Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 24-B Bài 101-150 Anh em bảo Thầy là Ai ?

Chủ nhật - 16/09/2018 05:57
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 24-B Bài 101-150 Anh em bảo Thầy là Ai ?
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 24-B Bài 101-150 Anh em bảo Thầy là Ai ?
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 24-B Bài 101-150 Anh em bảo Thầy là Ai ?
-------------------------------
TN 24-B101: Thầy là Đấng Kitô. 2
TN 24-B102: Tin và theo. 3
TN 24-B103: Tình bạn là mãi mãi 4
TN 24-B104: Con Người là ai? – ViKiNi 6
TN 24-B105: Đường Thập Giá – Huệ Minh. 8
TN 24-B106: Con đường của Thầy. 11
TN 24-B107: Qua Thập giá đến vinh quang. 15
TN 24-B108: Vác Thánh Giá theo Chúa. 19
TN 24-B109: Điều kiện để theo Đức Giêsu Kitô. 23
TN 24-B110: TỪ BỎ CHÍNH MÌNH.. 25
TN 24-B111: Nhận biết Chúa Kitô. 26
TN 24-B112: TỪ BỎ MÌNH VÀ VÁC THẬP GIÁ MÌNH MÀ THEO CHÚA.. 29
TN 24-B113: Sứ mệnh đầy thử thách của Đấng Ki-tô. 38
TN 24-B114: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI - CN 14 TN  B.. 40
TN 24-B115: LỜI TUYÊN XƯNG CỦA PHÊRÔ.. 43
TN 24-B116: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi,”. 52
TN 24-B117: Một con người hai tư tưởng. 55
TN 24-B118: Theo Chúa phải từ bỏ mình, vác thập giá mình. 56
TN 24-B119: Số phận của Đức Yêsu. 59
TN 24-B120: Con người ngày nay nói Đức Giêsu là ai?. 61
TN 24-B121: Vác thập giá theo Chúa. 63
TN 24-B122: Tin và vác thập giá theo Đức Kitô. 64
TN 24-B123: Tin theo Đức Kitô. 68
TN 24-B124: Suy niệm của Lm. Anfonso. 76
TN 24-B125: Thầy là Đấng Kitô. 78
TN 24-B126: Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời tôi?. 81
TN 24-B127: Bạn nghĩ gì về Đức Kitô – Gm. Arthur Tonne. 83
TN 24-B128: Chọn lựa một con đường. 84
TN 24-B129: Đức Kitô. 87
TN 24-B130: Từ bỏ và vác thập giá. 89
TN 24-B131: Chúa Giêsu là ai?. 92
TN 24-B132: Tư tưởng. 93
TN 24-B133: Chứng minh. 96
TN 24-B134: KITÔ HỮU LÀ NHỮNG NGƯỜI THUỘC VỀ CHÚA KITÔ.. 99
TN 24-B135: ĐỨC TIN NỬA VỜI 103
TN 24-B136: MỘT CHỮ TÌNH.. 105
TN 24-B137: THẦY LÀ AI?. 107
TN 24-B138: ĐÚNG HAY SAI 109
TN 24-B139: XIN LÀM MÔN ĐỆ CHÚA.. 112
TN 24-B140: LIỀU MẤT MẠNG SỐNG MÌNH.. 113
TN 24-B141: TIN LÀ BƯỚC THEO CHÚA KITÔ KHỔ NẠN-PHỤC SINH.. 115
TN 24-B142: QUYẾN RŨ.. 117
TN 24-B143: ĐỨC TIN TRỌN VẸN.. 121
TN 24-B144: THẦY LÀ AI?. 123
TN 24-B145: CHÚA KITÔ.. 125
TN 24-B146: THEO ĐỨC KITÔ BỊ ĐÓNG ĐINH.. 127
TN 24-B147: CÁI GIÁ PHẢI TRẢ.. 131
TN 24-B148: CHÚA KITÔ LÀ AI?. 134
TN 24-B149: THẦY LÀ ĐỨC KITÔ.. 136
TN 24-B150: SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B.. 138

-----------------------
Phúc Âm: Mc 8, 27-35: “Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: “Người ta bảo Thầy là ai?” Các ông đáp lại rằng: “Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri”. Bấy giờ Người hỏi: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Phêrô lên tiếng đáp: “Thầy là Ðấng Kitô”. Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả.
Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó. Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: “Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”.
Người tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình”. - Ðó là lời Chúa.
-----------------------------------------

TN 24-B101: Thầy là Đấng Kitô


Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc 8,27-35

 

Thầy Giêsu hỏi các môn đệ xem dân chúng nghĩ Thầy là ai? Người thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, TN 24-B101


Thầy Giêsu hỏi các môn đệ xem dân chúng nghĩ Thầy là ai? Người thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ. Rồi quay sang các ông Thầy lại kiểm tra bài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mc 8,29a). Điều đặc biệt ở đây là Thầy muốn chính các ông nói lên ý nghĩ của họ. Ông Phêrô có ngay đáp án đúng nhất: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8,29b). Ông đại diện cho các môn đệ tuyên xưng Thầy là Đấng Thiên Sai. Dù tuyên xưng nhưng ông chưa thể hiểu thấu. Thầy nghiêm giọng cấm các ông không được nói với ai về căn tính của Thầy. Đấng Thiên Sai đến không phải như cái nhìn của người Do thái cũng như các môn đệ, để thống trị bằng sức mạnh, nhưng bằng con đường yêu thương và vác thập giá như Người báo trước: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8,31). Phêrô không phải chỉ tuyên xưng với Thầy như vậy là xong, nhưng còn phải đi vào cuộc Thương Khó với Thầy mà theo Thầy. Nhưng sẽ có ngày vinh quang như Thầy đã phục sinh khải hoàn. Các ông giữ im lặng cho đến ngày lễ Ngũ tuần, Phêrô mới công bố: “nên Người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Kitô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát...”. Vậy toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.” (Cv 2, 31.36).

Để sống được như lời tuyên xưng ấy, trở nên giống Thầy mình, ông Phêrô phải trả giá rất cao. Nhưng nhờ sức mạnh Tình Yêu lãnh nhận từ Thầy biến đổi trở nên con người mới, sẵn sàng đối diện mọi khó khăn đau khổ trên đường loan báo. “Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời...”

Nguồn ân sủng lớn lao kỳ diệu của Thiên Chúa có thể biến những con người yếu đuối, bất toàn thành đá tảng vững chắc để xây dựng một Hội Thánh luôn vững bền. Thánh Phêrô đã minh chứng sống động cho điều kỳ diệu ấy. Quá khứ với những vấp phạm, lầm lỗi nhưng lại làm nên vị tông đồ phụ vụ Tin Mừng, đến hy sinh mạng sống và trở thành cột trụ của Hội Thánh. “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy... Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời” (2Tm 4, 7-8.17-18).

Lạy Chúa! chúng con biết Chúa là Cha hằng yêu thương chúng con trong từng phút giây. Mỗi chúng con dù là ai, xinh đẹp tốt lành hay bệnh tật yếu đuối, đều có chỗ trong Trái Tim Chúa Yêu muôn đời. Cho dù chúng con có tội lỗi xấu xa gớm ghiếc thì Chúa vẫn yêu thương, lo lắng chăm sóc giữ gìn chúng con và muốn chúng con hạnh phúc. Như thánh Phêrô, mỗi ngày trong âm thầm lặng lẽ, chúng con được “dìm” vào cuộc Tử nạn và Phục Sinh của Chúa, cho đến khi được biến đổi cuộc đời trở nên nhân chứng sống động, họa lại bức chân dung của Đức Kitô. Chúng con sẽ trở nên những viên đá sống động trong tòa nhà Hội Thánh. Amen.

Én Nhỏ

-----------------------------

 

TN 24-B102: Tin và theo

 

Tin trước tiên là tin ở một con người. Không chỉ là biết con người đó là ai, biết một cách chung  TN 24-B102 Luong


Tin trước tiên là tin ở một con người. Không chỉ là biết con người đó là ai, biết một cách chung chung, khách quan theo lý lịch hay qua một sự điều tra có tính cách khoa học, mà chính là biết được người đó là gì đối với chính bản thân và cuộc đời của mình. Như thế, tin đích thực không chỉ là thái độ của trí óc mà còn là thái độ của con tim.

Trong lòng tin của người Kitô hữu, con người đó chính là Chúa Giêsu. Vì thế, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không hỏi các tông đồ phải bình luận những điều Ngài giảng dạy đúng hay sai, cũng như nói lại những gì các ông đã thu hoạch được trong giáo huấn của Ngài. Nhưng chúng ta thấy Ngài yêu cầu các ông nói lên chính Ngài là ai. Các ông đã lặp lại ý kiến của các người khác về Ngài, nhưng Chúa Giêsu chưa cho thế là đủ, Ngài còn đòi các ông phải tự mình trả lời câu hỏi Ngài là ai.

Tin đối với người Kitô hữu, chính là tự đặt mình vào trong mối quan hệ với Đức Kitô và hành động theo những đòi hỏi của mối quan hệ này. Lòng tin của người Kitô hữu bao hàm một sự gắn bó với Đức Kitô như con đường của sự thật, của sự sống, bao hàm việc đi theo Ngài, dù phải ngang qua đau khổ và thập giá. Con đường Chúa Giêsu đã đi vốn là con đường thập giá. Như thế, chưa có thể gọi được là tin đích thực nếu như chưa có một sự biến đổi trong cuộc sống, chưa có những hành động kèm theo điều chúng ta tuyên xưng.

Phêrô đã bị quở trách một cách nặng nề, bởi vì, mặc dầu ông đã tuyên xưng đúng Thầy của mình là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, nhưng chẳng những đã không đi theo Thầy, mà còn muốn ngăn cản Thầy đi con đường của Thầy. Chỉ có thái độ sống hay hành động mới chứng thực cho sự chân thật của lòng tin.

Miệng nói mà chân tay không làm theo thì đúng là kẻ giả hình. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa khi Ngài gọi họ là những mả tô vôi. Nói một đàng, làm một nẻo, thì đúng là kẻ gian dối. Có những người rao giảng sự ưu tiên cho người nghèo, nhưng trong thái độ thì lại trọng người giàu, đi với người giàu, làm theo người giàu, và coi nhẹ người nghèo. Có kẻ lập luận thì xem ra tiến bộ lắm, nhưng hành động thì lại đầy tính cách bảo thủ, cha chú, độc đoán.

Những trường hợp như thế là một kinh nghiệm thường ngày của chúng ta và phải là một lời cảnh cáo đối với mọi người. Một Phêrô cản ngăn Thầy mình đi Giêrusalem ngay sau khi tuyên xưng lòng tin nơi Thầy như đang còn tiềm ẩn trong thẳm sâu cõi lòng của mỗi người Kitô hữu chúng ta.

-----------------------------

 

TN 24-B103: Tình bạn là mãi mãi


(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

 

Thành ngữ Việt Nam có câu: "Giàu vì bạn, sang vì vợ". Lời nói của người xưa đã thành một chân lý. TN 24-B103


Thành ngữ Việt Nam có câu: "Giàu vì bạn, sang vì vợ". Lời nói của người xưa đã thành một chân lý. Con người ai cũng cần một người bạn tri kỷ để có thể chia sẻ vui buồn có nhau, và nhất là để giúp nhau vượt qua khó khăn. Một người bạn chân thành không chỉ đến bên ta khi vui, khi thành công mà còn là người không rời bỏ ta khi buồn, lúc lâm nguy hay khi thất bại, khi những người xung quanh đã rời bỏ ta mà đi. Và ta gọi đó là một người bạn- một người bạn thân, một người bạn thật sự. Và ta tin rằng: “Bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”.

Ở xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang, ai cũng biết câu chuyện cảm động về em Đoàn Trường Sinh 10 năm cõng bạn đến trường. Quãng đường tư nhà Sinh đến trường dài hơn 4 ki-lô-mét, qua đèo, vượt suối, khúc khuỷu, ghập ghềnh. Thế mà Sinh không quản khó khăn ngày ngày cõng bạn Hanh bị liệt cả hai chân đi về. Nhờ bạn giúp đỡ, lại có chí học hành, nhiều năm liền, Hanh là học sinh tiên tiến, có năm còn tham gia đội tuyển học sinh giỏi cấp huyện.

Tình bạn chân thật thì luôn có nhau trong lúc khó khăn, gian nguy. Vui sướng, giầu sang ở bên nhau thì dễ. Hoạn nạn ở bên nhau mới là tình bạn đáng quý. Cuộc đời có vay có trả. Bạn đã cho ta niềm vui thì khi bạn gặp khó khăn ta hoàn trả cho bạn là lẽ công bằng. Bởi vì, như ai đó đã nói:

“Lẽ nào vay mà không trả?
Sống là cho, đâu chỉ nhận cho riêng mình.”

Các môn đệ năm xưa đi theo Chúa. Chắc chắn các ngài đã được Chúa yêu thương đùm bọc. Chúa Giê-su còn coi các môn đệ là bạn hữu chứ không phải là tôi tớ. Các môn đệ đã được cùng chia sẻ niềm vui hạnh phúc với Chúa trong những lúc thành công trên đường truyền giáo.

Hôm nay, Chúa đòi các ông thể hiện tình bạn với Chúa không phải lúc Chúa được tung hô khi hóa bánh ra nhiều, hay khi cỡi lừa tiến vào thành Giê-ru-sa-lem. Chúa đòi các môn đệ thể hiện tình bạn trên chặng đường thập giá để tới Núi Sọ. Chúa bảo rằng: “Ai muốn theo Thầy, thì phải vác thập giá hằng ngày mà theo Thầy”. Khi dám theo Chúa trên con đường thập giá thì Chúa sẽ ban phần thưởng sự sống đời đời cho họ. “Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống”.

Nhưng xem ra tình bạn chân thành với Chúa chẳng mấy ai! Khi Chúa đi vào vườn cây Dầu đã chịu cảnh cô đơn một mình. Các  bạn bè Chúa vẫn ngủ mê. Khi Chúa bị bắt trói thì các môn đệ mạnh ai nấy chạy. Khi Chúa bị dẫn vào dinh Cai-pha thì Phê-rô trối Chúa 3 lần. Khi Chúa vác thập giá lên Núi Sọ chỉ còn một mình Gioan bước theo xa xa.

Xem ra tình bạn với Chúa chỉ có khi nhận được ân huệ của Ngài. Tình người thật hay thay trắng đổi đen. Thế nên, cuộc đời vẫn còn đó những người tôn thờ Chúa khi giầu sang, khi làm ăn thịnh vượng nhưng rồi họ bỏ Chúa khi làm ăn thất bại nợ nần. Cuộc đời vẫn còn đó những người theo Chúa chỉ để mong được sống sung sướng, và rời xa Chúa khi mộng ước của họ không thành.

Xem ra Chúa Giê-su vẫn cô đơn trong dòng đời hôm nay. Ngài rất cần một người bạn tri kỷ như Gioan để đứng bên Chúa khi khó khăn. Ngài vẫn cần sự đồng cảm như Madalena để đi theo Chúa trên đường thập giá.

Ước mong mỗi người chúng ta hãy chỉnh đốn lại cách sống, cách nghĩ của mình với Chúa. Hãy đến với Chúa không phải vì bổng lộc mà vì tin tưởng vào quyền năng của Chúa để phó thác cho Chúa. Hãy ở lại bên Chúa dầu cuộc sống còn nhiều những khó khăn. Hãy vác thập giá theo Chúa dầu thiệt thòi đời nay nhưng Chúa sẽ ban thưởng cho ta bằng nhiều cách khác nhau, nhất là hạnh phúc thiên đường. Amen.

-----------------------------

 

TN 24-B104: Con Người là ai? – ViKiNi


(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

 

Trong bài Tin mừng này, thánh Marcô trình bày cho ta thấy có ba mức độ nhận biết về Đức Giêsu. TN 24-B104


Trong bài Tin mừng này, thánh Marcô trình bày cho ta thấy có ba mức độ nhận biết về Đức Giêsu.

1. Mức độ của dân chúng: Họ nhận thấy Đức Giêsu là một tiên tri như Gioan tẩy giả, như Êlia hay một tiên tri nào đó. Tiên tri hay Ngôn sứ là người được Thiên Chúa trao cho một nhiệm vụ, tuyên bố một việc gì sẽ xảy ra, một điều gì về Thiên Chúa, hay một sự gì Chúa sẽ làm cho dân, cho loài người. Để nhận biết đó là vị tiên tri của Thiên Chúa, Chúa thường cho ông có quyền làm một ít việc lạ lùng như chữa bệnh, khiến mưa nắng … Vì thế, người ta đến với tiên tri để nghe lời Chúa thì ít, để xin chữa bệnh, xin ơn cứu con, cứu mình khỏi tai họa thì nhiều. Cũng thế, chúng ta nghe lời Chúa thì ít, mà xin ơn này ơn kia thì nhiều.

Dân chúng coi Đức Giêsu là một tiên tri, nên họ đến với Người để cầu khấn hơn là tin lời Người. Họ xin chữa bệnh, trừ quỷ, cứu đói, cho kẻ chết sống lại, như vậy, họ đến với Đức Giêsu vì ích lợi cho họ, không vì theo Chúa. Họ ích kỷ, vị kỷ, không có lòng vị tha, xả kỷ. Họ giống như kẻ theo đạo kiếm gạo mà ăn, cầu lợi, cầu phúc. Không được lợi, được phúc là chán, rồi bỏ đạo.

Những kẻ như thế, không thể nhận ra Người là Đấng Kitô.

2. Mức độ thứ hai của các môn đệ nhận biết về Đức Giêsu: Khi Đức Giêsu hỏi: “Các con bảo Thầy là ai? Phêrô đại diện các môn đệ thưa: “Thầy là Đức Kitô”. Đức Kitô là Đấng được xức dầu. Trước cộng đồng hội đường Nagiareth, Đức Giêsu đã xác nhận lời ngôn sứ Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo khó” (Lc. 4, 18. xem Is. 11 và 61, 1-2 và 1V. 19, 16). Đức Kitô được tấn phong làm tiên tri, làm vua và thượng tế đời đời.

Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Môisen, như Đavít. Như Môisen, Đức Kitô sẽ giải thoát họ khỏi nô lệ đế quốc La mã. Như Đavít, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời vua Salomon. Cho nên, Đức Kitô được tôn vinh là Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thuở, Hoàng tử hòa bình, danh Người siêu việt, sự việc Người đã lừng vang trên toàn cõi đất, Người là Đấng Thánh của Israel và nước Người tồn tại đến vô cùng tận (Tv. 11 và 12).

Phêrô và các môn đệ đã nhiễm lây quan niệm về một Đức Kitô vinh quang như thế, nên khi thấy Đức Giêsu lên Giêrusalem, bà mẹ hai môn đệ Gioan và Giacôbê đến xin cho con mình: “Một ngồi bên hữu, một ngồi bên tả trong nước Người”. Còn Phêrô, khi nghe Thầy báo sẽ phải bị bắt, bị giết, ông đã kéo Người ra và can ngăn Người đừng dại dột thế. Đức Giêsu đã trách mắng Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của Anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt. 16, 22-23).

3. Mức độ thứ ba nhận biết về Đức Kitô: Chính Đức Giêsu đã dạy các môn đệ nhận biết về Đức Kitô ở mức độ này: “Con người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại. Người nói rõ điều đó và không úp mở”.

Đó là sứ mệnh cốt yếu của Đức Kitô: Hy sinh khiến mạng sống mình chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập nước trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào nước Trời muôn thuở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế nhân đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga. 3, 16-18. 15, 13).

Chỉ có con đường hy sinh như thế mới chứng tỏ tình yêu vô cùng quảng đại và vị tha, mới cho ta thấy được Đức Kitô là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu độ trần gian. Còn những con đường cầu lợi, cầu danh, cầu vinh trần gian chỉ là giả dối, ích kỷ, hẹp hòi. Cho nên, không lạ gì, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta phải tin vào con đường tình yêu hy sinh xả thân đó: “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai hiến mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin mừng, thì sẽ được mạng sống ấy”.

Đó là thứ “lửa thử vàng, gian nan thử đức”. “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Không một thánh nhân nào mà không để cho Thánh Thần nung nấu. Không một vĩ nhân nào mà không trải qua gian nan.

Phêrô và các môn đệ đã cảm nghiệm thấm thía thánh giá của Đức Kitô trên đỉnh đồi Canvê, nhờ thế các ông đã vác thập giá của mình cho đến hơi thở cuối cùng trên đỉnh đồi Vatican.

Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa đã trả lời cho con biết: Người là Đức Kitô đã hy sinh chịu đau khổ, chịu chết vì con. Xin cho con biết trả lời cho Chúa: Con là Kitô hữu đang vác thập giá mình mà theo Chúa, chứ không phải là thứ môn đệ chỉ xin ngồi bên tả, bên hữu, chỉ đòi vinh quang cầu lợi, cầu phúc, cầu cứu mạng sống mình mà chẳng biết hy sinh chút nào! Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhận biết Người là ngôn sứ để con lắng nghe lời Chúa, chứ không phải để cầu lợi, cầu phúc. Người là vua để cai trị lòng con, chứ không để xin địa vị danh vọng. Người là Đức Kitô chịu chết trên thánh giá, để con được vác thập giá theo Chúa, chứ không để cứu mạng con ở đời này.

-----------------------------

 

TN 24-B105: Đường Thập Giá – Huệ Minh

 

Một câu chuyện xem ra bi hài sau ít phút. Thoạt đầu, trên đường đi, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ rằng: "Người TN 24-B105


Một câu chuyện xem ra bi hài sau ít phút.

Thoạt đầu, trên đường đi, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Thầy là ai?" Nghe câu hỏi của Thầy, các môn đệ liền đáp: "Thưa là Gioan Tẩy Giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri".

Đó là câu hỏi cũng như câu trả lời của đám đông môn đệ. Với những môn đệ thân tín thì lại khác: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?"

Nghe câu hỏi thật thân thương của Thầy, Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy là Ðấng Kitô".

Nghe lời đáp rất chính xác của Phêrô, Chúa đã nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả.

Sau đó, còn riêng với các ông thì phải, Chúa Giêsu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó.

Nghe xong những lời xem ra chói tai và khó chịu, vốn cộc tính và thẳng tính, Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Tưởng chừng được khen, được tôn minh nhưng nào ngời Chúa đã quay lại nhìn các môn đệ và chỉ thẳng mặt Phêrô trách rằng: "Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người".

Giận lắm nhưng rồi cũng cho qua bởi lẽ Chúa nói như thế hy vọng Phêrô sẽ hiểu căn tính, mục đích của Thầy khi Thầy đến thế gian. Và sau đó, Chúa Giêsu tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình".

Không biết phản ứng của Phêrô lúc này như thế nào nhưng quả thật là quá sốc! Sốc bởi vì cứ tưởng rằng đi theo Chúa sẽ được điều này điều kia như lối nghĩ bình thường của đời con ngường nhưng hóa ra rằng theo Chúa thì phải từ bỏ chính mình và phải vác thập giá!

Thập giá là gì? Chắc có lẽ không cần phải nói nhiều thì ai ai cũng hiệu đó chính là dụng cụ, là cái để người ta treo người phạm án tử lên trên đó. Trước khi bước lên cây thập giá để chịu án tử thì người thi hành án phải vác thập giá của mình đến nơi thi hành án như ta đã thấy trong vụ án của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ cũng như thân tín của Ngài về cuộc đời, về số phận của Ngài đó là Ngài đến trong trần gian, sống trong trần gian, sống cho trần gian nhưng cuối cùng trần gian đã đưa Ngài lên trên cây thập giá để treo nhưng không treo theo tư cách, kiểu cách bình thường mà là theo cung cách của một tên trộm cướp.

Chúa Giêsu hoàn toàn vô tội bị treo giữa 2 tên trộm cướp đó mới là điều để chúng ta suy nghĩ. Và, đau khổ, bi đát hơn nữa đó chính là những con người có tội lại cam tâm để treo con người vô tội lên trên cây thập giá và con người vô tội đã xin vâng cho đến tận cùng.

Thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi giáo đoàn Philipphê đã nói về thân phận của người Chúa Giêsu:

Ngài, phận là phận của một vì Thiên Chúa,
nhưng Ngài đã không nghĩ phải giằng cho được
chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa.
Song Ngài đã hủy mình ra không,
là lĩnh lấy thân phận tôi đòi,
trở thành giống hẳn người ta;
đem thân đội lốt người phàm,
Ngài đã hạ mình thấp hèn,
trở thành vâng phục cho đến chết,
và là cái chết thập giá! (Pl 2, 6-8)

Ngôn sứ Isaia cũng đã nói lên hình ảnh của Chúa Giêsu từ thuở trước: Thiên Chúa đã mở tai tôi mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt giấu mày, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi.

Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Ðấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với tôi được? Chúng ta hầu toà, ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?

Cuộc đời của chúng ta, như Chúa nói là những môn đệ của Chúa, ta cũng được mời gọi để vác thập giá bước theo chân Chúa. Ai vác thập giá theo chân Ta mới xứng đáng là môn đệ của Ta.

Chúa đã khẳng định điều này không phải là một lần nhưng nhiều làn khi Chúa nói về con đường thập giá, thánh giá mà Chúa đã vác.

Thật sự trong cuộc sống, chẳng ai mong muốn mình phải vác thập giá cả vì nghe đến thập giá thì ai ai cũng cảm thấy đó là điều bi đát đến tột cùng. Thế nhưng, để trở thành người môn đệ của Chúa, khong có còn cách nào khác là ta được mời gọi để vác thập giá theo Chúa mỗi ngày.

Một câu chuyện hết sức dễ thương mà tôi được mẹ tôi kể lại ngày còn bé.

Chuyện là có người kia đến với Chúa và than thở với Chúa là không biết tại sao mà Chúa lại gửi thánh giá cho người đó nặng như thế. Nghe nói thế, Chúa cho người đó vào vườn thánh giá và tha hồ lựa chọn cũng như đổi. Đi một vòng thật lâu qua tất cả các thánh giá, người đó reo lên rằng đã tìm dược cây thánh giá phù hợp với mình. Khi nghe nói thế, Chúa Giêsu đơn giản nói với người đó rằng cây thánh giá đó chính là cây thánh giá ban đầu, thánh giá mà Chúa trao ban cho người đó.

Nói như thế, câu chuyện kể như vậy để nhắc nhớ ta về thập gái đời mình. Chúa không bao giờ để ch ta vác thập giá nặng quá sức của chúng ta.

Và rồi, chỉ có cách duy nhất là ta hãy đến với Chúa và nhìn lên thập giá Chúa cũng như xin Chúa thêm ơn để ta ngày mỗi ngày đủ sức để vác thập giá đời mình theo Chúa cho đến giây phút cuối cuộc đời. Hẳn nhiên là mình ta và khả năng của ta thì không thể nào ta có đủ khả năng để vác thập giá nhưng với ơn Chúa, nhờ ơn Chúa và trong ơn Chúa ta sẽ đủ sức để theo Chúa đến cùng trên con đường thập giá mà Chúa trao ban cho chúng ta.

-----------------------------

 

TN 24-B106: Con đường của Thầy


(Suy niệm của Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)

Con đường tiến lên phía trước

 

So với các tác giả Nhất Lãm khác, trình thuật về lời tuyên xưng đức tin của ông Phêrô tại Xê-da-rê do thánh TN 24-B106


So với các tác giả Nhất Lãm khác, trình thuật về lời tuyên xưng đức tin của ông Phêrô tại Xê-da-rê do thánh Mác-cô biên soạn khá vắn gọn. Bản văn này có thể đuợc giải thích theo nhiều điểm khác nhau. Dưới đây là ba điểm.

* Con đường đức tin

Thánh Mác-cô kể lại câu chuyện xảy ra ở bên kia sông Gio-đan không nhằm xác định về nơi chốn cho bằng về ý nghĩa thần học. Đây là một “nơi khác” ngoài môi trường Giu-đa giáo, và tại đây, lần đầu tiên, Đức Giêsu được nhìn nhận như Đấng Mêsia. Trong đất Do thái, việc mặc khải này chỉ xảy ra vào giai đoạn cuối đời của Đức Giêsu: trước tòa Cai-pha (x.Mc 14,61-62).

Câu hỏi về lai lịch của Đức Giêsu không do thiên hạ hay các môn đệ nêu ra, nhưng do chính Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ như một con đường dọn sẵn: khởi đầu từ những ý kiến của dân chúng và cuối cùng là câu trả lời của các môn đệ.

Đến cuối bản văn, Đức Giêsu phác họa hình ảnh người môn đệ như một người luôn tiến bước, một người đi theo Đức Kitô.

Quả vậy người ta không thể diễn tả lòng tin của mình, không thể nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nếu như người ta cứ ở một chỗ, cứ yên vị trong sự an toàn chắc chắn với những ý tưởng có sẵn của mình.

Đức Kitô chỉ đến với những người “ đang tiến bước ”, và người Kitô hữu được mời gọi “ đi theo ” Đức Kitô đang bước đi, Đức Kitô sống động chứ không ở yên một chỗ.

* “Thầy là Đấng Mêsia”

Lòng tin vào Đức Kitô không phải là một thứ chủ nghĩa thủ cựu. Các môn đệ không được lấy điều người ta nói làm đủ, chính Đức Kitô cũng không muốn như thế; các môn đệ của Đức Kitô phải có một xác tín riêng về Thầy mình. Một tổng hợp những kiến thức về Đức Giêsu không bao giờ có thể thay được sự hiểu biết cá nhân về Người, bởi vì hiểu biết cũng là không ngừng chia sẻ thân phận của Người, tức là từ bỏ sự sống mình và đi theo Người đến tận thập giá.

Đàng khác, nhận định của dân chúng về Đức Giêsu không hoàn toàn sai, nhưng không đầy đủ. Nhận định này không diễn tả tính cách siêu việt của con người Đức Giêsu. Các quan niệm Cựu Ước không trình bày đủ về lai lịch của Đức Giêsu. Người vượt lên trên tất cả những điều đó.

Chính vì vậy, Đức Giêsu đã đặt câu hỏi với các môn đệ: “còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Đức Giêsu đòi hỏi một quan niệm đúng đắn, một sự chuyển hóa chứ không phải chỉ là lặp lại một hiểu biết hay một cái gì có sẵn.

Ông Phêrô đã làm điều ấy. Điều ông nói, nhân danh các môn đệ, vượt hẳn quan niệm của quần chúng, và cả chính ông cũng chưa hiểu được toàn bộ ý nghĩa. Đối với một người Do thái như ông, Đấng Mêsia hằng được trông đợi không hề có chút nào như Đức Giêsu. “Đấng tái lập vương quốc Ít-ra-en” sẽ không thể là con người bị loại bỏ này, sẽ không thể là con người lúc nào cũng lang thang trên các nẻo đường.

Dù vậy, ông Phêrô đã tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Nhờ đức tin, ông chấp nhận sự sai biệt giữa ý tưởng ông đang có và thực tại đang diễn ra.

* “Xa-tan, lui lại đàng sau”

Cũng với tư cách phát ngôn viên của các môn đệ, ông Phêrô đã phản ứng trước những lời Đức Giêsu loan báo cuộc Thương khó. Ông kéo Đức Giêsu ra một nơi như muốn che chở cho Người. Với vẻ trịch thượng, ông trách Thầy, coi Thầy như yếu hơn ông, và muốn cất khỏi đầu óc Thầy tư tuởng cuồng điên về cuộc khổ nạn.

Trong câu chuyện này, người ta nhận ra một trong những cám dỗ cơ bản thường thấy nơi con người: hành quyền trên Thiên Chúa. Đức Giêsu vừa mô tả con đường duy nhất dẫn đến sự sống, ông Phêrô đã trách Người … đã ngăn cản con đường Người phải đi.

Làm như thế, ông đã tự cho mình có quyền trên Đức Giêsu, ông vượt lên trước Người để chỉ cho Người thấy theo ý ông, đâu là con đường tốt nhất.

Thế nhưng, trên con đường tiến đến Nước Trời, người ta “ không đi trước ” Đức Kitô, người ta “đi theo” Người. Do đó, Đức Giêsu quay về phía các môn đệ và tái lập vị thế. Không phải Thầy đi theo các môn đệ, nhưng môn đệ phải theo Thầy. Đức Giêsu không chấp nhận một điều đình nào cả. Con đường thập giá là con đường duy nhất dẫn đến sự sống, con đường Chúa Chúa đã định. Ngăn cản Đức Kitô, không cho Người đi con đường đó tức là xúi giục Người bất phục thánh ý Chúa Cha: công việc này chỉ có thể là của Xa-tan, tên đã muốn lôi kéo Đức Giêsu ra khỏi con đường đó khi Người bắt đầu cuộc đời công khai (x. Mc 1,12-13).

Có lẽ ông Phêrô chỉ nghĩ Đức Giêsu là Đấng Mêsia theo quan điểm loài người nên đã trách Người. Ông chưa hiểu hết ý nghĩa của lời tuyên xưng ông vừa thốt lên, cũng như lời ngăn cản ông đưa ra. Dù vậy, Đức Giêsu cũng muốn cho thấy Thập giá là con đường cứu độ, Người sẽ đi, đi đến cùng, và bất cứ ai muốn làm môn đệ của Người, muốn đi theo Người, cũng phải buớc đi trên con đường ấy.

Đặt tên cho Người

Trở lại với lời tuyên xưng của ông Phêrô.

Khi một đứa trẻ sinh ra, cha mẹ của em sẽ đặt cho em một tên gọi. Một thời gian sau, chính em bé sẽ đặt cho cha mẹ em một tên gọi và tên gọi này sẽ thay thế mọi tên gọi khác. Tên gọi đó sẽ là “ ba ” là “ má ”.

Gọi như thế, em bé làm cho cha mẹ em thay đổi, đem lại cho cha mẹ em một chiều kích mới: là “ ba ”, là “ má ”.

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cũng gần giống như thế.

Khởi đầu, ông Phêrô đem lại cho Đức Giêsu một tên gọi: “ Thầy là Đấng Kitô ”. Mặc dù ông chưa hiểu hết ý nghĩa của câu nói này, nhưng ít ra, cứ dựa theo truyền thống Do thái, tên gọi ông vừa đọc lên về Đức Giêsu cũng đã có một chiều kích quan trọng. Đặc biệt gọi tên cũng là làm cho hiện hữu.

Về phần mình, Đức Kitô đặt tên cho các môn đệ bằng cách mô tả điều sắp xảy ra để làm cho một người trở thành Con Thiên Chúa: trải qua cái chết và sinh ra trong một đời sống mới.

Điều này quả là có tính cốt yếu vì nó xác định rõ bản chất những tương quan Thiên Chúa muốn nối kết con người và con người phải có đối với Thiên Chúa.

Đức Giêsu có thể tự mình tuyên bố: Tôi là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Và ngược lại, Nhóm Mười Hai cũng có thể nói: Chúng tôi làm điều này điều nọ, chúng tôi tin, vì vậy chúng tôi là những môn đệ. Mỗi bên tự đặt tên cho mình và buộc người khác phải tôn trọng.

Đức Giêsu đã không xử sự như thế. Người dần dần nêu ra các câu hỏi để rồi chính các môn đệ nói lên mặc khải sâu xa nhất về Người. Tuy vậy, Người vẫn phải giải thích cho các ông nội dung của mặc khải ấy, hay là con đường Đức Kitô sẽ trải qua để đem lại ơn cứu độ cho Ít-ra-en và mọi người.

Như vậy, chính Đức Giêsu có sáng kiến, nhưng Người không áp đặt. Người đưa các môn đệ qua con đường của sự thông tri, nhìn nhận trong tình yêu. Nhờ được Thần Khí soi sáng, con người đặt cho Thiên Chúa tên gọi, một tên gọi chính xác. Thiên Chúa khiêm tốn biết bao!

Về phần chúng ta, mỗi người cũng phải đặt tên cho Đức Giêsu; mỗi người phải có ý kiến riêng của mình về Đức Giêsu Kitô. Thế nhưng, hình như chúng ta có khuynh hướng đặt cho Người một tên gọi giống như chúng ta. chúng ta vẫn muốn lặp lại “ điều thiên hạ nói về Đức Giêsu ”. Điều này có nghĩa là chúng ta muốn Người đi theo chúng ta hơn là chúng ta đi theo Người, hay ít ra, chúng ta không muốn chia sẻ cuộc sống của Người, không dám từ bỏ mình để đi trên con đường Người đã đi.

Và rồi, chúng ta có sẵn sàng để Người đặt tên cho chúng ta không? Chúng ta có dám chấp nhận đổi khác đi khi khám phá ra tên gọi đích thực của mình? Chúng ta có dám để Đức Kitô làm cho chúng ta sinh ra trong sự sống Người ban cho chúng ta, tức là trong sự sống của Người?

-----------------------------

 

TN 24-B107: Qua Thập giá đến vinh quang.


(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)

 

Truyện Tây du ký kể lại cuộc ra đi đầy gian nan của thầy Tam Tạng. Những gian nan thử thách xảy TN 24-B107


Truyện Tây du ký kể lại cuộc ra đi đầy gian nan của thầy Tam Tạng. Những gian nan thử thách xảy đến cho vị thiền sư họ Đường không phải là những gai góc hiểm trở của một đoạn đường dài, mà chính là những tật xấu hiện thân nơi ba đệ tử của ông: Tôn Ngộ Không, Trư Bát giới và Sa Tăng. Ba người học trò này là biểu tượng của ba nết xấu mà vị thiền sư phải vượt qua để đạt đến chính quả. Đó là lòng kiêu căng, sự đam mê nhục dục và tính lười biếng.

Bài Tin mừng hôm nay cũng phác vẽ cuộc hành trình theo Đức Giêsu của các môn đệ. Trong cuộc hành trình này, điều kiện đầu tiên và cũng là điều kiện duy nhất Chúa Giêsu nêu ra như một thách đố: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Lời mời gọi ấy quả rất nhức nhối và mang tính quyết liệt gửi trao đến tất cả chúng ta.

Per Crucem (Qua Thập giá).

“Thập giá Đức Kitô là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta”. Đây là điều tâm niệm mà các nữ tu Mến Thánh giá vẫn lập đi lập lại mỗi ngày. Nhưng không phải chỉ các nữ tu, mà tất cả mọi Kitô hữu đều phải chọn và sống linh đạo Thập giá trong cuộc sống đức tin của mình. Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô cũng khẳng quyết với xác tín sâu xa: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại coi là sự điên rồ” (1 Cor 1, 22). Thánh Marcô kể lại, khi Đức Giêsu khải thị cho các học trò về viễn ảnh Thập giá, các tông đồ, đặc biệt Phêrô đã cản ngăn Ngài. Điều này dễ hiểu. Họ không thể chấp nhận một tương lai u ám như thế. Một con người mà họ mơ tưởng sẽ làm thủ lãnh một vương quốc đầy oai hùng, tại sao lại có thể bị giết chết và bị treo thân giống như một tên cướp? Phêrô can ngăn là điều rất hợp lý theo suy luận tự nhiên. Vì vậy, Đức Giêsu quay lại quở trách Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.

Trở lại với bối cảnh xã hội ngày xưa, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn điều Chúa muốn nói. Trong xã hội Do thái thời bấy giờ, dân chúng sống dưới chế độ đô hộ của đế quốc Rôma. Đế quốc dùng án tử hình thập giá đối với các tội phạm ghê tởm nhất. Đây là hình phạt man rợ và kinh hoàng mà đế quốc chỉ áp dụng cho cư dân ở các nước thuộc địa, còn công dân Rôma được miễn. Tên tử tội sẽ bị treo lên cao, tay chân bị đóng chặt, ngực dãn ra và rất khó thở. Phạm nhân vừa đau đớn, vừa phải chịu đói chịu khát, phơi nắng phơi sương cho đến chết. Người nào khỏe nhất cũng chỉ cầm cự được hai ngày. Sau khi chết, xác của họ không được chôn trong lòng đất, để mặt đất khỏi bị nhiễm uế do tội lỗi ghê tởm của họ. Chim trời sẽ đến rúc rỉa thân xác ấy cho đến khi không còn lại gì. Đối với người Do thái, đây là một sự xúc phạm, đồng thời hình phạt ấy cũng nói lên tính dã man và sự miệt thị của đế quốc đối với các nước nhược tiểu.

Cũng tương tự như thế, Hy Lạp ngày xưa có rất nhiều triết gia nổi tiếng như Socrates, Aristote, Diogène.. Người dân say mê triết học để tìm sự khôn ngoan cho cuộc sống mình. Họ chủ trương phải sống cho thật ý nghĩa và giá trị. Cái chết thập giá của những phạm nhân đối với họ quả là một sự điên rồ, vì nó kết thúc cuộc sống con người một cách vô nghĩa. Cuộc sống của họ coi như bị vất bỏ hoàn toàn.

Đây là não trạng của dân Do Thái và dân Hy Lạp thời Chúa Giêsu khi họ nhìn vào hình phạt khổ giá. Nhưng Đức Giêsu đã tự nguyện chấp nhận cái chết xem ra vô lý tột độ như thế. Ngài chết như một tên tử tội đốn mạt nhất bị xã hội ruồng bỏ và coi khinh. Ngài đã đi xuống tận đáy bùn đen của xã hội, đón nhận một cái chết man rợ nhất, nhục nhã nhất và cũng bi thương nhất.

Vì thế, chẳng lạ gì Phêrô đứng ra can ngăn Chúa ngay tức khắc theo phản xạ tự nhiên. Phêrô không hiểu, đúng hơn ông chưa hiểu thế nào là mầu nhiệm Thập giá. Lời gọi mời của Chúa Giêsu “Ai muốn theo tôi, phải bỏ mình vác Thập giá mình mà theo”, vừa mang tính thách đố quyết liệt, vừa gợi mở một cuộc hành trình theo Chúa trong niềm tin tuyệt đối, tức là “cuộc hành trình đi vào một vùng tối tăm đầy ánh sáng” (tư tưởng của Thánh Grêgoriô thành Nyssê).

Ad Lucem (Đến vinh quang)

Nhưng, cái chết trên Thập giá của Đức Giêsu không phải là một dấu chấm kết tận, kết thúc cuộc sống 33 năm dương thế của Ngài một cách vô nghĩa. Ngài là một con người rất con người, đã đi qua cái chết, nhưng Ngài vẫn là một Thiên Chúa rất Thiên Chúa, Đấng hằng sống và không bao giờ chết. Đức Giêsu đã chọn Thập giá để khai mở cho con người chân trời ơn cứu độ qua sự phục sinh vinh thắng. Không có cái chết nào nhục nhã cho bằng cái chết của một tên tử tội bị xã hội loại trừ. Không có cái chết nào bị thương và tức tưởi cho bằng cái chết của một đấng hay thi ân, lại bị con người phản bội và đối xử tàn khốc. Không có cái chết nào ai oán cho bằng cái chết của Đấng Công chính lại bị xét xử bất công và quá phũ phàng. Đức Giêsu đã chết trong cô đơn và bị ruồng bỏ hoàn toàn. Các học trò thân tín nhất cũng tháo chạy. Ngay cả Chúa Cha dường như cũng hắt hủi, đến độ Ngài phải não lòng thốt lên: “Cha ơi, sao Cha lại bỏ con?”

Nhưng Thập giá và mầu nhiệm tự hủy chính là con đường dẫn đến sự sống. Nghịch lý của Thập giá mà Chúa Giêsu gọi mời hôm nay được diễn bày nơi chính cái chết bi thương của Ngài: Qua sự chết đến sự sống, qua bóng tối của tử thần chúng ta mới có thể đi vào miền ánh sáng phục sinh vinh quang. Per crucem ad lucem.

Nghịch lý của Thập giá luôn là một mầu nhiệm khó hiểu. Chỉ khi Đức Giêsu từ cõi chết chỗi dậy, các học trò của Ngài mới dần hiểu ra và sẵn sàng lao vào con đường xem ra rất tối tăm ấy. Ánh vinh quang Phục sinh đã làm sáng lên chân trời đức tin mà trước kia vẫn còn mù tối nơi tâm hồn các tông đồ. Hai môn đệ trên đường đi Emmaus đã tiếp cận trực tiếp với Đấng sống lại và con mắt đức tin của họ đã mở toang. Ngay cả Tôma Dydimô vẫn bị mang tiếng oan uổng là cứng tin, cũng đã hoàn toàn quy thuận khi Đức Giêsu hiện đến. Ông không cần xỏ tay vào lỗ đinh, cũng chẳng cần sờ chạm đến vết đinh nơi thân thể Chúa. Chính cặp mắt Đức Giêsu đã xoáy sâu vào tận tâm hồn ông, đem đến cho ông một luồng sáng mới, thắp lên ngọn lửa đức tin nơi ông. Bấy giờ các tông đồ mới hiểu ra cách tường tận những điều Chúa nói trong Tin mừng hôm nay: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá mình mà theo tôi”.

In hoc signo (Cứ dấu này)

Vào năm 326, Vua Constantinô, hoàng đế Rôma đã có một thị kiến nhìn thấy hình Thập giá trên bầu trời với hàng chữ “In hoc signo vinceris” (cứ dấu này ngươi sẽ chiến thắng). Ông đã chiến thắng và đã tin. Vua Constantinô đã trở thành một tín hữu, bắt đầu giai đoạn hoàng kim của Kitô giáo ở Âu châu. Cũng vậy, Thánh giá chính là dấu hiệu để người ta có thể nhận ra những ai thuộc về Đức Giêsu. Người ta thấy hình tượng Thánh giá ở khắp nơi, trên nóc các nhà thờ, giữa gian cung thánh, trên bàn thờ mỗi gia đình, trên các phần mộ của người công giáo tại các nghĩa trang.., bởi vì cứ dấu này (in hoc signo), người ta nhận ra ai là môn đệ của Đức Giêsu một cách đích thật.

Tuy nhiên, khi nói về Thập giá, chúng ta thường nghĩ ngay đến những đau khổ. Không phải đơn thuần chỉ như thế. Thánh giá của Chúa Giêsu trước hết và trên hết là dấu chỉ của tình yêu. “In hoc signo”, cứ dấu này người ta sẽ khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa được biểu tỏ tuyệt vời như thế nào. Thập giá Đức Kitô chính là câu định nghĩa tròn đầy nhất về tình yêu Thiên Chúa dành trao cho con người. Qua Thập giá, chúng ta học được bài học rất căn bản về tình yêu Thiên Chúa ngỏ trao. Tình yêu ấy đến thật nhiều xuyên qua đau khổ. Thánh Têrêsa Hài đồng đã học được bài học căn bản này. Khi nằm trên giường bệnh, Chị thánh luôn mỉm cười, để qua những đau khổ nhỏ bé, chị dần tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu cao cả cùng với Chúa Giêsu. Một lần mẹ Agnès hỏi chị: “Sao sáng nay em vui vẻ thế?”. Têrêsa trả lời “Em rất vui vì hôm nay em được lãnh nhận 2 sự khó nho nhỏ để yêu Chúa Giêsu. Không có gì vui sướng cho bằng đón nhận những sự khó cỏn con như vậy”. Ngài nói tiếp: “Những khổ đau ấy chẳng dữ dằn gì đâu. Em chịu được tới mức nào, bạn tình Giêsu gởi đến cho em tới mức đó, em chẳng bao giờ lo lắng về điều ấy cả”. Cuộc đời của Chị thánh là cuộc đời chứa chan niềm vui và an bình, tựa như những cánh hồng lan tỏa mùi hương êm dịu, nhưng ẩn sâu bên dưới đầy những gai nhọn của Thập giá. Thập giá Chúa Giêsu chính là dấu chứng (signum) bày tỏ tình yêu và quyền lực vô song của Thiên Chúa. Vì thế, Thánh nữ đã tóm kết cuộc đời mình qua một định thức đơn giản: “Ơn gọi của tôi chính là tình yêu. Tình yêu là tất cả. Ơn gọi của tôi là sống sung mãn tình yêu nơi Chúa Giêsu và cho Chúa Giêsu”

Kết luận: Những con chim ẩn mình chờ chết

Đây là tên bộ phim được trình chiếu rộng rãi trên đài truyền hình thành phố vào những năm thập niên 90. Ở đây, chúng ta không đề cập đến nội dung hư cấu của bộ phim hay đích nhắm mà soạn giả muốn nói đến. Tôi chỉ vay mượn giai thoại về loài chim gai (thornbird), được bộ phim chọn làm tựa đề, để quy chiếu và tóm kết sứ điệp Lời Chúa hôm nay.

