càng dễ để cho dơ bẩn phía không được bảo vệ. Hàng rào (bao quanh Lề Luật) mà các giáo sĩ gọi là "truyền thống tiền nhân" (xung quanh đó đã diễn ra một cuộc tranh luận trong Tin mừng) không thể là một sự bảo vệ hữu hiệu khi những cuộc tấn công chẳng từ "bên ngoài" mà đến. Đó là một khẳng định căn bản của bản văn mà, trong trước tác mới, đã được nổi bật một cách đặc biệt.
Sợi dây liên kết hai phần lẫn của bản văn không chỉ được bảo đảm bởi tiếng móc "dơ uế" nhưng còn bởi động từ "noi theo" (c.5). Đây là vấn đề noi theo giới răn Thiên Chúa. Theo ý kiến Chúa Giêsu, "truyền thống tiền nhân" không chỉ cho thấy con đường ngay thật, vì nó chẳng thấy đâu là những nguy hiểm thực sự đang đe dọa con người; Cái làm cho con người thấy được và dạy một cách sống đẹp lòng Thiên Chúa, đó là giới răn Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã bảo khi trích dẫn ngôn sứ Isaia. Giới răn Thiên Chúa có thể bị cải biến thành một nhân luật đè bẹp con người và tiêu diệt tự do của họ.
2. Tinh thần duy luật Biệt phái.
Theo bản văn Mc, Chúa Giêsu đặt đối lập giới răn Thiên Chúa với truyền thống con người (c.8) và minh họa sự xung khắc này bằng tập tục về "của cúng" (cc.9-13). Thế mà đối với Biệt phái, "truyền thống tiền nhân" có cùng giá trị như lề luật. Truyền thống tiền nhân, đó là các chỉ dẫn mà bao tiến sĩ luật đưa ra để giải thích và áp dụng luật. Biệt phái tưởng có thể dùng chúng để chặn đứng sự vi phạm luật cùng thánh hóa theo kiểu tư tế toàn quốc gia; ngoài ra họ cũng nỗ lực nhiều khi đòi buộc phải tuân giữ tỉ mỉ các quy khoản nhỏ nhặt nhất. Những người Do thái nào không tuân theo chúng thì bị xem như "lũ dân quèn không biết Lề luật" (Ga 7,49) và bị khinh bỉ như những người vi phạm chính Luật. Các "truyền thống tiền nhân", mà các quy định về thanh sạch chỉ là một phần, có thể vì thế đã gây nên chia rẽ. Thế là lề luật của Thiên Chúa thì hướng tới sự công chính nghĩa là quy tụ toàn dân. Khi bỏ qua một bên những lời công kích tập tục của cúng, bài Tin Mừng hôm nay muốn đặt sự đối lập giữa quy tắc con người với Lề luật của Thiên Chúa trong tương quan trực tiếp với vấn đề "trong sạch và dơ bẩn". Như vậy có lẽ nó thiết lập lại được hoàn cảnh tranh luận khởi nguyên (người ta khám phá ra hoàn cảnh này ở cc. 1-2.5 và có thể nó đã là cơ hội cho Chúa Giêsu giảng dạy dân chúng). Các Biệt phái và ký lục của họ, những kẻ áp dụng các quy định của tư tế về trong sạch trong đời sống hàng ngày, đã quở trách môn đồ Chúa Giêsu là không theo “truyền thống tiền nhân" và đã ăn uống với bàn tay "dơ bẩn". Chắc họ ngầm bảo là tay dơ bẩn sẽ làm dơ bẩn đồ ăn và đến lượt đồ ăn làm dơ bẩn cả con người.
Maccô nghĩ phải cho độc giả Kitô hữu gốc lương dân và thuộc môi trường Hy lạp của ông một giải thích về những tập tục (lạ lùng) đó: ông đặt giải thích này trong một ngoặc đơn (cc.3-4) giữa nhận xét của Biệt phái, ký lục và câu chất vấn của họ về vấn đề ấy. Ở đây thánh sử hơi phóng đại khi bảo "hết thảy người Do thái" đều giữ tập tục đặc biệt của Biệt phái và nói (một cách mỉa mai) đến nhiều tập tục cổ truyền khác như "rửa chén bát, bình ché và các đồ đồng" (c.4).
Có lẽ lời giải thích của ông cảm hứng từ một lời khác của Chúa Giêsu, mà Mt và Lc đã lưu giữ cho ta theo nguồn của các lời tuyên phán: "Khốn cho các ngươi ký lục và Biệt phái giả hình, các ngươi rửa sạch bề ngoài chén dĩa, mà bề trong thì đầy tham ô và vô độ. Hỡi Biệt phái mù quáng, hãy lo rửa sạch bên trong chén dĩa đi, ắt bên ngoài nó cũng được sạch" (Mt 23,25tt).
Maccô nói quá, nhưng nhờ vậy mà dược kết quả này là trường hợp riêng biệt vốn đã làm đầu mối cho cuộc tranh luận (ăn với bàn tay chưa rửa) nay mang một giá trị phổ cập và vấn đề mà Biệt phái và ký lục đưa ra đã được xét đến tận gốc. Thái độ đối với Lề luật, biểu lộ trong "truyền thống tiền nhân", trong tinh thần duy luật tỉ mỉ, đã bị vạch trần như là giả hình, đạo đức ngụy tạo. Một truyền thống có tinh thần duy luật chỉ lưu tâm đến bên ngoài, đến ngoại diện, đến những biên giới, và rốt cục đến sự dơ bẩn thể chất; và ngay cả khi nó dùng lý trí giải quyết một cách khác vấn đề "trong sạch và dơ bẩn", thì nó vẫn tiếp tục trong tình thần duy luật của nó, là đòi hỏi sự tuân giữ tỉ mỉ những quy khoản, và lẫn lộn quy tắc con người với lề luật Thiên Chúa.
Ta có một thí dụ khá nổi tiếng về vấn đề này trong lời của Rabbi Akiba: "Trong cuộc sống các anh, không phải xác chết gây ra dơ uế, cũng chẳng phải nước là tẩy được sạch, nhưng là luật của Vua các vua. Thiên Chúa đã phán; Ta đã thiết lập một quy tắc, Ta đã truyền ra một huấn lệnh; không ai được quyền vi phạm huấn lệnh Ta".
Đối với Chúa Giêsu và (đối với Giáo Hội sơ khai) mọi tinh thần duy luật đều phải chịu lời kết án vị ngôn sứ tuyên ra, là sấm ngôn Thiên Chúa mà Isaia, kẻ lên án tế tự bên ngoài, đã truyền lại Tế tự bên ngoài có thể tạo nên tranh chấp giữa giới răn Thiên Chúa và ơn rỗi của con người, trong khi giới răn Thiên Chúa được ban là để cứu rỗi con người, như kẻ không để lòng xa cách Thiên Chúa thường hiểu. Sự cao vượt của Chúa Giêsu, như ta có thể gián tiếp khám phá ở đây, dựa trên việc người để tâm hồn Người gần kề Thiên Chúa.
Cộng đoàn Giáo Hội đã truyền lại nhiều bản văn như bản văn trên bởi lẽ chính cộng đoàn cũng luôn bị đe dọa sa vào một thứ đạo đức giả dối. Đối với thánh sử, sự quan trọng của truyền thống này đặc biệt nằm ở chỗ: việc gạt bỏ những hàng rào bất chính và việc tiếp nhận giới răn Thiên Chúa trong ý nghĩa nguyên thủy mới kết hợp, trong cộng đoàn, những người Do thái và hy lạp, và như thế mới giúp thờ phượng Thiên Chúa cách thật sự "trong thần khí và chân lý", như thánh Gioan sẽ nói về sau (Ga 4,23). Các quy luật nhân loại vốn chia rẽ con người thì cũng chia rẽ họ với Thiên Chúa; còn giới răn của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu tóm gọn và đơn giản hóa một cách diệu kỳ (Mc 12,28-33) thì kết hợp con người với nhau và như thế kết hợp họ với Thiên Chúa.
KẾT LUẬN
Phần đầu của bản văn Tin Mừng như thế được một tính cách thời sự đặc biệt; tính cách này thêm vào cho giá trị trường cửu của giáo thuyết và của những bài học nơi phần thứ hai. Giáo Hội mà có lẽ hôm nay hơn lúc nào hết, cũng thường bị cám dỗ từ bỏ giới răn Thiên Chúa để theo truyền thống con người, bị cám dỗ chỉ tôn thờ Thiên Chúa ngoài môi. Nhưng trong lòng thì xa cách Ngài vạn dặm. (Rudolf Pesch, Assemblées du Seigneur 53, tr.50-59).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Thái độ của Biệt phái trong đoạn văn hôm nay chỉ là quy trách. Họ nhìn Chúa Giêsu và nhìn các thái độ Người muốn môn đồ theo với một thành kiến. Họ có những ý kiến của họ về tôn giáo, về lòng trung thành, về thói đạo đức. Đây là một não trạng đã được nắn đúc dần dần bởi nhiều thế hệ, được lưu truyền một cách tỉ mỉ bởi cả một truyền thống. Phải nhận rằng đây cũng là não trạng của nhiều cộng đoàn Kitô hữu chúng ta, của môi trường những "người suy nghĩ đúng''. Các ý tưởng của chúng ta về tôn giáo, về đạo đức, về các thái độ phải có hay khung nên có đặc biệt nơi kẻ khác chẳng cứng nhắc, cố định mãi mãi đó sao? Chúng khiến ta thành những người chẳng có khả năng nhận ra các giá trị tôn giáo là luân lý không diễn tả trong những phạm trù riêng của ta. Xin đan cử một thí dụ: những phán đoán đầy quở trách và lên án của một vài Kitô hữu đối với các "thánh lễ giới trẻ". Và ngược lại là phán đoán của nhiều ngươi trẻ về các buổi hội phụng vụ cổ truyền hơn mà họ cho là duy hình thức, có vẻ biệt phái. Và trong lãnh vực luân lý, có biết bao phê phán bất công về nhiều cách hành động mà đôi khi thực ra chỉ là những hình thái diễn tả của cùng một giá trị duy nhất. Điều đó không muốn nói là phải đi đến chỗ chấp nhận tất cả, coi mọi cái có giá trị như nhau. Nhưng chỉ có kẻ sống bởi Thánh Thần mới có thể nhận ra chân lý và sự sống trong những hình thái khác biệt nhất của chúng.
2. Con người lệ thuộc vào môi trường. Nhưng trong con người có một chỗ thiêng liêng, nơi đó một mình họ có quyền định đoạt sự lựa chọn của mình. Con người chịu trách nhiệm đến mức nào? Điều đó là một bí mật của Thiên Chúa. Đấng ngự trị các đền thờ đông kín nhất. Nhưng con người có phần trách nhiệm, phần trách nhiệm ngự tại cõi lòng" (theo ý nghĩa Kinh Thánh). Hình từ cõi lòng, con người xây dựng cuộc sống luân lý mình. Tâm hồn trong sạch hay không trong sạch không phải vì do những hoàn cảnh phụ thuộc bên ngoài, nhưng do những quyết định mà con người chọn hy một cách ý thức và tự do trong thâm tâm thành. Quan niệm Thánh Kinh về sự trong sạch hay không trong sạch căn cứ trên cách thức con người phải trình diện trước sự thánh thiện của Thiên Chúa. Tin mừng dạy rằng con người được mời gọi để trở nên con cái Thiên Chúa nghĩa là trong con người đã có một sự hiện diện của Thiên Chúa chí thánh và nếu con người đã chịu phép Rửa tội thì lại có một sự hiện diện thần linh hóa của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đứng trước sự kiện này, trong sạch và không trong sạch là gì? người Kitô hữu biết ngay điều gì phù hợp hay không phù hợp với sư hiện diện ấy, cái gì trong sạch và không trong sạch. Điều đó xảy ra trong cõi lòng. Vì thế, Chúa Giêsu dạy rằng tư tưởng, ý muốn hành động là trong sáng hay vẩn dục, tốt hay xấu, đạo đức hay tội lỗi thì tùy theo nguồn của chúng tức là cõi lòng. Chính trong tâm hồn mà điều gì được phán quyết phù hợp hay không phù hợp với sự thánh thiện của Thiên Chúa.
3. Giả hình là khi ta tăng gia những lề luật phải giữ là giữ một cách hình thức để tự trấn an hoặc để cảm thấy mình tốt hơn những ai không giữ như vậy. Giả hình là khi ta chủ trương không cần lề luật, hình thức, để sống theo cảm hứng của lòng ham muốn, nhân danh tự do, viện cớ đạo tại tâm, đạo trong cõi lòng.
4. Bài Tin Mừng hôm nay đặt cho ta một câu hỏi cụ thể xác định: đâu là sự trong sạch cần thiết để đến với bí tích Mình Máu Chúa Giêsu? Thưa: sự trong sạch chính là có mặt tâm hồn rộng mở, sẵn sàng đón nhận ân huệ của Thiên Chúa. Trái lại, sự dơ bẩn bất xứng là có một tâm hồn đóng kín trong những thái độ luân lý và tôn giáo giả tạo.
Trong xã hội ngày nay, chúng ta thấy có một sức quyến rũ mạnh mẽ về những cái mã bề ngoài. Các dịch vụ quảng cáo thương mại nhấn mạnh đến những sản phẩm làm cho người ta ngày càng đẹp hơn, có làn da trắng hơn, có mái tóc mượt hơn hay làm cho người ta trở nên hấp dẫn hơn với người khác phái. Người ta muốn tỏ ra mình là người xinh đẹp, lôi cuốn và hợp thời trang.
Nhưng bạn hãy tưởng tượng nếu bạn có thể dùng một phương tiện chẳng hạn như tia X, để nhìn thấu linh hồn của mỗi người và mọi người. Bạn có thể nhìn thấy bạn bè, những người thân quen, cùng với tất cả những tham vọng thầm kín, những khao khát, những ước mơ, những ý hướng, những tình cảm, những kế hoạch, những tư tưởng thầm kín. Người ta có thể chắc chắn với bạn rằng bạn sẽ bị sốc kinh khủng về những người bạn đã quen biết. Lúc ấy, bạn sẽ thấy những người bề ngoài xem ra rất hấp dẫn lại chứa đầy trong lòng sự thù hận, không tha thứ, tự kiêu, ích kỷ và những thứ khác đáng phải lánh xa. Bởi vì họ nghèo nàn hơn, thiếu giáo dục hơn, tồi tệ hơn so với vẻ bên ngoài đẹp đẽ, quyến rũ và trong sáng. Bây giờ bạn hãy rọi tia X vào chính con người của bạn. Bạn thấy những gì? Bạn có thích thú với những gì bạn xem thấy hay không? Bạn có thấy mình hấp dẫn không? Đây là điều quan trọng. Bởi vì Thiên Chúa luôn luôn nhìn thấu suốt cõi lòng của bạn. Và đến ngày bạn chết, bạn sẽ chịu phán xét theo những gì mà chúng ta thấy với tia X như thế. Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhìn nhìn thấy bản thân mình như Chúa vẫn nhìn thấy con.
Có lẽ ngay cả trong giới khoa học cũng không ai ngờ được có ngày bàn tay lại là một trong những thủ phạm chính làm lây lan một bệnh dịch đang tăng theo cấp số nhân hằng ngày. Nếu cảnh đôi co trong trình thuật Tin Mừng mà xảy ra trong những tháng ngày nầy, thì chắc chắn mặt những người biệt-phái hẳn sẽ vênh lên, đắc chí, vì việc rửa tay không thể coi thường . Ngành y tế nhắc nhở mọi người phải thường xuyên rửa tay bằng xà-phòng,nhất là khi đã tiếp xúc với những mặt bằng nhiều người sử dụng. Không chừng tên ‘cúm heo’ đã dễ dàng mang tên ‘cúm biệt phái ». Duy có điều ý của Chúa Giêsu luôn nhắc ‘alia facienda,non alia omittenda’(x. Mt 23,23): rửa chân tay, nhưng cũng không được quên rửa tâm hồn. Tay sạch, mà lòng không thanh, thì chỉ là trò giả hình.
Theo tiếng Hy Lạp cổ, ‘giả hình » - hupochrisi (khéo bắt chước),được định nghĩa là một thói xấu gồm việc tự gán cho mình một nhân đức,một lòng sùng đạo hoặc một tình cảm cao thượng mà trên thực tế người đó không có. La Rochefoucauld định nghĩa ‘giả hình là sự kính trọng mà thói xấu tôn vinh nhân đức,nó tạo ra con người tốt lành, nhưng toàn bộ cách ăn của người đó chỉ là giả bộ’. Jules Renard cụ thể hơn: thói giả hình bỏ ra chín xu để được nhận lại hai mươi đồng biết ơn. Tóm lại, giả hình thường phát xuất từ lợi ích. Michel t’Kint,trong bài viết ‘l’hypocrisie des puissants’ (Thói giả hình của các cường quốc, ngày 27.03.2008), cũng cay đắng nói về thói giả hình phát xuất từ lo sợ bị trả đũa về kinh tế, để rồi nhắm mắt mặc cho những chuyện xấu xa xảy ra: đó là sự giả hình của các cường quốc . Đạo đức học,đạo lý học, luân lý học, tôn trọng nhân phẩm, đấu tranh chống tham nhũng, rửa tiền, ...những khái niệm nầy còn chút giá trị nào dưới mắt các nhà lãnh đạo trên hành tinh nầy chăng ? Cách làm hai mặt,cách nói nước đôi, sự khác biệt giữa những ứng xử đích thực của các nhà lãnh đạo và những lời tuyên bố của họ. Họ đã quá quen với những ý kiến mâu thuẫn nhau và giả hình, kiểu lưỡi không xương, tránh né thoái thác khi cần phải tố cáo những kẻ vi phạm các giá trị,luật lệ và nghị quyết quốc tế bất di bất dịch. Sự thụ động của các nguyên thủ trên hành tinh nầy khi đối diện với những quyền con người bị nhạo báng, việc không ai đưa ra được lời kết án ‘rõ ràng’ những chế độ thối nát và độc tài (nhất là khi đó lại là những đối tác buôn bán hùng mạnh) tùy tiện bắt giam những ai quấy rầy họ.
Trung quốc chế nhạo cộng đồng quốc tế, vì nắm trong tay những hợp đồng kếch xù. Ai còn dám nói lên sự thật trước họ ? Những trò hề sử dụng quyền phủ quyết của năm quốc gia Hội Đồng Bảo An Thường Trực đã vô hiệu hoá biết bao vấn đề chính trị,xã hội cấp bách: vấn đề dân chủ nhân quyền ở Myanmar ; vấn đề hạt nhân và nhân quyền ở Iran, Bắc Triều Tiên. Các cơ quan thuộc Liên Hiệp Quốc cũng lạm dụng quyền hành,cơ hội, nhất là tiền bạc sử dụng vô tội vạ, để tuyên truyền những chính sách vô thần và vô luân. Những cơ quan nhân đạo lại làm nhiều việc vô nhân đạo, như là nạo phá thai, an tử, với những lập luận rất hợp tình hợp lý. Họ rửa tay và ...phủi tay !
Ở nước ta, tại thành phố Hồ Chí Minh hay ở Hà Nội, vẫn những dòng sông ấy, vẫn những con kênh đào ấy, xưa vẫn tải tất cả những nước thải sinh hoạt. Thành phố không cần ai hô hào mà vẫn luôn xanh sạch đẹp. Thế rồi dưới bề mặt nước nổi,là vô vàn rác thải làm nghẹt dòng chảy, và làn nước dần dà biến thành đen kịt,nặc mùi hôi thối. Dòng nước các kênh rạch chết. Dòng nước các con sông chính cung cấp nước uống cho hàng triệu dân, thì chỗ bồi chỗ lở,trong khi chất lượng nước ngày càng tồi tệ,vì hàm lượng các chất độc hại vượt định mức cho phép nhiều lần. Không khí ô nhiễm vì bụi khói từ xe cộ và các nhà máy với công nghệ quá lạc hậu. Rác ngập tràn mọi ngóc nghách. Nhưng đáng sợ nhất, chính là bầu khí đạo đức, văn hoá vô cùng hỗn tạp,ô nhiễm vì những rác thải xấu xa,đồi trụy núp dưới danh nghĩa văn hóa,nghệ thuật, được nhập vào ồ ạt bằng mọi cách,mọi phương tiện, đầu độc thế hệ tương lai xã hội (và Giáo Hội), chủ yếu là do những người mờ mắt vì siêu lợi nhuận mà những thứ xấu xa độc hại nầy mang lại. Nước dồn về chỗ trủng: Đất nước thiếu nền tảng đạo đức, mặc cảm tự ti với văn hoá truyền thống và có sẵn một lớp giàu mới,thêm một thế hệ lai căng và sùng ngoại, đã đón tất cả rác rưởi thối tha,nhơ bẩn, truỵ lạc. Quyền lực độc tài cộng với vô thần và vô đạo, - đứng sau tất cả, là Satan - đã không mất nhiều thời gian công sức biến đất nước nầy thành một hố rác văn hoá, mà mức độ ô nhiễm không thể nào còn thống kê được và không có thế lực trần gian nào còn có thể ngăn chặn,loại bỏ được nữa. Tội ác muôn hình vạn trạng,ngày càng tăng cả về con số vụ việc lẫn tính chất dã man, mất tính người, lại chỉ là hệ quả tất yếu. Kẻ xấu rửa tay và phủi tay.
Người ta thấy bất lực trước cả thiên nhiên, lẫn xã hội,con người: cái xấu,cái ác, rác rưởi văn hoá, rác rưỡi vô thần, càng quét càng xuất hiện nhiều hơn và dễ làm người ta chán nãn buông xuôi. Một cây làm chẳng nên nước non gì, nhưng làm sao có được đôi ba cây chụm lại, để có tiếng nói mạnh mẽ hơn,có bàn bạc hành động quyết tâm hơn, khi mà những chiếc mũ «đe doạ an ninh quốc gia, chia rẽ đooàn kết dân tộc,.. » sẵn sàng chụp ngay lên đầu những kẻ nói lên sự thật,để bảo vệ nòi giống dân Việt. Không ít người sẽ lắc đầu bĩu môi: Don Quichotte ! Trứng chọi đá ! Và người ta dễ xẹp ngay máu anh hùng...rơm ! Linh mục thì nhìn về các giám mục. Giáo dân tất nhiên nhìn vào các chủ chăn. Chuá Giêsu chỉ còn biết nhìn vào...đôi bàn tay, mà ngày ấy những người biệt phái muốn nhắc khéo Chúa rửa: hãy cứ làm những cử chỉ bề ngoài,như mọi người. Ai chẳng biết và chẳng kính trọng « tay sạch lòng thanh » ! Cứ về nhà,đóng kín cửa lại rồi muốn rửa tâm hồn ra sao, bao nhiêu tùy thích. Thánh thiện,công bình,bác ái: tất cả đều tốt, đều đáng qúy, chỉ xin đừng nói ra, đừng huỵch toẹt những hành xử bề ngoài của người khác, vì sẽ khiến người ta trước hết là khó chịu,rồi đến bục bội. Và hậu quả làm cho người ta bực bội,giận dữ thế nào, thì Chúa Giêsu đã « rành sáu câu » rồi ! Ở một tình tuống như khi người ta điệu ả phụ nữ ngoại tình đến,định tâm gài bẫy Người, thì Chúa Giêsu có toàn quyền « ăn miếng trả miếng » khi nói: « Ai trong các nguơi thấy mình vô tội thỉ hãy ném đá chị nầy trước đi » (Ga 8,7). Đám đông xịu mặt, vì bàn tay ( điệu người đàn bà tội lỗi và cầm đá) chưa rửa, nhưng quan trọng là họ nhận ra tâm hồn nhung nhúc tội, đến mức dù trơ tráo cũng không dám ném đại một hòn đá. Dù rất bẽ mặt,nhưng họ tâm phục khẩu phục và có vẻ rất ‘fair play’: rút lui hết, càng cao danh vọng tuổi tác, càng thấy mình...đầy tội lỗi ! Nhưng ở đây, hôm nay, thì Chúa Giêsu đã chọc vào tổ ong vò vẽ, khi phê phán chỉ trích những gì biệt phái và kinh sư cố tình dấu diếm.
Để chống lại tham nhũng chính trị vào thập niên 1900s, nước Ý đã mở cuộc điều tra quy mô toàn quốc có tên là Mani pulite (Bàn tay sạch),dẫn đến sự sụp đổ của đệ nhất cộng hoà .Nhiều đảng phái biến mất. Không ít chính trị gia phải tự sát. Nhưng đặc biệt nhất và được coi là thắng lợi lớn nhất của chiến dịch Bàn Tay Sạch,là sự vùng lên mạnh mẽ và dũng cảm của người dân: họ không còn muốn hèn hạ nữa. Họ hết sợ bị đe doạ, trả thù, nhưng sẵn sàng chỉ điểm những tay tội phạm và lôi ra ánh sáng những chính trị gia bao che,tiếp tay cho bọn xấu. Cái giá của chiến dịch Bàn Tay Sạch không hề nhỏ: nhiều quan chức và dân thường đã bi ám sát,thủ tiêu một cách dã man,đê hèn,nhưng thay vì làm dân chúng sợ hãi chùn bước, thì chỉ kích động thêm lòng căm ghét tội ác bao năm qua áp chế họ và hủy hoại tương ali thê hệ con cháu họ, và họ dũng cảm và hy sinh để tiêu diệt bọn xấu và cái xấu.
Lượng nước mười phần trăm của sông Mêkong đổ vào Việt-Nam , trước đây hằng năm tạo ra một hiện tượng tự nhiên kỳ thú mang đến nhiều ích lợi cho người dân, hiền hoà chẳng khác nào tính tình người dân Miền Tây bao đời: Mùa nước nổi ! Nhưng nay đã khác rồi ! Mùa nước nỗi đã thành mùa nước lũ, nhận chìm mùa màng, nhà cửa và cả tính mạng con người. Mấy năm rồi, lũ về Đồng Tháp luôn là «lũ non », « lũ đẹt », không gây hại gì đáng kể. Nhiều người còn mạnh miệng cầu cho có lũ để xã phèn,diệt thiên địch,thêm phù sa. Nhưng năm nay bất ngờ mới cuối tháng bảy, mà lũ đã tràn về ngập trắng ruộng đồng,dìm hàng chục ngàn hecta lúa. Người ta nhận ra không thể nào sống chung với lũ.
Lạy Chúa Giêsu, đường tình Chúa dẫn con đi đã vạch rõ và Chúa không lý thuyết ‘chỉ tay năm ngón’, mà đã đi trọn con đường đầy chông gai Người đã hoạch định, đã chọn từ muôn đời, để nói lên ý chí tự hạ và vâng phục Chúa Cha và để bày tỏ tình yêu của Chúa Cha và của chính Người đối với chúng con. « Đường tình đó Ngài dành cho con » (lời bài ‘Con đường thập giá’). Đây không phải là vở kịch: vất vả, mệt mỏi,buồn sầu, cô đơn, lo lắng, đau đớn,nhục nhã, và bị đóng đinh thập giá. Những vở kịch Thương Khó nỗi tiếng hằng năm ở Phi-Luật-Tân chỉ kéo dài một buổi và chủ yếu là vì tiền. Cơn sợ hãi tích tụ ba năm trong từng tế bào đã biến mồ hôi thành máu. Tất cả là vì Chúa đã làm mích lòng thế gian, đã làm ngược sự đời. Chúng con không có chọn lựa nào khác, không được chấp nhận sống chung với lũ, cho dù phải sống giữa lũ sự dữ và tội lỗi,và cũng không thể như một đóa sen, chỉ ‘không tanh mùi bùn’ cho riêng mình,trong khi anh em đang bị bùn nhơ làm lấm lem và nuốt chững: Rửa tay cho con, để mặc tay anh em vẫn dơ bẩn. Con không được rửa tay như Philatô để rủ bỏ trách nhiệm. Đó là lời Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã nhận định: « người môn đệ của Chúa Kitô thường đi ‘ngược dòng’(Zenit 23.08.09) .
Bản văn 7,1-23 là một phân đoạn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Đoạn văn này đã được tác giả Mc đặt ngay trước đoạn tường thuật hoạt động của Đức Giêsu bên đất Dân ngoại. Rõ ràng tác giả đã dùng bản văn này như một lời công bố nguyên tắc: Đức Giêsu đã loại bỏ sự phân biệt giữa “trong sạch và ô uế”. Không có hàng rào nào mà lại do Thiên Chúa muốn có giữa loài người. Chỉ có những hàng rào đã được loài người dựng lên (mà như thế là không biết ý muốn của Thiên Chúa), mà bây giờ phải lật đổ, bởi vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (1,15).
II. BỐ cỤc
Bản văn này có thể chia thành hai phần:
Tranh luận giữa Đức Giêsu và các Pharisêu về trong sạch và ô uế (7,1-8);
Giáo huấn của Đức Giêsu về trong sạch và ô uế (7,14-15.21-23).
III. Vài điỂm chú giẢi
- tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa (2): Giới Pharisêu và kinh sư trách các môn đệ của Đức Giêsu không chịu tuân theo các tập tục truyền thống Do-thái về thanh tẩy. Vậy đây không phải là quan điểm vệ sinh, mà là một nhận định liên hệ đến phượng tự-lêvít (Lv 11–15; x. thêm 19,23-25; 20,7; Đnl 14,3-21; 19; 5,1-4). Lời giải thích của Mc (“nghĩa là chưa rửa”) chứng tỏ ngài viết cho một khối độc giả không quen với những tập tục này. Các câu 3-4 là một giải thích trong ngoặc đơn, cũng vì lý do này.
Trong não trạng người xưa, điều ô uế và điều thánh thiêng là hai khái niệm liên kết với nhau. Cả hai đều hàm chứa một sức mạnh huyền bí và đáng sợ, được phát huy do sự tiếp xúc. Cái ô uế và cái thánh thiêng đều “không thể đụng chạm được”; kẻ nào tiếp xúc với hai “cái” này cũng trở thành “không thể đụng chạm đến được”. Trong Cựu Ước, ta thấy: người ta không thể đụng chạm đến Hòm Bia Giao Ước, cũng như không được chạm đến một tử thi; người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con, vì việc sinh nở đã làm cho bà ra ô uế, cũng như vị tư tế phải thay y phục sau khi dâng hy lễ, vì hy lễ đã làm cho vị này ra thánh thiêng. Đây không phải là một sự hoen ố về thể lý hoặc luân lý, và sự thánh thiện đạt được như thế không phải là một nhân đức của tâm hồn, đó là những “trạng thái”, mà người ta phải ra khỏi để trở vào đời sống thông thường (R. de Vaux). Chính khái niệm về “ô uế” và “thánh thiêng” cũng có vai trò trong việc phân biệt Do-thái với các “dân nước” (lương dân). Đây không phải là những khái niệm lý thuyết rút từ Lề Luật, nhưng là những khái niệm diễn tả một kinh nghiệm sống: bình diện của cái “trong sạch” chính là những lãnh vực của sự sống (tượng trưng bằng phượng tự), còn lãnh vực của cái “ô uế” là lãnh vực của sự chết (được tượng trưng bằng các nền phượng tự ngoại quốc).
- rửa tay cẩn thận (3): Từ “cẩn thận” được diễn dịch từ từ ngữ Hy-lạp pygmê (“nắm tay”). Zerw. & Grosv. ghi chú là: ý nghĩa không rõ; dịch sát là: “với nắm tay”. [Bản dịch Weymouth: “carefully, diligently” (cẩn thận, chu đáo); BJ: “jusqu’au coude” (tới tận cùi chỏ); NAB: “carefully”; TOB: “soigneusement”; NJBC không dịch nhưng ghi chú: có thể đây là một kiểu nói La-tinh dựa trên pugnus / pugillus là “handful; một nắm, nhúm, bốc, vốc, nghĩa là “với mọt vốc”. Mc đang mô tả khối nước được dùng trong nghi thức rửa tay của người Do-thái]. Như vậy, “rửa cẩn thận” có nghĩa là rửa đúng quy cách, theo đúng nghi thức.
- truyền thống của tiền nhân (3): Các “tiền nhân” là các vị tôn sư của Israel kể từ Môsê tại núi Sinai cho đến hôm nay. Tác giả giải thích cho các độc giả Kitô hữu gốc Dân ngoại biết lối thực hành luật trong sạch của người Do-thái bằng cách nêu ra một vài ví dụ chọn lọc. Tuy nhiên, khẳng định rằng mọi người Do-thái đều giữ các quy tắc về trong sạch thì không đúng về mặt lịch sử. Trong thực tế, chỉ người Pharisêu mới đặc biệt bám vào đó, dân thường không quan tâm lắm, còn phái Xađốc đã đả kích việc chuyển các tập tục của hàng tư tế vào đời sống tôn giáo của dân chúng. Thật ra, người Pharisêu đang tìm cách áp dụng luật trong sạch theo nghi thức mà các tư tế trong Cựu Ước phải giữ, cho mọi người Israel, để toàn thể Israel trở thành dân tư tế.
- rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng (4): Một vài nhà chú giải cho rằng giọng văn của Mc ở đây có vẻ châm biếm. Nhiều thủ bản thêm “và giường” vào danh mục (x. Lv 15); ở đây, tình cờ chi tiết này bị quên, hay đã bị cố tình bỏ đi vì nghe không thuận.
- đạo đức giả (6): Nghĩa chữ của từ hypokritês là “một diễn viên”, “người đeo một mặt nạ”.
- Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng: Câu trích Is 29,13 này được lấy từ bản LXX, chứ không từ bản Híp-ri, nhưng cũng có những khác biệt. Có thể Mc (hoặc truyền thống của ngài) đã sử dụng một bản dịch Hy-lạp khác.
- Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa … (8): Lời Đức Giêsu nói đây minh hoạ những gì được hàm chứa trong câu trích. Hẳn là người Pharisêu và các kinh sư sẽ cực lực phản đối lời kết án này, bởi vì chính họ đang thấy là họ có công trong công việc làm cho những giáo huấn không rõ ràng trong Lề Luật trở thành thực tiễn và cụ thể!
- Không có gì từ bên ngoài … (15): Đức Giêsu đã nói theo kiểu một mâshâl, chứ không phải là một tuyên ngôn. Người không chọn đứng về phía “bên trong” để chống lại phía “bên ngoài”, Người không trực diện đối lập với luật của Cựu Ước. Người mời con người đi ra khỏi tình trạng tồi tệ của họ, không phải nhờ những nỗ lực trí tuệ, mà là bằng một sự hoán cải tận căn. Bằng câu nói này, Đức Giêsu khẳng định con người có một tự do phi thường. Như vậy, con người phải có ý thức về trách nhiệm của mình trước mặt Thiên Chúa và loài người.
- những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp… (22): Danh mục này kể ra 12 tật xấu và tội lỗi. Trong phần Tân Ước còn lại, cũng có những danh mục như thế (x. Gl 5,19-21; Rm 1,29-31; 1 Pr 4,3). Trong danh mục Mc, có những từ ngữ tương tự với các danh mục Phaolô. “Thể văn danh mục” là thể văn quen thuộc trong thế giới hy-la và cũng có xuất hiện trong thế giới Do-thái giáo (x. 1 QS 4,9-11).
- Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong … (23): Câu này tóm tắt sứ điệp của phần thứ hai.
IV. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
* Tranh luận giữa Đức Giêsu và các Pharisêu về trong sạch và ô uế (1-8)
Vấn đề hôm nay không còn là: điều gì làm cho chúng ta nên trong sạch hoặc ra ô uế, mà là: Chúng ta phải đánh giá lối sống của chúng ta dựa trên điều gì? Điều gì có một trọng lượng quyết định cho tương quan của chúng ta với Thiên Chúa? Đức Giêsu đặt điều răn của Thiên Chúa ở ngay trung tâm. Tất cả lối cư xử của chúng ta đều được quy định bởi các điều răn: tất cả những gì chống lại các điều răn hoặc ngăn cản thực thi các điều răn đều là lời nói của loài người.
* Giáo huấn của Đức Giêsu về trong sạch và ô uế (14-15.21-23)
Trước tiên, Đức Giêsu khẳng định rằng các hành vi gian tà phát xuất từ trái tim gian tà. Do đó, mối bận tâm đầu tiên của con người là có được một trái tim trong sạch. Trái tim trong sạch làm cho con người sẵn sàng tức khắc đến gặp Thiên Chúa và sống bền vững trong tình hiệp thông với Ngài. Khi kể ra những ý hướng xấu xa có thể phát xuất từ trái tim con người (7,21t), Đức Giêsu đã đan cử vài ví dụ để cho thấy trái tim phải được giải thoát khỏi điều gì để nên trong sạch, tức là để sẵn sàng thấy Thiên Chúa (x. Mt 5,8). Các điều được kể ra (tà dâm, trộm cắp, giết người) là những điều bị cấm theo Mười Điều Răn, cùng với một số thái độ xấu phát sinh từ các tội đó (tham lam, ganh tị, xảo trá). Như thế, giáo huấn về trong sạch và ô uế có thể nói là một bài bình giải Mười Điều Răn. Những thiếu sót được Đức Giêsu nhắc tới có thể giải thích như sau: sự phỉ báng là điều ngược lại với việc ca ngợi và thờ phượng Thiên Chúa. Còn trong thái độ kiêu ngạo, con người nghĩ mình không cần Thiên Chúa, mình có thể làm và sắp xếp mọi sự. Sự ngông cuồng (rồ dại) đây là không sẵn sàng nhận biết Thiên Chúa là Đấng vĩ đại và toàn năng.
* Kết luận
Ngày hôm nay, có khi còn hơn bao giờ hết, các ki-tô hữu cũng đang bị cám dỗ bỏ rơi lệnh truyền của Thiên Chúa mà chọn truyền thống của loài người, bị cám dỗ tôn thờ Thiên Chúa chỉ bằng môi miệng, còn lòng trí thì ở xa Ngài. Do đó, lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải vẫn còn rất hợp thời. Trái tim con người cần được thanh thoát với mọi sự, để có thể đầy tràn cảm thức về Thiên Chúa, để có thể nhìn nhận với lòng biết ơn sự lệ thuộc của mình vào Ngài.
V.- GỢi ý suy niỆm
1. Hôm nay, chúng ta cũng có thể bị Đức Giêsu trách: chúng ta tự đặt ra cho mình những luật lệ loài người, những luật lệ được tính ích kỷ tạo ra hoặc những luật lệ chúng ta áp đặt cho mình từ bên ngoài. Chúng ta thường để mình đi theo những gì được coi là đáng chuộng, là cần thiết, là tân thời, là hiện đại.
2. Đối với chúng ta, điều quan trọng là ở trong tương quan đúng đắn với Thiên Chúa: sự trong sạch đích thực hệ tại điều này. Nẻo đường duy nhất giúp ta đạt tới đó là sống không phải theo những quy tắc của loài người, nhưng theo ý muốn của Thiên Chúa. Và như thế có nghĩa là giữ điều răn bên ngoài mà thôi thì không đủ; chính trái tim con người phải quy hướng về thánh ý Thiên Chúa.
3. Cũng nên ý thức về tính đòi hỏi, bó buộc, của các điều răn của Thiên Chúa, vì các điều răn không bảo: Nếu ngươi muốn, ngươi có thể làm điều này điều nọ, nhưng bảo: Ngươi phải làm, ngươi không được làm.
4. Nếu chúng ta đầy lòng biết ơn Thiên Chúa, chúng ta sẽ luôn tha thiết ca ngợi Ngài, và cũng biết dành chỗ cho người anh chị em cũng như biết đối xử với họ với lòng yêu mến.
Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế (Mc 7,15) - Miss Chiara Lubich
Đức Giêsu nói những lời mà ta đang đọc hôm nay với đám đông dân chúng. Sau đó theo yêu cầu của các môn đệ muốn nghe Người giải thích, Đức Giêsu bảo họ rằng thực phẩm mà con người ăn để sống không thể nào lại là nguyên do khiến cho con người bị ô uế về luân lý bởi vì ảnh hưởng của những thực phẩm ấy chỉ giới hạn nơi cơ thể con người mà không ảnh hưởng đến lương tâm của họ được.
Như vậy, không có những thực phẩm nhơ bẩn có thể làm cho con người ra ô uế và do đó khiến họ không xứng hợp để tiếp xúc với Thiên Chúa. Việc ăn một số loại thực phẩm chẳng có liên can gì đến sự tinh sạch theo nghĩa luân lý và tôn giáo.
Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Lập trường của Đức Giêsu khá can đảm vào thời ấy. Người Do Thái tuân thủ luật cấm một số thực phẩm và ngoài ra còn có những cấm kỵ khác.
Đức Giêsu, nhìn tạo thành một cách tích cực, chấm dứt sự phân biệt giữa thú vật tinh sạch và thú vật không tinh sạch, và những quy tắc về kiêng khem có liên quan. Vốn cởi mở với toàn thể nhân loại, Đức Giêsu lấy đi một chướng ngại vật rất có thể khiến cho thế giới dân ngoại xa cách cộng đồng Kitô giáo tiên khởi.
Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.
"... nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế".
Điều này, phần thứ hai trong lời của Đức Giêsu, đề cập đến sự ô uế đích thực: con người ra ô uế không phải bởi những gì đi từ bên ngoài vào, nhưng bởi những gì từ trong con người xuất ra. Chính từ trong con người, từ cái tâm, mà xuất ra những thứ tư tưởng và dự tính ác độc, đã được Đức Giêsu liệt kê: "tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng" (Mc 7,21).
Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.
Phần thứ nhất trong lời của Đức Giêsu có thể không còn có liên quan vào ngày hôm nay bởi vì Kitô giáo đã bãi bỏ những phân biệt giữa thực phẩm tinh sạch và không tinh sạch. Nền luân lý Kitô giáo đã cắm gốc sâu rễ bền trong những quyết định thực hiện bởi lương tâm và đã nội tâm hóa tôn giáo. Tuy nhiên, phần thứ hai thì tuyệt nhiên không phải chẳng liên quan đến thời đại chúng ta, mà trái lại, cần nhấn mạnh xu hướng cái tâm của con người dễ phát sinh những tư tưởng và ước muốn xấu xa.
Nguồn gốc của biết bao sự dữ trên thế giới là gì nếu chẳng phải là phát sinh từ trong lòng dạ những con người đồng thời với chúng ta? Chính từ trong lòng con người mà xuất ra nào là những hành động khủng bố, trộm cắp, nghiện ngập ma túy, lừa đảo, báo thù, ganh tị, giết người, và vô vàn vô số những tai họa khác.
Mặc dù Đức Giêsu nhìn thấy nơi tạo thành một giá trị tích cực, và mặc dù Người biết rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, Người cũng biết rõ bản chất con người và cái khuynh hướng ngả về sự dữ của con người. Bởi lẽ đó, Người đòi hỏi con người hoán cải.
Sự nghiêm khắc về mặt luân lý của Người rất rõ từ những lời mà chúng ta đang đọc. Đức Giêsu muốn tạo dựng một con tim tinh sạch và chân thành trong chúng ta, sẽ là nguồn, như một dòng suối trong, phát sinh những tư tưởng tốt lành và những hành động không có gì chê trách.
Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Làm thế nào sống Lời Sống này?
Nếu chẳng phải của cải, tài sản vật chất, thực phẩm và mọi thứ đến từ bên ngoài chúng ta mới làm cho ta ra ô uế và đưa ta ra khỏi tình bạn với Thiên Chúa, nhưng chính là bản ngã, con tim và các quyết định của con người, thì rõ ràng là trong thực hành, Đức Giêsu muốn chúng ta hãy suy nghĩ về cái động cơ sâu xa của các hành vi và cách ứng xử của chúng ta.
Đối với Đức Giêsu, như ta biết, chỉ có một động lực làm cho hết thảy những gì ta làm trở nên tinh sạch, đó là tình yêu.
Ai yêu thì không phạm tội, không giết người, không cáo gian, không trộm cắp, không phản bội ...
Do đó, ta hãy để cho mình chịu sự dẫn dắt bởi tình yêu, hai mươi bốn giờ một ngày, bởi tình yêu Thiên Chúa và tình yêu anh chị em mình. Rồi chúng ta sẽ trở nên người Kitô hữu một trăm phần trăm.
