------------------------------------ Phúc Âm: Ga 6, 61-70: “Chúng con sẽ đi đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: “Lời này chói tai quá! Ai nghe được!” Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu nói với họ: “Ðiều đó làm các con khó chịu ư? Vậy nếu các con thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các con là thần trí và là sự sống. Nhưng trong các con có một số không tin”. Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: “Bởi đó, Ta bảo các con rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho”. Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa. Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: “Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?” Simon Phêrô thưa Người: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa”. - Ðó là lời Chúa ------------------------------------------
Chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Hẳn chúng ta còn nhớ, Chúa Giêsu vào trong hoang địa và bị cám dỗ. Lúc bấy giờ ma quỉ hiện: TN 21-B1
Hẳn chúng ta còn nhớ, Chúa Giêsu vào trong hoang địa và bị cám dỗ. Lúc bấy giờ ma quỉ hiện ra và nói với Ngài:
- Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy biến những hòn đá này trở nên bánh mà ăn.
Sở dĩ ma quỉ cám dỗ Ngài như thế là vì nó biết sau 40 ngày đêm ăn chay cầu nguyện, hẳn Ngài phải đói. Thế nhưng, Ngài đã thẳng thắn trả lời ma quỉ:
- Con người ta không phải chỉ sống bởi bánh, mà còn sống bởi những lời từ miệng Thiên Chúa phán ra.
Và qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng đã thấy: Sau phép lạ bánh hóa nhiều nuôi năm ngàn người trong hoang địa, lợi dụng biến cố đó, Chúa Giêsu đã giới thiệu với họ một thứ lương thực thiêng liêng bổ dưỡng cho tâm hồn, đó là Mình Máu Thánh Ngài như lời Ngài đã phán:
- Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời và Ta, ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
Trước những lời giới thiệu đầy trang trọng ấy, một số các môn đệ đã lấy làm chướng tai, không thể chấp nhận được, và thế là họ đã bỏ Chúa mà đi. Bấy giờ Chúa Giêsu quay lại vànói với nhóm mười hai:
- Còn các con, các con không bỏ Thầy mà đi hay sao?
Phêrô bèn thay mặt cho nhóm nhỏ ấy mà tuyên xưng:
- Lạy Thầy, bỏ Thầy, chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Tuân giữ và thực thi lời Chúa truyền dạy là điều Ngài luôn luôn nhấn mạnh và đòi buộc mỗi người chúng ta. Thực vậy, có lần Ngài đã phán:
- Không phải những kẻ nói rằng Lạy Chúa tôi mà được vào nước trời, nhưng là những người tuân giữ những điều Ta truyền dạy.
Trước khi về trời, Ngài cũng đã căn dặn các môn đệ:
- Các con hãy đi giảng cho muôn dân, dạy họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho các con và đây Thầy ở cùng các con cho đến tận thế.
Sở dĩ, lời Chúa dẫn chúng ta tới cuộc sống vĩnh cửu vì lời Chúa vạch ra cho chúng ta con đường phải đi và chính con đường ấy sẽ dẫn đưa chúng ta trở về với Chúa. Như thế, việc tuân giữ lời Chúa sẽ là một bảo đảm chắc chắn nhất cho chúng ta ơn cứu rỗi, cũng như niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Để kết luận, tôi xin kể lại một mẩu chuyện nho nhỏ:
Trong một xưởng thợ, người ta bàn tán và cho rằng tôn giáo, nhất là Thiên Chúa giáo làm mê muội trí khôn, bức hiếp lẽ phải và làm sai lạc phán đoán.Một anh công nhân nghe thế bèn góp ý:
- Đúng thế, đạo Chúa và lời Ngài đã làm cho tôi mất đi tất cả.
Mọi người ngạc nhiên, sững sờ đưa mắt nhìn anh. Anh nói tiếp:
- Các bạn có biết không, tôi là người rượu chè be bét, nhưng đạo Chúa và lời Ngài giúp tôi chừa bỏ được rượu. Tôi là người thích cờ bạc, nhưng đạo Chúa và lời Ngài giúp tôi xa tránh được tật này. Xưa kia gia đình tôi luôn cãi vã xô xát nhau, nhưng đạo Chúa và lời Ngài, làm tôi mất đi cái địa ngục ấy và đem vào đó một bầu khí cảm thông và hạnh phúc. Và còn nhiều thứ khác nữa, đạo Chúa và lời Ngài đã làm mất đi nơi tôi và gia đình tôi. Các bạn hãy thực hành lời Ngài và sống đức tin của mình chắc chắn, các bạn sẽ không bao giờ phải hối hận đâu.
Hãy lắng nghe Lời Chúa, hãy suy gẫm Lời Chúa và nhất là hãy sống Lời Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ đạt tới niềm hạnh phúc Nước Trời.
Bài Tin mừng hôm nay cho biết phản ứng của các môn đệ nói chung và của nhóm mười hai nói: TN 21-B2
Bài Tin mừng hôm nay cho biết phản ứng của các môn đệ nói chung và của nhóm mười hai nói riêng. Mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giả thích thêm. Suốt cuộc nói chuyện, chúng ta thấy Chúa không ngừng mời gọi người ta đến với Ngài, đón nhận Ngài làm của ăn thức uống. Nhưng không những dân chúng mà nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do Thái khác: Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe cho nổi. Họ lẩm bẩm với nhau như thế. Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài. Ngài nói Ngài lên nơi Ngài đã ở trước, nghĩa là lên cùng Chúa Cha, vào trong vinh quang của Chúa Cha, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Ngài từ muôn thưở.
Khi nghe Chúa nói như vậy, nhiều môn đệ rút lui, không đi với Chúa nữa. Không những dân chúng chán ngán mà cả đến các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm mười hai tông đồ, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Phản ứng của họ thế nào ? Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: họ không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Như vậy Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: Ngài là con Thiên Chúa.
Còn chúng ta thì sao ? Đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta đều phải đích thân chọn lựa Chúa. Là Kitô hữu, tức là chấp nhận đi theo Chúa, Đấng không những ban cho chúng ta sự sống đời này, mà còn ban cho chúng ta sự sống đời đời nữa.
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phải có niềm tin. Chẳng hạn đau bệnh, chúng ta tìm đến thày thuốc, chúng ta đặt niềm tin nơi khả năng và thiện chí của ông ta…Là Kitô hữu, chúng ta không những có niềm tin vào cuộc sống mà còn phải có đức tin nữa. Vậy làm sao có được đức tin ? Pascal nói: Muốn có đức tin, bạn phải quì gối xuống và cầu nguyện.
Mẹ Têrêsa cũng nói như thế. Người ta kể lại rằng: lần kia mẹ nói với một phóng viên báo chí: tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin. Người ấy hỏi: tôi phải làm gì để có được đức tin ? Mẹ đáp: ông hãy cầu nguyện. Người ấy nói: tôi không thể cầu nguyện. Mẹ bảo: tôi sẽ cầu nguyện cho ông, phần ông, hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh. Một nụ cười có thể đánh động người khác. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống.
Chúng ta nhận được đức tin khi chịu phép rửa tội. Nhưng cũng như mọi thứ tài năng khác nơi con người, đức tin cần phải được nuôi dưỡng. Một tài năng không được nuôi dưỡng sẽ mai một với thời gian. Một đức tin không được vun trồng cũng sẽ chết dần chết mòn. Chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm những việc đạo đức là chúng ta nuôi dưỡng đức tin của mình. Ngoài ra, cả cách sống quảng đại, vị tha và yêu thương cũng là cách nuôi dưỡng đức tin như lời mẹ Têrêsa đã khuyên trên đây: Mỉm cười với mọi người. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống. Một nụ cười còn có giá trị như thế, phương chi là những lời nói, những việc làm còn có giá trị hơn biết bao.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không phải chỉ chữa lành và nuôi dưỡng phần: TN 21-B3
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không phải chỉ chữa lành và nuôi dưỡng phần xác, nhưng quan tâm chính của Ngài là nuôi dưỡng và chữa lành tâm hồn họ. Đó chính là điều mà Phêrô đã gọi một cách thật thích đáng: Lời đem lại sự sống đời đời. Lời của Ngài thật sự đem lại sự sống. Chúng ta sẽ đưa ra một vài thí dụ về những lời Ngài đã nói.
Con hãy đi bình an, tội con đã được tha. Với lời này, Ngài trả lại tự do cho bệnh nhân. Thày đây, anh em đừng sợ. Với lời này, Ngài trán an nỗi sợ hãi của các tông đồ khi họ nghĩ rằng mình sáp chết đuối. Ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát. Với lời này, Ngài làm dịu đi cơn khát trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Với lời này, Ngài làm cho tâm hồn chúng ta được no thỏa. Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi sẽ không còn bức đi trong bóng tối, nhưng sẽ luôn có ánh sáng sự sống. Với lời này, ánh sáng của Ngài không những không có bóng tốt, mà còn không có cả sự chết, bởi vì chính Ngài đã chiến thắng sự chết. Tôi là mục tử tốt lành, tôi biết chiên tôi và chúng biết tôi, tôi cho chúng sự sống đời đời. Với lời này, Ngài khuyến khích chúng ta bước theo Ngài để tiến tới đồng cỏ Nước trời. Tôi là sự sống lại và là sự sống, ai tin tôi sẽ không chết muôn đời. Với lời này, Ngài an ủi chúng ta khi gặp phải những khổ đau buồn phiền. Anh em đừng sợ hãi, Thày đi để dọn chỗ cho anh em. Với lời này Ngài khích lệ chúng ta khi gặp phải những băn khoan lo lắng trên đường đời.
Có lần các nhà lãnh đạo tôn giáo sai các vệ binh trong đền thờ đến bắt Ngài, nhưng họ không bao giờ đặt tay lên Ngài được. Trái lại, họ say mê giáo huấn của Ngài. Họ thừa nhận rằng lời Ngài giảng dạy thật lạ lùng, họ trở về với các ông chủ của họ và nói: Không có ai giảng dạy giống như Ngài. Quả thật, Chúa Giêsu có lời đem lại sự sống đời đời. Và những lời của Ngài được gìn giữ cho chúng ta trong Tin mừng.
Anh em cũng muốn bỏ đi sao ? Giờ đây, Ngài cũng muốn nói với mỗi người chúng ta như thế. Không phải Ngài lìa bỏ chúng ta, nhưng chúng ta có thể lìa bỏ Ngài. Và qua dòng thời gian, nhiều người đã làm như thế. Chúng ta cần tuyên xưng lại lời tuyên xưng đang của thánh Phêrô: Bỏ Thày chúng con biết theo ai. Thày mới có lời đem lại sự sống đời đời.
Liệu chúng ta đã thực sự tuyên xưng và sống lời tuyên xưng của mình như vậy hay chưa ?
Trong những năm gần đây, chúng ta thấy xuất hiện nhiều giáo phái. Một trong những điều gây: TN 21-B4
Trong những năm gần đây, chúng ta thấy xuất hiện nhiều giáo phái. Một trong những điều gây xáo trộn nhiều nhất của các giáo phái là ảnh hưởng chúng gây ra cho những người đi theo chúng. Các thủ lãnh luôn là những kẻ có tham vọng khống chế người khác. Và các thành viên thường là những người sợ hãi, dao động và nhu nhược, dễ làm mồi cho những lãnh tụ như thế.
Có một sự khác biệt lớn giữa cách giao tiếp của Đức Kitô và của các thủ lãnh giáo phái. Thực vậy, trong các giáo phái chúng ta thấy có sự tôn vinh cá nhân lãnh tụ. Còn Đức Kitô không bao giờ tìm kiếm vinh quang cho chính mình. Ngài quy hướng mọi việc về Chúa Cha, bởi vì Ngài đến để thi hành thánh ý Cha Ngài. Ngài làm cho mình trở thành tôi tớ của mọi người. Các tiên tri giả thường hứa hẹn cho các môn đệ một thiên đàng trần gian dưới một hình thức nào đó. Điều này trở thành một cách chiêu dụ. Đức Kitô không hứa hẹn như thế cho các môn đệ. Trái lại, Ngài nói với họ rằng họ phải vác thập giá và chịu bách hại khi bước theo Ngài. Khi các lãnh tụ giáo phái nhìn thấy con tàu đang chìm, họ thường cố gắng bảo đảm rằng phi hành đoàn sẽ chết theo tàu. Trong khi đó, Đức Kitô, vị mục tử nhân lành, đã hiến mạng sống mình để cứu đoàn chiên.
Bằng việc kết hợp chiêu dụ với truyền thụ, những thành viên mới của giáo phái không khác gì những con ruồi bị mắc vào lưới nhện. Tự do của họ hoàn toàn bị lấy mất. Nhưng tự do lại là điều cao quí nhất mà chúng ta có được. Điều duy nhất có giá trị đạo đức và giúp chúng ta trưởng thành phải được thực hiện một cách tự do. Đức Kitô không cưỡng bách một ai đi theo Ngài. Chúng ta có một thí dụ rõ ràng về điều đó trong Tin mừng hôm nay.
Thập giá bắt đầu phủ bóng lên Ngài. Các môn đệ của Ngài phải đối diện trước một quyết định: Ở lại với Ngài hay lìa bỏ Ngài. Có những người ở lại với Ngài khi nào việc giảng dạy của Ngài còn tiến triển, nhưng ngay khi thấy bóng dáng của thập giá, họ liền lìa bỏ Ngài. Có những người đến với Ngài để được Ngài ban cho một ơn huệ nào đó, nhưng khi phải chịu đau khổ với Ngài và hiến thân cho người khác, họ liền bỏ đi. Dù khó tin, nhưng một trong nhóm mười hai đã âm thầm nuôi ý định phản bội Ngài.
Thế nhưng, có một số người còn ở lại với Chúa Giêsu, Phêrộ đã nói thay cho họ. Quyết định ở lại của ông dựa trên lòng trung tín của bản thân ông đối với Đức Kitô. Kế đến dựa trên giáo huấn của Ngài. Mặc dù có nhiều điều ông chưa hiểu, nhưng ông biết rằng Đức Kitô có những lời đem lại sự sống đời đời.
Nếu chúng ta đi theo Đức Kitô, chúng ta được tự do, không phải khi chúng ta làm bất cứ điều gì chúng ta thích, nhưng khi chúng ta làm điều phải. Bấy giờ, chúng ta giống như một dụng cụ được dùng đúng vai trò, đúng công việc mà mình phải thực hiện.
Trước khi đặt chân vào miền đất hứa, ông Giôsuê đã kêu gọi dân Do thái phải có một chọn: TN 21-B5
Trước khi đặt chân vào miền đất hứa, ông Giôsuê đã kêu gọi dân Do thái phải có một chọn lựa dứt khoát: phục vụ Thiên Chúa của cha ông họ hay phục vụ những thần tượng gỉa tạo khác. Ông đưa ra một lời cảnh cáo nghiêm trọng: nếu họ chọn đi theo những thần tượng giả tạo, họ sẽ bị chúc dữ. Còn nếu họ chọn Thiên Chúa, họ sẽ được chúc lành. Đây là một chọn lựa nghiêm túc và quả quyết, đúng hơn nó biểu hiện một nền đạo đức cấm đoán. Chúa Giêsu đã đưa ra một viễn cảnh khác: vâng lời không phải dưới sự đe dọa bị trừng phạt, nhưng xuất phát từ tình yêu. Dẫu sao các chi tộc Israen cũng đã tuyên bố: chúng tôi sẽ phụ vụ Thiên Chúa.
Một trong những quà tặng cao quí mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta, đó là tự do lựa chọn. Chắc chắn chúng ta sẽ có một đời sống dễ dàng hơn nếu Thiên Chúa điều hành mọi sự, nhưng bấy giờ chúng ta chỉ là những con rối bị giật dây. Dù chúng ta chỉ có những chọn lựa đúng, nhưng điều đó biến chúng ta trở thành nhưng người máy. Tội lỗi không thể có được, nhưng đồng thời đức hạnh cũng chẳng phát sinh.
Sự kiện Thiên Chúa tôn trọng tự co của chúng ta là một dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Thiên Chúa khg chiếm hữu và cố tình làm chủ chúng ta. Ngài cho chúng ta được tự do lựa chọn giữa tốt và xấu, tự do lựa chọn cái này hoặc cái kia.
Dầu chúng ta không vâng theo những giới răn của Ngài, Ngài vẫn không ngừng yêu thương chúng ta. Nhưng điều đó không có nghĩa là Ngài dễ dãi. Vấn đề ở đây không phải là chúng ta làm gì, mà là một số phận đáng sợ đang chờ đón. Thiên Chúa nhìn thấy mỗi người hành động. Ngài không bỏ qua tội lỗi và những việc làm sai trái.
Khi chúng ta tự do, chúng ta có trách nhiệm về sự lựa chọn của mình cũng như về những hậu quả của sự lựa chọn ấy. Tuy nhiên, Thiên Chúa không để chúng ta phải xoay xở một mình. Ngài ban cho chúng ta ơn sủng để giúp chúng ta thực hiện những chọn lựa đúng.
Nhìn thấy một số môn đệ bỏ đi, Chúa Giêsu liền hỏi nhóm mười hai: còn các con, các con: TN 21-B6
Nhìn thấy một số môn đệ bỏ đi, Chúa Giêsu liền hỏi nhóm mười hai: còn các con, các con có muốn bỏ Thày mà đi nữa không ? Lập tức Phêrô đã trả lời: Thưa Thày, bỏ Thày chúng con biết theo ai, vì chì mình Thày mới có Lời ban sự sống đời đời. Qua câu trả lời này, ông đã nhất quyết không bỏ Thày, ông hứa sẽ mãi mãi theo thày, nghĩa là ông đã làm một sự chọn lựa.
Cuộc đời chúng ta là một chuỗi những sự chọn lựa. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính những sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt đẹp và hạnh phúc. Còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì đời sẽ xấu xa và bất hạnh. Sống là phải lựa chọn luôn. Đời là vậy. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cũng nói đến vấn đề lựa chọn. Trong bài đọc một ông Giôsuê đã bảo dân Do Thái phải chọn lựa: thờ Thiên Chúa hay thờ các thần tượng khác. Trong bài đọc hai, thánh Phaolô khuyên các đôi vợ chồng một khi đã chọn nhau làm bạn đườn, thì phải suốt đời trung thành với sự lựa chọn ấy,nghĩa là phải thủy chung, phải tùng phục và phải hòa thuận với nhau.
Còn nếu nói theo từ ngữ Phật giáo, thì chúng ta cũng phải luôn lựa chọn một bên là tham sân si và một bên là lý tưởng đạo đức của mình. Mỗi ngày chúng ta phải đứng trước biết bao sự lựa chọn như thế. Một người đến đề nghị cho chúng ta một kiểu làm ăn gian lận, tiền sẽ có nhiều nhưng lại trái đức công bình: chúng ta phải chọn lòng tham hay là đức công bình. Rồi một người hàng xóm làm điều gì đó không vừa ý chúng ta, chúng ta phải lựa chọn buông theo tính nóng của mình hay nhịn nhục tha thứ. Ai chọn lựa tham sân si là chọn sai, cuộc đời sẽ trở thành xấu xa. Còn ai chọn công bình, bác ái, tự chủ là chọn lấy cái tốt, chọn con đường Chúa đã vạch ra.
Nếu chúng ta chọn Chúa thì sẽ ra sao ? Và nếu chúng ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao. Linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã suy diễn câu nói bất hủ của thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau: Bỏ Ngài con biết theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi ? Bỏ Ngài con biết theo ai, thuyền không lái biết trôi về đâu ? Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ ? Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh.
Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chịm bay trong khung trời lộng gió, cũng vẫn như con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình aấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm tới bến bình an. Trên đây là một vài gợi ý về sự lựa chọn trong cuộc đời. Điều quan trọng đó là chúng ta phải biết chọn lựa như thế nào trước những hoàn cảnh riêng của cuộc đời mình. Cầu mong mỗi người chúng ta biết chọn lựa đúng và chọn lựa tốt.
Năm 700, tại tu viện thánh Lougino ở Lanciano bên nước Ý,có một linh mục tên là Basilio hoài: TN 21-B7 FB
Năm 700, tại tu viện thánh Lougino ở Lanciano bên nước Ý,có một linh mục tên là Basilio hoài nghi về mầu nhiệm Chúa hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã làm phép lạ cả thể còn được lưu giữ cho đến ngày nay, như một minh chứng vĩ đại về phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano. Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt máu Chúa đó còn được cô đọng cho tới ngày nay. Năm 1713, bửu huyết Chúa đã được lưu giữ trong hào quang quí giá, được gọi là hào quang phép lạ Thánh Thể Lanciano. Năm 1971, cuộc khảo cứu khoa học đã cho biết thịt đó là một thớ thịt từ trái tim và máu đó là máu của con người, thuộc nuóm AB. Ngày nay thịt và máu Chúa hiện đang được lưu giữ trong nhà thờ thánh Phanxicô, là trung tâm hành hương nổi tiếng của cả thế giới.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ cũng rơi vào kinh nghiệm khủng hoảng đức tin ấy. Khi Chúa Giêsu tuyên bố Ngài sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn, thì lập tức nhiều môn đệ đã phản ứng lại: lời này chói tai quá, ai mà nghe được. Thánh Gioan còn ghi thêm: Từ bấy giờ, có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Ngài nữa. Họ đã theo Ngài một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng.
Tận hiến cho Đức Kitô không phải là sự lựa chọn một lần, đó là thách đố từng ngày. Trở nên Kitô hữu không phải là bảo đảm sẽ trung thành đến cùng. Bước theo Đức Kitô là bước vào một cuộc mạo hiểm: mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin. Đã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại, cũng có kẻ không theo được tới cùng.
Tại sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai lại trung kiên đến cùng ? Tại sao nhóm thứ nhất thất bại, còn nhóm thứ hai lại thành công ? Có thể nói để khỏi bỏ cuộc, người ta cần phải bỏ mình. Để theo Đức Kitô, cân phải chú tâm đến Ngài hơn là bận tâm về chính mình. Thánh Phêrô đã làm được điều đó khi ông nói: Bỏ Thày chúng con biết theo ai ? Đứng trước lời tuyên bố của Đức Kitô xem ra có vẻ chói tai, thì Phêrô đại diện cho nhóm Mười hai vẫn không tỏ ra nao núng vì ông chỉ nhìn thẳng vào Đức Kitô. Đứng trước cuộc thử thách, ông vẫn một niềm tin tưởng vì ông chỉ chú tâm vào Chúa: Thày là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa.
Trái lại, nhóm thứ nhất sở dĩ bỏ cuộc vì họ chỉ loay hoay bận tâm với nhưng ý nghĩ của mình: Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn ?
Hôm nay vẫn có những câu Lời Chúa bất ngờ làm cho chúng ta choáng váng, vẫn có những giây phút thử thách làm cho chúng ta chao đảo, vẫn có những cơn cám dỗ làm cho chúng ta bỏ cuộc. Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa, hãy xác tín lại niềm tin vào Ngài như thánh Phêrô đã làm ngày xưa.
Lạy Chúa, xin thêm lòng tin và lòng mến nơi chúng con. Amen.
Thế vận hội năm 1924 được tổ chức tại Paris, Pháp, đã có thêm bộ môn bơi thuyền. Mỹ đã cử đi: TN 21-B8
Thế vận hội năm 1924 được tổ chức tại Paris, Pháp, đã có thêm bộ môn bơi thuyền. Mỹ đã cử đi một đội bốn người để tham dự mục bơi thuyền, trong số đó có một thanh niên rất trẻ tên là Bill Havens.
Lúc cuộc đua gần tới, thì cũng là lúc mà anh sắp có đứa con đầu lòng. Vào năm 1924, máy bay còn chưa có thịnh hành như ngày nay, cho nên từ Mỹ mà qua Pháp, người ta phải đi tàu rất chậm.
Vì thế, Bill đã vướng vào thế kẹt. Anh lưỡng lự không biết nên đi hay ở nhà. Về phía vợ của Bill thì chị đã khuyến khích chồng mình đi tham dự cuộc thi bởi vì chị biết rằng Bill đã bỏ ra rất nhiều công sức tập dượt cho cuộc thi này.
Tuy thế, đối với Bill thì thật là khó quyết định. Sau khi suy nghĩ chín chắn, Bill đã quyết định không đi qua Pháp dự đua mà ở nhà với vợ để đón đứa con đầu lòng. Anh nghĩ rằng ở bên cạnh vợ mình thì có lẽ quan trọng hơn là đi Pháp để hoàn thành một giấc mơ.
Để rút ngắn câu truyện, đội bơi thuyền của Mỹ đã thắng giải huy chương vàng trong thế vận hội nhưng Bill không dự phần. Vì thế, có rất nhiều người đã trách móc Bill.
Bill đã phát biểu rằng anh không hề hối hận. Anh nghĩ đến lời cam kết anh đã làm với vợ anh, và lời cam kết đó vẫn quan trọng hơn lúc nào hết.
Người con mà Bill đã phải bỏ cuộc đua thế vận hội Bill đã đặt tên là Frank.
Hai mươi tám năm sau, vào năm 1952, Bill nhận được tờ điện tín của Frank gởi từ thành phố Helsinki, Phần Lan:
"Ba ơi, con đã thắng. Con sẽ mang về nhà cái huy chương vàng mà ba đã làm mất khi phải chờ đợi ngày con sinh ra."
Lời cam kết của Bill Havens, 28 năm về trước, đã trở thành một sự cảm hứng cho người con trai của ông. Frank là lấy đó làm gương cho lời cam kết của mình.
Câu truyện của Bill Havens là một câu truyện diễn tả về một con người đã phải trả một cái giá rất đắt để giữ lời cam kết của mình với người mà anh yêu. Câu truyện này thật thích hợp để mở đầu cho các bài đọc hôm nay. Cả ba bài đọc đều nói đến vấn đề cam kết. Bài đọc thứ nhất nói sự cam kết giữa người Do thái và Thiên Chúa và những khó khăn khi phải giữ lời cam kết đó. Bài đọc thứ hai nói về sự cam kết giữa hai người trong việc hôn nhân và sự khó khăn khi họ phải sống lời cam kết đó. Bài Phúc Âm nói về sự cam kết giữa các môn đệ với Chúa Giêsu và sự khó khăn để sống lời cam kết đó.
Điều cám dỗ mà người ta thường gặp khi giữ những lời cam kết không phải là cắt đứt hoặc thất bại để thi hành lời cam kết của mình, nhưng điều cám dỗ đó là người ta không biết sống cho đúng lời mình đã cam kết. Nói một cách khác, người ta chỉ sống có 70% hoặc 50% lời họ cam kết.
Việc chúng ta thi hành lời cam kết của mình có một sức mạnh ảnh hưởng đến không chỉ là người chúng ta cam kết mà còn cả những người sống chung quanh chúng ta nữa. Lòng chân thành sống lời cam kết của cha mẹ luôn luôn được các người con của họ để ý tới. Và các người con sẽ luôn biết nhìn vào cha mẹ mình như là một gương sáng cho lẽ sống của họ.
Điều quyết định của Bill để sống điều mà đã cam kết 100% đã gây ảnh hưởng đến mối liên hệ với vợ ông một cách thâm sâu. Nó cũng gây ảnh hưởng đến mối liên hệ với người con trai của ông một cách thâm sâu. Nó còn gây ảnh hưởng đến nhiều người và cuộc sống của họ khi họ nghe câu truyện của ông.
Khi chúng ta quyết định để cam kết một điều với Thiên Chúa hoặc với một người nào đó, sự quyết định đó còn đi xa hơn là chỉ gây ảnh hưởng đến người mình cam kết nhưng còn có gây ảnh hưởng đến những người sống chung quanh. Khi giờ chúng ta về với Chúa và đứng trước mặt Ngài, chúng ta mới biết rõ và ngạc nhiên về sự ảnh hưởng của chúng ta.
Chẳng nên ngạc nhiên nếu có lúc đức tin gặp khủng hoảng. Cả lịch sử Cựu Ước đong đưa: TN 21-B9
Chẳng nên ngạc nhiên nếu có lúc đức tin gặp khủng hoảng.
Cả lịch sử Cựu Ước đong đưa giữa tin và không tin.
Khi Đức Giêsu đến, người ta phải đứng trước một lựa chọn: tin hay không tin vào Lời Ngài, vào con người Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một kinh nghiệm về khủng hoảng đức tin nơi chính các môn đệ. Kinh nghiệm ấy thật gần gũi với con người hôm nay.
Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?
Đó là phản ứng của các môn đệ ngày xưa khi nghe Thầy Giêsu vén mở căn tính của Thầy. Thầy khẳng định mình từ trời mà xuống (Ga 6,38), và Thầy sẽ trở lại nơi Thầy đã ở trước kia (c.62), sau khi hiến mình chịu chết cho nhân loại (c.51) và nuôi nhân loại bằng chính máu thịt mình (c.53).
Hôm nay chúng ta vẫn có thể thấy chúng chướng tai. Mầu nhiệm Nhập thể, mầu nhiệm Tử nạn của Con Thiên Chúa, bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm Chúa về trời: đó vẫn là và mãi mãi là những mầu nhiệm khôn dò.
Phải yêu mến mới hiểu được, mới chấp nhận được.
Hôm nay vẫn có câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vì chướng tai, chướng cả với suy nghĩ và tình cảm của ta. Lời Chúa đòi tôi đi xa hơn và bắt tôi điều chỉnh lại mối tương quan đã có với Chúa.
Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Ngài nữa. Họ đã đi với Ngài một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng cuộc phiêu lưu này.
Trở nên môn đệ hay trở nên một Kitô hữu không phải là một bảo đảm chắc chắn mình sẽ trung tín mãi mãi với Đức Kitô.
Trở nên môn đệ là bước vào cuộc phiêu lưu, là khám phá ra một Đức Kitô luôn luôn mới, là để Ngài từ từ đưa ta đi sâu vào mầu nhiệm hơn.
Cuộc phiêu lưu nào cũng có chút rủi ro, cũng đòi chút liều lĩnh, vì đây là cuộc phiêu lưu của tình yêu, của lòng tin.
Đã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại cũng có kẻ phản bội. Để khỏi bỏ cuộc, cần bỏ mình...
Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ?
Đại diện Nhóm Mười Hai, Phêrô bày tỏ thái độ ở lại. Không phải vì ông và các bạn hiểu được lời Thầy Giêsu, nhưng vì họ tin vào con người của Thầy, tin Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng đã cho dân ăn no nê, Đấng đã đi trên biển. Lòng tin này khiến họ chấp nhận cả những lời chướng tai.
Lời chướng tai là lời đem lại sự sống đời đời.
Nhiều bạn trẻ hôm nay cô đơn, nhưng không biết đến với ai. Hãy cùng nhau đến với và ở lại bên Thầy Giêsu, Ngài sẽ không làm chúng ta thất vọng.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Giới trẻ hôm nay khó tin vào Thiên Chúa, vào Đức Kitô, vào tương lai tươi sáng, vào tình bạn bền lâu, vào tình yêu chung thủy..." Bạn nghĩ gì về nhận xét này? Nhận xét này có đúng cho giới trẻ ở Việt Nam không?
Ở một số nước phương Tây, đang rộ lên cả ngàn giáo phái. Người trẻ bị mê hoặc đến độ cuồng tín bởi các vị tự xưng là giáo chủ. Bạn nghĩ gì về hiện tượng này? Đâu là nguyên nhân và cách giải quyết?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa. Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái. Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt. Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
Các bạn sẽ nghỉ thế nào khi một diễn gỉa lên diễn đàn trình bày một vấn đề mà cả hội trường: TN 21-B10
Các bạn sẽ nghỉ thế nào khi một diễn gỉa lên diễn đàn trình bày một vấn đề mà cả hội trường đều ngủ gục, thậm chí có nhiều người ra ngoài hút thút hoặc bỏ ra về. Đây là một thất bại đau đớn cho vị diển giả. Lần sau, nếu còn muốn lên diễn đàn, cần phải thay đổi đề tài sao cho thực tế, thay đổi cung cách hầu lôi cuốn được khán thính giả.
Liên tiếp mấy tuần lễ vừa qua cho đến Chúa nhựt hôm nay, Đức Giêsu trình bày đề tài Bánh sự sống. Khán thính giả lẩm bẩm và bỏ ra về hết. Nếu Đức Giêsu là một nhà chính trị, thì hẳn đây là một thất bại lớn. Những người bỏ Chúa ra đi, theo tường thuật phúc âm là những môn đệ, những người đã từng theo Chúa.
Đưa mắt nhìn quanh, chỉ còn lại một thiểu số người chọn ở lại - đó là nhóm mười hai. Đức tin không căn cứ ở đa số hoặc tỷ lệ phần trăm như ở các hảng thăm dò dư-luận thường làm. Sự thật không căn cứ nơi quần chúng tin hay không tin. Dân chúng thời bấy giờ, cách đây 2000 năm, họ thờ nhiều thần ( đa thần). Họ chiếm đa số. Nhưng cái đa số nầy đã đi sai đường. Duy chỉ có dân Israel là tin và thờ có một Chúa là Đức Yahweh. Cho đến ngày nay, đại đa số vẫn sống và cư xử với nhau theo cung cách của loài người: người với người. Chỉ một thiểu số người có lòng tin biết sống là phục vụ Chúa qua người anh em của mình.
Đa số và thiểu số ở đây không thành vấn đề. Sự thật mới là vấn đề. Chúa mới là vấn đề. Trong toàn bộ Kinh thánh, không thấy Chúa nghiêng về phía đa số nhưng Người hứa là sẽ ở với chúng ta luôn mãi.
Và, nhìn đám đông bỏ ra đi, Đức Giêsu hỏi các môn đệ: Phần các con, các cũng bỏ Thầy nữa phải không? Phêrô, đại diện cho nhóm còn lại, long trọng tuyên xưng: Chúng con biết đi đâu, chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời. Bỏ Thầy chúng con biết đi đâu! Không như nhóm đa số ra đi, nhóm thiểu số nầy đã chọn ở lại.
Nghiêm chỉnh nhìn lại cuộc đời, con người mới nhận thức một cách rõ ràng rằng: Chọn Chúa hay không chọn Chúa. Chọn ở lại với Chúa hay bỏ Chúa ra đi. Không còn lựa chọn nào khác.
Joshua đã nói trong bài đọc 1: Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi chỉ chọn Chúa và phụng sự Chúa mà thôi.
Đức Gioan Phao-lồ II thường khuyên những ai đến với người rằng: Chúng con phải chọn.
Chọn là một quyết định lớn và quan trong của đời người. Chúng ta đã chọn. Và chúng ta còn phải tiếp tục chọn, vì đời là một tiến trình, đời là một cuộc đổi mới không ngừng nghỉ. Khẩu hiệu của Đức Gioan 23 là: Giờ đây, tôi mới khởi sự. Mỗi ngày, chúng ta phải đối đầu với sự lựa chọn. Chọn giữa sống và chết, giữa thánh thiện và vô-luân, giữa thiên tính và thế tục. Thánh Phaolồ, trong thư gửi tín hữu Roma đoạn 12, câu 1 ... 2 đã nói với chúng ta:
Tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách xứng hợp để anh em phụng thờ Người. Anh em đừng rập theo đời nầy nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm hồn hầu có thể nhận ra đâu là thánh ý của Thiên Chúa, cái gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.
Sự chọn Chúa của chúng ta sẽ mang lại phần thưởng mà Phêrô và các tông đồ xưa đã nhận lãnh, đó là được chia sẻ tấm bánh hằng sống, Mình và Máu đức Kitô. Được chết đi với Chúa mỗi ngày để được sống lại với Chúa trong hạnh phúc và vinh quang. Đó là niềm vui của mỗi chúng ta. Chúa đã chọn con. Để đáp trả, chúng con xin chọn Chúa.Đây là một lựa chọn đặc biệt quan trọng.
Bỏ Thầy, con biết theo ai, chỉ Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.
Trong suốt 5 tuần lễ từ Chúa Nhật 17 cho đến Chúa nhật 21 hôm nay, chúng ta đã lần lượt nghe: TN 21-B11
Trong suốt 5 tuần lễ từ Chúa Nhật 17 cho đến Chúa nhật 21 hôm nay, chúng ta đã lần lượt nghe các bài đọc nói về Bánh Hằng Sống, được trích từ chương 6, trong Tin mừng theo thánh Gioan, và đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe hôm nay là phần kết thúc. Trong những Chúa Nhật trước, phụng vụ đã cho thấy: Đức Giêsu chính là Bánh Hằng Sống (CN 19). Đồng thời, cũng chính Ngài sẽ đứng ra lấy chính Thịt và Máu của Ngài để dọn cho dân một bữa tiệc. Máu và Thịt của Ngài sẽ là Thần lương cho con người trong cuộc lữ hành trần thế này, như chúng ta vừa nghe trong Chúa Nhật vừa qua (CN 20).
Thế nhưng, điều này đã vượt quá suy nghĩ của người Do thái. Họ không thể hình dung được là có một người lại lấy thịt và máu của mình là lương thực cho người khác. Thế là họ đã lẩm bẩm: “Lời này chói tai quá! Ai nghe được!”. Và cũng vì không thể chấp nhận được, nên đã có nhiều người bỏ Ngài mà đi, như chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng hôm nay.
Đứng trước sự kiện đó, Đức Giêsu đã đặt vấn đề với các tông đồ: “Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không?”. Khi đặt câu hỏi này, Đức Giêsu muốn các tông đồ có một chọn lựa dứt khoát trước khi theo Ngài tiếp tục sứ mạng. Vâng, sự chọn lựa căn bản này là một điều quan trọng trong cuộc sống của mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta có một chọn lựa đúng, thì cho dù cuộc sống có vất vả, nhưng tâm hồn của chúng ta sẽ có bình an và hạnh phúc. Và ngược lại, chúng ta sẽ phải ân hận suốt đời, nếu quyết định đi theo một chọn lựa sai lầm.
Do đó, dưới ánh sáng của lời Chúa hôm nay, tôi muốn cùng quý ông bà anh chị em cùng suy nghĩ về sự chọn lựa của mỗi người chúng ta.
1. Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa:
Không nói đến những ngày còn nằm nôi, trong vòng tay bồng ẵm của mẹ. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy rằng từ khi có suy nghĩ, cuộc sống của chúng ta được dệt nên bởi một chuỗi các chọn lựa. Có những chọn lựa đơn giản của trẻ thơ như: chơi trò chơi này hay trò chơi kia, chơi với bạn này hay bạn kia … ngay cả việc đi học của các em, cũng là một chọn lựa, vì trẻ em vẫn có thể chấp nhận hình phạt của cha mẹ để bỏ học. Và ngay bản thân của từng người chúng ta đây cũng bắt đầu một ngày sống bằng một sự chọn lựa: Chọn thức dậy hay nằm ngủ tiếp, chọn mặc bộ đồ này hay bộ đồ kia, chọn làm việc này hay việc nọ… Nói chung, tất cả những lời nói, hành động mà chúng ta thực hiện đều thể hiện một chọn lựa nào đó của chúng ta. Và tất cả các chọn lựa này của chúng ta không là một ngẫu nhiên, tuỳ hứng, nhưng tất cả đều bị chi phối bởi một chọn lựa căn bản từ ban đầu.
Do đó, việc định hướng cho chọn lựa căn bản này rất quan trọng, nếu không có chọn lựa này, cuộc sống của chúng ta sẽ dễ dàng bị lôi kéo và ảnh hưởng bởi các trào lưu xã hội bên ngoài. Đó cũng là điều mà dân Do thái khi xưa đã mắc phải. Sau khi vào được Đất Hứa, dân Do thái đã không có một cuộc chọn lựa dứt khoát đứng về Thiên Chúa, nên đã bị các hình thức thờ tự và cách sống vô luân của dân ngoại lôi kéo, cuộc sống của họ ngày càng xa lìa Thiên Chúa. Chính vì thế, Giosuê đã triệu tập một đại hội toàn dân tại Sikem. Tại đây, ông đã nhắc lại cho dân tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho họ, và mời gọi họ tự thực hiện một sự chọn lựa cho chính họ: “Nếu các ngươi không muốn tôn thờ Thiên Chúa, thì cho các ngươi lựa chọn: hôm nay, các ngươi hãy tuỳ ý chọn phải tôn thờ ai hơn: hoặc là các thần cha ông các ngươi đã tôn thờ ở Mêsôpôtamia, hoặc các thần của người xứ Amôrê, nơi các ngươi đang ở”.
Nhân đó, Giosuê cũng đã tỏ rõ cho dân về sự chọn lựa của ông và gia đình ông: “Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Thiên Chúa”. Còn dân Do thái, sau khi bình tâm, nhớ lại tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho họ, họ cũng đã trả lời với Giosuê: “Không thể có chuyện chúng ta bỏ Chúa mà tôn thờ những thần ngoại”. Họ đã quyết tâm chọn Chúa làm gia nghiệp cho đời mình. Chọn Chúa làm gia nghiệp, làm lẽ sống, nghĩa là chấp nhận sống theo những giáo huấn của Ngài. Đây cũng chính là chọn lựa của các tông đồ mà thánh Phêrô đã thưa lên: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Tuy nhiên, đây không phải là một chọn lựa dễ dàng, vì lời Chúa vượt xa, và đi trước trí hiểu của chúng ta như lời ngôn sứ Isaia: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta … Trời cao hơn đất dường nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các người chừng ấy” (Is 55, 8-9). Chính vì thế, chúng ta thường có cảm tưởng, lời Chúa đi ngược với những suy nghĩ, tính toán tự nhiên của chúng ta. Đó cũng là điều mà dân Do thái vào thời Chúa Giêsu đã mắc phải. Khi họ nghe Đức Giêsu nói sẽ lấy Thịt và Máu của Ngài làm của ăn, họ đã không hiểu nổi và không thể chấp nhận được lời đó, nên đã kêu lên: “Lời này chói tai quá! Ai nghe được”.