Có một loài chim hót rất hay và chỉ hót duy nhất một lần trong đời. Trước khi chết, theo bản năng, nó bay vút lên cao, lượn mình vi vu giữa bầu trời mênh mông rồi lao nhanh xuống đất, cắm đầu vào một bụi gai và giẫy chết ở đó. Gai nhọn đâm nát khiến máu chảy tung tóe, thân xác nó tả tơi và dập nát. Trong đau đớn, nó sẽ cất lên tiếng hót, một giọng hót vừa ai oán vừa hùng vĩ, vừa cao vút nhẹ nhàng, vừa trầm buồn đến não nuột. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời, nó hót vang. Giọng hót ấy thật tuyệt vời và thánh thót. Đó chính là tiếng hót của “những con chim ẩn mình chờ chết” (les oiseaux se cachent pour mourir). Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay: “Ai yêu sự sống mình sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống vì Thầy và vì Tin mừng sẽ cứu được mạng sống ấy”. Con đường theo Đức Kitô trên hành trình Thập giá cũng chính là con đường dẫn đến cái chết. Nhưng đây không phải là cái chết vô nghĩa, mà xuyên qua cái chết ấy chúng ta sẽ hát lên một bản hùng ca tuyệt vời, một bài ca chiến thắng khải hoàn vang dội. Đó chính là bài ca mà Đức Giêsu, thầy của chúng ta đã cất lên qua sự Phục sinh vinh thắng của Ngài. Có hát lên bài ca này, chúng ta mới cảm thấu được tình yêu Thiên Chúa, và tiếp tục dấn bước theo lời gọi mời của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay.

-----------------------------

 

TN 24-B108: Vác Thánh Giá theo Chúa


MINH HỌA LỜI CHÚA - Nguyễn Hiếu

1. Từ bỏ ước muốn của mình

 

Có đôi vợ chồng sinh được cháu trai. Đây là con cầu con khẩn, vì hai vợ chồng sống với nhau từ lâu mà TN 24-B108


Có đôi vợ chồng sinh được cháu trai. Đây là con cầu con khẩn, vì hai vợ chồng sống với nhau từ lâu mà không có con. Họ rất sốt sắng thờ phượng Chúa, luôn cầu xin Chúa cho đứa con nối giòng. Chúa nhậm lời cho bà vợ mang thai. Họ ước mong sinh được đứa con trai khôi ngô tuấn tú.

Đến ngày sinh, rủi thay người vợ sinh ra đứa con trai có tật tay phải. Người cha ôm con mà khóc nức nở … Thân nhân bạn hữu đến thăm, thấy thế không biếTN ói sao cho hợp tình hợp lý, phải chia vui hay chia buồn. Nhưng cha mẹ đứa bé khuyết tật đã làm cho họ bỡ ngỡ thán phục. Họ nói, “Vợ chồng chúng tôi đã xóa khỏi đầu óc điều chúng tôi hằng mong ước. Hiện chúng tôi đã có đứa con, công việc của chúng tôi bây giờ là thương yêu nuôi dưỡng nó, vì đã khuyết tật hay gì nữa, nó vẫn là con của chúng tôi.”

2. Từ bỏ chính mình

William Oscar Wilde kể huyền thoại “Họa mi và bông hồng đỏ.” Một hôm giữa mùa hè, con hoạ mi nghe lời chàng trai bên cửa sổ, “Nếu em không kiếm được mộ tbông hồng đỏ để anh cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ phải xa anh mãi mãi.”

Họa mi hiểu rõ lời của chàng trai, nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ giữa nắng cháy mùa hạ này? Nhưng nếu không tìm được thì người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không thể chịu nổ icảnh bi thương đó, nên đến nài nỉ cây bông hồng, “Chị hồng ơi, chị làm ơn giúp cho em một bông hồng đỏ.”

- Họa mi em, giữa nắng cháy mùa hạ này, làm sao chị có hoa hồng đỏ cho em?
- Chị có phép mầu nào chị cố gắng nở cho em mộ tbông thôi.
- Nhưng họa mi ơi, muốn có phép mầu, phải có máu đỏ và sinh mạng.
- Em sẵn long bằng mọi giá chị ạ.
- Vậy em hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ.

Họa mi đã đ ổđến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đóa hồng bí nhiệm đỏ thắm.

3. Ngọc không dũa không sáng

Khổng Tử nói, Ngọc không dũa không sáng, người không chịu thử thách không thể hoàn thiện.” Trong cuốn sách “Tôi tin” có câu chuyện sau đây đã xảy đến cho ông James du Pont lúc ông mới lên 7 tuổi. Một đêm đang khi ngủ say, bỗng James thức giấc. Cậu thấy mẹ đang ngồi khóc. Đây là lần đầu cậu thấy mẹ khóc. Và cha cậu ngồi bên an ủi. Cậu thuật lại

- Lúc đó cha mẹ tôi đau buồn quá nên quên tôi đang có mặt bên cạnh. Và khi mọi việc được giải quyết êm đẹp, biến cố đã xảy ra đêm đó vẫn lưu lại trong tâm trí tôi. Và tôi nhớ mãi lời cha tôi nói để an ủi mẹ tôi, “Cuộc đời không phải chỉ toàn là hoa hồng.”

4. Hành động củ thể

Một ẩn sĩ trẻ được linh sư dẫn đến ngồi ở cổng làng, chào hỏi mọi người qua lại và mọi người cũng đáp trả niềm nở.

Ngày nọ có một người không để ý đến sự có mặt của thầy trò, mặc cho hai tu sĩ ngã đầu chào, người đó vẫn thinh lặng đi qua. Thấy thế, vị tu sĩ trẻ bực tức, nên linh sư giải thích:

- Con đừng thắc mắc làm chi. Có thể ông ta điếc hoặc quá bận việc.

Nhưng vị ẩn sĩ trẻ không bằng lòng vói lời giải thích đó. Thầy cả quyết người đó thiếu giáo dục, thiếu lễ độ.

Rồi một hôm người đàn ông đó cũng đi ngang qua trước mựt hai ẩn sĩ và cũng vẫn không đáp lại lời chào hỏi. Bỗng ông ta trợt chân té ngã, hai ẩn sĩ vội chạy đến đỡ dậy thì thấy hai túi áo rộng lớn của ông chứa đầy những viên đá cụi. Và hai thầy trò đã đưa ông về tận nhà thì được người vợ cho biết:

- Từ nhiều năm nay, ngày nào chồng tôi cũng đến bờ sông nhặt những viên đá cụi về xây đền thờ thần của chúng tôi, vì không muốn cho ai biết, nên chồng tôi cố giấu những viên đã đó trong người.

***

Câu chuyện trên có thể minh hoạ cho lời thánh Giacôbê trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”.

Và thánh nhân nói tiếp: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”. Nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích gì?” (Gc 2,15-16).

Phải chăng thánh Giacôbê muốn nói với chúng ta: “Một đức tin không có hành động cụ thể của bác ái là một đức tin chết” (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).

5. Bỏ mọi sự theo Thầy

Trong tác phẩm: "Người nghèo của Chúa", có câu chuyện về thánh Phanxicô Adxidi:

Tôi và bạn tôi đến một thành phố nhỏ. Bạn của tôi chính là bạn thân với thánh Phanxicô Axidi từ thuở nhỏ. Tình cờ gặp lại thánh nhân, anh ta mừng rỡ chạy đến ôm ngài và hỏi:

- Anh Phanxicô! Ai đã khiến anh ra nông nỗi này?
- Chúa đã làm giúp tôi.

Bạn tôi ngạc nhiên hỏi tiếp:

- Bao nhiêu đồ dùng sang trọng của anh, bao nhiêu áo quần đẹp đẽ của anh, cả cái lông chim đỏ gắn trên mũ của anh thở nào, sao mất hết cả rồi? Và mấy chiếc nhẫn vàng trên tay anh nữa?

- Satan đã cho tôi, Tôi trả lại cho nó.

Bạn tôi nhìn từ đầu đến chân vị thánh. Anh không thể tưởng tượng được người bạn hào hoa phong nhã ngày nào của anh, bây giờ mũ cũng không còn, giày dép cũng không. Cảm xúc đến rơi lệ, anh hỏi:

- Nầy anh Phanxicô, anh từ đâu đến?
- Từ một thế giới khác.

Chính thánh Phanxicô Axidi đã thực hiện Lời Chúa Giêsu trong Tin mừng Luca 14, 25-33 "bỏ hết mọi sự theo Thầy" làm môn đệ của Chúa.

***

Giai thoại trên đây gợi lên cho chúng ta suy nghĩ về hạnh phúc đích thật của con người. Xem ra con người dõi theo cái bóng hạnh phúc hơn là chính hạnh phúc. Có người không hạnh phúc nằm trong giàu sang; có người lấy danh vọng làm hạnh phúc; có người tìm kiếm hạnh phúc trong lạc thú. Nhưng kinh nghiệm cho thấy; tất cả chỉ là ảo ảnh. Tiền bạc, quyền bính, danh vọng, lạc thú, cuối cùng rồi chỉ làm cho con người thất vọng chán nản ê-chề.

Là Đấng đã đặt trong trái tim con người hạnh phúc, nên chỉ có Thiên Chúa mới chỉ cho con người biết đâu là hạnh phúc đích thực. Chính Chúa Giêsu là hiện thân của niềm hạnh phúc đích thực đó. Và Người chính là con người duy nhất trên trần gian đã đạt được nguồn hạnh phúc đích thực đó. Người dạy cho chúng ta biết: hạnh phúc đích thực không tìm được trong tiền tài, danh vọng, lạc thú, chức quyền, Sống hạnh phúc là sống như Chúa Giêsu, là sống một cuộc sống hy sinh bỏ mình, vác thập giá hàng ngày: là sống hoàn toàn cho Thiên Chúa và tha nhân". (theo "Phút cầu nguyện cuối ngày" tập II)

6.Theo chúa là từ bỏ

Bức tranh “tiệc ly” của Chúa Giê su là một trong những tác phẩm danh tiếng của họa sĩ Leo Narđô de Vinci. Nhân vật chính là Đức Giê su và các tông đồ bao quanh.

Khi đem bức tranhnầy ra triển lãm, nhà danh họa đứng nép trong gốc phòng quan sát các người đến xem. Ông hết sức ngạc nhiên thấy điểm thu hút trong bức tranh không phải là gương mặt Đức Giêsu, mà là một cánh hoa nhỏ ông vẽ trong một gốc của bức tranh. Ông cảm thấy hối hận vì đã vẽ thêm cánh hoa đó, khiến mọingười không chú ý đến trọng tâm của bức tranh là gương mặt của Đức Giêsu. Ông liền dùng cọ bôi bỏ cánh hoa ấy. Ngay ngày hôm sau, mọi người đến xem tranh đều chăm chú dán mắt vào điểm trọng tâm của bức tranh là gương mặt của Đấng Cứu Thế.

***

Theo Chúa là đặt Người vào trọng tâm của cuộc sống, là nhìn thấy Người trong mọi sự.

Chúa Giêsu không chỉ là một bậc thầy vạch đường cho người khác đi, nhưng chính Người là con đường duy nhất. Mọi người phải đi theo Người đến cõi phúc bất diệt. Như thế có nghĩa là phải từ bỏ tất cả để đi theo Người. Với các môn đệ đầu tiên, Người chỉ bảo “hãy theo Ta” là họ bỏ mọi sự theo Người. Bỏ tất cả đi theo Chúa, đó là đòi hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho chúng ta trong Tin Mừng hôm nay.

Theo Chúa là tin rằng Người đang sống và sống thiết thực trong cuộc sống chúng ta. Do đó, kẻ theo Người phải luôn tỉnh thức nhận ra Người trong tất cả mọi sự và trong từng giây phút của cuộc sống. Và đi theo Chúa cũng có nghĩa là phải sống thế nào để mọi người nhìn vào đều nhận được gương mặt Cứu thế của Người. Một cuộc sống như thế chắc hẳn đòi hỏi nhiều hy sinh từ bỏ, như nhà danh hoạ Vinci phải xóa bỏ cánh hoa đẹp trong bức tranh để cho mọi người chú ý đến gương mặt Chúa Giêsu. Cũng thế, người môn đệ phải sẵn sàng tháo gỡ và vứt bỏ những gì còn vướng mắc, và phải vứt bỏ dứt khoát, để chỉ để cho Chúa và làm cho mọi người nhận ra gương mặt của Người qua chính cuộc sống của mình.

(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).

-----------------------------

 

TN 24-B109: Điều kiện để theo Đức Giêsu Kitô


(Suy niệm của Giuse Trần Văn Yên, OP)

Kính thưa cộng đoàn,

 

Qua đoạn Tin Mừng thánh Mac-cô tường thuật hôm nay, thiết nghĩ đây là một trong những lời xem ra TN 24-B109


Qua đoạn Tin Mừng thánh Mac-cô tường thuật hôm nay, thiết nghĩ đây là một trong những lời xem ra khó nghe, khó chấp nhận nhất theo cảm nhận của con người. Nhưng đó lại là sự thật, là con đường đưa ta đến hạnh phúc. Với hai chữ “Từ bỏ” được xem như chỉ dành cho những ai không bình thường và khờ khạo theo cái nhìn của con người trong xã hội hôm nay. Vâng, họ là những con người không bình thường và khờ khạo vì Đức Kitô, Người là Đấng khôn ngoan tuyệt hảo.

Chúng ta thấy Đức Kitô đã đưa ra điều kiện tiên quyết cho những ai muốn đi theo Người rằng:“Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8, 34). Với điều kiện mà Đức Kitô đưa ra, phải chăng, Chúa muốn hành hạ con người, muốn con người phải chịu đau khổ hay sao? Chúng ta thấy trong cuộc s ống đời thường, khi muốn thuyết phục ai đi theo mình, họ thường hứa hẹn đủ điều: nào là chức cao quyền trọng, nào là phú quý giàu sang, nào là hạnh phúc… Còn Chúa, sao Chúa lại hứa hẹn cho những ai muốn đi theo Người phải từ bỏ, hy sinh; phải chịu sỉ nhục, đau khổ và cả mạng sống nữa.

Chắc chắn rằng, Chúa không muốn cho chúng ta những thứ hạnh phúc phù du, những thứ quyền thế giả tạo, dễ dàng và chóng qua. Nhưng Chúa muốn ban tặng cho chúng ta thứ hạnh phúc đích thực, hạnh phúc vĩnh cửu. “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì”? (Mc 8, 35-36).

Vâng, muốn được hạnh phúc đích thực, chúng ta cần phải chịu cắt tỉa, đau xót; phải chịu thử thách, gian nan và cùng với Đức Kitô vác Thập giá tiến về Núi Sọ. Điều kiện mà Đức Kitô đưa ra không phải để hành hạ con người, nhưng muốn con người đi vào quy luật tốt lành của Chúa để được sự sống hạnh phúc vĩnh cửu.

Cộng đoàn thân mến, để hiểu, để yêu Đức Kitô thì cần phải chịu đau khổ với Người, bằng sự hi sinh từ bỏ con người mình. Môn đệ của Chúa Giêsu không có con đường nào khác ngoài con đường mà thầy Giêsu đã đi, đó là con đường từ bỏ, hi sinh; con đường Thập giá. Bởi Người đã nói: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8, 31).

Ngày xưa, dân Do Thái cứ tưởng Đức Kitô con Thiên Chúa đến phải như là một “Vị Tướng” đánh Đông dẹp Tây, để dân tộc mình được đứng đầu các dân tộc khác. Nhưng không ngờ Đức Kitô lại bị hành hạ, bị sỉ nhục và bị giết chết như một tên phản quốc, như một kẻ tội lỗi. Ngày nay chúng ta cũng hay lầm tưởng theo Đức Kitô để được trọng vọng, để được danh tiếng. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em” (Mc 10, 43). Chúng ta cứ tưởng theo Chúa để được may mắn, được thành công ở đời , để được ăn trắng mặc trơn. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8, 34).

Một khi chúng ta mang lấy Thập giá với lòng đón nhận và yêu mến Đức Kitô, chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự chết. Bởi chưng “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đã đi qua con đường Thập giá để bước vào phục sinh vinh hiển. Xin cho chúng con sức mạnh của Chúa để chúng con đón nhận những thử thách, đau khổ ở đời này như là phương tiện để lập công phúc cho cuộc sống mai sau. Xin cho chúng con có ơn Chúa để chúng con biết từ bỏ tính ích kỷ, giận hờn, ghen ghét và những gì không phù hợp với người con Chúa. Xin giúp chúng con khi gặp những thử thách, gian nan biết gượng dậy để tiếp tục tiến bước theo Chúa lên Núi Sọ.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, ước gì Thánh giá Chúa là mẫu gương, là ánh sáng soi đường con đi, nhờ đó Thánh gía không còn là đau khổ, là tai họa nữa nhưng là dấu chỉ Chúa yêu con. Amen.

-----------------------------

 

TN 24-B110: TỪ BỎ CHÍNH MÌNH


Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN, năm B

Mc 8, 27 – 35

 

 Từ bỏ là hy sinh. Hy sinh là mất mát. Do đó, lời mời gọi của Chúa Giêsu “ Ai muốn theo Ta, hãy TN 24-B110 Dalat


Từ bỏ là hy sinh. Hy sinh là mất mát. Do đó, lời mời gọi của Chúa Giêsu “ Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình “ ( Mc 8, 34 ) có ý nghĩa cao vời bởi vì đây chính là nét đẹp của tình yêu. Thánh Gioan đã định nghĩa :” Thiên Chúa là Tình Yêu “. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng chính cả mạng sống của mình. Lời mời gọi của Chúa Giêsu có tính tự do, Người không bắt buộc con người. Con người hoàn toàn tự do khước từ hoặc chọn đi theo Chúa. Người mời gọi con người, chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể ngay cả mạng sống.

Đức Giêsu hôm nay, sau khi đã nghe các câu trả lời, những điều nhiều người nghĩ về Người, gán ghép cho Người và đặc biệt đã hiểu rõ các môn đệ biết Người là ai qua lời tuyên tín của Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô “ ( Mc 8,29 ). Phêrô tuyên xưng một Đức Kitô Cứu thế, nhưng không chấp nhận con đường thập giá của Người. Chúa Giêsu gọi đó là thái độ của Satan bởi vì ngay sau tuyên tín Thầy là Đấng Cứu thế. Chúa đã loan báo con đường đau khổ Ngài phải đi, Phêrô đã cản ngăn Chúa. Phêrô và các môn đệ thực sự giờ phút,lúc đó vẫn chưa hiểu được con đường thập giá của Chúa. Các Ngài chỉ hiểu được sứ mệnh của Chúa Giêsu khi Ngài từ trong cõi chết sống lại.Phêrô và các môn đệ đã cảm nghiệm con đường Thầy mình đã đi qua, các Ngài đã sống đến tận cùng lời tuyên xưng của mình.Nên, tất cả các môn đệ đều chấp nhận cái chết khổ hình của Chúa. Tất cả các Ngài đều hy sinh mạng sống vì tình yêu.Tất cả đều từ khước vinh hoa, địa vị, tiền tài để được lặp lại cái chết của Thầy mình.

Chúa Giêsu nói :” Ai muốn theo Ta, vác thập giá mỗi ngày mà theo Ta “. Lời mời gọi của Chúa được gửi tới tất cả mọi người mang danh Kitô. Chúa mời gọi tất cả tham gia vào cuộc tử nạn của Người. Chúa Giêsu mời gọi con người vác thập giá của mình, mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá. Chúa không bảo con người đi tìm thập giá bởi vì nếu tìm thập giá là tìm sự đau khổ, như vậy đạo chúng ta là một đạo chuyên gieo rắc sự đau khổ, làm cho con người chán ngán, rút lui. Đạo của Chúa là đạo tình yêu. Thiên Chúa không bao giờ đặt trên đôi vai, trên con người thánh giá quá sức mỗi người.Làm môn đệ của Chúa là chấp nhận thập giá. Chúa đã biết trước, đã tiên liệu, đã hiểu được giới hạn, sức chịu đựng của mỗi người. Ngài trao thập giá cho mỗi người tùy theo sức vác, sức chịu đựng của mình.

Vâng, môn đệ của Chúa không bao giờ được khước từ thập giá vì mỗi lần chúng ta, mỗi lần con người từ chối sống bác ái, yêu thương là mỗi lần con người chối từ thập giá. Mỗi lần chúng ta không chấp nhận cuộc sống hiện tại Chúa tặng ban là chúng ta minh nhiên từ khước thập giá của Chúa. Mỗi lần chúng ta tự đóng khung trong vỏ sò, không chịu đến với anh em nghèo, chia sẻ với họ lương thực, hay lời động viên là chúng ta chối từ thập giá Chúa trao.  Điều Chúa muốn con người, muốn chúng ta hãy hết lòng tín thác, cậy trông vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, vào sự quan phòng kỳ diệu của Ngài, chứ đừng sống theo những ảo ảnh, phù vân, những dễ dãi, đam mê, dục vọng, xác thịt, tội lỗi…” Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống “ ( Mc 8, 35 ). Mất đời này vì Chúa sẽ nhận được sự sống vĩnh cửu.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn can đảm dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, vác thập giá mỗi ngày mà theo Chúa bằng việc từ bỏ những ham muốn, những thói hư, tật xấu, những điều tiêu cực,đam mê, dục vọng.Amen.
 
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

 1.Đạo của Chúa Giêsu là đạo gì ?
2.Từ bỏ theo ý Chúa là gì ?
3.Đạo của Chúa Giêsu có phải là đạo đi tìm thập giá không ?
4.Vác thập giá hằng ngày là gì ?
5.Liều mất mạng sống vì Chúa là gì ?

-----------------------------

 

TN 24-B111: Nhận biết Chúa Kitô


Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XXIV – B

(Mc 8, 27-35)

         1) Nhận biết Đức Kitô

 

Toàn bộ Tin Mừng thánh Marcô nhằm mục đích trả lời cho câu hỏi: "Chúa Giêsu là ai?" Nhưng TN 24-B111


Toàn bộ Tin Mừng thánh Marcô nhằm mục đích trả lời cho câu hỏi: "Chúa Giêsu là ai?" Nhưng trong trích đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu lại minh nhiên đặt cho các môn đệ câu hỏi : "Các con bảo Thầy là ai? " Chúng ta, những Kitô hữu giờ đây nghe và đọc lại cũng buộc phải trả lời.

Trong các chương Tin Mừng của Chúa nhật trước, Chúa Giêsu đã không minh nhiên trả lời câu hỏi đặt ra về chính mình, nhưng các việc Người làm tự nó là những câu trả lời về chính Chúa.

• Người làm cho kẻ què đi được, ý nói, Người ban cho con người khả năng bước đi trong cuộc sống;

• Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được, như thế, Người là Đấng có lời ban sự sống và lý giải vê cuộc sống;

• Người làm kẻ chết sống lại, chứng tỏ, Người là Đấng bảo trợ sự sống;

• Người làm cho người mù thấy được, chứng tỏ Người là Ánh Sáng, đến chiếu tỏa ánh trần gian;

• Người làm cho sóng yên biển lặng, như vậy, Người là Chúa tể trời đất ;

• Người hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn trong sa mạc, thể hiện, Người là Đấng nuôi dưỡng nhân loại cả xác lẫn hồn.

 Đọc lại và thấy tất cả những việc Chúa "làm", chúng ta đi đến kết luận : "Người là Đấng Mêssia" (tiếng Hy lạp là : Đức Kitô)". Tiếc thay, nhiều người đương thời, ngay cả chúng ta ngày hôm nay nữa vẫn không nắm bắt được sự mới mẻ vĩ đại của Chúa Giêsu, vì thế với câu hỏi, "Người ta bảo Thầy là ai?" Phần lớn trả lời "người làm việc " không hơn không kém các tiên tri trước Người. "Còn các con, các con bảo Thầy là ai? " Là câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ của mình, nhân danh cả nhóm Phêrô trả lời : "Thầy là Đức Kitô! " Phêrô đưa ra một câu trả lời chính xác, không nói khác được, vì ông biết rõ Chúa Giêsu là Đấng Mêssia. Việc Chúa chết và sống lại là điều không tưởng, nhưng điều không tưởng tượng được ấy Chúa Giêsu đã hoàn tất cách vinh quang, điều duy nhất có thể thay đổi lịch sử nhân loại. Nói theo kiểu Heidegger, nếu không có Chúa, con người chỉ là một "sinh vật phải chết", cái chết của Chúa "gắn" liền với Thập giá; Người "giải thoát chúng ta khỏi ràng buộc" của sự chết.

Cần phải nhắc lại, câu trả lời của thánh Phêrô hàm chứa sự hiểu biết sâu xa về tình yêu chịu đóng đinh. Chính con đường Thập giá hoàn tất mục đích cứu độ của Chúa Giêsu. Khi Phêrô, vị Thủ lãnh các Tông Đồ thưa Chúa : "Thầy là Đức Kitô". Chúa Giêsu, Đấng Mêsia cảm thấy cần phải nhấn mạnh, Con Thiên Chúa phải chịu đau khổ nhiều. Vì thế, vấn nạn "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Chúa Giêsu đặt ra cho chúng ta hôm nay. Câu trả lời : "Thầy là Đức Kitô, Tình Yêu bị đóng đinh và sống lại" mới đủ ý nghĩa. Thánh Phaolô viết : "Nếu Đức Kitô không sống lại, đức tin của chúng ta là mơ hồ", Chúa biết Thập giá, tự nó không phải là một trở ngại cho ơn cứu rỗi. Thập giá là điều kiện. Thập giá không phải là cây cột của người La Mã, nhưng là cây gỗ để Thiên Chúa viết Tin Mừng.

Đấng Mêsia mời gọi chúng ta lên núi Calvariô với Chúa và bước theo Chúa chịu đóng đinh trên Thập giá, Đấng bị kết án tán dương sự công chính, Đấng chết đi để xác nhận sự sống, Người bị đóng đinh để bước vào vinh quang.

Bằng cách bước theo Chúa Kitô và tin tưởng vào lòng từ ái của Người, chúng ta hãy rang rộng cánh tay và mở rộng lòng mình như Đấng bị đóng đinh trên Thập giá. Tất nhiên, để làm điều ấy, như thánh Phêrô, chúng ta phải nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ, chấp nhận Thập giá như "chìa khóa" Chúa dùng để mở Trời và đóng cửa địa ngục. Đấng Cứu Chuộc đã vác "chìa khóa" nặng nề trên vai, anh cảm thấy gánh nặng và trách nhiệm khi bị đóng đinh treo trên thập giá đó. Đức Kitô trao cho thánh Phêrô "chìa khóa" Nước Trời và kêu gọi ông đóng đinh với Người, vác lấy gánh nhẹ nhàng trên vai Ngài như Người, dạy cho ông biết sự khiêm nhường và dịu dàng để "cởi trói" những người nô lệ thế gian, xác thịt và ma quỉ "ràng buộc" họ với Chúa Kitô trong một giao ước vĩnh cửu làm cho họ trở nên con cái của Cha vĩnh cửu trên trời.

         2) Tình yêu đích thực vì bị đóng đinh   

Tất nhiên, chúng ta cũng vậy, như Thánh Phêrô, chúng ta cũng muốn rời xa Thập giá Chúa. Nhưng Ma quỉ, Tên Cám Dỗ, nỗ lực lôi kéo chúng ta ra khỏi (Con đường Thánh Giá), thay thế nó bằng một con đường được thiết lập bởi sự khôn ngoan loài người.

Chúa Kitô đã vạch trần Tên Cám Dỗ và vượt qua hắn : Cả cuộc đời Người là một lời "xin vâng" không ngừng đối với Thiên Chúa và là một lời "từ chối" luôn mãi đối với Ma quỉ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Ma quỉ. Ma quỉ lại cố gắng lôi kéo môn đệ của Thầy Giêsu : để tách rời Đấng Mêssia khỏi thập giá, tách họ ra khỏi niềm tin vào Chúa Giêsu- Vua và ngai vàng của Người là cây Thập giá.

Sau khi thể hiện thiên tính của mình và vạch mặt sự hiện diện của Tên Cám Dỗ, Chúa Giêsu mạc khải cho các môn đệ và nhân loại biết con đường Chúa đi. Không có hai con đường, một cho Chúa Giêsu, một cho các môn đệ, mà chỉ có một : "Ai muốn theo Thầy, phải từ chối chính mình và vác thập giá mình mà theo", vì Thánh giá là biểu tượng của tình yêu bị đóng đinh.

 Quả thật, Thánh giá là "hình phạt đối với người Do thái và sự điên rồ đối với dân ngoại" (1 Cor 1,18-24) chúng ta thật khó để hiểu và chấp nhận nó.

Tình yêu bị đóng đinh không phải là tình yêu bị chết, nhưng là tình yêu "hy sinh". Để yêu thương, Chúa Giêsu đã tự nộp mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Nếu chúng ta muốn yêu thương như Chúa Kitô, chúng ta phải biết và làm điều đó. Thánh giá là dấu chỉ lớn nhất của tình yêu Thiên Chúa đối với con người.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vui mừng đón nhận và đi theo Chúa chịu đóng đinh, nhưng sống lại để cứu chuộc chúng con. Amen.
 
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

-----------------------------

 

TN 24-B112: TỪ BỎ MÌNH VÀ VÁC THẬP GIÁ MÌNH MÀ THEO CHÚA


CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN B

Is 50,5-9a ; Gc 2,14-18 ; Mc 8,27-35

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG : Mc 8,27-35

(27) Đức Giê-su và các môn đệ của người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ : “Người ta nói Thầy là ai ? (28) Các ông đáp : “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. (29) Người lại hỏi các ông : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ? Ông Phê-rô trả lời : “Thầy là Đấng Ki-tô”. (30) Đức Giê-su liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người. (31) Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết : Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại. (32) Người nói điều đó, không úp mở. Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. (33) Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phê-rô: “Sa-tan! Lui lại đằng sau Thầy ! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người. (34) Rồi Đức Giê-su gọi đám đông cùng các môn đệ lại. Người nói với họ rằng : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. (35) Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

2. Ý CHÍNH :

 

Sau khi lắng nghe dư luận quần chúng, Đức Giê-su đòi các môn đệ phải xác định niềm tin vào Người : TN 24-B112


Sau khi lắng nghe dư luận quần chúng, Đức Giê-su đòi các môn đệ phải xác định niềm tin vào Người : “Anh em bảo Thầy là ai ?” Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin : “Thầy là Đấng Ki-tô”. Từ đây Đức Giê-su bắt đầu cho các ông biết con đường Người sắp trải qua là : “Qua đau khổ để vào trong vinh quang”. Người trách Phê-rô khi ông cản Người theo con đường này. Người đòi môn đệ phải chấp nhận “Bỏ mình và vác thập giá mình mà đi theo Người”.

3. CHÚ THÍCH : 

- C 27-28 :

+ “Người ta nói Thầy là ai ?” : Qua các môn đệ, Đức Giê-su muốn biết người ta nghĩ gì về Người. + Là Gio-an Tẩy Giả tái sinh : Đây là ý tưởng của đảng Hê-rô-đê (x. Mt 14,2).

+ Là Ê-li-a : Ngôn sứ Ma-la-ki-a đã từng tuyên sấm về sứ mệnh của ngôn sứ Ê-li-a là đi trước dọn đường cho Đấng Thiên Sai : “Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3,23).

+ Là một trong các vị ngôn sứ : Dân chúng tin Đức Giê-su ít ra là Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đến để giáo huấn dân Người.

- C 29-30 :

+ Người lại hỏi các ông : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ? : Đức Giê-su đặt câu hỏi này với các môn đệ để xem nhận thức của các ông về Người ra sao.

+ Ông Phê-rô trả lời : “Thầy là Đấng Ki-tô” : Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Ki-tô hay Đấng Cứu Thế. Đây là lời tuyên xưng chính xác về sứ mệnh của Đức Giê-su. Do lời tuyên xưng này mà Phê-rô đã được Người khen có phúc (x. Mt 16,16-17). Chính Đức Giê-su cũng thừa nhận Người là Đấng Ki-tô trước tòa án tôn giáo (x Mc 14,61-62). Lời tuyên xưng của Phê-rô tuy đúng, nhưng chưa rõ ràng, vì người nghe có thể hiểu sai về sứ mệnh cứu thế của Người và gán cho Người sứ mệnh Thiên Sai trần tục, đến để giải phóng dân Do thái bằng bạo lực, thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Rô-ma.

+ Đức Giê-su liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người : Đức Giê-su cấm nói ra không phải để phủ nhận lời tuyên tín của Phê-rô, nhưng vì muốn tránh sự cuồng nhiệt của dân Do Thái đang thao thức muốn sử dụng bạo lực để lật đổ nhà cầm quyền Rô-ma. Người cấm các môn đệ nói ra Người là Đấng Ki-tô vì Người cần có thêm thời gian để rao giảng về sứ mệnh cứu thế thiêng liêng theo thánh ý Thiên Chúa. Cuối cùng, Người cấm nói ra vì “Giờ của Người chưa đến”, vì cần phải có Thần Khí tác động, thì người ta mới chấp nhận được chân lý này.

- C 31-33 :

+ Người bắt đầu dạy các ông biết... : Đây là lúc Đức Giê-su loan báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh mà Người sắp trải qua.

+ Con Người : Khi tự nhận là Con Người, Đức Giê-su vừa khiêm tốn xưng mình là : “kẻ hèn này”, lại vừa theo ý nghĩa biểu tượng của văn chương khải huyền Do Thái về Con Người là Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa (x. Tv 110,1) và sẽ đến trên mây trời (x. Đn 7,13-14). Đức Giê-su đã dùng tước hiệu Con Người nhiều hơn tước hiệu Mê-si-a, đã bị người Do Thái tục hóa khi hiểu theo nghĩa quyền lực thống trị. Trong Tân Ước, từ ngữ Con Người được lặp đi lặp lại tới 70 lần. Con Người có nghĩa là “Người Tôi tớ Đức Gia-vê, bị loại bỏ và bị giết chết và sau đó mới được tôn vinh và sẽ ban ơn cứu rỗi cho muôn người” (x. Mc 8,31). Trước khi xuất hiện trong vinh quang vào ngày sau hết, Con Người phải tự hạ, sống cuộc đời trần thế, bị nghèo khó (x. Mt 8,20), bị khinh dể (x. Mt 11,19), bị xúc phạm (x. Mt 12,32), bị tử hình thập giá (x. Ga 3,14), rồi mới vào vinh quang Phục Sinh (x. Dt 2,6-9). Cuối cùng trong ngày tận thế, Con Người sẽ lại đến ngự trên ngai uy quyền mà xét xử muôn dân (x. Mt 25,31-46).

+ Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người : Tuy tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, nhưng Phê-rô vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa của tước hiệu này. Ông chưa hiểu rằng theo thánh ý Thiên Chúa thì “Đấng Ki-tô phải chịu đau khổ rồi mới vào trong vinh quang” (x Lc 24,26). Ông đã thay mặt anh em can trách Đức Giê-su đừng chấp nhận chịu thất bại trước rồi mới chiến thắng. Các môn đệ bấy giờ đều hy vọng Thầy lên làm vua Mê-si-a để các ông được chia sẻ quyền hành (x. Lc 22,24), được ngồi bên tả bên hữu Thầy (x. Mt 20,21).

+ Người trách Phê-rô : “Xa-tan ! Lui lại đằng sau Thầy ! : Khi kéo riêng Đức Giê-su ra can trách, ông phê-rô đang làm công việc của Xa-tan, là cám dỗ Đức Giê-su đi theo con đường khác với thánh ý Chúa Cha. Nhưng Đức Giê-su ra lệnh cho Phê-rô quay về chỗ của môn đệ ở phía sau và phải đi theo đường lối của Thầy (x. Mc 1,17.20; 8,34).

+ Vì tư tưởng của anh không phải tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” : Ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm : ”Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,9). Ông Phê-rô đã không hiểu thánh ý Thiên Chúa muốn Đức Giê-su cứu thế bằng con đường “Qua đau khổ vào vinh quang” và mời gọi mọi người theo con đường này (x. Mt 16,21-23).

- C 34-35 :

+ “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” : Đức Giê-su đòi người ta tự nguyện đi theo con đường này. + Từ bỏ chính mình : “Từ bỏ” ở đây đồng nghĩa với “ghét” hay “yêu ít hơn” hoặc “coi thường” bản thân mình (x. Lc 14,26; Ga 12,25).

+ Vác thập giá mình : Thành ngữ “vác thập giá mình” gợi lên thói tục quân lính bắt tử tội phải tự vác cây thập giá của mình đi đến nơi hành hình. Ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su, cũng phải vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người.

+ “Cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Liều mạng sống mình vì Đức Giê-su và vì Tin Mừng thì cứu được mạng sống ấy”: Câu nói nghịch lý này mời gọi người nghe quan tâm đến giá trị đích thực của cuộc sống ở đời sau. Một người sống ích kỷ đời này, thì sẽ mất đời sống vĩnh hằng đời sau. Nhưng nếu ai sẵn sàng chịu thiệt, chịu chết vì đức tin ở đời này, thì sẽ được sống đời đời do Chúa ban cho ở đời sau.

4. CÂU HỎI : 

1) Khi được hỏi, các môn đệ đã thuật lại cho Đức Giê-su nghe dư luận quần chúng nói về Người như thế nào ?

2) Phê-rô tuyên xứng Đức Giê-su là ai ? Lời tuyên xưng ấy đúng hay sai ? Người Do thái thời đó có hiểu tước hiệu ấy đúng như ý Thiên Chúa muốn Đức Giê-su thi hành không ?

3) Tại sao Đức Giê-su cấm nói ra tước hiệu Ki-tô mà Phê-rô vừa tuyên xưng ?

4) Khi xưng mình là “Con Người”, Đức Giê-su ngầm dạy điều gì về vai trò và sứ mệnh của Người ?

5) Tại sao Đức Giê-su thích xưng mình bằng tước hiệu “Con Người” hơn tước hiệu “Mê-si-a” hay “Ki-tô” nghĩa là “Đấng Thiên Sai” ?

6) Trong Tân Ước, từ “Con Người” được nói tới bao nhiêu lần và mang ý nghĩa gì ?

7) Tại sao Phê-rô can Đức Giê-su đừng đi đường “qua đau khổ vào trong vinh quang” ?

8) Đức Giê-su đã mắng Phê-rô ra sao và đòi ông lui lại vị trí nào ?

9) Ý Thiên Chúa muốn Đức Giê-su phải cứu độ thế gian bằng con đường nào ?

10) Đức Giê-su đòi kẻ muốn theo làm môn đệ của Người phải làm gì ?

11) “Từ bỏ mình” có ý nghĩa ra sao ?

12) “vác thập giá mình mà theo Thầy” nghĩa là gì ?

II.  SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA : Chúa phán : “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34):

2. CÂU CHUYỆN :

1) "QUO VADIS ?" - THẦY ĐI ĐÂU ? :

Thời hoàng đế NÊ-RON của Đế quốc Rô-ma, theo thông lệ, các nước chư hầu đều phải gửi một người trong hoàng tộc sang Rô-ma để làm con tin. Đây là một cách bảo đảm sự tùng phục của các chư hầu. Trong số các con tin ấy có một nàng con gái đẹp tuyệt vời làm cho người cháu của hoàng đế Néron si mê. Anh chàng này vừa có địa vị thế lực trong triều đình, lại vừa giàu có và thông thái. Anh tin mình sẽ chinh phục được trái tim của người đẹp đạo công giáo. Lúc đó bạo Chúa Nê-ron đang ra tay giết hại các tín hữu theo đạo Ki-tô. Tông đồ Phê-rô đang ở trong thành Rô-ma lãnh đạo một cộng đoàn tín hữu. Trước cơn bách hại ngày một tàn khốc. Phê-rô phải nghe lời góp ý của các tín hữu là ông hãy chạy trốn ra ngoài thành để Hội Thánh khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn. Nhưng sau khi trốn được ra ngoài thành, Phê-rô lại gặp Thầy Giê-su vác thập giá từ ngoài đi vào thành. Ông hỏi "Quo vadis ?", tiếng Latinh nghĩa là "Thầy đi đâu ?" Đức Giê-su trả lời: “Ta vào thành Rô-ma để chịu đóng đinh một lần nữa” rồi Người biến mất. Phê-rô hiểu được ý Chúa nên đã quay vào trong thành Rô-ma. Sau đó ông đã bị bắt và cuối cùng chịu đóng đinh ngược đầu để nêu gương can đảm chết vì đức tin cho các tín hữu. Tấm gương anh dũng chết vì danh Chúa của tông đồ Phê-rô và các tín hữu công giáo đã khiến anh chàng hoàng gia nói trên cảm phục và cuối cùng anh đã quyết định theo Chúa Giê-su để nên giống như cô gái người yêu đã tin theo Chúa.

Hôm nay chúng ta sẽ trả lời thế nào trước câu hỏi của Chúa: “Còn anh em bảo Thầy là ai ?”.

2) TRẢI QUA THỬ THÁCH ĐỂ ĐƯỢC THÀNH CÔNG:

Bà GÔN-ĐA MÊ (Golda Meir), nữ Thủ tướng đầu tiên của nước Ít-ra-en, khi còn là thiếu nữ đã cảm thấy thất vọng về nhan sắc của mình. Bà đã thuật lại giai đoạn thiếu thời ấy như sau : “Mỗi lần nhìn vào khuôn mặt của mình trong gương, tôi lại thầm trách sao Ông Trời quá bất công, khi ban cho tôi một khuôn mặt thô ráp chứ không thanh tú duyên dáng như các bạn gái đồng trang lứa. Mãi về sau tôi mới nhận ra rằng : Chính khuôn mặt không mấy đẹp đẽ của tôi lại là điều may mắn và mang lại sự thành công cho tôi sau này. Bởi vì điều ấy buộc tôi luôn phải cố gắng khám phá ra các tài năng ẩn giấu nơi bản thân và làm chúng phát triển ngày một tốt hơn. Cuối cùng tôi rút ra được bài học này là : Một phụ nữ đáng quí trọng không phải do có sắc đẹp trời cho, vì sắc đẹp đó sẽ mau bị phai tàn theo năm tháng. Giá trị đích thực của một phụ nữ ở chỗ cố gắng phấn đấu làm việc, để khám phá ra khả năng Chúa ban, rồi phát huy biến các tài năng đó nên phương tiện giúp ích cho bản thân, gia đình và xã hội…”. 

GÔN-ĐA MÊ đã không còn than khóc phản kháng hay chán nản, nhưng vui vẻ chấp nhận thập giá đời mình, vác nó lên vai mà bước tới và trở thành nữ Thủ tướng đầu tiên của nước It-ra-en.

3) BÀI THƠ “DỌC ĐƯỜNG”:

Thi sĩ RÔ-BỚT BAO-NING HA-MINH-TƠN (Robert Browning Hamilton) trong bài thơ “Dọc đường” (Along the Road), đã tóm lược nội dung Tin Mừng hôm nay bằng những lời thơ đầy ý nghĩa như sau: “Tôi đã cùng bước đi một quãng đường với Nữ Thần Hoan Lạc. Dọc đường, nàng đã cho tôi được sung sướng bằng những lời ve vuốt tự ái của tôi. Nhưng rồi cuối cùng tôi chẳng thấy khôn ngoan hơn bao nhiêu. Sau đó, tôi lại bước đi với Nữ Thần Đau Khổ. Dọc đàng, nàng chẳng nói một lời. Nhưng cuối cùng tôi lại thấy mình lớn lên về kinh nghiệm sống, về sự khôn ngoan, nhờ trải qua các đau khổ trong suốt thời gian bước đi bên nàng…”.

4) ĐỨC KI-TÔ BỊ CHỐI BỎ:

Vào năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, trong đó họa sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một bức ảnh mang tựa đề: "Người bị khinh chê chối bỏ". Họa sĩ vẽ Đức Giê-su đang đứng trước nhà thờ chính tòa Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc tại trung tâm thành phố Luân đôn, nhưng không một ai quan tâm tới Người:

Một ông nọ vừa đi vừa đọc báo, suýt đụng phải Người.

Một khoa học gia bận bịu với những chiếc ống nghiệm, nên không nhìn thấy Chúa.

Một vị chức sắc thuộc hàng giáo phẩm đang hiên ngang tiến bước mà không thấy Đức Ki-tô.

Có một nhà thần học đang hăng say thuyết minh về Đức Ki-tô nhưng không nhìn biết Người.

Duy chỉ có một nữ tu là nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp tục đi con đường riêng của mình.

Ông BÁC-ĐÊ (William Barclay), một học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức họa như sau: "Những điều này vẫn luôn xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Ki-tô tái xuất hiện, sẽ chẳng có ai chú ý tới Người. Người ta còn phải bận tâm về đủ thứ chuyện họ coi là quan trọng khác, hơn là quan tâm tới Chúa hoặc lắng nghe Lời Chúa dạy”.

3. THẢO LUẬN :

Mỗi khi gặp được những điều may lành như ý, chúng ta thường dâng lời tạ ơn Chúa. Nhưng khi gặp rủi ro trái ý, chúng ta nên làm gì để thực hành lời Chúa dạy : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” ?

4. SUY NIỆM :

1) “Thầy là Đấng Ki-tô”:

- Dư luận dân Do thái coi Đức Giê-su là Gio-an Tẩy giả tái sinh, là ngôn sứ Ê-li-a hay một vị ngôn sứ thời xưa. Còn ông Phê-rô khi được hỏi đã thay anh em tuyên xưng “Thầy là Đức Ki-tô Thiên Sai”. Sau đó Đức Giê-su đã mặc khải cho ông sứ mệnh của Người là cứu độ nhân loại bằng con đường thập giá: “qua đau khổ vào trong vinh quang” (x Mt 16,21).

- Lời Đức Giê-su cho biết về việc Người sẽ phải trải qua cuộc Tử Nạn rồi mới vào trong vinh quang đã làm cho Phê-rô bất ngờ. Ông đã kéo Người lại mà can trách Người. Nhưng Đức Giê-su đã mắng ông : "Xa-tan, hãy lui lại đằng sau Thầy. Vì anh không nghĩ những điều của Thiên Chúa, mà chỉ nghĩ những điều của loài người". "Bởi vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người" (1 C 1,25).

2) “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24) :

Tất cả mọi thành phần dân Chúa là hàng giáo phẩm, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân, đều được mời đi theo Chúa. Đức Giê-su đòi những ai muốn theo làm môn đệ của Người phải từ bỏ: bỏ nghề chài lưới, bỏ tình cảm gia đình là cha già, vợ con, nhà cửa ruộng nượng… Hôm nay Người còn đòi môn đệ phải từ bỏ chính mình, và vác thập giá mình mà theo Người. Vậy vác thập giá nghĩa là gì ?:

- Là từ bỏ “cái tôi” tự ái, ích kỷ; lòng ham mê tiền bạc, danh vọng, quyền hành và các đam mê bất chính khác. Là nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giê-su Con Thiên Chúa (x Rm 8,29).

- Vác thập giá mình là biết tự chủ, vượt lên những đòi hỏi bản năng, nỗ lực nên hoàn thiện, là quyết tâm lọai bỏ con người “thuộc thể”, để mặc lấy con người “thuộc linh” được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (x Stk 1,26). Như vậy: “vác thập giá mình” là sẵn lòng chấp nhận những đau khổ và rủi ro thất bại trong cuộc sống, noi gương Đức Giê-su đã chịu đau khổ trong cuộc khổ nạn của Người. 

- “Vác thập giá mình” cụ thể là nhờ Thần Khí giúp chúng ta thanh luyện khỏi các thói hư xác thịt như : “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy…” để đón nhận hoa quả của Thần Khí là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ... Những ai thuộc về Đức Ki-tô Giê-su thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,19-24).