Có những người chẳng để ý đến lề luật, nên không tôn trọng quyền lợi người khác; nhưng cũng có những người quá để ý đến luật, đến trở thành nô lệ lề luật. Đức Giêsu trách một số người thời đó “bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.
1. Lời Thiên Chúa và lời con người
Thiên Chúa đã ban mười điều luật cho dân Israel qua Môsê, và ông đã dạy dân Do Thái: “các ngươi chớ thêm bớt điều gì trong các điều ta đã truyền, nhưng hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi mà ta đã truyền cho các ngươi”. Đừng thêm và cũng đừng bớt vào những điều Thiên Chúa dạy. Đừng làm lẫn lộn lời của con người với Lời Thiên Chúa. Chỉ có Lời Thiên Chúa mới phải giữ một cách tuyệt đối, còn lời của con người thì tùy thuộc thời đại và tùy thuộc văn hóa của mỗi dân tộc.
Tuy nhiên, có Lời Chúa nào mà không phải là lời của con người? Để con người nghe được Lời Chúa, thì Lời Chúa cũng phải là lời của con người, phải được truyền qua trung gian con người. Để dân có thể nghe được Lời Chúa, Lời Chúa đã qua trung gian là lời Môsê. Lời của Môsê nhưng không phải là lời của Môsê, nên Môsê cũng phải phục tùng Lời Chúa mà Môsê đã được trao để truyền lại cho dân.
Vấn đề chính yếu là phải nhận định được đâu là Lời Chúa và đâu là lời của con người, xét như phương tiện chuyển tải Lời Chúa. Đâu là Lời Chúa, đâu là lời của Môsê, đâu là văn hóa của thời đại chuyển tải Lời Chúa? Thập giới là Lời Chúa, và thập giới cho con người biết con người phải có tương quan như thế nào đối với Thiên Chúa. Vào thời cánh chung, Lời Thiên Chúa đã làm người. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, nên con người cũng là Lời Thiên Chúa, vì Lời Thiên Chúa đã làm người.
2. Tập tục con người và giới răn Thiên Chúa
Con người là vật chất và tinh thần. Thân xác vật chất bị giới hạn, nên con người cũng bị giới hạn. Khi Lời Thiên Chúa nhập thể, thân xác giới hạn của con người có thể che khuất làm con người khó nhận ra chân tướng của Lời Thiên Chúa nhập thể; cũng tương tự vậy, lời con người cũng có thể làm lu mờ Lời Chúa khi Lời Chúa được diễn đạt qua trung gian lời con người.
Trong lịch sử, Lời Thiên Chúa đã được con người giải thích, với mong ước con người hiểu biết hơn về Lời Chúa, để có thể sống theo Lời Chúa. Tuy nhiên, vì có quá nhiều những lời giải thích nên người ta không còn nhận ra đâu là điểm chính yếu mà lề luật hay Lời Chúa muốn nói. Rồi tới một mức độ nào đó, người ta lấy những lời dạy của con người và coi đó như là tuyệt đối quan trọng (như thể đó là Lời Chúa). Đó là lý do tại sao Đức Giêsu nói: “Dân này sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người. Vì các ngươi bỏ qua giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.
Con người phải được thanh tẩy liên tục để có thể nghe được Lời Chúa nói với mỗi người, và giữ mình khỏi bị ràng buộc bởi những lời giải thích Lời Chúa và luật Chúa. Truyền Lời Chúa lại cho con cháu, đó là bổn phận mà mỗi người thực thi. Tuy nhiên, con người phải phân biệt Lời Chúa và những giải thích về Lời Chúa. Cần thiết phải giữ Lời Chúa, chứ không phải giữ tập tục của con người. Thiên Chúa luôn muốn điều tốt lành cho con người, nên Lời Thiên Chúa làm con người được giải phóng khỏi mọi ràng buộc, giúp con người tự do và sống hạnh phúc với Thiên Chúa; ngược lại, tục lệ con người làm người ta trở thành nô lệ. Không được nhân danh Lời Chúa để bắt con người trở nên nô lệ cho những điều thuộc trần thế.
3. Thiên Chúa Đấng ban luật lệ cho con người
Luật Thiên Chúa ban cho con người, không phải để cưỡng ép con người, nhưng để giúp con người được tự do thực sự. Con người có thể bị ràng buộc bởi lòng ham mê tiền bạc, lòng ham mê sắc dục, sợ chết, v.v. Mười Lời (thập giới) được ban cho con người, giúp con người nhận ra mình bị nô lệ khi thấy mình đã vi phạm thập giới. Luật Chúa là dấu chỉ cho con người biết về chính mình.
Đấng ban luật cho con người, là Đấng muốn con người được tự do. Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo muốn loài, Ngài là chủ, là vua. Ngài không nô lệ bất cứ điều gì nhưng tự do với tất cả để yêu thương. Thiên Chúa yêu thương, và muốn con người nên giống Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn con người làm chủ tất cả, tự do với tất cả. Thiên Chúa muốn con người sống hạnh phúc như Thiên Chúa.
Khi con người còn quy tất cả về chính mình, thì con người chưa thể yêu thương thật sự. Khi con người muốn đặt mình trên tất cả, thì con người chưa thực sự được tự do. Yêu thương và phục vụ, là dấu chỉ của một người đang trở nên giống Thiên Chúa. Hạnh phúc không thể có được chỉ bằng thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người. Hạnh phúc đòi hỏi điều gì thâm sâu hơn, và chính Đức Giêsu đã sống hạnh phúc trong chính cuộc đời dương thế của Ngài. Hạnh phúc của Đức Giêsu, liên hệ đến tất cả con người của Ngài, và là tình trạng mẫu mực con người phải đạt. Khi đó con người sống an bình và hòa hợp với Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Tự do nội tâm là gì? Bạn có bị ràng buộc bởi điều gì “bất chính” không?
Theo bạn, luật lệ đời giúp gì cho con người? Luật Chúa giúp gì cho con người?
Với bạn, bạn cần tự do để yêu thương, hay chính khi bạn yêu thương thì bạn tự do?
Cả ba bài đọc Chúa Nhật nầy đều quy tụ về một điểm: cả ba đều xem những huấn lệnh của Thiên Chúa là quy luật sống cho mỗi người tín hữu.
Đnl 4: 1-2, 6-8
Lề Luật là cách diễn tả sự khôn ngoan và thánh thiện của Thiên Chúa; mỗi người phải lắng nghe và sống.
Gc 1: 17-18, 21-22, 27
Lời Chúa không chỉ phải được tiếp đón nhưng còn đem ra thực hành nữa.
Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23
Những huấn lệnh của Thiên Chúa không được thay thế bởi những quy tắc phàm nhân. Trong khi những quy tắc phàm nhân làm biến chất những huấn lệnh của Thiên Chúa và xem những tuân giữ bên ngoài là tầm quan trọng, thì những huấn lệnh Thiên Chúa biến đổi con người từ bên trong.
BÀI ĐỌC I (Đnl 4: 1-2, 6-8)
Tác phẩm nầy cốt yếu được cấu thành bởi ba diễn từ của ông Mô-sê, được đặt trong bối cảnh hư cấu ở đó ông Mô-sê ngỏ lời với dân Do thái trước khi họ tiến vào Đất hứa, để cảnh giác họ coi chừng những nguy hiểm đang rình rập họ khi sống ở giữa môi trường ngoại giáo và khẩn khoản họ trung thành với các huấn lệnh của Thiên Chúa.
Thật ra, con cái Ít-ra-en đã định cư ở đất Ca-na-an từ lâu rồi; họ đã để cho mình bị quyến rủ bởi những thực hành đa thần giáo, như họ đã để cho mình bị tiêm nhiểm bởi hoàn cảnh duy vật của một cuộc sống dể dãi, thậm chí xa hoa đối với vài người, với những lạm dụng và những bất công từ đó mà ra.
Khung cảnh hư cấu nầy cho phép trình bày một bài giáo lý đích thật về Giao Ước, được đặt dưới sự bảo lãnh của ông Mô-sê và mặc lấy cung giọng khuyên bảo khẩn thiết.
Bài giáo lý nầy bắt đầu ở chương 4 (các chương trước đó là phần dẫn nhập lịch sử) và bắt đầu với lời tán dương Lề Luật:
1. Lề Luật, nguồn mạch sự sống:
“Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe…” Biểu thức nầy thường được lập đi lập lại trong sách Đệ Nhị Luật, thường nhất được dùng một cách tuyệt đối, không có túc từ: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en” (Đnl 5: 1; 6: 4; 9: 1; 20: 3; 27: 9). Kinh nguyện truyền thống Do thái, được tụng niệm thường ngày, bắt đầu với những từ nầy: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en” (“Shema Israel”), được mượn ở 6: 6-9.
“Như vậy, anh em sẽ được sống”. Điều mà bản văn Đệ Nhị Luật nầy nhắm đến chính xác hơn, chính là cuộc sống của dân Ít-ra-en với tư cách dân Giao Ước. Không tuân giữ Lề Luật, chính là vi phạm Giao Ước và, vì thế đánh mất những phúc lộc của những lời hứa của Thiên Chúa. Vì thế, tiếp liền ngay sau những lời nầy là: “Như vậy, anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, là Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em”. Việc thực hành các huấn lệnh gắn liền với niềm tin vững chắc rằng Thiên Chúa đến phiên mình đảm bảo cho các tín hữu của Ngài cuộc sống trường thọ và thịnh vượng. Vào thời điểm nầy, những viễn cảnh vẫn ở trong chân trời trần thế; những hy vọng ở bên kia nấm mồ chưa được dự kiến.
Đối với dân Ít-ra-en, việc tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa là vấn đề sống chết. “Thế phải chọn lựa” này được đặt ra nhiều lần một cách nghiêm túc: “Anh em không được theo những thần khác trong số các thần của các dân chung quanh anh em, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Đấng ở giữa anh em, là một vị thần ghen tương; hãy coi chừng kẻo Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nổi cơn thịnh nộ với anh em và tiêu diệt anh em” (Đnl 6: 14-15) hay còn: “Nhưng nếu chẳng may anh em quên lãng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà theo các thần khác, phụng thờ và sụp lạy chúng, thì hôm nay tôi cảnh cáo anh em: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong” (Đnl 8: 19).
Những hoàn cảnh lịch sử đã đem lại cho thế chọn lựa nầy một tính cách bi thảm. Quả thật, có thể nghĩ rằng sách Đệ Nhị Luật, trong cấu trúc đầu tiên của nó, được soạn thảo bởi các tư tế của vương quốc phương Bắc, họ với tư cách những chứng nhân về những bất trung của dân Ít-ra-en, đã đưa ra lời mời gọi như cơ hội cuối cùng. Ấy vậy, vào năm 721 trước Công Nguyên vương quốc phương Bắc bị các đạo quân At-sua tận diệt! Vài tư tế trốn thoát được khỏi cuộc lưu đày và lánh nạn sang vương quốc phương Nam và đem theo bản văn của mình. Bản văn nầy đuwọc cất dấu trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem trong triều đại Mơ-na-sê, vị vua vô đạo (687-642 BC.); nó bị quên lãng và được gặp thấy vào lúc trùng tu Đền Thờ; lúc đó nó được dùng làm nền tảng cho việc cải cách tôn giáo của vua Giô-si-gia-hu (622 BC.). Nó đã được duyệt xét lại và bổ túc. Đây là điều mà người ta gọi ấn bản thứ hai của sách Đệ Nhị Luật.
Những huấn lệnh Tin Mừng cũng xuất hiện như những quy luật cuộc sống. Đức Giê-su sẽ sử dụng hầu như cùng những từ ngữ như ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật, nhưng Ngài cho từ “sống” ý nghĩa tròn đầy của nó khi nói với chàng thanh niên giàu có: “Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19: 16-17).
2. Lề Luật bất khả xâm phạm:
“Anh em đừng thêm gì…cũng đừng bớt gì…” Lời căn dặn kép nầy là nổi bận lòng của nhà lập pháp; biểu thức nầy được diễn tả trong Bộ Luật của vua Hammourabi ở Ba-by-lon vào thế kỷ thứ mười tám trước Công Nguyên; nó kèm theo nhiều lần những hiệp ước giữa các dân tộc; nó được các pha-ra-ô Ai-cập sử dụng và người ta biết rằng trong Tân Ước, câu sau cùng của sách Khải Huyền: “Ai mà thêm điều gì vào đó, thì Thiên Chúa sẽ thêm cho người ấy những tai ương mô tả trong sách nầy! Ai mà bớt điều gì trong các lời của sấm ngôn nầy, thì Thiên Chúa sẽ bớt phần người ấy được hưởng nơi cây Sự Sống và Thành Thánh, là cây và thành được mô tả trong sách nầy” (Kh 22: 18-19).
Nhưng ông Mô-sê khéo léo hơn bất cứ ai công bố tính bất khả xâm phạm của Lề Luật: ông chỉ là người trung gian truyền đạt những huấn lệnh của Thiên Chúa.
3. Lề Luật là lẽ khôn ngoan:
Lề Luật là lẽ khôn ngoan cho mỗi người, vì nó là kim chỉ nam cho cuộc sống đức hạnh (đây là ý nghĩa của từ Hy bá To-ra để chỉ Lề Luật). Trong toàn bộ đoạn văn nầy, tác giả đặt trên môi miệng của ông Mô-sê ngôn ngữ của một bậc hiền nhân; văn phong rất gần với văn phong của sách Châm Ngôn như để tâm suy niệm lẽ khôn ngoan mà chúng ta gặp thấy trong sách Ba-rúc, ở đó những từ ngữ cũng tương tự:
“Nghe đi nào, hỡi Ít-ra-en, những mệnh lệnh tặng ban sự sống, hãy lắng tai hiểu lẽ khôn ngoan. Đức khôn ngoan là huấn giới của Thiên Chúa ghi trong Sách Luật, Luật tồn tại cho đến muôn đời. Ai gắn bó với Lề Luật thì sẽ được sống; còn ai lìa bỏ ắt sẽ phải chết” (Br 3: 9; 4: 1)
4. Nhờ Lề Luật, dân Ít-ra-en được xem là một dân tộc vĩ đại: “Khi nghe nói về tất cả những chỉ thị đó, họ sẽ bảo rằng: Dân tộc vĩ đại nầy chỉ có thể là một dân khôn ngoan và thông minh”.
Sứ mạng phổ quát của dân Ít-ra-en không là nỗi bận lòng ưu tiên của sách Đệ Nhị Luật, được xoay quanh Giao Ước, vì lẽ sứ mạng phổ quát nầy rất hiếm kể ra trong tác phẩm nầy. Tính siêu việt của Lề Luật ban cho dân tộc nầy một tính cách mẫu mực và cho phép một dân tộc nhỏ bé đã tiếp nhận kho tàng nầy được gọi “một dân tộc vĩ đại”. Chúng ta gặp lại ở đây văn phong nồng nàn và cường điệu đặc trưng của vài đoạn văn Đệ Nhị Luật. Dân Ít-ra-en bé nhỏ, bị nghiền nát bởi vóc dáng to lớn của những đế quốc chung quanh, mặc dầu thế, được gọi “một dân tộc vĩ đại” vì Lề Luật của nó đảm bảo cho nó tính ưu việt tinh thần trên muôn dân.
5. Nhờ Lề Luật, Thiên Chúa ở gần dân.
“Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa chúng ta, ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Ngài”.
Lời khẳng định nầy đáp trả cho câu hỏi đầy xao xuyến của dân Ít-ra-en. Các thần linh dân ngoại được đúc tượng vẽ hình xem ra gần với các tín đồ hơn vị Thiên Chúa phi vật chất của dân Chúa chọn, đến mức Ngài không cho phép bất cứ hình tượng nào được dùng để tôn kính Ngài.
Thật ra, Thiên Chúa của Ít-ra-en rất gần với những ai kêu cầu Ngài. Hiệu quả của lời cầu nguyện đó là làm cho Thiên Chúa hiện diện ở trong lòng của mỗi người tín hữu.
Vả lại, cung giọng khái quát của sách Đệ Nhị Luật được ngự trị bởi ý tưởng về một Thiên Chúa yêu thương dân Ngài và ở giữa họ, một vị Thiên Chúa mà họ phải “yêu mến hết lòng hết dạ”. Nói thật ra, luật của Thiên Chúa không áp đặt từ bên ngoài vì “Lời rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành” mà chúng ta đọc thấy ở Đnl 30: 14, một bản văn loan báo giáo huấn Tin Mừng. BÀI ĐỌC II (Gc 1: 17-18, 21-22, 27)
Chúng ta bắt đầu đọc Thư của thánh Gia-cô-bê trong suốt năm Chúa Nhật.
Chung chung, tác giả được nhận dạng với ông Gia-cô-bê, người anh em họ của Đức Giê-su, lãnh đạo đầu tiên của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem; vì thế ông không là Gia-cô-bê Tông Đồ, anh của thánh Gioan, tử đạo vào năm 44 sau Công Nguyên. Vả lại, ở đầu bức thư của mình, tác giả không giới thiệu mình là Tông Đồ: “Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô” (Gc 1: 1). Để phân biệt hai vị thánh tiên khởi có cùng tên Gia-cô-bê nầy, người ta đặt biệt danh cho Gia-cô-bê Tông Đồ là “Gia-cô-bê Tiền”, và Gia-cô-bê anh em họ của Đức Giê-su là “Gia-cô-bê Hậu”. Chính Gia-cô-bê Hậu mà Đức Giê-su đã hiện ra sau khi Ngài sống lại, theo thánh Phao-lô (1Cr 15: 6-7); thánh nhân bị ném đã vào năm 62 do sự xúi dục của Thượng Tế lúc đó.
Thư được gởi cho các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái, sống rải rác trong thế giới Hy lạp-Rô ma (2: 2). Chung chung, người ta nghĩ rằng bức thư được viết vào khoảng giữa năm 58 và 62.
Những lời khuyên trong thư cấu thành một nền tảng giáo lý theo cung giọng cổ xưa: không có bát kỳ ám chỉ đến việc cùng chung sống giữa những tín hữu gốc Do thái và những tín hữu gốc lương dân. Giáo huấn được định vị vào truyền thống của các sách khôn ngoan Cựu Ước, được canh tân và soi sáng bởi sứ điệp Tin Mừng, nhất là bởi bài diễn từ “Các Mối Phúc Thật”, cho dù không được trích dẫn nhưng được gợi hứng từ những lời khuyên dạy luân lý.
Vài lời mở đầu đi trước các lời khuyên nầy.
1. Chúa Cha, nguồn mạch của mọi ân huệ tốt lành:
Thánh Gia-cô-bê bắt đầu gợi lên nguồn mạch đầu tiên của cuộc sống Ki tô giáo: mọi ân huệ đều xuất phát từ “Chúa Cha, Đấng tạo dựng muôn tinh tú”, ám chỉ đến công trình tạo dựng: trước hết là ánh sáng, đoạn các vầng sáng lớn nhỏ, theo chương thứ nhất của sách Sáng Thế; nhưng chắc chắn cũng phải hiểu theo nghĩa của những ánh sáng tâm linh.
“Nơi Người không hề có sự đổi thay, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng”. Những từ ngữ được sử dụng ở đây khiến chúng ta nghĩ đến chuyển động của các tinh tú. Người xưa chủ ý đồng hóa sự bền vững với chân lý, sự chuyển động với sự sai lạc. Tấm lòng quảng đại của Thiên Chúa được đảm bảo muôn năm bền vững, không hề “vật đổi sao dời”.
2. Người Ki tô hữu được sinh ra từ Thiên Chúa.
“Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thụ tạo của Người”.
Các Ki tô hữu được sinh vào cuộc sống đầy ánh sáng nhờ Lời chân lý, ân huệ tuyệt vời nhất của Chúa Cha, tức Chúa Con, Đức Giê-su Ki tô. Vì thế, họ trở thành “của đầu mùa trong các loài thọ tạo của Người”.
Phải chăng tác giả muốn nói rằng các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái mà thánh nhân muốn ngỏ lời hình thành nên một sự khởi đầu của nhân loại mới? Hay đúng hơn phải chăng nên hiểu: theo ý muốn của Chúa Cha, những người Ki tô hữu được xem như là hiến lễ đầu tiên của toàn thể nhân loại? Diễn ngữ “của đầu mùa” gợi lên ý tưởng thánh hiến cho Thiên Chúa.
3. Đức tin năng động:
Từ lời nhắc nhở đạo lý ngắn gọn nầy về ơn gọi Ki tô hữu, thánh Gia-cô-bê rút ra những kết luận thực tiển: quan trọng là phải có một đức tin tích cực và, đặc biệt, phải quan tâm đến những người nghèo, hai lời khuyên được lập đi lập lại như điệp khúc xuyên suốt Thư nầy.
Thật có ý nghĩa biết bao khi tác giả trích dẫn như mẫu gương sự giúp đỡ cô nhi quả phụ, đây là lời căn dặn truyền thống Cựu Ước (Xh 22: 21; Đnl 14: 29; 16: 11; 24: 19; Tv 68: 6; 14: 6, 9; Is 1: 7; Gr 7: 6; vân vân). Như vậy, thánh Gia-cô-bê nhấn mạnh sự liên tục từ luân lý Mô-sê đến luân lý Tin Mừng; không có đoạn giao nhưng kiện toàn. Đây là ghi chú căn bản của bức thư nầy vừa Do thái giáo vừa Ki tô giáo.
Hành xử như vậy chính là “giữ mình khỏi mọi vết nhơ của thế gian”, cách nói nầy vang dội Tin Mừng Mác-cô được trích dẫn hôm nay về sự thanh sạch trong lòng.
TIN MỪNG (Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23) Chúng ta lại tiếp tục đọc Tin Mừng Mác-cô, bị gián đoạn để nhường chỗ cho diễn từ bánh ban sự sống được trích từ Tin Mừng Gioan.
Mác-cô tường thuật cuộc tranh luận của Đức Giê-su với những người Biệt Phái, những người Biệt Phái miền Ga-li-lê nầy mà Ngài đã có chuyện xích mích rồi khi họ liên kết với vài kinh sư từ Giê-ru-sa-lem xuống, để một lần nữa điều tra lãnh vực hoạt động của Ngài, và chắc chắn với ý định cũng chẳng tử tế gì như lần đầu tiên, khi đó họ đã tuyên bố Đức Giê-su “bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám” (Mc 3: 22). Tại Tin Mừng Mác-cô, những kinh sư thường hiện diện như đối thủ tiêu biểu của Đức Giê-su, trái với Mát-thêu, đôi khi ông tránh nêu tên họ, có thể vì ông đã là một trong số họ.
1. Thanh sạch và ô uế theo Do thái giáo:
Khái niệm thanh sạch và ô uế chiếm một chỗ quan trọng trong Do thái giáo. Thật ra, mọi dân tộc đều đã phân biệt những cử chỉ thanh sạch và không thanh sạch để thiết lập ranh giới giữa phàm tục và thánh thiêng. Chẳng có gì phải ngạc nhiên nếu chúng ta gặp thấy những quy luật về sự thanh sạch và ô uế được trình bày trong sách Lê-vi, sách kim chỉ nam cho các tư tế. Nhưng những tín hữu bình thường cũng có thể bị uế nhiễm, vả lại thường nhất là uế nhiểm một cách tự nhiên chứ không có tương quan gì với tội lỗi như đụng chạm đến máu, một xác chết, việc ăn nằm, việc sinh đẻ, vân vân).
Tại người Do thái, hai quan niệm nhấn mạnh thái độ của họ:
“Tính cao vời khôn ví của Thiên Chúa”. Không phải Thiên Chúa của họ có những yêu sách cao hơn những yêu sách mà các thần linh dân ngoại đòi hỏi sao?
“Tính duy nhất của con người”. Con người là một thực thể bất khả phân giữa xác và hồn.Vì thế, tất cả nghi thức thanh tẩy những ô uế của con người bên ngoài cũng là thanh tẩy con người bên trong.
Sau cuộc lưu đày, người Do thái đã mất đi nền độc lập của dân tộc mình nên họ càng gắn bó hơn nữa vào chủ nghĩa đặc thù của dân tộc mình và đã tăng thêm những nghi thức cho phép họ phân biệt mình chừng nào có thể khỏi thế giới dân ngoại và nhấn mạnh phẩm chất của dân tộc mình là dân được Thiên Chúa tách riêng.
Về hiện tượng tăng thêm các nghi thức thanh tẩy, chúng ta có thể đưa ra một ví dụ chính xác: vài thập niên trước Chúa Ki tô, hai vị kinh sư danh tiếng, ông Hillel và ông Schmmaï, đứng đầu hai trường phái cạnh tranh nhau, đồng ý cùng nhau công bố một bản tuyên ngôn chỉ ra mười tám quy luật thanh sạch nghi thức.
2. Thanh sạch và ô uế theo Đức Giê-su:
Người ta đoán rằng những người Do thái đạo hạnh tuân theo muôn vàn lệnh cấm và tất cả mọi sự chú ý của họ đều hướng về những cử chỉ bên ngoài, do nỗi bận lòng về sự thanh sạch bên trong. Giáo Huấn của Đức Giê-su không chỉ nhắm đến thiết lập lại những viễn cảnh đúng, nhưng còn muốn nói rằng từ nay luật sống theo Thần Khí khởi đầu. “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người, lại có thể làm ô uế con người được; ; nhưng cái gì từ con người xuất ra, mới là cái làm cho con người thành ô uế”.
Đức Giê-su bắt đầu hủy bỏ ranh giới giữa những thức ăn thanh sạch và những thức ăn ô uế, cuộc cách mạng nầy sẽ được tiếp tục bởi các Tông Đồ (cf. Cv 10: 10) và thánh Phao-lô (1Cr 6: 12 và 10: 12-20). Việc mở ra cho thế giới lương dân đòi buộc phải trả bằng giá nầy và còn hơn nữa việc nội tâm hóa luật luân lý mà Đức Giê-su không ngừng công bố.
Trong bài trình thuật của Mác-cô, Đức Giê-su làm cho hiểu rằng mọi người đều có thể dự phần vào bàn tiệc của Ngài, không còn phân biệt Do thái hay lương dân nữa; chỉ những ai mà tấm lòng của họ muốn được thanh sạch là đủ.
Khi nói “Đạo Tại Tâm”, chúng ta thường hiểu theo ý nghĩa giữ đạo do tự trong lòng, chứ không hệ tại ở những việc làm bề ngoài. Chúng ta cũng thường kết án những người ‘giữ đạo bề ngoài’ mà tâm hồn thì trống rỗng, không thành thật; đó là “giả hình” hoặc “Pharisêu”. Thật ra, “Đạo tại tâm” không phải chỉ giữ ở trong lòng mà không cần giữ các lề luật bên ngoài, dù đó là luật đạo hay luật đời; nhưng “Đạo tại tâm” là “sống đạo và thực hành các giới răn của Chúa” với cả tấm lòng của chúng ta, chứ không phải chỉ để phô trương bề ngoài. Sống đạo thực sự là yêu mến và tuân giữ các giới răn của Chúa, và thực thi lòng yêu mến đó bằng cách yêu thương giúp đỡ mọi người, nhất là những người sống trong hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật.
Danh từ “Pharisêu” chỉ một nhóm người trong đạo Do Thái xưa. Họ thật sự là những người muốn tuân giữ chặt chẽ các lề luật Chúa do Môisê truyền lại, như chúng ta thấy trong Bài Đọc I hôm nay (Sách Đệ Nhị Luật 4: 1-2, 6-8): “Anh em chớ thêm bớt điều gì trong các điều mà tôi đã truyền cho anh em… Anh em hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa anh em… Anh em phải tuân giữ và thực hành…” Tuy nhiên, có nhiều người quá câu nệ vào hình thức bề ngoài, và cũng có nhiều người thích phô trương ra ngoài để chứng tỏ ta đây là người đạo đức, là những người biết sống theo lề luật cha ông để lại, nhưng trong lòng họ lại đầy những nham hiểm, mưu kế, dối trá, thù hận: “Họ làm mọi việc chỉ cốt để thiên hạ thấy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài!...” (Đúng là ‘thích khoe quần, khoe áo!’) (Matthêu 23: 25-28, Luca 11:39-44).
Những người “Biệt Phái” (tức Pharisêu) và Luật sĩ thời Chúa Giêsu thường hay rình mò và xét đoán các hành vi của Chúa và các môn đệ, và chỉ trích Chúa Giêsu và các môn đệ là những người ‘phá luật lệ’. Hôm nay, trong bài Phúc Âm (Matcô 7: 1-8, 14-15, 21-23), nhóm Biệt phái và Luật sĩ chỉ trích môn đệ của Chúa là “ăn uống với những bàn tay không trong sạch vì không chịu rửa tay trước khi ăn như luật lệ dạy…” Nhân dịp này, Chúa Giêsu muốn dạy họ một bài học thực tế về việc ‘giữ luật’ không nên quá câu nệ vào hình thức bề ngoài, nhưng quan trọng là do tự trong lòng (Đạo Tại Tâm). Chúa Giêsu không phá luật lệ Cha Ông để lại: “Con Người đến không phải để phá bỏ luật lệ, nhưng để kiện toàn!”. Cứ lo “rửa tay, rửa chén, rửa bình” mà không lo sống đạo đức thực sự thì thật là cách giữ đạo bề ngoài, là gỉa hình, như Thiên Chúa đã nói về họ qua lời tiên tri Isaia: “Dân này kính Ta bằng môi, bằng miệng mà lòng chúng xa Ta!” (Isaia 29:13). Nhân tiện, Chúa Giêsu cũng bảo họ: “Đừng bỏ giới răn Chúa để chỉ nắm giữ những luật lệ bề ngoài, vì sống đạo là thực thi giới răn Chúa, xa lánh tội lỗi như: ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, tỵ hiềm, ngạo mạn, ngông cuồng!...” (Matcô 7: 21-23).
Thánh Giacôbê trong Bài Đọc II (Giacôbê 1: 17-18, 21-22, 27) cũng nhắn nhủ chúng ta sống đạo bằng cách thực hành, đó là xa tránh tội lỗi và thực hành Đức Bác Ái: “Anh em hãy tẩy trừ mọi điều ô uế, gian ác… Anh em hãy mau mắn lãnh nhận Lời Chúa và đem ra thực hành, chứ đừng nghe xuông… Hãy giữ lòng mình khỏi mọi ô uế ở đời này… Hãy thăm viếng cô nhi, quả phụ trong cơn quẫn bách…”
Tác giả Thánh Vịnh 14 trong Bài Đáp Ca hôm nay cũng chỉ cho chúng ta biết thế nào là sống đạo thực sự: “Ai sẽ được sống trước Nhan Thánh Chúa: Đó là những người thanh liêm và và thực hiện điều công chính, trong lòng luôn suy nghĩ điều ngay, lưỡi không bịa lời vu khống, không làm điều sai trái cho người anh em, không nhục mạ những người lân cận, coi thường những kẻ bất nhân, mến yêu những người biết tôn thờ Chúa; đó là những người không xuất tiền đặt nợ thu lời, không ăn hối lộ để làm hại những người hiền lương. Những người thực thi những điều đó thì muôn đời đứng vững, không bị lung lay!”
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện xin Chúa là Cha nhân từ tha thứ mọi lỗi lầm của chúng ta trong quá khứ, giúp chúng ta thật lòng ăn năn chừa cải. Xin Chúa cho chúng ta sống đạo với cả tâm hồn chúng ta, với lòng yêu mến Chúa và yêu thương mọi người. Xin Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh là những vị đã thành tâm sống đạo và đã nên Thánh sau cuộc đời gian nan trần thế, chuyển cầu cho chúng ta. Trong “Năm Linh Mục” này, chúng ta cũng tiếp tục cầu nguyện nhiều cho các Chủ Chăn, các Linh mục luôn được lòng nhiệt thành phục vụ Chúa và mọi người. Xin đặc biệt cầu nguyện nhiều cho các Chủ Chăn, Linh Mục đang gặp nhiều khó khăn, thử thách; nhất là ở Việt-Nam hiện nay.
Trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh, có hàng ngàn người xuống đường tuần hành qua các đường phố, hô to các khẩu hiệu chống chiến tranh. Ban đầu, đám đông hô vang: "đả đảo bom giết người!"
Sau đó, trong nhóm tham gia biểu tình có cuộc tranh luận nhỏ: "Làm gì có bom giết người! Bom đạn có giết ai đâu? Chỉ có những người ác chế ra bom đạn, rồi ném bom lên đầu người khác mới gây nên tội giết người."
Thế là sau đó, người ta hô khẩu hiệu khác, hợp tình hợp lý hơn: "Đả đảo những kẻ giết người!"
Nhưng rồi lại có người bàn thêm: "Đâu phải tự dưng mà người lại giết người. Phải có động cơ nào đó thúc đẩy mới có chuyện giết người. Nếu không có lòng tham lam, ghen tị và những dục vọng xấu xa thúc đẩy, nào có ai lại đi giết người?" Ý kiến nầy được xem là chí lý.
Thế là cuối cùng, mọi người hô to khẩu hiệu khác: "Đả đảo lòng tham lam! Đả đảo ghen tị! Đả đảo hận thù!" (dựa theo Cha Anthony de Mello)
Chính những dục vọng đen tối trong lòng người mới là nguyên nhân chính gây nên mọi xấu xa trong cuộc đời và trên thế giới. Cội nguồn sự ác nằm trong thâm tâm con người.
Vì chưa hiểu điều nầy, những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giê-su cứ lo rửa ráy bên ngoài mà không lo rửa sạch nội tâm. Họ chú mục vào việc rửa tay trước khi dùng bữa, cho rằng đó là việc quan trọng hàng đầu và trách móc các môn đệ Chúa Giê-su đã bỏ qua tập tục đó.
Nhân cơ hội nầy, Chúa Giê-su dạy cho các ông một bài học: "Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế." (Mác-cô 7, 14-15. 21-23)
Để hiểu rõ hơn bài học nầy, chúng ta hãy nhìn lại trường hợp Cain và Aben.
Cain và Aben là hai anh em ruột thịt hằng ngày vẫn yêu mến, hoà thuận với nhau.
Thế rồi, sau khi thu hoạch hoa màu lợi tức, hai anh em cùng nhau dâng của lễ đầu mùa lên Thiên Chúa. Thiên Chúa nhận lễ vật của Aben mà từ khước lễ vật của Cain.
Thế là từ đó, trong Cain phát sinh lòng ghen tị. Lòng ghen tị lớn dần lấn át cả tình anh em ruột thịt khiến Cain dụ em ra đồng và xông vào đánh chết người em.
Chính lòng ghen tị trong tâm hồn Cain là nguyên nhân chính xui khiến anh giết chết Aben.
Một trường hợp tương tự khác là vua Sa-un và Đavít.
Thời ấy, Gô-li-át, một kiện tướng của quân Philitinh, một người khổng lồ có sức mạnh vô địch, khiêu chiến với quân Ít-ra-en. Trong hàng ngũ quân Ít- ra-en, không ai dám đương đầu với tên khổng lồ ấy.
May thay, Đa-vít xuất hiện kịp thời. Cậu dùng ná bắn lủng trán Gô-li-át, rồi dùng chính gươm của y mà chặt đầu y. Quân Ít-ra-en bấy giờ thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, đánh tan quân địch không còn manh giáp.
Sau đó, phụ nữ từ các thành Ít-ra-en tuôn ra các ngã đường chào mừng vua Sa-un chiến thắng và ca tụng Đa-vít như vị anh hùng kiệt xuất: "Vua Sa-un giết được một ngàn, còn Đa-vít giết được hàng vạn". (Samuen I, 18, 6-8)
Lời ca tụng đó làm cho lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un. Nhà vua tìm mọi cách tiêu diệt Đa-vít và cuối cùng đem quân truy lùng tận những hang núi sâu, mưu toan tiêu diệt vị anh hùng tài năng và dũng cảm nầy.
Đúng là những gì xấu xa trong lòng người mới làm cho người ta ra nhơ uế. Cội nguồn sự ác nằm trong thâm tâm con người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn vào tận đáy lòng mình để phát hiện ra những ham muốn xấu xa, những kiêu căng và ghen tị, những tham lam và thù ghét đang âm ỉ trong lòng. Chính những thứ đó mới là nguyên nhân gây nên tội ác, tạo nên mọi điều xấu xa trong xã hội loài người.
Nếu chúng ta không phát hiện và nhổ bỏ những dục vọng xấu xa đen tối khỏi tâm hồn mình, thì dần hồi chúng sẽ lớn mạnh lên, sẽ điều khiển chi phối đời sống chúng ta và chúng ta sẽ trở thành những con rối trong bàn tay dục vọng.
Sống và giữ đạo luôn phải đi song song với nhau. Đọc Tin Mừng có lẽ ai cũng phải nhận rằng đối với người Pharisêu và Luật sĩ việc giữ đạo, giữ luật lệ của họ thật ra không ai có thể sánh bằng họ…Thế mà, Chúa Giêsu lại khiển trách, mắng họ một cách thậm tệ bởi vì họ chỉ giữ luật bề ngoài, giữ những điều tỉ mỉ, những điều phụ thuộc mà quên đi cái cốt lõi là chiều sâu, là tình yêu mến, đức ái. Bài Cựu ước và bài đọc 2 trong thánh lễ hôm nay đều nhắc nhở chúng ta và mọi người điều đó. Bài Tin Mừng của thánh Marcô cho thấy những người chỉ giữ đạo bề ngoài, những hình thức xem ra hào nhoáng, bóng bảy, những tập tục bên ngoài là những kẻ giả hình.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu thường đem các người Pharisêu, những Luật sĩ ra để dạy mọi người. Điều Pharisêu và Kinh sư quý trọng các tục lệ, các truyền thống của tiền nhân là một điều tốt lành. Tuy nhiên, họ lại quá chú trọng đến cái bề ngoài, quá tỉ mỉ, đến độ họ câu nệ vào những điều hết sức nhỏ nhặt, không thể chấp nhận được để cho đó là điều phải giữ, khiến họ trở thành những người giả hình, kiêu căng, tự mãn. vv…Họ tự mãn về con người của họ, nới rộng áo, để dài tua áo, đeo tùng teng thẻ kinh, tự coi mình là những con người gương mẫu, đạo đức cho kẻ khác, coi mình là giỏi, là biết luật hơn người khác nên tỏ ra khinh thường mọi người, xét nét và bắt bẻ người khác. Đoạn Tin Mừng Marcô vừa đọc cho thấy họ trách, bắt bẻ môn đệ của Chúa Giêsu không rửa tay trước bữa ăn nghĩa là không giữ tập tục của tiền nhân. Và rồi để dạy họ, Chúa đã nói thẳng với họ rằng họ chỉ lo giữ bề ngoài nhưng bên trong đầy gian ác. Dâng của lễ cho Chúa, nhưng bất hiếu, không chăm nom săn sóc cha mẹ thì cũng chẳng đẹp lòng Chúa.Chính vì thế, Chúa cảnh cáo họ giữ các tục lệ cho kỹ, tỉ mỉ, nhưng bỏ qua các giới răn của Chúa, nhất là giới răn bác ái yêu thương thì chẳng có nghĩa gì, chẳng có giá trị gì cả. Đó chỉ là thái độ sống giả hình, thái độ bên ngoài: "Mồ mả tô vôi, nhưng bên trong đầy thối tha”.
Chúa dạy mọi người, dạy chúng ta phải làm mới trái tim, làm mới cõi lòng. Bởi vì nguồn gốc của việc lành hay dữ là do cõi lòng. Thiện căn ở tại lòng ta mà. Do đó, tục ngữ ca dao vẫn nói: ”Người làm sao chiêm bao làm vậy “, ” Lòng đầy mới trào ra bên ngoài “ ( hữu ư trung xuất hình ư ngoại ) là thế. Chúng ta phải luôn làm mới tâm hồn, gột rửa tâm hồn và làm sáng trái tim để những điều chúng ta chất chứa trong tim, trong lòng luôn là những điều tốt lành, nhờ đó, những lời nói, việc làm của chúng ta đem lại niềm vui và tốt đẹp cho mọi người.Chúng ta hãy nhớ lời của Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia nói rằng: ” Ta chán ngấy các lễ tế của các ngươi. Thôi đừng dâng lễ Ta bằng những lễ vật vô bổ nữa “ hoặc “ Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng chúng thì lại xa Ta một trời một vực !”. Nên, chúng ta phải để lòng chúng ta chất chứa những điều tốt đẹp, tránh những điều ác độc, vì những tư tưởng tốt lành sẽ hướng dẫn hành động và cuộc sống của chúng ta. Thánh Giacôbê đã nói với nhân loại, với mỗi người chúng ta: ” Hãy tiếp nhận những lời mà những lời đó có sức mạnh để cứu thoát anh em.Hãy thực hành những lời đó. Nếu tất cả những gì anh em thực hiện là lắng nghe thì anh em đã tự lường gạt chính mình “.
Điều cốt lõi trong đạo của Chúa không phải là chúng ta làm được điều này điều nọ nhưng chính là tình yêu thúc đẩy chúng ta hành động, tình yêu phát xuất từ con tim để chúng ta yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân.Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô đoạn 13 đã viết:
“…Tình yêu là vĩnh cửu. Vì thế tình yêu chính là điều anh em phải nỗ lực tìm kiếm”.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng bao giờ quên cốt lõi của Tin Mừng là yêu thương. Amen.
Chúng ta biết trong thời gian Chúa Giêsu cùng các môn đệ bôn ba khắp đó đây để rao giảng Tin mừng, đã có không ít người bị cuốn hút vào lời rao giảng cũng như những việc Người làm. Thế nhưng cũng không thiếu những kẻ bước theo Chúa không ngoài mục đích để theo dõi, rình mò. Và chắc chắn trong số đó không thể không có “mật thám” của những người Pharisêu và Kinh sư được “cài” vào trong đám dân chúng để rồi sau khi “phát hiện” ra rằng các môn đệ Chúa dùng bữa mà không rửa tay theo đúng truyền thống của tiền nhân. Vì thế, họ lên tiếng phàn nàn, trách móc và chất vấn Chúa Giêsu. Trước vấn đề này, chúng ta hãy xem quan điểm của Chúa Giêsu thế nào.
Người Dothái từ lâu vẫn giữ rất cẩn thận luật sạch – dơ. Họ giữ cẩn thận đến mức lẫn lộn chẳng biết cái nào chính cái nào phụ nữa. Chung quy cũng bởi vì mấy ông lãnh đạo của họ “thừa giấy vẽ voi”, vẽ rồng vẽ rắn vào đấy. Chúng ta biết rằng đạo Dothái chỉ buộc các Tư tế thuộc chi tộc Aharon rửa tay trước khi cử hành tế tự (x. Xh 30, 17-21). Ấy vậy mà những “ông kẹ” này lại áp đặt cho tất cả mọi người Dothái phải thực hiện hành vi này ngay cả trước lúc dùng bữa. Lý do vì họ nại cớ rằng mọi bữa ăn đều là hành vi tôn giáo và do đó tất cả dân Dothái đều là dân Tư tế. Để biện minh cho cách lập luận này, họ gán tất cả cho Môsê đã truyền lại. Thế là “dân đen nhà ta” cứ thế tối mắt tối mũi tuân chỉ, còn họ thì rình rình mò mò để theo dõi, để bắt bớ, để trừng phạt những ai không tuân hành.
Chúng ta biết rằng, chính điều luật Thiên Chúa đượclưu truyền mới là truyền thống đích thực, một truyền thống phát xuất từ chính Thiên Chúa tuôn chảy đến con người, chứ không phải là thứ truyền thống do con người đặt ra, và, tệ hơn nữa, đặt ra để phục vụ cho những lợi ích nhỏ nhen và thấp hèn. Vì lẽ đó, trước sự phản ứng của mấy “ông kẹ” này, Chúa Giêsu đã cho họ thấy rằng lời Ngôn sứ Isaia xưa nói về họ quả không sai “dân này thờ Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng thì xa Ta” (Is 29,13).