2. Sống trung thành với chọn lựa của mình:
Mặt khác, cũng như một em học sinh không thể vừa muốn đi chơi lại vừa muốn có phần thưởng được, khi chọn lựa theo Chúa, chúng ta cũng cần có những từ bỏ và hy sinh. Nói một cách khác “Chọn lựa là giới hạn”. Khi đã có một chọn lựa là chúng ta phải biết tự giới hạn mình. Chúng ta không thể “bắt cá hai tay”. Chính Đức Giêsu khi chọn con đường cứu độ nhân loại, Ngài cũng đã phải chấp nhận thân phận giới hạn của con người, và cả cái chết tủi nhục trên thập giá như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai: “Đức Kitô yêu thương Hội Thánh, và phó mình vì Hội Thánh, để thánh hoá Hội Thánh,.., ngõ hầu bày tỏ cho mình một Hội Thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo,…, nhưng thánh thiện và vẹn tuyền”.
Mỗi người chúng ta đã có một chọn lựa. Vào ngày lãnh nhận bí tích Rửa tội, các bậc phụ huynh đã chọn lựa Thiên Chúa làm gia nghiệp cho con em của mình. Rồi trong mỗi dịp lễ Phục Sinh, từng người chúng ta lại có dịp bày tỏ sự chọn lựa của mình một lần nữa khi tuyên xưng đức tin và tuyên bố từ bỏ ma quỷ và các việc làm của nó.
Thế nhưng, giờ đây, nhìn kỹ lại cuộc sống của mình, trong vai trò làm cha, làm mẹ thử hỏi, chúng ta đã đầu tư được bao công sức, thời giờ để vun đắp cho đời sống đức tin của con cái, so với tâm huyết chúng ta đổ ra để lo những việc khác? Chọn lựa của chúng ta không phải chỉ nói một lần là xong. Nhưng cần được lập đi lập lại, thể hiện qua những chọn lựa nho nhỏ trong mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút sống của chúng ta. Đó là chọn lựa đi dâng lễ, nhất là trong ngày Chúa Nhật hay là đi chơi, hoặc là đi làm. Chúng ta còn phải chọn lựa sống công chính hay gian dối mỗi khi nhặt được của rơi, hay một người nào đó tính tiền nhầm cho chúng ta… Các em thiếu nhi cũng phải có một chọn lựa giữa sự vâng lời cha mẹ, những người dạy dỗ và lời rủ rê của bạn bè xấu. Các em phải chọn lựa giữa việc đi lễ và tắm biển, xem film, ngủ nướng…
Lắng nghe lời Chúa hôm nay là cơ hội để từng người chúng ta xác tín hơn về chọn lựa theo Chúa của mình. Chớ gì, trước mỗi công việc, mỗi lời nói, chúng ta luôn suy nghĩ việc này, lời nói này có đúng với ý Chúa muốn hay không. Để làm được điều này, ngay từ bây giờ, từng người chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn để đón nhận nguồn ơn sức mạnh của Chúa nơi bí tích Thánh Thể, bởi vì nếu không có ơn Chúa, chúng ta không thể làm được gì, như lời Đức Giêsu đã nói: “Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho”. Amen.
Liên tục các Chúa Nhật XVII cho tới Chúa Nhật XXI là bài Tin Mừng kết thúc đề tài Chúa: TN 21-B12
Liên tục các Chúa Nhật XVII cho tới Chúa Nhật XXI là bài Tin Mừng kết thúc đề tài Chúa Giêsu nói về:” Bánh Trường Sinh”. Đoạn Tin Mừng thánh Gioan hôm nay có vẻ rất trang trọng, gợi cho nhân loại thấy cuộc phán xét của Chúa Giêsu, một ý tưởng khá quen thuộc của Tin Mừng thánh Gioan. Ở đây, Chúa Giêsu bộc lộ sứ mạng của Ngài: Chúa nói lên sự có mặt của Ngài giữa con người, thế gian. Chúa Giêsu khẳng định không úp mở, Ngài là của ăn duy nhất, là bánh trường sinh ban cho nhân loại, ban cho những ai tin và lãnh nhận của ăn ấy sự sống đời đời.
THÁI ĐỘ TIN HAY KHƯỚC TỪ ĐÃ MANG TÍNH QUYẾT ĐỊNH ĐỐI VỚI CUỘC SỐNG ĐỜI ĐỜI CỦA CON NGƯỜI:
Khi tuyên bố Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống, bánh trường sinh, bánh cứu độ( Ga 6, 51 ), nhất là lúc Chúa Giêsu tuyên bố thịt của Ngài là của ăn đích thực, máu của Ngài là của uống đích thực( Ga 6, 55 ), đã có nhiều người Do Thái chướng tai, gai mắt, ngay cả một số môn đệ của Chúa cũng không chấp nhận nổi, đã bỏ đi nơi khác không còn theo Ngài nữa. Tính cách quyết định của sự chọn lựa tin hay khước từ ở đây không chỉ đưa con người và nhân loại về lời tuyên bố, lời khẳng định của Chúa Giêsu liên quan đến thịt và máu của Chúa mà còn dẫn con người đến cuộc sống và toàn bộ sứ mạng cứu rỗi của Chúa Giêsu. Đoạn Tin Mừng Ga 6, 54a. 60-69 ám chỉ đến cả cuộc sống và nhất là cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá để mang lại hạnh phúc và ơn cứu rỗi cho mọi người. Con người có lòng tin nhận ra cuộc sống của Chúa Giêsu và hiểu được cái chết của Chúa trên thập giá như lời đã nói với các môn đệ trong nhà tiệc ly:” Này là Mình Ta thí ban vì các ngươi”( Lc 22, 19 ). Tin nhận Chúa và để cho Chúa xâm chiếm toàn thể cuộc đời là chấp nhận một tình yêu đã trở nên tuyệt đỉnh, tình yêu cao vời, đành mất tất cả, tình yêu đã trở nên cứu độ. Đọc lại đoạn Tin Mừng này, và toàn bộ các sách Tin Mừng, con người như thấy bị câu thúc bởi những đòi hỏi của Chúa, vì thế có vô số người đã không đáp ứng được những câu thúc, những đòi hỏi của Phúc Âm, trong số đó có cả các môn đệ của Chúa: lúc đầu nhóm người này bị lôi cuốn bởi những sự lạ lùng của các phép lạ Chúa Giêsu đã làm, sau đó họ thắc mắc những Lời nói của Chúa và sau cùng họ đi đến kêu trách, nghi ngờ và bỏ Chúa. Có những người còn tham gia cả vào việc làm hại, thủ tiêu Chúa Giêsu:” Chúa Giêsu đã biết ai là kẻ không tin, và kẻ nào sẽ trao nộp Ngài”(Ga 6, 64). Sở dĩ có vô số người và một số môn đệ Chúa Giêsu đã không hiểu được cuộc sống và cái chết của Chúa vì họ vẫn suy nghĩ kiểu trần thế, họ chưa vươn cao lên, chưa nhìn mọi sự thuộc về trên cao, chưa hiểu những điều thuộc về Thiên Chúa: ý nghĩ của họ vẫn rà rà mặt đất, tâm trí của họ bị lu mờ nên họ không nhận ra sự thật của Thiên Chúa. Chỉ có những ai có con tim trong sạch, ý hướng ngay lành, ưa làm điều thiện, yêu thương kẻ khác mới nhận ra và đón nhận được cuộc sống, và ngay cả cái chết của Chúa Giêsu.Chỉ có ai biết cảm thông, tha thứ, quảng đại với người khác mới hiểu được ý nghĩa cao vời của tình yêu tuyệt đối của Chúa Giêsu và mới không lấy làm chói tai khi nghe Chúa Giêsu nói tới thịt và máu là chính thân xác của Chúa trở nên bánh trường sinh, nguồn ơn cứu độ và sự sống đời đời.
LÒNG TIN LUÔN LÀ SỰ CHỌN LỰA DẤN THÂN:
Lòng tin là yếu tố, là điều kiện tiên quyết cho sự dấn thân và không một ai được tự mình châm chước cho sự lựa chọn dấn thân này. Mọi người phải nói lên sự tự do dấn thân và chọn lựa để đi hoặc rút khỏi con đường theo Chúa Giêsu... Ngay cả nhóm mười hai, những môn đệ đầu tiên được chúa yêu thương, tuyển chọn, được Chúa nâng đỡ giữ gìn, ấp ủ, bao bọc, hướng dẫn và dậy dỗ, Những môn đệ này đã trở nên nghĩa thiết với Chúa Giêsu:”Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con...”, nhưng Chúa cũng đòi hỏi các ông phải nói lên sự chọn lựa dấn thân và công khai tuyên xưng lòng tin:” Cả các con các con có muốn bỏ đi không ?”( Ga 6, 67 ).Đặt câu hỏi như thế, Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ phải công khai nói lên sự chọn lựa dấn thân của họ và Phêrô, đại diện cho nhóm mười hai đã nhanh nhảu trả lời Chúa Giêsu:” Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”( Ga 6, 68 ). Lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô cũng là lời tuyên tín của Hội Thánh và mọi người Kitô hữu.Một lời tuyên xưng đức tin như thế làm nền tảng cho sự lựa chọn dấn thân vì Tin Mừng và vì phần rỗi của tha nhân và của chính bản thân mình. Tuyên xưng như thế là tin vào:” Lời của Thầy ban sự sống đời đời”( Ga 6, 68 ). Tin vào Lời của Chúa có nghĩa là chấp nhận cuộc sống của Chúa, làm theo Chúa, hy sinh bản thân cho phần rỗi và hạnh phúc của con người. Chúa đòi hỏi mọi người có lòng tin hãy công khai tuyên xưng lòng tin vào Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ:
1. Bạn nghĩ gì về lời tuyên tín của thánh Phêrô ?
2. Có bao giờ bạn tự hỏi:” Bánh trường sinh” có nghĩa gì ?
3. Bạn có muốn bỏ Chúa mà đi không ?
Khi tạo dựng con người, Chúa ban cho loài người tự do lựa chọn hoặc khước từ ơn Chúa. Sau: TN 21-B13
Khi tạo dựng con người, Chúa ban cho loài người tự do lựa chọn hoặc khước từ ơn Chúa. Sau khi chu toàn sứ mệnh Môi-sen trao phó là đưa dân Chúa chọn vào miền đất hứa, Giô-su-ê đã triệu tập các vị đại diện dân chúng tại Si-kem để khẳng định lại niềm tin vào Chúa. Ông nói với họ rằng: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ… Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Gs 24:15). Dân Ít-ra-en cũng đã lựa chọn. Họ quyết định phụng thờ Chúa vì Người đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai cập, đã làm những việc kỳ diệu, và dẫn đưa họ vào miền đất hứa.
Đến lượt các tông đồ, các ông cũng đã lựa chọn. Trong Phúc âm hôm nay Chúa hứa ban cho các môn đệ thịt máu Người làm của ăn uống thiêng liêng. Đến đây nhiều người trong họ cảm thấy khó chấp nhận lời giảng dạy của Người và họ bắt đầu rút lui, bỏ Chúa để trở về cuộc sống riêng tư. Khi các môn đệ bỏ ra đi, Chúa không ngạc nhiên cũng không bực mình, và không thay đổi lập trường. Chúa biết rằng lời giảng dạy của Người về bánh hằng sống là thịt máu Người sẽ làm các môn đệ chói tai. Tuy nhiên Chúa không rút lại lời Người giảng dạy. Trái lại, Chúa còn thách đố các tông đồ hơn nữa. Chúa đòi hỏi nơi họ một đức tin không dè dặt, lưỡng lự. Chúa Giê-su gần làm hoảng hồn các tông đồ, khi Người hỏi thêm các ông: Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thày mà đi không? (Ga 6:67). Hoặc ở lại hay bỏ đi, một câu hỏi mà họ không thể nào tránh né. Để trả lời câu hỏi, ông Phê-rô tiến lên, đóng vai trò người lãnh đạo các tông đồi đáp lại: Thưa thày, nếu bỏ Thày thì chúng con theo ai ? (Ga 6:68). Ông muốn nói là không có ai khác để mà theo. Chúa đòi hỏi một quyết định nơi các tông đồ. Và Chúa đã nhận được lời cam kết của Phê-rô. Lời phát biểu của Thánh Phê-rô đã làm tan biến những nghi ngờ của các tông đồ khác.
Tất cả chúng ta những người đã quyết định theo Chúa, đều phải đương đầu với những thử thách về đức tin. Hàng ngày ta gặp nhiều cám dỗ để chối bỏ đức tin công giáo truyền thống. Ta gặp nhiều tiếng gọi dụ dỗ bảo ta điều gì phải tin, điều gì không cần tin, việc gì phải làm, việc gì không nên làm, điều gì cần phải được xét lại. Ta bị cám dỗ để giữ đạo theo xu hướng nhất thời, tuỳ theo hứng khởi, vui thì đi lễ thờ phượng, không thì ở nhà. Ta bị cám dỗ chỉ giữ đạo nếu Giáo hội thay đổi lập trường về một vài nguyên tắc luân lý nào đó, nếu Giáo hội chiều theo ước muốn của ta. Ta bị cám dỗ buông xuôi bỏ cuộc cho tới khi mà câu hỏi của Thánh Phê-rô vang dội bên tai ta: Lạy Thày, nếu bỏ Thày thì chúng con theo ai ?
Khi cảm thấy khó chấp nhận về đường lối giáo huấn chính thức của Giáo hội, phản ảnh của đường lối Phúc âm, về một vài vấn đề như tính dục, ly dị, phá thai. ., đó là lúc mà câu hỏi Chúa đặt ra cho các tông đồ sẽ lại vọng lên bên tai ta: Còn con, con có muốn lìa bỏ Giáo hội mà Thày đã thiết lập trên nền tảng các tông đồ không? Khi bất đồng ý kiến với Giáo hội về một số chính sách đối ngoại của Toà Thánh Vatican, đó là lúc mà một câu hỏi tương tự sẽ vọng lên bên tai ta: Còn con, con có muốn chấp nhận đường lối của Giáo hội mà Thày thiết lập không. Khi thấy những gương xấu xẩy ra ngay trong hàng giáo sĩ, câu hỏi khác sẽ vọng lên: Còn con, con có muốn ở lại trong Giáo hội để cầu nguyện và xây dựng Giáo hội của Thày không? Khi cảm thấy Chúa mà mình tôn thờ, sao mà khó quá nếu so sánh với những chúa và thần của các đạo khác, đó là lúc mà câu hỏi của ông Giô-su-ê cũng vọng bên tai ta: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ.
Phúc cho gia đình, cộng đoàn giáo xứ, hoặc Giáo hội mà có được những người quả quyết như Thánh Phê-rô và ông Giô-su-ê hầu giúp củng cố đức tin của người khác trong gia đình, trong cộng đoàn và trong Giáo hội.
1) Ý chính: Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6,68):
Sau khi nghe Đức Giêsu giảng về Bánh Hằng Sống là bí tích Thánh Thể mà Người sẽ ban, được: TN 21-B14
Sau khi nghe Đức Giêsu giảng về Bánh Hằng Sống là bí tích Thánh Thể mà Người sẽ ban, được tóm gọn như sau: “Bánh Tôi sẽ ban chính là Thịt Tôi đây để cho thế gian được sống... Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (c.51.54), thì thính giả chia thành hai phe: Một số khá đông, trong đó có cả các môn đệ của Người, cho lời dạy ấy chói tai, không thể chấp nhận được và đã rút lui không còn đi theo Người nữa (c.66). Riêng nhóm mười hai, khi được hỏi thì Simon Phêrô đã đại diện Nhóm tuyên xưng đức tin như sau: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68).
2) Chú thích:
- Khi nghe Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời”, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6,54a.60):
+ Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời: “Thịt và Máu” Đức Giêsu nói đây là “Bánh Hằng Sống” (Ga 6,51), là Bánh Thánh Thể sẽ được Người ban sau này khi lập phép Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly Vượt Qua (Mt 26,26). Do đó Thịt và Máu Đức Giêsu nói đây chính là Thánh Thể của Người, sẽ qua cuộc khổ nạn và phục sinh để ban sự sống muôn đời cho người lãnh nhận, như Tin Mừng đã ghi lại như sau: “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em ... Chén này là Giao Uớc Mới, lập bằng Máu Thầy, Máu đổ ra vì anh em” (x Lc 22,19-20; Mc 14,22-24; 1 Cr 11,24-25).
+ Nhiều môn đệ của Người: Môn đệ là những người tự ý muốn thụ huấn và chia sẻ những quan điểm của một ông thầy. Môn đệ Đức Giêsu là những người nhận Đức Giêsu là Thầy (Rápbi), nghe và thực hành Lời Chúa dạy, tình nguyện cộng tác với Người thi hành sứ mệnh tông đồ. Đức Giêsu có bảy mươi hai môn đệ (x Lc 10,1) và Người đã chọn trong số đó mười hai người mà Người gọi là Tông Đồ (x Lc 6,13; Mt 10,2).
+ “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi ?: Nghe Đức Giêsu nói sẽ lấy Thịt và Máu mình mà cho người ta ăn uống, thì các môn đệ cũng như đám đông dân Do Thái không thể chấp nhận được. Phần vì bình thường, không ai tự xẻ thịt mình ra để cho người khác ăn, hoặc lấy máu mình cho người khác uống!. Phần khác Luật pháp Môsê cấm ăn máu huyết, vì máu là sinh khí tụ lại, nên phải được dành riêng cho Thiên Chúa, vì Người mới là chủ tể của sự sống. Luật Môsê quy định như sau: “Các ngươi không được ăn máu huyết của bất cứ xác thịt nào, vì mạng sống của mọi xác thịt là máu của nó. Bất cứ ai ăn máu huyết sẽ bị khai trừ” (x Lv 17,14).
- Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư ? Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao ? (Ga 6,61-62):
+ Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư ?: Trong đoạn Tin Mừng này có ba điều mà người Do Thái và nhiều môn đệ xầm xì bàn tán không chấp nhận: Một là Đức Giêsu tự nhận là Bánh trường sinh hằng sống, đang khi cha ông họ xưa đã ăn manna mà vẫn phải chết (x Ga 6,49). Hai là Người tuyên bố mình từ trời mà đến, đang khi họ biết rõ tông tích của Người: “Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse đó sao ?” (Ga 6,42). Ba là Người khẳng định: “Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống” (Ga 6,55), đang khi luật Môsê cấm uống máu và ăn thịt các con vật chết ngạt, nghĩa là còn có máu ở trong thịt chúng (x Lv 17,10; Cv 15,19).
+ Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao ?: Đức Giêsu ban cho các môn đệ một chứng lý để dựa vào đó mà tin Người là Đấng Thiên Sai và tin vào những mầu nhiệm Người rao giảng là sự thật. Chứng lý ấy là các ông sẽ thấy Người sống lại từ trong cõi chết và lên trời ngự bên Hữu Chúa Cha (x Ga 3,13), đúng như trong thị kiến về vai trò và sứ mệnh của nhân vật gọi là Con Người mà Ngôn Sứ Đanien xưa đã xem thấy (x. Đn 7,13).
- Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống. Nhưng trong anh em có những kẻ không tin. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người” (Ga 6,63-64):
+ Thần khí: Tiếng Do Thái là Ruah, tiếng Hy Lạp là Pneuma, tiếng La Tinh là Spiritus là một từ ngữ mang nhiều ý nghĩa như sau:
** Gió: Gió có đặc tính vô hình: “Gió muốn thổi đâu thì thổi. Ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu” (Ga 3,8). Gió có khi trở thành gió bão để Đức Chúa trút cơn lôi đình xuống hủy diệt những kẻ gian ác (x Ed 13,13).
** Hơi thở: Có đặc tính mong manh yếu ớt, nhưng lại là sức mạnh nâng đỡ và là điều kiện cho thân xác sống động. Con người sẽ chết khi không có hơi thở. Hơi thở do Thiên Chúa phú ban (x. St 2,7; 6,3) và sẽ lìa bỏ thân xác để trở về với Người (Ga 34,14-15).
** Linh hồn: Bao lâu Thần Khí còn ở với con người, nó biến xác thịt bất động thành hữu thể sống động, Thần Khí ấy gọi là linh hồn (x St 2,7). Chết là khi con người trút hơi thở cuối cùng, trao trả linh hồn về cho Thiên Chúa (x Tv 31,6; Lc 23,46).
** Thần khí Thiên Chúa: “Thiên Chúa là Thần Khí” (Ga 4,24) và người ta phải thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và Chân Lý (x Ga 4,24).
+ Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì!: Đức Giêsu giúp ta phân biệt con người hữu thể duy nhất, nhưng lại gồm hai yếu tố kết hiệp mật thiết với nhau là Thân xác và Linh hồn. Việc tạo dựng con người đã được thuật lại trong sách Sáng Thế như sau: “Đức Giêsu là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Như vậy trong con người, xác thịt là bụi đất vật chất không thể sống động nếu không nhận được Thần Khí là hơi thở linh thiêng do Thiên Chúa phú ban gọi là linh hồn. Chính thần khí ấy mới làm cho con người sống động. Bao lâu con người còn hít thở sự sống của Thiên Chúa thì họ còn sống. Khi thân xác ngừng thở là lúc Thần Khí xuất ra khỏi thân xác, thì thân xác ấy trở thành xác chết, sẽ bị hủy hoại theo quy luật của vật chất, và bấy giờ thân xác ấy chẳng còn ích gì!
+ Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống: Lời Chúa chính là Thần Khí thiêng liêng, là Lời nói phát xuất từ Thiên Chúa, nhằm mạc khải các mầu nhiệm của Thiên Chúa và các việc làm của Người cho con người (x Xh 20,2; Dt 1,1), các giới răn của Người và mặc khải những điều sắp xảy đến (x St 15,13-16). Lời Chúa ban Sự Sống đời đời cho con người (x Ga 6,68), nếu họ lắng nghe (x Mt 13,23), thắc mắc tìm hiểu và xin vâng (x Mc 4,33; Lc 1,34-38), tuân giữ (x Lc 8,15), và nhất là đem ra thực hành (x Mt 7,24.26; Lc 6,47.49).
+ Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người: Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã có cái nhìn tiên tri và nhìn thấy trước sự bất tín của Giuđa là về sau Giuđa sẽ phản bội và bán nộp Người với giá 30 quan tiền (x. Mt 26,14-16; Mc 14,10-11). Trong bữa Tiệc Ly Vượt Qua, Người nhắc đi nhắc lại về sự phản bội này (x. Ga 13,21; Mc 14,17.20). Tin Mừng Gioan viết như sau: “Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói “Không phải tất cả anh em đều sạch (Ga 13,11).
- Người nói tiếp: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa (Ga 6,65-66):
+ Không ai đến với Thầy được nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho: Đức Tin là một ơn lành của Thiên Chúa, được ban cho loài người, để mời gọi họ tin nhận Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống” (x. Mt 16,16), lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy để được vào nước Trời và được sống muôn đời như Đức Giêsu đã nói: “Chẳng ai đến với Tôi được nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy, và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết... Ai tin thì được sống môn đời” (Ga 6,44.47).
+ Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa: Một số đông môn đệ bỏ Đức Giêsu, không tiếp tục theo làm môn đệ của Người. Lý do vì họ không tin Đức Giêsu là Đấng được Thiên Chúa đã sai đến (x. Ga 6,29.40), không tin Người là Bánh trường sinh từ trời mà đến (x. Ga 6,32-38), không chấp nhận lời tuyên bố của Người sẽ lấy Thịt của mình mà cho họ ăn (x. Ga 6,52).
- Vậy Đức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ? “Ông Simon Phêrô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,67-69):
+ Nhóm Mười Hai: Đức Giêsu đã lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn (x. Mc 3,13). Người tuyển chọn từ bảy mươi hai môn đệ (x. Lc 10,1) để lấy mười hai người mà Người gọi là Tông Đồ (x. Mt 10,1-4;Mc 3,16-19; Lc 6,13-16; Ga 6,70). Nhóm Mười Hai này đại diện cho mười hai chi tộc của Ítraen Mới là Giáo Hội. Sau này các ông sẽ được ngồi trên mười hai tòa, mà xét xử mười hai chi tộc Ítraen (x. Mt 19,28). “Phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất vì danh Thầy thì sẽ được gấp bội, và được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (Mt 19,29). Người ban “quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1), và “được sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa” (x Lc 9,1-2).
+ Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?: Trước mặc khải về bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu đòi nhóm Mười Hai Tông Đồ phải có thái độ dứt khoát: Tin hay không tin. Các ông có quyền tự do chọn lựa để ở lại với Thầy hay từ bỏ Thầy mà ra đi.
+ Ông Simon Phêrô liền đáp: Simon Phêrô thi hành vai trò làm đầu Nhóm Mười Hai Tông Đồ khi đại diện cho anh em trong Nhóm, bày tỏ lòng tin yêu trung thành với Thầy.
+ “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”: Simon công nhận chỉ mình Đức Giêsu mới là một người lý tưởng trổi vượt nhất, xứng đáng nhất mà các ông đã chọn theo làm môn đệ của Người. Giờ đây, ông tiếp tục khẳng định lập trường là tin mọi lời Thầy phán dạy, dù chưa hiểu hết ý nghĩa và dù có chói tai khó chấp nhận đi nữa. Vì tin rằng: Lời Thầy chính là sự thật và đem lại sự sống đời đời cho những kẻ đón nhận (x Ga 5,24).
+ “Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”: Trước đó tại vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Simon cũng đã đại diện anh em mà tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16; Mc 8,29; Lc 9,20). Ơ đây, Simon công nhận Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, vì Người là Con Thiên Chúa và có đầy Thần Khí của Thiên Chúa (x Lc 1,35; Mt 1,18). Khi xua đuổi các thần ô uế ra khỏi người bị chúng ám, ma quỷ đã phải công khai nhìn nhận Người là “Đấng Thánh của Thiên Chúa (x Mc 1,24) hay là “Con Thiên Chúa” (x Mc 3,11). Sau khi từ cõi chết sống lại, Đức Giêsu được gọi là “Đấng Thánh và Đấng Công Chính” (x Cv 3,14), được Thiên Chúa siêu tôn và tặng ban danh hiệu trổi vượt là “Danh Thánh Giêsu” và “Giêsu Kitô là Chúa’ để tôn vinh Thiên Chúa Cha (x Pl 2,9; Kh 3,7).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) Nhiều môn đệ rút lui không còn đi với Người nữa (Ga 6,66):
Câu chuyện: <B>Một vụ thảm sát tại nhà trường
Cách đây ít lâu, một vụ thảm sát ở tiểu ban Côlôrađô Hoa kỳ không những làm người Mỹ, mà còn làm cho cả thế giới phải sửng sốt bàng hoàng. Bàng hoàng vì đây không phải là vụ thảm sát đầu tiên xảy ra như thế tại một trường học ở Mỹ, mà trong mấy năm qua, các vụ bạo động tại trường học đã từng xảy ra nhiều lần. Riêng trong vụ này, hai cậu học sinh trung học đã có thể tính toán trước các chi tiết về diễn tiến của vụ thảm sát này. Một điều tồi tệ hơn nữa là thái độ của hai tên sát nhân: Trước khi bị bắt, hai tên này đã dùng súng tiểu liên điên cuồng bóp cò, nhắm vào các thầy cô giáo trong lớp và các bạn học sinh cùng trường. Bọn chúng đã tỏ ra lạnh lùng, dửng dưng trước thảm trạng chết chóc do chúng gây ra.
Suy niệm:
+ Trong bức thư chung Mùa Chay năm 1994, Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã lên tiếng báo động về một nền văn hoá bạo động kích dục, được khuyến khích bằng các phương tiện truyền thông như các phim ảnh đồi trụy kích động bạo lực, được trình chiếu trên các kênh truyền hình, các băng đĩa và sách báo khiêu dâm bày bán công khai tại các nơi công cộng mà giới thanh thiếu niên dễ dàng mua ở bất cứ nơi nào trên đất Mỹ. Quả thật, nhân loại ngày nay đang đứng trước nguy cơ diệt vong, khi họ chọn lựa phương pháp một cuộc chiến tranh bạo động vì thiếu lòng khoan dung tha thứ. Thay vì phải ngồi vào bàn hội nghị để thương thảo bình tĩnh ôn hoà, thì người ta lại thích sử dụng bạo lực để giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp về tài sản, đất đai ... do sự khác biệt nhau về trình độ văn hoá, về sắc tộc, màu da, giai cấp hay tôn giáo ...
+ Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta về sự khủng hoảng đức tin, không những nơi các môn đệ Chúa thời xưa, mà ngay cả nơi các tín hữu chúng ta hôm nay. Nhiều môn đệ Chúa đã bị giao động đức tin, trở nên nghi ngờ Đức Giêsu khi nghe Người giảng về bản thể Thần Linh của Người: “Đấng từ Trời mà xuống” (x Ga 6,38), và sẽ lên nơi đã ở trước kia (x Ga 6,62), sau khi đã chịu chết đền tội thay cho nhân loại (x Ga 6,51), và sẽ ban Bánh Trường Sinh là máu Thịt Người để nuôi dưỡng đức tin của chúng ta (x Ga 6,53). Một số khá đông các môn đệ Chúa đã xì xầm phản đối: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” và đã rút lui không đi theo Người nữa. Họ là những người trước đó đã đi theo Thầy một thời gian, trở thành Môn Đệ của Người. Nhưng khi gặp khủng hoảng, họ đã ngã lòng và bỏ cuộc nửa chừng. Sự khủng hoảng đức tin thể hiện qua thái độ thiếu dứt khoát, chọn làm điều xấu hơn là điều tốt, lười biếng trong công tác phục vụ công ích, làm ngơ trước những người nghèo khổ bất hạnh, những người thấp cổ bé miệng và cô thế cô thân ...
+ Nguyên việc chịu phép Rửa tội để trở nên tín hữu hay môn đệ Đức Giêsu cũng không đảm bảo là ta sẽ trung thành với Chúa mãi mãi. Muốn trung thành với niềm tin của mình thì trước hết phải tìm kiếm Đức Kitô, và để Người dẫn ta đi sâu vào mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh của Người. Đã có nhiều môn đệ Đức Kitô bị khủng hoảng đức tin khi họ không tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, không tin nhận lời dạy của Người liên quan đến mầu nhiệm Thánh Thể, và cuối cùng đã không theo làm môn đệ của Người. Ngay trong Nhóm Mười Hai Tông Đồ chấp nhận ở lại, vẫn còn một Giuđa phản bội: Vì không tin Thầy là Đấng Thiên Sai theo quan niệm trần gian và nhất là cảm thấy nguy cơ Thầy sắp thất bại hoàn toàn: sắp sửa bị bắt và chịu khổ nạn như đã tiên báo, nên anh ta đã chọn thái độ khôn ngoan theo thế gian, là bí mật liên lạc với các đầu mục Do Thái để bán nộp Thầy ! Làm như vậy, Giuđa vừa có lợi là có ba mươi quan tiền, lại vừa tránh khỏi bị bắt chung với Thầy!
Đặt vấn đề: Còn chúng ta, hôm nay chúng ta phải làm gì để đức tin của chúng ta được củng cố vững chắc và ngày một lớn lên ? Nhờ đức tin, chúng ta có quyết tâm trung thành với Đức Giêsu và bước theo chân Người, cùng chịu đau khổ và chịu chết với Người, hy vọng sẽ được phục sinh với Người đời sau hay không ?
Đáp: Muốn cho đức tin vào Đức Giêsu được củng cố và lớn lên, mỗi người chúng ta phải thực hành mấy điều sau: Một là phải cầu xin Chúa ban ơn có đức tin vững mạnh, noi gương các Tông Đồ xưa đã cầu nguyện: “Xin Thầy hãy củng cố đức tin yếu kém của chúng con”; Hai là lắng nghe Lời Chúa, suy nghĩ tìm hiểu ý Chúa và quyết tâm thực thi ý Chúa; ba là sẵn sàng từ bỏ ý riêng, vác thập giá mình là chu toàn bổn phận hằng ngày mà theo chân Chúa; Bốn là luôn chọn đi theo đường hẹp, leo dốc là chặng đàng Thánh Giá, chấp nhận hy sinh và âm thầm phục vụ tha nhân, quảng đại chia sẻ tình thương, cụ thể là giúp đỡ tinh thần vật chất cho những người đói khát cơm ăn áo mặc, bị tật bệnh và cô thế cô thân ...
2) Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời (x Ga 6,68):
Câu chuyện: Dân Ítraen chọn tin theo Đức Chúa:
Bài đọc một trong sách Gio-su-ê là một bản tường thuật với nhiều ý nghĩa quan trọng. Vào khoảng năm 1200 trước Công Nguyên, Dân Do Thái đã được Môsê đưa dẫn qua sa mạc và đã đến bờ sông Giôđan, giáp ranh giới xứ Ca-na-an là Miền Đất Thiên Chúa đã hứa ban cho Ap-ram và dòng dõi ông đến muôn đời. Sau đó, Môsê trao quyền cho Gio-suê lãnh đạo dân tiếp tục đánh chiếm xứ chiếm xứ Ca-na-an. Được Đức Chúa ban ơn hổ trợ, dân Ítraen đã chiếm được miền đất này. Cuối cùng, Gio-su-ê đã triệu tập các chi tộc Ítraen và các đầu mục trong một Đại Hội tại Si-khem. Ong cho dân được tự do chọn lựa: Hoặc là tôn thờ yêu mến Một Đức Chúa duy nhất; Hoặc tin theo các tà thần của chư dân. Dân được tự do chấp nhận hay từ chối Lề Luật; Được chọn trung thành hay chống lại Giao Ước mà họ đã ký với Đức Chúa tại núi Khô-rép vùng Si-nai... Bấy giờ toàn dân thưa lại rằng: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc mà chúng tôi đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mo-ri” (x. Gs 24,16-18).
Suy niệm:
+ Như dân Ítraen xưa, hôm nay các tín hữu chúng ta cũng có tự do lựa chọn khi chịu phép Thánh Tẩy. Bấy giờ, vị Chủ Lễ hỏi các dự tòng rằng: “Anh chị em có từ bỏ ma quỉ không ? Có tin vào Thiên Chúa toàn năng không ? ... Với lời tuyên bố từ bỏ ma quỉ, tuyên xưng đức tin vào mọi chân lý mà Giáo Hội dạy trong kinh tin kính, các dự tòng sẽ được đổ nước trên đầu hoặc được bước vào giếng dìm mình trong nước Rửa Tội, như xưa dân Do Thái đã vượt qua nước sông Giôđan để vào Đất Hứa là xứ Ca-na-an.
+ Trong đời sống thường ngày, cũng như dân Ítraen xưa, các tín hữu chúng ta cần năng nhắc lại lễ Giao Ước với Thiên Chúa và cần xác tín khi thưa với Chúa rằng: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Đức Chúa, mà tôn thờ các tà thần của dân ngoại”. Sự lựa chọn này đòi hỏi dân Ítraen phải hồi tâm sám hối không ngừng.
+ Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đòi Nhóm Mười Hai Tông Đồ phải dứt khoát lập trường đối với mầu nhiệm Thánh Thể: “Thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống !”. Phêrô đã đại diện anh em tuyên xưng đức tin vào Người như sau: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Phêrô xác tín như vậy không phải vì ông đã hiểu được lời giảng của Thầy, nhưng vì ông đã tin vào con người của Thầy. Ong tin Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng đã cho dân ăn no nê, Đấng đã từng đi trên mặt biển. Chính nhờ có lòng tin này mà Phêrô và các bạn trong Nhóm Mười Hai đã chấp nhận cả những Lời chướng tai, vì tin rằng Lời ấy sẽ đem lại hiệu quả là sự sống đời đời.
Quyết tâm: Nhiều người trong chúng ta hôm nay cũng rơi vào tình trạng buồn sầu cô đơn, nhưng lại không biết chạy đến với ai để được giúp đỡ cụ thể. Qua bài Tin Mừng hôm nay, thánh Phêrô đã làm gương và chỉ dạy chúng ta là: hãy dứt khoát lựa chọn làm môn đệ Đức Giêsu, để được người nâng đỡ, ủi an và bổ sức cho. Vì “Chỉ mình Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Nhất là các bạn trẻ, các bạn hãy đến gặp gỡ Đức Giêsu và ở lại bên Người. Chắc chắn Người sẽ không để chúng ta phải thất vọng hổ ngươi bao giờ. Hãy đặt trọn niềm tin vào Chúa. Hãy dâng cho Chúa tất cả những khó khăn của cuộc sống, và xin Người soi sáng mở lòng cho biết ta phải làm gì trong từng hoàn cảnh cụ thể ? Mỗi lần không biết mình phải làm gì, bạn hãy mở Kinh Thánh và chắc sẽ tìm thấy lời Chúa dạy dỗ ta phải làm gì ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. Khi Chúa làm phép lạ nhân bánh ra nhiều nuôi sống phần xác thì dân chúng lũ lượt rủ nhau đi theo Chúa. Nhưng Chúa đến trần gian đâu phải chỉ để giải quyết vấn đề cơm bánh thể xác, mà để “ban ơn” cứu rỗi chúng con”, giúp chúng con khỏi những bất hạnh và đau khổ do ma quỷ và tội lỗi gây ra. Chúa có ban bánh và cá nuôi sống thể xác thì cũng chỉ là để có dịp mời gọi chúng con đến lãnh nhận Bánh Trường Sinh là Thánh Thể nuôi dưỡng linh hồn chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, dân Do Thái xưa theo Chúa khi được ban bánh nuôi xác, và đã bỏ Chúa khi Chúa hứa ban cho họ Bánh Hằng Sống nuôi sống linh hồn. Lạy Chúa, loài người chúng con là như thế đó: tìm kiếm thoả mãn cái đói thể xác bao nhiêu, thì lại dửng dưng coi thường sự thiếu thốn tinh thần bấy nhiêu. Hôm nay xin Chúa giúp con sẵn sàng từ bỏ những đam mê tội lỗi, những quyến luyến đối với của cải vật chất ở đời này, để nhìn lên Chúa, nhận ra những giá trị của những của cải thiêng liêng đời sau, để con luôn chọn theo Chúa, sống lời dạy của Chúa, dù lời đó khó nghe, không đáp ứng những ước mong đời thường trong con, để con thực sự trở thành môn đệ của Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con
2) Lạy Mẹ Maria, trong việc thực thi đức tin, con thấy mình còn rất nhiều sai sót trên con đường theo làm môn đệ của Chúa: Khi cầu nguyện, con hay xin Mẹ và các thánh cầu bầu cùng Chúa ban cho chúng con giải quyết những khó khăn trong chuyện làm ăn sinh sống như: Xin được buôn may bán đắt, xin có công ăn việc làm, xin thi đậu, xin được khỏi bệnh ... Chẳng mấy khi con cầu xin những ơn phần hồn như xin chừa các thói hư tật xấu, xin cho các tội nhân được sớm ăn năn trở về cùng Chúa, xin cho gia đình được hoà thuận thương yêu nhau, xin cho Nước Cha mau trị đến trên quê hương con ...
Lạy Mẹ Maria, nhiều lần khi cầu xin mà chưa được Chúa nhậm lời, con thường nản lòng thất vọng, bỏ đi dự lễ, chẳng còn tin vào Chúa nữa. Bấy giờ con dễ dàng làm theo lời mách bảo của người khác, để đến với thầy bói, thầy bùa ngải, đồng cốt và làm những điều mê tín khác ... Lạy Mẹ, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã ngán ngẩm trước thái độ theo Chúa chỉ vì vụ lợi của đám đông dân chúng và các môn đệ: Theo Chúa khi được ăn bánh no nê và thất vọng bỏ Chúa ra đi khi không được toại ý. Có lẽ hôm nay Chúa cũng đang ngán ngẩm khi thấy con chỉ bận tâm tìm kiếm của ăn phần xác, còn phần hồn là điều Chúa quan tâm thì con lại dửng dưng hững hờ. Vậy xin Mẹ giúp con biết: Ưu tiên tìm kiến Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn mọi sự khác như ăn gì mặc gì thì tin tưởng Chúa sẽ thêm cho.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Lời Chúa cho hôm nay: SỰ KÝ THÁC CỦA ĐỨC TIN = * The Risk of Faith *
Phụng thờ Thiên Chúa: Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác: TN 21-B15
BÀI ĐỌC 1: Giô-suê 24, 1- 2; 15- 17. 18 = Phụng thờ Thiên Chúa: Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác./ Sẹrving the Lord: “Far be it from us to forsake the Lord for the service of other gods.
BÀI ĐỌC 2: Êphêxô 5, 21- 32= Bí tích Hôn nhân: Người chồng hãy yêu thương vợ mình như Đức Kitô yêu Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh./ Sacrament of Marriage: Husbands loves your wives, as Christ loved the Church, gave...