 3) Vui lòng đón nhận những đau khổ gặp phải:

- Từ xưa đến nay, có một vấn đề nan giải làm cho nhiều người chán nản thất vọng là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống với tiếng khóc của người thân. Cho nên, Kinh Thánh nói: "Đời là thung lũng nước mắt". Chỉ có Lời Chúa mới cho chúng ta câu trả lời thỏa đáng: nguyên nhân gây đau khổ là tội lỗi. "Vì ngươi đã phạm tội thì trái đất sẽ sinh gai góc, ngươi phải làm ăn vất vả, đổ mồ hôi mới có ăn và ngươi là tro bụi thì sẽ hoàn về tro bụi". Từ đó, đời là vũng châu lệ.

- Chúa Giê-su được sai đến trần gian gánh lấy tội lỗi nhân loại. Nhờ sự chết và sống lại, Người cứu chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Người dùng đau khổ làm phương thế để cứu chúng ta và dạy chúng ta phải bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người. Chúa cũng dạy chúng ta khi gặp đau khổ trái ý cũng đừng thất vọng, than trời trách đất mà hãy chạy đên với Người để được bổ sức: “Hãy đến với tôi, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho". Sắn sàng chấp nhận bỏ ý riêng mình để vâng theo ý Chúa Cha noi gương Chúa Giê-su.

4) Đau khổ sẽ thanh luyện chúng ta nên thánh:

- Thiên Chúa thường sử dụng khổ đau để rèn luyện con người nên tốt hơn. Các vĩ nhân trên thế giới, các thánh nhân trong Giáo hội, đều đã trải qua muôn ngàn khó khăn trong cuộc sống... Nhưng các ngài không nản chí buông xuôi, mà quyết tâm vượt qua để trở nên vĩ đại, như Chúa Phục Sinh đã nói với hai môn đệ làng Em-mau: “Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ?” (Lc 24,26).

- Người tín hữu chúng ta hôm nay cũng phải chấp nhân chịu thử thách rồi mới được thành công. Từ đây thập giá đối với chúng ta không còn là hình khổ ghê sợ, nhưng là phương tiện để vào trong vinh quang. Con người ngày nay thường ngại hãm mình, không muốn từ bỏ và ngại vất vả hy sinh… Nhưng nếu ai muốn cuộc sống của mình có ý nghĩa thì phải chấp nhận thử thách như người đời thường nói : “Có công mài sắt có ngày nên kim” “Lửa thử vàng gian nan thử đức”. Một khi hiểu được ý nghĩa cao cả của đau khổ thập giá, chúng ta sẽ hãnh diện nói như thánh Phao-lô: ”Vinh dự của tôi là thập giá Đức Ki-tô” (Gl 6,14). Từ đây thập giá trở thành chiếc cầu duy nhất nối liền giữa đất với trời, là phương tiện dẫn đưa chúng ta về tới quê trời đời sau.

5. NGUYỆN CẦU :

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay nếu con được Chúa hỏi : “Về phần con, con bảo Thầy là ai ? ” Con sẽ phải tuyên xưng thế nào đây ? Xin Chúa đừng để con chỉ tuyên xưng tin Chúa ngoài môi miệng, nhưng là tin bằng hành động : Bằng việc cầu nguyện kết hiệp với Chúa; luôn chu toàn bổn phận với lòng yêu mến Chúa; Biết cậy trông phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng; Biết tạ ơn Chúa khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại... Vì biết rằng tất cả những gì Chúa để xảy đến, đều là hồng ân của Chúa, và đều mang lại ích lợi cho phần rỗi đời đời của con. Xin giúp con năng nhìn lên thánh giá của Chúa, để học sống tình thương hiến thân quảng đại của Chúa, như Chúa đã dạy: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).

X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH - HHTM

-----------------------------

 

TN 24-B113: Sứ mệnh đầy thử thách của Đấng Ki-tô


CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Is 50:5-9a;  Gc 2:14-18;  Mc 8:27-35)

 

Như chúng ta biết, mục đích chính của Tin Mừng Mác-cô là trình bày sứ mệnh của Chúa Giê-su.  Các TN 24-B113


Như chúng ta biết, mục đích chính của Tin Mừng Mác-cô là trình bày sứ mệnh của Chúa Giê-su.  Các học giả Kinh Thánh đã gọi sứ mệnh này là “bí ẩn về Đấng Mê-si-a” (messianic secret), vì Chúa Giê-su thường cấm ma quỷ cũng như những kẻ được Chúa chữa lành, thậm chí cả đến các tông đồ như ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay, không được tiết lộ Người là Đấng nào.  Bí mật ấy đã được giới thiệu ngay trong câu đầu tiên của sách Tin Mừng Mác-cô:  “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa”.  Bí mật được tiếp tục trình bày suốt mười lăm chương sách, để cuối cùng được công bố trọn vẹn qua lời tuyên xưng của viên sĩ quan Rô-ma, người đã chứng kiến Chúa Giê-su tắt thở trên thập giá:  “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”.  Đó cũng là đề tài của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay.  Cả ba bài đọc đều nói lên sứ mệnh Đấng Ki-tô mà Chúa Giê-su đã thi hành và hoàn tất với cái chết trên thập giá và sự phục sinh của Người.

          Trước hết, bài Tin Mừng nói về sứ mệnh của Chúa Giê-su.  Cả ba sách Tin Mừng Nhất lãm đều kể lại Chúa Giê-su đã ba lần báo trước cho các môn đệ biết về cuộc Thương Khó và sự Phục Sinh của Người:  “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”.  Sứ mệnh của Chúa Giê-su dĩ nhiên khởi đầu ngay từ giây phút Ngôi Lời nhập thể trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a và làm người phàm cư ngụ giữa chúng ta.  Sứ mệnh ấy tiếp tục và trở thành công khai khi Chúa Giê-su lên đường rao giảng Tin Mừng, làm phép lạ để chữa lành rất nhiều người và xua trừ ma quỷ.  Những “thành công” và nổi tiếng của Chúa đã làm cho các môn đệ Người khó có thể chấp nhận những điều Người báo trước về cái chết và sự sống lại của Người.  Đó cũng chính là những gì chúng ta đọc được trong bài Tin Mừng hôm nay. Mặc dù ông Phê-rô vừa được Chúa Cha mặc khải cho biết Chúa Giê-su là “Đấng Ki-tô”, vậy mà ông vẫn mạnh mẽ phản đối, không chấp nhận việc Chúa sẽ “bị giết chết”!  Đây không chỉ là một thách đố cho Phê-rô và các tông đồ khác, mà cũng là một thách đố cho chính bản thân Chúa Giê-su nữa.  Người đã phải chiến đấu với cám dỗ làm “đấng ki-tô trần thế”, tức một lãnh tụ sẽ cai trị Ít-ra-en.  Sau phép lạ bánh hóa nhiều, thấy dân chúng muốn tôn mình lên làm vua (Gio-an 6:15), Chúa Giê-su đã chống trả thách đố bằng cách “lánh mặt, đi lên núi một mình” để cầu nguyện cho khỏi sa chước cám dỗ!  Cám dỗ ấy vẫn tiếp tục đeo đẳng Chúa Giê-su cho đến phút lìa đời, khi kẻ thù thách Người:  “Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!” (Mát-thêu 27:40).  Chúa Giê-su đã không xuống, vì Người chỉ muốn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa mà thôi!

          Vậy Chúa Giê-su đã chiến thắng cám dỗ như thế nào?  Bằng cách nắm chặt lấy niềm tin vào tình yêu và sự phù trợ của Thiên Chúa Cha.  Đúng vậy, ngôn sứ I-sai-a đã mô tả đức tin của Người Tôi Trung.  Đức tin đã giúp cho Người Tôi Trung chịu đựng được mọi thứ bách hại của kẻ thù.  Nào là “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu”.  Nào là “không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ”, thậm chí “trơ mặt ra như đá” và “sẽ không phải thẹn thùng”.  Đức tin đã trở thành khiên thuẫn để Người Tôi Trung dám thách thức kẻ thù:  “Ai tranh tụng với tôi?  Cùng nhau ta hầu tòa!  Ai muốn kiện cáo tôi?  Cứ thử đến đây coi!  Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?”  Chúa Giê-su chính là Người Tôi Trung của Thiên Chúa!  Những hình ảnh do ngôn sứ I-sai-a tiên báo về cuộc Thương Khó của Chúa Ki-tô đã được thể hiện từng nét.  Trong cuộc Thương Khó kinh hoàng, Chúa Giê-su đã nhẫn nhục và yên lặng, yên lặng của tình yêu, quảng đại, hy sinh và hoàn toàn phó thác trong bàn tay Chúa Cha.  Nói tóm lại, tin vào tình yêu Thiên Chúa Cha chính là bí quyết để Chúa Giê-su trung thành thực thi và chu toàn sứ mệnh Đấng Ki-tô vậy.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Nếu lắng nghe cả ba bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, có lẽ chúng ta sẽ thắc mắc:  phải chăng bài đọc 2 hôm nay lạc điệu hoặc không đúng chỗ?  Ngôn sứ I-sai-a và Tin Mừng Mác-cô thì nói về sứ mệnh Đấng Ki-tô, còn thánh Gia-cô-bê lại nói về đức tin có hành động.  Nhưng không phải là sai chỗ đâu!  Vì thánh Gia-cô-bê đã học được bài học về đức tin của Đức Ki-tô trong cuộc Thương Khó của Chúa và thánh tông đồ muốn chia sẻ bài học ấy với chúng ta đấy.  Khi đặt câu hỏi:  “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì?”, thánh Gia-cô-bê mời chúng ta hãy nhìn vào đức tin của Chúa Ki-tô lúc Người chịu cuộc Thương Khó, để chúng ta nhận ra được những “ích lợi” Chúa Giê-su đã đem lại cho toàn thể nhân loại mọi thời mọi nơi.  Ích lợi ấy là chúng ta được thay đổi thân phận từ nô lệ tội lỗi để trở nên con Thiên Chúa, rồi được sống sự sống mới trong hành trình tiến về nhà Cha trên trời.

          Chúa Ki-tô để lại cho chúng ta gương mẫu đặt niềm tin vào Thiên Chúa để chu toàn sứ vụ đầy thử thách.  Còn thánh Gia-cô-bê thì thách thức chúng ta lấy hành động minh chứng cho đức tin:  “Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin”.  Vậy chúng ta sẽ có những hành động nào để những người chung quanh thấy thế nào là tin?

        Lm. Đa-minh Trần đình Nhi 

-----------------------------

 

TN 24-B114: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI - CN 14 TN  B


Thiếu nhi chúng con yêu quí

 

Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe dài và nói về nhiều vấn đề quá. Nào là việc Chúa hỏi các môn đệ  TN 24-B114


Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe dài và nói về nhiều vấn đề quá. Nào là việc Chúa hỏi các môn đệ xem sau một thời gian dài Chúa rao giảng cho mọi người thì người ta nghĩ Chúa là Người như thế nào. Nào là việc Chúa trực tiếp hỏi xem chính các môn đệ nghĩ Chúa là ai. Rồi sau đó Chúa công khai loan báo về cuộc khổ nạn Chúa phải chịu và cuối cùng Chúa quyết liệt đòi hỏi những ai muốn theo Chúa thì phải từ bỏ mạng sống mình, rồi phải vác thập giá mình mà theo.

 Cha hỏi chúng con với tất cả những việc như thế Chúa muốn chúng ta điều gì?

 ………………

 Khó phải không chúng con?

 Cha tưởng Chúa muốn chúng ta phải hiểu Chúa cho đúng. Hiểu Chúa cho đúng là hiểu Chúa Là Ai. Chúa xuống thế làm người để làm gì? Đâu là con đường Chúa theo để thực hiện ý muốn của Thiên Chúa Cha và muốn đi theo Chúa thì con người phải làm gì.

 Nhiều quá phải không chúng con?

 Bởi vậy hôm nay cha chỉ muốn nói về một điểm thôi. Đó là việc Chúa đòi hỏi những ai muốn theo Chúa thì phải từ bỏ mình vác vác thánh giá mà theo. Nào chúng ta hãy nghe lại Lời Chúa: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo"(Mc 8,34) Rồi sau đó Chúa giải thích: "Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy."(Mc 8,35)

 Cha hỏi chúng con: Tại sao Chúa lại đòi hỏi quá khó như vây?

 Trước khi tìm một câu trả lời, cha hỏi chúng con thêm một câu nữa: Trước khi Chúa đòi hỏi như thế, Chúa đã làm gì? Chúng con nhớ lại một chút xem. Tin Mừng ghi: Trước khi Chúa đòi hỏi các môn đệ như thế Chúa đã báo trước về cái chết Chúa sắp phải chịu. Chúa bảo các môn đệ như thế này: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại.(Mc 8,31) Sau đó Tin Mừng còn nhấn mạnh thêm: "Người nói rõ điều đó, không úp mở"(Mc 8,32). Tới đây thì cha thấy câu trả lời đã rõ: Chúa muốn chúng ta noi gương bắt chước Chúa.

 Chúa đã chấp nhận đi qua con đường Thánh Giá khổ nhục rồi mới đến vinh quang Phục Sinh. Chính Chúa đã muốn đi qua cái chết đau đớn rồi mới tới ngày sống lại vinh quang. Bởi vậy mà Chúa đã nói với các môn đệ: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

 Sở dĩ Chúa làm thế là để làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha. Vì Thiên Chúa Cha muốn Chúa Giêsu Con của mình làm thế để cho loài người biết Thiên Chúa yêu thương loài người như thế nào. Chính Chúa Giêsu cũng đã có lần cũng cho biết như vậy: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hiến thân vì người mình yêu."

 Bởi vậy tuy những lời Chúa nói hôm nay, có khó nghe và khó chấp nhận. Nhưng đó là điều Chúa muốn. Môn đệ không thể hơn Thầy. "Môn đệ không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Môn đệ được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi.(Mt 14,24-25)  Chúa đã đi qua con đường Thập Giá rồi mới tới vinh quang, phục sinh thì chúng ta là những môn đệ của Chúa muốn có vinh quang thì cũng phải đi vào con đường đó.

 Cha kể cho chúng con câu chuyện này. Câu chuyện có tên là: Miếng Đất Sét Và Tách Trà Quý. Chúng con đã thấy cái tách trà bao giờ chưa? Cha chắc chúng con đã thấy rồi. Câu chuyện ấy như thế này:

 Cái tách trà một lần kia đã tâm sự: "Trư­ớc đây, tôi không phải là cái tách trà xinh xắn đẹp đẽ như thế này đâu. Trước đây tôi chỉ là một miếng đất sét đỏ. Rồi một hôm, ông chủ đem tôi nhào nặn, đập dẹt ra, rồi nhào, rồi lại đập dẹt ra. Tôi sợ quá, nên đã hét lên:

 -  Buông tôi ra

 Nh­ưng ông chỉ c­ười:

 - Chư­a đ­ược đâu.

 Sau đó, ông đặt tôi lên một cái bàn xoay, xoay tôi liên tục đến độ tôi phải kêu lên oai oái:

 - Dừng lại đi, tôi chóng mặt lắm

 Thế nhưng ông lại nói:

 - Chư­a được đâu!

 Rồi ông ấy đặt tôi vào lò nung, nóng khủng khiếp. Tôi không hiểu tại sao ông ta lại muốn hành hạ tôi, đốt tôi như thế. Tôi đập mạnh vào thành lò bồm bộp nhưng chỉ nghe tiếng ông nói:

 - Vẫn chư­a đư­ợc đâu. Một lúc lâu sau, ông mới lôi tôi ra và đặt tôi ngồi trên kệ để ngư­ời tôi nguội dần. Tôi cảm thấy thật dễ chịu. Như­ng th­ưởng thức cảm giác đó chư­a đ­ược bao lâu, con ngư­ời khó tính kia lại bắt đầu lấy một chất lỏng quét lên bên ngoài ng­ười tôi. Tôi không chịu đ­ược và gào lên:

 - Hãy dừng lại

 Nh­ưng ông vẫn chỉ gật gù:

 - Chư­a đâu.

  Rồi tôi lại bị đặt vào lò và lần này là cái lò nóng gấp đôi lần tr­ước. T­ưởng như­ mình chết ngạt đến nơi, tôi khóc và van xin nhưng ông vẫn kiên quyết nói:

 - Vẫn chư­a được!

  Tôi chẳng còn hy vọng gì nên đành buông xuôi theo số phận.

 Đột nhiên cửa lò bật mở, ông chủ bế tôi ra và cẩn thận đặt trên kệ. Ông đặt một cái gương trư­ớc mặt tôi rồi nói:

 - Hãy nhìn mình xem.

 Tôi nhìn và thốt lên trong ngạc nhiên:

 - Tôi đây sao? Giờ tôi trở nên xinh đẹp thế này ­sao?

 Lúc này, ông chủ của tôi mới bắt đầu lên tiếng:

 - Ta biết con sẽ đau đớn lắm khi bị ta nhào nặn nhưng nếu ta không làm thế, con sẽ bị khô đi và trở nên vô dụng. Ta biết bị xoay trên bàn nặn là vô cùng chóng mặt, nhưng nếu ngưng lại con sẽ bị méo mó. Ta cũng biết lò nung rất nóng và làm con rát bỏng nhưng nếu không vào đó con sẽ không trở nên cứng cáp và dễ nứt vỡ. Ta cũng biết mùi sơn làm con rất khó chịu, như­ng nếu không làm vậy, con sẽ nhạt nhẽo chẳng có chút màu sắc nào cả. Ta buộc phải đặt con vào lò nung thêm một lần nữa để con cứng cáp và bền chắc. Còn giờ đây, sau bao khổ luyện, con đã là một sản phẩm đẹp và hoàn chỉnh. Ta thật sự hãnh diện về con! Phải qua những thử thách vất vả con mới trở thành một tách trà đẹp nh­ư thế con ạ.

 Để kết thúc xin mượn lời của ngôn sứ Isaia để thưa với Chúa.

 Lạy Chúa, Ngài là Cha chúng con. Chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài. Chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con.

 Cúi xin Ngài nhìn đến: chúng con tất cả đều là dân của Ngài.

 Xin hãy làm cho chúng con hiểu rằng: Đau khổ, nghịch cảnh không phải là một tảng đá cản lối bước, nhưng là những thềm đá nâng con lên cao hơn, cao tới tận Thiên đàng. Amen.

 Lm. Giuse Đinh Tất Quý

-----------------------------

 

TN 24-B115: LỜI TUYÊN XƯNG CỦA PHÊRÔ


VÀ LẦN LOAN BÁO ĐẦU TIÊN VỀ CUỘC KHỔ NẠN

CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN - NĂM B

(Mc 8,27-35)

CÂU HỎI GỢI Ý

 

Đoạn văn hôm nay là bản lề của hai phần cuốn sách Mc. Điều ấy có nghĩa là gì? 2. Thử tìm sự song  TN 24-B115


1. Đoạn văn hôm nay là bản lề của hai phần cuốn sách Mc. Điều ấy có nghĩa là gì?
2. Thử tìm sự song song giữa Mc 8,27-29 với 8,22-26.
3. Tại sao Chúa Giêsu gọi Phêrô là Satan ở câu 33?
4. Các thánh ngôn (logia) (cc.34-35) đưa ra mấy điều kiện để theo Chúa Giêsu? Hoàn cảnh nào đã khiến Mc ghi lại chúng?

Lời tuyên xưng của Phêrô, lần loan báo đầu tiên về cuộc khổ nạn và các thánh ngôn (logia) về những điều kiện phải đáp ứng để theo Chúa Giêsu thuộc cả ba truyền thống Nhất lãm.

Các quan điểm có tính cách phụng vụ hơn là chú giải đã giải hạn đoạn văn đọc trong ngày hôm nay ở câu 35 - điều mà chúng ta không cần lưu ý trong lúc này. Bản văn song song của Luca (9,18-27), ngắn hơn một chút, rõ ràng là lệ thuộc Mc. Bản văn của Mt (16,13-28) đang được bàn cãi. Một vài tác giả nghĩ rằng câu trả lời dài nhất của Chúa Giêsu cho lời tuyên xưng của Phêrô (Mt 16,17-19) từ nguyên thủy đã thuộc về văn mạch của trình thuật chúng ta. Công thức phúc thật (Simon, ngươi thật có phúc...) và lời hứa quyền tối thượng (ngươi là đá ) có lẽ đã được Mt thêm vào trình thuật của Mc mặc dầu nguồn liệu của bản văn là thế nào đi nữa (x. O.Cullmann, Saint Pielre, Disciple, Apôtre, Martyr, Neuchâtel 1952, tr 154-166).

Thành thử ở đây ta không cần chú ý đến bản văn của Mátthêô.

 1. VĂN MẠCH

Đoạn văn 8,27-35 chiếm một vị trí trung tâm trong Tin Mừng Mc. Nó được dùng làm bản lề cho hai phần chính cuốn sách. Trong phần đầu (1,14-8,26), Chúa Giêsu tự mặc khải như là một kẻ khác thường và huyền bí qua nhiều phép lạ và lời nói đầy quyền uy. Đám đông kinh ngạc và các môn đồ không hiểu; họ luôn tự hỏi: "ông này là ai mà làm được những việc như thế?" (x. Mc 4,41; 1,27; 2,7; 6,2). Tuy nhiên, trong giai đoạn nói đây Chúa Giêsu cố ý giữ bí mật về lai lịch thiên sai của Người. Sự căng thẳng này được tạm thời nói ra trong lời Phêrô tuyên tín. Qua trung gian của Phêrô, các môn đồ lần đầu tiên thấy được mầu nhiệm thật sự của Thầy họ: Người là Đấng Messia. Lời tuyên xưng này kết thúc phần đầu của Tin Mừng Mc và làm nên chóp đỉnh của phần đó.

Đàng khác, Mc 8,27-35 cũng là một thời điểm quyết định, chi phối cả phần thứ hai của Tin Mừng Mc (8,27-16,8). Trước tiên, khung cảnh địa lý thay đổi: Galilê hết là hoạt động trường của đời công khai Chúa Giêsu, và từ đây Giêrusalem trở thành trung tâm đích thực (10,1.52. Vẫn biết là Chúa Giêsu còn đến Galilê nhưng một cách kín đáo: 9,30. Từ bắc Galilê, Chúa Giêsu đi ngang qua Galilê (9,30), Giuđê và Phêrô (10,1) để lên Giêrusalem: 10,32). Hơn nữa, nội dung lời giảng dạy của Thầy cũng thay đổi: lần đầu tiên, Chúa Giêsu nói đến cuộc Khổ nạn của Người, và tiết đầu tiên của phần thứ hai trong Mc (8,27-10,52) được kết cấu chung quanh ba lần loan báo về cuộc Khổ nạn (8,31; 9,31; 10,33-34). Cuối cùng, cách phát biểu của giáo huấn mang một hình thức khác: lần đầu tiền, Chúa Giêsu nói "trống" cho các môn đồ hay; trước kia, những lời này vẫn còn bí ẩn, và việc cắt nghĩa « riêng tư »  cho họ cũng không thấy dễ hiểu hơn các diễn từ bằng "dụ ngôn" mà Người ngỏ với dân chúng (Mc 4,10-20; 7,17-23).

Trong phần kế tiếp, ta cũng thấy rõ những thay đổi này liên hệ chặt chẽ với kế hoạch bí mật thiên sai, chủ đề trung tâm của Tin Mừng Mc: "Tất cả Tin Mừng Mc thành thử được bố cục theo hai phần lớn bổ túc cho nhau: phần thứ nhất, từ 1, 14-15 đến 8,26, trình bày dưới nhiều hình thức sự kiện của bí mật; và phần thứ hai, từ 8,27 đến 15,39, mặc khải cùng giải thích bí mật đó" (x. G.Minette de Tillesse, Le secret messianique de Jésus đang l’Evangile de Marc (Lectio divina

47) Paris 1968, tr. 303-310, nhất là 309; T.A. Bulkill, Mysterious Revelation. An examination of the philosophy of St Mark's Gospol. lthaca, N.Y. 1963, tr. 145- 146).

Vậy nếu lời tuyên xưng của Phêrô và lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn, nơi Mc, chiếm một chỗ trung tâm, thì ta có thể hy vọng là sẽ thấy nhiều đường chắp nối khác nhau liên kết bản văn này với văn mạch đi trước (8,22-26) và với văn mạch tiếp sau (8,34-9,13). Hiển nhiên, trình thuật Phêrô tuyên tín và trình thuật Biến hình soi sáng cho nhau thực: trong khuôn khổ vắn gọn của bài này, chỉ cần tham chiếu kết quả của một cuộc nghiên cứu gần đây về Mc 8,27-9,13 là đủ. Tiết này có một cơ cấu đồng tâm như sau (x. Lafontaine và p. Mourlon Beernaert, Essai sur la structure de Mc 8,27-9, 13 trong Rech. de Sc. Rel 57, 1969, tr.542-561):

A.  Người ta bảo Chúa Giêsu là Elia hay một trong các ngôn sứ (8,27-28)
B. Phêrô, nhân danh các môn đồ, trả lời Chúa Giêsu là Đấng Kitô (8,29-30)
C. Chính Chúa Giêsu dạy rằng Con Người phải chết và sống lại (8,31-33) Đoạn giáo lý (8,34-9,1) ...

C’. Trời biến đổi khuôn mặt Chúa Giêsu và Cựu ước làm chướng cho Người (9,2-6)

B'.  Chúa Cha mặc khải cho môn đồ biết Chúa Giêsu là Con chí ái Ngài (9,7-10)

A'. Kinh Thánh, được Chúa Giêsu đọc lại, định vị trí cho kẻ tiền hô thực (9, 11-13)

 II. PHÂN TÍCH BẢN VĂN

Sự kiện Mc 8,27-35 nằm ngay trung tâm của toàn bộ khiến chúng ta gán đoạn văn này, một phần lớn, cho công trình biên soạn của Mc. Chắc hẳn ông đã đưa vào bản văn nhiều yếu tố truyền thống; và trong quá khứ, lắm người đã thử phân biệt chính xác các yếu tố truyền thống và các yếu tố biên soạn. Nhưng những cố gắng thuộc loại này luôn mang một tính cách bấp bênh, đặc biệt vì thiếu những yếu tố so sánh. Một cuộc phân tích sâu xa hơn về Mc 8,27-33 hình như cho thấy rằng phần lớn các dữ kiện của đoạn văn này, nếu không phải là tất cả, đều có thể do thánh sử biên soạn, đến nỗi người ta khó có thể tự hỏi xem đoạn văn, xét như là một đơn vị văn chương, đã có khi nào xuất hiện trước Mc không (x. E. liaenchen, Die I<omposition von Mk 8,27-9,1 trong Novum Testamentum 6 (l963), tr. 81-109; Der Weg Jesu, Berlin, 1966, tr. 292-307; G. Minette de Tillesse, sđd, tr.293-326).

1. Lời tuyên xưng Đấng Messia (8,27-39)

Máccô đặt biến cố gần Caisaria của Philipphê, một thành tọa lạc phía bắc biển Galilê, không xa các nguồn sông Giođanô là mấy và nằm phía Tây Nam núi Hermon (x. Mc 9,2). Thoạt nhìn, người ta tưởng đây là một hoài niệm lịch sử chính xác. Nhưng, đối với Mc, địa điểm chắc chắn cũng có một ý nghĩa thần học. Từ 8,27, Chúa Giêsu bỏ môi trường hoạt động trước của Người là Galilê. Hôm nay, lần đầu tiên, Người được nhìn nhận như là Đấng Messia, và sự việc xảy ra gần một thành ngoại đạo. Trong đất Do thái, việc mặc khải này chỉ xảy ra lúc Người sắp mất: trước Caipha, Chúa Giêsu sẽ xác quyết mạnh mẽ phẩm chức Messia của người (Mc 14,61-62).

Hôm nay, câu hỏi về lai lịch của Người không do thiên hạ hay các môn đồ đặt, nhưng do chính Chúa Giêsu; điều đó không có nghĩa là Người chẳng biết cái thiên hạ nghĩ về Người, nhưng vì đây là giây phút đặc biệt để mặc khải, nên Người tự có sáng kiến và điều khiển cuộc nói chuyện. Trước câu hỏi thứ nhất: "Theo như thiên hạ nói thì Ta là ai?", các môn đồ có thể dễ dàng giải đáp. Dân chúng đã có một ý kiến về Chúa Giêsu (x. Mc 6,14-16). Đối với họ, người không có vẻ gì là một kẻ tầm thường. Thái độ đặc biệt của người làm liên tưởng đến Gioan Tẩy giả sống lại, đến Elia mà người ta trông đợi như tiền hô của thời sau hết, hay ít nhất như một đối thủ của các ngôn sứ xa xưa. Dù cho những so sánh này nịnh hót đến đâu, đối với Mc, chúng vẫn không làm nên một câu trả lời đầy đủ. Chẳng một phạm trù Cựu Ước nào có thể diễn tả lai lịch của Chúa Giêsu. Người hơn xa một ngôn sứ, như phần tiếp của cuộc đàm thoại sẽ mặc khải. Còn về vấn đề vị Tiền họ, nó sẽ được giải quyết ở 9,1-13: Elia đã đến trong con người của Gioan Tẩy giả.

Chúa Giêsu không bàn cãi các ý kiến của thiên hạ về Người. Nhưng sở dĩ giờ đây Người nói với các môn đồ cách trực tiếp, điều đó có nghĩa là Người coi như chắc là họ không chiều theo ý kiến của dân chúng, song có một xác tín riêng về Người. Điều Phêrô nói, nhân danh các môn đồ, vượt hẳn quan niệm của quần chúng: với tư cách là môn đồ được tuyển chọn, ông nhận lãnh mặc khải về phẩm cách Messia của Chúa Giêsu. Đối với Mc, phẩm cách này diễn tả đúng đắn lai lịch sâu xa của Chúa Giêsu, mặc dù trong câu tiếp, xem ra Phêrô chưa hiểu ý nghĩa đích thực của phẩm cách đó hoàn toàn. Hình như Mc 8,27-29 lấy lại bản văn ở 6,14-16 dưới hình thức một song song đối ngẫu. Trong lúc Hêrôđê lấy lại một trong những ý kiến của dân chúng mà xem Chúa Giêsu là Gioan Tẩy giả sống lại, thì Phêrô nhìn nhận Người là Đấng Messia. Thành thử Mc đặt đối chiếu một phán đoán sai lầm và một phán quyết đúng đắn (ít là trên hình thức) (Về sự tùy thuộc của Mc 8,27-29 đối với Mc 6, 14-16, x. E. Percy, Die Botschaft Jesu, lung, 1953, tr. 320; G. Minette de Tillesse, sđd, tr.310-312). Có lẽ Mc cũng đã thấy một sự song song giữa trình thuật Phêrô tuyệt tín và trình thuật chữa lành người mù ở Betsaiđa mà ông vừa mới kể (8,22-26) (Ta có thể tìm được một khái yếu về các tác giả đã nhận thấy sự song song này trong Minette de Tillesse, tr. 312-313; cũng xin xem R Beauvery, La guérison dun aveugle à letsaide, Mc 8,22-26 trong NRT 100 (1968), tr.1083-1091). Lúc ấy ông không muốn đối chiếu ý kiến của dân chúng với ý kiến của Phêrô hoàn toàn, nhưng đúng hơn muốn nhấn mạnh sự tiến triển dần dần trong việc nhận biết mầu nhiệm Chúa Giêsu: điều thiên hạ nghĩ về Người không hoàn toàn sai, nhưng chẳng đầy đủ. Như ngay khi vừa mới được chữa lành, người mù chỉ thấy một nửa thì thiên hạ cũng chỉ đoán được cách mơ hồ tính chất siêu việt của con người Chúa Giêsu. Và như người mù được thấy rõ nhờ quyền năng diệu kỳ của Chúa Giêsu, thì các môn đồ cũng khám phá ra rằng phẩm cách thiên sai của Chúa Giêsu dấu kín đằng sau những phép lạ và việc trừ quỷ. Lời tuyên xưng của Phêrô là đúng và trùng hợp với lời tuyên xưng của Giáo Hội mà Mc viết Tin Mừng cho. Cuộc khảo cứu về cách thức Mc đã nại tới thức hiệu Kitô trong kết cấu Tin Mừng của ông cũng đưa đến cùng một kết luận. (Xem bài nghiên cứu về tước hiệu Christos trong G. Mủlette de Tillesse, sđd, tr. 329-342).

Thành ra lời tuyên xưng của Phêrô bộc lộ niềm xác tín căn bản của Kitô giáo sơ khai: thái độ kỳ bí của Giêsu Nadarét chỉ có thể hiểu được nhờ ánh sáng đức tin biết nhận ra Đấng Messia hay Đấng Kitô trong con người ấy. Đó là điều được diễn tả cách mạnh mẽ qua danh hiệu "Giêsu Kitô" (Giêsu là Đấng Kitô). Người ta gán cho một con người lịch sử sống trong thời gian và không gian, một thuộc tính cánh chung, đặc biệt bằng cách xác nhận Đấng Kitô là con người đó. Chúng ta năng nói đến điều này nên không thể hiểu ý nghĩa của hạn từ "Kitô" cách đầy đủ được. Tuy nhiên đây là một xác quyết mạnh mẽ chưa từng thấy: điều mà con người hy vọng vào ngày cánh chung - sự thể hiện mọi sự cách dứt khoát – đã trở thành thực tại trong thế giới chúng ta hôm nay. Tầm mức đầy đủ của xác quyết này chỉ có thể hiểu được dưới ánh sáng của tư tưởng cánh chung do thái, một tư tưởng đã làm nên mảnh đất phì nhiêu trong đó phát sinh những lời tuyên xưng Chúa Kitô tiên khởi.

2. Lệnh bảo mật và lời tiên báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn (30-33)

Phản ứng lạ lùng của Chúa Giêsu cấm các môn đồ nói cho kẻ khác biết Người là Đấng Messia không có nghĩa là Người phủ nhận lời Phêrô tuyên tín. Đúng ra mệnh lệnh này phù hợp với chủ đề "bí mật thiên sai", chủ đề trung tâm của  cuốn sách. Thánh sử hoàn toàn biết rõ Chúa Giêsu là Đấng Messia. Và ông đã viết Tin Mừng chính để chứng minh điều đó. Tự chúng, các phép lạ và việc trừ quỷ, được đặc biệt kể lại trong phần thứ nhất của Tin Mừng, biểu lộ tính cách thiên sai ấy một cách lừng lẫy. Mọi hành vi đầy quyền lực và các lời nói đầy uy tín của Chúa Giêsu đủ chứng tỏ rằng với Người, cuộc chiến cánh chung giữa Vương quốc Thiên Chúa và vương quốc Satan đã khởi sự. Nhưng cùng lúc Mc lại cho thấy Chúa Giêsu muốn giữ bí mật việc biểu lộ này lắm. Người thường cấm loan đi các hành vi quyền năng "có tính cách mặc khải" (1,25.34.44-45; 3,11-12; 5,7.10.43; 7,36-37). Ở đây (8,30) việc cấm đoán minh nhiên nhắm đến tính cách thiên sai của Người. Tại sao vậy?

Trong trình thuật chúng ta, lần đầu tiên ("Người bắt đầu") và là lần duy nhất, Chúa Giêsu nói "trống" (c.32) lý do tại sao thiên sai tính của Người phải được giữ kín: vì sự cần  thiết theo ý Thiên Chúa, của cuộc khổ nạn. Trước khi vinh quang thiên sai của Chúa Giêsu được hoàn toàn bày tỏ, Người cần phải chịu khổ nạn như Thiên Chúa muốn. Ngược với niềm trông đợi chung của loài người và của dân Do thái, Đấng Messia không chỉ là một vì vua quyền thế nhưng cũng là một con người khiêm nhu và đau khổ. Là đại diện tối hậu của Thiên Chúa, Người không có thái độ làm cao, nhưng hòa mình giữa loài người, mặc lấy những khía cạnh đen tối nhất của cuộc sống nhân loại: bỏ rơi, đau khổ, nhục mạ bất công, và để kết thúc là cái chết, địch thủ tối hậu của con người. Thật thế, lời tuyên xưng của Phêrô về Chúa Kitô, như đối với nhiều Kitô hữu hôm nay, vẫn còn là một công thức thuần túy "Xét theo mô thức", công thức này là đúng thật. Nhưng các sứ đồ chưa xác tín rằng tước vị Kitô cũng bao hàm đau khổ và nhục nhã. Vì thế các ông chưa thể loan báo cho người ta biết tính cách thiên sai của Chúa Giêsu. Các ông chỉ có thể làm điều này sau ngày Phục sinh, khi cuộc Tử nạn đã được hoàn tất là đã được Thiên Chúa chứng nhận (x. Mc 9,9) (x. G. Minette de Tillesse, tr. 317-326).

Ở đây, chúng ta không thể khảo sát cách cặn kẽ vấn đề phức tạp là tìm xem trong mức độ nào các lời loan báo Khổ nạn này (Mc 8,31; 9,31 và10,32-34) là những thánh ngôn đích thực của Chúa Giêsu, hay chỉ là những "lời tiên báo hậu suy từ biến cố" (vaticinia ex oventu) được chính Mc thảo ra hay lấy lại từ cộng đoàn sơ khởi. Tuy nhiên, cho dù giả thuyết thứ hai có đúng, thì những lời loan báo này vẫn có thể là phản ảnh quan niệm của chính Chúa Giêsu. Thật vậy, về phương diện lịch sử, hầu như chắc Chúa Giêsu đã nghĩ đến các phản ứng bất thuận lợi với lời rao giảng của Người, đã thấy trước lối thoát định mệnh của cuộc đời Người, đã đi đến chỗ đương đầu cách ý thức với các nhà lãnh đạo Do thái, đã giải thích ý nghĩa tôn giáo của sự kiện Người phải chịu đau khổ để ý định Thiên Chúa được hoàn tất, và cuối cùng, dựa vào đức tin Cựu ước, đã nói một cách nào đó rằng Thiên Chúa "sẽ không để Người thấy sự hư nát" được (Tv 16,20) (Khoa chú giải gần đây cho thấy là có thể đi đến nhiều kết luận lịch sử tương đối rõ ràng về thái độ Chúa Gìêsu trước cái chết. Xem J. Guillet, Jésus devant sa vie ét sa mort, Paris, 1971). Trong trường hợp này, người ta có thể bảo là Chúa Giêsu đã loan báo cuộc Khổ nạn, và như vậy Mc đã có dùng chất hậu "truyền thống" khi chèn những lời loan báo vào trong Tin Mừng của ông. Nhưng điều này cũng không loại bỏ việc ông đã khai triển truyền thống ấy bằng cách thêm vô nhiều chi tiết chính xác, hòa hợp với trình thuật Tử nạn, hoặc biết đâu ông đã cho nó hình thức như hiện tại và xếp nó vào trung tâm của thần học ông.

Phêrô, với tư cách phát ngôn viên của các môn đồ. Phản ứng trước những lời loan báo cuộc Khổ nạn (c.32b). Ông kéo Chúa Giêsu ra một bên như muốn che chở cho Người. Với ít nhiều trịch thượng, ông coi Thầy như yếu hơn ông, và muốn cất khỏi óc Thầy các tư tưởng cuồng điên về cuộc Khổ nạn. Nhưng chính Chúa Giêsu đã quay về phía các môn đồ và đồng thời tái lập lại vị thế (c.33). Không phải Tôn sư theo môn đồ nhưng môn đồ phải theo Tôn sư. Chúa Giêsu chẳng chấp nhận một điều đình nào cả. Nếu các môn đồ không muốn theo Người cho đến thập giá, thì chỉ còn một việc phải làm: giải tán họ, phản ứng dứt khoát của Chúa Giêsu chẳng tỏ có sự bất đồng ý kiến sâu xa. Thật vậy, cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu là do ý Thiên Chúa. Cố bắt Người tránh thoát tức là thúc đẩy Người bất phục thánh ý Thiên Chúa, quy tắc duy nhất của Người. Một sự xúi giục như thế chỉ có thể là công việc của Satan, tên đã toan lôi kéo người theo đường lối đó lúc Người bắt đầu cuộc đời công khai (Mc 1,12-13; Mt 4,10). Khi hành động như vậy, các môn đồ ngăn cản Vương quốc Thiên Chúa đến. Ngoài ra, có lẽ các ông sợ rằng nếu theo Chúa Giêsu, thì cùng một số phận như thế sẽ chờ các ông. Điều này cũng làm cho các ông vấp phạm. Phản ứng của Phêrô để lộ thâm ý của các ông: tư tưởng và tước vọng của các ông đang còn quá bị các tiêu chuẩn của thế gian này làm chủ. Các ông không nghĩ đến những điều thuộc về Thiên Chúa, nhưng đến những điều thuộc thế gian, và theo phe Satan. Các ông, những môn đồ, các ông trở thành phát ngôn nhân cho kẻ thù số một của Thiên Chúa! Mâu thuẫn biết bao (x. D.E. Ninehan, Saint Mark (Pelican~gospel Commentaires), Londres, 1967, tr.223-227).

Thành thử Chúa Giêsu nặng nề khiển trách Phêrô, không phải như là một cá nhân, nhưng như đại diện của các môn đồ (c. 33), bởi đức tin của các ông vào Đấng Messia vẫn còn thiếu; lời khiển trách cũng nhắm đến tất cả những ai muốn theo người nữa (c.34) Ngay khởi điểm phần thứ hai của Tin Mừng Mc, một đường phân giới đã được vạch ra rõ rệt. Chúa Giêsu, Đấng Messia, mang trên mình cuộc Khổ nạn cùng cái môn đồ, cho đến cuối, sẽ từ chối nhìn nhận Người là đấng Messia. Thái độ của các ông trở nên đặc biệt hiển nhiên trong trình thuật Khổ nạn: không những Giuđa (14,10-11: phản bội), mà ngay cả Phêrô (14,26-32.66.72: chối Chúa), Giacôbê và Gioan (14,32-42: ngủ ở vườn Ghetsêmani), cuối cùng tất cả các môn đồ (14,50: bỏ Người, các ông chạy trốn hết) đều bỏ Chúa Giêsu cô đơn. Các môn đồ quả là chẳng hơn chi người thường trong khía cạnh đó.

3. Các thánh ngôn về những điều kiện theo Chúa Giêsu (8,34-35)

Ngược lại với quang cảnh có vẻ bí truyền trước, các thánh ngôn về mấy điều kiện để theo Chúa Giêsu không những chỉ nói cho các môn đồ (có lẽ đầu tiên là vậy trong truyền thống), nhưng còn cho đám đông nữa. Chắc hẳn, Mc muốn thích nghi các thánh ngôn truyền thống cho Kitô hữu độc giả của ông. Các câu 32b-33 cho chúng ta cảm nhận ra bầu khí, môi trường mà cc.27-33 và thần học về bí mật thiên sai tùy thuộc. Vì nói cho nhiều Kitô hữu đang hoang mang trước cảnh bắt bớ, trong lúc một số người, để thoát khỏi nguy hiểm và cái chết, tỏ ra sẵn sàng chối bỏ tuyên xưng Chúa Giêsu như Đấng Kitô, Máccô đã phản ứng cách mãnh liệt. Ai muốn trở nên môn đồ, phải giống Chúa Giêsu. Chúa Kitô mà chúng ta tuyên xưng đã không chỉ tỏ ra như một hữu thể thần thiêng đầy quyền lực và vinh quang trong cuộc sống trần thế, nhưng còn như một con người đã theo ý Thiên Chúa mà ý thức chịu lấy cuộc Khổ nạn. Vì thế người Kitô hữu không thể trốn chạy sự đau khổ do đời sống chứng nhân gây nên và như vậy chối bỏ tư cách môn đồ Chúa Kitô của mình.

Mặc dù 8,34-9,1 là một khối duy nhất, ở đây chúng ta chỉ chú giải chi tiết cc.34-35, là những câu mà phụng vụ hôm nay giữ lại. Câu 34 kể ra các điều kiện phải thực thi để theo Chúa Giêsu, nghĩa là để trở nên môn đồ Người. Trước hết phải từ bỏ mình, nghĩa là "tự ghét mình" đã (x. Lc 14,26 và của 12,25). Sự từ bỏ này nằm trong đòi hỏi căn bản mà Chúa Giêsu luôn đặt ra cho những ai Người mời gọi đi theo: từ bỏ hết. Từ bỏ chính mình cách cụ thể, có nghĩa là liều mất mạng sống của mình đi. Điều kiện thứ hai là vác thập giá, nghĩa đen: vác đến pháp trường khí cụ khổ hình của mình. Con đường đến chốn khổ hình như thế bao gồm sự lăng mạ và vũ nhục tột độ; nó tương đương với việc công khai bị loại trừ khỏi đời sống chung. Động từ "theo", còn nằm cuối câu 34 một lần nữa, cần phải hiểu theo nghĩa "đi sao và song đối với chữ "vác thập giá của mình".

Do đấy, "vác thập giá mình" và "theo" Chúa Giêsu có nghĩa là theo Thầy tiến về nơi xử tử, điều mà văn mạch giả thiết cách minh nhiên (8,31-33). Trong viễn tượng ấy đó là việc thông phần vào đau khổ của Chúa Giêsu. Thành thử theo Mc 8,34, để trở nên môn đồ Chúa Kitô, phải sẵn sàng chịu sự xấu xa nhất với Người, Đấng đã bị loài người kết án tử, phải luôn sẵn sàng tuẫn giáo. Yêu sách này, diễn tả trong c 34, cần phải được biện giải. Người môn đồ, người tín hữu như vậy là phải dấu thân vào cái chết sao? Trước hết, người ta không được tìm cách cứu mạng sống mình sao? Câu 35 trả lời; ai muốn cứu mạng sống khỏi mọi đe dọa bên ngoài lúc này đây thì sẽ mất nó. Việc thêm "vì Tin Mừng" ở c.35 là do Máccô. Qua chữ "Tin Mừng", ông muốn nói đến cái tin về Chúa Giêsu Đấng Kitô mà ông đã loan báo cho cộng đoàn tín hữu, và như vậy minh chứng cho hành vi và lời nói của Người. Cũng qua đó Mc xác định: với tất cả đời sống mình, người Kitô hữu phải tuyên xưng, nếu cần bằng việc đổ máu, không những Chúa Giêsu mà còn Tin Mừng nữa, nghĩa là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô như đã được loan báo trong lời rao giảng của Giáo Hội. Chúng ta gặp ở đây cách phát biểu đầu tiên của yêu sách: "Hiến mạng sống vì đức tin”.

 III. KẾT LUẬN

Cuộc sống người Kitô hữu thông phần nào sự nghịch lý của con người Chúa Kitô. Chúa Kitô chỉ đạt được vinh quang thiên sai một khi đã qua cuộc Khổ nạn và cái chết theo ý Thiên Chúa. Chỉ có sự hạ mình sâu xa nhất mà cuộc sống nhân loại của Người đã nếm biết mới biểu lộ rõ rệt sự cao cả của tư cách Con Thiên Chúa của Người. Ai muốn mang danh "Kitô hữu phải sống cái nghịch lý của Kitô giáo: Cứu mạng sống mình là đánh mất nó; mất mạng sống mình vì Chúa Kitô là cứu được nó. Adebert Deuaux, Assemblées dt' Seigneul: 55. tr. 31-39

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

 1. Ngày nay có nhiều kẻ nhắc đến Chúa Giêsu, ca tụng con người và sự nghiệp giải phóng của người; nhưng cũng lắm kẻ không biết đúng Người là ai, nên hoặc sinh nghi ngờ đố ky, hoặc phớt lờ không muốn nghe nói đến. Còn đối với ta. Chúa Giêsu là ai? Một bóng ma ám ảnh hàng thế kỷ? Một quan toà phải đối chất vào phút chót? Một kỷ niệm đáng nhớ? Một bảo đảm cho thành công? Một chướng ngại trong sơ yếu lý lịch? Câu trả lời đúng, chính là xác tín Người là đường, là Sự thật, là Sự Sống của ta và làm cho cuộc sống cùng thái độ sống hằng ngày của ta phù hợp với Tin Mừng và Giáo Hội của Người.