Chúa Giêsu đã chỉ cho họ thấy rằng điều căn bản nhất là điều răn của Thiên Chúa lẽ ra họ phải nhất mực tuân giữ; thì trái lại, họ lại quá chú trọng đến truyền thống của cha ông họ là những truyền thống đến từ người phàm; họ quan trọng hoá những hình thức bên ngoài mà quên mất những hành vi phượng tự xuất phát từ bên trong tâm hồn. Do đó, giáo huấn của Chúa Giêsu như một lời cảnh tỉnh, giúp họ tỉnh ngộ trước những việc làm đầy tính hình thức này.
Liên quan đến việc sạch dơ, Chúa Giêsu giải thích rõ ràng rằng không phải cái từ bên ngoài -là những luật lệ mà người Dothái tuân giữ, làm cho họ nên thanh sạch, nhưng chính là cái phát xuất từ bên trong mới làm cho con người ra ô uế. Đó là những tư tưởng, tâm tình, ý định bất chính, v.v…. Nguồn gốc làm cho con người ra ô uế chính từ bên trong “tận đáy lòng” của con người. Chúa Giêsu bắt đầu liệt kê hàng loạt những ý định xấu từ trong lòng con người phát xuất ra. Đó là nguồn gốc làm cho con người ra ô uế. Liệt kê 12 điều xấu xa của lòng người như tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo và ngông cuồng, Chúa Giêsu không gì khác hơn là nhắc nhớ họ đâu là điều cần phải tránh để khỏi làm tâm hồn họ ra ô uế.
Bên cạnh đó, Chúa Giêsu còn cho người Dothái và cả chúng ta nữa biết rằng, con người thanh sạch không hệ tại ở dáng vẻ bên ngoài, không phải là những tuân giữ luật Chúa cách máy móc, cốt cho người ta thấy; không phải là cử chỉ bên ngoài của những kẻ mang tâm địa “miệng nammô, ruột bồ dao găm” mà là xuất phát từ chính tâm hồn công chính thánh thiện. Con người thanh sạch phải là con người có trái tim phát xuất từ chính Thiên Chúa. Họ tuân giữ điều răn của Thiên Chúa không vì để “lòe” thiên hạ mà cốt để tôn vinh Thiên Chúa – Đấng mà họ mến yêu, tôn thờ. Họ tuân giữ các giới luật không bởi vì bị buộc phải làm vậy mà vì ý thức rằng những điều đó mang đến cho họ sự bình an thư thái, mang đến cho họ nguồn hạnh phúc đích thực trong tâm hồn.
Người Kytô chúng ta được mời gọi sống và giữ đạo để trở nên công chính ngay từ bên trong tâm hồn chứ không phải giữ đạo theo kiểu ngụy trang, hình thức bên ngoài. Xin cho Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta phản tỉnh để xem thái độ sống và giữ đạo của chúng ta có theo đường lối và huấn lệnh của Thiên Chúa hay là như cách sống và giữ đạo của mấy ông Pharisêu và Kinh sư xưa – lối sống và giữ đạo đã bị Chúa Giêsu lên án. Hãy nhớ rằng, giới luật của Thiên Chúa là trên hết, vượt trên mọi nguyên tắc luật lệ và truyền thống của con người.
Hai thanh niên A và B ngồi tâm sự với nhau: A: “Sao mày có vẻ lo âu quá vậy?” B: “Tao sắp có con rồi !” người kia trả lời. A: “Có con thì vui chứ sao lại buồn như thế?” B: “Vui sao được! Vợ tao chưa biết…”
“Mẹ ơi! Bố đâu rồi hả Mẹ? Mẹ biết con rất cần Bố; nếu không, cuộc sống con sẽ không trọn vẹn đâu Mẹ ạ!” Thật không dễ dàng gì khi phải bàn về vai trò của người cha trong xã hội hiện nay, nhưng chẳng cần phải là một thiên tài để biết rằng con cái cần tình thương của cả người cha lẫn người mẹ để có thể phát triển bình thường. Tình thương của người cha ít nhiều khác với tình thương của người mẹ nhưng con cái phải cần đủ cả hai.
Chúa Nhật này là Father’s Day –ngày Nhớ Ơn Cha. Năm 1909, một phụ nữ Mỹ là Sonora Dodd chợt nảy sinh ý tưởng thành lập ngày Nhớ Ơn Cha trong lúc lắng nghe một bài thuyết giảng nhân ngày Nhớ Ơn Mẹ.
Bố của Sonora là William Smart –một cựu chiến binh thời Nội Chiến tại Hoa Kỳ. Mẹ Sonora mất khi vừa sinh đứa con thứ sáu và Wiiliam phải “gà trống nuôi con”. Rồi khi đầy lông đủ cánh, Sonora mới thấu hiểu đuợc những hy sinh trời biển của cha mình nhất là từ khi mẹ không còn sống cạnh bên. Và nếu đã có ngày Nhớ Ơn Mẹ, thì tại sao lại không có ngày Nhớ Ơn Cha?
Có ai đó đã viết rằng một trong những món quà qúy giá nhất mỗi người nhận được từ Thượng Đế là Bố. Là Ba. Là Tía. Là Cha … Dẫu cho xã hội có thay đổi như thế nào đi chăng nữa, ngày Nhớ Ơn Cha phải đuợc xem như một nhắc nhở là người cha vẫn còn giữ một vai trò quan yếu trong từng mỗi gia đình.
Viết như thế không phải là để chỉ trích những gia đình mà vì lý do này hay lý do kia, cha mẹ không còn chung sống với nhau đuợc nữa. Nhưng Ngày Nhớ Ơn Cha, cũng như ngày Nhớ Ơn Mẹ, là một cơ hội để những bậc làm cha mẹ khắc ghi trong tâm trong trí là có thể mua cho con cái bất cứ thứ gì, nhưng không thể mua bất cứ nơi đâu tình yêu của nguời cha. Và người mẹ.
Như Môisen đã nói cùng dân Do Thái năm xưa là “chớ thêm bớt điều gì nhưng hãy tuân giữ các giới răn của Chúa; hãy ý tứ và giữ mình và dạy cho con cái biết các điều ấy.” Thật thế, “điều quan trọng thiết yếu nhất mà mỗi người cha có thể làm cho con cái mình,” như Theodore Hesburgh nhận xét, “là yêu thương mẹ chúng nó.”
Chẳng cần phải chứng minh là sự giáo dục cần thiết nhất của con cái thường do tự nguời cha. Khi đuợc hỏi là nhận đuợc sự huấn luyện từ đâu, cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đã không ngần ngại trả lời: “Từ Cha tôi.” Mà lắm khi cũng chẳng cần gì phải dạy dỗ khi lời nói đi đôi với việc làm, khi như thánh Giacôbê viết, “thực thi lời đã nghe.” Hoặc như Clarence Kelland đã có lần tâm sự rằng cha của cô không dạy cô phải sống thế nào: “Bố tôi sống, và Bố để cho tôi quan sát Bố sống. Thế thôi!”
“Một người cha bằng tá thầy giáo!” Hãy cầu nguyện để mỗi người cha đuợc biết sống trung thành với ơn gọi thiêng liêng cao qúy này. Như Mẹ Thánh Têrêsa đã khuyên những người cha: “Bạn có thể làm gì để cổ vũ cho hoà bình trên thế giới?. Hãy về và yêu thương chính gia đình mình.”
Người đời thường nói:”Thèm lòng chứ ai thèm thịt” hoặc “Vị tình vị nghĩa, không ai vị đĩa xôi đầy”, có nghĩa là người ta đến giỗ tết hiếu hỉ, thăm nom vì quan hệ tình cảm, vì cái lòng tốt đối với nhau chứ không phải cốt để ăn uống hoặc là thèm muốn miếng thịt đem biếu nhau. Trong quan hệ hằng ngày người ta cần cái lòng tốt chứ không cần hình thức bề ngoài. Câu tục ngữ này cũng giúp chúng ta hiểu rằng khi đến với Chúa, ta không cần phải chú trọng quá vào hình thức mà cần tấm lòng của chúng ta đối với Chúa, đó là yêu Chúa và tha nhân.
I. LỀ LUẬT VÀ TRUYỀN THỐNG
Trong Cựu ước, bộ luật có tới 613 khoản, nhưng những khoản luật đó chỉ nói trên nguyên tắc, còn trong áp dụng thực hành người ta còn thêm vào những lời cắt nghĩa mà ta gọi là truyền thống hay truyền khẩu. Như vậy có hai thứ luật:
1. Luật thành văn
Trong hai thứ luật này có cái cổ hơn và quan trọng hơn là Lề luật thành văn. Lề luật này căn cứ trên sách Torah (Ngũ Kinh), nghĩa là 5 cuốn sách đầu tiên của Cựu ước, đôi khi còn gọi là luật Maisen. Thật ra, Ngũ kinh hàm chứa một ít qui tắc và chỉ dẫn chi tiết, nhưng về các vấn đề đạo đức, những gì được nêu lên chỉ là một loạt nguyên tắc mà người ta phải tự giải nghĩa và ứng dụng cho riêng mình. Trong một thời gian dài, dân Do thái bằng lòng với những “kiểu mẫu” này. Họ áp dụng vào đời sống vì thấy chúng thích hợp.
2. Luật truyền khẩu hay truyền thống
Tuy nhiên, đến thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, có một nhóm chuyên nghiên cứu Lề luật, dưới biệt hiệu là Luật sĩ (Kinh sư). Nhóm người này thấy những điều luật tổng quát trong bộ luật ấy quá mơ hồ, thiếu tính rõ ràng, cần phải được soạn thảo lại cho rõ ràng hơn, với nhiều chi tiết hơn. Do đó, họ muốn triển khai, phóng đại, phân tích các nguyên tắc lớn ấy biến chúng thành hàng ngàn lề luật, qui tắc nhỏ nhặt, để điều khiển từng hành động, từng hoàn cảnh của đời sống. Các luật lệ và qui tắc ấy không hề được viết ra cho đến sau thời Chúa Giêsu một thời gian dài. Chúng vẫn được gọi là Luật truyền khẩu, đây chính là cái gọi là tương truyền của người xưa.
II. TRUYỀN THỐNG TRONG NGHI THỨC RỬA TAY
1. Tập tục rửa tay
Trong khoảng thời gian này, trong dân chúng Do thái, có rất nhiều người muốn bắt chước các tư tế của họ về sự thánh thiện bề ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn theo lề luật thành văn, mọi tư tế đều phải rửa tay khi vào nơi thánh trong đền thờ. Mục đích của luật này là tẩy rửa đi tất cả những gì là ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa hơn. Dần dần, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Và bằng những suy nghĩ tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước khi dùng bữa.
Có nhiều luật lệ rõ ràng và nghiêm nhặt về việc rửa tay. Trước khi dùng bữa và giữa hai món ăn, người ta phải rửa tay, và phải rửa theo một nghi thức nhất định. Để bắt đầu, phải làm cho đôi bàn tay không còn dính đất cát vôi vữa sỏi sạn vụn hay các vật tương tự. Nước rửa tay phải được đựng trong những choé đá lớn, hay bình bằng đồng, để chính chúng cũng thanh sạch theo ý nghĩa lễ nghi, và để được chắc chắn là chúng không được dùng vào việc gì khác và chẳng có vật gì rơi rớt hay lẫn lộn, pha trộn vào đó.
Nghi thức rửa tay phải như thế này: trước hết bàn tay được xoè ra, các đầu ngón tay chỉ lên trên, nước phải được đổ phía trên và chảy xuống ít nhất đến cổ tay. Lượng nước tối thiểu phải dùng là một phần tư log, tương đương với số nước đựng đầy một vỏ quả trứng rưỡi. Trong lúc bàn tay vẫn còn ướt phải rửa bàn tay này bằng mu bàn tay kia. Đây là cách giải nghĩa cách thức rửa tay bằng mu bàn tay kia: mu bàn tay này phải kỳ cọ vào lòng bàn tay kia và toàn thể bề mặt của bàn tay kia. Như thế có nghĩa là trong giai đoạn này, hai bàn tay đã ướt nước, nhưng bây giờ nước đó đã bị dơ vì đã tiếp xúc với hai bàn tay dơ rồi. Một lần nữa phải chụp các ngón tay lại, chúc xuống dưới rồi đổ nước lên, sao cho nước từ cổ tay chảy xuống khắp các đầu ngón tay. Sau khi đã làm đúng như thế, thì đôi tay mới được sạch.
2. Rửa tay là việc quan trọng
Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ sinh mà là tập tục tôn giáo về “sạch” và “dơ”, được ghi thành luật của Maisen trong sách Lêvi, được thêm vào nhiều chi tiết và qui định rõ ràng qua truyền thống.
Vào thời Đức Giêsu, dân Do thái tuân giữ những lệnh truyền khẩu này cũng tỉ mỉ và thành tín chẳng khác nào lề luật thành văn của Ngũ Kinh. Ý tưởng hàm chứa đàng sau việc tuân giữ này quả thực cao đẹp, bởi vì nó nhằm mục đích làm cho tôn giáo thấm nhập vào mỗi hành vi của cuộc sống, nhưng trong quá trình thực thi luật lệ này, một điều bi đát đã xẩy ra vì tôn giáo đã dần dần thoái hoá thành một hoạt động chỉ đơn thuần là chu toàn những nghi thức bên ngoài: tuân giữ những nghi thức này thì được kể là làm đẹp lòng Thiên Chúa, còn không giữ chúng đồng nghĩa với phạm tội. Nói tóm lại, tuân giữ những nghi thức bên ngoài này được đồng hóa, được đánh giá là đạo đức, là biết phụng sự Chúa.
Truyện: Nhịn uống để rửa tay.
Có một thầy tiến sĩ luật Do thái bị đi tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu, nhằm mục đích kéo dài cuộc sống cho qua ngày. Thời gian trôi qua, thầy luật sĩ yếu dần. Cuối cùng, người ta phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông bị thiếu nước.
Các sĩ quan cai ngục không hiểu nổi tại sao ông ta lại có thể thiếu nước. Bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, nhưng vẫn tương đối đủ cho một cơ thể. Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát thầy luật sĩ một cách kỹ lưỡng hơn, xem ông ta làm gì với số nước ấy. Cuối cùng, người ta khám phá ra bí mật. Thầy luật sĩ ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn uống. Như thế ông ta chỉ còn lại rất ít nước để uống.
3. Ý nghĩa việc rửa tay
Ngày nay, có một sự quan tâm to lớn đối với việc làm sạch sẽ thân thể. Vì thế mới có mọi thứ quảng cáo về xà bông và nước hoa. Và cũng có sự quan tâm về môi trường – với chất lượng của nước uống, thực phẩm và không khí. Điều đó không phải là quan trọng. Chỉ có một điều là có một môi trường khác còn quan trọng hơn: môi trường đạo đức. Điều xấu là ô nhiễm tồi tệ nhất trong mọi thứ ô nhiễm (Flor McCarthy).
Thực ra, việc rửa tay không phải chỉ nhằm việc vệ sinh thân thể nhưng là việc vệ sinh tâm hồn. Rửa tay là có ý rửa cho linh hồn mình được sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Trong thánh lễ, khi chủ tế rửa tay với chút nước thì đọc: ”Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tôi con phạm xin Ngài thanh tẩy”. Nhưng tiếc thay, nhiều người Do thái chỉ chú trọng rửa tay là rửa tay theo truyền thống mà không để ý đến việc thanh tẩy tâm hồn mình. Vì thế, nhà thần học William Barclay nói:”Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tủy mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ một cách chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác”.
III. SAI LẦM TRONG VIỆC GI” TRUYỀN THỐNG
1. Họ chỉ biết giữ lấy truyền thống
Đọc bốn sách Tin mừng, ta phải nể phục sự nghiêm túc giữ luật của các luật sĩ Do thái: họ giữ luật Maisen cẩn thận từng chi tiết, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ngoài những điều khoản của Lề luật, họ còn giữ cả những chi tiết nhỏ mọn trong truyền thống Do thái giáo.
Nhưng Đức Giêsu đã cho họ thấy rằng sự thánh thiện không hệ tại việc giữ một cách chi tiết như thế, hay giữ theo hình thức bên ngoài, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều. Cái đó ở trong nội tâm chứ không phải ở bên ngoài.
Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những chi tiết hay những hình thức bên ngoài của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt tủy của lề luật. Đức Giêsu đã tố giác điều ấy: ”Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình ! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng (=tức những điều phụ thuộc), mà bỏ những điều quan trọng nhất trong lề luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ”(Mt 23,23). Như vậy, theo Đức Giêsu, ba điều quan trọng nhất trong lề luật, tinh thần của lề luật, cũng là cốt tủy của sự thánh thiện, chính là chân lý, công lý và tình thương.
Đối với lòng nhiệt thành giả tạo có vẻ quá hình thức này, Đức Giêsu nghĩ thế nào về họ ? Ngài trách cứ họ hai điều: một là giả hình, hai là làm đảo lộn giá trị.
2. Họ là những người giả hình
Họ giả hình vì cũng như thời tiên tri Isaia, người ta không nghĩ đến sự hối cải trong các tâm hồn, mà chỉ bận tâm đến việc thực hiện mấy việc bên ngoài: ”Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người”(Is 29,13).
Thiên Chúa là chân lý tuyệt đối, có nghĩa là sự gian dối không có chỗ nơi Ngài, không được Ngài ưa thích và ủng hộ. Trái lại, Thiên Chúa lên án cách sống giả hình, sai lạc với sự thật. Thiên Chúa không khinh chê người yếu đuối, tội lỗi, nhưng khinh chê những người đạo đức giả. Thiên Chúa yêu thương, tha thứ cho những yếu đuối, tội lỗi, nhưng Thiên Chúa không thể chấp nhận kẻ sống giả hình.
Nếu chỉ có những hành động bên ngoài mà không có tinh thần cốt tủy bên trong, thì việc giữ luật đó sẽ ít giá trị trước mặt Chúa. Còn những người luật Chúa thì không giữ, lại chỉ lo giữ những tập tục tôn giáo truyền thống, chẳng hạn một số thói quen mà ta gọi là “việc đạo đức”, những hình thức do con người sáng tạo...thì việc giữ những tập tục ấy lại càng ít giá trị hơn.
Những người giả hình này đáng người ta tặng cho cái nhãn hiệu “Tốt mã dẻ cùi”. Chim dẻ cùi là một giống chim đẹp, mỏ đỏ, đuôi dài, lông mã, lông đuôi sặc sỡ ngũ sắc, coi giống chim phượng. Người ta đã gọi là phượng hoàng Nam (phượng hoàng của nước Nam) hay phượng hoàng đất. Nhưng chim dẻ cùi phải cái tật hay ăn cứt chó, cứt lợn. Người ta đã có câu:
Dẻ cùi tốt mã dài đuôi,
Hay ăn cứt chó, ai nuôi dẻ cùi.
Dẻ cùi tiếng hót lại không hay, vì vậy dẻ cùi tuy đẹp mã thật, song người ta không qúi mà lại khinh. Người ta thường dùng câu “Tốt mã dẻ cùi” để riễu người bề ngoài đẹp đẽ sáng sủa, ăn bận diêm dúa mà bụng dạ bẩn thỉu không tốt mà lại vô tài. (Văn Hoè, Tục ngữ lược giải, 1957, tr 198)
Truyện: Sư máy.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/08/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “Sư máy”. Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi giơ lên, một tay thì gõ mõ, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này đưa ra nhằm đáp ứng cho ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
3. Họ làm đảo lộn giá trị
Họ chỉ giữ tập tục của tiền nhân là những tập tục của con người đặt ra. Các tiền nhân của người Do thái đặt ra nhiều tập tục tỉ mỉ mà các biệt phái và luật sĩ tuân giữ rất nhiệm nhặt. Biệt phái là những người Do thái rất sùng đạo, nhưng sùng đạo cách giả hình, vụ hình thức, vì họ chỉ chú trọng đến những hình thức bên ngoài như nhiệm nhặt gìn giữ các tục lệ của tiền nhân, chuộng hình thức bên ngoài mà không có tinh thần bên trong.
Chúa khiển trách họ:”Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người, vì các ngươi bỏ qua các giới răn của Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”. Chúa khiển trách họ là người làm đảo lộn giá trị vì họ chỉ chú ý đến việc tuân giữ các tập tục của tiền nhân mà lại bỏ qua những giới răn căn bản của Chúa. Họ coi trọng việc thuộc về con người hơn việc thuộc về Thiên Chúa.
IV. ĐIỀU CHÚA MUỐN DẠY TA
Nhân dịp các luật sĩ chê trách các tông đồ không rửa tay khi dùng bữa, Đức Giêsu muốn dạy cho họ một bài học: cái xấu xa không phải từ ngoài mà vào mà ở trong mà ra. Ngài nói:”Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình... Tất cả những điều xấu xa dó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế”. Do đó, chính cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay việc dữ.
Theo lời Chúa dạy, chúng ta thấy yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bề ngoài. Chính ý hướng ở bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có giá trị hay không. Nhiều người có những hành động rất tốt nhưng lại làm vì những động lực ích kỷ hay gian ác, thì hành động ấy trở nên xấu. Chẳng hạn những hành động giả nhân giả nghĩa nhằm được một lợi lộc nào đó, như bố thí thật nhiều để được khen, để có tiếng là đạo đức hầu lừa đảo người khác, hay làm việc tích cực chỉ nhằm để được lên chức, để nắm quyền hành nhằm thao túng lũng đoạn tập thể. Ngược lại, có những người “tình ngay mà lý gian”, hành động thì có vẻ như xấu, bị kết án, nhưng lại được Thiên Chúa chúc lành.
Vậy điều quan trọng là phải đổi mới trái tim. Đổi được trái tim là đổi được tất cả. Điều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy.
Chúng ta cần lưu ý rằng luân lý của Đức Giêsu là một thứ luân lý phổ quát biết bao ! Ngài biết rõ lòng người. Đó là luân lý căn bản tự nhiên mà Ngài đặt lại thành giá trị vượt lên trên những tập tục riêng của một nền văn minh. Không có một tục lệ quốc gia nào, một tập tục tổ tiên nào có thể đi ngược lại những luật căn bản này, mà mọi người đều phải công nhận trong thâm tâm của mình.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu rằng sự thánh thiện hệ tại tình trạng tốt đẹp tâm hồn hơn là tại những hành động bên ngoài. Xin cho chúng con biết quan tâm đến việc tu tâm dưỡng tính, nghĩa là có một tâm hồn ngay thẳng, luôn thành thật, luôn tôn trọng và bênh vực công lý, luôn yêu thương mọi người. Tâm tốt lành ấy mới chính là điều cốt yếu làm nên sự công chính thánh thiện của chúng con, hơn là giữ luật lệ một cách chi tiết hay việc làm cho thật nhiều (JKN).
Thư chung gửi Cộng đồng Dân Chúa Hà nội, nhân dịp Năm Học Mới và Năm Linh Mục 2009, Đức TGM Giuse viết: “Mỗi năm đến ngày khai trường cả xã hội rộn lên niềm hi vọng. Hi vọng, vì học hành là tiền đề cho sự phát triển lâu dài và bền vững của gia đình và đất nước. Thế hệ trẻ ngày nay không phải phục vụ chiến tranh, có điều kiện hơn để được ăn được học, sẽ thăng tiến và giúp đất nước thăng tiến. Mỗi mùa khai trường là một mùa hi vọng. Hi vọng mỗi năm học là một cánh cửa mở ra tương lai tươi sáng. Nhưng những hi vọng ấy không làm giảm bớt những lo âu ngày càng nhiều và càng nặng gánh. Lo vì cứ mỗi năm chi phí cho việc nhập học lại tăng lên. Lo vì nạn chạy trường ngày càng phổ biến khiến cho ngày nhập học trở thành ngày buồn tủi cho những trẻ em và những gia đình không có điều kiện. Nhưng lo nhất là chất lượng giáo dục. Chất lượng tri thức không chắc có với những chương trình liên tục cải cách nhưng vẫn liên tục sai sót, với nạn học vẹt, với nạn dạy cho hết giờ, với nạn dạy thêm học thêm nặng nề cả về tinh thần lẫn kinh tế. Đáng quan ngại nhất là chất lượng đạo đức. Làm sao không lo âu khi trường học đáng lẽ phải là nơi gương mẫu về đạo đức lại là nơi mà sự gian dối trở thành bình thường trong thi cử, làm bài và cả trong ứng xử. Làm sao không lo âu khi trường học không dạy môn lễ phép lịch sự, thiếu môn học đạo đức, không quan tâm đến môn học làm người…Tôi tha thiết kêu gọi anh chị em, các giáo xứ và các gia đình, đừng khoán trắng việc giáo dục con em cho nhà trường, nhưng hãy lo liệu cung cấp cho con em mình nền giáo dục Kitô giáo cơ bản. Đó là nền giáo dục giúp phát triển con người toàn diện, không chỉ có thân xác khỏe mạnh, trí tuệ thông minh mà quan trọng trên hết phải có tâm hồn đức hạnh. Đặc biệt hãy dạy cho con em mình tôn trọng sự thật, sống lương thiện theo lương tâm và biết tôn trọng lợi ích chung là những điều rất cần thiết mà xã hội hôm nay đang thiếu thốn trầm trọng…”
Quả thật, thời đại chúng ta đang sống quá chú trọng tới bề ngoài, săn sóc cái bề ngoài. Qúa hình thức, những phong trào, khẩu hiệu, hô hào…nhưng lại thiếu trầm trọng sự chăm sóc nội tâm của con người. Đạo đức, lương tâm, sự thật, công bình đang xuống cấp. Người ta nói nhiều đến cái ngoại diện, ngoại hình; chăm sóc ngoại diện, ngoại hình; trọng dụng, đề cao ngoại diện, ngoại hình. Ngoại hình kém thì khó kiếm công ăn việc làm, khó lấy vợ lấy chồng. Người ta bỏ ra rất nhiều tiền, tiêu tốn nhiều thời gian, nhiều công sức để săn sóc sắc đẹp, gìn giữ ngoại hình cho hấp dẫn. Hàng ngày xem TV, nhiều chương trình quảng cáo sản phẩm: xà phòng mới, dầu gội đầu mới, nhiều loại nước hoa... Tất cả đều nhằm chăm sóc cho làm da, mái tóc, cơ thể... nhưng đều là bề ngoài. Ngày nay, người ta cũng để ý nhiều hơn đến chất lượng của những thức ăn và thức uống... Mọi thứ phải đáp ứng đúng tiêu chuẩn thực phẩm an toàn và bổ dưỡng. Tuy nhiên, tất cả chỉ là những thứ từ bên ngoài được đưa vào trong cơ thể con người. Nhưng xem ra người ta rất ít lo chăm sóc cái bề trong của con người, như lương tâm, lòng nhân ái, ý thức về tội... và cũng rất ít để ý tới những cái từ trong lòng phát ra. Người ta ít lưu tâm tới yếu tố quan trọng hơn cái bên ngoài là nội tâm của con người. Mặc dù nói rất nhiều đến văn hoá, văn minh, đến những giá trị tinh thần, những yếu tố chân thiện mỹ, trong thực tế người ta chỉ chú trọng tới vật chất và lợi nhuận, của cải và địa vị xã hội, chỉ muốn thụ hưởng những tiện nghi, những thú vui trần thế. Vì không chú trọng giáo dục cái tâm, nên lương tâm con người càng ngày càng xuống cấp. Lương tâm nhiều người không còn ngay thẳng, nhưng quanh co gian dối, không còn trong sáng, nhưng tăm tối và vẩn đục.
Không thể xây cái gì bền vững trên sự giả dối. Ngày nay người ta có thể nghi ngờ bất cứ chuyện gì. Đọc một số liệu hay một bản báo cáo của một cơ quan, một tổ chức, một công ty, xí nghiệp..., nhà nghiên cứu luôn luôn nghi vấn: Có đúng vậy không? Đứng trước một học bạ, một văn bằng, một học vị, nhiều khi cũng có thể nghi ngờ là không thật. Uống một viên thuốc, dùng một món đồ, ăn một tô bún, một miếng giò hay một trái cây, người cẩn thận vẫn thường không yên tâm: chất lượng thật hay giả, có hóa chất không? Thậm chí có lúc đi ngang qua một biệt thự của một cán bộ, công chức hay ngay của một giám đốc công ty, không ít người buột miệng: "Làm gì mà giàu sang thế? Hay lại...?".
Bề ngoài và bề trong liên quan với nhau và tác động lẫn nhau, nhưng về mặt luân lý đạo đức, bề trong mới là phần quyết định, như Chúa Giêsu đã nhận xét trong bài Phúc Âm: "Từ lòng con người phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống" (Mt 15,19).
Lời Chúa ứng dụng rất đúng cho thời đại hôm nay, không những cho xã hội mà cho cả chúng ta nữa. Cái tâm không được chăm sóc, nên trong ấy ngổn ngang những điều xấu: tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tỵ, kiêu căng, tà dâm, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó từ bên trong xuất ra, làm cho con người ô uế, xã hội bị hư hỏng, môi trường bị ô nhiễm. Tất cả những điều xấu ấy làm phát sinh các xung đột, tạo ra tình trạng áp bức bóc lột, đưa đến giết chóc và chiến tranh.
Tâm là một điểm tuy nhỏ nhưng quan trọng, nên người ta mới gọi là tâm điểm. Tâm của con người càng quan trọng hơn vì nó nói lên nhân cách của một con người:
- Tâm lệch lạc thì cuộc sống nghiêng ngã đảo điên. - Tâm gian dối thì cuộc sống bất an. - Tâm ghen ghét thì cuộc sống hận thù. - Tâm đố kỵ thì cuộc sống mất vui. - Tâm tham lam thì cuộc sống dối trá …
Những hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết. Nhưng những hình thức bên ngoài, muốn có giá trị, cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con người là nguồn mạch của mọi hành vi. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội tâm có chân thật thì hành vi mới có giá trị.
Ðạo Do Thái trọng lề luật, nặng hình thức. Ðạo Chúa Giêsu là Đạo tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Chúa dạy rằng: Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực. Mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối.
Xã hội thường quá đề cao cái bao bì, cái bên ngoài. Thiên Chúa thì nhìn tận đáy lòng. Người không đánh giá con người theo dáng vẻ bề ngoài. Ðối với Chúa Giêsu, người Biệt phái thường chỉ được cái mã thôi. "Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bề ngoài trông thì đẹp nhưng bên trong đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế" (Mt 23,27). Vì chỉ chú trọng cái bề ngoài nên lắm khi họ có những suy nghĩ và hành động bất nhất không hợp lý, đôi lúc còn tức cười nữa. Ðối với Chúa Giêsu, hai đồng tiền kẽm của bà góa nghèo bỏ vào thùng tiền dâng cúng trong Ðền thờ vẫn nhiều hơn "thật nhiều tiền" của những người giàu có bỏ vào đó. Có ai biết rằng hai đồng tiền đó là "tất cả tài sản của bà", nhưng Chúa Giêsu thì biết rõ (Mc 12,41-44). Giá trị của việc dâng cúng không tùy thuộc nơi số lượng của cải dâng cúng nhưng tùy thuộc tấm lòng thành.
Người ta phải quay về với cái tâm của mình, phải tìm sự thật về mình không phải từ cái chúng ta có, như của cải, địa vị, học thức, quyền bính..., không phải từ cách mình thường nghĩ về mình, cũng không phải từ dư luận của kẻ khác, mà là đối diện với Thiên Chúa.
Muốn trở về với nội tâm, cần phải có thời gian thinh lặng, phải học bài học thinh lặng. Nhiều người trẻ thiếu sự thinh lặng nên thiếu chiều sâu, chỉ ham vui nhất thời, không thấy được những giá trị đích thực của cuộc sống, không khám phá ra chân lý, không được thu hút bởi điều thiện, không biết thưởng thức những vẻ đẹp thanh cao, không gặp được Chúa trong tâm hồn, không có kinh nghiệm về Chúa.
Trong thinh lặng, hãy đón nhận Lời Chúa đã được gieo vào tâm hồn. Hãy đưa Lời Chúa ra thực hành, không dừng lại bình diện lý thuyết. Thư thánh Giacôbê nêu ra hai điều phải làm để đào tạo một lương tâm trong sạch: thực thi bác ái nhất là đối những người phận nhỏ, không để bị lây nhiễm những thói hư của thế gian.
Tin vào Tình yêu của Thiên Chúa. Thường xuyên tiếp xúc với Chúa trong đời sống cầu nguyện, để cảm nghiệm Thiên Chúa ở gần, Thiên Chúa ở trong lòng chúng ta. Có gần gũi với Chúa mới biết được thánh ý của Người và đem ra thực hành. Như thế nội tâm ngày càng phong phú.
Khi đó có thể, đem tâm đặt trên ngực để yêu thương, đặt trên tay để giúp đỡ người khác, đặt trên mắt để nhìn thấy nổi khổ của tha nhân, đặt trên chân để mau mắn chạy đến với người cùng khổ, đặt trên miệng để nói lời an ủi với người bất hạnh, đặt trên tai để biết nghe lời than trách, góp ý của người khác, đặt trên vai để biết chịu trách nhiệm và chia sẻ trách nhiệm với anh em.
Đọc lại các Tin mừng Nhất Lãm, chúng ta thấy có ít nhất 3 lần Chúa Giêsu bị các Luật sĩ và Pharisiêu mắng vốn về thái độ và hành vi của các đồ đệ mình, theo nghĩa “Mũi dại thì lái phải đòn”. Lần thứ nhất, khi họ thấy các môn đệ Chúa Giêsu không giữ chay. Lần thứ hai, khi họ chứng kiến các môn đệ vi phạm một trong 39 điều không được phép làm trong ngày Sabát: bứt lúa ăn dọc đường. Và lần này là lần họ bắt quả tang các môn đệ đến dùng bữa tại nhà một người Biệt phái cùng với Chúa Giêsu mà không tuân giữ tập tục của các tiền nhân: rửa tay trước khi ăn. Người Pharisêu cho đây là những xì-căng-đan. Thật vậy, cứ theo mặt chữ mà xét thì các môn đệ đã lỗi luật, đã sai phạm.
Thế nhưng, điều đáng nói là cả 3 lần Chúa Giêsu đều lên tiếng bênh vực cho các môn đệ. Phải chăng làm như thế là Chúa Giêsu đã biện minh, đã dung dưỡng cho những sai lỗi của các học trò của mình ? Thực ra Chúa Giêsu không dung biện, cũng không đồng lõa với các môn đệ mình. Ngài chỉ muốn phê phán thái độ nệ luật, vụ hình thức của các luật sĩ và Biệt phái vì họ quá chi li xét nét từng tiểu tiết, từng chấm từng phẩy trong bộ luật, nhưng lại bỏ qua những điều chính yếu của luật là đức công bình và tình yêu thương. Đây không phải là lần duy nhất Ngài tỏ thái độ gay gắt với họ, mà nhiều lần khác nữa. Đơn giản vì óc nệ luật và vụ hình thức gây ra nhiều mối nguy hiểm lớn:
Khi quá nệ luật, vụ hình thức, luật sẽ trở thành gánh nặng cho con người. Thậm chí luật sẽ trói buộc con người và biến họ thành những kẻ nô lệ cho chính lề luật. Trong khi luật được lập ra với mục đích là vì con người, cho con người; chứ con người không sống vì lề luật. Luật phải phục vụ con người, chứ không phải con người phục vụ cho lề luật. Thay vì luật giúp giải phóng và thăng tiến con người, thì lại kiềm hãm và làm cho con người không lớn lên được. Cả khi đói, muốn ngắt vài bông lúa ăn cho đỡ đói cũng không dám vì sợ phạm luật (x. Mt 12, 1-2).
Khi quá nệ luật, vụ hình thức thì những việc làm của con người nhân danh lề luật, sẽ trở nên vô giá trị trước mặt Thiên Chúa. Bởi lẽ điều mà Thiên Chúa cần hơn cả không phải là hình thức bên ngoài mà là tinh thần bên trong, tấm lòng: “Ta chỉ muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần hy lễ”. Dĩ nhiên cái bên trong cũng cần được thể hiện ra bằng hình thức bên ngoài; nhưng chỉ săm soi chăm chú cái bên ngoài mà coi nhẹ hay xem thường nội dung bên trong, thì tất cả chỉ là não bạt phèng la rỗng không trước mặt Thiên Chúa. Đức Giêsu đã mạnh mẽ lên án điều này: “Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng thờ phượng Ta cũng là vô ích…” (Mc 7,6)
Khi quá nệ luật, vụ hình thức, luật sẽ biến con người thành những quan tòa khắt khe đối với anh em mình. Chính vì óc vụ luật, nên các Luật sĩ và Biệt phái sẵn sàng lên án người khác khi họ sai lỗi, dù chỉ là một lỗi nhỏ, như trường hợp các môn đệ: chỉ bứt một vài bông lúa ăn cho đỡ cơn đói, hoặc quên không rửa tay trước khi ăn, cũng bị kết tội. Thậm chí họ còn dùng lề luật để lên án tử cho những người không sống như họ đã sống. Họ khắt khe lên án là vì họ chỉ chú trọng đến hình thức mà không chú trọng đến tinh thần của luật, đó là tấm lòng yêu mến. Chúa Giêsu đã cảnh tĩnh họ điều này khi nói: “Nếu các ông hiểu được ý nghĩa câu này: Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông sẽ không lên án người vô tội” (Mt 12, 7).
Biết bao lần tôi đã trở thành nô lệ cho lề luật, chỉ vì thiếu chữ tâm khi giữ luật. Biết bao lần tôi đã đánh mất công phúc đời này lẫn đời sau, chỉ vì giữ luật mà vắng chữ tình - tình mến đích thực đối với Chúa. Và biết bao lần tôi đã làm quan án đoán xét anh em một cách không thương xót khi họ sai phạm một vài điều luật nhỏ, chỉ vì tôi đã sao lãng chữ lòng – lòng cảm thông và bao dung đối với anh em mình.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết tránh xa lối sống nệ luật, vụ hình thức, để cuộc đời chúng ta được thăng tiến mỗi ngày nhờ sống tinh thần của luật đó là tinh thần của tình yêu thương. Amen.
Có người nhìn đời mà ngao ngán bảo rằng: sao Thiên Chúa không tạo dựng “thế thật” mà lại tạo dựng “thế gian”? Thế gian nên lắm gian tà. Thế gian nên con người hay sống gian dối, lừa lọc với nhau và thiếu hẳn lối sống đơn sơ, chân thành. Thực ra thế gian ở đây không phải là thế giới gian tà mà là trần thế, dương gian. Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sư đều tốt đẹp. Sự xấu do ma qủy gieo vào thế gian qua tâm hồn con người. Trước tiên nó gieo vào trong con người sự ngờ vực Thiên Chúa. “Cứ ăn đi chẳng chết chóc gì đâu! Cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa”. Con người đã để cho hạt giống ước muốn phản bội Thiên Chúa lấn chiếm vị trí số 1 trong tâm hồn. Thay vì bình an vô tư sống trong sự che chở của Thiên Chúa, con người lại nuôi dưỡng sự ngờ vực và ấp ủ những toan tính bất trung, phản bội. Hậu quả là sự xấu đã đi vào trần gian. Sự xấu chìm sâu trong bản tính con người. Sự xấu có thể bộc phát và thống lĩnh con người, nếu con người buông mình theo thói đam mê dục vọng và sống lười biếng ươn hèn. Quyền lực của sự dữ đã thống trị con người đến nỗi con người dễ làm điều xấu hơn điều thiện. Từ ngày nguyên tổ nghi ngờ Thiên Chúa cho đến hôm nay con nguời vẫn luôn nghi ngờ lẫn nhau. Từ nghi ngờ đến lối sống “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, và tệ hại nhất là sống giả hình với nhau.
Một thế giới “vàng thau lẫn lộn” nên khó phân biệt đâu là thiệt đâu là giả. Và càng khó phân biệt ai là người tốt ai là người xấu. Thế giới hôm qua cũng như hôm nay luôn có những ngừơi sống giả dối, sống hai mặt: “Đi với Chùa mặc áo Càsa - Đi với ma mặc áo giấy”. Vẻ bên ngoài thường nguỵ trang cho những ý đồ đen tối đầy bất chính và gian tà bên trong.
Lời Chúa hôm nay cảnh cáo lối sống giả hình của nhóm biệt phái và luật sĩ năm xưa. Họ chú trọng đến việc canh tân hình thức bên ngoài mà quên đi việc canh tân tâm hồn. Họ nhạy cảm với sự dơ bẩn bên ngoài như đồ ăn, thức uống và vật dụng mà quên đi điều quan yếu của lề luật là gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn. Lề luật không nhằm bảo đảm cho con người được sạch sẽ thân thể, được bảo đảm an toàn thực phẩm mà nhằm gìn giữ nét đẹp của phẩm giá con người và bảo vệ con người khỏi những sự ô uế của tâm hồn. Thế nên, gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn quan trọng hơn là sự sạch sẽ bên ngoài. Thanh tẩy tâm hồn khỏi những bợn nhơ tội lỗi cần thiết hơn là những nghi lễ bên ngoài. Philatô đã từng rửa tay nhưng liệu rằng tâm hồn ông có thanh thản bình an khi dối mình “vô can trong cái chết của người công chính?”. Biết bao người đã dùng bàn tay để làm sự ác như giết người, cướp của . . . và họ cũng đã từng rửa tay cho sạch, nhưng làm sao họ rửa được tội ác mà họ đã gây nên? Bàn tay chỉ là dụng cụ. Bàn tay không làm nên tội. Bàn tay bị sai khiển bởi tâm địa gian ác và lưu manh của con người.
Chính vì thế, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được ; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế". Thế nên, điều cần rửa là rửa tâm hồn sạch mọi những toan tính bất chính, cần phải loại bỏ những ý đồ dơ bẩn, và tránh xa những cám dỗ tội lỗi của ma qủy luôn dẫn dụ con người đi ngược lại với giáo huấn của Chúa.
Con người ngày nay dường như cũng chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài. Ngừơi ta trau truốt vẻ đẹp bên ngoài bằng biết bao mỹ phẩm. Chấp nhận tiêu hao tiền của nơi các thẩm mỹ viện để chăm sóc sắc đẹp, nhưng ít ai nghĩ đến phải trau dồi nhân đức cho xứng với phẩm giá con người. Người ta có thể hy sinh, khổ luyện hàng tháng, hàng năm để gìn giữ vẻ đẹp thân xác, nhưng có mấy ai chịu khổ chế để gìn giữ vẻ đẹp tâm hồn. Ngày xưa người ta chú trọng đến cái nết, vì “cái nết đánh chết cái đẹp”, nhưng hôm nay “cái đẹp đang đánh dẹp cái nết”.
Con người ngày hôm nay quá chú trọng đến vẻ đẹp bên ngoài mà lãng quên phẩm chất đạo đức nên con người đã đánh mất hướng đi của mình. Hậu quả là cả một trào lưu ăn chơi truỵ lạc, thoái hoá đạo đức đang làm băng hoại xã hội, đánh mất đi biết những thuần phong mỹ tục nơi gia đình và xã hội. Tội lỗi ngày một gia tăng. Sự ác ngày một lan tràn.
Vâng, vẻ đẹp bên ngoài là cần thiết nhưng điều quan yếu mà chúng ta phải phấn đấu là sống sao cho nên người. Thiết tưởng lời dạy của tiền nhân năm xưa: “đói cho sạch, rách cho thơm”. “Làm người phải có lòng nhân” phải là lời dạy cho con người hôm nay. Đẹp thể xác và đẹp cả tâm hồn mới có ích cho xã hội, bằng không chỉ là hoa, là cỏ, là vật vô tri vô giác, có khi còn có hại cho gia đình và xã hội.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết thanh luyện tâm hồn của mình khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những toan tính bất chính và đam mê thấp hèn, để tâm hồn luôn thanh khiết vẹn toàn. Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết trân trọng, yêu qúy phẩm giá cao qúy của con người là hình ảnh Thiên Chúa để biết sống cao thượng, sống đúng với luân thường đạo lý và nhất là biết sống theo lề luật của Chúa để bình an của Chúa luôn cư ngụ mãi trong cuộc đời chúng ta. Amen
Đoạn Tin mừng hôm nay cho thấy cuộc đối đầu giữa Đức Giêsu và những người Biệt phái cũng như Luật sĩ đến từ Giêrusalem về vấn đề thanh sạch và không thanh sạch. Hơn nữa, Đức Giêsu bắt đầu hành trình đi đến các vùng đất dân ngoại. Thánh Maccô đã đưa ra một nguyên tắc mà Giáo hội sơ khai áp dụng. Thiên Chúa không muốn bất cứ một rào cản nào giữa con người với nhau. Người không phân biệt "sạch và dơ". Người chỉ muốn thâu thập tất cả nhân loại vào Vương quốc duy nhất của Thiên Chúa, miễn là họ sống đúng tinh thần của luật Thiên Chúa, thay vì bảo thủ tự mãn với các tục lệ do con người đặt ra.