BÀI TIN MỪNG(Gospel) Gioan 6, 60- 69 = Lời ban Sự Sống: Đây là bài kết của Bánh sự Sống mà tôi đã đọc trong mấy Chúa nhật / Words of Life: this is the conclusion to the Bread of life which I have been reading for several Sundays
A. Bạn và tôi cùng Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share)
1/ Chúa Giêsu nói tiếp với môn đệ về Bánh sự Sống như sau: “Thần Khí mới làm cho Sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống.” Tôi đã thấy Chúa Giêsu nói rõ vê ăn bánh bởi Trời rồi; nhưng nhiều người vẫn xì xầm, chướng tai và không tin. Họ quên Lời Chúa và Thần Khí mới làm cho tôi Sống. Hôm nay tôi hiểu ăn bánh bởi Trời là Sống Lời Chúa như thế nào? (Đào kuyện)
It is the Spirit that give life; the flesh is useless. The Words I spoke to you are Spirit and Life. ( Ga. 6, 63 )
2/ Đức Giêsu nói tiếp về lòng tin: "Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.” Bạn thấy Đức Tin là Quà tặng mà Thiên Chúa ban cho mỗi người, để họ có thể đến gặp gỡ Đức Kitô là Đấng ban sự Sống. Kể vài phương thức đã giúp bạn tăng trưởng Đức Tin? (Sùng đạo )
This is why I have told you that no one can come to me unless it is granted him by Father.” ( Ga. 6, 65 )
3/ Ông Simon Phêrô Cảm nghiệm được Lời Chúa đã nói: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự Sống đời đời.” Nhiều lúc tôi cũng yếu lòng tin, nhưng đã có lúc nào tôi cảm nhận được Lời Chúa là sự Sống của tôi. Những gì giúp tôi cải tiến được gia đình và cộng đoàn. (Hành đạo)
Simon Peter answered Him: Lord, to whom shall we go? You have the Words of eternal life. ( Ga. 6, 68 )
4/ Trong bài đọc 1, sách Giô-suê viết: “ Chúng tôi không hề có ý bỏ lìa Đức Chúa để phụng thờ các Thần khác! Vì chính Đức Chúa là Thiên Chúa của tôi.” Như bạn đã biết, điều chứng tỏ người ta biết mình mến Chúa là bạn có lòng yêu thương mọi người. Nhưng nhiều khi bạn cứ tưởng mình năng đi nhà thờ dâng lễ và làm một vài việc đạo đức là đủ. Nói việc bạn sẽ làm để thành người Tín hữu Trưởng thành? (Học đạo)
B Câu Kinh Thánh đánh động tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: ( The Best God’s Word )
LỜI THẦY NÓI VỚI ANH EM LÀ THẦN KHÍ VÀ LÀ SỰ SỐNG (Ga. 6, 63)
The Words I spoke to you are Spirit and Life
C. Ngay bây giờ bạn và tôi phải làm gì để Sống Lời Chúa: ( So what am I doing / For Action )
1/ Tôi nên chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống.
2/ Bạn và gia đình quyết tâm mở một nhóm vài người Chia sẻ Lời Chúa nơi mình đang sống.
D-D. Bạn và Tôi cầu nguyện và Sống điều mình cầu xin: ( I pray and practice / Pray in Action. )
a/ Bạn dựa vào một câu Kinh Thánh ở trên để thưa với Chúa những gì được Thánh Thần nhắc nhở.
b/ Tôi dâng lời cãm tạ hồng ân Chúa đã ban Đức Tin cho tôi và gia đình với biết bao ơn lành hồn xác.
Hoa thơm cỏ lạ: KHI GẶP ĐỨC KITÔ, CHÚNG TA MỚI BIẾT MÌNH LÀ KẺ LẠC ĐƯỜNG
When we find Christ, we discover we were the ones who were lost
Đây là đoạn kết thúc diễn từ của Chúa Giêsu về Bánh Hằng Sống. Những mạc khải về "Bánh: TN 21-B16
Đây là đoạn kết thúc diễn từ của Chúa Giêsu về Bánh Hằng Sống. Những mạc khải về "Bánh Hằng Sống và Bánh đó chính là Thịt Mình Chúa Giêsu" này, chính các môn đệ Chúa Giêsu bây giờ cũng chưa hiểu, nên họ kêu ca: "Lời chi mà sống sượng thế?" (Gioan 6:60). Chúa Giêsu cũng biết những mạc khải đó quá cao siêu đối với họ lúc này, nhưng khi Ngài sống lại và về trời rồi thì họ sẽ hiểu: "Điều đó làm các người khó chịu ư? Vậy nếu các người thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao?" (Gioan 6:62).
Chỉ tin vào lý lẽ của bộ óc xác thịt, chỉ căn cứ vào những gì vật chất cụ thể, chỉ luẩn quẩn trong thế giới hữu hình thì cũng sẽ bị tàn lụi và mai một như những thứ đó. Muốn có một nhãn giới vô biên, muốn am hiểu những gì cao siêu vĩ đại, muốn tìm một sức sống vĩnh cửu, một nguồn tác sinh không mai một thì phải vươn lên linh giới của Thần Khí: "Thần Khí mới tác sinh, xác thịt thì ích gì?" (c. 63). Mà Thần Khí đó là gì? Là chính Lời của Chúa Giêsu: "Lời Ta đã nói với các ngươi là Thần Khí và là sự sống" (c. 63). Bởi lẽ chính Ngài là Lời của Thiên Chúa hằng sống. Vậy bao lâu còn coi Chúa Giêsu như một người như những người khác thì chưa hiểu nổi lời Ngài nói. Chỉ khi nào coi Ngài là Lời của Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa, là Thần Khí, thì mới hiểu và hưởng được sức tác sinh của Lời Ngài dạy.
Nhưng cái gì sẽ giúp chúng ta nhận ra Ngài là Lời Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa, là Thần Khí? Đức Tin. Chính Đức Tin làm cho ta hiểu và chấp nhận những mạc khải về Chúa Giêsu là Bánh hằng sống từ trời xuống và Bánh đó chính là Thịt Mình Ngài cách dễ dàng và minh bạch không có gì phải xầm xì hoặc kêu ca như những người Do Thái và các Tông Đồ xưa. Chính Đức Tin cũng sẽ làm cho chúng ta được sống đời đời khi chúng ta thực hiện điều Chúa dạy: "Ai ăn Mình Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống đời đời" (Gioan 6:54).
Cuộc sống Công giáo của chúng ta nếu không có Đức Tin thì mọi bí tích, mọi lễ nghi phụng vụ sẽ trở thành những gì là kịch tuồng, dị đoan, không mang lại ơn ích và sự sống siêu nhiên nào. Nhưng nếu có Đức Tin thì tất cả sẽ là những nguồn ơn phúc làm tác sinh chúng ta thực sự. Đức Tin giúp chúng ta biến đổi và thực hiện được nhiều sự lạ lùng như thế: "Nếu con có Đức Tin bằng hạt cải thì con có thể chuyển núi rời non" (Lc 17:6).
Lạy Chúa, tuần này khi tham dự Thánh Lễ và chịu các Bí Tích, xin thêm Đức Tin cho con và con quyết thực hành Đức Tin ấy cách sốt sắng.
Một hôm, một nhà tâm lý ghé vào một ngôi thánh đường. Ông vào để tâm sự với Chúa và để: TN 21-B17
Một hôm, một nhà tâm lý ghé vào một ngôi thánh đường. Ông vào để tâm sự với Chúa và để hỏi Ngài một điều đang làm ông thắc mắc:
- Thưa Chúa! Ngài là chúa tể càn khôn, thông minh và quyền năng khôn sánh, nhưng con không hiểu là tại sao có ít người đến tìm Ngài để vấn kế, để xin giúp ý kiến và chỉ dẫn?
- Bởi vì Ta không biết chuyện quá khứ và cũng không biết chuyện tương lai.
- Thưa Chúa! Ngài nói gì con không hiểu?
- Con mà cũng không hiểu sao? Hay là con không muốn hiểu?!
Nghe Chúa hỏi, nhà tâm lý hết sức sửng sốt và thưa với Ngài:
- Lạy Chúa! Thật sự con không hiểu.
Thấy vậy, Chúa hiền từ trả lời:
- Con biết, người đời thường mặc cảm và muốn che dấu quá khứ, vì quá khứ bao gồm nhiều khuyết điểm, sai sót của chúng. Chúng muốn người khác hiểu khác đi, hoặc ít nhất hiểu không đúng về những lỗi lầm và thiếu sót ấy hầu mong che dấu phần nào tội lỗi. Trong cái hoang mang và sợ hãi ấy, chúng hăm hở chạy theo và đuổi bắt những ảo tưởng và ảo giác về tương lai. Một số trong họ còn muốn tự mình lo lắng, xây dựng một tương lai theo ý riêng mình. Tóm lại, ai ai cũng tò mò muốn biết hay muốn được nghe những điều thuận lợi, hợp với “thích giác” về một quá khứ hay một tương lai mà chúng mơ ước.
Phần Ta, Ta làm gì có quá khứ, làm gì có tương lai để mà nói với chúng. Ta chỉ có hiện tại, mà hiện tại thì lại ít kẻ muốn nghe, vì không mấy ai muốn đối diện với hiện tại.
- Thưa Chúa như vậy là vì con người tự nhiên không muốn đối diện với sự thật, và không muốn nghe sự thật - sự thật ở ngay trước mắt - nên họ đã không tìm đến tham vấn với Chúa, mặc dù Chúa vẫn ở đây, nhẫn nại, và chờ đợi.
Và đó cũng là câu chuyện phản ảnh tâm sự của Chúa Giêsu đã được Thánh Gioan ghi lại khi Ngài nói với dân chúng về Thánh Thể, của ăn tinh thần, và về Lời ban sự sống, mà Ngài đã tha thiết muốn trao tặng cho con cái loài người qua đám đông đang theo Ngài. Nhưng quần chúng đã quay mặt, đã chối từ, và không muốn nghe Ngài.
Theo tâm lý quần chúng, khi một nhận xét được nêu lên giữa đám đông, nó sẽ kéo được sự chú ý và truyền đạt đi một cách nhanh chóng, dù là nhận xét tích cực hay tiêu cực. Trước đây ít hôm, cũng Thánh sử Gioan đã ghi lại phản ứng ấy sau khi dân chúng được nhìn thấy phép lạ và được ăn bánh no nê. Hôm đó, họ đã nhao nhao lên định phong Chúa Giêsu làm vua. Hôm nay, trước những lời xầm xì của những người chung quanh, một số môn đệ cũng đã bắt đầu chán nản và bỏ Ngài: “Lời này chói tai quá! Ai nghe được” (Gio 6:60).
Họ bỏ Ngài không phải vì Ngài đã không thực hiện nổi những phép lạ, cũng không phải vì Ngài giảng dậy điều chi sai trái, mà chỉ vì những lời Ngài nói không hợp với thính giác tự nhiên, cũng như không đi vào được với suy tư của họ. Chúa Giêsu hiểu thấu tư tưởng họ, và Ngài đã hỏi những kẻ còn ở lại bên Ngài: “Cả chúng con. Chúng con có muốn bỏ đi không?” (Gio 6:67). Rất may trong số các ông, Phêrô đã nhanh miệng trả lời: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có lời ban sự sống đời đời” (Gio 6:68); không những thế ông còn mạnh mẽ tuyên bố: “Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa” (Gio 6:69).
Lời ban sự sống đời đời. Khi nói như vậy Phêrô có thật sự tin như thế không? Ông có bằng chứng gì để xác tín điều ông vừa nói không? Theo tự nhiên thì không, vì sau đó Phêrô đã can ngăn Chúa đừng hành xử vai trò Cứu Thế của Ngài, và cũng chính ông đã chối Ngài. Nhưng trong cõi siêu hình, những lời ấy chắc chắn phải được linh ứng bởi Thiên Chúa, vì nó được nói ra không phải chỉ cho riêng Phêrô, mà còn cho tất cả những ai sau này sẽ tin nhận Chúa Giêsu.
Lời ban sự sống đời đời. Lời ở đây là gì, nếu không phải là chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đã tình nguyện trở thành bánh nuôi linh hồn mọi người: “Ta là bánh từ trời xuống; ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời” (Gio 6:51).
Lời ban sự sống đời đời. Đó cũng là từng lời đã được Chúa Giêsu nói ra. Tất cả đều trở thành lương thực cần thiết cho sự sống tâm linh và sự sống đời đời của nhân loại: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, mà còn mọi lời bởi miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4:4).
Cám ơn Phêrô. Cám ơn con người thuyền chài mộc mạc, chất phát, và nóng nẩy nhưng lại rất thiết thực và thiết tha với Thầy. Nếu không có Phêrô, chắc đã không có những lời tuyên xưng mạnh mẽ và đầy sức sống ấy: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có lời ban sự sống đời đời” (Gio 6:68).
“Lời ban sự sống đời đời”, nhưng không vượt quá tầm hiểu biết và khả năng thực hành của con người. Thiên Chúa đã không đòi hỏi con người điều gì quá sức để chiếm hữu và thực hành lời ấy. Ngài chỉ cần họ làm điều phải làm, trong giây phút hiện tại, và chỉ riêng mỗi từng việc một. Đòi hỏi này rất phù hợp với tâm lý sống và tâm lý thực hành. Thiên Chúa đã chẳng sống trong ta, trở thành nên một, và đồng hành với ta là gì. Ngài đến với ta trong Thánh Thể và qua lời Ngài. Do đó, con người khi đồng hành với Chúa, có Chúa ở với sẽ không còn gì làm mình phải lo lắng. Nhất là sống với Đấng mà luôn luôn là hiện tại, luôn luôn là thực tại.
Tương lai cũng là Ngài. Quá khứ cũng là Ngài. Và hiện tại cũng là Ngài. Tâm lý sống ấy hẳn là thoải mái, tự tin, và bình an. Đó cũng là ý nghĩa mà Ngài đã nói với nhà tâm lý khi đến vấn kế Ngài. Và đó cũng là tâm lý sống mà Ngài muốn mọi người thực hành trong cuộc sống. Nhiều khi con người đã tự chuốc lấy cho mình những khổ sầu, băn khoăn và sợ hãi. Họ lo sắp xếp cho mình một tương lai theo ý mình. Họ chạy chữa, bôi xóa quá khứ theo ý mình. Nhất là họ muốn mọi cái hiện tại xảy ra theo ý mình.
Tóm lại, khi con người không có Chúa ở với thì đời sống sẽ mất định hướng. Hôm nay ủ dột, phàn nàn, cau có, bực tức về quá khứ. Ngày mai băn khoăn, thấp thỏm, và hồi hộp về tương lai. Cứ như thế mà họ đánh mất hiện tại. Họ bị quay cuồng và cuốn hút vào sợ hãi, bất an, và mất hạnh phúc. Nhưng nếu có Chúa ở với thì Ngài chính là nguồn bình an, hy vọng, và sức sống: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa” (Gio 6:68-69).
Trong đời sống con người trên trần gian, chúng ta thấy có biết bao thứ phải lựa chọn. Ngoài: TN 21-B18
Trong đời sống con người trên trần gian, chúng ta thấy có biết bao thứ phải lựa chọn. Ngoài những lựa chọn thông thường hằng ngày như lựa chọn đồ dùng tốt xấu, nơi ăn chốn ngủ, xe cộ, áo quần... Còn có những thứ lựa chọn liên hệ đến cả vận mệnh của một dân tộc, làm đảo lộn lịch sử các quốc gia. Chẳng hạn Napoléon, vị tướng lãnh tài ba của Pháp Quốc, có lần phải mất năm phút để lựa chọn gấp rút nên tiến quân hay rút quân. Ông đã quyết định tiến quân và ông đã chiến thắng. Tổng Thống Lincoln đã phải chiến đấu để thắng chính bản ngã riêng tư của ông, để trả tự do cho người nô lệ. Ông đã quyết định hợp lý. Lịch sử đã tặng cho ông danh hiệu người giải phóng nô lệ. Người dân Nga Sô, dân Trung Hoa và các nước chư hầu của Nga Sô và Trung Hoa đã lầm lẫn khi lựa chọn theo thuyết cộng sản vô thần như một quốc sách, nên đã làm cho các dân tộc của họ ngày càng lùi dần về thời ăn lông ở lỗ, nghèo túng, đói rét, lạc hậu và cái mộng ước thiên đàng trần gian của chủ thuyết Kart Mark, Lénine đã trở thành mây khói hão huyền, gây nên bao đau thương đổ nát và tuyệt vọng.
Còn có thứ lựa chọn quan trọng và cần thiết hơn bội phần, như lựa chọn ơn gọi, sống Bậc Hôn Nhân giữa trần gian hay sống Bậc Thánh Hiến phụng sự Chúa trong đời sống tu trì; hoặc phải lựa chọn giữa điều thiện và điều ác, lựa chọn lên Thiên Đàng hay xuống hỏa ngục... Những lựa chọn này rất quan trọng vì nó không những chỉ liên quan đến hạnh phúc của cuộc sống trần gian mà còn liên hệ tới cứu cánh của cuộc sống vĩnh cửu trong đời sống mai hậu. Henry VIII, vua Anh Quốc đã chọn một người đàn bà bất hợp pháp làm vợ, tạo nên Anh Giáo, một giáo phái ly khai với Giáo Hội Công Giáo... Trước những lưỡng lự, ngã ba, ngã tư của cuộc đời, con người cần phải biết khôn ngoan lựa chọn và quyết định thế nào cho hợp với thánh ý Thiên Chúa. Có thể nói: Hạnh phúc cho những ai biết quyết định và lựa chọn đúng với thánh ý Thiên Chúa; nhưng trái lại, vô phúc cho những ai quyết định và lựa chọn phản lại thánh ý Ngài.
I. DÂN DO THÁI ĐÃ CHỌN CHÚA GIAVÊ
Bài đọc I hôm nay thuật lại việc ông Giosuê phải đau lòng trước sự ngỗ nghịch phản bội của dân Do Thái, ông đã triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho các kỳ lão, thủ lãnh các gia tộc, các quan án, các sĩ quan đến đứng trước nhan Chúa, rồi ông nói với họ: "Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần?" Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đã đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài, khi thưa với ông Giosuê: "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi".
Dân Do Thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Ngài đã làm biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ do cánh tay hùng mạnh của Ngài; Ngài đã thi thố biết bao ơn phúc khi dẫn đưa dân tộc họ vào Đất Hứa, đất chảy sữa và mật mà Chúa đã hứa với cha ông của họ. Mặc dầu họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại phụng thờ Ngài. Chúa đã chấp nhận lòng sám hối của họ khi họ đồng tâm từ bỏ tà thần, trở lại chọn Chúa để tôn thờ Ngài. Dân Do Thái đã quyết định và lựa chọn đúng. Nhưng thực sự, dân Do Thái có trung thành với lời giao ước mà họ đã ký kết khi quyết định chọn Chúa để tôn thờ Ngài hay không? Lịch sử dân Do Thái đã đủ chứng minh cho câu trả lời này.
II. GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAOLÔ
Thánh Phaolô đã dùng một hình ảnh cụ thể trong đời sống hôn nhân, với một tình yêu thương khắng khít và sự lệ thuộc giữa vợ chồng, để dạy cho chúng ta một bài học, nói lên sự lệ thuộc và tình yêu mến chúng ta phải có đối với Thiên Chúa. Đồng thời, ngài cũng nhắc chúng ta tưởng nhớ lại biết bao ơn phúc Chúa đã ban cho chúng ta, khi nói đến tình Chúa yêu thương Hội Thánh, đã hiến thân chịu chết vì Hội Thánh là thân mình mầu nhiệm của Chúa. Mỗi người chúng ta là phần tử làm nên Hội Thánh là Nhiệm Thể của Chúa Kitô, chúng ta cũng phải hoàn toàn sống cho Chúa, chỉ chọn Chúa và tôn thờ Người, tuyệt đối lệ thuộc vào Chúa và hết lòng phụng sự Người. Thánh Phaolô đã kết luận: "Bởi thế, người ta lià bỏ cha mẹ để kết hợp với bạn mình và cả hai nên một huyết nhục. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh". Còn chúng ta, chúng ta có từ bỏ mọi sự để kết hợp nên một với Chúa, hết lòng yêu mến, phụng sự, tôn thờ Người không?
III. CHÚA LÀ MỌI SỰ CỦA CON
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại: Sau khi Chúa giảng cho dân chúng về Bánh Hằng Sống và lương thực bởi trời; Ngài tự xưng mình là Bánh Hằng Sống và quả quyết với họ rằng: "Đây là ý muốn của Chúa Cha, Đấng đã sai Ta: Hễ ai xem thấy Chúa Con và tin kính Ngài, sẽ được đời đời hằng sống và Ta sẽ khiến kẻ ấy được sống lại trong ngày sau hết" (Jn 6:40). Người còn quả quyết: "Thật vậy, Ta nói thật với các ngươi; kẻ tin kính Ta sẽ được sống đời đời. Ta là Bánh Hằng Sống" (Jn 6:47).
Có nhiều môn đệ khi nghe lời quả quyết đó, họ cho là chói tai, khiến họ tức giận từ bỏ Chúa ra đi. Chúa biết truyện đó, nên hỏi họ: "Điều đó làm các ngươi khó chịu ư? Vậy nếu các ngươi thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính Thần Trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Những lời Ta nói với các ngươi là Thần Trí và Sự Sống. Nhưng trong các ngươi có một số kẻ không tin"... Sau khi họ bỏ Chúa ra đi, Chúa quay lại hỏi các Tông Đồ: "Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy ra đi không?" Thánh Phêrô đại diện các Tông Đồ thưa với Chúa rằng: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời".
Ngày chúng ta lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta tuyên thệ từ bỏ Satan, từ bỏ tội lỗi, từ bỏ mọi sự thuộc về Satan và tội lỗi... Chúng ta tôn nhận Chúa là Thiên Chúa và chỉ tôn thờ, phụng sự, yêu mến duy một mình Người.
Hơn nữa, ngày chúng ta tuyên lời khấn, thánh hiến chọn cuộc đời cho Chúa, tự nguyện tuân giữ ba lời khuyên của Tin Mừng, chúng ta đã tôn nhận Chúa làm gia nghiệp đời đời, làm Bạn Tâm Phúc của chúng ta, là chúng ta làm mới lại, thêm xác tín vững mạnh hơn, thêm thánh thiện hơn lời chúng ta đã long trọng tuyên thệ ngày chúng ta lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, tôn nhận Chúa và chỉ phụng sự yêu mến duy một mình Ngài.
Kết Luận
Không như dân Do Thái chọn Chúa, nhưng lại đã bất trung với lời giao ước, phản bội Chúa, không tôn thờ Ngài; còn chúng ta, chúng ta có trung thành với lời tuyên thệ chọn Chúa, tôn thờ, phụng sự, yêu mến Chúa là cùng đích, là hạnh phúc, là gia nghiệp đời đời của chúng ta chưa? Vì, được Chúa là được mọi sự, mất Chúa là mất tất cả.
Anh Vũ Thành Tâm là một thanh niên tuổi quân dịch. Anh đã bỏ nhà thờ từ lâu. Anh chẳng còn: TN 21-B19
Anh Vũ Thành Tâm là một thanh niên tuổi quân dịch. Anh đã bỏ nhà thờ từ lâu. Anh chẳng còn đi lễ, chẳng còn chịu các phép Bí Tích nữa. Khi nhập ngũ, Mẹ anh lo lắm. Mẹ anh sợ anh bị chết ngoài trận chiến bất kỳ lúc nào. Vì thế trước khi lên đường, mẹ anh soăn xúyt bên con, vồn vã nói với con: "Tâm con, mẹ muốn con làm cho mẹ một điều". "Điều gì đó mẹ?" Anh hỏi lại. Con đi xa nhà, đời binh nghiệp trôi nổi bôn ba, cái chết như tầu lá rơi trước gió, vì thế mẹ muốn con hứa với mẹ: Dù con có bận bịu mệt mã đến đâu đi nữa, mỗi ngày con hãy đọc một kinh kính mừng dâng phó linh hồn con cho Đức Mẹ. Có được không? Tâm suy đi nghĩ lại, lời mẹ như đưa chàng vào thế kẹt: Mình đã bỏ đạo từ lâu rồi, nên không muốn chấp nhận. Nhưng mình là người con có hiếu, chả lẽ lại từ chối! Thôi thì chấp nhận cho mẹ vui. Tấm tức giữa hai ngả. Sau cùng Tâm chấp nhận sẽ làm như mẹ xin. "Con làm sao bỏ được lời mẹ trối". Mấy năm trời trôi qua. Tâm bận bịu với việc quân ngũ nên cũng chẳng biên thư về nhà. Rồi một hôm, mẹ anh nhận được thư cha Tuyên Úy cho biết anh bị trọng thương và đã xin chịu các phép Bí Tích. Ít lâu sau anh Tâm bình phục và viết thư về cho mẹ: "Mẹ ơi, con cám ơn mẹ đã bảo con hứa với mẹ là sẽ đọc một kinh kính mừng mỗi ngày. Con đã giữ lời hứa đó và nay con đã bắt đầu đi lễ và chịu lễ mỗi chúa nhật".
*****
Bài Tin Mừng ngày hôm nay cũng là một thách đố cho các môn đệ. Niềm tin của các ngài cũng bị thử thách trầm trọng vì trong bài giảng ngài nói: "Ngài sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn". Có nhóm không chấp nhận được lời Chúa Giêsu tuyên bố cũng như anh Tâm đã bỏ Chúa lâu rồi làm sao có thể chấp nhận đọc kinh được. Nhưng nhóm còn lại chấp nhận thử thách và trung thành với Chúa Giêsu "Bỏ thầy con biết theo ai. Thầy mới có lời hằng sống". Như anh Vũ thành Tâm trung thành với lời "Con làm sao bỏ được lời mẹ trối".
Chúng ta có thể tin rằng một linh hồn dù có xa Chúa đến mấy đi nữa, mà còn giữ được một cái gì nối kết với Chúa, dù cái đó chỉ là một câu kinh lạy Cha, kinh kính mừng mỗi ngày thì vẫn còn hy vọng sẽ tìm lại được đường về. Anh Tâm cũng như rất nhiều người công giáo đã bắt chước các môn đệ thành tâm trong bài tin mừng hôm nay. Họ không thể tin Chúa Giêsu có thể cho họ Mình và Máu Ngài để họ ăn và uống. Nhưng ít là họ đã chứng kiến việc Chúa dùng 5 cái bánh và 2 con cá để nuôi 5000 người ăn no. Nhiều người thường lấy lý do "Đi dự lễ không thấy phấn khởi, đọc một câu kinh không thấy được ơn ích gì..." Nhưng họ làm, ít ra còn tin vào lời Chúa nói. Cứ làm đi rồi Chúa sẽ hỗ trợ, sẽ ban ơn.
Như Anh Vũ Thành Tâm trong câu chuyện, mỗi người chúng ta hãy cố làm những gì có thể được, càng nhiều càng tốt để đáng được Chúa thương cứu giúp. (8/2003).
Chắc bạn vẫn nghe thường xuyên về người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Hoặc chính bản: TN 21-B20
Chắc bạn vẫn nghe thường xuyên về người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Hoặc chính bản thân nhều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều cóp thể thất trung, bất tín. Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối giây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn từng ngày. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả của nó.
Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thủơ bình minh của nhân loại, thế giới theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người thôi: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài, nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống lại Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường hết được: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.
Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường, nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn... , đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron đã vậy, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu, có phải con sinh ra nó đâu?... Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn... ” (Ds 11, 12 tt). Trong sa mạc, lòng dân quyên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại nhiều lần đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.
Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về sự bất trung và lòng thương xót ấy. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác”, và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính vì sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần phải chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bật lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoang dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội - nổi giận - tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.
Đó là bài đọc I trích sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá... Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quyên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến nay chưa được bao lâu. Vì một chúc sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!
Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Giáo Hội mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành của ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoang dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫ có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không còn hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.
Lời Chúa trong sách Giosuê (bài đọc 1) và trong Phúc âm Gioan (bài Tin Mừng) hôm nay tập: TN 21-B21
Lời Chúa trong sách Giosuê (bài đọc 1) và trong Phúc âm Gioan (bài Tin Mừng) hôm nay tập trung vào chủ đề: Chọn phụng thờ Thiên Chúa và đi theo Chúa Giêsu Kitô. Thời Cựu ước, ở giữa sa mạc, ông Giosuê và dân Ítraen đã chọn phụng thờ Thiên Chúa vì Chúa đã tỏ lòng thương dân và cứu vớt dân ra khỏi cảnh nô lệ; còn trong thời Tân Ước 12 Tông đồ đã chọn đi theo Chúa Giêsu, vì Người có những lời đem lại sự sống đời đời. Còn chúng ta ngày nay? Chúng ta có chọn thờ phượng Thiên Chúa như dân Ítraen và Giosuê không? Chúng ta có chọn đi theo Đức Giêsu Kitô như 12 Tông đồ không? Đó là câu hỏi hết sức quan trọng mà mỗi người, mỗi cộng đoàn chúng ta phải trả lời.
I. LẮNG NGHE ... TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1.1 Bài đọc 1: Gs 24,1-2a.15-17.18b: Là một câu chuyện rất cảm động của sách Giosuê. Giosuê là người lãnh đạo dân Ítraen trong hành trình sa mạc tiến về miền đất mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân riêng Người. Trong cuộc hành trình đầy gian khổ ấy, không phải lúc nào lòng người cũng kiên vững trong niềm tin vào Thiên Chúa. Đã có nhiều lúc dân chúng kêu trách Mosê và tiếc nuối những ngày “ổn định” ở Ai Cập. Vì thế mà Giosuê -cũng như Mosê- phải khôn ngoan hướng dẫn và củng cố lòng tin của dân. Ông đã quy tụ mọi chi tộc Ítraen ở Sikhem để xác định lập trường của mình và yêu cầu dân xác định lập trường của họ. Ông nói: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ... . Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa”.
Trước đề nghị long trọng và mang tính quyết định trên của vị thủ lãnh, dân Ítraen đáp lại một cách cương quyết và xác tín: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đi ngang qua. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi”.
1.2 Bài đọc 2: Ep 5,21-32: Là những lời khuyên của Thánh Phaolô dành cho các người làm vợ làm chồng Kitô hữu “Anh em hãy tùng phục lẫn nhau. Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa... Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh”
Thật ra thì Thánh Phaolô muốn đề cao mầu nhiệm cao cả là sự kết hiệp giữa Đức Kitô và Hội Thánh, là Tình Yêu dâng hiến mà Chúa Kitô dành cho Hội Thánh và nỗ lực của Hội Thánh lấy tình yêu đáp lại Tình Yêu của Chúa Kitô. Sự kết hiệp yêu thương thánh thiện tột cùng ấy phải được tình yêu và tương quan vợ chồng Kitô hữu mô phỏng và sao chép. Đó chính là giá trị cao quí, là nét đặc thù riêng của hôn nhân Kitô giáo. Đó cũng là giao ước bền vững giữa Thiên Chúa và những kẻ tin theo Chúa.
1.3 Bài Tin Mừng: Ga 6,54a.60-69: Có thể được coi là đoạn kết của phần Phúc Am Thánh Gioan về diễn từ về bánh. Trước những lời khẳng định “chắc như đinh đóng cột” về bánh từ trời xuống, về bánh trường sinh, về bánh ban sự sống đời đời, về bánh là chính thịt máu Đức Giêsu, các môn đệ và các tông đồ bị đặt vào thế phải chọn lựa. Hoặc không chấp nhận, không tin vào lời Người mà rút lui như nhiều môn đệ đã làm, hoặc chấp nhận và tin vào lời Người mà tuyên bố với/như Phêrô: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”
II. ĐÓN NHẬN ... SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
2.1 Phụng thờ Thiên Chúa và đi theo Đức Kitô là một chọn lựa hết sức khó khăn.
Đọc lại Cựu Ước, chúng ta thấy dân Ítraen gặp rất nhiều khó khăn vất vả trong việc tin theo Chúa và thủy chung với Thiên Chúa. Họ luôn bị cám dỗ chạy theo các thần khác mà bỏ rơi Thiên Chúa là Đấng đã ký kết giao ước với họ. Mỗi lần họ chạy theo thần khác là mỗi lần Thiên Chúa trách họ là phản bội, là ngoại tình. Ở trong sa mạc, trên hành trình từ đất Ai Cập đến Đất Hứa, dân Ítraen đã không ít lần chê trách hai ông Mosê và Giosuê, thủ lãnh của họ, là “đem con bỏ chợ”. Trước những khó khăn của cuộc hành trình, họ muốn quay trở lại với mái nhà nô lệ, vì ở đó, họ có cơm ăn nước uống đầy đủ. Họ quên rất nhanh số phận khốn khổ của kẻ làm tôi ngoại bang. Cái khổ và cái sướng trước mắt khiến họ trở nên mê muội không còn biết đâu là thật, đâu là giả, đâu là tạm bợ, đâu là vĩnh cửu.
Trong thời Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng, các môn đệ thân tín của Người cũng gặp không ít khó khăn để hiểu và tin theo Người trọn vẹn. Giáo lý của Đức Giêsu đòi họ phải sống khiêm nhu, quên mình, hy sinh, từ bỏ, đi vào cửa hẹp, bác ái, thứ tha, trong sạch... . Sống theo giáo lý ấy đã là một điều vô cùng khó khăn. Nhưng còn khó hơn khi các môn đệ phải chấp nhận những lời Đức Giêsu quả quyết phải ăn thịt và uống máu Người mới được sống đời đời. Làm sao mà tưởng tượng cho nổi? Vì thế mà nhiều môn đệ đã bỏ Thầy mà rút lui.
2.2 Phụng thờ Thiên Chúa và đi theo Đức Kitô là một chọn lựa có nền tảng vững chắc.
Nhưng nếu suy nghĩ cho đến nơi đến chốn, thì người ta phải nhìn nhận rằng dân Ítraen đã chọn phượng thờ Thiên Chúa và các tông đồ đã chọn đi theo Đức Giêsu Kitô là họ có cơ sở vững chắc. Chính dân Ítraen và các tông đồ đã nêu lên cơ sở ấy:
* “Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đi ngang qua. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi”.
* “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”
2.3 Phụng thờ Thiên Chúa và đi theo Chúa Kitô phải là một chọn lựa cá nhân và xác tín.
Đối với dân Ítraen xưa thì sự việc là như vậy. Còn đối với con người của thời đại hôm nay thì sao? Vấn đề quan trọng là làm thế nào để mỗi người, mỗi cộng đoàn Kitô hữu chúng ta, nhất là giới trẻ và các cháu thiếu nhi, có một chọn lựa cá nhân và xác tín trong việc phụng thờ Thiên Chúa và đi theo Chúa Kitô trong thế giới ngày nay? trong xã hội kinh tế thị trường này? Muốn thế thì mỗi cộng đoàn, mỗi người phải cảm nghiệm và khám phá ra Thiên Chúa như dân Ítraen và các tông đồ xưa. Thường thì chúng ta tin theo Chúa là do từ gia đình. Chúng ta được rửa tội khi chúng ta còn rất nhỏ và chưa biết gì. Công việc vô cùng khó khăn là làm sao để càng lớn lên thì mỗi người càng có thể cảm nhận được Thiên Chúa là Đấng hằng yêu thương cứu vớt mình, Đức Giêsu là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa, là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Đó chính là công cuộc giáo duc Đức Tin. Trách nhiệm giáo dục Đức Tin cho con em của các bậc làm cha làm mẹ cũng như của cộng đoàn giáo xứ là hết sức nặng nề và khó khăn. Vì giáo dục Đức Tin không phải là chuyển tải một kiến thức mà là chia sẻ một kinh nghiệm tâm linh cho người khác, nhất là cho những người chưa có kinh nghiệm ấy. Trong công cuộc giáo dục ấy thì cách sống nêu gương tốt của người lớn, cách riêng của cha mẹ và các giáo lý viên là một phương thế hiệu quả nhất để chuyển tải kinh nghiệm sống. Ngoài ra mỗi người, mỗi cộng đoàn cần phải được giúp đỡ để biết đọc lịch sử của đời mình mà khám phá ra Thiên Chúa và Chúa Kitô là Đấng tuy vô hình, nhưng luôn hiện diện và hành động một cách yêu thương trong cuộc đời của mỗi người cũng như của mỗi cộng đoàn. Có như thế thì mỗi tín hữu, mỗi cộng đoàn lớn nhỏ mới có được chọn lựa cá nhân và xác tín trong việc phụng thờ Thiên Chúa và đi theo Chúa Giêsu Kitô.
III. CẦU NGUYỆN
Lạy Cha là Thiên Chúa của chúng con, từ bé tới giờ chúng con luôn chọn Chúa và luôn cố gắng phụng thờ Chúa. Nhưng ngày hôm nay chúng con quyết tâm phụng thờ Chúa một cách đầy tự nguyện và xác tín vì chúng con đã nhận ra Chúa là Đức Chúa Yêu Thương của chúng con!
Lạy Chúa Giêsu Kitô, theo Chúa là một việc chẳng dễ dàng gì, nhưng hôm nay chúng con quyết tâm theo Chúa như các Tông đồ xưa, vì nhờ Phúc Am và Hội Thánh, chúng con biết rằng Chúa là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa, Chúa đến trần gian để chỉ đường vạch lối cho chúng con, sống theo Chúa chúng con sẽ được sống hạnh phúc đời này và đời sau. Xin Chúa hãy dạy dỗ, hỗ trợ và đồng hành với chúng con trên bước đường theo Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, không ai có thể đến được với Chúa Kitô nếu không được Chúa Cha lôi kéo bằng sức mạnh là Chúa, không ai có thể tin theo Chúa Kitô mà không được Thánh Thần hướng dẫn, soi sáng. Xin Chúa dạy chúng con biết phụng thờ Thiên Chúa và biết theo Chúa Kitô như các môn đệ ngoan ngoãn của Chúa. Amen.
Câu Đức Giêsu nói: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời" có lạ tai không? Câu: TN 21-B22
1. Câu Đức Giêsu nói: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời" có lạ tai không? Câu nói trên cần phải hiểu theo nghĩa tâm linh hay theo nghĩa vật chất? Sau khi câu nói câu ấy, Đức Giêsu có nói câu nào để hướng dẫn người nghe phải hiểu theo nghĩa tâm linh không? Ngài nói gì?
2. Nếu bạn là các môn đệ Ngài hồi ấy, khi nghe lời ấy, bạn sẽ phản ứng thế nào? bỏ Ngài và rút lui, hay theo Ngài tới cùng như Phêrô?
3. Trước hai phản ứng khác nhau của các môn đệ, ta rút ra bài học gì? Có nên tin vào lý trí của mình hơn tin vào Thầy mình, hay vào Thánh Thần chăng?
Suy tư gợi ý:
1. Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi? Khi nghe Đức Giêsu nói: ỡAi ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đờiữ, chẳng những người Do-thái nghe không lọt tai, mà ngay cả các môn đệ cũng có những người không chấp nhận được. Họ đã hiểu câu Ngài nói theo nghĩa vật chất, theo mặt chữ, mà không chịu hiểu theo nghĩa tâm linh, theo Thần Khí. Thế là ỡnhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữaữ. Ngài đã để mặc họ bỏ Ngài, vì thấy họ không thích hợp với công việc của Ngài, vốn mang nhiều tính chất ỡthần khíữ hay tâm linh.
a) Ai có tai thì nghe!ữ hay ỡai hiểu được thì hiểu!
Trong Tin Mừng có nhiều trường hợp tương tự như trường hợp này. Nhiều lần, Đức Giêsu nói xong, người ta không hiểu, Ngài chẳng những không giải thích thêm, lại còn nói: ỡAi có tai thì ngheữ (nghĩa là ai hiểu được thì hiểu) (Mt 11,15; 13,9; 13,43; Mc 4,9; 4,23; 7,16; Lc 8,8). Vì chân lý không phải là ai cũng có thể hiểu và sẵn sàng đón nhận, như Ngài đã nói: ỡThế là đối với họ, lời sấm của ngôn sứ Isaia đã ứng nghiệm: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, vì lòng dân này đã ra chai đáữ (Mt 13,14). Một hình thức của chai đá tâm trí là chỉ hiểu được lời Chúa theo nghĩa vật chất mà không thể hiểu theo nghĩa tâm linh, chỉ biết chấp vào lời mà không chịu hiểu ý, nhất là khi lời đó diễn tả những chân lý thâm sâu về Thiên Chúa và đời sống tâm linh.
b) Đừng hiểu theo nghĩa vật chất, mà theo nghĩa tâm linh
Khi thấy có những môn đệ không chấp nhận vì hiểu sai, Ngài đã soi sáng thêm: ỡĐiều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?ữ Ngài gợi ý cho họ thấy hai cách hiện hữu của Ngài: cách hiện tại là hiện hữu trong xác thịt, còn cách hiện hữu trước kia là hiện hữu trong thần khí. Nhắc tới hai cách hiện hữu ấy, Ngài gợi ý cho các ông hiểu rằng: lời của Ngài cần hiểu theo nghĩa tâm linh, chứ không thể hiểu theo nghĩa thể chất. Câu nói kế tiếp của Ngài lại càng khai sáng vấn đề hơn: Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sốngữ. Lời Ngài nói là thần khí chứ không phải xác thịt, nên phải hiểu theo nghĩa tâm linh chứ không phải nghĩa thể chất. Hiểu theo nghĩa thể chất thì những từ ỡthịtữ và ỡmáuữ Ngài vừa nói chính là thịt và máu vật chất, tức xác thịt. Ngài đã loại bỏ cách hiểu này: ỡXác thịt chẳng có ích gìữ. Ngài đề cao cách hiểu theo nghĩa tâm linh qua câu: ỡThần khí mới làm cho sống.