 2. Vì tin không chỉ là nhìn nhận Chúa Giêsu là một vĩ nhân, một ngôn sứ của Thiên Chúa, cũng không chỉ là noi gương Người để sống bác ái huynh đệ . Tin là tuyên xưng sự cứu rỗi của nhân loại là hoàn toàn ở nơi Chúa Giêsu, rằng chỉ

mình Người mới có thể mặc khải trọn vẹn và đã mang đến đầy đủ cho ta ơn cứu rỗi bằng cuộc sống và cái chết-phục sinh của Người.

 3. Để đi đến cùng đích đời mình và hoàn thành sứ mệnh, Chúa Kitô phải từ bỏ hết ý muốn riêng tư (8,33), thành quả công việc, sự ủng hộ và dư luận tốt của quần chúng (cc 28-29) cùng ngay cả mạng sống bản thân (c.31). Người phải từ bỏ tất cả để được Đấng là Tất Cả. Đấy là con đường tất yếu cho những ai muốn sự sống thật, hạnh phúc thật. Và Chúa Giêsu cũng dạy cho các kẻ muốn đi theo con đường này (cc 34-35). Bởi vì mọi cái ngoài Thiên Chúa chỉ mang lại những hạnh phúc thoáng qua. Thiên Chúa muốn chúng như là những phương tiện, những bậc thang để dẫn đến Ngài. Từ bỏ những phương tiện hấp dẫn này (nghĩa là coi chúng chỉ như phương tiện) luôn luôn gây đau đớn cho ta. Vác thập giá theo Chúa Kitô là như thế. Nhưng có vậy mới đạt đích như Người.

Học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt

-----------------------------

 

TN 24-B116: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi,”

 

Người Do-thái biết rất rõ câu nói này của tiên tri Isaia. Tuy nhiên họ chỉ hiểu một ít về Thiên Chúa TN 24-B116


Người Do-thái biết rất rõ câu nói này của tiên tri Isaia. Tuy nhiên họ chỉ hiểu một ít về Thiên Chúa mà thôi. Tất nhiên, tiên tri giống hình ảnh về một Thiên Chúa uy lực, quyền năng và giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai-cập. Như thế vẫn chưa đủ!

Các tông đồ dù sống thân mật và nhận thấy sự đơn sơ của Chúa Giêsu, nhưng họ vẫn gắn liền với những tư tưởng của người Do-thái. Họ chỉ nhớ những phép lạ của Chúa Giêsu và vì thế họ hy vọng vào một tương lai còn sán lạn hơn nhiều. Khi Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho họ: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?, thì Phêro không ngần ngại thưa: “Chẳng có vấn đề gì, Thầy là Đấng Me-si-a”. Phêro không nghi ngờ gì về điều mình đã khẳng định vì chính ông là nhân chứng của những phép lạ Chúa làm. Nhưng lúc này quan điểm của Phêro khác với quan điểm của Chúa Giêsu về Đấng Me-si-a. Vì thế Chúa Giêsu bó buộc phải phác hoạ cho Phêro biết khuôn mặt đích thực của Đấng Me-si-a và khuôn mặt đích thực của môn đệ Ngài.

1- Đấng Me-si-a đích thực. Lần đầu tiên khi Chúa Giêsu dạy cho Phêro biết Ngài sẽ phải lên Giêrusalem bị nộp vào tay những kẻ muốn giết Ngài, thì Phêro thực sự không thể chấp nhận một tình huống có thể xẩy ra như vậy. Ông rất khó chịu về việc Thầy mình phải chết như vậy. Rồi  ông dám kéo Chúa Giêsu lui ra và can trách Ngài: “Chúng con không muốn như vậy. Thầy là Đấng Me-si-a. Chính Thầy là người uy lực nhất. Chúng con yêu mến Thầy và không được phép để Thầy phải như vậy. Nếu Thầy làm như vậy thì người ta sẽ nghĩ thế nào về Thầy? Xin Thầy nghĩ cả đến chúng con nữa! Thiên hạ sẽ nói gì với chúng con? Có thể họ nói Đấng Me-si-a của tụi mày thế à? Ngài không có khả năng tự vệ: thế thì Ngài làm sao có thể bảo vệ được dân tộc Israel chúng ta? Thầy chỉ cần nói một tiếng thôi là Thiên Chúa sẽ làm cho các kẻ thù của Thầy ngã lăn quay”.

Nghe vậy Chúa Giêsu bực mình và nói với Phêro: “Này anh Phêro, anh nói như quỷ. Thay vì cầm đèn chạy trước ôtô và ngăn cản Thầy đừng làm như vậy, tốt hơn hết là anh hãy theo  sau Thầy và chỉ có con đường đó mới xứng đáng với Đấng Me-si-a đích thực”.

Như vậy, các tông đồ bó buộc phải tiến hành một cuộc trở về đích thực để có một tư tưởng đúng đắn về vai trò Đấng Me-si-a. Chỉ có một Đấng Me-si-a đau khổ tự nguyện hiến dâng mạng sống, tha thứ cho các đao phủ của Ngài mới có thể cho các ông một tư tưởng chính xác về bản tính Thiên Chúa: Thiên Chúa trước hết không phải là Thiên Chúa toàn năng như các tông đồ vẫn mường tưởng như vậy, nhưng là Thiên Chúa toàn yêu. Vì thế Ngài cũng là Thiên Chúa yếu đuối, Thiên Chúa bị tước đoạt vũ khí, Thiên Chúa bị tổn thương. Thập giá Chúa Kitô không phải là một sự nhục nhã cho Thiên Chúa, nhưng là dấu chỉ tuyệt vời về lòng quảng đại vô biên của Ngài.

Trong Thiên Chúa Ba Ngôi, mỗi Ngôi Vị Thiên Chúa đều vui mừng sống một sự trần trụi vô hạn, vì chỉ sống cho các Ngôi Vị khác mà thôi.“Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mạc khải cho chúng ta sự trở trụi muôn thuở và tuyệt đối của Con Thiên Chúa trong lòng Ba Ngôi” (Cha Paul Debains). Thập giá Chúa Giêsu là đỉnh cao thể hiện bản tính Thiên Chúa một cách tốt nhất. Thiên Chúa vĩ đại nhất khi Ngài thực hiện một sự hạ mình tuyệt đối.

Vì thế, Thánh Phaolô rất tự hào vì được là người rao giảng một Thiên Chúa bị đóng đinh: “Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hi-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận được, và dân ngoại cho là điên rồ”.

Đối với chúng ta, chúng ta hình dung thế nào về Chúa Kitô và về Thiên Chúa?

- Phải chăng chúng ta muốn một Đấng Me-si-a hữu hình thỉnh thoảng làm phép lạ ấn tượng để những ai khinh dể Ngài phải câm họng không?

- Phải chăng chúng ta muốn một Đấng Me-si-a luôn bảo vệ những kitô hữu yêu mến Ngài và nghiêm khắc đối với những người khác?

- Phải chăng muốn một Đấng Me-si-a chữa bệnh cho biết bao bệnh nhân đang cầu khẩn Ngài?

- Tại sao Đấng Me-si-a lại không chứng tỏ Ngài có quyền một cách tích cực hơn? Nếu Ngài làm như vậy, phải chăng nhiều người sẽ hiểu biết và tin theo Ngài ?

- Nhưng nếu tin như vậy, liệu có phải vì lợi nhuận hay là vì yêu Ngài?

Trên cây thập giá cũng vậy, người ta đã ước mơ Ngài chứng tỏ có khả năng xuống khỏi cây Thập giá. Tuy nhiên để trả lời cho ước mơ ấy, Ngài vẫn cứ ở trên Thập giá để chịu đóng đinh. Ngài không có thể làm gì khác, vì Ngài muốn cho chúng ta biết bản chất đích thực của Chúa Cha, Đấng là tình Yêu và không bạo lực, tôn trọng tự do và không gia trưởng.
 
2- Người môn đệ đích thực. Người môn đệ đích thực có một ý tưởng đúng đắn thôi chưa đủ, mà còn phải trả lời cho điều mà Đấng Me-si-a chờ đợi nơi mình, đó là “Hãy đến và theo Tôi”. “Theo Tôi” có nghĩa là đi theo những bước chân của Chúa, bắt chước cách Chúa sống, theo Chúa trên con đường của thế giới mà Chúa phải loan báo Tin Mừng. Theo Tôi cũng có nghĩa là theo Chúa trên độ dốc cam go của đồi Canvê.


Đối với Phêro và các tông đồ, họ sẵn sàng theo Chúa, nhưng chỉ theo khi Chúa được vẻ vang. Khi được đặt vào những chỗ ưu tiên, họ đóng vai trò vệ sỹ cho thân xác Chúa Giêsu: họ dồn đám đông về một hướng và loại trừ những người họ không thích, rồi cả những đứa trẻ đến quấy rầy Chúa. Họ chuẩn bị những chức vụ thừa tác mà Chúa sẽ trao phó cho trong nước mà Ngài sẽ thiết lập. Chắc hẳn họ yêu mến Ngài và trong những lúc cao hứng họ khẳng định mạnh mẽ rằng sẽ sẵn sàng chết vì Thầy. Nhưng, gươm cầm sẵn trong tay!

Tông đồ đích thực phải là người như Thầy mình chấp nhận có một Thiên Chúa bị đóng đinh. Thánh Phaolo hiểu rõ điều này: “Khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kito, mà là Đức Giêsu Kitô bị đóng đinh vào Thập giá”.

Tông đồ đích thực là người phải chấp nhận làm việc vì một người Thầy bị loại trừ, âm thầm và bị quên lãng. Sự yên lặng của Thiên Chúa giúp con người càng tìm kiếm Ngài. Người tông đồ đích thực cũng phải là người vác thập giá riêng của mình để theo Chúa. Thánh Gioan nói: “Ai nói rằng mình ở trong Thiên Chúa thì phải bước đi vào con đường mà chính Chúa Giêsu đã bước”. Marthe Robin cảm nhận: “Chúa Giêsu nhận ra những bạn bè đích thực của Ngài trên thập giá”. Người tông đồ đích thực phải là người chấp nhận mất mạng sống vì Chúa Kito.
 
Bài Tin Mừng hôm nay đặt ra cho chúng ta 2 câu hỏi:


- Chúng ta có thờ lạy một Thiên Chúa đích thực, một Đấng Me-si-a đích thực trong Chúa Kitô bị đóng đinh không?

- Chúng ta có là những môn đệ đích thực của Chúa Kito bị đóng đinh đó không?. 

Kitô giáo không phải là một thứ tôn giáo có mục đích sắp xếp các thành viên của mình vào những vị trí quan trọng, cũng không phải là có mục đích sản xuất ra những nơi an nghỉ vĩnh viễn. Nếu thế, kitô giáo không phải là một thứ tôn giáo hạnh phúc sao? Hạnh phúc đích thực của kitô giáo chỉ được khám phá ra khi chúng ta tin tưởng trèo lên đỉnh núi Everest tình yêu của sự trao ban với đôi mắt được ánh sáng của ngọn đồi Can-vê soi chiếu.
 
 

Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa

-----------------------------

 

TN 24-B117: Một con người hai tư tưởng


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

 

Tin mừng hôm nay cho ta thấy ông thánh Phêrô tuy một nhưng hai tính cách: một Phêrô Kitô hữu TN 24-B117


Tin mừng hôm nay cho ta thấy ông thánh Phêrô tuy một nhưng hai tính cách: một Phêrô Kitô hữu và một Phêrô satan. Một Phêrô nói Thầy là Đấng Mêsia mà dân Israel đã cưu mang từng bao đời. Một Kitô hữu Phêrô rất đẹp nhưng bên cạnh đó có một con quỷ sa tan đội lốt Phêrô để can dặn Chúa Giêsu chớ có dại dột mà lên Giêrusalem, Chúa Giêsu quay lại mắng một lời rất nặng mà ít thấy trong Tin mừng. Vâng, Phêrô cũng là hình ảnh của mỗi một người chúng ta đây và tất cả những ai mang danh Kitô hữu có một tính các rất tốt mà cũng vừa mang tính cách rất sa tan.

Thử hỏi hôm nay có người Công giáo nào dám vỗ ngực và bảo rằng tôi đã hoàn toàn thuộc về Chúa Giêsu và không có một sa tan nào trong tôi cả. Nhưng mỗi một con người đều pha lẫn ánh sáng và bóng tối vừa pha lẫn tính chất Kitô hữu và lại có tính cách của quỷ sa tan ở đấy. Cho nên, trong bài đọc hai, Thánh Giacôbê nói: “Có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,15).

Vậy thì, vấn đề ta phải suy nghĩ với nhau đó là cái gì mà làm cho ta là Kitô hữu mà lại mang tính chất satan đó? Có thể là nhiều lý do nhưng mình có thể dựa vào Tin mừng hôm nay đó là chúng ta quen tính toán suy nghĩ và chọn lựa đường lối của loài người mà mình quên mất những suy nghĩ vào đường lối của Thiên Chúa. Không có ai và không có cộng đoàn nào mà không đi tìm cho mình sự sống thật và con đường nào dẫn đến sự sống thật? Nhiều khi mình đi tìm sự sống nhưng là một sự sống giả và là con đường tính toán với thế gian. Chẳng hạn, khi hoàng đế Nêron muốn làm thơ về thành Turoa cho nên ông đốt cả thành Rôma, ông đổ tội cho người Công giáo thế là một cuộc bách hại tàn sát rất dã mang đổ lên trên đầu Hội thánh Công giáo. Phêrô tìm cách thoát ra khỏi thành Rôma. Bởi vì Ngài sợ rằng nếu bây giờ mà vị lãnh đạo Giáo hội bị đế quốc Rôma giết chết thì còn ai lãnh đạo và cả đoàn chiên của Chúa mất đầu, sẽ tan tác hết cho nên Ngài phải thoát ra khỏi thành để duy trì sự sống cho Hội thánh. Nhưng không ngờ rằng trên đường đi ra khỏi thành lại gặp Chúa Giêsu đi ngược lại và khi Phêrô lên tiếng hỏi Thầy đi đâu, Chúa Giêsu trả lời Thầy đi vào thành Rôma để chịu đóng dinh thêm một lần nữa. Phêrô hiểu và quay trở lại Rôma. Ngài hiểu ngay việc Ngài thoát ra khỏi thành Rôma là sự  khôn ngoan nhưng nó lại là sự khôn ngoan của loài người chứ không phải sự khôn ngoan của Chúa Giêsu chịu đóng đinh.

Chúa muốn cho con người được hạnh phúc. Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con người bằng cái chết trên thập giá và sống lại vinh quang. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua theo kiều thế gian hay satan. Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Đó là yêu thương, tha thứ nhất là từ bỏ xu hướng của satan ham muốn xác thịt… để chỉ sống thanh cao phần tinh thần.

Đúng thế, người Kitô hữu qua lời nói, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình phải là một câu hỏi cho những người chung quanh. Dù âm thầm nhỏ bé đến đâu chăng nữa, thì đời sống của người Kitô hữu phải làm cho những người chung quanh nhìn ra chúng ta làmôn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô. Vì vậy, là Kitô hữu luôn mang một tính cách của Chúa là: chứng nhân giữa một xã hội đầy giành giật và bon chen, đầy bạo lực và bất công; thực thi tinh thần nghèo khó, chấp nhận thua thiệt mất mát hơn là bán đứng lương tâm của mình để chạy theo những lợi lộc bất chính, yêu thương mọi người, kể cả kẻ thù địch và bước theo Chúa cho đến cùng, biết sống lạc quan, tin tưởng vào một Đấng có tình yêu thương trải dài trong suốt lịch sử con người, và sống tử tế, cư xử tốt đẹp với mọi người. Vì vậy, kết thúc thông điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới”, Đức Thánh Cha Gioan 23, đã viết như sau: “Mỗi người Kitô hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, một tụ điểm của tình yêu, một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Người Kitô hữu sẽ đóng trọn vai trò ấy hơn khi họ còn sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa”.

Xin cho Lời Chúa hôm nay luôn thanh tẩy tư tưởng satan trong trí lòng chúng ta để chỉ còn tư tưởng và đường lối của Chúa trong cung cách sống đạo của chúng ta hôm nay. Amen.

-----------------------------

 

TN 24-B118: Theo Chúa phải từ bỏ mình, vác thập giá mình


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

Theo Hiến Chế Mặc Khải của công đồng Vaticano II, Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa nói với TN 24-B118


Theo Hiến Chế Mặc Khải của công đồng Vaticano II, Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa nói với loài người để mặc khải cho họ về chính Thiên Chúa, về tình thương, sự an bài săn sóc, ý định và chương trình cứu độ của Người. (Dei Verbum 25). Đề cập đến Kinh Thánh , thánh Augustinô đã không tiếc lời nói: "Thánh Kinh là bức thư tình mà Thiên Chúa gửi cho chúng ta là bạn hữu của Người" (Augustino, Enarr in Ps 90).

Sau lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29) Phêrô cùng các môn đệ bị Thầy cấm không được nói với bất cứ ai về Thầy. Liền sau lời cấm là bài học về chính Thầy, Đấng Mêssia: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều…bị giết đi” (Mc 8, 31). Vì không chấp nhận nên Phêrô đã bị khiển trách nặng nề bởi ông đã bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế: “Satan, hãy lui đi, vì người không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người” (Mc 8, 33).

Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được Thiên Chúa. Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu, thực sự họ không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời hay là thần thánh gì hết, họ là những con người bằng xương bằng thịt với đức tính và khuyết điểm như chúng ta. Có thế họ mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.

Vậy, đâu là ý Thiên Chúa?

Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ hiểu rằng “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8, 31). Chương trình trên làm đảo lộn tâm hồn các môn đệ. Làm sao “Ðấng Kitô” (Mc 8,) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới: “Kéo Người lui ra mà can trách Người” (Mc 8, 32). Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận thập giá.

Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời trách đuổi Phêrô: “Satan, hãy lui đi ” (Mc 8, 33).

Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, lúc ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Người.

Theo Chúa phải từ bỏ

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: ” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8, 34).

Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?

Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu yêu cầu là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy vọng.

Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không đòi chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là“, nhưng điều “chúng ta đã trở nên“. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, bao phủ trên hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất“, ngược với “ảnh trên trời“, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta“, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.

Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác nhau yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói thứ ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói thứ ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.

Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao tiếp với Chúa. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta.

Theo Chúa là chấp nhận thập giá

Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình“, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình“, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).

Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, “chịu mất mạng sống” (Mc 8,) là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Ðức Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại” (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).

Lạy Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã đến thế gian chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng con, chúng con xin theo Chúa, nhưng xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Xin gia tăng lòng tin yêu Chúa nơi chúng con, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Amen.

-------------------------

 

TN 24-B119: Số phận của Đức Yêsu


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Căn tính của Đức Yêsu

 

Sau bao nhiêu lời giảng dạy và phép lạ đã thực hiện nơi người Do Thái, Đức Yêsu muốn biết dân TN 24-B119


Sau bao nhiêu lời giảng dạy và phép lạ đã thực hiện nơi người Do Thái, Đức Yêsu muốn biết dân chúng nghĩ sao về Ngài. Ngài hỏi các tông đồ: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các tông đồ trả lời: “người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, người khác bảo là Elia, và người khác nữa thì nói thầy là một tiên tri nào đó”.

Đức Yêsu muốn biết lập trường quan điểm của các tông đồ: “còn các anh em, anh em nói thầy là ai?” Phêrô đã mau mắn đại diện các tông đồ trả lời: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Theo Đức Yêsu, Phêrô biết điều này không phải do tự sức con người của Phêrô, nhưng do được Thiên Chúa mặc khải.

Lời tuyên xưng của Phêrô có nghĩa gì? Từ ngữ “Kitô”, được dịch theo âm bởi chữ Hylạp “Khristos” (tiếng Anh và Pháp dịch là Christ), và rồi chữ “Khristos” tiếng Hylạp là dịch theo nghĩa chữ Massiah tiếng Dothái, có nghĩa được xức dầu. Từ ngữ “Con Thiên Chúa” cũng được dùng trong Cựu Ước; có nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn những người công chính, các vị vua và ngay cả các thiên thần. Ngày nay các kitô-hữu đều nhận mình là con Thiên Chúa.

Từ ngữ “Con Thiên Chúa”, hiểu như người được Thiên Chúa sinh ra và đồng bản tính với Thiên Chúa, thì chỉ có Đức Yêsu. Tuyên xưng Đức Yêsu là Con Thiên Chúa và đồng bản tính với Thiên Chúa, là tuyên xưng “Đức Yêsu là Thiên Chúa”. Điều này người ta chỉ nhận biết sau khi Đức Yêsu phục sinh, và các tông đồ là những người đầu tiên nhận biết điều này.

Trước khi biết Đức Yêsu là Thiên Chúa, thì chữ “con Thiên Chúa” theo người Do Thái chỉ có nghĩa là người đặc biệt, người luôn làm theo ý Thiên Chúa, người được Thiên Chúa yêu thương. Thế nhưng cho dù các Tin Mừng đề cập đến Đức Yêsu trước khi Ngài phục sinh, nhưng tất cả các Tin Mừng lại được viết sau biến cố Đức Yêsu phục sinh, sau khi các tông đồ đã nhận biết Đức Yêsu là Thiên Chúa, nên các nhà chú giải có khuynh hướng giải thích lời tuyên xưng Đức Yêsu là Con Thiên Chúa của Phêrô như lời tuyên xưng thần tính của Đức Yêsu.

Đức Yêsu đã cấm các tông đồ loan báo điều các ông được mặc khải “Ngài là Đức Kitô”. Sở dĩ vậy vì dân chúng thời đó lại hiểu “Đức Kitô” theo một nghĩa khác. Trong lịch sử dân Do Thái, khi dân bị khốn khổ bị hà hiếp bị áp bức bởi dân tộc khác như thời ở bên Ai Cập, thời các thẩm phán, thời lưu đày, thì Thiên Chúa đã sai các vị “kitô” tới để giải phóng dân, chẳng hạn Thiên Chúa đã sai Môsê giải phóng dân khỏi Ai cập, sai các thẩm phán như Samson, Đêborah, và thời lưu đày đã sai Kyrô (Ys.45, 1) v.v.. Chính vì vậy Đức Yêsu không muốn các tông đồ nói điều này ra, vì như vậy, dân chúng sẽ tưởng Ngài là một vị “Kitô” chính trị, đến để giải phóng dân Do Thái khỏi bị người Roma đô hộ.

Đức Yêsu là ai? Phêrô đã đại diện các tông đồ trả lời: Thầy là Đấng được xức dầu, được Thiên Chúa sai đến với con người, Thầy là Con Thiên Chúa. Thế còn đối với tôi, Đức Yêsu là ai?

Số phận của Đức Yêsu và số phận của tôi

Đức Yêsu đã bị bắt, bị đánh đập hành hạ, bị giết...!

Đức Yêsu, là Đấng Kitô, là Đấng thánh của Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Thế mà Ngài bị khốn khổ như vậy sao? Ngài phải bị như vậy sao? Tại sao Ngài chấp nhận điều đó?

Ở vào địa vị của tôi, tôi sẽ làm gì? Tôi có hành xử như Ngài không?

Điều kiện để theo Đức Yêsu

“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi.” Tôi tớ không lớn hơn chủ. Tôi tớ được bằng thầy là khá lắm rồi. Tôi thật sự có muốn làm môn đệ của Đức Yêsu không? Nếu tôi muốn làm môn đệ của Đức Yêsu, tôi có sẵn sàng chấp nhận số phận của Đức Yêsu là số phận của tôi không? Tôi có sẵn sàng chấp nhận thập giá mình không? Thập giá mình, là những giới hạn của con người tôi, những điều tôi không muốn về tôi nhưng tôi vẫn vậy, tôi có sẵn sàng chấp nhận, và sẵn sàng cậy dựa vào Thiên Chúa để Ngài làm tất cả cho tôi, để Ngài là tất cả cho tôi không?

Cách thế của Đức Yêsu là tự hủy, là chấp nhận con người, chịu đựng cả sự lạm dụng tự do của con người nữa. Ngài chỉ muốn dùng tình yêu để đánh động lòng người để họ nhận biết tình yêu của Thiên Chúa, để họ trở về với Thiên Chúa, để họ nên giống Thiên Chúa, để họ là con Thiên Chúa thật sự.

Chúng ta là con Thiên Chúa, khi chúng ta suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương, con Thiên Chúa cũng phải sống yêu thương; Thiên Chúa nhân hậu và tha thứ, con Thiên Chúa cũng phải biết nhân hậu và tha thứ; Thiên Chúa muốn con người hạnh phúc, con Thiên Chúa cũng muốn con người, và cụ thể là những người sống quanh mình được hạnh phúc.

Tôi có sẵn sàng chấp nhận con người của tôi, thập giá hằng ngày của tôi để bước theo Ngài không?

------------------------

 

TN 24-B120: Con người ngày nay nói Đức Giêsu là ai?


(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

 

Những nhà đạo đức hôm nay dường như không bằng lòng với cách suy nghĩ và hành động của TN 24-B120


Những nhà đạo đức hôm nay dường như không bằng lòng với cách suy nghĩ và hành động của đa số các bạn trẻ về tôn giáo. Bởi vì cách biểu hiện hành vi thờ phượng của họ có vẻ phàm tục nhiều hơn là thánh thiêng.

Nếu hỏi họ lý do nào bạn tới Nhà Thờ và Chùa Chiền, ta sẽ nhận được nhiều câu trả lời đại loại như: “đi nhà thờ, chùa để gặp gỡ nhiều người, đi lễ để có dịp mặc áo mới, tích cực một chút là đến nhà thờ thấy tâm bình an hơn". Ngược lại có người lại bảo theo đạo là tại tâm. Đi lễ đi chùa không quan trọng mà quan yếu là sống tốt là được . . .Họ cho rằng theo đạo làm chi, phải đi lễ hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng. Và theo đạo làm chi để bị ràng buộc bởi quá nhiều lề luật...

Có một lần nói chuyện với một người bạn, tôi hỏi: “Theo bạn, tôn giáo nào tốt nhất?”.

Tôi nghĩ bạn ấy sẽ nói: “Thiên Chúa giáo” là tốt nhất. Nhưng anh bạn ấy trả lời: “Tôn giáo tốt nhất là tôn giáo đưa anh đến gần Đấng Tối Cao nhất. Là tôn giáo biến anh thành con người tốt hơn”.

Quả thực, một tôn giáo tốt là phải biến các môn sinh thành những con người biết thương cảm hơn, biết theo lẽ phải hơn, biết từ bỏ hơn, dịu dàng hơn, nhân hậu hơn, có trách nhiệm hơn, có đạo đức hơn.

Hôm nay Chúa Giêsu hỏi các môn đệ và cũng là hỏi từng người chúng ta: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự do của các môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài mời gọi chứ không ép buộc. Nhưng đã tin theo Ngài thì phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá, phải đi qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là Ngài vẫn đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường, phải sống làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con người tự do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị những cám dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.

Đây là đòi hỏi của Tin mừng nhưng lại vượt sức của con người, nếu không có ơn Chúa thì con người sẽ khó có thể vượt qua những đòi hỏi gắt gao này. Phêrô và các môn đệ đã nhìn thấy Thầy là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng: “ai bước đi theo Thầy sẽ không phải chết đời đời”. Đây là điều để các ngài dám đánh đổi cuộc đời này để đổi lấy hạnh phúc bất diệt đời sau. Các ngài đã dám khước từ vinh hoa phú qúy đời này để lãnh triều thiên vinh hiển noi quê trời.

Vâng cuộc đời này sẽ đi qua. Tiền tài, danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ làm chúng ta đoạn tuyệt tất cả. Nhưng cuộc đời không dừng lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc đời hôm nay. Vì thế, nếu bạn chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ mọi đam mê bất chính. Từ bỏ đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các tông đồ đã vượt thắng tất cả vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống. Các Ngài đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt ngày mai bên Chúa để can đảm từ khước những đam mê bất chính, những bon chen danh lợi thú để sống theo giáo huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của chúng ta hôm nay?

Ước gì chúng ta có cái nhìn đức tin như Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về một cuộc sống hạnh phúc trường sinh mai sau. Xin cho những người tin vào Chúa biết sống biểu lộ niềm tin của mình qua đời sống công bình, bác ái và yêu thương. Amen.

---------------------------

 

TN 24-B121: Vác thập giá theo Chúa


(Suy niệm của Thiên Quang, SSS)

 

Ông bà chúng ta vẫn thường nói “Hạnh phúc thì ít ỏi, đau khổ thì triền miên, đã vậy khi hạnh phúc TN 24-B121


Ông bà chúng ta vẫn thường nói “Hạnh phúc thì ít ỏi, đau khổ thì triền miên, đã vậy khi hạnh phúc tới đâu có ai biết mà đón nhận, chỉ đến khi qua rồi thì mới biết đó là hạnh phúc!"

Đối với các kitô hữu thì được nhắc nhở “Ngày nào có sự khốn khó của ngày ấy”, hay một cách rõ nét hơn khi muốn đạt tới đỉnh vinh quang thì Chúa đã nhấn mạnh “Ai muốn theo Ta, thì phải vác thập giá mình mà theo”…

Điều nhấn mạnh này thật là rõ nét khi ta nhìn lại trường hợp của Thánh Phêrô, sau khi ngài được Chúa Giêsu trao quyền lãnh đạo Giáo Hội, ngài thắc mắc về trường hợp của thánh Gioan, Chúa liền trả lời “Sự việc đó có can gì đến anh, phần anh, anh hãy theo Thầy”

Quả thật, đúng là như vậy, một vòng tròn của cuộc đời mỗi người dù được diễn ra như thế nào thì cũng phải đi qua cái ải đã sắp sẵn “sinh , bệnh, lão, tử..”, mới nhìn sơ qua là ta đã thấy bóng dáng của thập giá rồi! đâu có gì là thảnh thơi, là vinh quang đâu? Vì thế mới có chuyện “người giầu cũng khóc!”

Do đó, phong ba bão táp hoành hành con người là một chuyện đương nhiên, chẳng có gì lấy làm lạ. Biết vậy, để khi ta đối diện với mọi mặt của cuộc đời ta có thái độ gì?, vì điều quan trọng không phải là tìm cách loại bỏ chúng, mà là cách ta phản ứng, đối phó với chúng?

Chính vì vậy, ta đừng có vội mừng khi ta thoát được gánh nặng quá ghê gớm này! Hay nghĩ rằng đời ta bắt đầu lên hương khi thoát được cái nạn khổ cực ấy! Không đâu, khổ nạn của thập giá mà đời ta phải vác vẫn còn đó, và chúng mãi theo ta cho tới khi chết như Đức Giêsu ngày xưa ở trên Núi Sọ

Để cuộc đời của ta đạt được sự hoàn hảo trọn vẹn, ta đừng quên là từng bước đường qua đi trong mọi hoàn cảnh đều là những bài học quý báu giúp ta vững bước trên đường tương lai, có điều là bài học đó được ta trả giá như thế nào, càng đắt thì càng đau thì càng nhớ mãi, nhớ hoài. Nên nhớ trong cuộc đời này không có gì là không có giá của nó!
Bởi vậy, cho dù trong cuộc sống có gặp phải đau thương, khốn khó, gian nan muôn trùng… ta đừng có than vắn thở dài, hay thất vọng, để đi đến chỗ đầu hàng, bỏ cuộc, khoanh tay nhìn cuộc đời lặng lẽ trôi qua!!! Trái lại, chính những lúc ấy, ta luôn nhìn lên cao cậy nhờ vào ơn trợ lực của Chúa mà cố gắng, can đảm mạnh mẽ vác thập giá đời mình cho tới núi Sọ cùng với Đức Giêsu Đấng Cứu Độ, và cắm thập giá của mình bên cạnh thánh giá của Ngài, để rồi ta hy vọng được lãnh nhận phần phúc cao cả vô biên của Đức Giêsu như tên trộm lành, như viên sỹ quan ngoại giáo… ngày xa xưa ấy.

-----------------------------

 

TN 24-B122: Tin và vác thập giá theo Đức Kitô


(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)

Tin Mừng Mc 8: 27-35  Mầu nhiệm Thương khó là mầu nhiệm khó hiểu nhất, một mầu nhiệm tạo nên nghịch lý cho đời người. Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mạng sống mình vì Chúa, vì Tin mừng thì cứu được mạng sống.

 

Mầu nhiệm Thương khó là mầu nhiệm khó hiểu nhất, một mầu nhiệm tạo nên nghịch lý cho TN 24-B122


Mầu nhiệm Thương khó là mầu nhiệm khó hiểu nhất, một mầu nhiệm tạo nên nghịch lý cho đời người. Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mạng sống mình vì Chúa, vì Tin mừng thì cứu được mạng sống. Tin vào Đức Kitô thì dễ, nhưng bước theo Người trên đường Thương khó thì lại không dễ dàng. Cuộc đời Kitô hữu được mời gọi thông phần vào cuộc Thương khó Tử nạn của Đức Kitô để rồi được chung hưởng vinh quang Phục sinh với Người.

I. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG: Mc 8,27-35.

Bản văn Tin mừng được chọn đọc ghi lại lời tuyên xưng của Phêrô, lần loan báo đầu tiên về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và những chỉ dụ về điều kiện phải có để theo Người. Đây là đoạn văn chiếm một vị trí quan trọng trong Tin mừng theo Marcô, được dùng làm bản lề cho hai phần của toàn bộ tác phẩm: Phần I: 1,14-15 đến 8,26, trình bày dưới nhiều hình thức sự kiện bí mật về Đấng Mêsia ; Phần II: từ 8,27 đến 15 39, trình bày mạc khải cũng như giải thích về bí mật ấy.

1. Lời tuyên tín của Phêrô (8,27): "Thầy là Đấng Kitô": Việc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ về sự hiểu biết Người của quần chúng không phải vì Người không biết họ nghĩ gì về Người, nhưng đây là đường lối, cách thức giáo dục của Chúa Giêsu để dẫn dắt các ông đến mạc khải: Người là Đấng Mêsia, Đấng Kitô. Người hỏi trực tiếp các môn đệ: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?". Phêrô thay mặt các bạn trả lời, một câu trả lời vượt xa sự hiểu biết của dân chúng. Điều dân chúng hiểu biết về Chúa Giêsu không phải là sai, nhưng chưa đầy đủ, họ chỉ nhận ra được tính cách siêu việt nơi con người Giêsu Nadarét, chứ chưa thể biết rõ Người là Đấng Kitô. Lời tuyên tín của Phêrô bộc lộ niềm tin căn bản của các ông, của Giáo hội sơ khai, dẫu rằng khi tuyên xưng điều này chính bản thân Phêrô cũng chưa hiểu hết ý nghĩa của danh xưng Kitô, cũng như con đường Thương khó Chúa Giêsu thực hiện. Vì thế, ngay sau đó ông đã ngăn cản Chúa khi nghe Người loan báo về cuộc khổ nạn.

2. Lời loan báo về cuộc khổ nạn: Đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn của Người. Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu, Thầy mình là Đấng Kitô, nhưng ông chưa hiểu rõ, hiểu hết ý nghĩa của danh xưng Kitô. Ngược với niềm trông đợi của loài người và của dân Do Thái, Đấng Kitô không chỉ là một vị vua quyền thế, nhưng cũng là một con người khiêm nhu tự hạ và đau khổ. Người đến từ Thiên Chúa nhưng lại hòa mình vào trong lòng nhân loại mang lấy những khía cạnh đen tối nhất của kiếp nhân sinh: bị bỏ rơi, đau khổ, chịu nhục mạ, bất công… và kết thúc là cái chết. Lời tuyên xưng của Phêrô và của mọi Kitô hữu sau này không phải là sai, đó là công thức hoàn toàn chính xác, nhưng tự thân người tuyên xưng chưa xác tín rõ ràng tước vị Kitô cũng bao hàm đau khổ, nhục nhã và sự chết. Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn để bổ túc cái nhìn, niềm tin của các môn đệ về Người. Đó là đường lối thánh ý của Chúa Cha muốn như thế, và Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục. Do đó, khi Phêrô ngăn cản Chúa, thực chất là bị ma quỷ xúi giục để lôi kéo Người không thi hành thánh ý Chúa Cha, như chúng đã rắp tâm làm điều này khi cám dỗ Người vào lúc Người bắt đầu cuộc đời công khai. Chúa Giêsu khiển trách Phêrô đã bị Satan lôi kéo cám dỗ: "Satan hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa mà chỉ biết việc loài người".

3. Những chỉ dụ về các điều kiện theo Chúa Giêsu: Lời mời gọi từ bỏ, vác thập giá và thí mạng sống là một lời mời gọi đầy nghịch lý, thậm chí là vô lý nếu chỉ xét trên bình diện con người. Nhưng trên bình diện đức tin và trong mầu nhiệm vượt qua lại là điều hoàn toàn xác đáng. Trước hết phải từ bỏ mình, nghĩa là tự ghét mình (tc. Lc 14,26 ; Ga 12,25). Từ bỏ mình cách cụ thể là liều mất mạng sống của mình đi vì Chúa, vì Tin mừng. Điều kiện thứ hai là vác thập giá mình theo Chúa, nghĩa đen là tự mình vác dụng cụ khổ hình dành cho mình đến pháp trường, con đường đến pháp trường như thế bao gồm tất cả mọi đau khổ, nhục nhã, bất công và sự loại trừ ra khỏi cộng đồng với án tử. Như thế, Chúa Giêsu mời gọi theo Người tiến về nơi xử tử. Trong ý nghĩa ấy, đó là việc thông phần, chia sẻ, tham dự vào cuộc Thương khó của Người. Những ai dám chết theo Người như thế sẽ là người chiếm hữu được sự sống vĩnh cửu: Ai liều mất mạng sống vì Thầy và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống của mình.

II. CHIÊM NGẮM CHÚA GIÊSU:

Tin mừng hôm nay mạc khải cho chúng ta chân dung Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Đấng được Chúa Cha sai đến cứu chuộc nhân loại bằng con đường khổ giá. Vì tình yêu, Người đã dám hiến thân chết cho nhân loại được sống. Tin vào Người là Đấng Kitô thì niềm tin ấy phải được cụ thể hóa thành hành động can đảm dấn thân bước theo Người trên hành trình Thương khó. Đời sống Kitô hữu hôm nay là họa ảnh của Chúa Giêsu, Đấng Kitô chịu đóng đinh cho con người, cho thế giới nhận biết Người. Càng dấn thân vác thập giá theo Người, can đảm đón nhận mọi thử thách, khổ đau với đức tin mạnh mẽ thì cuộc đời Kitô hữu càng phác họa rõ nét chân dung Đấng Kitô mình tôn thờ.

III. GỢI Ý BÀI GIẢNG:

1. Tin là lời mời gọi khám phá Chúa Giêsu:

Dân chúng với cái nhìn đơn sơ, hạn hẹp của mình chỉ có thể nhận ra tích cách siêu việt của Chúa Giêsu qua những lời giảng dạy như đấng có uy quyền, qua việc chữa lành và xua trừ ma quỷ của Người như Gioan Tẩy giả, như Êlia hay một Tiên tri nào đó. Họ không thể đi xa hơn nhận thức này để chân nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Đấng Cứu Độ mà họ đang chờ mong. Các môn đệ, đại diện là Phêrô có sự hiểu biết cao hơn, xác tín Chúa Giêsu là Đấng Kitô, thế nhưng sự hiểu biết của các ông cũng vẫn còn nông cạn, chưa đầy đủ. Vì thế, dân chúng theo Chúa Giêsu cũng chỉ muốn nhắm đến những lợi ích cá nhân của họ. Còn các môn đệ cũng vì chưa hiểu rõ hết tước hiệu Kitô các ông tuyên tín, nên cũng không thể hiểu nổi mạc khải về cuộc Khổ nạn, cho nên các ông sợ hãi trước lời loan báo của Chúa, để rồi ngăn cản Chúa. Tin vào Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở những nhận định, hiểu biết chung chung, thuộc lòng một vài công thức định tín, nhưng đòi hỏi phải nỗ lực tìm hiểu khám phá về Người. Càng hiểu rõ về Người, niềm tin càng xác tín, càng xác tín càng mạnh mẽ theo Người.

2. Tin là lời mời gọi dấn thân vác thập giá theo Chúa Giêsu:

Đỉnh cao của niền tim là việc đáp trả lời mời gọi từ bỏ mình vác thập giá theo Chúa Giêsu. Tin không chỉ là nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô trong tâm trí, hay là một lời tuyên xưng ngoài môi miệng. Đức tin đòi hỏi phải có việc làm. Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Tin cũng không chỉ dừng lại ở việc noi gương Người sống tình bác ái huynh đệ. Nhưng đức tin đòi hỏi một điều quyết liệt, mạnh mẽ hơn. Đó là bước đi theo Người, sống như Người đã sống, phải trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Chúa đã đi vào hành trình Thương khó, đời Kitô hữu cũng phải chấp nhận thập giá, chấp nhận đi vào con đường ấy. Để đi đến cùng sứ mạng của mình, Chúa Giêsu đã phải từ bỏ tất cả. Người từ bỏ tất cả để đạt được đến Đấng là tất cả, tức là Thiên Chúa Cha. Đó là con đường tất yếu cho những ai muốn sống và đạt đến hạnh phúc đích thực.

IV. LỜI CẦU CHUNG:

Mở đầu: Anh chị em thân mến, vì yêu thương muốn cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu Kitô đã vâng lời Chúa Cha chấp nhận con đường khổ nạn. Trong niềm tin tưởng vào tình thương của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.

1. "Thánh Phêrô đã thay mặt cho các Tông đồ tuyên xưng vào Chúa Giêsu: 'Thầy là Đấng Kitô". Chúng ta cùng cầu nguyện cho gia sản đức tin các Tông đồ để lại trong Giáo hội luôn được gìn giữ tinh tuyền và phát triển mạnh mẽ qua đời sống loan báo Tin mừng của toàn thể Giáo hội.

2. "Người ta bảo Thầy là ai?". Chúng ta cùng cầu nguyện cho những anh chị em đang thành tâm thiện chí đi tìm Chúa, những anh chị em dự tòng và tất cả những ai đang khao khát tìm kiếm sống một cuộc đời chính trực được thỏa ước nguyện và nhất là được gặp gỡ chính Chúa là nguồn mạch sự sống và chân lý.

3. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta". Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết sống và thể hiện niềm tin của mình bằng một cuộc sống dấn thân vì hạnh phúc tha nhân, bằng lòng can đảm đón nhận hy sinh, thử thách và đau khổ trong cuộc sống với thái độ tin yêu, hy vọng và phó thác cho Chúa.

Lời kết: Lạy Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúa đã muốn Chúa Giêsu cứu độ chúng con bằng thập giá và qua Người mời gọi chúng con lãnh nhận ơn cứu độ cũng bằng con đường thập giá. Xin ban Thánh Thần giúp chúng con đủ sức vác thập giá đời mình theo Chúa Giêsu Kitô là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

---------------------------

 

TN 24-B123: Tin theo Đức Kitô


(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

A. DẪN NHẬP

 

Đức Giêsu là ai? Đây là câu hỏi được đặt ra nơi người Do thái thời Chúa Giêsu, và ngày nay người TN 24-B123


Đức Giêsu là ai? Đây là câu hỏi được đặt ra nơi người Do thái thời Chúa Giêsu, và ngày nay người ta vẫn tiếp tục lặp lại câu hỏi ấy. Thậm chí có người phủ nhận con người lịch sử của Đức Giêsu và coi đó chỉ là một con người huyền thoại.

Ngày xưa, người Do thái coi Đức Giêsu chỉ là một vị tiên tri có quyền phép làm được những dấu lạ hơn người khác như ông Gioan Tẩy giả, ông Elia hay một tiên tri nào đó. Riêng ông Phêrô biết con người thật của Đức Giêsu, ông đã tuyên xưng Ngài là "Đấng Kitô". Tuy thế, đối với ông, Đấng Kitô có tính cách trần tục, Đấng Kitô vinh hiển, Đấng đến để giải phóng dân tộc Do thái và làm cho nước này trở nên hùng cường, bá chủ địa cầu.

Nhưng Đức Giêsu tiết lộ cho các môn đệ biết Ngài là Đấng Kitô, không phải là Đấng Kitô vinh hiển theo kiểu thế gian, mang mầu sắc chính trị, mà là Đấng Kitô bị đau khổ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại. Tiếp đó Đức Giêsu tuyên bố lập trường của Ngài cho các môn đệ và dân chúng: nếu ai muốn theo làm môn đệ Ngài thì phải thi hành hai điều kiện, đó là phải từ bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày.

Vậy chúng ta phải theo Đấng Kitô nào? Đấng Kitô vinh hiển hay Đấng Kitô bị đau khổ? Nếu muốn làm môn đệ của Chúa, chúng ta phải chọn Đấng Kitô bị đau khổ và đi theo đường lối của Ngài, đó là đường khổ giá, nhưng đường đó sẽ dẫn chúng ta đến ơn cứu độ và được thừa hưởng Nước Trời vinh quang.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Is 50,5-9a.

Đây là đoạn văn được gọi là "Bài ca thứ ba" của tiên tri Isaia nói về Người Tôi Tớ đau khổ. Đoạn văn này được viết phỏng theo kiểu những lời tâm sự của Giêrêmia.

Người Tôi Trung tự nhận là môn đệ của Giavê, có sứ mạng đem những lời Thiên Chúa truyền cho ông mà loan báo và dạy dỗ. Sứ mạng ấy khiến người ta ghen ghét, ngược đãi dưới nhiều hình thức, nhưng một nguồn sức mạnh mãnh liệt nâng đỡ ông thi hành nhiệm vụ. Ông đã thắng vượt sự buồn lo đó bằng một lòng tín thác không lay chuyển vì ông tin tưởng rằng Thiên Chúa không ngừng đến cứu giúp ông.

Người Tôi Tớ này được hiểu là Đức Kitô, một người Tôi Tớ tuyệt hảo nhất. Trong cuộc khổ nạn, Đức Kitô đã đặt niềm tín thác nơi Chúa Cha. Từ đó, Ngài đã được sức mạnh phi thường trong tâm hồn. Thật là mẫu gương sáng ngời cho chúng ta, các môn đệ của Ngài.

+ Bài đọc 2: Gc 2, 14-18.

Trong bài đọc 2, thánh Giacôbê nói về những đòi hỏi của đức tin trong hành động. Ngài khẳng định: “Đức tin mà không có hành động thì là đức tin chết". Cả đức tin lẫn hành động đều cần thiết và luôn phải đi đôi với nhau, không thể tách rời .

Ngài còn đưa ra một mẫu gương sống bác ái huynh đệ để định nghĩa và dẫn giải về đức tin sống động. Điều đó muốn nói rằng: giá trị của đức tin chúng ta tùy thuộc ở mức độ bác ái đối với mọi người anh em của chúng ta.

+ Bài Tin Mừng: Mc 8,27-35.

Bài Tin Mừng hôm nay được chia thành hai phần:

1. Đức Giêsu muốn các môn đệ phản ảnh cho Ngài biết dư luận của dân chúng về Ngài là ai? Các môn đệ cho biết: theo dư luận quần chúng thì Ngài là một tiên tri, một đại tiên tri có quyền làm được những dấu lạ. Phần Phêrô thì lên tiếng nói thay cho Nhóm 12: “Thầy là Đấng Kitô".

2. Sau đó, Đức Giêsu tiết lộ cho các ông biết về cuộc khổ nạn của Ngài: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại". Ông Phêrô, tuy công nhận Ngài là Đấng Messia, nhưng niềm tin này mới là tạm thời: nó không chấp nhận Đấng Messia phải chịu đóng đinh. Các ông không thể hiểu nổi.

Trước sự bỡ ngỡ của Nhóm 12, Đức Giêsu đã khẳng định với tính cách quyết liệt: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình".

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Theo Đức Kitô bị đóng đinh

I. ĐỨC KITÔ LÀ AI?

Đức Giêsu là ai? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ta ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi đã được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.