Dường như con người dễ dàng phân loại tốt, xấu hoặc hay, dở…? Dường như con người dễ dàng phân chia người lành với kẻ dữ, linh thánh với phàm tục theo một tiêu chuẩn chủ quan nào đó? Còn Đức Giêsu lại nói với chúng ta: linh thánh ở ngay nơi tận cõi lòng con người - nơi con người đối diện với chính Thiên Chúa - nơi có được những chọn lựa và quyết định sâu xa nhất.
Vì linh thánh ở ngay nơi thâm sâu cõi lòng mình, nên mọi sự trong đời sống chúng ta trở thành linh thánh. Bởi lẽ khi chúng ta làm việc, ăn uống, nghỉ ngơi, chúng ta mang cả cõi lòng mình vào trong đó. Đối với người kitô hữu, không có gì là "phàm phu tục tử", bởi lẽ không có gì nằm ngoài chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Hơn nữa, từ ngày Đức Giêsu vào trần gian, mọi giá trị nhân loại được nâng lên hàng linh thánh.
Vì linh thánh ở ngay nơi những chọn lựa và quyết định sâu xa nhất, nên những hành vi bên ngoài chỉ là diễn tả thái độ bên trong. Một đức tin sâu thẳm được thể hiện ra bên ngoài với những hình thức nghi lễ đúng mực. Thiên Chúa muốn "con người thờ phượng Người trong tinh thần và chân lý" (Ga 4,23). Người chán ghét những kẻ "thờ" Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta" (Mc 7,6).
Phải chăng chúng ta nhận ra Thiên Chúa hiện diện nơi cuộc đời mình, nhất là trong chính cõi thâm sâu lòng mình, để biến đời sống mình trở thành một đời sống "linh thánh" ?
Phải chăng chúng ta có được những chọn lựa và quyết định phù hợp với ý Thiên Chúa, để biến đời sống mình thành đời sống tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý ?
Lạy Chúa Giêsu, Xin dạy chúng con hiểu được mối phúc "Phúc cho những người nghèo khó, vì Nước Trời là của họ"; không thành kiến, không cố chấp, nhưng rất đơn thành, mở rộng tâm hồn đón nhận và thực thi ý Chúa, ngõ hầu Chúa hiện diện trong đời sống chúng con.
Cộng đồng nào cũng có những người bảo thủ và cấp tiến. Sống chung không tránh khỏi vấn đề. Người bảo thủ lúc nào cũng lo giữ đúng luật. Đúng quá đến độ "bảo hoàng hơn vua". Người cấp tiến lúc nào cũng tìm cách phóng xa hơn hiện tại. Xa quá đến độ buông thả. Giữa hai loại người đó, Đức Giêsu sẽ đứng ở vị trí nào ? Luật lệ lúc nào cũng cần. Nhưng cần tới mức nào ? Đâu là tiêu chuẩn ?
TỐ NGƯỢC
Đức Giêsu xuất hiện giữa một xã hội dầy đặc những tập tục lâu đời. Dầy đặc đến nỗi người ta không còn nhìn thấy ánh sáng Tin Mừng Đức Giêsu mang tới nữa. Chính nơi đây mâu thuẫn giữa Đức Giêsu và những người lãnh đạo Do thái không bao giờ chấm dứt. Họ tìm mọi cách bắt bẻ thày trò Đức Giêsu. Cơ hội đã đến. Ngày đó, "thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, những người Pharisêu và một số kinh sư hỏi Đức Giêsu: "Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa ?" (Mc 7:2.5) Họ tố cáo các môn đệ Đức Giêsu thiếu đạo đức vì không giữ luật cha ông . Nhưng họ đã bị Đức Giêsu tố ngược. Sự thật cho thấy họ mới là những người vi phạm luật hơn ai hết. Đối với những đầu óc duy luật như họ, luật pháp là cứu cánh.
Lối bắt bẻ các môn đệ Đức Giêsu đó tố cáo những suy tư hời hợt vì đạo đức vụ hình thức. Đức Giêsu không thể chịu đựng nổi những cách phản ứng một chiều đó. Bởi vậy, Người lên tiếng tố cáo:"Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả." (Mc 7:6) Đạo đức giả vì họ chỉ nhấn mạnh vào hình thức mà không lo hoán cải tâm hồn. Họ có khuynh hướng đồng hóa những giới luật thứ yếu với chính luật Tôra. Trong một vài trường hợp, họ còn coi luật lệ con người hơn luật Chúa. Ví dụ luật coban "hủy bỏ lời Thiên Chúa", không cho người ta "giúp cha mẹ" (Mc 7:12) Truyền thống đã lấn át lời Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao Tin Mừng không thể lọt vào những não trạng nặng nề hình thức. Đức Giêsu vạch rõ bản chất những kẻ đạo đức giả: "Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm." (Mc7:8a)
Một Pharisêu thời đại như Ted Turner, vua truyền thông Mỹ, mới đây cũng phê bình Kitô giáo "không có lòng khoan dung" và không chấp nhận tự do tín ngưỡng. Ong tự cho mình đạo đức hơn người khác và lên giọng kẻ cả phê bình những nguyên tắc Kitô giáo. Cô Judie, đại diện cho một giáo phái Tin lành đã phản pháo mãnh liệt: "Tôi cho rằng tiền bạc có thể làm cho người ta có địa vị trong xã hội, dám bạo mồm bạo miệng. Tuy nhiên, tiền không làm cho người ta khôn hơn và không che đậy được sự dốt nát." (VietCatholic 1/9/2000) Ong Mikhail Gorbachev, cựu tổng bí thư đảng Cộng sản Liên sô nhận định: "Ong Turner không có tư cách gì để nói về lòng khoan dung. Trong khi trẻ con Iraq chết dần mòn vì suy dinh dưỡng và thiếu thuốc men cũng như những điều kiện y khoa cần thiết" vì lệnh cấm vận của Mỹ, thì "chỉ có Vatican là dám mạnh mẽ tố cáo chính sách diệt chủng của Mỹ ở Iraq." (VietCatholic 1/9/2000)
Ong Môsê dạy "phải giữ và đem ra thực hành những mệnh lệnh của Đức Chúa." (Đnl 4:2.6) Nếu thi hành đúng như Môsê dạy, người Do thái đã được coi là "một dân khôn ngoan và thông minh" vì "được Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người." (Đnl 4:7) Nhưng họ đã thiếu khôn ngoan khi đưa ra luật coban, một luật phản với thiên nhiên và luật Thiên Chúa. Những người già cả đã phải đau khổ biết chừng nào vì luật đó ! Họ cứ tưởng làm xong nhiệm vụ đối với Chúa là miễn khỏi giữ bổn phận đối với cha mẹ. "Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào." (Mt 23:4)
Thật là một cú tát nẩy lửa. Những người Pharisêu và kinh sư choáng váng. Họ chưa kịp phản ứng, Đức Giêsu đã dạy cho một bài học đắt giá về cuộc sống đạo đích thực. Mọi canh tân phải bắt đầu từ bên trong. "Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu." (Mc 7:21) Chỉ lo sửa đổi hình thức, quên khuấy nội dung là chính lòng người, cuộc canh tân trở thành vô nghĩa và sẽ thất bại thê thảm. Đức Giêsu dạy các môn đệ phải phân biệt nghi thức bên ngoài và việc đạo đức đích thực (Mc 7:21-23) Mọi luật lệ phải dựa trên lòng kính sợ Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu cũng tôn trọng khuôn khổ căn bản của pháp luật Do thái. Người không chủ trương phá bỏ luật lệ: "anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn." (Mt 5:17) Luật Môsê và sứ ngôn là những lời mạc khải. Cao điểm là Đức Giêsu. Chính nơi cao điểm này, mọi sự sẽ đạt tới mức thập toàn.
TINH THẦN TIN MỪNG
"Truyền thống của người phàm" chỉ làm cho cuộc sống nặng nề và mất hạnh phúc. Một cuộc ép duyên trắng trợn giữa "truyền thống của người phàm" và "điều răn của Thiên Chúa" không thể chấp nhận được. Chính vì thế, Đức Giêsu đã mạnh mẽ tố cáo: "Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng dạy chỉ là giới luật phàm nhân." (Mc 7:7) Anh em Tin Lành rất thích đoạn Tin Mừng hôm nay, vì cho thấy sự khác biệt giữa Kinh thánh và truyền thống. Họ nhìn về phía Công giáo như một tổ chức đầy những truyền thống cồng kềnh, coi việc giải thích lời Chúa hơn chính lời Chúa. Đối với họ chỉ có Kinh Thánh mà thôi. Họ đề cao việc cải cách. Họ không muốn chấp nhận truyền thống, vì truyền thống làm cho lời Chúa bị hiểu sai lạc. Chỉ có Thánh Linh mới giúp tín hữu hiểu đúng lời Chúa. Không cần những nhà chuyên môn như giáo sĩ trong Giáo Hội. Tóm lại, truyền thống và Tin Mừng, Thánh Linh và chuyên môn chống đối nhau.
Có thật như thế không ? Giáo hội Công giáo quả thực có một truyền thống lâu đời. Nhưng không phải truyền thống luôn luôn xấu. Cũng không phải cải cách nào cũng tốt. Giáo hội luôn phải canh tân. Nhưng không thể canh tân đến nỗi đánh mất bản chất và đi xa đường hiệp nhất. Kinh thánh không phải là một cuốn sách, nhưng là kết quả của truyền thống. Chẳng hạn, Tin Mừng không ghi nhận trực tiếp những lời từ miệng Chúa, nhưng là nơi ghi lại nhịp sống lời Chúa trong truyền thống Mathêu, Mátcô, Luca và Gioan. "Đức tin Kitô giáo hiểu truyền thống như một biến cố đang tiếp diễn với những nhân vật chính là con người và Thiên Chúa." (Pottmeyer 1995:1119) Nếu thế, bất cứ Giáo hội nào cũng đang tạo những truyền thống ghi lại cuộc sống giữa Thiên Chúa và con người. "Thánh Kinh không những truyền lại nội dung truyền thống, mà cả những kiểu mẫu giải thích truyền thống đó nữa." (Pottmeyer 1995:1121) Thánh Kinh "là Lời Thiên Chúa vì Chính Thánh Linh làm cho cộng đoàn tiên khởi sống, hiểu và truyền lời Chúa lại cho hậu thế. Thánh Linh vẫn còn làm việc không ngừng.
Chính Thánh Linh làm cho Thánh Kinh và truyền thống không đối chọi nhau. Cũng không có gì mâu thuẫn giữa Thánh Linh và các nhà chuyên môn. Ngay trong các Giáo hội Tin Lành, các mục sư cũng là những nhà chuyên môn. Nếu không, tại sao phải mất nhiều công sức, thời giờ và tiền bạc huấn luyện các mục sư ? Bởi thế, trong khi làm việc trực tiếp trong tâm hồn các tín hữu, Thánh Linh vẫn không bỏ qua những nỗ lực con người. Đúng hơn, con người cộng tác với Thánh Linh để đào sâu lời Chúa. Nhờ đó mới có thể "đem Lời ấy ra thực hành." (Gc 1:22) "Lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em," (Gc 1:21b) vì "Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống" (Ga 6:63).
Sau mấy Chúa nhật đọc chương 6 Tin Mừng Gio-an, phụng vụ trở lại với Tin Mừng Mác-cô. Bản văn của phần phụng vụ lời Chúa tuần này thuật lại cuộc đối đầu kịch liệt giữa Đức Giê-su và nhóm biệt phái.
"Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa ?" Vấn đề đặt ra có vẻ buồn cười, xa lạ. Đàng khác, từ lâu rồi, Hội Thánh sơ khai đã vượt qua thói quen cứng ngắc là tuân giữ tỉ mỉ các khoản luật xa xưa. Dầu vậy, vấn đề vẫn chưa được giải quyết.
Cách chung, các kinh sư và biệt phái được trao nhiệm vụ công bố những lệnh truyền và tập tục, đồng thời có quyền xác định và giải thích luật Mô-sê. Một ý hướng rất đáng khen. Về phần Đức Giê-su, Người không chối bỏ nhiệm vụ này. Tuy vậy, theo Đức Giê-su, nhiệm vụ và quyền bính này không bao giờ được phép che giấu điều cốt yếu, tức là tình trạng của tâm hồn; nói cách khác, đó là sự trong sáng của lương tâm, là thái độ thành thực và tự do dấn thân trước Thiên Chúa. Trước Thiên Chúa, mỗi người đạt được giá trị tùy theo tình trạng tâm hồn của mình, và người ta bày tỏ tâm tình thờ phượng là chính hiện hữu của mình. Các thái độ tôn giáo của mỗi người phải được xuất phát từ những quyết định tự do, từ chính hiện hữu của mỗi người. Nếu như trong những thập niên gần đây, Hội Thánh bãi bỏ nhiều quy định, đó chính là nhằm mục đích đưa người tín hữu trở lại điểm cốt yếu này.
Như vậy, tinh thần Tin Mừng hoàn toàn khác hẳn thái độ duy luật cũng như thái độ bất chấp. Lề luật mà không có tâm hồn: đó là thái độ duy luật giả hình, muốn tìm an toàn trong những việc tuân giữ bề ngoài và không có sự dấn thân toàn diện, năng động của lòng tin. Ngược lại, nếu chỉ có tâm hồn mà không có lề luật: đó là thói bừa bãi, là thái độ không thấy cần phải sửa lại tình trạng cả con người cũ lẫn con người mới đang hiện diện trong mỗi người. Để kiểm tra sức khoẻ, ngày nay người ta dùng phương pháp siêu âm. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi mỗi người thực hành cuộc kiểm tra này trong tâm hồn để thực sự biết mình là ai trước Thiên Chúa và anh em.
Truyền thống và thích nghi
Khi trả lời nhóm biệt phái và các kinh sư, Đức Giê-su đã quở trách họ là những kẻ đạo đức giả: "Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm."
Thực ra Đức Giê-su không có ý bác bỏ những truyền thống, những tập tục đã có từ xưa, Người chỉ muốn cho thấy là tất cả những tập tục ấy phải đi kèm với một tấm lòng. Con người phải thích ứng với xã hội, nhưng vẫn phải là một con người chân thành.
Truyền thống
Mỗi cộng đoàn tôn giáo, cũng như mọi cộng đoàn xã hội, đều lập ra một bản quy tắc để diễn tả nét đặc trưng và độc đáo trong niềm tin của mình.
Dân Do-thái, và sau này, Hội Thánh Công Giáo cũng làm như vậy để đào sâu mặc khải, đồng thời để củng cố mối liên lạc giữa các tín hữu. Những khoản luật này dựa vào nhau và với thời gian, càng lúc chúng càng xa rời nguồn gốc nguyên thủy của mình.
Sự thích nghi
Đây là thái độ của mỗi người để hòa nhập vào cơ thể xã hội hay tôn giáo. Sự thích nghi được thể hiện trong mọi lãnh vực, kể cả về ý kiến và quan điểm. Bên cạnh những người có thái độ thích nghi vào xã hội, cũng có những nhóm người chống lại sự thích nghi.
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su nhấn mạnh đặc biệt đến sự thích nghi của nhóm sau này: nó làm cho con người không còn tự do cũng như trách nhiệm với xã hội, với cộng đoàn. Những người này nghĩ rằng chỉ cần tuân theo những khoản luật "được phép" hay "không được phép", và do đó, chỉ cần loại trừ sự ô uế bên ngoài là đủ.
Trong sạch và ô uế
"Rửa tay" là xoá đi những dấu vết còn lưu lại sau khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài. "Rửa tay" còn có nghĩa là không chịu trách nhiệm, không quan tâm gì đến cuộc sống, coi như mình ở ngoài các sinh hoạt của thế giới.
Đối với Đức Ki-tô, sự ô uế không phải là một tính chất gắn liền với sự vật, nhưng là cách thức con người giải thích về thế giới và áp dụng vào sự vật. Theo Đức Giê-su, sự ô uế và do đó cả sự chọn lựa, diễn ra trong tâm hồn con người chứ không phải là bản thu tóm các quy tắc.
Như thế, ngoài việc nhấn mạnh đến tình trạng tâm hồn, Đức Giê-su còn nghĩ tới một Giáo Hội phổ quát, một Giáo Hội vượt khỏi biên giới của dân tộc Do-thái. Nhiều phong tục tập quán của Do-thái là tốt, nhưng đến lúc phải mở rộng hơn để đón nhận mọi nếp sống, mọi nền văn minh trên toàn thế giới. Cần phải sàng sảy, chọn lọc để chỉ giữ lại những điều cốt yếu và loại bỏ, hay ít ra giảm nhẹ, những điều phụ thuộc. Những tập tục nào do con người tạo nên thì cần được thay đổi, điều chỉnh hầu làm sáng tỏ tinh thần tôn kính Thiên Chúa và chu toàn luật bác ái đối với người khác (theo Quesson).
Vậy, con người luôn được mời gọi và thúc đẩy vượt lên phía trước, đồng thời phải hoán cải không ngừng để đón nhận những điều mới. Truyền thống vẫn cần được tuân giữ, nhưng cũng cần được thích nghi cho phù hợp với thời đại. Truyền thống vẫn cần được tuân giữ, nhưng cũng cần được thích nghi cho phù hợp với thời đại đồng thời làm sáng tỏ điều cốt yếu.
Từ ý hướng đến hành động
Thắc mắc của nhóm biệt phái là một cơ hội tốt để Đức Giê-su xác định trật tự trong các cử chỉ và nghi lễ.
Thoạt đầu, người ta có cảm tưởng rằng chính ý hướng trong "tâm hồn" quyết định giá trị của việc làm, và người ta sẽ nêu lên câu ngạn ngữ "hoả ngục được lát bằng những ý hướng tốt". Thực ra, phải nhìn vấn đề theo một góc cạnh khác: cử chỉ diễn tả được bao nhiêu ý hướng trong tâm hồn, và ngược trở lại, hành vi bên ngoài có phải là sự bày tỏ của tâm hồn không ? Bạn có luôn yêu mến người mà bạn bắt tay hay tỏ vẻ thân thiện ? Chúng ta muốn diễn tả thực tại nào bên trong khi trao cho người khác một cử chỉ hữu nghị ? Chúng ta có thực sự muốn hoà giải khi cười với người giận ghét mình không ?
Đối với Thiên Chúa cũng vậy. Bao nhiêu lời cầu nguyện, bao nhiêu hành vi đạo đức có phải thực sự phát xuất từ mối tương giao với Thiên Chúa, và có hướng về mục đích đó không ? Chúng ta đã nhiều lần đọc lên "con yêu mến Chúa", thế mà cuộc sống của chúng ta vẫn đầy dẫy những xung đột, những hận thù, cả trong đời sống cá nhân lẫn đời sống cộng đoàn ... Quả thế, cả tôi lẫn các bạn, chẳng có ai hoàn hảo. Vấn đề của chúng ta không phải chỉ là làm một điều gì đó, nhưng là thay đổi tình trạng tâm hồn của chúng ta.
Dù vậy, với tình yêu Thiên Chúa đổ tràn trong lòng chúng ta, ít ra chúng ta có thể thực hiện một cách nào đó sự hoà hợp giữa ý hướng và hành động. Rửa tay hay không, điều đó không quan trọng, nhưng chúng ta phải ý thức rằng tâm hồn chúng ta cũng có chút xấu xa bẩn thỉu và chúng ta phải xin Đức Ki-tô ban cho chúng ta thứ nước có thể thanh tẩy chính tâm hồn. Đàng khác, cũng cần nhớ rằng, cuộc đời vẫn ở phía trước và chúng ta luôn phải giữ lấy điều cốt yếu, trong khi cuộc đời luôn có những đổi thay.
Dnl 4,1-2.6-8; Gc 1,17-18.21b-22.27; Mc 7,1-8.14-15.21-23
Phúc Âm: Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23
"Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân".
Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: 'Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người'. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người".
Và Người lại gọi dân chúng mà bảo rằng: "Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế".
Gặp hoàn cảnh phải thức thời, con người thường hay do dự. Nhiều khi không phải vì sợ hãi, ngại ngùng; nhưng vì lương tâm bất an và bị giằng co. Một bên là những nguyên tắc luân lý và đạo đức trước đây; và bên kia là những đòi hỏi mới của hoàn cảnh. Làm sao để không thái quá và cũng không bất cập, không cấp tiến cũng không bảo thủ, mà chỉ tiến bộ hoặc tiên tiến? Chắc chắn phải vận dụng óc sáng tạo.
Nhưng có lẽ cũng không nên quên những bài học của lịch sử. Và Sách Thánh cũng là một kho tàng khôn ngoan ngay cả về phương diện này. Những bài đọc Kinh Thánh hôm nay là một thí dụ. Chúng ta sẽ thấy vừa phải trung thành với các nguyên tắc đạo đức, vừa phải sáng suốt tiến bộ. Xin Chúa cho chúng ta biết hiểu lời của Người.
1. Phải Chọn Ðường Sống
Bài sách Thứ luật gợi lên một lịch sử đầy biến cố. Bề ngoài đó là những lời Mô-sê trối cho dân trước khi ông từ giã cõi trần. Ông đang ở bên kia sông Giô-đan, biết mình không được vào Ðất Hứa. Dân sẽ được vào. Nhưng ở đó họ sẽ có được hạnh phúc không? Tất cả tùy thuộc ở thái độ của họ trung thành đối với Chúa... Thế mà kinh nghiệm những năm lãnh đạo dân cho Mô-sê biết Israel không phải là một dân vừa. Hơi gặp hoàn cảnh mới là họ đã sẵn sàng đi dệu dạo, chứ không nhất mực ngay thẳng theo đường lối của Chúa. Thế nên lòng thương dân đã thôi thúc Mô-sê nói lên những lời cuối cùng này, không phải để họ giữ ngày nay, ngày mai, nhưng mọi ngày trong đời sống và mọi thế hệ trong lịch sử.
Ông có thể làm được công việc ấy không?
Lời khuyên của một người có thể có giá trị cho mọi thế hệ loài người không?
Mô-sê đã không quá tự phụ ư?
Con người của ông không phải như vậy. Ðây chỉ là những lời người ta gán cho ông. Và chắc chắn ông sung sướng lãnh vinh dự này. Những lời đó hợp ý với ông. Và nhất là chúng không phải là của riêng cá nhân một tác giả nào. Chúng là thành quả của một tinh thần trung kiên qua nhiều thế hệ lịch sử của dân Chúa. Và tinh thần này đã bắt đầu từ Mô-sê.
Quả vậy, sách Thứ Luật là tác phẩm của tinh thần dân Chúa. Nó thu góp các suy tư chân chính của nhiều thế hệ lịch sử. Người ta coi Mô-sê là tác giả chỉ vì mọi suy tư ở đây đều phát xuất từ giao ước và chỉ muốn trung thành với giao ước Si-nai. Giá trị của nó nằm ở chỗ nó là những bài học rút ra từ nhiều kinh nghiệm sống. Chúng ta có thể tin ở những lời khuyên của sách này vì có thể nói ngay hoàn cảnh mới vừa đến với chúng ta, nó cũng đã trải qua.
Vậy, mở đầu bài sách đó hôm nay, Mô-sê nói với mọi người: "Hãy nghe". Ðó là tiếng nói của người khôn, đầy kinh nghiệm. Và Mô-sê nói tiếp. Các ngươi hãy giữ lệnh truyền để được sống và được đất hứa. Ðó là điều không được tranh luận bàn cãi. Là vấn đề một sống một chết, có thế thôi. Giữ Luật Chúa thì sống, bằng không thì chết. Mà chết và sống ở đây có ý nghĩa thực tế cụ thể chứ không bóng bẩy. Thiên Chúa chỉ ban Ðất Hứa và các Lời Hứa của Người cho kẻ giữ Luật. Kẻ không giữ Luật, không có chỗ đứng, không có nơi tựa, nó sẽ hư vong.
Ước gì chúng ta không bao giờ quên nguyên tắc này. Gặp hoàn cảnh mới mẻ đến đâu đời sống con người vẫn phải nắm giữ một số Luật điều. Vứt bỏ mọi sự, kể cả nguyên tắc phải giữ luật và phải sống có kỷ luật, là biến mình trở nên bọt sóng để tùy gió đánh đi. Con người sinh ra có gốc. Ðời sống con người phải có phương hướng. Chúng ta phải chọn đường sống, như lời Mô-sê nói hôm nay.
Tuy nhiên ông rất thận trọng. Ông nói: Không được thêm gì vào luật Chúa, cũng không được xén bớt. Và đó là điều không dễ. Nó đòi người ta luôn luôn phải kiểm điểm thành khẩn trước mặt Chúa. Tiếc thay, con người lại ít khi muốn đến trước nhan Người. Họ luôn muốn lưu lại nơi thế giới tạo vật. Có khi lương tâm ray rứt, thúc đẩy họ đi gặp Chúa, thì họ lại lười biếng lấy một tạo vật làm ngẫu tượng để thay thế cho Người. Rồi họ nghĩ ra những yêu cầu của ngẫu tượng ấy. Dần dần họ không còn nhớ và sống theo Luật chúa nữa nhưng đã lấy truyền thống và tập quán loài người làm luật sống. Bài Tin Mừng hôm nay sẽ cho chúng ta thấy rõ điều này. Nhưng Mô-sê, ngay từ đầu đã cảnh giác người ta. Ông dạy phải luôn luôn tìm ra ý Chúa. Chỉ có nó là lẽ sống của con người và là đường dẫn họ đến sự sống.
Ai giữ đúng luật Chúa sẽ luôn luôn có thể tự phụ. Họ sẽ là người "khôn ngoan minh mẫn ở trước mắt các dân", vì những điều họ giữ thật là những phán quyết công minh. Hơn thế nữa, các dân sẽ thấy rằng sẽ trải qua các thời đại và cảnh đời tang bồng mà luật pháp vẫn như vậy, thì là dấu nó không do lòng người thay đổi làm ra, nhưng phải do Ðấng vĩnh cửu bất biến đã phán quyết. Và như thế thật là hạnh phúc và vinh dự cho dân tộc, cho con người được Thiên Chúa ở gần và chăm sóc như vậy.
Những suy nghĩ của sách Thứ Luật rõ ràng rất sâu xa. Nó khiến chúng ta tin tưởng vào nguyên tắc. Ðó là lẽ sống. Và đó là vinh dự. Không phải Mô-sê đã tự ý nói lên được những lời chân thật trên đây. Ðó là kinh nghiệm của cả một dân tộc trải qua cuộc đời bể dâu và sóng gió. Ðây còn là dân tộc được Thiên Chúa lựa chọn và hướng dẫn. Thế nên, những lời sách Thứ Luật hôm nay đúng ra là tiếng nói của Chúa Thánh Thần và của chính Thiên Chúa. Người mạc khải cho chúng ta chân lý này: nếu con người muốn sống và chiếm được đất hứa, tức là hạnh phúc, họ phải giữ luật. Và phải giữ và chỉ giữ đúng luật của Người. Không những đó là đường sống cho họ mà còn là vinh dự ở trước mắt các dân. Ai hiểu như vậy mà còn có thể sống như không có nguyên tắc và phương hướng? Và gặp hoàn cảnh đổi đời, ai tưởng rằng chỉ cần "cho de" những nguyên tắc cũ mà không chấp hành những lệnh truyền mới? Mọi tình hình mới chỉ là cơ hội để khám phá ra nhiệm vụ mới. Ðó là điều ít khi người ta muốn làm, như người Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng chúng ta hãy nghe lời Ðức Giêsu dạy.
2. Phải Biết Kiểm Ðiểm
Người lại đụng độ với bọn Biệt phái và Luật sĩ. Nói đúng hơn, bọn người bảo thủ và lạc hậu này chỉ muốn riết Người vào kỷ luật. Họ thấy môn đồ của Người không rửa tay trước khi dùng bữa. Thế là họ đùng đùng tấn công: "Vì lẽ gì mà môn đồ của ông không giữ lệ truyền của tiền nhân?" Họ nói như ai cũng sống trong môi trường của họ. Tiền nhân của họ là ai? Lệ truyền ấy có từ hồi nào? Môsê đã chẳng nói trong sách Thứ luật rằng: đừng thêm thắt, xén bớt Luật Chúa sao? Ðức Giêsu lại còn thấy bộ mặt giả hình, giả đạo đức, giả nhân nghĩa của họ nữa. Thế nên Người trả lời và soi sáng cho họ hai điểm. Một là họ đã gạt lệnh truyền của Thiên Chúa, mà cố thủ lấy lệ truyền của loài người. Và hai là họ chỉ chú trọng rửa tay bên ngoài mà không thanh tẩy lòng trí bên trong. Nói đúng ra, Ðức Giêsu đã hỏi quật lại họ hơn là chỉ trả lời cho câu hỏi. Người không cắt nghĩa vì sao các môn đồ không rửa tay trước khi dùng bữa; nhưng lại vạch ra cho bọn Biệt phái và Luật sĩ biết đời sống của họ không vô tội đâu. Nó còn xấu xa là khác. Vì nó không giữ luật Chúa, một chỉ làm theo tập tục. Nó chỉ chải chuốt bộ mặt bên ngoài và để yên ao tù dơ nhớp nơi tâm hồn.
Nhiều người không thích câu Ðức Giêsu đã nói về điều gì tự bên ngoài mà vào bụng không làm cho người ta ra ô uế, nhưng mọi điều xấu xa làm ô uế đều tự bên trong mà xuất ra. Nhưng chúng ta hãy hiểu thái độ quyết liệt của Người... Ở thời bấy giờ, người Do Thái có những phân biệt rất vật chất về những gì sạch và dơ. Nếp sống đạo của họ căn cứ vào những việc giữ luật lệ này. Ðến nỗi họ không còn để ý đến tư cách của tâm hồn, mà chỉ còn quan tâm đến những cái hình thức. Ðức Giêsu gọi họ là bọn giả hình, là có cơ sở. Chúng ta hãy nhớ đến một người như Phêrô. Một ngày kia, gần đến giờ ăn trưa. Ông đói bụng và thiếp ngủ đi. Và ông mơ thấy Chúa bảo phải ăn mớ ếch nhái trong tấm mền ở trên trời thả xuống. Phản ứng của ông là của Do Thái giáo. Ông lắc đầu bảo rằng đây là vật dơ, người đạo đức không được ăn kẻo ra ô uế. Ông cũng cố thủ lệ truyền của loài người mà gạt lệnh truyền của Chúa vừa bảo ông. Ðến nỗi Chúa phải nhắc nhở cho ông rằng: Những gì Thiên Chúa đã tẩy sạch thì đừng gọi là dơ nữa!
Tựu trung, óc vụ hình thức vẫn thật là khó chữa. Lâu ngày nó thi hành lệ truyền của loài người và quên lệnh truyền của Thiên Chúa, thành ra có lúc nó dám vịn vào lệ truyền của phàm nhân để cưỡng lại lệnh truyền của Ðấng Tối Cao. Không những nó đa lấy ngẫu tượng thay cho Thiên Chúa mà còn đi đến chỗ dùng ngẫu tượng nghịch lại Ngài.
Ðức Giêsu hôm nay muốn mạc khải điều đó. Người muốn người ta phải kiểm điểm lại đời sống tôn giáo và đạo đức của mình. Và để khỏi tiếp tục lầm lạc, người khuyên mọi người hãy bắt đầu rửa sạch lòng mình, để nguồn có trong thì những dòng tư tưởng chạy ra từ tâm hồn mới sạch. Công việc này ai cũng phải làm và phải làm đi làm lại. Bài thư Giacôbê khi ấy sẽ có giá trị thiết thực.
3. Phải Chịu Lấy Lời
Gọi đây là một thư thì cũng chỉ là cách nói. Ðúng ra nó là một bản văn giáo huấn các tín hữu. Người ta không nên tìm ở đây những tư tưởng độc đáo. Nhưng đọc xong ai cũng cảm thấy tác giả bức thư này rất thành tâm. Ông đòi tin-hành nhất thiết phải đi đôi; không được nhị tâm và đi dệu dạo, tức là đừng nghĩ rằng có thể làm tôi Thiên Chúa mà lòng lại chiều theo thế gian được. Những câu đầu tiên đọc trong phụng vụ hôm nay đã nói rõ vì sao như vậy. Tác giả viết: "Ơn tốt lành, lộc trọn hảo, hết thảy đều do trên, xuống từ Cha các tinh sao sáng láng; nơi Người không có biến dịch, hay vì xoay vần mà khuất bóng". Mới đọc chúng ta có thể thấy khó hiểu. Nhưng đây là những lời quan trọng. Tác giả nói đến nguồn gốc, căn nguyên, cơ sở của lòng đạo đức chân thật.
Quả vậy lòng đạo đức của chúng ta không xây trên những cái gì đổi thay, khi sáng khi mờ. Không, nó là ơn Chúa ban. Người là Ðấng tạo hóa. Người đã dựng nên tinh tú. Người là Ðấng hoàn toàn sáng láng, chẳng bao giờ có thể mờ tối vì Người chẳng bao giờ thay đổi và khuất bóng. Nói rằng các nguyên tắc đạo đức căn bản có thể thay đổi và châm chước được là nói đến một thứ đạo đức không lấy Chúa làm nền tảng và nguồn gốc. Mô-sê trong sách Thứ luật đã nói: đừng thêm thắt bớt xén luật Chúa cũng là nói theo nghĩa đó. Và cũng vì vậy trong bài Tin Mừng, Ðức Giêsu bảo phải luôn thanh tẩy tâm hồn.
Ở đây Giacôbê cũng dạy "phải khử trừ mọi thứ uế nhơ và khiêm nhu chịu lấy lời vốn đã được gieo sẵn trong lòng". Người muốn hết thảy hãy thanh tẩy mọi dục vọng và lệ truyền để làm sáng tỏ Lời Tin Mừng cứu độ đã được gieo vào lòng tín hữu khi lãnh nhận đức tin. Ðó không phải chỉ là Lời chân lý, nhưng còn là chính Ngôi Lời Thiên Chúa đã giáng sinh làm người và bây giờ còn mầu nhiệm lưu lại trong các tâm hồn trong sạch. Chính lời đó mới cứu được linh hồn chúng ta khi chúng ta chỉ nghe tiếng Người.
Và Người không chấp nhận cho chúng ta tin Người và mang danh hiệu Kitô hữu của Người mà không thi hành lệnh truyền của Người. Và lệnh truyền ấy là hãy yêu thương anh em, như lời Gioan viết; hay như lời Giacôbê nói hôm nay là: viếng thăm cô nhi quả phụ... Chính nếp sống bác ái chân chính này giữ gìn chúng ta không "bợn vết nhơ của thế gian".
Như vậy cả ba bài Kinh Thánh hôm nay đã cho chúng ta phương hướng để sống đạo đức. Dù hoàn cảnh có đổi thay và tình hình có mới mẻ, người tín hữu vẫn phải sống có nguyên tắc. Dĩ nhiên không được bắt chước người Dothái lấy lệ truyền của loài người làm chân lý bất di chuyển; và tệ hơn còn vịn vào nó để khước từ lệnh truyền của Thiên Chúa. Không, hoàn cảnh mới chỉ đem lại cho chúng ta cơ hội kiểm điểm lại đời sống của mình; không phải chỉ nhìn vào những cái bên ngoài, nhưng phải đi sâu vào tâm hồn, để gạt bỏ những lớp bụi ô uế đầy gian tà hầu tìm ra Lời Chúa và hình ảnh của Người đã được gieo sẵn và in sẵn trong tâm khảm. Ánh sáng của Chúa sẽ lóe lên. Tiếng nói của Người sẽ trong trẻo. Chúng ta đi theo ánh sáng đó và thi hành tiếng nói đó thì sẽ đạo đức chân thật. Và mọi người sẽ thấy chúng ta bác ái hơn vì đạo Chúa là bác ái.
Giờ đây chúng ta sửa soạn tâm hồn đón Chúa vào lòng để từ đó mọi giòng tư tưởng biến ra hành động của đời sống chúng ta trở nên đạo đức, trong lành.
Đám cưới hoàng tử Charles, con của nữ hoàng Elizabeth nước Anh với Diana ngày 29 tháng 7 năm 1981 thật huy hoàng, chắc vào loại tốn phí và oai nhất lịch sử. Nhiều người còn nhớ đám cưới hôm đó với đoàn rước xe ngựa rất dài từ lâu đài nữ hoàng tiến vào nhà thờ chính tòa Anh Giáo. Lễ nghi trang trọng hết mức. Vậy mà đã tan vỡ sau 15 năm. Em của hoàng tử Charles là Andrew lại cũng đã li dị với Sarah Ferguson, và em gái là Ann cũng đã li dị với Mark Philips. Thêm nữa, em gái của nữ hoàng là Margaret lị dị với Lord Snowdon.
Chuyện li dị đã trở thành cái dịch của văn minh Âu Mỹ, đi vào tận nhiều gia đình, kể cả hoàng gia. Người ta tìm gì trong việc lập gia đình? Tìm xây dựng tình yêu hạnh phúc hay tìm hưởng thụ một đối vật, để khi đã tàn phai nhạt nhẽo thì lại phải thay đối tượng khác chẳng khác gì đi thay bộ quần áo mới cho hợp thời trang: mỗi mùa một kiểu áo mới, màu sắc mới! Có người thay tới cả bẩy tám lần cỡ như ngôi sao màn bạc Liz Taylor, trong đó có anh chồng cưới lại lần thứ hai, vì thấy cũng còn sài được hơn những thứ khác!
Người Việt vốn có truyền thống văn hóa chung thủy cắn răng chịu đựng hy sinh quên mình để tìm xây tổ ấm yêu thương, nhưng nay bị vất vào một cái ống thì không còn tròn trĩnh như khi còn ở trong bầu tròn nữa. Một số người cũng được nhiễm cái tâm thức tranh đấu quyền hưởng thụ trên đời nên dễ cắt bớt những ràng buộc xem ra lỉnh kỉnh trong gia đình để mà được thêm tự do bay nhẩy. Nhân danh tình yêu để theo nhau, mê nhau, lấy nhau. Đám cưới cũng sang trọng tốn phí chẳng kém ai. Bên xứ Mỹ nhiều đám có tới bốn đôi phù dâu phù rể; tiền hoa và quay phim cả mấy ngàn Mỹ Kim. Nhân danh tình yêu cả đấy. Đời có một lần ấy mà. Vậy mà cũng nhân danh tình yêu để chán nhau, đánh nhau, bỏ nhau. Rồi lại hăm hở đi tìm tình yêu. Cơn khát tình sao mà lam lũ vậy! Không một bài hát nào mà không ít nhiều nói tới tình yêu. Tiểu thuyết, sách vở, Ti Vi nói nhiều về tình yêu. Như vậy tình yêu là gì để mà đi tìm hay đánh mất? Cơn đói này làm sao mà ít người thấy được thỏa mà chỉ thấy nước mắt vật vã hành hạ nhau?
NÓI VỚI GIỚI TRẺ VỀ CƠN KHÁT TÌNH
Ngày Giới Trẻ Thế Giới XII đã khai diễn tại Paris từ ngày 19 đến ngày 24 tháng 8 năm 1997. Trong tất cả những u ám về tình yêu và gia đình, ngay trước ngày Giới Trẻ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói lên ý hướng: "tham dự những biến cố ngày Giới Trẻ ở Paris xong, người trẻ phải trở về quê hương mình như những sứ giả đem lại hy vọng và như những chứng nhân tình yêu…" Và Ngài đã gửi thông điệp cho giới trẻ thế giới về cái cốt lõi của tình yêu mà nhiều người đang khát tìm:
"Hỡi các người trẻ của toàn thế giới, các con có thể gặp gỡ Thiên Chúa trên mọi nẻo đường trong cuộc sống hằng ngày! Các con có nhớ rằng các tông đồ xưa đã vội vã đi đến bờ sông Jordan để lắng nghe vị tiên tri cuối cùng trong các vị đại tiên tri, đó là Duy-An Tẩy Giả. Ông đã chỉ cho họ thấy Giêsu Nazareth, như là một Đấng Cứu Thế, con chiên Thiên Chúa. Vì tò mò, họ quyết định bước theo Ngài trong một khoảng cách ở đàng sau. Họ hầu như mắc cỡ và ngại ngùng cho tới khi Chúa Giêsu quay lại và hỏi: 'Các anh đang tìm gì đó?' Đó là giây phút mở đầu cho buổi đối thoại đầu tiên dẫn đưa ông An-Di, Duy-An, Simon 'Phêrô' và các vị tông đồ khác vào một cuộc phiêu lưu mới" (Gioan 1:29-51).
Qua vài chữ nhưng đầy đủ nói lên cuộc gặp gỡ thực sự và đầy bất ngờ, chúng ta tìm thấy nguồn gốc của mỗi cuộc hành trình trong đức tin. Đó là Chúa Giêsu luôn mở đầu câu chuyện mỗi khi chúng ta muốn gặp Ngài. Câu hỏi được hỏi ngược lại: là những người muốn hỏi Ngài, chúng ta lại được hỏi; là những người đi tìm kiếm, chúng ta khám phá ra rằng chúng ta được tìm kiếm. Thật vậy Ngài luôn yêu thương chúng ta trước (Thư I Gioan 4:10). Đây là chiều kích căn bản của cuộc gặp gỡ: chúng ta không tìm cái gì nhưng chúng ta tìm một người, "Đấng đang sống". Người tín hữu không phải là môn đệ của một hệ thống triết lý nào đó, nhưng họ là những người nam người nữ qua đức tin đã cảm nghiệm được sự gặp gỡ Chúa Kitô (Thư I Gioan 1:1).
Chúng ta đang sống trong một thời đại với nhiều đổi thay: sự suy đồi mau chóng của những ý hệ đã từng được coi là bền vững, lâu dài, vượt thời gian và những cuộc phiêu lưu mở rộng biên giới đến các hành tinh khác. Nhân loại nhiều khi cảm thấy bất ổn, điên cuồng và lo âu (Mt 9:36). Tuy nhiên Lời Chúa không bao giờ suy giảm; qua lịch sử và các biến cố đổi thay Lời Chúa vẫn bền vững và sáng soi (Mt 24:35). Đức Tin của Giáo hội đặt nền tảng trên Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu chuộc trần gian hôm qua hôm nay và mãi mãi (Heb 13:8). Điều đó cho thấy Chúa Kitô là điểm chuẩn cho câu trả lời mọi vấn đề phát xuất tự lòng người khi phải đối diện với mầu nhiệm sự chết và sự sống. Thực vậy chỉ có Chúa Kitô mới có thể là câu trả lời không bao giờ làm nản chí hay thất vọng bất cứ ai. Khi Cha nhớ lại những lần nói chuyện trước với các con. Qua đó Cha đã cảm nghiệm được niềm vui lúc chia sẻ cùng chúng con về những bước hành trình tông đồ trên khắp mọi nẻo đường thế giới; hình như Cha đọc được nơi tư tưởng các con một cái gì cấp bách vô cùng quan trọng, một câu hỏi mà các tông đồ xưa đã hỏi: "Thưa Thầy, Thầy đang ở đâu?" Các con hãy thử xem các con có thể lắng nghe lại trong thinh lặng của lúc cầu nguyện về câu trả lời của Chúa Giêsu: "Hãy đến mà xem".