Thánh Phaolô cũng so sánh hai cách hiểu ấy: ỡGiao Ước Mới không phải là Giao Ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sốngữ (2Cr 3,6). Chữ viết là vật chất, ai chỉ biết hiểu lời Chúa theo nghĩa vật chất của chữ viết, thì cách hiểu ấy sẽ giết chết tâm linh của người ấy. Lời Chúa cần được hiểu theo nghĩa tâm linh, nghĩa là ỡdựa vào Thần Khíữ, cách hiểu này mới ỡban sự sốngữ. Sự sống ở đây là sự sống tâm linh chứ không phải thể chất. Về vấn đề giữ luật, thậm chí luật cắt bì là một luật hết sức quan trọng trong Cựu Ước, thánh Phaolô chủ trương phải giữ theo tinh thần của lề luật chứ không phải theo chữ viết: ỡPhép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luậtữ (Rm 2,29). Vậy, khi đọc Kinh Thánh, đặc biệt sách Khải Huyền, những chân lý thâm sâu cần được hiểu theo nghĩa tâm linh. Hiểu theo nghĩa vật chất nhiều khi dẫn tới sự phi lý và không đem lại ỡsự sốngữ hay lợi ích thực tế.
2. Hai phản ứng khác nhau của các môn đệ
Khi nghe Đức Giêsu nói câu khó hiểu, thậm chí có vẻ phi lý và chướng tai ấy, tôi nghĩ, chắc hẳn ngay lúc ấy chẳng ai trong các môn đệ đủ trình độ để hiểu được ý nghĩa lời của Ngài. Nhưng các môn đệ đã phản ứng theo hai cách: một số rút lui và số còn lại vẫn trung thành theo Ngài.
a) Đừng quá cố chấp vào những hiểu biết mình đang có:
Những môn đệ từ bỏ Ngài, không chịu làm môn đệ Ngài nữa, là vì họ nghe Ngài nói điều mà họ thấy là phi lý không thể chấp nhận được. Họ hoàn toàn có lý của họ. Nhưng phải nói họ là những người đã bị chai đá về mặt lý trí. Hễ điều gì họ đã cho là đúng, mà có ai nói ngược lại, nói những điều không lọt tai họ, thì họ tiên thiên cho là sai, và không thèm nghe, suy nghĩ hay tìm hiểu thêm. Những người này sẽ không bao giờ tiếp nhận được những kiến thức mới, những khám phá mới về chân lý. Vì chân lý thì vô tận, con người khám phá không ngừng và không bao giờ hết. Những khám phá mới nhiều khi phủ nhận hoặc vượt qua những khám phá cũ. Chẳng hạn nếu các em học sinh cấp I cứ chấp cứng vào kiến thức mà các em thu thập được ở trường lớp là: không được lấy số lớn trừ số nhỏ vì đó là một sự phi lý, thì các em sẽ cho các thầy dạy cấp II là dạy bậy. Vì ở cấp II, việc lấy số nhỏ trừ số lớn để ra một số âm là chuyện bình thường. Hay ở cấp II và III, việc đặt số âm trong một căn hiệu là phi lý, nhưng ở đại học, khi học về số ảo, thì một số âm vẫn luôn luôn có căn số.
Đức Phật có đưa ra một minh họa về vấn đề này: Một người có duy nhất một đứa con mà ông rất thương yêu. Khi ông đi vắng để đứa con ở nhà thì kẻ cướp đến đốt làng cướp bóc và bắt con ông đi. Khi về, ông thấy thi hài một đứa bé cháy đen bên căn nhà mình. Ông tin ngay là con mình và chôn cất trong sự thương tiếc. Mấy tháng sau, con ông tìm cách thoát được bọn cướp, tìm về đến nhà lúc nửa đêm và gõ cửa xin vào. Nhưng ông không chịu ra mở cửa vì cứ nhất định là con ông đã chết rồi, và cho rằng đứa gõ cửa là một thằng mất dạy nào đó trêu chọc ông. Rồi ông nhất quyết không nhận nó là con, bất chấp những bằng chứng hợp lý trước mắt.
Người ta nói: ỡKhoa học là mồ chôn những giả thuyếtữ, vì giả thuyết mới phủ nhận giả thuyết cũ. Sự vật thì không thay đổi, nhưng khi ta biết 10 điều, ta nghĩ về sự vật thế này. Khi biết 100 điều, ta lại nghĩ thế khác. Khi biết 1000 điều, ta lại nghĩ hoàn toàn khác nữa. Ta nên tiếp tục nghĩ rằng khi biết 2000, 3000... điều, ta cũng sẽ tiếp tục nghĩ khác. Vậy trong đời sống tâm linh, hãy luôn luôn tỉnh thức để đón nhận những đổi mới của Thánh Thần trong cả cách nhìn về Thiên Chúa và về những chân lý cao sâu. Các tư tế và kinh sư Do-thái chính vì chấp vào những hiểu biết dựa trên Kinh Thánh và thần học của họ mà đã lên án và giết Đức Giêsu!
b) Hãy tin tưởng vào sự hướng dẫn của Thánh Thần:
Còn những môn đệ khác mà điển hình là Phêrô, tuy cũng thấy phi lý và chói tai, nhưng nghĩ rằng mình chưa hiểu được hết ý của Ngài. Qua những sự kiện thấy được nơi Đức Giêsu, họ tin Ngài là người nắm được những chân lý cao siêu, là ỡĐấng Thánh của Thiên Chúaữ. Vì thế, dù Ngài nói điều gì nghe không lọt tai, họ vẫn tạm chấp nhận để tiếp tục theo Ngài, mong có cơ hội sau này hiểu được điều ấy. Và đương nhiên sau này họ đều hiểu. Đó là thái độ khiêm nhường nhưng rất hợp lý: cho rằng khả năng hiểu biết mình còn non kém thì đúng hơn là cho rằng Thầy mình nói sai.
Tất cả những hiểu biết của nhân loại - kể cả của Giáo Hội - đều là những hiểu biết tương đối, phù hợp với số lượng những khám phá của họ. Khi khám phá ra nhiều sự kiện hơn nữa, ắt nhiên mọi người sẽ phải thay đổi quan niệm hay hiểu biết của mình. Trong đời sống tôn giáo hay tâm linh, điều quan trọng là chúng ta phải sẵn sàng đổi mới quan niệm và sẵn sàng từ bỏ những kiến thức cũ của mình thì mới theo kịp Thánh Thần. Ngài là Đấng luôn luôn ỡđổi mới mặt đất nàyữ (Tv 104,30) và sẽ dẫn chúng ta ỡtới sự thật toàn vẹnữ (Ga 16,13). Nên nhớ cách hành động của Thiên Chúa là: ỡKhi Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất hoá ra giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi , thì sẽ tan biến điữ (Dt 8,13). Nếu ta cứ chấp vào giao ước cũ, làm sao ta đón nhận được giao ước mới? Nên nhớ, chỉ một mình Thiên Chúa là không thay đổi, còn mọi hiểu biết của con người về Thiên Chúa thì phải thay đổi theo trình độ trí thức và tâm linh con người. Cứ chấp vào hiểu biết cũ làm sao đón nhận những hiểu biết mới?
CẦu nguyỆn
Lạy Cha, Thánh Thần của Cha luôn luôn đổi mới mọi sự trong thế gian này. Xin cho chúng con biết thích ứng với Thánh Thần, sẵn sàng từ bỏ quan niệm cũ, cách hiểu biết cũ để theo quan niệm và cách hiểu biết mới mà Thánh Thần hướng dẫn. Đừng để chúng con đi vào bánh xe đã đổ của các kinh sư Do-thái: cứ chấp vào hiểu biết cũ nên không theo kịp cái mới của Thánh Thần, để cuối cùng bị đào thải về mặt tôn giáo. Amen.
- "Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai, vì Thầy mới có lời ban sự sống" (Ga 6,68)
Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc I (Gs 24,1-2a.15-17.18b): Ông Giôsuê bảo dân do thái phải chọn hoặc thờ Chúa hay thờ các thần khác.
- Tin Mừng (Ga 6,54a.60-69): Sau khi nhiều người bỏ Đức Giêsu, Phêrô thay mặt Nhóm 12 tuyên bố trung thành đi theo Đức Giêsu.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Ở đời có nhiều cuộc tan rồi hợp và hợp rồi tan: đến với nhau, sống với nhau, rồi bỏ nhau. Nhiều: TN 21-B23
Ở đời có nhiều cuộc tan rồi hợp và hợp rồi tan: đến với nhau, sống với nhau, rồi bỏ nhau. Nhiều tín hữu cũng đối xử với Chúa như thế: theo Ngài rồi bỏ Ngài. Có lẽ chúng ta đây cũng nhiều lần bị cám dỗ bỏ Chúa.
Hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ lại cuộc hành trình đi theo Chúa, và chúng ta tha thiết xin Chúa đừng để chúng ta bỏ Chúa bao giờ, bởi vì, như lời Thánh Phêrô tuyên xưng: "Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống"
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Nhiều lần chúng con đã bỏ Chúa để chạy theo lạc thú thế gian. - Nhiều lần chúng con đã bỏ Chúa vì không muốn vác Thánh giá Chúa trao. - Nhiều lần chúng con có ý muốn bỏ Chúa để tự do sống theo ý riêng của chúng con.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Gs 24,1-2a.15-17.18b)
Khi Môsê qua đời, Giôsuê tiếp tục sứ mạng dẫn dân Do thái về Đất Hứa. Sau khi đã hoàn toàn chinh phục Đất Hứa và chia phần cho các chi tộc, Giôsuê triệu tập tất cả 12 chi tộc tại Sikhem. Ông nhắc lại tất cả những điều mà Thiên Chúa đã làm cho họ, và kêu gọi họ hãy chọn lựa dứt khoát: Từ nay nếu họ chọn Chúa thì phải hoàn toàn trung thành với Ngài, từ bỏ mọi tà thần khác.
2. Đáp ca (Tv 33)
Những lời ca tụng lòng nhân lành Chúa rất hợp với tâm tình của dân Israel sau khi họ đã được Thiên Chúa giải thoát khỏi bao nỗi gian nguy để cuối cùng được sống trong Đất Hứa.
3. Tin Mừng (Ga 6,54a.60-69)
Kết quả của bài giảng về Thánh Thể:
- Nhiều người cho là chói tai, bỏ đi, trong số đó có cả các môn đệ: "Từ hôm đó, có nhiều môn đệ rút lui không theo Ngài nữa".
- Đức Giêsu hỏi Nhóm 12. Phêrô thay mặt nhóm tuyên xưng "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời"
4. Bài đọc II (Êp 5,21-32) (Chủ đề phụ)
Giáo huấn của Thánh Phaolô về đạo vợ chồng: (1) Vợ phải phục tùng chồng như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô ; (2) Chồng phải yêu thương vợ như Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và như người ta yêu thương thân xác mình.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Sống là chọn lựa
Trong bài Tin mừng hôm nay, có một câu nói của Thánh Phêrô đã trở thành bất hủ. Phêrô đã thưa với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, Bỏ Thầy thì con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống". Phêrô đã nói lên câu đó trong một tình thế dằn co: khi ấy người ta đi theo Đức Giêsu rất đông vì Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ ăn no nê, họ đi theo Chúa để mong lại được cho ăn no như thế mãi. Nhưng rồi Đức Giêsu đột ngột chuyển hướng: Ngài hứa ban cho họ một thứ bánh khác, đó là Thịt và Máu Ngài. Làm cho dân chúng như bị hổng chân: họ đang mong được ăn bánh phần xác, thì Đức Giêsu lại hứa cho họ thứ bánh tinh thần. Thành ra nhiều người chán, bỏ Chúa mà đi, họ đã ra đi gần hết. Bấy giờ Chúa mới hỏi nhóm môn đệ thân cận của mình "Còn các con, các con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không ?" Lập tức, Phêrô đã nói lên câu nói bất hủ trên. Ông nhất quyết không bỏ Thầy, ông hứa sẽ mãi mãi theo Thầy. Nghĩa là Phêrô đã làm một sự lựa chọn.
Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được (không ai tự do lựa chọn xem có muốn được sinh ra hay không ; cũng không ai được tự do lựa chọn xem có muốn chết hay không, và chết kiểu nào, lúc nào), còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính những sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ hạnh phúc ; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh.
Đời sống là như thế, sống là phải lựa chọn luôn. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn. Các bài đọc khác trong Thánh Lễ hôm nay cũng nói đến vấn đề lựa chọn: Bài trích sách Giôsuê thuật chuyện ông Giôsuê bảo dân phải lựa chọn một là thờ Chúa hai là thờ các thần tượng khác, chứ không được làm tôi hai chủ, không được bắt cá hai tay. Còn trong thư gởi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô khuyên các đôi vợ chồng một khi đã chọn nhau làm bạn đời thì phải suốt đời trung thành với sự lựa chọn đó, nghĩa là phải thuỷ chung, phải tùng phục nhau, và phải hoà thuận với nhau.
Còn nếu nói theo từ ngữ phật giáo, thì chúng ta cũng phải luôn luôn lựa chọn một bên là tham sân si, và một bên là lý tưởng đạo đức của mình. Mỗi ngày chúng ta phải đứng trước biết bao sự lựa chọn như thế:
. Một người đến đề nghị cho chúng ta một kiểu làm ăn gian lận, tiền sẽ có nhiều nhưng lại trái đức công bình: ta phải chọn hoặc là lòng thâm hay là đức công bình.
. Rồi một người hàng xóm làm một điều gì đó không vừa ý ta, ta phải lựa chọn hoặc là buông theo tính nóng của mình để chửi rủa người ta (Phật giáo gọi là cái Sân), hay là nhịn nhục tha thứ.
. Và rất nhiều khi ta đứng trước những cơn cám dỗ, buông mình theo nó là buông theo cái Si, hay là phải biết tự chủ kềm chế mình.
Ai chọn lựa tham sân si là chọn sai, cuộc đời sẽ trở thành xấu. Còn ai chọn công bình, bác ái, tự chủ tức là chọn lấy cái tốt, chọn con đường Chúa đã vạch ra.
Nếu ta chọn Chúa thì sẽ ra sao ? và nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao ? Linh mục nhạc sĩ Thành tâm đã suy diễn câu nói bất hủ của Thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau:
"Bỏ Ngài con biết theo ai ? . Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cánh chim bơ vơ trong khung trời lộng gió
"Bỏ Ngài con biết theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi". . Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con thuyền lao đao trên biển cả mênh mông.
"Bỏ Ngài con biết theo ai thuyền buông lái biết trôi về đâu ?" . Bỏ Ngài thì đời con sẽ mờ mịt trước tương lai mơ hồ.
"Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ. . Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.
"Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh".
Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung trời lộng gió, cũng như m con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an.
Trên đây là một vài gợi ý về những sự lựa chọn trong cuộc đời.
Nhưng điều quan trọng là chính chúng ta phải biết lựa chọn như thế nào trước những hoàn cảnh riêng của cuộc đời mình. Cầu mong cho mỗi người chúng ta biết lựa chọn đúng và lựa chọn tốt.
* 2. Bỏ Thầy con biết theo ai ?
Trong cuốn Eucharistic Miracles của Carroll Cruz có viết một tích truyện về Bí tích Thánh Thể như sau:
Năm 700, tại tu viện Thánh Lougino ở Lanciano bên Italia, có một linh mục tên là Basilio hoài nghi về mầu nhiệm Chúa hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã làm phép lạ cả thể còn được lưu niệm cho đến ngày nay, như một minh chứng vĩ đại về Phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano.
Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt Máu Chúa đó còn được cô đọng đến ngày nay. Năm 1713 bửu Huyết Chúa đã được lưu giữ trong Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano. Năm 1971, cuộc khảo cứu khoa học đã cho biết Thịt đó là một thớ thịt từ trái tim, và Máu đỏ là máu của con người, thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).
Ngày nay, Thịt và Máu Chúa hiện đang được lưu giữ trong nhà thờ thánh Phanxicô, là trung tâm hành hương nổi tiếng của cả thế giới.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ cũng rơi vào kinh nghiệm khủng hoảng đức tin ấy. Khi Đức Giêsu tuyên bố, Người sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn, thì lập tức nhiều môn đệ đã phản ứng lại: "Lời này chói tai quá, ai mà nghe được" (Ga.6,60). Thánh Gioan còn ghi lại: "Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa" (Ga.6,66). Họ đã theo Người một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng.
Tận hiến cho Đức Kitô không phải là sự lựa chọn một lần, đó là thách thức từng ngày. Trở nên một tín hữu Kitô không là bảo đảm sẽ trung tín đến cùng. Bước theo Đức Giêsu là bước vào một cuộc mạo hiểm: mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin. Đã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại, cũng có kẻ không theo được tới cùng.
Tạo sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai lại trung kiên đến cùng ? Tại sao nhóm thứ nhất thất bại, còn nhóm thứ hai lại thành công ? Có thể nói "để khỏi bỏ cuộc, người ta cần phải bỏ mình". Để theo Đức Giêsu, cần phải chú tâm đến Người hơn là bận tâm về chính mình. Thánh Phêrô đã làm được điều đó khi Ngài nói: "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai ?". (Ga.6,68)
Đứng trước lời tuyên bố của Đức Giêsu xem ra có vẻ "chói tai" thì Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai vẫn không tỏ ra nao núng, vì ngài chỉ nhìn thẳng vào Đức Giêsu.
Đứng trước cuộc thử thách, ngài vẫn một niềm tin tưởng, vì ngài chỉ chú tâm vào Chúa: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa" (Ga.6,69).
Trái lại, nhóm thứ nhất sở dĩ bỏ cuộc, vì họ chỉ loay hoay bận tâm với những ý nghĩ của mình: "Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn ?" (Ga.6,52).
Hôm nay vẫn có những câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vẫn có những giây phút thử thách làm ta chao đảo, vẫn có những cơn cám dỗ làm ta bỏ cuộc. Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa, hãy xác tín lại niềm tin vào Người như Thánh Phêrô đã làm:
*****
Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin... Người là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 3. Đức tin "nghĩa địa"
Một món đồ còn mới thì được gọi là đồ "gin", còn một món đồ đã có người xài trước rồi bán lại thì được gọi là đồ nghĩa địa (tiếng anh gọi là second-hand). Có một người kia một hôm bị rơi vào một tâm trạng vô cùng chán chường vì chợt nhận ra rằng đức tin của anh chỉ là một đức tin "nghĩa địa".
Anh vừa sinh ra thì đã được rửa tội. Lớn lên một chút anh đến nhà thờ học giáo lý và lần lượt được Rước lễ, Thêm sức và các bí tích khác. Hàng tuần anh đến nhà thờ tham dự Thánh lễ và nghe giảng. Ở nhà anh được cha mẹ và ông bà dạy dỗ cặn kẽ về cách sống đạo. Từ trước tới nay anh vẫn an tâm trong đức tin êm đềm như thế. Nhưng hôm đó anh chợt nhận ra rằng tất cả nội dung đức tin ấy đều là của người khác. Anh nghĩ rằng đức tin của anh giống như chiếc áo cũ mà người anh mặc chật nên chuyển lại cho người em. Một thứ đồ second-hand.
Anh nghĩ rằng bây giờ mình đã trưởng thành, mình phải suy nghĩ về đức tin để có những xác tín của riêng mình ; mình cần có những cơ hội thử thách để có những chọn lựa của riêng mình.
Cơn khủng hoảng đức tin của người thanh niên trên hẳn là ray rứt lắm, nhưng thực rất cần thiết. Sinh ra trong đức tin thì chưa đủ, cần phải sinh lại trong đức tin nữa. Có một đức tin "nghĩa địa" cũng chưa đủ, mà cần có đức tin do chính mình xác tín. Chỉ có một đức tin do chính mình xác tín mới có thể giúp ta chọn cho mình một lập trường khi đứng trước những tình thế phải chọn lựa. Như thánh Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay đã mạnh dạn chọn Đức Giêsu đang khi nhiều người khác bỏ Chúa mà đi: "Lạy Thầy, bỏ thầy thì con biết theo ai, vì chỉ có Thầy mới có những lời hằng sống" (Viết theo Flor McCarthy)
* 3. Chúng con cũng bỏ Thầy mà đi chăng ?
Cách đây không lâu vào ngày 6 tháng 3, 1997, một vụ ly dị ở thành phố Bửu Tân (Brockton), bang Mã Sơn Xét (Massachusettes) của Hoa Kỳ gây nên một cảnh tượng hết sức đau lòng. Hai vợ chồng ông Đặng Danh Mừng (Dana Raymond) và bà Giang thị Dương (Jeanne Ardizoni) đưa nhau ra toà để ly dị, mà cả hai đều không chịu nuôi hai con của họ, khiến cuối cùng toà phải xử cho hai đứa con vào viện mồ côi ! Khi toà phán quyết, người ta nghe tiếng khóc nức nở của hai đứa bé tội nghiệp. Thế mà hai bố mẹ vẫn dửng dưng ! Cảnh sát được lệnh toà "bắt" hai đứa bé lên xe chở tới viện mồ côi. Chúng vùng vẫy kêu "Cha", kêu "Mẹ", nhưng cha và mẹ đều không buồn ngó ngàng tới hai đứa con của mình !
Bài Tin Mừng hôm nay cũng để lộ ra một cảnh thương tâm theo bề sâu, mặc dầu bề ngoài xem ra chỉ là chuyện trò bỏ thầy vì giáo thuyết thầy dạy không lọt được vào tai trò.
Rabbi Giêsu đâu phải như các bậc thầy khác trong đạo Do Thái. Tác giả Tin Mừng thứ bốn, kể như người môn đệ thân thiết nhất của Đức Giêsu, trong lời tựa đã giới thiệu Người là Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa "và Ngôi Lời là Thiên Chúa" (Ga 1,1) Nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành và "không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (c.3). Và "Ngôi Lời ấy đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta." (c.14).
Khi Người xuất hiện ở sông Giođan thì chính ông Gioan Tẩy Giả làm chứng về Người rằng "Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy thần khí xuống ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần." (cc.32-33).
Người đã đến nhà mình mà người nhà chẳng chịu đón nhận !
Chính ông Gioan Tẩy Giả là người giới thiệu hai trong số môn đệ của ông đến nhận Đức Giêsu làm thầy (c.37). Nhưng với Đức Giêsu, ai đó trở nên môn đệ của Người phải được chính Người gọi (xem Mc 1,16-20). Giữa đám đông môn đệ, Người đã chọn và thiết lập nên Nhóm Mười Hai, để họ ở lại với Người và để Người sai họ đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa (xem Mc 3,13-15). Nhưng họ vẫn luôn có tự do nhận hoặc khước từ Đức Giêsu. Điều đó được nói lên ngay ở lời tựa của Tin Mừng Gioan: "Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào Danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa." (Ga 1,10-12).
Niềm tin nơi các môn đệ cũng giống như sức khoẻ, cần được bồi dưỡng và triển nở. Tại tiệc cưới Cana, khi Đức Giêsu hoá nước lã thành rượu ngon, các môn đệ đã tin vào Người (2,11). Nhưng tại Giêrusalem, khi nghe Đức Giêsu tuyên bố với người Do Thái: "Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi ; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại", các môn đệ không hiểu lời đó. Khi Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, các ông mới nhớ lại lời đó và mới tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói (20-32). Cả lời tuyên bố của Đức Giêsu với ông Nicôđêmô rằng "Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (3,14-15), lời tuyên bố ấy vẫn còn là điều bí nhiệm đối với các môn đệ.
Riêng với Tin Mừng Máccô, các môn đệ khi được loan báo về cuộc thương khó và phục sinh lần thứ hai, các ông không những không hiểu lời đó mà còn sợ không dám hỏi lại Người (xem Mc 9,30-32). Hơn nữa, các ông còn hành xử một cách hoàn toàn không xứng hợp chút nào với cuộc thương khó vừa được loan báo là dọc đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả ! (Mc 9,34).
Đức Giêsu vẫn muốn các môn đệ được tự do nói lên chọn lựa của mình
Xuyên qua Tin Mừng Gioan chương 6, ta liên tiếp thấy diễn ra cảnh thương tâm là Ngôi Lời làm người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người !
Vậy trước hết ta có đông đảo dân chúng một bên và các môn đệ một bên. Dân chúng mặc dầu được ăn bánh no nê nhờ phép lạ hoá bánh ra nhiều, đã từ khước việc nhìn nhận Đức Giêsu làm mục tử nhân hậu đến chăm sóc họ. Người biết họ sắp đến bắt Người đem đi và tôn lên làm vua, nên Người lánh mặt đi lên núi một mình (c.15). Còn các môn đệ ở lại trên thuyền như Nhóm Mười Hai được Người thiết lập, thì Người đã đi trên mặt nước mà đến với các ông: ngay lúc ấy Người còn cho thuyền các ông lập tức cập bến Caphácnaum, nơi các ông định đến (c.21).
Kế đến, vào ngày hôm sau, đám đông dân chúng lại tìm đến với Đức Giêsu tại Caphácnaum. Đức Giêsu bỏ qua sự cố ngày hôm trước là họ đã muốn bắt Người để tôn làm vua, Người khơi dậy nơi họ ý muốn làm công việc Thiên Chúa muốn họ làm, là tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến (c.29), tức là đón nhận Người mang đến cho họ bánh của Đức Khôn Ngoan là Lời Chúa. Vậy Người nói với họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói ; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ" (c.35). Đó là lúc người Do Thái xầm xì phản đối vì họ không chấp nhận Người là bánh từ trời xuống, mà chỉ kể Người là ông Giêsu, con ông Giuse mà thôi (cc.41-42).
Căng thẳng lên tới tột đỉnh với lời Đức Giêsu tuyên bố "Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống" (c.51). Thịt nói đây là "sarx" trong Hy ngữ, cũng được dùng trong câu "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14). Tức là trọn con người cụ thể của Đức Giêsu được ban cho thế gian để thế gian được sống. Nhưng khi giảng dạy trong hội đường, Caphácnaum, Đức Giêsu lại còn nói: "Nếu các ông không ăn thịt Con Người các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy" (cc.53-56)
Chưa nói gì đến dân chúng, ngay giữa các môn đệ của Đức Giêsu đã xảy ra một phân rẽ giữa kẻ không tin và người tin. Một bên nhiều môn đệ phản ứng: "Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?" (c.60). Nhưng Đức Giêsu vẫn kiên nhẫn khơi dậy nơi họ niềm tin mà họ cần đặt nơi Người là Đấng từ Thiên Chúa mà đến: "Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao ? Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống" (cc.62-63). Đáp lại là cả một bi kịch. Nhiều môn đệ đã rút lui, không còn đi với Người nữa.
Còn bên kia là Nhóm Mười Hai, tức Nhóm chính Đức Giêsu đã thiết lập để họ ở lại với Người. Với họ nữa, Đức Giêsu vẫn muốn họ được tự do nói lên chọn lựa của mình. Cho nên Người đã nêu thẳng vấn đề là: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?" Ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa" (cc.67-69). Nhưng cả giữa nhóm thân cận nhất này của Đức Giêsu, vẫn không vắng bóng kẻ nộp Chúa, để nhắc nhở loài người phải biết luôn thức tỉnh, "vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé." (1P 5,8) (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, sau khi Đức Giêsu mặc khải Người là Bánh ban sự sống muôn đời, Người đòi hỏi mỗi người phải có thái độ dứt khoát, tin hay không tin. Chúng ta cùng càu xin với lòng tin tưởng:
1. Hội thánh hôm nay gặp nhiều khó khăn và thách đố / Xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn tin tưởng và nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
2. Thế giới hôm nay đang phải chọn lựa giữa chiến tranh và hòa bình, giữa vật chất và tinh thần, giữa hận thù và yêu thương / xin Chúa cho mọi nhà cầm quyền biết chọn lựa đường lối nào đem lại tự do và hạnh phúc thật cho mọi người.
3. Nhiều người đã dứt khoát từ bỏ Chúa / nhiều người còn dửng dưng không cần quan tâm đến Chúa / Xin Chúa cho họ được ánh sáng dẫn đường đẻ tìm về với Chúa là lẽ sống của mọi người.
4. Nhiều anh chị em trong họ đạo chúng ta đã biết Chúa mà còn thờ tiền bạc và ham mê đời sống vật chất đời này. / Xin Chúa cho họ được thức tỉnh và trở về với Chúa là Đấng ban sự sống hạnh phúc muôn đời.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, bỏ Chúa thì chúng con biết theo ai bây giờ, vì chỉ một mình Chúa có lời ban phúc trường sinh ; xin cho chúng con luôn vững tin nơi Chúa để giúp mọi người khác cũng tin theo Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước lúc rước lễ: Đức Giêsu đã dạy "Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống muôn đời". Chúng ta hãy dọn mình cho xứng đáng để rước lấy Mình Thánh Chúa.
VII. GIẢI TÁN
Sau khi đã được nuôi dưỡng bằng chính Mình Thánh Chúa và Lời hằng sống của Ngài, chúng ta hãy trung thành theo Chúa suốt đời.
Chủ đề: Muốn được sống, chúng ta phải chú tâm vào Đức Giêsu chứ không phải vào những vấn đề của chúng ta
Một chiếc tàu đánh cá Xô Viết được đưa vào sửa chữa bên cạnh chiếc tàu tuần dương Hoa Kỳ: TN 21-B24
Một chiếc tàu đánh cá Xô Viết được đưa vào sửa chữa bên cạnh chiếc tàu tuần dương Hoa Kỳ tại bờ biển New England. Các quan chức Mỹ- Xô cùng ngồi trong chiếc tàu Nga bàn luận sôi nổi về kỹ thuật đánh cá ở Bắc Đại Tây Dương. Cuộc hội thảo đang tiến hành tốt đẹp thì vào đêm nọ, một sự cố bất ngờ đã đe doạ bầu khí thuận thảo giữa hai bên.
Chuyện xảy ra là có một thuỷ thủ người Nga tên Simas Kudirka lẻn ra khỏi tàu Xô Viết, bơi khỏi mười bộ (khoảng 3m) qua bên tàu Mỹ. Kudirka nài nỉ được tỵ nạn chính trị, nhưng vị chỉ huy tàu Mỹ từ chối. Quyết định này về sau bị các thượng cấp quở trách. Còn chàng thuỷ thủ hụt hẫng ấy bị giao lại cho nhà cầm quyền Xô Viết, bị trả về Nga, sau đó bị giam vào tù. Trong thời gian ở tù, chàng đã nhiều lần tuyệt vọng. May thay giữa cơn thử thách ấy, một tù nhân khác đã dạy chàng vần thơ của thi sĩ Ruydyard Kipling người Anh. Về sau, Kudirka cho hay rằng chính những dòng thơ này đã gíup chàng đương đầu với tương lai. Một đoạn trích từ những dòng thơ ấy:
“Nếu dành được chiến thắng hay gặp cơn hoạn nạn, con vẫn xử sự như nhau,
Nếu điều chân thực con nói ra, lại bị những tên vô lại vu khống là gian dối hại người, mà con vẫn tỏ ra bình thản.
Nếu nhìn toàn bộ sự nghiệp đời mình đang vỡ tan, mà con vẫn bình tâm nhẫn nhục xây dựng lại, bằng những phương tiện cùn lụt.
Nếu con vẫn có thể dồn toàn bộ năng lực của tâm hồn, thần kinh và gân cốt, để tiếp tục sinh hoạt như bình thường, sau khi chúng gần như bại liệt...
Và nếu con vẫn kiên gan bền chí, khi tất cả mọi sự đã tiêu tùng, chỉ còn lại ý chí trong con bảo con phải kiên trì...
Nếu con làm được như thế, thì trái đất và mọi sự trên đó sẽ thuộc về con.
Hơn thế nữa, hỡi con Ta, con sẽ là một con người đích thực.”
Thỉnh thoảng, Kudirka lại nhẩm đi nhẩm lại những lời trên, dần dà chúng đem lại cho chàng một sức mạnh đáng kể giúp chàng kiên vững. Câu chuyện còn dài nhưng tôi xin rút ngắn lại Kudrika vẫn sống sót sau khi bị tù, và hiện nay anh đã được tự do. Kudirka cho rằng sở dĩ anh sống sót chính là nhờ sức mạnh tinh thần do bài thơ của Kipling đem lại. Bài thơ ấy giúp cho anh có sức mạnh để kiên trì khi nơi anh chẳng còn lại gì ngoài ý chí truyền bảo anh: hãy cứ bền gan.
*****
Câu chuyện trên cho ta thấy rõ điểm trọng yếu trong bài Tin Mừng hôm nay, điểm trọng yếu đó là: Trong cuộc đời, có những lúc chúng ta dường như bị dồn vào chân tường và hầu như đang sắp sửa mất tất cả. Có những lúc chúng ta cần phải có một cái gì gíup chúng ta đừng nản chí. Chúng ta cũng thấy tâm trạng đó trong bài Tin Mừng hôm nay. Các môn đệ Chúa Giêsu cũng bị đẩy vào chân tường. Niềm tin của các ông nơi Đức Giêsu bị thử thách trầm trọng, vì trong bài giảng Ngài nói rằng Ngài sẽ hiến chính thịt Ngài cho họ ăn.
Các môn đệ phản ứng lại thách đố này bằng hai cách: Một nhóm cảm thấy không thể nào chấp nhận được những lời Đức Giêsu nói ấy, nên họ từ giã Ngài, không còn theo Ngài nữa. Nhóm còn lại thắng được cơn thử thách và vẫn trung thành với Đức Giêsu. Tại sao nhóm thứ nhất thất bại và nhóm thứ hai thành công trong cuộc thử thách ấy?.
Tin Mừng không trả lời câu hỏi ấy, nhưng đã ghi lại một manh mối để trả lời. Manh mối đó là: khi Chúa Giêsu hỏi nhóm thứ hai: “Các con cũng bỏ Ta chứ?”. Phêrô trả lời thay cho cả nhóm: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai đây? Thầy có lời ban sự sống đời đời. Và bây giờ chúng con biết và tin rằng Thầy là Đấng Thánh duy nhất từ Thiên Chúa đến”. Bị dồn vào chân tường, nhóm này biết dán mắt vào Chúa Giêsu. Những lời Đức Giêsu nói ra không hề khiến họ chao đảo. Bị dồn vào chân tường, họ vẫn tin tưởng vững chắc vào Đức Kitô, đang khi nhóm thứ nhất làm ngược lại. Họ chỉ biết chú tâm vào vấn đề của họ, thắc mắc của họ. “Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?”. Tóm lại, họ không biết nhìn đăm đăm vào Đức Giêsu.
Một đằng biết chú tâm vào Đức Giêsu, một đằng chỉ biết chú tâm vào những vấn đề của mình. Hai hình ảnh ấy cũng được diễn tả rõ ràng trong một đoạn Tin Mừng khác liên quan tới Chúa Giêsu và Thánh Phêrô:
Một đêm nọ, các tông đồ đi thuyền trên hồ thì một cơn bão lớn thổi tới. Khi cơn bão mạnh đến cực điểm thì Đức Giêsu hiện ra đi trên sóng tới với họ. Các tông đồ kinh khiếp quá la lên: “Ma! Ma!” Lập tức Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy can đảm lên! Ta đây ! Đừng sợ!”. Bấy giờ Phêrô lên tiếng: “Lạy Thầy, nếu quả thực là Thầy, xin hãy ra lệnh cho con bước trên mặt nước mà đến với Thầy!”. Chúa Giêsu trả lời: “Cứ đến đi!”. Thế là Phêrô bước ra khỏi thuyền và bắt đầu đi trên mặt nước đến với Chúa Giêsu. Nhưng khi thấy gió mạnh quá, ông liền kinh sợ, thế là ông bắt đầu chìm xuống nước... ông vội la to lên: “Thầy ơi, cứu con với !”. Lập tức Chúa Giêsu đưa tay nắm lấy ông và nói: “Sao đức tin của con kém thế ! sao con lại hồ nghi trong lòng?” (Mt 14: 26-31)
Câu chuyện trên cho thấy: Bao lâu Phêrô biết vững tâm nhìn vào Chúa Giêsu, thì ông được an lành. Nhưng khi ông rời mắt khỏi Ngài và bắt đầu chỉ chú tâm lo vấn đề của riêng mình, thì lập tức ông lâm vào nguy hiểm ngay.
Từ đó chúng ta có thể rút ra những kết luận thực tiễn:
Khi gặp bão tố, chúng ta đều xử sự giống như Phêrô. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta gặp những cơn bão tố cực kỳ nguy hiểm. Trong cuộc sống có những lúc chúng ta cảm thấy mình như muốn chìm lỉm như Phêrô. Khi gặp những cảnh như thế, chắc chắn chúng ta sẽ gặp trong tương lai, chúng ta đừng vấp phải cùng một lỗi giống như Phêrô. Chúng ta đừng chỉ biết chú ý đến cơn bão, nghĩa là chỉ biết chú tâm tới những vấn đề chúng ta. Tốt hơn, chúng ta hãy chú tâm vào Chúa Giêsu đang đứng trên thuyền và khích lệ chúng ta. Hoặc chúng ta có thể nghĩ tương tự như thế qua câu chuyện bài Phúc Âm hôm nay, tức câu chuyện Chúa Giêsu nói với các môn đệ Ngài về bí tích Thánh Thể. Trong cuộc sống sẽ có những giây phút chúng ta cũng bị thách đố bị cám dỗ từ bỏ Chúa, không theo Ngài nữa. Những lúc đó, chúng ta đừng vấp phải những lầm lỗi giống như các tông đồ ngày xưa đã vấp phải. Nghĩa là đừng chỉ lo chú tâm đến vấn đề đang xảy đến cho chúng ta, mà hãy đưa mắt nhìn vào Chúa Giêsu. Chúng ta hãy xác nhận lại niềm tin vào Ngài như Thánh Phêrô đã làm và hãy thưa cùng Ngài:
“Lạy Chúa, Chúa có những lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin... Ngài là Đấng Thánh duy nhất từ Thiên Chúa đến...”
Một người vô tín ngưỡng dừng chân ở một nông trại bên Hoà Lan, anh lớn giọng với ông chủ trại: TN 21-B25
Một người vô tín ngưỡng dừng chân ở một nông trại bên Hoà Lan, anh lớn giọng với ông chủ trại:
- Chẳng bao giờ tôi tin điều tôi không hiểu..
Ông chủ nông trại nói:
- Điều này khó đấy. Này nhé, thí dụ trong trại này, cậu có thấy đồng cỏ không? Ngựa của tôi ăn cỏ, lớn lên nó mọc lông khắp mình. Con cừu ăn cỏ, thế là nó có len. Con ngỗng của tôi ăn cỏ, cả mình nó đầy lông vũ. Cậu có hiểu tại sao không?
Thực vậy, cho dù thông minh uyên bác đến mấy, người ta cũng không thể hiểu rõ toàn bộ những hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên. Một số kiến thức khoa học, chúng ta cũng chỉ nghe nói lại chứ đâu phải ta đích thân thí nghiệm và biết cặn kẽ chính xác. Vậy mà chúng ta vẫn tin, chúng ta tin có vi trùng. Tin trái đất tròn, tin nước gồm hai thành phần khí hợp lại...
Từ lãnh vực tự nhiên bước sang siêu nhiên cũng vậy. Không ai hiểu được các mầu nhiệm trong đạo, chúng ta tin là vì Chúa dạy, vì Chúa thấu suốt mọi sự và cũng vì yêu thương ta, Chúa đã tỏ bày cho chúng ta. Đó là căn bản của mọi niềm tin.
Mầu nhiệm Thánh Thể là mầu nhiệm mà Chúa Giêsu đích thân dạy dỗ. Thánh Gioan đã nghe và tường thuật cho chúng ta khá đầy đủ. Nhưng chính Gioan cũng như đa số người nghe Chúa, không ai hiểu hết được. Họ chia làm hai phe. Một phe tỏ ra khó chịu, cho rằng những lời này làm chói tai, họ đã bỏ đi. Một phe thiểu số còn lại cũng không hiểu gì mấy, nhưng vẫn tin vào Chúa vì tin Ngài là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa hằng sống. Chúa biết trình độ hiểu biết hữu hạn của con người, kể cả những nhà hiền triết Đông Tây, nên Chúa đòi hỏi phải có lòng tin, tin vào Lời Ngài.
Thấy nhiều người bỏ đi, Chúa buồn lắm, nhưng Chúa không rút lại lời đã khẳng định. Chúa cũng không niú kéo họ, vì lòng tin phải được biểu lộ hoàn toàn tự do. Niềm tin đòi ta vượt trên ánh sáng khoa khọc. Không phải chỉ học về lòng tin mà là dấn thân, là thực hành trong cầu nguyện, trong việc đón nhận lời mạc khải từ Thiên Chúa. Lắng nghe Lời Chúa và làm theo lời Chúa dạy, từ đó sẽ có lòng tin, một lòng tin chính Chúa ban tặng cho. Lòng tin vào Thánh Thể, có thể nói được là lòng tin trung tâm của đời sống Kitô hữu đến nỗi người ta thường gọi người giữ đạo là những người có đi lễ. Lòng tin vào Thánh Thể gồm hai khía cạnh rõ rệt: thứ nhất là ăn bánh sự sống, thứ hai là chia sẻ sự sống Đức Kitô, Ngài là tình yêu hiện thực.
Lòng tin như thế, nhất thiết phải xây dựng trên Lời Chúa, phải tiếp nhận Lời Chúa với lòng mến yêu tôn kính. Vì “Lời Chúa là Thần Trí và là Sự Sống”. Đó là một tâm tình cần phải có khi đọc Tin Mừng. Chúa Giêsu thường được kể là một vĩ nhân, một học giả, một ngôn sứ, một nhà giải phóng... Nhưng còn hơn thế nữa, Chúa là Thiên Chúa yêu thương.
Lạy Chúa, bỏ Ngài, chúng con biết theo ai? Vì Ngài có những lời hằng sống. Chúng con tin nhận Ngài là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Xin thêm lòng tin cho chúng con và giúp chúng con chia sẻ tình thương Chúa cho mọi người trong cuộc sống bác ái hôm nay.
John là một người thanh niên, chàng lần lần rời xa Giáo hội. Chàng không đi lễ nữa, không chịu: TN 21-B26
John là một người thanh niên, chàng lần lần rời xa Giáo hội. Chàng không đi lễ nữa, không chịu các bí tích. Trong thế chiến thứ hai, khi chàng đăng ký nhập ngũ, sự lo âu của Mẹ chàng tăng thêm: Nếu chàng bị chết thì sao? Linh hồn chàng sẽ ra sao? Khi chàng chuẩn bị lên đường. Mẹ chàng nói với chàng: “John ơi, Mẹ muốn con làm cho mẹ một việc”. John hỏi: “Cái gì đó, Mẹ?”
“Mẹ muốn con đọc ít nhất mỗi ngày 1 lần kinh Kính Mừng. Hãy đọc, bất kể con bận hay con mệt tới mức nào”. Một chút do dự, Jonh đã hứa.
Trải qua năm tháng. Những bức thơ của John thưa dần. Một ngày kia một bức thư của cha tuyên úy cho hay John bị thương nặng và chàng đã xin chịu các phép bí tích. May mắn Hohn bình phục. Trong bức thơ đầu về nhà. Chàng viết: “Mẹ ơi, cám ơn Mẹ bảo con làm lời hứa ấy. Con đã giữ. Mỗi lần có dịp con đi lễ và rước lễ”.
Mỗi vị linh mục đều đã nghe những câu chuyện như thế. Nó làm tôi nghĩ ngay: Dẫu một linh hồn trôi dạt xa Chúa bao xa. Nếu họ giữ một liên hệ nào đó với Chúa dù chỉ một kinh Kính Mừng một ngày, có hy vọng và có cơ may linh hồn ấy sẽ tìm đường trở về với Chúa.
Như rất người công giáo ngày nay, John đã bắt chước những người môn đệ trong Tin Mừng hôm nay: Họ không đến với Chúa nữa. Những môn đệ ấy từ chối tin rằng Đức Kitô có thể lấy thịt sống của riêng Ngài cho họ ăn, Máu Ngài cho họ uống. Dẫu rằng họ đã thấy với 5 cái bánh, Đức Giêsu đã làm cho 5.000 người ăn no và họ đã thấy Người đi trên mặt nước.
Hầu hết những lý do người công giáo lìa xa Giáo hội có liên quan tới điều này. Thí dụ: “Thánh lễ không liên hệ đến tôi”. Họ muốn nói Thánh Lễ không cho họ một rung động thể lý hay xúc cảm. Họ làm gì thay vào đó? Không làm gì cả. Kinh nghiệm cho thấy những người như vậy thường không đọc lấy một kinh, điều đó không lạ. Họ phải nói điều các tông đồ đã nói với Chúa Giêsu: “chúng con biết theo ai?” ngoài Giáo hội, và họ không thể lãnh các bí tích. Hầu hết mọi nơi, họ chẳng làm gì cả.
Quan điểm của tôi là người ta phải làm cái gì họ có thể làm được, điều này đem lại sự nâng đỡ và ơn của Chúa.
Đây là mấy đề nghị: Hãy đọc kinh “Lạy Cha”, kinh “Kính Mừng” hãy cầu nguyện bằng ngôn ngữ của riêng bạn như: “Lạy Chúa, xin giúp con làm mọi cái con có thể, để làm vui lòng Chúa”
Bạn để ý cho con em của bạn để chỉ dạy về tôn giáo. Chính bạn phải dạy chúng. Hãy tham gia công việc của họ đạo. Bố thí cho người nghèo, người túng thiếu. Hãy giữ luật Chúa, những luật bạn có thể giữ được.
Rất thường xẩy ra là một người công giáo, khi họ nghĩ họ không thể giữ một giới răn nào đó của Chúa, họ sẽ gác bỏ tất cả mọi giới răn của Chúa qua một bên.
Bạn hãy làm những gì có thể làm được, nhất là cố gắng tham dự Thánh Lễ mối ngày Chúa nhật. Nếu bạn không thể rước lễ, bạn hãy rước lễ thiêng liêng. Nghĩa là bạn hãy thưa với Chúa Giêsu rằng bạn muốn rước Người vào trái tim bạn. Hãy thưa với Người rằng bạn hối hận vì tội lỗi của bạn, bạn ước ao Người đến với bạn một cách thiêng liêng. Bạn đón tiếp Người.
John trong câu chuyện chỉ làm một việc rất nhỏ là đọc mỗi ngày một kinh Kính Mừng, Chúa đã thưởng anh. Bạn hãy làm những gì bạn có thể làm được. Chúa sẽ thưởng bạn.
Phản ứng sau "diễn từ về bánh hằng sống" đã tới hồi gay gắt, gây ra khủng hoảng. Đó chính là sự: TN 21-B27
Phản ứng sau "diễn từ về bánh hằng sống" đã tới hồi gay gắt, gây ra khủng hoảng. Đó chính là sự khủng hoảng lòng tin. Cuộc khủng hoảng này lây lan đến cả các môn đệ của Chúa. Những lời xì xầm kêu ca khởi từ phía các kinh sư luật sĩ đến dân chúng: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?". Tin Mừng trình thuật: "Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Ngài nữa".
Nhưng có phải vì thế mà Đức Giêsu rút lại lời nói, hay ít ra điều chỉnh cho nhẹ bớt, dễ lọt tai hơn? Chúa không hề nhượng bộ một ly. Ngài không uốn lưỡi câu cho vừa miệng cá, không nêm nếm chân lý cho hợp khẩu vị người nghe, mặc dầu làm như vậy có thể dẫn đến tình trạng các môn đệ sẽ bỏ Ngài mà đi hết. Chúa đã chờ đợi việc ấy: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?".
Phêrô đã thay mặt anh em nhóm 12 tuyên tín với Chúa: "Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban sự sống". Phêrô có những phút yếu đuối, nhưng vào những giây phút trọng đại, quyết liệt, ông luôn có đủ lòng yêu mến và lòng tin vào Đức Giêsu, khả dĩ dẫn đường cho anh em. Sở dĩ Phêrô tuyên tín được một cách sáng giá như vậy, vì ông đã được Chúa Cha ban ơn để đến được với Đức Giêsu. Mà sở dĩ ông được Chúa Cha ban ơn vì ông đã có lòng tin yêu Thầy mình.
Tin và yêu là hai thực tại gắn bó. Không thể yêu nếu không tin và không thể tin nếu không yêu. Và chỉ có lòng tin mới vượt qua được những từ ngữ, mới hiểu được những gì bên kia từ ngữ "chướng tai". Tin là liều. Như Đức Phaolô VI đã dùng một từ ngữ khá hình tượng: nhảy liều trong hy vọng. Và sở dĩ dám liều, vì đã yêu thương và hy vọng trông cậy.
Lạy Chúa, trong cuộc sống lòng tin, chúng con không đòi những bằng chứng như thánh Tôma, mà chúng con theo gương thánh Phêrô tuyên xưng Chúa là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Xin Chúa thêm lòng tin, lòng trông cậy, lòng mến Chúa cho chúng con.
Hành trình đón nhận Đức Giê-su và đi theo Người là một hành trình đầy khó khăn. Thật vậy: TN 21-B28
Hành trình đón nhận Đức Giê-su và đi theo Người là một hành trình đầy khó khăn. Thật vậy, dân Do- thái ngày xưa đã gặp nhiếu gian nan thử thách để sống thủy chung với Thiên Chúa là Đấng đã giải thoát họ ra khỏi ách nô lệ ở Ai-cập. Họ luôn bị cám dỗ chạy theo các thần khác. Khi Đức Giê-su đến để nói cho họ biết về Thiên Chúa, thì họ từ chối không đón nhận Người và đã kết án tử hình, treo Người trên cây thập giá. Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy thái độ của các môn đệ trước những lời giãng dạy của Đức Giê-su.
Đức Giê-su giãng dạy điều gì qua bài Tin Mừng hôm nay ?
Chúng ta hãy đọc lại câu 54a: “Ai ăn thịt và uống máu ta thì được sống muôn đời.” Đức Giê-su dạy chúng ta phải ăn thịt và uống máu Người để được sống đời đời. Có nghĩa là phải đón nhận Người vào trong cuộc đời chúng ta và để cho Lời Người dưỡng nuôi chúng ta.
Có ai đã từng nuôi dưỡng người khác bằng chính thịt máu mình chưa ? Thưa có. Trong vở cải lương “Thoại Khanh – Châu Tuấn”, nàng Thoại Khanh đã lóc thịt mình nướng cho mẹ chồng ăn trên bước đường truân chuyên đi tìm chồng là Châu Tuấn. Nhưng đấy chỉ là giai thoại, là hư cấu. Mới đây nhiều trận động đất đã xảy ra. Người ta đào bới các đống gạch đổ nát để cứu những người đang bị kẹt trong đó. Và sau nhiếu ngày tưởng là đã luống công, người ta tìm thấy một phụ nữ đang ôm chặt con mình trong lòng. Người mẹ đã chết. Đứa bé vẫn còn sống, miệng đầy máu. Có lẽ người phụ nữ này đã cắn nát ngón tay mình và đút vào miệng đứa bé để nó bú khi bầu sữa của bà đã cạn. Và đứa bé đã ngậm ngón tay đầy máu của mẹ, sống bằng chính máu của mẹ, cho đến khi người ta tìm ra nó trong đống gạch đổ nát.
Đã có những người phụ nữ nuôi sống mẹ và con mình bằng chính thịt máu của mình. Đức Giê-su cũng đề nghị nuôi dưỡng chúng ta bằng chính Thịt Máu của Người. Một lời đề nghị nghiêm túc. Người nói lời này khi Người còn sống, để cho thế gian biết rằng tình thương của Người dành cho nhân loại là vô cùng tận. Người sẵn sàng trao ban chình bản thân mình để cho mọi người được sống. Không phải là sống như một con vật, chỉ biết ăn, biết uống, rồi chết. Sự Sống Đức Giê-su trao ban là sự sống đời đời, sự sống thần linh, sự sống của Thiên Chúa. Sự Sống này một khi được chúng ta chân thành đón nhận, lập tức biến chúng ta trở thành con người mới, được thông phần vào Sự Sống của Thiên Chúa.
Phản ứng của các môn đệ đối với lới Chúa
Trước lời đề nghị của Đức Giê-su, các môn đệ đã phản ứng như thế nào ? Một số khá đông đã từ chối, không đón nhận lời “chướng tai” này và bỏ Đức Giê-su, không đi theo Người nữa ( c. 60, c. 66 ). Họ đã đón nhận Lời Chúa bằng trí hiểu của loài người, bằng cái tâm của một con người chưa có một mảy may tương giao nào với Đức Giê-su. Bởi vậy làm sao họ chấp nhận được Chúa và ở lại với Người ? Xầm xì với nhau rồi bỏ đi là lẽ thường tình thôi !
Nhưng may mắn thay còn có Phê-rô. Ông đã bật lên lời tuyên xưng Đức Tin: “Thầy mới có những lời đem lại Sự Sống đời đời. Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” ( c. 69 ). Chính Đức Giê-su đã xác nhận Phê-rô được Chúa Cha tác động để nói lên những điều ấy: “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban cho ơn ấy” ( c. 65 ).
Chấp nhận đi theo Đức Giê-su là một lựa chọn cơ bản của đời sống tâm linh. Không phải tự chúng ta làm được việc này, mà chính Chúa Cha đã lôi kéo ta đến với Đức Giê-su. Ơn Đức Tin chúng ta đón nhận khi chịu Bí Tích Thánh Tẩy là một ơn nhưng-không Chúa ban. Nếu chúng ta không biết gìn giữ và nuôi dưỡng Đức Tin bằng Lời Chúa, bằng chính Sức Sống Thần Linh của Chúa, thì một ngày nào đó ta cũng sẽ cảm thấy “chói tai” như các môn đệ xưa. Sẽ càng “chói tai” hơn nữa khi Lời ấy đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa những điều trái với bản tính vị kỷ xấu xa và thấp hèn của con người.
Trong lịch sử nhân loại, có những lời đem lại bình an và cũng có những lời gây đau thương chết chóc. Một Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc, hay một thế giới hận thù lao vào chiến tranh chém giết lẫn nhau, đều phát xuất từ một lời nói của ông vua khi xưa hay của một lãnh tụ ngày nay. Tại sao người ta lại chú ý đến những lời một tổng thống nào đó tuyên bố hơn là lời giảng dạy bình thường của một giáo sư nơi giảng đường ? Chỉ vì lời của ông ta có thể ảnh hưởng đến nền hòa bình của thế giới.
Tuy so sánh có phần khập khiễng, nhưng Lời Chúa cũng vậy, Lời ấy đem bình an và hạnh phúc cho những ai biết đón nhận và đem ra thực hành. Lời Chúa cũng là bản án đối với những người không tin. Chúng ta đọc được trong Tin Mừng Mác-cô: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu Phép Rửa sẽ được được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án“ ( Mc 16, 15 – 16 ). Lời Chúa đòi chúng ta phải có một thái độ dứt khoát: đón nhận để được cứu độ, hoặc từ chối để phải mang án chết. Không thể lừng khừng ba phải trước Lời Chúa được !
Mỗi người đón nhận Lời Chúa và đi theo Người một cách khác nhau. Nhiều người trong chúng ta đón nhận ơn Đức Tin từ khi còn trong bụng mẹ. Nhiều người khác đón nhận ơn Chúa qua một biến cố của cuộc đời. Thánh Phao-lô không ngã ngựa thì vẫn chưa nhận biết Đức Giê-su. Người mù, người què, người câm, người điếc, người phong cùi... được Chúa chữa lành và họ xin đi theo Người. Những chứng nhân sống động ấy vẫn không thiếu trong thời đại của chúng ta, một thời đại xem ra rất tiến bộ về khoa học kỹ thuật, những lại vẫn bó tay trước nhiếu căn bệnh hiểm nghèo – nhất là trong lãnh vực tâm linh. Khi con người chịu khiêm tốn chấp nhận mình đã bất lực bó tay thì Thiên Chúa mới tỏ lộ quyền năng cứu chữa của Người.
Bước khởi đầu nhận ra mình bất lực, để xin Chúa thương cho đi theo Chúa đã khó. Bước thứ hai, sống và tuân giữ Lời Chúa càng khó hơn. Chúa bảo: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liếu mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” ( Mc 8, 35 ).
Chúng ta thử xét xem, mình có làm đúng như vậy không ? Từ bỏ chính mình ư ? Chỉ một lời nói khóe nói cạnh cũng đủ làm cho tôi phát điên lên được rối còn nói gì đến những cái khác nữa ? Vác thập giá của mình ư ? Ôi lạy Chúa, bà vợ của con khó ưa quá, ông chồng con bết bát quá, mấy đứa cảtc con chẳng được cái tích sự gì, lại thêm một đống bạn bè vô duyên, cộng với một tá hàng xóm lắm mồm lắm mép ! Vậy mà Chúa bắt con phải vác lấy họ trong đời con sao ? Chúa dạy con phải thương yêu kẻ thù, phải cầu nguyện cho họ, phải chia sẻ của cải vật chất cho người nghèo, phải làm hòa với người anh em trước khi đến với Chúa... Con phải thú nhận rằng, con đến với Chúa xem ra dễ dàng hơn đến với những người con không ưa ! Con xin dâng lên Chúa sự hối cải ăn năn của con.
Xin đưa ra một vài gợi ý: Chọn đi theo Chúa có nghĩa là chấp nhận làm theo Lời Ngài và sống bằng thứ lương thực Ngài ban cho là Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Chúng ta hãy xét xem:
- Ai đang làm chủ cuộc đời tôi ? Chồng tôi, vợ tôi, con tôi, công việc, hay một nỗi đam mê nào đó đã thay thế Chúa chỉ huy toàn bộ cuộc đời tôi ?
- Tôi đang dùng thứ lương thực nào để nuôi sống linh hồn mình ? Phải chăng phim dài nhiều tập, sách báo nhảm nhí, các mối quan hệ bạn bè, rượu chè, bài bạc, xì-ke ma tuý, và cả các thú vui dễ dãi, đã chiếm hết chỗ của Lới Chúa và Bánh Thánh Thể trong cuộc sống của tôi ?
Lạy Đức Giê-su, đã nhiều lần con bỏ Chúa mà đi khi con từ chối không thực hành những điều Chúa dạy; đã nhiều lần con đi Rước Lễ một cách máy móc khiến Sự Sống của Chúa không tác động được gì nơi con; đã nhiều lần con nói những lời làm tổn thương anh em con, thay vì phải nói những lời đem lại bình an và hạnh phúc.
Xin Chúa thứ tha cho con. Xin thêm ơn Đức Tin cho con. Xin giúp sức cho con trên bước đường đi theo Chúa. Xin cho con xác tín rằng: “Lời Chúa là thần khí và là sự sống” để con siêng năng đọc và suy gẫm lời Chúa mỗi ngày, để con được sống bằng chính Sự Sống Thần Linh của Chúa nơi Bí Tích Thánh Thể. Amen.
Kết quả của bài giảng về Thánh Thể: - Nhiều người cho là chói tai, bỏ đi, trong số đó có cả: TN 21-B29
Kết quả của bài giảng về Thánh Thể:
- Nhiều người cho là chói tai, bỏ đi, trong số đó có cả các môn đệ: “Từ hôm đó, có nhiều môn đệ rút lui không theo Ngài nữa.”
- Chúa Giêsu hỏi nhóm 12, Phêrô thay mặt nhóm tuyên xưng “Lạy thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sữ sống đời đời”
B...nẩy mầm.
1. Hành trình theo Chúa không luôn êm ả. Một ngày nào đó, có thể Lời Chúa làm chúng ta cảm thấy chói tai, nhất là khi Lời Chúa buộc ta phải thực hiện một sự lựa chọn khó khăn. Tin đòi phải kiên trì.
Chúa ơi!
Có những ngày con cảm thấy Lời Chúa rất ngọt ngào êm ái và bình an. Khi đó con rất dễ dàng đáp lại Lời Chúa. Nhưng cũng có những ngày khác con thấy Lời Chúa thật chói tai, con không muốn chấp nhận, con còn rút lui. Nhưng xin cho con hiểu rằng Lời Chúa- và chỉ có Lời Chúa- mới là lời chân thật và mới đem lại cho con sự sống thật. Xin cho con đừng bao giờ rút lui vì “Lạy thầy, con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
2. Tôi đã được sinh ra và lớn lên, được nuôi dưỡng bằng lời của cha mẹ, thầy cô, bạn bè. Hơn nữa, là người Kitô hữu, tôi còn sống nhờ một lời đặc biệt: Đó là Lời Chúa.
Đức Giêsu ngỏ lời với tôi qua chính cuộc đời của Ngài. Ngài đã mặc khải cho tôi biết Cha đã giới thiệu tôi với Người. Sự đốt phá của Ngài vào sư sống đời đời mở ra cuộc sống mới cho đến vô hạn.
Hôm nay, tôi có dám khẳng định với Chúa như Phêrô không? Ông đã sống với Chúa và Tin vào Lời Ngài, đặc biệt qua những lần bị vấp ngã.
Lời Chúa Giêsu xin cho con biết tin vào sự linh nghiệm của Lời Chúa, để dám sống theo Lời Ngài dạy bảo. (Epphata)
3. Trong vườn, một gốc nho héo úa giữa bao cây xanh tươi mơn mởn. Tưới bao nhiêu phân cũng chẳng thấy khá hơn. Cuối cùng, người chủ đào gốc lên xem, thì thấy có miếng gỗ nằm chắn ngang gốc nho.
Có lẽ đời ta cũng vậy. Nếu không đâm rễ sâu vào lòng đất là Lời Chúa, đời ta cũng tàn úa.(Góp nhặt) 5. Mầm khác:
Chúng ta không ngạc nhiên mấy khi thấy các môn đệ cho rằng bài giảng của Chúa Giêsu thật khó: TN 21-B30
Chúng ta không ngạc nhiên mấy khi thấy các môn đệ cho rằng bài giảng của Chúa Giêsu thật khó lãnh hội. Từ ngữ Hilạp skleros không phải là khó hiểu nhưng có nghĩa là khó chấp nhận. Các môn đệ biết rất rõ là Chúa Giêsu tự xưng là sự sống từ Thiên Chúa giáng hạ chẳng ai có thể sống hay đối diện với cõi đời đời nếu không tin nhận và đầu phục Ngài.
Đến đây chúng ta gặp một chân lý nổi bật vào mọi thời đại. nhiều khi người ta khước từ Chúa Cứu Thế vì không đáp ứng được tiêu chuẩn đạo đức mà Ngài đòi hỏi, chứ chẳng phải vì không bết Ngài. Khi thành thật suy nghĩ về vấn đề này, chúng ta bắt buộc nhìn nhận tại tâm điểm của mọi tôn giáo đều phải có huyền nhiệm, lý do đơn giản vì ở trung tâm của mọi tôn giáo đều có Thiên Chúa. Theo bản tính chung của mọi sự vật, tân trí loài người chẳng bao giờ hiểu được đầy đủ, trọn vẹn về Thiên Chúa. Bất cứ một nhà tư tưởng chân chính nào cũng phải chấp nhận huyền nhiệm.
Chỗ khó thật sự của Kitô giáo gồm hai phương diện. Nó đòi hỏi một hành động đầu phục Chúa Giêsu, nận Ngài là quyền uy tối hậu, và nó cũng đòi hỏi một tiêu chuẩn đạo đức cao nhất. Các môn đệ vốn hiểu rất rõ rằng Chúa Giêsu tự xưng chính Ngài là sự sống, là thần trí của Thiên Chúa xuống thế gian. Cái khó của họ là chấp nhận điều đó là đúng, luôn với tất cả những gì hàm ngụ trong đó. Mãi đến nay nhiều người vẫn khước từ Chúa Cứu Thế, không phải vì trí tuệ họ không hiệu nổi, nhưng vì không theo nổi tiêu chuẩn sống của Ngài.
Cho nên Chúa Giêsu tiếp tục- không nhằm cố gắng chứng minh cho lời tự xưng của Ngài- mà để vạch rõ rằng sẽ có ngày các biến cố xảy ra chứng minh điều đó. Ngài nói “các ngươi thấy khó tin Ta là bánh, là phần thiết yếu cho sự sống, từ trời xuống. Rồi các ngươi không còn thấy khó tin nữa, khi chứng kiến Ta trở lên trời”. Đây là lời báo trước sự thăng thiêng. Điều đó có ý nghĩa rằng sự phục sinh bảo đảm cho tất cả các lời tuyên bố của Ngài. Chúa Giêsu không phải là người sống cao quí và cet dũng cảm cho một chính nghĩa bị thất bại. Ngài là Đấng mà những lời tự xưng được ứng nghiệm bởi sự kiện Ngài chết rồi sống lại.
Chúa Giêsu tiếp tục dạy rằng điều tối quan trọng là quyền ban sự sống bởi Chúa Thánh Linh, xác thịt chẳng ích lợi gì cả. Thật đơn giản để hiểu phần nào ý nghĩa của nó- điều quan trọng hơn hết, ấy là phần tinh thần ở trong mọi hành động. Giá trị của bất cứ vật gì tùy thuộc vào mục đích của nó. Nếu chỉ ăn để mà ăn thì chúng ta trở thành kẻ tham ăn như thế có hại hơn có lợi; nếu chúng ta ăn để bảo tồn sự sống, để làm việc tốt hơn, để giúp thân thể thích ứng với điểm cao nhất của nó thì thức ăn mới có ý nghĩa đích thực. Nếu một người chỉ dành thời giờ để chơi thể thao chỉ vì thể thao mà thôi, thì trong phạm vi nào đó anh đã phí phạm thời giờ của mình. Nhưng nếu người ấy chơi thể thao để thân thể được tráng kiện, do đó, có thể phục vụ Thiên Chúa và loài người đắc lực hơn thì thể thao lại trở thành quan trọng. Mọi điều liên hệ tới xác thịt có giá trị hay không tùy thuộc vào tinh thần nó được thực hiện.
Chúa Giêsu tiếp tục “Lời Ta là thần linh (tinh thần) và sự sống”. Chỉ một mình Chúa Cứu Thế cho chúng ta biết sự sống là gì, đặt trong chúng ta phần tinh thần hướng dẫn cuộc sống đời mình, và ban cho chúng ta năng lực để sống cuộc đời ấy. Sự sống có giá trị hay không tùy theo chủ đích, chủ đích thực của đời sống, và cũng chỉ một mình Ngài ban cho chúng ta năng lực để thực hiện mục đích ấy, chống lại những nghịch cảnh bên ngoài và bên trong sẽ đến với mình.
Nhưng Chúa Giêsu biết rất rõ nhiều người không chỉ khước tử xuông lời đề nghị của Ngài mà cón chối bỏ với lòng đối kỵ, thù ghét nữa. Không ai có thể tin nhận Chúa Giêsu trừ phi được Thánh Thần tác động để làm như vậy, nhưng con người cũng có thể chống lại Thiên Thần cho đến ngày cuối cùng. Một người như thế không phải bị Thiên Chúa loại bỏ ra, nhưng chính người ấy tự loại bỏ mình ra.
Đoạn này được viết theo linh tính về thảm họa sắp xảy ra, vì đây là phần bắt đầu của giai đoạn cuối cùng. Nhiều người kéo đến theo Chúa Giêsu, lúc Ngài dự Lễ Vượt Qua tại Giê-ru-sa-lem, họ đã thấy các phép lạ Ngài làm và tin danh Ngài, số người đến chịu các môn đệ làm phép rửa không kể xiết (2,23; 4,1-3). Tại Samari nhiều việc lớn đã xảy ra (4, 1.39.45). Tại Galilê, mới ngày hôm trước dân chúng hãy còn theo Ngài rất đông (6,2), nhưng bây giờ giọng mô tả đã thay đổi. Từ nay trở đi , sự oán ghét sẽ càng chồng chất cho đến khi đạt đến tột đỉnh là thập giá. Thánh kí Gioan đã hé mở màn cuối của tấm thảm kịch. Chính trong những hoàn cảnh như thế, người ta mới thấy rõ lòng người và bộ mặt thật của họ. Và trong những hoàn cảnh như thế, đã có ba thái độ khác nhau đối với Chúa Giêsu.
Có sự bỏ cuộc:
Nhiều người quay lưng lại, không đi theo Ngài nữa, họ bỏ đi vì nhiều lý do. Một số người trong số họ đã thấy rõ Chúa Giêsu đang đi về đâu. Không thể thách thức giới cầm quyền như Ngài đã làm mà có thể tránh khỏi hậu họa. Chúa Giêsu đang đi vào thảm họa và họ đã rút lui kịp thời, họ là hạng người tùy thời. Người ta bảo muốn thử một đạo quân hãy xem cách đạo quân ấy đánh giặc khi mọi người đều mệt mỏi. Nến sự nghiệp của Chúa Giêsu cứ đi lên, chắc những người kia chưa quay lui, nhưng ngay khi nhìn thấy bóng thập giá họ đã bỏ Ngài. Có một số người khác bỏ Chúa vì muốn trốn tránh thách thức của Ngài. quan điểm cơ bản phải mất một chút gì đó cho Ngài là họ bỏ đi ngay.
Nếu theo Ngài là thơ mộng huy hoàng, chắc họ bám sát Ngài, nhưng khi đường đi trở thành khó khăn, theo Ngài đòi hỏi một số điều khó làm thì họ bỏ Ngài. Việc họ tìm thầy học đạo hoàn toàn đều do những động lực ích kỷ. Thật ra chẳng có ai ban cho chúng ta nhiều hơn Chúa Giêsu. nhưng nếu chúng ta chỉ đến với Ngài nhằm mục đích thu vào chứ chẳng cho ra, chắc chắn chúng ta phải trở lui. Những ai muốn theo Chúa Giêsu phải nhớ đường theo Ngài là thập giá.
Có sự suy thoái.
Chúng ta thất điều này nơi Giuđa rõ ràng nhất. Chúa Giêsu đã thấy ông là người có thể dùng cho mục đích của Ngài. Nhưng thay vì trở thành anh hùng, Giuđa lại trở thành tên vô lại, và người đáng lẽ là thánh lại thành quỉ. Câu chuyện của họa sỹ vẽ bức tranh Bữa Tiệc Ly là một kinh nghiệm đáng sợ. Đó là một bức tranh khổng lồ, đòi hỏi họa sỹ phải mất nhiều năm để vẽ. Tìm một người mẫu để vẽ Chúa Giêsu, ông gặp một thanh niên có khuông mặt đẹp đẽ, thuần khiết và siêu thoát, ông thuê chàng làm người mẫu. Bức tranh cứ thế được bổ túc, ông cứ vẽ hết môn đệ này đến môn đệ khác, một ngày kia ông cần một người để vẽ Giuđa mà ông đã dành lại để vẽ sau cùng. Ong đi ra tìm trong số người hèn hạ nhất trong thành phố. Cuối cùng ông gặp được một người, bộ mặt in hằn dấu vét của một kẻ trụy lạc vô cùng xấu xa. Ong thuê người ấy làm mẫu. Khi bức tranh hoàn tất, người mẫu nói với họa sỹ "trước đây đã có lần ông vẽ tôi rồi". Họa sỹ đáp: "chắc chắn là không". Người nọ bảo: “Ồ có chứ, lần trước ông vẽ tôi, ông đã dùng tôi làm mẫu để vẽ Chúa Giêsu đấy”. Năm tháng đã tạo nên sự suy thoái khủng khiếp. Thời giai thật bạo tàn có thể cướp đi những lý tưởng, những hăng say, những mơ ước và sự trung thành của chúng ta , có thể để lại nơi chúng ta một đời sống ngày càng nhỏ nhoi thay vì càng cao đẹp. Nó có lưu lại cho chúng ta một tấm lòng chai lỳ thay vì được mở rộng trong tình yêu thương của Thiên Chúa. Cuộc đời có thể làm mất đi vẻ đẹp của chúng ta. Nguyện Chúa cứu chúng ta khỏi tình trạng đó.
Có sự quyết định.
Đây là cách Gioan viết lại lời tuyên xưng của Phêrô tại Xêzarê. Chính trong một hoàn cảnh như thế, người ta đã thấy lòng trung thành của Phêrô. Đối với Phêrô, có một điều thật đơn giản, ấy là chẳng có ai đáng cho ông đi theo hơn là Chúa Giêsu. Với ông chỉ có Ngài mới có lời của sự sống đời đời.
Lòng trung thành của Phêrô được căn cứ trên mối liên hệ cá nhân với Chúa Giêsu. Có nhiều điều Phêrô không hiểu. Ông cũng bối rối lạc lõng như bất cứ ai khác, nhưng nơi Chúa Giêsu có một cái gì khiến ông sẵng sàng hy sinh tính mạng. Nói cho cùng, Kitô giáo không phải là một triết lý mà chúng ta phải chấp nhận hay một lý thuyết buộc chúng ta phải trung thành. Nó là sự đáp ứng cá nhân với Chúa Giêsu. Đó là lòng trung thành và tình yêu mà một người hiến dâng, vì tấm lòng ấy không cho phép làm gì khác hơn được.
1. Khi mọi người đã bỏ đi, Đức Giêsu lại đặt một câu hỏi hết sức quyết liệt.
Ở Caphacnaum, diễn từ về bánh hằng sống kết thúc bằng sự khủng hoảng công khai. Sau "người: TN 21-B31
Ở Caphacnaum, diễn từ về bánh hằng sống kết thúc bằng sự khủng hoảng công khai. Sau "người Do thái" là những người đầu tiên bỏ đi, đến lượt "nhiều môn đệ" của Đức Giêsu xầm xì và đả kích Ngài giống như con cái Israel trong thời kỳ băng qua sa mạc (vào đất hứa). Họ nói: "Lời này chướng tai quá, ai mà tiếp tục nghe nổi?"
Không làm dịu bớt bầu không khí căng thẳng, Đức Giêsu còn đặt ra cho những người nghe mình một câu khó trả lời. Sau khi đã loan báo cái chết của mình là nguồn mạch sự sống cho thế gian, bây giờ Ngài đề cập đến việc Ngài trở về với Cha. Ngài nói vói họ: "Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? thế anh em thấy Con người lên nơi đã ở trước kia thì sao?
Lần này thì quá lắm rồi! tác giả Tin Mừng viết tiếp: "Từ lúc đó, rất nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Ngài nữa".
Chính lúc đó mà hầu như mọi người bỏ rơi mình, Đức Giêsu quay sang "nhóm mười hai" (hạt nhân của một dân mới) là tên mà Tin Mừng thứ bốn gọi lần đầu tiên. Ngài nói với họ, thúc ép họ phải có một chọn lựa dứt khoát: hoặc bỏ đi, hoặc ở lại theo Ngài cho tới lễ vượt qua của Ngài, như Ngài đã hỏi họ tại miền Cêsarê Philipphê (Mt 16,15; Mc 6,14-15; Lc9,7-8):"Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi sao?".
2. ...Và lời tuyên xưng đức tin của Simon-Phêrô:
Simon-Phêrô nhân danh "nhóm mười hai" (ông xưng hô ở ngôi nhất số nhiều) tuyên bố sự gắn bó của các ông với Đức Giêsu: "Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và biết rằng chính Thầy là Đấng của Thiên Chúa".
Thánh Phêrô bắt đầu:"Chúng con biết đi với ai?". Tác giả Tin Mừng đặt trên môi Phêrô động từ "đi" là động từ đã được dùng trước đó để chỉ sự "rất nhiều môn đệ" bỏ rơi Thầy. Rõ ràng ngược lại với đám đông môn đệ đó, "nhóm mười hai" đã dấn thân theo Thầy.
Chính việc mạnh mẽ tuyên xưng đức tin đã làm tan biến mọi do dự; tuyên xưng đức tin không phải là gắn bó với những chân lý trừu tượng, nhưng với con người Đức Giêsu: "Thầy có... Thầy là...". X.Léon Dufour chú giải: Lời tuyên xưng đức tin của "Phêrô vọng lại điều Đức Giêsu vừa khai mạc: lời Ngài là "sự sống đời đời". Phêrô mặc nhiên hoàn toàn chấp nhận tất cả nội dung của diễn từ mà các môn đệ khác xét là không thể chấp nhận được. Chắc chắn theo tình hình câu chuyện được kể lại trong Tin Mừng, Ông vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa trọn vẹn những lời Đức Giêsu, nhưng ông đã tin tưởng vào những điều chính yếu nhất, đó là sứ điệp của Chúa Giêsu đem lại sự sống đời đời". ("Lectere de l'Evangile selon Jean", tập 2, Seuil, trang 188).
Và trong lời tuyên xưng đức tin, Phêrô đã dành cho Đức Giêsu một danh hiệu chưa từng có: "Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa", nghiã là Đấng mang trong mình một cái gì đó Thánh thiện của chính Thiên Chúa.
X.Léon Dufour đặt câu hỏi: "Đấng Thánh của Thiên Chúa nói lên điều gì? Đây là một tên gọi hãn nữu, khó giải thích. Phêrô không dùng lại một tên nào mà Đức Giêsu đã sử dụng trong diễn từ để chỉ chính Ngài (Con, Bánh Trường Sinh, Đấng thiên sai, Con người); thậm chí ông cũng không dùng một danh hiệu truyền thống nào về sự mong đợi Đấng cứu thế trong đạo Do thái... Điều đặt biệt nơi đây là Phêrô đã diễn tả Đức Giêsu là ai theo cách riêng của ông. Phải chăng ông lập lại danh hiệu này theo thánh vịnh 16, trong đó có nói đến danh hiệu "Đấng Thánh của Ngài" theo bản dịch Bảy mươi? (xem tông đồ công vụ 2,27) Thánh vịnh này ca tụng tình thân mật sâu xa giữa Thiên Chúa và người cầu nguyện; phải chăng Phêrô cũng muốn nói đến tình thân mật sâu xa giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa? Đức Giêsu đã công bố sự kết hợp giữa Ngài với Đức Chúa Cha (5,19-30), sau đó, Ngài còn loan báo mình đã được "Thiên Chúa thánh hiến" (10,6; 17,19). Danh hiệu "Đấng thánh của Thiên Chúa" cao vượt hơn danh hiệu "Thiên sai" rất nhiều và thích hợp với danh hiệu "Con Thiên Chúa" mà Simon-Phêrô tuyên xưng trong Thánh Mátthêu 16,16". (Sách đã dẫn, trang 189)
Trong cơn khủng hoảng Giáo hội phải đương đầu, Các Kitô hữu ngày nay cũng đang đứng trước câu hỏi cốt yếu xưa kia Đức Giêsu đã đặt ra cho các môn đệ Ngài: câu hỏi về căn tích Con người của Ngài, về sứ vụ của Ngài và về sứ vụ của Giáo hội. Dựa trên đức tin của Phêrô và nhóm mười hai, chúng ta có cương quyết chọn đi theo Đức Giêsu để trở nên nhân chứng cho Tin Mừng mà Thế giới đang mong đợi không?
Sau khi rao giảng về Bí tích Thánh thể, dân chúng và ngay cả một số đông môn đệ đã lấy làm: TN 21-B32
Sau khi rao giảng về Bí tích Thánh thể, dân chúng và ngay cả một số đông môn đệ đã lấy làm chướng tai gai mắt và khó nghe, nên đã lìa bỏ Chúa. Thấy vậy, Chúa bèn quay về với nhóm Mười Hai. Ngài đòi các ông phải có thái độ và lập trường dứt khoát, Ngài hỏi các ông:
- Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không ?
Và như thế chúng ta đã thấy, Phêrô thay mặt cho tất cả anh em trong nhóm đã thưa lên cùng Chúa:
- Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Hẳn chúng ta còn nhớ, một lần khác, khi thầy trò tới địa hạt xứ Cêsarêa Philipphê, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ:
- Người ta bảo con người là ai ?
Các ông đã lượm lặt dư luận đó đây và thưa lên cùng Chúa:
- Người thì bảo là Êlia, người thì bảo là Giêrêmia, người thì bảo là một tiên tri nào đó và kẻ khác lại nói là Gioan tẩy giả.
Có lẽ lúc bấy giờ, Chúa Giêsu đã nhìn các ông và đặt một câu hỏi nòng cốt, đòi các ông phải bày tỏ lập trường:
- Còn các con, các con bảo Thầy là ai ?
Và Phêrô cũng thay mặt cho anh em trong nhóm tuyên xưng đức tin:
- Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.
Xuyên qua những lời giảng dạy, Chúa Giêsu bao giờ cũng đòi hỏi nơi những người muốn bước theo Ngài một thái độ dứt khoát, một lập trừờng rõ rệt. Ngài bảo:
- Ai yêu thương cha mẹ, vợ con, tiền bạc nhà cửa hơn Ta, thì không xứng đáng làm môn đệ Ta. Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì nếu yêu chủ này thì sẽ ghét chủ kia, cũng vậy không thể làm tôi vừa Thiên Chúa vừa tiền bạc. Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Sở dĩ như vậy là vì tinh thần của Chúa thì trái với tinh thần của thế gian như lửa với nước, như ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là theo trót cả tâm hồn, chứ không thể trung lập, lửng lơ, đi nước đôi và bắt cá hai tay.
Cựu ước có kể lại một mẩu chuyện như sau: Ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem và ông nói với họ:
- Hôm nay các ngươi hãy lựa chọn, một là thờ phượng Đức Giavê, hai là thờ phượng các thần của dân ngoại. Riêng phần tôi và gia đình, chúng tôi nhất quyết chỉ thờ phượng một mình Đức Giavê mà thôi.
Bấy giờ dân chúng trả lời rằng:
- Không hề có chuyện chúng tôi lìa bỏ Đức Giavê mà tôn thờ những thần dân ngoại. Đức Giavê là Thiên Chúa của chúng tôi, chính Ngài đã dẫn chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, đã làm những việc kỳ diệu trước mặt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt những con đường chúng tôi đã đi qua. Chúng tôi chỉ phụng thờ Đức Giavê vì chỉ mình Ngài là Thiên Chúa chúng tôi.
Có lẽ giờ đây Chúa Giêsu cũng nhìn mỗi người chúng ta và muốn chúng ta tỏ bày cái thái độ dứt khoát. Thế nhưng, có lẽ chúng ta đã phải cúi mặt xuống, bởi vì mặc dù mang tiếng là người có đạo, là kẻ đã tin theo Chúa, nhưng cuộc đời chúng ta vẫn còn chồng chất quá nhiều tội lỗi, bản thân chúng ta vẫn thường xuyên nhượng bộ cho những cám dỗ, những khuynh hướng xấu xa. Chúng ta vừa muốn phụng thờ Chúa, vừa muốn phụng thờ ma quỷ. Vừa muốn bước theo Chúa lại vừa muốn phạm tội.
Chúng ta giống như người tân tòng khi được ghìm xuống nước để lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì ông cứ giơ một bàn tay lên cao. Vị linh mục bèn hỏi tại sao, thì ông trả lời: - Con muốn tin theo Chúa thật đấy, nhưng lại muốn dành bàn tay này cho tội lỗi, để khi bàn tay này ăn trộm ăn cắp, gây gỗ đánh lộn thì nó không thuộc về Chúa.
Hãy có một thái độ và một lập trường dứt khoát. Hãy dâng hiến cho Chúa trọn vẹn cả tâm hồn lẫn thể xác bởi vì nếu chúng ta nói rằng mình yêu mến Chúa, mà còn giữ lại một xó góc con tim cho tội lỗi, dù là một xó góc nhỏ bé nhất, thì đó là một dấu chỉ chắc chắn nhất chứng tỏ chúng ta chưa hề yêu mến Chúa.
-----------------------------
TN 21-B33.Hành trình đức tin – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đức tin là một con đường: con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài. Vì ta sẽ phải đi TN 21-B33 FB
Đức tin là một con đường: con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài. Vì ta sẽ phải đi suốt cuộc đời mới hết. Đường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ và tiếng chim hót véo von. Đó là những khi niềm tin dâng đầy. Ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng đường gian nan đầy chông gai sỏi đá. Ta gặp khó khăn thử thách. Ta gặp đau khổ thất bại. Ta không tìm đâu ra lối thoát. Ta như chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Đó là khi niềm tin bị thử thách, bị nghiêng ngả chao đảo. Ta cảm thấy mệt mỏi chán chường. Ta muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác. Ta bị cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn.
Đó là trường hợp của những người Do Thái và một số môn đệ hôm nay.
Khi Đức Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi mừng vui. Họ tin tuyệt đối rằng Người chính là Đấng Cứu Thế đến cứu dân tộc Do Thái. Niềm tin của họ mạnh mẽ đến nỗi khi Đức Giêsu trốn đi, họ vẫn đuổi theo sát nút với ý định tôn Người lên làm vua cai trị họ.
Thế mà hôm nay, khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, đám đông đã bỏ Chúa. Một số môn đệ cũng bỏ Chúa mà đi. Đức tin bồng bột tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước nay đã tan tành như mây khói. Sự gắn bó tưởng chừng như không gì chia cắt nỗi, bỗng trở nên nhạt nhẽo lạnh lùng. Đức tin gặp thử thách và họ đã không đủ mạnh tin để vượt qua thử thách. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín. Người không vì thế mà nói những lời nhẹ nhàng hơn. Đức tin phải trải qua thử thách. Lửa thử vàng, gian nan thử lòng trung tín. Chỉ có những người bạn trung thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa.
Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù chưa hiểu những điều Đức Giêsu nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Thế mới gọi là tin. Vì chưa thấy nên mới cần tin. Đã thấy rõ, đã biết rõ thì đâu cần tin nữa. Tuy nhiên niềm tin không phải là cái gì vô lý. Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nuớc, các ông hoàn toàn có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người. Đó là hai khía cạnh trái ngược của niềm tin. Tin là một ngọn đèn soi cho ta bước đi trong đêm tối. Ngọn đèn chỉ sáng đủ cho ta bước đi từng bước nhỏ trong niềm tin. Nhưng màn đêm vẫn tăm tối đủ cho ta nghi ngại. Chính vì thế mà niềm tin mới có giá trị và cần thiết.
Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn tin tưởng gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách đó mới thật sự là niềm tin chân chính.
Hành trình đức tin của chúng ta chắc chắn sẽ không khác hành trình đức tin của các Tông đồ. Có những thời gian thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt. Khi ấy Lời Chúa là những lời êm ái ngọt ngào làm phấn chấn lòng ta. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa.
Nhưng rồi tới những ngày u ám tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy Lời Chúa làm cho cuộc đời ta mất bình an. Lời Chúa gõ vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời Chúa gõ vào sức khoẻ ta. Lời Chúa gõ vào gia sản ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay.
Trong những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ đên những lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực.
Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với Chúa như thánh Phêrô: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời”. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đã có khi nào bạn cảm thấy niềm tin chao đảo, lung lay? Bạn đã làm gì để vượt qua những giờ phút khó khăn đó? 2- Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Bạn có xác tín điều đó không? 3- Sau khi những khó khăn qua đi, bạn nhìn thấy tất cả đều là ơn Chúa. Bạn có kinh nghiệm đó không?
Một số người khi nghe ai nói về một điều gì khó tin thì nói: “Khi nào tôi thấy, tôi mới tin”. Nhưng: TN 21-B34
Một số người khi nghe ai nói về một điều gì khó tin thì nói: “Khi nào tôi thấy, tôi mới tin”. Nhưng xét theo lý luận, thì câu đó không hợp lý. Bởi vì, nếu một người xem thấy sự việc, thì người ấy đã biết rồi. Đối tượng của lòng tin tưởng là những gì không có trước mặt mình.
Trong Tin Mừng, chúng ta cũng thấy trường hợp tương tự như vậy. Vì thế, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Nếu các con thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao ?” có nghĩa là “Phải chăng các con chỉ tin khi thấy bằng chứng rõ ràng xác minh Ta là Đấng nào ?” Chúa Giêsu biết một số môn đệ của Người đi theo Người chỉ vì những niềm an ủi mà họ nhận được, nhưng thiếu một đức tin chân thành vào Người.
Qua lời tuyên bố về bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã tách biệt những người đi theo Người cách giả dối ra khỏi đoàn môn đệ chân thành. Vì thế, chúng ta cần nhớ rằng đức tin đích thật được tỏ lộ khi dường như không có một lý lẽ gì giúp cho chúng ta tin.
Điều này cũng là tiêu chuẩn cho đức tin của chúng ta. Khi thuận lợi, chúng ta dễ dàng ca tụng, cám ơn Chúa. Nhưng chúng ta phản ứng thế nào và nói những gì, khi chúng ta gặp nhiều khó khăn và đau khổ trong cuộc sống, và dường như tình yêu và sự hiện diện của Chúa Giêsu không còn nữa ?
Lạy Chúa Giêsu, con tìm kiếm chính Chúa chứ không phải những ơn huệ của Chúa. Xin giúp con tha thiết yêu mến Chúa chứ không phải lo tìm những an ủi và phần thưởng.
Ba bài Tin Mừng của ba Chúa nhật trước đã thuật lại bài giảng của Chúa Giêsu về bánh ban: TN 21-B35
Ba bài Tin Mừng của ba Chúa nhật trước đã thuật lại bài giảng của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống và cho biết thái độ cũng như phản ứng của dân chúng. Mặc dầu được thấy các sự lạ, được ăn bánh hóa nhiều, nhưng khi nghe Chúa nói Ngài là manna mới, là bánh bởi trời đích thực, Ngài bởi trời xuống, thịt Ngài thật là của ăn, máu Ngài thật là của uống, ai ăn thịt Ngài và uống máu Ngài thì sẽ được sự sống đời đời… họ lẩm bẩm với nhau, xô xát nhau và phản đối Chúa dữ dội, họ đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và cũng chính là ý nghĩa mà Chúa muốn nói, nên chẳng những Chúa không cải chính mà còn giải thích rõ hơn và nhấn mạnh hơn, nên có nhiều người đã bỏ đi không nghe Chúa nói nữa.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại phản ứng của các môn đệ nói chung và của nhóm 12 tông đồ nói riêng, mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giải thích thêm. Trước hết, nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do Thái khác: “Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi”, họ lẩm bẩm với nhau như thế. Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích thêm cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu xa hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài. Nhưng có nhiều môn đệ đã rút lui không đi theo Chúa nữa. Như vậy, không những dân chúng chán ngán vì những lời Chúa Giêsu tuyên bố với họ, mà cả các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm 12, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Những người này đã có thái độ thế nào hay phản ứng của họ ra sao ? Ông Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: Họ không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Như vậy, ông Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, tin vào sứ mạng của Ngài, Ngài có những lời đem đến sự sống đời đời.
Như vậy, qua bài giảng về bánh hằng sống, chúng ta thấy đám đông dân chúng vì thấy Chúa không đáp ứng nguyện vọng của họ, nên lẩm bẩm, không tin và bỏ đi. Ngay cả các môn đệ cũng bỏ Ngài, vì không chấp nhận nổi những lời tuyên bố của Ngài, họ cũng thất vọng và bỏ đi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn còn một niềm an ủi, đó là các tông đồ thân tín, vẫn cương quyết đi theo Ngài và tin vào lời Ngài.
Nhìn về chúng ta, đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người phải đích thân chọn lựa. Đành rằng cộng đoàn đức tin nâng đỡ mỗi người sống đức tin, nhưng mỗi người phải đích thân dứt khoát: đứng lại với Chúa không phải chỉ vì thấy người khác còn đứng lại hay vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng đứng lại với Chúa vì tin rằng Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không còn ai khác để mình đi theo, tức là đòi hỏi chúng ta phải luôn trung thành với Chúa dù gặp hoàn cảnh nào cũng vậy, chẳng hạn như ông Ma-ranh trong câu chuyện sau:
Thời vua Ga-liên bách hại đạo, trong quân đội Rôma có một sĩ quan tên là Ma-ranh, xuất sắc, lừng danh, bách chiến bách thắng. Ai cũng biết Ma-ranh sắp được thăng đại tướng, chính ông cũng rất hy vọng như thế. Nhưng Ma-ranh là người Công giáo tốt, suốt đời ông chỉ xin ơn trung thành với lời hứa ngày chịu phép Rửa tội. Khi ấy, một trong các đại tướng Rôma chết bất ưng. Hôm sau, vị toàn quyền mời Ma-ranh đến vui vẻ nói: “Tôi vừa được lệnh nhà vua gọi ngài lên chức đại tướng, và tôi được hân hạnh trao quyền tổng chỉ huy cho ngài, nhưng nghe đâu ngài là người Công giáo, mà nhà vua thì không chịu để một người Công giáo nào trong sĩ quan quân đội hoàng gia, vậy xin ngài nói cho biết ngài có phải là người Công giáo không ?”. Ma-ranh quả quyết: “Thưa, đúng thế, tôi là người Công giáo”. Viên toàn quyền nghiêm nghị nói: “Tôi cho ngài ba tiếng đồng hồ để nghĩ lại, nếu chối Giêsu thì làm đại tướng, nếu không ngài phải chết”. Ma-ranh ra về, đến gặp vị giám mục và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vị giám mục cầm tay Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung thánh, là chính nơi ngày xưa Ma-ranh đã thề trọn đời trung thành với Chúa Kitô. Rồi vị giám mục rút thanh gươm bên hông của Ma-ranh đặt bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói: “Này ông Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, phải chọn một trong hai, xin ông nhớ lại ngày rửa tội, rồi tùy ý ông”. Ma-ranh mạnh mẽ cầm sách Tin Mừng nói: “Con thề trung thành với Chúa, con xin trung thành”. Vị giám mục âu yếm nhìn Ma-ranh nói: Con hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ là ngày vinh quang của đời con, ngày hôm nay là ngày con đại thắng”. Và ngày hôm đó, Ma-ranh đã đổ máu vì đức tin Công giáo.
Trong những thế kỷ đầu của Giáo hội, dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy người có đạo anh dũng chịu chết vì Chúa. Đâu là lý do của sự can đảm lạ lùng ấy ? Thánh Síp-ri-a-nô trả lời: “Chính nhờ Mình Thánh Chúa gìn giữ mà người có đạo mới ra pháp trường một cách anh dũng như vậy”. Đời vua Tự Đức, tổ tiên chúng ta cũng không thua kém các vị tử đạo đầu tiên ở Rôma, nhờ đâu ? Nhờ rước Mình thánh Chúa, trong một sắc lệnh cấm đạo của vua Tự Đức có một điều sau: “Không được để cho người ta đem đến cho kẻ có đạo một thứ bánh mầu nhiệm gì đó, vì thứ bánh ấy làm cho họ không biết sợ và vui vẻ chịu chết”.
Trong cuộc sống, có thể chúng ta không phải lựa chọn như ông Ma-ranh hay không bị bách hại như các vị tử đạo, nhưng rất có thể có nhiều lựa chọn khác hay những thử thách khác, đòi hỏi chúng ta phải sống ngay thẳng, công bình, bác ái. Xin Mình Thánh Chúa mà chúng ta rước lấy, tăng thêm sức mạnh để chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách ở đời này, nhất là về phương diện đức tin.
Việc Chúa nhật hàng tuần chúng ta họp nhau thờ phượng Thiên Chúa, không đơn giản chỉ là: TN 21-B36
Việc Chúa nhật hàng tuần chúng ta họp nhau thờ phượng Thiên Chúa, không đơn giản chỉ là các cuộc tụ họp có tính thuần xã hội, như gặp gỡ bạn bè, cơ hội làm ăn mới, quan hệ mới,... mà đúng lý phải mang ý nghĩa thiêng liêng hơn, tức thăng tiến các mối dây hiệp nhất thân tình với những tâm hồn đang khát khao trở nên môn đệ đích thật của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng nhau hạ quyết tâm thi hành những điều Thiên Chúa đòi hỏi để xứng đáng làm chứng nhân cho Ngài và các đường lối của Ngài! Có phải như thế là chúng ta vâng theo lời Thánh Kinh: “Hãy qua cửa hẹp mà vào nước trời” (Mt 7,13)? Có phải Chúa Giêsu mô tả cánh cửa nhỏ xíu, chỉ đủ để chấp nhận số nhỏ được tuyển lựa kỹ lưỡng vào nước Thiên Chúa, ngoài ra bị loại bỏ? Thưa không phải vậy. Ngài mạc khải con đường, cánh cửa, mà chúng ta quyết tâm tiến bước để đến cùng Cha Ngài. Con đường đó là hy sinh, hãm mình. Con lạc đà muốn đi lọt qua Cửa Kim bé nhỏ thì phải trút bỏ mọi hành lý cồng kềnh trên mình lại, thì mới có thể qua được. Cũng vậy, người lữ hành về nước trời mà mang theo nhiều tham vọng, của cải, chức quyền, tiếng tốt, thì không có khả năng đạt tới mục tiêu. Chúng ta tiến vào bằng cửa hẹp, bởi vì nghe theo lời Chúa mời gọi, và sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì không phù hợp với đường lối của Ngài.
Đa phần tín hữu được sinh ra và lớn lên trong các truyền thống công giáo. Nhưng chưa đủ, việc theo Chúa đòi hỏi nhiều hơn nữa. Suốt cuộc sống chúng ta cần phải thường xuyên khẳng định lại quyết tâm theo Chúa bằng nhiều phương thức khác nhau, giống như ông Giosuê trước mặt tuyển dân Do Thái: “Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ thờ phượng Đức Chúa.” Gương sáng của chúng ta, các quyết định của chúng ta thường xuyên gây hậu quả nghiêm trọng đến thân nhân, bà con, láng giềng. Ông Giosuê là người kế vị trực tiếp của Môsê, có nhiệm vụ canh tân và cụ thể hoá giao ước giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Ông làm việc này ở Sikhem, nơi xưa kia Thiên Chúa đã ký kết giao ước với tổ phụ Abraham và Sara. Đúng là một công việc có ý nghĩa biểu tượng rõ nét và mạnh mẽ (St 12,6). Giosuê đã thành công dẫn dắt tuyển dân đổi mới đời sống giao ước với Đức Chúa Trời. Dân Israel hăng hái quyết tâm trung thành với Thiên Chúa, đấng lập giao ước với cha ông họ và kể ra những sự lạ Ngài đã làm trên dân: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa, để thờ phượng các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao. Chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.”
Ngày nay, chúng ta có thể tưởng tượng quang cảnh “Sikhem” riêng của mình, tức những nơi, những chỗ, những thời gian lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa. Tính ra thì vô số, chúng là những địa chỉ canh tân thiêng liêng. Cho nên chúng ta không chỉ nguyên “đi nhà thờ”, với con cháu, bạn bè, hàng xóm. Mà chính ra là tụ họp trong đức tin mà phụng sự Đức Chúa. Chúng ta nhớ lại các kỳ công của Thiên Chúa trên cuộc đời mỗi người, trên gia đình, dòng tộc, đất nước, khi nghe tuyên bố các bài Sách Thánh. Chính Chúa Giêsu đã gọi những lời Kinh Thánh là “thần khí và sự sống” (Ga 6, 63). Như vậy, cùng với Giosuê, chúng ta cất cao giọng khẳng định: “chúng tôi sẽ thờ phượng Đức Chúa”. Lời tuyên bố phát xuất từ lòng tin và tinh thần đổi mới, nhận định đúng vị trí và hoàn cảnh của mình. Thánh thể là giao ước mới giữa Giáo Hội và Thượng Đế. Giao ước hoàn hảo và muôn đời. Chúng ta không nguyên chỉ đi “nhà thờ” mà chủ yếu đi canh tân, lãnh nhận giao ước ban khôn ngoan, thượng trí và sự sống. Chúng ta sinh hoạt giữa Giáo Hội như những gia nhân của Thiên Chúa, đổi mới và năng động.
Cho nên hôm nay chúng ta có “lý do” để tới nhà thờ, cũng như mỗi chúa nhật chúng ta đều có “lý do” trình diện Đức Chúa Trời. Lý do đó là cộng thêm những điều đặc biệt cá nhân vào danh sách của cộng đoàn để dâng lên Đức Chúa, nhớ lại các “kỳ công” của Ngài mà hết lòng tạ ơn! Mỗi người không thể thờ ơ, mà phải có tâm tình Giosuê, gia đình ông và toàn dân Do Thái ở cánh đồng Sikhem khi đi tham dự thánh lễ. Nhìn lại cuộc sống với những giây phút yêu, giận, mừng, vui, những thời gian vượt khó để có thể kể ra muôn vàn hồng ân Thiên Chúa tưới gội hoặc cứu thoát khỏi vòng nô lệ tội lỗi, hoặc lôi kéo ra khỏi các thói hư tật xấu,xì ke, ma tuý, thuốc sái, đĩ điếm, lừa đảo, trộm cướp,... Dĩ nhiên phải kể đến những cánh tay yêu thương, những lời khuyên nhủ của bạn bè tốt, các nhà hoạt động xã hội đã giúp đỡ hết tình. Giống như tuyển dân trong sa mạc, hay gia đình Giosuê chúng ta đã từng được Thiên Chúa trông nom, săn sóc, cứu vớt, dưỡng nuôi, giáo dục, bảo vệ và hướng dẫn, trên mọi nẻo đường trong “hoang địa trần gian”. Vừa tham dự thánh lễ, vừa gợi nhớ những ký ức sống động, chúng ta chung tiếng với cộng đồng nói lời tạ ơn “Amen”. Và cầu xin Thiên Chúa giúp đỡ chu toàn những điều dấn thân mới. Nói cách khác, cùng toàn thể cộng đoàn hát ca: “Chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa”.
Từ năm tuần qua, chúng ta đã gián đoạn phúc âm Marcô để đọc chương sáu của Gioan. Chúa nhật này, chúng ta kết thúc loạt bài Tin Mừng ngoại lệ đó, tuần tới sẽ tiếp tục Tin Mừng Marcô. Tương tự bài đọc một kể về biến cố Giosuê thách thức tuyển dân Israel, Chúa Giêsu hôm nay cũng thách thức đám đông: Họ sẽ tin kính thờ phượng ai? Có dám ăn thịt uống máu Ngài để được sống muôn thuở hay chối từ? Thật là khó khăn cho thính giả và các môn đệ! Nhưng Ngài không kể đến số đông, mà chỉ cần đến những tấm lòng tin kính! Ngài tìm kiếm những đệ tử trung thành. Những người dám liều lĩnh tin vào Ngài và làm cuộc cách mạng trong tư duy và lối sống. Đám đông đã bắt đầu rút lui vì không nghe nổi, hiểu nổi ngôn ngữ của Ngài, một thứ ngôn ngữ gần như của con người điên khùng. “An thịt tôi, uống máu tôi”. Những người bình thường không dùng ngôn ngữ ấy. Nhiều môn đệ cũng bỏ đi, không theo chân Ngài nữa. Họ trở về với nếp sống, nếp suy nghĩ xưa nay. Như thế là ổn hơn! Họ không nuối tiếc bởi đã nghe Ngài rao giảng một cách chính xác. Tiếp tục làm môn đệ Ngài có nghĩa là sống với nghịch lý: “lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi”. Để có thể theo Ngài, các môn đệ còn lại phải trả giá rất đắt, chấp nhận “bánh” Ngài ban, là chấp nhận liều lĩnh tin tưởng vào Ngài, từ bỏ mọi thứ “bánh” khác mà xưa nay thiên hạ vẫn trân trọng, họ phải can đảm vượt mức như Giosuê thuở xưa: “phần tôi và gia đình chúng tôi sẽ thờ phượng Đức Chúa”.
Nói cho ngay phải, ngày nay chúng ta chẳng tinh đời, nhạy cảm, khôn ngoan hơn các tông đồ thời xưa. Các vị đã được Chúa yêu cầu lựa chọn và đã nhạy cảm đủ để thấy việc chọn lựa này là khó khăn, đòi hỏi hy sinh, trả giá. Trả giá hơn chúng ta phải trung thành với giáo hội, hoặc dấn thân việc tông đồ, thi hành sứ vụ... Không ai dám đoan chắc chúng ta lựa chọn đúng, trung tín, tiến tới chính xác hơn các vị. Bản thân tôi đây, nếu như nghe được những điều Chúa Giêsu rao giảng mấy tuần vừa qua và cũng phải vật lộn như các tông đồ ở lại hoặc rời bỏ Chúa. Tôi sẽ đòi hỏi một dấu lạ lớn lao để khích lệ trung thành với Ngài hoặc yêu cầu Ngài giảm nhẹ giáo lý để dễ nuốt hơn. Không, Chúa không hề lui bước, vì Ngài là Cứu Chúa duy nhất, là chủ thể duy nhất của sự thật, Ngài vẫn chất vấn chúng ta như đã hỏi các Tông đồ: “Còn chúng con, có muốn bỏ đi không?”
Ông Simon-Phêrô đứng ra nói thay cho các Tông đồ khác (xin lưu ý thánh sử Gioan, kẻ có mặt, dùng hai tên cũ, mới của thủ lãnh. Một tên thuộc Cựu ước, một tên Tân ước) trả lời run run: “Bỏ Thầy, chúng con biết theo ai? Tên kép của ông nói lên rằng ông còn chưa dám dứt khoát, chưa trọn vẹn là tông đồ của giao ước mới. Tính chất con người cũ vẫn còn trong ông. Thái độ không được mạnh mẽ như Giosuê trong sa mạc. Ông chưa khẳng định đầy dủ xác tín của mình. Chỉ sau khi Chúa sống lại ông mới mạnh dạn xưng tụng Đức Kitô là Chúa. Hiện thời ông vẫn còn khả năng chối bỏ như trong sân nhà thượng tế Caipha. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã chấp nhận đức tin yếu ớt của ông và các tông đồ khác, để sau khi sống lại tăng cường và biến đổi nó thành hoàn hảo. Ngài đổ Thánh Linh xuống trên họ để có thể can trường làm chứng cho Ngài trước bàn dân thiên hạ. Như thế mới hay, chúng ta không nên tự cao tự đại, vỗ ngực xưng mình là người theo Chúa. Nhưng phải luôn khiêm tốn, cúi đầu xin Thiên Chúa ban ơn trợ giúp bằng thần khí của Ngài, để có thể trở nên môn đệ trung thành.
Thực sự, các tông đồ cần đến Thánh Linh trong cuộc đời rao giảng. Không có Thánh Linh, các ông chẳng thể chu toàn sứ vụ. Nhờ bàn tay Thánh Linh dẫn dắt, các tông đồ thành công rực rỡ. Ngày nay, loài người vẫn được hưởng nhờ nhờ công việc họ làm. Các nhà truyền giáo mới cũng ở trong tình huống tương tự, nếu muốn đưa nhân loại trở về với Thiên Chúa. Chúng ta cần nhờ Thần Khí hướng dẫn mới có thể vượt qua hiểu biết, cảm nhận loài người, mà đạt tới những kiến thức siêu nhiên, tức sứ vụ và lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Trong tư tưởng của thánh Gioan, từ “xác thịt” là biểu hiện bản tính tự nhiên của nhân loại. Tự thân bản tính này bất lực về bình diện siêu nhiên. Cho nên nó không có khả năng đưa chúng ta vào cuộc sống thần linh, thờ phượng Thiên Chúa, trung thành với các ân huệ Người, từ đó nảy sinh phúc lộc trường sinh: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì”. Trong thánh lễ chúng ta dâng bánh rượu làm của lễ dâng lên Thiên Chúa. Chúng đại diện cho tất cả những chi dâng Ngài: thân xác, linh hồn, tài năng, của cải và cả sự sống mình. Tuy nhiên so sánh với của lễ Chúa Giêsu, chúng chẳng có ý nghĩa gì. Ngài còn đòi hỏi nhiều hơn nữa: Những cố gắng, lòng tin và trung thành của nhân loại. Tuy nhiên Ngài sẵn lòng chấp nhận chút ít đó và biến đổi chúng thành Máu Thịt Ngài qua Thánh Thần. Lời Chúa chúng ta nghe đọc hôm nay và Thánh Thể chúng ta lãnh nhận, quả thực đã vượt quá nhu cầu của mỗi linh hồn. Chúng chẳng hề tàn lụi, nhưng tồn tại mãi mãi. Chúng đổi mới và nâng trái tim chúng ta hướng về Thiên Chúa. Chúng ta có đủ lương thực và nghị lực để toàn tâm toàn ý hô to: “chúng tôi sẽ chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu.” Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay là phần kết thúc của đoạn Tin Mừng nói về đề tài: “Chúa Giê-su là: TN 21-B37
Bài Tin Mừng hôm nay là phần kết thúc của đoạn Tin Mừng nói về đề tài: “Chúa Giê-su là Bánh Sự Sống” được đọc liên tục trong Phụng Vụ từ Chúa Nhật 17 cho đến Chúa Nhật 21 Thường Niên năm B. Phần kết thúc này có tính cách trang trọng và xác quyết, gợi lại cho chúng ta ý tưởng Chúa đến phán xét.
Qua đoạn Tin Mừng này, Chúa Giê-su đã bộc lộ sứ mạng của Người, cùng nói lên ý nghĩa sự hiện diện của Người giữa trần gian này. Chúa Giê-su đã khẳng định Người là của ăn duy nhất đem lại sự sống đời đời cho những ai tin nhận Người: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” ( Ga 6, 54a ).
Qua câu này, Chúa Giê-su đã đặt ra sự chọn lựa cho những ai theo Người. Và như thế, thái độ của người ta đối với Người là đón nhận hay không đón nhận, đã mang tính quyết định đối với cuộc sống đời đời của người đó. Mặt khác, qua chính thái độ này, người nghe Chúa tự xếp mình vào hàng ngũ những người được sống đời đời hay bị hư mất.
Ngoài ra, Thánh Gio-an đã viết đoạn Tin Mừng này với những lời lẽ ám chỉ đến cuộc sống và nhất là cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá.
Đoạn Tin Mừng này cũng như toàn bộ các sách Tin Mừng đã cho thấy, có những người đã không đáp ứng được những đòi hỏi của Chúa Giê-su. Trong số những người này, có cả môn đồ của Chúa Giê-su. Đầu tiên, họ đã bị lôi cuốn bởi phép lạ làm cho họ, rồi sau đó, họ thắc mắc về những lời của Chúa, rồi từ chỗ thắc mắc, họ đi đến chỗ bị phật lòng, kêu trách để rồi cuối cùng từ bỏ Chúa Giê-su. Ngoài ra, có người còn tham gia vào việc treo Người lên thập giá như lời Tin Mừng Thánh Gio-an đã nói: “Quả thực, ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người” ( Ga 6, 64 ).
Lý do của tình trạng thảm hại này là những người nghe Chúa Giê-su, cũng như đứng trước cuộc sống và cái chết của Người, đã không vươn lên được khỏi cái nhìn của xác thịt, thoát khỏi cái thế giới của những quyền lực cho riêng mình, của quyền lực trần thế, của vinh quang trước mắt người đời, để đi vào thế giới của “Thần Khí”, nghĩa là thuộc về Thiên Chúa.
Chỉ khi người ta thuộc về Thiên Chúa, nghĩa là nỗ lực làm điều lành, điều thiện, yêu mến sự thật và công lý, người ta mới nhận ra được và đón nhận ý nghĩa của cuộc sống và cái chết của Chúa Giê-su, chỉ có kẻ yêu mến người khác mới hiểu được, không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ thí mạng sống mình vì người mình yêu, có như vậy mới không lấy làm chướng hay chói tai khi nghe Chúa Giê-su nói đến việc ban thịt và máu của Người làm của ăn, của uống đem lại sự sống đời đời cho những ai tin theo Người. Hơn nữa, lòng tin vào Chúa Giê-su luôn luôn là một sự dấn thân cho người khác và không ai được miễn trừ cho sự dấn thân này. Ngay cả nhóm mười hai, những tông đồ được Chúa Giê-su kêu gọi từ đầu để cộng tác với Người trong việc rao giảng Tin Mừng, cũng được đặt trước một sự lựa chọn qua câu hỏi của Chúa Giê-su: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?” ( Ga 6, 67 ).
Trước câu hỏi của Thầy Giê-su, ông Phê-rô đã đại diện cho Nhóm Mười Hai tuyên xưng Lòng Tin rằng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai bây giờ ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh” ( Ga 6, 68 ). Lời tuyên tín của Phê-rô là lời tuyên tín của Hội Thánh Chúa Ki-tô và của mọi người tin theo Chúa. Đây là một lời tuyên tín làm nền tảng cho sự chọn lựa, dấn thân vì sự cứu rỗi các linh hồn người khác và cho chính mình, một lời tuyên tín đẹp nhất cho những ai đã và đang đi theo Chúa Giê-su.
“Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời”. Lời Đức Ki-tô hôm nay đã thực sự đặt chúng ta trước một chọn lựa: hoặc tin vào Người, hay từ chối không tin. Mỗi khi đón nhận Thánh Thể, chúng ta có thực sự tin rằng chúng ta đang đón nhận chính thịt máu Chúa, để từ đây chúng ta ý thức và sống cho Chúa nhiều hơn, như Tình Yêu Chúa đã trao tặng cho chúng ta chưa ?
Con người thời nay tự cho mình là tiến bộ nên chuyện gì cũng muốn hiểu biết tường tận nên rất dễ vướng vào hai mối nguy hiểm sau:
- Tự mãn nên sai lầm, lẫn lộn về Thiên Chúa là Đấng mà con người không thể chỉ tìm hiểu bằng trí thức nhân loại, mà còn phải bằng tấm lòng chân thành và khiêm tốn.
- Đa đoan, phân tâm, thích hưởng thụ lạc thú, tiện nghi nên ít trung tín và kiên nhẫn… Trong khi chân lý lòng tin là lẽ sống cuộc đời đòi hỏi phải kiên trung.
Mỗi chúng ta hãy tự vấn lại để đừng phạm vào hai mối nguy trên...
Lạy Cha là Đấng từ bi và hay thương xót, chúng con ý thức rằng, chỉ có Cha mới làm cho lòng người được thay đổi và trở nên tốt lành. Xin Cha hãy làm cho lòng người thay đổi để người người biết cùng nhau xây dựng một thế giới không chiến tranh, hận thù, mọi người sống trong tình thương và an bình.
Lạy Cha, lời của Con Cha là lời ban phúc trường sinh, thế mà chúng con vẫn chưa cảm nghiệm được điều này mà còn chạy theo những lời dụ dỗ, mê hoặc của thế gian. Xin cho chúng con biết quay về với lời hằng sống của Con Cha hầu đón nhận nơi đây sự sống đích thực, sự sống đời đời mà Cha đã hứa ban cho những ai tin lời Con Cha.
Lạy Cha, lựa chọn sống lời Con Cha là một thử thách trước một thế giới đang dần tục hóa, mà lựa chọn nào cũng đều mất mát, thua thiệt. Xin cho chúng con dũng cảm chấp nhận những thử thách, mất mát, thua thiệt để làm chứng cho Chúa giữa thế gian này.
Có lẽ không ai mà không biết chuyện ngụ ngôn “Con gấu và hai người bạn” của La Fontaine: TN 21-B38
Có lẽ không ai mà không biết chuyện ngụ ngôn “Con gấu và hai người bạn” của La Fontaine: Thoát chết nhờ nhanh trí giả làm kẻ đã chết khi bị gấu tấn công, trong khi đó, chính người bạn thân lại bỏ mặc anh ta để thoát thân một mình. Đã vậy, anh bạn bất nhân và hèn nhát này lại còn tò mò hỏi vì thấy có một lúc con gầu kề sát tai nạn nhân thì thầm điều gì đó. Nạn nhân thoát chết đã trả lời: “Con gấu nó bảo tôi là: “Này, kẻ nào đã bỏ bạn trong cơn nguy khốn thì chỉ là đồ tồi, ông đừng thèm chơi với hắn nữa nhé !".
Vâng, phải luôn chọn bạn mà chơi ! Hôm nay, Chúa Giê-su thấm thía nỗi buồn, vì không chỉ những người đã nhìn thấy tỏ tường và tận hưởng phép la, đã bất ngờ quay lại chống đối Người, mà chính nhiều môn đệ cũng bỏ đi, sau khi đã buông những câu nặng nề để tự thanh minh cho mình, song lại càng khiến Chúa Giê-su đau lòng hơn: ”Lời này thật chói tai, ai mà nghe cho được !” Trong cảnh cô đơn ấy, Chúa Giê-su nhìn Nhóm Mười Hai vẫn quẩn quanh ở đó. Ngài sẽ chẳng ngạc nhiên nếu họ cũng âm thầm quay lưng bỏ đi. Nhưng chính trong lửa, vàng đã được thử: Chúa Giê-su cảm động biết bao ( và cũng biết ơn nữa ) vì lời nói chí tình và đầy ý nghĩa của Phê-rô: “Bỏ Thầy chúng con sẽ theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống đời đời”.
Phê-rô “ăn điểm” từ đó. Vì khác với lần Phê-rô sẽ tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, lần này không phải hoàn toàn do “Cha ta trên Trời đã mặc khải cho con biết”, mà chủ yếu là bằng giác quan, bằng trí khôn và nhất là bằng tấm chân tình trong sáng, ngưỡng mộ và kính yêu, mà Phê-rô đã nghe, đã thấy và đã hiểu. “A friend in need, is a friend indeed” ( Bạn trong khốn khó mới là bạn thật ): câu châm ngôn của người Anh rất đúng cho hoàn cảnh này. Tình bạn giữa Chúa Giê-su và các môn đệ thành hình. Tình bạn giữa Đầu của Nhiệm Thể và Thủ Lãnh Giáo Hội được thiết lập.
Nếu lần theo Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy ngay có 4 mối tương quan giữa Thiên Chúa và loài người, mà – nói theo ngôn ngữ điện ảnh và sân khấu – Thiên Chúa luôn luôn là người viết kịch bản, đạo diễn và đóng vai chính, đến độ chính con ngườI thụ tạo đã phải ngạc nhiên: ”Ồ, thế nhân có lạ chi mà Chúa để lòng nghĩ tới ?” ( Thánh Vịnh 8 ).
Trước hết, đó là tương quan giữa Đấng Tạo Hóa và thọ tạo: Đấng Tạo Hóa là Tất Cả và Tự Hữu, trong khi các thọ tạo chỉ là hư vô, giữa cái Có và cái Không. Sự hiện hữu của loài thọ tạo hoàn toàn tùy thuộc vào ý chí và ước muốn của Đấng Tạo Hoá.
Tương quan thứ hai là giữa Ông Chủ và tôi tớ: Ông Chủ vô cùng quyền năng, công thẳng nhưng cũng rất mực nhân ái và những người tôi tớ chỉ cậy trông vào lượng hải hà của Ông Chủ Tối Cao. Đây cũng là tương quan ban đầu giữa Thiên Chúa và dân Ít-ra-en, kéo dài cho đến thời Tân Ước.
Tương quan thứ ba, được nói đến khá nhiều trong Kinh Thánh Cựu Ước, nhưng thực tế lạI khác xa: Đó là mối quan hệ giữa Cha và con. Thiên Chúa được kể đến như Người Cha Uy Quyền, còn dân Ít-ra-en, Dân Riêng Chúa chọn, cũng giống người con. Tất cả dân Ít-ra-en là người con. Không một ai dám nghĩ một cá nhân nào trong dân là “con” trong một tương quan mật thiêt “cha – con” theo quan niệm trần thế, Vì vậy phải chờ đến mặc khải Tân Ước, con người mới khám phá rằng tất cả và mỗI một ngườI đều là con trước mặt Thiên Chúa và Thiên Chúa luôn đối xử với con người – tất cả và mỗi một cá nhân – bằng tình phụ tử bao la, âu yếm, yêu thương, nhân hậu.
Chúa Giê-su phải nhấn mạnh rất nhiều lần, để xóa bỏ ranh giới sợ hãi, lấm la lấm lét của loài người đối với Chúa Cha, thay đổi cả hình thức mà bao đời con người nghĩ sai về Thiên Chúa, lẫn những suy nghĩ và cách sống tương quan đối với Người Cha mà quyền năng không phải để làm con cái chết khiếp hay để trừng phạt con người phản bội, xấu xa, mà chỉ để “phục vụ” những thể hiện Tình Yêu và lòng Nhân Hậu Bao Dung, như việc “yêu trần gian đến nỗi đã sai Con Một của Người đến trần gian”, đã phó mặc Con Một phải chịu mọi khổ đau, chết ê chề nhục nhã, chỉ để nói lên tấm lòng của Cha Trên Trời: yêu con cái loài ngườI đến vô cùng !
Và hôm nay, một tương quan hết sức lạ lùng được chính Chúa Giê-su thiết lập và sẽ được Người định nghĩa không thể lẫn vào đâu được: ”Thầy gọi các anh là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các anh biết”. Và Người đánh tan sự hiểu lầm: ”Thầy không còn gọi các anh là tôi tới, vì tôi tới thì chẳng biết việc chủ mình làm” ( Ga 15, 15 ). Đây chính là mối tương quan cuối cùng, tương quan bạn hữu mật thiết mà có nằm mơ, loài người cũng chẳng dám nghĩ tới. Chúa Giê-su tự nguyện xóa bỏ hàng rào ngăn cách cuối cùng giữa Thiên Chúa và con ngườI, chí ít là để từ nay, con người không còn có thể viện vào bất cứ lý do, tình huống nào, mà suy nghĩ và hành động ngược với tình bạn này.
Biết bao triết gia, hiền nhân, biết bao sách vở nói về và viết về tình bạn. Điều mọi người đều thống nhất, ấy là một tình bạn thật sự thì rất hiếm hoi và vô cùng đáng quý. Đã có lần chúng ta kể cho nhau nghe chuyện Lưu Bình – Dương Lễ: khích tướng để bạn mình quyết chí cao và cho vợ hầu hạ giúp bạn tập trung trau giồi đèn sách để đỗ đạt cao. Tình bạn bao dung, chia sẻ, vị tha, khác với tình yêu mang tính ích kỷ và chiếm hữu. Tình bạn đòi phải chân thành, muốn điều thiện hảo nhất cho bạn mình, vì thế biết cảm thông, tha thứ, nhưng lại không thông đồng, bỏ qua những khiếm khuyết sai sót của bạn.
Nhưng tình bạn cao cả nhất, đẹp đẽ nhất, vẫn là như Lời Chúa Giê-su được Người chứng minh bằng hành động: ”Không ai yêu bạn hữu, hơn kẻ hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu”. Ánh mắt của Phê-rô hôm nay chan chứa cảm thông, chia sẻ và yêu mến, nhất là tin tưởng, mặc kệ ai khác lung lay, do dự bất định hoặc đổi thay. Ánh mắt của Chúa Giê-su còn nói lên nhiều hơn thế: cả thế gian từ ngày tạo thiên lập địa cho đến tận thế, không ai có thể nói một câu ý nghĩa, chân thành và cảm động lòng người như là Phê-rô !
Chúa ơi, bài ca hôm nay con muốn mượn câu hát và điệu nhạc mà con vẫn nghe và quen hát, để thưa chuyện với Ngài: “Chúa không lầm khi Ngài dựng nên con” ( Chúa không lầm, Kim Long ). Chúa đã không lầm và sẽ không bao giờ lầm đâu, vì dù trong cuộc đời, có những khi con băn khoăn do dự, có những khi con có cảm tưởng lạc mất tình Ngài; có những khi chạy theo đam mê tội tình, nhưng tự đáy lòng, tự con tim và tâm trí con, con biết rằng: bỏ Chúa, con sẽ mất sự sống và rằng “Chúa biết mọi sự: Chúa biết con yêu Chúa” ( Ga 21, 17b ), dù thân xác và linh hồn con đã hơn một lần đi hoang. A friend in need: những khi con khốn khó, làm sao Chúa có thể bỏ con cho được, khi chính Ngài khẳng định NGÀI LÀ BẠN.
Giữ đạo hay theo Chúa là một sự chọn lựa. Không phải chỉ chọn lựa một lần khi chịu Phép Rửa Tội: TN 21-B39
Giữ đạo hay theo Chúa là một sự chọn lựa. Không phải chỉ chọn lựa một lần khi chịu Phép Rửa Tội mà là chọn lựa mỗi ngày, thậm chí mỗi giờ, mỗi phút. Chọn lựa giữa Thiên Chúa và các thần khác như ông Giô-suê và dân Ít-ra-en trong sa mạc đã chọn phụng thờ Thiên Chúa vì Người đã tỏ lòng thương dân và cứu vớt dân ra khỏi cảnh nô lệ. Chọn lựa là tin vào lời của Chúa Giê-su, dù lời ấy có chói tay, như các Tông đồ trong Phúc Âm đã tiếp tục chọn đi theo Chúa Giê-su, vì Người có những lời đem lại sự sống đời đời. Còn ngày nay chúng ta chọn ai, chọn gì? Đây là câu hỏi hết sức quan trọng mà mỗi người, mỗi cộng đoàn chúng ta phải trả lời cho Chúa và cho thế giới, nhất là cho những người vô tôn giáo và vô thần.
II. LẮNG NGHE ... TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: Gs 24,1-2a.15-17.18b:
1 Ông Giô-suê quy tụ ở Si-khem mọi chi tộc Ít-ra-en và triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa. 2 Ông Giô-suê nói với toàn dân: "ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: "Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến Te-rác là cha của Áp-ra-ham và của Na-kho, đã phụng thờ các thần khác 15 Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ ĐỨC CHÚA, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA."
16 Dân đáp lại: "Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ ĐỨC CHÚA để phụng thờ các thần khác! 17 Vì chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. 18 ĐỨC CHÚA đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mô-ri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi."
(2) Bài đọc 2: Ep 5,21-32: Gia đình sống đạo
21 Vì lòng kính sợ Đức Ki-tô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. 22 Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, 23 vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Ki-tô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. 24 Và như Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy.
25 Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; 26 như vậy, Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, 27 để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. 28 Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. 29 Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, 30 vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. 31 Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. 32 Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh. 33 Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng.
(3) Bài Tin Mừng: Ga 6,54a.60-69: Ông Phê-rô tuyên xưng lòng tin
54 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, 60 Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi? " 61 Nhưng Đức Giê-su tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: "Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? 62 Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? 63 Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. 64 Nhưng trong anh em có những kẻ không tin." Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. 65 Người nói tiếp: "Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho." 66 Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa.
67 Vậy Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? " 68 Ông Si-môn Phê-rô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. 69 Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào? (1) Bài đọc 1: Gs 24,1-2a.15-17.18b: Là một tường thuật rất cảm động của sách Giô-suê. Ông Giô-suê là người lãnh đạo dân Ít-ra-en trong hành trình sa mạc tiến về miền đất mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân riêng Người. Trong cuộc hành trình đầy gian khổ ấy, không phải lúc nào lòng người cũng kiên vững trong niềm tin vào Thiên Chúa. Đã có nhiều lúc dân chúng kêu trách Mô-sê và tiếc nuối những ngày ‘ổn định’ ở Ai Cập. Vì thế mà ông Giô-suê –cũng như ông Mô-sê- phải khôn ngoan hướng dẫn và củng cố lòng tin của dân. Ông đã quy tụ mọi chi tộc Ít-ra-en ở Si-khem để xác định lập trường của mình và yêu cầu dân xác định lập trường của họ. Và họ đã làm theo gợi ý và nguyện vọng của ông cũng là thánh ý của Thiên Chúa!
(2) Bài đọc 2: Ep 5,21-32: Là những lời khuyên của Thánh Phao-lô dành cho các Ki-tô hữu làm vợ làm chồng. Đối với Thánh Phao-lô thì hôn nhân và tình yêu vợ chồng Ki-tô hữu rất cao cả vì được giao phó trách nhiệm biểu thị (bộc lộ) Mầu Nhiệm Tình Yêu và sự Kết Hiệp của Chúa Giê-su Ki-tô với Hội Thánh.
(3) Bài Tin Mừng: Ga 6,54a.60-69: Có thể được coi là đoạn kết của diễn từ về bánh trong Phúc Âm Thánh Gio-an. Không chỉ dân chúng mà một số môn đệ cũng thấy những lời khẳng định của Đức Giê-su là "chướng tai" tức klhó hiểu và khó chấp nhận. Đức Giê-su không hề nhượng bộ mà đòi các môn đệ và các tông đồ phải chọn lựa:
* hoặc không chấp nhận, không tin vào lời Người mà rút lui như nhiều môn đệ đã làm;
* hoặc tin vào lời Người mà chấp nhận và tuyên xưng với/như Phêrô:
“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?
Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.
Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta? Sứ điệp mà ba bài sách Thánh muốn để lại cho chúng ta là:
Thiên Chúa / Chúa Giê-su là đối tượng xứng đáng cho chúng ta chọn lựa,
* dù cuộc sống hiện tại của chúng ta có nhiều khó khăn, trở ngại, thử thách và cám dỗ như những người Ít-ra-en xưa trong hành trình sa mạc; và
* dù chúng ta phải nghe và thực hành những lời “chướng tai” về bánh là Thịt Máu Chúa Giê-su, về sự tái sinh, về việc bỏ mình và vác thập giá, về đời sống theo Tám Mối Phúc Thật.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Sống Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta:
1. Lấy Lời Chúa làm tiêu chuẩn trước hết và trên hết cho mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta,
2. Nỗ lực hết sức mình để thực hiện Lời Chúa trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Cha là Thiên Chúa của chúng con, từ bé tới giờ chúng con luôn chọn Chúa và luôn cố gắng phụng thờ Chúa. Nhưng ngày hôm nay chúng con quyết tâm phụng thờ Chúa một cách đầy tự nguyện và xác tín vì chúng con đã nhận ra Chúa là Đức Chúa Yêu Thương của chúng con!
Lạy Chúa Giêsu Kitô, theo Chúa là một việc chẳng dễ dàng gì, nhưng hôm nay chúng con quyết tâm theo Chúa như các Tông đồ xưa, vì nhờ Phúc Âm và Hội Thánh, chúng con biết rằng Chúa là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa, Chúa đến trần gian để chỉ đường vạch lối cho chúng con, sống theo Chúa chúng con sẽ được sống hạnh phúc đời này và đời sau. Xin Chúa hãy dạy dỗ, hỗ trợ và đồng hành với chúng con trên bước đường theo Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, không ai có thể đến được với Chúa Ki-tô nếu không được Chúa Cha lôi kéo bằng sức mạnh là Chúa, không ai có thể tin theo Chúa Ki-tô mà không được Thánh Thần hướng dẫn, soi sáng. Xin Chúa dạy chúng con biết phụng thờ Thiên Chúa và biết theo Chúa Ki-tô như các Tông đồ ngoan ngoãn của Người. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Kansas City (MO/USA) ngày 15.08.2006 (Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời)
Sau khi có một số môn đệ bỏ Chúa mà đi, vì họ nghe không “lọt tai” lời nói của Ngài:”Ai ăn thịt: TN 21-B40
Sau khi có một số môn đệ bỏ Chúa mà đi, vì họ nghe không “lọt tai” lời nói của Ngài:”Ai ăn thịt và uống máu tôi thì sẽ được sống muôn đời”, nhưng không phải tất cả các môn đệ đều bỏ Ngài mà đi, bởi vì vẫn còn nhóm Mười Hai, các Ngài vẫn trung kiên theo Chúa dù cho các ngài cũng đã nghe được lời “khó nghe” ấy của Chúa Giêsu.
“Bỏ” và “theo” là một sự lựa chọn của con người, của chúng ta.
Trong cuộc sống đã có biết bao lần chúng ta chọn lựa “bỏ” và giữ lại, cái chúng ta bỏ là cái mà mắt chúng ta cho là xấu xí nhìn không đẹp, tay chúng ta không dám rờ, miệng chúng ta không dám nếm, tóm lại là tại vì nó xấu, nó không đẹp, cũng vậy, cái mà chúng ta giữ lại, chúng ta theo đuổi là cái mà mắt chúng ta thấy đẹp, tay chúng ta sờ được, miệng chúng ta nếm và ăn được, đó là những cái tốt đẹp vật chất trong cuộc sống hằng ngày.
Cũng có lần trong cuộc sống chúng ta đã thưa với Chúa như thánh Phêrô: “Lạy Chúa, bỏ Chúa thì con biết theo ai ?” nhưng rồi cũng đã nhiều lần chúng ta đã bỏ Chúa để đi theo những đam mê của thế gian và ma quỷ, chúng ta tuyên xưng Chúa là Đấng Hằng Sống ở trong nhà thờ, nhưng bên ngoài nhà thờ thì chúng ta đã từ bỏ Chúa qua cách ăn nết ở không đúng với tinh thần Phúc Âm; cũng đã có nhiều lúc chúng ta nói với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa mới là Đấng có lời ban sự sống đời đời cho con”, nhưng chúng ta vẫn thích lời nói ngon ngọt của thế gian hơn, chúng ta vẫn thích nghe và cố thuộc nằm lòng những câu nói đưa đến sự chết của thế gian, hơn là nghe và thực hành lời đem lại sự sống cho chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Mỗi ngày có hai mươi bốn tiếng đồng hồ, nhưng có mấy giờ, mấy phút chúng ta ngồi đọc, ngồi nghe, hoặc ngồi suy gẫm lời của Chúa là lời đem lại sự sống đời đời cho chúng ta ?
Chúng ta có giờ ngủ, giờ học hành, giờ làm việc, giờ giải trí và giờ cầu nguyện, nhưng giờ cầu nguyện vẫn cứ bị chúng ta xén bớt mỗi ngày, và thậm chí có khi chúng ta không thèm nhớ đến giờ cầu nguyện, giờ tham dự thánh lễ của mình nữa, bởi vì tâm hồn của chúng ta đã chọn lựa những điều mà thế gian cho là vinh quang, là phú quý và danh dự. Chúng ta lo âu buồn bả khi địa vị của mình đang lung lay, chúng ta chán nản cuộc đời vì bạn bè, người thân phản thùng phản phé, chúng ta hận đời đen bạc là vì chúng ta quá tin tưởng vào tình yêu của con người... Tất cả những thứ ấy đều chúng tỏ cho chúng ta thấy là: chúng ta chưa trọn vẹn theo Chúa, chưa thành tâm tìm kiếm và nương cậy vào Chúa
Chỉ có Chúa mới có lời ban sự sống đời đời, đó là một xác tín chắc chắn của thánh Phêrô tông đồ; chỉ có Chúa mới là nơi chúng ta cậy trông và nương tựa, ngoài Chúa ra chúng ta sẽ không tìm được ai khác có thể làm cho chúng ta được sống đời đời, đó là chân lí, là hi vọng và là niềm vui của chúng ta, là những người Kitô hữu đang sống ở trần gian này.
Xin Thiên Chúa luôn chúc lành cho chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Bài giải thích của Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, cha giảng Phủ Giáo hoàng, về bài đọc hai Chúa Nhật XXI (27.8.2006) như sau:
Người làm chồng, hãy yêu thương vợ mình
Lần này tôi muốn tập trung sự chú ý về bài đọc thứ hai trong ngày (Ephesians 5:21-32) bởi vì bài: TN 21-B41
Lần này tôi muốn tập trung sự chú ý về bài đọc thứ hai trong ngày (Ephesians 5:21-32) bởi vì bài đọc này có một chủ đề quan tâm lớn cho gia đình
Khi đọc những lời thánh Phaolo với cặp mắt hiện đại, người ta thấy ngay một khó khăn. Phaolo khuyên người chồng phải “thương yêu “ vợ mình (và điều này là tốt), nhưng ngài cũng khuyên vợ phải phục tùng chồng mình, và điều này—trong một xã hội ý thức mạnh và đúng về tính bình đẳng phái tính—xem ra không thể chấp nhận.
Trên thực tế, thực vậy. Về điểm này Thánh Phaolo một phần bị qui định bởi trạng thái tâm lý thời buổi ngài. Tuy nhiên, giải pháp không phải ở tại chỗ loại trừ tiếng “phục tùng” khỏi những tương quan giũa những người chồng và vợ nhưng, có lẽ trong sự phục tùng nhau, cũng như tình yêu cũng phải hỗ tương.
Nói cách khác, không những người chồng phải yêu thương vợ mình, nhưng người vợ cũng phải yêu thương chồng mình. Không những vợ phải phục tùng chồng mình, nhưng người chồng cũng phải phục tùng vợ mình, trong sự thương yêu và phục tùng hỗ tương.
Trong trường hợp này, phục tùng có nghĩa là coi trọng những ước muốn, ý kiến và tính nhạy cảm của người chồng hoặc vợ mình, biết bàn luận, chớ không quyết định về phía mình, có khả năng từ bỏ quan điểm riêng mình. Nói tóm, nhớ rằng cả hai là “vợ chồng,” nghĩa là, nói theo nghĩa đen, những người ở dưới “cũng một ách,” tự do chọn lựa.
Tông Đồ nêu lên cho các người vợ Kitô hữu, như gương mẫu, tương quan tình yêu hiện hữu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, nhưng ngài giải thích liền tình yêu đó hệ tại cái gì: “Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội và đã hiến mình cho Giáo Hội.” Tình yêu đích thực được tỏ bày trong sự ” hiến” mình cho kẻ khác
Có hai cách bày tỏ tình yêu của mình cho kẻ được yêu. Cách thứ nhất là dâng quà tặng, làm đầy kẻ khác bằng những quà tặng; cách thứ hai, đói hỏi nhiều hơn, hệ tại chịu đau khổ cho người chồng hay vợ mình.
Thiên Chúa yêu chúng ta trong cách thứ nhất khi người tạo dựng chúng ta và làm tràn đầy chúng ta với những sự lành: Trời, đất, hoa, thân xác chúng ta, mọi sự đều là một ân huệ của Người. Nhưng sau đó, lúc thời gian viên mãn, trong Chúa Kitô, Người đã đến với chúng ta và đã chịu đau khổ vì chúng ta, cho tới chết trên thập giá.
Điều này cũng thật trong tình yêu nhân bản. Lúc đầu, những vợ chồng mới cưới bày tỏ tình yêu bằng những quà tặng. Nhưng thời giờ đến cho mọi người khi những quà tặng không đủ. Cần phải có khả năng chịu đau khổ với và cho kẻ mình yêu. Người ta phải yêu mặc dầu những hạn chế người ta khám phá nơi kẻ khác và mặc dầu những lúc lâm cảnh nghèo và bịnh hoạn
Tình yêu đích thực, thì giống tình yêu của Chúa Kitô.
Nói chung, loại tình yêu thứ nhất được gọi là “tìm kiếm tình yêu” (với một tiếng Hy lạp, eros—ái tình), loại th ứ hai, “ban tình yêu” (với tiếng Hy lạp agape—bác aí ).
Dấu chỉ một đôi vợ chồng sang qua từ sự kiếm tới sự ban tình yêu, từ eros tới agape, là thế này: Thay vì nói “Chồng tôi có thể làm gì hơn cho tôi (lần lượt, vợ tôi) mà ông còn chưa làm?” người ta bắt đầu hỏi: “Tôi có thể làm gì hơn cho chồng tôi (hay vợ tôi) mà tôi còn chưa làm?”
Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách
Với bản văn hôm nay, độc giả đi tới đỉnh cao của Bài Diễn từ về Bánh trường sinh, đỉnh cao của: TN 21-B42
Với bản văn hôm nay, độc giả đi tới đỉnh cao của Bài Diễn từ về Bánh trường sinh, đỉnh cao của cuộc “khủng hoảng” báo trước cuộc Thương khó của Đức Giêsu: các thính giả phản ứng lại các lời của Đức Giêsu; họ bị đặt trước một chọn lựa là tin hoặc không tin vào Người.
Thứ lương thực lạ lùng và Bài Diễn từ về Bánh khác các dấu lạ và các diễn từ khác của Đức Giêsu do sự kiện là trong vấn đề này, các môn đệ lấy lập trường. Tại đây Đức Giêsu đã mạc khải các ân ban đặc biệt của Người và các ân ban này chính là thịt máu của Người. Các môn đệ của Người chia rẽ về điểm này: bỏ đi vì không thể chấp nhận các lời Đức Giêsu nói, hoặc ở lại với Người, vì tin rằng chỉ Người mới có “những lời đem lại sự sống đời đời”.
2.- Bố cục
Bản văn Phụng vụ có thể chia thành ba đơn vị:
1) Một câu tóm nội dung bài giảng về Bánh hằng sống (6,54a);
2) Những môn đệ bỏ đi (6,60-66);
3) Nhóm Mười Hai ở lại (6,67-69).
3.- Vài điểm chú giải
- Ai ăn (54 và 57): Động từ “ăn” ở đây là trôgein (bản văn tiếng Anh dịch là feed) chứ không phải là esthiein như ở trên, để diễn tả một hành động rất cụ thể: “nhai bằng răng”. Động từ này nêu bật tính hiện thực của Bí Tích Thánh Thể.
- Nghe rồi, […]: "Ai mà nghe nổi? (60): Động từ “nghe” (akouein) được dùng hai lần với nghĩa khác nhau: lần đầu, từ này có nghĩa là “nghe” mà không có sắc thái một sự chấp thuận; lần sau, có nghĩa là “nghe” với sự chấp thuận.
- nhiều môn đệ của Người (60): Bản văn không nói là các “môn đệ” này có hàm chứa cả Nhóm Mười Hai hay không. Tuy nhiên, vì Phêrô đã lấy lập trường mà nói nhân danh Nhóm Mười Hai, rất có thể Nhóm Mười Hai không được kể vào số các “môn đệ” càm ràm, xầm xì này (có lẽ ngoại trừ Giuđa, vì Đức Giêsu gọi ông là “quỷ”, x. c. 70).
- lên nơi đã ở trước kia (62): tức lên với Chúa Cha (x. Ga 17,5).
- Lời Thầy nói với anh em (63): dịch cho nổi bật các sắc thái là: “Những lời mà Thầy đây, Thầy đã nói với anh em”. Chủ từ egô được viết ra trong bản văn để tạo sự cường điệu.
- là Thần Khí và là sự sống (63): Đây là một “phép thế đôi” (hendiadys), nên cần dịch diễn ra là “lời Thầy nói với anh em là Thần Khí ban sự sống”.
- Nhóm Mười Hai (67): Ga 6,67-71 là nơi duy nhất trong TM IV mà tác giả minh nhiên nói đến Nhóm Mười Hai (ngoại trừ một hoạt cảnh khác chỉ được nhắc tới trong TM này, ở Ga 20,24). Hai lần nhắc tới “Nhóm Mười Hai” (hoi dodeka) ở cc. 67 và 71 “đóng khung” phân đoạn ngắn này thành một đơn vị văn chương. Tác giả ghi nhận rằng Nhóm Mười Hai đã được Đức Giêsu chọn (Ga 6,70), dù không cho biết vào dịp nào và trong những hoàn cảnh nào. Do sự trung tín của họ với Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai ở vào thế tương phản với những môn đệ đã sa sút. Không giống với các môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại với Đức Giêsu. Đối với các ông, các ông không còn chỗ nào khác mà đi. Phêrô đã nói thay anh em: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Một câu tóm nội dung bài giảng về Bánh hằng sống (54a)
Sau các vòng giới thiệu, đây là khẳng định tối hậu Đức Giêsu nêu ra về mầu nhiệm bản thân Người: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (c. 54a). Các động từ được chọn để diễn tả tính hiện thực của ân ban là thịt máu Đức Giêsu đã đạt mục tiêu: các môn đệ sẽ phản ứng.
* Những môn đệ bỏ đi (60-66)
Phần lớn các môn đệ không thể chấp nhận được các lời Đức Giêsu đã nói, đến mức không còn có thể lắng nghe được nữa. Và thật sự các lời của Đức Giêsu không thể chịu nổi, nếu Người chỉ là một người phàm. Các lời Đức Giêsu đã nói quả không thể chấp nhận được, nếu người ta chỉ đón nhận theo cảm xúc và hời hợt, nếu người ta chỉ để ý đến các chi tiết chứ không thấy bối cảnh tổng quát. Đức Giêsu tìm cách cung cấp cho các môn đệ một đểm hỗ trợ hầu có thể hiểu, nhưng Người cũng nói rõ ra lý do đích thực của phản ứng khó chịu của họ: họ thiếu đức tin. Trước hết, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng Người không nói như một người thường, nhưng như là Con Người, đã từ Thiên Chúa mà đến và sẽ quay về với Thiên Chúa. Trong bài Diễn từ về Bánh trường sinh, Đức Giêsu đã nhiều lần nêu bật điều này là Người được Thiên Chúa cử đến và có sự sống phát xuất từ Thiên Chúa (x. Ga 6,27.57). Điều kiện tiên quyết để hiểu được các lời của Đức Giêsu, đó là hiểu và nhìn nhận bản thân Người.
Thế rồi Đức Giêsu đi vào một điểm đặc biệt trong Bài Diễn từ. Các môn đệ dường như cảm thấy bị vấp phạm nhất về sự kiện Người ban thịt làm của ăn và máu làm thức uống. Đức Giêsu đảm bảo với họ rằng nếu đi từ “thịt” hiểu là con người phàm trần - kể cả nhân tính của Đức Giêsu - người ta chẳng có gì để mong đợi, vì “thịt” thì hư hoại và tiến về cái chết; đi từ “thịt”, ta không thể chờ đợisự sống bất hoại. Sự sống này chỉ đến từ Thánh Thần, từ quyền lực không bao giờ cạn kiệt ban sự sống của Thiên Chúa (x. Ga 3,6). Nhưng Đức Giêsu cũng nhấn mạnh rằng toàn thể các lời Người là Thần Khí và sự sống. Người không chỉ trình bày một vài suy tư về Thánh Thần và sự sống, về quyền lực không bao giờ cạn kiệt ban sự sống của Thiên Chúa và về sự sống bất hoại, nhưng Thần Khí và sự sống hiện diện trong chính các lời nói của Người và Người cho một chứng minh rõ ràng nhất về điểm này. Kể cả các lời Người nói về thịt và máu Người là Thần Khí và là sự sống, theo nghĩa là các lời ấy nói về Đấng không chỉ là thịt, mà là Ngôi Lời trở thành xác thịt (x. 1,14). Người ta chỉ hiểu Đức Giêsu đúng đắn nếu để ý đến chuyện Người là ai và bản chất các lời Người nói là thế nào. Nhưng người ta lại đáp lại bằng sự thiếu lòng tin, sự từ khước, sự ngờ vực đối với Người và đối với lời Người. Đức tin là một ân ban của Thiên Chúa (x. 6,37-44); nhưng đồng thời vẫn còn nguyên trách nhiệm của những người không tin và xa lìa Đức Giêsu. Nhiều môn đệ lãnh trách nhiệm này khi “rút lui, không còn ở với Người nữa” (c. 66).
* Nhóm Mười Hai ở lại (67-69)
Mẩu đối thoại của Đức Giêsu với nhiều môn đệ đã khởi đầu bằng lời phản đối của họ và bằng cách họ đánh giá các lời của Người theo cảm xúc. Mẩu đối thoại của Người với Nhóm Mười Hai bắt đầu bằng một câu hỏi Người đặt ra: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67). Câu hỏi này không hề có đặc tính gây hấn, như thể Đức Giêsu muốn nói: “Anh em cứ việc bỏ đi!”, trái lại câu hỏi này hàm chứa một lời mời ở lại. Đức Giêsu đặt câu hỏi và để cho các môn đệ tự do quyết định. Nhưng Người không rút lại bất cứ điều gì Người đã nói. Simôn Phêrô đã nhân danh nhóm (“chúng con”) nói lên một câu trả lời có suy ngẫm và nêu ra ba lý do khiến các ông ở lại với Đức Giêsu chứ không đi theo đa số: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
Lý do thứ nhất là một suy tư sáng suốt: ‘Chúng con không thể bỏ đi kiểu mù quáng. Khi bỏ đi, chúng con cần phải biết chúng con muốn bỏ ai, và gặp được điều gì tốt hơn và thuyết phục hơn nơi người nào. Chỉ đơn giản bỏ đi thì không có ý nghĩa’. Suy tư này giúp tránh những quyết định vội vã, theo tình cảm. Bởi vì không tìm được một vị thầy nào dứt khoát khá hơn, thì khôn ngoan là ở lại với Đức Giêsu.
Lý do thứ hai nhắc đến đặc tính của các lời Đức Giêsu. Chính Người đã nói: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (6,63). Bây giờ Phêrô chấp nhận điều ấy: “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68). Ông đã hiểu rằng ân ban trọng nhất của Đức Giêsu là sự sống đời đời và nhận biết rằng Đức Giêsu nói về điều đó trong tư cách đáng tin nhất; Đức Giêsu không chỉ nói về điều đó, Người còn mang sứ điệp chắc chắn về sự sống đời đời và mở đường vào sự sống đó.
Lý do thứ ba liên hệ đến việc nhận biết bản thân Đức Giêsu. Phêrô nói về con đường giúp nhận biết như thế và nói về nội dung của nhận thức này. Nhóm Mười Hai đã ký thác và tín nhiệm hoàn toàn vào Đức Giêsu. Trên nền tảng của thái độ này, các ông đã hiểu và nhận biết rằng Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (c. 69). “Thánh” chính là điều thuộc về Thiên Chúa. Nếu Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, điều này có nghĩa là Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và được kết nối với Thiên Chúa trọn vẹn. Chính vì Đức Giêsu có một tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, Người hoan toàn thuộc về Thiên Chúa, mà Người có những lời ban sự sống vĩnh cửu, và do đó thật là điên rồ nếu xa lánh Người.
Qua câu trả lời ấy của ông, Phêrô đề cập đến ba chủ đề lớn của TM IV: (1) “sự sống đời đời” (36 lần; các TMNL: 14 lần); (2) “tin” (98 lần; toàn bộ Tân Ước còn lại: 145 lần); (3) “[nhận] biết”(56 lần; các TMNL: 58 lần).
+ Kết luận
Các lập trường đã rõ, các phe đã được xác định. Giuđa và những người Do-thái có thể chuẩn bị vụ xét xử Đức Giêsu. Trong thực tế, chính Con Người mới sắp xử dân bị Thiên Chúa loại trừ, ngay giữa niềm hân hoan của Lễ Lều và lễ Cung hiến Đền thờ, là hai ngày lễ quy tụ Dân Thiên Chúa (Ga 7–10). Các môn đệ của Đức Giêsu cũng sẽ “bị xét xử”: các hoàn cảnh sống của Đức Giêsu buộc các ông phải chọn lựa dứt khoát. Chỉ có một trong hai cách: bỏ đi hoặc ở lại với Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khi suy niệm bản văn Ga 6,60-69, tôi không được phép bằng lòng với việc trách móc nhóm môn đệ đã bỏ đi hoặc khen ngợi Nhóm Mười Hai vẫn còn ở lại. Làm như thế là quên mất rằng tôi cũng là một môn đệ, là một trong Nhóm Mười Hai. Do đó, tôi phải tự hỏi: Quan niệm của tôi về Đức Giêsu lâu nay như thế nào? Tôi đang đặt những niềm chờ mong gì nơi Người? Tại sao tôi còn ở lại với Người? Những câu hỏi này bắt tôi phải ra khỏi tình trạng nửa vời để dứt khoát chọn Đức Giêsu.
2. Người ta không thể nhận biết Đức Giêsu từ xa, nhưng chỉ khi ở gần; và người ta cũng không thể nhận biết Đức Giêsu khi dựa trên sự lãnh đạm, sự chỉ trích và kiêu ngạo, nhưng chỉ nhờ tin tưởng hoàn toàn vào Người. Phêrô không nhắc lại một trong cách danh hiệu quen thuộc của Đức Giêsu; ông không nhấn mạnh trên tầm quan trọng của Người đối với loài người, nhưng ông xác định được về Người nhờ dựa trên tương quan của Người với Chúa Cha.
3. Có thể nói hoạt cảnh ngắn trong đó Phêrô xuất hiện ra như là người phát ngôn của Nhóm Mười Hai là phương tiện giúp tác giả suy tư về Nhóm Mười Hai. Tác giả ghi nhận rằng Nhóm Mười Hai đã được Đức Giêsu chọn (Ga 6,70), dù không cho biết vào dịp nào và trong những hoàn cảnh nào. Do sự trung tín của họ với Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai ở vào thế tương phản với những môn đệ đã sa sút. Không giống với các môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại với Đức Giêsu. Tuy nhiên, tương lai còn đó để Nhóm Mười Hai xác nhận sự chọn lựa của các ông: cuộc Thương Khó của Đức Giêsu sẽ là biến cố tối hậu bắt các ông phải minh định lập trường của mình.
Linh mục Phanxicô Vũ Phan Long - LM. Phanxicô Vũ Phan Long
Cả chúng con nữa, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không? Câu hỏi Chúa Giêsu đưa: TN 21-B43
Cả chúng con nữa, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không? Câu hỏi Chúa Giêsu đưa ra đòi buộc các môn đệ phải chọn lựa, phải dứt khoát lập trường. Đây không phải là một việc dễ dàng, vì ngay trước đó đã có nhiều môn đệ rút lui, bởi điều Ngài xác quyết một cách mạnh mẽ về thứ lương thực thiêng liêng nuôi sống linh hồn, thật là chói tai không thể nào chấp nhận được theo lẽ tự nhiên: Thịt Ngài là của ăn và Máu Ngài là của uống mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Với lời tuyên bố ấy, chúng ta có thể nghĩ tới bí tích Thánh Thể, chúng ta đã cử hành trong suốt cả cuộc đời người công giáo, mà chẳng có lấy một chút băn khoăn hay do dự. Chúng ta cũng đã từng đón nhận Mình và Máu thánh Ngài một cách quen thuộc theo nghi lễ và chúng ta không còn nhận ra tính cách chói tai và những khó khăn mà các môn đệ đã găp phải.
Sự tuyên xưng của các ông chính là một sự dấn thân, một hành đông liên quan tới vận mạng của một con người. Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy nghĩ hơn cả, đó là mặc dầu chúng ta tin tưởng vững chắc vào lời xác quyết của Chúa: Thịt Máu Ngài chính là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đem đến cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, nhưng trong thực tế, chúng ta lại sống, lại hành động trái ngược với niềm tin tưởng ấy.
Đúng thế, có những người công giáo vốn tự xưng là đạo dòng, đạo gốc…Thế mà cả chục năm không rước Chúa lấy được một lần. Có những người khác, ngày Chúa nhật cũng đến nhà thờ nhưng cho qua lần đoạn lượt mà thôi. Họ đứng ở ngoài sân, vừa nói chuyện, vừa phì phèo điếu thuốc lá và vừa tham dự thánh lễ. Mình không tham dự đã đành, mà còn cả trở và làm cho người khác lo ra, chia trí.
Hơn thế nữa, phần đông chúng ta lại tách biệt thánh lễ ra khỏi cuộc sống.
Chúng ta giữ đạo ở trong nhà thờ như một người công chức tới giờ đến sở làm việc. Có nghĩa là khi đến nhà thờ, chúng ta trang nghiêm sốt sắng. Nhưng khi thánh lễ kết thúc, cửa nhà thờ đóng lại và chúng ta trở về với cuộc sống thường ngày. Lúc bấy giờ chúng ta lại vội vã gian than, độc ác và bất công. Trong nhà thờ chúng ta là những con chiên ngoan, nhưng giữa lòng cuộc đời, chúng ta lại hoá kiếp thành một loài sói dữ. Như vậy, thánh lễ cũng chỉ là một chiếc ngăn kéo rất nhỏ bé giữa những ngăn kéo biệt lập khác của cuộc sống.
Thế nhưng, với những người có đức tin thì khác, cuộc sống phải trờ thành thánh lễ, hay nói cách khác, tinh thần thánh lễ phải thấm sâu vào cuộc sống của họ. Có nghĩa là chúng ta phải biến đổi đời sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài, bằng cách thực thi tinh thần yêu thương và hợp nhất, giúp đỡ những người chung quanh, như một bài hát quen thuộc: Ta về thôi khi thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để làm chứng nhân.
Hãy góp nhặt những hy sinh rải rắc trong đời thường, để làm nên tấm bánh và chén rượu, như những của lễ chúng ta dâng lên Chúa. Từ đó chúng ta đi đến một câu hỏi, một kết luận, đó là chúng ta đã thực sự sống tinh thần thánh lễ giữa lòng cuộc đời của chúng ta hay chưa?
Những quyết định hằng ngày là một phần của đời sống: như mặc đồ thế nào, ăn cái gì và khi: TN 21-B44
Những quyết định hằng ngày là một phần của đời sống: như mặc đồ thế nào, ăn cái gì và khi nào thì đi ngủ. Với những vấn đề này, những quyết định của chúng ta thì thường thay đổi nhưng có một số quyết định mà bản tính của chúng kéo dài mãi đến đời đời. Những chọn lựa căn bản mà chúng ta đã làm bằng chính ý chí tự do của chúng ta, một thí dụ tuyệt hảo cho vấn đề này đó là quyết định kết hôn. Hôn nhân là một Giao Ước vĩnh viễn, một quan hệ tình yêu và trung thành giữa một người nam và một người nữ, để họ trở nên một.
Thiên Chúa đã mời gọi dân của Người trong Cựu Ước trở thành bạn tình của Người, bằng một Giao Ước mang hình thức của hôn nhân thiêng liêng. Giosuê là một người lãnh đạo của dân Thiên Chúa sau cái chết của Môisê, đã hiểu được tầm quan trọng của Giao Ước này. Ông đã thách thức dân chúng: “Nếu các ngươi không hài lòng phục vụ Chúa thì hãy quyết định trong ngày hôm nay, các người sẽ phục vụ ai, còn tôi và người nhà của tôi sẽ phục vụ Thiên Chúa” Giosuê đã làm một quyết định với chính mình.
Những thế kỷ sau, Chúa Giêsu đã đối đầu với những kẻ đã nghe người rao giảng. Người thách thức họ làm một quyết định về chính Người. Ngài đã tuyên bố một giáo lý mà họ có thể hiểu một cách rõ ràng: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống. Những ai đã ăn Thịt của Ta và uống Máu Ta sẽ được sống đời đời và Ta sẽ cho nó sống lại ngày sau hết”. Họ hiểu điều Chúa Giêsu nói nhưng họ đã chối bỏ: “Những lời này nghe chói tai quá, ai mà nghe cho được”.
Họ đã hiểu một cách chính xác những gì mà Chúa Giêsu đòi hỏi. Khi họ từ bỏ và quay lưng với Ngài để bỏ đi, Ngài đã để cho họ đi. Đó là một ngày quyết định. Không thể tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu mà cùng lúc đó lại chối bỏ lời hứa của Ngài về bí tích Thánh Thể. Tiếp đó, Chúa Giêsu đã thách thức những người thân cận nhất của Ngài với nhóm 12: “Các ngươi có muốn rời bỏ Ta luôn không?” Phêrô đã tuyên xưng lòng trung thành mà lời đó đã được lặp lại qua muôn thế hệ bởi những người nam và những người nữ sống theo đức tin: “Lạy Chúa, bỏ Ngài con biết theo ai? Chỉ có Ngài mới có Lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin rằng Người là Con Thiên Chúa, Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô thì không hề bị cưỡng bách, ngài đã nhận được ân sủng mà ân sủng đó không giống như là một đề nghị kết hôn. Ân sủng này Ngài được tự do đáp trả. Ngài đã làm một quyết định nối kết thân mật chính Ngài với Đức Kitô, mặc dù sau đó ngài đã bị sa ngã, nhưng ngài luôn luôn trung thành đức tin với Đức Kitô. Thật vậy, ngài nói rằng, ngài muốn bước vào mối quan hệ yêu thương và vĩnh viễn trung thành với Đức Kitô.
Chúng ta có cùng ân sủng, điều đó có nghĩa là chúng ta cũng có cùng thách đố, có cũng những quyết định phải làm. Đức Kitô làm cho đức tin vào Thánh Thể của chúng ta như là một thử thách tuyệt đối của đức tin vào chính Người. Nhận biết Thánh Thể là một bí tích của Giao Ước mới đời đời. Sẵn sàng yêu mến bí tích Thánh Thể và cử hành bí tích này tại trung tâm điểm cuộc sống của chúng ta, là thi hành mối quan hệ yêu thương và vĩnh viễn, làm cho Đức Kitô và chúng ta là hai trở nên một xác thịt.
Vì sao chúng ta tin vào bí tích Thánh Thể? Vì sao chúng ta lại thấy bí tích này một bí tích tuyệt diệu? Vì sao Thánh Lễ là diễn tả cao nhất của sự thờ phượng Công giáo? Bởi vì Đức Kitô là Lời có sự sống đời đời mà chúng ta tin rằng Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Đoạn kết diễn từ của Chúa về Bánh ban sự sống dẫn ta tới đỉnh cuộc khủng hoảng, mà từ đó: TN 21-B45
Đoạn kết diễn từ của Chúa về Bánh ban sự sống dẫn ta tới đỉnh cuộc khủng hoảng, mà từ đó, sự Thương khó Đức Kitô sau này sẽ diễn ra. Chúa đã phán ra tất cả những lời buộc chúng ta phải chọn lựa, hoặc tin vào Người hoặc từ chối theo Người. Đoạn Phúc âm rất phong phú này đưa ta đến hai suy tư (trong các suy tư khác):
1) Tiếng xầm xì của một số môn đệ, sự vấp phạm, sự từ chối không tin của họ, được giải thích ở đây qua lý do cách thức họ hiểu Lời Chúa Giêsu. Dầu là họ từ chối không tin hay là đối với một số người ‘giờ’ chưa đến, họ cũng là những kẻ không hiểu được Lời Chúa trong Thánh Linh. Họ không vượt quá lên được một sự hiểu biết vật chất và xác thịt về các Lời đó. Tại sao? Tại vì lòng họ chưa ở trong tình trạng sẵn sàng đón nhận. Trí óc họ đóng cửa lại trước những gì mới lạ. Họ tự giam mình trong thế giới các sự việc ‘có thể’ đối với họ. Điều mà Chúa Giêsu nói đối với họ là ‘không có thể được’, nên họ gạt bỏ. Điều bất hạnh cho họ nằm ở trong một câu hỏi: có gì là ‘không thể được’ đối với TC? Ở đây, họ tỏ ra thiển cận, tự mình xét đoán lấy việc có thể hay không có thể. Họ không có được ý kiến phải tìm hiểu quan điểm người khác, những người thật đơn sơ thôi, song tức khắc đã nhận ra lối thoát đưa tới miền vô biên của thực tại, thực tại của TC. Nơi họ, chúng ta tìm thấy 1 trường hợp điển hình của óc tự mãn ngoan cố, hẹp hòi, xuất phát từ chối không muốn biết đến ‘ bên kia’ của chân trời thấy được. Các Tông đồ may mắn có thứ phản ứng đã cứu thoát họ. Được ân sủng bên trong của Thánh Linh hỗ trợ, họ khắc phục mọi khó khăn về hiểu biết bằng đức tin trung kiên của họ đối với Chúa Giêsu, bởi lẽ CGS là ‘Đấng Thánh của TC’.
2) Thái độ của phần đông các môn đệ đã bỏ Chúa, gợi lên cho chúng ta một vấn đề. Người ta đã nói rất nhiều đến não trạng ‘giảm thiểu’ về việc cắt nghĩa Thánh kinh hay kinh Tin Kính của Giáo hội. Nhất là sự hiện diện của Đức Kitô trong Thánh Thể lại là đối tượng của nhieêù suy diễn đưa tới sự từ chối không nhận sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu. Trong các loại suy diễn ấy, người ta gặp lại đúng cái não trạng của các môn đệ đã bỏ Chúa, vì họ cho rằng những điều Chúa nói là không thể nào quan niệm được. Não trạng ấy khổ sở vì sự bất lục không ra khỏi được những vùng của những cái gọi là có thể đối với con người, để tiến vào những vùng cao trọng hơn của những cái gọi là có thể đối với TC. Do đó, có những nỗ lực hăng say để ‘giảm thiểu’ sự hiện diện của Đức Kitô trong phép Thánh Thể thành một thứ gì mù mờ bao bọc bằng uy tín của các đại danh từ triết học. Phần chúng ta, chúng ta thử ở lại bình tĩnh và cương quyết trong đức tin của chúng ta. Điều cần thiết là chúng ta phải biết tìm cách soi sáng đức tin ấy và phát biểu nó ra bằng thứ ngôn ngữ hiện đại. Nhưng sự thể là cuối cùng, chúng ta phải đi tới cho chấp nhận giáo huấn rất cương nghị của GH và chúng ta chỉ có thể thực hiện điều này nếu chúng ta đón nhận giáo huấn ấy ‘trong Thánh Linh’, ở trình độ mà quan niệm nhân sinh cho là ‘không thể được’...
Cha Maurice Zundel đã kể một câu chuyện: Trong căn phòng chỉ còn lại hai người: linh: TN 21-B46
Cha Maurice Zundel đã kể một câu chuyện: Trong căn phòng chỉ còn lại hai người: linh mục phụ trách tu viện và viên sĩ quan Xô Viết. Viên sĩ quan nói: Hiện giờ chỉ có hai chúng ta. Ông và tôi, không một ai chứng kiến. Vậy ông hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả. Hãy nói cho tôi biết là ông không tin vào tất cả những chuyện về Chúa, Mẹ, trong tôn giáo mà ông vẫn tuyên xưng phải không?
Linh mục đáp: Có, tôi tin chứ!
Viên sĩ quan buông súng xuống, ôm chầm lấy người linh mục. Ông reo lên: Quả thật, đây là điều tôi trông đợi. Đây là người tìm kiếm. Vâng, thưa cha, bây giờ thì tôi cũng thế: Tôi tin Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Có lẽ vị linh mục trong tu viện đó đã từng xác định sự chọn lựa đi theo Chúa của mình, nên cha mới có được một phản ứng dứt khoát, kiên trung, điềm nhiên đến như thế. Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta xác định lại sự chọn lựa của chúng ta.
Bài đọc 1 đã cho ta thấy, bốn mươi năm về trước, dân Do Thái đã cam kết chọn Thiên Chúa trong Giao Ước tại núi Sinai. Nhưng hôm nay họ đã đặt chân và Đất Hứa, nhưng năm tháng rong ruổi trong sa mạc đã qua, những ngày tháng đói khát thiếu thốn đã chấm dứt, và từ nay họ bắt đầu cuộc sống định cư, đất đai phì nhiêu, cuộc sống thoải mái. Trước hoàn cảnh mới này, niềm tin của họ có còn mạnh mẽ sốt sắng như xưa hay đã sớm bỏ quên Chúa để chạy theo các thần địa phương. Ông Giôsê, mà cả toàn dân đã nói lên sự chọn lựa dứt khoát: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác”.
Khi Chúa Giêsu làm phép lạ bánh hoá nhiều, dân chúng theo Chúa rất đông. Nhưng từ phép lạ ấy, Chúa dẫn họ đến lương thực hằng sống: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời”. Nhưng họ cho rằng “lời này chói tai quá, ai mà nghe được”. Nên từ lúc đó, có nhiều người rút lui không còn theo Chúa nữa. Bấy giờ Chúa đặt thẳng vấn đề với nhóm Mười Hai: “Cả anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Nhưng Phêrô đã đại diện các Tông Đồ xác định sự chọn lựa của mình: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh”.
Thưa anh chị em,
Sống trong một thế giới đổi thay không ngừng, con người dễ bị lôi kéo vào thái độ thay lòng đổi dạ. Ngày nay con người gặp nhiều thứ khủng hoảng, trong đó khủng hoảng về lòng trung thành là một vấn đề quan trọng. Các hợp đồng kinh tế bị vi phạm, giao ước hôn nhân bị đổ vỡ, tình bạn bị phản bội. Ngay cả các Kitô hữu nhiều lúc cũng bị cám dỗ bỏ Chúa hoặc không sống đúng ơn gọi của mình, nhất là khi đứng trước một biến cố hay một hoàn cảnh; một thử thách hay một cám dỗ; một nỗi buồn hay một niềm vui… Xã hội Việt Nam hôm nay đổi thay từng ngày, và sự đổi thay nhanh chóng ấy đang tác động mạnh trên đời sống đức tin của các Kitô hữu. Ảnh hưởng tích cực có, mà tiêu cực cũng nhiều. Khá nhiều Kitô hữu trước kia là những người đạo đức, nhưng nay không còn đứng vững trước sức tấn công của nền kinh tế thị trường, của tiền bạc, lạc thú, công việc kinh doanh. Có những người đang từ nghèo thành giàu mà quên Chúa. Và ngược lại, một số khác đang từ giàu thành nghèo cũng bỏ Chúa. Nhiều người không còn muốn bước theo Chúa vì không thể chấp nhận được những nỗi ô nhục của thập giá trong đời mình. Cũng như những người không còn muốn trung thành với giáo huấn của Hội Thánh vì “lời này chói tai quá, ai mà nghe cho nổi?” Người môn đệ Chúa Kitô cần xác định lại để trung thành bước theo Chúa.
Từ lòng trung thành với Chúa sẽ dẫn đưa con người đến lòng trung thành với nhau, nhất là trong đời sống gia đình. Đời sống gia đình hôm nay của đang gặp khủng hoảng. Người ta cam kết thề hứa trung thành suốt đời, nhưng chỉ đi với nhau một đoạn đường ngắn để rồi sau đó chia tay nhau. Thánh Phaolô hôm nay mời gọi các bậc vợ chồng ngước nhìn lên mầu nhiệm Chúa Kitô yêu thương Hội Thánh để trung thành trong tình yêu hôn nhân.
Anh chị em thân mến,
Chúa muốn chúng ta trung thành và chúng ta cũng muốn trung thành. Nhưng trung thành bước theo Chúa không phải là điều dễ dàng. Quả vậy, có những lúc ta cảm thấy mình quá yếu đuối, tầm thường, quá bé nhỏ mỏng manh trước sức tấn công của thử thách, của cám dỗ, của tiện nghi vật chất, tiền bạc, thú vui sắc dục, danh vọng, quyền lực…. Chỉ có ơn Chúa mới có thể giúp ta trung thành đi theo Chúa: “Thần Khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì… không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơi ấy cho”. Thánh Phêrô đã nhìn lên Chúa, để tiếp tục chọn lựa đi theo Chúa: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh” Quả thực, Thánh Phêrô đã cảm nhiệm được Lời Chúa là ánh sáng, là niềm vui, là sự sống và Ngài đã an tâm tín nhiệm vào Chúa. Cũng thế, ở đại hội Sikem, dân Do Thái kiên quyết chọn Chúa vì đã nhận biết những việc kỳ diều Chúa đã làm khi giải phóng họ khỏi nô lệ Ai Cập và đưa về Đất Hứa.
Mỗi người chúng ta hôm nay phải đích thân nói lên lời cam kết trong ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi hôn nhân hay ơn gọi dâng hiến. Chúng ta muốn chọn lựa một cách dứt khoát và vĩnh viễn, dù hôm nay ta chưa biết hết được những gì sẽ đến trong ngày mai. Sự chọn lựa ấy đòi ta tín trung. Và để tín trung trong ơn gọi, ta cần bắt đầu lại mỗi ngày, chỗi dậy mỗi ngày để “trung thành với tình yêu ban đầu” (Kh 2,4).
Chúa Giêsu Thánh Thể tự hiến trên bàn thờ và ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế chính là bằng chứng của tình yêu trung thành. Chúa là nguồn sự sống luôn luôn tươi mới và là nguồn động lực để ta mãi mãi trung thành đi theo Chúa.
Nhiều môn đệ liền nói: không thể tiếp tục nghe Người (c. 60). Nhiều môn đệ rút lui và không: TN 21-B47
Nhiều môn đệ liền nói: không thể tiếp tục nghe Người (c. 60). Nhiều môn đệ rút lui và không còn đi với Người nữa (c. 66). Chúa Giêsu hỏi nhóm Mười Hai: Anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?
Thưa Thầy, chúng con biết đến với ai? Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và nhận biết. Thầy là Đấng Thánh, vị Thánh của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đáp: Thế mà một người trong anh em lại là quỷ.
Trong tiểu đoạn này xuất hiện những kết quả thảm khốc, từ bài diễn từ của Chúa Giêsu: không phải là những người Do Thái xa rời Chúa Giêsu nữa, mà là các môn đệ chính hiệu; và có đến hai lần, có “nhiều” môn đệ không đi theo Chúa Giêsu nữa. Một cuộc khủng hoảng như thế trong mối tương quan giữa Chúa Giêsu và các môn đệ được cả bốn sách Tin Mừng nhắc đến. Các sách Nhất Lãm đặt cuộc khủng hoảng này vào lúc Phêrô tuyên xưng đức tin ở Xêdarê (Mc 8, 27-33). Trên thực tế cả hai cảnh huống đều có điểm chung với nhau. Gioan, vẫn theo thói quen, trình bày cảnh huống cách thoải mái hơn. Trong khi sử dụng từ “môn đệ”, thánh sử muốn nhắc đến hoàn cảnh khủng hoảng tại cộng đoàn của ông. Tuy nhiên ông cũng tạo điều kiện cho mỗi độc giả, một khi được mời gọi trở thành môn đệ, nên lượng định những yêu sách của đức tin và vị trí trung tâm của Thánh Thể trong thời điểm của Giáo Hội.
Việc nhấn mạnh vào thực Thánh Thể được nhắc đến trong tiểu đoạn 53-59 không nên hiểu theo cách giải thích phù phép của bí tích: “Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì” (c. 63). Sự hiệp thông do bí tích có mục tiêu cuối cùng đưa đến sự hiệp thông với Chúa Giêsu.
Trong sự thử thách vì lẽ phải khiến nhiều người bỏ đi, Chúa Giêsu yêu cầu những kẻ thân cận nhất của Người thực hiện lại việc lựa chọn của mình ông Simon Phêrô, người phát ngôn của nhóm Mười Hai, công bố sự gắn bó của mình bằng đại từ ở ngôi thứ nhất số nhiều: “Thưa Thầy, chúng con biết đến với ai? – Cùng với các đồng nghiệp của mình, ông ở lại bởi vì Chúa Giêsu có “những lời đem lại sự sống đời đời”. Nhờ ông, nhóm Mười Hai long trọng tuyên xưng đức tin của mình, qua một tước hiệu chưa được nói đến: “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, có nghĩa là Đấng chiếm hữu chính sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thế nhưng bài trần thuật lại kết thúc bằng việc nhắc đến kẻ phản bội. Như vậy, chương 6 quan trọng này chấm dứt bằng một báo hiệu bi thảm, để hiểu rằng không bao giờ chiếm hữu được sự trung thành, cũng như sự trung thành có thể ngã nhào trong sự phản bội.
Đức Giêsu đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời... Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”.
Chúng ta đã đọc đến đoạn cuối của diễn từ “Bánh hằng sống". Chúng ta sẽ tìm hiểu hiệu quả bài giảng TN 21-B48
Chúng ta đã đọc đến đoạn cuối của diễn từ “Bánh hằng sống". Chúng ta sẽ tìm hiểu hiệu quả bài giảng của Đức Giêsu đối với thính giả, qua ngòi bút của một nhân chứng đã đích thân tham dự buổi diễn giảng này. Có hai hiệu quả:
Đó là sự vấp phạm và khước từ của đa số cử tọa.
Nhưng cũng là sự trung thành, khiêm tốn đầy tin cậy của nhóm nhân tố "Mười Hai".
Ở đây chúng ta có chứng tích lịch sử bậc nhất về cuộc sống của Đức Giêsu. Ba thánh sử kia cũng đã ghi lại rõ ràng khúc quanh quan trọng này trong sứ vụ của vị tiên tri làng Nagiaret: Đó là cơn khủng hoảng! Cho tới bây giờ, đám đông đã đi theo và tìm kiếm Người: Ở đây Gioan đã gọi họ là "môn đệ". Nhưng các "môn đệ" này, những người đã bắt đầu đi một đoạn đường với Đức Giêsu, đang từ bỏ Người. Sự mạc khải mầu nhiệm Thánh Thể bắt đầu làm cho đa số thính giả chán ngán vào cuối chương này, chúng ta có thể đếm số môn đệ nhỏ nhoi còn lại.
Tin Mừng đã thẳng thắn không che giấu chúng ta rằng Chúa đã thất bại trong ý định giúp ta hiểu về "bánh" của Người, "Bánh đích thực". Bởi vì nói cho cùng thì ai có thể hơn Đức Giêsu để giải thích cho chúng ta vấn đề này? Hai mươi thế kỷ qua đi, chúng ta vẫn tiếp tục ngạc nhiên khi thấy những con người nam nữ già trẻ từ chối bước theo Đức Giêsu để "nhận lấy mà ăn bánh và cầm lấy mà uống rượu của Người, và như Người tuyên bố thì đó là thịt và máu của Người". Và có thể chúng ta vẫn lên án Giáo Hội về điểm đó: "ôi giá kể Giáo Hội đã không thay đổi nhanh hơn... ôi, nếu Giáo Hội có lập trường như lập trường của tôi".
Thực ra chính "đức tin" là nguyên nhân của sự việc này, chứ không phải là một truyền thống phụng vụ, văn hóa, xã hội nào đó, và Đức Giêsu sẽ nói lại điều này với chúng ta một cách rõ ràng, không chút nhượng bộ.
Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy.
Các bạn thấy không? Đức Giêsu không cần nghe những lời lẩm bẩm đó. Người biết trước, Người không ngạc nhiên, Người đang chờ đợi những lời đó. "Đức tin" khó khăn biết bao! Vì đức tin là "khước từ cách hiểu biết thông thường, nhờ giác quan và lý trí, lý luận" để "tin vào một người khác" đó là "tin mà không thấy", như Thánh Gioan sẽ nói rất nhiều lần.
Người bảo các ông: "Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?".
Vâng lạy Thầy, điều đó làm chúng con vấp phạm. Và Thầy biết rõ như thế. Từ Hy Lạp là động từ "Scandahzô" Ở đây dịch là vấp phạm, có nghĩa là điều đó làm các ngươi bất bình, các ngươi vấp phải ta như vấp phải một hòn đá chướng ngại. Chúng ta thường có khuynh hướng làm cho đức tin trở thành một thứ giáo huấn. Nếu giảng hay, những người trẻ sẽ đi dự lễ. Họ sẽ hiểu, họ không còn "biết" gì thêm nữa. Nhưng đối với Đức Giêsu, như chúng ta đã thấy đức tin luôn gây đụng chạm! Đức tin không hẳn nhiên là thế? Đức tin luôn luôn cho ta thấy chướng. "Đức tin" không phải là một bài học được lặp đi lặp lại, "nhưng" là một dấn thân trong cuộc sống". Đức tin là một "thực hành có hiệu quả". Đức tin là một sự "thúc hối" phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của mình, được coi là có tính khoa học, để đón nhận mạc khải của một người khác mà không thể kiểm chứng được bằng những phương thế nhân loại. “Tuyên xưng đức tin" thực sự, không phải là đọc kinh Tin kính hay một "công thức" nào hay nhất do bộ óc văn minh của chúng ta, mà là thực hành không gì Chúa đã dạy. Mầu nhiệm trung tâm của đức tin, chắc chắn là Bí tích Thánh Thể. Khi ta nói "Người Kitô hữu là người đi dự lễ", thì ta chưa nói hết. Nhưng ta đã nói một phần nào cốt yếu, nếu ta hiểu Thánh lễ như chúng ta đang cố cử hành với chính Chúa Giêsu. Đức tin đó là một "quyết định". Quyết định này bao gồm hai khía cạnh:
1 “An bánh hằng sống”.
2. "Sống đời mình bằng yêu thương hữu ích".
Thế khi anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?
Làm sao người này có thể cho thịt của mình để chúng ta ăn? Chính vì người này không chỉ là một con người. Đức Giêsu, thay vì rút lại lời khẳng định của mình hay là giải thích hoặc làm giảm nhẹ chúng, Người lại nhấn mạnh bằng cách gợi cho chúng ta một "mầu nhiệm" khác mà mầu nhiệm Thánh Thể chỉ là sự diễn dịch. Chúng ta đang thực sự ở trong đề tài Nhập Thể của Thiên Chúa. "Thần Khí" trở thành xác phàm.
Đây thực là một mầu nhiệm "thần linh" (không ai đã thấy Chúa) và vì thế con người không thể tự sức riêng mà hiểu được. Đức Giêsu ám chỉ rõ ràng "hữu thể thần linh của Người". Người nói Người sẽ trở về nơi mà trước kia Người đã ở. Chúng ta hãy lưu ý tới giọng nói hạch hỏi của Đức Giêsu này. Câu nói của Người hầu như chưa dứt: "Và khi anh em sẽ thấy Con Người lên nơi mà Người đã ở trước thì sao?".
Vâng, xuyên qua sự tối tăm, vẻ tầm thường, sự thân mật nơi thân phận con người hiện tại của Đức Giêsu, cần phải tiến đến sự khám phá vinh quang của Chúa Ba Ngôi. Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha, trong sự sống động của Thần Khí, mà Người đã lãnh nhận từ Chúa Cha. "Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha, thế nào thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy".
Thực sự chúng ta không biết sự sống là gì: sự sống bình thường của thảo mộc, cũng như động vật, không ai, không một nhà bác học nào đã có thể nói sự sống là gì?
Vậy thì “sự sống" của Thiên Chúa thì sao? Những phương tiện để hiểu biết mà con người có được đều bất lực, không thể giúp hiểu mầu nhiệm này. Người ta không thể giải thích Bí tích Thánh Thể chỉ bằng lý trí con người: Mầu nhiệm này thật vĩ đại, khôn dò, đó là mầu nhiệm đức tin.
Thần khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì
Lạy Chúa, xin lặp lại cho con những lời đó. Ước chi những lời này không làm cớ cho con vấp phạm và nghi ngờ.
Những lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ không tin. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người.
Hơn mọi lời khác, lời Chúa, nói về phép Thánh Thể, đã giả định trước tác động của Chúa thánh Thần. Chúng ta thực sự đang ở trung tâm điểm của Tin Mừng. Làm sao có thể giản lược Tin Mừng vào những giải thích luân lý: Đức Giêsu con người vĩ đại nhất, nhà hiền triết, vị ngôn sứ nhà cách mạng, là phong trào xã hội, là giải phóng... tất cả đều đúng, nhưng không phải là bản chất riêng của Chúa. Có một khía cạnh nổi bật khác, không thể thu nhỏ được mà chúng ta gọi là thần linh! Tức là vô hình, vượt trên tất cả. Chúng ta chỉ thấy được một phần nào siêu việt qua con người hữu thể của Người, mà phải mất một chút đoán nhận ra "ngang qua xác thể" nhưng đó vẫn thuộc về trật tự Thần khí và Sự sống.
Người nói: "Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho".
Chúng ta đang ở trong mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa, sự sống của Ba Ngôi. Hình trạng Chúa Ba Ngôi của Rublev đã diễn tả mầu nhiệm này cách kỳ diệu.
Ba nhân vật ngồi chung quanh một “cái bàn" và chỉ dùng một "chén". Tam vị nhất thể được tiếng trưng bằng một vòng tròn mà chu vi bên ngoài của ba ngôi vẽ nên cách ăn khớp tuyệt hảo. Là 3 hình nhưng để tạo nên một vòng duy nhất. Đó là một vòng tròn sống động luôn vận chuyển. Chúa Cha chủ tọa bên kia bàn. Người nhìn bằng cái nhìn tình yêu xuyên suốt trái tim, lồng ngực của Chúa Con. Còn Chúa Con lại nhìn sang Chúa Thánh Thần. Nhưng ta hãy nhìn kỹ dung mạo của Ngôi Ba và cử động bàn tay phải của người: Cả mặt và tay hướng xuống đất! Hình tròn được mở về phía chúng ta là những người đang đứng phía trước bàn, để ngắm nhìn "hình" này. Vâng, sự sống của Ba Ngôi được ban cho chúng ta, tại chiếc bàn này: Thần khí là sự sống được ban cho chúng ta, được dâng tặng cho chúng ta. Thiên Chúa, vì là Tình yêu, nên rõ ràng Người không thể ép buộc ai.
Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa. Nên Đức Giêsu mới hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?".
Dường như Chúa nói': "Tôi không giữ anh em, anh em được tự do”. Trong cuộc xung đột đang xảy ra giữa những "môn đệ ra đi" và những người ở lại với Chúa, trong cuộc xung đột giữa cha mẹ và con cái chẳng hạn... chúng ta hãy nhớ lời của Chúa: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? “ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh, phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
Đây là những lời đầy khiêm hạ và đơn thành: "Bỏ Thầy, thì chúng con biết đến với ai bây giờ". Lời nói chứa chan tình yêu và sự phó thác, vì đối với họ, Đức Giêsu là Đấng "không ai có thể thay thế được". Tuy nhiên chúng ta nên ghi nhớ, Nhóm Mười Hai đêm trước đã có một kinh nghiệm có thể soi sáng cho họ: Giữa phép lạ hóa bánh ra nhiều và diễn từ về Bánh hằng sống là thịt của Người các ông đã thấy thân thể đó "bước đi trên mặt nước hồ đang nổi sóng dữ dội trong cơn bão tố" (Ga 6,16-21). Thân thể này không có trọng lượng như chúng ta. Đó là Thánh Thể Đấng Thánh của Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại giới hạn Thiên Chúa vào trong khả năng hiểu biết của chúng ta? Thiên Chúa vượt mọi khả năng của chúng ta. Điều đó thật hiển nhiên!
Giai thoại này có tầm quan trong thế nào trong đời Chúa Giêsu và trong viễn tượng thần học: TN 21-B49
1. Giai thoại này có tầm quan trong thế nào trong đời Chúa Giêsu và trong viễn tượng thần học của Gioan? 2. Câu 62 ám chỉ cái gì bí mật? 3. Nếu "xác thịt không ích gì”, thì xác thịt của Con Người mà ta phải ăn để được sự sống vĩnh cửu có ích gì không? Phải chăng có mâu thuẫn?
1. Diễn từ về Bánh sự sống là nguồn gốc của một cuộc khủng hoảng sứ vụ tại Galilê.
Các Tin Mừng Nhất lãm cũng nhận rằng một khủng hoảng như thế đã được khai mào trong quê hương Chúa Giêsu ngay giữa bà con Người, sau khi Người giảng dạy trong các hội đường của họ (Mt 13-54; Mc 6,1; Lc 4,15). Ở đó cũng vậy, bác luận căn bản phát xuất từ chỗ người ta biết quá rõ nguồn gốc của Người (6,42).
Gioan đã mô tả khủng hoảng này cho đến cao điểm của nó. Ông thấy trong đó không phải chỉ là một sự chống đối thoáng qua. Luôn luôn cái trước trình thuật, ông rút ra từ hoàn cảnh đang mô tả những triệu chứng của sự chối từ quyết liệt, của sự bội phản Giuđa và của âm mưu người Do thái. Con Người đến loan báo thời đại cánh chung, nên thái độ người ta đối với Người mang một giá trị vĩnh cửu. Ngay từ giai đoạn hôm nay, các lập trường đã có tính cách quyết định và Tin Mừng, một cách nào đó, có thể trực tiếp nhảy qua chương 13, qua chứng từ về "Giờ"nhưng chương ở giữa 7-12. chỉ đề cập đến những giờ cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu là Chúa Giêsu quá biết rõ là việc mặc khải của mình cho người Do thái hầu như sẽ vô ích (9,4; 11,9; 12.35). Căn cứ vào những điều đã nhận xét, Người có thể lên án người Do thái ngay bây giờ (8,26.50). Sở dĩ Người không làm chuyện đó và vẫn tiếp tục công việc mặc khải, ấy chỉ vì ngày giờ của Người đã được ấn định bởi Chúa Cha. Dân cứng tin sẽ chỉ bị phán xét khi nào giờ của Người đến (12,31). Trên nguyên tắc, bản án đã được tuyên bố rồi, song chưa có uy lực quyết tụng (9,39). Việc mặc khải của Con Người, đáng lẽ phải là một sự trao ban sự sống vĩnh cữu, thì thực tế lại trở nên một phán quyết truất hữu, không xâm nhập được vào tận đầu óc của người Do thái luôn khép kín trước mặc khải thần linh và cánh chung đó. Thế mà sự từ chối mặc khải cánh chung tất yếu bao hàm một phán quyết cánh chung. Do đấy, nảy sinh một sự mâu thuẫn: một đàng, đây là cơ may cuối cùng của người Do thái, đàng khác hạn kỳ để chọn lựa sẽ chỉ hết vào Giờ Chúa Giêsu.
2. Chúa Giêsu chẳng cần phải nghe những gì người Do thái và các môn đồ giả nói mới biết (x. 5,6) họ không đồng ý với Người. Phải chăng việc ám chỉ đến cái chết của Người và đến ý nghĩa cứu chuộc của cái chết ấy làm cho họ vấp phạm?
Đúng! Sau này cũng vậy, mặc dù đã được báo trước (16,1), họ vẫn coi cái chết của Người là một cớ vấp phạm (Mc 14,27; Mt 26,31). Chúa Giêsu đã làm gì với mức độ phát triển của đức tin họ như thế? Người có tìm cách trấn an họ bằng cách giải thích sao cho vấn đề trở nên dễ chấp nhận hơn chăng? Chắc chắn đó không phải là thói quen hành động của Chúa Giêsu trong Tin mừng thứ tư. Trái lại, đứng trước thính giả không hiểu lời Người, Chúa Giêsu thường phản ứng bằng cách ám chỉ đến một mặc khải quan trọng hơn là mặc khải về tận cùng của cuộc sống bản thân. Trước đó, trong diễn từ về bánh, người ta cũng đã tìm được một ám chỉ về cái chết của Người (6,51) và chính lời ám chỉ này đã gây nên cuộc bàn cãi dẳng dai giữa người Do thái. Lời ám chỉ thứ hai chỉ là để xác nhận lời ám chỉ thứ nhất. Không rút lời lại, cũng chẳng nhượng bộ trước bác luận của họ, Chúa Giêsu đưa ra một ám chỉ mới liên quan đến một giai thoại cuối đời Người: Thăng thiên. Và lời ám chỉ này nặc khải yếu tố thần linh mà ta phải giả thiết là có nếu muốn hiểu ý nghĩa cứu sống của cái chết Chúa Giêsu. Như thế, hai khía cạnh của Giờ được đưa ra ánh sáng: khía cạnh mặc khải cũng như khía cạnh cứu chuộc (3, 13-15). Và đồng thời cái lý do cuối cùng của việc "từ trời xuống" cũng được giải bày minh bạch trong chương 6 Gioan. Bởi vì việc lên trời mang lại mặc khải hoàn toàn về Con người xuống thế là về nguồn gốc thần linh của Người: vào lúc đó Chúa Giêsu mới đảm nhận chức vụ Con Người, lúc đó nguồn gốc thiên giới của người mới hoàn toàn tỏ lộ. Vì Người lại lên nơi đã ở từ trước. Như vậy Thăng Thiên vừa là mặc khải về Con Người (1,51; 3,13; 6,62) vừa là mặc khải về Con (20, 17). Đối với Phaolô cũng vậy: giây phút cuối đời Chúa Giêsu, hay đúng hơn sự Phục sinh của Người, là lúc mà Chúa Giêsu trở nên hay lại trở nên thực sự chính Người: bấy giờ Người trở nên Chúa, Con Thiên Chúa quyền năng (Rm 1,4) thu hồi lại những ưu phẩm của thần tính Người (Pl 2,6-11) Sự cứu rỗi là nhận biết Chúa Giêsu ấy (2Cr 5,16). Việc giải thích các câu 53-63 như vậy thật rất chặt chẽ.
Một vài nhà chú giải đã tìm cách giải thích các câu này theo một đường hướng khác bằng cách xem mấy chữ "Và khi các ngươi thấy Con Người lên nơi Người đã ở trước" như một lời tiên báo việc đóng đinh trên thập giá (Cyrille, Maldonat, Tolet, Schanz) vì xét rằng, đối với Gioan. Giờ của Chúa Giêsu là giờ Người bị nâng cao trên thập giá và được vinh hiển. Nhưng ở đây, lối giải thích này ít xác đáng vì hai lý do:
1/ Động từ amabainein "lên" không bao giờ tương đương với động từ hupsôthênai "giương cao" trong Tin mừng thứ tư cả (3,14; 12,32-34)
2/ Việc gương cao trên thập giá không đặt Chúa Giêsu vào nơi mà Người đã ở trước. Vì thế, hình như bắt buộc phải hiểu nghĩa Thăng thiên.
Ý kiến này được đa số chấp nhận. Người ta cỏn có thể tranh luận về cách thức bổ túc câu này, là câu chưa chấm dứt và do đó có vẻ tối nghĩa, có lẽ do chủ ý. Nhưng dầu sao, chính mầu nhiệm Thăng Thiên sẽ đưa ra giải đáp đúng nhất cho các khó khăn.
3. “Thần khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì" (c 63)
Phải chăng những lời này muốt bảo: chỉ có Thần khí mới ban sự sống còn xác thịt của Con Người thì không có ích chi? Thế tại sao lại nhấn mạnh đến việc cần thiết phải ăn thịt ấy trong diễn từ về bánh? Câu này thật là một skandalon, một chướng ngại cho nhiều nhà chú giải.
Người ta năng gặp cách chú giải câu đó như sau: "Xác thịt không ích gì" có nghĩa là xác thịt vật chất của Chúa Giêsu sẽ chẳng có một công hiệu cứu rỗi nào nếu không có "thần khí tác sinh"; điều này giả thiết sự sống lại của Chúa Giêsu, việc Người vượt qua tình trạng vinh hiển và thiêng liêng, và việc Thần khí can thiệp trên các yếu tố được thánh thể hóa để làm thành thịt và máu của Đấng Sống lại. Nhưng lối giải thích này không lưu ý đến sự mạch lạc toàn bộ của diễn từ. Thật vậy từ c.53 đến 56, Chúa Giêsu nói về thịt Người hoặc thịt của Con Người một cách rất minh nhiên và quả quyết không chút dè dặt rằng đó thật là một của ăn (c.55) cung cấp sự sống vĩnh cửu (c 54). Người ta khó mà hiểu làm sao nơt c.63a, Người nhắc lại cùng một thực tại ấy khi nói về thịt mà chẳng xác định là thịt Người, và liều mình tương đối hóa lời tuyên bố của Người trước đó mấy câu. Sau hết, ngay tiếp theo c.63a Người bảo: "Lời Ta đã nói với các ngươi là Thần khí và là sự sống''. Câu này cho thấy rõ ràng quyền lực Chúa Giêsu đang có khi Người tuyên bố nó ra. hình như không chắc là ở đây Người bảo thịt Người chẳng lợi ích gì cả, vì như thế thì không còn mạch lạc giữa lời nầy với các lời trước.
Thật ra, hợp lý hơn khi giả thiết rằng trong c.63, không còn vấn đề thịt Chúa Giêsu, thịt được hy tế cho chúng ta, dấu chỉ hữu hiệu của tình thương Người và lương thực nuôi sống chúng ta nữa, nhưng là xác thịt nói chung, là nhân tính chúng ta, nhân tính bất lực trong việc cứu rỗi chính mình cũng như đón nhận ơn cứu rỗi và chân lý do Chúa Giêsu mang đến (x. Mt 16;17). Bản văn không bàn tới sự đối nghịch giữa "Thịt Ta -Thần Khí", nhưng tới sự đối nghịch, theo quan niệm sêmita, giữa Thần khí - xác thịt là ngày nay ta đến tả dưới hai ý niệm nhân loại thần linh (x. 3,6). Các người Do thái bực tức trước những lời nói của Chúa Giêsu. Vì, noi theo người đại tiện nổi tiếng của họ là Nicôđêmô, họ chỉ xét mọi sự dưới khía cạnh phàm trần mà không để ý gì đến những khả hữu tính thần linh. Khi phê phán những lời của Chúa Giêsu trong ý nghĩa nguyên thủy của chúng cũng như trong lối giải thích của Gioan trên những nền tảng nhân loại, thì những lời nói ấy hiển nhiên là phi lý. Nhưng đọc những lời nói đến sự sống vĩnh cửu trong một viễn tượng nhân loại thì lại còn phi lý hơn.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Nhiều môn đồ nói ..."
Tiếng Hy lạp pelloi có thể hiểu là ‘nhiều' hay ‘khá nhiều’, nghĩa đầu mạnh hơn nghĩa sau; ở đây cũng như ở chỗ khác, không thể nào xác định được. Cũng chẳng rõ là số "môn đồ'' ấy có bao hàm nhóm Mười hai hay không. Tuy nhiên, dựa vào việc Phêrô xem ra nhân danh nhóm Mười hai để minh định lập trường, nên có lẽ không được liệt nhóm Mười hai vào số các môn đồ lẩm bẩm kêu ca Chúa Giêsu, ngoại trừ Giuđa, vì Chúa Giêsu đã gọi y là "quỷ sứ" (6,70).
"Lời chi mà sống sượng thế"
Không phải là khó hiểu, nhưng đúng hơn là khó nuốt, khó chấp nhận.
"Vì chưng ngay từ đầu, Chúa Giêsu đã biết kẻ sẽ nộp Người là ai"
Không chắc Gioan muốn nói với độc giả là Chúa Giêsu đã biết sự bội phản tương lai của Giuđa ngay khi Người gọi ông làm sứ đồ. Tiếng từ đầu không buộc phải hiểu như vậy; hơn nữa một sự hiểu biết như thế của Chúa Giêsu sẽ khiến việc chọn Giuđa thành khó giải thích, đó là chưa kể nó không mấy phù hợp với bản tính nhân loại thực sự của Chúa Giêsu. Nếu cho rằng Chúa Giêsu chỉ khám phá ra là Giuđa không đáng tin cậy sau khi đã sống thân mật với ông một thời gian, thì tiếng ngay từ đầu mới có thể biện minh được.
"Từ đó"
Thành ngữ ektoutou, ngoài nghĩa thời gian, còn có thể có nghĩa nguyên nhân (như trong các chỉ cảo): Gioan muốn bảo rằng sự đào ngũ đông đảo mà ông đang đề cập có nguyên nhân trực tiếp là giáo thuyết mà Chúa Giêsu vừa đề ra.
"Ngài có những lời đem đến sự sống đời đời"
Nói cho đúng, phải dịch câu này như sau: "Ngài có nhiều lời ban sự sống đời đời" (TOB). Nhưng ở đây, như thường thấy trong Gioan, việc thiếu quán từ có lẽ là do ảnh hưởng của căn ngữ sêmita. Do đó, cách dịch của BJ có thể bào chữa được.
KẾT LUẬN
Các lập trường đã chọn lựa xong, các phe nhóm đã phân chia rõ ràng. Giuđa và người do thái có thể chuẩn bị vụ án Chúa Giêsu. Thật ra, chính Con người sắp xử án dân bị loại bỏ của Thiên Chúa, giữa niềm vui của ngày lễ Lều Trại và lễ Đền thờ là hai đại lễ của dân "được tập họp" của Thiên Chúa (Ga 7-10).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Phần kết luận của diễn từ về bánh sự sống dẫn đưa chúng ta tới cao điểm của cơn khủng hoảng từ đó phát sinh cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu. Chúa đã hỏi một số lời bắt người ta phải chọn lựa: hoặc tin vào Người, hoặc từ chối không tin.
2. Sở dĩ một số môn đồ kêu ca khó chịu và từ chối tin, là vì họ có một cách thức hiểu lời Chúa Giêsu. Hoặc họ từ chối, hoặc đối với một vài kẻ, chưa đến giờ tin, tất cả là vì họ không hiểu lời Chúa Giêsu trong Thần khí. Họ chẳng chịu vượt qua sự hiểu biết vật chất và xác thịt về những lời của Người. Tại sao vậy? Vì tâm hồn họ không ở trong tình trạng đón tiếp. Tâm trí họ đóng kín trước điều mới mẻ. Họ giam mình trong thế giới vật chất mà họ coi là dễ chấp nhận hơn. Điều Chúa Giêsu nói không thể nào có được xét theo con người, thành thử họ loại bỏ. Điều bất hạnh cho họ nằm trong câu hỏi: Điều gì không thể được đối với Thiên Chúa? Ở đây, họ tỏ ra thiển cận, chỉ muốn phê phán điều có thể và không có thể; họ chẳng có ý định đi tìm quan điểm mà từ đó một số tâm hồn đơn sơ tự nhiên thấy được lối vào trong cái vô biên của thực tại, thực tại Thiên Chúa. Chúng ta đang đứng trước một trường hợp điển hình của sự tự mãn ngoan cố và hẹp hòi của trí tuệ con người chỉ muốn phủ nhận cái bên kia những chân trời của nó. Các sứ đồ dã có được phản xạ cứu thoát họ. Được ân sủng bên trong của Thần khí trợ giúp, họ đã vượt thắng được sự khó hiểu bằng cách trung thành với Chúa Giêsu chỉ Người là "Đấng Thánh của Thiên Chúa".
3. "Nhưng trong các ngươi, có những kẻ không tin". Hãy tự vấn xem câu này có liên can đến chúng ta, là những tín hữu của thế kỷ XX không? Việc đọc và nghe lời Chúa Giêsu làm chúng ta đặt lại vấn đề. Chúng ta có cho những lời ấy là quan trọng, có thực sự muốn lao công vì "lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời" (6,27), có muốn tiếp nhận lương thực ấy bằng cách ăn uống Thịt Máu của con Người và thông hiệp vào cuộc khổ nạn của Người không? Nếu không, chúng ta hãy thành thật thú nhận: "Lời chi mà sống sượng thế ”. Ai nghe được (c 60) và hãy rút ra những hậu quả. Chúng ta đừng hy vọng đánh tráo: "Bởi chưng ngay từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin và ai là kẻ sẽ nộp Người. Và Người nói: Vì thế Ta đã bảo các ngươi: không ai có thể đến với Ta trừ phi là đã được Cha ban cho". Lúc chúng ta quyết định, thì Chúa Giêsu nhắc lại rằng rốt cuộc đức tin của chúng ta không thể căn cứ vào những nhận xét, những suy diễn hoặc những cảnh tượng chủ quan, những căn cứ vào mặc khải mà Thiên Chúa ban cho chúng ta về nhân cách đích thực của Chúa Giêsu và về tương quan giữa ta với Người.
4. Thánh Thể là bí tích và là chiến thắng của sự bé nhỏ Tin Mừng: trong Thánh Thể chúng ta là con và lại được trở thành con cái Thiên Chúa. Vì để tin rằng Thiên Chúa đến với chúng ta dưới hình bánh, thì phải có một tâm hồn của trẻ nhỏ, cởi mở đón nhận những điều diệu kỳ của Thiên Chúa. Hãy nhớ lại câu nói rất mạnh của thánh Tôma: "Chúng ta luôn luôn như là đứa bé trong lòng mẹ trên trần gian này". Chúng ta đang ở vào thời gian con nhộng. Trong thế giới bên kia, con bướm sẽ ra khỏi bóng tối của nó và sẽ triển nở trong ánh sáng chan hòa.
Đức Giêsu đã tuyên bố mình là Bánh Sự Sống từ trời xuống. Các thính giả của Người đã phản: TN 21-B50
Ðức Giêsu đã tuyên bố mình là Bánh Sự Sống từ trời xuống. Các thính giả của Người đã phản ứng bằng nhiều thái độ khác nhau. Hầu hết không tin, một số nghi ngờ. Nhưng nhóm Mười Hai với Phêrô là đại diện đã tin. Trước những lời của Ðức Giêsu, mỗi người phải chọn lựa cho mình một thái độ, một lập trường.
"Chúng con sẽ đi theo ai ? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời". Lời tuyên tín của Phêrô hẳn cũng là lời tuyên xưng đức tin của mỗi người kitô hữu chúng ta. Trong khi nhiều người khác không tin vào Ðức Giêsu, thì người tín hữu tức là người gắn bó, ở với và lắng nghe lại tuyên xưng những lời trên.
Người tín hữu gắn bó với Ðức Giêsu, vì "Người là Ðấng Cứu độ tôi", lời của Người mang sự sống đời đời. Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa đến trần gian thông ban sự sống Thần Linh cho nhân loại, đặc biệt qua Nhiệm tích Thánh Thể. Mỗi lần đón nhận Thánh Thể là mỗi lần gắn bó với Ðức Giêsu. Ðể gắn bó với Ðức Giêsu, người ta cần trở nên trẻ thơ. Thánh Tôma nói: "Trên trái đất này, chúng ta như những trẻ thơ trong cung lòng người mẹ của mình".
Người tín hữu ở với Ðức Giêsu, tức là chấp nhận sự hiện diện của Người trong đời sống mỗi ngày. Tin tức là nhận ra Ai Ðó đang chi phối cuộc đời mình, chấp nhận cho Ai Ðó can thiệp, "góp ý", "sửa đổi". Ðôi khi chúng ta quên hỏi ý kiến của Ai Ðó trong những biến cố của đời mình, và chúng ta tự ý quyết định lấy tất cả. Ở với Ðức Giêsu là đồng hành với suy nghĩ, hành động của Người. Suy nghĩ và hành động của Ðức Giêsu không gì khác hơn là ước muốn cho cuộc đời và con người hạnh phúc.
Người tín hữu lắng nghe Lời Chúa qua các biến cố của cuộc đời mình, qua chính Lời "làm cho sống đời đời". Ðể có thể lắng nghe được Lời Chúa, chúng ta cần thinh lặng, cần cúi mình xuống, cần có tấm lòng rộng mở. Lời Chúa chỉ vang lên khi chúng ta có đủ những điều kiện thích hợp trên. Tin cũng là lắng nghe lời Chúa nói để "hoán cải và tin vào Tin mừng".
Phải chăng chúng ta đang tuyên xưng "Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời"?
Lạy Chúa Giêsu, Ðời sống xã hội hiện nay có quá nhiều điều đe dọa đến đức Tin. Nhưng điều đe dọa chính lại là thái độ sống đức Tin của chúng con.
Qua bí tích này, xin Chúa củng cố đức Tin của chúng con thêm vững chắc, ngay giữa những bão tố của cuộc đời.