Trong đời mỗi người, hữu thần hay vô thần, sẽ có lần trực diện với câu hỏi: Giêsu Kitô, ông là ai? Trên bàn viết của Lênin, thủy tổ cộng sản, được lưu giữ như một bảo tàng nhỏ từ khi ông nằm xuống ngày 21/01/1924, người ta thấy bên cạnh cặp kiếng, có một cuốn sách … nói về Chúa Giêsu.

1. Bối cảnh việc tuyên xưng.

Thánh Marcô kể: bấy giờ Đức Giêsu đang đi với các môn đệ ở vùng Cêsarêa của Philip, tức miền cực bắc nước Do thái, nơi bắt nguồn của dòng sông Giorđan sẽ chảy xuống phía nam. Người ta gọi nơi này là Cêsarêa của Philip, vì chính Hêrôđê Philip đã xây ở đây một thành mang tên Cêsarê, tức là tên của hoàng đế La mã. Do đó, đặt chân đến chốn này, ai cũng phải nghĩ tới hoàng đế và uy quyền thống trị của ông. Và mặc nhiên người ta cũng phải nghĩ đến thân phận của mình.

Ngoài ra, Chúa Giêsu sắp kết thúc việc rao giảng ở Galilê, nay mai sẽ lên đường đi Giêrusalem, chặng đường cuối cùng kết thúc ở đồi Calvê, trong khúc quanh này, đã đến lúc Chúa phải sửa soạn giai đoạn chót cho các Tông đồ.

Có lẽ vì vậy Chúa Giêsu quay sang hỏi các môn đệ xem ý kiến của quần chúng và của các ông về Ngài như thế nào. Ngài muốn biết ý kiến của các ông, sau đó Ngài mới tiết lộ cho các ông về con người thật của Ngài.

2. Theo dư luận quần chúng.

Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai"? Các ông đáp liền: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một tiên tri nào đó"(Mc 8,28),

Ngày xưa, nhiều người Do thái cho rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Elia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ thì tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống an bình của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết các tiên tri: họ lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan Tẩy giả… Đức Giêsu đối với họ thì cũng chỉ có thế thôi.

3. Theo ý kiến các môn đệ.

Chúa Giêsu lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai"? Ông Phêrô tức khắc trả lời: “Thầy là Đấng Kitô" (Mc 8,29).

Các ông chưa kịp trả lời thì ông Phêrô đã thay cho Nhóm 12 mà tuyên xưng Đức Giêsu với danh hiệu là Kitô hay Messia. Câu trả lời của ông Phêrô vượt xa những câu trả lời thông thường của quần chúng. Họ là một thiểu số rất nhỏ. Không ai nghĩ ra một điều như thế, chỉ trừ Nhóm này.

Tước vị "Christos" "Messiah trong tiếng Hêbrơ có một ý nghĩa rất mạnh như một biến cố bùng nổ ở Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đó là Đấng được mọi ngươi mong đợi để đến " hoàn tất lịch sử". Đấng các tiên tri đã báo trước, Đấng sẽ cho đời sống con người có ý nghĩa.

Tuy tuyên xưng Đức Giêsu là Kitô, có lẽ Phêrô vẫn quan niệm như người Do thái về một Đức Kitô vinh quang. Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Maisen, như Đavít. Như Maisen, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời Salômôn. Cho nên, Đức Kitô mới được tôn vinh là Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thưở, Hoàng tử hoà bình, danh Người siêu việt, sự việc Ngài đã lừng vang trên toàn cõi đất. Người là Đấng Thánh của Israel và Nước Người tồn tại đến vô cùng tận (Tv 11 va 12).

4. Theo sự tiết lộ của Chúa Giêsu.

Đức Giêsu đồng ý với lời tuyên xưng của ông Phêrô và cấm ngặt các ông đừng nói với ai về Người. Rồi Người bắt đầu tiết lộ cho các ông biết: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các luật sĩ loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại"(Mc 8,31).

Đó là sứ mạng cốt yếu của Đức Kitô, hy sinh hiến mạng sống mình chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập Nước Trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào Nước Trời muôn thưở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào"(Ga 3,16-18)
II. TIN THEO ĐỨC KITÔ.

1. Theo Đức Kitô nào đây?

Sau đó, Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và nói: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Ta và vì Phúc âm, thì sẽ cứu được mạng sống ấy"(Mc 8,34-35).

Chúa Giêsu bảo ai muốn theo Ngài vì Ngài là Đấng Kitô, nhưng phải theo Đấng Kitô nào? Theo Đấng Kitô vinh hiển như người Do thái thường quan niệm hay Đáng Kitô đau khổ như Người mới tiết lộ?

Trở lại bài đọc 1, ta thấy tiên tri Isaia có một bài ca nói về Người Tôi Tớ đau khổ nào đó, mà người Tôi Tớ đau khổ ấy chính là Đức Kitô. Và mọi Kitô hữu cũng một phần nào là ngươi tôi tớ ấy.

Chúng ta chưa hiểu vì sao lại phải như vậy! Nhưng rõ ràng đó là ý muốn của Thiên Chúa và là kế hoạch cứu thế của Người. Người muốn cứu độ bằng đường Thánh giá: ai muốn được ơn cứu độ của Ngài, phải bằng lòng đi vào con đường ấy. Nhiệm vụ của chúng ta hằng ngày là tự hỏi Thiên Chúa muốn cho tôi ngày hôm nay, trong giờ phút này vác thập giá nào đây để tôi được cứu độ và góp phần vào việc cứu thế.

Truyện: Tôn giáo của ông Lavallière Lepaux.

Lavallière Lepaux là một nhân viên Thượng hội đồng quốc gia Pháp, ghét đạo Công giáo. Ông lập một đạo mới gồm những triết thuyết và có vẻ khoa học. Ông cho cán bộ chữ nghĩa đi tuyên truyền khắp nước Pháp, nhưng rất ít người theo.

Một hôm ông nói với một ông bạn tên là Barras:

- Tôi không hiểu tại sao, tôn giáo của tôi là một công trình triết lý và khoa học, cán bộ của tôi là người có học, có huấn luyện, mà không được mấy người theo. Còn ông Giêsu dùng mấy người chài lưới thất học, mà cả thế giới theo ông?

Barras trả lời:

- Thưa đồng chí, nếu đồng chí muốn thiên hạ theo đạo mình, thì đồng chí để cho người ta đóng đinh đồng chí ngày thứ sáu, rồi sáng ngày Chúa nhật, đồng chí cố sống lại đi.

2. Những điều kiện để theo Chúa.

Muốn theo Chúa thì phải thi hành hai điều kiện là phải từ bỏ mình và vác thập giá mình. Hai điều kiện này xem ra ít ỏi như khó ăn lắm.

a) Phải từ bỏ chính mình.

Từ bỏ chính mình để nhận lấy Thập giá mà bước theo Chúa. Từ bỏ để khỏi bận tâm tính toán, so sánh hơn thiệt trong việc theo Chúa. Không từ bỏ, con người vướng bận nhiều thứ là cái tôi kềnh càng, tự ái, ích kỷ; nào là vật chất, đẳng cấp, vị thế xã hội. Muốn thong dong trong việc đi theo Chúa phải từ bỏ những thứ phụ thuộc đó, đặt niềm tin vào Chúa mới mong theo trọn con đường Chúa mời gọi.

Ngoài ra, việc từ bỏ chính mình, đứng về phương diện triết học ngày nay, thì là một sự "tha hoá, vong thân", mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt: tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hoá nên giống Đức Giêsu thì thật tuyệt vời.

Lý tưởng mà thánh Phaolô muốn nhắm tới là được trở nên "đồng hình đồng dạng" với Đức Giêsu. Hơn nữa đây thực sự không phải là "tha hoá" mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng con người "giống hình ảnh" Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị "tha hoá". Nay cố gắng trở nên giống Đức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu (Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 653).

b) Vác thập giá mình.

Thập giá, theo Tin mừng, chính là chấp nhận và làm ngược lại mọi sở thích và khuynh hướng tự nhiên của con người. Thập giá là tự chủ, tự chế, là vượt lên những đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Thập giá là nỗ lực hoàn thiện, gột bỏ con người thú tính, để mặc lấy nhân phẩm, nhân cách của thụ tạo duy nhất được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có khả năng đối thoại với Thiên Chúa.

Như vậy, kiểu nói "vác thập giá mình" có ý nói con người phải nhận những khổ cực của mình, cũng như Đức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài. Ngoài ra, theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế, "vác thập giá mình" cũng đồng nghĩa với mình đã bị án tử rồi.

c) Chấp nhận đau khổ trong đời.

Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Phải chăng đời là bể khổ như Phật giáo chủ trương? Vấn đề đau khổ này cũng đã được đề cập đến trong sách Gióp, nhưng chưa tìm được câu giải đáp thoả đáng, phải chờ Đức Giêsu đến để giải thích và cho nó một ý nghĩa.

Chúng ta có thể ví những đau khổ, phiền muộn như cơn bão táp, lụt lội xẩy đến. Chúng là một phần cuộc sống mà chúng ta không thể nào tránh né được. Tuy nhiên, đối với Chúa, điều quan trọng trong cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đau khổ xẩy đến trên chúng ta, mà chính là thái độ chúng ta đáp ứng chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Có lẽ chúng ta không thể nào tránh né được đau khổ phiền muộn, nhưng chúng ta vẫn có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay vì huỷ diệt, nguồn mang sức sống thay vì chết chóc; nhờ đó, chúng trở nên tốt đẹp hơn thay vì chua chát hơn.

Truyện: Nữ thủ tướng Golda Meir

Khi còn là một thiếu nữ, Golda Meir rất thất vọng về nhan sắc của mình. Cô viết: "Mãi về sau, tôi mới nhận ra rằng không được đẹp lại là một cái may mắn ẩn chìm, bởi vì điều ấy buộc tôi phải khai triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng tôi hiểu được rằng phụ nữ không thể ỷ lại vào sắc đẹp của mình, mà phải làm việc chăm chỉ để nhờ đó… mang lại ích lợi cho mình hơn.

Nói cách khác, Golda Meir đã biết chấp nhận thập giá của mình. Cô đã không kêu gào than khóc, không bẳn gắt, căm hờn. Cô biết cam nhận vác nó lên với lòng can đảm, để rồi cuối cùng cô đã trở nên nữ thủ tướng đầu tiên của Israel (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật B, tr 327).

3. Đường đưa tới vinh quang

Chúng ta thấy dòng Mến Thánh giá có một khẩu hiệu để làm câu tâm niệm hằng ngày rất có ý nghĩa: “Per crucem ad lucem": qua thập giá tới vinh quang. Đúng vậy, Chúa Kitô phải trải qua ngày thứ sáu tuần thánh mới tiến tới ngày Chúa nhật Phục sinh được. Thực sự, đạo của chúng ta không phải là đạo tử nạn, nhưng là đạo Phục sinh. Chết chỉ là điều kiện để tiến tới sự sống lại.

Thập giá không còn là cái gì ghê rợn mà là vinh quang. Chúng ta thường hát: “Vinh quang của ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ của ta, Phục sinh của ta. Nhờ Chúa ta được cứu độ, nhờ Chúa ta được giải thoát".

Ngày nay, có quá nhiều tiện nghi, có nhiều phương cách thoả mãn các nhu cầu thể chất của con người, nên ngươi ta "sợ" thập giá, người ta "ngại" hy sinh, người ta "tránh" từ bỏ… Nhưng không thể khác được, nếu con người muốn vươn lên, muốn thành đạt, muốn có một cuộc sống có ý nghĩa với những hoa trái thơm tho cho cuộc đời thì phải chấp nhận thập giá, chấp nhận gian nan thử thách vì như người xưa đã nói: “Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử": không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con?

Hiểu được ý nghĩa cao quí của thập giá, chúng ta phải hãnh diện về cây thập giá. Hãy nói một cách tự hào như thánh Phaolô nói với tín hữu Galata: “Vinh dự của tôi là Thập giá Đức Kitô" (Gl 6,14). Hãy mang lấy trọn vẹn thập giá mà Chúa trao cho hằng ngày, không thêm, không bớt. Chính thập giá là chiếc cầu dẫn ta vào Thiên đàng.

Truyện: Cưa bớt thập giá.

Anh kia được Chúa ban cho một cây thập giá và được căn dặn rằng khi nào về thiên đàng nhất thiết phải vác theo.

Suốt ngày anh ca cẩm, phân bua vì thập giá của mình quá dài và nặng hơn thập giá của những người khác.

Thế rồi, sẵn cưa, anh cưa bớt đi mười phân. Và anh cảm thấy ưng ý với thập giá mới.

Ngày về thiên đàng đã đến, anh cùng mọi người vác thập giá ra đi. Đường vào thiên đàng buộc phải vượt qua một con suối nước chảy xiết. Những người khác có sáng kiến đặt thập giá của mình xuống làm cầu để có thể bước qua bên kia. Anh này cũng bắt chước đặt thập giá xuống để làm cầu. Tiếc rằng thập giá của anh lại thiếu mất mươi phân khiến vĩnh viễn anh không thể vào thiên đàng được.

Thi sĩ Robert Browning Hamilton tóm tắt tinh thần bài Tin mừng hôm nay bằng những lời sau:

"Tôi bước đi một dặm đường với Nữ thần Lạc Thú,
Nàng vuốt ve tôi đủ điều,
nhưng cuối cùng chả làm tôi khôn ngoan tí nào qua những điều nàng nói.

"Tôi lại bước đi một dặm với Nữ thần Đau Khổ,
Nàng chả nói với tôi lời nào,
Nhưng tôi lại học được biết bao điều
Khi nàng bước đi bên cạnh tôi…".

-----------------------------

 

TN 24-B124: Suy niệm của Lm. Anfonso


Tin Mừng Mc 8: 27-35  Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đưa các môn đệ tới vùng đất của dân ngoại, tới làng nhỏ miền Cêsarea Philiphê để tránh đám đông dân chúng. Người muốn biết xem dân chúng hiểu thế nào về Người...

Suy niệm

 

Sống trong xã hội, chắc hẳn chúng ta sẽ ít nhiều nghe những lời từ công chúng bàn tán về kẻ TN 24-B124


Sống trong xã hội, chắc hẳn chúng ta sẽ ít nhiều nghe những lời từ công chúng bàn tán về kẻ này người nọ trong khu xóm, tại giáo xứ, nơi công sở… Và trước những lời đồn đại ấy, liệu chúng ta có nhận định riêng cho mình không, hay cũng dễ bị tác động từ dư luận.

Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đưa các môn đệ tới vùng đất của dân ngoại, tới làng nhỏ miền Cêsarea Philiphê để tránh đám đông dân chúng. Người muốn biết xem dân chúng hiểu thế nào về Người. Theo các môn đệ thuật lại, người dân có cái nhìn còn mơ hồ về Chúa Giêsu: “Họ nói Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ bảo là Êlia, có kẻ nói là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó…” Và trong tình thầy trò, Chúa Giêsu cũng muốn chất vấn các môn đệ cách chân thành về lập trường riêng, về cảm nhận nơi cõi lòng của họ: “Thế còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

Simon Phêrô đã đại diện anh em tuyên xưng đức tin của mình: “Thầy là Đấng Kitô”. Qua lời tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô, Phêrô cùng với anh em tin nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa Cha đã hứa, là Đấng mà các tiên tri đã loan báo và toàn dân mong đợi. Tuy nhiên, tuyên xưng đức tin mà thôi thì chưa đủ, Chúa Giêsu còn cần các ông thể hiện đức tin của mình bằng hành động, vì Người không muốn các môn đệ hiểu sai sứ mệnh của Người.

Y như rằng, mặc dầu tin, các môn đệ vẫn còn hiểu nhầm sứ mệnh của Chúa Giêsu như dân chúng hiểu và mong đợi Đấng Cứu Thế sẽ đem tới cho dân Do Thái sự tự do, một nền chính trị mới khỏi cách đô hộ La mã. Cho nên lời tiên tri Isaia trong bài đọc I loan báo: “Tôi đưa lưng cho kẻ đánh tôi và đưa má cho kẻ giật râu” không dễ được các môn đệ cũng như người Do Thái đón nhận. Vì vậy, Chúa Giêsu cần thanh lọc suy nghĩ của các môn đệ để họ đón nhận sứ mạng của Thầy mình trong tư cách người Tôi Tớ khiêm hạ. Nhờ đó, các môn đệ sẵn sàng chấp nhận việc Đấng Cứu Thế hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, bị bắt và chịu khổ nạn thập giá.

Phản ứng của Phêrô kéo riêng Chúa Giêsu ra để can ngăn Thầy đừng theo con đường ấy lại nói lên rằng Phêrô muốn Chúa làm theo ý ông hơn là để các môn đệ sống theo ý Chúa. Vì thế mà Chúa đã nghiêm khắc trách mắng Phêrô: “Satan! Lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người”. Việc ngăn cản Chúa Giêsu đi con đường Chúa Cha đã chọn là suy nghĩ của người đời, toan tính của ma quỷ. Chúa Giêsu muốn Phêrô phải trở về với đúng vị trí của mình. Môn đệ là người vâng lời Thầy, bước đi theo sau Thầy, đừng “cầm đèn chạy trước ôtô”. Đó cũng là một thách đố cho người môn đệ: “Ai muốn theo Ta, phải bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Việc tin theo Chúa phải là một quyết định hoàn toàn tự do của mỗi người. Và một khi đã tin theo Chúa thì cũng phải chấp nhận đi kèm điều kiện vác thập giá mình mà bước theo Chúa.

Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đặt lại câu hỏi này với mỗi người chúng ta: “Đối với tôi, Chúa Giêsu là ai?” Ngài có phải là vị Thẩm phán khắt khe luôn xét nét xem tôi sai lỗi chỗ nào để phạt không? Ngài có phải là một ông tiên với chiếc bị sẵn sàng cho đủ thứ tôi cần khi tôi chạy tới cầu xin? Hay Ngài đơn giản chỉ là một người hành khất xin tôi bố thí cho Ngài chút thời giờ nhãn rỗi của tôi, để khi nào tôi rảnh thì tôi tới dâng Thánh lễ.

Chúng ta tin Chúa là Đấng Cứu chuộc chúng ta, nhưng niềm tin ấy chỉ trọn vẹn khi chúng ta dám bỏ mình, và vác thập giá mình mà bước theo Chúa mỗi ngày. Vâng, chính những đau khổ trong đời sẽ tôi luyện con người chúng ta thành người khiêm nhường, cảm thông hơn và giúp chúng ta có điều kiện tập nên thánh nhờ việc vác thập giá theo Chúa mỗi ngày.

Lạy Chúa Giêsu, không có con đường dễ giải nào để được ơn cứu độ ngoài con đường của thập giá. Xin Chúa gia tăng đức tin cho chúng con để chúng con cũng tập sống theo ý Chúa. Xin Chúa cũng nâng đỡ chúng con, giúp chúng con biết nhận ra rằng qua khổ đau của bước chân người môn đệ, chúng con lại được Ngài an ủi, bởi vào những đêm khuya tăm tối, chúng con sẽ dễ thấy được những ánh sao sáng trên bầu trời. Amen.

--------------------------

 

TN 24-B125: Thầy là Đấng Kitô


(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

 

Thầy là Đấng Kitô”, là lời tuyên xưng của thánh Phêrô khi Chúa Giêsu hỏi: “Chúng con nghĩ TN 24-B125


“Thầy là Đấng Kitô”, là lời tuyên xưng của thánh Phêrô khi Chúa Giêsu hỏi: “Chúng con nghĩ Thầy là ai?”. Chúng ta có biết lời tuyên xưng của Phêrô quan trọng như thế nào không?

Chúng ta đã nghe lời tuyên xưng này quá nhiều lần đến nỗi dường như nó là lời nói của một ai đó. Nhưng thật ra, đó chính là lời mà chúng ta phải tuyên xưng hằng ngày. Một khi tuyên xưng như thế, chúng ta cảm thấy thế nào? Ngài là ai đối với chúng ta?

Hôm nay, Người cũng hỏi chúng ta: “Chúng con nghĩ Thầy là ai?”

“Thầy là Đấng Kitô”.

Vậy, Đấng Kitô là ai?

Từ Kitô, nghĩa là Đấng được xức dầu. Xức dầu nghĩa là gì?

Đây là một nghi thức trong Cựu Ước để phong vương cho các vua Israen. Tiên tri Samuen đã xức dầu tấn phong cho vua Saun, và người được xức dầu là người được Chúa chọn được tràn đầy Thần khí Chúa để thi hành một sứ vụ Chúa trao. Đavít cũng được tiên tri Samuen xức dầu để thay thế vua Saun đã không tuân lệnh Chúa và bị Chúa bỏ rơi.

Thời gian sau các vua, nghi thức này cũng được áp dụng cho các vị thượng tế. Những người được Chúa xức dầu, vua hay thượng tế, đều là những người được tuyển chọn để thi hành những gì Chúa truyền để hướng dẫn dân Chúa đi đúng đường lối Chúa.

Sau thời lưu đày, nhất là dưới ách nô lệ của Rôma, dân Do Thái khao khát được tự do. Đã hiểu từ Kitô như một Đấng giải phóng dân tộc, một vị vua trong dòng tộc Đavít, sẽ biến nước Israen thành một cường quốc và bá chủ hoàn cầu.

Chúa Giêsu đến trong một hoàn cảnh khá phức tạp, khi dân Do Thái đang mong chờ một vị cứu tinh trần thế. Khi Ngài hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người trong hoang địa, dân chúng tưởng như đã gặp được vị cứu tinh họ mong muốn và muốn tôn Ngài làm vua.

Theo thánh Gioan, dư luận của đa số dân Do Thái đã xem Ngài là Đấng Kitô (xem Ga 3,41), là Con Vua Đavít.

Chúa Giêsu tỏ ra rất dè dặt khi dân chúng hồ hỡi loan hô Ngài khi trông thấy những phép lạ Ngài làm. Nhiều lần Ngài đã ra lệnh không cho ai biết về phép lạ, vì Ngài không muốn cho dân chúng hiểu sai về Ngài, xem Ngài như một vị cứu tinh trần thế.

Ngài tìm hết mọi cách để thanh tẩy quan niệm sai lầm ấy. Ngài chỉ bày tỏ cho một vài người xét ra là cần thiết, như người đàn bà Samari. Bà ấy nói với Ngài: “Thưa Ngài, tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Đức Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”.

Chỉ một lần duy nhất, Ngài để họ tung hô Ngài là Con Vua Đavít khi dân chúng rước Ngài vào Giêrusalem.

Hôm nay, chúng ta nghe nhắc lại lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, nhưng sau đó, Ngài cho các môn đệ thấy rằng Đức Kitô không là một vị anh hùng dân tộc, một vị vua oai hùng mà là một người sẽ bị hành hạ, bị giết chết. Thánh Maccô lại thêm một câu chú thích: “Ngài nói rõ điều đó không úp mở”.

Phêrô trực tính, không thể chấp nhận những lời Thầy nói, ông phản đối riêng với Thầy. Ông đã từng chứng kiến những phép lạ Thầy làm, ông đã từng nghe những lời ca tụng của dân chúng, và chính ông đã nghe từ miệng Thầy những lời khẳng định rõ ràng:

“Ta là ánh sáng thế gian”.
Ta là bánh hằng sống từ trời xuống”.
Ta là đường, là sự thật và là sự sống”…

Vậy làm sao Thầy có thể thất bại như thế được! Làm sao người ta có thể giết Thầy?

Chúa Giêsu phản ứng một cách hết sức bất ngờ và mạnh mẽ: “Satan! Hãy lui ra! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người”.

Con đường của Ngài là đau khổ và chết. Cái chết của Ngài không phải là một tai nạn, cũng không là một thất bại mà là một sứ mệnh, sứ mệnh của Đấng Thiên Sai, đến để “hiến dâng mạng sống làm giá chuộc cho muôn người”.

Chúng ta giống như Phêrô, muốn chiếm chỗ nhất, muốn thành công trong xã hội. Tinh thần đắc thắng đã trở thành động lực cho những hoạt động của chúng ta. Mục tiêu của chúng ta nhiều khi chỉ làm sáng danh ta hơn là làm sáng danh Chúa. Như thế, tất cả chỉ là cơn gió thoảng qua. Có cái gì đó không trọn vẹn, không trong sáng trong hướng đi của chúng ta: “tư tưởng của anh không đúng với tư tưởng của Thiên Chúa…”

Chúng ta cần trở về với tinh thần khiêm nhu và hy sinh của Chúa Giêsu. Kết quả của mọi hoạt động là do Chúa, chúng ta chỉ là dụng cụ thô hèn. Chúng ta luôn ước muốn làm điều lớn lao nhưng quên rằng chúng ta mong manh, nhỏ bé. Ngài dạy chúng ta “bỏ mình”. Đó là con đường giải thoát giúp chúng ta nhẹ nhàng bước đi “theo Ngài”.

Ngài bước đi nhẹ nhàng, không vướng mắc, không nặng nề. Ngài đã bước vào trần gian như một con người nghèo nàn nhất, không nơi nương thân. Lớn lên trong sự nghèo khó, tự do. Đăng trình rao giảng Tin Mừng, tay không, “không có nơi tựa đầu”. Chết trần trụi trên thập giá, đỉnh cao của đời Ngài.

Ngài đã yêu trọn vẹn, và chết trong yêu thương.

Ngài mời gọi chúng ta tự giải phóng mình khỏi mọi ràng buộc để đi về phía trước, trong thanh thản, trong hiến dâng. Yêu cho đến chết.

Bỏ mình không dễ, nhưng ai dám bước vào con đường này mới thấy mình tự do, mới thấy đời đáng sống và cái chết sẽ không còn là đe dọa mà là thành đạt.

Vậy, lời tuyên xưng của Phêrô quan trọng như thế nào?

Đó là cuộc sống của chúng ta, là nền tảng hạnh phúc, là phần gia nghiệp của chúng ta. Ngoài Chúa, chúng ta gặt hái được gì ở trần gian này?

Chúng ta đang ước mơ gì trong cuộc sống? Tiền bạc, của cải, danh vọng?

Nhiều người đã toại nguyện ở trần gian. Tiền bạc dồi dào xài ba đời không hết. Danh vọng có, nhưng cái chết vẫn là một hiểm họa không tránh khỏi. Bệnh tật và tuổi già cũng là những tai họa làm héo hắt cuộc sống. Những người giàu nhất thế giới vẫn bị hành hạ và chết vì bệnh ung thư.

Chỉ có Chúa Giêsu mới làm cho cuộc đời chúng ta sáng lên một niềm hy vọng không tàn phai trước những khốn khổ và cái chết.

Chỉ có Ngài mới ban cho chúng ta sinh lực cần thiết để chọn con đường khổ giá để đạt tới vinh quang tối hậu. Ngài chấp nhận đau khổ và cái chết vì Ngài biết “ngày thứ ba sẽ sống lại”.

Cuộc chiến của chúng ta hôm nay cũng như cuộc chiến của Ngài. Chúng ta phải nhận lấy thân phận cát bụi với tất cả gánh nặng của nó, nhưng chúng ta không mãi là cát bụi vì chúng ta dám tin vào Ngài, chúng ta sẽ sống lại với Ngài. Nếu cuộc sống chúng ta đi vào bế tắt là trở về với cát bụi, với hư vô thì cuộc đời có đáng sống không? Ý nghĩa gì khi lao lực suốt cả cuộc đời để rồi đi về hư vô? Những khó nhọc của chúng ta suốt một đời chỉ gặt hái được hư không và thêm vào đó là sự khốn nạn đời đời thì quả là vô nghĩa.

Con người hôm nay yêu thích sự vô nghĩa đó vì họ không có ai để bám, không có gì để tin. Họ không có niềm hy vọng nào khác.

Chúng ta tin vào Chúa và chính Chúa sẽ là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. Hãy tạ ơn không ngừng vì niềm tin Chúa ban.

Hôm nay, nơi bàn thờ, Ngài đến với chúng ta qua hình ảnh một tấm bánh, nhưng trong sự nhỏ hèn tột đỉnh đó, Ngài là niềm hy vọng vô bờ cho chúng ta, là lẽ sống duy nhất. Không có gì đáng cho chúng ta ước mơ. Chỉ có Ngài thôi.

--------------------------

 

TN 24-B126: Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời tôi?

 

Nhìn thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:- Liệu Ngài có TN 24-B126


Nhìn thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:

- Liệu Ngài có phải là Đấng Cứu Thế hay không?

Nhất là trong hoàn cảnh họ đang phải sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã, họ trông chờ một Đấng Cứu Thế đến giải phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.

Theo mong ước của nhiều người Do thái thì Đấng Cứu Thế là một vị anh hùng dân tộc, đến đánh đuổi quân ngoại xâm. Ngài sẽ là người dùng quyền lực thống trị các dân, trừng phạt những người tội lỗi và quân ngoại xâm. Đàng này, Đấng Cứu Thế Giêsu đến lại tỏ ra nhân từ với hết mọi người, kể cả người tội lỗi và dân ngoại. Tuy Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền và làm những dấu lạ chưa ai từng có. Tuy nhiên, Ngài lại không chấp nhận làm vua, làm Messia theo quan niệm của họ. Và họ bất đồng quan điểm khi nhận xét về sứ mạng của Chúa Giêsu. Người thì nói Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại, kẻ thì bảo là Elia, số khác cho là một trong số các tiên tri. Họ không nhận ra Đức Giêsu là Messia, Con Thiên Chúa làm người!

Bấy giờ, Đức Giêsu hỏi các môn đệ xem họ đã hiểu lời dạy, hiểu thân thế của Ngài đúng chưa. Thật không bỏ công khó nhọc của Đức Giêsu, Phêrô đã trả lời chính xác: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Các Tông đồ khác cũng đồng ý với câu trả lời của Phêrô như vậy. Tuy nhiên, các Tông đồ cũng chưa thật sự hiểu rõ bản tính và sứ mạng của Đức Giêsu. Có lẽ họ cũng chịu ảnh hưởng của quan niệm dân chúng bấy giờ: Messia là vị cứu tinh Dân tộc Do thái, họ nghĩ đơn giản như vậy, họ chưa nhận ra vai trò cứu chuộc nhân loại của Đức Giêsu và những đau khổ người phải chịu để đền thay vì tội lỗi nhân gian. Bằng chứng là sau đó, khi Đức Giêsu công bố về cuộc khổ nạn thì Phêrô liền can gián: Thầy không phải như vậy đâu! Nhưng Đức Giêsu quay lại quở trách Phêrô và các môn đệ: các con không biệt việc Thiên Chúa làm mà chỉ biết việc loài người. Đã theo Đức Giêsu thì không tìm lợi danh đời này. Ai theo ta thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta. Ai lo cho mạng sống đời này thì sẽ mất nó, nhưng ai biết hy sinh mạng sống vì Chúa thì Người sẽ ban cho hạnh phúc vĩnh cửu bên Ngài. Ai gắn mình với vật chất chóng qua thì sẽ tàn tạ như nó. Còn ai gắn bó với Đấng Vĩnh Cửu thì được Thiên Đường làm nơi cư ngụ.

Mỗi người chúng ta hôm nay hãy thử trả lời câu hỏi của Đức Giêsu: còn con, con bảo Thầy là ai? Đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Hiện giờ tôi theo Chúa vì lý do nào? Tôi theo Chúa vì nhận ra Chúa là Thiên Chúa duy nhất, là Đấng hứa ban cho tôi sự sống đời đời hay tôi theo Chúa đề Ngài ban cho của cải, giàu sang, địa vị đời này? Tôi theo Chúa mà tôi có sống theo Tám Mối Phúc thật: phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, hiền lành, khóc lóc, khao khát nhân đức trọn lành, biết xót thương kẻ khác... tôi có coi Chúa trên của cải vật chất, coi Chúa hơn ý riêng của mình, hay có khi nào tôi coi trọng tiền bạc, của cải hơn Chúa không?

Nhiều khi chúng ta theo Chúa, nhận ra Chúa là Đấng Cứu Thế, nhưng cũng như Phêrô và các tông đồ trong Tin Mừng hôm nay: muốn can ngăn Chúa, không muốn Ngài vác thánh giá, không muốn Ngài đau khổ. Như vậy, khi đi theo Chúa, bắt chước Chúa, chúng ta cũng không phải vác thánh giá, không phải chịu đau khổ với Ngài. Chúng ta hãy xem Đức Giêsu có đồng ý với các Tông đồ như vậy không? Ngài chẳng những không đồng ý mà còn khiển trách Phêrô nữa: Satan, con hãy lui lại đàng sau Thầy. Đức Giêsu không đồng ý với các Tông đồ vốn muốn ngài làm một Messia an nhàn. Ngài cho biết đó là cám dỗ của Satan. Ngài cũng như những người đi theo ngài phải chọn con đường thập giá. Chính thánh giá mới đem lại bình an hạnh phúc. Ai không nép mình sống theo 10 Điều Răn mà tự mình sống buông thả theo ý riêng thì sẽ gặt hậu quả rất tệ: mất hạnh phúc đời đời, vì đã không đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.

Vậy, để hưởng ơn cứu chuộc của Đức Giêsu, chúng ta hãy tuyên xưng rõ trong lòng mình như thánh Phêrô hôm nay: Thầy Đấng Kitô, Đấng Cứu Độ đời con, con xin đi theo Ngài trên mọi nẻo đường dù là đường êm ả hay đường chông gai, để mai sau, Đức Giêsu ở đâu con cũng được ở nơi đó, Chúa được hạnh phúc nào thì con cũng được tham dự vào hạnh phúc đó với Chúa.

---------------------------

 

TN 24-B127: Bạn nghĩ gì về Đức Kitô – Gm. Arthur Tonne.

 

Charles Lamb sống ở nước Anh hai trăm năm trước đây. Suốt 33 năm ông làm một công việc buồn TN 24-B127


Charles Lamb sống ở nước Anh hai trăm năm trước đây. Suốt 33 năm ông làm một công việc buồn tẻ là thơ ký trong một văn phòng công ty hàng hải. Tuy nhiên ông đã thành một nhà văn được tín nhiệm, đặc biệt ông nổi tiếng vì tính hài hước nhẹ nhàng, lòng thông cảm dịu dàng và lòng nhiệt thành hiếm có đối với gia đình và bạn hữu.

Một buổi chiều kia, dăm sáu người bạn tụ họp trong nhà ông Lamb để bàn luận vài đề tài văn chương như: “Chúng ta cảm thấy thế nào nếu chúng ta có thể nói tay đôi với một vài văn sĩ nổi tiếng trên thế giới, họ đã qua đời”. Vài người gợi ý: “Chúng ta sẽ cảm thấy thế nào nếu Dante bước vào trong phòng này. Dante đã viết cuốn “Hài kịch thánh” về thiên đàng, địa ngục và luyện ngục. Một người khác thêm: “Giả sử Shakespear tham dự với chúng ta đêm nay”. Lamb hô to: “Tôi sẽ giơ tay đầy niềm vui. Đón tiếp một vị vua của các nhà tư tưởng. Hân hạnh biết bao?”. Cuối cùng một người tuyên bố: “Giả sử Đức Kitô vào phòng này?”. Nét mặt Charles Lamb bỗng nghiêm nghị khi ông nói: “Dĩ nhiên, tất cả chúng ta sẽ quỳ xuống”. Đó là sự khác biệt giữa Đức Kitô và tất cả mọi người đàn ông khác trong lịch sử. Đức Kitô là Thiên Chúa. Mọi người khác chỉ là người.

Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu hỏi các Tông đồ “Người ta nói Ta là ai?”.

Chúa chúng ta hỏi chúng ta cùng một câu hỏi ấy: “Con nghĩ Ta là ai?”. Mỗi người chúng ta phải trả lời câu hỏi quan trọng của mọi thời đại ấy.

Chúng ta cân nhắc những câu trả lời của những người nghĩ Đức Kitô chỉ là một người. Có người diễn tả Đức Kitô như một người chữa bệnh bằng niềm tin, Người chữa mọi thứ bệnh tật, yếu đau. Họ không nói làm sao Chúa chữa được. Chỉ có cách phải nhận Người đã làm được vì Người là Thiên Chúa. Có người nói Đức Kitô là một người phù thủy. Người khác lại bảo là một người theo nghĩa nhân đạo, chú ý đến loài người và có thể giúp cho họ. Có người diễn tả Chúa Giêsu như một nhà tâm lý hoàn hảo, Người hiểu được cái động lực và nghị lực của con người. Nhiều người mô tả Chúa như một nhà kiến tạo hòa bình hoặc yêu thiên nhiên xuất sắc.

Những người cải taọ xã hội nhìn Đức Kitô như một kiểu mẫu lý tưởng. Cả những người cộng sản cũng hướng về Đức Kitô như một nhà lãnh đạo cách mạng. Người lao động tin cậy Đức Kitô như lý tưởng con người. Cả những người Hippi cũng cố gắng biện minh lối sống vô trách nhiệm của họ khi họ nói về Chúa Kitô –Đấng đã phán: “Đừng lo lắng về đồ ăn thức uống hoặc áo quần”.

Nhưng hầu hết những người ngưỡng mộ Chúa Kitô như vậy đã nhận rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa. Trong số những người đó, bạn đồng ý với những nhóm người nào? Trong suy tư và trong cách sống của bạn, Đức Giêsu có thực là Thiên Chúa không?

Như thánh Phêrô, chúng ta phải tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa, có Con Thiên Chúa hằng sống.

Tóm lại, Đức Giêsu là Thiên Chúa thật cũng như là người thật, đó là trọng tâm của Kinh Thánh, là trung tâm của lịch sử, là chủ đề của ngày lễ hôm nay, trong Thánh Lễ này. Đó là lý do chúng ta quỳ gối tôn thờ Đấng Chúa-Người trên bàn thờ này, như Lamb và các bạn của ông.

Xin Chúa chúc lành bạn.

-------------------------

 

TN 24-B128: Chọn lựa một con đường

 

Trong quyển sách "Niềm vui sống đạo", Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã TN 24-B128


Trong quyển sách "Niềm vui sống đạo", Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã kể ra được 10 "khuyết điểm" của Chúa Giêsu. Và ngài nói là ngài yêu lắm 10 "khuyết điểm" ấy. Một trong 10 "khuyết điểm" mà Chúa Giêsu mắc phải Ngài "không biết làm kinh tế". Chúa Giêsu đã coi 1=99. Khi Ngài thấy mất một con chiên trong đàn thì lại bỏ 99 con kia lại để đi tìm cho bằng được con chiên bị mất. Hơn nữa, Chúa Giêsu cũng không biết cách tiếp thị và quảng cáo. Quảng cáo mời gọi người ta đến với mình thì phải tìm cái gì đó hấp dẫn và lôi cuốn bằng cách "tô son" lên những điều mình nói một chút. Đằng này Chúa Giêsu lại nói: "Ai muốn theo tôi, thì hãy từ bỏ mình, vác thập mình mà theo" (Mc 8,34). Quảng cáo và chiêu mộ lính kiểu này thì "thua" là cái chắc! Bởi lẽ, nghe nói đến thập giá thì ai mà chẳng sợ. Chẳng ai háo hức ôm lấy thập giá vào mình bao giờ! Hơn nữa, theo Thầy tưởng đâu được cái gì hấp dẫn một chút như lãnh vài triệu đồng một tháng, được người ta kính trọng, hoặc có địa vị cao trong xã hội hay cái gì đại loại như thế. Chứ theo Thầy mà chỉ có vác thập giá thôi thì dại gì mà liều mạng như thế! Như vậy, xem ra Chúa Giêsu dở hơn con người ngày nay trong chuyện làm ăn và quảng cáo nhiều lắm!

Nhưng Chúa Giêsu không đến trần gian để làm kinh tế! Ngài cũng không biết dùng ngôn ngữ của quảng cáo của con người thường làm để tô son cho mình và sứ vụ của mình. Ngài đến trần gian với một sứ mạng duy nhất là "nói lên Sự thật, sống cho Sự thật và làm chứng cho Sự thật" (x. Ga 18,37). Ngài đã nói như thế trước mặt tổng trấn Philatô. Và đặc biệt, trong những năm tháng ra đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, Ngài đã từng lớn tiếng nói rằng: "Sự thật sẽ giải phóng các ngươi" (Ga 8,32). Philatô đã hỏi Chúa Giêsu: "Sự thật là cái gì?". Nhưng Chúa đã không trả lời ông ta câu hỏi đó. Bởi lẽ, Sự thật chính là bản thân của Ngài. Ngài là hiện thân của Sự thật. Từng lời nói, từng hành động và trọn cuộc sống của Ngài đều là Sự thật trọn hảo!

Tin mừng hôm nay chỉ cho chúng ta thấy có rất nhiều nội dung, nhiều vấn đề nói lên Sự thật nơi Thiên Chúa. Nhưng tôi xin chọn câu nói mà Chúa Giêsu xem ra rất thao thức, rất tha thiết mời gọi chúng ta thực hiện nó trong cuộc sống của chúng ta. Ngài nói rất rõ rằng: "Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8,35). Đó là sự thật, một Sự thật trọn hảo dành cho những ai dám dấn thân vào con đường của sự hy sinh và từ bỏ- Con đường Thập giá.

Có lẽ việc chọn lựa cho mình một con đường sống là cần kíp và chính đáng nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Theo thói thường thì ai cũng muốn có một cuộc sống dễ dàng, một cuộc sống tiện nghi, sung túc và vui vẻ...Nhưng có điều là một cuộc sống dù đáng ước mơ như thế cũng không có gì đảm bảo cho con người ta được sống hạnh phúc. Vì hạnh phúc đích thực không thể tìm thấy được nơi cuộc sống ở trần gian. Thế nhưng, nhiều người lại say mê và đi ra sức tìm kiếm để sở hữu nó! Biết bao nhiêu cố gắng và khó nhọc của con người nhằm tìm kiếm và giữ lại hạnh phúc trần gian đều tan biến. Bởi vì, "con người từ đất mà ra thì cũng phải trở về với đất bụi" (x. St 3, 19). Và con người đã không mang gì vào trần gian thì cũng đừng mong đem gì ra khỏi chốn gian trần. Điều chắc chắn duy nhất là: "ba tấc đất mới thật là nhà, nơi nó ở muôn đời muôn kiếp" (Tv 49, 12).

Con đường đưa con người tới hạnh phúc thật chính là con đường "liều mất mạng sống mình vì Chúa Giêsu và vì Tin mừng". Nói cách khác, đó là con đường của Thập giá. "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất". Kẻ yêu mạng sống mình thì chỉ biết sống cho mình, muốn được mọi người nhìn nhận và phục vụ cho mình. Đó là con đường sống được lót bằng những chiếc thảm hoa êm ái và rực rỡ nhưng sẽ dẫn con người ích kỷ đi tới hố diệt vong. Thật bất hạnh cho những người chỉ biết yêu mình, qui hướng về mình và sống cho riêng mình!

Trong Thần thoại Hy Lạp có kể câu chuyện về một anh chàng có tên là Narcise. Narcise là một chàng trai trẻ đẹp không còn chỗ nào chê được, và cũng không có dung mạo của ai có thể so sánh với anh ta được. Anh ta cũng nhận ra điều đó nên rất tự hào về chính mình. Dần dần anh ta khám phá ra là không ai xứng đáng để anh ta kết bạn cả. Cuối cùng, anh ta chỉ còn cách là quay trở lại để yêu chính mình. Anh ta đã yêu mình cách tha thiết và say mê mình ngây ngất đến độ quên hết mọi sự. Ngày đêm lo tìm cách để nhìn ngắm mình cho đã thèm! Bất cứ nơi đâu có thể soi mình được là anh ta không tiếc thời gian để nhìn ngắm mình cho thoả lòng khao khát. Một hôm, anh ta đi ngang qua một cái giếng sâu, có nước rất trong xanh. Anh chàng Narcise liền soi mình dưới lòng giếng sâu. Tiếc thay, vì không kìm chế được lòng say mê vẻ đẹp của mình, nên anh ta đã lao mình xuống lòng giếng để ôm lấy mình. Nhưng khốn khổ thay, anh ta đã chết chìm một mình trong lòng giếng ấy.

Câu chuyện trên muốn đem đến cho chúng ta một thông điệp này là: kẻ nào quá yêu mình và say mê mình thì khó có thể tránh được cái chết trong cô đơn và tủi nhục. Đó cũng chính là sứ điệp mà Tin mừng hôm nay gửi đến chúng ta: "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy".

Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết can đảm chọn lấy con đường "thập giá" và vui vẻ vác lấy thập giá đời mình để theo Chúa đến cùng. "Vác thập giá" theo Chúa là chu toàn việc bổn phận của mình hằng ngày, là trung tín sống niềm tin tưởng phó thác vào Chúa qua mọi biến cố buồn vui trong cuộc sống của mình.

Ước gì Lời của Chúa hôm nay luôn vang vọng mãi trong từng ngày sống của chúng ta để chúng ta để chúng ta được sáng suốt nhìn thấy con đường mà Chúa Giêsu đang mời gọi và chờ đợi ta bước theo Ngài, ngõ hầu mai sau được Chúa cho đứng vào hàng ngũ những người Chúa chọn và tìm được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Amen.

------------------------

 

TN 24-B129: Đức Kitô.

 

Nhóm Mười Hai, tức là các tông đồ, sau một thời gian dài được ở bên Chúa, được nghe những lời TN 24-B129


Chúa giảng dạy, và được chứng kiến những việc Chúa làm, nay đến Chúa muốn các ông phải dứt khoát lập trường, phải bày tỏ lòng tin của các ông. Nhưng đây cũng là khúc quanh quan trọng: Chúa bắt đầu tỏ ra cho các môn đệ biết con đường đau khổ Ngài phải đi để hoàn thành sứ mạng. Bởi vậy việc ông Phêrô tuyên xưng lòng tin và việc Chúa Giêsu báo trước con đường đau khổ của Ngài là một biến cố bản lề trong quá trình thi hành sứ mạng của Chúa cũng như trong quá trình huấn luyện các môn đệ, vì khi nói về con đường đau khổ của Ngài thì Chúa cũng nói về con đường mà những ai tin Ngài phải đi. Đó là nội dung bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ba điều rõ ràng: Thứ nhất, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: dân chúng nói Ngài là ai và chính các ông nói Ngài là ai? Thứ hai, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết về con đường đau khổ của Ngài. Thứ ba, Chúa Giêsu cho biết đây cũng là con đường của các môn đệ và của mọi người khi đi theo Ngài. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu điều thứ nhất mà thôi.

Dân chúng nói Chúa Giêsu là ai và các môn đệ nói Chúa Giêsu là ai? Từ hai câu hỏi của Chúa chúng ta có thể đặt ra hai câu hỏi cho chúng ta: chúng ta tự hỏi và tự trả lời: đối với tôi, Đức Kitô là ai? và đối với mọi người, tôi là ai? Trước hết, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Đây là một câu hỏi quan trọng, câu hỏi này dẫn chúng ta vào việc kiểm điểm niềm tin và cách sống của mình: có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường sống không? Nếu tin như thế thì cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp, hay chúng ta vẫn tin một đàng, sống một nẻo, xem ra niềm tin và cuộc sống là hai thực thể tách rời nhau, không ăn nhập gì với nhau.

Có thể nói, đối với một số không nhỏ người Công giáo, thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung, mờ nhạt thuộc niềm tin. Vì thế, trả lời được câu hỏi: đối với tôi, Đức Kitô là ai? Không phải chỉ là chuyện kiến thức, sách vở, lặp lại những gì đã đọc được trong sách báo hay nghe được qua các bài giảng, nhưng trả lời được câu hỏi ấy chính là chuyện của cuộc sống, của chọn lựa cá nhân thâm tín và dấn thân.

Chúng ta hãy nhìn vào ông Nây Am-troong, ông là một phi hành gia đầu tiên của Mỹ đã đặt chân lên mặt trăng ngày 20.7.1969. Khi còn là một sinh viên, ông đã ghi trong cuốn sổ tay câu hỏi của Chúa Giêsu: “Anh em bảo Thầy là ai?” và ông đã trả lời: “Ngài là người không hề phạm tội, là người vị tha, là người biết quan tâm săn sóc kẻ khác, là người gần gũi Thiên Chúa”. Như vậy, ông Am-troong đã không trả lời theo thần học hay giáo lý cho câu hỏi “Anh em bảo Thầy là ai?”, nhưng ông đã đưa ra câu trả lời của riêng mình, ông đã nhìn sâu vào tâm hồn mình và nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong cuộc sống riêng tư của ông.