TIN VUI THỎA TÌNH
Có nhiều loại tình yêu: tình trai gái, tình vợ chồng, tình gia đình, tình bè bạn, tình quê hương… nhưng tất cả đều qui về một tình yêu là Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa mới là tình yêu đích thực, mọi cơn khát tình ngoài Chúa đều đưa đến tan hoang đổ vỡ. Tình yêu chỉ sung mãn khi nối được vào nguồn tình Chúa, khi tìm gặp được Chúa Kitô trong cảm nghiệm tình yêu trong cuộc sống hằng ngày. ĐGH Biển Đức XVI đã viết thông điệp đầu tiên về đề tài này như một dấu chỉ thời đại. (Xin mời đọc trên mạng lưới bài viết của Lm. Trần Cao Tường về nhận định điềm thời đại này: www.dunglac.net/hiepthong/ht34-02ct.htm).
Như vậy Tin Vui chính là chỉ cho phương cách tìm lại được thỏa tình trong cơn khát tình khủng khiếp trong nếp sống xé mảnh cô đơn hiện tại, vượt qua mọi phương cách con người. Bởi lẽ con người xem ra có dư mọi sự với mọi lễ nghi vể tình yêu nhưng lại đánh mất chính điều cốt tủy: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người. Vì các người bỏ qua các giới răn Thiên Chúa để nắm giữ tập tục loài người". (Mc 7: 6-8)
Mọi phương pháp tâm lý, mọi phân tích xã hội, mọi cuộc bàn cãi hay tập tục trần thế, sẽ chẳng giải quyết gì cho đến khi con người trúng Tình Chúa, đi trong con đường giới răn Chúa được tóm lại: yêu Chúa và thương người như thể thương thân. Đó mới là con đường tình yêu. Cuộc khủng hoảng tan vỡ gia đình có lý do sâu xa là chỉ còn đóng kín vị kỷ, đặt nền trên sức mạnh trần thế mà không còn mở rộng được tới tình yêu đích thật là chính Chúa. Tình yêu như ánh sáng mầu chiếu vào màn u tối, có sức thay đổi tất cả. Cũng trong thông điệp trên, Đức Thánh Cha chỉ cho cách mở rộng tình yêu ích kỷ đóng kín lại như ao nước tù dễ làm ủng thối, để mở rộng ra mà gặp được Chúa Kitô nơi những người nghèo, nơi dấn thân trần thế, tìm thấy lý tưởng phục vụ tha nhân, và nhất là gặp được Chúa qua chính Lời Ngài trong Kinh Thánh và trong bí tích Thánh Thể. Và để áp dụng phương thức tình yêu một cách cụ thể, Ngài nhắc tới một vị thánh trẻ của Hoa Hồng Tình Yêu:
"Vào ngày 30 tháng 9, 1997 kỷ niệm 100 năm ngày chết của Thánh Têrêsa thành Lisieux. Ngài là nhân vật lôi kéo rất nhiều người hành hương trẻ trong nước. Thánh Têrêsa là một vị thánh trẻ, và sứ điệp của Ngài hôm nay rất đơn giản và gợi cảm, tràn đầy lòng biết ơn và ngợi khen: Thiên Chúa là Tình Yêu ; mỗi người được Thiên Chúa yêu thương, Ngài mong muốn được mọi người đón nhận và yêu thương lại. Hỡi các người trẻ của ngày hôm nay, đây là sứ điệp kêu gọi các con đón nhận và nói lớn lên cho những người đồng lứa: "Con người được Thiên Chúa yêu thương! Giáo hội có bổn phận loan truyền lời này cho nhân loại." (Người Tín Hữu Giáo Dân, #34)
Thánh Gioan Vianney là một linh mục ở một vùng quê miền Nam nước Pháp, mặt mày nhăn nheo, xấu xí, nhà thờ xứ Ars lại lát gạch nung đất và nhỏ hẹp; ghế quì thì xiêu vẹo cũ kỹ, ngài cũng dâng thánh lễ như mọi linh mục khác. Nhưng tại sao ai nấy lại chen chúc nhau đến dự thánh lễ của ngài? Thưa vì ngài dâng lễ hết sức sốt sắng, bơm chất tình Chúa vào từng công việc nhỏ bé thường ngày, làm cho mọi người đến gần cảm nhận được tình Chúa. Ngài đã chỉ cho mọi người gặp được Chúa Giêsu một cách đơn giản. Có lần chính ngài đã trả lời: "Người ta thấy Chúa Giêsu tế lễ trong cha: bí quyết lôi kéo mọi người đến với cha là ở chỗ đó."
Một cha mới đầy chân tu, đạo đức thánh thiện, được thuyên chuyển đến làm chánh xứ một họ đạo lâu đời. Vào ngày Chúa Nhật đầu tiên, ngài lên tòa giảng suy diễn về một tật xấu của dân: "Tật cơ bạc và đánh cá độ", gây nên cho một số gia đình trong xứ cảnh nhà tan của nát. Sau thánh lễ, ông chủ tịch Hội Đồng Giáo Xứ đến thưa cha rằng: "Cha không nên giảng thế, vì đa số những người dâng cúng cho nhà thờ là những người đánh cá độ và cờ bạc đấy".
Đến Chúa Nhật thứ hai, cha đổi đề tài, ngài giảng về nạn "Hút thuốc lá, thuốc phiện, cần sa ma túy" và những tai họa gây nên như ung thư phổi, hại sức khỏe, chết sơm trước tuổi, và biếng nhác việc đạo. Lần này ông Chủ Tịch lại kéo cha xứ vào một nơi mà bảo: "Cha không nên giảng thế, vì những người dâng cúng rộng rãi là những nhà giáo dân tốt trồng các loại cây thuốc nổi tiếng trong vùng"
Đến tuần thứ ba, ngài lại đổi đề tài: "Rượu, bia, các đồ uống cho say" cũng chẳng khác hút thuốc xái, nó gây ra nhiều tai nạn, say sưa đập phá nhà cửa. Lần này ông nhắc khéo: "Cha nêu lắm tật xấu phải bỏ quá, chúng con theo sao kịp". Cha xứ liền hỏi lại ông Chủ Tịch: "Vậy tôi phải giảng về vấn đề gì ?" Ông Chủ Tịch liền trả lời: "Cha giảng về chính trị lừa đảo, về năng đi lễ, về năng đi xưng tội....Trong giáo xư không có hạng người này".
Người ta không thích nghe những điều động đến cuộc sống, không muốn đổi nề nếp cũ để sống theo điều Chúa khuyên dạy. Họ thích theo những tập tục cha ông chứ không muốn giữ theo luật mới của Chúa Giêsu. Sống đạo thì đòi phải hy sinh, đòi phải từ bỏ, đòi phải bác ái yêu thương, chư không chỉ "yêu kính Ta bằng môi bằng miệng mà lòng chúng thì xa Ta". Thánh Giacôbê khuyên: "Anh chị em hãy thực thi những lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối mình".
Hôm nay, lời Chúa đụng phải bức tường kiên cố của truyền thống, của tập tục tiền nhân. Những cái mà người Do Thái bấy giờ coi là rất trọng vọng và úy kỵ không thể bỏ qua. Một thứ luật sống của họ. Nhưng đối với Chúa Giêsu thì những cái đó chỉ là hình thức, đôi khi rất bôi bác và giả hình. Thánh sử Marcô đã ghi lại lời Chúa Giêsu trả lời bọn Luật Sỹ và Biệt Phái phiền trách ngài vì ngài không theo những tục lệ và lối sống truyền thống ấy như sau: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: “Dân này kính ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa ta. Nó sùng kính ta cách giả dối, bởi vì nó dậy những giáo lý và những luật lệ loài người” (Mc 7:6-7). Trả lời họ như thế, Chúa Giêsu có ý dẫn chúng ta đến một lối suy tư và sống theo những tập tục, tập quán, và truyền thống đạo đức. Một lối sống đi ngược lại với những tập quán và truyền thống của con người.
Tập tục và tập quán:
Tập tục, truyền thống là những cách ứng xử và lối sống “luật bất thành văn”. Nó được chấp nhận và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Nhiều tập tục và truyền thống chúng ta cũng chẳng biết nó từ đâu mà đến, và hành động như thế mang ý nghĩa gì hoặc không nhất thiết thích hợp với lối sống của con người thời đại.
Tập quán và nhân đức:
Tập quán tốt dẫn tới nhân đức. Một hành động tốt, việc làm tốt được lập đi, lập lại nhiều lần thành nhuần nhiễn, và hầu như phản xạ tự nhiên. Thí dụ, một người có lòng bác ái, lấy việc bố thí, giúp đỡ người nghèo khổ là việc làm đạo đức. Khi gặp một người nghèo thì bằng cách này hay cách khác cũng tìm ra được cách thế để giúp đỡ, an ủi. Hành động này chính là một phản ảnh của nhân đức bác ái. Hoặc một người có tâm hồn kính sợ Chúa, lấy việc xa tránh dâm dật làm trọng, thường ngày vẫn suy ngắm đức trong sạch, và cố gắng thắng vượt những tư tưởng và ý muốn dục vọng. Hành động như thế sẽ dẫn đến đức trong sạch và giúp cho người ấy khi phải đối diện với những cám dỗ sẽ vững vàng chống trả mà không bị sa ngã.
Tập tục con người và nhân đức:
Đối với Chúa Giêsu, việc rửa tay, rửa sạch chén, bát, bình như vậy không quan trọng. Chúng là những tập tục và truyền thống của con người. Những việc làm này chỉ dẫn đến một tập quán tốt hay đức tính tốt hầu giữ gìn thân xác khỏe mạnh, hoặc giúp cho nhà cửa ngăn nắp, sạch sẽ. Những việc làm ấy không dẫn tới nhân đức, vì tự nó, chúng không phải là những việc làm đạo đức và có giá trị luân lý. Ngoài ra, nếu quá dựa vào những hình thức ấy và lối sống ấy, con người sẽ rơi vào lối sống câu nệ và hình thức không những không đem lại hạnh phúc cho cuộc sống, mà còn trở thành một gánh nặng.
Tập tục, tập quán, và truyền thống tốt mà Chúa Giêsu muốn người Do Thái lúc bấy giờ và chúng ta hôm nay cần phải thực hành và lưu truyền cho những thế hệ sau là những việc làm, ngôn ngữ và tư tưởng tốt, ngược lại với những tư tưởng, ngôn ngữ và hành động xấu như “ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ghen tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng.” (Mc 7:21-12).
Một hình ảnh làm cho tôi ghi khắc sâu đậm lời Chúa hôm nay. Hôm đó là buổi họp để duyệt lại chương trình cung nghinh kính Đức Mẹ tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, Giáo Phận Orange, California. Chương trình cung nghinh nằm trong chương trình kính bổn mạng Cộng Đồng nên đòi hỏi nhiều đoàn thể Công Giáo Tiến Hành tham dự. Trong số những đoàn thể tôn giáo ấy, có Hội Đền Tạ Trái Tim Đức Mẹ. Vì chương trình cung nghinh quá dài, nên giám đốc Đền Thánh lúc bấy giờ là Đức Ông Nguyễn Đức Tiến đã đề nghị bỏ việc lần hạt để rút ngắn thời gian cho các nghi lễ khác, và để bớt đi sự dài dòng gây chán nản và chia trí cho nhiều người, đặc biệt là giới trẻ. Nhưng đề nghị của Giám Đốc Trung Tâm đã gặp phải sự chống đối mạnh mẽ của chủ tịch Hội Đền Tạ. Ông đã nói:
- Hội Đền Tạ là phải lần hạt. Đã không lần hạt thì còn đền tạ cái gì. Nếu Đức Ông không cho hội lần hạt khi đi rước kiệu, thì sẽ không có một hội viên nào của Hội tham dự buổi cung nghinh và thánh lễ bổn mạng nữa.
Nghe vậy, Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo đành phải chấp thuận lòng sốt sắng truyền thống ấy. Ngài quay sang nói với một người ngồi bên cạnh:
- Thôi! Trái Tim Đức Mẹ đâu không biết, chứ chúng mình đành phải đền tạ trái tim ông chủ tịch vậy!
Đền tạ như thế hay rước sách ầm ĩ, trống chiêng khua vang, cờ xí rợp trời, viên ông, viên bà khăn đống áo thụng, và các đoàn thể với cờ đoàn, đồng phục có phải là những việc làm truyền thống, tập tục,, thói quen hay nhân đức?
Một hôm trong một buổi đền tạ khác, khi đến giờ hòa giải với Chúa, người điều khiển chương trình tuyên bố: “ Hôm nay chúng ta có 3 linh mục ngồi tòa. Trong đó có 1 vị là tân linh mục. Vậy ai cần làm hòa với Chúa thì xin xếp hàng”. Lập tức, bắt đầu từ những vị cao niên đến trung niên lật đật đứng ra xếp hàng. Một bà thấy bà bạn của mình chưa ra xếp hàng, nên đã ghé tai nói:
- Không xưng tội à?
- Em mới xưng tuần rồi. Thôi đi.
- Thì xưng thêm cho vui. Tôi cũng vừa xưng tội hôm qua ấy mà.
- Ừ! Thế em cũng xưng với chị cho vui.
Xưng tôi cho vui hay xưng tội để cáo mình và làm hòa với Thiên Chúa. Xưng tội trong những trường hợp như vậy có phải do vì được thôi thúc vì lòng yêu mến Thiên Chúa hay cũng lại là thói quen? Các linh mục Hoa Kỳ rất lấy làm lạ và ngạc nhiên, khi thấy vào những dịp như Giáng Sinh, Phục Sinh hay những dịp lễ trọng, giáo hữu Việt Nam xếp hàng hàng giờ chờ xưng tội. Người đi xưng tôi chật ních thánh đường, và cần đến hằng chục linh mục ngồi tòa. Xưng cho vui, theo tục lệ, theo truyền thống, hay xưng với tất cả tâm hồn.
Khi Chúa Giêsu trả lời các Luật Sĩ và Biệt Phái, gọi họ là giả hình, thoạt nghe ta có cảm tưởng như ngài khinh thường và coi rẻ họ. Một cách mạnh mẽ hơn, ngài miệt thị họ. Nhưng nếu ta đặt mình vào trường hợp của Thiên Chúa mà bị con người coi thường, và xếp hạng ngang hàng với những chuyện vớ vẩn, tầm thường như việc rửa tay chân, tắm rửa, chùi lau chén bát, thì liệu chúng ta sẽ hành động như thế nào. Thờ phượng Thiên Chúa cũng tương đương với việc lau chùi chén đĩa, tắm giặt thì quả là chúng ta coi thường ngài, bôi bác và giả hình!
Đền tạ ngài, ca ngợi ngài nhưng với cách thức và thỏa mãn ý riêng mình, cũng giống việc tắm rửa bên ngoài mà lòng thì đầy dẫy xấu xa, dơ bẩn.
Xưng tội cho vui. Thấy người này xếp hàng, kẻ khác xếp hàng, mình cũng xếp hàng thì cũng như việc làm hình thức và bôi bác. Đó là chưa nói đến coi thường bí tích.
Từ trong ra ngoài:
Làm sao rửa tay chân, tắm rửa, lau sạch chén bát có thể làm sạch được tâm hồn? Những dơ bẩn dù có bên ngoài đó, đâu bằng những ác ý, độc hại, và dơ bẩn tâm linh, những thứ đến từ bên trong con người?
Giả hình, bôi bác, và che dấu là những hành động xấu sẽ dẫn đến thói quen xấu. Ngược lại, gột rửa tâm linh, sống trung thành với lề luật, thắng vượt mình khỏi những ý nghĩ và hành động dâm ô, ngoại tình, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ghen tị, vu không, kiêu căng, và ngông cuồng là những hành động tốt sẽ dẫn đến tập quán tốt là các nhân đức.
Tư tưởng dẫn đến hành động, và hành động được lập đi, lập lại sẽ trở thành thói quen, tập quán hay nhân đức.
Chúa Nhật tuần này là Chúa Nhật XXII Thường Niên Năm B. Năm Chúa Nhật liền vừa rồi, từ Chúa Nhật XVII tới XXI, chúng ta đã nghe các bài Phúc Âm không phải của Thánh Marcô là phúc âm thuộc chu kỳ phụng vụ Năm B, mà là Phúc Âm Thánh Gioan, một loạt 5 bài Phúc Âm về Bài Giảng Bánh Sự Sống. Vậy để tiếp nối chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô Sự Sống Tái Sinh của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, Giáo Hội đã chọn bài Phúc Âm Thánh Marcô Chúa Nhật XXII Thường Niên Năm B tuần này về vấn đề tục lệ rửa tay trước khi ăn của người Do Thái, một vấn đề, theo giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm, chẳng những có vẻ tương phản với tinh thần của lề luật của Thiên Chúa, mà còn liên quan đến cả tính chất tinh tuyền của tâm linh con người nữa. Bởi vì ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến cái lầm lạc của con người, ở chỗ, con người đã coi trọng những gì là của mình hơn là của Chúa, những gì do mình tạo ra hơn là do Chúa qui định, những gì do mình nghĩ tưởng hơn là Mạc Khải Thần Linh, tức con người đã sống theo các thứ ngẫu tượng do chính họ tạo ra, nếu không muốn nói theo ngôn ngữ của Thánh Kinh Cựu Ước, con người ngoại tình với các tà thần không phải là Thiên Chúa chân thật duy nhất, những tà thần làm cho con người ra ô uế.
Thật vậy, nếu tất cả những gì con người tạo ra và tôn sùng chúng, đến nỗi coi chúng hơn lề luật của Thiên Chúa, đều là những gì tính mê nết xấu và tội lỗi, như 12 thứ vừa tội lỗi vừa tính mê nết xấu được Chúa Giêsu liệt kê trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này: “gian dâm (1), trộm cắp (2), sát nhân (3), ngoại tình (4), tham lam (5), ác tâm (6), lừa đảo (7), lăng loàn (8), tị hiềm (9), lộng ngôn (10), kiêu hãnh (11), mê muội (12)”, thì 5 thứ tội lỗi (1,2,3,4,10) và 7 tính mê nết xấu (5,6,7,8,9,11,12) được Chúa Giêsu chính thức nhắc đến này chính là các thần ô uế hay tinh thần bất chính gian ác giả tạo nơi con người và của con người. Phải chăng “bảy thần ô uế” (Mt 12:45) Chúa Giêsu muốn nói đến trong dụ ngôn về ngôi nhà hoang sạch sẽ là thành phần tính mê nết xấu được Người liệt kê ở bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này?
Riêng về tính mê nết xấu cuối cùng mang tên “mê muội” (đa số các bản dịch tiếng Anh dùng chữ “folly”, trong khi tiếng Việt dùng chữ “ngông cuồng”, “điên cuồng” hay “vô lương tri”) cũng được Chúa Giêsu liệt kê trong bản danh sách thần ô uế này nữa. Bởi vì thần ô uế này cũng làm cho con người ra dơ bẩn, đến nỗi không đáng ở trước nhan Chúa, như trường hợp của tông đồ Phêrô bị Chúa Giêsu thậm tệ quở trách là “Satan” và phũ phàng xua đuổi “hãy xéo đi”, chỉ vì vị tông đồ này “mê muội”, ở chỗ “không phán đoán theo đường lối Thiên Chúa mà chỉ theo đường lối loài người” (Mt 16:23). Chúa Giêsu cũng đã nhắc đến thứ thần ô uế “mê muội” này khi nói với thành phần giả hình Pharisiêu, khi gọi họ là “những người hướng đạo tối tăm mê muội” (Mt 23:24).
Hai bài đọc một và hai của Chúa Nhật tuần này còn nói đến những gì liên quan đến tính mê nết xấu “lừa đảo” và “kiêu hãnh”. Trong bài đọc một, Moisen đã nói với dân chúng được ghi lại trong Sách Nhị Luật rằng: “các người không được thêm thắt hay bớt xén những gì tôi truyền cho các người”. Thật ra dân Chúa không dám thêm hay bớt gì vào chính lề luật của Thiên Chúa. Thực tế cho thấy họ chỉ lập thêm những điều mới bên cạnh lề luật của Ngài thôi, như tục lệ rửa tay trước khi ăn, hay thanh tẩy các đồ ăn mua ở chợ về rồi mới dám ăn, hoặc rửa các thứ ly chén bình v.v., nhưng rất tiếc họ lại coi chúng hơn lề luật của Ngài. Thái độ này cho thấy con người đã mặc nhiên phạm tội “lộng ngôn”, một thứ tội phát xuất từ lòng “kiêu hãnh” của họ mà ra. Trong bài đọc hai, Thánh Giacôbê đã khuyên “anh em hãy khiêm nhượng đón nhận lời đã đâm rễ nơi anh em có khả năng cứu độ anh em. Hãy thực hành lời này. Nếu anh em chỉ nghe lời ấy thôi thì anh em đang tự lừa dối mình vậy”. Dân Do Thái nói chung và thành phần thông luật nói riêng đã không mắc chứng “lừa đảo” này hay sao, khi họ nghe lời Chúa, qua lề luật của họ, song vẫn không chịu tuân giữ hay không muốn tuân giữ (x Mt 23:4), nghĩa là họ thờ kính Thiên Chúa một cách bôi bác bề ngoài mà thôi, chứ không thật lòng.
Chính vì sống “giả hình”, không thật, tức sống trong gian dối, trong tối tăm, mà con người có thể làm bất cứ điều gì xấu xa tội lỗi, như 12 thứ tội lỗi và tính mê nết xấu được Chúa Giêsu nhắc đến trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này. Đó là lý do “giả hình” phải được kể như một thứ thần ô uế đã đóng vai gia chủ đi rủ thêm “bảy thần ô uế” khác, bảy loại tính mê nết xấu được kể đến trên đây, những thần ô uế “còn dữ hơn nó”, để nhào vô tác hại ngôi nhà Yến Duyên đã được các ngôn sứ dọn dẹp sạch sẽ gọn ghẽ nhưng lại bị dân chúng coi thường, làm cho ngôi nhà này trở thành hoang trống (x Mt 12:45)? Nếu đọc kỹ những lời Chúa Giêsu nặng lời trách móc thành phần luật sĩ và biệt phái Do Thái “giả hình” trong cả đoạn 23 của Phúc Âm Thánh Mathêu, người ta có thể thấy được nguyên vẹn hình hài của đầy đủ “bảy thần ô uế khác”, những tác nhân đã làm cho họ ra nhơ nhớp thối tha hết sức kinh tởm chẳng khác gì như một huyệt mộ chứa đầy những thứ chết chóc (x Mt 23:27).
Thế giới văn minh của con người ngày nay, nhất là thế giới Âu Châu vốn đồng nghĩa với văn minh Kitô giáo, sau khi được tinh thần Phúc Âm từ thiên kỷ thứ nhất dọn dẹp cho sạch sẽ và gọn ghẽ cho khỏi các thứ văn minh mọi rợ, giờ đây, đã bị “bảy thần ô uế khác” tàn phá hầu như đang đi tới chỗ phá sản đức tin đến khủng hoảng luân lý nơi đa số tín hữu, thậm chí cả nơi các đấng bậc. Thật vậy, lịch sử phũ phàng cho thấy, chính từ một châu lục đã hăng say truyền bá Phúc Âm hóa khắp thế giới từ khi bắt đầu hậu bán thiên kỷ thứ hai này nay đã trở thành nơi phát xuất tất cả những gì được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II gọi là “văn hóa sự chết”. Con người thuộc thế giới Kitô giáo tiêu biểu này chẳng những đã hạ bệ Thiên Chúa xuống mà còn thay vào chỗ của Ngài các thứ ngẫu tượng vô cùng xấu xa ghê tởm do họ làm ra nữa.
Họ đã hạ bệ Thiên Chúa xuống, ở chỗ, không tuân giữ lề luật tự nhiên của Ngài. Ngay từ ban đầu Ngài đã kết hợp hai con người nam nữ lại với nhau trong hôn nhân và đã chúc lành cho việc sinh sản là tác động hôn nhân của họ (x Gen 2:21-24, 1:28). Giờ đây họ đã tự động cho phép nhau ly dị và phá thai, sống coi như không có Thiên Chúa, hay có thì Ngài đã chết rồi. Chưa hết, sau khi hạ bệ Thiên Chúa xuống khỏi vị thế của Ngài xong, con người liền ngang nhiên trèo lên ngồi chỗm chệ vào chỗ của Ngài, bằng các thứ ngẫu tượng của họ, những thứ ngẫu tượng văn hóa pháp luật do họ làm ra. Ngẫu tượng thứ nhất là ngẫu tượng hôn nhân đồng tính luyến ái và ngẫu tượng thứ hai là ngẫu tượng tạo sinh ngoại nhiên. Đúng thế, sau khi đã đi tới chỗ cho phép ly dị rồi con người vẫn cảm thấy chưa đủ, họ còn tiến tới chỗ tự lập nên một cơ cấu hôn nhân khác, đó là việc họ cho phép hai người đồng phái tính lấy nhau và có quyền nhận con nuôi như một gia đình thực sự vậy. Còn vấn đề truyền sinh, con người ra tay phá thai chưa đủ, họ còn tiến tới chỗ tạo sinh ngoại nhiên, như qua ống nghiệm, bằng việc mang thai mướn, bằng nỗ lực tìm cách tạo sinh sao bản phi tính dục (cloning) v.v. Con người cho rằng, để tránh nạn quá đông dân số trên thế giới, họ đã khuyến khích và có những lúc tìm cách buộc phải phá thai hay triệt sản, thế mà họ lại tìm cách tạo thêm những sự sống theo ý họ, theo kiểu của họ, kiểu của “bảy thần ô uế khác”. Ôi con người..!
Do Thái là một Dân Riêng của Thiên Chúa, một dân tộc mang trong huyết quản dòng máu kiêu hùng, luôn tự hãnh diện là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn, một dân tộc được Thiên Chúa chúc phúc và yêu thương đặc biệt. Tổ phụ Maisen trong bài sách Đệ Nhị Luật hôm nay đề cập tới lời khen ngợi của các dân tộc: "Thật dân tộc vĩ đại này là một dân khôn ngoan và sáng suốt". Vì chính Maisen đã phải xác nhận: "Không có một dân tộc nào được các thần minh ở bên cạnh mình như Chúa là Thiên Chúa chúng ta, hằng ở bên cạnh chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người. Đặc biệt hơn nữa, có dân tộc thời danh nào khác có những lễ nghi, huấn lệnh công chính và bộ luật là Thánh Kinh như thế không?" (xem Deut 4:1-2,6-8).
I. GIÁ TRỊ SIÊU VIỆT CỦA LỜI CHÚA
Người Kitô Hữu chúng ta hôm nay, nhất là Giáo Hội Công Giáo, chúng ta có quyền hãnh diện và tự nhận mình được vinh dự và hạnh phúc vì Đạo chúng ta có Chúa ngự giữa chúng ta, có Bộ Thánh Kinh chứa đựng Lời Hằng Sống của Thiên Chúa. Không có một bộ sách nào trên trần gian này, dù là bộ Coran của Hồi Giáo, dù là bộ Ngũ Thư Tứ Kinh của Khổng Giáo, dù bất cứ bộ sách có giá trị nào của các triết gia, các nhà tư tưởng thời danh nhất trên trần gian này, có thể sánh kịp được. Thánh Kinh là một bộ sách đã được phiên dịch ra hầu hết mọi thứ ngôn ngữ, với một số lượng chiếm kỷ lục, không thể có bộ sách nào địch lại được. Bộ sách mà mọi người đều phải nghiên cứu, phải tìm tòi, tham khảo và suy ngắm tìm hiểu, cả những kẻ chống đối, cả những kẻ thù như những người vô thần cộng sản chẳng hạn cũng không thể làm ngơ. Tại sao Thánh Kinh lại có một giá trị siêu việt như thế? Vì Thánh Kinh chính là Lời của Thiên Chúa, là kho tàng sự khôn ngoan, là kim chỉ nam, là lẽ sống của nhân loại, là luật công bằng, là nguồn tư tưởng phong phú, khiến mọi người phải dùng như nguyên tắc hướng dẫn cho mọi tư tưởng, mọi triết thuyết, mọi học thuyết, dù là kẻ thù của Giáo Hội cũng phải kính nể tôn trọng. Thánh Công Đồng Vaticanô II đã tuyên bố: "Thánh Kinh là Lời của Thiên Chúa: Lời Chúa có sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh Đức Tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội" (Verbum Dei # 21). Thánh Công Đồng còn dạy tiếp: "Thực vậy, trong các Sách Thánh, Cha Trên Trời bằng tất cả tấm lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái và ngỏ lời với họ".
Chính vì thế, Công Đồng quả quyết: "Giáo Hội luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thánh Thể Chúa, nhất là trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy Bánh Ban Sự Sống từ Bàn Tiệc Lời Chúa cũng như từ Bàn Tiệc Thánh Thể Chúa Kitô để ban phát cho các Tín Hữu" (Verbum Dei # 21).
II. NGHĨA VỤ CỦA CON CÁI CHÚA
Là con cái Giáo Hội, cũng như dân Do Thái, chúng ta hãnh diện và vinh dự, hạnh phúc được Chúa hằng ngự giữa chúng ta, trong thẳm cung linh hồn chúng ta và luôn yêu thương săn sóc thầm nhủ khuyên răn chúng ta qua tiếng lương tâm chân chính. Ngoài ra, Chúa còn dùng các vị đại diện của Chúa trong Giáo Hội để giáo huấn, khuyên nhủ, hướng dẫn, chỉ giáo cho chúng ta bằng những lời khôn ngoan làm lẽ sống, rút từ kho tàng mạc khải của Thánh Kinh. Vậy chúng ta phải có thái độ nào, chứng tỏ chúng ta là những người con ngoan thảo, luôn biết lắng nghe và đón nhận những Lời Cha chúng ta trên trời, hằng yêu thương tỏ thánh ý Người cho chúng ta?
Đại diện Chúa, Thánh Công Đồng Vaticanô II tha thiết và đặc biệt khuyến khích mọi Tín Hữu hãy năng đọc và suy ngắm Thánh Kinh để học biết: "Khoa học siêu việt của Chúa Giêsu Kitô, vì không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô" (Verbum Dei # 25).
Thánh Công Đồng còn nhắn nhủ: "Mọi người nên nhớ rằng, kinh nguyện phải đi đôi với việc đọc Thánh Kinh, để có sự đối thoại giữa Thiên Chúa và con người, vì: Chúng ta ngỏ lời với Chúa khi chúng ta cầu nguyện và chúng ta lắng nghe Chúa phán dạy khi chúng ta đọc Thánh Kinh" (Verbum Dei # 25).
III. ÁP DỤNG THỰC HÀNH TRONG ĐỜI SỐNG
Trong các giờ phượng tự công cộng, các giờ đền tạ, các buổi cầu nguyện, các giờ kinh Phụng Vụ chính thức của Giáo Hội, bao giờ cũng cần có chương trình suy tôn Lời Chúa: Đọc Thánh Kinh và lắng nghe Lời Chúa. Nhờ đó, chúng ta có thể kín múc nguồn ơn thánh, làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, vì tất cả chúng ta đều là những lữ khách đang trên đường tiến về Nhà Cha chúng ta trên trời. Chúng ta cần phải sống Lời Chúa, thực hành Lời Chúa, kẻo bị Chúa quở trách: "Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng còn lòng chúng xa cách Ta". Trong việc tôn trọng các tập tục, các lễ nghi, các luật lệ chính đáng của xã hội loài người là điều đáng khen, nhưng việc tuân giữ và thực hành các Lời Thiên Chúa chỉ dạy, mới chính là điều đáng chúng ta phải trung thành hơn cả. Vì thế, Thánh Giacôbê đã ân cần khuyên nhủ chúng ta: "Anh em hãy thực thi Lời Thiên Chúa mà anh em đã nghe".
Kết Luận
Là con cái Chúa, chúng ta hãy noi theo gương Mẹ Maria, Mẹ hằng lắng nghe và suy ngắm Lời Chúa trong lòng. Lời Chúa đã là lẽ sống của Mẹ, là Thần Lương nuôi sống linh hồn Mẹ trong cuộc sống hằng ngày. Vì thế, Mẹ đã hoàn toàn nên một với thánh ý Chúa, Mẹ đã chỉ sống vì Chúa và cho Chúa, đến nỗi chúng ta có thể quả quyết chắc chắn: "Không phải Mẹ sống, nhưng chính Chúa sống trong Mẹ".
Xin Mẹ giúp chúng con luôn biết lắng nghe, suy ngắm và sống Lời Chúa như Mẹ, để chúng con cũng được Chúa hài lòng và được chia sẻ hạnh phúc của Mẹ là được Chúa hằng ngự trong lòng chúng con.
Người Do Thái có thói quen truyền thống giữ luật lệ rất tỉ mỉ, đặc biệt là luật thanh sạch. Họ rất câu nệ vào hình thức bên ngoài. Đối với họ đạo là phải giữ lề luật. Thế nhưng như thế, họ không còn thể hiện tình thương, lòng bác ái khi cư xử với anh em đồng loại.
Thật thế, vì quá chú trọng đến luật lệ tỉ mỉ bên ngoài nên những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do Thái giữ đạo theo hình thức. Họ biến đạo thành một mớ nghi thức trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương hơn là để chia sẻ với người anh em nghèo khổ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Chúa Giêsu đã nặng lời chỉ trích họ: "Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng lại xa Ta". (Mt 15, 8; Mc 7, 6). Chúa Giêsu chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Chúa Giêsu sánh ví họ với mồ mả, bên ngoài tô vôi, sơn phết đẹp dẽ nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám xấu xa.
Chúng ta đồng ý rằng: hình thức tôn giáo bên ngoài không phải là không cần thiết nhưng muốn nó có giá trị cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con người là nguồn mạch của mọi hành vi tôn giáo. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội tâm có chân thật thật hành vi mới có giá trị.
Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: "Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng... Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chả có ích gì cho tôi".(1Cr 13, 1- 3)
Chúa Giêsu đã đảo ngược hoàn toàn cái gọi là tôn giáo của người Biệt phái và Luật sĩ Do Thái. Đạo không phải là thi hành những tập tục, tuân giữ các nghi thức mà chính là thể hiện một thái độ sống, sống Lời Chúa, sống yêu thương. Cái cám dỗ thường xuyên của người Kitô hữu là lấy việc đạo đức bề ngoài làm bức màn che đậy tính ích kỉ, giả dối, độc ác, tham lam,... thích được mang danh hiệu hơn là dám sống sứ mạng chứng nhân. Điều cốt yêu là phải có tấm lòng yêu mến chân thành bên trong chứ không phải là hình thức giả dối bên ngoài. Chính tình yêu bên trong mới làm cho những hình thức bên ngoài có giá trị đích thực. Thiếu tình yêu bên trong mọi việc bên ngoài chỉ là giả dối.
Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực. Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối. Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần Chúa. Khi ăn chay, tâm hồn ta mới tan nát vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô trương. Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng.
Người Kitô hữu đích thật là người có lòng tin, đồng thời có những việc làm cụ thể phù hợp với đức tin của mình. Trước mặt Chúa, mọi hình thức bên ngoài không quan trọng bằng tấm lòng yêu thương tận đáy lòng bên trong bởi vì Chúa là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn. Chúng ta hãy sống chân thành, yêu thương và phục vụ tha nhân trong tinh thần của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con trái tim của Chúa, trái tim yêu thương để biết thờ phượng Chúa cho phải đạo và yêu người như Chúa muốn. Xin cho chúng con sống đạo bằng tâm tình yêu mến Chúa chân thật tự đáy lòng mình để chúng con đối xử bằng tâm tình đó với anh chị em chung quanh chúng con. Amen.
Một hôm, Cha MƠ-RÂY (Murray) đang âm thầm đi trên một phố vắng vào lúc đêm khuya để mang Mình Chúa cho một bệnh nhân sắp chết. Khi đi tới một góc phố vắng, bỗng một tên cướp nhảy xồ ra chĩa súng về phía cha ra lệnh: "Đứng lại! Mau nộp tiền ra đây, nếu không tao bắn chết! "Cha Mơ-rây sợ hãi vội vàng mở nút chiếc áo khoác đang mặc và lấy ra một chiếc ví. Tên cướp trông thấy chiếc áo đen của giáo sĩ bên trong áo khóac, trên cổ có "côn" màu trắng, thì biết là linh mục. Hắn lập tức dịu dọng và ấp úng nói: Thưa cha, con rất tiếc vì con không biết là cha. Con thành thật xin lỗi cha. Xin cha vui lòng cất tiền đi". Bây giờ cha Mơ-rây mới hòan hồn trở lại. Ngài móc trong túi ra một gói thuốc lá và mời hắn một điếu! Nhưng thật bất ngờ! Tên cướp xua tay từ chối với lời giải thích như sau: "Xin cám ơn cha, con đã dốc lòng chừa bỏ thói hút thuốc lá trong Mùa Chay này !!!".
- GI” ĐẠO NGOÀI MÔI MIỆNG
BÁC-CƠ-LÂY (Barclay) kể một câu truyện khác như sau: Có một người Hồi Giáo kia tìm cách giết một kẻ thù để dành quyền kết hôn với một cô gái đẹp. Một hôm, gặp kẻ thù ở chỗ vắng vẻ và nhân lúc kẻ kia không đề phòng, hắn ta rút đao chém một nhát khiến người kia bị thương vội vàng bỏ chạy. Người Hồi Giáo đã đánh lén liền tiếp tục truy đuổi quyết tâm tiêu diệt tình địch bằng được. Trong lúc đang hăng hái đuổi theo thì bỗng nghe thấy một hồi chuông báo giờ cầu kinh ban chiều, hắn ta lập tức nhảy xuống khỏi mình ngựa, trải chiếc chiếu luôn mang theo bên mình, quỳ# hướng về thủ đô Méc-ca đọc bài kinh chiều thật mau, rồi lại leo lên mình ngựa tiếp tục cuộc truy đuổi !!!
3. SUY NIỆM:
+ Tên cướp công giáo trong câu chuyện thứ nhất đã quyết tâm bỏ thuốc lá để tỏ lòng sám hối Mùa Chay, nhưng lại đi trấn lột tài sản của kẻ khác. Rồi người Hồi Giáo trong câu chuyện thứ hai đã tuân giữ luật đọc kinh 5 lần mỗi ngày của đạo Hồi, nhưng lại không ngần ngại nhúng tay vào máu của kẻ thù. Còn các người Pha-ri-sêu và kinh sư Do thái trong Tin Mừng hôm nay tuy giữ nghiêm ngặt tập tục thanh tẩy tắm rửa bằng nước trước khi dùng bữa, nhưng lại coi thường điều răn quan trọng của Thiên Chúa là "thảo kính cha mẹ", khi cho phép con cái lấy của cải lẽ ra dùng để nuôi dưỡng cha mẹ, biến thành "Cô-ban", nghĩa là "của thánh đã dâng cho Thiên Chúa", rồi không buộc họ phụng dưỡng cha mẹ già yếu nữa! Cũng vậy, ngày nay có những người chỉ chú trọng làm một số việc đạo đức theo luật như đọc kinh, xem lễ Chúa Nhật, ăn chay kiêng thịt, bố thí... mà không chú trọng thanh tẩy tâm hồn, không giữ luật công bình bác ái khi ứng xử với tha nhân.
+ Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng: Truyền thống, luật lệ và các lễ nghi đối với Thiên Chúa đều tốt và cần được duy trì, nhưng không được quên điều quan trọng không kém là thực hành giới răn yêu thương. Do đó, chúng ta vừa có bổn phận thực hành các việc đạo đức đối với Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng phải sống bác ái phục vụ tha nhân. Tôn kính Thiên Chúa bằng việc dự lễ đọc kinh là bổn phận phải làm, nhưng cần làm với một "trái tim mới" và một "Thần Khí mới" (x. Ed 18,31).
+ Nguyên việc tuân giữ các việc đạo đức như dự lễ đọc kinh, ăn chay kiêng thịt, làm việc bác ái... cũng chưa chứng tỏ lòng đạo đức thực sự, vì người ta có thể làm nhằm khoe khoang công đức và muốn được người đời ca tụng... hơn là vì lòng mến Chúa, như ngôn sứ I-sai-a đã trách dân Ít-ra-en: "Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì ở xa Ta" (Mc 7,6; Is 29,13). Để chứng tỏ lòng đạo đức thực sự, chúng ta phải cầu nguyện kết hiệp với Chúa Giê-su, như thánh Phao-lô đã dạy: "Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi" (2 Cr 5,14).- "Từ nay tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi" (Gl 2,20). Mỗi ngày chúng ta nên làm việc bổn phận như đi học, đi làm, phục vụ tha nhân... kèm theo một lời nguyện tắt như: "Lạy Chúa Giê-su. Con xin làm việc này để biểu lộ lòng con yêu mến Chúa và xin cho một người lương quen biết được nhận biết yêu mến Chúa". 4. THẢO LUẬN: 1)Bạn đánh giá thế nào về nếp sống đạo của người tín hữu Việt Nam hôm nay? 2)Phải chăng chúng ta nên bỏ các việc bề ngoài như: làm dấu Thánh giá, dự lễ, rước sách, ngắm nguyện, ăn chay, kiêng thịt, bố thí....mà chỉ cần "giữ đạo tại tâm" là đủ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin biến đổi trái tim con nên giống trái tim Chúa. Ước gì con nhìn mọi sự mọi người với một cái nhìn bao dung đầy yêu thương noi gương Chúa xưa. Xin ban Thánh Thần Tình yêu đốt nóng lòng con. Xin giúp con siêng năng tham dự Thánh lễ và rước lễ mỗi ngày cách sốt sắng, để kín múc được sức sống ân sủng từ nguồn mạch yêu thương vô tận là thánh tâm Chúa, để con gieo rắc tình thương của Chúa cho mọi người, an ủi những người đau khổ, chia sẻ cơm bánh cho kẻ khó nghèo, phục vụ những người bệnh tật và bị bỏ rơi... hầu nên môn đệ thực sự của Chúa.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con
Từ trước đến giờ chắc anh chị em dự nhiều đám tang. Nếu nhớ lại, không chỗ nào giống nhau cả. Có nơi chôn ban ngày, có nơi chôn ban đêm. Tôi cũng nhận thấy có những điều hơi lạ ở một số nơi. Người chết được đưa đi đến nơi an nghĩ cuối cùng vào lúc ban đêm, có đèn đuốc để thấy đường đi, đó là lẽ tự nhiên. Nhưng tôi hơi ngạc nhiên, vì có khi quan tài được mang đi giữa ban ngày mà vẫn có những bó đuốc dẫn đường. Lại còn bở ngở hơn nữa, khi mọi việc lo cho người chết đã xong, cho dù vẫn còn đêm tối, nhưng không một ánh lửa nào được đốt lên, mọi người cứ lần mò trong trong bóng đêm dầy đặt mà trở về nhà. Điều ngạc nhiên đó được giải đáp như thế nầy:
Việc đưa người chết đến nơi an nghĩ cuối cùng, dù ngày hay đêm, đều có bó đuốc dẫn đường, để người chết biết đường đi đến nơi của mình.
Còn việc những người làm xong nhiệm vụ, cho dù ban đêm vẫn không được có một ánh lửa để soi đường về, là vì sợ người chết sẽ theo ánh lửa mà quay trở về phá rối những người còn sống.
Sợ người chết quay trở về, vậy mà có rất nhiều người, sau khi chôn người chết được ba ngày, thì có một việc làm gọi là mở cửa mả. Trong những món đồ đem đến mở cửa mả có một cái thang, để cho người chết dùng leo lên trở về nhà mình. Tôi nhận thấy đó là một việc làm vô lý: sợ trở về, rồi lại tìm phương tiện cho trở về. Vậy mà trải qua biết bao nhiêu thời đại, rất nhiều người đều thực hiện cái phi lý đó.
Chúa Giêsu nhìn thấy những điều phi lý trong xã hội của Ngài thời bấy giờ, Ngài không thể lặng thinh ngồi nhìn những người mà Ngài thương yêu phải nô lệ cho những điều phi lý đó. Ngài muốn những việc làm của con người không chỉ là những cử chỉ vô tri bên ngoài, nhưng nó luôn được thực hiện bằng cả tâm tình thật sự của một con tim nồng cháy. Để việc làm có giá trị, không hệ tại hình thức bên ngoài,nhưng do tâm tình bên trong.
Chúng ta đang sống trong một xã hội gọi là văn minh khoa học, con người luôn chạy đua, tìm kiếm những tiện nghi vật chất cho cuộc sống. Con người luôn tìm những hào nhoáng bên ngoài, để rồi khi nhìn lại, họ không còn thấy được con tim của mình đang ở đâu.
Thử nhìn lại xem, biết bao lần chúng ta khó chịu với những người có hành động và ý tưởng không giống như mình, thế là, chúng ta tìm đủ mọi thứ lý do để kết tội họ: nào là vô lễ, không lịch sự, không có giáo dục, kém văn minh, vô đạo đức. Nếu khi đó, có Chúa Giêsu đang nhìn thấy, Ngài sẽ bảo chúng ta như thế nào? Tôi thiết nghĩ, chắc Ngài không quá khắc khe như chúng ta. Còn những việc chúng ta làm, gọi là những việc đạo đức tốt lành, chúng ta bắt mọi người phải công nhận, noi theo. Nếu có người nào có ý kiến phê bình, chỉ trích, hay có hành động trái ngược lại, chắc là chúng ta không vui, hay tệ hơn nữa, chúng ta tìm mọi cách loại trừ kẻ ấy. Nếu khi đó có Chúa Giêsu đang nhìn thấy, Ngài sẽ bảo chúng ta như thế nào ?
Nếu giờ nầy đây, chúng để ra một ít phút suy tư, nhìn lại những việc làm đã qua của mình, chúng ta sẽ dể dàng nhận thấy: đâu là những việc làm phát xuất từ con tim biết yêu thương, còn đâu là những việc làm hào nhoáng chỉ để thỏa mản những tham vọng, như Chúa Giêsu đã nói:" Từ bên trong con người mới phát ra những ý tưởng xấu."
Biết bao nhiêu điều vô lý chúng ta đã làm trong cuộc sống, nhưng không thấy. Trái lại, chúng ta nhìn thấy những điều người khác làm, có những lúc chúng ta cho là vô lý, là không đúng chỉ theo ý muốn riêng tư của mình, không theo một nguyên tắc chung nào cả.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết hành động bằng con tim chân thật, để chúng ta biết tôn thờ Chúa không chỉ bằng môi miệng, nhưng bằng cả con tim biết yêu thương mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta.
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do Thái giữ đạo theo hình thức. Họ rất trọng lề luật theo bề ngoài. Họ cho rằng giữ hình thức bề ngoài là đủ. Theo họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch. Người Do Thái có nhiều cấm kỵ ô uế. Bị coi là ô uế như những người mắc bệnh phong, phụ nữ sau khi sinh con, người ngoại đạo. Ai tiếp xúc với người ô uế sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ngay cả đồ vật bị người ô uế động đến cũng trở thành ô uế. Ô uế là tội. Người ô uế sẽ không được dâng lễ vật cho Chúa. Để tránh ô uế, người Do thái luôn rửa tay, rửa bát bên ngoài cho sạch.
Đức Giêsu chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Đức Giêsu sánh ví họ với mồ mả, bên ngoài tô vôi, sơn phết đẹp dẽ nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám xấu xa.
Vì quá chú trọng đến luật lệ tỉ mỉ bên ngoài, họ biến đạo thành một mớ nghi thức trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương hơn là để chia sẻ với người anh em nghèo khổ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Đức Giêsu đã nặng lời chỉ trích họ: "Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng lại xa Ta".
Hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết. Nhưng hình thức bên ngoài, muốn có giá trị cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con người là nguồn mạch của mọi hành vi. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội tâm có chân thật thật hành vi mới có giá trị.
Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: "Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng... Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chả có ích gì cho tôi".
Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực. Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối. Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần Chúa. Khi ăn chay, tâm hồn ta mới tan nát vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô trương. Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng.
Lạy Chúa, xin ban cho con trái tim của Chúa để con biết thở phượng Chúa cho phải đạo và yêu người như Chúa muốn.
"Thức đêm mới biết đêm dài,
Ở lâu mới biết lòng người dở hay"
"Ngựa chạy đường dài mới biết ngựa hay"
"Có công mài sắt có ngày nên kim".
Đây là ba trong số những câu nói lên sự kiên trì và sức bền bỉ cần có của một người. Những Chúa nhật liên tiếp vừa qua, chúng ta đã cùng nhau suy niệm chương 6 Tin mừng theo Thánh Gioan. Điều chính yếu trong chương 6 này Chúa Giêsu muốn những người theo Người cần có lòng tin. Tin vào Người là Đấng sẽ ban cho Thịt và Máu để làm lương thực thiêng liêng đem lại sự sống đời đời. Việc tin vào Chúa không phải một ngày hay một bữa mà cần phải có một thời gian dài.Vì thế, tin vào Chúa cần có sự kiên trì. Sự kiên trì này cũng chắc chắn không thể dựa trên bề nổi mà cần phải có chiều sâu.
Đoạn tin mừng của Thánh Marcô hôm nay cho thấy những người Pharisêu và các kinh sư theo Chúa nhưng chỉ quan tâm đến mặt nổi bên ngoài. Do đó, khi thấy những môn đệ của Chúa Giêsu không rửa tay trước khi ăn thì đã lên tiếng trách móc. Họ quên rằng điều cần thiết khi theo Chúa là tấm lòng bên trong. Bởi lẽ, Thiên Chúa thấu suốt mọi bí ẩn.
Chúa Giêsu nói: "Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,còn lòng chúng thì lại xa Ta.Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm." (Mc 7, 6b - 9)
Những người kinh sư và Pharisêu này chỉ tuân giữ luật sạch dơ bên ngoài chứ không quan tâm đến chuyện sạch dơ bên trong. Do đó, Chúa Giêsu nói: "Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế.Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người,ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế." (Mc 7, 20 - 23)
Cho nên, ta có thể nói họ sống đạo chưa có chiều sâu. Ngày nay, nhiều tín hữu Công giáo cũng còn sống theo cách này. Họ quan tâm đến những nghi lễ rườm rà bên ngoài còn ý nghĩa thiêng liêng bên trong thì dường như họ xem rất thường. Đến khi gặp khó khăn thử thách trong đời sống đức tin thì họ lại kêu trách Chúa, kêu trách Giáo hội. Vì đời sống đạo của họ chưa được bám rễ sâu trong ơn thánh của Chúa. Họ giống như những người xây nhà mình trên cát.
Vì vậy, muốn đời sống đạo của chúng ta có được chiều sâu không cách nào khác là khiêm tốn để cho Chúa uốn nắn mình. Chúa sẽ uốn nắn chúng ta qua Lời của Người cũng như qua các Bí tích mà Người đã thiết lập nên.
Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa Chúa" ( Đnl 4,2 ). Trong Cựu Ước, người ta đếm được có những 248 điều truyền và 365 điều cấm, một pho luật xem ra khá đồ sộ nhưng đâu thấm gì so với các luật lệ của con nguời trong các xã hội dân sự hiện nay trên thế giới. Thế mà đã có ngài tiến sĩ luật cảm thấy oải trước khối lề luật ấy, nên đã từng có lần hỏi Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất ?". Và Chúa Giêsu đã trả lời cách long trọng rằng: " Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là: ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình ngươi. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai giới răn ấy" ( Mt 22,36-40 ).
Tất cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật dữ kiện này và Tin Mừng Maccô và Luca lại thêm kết luận rằng người ta đã "tâm phục, khẩu phục" trước câu trả lời của Chúa Giêsu ( x.Mt 22,34-40; Mc 12,28-34; Lc 10,25-28 ). Như thế, chắc hẳn đoàn dân Chúa xưa ít nhiều cũng nhận thức được điều này. Thế mà chước cám dỗ muốn thêm bớt vẫn có đó khiến cho Môsê đã cảnh báo dân, đúng hơn là cảnh báo những người lãnh đạo, vốn là những người thường có quyền ra lề luật. Ở đây, xin được đề cập đến chước cám dỗ thêm thắt luật lệ và nhập nhằng, kiểu đánh lận con đen.
1.Cám dỗ thêm thắt luật lệ: Theo nhãn quan của thần học luân lý, xét về nguồn gốc của lề luật, thì có luật của Thiên Chúa ( thiên luật ), và luật của con người ( nhân luật ). Dù rằng luật của Thiên Chúa chỉ có hai luật chính là mến Chúa và yêu người, nhưng để triển khai và áp dụng hai lề luật ấy theo từng hoàn cảnh cụ thể, với những đối tượng cụ thể thì cần có những khoản luật thích ứng. Tuy nhiên, những người làm luật rất có thể bị cám dỗ thêm thắt nhiều khoản luật đi lệch trọng tâm và hướng nhắm của hai giới răn chính ở trên. Đã là luật của Thiên Chúa thì chỉ có mình Thiên Chúa mới có quyền ra luật. Thế mà khi chúng ta thêm thắt nhiều luật lệ đi lệch với ý Chúa hoặc sai trọng tâm mà gọi đó là luật của Thiên Chúa thì vô tình chúng ta tự đặt mình như Thiên Chúa. Các sứ ngôn đã từng nhiều lần nói thay Thiên Chúa rằng: Ta muốn lòng nhân từ chứ không muốn hy lễ; Ta chán ngấy mỡ dê bò các ngươi dâng tiến, hãy xé lòng chứ đừng xé áo các ngươi... ( x.Mt 12,7; Ge 2,13 ).
2.Cám dỗ làm nhập nhằng kiểu đánh lận con đen: Biết rằng với luật lệ của con người thì rất cần được bổ túc, thêm thắt cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Một trong những mục đích của lề luật là nhằm phục vụ ích chung, gìn giữ sự công bằng và trật tự trong đời sống xã hội, đặc biệt bảo vệ kẻ cô thế, kém phận khỏi cảnh "cá lớn nuốt cá bé, mạnh được-yếu thua". Xã hội càng phát triển thì các mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể, giữa tập thể với tập thể ngày càng phong phú và đa dạng, do đó cần có thêm nhiều luật lệ để gìn giữ các mối quan hệ ấy trong sự bình đẳng và hài hòa. Hình thái xã hội đã thay đổi thì các luật lệ cũng phải đổi thay cho tương hợp. Chính vì thế mà luật lệ không ngừng được chỉnh sữa, thậm chí được đổi thay. Việc có thể đổi thay cho ta thấy luật con người mang tính bất cập và bất toàn. Linh mục Gioan Bùi Thái Sơn, một chuyên gia về Giáo Luật của Tổng Giáo phận Sài Gòn đã nói rằng một trong những tính chất của luật là tính bất công. Với lối nói "ngoa ngữ", ngài chỉ muốn nhấn mạnh đến sự bất cập của lề luật con người. Luật của con người không thể và không bao giờ có thể tiên liệu hết mọi tình huống, hoàn cảnh của con người và xã hội, do đó nhân luật không thể đem lại sự công bằng cho mọi người cách đúng nghĩa, cũng như áp dụng một cách đồng đều cho mọi người.
Khi hiểu được điều này, ắt hẳn chúng ta sẽ tránh được thái độ thượng tôn và tuyệt đối hóa lề luật mà trả nó về lại vị trí của nó là một trong những phương tiện để phục vụ con người chứ không phải con người có ra vì lề luật ( x.Mc 2,27 ). Sự thường, lề luật được lập nên do những người đang nắm quyền lực trong các thể chế, tổ chức xã hội lẫn tôn giáo. Và người làm luật khó tránh được chước cám dỗ làm luật có lợi cho mình. Khi thượng tôn lề luật, biến lề luật do mình làm ra trở thành thiên ý thì vô tình hay hữu ý, lợi ích của người làm luật được bảo vệ và hợp pháp hóa, cho dù nhiều khi các lợi ích ấy là bất chính. Đây là trường hợp mà Chúa Giêsu đã cực lực phê phán khi nói rằng "các ông đã gạn lọc con muỗi để nuốt cả con lạc đà"( Mt 23,24 ). Đâu chỉ có việc rửa tiền của các tổ chức tội phạm mới là hợp pháp hóa điều bất chính, vẫn có đó nhiều người dùng một số tiền nhỏ để dâng cúng cho nhà Chúa hay để làm việc từ thiện hầu an tâm sử dụng số tiền kếch xù có được bằng cách thế gian dối, phi nghĩa. Vẫn có đó nhiều cá nhân và tập thể tìm cách ra một luật lệ nào đó, vốn dễ được xem là khách quan, để cho tài sản của mình được bảo vệ cách hợp pháp.
Trở lại với nguồn lề luật của Thiên Chúa. Là Kitô hữu, chúng ta tin nhận rằng luật Chúa thì bất biến và có tính bó buộc tuyệt đối. Tuy nhiên tính bó buộc tuyệt đối và bất biến này chủ yếu ở hai luật chính là tôn thờ, yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình. Tôn thờ và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự nghĩa là nhìn nhận những gì mình đang là, đang có đều do bởi Thiên Chúa trao ban và mình chỉ có thể sống, tồn tại, phát triển trong hạnh phúc viên mãn khi gắn bó với Thiên Chúa và thực thi huấn lệnh của Người.
Cầu nguyện là một hình thức căn bản để bày tỏ sự gắn bó với Thiên Chúa, thờ phượng, thần phục Người. Anh em Hồi giáo đặt việc này lên hàng đầu. Kitô hữu Công giáo chúng ta còn nhấn mạnh đến việc tham dự Thánh lễ, đặc biệt trong ngày Chúa Nhật, vì đó là đỉnh cao của hành vi thờ phượng. Và để tỏ bày lòng mến yêu đối với Thiên Chúa, thì không gì hơn là thực thi giới luật của Người. Việc anh chị em yêu thương, sống đùm bọc lẫn nhau chính là cách thế tốt nhất để tỏ bày lòng thảo hiếu đối với mẹ cha. Tương tự như thế, khi chúng ta biêt yêu thương nhau như Chúa Kitô dạy là chúng đang mến yêu Thiên Chúa ( x.Ga 15,12 ).
Yêu thương cũng có nhiều đường, nhiều cách. Với kiểu, với cách nào đi nữa, khi sống yêu thương, phải đặt nền tảng trên đức công bình và đức ái. Xin được muợn lời của Đức Khổng Tử và lời của sách Tobia để giữ đức công bình: Đừng làm cho tha nhân những gì mình không muốn tha nhân làm cho mình ( x.Tb 4,16 ). Xin được nhớ lại lời của Chúa Giêsu để sống đức ái: Tất cả lề luật và lời ngôn sứ đều tóm ở điều này: Hãy làm cho tha nhân những gì mà anh em muốn tha nhân làm cho mình ( x.Mt 7,12; Lc 6,31 ).
Trong đời sống của con người không thiếu gì những chuyện xem ra mâu thuẫn và buồn cười. Thời Chúa Giêsu, các người Pharisêu tỏ ra họ là những người chu toàn lề luật một cách hoàn hảo, đồng thời họ cũng cho mình là mẫu mực của việc thực thi lề luật. Nhưng xem ra họ lại tỏ ra quá lố bịch, và hì hỡm vì giữ luật bề ngoài, giữ luật một cách thật máy móc. Đức Giêsu lại có một quan niệm khác về việc tuân giữ lề luật, Ngài không đã phá việc giữ lề luật, và hủy bỏ lề luật nhưng theo Ngài cốt lõi của Đạo là Tình Yêu, cốt lõi của việc giữ lề luật, thực thi lề luật cũng là Tình Yêu.Vì thế, quan niệm và đường hướng của Chúa Giêsu là một cuộc cách mạng đối với Do thái giáo...
Câu chuyện hôm nay khởi đi từ một việc nhỏ: các môn đệ của Chúa Giêsu không rửa tay trước khi ăn. Đối với người Pharisêu, khi đi ra phố chợ về nhà dứt khoát phải rửa tay, bởi vì tay ô uế sẽ làm đồ ăn ra ô uế, và đồ ăn ô uế sẽ khiến cả con người ra ô uế. Chúa Giêsu đã khẳng định, đã minh xác một cách công khai, minh bạch rằng: " Không có gì vào trong con người lại khiến con người ra ô uế " ( Mc 7, 15 ). Lời xác quyết của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy Ngài là một con người tự do, Ngài vượt ra khỏi những cấm kỵ, những cản ngăn, những bức tường xem ra rất vô lý của những người Pharisêu và những người Do Thái lúc đó. Chẳng hạn họ cấm cản việc ăn thịt heo, ở gần những người phụ nữ đang thời ở cữ, không được đụng vào xác chết, không được sờ vào người cùi, không được đồng bàn với người tội lỗi, những người ngoại giáo vv...Tât cả những trường hợp đó đều bị cấm kỵ. Chúa Giêsu đã phạm vào nhiều điều cấm của những người Pharisêu và đạo Do thái. Chúa đã đến với những người nghèo, những người lang thang vất vưởng, những người bị cho là tội lỗi, những người thu thuế và gái điếm. Chúa đến với những hạng người ấy để làm cho họ nên tốt, trở nên sạch.
Chúa Giêsu không phản đối việc rửa tay. Rửa tay để cho tay sạch sẽ là điều tốt cần phải thi hành. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu thấy những người Pharisêu giả hình, rửa tay vì sợ, vì giả hình là một điều cần phải tránh. Chúa muốn con người thực thi lề luật vì yêu thương. Ngài dạy chúng ta phải tẩy sạch trái tim, nghĩa là làm sạch bên trong. Do đó, Chúa kể ra 12 tội xấu phát xuất từ bên trong, phát xuất từ trái tim của con người chẳng hạn như tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng ( Mc 7, 21-22 ). Chúa mời gọi con người, kêu gọi chúng ta tẩy sạch trái tim, trở về với trái tim nghĩa là dám nhìn nhận những sai trái, những lớp vỏ, mặt nạ của mình. Trở về với trái tim nghĩa là không bôi sáp, không trét phấn...Trở về với cõi lòng nghĩa là biết sám hối ăn năn để làm cho cõi lòng trở nên trong sạch, trở nên tinh tuyền. Ngôn sứ Êdêkiên đã viết một câu rất chí lý: " Hãy tạo một trái tim mới cho mình ". Tuy nhiên, không phải con người, không phải chúng ta dễ dàng thay tim, không phải chúng ta dễ dàng làm cho tim nên trong sạch nếu không có Chúa: " Ta sẽ thanh tẩy các ngươi.Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới " ( Ed 36, 25 tt ). Vâng, trở về, làm đẹp bên trong, đổi mới trái tim là làm được mọi sự.
Chúa căn dặn chúng ta lề luật, tập tục, truyền thống cũng rất cần thiết, nhưng đừng nệ vào luật bề ngoài, tuân giữ và thực thi một cách máy móc lề luật mà quên đi lời Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia: " Dân này thờ ta ngoài môi miệng, còn lòng dạ chúng thì quả thực xa Ta ". Như vậy điều cốt lõi trong đạo Công giáo không phải chúng ta làm việc này việc nọ, nhưng chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Việc làm, điều chúng ta thực thi, hành động phải phát xuất từ tình yêu: yêu Thiên Chúa và thương tha nhân.
Chúng ta hãy suy gẫm lời của thánh Phaolô gửi tín hữu Corintô: " Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư ? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng ? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư ? Rồi cũng chẳng còn " ( 1 Co 13, 2-8 ). " Anh em hãy cố đạt cho được đức mến, hãy khao khát những ơn của Thần Khí, nhất là ơn nói tiên tri " ( 1 Co 14, 1).
Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết yêu Chúa và thương người. Amen.
Đọc bốn sách Tin Mừng, tôi phải nể phục sự nghiêm túc giữ luật của các kinh sư Do-thái: họ giữ luật Môsê cẩn thận từng chi tiết, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ngoài những điều khoản của lề luật, họ còn giữ cả những chi tiết nhỏ mọn trong truyền thống Do-thái giáo. Bài Tin Mừng hôm nay cho biết: « Người Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng». Họ hành động như vậy vì họ cho rằng sự công chính và thánh thiện hệ tại việc giữ luật và tuân theo truyền thống tôn giáo cho thật cẩn thận. Càng giữ luật kỹ lưỡng đến từng chi tiết nhỏ nhặt thì càng công chính hay thánh thiện.
Chắc chắn trong họ có những người nghĩ và thực hành như vậy một cách rất chân thành, với mục đích rất tốt lành là nên công chính hay nên thánh. Họ nghĩ rằng tất cả những ai thánh thiện thì đều phải giữ luật như họ. Nếu có ai thánh thiện hơn họ, ắt người ấy phải giữ luật và những tập tục truyền thống một cách nhiệm nhặt và chi ly hơn họ. Chính vì thế, họ ngạc nhiên khi thấy các môn đệ của một thầy dạy đạo như Đức Giêsu lại không giữ luật và truyền thống như họ. Họ hỏi Ngài: « Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?»
2. Sự công chính và thánh thiện theo quan niệm của Đức Giêsu
Nhưng Đức Giêsu đã cho họ - và cả ta nữa - thấy rằng sự thánh thiện không hệ tại việc giữ luật một cách chi tiết như thế, hay giữ theo hình thức bên ngoài, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều. Cái đó ở trong nội tâm, chứ không phải ở bên ngoài. Người ta vẫn nói: « Đạo tại tâm!». Cái đó chính là cái quan trọng nhất trong lề luật, là cốt tủy của lề luật.
Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những chi tiết hay những hình thức bên ngoài của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt tủy của lề luật. Đức Giêsu đã tố giác điều ấy: « Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình ! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng (=tức những điều phụ thuộc), mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23). Như vậy, theo Đức Giêsu, ba điều quan trọng nhất trong lề luật, tinh thần của lề luật, cũng là cốt tủy của sự thánh thiện, chính là chân lý, công lý và tình thương.
Thiết tưởng người Kitô hữu không nên đi vào vết xe đổ của người Do-thái là cứ quan trọng hóa những điều phụ thuộc, mang tính bên ngoài, như giữ cho thật kỹ lưỡng đến từng chi tiết luật này luật nọ, mà coi nhẹ cốt tủy của lề luật, vốn là tinh thần ở bên trong. Điều thiết yếu là phải có tinh thần hay cốt tủy đó ở bên trong đã, rồi tinh thần đó sẽ tự nhiên thúc đẩy ta thể hiện nó ra bên ngoài thành thái độ hay hành động.
3. Hãy nắm vững cái cốt tủy và ưu tiên thực hiện cốt tủy ấy trước
Nếu chỉ có những hành động giữ luật bên ngoài mà không có tinh thần cốt tủy bên trong, thì việc giữ luật đó sẽ ít giá trị trước Thiên Chúa. Còn những người mà luật Chúa thì không giữ, lại chỉ lo giữ những tập tục tôn giáo truyền thống, chẳng hạn một số thói quen quen được gọi là « việc đạo đức», những nghi thức do con người sáng tạo, việc rước sách đình đám... thì việc giữ những tập tục ấy lại càng ít giá trị hơn. Nên nhớ: tất cả những tập tục này đều tốt, nhưng không phải là cốt tủy: thực hiện được thì tốt mà không thực hiện được cũng chẳng sao. Đức Giêsu đã chỉ cho những người này thấy cái sai của họ: «Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: "Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân"(Is 29,13). Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm».
Tôi thấy trong nhiều hội nghị Kitô hữu, người ta thường tuân thủ những qui ước minh nhiên (= được qui định rõ ràng) hoặc mặc nhiên (= tự nhiên phải hiểu, phải biết, không cần nói ra). Chẳng hạn như: vấn đề thuộc phạm vi của người nào thì chính người ấy phải nêu lên để bàn. Tuân thủ những qui định ấy là điều rất tốt để bảo vệ trật tự trong hội nghị. Nhưng có những trường hợp mà những vấn đề rất quan trọng có liên quan đến lương tâm của cả hội nghị thì lại không được đem ra bàn, lý do là người có trách nhiệm chính vì một lý do nào đó không chịu đưa ra bàn. Những người khác tuy bị lương tâm thúc giục phải đưa vấn đề ra, nhưng lại vị nể hay quá tôn trọng quyền ưu tiên của người có trách nhiệm chính, nên cuối cùng vấn đề lương tâm cần thiết phải bàn lại bị cho « chìm xuồng», vì thế công ích bị thiệt hại nặng nề. Khi vị nể hay tôn trọng qui ước kiểu ấy phải chăng người ta đã coi qui ước của phàm nhân quan trọng hơn cả luật của lương tâm, cũng là luật của Thiên Chúa? Đạo đức kiểu đó là đạo đức gì?
4. «Đạo tại tâm». Đúng rồi! nhưng coi chừng... tâm giả!
Tuy nhiên, nhiều người lại đi đến một thái cực khác là không thèm làm những thể hiện tốt đẹp bên ngoài. Họ ngụy biện rằng « Đạo tại tâm». Họ cho rằng họ đã có cái cốt tủy của lề luật ở bên trong, nên đủ giá trị trước Thiên Chúa rồi. Nhưng thánh Giacôbê tố cáo họ: «Đức tin không có hành động là đức tin chết» (Gc 2,17.26). Nếu tinh thần cốt tủy kia không được thể hiện ra thành những hành động bên ngoài, thì đó là một nghịch lý, mâu thuẫn. Hãy coi chừng cốt tủy kia chỉ là cốt tủy giả hay tâm giả.
5. Điều quan trọng là bên trong chứ không phải bên ngoài
Đức Giêsu nói: « Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình... Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế». Ngài cho thấy: yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bên ngoài. Chính ý hướng ở bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có giá trị hay không. Nhiều người có những hành động rất tốt nhưng lại làm vì những động lực ích kỷ hay gian ác, thì hành động ấy trở nên xấu. Chẳng hạn những hành động giả nhân giả nghĩa nhằm được một lợi lộc nào đó, như bố thí thật nhiều để được khen, để có tiếng là đạo đức hầu lừa đảo người khác, hay làm việc tích cực chỉ nhằm để được lên chức, để nắm được quyền hành hầu thao túng lũng đoạn tập thể. Ngược lại, có những người «tình ngay mà lý gian», hành động thì có vẻ như xấu, bị kết án, nhưng ý hướng thì tốt lành, nhằm ích lợi cho tha nhân. Họ tuy bị người đời kết án, nhưng lại được Thiên Chúa chúc lành.
Vì thế, trong đời sống tâm linh, người ta phải tu dưỡng cái « tâm» ở bên trong trước: phải có tâm ngay thẳng, thành thật, luôn tôn trọng sự công bằng, biết yêu thương mọi người không phân biệt sang hèn tốt xấu. Khi đã có tâm tốt thật sự, những việc làm của người ấy sẽ tự nhiên đẹp lòng Chúa. Thánh Âu Tinh nói: «Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm!» (Ama et fac quod vis). Khi tâm đã quanh quéo, ích kỷ, sẵn sàng hại người, thì bất kỳ việc làm do tâm ấy thúc đẩy - dù bên ngoài có tốt lành đến đâu - cũng đều mang dấu ấn của tâm ấy, nên không mấy giá trị trước Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho chúng con hiểu rằng sự thánh thiện hệ tại tình trạng tốt đẹp tâm hồn hơn là tại những hành động bên ngoài. Xin cho chúng con biết quan tâm đến việc tu tâm dưỡng tánh, nghĩa là có một tâm hồn ngay thẳng, luôn thành thật, luôn tôn trọng và bênh vực công lý, luôn yêu thương mọi người. Tâm tốt lành ấy mới chính là điều cốt yếu làm nên sự công chính thánh thiện của chúng con, hơn là việc giữ luật lệ một cách chi tiết hay việc làm cho thật nhiều những hành động tốt .
Trong những đợt thi tú tài của những năm gần đây, chả năm nào mà lại không bị tố cáo là nhiều tiêu cực. Báo chí, đài truyền hình đánh giá, phê bình đủ điều. Với những người có tâm huyết với đất nước, với dân tộc, thì đây không chỉ là một nỗi buồn, mà còn là một nỗi lo to lớn. Lo cho thế hệ tương lai, những người sẽ kế thừa lớp đàn anh chúng ta. Họ sẽ chỉ là những người có mảnh bằng làm mác, nhưng trong ruột thì rỗng tuếch. Cái bằng họ có trong tay là bằng thiệt, nhưng chất lượng lại là học giả, hay giả học. Điều này, nếu cứ tiếp diễn, sẽ trở thành đại họa cho quê hương, dân tộc. Hiện tượng vụ hình thức, vụ dán mác, vụ bên ngoài, dĩ nhiên, vào thời nào cũng có. Ngay cả vào thời Chúa Giêsu.
Vì vậy, trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã manh bạo lên tiếng cảnh báo: Thưa Thầy, tại sao các môn đệ của Thầy, lại không theo truyền thống của tiền nhân, là phải rửa tay trước khi ăn? Câu hỏi vừa mang tính chất kết án vì không giữ luật, vừa mang ý chỉ trích, về sự thiếu đạo đức của các môn đệ Chúa. Với những người đặt câu hỏi ấy; cứ cần hình thức đẹp là được. Cứ cần dán mác cho bóng, cho hoa mỹ, là có giá trị rồi. Quả thực. Đó là xã hội gian dối. Chúa Giêsu phản đối lối sống này. Ngài chỉ ra cho chúng ta thấy. Điều quan trọng trong cuộc sống, là nằm trong tâm hồn. Theo Chúa, mà chỉ cốt sao giữ cho có hình thức bên ngoài, mà không có gì trong tâm hồn. Không hề có tình yêu với Chúa, thì những việc làm ấy đều trở thành vô ích. Điều cốt lõi, là phải lo: Thanh tẩy tâm hồn, và trái tim. Một tâm hồn và một trái tim thanh sạch tinh khiết, sẽ làm cho những việc làm của ta, thành tốt đẹp và giá trị. Bởi vì như Chúa nói: Chính cái từ trong con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Một tâm hồn ác độc, hành động của họ, khó mà có sự yêu thương.
Ngoài việc thanh tẩy tâm hồn và trái tim, bước thứ hai phải làm là: Hãy luyện tập, để có được một tâm hồn và trái tim biết yêu thương, biết thông cảm, biết khiêm tốn, và biết tôn trọng sự thật.
Câu hỏi:
1- Bạn giữ các giới răn Chúa, vì lý do gì? 2- Tâm hồn của bạn, giờ này trắng trong hay đã úa màu. Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng. Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay kể lại cuộc xung đột giữa Chúa Giêsu và bọn biệt phái. Họ là những kẻ bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu, để bắt lỗi Chúa Giêsu. Thế nhưng mưu toan ấy đã bị thấ bại, và chính Chúa Giêsu cũng đã có lần thách thức họ: Các ngươi cứ việc bắt bẻ xem Ta lỗi phạm điều chi. Thất bại với Chúa Giêsu, họ quay sang hạch sách các môn đệ: Tại sao các môn đệ của ông lại không tuân giữ tập tục của cha ông. Dùng bữa mà không rửa tay. Thế nhưng Chúa Giêsu đã lên tiếng quở trách họ: Hỡi bọn giả hình, tiên tri Isaia đã nói thật chí lý về các ngươi như sau: Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta.
Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu đã tỏ ra rất nhân từ và khoan dung đối với các tội nhân, nhưng Ngài lại tỏ ra nghiêm khắc với bọn biệt phái và luật sĩ. Nhiều lần Ngài đã lên tiếng trách cứ họ nặng lời. Tại sao thế? Tôi xin thưa vì họ là những kẻ kiêu căng và tự phụ, bôi bác và giả hình. Khắt khe với người khác mà lại rộng rãi với chính mình. Nói tới giả hình là chúng ta nghĩ ngay đến sự gian tham tà ý, khẩu phật tâm xà, miệng nam mô bụng bồ dao găm. Tư tưởng không đi đôi với lời nói và lời nói không đi đôi với việc làm. Ngôn hành không có hợp nhất. Nói một đàng làm một nẻo. Vì thế Chúa đã nghiêm khắc kết án: Khốn cho các ngươi hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, các ngươi giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy giòi bọ cùng mọi thứ xú uế.
Nói tới kẻ giả hình, chúng ta nghĩ ngay tới những kẻ kính Chúa bằng môi bằng miệng nhưng cõi lòng họ thì lại xa lìa Chúa. Họ tuân giữ cặn kẽ những tập tục của cha ông mà quên đi những giới luật của Chúa. Họ chỉ lo giữ gìn tiếng tăm trước mặt người đời, mà không lo giữ gìn tâm hồn khỏi mọi vết nhơ của tội lỗi trước mặt Thiên Chúa. Họ bấu víu vào những hình thức đạo đức bên ngoài như đọc kinh, xưng tội, rước lễ, rước kiệu, dâng hoa... nhưng trong cuộc sống ngoài xã hội, thì lại tỏ ra gian tham độc ác với những người chung quanh. Đúng như Chúa Giêsu đã diễn tả họ kinh kệ dài dòng nhưng lại nuốt trửng gia tài của các bà goá. Họ lo lau chìu chén đĩa bên ngoài, mà không lo gìn giữ tâm hồn mình trong trắng.
Nguyên nhân chính yếu khiến họ trở nên đáng trách, đó là vì họ thiếu vắng lòng mến chân thành, dù họ có làm gì chăng nữa, thì những hành động của họ cũng chẳng có được một chút giá trị và đến một lúc nào đó, chiếc mặt nạ đạo đức rơi xuống, khiến họ chỉ còn là những kẻ giả dối, bôi bác mà thôi.
Có hai thiếu phụ, mỗi người sinh được một mụn con trai. Chẳng may đêm hôm đó bà này nằm ngủ và đè chết con mình, bèn đánh tráo đứa con của bà kia. Sáng dậy bà kia nhận ra đứa con đã chết không phải là đứa con của mình. Thế là hai bà cãi cọ với nhau. Nội vụ được đưa tới vua Salomon. Nhà vua bèn truyền xẻ đứa nhỏ còn sống ra làm đôi, mỗi bà một nửa. Bà này bằng lòng còn bà kia thì xin nhường miễn là người ta đừng giết đứa nhỏ. Và rồi nhà vua đã trao đứa nhỏ còn sống cho bà kia, bởi vì nhờ tình thương mà nhà vua đã nhận ra bà kia chính là người mẹ thực của đứa nhỏ.
Đừng bôi bác giả hình, nhưng hãy sống thật với Thiên Chúa, sống thật với bản thân và sống thật với anh em đồng loại.
Qua lời xác quyết của Chúa Giêsu chúng ta ghi nhận một sự thật đó là vì yêu thương và muốn cho chúng ta được cứu rỗi, Ngài đã truyền cho chúng ta tuân giữ điều này điều nọ. Và như chúng ta cũng đã biết, tình thương phải được đáp trả lại bằng tình thương. Bởi đó, việc chúng ta tuân giữ những lệnh truyền của Chúa cũng phải được xuất phát từ lòng mến chân thành. Một đi khi đã có lòng mến chân thành rồi, nó sẽ phản chiếu ra những hành động bên ngoài và làm cho những hành động ấy có một giá trị siêu nhiên và vĩnh cửu. Bằng không thì những hành động ấy sẽ chỉ như tiếng não bạt ầm vang, nhọc nhằn mà chẳng nên cơm cháo gì, còn bản thân chúng ta chẳng bao lâu sẽ bị lột mặt nạ, vì chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác và giả hình mà thôi.
Đúng thế, Chúa bảo chúng ta hãy xa tránh men bột biệt phái, vì họ là những kẻ vụ hình thức bên ngoài, họ quá chú trọng đến những chi tiết vụn vặt mà quên đi cái yếu tố căn bản của lề luật, đó là lòng mến bên trong. Người biệt phái quan tâm đến việc tắm gội thân xác, giặt giũ quần áo, lau chùi chén bát, tẩy uế chum vò nhưng lại coi thường lòng mến đối với Thiên Chúa và tình thương đối với anh em, khiến cho Chúa Giêsu đã phải mượn lời tiên tri Isaia mà quở trách họ: Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta. Họ gạt bỏ lề luật của Chúa, để bấu víu vào những tập tục của cha ông. Cái chính thì họ không làm không giữ, nhưng lại đi gữ và làm những cái vô nghĩa. Họ đã đảo lộn bậc thang giá trị.
Đối với Chúa Giêsu thì khác, tâm tình bên trong mới là yếu tố quyết định. Từ cái tâm địa xấu mà phát sinh ra những tội gian dâm, trộm cắp, thù oán, nhưng từ cái tâm địa tốt, chúng ta sẽ có được những hành động yêu thương, giúp đỡ và bố thí đối với anh em. Như thế, tư tưởng của chúng ta sẽ đi đôi với lời nói và lời nói thì đi đôi với việc làm. Chúng ta sẽ trở nên những người đôn hậu và chân thành, chúng ta không phải là những kẻ bôi bác và giả hình.
Có một nhà triệu phú chết đi để lại một gia tài to lớn với một người con đi du học ở ngoại quốc từ nhỏ, nên không ai còn nhớ được khuôn mặt. Sau khi mẩu tin được đăng báo thì người ta thấy có ba chàng thanh niên tự nhận mình là con và xin được lãnh phần sản nghiệp. Viên quan toà suy nghĩ, sau cùng ông nhờ hoạ sĩ vẽ bức chân dung của nhà triệu phú. Ông trao cho ba chàng thanh niên, mỗi người một khẩu súng và bảo: Nếu ai bắn trúng một điểm nhỏ trên khuôn mặt nhà triệu phú thì sẽ được lãnh phần gia nghiệp. Chàng thanh niên thứ nhất đến và giơ súng bắn. Chàng thanh niên thứ hai cũng thế. Cả hai viên đạn chỉ cách chấm nhỏ có chút xíu. Chàng thanh niên thứ ba, vẻ mặt rất buồn, cầm súng, yên lặng suy nghĩ và sau cùng đã nói: Tôi không bắn vì đây là bức chân dung của ba tôi. Viên quan toà chạy đến và nói: Chính anh là người con của nhà triệu phú và anh được lãnh phần gia nghiệp.
Nếu không có tình mến, thì rồi một lúc nào đó chúng ta sẽ bị lật tẩy, vì chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác giả hình mà thôi.
Có một Rabbi Do Thái tên là Agiba, bị giam trong một trại tù ở Rôma. Ông rất trung thành với lề luật và truyền thống tổ tiên để lại. Tù nhân vẫn được cho ăn uống tử tế và đầy đủ, nhưng chỉ một thời gian ngắn, sức khoẻ ông bị giảm sút nghiêm trọng. Sau một thời gian theo dõi, giám thị trại giam đã tìm ra nguyên nhân. Lý do đơn giản, vì phạm nhân đã dùng hầu hết số nước được cấp phát thay vì uống, lại để rửa tay trước khi ăn. Cơ thể ông ta thiếu nước một cách trầm trọng. Vị Rabbi Do Thái này đã cương quyết tuân thủ lề luật bằng bất cứ giá nào.
Giai thoại trên do tác giả Barlay kể lại, dẫn chúng ta đi vào bối cảnh câu chuyện được trình thuật trong Tin mừng hôm nay. Những người biệt phái tỏ ra rất khó chịu khi thấy các môn đệ Đức Giêsu dùng bữa mà không rửa tay trước. Câu trả lời của Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải canh tân nội tâm để thực hiện những giới luật của Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ tỏ ra xơ cứng, chỉ thỏa mãn trên việc thực thi lề luật cách máy móc theo hình thức bên ngoài.
Lex Occidit (chữ viết luật lệ thì giết chết)
Trong các sách Tin mừng nhất lãm, các thánh ký khá nhiều lần thuật lại sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các đầu mục Do Thái, đặc biệt nhóm biệt phái. Trình thuật trong Tin mừng hôm nay là một ví dụ điển hình. Những người biệt phái “nhắc khéo” Chúa Giêsu: “Tại sao môn đệ ông không rửa tay trước khi ăn?”. Có lẽ lời nhắc nhở này phát xuất từ lòng thương hại của họ hơn là để phê phán hay chỉ trích. Đối với họ, phải giữ lề luật cách cẩn trọng và tỉ mẩn, con người mới trở nên công chính và thánh thiện. Cũng vậy, có lần họ thấy những học trò của Chúa Giêsu bứt lúa để ăn cho đỡ đói trong ngày hưu lễ. Họ bực bội khó chịu, và không thể chấp nhận một hành vi phạm luật như thế. Ngày Sabat theo luật viết, là một ngày để nghỉ ngơi, không được làm bất cứ công việc gì. Nhóm biệt phái còn soạn thảo thêm 36 chi tiết tỉ mỉ, nêu ra những điều cấm kỵ tuyệt đối không được đụng tay vào trong ngày hưu lễ. Gặt lúa bị nghiêm cấm, quạt thóc cũng không, ngay cả nấu nướng cũng chẳng được phép làm. Họ tự nghĩ ra những rào cản rất vô lý, không những để tự trói buộc mình, mà còn chất bao gánh nặng lên vai người khác. Chúa Giêsu phản kháng hoàn toàn. Ngài chống đối kịch liệt, và cao điểm nhất, Ngài kết án thái độ giả dối của họ một cách thẳng thừng. Thánh Matthêu đã liệt kê 7 điều “chúc dữ” Chúa đã nói một cách gay gắt nhắm vào họ, không một chút khoan nhượng. “Khốn cho các ngươi, các kinh sư và các Pharisiêu giả hình, các ngươi khóa cửa nước trời không cho ai vào. Các ngươi làm bộ để nuốt hết tài sản của các bà góa... Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bề ngoài ra vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác…” (xem Mt 23,13-32).
Xem ra mũi dùi tấn công của Chúa Giêsu nhắm vào họ quá cứng rắn và đanh thép, biểu tỏ một thái độ bất nhân nhượng, không thể chấp nhận. Nhưng Chúa có lý do. Ngài ghét cay ghét đắng những con người giả dối chỉ biết giữ lề luật một cách cứng ngắc và giả dối bề ngoài, còn tâm hồn bên trong lại rỗng tuếch. Ngài khẳng định rằng, Ngài đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn, tức mặc cho lề luật một chiều kích nội tâm. Biệt phái ngày xưa đã hết từ lâu, nhưng kiểu cách biệt phái vẫn còn nơi cuộc sống chúng ta, nơi từng mỗi giáo dân, đặc biệt nơi anh em linh mục hay tu sĩ. Chúng ta giữ ngày Chúa nhật bằng việc lê xác tới nhà thờ cho có lệ, nhưng tâm hồn vẫn để ở đẩu ở đâu. Chúng ta vẫn ăn chay kiêng thịt vào ngày hội thánh buộc, bao tử có thể trống rỗng và đói cồn cào, nhưng tâm hồn lại chất đầy hận thù và tham lam bẩn thỉu. Chúng ta đến nhà thờ đấm ngực thật to và cùng đọc với mọi người: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi.., nhưng vừa bước chân ra bên ngoài, chúng ta lại đấm lộn qua ngực người khác bằng cách chỉ trích hết người này, đến kết án người nọ. Việc tuân thủ lề luật một cách xơ cứng và vô nghĩa như thế có khác gì thái độ của những người Pharisiêu năm xưa. Quả thật, Lex Occidit, luật lệ cứng ngắc sẽ giết chết chúng ta.
Spiritus Vivificat. (tinh thần lề luật mới làm cho sống).
Tuân giữ lề luật một cách máy móc sẽ giết chết, sẽ nhấn chìm chúng ta trong bóng tối của mù lòa, nhưng thực thi tinh thần lề luật sẽ làm cho chúng ta sống. Đây là điều Thánh Phaolô đã khẳng quyết trong thư Rôma. Thánh giáo phụ Irênê cũng nói “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”, hoặc tác giả sách Khôn ngoan cũng diễn tả: “Thiên Chúa chẳng vui gì khi thiên hạ tiêu vong” (Kn 1,13). Đức Giêsu đến trần gian để cho chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10,10). Vì muốn chúng ta được sống, nên Đức Giêsu đã mặc cho lề luật một chiều kích nội tâm. Ngài gọi mời chúng ta đi vào tinh thần lề luật để được sống. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô đã khẳng định khá nhiều lần: “Anh em cần phải cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần lề luật, chứ không phải theo chữ viết của lề luật (Rm 2,29b)”. “Chúng ta phục vụ Thiên Chúa theo tinh thần mới, chứ không theo bản văn cũ của lề luật (Rm 7,6). Cuối cùng, thánh tông đồ đã tóm kết toàn bộ lề luật vào một định thức giản đơn. Ngài viết “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13.16).
Như vậy, tinh thần của lề luật, chính là tình yêu. Trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu đã chuyển giao cho các học trò lề luật mới này: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”. Lề luật mà Đức Giêsu thiết định bằng máu Ngài đổ ra trên Thập giá chính là tình yêu, tình yêu mà Ngài đã thực thi như một nguyên mẫu. “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em.”
Nói tóm lại, không phải Đức Giêsu đả kích lề luật cũ của cựu ước, nhưng Ngài kiện toàn và nội tâm hóa lề luật, đồng thời Ngài mời gọi chúng ta đi vào cốt lõi của lề luật, đó là thực hành yêu thương.
Thiên Chúa thấu rõ tâm hồn mỗi người. Thánh Augustinô đã thưa với Chuá: “Lạy Chúa, Ngài biết rõ con hơn cả chính con biết con”. Chúng ta không thể giấu diếm Thiên Chúa được một điều gì. Thiên Chúa không bao giờ đo đếm những thành tích đạo đức bề ngoài để đánh giá con người chúng ta, nhưng Ngài thấu tỏ mọi bí ẩn trong tâm can từng người. Thước đo duy nhất để Ngài định giá chúng ta chính là thước đo tình yêu. Những biệt phái ngày xưa, bề ngoài rất đạo đức, không chê vào đâu được: “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần 2 lần, con dâng cúng một phần mười huê lợi của con…”, nhưng Chúa nói thẳng vào mặt họ: “Đồ giả hình và gian ác” (Mt 23,30). Chúng ta hãy lục soát lương tâm để xem có bao giờ Chúa phải nói với chúng ta như thế hay không?
Cha Anthony de Mello, một tu sỹ dòng Tên đã viết một câu chuyện khá ý nghĩa. Một ông vua nọ chơi bời tác tráng, cả ngày chỉ nhậu nhẹt và lao đầu vào những cuộc ăn chơi trụy lạc, chẳng lo gì cho dân. Khuôn mặt của ông lúc nào cũng đỏ gay và sặc sụa mùi rượu. Một bữa nọ, nhà vua cưỡi ngựa đi ra ngoài thành. Ông gặp một tu sỹ già khuôn mặt nhợt nhạt xanh xao, áo quần lôi thôi lếch thếch. Nhà vua dừng lại và trịch thượng chào vị tu sỹ với giọng điệu mỉa mai: “Xin chào ông tu sỹ. Nhìn áo quần nhàu nát và khuôn mặt cáu bẩn của ông, tôi thấy ông chẳng khác gì một con heo”. Vị tu sỹ cúi đầu lắng nghe, gương mặt bình thản và cũng chẳng tỏ vẻ khó chịu chút nào. Một lát sau, ngài ngẩng đầu lên, nhìn chăm chú vào đức vua và đáp lễ: “Thần xin cám ơn bệ hạ, còn bề tôi thấy khuôn mặt đức vua giống như một vị thánh”. Nhà vua kinh ngạc hỏi lại: “Ta miệt thị ngươi, ngươi không buồn cũng chẳng giận, còn khen ta có khuôn mặt giống một vị thánh, tại sao thế?. Vị tu sỹ điềm nhiên và thong thả trả lời: “Tâu đức vua, một con người sống với trái tim và tâm hồn của loài heo, nhìn thấy ai cũng giống heo. Ngược lại, một con người có tâm hồn và trái tim của một ông thánh, sẽ thấy mọi người giống các vị thánh. Nói xong vị tu sỹ lặng lẽ bỏ đi còn nhà vua đứng chết lặng.
Chúng ta giữ đạo và giữ luật với trái tim của loài heo hay của một ông thánh? Chúng ta tuân thủ các điều luật trong giáo hội với tâm hồn của những người Pharisiêu năm xưa hay với trái tim nhân hậu của của Chúa Giêsu? Chúng ta hãy tự lục soát lương tâm và nhìn thẳng vào nội tâm chính mình để tìm câu trả lời.
Đường hay pháo đài?
Đây là tựa đề của một quyển sách do Nguyễn Ngọc Lan biên soạn. Ông là một cựu tu sỹ Dòng Chúa Cứu Thế, đã suy tư và viết cuốn sách này năm 1972. Trong tác phẩm, ông đặt vấn đề với tất cả chúng ta, đạo Công giáo là đường hay pháo đài? Pháo đài là một thứ lô cốt cứng ngắc chúng ta chui vào đó để cố thủ, để ôm giữ. Nếu chúng ta chỉ giữ đạo một cách khô cứng với những lề luật hình thức bên ngoài, chẳng khác nào chúng ta đang khăng khăng ôm giữ một pháo đài. Điều đó cũng giống như những anh chàng Hồi giáo IS quá khích ngày nay quyếtgiữ bom trong mình để liều chết. Còn nếu chúng ta không phải giữ đạo mà sống đạo, thì đạo đích thực là một con đường. Con đường trước mắt luôn mở rộng thênh thang để chúng ta bước đi, đi đến gặp gỡ Thiên Chúa và đi đến gặp gỡ anh em. Đạo công giáo của Chúa Giêsu là đường, chứ không phải pháo đài.
Kết luận
Nếu bình thản đọc lại bộ giáo luật 1983, chúng ta thấy ngay từ lời tựa đầu tiên, Giáo hội đã đưa ra những tiêu chí chung cho tất cả 1752 khoản luật viết trong đó. Tiêu chí đó là: “ Để giúp việc chăm sóc các linh hồn, không chỉ là đức công bằng, nhưng luôn phải dành chỗ cho đức ái, tiết độ, nhân đạo...Vì thế, các mục tử nên loại bỏ các khoản quá cứng ngắc. Hơn nữa, mỗi khi không cần những khoản luật nhằm phục vụ công ích và kỷ luật chung của Giáo hội, chỉ nên sử dụng lời khuyên hay khuyến cáo mà thôi”. Chúng ta hãy đọc kỹ lại những hướng dẫn này.
Lời nhắc nhở này dành cho mọi tín hữu, đặc biệt cho các anh em linh mục là những “người quản lý các mầu nhiệm Thiên Chúa”(1 Cor 4,1-2), để trong công việc mục vụ, chúng ta luôn mang chở nơi mình một trái tim giống trái tim của Vị Mục Tử Nhân Lành, là nguyên mẫu cho tất cả chúng ta.
Luật lệ ghi dấu khả năng phát triển của xã hội loài người. Luật tự nhiên là tiếng nói trong lương tâm mà Tạo Hóa đã đặt để trong tâm hồn của mỗi người. Từ rất sớm, khi xã hội loài người hình thành và phát triển, các quốc gia và các tôn giáo đã có những bộ luật riêng để hướng dẫn mọi người. Con người sống chung với nhau đã từ từ phát sinh ra nhiều thứ luật lệ để bảo vệ quyền lợi cho nhau và cho xã hội. Trong đạo Do-thái xưa có bộ luật Torah trong Ngũ Thư (Pentateuch). Năm cuốn sách đầu trong Kinh Thánh Cựu Ước (Sách Sáng Thế Ký, Sách Xuất Hành, Sách Lêvi, Sách Dân Số và Sách Đệ Nhị Luật) bao gồm những luật lệ căn bản của dân Do-thái, hiên nay một số đông các cộng đoàn Do-thái vẫn áp dụng.
Chúng ta biết pháp luật là một hệ thống của các qui luật để hướng dẫn con người sống chung trong xã hội. Luật pháp giúp phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội qua nhiều cách khác nhau như một trung gian liên hệ giữa con người. Dân Luật là hệ thống hợp pháp được qui định bởi tòa án của các quốc gia. Luật này được sự đồng thuận của các nhà Lập Pháp riêng mỗi quốc gia. Ngoài những luật riêng của các quốc gia, cộng đồng nhân loại có luật chung quốc tế. Về tôn giáo, có Giáo luật là những luật lệ đặt ra để hướng dẫn các tín đồ trong đạo giáo. Các Điều luật về tôn giáo đặt nền tảng trên những khái niệm về niềm tin trong tôn giáo như Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo….
Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách thứ năm trong Bộ Ngũ Thư. Người Do-thái và các Kitô hữu tin rằng sách này bao gồm những luật lệ, bài giảng và hướng dẫn dân Do-thái bởi ông Môisen trước khi bước vào miền Đất Hứa. Sách Đệ Nhị Luật gồm ba phần chính: Phần thứ nhất nói về 40 năm ròng rã lữ hành trong sa mạc của dân Do-thái đã chấm dứt, kêu gọi mọi người tiếp tục tuân giữ các giới răn Chúa đã truyền dạy:Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh. Khi được nghe tất cả những thánh chỉ đó, họ sẽ nói: "Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông minh!(Đnl 4, 6).Phần thứ hai nhắc nhở người Do-thái đặc biệt tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất và giữ các lệnh truyền để được sở hữu miền đất mà Chúa sẽ đã hứa ban. Phần ba, nếu dân bất trung thì sẽ bị tước đoạt phần đất hứa, nhưng khi dân biết ăn năn sám hối và hoán cải thì mọi sự sẽ được hoàn trả lại. Đây là nguồn an ủi và hy vọng.
Ngoài những luật lệ thành văn, xã hội còn nhiều những điều luật riêng tư như tục lệ, truyền thống, phép tắc, tập tục, thói quen, lệ làng và cả hủ tục… Xã hội càng văn minh càng có thêm nhiều luật lệ. Luật như những hàng rào để bảo vệ môi trường an toàn chung quanh và quyền lợi lẫn cho nhau. Luật làm ra để bảo vệ sự sống và quyền sống của con người. Nếu có những luật lệ đi ngược với những quyền thiêng liêng, giới hạn hay hủy hoại sự sống của con người, không buộc lương tâm con người phải chấp hành. Chúng ta còn có một luật có giá trị hơn, đó là luật lương tâm. Không ai có thể tước đoạt quyền tiếng nói của lương tâm. Cho dù bị tù đầy, khổ ải, đánh đập và giết chóc cũng không thể áp đặt. Đây là giá trị tự do cao quí nhất của con người. Mẫu gương của các đấng tử đạo vì niềm tin, thà chết chứ không chối Chúa, không bỏ đạo và không dẵm đạp lên thánh giá.
Khi Chúa Giêsu ra rao giảng, Ngài đã đối diện với xã hội con người với cách sống và tập tục của tiền nhân qua bao đời để lại. Có những tập tục đã trở thành thói quen được lặp đi lặp lại mà không mang ý nghĩa nội tâm:Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng (Mc 7, 3-4). Các Luật sĩ ghi chú và áp dụng thật tỉ mỉ những khoản luật này. Họ đặt lên vai dân chúng những gánh nặng của lề luật. Dựa vào những luật lệ do các luật gia đặt ra để tìm phạt vạ và bắt bẻ những người phạm lỗi. Các Biệt Phái và Luật sĩ hỏi Chúa Giêsu: "Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa? (Mc 7, 5). Để trả lời cho họ, Chúa Giêsu đã đưa họ trở về nguồn là các giới răn của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu dẫn chúng ta đi vào chính trong tâm hồn, nơi phát sinh điều lành và dữ. Tâm hồn như tâm địa là nơi được gieo trồng điều thiện cũng như điều ác. Việc thiện phát xuất từ tâm tốt. Trong cõi tâm có thiện tâm, đạo tâm và chánh tâm. Cõi tâm có mặt trái là tà tâm, ác tâm, nhẫn tâm và đưa đến khổ tâm. Thiện tâm sẽ hun đúc điều lành và việc tốt. Chúa Giêsu nhìn thấu tâm hồn con người và Ngài đã vạch ra những tà tâm từ tận sâu đáy lòng: Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng (Mc 7, 21-22). Đúng thế, đôi khi chúng ta đánh giá con người theo sự xuất hiện hình thức bên ngoài. Chúng ta đâu thấu hiểu được nội tâm sâu kín. Người ta thường nói:Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng. Rất nhiều khi chúng ta sống như đóng kịch, đối xử gian dối và sống giả hình. Bên ngoài thì chăm chăm chú chú nguyện cầu, nhưng trong lòng đầy những uẩn khúc giận hờn, ghen ghét và thù nghịch.
Chúa Giêsu phơi bầy sự thật của lòng người, Ngài nói:Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế (Mc 7, 23). Những điều xấu xa là từ bên trong tâm là tham thân si, ý nghĩ, ước muốn, lời nói và hành động xấu phát xuất ra. Các con ma quái dị rình rập bên cạnh để kéo lôi chúng ta như tài, sắc, danh, thực và thùy (ngủ). Ngũ dục này giống như con đẻ nằm sẵn trong tâm, chỉ chờ cơ hội là xuất đầu lộ diện. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự thật trong sáng của tâm hồn. Chúng ta phải tu tâm, tu thân và dưỡng tánh thường xuyên. Như Chúa căn dặn các môn đệ là hãy cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ. Phấn đấu với sự yếu đuối của bản thân là một trận chiến đấu không ngừng.
Thánh Giacôbê tông đồ khuyên dạy chúng ta: Mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận vì khi nóng giận, con người không thực thi đường lối công chính của Thiên Chúa (Giac 1, 19-20). Mau nghe, chậm nói và khoan giận là sự khôn ngoan. Giacôbê đã chia sẻ những kinh nghiệm sống thật mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Sự hài hòa và nhẫn nại luôn là những hoa trái tốt lành cần được đón nhận và trân quí. Mỗi người chúng ta đều mong cầu có được một cuộc sống hạnh phúc và an lạc. Chúng ta phải tự cố gắng xây đắp cho chính cuộc đời của mình. Không gieo thì sẽ không có gặt. Khi chúng ta làm việc lành phúc đức, phúc đức sẽ báo đáp. Giáo Hội đã giới thiệu cho chúng ta những huấn lệnh, giới răn và những mối phúc như Mười Điều Răn, thương người có Mười Bốn Mối và Tám Mỗi Phúc Thật…
Lạy Chúa, mọi giới luật đều qui tóm về hai giới răn trọng, đó là mến Chúa và yêu người. Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em không phải bằng môi miệng nhưng bằng chính trái tim cảm mến. Chúng ta có thể làm được mọi việc mà nếu không có lòng mến, tất cả trở thành vô ích. Chúng ta hãy xin cho hạt giống yêu thương nẩy nở và sinh hoa kết qủa trong tâm hồn. Thánh Giâcôbê mời gọi: Hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em (Giac 1, 21).
Chúa nhật thứ XXII thường niên B đưa chúng ta trở lại với Tin Mừng Marcô, với sứ điệp Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra rằng, giữa bao nhiêu phong tục tập quán của loài người còn có những Luật Lệ của Thiên Chúa. Lề Luật ấy là yếu tố nòng cốt của Do thái giáo cũng như Kitô giáo, nơi Lề Luật, chúng ta tìm thấy sự hoàn hảo trong tình yêu (x. Rm 13,10). Và Lề Luật của Thiên Chúa không phải là một gánh nặng hay sự gò bó đối với con người, đúng hơn Lề Luật là hồng ân quý giá, vì nó chứng tỏ thấy tình yêu của Thiên Chúa là Cha luôn gần gũi với con người là thần dân của Chúa, cùng với họ viết lên một lịch sử tình yêu.
Vì yêu mến con người Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa (x. St ). Cũng vì muốn con người vui sống hạnh phúc, Thiên Chúa đã ban truyền các Thánh chỉ của Ngài là Lề Luật để hướng dẫn con người, đưa con người ra khỏi tình trạng nô lệ của ích kỷ và dẫn vào trong "miền đất" của sự tự do và sự sống đích thật. Những người Do thái đạo đức thường cầu nguyện như sau: "Nơi các luật điều của Người, tôi vui khoái, tôi sẽ không quên lời lẽ của Người… Xin cho tôi vững bước trên nẻo đi lệnh truyền, vì nó là nguồn sung sướng của tôi" (Tv 119,16.35).
Thánh chỉ của Chúa được ban qua trung gian Môisen, và Môisen có bổn phận phải thông truyền cho dân như sau: "Và bây giờ, hỡi Israel, hãy nghe các luật điều và phán quyết ta dạy các ngươi thi hành, ngõ hầu các ngươi được sống mà vào chiếm lấy đất Thiên Chúa của cha ông các ngươi muốn ban cho các ngươi" (Đnl 4,1).
Với dòng thời gian, con người trở nên hư hỏng và bị cám dỗ tôn thờ ngẫn tượng, gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài, và đương nhiên họ không còn tuân giữ Lề Luật Chúa nữa. Như thế tôn giáo lạc mất ý nghĩa đích thật của nó là sống trong thái độ lắng nghe Thiên Chúa để làm theo ý muốn của Ngài. Tôn giáo tự giản lược vào việc thi hành các thói quen phụ thuộc làm thỏa mãn nhu cầu của con người cảm thấy yên ổn với Thiên Chúa. Đã đành với thời gian qua đi con người có xu hướng bóp méo những lời khuyên Tin Mừng, và sau khi đã suy xét, họ thay đổi hoặc bóp nghẹt bởi do dự: "Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng …" (Mc 7, 4). Vì thế những người sống đạo bình dân, đã không nghe lời các tiến sĩ luật và những người pharisiêu, họ gắn bó với Lời Chúa hơn là vấn đề con người chú trọng. Chúa Giêsu lấy các lời của ngôn sứ Isaia làm của mình chống lại các kinh sĩ và các Pharisiêu: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: 'Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người'. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người" (Mc 7, 7; x. Is 29,13). Và Người kết luận: "Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người" (Mc 7, 8). Cả tông đồ Giacôbê, trong thư của người, cũng cảnh cáo nguy cơ của một tôn giáo giả. Người viết cho các kitô hữu như sau: "Anh em hãy là những người thực hành Lời Chúa, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình" (Gc 1,22).
Lúc sinh thời, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhân danh toàn thể Giáo hội ngỏ lời xin lỗi vì những điều không tốt con cái mình đã gây ra trong suốt chiều dài của lịch sử, trong nghĩa đó ngài bộc bạch rằng con cái mình "đã đi quá xa Tin Mừng".
Lời Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế" (Mc 7,15). Chỉ có những gì từ lòng người xuất ra, từ trong tòa án lương tâm của chúng ta mới có thể làm chúng ta ra ô uế. Chính sự độc ác này làm hư hỏng cả và nhân loại. Lòng thương xót của chúng ta không chính đáng với chính mình, nhưng giữ tâm hồn chúng ta không bị nhơ bẩn, "rửa tay" (của Philatô dẫn đến cái chết cả Chúa Giêsu nhắc lại cho chúng ta điều đó).
Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu diễn tả điều ấy cách chắc chắn trong cuốn Nhật Ký Tâm Hồn: "(…) Khi chiêm ngắm thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, tôi đã hiểu rằng Giáo hội có một trái tim tình yêu cháy bỏng". Từ trái tim ấy, Tin Mừng tình yêu trào dâng những điều tốt hảo, cụ thể là giúp đỡ những ai cần giúp "vì ta đói, các người đã cho ăn..." (Mt 25,35).
Xin Đức Trinh Nữ Maria cầu thay nguyện giúp cho chúng ta là con cái Mẹ biết lắng nghe Lời Chúa với con tim rộng mở và chân thành, để Mẹ hướng dẫn các tư tưởng, các lựa chọn và hành động của chúng ta mỗi ngày. Amen.
Trong đoạn văn Tin Mừng Thánh Máccô, ta nghe đọc điều rất có thể là một trong những lập luận được Đức Giêsu đưa ra nhiều lần. Đức Giêsu kiên định trong việc dẫn đưa dân chúng đến chỗ hiểu biết chân lý về sự hiện diện của Thiên Chúa và làm thế nào đáp lại trước chân lý đó. Đồng thời, Người chỉ trích các tập tục phàm nhân được giảng dạy và thực hiện như những hành vi thờ phượng. Khi nói rằng “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”, Người thông báo rằng các tập tục cũ đã lỗi thời rồi. Người cũng lên án truyền thống và thói tục thêm thắt vào các điều răn do Thiên Chúa ban… thái độ biến tập tục hoặc “ý tốt” trở thành lề luật.
“Thật vậy, lời Tin Mừng không phải chỉ để nghe mà còn để tuân giữ và thi hành (x. Mt 7,24; Lc 6,46-47; Ga 14,21.23-24; Gc 1,22): sự kiên định trong hành vi chứng tỏ điều mình tin và không chỉ giới hạn trong những việc có liên quan chặt chẽ đến Giáo hội hoặc thuần tuý thiêng liêng, mà còn liên hệ đến con người trong toàn bộ kinh nghiệm sống và trong toàn bộ các trách nhiệm của họ. Tuy nhiên dù mang tính trần thế đến đâu, chủ thể của các trách nhiệm này vẫn là con người, đó là con người, thông qua Giáo hội, được Thiên Chúa kêu gọi tham gia vào ơn cứu độ.
Con người phải đáp lại ơn cứu độ không phải bằng sự chấp nhận một phần, trừu tượng hoặc chỉ bằng lời nói suông, mà bằng toàn bộ đời sống của mình – trong mọi quan hệ làm nên đời sống – để không sao lãng điều gì, khiến cho điều ấy ở lại trong lĩnh vực phàm tục và trần thế mà không có liên quan gì hay xa lạ với ơn cứu độ. Vì thế, đối với Giáo hội, học thuyết xã hội của Giáo hội không phải là một đặc ân, một sự đi lạc đề, một tiện lợi hay một sự can thiệp: Giáo hội có quyền loan báo Tin Mừng trong bối cảnh xã hội, làm cho lời giải phóng của Phúc âm vang lên trong thế giới phức tạp của sản xuất, lao động, kinh doanh, tài chính, thương mại, chính trị, pháp luật, văn hoá, truyền thông xã hội, nơi con người sống” (Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo,70).
Phản ứng mà các kỳ mục và lãnh đạo tôn giáo có đối với lời của Đức Giêsu chứng tỏ rằng họ đã đánh mất cái nhìn về các giáo huấn của Môsê. Từ Sách Đệ nhị luật, ta nghe Môsê bảo dân Israel về tầm quan trọng của các thánh chỉ và quyết định được trao ban cho họ. Có lẽ sứ điệp quan trọng nhất trong bản văn là ở phần cuối… có quốc gia hoặc dân tộc nào có được “thần minh ở gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta?”
Ta phải trở lại cách đây một vài tuần để hiểu rõ điều này hơn. Như diễn ra trong Tin mừng Thánh Máccô, cách đây mấy tuần, ta đã nghe đọc rằng các môn đệ vừa mới đi truyền giáo trở về, miệng còn mải bàn luận tất cả những gì họ đã thấy và đã làm… và thành thực mà nói, liệu việc rửa tay có liên quan gì đến đức tin và việc giữ các điều răn?
Bỗng nhiên, mọi thứ dường như bị đảo ngược. Thay vì nghe về việc làm thế nào đám đông phản ứng trước lời giảng dạy của các Tông đồ, ta lại nghe những tiếng lầm bầm càm ràm. Đám đông thay vì đến với Đức Giêsu để nghe thêm, họ lại ca cẩm và cãi lý.
Trong Thư của Giacôbê, ta có thể nói rằng tác giả nối tiếp phần giảng dạy của Môsê. Vấn đề được nêu trong thư cũng rất hợp với đoạn văn Tin mừng hôm nay. Trong Thư Giacôbê, ta thấy có một loại thách đố cho các thành viên của cộng đồng Kitô giáo. Ông nhắc họ rằng tự gọi mình là Kitô hữu không thôi thì chưa đủ. Họ phải chứng tỏ điều đó. Họ phải thực hành đức tin, không phải chỉ có cầu nguyện mà còn phải có hành động.
Môsê nói với dân chúng về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời của họ. Trong Thư Giacôbê, ta được nhắc về sự hiện diện đó nhưng ta cũng được kêu gọi đáp lại vì ơn đức tin ta đã được ban.
Ta hầu như có thể nghe những lời này xuất phát từ Đức Giêsu cố ý nhắm đến những người Pharisêu và “các nhà thông luật”. Người tố giác họ chỉ có đức tin trống rỗng. Họ chỉ có biết làm theo thói tục – rủi thay, các thói tục này chẳng có liên quan gì đến việc đáp lại sự hiện diện của Thiên Chúa.
Thư của Giacôbê đặt nền tảng trên các Phúc âm. Thiên Chúa Cha đã tạo dựng nên chúng ta và ở lại trong thế giới. Đức Giêsu ban sự sống của Người cho chúng ta. Ta đáp lại như thế nào đây?
Một số câu trích từ Kinh Thánh đôi khi gợi lên nơi chúng ta những kỷ niệm khó chịu. Chúng ta có hai câu trong các bài đọc hôm nay. Hai câu thường dùng để nói lên sự không nhân nhượng và đòi hỏi khắt khe về mặt tôn giáo.
Câu thứ nhất trích từ Sách đệ nhị luật nói thế này: “Các ngươi sẽ không thêm gì vào những gì tôi truyền cho các ngươi và các ngươi không bớt gì cả nhưng các ngươi sẽ giữ mệnh lệnh của Chúa như tôi truyền dạy”. Khi đọc câu này, tôi nhớ đến những cuộc tranh cãi về phụng vụ đủ loại đã xảy ra từ mười năm nay, như vụ Lefebvre, hoặc những vụ khác, ít trầm trọng hơn, về việc thực hành những nghi thức Thánh lễ. Tôi cũng nhớ lại những lời tâm sự đau đớn của những người bị từ chối không cho xưng tội. Có thể nào một lời Tin Mừng, một lời giải phóng, được nói nhân danh Thiên Chúa, lại gây ra điều trái ngược không?
Câu thứ hai trích từ Tin Mừng, nói thế này: “Các ông bỏ giới răn của Thiên Chúa để theo truyền thống của loài người”.
Gần đây một được cháu gái, được rửa tội lại “trong Giáo Hội Tin Lành”, đã dùng câu này mà nói với tôi. Những cặp vợ chồng ly dị và tái giá, cũng đã cho tôi thấy nỗi đau đớn của họ trước sự nghiêm khắc của luật Giáo Hội về việc rước lễ. Tôi cũng nghe người trẻ nói như thế nữa; Sau khi đã sống đức tin Kitô thực sự, họ đã thấy mình không thể theo Giáo Hội và những tập tục của Giáo Hội nữa.
Mỗi người theo cách của mình mà hiểu về ý nghĩa của “giới răn Thiên Chúa” và “truyền thống của loài người” và tìm cách biện minh cho tư tưởng hoặc hành động của mình. Dù tỏ ra không nhân nhượng nữa. Vậy nên tôi xin nhắc lại câu hỏi này: chúng ta có một Tin Mừng giải phóng không? Làm sao lắng nghe những câu hiểm hóc này mà vẫn duy trì được niềm hy vọng của chúng ta.
Những lời hy vọng.
Ta hãy tìm cách đọc lại tường thuật cuộc gặp gỡ giữa những người biệt pháivà Chúa Giêsu, mà không kết án ai cả, không ra vạ tuyệt thông cho ai cả. Chúng ta cũng tìm cách kiểm tra xem Chúa Giêsu có nói lời nào không bao dung đối với con người chăng?
Chúng ta hãy nhìn xem quang cảnh này. Mọi người có mặt tại đó, xung quanh một bàn ăn. Chúng ta đừng biến những cuộc trao đổi, dù gay gắt đi nữa, thành những lời buộc tội của tòa án. Rồi chúng ta hãy xem có những ai ở đó. Chúa Giêsu, các môn đệ của Ngài, những người biệt phái và ký lục “từ Giêrusalem đến”. “Từ Giêrusalem đến” nghĩa là gì? Nghĩa là họ là những đại diện cho quyền bính chính thức, họ đến tranh luận với Chúa Giêsu và bắt lỗi Ngài? Và nếu họ cũng là những người đơn sơ, chân thành nhưng lo lắng thì sao? Là những người mộ đạo ngạc nhiên vì thấy những người thuộc cộng đoàn của họ, thuộc niềm tin của họ, quên đi những nghi lễ và tập tục văn hóa truyền thống thì sao? Theo quan điểm này thì họ sẽ không khác chúng ta lắm, phải không? Hơn nữa, họ đã đi cả một đoạn đường dài để gặp Chúa Giêsu. Vậy Ngài có xua đuổi họ bằng một lời kết án dứt khoát không? Hay Ngài có tìm cách giải phóng họ và nói với họ một lời hy vọng không?
Bây giờ chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa Giêsu nói với tất cả mọi người, biệt phái, môn đệ, quần chúng, trong đó có chúng ta nữa. Với những người muốn trung thành chu toàn giới răn của Thiên Chúa, không thêm không bớt gì cả, Chúa Giêsu nhắc lại rằng đối với Thiên Chúa, giới răn nhắm vào thâm tâm con người. Sự thật của con tim bao giờ cũng hơn những việc tế tự. Và những việc này không bao giờ thay thế được cho một con tim dối trá và mù quáng cả. Không được thêm gì vào lòng con người cũng không được rút bớt gì cả. Không rút bớt gì trong những nỗi yếu hèn của họ, không thêm gì vào sự phức tạp cũng như mặc cảm tội lỗi của họ. Đây là lời giải phóng và hy vọng: không ai kết án bạn cả, không phải lòng tôi, không phải lòng bạn, cũng không phải lòng kẻ khác. Không có luật nào thay thế được luật của con tim. Điều này có giá trị đối với hết thảy mọi người.
Hằng ngày các phương tiện thông tin đại chúng làm chúng ta ngộp thở vì tình trạng tội ác tràn lan, từ nông thôn đến thành thị, từ Nam chí Bắc, từ trong ra ngoài nước. Chúng ta gặp phải rất nhiều người câm, điếc, ngọng và mù và có khi chính chúng ta cũng là người câm điếc, ngọng và mù.
Câm là không thể hay không dám nói lên bằng lời những ý tưởng, tâm tình và cảm xúc của mình.
Ngọng là nói không nên lời, chỉ ú a ú ớ trong miệng, chẳng ai hiểu mình nói gì, trước những bất công và tệ nạn xã hội. Điếc là không nghe thấy tiếng kêu than khóc lóc của người nghèo. Mù là không nhìn thấy các vật thể và những con người xung quanh với các nỗi oan khiên và bất hạnh của họ…
Những khuyết tật câm, điếc, ngọng, mù về tinh thần và tâm linh đều làm cho cuộc sống cá nhân và xã hội của chúng ta xuống cấp và tạo nỗi bất hạnh cho mình và cho người khác.
Lời Chúa hôm nay gợi mở cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa là Đấng Chữa Lành cả mặt tâm linh lẫn thể xác con người. Chúng ta hãy kêu cầu và chạy đến với Người để xin Người chữa lành thể xác và tâm hồn để chúng ta và xã hội sạch hết những căn bệnh câm, điếc, ngọng và mù.
II. KHÁM PHÁ TRONG BA BÀI THÁNH KINH
Chân dung Thiên Chúa ( Thiên Chúa là Đấng nào ? )
Bài đọc 1 ( Is 35, 4-7a ) là những lời sấm ngôn của Isaia về sự thay đổi diệu kỳ mà Thiên Chúa sẽ thực hiện vào ngày giờ của lịch sử:
- Trên con người: mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhẩy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
- Trên thiên nhiên: nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu, miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra.
Sự thay đổi kỳ diệu trên không chỉ diễn ra và được hiểu trong lãnh vực tự nhiên mà trong cả lãnh vực tâm linh nữa.
Trong bài đọc này chúng ta khám phá Thiên Chúa là Đấng thực hiện những thay đổi kỳ diệu trên thiên nhiên và con người vì Người là Thiên Chúa quyền năng, yêu thương và bênh vực những người bị thiệt thòi, bị áp bức.
Bài đọc 2 ( Gc 2, 1-5 ) là những lời vàng ngọc của Thánh Giacôbê Tông Đồ về cách đối xử phải có trong cộng đoàn Kitô hữu. Đó là không thiên vị một ai, không trọng người giầu mà khinh người nghèo, vì cư xử như thế là chỉ nhìn thấy về mặt thể lý mà mù lòa về mặt tâm linh. Thánh Giacôbê khuyên các tín hữu hãy biết học cùng Thiên Chúa mà quý trọng và yêu thương người nghèo vì người nghèo đã được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt.
Trong bài đọc này chúng ta khám phá Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can con người và hành xử khác với chúng ta muôn phần.
Bài Tin Mừng ( Mc 7, 31-37 ) là tường thuật của Thánh Máccô về một trong trong những phép lạ mà Chúa Giêsu đã thực hiện tại Miền Thập Tỉnh. Đó là câu truyện Chúa chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng bằng cách đặt ngón tay vào lỗ tai, bôi nước miếng vào lưỡi người ấy và ra lệnh “Ephata: hãy mở ra”.
Cộng đoàn Máccô và Giáo Hội hiểu rằng hành động chữa lành trên mang tính “tiên trưng” ( vừa biểu trưng vừa loan báo trước ) cho hoạt động chữa lành mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện trong và qua các Bí Tích.
Trong bài đọc này chúng ta khám phá Thiên Chúa là Đấng giải thoát con người khỏi những trói buộc để con người có đầy đủ khả năng nghe nói, nhìn thấy... trong lãnh vực tâm linh.
Sứ điệp của Lời Chúa ( Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì ? )
Sứ điệp của Lời Chúa trong ba bài Sách Thánh là Thiên Chúa là:
- Thiên Chúa chữa lành những người tật nguyền như câm, điếc, ngọng và mù về mặt thể lý, là những người bị thiệt thòi và bị gạt ra ngoài lề xã hội. Thiên Chúa ưu tiên yêu thương nên cứu chữa họ để họ được lành lặn, có khả năng đi đứng, nhìn thấy, nghe thấy và nói năng được.
- Thiên Chúa chữa lành những người tật nguyền như câm, điếc, ngọng và mù về mặt tâm linh, là những người bị thiệt thòi lớn lao trong lãnh vực tâm linh. Thiên Chúa yêu thương nên cứu chữa họ để họ có đủ khả năng tâm linh mà biết cách sống với Thiên Chúa và với tha nhân.
III. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
Sống với Thiên Chúa: là nhìn thấy Thiên Chúa, nghe được Thiên Chúa nói và nói được với Thiên Chúa nhu một người Cha đầy quyền năng và yêu thương.
Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta làm những việc sau đây:
- Nếu chính bản thân chúng ta đang là người tật nguyền như câm, điếc, ngọng và mù – về mặt thể lý và nhất là về mặt tâm linh – thì chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu để xin Người chữa lành cho chúng ta.
- Nếu trong cộng đoàn và trong xã hội, chúng ta gặp những người tật nguyền như câm, điếc, ngọng và mù – về mặt thể lý và nhất là về mặt tâm linh – thì chúng ta hãy giúp họ chạy đến với Chúa Giêsu để xin Người chữa lành, làm một việc gì đó để giúp họ thoát khỏi cảnh tật nguyền, hay ít ra là bớt đau khổ, tủi cực vì tật nguyền.
Buổi trưa, tại sân ga của một thành phố lớn, một người phụ nữ tầm ngoài 30 tuổi đang mướt mồ hôi để vác lên vai túi hành lý lỉnh kỉnh của mình. Trên khuôn mặt của người phụ nữ ấy hằn lên sự vất vả, cực nhọc của một người lao động từ xa đến tỉnh này. Chị đang đưa ánh mắt dường như vô vọng của mình khắp sân ga như để tìm kiếm một thứ gì đấy nhưng sau đấy lại tỏ vẻ thất vọng. Trông chị rất đáng thương.
Trên sân ga, người qua lại tấp nập. Ai đi qua người phụ nữ ấy đều ném về phía chị một cái nhìn ái ngại và thương cảm. Thế nhưng không ai có ý định dừng lại để giúp đỡ chị. Đặc biệt là những người ăn mặc sang trọng, họ đều đi qua chị với tốc độ rất nhanh, dường như là họ nghĩ nếu đi chậm lại thì chắc chắn người đàn bà đó sẽ níu họ lại để lạy lục, nhờ vả việc gì đó.
Một người phụ nữ ăn mặc trông có vẻ sang trọng nói với người đàn ông cũng có vẻ sang trọng bên cạnh mình: “Anh để ý đấy nhé, không biết chừng chị ta sẽ nài nỉ xin tiền hoặc sẽ hồ hởi kết bạn với mình để bị chị ta tra tấn trên suốt chuyến đi bằng những câu chuyện vừa dài vừa vô duyên, hoặc như chị ta sẽ mượn mình chiếc khăn mùi xoa để lau mồ hôi mà lau xong thì mình không dám xin lại, hay như mượn bình nước uống rồi tu ừng ực thì vài ngụm đã hết veo. Đúng là một người nhà quê !”
"Xin chào… xin…" Quả nhiên người phụ nữ tiến lại gần đám đông đang đứng đợi tàu. Nhưng dường như không đợi chị nói hết câu, mọi người đều xua tay và lắc đầu, nhanh chóng lảng ra chỗ khác. Không nản chí, người phụ nữ này lại men theo các cánh cửa sổ của các toa tàu rồi nhảy hẳn lên các toa chưa đến giờ xuất phát. Đi đến toa nào chị cũng mang một khuôn mặt như muốn cầu cứu, trông thật đáng thương và câu duy nhất thốt ra từ miệng người phụ nữ đáng thương này là: “Xin mọi người giúp đỡ cho tôi…”
Những người ngồi trên tàu tỏ ra rất khó chịu với người phụ nữ này. Có người thì khoát tay ra hiệu xua đuổi, có người vừa thấy bóng dáng chị ở đầu toa vội lấy tờ báo che mặt giả vờ ngủ. Trên khuôn mặt của người đàn bà ấy lộ rõ vẻ thất vọng, chán nản, xót xa nghĩ: “Mình đâu phải là một tên ăn cắp mà sao mọi người lại xử sự như thế nhỉ ?”
Chị lại rảo qua các toa tàu nhưng không ai muốn nghe chị trình bày hoàn cảnh của mình. Đúng lúc đó, chị nhìn thấy một chàng trai có dáng vẻ rất thư sinh đang ngồi đọc báo. Chàng trai đang đọc báo rất chăm chú, dường như không để ý đến bất cứ chuyện gì xung quanh. Nhẹ nhàng đi về phía chàng thanh niên, người phụ nữ cất tiếng nói: "Xin lỗi cậu, cậu có thể giúp đỡ tôi được không ?"
Chàng trai bỏ tờ báo xuống, nhìn quanh một lúc rồi nhìn người phụ nữ nông thôn nọ: "Xin lỗi, chị đang hỏi tôi ạ ?" Người phụ nữ gật đầu: "Xin anh giúp đỡ tôi với, tôi lên thành phố để tìm người bà con, nhưng tìm không ra, tiền bạc lại bị kẻ gian móc hết rồi. Muốn về quê nhưng không biết làm thế nào, cậu có thể mua giúp một tấm vé để tôi trở về quê không ?"
Vừa nghe xong, nét mặt chàng thanh niên trông rất lưỡng lự. Dường như anh ta vừa muốn giúp, vừa lại không muốn giúp người đàn bà đáng thương đó. Sau một thời gian im lặng, chàng trai bèn đưa tay vào túi quần của mình, khó khăn lắm mới móc ra được một đống tiền lẻ, ngại ngùng đưa cho người phụ nữ: "Chị cầm lấy đi. Tôi… tôi chỉ còn có chừng này, không biết đủ hay không. Tôi cũng vừa mua vé để về quê nên không còn nhiều. Tôi lên thành phố này để kiếm việc, hy vọng tìm được một công việc kiếm được kha khá, nhưng khi lên thành phố, với tấm bằng trung cấp trong tay thì tôi không thể tìm ra được một việc gì để làm. Chị cầm tạm vậy nhé !"
Người phụ nữ rưng rưng cầm lấy những đồng tiền lẻ của chàng trai, khó khăn lắm chị mới thốt lên được hai tiếng “Cám ơn”.
Vừa quay gót đi về phía cuối toa thì chị nghe tiếng gọi với theo của chàng thanh niên nọ. Cậu ta hớt hải đi về phía chị và nói: "Như thế này vậy, chị cùng quê với em, hay chị lấy tấm vé của em để về". Người phụ nữ ngạc nhiên hỏi: "Thế còn cậu thì sao ?" – "Số tiền em vừa đưa cho chị có thể mua đủ tấm vé xuống ga thứ ba xuất phát từ ga này, như vậy cách nhà em cũng không xa lắm, em có thể đi bộ mà. Chị cứ cầm lấy vé đi, em là con trai, thế nào mà chẳng được. Còn phụ nữ như chị thì không thể đi bộ về nhà trong đêm tối được. Thôi, chúc chị thuận buồm xuôi gió. Nào, đưa cho em lại mớ tiền lẻ nào !"
Nói xong, không kịp để người phụ nữ phản ứng gì, chàng trai vội cầm lại số tiền lẻ trong tay người phụ nữ và đưa cho chị chính tấm vé của mình. Sau đấy anh vội vàng xuống khỏi toa tàu và đến quầy bán vé. Rất nhanh sau đó, chàng thanh niên lại lên tàu. Người phụ nữ tiến lại gần phía chàng trai và cất tiếng hỏi: "Sao cậu lại làm như thế, cậu không hối hận à ?" Chàng trai lắc đầu: "Không, chị ạ !"
Trong ánh mắt của người phụ nữ đáng thương nọ ánh lên một niềm vui khôn xiết. Chị cầm tay chàng trai và nói: "Anh bạn trẻ, xuống đây với tôi một lát…"
Người phụ nữ kéo chàng trai ra khỏi nhà ga, vẫy một chiếc taxi, tự động mở cửa xe và quay lại nhìn chàng trai: "Cậu lên xe đi. Hôm nay cậu chính thức là nhân viên của tôi !"
Hoá ra, người phụ nữ này là con gái của một ông chủ tập đoàn sản xuất đồ chơi nổi tiếng. Để đi tìm một người trợ lý đáng để tin cậy, chị đã phải hoá trang và đứng ở sân ga suốt 3 ngày qua.
Chị nói rằng: “Các bạn cho rằng tôi thật ngốc nghếch khi phải làm khổ mình như thế, nhưng thật ra nó thật sự xứng đáng. Khi đứng ở sân ga trong 3 ngày đó, tôi mới nhận ra rằng: Tìm được một người thật sự tốt trong cuộc sống xô bồ này quả là khó. Có thể, chàng thanh niên đó không có trình độ, không hiểu biết nhiều như những người tốt nghiệp đại học hoặc cao hơn nữa. Nhưng điều đáng quý nhất và đáng trân trọng nhất là cậu ấy có được cái "tâm". Có cái "tâm" trong cuộc sống thì mới có cái "tâm" trong công việc được. Đấy là thứ mà công ty tôi đang rất cần”.
Các bạn thấy đấy, một tấm vé để đổi lấy cả một sự nghiệp sáng lạn. Có thể nhiều người nghĩ đây chỉ là việc ngẫu nhiên, nhưng thực ra trong sự ngẫu nhiên đó lại có tính tất yếu của nó. Rất nhiều người đã có mặt ở trên sân ga, nhưng chỉ có chàng trai đó mới nhận được niềm hạnh phúc bất ngờ như vậy. Không phải ngẫu nhiên mà anh ta có được một cơ hội tốt đẹp đến như thế mà điều quan trọng là anh đã biết chia sẻ chữ ‘tâm’ của mình cho mọi người xung quanh.
Đây là một câu chuyện hoàn toàn có thật mà tôi đã nghe được từ giám đốc của tôi ( nguồn: saigonecho.com ).
Đọc câu chuyện trên nghe vọng lại lời thơ của thi hào Nguyễn Du: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Trong trường đời, trái tim lại quan trọng hơn cái đầu. Sống ở đời và giao tiếp với người đời, "được việc" mà thôi chưa đủ, còn phải "được người" nữa. Nền văn minh mang lại hạnh phúc cho con người không phải là văn minh của khoa học kỹ thuật mà là văn minh của tình thương.
Tâm nghĩa là trái tim, biểu tượng của tình yêu. Chữ Hán tượng hình nên nét bút vẽ ra hình trái tim. Có lẽ từ xa xưa, có ai đó cỡ thần y Hoa Đà, Biển Thước đã phẫu thuật cơ thể con người, thấy tỏ tường trái tim nên mới viết, mới vẽ được bức tranh chữ đẹp như vậy.
Trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay kể lại cuộc tranh luận giữa Ðức Giêsu và nhóm Pharisêu về vấn đề sạch và dơ.
Nhóm Pharisêu bám sát mặt chữ những quy định của luật lệ về sự phân biệt cái gì sạch cái gì dơ và về những đòi buộc phải rửa tay chân chén dĩa...
Ðức Giêsu nói đó chỉ mới là sạch dơ bề ngoài, không quan trọng bằng sạch dơ trong tâm hồn. Luật lệ chỉ là hình thức để diễn tả tấm lòng. Cái tâm mới quan trọng. Bởi vì dơ hay sạch là do tự cõi lòng. Nếu lòng dạ xấu xa thì cho dù hình thức bên ngoài có đẹp đẽ mấy cũng chỉ là giả hình. Đức Giêsu cho thấy cái ô uế thực sự không đến từ đụng chạm hay ăn uống. Cái ô uế đáng sợ nằm ngay trong cái tâm mỗi người. Nó không từ ngoài vào, nhưng từ bên trong ra.
Đức Giêsu kể ra 12 ý định xấu xa bắt nguồn từ cõi lòng: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người thành ô uế.
Hàng ngày xem Tivi, thấy quảng cáo rất nhiều sản phẩm: các loại xà bông mới, các loại dầu gội mới, nhiều loại nước hoa... Tất cả đều nhằm chăm sóc cho làm da, mái tóc, cơ thể... nhưng đều là bề ngoài. Ngày nay, người ta cũng để ý nhiều hơn đến phẩm chất của những thức ăn và thức uống... Mọi thứ phải đáp ứng đúng tiêu chuẩn thực phẩm an toàn và bổ dưỡng. Tuy nhiên, tất cả chỉ là những thứ từ bên ngoài được đưa vào trong cơ thể con người. Nhưng xem ra, người ta rất ít lo chăm sóc cái bề trong, cái tâm của con người, như lương tâm, lòng nhân ái, ý thức về tội. Người ta có thể hy sinh, khổ luyện hàng tháng, hàng năm để giữ vẻ đẹp thân xác, nhưng có mấy ai chịu hãm mình kiêng khem để tạo vẻ đẹp tâm hồn.
Trong trường học, người ta để ý huấn luyện cái đầu hơn là trái tim. Người ta cho rằng cái đầu mới biết suy nghĩ. Bởi đó người ta lo đào tạo nên những đứa trẻ giỏi hơn là những đứa trẻ tốt. Tương lai là công việc và nghề nghiệp hơn là tấm lòng. Kết quả của lối giáo dục như thế là nền văn minh khoa học kỹ thuật ngày nay, rất hiệu quả nhưng cũng rất lạnh lùng, ích kỷ và tàn nhẫn.
“Thế giới tri thức đã thình lình tái khám phá ra rằng, con người là nơi chỗ của sự xung đột. Marx đã tìm thấy sự xung đột trong xã hội, Kierkegaard tìm thấy trong linh hồn, Heidegger tìm thấy trong con người, và những tâm lý gia thì tìm thấy trong tâm trí” ( x. Bình an trong tâm hồn, Đức Cha Fulton J. Sheen ).
Đối với Đức Giêsu cái tâm mới là yếu tố quyết định. Từ cái tâm tốt mới có những hành vi yêu thương cao thượng. Từ cái tâm xấu sẽ phát sinh ra tội lỗi thấp hèn.
Tâm nói lên nhân cách của một con người. Tâm xấu xa sản sinh ra những suy nghĩ xấu, chọn lựa xấu, lời nói xấu, hành động xấu. Tâm lệch lạc thì cuộc sống nghiêng ngả đảo điên. Tâm gian dối thì cuộc sống bất an. Tâm ghen ghét thì cuộc sống hận thù. Tâm đố kỵ thì cuộc sống mất vui. Tâm tham lam thì cuộc sống dối trá…
Tâm tốt lành luôn nở hoa nhân đức. Tâm nở hoa yêu thương nên không có bóng dáng hận thù nào. Tâm nở hoa bác ái nên luôn quan tâm giúp đỡ người khác. Tâm nở hoa phục vụ nên nhiệt thành làm việc thiện nguyện vô vị lợi.
Tâm nở hoa khiêm nhường nên luôn biết nhìn nhận sự yếu đuối của mình. Tâm nở hoa tha thứ nên không cầm giữ bất cứ một xúc phạm nào người khác gây ra cho mình. Tâm nở hoa hòa bình nên chỉ biết kiến tạo sự hiệp nhất, vun trồng tình thuận hòa.
Tâm nở hoa xây dựng nên không khi nào phá đổ các công trình chân thiện mỹ của những người thành tâm thiện chí. Tâm nở hoa công chính nên can đảm khước từ những gì đi ngược với công bình bác ái, không tham lam những của bất chính. Tâm nở hoa chân thật nên dứt khoát loại bỏ các thứ dối trá, gian tà.
Tâm nở hoa ánh sáng nên cố gắng bước ra khỏi bóng tối của tội lỗi, không ẩn mình trong cám dỗ của ma quỷ, không để chúng giam hãm, nô lệ hóa mình. Tâm nở hoa cao thượng nên biết nâng mình lên trên mọi ti tiện tầm thường, không tính toán nhỏ nhen, không cư xử theo lối tiểu nhân.
Tâm nở hoa vui mừng nên biết đem lại niềm vui an ủi cho những kẻ buồn sầu, tủi phận, khóc than cho định mệnh nghiệt ngã, cho tương lai đen tối, cho đường đời thử thách. Tâm nở hoa hạnh phúc nên luôn sống bình an và chan chứa niềm vui.
Sự thánh thiện hệ tại nơi cái tâm. Lời dạy của Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải tu tâm dưỡng tánh để luôn có một tâm hồn ngay thẳng, thành thật, tôn trọng công lý, yêu thương mọi người. Khi đã có cái tâm tốt những việc làm sẽ tự nhiên đẹp lòng Chúa.
Đề cập đến công bằng xã hội, một Linh Mục thuật lại rằng: “Vài năm về trước, tôi ở trong Hội đồng Linh Mục, một ban cố vấn cho Giám Mục Giáo Phận. Ngài rất bảo thủ, vô cùng nguyên tắc, không bao giờ để tính khí tự nhiên hay những cảm giác bất chợt của mình ảnh hưởng đến việc ra quyết định. Các quyết định của ngài được thực hiện dựa trên nguyên tắc, và đôi khi ngài phải nén lòng lại.
Ví dụ như có lần, ngài thấy mình đang chịu một áp lực lớn cần phải tăng lương cho các nhân viên Giáo Dân trong Giáo Phận. Áp lực đến từ một nhóm luật sư về công bằng xã hội rất có tiếng, họ trích Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo của Giáo Hội để chống lại việc Giáo Phận không chịu chi trả mức lương như họ mong muốn. Những lý lẽ của họ cũng có chiều hướng nhạy cảm. Điều này không khiến mọi chuyện dễ dàng hơn cho Giám Mục với tính bảo thủ và các đồng bạn bảo thủ của ngài.
Nhưng, như tôi nói, ngài là một người có nguyên tắc. Một sáng nọ, ngài đến gặp Hội Đồng Linh Mục và muốn chúng tôi đồng thuận để tăng lương cho các nhân viên của Giáo Phận như theo như đòi hỏi. Hội Đồng Linh Mục bảo ngài rằng, chúng tôi không thể nhượng bộ trước cái “cho phải lẽ” vậy nên chúng tôi bỏ phiếu chống. Một tháng sau, Giám Mục lại đến với Hội Đồng Linh Mục và lại muốn chúng tôi ủng hộ điều này, Đức Cha mở đầu bằng lời rằng, nếu chúng tôi bỏ phiếu chống lần nữa, ngài sẽ tự làm việc đó bằng đặc quyền điều hành của mình.
Một trong các Linh Mục, một người bạn thân thiết với ngài nói rằng: ‘Cha muốn chúng tôi làm việc này, chỉ bởi nó ‘cho phải lẽ”. Giám Mục trả lời: “Không, chúng ta không làm bởi nó “cho phải lẽ”. Chúng ta làm bởi nó đúng. Chúng ta không thể rao giảng Tin Mừng với sự trung thực, nếu như không thể sống được Tin Mừng. Chúng ta cần phải trả một mức lương sống được, bởi đó là những gì Tin Mừng và Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo đòi hỏi, chứ không phải là bỏi nó “cho phải lẽ.”
Khi nói như thế, Giám Mục đang nén lại, nén tính khí của mình lại, nuốt lấy sự bực bội của bạn mình, và nuốt lấy sự bất bình của mình khi phải nhượng bộ một điều thể hiện là nó “cho phải lẽ.” Nhưng nguyên tắc đã thắng cảm giác." ( J.B. Thái Hòa dịch, Lm. Ron Roiheiser, Chuyện cho phải lẽ và nén lòng nhận định sự thật ).
Giữa rao giảng Tin Mừng và sống Tin Mừng là một thách đố lớn lao cho người Kitô hữu cần phải lấp đầy hố phân cách. Vị Giám Mục kể trên đã can đảm lội ngược dòng đời, chấp nhận chi phí khá lớn để thực thi đúng đắn Tin Mừng, đúng với sự công bằng xã hội, mà Chúa Giêsu hằng kêu gọi và mong muốn. Ngài dám bác bỏ tập tục phàm nhân, để tuân theo giới răn yêu thương của Thiên Chúa.
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, nhân câu trách móc các môn đệ Đức Giêsu không tuân thủ tập tục tiền nhân, Người lật tẩy thói đạo đức giả, thói giả hình của những người Pharisêu và Luật Sĩ. Tuy nhiên, thói xấu này vẫn còn dai dẳng tiêm nhiễm, tràn lan trong những người mang mỹ danh Kitô hữu.
Sống nô lệ
Vì kiêu căng, ngông cuồng, không dám nhận mình yếu đuối, tội lỗi, thiếu sót, người ta vô tình vong thân, đánh mất bản ngã, đành chịu làm nô lệ cho ba thù. Nô lệ cho bản thân hãnh tiến, cao ngạo, người ta cần cái vỏ che đậy lòng dạ xấu xa, bê bối, đê tiện, khoác lên mình những hào quang ảo bên ngoài, như làm từ thiện, chăm lễ lạc, luôn kinh hạt. Nô lệ cho dư luận, cho xã hội, người ta giả vờ tốt lành, nhân ái, đạo đức. Nô lệ cho cám dỗ háo danh, háo lợi, người ta không ngại ngùng thuyết giảng, vênh váo lên mặt dạy đời, lớn tiếng chê bôi kẻ này, chửi bới kẻ nọ, luôn khe khắt kết án.
Làm mọi cách hòng che giấu đi những đam mê ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, người ta còn khéo léo, nhuần nhuyễn, thuần thục đội lốt con chiên ngoan đạo, con bồ câu đơn sơ, ngây thơ, thanh khiết.
Bởi thế, Đức Giêsu mới hết sức gay gắt lột trần thói giả hình, chuộng tập tục loài người, mà chối bỏ Luật Chúa: “Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người'.
Thấm thía lời cảnh báo của Đức Giêsu, Thánh Giacôbê đã khẩn thiết khuyên nhủ mọi người, đừng nên tiếp tục gian manh dối lòng nữa: “Anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác, anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em, lời có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” ( Gc 1, 21 ).
Sống tự do
Điều làm Đức Giêsu đến nay vẩn còn đau buồn, nhức nhối hơn cả, chính là “vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người."Điều cốt yếu Lề Luật của Chúa chính là yêu Chúa và yêu người, thì bị làm lơ, quên bẵng, hay vô tình bác bỏ. Nhưng để được tự do, thoát khỏi ách nô lệ sự dữ, tội lỗi, thì con người hẳn chỉ có chọn lựa duy nhất là sống theo Lời Chúa.
Thời nay, người Kitô hữu liệu còn chịu khó chuyên chú lắng nghe tiếng nói lương tâm, tìm hiểu kỹ lưỡng Lời Chúa, sống theo Thánh Ý Chúa, khi cố tình gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống thường nhật. Hình như thiên hạ chỉ muốn Chúa ngự trong Nhà Tạm ngôi Thánh Đường, đừng can thiệp chi vào đời sống riêng tư.
Nhưng Chúa hiện diện khắp mọi nơi, trong từng người, nhất là những người đói nghèo, bệnh hoạn, đau khổ, cô quả, thấp kém, tù đầy. Thay vì đóng kịch bác ái, từ thiện, thì chân thành, cố gắng dấn thân phục vụ. Thay vì rổn rảng kinh hạt, tưng bừng lễ lạc, ồn ào rước xách, thì lặng lẽ, âm thầm xét mình, ăn năn, sám hối, tâm tình giãi bầy, cầu nguyện với Thiên Chúa đầy lòng thương xót.
Sống Lời Chúa chính là kiên quyết cải hóa, đổi mới, tái sinh, trở nên người con ngoan, hiếu tử của Người Cha Nhân Lành, được cứu thoát khỏi xiềng xích nô lệ xác thịt, thế gian và ma quỷ, nhờ công nghiệp Đức Giêsu Kitô đã chịu nạn, chịu chết và phục sinh. “Ai nghe lời tôi và tin, đã từ cõi chết bước vào sự sống” ( Ga 5, 24 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm sống thật, sống ngay lành với Chúa và với tha nhân, trong tư tưởng, lời nói và việc làm, chứ không còn sống giả hình, gian dối, lưu manh, che mắt thiên hạ, được lòng thế gian, nhưng vô ích và mất lòng Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cảm hóa tâm hồn chúng con, biết noi gương Mẹ, sống đơn sơ, thành thật, khiêm nhường, yêu thương và phục vụ tha nhân mọi nơi, mọi lúc. Amen.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta nhận ra hình ảnh nhân từ, nhưng cũng đầy dũng cảm, cương quyết của Chúa Giêsu. Những Kinh sư, Biệt phái và Pha-ri-sêu là những người luôn tìm cách bắt bẻ Chúa Giêsu. Họ rất quý trọng những tục lệ, những luật lệ, tuy nhiên việc quý trọng của họ trở nên bề ngoài, trở thành lố bịch khi họ tỏ ra quá tỉ mỉ với luật lệ, họ bầy ra nhiều luật lệ nhưng chỉ để chất lên vai người khác, còn chính họ lại không thực hiện.Các bài đọc Chúa nhật XXII thường niên, năm B cho chúng ta thấy cung cách của những người Pha-ri-sêu.
Nhìn chung thái độ của những người Pha-ri-sêu là quá tỉ mỉ đến câu nệ vào những điều nhỏ nhặt khiến họ trở nên những người giả hình, kiêu căng, tự phụ.Thực tế, những Kinh sư, Biệt phái và Pha-ri-sêu rất tự mãn về lối sống của mình, coi mình là số một, là gương mẫu đạo đức cho người khác, coi mình là sành luật, thong suốt luật lệ hơn người khác, do đó, họ hay xét nét, bắt bẻ ngươi khác. Câu chuyện hôm nay khởi đi do việc các môn đệ của Chúa Giêsu không chịu rửa tay trước khi ăn.Người Pha-ri-sêu quan niệm rằng sau khi khi con người đi ra nơi đông người, đặc biệt nơi phố chợ, người ta sẽ ra ô uế, nên nếu không rửa tay đồ ăn sẽ trở nên ô uế và như thế con người cũng ra ô uế. Chúa Giêsu đã có một quan điểm khác hăn, và khẳng định của Ngài là một cuộc cách mạng:” Không có gì từ bên ngoài vào vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế “ ( Ga 7, 15 ).
Chúa Giêsu đã làm một cuộc cách mạng đối với Do Thái giáo, bởi vì Do Thái giáo bầy ra rất nhiều cấm kỵ: người ta không được ăn thịt heo, thịt thú chết ngạt; không được sờ đụng vào xác chết, vào người phong cùi; không được đồng bàn với dân ngoại giáo hay không được vào nhà những người tội lỗi vv..Họ tự đặt ra rất nhiều luật lệ, tỉ mỉ và gay gắt đến nỗi con người cảm thấy quá nặng nề vì phải đương đầu với những sự cấm đoàn, cấm kỵ ấy. Đối với người Pha-ri-sêu đụng vào, sờ vào hay ăn những đồ cấm kỵ là trở nên ô uế. Chúa Giêsu quả thực trước mắt những người Pha-ri-sêu là đã phạm vào rất nhiều cấm kỵ do họ đặt ra.
Chúa đã đem lại sự công bằng cho con người, đã phố đổ những hố ngăn cách giữa kẻ xấu kẻ tốt, giữa người giầu và nghèo, những người bị liệt kê là tội lỗi, những người bị người Do Thái đẩy ra khỏi vòng pháp luật. Chúa đã tới để làm cho những người tội lỗi nên trong sạch, những kẻ yếu đuối trở nên mạnh mẽ vv…Vấn đề rửa tay trước bữa ăn là vấn đề vệ sinh cần thiết. Nhưng Chúa chống lại việc người Pharisêu quá câu nệ, coi vấn đề rửa tay như một luật lệ bắt buộc để yên tâm bề ngoài mà quên đi con người cần phải tẩy rửa trái tim, tẩy rửa tâm hồn. Chúa Giêsu cho hay cái xấu không tự bên ngoài mà vào nhưng nó phát xuất từ bên trong, từ trái tim, từ cõi lòng của con người.
Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia nói với những người Pha-ri-sêu và dân Do Thái:” Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân “ và Ngài nói:” Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm "( Mc 7, 8 ). Chúa chỉ ra 12 thứ tội từ trong con người mà ra như tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng ( Mc 7, 21-22 ).
Chúa nói với con người hãy đổi mới, hãy thanh tẩy cõi lòng, thanh tẩy trái tim của mình. Con người phải luôn trở về, luôn sám hối nhìn lên Chúa để thấy mình còn phải cố gắng rất nhiều. Con người phải làm cho mình có cái nhìn, tư duy mới, trái tim mới, cõi lòng mới. Đổi mới cõi lòng, đổi mới trái tim là con người làm được những điều tốt. Chúa muốn con người và nhắc nhở mọi người, nhắc nhở Giáo Hội bề ngoài cũng cần, luật lệ, truyền thống cần được thực hiện, tôn trọng nhưng đừng quên điều cốt lõi của Tin Mừng là sống yêu thương.
Chúa Giêsu nhắc bảo và quả quyết:” Xin mọi người nghe tôi nói đây…”. Lời của Chúa Giêsu khi xưa nói với đám đông đi theo theo, để nghe Ngài giảng dạy cũng là lời Chúa nhắc nhở Hội Thánh và mọi người chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn gớm ghét thói giả hình để chúng con biết sống chân thật và trung thành làm theo ý Chúa. Amen.
Có người nhìn đời mà ngao ngán bảo rằng: sao Thiên Chúa không tạo dựng “thế thật” mà lại tạo dựng “thế gian”? Thế gian nên lắm gian tà. Thế gian nên con người hay sống gian dối, lừa lọc với nhau và thiếu hẳn lối sống đơn sơ, chân thành. Thực ra thế gian ở đây không phải là thế giới gian tà mà là trần thế, dương gian. Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sư đều tốt đẹp. Sự xấu do ma qủy gieo vào thế gian qua tâm hồn con người. Trước tiên nó gieo vào trong con người sự ngờ vực Thiên Chúa. “Cứ ăn đi chẳng chết chóc gì đâu! Cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa”. Con người đã để cho hạt giống ước muốn phản bội Thiên Chúa lấn chiếm vị trí số 1 trong tâm hồn. Thay vì bình an vô tư sống trong sự che chở của Thiên Chúa, con người lại nuôi dưỡng sự ngờ vực và ấp ủ những toan tính bất trung, phản bội. Hậu quả là sự xấu đã đi vào trần gian. Sự xấu chìm sâu trong bản tính con người. Sự xấu có thể bộc phát và thống lĩnh con người, nếu con người buông mình theo thói đam mê dục vọng và sống lười biếng ươn hèn. Quyền lực của sự dữ đã thống trị con người đến nỗi con người dễ làm điều xấu hơn điều thiện. Từ ngày nguyên tổ nghi ngờ Thiên Chúa cho đến hôm nay con nguời vẫn luôn nghi ngờ lẫn nhau. Từ nghi ngờ đến lối sống “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, và tệ hại nhất là sống giả hình với nhau.
Một thế giới “vàng thau lẫn lộn” nên khó phân biệt đâu là thiệt đâu là giả. Và càng khó phân biệt ai là người tốt ai là người xấu. Thế giới hôm qua cũng như hôm nay luôn có những ngừơi sống giả dối, sống hai mặt: “Đi với Chùa mặc áo Càsa - Đi với ma mặc áo giấy”. Vẻ bên ngoài thường nguỵ trang cho những ý đồ đen tối đầy bất chính và gian tà bên trong.
Lời Chúa hôm nay cảnh cáo lối sống giả hình của nhóm biệt phái và luật sĩ năm xưa. Họ chú trọng đến việc canh tân hình thức bên ngoài mà quên đi việc canh tân tâm hồn. Họ nhạy cảm với sự dơ bẩn bên ngoài như đồ ăn, thức uống và vật dụng mà quên đi điều quan yếu của lề luật là gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn. Lề luật không nhằm bảo đảm cho con người được sạch sẽ thân thể, được bảo đảm an toàn thực phẩm mà nhằm gìn giữ nét đẹp của phẩm giá con người và bảo vệ con người khỏi những sự ô uế của tâm hồn. Thế nên, gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn quan trọng hơn là sự sạch sẽ bên ngoài. Thanh tẩy tâm hồn khỏi những bợn nhơ tội lỗi cần thiết hơn là những nghi lễ bên ngoài. Philatô đã từng rửa tay nhưng liệu rằng tâm hồn ông có thanh thản bình an khi dối mình “vô can trong cái chết của người công chính?”. Biết bao người đã dùng bàn tay để làm sự ác như giết người, cướp của. . . và họ cũng đã từng rửa tay cho sạch, nhưng làm sao họ rửa được tội ác mà họ đã gây nên? Bàn tay chỉ là dụng cụ. Bàn tay không làm nên tội. Bàn tay bị sai khiển bởi tâm địa gian ác và lưu manh của con người.
Chính vì thế, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế". Thế nên, điều cần rửa là rửa tâm hồn sạch mọi những toan tính bất chính, cần phải loại bỏ những ý đồ dơ bẩn, và tránh xa những cám dỗ tội lỗi của ma qủy luôn dẫn dụ con người đi ngược lại với giáo huấn của Chúa.
Con người ngày nay dường như cũng chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài. Ngừơi ta trau truốt vẻ đẹp bên ngoài bằng biết bao mỹ phẩm. Chấp nhận tiêu hao tiền của nơi các thẩm mỹ viện để chăm sóc sắc đẹp, nhưng ít ai nghĩ đến phải trau dồi nhân đức cho xứng với phẩm giá con người. Người ta có thể hy sinh, khổ luyện hàng tháng, hàng năm để gìn giữ vẻ đẹp thân xác, nhưng có mấy ai chịu khổ chế để gìn giữ vẻ đẹp tâm hồn. Ngày xưa người ta chú trọng đến cái nết, vì “cái nết đánh chết cái đẹp”, nhưng hôm nay “cái đẹp đang đánh dẹp cái nết”.
Con người ngày hôm nay quá chú trọng đến vẻ đẹp bên ngoài mà lãng quên phẩm chất đạo đức nên con người đã đánh mất hướng đi của mình. Hậu quả là cả một trào lưu ăn chơi truỵ lạc, thoái hoá đạo đức đang làm băng hoại xã hội, đánh mất đi biết những thuần phong mỹ tục nơi gia đình và xã hội. Tội lỗi ngày một gia tăng. Sự ác ngày một lan tràn.
Vâng, vẻ đẹp bên ngoài là cần thiết nhưng điều quan yếu mà chúng ta phải phấn đấu là sống sao cho nên người. Thiết tưởng lời dạy của tiền nhân năm xưa: “đói cho sạch, rách cho thơm”. “Làm người phải có lòng nhân” phải là lời dạy cho con người hôm nay. Đẹp thể xác và đẹp cả tâm hồn mới có ích cho xã hội, bằng không chỉ là hoa, là cỏ, là vật vô tri vô giác, có khi còn có hại cho gia đình và xã hội.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết thanh luyện tâm hồn của mình khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những toan tính bất chính và đam mê thấp hèn, để tâm hồn luôn thanh khiết vẹn toàn. Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết trân trọng, yêu qúy phẩm giá cao qúy của con người là hình ảnh Thiên Chúa để biết sống cao thượng, sống đúng với luân thường đạo lý và nhất là biết sống theo lề luật của Chúa để bình an của Chúa luôn cư ngụ mãi trong cuộc đời chúng ta. Amen
Đối với quí ông bà và anh chị em, cái gì trong cuộc đời này làm mình đáng sợ nhất? Có thể có nhiều câu trả lời khác nhau. Nhưng đối với tôi thì đó là cái này… cái lưỡi và cái tôi.
Trong ca dao dân gian Việt Nam cũng diễn tã điều đó: “Lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo”. Chỉ có ba tấc lưỡi mà đã làm cho cuộc sống của bao nhiêu người phải điên đảo. Và chỉ vì lòng người không ngay mà đã làm cho cuộc sống của nhiều người trở thành địa ngục và đầy nước mắt, đúng là: “Sông sâu còn có kẻ dò, đố ai lấy thước mà đo lòng người”.
Lòng ta chính là căn rễ của mọi điều thiện ác. Nếu lòng ta tốt, ta có những suy nghĩ tốt, có suy nghĩ tốt sẽ có lời hay ý đẹp và sẽ có những hành động tốt. Và nếu lòng ta xấu xa, chúng ta sẽ dễ tuôn ra nhưng lời nói khó nghe, chói tai, dễ có những hành động xấu xa. Khi lòng chúng ta trong sáng và không gợn dục thì chúng ta nhìn cuộc đời thật đẹp, đáng sống; nhìn người khác dễ thương và đáng yêu. Khi lòng chúng ta vẫn đục u tối, chúng ta thấy cuộc sống và người bên cạnh sao mà đáng ghét. Cái chúng ta “là” (to be, être), sẽ là cái chúng ta nghĩ (think), cái chúng ta nghĩ sẽ là cái chúng ta nói (word) và cái chúng ta nói sẽ là cái chúng ta làm (action). Phải, Cái tôi hay lòng ta chính là căn rễ của mọi sự thiện ác.
Đó là lý lẽ mà Tin mừng hôm nay nói tới: “Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta: Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế, vì chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế, vì từ bên trong phát xuất những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xáo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng”.
Thực tại bên ngoài tự bản chất vốn được Chúa dựng nên là tốt, là thiện hảo xét về mặt hữu thể học và luân lý học. Chúng trở nên xấu là do cách nghĩ và do hành động của chúng ta biến chúng thành phương tiện của sự dữ. Cocain tự nó là một một dược liệu rất quí, nhưng nếu sử dụng nó làm thuốc phiện thì nó trở thành một sự phá phách kinh khủng cuộc đời của bao nhiêu người. Rượu uống một ít vào làm cho người sảng khoái, ăn ngon, nhưng uống để thỏa mãn con khát rượu thì sẽ làm cháy dạ dày và gan. Mọi sự Chúa đã dựng nên là tốt lành, chỉ trở nên xấu là do Ma quỉ và sự u tối của lòng dạ con người.
Jean Paul Sarte, một nhà triết gia vô thần hiện sinh, định nghĩa: “Tha nhân là hỏa ngục”. Chắc chắn ông không ngây thơ đến độ không nhận ra những gì tốt đẹp và đáng yêu từ người bên cạnh. Nhưng điều ông muốn chúng ta nhận ra là mình đang nói đến “tha nhân” nào, “tha nhân” đang đối điện với bạn, hay “tha nhân” trong đầu bạn, trong cách nhìn của bạn. Điều này làm tôi giật mình bởi vì nhiều lúc “tha nhân” là hỏa ngục bởi vì mình nghĩ họ và cho họ là hỏa ngục!
Tôi là một linh mục trẻ, đang giúp ở một giáo xứ người việt. Mấy Bà cứ dặn tôi: “Cha ơi, xin cha đừng có đi vào chổ nguy hiểm và tội lỗi”. Đó là một sự quan tâm của người giáo dân với linh mục. Những lời đó nhiều lúc cũng nhắc nhở tôi. Nhưng tôi ngồi suy nghĩ: Ngày hôm nay, nhiều cái dã giống cái thiệt, ma quỉ hóa trang và xuất hiện như những thiên thần sáng láng. Đâu là nơi nguy hiểm và tội lỗi? Tôi tự trả lời với mình rằng: “Lòng tôi đây chính là nơi nguy hiểm nhất” nếu tôi không có tĩnh thức và cầu nguyện như Chúa đã nhắc bảo tôi. Cuộc đời này đầy cám dỗ, nhưng cơn cám dỗ lớn nhất vẫn là cám dỗ của lòng ta. Và kinh nghiệm của các thánh và các nhà đạo đức dạy ta rằng: thắng được “CÁI TÔI” là thắng được kẻ thù lớn nhất.
Kính thưa anh chị em, để cho lòng của chúng ta không còn là nơi ẩn chứa những điều xấu xa và tội lỗi, để cho lòng chúng ta trở thành căn rẽ, nguồn suối của những điều thiện hảo tuôn ra cho thế giới và mỗi người mình gặp gỡ, chúng ta hãy để cho LỜI CHÚA uốn nắn chúng ta, hãy để cho ánh sáng của LỜI xua tan những sự đen tối và mờ ám của lòng ta. Hãy để cho Chúa Thánh Thần là Đấng ngự nơi tâm hồn mỗi người, uốn nắn lòng chúng ta trở nên giống Trái Tim của Chúa Giêsu, một trái tim hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Lạy Chúa xin giúp chúng con đến với Chúa để được nghe Lời Chúa, biết suy niệm và đem ra thực hành, để Lời đó biến đổi chúng con mỗi ngày trở nên con người mới, giống Chúa hơn. Amen.
Ðúng vậy ! Trong nhiều tôn giáo người ta thực hành những hình thức đạo đức với các lễ nghi và các động tác bên ngoài như là điều kiện duy nhất để được thần linh thi ân giáng phúc cho họ. Họ tự thỏa mãn với những cử chỉ và động tác bên ngoài đó, họ cảm thấy mình thực sự là những người tín hữu đạo hạnh, mặc dầu đời sống cá nhân trong thực tế và việc lễ bái của họ trước các thần linh trong đền thờ không hề song hành và hòa hợp với nhau.
Nhưng đều đáng tiếc ở đây là chính Kitô Giáo cũng không thoát khỏi được sự tư duy sai lạc đó. Những thí dụ điển hình sau đây không do đầu óc thích phóng đại bịa đặt ra, nhưng là phản ảnh trung thực trình độ sống đạo cụ thể của một số lớn Kitô hữu: « Thưa cha phó, hôm nay khi lần hạt Mân Côi, cha đã bỏ qua một kinh Kính Mừng. Như thế cha đã ăn bớt của Ðức Mẹ và chỉ dâng cho Mẹ có 49 kinh mà thôi ! », hay: « Hôm thứ sáu tôi đã lỡ quên ăn thịt, ngoài ra tôi chẳng có tội gì cả ! » hay: « Tôi đi lễ ngày chúa nhật đều đặn, tôi không lấy trộm của ai cái gì cả, tôi không giết người. Như thế là quá đủ rồi, và Giáo Hội không thể đòi hỏi gì hơn nữa ! » v.v… Chúng ta nghĩ gì về những quả quyết này của những người Kitô hữu ? Chúng ta phải phê phán ra sao ?
Nhiều cách thực hành trong Kitô Giáo chỉ là những hình thức bên ngoài trống rỗng, vô ý nghĩa, bởi vì thiếu tinh thần cầu nguyện, thiếu sự tương giao nội tâm với Thiên Chúa. Ðó chính là điều mà Ðức Giêsu nghiêm khắc phê bình. Nếu người ta chỉ dừng lại nơi những hình thức bên ngoài và lấy chúng làm đủ, thay cho sự gặp gỡ tiếp cận với Thiên Chúa, thì hoàn toàn sai lạc và chỉ là giả hình: « Dân này phụng thờ Ta bằng môi miệng, còn lòng trí chúng thì xa Ta. Chúng có phụng thờ Ta thì cũng vô nghĩa ! »
Tất cả các vị Linh mục phụ trách công tác mục vụ đều có thể chứng nhận được hiện tượng đó, đặc biệt qua kinh nghiệm khi cử hành các Bí tích Rửa Tội, Chịu Lễ Lần Ðầu hay Hôn Phối cho những Kitô hữu thuộc loại « nửa vời » hay sống đạo « bên lề giáo xứ »: Tất cả chỉ nặng phần hình thức và lễ nghi bên ngoài. Ðiều đó đưa tới kết luận là: Khi đức tin càng nguội lạnh, thì các hình thức bên ngoài càng trở nên chính yếu.
Từ những thí dụ tiêu cực như thế, sự việc trở nên rõ ràng hơn: Số là các môn đệ đã chủ ý gạt bỏ tục lệ rửa tay trước khi dùng thức ăn. Và đương nhiên họ đã bị các người Do-thái phê bình là hành động không đúng luật. Nhưng Ðức Giêsu đã dứt khoát khẳng định: Không phải sự tinh sạch bên ngoài là quan trọng, nhưng trước mặt Thiên Chúa chỉ sự tinh sạch nội tâm mới đáng kể. Nói cách khác, người ta cần có một trái tim trong sạch ! Câu chuyện sau đây thật đáng cho chúng ta suy nghĩ: Người ta kể rằng có một người công chính nọ chết đi và phải ra trước tòa Chúa. Với thái độ đầy tự tín, ông ta nói: « Lạy Chúa, xin Chúa nhìn xem đôi tay con đây hoàn toàn tinh sạch », và rồi ông ta hy vọng chờ đợi sẽ được Chúa khen thưởng. Nhưng ông ta đã nhận được câu trả lời: « Ðúng ! Ðôi tay con tinh sạch, nhưng rất tiếc chúng chỉ là đôi tay trắng không ! » Vậy, vấn đề trọng điểm ở đây không phải là hình thức và dáng dấp bên ngoài, nhưng là con tim, là tâm hồn con người !
Có lẽ bây giờ có người sẽ kết luận: Nếu những hình thức bên ngoài không quan trọng như thế, tại sao chúng ta lại không loại bỏ đi ? Thực ra, Thiên Chúa chỉ ghét bỏ những hình thức bên ngoài, nếu chúng trở nên trọng điểm, thay thế toàn bộ đời sống nội tâm của con người, còn tự bản các hình thức và điệu bộ bên ngoài giữ vai trò rất quan trọng: là dấu hiệu và sự phô diễn của những sinh hoạt và của tình trạng nội tâm. Thí dụ: Một cái bắt tay, một cái mỉm cười, một cái vuốt ve… tất cả có thể trở thành sự bày tỏ tình cảm hay một sự gặp gỡ sâu thẳm trong thẩm cung tâm hồn con người. Hiện tượng tâm lý đó cũng được áp dụng trong việc thực hành đời sống đức tin: Một cái bái gối có nghĩa là tôi, một thụ tạo, nhìn nhận sự bé nhỏ và yếu hèn của tôi trước Ðấng Tạo Hóa, tôi thờ kính Người. Hay khi tôi giơ tay làm dấu thánh giá: có nghĩa là tôi cảm tạ Chúa, vì Người đã chịu khổ nạn và chịu chết cho tôi. Thánh giá biểu tượng cho sự hy vọng của tôi, cho sự cứu rỗi của tôi. Hoặc: Nước phép là biểu tượng nhắc lại Bí tích Rửa tội của tôi trong nước và Thánh Thần, qua đó tôi đã được tẩy rửa mọi tội lỗi, v.v… và còn biết bao dấu hiệu khác trong đời sống đức tin, nhưng đặc biệt nhất là các Bí tích mà chính Ðức Giêsu đã lập, cốt giúp ta tiếp cận và gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống.
Nói tóm lại, con người không chỉ sống với cái đầu, với sự hiểu biết và với các lý luận, nhưng còn với con tim và với tình cảm nữa. Chúng ta đến với Thiên Chúa và tôn thờ người với tất cả những tài năng đó, « bởi vì người đã dựng nên Ta như vậy ». Bởi vậy, các dấu chỉ và các biểu tượng bên ngoài rất quan trọng cho những hoạt động trong tâm hồn và cho sự cầu nguyện. Ðàng khác, chúng ta không được phép dừng lại nơi những dấu hiệu và biểu tượng bên ngoài đó. Bởi vì « những người thờ kính Thiên Chúa đích thực, sẽ thờ kính Người trong Thần Khí và sự thật », như lời Chúa Cứu Thế đã quả quyết (Ga 4,23).
Thiên Chúa nhìn thấu suốt con tim và đọc hết các ý nghĩ của con người. Bởi vậy, lời cầu nguyện làm đẹp lòng Thiên Chúa, không phải xuất phát từ môi miệng mà thôi, nhưng trước hết phải được xuất phát từ con tim đầy yêu thương và trông cậy. Một lời cầu nguyện như thế chắc chắn sẽ được chấp nhận.
Ông Môsê mời gọi dân chúng hãy lắng nghe và tuân giữ các mệnh lệnh của Thiên Chúa mà ông đã truyền. Nhờ đó. Israel sẽ được coi là dân tộc khôn ngoan và thông minh, vì có Thiên Chúa ở gần mỗi khi dân kêu cầu Người.
Bài Đọc 2 (Gc 1, 17- 18. 21b- 22. 27)
Thánh Giacôbê khuyên các tín hữu hãy khiêm tốn đón nhận Lời Chúa đã gieo vào lòng; Lời có sức mang lại ơn cứu độ. Hãy đem Lời Chúa ra thực hành chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. Lòng đạo đức tinh tuyền trước mặt Chúa là sống bác ái và giữ mình khỏi những vết nhơ của trần gian.
Bài Đọc Tin Mừng (Mc 7, 1-8. 14- 15. 21-23).
Khi các người Pharisêu và Kinh Sư hỏi Đức Giêsu về việc các môn đệ không giữ các tập tục cha ông, mà cứ để tay ô uế dùng bữa. Đức Giêsu đã trả lời: các ông đã bỏ điều răn Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm. Cho nên, các ông chỉ thờ Thiên Chúa bằng môi miệng, còn lòng các ông thì lại xa Ngài. Đức Giêsu còn nói: không phải cái từ bên ngoài vào làm cho con người ra ô uế; mà là chính cái xuất phát từ bên trong con người mới ra ô uế như: trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá.
2- SUY NIỆM
Chủ đề xuyên suốt các bài đọc hôm nay là việc khiêm tốn đón nhận và đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống, hầu con nguời tìm gặp được khôn ngoan đích thức và đạt được nguồn ơn cứu độ. Bởi vì, “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118, 105).
a. Lời Chúa Mang Lại Cho Con Người Sự Khôn Ngoan
Trong bài đọc một, ông Môsê mời gọi dân chúng hãy lắng nghe và tuân giữ các mệnh lệnh của Thiên Chúa. Nhờ đó, họ sẽ tìm gặp được sự khôn ngoan đích thực vì có Thiên Chúa ở cùng (x. Đnl 4, 1- 2. 6- 8). Như thế, sự khôn ngoan mà ông Môsê nói ở đây không phải là sự khôn ngoan theo quan điểm của người đời mà là sự khôn ngoan khởi đi từ Thiên Chúa. Nói cách khác, sự khôn ngoan này không do con người thủ đắc mà là một ân ban của Thiên Chúa. Họ có được sự khôn ngoan này là nhờ đặt để cuộc đời mình nơi Thiên Chúa, thụ huấn nơi Ngài và kêu cầu Ngài mỗi khi gặp gian khó.
Với sự khôn ngoan này, Israel sẽ biện phân được đâu là ý muốn của Thiên Chúa và đâu là chủ ý của con người hầu có cái nhìn và chọn lựa đúng đắn. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái thời bấy giờ, những người được mệnh danh là nắm giữ và thông truyền Lời Chúa thì lại đánh mất sự khôn ngoan này. Họ không phân biệt được đâu là cái chính yếu và đâu là cái tùy phụ. Cho nên, sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã bị che khuất dưới lớp màn của vụ lợi và lối sống hình thức của các bậc thầy Do thái. Điều này đã được Chúa Giêsu nói với các Kinh Sư và Pharasêu về việc các ông đã bỏ lề luật Thiên Chúa để duy trì truyền thống người phàm, cho nên, việc thờ phượng Thiên Chúa chỉ dừng lại ở đầu môi chót lưỡi còn lòng dạ thì xa cách Ngài (x. Mc 7, 6- 8).
Do đó, thay vì mang Lời Chúa ra thực hành, họ uốn nắn Lời Chúa theo chiều hướng có lợi cho bản thân. Thay vì một Thiên Chúa đích thực, họ lại tác tạo nên một “thiên chúa ngẫu tượng” phù hợp với ước muốn giả tạo của mình. Họ càng loay hoay tìm kiềm Thiên Chúa dưới lớp vỏ lề luật, thì Thiên Chúa mà họ tìm kiếm lại càng xa vời. Bởi vì, họ đã để cho sự khôn ngoan của phàm nhân chiếm đóng tâm hồn nên làm lu mờ sự khôn ngoan của Thiên Chúa; một sự khôn ngoan vắng bóng Thiên Chúa.
2. Lời Chúa Mang Lại ơn Cứu Độ
Thánh Giacôbê mời gọi các tín hữu hãy khiêm tốn đón nhận Lời Chúa đã gieo vào lòng; Lời có sức mang lại ơn cứu độ (Gc 1, 21). Điều này đồng nghĩa với việc kêu gọi các tín hữu “hãy bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng Đức Kitô” (Cl 2, 7) mà thánh Phaolô đã nói đến. Bởi vì, chính “Người là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6). Chúa Giêsu cũng đã nói với các môn đệ: “Nếu anh em ở lại trong Lời của Thầy, thì anh em là môn đệ của Thầy. Anh em sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8, 32). Ở lại trong Lời của Chúa là ở lại trong chính Chúa. Như thế, ơn cứu độ mà người tín hữu lãnh nhận không phải nhờ làm được công kia việc nọ, nhưng hệ tại ở việc “ở lại”: ở lại trong Chúa, con người sẽ kiến tạo cho mình một cuộc sống có ý nghĩa, tìm gặp được hạnh phúc đích thực và viên mãn; ở lại trong Chúa, con người cảm nếm được niềm vui trao ban, sự bình an và sức kiên định trước những thử thách gian nan; ở lại trong Chúa là ở lại trong ân sủng và nguồn ơn cứu độ.
Dĩ nhiên, cũng như các Kinh sư và Pharisêu xưa kia, chúng ta cũng không dễ dàng để cho Lời Chúa đi vào và biến đổi cuộc đời mình. Những tính toán hơn thiệt nhiều khi che khuất tiếng nói của Chúa. Những cái nhìn tiêu cực làm hao hụt lòng quảng đại và sự nhạy cảm trước lời mời gọi của Chúa. Những thái độ kiêu căng, muốn khẳng định mình đã làm chai cứng khả năng yêu thương và sự khiêm tốn. Đó là những hàng rào đóng khung chúng ta trong an phận và hưởng thụ mà không mở ra cho chân trời trao ban và hy vọng, nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa, tha nhân và chính bản thân mình. Trong bài giảng lễ trong nhà nguyện thánh Matta ngày 4/11/2014, đức thánh cha Phanxicô đã nói lên ý hướng này: “Thật khó khăn khi nghe thấy Lời của Chúa Giêsu, Lời Chúa, khi bạn tin rằng tất cả thế giới đều xoay quanh bạn: không có chân trời vì bạn đã trở nên chân trời của chính mình”.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa và cầu nguyện cho nhau để mỗi người có được sự khiêm tốn và lòng quảng đại đón nhận Lời Chúa vào trong cuộc đời mình. Nhờ đó, mỗi người sẽ được thắm đượm Tin Mừng và trở nên dấu chứng tình yêu Chúa giữa trần thế.