Mỗi người chúng ta cũng phải làm giống như ông Am-troong, chúng ta cũng phải nhìn sâu trong tâm hồn mình để nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong chính cuộc sống của mình, và cảm nghiệm này mang tính riêng tư không ai giống ai. Vậy, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Nói chính xác hơn, mỗi người chúng ta hãy hỏi: “Hôm nay, đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi?”. Phải thêm hai chữ “hôm nay” và chữ “rồi” vào câu hỏi, bởi vì “hôm nay” chứ không phải hôm qua hay hôm nào khác, và chữ “rồi” cũng thật quan trọng, bởi vì có thể trong quá khứ, chúng ta đã gặp Ngài, đã yêu Ngài hết mình, nhưng rồi hôm nay, Ngài thì không thay đổi, nhưng tình chúng ta yêu Ngài có đổi thay chăng? Thế nên, mỗi ngày chúng ta phải tự hỏi để đừng bao giờ Đức Kitô trở thành kỷ niệm, chỉ còn là một niềm tin trong quá khứ, để đừng bao giờ bỏ Ngài lủi thủi bước bên cạnh đời chúng ta.

Câu hỏi thứ hai, đối với mọi người, tôi là ai? trong những dòng cuối của sứ điệp “Hòa bình dưới thế”, Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo Hoàng nhân từ, dễ thương, đã đưa ra cho chúng ta một định nghĩa: thế nào là một người Kitô hữu chân chính như sau: “Mỗi người tín hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Nếu người tín hữu đóng trọn vai trò ấy, họ sẽ là người Kitô hữu chân chính”.

Sống trọn những cam kết trên quả thật người Kitô hữu luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy đối với mọi người. Thực vậy, một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt men bé nhỏ, mất hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy nên cả khối bột. Một thể hiện yêu thương, dù nhẹ nhàng đơn giản cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức chinh phục hay cảm hóa bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều kiện họ phải sống đúng danh nghĩa người Kitô. Và như thế, qua cuộc sống của mình, sự hiện diện của chúng ta cũng luôn là một câu hỏi cho những người chung quanh, nghĩa là nhìn vào đời sống chúng ta, họ bảo chúng ta là ai?

Tóm lại, người ta có nhận ra tôi là người Kitô không? Nghĩa là sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ bất cứ ai, người ta có nhận ra chúng ta là người Kitô không? Không phải chúng ta tự xưng, tự giới thiệu mà cách sống của chúng ta khiến người khác phải đặt câu hỏi hoặc phải cảm phục đời sống tốt đẹp của chúng ta. Và như thế chúng ta đã trả lời được câu hỏi: đối với mọi người, tôi là ai? Tôi là một người Kitô hữu, đơn giản thế thôi.

-------------------------

 

TN 24-B130: Từ bỏ và vác thập giá


(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ với đòi hỏi hết sức lạ lùng: “từ bỏ và vác thập giá”. Những ai đáp TN 24-B130


Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ với đòi hỏi hết sức lạ lùng: “từ bỏ và vác thập giá”. Những ai đáp ứng được yêu cầu ấy thì mới “ xứng đáng làm môn đệ Thầy”.

Tại Xêdarê Philipphê, Chúa hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?”. Từ từ Chúa dẫn đưa các ông đến câu hỏi quan trọng nhất, xác tín nhất: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? “.

Chúa Giêsu có thể tự giới thiệu về mình, tự nói lên căn tính của mình. Nhưng Người đã không làm thế. Chúa muốn người môn đệ phải tự khám phá ra Thầy của mình là ai. Chúa muốn lời tuyên xưng của người môn đệ phải phát xuất từ nỗ lực tìm hiểu và cảm nghiệm chân thực trong cuộc sống sinh hoạt với Người.

Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế, Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người. Con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Chúa không lừa mị, không hứa hẹn những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ đường ngay nẻo chính và muốn những ai theo Người phải dũng mạnh, can đảm, quyết liệt. Vì thế, Chúa nói thẳng thắn với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.

Muốn theo Chúa, các môn đệ phải “từ bỏ và vác thập giá”.

1. Từ bỏ

Chúa đòi buộc người theo Chúa phải từ bỏ, phải đặt tất cả dưới Người, phải yêu Người trên mọi sự. Đưa ra đòi hỏi này và biết đó là một chọn lựa khó khăn nên Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ cần biết tính toán cẩn thận rồi mới chọn lựa dứt khoát. Muốn xây tháp cần tính toán có đủ tiền bạc không. Muốn thắng trận cần có lính Tráng. Muốn theo Chúa phải từ bỏ. Từ bỏ ý riêng, từ bỏ sự tự do, từ bỏ những điều mình ưa thích khi những điều ấy đi ngược lại với lời dạy của Chúa hay làm cho bản thân xa cách Người.

Từ bỏ là quy luật của cuộc sống và sự phát triển.Thai nhi không thể ở mãi trong lòng mẹ cho dẫu nơi đó an toàn, êm ấm nhất. Đứa trẻ phải từ giã lòng mẹ để sinh ra làm người. Đứa trẻ không thể nào trưởng thành nếu nó cứ sống mãi bằng sữa mẹ, nó phải thôi bú, ăn cơm bánh mới lớn lên.

Cuộc sống đặt con người trước những sự lựa chọn. Chọn lựa là giới hạn. Chọn điều này phải bỏ điều kia. Sống là chấp nhận từ bỏ. Chọn những điều tốt loại bỏ những điều xấu. Có những điều xấu cần từ bỏ như cờ bạc, rược chè, ma tuý, truỵ lạc, trộm cắp, gian dối… Cũng có những điều tốt phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn. Chẳng hạn, khi chọn trường học, chọn nghề nghiệp, chọn nơi ở, chọn bậc sống, chọn bạn bè, chọn vợ chồng. Thanh niên nam nữ khi tìm hiểu nhau thì có nhiều người nhưng khi chọn vợ chồng, chỉ chọn một mà thôi.

Từ bỏ đòi hỏi nhiều hy sinh. Mỗi sáng thức dậy đi lễ, bỏ lại chiếc giường êm ấm. Mỗi tối gia đình tắt tivi để cùng quy tụ đọc giờ kinh hạt. Giữ ngày Chúa nhật, bỏ công việc làm ăn có nhiều lợi nhuận. Bỏ đi một tật xấu để tập một nhân đức. Cao cả hơn, bỏ đời sống hôn nhân để sống đời tận hiến cho Chúa…

Sự từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Khi yêu người ta cảm thấy nhẹ nhàng. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập. Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình.

Từ bỏ giống như cuộc leo núi. Leo núi là một cuộc mạo hiểm. Đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ. Nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo, lòng can đảm. Càng lên cao, người leo núi càng hưởng nhiều niềm vui, càng tắm mình trong ánh sáng chan hoà và được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ.

2. Vác thập giá

Theo Chúa giống như đi leo núi. Thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.

Thập giá đi liền với tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng. Nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Thập giá phát xuất từ tình yêu của Đấng Cứu Độ.

Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thập giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.

Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người.

Tình yêu như là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến với niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ gánh nặng và buồn chán. Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.

Hôm nay, nơi nào có bóng thập giá là nới ấy có dấu chân người Kitô hữu. Ba cây thập giá dựng lên chiều thứ sáu tử nạn, Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là Thánh Giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Người đi vào đời sống mới thì cây thập giá khốn khổ ấy trở thành cây cứu rỗi và trở nên thánh thiêng. Sự thánh thiêng ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết và là vinh quang. Không có tình yêu thì thập giá không là Thánh Giá.

Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành Thánh Giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.

-------------------------

 

TN 24-B131: Chúa Giêsu là ai?

 

Chúa Giêsu là ai? Khi đặt câu hỏi này, chúng ta thấy có vẻ ngớ ngẩn, ngu ngơ và khờ khạo. Tuy TN 24-B131


Chúa Giêsu là ai? Khi đặt câu hỏi này, chúng ta thấy có vẻ ngớ ngẩn, ngu ngơ và khờ khạo. Tuy nhiên, ngày nay có nhiều người vẫn chưa biết và còn mơ hồ về Chúa Giêsu trong thế giới rộng lớn này. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được nghe Chúa Giêsu hỏi các môn đệ câu hỏi này: "Người ta bảo Thầy là ai?" Còn chúng ta thì sao? Chúng ta nói Chúa Giêsu là ai?. Và Ngài có ảnh hưởng gì trong cuộc đời của chúng ta?

Trong đám đông dân chúng đi theo Chúa Giêsu, có người thì bảo Ngài là Gioan Tẩy Giả, có kẻ bảo là ông Elia, kẻ khác cho là một ngôn sứ nào đó. Hóa ra, họ cũng chưa nhận ra Chúa Giêsu là ai? Họ vẫn còn mù mờ trong tâm tối, cho dù Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ tỏ tường trước mắt họ. Ấy thế mà họ vẫn không nhận ra Ngài là ai. Vậy, chúng ta có thể trả lời câu hỏi này như thế nào trong đời sống đức tin và ngay trong trái tim mỗi người chúng ta! Khi chúng ta mang danh là người Kitô hữu. Vậy "Anh em bảo Thầy là ai" (Mc 8,29).

Thế giới ngày nay gần 7 tỷ người, trong khi đó người Kitô hữu chỉ có 1,2 tỷ, một con số khá khiêm tốn. Với con số này, chúng ta nghĩ gì khi tuyên xưng Đức Kitô là Vua vũ trụ, là Đấng Cứu độ và là Sự sống cho nhân loại? Trong khi đó có người chống đối và phủ nhận danh thánh Ngài. Sống trong một đất nước phát triển, tôi nhận thấy, con người ngày nay đang xa lìa Thiên Chúa và Giáo hội. Các bạn trẻ mất định hướng sống. Họ đang dò dẫm bước đi trong thế giới ảo của sự giả trá, gian dối bởi thế lực của thế gian. Trong một trường đại học Công giáo tại Mỹ, tôi hỏi một cha giáo dạy các em, thì ngài cho tôi biết, cứ theo tỷ 10 em sinh viên người Công giáo, thì chỉ có khoảng 2-3 em còn đi lễ ngày chủ nhật. Khi đề cập về vấn đề nhận biết Chúa Giêsu là ai? Tôi thiết nghĩ, tất cả mọi người chúng ta cũng cần nhìn nhận rằng, đời sống đức tin của chúng ta đang bị chao đảo, mất định hướng và dễ buông xuôi, sống phóng túng và lơ là với việc giữ đạo. Chúng ta chắc gì hơn đám đông đi theo Chúa Giêsu, và họ vẫn không biết Ngài.

Một người sống cho lý tưởng, thì người đó phải có định hướng cho đời mình. Họ sống chết cho lý tưởng đó, cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào họ vẫn giữ vững lập trường và quan niệm sống. Chị Kim Davis thuộc tiểu bang Kentucky, Mỹ có thể là một nhân chứng sống đức tin cho nhiều người hôm nay. Chị đã bị vào tù vì không ký giấy chứng nhận hôn nhân cho cặp đôi đồng tính. Chị nói: "Tiếng nói lương tâm không cho phép tôi làm điều đó trái ngược với lời tuyên xưng đức tin và giữ lòng trung thành với Thiên Chúa". Chị bị đưa vào tù, và sau vài ngày chị được ra tù. Chị vui sướng, nói: " Tôi muốn mang đến Thiên Chúa sự vinh quang của Ngài".

Như lời thánh Phaolô nói trong bài đọc hai: "Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là đức tin." Điều này sẽ đi ngược lại với quan niệm của nhiều người ngày hôm nay, họ cho rằng, "sống đạo tại tâm." Đây là cách lý giải của nhiều người, họ không cần đến nhà thờ để tham dự thánh lễ và đón nhận ân sủng từ Giáo hội. Vậy đức tin và đời sống đạo là như thế nào?. Tôi không thể nói yêu một người nào đó, mà tôi không bao giờ muốn gặp mặt. Đó là một thứ tình yêu ảo tưởng, viễn vong. Tôi không thể tham dự tiệc cưới mà lại ở nhà.

Cũng vậy, nếu chúng ta nói, chúng ta đi theo Chúa Giêsu để được sự sống đời, để được hạnh phúc, an vui vĩnh cữu, mà không biết Ngài là ai thì đức tin của chúng ta trở nên mơ hồ và ảo tưởng, nên có một số người đi theo đạo, nhưng họ thấy được gì thế là họ bỏ, và một số khác do lạc mất đức tin, bởi gặp những khó khăn và thử thách trong cuộc sống, nên họ cũng bỏ Chúa.

Tóm lại, câu trả lời của thánh Phêrô rất có ý nghĩa quan trọng và là động lực cho chúng ta về đời sống đức tin: "Ngài là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống." Chính Chúa Giêsu đã đi vào cõi chết để mang lại sự sống vĩnh cữu. Cái chết của Ngài nói lên tình yêu thương cho nhân loại. Đi ngang qua cái chết, Chúa tỏ ánh vinh quang và quyền năng của Ngài cho chúng ta, sự sống đã chiến thắng. Vinh quang của Thiên Chúa tỏ lộ cho chúng ta với những ai tin vào Chúa Giêsu. Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống cho chúng ta. Amen.

-------------------------

 

TN 24-B132: Tư tưởng


(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

 

Tư tưởng dẫn đến hành động. Hành động tốt hướng dẫn bởi tư tưởng tốt. Hành động xấu chỉ TN 24-B132


Tư tưởng dẫn đến hành động. Hành động tốt hướng dẫn bởi tư tưởng tốt. Hành động xấu chỉ đạo bởi tư tưởng xấu. Thực thể này không thể chối cãi. Tư tưởng gắn liền với sự sống con người. Bao lâu còn sống, bấy lâu tư tưởng còn ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân và tha nhân. Dù khác tôn giáo hay vô thần, tư tưởng vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Người ta dựa vào xu hướng xã hội, khuynh hướng chính trị, đưa ra các tư tưởng, quan niệm sống khác nhau. Vậy đâu là quan niệm sống đáng tin cậy.

Dựa vào niềm tin

Niềm tin Kitô giáo được coi là chính đáng, đáng tin hơn cả vì niềm tin Kitô giáo đặt căn bản trên tình yêu Chúa. Một tình yêu cao quí; một tình yêu hiến thân chết trên thập giá cứu chuộc người Chúa yêu mà không có điều kiện kèm theo. Một tình yêu đề cao.

Sự sống con người.
Đề cao công lí.
Chống lại nghèo đói, bất công.
Cỗ võ tinh thần bác ái, vị tha.

Chính những điều căn bản trên hướng dẫn tư tưởng con người, là nền móng xây dựng một xã hội yêu thương, công bằng, thứ tha và tôn trọng mạng sống con người đời này và đời sau. Xu hướng xã hội, chính trị cũng kêu gọi hy sinh, hiến thân cho tự do, cho công lí do giới lãnh đạo đặt ra. Lí thuyết tình yêu họ cổ võ giới hạn cho cuộc sống trần thế. Tình yêu Chúa dậy hữu ích nơi trần thế và còn kéo dài bất tận, đến hạnh phúc trường cửu đời sau.

Lời Chúa là đèn soi

Tình yêu trong sáng là quà tặng Chúa đặt vào lòng người, vì thế Lời Chúa là đèn soi giúp Kitô hữu thực thi công bằng, bác ái, yêu thương. Ngoài Lời Ngài ra không còn lời nào tốt đẹp, cao trọng, chính đáng hơn.

Không nhận biết Đức Kitô không thể có một tình yêu chân thật, trong sáng. Ngoài Đức Kitô ra, lí thuyết tình yêu do con người suy đoán ra thường bất toàn, giới hạn và đôi khi phản lại tình người.

Giả mù

Một số lợi dụng tình yêu với tham vọng, mong đạt mục đích riêng. Thực thi đức ái trong hoàn cảnh này khó tránh khỏi lươn lẹo.

Dựa vào suy đoán để giải nghĩa tình yêu sẽ rơi vào tình trạng khi thì suy không thấu, lúc thì đoán sai. Tình yêu vì thế muôn mặt. Kẻ tin theo rơi vào tình trạng nhìn không thấy, nghe không hiểu, suy không tới. Đoán mù mờ; xem vu vơ; suy không thấu sao gọi là công lí.

Phán đoán theo suy luận loài người khó tránh khỏi sai lầm, thiếu sót. Đức Kitô không ngần ngại nói cho môn đệ Phêrô rõ.

Satan, lui lại đằng sau Thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là của Thiên Chúa mà là của loài người. V.33

Suy tưởng của loài người ít nhiều ngầm chứa sai lầm, dù là suy tưởng với lòng ngay, chân thành. Phêrô không muốn Thầy phải đau khổ, bị các kì mục, thượng tế cùng kinh sư hành hạ trước khi giết chết. Phêrô lên tiếng can ngăn. Đức Kitô vạch ra cho Phêrô thấy con người rất dễ lầm lẫn, bị ma quỉ lợi dụng khi chúng dùng tư tưởng, hình ảnh xem ra có vẻ tốt lành để dẫn vào mê hồn trận.

Lòng chai, dạ đá

Phêrô không phải là người duy nhất sai lầm. Trước đó đã có nhiều người trong đám đông sai lầm khi nhận định về Đức Kitô. Có kẻ tin Đức Kitô là Gioan Tẩy Giả tái sinh; kẻ thì bảo là tiên tri Êlia; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.

Nghe sai, nhìn lầm, hiểu trật không do ngũ quan, thiếu khả năng lắng nghe, nhận biết, mà do tấm lòng, lòng chai, dạ đá. Không lắng nghe với lòng chân thành, hiếu học, tìm hiểu Lời Chúa. Mục đích nghe rình rập, tìm cách bắt bẻ, bắt lỗi. Phúc Âm gọi những tấm lòng thiếu chân thành là lòng dạ chai đá. Một khi đã ra chai đá thì việc đón nhận lời công chính là một trở ngại lớn. Để đón nhận lời công chính cần có một lương tâm ngay thẳng. Một tâm hồn giầu tình thương, giầu bác ái. Chai đá tâm hồn là tình trạng dễ dãi với mình, khó khăn với người.

Sai lầm trong nhận định gây nên bởi hạn hẹp của trí tuệ, ảnh hưởng bởi giới hạn của con người. Đây chính là trường hợp của Phêrô. Chữa bệnh này cần chân thành, và lòng khiêm nhường.

Thành quả

Dùng ngôn ngữ của thánh Giacôbê tông đồ để nhận biết cụ thể tình yêu nào là tình yêu chân chính. Theo thánh nhân tình yêu chân chính thể hiện qua hy sinh không vụ lợi, không tìm vinh danh cho mình, không mong đền ơn, đáp trả. Tất cả chỉ là phục vụ không màng lợi danh, ngay cả phần thưởng, khuyến khích cũng chỉ là tạm bợ. Theo thánh Giacôbê thì tình yêu chết nếu tình yêu đó không có hành động tốt lành kèm theo.

Tình yêu phải diễn ra qua hành động, nhất là trong các hành động bác ái đi đôi với cầu nguyện. Thánh Phaolô cũng xác định một niềm tin

Nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển đời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không… Nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt mà không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi 1cor 13,2-3

Tình yêu chân chính cần thể hiện qua bác ái, yêu thương, không vụ lợi. Không tìm lợi ích riêng cá nhân nhưng mưu cầu hạnh phúc chung cho toàn thể nhân loại.

-----------------------------

 

TN 24-B133: Chứng minh


(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

 

Chứng minh là hình thức suy luận để xác định tính chân lý của một vấn đề bằng cách đưa ra TN 24-B133


Chứng minh là hình thức suy luận để xác định tính chân lý của một vấn đề bằng cách đưa ra các dẫn chứng cụ thể. Trong văn chương có loại luận văn chứng minh, chẳng hạn muốn chứng minh câu tục ngữ “Có công mài sắt, có ngày nên kim”, người ta cần dẫn chứng bằng các trường hợp điển hình trong cuộc sống đời thường – cách “mài sắt” để có được “cây kim”.

Tương tự, đức tin cũng cần có cách thể hiện cụ thể, nếu không thì chỉ là “đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Đức tin thực sự quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Albert Camus (1913-1960, triết gia và ký giả người Pháp) có cách lý luận thú vị về niềm tin: “Tôi thà sống cả đời TIN có Thần Linh rồi chết mà phát hiện không có, còn hơn sống cả đời KHÔNG TIN rồi chết mới phát hiện CÓ Thần Linh”.

Cuộc sống thế gian có nhiều thứ trái ngược hoặc đối lập (phải – trái, trên – dưới, cao – thấp, tốt – xấu,…), một trong các cặp đôi đối lập “đặc biệt” là Yêu – Ghét. Đó là hai động thái trái ngược nhau, nhưng luôn xảy ra song song. Lằn ranh giữa yêu và ghét quá mong manh đến nỗi khó nhận ra. Khi ghét mà người ta cứ tưởng là mình đang yêu, và khi bảo là yêu mà thực ra lại chỉ là ghét!

Chắc chắn rằng không ai lại ghét chính mình, có lẽ vì thế mà đôi khi người ta lại yêu mình thái quá. Đó là tự ái – tự yêu mình quá mức. Nhưng Chúa Giêsu dạy phải “ghét mình” và “yêu tha nhân” (quên mình mới có thể quan tâm người khác). Chúa Giêsu luôn có kiểu “ngược đời” như vậy, nhưng xét cho cùng thì rất có lý. Liệu Ngài có quá đáng hoặc xúi giục chúng ta làm điều dại dột?

Cứ cho là cũng có thể “hơi quá đáng” đối với chúng ta, nhưng tuyệt đối Ngài không hề xúi dại ai mà chỉ nói thật. Chúa bảo chúng ta “ghét mình” vì Ngài biết chúng ta dễ ỷ lại, thích tự tôn, ưa tự cao tự đại, khoái “nổ” banh-ta-lông, dễ sinh tật, khó thuần hóa, thế nên Ngài phải đặt “hàm thiếc” vào chúng ta để kiềm chế thói bướng bỉnh của chúng ta. Mà cũng rất hợp lý, bởi vì nếu Ngài không làm vậy thì chúng ta sẽ dám chỉ coi trời bằng… nắp bia mà thôi!

Trình thuật Is 50:4-8 là bài ca thứ ba trong các Bài ca Người Tôi Trung. Tôi trung nào cũng khổ sở trần ai khoai củ, te tua tơi tả. Không đâu xa, lịch sử Việt Nam cho thấy có những trung thần mà phải bị hàm oan, trong Giáo hội Công giáo cũng không thiếu những con người bị khổ oan như vậy, thậm chí có những vị thánh đã từng bị vạ tuyệt thông một cách oan ức nhưng vẫn kiên quyết tới cùng!

Nói về Người Tôi Trung, ngôn sứ Isaia cho biết: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:4-5). Ngoan cường quá! Không ngại khó, không sợ khổ, không “tham sanh, úy tử” (ham sống, sợ chết). Thế mới xứng danh Người Tôi Trung. Và đó chính là hình bóng của Đức Kitô – Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.

Tiếp tục ngôn sứ Isaia tường thuật: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50:6). Rất tự tin, rất hiên ngang. Mọi gian truân chẳng là cái gì ráo trọi! Tại sao vậy? Ông cho biết rõ ràng về động lực thúc đẩy: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên” (Is 50:7-8a). Càng lúc càng an tâm, vững dạ; càng lúc càng tin tưởng dù gặp đủ thứ gian nan khốn khó. Ngôn sứ Isaia “đặt vấn đề” rất thẳng thắn, ngỡ như thách thức: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!” (Is 50:8b). Rất mạnh mẽ và kiên cường, bởi vì sống công chính thì chẳng có gì phải sợ, và cũng chẳng ngán bất kỳ ai. Mãi mãi vẫn cứ là chính mình!

Thật vậy, nếu theo Chúa và hoàn toàn tín thác vào sự quan phòng của Ngài, chúng ta sẽ không ngại nói chắc chắn: “Lòng tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi khẩn nài, Ngài lại lắng tai ngày tôi kêu cứu” (Tv 116:1-2). Và mặc dù “dây tử thần đã bủa vây chằng chịt, lưới âm ty chụp xuống trên mình” (Tv 116:3), chúng ta cũng vẫn ngước cao đầu mà tiến bước, không hề chùn chân hoặc thối chí. Nếu có gặp gian truân sầu khổ thì vẫn một mực thành tín kêu cầu danh Chúa: “Ôi lạy Chúa, xin cứu gỡ mạng con!” (Tv 116:4). Chắc chắn Ngài sẽ thương mà giải thoát ngay, vì Ngài luôn đồng hành với chúng ta, nhất là trên những chặng đường đầy chông gai. Vả lại, Ngài chính là Thiên Chúa tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), là Đấng nhân từ chính trực, luôn một dạ xót thương, hằng gìn giữ những ai bé mọn, những người yếu đuối, đặc biệt là luôn giữ lời hứa. Thánh Vịnh gia đã minh chứng cụ thể và sống động: “Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi chết, giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ, ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân. Tôi sẽ bước đi trước mặt Ngài trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 116:8-9). Thật vậy, Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không của người chết, toàn năng và bất biến.

Một kiểu đặt vấn đề rất thú vị của Thánh Giacôbê: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?” (Gc 2:14), và ngài phân tích: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2:16). Tất nhiên đời sống tâm linh của chúng ta cũng vậy, “đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Một cách định nghĩa đức tin rất ngắn gọn mà sâu sắc và tuyệt vời. Quả thật là vậy, và vấn đề rất rạch ròi: “Bạn có đức tin; còn tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2:18). Chỉ có nước cứng họng, chẳng ai có thể đưa ra bất cứ lý do nào để tự biện hộ. Cách biện luận của Thánh Giacôbê rất thuyết phục, chắc hẳn ai cũng phải “tâm phục, khẩu phục”.

Một lần nọ, Chúa Giêsu đã từng “ví von” thế này: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn?” (Mt 7:9-10). Nghe rồi thì chỉ có nước câm miệng chứ ai có thể phản biện được gì? Đó là cách sống yêu thương, sống đức tin, sống đạo (chứ không chỉ giữ đạo), và là cách thể hiện lòng thương xót của Chúa. Đừng thương xót Chúa mà hãy thương xót nhau, cũng như Chúa Giêsu đã nói thẳng: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28). Tất nhiên, Ngài không nói với các nữ giới mà nói với mọi người – bất kể ai.

Và rồi vào một dịp khác, khi Đức Giêsu và các môn đệ tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” (Mc 8:27). Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8:28). Ngài lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phêrô nhanh nhẹn đại diện trả lời: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8:29). Một câu trả lời trên cả tuyệt vời, Phêrô nhà ta là “số dzách”, là “number one”, và cũng thật kỳ lạ!

Vậy mà Thầy Giêsu liền nghiêm mặt và cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Sau đó, Ngài không nói về vinh hoa, phú quý, hoặc chức quyền, địa vị, mà Ngài bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Thánh Mác-cô cho biết rằng Chúa Giêsu nói rõ về điều đó, không hề úp mở. Sự thật không thể khác được, mặc dù đó là điều rất buồn!

Ôi chao, có lẽ Phêrô nhà ta “cụt hứng” nên ông liền kéo riêng Thầy ra và bắt đầu trách. Nhưng Ngài quay lại nhìn các môn đệ và thẳng thắn trách mắng ông Phêrô: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8:33). Chúa Giêsu chưa một lần trách ai nặng như đã trách vị giáo hoàng tiên khởi. Điều đó chứng tỏ Chúa rất công bình, chính trực, hay thì khen mà dở thì phang ngay, không thiên tư hoặc vị nể chi hết. Tuyệt! Thật vậy, những người khác chỉ bị trách là thế này hay thế nọ, còn giáo hoàng Phêrô bị nguyền rủa là Satan. Quá nặng, nhưng phải nghiêm khắc chấn chỉnh như thế mới có thể nên người được!

Chúa Giêsu nói xong thì thôi, không hề để bụng. Rồi Ngài liền gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và nói: “Ai MUỐN THEO tôi, PHẢI TỪ BỎ chính mình, VÁC thập giá mình mà theo” (Mc 8:34). Thuận ngôn thì nghịch nhĩ. Khó quá, Chúa ơi là Chúa! Thế nhưng Ngài vẫn thật thà và thẳng thắn: “Ai muốn CỨU mạng sống mình thì sẽ MẤT; còn ai liều MẤT mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ CỨU được mạng sống ấy” (Mc 8:35). Hoán vị từ ngữ rất độc đáo. Thế nhưng Ngài không ép, hoàn toàn cho phép tự do chọn lựa. Tùy ý mỗi người. Thích thì chiều. Vấn đề quan trọng không là thưa “có” hoặc nói “không”, mà là phải chứng minh được điều đó bằng động thái cụ thể, rạch ròi!

Liên quan việc chứng minh, Hc 46:13-14 cho biết về ông Samuel: Ông là người được Chúa yêu thương, là ngôn sứ, là người thiết lập nền quân chủ, là người xức dầu tấn phong các vị lãnh đạo dân, có quyền xét xử cộng đồng theo Luật Chúa. Trước khi qua đời, ông đã chứng minh trước mặt Chúa và Đấng được xức dầu: “Của cải, thậm chí cả giày dép, tôi đã không lấy của một ai!”. Và chẳng có ai cáo tội ông. Một tấm gương sáng về tính liêm khiết.

Lạy Chúa Tể càn khôn, chúng con chỉ là những tội nhân khốn nạn, thế mà lúc nào cũng tìm dịp “nổi dậy” bằng lắm chiêu nhiều cách, chỉ đòi được Ngài thương mà không muốn yêu tha nhân, không muốn bị ghen ghét mà lúc nào cũng liếc xéo hoặc mỉa mai tha nhân. Chúng con thật hồ đồ và đáng tội. Xin Ngài thương xót, tha thứ, và giúp chúng con chứng minh bằng cách từ bỏ chính mình theo đúng ý Con Một Ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.

---------------------------------

 

TN 24-B134: KITÔ HỮU LÀ NHỮNG NGƯỜI THUỘC VỀ CHÚA KITÔ


CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN NĂM B (12/09/2021)

“Người ta bảo Thầy là ai?" - "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?“

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

 

Người xưa có câu: “Cha nào con nấy” và câu “Thầy nào Trò nấy” để nói lên mối tương quan mât TN 24-B134


Người xưa có câu: “Cha nào con nấy” và câu “Thầy nào Trò nấy” để nói lên mối tương quan mât thiết giữa cha và con, giữa thầy và trò. Hai câu nói trên áp dụng vào đời sống tôn giáo cũng rất chính xác. Các Kitô hữu là môn đệ Chúa Giêsu, là trò của Sư thầy Giêsu, là những người thuộc về Chúa Kitô. Vì thế mà các Kitô hữu phải nên giống Thầy và Chúa Giêsu của mình. Muốn nên giống thì trước hết phải biết Chúa Kitô là ai? Chúa đi con đường nào? 

Hai câu hỏi, nhất là câu hỏi thứ hai, mà Chúa Giêsu Kitô đặt ra cho các Tông đồ trong Bài Phúc âm Chúa Nhật XXIV Thường Niên năm B hôm nay cũng là câu hỏi mà mỗi Kitô hữu phải trả lời: “Người ta bảo Thầy là ai?" - "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?“

II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mc 8,27-35:  Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông đáp lại rằng: "Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri". Bấy giờ Người hỏi: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy là Đấng Kitô". Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả.

Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó. Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: "Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người".

Người tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình".

III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM  Mc 8,27-35         

3.1 Chúa Giêsu là Đấng Kitô: Chúa Giêsu là một người xuất thân từ Nazarét, con bà Maria và con ông Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Nhưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể làm người, là Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong là Cứu Chúa, là sứ giả của Thiên Chúa được gửi đến trần gian để cứu độ loài người tội lỗi. Lời tuyên xưng của Phêrô là chính xác: "Thầy là Đấng Kitô".

3.2 Chúa Giêsu Kitô đã chọn con đường Thập giá: Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong để cứu chuộc loài người. Nhưng Chúa cứu chuộc dân Israel và loài người bằng cách nào? – Bằng cách tụ tập quân đội và xưng vương, dùng vũ lực chống lại quân Roma, dành lại độc lập cho Israel? Hay bằng cách hiến mạng sống mình làm của lễ đền tội cho loài người? Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó.

3.3 Chúa Giêsu Kitô đã mời gọi các môn đệ đi theo Người: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình".

IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mc 8,27-35:

4.1 Các Kitô hữu ai?: Trong ngôn ngư Tây Phương một tĩnh từ xuất phát từ một danh từ tò có nghĩa là thuộc về. Thí dụ: Vietnamese (người Việt Nam) là từ xuất phát từ danh từ Việt Nam (Nước Việt Nam); Christian (Kitô hữu) là từ xuất phát từ danh từ Christ (Đấng Kitô). Vậy Kitô hữu là những người thuộc về Chúa Kitô, là các môn đệ, học trò của Chúa Kitô, là những người đi theo Chúa Kitô, thưc thi giới răn của Chúa Kitô. Vì thế các Kitô hữu phải trở nên giống Chúa Kitô.

4.2 Các Kitô hữu phải đi con đường thập giá: vì đó là con đường mà Chúa Kitô đã chọn cho bản thân Người và cho tất cả những ai muốn di theo Người. Con d0ường thập giá là con đường tự nguyện, tự hạ, tự hủy và hy sinh từ bỏ.  Càng  tự nguyện, tự hạ, tự hủy và hy sinh từ bỏ nhiều, các Kitô hữu càng nên giống Chúa Kitô, càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô. Đó là lúc chính Chúa Kitô sống trong người Kitô hữu.

V. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mc 8,27-35:

KHAI MỞ:  Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, Người đã chọn con đường tự nguyện, tự hạ, tự hủy và hy sinh từ bỏ để cứu chuộc chúng sinh. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.

Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN

1.- «Dọc đường, Người (Chúa Giêsu) hỏi các ông (các môn đệ) rằng: "Người ta bảo Thầy là ai?»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho ngày càng có nhiều người tìm biết Chúa Giêsu Kitô là Ai?

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

2.- «Các ông đáp lại rằng: "Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị tích cực giúp những người khác khám phá ra chân dung đích thực của Chúa Giêsu Kitô mà tin theo.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

3.- ”Bấy giờ Người hỏi: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu có câu trả lời cho chính Chúa Giêsu là Đấng đặt câu hỏi cho mỗi người.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! háp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

4.- «Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy là Đấng Kitô»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho tất cả các Kitô hữu và những người thành tâm thiện chí nhận ra chân dung đích thực của Chúa Giêsu Kitô mà tôn kính và đi theo.

LỜI KẾT:

Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giệsu cho chúng con. Người đã chọn con đường và cách sốn tự hạ, tự hủy, tự hiến và hy sinh từ bỏ để cứu chuộc chúng con và nhân loai tội lỗi. Người đã mời gọi những ai muốn làm môn đệ Người hãy bước theo Người trên con đường tự hạ, tự hủy, tự hiến và hy sinh từ bỏ mà Người đã đi.

Chúng con xin Cha ban cho chúng con lòng tin và sức mạnh để chúng con dám bước theo chân Chúa Giêsu Kitô Con Cha, Chúa chúng con.  Amen.

Sàigòn ngày 10 tháng 09 năm 2021

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội 

------------------------

 

TN 24-B135: ĐỨC TIN NỬA VỜI


Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

 

Trong xã hội, người ta hay thực hiện các cuộc thăm dò để lấy phiếu tín nhiệm về một nhân vật TN 24-B135


Trong xã hội, người ta hay thực hiện các cuộc thăm dò để lấy phiếu tín nhiệm về một nhân vật, hoặc để tham khảo ý kiến về một dự án, có liên quan đến công ích. Ở phương Tây, những cuộc thăm dò thường xuyên được thực hiện trên báo chí và các phương tiện truyền thông, để biết về mức độ tín nhiệm đối với các nhân vật chính trị hoặc những người nổi tiếng, xem người dân nghĩ về họ như thế nào.

Thánh Luca cho biết, Chúa Giêsu cũng thực hiện một cuộc thăm dò. Cuộc thăm dò này được cả ba tác giả Tin mừng nhất lãm ghi lại, tuy có đôi chút khác biệt. Những người được thăm dò là các môn đệ. Họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa được một thời gian, đã được Người huấn luyện và được Người sai đi để tiếp nối sứ vụ của Người. Nội dung của cuộc thăm dò này là hai câu hỏi:

– Người ta nói Thầy là ai?

– Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?

Xem ra các môn đệ lúng túng trong việc trả lời. Với câu hỏi thứ nhất, các ông vòng vo theo, dựa trên dư luận và lời đồn thổi. Đối với câu hỏi thứ hai, các ông im lặng, trừ một mình Phêrô trả lời: Thầy là Đấng Kitô!.

Thông thường, khi thực hiện một cuộc thăm dò, người ta công bố kết quả xem ai có câu trả lời đúng nhất. Trình thuật của thánh Mác-cô lại khác. Chúa cấm ngặt không được nói với ai về điều Phêrô vừa tuyên xưng. Không những thế, Chúa còn tiên báo cuộc khổ nạn mà Người sẽ phải chịu: “Con người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Phêrô, người vừa mạnh mẽ tuyên xưng thân thế và sự nghiệp của Thầy mình, cũng phải sững sờ ngạc nhiên. Ông không thể chấp nhận một Đấng Kitô chịu đau khổ. Nếu như vậy thì việc ông và các anh em theo Chúa sẽ trở nên vô nghĩa. Bởi lẽ nơi tâm trí các ông in đậm hình ảnh một Đấng Thiên sai mang màu sắc chính trị và trần tục. Phêrô đã can gián Thày mình, thậm chí đã trách Chúa. Ông đã suy nghĩ và hành động theo tư tưởng của loài người. Hành động này bị Chúa mắng là satan.

Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, nhưng ông không chấp nhận Người chịu đau khổ! Nhưng, một Đức Giêsu không thập giá, lại không phải là Đức Giêsu của lịch sử, lại càng không phải là Đức Giêsu cứu nhân độ thế. Vì trong chương trình của Thiên Chúa đã được thực hiện, Chúa Giêsu đã vác thập giá và đã chịu đóng đinh trên thập giá ấy.

Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đang thực hiện một cuộc thăm dò, xem chúng ta nghĩ về Người như thế nào. Chúng ta tin Chúa, đó là điều chắc chắn, nhưng hình ảnh của chúng ta có về Chúa như thế nào. Đối với một số người tín hữu, phải chăng Chúa Giêsu chỉ là một nhân vật huyền thoại, do các tín hữu thời nguyên thuỷ tưởng tượng ra? Phải chăng Chúa Giêsu là một nhân vật lịch sử, nhưng thuần tuý chỉ là một con người uyên bác xuất chúng? Phải chăng Chúa Giêsu đã lui vào quá khứ xa xưa, không có liên hệ gì với cá nhân mỗi người tín hữu? Hiện nay, có hiện tượng những tín hữu chỉ chấp nhận một phần của Đức tin, ví dụ họ tin Chúa nhưng không tin Người hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, hoặc không tin Người tha tội trong Bí tích Hoà Giải. Họ tin Chúa nhưng không chấp nhận cơ cấu và giáo huấn của Giáo Hội. Hiện tượng này được gọi là “đức tin nửa vời”, là “đức tin tuỳ ý chọn lựa theo sở thích”.

Đức Giêsu mà Giáo Hội rao giảng là Đức Giêsu chịu đóng đinh. Người là Người Tôi tớ đau khổ và trung thành. Bài đọc I trích sách Ngôn sứ Isaia đã diễn tả một phần cuộc khổ nạn của Chúa. Trước những vu cáo, bạo lực và gian dối của con người, vị Tôi Tớ của Chúa vẫn kiên trung và phó thác. “Tôi đã đưa lưng ra cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu”. Vị tôi tớ ấy chính là hình ảnh của Đức Giêsu. Người đã dùng cây thập giá để minh chứng tình thương bao la của Thiên Chúa đối với nhân loại.

Như thế, theo Chúa là đi trên con đường thập giá, không có lựa chọn nào khác. Chúa Giêsu đã diễn giải điều này như bài học rút ra từ sự kiện được kể trong bài Tin Mừng.

– Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.

– Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.

Tin vào Chúa Giêsu mà không chấp nhận thập giá là Đức tin nửa vời.

Tin vào Chúa, tức là chấp nhận đưa mạng sống mình ra để “đánh cược”với Ngài.

Đã là người chẳng có ai tránh khỏi những thử thách. Tuy vậy, trước một khó khăn, người có Đức tin cảm thấy lối thoát nhờ Đấng Tối cao; người vô thần cảm thấy như mình đứng trước ngõ cụt. Người tin Chúa tìm thấy sức mạnh và an ủi; người vô tín thấy mình chơi vơi giữa con sóng biển đời. Đó là ý nghĩa việc Chúa Giêsu nói đến thập giá trong cuộc đời người tín hữu. Chúa Giêsu đã đến trần gian, Người không hủy bỏ thập giá nơi kiếp sống con người, nhưng Người cùng vác thập giá với họ để chia sẻ gánh nặng cuộc đời. Con người không còn đơn lẻ trong chặng đường thập giá, vì có Con Thiên Chúa vác cùng. Sau thập giá là vinh quang của phục sinh.

Bạn và tôi, chúng ta đều tin vào Chúa. Tuy vậy, Đức tin vào Chúa không phải là lời nói suông, mà phải được minh chứng bằng việc làm. Thánh Giacôbê đã khẳng định với chúng ta: Tin vào Chúa mà không hành động thì là Đức tin chết (Bài đọc II). Nơi khác, vị tông đồ còn khẳng định mạnh mẽ hơn: Ma quỷ cũng tin vào Chúa và chúng run sợ, nhưng chúng không yêu mến Chúa (x. G 2,20). Chính qua việc làm mà chúng ta chứng tỏ một Đức tin sống động và đích thực.

“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Câu hỏi này vẫn đang được đặt ra cho chúng ta hôm nay.

------------------------

 

TN 24-B136: MỘT CHỮ TÌNH


Lm. Jos DĐH.

 

Câu hỏi, câu trả lời: ngắn gọn, đơn giản, chân tình, luôn thu hút, cũng là cách gieo trồng tình thân TN 24-B136


Câu hỏi, câu trả lời: ngắn gọn, đơn giản, chân tình, luôn thu hút, cũng là cách gieo trồng tình thân thương tốt nhất, và dễ nghe, dễ hiểu hơn cả. Lời nói thẳng nói thật, vẫn bị xem là khó chấp nhận, khó đủ điều, đúng như câu tục ngữ: sự thật mất lòng. Mang dáng dấp của niềm vui, bình an, không phải là điều mơ ước mới lạ đối với ta, vì trong tương quan có tình, có lý, mà không nhàm chán, mới lạ nhưng không cổ kính, luôn ở sát gần ta. Cuộc sống vốn tự nhiên đã khổ đau rồi, tuy nhiên, nỗi nhọc nhằn sẽ qua đi, khi mỗi người được xây dựng trên một “chữ tình”: tình yêu thương, tình làng nghĩa xóm, tình liên đới hiệp thông. Ít nhiều gì thì chữ tình vẫn đang phảng phất nơi tâm tư mỗi chúng ta: đắng cay vẫn thể ruột già, dù xa, xa lắm vẫn là anh em.

Cũng phải nói rằng: dù ta đang nặng gánh trách nhiệm gia đình, thao thức với quê hương, vẫn chung một tín hiệu tốt đẹp ta đang gắn bó với mọi người, xây dựng nước Chúa ngay tại trần gian. Đức Giêsu năm xưa không hỏi về tài năng, thành bại, hoặc về niềm vui nỗi buồn, nhưng Ngài quy chiếu về “chữ tình” mà mọi người phải có. “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai” ? Vâng, bảo Thầy là ai, ông Phêrô đã trả lời ngắn gọn, chính xác, và số các học trò hôm đó cũng chẳng khó để tuyên xưng: Thầy là Đấng Kitô”. Ngày hôm nay và mai sau, Đức Giêsu vẫn mời gọi, từng người hãy chân thành nói lên lập trường của mình: tôi tin Đức Giêsu là Đấng Kitô. Phải chỉ một chữ tình, dù là tình liên đới hiệp thông, tình thân thương với mơ ước xoa dịu những lắng lo sợ hãi.

Ngày lại ngày, ta có suy nghĩ gì về “chữ tình” mà Đấng là Thầy là Chúa luôn thôi thúc ta không ? Đúng, mọi giấc mơ có thể thành sự thật, chỉ cần ta đủ dũng cảm, kiên trì, để sức mạnh của chữ tình biến đổi ta hoàn thiện câu trả lời: Thầy của tôi là Đấng Kitô. Sau khi các môn đệ nói đúng danh tính mà dư luận đám đông không thể trả lời, quả là đáng khen rồi. Liền đó, “Đức Giêsu bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại”. Chính trong tư cách là Thầy dạy đức tin, Đức Giêsu tỏ cho các học trò hiểu sâu hơn về sứ mạng con Thiên Chúa: phải đi từ khổ đau thập giá rồi mới đến vinh quang. Đau khổ thập giá của người môn đệ thấy hôm nay, chính là niềm vui thật mà mọi người sẽ gọi là hạnh phúc mai sau.

Chữ tình mà Đức Giêsu nói với Phêrô, và còn nói với từng người học trò của Ngài, đó là sự thật, “hãy lui ra đằng sau Thầy”. Là trò ngoan trò giỏi, phải biết hiệp thông mỉm cười khi thầy cười, vui khi thầy vui, nhưng không được khóc khi thầy khóc, vì lúc ấy học trò phải tỉnh táo hiệp thông với thầy vượt qua sự khó. Phải cần đến chữ tình: tình liên đới, tình hiệp thông, đó là sức mạnh khăng khít nhằm giúp người học trò luôn theo Thầy. Thầy Giêsu vượt qua đau khổ thập giá bằng tình yêu thương, trò cũng thắng vượt khổ đau thập giá bằng tình yêu thương, cùng sức mạnh của Thầy. Đi đằng sau Thầy, theo Thầy, không phải hy vọng để được che chắn, thoát hiểm như ở đời vẫn nói: ăn đi trước lội nước theo sau. Theo Thầy, đi sau Thầy là để học hiểu và sống sứ mạng loan báo tình yêu thương và ơn cứu độ như Thầy của mình.

Một chữ tình, ít nhiều đã mở rộng tầm nhìn cho những ai thao thức sống tốt, sống đúng, sống đẹp. Đức Giêsu còn mong muốn “tình yêu cứu độ”, sẽ mãi còn đọng lại nơi cuộc đời những ai theo Ngài làm môn đệ, nghĩa là biết thực hành đức tin mà người học trò nhận lãnh. Hoàn cảnh địa vị hay nén bạc của mỗi người mỗi khác, nhưng tình yêu trao ban của Đức Giêsu vẫn là một: “ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Cũng có thế nói: sống ở đời này, giống như con cá trong bể nước, nóng hay lạnh, chỉ mình con cá nó biết, nhận ra cái mình không biết, mới là điểm khởi đầu của cái biết. Tình cảm chân thành phải đi từ sự khiêm tốn, mới có thể nhìn rõ và hiểu đúng về đối tượng mình yêu thương, đức tin phải có việc làm, đức tin mới đủ sống động và nên hoàn thiện.

Chỉ một chữ tình, cũng từ một chữ tình, những môn đệ, tiền nhân chúng ta, và cả nhân loại sẽ còn được mời gọi để sống, để minh chứng, để đi đến tận cùng của hạnh phúc, khi mà mọi người dễ dàng mở miệng tuyên xưng: Thầy là Đấng Kitô. Tình người, tình đời, có thể mông lung, khó hiểu, ví như người ta lầm lẫn mà thả mồi bắt bóng. Ví như các chuyên gia tâm lý chia sẻ: nếu khi người con gái nói rằng, không có gì, nghĩa là bạn nhất định phải tìm ra vấn đề mà cô gái ấy đang gặp phải. Chữ tình mà Chúa Giêsu thức tỉnh các học trò hết sức rõ ràng: “ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, vì Tin mừng, thì sẽ tìm gặp được sự sống ấy”. Chính tình yêu làm cho ta sống, chính sự liên đới hiệp thông với Đức kitô, làm cho người ta đủ tình yêu và bình an theo Chúa đến cùng. Xin Đấng là Thầy là Chúa, giúp chúng con khiêm tốn nhận ra sức mạnh của chúng con ở trong tay Chúa, ở trong tình thương xót Chúa. Amen.

------------------------------

 

TN 24-B137: THẦY LÀ AI?


Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

 

Người ta nói Thầy là ai?”. Các môn đệ trả lời là dân chúng coi Thầy là Gioan Tẩy Giả, là ngôn TN 24-B137


“Người ta nói Thầy là ai?”. Các môn đệ trả lời là dân chúng coi Thầy là Gioan Tẩy Giả, là ngôn sứ Êlia hay một ngôn sứ nào đó. Người ngoài có một cái nhìn mơ hồ và thiếu sót. Đức Giêsu chờ đợi một câu trả lời rõ ràng và đầy đủ hơn từ phía các môn đệ, là những người đã theo Ngài một thời gian, đã từng ở với Ngài, nghe Ngài giảng, thấy những dấu lạ Ngài làm… Ngài không trực tiếp nói cho họ biết rõ căn tính của mình, nhưng để họ tự khám phá ra.

“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô đại diện cho cả nhóm, nói lên niềm xác tín của mình:“Thầy là Ðấng Kitô”. Phêrô trả lời hoàn toàn đúng, nhưng hình ảnh của ông về Đức Kitô vẫn không khác với quan niệm của đám đông: là một Đức Kitô oai phong lẫm liệt, chỉ chiến thắng chứ không hề chiến bại. Quan niệm và xác định như thế, nên khi Đức Giêsu tiên báo về cuộc Thương Khó của Ngài đã khiến Phêrô choáng váng. Ông không sao hiểu nổi vì đang mải mê với một Đức Kitô vinh quang. Ông vội kéo riêng Ngài ra để ngăn lại ý định đó, nhưng bị quở trách ngay: “Xatan! lui lại đằng sau Thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Đức Giêsu biết rõ đâu là con đường Chúa Cha mong muốn, và đâu là con đường thế gian chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt trên tính toán khôn ngoan của loài người (x.1Cr 1,25).

Con đường của Đức Giêsu là con đường hẹp:“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Từ bỏ chính mình là không còn sống cho chính mình nữa, mà dám liều mất mạng sống mình vì Đức Kitô và vì Tin Mừng. Từ bỏ chính mình là điều kiện tiên quyết, nếu không, việc tiếp nhận Đức Giêsu và sống sứ mạng đời mình sẽ trở thành một ảo vọng, hay đúng hơn là một tham vọng, một hình thức từ bỏ để chiếm hữu. Vì ngay các môn đệ, dù đã bỏ cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tài sản… để theo Chúa, thì họ vẫn thấy mình là người quan trọng. “Cái tôi” có nguy cơ lớn lên song song với lòng quảng đại hiến thân của họ. Vì vậy mà Nhóm Mười Hai đã từng tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất (x. Mc 9, 33). Trở ngại đầu tiên và cuối cùng cũng vẫn là cái tôi. Từ bỏ cái tôi là nỗ lực liên tục của mọi Kitô hữu, dù là tu sĩ hay giáo dân, già hay trẻ, trí thức hay ít học. Thanh tẩy tội lỗi của mình đã là điều khó, nhưng thanh tẩy mình khỏi những nhân đức và công trạng xem ra còn khó hơn. Đó là điều mà ta phải luôn cảnh giác mình trên con đường theo Chúa.

Ngày nay, những ai nghe biết về Đức Giêsu, thì phần lớn nhìn nhận Ngài là một vĩ nhân, một siêu nhân, một vị Thầy đáng cho nhân loại thượng tôn. Như vậy Ngài cũng giống như Đức Khổng Tử, được thiên hạ tôn làm “Vạn Thế Sư Biểu”. Triết gia Karl Jasper đã từng xác nhận Đức Giêsu cùng với Socrates, Đức Phật, và Khổng Tử là một trong bốn nhân vật mẫu mực cho người đời noi theo. Và nếu như vậy thì cũng không khác gì cái nhìn của người Do Thái trong bài Tin Mừng này. Nơi Đức Giêsu còn một cái gì cao vượt hơn nhiều, liên quan trực tiếp đến toàn thể loài người và mỗi người, như lời Ngài phán:“Tôi là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga14,6). Ngài còn xác định nguồn cội và căn tính tuyệt đối của mình:“Tôi và Chúa Cha là một” (Ga10,10). Vì thế, “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9).

Nhưng điều quan trọng ở chỗ Đức Giêsu là ai đối với tôi? Để trả lời câu hỏi này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho biết, trước tiên: “Tôi phải đào sâu vào trong tâm hồn tôi”; nghĩa là phải bắt đầu từ kinh nghiệm của mình. Thánh Phaolô cũng đã trả lời câu hỏi đó bằng chính kinh nghiệm của ngài: Đức Kitô là “Đấng đã yêu mến tôi, và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2, 20). Muốn có kinh nghiệm này, tôi phải nhận ra mình là một tội nhân, tuyệt đối cần đến hy tế cứu chuộc của Đức Kitô. Đức Giáo Hoàng còn nói đến bước thứ hai là chiêm niệm và cầu nguyện. Ngài nhắc lại một lời nguyện tuyệt vời của thánh Augustinô: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, và xin cho con biết con”. Đây là ân ban mà chúng ta phải có lòng khao khát và cầu xin hằng ngày, để có thể liên tục khám phá về Đức Giêsu, Đấng luôn mới mẻ trong cuộc đời mình và trong từng biến cố của nhân sinh.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Câu hỏi ngày xưa Chúa đặt ra,
thì ngày nay vẫn còn luôn mới lạ,
con không thể trả lời theo người ta,
mà từ chính kinh nghiệm của bản thân,
qua thời gian con biết Chúa dần dần.

Nhưng rồi con thấy Chúa quá to,
vẫn là một mầu nhiệm khôn dò,
chẳng thể nào nói ra cho rõ,
lại càng không thể tỏ cho ai.

Con cảm nhận Chúa là tình thương,
hơn tất cả những gì con biết được,
hơn tất cả những gì con mơ ước,
là chỗ duy nhất con tựa nương.

Có khi con thấy Chúa rất lạ thường,
không như những gì con suy tưởng,
chỉ biết là Chúa Đấng khôn lường,
rất gần gũi nhưng vô cùng siêu vượt.

Xin Chúa thanh lọc tâm trí con,
những hình ảnh đã vốn có về Ngài,
để đón nhận một Giêsu luôn mới mẻ,
đi qua đời con với nhiều dáng vẻ,
làm tim con luôn tươi trẻ trong Ngài.

Xin cho con luôn tận tình đáp lại,
không ngần ngại trước mọi chông gai,
sẵn sàng hy sinh và từ bỏ chính mình,
để sống cuộc hành trình Ki-tô hữu.

Xin cho con mỗi ngày thêm khám phá,
để thực sự thấy Chúa là tất cả,
và lời con đáp trả thật sâu xa,
đạt tới niềm vui ơn cứu độ chan hòa. Amen.

-----------------------------

 

TN 24-B138: ĐÚNG HAY SAI


Lm Vũđình Tường

 

Đức Kitô muốn biết người ta nghĩ Ngài là ai. Ngài hỏi các môn đệ và các ông thưa có nhiều í kiến TN 24-B138


Đức Kitô muốn biết người ta nghĩ Ngài là ai. Ngài hỏi các môn đệ và các ông thưa có nhiều í kiến khác nhau lắm.

Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Elia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó’ c.28.

Đức Kitô hỏi tiếp, còn các anh cho Thầy là ai? Ông Phêrô lên tiếng ‘Thầy là Đấng Kitô’. Đức Kitô khen Phêrô có câu trả lời đúng nhất. Câu trả lời khác chỉ đúng một phần nhỏ về sứ mạng của Ngài. Đức Kitô không hài lòng bởi chúng không diễn tả trọn vẹn sứ mạng Ngài sẽ thực hiện nơi dương thế.

Chính Đức Kitô không dùng thánh danh Kitô để nói về mình nhưng lại dùng thánh danh ‘Con Người’. Thánh danh ‘Con Người’ có lẽ Đức Kitô muốn nhấn mạnh đến cách hành xử tàn ác, thô bạo, con người dùng để hành hạ nhau. Đức Kitô với tư cách là con người cũng chung số phận bị hành hạ, ác độc, thô bạo như những con người khác.

Trước đó ít phút ông Phêrô trả lời đúng, Đức Kitô ca ngợi ông; ít phút sau đó ông Phêrô góp í sai, Đức Kitô cảnh báo ông. Ông Phêrô trả lời đúng bởi câu trả lời đó đến từ Thiên Chúa. Câu góp í của Phêrô sai bởi câu đó do í riêng con người. Dù trả lời đúng, Phêrô vẫn không hiểu rõ nhiệm vụ cứu chuộc của Đấng Kitô. Ông đúng về thánh danh, nhưng sai về nhiệm vụ cứu chuộc. Đức Kitô mặc khải cho các ông biết sứ mạng cứu chuộc của Ngài.

‘Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kì mục, thượng tế củng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại. c.32.

Điều Đức Kitô mặc khải là tin kinh hoàng cho tất cả các môn đệ. Lí luận hợp lí của con người không thể lí giải được mặc khải trên. Đối với con người, chết là hết, chết là thua, mất mọi sự. Ba ngày sau khi chết, tất cả niềm hy vọng đều chết, kể cả hy vọng gặp lại cũng chết theo.

Theo Đức Kitô, ai tự tìm cách cứu mạng sống mình thì không cầm giữ được mạng đó. Còn ai hy sinh mạng sống mình vì Tin Mừng, vì Đức Kitô thì sẽ sống muôn đời c.35. Điều này cho biết con người có khả năng tìm vinh danh cho mình, nhưng không thể tự cứu mình. Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền ban sự sống trường sinh.

Đức Kitô khiển trách Phêrô, ông làm điều gì sai trái?

a/ Thứ nhất, ông đã đưa ra lời khuyên, điều Đức Kitô cần ông suy gẫm về mặc khải Ngài cho biết, ông đã không làm lại đưa ra lời khuyên.

b/ Thứ hai, ông đã vượt quá giới hạn của chính mình. Thay vì hỏi để hiểu điều Đức Kitô mặc khải. Phêrô đã không hỏi nhưng lại đưa lời khuyên.

c/ Thứ ba, Phêrô là học trò; trò sao có đủ khôn ngoan để khuyên Thầy. Vì thế Đức Kitô nói với ông khôn ngoan của ông là khôn ngoan của con người, không thể nào hiểu khôn ngoan của Thiên Chúa.

Rất có thể về ba điểm nêu trên mà Đức Kitô nói với các ông,

‘Không được nói với ai về Ngài’ c.30.

Việc ngăn cấm này có lẽ nhằm mục đích giới hạn việc phỏng đoán sai lầm về sứ mạng cứu chuộc của Đức Kitô. Chính các tông đồ là những người cận kề Đức Kitô mà chưa hiểu rõ sứ mạng cứu chuộc của Ngài, thì người khác làm sao có thể biết hơn được. Vì thế mọi tiên đoán, đồn đãi về Đức Kitô đều không có căn cứ. Tốt hơn tạm ngưng nói về sứ mạng của Ngài cho đến khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết.

Đức Kitô cũng cho Phêrô biết cách nhìn biết về Đức Kitô không phải là cách của riêng cá nhân ông mà chính là cách chung nhân loại nhận biết về Ngài.

Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người c.33
Câu này ngầm chứa nhiều khôn ngoan.

a/ Thứ nhất, để thi hành í Thiên Chúa thì phải nhận biết í Thiên Chúa, không thể nhận biết qua í kiến loài người.

b/ Thứ hai, con người có thói quen coi trọng í kiến riêng, coi í mình là quan trọng nhất. Mọi í kiến khác đều là thứ yếu.

c/ Thứ ba, Phêrô thành tâm không muốn để điều xấu xảy ra cho Đức Kitô. Ngài cho biết thành tâm, mong làm điều tốt không bảo đảm đó là í Thiên Chúa, thực hiện í Chúa.

d/ Thứ tư, cách con người thực hiện thường ỉ vào sức mạnh, quyền thế, tàn ác, ép người khác phục tùng. Họ có thể khống chế bề ngoài. Ta vẫn nghe nói: khẩu phục nhưng tâm thì không. Cách của Thiên Chúa nhẹ nhàng, chú trọng vào tâm hồn. Khâm phục cách tự nguyện và điều này phát xuất từ tâm hồn.

e/ Điểm cuối, con người không thích hình ảnh người Đầy Tớ Đau Khổ như các tiên tri tiên đoán về sứ mạng Chúa Cứu Thế. Nhân loại thích hình ảnh một vị vua oai phong, quyền lực. Nhân loại cũng không thích vác thập giá mình bước theo và cũng không thích từ bỏ chính mình. Trái lại nhân loại thích được nổi tiếng, trọng vọng, cao sang, quyền thế. Nhân loại chọn cách hành xử trong cuộc sống, dựa vào sức mạnh, quyền thế chèn ép, đè nén, giết, bỏ tù nhau. Đức Kitô kêu gọi môn đệ ngài từ bỏ những điều trên bởi chúng là nguyên nhân gây đau thương, tang tóc, chia rẽ, bè phái. Đức kitô tự chọn hạ mình, khiêm nhường, chấp nhận bị bắt, bị hành hạ, bị xỉ vả và chịu đóng đanh trên thập tự. Cách của Thiên Chúa là yêu thương, tha thứ, ban sự sống và xót thương. Con đường yêu thương, tha thứ là con đường môn đệ trung tín Đức Kitô chọn bước theo.

------------------------

 

TN 24-B139: XIN LÀM MÔN ĐỆ CHÚA


Hoa Hồng Nhỏ

 

Hôm nay, Thầy Giêsu và các môn đệ đi tới các làng thuộc vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Người TN 24-B139


Hôm nay, Thầy Giêsu và các môn đệ đi tới các làng thuộc vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” Các ông thưa: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, người khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8, 27-28). Nói lại những gì người khác nói về Chúa có lẽ không khó lắm, nhưng để trả lời cho câu hỏi: “Còn con, con bảo Thầy là ai?” thì mỗi người phải trả lời bằng chính xác tín của mình, xác tín đến từ điều đã được Thiên Chúa mạc khải cho, đến từ chính mối tương quan của người ấy với Chúa. Cũng vậy, để thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu, ta phải đi trên con đường Người đã đi, sẵn sàng liều mất mạng sống vì Chúa và vì Tin Mừng.

Các môn đệ được Chúa Giêsu chọn gọi, các ông được ở với Người, được Người dạy dỗ và sai đi. Chắc chắn, ở bên cạnh Người, các ông cảm nếm được tình yêu mà Chúa dành cho mình. Tông đồ trưởng Phêrô đã thay mặt các anh em trả lời với Thầy rằng. “Thầy là Đấng Kitô”. Điều đó không phải đến từ hiểu biết của riêng ông nhưng là hồng ân mà Chúa Cha đã mặc khải cho ông. Điều đến từ Thiên Chúa luôn là một hồng ân được ban tặng nhưng không cho những ai Người muốn. Dù đã mạnh mẽ tuyên xưng niềm tin của mình nhưng khi vừa nghe Thầy loan báo về cuộc Thương Khó mà Người sắp bước vào thì ông Phêrô đã kéo riêng Người ra mà trách. Ông không muốn cùng Chúa đi vào con đường Thương Khó ấy hay ông không muốn Thầy phải đau khổ? Ông vẫn muốn được sát cánh bên Thầy và vì thương yêu Thầy, ông không muốn Thầy đi vào chỗ chết. Ông chưa hiểu được đó là con đường mà thánh ý Chúa đã vạch ra, là con đường tình yêu mà Thầy sẽ dùng để cứu chuộc nhân loại. Chỉ vì chưa hiểu và vì thương yêu Thầy, ông đã bị Satan đánh lừa khi đứng ra can ngăn Thầy. Tư tưởng của ông không phải đến từ Thiên Chúa nhưng là của loài người (x. Mc 7, 33). Thầy nặng lời mắng ông là “Satan”,  đã sửa dạy ông trước mặt các anh em chỉ vì Người thương ông, không muốn ông đi lạc đường và Người cũng muốn dạy cho tất cả các môn đệ biết được chọn lựa của Người. Đối với Người, điều trần gian cho là tốt nhưng không phải là điều tốt trong mắt Chúa, việc thi hành thánh ý Thiên Chúa là điều quan trọng nhất, kiên quyết nhất.

Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ biết về những gì Người sẽ trải qua trong cuộc Thương Khó cách rõ ràng, không úp mở. Người còn dạy các ông về tâm thế phải có của một người môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Đó là người biết bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa, sẵn sàng liều mất mạng sống mình vì Chúa và vì Tin Mừng (x. Mc 8, 34-35). Sau này, chính các môn đệ đã sống triệt để lời Thầy Giêsu dạy dỗ khi hy sinh mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng Phục sinh. Còn với ta, đứng trước câu hỏi của Chúa Giêsu, câu trả lời của ta là gì? Ta cũng cần nhắc lại câu trả lời của thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô”. Thêm nữa, mỗi ngày ta hãy chọn Chúa là Chúa của mình, khiêm nhường nhìn nhận thân phận yếu hèn của mình; sẵn sàng để Chúa bước vào cuộc đời ta, để Người ngự vào tâm hồn ta. Chính Người sẽ dạy ta cách để trở nên người tông đồ của lòng thương xót Chúa. Chúa ban cho ta sự sống, ban cho ta được hiện hữu là vì Chúa yêu ta và cũng để ta được sống trong tình thương của Người. Chúa Giêsu đã vác thập giá lên đồi Canvê là vì yêu nhân loại. Người cũng mời gọi ta bước cùng Người trên con đường ấy, để đáp lại tình yêu Chúa và để yêu thương anh em.

Lạy Chúa Giêsu! Có người đã từng nói: “Nếu chọn Chúa, con sẽ là tất cả. Nếu chọn ai đó, con sẽ không là gì cả”. Con tạ ơn Chúa đã viếng thăm con, yêu con đang khi con yếu hèn tội lỗi. Con được Chúa ban cho ơn nhận biết mình được yêu thương. Chúa cũng cho con thấy con cần phải thả neo cuộc đời con nơi chính Chúa, bởi vì Chúa đã hơn một lần nói với con: “Đối với Ta, con thật quý giá”. Amen.

-------------------------

 

TN 24-B140: LIỀU MẤT MẠNG SỐNG MÌNH


Thiên San

 

Để chiêu gọi các môn sinh hay chiêu gọi khách hàng đến với mình, chúng ta thường chọn cách TN 24-B140


Để chiêu gọi các môn sinh hay chiêu gọi khách hàng đến với mình, chúng ta thường chọn cách quảng bá những điều hay, hứa hẹn bao điều tốt đẹp, hấp dẫn mà các môn sinh hay các khách hàng muốn đạt được, có được. Trong những tình huống như vậy, ít ai chọn cách nói điều gây bất lợi hay làm mất hình ảnh của bản thân. Nhưng khi đọc bài Tin Mừng hôm nay nay, chúng ta thật ngạc nhiên khi Thầy Giêsu không ngần ngại nói cho các học trò của mình biết về những đau khổ, bắt bớ và cả cái chết, sự phục sinh mà mình sẽ trải qua. Không những thế, Người còn nói rõ điều kiện theo Chúa cho các học trò cũng như cho những ai muốn theo Người. Tất cả những điều đó xem ra không có gì hấp dẫn và đó còn là một thách đố lớn nữa.

Theo Chúa bấy lâu, hẳn các môn đệ cũng phần nào hiểu biết về Thầy của mình. Các ông cũng nghe người ta nói về Thầy của mình. Bằng chứng là khi được hỏi về điều đó, các ông đều có thể trả lời một cách rõ ràng: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác thì cho là một trong các vị ngôn sứ nào đó” (Mc 8, 28).  Nhưng khi được hỏi về cái nhìn của chính mình: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mc 8, 29), dường như các ông mấy tự tin để trả lời. Chỉ có Phêrô là người đại diện trả lời: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8, 29). Từ đó, Thầy Giêsu không ngần nại nói cho các học trò biết về những gì sẽ xảy ra. Đoạn, Người cũng nói rõ những điều kiện dành cho những ai muốn theo Người. Đó là phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa. Những điều kiện này xem ra cũng chẳng hấp dẫn hơn những gì Thầy Giêsu sẽ trải qua.

“Ai muốn giữ mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8, 35). Đó là lời khẳng định của Thầy Giêsu sau những điều Người đã mặc khải về cuộc Thương Khó của Người. Thiết nghĩ, các môn đệ còn chưa hiểu được Đấng Kitô nghĩa là gì. Để theo Người đúng nghĩa, các môn đệ phải chấp nhận liều mất mạng sống mình, chấp nhận những đòi hỏi khắt khe của Tin Mừng. Những đòi hỏi của Tin Mừng thật sự rất khó khăn. Đó là những thách đố cho con người mọi thời đại, cho những ai muốn theo Thầy, là nghịch lý của Tin Mừng. Bởi từ bỏ chính mình chưa bao giờ là điều dễ dàng.

Trong tình hình dịch bệnh ngày càng căng thẳng, ở những tuyến đầu, những nơi được gọi là tâm dịch, nơi đó vẫn còn biết bao bóng dáng của những “thiên thần áo trắng’, các thiện nguyện viên đang ngày đêm “liều mất mạng sống mình” để cho các bệnh nhân được sống. Thiết nghĩ, họ chính là những môn đệ đích thực của Thầy Giêsu. Ai cũng hiểu rằng, khi tiếp xúc, chăm sóc, cứu chữa cho các bệnh nhân thì nguy cơ nhiễm bệnh sẽ rất cao và có thể mất mạng. Sự sống thật mong manh. Theo một cách nào đó, họ chẳng phải là những môn đệ đang sống theo lời mời gọi của Thầy Giêsu đó sao? Từ bỏ mình, liều mất mạng sống mình để lao vào chiến trận, họ đang ngày đêm gồng mình chiến đấu, tìm mọi cách để cứu các bệnh nhân thoát khỏi tay tử thần. Không phải họ không sợ chết nhưng đạo đức nghề nghiệp và trái tim đầy tràn yêu thương là động lực giúp họ vượt qua mọi khó khăn, sưởi ấm bao tâm hồn đang bất động vì Covid. Còn chúng ta, chúng ta đang làm gì để sống theo những đòi hỏi của Tin Mừng trong thời đại hôm nay, nhất là trong hoàn cảnh dịch bệnh?

“Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2, 18). Lạy Chúa Giêsu! Chúng con cảm tạ Chúa đã cứu chuộc chúng con bằng giá Máu châu báu của Ngài trên thập giá. Xin cho mỗi người chúng con luôn biết tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Chúa, cùng biết liều mất mạng sống mình để sống theo những đòi hỏi của Tin Mừng. Đặc biệt, xin cho chúng con biết hành động sao cho đẹp lòng Chúa, để nhờ đó mọi người nhận biết Chúa. Amen.

-------------------------

 

TN 24-B141: TIN LÀ BƯỚC THEO CHÚA KITÔ KHỔ NẠN-PHỤC SINH


Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 

Dung mạo một Vì Thiên Chúa, Đấng Mêssia dưới dáng dấp của “Người Tôi Tớ đau khổ” như Isaia TN 24-B141


Dung mạo một Vì Thiên Chúa, Đấng Mêssia dưới dáng dấp của “Người Tôi Tớ đau khổ” như Isaia mô tả được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, chịu đau khổ, chịu đóng đanh, chết vì chúng ta và đã sống lại để cứu chuộc chúng ta.

Người Tôi Tớ đau khổ

Hình ảnh “Người Tôi Tớ đau khổ” bị chống đối: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Chịu đau đớn trong thân xác như: bị đánh vào lưng, bị giật râu, vừa đau lại vừa nhục (x. 2Sm 10,4), bị khạc nhổ vào mặt (x. Ds 12,14). Tất cả như báo trước về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu Kitô, vị ngôn sứ thành Nagiarét phải mang lấy vào thân và hiện thực nơi Người.

Đức Giêsu Kitô chính là “Người Tôi Tớ khổ đau của Thiên Chúa”, chứ không ai khác. Người là Đấng Cứu Thế được Thiên Chúa tuyển chọn, tự nguyện gánh tội trần gian, dùng chính cái chết của mình làm lễ giao hòa, hầu muôn dân được ơn tha tội.

Bước theo Đức Kitô khổ nạn và phục sinh

Vỗn dĩ là Thiên Chúa, Đức Giêsu đã chấp nhận đau khổ và cái chết, không có nghĩa là Người tìm kiếm đau khổ cho mình. Người chịu như thế là vì vâng phục Chúa Cha, để cứu chuộc chúng ta như Thánh Phaolô đã nói: “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Kinh Thánh” (1Cr 15,3).

Suốt ba năm công khai đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Đức Giêsu đã nhiều lần báo cho các môn đệ biết trước về số phận cứu thế của mình rằng “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mc 8,31-33). Lần khác khi tụ họp tại Galilêa, Đức Giêsu cũng tỏ cho họ biết: “Con Người sắp bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại” (Mc 9,30-32). Lúc sắp lên Giêrusalem, dọc đường Đức Giêsu nói riêng với Nhóm Mười Hai: “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và ký lục; người ta sẽ lên án tử hình cho Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại, và người ta sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ trên Người, đánh đòn Người và giết đi, và ba ngày sau Người sẽ sống lại” (Mc 10,32-34).

Tất cả những gì các ngôn sứ viết về Người Tôi Tớ đau khổ, Đức Giêsu sẽ là người thực hiện. Nhưng các môn đệ đâu có hiểu, vì họ cũng như tất cả những người Do Thái thời đó đang trông chờ một Đấng Cứu Thế chính trị, nổi lên lãnh đạo dân Do thái đánh đuổi đế quốc Roma, thống trị các dân nước và khôi phục vương quốc nhà Đavít. Đức Giêsu Kitô, Đấng hoàn toàn thánh thiện và vô tội, đã tự nguyện gánh lấy mọi tội lỗi của trần gian và chấp nhận cái chết bất công hổ nhục để cứu chuộc muôn người. Tại Giêrusalem, ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô được đầy ơn Chúa Thánh Thần đã công khai loan báo: “Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ mà đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết” (Cv 2,23-24). Đó là Tin Mừng và là đức tin Giáo Hội tiếp tục rao giảng cho muôn dân cho đến ngày tận thế.

Tin và thực hành

Tin Mừng hôm nay mô tả một hoàn cảnh đặc biệt. Phêrô, người đã tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô “là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mc 8,29). Liền sau đó, Đức Giêsu hé mở cho các môn ông hiểu rằng “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8, 31), làm đảo lộn tâm hồn ông, Phêrô nổi loạn. Không thế được, không thế được. Làm sao Ðấng Kitô lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Phêrô không chấp nhận con đường ấy, nên mới: “Kéo Người lui ra mà can trách Người” (Mc 8, 32).  Ý của Phêrô là, Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến Thánh Giá! Ðiều này không có gì liên quan với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà không có Thánh Giá.

Ngỏ lời với Hồng y đoàn trước khi khai mào sứ vụ ngai tòa Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Ðức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa”.

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8, 34). Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận thập giá.

Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình“, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).

Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, “chịu mất mạng sống” (Mc 8, 35) là một thất bại. Nhưng khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Ðức Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân.

Lạy Maria, Mẹ đã sống lòng tin bằng cách trung thành theo Chúa Giêsu Con Mẹ, xin giúp chúng con bước đi trên con đường của Chúa Giêsu bằng cách quảng đại xả thân cho Chúa và cho tha nhân. Amen.

----------------------------

 

TN 24-B142: QUYẾN RŨ


Trầm Thiên Thu

 

Ngôn sứ Giêrêmia thổ lộ: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ TN 24-B142


Ngôn sứ Giêrêmia thổ lộ: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng.” (Gr 20:7) Cách quyến rũ của Thiên Chúa rất khác lạ, không giống như cách của loài người. Trong đời thường, người ta HỨA HẸN đủ thứ bằng những lời đường mật, còn Thiên Chúa lại quyến rũ bằng cách KHÔNG HỨA “ngon lành” hoặc “béo bở” mà Ngài HẸN những thứ hoàn toàn trái ý chúng ta: Từ bỏ chính mình và vác thập giá hằng ngày.

Chính mình mà lại không được chiều chuộng, còn đau khổ không ai muốn thì lại phải chấp nhận. Ngậm trái bồ hòn mà cảm thấy vị ngọt thì đúng là quá đỗi lạ lùng, kẻ đó có lẽ “điên khùng” thật. Nhưng đối với Thiên Chúa, kẻ điên khùng đó rất đáng yêu, đặc biệt là được thưởng Nước Trời. No Cross, No Crown; No Pain, No Gain. Không thập giá thì không có triều thiên; không đau khổ thì chẳng được lợi gì.

Thế gian được ví là bể khổ, chắc chắn chẳng vui sướng gì. Thật vậy, cuộc sống luôn có nhiều vấn nạn – từ nhỏ tới lớn, từ đơn giản tới phức tạp, từ cụ thể tới trừu tượng, từ riêng tới chung. Biết cách đặt vấn đề có thể giúp chúng ta xử lý tình huống tốt hơn hoặc dễ dàng hơn. Ngược lại, không biết cách đặt vấn đề có thể khiến chúng ta lâm vào thế bí. Rắc rối. Phức tạp. Nhiêu khê. Tuy nhiên, đặt vấn đề cũng có thể là đưa ra một điều kiện nào đó: Nếu làm thế này thì sẽ được cái kia.

Thập giá là vấn đề độc đáo đã được Chúa Giêsu đặt ra cho những người muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ của Ngài. Thập giá là chiếc cầu gồm hai nhánh kỳ diệu, nhánh dọc đưa đến Thiên Chúa, nhánh ngang dẫn tới tha nhân. Hai nhánh giao nhau ở giữa, giao điểm đó chính là “nút thánh” Đức Giêsu Kitô. Thập giá là con đường duy nhất dẫn tới hạnh phúc đích thực. Không có con đường nào khác.

Đau khổ là vấn đề chúng ta phải lập kế hoạch rõ ràng. Thập Giá là Thánh Giá, là cái GIÁ để nên THÁNH. Muốn nên thánh thì phải trả giá bằng cách đi qua Con Đường Thập Giá. Chỉ có độc đạo đó dẫn tới Thiên Chúa mà thôi.

Đau khổ Thập Giá mà Đức Giêsu Kitô phải trải qua đã được ngôn sứ Isaia tiên báo: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” (Is 50:5-7)

Thập Giá là nhục nhã, tang tóc, chết chóc. Nhưng Thập Giá lại tiềm ẩn sự quyến rũ lạ lùng, và đó là đại lộ dẫn tới cõi phục sinh, nơi trường sinh bất tử. Ngôn sứ Isaia đã đặt vấn đề: “Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên. Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi! Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?” (Is 50:8-9a)

Nếu thực sự có Thiên Chúa thì người ta không còn sợ hãi bất cứ ai hoặc điều gì: “Lòng tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi khẩn nài, Người lại lắng tai ngày tôi kêu cứu.” (Tv 114 [116]:1-2) Lòng tin ấy thật mãnh liệt, bền vững, và được kiểm chứng xác thực: “Gặp gian truân sầu khổ, tôi đã kêu cầu danh Chúa: ‘Ôi lạy Chúa, xin cứu gỡ mạng con!’ Chúa là Đấng nhân từ chính trực, Thiên Chúa chúng ta một dạ xót thương, hằng gìn giữ những ai bé mọn, tôi yếu đuối, Người đã cứu tôi.” (Tv 114 [116]:4-6)

Niềm tin được minh chứng thì niềm tin đó càng thêm vững mạnh, thế nên họ luôn tự nhủ: “Hồn tôi hỡi, thôi bình tĩnh lại, vì trên ngươi, Chúa đã xuống ơn lành; Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi chết, giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ, ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân. Tôi sẽ bước đi trước mặt Người trong cõi đất dành cho kẻ sống.” (Tv 114 [116]:7-9) Đức tin càng mạnh thì càng thêm trông cậy và thể hiện đức mến.

Nhưng đức tin đó phải được chứng tỏ bằng hành động cụ thể, như Thánh Giacôbê nói: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no,’ nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2:14-16) Đó cũng là cách giải thích rõ ràng các chi tiết và rất cụ thể.

Cách lý luận của Thánh Giacôbê rất độc đáo: “Đức tin KHÔNG CÓ HÀNH ĐỘNG thì quả là ĐỨC TIN CHẾT. Đàng khác, có người sẽ bảo: ‘Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động.’ Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin.” (Gc 2:17-18) Cách đặt vấn đề lô-gích và tuyệt vời biết bao!

Chính Chúa Giêsu đã cho ông Tôma biết bí quyết đạt được sự sống vĩnh hằng: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. KHÔNG AI ĐẾN VỚI CHÚA CHA MÀ KHÔNG QUA THẦY.” (Ga 14:6) Con đường đó là Con Đường Giêsu, và cũng là Con Đường Thập Giá. Không có bất cứ con đường, lối đi hoặc ngõ ngách nào khác.

Có một số vấn đề quan trọng được trình bày trong trình thuật Mc 8:27-35. Một hôm, Đức Giêsu và các môn đệ tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” Ngài lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” Lời tuyên xưng rõ ràng, chính xác, dứt khoát. Thật tuyệt vời và rất đáng khen, nhưng Ngài cấm các ông tiết lộ với người khác.

Rồi Ngài còn cho biết rằng Ngài phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Đây lần thứ nhất Ngài loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài. Nghe Ngài nói rõ như vậy, ông Phêrô liền kéo riêng Ngài ra và trách Ngài. Nhưng Ngài liền quở trách ông Phêrô: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” Ông Phêrô vừa mới được khen thì lại bị trách ngay. Điều đó cho thấy rằng phàm nhân luôn biến đổi vì yếu đuối, thậm chí có lúc còn không biết mình là ai. Phàm nhân chẳng khác thời tiết thất thường, khó đoán.

Chúa Giêsu cho biết điều kiện để theo Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” Nghe chừng là nghịch lý, nhưng thực ra lại là thuận lý. Đơn giản mà nhiêu khê!

Ngụ ngôn kể về hai mẹ con loài chó. Chó con hỏi chó mẹ: “Mẹ ơi, hạnh phúc là gì vậy?” Chó mẹ giải thích: “Hạnh phúc là cái đuôi của con đấy!” Chó con liền quay lại tóm lấy cái đuôi nhưng không thể. Chó con oà khóc và hỏi: “Mẹ ơi, tại sao con không thể bắt được hạnh phúc vậy?” Chó mẹ điềm nhiên: “Con yêu, con cứ tiến về phía trước thì hạnh phúc sẽ theo sau con. Con càng muốn năm bắt hạnh phúc thì hạnh phúc càng xa con.”

Triết lý sống rất đơn giản, nhưng người ta cứ tự làm cho cuộc sống thêm phức tạp. Tại sao cứ phải đi tìm hạnh phúc trong khi hạnh phúc vẫn luôn đi theo mình? Cứ sống và cảm nhận hạnh phúc mà Thiên Chúa dành cho chúng ta giữa trần gian này. Hạnh phúc trừu tượng mà vẫn cụ thể: HẠNH PHÚC LÀ ĐƯỢC SỐNG BÊN NHỮNG NGƯỜI MÌNH YÊU THƯƠNG. Như vậy, hạnh phúc luôn gần gũi và giản dị. Đời thường mà rất diệu kỳ.

“Vác thập giá hằng ngày” vừa là lời khuyên vừa là mệnh lệnh mà Chúa Giêsu truyền, ai nỗ lực thì sẽ được sống. Hạnh phúc nào cũng có vị mặn của nước mắt, thành công nào cũng cần khổ luyện. Thánh Bernard Clairvaux (1090-1153) xác nhận: “Sự chết là cửa ngõ của sự sống.” Còn đại văn hào Victor Hugo (1802-1885) cho biết: “Hành động tốt là bản lề của Cửa Nước Trời.” Thế thì chẳng gì phải ngạc nhiên khi Chúa Giêsu bảo chúng ta phải “từ bỏ mình” và “vác thập giá” không ngừng, triền miên từ sáng tới chiều, miệt mài hết ngày này qua tháng nọ.

Tình Chúa bao la và bất biến, hãy tín thác vào Ngài, vì Ngài đã thề hứa: “Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống.” (Ed 33:11) Thiên Chúa rất muốn mọi người được vào Nước Trời, và đó cũng là cùng đích của chúng ta. Đây là sự khôn ngoan của Thánh Vịnh gia: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.” (Tv 51:3-5)

Nhân vô thập toàn, ai cũng có lúc được khen và có lúc bị chê. Nhưng quan trọng là cách thức khen và chê: “Kẻ khen ta mà khen thật mới chỉ là bạn ta, kẻ chê ta mà chê thật chính là thầy ta, còn kẻ nịnh hót tâng bốc ta thì chỉ là kẻ hại ta.” (Tuân Tử, hiền triết Trung Hoa) Trong mọi mối quan hệ, sự thẳng thắn vẫn là cách quyến rũ nhất.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con thành tín trong mọi động thái, gia tăng can đảm để chúng con khước từ những gì không thuộc về Ngài, xin giúp chúng con chấp nhận thập giá đại dịch này để hoán cải theo Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

-------------------------

 

TN 24-B143: ĐỨC TIN TRỌN VẸN


Gm Giuse Vũ Văn Thiên

 

Đức tin là ơn ban của Thiên Chúa mà chúng ta nhận được khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Vì TN 24-B143


Đức tin là ơn ban của Thiên Chúa mà chúng ta nhận được khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Vì là một ơn ban hay quà tặng, nên ta có thể gìn giữ hoặc có thể đánh mất đức tin. Thiên Chúa ban đức tin cho mọi người đều giống nhau, tuy vậy, có người có đức tin mạnh mẽ, người khác lại có đức tin yếu kém. Như vậy, đức tin yếu kém hay mạnh mẽ là do cá nhân người đã lãnh nhận. Để được xứng danh người tín hữu, chúng ta phải có một đức tin trọn vẹn.

Đức tin được gọi là “trọn vẹn” được thể hiện qua ba khía cạnh: Tuyên xưng đức tin, Sống đức tin và Loan truyền đức tin. Thiếu một trong ba khía cạnh này, có thể nói chúng ta chưa được một đức tin trọn vẹn.

Để tuyên xưng đức tin, chúng ta phải hiểu nội dung của đức tin như Giáo Hội dạy. Những chân lý đức tin được truyền lại từ bao thế hệ. Qua những “tín điều” được Giáo Hội chính thức tuyên xưng trong kinh Tin Kính, người tín hữu nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời, đồng thời cảm nhận được sự dẫn dắt của Ngài giữa bao sóng gió của trần gian. Đức tin được tuyên xưng cách cá nhân: “tôi tin”, và cũng được tuyên xưng cách tập thể, tức là với sự hiệp thông trong Giáo Hội: “chúng tôi tin”. Đức tin được tuyên xưng trong phụng vụ, nhưng cũng phải được tuyên xưng trong cuộc sống hằng ngày.

Để sống đức tin, chúng ta phải thực hiện Lời Chúa dạy trong mối tương quan với anh chị em. Nhiều người tín hữu quên mất khía cạnh quan trọng này. Vì thế, đời sống hằng ngày đi ngược với điều họ tuyên xưng trong nhà thờ. Đức tin phải thấm nhập đời sống người tín hữu và thể hiện qua việc làm, để rồi, những người chưa tin Chúa sẽ nhận ra Ngài nơi chính cuộc đời của chúng ta. Nói cách khác, cuộc đời người tín hữu là một “cuốn Tin Mừng thu gọn”, diễn tả cuộc đời Chúa Giêsu, làm chứng nhân cho Người giữa đời.

Để loan truyền đức tin, người tín hữu phải hiểu biết Chúa và trình bày giáo huấn của Người cho anh chị em mình. Loan báo Tin Mừng là bổn phận của mỗi Kitô hữu. Tuy vậy, việc loan báo Tin Mừng chỉ đem lại những hiệu quả thiết thực, nếu người loan báo thực sự tuyên xưng và sống đức tin, như đã nói ở trên. Họ như người đã thực sự gặp gỡ Chúa và chia sẻ cho anh chị em về kinh nghiệm gặp gỡ ấy.

Lời Chúa hôm nay giúp ta nhận ra đâu là đức tin trọn vẹn. Thánh Giacôbê khẳng định: Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Đức tin chết có nghĩa là đức tin không được tuyên xưng, không được sống (thực hiện) và không được loan truyền. Đối với những người có đức tin mà không có việc làm, món quà đức tin bị họ giấu kín, thậm chí chôn vùi sâu trong lòng đất, vì thế, đức tin không sinh hoa kết trái.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bất ngờ đặt cho các môn đệ câu hỏi: “Người ta nói Thầy là ai?”. Trước câu hỏi này, các ông tỏ ra lúng túng. Thì ra, mặc dù đã có một thời gian dài làm môn đệ Chúa Giêsu, các ông vẫn chưa hiểu rõ về thân thế Thầy mình. Các ông chỉ biết nói theo lời đồn và theo dư luận: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.”

“Thầy là Đức Kitô!”. Đó là lời tuyên xưng Đức tin của thánh Phêrô. Phêrô thận trọng để cho những anh em khác trả lời dựa trên dư luận của quần chúng xung quanh chân tính của Đức Giêsu, và ông là người có tiếng nói sau cùng. Cũng có thể lúc đó, ông mới nhận ra điều ông biết về Chúa là điều chắc chắn.

Mặc dù thận trọng như thế, xem ra Phêrô vẫn chưa có một đức tin trọn vẹn. Sau khi các môn đệ có một định nghĩa chính xác về sứ mạng thiên sai của Chúa, Người mới tỏ cho các ông biết, Đấng Kitô phải trải qua cuộc thương khó, nhưng sẽ phục sinh. Mác-cô không ghi lại lời khen của Chúa như Matthêu, nhưng ông cũng nhắc lời Chúa khiển trách Phêrô là Satan, khi ông này muốn can gián Chúa về ý tưởng thập giá và khổ nạn. Kể cả sau khi đã tuyên xưng Đức tin, các môn đệ chưa thể chấp nhận được quan niệm về một Đấng Thiên sai khổ nạn để cứu chuộc con người. Nơi Phêrô cũng như nơi mỗi chúng ta hôm nay, chúng ta vừa tuyên xưng Đức tin vào Chúa, đồng thời cũng vẫn gặp khó khăn khi đối diện với thập giá. Đó là lý do tại sao một số tín hữu ngày nay, tin vào Chúa Giêsu mà khước từ thập giá, hoặc chỉ chọn lựa Chúa Giêsu mà loại bỏ thập giá. Chúa Giêsu không có thập giá không phải Chúa Giêsu của mặc khải và cũng không phải là Đấng Cứu độ trần gian. Thập giá không có Chúa Giêsu chỉ là biểu tượng của sự hận thù, cam chịu và chẳng có giá trị bày tỏ tình yêu. Khi Phêrô có ý khước từ thập giá, Chúa Giêsu đã khiển trách ông nặng lời và gọi ông là Satan.

Thập giá gắn liền với Đức Kitô. Thập giá cũng gắn liền với mỗi Kitô hữu. Tác giả sách Ngôn sứ Isaia đã diễn tả người Tôi tớ đau khổ của Giavê như một nạn nhân bị bạc đãi đến mức tột cùng (Bài đọc I). Sau này, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã trải qua đòn vọt tra tấn giống y như vậy. Dù bị sỉ nhục hành hạ, người Tôi tớ của Đức Giavê vẫn một lòng tín thác ở Thiên Chúa, là Chúa Thượng và là Đấng phù trợ trung thành. Đây cũng là gợi ý cho mỗi chúng ta trong việc tuyên xưng và sống đức tin. Muốn trung thành với Chúa, đòi hỏi phải vượt lên những khó khăn, với lòng tín thác nơi Chúa, luôn xác tín rằng Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta.

Hành trình cuộc đời còn nhiều gian nan vất vả. Đã là người chẳng có ai tránh khỏi những thử thách. Tuy vậy, trước một khó khăn, người có Đức tin cảm thấy lối thoát nhờ Đấng Tối cao; người vô thần cảm thấy như mình đứng trước ngõ cụt. Người tin Chúa tìm thấy sức mạnh và an ủi; người vô tín thấy mình chơi vơi giữa con sóng biển đời. Chúa Giêsu đã đến trần gian, Người không hủy bỏ thập giá nơi kiếp sống con người, nhưng Người cùng vác thập giá với họ để chia sẻ gánh nặng cuộc đời. Con người không còn đơn lẻ trong chặng đường thập giá, vì có Con Thiên Chúa vác cùng. Sau thập giá là vinh quang của phục sinh. Chấp nhận thập giá và kiên cường bước đi, đó là bằng chứng của người tín hữu có đức tin trọn vẹn.

“Tin là chịu đựng sự khó hiểu của Thiên Chúa suốt đời” (Karl RAHNER, Linh mục  dòng Tên và thần học gia người Đức, 1904-1984).

------------------------

 

TN 24-B144: THẦY LÀ AI?


Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

 

Câu hỏi có lẽ rất thường, nhưng lại rất quan trọng, vì để biết được mình đang theo ai? Có sai TN 24-B144


Câu hỏi có lẽ rất thường, nhưng lại rất quan trọng, vì để biết được mình đang theo ai? Có sai lầm chăng? Có hoang tưởng chăng? Để chắc chắn biết mình theo ai và mình là ai, nhất là ảnh hưởng đến cả vận mệnh cuộc đời?

Người ta nói Thầy là ai?

Câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra để thẩm định người theo Chúa, là theo ai ?

Theo một số người cho là Gioan Tẩy Giả. Nghĩa là họ đã nhận ra nơi Chúa một sứ điệp hoán cải vì Nước Trời gần đến. Họ đã không nhận ra Chúa chính là Nước Trời đang ở giữa họ..

Sự hoán cải Gioan Tẩy giả kêu gọi nơi mỗi người họ để ngoài tai, họ chỉ mong thay đổi một thế giới bên ngoài thay đổi, còn chính họ thì không. Chúa mời gọi mỗi người hoán cải ngay nơi chính mình, chứ không ai khác hay điều gì khác. Và đó là một điều khó khăn vì người ta có thể thắng bên ngoài nhưng lại khó thắng nổi chính mình. Thánh Phao lô diễn tả, đó là cuộc chiến nội tâm.

Một số người nhận ra là Elia, người phải đến để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế xuất hiện.

Nhóm người này chờ đợi từ một nhân vật, làm thay cho họ tất cả để thay đổi.

Con người thường đi tìm cho mình một vị chúa theo ước mong của mình. Vị chúa ấy đến để cải tổ xã hội, mang lại cơm no, áo ấm, trật tự và an sinh. Tiếc rằng Chúa không đến mang an bình theo ước mơ ru ngủ của họ. Chúa đến mang lại sự chống đối (Lc 12, 49 – 53) vì sự dữ chống lại sự thiện hảo Chúa mang lại, sự sáng đẩy lùi bóng tối. Con người theo Chúa luôn được mời gọi chiến đấu để thắng được tội lỗi và sự dữ bao quanh. Không thể nhờ vào một sức mạnh của nhân vật nào mà cần nhờ vào sức mạnh Chúa ban cho.

Một số người nhận định là Giêrêmia.

Nhóm người này khát mong một người hùng đến giải thoát họ khỏ đế quốc Roma, nhưng lại thấy Chúa Giêsu hiền lành quá, như một tiên tri chịu nhiều đau khổ, bị loại trừ. Họ cảm thương cho số phận của Chúa, đôi khi họ cũng thấy cảm thương cho số phận của mình, gặp nhiều nguy khốn, cả người ngay thẳng vả người tỗi. Điều khó giải thích nhất đối với người Do Thái, chỉ có người tội lỗi mới chịu nhiều đau khổ, mà Chúa là người công chính cũng chịu nhiều đau khổ như các ngôn sứ thời xưa. Đau khổ là một vấn đề nan giải, kẻ sống trong sự dữ đôi khi lại thành đạt, sống sung sướng hơn người công chính?

Với các tông đồ.

Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Câu trả lời của Thánh Phêrô thay cho các tông đồ khác được Chúa khen đúng lắm. Nhưng theo nghĩa nào? Theo cách hiểu của Thánh Phêrô, Chúa là Đấng giải thoát con người khỏi sự dữ, khỏi đau khổ và sự chết.  Thánh Phêrô không lý giải tại sao Chúa lại chịu bắt bớ, sỉ nhục và cả cái chết trên thập giá. Sau này Thánh Phêrô và các Tông đồ đã hiểu ra, đó là Tình Yêu Cứu Chuộc, một tình yêu chết cho người mình yêu.

Đí xa hơn nữa, Thánh Irene giải thích đó là một tình yêu hoán đổi : Thiên Chúa làm người, để con người trở nên con Thiên Chúa. Tình yêu hoán đổi là tình yêu mang lấy chính thân phận của con người, Người là Đấng vô tội lại trở nên tôi nhân, để cứu những người mang tội.

Trong tình yêu mang lấy con người mới hiểu về Đấng Cứu Thế cách dồi dào. Một tình yêu mang lấy sẽ là một tình yêu : đón nhận tất cả, hy sinh tất cả, chịu đựng tất cả và tha thứ tất cả. Một tình yêu Thánh Phao lô trình bày trong bài ca đức mến (1Cor 13, 4 – 7).

Xin cho chúng con nhận biết Chúa đích thật để chúng con được đổi mới trong Chúa.

----------------------------

 

TN 24-B145: CHÚA KITÔ


Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Trở về làng nhỏ nơi đây, Đọc đường Chúa hỏi, vậy Thầy là ai? Các ông đáp lại đều sai, Gio-an Tẩy TN 24-B145


Trở về làng nhỏ nơi đây,
Đọc đường Chúa hỏi, vậy Thầy là ai?
Các ông đáp lại đều sai,
Gio-an Tẩy Giả, mở khai lối đường.
Ê-li-a đấng phi thường,
Tiên tri nào đó, yêu thương xuống trần.
Môn đồ lúng túng tinh thần,
Nhìn quanh Người hỏi, thần nhân thế nào?
Được ơn linh hứng trên cao,
Phê-rô đại diện, cao rao chính Thầy,
Ki-tô Đấng Thánh này đây,
Năng quyền dấu chỉ, đong đầy thánh ân.
Giê-su nghiêm cấm biện phân,
Loan tin khổ giá, gian trần giết đi.
Ba ngày sống lại phát huy,
Thương ban sự sống, gẫm suy sống đời.

Chúa Kitô là trung tâm điểm của vũ trụ. Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống. Chúa Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể. Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng tin mừng, nhưng người ta không biết thực sự Chúa là ai. Bài Phúc âm hôm nay, Chúa hỏi các môn đệ rằng: Người ta bảo Thầy là ai? Các ông đáp: Thưa là Gioan Tẩy giả, là Êlia hay một vị tiên tri nào đó. Như vậy, chưa ai biết về nguồn gốc chính xác về Chúa Giêsu.

Chúa lại hỏi các Tông đồ: Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Phêrô đại diện các Tông đồ liền tuyên xưng: Thầy là Đấng Kitô. Lời tuyên xưng thật chính xác, nhưng vượt ngoài sự hiểu biết của ông. Đấng Kitô có nghĩa là Đấng được xức dầu. Khi Chúa Giêsu mặc khải về Đấng Kitô sẽ phải chịu đau khổ, bị các kỳ lão chối bỏ, bị giết và sẽ sống lại. Phêrô lại là người đầu tiên can ngăn Chúa. Như vậy Phêrô tuyên xưng Chúa là Đấng Kitô, nhưng ông đã không hiểu sứ mệnh của Chúa Kitô.

Ai trong chúng ta cũng có tâm trạng giống thánh Phêrô. Chúng ta đâu muốn thầy mình bị đau khổ và chúng ta cũng không muốn chịu đau khổ. Đôi khi chúng ta vác thánh giá theo Chúa, chúng ta còn tìm mọi cách để thánh giá được giảm nhẹ và dễ dàng hơn. Chúa Kitô mở con đường dẫn đến ơn cứu độ qua con đường thập giá. Đường thập giá là con đường dẫn tới vinh quang và sự sống đời đời.

Muốn có triều thiên chiến thắng phải bước qua đau khổ. Phải chết đi mới có thể sống lại. Hạt lúa miến phải gieo xuống đất và thối đi mới sinh bông hạt. Muốn được vinh quang, chúng ta không thể đi con đường tắt. Muốn theo Chúa phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa. Chúng ta nhìn thấy thánh giá ở mọi nơi, trên nóc nhà thờ, trong nhà thờ, nơi đất thánh, trong các tư gia và trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần mỗi ngày. Khi làm dấu thánh giá, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm chịu chết và sống lại của Chúa Kitô.

Mỗi khi làm dấu thánh giá, nhắc nhở chúng ta thuộc về Chúa Kitô. Ghi dấu thánh giá trên mình là chúng ta cùng hiệp thông đau khổ của chúng ta với sự đau khổ của Chúa trên cây thánh giá. Thánh giá trở thành dấu chỉ niềm tin của các Kitô hữu. Ngày xưa cha ông của chúng ta bị bách hại vì tin cây Thánh Giá. Quan quyền chỉ đòi hỏi các ngài bước qua thánh giá là được tha chết. Các ngài kiên trung tin tưởng vào Chúa Kitô chịu chết và Phục Sinh, chẳng có lời hứa nào làm cho các ngài nao núng.

Chúa Kitô đã chọn con đường Thánh giá để cứu độ. Muốn được ơn cứu độ, chúng ta hãy vác thánh giá lên và đi theo Chúa. Thánh giá chính là những khổ đau trong cuộc sống hằng ngày. Hãy tháp nhập những khổ

-------------------------

 

TN 24-B146: THEO ĐỨC KITÔ BỊ ĐÓNG ĐINH


Lm. Đinh Lập Liễm

 

Đức Giêsu là ai? Câu hỏi đã được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về TN 24-B146


Đức Giêsu là ai? Câu hỏi đã được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời. Trong đời mỗi người, hữu thần hay vô thần, sẽ có lần trực diện với câu hỏi: Giêsu Kitô, ông là ai? Trên bàn viết của Lênin, ông tổ cộng sản, được lưu giữ như một bảo tàng nhỏ từ khi ông nằm xuống ngày 21/01/1924, người ta thấy bên cạnh cặp kiếng, có một cuốn sách nói về Chúa Giêsu.

Thánh Marcô kể: bấy giờ Đức Giêsu đang đi với các môn đệ ở vùng Cêsarêa của Philip, tức miền cực bắc nước Do Thái, nơi bắt nguồn của dòng sông Giorđan. Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: ”Người ta nói Thầy là ai?” Các ông đáp liền: ”Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một tiên tri nào đó” (Mc 8,28),

Ngày xưa, nhiều người Do Thái cho rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ thì tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống an bình của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết các tiên tri: họ lùng bắt Êlia (I King 19:10), họ đã bỏ tù Giêrêmia (Jer 26:8), họ đã chém đầu Gioan Tẩy giả… Đức Giêsu đối với họ thì cũng chỉ có thế thôi.

Chúa Giêsu lại hỏi các ông: ”Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”Ông Phêrô tức khắc trả ời: ”Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8,29). Các ông chưa kịp trả lời thì ông Phêrô đã thay cho Nhóm 12 mà tuyên xưng Đức Giêsu với danh hiệu là Kitô hay Messia. Câu trả lời của ông Phêrô vượt xa những câu trả lời thông thường của quần chúng.

Tước vị “Christos – Messiah” trong tiếng Hêbrơ có một ý nghĩa rất mạnh như một biến cố bùng nổ ở Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu (Act 10:38). Đó là Đấng được mọi ngươi mong đợi đến để “hoàn tất lịch sử.” Đấng các tiên tri đã báo trước, Đấng sẽ cho đời sống con người có ý nghĩa.

Tuy tuyên xưng Đức Giêsu là Kitô, có lẽ Phêrô vẫn quan niệm như người Do Thái về một Đức Kitô vinh quang. Người Do Thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Maisen, như Đavít. Như Maisen, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do Thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời Salômôn. Cho nên, Đức Kitô mới được tôn vinh là Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thuở, Hoàng tử hoà bình, danh Người siêu việt, sự việc Ngài đã lừng vang trên toàn cõi đất. Người là Đấng Thánh của Israel và Nước Người tồn tại đến vô cùng tận (Is 9:5-6).

Đức Giêsu đồng ý với lời tuyên xưng của ông Phêrô và cấm ngặt các ông đừng nói với ai về Người. Rồi Người bắt đầu tiết lộ cho các ông biết: ”Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các luật sĩ loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31).

Đó là sứ mạng cốt yếu của Đức Kitô, hy sinh hiến mạng sống mình chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập Nước Trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào Nước Trời muôn thưở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga 3,16).

Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: ”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,34-35).

Trở lại bài đọc 1 (Is 50:4-9), ta thấy tiên tri Isaia có một bài ca nói về Người Tôi Tớ đau khổ, mà người Tôi Tớ đau khổ ấy chính là Đức Kitô. Và mọi Kitô hữu cũng một phần nào là người tôi tớ ấy. Chúng ta không hiểu vì sao lại là người tôi tớ đau khổ! Nhưng rõ ràng đó là ý muốn của Thiên Chúa và là kế hoạch cứu thế của Người. Người muốn cứu độ bằng đường thánh giá: ai muốn được ơn cứu độ của Ngài, phải bằng lòng đi vào con đường ấy. Nhiệm vụ của chúng ta hằng ngày là tự hỏi Thiên Chúa muốn cho tôi ngày hôm nay, trong giờ phút này vác thập giá nào đây để tôi được cứu độ và góp phần vào việc cứu thế.

Lavallière Lepaux là một nhân viên thượng hội đồng quốc gia Pháp, ghét đạo Công Giáo. Ông lập một đạo mới gồm những triết thuyết và có vẻ khoa học. Ông cho cán bộ chữ nghĩa đi tuyên truyền khắp nước Pháp, nhưng rất ít người theo.      Một hôm ông nói với một ông bạn tên là Barras: “Tôi không hiểu tại sao, tôn giáo của tôi là một công trình triết lý và khoa học, cán bộ của tôi là người có học, có huấn luyện, mà không được mấy người theo. Còn ông Giêsu dùng mấy người chài lưới thất học, mà cả thế giới theo ông?” Barras trả lời: “Nếu ông muốn thiên hạ theo đạo mình, thì ông hãy để cho người ta đóng đinh ông ngày thứ sáu, rồi sáng ngày Chúa Nhật, ông cố sống lại đi.”

Muốn theo Chúa thì phải thi hành hai điều kiện là phải từ bỏ mình và vác thập giá mình. Từ bỏ chính mình để nhận lấy thập giá mà bước theo Chúa. Từ bỏ để khỏi bận tâm tính toán, so sánh hơn thiệt trong việc theo Chúa. Không từ bỏ, con người vướng bận nhiều thứ, nào là cái tôi kềnh càng, tự ái, ích kỷ; nào là vật chất, đẳng cấp, vị thế xã hội. Muốn thong dong trong việc đi theo Chúa phải từ bỏ những thứ phụ thuộc đó, đặt niềm tin vào Chúa mới mong theo trọn con đường Chúa mời gọi.

Lý tưởng mà Thánh Phaolô muốn nhắm tới là được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu (Rm 6:5). Hơn nữa đây thực sự không phải là “tha hoá” mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng con người “giống hình ảnh” Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị “tha hoá.” Nay cố gắng trở nên giống Đức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu (Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 653).

Thập giá, theo Tin Mừng, chính là chấp nhận và làm ngược lại mọi sở thích và khuynh hướng tự nhiên của con người. Thập giá là tự chủ, tự chế, là vượt lên những đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Thập giá là nỗ lực hoàn thiện, gột bỏ con người thú tính, để mặc lấy nhân phẩm, nhân cách của thụ tạo duy nhất được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có khả năng đối thoại với Thiên Chúa.

Như vậy, kiểu nói “vác thập giá mình” có ý nói con người phải nhận những khổ cực của mình, cũng như Đức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài. Ngoài ra, theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường (Jn 19:17). Như thế, “vác thập giá mình” cũng đồng nghĩa với mình đã bị án tử rồi.

Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Phải chăng đời là bể khổ như Phật Giáo chủ trương? Vấn đề đau khổ này cũng đã được đề cập đến trong sách Gióp, nhưng chưa tìm được câu giải đáp thoả đáng, phải chờ Đức Giêsu đến để giải thích và cho nó một ý nghĩa.

Chúng ta có thể ví những đau khổ, phiền muộn như cơn bão táp, lụt lội xẩy đến. Chúng là một phần cuộc sống mà chúng ta không thể nào tránh né được. Tuy nhiên, đối với Chúa, điều quan trọng trong cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đau khổ xẩy đến trên chúng ta, mà chính là thái độ chúng ta đáp ứng chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Có lẽ chúng ta không thể nào tránh né được đau khổ phiền muộn, nhưng chúng ta vẫn có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay vì huỷ diệt, nguồn mang sức sống thay vì chết chóc; nhờ đó, chúng trở nên tốt đẹp hơn thay vì chua chát hơn.

Khi còn là một thiếu nữ, Golda Meir rất thất vọng về nhan sắc của mình. Cô viết: “Mãi về sau, tôi mới nhận ra rằng không được đẹp lại là một cái may mắn ẩn chìm, bởi vì điều ấy buộc tôi phải khai triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng tôi hiểu được rằng phụ nữ không thể ỷ lại vào sắc đẹp của mình, mà phải làm việc chăm chỉ để nhờ đó mang lại ích lợi cho mình hơn. Nói cách khác, Golda Meir đã biết chấp nhận thập giá của mình. Cô đã không kêu gào than khóc, không bẳn gắt, căm hờn. Cô biết cam nhận vác nó lên với lòng can đảm, để rồi cuối cùng cô đã trở nên Nữ Thủ Tướng đầu tiên của Israel (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật B, tr 327).

Chúng ta thấy dòng Mến Thánh Giá có một khẩu hiệu để làm câu tâm niệm hằng ngày rất có ý nghĩa: ”Per crucem ad lucem”: qua thập giá tới vinh quang (Lc 24:26). Đúng vậy, Chúa Kitô phải trải qua ngày Thứ Sáu Tuần Thánh mới tiến tới ngày Chúa Nhật Phục Sinh được. Thực sự, đạo của chúng ta không phải là đạo tử nạn, nhưng là đạo phục sinh. Chết chỉ là điều kiện để tiến tới sự sống lại.

Thập giá không còn là cái gì ghê rợn mà là vinh quang (Gal 6:14). Chúng ta thường hát: ”Vinh quang của ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ của ta, phục sinh của ta. Nhờ Chúa ta được cứu độ, nhờ Chúa ta được giải thoát.”

Ngày nay, có quá nhiều tiện nghi, có nhiều phương cách thoả mãn các nhu cầu thể chất của con người, nên ngươi ta “sợ” thập giá, người ta “ngại” hy sinh, người ta “tránh” từ bỏ. Nhưng không thể khác được, nếu con người muốn vươn lên, muốn thành đạt, muốn có một cuộc sống có ý nghĩa với những hoa trái thơm tho cho cuộc đời thì phải chấp nhận thập giá, chấp nhận gian nan thử thách vì như người xưa đã nói: “Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con?”

Hiểu được ý nghĩa cao quí của thập giá, chúng ta phải hãnh diện về cây thập giá. Hãy nói một cách tự hào như Thánh Phaolô nói với tín hữu Galata: ”Vinh dự của tôi là Thập giá Đức Kitô” (Gl 6,14). Hãy mang lấy trọn vẹn thập giá mà Chúa trao cho hằng ngày, không thêm, không bớt. Chính thập giá là chiếc cầu dẫn ta vào Thiên đàng.

Anh kia được Chúa ban cho một cây thập giá và được căn dặn rằng khi nào về thiên đàng nhất thiết phải vác theo. Suốt ngày anh ca thán, phân bua vì thập giá của mình quá dài và nặng hơn thập giá của những người khác. Thế rồi, sẵn cưa, anh cưa bớt đi mười phân. Và anh cảm thấy ưng ý với thập giá mới.

Ngày về thiên đàng đã đến, anh cùng mọi người vác thập giá ra đi. Đường vào thiên đàng buộc phải vượt qua một con suối nước chảy xiết. Những người khác có sáng kiến đặt thập giá của mình xuống làm cầu để có thể bước qua bên kia. Anh này cũng bắt chước đặt thập giá xuống để làm cầu. Tiếc rằng thập giá của anh lại thiếu mất mười phân khiến vĩnh viễn anh không thể vào thiên đàng được.

------------------------

 

TN 24-B147: CÁI GIÁ PHẢI TRẢ


Lm. Nguyễn Thái

 

Câu chuyện được kể về Sherlock Holmes và bác sĩ Watson. Hai người đi cắm trại và ở trong TN 24-B147


Câu chuyện được kể về Sherlock Holmes và bác sĩ Watson. Hai người đi cắm trại và ở trong một cái lều trại. Holmes là một nhà trinh thám đại tài của Anh trong những tiểu thuyết giả tưởng của A. Conan Doyle. Và Dr. Watson là bác sĩ sinh vật học chuyên môn về ngành DNA của Mỹ. Một đêm nọ khi họ nằm ngủ say sưa, bỗng Holmes đánh thức Watson dậy và nói: “Watson, hãy nhìn kìa, anh trông thấy gì không?” Watson dụi mắt trả lời: “Thấy, tôi trông thấy hằng triệu ngôi sao.” Holmes hỏi: “Và cái điều đó nói gì với anh?” Watson trả lời: “Xét về thiên văn học, nó nói với tôi rằng có hằng triệu giải ngân hà và có thể có hằng tỉ các hành tinh. Xét về thần học, nó nói với tôi rằng Thiên Chúa quá vĩ đại, và chúng ta quá ư là nhỏ bé và vô nghĩa. Xét về khí tượng học, nó nói với tôi rằng ngày mai chúng ta sẽ có một ngày đẹp trời. Còn anh? Nó nói với anh cái gì nào?” Holmes trả lời: “Một người nào đó đã ăn cắp hết đồ của chúng ta rồi!”

Có người rất giỏi về kiến thức, nhưng khi gặp những việc thực tế và cụ thể trong đời sống, họ lại chẳng để ý gì. Đó là trường hợp của bác sĩ Watson nằm ngủ nhìn lên trời với những tư tưởng cao siêu, trong khi bị mất hết đồ mà không biết. Và Thánh Phêrô nói được chân lý cao siêu “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8:29), nhưng lại không hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì!

Theo linh mục Eugene LaVerdière câu chuyện tuyên xưng đức tin của Phêrô trong bài Phúc Âm hôm nay là phần chuyển tiếp. Nó đóng vai trò như một kết luận của phần thứ nhất của Phúc Âm Máccô (Mc 1:14 – 8:21): Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi này đã được trả lời “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8:30). Và như một sự giới thiệu cho phần thứ hai (Mc 8:22 – 16:8): Đấng Kitô có nghĩa là gì? Câu hỏi này được trả lời trong phần thứ hai (Mc 8:22 – 16:8) của Phúc Âm Mác-cô. Sau khi thấy Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, viên đại đội trưởng liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15:39).

Các môn đệ là những người đã được Chúa Giêsu mời gọi bước theo Ngài ở phần thứ nhất, nhưng theo Chúa Giêsu sẽ đòi hỏi họ điều gì ở phần thứ hai của Phúc Âm. Phêrô đã trả lời đúng khi Chúa hỏi ông: “Các con bảo Thầy là ai?” Phêrô lên tiếng đáp: “Thầy là Đấng Kitô”. Theo Phúc Âm của Mátthêu, sau câu trả lời này, Chúa đã thưởng ông bằng cách đổi tên là Phêrô, nghĩa là Đá, thay vì Simon (Mt 16: 27). Nhưng khi hiểu về ý nghĩa của Đấng Thiên Sai thì Phêrô bất đồng quan điểm với Chúa Giêsu, và bị quở trách rằng: “Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người” (Mc 8: 33). Chính ở điểm này, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy sự khác biệt về cách đánh giá trị theo quan điểm của Thiên Chúa và loài người. Bởi chỉ có người sống theo Thần Khí thì mới xét đoán được mọi sự (1 Cr 2:15).

Tháng 10 năm 1999, Regis Philbin khai trương một show mới trên đài truyền hình ABC của Mỹ với tên là “Who Wants to Be a Millionaire – Ai Muốn Thành Triệu Phú”. Sau hai tuần thử nghiệm để thăm dò, chương trình bắt đầu lại vào tháng 11, và đã thu hút số khán giả kỷ lục là 26 triệu người xem TV vào ngay đêm đầu tiên đó. Từ đấy Regis nổi tiếng với câu hỏi: “Final answer?”

Mới chỉ có 1 triệu đô la thôi mà đã thu hút số người ham muốn đông đảo nhiều đến như vậy, huống chi là 10 triệu đô la? Năm 1991 có vài anh chàng cũng đã nghĩ ra một câu nghi vấn tương tự. Họ muốn biết xem là người Mỹ sẽ dự tính làm gì, không phải với 1 triệu đô la, nhưng là với 10 triệu đô la. Họ thực hiện một cuộc thăm dò và đã xuất bản kết quả của cuộc thăm dò đó trong một cuốn sách mang tên “The Day America Told the Truth – Cái Ngày Người Mỹ Nói Lên Sự Thật”. Bạn có bao giờ tự hỏi sẽ làm gì với số tiền to lớn đó không? Con người ngày nay đang bị lôi cuốn, quyến rũ bởi sức mạnh của tiền bạc. Họ nghĩ rằng với tiền bạc và của cải vật chất, họ sẽ giải quyết được tất cả mọi vấn đề. Và có lẽ họ cũng chẳng cần để ý tới Thiên Chúa nữa!

Hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về ý nghĩa sứ mạng của Ngài, và cái giá phải trả dành cho những người môn đệ muốn theo Ngài: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế, và kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8:31). Lời tiên báo này thật khó nghe và khó chấp nhận. Nó hoàn toàn ngược lại với những giá trị của xã hội hiện đại. Một xã hội đề cao tiền bạc vật chất, lợi ích cá nhân, thúc dục lòng ham muốn, tạo tiện nghi hưởng thụ thoải mái. Đối nghịch với những giá trị của người đời, hẳn nhiên người môn đệ của Chúa Kitô cũng phải trả bằng một giá rất đắt giống như Ngài.

Chúng ta đã nghe nói về cuộc đời của Dietrich Bonhoeffer, một thần học gia và triết gia Tin Lành. Những tác phẩm của ông có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của Kitô giáo hiện đại. Ông đã viết một cuốn sách mang tựa đề “The Cost of Discipleship – Cái Giá Phải Trả Để Làm Môn Đệ Chúa Kitô”. Bonhoeffer không những nói, và bàn về cái giá phải trả cho ơn gọi làm môn đệ của Chúa Kitô, nhưng còn sống nó một cách anh dũng và trả bằng chính mạng sống của mình.

Theo Bonhoeffer có hai loại ân sủng: Ân sủng giá rẻ, cheap grace, và ân sủng giá đắt, costly grace. Ân sủng giá rẻ là việc xin Chúa tha thứ tội lỗi cho ta mà không chịu có lòng thống hối. Ta muốn chịu phép rửa tội, mà không muốn giữ kỷ luật của Giáo Hội. Ta muốn rước Mình Máu Thánh Chúa mà không muốn đi xưng tội, muốn được tha tội nhưng không muốn thành thật sám hối và chừa bỏ tội lỗi. Ân sủng giá rẻ là ân sủng không có kỷ luật, ân sủng không có Thánh Giá, ân sủng không có Chúa Giêsu Kitô hiện diện và nhập thể.

Còn ân sủng giá đắt là kho tàng giấu ẩn trong cánh đồng; vì ích lợi của nó sinh ra mà một người phải bán tất cả tài sản mình có để mua lấy nó. Đó là viên ngọc quý mà người thương gia đi tìm. Tìm được rồi anh về bán tất cả những gì mình có để mua viên ngọc ấy (Mt 13:44-45). Đó là lời kêu gọi của Chúa Giêsu mà các môn đệ đã bỏ chài lưới để đi theo ngài. Ân sủng giá đắt chính là Tin Mừng phải được tìm kiếm liên lỉ mới thấy; là món quà phải được năn nỉ xin xỏ mãi mới cho; là cánh cửa mà một người gõ mãi mới được mở. Ân sủng giá đắt như vậy là vì nó mời gọi chúng ta theo Chúa Kitô, và phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nó là ân sủng thực sự vì nó cho ta sự sống đời đời. Ân sủng giá đắt chính là sự đau khổ và cái chết của Chúa Kitô để mang lại sự cứu rỗi cho nhân loại. Đó là sứ điệp của bài Phúc Âm hôm nay.

Ngày 5/4/1943, quân Đức quốc xã đã bắt Bonhoeffer tại nhà của cha mẹ ông. Bonhoeffer đã trải qua nhiều nhà tù và trại tập trung, và ngay cả cái chết luôn luôn đe dọa vì tinh thần môn đệ theo Chúa Kitô một cách trung kiên và anh dũng của ông. Người môn đệ này đã có thể chọn ở lại chủng viện ở Mỹ thay vì trở về Đức để chiến đấu cho công lý bằng chính mạng sống của mình. Chỉ vài ngày trước khi Quân Đội Đồng Minh giải phóng trại tập trung ở Flossenburg, ngày 9/4/1945, Bonoeffer đã bị hành quyết vì đức tin của mình. Ông đã sống trọn vẹn là một môn đệ Chúa Kitô.

Nhờ “Cái Ngày Người Mỹ Nói Lên Sự Thật” mà chúng ta biết được những điều họ ước muốn khi có 10 triệu đô la. Nhưng trước khi có những anh chàng làm cuộc thăm dò dân Mỹ muốn gì khi có 10 triệu đô la, thì Chúa Giêsu đã nói lên sự thật đó cho Phêrô và các môn đệ của Ngài biết rồi: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8:35-36).

Theo truyền thống kể lại, Hoàng Hậu Helen, mẹ của Hoàng Đế Constantine, thế kỷ thứ tư, đã tìm thấy được Cây Thánh Giá mà Chúa Giêsu đã chịu đóng đinh ở Giêrusalem. Sau đó quân Persian đã bao vây và chiếm đóng thành Giêrusalem. Chúng phá hủy các giáo đường và ăn trộm các di tích thiêng thánh trong các nhà thờ đó, gồm cả Cây Thánh Giá được tin là của Chúa Giêsu đã chịu đóng đinh. Vài năm sau, Hoàng Đế Heraclius đã lấy lại được Cây Thánh Giá quý báu đó.

Cũng theo truyền thống kể lại, sau khi Cây Thánh Giá được phục hồi rồi phải mang trở lại Giêrusalem. Đích thân Hoàng Đế, trong xiêm y sang trọng và lộng lẫy, đã cố gắng vác Cây Thánh Giá theo đoàn rước từ Giêrusalem đến Núi Calvary. Hoàng Đế lấy hết sức mình nâng Cây Thánh Giá lên, nhưng quá nặng, ông không thể nhấc lên nổi. Thấy vậy, Đức Giám Mục của thành Giêrusalem mới nói với Hoàng Đế rằng cái cách duy nhất để vác được Cây Thánh Giá là phải hành động như Chúa Giêsu đã làm. Cách ăn mặc sang trọng của Hoàng Đế đã không thích hợp. Do đó, ông phải cởi bỏ xiêm y, giầy dép sang trọng ra và mặc vào quần áo đơn giản, đi chân không và vác Thánh Giá như Chúa Giêsu xưa kia đã làm. Sau đó ông đã vác được Cây Thánh Giá lên đỉnh núi Calvary.

Ngày nay, chúng ta cũng giống như Hoàng Đế Heraclius, muốn vác được Thánh Giá mà Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta, chúng ta phải cởi bỏ tất cả mọi của cải vật chất, lạc thú trần gian xuống. Ngài đã dạy chúng ta rằng để theo Ngài, phải từ bỏ mọi sự, ngay cả chính mạng sống của mình. Lúc đầu Phêrô phản đối, nhưng sau cùng, Phêrô và các môn đệ đã hiểu. Họ đã từ bỏ mọi sự và trả bằng mọi giá, ngay cả việc dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho Tin Mừng.

Điều phải trả bằng mọi giá này cũng áp dụng cho chúng ta nếu chúng ta muốn theo Chúa. Nhưng hãy nhớ rằng giá phải trả để theo Ngài không rẻ đâu! Cho dù có đắt cũng không bằng cái giá mà Đức Giêsu đã trả để chuộc lấy chúng ta (1 Cr 6:20; 7:23).

----------------------

 

TN 24-B148: CHÚA KITÔ LÀ AI?


Lm. Louis M. Nhiên

 

Đối với bạn, Chúa Kitô là ai?” Khi suy nghĩ về đoạn Kinh Thánh, Chúa mời gọi dân chúng và TN 24-B148


“Đối với bạn, Chúa Kitô là ai?” Khi suy nghĩ về đoạn Kinh Thánh, Chúa mời gọi dân chúng và các tông đồ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta”. William Barclay, một nhà chú giải Thánh Kinh nổi tiếng, đã cho rằng Đức Kitô là một vị lãnh đạo thành thật. Không ai có thể tố cáo cho rằng Chúa dụ dỗ người ta theo Chúa qua những lời hứa hão huyền. Chúa đã không hối lộ người ta bằng những con đường dễ dàng. Ngài không trao tặng an bình nhưng trao tặng vinh quang.

Thời thế chiến thứ hai, khi ông Winston Churchill làm thủ tướng nước Anh, tất cả những gì ông có thể trao tặng là “máu, lao nhọc, nước mắt, và mồ hôi.” Garibaldi, một nhà ái quốc người Ý đã kêu gọi tuyển mộ rằng: “Tôi không trao tặng tiền bạc, nhà ở, lương thực, tôi chỉ có sự đói, khát, trận chiến, và sự chết. Ai yêu tổ quốc với tất cả tấm lòng, chứ không phải chỉ ở môi miệng, hãy theo tôi.”

Chỗ khác ông thêm: “Các chiến sĩ thân mến, tất cả những cố gắng chống lại sức mạnh siêu cường đều đã không thể. Tôi không có gì để trao tặng các bạn trừ sự đói, khát, vất vả và sự chết, nhưng tôi kêu gọi tất cả những người yêu quê hương hãy cùng hợp sức với tôi.”

Chúa Giêsu không bao giờ tìm lôi cuốn, hấp dẫn con người đến với Chúa bằng con đường dễ dàng. Ngài thách đố con người bằng cách đưa ra một con đường không gì có thể cao hơn và khó hơn. Ngài đến không để làm cho cuộc sống dễ chịu hơn nhưng để làm cho con người trở nên cao cả.

Một điểm đặc biệt khác nơi Chúa Giêsu là Ngài không bao giờ kêu gọi người ta làm điều gì mà Ngài đã không làm. Đây thực sự là một đức tính của nhà thủ lãnh mà người ta sẽ theo.

Chuyện kể rằng A lịch Sơn Đại Đế trong cuộc viễn chinh chinh phục Darius, trong mười một ngày vua và binh lính của vua đã hành trình vất vả và dường như muốn bỏ cuộc vì khát không có nước uống. Trong lúc họ đang khổ cực, tình cờ có mấy người Macedonia mang ít vò nước đi ngang qua nơi A Lịch Sơn đang ở, thấy vua gần chết khát nên lấy ra một ít nước trao cho vua.  Vua hỏi xem họ lấy nước cho ai, họ trả lời cho các em nhỏ và thêm rằng nếu vua được sống thì đó là điều đáng kể còn họ sẵn sàng chấp nhận thiệt thòi dầu tất cả đều phải chết. Vua cầm lấy bình nước nhìn chung quanh và thấy các binh lính ai nấy đều giơ tay ra phía trước xin nước uống, vua nói: “Nếu chỉ mình ta được uống nước này thôi, thì thật là không công bằng chút nào.” Nói xong, vua đưa trả lại bình mà không uống một giọt nước nào. Nhìn thấy hành động cao cả của nhà vua, tất cả các binh lính lên tinh thần, quên mệt nhọc đói khát hoàn tất cuộc hành trình. Thật dễ dàng để theo một vị lãnh đạo không bao giờ đòi hỏi thuộc cấp những gì mình không làm nổi.

Một tướng thời danh Rôma, Quintus Fabius Cunctator, một hôm bàn trận chiến với các vị cố vấn. Một vị nêu lên một phương thức hành động: “Điều này có thể làm được vì chỉ phải hy sinh một số nhỏ người thôi.” Fabius nhìn người vừa đề nghị và nói: “Are you willing to be one of the few?” “Ông có sẵn lòng chịu hy sinh là một trong những người đó không?”

Chúa Giêsu đã có quyền gọi chúng ta vác thập giá theo Chúa, vì chính Người đã vác thập giá trước.

Vác thập giá theo Chúa không dễ, từ bỏ mình không dễ. Tuy nhiên chúng ta có thể dùng tự do của mình để quyết định theo Chúa, từ bỏ mình, và đây là điều tách biệt con người với con vật. Con vật tự nó không thể từ bỏ mình, con vật tự nó không thể kiêng nhịn. Chúng ta có thể huấn luyện con vật tuân theo một số kỷ luật nhưng con vật không thể tự quyết định cho nó được.  Chỉ có con người mới có  tự do, mới có khả năng tự kỷ luật cũng như tự kiềm chế ước muốn của mình.

“Đối với bạn, Chúa Kitô là ai?” Đây là một câu hỏi quan trọng mỗi người chúng ta được mời gọi suy nghĩ và tìm câu trả lời bằng chính cuộc sống của mình. Một câu hỏi khác cũng không kém phần quan trọng đó là: “Đối với bạn, bạn là ai?” Nhiều người đã sống suốt cuộc đời của họ với nhiều mặt nạ: Mặt nạ này mặt nạ kia, không dám sống thật với lòng mình, và có người bảo một điều chắc chắn đó là họ không thể bước vào cuộc sống đời đời và lại tiếp tục đeo mặt nạ được.

“Đối với bạn, Chúa Kitô là ai?”

“Đối với bạn, bạn là ai?”

--------------------------

 

TN 24-B149: THẦY LÀ ĐỨC KITÔ


Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

 

Trong những tháng ngày cuối cùng sứ vụ loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu muốn làm một cuộc trắc TN 24-B149


Trong những tháng ngày cuối cùng sứ vụ loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu muốn làm một cuộc trắc nghiệm hỏi xem các môn đệ dân chúng hiểu gì về Ngài. Người ta nói Thầy là ai?. Và các ông đã trả lời: “Người thì bảo là Gioan tẩy giả; kẻ khác lại bảo là Êlia hay một ngôn sứ nào đó…” (Mc 8,28). Qua những câu trả lời trên cho chúng ta thấy rằng, dân chúng không nhận ra khuôn mặt của Đấng cứu thế.

Lý do dân chúng không hiểu là vì họ cứ tưởng Đấng Cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời ngự đến. Nhưng ai ngờ Ngài lại sinh bởi một trinh nữ làng quê dưới đất. Người ta cứ tưởng Đấng Thiên sai phải cư ngụ trong lâu đài sang trọng của các bậc vua chúa. Nhưng không ngờ Ngài lại sinh ra trong hang bò lừa thiếu thốn. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu độ trần gian phải oai phong lẫm liệt. Nhưng có ai ngờ Ngài lại quá hiền lành khiêm nhường giàu lòng xót thương. Người ta cứ tưởng Đấng Mêsia đến đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do thái lên hàng bá chủ thế giới. Nhưng không ngờ Ngài chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu kết án tử như một phạm nhân. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu thế là một vị vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Ngài lại quỳ gối xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ. Cho nên, dân chúng không hiểu về sứ mạng của Đức Giêsu.

 Đến lượt Chúa hỏi các môn đệ: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”. Phêrô đại diện cho nhóm 12 trả lời: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29). Câu trả lời của Phêrô thật chính xác, làm cho Chúa rất hài lòng. Tuy nhiên, không phải tự nhiên Phêrô nói được như thế, nhưng là nhờ ơn trên mặc khải cho ông biết.

Phần thứ hai của bài Tin mừng, Đức Giêsu mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo. Vì chưng, “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sống ” (Mc 8, 34-35).

Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất, nhưng làm thế nào để được và không mất thì không phải là dễ. Vì không phải cứ thu vào là được và buông ra là mất. Trái lại, nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Đó là qui luật tất yếu trong hành trình đi theo Chúa. Nên Chúa mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo” (Mc 8, 34). Thế nhưng, trước khi Chúa mời gọi chúng ta từ bỏ đi theo Chúa thì Ngài đã theo chúng ta trước rồi.

Ngài từ bỏ trời cao đi xuống đất thấp để theo chúng ta. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa mặc lấy thân phận con người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi để theo chúng ta. Từ bỏ ngôi nhà êm ấm để ra đi rao giảng Tin Mừng để theo chúng ta. Từ bỏ ý riêng, để xin vâng theo thánh ý Chúa Cha để theo chúng ta. Từ bỏ mạng sống để làm giá cứu chuộc cho muôn người để theo chúng ta. Và đỉnh cao của sự từ bỏ đến tận cùng ấy là khi Ngài chết trần trụi trên thập giá. Đến nỗi không còn chút hơi thở. Không còn một giọt máu, mất hết danh dự. Nói tóm lại để theo chúng ta, Chúa đã từ bỏ không còn gì cả.

Và trước khi Chúa mời gọi chúng ta vác thập giá đi theo Chúa thì Ngài đã vác trước rồi. Ngài không chỉ vác thập giá gỗ trên đường lên Núi Sọ, mà còn là thập giá trải dài suốt cuộc đời Ngài. Thập giá bởi kiếp sống nghèo. Thập giá bị người đời ngược đãi. Thập giá do môn đệ phản bội. Thập giá bị dân chúng loại trừ. Thập giá bởi tội lỗi nhân loại đè nặng trên vai, nên nhiều lần Chúa ngã quỵ xuống đất, nhưng rồi Ngài lại đứng lên tiếp tục vác đi cho đến cùng lên Núi Sọ, lúc đó lại mở ra con đường phục sinh vinh hiển.

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu đã đi con đường từ bỏ, con đường thập giá để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, Ngài mời gọi chúng ta ai muốn làm môn đệ của Ngài, thì cũng phải đi theo con đường từ bỏ như Ngài.

Từ bỏ những của cải chóng qua để được của cải hạnh phúc vĩnh cửu đời sau; từ bỏ ý riêng làm theo ý Chúa, đời sau Chúa sẽ làm theo ý ta.

Chúa không đòi chúng ta từ bỏ những điều vĩ đại lớn lao, nhưng là những hy sinh nho nhỏ trong đời sống thường ngày.

Chẳng hạn như: mỗi lần đến nhà thờ tham dự Thánh lễ thì cố gắng ngồi ở trong nhà thờ tham dự, đó là một chút từ bỏ mình. Tắt tivi để đọc kinh chung gia đình là một chút từ bỏ. Không chiều theo những thói hư tật xấu như là rượu chè, bài bạc, cá độ…. Kìm hãm miệng lưỡi không nói hành nói xấu hay phê bình người khác cũng là một hi sinh từ bỏ.

Rồi Chúa không bảo chúng ta đi tìm thánh giá, nhưng Ngài bảo chúng ta vác lấy thánh giá mình. Mỗi người một thánh giá, mỗi ngày một thánh giá, Thiên Chúa không bao giờ đặt trên vai chúng ta một thánh giá nặng quá sức đâu.

Những thánh giá trong đời sống hằng ngày. Ví dụ như: thánh giá trong đời sống gia đình; thánh giá do Chúa an bài gửi đến như: bị bệnh tật, bị hiểu lầm, bỏ vạ cáo gian.

Ước gì là những người đi theo Chúa, niềm tin của chúng ta được thể hiện bằng thái độ sống từ bỏ những đam mê bất chính. Đồng thời, vui lòng vác Thánh giá mình theo Chúa mỗi ngày. Với ý thức sống như thế, là chẳng những chúng ta sống làm chứng cho Chúa, nhưng còn là lời tuyên xưng sống động “Thầy là Đức Kitô”. Amen.

------------------------

 

TN 24-B150: SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B


Jorathe Nắng Tím

 

Sau nhiều phép lạ đã làm, Đức Giêsu đặt cho các môn đệ một câu hỏi hóc búa, nhưng then chốt TN 24-B150


Sau nhiều phép lạ đã làm, Đức Giêsu đặt cho các môn đệ một câu hỏi hóc búa, nhưng then chốt , và là nền tảng, trung tâm của Tin Mừng : “Anh em bảo Thầy là ai?”.

Câu hỏi này tất nhiên đã là câu hỏi trong óc và trên môi miệng của tất cả mọi người đã gặp Đức Giêsu hoặc đã nghe nói về Ngài. Trước những việc Ngài làm, lời Ngài dậy, người ta bàn tán xôn xao về Ngài ; người ta hỏi han về danh tính, lý lịch của Ngài ; người ta đoán già đoán non tương lai của Ngài ; và không ít người đã đặt nghi vấn về Ngài. Bởi thế, khi nói về Ngài, người ta đã không thống nhất một ý, nên “có người bảo Ngài là Gioan Tẩy Giả, kẻ bảo là Êlia, số khác bảo là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8,28). Riêng các môn đệ, khi được hỏi : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Phêrô đã nhanh nhẩu thay anh em trả lời : “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8, 29).

Phêrô đã trả lời chính xác, đã nói đúng danh tính của Đức Giêsu: Đấng Kitô, nghiã là xác tín căn cước đích thực của Thầy mình : Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân.

Nhưng Phêrô có hiểu đúng ý nghiã của danh tính Đấng Kitô của Thầy mình, hay cũng như những người Do Thái đương thời khao khát mong đợi một Đấng Kitô đầy uy lực để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ?

Chắc chắn Phêrô đã hiểu không đầy đủ ý nghĩa danh tính Đấng Kitô, nên Đức Giêsu mới “bắt đầu dậy cho các ông biết” Con Người là ai và phải chịu đau khổ thế nào (Mc 8,31), điều mà các môn đệ không bao giờ dám và muốn nghĩ đến. Nhưng sự thật còn bẽ bàng hơn, khi Phêrô tỏ ra chẳng hiểu gì về sứ mệnh và thông điệp của Đấng Kitô, khi ông “kéo riêng Đức Giêsu ra và bắt đầu trách Người” (Mc 8,32), vì “Người đã dậy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế, cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8,31). Và hậu qủa là ông đã bị Đức Giêsu quở trách : “Xatan ! Lui lại đằng sau Thầy ! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,33).

Chúng ta nhận thấy Đức Giêsu đã dứt khoát không muốn các môn đệ tiếp tục hiểu sai về sứ mệnh Đấng Kitô của Ngài, và muốn chấm dứt giai đọan các môn đệ hiểu lơ mơ, mù mờ về sứ vụ Cứu Thế của Ngài, và một cách trực tiếp, rõ ràng, Ngài cho các ông biết : Ngài sẽ phải chịu khổ hình và chết, nhưng sẽ sống lại sau ba ngày.

Qủa thực, khi được mặc khải về cuộc thương khó sắp tới, hình ảnh Đấng Kitô vốn có trong đầu óc các môn đệ từ những ngày đầu, đã lập tức tan tành, vỡ vụn, thay bằng những hình ảnh thất bại tang thương, khổ hình đẫm máu, và chết chóc sầu thảm. Trước đe dọa của đau khổ và sự chết, các ông đã đi từ bỡ ngỡ đến hoảng hốt, từ ngỡ ngàng đến hoang mang, từ nghi ngờ đến lo sợ. Và hầu hết các ông đã không còn muốn tin Thầy mình là Đấng Kitô, khi ước mơ Thầy sẽ giải phóng Ítraen, và nhóm môn đệ thân tín sẽ được ngồi bên phải, bên trái Thầy trong vương quốc vinh quang hoàn toàn tan biến, sụp đổ.

Ngày hôm nay, cũng như Phêrô xưa, chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu độ nhân loại, nhưng chúng ta muốn một Đấng Cứu Thế không biết đau khổ, một Hiến Chương Nước Trời không Thánh Giá, một tình bạn với Đức Kitô không cần sám hối, trở về, và một lịch sử nhân loại không ơn cứu độ. Chúng ta cũng mơ ước một Đấng Cứu Thế quyền năng và chỉ làm phép lạ ; đồng thời người môn đệ đi theo Đức Kitô sẽ không theo một Thiên Chúa vác Thánh Giá và chịu đóng đinh, nhưng theo một minh quân, một “Thiên Chúa các đạo binh” nghiền nát quân thù dưới chân và lẫy lừng chiến công hiển hách.

Khi loan báo cuộc khổ hình và cái chết, Đức Giêsu không biện hộ cho đau khổ, vì đau khổ không phải là điều Ngài tìm, nhưng điều làm vinh danh Thiên Chúa chính là tình yêu, và với Đức Giêsu, cao điểm của đau khổ trùng hợp với tuyệt đỉnh của Tình yêu.Tình yêu và đau khổ gặp nhau trên Thánh Giá. Tình Yêu và Đau Khổ trùng phùng nơi Ngài. Tình Yêu và đau khổ là một mầu nhiệm, và mầu nhiệm này hệ tại ở việc Thiên Chúa Cha đã cho phép đau khổ “hành hạ” chính Con Một yêu dấu của mình.

Là mầu nhiệm, đau khổ và cái chết đi qua cuộc sống con người, nhưng không bao giờ chúng có thể làm phai nhạt hoặc xóa bỏ tình yêu và niềm hy vọng, bởi Đức Giêsu, Thiên Chúa Cứu Độ đã sống mầu nhiệm đau khổ và chung phần thân phận phải chết với con người. Chính Đức Kitô, nhờ mầu nhiệm khổ nạn và chết của Ngài sẽ làm sống lại những ai phải chết và làm hoan lạc những ai phải khổ đau bằng sự phục sinh vinh quang của Ngài.

Như thế, sự sẵn sàng trước đau khổ và cái chết sẽ là thái độ phó thác của tình yêu, nhờ tín thác vào Đức Kitô, Đấng biết giá trị cứu độ của đau khổ, và luôn âu yếm nhìn chúng ta trong thử thách với đôi mắt của người cha yêu thương, nhân hậu. Lòng tín thác ấy cho phép chúng ta bước đi bình an trong sức mạnh và ánh sáng của Đức Kitô, để không ngần ngại mang lấy gánh nặng của khổ đau với một tình yêu luôn hiện diện. Cũng với lòng tín thác, chúng ta không tưởng tượng hay vẽ trước những khổ đau của ngày mai, nhưng vui lòng đón nhận khi khổ đau hôm nay đến từ tay Thiên Chúa, như lời mời gọi của Đức Kitô chịu đóng đinh đối với những người Ngài yêu, để họ được cùng Ngài đi vào vinh quang qua đau khổ, đến sự sống qua sự chết, vào hạnh phúc đời đời qua hành trình thử thách trần gian.

Lậy Chúa, như thánh Tông đồ Phêrô, chúng con đã không hiểu sứ mệnh của Đức Giêsu và nhiều lần, chúng con đã theo Xatan ngăn cản sứ vụ cứu thế của Ngài, khi khước từ đau khổ như đường vào hạnh phúc, chối bỏ Thánh Giá như đường dẫn đến sự sống, và phủ nhận Đức Giêsu chịu đóng đinh là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Qùy dưới chân Thánh Giá, chúng con xin Chúa ban Thánh Thần để chúng con chân nhận Thánh Giá là mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô và suốt đời được ở lại với Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại trong niềm vui bao la, sâu thẳm của mầu nhiệm Tình Yêu và Thánh Giá.

------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây