Phúc Âm: Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23: “Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: “Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?” Người đáp: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người’. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.
Và Người lại gọi dân chúng mà bảo rằng: “Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế”. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
TN 22-B1. GIẢ HÌNH
Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng nhưng lòng họ thì xa Ta.
Cái sai lầm lớn nhất của bọn Biệt phái và luật sĩ, theo tôi nghĩ, đó là họ đã đảo lộn bậc thang: TN 22-B1
Cái sai lầm lớn nhất của bọn Biệt phái và luật sĩ, theo tôi nghĩ, đó là họ đã đảo lộn bậc thang giá trị. Lấy cái phụ làm chính và lấy cái chính làm phụ. Họ tuân giữ những tập tục của cha ông mà quên đi giới luật của Thiên Chúa. Họ bám víu vào những nghi thức bên ngoài mà quên đi tình mến bên trong.
Tôi xin đưa ra những thí dụ cụ thể:
Chẳng hạn, họ thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn mà không rửa tay. Đối với họ đó là một trọng tội không thể nào tha thứ. Người ta kể lại rằng: một luật sĩ tên là Aquiba, thà chết khát trong tù còn hơn là sai lỗi tập quán này. Ông đã lấy nước đổ trên tay dù rằng nước đó rất cần cho ông để được sống.
Từ đó chúng ta thấy họ còn là những con người hẹp hòi và thiển cận, đã quan trọng hóa những điều nhỏ mọn. Bên ngoài họ tắm gội, giặt giũ rất là cẩn thận, nhưng bên trong thì lại chất đầy những gian tham và tội ác, khiến cho Chúa Giêsu phải lên tiếng cảnh cáo:
- Khốn cho các ngươi, hỡi những biệt phái và luật sĩ giả hình, các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài thì đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy giòi bọ và xú khí.
Lần khác, thấy các môn đệ bứt những bông lúa chín ở dọc đường mà ăn trong ngày Sabbat, và họ đã lên tiếng bắt bẻ vì đã vi phạm ngày nghỉ lễ, khiến Chúa phải đặt lại vấn đề:
- Luật lệ vì con người hay con người vì luật lệ. Ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết ?
Lòng nhiệt thành của họ có đấy nhưng lại quá vụ về hình thức. Trong khi chú trọng vào những chi tiết bên ngoài, họ quên mất tình yêu thương bên trong, là điều Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta:
- Các ngươi kinh kệ dài dòng mà lại nuốt trửng gia tài của các bà góa.
Và rồi Chúa đã chỉ trích:
- Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Nhìn vào đời sống, nhiều người trong chúng ta cũng chẳng hơn gì bọn biệt phái. Chúng ta cũng đảo lộn bậc thang giá trị, lấy cái chính làm phụ và lấy cái phụ làm chính. Chúng ta cũng bấu víu vào nghi thức bên ngoài mà quên đi tình mến bên trong. Chúng ta cũng sống một cuộc sống bôi bác giả hình. Có người thì sùng bái ảnh tượng nhưng lại coi thường sự công bằng. Có người ưa đọc kinh dài dòng nhưng lại gian tham và hà khắc với anh em. Họ thật giống với mẫu người mà tục ngữ đã diễn tả:
- Khẩu Phật tâm xà. - Miệng nam mô bụng bồ dao găm.
Có người thì tang ma cỗ bàn dềnh dang, cho cha mẹ, nhưng khi cha mẹ còn sống, thì lại hắt hủi và đối xử tệ bạc:
- Còn sống thì chẳng cho ăn, Đến khi đã chết làm văn tế ruồi.
Có người lập gia đình thì chỉ nhắm tới tiền bạc và địa vị, mà quên rằng, tình yêu thương và tinh thần đạo đức mới là đảm bảo vững chắc cho cuộc sống lứa đôi.
Tất cả những sự kiện trên đều do thiếu lòng yêu mến chân thành mà sinh ra. Lòng yêu mến chân thành mới là yếu tố bên trong, mới là nền tảng vững chắc, thiếu nó thì việc làm của chúng ta chỉ là não bạt ầm vang, thiếu nó bản thân chúng ta chỉ là phường bôi bác giả hình. Vì thế, thánh Augustinô đã nói:
- Ama et fac quodvis. Hãy yêu rồi muốn làm gì cũng được.
Có một ông triệu phú chết đi để lại một gia tài to lớn. Ông sinh được một cậu con trai, nhưng cậu con này được gửi đi du học từ bé, nên không một ai biết mặt. Vì thế, tòa án phải nhắn tin trên báo cho cậu trở về.
Đúng ngày hẹn, người ta thấy có ba chàng thanh niên tự nhận là con của nhà triệu phú. Viên chánh án bèn lấy tấm hình của nhà triệu phú, rồi nói với ba chàng thanh niên:
- Ai bắn trúng thì được lãnh nhận gia tài.
Chàng thanh niên thứ nhất giơ súng và bắn, chàng thanh niên thứ hai cũng giơ súng và bắn. Còn chàng thanh niên thứ ba cũng giơ súng, nhưng rồi lại bỏ xuống và nói:
- Mặc dù đây chỉ là một tấm ảnh, nhưng nó gợi nhớ đến ba tôi, tôi không thể bắn.
Nhờ lòng yêu mến chân thành, viên quan tòa đã nhận ra chàng thanh niên thứ ba mới đúng là người con đích thực của nhà triệu phú và trao gia tài cho chàng.
Lòng yêu mến chân thành, được biểu lộ qua những việc làm cụ thể, chứng tỏ chúng ta là những người môn đệ đích thực của Chúa, bằng không, khuôn mặt đạo đức của chúng ta sẽ bị rơi xuống và chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác giả hình.
-----------------------------------
TN 22-B2. CSTM / 201- GIẢ HÌNH
Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pharisêu và: TN 22-B2
Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pharisêu và kinh sư nói riêng và dân Do thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ triệt để, để tỏ ra mình thanh sạch trước mọi người. Cái tục rửa tay của họ rất phức tạp chứ không đơn giản như kiểu chúng ta rửa tay để ăn uống: rửa ngón tay, bàn tay, cổ tay. Phải đổ nước từ từ cẩn thận từng chút, từng chỗ… thật cầu kỳ, phiền phức. Khi rửa tay như vậy, họ nghĩ rằng họ đã làm đẹp lòng Thiên Chúa vì đã làm đúng luật lệ và họ tin rằng một nghi thức bên ngoài như vậy có sức làm cho họ được thanh sạch. Vì thế, khi thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay, không làm theo tập tục của họ, họ bực tức khó chịu, nên đã hạch hỏi và bắt bẻ Chúa.
Nhân dịp này Chúa Giêsu đã dạy cho họ một bài học thế nào là bẩn hay sạch. Trước hết, Chúa trưng lời ngôn sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Chúa nhắc lại lời này để tố cáo họ đã khoác bên ngoài một bộ áo đạo đức để che lấp đi những hành vi xấu xa tội lỗi bên trong. Như thế là giả hình, giả dối. Họ đã coi cái võ quan trọng hơn cái ruột; cái hình thức hơn nội dung; cái bên ngoài cần hơn tấm lòng. Vấn đề rửa tay trước khi ăn. Thử hỏi việc rửa tay cần hay rửa tấm lòng là cần ? Thật tình, nếu tay bẩn, chúng ta có thể dùng đũa, dùng thìa, chúng ta có ăn bốc đâu. Còn của ăn, tự nó là sạch, và được nấu nướng vệ sinh là sạch. Vì thế, Chúa nói cái làm cho bẩn là tấm lòng. Đúng vậy, lòng có đầy mới tràn ra ngoài bằng lời nói hay hành động: miệng nói ra những tư tưởng chất chứa trong lòng. Nếu đó là những tư tưởng tốt đẹp sẽ hướng dẫn con người hành động thiện hảo. Ngược lại, tư tưởng xấu sẽ dẫn người ta đến những hành vi độc ác, xấu xa. Thực vậy, chính cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, việc tốt hay xấu. Chính từ cõi lòng này mà sinh ra mười hai nết xấu Chúa kể trong Tin Mừng. Đó là mười hai tội chính và còn biết bao ác quả phụ tùng kèm theo nữa. Cho nên, người đời đã phải than rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò. Lòng người nham hiểm ai đo cho tường”, “Lòng người thăm thẳm mù khơi. Không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ còn nói: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm”.
Để diễn tả người mang mặt nạ giả danh bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong; hạng người như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao”. Câu chuyện sau đây là một bằng chứng: Trịnh Tụ là vợ của vua nước Sở, ghen tức với một mỹ nữ đã lọt vào mắt đen của nhà vua. Bà đã nghĩ ra một kế để hạ tình địch của mình. Một hôm, bà làm ra vẻ thân mật nói với mỹ nữ rằng: “Nhà vua có tính không thích người khác thở hơi vào mình. Nên khi vào hầu vua, thì phải giữ ý bịt mũi lại”. Mỹ nữ tưởng thật nghe theo. Mỗi lần tới hầu vua là lấy tay bịt mũi. Nhà vua lấy làm lạ hỏi tại sao vậy ? Trịnh Tụ mau mắn trả lời: “Dạ thưa, người ấy sợ đại vương thân thể hôi hám, nên mới có cử chỉ như vậy”. Vua Sở nổi giận truyền đem mỹ nữ cắt mũi đi. Lòng dạ con người thật nham hiểm. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: loài người không dò thấu được lòng nhau, nhưng Thiên Chúa thấu suốt cõi lòng mỗi người: “Ta là Thiên Chúa, Ta thấu suốt tâm can mỗi người từng gang tấc”. “Thiên Chúa, Đấng thấu suốt nơi kín nhiệm, sẽ thưởng công cho ngươi”, “Loài người nhìn bên ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn bên trong”, “Không có gì có thể che giấu được Thiên Chúa”…
Lời Chúa thật rõ ràng, chúng ta không thể sống che giấu Thiên Chúa được. Chúng ta có thể sống đóng kịch, giấu diếm một số người, một số nơi, một số năm tháng, nhưng chúng ta không thể che giấu nổi Thiên Chúa. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: chúng ta có thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người Pharisêu và Kinh sư không ? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên trong không ? Chúng ta nghĩ gì về một đời sống đạo đức, sốt sắng đọc kinh dâng lễ, nhưngc có thể bị đánh giá là chỉ tôn kính Chúa ngoài môi miệng, còn lòng thì xa Chúa ? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề ngoài không ? Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình. Ít nhất một bài học chúng ta có thể rút ra từ bài Tin Mừng là: cố gắng thành thật với chính mình và lo hoán cải sửa đổi bên trong hơn là lo trang điểm, trình diễn bên ngoài. Thà “xanh vỏ đỏ lòng” còn hơn là “tốt mã rã đám”.
-----------------------------------
TN 22-B3. PV / 570- CON TIM
Trong giáo dục, chúng ta gắn tầm quan trọng tim cho cái đầu, cho trí óc nhiều hơn cho con tim: TN 22-B3
Trong giáo dục, chúng ta gắn tầm quan trọng tim cho cái đầu, cho trí óc nhiều hơn cho con tim, cho tình cảm. Dĩ nhiên tình cảm ít khi được xét đến. Chúng ta đào tạo một đứa trẻ thông minh hơn một đứa trẻ tốt. Thế giới kinh doanh và chính trị tưởng thưởng cho sự thông minh hơn cho lòng nhân hậu. Tuy nhiên trong ngôn ngữ hàng ngày chúng ta thừa nhận sự ưu tiên của con tim, của tâm hồn. Sau đây là một số ví dụ.
Chúng ta xét đoán một người bằng tâm hồn. Chúng ta có thể nói những điều chê trách như “ông ta không có tâm hồn” hoặc “ông ta có một tâm hồn băng giá” hoặc “một tâm hồn khô cứng”. Ngược lại, chúng ta có thể nói tốt về một người như “ông ấy có một tâm hồn”, hoặc “ông ta có tâm hồn nồng nhiệt hoặc dịu dàng”.
Chúng ta xét đoán mức độ cam kết của một người với một công việc bằng những từ ngữ chỉ tâm hồn. Chúng ta nói một người “không để tâm vào công việc” hoặc “chỉ đặt vào đó một nửa tâm hồn”. Và kết quả là người ấy sẽ bỏ cuộc. Cho dù không bỏ cuộc, người ấy sẽ không làm tốt công việc. Chúng ta nói về một người khác “chú tâm vào một công việc” hoặc “toàn tâm toàn ý vào công việc”. Và rồi người này có mọi khả năng không chỉ bền bỉ trong công việc mà còn làm cho công việc trở nên tốt nhất.
Chúng ta mô tả niềm vui và nỗi buồn bằng những từ ngữ chỉ tâm hồn. Chúng ta nói “Chị ấy có tâm hồn tan nát” hoặc “Chị ấy ra đi với con tim nặng trĩu”. Chúng ta nói “Tâm hồn của chị ấy bay bổng bởi niềm vui” hoặc “Chị ấy đã ra đi với tâm hồn thanh thản”.
Chúng ta cũng mô tả các gánh nặng và thương tích bằng những từ ngữ chỉ tâm hồn. Một “tâm hồn nặng trĩu” là một tâm hồn mệt mỏi gánh vác mọi thứ. Một “tâm hồn đau thương” mang trong mình một thương tích đau đớn nhất.
Người ta còn có thể đưa ra nhiều ví dụ khác nữa. Tuy nhiên chúng ta hãy trở lại xem xét hai ví dụ được nói đến trong Tin Mừng hôm nay.
Ví dụ thứ nhất liên quan đến việc thờ phượng. Người ta có thể chỉ trích sự thờ phượng của một người là người ấy không đặt tâm hồn vào việc thờ phượng. Trong trường hợp này, sự thờ phượng chỉ trên môi miệng, giống như những người Pharisêu đã làm. Trái lại một sự thờ phượng tốt nhất là sự thờ phượng của một người đặt hết tâm trí vào đó. Sự thờ phượng này xuất phát từ trong tâm hồn.
Ví dụ thứ hai liên quan đến điều xấu và điều tốt. Một tâm hồn hư hỏng là một hình thức tồi tệ nhất của điều xấu. Nó có nghĩa là xấu từ trong xương tủy. Một tâm hồn thanh khiết là thứ tốt nhất của điều tốt. Nó có nghĩa là tốt từ trong xương tủy.
Tin Mừng nhấn mạnh sự đề cao tâm hồn và chúng ta hiểu được tại sao. Tâm hồn là suối nguồn từ đó chảy ra dòng suy nghĩ, lời nói và công việc. Nếu tâm hồn trong sạch thì mọi dòng chảy phát xuất từ đó sẽđược trong sạch, giống như nước phun ra từ một suối nguồn tinh khiết. Những người Pharisêu quan tâm đến bề ngoài hơn bên trong. Họ quan tâm đến việc làm sạch bàn tay hơn làm sạch tâm hồn.
Vấn đề quan trọng là tâm hồn. Nhưng chỉ Thiên Chúa có thể nhìn thấy sự việc ở trong tâm hồn. Và chỉ Người có thể làm cho tâm hồn trở nên hoàn thiện.
-----------------------------------
TN 22-B4. PV / 572- BÊN TRONG
Chỉ có một người điên mới rửa một cái tách ở bên ngoài mà không rửa ở bên trong. Ít ra chúng ta: TN 22-B4
Chỉ có một người điên mới rửa một cái tách ở bên ngoài mà không rửa ở bên trong. Ít ra chúng ta phải chắc chắn bên trong đã được rửa sạch, còn bên ngoài thế nào cũng được. Đức Giêsu nói chúng ta cũng phải làm như thế đối với chính mình. Chúng ta phải có bên trong sạch sẽ, bên ngoài thế nào cũng được. Thật vậy, nếu bên trong (tâm hồn) đã thanh sạch thì bên ngoài (thái độ của chúng ta) cũng sẽ thanh sạch. Nhưng nếu bên trong không thanh sạch thì bên ngoài cũng sẽ không thanh sạch. Bên ngoài sẽ phản ảnh tình trạng của bên trong.
Những người Pharisêu đã nhìn điều xấu như một vật ở bên ngoài họ – trong các sự vật và đặc biệt trong những người khác. Họ tự hào mình là những người đạo đức và xem thường những người khác. Nếu điều xấu ở bên ngoài họ, thì họ có thể bảo vệ họ khỏi điều xấu bằng cách tránh tiếp xúc với dân chúng, hoặc nơi nào làm họ không thể thực hiện việc tắm rửa theo đúng nghi thức.
Những người Pharisêu là những người chân thành. Chỉ có điều là các nỗ lực của họ hướng về mục đích sai lầm. Đối với họ, cái bên ngoài là tất cả. Vì thế họ quan tâm đến sự thanh sạch bên ngoài mà bỏ quên điều quan trọng hơn – sự thanh sạch nội tâm hoặc sự thanh sạch của tâm hồn.
Đức Giêsu nói rằng căn nguyên của điều xấu ở bên trong chúng ta. Nó có gốc rễ trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta không thể bảo vệ mình khỏi điều xấu bằng việc cách ly với những người khác. Tất cả những điều ghê tởm mà Người liệt kê và chúng ta đọc trên báo chí: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng – tất cả những điều xấu xa đó đều xuất phát từ bên trong con người. Mầm mống của chúng ở bên trong tất cả chúng ta. Những điều đó làm cho một người trở nên ô uế trước mặt Thiên Chúa.
Đó là sự thật rất khó chịu và mỗi người chúng ta không biết đến hiểm họa của chính mình. Một vấn đề lớn của thời đại chúng ta là sự hiểu biết thiếu sót của chúng ta về chính mình, về điều xấu để nhận ra và đối phó với nó bên trong chúng ta. Dù sao cũng có một thứ an ủi và tự do khi biết được và chấp nhận sự thật khiêm nhường ấy.
Ngày nay, có một sự quan tâm to lớn đối với việc làm sạch sẽ thân thể. Vì thế mới có mọi thứ quảng cáo về xà bông và nước hoa. Và cũng có sự quan tâm về môi trường – với chất lượng của nước uống, thực phẩm, và không khí. Điều đó không phải là không quan trọng. Chỉ có điều là có một môi trường khác còn quan trọng hơn: môi trường đạo đức. Điều xấu là thứ ô nhiễm tồi tệ nhất trong mọi thứ ô nhiễm.
Nhưng nếu nguồn gốc điều xấu ở bên trong chúng ta, thì nguồn gốc của điều tốt cũng thế. Mọi tư tưởng lời nói và công việc của chúng ta tuôn trào từ tâm hồn như nước từ một dòng suối giấu kín. Nếu dòng suối trong sạch thì dòng chảy phát xuất từ đó sẽ trong sạch. Chúng ta phải làm thanh sạch suối nguồn.
Có một câu chuyện về một vị thầy một ngày nọ đặt những câu hỏi sau đây cho một số môn đệ:
“Người ta phải tránh điều gì nhất trong đời ?” “Một con mắt xấu xa”, môn đệ thứ nhất nói. “Một người bạn phản bội”, môn đệ thứ hai nói. “Một người láng giềng xấu”, môn đệ thứ ba nói. “Một tâm hồn xấu”, môn đệ thứ tư nói.
Vị thầy thích câu đáp cuối cùng nhất bởi vì nó bao hàm mọi câu khác. Rồi ông nói:
“Và điều gì đáng ao ước nhất mà người ta cố gắng đạt đến trong đời ?” “Một con mắt tốt”, một người nói. “Một người bạn tốt”, người thứ hai nói. “Một người láng giềng tốt”, người thứ ba nói. “Một tâm hồn tốt”, người thứ tư nói.
Vị thầy thích câu đáp cuối cùng nhất, vì nó bao hàm mọi câu khác.
Chúng ta phải cố gắng đạt đến sự trong sạch của tâm hồn. Sự trong sạch hoàn toàn của con người là điều không thể đạt được ở đây trên trần gian này. Nó là một cuộc đấu tranh liên tục. Một tâm hồn trong sạch, tinh tuyền không giống với một tâm hồn trống rỗng. Một tâm hồn đầy lòng yêu thương là một tâm hồn tinh tuyền và lành mạnh.
-----------------------------------
TN 22-B5. PV / 575- PHỤC VỤ
Một cái máy trả lời tự nó là một vật tốt. Nhưng khi chúng ta gọi điện thoại, chúng ta thích được: TN 22-B5
Một cái máy trả lời tự nó là một vật tốt. Nhưng khi chúng ta gọi điện thoại, chúng ta thích được nghe tiếng chào của một con người hơn là của một cái máy. Tuy nhiên, hãy cám ơn kỳ công của kỹ thuật hiện đại, tiếng nói của một người có thể ở đó trong khi người ấy vắng mặt.
Đã lâu rồi, trước khi những đồ dùng như cái máy trả lời được phát minh, người ta đã có thể làm điều đó tức là chỉ hiện diện trong tiếng nói. Không nơi nào mà điều đó nhận thấy rõ ràng như trong trường hợp thờ phượng. Đức Giêsu nói về những người Pharisêu: “Dân này tôn thờ Thiên Chúa bằng môi miệng, nhưng lòng của họ thì xa Người”.
Người ta có thể hiện diện trong nhà thờ chỉ bằng tiếng nói, nhưng sự thờ phượng của họ trở thành một nghi thức hầu như bằng môi miệng. Và điều làm cho vấn đề xấu hơn là tiếng nói ấy không còn là tiếng nói thường ngày của họ. Hẳn phải là tiếng nói long trọng và nghiêm trang, đặc biệt dành riêng cho ngày Chúa nhật. Những người như thế không tốt hơn những cái máy trả lời. Yếu tố quan trọng nhất ấy là sự vắng mặt của tâm hồn.
Điều này cũng được áp dụng cho bất cứ cuộc gặp gỡ hoặc tập họp nào. Hầu như nó cũng biểu lộ trong các cuộc họp mặt công cộng. Người ta ở đó, nhưng không thật sự ở đó. Đó là một cái tôi giả tạo như thể được dựng lên. Gặp gỡ những người như thế là gặp một cái bóng. Bạn rơi vào một cảm giác trống rỗng.
Sự hiện diện thật thì khác hẳn ! Tâm hồn có mặt, và lời nói tuôn trào từ tâm hồn. Để lời nói chúng ta vang lên sự thật, chúng ta phải được nói từ tâm hồn. Nếu chúng chỉ từ môi miệng, chúng sẽ là một âm thanh trống rống. Và khi chúng là những lời nói thông minh, chúng cũng không thuyết phục và tạo hứng khởi cho ai.
Ví dụ hãy lấy những lời tha thứ. Nếu chúng không xuất phát từ tâm hồn phỏng có ích gì ? Nó sẽ không đem lại tự do cho người gây ra xúc phạm. Hoặc sẽ không đạt đến kết quả là sự hòa giải thật sự giữa đôi bên.
Và những lời hòa bình. Nếu chúng không nói từ trong tâm hồn, làm sao có thể đem lại hòa bình ? Dĩ nhiên là không rồi. Và những lời chào mừng. Tôi có thể mở cánh cửa nhà tôi cho một người với những lời nói tử tế, nhưng nếu tôi không dành chỗ cho người ấy trong trái tim tôi, người ấy vẫn cứ là một người xa lạ với tôi.
Chỉ với tâm hồn, chúng ta mới có thể nói những lời ngay thẳng. Và một sự hiện diện không có tâm hồn giống như một bếp lò không có lửa.
Sự hiện diện của tôi ở đây vào ngày Chúa nhật này có phẩm chất như thế nào ? Tôi có thể hỏi liệu có sự tham dự của tâm hồn tôi hay không. Vậy đặt tâm hồn mình vào việc thờ phượng có nghĩa là gì ? Điều này bao hàm sự chân thành, cam kết sâu xa và trên hết, lòng yêu mến.
-----------------------------------
TN 22-B6. SCĐ / 619- CHỚ GIẢ HÌNH
Năm 587, trước khi Chúa ra đời, thủ đô Gêrusalem bị thất thủ, nước Do thái sụp đổ, người Do: TN 22-B6
Năm 587, trước khi Chúa ra đời, thủ đô Gêrusalem bị thất thủ, nước Do thái sụp đổ, người Do thái bị bắt đi đày bên nước Babylon. Sống bên xứ lạ quê người, đền thờ không còn, tế tự không còn, niềm tin của người Do thái yếu kém đi. Hơn nữa sống giữa người ngoại, nhiều người Do thái đã dần đà bỏ đạo Chúa và theo các bụt thần. Trước hoàn cảnh đó, các luật sĩ Do thái đã hết sức cứu vãn niềm tin của dân mình bằng cách đặt ra những luật lệ nhằm bảo vệ đức tin cho tinh tuyền. Vì thế, có những khoản luật cấm tiếp xúc với kẻ tội lỗi, với những gì gọi là ô uế xấu xa.
Thế nhưng sau khi lưu đày trở về, các luật sĩ đã đi quá trớn, đưa ra những khoản luật rất là tỉ mĩ. Thí dụ:
. Một người đàn ông bị đi lính thì bị coi là ô uế. Tất cả mùng mền chiếu gối của họ đều bị coi là dơ. Ai đụng tới cũng bị dơ và phải giặt quần áo của mình, và cho dù đã tắm giặt như vậy vẫn còn bị coi là dơ cho đến chiều tối. Xe họ ngồi cũng bị coi là dơ, phải rửa cho sạch.
. Đàn bà tới kỳ xuất huyết thì bị coi là ô uế suốt 7 ngày. Ai đụng tới họ cũng bị lây ô uế, có tắm giặt cũng còn ô uế tới chiều.
. Nếu kẻ bị coi là ô uế hay lây ô uế khi tắm giặt cũng phải theo những luật tỉ mỉ: lấy nước thì lấy bằng bình đồng, bình sành hay bình gỗ chứ không được dùng bằng thứ bình nào khác. Đụng tới một người ô uế thì phải rửa từ khuỷu tay trở xuống, và phải rửa 2 lần: một lần vì tay bẩn, lần thứ hai để tẩy đợt nước thứ nhất đã bị bẩn khi dính vào tay bẩn của mình.
. Trước khi ăn thì phải rửa tay cho khỏi những ô uế mà có thể vì vô tình mình đã chạm phải. Người ta kể rằng có một luật sĩ tên là Aqiba đã thề chết khát trong tù còn hơn vi phạm luật này: trong tù nước rất ít, nhưng ông cũng dùng để rửa tay trước khi ăn dù rửa xong thì không còn nước để uống.
Đi tới chỗ quá trớn đó thì trở thành thói vụ hình thức. Và nếu chỉ coi trọng hình thức mà quên phần nội tâm thì trở thành chứng giả hình. Vụ hình thức và giả hình, đó là 2 điều mà Đức Giêsu cực lực công kích trong bài Tin Mừng hôm nay.
Nhưng dù sao giữ hình thức cũng dễ hơn giữ nội tâm, cho nên không riêng gì những người Do thái thời xưa, mà cả chúng ta ngày nay cũng dễ mắc thói vụ hình thức và giả hình.
. Thiếu gì người thích làm đám cưới linh đình, lễ cưới có nhiều cha đồng tế nhưng chẳng lo phần giáo lý cho đôi tân hôn bao nhiêu.
. Thiếu gì người cha mẹ già còn sống thì bỏ bê, nói nặng nói nhẹ. Chỉ khi cha mẹ nằm xuống mới lo làm tang lễ um sùm, than khóc bù lu bù loa…
. Thiếu gì người không khuyến khích con cái đi học giáo lý, nhưng tới ngày rước lễ, thêm sức thì tới xin xỏ, làm áp lực cho con mình cũng có mặt trong ngày lễ trọng đại ấy.
. Và thiếu gì người hết sức sùng kính ảnh thánh này, tượng thánh nọ, mà khi đối xử với người khác thì chẳng thấy có chút gì giống tinh thần bác ái vị tha của các vị thánh đó.
Với những kẻ giả hình thời trước cũng như thời nay, lời Đức Giêsu trách cứ vẫn luôn luôn nghiêm ngặt: “Hỡi bọn giả hình, Isaia đã nói thật chí lý về các ngươi rằng: dân này kính ta bằng môi miệng, còn lòng nó thì ở cách xa ta, vì nó sùng kính ta cách giả dối”.
Nhưng thực ra, chúng ta không muốn giả hình mà chỉ vì có bề ngoài thì dễ hơn có bề trong. Bề ngoài và bề trong đều quan trọng, nhưng bề trong quan trọng hơn. Giữ đạo mà không thật lòng mến Chúa yêu người thì vô ích, bởi vì công phúc không phải từ bên ngoài mà tự trong lòng mà ra, không phải do đọc kinh dự lễ mà có nhưng do tâm tình sốt sắng khi đọc kinh dự lễ.
-----------------------------------
TN 22-B7. SCĐ / 625- ĐỨC KITÔ
Có một cuốn phim truyền hình mang tên Karmeliuk, kể chuyện một vị anh hùng dân tộc Nga: TN 22-B7
Có một cuốn phim truyền hình mang tên Karmeliuk, kể chuyện một vị anh hùng dân tộc Nga:
Khi ấy nước Nga còn sống trong chế độ nông nô, một số ít phú nông địa chủ chiếm hầu hết đất đai, còn đa số dân chúng không có đất, thì phải đi làm nô lệ cho các phú nông địa chủ trên, đời sống của họ hết sức cơ cực, họ bị bóc lột, đàn áp dã man. Lúc bấy giờ có một chàng thanh niên có tâm huyết tên là Karmeliuk. Chàng cũng là một nông nô, nhưng không chịu nổi cảnh đàn áp, bất công đó nên đã trốn vào bưng biền để cùng với một số bạn tâm huyết khác nổi loạn. Họ tổ chức đánh cướp nhà các phú nông địa chủ và lấy tài sản của chúng đem chia cho các người nghèo. Danh tiếng Karmeliuk loan truyền khắp nước. Có những bài thơ, những bài hát được lưu truyền trong dân gian để ca ngợi chàng. Chàng Karmeliuk trên những dặm đường gió bụi cũng đã gặp gỡ nhiều thanh niên. Lúc đầu họ không biết chàng. Nhưng khi họ hỏi “Anh là ai ?” và Karmeliuk trả lời “Tôi là Karmeliuk”, thì những thanh niên ấy vô cùng sung sướng, bỏ lại sau lưng tất cả để theo chàng. Họ hãnh diện vì đã đi theo một vị anh hùng dân tộc.
Bài Tin Mừng hôm nay, nếu được diễn tả bằng ngôn ngữ thời đại, thì cũng tương tự như câu chuyện trên. Thuở bấy giờ dân chúng đang sống khổ sở, không phải họ chỉ mang một ách nô lệ, mà tới hai cái ách nô lệ: Nô lệ đế quốc Lamã, và nô lệ đế quốc tội lỗi.
Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đi đó đi đây khắp nơi để xoa dịu những cực khổ thể xác, và giải phóng khỏi ách tội lỗi. Có nhiều tiếng đồn, nhiều dư luận về Ngài. Một ngày kia, trên con đường từ Betsaiđa đến thành phố Xêxarê Philip, Đức Giêsu đột ngột hỏi các môn đệ mình: “Còn anh em, anh em nghĩ Ta là ai ?” Các môn đệ bối rối trước câu hỏi đột ngột ấy nên không trả lời được, khi ấy, Phêrô lên tiếng: “Thầy là Đức Kitô”. Đức Kitô, đó là một danh xưng theo tiếng Hy lạp, ý nghĩa của nó, nói theo ngôn ngữ thời nay, chính là “Vị anh hùng giải phóng”. Lời Phêrô nói: “Thầy là Đức Kitô”, có nghĩa là “Thầy chính là vị anh hùng giải phóng mà toàn dân đã từ lâu mong đợi”. Chắc hẳn Phêrô và các bạn ông rất hãnh diện vì được đi theo một vị anh hùng như vậy. Họ dám bỏ lại sau lưng tất cả, nhà cửa, nghề nghiệp, gia đình, vợ con mà không hề tiếc nuối, bởi vì họ đi theo một vị anh hùng, họ vô cùng hãnh diện.
Thế nhưng vấn đề không phải chỉ đơn giản có thế. Đi theo một vị anh hùng không phải chỉ để được hãnh diện, mà còn phải chia xẻ tất cả những gian truân nguy hiểm trên con đường dài mà vị anh hùng ấy đã vạch ra. Trong chuyện Karmeliuk, nhiều thanh niên đã hãnh diện khi được đi theo chàng. Thế rồi gian truân nguy hiểm đã phân họ thành hai hạng: có một người đã không chịu nổi những gian khổ nên cuối cùng đã phản bội, nghe theo âm mưu của địch để đầu độc Karmeliuk, rất may là chàng không chết; hạng thứ hai là những kẻ trung thành với chàng cho đến chết. Thánh Phêrô và các bạn cũng hãnh diện vì đi theo Đức Kitô. Nhưng Đức Kitô phải nhắc họ: Đi theo Ngài không phải chỉ để hãnh diện, mà còn phải cùng Ngài dấn thân vào con đường thập giá đầy đau khổ. Rõ ràng là các môn đệ chưa được biết điều đó, cho nên nghe vậy thì họ sợ nguy ngay. Và một lần nữa Phêrô lên tiếng thay các bạn “Thưa Thầy, đừng, không được như vậy đâu ?” Đức Giêsu nghiêm khắc rầy Phêrô và xác định lại dứt khoát “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá mà theo”. Từ đó trở đi, các môn đệ dần dần hiểu được con đường của Thầy. Nhưng họ cũng phân ra thành hai hạng: một hạng gồm những kẻ trung thành với Thầy cho đến chết, và hạng kia là Giuđa cuối cùng đã phản lại Thầy.
Đoạn kết của câu chuyện Karmeliuk và câu chuyện Đức Giêsu cũng giống nhau: cả 2 đều bị giết. Kể như cả 2 đều thất bại. Nhưng thực ra đó không phải là thất bại, mà là thành công: Karmeliuk đã gây được ý thức giải phóng nơi dân chúng, với ý thức đó, về sau họ đã đứng lên và giành lại được quyền sống cho mình. Còn Chúa Giêsu thì đã vạch ra một con đường cứu thoát rõ ràng: phải dám vác thập giá, phải dám chết đi, rồi sau đó sẽ sống lại và toàn thắng. Con đường ấy ngày nay đang được hàng trăm triệu người đi theo.
-----------------------------------
TN 22-B8. SCĐ / 628- TRÁI TIM
Văn hào Dostoevski trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov” có kể lại câu chuyện sau đây: TN 22-B8
Văn hào Dostoevski trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov” có kể lại câu chuyện sau đây: “Vào thời đại của tòa phán quan ở Tây ban Nha, người ta đã dựng những hỏa đài để thiêu sống những kẻ tà giáo. Đức Kitô dịu hiền đột nhiên đến thăm con cái của Người ở Seville, Người về giữa loài người như một dân thường. Đức Giêsu bước xuống những con đường sôi bỏng của thành phố Phương Nam. Nơi đây, mới hôm trước, vị phán quan vĩ đại đã cho thiêu sống trăm tên tà giáo “Ad majorem Gloriam Dei”.
Hỏa đài ngay trước khán đài danh dự có đông đủ vô số triều đình, các hiệp sĩ, các mệnh phụ xinh đẹp và cả Đức Hồng Y giáo chủ. Đức Giêsu nhẹ nhàng bước trên đường bằng dáng điệu trầm tĩnh, nhưng lạ lùng tất cả đều nhận ra Ngài. Dân chúng xô đẩy nhau quấn quít bước chân Ngài. Ngài lặng lẽ vào giữ đám đông với nụ cười và ánh mắt từ bi. Một cụ già mù van xin: “Lạy Chúa, xin cho con được sáng để con nhìn thấy Ngài”. Một cái vẩy rơi xuống và cụ nhìn thấy được. Dân chúng vui mừng chảy nước mắt và hôn lên mảnh đất chỗ Ngài đi qua. Những em bé tung hoa trên lối Ngài đi.
Đức Kitô đứng lại trước giáo đường Seville ngay lúc có đám tang một cô bé bảy tuổi. Cạnh cỗ áo quan màu trắng phủ đầy hoa, người mẹ đang nức nỡ. Trong đám đông có người hô lớn: “Con bà sẽ hồi sinh”. Người mẹ tha thiết: “Nếu đúng là Ngài xin hãy hồi sinh đứa con của con”. Đức Giêsu nhắc lại lời thuở trước: “Talitha Kum” và em bé ngồi lên.
Đúng lúc đó, Hồng Y giáo chủ và phán quan vĩ đại đi ngang qua. Từ xa ông đã thấy hết. Ông thấy chiếc áo quan đặt xuống đất, đứa bé hồi sinh. Mặt ông xịu xuống, mắt ông chớp tia sáng ghê hồn. Ông lấy ngón tay chỉ vào Đức Giêsu và ra lệnh cho bọn lính bắt Ngài. Thế lực ông quá lớn nên ông khuất phục cả quần chúng. Phán quan ra lệnh tống giam Giêsu. Ông vào ngục một mình gặp Ngài. Ông thương cảm nhưng “Luật là luật, trật tự của Giáo Hội phải được bảo tồn bằng mọi giá”. Ông tuyên bố “Tôi chẳng rõ Ngài là ai. Hình như người là Đức Giêsu, nhân danh Giáo hội, Ad majorem gloriam Dei, ngày mai Ngài cũng lên giàn hỏa thiêu”.
Vị phán quan trong câu chuyện trên cũng chỉ đi theo vết xe cũ của các biệt phái và ký lục Do thái.
Bài Tin mừng hôm nay chứng minh điều ấy, Đức Giêsu đang ở Gialilê, các Biệt phái và Ký lục từ Giêrusalem tới, nghĩa là họ phải vượt qua 170 Km đường bộ để chỉ hỏi tại sao các môn đệ Ngài không rửa tay trước khi ăn. Điều đó cho thấy người Do thái rất coi trọng việc tuân giữ các tập tục tiền nhân về vấn đề thanh tẩy.
Thực ra, lúc đầu luật rửa tay trước khi vào nơi thánh dành cho các tư tế. Mục đích là tẩy rửa các ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa. Sau này, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Với suy nghĩ tương tự họ cũng rửa tay trước khi ăn. Ý tưởng này rất cao đẹp vì nó làm cho tôn giáo thâm nhập vào hành vi con người trong cuộc sống.
Khốn thay trong quá trình thực thi luật này, tôn giáo đã thoái hóa đến chỗ chỉ còn giữ nghi thức bên ngoài, nghĩa là ai tuân giữ các nghi thức này thì được xem là đạo đức, là đẹp lòng Thiên Chúa, còn không tuân giữ là phạm tội. Nói như nhà thần học William Barclay: “Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tủy mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác”. Tôn giáo không phải là một mớ luật lệ. Tôn giáo là một diễn tả tình yêu, một phát minh của Thiên Chúa nhân từ.
Thế nên, Đức Giêsu mới vạch mặt sự giả hình của họ, vì họ chẳng quan tâm đến chuyện tẩy rửa trái tim. Họ rửa tay để được an tâm. Họ rửa tay để khỏi phải rửa tâm hồn. Rửa tay thì dễ chứ rửa tâm hồn mới thực là khó. Nhưng cái ô uế thực lại không từ bên ngoài vào, nó ở ngay trong trái tim mỗi người. Đức Giêsu đã kể ra 12 ý định xấu từ trong trái tim. Từ ý định xấu xa sẽ dẫn đến những hành vi tội lỗi. Michael Taeboit nói: “Khi cái dầm tội lỗi ra khỏi mắt ta, tất cả thế giới sẽ tỏa sáng”.
Vậy điều quan trọntg là phải đổi mới trái tim. Đổi mới được trái tim là đổi được tất cả. Điều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta là những việc ấy. Việc đọc kinh dự lễ, suy niệm Lời Chúa, Làm việc bác ái…tự chúng không bảo đảm rằng chúng ta đúng đắn. Nó chỉ trở nên thánh thiện trước mặt Chúa khi những hành động ấy phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Phaolô đã quả quyết: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà tôi không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”.
-----------------------------------
TN 22-B9. Bài Giảng Thứ Ba Mươi Hai
Trong một buổi cấm phòng, vị linh mục 72 tuổi đã biết đến một cha xứ mới được bổ nhiệm đến: TN 22-B9
Trong một buổi cấm phòng, vị linh mục 72 tuổi đã biết đến một cha xứ mới được bổ nhiệm đến một nhà thờ ở tiểu bang Kentucky, không xa một chỗ chạy đua Churchill Downs cho mấy:
Vào ngày Chúa Nhật đầu tiên, cha xứ mới đã giảng về cái xấu của cờ bạc, đánh cá độ và những tai họa do cờ bạc gây nên cho một số gia đình.
Sau Thánh lễ, ông chủ tịch hội đồng giáo xứ liền gọi cha xứ lại và bảo rằng những người dâng cúng cho nhà thờ đa số là những người đua cá ngựa và cờ bạc.
Vào Chúa Nhật thứ hai kế tiếp, cha xứ giảng về nạn hút thuốc và những tai họa do hút thuốc gây nên, như bị ung thư phổi và chết sớm.
Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những người trồng cây thuốc lá, và tiểu bang Kentucky là nổi tiếng nghề này.
Vào Chúa Nhật thứ ba kế tiếp, cha xứ giảng về nạn uống rượu bia và tai họa do rượu bia gây nên cho các gia đình, như gây tai nạn xe cộ và đập phá nhà cửa.
Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những nhà nấu rượu và tiểu bang Kentucky nổi tiếng về công việc này.
Cha xứ thất vọng mới hỏi lại ông chủ tịch rằng: "Vậy tôi có thể giảng về vấn đề gì?" Ông chủ tịch liền trả lời: "Hãy giảng chống lại các nhà chính trị lừa đảo, mà trong giáo xứ chúng ta không có những hạng người này."
Câu chuyện trên nói lên một điểm là nhiều người đi lễ giữ đạo nhưng không thích nghe những điều động đến cuộc sống của họ, không muốn sửa đổi cuộc sống để thực sự sống đạo, sống theo những điều Chúa Kitô dạy.
Đây chính là chủ nghĩa tuân theo luật pháp mà Chúa Giêsu đã lên án kịch liệt trong thời của Ngài.
Để diễn tả những cách đạo đức giả của chủ nghĩa tuân theo luật pháp này, William Barclay đã kể cho chúng ta một câu truyện sau đây. Câu truyện này tả về một người Hồi giáo đuổi giết kẻ thù của anh.
Trong khi đang đuổi giết kẻ thù của mình, người Hồi giáo nghe chuông báo giờ cầu nguyện. Anh liền ngừng ngựa lại, trải tấm chiếu ra, quì xuống và cầu nguyện nhanh bao nhiêu có thể. Sau khi đọc xong lời nguyện, anh liền nhảy lên ngựa và tiếp tục đuổi giết kẻ thù của mình.
Theo đạo không chỉ là làm những gì buộc vào các ngày Chúa Nhật. Không chỉ là giữ một số luật lệ, đọc một số kinh, hoặc làm một vài cử chỉ đạo đức.
Chúa Giêsu đã nói rất rõ theo đạo không chỉ là làm một số nghi thức theo luật buộc vào một số giờ trong ngày. Sống đạo không chỉ là giữ một số luật lệ, đọc một số kinh, hoặc làm một vài cử chỉ đạo đức. Nhưng sống đạo là ở trong tâm hồn. Sống đạo là một việc làm của trái tim kêu gọi yêu mến Thiên Chúa và nhân loại. Chúa Giêsu trưng lại Cựu Ước: "Dân này thờ Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng thì xa Ta".
Hơn nữa, các bài đọc còn mời gọi chúng ta hãy nhìn vào tâm hồn của mình để xét mình coi trong phạm vi nào mà lời của Thánh Giacôbê viết trong bài đọc thứ hai hôm nay áp dụng với chúng ta: "Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chớ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình."
-----------------------------------
TN 22-B10. Từ Trái Tim Con Người
Đoạn Tin Mừng hôm nay khởi đi từ một chuyện nhỏ: chuyện các môn đệ không rửa tay trước: TN 22-B10
Đoạn Tin Mừng hôm nay khởi đi từ một chuyện nhỏ: chuyện các môn đệ không rửa tay trước khi ăn.
Đối với người Pharisêu, sau khi ra nơi phố chợ, người ta thường trở nên ô uế do đụng chạm. Phải rửa tay, vì tay ô uế làm đồ ăn ô uế, và đồ ăn ô uế sẽ khiến cả con người ô uế.
Đức Giêsu đã long trọng khẳng định: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế" (c.15).
Khẳng định này là một cuộc cách mạng trong Do Thái giáo, bởi lẽ đời sống người Do Thái bị bao vây bởi nhiều cấm kỵ: không được ăn thịt heo, hay thịt thú chết ngạt; không được đụng vào xác chết, vào người phong cùi; không được ăn chung với dân ngoại hay vào nhà người tội lỗi... Đụng vào hay ăn vào là ô uế ngay.
Đức Giêsu đã phạm nhiều điều cấm kỵ, đã phá đổ nhiều bức tường ngăn cách kẻ xấu - người tốt, dân Do Thái và dân ngoại, nam và nữ, nô lệ và tự do... Ngài hồn nhiên đến với những người bị coi là ô uế để làm họ nên sạch.
Thật ra Đức Giêsu chẳng phản đối gì chuyện rửa tay, nhưng Ngài thấy nó có vẻ giả hình vì người ta chẳng để ý đến chuyện tẩy rửa trái tim.
Rửa tay để được yên tâm, mãn nguyện, tránh khỏi phải rửa tâm hồn là điều khó hơn.
Đức Giêsu cho ta thấy cái ô uế thực sự lại không đến từ đụng chạm hay ăn uống. Cái ô uế đáng sợ nằm ngay trong trái tim mỗi người. Nó không từ ngoài vào, nhưng từ trong ra.
Ngài kể ra 12 ý định xấu xa bắt nguồn từ trái tim, ý định xấu dẫn đến hành động không đẹp (cc.21-22).
Cần trở về với trái tim của mình.
Đó không phải là một cuộc dạo chơi, nhưng là một thách đố dám nhìn cái tôi sau lớp mặt nạ.
"Hãy tạo cho mình một trái tim mới" (Ed 18,31).
Đó là lệnh truyền của Đức Chúa, nhưng con người chẳng thể tự mình thay tim. "Ta sẽ thanh tầy các ngươi. Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới" (Ed 36,25tt).
Đổi được trái tim là đổi được tất cả.
Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc nhở Hội Thánh: Truyền thống, luật lệ và nghi thức là điều cần thiết, nhưng không được quên điều cốt tủy của luật Chúa là yêu thương.
Tôn kính Thiên Chúa qua phụng vụ là điều phải làm, nhưng phải đặt trái tim và cuộc sống mình trong đó.
Chúng ta vẫn có thể lẫn lộn cái chính với cái phụ.
"Xin mọi người nghe tôi nói đây và hiểu cho rõ" (c.14).
Đó là lời Đức Giêsu nhắn nhủ đám đông ngày xưa và chúng ta hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn làm một cuộc hành trình vào trái tim của bạn chưa? Bạn thường thấy trái tim của bạn thích những điều gì và sợ những điều gì? Có điều gì sâu kín nơi trái tim mà bạn muốn chia sẻ không?
Hiện nay có những hàng rào hay bức tường nào còn ngăn không cho bạn đến với mọi người?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin dẫn con vào nhà của con, căn nhà của trái tim, căn nhà vừa quen vừa lạ.
Xin hãy cho con thấy những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co, những mâu thuẫn và vô lý nơi con. Xin hãy cho con thấy những nhỏ mọn, ích kỷ, những yếu đuối, khô khan, những cứng cỏi và tự ái nơi con. Xin cho con ý thức những lo âu, sợ hãi đang đè nặng làm con ngột ngạt, những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui, những vết thương không biết bao giờ lành, những đỗ vỡ khiến lòng con khép lại.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con. Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn, hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người, bằng trái tim bao dung của Chúa. Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình, trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn để yêu mến mọi người. Amen.
-----------------------------------
TN 22-B11. Giữ đạo hay Sống đạo Web
- Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
Tôi nhớ trong một buổi lễ nọ, khi đoàn đồng tế đang đi rước, thì chợt trong đám đông có tiếng: TN 22-B11
Tôi nhớ trong một buổi lễ nọ, khi đoàn đồng tế đang đi rước, thì chợt trong đám đông có tiếng nhận xét đầy hãnh diện của một người nào đó: “Lễ hôm nay các cha đông như ma vậy”. Tôi chẳng biết là ma có bao nhiêu con, nhưng chắc là cũng nhiều lắm, vì hôm đó, các cha cũng thật đông. Khi nói các cha đến đông như vậy, người này có ý muốn nói buổi lễ hôm đó thật long trọng. Nhận xét của người này, tôi thiết nghĩ, cũng là của nhiều người trong chúng ta, vì chẳng biết từ bao giờ, trong tâm trí của chúng ta có một suy nghĩ, cứ lễ nào có đông các cha, rước xách linh đình, rầm rộ thì đó là lễ trọng, có giá trị hơn các lễ khác. Chúng ta chỉ dừng lại ở những nghi thức bên ngoài mà quên đi đời sống nội tâm bên trong.
Tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một cái nhìn khác với cái nhìn của chúng ta. Thiên Chúa muốn chúng ta có một lòng yêu mến chân thành đối với Ngài. Và chính lòng yêu mến đó sẽ chỉ cho chúng ta biết phải làm gì đối với Thiên Chúa. Do đó, dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, tôi muốn cùng quý ông bà anh chị em nhìn lại đời sống đạo của mỗi người chúng ta.
1. Từ việc giữ đạo …
Khi nói đến đời sống tôn giáo, thông thường chúng ta nghĩ ngay đến một số các luật lệ và nghi thức. Và chúng ta cũng thường có khuynh hướng đánh giá mức độ đạo đức của một người qua số lần người đó tham dự các lễ nghi, và giữ các luật lệ. Chính vì thế mỗi khi thấy có người nào, không giữ như chúng ta, chúng ta liền phê bình và cho là “khô đạo”.
Đó cũng chính là quan niệm của những người Biệt phái thời Chúa Giêsu. Ngay khi thấy các môn đệ của Đức Giêsu dùng bữa mà không rửa tay theo luật, lập tức các người Biệt phái liền chất vấn Ngài: “Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân, mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?”. Như vậy, thắc mắc của những người Biệt phái không phải là vấn đề vệ sinh, nhưng là “tập tục của tiền nhân”. Chúng ta biết rằng: Đối các người Biệt phái, trước khi ăn, họ phải rửa từ khuỷu tay trở xuống hai lần. Lần thứ nhất vì tay bẩn, và lần thứ hai là để tẩy rửa nước của lần rửa thứ nhất đã bị bẩn vì đã dính vào tay bẩn của mình.
Đứng trước chất vấn của họ, một chất vấn chỉ dựa vào nghi thức bên ngoài, Đức Giêsu đã lên tiếng cảnh cáo họ:
“Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lí về các ngươi, như lời chép rằng: “Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta…”.
Đức Giêsu còn tuyên bố rõ rằng: chỉ có những gì từ bên trong ra mới làm cho con người ta ra ô uế, chứ không phải là những điều từ bên ngoài vào:
“Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho con người ta ra ô uế”.
Những người Biệt phái đã cắt nghĩa và thêm vào thật nhiều chi tiết tỉ mỉ, trong khi đó, điều quan trọng là giới luật yêu thương của Thiên Chúa, thì họ lại bỏ qua.
Họ quên mất lời nhắc nhở của Môisen trong sách Đệ Nhị Luật:
“Các ngươi chớ thêm bớt điều gì trong các điều ta đã truyền, nhưng hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi mà ta đã truyền dạy các ngươi”.
Họ đã thêm quá nhiều điều phụ và chỉ dừng lại ở đó mà quên đi điều chính yếu. Họ quên mất rằng: Đối với Thiên Chúa, Ngài muốn từng người chúng ta đến với Ngài bằng cả tấm lòng, và trọn vẹn con người của chúng ta, chứ không chỉ là những nghi thức rầm rộ ở bên ngoài.
Chỉ dừng lại ở những nghi thức, lề luật nơi Nhà thờ mà quên đi việc phải sống Lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày cũng là điều mà tôi và quý ông bà anh chị em rất dễ mắc phải.
Thực ra, có lẽ chúng ta chẳng muốn sống giả hình, nhưng vì giữ những nghi thức đó xem ra dễ hơn là sống những đòi hỏi của Thiên Chúa. Chúng ta chỉ mới giữ đạo, chứ chưa sống đạo. Chúng ta chưa để Tin mừng của Chúa biến đổi cuộc sống của chúng ta; chính vì thế, chúng ta vẫn còn phải nghe những nhận xét thật đau lòng của anh chị em chưa tin: “Tin đạo chứ không tin người có đạo”. Họ không tin chúng ta, vì chúng ta chưa thật sự sống điều chúng ta tin.
2. … đến việc Sống đạo:
Nếu chỉ lo giữ những nghi thức bên ngoài, mà không có một tấm lòng chân thật bên trong, những nghi thức này sẽ không bền vững, thậm chí, chúng còn dẫn chúng ta đến một thói xấu khác là kiêu căng, là tự phụ, là dễ kết án người khác….
Ý thức điều đó, Môisen đã nhắc nhở dân Israel: “Hỡi Israel, giờ đây hãy nghe các lề luật và huấn lệnh mà ta dạy bảo các ngươi phải thực hành để được sống”.
Môisen nhắc cho dân biết rằng để mãi mãi được sống trong tình yêu của Thiên Chúa và được Ngài giữ gìn, thì họ phải sống điều Thiên Chúa dạy, chứ không chỉ nghe xuông, hay là chỉ giữ những gì con người nghĩ ra.
Như thế để được sống, chúng ta không chỉ nghe, nhưng cần đem Lời Chúa ra sống ngay trong cuộc sống hiện tại hàng ngày của chúng ta cách cụ thể, như lời thánh Giacôbê: “Anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác, anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh Lời đã gieo trong lòng anh em … Lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền đối với Thiên Chúa Cha là: thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế đời này”
Không những bản thân chúng ta sống Lời Chúa, nhưng mỗi người còn có bổn phận thông truyền và giúp đỡ cho người khác cùng sống Lời Chúa, nhất là những người thân trong gia đình của chúng ta, như lời dạy của Môisen:
“Các ngươi hãy ý tứ và giữ mình. Trong suốt đời các ngươi đừng quên và đừng để lòng xao lãng những điều các ngươi đã thấy. Hãy dạy cho con cháu các ngươi biết các điều ấy”.
Sống Lời Chúa chính là sự bảo đảm cho chúng ta có được một tâm hồn bình an và nhất là giúp chúng ta ngày càng đến gần với Chúa hơn. Chính tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca, với kinh nghiệm sống của mình, cùng với sự soi sáng của Thánh Thần đã khẳng định điều đó, khi nêu lên câu hỏi:
“Lạy Chúa, ai được cư ngụ trên núi thánh của Chúa?”.
Và tác giả cũng đã đưa ra cho chúng ta câu trả lời:
“Đó là người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống; người không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận”.
Chúng ta cần tin tưởng và sống theo Lời Chúa, lời của Đức Kitô, bởi vì đây là con đường duy nhất đưa chúng ta đến sự sống đời đời, như lời Ngài đã khẳng định:
“Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
Lắng nghe Lời Chúa hôm nay, là cơ hội để mỗi người chúng ta kiểm điểm lại cuộc sống của mình trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta nghe Lời Chúa mỗi tuần, thậm chí là mỗi ngày, nhưng chúng ta đã có lần nào can đảm sống những đòi hỏi của Chúa chưa?
Mỗi lần tham dự Thánh lễ, là mỗi lần chúng ta tham dự vào hiến tế tình yêu để lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Thế nhưng, khi trở về nhà, chúng ta vẫn nói hành, vẫn sống gian dối, vẫn còn chia bè, lập phái, và chưa sẵn sàng để tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta. Như thế, phải chăng chúng ta đang tự lừa dối chính mình và người khác, như lời thánh Giacôbê:
“Anh em hãy thực thi Lời đã nghe, chớ đừng nghe xuông mà lừa dối chính mình”.
Chớ gì, với sự trợ lực của Thánh Thể, khi rời ngôi Thánh Đường này, để trở về nhà, từng người chúng ta luôn sẵn sàng thực hiện những điều Chúa dạy chúng ta trong từng ngày sống của mình. Amen.
-----------------------------------
TN 22-B12. ĐẠO KHÔNG CÂU NỆ VÀ HÌNH THỨC BÊN NGOÀI
- Lm Trần Bình Trọng
Luật Chúa được ban ra nhằm hướng dẫn đời sống con người, thăng tiến hoá con người, và nhắc nhở: TN 22-B12
Luật Chúa được ban ra nhằm hướng dẫn đời sống con người, thăng tiến hoá con người, và nhắc nhở cho loài người bước đi theo đường lối chính trực. Tuy nhiên những người Biệt phái và kinh sư trong Phúc âm hôm nay đã đi lạc đường. Trong Phúc âm Chúa cảnh giác thái độ giả hình của người Biệt phái và kinh sư vì họ chỉ giữ luật vì luật. Họ giữ luật theo hình thức bên ngoài, nhưng tâm hồn họ xa Chúa, và họ còn sống đời bất công. Những người Biệt phái quan sát một số môn đệ của Chúa dùng bữa mà không rửa tay trước. Mối bận tâm của họ không có liên quan đến vấn đề vệ sinh, nhưng chỉ là hình thức đạo đức bề ngoài. Họ nhấn mạnh đến việc rửa tay bên ngoài, mà không quan tâm đến việc tẩy rửa tâm hồn bên trong. Vì thế việc rửa tay bên ngoài của họ là một việc làm trống rổng, không có ý nghĩa và không có giá trị thiêng liêng.
Trong bài trích sách Đệ Nhị Luật, Môi-sen đã dạy họ: Hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi ( Đnl 4:2). Đến hôm nay Chúa cảnh giác những người kinh sư và Biệt phái vì họ bỏ qua giới răn Chúa để bám víu lấy những tập tục của tiền nhân (Mc 7:8). Và Chúa trích lời tiên tri Isaia để quở trách họ: Dân này chỉ thờ ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta (Mc 7:6).
Chúa cũng dùng cơ hội này để cảnh giác dân chúng và các môn đệ là Chỉ có gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất ra những ý định xấu xa: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ bánh, kiêu ngạo, ngông cuồng (Mc 7:21-22). Ta có thể tự mãn về một vài việc đạo đức bên ngoài, đến độ quên mất những vấn đề quan trọng và thiết yếu hầu để duy trì đức tin và thực hành đức ái. Vậy ta cần dùng những cơ hội có thể để tự xét và tự kiểm. Kết quả về việc tự xét và tự kiểm về đời sống thiêng liêng, có thể làm ta hài lòng hay không hài lòng. Tuy nhiên ta phải trung thực với lòng mình, nghĩa là phải biết chấp nhận sự thực về mình dù sự thật có đau lòng. Nếu tự xét, ta có thể khám phá ra cái thái độ giả hình của người Biệt phái và kinh sư cũng có thể ăn rễ sâu trong đời sống đạo đức của ta. Ta có thể tuân giữ luật Chúa mà không do nội tâm, không do lòng mến thúc đẩy, như là giữ luật Chúa vì sợ tội, giữ luật Chúa để được tiếng khen là mình đạo đức chứ không phải vì lòng mến. Hôm nay, ta hãy cầu nguyện:
Lạy Chúa là Đấng thông biết mọi sự, Chúa thấu suốt lòng con. Chúa là Đấng đáng tôn thờ, chúc tụng, ngợi khen và cảm mến
Xin tha thứ
* những lần con chỉ thờ Chúa bằng môi miệng bên ngoài, mà lòng con xa Chúa, * những lần con cầu nguyện cách máy móc mà thiếu tâm tình xác tín. * những lần con chỉ đóng vai trò bàng quan mà không thực sự tham dự vào việc thờ phượng.
* những lần con tiếc rẻ thời giờ với Chúa bằng cách luôn đi lễ trễ và ra về sớm
Xin tha thứ
* những lần con quá quan tâm đến lỗi lầm của ngưòi khác
* những lần con nhạo cười người khác khi họ bày tỏ đức tin bằng lòng đạo đức chân thành
Lạy Chúa, xin thương xót con theo lượng từ bi của Chúa. Xin giúp con thiết lập được mối liên hệ gần gũi với Chúa đễ những lời cầu nguyện và ca tụng của con được đi đôi với việc làm.
Xin Chúa đến ngự trị trong tâm hồn con. Xin Chúa là niềm vui, niềm hi vọng và là nguồn ơn cứu độ đời con.
-----------------------------------
TN 22-B13. GIỮ TRỌN LUẬT CHÚA
- Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Từ ngàn xưa, dân của Chúa đã hiên ngang, hãnh diện và ưng ý vì họ có lề luật, có giới dân: TN 22-B13
Từ ngàn xưa, dân của Chúa đã hiên ngang, hãnh diện và ưng ý vì họ có lề luật, có giới dân của đạo giáo, của Thiên Chúa được Môsê lãnh nhận nơi tay của Ngài và chính Môsê đã truyền lại cho dân. Dân Chúa phải tuân thủ những điều luật, những khoản luật để có thể trung thành với giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với dân của Người. Qua những huấn lệnh, giới răn, các khỏan luật như bài I sách Đệ Nhị Luật trích đọc cho thấy đây là biểu trưng cho”sự khôn ngoan và sáng suốt” của dân Thiên Chúa giữa muôn vàn dân tộc khác trên thế giới này.
Đạo của Chúa chỉ gồm tóm trong hai giới luật:” Mến Chúa và Yêu Tha Nhân” đã từ từ bị biến hóa trở thành những điều khoản luật nặng nề chồng chất trên vai người khác. Bài Tin Mừng của thánh Máccô 7, 1-8.14-15.21-23 chỉ rõ cho thấy sự biến dạng của lề luật.
BIỆT PHÁI, LUẬT SĨ, NH”NG NHÀ THÔNG LUẬT BẮT BẺ CHÚA:
Cái trớ trêu của Tin Mừng vạch ra vẫn là các nhà thông luật, các biệt phái và luật sĩ đã quá rõ Tin Mừng muốn họ làm gì. Nhưng sự nực cười ở đây là các hạng người này đã nhắm mắt làm ngơ trước lời mời gọi của Chúa, trước lòng từ bi, nhân hậu, trước lòng chạnh thương, cảm thông của Chúa đối với nhân loại.
Thay vì “ Ách của Ta êm ái, gánh của Ta thì nhẹ nhàng” như lời Thầy chí thánh Giêsu chỉ bảo. Họ đã bầy ra theo ý họ nhiều điều khoản luật rất tỉ mỉ, để bắt dân thực hiện, chứ họ không hề đưa ngón tay lay thử. Họ vẫn xúng xính trong bộ áo thụng, đeo thẻ kinh rủng rỉnh bên tay áo và ưa người khác chào họ bằng Thầy, bằng người Chỉ đạo, hướng dẫn, chỉ huy. Vì thế, có những luật lệ thông thường muốn giữ hay không tùy ý, không hề mắc lỗi gì, nhưng họ đã làm cho nó trở nên nghi lễ, nghi tiết tôn giáo và họ đánh giá sự đạo đức của con người qua những nghi lễ do chính họ qui định cách máy móc. Trong đoạn Tin Mừng này, họ bắt bẻ Chúa Giêsu và các môn đệ của Người không rửa tay trước khi dùng bữa. Rửa tay trước bữa ăn là một việc làm hợp vệ sinh, một việc thông thường hoàn toàn tự do, không có tính cách bắt buộc. Trong đời sống thường ngày, cha mẹ vẫn thường nhắc nhở con cái phải giữ vệ sinh:rửa tay trước khi ăn, rửa chân trước khi đi ngủ, tắm rửa cho khỏe, cho sạch cho mát. Nhưng rửa tay và tắm rửa ở nơi công cộng về, trước khi vào bàn ăn đã không còn là vấn đề vệ sinh thông thường mà đã trở thành nghi lễ tôn giáo theo nhãn giới và truyền thống của biệt phái và luật sĩ. Người biệt phái không châm chước cho một số môn đệ của Chúa Giêsu ăn cơm mà không rửa tay trước. Dưới con mắt của họ làm như thế các môn đệ của Chúa Giêsu đã vi phạm lớn đối với những qui định, những nghi tiết của cha ông. Vì thế, sự vi phạm này sẽ không thể nào được bỏ qua.
QUAN ĐIỂM CỦA CHÚA GIÊSU ” Đấng đến để kiện toàn lề luật “:
Chúa Giêsu là một một con người hoàn toàn tự do, một con người giải phóng, một con người hoàn toàn có quan niện mới, cái nhìn mới, cái nhìn thông thoáng về lề luật, Ngài chống lại những con người giả hình, vụ hình thức, những con người chỉ áp đặt trên vai những người khác ách nặng nề của lề luật do họ nghĩ, do họ bầy đặt ra mà quên đi cái cốt lõi là con tim của mình. Chúa Giêsu bảo vệ điều răn của Thiên Chúa, chống lại những thay thế truyền thống của người phàm trần. Chúa chống lại các nghi tiết thời Người đang sống vì lúc đó con người, xã hội, nhất là những biệt phái và luật sĩ quá chú trọng đến bề ngoài mà quên đi cái cốt lõi của Đạo là tình thương, là cảm thông, tha thứ, quảng đại.
Cái chính yếu ở đây không có nghĩa là chú trọng giữ cái bề ngoài như rửa tay trước bữa ăn, mà là mến Chúa và yêu thương tha nhân. Đối với Chúa Giêsu giữ tỉ mỉ, chi tiết từng khoản luật mà quên đi cái cốt lõi của đạo là lòng mến: đó là giả hình. Chúa Giêsu đã từng vạch mặt chỉ tên những kẻ giả hình dù họ thuộc hàng chóp bu lãnh đạo tôn giáo, hay họ là những kẻ cầm cân nẩy mực trong lãnh vực tôn giáo. Chúa Giêsu đã từng tuyên bố:” Ngài đến không phải để phá lề luật mà để làm cho nên trọn”. Chúa Giêsu mời gọi con người tuân theo điều, và những gì Thiên Chúa đã thiết lập, truyền cho dân phải tuân giữ.
NGƯỜI KITÔ HỮU ĐƯỢC MỜI GỌI THỰC THI LỀ LUẬT:
Ở muôn thời, người Kitô hữu vẫn không tránh khỏi những cám dỗ làm lấy lệ, giữ đạo cho qua. Đạo của Chúa không phải chỉ đọc đôi ba kinh trong nhà thờ, tới nhà thờ dự lễ, cầu kinh là đủ, để khỏi áy náy lương tâm. Đạo cốt thiết là đạo tình thương: chính từ trong phát xuất ra những điều tốt và những điều xấu. Những việc làm từ thiện, bác ái, những việc đạo đức bề ngoài xem ra rất có giá trị nếu chúng được làm với con tim, với ý ngay lành, với việc tuân thủ ý của Thiên Chúa. Chúa Giêsu, các ngôn sứ, nhất là Isaia đã từng nhắc nhở:”
Dân này chỉ thờ phượng Ta ngoài môi miệng, còn lòng trí của chúng thì xa Ta” và Isaia nhấn mạnh:”...Hãy chấm dứt làm điều dữ. Hãy học làm điều lành... Hãy bênh vực những kẻ goá bụa, mồ côi, neo đơn” và thánh Giacôbê trong bài đọc 2 đã viết:” Lòng đạo đức tinh tuyền và không chê trách được trước mặt Thiên Chúa Cha, ấy là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cơn cùng khốn, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian”( Gc 1, 27 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống và thực thi cái cốt lõi của đạo là Tình Thương.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Luật sĩ, biệt phái quan niệm thế nào về lề luật ? 2. Chúa Giêsu nghĩ gì về lề luật ? 3. Bạn hiểu sao về lề luật ?
-----------------------------------
TN 22-B14. SAO BỎ LUẬT CHÚA MÀ GI” TỤC LỆ PHÀM NHÂN
- Lm. VIKINI
Người ta kể một luật sĩ nổi tiếng tên là Aquila đã chịu chết đói trong tù, chứ không chịu ăn vì: TN 22-B14
Người ta kể một luật sĩ nổi tiếng tên là Aquila đã chịu chết đói trong tù, chứ không chịu ăn vì không có nước rửa tay. Thời nay coi luật sĩ đó là cuồng tín, khùng điên, nhưng người Do thái thời đó đã tôn vinh ông như một đấng thánh tử đạo.
Thời nào cũng có hạng người cuồng tín như thế. Có hàng ngàn hàng ngàn người cuồng tín theo những giáo phái, những chủ nghĩa, những chế độ để rồi lao mình vào chỗ chết như con thiêu thân. Con thiêu thân đã lao mình vào lửa, tưởng đó là ánh sáng vinh quang của nó.
Những người Phát xít Đức, Phát xít Nhật đã cuồng tín theo chủ thuyết chủng tộc thống trị thế giới, đã lao mình vào lửa chiến tranh, và thiêu thân hàng chục triệu người. Bao nhiêu người đã hy sinh chết cho những bạo chúa như Tần thủy Hoàng, Nerôn, cho những kẻ độc tài dã man như Hít-le, Stalin, Pôn-pốt … Họ đã nắm giữ những giáo điều, những giới luật của phàm nhân.
Những Pharisiêu, luật sĩ Do thái cũng bị mê hoặc theo các giáo điều của tục lệ tiền nhân để trói buộc dân chúng vào những luật lệ khắt khe như tục lệ thanh tẩy, rửa tay trước khi ăn, ở nơi công chúng về phải tắm rửa. Tắm rửa phải lấy nước ở bình đồng, bình sành, hay bình gỗ, tùy nố luật dạy, phải rửa từ khuỷu tay trở xuống hay phải giặt cả quần áo, phải rửa hai lần: một lần rửa tay bẩn, một lần rửa lại cho sạch hết nước bẩn dính ở tay. Tắm rửa rồi, còn tùy từng trường hợp được sạch ngay hay tới chiều, tới tối mới được sạch.
Luật thanh tẩy được coi là luật thánh của tôn giáo, chứ không phải là phép vệ sinh giữ gìn sạch sẽ bình thường. Ai vi phạm là mắc trọng tội như tội ngoại tình, đáng phải ném đá, hay bị khai trừ khỏi quốc giáo. Vì tính cách quan trọng như thế, cho nên không lạ gì các thầy Pharisiêu và luật sĩ của thủ đô Giêrusalem phải chính thức thân hành đến kiểm tra, xem xét, hạch tội Chúa Giêsu và các môn đệ để có lý do tố cáo và kết án: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa”. Đức Giêsu đã trưng dẫn lời tiên tri Isaia để trả lời họ, giúp họ thấy việc tôn thờ Thiên Chúa của họ vô ích và giả hình, họ chỉ dạy tục lệ phàm nhân.
Sau đó, Người gọi dân chúng lại để phân biệt cho họ thấy đâu là nguồn gốc sinh ra tội lỗi, đâu là không. Những cái bên ngoài vào trong con người, không biến con người thành ô uế tội lỗi được. Từ lòng con người xuất ra mới làm con người mắc tội như tà dâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ghen tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.
Tuy nhiên, với sứ mệnh là Đấng Cứu Thế, Đức Giêsu còn đi xa hơn nữa, Người cương quyết cởi trói nhân loại khỏi luật lệ vô nhân đạo của truyền thống loài người để thăng tiến con người sống theo luật bác ái, luật phổ biến và luật Thiên Chúa.
1. Vì bác ái, Đức Giêsu đã bảo vệ những con người bị loại trừ khỏi hội đường Do thái. Những người bị coi là phường tội lỗi, thu thuế và ô uế. Người ngồi đồng bàn với quân thu thuế và tội lỗi. Người nói chuyện với phụ nữ Samaria có bảy đời chồng. Người tha thứ cho người ngoại tình mà họ muốn kết án ném đá. Người đón nhận anh mù từ khi mới sinh bị hội đồng Do thái khai trừ.
2. Vì Tin mừng cứu độ được phổ biến cho muôn dân, Đức Giêsu đã giải thoát khỏi cái ách tục lệ của Do thái. Người đã đào tạo các môn đệ đi với Người đến với lương dân miền Thập tỉnh, miền Samaria, và người La mã. Người đến cứu thoát người lương dân bị quỷ ám hành hạ cực khổ miền Giêrasa. Người nêu gương nhân hậu của người Samaria đã cứu kẻ bị cướp đánh nằm nửa sống nửa chết giữa đường. Người tuyên bố chưa từng thấy ai trong dân Israel có đức tin mạnh mẽ như viên đại đội trưởng Rôma. Trước khi về trời, Người truyền dạy cho các môn đệ phải đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân, chứ không thể sống hẹp hòi, cố chấp, kiêu ngạo như Pharisiêu và luật sĩ coi chư dân là vô đạo, Samaria là ô uế, Rôma là kẻ thù. Luật Do thái dạy: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới là con cái Cha ngự trên trời, là Đấng đã cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống cho người công chính cũng như kẻ bất chính … Vậy anh em hãy nên toàn thiện như Cha anh em trên trời” (Mt. 5, 43-45 … 48).
3. Vì luật toàn thiện của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã bác bỏ những luật bất toàn của phàm nhân. Người đã chống lại luật thanh tẩy giả hình bên ngoài và dạy phải thanh tẩy tâm trí bên trong. Người cứu chữa kẻ tàn tật để vạch ra những mù quáng của biệt phái hiểu sai lầm về ngày nghỉ lễ Sabat. Người cảnh cáo lối thờ phượng Thiên Chúa bằng môi, bằng miệng mà lòng thì xa Thiên Chúa. Người đuổi những con buôn biến đền thờ thành hang trộm cướp do những tư tế lạm dụng lễ thánh để trục lợi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sẵn sàng chịu chất vấn, tra hỏi của những kẻ cuồng tín theo luật lệ phàm nhân, để rao giảng Tin mừng, loan báo luật bác ái và sự toàn thiện của Thiên Chúa cho muôn dân được cứu độ. Xin soi sáng cho chúng con biết cởi bỏ những đam mê cố chấp, những thành kiến mù quáng phàm trần, để thực thi công bình, bác ái và nên hoàn thiện như Cha chúng con ở trên trời.
-----------------------------------
TN 22-B15. Ưu tiên thanh luyện nội tâm
- Lm. Jude Siciliano, OP.
Mc 7,1-23
Thưa quý vị,
Chẳng phải vì tình yêu Thiên Chúa hay vì lòng nhiệt thành với lề luật mà những người Biệt Phái: TN 22-B15
Chẳng phải vì tình yêu Thiên Chúa hay vì lòng nhiệt thành với lề luật mà những người Biệt Phái vất vả đi từ Giêrusalem tới Galilea để tìm gặp Chúa Giêsu. Họ đã nghe đồn thổi nhiều về nhân vật tiểu tốt này. Giáo lý của ông ta thật nguy hiểm cho nền đạo chính thống nên họ không tiếc công tới để gài bẫy ông, làm cho ông cụt hứng, bẽ mặt trước đám đông ít học và không am tường lề luật. Từ đó, uy tín của ông tan thành mây khói. Ông không thể tiếp tục gieo rắc sai lầm trong dân chúng nữa. Nền giáo lý cổ truyền được bảo vệ. Tuy nhiên họ lại không dám đối mặt trực tiếp với Chúa Giêsu, thay vào đó họ tấn công các môn đệ của Ngài.
Vấn đề được đưa ra tranh luận hôm nay là về các “cổ lệ của cha ông”: Rửa tay trước khi ăn uống, rửa đồ sành đồ gốm khi có người ngoại giáo sờ vào: “Sao môn đệ của ông không theo truyền thống tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa”. Đây là những cổ lệ, giải nghĩa sách Ngũ Kinh. Người Do Thái lập ra những tục lệ ấy để bảo đảm lề luật của Môsê không bị vi phạm. Sau này nó biến thành nghi lễ mọi người phải tuân thủ hàng ngày, mất hẳn tính đạo đức bên trong, chỉ còn hình thức bên ngoài. Các chuyên viên Kinh Thánh gọi là tính luật pháp hay nghi lễ. Chúa Giêsu mộc mạc hơn, nói là thói giả hình. Nếu không cảnh giác cao độ, ngày nay chúng ta cũng dễ mắc vào bệnh hình thức này. Cử hành các lễ nghi, nhưng tâm tình trống rỗng, vụ hình thức, vụ lề luật, sơ cứng tư duy, hoạt động tích cực để trấn áp tiếng trách móc của lương tâm& Công bằng mà nói, những người biệt phái có lẽ còn ngay thẳng hơn chúng ta. Sở dĩ họ chống đối Chúa Giêsu vì không biết xuất xứ của Ngài. Mặt khác, họ nghĩ rằng làm như thế là giúp đỡ dân chúng tuân thủ đúng luật Maisen, tránh cho đám bình dân khỏi lầm đường lạc lối. Cả hai thư, lề luật và tập tục cổ truyền đối với họ đều thánh thiêng như nhau. Cả hai đều là quà Thiên Chúa tặng, có khả năng ban sự sống và khôn ngoan. Các môn đệ Chúa Giêsu vi phạm là Chúa Giêsu đã đồng tình cho phép phá bỏ lề luật. Sự thật, Chúa Giêsu vẫn tôn trọng quyền bính của lề luật. Đã có lần Ngài tuyên bố Ngài đến để làm trọn lề luật chứ không phá bỏ. Nhưng Ngài không đặt các “tập tục của loài người” ngang hàng với Lề luật Môsê. Đối với Ngài, luật căn bản là “tình yêu”. Luật Môsê được ban hành là nhằm nuôi dưỡng và thăng tiến tình yêu, chứ không phải áp chế người vô tội. Tư tưởng của sách Đệ Nhị Luật trong bài đọc một hôm nay xác định rõ điều đó: “Anh em đừng thêm gì vào điều tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em.”
Các nhà khảo cổ và nhân chủng học mới đây khám phá rằng: Lề luật mà các Biệt phái đưa ra thuộc loại “Truyền Thống lớn”, tức nghiêm ngặt, mà chỉ những hạng ưu tú trong các thành phố mới có thể giữ được. Rửa tay trước bữa ăn không phải vì vệ sinh mà hoàn toàn là nghi lễ, không dễ gì giới bình dân hoặc người ở thôn quê giữ được vì khan hiếm nước. Do đó, những người ở giai cấp thấp phát triển “Tập Tục nhỏ”, dẫn xuất từ truyền thống lớn, tuy rằng có một vài khuyết điểm. Các môn đệ Chúa Giêsu tuân theo truyền thống thứ hai này, nhưng những người biệt phái xem đó là phá bỏ lề luật, thách thức quyền bính của họ. Vì thế, họ gây sự với Chúa Giêsu. Nhưng tập tục nhỏ được đa phần dân chúng tuân theo, cho nên Chúa Giêsu bênh vực các môn đệ, gọi họ là “vô tội” ( Xin xem thêm John Pilch: Văn hoá Do Thái thời Chúa Giêsu trang 130-131).
Tự bản thân, luật Môsê là thánh thiện, là hiến chương căn bản của đạo Do Thái, chứ không phải mang tính chất hình thức lịch thiệp bề ngoài. Xin đừng quên điều đó. Hôm nay Chúa Giêsu phản đối người Pharisiêu về cách thức họ chú giải lề luật. Đối với Ngài, luật Môsê rõ ràng, không cần thêm thắt hay chuyển dịch ý nghĩa như các thầy kinh sư thường làm, vô tình họ bẻ cong mục tiêu nguyên thuỷ của lề luật. Thiên Chúa mạc khải tình yêu cứu rỗi của Ngài qua lề luật, chứ không phải nô lệ hoá tuyển dân. Cho nên mục tiêu của lề luật là thăng tiến tự do, yêu thương và phát triển các mối dây quan hệ tốt giữa cộng đồng dân Chúa và với Thượng Đế, Đức Chúa của họ. Người biệt phái không có não trạng đó. Đối với họ lề luật là nguồn mạch quyền bính họ nắm trong tay để thống trị kẻ khác. Nó là phương tiện hữu hiệu để trục lợi và tham lam. Họ cảm thấy “ưu tuyển” hơn tầng lớp dân đen. Như vậy, Chúa Giêsu đã nhìn ra ý đồ đen tối của các thầy thông luật, họ đã biến đổi nó thành khí cụ giết chết chứ không phải nuôi sống. Hậu quả là họ sẽ dùng kỹ thuật chú giải lề luật của họ mà đưa Chúa Giêsu lên thập giá. Nghe thì vô lý nhưng đó là sự thật. Lịch sử nhân loại cũng đầy vết đen như vậy, người ta nhân danh tôn giáo, Thiên Chúa để tàn sát những người vô tội. Bằng một lý giải có tính thuyết phục cao, Chúa Giêsu đã làm cho các thầy biệt phái và kinh sư im lặng. Họ bực tức trở về Giêrusalem nghiền ngẫm cơ hội khác. Chúa Giêsu tiếp tục giảng dạy đám đông: “Xin mọi người nghe tôi đây và hiểu cho rõ: không có cái gì vào trong con người mà lại làm cho con người ra ô uế được, nhưng chính những cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế”. Ngài chuyển đổi chi tiết của việc ăn uống, từ cách thức ăn uống sang các đồ vật ăn uống. Ngài chú trọng đến khía cạnh luân lý của vấn đề chứ không phải sự thanh sạch theo nghi thức. Người biệt phái bị Chúa Giêsu kết án bởi lẽ trái tim họ đã ra chai đá và những tư tưởng nhơ bẩn phát xuất từ trái tim đó chứ không phải những thứ bề ngoài. Họ đã vội vã chỉ trích các môn đệ của Ngài về những điều vụn vặt, không căn bản. Họ chất lên vai quần chúng những gánh nặng không cần thiết mà trong hành động họ không thực hành. Họ là hạng người đồi bại về luân lý và nếp sống của họ chứng tỏ như vậy.
Thường thường thánh sử Marcô không thích đi vào chi tiết. Văn của ông cụ thể, mạnh mẽ, trực tiếp, có khi sai văn phạm, miễn là đạt được ý tưởng. Nhưng ở điểm này, thánh nhân lại khá kỹ lưỡng trong việc mô tả những tập tục của người Do Thái. Có thể thánh nhân nhận thức được ông viết ở Rôma không chỉ dành riêng cho các kiều dân Do Thái, mà cho nhiều hạng người khác nữa. Họ cần thấu hiểu vấn đề và các lời chỉ trích của Chúa Giêsu về đức tin không chân thật của các kinh sư và biệt phái. Chúa Giêsu thẳng thừng gọi các đối thủ của mình là những kẻ giả hình (hypocrites). Từ này nguyên thuỷ áp dụng cho các diễn viên kịch nghệ. Họ làm hề, đóng vai kẻ khác. Người biệt phái giả vờ đạo đức để chiêu mộ bàn dân thiên hạ. Kỳ thực, họ thiếu hẳn tinh thần tôn giáo, tức đức tin chân chính. Đối với Chúa Giêsu vấn đề then chốt là nội dung của con tim. Trong toàn bộ Thánh Kinh, trái tim là nguồn mạch tình cảm, đam mê và tri thức. Người ta gặp gỡ Thiên Chúa trong trái tim mình, nghe lời Ngài và đàm đạo với Ngài cũng ở trong trái tim. Trái tim trong sạch là dấu chỉ của linh hồn thánh thiện. Trái tim nhơ bẩn là kết quả của một lối sống bê tha. Ngày nay cũng vậy thôi. Người ta đánh giá một nhân vật theo trái tim chứ không theo kiến thức. Kiến thức khoa học, thần học, triết học, tâm lý& chưa bảo đảm con người là tốt. Cần phải huấn luyện con tim công bình, bác ái, yêu thương. Đối với các tác giả Kinh Thánh phẩm chất của trái tim nói lên chúng ta có tương giao với Thượng Đế ra sao. Tuy nhiên Chúa Giêsu đòi hỏi nơi tín hữu nhiều hơn là một trái tim thanh sạch. Tôn giáo đích thực không chỉ là một cuộc hoán cải cá nhân suông, một dịch vụ giữa tôi với Chúa Giêsu, mà là các hành động bắt nguồn từ trái tim: “vì từ bên trong, từ lòng người phát xuất ra những ý định xấu: tà dâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình, tham lam, xảo trá, độc ác, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”. Hành động tốt chứng tỏ chúng ta ở trong tương giao hoàn hảo với Thiên Chúa. Nếu như trái tim chúng ta xấu, ắt hẳn các hành động sa đoạ nảy sinh. Cho nên ở một nơi khác trong phúc âm Chúa Giêsu dạy: “Hãy xem quả ắt sẽ biết cây, cây xấu không thể sinh trái tốt và cây tốt không thể sinh trái xấu.” (Mt 7,17) Còn ở đây Chúa Giêsu dạy, chính các hành động sẽ tố cáo chúng ta.
Trong bài đọc một và bài Phúc âm hôm nay, cả hai vị, ông Môsê và Chúa Giêsu đều kêu gọi đám đông: “Hãy nghe tôi đây”. Ông Môsê thay mặt Thiên Chúa truyền mười giới răn. Chúa Giêsu ban luật thanh sạch. Cả hai đều biểu lộ ý muốn của Thượng Đế là con người được hạnh phúc, tự do và thánh thiện, không giả hình, không kiêu căng: “Như vậy anh em sẽ được sống và sẽ vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em ban cho anh em& Anh em phải giữ và đem ra thực hành vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh,” vượt xa mọi khả năng hiểu biết của loài người. Mọi quốc gia sẽ nhận ra rằng quả thực dân Israel đã hiểu biết và sống thân mật với Thiên Chúa, Thượng Đế của họ. Bài đọc hai, thánh Giacôbê cũng khuyên nhủ lắng nghe Lời Thiên Chúa: “Anh em hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em, Lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối mình.” Nghĩa là thánh nhân muốn nói, Lời Chúa trước tiên thâm nhập và đổi mới trái tim chúng ta, sau đó nó biến thành hành động yêu thương, bác ái, công bình...
Tóm lại, người Biệt phái ngỡ rằng chi li tuân thủ lề luật là đương nhiên được ơn cứu rỗi. Tiếp theo tư tưởng của Môsê, Chúa Giêsu mạc khải ý muốn của Thượng Đế là con người được cứu độ. Cho nên mọi người phải mở rộng lòng mình ra để đón nhận Lời Chúa, để cho lời đó biến đổi trái tim và thực hiện những thay đổi có ý nghĩa trong cuộc sống. Trước Thánh Thể, chúng ta cũng là đám đông nghe lời Chúa Giêsu. Chúng ta cũng có các bài giảng, lời hiệu triệu, chúng ta cũng được Ngài kêu gọi: “Hãy nghe Ta.” Đôi khi chúng ta sợ hãi trước những đòi hỏi của Chúa Giêsu. Nhưng lương thực thiêng liêng chúng ta sắp lãnh nhận sẽ giúp đỡ chúng ta ngày một trở nên can đảm “thực hành lời Chúa, chứ đừng nghe suông mà lừa dối mình” Amen.
Ý đẹp: Đối với các nhà giảng thuyết, im lặng là cần thiết và quý báu. Bởi lẽ linh hồn lúc ấy mới in được bóng hình chân lý, giống như mặt nước hồ ao, có phẳng lặng mới in được bóng trăng. Hơi gợn sóng là bóng trăng tan vỡ. Linh hồn xôn xao thì chân lý biến mất. (Tihamer Toth).
Lm. Jude Siciliano,OP.
-----------------------------------
TN 22-B16. Nét đẹp của tâm hồn - Lm. Vũ Xuân Hạnh
Mc 7,1-8.14-15
Cách đây chừng hơn một tháng, dư luận cả nước xôn xao về một vụ hãm hại người khác mang: TN 22-B16 FB
Cách đây chừng hơn một tháng, dư luận cả nước xôn xao về một vụ hãm hại người khác mang tính cách gia đình mà mới nghe qua, người ta khó lòng tin đó là sự thật. Cùng lắm nó chỉ có thể xuất hiện trong tiểu thuyết được trí tưởng tượng phi thường của ai đó hư cấu mà có. Có ai ngờ chuyện như tiểu thuyết ấy lại xảy ra thật. Bởi thế, hình như ai nghe cũng sửng sốt, bàng hoàng.
Chuyện tưởng không mà có ấy, chính là câu chuyện về người mẫu Võ Thị Thu Trâm bị chính mẹ ruột của mình đổ dầu sôi vào mặt. Theo báo Công an, sáng hôm ấy, trong khi Thu Trâm còn đang ngủ, mẹ của cô đã đi mua một chai dầu ăn cở một lít, mang về nhà nấu sôi khoảng 5 phút, sau đó đem nguyên chảo dầu sôi ấy tưới vào mặt con gái mình. Mẹ mà rắp tâm hãm hại con đã là chuyện quá sức bi đát. Nhưng bên cạnh còn một điều đáng lưu ý hơn, bởi một thái độ quá tàn nhẫn, và thái độ tàn nhẫn đó, lại chính là thái độ của một người mẹ dành cho con mình. Nó làm cho ta nhói đau: Sau khi tưới dầu sôi vào mặt con, bà đã ung dung ra khỏi nhà mua một lố dầu nhị thiên đường, để chuẩn bị khi vào tù, bà có dầu xức vì bà thích xức dầu nhị thiên đường. Người ta tự hỏi, vì lý do nào, một người mẹ rứt ruột sanh ra đứa con của mình nuôi cho nó lớn, nên vóc, nên hình, bây giờ lại tàn nhẫn đến mức không còn một chút lương tâm như thế. Mẹ của Thu Trâm trả lời: Vì tức giận con đã cư xử tệ bạc, vô ơn. Bà buồn con mình đã quên mất người mẹ nghèo tần tảo đã từng lặn lội khắp nơi với gánh ve chai trên vai bất kể mưa nắng, bất kể sự mệt nhọc để nuôi chị em Thu Trâm thành tài: chị cả làm giáo viên, anh hai làm tài xế, và Thu Trâm, một người đẹp đến nỗi có thể bước chân vào nghành người mẫu. Nghe đâu, Thu Trâm còn được đề cử tham dự cuộc thi “Hoa hậu liên lục địa”. Vậy mà đã có lần, bạn bè tới nhà chơi, Thu Trâm xấu hổ không dám giới thiệu mẹ của mình.
Đi từ câu chuyện nhỏ bé trong cuộc đời như thế, tôi lại bắt gặp Lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng Chúa nhật XXII hôm nay: “Hết thảy các ngươi hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế”.
Bạn có thấy câu chuyện của hai mẹ con Thu Trâm là một sự dữ lớn không? Sự dữ lớn ấy chính là do tận đáy lòng người ta mang đầy sự kiêu ngạo, sự khinh dể người thân của mình, hơn nữa đó lại là người đã từng rứt ruột sinh thành và dưỡng dục mình. Đó cũng là sự oán hận chất chứa bấy lâu trong tâm, nó đã bào mòn tình mẹ con cho đến mức phát triển thành nỗi căm thù và đan tâm trả thù của một người mẹ. Có lẽ hành động tàn nhẫn ấy của một người mẹ là kết thúc của một quá trình mâu thuẫn kéo dài mà bà đã không thể vượt qua. Sự ác đã hình thành trong lòng của một người mẹ. Nhưng một cách nào đó, khi bỏ rơi mẹ mình, trước hết, sự ác cũng đã xuất hiện trong lòng của một người con. Suy nghĩ như thế, sao tôi thấy Lời Chúa Giêsu nói hay quá, đúng quá: “Từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăn loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế”. Đúng thế, trong tâm người ta toàn sự dữ, thì hành động của họ nguy hiểm khôn lường.
Vẻ đẹp trong tâm hồn là vẻ đẹp quý giá. Đẹp trong tâm hồn là nét đẹp không dễ gì nhìn thấy. Người ta chỉ có thể nhận ra một tâm hồn đẹp qua kết quả của đời sống nơi một ai đó. Đó mới chính là vẻ đẹp cần thiết làm cho con người nên cao trọng, đáng quý, đáng yêu. Đức tin là vẻ đẹp của tâm hồn. Và đức tin cũng không thể nhìn thấy, nếu không có kết quả bằng chính cuộc sống của mỗi người. Và nếu đức tin của ta vững mạnh, dù cho cuộc đời có vùi giập, cái chết oan nghiệt đến ngay trước mắt, hay kẻ thù có kề dao tận cổ, hoặc cám dỗ bởi phù phiếm, sa hoa, ngay cả tội lỗi đi nữa, ta vẫn cứ là một người không dễ lay chuyển, vẫn một lòng kiên trung, một lòng vươn lên sống thánh thiện.
Chỉ sợ lòng ta yếu tin, cho nên ta nghi ngờ tình yêu của Chúa, ta thất vọng vì phải đương đầu với sóng gió trong đời mình. Chỉ sợ rằng ta đã đánh mất vẻ đẹp của lòng tin trong tâm hồn, vì thế không còn đủ sức, không còn can đảm chống lại cám dỗ của cuộc đời, cám dỗ của tội lỗi và của chính bản thân ta. Khi không đủ sức để vương lên sự thánh thiện, quả là ta đã thành ra một kẻ đầy nguy hiểm. Lúc đó chính là lúc rất thuận tiện để vi khuẩn của tội lỗi dễ bề đánh gục ta. Nó tấn công vào chính đời sống đức tin, làm cho ta trở nên yếu nhược. Và khi đó, không cần phải có bất cứ một lực xấu nào tác động, trái lại ngay tâm hồn của ta đã có sẵn cả một ổ vi khuẩn của tội đầy nguy hiểm.
Chính vì sự nguy hiểm khôn cùng của nó mà Chúa Giêsu đã lên tiếng cảnh báo: “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăn loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế”. Nói những lời này, Chúa Giêsu đòi phải có vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của đức tin, của sự thánh thiện, từ đó cuộc đời ta sẽ tỏa sáng lung linh bằng tất cả những gì là lành thánh, là phù hợp thánh ý Chúa, là sự trong sạch của tư tưởng, sự thành thật của lời nói, sự trung tín trong từng hành động. Nói một cách ngắn gọn, đó là tất cả hương thơm của vẻ đẹp tâm hồn. Chúa Giêsu đòi hỏi điều đó nơi chính bạn và chính tôi khi nói những lời như trên.
Từ câu chuyện ngoài đời thực về cô người mẫu Võ Thị Thu Trâm, không những nó soi sáng để dễ hiểu hơn Lời Chúa nói hôm nay, bên cạnh đó, nó còn cho ta một bài học về lòng hiếu thảo, về sự tha thứ, nhất là thái độ cảnh giác về sự dữ trong chính tâm hồn ta.
Từ câu chuyện ngoài đời thực đến Lời Chúa mà chúng ta vừa cùng nhau suy niệm giúp chúng ta mỗi một lần cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha, sẽ ý thức hơn về điều mà mình nguyện xin: “Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ".
Sự dữ mà ta xin Cha thương cứu đó là tội lỗi, là hành vi và hậu quả của tội. Hoặc không phải là tội thì cũng là những rủi ro bất trắc xảy đến với ta. Nếu sự dữ bên ngoài ta, ví dụ: Tôi biết tôi sẽ chết, cái chết làm tôi kinh hãi, thì sự dữ khách quan ấy, đã đáng sợ, nhưng vẫn chưa đáng sợ nhất.
Điều đáng sợ nhất là sự dữ nội tại trong ta. Chính sự dữ này biến ta thành kẻ nô lệ tội lỗi, thay vì phục vụ sự sống, có khi ta lao thân phục vụ cái chết, ném mình vào những đam mê hèn hạ, Bởi thế mỗi lần cầu nguyện: “Xin cứu con cho khỏi sự dữ”, là chính lúc ta xin Chúa gìn giữ mình thoát khỏi mọi nguy hại, đúng như Lời Chúa Giêsu hôm nay: “ Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế”.
Để cho mình bị ô uế tận trong lòng là một nguy hiểm lớn. Chỉ có vẻ đẹp trong lòng mới là vẻ đẹp của tình yêu, sự thánh thiện
Lm. Vũ Xuân Hạnh
-----------------------------------
TN 22-B17. Đừng kính Ta bằng môi miệng - Ptế Huyền Đồng
Lời Chúa cho hôm nay: ĐỪNG KÍNH TA BẰNG MÔI MIỆNG = * Don’t honors Me with your lips *
* BÀI ĐỌC 1: Đệ nhị luật 4, 1- 2; 6- 8 = Giữ gìn luật Chúa: Hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để đem ra thực hành./ Observing God’s law: Hear the statues and decrees which I am teaching you to observe.
* BÀI ĐỌC 2: Giacôbê 1, 17- 18;21, 22, 27 = Hành động theo Lời Chúa: Chúng ta nên cảm tạ Chúa về những gì mình nhận và nên chia sẻ cho người không có đủ. / Act on God’s Word, we should be gratiful for what we have received we should also be willing to share it with those who do not have enough.
* BÀI TIN MỪNG(Gospel): Mác-cô 7, 1- 8; 14- 15; 21- 23 = Tội đến từ con tim: Cái gì từ bên trong con người xuầt phát ra, cái đó mới làm cho người ra ô-ué như: tà dâm, trộm cắp, giết người.../ Sin comes from the Heart: the things that come out from within are what defile: From within people hearts, come evil thoughts, unchastity, theft, murder...
A. Bạn và tôi cùng Cảm-Nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
Dựa vào lời tiên tri Isaia, Đức Giêsu trả lời những người Pharisêu như sau: “Dân này tôn kính Ta: TN 22-B17
1/ Dựa vào lời tiên tri Isaia, Đức Giêsu trả lời những người Pharisêu như sau: “ Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lai xa Ta...” Chúa Giêsu đã nói rất nghiêm nghị,chê trách họ là những kẻ đạo đức giả và đang nói với tôi bây giờ. Tôi chỉ trích người khác giữ điều Chúa muốn, lại còn tôi bắt anh em giữ luật một cách mày móc! Tại sao tôi đã không cải hóa được Gia đình và Hội đoàn? ( Hành đạo)
This people honors Me with their lips, but their hearts are far from Me... ( Mc. 7, 6- 8 )
2/ Đức Giêsu lại nói với bạn hôm nay: “ Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được;nhưng chính cái từ con người xuất ra...” Bạn đã qua mặt Chúa để xét đoán những việc làm của người khác theo ý mình và nắm giữ những luật lệ do truyền thống của người phàm là những tư tưởng, ý định bất chính. Những gì giúp bạn thay đổi được cá tính xấu của mình? (Đào luyện)
Nothing that enters one from outside can defile that person: but the things that come out from within... ( Mc. 7, 14- 15 )
3/ Đức Giêsu nhấn mạnh đến những cái từ bên trong làm cho con người ra ô uế như: “ tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo,....” Tôi nên đọc kỹ lại xem mình nếu có hãy sửa ngay. Tôi đã tích cực bỏ được tật xấu nào trong tuần qua? (Thánh thiện)
4/ Thánh Giacôbê nghiệm nghị khuyên mọi người nghe Lời Chúa hãy đem ra thực hành: >“... hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em;...Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông...” Sống trong sạch, thăm hỏi quả phụ gặp cảnh khó khăn, già yếu bệnh tật...là những việc bạn cần làm ngay sau khi dâng lễ cầu nguyện. Bấy lâu nay tôi đã tu sửa và thực hành bác ái thế nào? ( Học đạo)
...Humbly welcome the Word hat has taken root in you...Act on this Word, you do is listen to it... (Gc.1, 21- 22; See Đnl. 4, 6)
B. Câu Kinh Thánh thúc đẩy tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: ( The Best God’s Word)
DÂN NÀY TÔN KÍNH TA BẰNG MÔI BẰNG MIỆNG, CÒN LÒNG CHÚNG THÌ LẠI XA TA
“ This people honors Me with their lips, but their hearts are far from Me” ( Mc. 7, 6 ) C. Ngay bây giờ bạn vàtôi phải làm gì để mến Chúa bằng cả tâm hồn: ( So what am I doing / For Action )
a/ Bạn có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm -Nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống.
b/ Tôi bỏ ngay một tật xấu xét là xét đoán hành động bên ngoài và đòi hỏi người khác giữ luật hình thức. máy móc.
D. Bạn và tôi cùng cầu nguyện và Sống thực hành lời cầu xin: (I pray and practice / Pray in Action )
1/ Tôi cầu nguyện với 1 câu Kinh Thánh ở phần A để tỏ lòng ước ao Sống theo Lời Chúa trong đời sống.
2/ Bạn tự phát lên với Chúa vì những sai lỗi của mình từ bên trong phát ra, để sửa đổi và xin Ngài thứ tha.
Lời hay ý đẹp: NẾU KHÔNG HẠ MÌNH, CHẮC CHẮN CHÚNG TA SẼ VẤP NGÃ
“Unless we’ re humble, we’re sure to stumble”
Ptế Huyền Đồng
-------------------------
TN 22-B18. Sự công chính và thánh thiện theo quan niệm của Đức Giêsu
- JKN
Câu hỏi gợi ý:
Nhiều người quan niệm: càng giữ luật cho nhiệm nhặt, thậm chí đến từng chi tiết, thì càng nên: TN 22-B18
1. Nhiều người quan niệm: càng giữ luật cho nhiệm nhặt, thậm chí đến từng chi tiết, thì càng nên công chính thánh thiện. Quan niệm như thế có đúng không? Người quan niệm như thế thường gặp những nguy hiểm nào?
2. Đức Giêsu thánh thiện hơn các kinh sư Do-thái rất nhiều, nhưng Ngài có giữ luật Thiên Chúa nhiệm nhặt hơn họ không? Tại sao vậy? Ngài quan niệm việc giữ lề luật Thiên Chúa như thế nào?
3. Hành động bên ngoài tự nó có giá trị không? Hay nó còn tùy thuộc vào cái tâm ở bên trong? vào động cơ thúc đẩy ta thực hiện hành động ấy? Vậy: phải có những hành động tốt hay phải làm sao có cái tâm cho tốt?
Suy tư gợi ý:
1. Quan niệm của các kinh sư Do-thái về sự công chính
Đọc bốn sách Tin Mừng, tôi phải nể phục sự nghiêm túc giữ luật của các kinh sư Do-thái: họ giữ luật Môsê cẩn thận từng chi tiết, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ngoài những điều khoản của lề luật, họ còn giữ cả những chi tiết nhỏ mọn trong truyền thống Do-thái giáo. Bài Tin Mừng hôm nay cho biết: ỡNgười Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồngữ. Họ hành động như vậy vì họ cho rằng sự công chính và thánh thiện hệ tại việc giữ luật và tuân theo truyền thống tôn giáo cho thật cẩn thận. Càng giữ luật kỹ lưỡng đến từng chi tiết nhỏ nhặt thì càng công chính hay thánh thiện. Chắc chắn trong họ có những người nghĩ và thực hành như vậy một cách rất chân thành, với mục đích rất tốt lành là nên công chính hay nên thánh. Họ nghĩ rằng tất cả những ai thánh thiện thì đều phải giữ luật như họ. Nếu có ai thánh thiện hơn họ, ắt người ấy phải giữ luật và những tập tục truyền thống một cách nhiệm nhặt và chi ly hơn họ. Chính vì thế, họ ngạc nhiên khi thấy các môn đệ của một thầy dạy đạo như Đức Giêsu lại không giữ luật và truyền thống như họ. Họ hỏi Ngài: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?ữ
2. Sự công chính và thánh thiện theo quan niệm của Đức Giêsu
Nhưng Đức Giêsu đã cho họ - và cả ta nữa - thấy rằng sự thánh thiện không hệ tại việc giữ luật một cách chi tiết như thế, hay giữ theo hình thức bên ngoài, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều. Cái đó ở trong nội tâm, chứ không phải ở bên ngoài. Người ta vẫn nói: “Đạo tại tâm!ữ. Cái đó chính là cái quan trọng nhất trong lề luật, là cốt tủy của lề luật.
Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những chi tiết hay những hình thức bên ngoài của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt tủy của lề luật. Đức Giêsu đã tố giác điều ấy: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình ! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng (=tức những điều phụ thuộc), mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏữ (Mt 23,23). Như vậy, theo Đức Giêsu, ba điều quan trọng nhất trong lề luật, tinh thần của lề luật, cũng là cốt tủy của sự thánh thiện, chính là chân lý, công lý và tình thương.
Thiết tưởng người Kitô hữu không nên đi vào vết xe đổ của người Do-thái là cứ quan trọng hóa những điều phụ thuộc, mang tính bên ngoài, như giữ cho thật kỹ lưỡng đến từng chi tiết luật này luật nọ, mà coi nhẹ cốt tủy của lề luật, vốn là tinh thần ở bên trong. Điều thiết yếu là phải có tinh thần hay cốt tủy đó ở bên trong đã, rồi tinh thần đó sẽ tự nhiên thúc đẩy ta thể hiện nó ra bên ngoài thành thái độ hay hành động.
3. Hãy nắm vững cái cốt tủy và ưu tiên thực hiện cốt tủy ấy trước
Nếu chỉ có những hành động giữ luật bên ngoài mà không có tinh thần cốt tủy bên trong, thì việc giữ luật đó sẽ ít giá trị trước Thiên Chúa. Còn những người mà luật Chúa thì không giữ, lại chỉ lo giữ những tập tục tôn giáo truyền thống, chẳng hạn một số thói quen quen được gọi là “việc đạo đứcữ, những nghi thức do con người sáng tạo, việc rước sách đình đám& thì việc giữ những tập tục ấy lại càng ít giá trị hơn. Nên nhớ: tất cả những tập tục này đều tốt, nhưng không phải là cốt tủy: thực hiện được thì tốt mà không thực hiện được cũng chẳng sao. Đức Giêsu đã chỉ cho những người này thấy cái sai của họ: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”(Is 29,13). Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”.
Tôi thấy trong nhiều hội nghị Kitô hữu, người ta thường tuân thủ những qui ước minh nhiên (= được qui định rõ ràng) hoặc mặc nhiên (= tự nhiên phải hiểu, phải biết, không cần nói ra). Chẳng hạn như: vấn đề thuộc phạm vi của người nào thì chính người ấy phải nêu lên để bàn. Tuân thủ những qui định ấy là điều rất tốt để bảo vệ trật tự trong hội nghị. Nhưng có những trường hợp mà những vấn đề rất quan trọng có liên quan đến lương tâm của cả hội nghị thì lại không được đem ra bàn, lý do là người có trách nhiệm chính vì một lý do nào đó không chịu đưa ra bàn. Những người khác tuy bị lương tâm thúc giục phải đưa vấn đề ra, nhưng lại vị nể hay quá tôn trọng quyền ưu tiên của người có trách nhiệm chính, nên cuối cùng vấn đề lương tâm cần thiết phải bàn lại bị cho “chìm xuồngữ, vì thế công ích bị thiệt hại nặng nề. Khi vị nể hay tôn trọng qui ước kiểu ấy phải chăng người ta đã coi qui ước của phàm nhân quan trọng hơn cả luật của lương tâm, cũng là luật của Thiên Chúa? Đạo đức kiểu đó là đạo đức gì?
4. “Đạo tại tâmữ. Đúng rồi! nhưng coi chừng& tâm giả!
Tuy nhiên, nhiều người lại đi đến một thái cực khác là không thèm làm những thể hiện tốt đẹp bên ngoài. Họ ngụy biện rằng “Đạo tại tâmữ. Họ cho rằng họ đã có cái cốt tủy của lề luật ở bên trong, nên đủ giá trị trước Thiên Chúa rồi. Nhưng thánh Giacôbê tố cáo họ: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17.26). Nếu tinh thần cốt tủy kia không được thể hiện ra thành những hành động bên ngoài, thì đó là một nghịch lý, mâu thuẫn. Hãy coi chừng cốt tủy kia chỉ là cốt tủy giả hay tâm giả.
5. Điều quan trọng là bên trong chứ không phải bên ngoài
Đức Giêsu nói: “Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình& Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uếữ. Ngài cho thấy: yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bên ngoài. Chính ý hướng ở bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có giá trị hay không. Nhiều người có những hành động rất tốt nhưng lại làm vì những động lực ích kỷ hay gian ác, thì hành động ấy trở nên xấu. Chẳng hạn những hành động giả nhân giả nghĩa nhằm được một lợi lộc nào đó, như bố thí thật nhiều để được khen, để có tiếng là đạo đức hầu lừa đảo người khác, hay làm việc tích cực chỉ nhằm để được lên chức, để nắm được quyền hành hầu thao túng lũng đoạn tập thể. Ngược lại, có những người “tình ngay mà lý gianữ, hành động thì có vẻ như xấu, bị kết án, nhưng ý hướng thì tốt lành, nhằm ích lợi cho tha nhân. Họ tuy bị người đời kết án, nhưng lại được Thiên Chúa chúc lành.
Vì thế, trong đời sống tâm linh, người ta phải tu dưỡng cái “tâmữ ở bên trong trước: phải có tâm ngay thẳng, thành thật, luôn tôn trọng sự công bằng, biết yêu thương mọi người không phân biệt sang hèn tốt xấu. Khi đã có tâm tốt thật sự, những việc làm của người ấy sẽ tự nhiên đẹp lòng Chúa. Thánh Âu Tinh nói: “Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm!ữ (Ama et fac quod vis). Khi tâm đã quanh quéo, ích kỷ, sẵn sàng hại người, thì bất kỳ việc làm do tâm ấy thúc đẩy - dù bên ngoài có tốt lành đến đâu - cũng đều mang dấu ấn của tâm ấy, nên không mấy giá trị trước Thiên Chúa.
CẦu nguyỆn
Lạy Cha, xin cho chúng con hiểu rằng sự thánh thiện hệ tại tình trạng tốt đẹp tâm hồn hơn là tại những hành động bên ngoài. Xin cho chúng con biết quan tâm đến việc tu tâm dưỡng tánh, nghĩa là có một tâm hồn ngay thẳng, luôn thành thật, luôn tôn trọng và bênh vực công lý, luôn yêu thương mọi người. Tâm tốt lành ấy mới chính là điều cốt yếu làm nên sự công chính thánh thiện của chúng con, hơn là việc giữ luật lệ một cách chi tiết hay việc làm cho thật nhiều những hành động tốt.
JKN
--------------------------------
TN 22-B19. LỀ LUẬT VÀ TẤM LÒNG
"Cái gì từ trong con người xuất ra mới là cái làm cho người ta ô uế" (Mc 7,15)
Minh họa
- Mille images 129 A
- "Cái gì từ trong con người xuất ra mới là cái làm cho người ta ô uế" (Mc 7,15)
Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc I (Đnl 4,1-2.6-8): Môsê khuyên dân do thái hãy đem lề luật đã học ra thực hành.
- Tin Mừng (Mc 7,1-8a.14-15.21-23): Đức Giêsu trách những người biệt phái và kinh sư chỉ lo giữ những khoản luật quy định về sự trong sách bề ngoài mà không lo giữ tâm hồn cho trong sạch.
- Bài đọc II (Gc 1,17-18.21b-22.27): Đối với Lời Chúa, đừng nghe suông mà hãy thực hành.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Ngày xưa Đức Giêsu đã dùng lời ngôn sứ Isaia để trách dân do thái rằng: "Dân này tôn kính: TN 22-B19
Ngày xưa Đức Giêsu đã dùng lời ngôn sứ Isaia để trách dân do thái rằng: "Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta". Phải chăng chúng ta cũng đáng bị trách như thế ? Mỗi ngày Chúa nhật, chúng ta đến đây đọc kinh và rước lễ. Nhưng đó chỉ mới là bằng môi bằng miệng thôi. Tôn kính Chúa bằng một tấm lòng chân thành còn đòi buộc chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa, kết hợp với Mình Thánh Chúa và sống theo ý Chúa nữa. Chúng ta hãy dâng Thánh lễ này với cả tấm lòng chân thành yêu kính như vậy.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Nhiều lần chúng ta dự thánh lễ nhưng lòng trí không ở với Chúa. - Chúng ta nghe Lời Chúa rất nhiều nhưng chẳng thực hành bao nhiêu. - Chúng ta cố gắng giữ luật vì sợ phạm tội chứ không vì lòng yêu mến Chúa.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Đnl 4,1-2.6-8)
Dân do thái rất hãnh diện vì có Thiên Chúa làm Chúa của họ và vì được Thiên Chúa ban Luật cho họ: "Có dân tộc vĩ đại nào được Thần minh ở gần như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Người ? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh như tất cả Lề luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em ?"
Nhưng Ông Môsê lưu ý: (1) Không được thêm cũng không được bớt gì vào những Lề luật của Chúa ; (2) Phải đem những lề luật đó ra thực hành.
2. Đáp ca (Tv 14)
Thánh vịnh này ca tụng những người luôn cố gắng sống công chính theo chỉ dẫn của lề luật.
3. Tin Mừng (Mc 7,1-8a.14-15.21-23)
Đức Giêsu và nhóm biệt phái cùng kinh sư tranh luận với nhau về vấn đề sạch dơ.
- Họ bám sát mặt chữ những quy định của luật lệ về sự phân biệt cái gì sạch cái gì dơ và về những đòi buộc phải rửa tay chân chén dĩa...
- Đức Giêsu nói đó chỉ mới là sạch dơ bề ngoài, không quan trọng bằng sạch dơ trong tâm hồn.
- Ngài nhận xét đạo đức của họ chỉ là đạo đức giả: "Dân này kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta".
- Ngài còn kết án họ lấy tập tục của loài người để thay thế lệnh truyền của Thiên Chúa. Ngài lấy tục lệ Corban ra làm thí dụ điển hình: Corban là của dâng cúng cho Thiên Chúa. Mặc dù Xh 20,12 buộc con cái phải phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng để khuyến khích người ta đóng góp cho Đền thờ, biệt phái và kinh sư đã dạy rằng nếu ai khấn hứa đem những gì phải giúp cha mẹ để dâng cho Đền thờ thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Quả thật đây là một cách bóp méo luật Chúa.
4. Bài đọc II (Gc 1,17-18.21b-22.27)
Thánh Giacôbê bảo rằng được đón nhận Lời Chúa quả là một ân huệ to lớn. Nhưng Ngài khuyên tín hữu "đừng nghe suông mà phải đem ra thực hành". Cụ thể là hãy "thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian".
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Chớ giả hình
Năm 587, trước khi Chúa ra đời, thủ đô Giêrusalem bị thất thủ, nước Do Thái sụp đổ, người Do thái bị bắt đi đày bên nước Babylon. Sống bên xứ lạ quê người, đền thờ không còn, tế tự không còn, niềm tin của người Do thái yếu kém đi. Hơn nữa sống giữa người ngoại, nhiều người Do thái đã dần dà bỏ đạo Chúa và theo các bụt thần. Trước hoàn cảnh đó, các luật sĩ Do thái đã hết sức cứu vãn niềm tin của dân mình bằng cách đặt ra những luật lệ nhằm bảo vệ đức tin cho tinh tuyền. Vì thế, có những khoản luật cấm tiếp xúc với kẻ tội lội, với những gì gọi là ô uế xấu xa.
Thế nhưng sau khi lưu đày trở về, các luật sĩ đã đi quá trớn, đưa ra những khoản luật rất là tỉ mỉ. Thí dụ:
. Một người đàn ông bị đi lính thì bị coi là ô uế. Tất cả mùng mền chiếu gối của họ đều bị coi là dơ. Ai đụng tới cũng bị dơ và phải giặt quần áo của mình, và cho dù đã tắm giặt như vậy vẫn còn bị coi là dơ cho đến chiều tối. Xe họ ngồi cũng bị coi là dơ, phải rửa cho sạch.
. Đàn bà tới kỳ xuất huyết thì bị coi là ô uế suốt 7 ngày. Ai đụng tới họ cũng bị lây ô uế, có tắm giặt cũng còn ô uế tới chiều.
. Nếu kẻ bị coi là ô uế hay lây ô uế khi tắm giặt cũng phải theo những luật tỉ mỉ: lấy nước thì lấy bằng bình đồng, bình sành hay bình gỗ chứ không được dùng bằng thứ bình nào khác. Đụng tới một người ô uế thì phải rửa từ khuỷu tay trở xuống, và phải rửa 2 lần: 1 lần vì tay bẩn, lần thứ hai để tẩy đợt nước thứ nhất đã bị bẩn khi dính vào tay bẩn của mình.
. Trước khi ăn thì phải rửa tay cho khỏi những ô uế mà có thể vì vô tình mình đã chạm phải. Người ta kể rằng có 1 luật sĩ tên là Aqiba đã thà chết khát trong tù còn hơn vi phạm luật này: trong tù nước rất ít, nhưng ông cũng dùng để rửa tay trước khi ăn dù rửa xong thì không còn nước để uống.
Đi tới chỗ quá trớn đó thì trở thành thói vụ hình thức. Và nếu chỉ coi trọng hình thức mà quên phần nội tâm thì trở thành chứng giả hình. Vụ hình thức và giả hình, đó là 2 điều mà Đức Giêsu cực lực công kích trong bài Tin mừng hôm nay.
Nhưng dù sao giữ hình thức cũng dễ hơn giữ nội tâm, cho nên những người cho nên không riêng gì người Do thái thời xưa, mà cả chúng ta ngày nay cũng dễ mắc thói vụ hình thức và giả hình.
. Thiếu gì người thích làm đám cưới linh đình, lễ cưới có nhiều cha đồng tế nhưng chẳng lo phần giáo lý cho đôi tân hôn bao nhiêu.
. Thiếu gì người cha mẹ già còn sống thì bỏ bê, nói nặng nói nhẹ. Chỉ khi cha mẹ nằm xuống mới lo làm tang lễ um sùm, than khóc bù lu bù loa..
. Thiếu gì người không khuyến khích con cái đi học giáo lý, nhưng tới ngày Rước lễ, Thêm Sức thì tới xin xỏ, làm áp lực cho con mình cũng có mặt trong ngày lễ trọng đại ấy.
. Và thiếu gì người hết sức sùng kính ảnh thánh này, tượng thánh nọ, mà khi đối xử với người khác thì chẳng thấy có chút gì giống tinh thần bác ái vị tha của các vị thánh đó.
Với những kẻ giả hình thời trước cũng như thời nay, Lời Đức Giêsu trách sứ vẫn luôn luôn nghiêm nhặt: "Hỡi bọn giả hình, Isaia đã nói thật chí lý về các ngươi rằng: dân này kính ta bằng môi miệng, còn lòng nó thì ở cách xa ta, vì nói sùng kính ta cách giả dối".
Nhưng thực ra, chúng ta không muốn giả hình mà chỉ vì có bề ngoài thì dễ hơn có bề trong. Bề ngoài và bề trong đều quan trọng, nhưng bề trong quan trọng hơn. Giữ đạo mà không thật lòng mến Chúa yêu người thì vô ích, bởi vì công phúc không phải từ bên ngoài mà tự trong lòng mà ra, không phải do đọc kinh dự lễ mà có nhưng do tâm tình sốt sắng khi đọc kinh dự lễ.
* 2. Bàn về luật lệ
Năm 336 trước Chúa Giáng Sinh, nước Hy Lạp nổi lên một vị anh hùng, đó là Alexandre đại đế. Mới có 20 tuổi, ông đã chứng tỏ tài thao lược của mình khi nổi lên bẻ gãy ách đô hộ của đế quốc Ba Tư lúc đó đang đè nặng trên nước Hy Lạp. Chẳng những thế, ông còn quật ngược lại tình hình, biến Ba Tư trở thành một nước chư hầu và đưa Hy Lạp lên ngôi bá chủ. Ông đánh đâu thắng đó, trăm trận trăm thắng, xâm chiếm nhiều nước khác, đế quốc Hy lạp trải rộng cho tới Ấn Độ,. Nước Do thái bé nhỏ cũng rơi vào vòng thống trị của đế quốc Hy Lạp. Loé mắt trước nền văn minh Hy Lạp, nhiều người Do Thái đua nhau học đòi kiểu sống Hy Lạp: nói tiếng Hy Lạp, mặc theo kiểu Hy lạp, ăn uống theo kiểu Hy Lạp và thờ các thần Hy Lạp. Mặt khác các quan thái thú Hy Lạp dùng sức mạnh để buộc người Do thái bỏ đạo Chúa để thờ đạo Hy Lạp, họ bắt đầu ăn thịt heo và đốt nhang trước các tượng thần. Ai không làm theo thì bị xử tử. Văn hóa dân tộc và đức tin vào Chúa có nguy cơ bị huỷ diệt. Vì thế, những nhà lãnh đạo tinh thần của dân đã hết sức cố gắng giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân. Họ đặt ra những khoản luật buộc dân giữ mình khỏi bị lây nhiễm nọc độc của ngoại bang, trong đó có những luật về ăn uống, về cách giữ các lễ nghi. Từ đó dấy lên một phong trào đề cao lề luật.
Nhưng phong trào này càng ngày càng đi tới chỗ quá trớn. Tới thời CG thì luật lệ đã quá sức tỉ mỉ, nhất là luật về sạch dơ: đi đâu về trước khi vào nhà cũng đều phải rửa tay rửa chân, trước khi ăn uống cũng phải rửa tay chân, và những chén dĩa ly tách dùng để ăn uống cũng phải rửa nhiều lần trong ngày. Điều đáng ta chú ý là những luật này không phải để giữ vệ sinh hay bảo vệ sức khoẻ, mà chỉ để giữ nghi thức thôi, cho nên dù không dơ nhưng cũng phải tắm rửa, ai không làm vậy thì bị coi là người tội lỗi, bị người khác chỉ trích và kết án nặng nề.
Như một lần kia, các môn đệ CG đã ăn mà không rửa tay trước. Lập tức họ bị những luật sĩ và biệt phái chỉ trích. Nhân dịp đó CG đã lên tiếng vừa để bênh vực môn đệ mình, vừa để nói lên quan điểm của Chúa về vấn đề lề luật cách chung và cách riêng về vấn đề sạch dơ. Đại khái CG cho rằng luật lệ chỉ là hình thức để diễn tả tấm lòng. Tấm lòng mới quan trọng, còn hình thức không quan trọng. Bởi vì dơ hay sạch là do tự tấm lòng bên trong. Nếu lòng dạ dơ dấy xấu xa thì cho dù hình thức bên ngoài có đẹp đẽ mấy thì cũng chỉ là vô ích, là giả hình.
Đức Giêsu đã nói rất đúng. Luật lệ giống như cái khuôn khổ, giống như những bức tường, những hàng rào, như sợi dây cương để lèo lái con ngựa chỉ được chạy một hướng, như chiếc đường rày không cho chiếc xe lửa chạy lệch hướng. Thành ra luật lệ có tính cách gò bó, ép buộc. Còn tấm lòng thì dự do và thoải mái, cũng giống như tình cảm người ta thì không có hàng rào, không có bánh lái. Dĩ nhiên luật lệ cũng cần thiết và hữu ích để gìn giữ không cho tấm lòng đi lệch lạc. Nhưng coi luật trọng hơn tấm lòng, dùng luật lệ để bóp chết tấm lòng, hoặc chỉ chú ý đến luật lệ mà bỏ hẳn tấm lòng thì quả là một sai lầm to lớn.
Sai lầm đó, các luật sĩ và biệt phái thời CG đã phạm. Và ngày nay nhiều người vẫn phạm. Thí dụ như mới đây thôi tôi gặp một người rất lâu không thấy đi xưng tội, hỏi tại sao thì người ấy đáp: "Có chứ con xưng tội một năm một lần, đúng luật mà"
Khi đã có tấm lòng thì có thể chẳng cần lề luật. Cũng như cha mẹ đối với con cái. Tình thương của cha mẹ lúc nào cũng bao la lai láng, vì thế cha mẹ đã lo cho con ăn, lo cho con mặc, chăm sóc con cái mọi chuyện.... chỉ do sự thúc đẩy của tình thương chứ không do một luật lệ nào bắt buộc. Đứa con nào biết thương cha mẹ thực lòng thì cũng tận tuỵ phụng dưỡng cha mẹ như vậy. Nhưng có một số gia đình mà con cái không còn tấm lòng với cha mẹ nên khi cha mẹ già yếu phải đề ra những quy luật giao cho đứa này phải lo gạo, đứa kia lo tiền chợ, đứa khác lo tiền điện nước trong nhà. Khi đã không có tình nghĩa thì người ta phải xài tới luật lệ. Nhưng mà luật lệ cũng không bảo đảm làm cho tình nghĩa sống lại, chúng chỉ là một mớ hình thức lỏng lẽo, héo khô. Như gia đình mà tôi đang nói, các đứa con tuy giữ đúng quy định phân chia trách nhiệm như thế, nhưng khi cha mẹ đau yếu, cha mẹ cần tiền để đi dự một đám cưới, cha mẹ có khách tới ở nhà... thì không đứa nào chịu bỏ tiền ra đưa cho cha mẹ, bởi vì những khoản đó không có kể trong quy luật gia đình. Những đứa con ấy giữ luật rất đúng nhưng đâu phải là những đứa con hiếu thảo.
Nếu chúng ta là những tín hữu đã tuân giữ luật Chúa và luật Giáo Hội một cách chu đáo thì chúng ta cũng không được tự mãn cho rằng mình đã làm đầy đủ tất cả. Bởi vì có thể chỉ là đầy đủ về hình thức thôi, chứ chưa hẳn là đầy đủ tình nghĩa yêu mến kính thờ Chúa. Chúng ta cũng nên áp dụng nhận thức trên vào một việc cụ thể là việc đọc kinh và dự lễ.
. Luật dạy chúng ta đọc kinh sáng tối mỗi ngày: đọc những kinh gì, và đọc lúc nào, đó là hình thức. Người chỉ để ý tới hình thức thì đọc thật nhanh, đọc cho có cho rồi. Ngày nào có cớ để không đọc thì chộp ngay lấy cớ đó để bỏ. Nhưng ta phải biết tinh thần của luật ấy là gì ? Đó là muốn chúng ta tỏ lòng kính mến Chúa mỗi ngày vào khoảng khắc đầu tiên và cuối cùng trong ngày. Ai có tinh thần đó thì không nhất thiết là phải đọc những kinh gì, đọc bao lâu. Mỗi ngày khi vừa thức dậy và khi sắp đi ngủ họ nâng tâm hồn lên tới Chúa, có thể họ đọc kinh mà có khi cũng không đọc kinh, chỉ nói với Chúa đôi lời, những lời đơn sơ, thực tình nhưng rất hiếu thảo.
. Luật buộc đi lễ Ngày Chúa Nhật: Đi lễ cũng chỉ là hình thức. Còn tinh thần chính là dành ra một ngày trong tuần để đặc biệt cho Chúa, lo việc thờ phượng Chúa. Người nào đi lễ mà chỉ đứng ở ngoài nhà thờ, hay đến thì trễ mà về thì sớm thì đúng là người chỉ chú ý đến hình thức. Kẻ coi trọng tinh thần ngày Chúa Nhật nếu vì một cản trở nào đó mà không đến nhà thờ được thì cũng biết cách để thánh hóa ngày Chúa Nhật, như cầu nguyện riêng ở nhà, như làm một vài việc lành dâng lên Chúa trong ngày đó.
Xin Chúa giúp chúng ta kính mến Chúa thực sự trong lòng chứ không phải chỉ bằng những hình thức giữ lề luật bên ngoài, để chúng ta không bị Chúa trách như đã trách các biệt phái và luật sĩ ngày xưa "Dân này kính ta ngoài môi miệng, mà lòng nó ở cách xa ta".
* 3. Đức Kitô và KARMELIUK
Có một cuốn phim truyền hình mang tên Karmeliuk,, kể chuyện một vị anh hùng dân tộc Nga: khi ấy nước Nga còn sống trong chế độ nông nô, một số ít phú nông địa chủ chiếm hầu hết đất đai, còn đa số dân chúng không có đất, thì phải đi làm nô lệ cho các phú nông địa chủ trên, đời sống của họ hết sức cơ cực, họ bị bóc lột, đàn áp dã man. Lúc bấy giờ có một chàng thanh niên có tâm huyết tên là Karmeliuk. Chàng cũng là một nông nô, nhưng không chịu nỗi cảnh đàn áp, bất công đó nên đã trốn vào bưng biền để cùng với một số bạn tâm huyết khác nổi loạn. Họ tổ chức đánh cướp nhà các phú nông địa chủ và lấy tài sản của chúng đem chia cho các người nghèo. Danh tiếng Karmeliuk loan truyền khắp nước. Có những bài thơ, những bài hát được lưu truyền trong dân gian để ca ngợi chàng. Chàng Karmeliuk trên những dặm đường gió bụi cũng đã gặp gỡ nhiều thanh niên. Lúc đầu họ không biết chàng. Nhưng khi họ hỏi "Anh là ai ?" và Karmeliuk trả lời "Tôi là Karmeliuk", thì những thanh niên ấy vô cùng sung sướng, bỏ lại sau lưng tất cả để theo chàng. Họ hãnh diện vì đã đi theo một vị anh hùng dân tộc.
Bài Tin mừng hôm nay, nếu được diễn tả bằng ngôn ngữ thời đại, thì cũng tương tự như câu chuyện trên. Thuở bấy giờ dân chúng đang sống khổ sở, không phải họ chỉ mang một ách nô lệ, mà tới hai cái ách nô lệ: Nô lệ đế quốc La mã, và nô lệ đế quốc tội lỗi. Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đi đó đi đây khắp nơi để xoa dịu những cực khổ thể xác, và giải phóng khỏi cách tội lỗi. Có nhiều tiếng đồn, nhiều dư luận về Ngài. Một ngày kia, trên con đường từ Betsaiđa đến thành phố Xêxarê Philip, Đức Giêsu đột ngột hỏi các môn đệ mình: "Còn anh em, anh em nghĩ Ta là ai ?" Các môn đệ bối rối trước câu hỏi đột ngột ấy nên không trả lời được, khi ấy, Phêrô lên tiếng: "Thầy là Đức Kitô". Đức Kitô, đó là một danh xưng theo tiếng Hy Lạp, ý nghĩa của nó, nói theo ngôn ngữ thời nay, chính là "Vị anh hùng giải phóng". Lời Phêrô nói: "Thầy là Đức Kitô", có nghĩa là "Thầy chính là vị Anh Hùng giải phóng mà toàn dân đã từ lâu mong đợi". Chắc hẳn Phêrô và các bạn ông rất hãnh diện vì được đi theo một Vị Anh Hùng như vậy. Họ dám bỏ lại sau lưng tất cả, nhà cửa, nghề nghiệp, gia đình, vợ con mà không hề tiếc nuối, bởi vì họ đi theo một Vị Anh Hùng, họ vô cùng hãnh diện.
Thế nhưng vấn đề không phải chỉ đơn giản có thế. Đi theo một Vị Anh Hùng không phải chỉ để được hãnh diện, mà còn phải chia xẻ tất cả những gian truân nguy hiểm trên con đường dài mà vị Anh Hùng ấy đã vạch ra. Trong chuyện Karmeliuk, nhiều thanh niên đã hãnh diện khi được đi theo chàng. Thế rồi gian truân nguy hiểm đã phân họ thành hai hạng: có một người đã không chịu nỗi những gian khổ nên cuối cùng đã phản bội, nghe theo âm mưu của địch để đầu độc Karmeliuk, rất may là chàng không chết ; hạng thứ hai là những kẻ trung thành với chàng cho đến chết. Thánh Phêrô và các bạn cũng hãnh diện vì đi theo Đức Kitô. Nhưng Đức Kitô phải nhắc họ: Đi theo Ngài không phải chỉ để hãnh diện, mà còn phải cùng Ngài dấn thân vào con đường Thập Giá đầy đau khổ. Rõ ràng là các môn đệ chưa được biết điều đó, cho nên nghe vậy thì họ sợ nguy ngay. Và một lần nữa Phêrô lên tiếng thay các bạn "Thưa Thầy, đừng, không được như vậy đâu ?" Đức Giêsu nghiêm khắc rầy Phêrô và xác định lại dứt khoát "Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác Thập Giá mà theo". Từ đó trở đi, các môn đệ dần dần hiểu được con đường của Thầy. Nhưng họ cũng phân ra thành hai hạng: 1 hạng gồm những kẻ trung thành với Thầy cho đến chết, và hạng kia là Giuđa cuối cùng đã phản lại Thầy.
Đoạn kết của câu chuyện Karmeliuk và câu chuyện Đức Giêsu cũng giống nhau: cả 2 đều bị giết. Kể như cả 2 đều thất bại. Nhưng thực ra đó không phải là thất bại, mà là thành công: Karmeliuk đã gây được ý thức giải phóng nơi dân chúng, với ý thức đó, về sau họ đã đứng lên và dành lại được quyền sống cho mình. Còn CG thì đã vạch ra một con đường cứu thoát rõ ràng: phải dám vác Thập giá, phải dám chết đi, rồi sau đó sẽ sống lại và toàn thắng. Con đường ấy ngày nay đang được hàng trăm triệu người đi theo.
Trong số đó có chúng ta.
Nhưng hôm nay, chúng ta hãy đặt lại 2 vấn đề cơ bản:
1. Chúng ta có hãnh diện vì đã đi theo Đức Kitô không ?
Người ta thường hãnh diện khi đi theo một Vị Anh Hùng đang nổi tiếng, đang thành công, đang đứng giữa vòng hào quang. Nhưng những vị "Anh Hùng Mạt lộ" thì thường bị đệ tử bỏ rơi. Khi CG bị chống đối, rất nhiều người đã bỏ Ngài. Khi các thủ lãnh dân Do thái âm mưu giết ngài, Giuđa đã trở mặt, nộp Ngài cho chúng giết đi, còn Phêrô thì xấu hổ không dám nhận là môn đệ của Ngài. Có thể coi đó là tâm lý thường tình. Và chắc chúng ta cũng rơi vào thứ tâm lý thường tình đó khi thấy đạo của mình hình như không được vinh dự lắm, khi nghe thấy những lời chỉ trích, chế nhạo, lên án Đạo mình. Có người đã làm như Giuđa, trở mặt bỏ Đạo ; có người làm như Phêrô không dám để cho người ta biết mình có Đạo.
Giuđa thì một lần phản bội đã hư mất luôn. Còn Phêrô chỉ chối Thầy 3 lần. Sau đó đã ý thức được điều mà tôi đã trình bày ở phần trước: CG xem ra đã thất bại vì đã bị Vác Thập Giá và đã bị giết chết ; nhưng thực ra đó chính là thành công: Thập giá là đường đưa tới Phục Sinh, đau khổ là đường đưa tới vinh quang. Vì ý thức như vậy nên sau đó Phêrô (và các tông đồ khác) đã kiên trì theo Thầy cho đến cùng, và hãnh diện mà đi theo Thầy: vẫn hãnh diện khi bị bắt bớ, vẫn hãnh diện khi bị giết, luôn luôn hãnh diện. Thánh Phaolô đã nói "Vinh dự của chúng tôi là Thập Giá Đức Kitô".
Đó là điều thứ nhất chúng ta nên nghiền ngẫm suy nghĩ.
2. Và điều thứ hai cần xác định: chúng ta đi theo Chúa không phải chỉ để được hãnh diện.
Theo ai, chủ yếu là để cùng chia vui, xẻ buồn với người đó, đồng lao cộng khổ để đồng hưởng vinh quang. Như lời Thánh Phaolô "Nếu ta cùng chết với Ngài. Ta sẽ sống lại với Ngài ; nếu Ta cùng chịu đau khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài chia xẻ vinh quang". Ai có dám cùng bước với CG trên những đoạn đường gian khổ thì mới có thể cùng đứng với Ngài trên đài Vinh quang.
Nhưng Vinh Quang, chiến thắng chỉ là bước cuối cùng, có thể còn xa xôi vời vợi. Còn trước khi đó là cả một đoạn đường thánh giá dài lê thê. Theo Chúa là phải theo cả con đường thánh giá ấy thì mới có thể đến cuối đường vinh quang kia. CG đã nói trước "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác Thập Giá mà theo".
Liệu chúng ta có kiên trì để theo Chúa như vậy không ?
Xin Chúa giúp chúng ta tìm ra câu trả lời,. Và nếu đó là câu trả lời: "Có" thì xin Chúa ban thêm sức cho chúng ta qua Bí tích Thánh Thể này mà chúng ta tiếp tục cử hành.
* 4. Tẩy rửa trái tim
Văn hào Dostoevski trong tác phẩm "Anh em nhà Karamazov" có kể lại câu chuyện sau đây: "Vào thời đại của tòa phán quan ở Tây ban Nha, người ta đã dựng những hỏa đài để thiêu sống những kẻ tà giáo. Đức Kitô dịu hiền đột nhiên đến thăm con cái của Người ở Seville, Người về giữa loài người như một dân thường. Đức Giêsu bước xuống những con đường sôi bỏng của thành phố phương Nam. Nơi đây, mới hôm trước, vị phán quan vĩ đại đã cho thiêu sống trăm tên tà giáo "Ad majorem Gloriam Dei".
Hỏa đài ngay trước khán đài danh dự có đông đủ vô số triều đình, các hiệp sĩ, các mệnh phụ xinh đẹp và cả Đức hồng Y giáo chủ. Đức Giêsu nhẹ nhàng bước trên đường bằng dáng điệu trầm tĩnh, nhưng lạ lùng tất cả đã nhận ra Người. Dân chúng xô đẩy nhau quấn quít bước chân Người. Người lặng lẽ vào giữa đám đông với nụ cười và ánh mắt từ bi. Một cụ già mù van xin: "Lạy Chúa, xin cho con được sáng để con nhìn thấy Người". Một cái vẩy rơi xuống và cụ nhìn thấy được. Dân chúng vui mừng chảy nước mắt và hôn lên mảnh đất chỗ Người đi qua. Những em bé tung hoa trên lối Người đi.
Đức Kitô đứng lại trước giáo đường Seville ngay lúc có đám tang một cô bé bảy tuổi. Cạnh cỗ áo quan màu trắng phủ đầy hoa, người mẹ đang nức nở. Trong đám đông có người hô lớn: "Con bà sẽ hồi sinh". Người mẹ tha thiết: "Nếu đúng là Người xin hãy hồi sinh đứa con của con". Đức Giêsu nhắc lại lời thuở trước: "Talitha Kum" và em bé ngồi lên.
Đúng lúc đó, Hồng Y giáo chủ và phán quan vĩ đại đi ngang qua. Từ xa ông đã thấy hết. Ông thấy chiếc áo quan đặt xuống, đứa bé hồi sinh. Mặt ông xịu xuống, mắt ông chớp tia sáng ghê hồn. Ông lấy ngón tay chỉ vào Đức Giêsu và ra lệnh cho bọn lính bắt người. Thế lực ông quá lớn nên ông khuất phục cả quần chúng. Phán quan ra lệnh tống giam Giêsu. Ông vào ngục một mình gặp Người. Ông thương cảm nhưng "Luật là luật, trật tự của Giáo hội phải được bảo tồn bằng mọi giá". Ông tuyên bố "Tôi chẳng rõ Người là ai. Hình như Người là Đức Giêsu, nhân danh Giáo hội, Ad majorem gloriam Dei, ngày mai Ngài cũng lên giàn hỏa".
****
Vị phán quan trong câu chuyện trên cũng chỉ đi theo vết xe cũ của các biệt phái và ký lục Do thái. Bài Tin mừng hôm nay chứng minh điều ấy, Đức Giêsu đang ở Galilê, các Biệt phái và Ký lục từ Giêrusalem tới, nghĩa là họ phải vượt qua 170 Km đường bộ để chỉ hỏi tại sao các môn đệ Người không rửa tay trước khi ăn. Điều đó cho thấy người Do thái rất coi trọng việc tuân giữ các tập tục tiền nhân về vấn đề thanh tẩy.
Thực ra, lúc đầu luật rửa tay trước khi vào nơi thánh dành cho các tư tế. Mục đích là tẩy rửa các ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa. Sau này, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Với suy nghĩ tương tự họ cũng rửa tay trước khi ăn. Ý tưởng này rất cao đẹp vì nó làm cho tôn giáo thâm nhập vào hành vi con người trong cuộc sống.
Khốn thay trong quá trình thực thi luật này, tôn giáo đã thoái hóa đến chỗ chỉ còn giữ nghi thức bên ngoài, nghĩa là ai tuân giữ các nghi thức này thì được xem là đạo đức, là đẹp lòng Thiên Chúa, còn không tuân giữ là phạm tội. Nói như nhà thần học William Barclay: "Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tuỷ mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác". Tôn giáo không phải là một mớ luật lệ. Tôn giáo là một diễn tả tình yêu, một phát minh của Thiên Chúa nhân từ.
Thế nên, Đức Giêsu mới vạch mặt sự giả hình của họ, vì họ chẳng quan tâm đến chuyện tẩy rửa trái tim. Họ rửa tay để được an tâm. Họ rửa tay để khỏi phải rửa tâm hồn. Rửa tay thì dễ chứ rửa tâm hồn mới thực là khó. Nhưng cái ô uế thực lại không từ bên ngoài vào, nó ở ngay trong trái tim mỗi người. Đức Giêsu đã kể ra 12 ý định xấu từ trong trái tim. Từ ý định xấu xa sẽ dẫn đến những hành vi tội lỗi (x.Mc.7,21-22). Michael Taeboit nói: "Khi cái dầm tội lỗi ra khỏi mắt ta, tất cả thế giới sẽ tỏa sáng".
Vậy điều quan trọng là phải đổi mới trái tim. Đổi mới được trái tim là đổi được tất cả. Điều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Việc đọc kinh dự lễ, suy niệm Lời Chúa, làm việc bác ái& tự chúng không bảo đảm rằng chúng ta thánh thiện, nếu chúng ta làm vì một lý do không mấy đúng đắn. Nó chỉ trở nên thánh thiện trước mặt Chúa khi những hành động ấy phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Phaolô đã quả quyết: "Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà tôi không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi" (1Cr.13,3).
*****
Lạy Chúa, xin nhắc cho chúng con nhớ rằng: luật lệ và nghi thức là cần thiết, nhưng đừng quên điều cốt lõi của luật Chúa là yêu thương. Xin dạy chúng con chỉ biết có một điều: là chúng con làm mọi sự chỉ để kính mến Chúa và yêu thương anh em. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
5. Mảnh suy tư
a/ Đầu và tim
Trong trường học, người ta để ý huấn luyện cái đầu hơn là trái tim, vì người ta cho rằng cái đầu mới biết suy nghĩ. Bởi đó người ta lo đào tạo nên những đứa trẻ giỏi hơn là những đứa trẻ tốt, vì công việc và nghề nghiệp sau này của đứa trẻ đòi hỏi hiệu năng hơn là tấm lòng. Kết quả của lối giáo dục trên là nền văn minh khoa học kỹ thuật ngày nay, rất hiệu quả nhưng cũng rất lạnh lùng, ích kỷ và tàn nhẫn.
Tuy nhiên trong trường đời thì trái tim lại quan trọng hơn, vì sống ở đời và giao tiếp với người đời, "được việc" mà thôi chưa đủ, còn phải "được người" nữa. Nền văn minh mang lại hạnh phúc cho con người không phải là văn minh của khoa học kỹ thuật mà là văn minh của tình thương.
b/ Chăm sóc bề ngoài
Hàng ngày xem TV, chúng ta thấy quảng cáo rất nhiều sản phẩm: các loại xà bông mới, các loại dầu gội mới, nhiều loại nước hoa v.v. Tất cả đều nhằm chăm sóc cho làm da, mái tóc, cơ thể& nhưng đều là bề ngoài. Ngày nay, người ta cũng để ý nhiều hơn đến chất lượng của những thức ăn và thức uống& Mọi thứ phải đáp ứng đúng tiêu chuẩn thực phẩm an toàn và bổ dưỡng. Tuy nhiên, tất cả chỉ là những thứ từ bên ngoài được đưa vào trong cơ thể con người.
Nhưng xem ra người ta rất ít lo chăm sóc cái bề trong của con người, như lương tâm, lòng nhân ái, ý thức về tội& và cũng rất ít để ý tới những cái từ trong lòng phát ra.
6. Chuyện minh họa
Một sư phụ hỏi các đệ tử của mình: "Cái gì ta phải lo tránh nhất trong cuộc đời ?" Sau đây là những câu trả lời của các đệ tử:
- Một con mắt xấu - Một người bạn xấu - Một người láng giềng xấu - Một trái tim xấu.
Sư phụ đánh giá câu trả lời thứ tư là đúng nhất, bởi vì một trái tim xấu chứa đựng tất cả những sự xấu khác.
Sau đó sư phụ lại hỏi: "Và cái gì ta cần bồi dưỡng nhất trong cuộc đời ?" Cũng có những câu trả lời tương tự:
- Một con mắt tốt. - Một người bạn tốt. - Một người láng giềng tốt - Một trái tim tốt.
Vị sư phụ cũng đánh giá câu trả lời thứ tư là đúng nhất, vì một trái tim tốt chứa đựng tất cả mọi thứ tốt khác.
Nhưng sư phụ lưu ý thêm: Một trái tim tốt không chỉ là một trái tim sạch mà còn phải là một trái tim đầy, bởi vì một trái tim sạch có thể chỉ là một trái tim trống rỗng, còn một trái tim đầy thì chan chứa tình thương.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, người biệt phái Do thái tranh luận với Đức Giêsu về sự ô uế và trong sạch Đức Giêsu đã bảo họ: "Tất cả những điều xấu xa đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người thành ô uế". Chúng ta hãy khiêm tốn cầu nguyện:
1. Xin cho các Đức Giáo Hoàng, Giám mục, Linh mục và cá giáo lý viên / biết hướng dẫn mọi người sống theo tinh thần lề luật của Chúa / và tránh mọi lối sống vụ hình thức cũng như giả hình.
2. Xin cho các người lãnh đạo các dân tộc / biết ứng xử với nhau và với đồng bào của mình trong tinh thần và sự thật / để đôi bên luôn tín nhiệm và đoàn kết với nhau.
3. Xin cho những người quen sống lối sống vụ hình thức và giả hình / biết nhận thức rằng chính lối sống đó chỉ làm cho họ trở nên ô uế xấu xa.
4. Xin cho anh chị em trong giáo xứ chúng ta / biết yêu mến và tuân giữ lề luật của Chúa / hơn là chạy theo những thói quen ngoại giao giả hình.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã dạy chúng con rằng: tất cả những điều xấu xa đều từ bên trong mà xuất ra. Xin Chúa giúp chúng con luôn thanh tẩy tâm hồn cho trong sạch, để chúng con biết phục vụ Chúa và mọi người trong thần khí và sự thật. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước lúc rước lễ: Chúng ta hãy nhớ lời Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng: "Chính cái từ trong con người xuất ra là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng". Xin Chúa thương tẩy xóa mọi thứ ô uế đó khỏi lòng chúng ta để chúng ta xứng đáng rước Chúa vào lòng.
VII. GIẢI TÁN
Anh chị em hãy ghi nhớ một lời Tin Mừng hôm nay: "Dân này thớ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng thì lại xa Ta". Ước gì tuy Thánh lễ đã kết thúc và chúng ta sắp ra khỏi nhà thờ, nhưng lòng chúng ta luôn gắn bó với Chúa.
Bài đọc thêm: THƯ GIACÔBÊ
A. Tác giả
1. Đầu thư có ghi tên tác giả: "tôi là Giacôbê, tôi tớ của Chúa Trời và của Đức Giêsu Kitô" (1,1). Điều này cho ta biết tác giả tên là Giacôbê. Nhưng Giacôbê nào vì Tân Ước có nhiều người tên Giacôbê ?
a/ Giacôbê "tiền" con của Giêbêđê, anh của Gioan, là một trong 12 tông đồ, được Đức Giêsu gọi là "con của sấm sét", và cũng là một trong 3 tông đồ được Đức Giêsu thường đem riêng theo trong những hoàn cảnh đặc biệt ?
b/ Giacôbê con ông Anphê, cũng là một trong số 12 tông đồ ?
c/ Giacôbê "hậu" người bà con của Đức Giêsu (Mc 6,3). Dù không phải là tông đồ nhưng đã được thấy Chúa phục sinh hiện ra (1 Cr 15,7). Sau khi Đức Giêsu về trời, ông trở thành người lãnh đạo giáo đoàn Giêrusalem và đã chủ tọa công đồng Giêrusalem bàn về quy chế cho các tín hữu gốc lương dân ?
2. Giọng văn của một kẻ có quyền (3,1) khiến người ta đoán tác giả thư này phải thuộc giới lãnh đạo Giáo hội. Xét về nội dung thì tác giả viết cho những người do thái tòng giáo, có lẽ là giáo đoàn Giêrusalem. 2 chi tiết này khiến người ta kết luận tác giả thư này là Giacôbê hậu.
Tân Ước cho ta một số chi tiết về tác giả:
- là một người anh em của Đức Giêsu (Mt 13,55 - Tin lành, vì cho rằng Đức Giêsu có nhiều anh em ruột, nên còn nghĩ rằng Giacôbê là anh cả hay ít ra là anh kế tiếp Đức Giêsu, vì tên ông được kể đầu tiên trong bảng danh sách này).
- là một trong số ít người được Đức Giêsu chọn hiện ra sau khi Ngài sống lại (1Cr 15,7).
- được Phaolô coi là một trong những trụ cột của Giáo Hội (Gl 2,9).
- do đó Phaolô luôn quan tấm đến trình diện với Giacôbê sau khi mới trở lại đạo (Gl 1,19) và trong chuyến về Giêrusalem lần cuối (Cv 21,18).
- Ngay cả Phêrô cũng coi trọng Giacôbê: ngay sau khi thoát khỏi từ, Phêrô đã bảo người ta báo tin này cho Giacôbê (Cv 12,17).
- Giacôbê đóng vai trò quan trọng trong hội nghị Giêrusalem (Cv 15,13).
- là một người nổi tiếng đến nỗi trong thư Giuđa, tác giả không cần xưng tên mình trong liên hệ với cha mình (theo thói quen người do thái) mà lại lấy liên hệ với Giacôbê: "tôi là anh em của Giacôbê" (Gđ 1,1).
3. Tuy nhiên văn chương hy lạp của thư này quá hay, không thể là của Giacôbê anh em Đức Giêsu, vì ông này chỉ biết tiếng hy lạp sơ sài thôi. Nhưng cả 3 ông Giacôbê cũng đều như nhau về điểm này. Vậy có thể là Giacôbê anh em Đức Giêsu đưa ý tưởng, rồi một thư ký rành tiếng hy lạp viết lại.
B. Thời điểm và người nhận
Nếu ta nhìn nhận giả thuyết tác giả là Giacôbê hậu, thì thời điểm viết thư này vào khoảng các năm 57-62. Đó là thời gian ông điều khiển giáo đoàn Giêrusalem.
Đầu thư có đề tên người nhận, đó là "những kiều bào tản cư 12 chi tộc" (1,1b). Họ là những kitô hữu gốc do thái đang lưu lạc khắp nơi trong các diaspora giữa thế giới hy lạp, có lẽ sau biến cố Têphanô bị ném đá chết (x. Cv 8,1 11,19). Kiểu nói "12 chi tộc" chỉ toàn thể Dân Mới.
C. Hoàn cảnh
Nội dung thư cho thấy 2 hoàn cảnh đặc biệt:
a/ Hoàn cảnh tín hữu bị bắt bớ ;
b/ Hoàn cảnh một giáo đoàn có sự chia rẽ giữa người giàu và người nghèo:
- Người giàu thì hám danh, đòi đặc quyền ngay cả trong những buổi nhóm họp phụng vụ (2,1-3), thích nói bù lu bù loa miễn là khỏi phải chi tiền (2,16), và bóc lột người nghèo (5,1-6)
- Người nghèo thì bị coi rẽ bởi chính những người tự coi là mục tử của họ (2,2-6)
Do chia rẽ như thế nên sinh ra ganh ghét (3,14 4,2), giận dữ (1,19), chửi bới nhau (4,11 5,9)
Giacôbê đứng về phía người nghèo để chống lại các bất công xã hội.
D. Nội dung
Thư này không có một chủ đề chính như các thư của Phaolô, mà bàn về nhiều vấn đề cụ thể.
- 1,2-4: sư thử thách - 1,13-15: Cám dỗ - 2,1-13: Cư xử với người nghèo - 4,13-5,6: Lên án người giàu - 2,14-26: Đức tin và việc làm - 3,1-12: Lo giữ miệng lưỡi - 5,14-15: Bí tích xức dầu bệnh nhân
E. Nhận định
"Where there is life, there is motion" (hễ sống thì phải động):
- Đành rằng "động" không sinh ra "sống", nhưng "động" là bằng chứng hiển nhiên nhất của "sống".
- "Động" là việc lành ; "sống" là đức tin.
- Giacôbê diễn tả một cách vừa dễ hiểu vừa rất chắc chắn: đức tin mà không có việc làm là đức tin chết ; quỷ cũng tin nhưng nó đâu có được cứu độ, vì nó tin mà không làm.
Thư này là câu trả lời rất vững chắc cho những kẻ ngụy biện rằng chỉ cần tin trong lòng (đạo tại tâm).
--------------------------------
TN 22-B20. TIẾN SĨ LUẬT BỊ TÙ
Mark Link S.J.
Chủ đề: Trọng tâm tôn giáo không ở tại nghi thức và lề luật mà ở tại yêu mến Chúa và tha nhân.
Nhà thần học William Barclay kể lại câu chuyện một Rabbi (Tiến sĩ Luật Do Thái giáo) lão thành: TN 22-B20
Nhà thần học William Barclay kể lại câu chuyện một Rabbi (Tiến sĩ Luật Do Thái giáo) lão thành nọ bị tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm mục đích kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua, vị Rabbi ấy ngày càng yếu dần. Cuối cùng người ta buộc phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông ta bị thiếu nước.
Báo cáo của y sĩ khiến đám sĩ quan cai ngục bối rối. Họ không hiểu nổi tại sao vị Rabbi ấy lại có thể thiếu nước, bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, song vẫn tương đối đủ chứ đâu đến nỗi tệ! Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát “Ông già” ấy một cách kỹ lưỡng hơn để thử xem ông ta làm gì với số nước ấy. Cuối cùng người ta đã khám phá ra bí mật. Ông Rabbi ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn. Như thế đương nhiên ông ta chỉ còn lại rất ít nước để uống.
******
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được bài Phúc Âm hôm nay. Nó giúp ta hiểu rõ hơn các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã cảm thấy chướng tai gai mắt và bực bội thế nào khi nhìn thấy các môn đệ Chúa Giêsu ăn uống mà chẳng chịu rửa tay theo đúng nghi thức.
Đấy chính là điểm quan trọng của bài Phúc Âm hôm nay. Điểm quan trọng này được biểu lộ trong một tranh luận sôi nổi giữa chúng ta và những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Chúng ta hãy xét kỹ hơn cuộc tranh luận đặc biệt này.
Khi Chúa Giêsu nói về “Lề luật”, thì từ ngữ này có một trong hai ý nghĩa: Hoặc là lề luật thành văn hoặc là lề luật “truyền khẩu”. Trong hai thứ lề luật này cái cổ hơn và quan trọng hơn là lề luật thành văn. Lề luật này căn cứ trên sách Torah (Ngũ Thư) nghĩa là 5 quyển sách đầu tiên của Cựu Ước, đôi khi còn gọi là luật Môisê. Một số lề luật này mang tính cụ thể và đặc thù, số còn lại thì rất chung chung giống những kiểu mẫu phải theo hơn là luật lệ. Trong một thời gian dài, dân Do Thái bằng lòng với những “kiểu mẫu” này. Họ áp dụng chúng vào đời sống vì thấy chúng thích hợp.
Tuy nhiên, tới thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, có một nhóm chuyên nghiên cứu về Luật đã tạo được một ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân chúng Israel. Họ thấy những điều luật tổng quát trong bộ luật ấy quá mơ hồ, thiếu tính rõ ràng, cần phải được soạn thảo lại cho rõ ràng, với nhiều chi tiết hơn. Và họ đã tiến hành làm công việc ấy. Từ đó phát sinh ra bộ luật thứ hai, gồm những luật truyền miệng, hay những truyền thống khẩu truyền. Trong khoảng thời gian này, trong dân chúng Do Thái, có rất nhiều người muốn bắt chước các tư tế của họ về sự thánh thiện bề ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn theo lề luật thành văn, mọi tư tế đều phải rửa tay trước khi vào nơi thánh trong đền thờ. Mục đích của luật này là tẩy rửa đi tất cả những gì là ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa hơn. Dần dần, dân chúng cũng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Và bằng những suy nghĩ tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước khi dùng bữa nữa.
Vào thời Chúa Giêsu, dân Do Thái tuân giữ những lề luật truyền khẩu này cũng tỉ mỉ và thành tín chẳng khác nào lề luật thành văn của Ngũ Thư. Ý tưởng hàm chứa đàng sau việc tuân giữ này quả thực cao đẹp, bởi nó nhằm mục đích làm cho Tôn giáo thấm nhập vào mỗi hành vi của cuộc sống. Nhưng trong quá trình thực thi luật lệ này, một điều bi đát đã xảy ra vì Tôn giáo đã dần dần thoái hoá thành một hoạt động chỉ đơn thuần là chu toàn những nghi thức bên ngoài: Tuân giữ những nghi thức này thì được kể là đạo đức, là biết phụng sự Chúa. Để nói lên sự nguy hiểm của thói nệ luật ấy, William Barclay chứng tỏ rằng xét về mặt lý thuyết, người ta có thể căm ghét kẻ khác một cách sâu sắc từ trong trái tim, nhưng họ chẳng hề áy náy gì cả “bao lâu họ còn tuân thủ chặt chẽ nghi thức rửa tay và những nghi thức đúng đắn khác về vấn đề thanh tẩy”.
Để minh hoạ thói nệ luật này rõ hơn, Barclay kể thêm một câu chuyện có lẽ có ghi trong Nguỵ thư nói về một người Hồi Giáo đuổi theo để giết kẻ thù của anh ta. Đang khi rượt theo kẻ thù ấy, chợt hồi chuông báo giờ cầu nguyện vang lên. Lập tức anh hồi giáo này nhảy ngay xuống ngựa, mở thánh kinh ra quì gối xuống và cầu kinh theo như luật định một cách hết sức lẹ làng. Đoạn, anh ta lại leo lên ngựa tiếp tục rượt theo kẻ thù. Đó chính là chủ nghĩa câu nệ lề luật mà Chúa Giêsu cực lực phản đối.
Tất cả những chuyện ấy dạy chúng ta điều gì? Nó cảnh cáo ta đừng rơi vào chủ nghĩa đồng hoá tôn giáo với việc chu toàn những hành vi bên ngoài. Chẳng hạn việc đi lễ, đọc kinh, đọc sách thánh, làm việc bố thí& tự chúng chưa bảo đảm rằng chúng ta thánh thiện đâu.
Lý do rất đơn giản là chúng ta có thể làm tất cả những điều này vì một lý do không mấy đúng đắn, hoặc chúng ta có thể làm tất cả điều này mà không phải do yêu thương, vì điều quan trọng không phải là việc chúng ta làm, mà chính là tình yêu trong trái tim đã thúc đẩy chúng ta làm việc đó. Nếu trái tim chúng ta chất đầy nỗi chua chát hoặc kiêu căng thì tất cả mọi nghi thức bề ngoài trước mắt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta thánh thiện trước mặt Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình, tự vấn xem mình đã áp dụng những lời trong bài đọc thứ hai chưa?
“Anh chị em đừng đánh lừa mình khi cho rằng chỉ cần nghe lời Chúa là đủ& Tôn giáo tinh tuyền và chân thực phải là biết lo lắng cho kẻ mồ côi goá bụa.. và giữ mình khỏi bị băng hoại hư hỏng”.
Và liệu những lời của tiên tri Isaia mà Chúa Giêsu dùng trong bài Phúc Âm hôm nay bao gồm cả chúng ta không? “Đám dân này thờ Ta ngoài môi miệng, còn lòng dạ chúng thì quả thực là xa Ta”.
Tóm lại, điều cốt lõi trong tôn giáo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Hành động của chúng ta phải phát xuất từ tình yêu, từ con tim: yêu Thiên Chúa và thương tha nhân.
Để kết thúc, chúng ta hãy nghiêm trang đọc lại những lời nói về Tình yêu của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô.
“Dù cho tôi có biệt tài giảng thuyết& Dù cho đức tin tôi cực kỳ mạnh mẽ có thể dời núi chuyển non, mà nếu chẳng có Đức Ái thì tôi sẽ chẳng là gì cả. Dầu tôi dâng hiến tất cả mọi điều tôi có mà tôi không có Đức Ái thì điều ấy cũng chả lợi lộc gì cho tôi.
“Tình yêu đòi hỏi sự kiên nhẫn và tử tế, không ganh tị, kiêu căng xấc láo, tình yêu khiến ta không vụng xử, không ích kỷ hay dễ nóng giận, tình yêu không để bụng chấp nhất những sai trái. Tình yêu không bao giờ lùi bước, Tình yêu là vĩnh cửu. Vì thế, Tình yêu chính là điều anh em phải nổ lực tìm kiếm”. (1Cr 13: 2-8; 14:1)
--------------------------------
TN 22-B21. PHẢI THỜ CHÚA TRONG TÂM HỒN
N. Quesson
Cha Muy-rây (Murray) lủi thủi đi trên phố vắng đêm khuya, ngài đang đưa Mình Thánh cho một: TN 22-B21
Cha Muy-rây (Murray) lủi thủi đi trên phố vắng đêm khuya, ngài đang đưa Mình Thánh cho một bệnh nhân nguy kịch. Tới góc phố, chợt một tên cướp nhảy ra chĩa súng quát: “Đứng lại, đưa tiền đây!”. Cha Muy-rây mở áo khoác, lấy ví tiền. Tên cướp ngó thấy ngài mặc áo đen và mang cổ trắng, nhận ra đó là một linh mục, hắn ấp úng nói: “Thưa Cha, con không biết. Con xin lỗi, Cha cất tiền đi”. Cha Muy-rây bình tĩnh lại, ngài móc gói thuốc mời hắn một điếu. Nhưng ngài lại ngạc nhiên lần nữa nghe hắn nói: “Cám ơn Cha, bây giờ đang là Mùa Chay, con không hút thuốc”.
Có những người coi vịêc giữ luật là quan trọng, còn tình trạng tâm hồn mình là không đáng kể. Họ thấy cần thiết phải giữ chay, còn có đi ăn trộm, ăn cướp cũng chả sao. Đó là một sai lầm mà Chúa Giêsu luôn tìm cách sửa đổi. Có thể coi đây là một trong những khác biệt giữa tâm tình giữ đạo của các biệt phái và nhóm môn đệ sống theo Lời Chúa. Các biệt phái nghiêm chỉnh giữa luật rửa, tắm rửa trước khi dùng bữa. Những kiểu tắm rửa, lau chùi, rửa bình& Không phải vì lý do vệ sinh, nhưng là nghi lễ thanh tẩy. Họ khó chịu, chê trách Chúa và các môn đệ vì không tuân giữ các lề luật đó. Chúa không khắt khe với các môn đệ trong việc giữ luật cũ. Dù nhóm môn đệ rất nhiệt thành giữ đạo, nhưng đôi khi trong nếp sống cũng bị lây nhiễm lấy một vài thói tục mà người biệt phái cho là phóng túng. Chúa Giêsu coi những chuyện này không quan trọng. Chủ yếu là do cõi lòng. Chúa luôn bảo vệ, bênh vực những kẻ mà nhóm bảo thủ cho là người xấu, người tội lỗi, những người thu thuế, các cô gái điếm. Chúa tỏ lòng nhân từ và khoan dung với người nghèo khó, bé mọn.. nhất là khi những người này bị xét đoán gắt gay.
Một lý do khác nữa là Chúa Giêsu nghĩ tới một Giáo hội phổ quát chứ không đóng khung trong dân tộc Do Thái. Những phong tục, tập quán của Do Thái là tốt, nhưng đến lúc phải mở rộng hơn để đón nhận mọi nếp sống, mọi nền văn minh trên toàn thế giới. Vậy phải sàng sảy, chọn lọc, chỉ giữ lại những gì cốt yếu và coi nhẹ những điểm phụ thuộc. Chúa bảo có một số cổ lệ không do Thiên Chúa mà chỉ do con người. Những cổ lệ đó cần đổi thay, điều chỉnh cho sáng tỏ tinh thần tôn kính Thiên Chúa và chu toàn bác ái đối với anh em. Nếu không sẽ chỉ đáng nghe lời quở trách của ngôn sứ Isaia: “Dân này thờ ta ngoài môi miệng mà lòng trí ở xa ta”.
Phải làm sao cho sáng tỏ tinh thần, không bị lu mờ che khuất vì nếp sống bên ngoài. Phải làm sao cho mọi người, tín đồ cũng như người chưa tin, thấy điều quan trọng là ở tâm tình, chứ không ở luật lệ, hay lễ nghi thờ tự. Những điều này chỉ có giá trị nếu làm nổi bật tinh thần bên trong, là việc mến Chúa, yêu người.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy chúng con để chúng con biết tôn trọng tinh thần hơn tục lệ, biết nhìn anh em theo hướng nhìn cởi mở của Chúa.
--------------------------------
TN 22-B22. CÁI NÀO QUAN TRỌNG.
Gm. Arthur Tonne
Khoảng 2 giờ, một buổi sáng lạnh và gió lớn, chuông điện thoại nhà xứ reo, có tiếng hốt hoảng la: TN 22-B22
Khoảng 2 giờ, một buổi sáng lạnh và gió lớn, chuông điện thoại nhà xứ reo, có tiếng hốt hoảng la lên: Tôi tưởng ông ngoại đã qua đời”. Vì chỉ cách 2 căn phố. Cha Murray đi bách bộ, khi ngài qua một ngõ hẻm, chợt xuất hiện một bóng hình cầm cây súng bước tới truyền lệnh: “Đưa tiền đây!” Vị linh mục nói với người cầm súng: “Ví của tôi để trong túi áo khoác”. Khi ngài mở nút áo khoác để lấy ví, để lộ chiếc cổ áo Rôma. Kẻ cướp ấp úng; “Ôi con không biết cha là linh mục, con xin lỗi, cha cất tiền đi”. Bình tĩnh lại vị linh mục đưa cho y một điếu xì gà, nhưng y lắc đầu “Không, cám ơn cha, trong mùa chay con không hút thuốc.”
Kẻ cướp đường đã hành động như một người Biệt phái, Người Biệt phái giữ hết sức chi tiết những điều lệ nhỏ nhặt của luật Do Thái, trong khi đó lại bỏ bê những giới răn quan trọng. Đó là lý do Đức Kitô khiển trách họ. Họ ghét Chúa Giêsu vì Người đe doạ địa vị của họ, như những người lãnh đạo tôn giáo. Họ dò xét Chúa, cố gắng bắt bẻ Người trong lời nói. Họ chỉ trích Người đã hoà mình với người thu thế và tội lỗi. Người đã bỏ qua lệ rửa tay chân như trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ nói Chúa Giêsu không thể tha tội. Người dùng quyền lực của quỉ mà trừ quỉ. Họ làm điều lành chỉ cốt để cho người ta thấy.
Ngày nay còn người biệt phái không? Bất hạnh thay, vẫn còn. Đây là một vài kiểu biệt phái tân thời: Những người công giáo lẫn lộn những cái không quan trọng với những cái quan trọng.
Giả sử tôi nói với một người nào đến trễ lễ: “Bạn bất lịch sự”. Chắc người ấy cho rằng bị xỉ nhục. Nhưng vì lỗi mình, đến lễ trễ, là một sự xúc phạm đến Chúa, làm lo ra những người trong nhà thờ và cho vị chủ lễ. Có người mỉm cười với bất kỳ ai gặp trong nhà thờ, dĩ nhiên, điều đó tốt. Nhưng họ không nói một lời nào với Chúa trên bàn thờ cũng như đi dự đại tiệc, chỉ nói chuỵên với mọi người, trừ ông chủ tiệc. Cái nào quan trọng ?.
Có những người công giáo và những người khác nữa, họ không nghĩ rằng họ sẽ tổ chức hay dự một bữa tiệc nếu có một vết nhơ trên bàn, hay trên đĩa hoặc trên quần áo của họ. Nhưng ngôn ngữ của họ không phải chỉ có vết nhơ, mà nó thật sự thô bỉ, một sự thô bỉ bên trong hơn là bên ngoài như Chúa Giêsu đã chỉ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay.
Có người trong chúng ta ra ngoài thì hoang phí, rộng rãi với anh bồi ở quán rượu, hào phóng với cô chạy bàn, nhưng lại rất keo kiệt với người thân thương, và với Chúa.
Nhiều người không bao giờ quên câu nói: “xin vui lòng, cám ơn, xin lỗi”, khi ở ngoài gia đình. Nhưng giữa những người thân yêu, ít khi bạn được những từ quan trọng ấy.
Bạn có thể nghĩ đến những hoàn cảnh, trong đó bạn phải sạch sẽ lịch sự, hào hiệp, chỉ khi nào những hoàn cảnh đó được trình diễn trước mặt mọi người để đạt được tín nhiệm hoặc tránh khỏi phê bình, hãy cố gắng đừng làm biệt phái.
Cám ơn Chúa vì phần lớn những người chân thành, họ đặt người khác và sự vật vào đúng vị trí trật tự của nó. Như đặt Thánh Lễ lên đầu bảng danh sách những việc quan trọng.
Xin Chúa chúc lành bạn.
--------------------------------
TN 22-B23. TRUYỀN THỐNG VÀ CH” TÂM
Lm. Gérard Bessière và Hyacinthe Vulliez.
“Các ông đã bỏ điều răn của Thiên Chúa mà giữ truyền thống của phàm nhân”
Trong bài Tin Mừng theo thánh Marcô hôm nay, các vị kinh sư, luật sĩ từ Giêrusalem kéo tới để: TN 22-B23
Trong bài Tin Mừng theo thánh Marcô hôm nay, các vị kinh sư, luật sĩ từ Giêrusalem kéo tới để chất vấn Chúa về chuyện truyền thống. Đức Giêsu đã bài bác họ, sau đó Ngài bày tỏ lập trường dứt khoát của mình.
Mấy vị đó chỉ làm bộ hỏi, thực ra là họ muốn lên án, vì họ nghĩ là họ nắm vững lẽ phải trong tay, dĩ nhiên là lẽ phải do họ đặt ra, áp đặt người khác phải chấp nhận.
Họ đề cập đến truyền thống rửa tay trước khi dùng bữa. Theo Sách Xuất Hành (Xh 30,17-21), các tư tế bắt buộc phải rửa tay trước khi cử hành các nghi lễ phụng tự. Các luật sĩ đã thêm vào giới luật này nhiều chi tiết rắc rối. Họ bắt buộc mọi người trước khi dùng bữa phải rửa tay, vì "mỗi bữa ăn đều là hành vi tôn giáo và toàn dân Israel là một dân tộc tư tế". Đức Giêsu đã phản bác họ. Ngài nói: "Ngôn sứ Isaia thật đã nói rất đúng về các ông là những kẻ giả hình, khi viết rằng: "Thiên Chúa phán: "dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta"... Họ đã bỏ điều răn của Thiên Chúa mà chỉ giữ truyền thống của phàm nhân. Do đó mà họ có thờ phượng Thiên Chúa thì cũng vô ích, vì giáo lý của họ chỉ là giới luật phàm nhân, đúng như ngôn sứ Isaia nhận xét.
Thật vậy, Thiên Chúa chỉ ban mười giới luật, tóm lại là hai điều rút lại chỉ còn một điều duy nhất là mến Chúa yêu người. Còn luật sĩ và Pharisêu thì tạo ra hằng trăm khoản luật để khoác vào cổ dân chúng. Tất cả có 613 điều luật! Rõ ràng, truyền thống mà các vị đó đề cập chỉ là truyền thống người đời đã đặt ra. Cũng như luật kiêng cữ một số đồ ăn (như thịt heo) rõ ràng là một truyền thống phàm nhân đặt ra một cách tùy tiện. Theo truyền thống thì những thực phẩm này được coi là ô uế, dơ bẩn. Đức Giêsu phản bác lại bằng lập trường của Ngài: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người, lại có thể làm ô uế con người được. Nhưng cái gì từ con người xuất ra, mới là cái làm cho con người trở thành ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, xuất phát những ý đồ xấu xa...".
Đức Giêsu đã phân biệt rõ rệt cái tục với cái thanh, cái ô uế với cái trong sạch, cái trong với cái ngoài, cũng như ta nói cái hình với cái tâm. Khi ta đã có cái tâm trong trắng, thì chẳng có cái gì là dơ bẩn cả. Nhưng một khi cái tâm đã bị ô nhiễm những ý đồ xấu xa, thì mọi sự trở nên ô uế. Và truyền thống đích thực là giữ sao cho cái tâm của ta được đập cùng một nhịp với thánh tâm Đức Giêsu, là "lò lửa mến hằng cháy", mọi tà tâm sẽ bị thiêu rụi trong ngọn lửa mến rực cháy ấy.
--------------------------------
TN 22-B24. Ngoài thì khen ngợi, trong thì thâm độc
Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông: TN 22-B24
“Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông.” Lời quở trách của đức Giêsu dành cho những người Pha-ri-sêu và kinh sư vạch trần những sự gian giối của giới lãnh đạo dân Do-thái, vì họ đã thực sự đảo lộn bậc thang giá trị của đời sống, đặt quá nhiều chú ý vào truyền thống phàm nhân nên đã đánh mất lề luật tôn quí của Thiên Chúa.
Những tập tục lỉnh kỉnh của giới lãnh đạo Do-thái mang nặng tính cách trình diễn bên ngoài, họ thích làm điệu bộ có vẻ quan trọng đáng kính, họ thích những lời tấm tắc khen ngợi của kẻ khác. Và chính vì mê tìm kiếm những điều đó mà họ đã không hiểu rằng mình đang xa rời những giá trị căn bản Chúa truyền dạy. Khi lòng trí của họ không còn mấy lưu tâm đến Thiên Chúa nữa, thì những gì họ làm nhân danh Thiên Chúa đều là trống rỗng, như các nhãn hiệu giả tạo bên ngoài! Vì kỳ thực mọi cái họ làm không còn là cho Thiên Chúa hay cho người khác, nhưng lại cho chính bản thân họ trước tiên! Khi nhận thấy những hành vi điêu ngoa gian giối của họ, đức Giêsu đã không dằn lòng được, nên phải mượn lời tiên tri I-sai-a mà than thở rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta! Chính vì lòng trí họ không còn nhớ đến Chúa nên không còn là đền thờ sống động của Thiên Chúa, tự khắc nó trở thành vùng đất béo bở cho bao nhiêu tội lỗi xấu xa phát sinh và thành sào huyệt cho ma quỷ hoành hành. Từ đó bao nhiêu các thứ tư tưởng đố kỵ, tranh đoạt của thế gian làm chủ những hành động ám muội của loài người: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả mọi chuyện đáng kinh hải này xuất ra từ lòng người không coi trọng luật thánh của Thiên Chúa!
Lạy Chúa, xin giúp con luôn biết suy gẫm luật Chúa đêm ngày, để lòng trí con không buông tuồng theo những thói tục thế gian, nhưng tha thiết vươn lên tới Chúa như cây lá luôn tìm ánh mặt trời
Lm. Phêrô Trần Văn Trợ SJ
--------------------------------
TN 22-B25. Sống chân thực trước mặt Thiên Chúa & người đời
Có lẽ một trong những điều tệ hại nhất đang xảy ra trong xã hội Việt Nam chúng ta ngày nay là: TN 22-B25
Có lẽ một trong những điều tệ hại nhất đang xảy ra trong xã hội Việt Nam chúng ta ngày nay là sự giả dối và lường gạt lẫn nhau. Một ví dụ: sự gian lận tuổi của các đội bóng đá nhi đồng vừa được phanh phui trên các báo thể thao. Có nhiều người sống giả dối một cách công khai, trắng trợn. Nhưng cũng có nhiều người sống giả dối một cách kín đáo và khéo che dấu dưới những chiêu bài đạo đức. Chính sự giả dối của nhiều người, kể cả những người có chức quyền, có địa vị cao trong xã hội đã làm cho xã hội suy thoái về mặt đạo đức, nhân cách. Đó là một nguy cơ trầm trọng đối vối tương lai đất nước.
Nhưng thử hỏi: sự giả dối đáng kết án kia có xẩy ra trong Giáo hội hay chỉ xẩy ra ngoài xã hội mà thôi? Thật khó mà có câu trả lời chính xác! Nhưng tốt nhất là chúng ta hãy coi chừng và thận trọng để chúng ta đừng vô tình hay hữu ý trở thành những người sống đạo đức giả, chẳng khác gì những người Biệt phái thời Chúa Giêsu. Muốn thế chúng ta hãy để cho sứ điệp của Lời Chúa hôm nay chất vấn lương tâm mình, nếu chúng ta có thiện chí muốn sống theo Chúa thực sự.
I. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1.1 Bài đọc 1: Đnl 4,1-2.6-8: Là những lời căn dặn ân cần của Ong Môsê nói với dân riêng của Thiên Chúa: “Hỡi Ítraen, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định&để anh em đem ra thực hành. Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em. Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh”.
1.2 Bài đọc 2: Gc 1,17-18.21b-22.27: Là những lời khuyên của Thánh Gia-côbê Tông đồ, gồm hai ý chính: (1o) Mọi ơn lành và phúc lộc, nhất là Lời chân lý, đều do Thiên Chúa tạo dựng cũng là Cha yêu thương ban cho chúng ta; (2o) Hãy đón nhận Lời có sức cứu độ ấy của Thiên Chúa và đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe xuông mà lừa dối chính mình.
1.3 Bài Tin Mừng: Mc 7,1-8a.14-15.21-23: Là tường thuật của Máccô về một trong những cuộc “đụng độ” giữa Đức Giêsu và những người Phari-sêu. Cuộc đụng độ lần này xoay quanh vấn đề người ta phải tôn trọng và tuân giữ điều răn của Thiên Chúa hay truyền thống của cha ông cũng chỉ là những người phàm? Cơ hội thuận lợi là những người Pharisêu bắt gặp vài môn đệ của Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn. Rửa tay trước khi ăn là một tập tục, một truyền thống mà người Do Thái giữ gìn rất cặn kẽ. Họ bắt bẻ Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” Đức Giêsu trả lời họ: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng có thờ phương Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. Các ông gạt bỏ điều răn Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm”. Động cơ của người Pharisêu là tìm dịp, tìm cách bắt bẻ Đức Giêsu và các môn đệ Người. Nguyên nhân sâu xa của thái độ ấy là sự giả hình của người Biệt Phái, cứ nuôi ảo tưởng và làm ra mình là những người đạo đức, thánh thiện mà coi khinh, coi thường và kết án người khác. Chính thái độ và cách sống không lành mạnh ấy của các kinh sư, luật sĩ đã bị Đức Giêsu vạch trần và lên án.
Phúc âm Maccô kể tiếp: Sau đó Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế”
Như thế thì cái cần thanh tẩy trước tiên là tâm hồn, là tư tưởng, là các suy nghĩ của chúng ta chứ không phải là bàn tay. Bởi vì một khi mà tâm hồn bất chính, tư tưởng tội lỗi, suy nghĩ sai lầm thì chúng ta sẽ bị dẫn đi rất xa khỏi nẻo đường công chính và bị dẫn xuống rất thấp, ngang với loài cầm thú. Còn nếu đôi tay chúng ta có không sạch thì cùng lắm là mất vệ sinh ăn uống, là mắc bệnh truyền nhiễm và tốn tiền thuốc thang chữa trị mà thôi.
II. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
Rõ ràng sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy sống trung thực, chẳng những sống trung thực trước mặt Thiên Chúa mà còn sống trung thực trước mặt người đời và với chính bản thân chúng ta nữa.
2.1 Sống chân thực trước mặt Thiên Chúa vì Chúa không ưa thích sự gỉa dối và vì chúng ta không thể che dấu Người điều gì.
Thiên Chúa là Chân Lý tuyệt đối, có nghĩa là sự giả dối không có chỗ nơi Người, không được Người ưa thích và ủng hộ. Trái lại Thiên Chúa lên án cách sống giả hình, sai lạc với sự thật. Thiên Chúa không khinh chê người yếu đuối, tội lỗi nhưng khinh chê những kẻ đạo dức giả. Thiên Chúa yêu thương, tha thứ cho những người yếu đuối, tội lỗi, nhưng Thiên Chúa không thể chấp nhận kẻ sống giả hình. Chúng ta cứ đọc kỹ Phúc âm, chúng ta thấy ngay điều này: Trong giai đoạn sống công khai, Đức Giêsu gần gũi, thân thương, chan hòa, thông cảm với hết mọi hạng người: cùng đinh, tội lỗi, đĩ điếm, ngoại tình, thu thuế, bệnh hoạn tật nguyền &..trong xã hội. Chỉ duy có hạng người Biệt phái là Chúa giữ khoảng cách và có thái độ phê phán, đôi khi khá gây gắt. Chúng ta chỉ cần nhớ lại những câu: “Khốn cho các ngươi&, Khốn cho các ngươi&.. “ (vì thế này, vì thế nọ) trong Phúc âm thì chúng ta xác tín về thái độ của Thiên Chúa đối với loại người giả hình.
Còn một lý do khác khiến chúng ta phải sống trung thực với Thiên Chúa, vì Người thấu suốt mọi sự, thông biết mọi điều. Dấu ai thì dấu chứ chúng ta không thể dấu Thiên Chúa. Những chuyện xấu xa, giả dối mà chúng ta đang dấu kín và ém nhẹm sớm muộn gì cũng sẽ tới ngày bị phanh phui trước ánh sáng của Chúa Tể vũ trụ.
2.2 Sống chân thực trước mặt người đời vì giá trị đích thực của chúng ta không tùy thuộc vào sự đánh giá của người đời mà tùy thuộc vào tư cách, phẩm giá, cách sống của chính mình.
Đối với con người, uy tín hay thanh danh là một điều cực kỳ quan trọng trong cuộc sống. Nhưng uy tín và thanh danh chỉ là thực khi được xây dựng trên người thật việc thật. Thế nhưng có không ít người, sẵn sàng sống trong ảo tưởng, sống lừa dối chính mình và lừa dối người khác khi che đậy những khuyết điểm hay những điều xấu xa tệ hại của mình. Họ cho rằng giá trị con người mình tùy thuộc vào sự đánh giá của người chung quanh, của người đời. Vì thế mà những người ấy tìm hết mọi cách để hình ảnh của họ được tô vẽ, phóng đại và tô mầu trước mắt thiên hạ. Thật ra thì giá trị đích thực của chúng ta là do tư cách, phẩm chất, cách sống của chúng ta, chứ không phải do sự đánh giá (nhiều khi rất sai lầm) của người đời. Cũng không tùy thuộc vào những cái chúng ta có: tiền bạc, chức quyền, địa vị, tiếng tăm. Trong Anh ngữ người ta nói TO BE quan trọng hơn TO HAVE. To be là phẩm chất, là tư cách; còn to have là sở hữu!
2.3 Sống chân thực với chính mình chúng ta mới được giải phóng.
Những người sống giả hình là họ sống trong mơ tưởng, trong _không thực’. Chỉ khi nào chúng ta có đủ dũng cảm sống chân thực với chính bản thân mình, thì lúc đó chúng ta mới được giải phóng. Giải phóng khỏi ảo tưởng, khỏi lừa dối, khỏi hợm mình. Cũng chỉ khi đó chúng ta mới tìm được bình an và hạnh phúc thật.
Sống chân thực với chính mình là nhận thức được những khả năng cũng như những ưu khuyết điểm của mình. Sống chân thực với chính mình còn là và nhất là biết chấp nhận -một cách bằng an, khiêm tốn- những khiếm khuyết, yếu đuối, lỡ lầm của mình. Đó là một điều hết sức khó nên không phải ai cũng làm được, vì đòi hỏi nhiều can đảm và lòng khiêm nhường.
III. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng toàn Chân, toàn Thiện và toàn Mỹ, xin Chúa ban cho chúng con một tâm hồn nhậy cảm trước những gì là Chân là Thiện là Mỹ mà chúng con gặp được nơi trần gian này, để đời sống nhân linh của chúng con ngày càng phong phú hầu làm vinh danh Chúa!
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Lời Chân Thật của Thiên Chúa. Chúa đến trần gian để dạy chúng con sống chân thực trước mặt Thiên Chúa, trước mặt người đời và với chính bản thân chúng con. Nhưng chúng con gặp rất nhiều khó khăn khi cố gắng sống như thế: Chúng con không đủ dũng cảm, không đủ khiêm nhường để chấp nhận thân phận mỏng dòn và yếu đuối của chúng con. Chúng con lầm tưởng về giá trị đích thực của con người nên tìm cách che đậy tính hư, nết xấu, khiếm khuyết và sống trong ảo tưởng hão huyền. Chúng con tìm cách chê bai, khinh khi người khác để tự đề cao mình. Chúng con chẳng khác gì những người Pharisêu xưa luôn rình rập bắt bẻ anh em, mà cho mình là người thánh thiện. Chúng con bám víu vào những điều phụ thuộc không quan trọng là tập quán, thói quen của người đời mà quên điều cốt yếu trong Giáo lý của Đạo Chúa. Xin Chúa sửa dạy chúng con, uốn nắn chúng con, cho chúng con thành người và thành môn đệ đích thực của Chúa.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
--------------------------------
TN 22-B26. Với Cả Tâm Tình
Truyện thiền kể có hai nhà sư xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một thiếu nữ đứng bên vũng: TN 22-B26 FB
Truyện thiền kể có hai nhà sư xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một thiếu nữ đứng bên vũng nước sâu. Thiếu nữ muốn đi qua mà không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư liền bế thiếu nữ vượt qua vũng nước. Trở về gần đến chùa, nhà sư kia trách bạn: “Sao anh lại bế một thiếu nữ như thế ?”. Nhà sư trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng nước, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa”.
Câu chuyện ý nhị trên đã minh hoạ rõ nét về hai lối sống đạo. Lối sống đạo theo hình thức và lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành. Ông đã hoàn toàn giữ luật theo hình thức bề ngoài mà không xét đến nội tâm của mình.
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do thái cũng giữ đạo theo hình thức như thế. Họ rất trọng những luật lệ theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài là đủ. Theo họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch. Người Do thái có nhiều cấm kỵ ô uế. Bị coi là ô uế những người mắc bệnh phong, những người phụ nữ sau khi sinh con, người ngoại đạo. Ai tiếp xúc với những người ô uế sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ngay cả những đồ vật bị người ô uế động đến cũng trở thành ô uế. Ai động đến những đồ vật đã bị ô uế cũng sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ô uế là tội lỗi. Những người bị ô uế sẽ không được dâng lễ vật cho Chúa. Để tránh ô uế, người Do thái luôn rửa tay, rửa bát bên ngoài cho sạch.
Đức Giê-su chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Đức Giê-su đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi, sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám, xấu xa.
Vì quá chú trọng đến những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài, họ biến đạo thành một mớ những nghi thức trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương hơn là để chia sẻ với người anh em cơ nhỡ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Đức Giê-su đã nặng lời chỉ trích họ: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”.
Những hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết. Nhưng những hình thức bên ngoài, muốn có giá trị, cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con người là nguồn mạch của mọi hành vi. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội tâm có chân thật thì hành vi mới có giá trị.
Đạo Chúa không phải là hình thức. Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phao-lô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13, 1-3).
Vì thế, khi làm việc gì, điều cần thiết là cho cử chỉ phản ánh trung thực tâm hồn. Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực. Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối. Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần gũi Chúa. Khi ăn chay, tâm hồn ta mới tan nát vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô trương. Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng.
Với tất cả tâm tình, những nghi thức mới trở nên có hồn, thành thực. Với tất cả tâm tình, ta mới thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa ta đến gần Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa.
Kiểm Điểm Đời Sống
1- Người ta thường phê bình: “Đạo tốt nhưng người có đạo chưa tốt”. Bạn nghĩ gì về lời phê bình này ?
2- Bạn thường đọc kinh thế nào ? Đọc như máy hay có để tâm suy ngẫm và cầu nguyện ?
3- Khi làm việc đạo đức, bạn có muốn cho người khác biết không ? Gm. Giuse Ngô Quang Kiệt
--------------------------------
TN 22-B27. Từ trái tim con người
Mc. 7, 1-8a. 114-15. 21 -23
"Tất cả những sự xấu đều ở trong mà ra và làm cho người ta nên ô uế..."
Tôi xin bắt đầu suy niệm hôm nay bằng cách gợi cho anh chị em nhớ lại một hình ảnh rất quen: TN 22-B27
Tôi xin bắt đầu suy niệm hôm nay bằng cách gợi cho anh chị em nhớ lại một hình ảnh rất quen thuộc. Hình ảnh ấy rất đặc biệt nổi bật trong đêm Chúa Giêsu bị bắt. Đó là "nụ hôn của Giuđa". Nụ hôn nói lên ám hiệu của Giuđa "tôi hôn ai thì người đó là Giêsu".
Đêm thứ 5 tuần thánh CGS cùng ba môn đệ thân tín cầu nguyện trong vườn Giétsêmani, các lãnh đạo tôn giáo xông vào. Giuđa tiến đến hôn Chúa. Chúa Giêsu nói ngay"Anh định lấy cái hôn này để nộp Con Người sao ?"
Khi suy niệm về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, ta thường nói đến hình khổ thập gía, mão gai, lữơi đòng, nói đến những trận đòn Chúa Giêsu phải chịu. Riêng tôi nghĩ: Chúng ta cũng không nên quên nụ hôn của Giuđa. Bởi vì chính nụ hôn này đã diễn tả tính chất bi thảm của Con Người, đồng thời cũng là tính chất bi thảm của thập giá. " Anh định lấy cái hôn, mà nộp Con Người sao ?"
Trong cuộc sống, nụ hôn vốn là dấu chỉ của tình yêu nam nữ khi đã đạt đến độ cao. Thánh Baxiniô cả nói:"Hôn nhau chính là thở linh hồn cho nhau." Một cách diễn tả rất sâu sắc và hình tượng nói lên sự hoà điệu, sự hiệp thông trọn vẹn cả hai tâm hồn.
Ơ đây Giuđa biến nụ hôn thành một dấu chỉ phản bội. Chính ở nụ hôn này chúng ta thấy được tính chất bi thảm trong cuộc sống của con người. Và đặc biệt ngoài thế giới bên ngoài chúng ta còn một thế giới bên trong rất phong phú. Chúng ta gọi đó là thế giới nội tâm. Chính nhờ thế giới nội tâm chúng ta mới có khả năng tư duy, cảm xúc phân tích, đúc kết, đón nhận kinh nghiệm của những người khác làm nền tảng cho sự phát triển. Nếu không có thế giới nội tâm thì sẽ không có khoa học, không có sáng tạo văn hoá và nghệ thuật. Nếu không có thế giới bên trong chúng ta hoàn toàn giống như mọi loài sinh vật. Cho nên, chính nhờ thế giới bên trong đó nó làm cho con người trở thành cao cả đến nỗi có khả năng điều hành và thống trị vũ trụ.
Nhưng cũng chính cái thế giới nội tâm này làm cho con người trở nên bi đát. Không phải là bi đát vật chất hay kinh tế. Điều tôi muốn nói ở đây là bi đát về mặt luân lý và tinh thần. Nghĩa là chính cái thế giới bên trong đó khiến con người chúng ta trở thành tàn ác hơn bất cứ một loài tạo vật nào. Chỉ nơi con người mới có giả hình, lừa đảo, gian dối, mưu mô, xảo trá. Vì thế, chính Chúa Giêsu mới khẳng định: "Không phải những gì từ bên ngoài vào làm cho chúng ta ra ô uế đâu, nhưng từ trong lòng mới xuất phát những cái làm cho con người ra ô uế ".
Chúa Giêsu nhấn mạnh từ sự thanh tẩy bên trong chứ không phải bên ngoài như những người Pharasiêu và luật sĩ thời đó muốn nói. Cái thế giới bên trong của chúng ta làm nên sự cao cả đồng thời cũng làm nên sự bi đát của con người. Sự cao cả và bi đát chen lẫn nhau như ánh sáng và bóng tối. Nó thấm vào những suy tư và hành động của chúng ta kể cả những hành động tôn giáo. Cho nên mới có lời Kinh Thánh: "Dân này thờ ta bằng môi miệng mà lòng chúng nó xa ta ".
Như vậy, là vấn đề chúng ta phải sống vừa phát huy tính chất cao cả của thế giới bên trong vừa phải làm sao để cho bớt đi tính ô uế bi đát của thế giới bên trong ấy. Các nhà đạo đức sẽ nói với chúng ta nhiều lời khuyên quý báu. Riêng tôi, tôi xin giới thiệu một cách: "Cách sống thinh lặng".
Có một nhân vật nổi tiếng trên thế giới. Cha&&&& Khi còn là thanh niên, ông rất ghét đạo Kitô, nhất là đạo Công Giáo. Nhưng lạ thay Chúa lại xui khiến cho ông trở lại đạo, xin đi tu. Cuối cùng được thụ phong Linh Mục ở dòng Chiêm Niệm. Cha rất nổi tiếng trong thế giới chiêm niệm đối với tất cả các tôn giáo khác. Cha&&& nói: "Thinh lặng là nhu cầu căn bản cho những ai muốn sống nhân tính của mình một cách tốt đẹp nhất: Tại sao lại vậy ? Thưa thinh lặng giúp ta 2 điều:
* Một là thinh lặng giúp cho chúng ta nhìn lại và thấy rõ con người thật của mình. Có ai gần chúng ta bằng chính bản thân mình, hoá ra cái tôi là cái khó nhất. Ta muốn thấy ta cũng có khoảng cách, một cự ly. Khoảng cách này được hình thành trong thinh lặng. Chính trong thinh lặng chúng ta mới có thể có một khoảng cách để nhìn lại con người của mình, cuộc sống của mình. Chỉ trên sự thật này chúng ta mới có thể phát triển nhân tính của mình một cách đúng nghĩa nhất. Đồng thời cũng chính trong bầu khí thinh lặng đó ta có thể nghe được những tiếng gọi thì thầm, tiếng gọi của những giá trị làm cho tâm hồn con người được nâng lên đến giá trị cao cả thật sự.
Thinh lặng như thế về mặt giác quan nó giúp cho chúng ta phần nào cảm nhận được một thực tế sâu xa hơn. Trong bầu khí thinh lặng ấy ta có thể nghe được tiếng gọi từ bên trong mà nhiều khi những ồn ào của đời sống phủ lớp khiến ta không nghe được. Khi chúng ta khám phá con người thật của mình như vậy thì khoảng cách giữa cao cả và bi đát dần dần gần lại. Bi đát sẽ bớt đi, cao cả sẽ phát triển.
Trong thực tế để sống được thinh lặng đó có những điều kiện mà chúng ta phải bước theo. Chúng ta đọc Tin Mừng thấy Thánh Matcô ghi: Từ sáng sớm, Chúa thức dậy đi tìm một nơi thanh vắng và cầu nguyện. Nghĩa là bầu khí thinh lặng cả không gian và thời gian.
Trong thành phố có rất nhiều khu giải trí. Có lẽ Giáo Hội nếu được phép nên cần phát triển không gian cho con người đến đó để đựơc thinh lặng. Đấy là đòi hỏi khách quan. Còn một đòi hỏi chủ quan là nhiều khi chúng ta không muốn làm. Nói đúng hơn là chúng ta sợ thinh lặng. Có khi được một khoảng thinh lặng chúng ta lại vội vã lấp đầy bằng những câu chuyện, bằng những cuộc vui. Ta sợ thinh lặng vì ta sợ đối diện với chính mình. Ta sợ thinh lặng vì ta khám phá ra những cái gì không tốt. Ta sợ thinh lặng vì ta sợ nghe được tiếng gọi mời ta đi tới, hướng lên những giá trị cao cả hơn, nhưng ngược lại với sở thích riêng của mình.
Hôm nay tôi không nói về một bài học luân lý, tôi chỉ gợi lên một suy tư để anh chị em tiếp nối suy tư đó trong chính cuộc sống cụ thể của mỗi người. Để có thể sống được điều Chúa Giêsu nói hôm nay: "Thanh tẩy ở chiều sâu". Thì thinh lặng là một nhu cầu cần thiết đối với chúng ta.
Có một lần tĩnh tâm với các sơ. Có một sơ gặp riêng tôi và có nhận xét với tôi thế này: "Sao vào trong nhà chùa con thấy các Ni Cô và các Sư họ có khuôn mặt thanh thản và bình an quá. Còn các tu sĩ bên mình không có sự thanh thản bình an đó".
Tôi liền trả lời sơ: Sơ cứ sang nhà kín sơ sẽ gặp được những khuôn mặt thanh thản bình an như vậy. Cuộc sống bình thường có những cái dồn dập nên làm sao có được thanh thản, bình an.
Bầu khí thinh lặng rất có tác động trên tâm hồn và cuộc sống con người. Sống giữa lòng đô thị ồn ào, náo nhiệt, nếu chúng ta biết thiết lập những khoảnh khắc thinh lặng thì tôi tin rằng bên ngoài cuộc sống ồn ào và bận rộn nhưng sâu sa trong tâm hồn vẫn còn sự thinh lặng, bình an. Sự bình an Thiên Chúa ban tặng cho ta để làm nền tảng giúp ta sáng suốt tâm hồn nhìn vào mọi vấn đề trong đời sống bằng cặp mắt khác hơn, từ đấy cuộc sống của mình vui tươi, hạnh phúc hơn.
Chúng ta hãy tiếp nối những suy nghĩ này trong đời sống hằng ngày của mình và hãy cầu nguyện cho nhau. Amen
Gm. Giuse Ngô Quang Kiệt
--------------------------------
TN 22-B28. CHÚA NHẬT 22
Mc 7,1-8a. 14-15. 21-23
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu và nhóm biệt phái cùng kinh sư tranh luận với nhau về vấn đề sạch dơ. - Họ bám: TN 22-B28
Chúa Giêsu và nhóm biệt phái cùng kinh sư tranh luận với nhau về vấn đề sạch dơ.
- Họ bám sát mặt chữ những quy định của luật lệ về sự phân biệt cái gì sạch cái gì dơ và về những đòi buộc phải rửa tay chân chén dĩa…
- Chúa Giêsu nói đó chỉ mới là sạch dơ bề ngoài, không quan trọng bằng sạch dơ trong tâm hồn.
- Ngài nhận xét đạo đức của họ là chỉ đạo đức giả: “Dân này kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.”
- Ngài có kết án họ lấy tập tục của loài người để thay thế lệnh truyền của Thiên Chúa. Ngài lấy tục lệ Corban ra làm thí dụ điển hình: Corban là của dâng cúng cho Thiên Chúa. Mặc dù Xh 20,12 buộc con cái phải phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng để khuyến khích người ta đóng góp cho đền thờ, biệt phái và kinh sư đã dạy rằng nếu ai khấn hứa đem những gì phải giúp cha mẹ để dâng cho Đền thờ thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Qủa thật đây là một cách bóp méo Lời Chúa.
5.Mầm khác:
1. Những sai lầm của biệt phái và kinh sư cũng là những sai lầm chúng ta dễ mắc phải: - Dễ tưởng mình đã là người “công chính” rồi
-Từ đó, dễ phê phán những người khác không được “công chính” như mình.
Thực ra, sống công chính là một mục tiêu phải phấn đấu suốt đời mà cũng chưa chắc đạt tới. Lời Chúa Giêsu khiển trách họ cũng là một lời khuyên chúng ta lo tu luyện bản thân hơn là để ý so sánh và phê phán người khác.
2. Giữ hình thức bề ngoài dễ hơn sống tinh thần bên trong. Rất tiếc nhiều người mới lo được vẻ bề ngoài thì vội tự mãn.
3. Corban là một cái cớ mà biệt phái dựa vào để chuẩn miễn những bổn phận quan trọng. Chúng ta cũng thường có những thứ Corban của chúng ta. Nhiều khi chúng ta lấy cớ bận lo việc Chúa để trốn tránh bổn phận lo cho con người.
4. “Dân này kính Ta bằng môi miệng”: Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng”
Bà cầu nguyện suốt ba ngày cũng những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ: “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện. (Góp nhặt)
5.Mầm khác:
--------------------------------
TN 22-B29. CHUYỆN KỂ:
1. TRONG NGOÀI PHẢI THỐNG NHẤT
Mc 12, 38-44 ; TĐGD 13
Người ta kể một câu chuyện có tính cách ma quái như sau. Có hai người bộ hành đi đường xa: TN 22-B29
Người ta kể một câu chuyện có tính cách ma quái như sau. Có hai người bộ hành đi đường xa. Đêm đến họ phải vào một cái miếu để ngủ nhờ. Đây là một ngôi miếu nổi tiếng là nhiều ma quái. Bầu không khí lạnh lẽo đến rợn người, làm cho hai người khách bộ hành cảm thấy sợ khi đã vào trong miếu.
Trong hoàn cảnh này người không Kitô nói với người bàn Kitô rằng: Anh làm ơn cho tôi mượn cây thánh giá anh đang đeo ở cổ anh đi. Tôi sợ quá! Hy vọng rằng cây Thánh giá của anh sẽ làm cho tôi bớt sợ.
Thế là người Kitô kia đã gỡ cây thánh giá của anh đang mang ở cổ trao cho người ban không Kitô. Hai người nằm nghỉ đêm.
Trời về khuya, con yêu tinh xuất hiện, nó rờ vào cổ của người Kitô, tính sát hại người này, bỗng nó thốt lên:
- Người này có trong mà không có ngoài.
Con yêu tinh có ý nói rằng người này là một người Kitô đích thực, tuy không mang trong mình một dấu hiệu Kitô nào.
Qua người không Kitô, con yêu tinh chạm đến cây thánh giá người này đeo ở cổ, nó thốt lên:
- Người này có ngoài mà không có trong.
Con yêu tinh có ý nói rằng, người này tuy mang cây thánh giá ở cổ, nhưng không phải là người Kitô đích thực.
Chúng ta là những người Kitô, chúng ta thi hành các việc đạo đức cách đầy đủ, chúng ta mang trong mình nhiều ảnh tượng của Chúa. Nhưng liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô hào nhoáng bên ngoài, mà bên trong chúng ta chất chứa toàn là những cặn bã, thối tha?
2. ĐÂU LÀ SỰ THẬT
Khổng tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Ngày đầu tiên, đến đất Tề trong hoàn cảnh chung lúc đó: lầm than, đói khổ, chiến tranh. Và thầy trò vui mừng khi có một người đem biếu ít gạo.
Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các bạn vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc nấu cơm.
Sau khi Từ Lộ vào rừng, thì Nhan hồi nấu cơm dưới bếp; còn Khổng tử đọc sách ở trên bàn đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ.
Đang nằm đọc sách, bỗng Khổng Tử nghe tiếng "cộp" từ nhà bếp vọng lên. khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống thì thấy Nhan Hồi từ từ mở vung lấy đũa xới cơm cho tay vào nắm nhỏ, rồi đậy vung lại và từ từ đưa cơm lên miệng.
Tất cả hành động của Nhan hồi không lọt qua mắt Khổng Tử. Thở dài, khổng tử ngửa mặt lên trời và than:
- Chao ôi! học trò đệ nhất của Khổng Tử mà lại ăn vụng thầy, vụng bạn, đốn mạt như thế này những? Chao ôi! Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan thành mây khói cả!
Sau đó, Tử Lộ và các bạn mang rau về. Nhan Hồi lại luộc rau. Khổng Tử vẫn nằm im đau khổ. Một lát sau, rau chín. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên, tất cả các môn sinh đều chấp tay khổng Tử dậy dùng cơm.
Khổng Tử ngồi dậy và nói:
- Các con ơi! chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề, đường xa vạn dặm. Thầy rất mừng vì trong cảnh loạn lạc, dầm sương dãi nắng, đói khổ như thế mà các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, các con vẫn yêu thương đùm bọc nhau, các con vẫn một dạ theo thầy trải qua bao nhiêu trặng đường, đói cơm khát nước. Hôm nay, ngày đầu tiên đến đất Tề, thầy trò ta may mắn có được bữa cơm. Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ, thầy nhớ đến cha mẹ thầy, cho nên thầy muốn xới một bát cơm cúng cha mẹ thầy. Các con tưởng có nên chăng?
Nhan hồi đứng im, còn các môn sinh đều chấp tay thưa:
- Thưa thầy nên ạ!
Khổng Tử lại nói:
- Nhưng không biết nồi cơm này có sạch không ?
Tất cả học trò đều không hiểu ý Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau. Bấy giờ, Nhan hồi liền chấp tay thưa:
- Thưa thầy nồi cơm này không được sách.
Khổng Tử hỏi: tại sao?
Nhan Hồi thưa:
- Thưa thầy, khi cơm chín con đã mở vung ra thử xem cơm đã chín đều chưa. chẳng may một cơn gió làm bụi bặm tràn vào làm bẩn cả nồi cơm. con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đó, con định xới cơm bẩn ra vứt đi. Nhưng con lại nghĩ: cơm thì ít mà anh em thì đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô tình bỏ mất một phần ăn, anh em lại phải ăn rút lại. Vì thế cho nên con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, con ăn trước pần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy cùng tất cả anh em. Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi, bây giờ con xin phép không ăn cơm nữa, con chỉ ăn phần rau.
Và thưa thầy, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ!
Nghe nhan Hồi nói thế, Khổng Tử lại ngửa mặt lên trời than:
- Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu đúng sự thật! Chao ôi! Suýt tí nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ.
3. BIỂU DIỄN TRỒNG TÁO
Tại một xứ Hồi giáo, có người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ vì ăn trộm thức ăn của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ từ tội liền xin nhà vua:
- Tâu bệ hạ, xin cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mần, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết náy sẽ không truyền lại cho hậu thế.
Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn trồng táo. Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói:
Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này. Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không trồng được.
Nhà vua tin lời, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:
- Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần cảm thấy không đủ điều kiện trồng hạt táo này.
Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần giam tham trong chuyện tiền bạc.
Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:
- Các ngài là những kẻ quyền thế cao trọng, không thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác ăn cho đỡ đói, thế mà các ngài lại kết án treo cổ tôi.
Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xao trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm.
--------------------------------
TN 22-B30. CHÚA NHẬT THỨ XXII THƯỜNG NIÊN.
Mác Cô 7,1-8.14-15.21-23.
Chỗ khác nhau và cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với người biệt phái là các chuyên gia về luật: TN 22-B30
Chỗ khác nhau và cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với người biệt phái là các chuyên gia về luật pháp nêu lên một vấn đề vô cùng quan trọng, vì nó cho ta thấy chính yếu tính và cốt lõi của hai đường hướng trái ngược nhau giữa Chúa Giêsu với người Do Thái chính thống giáo vào thời của Ngài. Vấn đề đặt ra là tại sao Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài không giữ theo truyền thống của người xưa? Truyền thống đó là gì và tinh thần vận dụng nó là gì?
Đối với dân Do Thái thì luật pháp nguyên có hai nghĩa. Thứ nhất và quan trọng hơn hết là Mười Điều răn, và thứ hai, là năm quyển sách đầu của Cưu ưức gọi là Ngũ kinh. Thật ra Ngũ Kinh hàm chứa một số qy\uy tắc và chỉ dẫn chi tiết, nhưng về các vấn đề đạo đức, những gì được nêu lên chỉ là một loạt nguyên tắc mà người ta phải tự giải nghĩa và ứng dụng cho riêng mình. Qua một thời gian dài, dân Do Thái bằng lòng với việc làm ấy.
Nhưng đến thế kỷ thứ 4 và 5 TC một giai cấp các chuyên gia về luật pháp xuất hiện, được biết dưới biệt danh là luật sỹ (Kinh sư) . Nhóm người này không hài lòng với các nguyên tắc lớn về dạo đức, họ có một đam mê có thể gọi là chứng bệnh thích định nghĩa. Họ muốn triển khai, phóng đại, phân tích các nguyên tắc lớn ấy biến chúng thành hàng ngàn luật lệ, qui tắc nhỏ nhặt, để điều khiển từng hành động, từng hoàn cảnh của đời sống. các luật lệ và nguyên tắc ấy không hề được viết ra cho đến thời của Chúa Giêsu một thời gian dài. Chúng vẫn được gọi là Luật Truyền Khẩu, đây chính là cái gọi là tương truyền của người xưa.
Người xưa đây là các đại chuyên gia của luật pháp của các thế kỉ về trước như Hillel và Shammai chẳng hạn. Đến thế kỉ thứ 3 SC, người ta mới tóm tắt tất cả các luật lệ và qui tắc đó, và viết lại thành sách, phần tóm lược đó gọi là kinh Mishnah.
Các luật lệ qui tắc qua đoạn này xuất hiện trong các cuộc tranh luận là việc rửa tay. Các luật sỹ và các biệt phái tố cáo các môn đệ của Chúa đã ăn với bàn tay ô uế. Ô uế đây được hiểu về mặt nghi lễ, không thích hợp cho việc phụng vụ và thờ phượng Thiên Chúa. Có nhiều luật lệ rõ ràng và nghiêm nhặt về việc rửa tay. Trước khi dùng bữa và giữa hai món ăn, người ta phải rửa tay, và phải rửa theo một cách thức nhất định. Để bắt đầu, phải làm cho đôi bàn tay không dính đất cát vôi vữa, đá sỏi vụn hay các vật tương tự khác. Nước rửa tay phải được đựng trong những chén đá lớn đặc biệt, để chính chúng cũng thanh sạch theo ý nghĩa lễ nghi, và để chắc chắn là chúng không được dùng vào việc nào khác và chẳng có vật gì rơi rớt hay lẫn lộn, pha trộn vào đó. Trước hết bàn tay được xòe ra, cá đầu ngón tay chỉ lên trên, nước phải được đổ phái trên và chảy xuống ít nhất đến cổ tay. Lượng nước tối thiểu phải dùng là một phần tư log, tương đương với số nước đựng đầy một vỏ quả trứng rưỡi. Trong lúc bàn tay hãy còn ướt phải rửa bàn tay này bằng mu bàn tay kia. Đây là câu giải nghĩa cách thức rửa mu bàn tay này bằng bàn tay kia: mu bàn tay này phải kỳ cọ vào lòng bàn tay kia và toàn thể bề mặt của bàn tay kia.
Như thế có nghĩa là trong giai đoạn này, hai bàn tay đã ướt nước, nhưng bây giờ nước đã bị dơ vì tiếp xúc với hai bàn tay dơ rồi. một lần nữa phải chụm các ngón tay lại, chúc xuống dưới rồi đổ nước lên, sao cho nước từ cổ tay đổ xuống khắp các đầu ngón tay. Sau khi đã làm đúng như thế, thì đôi bàn tay mới được sạch. Dưới mắt người Do Thái nếu ai không làm như vậy, chẳng những là kẻ cư xử xấu xa, dơ dáy theo nghĩa có hại cho sức khoẻ, nhưng là kẻ ô uế trước mặt Thiên Chúa. Ai ăn với đôi bàn tay không sạch thì bị con quỉ gọi là Shibta tấn công. không rửa tay như vậy có thể bị nghèo khó, tán gia bại sản. Ăn bánh mì với đôi tay không sạch, chẳng khác gì ăn phân. Có một lần nọ, một Rabi quên giữ nghi lễ đó đã bị khai trừ, một Rabi khác trong khi bị các người Lamã cầm tù đã dùng nước để rửa tay thay vì đẩ uống, cuối cùng ông ta đã gần chết vì khát, vì ông ta đã nhất định giử luật rửa tay thay vì uống nước cho đỡ khát.
Với người Do Thái chính thống thì đó là tôn giáo. Đó là nghi thức, nghi lễ, luật lệ, qui tắc được xem như yếu tính của việc phụng vụ Thiên Chúa. Tôn giáo đạo đức đã bị chôn sâu dưới một khối khổng lồ những cấm kỵ, qui tắc và luật lệ.
Những câu sau tiếp tục đề cập sâu xa hơn quan niệm về sự ô uế này. một vật theo nghĩ bình thường là hoàn toàn sạch sẽ, nhưng lại bị kể là ô uế theo nghĩa luật pháp. Có vài điểm liên quan đến quan niệm ô uế này được chép trong sách Lê vi (11-15) và Dân số (19). Ngày nay chúng ta thường nói đến những điều cấm kỵ thay vì bảo chúng bị ô uế. Có một số thú vật vốn là ô uế, ai chạm đến một xác chết bị ô uế. Mà đã ô uế thì làm ô uế luôn những vật nào mình chạm đến. một người ngoại bang là ô uế, thức ăn mà người ngoại bang chạm đến cũng là ô uế, bất kì cái chén, cái bình nào mà người ngoại bang nào chạm đến cũng bị ô uế cả. Cho nên, mỗi khi người Do Thái giữ đạo nghiêm nhặt đi chơ về, anh ta phải ngâm toàn thân trong nước để được sạch.
Những vật dụng như bình, lọ, chén, bát rất dễ bị ô uế. một người ô uế có thể chạm vào đó, hay người ta dùng nó để đựng thức ăn ô uế. đây chính là điều đoạn sách này muốn nói khi đề cập đến việc rửa chén, bình, bằng đất, bằng đồng. Trong kinh Mishnah có không duới mười hai bài khảo luận đề cập đến loại ô uế đó.
Chúng ta đã dành một số thời giờ đề cập đến các luật lệ của các luật sỹ, các truyền khẩu của người xưa, vì đó là những điều mà Chúa Giêsu đã chống lại. Với các luật sỹ, người biệt phái, thì các luật lệ qui tắc ấy chính là yếu tính của Tôn giáo. Tuân giữ chúng là đẹp lòng Thiên Chúa, vi phạm chúng là phạm tội. Đó là ý kiến của họ về điều thiện và việc phục vụ Thiên Chúa. Trong ý niệm Tôn giáo, thì Chúa Giêsu và những người này đã nói bằng những ngôn ngữ khác nhau. chính vì Ngài chẳng cần đến một qui tắc nào trong tất cả các qui tắc ấy, cho nên họ xem Ngài là kẻ xấu. Ơ đây có hai khuynh hướng căn bản; khuynh hướng của người xem đạo giáo chỉ là nghi thức, nghi lễ, luật lệ, qui tắc; với khuynh hướng của người xem đạo giáo là yêu thưong Thiên Chúa và yêu thương đồng bào, đồng loại. Những câu tiếp theo sẽ khai triển vân đền đó, nhưng rõ ràng ý kiến của Chúa Giêsu với các thầy kinh sư cùng những người biệt phái liên hệ đến đạo giáo chẳng có điểm nào giống nhau.
Các luật sỹ và các biệt phái thắc mắc khi thấy các môn đệ của Chúa Giêsu không tuân giữ những điều tỉ mỉ của truyền khẩu và luật của người xưa về việc rửa tay trướv khi dùng bữa, Chúa Giêsu trích dẫn Isaia cho họ nghe. Trong câu đó, tiên tri tố cáo các con người thời bấy giờ chỉ tôn vinh Thiên Chúa bằng đầu môi chót luỡi, trong khi lòng họ đã xa lạc Ngài. Trên nguyên tắc Chúa Giêsu đã tố cáo họ hai điều:
Ngài tố cáo họ giả hình.
Từ ngữ hupokrites có một lịch sử lý thú và vạch rõ nhiều điều. Thọat tiên nó chỉ đơn giản là người trả lời, rồi nó tiến đến nghĩa người trả lời trong một cuộc đối thoại nào đó hay trong một cuộc đàm thoại nhất định, nghĩa là một diễn viên, cuối cùng, nó không chỉ có nghĩ đơn thuần là một diễn viên trên sân khấu, nhưng là kẻ suốt đời diễn kịch, đóng tuồng, chẳng có chút hành động nào trong hành động của mình. với bất cứ ai mà đạo giáo chỉ là việc tuân giữ pháp luật, với bất cứ ai mà Tôn giáo chỉ là tuân giữ một số luật lệ và qui tắc bên ngoài, với bất cứ ai mà Tôn giáo hoàn toàn liên hệ với một số nghi lễ và tuân giữ một số cấm kỵ thì đến cuối cùng, nhất định người ấy sẽ trở thành kẻ giả hình như nghĩa trên đây. Đó là vì kẻ ấy tin mình là người thánh thiện né6củai giữ được hành vi, cử chỉ bên ngoài cho đúng, bất chấp tấm lòng và tư tưởng mình ra sao. cứ lấy trường hợp của người Do Thái giữ luật pháp vào thời Chúa Giêsu thì sẽ rõ, có thể tự thâm tâm người ấy sẽ ghen ghét đồng bào mình, có thể người ấy đầy lòng tham lam ghen tỵ, và che dấu sự cay đắng, kiêu ngạo nhưng người ấy chẳng chút bận tâm về những điều ấy khi còn giữ đúng nguyên tắc rửa tay, giữ đúng các lề luật về thanh sạch và ô uế. Luật pháp chủ nghĩa chỉ quan tâm đến các việc làm bề ngoài của con người mà chẳng đếm xỉ gì đến các xúc cảm nội tâm. Người ấy tỉ mỉ phục vụ Thiên Chúa bằng các việc làm bề ngoài, nhưng trắng trợn bất tuân những việc trong nội tâm, và như thế là giả hình. Người theo hồi giáo có thể cầu nguyện với thượng đế một số lần nào đó.
Để làm điều đó, người ấy đem theo mình một chiếc chiếu, bất cứ ở đâu, lúc nào, người âý cũng có thể trải chiếu ra, quỳ gối xuống, đọc bài cầu nguyện rồi đứng dậy tiếp tục đi. Có câu chuyện một người hồi giáo đuổi theo một người nọ, giơ dao lên định giết ngời ấy. đúng lúc ấy có tiếng chuông báo giờ cầu nguyện, anh ta lập tức dừng lại trải chếc chiếu cầu nguyện ra, quì xuống đọc bài cầu nguyện nhanh theo khả năng anh có thể đọc, rồi đứng lên tiếp tục rược đuổi người kia. Cầu nguyện chỉ là một hình thức một nghi lễ, một việc tuân giữ bề ngoài, chỉ làm trì hoãn một cách phải lẽ việc giết người của anh. Thật chẳng có nguy cơ nào nghiêm trọng hơn nguy cơ đồng nhất hoá với việc tuân giữ bề ngoài. Không có sai lầm nào kinh khủng hơn sai lầm sự đồng nhất hoá điều thiện với một số hành động gọi là Tôn giáo. Đi nhà thờ, đọc Thánh kinh, dâng cúng bạc tiền, cả đấn một thời biểu để cầu nguyện vẫn không khiến người ta trở nên tốt hơn. Vấn đề căn bản là tấm lòng mình phải như thế nào đối với Thiên Chúa và đối với đồng bào mình? Và nếu lòng người ấy là thù địch, cay đắng, lằm bằm và kiêu ngạo, tất cả việc tuân giữ lề luật Tôn giáo bề ngoài trên đời này nhập lại, cũng chẳng khiến người ấy trở thành một người khác hơn là một kẻ giả hình.
Lời tố cáo thứ hai:
Chúa ngấm đưa ra chống lại bọn người chỉ giữ luật pháp đó, họ đã lấy những nỗ lực ngô nghê của loài người để thay cho luật pháp của Thiên Chúa. Họ không lắng nghe tiếng phán của Thiên Chúa để hướng dẫn đời sống mình, mà chỉ nghe theo những lý luận, những tranh luận khôn khéo, những cách nói luẩn quẩn tinh vi, những lý giải tài tình do chuyên gia pháp luật soạn. Sự không khéo không bao giờ có thể làm nền tảng cho đạo giáo chân chính. Đạo giáo chân chính không bao giờ có thể là sản phẩm của trí tuệ con người, không bao giờ do các khám phá tài tình của loài người mà ra, nhưng phải do tấm lòng chân thật, thật thà lắng nghe và tiếp nhận tiếng phán của Thiên Chúa.
Những lời phán tiếp theo của Chúa Giêsu, tuy ngày nay, dường như sự việc không phải như vậy, nhưng lúc đầu tiên , thì hầu như đó là một trong những phần có tính cách cách mạng nhất trong Tân ước. Chúa đang tranh luận với các chuyên gia về luật pháp về nhiều phương diện khác nhau của luật truyền khẩu. Ngài đã cho thấy sự không thích hợp của cách rửa tay cầu kỳ tỉ mỉ. Thế nhưng ở đây, Ngài còn nói một điều gây kinh ngạc nhiều hơn thế nữa. Ngài tuyên bố chẳng có vật gì bên ngoài vào lại có thể khiến người ta thành ô uế được, vì nó chỉ được thân thể thâu nhận rồi chính thân thể giải quyết chúng bằng các đường lối vật lý bình thường. Chẳng có một người Do Thái, nhất là người Do Thái chính thống chịu tin như thế. Sách Lêvi 11 có một bảng liệt kê dài những thú vật không sạch cấm dùng làm thức ăn. Sự việc ấy gây hậu quả trầm trọng như thế nào thì người ta thấy rõ ràng trong nhiều biến cố xảy ra dưới thời anh em nhà Macabê. Thời ấy, Antiôchus, vua Syri muốn nhổ tận gốc đạo Do Thái, một trong những đòi hỏi của vua ấy là người Do Thái phải ăn thịt heo như những người khác, nhưng hàng trăm người Do Thái thà chịu chết chứ không chấp hành luật ấy.
Chính trong một hoàn cảnh như thế, Chúa đã nói lên câu nói hết sức cách mạng rằng chẳng có gì từ ngoài vào lại khiến người ta bị ô uế. Chỉ bằng một cái khoát tay, Ngài đã xoá sạch mọi luật lệ mà vì đó, dân Do Thái chịu đau khổ và chịu chết. Cho nên các kinh ngạc thì chẳng có gì là lạ. Thật ra, Chúa Giêsu ngụ ý rằng tự nó thì vật này, vật no không thể là sạch hay không sạch theo bất luận ý nghĩa tôn giáo nào. Chỉ có con người mới có thể thật sự bị ô uế mà thôi, và điều làm ô uế con người chính là hành động của con người ấy, vì chúng vốn xuất phát từ tấm lòng người ta. Đây là một giáo lý mới mẻ, một giáo lý có sức mạnh đập tan mọi sự. Dân Do Thái vốn có, và hiện nay vẫn còn cả một hệ thống các vật kể là sạch và không sạch. Bằng một câu nói quét sạch tất cả, Chúa Giêsu tuyên bố mọi điều đó đều không thích hợp, điều ô uế chẳng díng dấp đến các vật người ta đưa từ ngoài vào cơ thể, nhưng vốn liệt kê những gì từ trong lòng người ta đưa ra. Rồi Chúa liệt kê những điều mà Ngài bảo chúng vốn từ trong lòng người mà ra, và khiến người ta bị ô uế. Đây quả thực là một bảng liệt kê khủng khiếp. Khi khảo sát tỉ mỉ, chúng ta phải rùng mình kinh sợ. Đây quả là lời khuyên phải tránh những điều đáng ghê tởm đó, nhưng chúng ta còn phải thận trọng, thành thật xét lại chính tấm lòng mình.
--------------------------------
TN 22-B31. "GIỚI RĂN THIÊN CHÚA VÀ TRUYỀN THỐNG LOÀI NGƯỜI.
Mc 7,1-23
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1. Từ sạch sẽ của đôi bàn tay đến trong sạch trong tâm hồn:
Máccô có chủ tâm khi đặt đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay trong "phần nói về bánh", giữa: TN 22-B31
Máccô có chủ tâm khi đặt đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay trong "phần nói về bánh", giữa hai lần bánh hóa ra nhiều: lần thứ nhất tại vùng đất Do thái (6, 35 và tiếp theo), và lần thứ hai tại vùng đất dân ngoại (8,1-9). Quả thật, đó là cuộc tranh luật giữa Đức Giêsu và những người biệt phái cùng ký lục về "sạch" và "ô uế", và sâu sa hơn là thái độ kì thị của người Do thái đối với dân ngoại. Họ cho rằng dân ngoại thì "ô uế", do đó không được đi lại với những người này.
Tranh luận bắt đầu từ một phản ứng của biệt phái và ký lục từ Giêrusalem đến điều tra "xì căng đan" do các môn đệ Chúa Giêsu gây ra: vài người trong các ông "dùng bữa (nghĩa đen: ăn bánh) với đôi bàn tay dơ, nghĩa là không rửa".
Và Máccô kể cho những người dân ngoại đọc Tin Mừng của ông, một vài tập tục nhằm bảo vệ người Do thái khỏi bị lây nhiễm những tập tục ngoại lai và giữ cho dân Chúa được toàn vẹn về mặt xã hội cũng như Tôn giáo. J.Potin viết: "Nhờ cả một mạng lưới chằng chịt những điều cấm bao trùm từng giây phút, từng tình huống trong đời sống hằng ngày mà dân Do thái vẫn giữ cẩn thận luật về trong sạch (pureté) mà một thành viên dân Thiên Chúa phải có. Ví dụ, tư tế phải thanh tẩy hằng ngày trước khi bước qua tiền đường vào đền thờ. Những hy lễ đền tội được dâng tiến trong các cuộc hành hương ở Giêrusalem, những nghi lễ rửa tay, sự chay tịnh, bố thí, những lời cầu nguyện đều tìm lại sự trong sach (pureté). Đôi khi sự trong sạch này mất đi vì những "sinh hoạt" của cuộc sống hằng ngày như: sinh đẻ, lỗi luật, tiếp xúc với các xác chết hoặc người ngoại, người cùi... Theo các nói của các rabbi (thầy dạy), luôn có một bức tường vây kín toàn bộ đời sống của người Do thái để bảo vệ họ". (Xem "Đức Giêsu, lịch sử đích thực", Centurion, tr. 192-193). J. Potin viết tiếp, những tập tục này tất nhiên đòi hỏi phải có: "Lối sống định canh định cư rất khác biệt với hoàn cảnh sống rầy đây mai đó của Đức Giêsu và các môn đệ. Hơn nữa, một số môn đệ là người bình dân nên dĩ nhiên không chuẩn bị sẵn sàng để tôn trọng những thói tục của dân thành thị". (Sách đã dẫn, tr. 193-194).
Sau khi trả lời những người biệt phái và ký lục, Đức Giêsu nói với đám đông rồi mới nói với các môn đệ.
Chẳng những không tìm cách xin lỗi các môn đệ, Đức Giêsu còn cự lại những người chống đối và đánh giá họ là "những kẻ giả hình", khi dùng những từ tiên tri Isaia để nói về họ: "Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, và những giáo lý chúng dạy là những giới luật phàm nhân". (Is. 7,6-7 và 29,13).
Kế đó để tiếp tục phản công, Ngài tố cáo những "truyền thống" do cha ông truyền lại (những "truyền thống" của loài người) thường cho phép thay đổi cả những giới răn của Thiên Chúa. Thậm chí Ngài đưa ra một thí dụ điển hình (sách bài đọc không nói đến) để lột mặt nạ tính gỉa dối của những kẻ hay soi mói: "Hãy thờ cha kính mẹ", đó là giới luật tuyệt đối Thiên Chúa đã truyền cho dân Ngài qua miệng Môisen; tuy nhiên người biệt phái đoan chắc rằng nếu ai hứa dâng cúng của cải của mình cho Ngân khố đền thờ thì được miễn nuôi dưỡng cha mẹ già (Họ nói rằng cái gì đã hứa cho Thiên Chúa thì không thể cho người khác được nữa!). J.Putin giải thích: "Đó rõ ràng là cách thay thế giới luật nền tảng của Thiên Chúa bằng sự thánh thiện tiền bạc giả danh Tôn giáo. Đây là một trường hợp quá đáng nên chính những người Do thái cũng chống lại vì họ rất gắn bó với gia đình. Đức Giêsu làm mọi người cảm nhận rõ ràng do đâu những truyền thồng phát xuất từ cơ chế tôn giáo có thể làm biến chất chính điểm căn bản nhất của nó và thậm chí cả hướng đi trong sáng nhất của nó nữa". (Sách đã dẫn, tr. 194).
Rồi Đức Giêsu quay sang nói với "đám đông". Sau khi đã vượt lên trên sự đối nghịch sạch/ ô uế theo nghi lễ, Ngài đi ngược lên tận nguồn gốc của sự ô uế luân lý, nơi xuất phát mọi quyết địch của con người: đó là "lòng" họ. Chỉ có một sự ô uế thật sự mà con người mắc phải khi tự do quyết định theo điều dữ: "chính cái từ con người xuất ra, là cái làm con người ra ô uế".
M.Quesnel khẳng định: "chắc chắn đó là bài học chủ yếu của đoạn Tin Mừng này: không có gì ở ngoài con người có thể làm cho họ trở nên dơ. Về điều này, Máccô là một nhà cách mạng đối với người Do thái thời ông; ông tỏ rõ rằng những người tin vào Đức Kitô và gia nhập Giáo hội không còn lệ thuộc vào sự tuân giữ những luật lệ của Israel về sạch/ ô uế: đụng một xác chết hay một người cùi, ăn uống với người ngoại, uống máu những con vật, đối với những người Do thái tất cả những hành vi này gây ra sự ô uế về nghi lễ, nhưng đối với những người tin vào Đức Kitô, thực sự chúng không còn chút khả năng nào có thể tách rời họ khỏi Thiên Chúa". ("Đọc Tin Mừng Thánh Máccô thế nào?". Seuil, page 125).
Những điều Đức Giêsu vừa nói với đám đông thì lập tức tiếp đó Ngài nói với các môn đệ "trong nhà". Sau khi đã kể ra một loạt những thói xấu và tội lỗi, Ngài kết luật: "Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm cho người ta ra ô uế."
2. Từ phân biệt đến cởi mở và thông điệp:
Chính Máccô giải thích: "Như vậy Đức Kitô tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch".
Câu này (không có trong sách bài đọc) chắc chắn gây nên một cú sốc: "Ngay lập tức, Đức Giêsu tuyên bố những truyền thống nhằm chia xã hội thành hai khối: người tốt và kẻ xấu theo cách của đạo manichéisme (đạo thiện ác) là những truyền thống lạc hậu. Theo kiểu phân chia này, một bên là những người "sạch" tức người biệt phái (nghĩa từ này là "những người được tách biệt ra") và bên kia những người ô uế, nên tránh, tức những người tội lỗi. Như vậy Đức Giêsu vừa thiết lập một xã hội mở. Phần Thiên Chúa,Người thông hiệp với tất cả những ai là nạn nhân của sự phân biệt xã hội và tôn giáo do chủ trương của phái "những người sạch và khắc nghiệt", tức những người biệt phái. Ngài ăn uống với những kẻ ô uế, "những kẻ bị loại trừ" (người thu thuế, đĩ điếm, lính Rôma...) chính điều mới mẻ này sẽ xô đẩy những ngăn cách tai hại vào thời Đức Giêsu". (J. Hervieux. "Tin Mừng thánh Máccô", Centurion, tr. 103).
Một lời nói rõ ràng và có sứ giải phóng dành cho những người đọc Tin Mừng thánh Máccô ở một thời đại mà Giáo hội sơ khai đang trải qua những căng thẳng và xung đột giữa những Kitô hữu gốc Do thái và dân ngoại. J.Potin nhận xét thêm: "Điều phê phán trên chứng tỏ rằng việc áp dụng giáo huấn này không dễ dàng, như sách Tông đồ công vụ đã chứng minh: Phêrô đã phản đối: "Trong đời tôi, không bao giờ tôi ăn những gì nhơ nhớp và ô uế", khi trông thấy một rổ những loài vật thiên thần mời ông ăn trong giấc mơ (10,14). Nhưng vì người Do thái và dân ngoại cùng hiện diện đồng bàn trong cộng đoàn Kitô hữu nên bắt buộc bãi bỏ những điều cấm về ẩm thực dành riêng cho người Do thái một khi chúng không có chiều kích luân lý". (Sách đã dẫn, tr. 195-196). Qua việc công bố về sạch và không uế, Đức Giêsu mở ra con đường của tự do Kitô giáo.
Dân Chúa luôn hãnh diện vì có lề luật. Họ hạnh phúc và tự cao vì lề luật phát xuất từ Thiên Chúa và TN 22-B32
Dân Chúa luôn hãnh diện vì có lề luật. Họ hạnh phúc và tự cao vì lề luật phát xuất từ Thiên Chúa và Môsê đã theo lệnh Chúa truyền lại cho dân. Lề luật gồm những điều khoản buộc dân Chúa phải giữ để họ có thể trung tín với Giao Ước mà họ đã ký kết với Thiên Chúa Giavê. Tuy nhiên, luật vẫn là luật, nhưng từ từ dân Chúa, đặc biệt các Biệt phái, luật sĩ, thượng tế và các vị lãnh đạo tôn giáo lúc đó đã làm lề luật bị biến dạng. Bài Tin mừng của thánh Marcô hôm nay nó lên tính cách biến dạng ấy.
LUẬT CỦA CHÚA NHẸ NHÀNG:
Bài đọc thứ nhất trích từ sách đệ nhị luật nhắc nhở dân Chúa phải tuân giữ các giới răn, các lề luật, các huấn lệnh tượng trưng cho sự khôn ngoan, trong sáng và sáng suốt của dân Chúa giữa muôn dân muôn nước. Thực ra, luật của Chúa chỉ gồm tóm trong hai giới răn là” mến Chúa” và” yêu tha nhân “, đã từ từ biến dạng theo thời gian trở thành đủ mọi thứ tập tục khiến lề luật không còn nhẹ nhàng và trở nên gánh nặng chất trên vai dân của Chúa. Thiên Chúa, qua ngôn sứ Isaia đã nói:” Ta đã chán ngấy các lễ tế của các ngươi. Thôi, đừng dâng lên Ta những lễ vật vô bổ nữa” hay “ Dân này chỉ thờ Ta ngoài môi miệng nhưng lòng của nó thì lại ở xa Ta “. Xem ra Chúa ban lề luật là để con người tuân giữ để trung thành với Chúa. Chúa ban tự do cho con người tin hoặc không tin, giữ luật hay không giữ luật. Chúa đã từng nói: ” Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” hoặc “ Ách của Ta thì êm ái, gánh của Ta thì nhẹ nhàng “.Nơi khác Chúa nói: ” Ngày hưu lễ được đặt ra cho con người chứ không phải con người vì ngày hưu lễ “. Lề luật của Chúa trong sáng, nhẹ nhàng, con người tuân giữ với đức tin và lòng mến. Bởi vì cốt lõi của lề luật là tình yêu. Luật không do tình yêu là luật chết. Giữ luật cho qua, cho xong là bóp chết lề luật. Luật khô cằn, chà đạp nhân phẩm con người là luật chết. Chúa thiết lập lề luật dựa trên tình yêu vì chính Chúa là tình yêu.
LỀ LUẬT BỊ BIẾN DẠNG TRỞ THÀNH GÁNH NẶNG CHO DÂN:
Đọc Kinh Thánh chúng ta không khỏi nực cười vì những ông Pharisiêu xúng xính trong bộ áo thụng, tay đeo thẻ kinh, huênh hoang ra đường, cho ta là thông luật, nhưng thực tế lại bầy ra đủ mọi thứ luật tỉ mỉ đến không còn biết tới ai, họ bầy ra, họ không giữ mà bắt người khác giữ, như thế họ đã chồng chất lên vai người khác gánh nặng mà họ không lấy ngón tay lay thử thực tệ hại và buồn cười. Đoạn Tin Mừng của thánh Marcô 7, 1-8a.14-15.21-23 cho thấy cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái về vấn đề tập tục của tiền nhân.Thực ra, tập tục rửa tay trước kia có một ý nghĩa rất thanh cao, thánh thiện, các tư tế rửa tay trước khi dâng của lễ lên Thiên Chúa. Đây là tập tục quí hóa. Sau này dân chúng bắt chước rửa tay trước khi cầu nguyện. Với ý nghĩ cao đẹp này họ đã rửa tay trước bữa ăn, vừa giữ vệ sinh, vừa có ý nghĩa tôn giáo. Tuy nhiên, người biệt phái quá vụ hình thức mà quên điều thiết yếu, họ phán đoán người khác dựa trên hành vi rửa tay trước bữa ăn, coi người khác xấu hay tốt dựa trên những hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu đã trả lời cho những người biệt phái vụ hình thức ấy như sau:” Các ông gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa qua một bên, mà duy trì truyền thống của người phàm”. Chúa muốn con người đặt Chúa vào chỗ thứ nhất và tuân giữ giới răn của Người. Chúa muốn con người đặt lề luật vào đúng vị trí của nó. Điều quan trọng là thanh tẩy tâm hồn, rửa sạch trái tim, chứ không phải chỉ rửa tay, rửa các đồ vật bên ngoài, đừng lẫn lộn ý muốn của con người và ý muốn của Thiên Chúa, tập tục của phàm nhân và lề luật do chính Thiên Chúa ban bố. Chúa đến không phải phá bỏ lề luật mà làm cho lề luật nên trọn hảo. Cái cốt lõi của lề luật vẫn là tình yêu. Giữ những việc, những điều lệ, tập tục do con người lập ra mà quên cái cốt lõi lề luật là mến Chúa yêu người. Đó là sự giả hình, Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận.
Người Kitô hữu hôm nay có thể cũng đang bị cám dỗ giữ những hình thức bề ngoài nhưng lại quên đi điều căn bản nhất là sống Tin Mừng. Người ta có thế áy náy vì quên không đọc kinh, không ngắm đàng thánh giá, không giữ 9 ngày thứ sáu đầu tháng liên tiếp, nhưng người ta lại ung dung không hề áy náy khi người đói xin ăn, người khát xin uống, kẻ mình trần xin mặc mà họ lại cố tình làm ngơ. Điều cốt yếu ở đây là thanh tẩy nội tâm, tẩy sạch tâm hồn và rửa sạch trái tim để con người thực sự thi hành, tuân giữ lề luật với tình yêu mến. Không có tình yêu công việc bề ngoài dù hay tới đâu cũng chỉ như tiếng phèng la vang dội, hay tiếng não bạt chùm cheng.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng biết làm mọi việc vì vinh danh Chúa và yêu thương anh em. Amen.
--------------------------------
TN 22-B33. Kiêng hút thuốc trong mùa chay
- Lm. Thu Băng
VietCatholic News (01/02/2005)
Chúa Nhật 22 Thường Niên B
Ngày nọ vào hồi 2 giờ sáng, Cha Murray thấy chuông điện thoại báo và nghe có tiếng rên rỉ:"Ông: TN 22-B33
Ngày nọ vào hồi 2 giờ sáng, Cha Murray thấy chuông điện thoại báo và nghe có tiếng rên rỉ:"Ông nội con ở trong nhà thương sắp chết, xin cha đến giúp". Vì cách nhà thương có 2 block, cha Murray quyết định đi bộ tới thăm bệnh nhân. Đang đi, thình lình một người lạ mặt từ trong bóng tối nhảy ra chìa súng vào cha quát lớn: "Đưa hết tiền đây cho tôi". Vị linh mục trả lời: "Chiếc ví của tôi ở trong áo coat". Tên cướp phanh áo ngài để tìm chiếc ví tiền, chợt nhìn thấy chiếc cổ áo trắng linh mục: "Trời ơi, Tôi không biết đây là ông cha. Xin cha tha tội cho tôi và cha giữ lấy liền". Với lòng biết ơn, vị linh mục tặng cho anh ta một điếu xì gà, nhưng anh ta lắc đầu từ chối: "Xin cám ơn cha, tôi kiêng hút thuốc trong mùa chay".
Tên ăn cướp này cũng giống như người Pharisiêu. Họ cặn kẽ giữ những điều luật nhỏ mọn, nhưng lại bỏ qua những giới răn rất quan trọng. Họ giữ những lề luật bề ngoài, nhưng họ căm ghét kẻ khác không giữ một cách sâu đạm trong trái tim. Họ tuân giữ những nghi thức bề ngoài này và được đánh giá là họ đạo đức, biết phụng sự Thiên Chúa mà khinh miệt những người khác. Cũng như kiêng không hút thuốc trong mùa chay, nhưng lại đi ăn cướp. Vì thế Chúa Giêsu thường phê bình họ khiến họ rất ghét Ngài, theo dõi để bắt bẻ, gài bẫy và công kích Ngài. Ngày nay cũng còn có những thứ người Pharisiêu tân thời như họ. Thí dụ: họ đi lễ trễ mà nếu có ai phê bình thì họ tức tối và cho rằng thế là hạ nhục họ đang khi họ không biết đi lễ trễ là xúc phạm đến Chúa và làm chi trí cho những người khác. Đến nhà thờ, họ tươi cười bắt tay những người bắt tay họ, nhưng lại không biết nói, không biết chào hỏi Thiên Chúa trên bàn thánh. Điều đó cũng như đi dự tiệc mà chỉ trò chuyện với khách mà không hề biết chào hỏi chủ tiệc. Cũng vậy, người khác đi dự tiệc chỉ biết chê trách, bắt bẻ chủ nhà rằng: Khăn bàn xấu, ly chén không sạch, đồ ăn nguội không ngon... nhưng chính họ chỉ toàn nói những chuyện thiếu thanh tao, kéo kẹt, cũng chẳng bao giờ dâng cúng cho chủ tiệc, cho Chúa lấy một đồng. Người khác đi ra ngoài gặp ai thì luôn miệng "Cám ơn, xin lỗi" rất lịch sự, nhưng về nhà lại chẳng hề biết nói một lời nhỏ nhẹ, lịch sự với vợ với con. Nếu trái tim chúng ta chất đầy những nỗi chua chát hoặc kiêu căng thì tất cả những nghi thức bề ngoài trước mắt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta nên thánh thiện trước mặt Chúa. Tất cả họ là những pharisiêu chỉ biết phô trương và giữ luật trước công chúng để được ca tụng, được tôn kính... Nhưng khi sống riêng tư thì lại bê bối, bỏ luôn cả những điều quan trọng nhất trong đời sống. Xin Chúa đừng để chúng ta là một pharisiêu như vậy.
Trích Dongcong.net
--------------------------------
TN 22-B34. Lời nói phải đi đôi với việc làm
- Br. Quốc Toản, CMC
Chúa Nhật 22 Thường Niên B
Trong đời sống thường nhật chúng ta thường nghe câu, "lời nói phải đi đôi với việc làm." Nghĩa là: TN 22-B34
Trong đời sống thường nhật chúng ta thường nghe câu, "lời nói phải đi đôi với việc làm." Nghĩa là một khi ta đã tuyên bố hoặc chia sẻ một lời xây dựng, ta cần phải hỗ trợ lời nói đó bằng những hành động cụ thể. Nếu chúng ta nói mà không làm thì người ta sẽ trách móc, "tên này chỉ được cái miệng." Trong cuộc sống thiêng liêng cũng thế, "đời sống cầu nguyện phải đi đôi với việc làm." Nếu có ai nói là mình yêu mến Chúa mà không thể hiện qua việc làm thì cũng chỉ "có cái miệng." Lời Chúa trích từ tiên tri Isaia trong Tin Mừng hôm nay rất thích hợp để áp dụng cho những người đó, "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta" (Mc 7: 6).
Một ngày nọ, một ngư phủ chở một thanh niên qua sông trên chiếc thuyền nhỏ. Người thanh niên thuộc thành phần trí thức, tự kiêu và tự mãn. Thuyền đi được một lúc thì người thanh niên nhận thấy ông cụ có khắc hai chữ "việc làm" và "cầu nguyện" trên hai chiếc chèo. Mỗi chữ trên một chiếc. Anh ta liền nói với cụ, "Thưa cụ, cụ quá cổ rồi. Cầu nguyện có ích gì nếu chúng ta có việc làm?"
Ông cụ không nói một lời. Cụ âm thầm gác chiếc chèo có chữ "cầu nguyện" lên và tiếp tục chèo với chiếc có khắc chữ "việc làm." Chúng ta có thể tưởng tượng kết quả sẽ như thế nào. Chiếc thuyền chỉ xoay tròn trên mặt sông và chẳng đi đến đâu. Có làm, có tổn sức, nhưng không kết quả vì thuyền không thể tiến đến bến.
Con thuyền về bến thiên đàng cũng thế nếu ta chỉ dựa vào việc làm. Việc làm không có sự cầu nguyện thì như việc chúng ta muốn về Việt Nam nhưng lại đi trên một chiếc xe chạy vòng tròn tại chỗ. Ta cần sự cầu nguyện để chỉ hướng cho việc làm. Mọi việc làm trên thế giới sẽ không có lợi ích cho sự cố gắng tiến về bến thiên đàng, trừ khi việc làm trở nên lời cầu nguyện hoặc nó được kết hợp với lời cầu nguyện.
Nếu ta phối hợp việc làm với lời cầu nguyện thì một việc nhỏ mọn và vô giá trị nhất sẽ trở nên lớn lao và hữu ích cho phần rỗi chúng ta. Một vị thánh đã nói, "Hãy làm việc như thể mọi sự nhờ vào mình, và cầu nguyện như thể mọi sự cậy nhờ vào Chúa."
Trong cuộc sống, không ít thì nhiều, mỗi người chúng ta chắc cũng đã được nghe người khác hoặc chính mình trách những kẻ chỉ nói mà không làm. Những người đó có thể là bà con trong gia đình, người trong một xưởng thợ, hay người trong xóm đạo. Dĩ nhiên những người như thế làm cho chúng ta bực mình tức tối. Nhưng, thử hỏi có bao giờ chúng ta ngồi xét lại coi mình có bao giờ trở nên gánh nặng cho người khác qua việc chúng ta nói mà không thực hành? Chúng ta là con người yếu đuối như bao nhiêu người khác, nên chắc chắn đã có lần chúng ta nói mà không làm. Nếu chúng ta bực bội và tức tối khi người khác nói mà không làm hay nói một đàng làm một nẻo thì kẻ khác cũng có thể bực tức khi chúng ta làm như thế.
Con người không chỉ có phần xác nhưng còn có phần hồn. Chúng ta không chỉ thất lời với loài người nhưng còn cả với Thiên Chúa. Hằng ngày hoặc hằng tuần chúng ta dự lễ để tỏ lòng kính yêu Chúa. Mến Chúa thì phải yêu người vì đó là giới răn của Chúa. Chúng ta nói chúng ta yêu mến Chúa nhưng khi gặp những người cần giúp đỡ thì ta lại quay lưng tránh mặt. Làm thế không phải là chỉ "có cái miệng," nói mà không làm hay sao?
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta cần phải xét lại lời nói và hành động của chính mình. Chúng ta đi dự lễ để thờ phượng yêu mến Chúa. Việc thờ phượng yêu mến này cần phải được diễn ra qua việc làm. Đâu là những việc làm để chứng tỏ lòng ta yêu mến Chúa? Có rất nhiều việc ta có thể thực hiện: ăn ngay ở lành, giúp đỡ tha nhân, không nói hành ai, cộng tác với tha nhân để xây dựng gia đình, giáo xứ thay vì nói những lời gièm pha... Đặc biệt là những việc mà thánh Giacôbê nhắc đến trong bài đọc hai: "thăm viếng cô-nhi quả phụ trong cơn quẫn-bách, và giữ mình khỏi mọi ô-uế đời này" (Jac 1:27).
Sống trên đời ai cũng muốn cho người khác kính trọng. Để được thế ta cần phải giữ vững lập trường và sống đúng với lời mình nói. Được người đời quí mến cũng không quan trọng bằng được Chúa thương yêu. Để được Chúa thương yêu ta cần phải kính mến Người trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình (xem Lc 10:27). Qua lời Chúa hôm nay mỗi người chúng ta hãy sống sao để người đời khỏi trách là ta "chỉ có cái miệng." Đặc biệt hơn nữa là đừng để Chúa trách ta, "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta" (Mc 7:6).
NS. Trái Tim Đức Mẹ
--------------------------------
TN 22-B35. Người ta tìm những kẽ hở để phá luật
- Lm. Minh Vận, CMC
VietCatholic News (01/02/2005)
Chúa Nhật 22 Thường Niên B
Người ta kể rằng: Hồi trước năm 1960 ở Sàigòn, các tiệm ăn thường có tấm bảng đề mấy chữ sau đây:: TN 22-B35
Người ta kể rằng: Hồi trước năm 1960 ở Sàigòn, các tiệm ăn thường có tấm bảng đề mấy chữ sau đây: "Cấm không được khạc nhổ xuống sàn nhà". Một hôm, có một chàng thanh niên ngang tàng đọc bảng cấm đó, tức bực lắm, anh ta đã ngạo nghễ khạc nhổ lên vách tường quán ăn trước mặt mọi người. Các thực khách tại các bàn ăn khác xôn xao khó chịu. Chủ tiệm vội chạy tới, định cảnh giác anh ta, nhưng anh ta giơ tay chỉ vào tấm bảng và nói: "Tôi đâu có nhổ xuống sàn nhà". Người chủ tiệm rất tức bực, nhưng cũng đành chịu vậy, bỏ đi. Khi nhìn luật lệ như những điều trói buộc, thì người ta sẽ tìm ra những kẽ hở để phá luật.
Lái xe trên xa lộ, mà người tài xế không tuân giữ luật giao thông, sẽ gây ra biết bao tai nạn, làm xáo trộn trật tự xã hội và gây nguy hại cho sinh mạng con người. Từ hơn một tháng nay, trên đường đi tới tòa thị sảnh thành phố Springfield, chúng ta thấy ở góc đường ngay phía tay phải, một chiếc xe hơi bị tai nạn hư hỏng 100% cắt đôi ngay chỗ tài xế ngồi, ở dưới để một tấm bảng sơn ghi rõ sự bất tuân luật cấm uống rượu trong khi lái xe... Vậy, luật giao thông có phải là một cấm đoán bất công, hạn chế sự tự do của cuộc sống con người, hay nó là phương tiện giúp con người hưởng được sự an toàn?
I. NIỀM HÃNH DIỆN CỦA DÂN DO THÁI
Bài sách Đệ Nhị Luật hôm nay, chúng ta thấy thật có lý khi dân tộc Do Thái hãnh diện được các dân tộc khác khen ngợi: "Thật dân tộc vĩ đại này là một dân khôn ngoan sáng suốt". Tại sao vậy? Vì: Không một dân tộc nào có diễm phúc được các thần minh ở bên cạnh mình, như Chúa là Thiên Chúa ở bên cạnh họ khi họ kêu cầu Người. Có dân tộc thời danh nào khác có lễ nghi, huấn lệnh công chính và bộ luật là Thánh Kinh như dân Do Thái không?
Như chúng ta biết: Do Thái là Dân Riêng Chúa tuyển chọn. Chúa luôn xuất hiện với các tổ phụ họ, để truyền ban các huấn lệnh và lề luật cho dân tuân giữ. Chúa còn luôn che chở, bênh vực họ trong mọi bước đường họ đi; Người dùng cánh tay uy hùng, làm nhiều phép lạ để giải thoát họ khỏi ách nô lệ, bênh chữa, trợ giúp họ chiến thắng quân thù cách oanh liệt, khiến các kẻ thù của họ phải bàng hoàng kinh sợ.
II. ĐÁNG LỜI CHÚA QUỞ TRÁCH
Được vinh dự là Dân Riêng của Chúa, nhưng dân Do Thái có sống xứng đáng với ơn Chúa ban, bằng việc tuân giữ các huấn lệnh và lề luật Chúa truyền qua Maisen, khi ông thừa lệnh Chúa nói với họ: "Các ngươi phải tuân giữ và thực hành các điều Chúa truyền dạy, vì đó là sự khôn ngoan sáng suốt của các ngươi trước mặt muôn dân". Nhưng dân Do Thái có tuân giữ lệnh truyền đó không?
Lịch sử đã chứng minh sự bất trung và phản bội của dân tộc Do Thái. Chính vì thế mà qua bài Tin Mừng hôm nay, họ đã bị Chúa Kitô nặng lời quở trách: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng xa cách Ta. Chúng sùng kính Ta cách giả dối, bởi chúng dạy những giáo lý và những lề luật do loài người bày tạo ra".
Dầu vậy, họ vốn tự cao tự đại lên mặt dạy đời, bằng cách sai những người Pharisiêu, biệt phái, luật sĩ là những bậc thầy trong dân đến nhòm ngó, rình rập, để bắt bẻ hạch sách Chúa về các hành động của các môn đệ Người: "Tại sao các môn đệ Ngài lại không tuân giữ các tập tục của tiền nhân, mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" Chúa đã cho họ một bài học khi nói với họ: "Các ngươi đã bỏ qua giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của loài người". Chúa còn trịnh trọng bảo dân chúng rằng: "Hết thảy các ngươi hãy nghe và hãy hiểu rõ lời Ta. Không có cái gì bên ngoài vào trong con người, mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những cái từ trong con người xuất ra, chính cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí, người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở bên trong mà ra, đã làm cho người ta ra ô uế".
III. CÔNG GIÁO, DÂN RIÊNG CỦA CHÚA
Là thành phần của Giáo Hội Công Giáo, chúng ta làm nên Dân Riêng Chúa tuyển chọn, như một dân Do Thái mới. Chúa muốn chúng ta hãy là những người con ngoan thảo, vui lòng lãnh nhận các huấn lệnh và thánh chỉ của Chúa qua các Thánh Luật của Người truyền dạy và đem ra thực hành trong đời sống. Vì luật pháp là nơi chứa đựng thánh ý Thiên Chúa. Tuân giữ luật pháp là sống theo thánh ý Thiên Chúa, như lời Thánh Giacobê Tông Đồ nhắn nhủ: "Anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh Lời đã gieo trong lòng anh em, Lời có sức cứu rỗi linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi Lời đã nghe, chớ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình".
Ngày nay, chúng ta vốn còn phải thú nhận cái sự thật đau lòng này, là nhiều người trong các Tín Hữu cũng chẳng hơn gì những người Pharisiêu, biệt phái, luật sĩ Do Thái xưa, họ đọc kinh nhiều, tham dự các giờ phụng vụ, đền tạ, các cuộc biểu dương Đức Tin, ghi tên vào nhiều đoàn thể; nhưng họ lại rất ít quan tâm đến việc sống những tinh thần của các lời kinh, lơ là việc tuân giữ các điều luật của các hội đoàn họ gia nhập, không thực thi Đức Bác Ái Huynh Đệ... Tệ hơn nữa, họ còn tin kiêng dối trá, mê tín, dị đoan và cặn kẽ giữ các tập tục cha ông lưu truyền, phản lại cả những giới răn của Chúa, giáo huấn và luật lệ của Giáo Hội: Chẳng hạn họ cứ bắt buộc con cái phải chu toàn luật tang chế, do tập tục xã hội cổ truyền bày tạo, trong khi sa phạm luật Chúa và Giáo Hội thì họ chẳng quan tâm, chẳng kể là gì. Ví dụ: Chồng đã chết, bố mẹ cứ bắt con gái phải để tang chồng đủ ba đã, rồi mới được tái hôn. Trong khi đó, con gái sa ngã, mang bầu, sinh con rồi, mà vẫn không được phép tái hôn. Họ kết án con cái là hư thân mất nết, nhưng chính họ đã không khôn ngoan đề phòng để con cái lỗi phạm giới răn Chúa, gây nên gương xấu làm hổ mặt cho dòng họ, bởi bắt con cái giữ tập tục của tiền nhân, mà không màng tới giới răn Chúa và Giáo Hội. Tội lỗi đó, ai phải chịu trách nhiệm?
Kết Luận
Là con cái Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng: "Sống theo luật Chúa là chúng ta sống cho Chúa" (Qui Regulae vivit, Deo vivit). Chúng ta đã được Chúa Thánh Linh chúc phúc: "Phúc cho những ai tiến thân trong luật pháp của Chúa". Vì Luật Chúa là khuôn vàng thước ngọc, là lẽ sống, là kim chỉ nam, là vị hướng đạo soi sáng hướng dẫn cho chúng ta sống theo thánh ý Chúa, giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu, để chúng ta có thể quả quyết được như lời Thánh Kinh: "Luật Chúa là đèn dọi bước chân tôi".
Thánh Phaolô còn quả quyết: "Yêu mến và chu toàn lề luật, là yêu mến và chu toàn thánh ý Chúa". Chu toàn thánh ý Chúa, sẽ được Chúa chúc phúc: "Phúc cho những ai suy ngắm luật Chúa đêm ngày" (Prov 29:18). Vậy chúng ta hãy ghi nhớ và làm cho Lời Chúa được thấm nhuần và chi phối mọi tư tưởng, lời nói, việc làm trong cuộc sống chúng ta, theo giáo huấn Chúa dạy: "Con hãy ghi tạc lề luật vào lòng con, thích trên trán con, đặt trước mắt con, buộc vào ngón tay con" (Prov 7:2-3).
Trích Dongcong.net
--------------------------------
TN 22-B36. Tập tục của tiền nhân
- T.s. Trần Quang Huy Khanh
VietCatholic News (01/02/2005)
Chúa Nhật 22 Thường Niên B
Ngày Thánh Mẫu năm 2002 tại Carthage, Missouri, lúc đang đứng ở một quán nước, tôi bỗng thấy một: TN 22-B36
Ngày Thánh Mẫu năm 2002 tại Carthage, Missouri, lúc đang đứng ở một quán nước, tôi bỗng thấy một nhóm bạn trẻ sà vào mua nước uống. Thoạt trông thấy, nhiều người yếu bóng viá đã cảm thấy “nhột” vì cái lối ăn mặc không giống ai của nhóm này. Đặc biệt trong nhóm có một em mà đầu tóc trông giống như một vườn hoa muôn mầu, muôn sắc. Lại thêm đôi bông tai coi bộ rất “hải tặc”.
Cùng lúc đó, một nữ tu vừa ở phía sau quán bước ra kêu gọi những ai đang có mặt quanh quán giúp cho chương trình bác ái mà tu hội đang thực hiện nhân danh các trẻ em nghèo tại Việt Nam. Mỗi người kẻ ít người nhiều ai cũng vui vẻ giúp đỡ. Nhưng khi chiếc nón trên tay nữ tu đưa về phía “mấy đứa bụi đời” này, thì tôi nhìn thấy những khuôn mặt ái ngại của những người chung quanh hiện ra rõ ràng. Dường như nữ tu ấy cũng ái ngại thì phải, vì tôi thấy lời kêu gọi của bà bỗng yếu đi và như nói cho có lệ: “Các em có gì cho không?”.
Bất chợt, anh chàng đầu tóc loang lổ kia thò tay vào túi quần và rút ra một tờ giấy bạc được vò nát nằm trong đó chẳng biết từ bao giờ. Em cẩn thận vuốt cho gọn ghẽ đồng tiền, và kìa đó là một tờ giấy 50$ (năm mươi đôla). Em vui vẻ đưa cho vị nữ tu trước sự bỡ ngỡ của mọi người.
- Em có muốn thối lại không? Cho cả sao?!
- Vâng, con cho cả.
Em nói xong và cùng với nhóm bạn ra khỏi quán.
Câu truyện trên lại khiến tôi nhớ lại một hình ảnh khác tương tự. Hôm đó, anh bạn tôi dẫn một nhóm bạn trẻ đi sinh hoạt. Trên đường về, đói bụng nên cả đám ghé vào một quán ăn. Ngồi đối diện với nhóm của anh là một nhóm trẻ khác mà thoạt nhìn là biết ngay thuộc dân “đầu đường xó chợ” thứ thiệt. Phản ứng tự nhiên là cả nhóm đều thấy ngán. Nhưng một chuyện còn bất ngờ hơn những gì mà mọi người đang suy nghĩ, đó là khi món ăn được người bồi bàn bưng lên, thì người con gái coi như “nữ chúa” trong nhóm lại tỏ ra rất nghiêm chỉnh, cẩn thận làm dấu thánh giá, và dừng lại cầu nguyện ít giây trước khi ăn.
Không biết mấy ông Pharisiêu và luật sĩ mà Thánh Máccô nói đến trong Thánh Kinh nếu có dịp chứng kiến hai cảnh vừa kể sẽ nghĩ thế nào? Các ông lấy gì mà chê trách Chúa đây? Và các ông sẽ có phản ứng gì khi thấy một thằng đầu tóc không ra thể thống gì lại dám móc túi dâng cúng đến 50$, và một đứa “bụi đời” từ đỉnh đầu đến bàn chân kia lại biết kính cẩn làm dấu thánh giá và cầu nguyện trước khi ăn? Có lẽ mấy ông sẽ khó xử lắm, vì trong luật các ông đâu có chép đến trường hợp làm dấu trước khi ăn, nhưng chỉ nói đến việc phải rửa tay trước khi ăn thôi. Hơn nữa trong luật cũng không cấm một đứa trẻ đầu tóc xanh đỏ dâng cúng cho quĩ trẻ em nghèo tại Việt Nam 50 Mỹ kim.
Mừng cho mấy ông Pharisiêu và luật sĩ ấy vì đã chết, nhưng buồn vì tinh thần mấy ông vẫn còn. Tinh thần ấy dường như vẫn đang sống trong tôi, trong anh, trong chị, trong em, và trong chúng ta. Người Việt Nam đã chẳng có câu: “Trông mặt mà bắt hình dong. Con lợn có béo thì lòng mới ngon” là gì. Chả thế mà làm gì thì làm, chứ để bị mất mặt là không được. Con gái mà lỡ có bầu trước khi cưới thì phải phá thai. Con trai ông bà làm cho con gái tôi có bầu thì phải cưới. Con dâu mà xấu xấu một tí thì phải bỏ. Con rể mà nghèo thì được xếp vào loại rể cà chớn. Nhà mình là nhà gia giáo, vọng tộc, bố làm chủ tịch, và mẹ sinh hoạt trong nhiều đoàn thể. Làm gì thì làm, để mất mặt là không được.
Người Âu Mỹ thì văn minh hơn, các ông bà luật sư đã áp dụng luật hấp dẫn ngoại hình của tâm lý khuyên các thân chủ họ, hoặc đòi hỏi phải để các thân chủ họ ăn mặc bảnh bao, son phấn, trang sức tề chỉnh khi ra hầu toà. Mục đích là để chiếm được niềm tin và cảm tình của bồi thẩm đoàn, các cơ quan ngôn luận, truyền thanh và truyền hình. Vì một người đẹp trai, đẹp gái ăn mặc lịch sự, hợp thời trang và nói năng lịch sự, bình tĩnh như thế kia, thì không thể nào là một thằng ăn cướp, một đứa hiếp dâm, hoặc một mụ tú bà được.
Cũng vì sống và ảnh hưởng bởi tinh thần ấy, nên hễ đã là cha, là thầy, là tu sĩ, là chủ tịch, là trưởng ban thì tất nhiên không có chuyện lầm lẫn, lẩm cẩm, lôi thôi thế này thế khác. Những cái đó chỉ là hậu quả của mấy anh nhà nghèo, khô khan, hoặc không tham gia các việc hội đoàn, giáo xứ, lười xin lễ.
Nhưng có những cái mà không cần phải xét nét, không cần phải phê phán, tự nhiên nó cũng lòi ra mà không áo quần, trang sức, hoặc chức tước nào có thể che dấu được. Đó là đời sống và tư cách của một người. Người ta chỉ có thể che đậy được một vài giờ, và trong một vài hoàn cảnh, nhưng dứt khoát không thể nào che đậy nổi mãi cái tâm ý tà vạy, cái thói kêu căng, phách lối, và những ham muốn dục vọng, tham lam quá độ, hoặc ích kỷ hẹp hòi. Chính Chúa Giêsu đã nói điều này với những ông Pharisiêu và luật sĩ chuyên phê phán và xét nét người khác: “Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế” (Mc 7: 23). Nội tâm con người làm cho con người ra ô uế. Áo quần không làm cho con người ô uế.
Đừng đoán xét người khác theo cái vẻ bề ngoài của họ. Cũng đừng câu nệ và hình thức. Chúa Giêsu qua bài học hôm nay đã muốn chúng ta phải biết sống thật với chính mình, và sống thật với anh chị em mình. Nếu mình đã không thật với lòng mình, thì việc đến với Chúa cũng chỉ là bôi bác: “Dân này thờ kính ta bằng môi bằng miệng còn lòng chúng thì xa ta” (Is 29:13). Chắc vị nữ tu được nhắc đến ở trên sẽ không bao giờ quên được hình ảnh anh chàng đầu tóc xanh đỏ, và tờ giấy bạc 50$ của em. Tôi tin là trong dịp Thánh Mẫu năm ấy, nữ tu này đã gặp nhiều người ăn mặc đẹp đẽ, thái độ hòa nhã, trí thức và lịch sự hơn em trai này, nhưng tôi cũng tin là ít ai trong họ đã vui vẻ móc túi ủng hộ 50$ vào công tác bác ái của bà. Mấy ông, mấy bà Pharisiêu thời đại nếu có nhìn thấy tụi nhóc quần áo, bông tai, mặt mày không giống ai kia mà lại nghiêm trang, kính cẩn làm dấu và cầu nguyện trước khi ăn, thì cầm chắc là hơn mấy ông, mấy bà rồi. Nhiều người bề ngoài đạo mạo, nghiêm trang, nói năng đạo đức, và hô hào đền tạ, cầu nguyện, nhưng đã không bao giờ làm dấu thánh giá, và cầu nguyện mỗi khi ngồi vào bàn ăn tại một tiệm ăn.
Sống theo hình thức và giả hình. Sống với tư tưởng phê phán và xét đoán. Lối sống này dường như đã ăn sâu vào máu huyết và tim óc của nhiều người. Nhưng đây lại là lối suy nghĩ, phê phán, và sống không phù hợp với tinh thần Phúc Âm. Lối sống của những Pharisiêu và luật sĩ giả hình. Những người chỉ chú trọng vào việc rửa sạch chén điã hoặc bàn tay trước khi ăn, nhưng lại quên gạn lọc, và tu tỉnh tâm tính của mình đối với việc nhìn và xử dụng chén đĩa, cũng như việc xử dụng các của ăn. Lạy Chúa, xin cho con biết luôn sống thật với lòng con, và sống thật với những người chung quanh con. Và xin cho con thâm tín rằng: “Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế” (Mc 7: 23).
Trích Dongcong.net
--------------------------------
TN 22-B37. Ơn Tạo Dựng - Lm Augustine, S.J
VietCatholic News (01/02/2005)
Cha Đỗ Đình Bộ (Dourisboure) thuộc hội Thừa Sai Ba Lê kể câu chuyện ông Hồ Mua (Hmur): TN 22-B37
Cha Đỗ Đình Bộ (Dourisboure) thuộc hội Thừa Sai Ba Lê kể câu chuyện ông Hồ Mua (Hmur) là người dân tộc Bana đầu tiên trở lại đạo Công Giáo năm 1853.
Ông Mua được cha Cung (Combes) dậy đạo. Cha này nhìn nhận ông là người “rất trung thực, rất công bằng, rất thù ghét điều gian dối”. Đặc biệt về giới răn thứ sáu, ông tỏ ra là người bén nhạy cách lạ thường. Một hôm cha Cung dạy ông hơi nhiều về giới răn đó. Phản ứng của ông Mua là: “Ồ, thưa ông cố, về điều này, từ lâu tôi đã biết điều gì được phép làm hay không được phép, kể cả trong suy nghĩ. Xưa kia, khi còn là một thanh niên, và trên đường đi đâu đó, nếu tôi gặp một người con gái thì tôi quay mặt lại để khỏi nhìn cô ấy, và khỏi có những ước muốn xấu.”
Ơn Cứu Chuộc
Nhưng không thể nói như vậy về vấn đề mê tín dị đoan. Tất cả những tập tục của dân Bana đều có mê tín dị đoan thấm nhuần. Và ông Hồ Mua mang nặng sư thấm nhuần đó. Khi ông Mua nghe cha Cung trình bày chi tiết đạo thánh Chúa, ông liền tỏ lòng khâm phục và muốn theo liền. Nhưng khi biết rằng tất cả những tập tục dân tộc Bana không thể đi đôi với việc ông gia nhập đạo công giáo, ông tỏ ra sợ hãi. Ông đã tin và vẫn còn tin vào tất cả đạo giáo của dân tộc ông. Ông xác quyết, ông không thể bỏ một số luật đạo ấy mà lại không tự chuốc lấy cái chết chắc chắn sẽ xảy đến cho ông. Cha Cung giúp ông cầu nguyện xin ơn lướt thắng những cám dỗ về mê tín dị đoan. Ông tỏ ra là người anh hùng khi phải nói lên niềm tin mà ông đặt nơi Thiên Chúa và về những sự sau hết của đời người. Nhưng nơi thâm tâm ông vẫn còn âm ỉ một sự sợ hãi, vẫn còn nửa tin nửa ngờ một tai ương lớn nào đó, hoặc có khi chính cái chết, có thể xảy đến nếu ông bỏ một số tập tục mê tín. Nhưng Chúa nhân lành vẫn cho ông cơ hội để thắng sự sợ hãi đó nhờ những thực tại khách quan.
Đúng vào năm ông Mua trở lại đạo Công Giáo thì có nạn đói xảy ra cho làng ông và những làng lân cận. Bình thường phương pháp tốt nhất để cứu đói là gieo bắp vào lúc mùa mưa tới, để sớm có cái bỏ miệng trong khi chờ đợi mùa lúa đến. Nhưng theo tập tục xứ này, người ta không thể muốn trồng bắp lúc nào thì trồng, mà phải đợi hết điềm báo này đến điềm báo khác. Có khi vì thế mà phải chết đói trong khi thời tiết lại rất thuận lợi cho việc trồng tỉa ngay! Ông Mua, vào dịp đó, đã theo lời khuyên của cha Cung, đã coi thường những tập tục xưa. Ông cứ gieo bắp trước thời gian, chẳng chờ điềm báo. Nhiều bà con của ông từ làng lân cận đến khuyên ông: “Ô kìa, Hồ Mua, mày sắp làm gì vậy? Tại sao trồng bắp tháng này? Ồ, đừng đừng! Ai sẽ ăn bắp mày trồng? Chắc chắn là nó không mọc đâu! Mà như nếu nó có mọc, có sinh nhiều trái, thì mày cũng chẳng được ăn. Mày sẽ chết trước cho mà coi! Đừng có nghe lời khuyên của mấy người ngoại quốc. Họ chẳng biết gì tập tục của chúng ta. Họ sẽ làm mày chết đấy. Chúng tao thương hại mày lắm! Cái chết luôn đến khá sớm, thì tại sao lại hối thúc nó!”
Nhưng ông Mua đã hứa với cha Cung là bằng mọi giá ông sẽ hành xử theo lời dạy của đức tin. Vậy ông đã tỉa bắp trong khi mọi người còn chờ điềm báo. Bề ngoài ông tỏ ra rất vững tin, nhưng bên trong ông thú thật là vẫn còn nơm nớp sợ.
Chúa thương cho ông Mua được mùa bắp trong khi mọi người chung quanh mới bắt đầu gieo hạt. Bà con lần này đến không phải để trách ông, nhưng để nhận phần bắp mà ông đã quảng đại chia sẻ cho họ như ân lộc Chúa ban.
Ong Mua cách nào đó tượng trưng cho chính Chúa Giêsu là Đấng mở ra một con đường tự do cho mọi người. Còn những người bà con của ông tượng trưng nhóm Pharisêu và Kinh sư trong bài Tin Mừng hôm nay.
Đức Giêsu trả giá để loài người được tự do
Nhưng ông Mua tượng trưng Đức Giêsu theo nghĩa nào? Thực ra, chính nhờ Đức Giêsu ta mới có thể nhận ra con người ông Mua hiện như thế nào và lẽ ra phải như thế nào, tức là nhận ra ông như được Thiên Chúa dựng nên và cứu chuộc như thế nào.
Ngay ở câu đầu của sách Tin Mừng Máccô đã cho ta thấy nhân vật chính của sách Tin Mừng là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Ý nghĩa của danh xưng Con Thiên Chúa được chất chứa rất phong phú nơi biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Khi ấy các tầng trời xé ra và Đức Giêsu thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng phán từ trời cao rằng: Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con. Thánh Thần xuống trên Đức Giêsu là để tấn phong và xác nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ Thiên Chúa đã hứa (x. Is 11,2; 42,1; 63,11). Đức Giêsu còn được xác nhận là Con Một yêu dấu của Chúa Cha được dâng làm lễ vật trong hy lễ.
Đó là mạc khải cơ bản về Đức Giêsu Con Thiên Chúa. Tất cả lời nói và việc làm của Đức Giêsu mà sách Tin Mừng mô tả cũng là để làm sáng tỏ mạc khải đó mà thôi.
Cho nên khi một người bị quỉ ám nhìn nhận Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 3,24) cũng là để nói rằng chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng chí thánh và Đức Giêsu là Đấng được thánh hiến cho Ngài.
Cũng vậy khi Đức Giêsu khẳng định Ngài có quyền tha tội (x.Mc 2,10) thì đó là vì Ngài dựa vào thiên tính là Con Thiên Chúa để tha tội.
Riêng trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu thực tỏ ra khéo léo để vượt lên trên những tập tục không mấy thiêng liêng (vì chỉ liên quan tới chuyện rửa bát, rửa tay v.v… trước khi ăn) để hướng người nghe về với Thiên Chúa. Người trích ngôn sứ Isaia nói rằng “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là luật phàm nhân (Is 29,13)… Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm (Mc 7,8).
Mọi sự phải khởi đi từ Thiên Chúa. Đó là ơn tạo dựng. Nếu ông Hồ Mua được nhìn nhận là con người có nhiều cái hết sức tích cực, như trung thực, công bằng, thù ghét điều gian dối, lại còn trong sạch trong cả suy nghĩ, từ thời còn thanh niên, thì đó là vì ông được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa.
Nhưng nếu từ cơ sở đó của ơn tạo dựng mà đã có sự suy thoái, sự biến chất do mê tín dị đoan là công trình của quỷ dữ, thì ông Mua phải được giải phóng để được tự do. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa xuống thế làm người là để thực hiện công trình giải phóng đó. Chính ông Mua phải tham dự vào công trình này, nhận lấy công trình đó của Chúa Giêsu làm của mình. Những người như cha Cung và thực ra, cả Giáo Hội, luôn giúp đỡ ông, nhưng không ai thay thế được ông để vượt trên sợ hãi, hầu sống sự sống mới làm Con Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu. Nhưng Đức Giêsu đã trả giá cho công trình giải phóng loài người khỏi ách tội lỗi. Sự hy sinh đó có thực do tội lỗi loài người gây nên, chứ không phải là điều giả tạo được áp đặt vào cuộc đời của Đức Giêsu. Máccô nói rõ điều đó khi mô tả năm cuộc tranh luận với người Pharisêu, mà vụ chữa người bại tay đã đưa đến việc bàn tính cách hữu hiệu nhất để giết Đức Giêsu (x. 2,1-3,6). Thắc mắc mà người Pharisêu nêu trong Tin Mừng hôm nay liên quan tới chuyện rửa bát đĩa và tay trước khi ăn, cũng phát sinh do sự xung khắc có âm mưu nói trên.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn tâm đắc được gì về con người ông Hồ Mua: trung thực? công bằng ? ghét điều gian dối ? trong sạch cả trong suy nghĩ từ hồi thanh niên ? thấm nhuần mê tín dị đoan của dân tộc Bana ? Ông lướt thắng được nỗi sợ phát sinh do mê tín dị đoan như thế nào?
2. Bạn có kinh nghiệm gì về những điều tốt lành do ơn tạo dựng, như ước ao sống lý tưởng bác ái và công bằng?
3. Bạn có kinh nghiệm gì về ơn cứu chuộc qua những lần xưng tội, chịu lễ?
--------------------------------
TN 22-B38. Dân này chỉ mến Ta bằng môi miệng
- Lm. Bênađô Nguyễn Tiến Huân
VietCatholic News (01/02/2005)
Chúa Nhật 22 Thường Niên năm B, ngày 03-09-00
Đnl 4,1-2.6-8; Gc 1,17-18.21b-22.27; Mc 7,1-8.14-15.21-23
Biệt phái và Luật sĩ là những người chuyên chú lo giữ luật Maisen một cách rất cặn kẽ. Luật Maisen: TN 22-B38
Biệt phái và Luật sĩ là những người chuyên chú lo giữ luật Maisen một cách rất cặn kẽ. Luật Maisen là luật của Cựu Ước ghi chép rất tỉ mỉ nhiều tập quán và lễ nghi phức tạp về đủ mọi sinh hoạt của đời sống: như rửa tay, rửa chén trước khi ăn, đồ mua ngoài chợ về phải rảy nước tẩy uế và phân biệt đồ nào được ăn đồ nào không được ăn, phải dâng cúng thế nào vào đền thờ... Họ giữ luật vì luật nghĩa là cứ làm đúng từng nét như luật dạy trong sách là đủ không cần chú tâm đến sự hoàn thiện nội tâm của đời sống. Nói cách khác họ giữ luật một cách máy móc không một chút tinh thần bên trong. Họ dâng cúng lễ vật vào đến thờ cho Thiên Chúa đúng mức, đúng kỳ, đúng luật nhưng tinh thần của sự dâng cúng là lòng yêu mến tôn thờ Thiên Chúa thì không có hay không cần xét đến. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài muốn hoàn hảo những luật Cựu Ước đó bằng một tinh thần bên trong tạo thành một luật giao ước mới. Luật giao ước mới này không phải là những nét chữ ghi trên giấy cứ làm theo đúng là xong, nhưng được ghi ngay trong tâm hồn, trong lương tâm mỗi người, để mỗi người phải cố gắng thực hiện những luật đó với hết sức của mình. Sự cố gắng đó phải vươn lên mãi không có một giới hạn nào: “Hãy nên Thánh như Cha các con ở trên trời là Đấng Thánh“ (Mt 5,48). Vì thế chúng ta dễ hiểu câu Chúa chê bọn Biệt phái và Luật sĩ chỉ biết giữ luật cách máy móc: „Dân này chỉ mến Ta bằng môi bằng miệng còn lòng nó thì ở xa Ta“ và „chúng đã nhận mệnh lệnh của phàm nhân làm Thánh giáo“. Không, chính tinh thần yêu mến bên trong và chính luật Giao ước mới của lương tâm, mới là điều Chúa muốn và mới là Thánh luật chứ không phải sự giữ luật cách máy móc và những nét luật lệ chết cứng trên các trang giấy. Vì thế nhân cơ hội họ bắt bẻ về sự rửa tay trước khi ăn, Chúa mới nhấn mạnh thêm: chính cái bộ lòng bên trong, cái nội tâm con người mới là cái quan trọng chứ không phải chén bát vì chính nó làm cho đồ ăn bên ngoài vào tiêu ra thành chất dơ thối cũng như chính nó phát xuất những tư tưởng dâm ô, trộm cắp, kiêu ngạo, ganh tỵ...
Giữ luật vì luật một cách máy móc là mới mến Chúa bằng môi bằng miệng. Đi lễ Chúa Nhật chỉ vì luật buộc phải đi, dâng cúng vì luật buộc phải dâng cúng, đọc kinh vì phải đọc... mà lòng thì xa Chúa và vẫn tích trữ hận thù ghen ghét ganh tỵ... thì vẫn chỉ là những kẻ Biệt phát và Luật sĩ bị Chúa chê là giả hình chỉ mến Chúa bằng môi bằng miệng mà lòng thì vẫn xa Ngài: họ vẫn là những kẻ đối nghịch với Ngài.
Chúng ta cần xét lại thái độ của chúng ta khi tuân giữ luật Chúa: tuân giữ cách máy móc miễn cưỡng hay tuân giữ vì yêu mến Ngài.
Lạy Chúa, con quyết giữ lễ các Chúa Nhật tháng này một cách ý thức và yêu mến.
--------------------------------
TN 22-B39. SLC - Cõi lòng
Trong cuộc sống thường ngày, đối với người Tây Phương thì con tim, còn đối với người Đông: TN 22-B39
Trong cuộc sống thường ngày, đối với người Tây Phương thì con tim, còn đối với người Đông Phương chúng ta, thì cõi lòng là yếu tố quan trọng cho mọi hoạt động của chúng ta. Vì thế, chúng ta thường nói:
- Thèm lòng chứ không thèm thịt. Hay của ít lòng nhiều.
Cho dù chúng ta có làm được những việc tốt lành, mà nếu không có sự góp phần của con tim, của cõi lòng, thì chúng ta cũng chỉ là những kẻ bôi bác, giả hình và dối gạt mà thôi.
Ca dao tục ngữ đã diễn tả về hạng người này như sau:
- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm. - Miệng thì thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Chính vì thế mà chúng ta cần phải đề cao cảnh giác đối với hạng người nham hiểm này.
Trong Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng có những ý nghĩ như vậy. Ngài coi cái tâm, cái lòng là yếu tố chi phối mọi việc làm của chúng ta, như chúng ta thường bảo:
- Tư tưởng thì hướng dẫn hành động.
Hay như Chúa đã phán dạy:
- Lòng đầy thì mới tràn ra ngoài.
Chính vì thế, rất nhiều lần Ngài đã lên tiếng phê bình chỉ trích thói giả hình của bọn Biệt phái và luật sĩ. Bởi vì, họ chỉ có cái vỏ bên ngoài, còn bên trong thì lại rỗng tuếch, thiếu vắng cái tâm, cái lòng.
Họ giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng xóa, nhưng bên trong thì lại đầy dòi bọ và xú khí. Họ chuộng hình thức bề ngoài, nhưng lại chẳng có tinh thần bên trong.
Chẳng hạn, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, họ cẩn thận rửa tay trước khi ăn, nhưng tâm hồn họ thì lại bị hoen ố bởi gian tham và tội ác, khiến Chúa đã phải mượn lời tiên tri Isaia mà nói về họ:
- Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Rồi Ngài còn xác quyết chính yếu tố bên trong mới là yếu tố quyết định tính cách tốt hay xấu của một hành động:
- Bởi vì từ bên trong từ cõi lòng xuất phát ra những ý định xấu như tà dâm, trộm cướp, giết người… Chính những điều xấu xa này, từ bên trong xuất ra và làm cho con người trở thành ô uế.
Với chúng ta cũng vậy. Chúa đòi hỏi nơi chúng ta tấm lòng chân thành khiêm cung, như lời Ngài đã phán:
- Ta muốn lòng nhân lành chứ không muốn lễ vật.
Nơi khác, Ngài cũng bảo:
- Lòng sám hối khiêm cung Chúa chẳng khinh chê.
Và hơn thế nữa, chính tình yêu xuất phát từ cõi lòng, từ con tim sẽ làm cho những việc làm nhỏ bé tầm thường của chúng ta có được một giá trị to lớn và cao cả trước mặt Chúa.
Bởi vì, tình yêu xuất phát từ bên trong sẽ là như chiếc đũa thần, biến những việc làm nhỏ bé tầm thường của chúng ta trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta.
--------------------------------
TN 22-B40. Giáp mặt
Có một cuộc triển lãm lấy tên là “Hàng thật hàng giả”. Cuộc triển lãm này nhằm giới thiệu: TN 22-B40
Có một cuộc triển lãm lấy tên là “Hàng thật hàng giả”. Cuộc triển lãm này nhằm giới thiệu bộ mặt hàng hóa trong bối cảnh thị trường hiện nay, để nhà sản xuất và người tiêu dùng có cơ hội nắm vững tình hình. Qui mô triển lãm không lớn, thời gian trưng bày không lâu, nhưng ý nghĩa của nó được đánh giá không phải là nhỏ. Bởi lẽ nó gợi mở một dư luận đúng đắn trong đạo đức kinh doanh, nhằm tẩy chay hàng giả và cổ võ hàng thật, đồng thời góp phần hình thành một cung cách làm ăn sao cho chữ tín được tôn trọng và bảo vệ. Nhiều tờ báo đã đánh giá cao cuộc triển lãm này, có báo cho rằng đó là “một cuộc giáp mặt đầy lý thú”.
Bài Tin Mừng hôm nay, dầu chẳng liên quan gì đến cuộc triển lãm, nhưng cũng diễn ra như một cuộc giáp mặt giữa một bên là những người Pharisêu và kinh sư, còn bên kia là Chúa Giêsu và các môn đệ, với câu hỏi mở đầu xoay quanh vấn đề “sạch và dơ” theo luật lệ, để rồi cuối cùng trong câu trả lời mang tính cật vấn, Chúa Giêsu đã trực tiếp tố giác một lối sống đạo đức giả hình, và qua đó gián tiếp dạy bảo một lối sống mới trong đạo đức đích thực.
Trong Tin Mừng chúng ta hay nghe nói đến những người Pharisêu và kinh sư. Đây là những người sinh ra và lớn lên trong bầu khí đạo giáo, có người lại được huấn luyện nâng cao để trở thành những chuyên viên luật lệ, cuộc đời họ dường như gắn bó với luật lệ. Nếu chỉ có thế thì chẳng có gì phải nói, nhưng đàng này, dần dần họ cấu kết với nhau thành một nhóm nắm quyền giải thích và áp dụng luật lệ, để rồi tha hồ thao túng đến nỗi lấn lướt cả quyền lập pháp khi họ tự ý thêm bớt đủ điều, làm cho luật lệ mất đi dáng dấp nguyên thủy, đành lép vế dưới lớp áo truyền thống phàm nhân. Trên cơ sở đó, Chúa Giêsu đã tố giác: “Các ông gạt bỏ điều răn Thiên Chúa mà giữ lấy tập tục loài người”.
Rồi như một hệ lụy, những người Pharisêu và kinh sư thường xuất hiện công khai qua dáng vẻ tự phụ, cánh tay họ thò vào mọi ngõ ngách của cuộc sống: dòm ngó, xét nét, hạch sách người khác ngay trong những điều nhỏ nhặt như việc các môn đệ không rửa tay trước khi ăn kể lại trong Tin Mừng hôm nay.
Nhưng chính ở đây, bằng thái độ không khoan nhượng, Chúa Giêsu đã giật rơi chiếc mặt nạ đạo đức trên khuôn mặt họ, để trần trụi ra họ chỉ là những kẻ giả hình. Rõ trơ trẽn, xấu mà hay làm tốt. Điều làm cho người ta thành dơ bẩn không phải ở chỗ giữ hay không giữ tập tục rửa tay trước khi ăn mà chính là tâm địa của người ta. Đạo đâu phải là tuân giữ các tập tục và thực hành các nghi thức mà là một thái độ sống.
Thế là người cật vấn bây giờ trở thành kẻ bị cật vấn. Qua những người Pharisêu và kinh sư, Chúa Giêsu tố giác một lối sống giả hình, giả dối: thể hiện bên ngoài thì khác và trong lòng thì nghĩ khác, như tục ngữ đã nói: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm” để diễn tả những người mang mặt nạ giả danh tốt đẹp, bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong. Hạng người như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Chúng ta thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người Pharisêu và kinh sư không ? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên trong không ? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề ngoài không ? Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình.
Không những chúng ta không được giả hình, giả dối mà còn phải đấu tranh chống lại những cái giả chung quanh nữa. Những cái giả này ngày nay xuất hiện dưới nhiều hình thức và ở nhiều cấp độ khác nhau giữa chốn chợ đời, cụ thể nhất là hàng giả và thuốc giả. Mỗi cái giả đều có cái giá của nó trong sự tác hại: hàng giả gây nên “tiền mất” cho người mua sắm, thuốc giả gây thêm “tật mang” cho kẻ tin dùng. Còn người ta, một khi đã trở thành giả, như giả nhân giả nghĩa thì quả là một thảm họa không chỉ cho bản thân mà còn cho những người lân cận nữa. Trong cuộc chơi, như trong bóng đá chẳng hạn, động tác giả được xem là mưu trí, nhưng trong cuộc đời, động tác giả chỉ có thể là trò trí trá của những con người đã đánh mất phẩm chất đạo đức nơi mình.
Cuộc giáp mặt giữa những người Pharisêu và kinh sư với Chúa Giêsu và các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta liên tưởng tới những cuộc giáp mặt khác trong cuộc đời. Quả thực, dù muốn dù không chúng ta cũng sẽ thấy, sẽ gặp, sẽ chứng kiến những cuộc giáp mặt cụ thể và quyết liệt, như giữa hàng thật và hàng giả, của công và của tư, phim sạch và phim đen, mặt phải và mặt trái v.v… không có sẵn giải pháp cho từng trường hợp, nhưng vẫn có lời gọi hãy đứng về phía chân lý và hãy sống trung thực trong bất cứ trường hợp nào.
Dĩ nhiên sự thật tất thắng, nhưng đường đi đến sự thật là cả một cuộc đấu tranh sinh tử một mất một còn. Phân biệt thật giả đã khó, yêu mến và thi hành sự thật lại càng khó hơn, nó đòi hỏi lý trí và ý chí cũng như sự trợ giúp của ơn thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhận diện lại cuộc sống đạo đức của mình, đồng thời cũng là lời mời gọi hãy giành lấy phần thắng giữa những cuộc giáp mặt trong đời.
--------------------------------
TN 22-B41. Giả hình
Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng nhưng lòng họ thì xa Ta. Cái sai lầm lớn nhất của: TN 22-B41
Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng nhưng lòng họ thì xa Ta.
Cái sai lầm lớn nhất của bọn Biệt phái và luật sĩ, theo tôi nghĩ, đó là họ đã đảo lộn bậc thang giá trị. Lấy cái phụ làm chính và lấy cái chính làm phụ. Họ tuân giữ những tập tục của cha ông mà quên đi giới luật của Thiên Chúa. Họ bám víu vào những nghi thức bên ngoài mà quên đi tình mến bên trong.
Tôi xin đưa ra những thí dụ cụ thể:
Chẳng hạn, họ thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn mà không rửa tay. Đối với họ đó là một trọng tội không thể nào tha thứ. Người ta kể lại rằng: một luật sĩ tên là Aquiba, thà chết khát trong tù còn hơn là sai lỗi tập quán này. Ông đã lấy nước đổ trên tay dù rằng nước đó rất cần cho ông để được sống.
Từ đó chúng ta thấy họ còn là những con người hẹp hòi và thiển cận, đã quan trọng hóa những điều nhỏ mọn. Bên ngoài họ tắm gội, giặt giũ rất là cẩn thận, nhưng bên trong thì lại chất đầy những gian tham và tội ác, khiến cho Chúa Giêsu phải lên tiếng cảnh cáo:
- Khốn cho các ngươi, hỡi những biệt phái và luật sĩ giả hình, các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài thì đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy giòi bọ và xú khí.
Lần khác, thấy các môn đệ bứt những bông lúa chín ở dọc đường mà ăn trong ngày Sabbat, và họ đã lên tiếng bắt bẻ vì đã vi phạm ngày nghỉ lễ, khiến Chúa phải đặt lại vấn đề:
- Luật lệ vì con người hay con người vì luật lệ. Ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết ?
Lòng nhiệt thành của họ có đấy nhưng lại quá vụ về hình thức. Trong khi chú trọng vào những chi tiết bên ngoài, họ quên mất tình yêu thương bên trong, là điều Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta:
- Các ngươi kinh kệ dài dòng mà lại nuốt trửng gia tài của các bà góa.
Và rồi Chúa đã chỉ trích:
- Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Nhìn vào đời sống, nhiều người trong chúng ta cũng chẳng hơn gì bọn biệt phái. Chúng ta cũng đảo lộn bậc thang giá trị, lấy cái chính làm phụ và lấy cái phụ làm chính. Chúng ta cũng bấu víu vào nghi thức bên ngoài mà quên đi tình mến bên trong. Chúng ta cũng sống một cuộc sống bôi bác giả hình. Có người thì sùng bái ảnh tượng nhưng lại coi thường sự công bằng. Có người ưa đọc kinh dài dòng nhưng lại gian tham và hà khắc với anh em. Họ thật giống với mẫu người mà tục ngữ đã diễn tả:
- Khẩu Phật tâm xà.
- Miệng nam mô bụng bồ dao găm.
Có người thì tang ma cỗ bàn dềnh dang, cho cha mẹ, nhưng khi cha mẹ còn sống, thì lại hắt hủi và đối xử tệ bạc:
- Còn sống thì chẳng cho ăn,
Đến khi đã chết làm văn tế ruồi.
Có người lập gia đình thì chỉ nhắm tới tiền bạc và địa vị, mà quên rằng, tình yêu thương và tinh thần đạo đức mới là đảm bảo vững chắc cho cuộc sống lứa đôi.
Tất cả những sự kiện trên đều do thiếu lòng yêu mến chân thành mà sinh ra. Lòng yêu mến chân thành mới là yếu tố bên trong, mới là nền tảng vững chắc, thiếu nó thì việc làm của chúng ta chỉ là não bạt ầm vang, thiếu nó bản thân chúng ta chỉ là phường bôi bác giả hình. Vì thế, thánh Augustinô đã nói:
- Ama et fac quodvis. Hãy yêu rồi muốn làm gì cũng được.
Có một ông triệu phú chết đi để lại một gia tài to lớn. Ông sinh được một cậu con trai, nhưng cậu con này được gửi đi du học từ bé, nên không một ai biết mặt. Vì thế, tòa án phải nhắn tin trên báo cho cậu trở về.
Đúng ngày hẹn, người ta thấy có ba chàng thanh niên tự nhận là con của nhà triệu phú. Viên chánh án bèn lấy tấm hình của nhà triệu phú, rồi nói với ba chàng thanh niên:
- Ai bắn trúng thì được lãnh nhận gia tài.
Chàng thanh niên thứ nhất giơ súng và bắn, chàng thanh niên thứ hai cũng giơ súng và bắn. Còn chàng thanh niên thứ ba cũng giơ súng, nhưng rồi lại bỏ xuống và nói:
- Mặc dù đây chỉ là một tấm ảnh, nhưng nó gợi nhớ đến ba tôi, tôi không thể bắn.
Nhờ lòng yêu mến chân thành, viên quan tòa đã nhận ra chàng thanh niên thứ ba mới đúng là người con đích thực của nhà triệu phú và trao gia tài cho chàng.
Lòng yêu mến chân thành, được biểu lộ qua những việc làm cụ thể, chứng tỏ chúng ta là những người môn đệ đích thực của Chúa, bằng không, khuôn mặt đạo đức của chúng ta sẽ bị rơi xuống và chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác giả hình.
--------------------------------
TN 22-B42. Phải thờ Chúa trong tâm hồn - N. Quesson
Cha Murray lủi thủi đi trên phố vắng đêm khuya, ngài đang đưa Mình Thánh cho một bệnh nhân: TN 22-B42
Cha Murray lủi thủi đi trên phố vắng đêm khuya, ngài đang đưa Mình Thánh cho một bệnh nhân sắp chết. Tới góc phố, chợt một tên cướp nhảy ra chĩa súng quát: "Đứng lại, đưa tiền đây!". Cha Murray mở áo khoác, lấy ví tiền. Tên cướp ngó thấy ngài mặc áo đen và mang cổ trắng, nhận ra đó là một linh mục, hắn ấp úng nói: "Thưa Cha, con không biết. Con xin lỗi, Cha cất tiền đi". Cha Murray bình tĩnh lại, ngài móc gói thuốc mời hắn một điếu. Nhưng ngài lại ngạc nhiên lần nữa nghe hắn nói: "Cám ơn Cha, bây giờ đang là Mùa Chay, con không hút thuốc".
Có những người coi vịêc giữ luật là quan trọng, còn tình trạng tâm hồn mình là không đáng kể. Họ thấy cần thiết phải giữ chay, còn có đi ăn trộm, ăn cướp cũng chả sao. Đó là một sai lầm mà Chúa Giêsu luôn tìm cách sửa đổi. Có thể coi đây là một trong những khác biệt giữa tâm tình giữ đạo của các biệt phái và nhóm môn đệ sống theo Lời Chúa. Các biệt phái nghiêm chỉnh giữa luật rửa, tắm rửa trước khi dùng bữa. Những kiểu tắm rửa, lau chùi, rửa bình… Không phải vì lý do vệ sinh, nhưng là nghi lễ thanh tẩy. Họ khó chịu, chê trách Chúa và các môn đệ vì không tuân giữ các lề luật đó. Chúa không khắt khe với các môn đệ trong việc giữ luật cũ. Dù nhóm môn đệ rất nhiệt thành giữ đạo, nhưng đôi khi trong nếp sống cũng bị lây nhiễm lấy một vài thói tục mà người biệt phái cho là phóng túng. Chúa Giêsu coi những chuyện này không quan trọng. Chủ yếu là do cõi lòng. Chúa luôn bảo vệ, bênh vực những kẻ mà nhóm bảo thủ cho là người xấu, người tội lỗi, những người thu thuế, các cô gái điếm. Chúa tỏ lòng nhân từ và khoan dung với người nghèo khó, bé mọn.. nhất là khi những người này bị xét đoán gắt gay.
Một lý do khác nữa là Chúa Giêsu nghĩ tới một Giáo hội phổ quát chứ không đóng khung trong dân tộc Do Thái. Những phong tục, tập quán của Do Thái là tốt, nhưng đến lúc phải mở rộng hơn để đón nhận mọi nếp sống, mọi nền văn minh trên toàn thế giới. Vậy phải sàng sảy, chọn lọc, chỉ giữ lại những gì cốt yếu và coi nhẹ những điểm phụ thuộc. Chúa bảo có một số cổ lệ không do Thiên Chúa mà chỉ do con người. Những cổ lệ đó cần đổi thay, điều chỉnh cho sáng tỏ tinh thần tôn kính Thiên Chúa và chu toàn bác ái đối với anh em. Nếu không sẽ chỉ đáng nghe lời quở trách của ngôn sứ Isaia: "Dân này thờ ta ngoài môi miệng mà lòng trí ở xa ta".
Phải làm sao cho sáng tỏ tinh thần, không bị lu mờ che khuất vì nếp sống bên ngoài. Phải làm sao cho mọi người, tín đồ cũng như người chưa tin, thấy điều quan trọng là ở tâm tình, chứ không ở luật lệ, hay lễ nghi thờ tự. Những điều này chỉ có giá trị nếu làm nổi bật tinh thần bên trong, là việc mến Chúa, yêu người. Lạy Chúa, xin thanh tẩy chúng con để chúng con biết tôn trọng tinh thần hơn tục lệ, biết nhìn anh em theo hướng nhìn cởi mở của Chúa. TN 22-B43. Một Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta - Chiara Lubich "Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống" Một Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta như những người bạn của Người! Dân Ít-ra-en hãnh diện: TN 22-B43
Một Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta như những người bạn của Người! Dân Ít-ra-en hãnh diện có được một Thiên Chúa rất gần gũi với họ, Đấng ban cho họ lề luật và những quy tắc rất công minh, như ta có thể đọc thấy trong đoạn này của sách Đệ Nhị Luật là một phần của Cựu Ước hoặc Giao Ước Đầu Tiên (xem Đnl 4,7-8).
Chính vì Lời Chúa có sức lôi cuốn phi thường, nên ta có nguy cơ tin rằng chỉ cần nghe không là đã đủ. Thay vào đó, Lời Chúa phải đem ra thực hành. Đó là điều quan trọng.
Cả trong Tân Ước, tông đồ Gia-cô-bê cũng đã cảnh báo các Ki-tô hữu tiên khởi rằng: "Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình" (Gc 1,22). Mô-sê cũng dạy như vậy khi ông tuyên đọc những lời này với người Ít-ra-en: "Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống"
Vậy ta hãy lắng nghe và sống Lời Chúa.
Hơn nữa, chính Đức Giê-su hiện diện trong lời của Người; những lời đó là chính Đức Giê-su. Những lời của Người là vĩnh cửu, và do đó chúng thích hợp với mọi thời đại. Chúng phổ quát, có giá trị đối với mọi người, vượt qua mọi chủng tộc và mọi nền văn hóa. Chúng không đơn thuần chỉ là những lời khuyên nhủ, những đề nghị hoặc lệnh truyền. Lời của Người chứa đựng và ban truyền sự sống.
Cuối Bài Giảng Trên Núi, Đức Giê-su để lại cho ta một dụ ngôn nổi tiếng (xem Mt 7,24-27). Người so sánh những ai hồ hởi phấn khởi khi nghe Lời của Người nhưng rồi không thực hành trong cuộc sống với ngôi nhà xây trên cát. Khi gió mưa ập đến - nghĩa là những đề nghị, tư tưởng khác dễ dãi hơn, có sức cuốn hút và lừa dối bằng thứ ánh sáng lấp lánh chóng qua - thì những người này gục ngã rất đáng thương bởi vì sứ điệp Phúc Âm đã không trở thành sự sống nơi họ.
Đức Giê-su sau đó so sánh những ai biết đem Lời của Người ra thực hành với ngôi nhà xây trên đá: thử thách, cám dỗ, nghi nan, và hoang mang có thể xảy ra, nhưng những người này vẫn vững vàng tiến bước trên con đường Phúc Âm. Họ tiếp tục tin vào Lời Chúa bởi vì họ đã cảm nghiệm được những lời ấy chân thật ra sao.
Việc sống Lời Chúa sẽ đưa lại một cuộc cách mạng thực sự trong đời của ta và trong đời của những ai mà ta chia sẻ cuộc sống Phúc Âm này.
Phải đem những lời của Đức Giê-su ra thực hành với lòng đơn sơ của trẻ nhỏ! Người dạy ta: "Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại" (Lc 6,38). Biết bao lần ta đã cảm nghiệm rằng càng cho đi thì càng nhận được! Chưa bao giờ ta bị trắng tay, bởi vì mỗi lần ta cho một người thiếu thốn thì ta lại nhận được gấp trăm. Thế còn khi ta chẳâng có gì để cho đi thì sao? Đức Giê-su đã chẳng nói rằng: "Anh em cứ xin thì sẽ được" (Mt 7,7) hay sao? Ta đã xin và ngôi nhà của ta lại đầy mọi thứ của cải mà Thiên Chúa gửi đến để ta lại có thể cho đi.
Khi bị đè bẹp bởi nỗi lo âu về một hoàn cảnh vượt qúa sức mình hoặc khi nỗi lo lắng làm ta bị tê liệt, hãy nhớ lại những lời của Đức Giê-su: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi" (Mt 11,28), và khi đã quẳng cho Người mọi gánh lo, ta sẽ thấy bình an trở lại, và cùng với nó là giải pháp cho các vấn đề của ta.
Lời Chúa làm tiêu tan cái tôi của ta, khử trừ tính ích kỷ của ta, và thay thế cách ta nghĩ tưởng, ước muốn, hành động bằng chính tâm tư và hành động của Đức Giê-su. Bằng cách sống Lời Chúa, thì một lối lý luận theo Thiên Chúa và một tâm thức Phúc Âm sẽ hình thành và ta sẽ nhìn mọi sự bằng đôi mắt mới. Các mối quan hệ của ta cũng thay đổi: bằng cách sống Lời Chúa và chia sẻ những kinh nghiệm đó với nhau, những người trước đó không biết nhau nay trở nên anh chị em với nhau, họ trở thành một dân tộc, một Hội Thánh sống động. Chỉ một Lời Phúc Âm nhưng được nhiều người đem ra thực hành thì vẫn có thể làm thay đổi cả chiều hướng của lịch sử.
Lời Chúa khi đem ra thực hành sẽ làm ra những phép lạ. Như thế trong tâm hồn ta sẽ tràn ngập một niềm tin tưởng mới, tin tưởng vô hạn vào tình yêu của Chúa Cha, Đấng can thiệp và trợ giúp con cái của Người hàng ngày. Lời của Người là chân thực; nếu ta sống những lời này, thì về phần Người, Người cũng thực hiện chúng, theo đúng từng câu chữ, và ban cho ta điều Người hứa: được gấp trăm ở đời này, cuộc sống hoàn hảo và niềm vui thiên đàng vô tận.
--------------------------------
TN 22-B44. THÁNH CHỈ CỦA THIÊN CHÚA
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN NĂM B (03.09.2006)
I. D”N VÀO PHỤNG VỤ
Một trong những điều quan trọng trong cuộc sống đời thường cũng như trong đời sống đức tin là: TN 22-B44
Một trong những điều quan trọng trong cuộc sống đời thường cũng như trong đời sống đức tin là phân biệt được điều nào là chân thật, điều nào là giả trá; điều nào là chính yếu, điều nào là phụ thuộc.
Hiển nhiên chỉ những điều chân thật và chính yếu mới đáng được trân trọng và chọn lựa.
Những điều là phụ thuộc thì chẳng đáng quan tâm. Còn những điều giả trá thì phải bị loại trừ, lánh xa.
Đó cũng là Thánh Chỉ hay Mệnh Lệnh hay Giáo Huấn của Thiên Chúa trong ba Bài Sách Thánh của Phụng Vụ hôm nay.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Đnl 4,1-2.6-8: Hãy nghe những Thánh Chỉ của Thiên Chúa.
1 Ông Mô-sê nói với dân chúng rằng: giờ đây, hỡi Ít-ra-en, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em. 2 Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em. 6 Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh. Khi được nghe tất cả những thánh chỉ đó, họ sẽ nói: "Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông minh! " 7 Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? 8 Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?
(2) Bài đọc 2: Gc 1,17-18.21b-22.27: Đón nhận Lời và đem ra thực hành.
17 Anh em thân mến, mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú; nơi Người không hề có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng. 18 Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người.
21 Vì vậy, anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. 22 Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. 27 Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 7,1-8a.14-15.21-23: Tranh luận về những truyền thống người Pha-ri-sêu (Mt 15: 1-9).
1 Khi ấy, những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những người từ Giê-ru-sa-lem đến. 2 Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. 3 Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do Thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; 4 thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. 5 Vậy, người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giê-su: "Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa? " 6 Người trả lời họ: "Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. 7 Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. 8 Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm."
14 Sau đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo: "Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: 15 Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.
21 Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, 22 ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. 23 Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1: Đnl 4,1-2.6-8: Là những lời căn dặn ân cần của Ông Mô-sê nói với dân riêng của Thiên Chúa: Dân Chúa thật hạnh phúc vì họ có thánh chỉ của Thiên Chúa hướng dẫn, nên được sống trong chân lý và bình an và được coi là “khôn ngoan và thông minh”.
(2) Bài đọc 2: Gc 1,17-18.21b-22.27: Là những lời khuyên của Thánh Gia-côbê Tông đồ, gồm hai ý:
(1o) Mọi ơn lành và phúc lộc, nhất là Lời chân lý, đều do Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng cũng là Cha yêu thương ban cho chúng ta;
(2o) Hãy đón nhận Lời có sức cứu độ của Thiên Chúa và đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe xuông mà lừa dối chính mình.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 7,1-8a.14-15.21-23: Là tường thuật của Thánh Mác-cô về một trong những cuộc “đụng độ” giữa Đức Giê-su và các Pha-ri-sêu và kinh sư, xoay quanh vấn đề người ta phải tuân giữ điều răn của Thiên Chúa hay truyền thống của cha ông cũng chỉ là phàm nhân?
Cơ hội thuận lợi là một số Pha-ri-sêu và kinh sư bắt gặp vài môn đệ của Đức Giê-su không rửa tay trước khi ăn. Rửa tay trước khi ăn chỉ là một tập tục, một truyền thống mà một số người Do Thái giữ gìn rất cặn kẽ, chứ không phải là giới luật của tôn giáo, trong khi họ lại xem thường giới răn của Thiên Chúa.
Động cơ của người Pha-ri-sêu và kinh sư là tìm dịp, tìm cách bắt bẻ Đức Giê-su và các môn đệ Người. Nguyên nhân sâu xa là những người ấy thích sống giả hình và nuôi ảo tưởng cho mình là đạo đức, thánh thiện mà coi khinh, coi thường và kết án người khác. Chính thái độ và cách sống giả trá này của các kinh sư, luật sĩ đã bị Đức Giê-su vạch trần và lên án.
Theo nhận định lành mạnh của mọi người, cũng là của chính Đức Giê-su, thì cái cần phải thanh tẩy là tâm hồn, là tư tưởng, là các suy nghĩ của con người chứ không phải là bàn tay hay chén bát. Bởi vì một khi tâm hồn con người bất chính, tư tưởng con người tội lỗi, suy nghĩ con người lầm lạc thì con người sẽ gây đại họa, không những cho chính bản thân mình mà còn cho cả gia đình và cộng đồng xã hội nữa.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Rõ ràng sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy sống theo Thánh Chỉ hay Mệnh Lệnh hay Giáo Huấn của Thiên Chúa thì sẽ được hạnh phúc, vì:
* Thiên Chúa là Đấng Tốt Lành Vô Cùng Vô Tận nên Thiên Chúa chỉ có thể làm những điều tốt lành cho chúng ta mà thôi.
* Thánh Chỉ hay Mệnh Lệnh hay Giáo Huấn hay Giới Răn gì của Thiên Chúa cũng chỉ nhằm giúp chúng ta có được hạnh phúc đích thật mà thôi.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY Muốn sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay thì chúng ta hãy kiểm điểm xem:
* Chúng ta có xem trọng việc tìm kiếm và thực thi Thánh Chỉ của Thiên Chúa không? xem trọng như thế nào?
* Cộng đoàn, Giáo xứ chúng ta có xem trọng việc tìm kiếm và thực thi Mệnh Lệnh của Thiên Chúa không? xem trọng như thế nào?
IV. CẦU NGUYỆN Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng Toàn Chân, Toàn Thiện và Toàn Mỹ, Xin Chúa Cha ban cho chúng con một tâm hồn nhạy bén trước Thánh Chỉ, Mệnh Lệnh của Chúa, vì chúng con biết Cha truyền dạy những điều ấy là chỉ vì lợi ích đích thực và trường cửu của chúng con mà thôi. Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa, Chúa đến trần gian để dạy chúng con biết đâu là Thánh Chỉ của Thiên Chúa Cha và cũng để Chúa giúp chúng con sống theo Thánh Chỉ ấy. Xin Chúa Con giúp chúng con trong việc hệ trọng này, để chúng con được hạnh phúc bất diệt muôn đời. Lạy Chúa Thánh Thần là Ánh Sáng và Sức Mạnh của Thiên Chúa, làm sao chúng con có thể nhận ra Thánh Chỉ của Thiên Chúa và có thể sống theo Thánh Chỉ ấy nếu như Chúa không trợ giúp chúng một cách mạnh mẽ. Xin Chúa Thánh Thần ban ánh sáng và sức mạnh thần linh của Chúa cho chúng con để chnúg con thực hành Lời Thiên Chúa truyền dạy. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Kansas City (MO/USA) ngày 21.08.2006 Lễ Thánh PIO X Giáo Hoàng
--------------------------------
TN 22-B45. CẦN CÓ MỘT TẤM LÒNG...
Thánh với phàm, thiêng với tục là những phạm trù tôn giáo mà mọi thời và mọi nơi đều biết: TN 22-B45
Thánh với phàm, thiêng với tục là những phạm trù tôn giáo mà mọi thời và mọi nơi đều biết đến. Cái thánh thiêng là cái cao cả siêu việt, khác lạ, đáng kính và nhiều khi đáng sợ. Cái phàm tục là cái thông thường, cái tầm thường, nhiều khi còn có thể đáng khinh và bị coi là ô uế dơ dáy.
Trong các tôn giáo sơ khai, cái thánh thiêng hiện diện ở khắp nơi trong mọi sự từ núi cao đến sông dài, từ đền thờ tới gốc đa, gốc đề, từ tượng thần đến cái bình vôi, từ cá sấu đến các tinh tú. Trái lại, ngày nay trong thế giới tục hoá, mọi sự đều được giải thiêng, chẳng có gì thánh thiêng ngoài khoa học thực nghiệm duy lý với các định luật, các công thức.
Trong tiếng Do Thái,Thánh có nghĩa là tách biệt. Cái linh thiêng là cái gì tách biệt khỏi cái thường ngày, tách khỏi cái tầm thường thông tục.Cái thánh thiêng là cái gì khác lạ cao xa, ở bên ngoài, ở bên kia, ở bên trên cái thông thường. Do đó Thiên Chúa được gọi là Đấng Thánh, bởi vì Người cao cả, siêu việt tuyệt đối khác lạ. Người là Đấng siêu việt. Đấng cao cả, linh thiêng phải ngự ở những nơi linh thiêng cao cả. Đó là những ngọn núi Thánh, những Đền Thờ, những nơi tách biệt khỏi chốn phàm trần. Những người được tuyển chọn để phục vụ Đấng Thánh cũng phải là những người tách biệt khỏi người phàm. Hàng Tư Tế trong dân Do Thái chỉ được chọn từ chi tộc Lê-vi. Họ phải là những người không tỳ vết, không tật nguyền, phải giữ những luật lệ khắt khe hơn người thường.
Tất cả những gì dành riêng cho Đấng Thánh, những gì được coi như thuộc về Người, đều là những cái thánh: núi Thánh, đền Thánh, nơi Thánh, ngày Thánh, đồ vật Thánh. Phạm đến những cái đó là phạm đến chính Đấng Thánh.
Quan niệm Linh Thánh như vậy muốn tách biệt cái thánh thiêng ra khỏi cái phàm tục. Từ đó người ta đẩy xa Đấng Thánh ra khỏi cuộc đời và ngày càng đóng khung Người vào trong phạm vi của núi Thánh, của Đền Thờ, của nơi Thánh, nơi cực Thánh. Không gian của Người ngày càng bị thu hẹp lại.
Dân Ít-ra-en được gọi là Dân Thánh, dân riêng của Chúa, thuộc về Chúa. Họ tự coi mình là sở hữu Thiên Chúa: Người là của riêng họ, thuộc về họ. Dân Ít-ra-en chờ đợi một vị Thiên Sai ngự đến trong cung Thánh đền thiêng.
Trong một thế giới mà cái thánh thiêng và cái phàm tục được xác định rạch ròi tỉ mỉ như thế. Chúng ta mới thấy việc Đức Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Thánh làm người, một người phàm ở giữa những người phàm gặp phải sự chống đối quyết liệt.
Ngay từ giây phút đầu thai, Đức Giê-su đã không đến trong Đền Thờ mà lại đến trong căn nhà nhỏ bé ở Na-da-rét. Người đầu thai trong lòng một thôn nữ vô danh đối với người Do Thái. Rồi khi chào đời, Người đã lấy chuồng bò làm nhà ở, lấy máng cỏ làm nôi, lấy những kẻ mục đồng vốn bị người Do Thái coi là uế tạp làm bầu bạn.Trong suốt cuộc đời, Đức Giê-su sống như một người tầm thường giữa những người nghèo khổ, đồng hành ăn uống với những người bị coi là tội lỗi, thâu nhận người thu thuế làm môn đệ.
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể về một sự kiện trong chuỗi những chống đối quyết liệt đó. Các Pha-ri-sêu và Kinh Sư trách các môn đệ Đức Giê-su không rửa tay trước khi ăn. Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do Thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pha-ri-sêu và kinh sư nói riêng và dân Do Thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ triệt để, chứng tỏ mình thanh sạch trước mặt mọi người. Vì thế, họ chất vấn Đức Giê-su: Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay mà dùng bữa ?
Đức Giê-su đã cho biết thế nào là sạch thế nào là dơ, thế nào là thánh thiêng, thế nào là phàm tục. Của ăn được nấu chín là sạch. Cái làm cho dơ đó là lòng người. Cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, tốt hay xấu, sạch hay dơ.
Có câu chuyện trong sách Tông Đồ Công Vụ (10, 11 – 16). Vào trước giờ ăn trưa, Phê-rô cầu nguyện và xuất thần: “Ông thấy trời mở ra và một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, đang được thả xuống, trong đó có mọi giống vật bốn chân, rắn rết và mọi thứ chim trời. Có tiếng phán bảo ông: Phê-rô, đứng dậy làm thịt mà ăn ! Phê-rô thưa: lạy Chúa, không thể được, vì không bao giờ con ăn những gì ô uế và không thanh sạch. Có tiếng phán với ông lần thứ hai: những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch, ngươi đừng gọi là ô uế. Việc đó xảy đến ba lần, và lập tức vật ấy được đưa lên Trời”. Như vậy những gì Thiên Chúa sáng tạo đều là sạch, con người không thể coi là nhơ bẩn.
Đức Giê-su bác bỏ hoàn toàn quan niệm về sạch dơ của người Do Thái. Đối với Người, không có gì bên ngoài lại làm cho con người ra dơ trước mặt Thiên Chúa. Cái gì dơ, cái gì tội lỗi chính là từ trong lòng người mà phát xuất ra. Đó là: tà dâm, trộm cắp giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác xảo trá, trác táng, ganh tị, kêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người ra ô uế.
Người đời đã phải than thở rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho tường”; “Lòng người thăm thẳm mù khơi, không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ có câu: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm” để diễn tả hạng người mang mặt nạ che dấu lòng dạ ác độc bên trong, loại người mà “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Chính cõi lòng hay thế giới nội tâm mới làm cho con người bi đát. Vì chỉ có con người mới có giả hình, lừa đảo, gian dối, mưu mô, thủ đoạn. Vì thế Đức Giê-su mới khẳng định “Không phải những gì từ bên ngoài vào làm cho người ta ra ô uế, nhưng từ trong lòng mới xuất phát những cái làm cho người ta ra ô uế”. Đức Giê-su nhấn mạnh từ sự thanh tẩy bên trong. Thế giới nội tâm làm cho con người nên cao cả nhưng cũng làm nên sự bi đát. Cao cả và bi đát đan xen như ánh sáng và bóng tối.
Đức Giê-su chẳng phản đối chuyện rửa ray, Người chỉ phê bình thói hình thức bên ngoài, điều quan trọng là rửa cõi lòng. Cái ô uế thực sự đáng sợ không đến từ việc đụng chạm hay ăn uống mà nó lại nằm trong lòng người. Nó không từ ngoài vào mà từ bên trong ra.
Con người sống ở đời cần có một tấm lòng, một trái tim yêu thương chân thành. Thiên Chúa đã ra lệnh truyền cho con người: “Hãy tạo cho mình một trái tim mới” ( Ed 18, 31 ). Người còn phán: “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi, Ta sẽ ban cho các ngươi môt trái tim mới” ( Ed 36, 25 ). Một trái tim mới biết yêu thương hay một tấm lòng để người ta sống tốt đẹp với nhau.
Đối với Đức Giê-su, yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bên ngoài. Ý hướng bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có giá trị hay không. Đức Giê-su luôn sống tình thương với mọi người, luôn “chạnh lòng thương”. Tình thương chính là sự thánh thiện. Tình thương là thanh sạch. Đấng Thánh hôm nay có tên gọi là Tình Thương. Tình thương là chia sẻ, là hiệp nhất. Sự thánh thiện của Đức Giê-su luôn rộng mở lan toả hương thơm tình thương, thanh sạch.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có viết trong cuốn “Giọt máu” một câu rất sâu sắc: “Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa. Đấy là chí thánh”. Tác giả hiểu ý nghĩa của từ chí thánh theo đúng những gì là phàm tục, thế gian là cõi hồng trần bụi bặm. Cái chí thánh chính là dìm mình, hoà vào trong bùn lầy, trong tội lỗi để làm cho từ vũng bùn lầy, từ vực thẳm tội lỗi ấy nở hoa, rực lên sự thánh thiện.
Tình Thương của Chúa Giê-su là tình thương cúu thế, muốn thanh tẩy con người tội lỗi, rửa sạch tâm hồn và trao ban Sự Sống mới.
Trong đời sống tâm linh, người Ki-tô hữu cần phải tu dưỡng cái tâm, phải có tâm ngay lành, luôn tôn trọng sự công bằng, yêu thương mọi người. Cần có một tấm lòng, tâm tốt thì mọi việc làm sẽ đẹp lòng Chúa.
Người Ki-tô hữu mỗi ngày đến nhà thờ dự Tiệc Thánh Thể. Đưa tay đón nhận Bánh Thánh là đón nhận Tình Thương và sự thanh sạch của Chúa. Bàn tay đón nhận Bánh Thánh cũng là bàn tay bác ái yêu thương góp phần thánh hoá trần gian.
Lm. Giu-se NGUYỄN H”U AN, Giáo Phận Phan Thiết
--------------------------------
TN 22-B46. MỘT CỬA
Từ mấy năm nay, nhà nước và các cơ quan hành chính Việt Nam không ngừng kêu gọi cải cách: TN 22-B46
Từ mấy năm nay, nhà nước và các cơ quan hành chính Việt Nam không ngừng kêu gọi cải cách hành chính, chấm dứt nạn hành dân, khởi đầu với cơ chế ‘một cửa’: mọi đơn từ đều nộp và nhận lại một nơi, không còn cảnh người chỉ nơi này, kẻ chạy nơi kia, mất hằng bao thời giờ và tạo cớ cho vô số quan chức lớn nhỏ ăn theo, chỉ để được cấp hoặc chứng nhận một loại giấy tờ. Lý thuyết là thế và ước mơ là thế, còn thực hiện ra sao và kết quả thế nào, thì còn phải chờ đợi!
Trong “tư tưởng đạo gia”, phần “Họa Phúc – Sinh Tử”, có viết: ‘Họa và Phúc ra vào cùng một cửa; Lợi và Hại là láng giềng của nhau’ ( Họa phúc dữ đồng môn, lợi hại vi lân ). Người Trung Hoa còn có câu châm ngôn: “Bệnh tật từ miệng vào, tai họa từ miệng ra”. Ngày nay hầu như chẳng có hôm nào mà các đài báo không đăng đồng thời những tin tức, số liệu về các bệnh tật phát xuất từ những thức ăn uống và các cách ăn uống vô điều độ của con người, và kèm theo là những quảng cáo các thuốc chữa những thứ bệnh do thói quen tham ăn tham uống sa đà vô độ gây nên: chứng béo phì, các loại ung thư, cao huyết áp, tiểu đường...
Thứ thuốc cần thiết nhất, mà chẳng tốn kém tiền mua, ấy là sự điều độ, tiết chế, bớt thói hưởng thụ, thì không mấy ai muốn thực hành. Không có gì vô lý và buồn cười cho bằng một người nốc cho lắm bia hoặc ních cho nhiều chất béo chất ngọt vào, để rồi hàng ngày lại đi tập giảm bụng, giảm béo, giảm cân ! Nhưng điều mà “tư tưởng đạo gia” muốn đề cập thì ai cũng biết là cao sâu hơn: mỗi người chỉ có “một cửa” để diễn đạt những gì trong tương quan hằng ngày với tha nhân. Cái hay, cái dở cũng phát xuất từ đó. Rất nhiều ca dao, châm ngôn dạy khuyên giữ gìn đạo đức của cái miệng, tỷ như: Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm; khẩu Phật tâm xà ( hay ngược lại ); lời nói không mất tiền mua; miệng nhà quan có gang có thép; uốn lưỡi bảy lần trước khi nói; Lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo v.v...
”Cửa miệng” do vậy, chính là dụng cụ để diễn tả quan điểm, suy nghĩ của con người và từ chỗ là một dụng cụ, “cửa miệng” có thể xây dựng hoà bình, hàn gắn những bất hoà tranh chấp, hiểu lầm, đem lại an ủi cho người đau khổ, nhưng cũng dễ dàng biến thành vũ khí lắm khi chết người ( giết người không dao ) khi nó được vận dụng với những hậu ý khôn lường, một cách tinh vi khéo léo và xảo quyệt, hiểm ác.
Và hôm nay, từ cái “một cửa” này, Chúa Giê-su cũng giảng giải việc “xuất nhập khẩu” hết sức bình dân, nhưng đã nói lên được cốt lõi của tinh thần sống đạo, mà mỗi Ki-tô hữu phải có, để tránh được những thói giả hình. Những người Pha-ri-sêu và kinh sư hẳn đã bàn bạc với nhau, không để cho “mầm mống Giáo Lý mới” phát triển lan rộng, vì những lời giảng dạy kèm phép lạ của Chúa Giê-su đã vang động tới Giê-ru-sa-lem. Đây là đoàn thanh tra đầu tiên trong những nhóm sẽ được cắt cử ngày đêm giám sát nhất cử nhất động của Chúa Giê-su.
Phát súng đầu tiên để khai mào trận chiến chắc chắn được họ theo dõi, lựa chọn và cân nhắc kỹ càng trước khi đưa ra: nói có sách, mách có chứng ! Các Pha-ri-sêu và Kinh Sư hí hửng vì cho rằng đã lập được công đầu. Họ đánh giá sai về Chúa Giê-su và cái “sai một li, đi một dặm” này sẽ dẫn đến hận thù, gian ác, làm mê muội lòng trí của họ. Rửa tay không thể xem là một truyền thống máy móc, mà thực chất là vệ sinh khi ăn uống, chứ không chỉ có trước bữa ăn.
Tập tục truyền thống không bao giờ có thể trở thành một giới luật tinh thần và ngược lại, không bao giờ được phép coi một giới luật chỉ là hoặc ngang hàng với một tập tục truyền thống. Sự lẫn lộn đó đã khiến người Do Thái – thông qua sự chỉ dạy sai lầm của các “thủ lãnh trong dân” – ngày càng chuộng các hình thức giữ luật bề ngoài, mà quên đi lòng tôn thờ phải có đối với Thiên Chúa và lòng yêu người phải có đối với tha nhân. Một lăng kính méo mó được sử dụng và mọi sự đều biến dạng theo sở thích của họ.
Hình ảnh nhân vật rửa tay hay nhất trong Tin Mừng, vẫn là Phi-la-tô. Cái kết cục bi thảm nhất của việc rửa tay theo truyền thống, là sự táng tận lương tâm, mất hết đạo làm người, mất hết “lề luật và tiên tri”, đến mức bình thản và đắc thắng nhúng tay vào máu người vô tội. Khi Thiên Chúa chỉ còn là hình thức và tệ hại hơn nữa, được sử dụng như chiêu bài để củng cố thế lực đen tốI và danh lợi, khi con ngườI chỉ còn giá trị lợi dụng, bị coi khinh, thì sự xấu xa, ác độc, vô đạo là con đường tất yếu, từ xuất phát điểm cho tớI đích đến!
Thấu rõ tâm can đen tối của họ, Chúa Giê-su cho họ thấy điều gì mới thực sự làm con người ra ô uế. Đó chính là những gì phát xuất từ bên trong, mà Chúa Giê-su đã liệt kê mười một mối tội, trong đó năm tội bằng hành động ( tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, trác táng ); năm tội do lòng trí mê đắm, ấp ủ và ước ao ( độc ác, xảo trá, ganh tỵ, kiêu ngạo, ngông cuồng ) và tội nối kết và nguồn gốc của hai loại tội trên, ấy là tham lam. Tham lam là cái ước ao, thèm muốn chiếm hữu cho mình những cái không thuộc về mình, hoặc không thể là của mình, mà nơi con người thường gắn liền với hai “vế”, hai thực tại vốn tự nó không thể thiếu được trong đời sống con người: tiền và tình. Tham lam chính là cái nhìn lệch lạc, ích kỷ dẫn đến hành động xấu xa, dối gạt, thậm chí là hủy diệt mạng sống người khác để thoả mãn bản thân. Và nói theo ngôn ngữ thương mại, đó là dạng “xuất khẩu” từ tư tưởng chuyển qua hành động.
Bài ca hôm nay con muốn hát cho Chúa nghe, không liên can gì nhiều đến bài học thấm thía, mà Chúa nói không úp mở chút nào với các Pha-ri-sêu và kinh sư. Bài ca này là việc từ cuối tháng 8 năm 1999, hai Giáo Hội Việt Nam và Hoa Kỳ chọn Chúa Nhật hôm nay – Chuá Nhật XXII thường niên hằng năm – làm ngày kết nghĩa. Giáo Hội Hoa Kỳ, một nền văn minh siêu cường, chọn Mẹ La Vang làm Mẹ Nuôi. Cái Tâm không sáng, sự hiểu biết cảm thông không chân thành, thì sẽ không thể có những suy nghĩ và hành động như thế.
Những gì hai quốc gia đã làm sau những cái bắt tay, ôm hôn, trao trả thi hài... có thể nói, chỉ phát xuất từ những lợi ích chính trị và kinh tế. Những gì hai Giáo Hội đã làm, phát xuất từ niềm tin nơi “một Đức Chúa, một phép rửa, một Thiên Chúa và Cha” và sự hiệp thông với cùng một Giáo Hội Hoàn Vũ, nhưng ý nghĩa cao sâu và gương sáng rực rỡ là lòng yêu mến chân thành, để nhìn vào sự liên kết của hai Giáo Hội Hoa Kỳ và Việt Nam, hai đất nước, hai dân tộc, hai chính phủ sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Đức Ki-tô và lạy Chúa Giê-su, vị nhạc sĩ gợi hứng và thăng hoa bài tình ca này, không ai khác ngoài Mẹ Ma-ri-a La Vang.
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Tình Ca Cho Người Được Yêu 12
--------------------------------
TN 22-B47. Nghi thức bên ngoài
Có một thầy tiến sĩ luật Do Thái bị cầm tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm kéo: TN 22-B47
Có một thầy tiến sĩ luật Do Thái bị cầm tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua và ông ta yếu dần. Cuối cùng người ta phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng: cơ thể ông ta bị thiếu nước. Thế nhưng đám lính canh lại thắc mắc không hiểu vì sao vị Rabbi này lại có thể thiếu nước, vì khẩu phần nước tương đối đầy đủ.
Và thế là họ kín đáo quan sát ông ta. Cuối cùng họ đã khám phá ra lý do. Sở dĩ cơ thể ông ta thiếu nước vì ông ta đã dùng phần lớn số nước được cung cấp để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và dùng bữa.
Câu chuyện trên cho thấy các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã bực bội như thế nào, khi các môn đệ Chúa ăn uống mà chẳng chịu rửa tay theo đúng tập tục tiền nhân.
Ngược dòng thời gian chúng ta thấy người Do Thái có hai thứ luật. Luật thành văn và luật truyền khẩu. Luật thành văn vừa cổ lại vừa quan trọng vì nó căn cứ trên những sách của Cựu ước và đôi khi còn được gọi là luật Maisen. Một số luật này mang tính cách cụ thể và đặc thù, còn lại thì rất chung chung giống như những kiểu mẫu phải theo hơn là lề luật. Trong một thời gian dài, người Do Thái bằng lòng với những kiểu mẫu này và họ áp dụng vào đời sống vì thấy nó thích hợp.
Tuy nhiên, tới thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, một nhóm chuyên nghiên cứu về luật đã tạo được một ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân. Họ thấy những điều luật tổng quát quá sơ sài, mơ hồ cần phải được soạn thảo lại. Từ đó phát sinh ra bộ luật thứ hai, gồm những luật truyền khẩu. Rất nhiều người Do Thái muốn bắt chước các tư tế về sự thánh thiện bên ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn: theo luật thành văn thì mọi tư tế đều phải rửa tay trước khi vào nơi thánh trong đền thờ, mục đích là tẩy rửa đi những gì ô uế để xứng đáng thờ phượng Chúa. Dần dần dân chúng cũng bắt chước rửa tay trước khi cầu nguyện và khi dùng bữa.
Vào thời Chúa Giêsu, họ tuân giữ cặn kẽ thứ luật truyền khẩu này, để rồi tôn giáo dần dần thái hóa và biến thành một hoạt động đơn thuần chỉ là chu toàn những nghi thức bên ngoài. Theo họ, tuân giữ nghi thức bên ngoài là đẹp lòng Chúa, bằng không thì phạm tội và những kẻ tuân giữ được coi là người đạo đức. Họ có thể căm ghét kẻ khác nhưng lại chẳng hề áy náy bao lâu còn tuân giữ việc rửa tay và những nghi thức khác về sự thanh tẩy.
Họ giống như một người Hồi giáo đang phi ngựa rượt theo kẻ thù, chợt nghe chuông báo giờ cầu nguyện. Thế là anh ta xuống ngựa, quì gối cầu nguyện theo luật định, rồi sau đó lên ngựa tiếp tục đuổi theo kẻ thù.
Từ đó chúng ta đi tới kết luận: đừng đồng hóa tôn giáo với việc chu toàn những hành vi bên ngoài như đi lễ, đọc kinh, xưng tội… Tự chúng chưa bảo đảm rằng chúng ta đã thánh thiện đâu. Lý do rất đơn giản là chúng ta có thể làm tất cả những việc này vì lý do không mấy ngay thẳng, hay làm không phải vì yêu thương. Điều quan trọng không phải là việc chúng ta làm mà chính là tình yêu trong trái tim thúc đẩy chúng ta làm việc đó. Nếu trái tim chất đầy kiêu căng thì mọi nghi thức bên ngoài trước mặt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta trở nên thánh thiện trước mặt Chúa. Bởi vì như lời Chúa đã quở trách người Do Thái: dân này thờ kính Ta ngoài môi ngoài miệng, còn lòng họ thì lại xa Ta.
Tóm lại, điều cốt lõi trong tôn giáo không phải là làm việc này việc kia, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Hành động của chúng ta phải được xuất phát từ con tim, từ tình yêu: Mến Chúa và yêu người, thì mới thực sự có giá trị.
--------------------------------
TN 22-B48. Chưa hết biệt phái
Đoạn Phúc âm của thánh Marcô cho thấy sự tuân giữ lề luật đã đưa những người Biệt phái rẽ: TN 22-B48
Đoạn Phúc âm của thánh Marcô cho thấy sự tuân giữ lề luật đã đưa những người Biệt phái rẽ vào một khuynh hướng rút cục là giả đạo đức như thế nào. Trách cứ họ theo lối vơ đũa cả nắm là bất công, là quá đáng nếu so sánh với sự quở mắng của Đức Giêsu khi Người xét đoán họ. Dù sao họ cũng từng đóng vai bảo tồn lòng trung thành với Thiên Chúa trong những thời buổi khó khăn. Chúng ta nhắc lại rằng giới Biệt phái đã cung cấp cho nhóm môn đệ Chúa mấy người, đáng kể là Nicôđêmô và thánh Phaolô. Nhưng bất hạnh thay cho đại đa số Biệt phái, nhất là cho tầng lớp Biệt phái trí thức, họ quá chú trọng đến việc tuân giữ Lề luật về phương diện vật chất và giải nghĩa Lề luật về phương diện vật chất và giải nghĩa Lề luật theo quan niệm con người – hơn là tôn trọng tình thần Lề luật, đề cao việc thờ phụng và tình thương. Chúa Giêsu không chấp nhận lối giữ đạo bề ngoài theo tập tục thế gian, vì nó không phù hợp với những đòi hỏi của một tâm hướng về thờ phụng Thiên Chúa, thật lòng yêu tha nhân và thành tâm gắn bó với Lời Chúa. Cầu nguyện, cử chỉ, cách đứng ngồi, tất cả phải biểu thị một thái độ nội tâm thành khấn. Trái lại là giả hình.
Đàng khác, Chúa Giêsu lên án kẻ Biệt phái nào xem ý kiến những luật sĩ giải thích Kinh thánh trọng ngang với Lề luật. Thậm chí, Người không chịu được thái độ tự kiêu tự mãn của họ. Thật vậy, họ tự cho mình là am tường Lề luật, rồi sinh ra kinh miệt kẻ tầm thường, kẻ hèn kém. Ta có thể trên quan điểm này tự đặt vài câu hỏi về xã hội ngày nay. Trong một số hội đồng, ủy ban nào đó, trong phần lớn giới báo chí chẳng có những ký lục và Biệt phái rất tự tín, rất vững tâm khi họ giải thích Phúc âm, muốn độc quyền hướng dẫn dư luận sao? Ngày nay đang có 1 sự uốn nắn đích thật đó là sự biệt phái tái xuất hiện dưới bộ áo mới, sự giả nhân giả nghĩa mà Chúa Giêsu đã nghiêm khắc lên án.
1) Do đâu mà có những khuynh hướng biệt phái bị Chúa tố giác?
Các ông đã gạt giới luật của Thiên Chúa sang một bên, để cố thủ lấy tập tục. Biệt phái phát sinh từ một tham vọng của kẻ vô tình hay hữu ý, muốn tự đặt ra lề luật cho mình. Khi nào con người vi phạm luật Chúa, y trở thành một kẻ tội lỗi giản dị thế thôi. Khi nào con người tuyên bố chấp nhận luật Phúc âm nhưng lại bẻ cong Phúc âm theo lối suy tưởng của y, lúc đó y trở thành Biệt phái. Tính biệt phái đặt cơ sở trên một vận dụng trí thức giải nghĩa Phúc âm qua bảng giải mật mã của 1 ý thức hệ con người. Kitô hữu biệt phái là kẻ tự đặt mình làm nhà lập pháp cho mình, bằng cách mượn những từ ngữ Phúc âm. Y đặt lấy một pháp điển mượm ý của một hệ ý thức con người, dù cho hệ này đại lượng đến mức nào đi nữa. Từ một thứ phúc âm trống rỗng vì bị lấy đi Đức Kitô sống động, và thật, y trích ra những từ, những câu, những đoạn giảng huấn, để cố che đậy một sự giả hình đích thật.
2) Tính biệt phái là một sự uế tạp cực độ.
Sau khi lên án những kẻ biệt phái, Chúa Giêsu giảng về điều nó làm cho con người ra uế tạp trước mặt Thiên Chúa. Đó là những tình cảm xấu xa nuôi dưỡng trong lòng. Chúa kể ra 1 số tình cảm trong đó có kiêu ngạo và phi lý. Vậy mà có tội kiêu ngạo nào độc hại hơn tội phi lý nào bại hoại hơn tội của kẻ gác sang một bên giới luật Thiên Chúa, để tự đặt ra những giới luật riêng cho mình? Chúa Giêsu gạch nối xếp thái độ đó vào tội ô uế trước mặt Thiên Chúa.
Vậy ai là kẻ có lòng thanh sạch? Thưa đó là những tâm hồn đơn sơ, họ thấy Thiên Chúa thế nào thì nghênh đón Người như vậy, họ giãi bầy nỗi niềm riêng tư với Chúa bằng một tấm lòng ngay thẳng thực tế.
--------------------------------
TN 22-B49. Bên trong là những gì đáng kể
Vào một buổi chiều nơi sân bóng rổ, một đám đông đã đứng lên để hát bài quốc ca, một đứa: TN 22-B49
Vào một buổi chiều nơi sân bóng rổ, một đám đông đã đứng lên để hát bài quốc ca, một đứa trẻ đã không bỏ mũ của mình ra. Một người đàn ông vạm vỡ đứng ngay đằng sau đứa bé đã nói: “Này chú bé, hãy lấy mũ ra chứ”. Cha của đứa bé là một người có bộ râu rậm nhưng ông đã chờ đợi cho đến khi kết thúc bài hát, cố gắng với sự tự chủ và giọng run run, ông nói một cách nhỏ nhẹ với người đàn ông: “Con trai của tôi đang hóa trị vì bệnh ung thư và nó không còn chút tóc nào!”.
Đứa trẻ đã không kính trọng trong khi hát bài quốc ca, đơn giản vì em lúng túng khi bỏ mũ của mình ra. Người đàn ông vạm vỡ có thể rút ra môt bài học: bên ngoài thì không luôn luôn cho thấy những gì ở bên trong. Đó cũng là bài học đối với những người Pharisêu khi nghe bài Phúc Âm trong Thánh Lễ chúa nhật hôm nay.
Họ đã bực bội với các môn đệ của Chúa Giêsu bởi vì các người này đã không theo tục lệ rửa tay trước khi ăn, những điều họ quan tâm không phải là những điều vệ sinh nhưng là tính cách cứng nhắc giữ luật theo từng chữ.
Khi những người Pharisêu đòi hỏi Chúa Giêsu vì sao môn đồ của Ngài lại không thực hiện như họ đã làm. Chúa Giêsu đã từ chối trả lời, thay vào đó Ngài đã cảnh cáo họ bằng những lời của tiên tri Isaia: “Dân này thờ Ta chỉ bằng môi bằng miệng còn lòng dạ chúng thì xa Ta”. Ngài đã tiếp tục cắt nghĩa những gì ở bên trong thì quan trọng hơn những công việc bên ngoài, tâm tình bên trong thì quan trọng hơn công việc ở bên ngoài
Như một dân tộc của phụng vụ, chúng ta cần phải suy niệm giáo huấn về Chúa Giêsu. Phụng vụ là một vấn đề của sự kiện liên quan đến những điều kiện bên ngoài, ví dụ như những cử chỉ đứng, ngồi, quỳ, tiến lên, hát và đọc kinh, cũng tốt giống như khăn bàn thờ, nến, những vật trang trí khác. Thật ra, Giáo Hội đã dạy trong Hiến chế về phụng vụ rất đầy đủ về hoạt động và tham dự có ý thức trong những nghi thức phụng vụ thánh, là nguồn mạch không thể thay thế của tinh thần Kitô giáo đích thật, và cũng như Hiến chế làm rõ ràng việc tham dự phải được hoàn thành bằng cách tuyên xưng, đáp trả, hát Thánh Vịnh và các bài thánh ca, cũng như là bằng các hoạt động, cử chỉ và thái độ của thân xác (14-30).
Yếu tố chính yếu của việc thờ lạy như Đức Giáo Hoàng Piô XII đã dạy đó là bên trong, điều đó có nghĩa là những gì chúng ta làm bên ngoài thì không có dự định diễn tả nhưng để tăng tình trạng chân thành bên trong, như đức tin, đức cậy và tình yêu của chúng ta. Đôi khi việc đo lường sự sốt sắng của chúng ta tốt nhất không phải là những gì chúng ta làm trong Thánh Lễ nhưng là chúng ta đã hành động bên ngoài Thánh Lễ thế nào.
Có phải đức tin chúng ta diễn tả theo phụng vụ là quy tắc hướng dẫn chúng ta sống theo cách mà nếu Thiên Chúa không hiện diện trong đời sống của chúng ta thì chúng ta sẽ không có những tâm tình như thế? Có phải đức tin của chúng ta làm cho chúng ta khác với những người khác, mà giá trị của họ là thế tục hoặc vật chất? Có phải nhân đức trông cậy chiếu sáng vẻ bên ngoài của chúng ta và làm cho chúng ta cơ bản thành những người lạc quan không? Có phải niềm trông cậy của chúng ta đã cho chúng ta một niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thúc đẩy chúng ta trân trọng ý muốn của Ngài không? Có phải tình yêu mà chúng ta diễn tả với Thiên Chúa trong lúc chúng ta thờ phượng đã hướng dẫn một cách trực tiếp trong đời sống của chúng ta? Có phải đời sống của chúng ta đã phản ảnh chân lý mà chúng ta đã được dạy dỗ là tất cả anh chị em của chúng ta nên một trong Đức Kitô không?
Bên ngoài thì quan trọng nhưng chính chúng không làm cho chúng ta nên thánh hơn là những người yêu nước, đã kiên bền cố gắng trở nên một công dân tốt. Ngày hôm nay thánh Giacôbê đã nói với chúng ta: “Hãy tiếp nhận những lời mà những lời đó có sức mạnh để cứu thoát anh em. Hãy thực hành những lời đó. Nếu tất cả những gì anh em thực hiện là lắng nghe thì anh em đã tự lường gạt chính mình”. Đó là con đường của người nói rằng, việc thờ lạy phải dẫn đến đời sống, những việc bên ngoài phải diễn tả sự chân thành kính trọng của tình trạng bên trong. Những gì bên trong của chúng ta mới đáng kể.
--------------------------------
TN 22-B50. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
CHÚA GIÊSU VÀ CÁC TRUYỀN THỐNG CỦA BIỆT PHÁI
Ở đây lại xẩy ra một cuộc khẩu chiến mới như vẫn từng xảy ra giữa Chúa Giêsu và những người: TN 22-B50
Ở đây lại xẩy ra một cuộc khẩu chiến mới như vẫn từng xảy ra giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái nhiệt thành nhất thời đó tức nhóm biệt phái và luật sĩ (c.1). Họ bắt bẻ Chúa Giêsu về một điều xem ra nhỏ nhặt liên quan tới hạnh kiểm các môn đệ Ngài: đó là những môn đệ này dùng bữa với bàn tay “dơ bẩn”, tức là không rửa trước khi dùng bữa (c.2). vì các độc giả Rôma của ông không hiểu về tập tục Do Thái nên Maccô buộc lòng phải cắt nghĩa dài dòng tại sao sự việc ấy lại phát sinh ra vấn đề (c.3-4). Việc dân Do Thái giữ đủ thứ lề luật tỉ mỉ liên quan đến bữa ăn có nguồn gốc từ thời luật Môsê. Để giữ cho dân riêng Chúa được tinh tuyền về mặt xã hội và tôn giáo, luật Môsê cấm họ không được đụng chạm tới bất cứ người hay thực phẩm nào bị tuyên bố là “ô uế” (Lv 11, 16). Trong đời sống thường nhật, mỗi khi từ nơi công cộng hoặc phố chợ trở về, dân Israel luôn tự cảm thấy mình “ô uế” xét về mặt nghi thức: bởi vì họ đã chẳng đi kề cạnh đám người tội lỗi và đám dân ngoại sao? (chẳng hạn lũ thương gia và những gã lính Rôma xâm lược). Từ đó phát sinh ra đủ thứ nghi thức tẩy rửa trước khi ăn, và câu hỏi họ đưa ra cật vấn Chúa Giêsu có liên quan đến việc các bạn hữu Ngài lơ là không tuân thủ các quy luật này (c.5).
Chẳng cần quanh co, lập tức Chúa Giêsu tuyên bố ngay thói giả dối của họ (c.6-7). Vì đang nói đám chuyên gia Kinh Thánh nên Chúa Giêsu liền nại đến Kinh Thánh (ở đây Ngài trích sách Isaia 29,13), vị tiên tri sống vào thế kỷ thứ VIII trước Chúa Kitô, Ôsê cũng đã từng kết tội đám đồng hương của ông về thứ thờ phụng mà “chẳng có hồn” này (Hs 5,21-25). Chúa Giêsu không ngần ngại lập lại lời phán xét gay gắt đó và Ngài kết luận: các ông lấy truyền thống hoàn toàn mang tính cách nhân loại để thay thế cho Lời Thiên Chúa! (c.8). Lời tố cáo quả rất nghiêm trọng, nặng nề. Biết rõ một số luật Môsê đang được các đạo sĩ Do Thái tranh luận, Chúa Giêsu liền trưng ra một ví dụ súc tích: ví dụ các lời khấn hứa (c. 10-13). Đây là một lãnh vực dễ bị nhiều lạm dụng. Dựa vào một thứ “chủ nghĩa vị luật” quen thuộc, đám biệt phái đã bẻ quẹo một điểm then chốt của Lời Chúa (sự giúp đỡ cha mẹ theo Thập giới (Xh 20,12) để đạt được những tặng phẩm dâng cúng cho đền thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh vi này, những kẻ nhiệt tình bênh vực truyền thống đã rơi vào tình trạng tiêu huỷ Lời Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã mở rộng cuộc tranh luận với đám cử toạ hạn hẹp này ra tới quảng đại quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ điệp của Ngài một cách kết quả hơn (c.14-15). Ngài đưa ra một dụ ngôn nhỏ mang dáng vẻ nhiệm mầu. Đám đông có thể hiểu nổi dụ ngôn này không? Như vẫn thường thấy nơi Phúc Âm Maccô (4,33-34), vị Tôn Sư thường cắt nghĩa “tiếng” cho các môn đệ Ngài về các dụ ngôn Ngài nêu ra (c.17. trước hết Ngài khiển trách họ không chịu động não cố hiểu được đôi điều về lời giảng của Ngài (c.18a). sau đó Ngài ban cho họ chìa khoá của vấn nạn (c.18b- 19a). Làm dơ bẩn người ta không phải là những thức ăn họ ăn và bởi vì cuối cùng bộ tiêu hóa cũng sẽ thải ra ngoài hết. Không! Làm dơ bẩn người ta chính là những tư tưởng phát xuất từ trái tim họ. Chính từ trái tim mà mọi ý đồ nham hiểm xuất ra (c.20-23). Trong Kinh Thánh trái tim là chốn cư ngụ của tư tưởng cũng như của tình cảm. Từ đó phát sinh những hư hỏng về mặt luân lý. Bản liệt kê dài ở đây tương xứng với sổ kê đủ thứ tính hư tật xấu mà ta thường thấy nơi các nhà luân lý đương thời (x. Gl 5,19-21).
Giống như đám đông và sau đó là các môn đệ, chúng ta hẳn có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu đã đi lệch ra khỏi điểm xung đột lúc ban đầu giữa Ngài và đám biệt phái. Không phải thế đâu. Một câu vắn gọn của Maccô nêu bật được trọn vẹn bài học chủ chốt trong các lời nói của Chúa Giêsu (c.19b). Trước hết, điểm khác biệt được lưu tâm là những quy tắc ăn uống thường được các người Do Thái nhiệt thành tuân giữ. Có cả hàng đống thức ăn bị coi là “ô uế” không được dùng (x.Lv 11,1-30). Ở đây, Chúa Giêsu trực tiếp công bố những quy luật ăn uống của truyền thống này là lỗi thời bởi vì chúng phân hoá xã hội thành hai nhóm đối kháng: kẻ tốt và kẻ xấu. Một bên là những kẻ “tinh tuyền”, tức đám biệt phái (có nghĩa là nhóm tách biệt) và người tội lỗi. Chúa Giêsu đến để thiết lập một xã hội hòa đồng. Đứng về phía Thiên Chúa, Ngài hiệp thông với tất cả những nạn nhân của sự kỳ thị xã hội và tôn giáo do bè cánh biệt phái, những người “tinh tuyền và cứng cỏi” gây ra. Ngài dùng bữa với những kẻ ô uế, “những kẻ bị khai trừ” (đám thu thuế, gái điếm, lính Rôma v.v…). Đây quả là sự đổi mới phá đổ những bức vách ngăn đáng trách của thời đại.
Maccô đã dùng nhiều lời để tường thuật sự phản kháng của Chúa Giêsu trước những công kích của đám biệt phái. Sở dĩ thế là vì Kitô giáo thời sơ khai phải va chạm mạnh với vấn đề tiếp đón dân ngoại trở lại đạo. Tập tục Do Thái trong việc ăn uống, những nghi thức thanh tẩy rườm rà đã ngăn cản “khách lạ” lui tới, mặc dù họ đã trở nên huynh đệ trong đức tin. Chúng ta đã chứng kiến rõ sự khó khăn của các tương giao giữa Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô hữu gốc dân ngoại trong Công vụ sứ đồ (10,1-11.18). Ở đó người ta thấy ngay chính tông đồ trưởng Phêrô cũng còn bị nô lệ cho các “cấm kỵ” trong vấn đề ăn uống theo luật Do Thái khi ông gặp gỡ Cornêliô, một người ngoại đạo. Rõ ràng các Kitô hữu gốc Do Thái phải tốn khá nhiều tời gian mới giải thoát mình ra khỏi nhưng thành kiến chủng tộc và tôn giáo là những thứ ngăn cản không cho họ thoải mái khi đồng bàn với anh em gốc dân ngoại và điều này làm cho sứ vụ của Giáo Hội sơ khai bị bế tắc. Cộng đoàn Kitô giáo của Maccô chắc chắn phải đương đầu với những vấn đề tương tự và họ nhớ lại vấn đề Chúa Giêsu đặt ra cho các người biệt phái. Trình thuật này thiết lập cho họ sự thực hành về “bàn ăn mở rộng” rất thường bị chỉ trích. Và có mặt trong “Chương nói về bánh” này (6,30 - 8,21) cũng như sẽ không ngạc nhiên khi thấy xuất hiện vào lúc Chúa Giêsu sắp sửa hướng các môn đệ nhìn về sứ mệnh khẩn cấp là ra đi truyền giáo cho dân ngoại (xem trình thuật kế tiếp 7,24-30).
Cái sai lầm lớn nhất của bọn Biệt phái và luật sĩ, theo tôi nghĩ, đó là họ đã đảo lộn bậc thang giá trị. Lấy cái phụ làm chính và lấy cái chính làm phụ. Họ tuân giữ những tập tục của cha ông mà quên đi giới luật của Thiên Chúa. Họ bám víu vào những nghi thức bên ngoài mà quên đi tình mến bên trong.
Tôi xin đưa ra những thí dụ cụ thể:
Chẳng hạn, họ thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn mà không rửa tay. Đối với họ đó là một trọng tội không thể nào tha thứ. Người ta kể lại rằng: một luật sĩ tên là Aquiba, thà chết khát trong tù còn hơn là sai lỗi tập quán này. Ông đã lấy nước đổ trên tay dù rằng nước đó rất cần cho ông để được sống.
Từ đó chúng ta thấy họ còn là những con người hẹp hòi và thiển cận, đã quan trọng hóa những điều nhỏ mọn. Bên ngoài họ tắm gội, giặt giũ rất là cẩn thận, nhưng bên trong thì lại chất đầy những gian tham và tội ác, khiến cho Chúa Giêsu phải lên tiếng cảnh cáo:
- Khốn cho các ngươi, hỡi những biệt phái và luật sĩ giả hình, các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài thì đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy giòi bọ và xú khí.
Lần khác, thấy các môn đệ bứt những bông lúa chín ở dọc đường mà ăn trong ngày Sabbat, và họ đã lên tiếng bắt bẻ vì đã vi phạm ngày nghỉ lễ, khiến Chúa phải đặt lại vấn đề:
- Luật lệ vì con người hay con người vì luật lệ. Ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết ?
Lòng nhiệt thành của họ có đấy nhưng lại quá vụ về hình thức. Trong khi chú trọng vào những chi tiết bên ngoài, họ quên mất tình yêu thương bên trong, là điều Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta:
- Các ngươi kinh kệ dài dòng mà lại nuốt trửng gia tài của các bà góa.
Và rồi Chúa đã chỉ trích:
- Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Nhìn vào đời sống, nhiều người trong chúng ta cũng chẳng hơn gì bọn biệt phái. Chúng ta cũng đảo lộn bậc thang giá trị, lấy cái chính làm phụ và lấy cái phụ làm chính. Chúng ta cũng bấu víu vào nghi thức bên ngoài mà quên đi tình mến bên trong. Chúng ta cũng sống một cuộc sống bôi bác giả hình. Có người thì sùng bái ảnh tượng nhưng lại coi thường sự công bằng. Có người ưa đọc kinh dài dòng nhưng lại gian tham và hà khắc với anh em. Họ thật giống với mẫu người mà tục ngữ đã diễn tả:
- Khẩu Phật tâm xà. - Miệng nam mô bụng bồ dao găm.
Có người thì tang ma cỗ bàn dềnh dang, cho cha mẹ, nhưng khi cha mẹ còn sống, thì lại hắt hủi và đối xử tệ bạc:
- Còn sống thì chẳng cho ăn, Đến khi đã chết làm văn tế ruồi.
Có người lập gia đình thì chỉ nhắm tới tiền bạc và địa vị, mà quên rằng, tình yêu thương và tinh thần đạo đức mới là đảm bảo vững chắc cho cuộc sống lứa đôi.
Tất cả những sự kiện trên đều do thiếu lòng yêu mến chân thành mà sinh ra. Lòng yêu mến chân thành mới là yếu tố bên trong, mới là nền tảng vững chắc, thiếu nó thì việc làm của chúng ta chỉ là não bạt ầm vang, thiếu nó bản thân chúng ta chỉ là phường bôi bác giả hình. Vì thế, thánh Augustinô đã nói:
- Ama et fac quodvis. Hãy yêu rồi muốn làm gì cũng được.
Có một ông triệu phú chết đi để lại một gia tài to lớn. Ông sinh được một cậu con trai, nhưng cậu con này được gửi đi du học từ bé, nên không một ai biết mặt. Vì thế, tòa án phải nhắn tin trên báo cho cậu trở về.
Đúng ngày hẹn, người ta thấy có ba chàng thanh niên tự nhận là con của nhà triệu phú. Viên chánh án bèn lấy tấm hình của nhà triệu phú, rồi nói với ba chàng thanh niên:
- Ai bắn trúng thì được lãnh nhận gia tài.
Chàng thanh niên thứ nhất giơ súng và bắn, chàng thanh niên thứ hai cũng giơ súng và bắn. Còn chàng thanh niên thứ ba cũng giơ súng, nhưng rồi lại bỏ xuống và nói:
- Mặc dù đây chỉ là một tấm ảnh, nhưng nó gợi nhớ đến ba tôi, tôi không thể bắn.
Nhờ lòng yêu mến chân thành, viên quan tòa đã nhận ra chàng thanh niên thứ ba mới đúng là người con đích thực của nhà triệu phú và trao gia tài cho chàng.
Lòng yêu mến chân thành, được biểu lộ qua những việc làm cụ thể, chứng tỏ chúng ta là những người môn đệ đích thực của Chúa, bằng không, khuôn mặt đạo đức của chúng ta sẽ bị rơi xuống và chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác giả hình.
Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pharisêu và kinh sư nói riêng và dân Do thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ triệt để, để tỏ ra mình thanh sạch trước mọi người. Cái tục rửa tay của họ rất phức tạp chứ không đơn giản như kiểu chúng ta rửa tay để ăn uống: rửa ngón tay, bàn tay, cổ tay. Phải đổ nước từ từ cẩn thận từng chút, từng chỗ… thật cầu kỳ, phiền phức. Khi rửa tay như vậy, họ nghĩ rằng họ đã làm đẹp lòng Thiên Chúa vì đã làm đúng luật lệ và họ tin rằng một nghi thức bên ngoài như vậy có sức làm cho họ được thanh sạch. Vì thế, khi thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay, không làm theo tập tục của họ, họ bực tức khó chịu, nên đã hạch hỏi và bắt bẻ Chúa.
Nhân dịp này Chúa Giêsu đã dạy cho họ một bài học thế nào là bẩn hay sạch. Trước hết, Chúa trưng lời ngôn sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Chúa nhắc lại lời này để tố cáo họ đã khoác bên ngoài một bộ áo đạo đức để che lấp đi những hành vi xấu xa tội lỗi bên trong. Như thế là giả hình, giả dối. Họ đã coi cái võ quan trọng hơn cái ruột; cái hình thức hơn nội dung; cái bên ngoài cần hơn tấm lòng. Vấn đề rửa tay trước khi ăn. Thử hỏi việc rửa tay cần hay rửa tấm lòng là cần ? Thật tình, nếu tay bẩn, chúng ta có thể dùng đũa, dùng thìa, chúng ta có ăn bốc đâu. Còn của ăn, tự nó là sạch, và được nấu nướng vệ sinh là sạch. Vì thế, Chúa nói cái làm cho bẩn là tấm lòng. Đúng vậy, lòng có đầy mới tràn ra ngoài bằng lời nói hay hành động: miệng nói ra những tư tưởng chất chứa trong lòng. Nếu đó là những tư tưởng tốt đẹp sẽ hướng dẫn con người hành động thiện hảo. Ngược lại, tư tưởng xấu sẽ dẫn người ta đến những hành vi độc ác, xấu xa. Thực vậy, chính cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, việc tốt hay xấu. Chính từ cõi lòng này mà sinh ra mười hai nết xấu Chúa kể trong Tin Mừng. Đó là mười hai tội chính và còn biết bao ác quả phụ tùng kèm theo nữa. Cho nên, người đời đã phải than rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò. Lòng người nham hiểm ai đo cho tường”, “Lòng người thăm thẳm mù khơi. Không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ còn nói: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm”.
Để diễn tả người mang mặt nạ giả danh bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong; hạng người như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao”. Câu chuyện sau đây là một bằng chứng: Trịnh Tụ là vợ của vua nước Sở, ghen tức với một mỹ nữ đã lọt vào mắt đen của nhà vua. Bà đã nghĩ ra một kế để hạ tình địch của mình. Một hôm, bà làm ra vẻ thân mật nói với mỹ nữ rằng: “Nhà vua có tính không thích người khác thở hơi vào mình. Nên khi vào hầu vua, thì phải giữ ý bịt mũi lại”. Mỹ nữ tưởng thật nghe theo. Mỗi lần tới hầu vua là lấy tay bịt mũi. Nhà vua lấy làm lạ hỏi tại sao vậy ? Trịnh Tụ mau mắn trả lời: “Dạ thưa, người ấy sợ đại vương thân thể hôi hám, nên mới có cử chỉ như vậy”. Vua Sở nổi giận truyền đem mỹ nữ cắt mũi đi. Lòng dạ con người thật nham hiểm. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: loài người không dò thấu được lòng nhau, nhưng Thiên Chúa thấu suốt cõi lòng mỗi người: “Ta là Thiên Chúa, Ta thấu suốt tâm can mỗi người từng gang tấc”. “Thiên Chúa, Đấng thấu suốt nơi kín nhiệm, sẽ thưởng công cho ngươi”, “Loài người nhìn bên ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn bên trong”, “Không có gì có thể che giấu được Thiên Chúa”…
Lời Chúa thật rõ ràng, chúng ta không thể sống che giấu Thiên Chúa được. Chúng ta có thể sống đóng kịch, giấu diếm một số người, một số nơi, một số năm tháng, nhưng chúng ta không thể che giấu nổi Thiên Chúa. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: chúng ta có thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người Pharisêu và Kinh sư không ? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên trong không ? Chúng ta nghĩ gì về một đời sống đạo đức, sốt sắng đọc kinh dâng lễ, nhưngc có thể bị đánh giá là chỉ tôn kính Chúa ngoài môi miệng, còn lòng thì xa Chúa ? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề ngoài không ? Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình. Ít nhất một bài học chúng ta có thể rút ra từ bài Tin Mừng là: cố gắng thành thật với chính mình và lo hoán cải sửa đổi bên trong hơn là lo trang điểm, trình diễn bên ngoài. Thà “xanh vỏ đỏ lòng” còn hơn là “tốt mã rã đám”.
Trong giáo dục, chúng ta gắn tầm quan trọng tim cho cái đầu, cho trí óc nhiều hơn cho con tim, cho tình cảm. Dĩ nhiên tình cảm ít khi được xét đến. Chúng ta đào tạo một đứa trẻ thông minh hơn một đứa trẻ tốt. Thế giới kinh doanh và chính trị tưởng thưởng cho sự thông minh hơn cho lòng nhân hậu. Tuy nhiên trong ngôn ngữ hàng ngày chúng ta thừa nhận sự ưu tiên của con tim, của tâm hồn. Sau đây là một số ví dụ.
Chúng ta xét đoán một người bằng tâm hồn. Chúng ta có thể nói những điều chê trách như “ông ta không có tâm hồn” hoặc “ông ta có một tâm hồn băng giá” hoặc “một tâm hồn khô cứng”. Ngược lại, chúng ta có thể nói tốt về một người như “ông ấy có một tâm hồn”, hoặc “ông ta có tâm hồn nồng nhiệt hoặc dịu dàng”.
Chúng ta xét đoán mức độ cam kết của một người với một công việc bằng những từ ngữ chỉ tâm hồn. Chúng ta nói một người “không để tâm vào công việc” hoặc “chỉ đặt vào đó một nửa tâm hồn”. Và kết quả là người ấy sẽ bỏ cuộc. Cho dù không bỏ cuộc, người ấy sẽ không làm tốt công việc. Chúng ta nói về một người khác “chú tâm vào một công việc” hoặc “toàn tâm toàn ý vào công việc”. Và rồi người này có mọi khả năng không chỉ bền bỉ trong công việc mà còn làm cho công việc trở nên tốt nhất.
Chúng ta mô tả niềm vui và nỗi buồn bằng những từ ngữ chỉ tâm hồn. Chúng ta nói “Chị ấy có tâm hồn tan nát” hoặc “Chị ấy ra đi với con tim nặng trĩu”. Chúng ta nói “Tâm hồn của chị ấy bay bổng bởi niềm vui” hoặc “Chị ấy đã ra đi với tâm hồn thanh thản”.
Chúng ta cũng mô tả các gánh nặng và thương tích bằng những từ ngữ chỉ tâm hồn. Một “tâm hồn nặng trĩu” là một tâm hồn mệt mỏi gánh vác mọi thứ. Một “tâm hồn đau thương” mang trong mình một thương tích đau đớn nhất.
Người ta còn có thể đưa ra nhiều ví dụ khác nữa. Tuy nhiên chúng ta hãy trở lại xem xét hai ví dụ được nói đến trong Tin Mừng hôm nay.
Ví dụ thứ nhất liên quan đến việc thờ phượng. Người ta có thể chỉ trích sự thờ phượng của một người là người ấy không đặt tâm hồn vào việc thờ phượng. Trong trường hợp này, sự thờ phượng chỉ trên môi miệng, giống như những người Pharisêu đã làm. Trái lại một sự thờ phượng tốt nhất là sự thờ phượng của một người đặt hết tâm trí vào đó. Sự thờ phượng này xuất phát từ trong tâm hồn.
Ví dụ thứ hai liên quan đến điều xấu và điều tốt. Một tâm hồn hư hỏng là một hình thức tồi tệ nhất của điều xấu. Nó có nghĩa là xấu từ trong xương tủy. Một tâm hồn thanh khiết là thứ tốt nhất của điều tốt. Nó có nghĩa là tốt từ trong xương tủy.
Tin Mừng nhấn mạnh sự đề cao tâm hồn và chúng ta hiểu được tại sao. Tâm hồn là suối nguồn từ đó chảy ra dòng suy nghĩ, lời nói và công việc. Nếu tâm hồn trong sạch thì mọi dòng chảy phát xuất từ đó sẽđược trong sạch, giống như nước phun ra từ một suối nguồn tinh khiết. Những người Pharisêu quan tâm đến bề ngoài hơn bên trong. Họ quan tâm đến việc làm sạch bàn tay hơn làm sạch tâm hồn.
Vấn đề quan trọng là tâm hồn. Nhưng chỉ Thiên Chúa có thể nhìn thấy sự việc ở trong tâm hồn. Và chỉ Người có thể làm cho tâm hồn trở nên hoàn thiện.
Chỉ có một người điên mới rửa một cái tách ở bên ngoài mà không rửa ở bên trong. Ít ra chúng ta phải chắc chắn bên trong đã được rửa sạch, còn bên ngoài thế nào cũng được. Đức Giêsu nói chúng ta cũng phải làm như thế đối với chính mình. Chúng ta phải có bên trong sạch sẽ, bên ngoài thế nào cũng được. Thật vậy, nếu bên trong (tâm hồn) đã thanh sạch thì bên ngoài (thái độ của chúng ta) cũng sẽ thanh sạch. Nhưng nếu bên trong không thanh sạch thì bên ngoài cũng sẽ không thanh sạch. Bên ngoài sẽ phản ảnh tình trạng của bên trong.
Những người Pharisêu đã nhìn điều xấu như một vật ở bên ngoài họ – trong các sự vật và đặc biệt trong những người khác. Họ tự hào mình là những người đạo đức và xem thường những người khác. Nếu điều xấu ở bên ngoài họ, thì họ có thể bảo vệ họ khỏi điều xấu bằng cách tránh tiếp xúc với dân chúng, hoặc nơi nào làm họ không thể thực hiện việc tắm rửa theo đúng nghi thức.
Những người Pharisêu là những người chân thành. Chỉ có điều là các nỗ lực của họ hướng về mục đích sai lầm. Đối với họ, cái bên ngoài là tất cả. Vì thế họ quan tâm đến sự thanh sạch bên ngoài mà bỏ quên điều quan trọng hơn – sự thanh sạch nội tâm hoặc sự thanh sạch của tâm hồn.
Đức Giêsu nói rằng căn nguyên của điều xấu ở bên trong chúng ta. Nó có gốc rễ trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta không thể bảo vệ mình khỏi điều xấu bằng việc cách ly với những người khác. Tất cả những điều ghê tởm mà Người liệt kê và chúng ta đọc trên báo chí: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng – tất cả những điều xấu xa đó đều xuất phát từ bên trong con người. Mầm mống của chúng ở bên trong tất cả chúng ta. Những điều đó làm cho một người trở nên ô uế trước mặt Thiên Chúa.
Đó là sự thật rất khó chịu và mỗi người chúng ta không biết đến hiểm họa của chính mình. Một vấn đề lớn của thời đại chúng ta là sự hiểu biết thiếu sót của chúng ta về chính mình, về điều xấu để nhận ra và đối phó với nó bên trong chúng ta. Dù sao cũng có một thứ an ủi và tự do khi biết được và chấp nhận sự thật khiêm nhường ấy.
Ngày nay, có một sự quan tâm to lớn đối với việc làm sạch sẽ thân thể. Vì thế mới có mọi thứ quảng cáo về xà bông và nước hoa. Và cũng có sự quan tâm về môi trường – với chất lượng của nước uống, thực phẩm, và không khí. Điều đó không phải là không quan trọng. Chỉ có điều là có một môi trường khác còn quan trọng hơn: môi trường đạo đức. Điều xấu là thứ ô nhiễm tồi tệ nhất trong mọi thứ ô nhiễm.
Nhưng nếu nguồn gốc điều xấu ở bên trong chúng ta, thì nguồn gốc của điều tốt cũng thế. Mọi tư tưởng lời nói và công việc của chúng ta tuôn trào từ tâm hồn như nước từ một dòng suối giấu kín. Nếu dòng suối trong sạch thì dòng chảy phát xuất từ đó sẽ trong sạch. Chúng ta phải làm thanh sạch suối nguồn.
Có một câu chuyện về một vị thầy một ngày nọ đặt những câu hỏi sau đây cho một số môn đệ:
“Người ta phải tránh điều gì nhất trong đời ?” “Một con mắt xấu xa”, môn đệ thứ nhất nói. “Một người bạn phản bội”, môn đệ thứ hai nói. “Một người láng giềng xấu”, môn đệ thứ ba nói. “Một tâm hồn xấu”, môn đệ thứ tư nói.
Vị thầy thích câu đáp cuối cùng nhất bởi vì nó bao hàm mọi câu khác. Rồi ông nói:
“Và điều gì đáng ao ước nhất mà người ta cố gắng đạt đến trong đời ?” “Một con mắt tốt”, một người nói. “Một người bạn tốt”, người thứ hai nói. “Một người láng giềng tốt”, người thứ ba nói. “Một tâm hồn tốt”, người thứ tư nói.
Vị thầy thích câu đáp cuối cùng nhất, vì nó bao hàm mọi câu khác.
Chúng ta phải cố gắng đạt đến sự trong sạch của tâm hồn. Sự trong sạch hoàn toàn của con người là điều không thể đạt được ở đây trên trần gian này. Nó là một cuộc đấu tranh liên tục. Một tâm hồn trong sạch, tinh tuyền không giống với một tâm hồn trống rỗng. Một tâm hồn đầy lòng yêu thương là một tâm hồn tinh tuyền và lành mạnh.
Một cái máy trả lời tự nó là một vật tốt. Nhưng khi chúng ta gọi điện thoại, chúng ta thích được nghe tiếng chào của một con người hơn là của một cái máy. Tuy nhiên, hãy cám ơn kỳ công của kỹ thuật hiện đại, tiếng nói của một người có thể ở đó trong khi người ấy vắng mặt.
Đã lâu rồi, trước khi những đồ dùng như cái máy trả lời được phát minh, người ta đã có thể làm điều đó tức là chỉ hiện diện trong tiếng nói. Không nơi nào mà điều đó nhận thấy rõ ràng như trong trường hợp thờ phượng. Đức Giêsu nói về những người Pharisêu: “Dân này tôn thờ Thiên Chúa bằng môi miệng, nhưng lòng của họ thì xa Người”.
Người ta có thể hiện diện trong nhà thờ chỉ bằng tiếng nói, nhưng sự thờ phượng của họ trở thành một nghi thức hầu như bằng môi miệng. Và điều làm cho vấn đề xấu hơn là tiếng nói ấy không còn là tiếng nói thường ngày của họ. Hẳn phải là tiếng nói long trọng và nghiêm trang, đặc biệt dành riêng cho ngày Chúa nhật. Những người như thế không tốt hơn những cái máy trả lời. Yếu tố quan trọng nhất ấy là sự vắng mặt của tâm hồn.
Điều này cũng được áp dụng cho bất cứ cuộc gặp gỡ hoặc tập họp nào. Hầu như nó cũng biểu lộ trong các cuộc họp mặt công cộng. Người ta ở đó, nhưng không thật sự ở đó. Đó là một cái tôi giả tạo như thể được dựng lên. Gặp gỡ những người như thế là gặp một cái bóng. Bạn rơi vào một cảm giác trống rỗng.
Sự hiện diện thật thì khác hẳn ! Tâm hồn có mặt, và lời nói tuôn trào từ tâm hồn. Để lời nói chúng ta vang lên sự thật, chúng ta phải được nói từ tâm hồn. Nếu chúng chỉ từ môi miệng, chúng sẽ là một âm thanh trống rống. Và khi chúng là những lời nói thông minh, chúng cũng không thuyết phục và tạo hứng khởi cho ai.
Ví dụ hãy lấy những lời tha thứ. Nếu chúng không xuất phát từ tâm hồn phỏng có ích gì ? Nó sẽ không đem lại tự do cho người gây ra xúc phạm. Hoặc sẽ không đạt đến kết quả là sự hòa giải thật sự giữa đôi bên.
Và những lời hòa bình. Nếu chúng không nói từ trong tâm hồn, làm sao có thể đem lại hòa bình ? Dĩ nhiên là không rồi. Và những lời chào mừng. Tôi có thể mở cánh cửa nhà tôi cho một người với những lời nói tử tế, nhưng nếu tôi không dành chỗ cho người ấy trong trái tim tôi, người ấy vẫn cứ là một người xa lạ với tôi.
Chỉ với tâm hồn, chúng ta mới có thể nói những lời ngay thẳng. Và một sự hiện diện không có tâm hồn giống như một bếp lò không có lửa.
Sự hiện diện của tôi ở đây vào ngày Chúa nhật này có phẩm chất như thế nào ? Tôi có thể hỏi liệu có sự tham dự của tâm hồn tôi hay không. Vậy đặt tâm hồn mình vào việc thờ phượng có nghĩa là gì ? Điều này bao hàm sự chân thành, cam kết sâu xa và trên hết, lòng yêu mến.
Năm 587, trước khi Chúa ra đời, thủ đô Gêrusalem bị thất thủ, nước Do thái sụp đổ, người Do thái bị bắt đi đày bên nước Babylon. Sống bên xứ lạ quê người, đền thờ không còn, tế tự không còn, niềm tin của người Do thái yếu kém đi. Hơn nữa sống giữa người ngoại, nhiều người Do thái đã dần đà bỏ đạo Chúa và theo các bụt thần. Trước hoàn cảnh đó, các luật sĩ Do thái đã hết sức cứu vãn niềm tin của dân mình bằng cách đặt ra những luật lệ nhằm bảo vệ đức tin cho tinh tuyền. Vì thế, có những khoản luật cấm tiếp xúc với kẻ tội lỗi, với những gì gọi là ô uế xấu xa.
Thế nhưng sau khi lưu đày trở về, các luật sĩ đã đi quá trớn, đưa ra những khoản luật rất là tỉ mĩ. Thí dụ:
. Một người đàn ông bị đi lính thì bị coi là ô uế. Tất cả mùng mền chiếu gối của họ đều bị coi là dơ. Ai đụng tới cũng bị dơ và phải giặt quần áo của mình, và cho dù đã tắm giặt như vậy vẫn còn bị coi là dơ cho đến chiều tối. Xe họ ngồi cũng bị coi là dơ, phải rửa cho sạch.
. Đàn bà tới kỳ xuất huyết thì bị coi là ô uế suốt 7 ngày. Ai đụng tới họ cũng bị lây ô uế, có tắm giặt cũng còn ô uế tới chiều.
. Nếu kẻ bị coi là ô uế hay lây ô uế khi tắm giặt cũng phải theo những luật tỉ mỉ: lấy nước thì lấy bằng bình đồng, bình sành hay bình gỗ chứ không được dùng bằng thứ bình nào khác. Đụng tới một người ô uế thì phải rửa từ khuỷu tay trở xuống, và phải rửa 2 lần: một lần vì tay bẩn, lần thứ hai để tẩy đợt nước thứ nhất đã bị bẩn khi dính vào tay bẩn của mình.
. Trước khi ăn thì phải rửa tay cho khỏi những ô uế mà có thể vì vô tình mình đã chạm phải. Người ta kể rằng có một luật sĩ tên là Aqiba đã thề chết khát trong tù còn hơn vi phạm luật này: trong tù nước rất ít, nhưng ông cũng dùng để rửa tay trước khi ăn dù rửa xong thì không còn nước để uống.
Đi tới chỗ quá trớn đó thì trở thành thói vụ hình thức. Và nếu chỉ coi trọng hình thức mà quên phần nội tâm thì trở thành chứng giả hình. Vụ hình thức và giả hình, đó là 2 điều mà Đức Giêsu cực lực công kích trong bài Tin Mừng hôm nay.
Nhưng dù sao giữ hình thức cũng dễ hơn giữ nội tâm, cho nên không riêng gì những người Do thái thời xưa, mà cả chúng ta ngày nay cũng dễ mắc thói vụ hình thức và giả hình.
. Thiếu gì người thích làm đám cưới linh đình, lễ cưới có nhiều cha đồng tế nhưng chẳng lo phần giáo lý cho đôi tân hôn bao nhiêu.
. Thiếu gì người cha mẹ già còn sống thì bỏ bê, nói nặng nói nhẹ. Chỉ khi cha mẹ nằm xuống mới lo làm tang lễ um sùm, than khóc bù lu bù loa…
. Thiếu gì người không khuyến khích con cái đi học giáo lý, nhưng tới ngày rước lễ, thêm sức thì tới xin xỏ, làm áp lực cho con mình cũng có mặt trong ngày lễ trọng đại ấy.
. Và thiếu gì người hết sức sùng kính ảnh thánh này, tượng thánh nọ, mà khi đối xử với người khác thì chẳng thấy có chút gì giống tinh thần bác ái vị tha của các vị thánh đó.
Với những kẻ giả hình thời trước cũng như thời nay, lời Đức Giêsu trách cứ vẫn luôn luôn nghiêm ngặt: “Hỡi bọn giả hình, Isaia đã nói thật chí lý về các ngươi rằng: dân này kính ta bằng môi miệng, còn lòng nó thì ở cách xa ta, vì nó sùng kính ta cách giả dối”.
Nhưng thực ra, chúng ta không muốn giả hình mà chỉ vì có bề ngoài thì dễ hơn có bề trong. Bề ngoài và bề trong đều quan trọng, nhưng bề trong quan trọng hơn. Giữ đạo mà không thật lòng mến Chúa yêu người thì vô ích, bởi vì công phúc không phải từ bên ngoài mà tự trong lòng mà ra, không phải do đọc kinh dự lễ mà có nhưng do tâm tình sốt sắng khi đọc kinh dự lễ.
Có một cuốn phim truyền hình mang tên Karmeliuk, kể chuyện một vị anh hùng dân tộc Nga:
Khi ấy nước Nga còn sống trong chế độ nông nô, một số ít phú nông địa chủ chiếm hầu hết đất đai, còn đa số dân chúng không có đất, thì phải đi làm nô lệ cho các phú nông địa chủ trên, đời sống của họ hết sức cơ cực, họ bị bóc lột, đàn áp dã man. Lúc bấy giờ có một chàng thanh niên có tâm huyết tên là Karmeliuk. Chàng cũng là một nông nô, nhưng không chịu nổi cảnh đàn áp, bất công đó nên đã trốn vào bưng biền để cùng với một số bạn tâm huyết khác nổi loạn. Họ tổ chức đánh cướp nhà các phú nông địa chủ và lấy tài sản của chúng đem chia cho các người nghèo. Danh tiếng Karmeliuk loan truyền khắp nước. Có những bài thơ, những bài hát được lưu truyền trong dân gian để ca ngợi chàng. Chàng Karmeliuk trên những dặm đường gió bụi cũng đã gặp gỡ nhiều thanh niên. Lúc đầu họ không biết chàng. Nhưng khi họ hỏi “Anh là ai ?” và Karmeliuk trả lời “Tôi là Karmeliuk”, thì những thanh niên ấy vô cùng sung sướng, bỏ lại sau lưng tất cả để theo chàng. Họ hãnh diện vì đã đi theo một vị anh hùng dân tộc.
Bài Tin Mừng hôm nay, nếu được diễn tả bằng ngôn ngữ thời đại, thì cũng tương tự như câu chuyện trên. Thuở bấy giờ dân chúng đang sống khổ sở, không phải họ chỉ mang một ách nô lệ, mà tới hai cái ách nô lệ: Nô lệ đế quốc Lamã, và nô lệ đế quốc tội lỗi.
Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đi đó đi đây khắp nơi để xoa dịu những cực khổ thể xác, và giải phóng khỏi ách tội lỗi. Có nhiều tiếng đồn, nhiều dư luận về Ngài. Một ngày kia, trên con đường từ Betsaiđa đến thành phố Xêxarê Philip, Đức Giêsu đột ngột hỏi các môn đệ mình: “Còn anh em, anh em nghĩ Ta là ai ?” Các môn đệ bối rối trước câu hỏi đột ngột ấy nên không trả lời được, khi ấy, Phêrô lên tiếng: “Thầy là Đức Kitô”. Đức Kitô, đó là một danh xưng theo tiếng Hy lạp, ý nghĩa của nó, nói theo ngôn ngữ thời nay, chính là “Vị anh hùng giải phóng”. Lời Phêrô nói: “Thầy là Đức Kitô”, có nghĩa là “Thầy chính là vị anh hùng giải phóng mà toàn dân đã từ lâu mong đợi”. Chắc hẳn Phêrô và các bạn ông rất hãnh diện vì được đi theo một vị anh hùng như vậy. Họ dám bỏ lại sau lưng tất cả, nhà cửa, nghề nghiệp, gia đình, vợ con mà không hề tiếc nuối, bởi vì họ đi theo một vị anh hùng, họ vô cùng hãnh diện.
Thế nhưng vấn đề không phải chỉ đơn giản có thế. Đi theo một vị anh hùng không phải chỉ để được hãnh diện, mà còn phải chia xẻ tất cả những gian truân nguy hiểm trên con đường dài mà vị anh hùng ấy đã vạch ra. Trong chuyện Karmeliuk, nhiều thanh niên đã hãnh diện khi được đi theo chàng. Thế rồi gian truân nguy hiểm đã phân họ thành hai hạng: có một người đã không chịu nổi những gian khổ nên cuối cùng đã phản bội, nghe theo âm mưu của địch để đầu độc Karmeliuk, rất may là chàng không chết; hạng thứ hai là những kẻ trung thành với chàng cho đến chết. Thánh Phêrô và các bạn cũng hãnh diện vì đi theo Đức Kitô. Nhưng Đức Kitô phải nhắc họ: Đi theo Ngài không phải chỉ để hãnh diện, mà còn phải cùng Ngài dấn thân vào con đường thập giá đầy đau khổ. Rõ ràng là các môn đệ chưa được biết điều đó, cho nên nghe vậy thì họ sợ nguy ngay. Và một lần nữa Phêrô lên tiếng thay các bạn “Thưa Thầy, đừng, không được như vậy đâu ?” Đức Giêsu nghiêm khắc rầy Phêrô và xác định lại dứt khoát “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá mà theo”. Từ đó trở đi, các môn đệ dần dần hiểu được con đường của Thầy. Nhưng họ cũng phân ra thành hai hạng: một hạng gồm những kẻ trung thành với Thầy cho đến chết, và hạng kia là Giuđa cuối cùng đã phản lại Thầy.
Đoạn kết của câu chuyện Karmeliuk và câu chuyện Đức Giêsu cũng giống nhau: cả 2 đều bị giết. Kể như cả 2 đều thất bại. Nhưng thực ra đó không phải là thất bại, mà là thành công: Karmeliuk đã gây được ý thức giải phóng nơi dân chúng, với ý thức đó, về sau họ đã đứng lên và giành lại được quyền sống cho mình. Còn Chúa Giêsu thì đã vạch ra một con đường cứu thoát rõ ràng: phải dám vác thập giá, phải dám chết đi, rồi sau đó sẽ sống lại và toàn thắng. Con đường ấy ngày nay đang được hàng trăm triệu người đi theo.
Văn hào Dostoevski trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov” có kể lại câu chuyện sau đây: “Vào thời đại của tòa phán quan ở Tây ban Nha, người ta đã dựng những hỏa đài để thiêu sống những kẻ tà giáo. Đức Kitô dịu hiền đột nhiên đến thăm con cái của Người ở Seville, Người về giữa loài người như một dân thường. Đức Giêsu bước xuống những con đường sôi bỏng của thành phố Phương Nam. Nơi đây, mới hôm trước, vị phán quan vĩ đại đã cho thiêu sống trăm tên tà giáo “Ad majorem Gloriam Dei”.
Hỏa đài ngay trước khán đài danh dự có đông đủ vô số triều đình, các hiệp sĩ, các mệnh phụ xinh đẹp và cả Đức Hồng Y giáo chủ. Đức Giêsu nhẹ nhàng bước trên đường bằng dáng điệu trầm tĩnh, nhưng lạ lùng tất cả đều nhận ra Ngài. Dân chúng xô đẩy nhau quấn quít bước chân Ngài. Ngài lặng lẽ vào giữ đám đông với nụ cười và ánh mắt từ bi. Một cụ già mù van xin: “Lạy Chúa, xin cho con được sáng để con nhìn thấy Ngài”. Một cái vẩy rơi xuống và cụ nhìn thấy được. Dân chúng vui mừng chảy nước mắt và hôn lên mảnh đất chỗ Ngài đi qua. Những em bé tung hoa trên lối Ngài đi.
Đức Kitô đứng lại trước giáo đường Seville ngay lúc có đám tang một cô bé bảy tuổi. Cạnh cỗ áo quan màu trắng phủ đầy hoa, người mẹ đang nức nỡ. Trong đám đông có người hô lớn: “Con bà sẽ hồi sinh”. Người mẹ tha thiết: “Nếu đúng là Ngài xin hãy hồi sinh đứa con của con”. Đức Giêsu nhắc lại lời thuở trước: “Talitha Kum” và em bé ngồi lên.
Đúng lúc đó, Hồng Y giáo chủ và phán quan vĩ đại đi ngang qua. Từ xa ông đã thấy hết. Ông thấy chiếc áo quan đặt xuống đất, đứa bé hồi sinh. Mặt ông xịu xuống, mắt ông chớp tia sáng ghê hồn. Ông lấy ngón tay chỉ vào Đức Giêsu và ra lệnh cho bọn lính bắt Ngài. Thế lực ông quá lớn nên ông khuất phục cả quần chúng. Phán quan ra lệnh tống giam Giêsu. Ông vào ngục một mình gặp Ngài. Ông thương cảm nhưng “Luật là luật, trật tự của Giáo Hội phải được bảo tồn bằng mọi giá”. Ông tuyên bố “Tôi chẳng rõ Ngài là ai. Hình như người là Đức Giêsu, nhân danh Giáo hội, Ad majorem gloriam Dei, ngày mai Ngài cũng lên giàn hỏa thiêu”.
Vị phán quan trong câu chuyện trên cũng chỉ đi theo vết xe cũ của các biệt phái và ký lục Do thái.
Bài Tin mừng hôm nay chứng minh điều ấy, Đức Giêsu đang ở Gialilê, các Biệt phái và Ký lục từ Giêrusalem tới, nghĩa là họ phải vượt qua 170 Km đường bộ để chỉ hỏi tại sao các môn đệ Ngài không rửa tay trước khi ăn. Điều đó cho thấy người Do thái rất coi trọng việc tuân giữ các tập tục tiền nhân về vấn đề thanh tẩy.
Thực ra, lúc đầu luật rửa tay trước khi vào nơi thánh dành cho các tư tế. Mục đích là tẩy rửa các ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa. Sau này, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Với suy nghĩ tương tự họ cũng rửa tay trước khi ăn. Ý tưởng này rất cao đẹp vì nó làm cho tôn giáo thâm nhập vào hành vi con người trong cuộc sống.
Khốn thay trong quá trình thực thi luật này, tôn giáo đã thoái hóa đến chỗ chỉ còn giữ nghi thức bên ngoài, nghĩa là ai tuân giữ các nghi thức này thì được xem là đạo đức, là đẹp lòng Thiên Chúa, còn không tuân giữ là phạm tội. Nói như nhà thần học William Barclay: “Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tủy mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác”. Tôn giáo không phải là một mớ luật lệ. Tôn giáo là một diễn tả tình yêu, một phát minh của Thiên Chúa nhân từ.
Thế nên, Đức Giêsu mới vạch mặt sự giả hình của họ, vì họ chẳng quan tâm đến chuyện tẩy rửa trái tim. Họ rửa tay để được an tâm. Họ rửa tay để khỏi phải rửa tâm hồn. Rửa tay thì dễ chứ rửa tâm hồn mới thực là khó. Nhưng cái ô uế thực lại không từ bên ngoài vào, nó ở ngay trong trái tim mỗi người. Đức Giêsu đã kể ra 12 ý định xấu từ trong trái tim. Từ ý định xấu xa sẽ dẫn đến những hành vi tội lỗi. Michael Taeboit nói: “Khi cái dầm tội lỗi ra khỏi mắt ta, tất cả thế giới sẽ tỏa sáng”.
Vậy điều quan trọntg là phải đổi mới trái tim. Đổi mới được trái tim là đổi được tất cả. Điều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta là những việc ấy. Việc đọc kinh dự lễ, suy niệm Lời Chúa, Làm việc bác ái…tự chúng không bảo đảm rằng chúng ta đúng đắn. Nó chỉ trở nên thánh thiện trước mặt Chúa khi những hành động ấy phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Phaolô đã quả quyết: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà tôi không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”.
Trong một buổi cấm phòng, vị linh mục 72 tuổi đã biết đến một cha xứ mới được bổ nhiệm đến một nhà thờ ở tiểu bang Kentucky, không xa một chỗ chạy đua Churchill Downs cho mấy:
Vào ngày Chúa Nhật đầu tiên, cha xứ mới đã giảng về cái xấu của cờ bạc, đánh cá độ và những tai họa do cờ bạc gây nên cho một số gia đình.
Sau Thánh lễ, ông chủ tịch hội đồng giáo xứ liền gọi cha xứ lại và bảo rằng những người dâng cúng cho nhà thờ đa số là những người đua cá ngựa và cờ bạc.
Vào Chúa Nhật thứ hai kế tiếp, cha xứ giảng về nạn hút thuốc và những tai họa do hút thuốc gây nên, như bị ung thư phổi và chết sớm.
Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những người trồng cây thuốc lá, và tiểu bang Kentucky là nổi tiếng nghề này.
Vào Chúa Nhật thứ ba kế tiếp, cha xứ giảng về nạn uống rượu bia và tai họa do rượu bia gây nên cho các gia đình, như gây tai nạn xe cộ và đập phá nhà cửa.
Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những nhà nấu rượu và tiểu bang Kentucky nổi tiếng về công việc này.
Cha xứ thất vọng mới hỏi lại ông chủ tịch rằng: "Vậy tôi có thể giảng về vấn đề gì?" Ông chủ tịch liền trả lời: "Hãy giảng chống lại các nhà chính trị lừa đảo, mà trong giáo xứ chúng ta không có những hạng người này."
Câu chuyện trên nói lên một điểm là nhiều người đi lễ giữ đạo nhưng không thích nghe những điều động đến cuộc sống của họ, không muốn sửa đổi cuộc sống để thực sự sống đạo, sống theo những điều Chúa Kitô dạy.
Đây chính là chủ nghĩa tuân theo luật pháp mà Chúa Giêsu đã lên án kịch liệt trong thời của Ngài.
Để diễn tả những cách đạo đức giả của chủ nghĩa tuân theo luật pháp này, William Barclay đã kể cho chúng ta một câu truyện sau đây. Câu truyện này tả về một người Hồi giáo đuổi giết kẻ thù của anh.
Trong khi đang đuổi giết kẻ thù của mình, người Hồi giáo nghe chuông báo giờ cầu nguyện. Anh liền ngừng ngựa lại, trải tấm chiếu ra, quì xuống và cầu nguyện nhanh bao nhiêu có thể. Sau khi đọc xong lời nguyện, anh liền nhảy lên ngựa và tiếp tục đuổi giết kẻ thù của mình.
Theo đạo không chỉ là làm những gì buộc vào các ngày Chúa Nhật. Không chỉ là giữ một số luật lệ, đọc một số kinh, hoặc làm một vài cử chỉ đạo đức.
Chúa Giêsu đã nói rất rõ theo đạo không chỉ là làm một số nghi thức theo luật buộc vào một số giờ trong ngày. Sống đạo không chỉ là giữ một số luật lệ, đọc một số kinh, hoặc làm một vài cử chỉ đạo đức. Nhưng sống đạo là ở trong tâm hồn. Sống đạo là một việc làm của trái tim kêu gọi yêu mến Thiên Chúa và nhân loại. Chúa Giêsu trưng lại Cựu Ước: "Dân này thờ Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng thì xa Ta".
Hơn nữa, các bài đọc còn mời gọi chúng ta hãy nhìn vào tâm hồn của mình để xét mình coi trong phạm vi nào mà lời của Thánh Giacôbê viết trong bài đọc thứ hai hôm nay áp dụng với chúng ta: "Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chớ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình."
Đoạn Tin Mừng hôm nay khởi đi từ một chuyện nhỏ: chuyện các môn đệ không rửa tay trước khi ăn.
Đối với người Pharisêu, sau khi ra nơi phố chợ, người ta thường trở nên ô uế do đụng chạm. Phải rửa tay, vì tay ô uế làm đồ ăn ô uế, và đồ ăn ô uế sẽ khiến cả con người ô uế.
Đức Giêsu đã long trọng khẳng định: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế" (c.15).
Khẳng định này là một cuộc cách mạng trong Do Thái giáo, bởi lẽ đời sống người Do Thái bị bao vây bởi nhiều cấm kỵ: không được ăn thịt heo, hay thịt thú chết ngạt; không được đụng vào xác chết, vào người phong cùi; không được ăn chung với dân ngoại hay vào nhà người tội lỗi... Đụng vào hay ăn vào là ô uế ngay.
Đức Giêsu đã phạm nhiều điều cấm kỵ, đã phá đổ nhiều bức tường ngăn cách kẻ xấu - người tốt, dân Do Thái và dân ngoại, nam và nữ, nô lệ và tự do... Ngài hồn nhiên đến với những người bị coi là ô uế để làm họ nên sạch.
Thật ra Đức Giêsu chẳng phản đối gì chuyện rửa tay, nhưng Ngài thấy nó có vẻ giả hình vì người ta chẳng để ý đến chuyện tẩy rửa trái tim.
Rửa tay để được yên tâm, mãn nguyện, tránh khỏi phải rửa tâm hồn là điều khó hơn.
Đức Giêsu cho ta thấy cái ô uế thực sự lại không đến từ đụng chạm hay ăn uống. Cái ô uế đáng sợ nằm ngay trong trái tim mỗi người. Nó không từ ngoài vào, nhưng từ trong ra.
Ngài kể ra 12 ý định xấu xa bắt nguồn từ trái tim, ý định xấu dẫn đến hành động không đẹp (cc.21-22).
Cần trở về với trái tim của mình.
Đó không phải là một cuộc dạo chơi, nhưng là một thách đố dám nhìn cái tôi sau lớp mặt nạ.
"Hãy tạo cho mình một trái tim mới" (Ed 18,31).
Đó là lệnh truyền của Đức Chúa, nhưng con người chẳng thể tự mình thay tim. "Ta sẽ thanh tầy các ngươi. Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới" (Ed 36,25tt).
Đổi được trái tim là đổi được tất cả.
Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc nhở Hội Thánh: Truyền thống, luật lệ và nghi thức là điều cần thiết, nhưng không được quên điều cốt tủy của luật Chúa là yêu thương.
Tôn kính Thiên Chúa qua phụng vụ là điều phải làm, nhưng phải đặt trái tim và cuộc sống mình trong đó.
Chúng ta vẫn có thể lẫn lộn cái chính với cái phụ.
"Xin mọi người nghe tôi nói đây và hiểu cho rõ" (c.14).
Đó là lời Đức Giêsu nhắn nhủ đám đông ngày xưa và chúng ta hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn làm một cuộc hành trình vào trái tim của bạn chưa? Bạn thường thấy trái tim của bạn thích những điều gì và sợ những điều gì? Có điều gì sâu kín nơi trái tim mà bạn muốn chia sẻ không?
Hiện nay có những hàng rào hay bức tường nào còn ngăn không cho bạn đến với mọi người?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin dẫn con vào nhà của con, căn nhà của trái tim, căn nhà vừa quen vừa lạ.
Xin hãy cho con thấy những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co, những mâu thuẫn và vô lý nơi con. Xin hãy cho con thấy những nhỏ mọn, ích kỷ, những yếu đuối, khô khan, những cứng cỏi và tự ái nơi con. Xin cho con ý thức những lo âu, sợ hãi đang đè nặng làm con ngột ngạt, những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui, những vết thương không biết bao giờ lành, những đỗ vỡ khiến lòng con khép lại.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con. Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn, hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người, bằng trái tim bao dung của Chúa. Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình, trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn để yêu mến mọi người. Amen.
Tôi nhớ trong một buổi lễ nọ, khi đoàn đồng tế đang đi rước, thì chợt trong đám đông có tiếng nhận xét đầy hãnh diện của một người nào đó: “Lễ hôm nay các cha đông như ma vậy”. Tôi chẳng biết là ma có bao nhiêu con, nhưng chắc là cũng nhiều lắm, vì hôm đó, các cha cũng thật đông. Khi nói các cha đến đông như vậy, người này có ý muốn nói buổi lễ hôm đó thật long trọng. Nhận xét của người này, tôi thiết nghĩ, cũng là của nhiều người trong chúng ta, vì chẳng biết từ bao giờ, trong tâm trí của chúng ta có một suy nghĩ, cứ lễ nào có đông các cha, rước xách linh đình, rầm rộ thì đó là lễ trọng, có giá trị hơn các lễ khác. Chúng ta chỉ dừng lại ở những nghi thức bên ngoài mà quên đi đời sống nội tâm bên trong.
Tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một cái nhìn khác với cái nhìn của chúng ta. Thiên Chúa muốn chúng ta có một lòng yêu mến chân thành đối với Ngài. Và chính lòng yêu mến đó sẽ chỉ cho chúng ta biết phải làm gì đối với Thiên Chúa. Do đó, dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, tôi muốn cùng quý ông bà anh chị em nhìn lại đời sống đạo của mỗi người chúng ta.
1. Từ việc giữ đạo …
Khi nói đến đời sống tôn giáo, thông thường chúng ta nghĩ ngay đến một số các luật lệ và nghi thức. Và chúng ta cũng thường có khuynh hướng đánh giá mức độ đạo đức của một người qua số lần người đó tham dự các lễ nghi, và giữ các luật lệ. Chính vì thế mỗi khi thấy có người nào, không giữ như chúng ta, chúng ta liền phê bình và cho là “khô đạo”.
Đó cũng chính là quan niệm của những người Biệt phái thời Chúa Giêsu. Ngay khi thấy các môn đệ của Đức Giêsu dùng bữa mà không rửa tay theo luật, lập tức các người Biệt phái liền chất vấn Ngài: “Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân, mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?”. Như vậy, thắc mắc của những người Biệt phái không phải là vấn đề vệ sinh, nhưng là “tập tục của tiền nhân”. Chúng ta biết rằng: Đối các người Biệt phái, trước khi ăn, họ phải rửa từ khuỷu tay trở xuống hai lần. Lần thứ nhất vì tay bẩn, và lần thứ hai là để tẩy rửa nước của lần rửa thứ nhất đã bị bẩn vì đã dính vào tay bẩn của mình.
Đứng trước chất vấn của họ, một chất vấn chỉ dựa vào nghi thức bên ngoài, Đức Giêsu đã lên tiếng cảnh cáo họ:
“Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lí về các ngươi, như lời chép rằng: “Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta…”.
Đức Giêsu còn tuyên bố rõ rằng: chỉ có những gì từ bên trong ra mới làm cho con người ta ra ô uế, chứ không phải là những điều từ bên ngoài vào:
“Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho con người ta ra ô uế”.
Những người Biệt phái đã cắt nghĩa và thêm vào thật nhiều chi tiết tỉ mỉ, trong khi đó, điều quan trọng là giới luật yêu thương của Thiên Chúa, thì họ lại bỏ qua.
Họ quên mất lời nhắc nhở của Môisen trong sách Đệ Nhị Luật:
“Các ngươi chớ thêm bớt điều gì trong các điều ta đã truyền, nhưng hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi mà ta đã truyền dạy các ngươi”.
Họ đã thêm quá nhiều điều phụ và chỉ dừng lại ở đó mà quên đi điều chính yếu. Họ quên mất rằng: Đối với Thiên Chúa, Ngài muốn từng người chúng ta đến với Ngài bằng cả tấm lòng, và trọn vẹn con người của chúng ta, chứ không chỉ là những nghi thức rầm rộ ở bên ngoài.
Chỉ dừng lại ở những nghi thức, lề luật nơi Nhà thờ mà quên đi việc phải sống Lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày cũng là điều mà tôi và quý ông bà anh chị em rất dễ mắc phải.
Thực ra, có lẽ chúng ta chẳng muốn sống giả hình, nhưng vì giữ những nghi thức đó xem ra dễ hơn là sống những đòi hỏi của Thiên Chúa. Chúng ta chỉ mới giữ đạo, chứ chưa sống đạo. Chúng ta chưa để Tin mừng của Chúa biến đổi cuộc sống của chúng ta; chính vì thế, chúng ta vẫn còn phải nghe những nhận xét thật đau lòng của anh chị em chưa tin: “Tin đạo chứ không tin người có đạo”. Họ không tin chúng ta, vì chúng ta chưa thật sự sống điều chúng ta tin.
2. … đến việc Sống đạo:
Nếu chỉ lo giữ những nghi thức bên ngoài, mà không có một tấm lòng chân thật bên trong, những nghi thức này sẽ không bền vững, thậm chí, chúng còn dẫn chúng ta đến một thói xấu khác là kiêu căng, là tự phụ, là dễ kết án người khác….
Ý thức điều đó, Môisen đã nhắc nhở dân Israel: “Hỡi Israel, giờ đây hãy nghe các lề luật và huấn lệnh mà ta dạy bảo các ngươi phải thực hành để được sống”.
Môisen nhắc cho dân biết rằng để mãi mãi được sống trong tình yêu của Thiên Chúa và được Ngài giữ gìn, thì họ phải sống điều Thiên Chúa dạy, chứ không chỉ nghe xuông, hay là chỉ giữ những gì con người nghĩ ra.
Như thế để được sống, chúng ta không chỉ nghe, nhưng cần đem Lời Chúa ra sống ngay trong cuộc sống hiện tại hàng ngày của chúng ta cách cụ thể, như lời thánh Giacôbê: “Anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác, anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh Lời đã gieo trong lòng anh em … Lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền đối với Thiên Chúa Cha là: thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế đời này”
Không những bản thân chúng ta sống Lời Chúa, nhưng mỗi người còn có bổn phận thông truyền và giúp đỡ cho người khác cùng sống Lời Chúa, nhất là những người thân trong gia đình của chúng ta, như lời dạy của Môisen:
“Các ngươi hãy ý tứ và giữ mình. Trong suốt đời các ngươi đừng quên và đừng để lòng xao lãng những điều các ngươi đã thấy. Hãy dạy cho con cháu các ngươi biết các điều ấy”.
Sống Lời Chúa chính là sự bảo đảm cho chúng ta có được một tâm hồn bình an và nhất là giúp chúng ta ngày càng đến gần với Chúa hơn. Chính tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca, với kinh nghiệm sống của mình, cùng với sự soi sáng của Thánh Thần đã khẳng định điều đó, khi nêu lên câu hỏi:
“Lạy Chúa, ai được cư ngụ trên núi thánh của Chúa?”.
Và tác giả cũng đã đưa ra cho chúng ta câu trả lời:
“Đó là người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống; người không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận”.
Chúng ta cần tin tưởng và sống theo Lời Chúa, lời của Đức Kitô, bởi vì đây là con đường duy nhất đưa chúng ta đến sự sống đời đời, như lời Ngài đã khẳng định:
“Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
Lắng nghe Lời Chúa hôm nay, là cơ hội để mỗi người chúng ta kiểm điểm lại cuộc sống của mình trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta nghe Lời Chúa mỗi tuần, thậm chí là mỗi ngày, nhưng chúng ta đã có lần nào can đảm sống những đòi hỏi của Chúa chưa?
Mỗi lần tham dự Thánh lễ, là mỗi lần chúng ta tham dự vào hiến tế tình yêu để lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Thế nhưng, khi trở về nhà, chúng ta vẫn nói hành, vẫn sống gian dối, vẫn còn chia bè, lập phái, và chưa sẵn sàng để tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta. Như thế, phải chăng chúng ta đang tự lừa dối chính mình và người khác, như lời thánh Giacôbê:
“Anh em hãy thực thi Lời đã nghe, chớ đừng nghe xuông mà lừa dối chính mình”.
Chớ gì, với sự trợ lực của Thánh Thể, khi rời ngôi Thánh Đường này, để trở về nhà, từng người chúng ta luôn sẵn sàng thực hiện những điều Chúa dạy chúng ta trong từng ngày sống của mình. Amen.
Luật Chúa được ban ra nhằm hướng dẫn đời sống con người, thăng tiến hoá con người, và nhắc nhở cho loài người bước đi theo đường lối chính trực. Tuy nhiên những người Biệt phái và kinh sư trong Phúc âm hôm nay đã đi lạc đường. Trong Phúc âm Chúa cảnh giác thái độ giả hình của người Biệt phái và kinh sư vì họ chỉ giữ luật vì luật. Họ giữ luật theo hình thức bên ngoài, nhưng tâm hồn họ xa Chúa, và họ còn sống đời bất công. Những người Biệt phái quan sát một số môn đệ của Chúa dùng bữa mà không rửa tay trước. Mối bận tâm của họ không có liên quan đến vấn đề vệ sinh, nhưng chỉ là hình thức đạo đức bề ngoài. Họ nhấn mạnh đến việc rửa tay bên ngoài, mà không quan tâm đến việc tẩy rửa tâm hồn bên trong. Vì thế việc rửa tay bên ngoài của họ là một việc làm trống rổng, không có ý nghĩa và không có giá trị thiêng liêng.
Trong bài trích sách Đệ Nhị Luật, Môi-sen đã dạy họ: Hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi ( Đnl 4:2). Đến hôm nay Chúa cảnh giác những người kinh sư và Biệt phái vì họ bỏ qua giới răn Chúa để bám víu lấy những tập tục của tiền nhân (Mc 7:8). Và Chúa trích lời tiên tri Isaia để quở trách họ: Dân này chỉ thờ ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta (Mc 7:6).
Chúa cũng dùng cơ hội này để cảnh giác dân chúng và các môn đệ là Chỉ có gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất ra những ý định xấu xa: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ bánh, kiêu ngạo, ngông cuồng (Mc 7:21-22). Ta có thể tự mãn về một vài việc đạo đức bên ngoài, đến độ quên mất những vấn đề quan trọng và thiết yếu hầu để duy trì đức tin và thực hành đức ái. Vậy ta cần dùng những cơ hội có thể để tự xét và tự kiểm. Kết quả về việc tự xét và tự kiểm về đời sống thiêng liêng, có thể làm ta hài lòng hay không hài lòng. Tuy nhiên ta phải trung thực với lòng mình, nghĩa là phải biết chấp nhận sự thực về mình dù sự thật có đau lòng. Nếu tự xét, ta có thể khám phá ra cái thái độ giả hình của người Biệt phái và kinh sư cũng có thể ăn rễ sâu trong đời sống đạo đức của ta. Ta có thể tuân giữ luật Chúa mà không do nội tâm, không do lòng mến thúc đẩy, như là giữ luật Chúa vì sợ tội, giữ luật Chúa để được tiếng khen là mình đạo đức chứ không phải vì lòng mến. Hôm nay, ta hãy cầu nguyện:
Lạy Chúa là Đấng thông biết mọi sự, Chúa thấu suốt lòng con. Chúa là Đấng đáng tôn thờ, chúc tụng, ngợi khen và cảm mến
Xin tha thứ
* những lần con chỉ thờ Chúa bằng môi miệng bên ngoài, mà lòng con xa Chúa, * những lần con cầu nguyện cách máy móc mà thiếu tâm tình xác tín. * những lần con chỉ đóng vai trò bàng quan mà không thực sự tham dự vào việc thờ phượng.
* những lần con tiếc rẻ thời giờ với Chúa bằng cách luôn đi lễ trễ và ra về sớm
Xin tha thứ
* những lần con quá quan tâm đến lỗi lầm của ngưòi khác
* những lần con nhạo cười người khác khi họ bày tỏ đức tin bằng lòng đạo đức chân thành
Lạy Chúa, xin thương xót con theo lượng từ bi của Chúa. Xin giúp con thiết lập được mối liên hệ gần gũi với Chúa đễ những lời cầu nguyện và ca tụng của con được đi đôi với việc làm.
Xin Chúa đến ngự trị trong tâm hồn con. Xin Chúa là niềm vui, niềm hi vọng và là nguồn ơn cứu độ đời con.
Từ ngàn xưa, dân của Chúa đã hiên ngang, hãnh diện và ưng ý vì họ có lề luật, có giới dân của đạo giáo, của Thiên Chúa được Môsê lãnh nhận nơi tay của Ngài và chính Môsê đã truyền lại cho dân. Dân Chúa phải tuân thủ những điều luật, những khoản luật để có thể trung thành với giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với dân của Người. Qua những huấn lệnh, giới răn, các khỏan luật như bài I sách Đệ Nhị Luật trích đọc cho thấy đây là biểu trưng cho”sự khôn ngoan và sáng suốt” của dân Thiên Chúa giữa muôn vàn dân tộc khác trên thế giới này.
Đạo của Chúa chỉ gồm tóm trong hai giới luật:” Mến Chúa và Yêu Tha Nhân” đã từ từ bị biến hóa trở thành những điều khoản luật nặng nề chồng chất trên vai người khác. Bài Tin Mừng của thánh Máccô 7, 1-8.14-15.21-23 chỉ rõ cho thấy sự biến dạng của lề luật.
BIỆT PHÁI, LUẬT SĨ, NH”NG NHÀ THÔNG LUẬT BẮT BẺ CHÚA:
Cái trớ trêu của Tin Mừng vạch ra vẫn là các nhà thông luật, các biệt phái và luật sĩ đã quá rõ Tin Mừng muốn họ làm gì. Nhưng sự nực cười ở đây là các hạng người này đã nhắm mắt làm ngơ trước lời mời gọi của Chúa, trước lòng từ bi, nhân hậu, trước lòng chạnh thương, cảm thông của Chúa đối với nhân loại.
Thay vì “ Ách của Ta êm ái, gánh của Ta thì nhẹ nhàng” như lời Thầy chí thánh Giêsu chỉ bảo. Họ đã bầy ra theo ý họ nhiều điều khoản luật rất tỉ mỉ, để bắt dân thực hiện, chứ họ không hề đưa ngón tay lay thử. Họ vẫn xúng xính trong bộ áo thụng, đeo thẻ kinh rủng rỉnh bên tay áo và ưa người khác chào họ bằng Thầy, bằng người Chỉ đạo, hướng dẫn, chỉ huy. Vì thế, có những luật lệ thông thường muốn giữ hay không tùy ý, không hề mắc lỗi gì, nhưng họ đã làm cho nó trở nên nghi lễ, nghi tiết tôn giáo và họ đánh giá sự đạo đức của con người qua những nghi lễ do chính họ qui định cách máy móc. Trong đoạn Tin Mừng này, họ bắt bẻ Chúa Giêsu và các môn đệ của Người không rửa tay trước khi dùng bữa. Rửa tay trước bữa ăn là một việc làm hợp vệ sinh, một việc thông thường hoàn toàn tự do, không có tính cách bắt buộc. Trong đời sống thường ngày, cha mẹ vẫn thường nhắc nhở con cái phải giữ vệ sinh:rửa tay trước khi ăn, rửa chân trước khi đi ngủ, tắm rửa cho khỏe, cho sạch cho mát. Nhưng rửa tay và tắm rửa ở nơi công cộng về, trước khi vào bàn ăn đã không còn là vấn đề vệ sinh thông thường mà đã trở thành nghi lễ tôn giáo theo nhãn giới và truyền thống của biệt phái và luật sĩ. Người biệt phái không châm chước cho một số môn đệ của Chúa Giêsu ăn cơm mà không rửa tay trước. Dưới con mắt của họ làm như thế các môn đệ của Chúa Giêsu đã vi phạm lớn đối với những qui định, những nghi tiết của cha ông. Vì thế, sự vi phạm này sẽ không thể nào được bỏ qua.
QUAN ĐIỂM CỦA CHÚA GIÊSU ” Đấng đến để kiện toàn lề luật “:
Chúa Giêsu là một một con người hoàn toàn tự do, một con người giải phóng, một con người hoàn toàn có quan niện mới, cái nhìn mới, cái nhìn thông thoáng về lề luật, Ngài chống lại những con người giả hình, vụ hình thức, những con người chỉ áp đặt trên vai những người khác ách nặng nề của lề luật do họ nghĩ, do họ bầy đặt ra mà quên đi cái cốt lõi là con tim của mình. Chúa Giêsu bảo vệ điều răn của Thiên Chúa, chống lại những thay thế truyền thống của người phàm trần. Chúa chống lại các nghi tiết thời Người đang sống vì lúc đó con người, xã hội, nhất là những biệt phái và luật sĩ quá chú trọng đến bề ngoài mà quên đi cái cốt lõi của Đạo là tình thương, là cảm thông, tha thứ, quảng đại.
Cái chính yếu ở đây không có nghĩa là chú trọng giữ cái bề ngoài như rửa tay trước bữa ăn, mà là mến Chúa và yêu thương tha nhân. Đối với Chúa Giêsu giữ tỉ mỉ, chi tiết từng khoản luật mà quên đi cái cốt lõi của đạo là lòng mến: đó là giả hình. Chúa Giêsu đã từng vạch mặt chỉ tên những kẻ giả hình dù họ thuộc hàng chóp bu lãnh đạo tôn giáo, hay họ là những kẻ cầm cân nẩy mực trong lãnh vực tôn giáo. Chúa Giêsu đã từng tuyên bố:” Ngài đến không phải để phá lề luật mà để làm cho nên trọn”. Chúa Giêsu mời gọi con người tuân theo điều, và những gì Thiên Chúa đã thiết lập, truyền cho dân phải tuân giữ.
NGƯỜI KITÔ HỮU ĐƯỢC MỜI GỌI THỰC THI LỀ LUẬT:
Ở muôn thời, người Kitô hữu vẫn không tránh khỏi những cám dỗ làm lấy lệ, giữ đạo cho qua. Đạo của Chúa không phải chỉ đọc đôi ba kinh trong nhà thờ, tới nhà thờ dự lễ, cầu kinh là đủ, để khỏi áy náy lương tâm. Đạo cốt thiết là đạo tình thương: chính từ trong phát xuất ra những điều tốt và những điều xấu. Những việc làm từ thiện, bác ái, những việc đạo đức bề ngoài xem ra rất có giá trị nếu chúng được làm với con tim, với ý ngay lành, với việc tuân thủ ý của Thiên Chúa. Chúa Giêsu, các ngôn sứ, nhất là Isaia đã từng nhắc nhở:”
Dân này chỉ thờ phượng Ta ngoài môi miệng, còn lòng trí của chúng thì xa Ta” và Isaia nhấn mạnh:”...Hãy chấm dứt làm điều dữ. Hãy học làm điều lành... Hãy bênh vực những kẻ goá bụa, mồ côi, neo đơn” và thánh Giacôbê trong bài đọc 2 đã viết:” Lòng đạo đức tinh tuyền và không chê trách được trước mặt Thiên Chúa Cha, ấy là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cơn cùng khốn, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian”( Gc 1, 27 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống và thực thi cái cốt lõi của đạo là Tình Thương.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Luật sĩ, biệt phái quan niệm thế nào về lề luật ? 2. Chúa Giêsu nghĩ gì về lề luật ? 3. Bạn hiểu sao về lề luật ?
Người ta kể một luật sĩ nổi tiếng tên là Aquila đã chịu chết đói trong tù, chứ không chịu ăn vì không có nước rửa tay. Thời nay coi luật sĩ đó là cuồng tín, khùng điên, nhưng người Do thái thời đó đã tôn vinh ông như một đấng thánh tử đạo.
Thời nào cũng có hạng người cuồng tín như thế. Có hàng ngàn hàng ngàn người cuồng tín theo những giáo phái, những chủ nghĩa, những chế độ để rồi lao mình vào chỗ chết như con thiêu thân. Con thiêu thân đã lao mình vào lửa, tưởng đó là ánh sáng vinh quang của nó.
Những người Phát xít Đức, Phát xít Nhật đã cuồng tín theo chủ thuyết chủng tộc thống trị thế giới, đã lao mình vào lửa chiến tranh, và thiêu thân hàng chục triệu người. Bao nhiêu người đã hy sinh chết cho những bạo chúa như Tần thủy Hoàng, Nerôn, cho những kẻ độc tài dã man như Hít-le, Stalin, Pôn-pốt … Họ đã nắm giữ những giáo điều, những giới luật của phàm nhân.
Những Pharisiêu, luật sĩ Do thái cũng bị mê hoặc theo các giáo điều của tục lệ tiền nhân để trói buộc dân chúng vào những luật lệ khắt khe như tục lệ thanh tẩy, rửa tay trước khi ăn, ở nơi công chúng về phải tắm rửa. Tắm rửa phải lấy nước ở bình đồng, bình sành, hay bình gỗ, tùy nố luật dạy, phải rửa từ khuỷu tay trở xuống hay phải giặt cả quần áo, phải rửa hai lần: một lần rửa tay bẩn, một lần rửa lại cho sạch hết nước bẩn dính ở tay. Tắm rửa rồi, còn tùy từng trường hợp được sạch ngay hay tới chiều, tới tối mới được sạch.
Luật thanh tẩy được coi là luật thánh của tôn giáo, chứ không phải là phép vệ sinh giữ gìn sạch sẽ bình thường. Ai vi phạm là mắc trọng tội như tội ngoại tình, đáng phải ném đá, hay bị khai trừ khỏi quốc giáo. Vì tính cách quan trọng như thế, cho nên không lạ gì các thầy Pharisiêu và luật sĩ của thủ đô Giêrusalem phải chính thức thân hành đến kiểm tra, xem xét, hạch tội Chúa Giêsu và các môn đệ để có lý do tố cáo và kết án: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa”. Đức Giêsu đã trưng dẫn lời tiên tri Isaia để trả lời họ, giúp họ thấy việc tôn thờ Thiên Chúa của họ vô ích và giả hình, họ chỉ dạy tục lệ phàm nhân.
Sau đó, Người gọi dân chúng lại để phân biệt cho họ thấy đâu là nguồn gốc sinh ra tội lỗi, đâu là không. Những cái bên ngoài vào trong con người, không biến con người thành ô uế tội lỗi được. Từ lòng con người xuất ra mới làm con người mắc tội như tà dâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ghen tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.
Tuy nhiên, với sứ mệnh là Đấng Cứu Thế, Đức Giêsu còn đi xa hơn nữa, Người cương quyết cởi trói nhân loại khỏi luật lệ vô nhân đạo của truyền thống loài người để thăng tiến con người sống theo luật bác ái, luật phổ biến và luật Thiên Chúa.
1. Vì bác ái, Đức Giêsu đã bảo vệ những con người bị loại trừ khỏi hội đường Do thái. Những người bị coi là phường tội lỗi, thu thuế và ô uế. Người ngồi đồng bàn với quân thu thuế và tội lỗi. Người nói chuyện với phụ nữ Samaria có bảy đời chồng. Người tha thứ cho người ngoại tình mà họ muốn kết án ném đá. Người đón nhận anh mù từ khi mới sinh bị hội đồng Do thái khai trừ.
2. Vì Tin mừng cứu độ được phổ biến cho muôn dân, Đức Giêsu đã giải thoát khỏi cái ách tục lệ của Do thái. Người đã đào tạo các môn đệ đi với Người đến với lương dân miền Thập tỉnh, miền Samaria, và người La mã. Người đến cứu thoát người lương dân bị quỷ ám hành hạ cực khổ miền Giêrasa. Người nêu gương nhân hậu của người Samaria đã cứu kẻ bị cướp đánh nằm nửa sống nửa chết giữa đường. Người tuyên bố chưa từng thấy ai trong dân Israel có đức tin mạnh mẽ như viên đại đội trưởng Rôma. Trước khi về trời, Người truyền dạy cho các môn đệ phải đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân, chứ không thể sống hẹp hòi, cố chấp, kiêu ngạo như Pharisiêu và luật sĩ coi chư dân là vô đạo, Samaria là ô uế, Rôma là kẻ thù. Luật Do thái dạy: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới là con cái Cha ngự trên trời, là Đấng đã cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống cho người công chính cũng như kẻ bất chính … Vậy anh em hãy nên toàn thiện như Cha anh em trên trời” (Mt. 5, 43-45 … 48).
3. Vì luật toàn thiện của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã bác bỏ những luật bất toàn của phàm nhân. Người đã chống lại luật thanh tẩy giả hình bên ngoài và dạy phải thanh tẩy tâm trí bên trong. Người cứu chữa kẻ tàn tật để vạch ra những mù quáng của biệt phái hiểu sai lầm về ngày nghỉ lễ Sabat. Người cảnh cáo lối thờ phượng Thiên Chúa bằng môi, bằng miệng mà lòng thì xa Thiên Chúa. Người đuổi những con buôn biến đền thờ thành hang trộm cướp do những tư tế lạm dụng lễ thánh để trục lợi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sẵn sàng chịu chất vấn, tra hỏi của những kẻ cuồng tín theo luật lệ phàm nhân, để rao giảng Tin mừng, loan báo luật bác ái và sự toàn thiện của Thiên Chúa cho muôn dân được cứu độ. Xin soi sáng cho chúng con biết cởi bỏ những đam mê cố chấp, những thành kiến mù quáng phàm trần, để thực thi công bình, bác ái và nên hoàn thiện như Cha chúng con ở trên trời.
Chẳng phải vì tình yêu Thiên Chúa hay vì lòng nhiệt thành với lề luật mà những người Biệt Phái vất vả đi từ Giêrusalem tới Galilea để tìm gặp Chúa Giêsu. Họ đã nghe đồn thổi nhiều về nhân vật tiểu tốt này. Giáo lý của ông ta thật nguy hiểm cho nền đạo chính thống nên họ không tiếc công tới để gài bẫy ông, làm cho ông cụt hứng, bẽ mặt trước đám đông ít học và không am tường lề luật. Từ đó, uy tín của ông tan thành mây khói. Ông không thể tiếp tục gieo rắc sai lầm trong dân chúng nữa. Nền giáo lý cổ truyền được bảo vệ. Tuy nhiên họ lại không dám đối mặt trực tiếp với Chúa Giêsu, thay vào đó họ tấn công các môn đệ của Ngài.
Vấn đề được đưa ra tranh luận hôm nay là về các “cổ lệ của cha ông”: Rửa tay trước khi ăn uống, rửa đồ sành đồ gốm khi có người ngoại giáo sờ vào: “Sao môn đệ của ông không theo truyền thống tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa”. Đây là những cổ lệ, giải nghĩa sách Ngũ Kinh. Người Do Thái lập ra những tục lệ ấy để bảo đảm lề luật của Môsê không bị vi phạm. Sau này nó biến thành nghi lễ mọi người phải tuân thủ hàng ngày, mất hẳn tính đạo đức bên trong, chỉ còn hình thức bên ngoài. Các chuyên viên Kinh Thánh gọi là tính luật pháp hay nghi lễ. Chúa Giêsu mộc mạc hơn, nói là thói giả hình. Nếu không cảnh giác cao độ, ngày nay chúng ta cũng dễ mắc vào bệnh hình thức này. Cử hành các lễ nghi, nhưng tâm tình trống rỗng, vụ hình thức, vụ lề luật, sơ cứng tư duy, hoạt động tích cực để trấn áp tiếng trách móc của lương tâm& Công bằng mà nói, những người biệt phái có lẽ còn ngay thẳng hơn chúng ta. Sở dĩ họ chống đối Chúa Giêsu vì không biết xuất xứ của Ngài. Mặt khác, họ nghĩ rằng làm như thế là giúp đỡ dân chúng tuân thủ đúng luật Maisen, tránh cho đám bình dân khỏi lầm đường lạc lối. Cả hai thư, lề luật và tập tục cổ truyền đối với họ đều thánh thiêng như nhau. Cả hai đều là quà Thiên Chúa tặng, có khả năng ban sự sống và khôn ngoan. Các môn đệ Chúa Giêsu vi phạm là Chúa Giêsu đã đồng tình cho phép phá bỏ lề luật. Sự thật, Chúa Giêsu vẫn tôn trọng quyền bính của lề luật. Đã có lần Ngài tuyên bố Ngài đến để làm trọn lề luật chứ không phá bỏ. Nhưng Ngài không đặt các “tập tục của loài người” ngang hàng với Lề luật Môsê. Đối với Ngài, luật căn bản là “tình yêu”. Luật Môsê được ban hành là nhằm nuôi dưỡng và thăng tiến tình yêu, chứ không phải áp chế người vô tội. Tư tưởng của sách Đệ Nhị Luật trong bài đọc một hôm nay xác định rõ điều đó: “Anh em đừng thêm gì vào điều tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em.”
Các nhà khảo cổ và nhân chủng học mới đây khám phá rằng: Lề luật mà các Biệt phái đưa ra thuộc loại “Truyền Thống lớn”, tức nghiêm ngặt, mà chỉ những hạng ưu tú trong các thành phố mới có thể giữ được. Rửa tay trước bữa ăn không phải vì vệ sinh mà hoàn toàn là nghi lễ, không dễ gì giới bình dân hoặc người ở thôn quê giữ được vì khan hiếm nước. Do đó, những người ở giai cấp thấp phát triển “Tập Tục nhỏ”, dẫn xuất từ truyền thống lớn, tuy rằng có một vài khuyết điểm. Các môn đệ Chúa Giêsu tuân theo truyền thống thứ hai này, nhưng những người biệt phái xem đó là phá bỏ lề luật, thách thức quyền bính của họ. Vì thế, họ gây sự với Chúa Giêsu. Nhưng tập tục nhỏ được đa phần dân chúng tuân theo, cho nên Chúa Giêsu bênh vực các môn đệ, gọi họ là “vô tội” ( Xin xem thêm John Pilch: Văn hoá Do Thái thời Chúa Giêsu trang 130-131).
Tự bản thân, luật Môsê là thánh thiện, là hiến chương căn bản của đạo Do Thái, chứ không phải mang tính chất hình thức lịch thiệp bề ngoài. Xin đừng quên điều đó. Hôm nay Chúa Giêsu phản đối người Pharisiêu về cách thức họ chú giải lề luật. Đối với Ngài, luật Môsê rõ ràng, không cần thêm thắt hay chuyển dịch ý nghĩa như các thầy kinh sư thường làm, vô tình họ bẻ cong mục tiêu nguyên thuỷ của lề luật. Thiên Chúa mạc khải tình yêu cứu rỗi của Ngài qua lề luật, chứ không phải nô lệ hoá tuyển dân. Cho nên mục tiêu của lề luật là thăng tiến tự do, yêu thương và phát triển các mối dây quan hệ tốt giữa cộng đồng dân Chúa và với Thượng Đế, Đức Chúa của họ. Người biệt phái không có não trạng đó. Đối với họ lề luật là nguồn mạch quyền bính họ nắm trong tay để thống trị kẻ khác. Nó là phương tiện hữu hiệu để trục lợi và tham lam. Họ cảm thấy “ưu tuyển” hơn tầng lớp dân đen. Như vậy, Chúa Giêsu đã nhìn ra ý đồ đen tối của các thầy thông luật, họ đã biến đổi nó thành khí cụ giết chết chứ không phải nuôi sống. Hậu quả là họ sẽ dùng kỹ thuật chú giải lề luật của họ mà đưa Chúa Giêsu lên thập giá. Nghe thì vô lý nhưng đó là sự thật. Lịch sử nhân loại cũng đầy vết đen như vậy, người ta nhân danh tôn giáo, Thiên Chúa để tàn sát những người vô tội. Bằng một lý giải có tính thuyết phục cao, Chúa Giêsu đã làm cho các thầy biệt phái và kinh sư im lặng. Họ bực tức trở về Giêrusalem nghiền ngẫm cơ hội khác. Chúa Giêsu tiếp tục giảng dạy đám đông: “Xin mọi người nghe tôi đây và hiểu cho rõ: không có cái gì vào trong con người mà lại làm cho con người ra ô uế được, nhưng chính những cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế”. Ngài chuyển đổi chi tiết của việc ăn uống, từ cách thức ăn uống sang các đồ vật ăn uống. Ngài chú trọng đến khía cạnh luân lý của vấn đề chứ không phải sự thanh sạch theo nghi thức. Người biệt phái bị Chúa Giêsu kết án bởi lẽ trái tim họ đã ra chai đá và những tư tưởng nhơ bẩn phát xuất từ trái tim đó chứ không phải những thứ bề ngoài. Họ đã vội vã chỉ trích các môn đệ của Ngài về những điều vụn vặt, không căn bản. Họ chất lên vai quần chúng những gánh nặng không cần thiết mà trong hành động họ không thực hành. Họ là hạng người đồi bại về luân lý và nếp sống của họ chứng tỏ như vậy.
Thường thường thánh sử Marcô không thích đi vào chi tiết. Văn của ông cụ thể, mạnh mẽ, trực tiếp, có khi sai văn phạm, miễn là đạt được ý tưởng. Nhưng ở điểm này, thánh nhân lại khá kỹ lưỡng trong việc mô tả những tập tục của người Do Thái. Có thể thánh nhân nhận thức được ông viết ở Rôma không chỉ dành riêng cho các kiều dân Do Thái, mà cho nhiều hạng người khác nữa. Họ cần thấu hiểu vấn đề và các lời chỉ trích của Chúa Giêsu về đức tin không chân thật của các kinh sư và biệt phái. Chúa Giêsu thẳng thừng gọi các đối thủ của mình là những kẻ giả hình (hypocrites). Từ này nguyên thuỷ áp dụng cho các diễn viên kịch nghệ. Họ làm hề, đóng vai kẻ khác. Người biệt phái giả vờ đạo đức để chiêu mộ bàn dân thiên hạ. Kỳ thực, họ thiếu hẳn tinh thần tôn giáo, tức đức tin chân chính. Đối với Chúa Giêsu vấn đề then chốt là nội dung của con tim. Trong toàn bộ Thánh Kinh, trái tim là nguồn mạch tình cảm, đam mê và tri thức. Người ta gặp gỡ Thiên Chúa trong trái tim mình, nghe lời Ngài và đàm đạo với Ngài cũng ở trong trái tim. Trái tim trong sạch là dấu chỉ của linh hồn thánh thiện. Trái tim nhơ bẩn là kết quả của một lối sống bê tha. Ngày nay cũng vậy thôi. Người ta đánh giá một nhân vật theo trái tim chứ không theo kiến thức. Kiến thức khoa học, thần học, triết học, tâm lý& chưa bảo đảm con người là tốt. Cần phải huấn luyện con tim công bình, bác ái, yêu thương. Đối với các tác giả Kinh Thánh phẩm chất của trái tim nói lên chúng ta có tương giao với Thượng Đế ra sao. Tuy nhiên Chúa Giêsu đòi hỏi nơi tín hữu nhiều hơn là một trái tim thanh sạch. Tôn giáo đích thực không chỉ là một cuộc hoán cải cá nhân suông, một dịch vụ giữa tôi với Chúa Giêsu, mà là các hành động bắt nguồn từ trái tim: “vì từ bên trong, từ lòng người phát xuất ra những ý định xấu: tà dâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình, tham lam, xảo trá, độc ác, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”. Hành động tốt chứng tỏ chúng ta ở trong tương giao hoàn hảo với Thiên Chúa. Nếu như trái tim chúng ta xấu, ắt hẳn các hành động sa đoạ nảy sinh. Cho nên ở một nơi khác trong phúc âm Chúa Giêsu dạy: “Hãy xem quả ắt sẽ biết cây, cây xấu không thể sinh trái tốt và cây tốt không thể sinh trái xấu.” (Mt 7,17) Còn ở đây Chúa Giêsu dạy, chính các hành động sẽ tố cáo chúng ta.
Trong bài đọc một và bài Phúc âm hôm nay, cả hai vị, ông Môsê và Chúa Giêsu đều kêu gọi đám đông: “Hãy nghe tôi đây”. Ông Môsê thay mặt Thiên Chúa truyền mười giới răn. Chúa Giêsu ban luật thanh sạch. Cả hai đều biểu lộ ý muốn của Thượng Đế là con người được hạnh phúc, tự do và thánh thiện, không giả hình, không kiêu căng: “Như vậy anh em sẽ được sống và sẽ vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em ban cho anh em& Anh em phải giữ và đem ra thực hành vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh,” vượt xa mọi khả năng hiểu biết của loài người. Mọi quốc gia sẽ nhận ra rằng quả thực dân Israel đã hiểu biết và sống thân mật với Thiên Chúa, Thượng Đế của họ. Bài đọc hai, thánh Giacôbê cũng khuyên nhủ lắng nghe Lời Thiên Chúa: “Anh em hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em, Lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối mình.” Nghĩa là thánh nhân muốn nói, Lời Chúa trước tiên thâm nhập và đổi mới trái tim chúng ta, sau đó nó biến thành hành động yêu thương, bác ái, công bình...
Tóm lại, người Biệt phái ngỡ rằng chi li tuân thủ lề luật là đương nhiên được ơn cứu rỗi. Tiếp theo tư tưởng của Môsê, Chúa Giêsu mạc khải ý muốn của Thượng Đế là con người được cứu độ. Cho nên mọi người phải mở rộng lòng mình ra để đón nhận Lời Chúa, để cho lời đó biến đổi trái tim và thực hiện những thay đổi có ý nghĩa trong cuộc sống. Trước Thánh Thể, chúng ta cũng là đám đông nghe lời Chúa Giêsu. Chúng ta cũng có các bài giảng, lời hiệu triệu, chúng ta cũng được Ngài kêu gọi: “Hãy nghe Ta.” Đôi khi chúng ta sợ hãi trước những đòi hỏi của Chúa Giêsu. Nhưng lương thực thiêng liêng chúng ta sắp lãnh nhận sẽ giúp đỡ chúng ta ngày một trở nên can đảm “thực hành lời Chúa, chứ đừng nghe suông mà lừa dối mình” Amen.
Ý đẹp: Đối với các nhà giảng thuyết, im lặng là cần thiết và quý báu. Bởi lẽ linh hồn lúc ấy mới in được bóng hình chân lý, giống như mặt nước hồ ao, có phẳng lặng mới in được bóng trăng. Hơi gợn sóng là bóng trăng tan vỡ. Linh hồn xôn xao thì chân lý biến mất. (Tihamer Toth).
Cách đây chừng hơn một tháng, dư luận cả nước xôn xao về một vụ hãm hại người khác mang tính cách gia đình mà mới nghe qua, người ta khó lòng tin đó là sự thật. Cùng lắm nó chỉ có thể xuất hiện trong tiểu thuyết được trí tưởng tượng phi thường của ai đó hư cấu mà có. Có ai ngờ chuyện như tiểu thuyết ấy lại xảy ra thật. Bởi thế, hình như ai nghe cũng sửng sốt, bàng hoàng.
Chuyện tưởng không mà có ấy, chính là câu chuyện về người mẫu Võ Thị Thu Trâm bị chính mẹ ruột của mình đổ dầu sôi vào mặt. Theo báo Công an, sáng hôm ấy, trong khi Thu Trâm còn đang ngủ, mẹ của cô đã đi mua một chai dầu ăn cở một lít, mang về nhà nấu sôi khoảng 5 phút, sau đó đem nguyên chảo dầu sôi ấy tưới vào mặt con gái mình. Mẹ mà rắp tâm hãm hại con đã là chuyện quá sức bi đát. Nhưng bên cạnh còn một điều đáng lưu ý hơn, bởi một thái độ quá tàn nhẫn, và thái độ tàn nhẫn đó, lại chính là thái độ của một người mẹ dành cho con mình. Nó làm cho ta nhói đau: Sau khi tưới dầu sôi vào mặt con, bà đã ung dung ra khỏi nhà mua một lố dầu nhị thiên đường, để chuẩn bị khi vào tù, bà có dầu xức vì bà thích xức dầu nhị thiên đường. Người ta tự hỏi, vì lý do nào, một người mẹ rứt ruột sanh ra đứa con của mình nuôi cho nó lớn, nên vóc, nên hình, bây giờ lại tàn nhẫn đến mức không còn một chút lương tâm như thế. Mẹ của Thu Trâm trả lời: Vì tức giận con đã cư xử tệ bạc, vô ơn. Bà buồn con mình đã quên mất người mẹ nghèo tần tảo đã từng lặn lội khắp nơi với gánh ve chai trên vai bất kể mưa nắng, bất kể sự mệt nhọc để nuôi chị em Thu Trâm thành tài: chị cả làm giáo viên, anh hai làm tài xế, và Thu Trâm, một người đẹp đến nỗi có thể bước chân vào nghành người mẫu. Nghe đâu, Thu Trâm còn được đề cử tham dự cuộc thi “Hoa hậu liên lục địa”. Vậy mà đã có lần, bạn bè tới nhà chơi, Thu Trâm xấu hổ không dám giới thiệu mẹ của mình.
Đi từ câu chuyện nhỏ bé trong cuộc đời như thế, tôi lại bắt gặp Lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng Chúa nhật XXII hôm nay: “Hết thảy các ngươi hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế”.
Bạn có thấy câu chuyện của hai mẹ con Thu Trâm là một sự dữ lớn không? Sự dữ lớn ấy chính là do tận đáy lòng người ta mang đầy sự kiêu ngạo, sự khinh dể người thân của mình, hơn nữa đó lại là người đã từng rứt ruột sinh thành và dưỡng dục mình. Đó cũng là sự oán hận chất chứa bấy lâu trong tâm, nó đã bào mòn tình mẹ con cho đến mức phát triển thành nỗi căm thù và đan tâm trả thù của một người mẹ. Có lẽ hành động tàn nhẫn ấy của một người mẹ là kết thúc của một quá trình mâu thuẫn kéo dài mà bà đã không thể vượt qua. Sự ác đã hình thành trong lòng của một người mẹ. Nhưng một cách nào đó, khi bỏ rơi mẹ mình, trước hết, sự ác cũng đã xuất hiện trong lòng của một người con. Suy nghĩ như thế, sao tôi thấy Lời Chúa Giêsu nói hay quá, đúng quá: “Từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăn loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế”. Đúng thế, trong tâm người ta toàn sự dữ, thì hành động của họ nguy hiểm khôn lường.
Vẻ đẹp trong tâm hồn là vẻ đẹp quý giá. Đẹp trong tâm hồn là nét đẹp không dễ gì nhìn thấy. Người ta chỉ có thể nhận ra một tâm hồn đẹp qua kết quả của đời sống nơi một ai đó. Đó mới chính là vẻ đẹp cần thiết làm cho con người nên cao trọng, đáng quý, đáng yêu. Đức tin là vẻ đẹp của tâm hồn. Và đức tin cũng không thể nhìn thấy, nếu không có kết quả bằng chính cuộc sống của mỗi người. Và nếu đức tin của ta vững mạnh, dù cho cuộc đời có vùi giập, cái chết oan nghiệt đến ngay trước mắt, hay kẻ thù có kề dao tận cổ, hoặc cám dỗ bởi phù phiếm, sa hoa, ngay cả tội lỗi đi nữa, ta vẫn cứ là một người không dễ lay chuyển, vẫn một lòng kiên trung, một lòng vươn lên sống thánh thiện.
Chỉ sợ lòng ta yếu tin, cho nên ta nghi ngờ tình yêu của Chúa, ta thất vọng vì phải đương đầu với sóng gió trong đời mình. Chỉ sợ rằng ta đã đánh mất vẻ đẹp của lòng tin trong tâm hồn, vì thế không còn đủ sức, không còn can đảm chống lại cám dỗ của cuộc đời, cám dỗ của tội lỗi và của chính bản thân ta. Khi không đủ sức để vương lên sự thánh thiện, quả là ta đã thành ra một kẻ đầy nguy hiểm. Lúc đó chính là lúc rất thuận tiện để vi khuẩn của tội lỗi dễ bề đánh gục ta. Nó tấn công vào chính đời sống đức tin, làm cho ta trở nên yếu nhược. Và khi đó, không cần phải có bất cứ một lực xấu nào tác động, trái lại ngay tâm hồn của ta đã có sẵn cả một ổ vi khuẩn của tội đầy nguy hiểm.
Chính vì sự nguy hiểm khôn cùng của nó mà Chúa Giêsu đã lên tiếng cảnh báo: “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăn loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế”. Nói những lời này, Chúa Giêsu đòi phải có vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của đức tin, của sự thánh thiện, từ đó cuộc đời ta sẽ tỏa sáng lung linh bằng tất cả những gì là lành thánh, là phù hợp thánh ý Chúa, là sự trong sạch của tư tưởng, sự thành thật của lời nói, sự trung tín trong từng hành động. Nói một cách ngắn gọn, đó là tất cả hương thơm của vẻ đẹp tâm hồn. Chúa Giêsu đòi hỏi điều đó nơi chính bạn và chính tôi khi nói những lời như trên.
Từ câu chuyện ngoài đời thực về cô người mẫu Võ Thị Thu Trâm, không những nó soi sáng để dễ hiểu hơn Lời Chúa nói hôm nay, bên cạnh đó, nó còn cho ta một bài học về lòng hiếu thảo, về sự tha thứ, nhất là thái độ cảnh giác về sự dữ trong chính tâm hồn ta.
Từ câu chuyện ngoài đời thực đến Lời Chúa mà chúng ta vừa cùng nhau suy niệm giúp chúng ta mỗi một lần cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha, sẽ ý thức hơn về điều mà mình nguyện xin: “Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ".
Sự dữ mà ta xin Cha thương cứu đó là tội lỗi, là hành vi và hậu quả của tội. Hoặc không phải là tội thì cũng là những rủi ro bất trắc xảy đến với ta. Nếu sự dữ bên ngoài ta, ví dụ: Tôi biết tôi sẽ chết, cái chết làm tôi kinh hãi, thì sự dữ khách quan ấy, đã đáng sợ, nhưng vẫn chưa đáng sợ nhất.
Điều đáng sợ nhất là sự dữ nội tại trong ta. Chính sự dữ này biến ta thành kẻ nô lệ tội lỗi, thay vì phục vụ sự sống, có khi ta lao thân phục vụ cái chết, ném mình vào những đam mê hèn hạ, Bởi thế mỗi lần cầu nguyện: “Xin cứu con cho khỏi sự dữ”, là chính lúc ta xin Chúa gìn giữ mình thoát khỏi mọi nguy hại, đúng như Lời Chúa Giêsu hôm nay: “ Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế”.
Để cho mình bị ô uế tận trong lòng là một nguy hiểm lớn. Chỉ có vẻ đẹp trong lòng mới là vẻ đẹp của tình yêu, sự thánh thiện
Lời Chúa cho hôm nay: ĐỪNG KÍNH TA BẰNG MÔI MIỆNG = * Don’t honors Me with your lips *
* BÀI ĐỌC 1: Đệ nhị luật 4, 1- 2; 6- 8 = Giữ gìn luật Chúa: Hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để đem ra thực hành./ Observing God’s law: Hear the statues and decrees which I am teaching you to observe.
* BÀI ĐỌC 2: Giacôbê 1, 17- 18;21, 22, 27 = Hành động theo Lời Chúa: Chúng ta nên cảm tạ Chúa về những gì mình nhận và nên chia sẻ cho người không có đủ. / Act on God’s Word, we should be gratiful for what we have received we should also be willing to share it with those who do not have enough.
* BÀI TIN MỪNG(Gospel): Mác-cô 7, 1- 8; 14- 15; 21- 23 = Tội đến từ con tim: Cái gì từ bên trong con người xuầt phát ra, cái đó mới làm cho người ra ô-ué như: tà dâm, trộm cắp, giết người.../ Sin comes from the Heart: the things that come out from within are what defile: From within people hearts, come evil thoughts, unchastity, theft, murder...
A. Bạn và tôi cùng Cảm-Nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Dựa vào lời tiên tri Isaia, Đức Giêsu trả lời những người Pharisêu như sau: “ Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lai xa Ta...” Chúa Giêsu đã nói rất nghiêm nghị,chê trách họ là những kẻ đạo đức giả và đang nói với tôi bây giờ. Tôi chỉ trích người khác giữ điều Chúa muốn, lại còn tôi bắt anh em giữ luật một cách mày móc! Tại sao tôi đã không cải hóa được Gia đình và Hội đoàn? ( Hành đạo)
This people honors Me with their lips, but their hearts are far from Me... ( Mc. 7, 6- 8 )
2/ Đức Giêsu lại nói với bạn hôm nay: “ Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được;nhưng chính cái từ con người xuất ra...” Bạn đã qua mặt Chúa để xét đoán những việc làm của người khác theo ý mình và nắm giữ những luật lệ do truyền thống của người phàm là những tư tưởng, ý định bất chính. Những gì giúp bạn thay đổi được cá tính xấu của mình? (Đào luyện)
Nothing that enters one from outside can defile that person: but the things that come out from within... ( Mc. 7, 14- 15 )
3/ Đức Giêsu nhấn mạnh đến những cái từ bên trong làm cho con người ra ô uế như: “ tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo,....” Tôi nên đọc kỹ lại xem mình nếu có hãy sửa ngay. Tôi đã tích cực bỏ được tật xấu nào trong tuần qua? (Thánh thiện)
4/ Thánh Giacôbê nghiệm nghị khuyên mọi người nghe Lời Chúa hãy đem ra thực hành: >“... hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em;...Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông...” Sống trong sạch, thăm hỏi quả phụ gặp cảnh khó khăn, già yếu bệnh tật...là những việc bạn cần làm ngay sau khi dâng lễ cầu nguyện. Bấy lâu nay tôi đã tu sửa và thực hành bác ái thế nào? ( Học đạo)
...Humbly welcome the Word hat has taken root in you...Act on this Word, you do is listen to it... (Gc.1, 21- 22; See Đnl. 4, 6)
B. Câu Kinh Thánh thúc đẩy tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: ( The Best God’s Word)
DÂN NÀY TÔN KÍNH TA BẰNG MÔI BẰNG MIỆNG, CÒN LÒNG CHÚNG THÌ LẠI XA TA
“ This people honors Me with their lips, but their hearts are far from Me” ( Mc. 7, 6 ) C. Ngay bây giờ bạn vàtôi phải làm gì để mến Chúa bằng cả tâm hồn: ( So what am I doing / For Action )
a/ Bạn có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm -Nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống.
b/ Tôi bỏ ngay một tật xấu xét là xét đoán hành động bên ngoài và đòi hỏi người khác giữ luật hình thức. máy móc.
D. Bạn và tôi cùng cầu nguyện và Sống thực hành lời cầu xin: (I pray and practice / Pray in Action )
1/ Tôi cầu nguyện với 1 câu Kinh Thánh ở phần A để tỏ lòng ước ao Sống theo Lời Chúa trong đời sống.
2/ Bạn tự phát lên với Chúa vì những sai lỗi của mình từ bên trong phát ra, để sửa đổi và xin Ngài thứ tha.
Lời hay ý đẹp: NẾU KHÔNG HẠ MÌNH, CHẮC CHẮN CHÚNG TA SẼ VẤP NGÃ
1. Nhiều người quan niệm: càng giữ luật cho nhiệm nhặt, thậm chí đến từng chi tiết, thì càng nên công chính thánh thiện. Quan niệm như thế có đúng không? Người quan niệm như thế thường gặp những nguy hiểm nào?
2. Đức Giêsu thánh thiện hơn các kinh sư Do-thái rất nhiều, nhưng Ngài có giữ luật Thiên Chúa nhiệm nhặt hơn họ không? Tại sao vậy? Ngài quan niệm việc giữ lề luật Thiên Chúa như thế nào?
3. Hành động bên ngoài tự nó có giá trị không? Hay nó còn tùy thuộc vào cái tâm ở bên trong? vào động cơ thúc đẩy ta thực hiện hành động ấy? Vậy: phải có những hành động tốt hay phải làm sao có cái tâm cho tốt?
Suy tư gợi ý:
1. Quan niệm của các kinh sư Do-thái về sự công chính
Đọc bốn sách Tin Mừng, tôi phải nể phục sự nghiêm túc giữ luật của các kinh sư Do-thái: họ giữ luật Môsê cẩn thận từng chi tiết, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ngoài những điều khoản của lề luật, họ còn giữ cả những chi tiết nhỏ mọn trong truyền thống Do-thái giáo. Bài Tin Mừng hôm nay cho biết: ỡNgười Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồngữ. Họ hành động như vậy vì họ cho rằng sự công chính và thánh thiện hệ tại việc giữ luật và tuân theo truyền thống tôn giáo cho thật cẩn thận. Càng giữ luật kỹ lưỡng đến từng chi tiết nhỏ nhặt thì càng công chính hay thánh thiện. Chắc chắn trong họ có những người nghĩ và thực hành như vậy một cách rất chân thành, với mục đích rất tốt lành là nên công chính hay nên thánh. Họ nghĩ rằng tất cả những ai thánh thiện thì đều phải giữ luật như họ. Nếu có ai thánh thiện hơn họ, ắt người ấy phải giữ luật và những tập tục truyền thống một cách nhiệm nhặt và chi ly hơn họ. Chính vì thế, họ ngạc nhiên khi thấy các môn đệ của một thầy dạy đạo như Đức Giêsu lại không giữ luật và truyền thống như họ. Họ hỏi Ngài: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?ữ
2. Sự công chính và thánh thiện theo quan niệm của Đức Giêsu
Nhưng Đức Giêsu đã cho họ - và cả ta nữa - thấy rằng sự thánh thiện không hệ tại việc giữ luật một cách chi tiết như thế, hay giữ theo hình thức bên ngoài, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều. Cái đó ở trong nội tâm, chứ không phải ở bên ngoài. Người ta vẫn nói: “Đạo tại tâm!ữ. Cái đó chính là cái quan trọng nhất trong lề luật, là cốt tủy của lề luật.
Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những chi tiết hay những hình thức bên ngoài của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt tủy của lề luật. Đức Giêsu đã tố giác điều ấy: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình ! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng (=tức những điều phụ thuộc), mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏữ (Mt 23,23). Như vậy, theo Đức Giêsu, ba điều quan trọng nhất trong lề luật, tinh thần của lề luật, cũng là cốt tủy của sự thánh thiện, chính là chân lý, công lý và tình thương.
Thiết tưởng người Kitô hữu không nên đi vào vết xe đổ của người Do-thái là cứ quan trọng hóa những điều phụ thuộc, mang tính bên ngoài, như giữ cho thật kỹ lưỡng đến từng chi tiết luật này luật nọ, mà coi nhẹ cốt tủy của lề luật, vốn là tinh thần ở bên trong. Điều thiết yếu là phải có tinh thần hay cốt tủy đó ở bên trong đã, rồi tinh thần đó sẽ tự nhiên thúc đẩy ta thể hiện nó ra bên ngoài thành thái độ hay hành động.
3. Hãy nắm vững cái cốt tủy và ưu tiên thực hiện cốt tủy ấy trước
Nếu chỉ có những hành động giữ luật bên ngoài mà không có tinh thần cốt tủy bên trong, thì việc giữ luật đó sẽ ít giá trị trước Thiên Chúa. Còn những người mà luật Chúa thì không giữ, lại chỉ lo giữ những tập tục tôn giáo truyền thống, chẳng hạn một số thói quen quen được gọi là “việc đạo đứcữ, những nghi thức do con người sáng tạo, việc rước sách đình đám& thì việc giữ những tập tục ấy lại càng ít giá trị hơn. Nên nhớ: tất cả những tập tục này đều tốt, nhưng không phải là cốt tủy: thực hiện được thì tốt mà không thực hiện được cũng chẳng sao. Đức Giêsu đã chỉ cho những người này thấy cái sai của họ: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”(Is 29,13). Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”.
Tôi thấy trong nhiều hội nghị Kitô hữu, người ta thường tuân thủ những qui ước minh nhiên (= được qui định rõ ràng) hoặc mặc nhiên (= tự nhiên phải hiểu, phải biết, không cần nói ra). Chẳng hạn như: vấn đề thuộc phạm vi của người nào thì chính người ấy phải nêu lên để bàn. Tuân thủ những qui định ấy là điều rất tốt để bảo vệ trật tự trong hội nghị. Nhưng có những trường hợp mà những vấn đề rất quan trọng có liên quan đến lương tâm của cả hội nghị thì lại không được đem ra bàn, lý do là người có trách nhiệm chính vì một lý do nào đó không chịu đưa ra bàn. Những người khác tuy bị lương tâm thúc giục phải đưa vấn đề ra, nhưng lại vị nể hay quá tôn trọng quyền ưu tiên của người có trách nhiệm chính, nên cuối cùng vấn đề lương tâm cần thiết phải bàn lại bị cho “chìm xuồngữ, vì thế công ích bị thiệt hại nặng nề. Khi vị nể hay tôn trọng qui ước kiểu ấy phải chăng người ta đã coi qui ước của phàm nhân quan trọng hơn cả luật của lương tâm, cũng là luật của Thiên Chúa? Đạo đức kiểu đó là đạo đức gì?
4. “Đạo tại tâmữ. Đúng rồi! nhưng coi chừng& tâm giả!
Tuy nhiên, nhiều người lại đi đến một thái cực khác là không thèm làm những thể hiện tốt đẹp bên ngoài. Họ ngụy biện rằng “Đạo tại tâmữ. Họ cho rằng họ đã có cái cốt tủy của lề luật ở bên trong, nên đủ giá trị trước Thiên Chúa rồi. Nhưng thánh Giacôbê tố cáo họ: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17.26). Nếu tinh thần cốt tủy kia không được thể hiện ra thành những hành động bên ngoài, thì đó là một nghịch lý, mâu thuẫn. Hãy coi chừng cốt tủy kia chỉ là cốt tủy giả hay tâm giả.
5. Điều quan trọng là bên trong chứ không phải bên ngoài
Đức Giêsu nói: “Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình& Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uếữ. Ngài cho thấy: yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bên ngoài. Chính ý hướng ở bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có giá trị hay không. Nhiều người có những hành động rất tốt nhưng lại làm vì những động lực ích kỷ hay gian ác, thì hành động ấy trở nên xấu. Chẳng hạn những hành động giả nhân giả nghĩa nhằm được một lợi lộc nào đó, như bố thí thật nhiều để được khen, để có tiếng là đạo đức hầu lừa đảo người khác, hay làm việc tích cực chỉ nhằm để được lên chức, để nắm được quyền hành hầu thao túng lũng đoạn tập thể. Ngược lại, có những người “tình ngay mà lý gianữ, hành động thì có vẻ như xấu, bị kết án, nhưng ý hướng thì tốt lành, nhằm ích lợi cho tha nhân. Họ tuy bị người đời kết án, nhưng lại được Thiên Chúa chúc lành.
Vì thế, trong đời sống tâm linh, người ta phải tu dưỡng cái “tâmữ ở bên trong trước: phải có tâm ngay thẳng, thành thật, luôn tôn trọng sự công bằng, biết yêu thương mọi người không phân biệt sang hèn tốt xấu. Khi đã có tâm tốt thật sự, những việc làm của người ấy sẽ tự nhiên đẹp lòng Chúa. Thánh Âu Tinh nói: “Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm!ữ (Ama et fac quod vis). Khi tâm đã quanh quéo, ích kỷ, sẵn sàng hại người, thì bất kỳ việc làm do tâm ấy thúc đẩy - dù bên ngoài có tốt lành đến đâu - cũng đều mang dấu ấn của tâm ấy, nên không mấy giá trị trước Thiên Chúa.
CẦu nguyỆn
Lạy Cha, xin cho chúng con hiểu rằng sự thánh thiện hệ tại tình trạng tốt đẹp tâm hồn hơn là tại những hành động bên ngoài. Xin cho chúng con biết quan tâm đến việc tu tâm dưỡng tánh, nghĩa là có một tâm hồn ngay thẳng, luôn thành thật, luôn tôn trọng và bênh vực công lý, luôn yêu thương mọi người. Tâm tốt lành ấy mới chính là điều cốt yếu làm nên sự công chính thánh thiện của chúng con, hơn là việc giữ luật lệ một cách chi tiết hay việc làm cho thật nhiều những hành động tốt.
"Cái gì từ trong con người xuất ra mới là cái làm cho người ta ô uế" (Mc 7,15)
Minh họa
- Mille images 129 A
- "Cái gì từ trong con người xuất ra mới là cái làm cho người ta ô uế" (Mc 7,15)
Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc I (Đnl 4,1-2.6-8): Môsê khuyên dân do thái hãy đem lề luật đã học ra thực hành.
- Tin Mừng (Mc 7,1-8a.14-15.21-23): Đức Giêsu trách những người biệt phái và kinh sư chỉ lo giữ những khoản luật quy định về sự trong sách bề ngoài mà không lo giữ tâm hồn cho trong sạch.
- Bài đọc II (Gc 1,17-18.21b-22.27): Đối với Lời Chúa, đừng nghe suông mà hãy thực hành.
Ngày xưa Đức Giêsu đã dùng lời ngôn sứ Isaia để trách dân do thái rằng: "Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta". Phải chăng chúng ta cũng đáng bị trách như thế ? Mỗi ngày Chúa nhật, chúng ta đến đây đọc kinh và rước lễ. Nhưng đó chỉ mới là bằng môi bằng miệng thôi. Tôn kính Chúa bằng một tấm lòng chân thành còn đòi buộc chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa, kết hợp với Mình Thánh Chúa và sống theo ý Chúa nữa. Chúng ta hãy dâng Thánh lễ này với cả tấm lòng chân thành yêu kính như vậy.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Nhiều lần chúng ta dự thánh lễ nhưng lòng trí không ở với Chúa. - Chúng ta nghe Lời Chúa rất nhiều nhưng chẳng thực hành bao nhiêu. - Chúng ta cố gắng giữ luật vì sợ phạm tội chứ không vì lòng yêu mến Chúa.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Đnl 4,1-2.6-8)
Dân do thái rất hãnh diện vì có Thiên Chúa làm Chúa của họ và vì được Thiên Chúa ban Luật cho họ: "Có dân tộc vĩ đại nào được Thần minh ở gần như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Người ? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh như tất cả Lề luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em ?"
Nhưng Ông Môsê lưu ý: (1) Không được thêm cũng không được bớt gì vào những Lề luật của Chúa ; (2) Phải đem những lề luật đó ra thực hành.
2. Đáp ca (Tv 14)
Thánh vịnh này ca tụng những người luôn cố gắng sống công chính theo chỉ dẫn của lề luật.
3. Tin Mừng (Mc 7,1-8a.14-15.21-23)
Đức Giêsu và nhóm biệt phái cùng kinh sư tranh luận với nhau về vấn đề sạch dơ.
- Họ bám sát mặt chữ những quy định của luật lệ về sự phân biệt cái gì sạch cái gì dơ và về những đòi buộc phải rửa tay chân chén dĩa...
- Đức Giêsu nói đó chỉ mới là sạch dơ bề ngoài, không quan trọng bằng sạch dơ trong tâm hồn.
- Ngài nhận xét đạo đức của họ chỉ là đạo đức giả: "Dân này kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta".
- Ngài còn kết án họ lấy tập tục của loài người để thay thế lệnh truyền của Thiên Chúa. Ngài lấy tục lệ Corban ra làm thí dụ điển hình: Corban là của dâng cúng cho Thiên Chúa. Mặc dù Xh 20,12 buộc con cái phải phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng để khuyến khích người ta đóng góp cho Đền thờ, biệt phái và kinh sư đã dạy rằng nếu ai khấn hứa đem những gì phải giúp cha mẹ để dâng cho Đền thờ thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Quả thật đây là một cách bóp méo luật Chúa.
4. Bài đọc II (Gc 1,17-18.21b-22.27)
Thánh Giacôbê bảo rằng được đón nhận Lời Chúa quả là một ân huệ to lớn. Nhưng Ngài khuyên tín hữu "đừng nghe suông mà phải đem ra thực hành". Cụ thể là hãy "thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian".
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Chớ giả hình
Năm 587, trước khi Chúa ra đời, thủ đô Giêrusalem bị thất thủ, nước Do Thái sụp đổ, người Do thái bị bắt đi đày bên nước Babylon. Sống bên xứ lạ quê người, đền thờ không còn, tế tự không còn, niềm tin của người Do thái yếu kém đi. Hơn nữa sống giữa người ngoại, nhiều người Do thái đã dần dà bỏ đạo Chúa và theo các bụt thần. Trước hoàn cảnh đó, các luật sĩ Do thái đã hết sức cứu vãn niềm tin của dân mình bằng cách đặt ra những luật lệ nhằm bảo vệ đức tin cho tinh tuyền. Vì thế, có những khoản luật cấm tiếp xúc với kẻ tội lội, với những gì gọi là ô uế xấu xa.
Thế nhưng sau khi lưu đày trở về, các luật sĩ đã đi quá trớn, đưa ra những khoản luật rất là tỉ mỉ. Thí dụ:
. Một người đàn ông bị đi lính thì bị coi là ô uế. Tất cả mùng mền chiếu gối của họ đều bị coi là dơ. Ai đụng tới cũng bị dơ và phải giặt quần áo của mình, và cho dù đã tắm giặt như vậy vẫn còn bị coi là dơ cho đến chiều tối. Xe họ ngồi cũng bị coi là dơ, phải rửa cho sạch.
. Đàn bà tới kỳ xuất huyết thì bị coi là ô uế suốt 7 ngày. Ai đụng tới họ cũng bị lây ô uế, có tắm giặt cũng còn ô uế tới chiều.
. Nếu kẻ bị coi là ô uế hay lây ô uế khi tắm giặt cũng phải theo những luật tỉ mỉ: lấy nước thì lấy bằng bình đồng, bình sành hay bình gỗ chứ không được dùng bằng thứ bình nào khác. Đụng tới một người ô uế thì phải rửa từ khuỷu tay trở xuống, và phải rửa 2 lần: 1 lần vì tay bẩn, lần thứ hai để tẩy đợt nước thứ nhất đã bị bẩn khi dính vào tay bẩn của mình.
. Trước khi ăn thì phải rửa tay cho khỏi những ô uế mà có thể vì vô tình mình đã chạm phải. Người ta kể rằng có 1 luật sĩ tên là Aqiba đã thà chết khát trong tù còn hơn vi phạm luật này: trong tù nước rất ít, nhưng ông cũng dùng để rửa tay trước khi ăn dù rửa xong thì không còn nước để uống.
Đi tới chỗ quá trớn đó thì trở thành thói vụ hình thức. Và nếu chỉ coi trọng hình thức mà quên phần nội tâm thì trở thành chứng giả hình. Vụ hình thức và giả hình, đó là 2 điều mà Đức Giêsu cực lực công kích trong bài Tin mừng hôm nay.
Nhưng dù sao giữ hình thức cũng dễ hơn giữ nội tâm, cho nên những người cho nên không riêng gì người Do thái thời xưa, mà cả chúng ta ngày nay cũng dễ mắc thói vụ hình thức và giả hình.
. Thiếu gì người thích làm đám cưới linh đình, lễ cưới có nhiều cha đồng tế nhưng chẳng lo phần giáo lý cho đôi tân hôn bao nhiêu.
. Thiếu gì người cha mẹ già còn sống thì bỏ bê, nói nặng nói nhẹ. Chỉ khi cha mẹ nằm xuống mới lo làm tang lễ um sùm, than khóc bù lu bù loa..
. Thiếu gì người không khuyến khích con cái đi học giáo lý, nhưng tới ngày Rước lễ, Thêm Sức thì tới xin xỏ, làm áp lực cho con mình cũng có mặt trong ngày lễ trọng đại ấy.
. Và thiếu gì người hết sức sùng kính ảnh thánh này, tượng thánh nọ, mà khi đối xử với người khác thì chẳng thấy có chút gì giống tinh thần bác ái vị tha của các vị thánh đó.
Với những kẻ giả hình thời trước cũng như thời nay, Lời Đức Giêsu trách sứ vẫn luôn luôn nghiêm nhặt: "Hỡi bọn giả hình, Isaia đã nói thật chí lý về các ngươi rằng: dân này kính ta bằng môi miệng, còn lòng nó thì ở cách xa ta, vì nói sùng kính ta cách giả dối".
Nhưng thực ra, chúng ta không muốn giả hình mà chỉ vì có bề ngoài thì dễ hơn có bề trong. Bề ngoài và bề trong đều quan trọng, nhưng bề trong quan trọng hơn. Giữ đạo mà không thật lòng mến Chúa yêu người thì vô ích, bởi vì công phúc không phải từ bên ngoài mà tự trong lòng mà ra, không phải do đọc kinh dự lễ mà có nhưng do tâm tình sốt sắng khi đọc kinh dự lễ.
* 2. Bàn về luật lệ
Năm 336 trước Chúa Giáng Sinh, nước Hy Lạp nổi lên một vị anh hùng, đó là Alexandre đại đế. Mới có 20 tuổi, ông đã chứng tỏ tài thao lược của mình khi nổi lên bẻ gãy ách đô hộ của đế quốc Ba Tư lúc đó đang đè nặng trên nước Hy Lạp. Chẳng những thế, ông còn quật ngược lại tình hình, biến Ba Tư trở thành một nước chư hầu và đưa Hy Lạp lên ngôi bá chủ. Ông đánh đâu thắng đó, trăm trận trăm thắng, xâm chiếm nhiều nước khác, đế quốc Hy lạp trải rộng cho tới Ấn Độ,. Nước Do thái bé nhỏ cũng rơi vào vòng thống trị của đế quốc Hy Lạp. Loé mắt trước nền văn minh Hy Lạp, nhiều người Do Thái đua nhau học đòi kiểu sống Hy Lạp: nói tiếng Hy Lạp, mặc theo kiểu Hy lạp, ăn uống theo kiểu Hy Lạp và thờ các thần Hy Lạp. Mặt khác các quan thái thú Hy Lạp dùng sức mạnh để buộc người Do thái bỏ đạo Chúa để thờ đạo Hy Lạp, họ bắt đầu ăn thịt heo và đốt nhang trước các tượng thần. Ai không làm theo thì bị xử tử. Văn hóa dân tộc và đức tin vào Chúa có nguy cơ bị huỷ diệt. Vì thế, những nhà lãnh đạo tinh thần của dân đã hết sức cố gắng giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân. Họ đặt ra những khoản luật buộc dân giữ mình khỏi bị lây nhiễm nọc độc của ngoại bang, trong đó có những luật về ăn uống, về cách giữ các lễ nghi. Từ đó dấy lên một phong trào đề cao lề luật.
Nhưng phong trào này càng ngày càng đi tới chỗ quá trớn. Tới thời CG thì luật lệ đã quá sức tỉ mỉ, nhất là luật về sạch dơ: đi đâu về trước khi vào nhà cũng đều phải rửa tay rửa chân, trước khi ăn uống cũng phải rửa tay chân, và những chén dĩa ly tách dùng để ăn uống cũng phải rửa nhiều lần trong ngày. Điều đáng ta chú ý là những luật này không phải để giữ vệ sinh hay bảo vệ sức khoẻ, mà chỉ để giữ nghi thức thôi, cho nên dù không dơ nhưng cũng phải tắm rửa, ai không làm vậy thì bị coi là người tội lỗi, bị người khác chỉ trích và kết án nặng nề.
Như một lần kia, các môn đệ CG đã ăn mà không rửa tay trước. Lập tức họ bị những luật sĩ và biệt phái chỉ trích. Nhân dịp đó CG đã lên tiếng vừa để bênh vực môn đệ mình, vừa để nói lên quan điểm của Chúa về vấn đề lề luật cách chung và cách riêng về vấn đề sạch dơ. Đại khái CG cho rằng luật lệ chỉ là hình thức để diễn tả tấm lòng. Tấm lòng mới quan trọng, còn hình thức không quan trọng. Bởi vì dơ hay sạch là do tự tấm lòng bên trong. Nếu lòng dạ dơ dấy xấu xa thì cho dù hình thức bên ngoài có đẹp đẽ mấy thì cũng chỉ là vô ích, là giả hình.
Đức Giêsu đã nói rất đúng. Luật lệ giống như cái khuôn khổ, giống như những bức tường, những hàng rào, như sợi dây cương để lèo lái con ngựa chỉ được chạy một hướng, như chiếc đường rày không cho chiếc xe lửa chạy lệch hướng. Thành ra luật lệ có tính cách gò bó, ép buộc. Còn tấm lòng thì dự do và thoải mái, cũng giống như tình cảm người ta thì không có hàng rào, không có bánh lái. Dĩ nhiên luật lệ cũng cần thiết và hữu ích để gìn giữ không cho tấm lòng đi lệch lạc. Nhưng coi luật trọng hơn tấm lòng, dùng luật lệ để bóp chết tấm lòng, hoặc chỉ chú ý đến luật lệ mà bỏ hẳn tấm lòng thì quả là một sai lầm to lớn.
Sai lầm đó, các luật sĩ và biệt phái thời CG đã phạm. Và ngày nay nhiều người vẫn phạm. Thí dụ như mới đây thôi tôi gặp một người rất lâu không thấy đi xưng tội, hỏi tại sao thì người ấy đáp: "Có chứ con xưng tội một năm một lần, đúng luật mà"
Khi đã có tấm lòng thì có thể chẳng cần lề luật. Cũng như cha mẹ đối với con cái. Tình thương của cha mẹ lúc nào cũng bao la lai láng, vì thế cha mẹ đã lo cho con ăn, lo cho con mặc, chăm sóc con cái mọi chuyện.... chỉ do sự thúc đẩy của tình thương chứ không do một luật lệ nào bắt buộc. Đứa con nào biết thương cha mẹ thực lòng thì cũng tận tuỵ phụng dưỡng cha mẹ như vậy. Nhưng có một số gia đình mà con cái không còn tấm lòng với cha mẹ nên khi cha mẹ già yếu phải đề ra những quy luật giao cho đứa này phải lo gạo, đứa kia lo tiền chợ, đứa khác lo tiền điện nước trong nhà. Khi đã không có tình nghĩa thì người ta phải xài tới luật lệ. Nhưng mà luật lệ cũng không bảo đảm làm cho tình nghĩa sống lại, chúng chỉ là một mớ hình thức lỏng lẽo, héo khô. Như gia đình mà tôi đang nói, các đứa con tuy giữ đúng quy định phân chia trách nhiệm như thế, nhưng khi cha mẹ đau yếu, cha mẹ cần tiền để đi dự một đám cưới, cha mẹ có khách tới ở nhà... thì không đứa nào chịu bỏ tiền ra đưa cho cha mẹ, bởi vì những khoản đó không có kể trong quy luật gia đình. Những đứa con ấy giữ luật rất đúng nhưng đâu phải là những đứa con hiếu thảo.
Nếu chúng ta là những tín hữu đã tuân giữ luật Chúa và luật Giáo Hội một cách chu đáo thì chúng ta cũng không được tự mãn cho rằng mình đã làm đầy đủ tất cả. Bởi vì có thể chỉ là đầy đủ về hình thức thôi, chứ chưa hẳn là đầy đủ tình nghĩa yêu mến kính thờ Chúa. Chúng ta cũng nên áp dụng nhận thức trên vào một việc cụ thể là việc đọc kinh và dự lễ.
. Luật dạy chúng ta đọc kinh sáng tối mỗi ngày: đọc những kinh gì, và đọc lúc nào, đó là hình thức. Người chỉ để ý tới hình thức thì đọc thật nhanh, đọc cho có cho rồi. Ngày nào có cớ để không đọc thì chộp ngay lấy cớ đó để bỏ. Nhưng ta phải biết tinh thần của luật ấy là gì ? Đó là muốn chúng ta tỏ lòng kính mến Chúa mỗi ngày vào khoảng khắc đầu tiên và cuối cùng trong ngày. Ai có tinh thần đó thì không nhất thiết là phải đọc những kinh gì, đọc bao lâu. Mỗi ngày khi vừa thức dậy và khi sắp đi ngủ họ nâng tâm hồn lên tới Chúa, có thể họ đọc kinh mà có khi cũng không đọc kinh, chỉ nói với Chúa đôi lời, những lời đơn sơ, thực tình nhưng rất hiếu thảo.
. Luật buộc đi lễ Ngày Chúa Nhật: Đi lễ cũng chỉ là hình thức. Còn tinh thần chính là dành ra một ngày trong tuần để đặc biệt cho Chúa, lo việc thờ phượng Chúa. Người nào đi lễ mà chỉ đứng ở ngoài nhà thờ, hay đến thì trễ mà về thì sớm thì đúng là người chỉ chú ý đến hình thức. Kẻ coi trọng tinh thần ngày Chúa Nhật nếu vì một cản trở nào đó mà không đến nhà thờ được thì cũng biết cách để thánh hóa ngày Chúa Nhật, như cầu nguyện riêng ở nhà, như làm một vài việc lành dâng lên Chúa trong ngày đó.
Xin Chúa giúp chúng ta kính mến Chúa thực sự trong lòng chứ không phải chỉ bằng những hình thức giữ lề luật bên ngoài, để chúng ta không bị Chúa trách như đã trách các biệt phái và luật sĩ ngày xưa "Dân này kính ta ngoài môi miệng, mà lòng nó ở cách xa ta".
* 3. Đức Kitô và KARMELIUK
Có một cuốn phim truyền hình mang tên Karmeliuk,, kể chuyện một vị anh hùng dân tộc Nga: khi ấy nước Nga còn sống trong chế độ nông nô, một số ít phú nông địa chủ chiếm hầu hết đất đai, còn đa số dân chúng không có đất, thì phải đi làm nô lệ cho các phú nông địa chủ trên, đời sống của họ hết sức cơ cực, họ bị bóc lột, đàn áp dã man. Lúc bấy giờ có một chàng thanh niên có tâm huyết tên là Karmeliuk. Chàng cũng là một nông nô, nhưng không chịu nỗi cảnh đàn áp, bất công đó nên đã trốn vào bưng biền để cùng với một số bạn tâm huyết khác nổi loạn. Họ tổ chức đánh cướp nhà các phú nông địa chủ và lấy tài sản của chúng đem chia cho các người nghèo. Danh tiếng Karmeliuk loan truyền khắp nước. Có những bài thơ, những bài hát được lưu truyền trong dân gian để ca ngợi chàng. Chàng Karmeliuk trên những dặm đường gió bụi cũng đã gặp gỡ nhiều thanh niên. Lúc đầu họ không biết chàng. Nhưng khi họ hỏi "Anh là ai ?" và Karmeliuk trả lời "Tôi là Karmeliuk", thì những thanh niên ấy vô cùng sung sướng, bỏ lại sau lưng tất cả để theo chàng. Họ hãnh diện vì đã đi theo một vị anh hùng dân tộc.
Bài Tin mừng hôm nay, nếu được diễn tả bằng ngôn ngữ thời đại, thì cũng tương tự như câu chuyện trên. Thuở bấy giờ dân chúng đang sống khổ sở, không phải họ chỉ mang một ách nô lệ, mà tới hai cái ách nô lệ: Nô lệ đế quốc La mã, và nô lệ đế quốc tội lỗi. Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đi đó đi đây khắp nơi để xoa dịu những cực khổ thể xác, và giải phóng khỏi cách tội lỗi. Có nhiều tiếng đồn, nhiều dư luận về Ngài. Một ngày kia, trên con đường từ Betsaiđa đến thành phố Xêxarê Philip, Đức Giêsu đột ngột hỏi các môn đệ mình: "Còn anh em, anh em nghĩ Ta là ai ?" Các môn đệ bối rối trước câu hỏi đột ngột ấy nên không trả lời được, khi ấy, Phêrô lên tiếng: "Thầy là Đức Kitô". Đức Kitô, đó là một danh xưng theo tiếng Hy Lạp, ý nghĩa của nó, nói theo ngôn ngữ thời nay, chính là "Vị anh hùng giải phóng". Lời Phêrô nói: "Thầy là Đức Kitô", có nghĩa là "Thầy chính là vị Anh Hùng giải phóng mà toàn dân đã từ lâu mong đợi". Chắc hẳn Phêrô và các bạn ông rất hãnh diện vì được đi theo một Vị Anh Hùng như vậy. Họ dám bỏ lại sau lưng tất cả, nhà cửa, nghề nghiệp, gia đình, vợ con mà không hề tiếc nuối, bởi vì họ đi theo một Vị Anh Hùng, họ vô cùng hãnh diện.
Thế nhưng vấn đề không phải chỉ đơn giản có thế. Đi theo một Vị Anh Hùng không phải chỉ để được hãnh diện, mà còn phải chia xẻ tất cả những gian truân nguy hiểm trên con đường dài mà vị Anh Hùng ấy đã vạch ra. Trong chuyện Karmeliuk, nhiều thanh niên đã hãnh diện khi được đi theo chàng. Thế rồi gian truân nguy hiểm đã phân họ thành hai hạng: có một người đã không chịu nỗi những gian khổ nên cuối cùng đã phản bội, nghe theo âm mưu của địch để đầu độc Karmeliuk, rất may là chàng không chết ; hạng thứ hai là những kẻ trung thành với chàng cho đến chết. Thánh Phêrô và các bạn cũng hãnh diện vì đi theo Đức Kitô. Nhưng Đức Kitô phải nhắc họ: Đi theo Ngài không phải chỉ để hãnh diện, mà còn phải cùng Ngài dấn thân vào con đường Thập Giá đầy đau khổ. Rõ ràng là các môn đệ chưa được biết điều đó, cho nên nghe vậy thì họ sợ nguy ngay. Và một lần nữa Phêrô lên tiếng thay các bạn "Thưa Thầy, đừng, không được như vậy đâu ?" Đức Giêsu nghiêm khắc rầy Phêrô và xác định lại dứt khoát "Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác Thập Giá mà theo". Từ đó trở đi, các môn đệ dần dần hiểu được con đường của Thầy. Nhưng họ cũng phân ra thành hai hạng: 1 hạng gồm những kẻ trung thành với Thầy cho đến chết, và hạng kia là Giuđa cuối cùng đã phản lại Thầy.
Đoạn kết của câu chuyện Karmeliuk và câu chuyện Đức Giêsu cũng giống nhau: cả 2 đều bị giết. Kể như cả 2 đều thất bại. Nhưng thực ra đó không phải là thất bại, mà là thành công: Karmeliuk đã gây được ý thức giải phóng nơi dân chúng, với ý thức đó, về sau họ đã đứng lên và dành lại được quyền sống cho mình. Còn CG thì đã vạch ra một con đường cứu thoát rõ ràng: phải dám vác Thập giá, phải dám chết đi, rồi sau đó sẽ sống lại và toàn thắng. Con đường ấy ngày nay đang được hàng trăm triệu người đi theo.
Trong số đó có chúng ta.
Nhưng hôm nay, chúng ta hãy đặt lại 2 vấn đề cơ bản:
1. Chúng ta có hãnh diện vì đã đi theo Đức Kitô không ?
Người ta thường hãnh diện khi đi theo một Vị Anh Hùng đang nổi tiếng, đang thành công, đang đứng giữa vòng hào quang. Nhưng những vị "Anh Hùng Mạt lộ" thì thường bị đệ tử bỏ rơi. Khi CG bị chống đối, rất nhiều người đã bỏ Ngài. Khi các thủ lãnh dân Do thái âm mưu giết ngài, Giuđa đã trở mặt, nộp Ngài cho chúng giết đi, còn Phêrô thì xấu hổ không dám nhận là môn đệ của Ngài. Có thể coi đó là tâm lý thường tình. Và chắc chúng ta cũng rơi vào thứ tâm lý thường tình đó khi thấy đạo của mình hình như không được vinh dự lắm, khi nghe thấy những lời chỉ trích, chế nhạo, lên án Đạo mình. Có người đã làm như Giuđa, trở mặt bỏ Đạo ; có người làm như Phêrô không dám để cho người ta biết mình có Đạo.
Giuđa thì một lần phản bội đã hư mất luôn. Còn Phêrô chỉ chối Thầy 3 lần. Sau đó đã ý thức được điều mà tôi đã trình bày ở phần trước: CG xem ra đã thất bại vì đã bị Vác Thập Giá và đã bị giết chết ; nhưng thực ra đó chính là thành công: Thập giá là đường đưa tới Phục Sinh, đau khổ là đường đưa tới vinh quang. Vì ý thức như vậy nên sau đó Phêrô (và các tông đồ khác) đã kiên trì theo Thầy cho đến cùng, và hãnh diện mà đi theo Thầy: vẫn hãnh diện khi bị bắt bớ, vẫn hãnh diện khi bị giết, luôn luôn hãnh diện. Thánh Phaolô đã nói "Vinh dự của chúng tôi là Thập Giá Đức Kitô".
Đó là điều thứ nhất chúng ta nên nghiền ngẫm suy nghĩ.
2. Và điều thứ hai cần xác định: chúng ta đi theo Chúa không phải chỉ để được hãnh diện.
Theo ai, chủ yếu là để cùng chia vui, xẻ buồn với người đó, đồng lao cộng khổ để đồng hưởng vinh quang. Như lời Thánh Phaolô "Nếu ta cùng chết với Ngài. Ta sẽ sống lại với Ngài ; nếu Ta cùng chịu đau khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài chia xẻ vinh quang". Ai có dám cùng bước với CG trên những đoạn đường gian khổ thì mới có thể cùng đứng với Ngài trên đài Vinh quang.
Nhưng Vinh Quang, chiến thắng chỉ là bước cuối cùng, có thể còn xa xôi vời vợi. Còn trước khi đó là cả một đoạn đường thánh giá dài lê thê. Theo Chúa là phải theo cả con đường thánh giá ấy thì mới có thể đến cuối đường vinh quang kia. CG đã nói trước "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác Thập Giá mà theo".
Liệu chúng ta có kiên trì để theo Chúa như vậy không ?
Xin Chúa giúp chúng ta tìm ra câu trả lời,. Và nếu đó là câu trả lời: "Có" thì xin Chúa ban thêm sức cho chúng ta qua Bí tích Thánh Thể này mà chúng ta tiếp tục cử hành.
* 4. Tẩy rửa trái tim
Văn hào Dostoevski trong tác phẩm "Anh em nhà Karamazov" có kể lại câu chuyện sau đây: "Vào thời đại của tòa phán quan ở Tây ban Nha, người ta đã dựng những hỏa đài để thiêu sống những kẻ tà giáo. Đức Kitô dịu hiền đột nhiên đến thăm con cái của Người ở Seville, Người về giữa loài người như một dân thường. Đức Giêsu bước xuống những con đường sôi bỏng của thành phố phương Nam. Nơi đây, mới hôm trước, vị phán quan vĩ đại đã cho thiêu sống trăm tên tà giáo "Ad majorem Gloriam Dei".
Hỏa đài ngay trước khán đài danh dự có đông đủ vô số triều đình, các hiệp sĩ, các mệnh phụ xinh đẹp và cả Đức hồng Y giáo chủ. Đức Giêsu nhẹ nhàng bước trên đường bằng dáng điệu trầm tĩnh, nhưng lạ lùng tất cả đã nhận ra Người. Dân chúng xô đẩy nhau quấn quít bước chân Người. Người lặng lẽ vào giữa đám đông với nụ cười và ánh mắt từ bi. Một cụ già mù van xin: "Lạy Chúa, xin cho con được sáng để con nhìn thấy Người". Một cái vẩy rơi xuống và cụ nhìn thấy được. Dân chúng vui mừng chảy nước mắt và hôn lên mảnh đất chỗ Người đi qua. Những em bé tung hoa trên lối Người đi.
Đức Kitô đứng lại trước giáo đường Seville ngay lúc có đám tang một cô bé bảy tuổi. Cạnh cỗ áo quan màu trắng phủ đầy hoa, người mẹ đang nức nở. Trong đám đông có người hô lớn: "Con bà sẽ hồi sinh". Người mẹ tha thiết: "Nếu đúng là Người xin hãy hồi sinh đứa con của con". Đức Giêsu nhắc lại lời thuở trước: "Talitha Kum" và em bé ngồi lên.
Đúng lúc đó, Hồng Y giáo chủ và phán quan vĩ đại đi ngang qua. Từ xa ông đã thấy hết. Ông thấy chiếc áo quan đặt xuống, đứa bé hồi sinh. Mặt ông xịu xuống, mắt ông chớp tia sáng ghê hồn. Ông lấy ngón tay chỉ vào Đức Giêsu và ra lệnh cho bọn lính bắt người. Thế lực ông quá lớn nên ông khuất phục cả quần chúng. Phán quan ra lệnh tống giam Giêsu. Ông vào ngục một mình gặp Người. Ông thương cảm nhưng "Luật là luật, trật tự của Giáo hội phải được bảo tồn bằng mọi giá". Ông tuyên bố "Tôi chẳng rõ Người là ai. Hình như Người là Đức Giêsu, nhân danh Giáo hội, Ad majorem gloriam Dei, ngày mai Ngài cũng lên giàn hỏa".
****
Vị phán quan trong câu chuyện trên cũng chỉ đi theo vết xe cũ của các biệt phái và ký lục Do thái. Bài Tin mừng hôm nay chứng minh điều ấy, Đức Giêsu đang ở Galilê, các Biệt phái và Ký lục từ Giêrusalem tới, nghĩa là họ phải vượt qua 170 Km đường bộ để chỉ hỏi tại sao các môn đệ Người không rửa tay trước khi ăn. Điều đó cho thấy người Do thái rất coi trọng việc tuân giữ các tập tục tiền nhân về vấn đề thanh tẩy.
Thực ra, lúc đầu luật rửa tay trước khi vào nơi thánh dành cho các tư tế. Mục đích là tẩy rửa các ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa. Sau này, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Với suy nghĩ tương tự họ cũng rửa tay trước khi ăn. Ý tưởng này rất cao đẹp vì nó làm cho tôn giáo thâm nhập vào hành vi con người trong cuộc sống.
Khốn thay trong quá trình thực thi luật này, tôn giáo đã thoái hóa đến chỗ chỉ còn giữ nghi thức bên ngoài, nghĩa là ai tuân giữ các nghi thức này thì được xem là đạo đức, là đẹp lòng Thiên Chúa, còn không tuân giữ là phạm tội. Nói như nhà thần học William Barclay: "Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tuỷ mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác". Tôn giáo không phải là một mớ luật lệ. Tôn giáo là một diễn tả tình yêu, một phát minh của Thiên Chúa nhân từ.
Thế nên, Đức Giêsu mới vạch mặt sự giả hình của họ, vì họ chẳng quan tâm đến chuyện tẩy rửa trái tim. Họ rửa tay để được an tâm. Họ rửa tay để khỏi phải rửa tâm hồn. Rửa tay thì dễ chứ rửa tâm hồn mới thực là khó. Nhưng cái ô uế thực lại không từ bên ngoài vào, nó ở ngay trong trái tim mỗi người. Đức Giêsu đã kể ra 12 ý định xấu từ trong trái tim. Từ ý định xấu xa sẽ dẫn đến những hành vi tội lỗi (x.Mc.7,21-22). Michael Taeboit nói: "Khi cái dầm tội lỗi ra khỏi mắt ta, tất cả thế giới sẽ tỏa sáng".
Vậy điều quan trọng là phải đổi mới trái tim. Đổi mới được trái tim là đổi được tất cả. Điều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Việc đọc kinh dự lễ, suy niệm Lời Chúa, làm việc bác ái& tự chúng không bảo đảm rằng chúng ta thánh thiện, nếu chúng ta làm vì một lý do không mấy đúng đắn. Nó chỉ trở nên thánh thiện trước mặt Chúa khi những hành động ấy phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Phaolô đã quả quyết: "Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà tôi không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi" (1Cr.13,3).
*****
Lạy Chúa, xin nhắc cho chúng con nhớ rằng: luật lệ và nghi thức là cần thiết, nhưng đừng quên điều cốt lõi của luật Chúa là yêu thương. Xin dạy chúng con chỉ biết có một điều: là chúng con làm mọi sự chỉ để kính mến Chúa và yêu thương anh em. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
5. Mảnh suy tư
a/ Đầu và tim
Trong trường học, người ta để ý huấn luyện cái đầu hơn là trái tim, vì người ta cho rằng cái đầu mới biết suy nghĩ. Bởi đó người ta lo đào tạo nên những đứa trẻ giỏi hơn là những đứa trẻ tốt, vì công việc và nghề nghiệp sau này của đứa trẻ đòi hỏi hiệu năng hơn là tấm lòng. Kết quả của lối giáo dục trên là nền văn minh khoa học kỹ thuật ngày nay, rất hiệu quả nhưng cũng rất lạnh lùng, ích kỷ và tàn nhẫn.
Tuy nhiên trong trường đời thì trái tim lại quan trọng hơn, vì sống ở đời và giao tiếp với người đời, "được việc" mà thôi chưa đủ, còn phải "được người" nữa. Nền văn minh mang lại hạnh phúc cho con người không phải là văn minh của khoa học kỹ thuật mà là văn minh của tình thương.
b/ Chăm sóc bề ngoài
Hàng ngày xem TV, chúng ta thấy quảng cáo rất nhiều sản phẩm: các loại xà bông mới, các loại dầu gội mới, nhiều loại nước hoa v.v. Tất cả đều nhằm chăm sóc cho làm da, mái tóc, cơ thể& nhưng đều là bề ngoài. Ngày nay, người ta cũng để ý nhiều hơn đến chất lượng của những thức ăn và thức uống& Mọi thứ phải đáp ứng đúng tiêu chuẩn thực phẩm an toàn và bổ dưỡng. Tuy nhiên, tất cả chỉ là những thứ từ bên ngoài được đưa vào trong cơ thể con người.
Nhưng xem ra người ta rất ít lo chăm sóc cái bề trong của con người, như lương tâm, lòng nhân ái, ý thức về tội& và cũng rất ít để ý tới những cái từ trong lòng phát ra.
6. Chuyện minh họa
Một sư phụ hỏi các đệ tử của mình: "Cái gì ta phải lo tránh nhất trong cuộc đời ?" Sau đây là những câu trả lời của các đệ tử:
- Một con mắt xấu
- Một người bạn xấu
- Một người láng giềng xấu
- Một trái tim xấu.
Sư phụ đánh giá câu trả lời thứ tư là đúng nhất, bởi vì một trái tim xấu chứa đựng tất cả những sự xấu khác.
Sau đó sư phụ lại hỏi: "Và cái gì ta cần bồi dưỡng nhất trong cuộc đời ?" Cũng có những câu trả lời tương tự:
- Một con mắt tốt.
- Một người bạn tốt.
- Một người láng giềng tốt
- Một trái tim tốt.
Vị sư phụ cũng đánh giá câu trả lời thứ tư là đúng nhất, vì một trái tim tốt chứa đựng tất cả mọi thứ tốt khác.
Nhưng sư phụ lưu ý thêm: Một trái tim tốt không chỉ là một trái tim sạch mà còn phải là một trái tim đầy, bởi vì một trái tim sạch có thể chỉ là một trái tim trống rỗng, còn một trái tim đầy thì chan chứa tình thương.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, người biệt phái Do thái tranh luận với Đức Giêsu về sự ô uế và trong sạch Đức Giêsu đã bảo họ: "Tất cả những điều xấu xa đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người thành ô uế". Chúng ta hãy khiêm tốn cầu nguyện:
1. Xin cho các Đức Giáo Hoàng, Giám mục, Linh mục và cá giáo lý viên / biết hướng dẫn mọi người sống theo tinh thần lề luật của Chúa / và tránh mọi lối sống vụ hình thức cũng như giả hình.
2. Xin cho các người lãnh đạo các dân tộc / biết ứng xử với nhau và với đồng bào của mình trong tinh thần và sự thật / để đôi bên luôn tín nhiệm và đoàn kết với nhau.
3. Xin cho những người quen sống lối sống vụ hình thức và giả hình / biết nhận thức rằng chính lối sống đó chỉ làm cho họ trở nên ô uế xấu xa.
4. Xin cho anh chị em trong giáo xứ chúng ta / biết yêu mến và tuân giữ lề luật của Chúa / hơn là chạy theo những thói quen ngoại giao giả hình.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã dạy chúng con rằng: tất cả những điều xấu xa đều từ bên trong mà xuất ra. Xin Chúa giúp chúng con luôn thanh tẩy tâm hồn cho trong sạch, để chúng con biết phục vụ Chúa và mọi người trong thần khí và sự thật. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước lúc rước lễ: Chúng ta hãy nhớ lời Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng: "Chính cái từ trong con người xuất ra là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng". Xin Chúa thương tẩy xóa mọi thứ ô uế đó khỏi lòng chúng ta để chúng ta xứng đáng rước Chúa vào lòng.
VII. GIẢI TÁN
Anh chị em hãy ghi nhớ một lời Tin Mừng hôm nay: "Dân này thớ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng thì lại xa Ta". Ước gì tuy Thánh lễ đã kết thúc và chúng ta sắp ra khỏi nhà thờ, nhưng lòng chúng ta luôn gắn bó với Chúa.
Bài đọc thêm: THƯ GIACÔBÊ
A. Tác giả
1. Đầu thư có ghi tên tác giả: "tôi là Giacôbê, tôi tớ của Chúa Trời và của Đức Giêsu Kitô" (1,1). Điều này cho ta biết tác giả tên là Giacôbê. Nhưng Giacôbê nào vì Tân Ước có nhiều người tên Giacôbê ?
a/ Giacôbê "tiền" con của Giêbêđê, anh của Gioan, là một trong 12 tông đồ, được Đức Giêsu gọi là "con của sấm sét", và cũng là một trong 3 tông đồ được Đức Giêsu thường đem riêng theo trong những hoàn cảnh đặc biệt ?
b/ Giacôbê con ông Anphê, cũng là một trong số 12 tông đồ ?
c/ Giacôbê "hậu" người bà con của Đức Giêsu (Mc 6,3). Dù không phải là tông đồ nhưng đã được thấy Chúa phục sinh hiện ra (1 Cr 15,7). Sau khi Đức Giêsu về trời, ông trở thành người lãnh đạo giáo đoàn Giêrusalem và đã chủ tọa công đồng Giêrusalem bàn về quy chế cho các tín hữu gốc lương dân ?
2. Giọng văn của một kẻ có quyền (3,1) khiến người ta đoán tác giả thư này phải thuộc giới lãnh đạo Giáo hội. Xét về nội dung thì tác giả viết cho những người do thái tòng giáo, có lẽ là giáo đoàn Giêrusalem. 2 chi tiết này khiến người ta kết luận tác giả thư này là Giacôbê hậu.
Tân Ước cho ta một số chi tiết về tác giả:
- là một người anh em của Đức Giêsu (Mt 13,55 - Tin lành, vì cho rằng Đức Giêsu có nhiều anh em ruột, nên còn nghĩ rằng Giacôbê là anh cả hay ít ra là anh kế tiếp Đức Giêsu, vì tên ông được kể đầu tiên trong bảng danh sách này).
- là một trong số ít người được Đức Giêsu chọn hiện ra sau khi Ngài sống lại (1Cr 15,7).
- được Phaolô coi là một trong những trụ cột của Giáo Hội (Gl 2,9).
- do đó Phaolô luôn quan tấm đến trình diện với Giacôbê sau khi mới trở lại đạo (Gl 1,19) và trong chuyến về Giêrusalem lần cuối (Cv 21,18).
- Ngay cả Phêrô cũng coi trọng Giacôbê: ngay sau khi thoát khỏi từ, Phêrô đã bảo người ta báo tin này cho Giacôbê (Cv 12,17).
- Giacôbê đóng vai trò quan trọng trong hội nghị Giêrusalem (Cv 15,13).
- là một người nổi tiếng đến nỗi trong thư Giuđa, tác giả không cần xưng tên mình trong liên hệ với cha mình (theo thói quen người do thái) mà lại lấy liên hệ với Giacôbê: "tôi là anh em của Giacôbê" (Gđ 1,1).
3. Tuy nhiên văn chương hy lạp của thư này quá hay, không thể là của Giacôbê anh em Đức Giêsu, vì ông này chỉ biết tiếng hy lạp sơ sài thôi. Nhưng cả 3 ông Giacôbê cũng đều như nhau về điểm này. Vậy có thể là Giacôbê anh em Đức Giêsu đưa ý tưởng, rồi một thư ký rành tiếng hy lạp viết lại.
B. Thời điểm và người nhận
Nếu ta nhìn nhận giả thuyết tác giả là Giacôbê hậu, thì thời điểm viết thư này vào khoảng các năm 57-62. Đó là thời gian ông điều khiển giáo đoàn Giêrusalem.
Đầu thư có đề tên người nhận, đó là "những kiều bào tản cư 12 chi tộc" (1,1b). Họ là những kitô hữu gốc do thái đang lưu lạc khắp nơi trong các diaspora giữa thế giới hy lạp, có lẽ sau biến cố Têphanô bị ném đá chết (x. Cv 8,1 11,19). Kiểu nói "12 chi tộc" chỉ toàn thể Dân Mới.
C. Hoàn cảnh
Nội dung thư cho thấy 2 hoàn cảnh đặc biệt:
a/ Hoàn cảnh tín hữu bị bắt bớ ;
b/ Hoàn cảnh một giáo đoàn có sự chia rẽ giữa người giàu và người nghèo:
- Người giàu thì hám danh, đòi đặc quyền ngay cả trong những buổi nhóm họp phụng vụ (2,1-3), thích nói bù lu bù loa miễn là khỏi phải chi tiền (2,16), và bóc lột người nghèo (5,1-6)
- Người nghèo thì bị coi rẽ bởi chính những người tự coi là mục tử của họ (2,2-6)
Do chia rẽ như thế nên sinh ra ganh ghét (3,14 4,2), giận dữ (1,19), chửi bới nhau (4,11 5,9)
Giacôbê đứng về phía người nghèo để chống lại các bất công xã hội.
D. Nội dung
Thư này không có một chủ đề chính như các thư của Phaolô, mà bàn về nhiều vấn đề cụ thể.
- 1,2-4: sư thử thách
- 1,13-15: Cám dỗ
- 2,1-13: Cư xử với người nghèo
- 4,13-5,6: Lên án người giàu
- 2,14-26: Đức tin và việc làm
- 3,1-12: Lo giữ miệng lưỡi
- 5,14-15: Bí tích xức dầu bệnh nhân
E. Nhận định
"Where there is life, there is motion" (hễ sống thì phải động):
- Đành rằng "động" không sinh ra "sống", nhưng "động" là bằng chứng hiển nhiên nhất của "sống".
- "Động" là việc lành ; "sống" là đức tin.
- Giacôbê diễn tả một cách vừa dễ hiểu vừa rất chắc chắn: đức tin mà không có việc làm là đức tin chết ; quỷ cũng tin nhưng nó đâu có được cứu độ, vì nó tin mà không làm.
Thư này là câu trả lời rất vững chắc cho những kẻ ngụy biện rằng chỉ cần tin trong lòng (đạo tại tâm).
Nhà thần học William Barclay kể lại câu chuyện một Rabbi (Tiến sĩ Luật Do Thái giáo) lão thành nọ bị tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm mục đích kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua, vị Rabbi ấy ngày càng yếu dần. Cuối cùng người ta buộc phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông ta bị thiếu nước.
Báo cáo của y sĩ khiến đám sĩ quan cai ngục bối rối. Họ không hiểu nổi tại sao vị Rabbi ấy lại có thể thiếu nước, bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, song vẫn tương đối đủ chứ đâu đến nỗi tệ! Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát “Ông già” ấy một cách kỹ lưỡng hơn để thử xem ông ta làm gì với số nước ấy. Cuối cùng người ta đã khám phá ra bí mật. Ông Rabbi ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn. Như thế đương nhiên ông ta chỉ còn lại rất ít nước để uống.
******
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được bài Phúc Âm hôm nay. Nó giúp ta hiểu rõ hơn các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã cảm thấy chướng tai gai mắt và bực bội thế nào khi nhìn thấy các môn đệ Chúa Giêsu ăn uống mà chẳng chịu rửa tay theo đúng nghi thức.
Đấy chính là điểm quan trọng của bài Phúc Âm hôm nay. Điểm quan trọng này được biểu lộ trong một tranh luận sôi nổi giữa chúng ta và những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Chúng ta hãy xét kỹ hơn cuộc tranh luận đặc biệt này.
Khi Chúa Giêsu nói về “Lề luật”, thì từ ngữ này có một trong hai ý nghĩa: Hoặc là lề luật thành văn hoặc là lề luật “truyền khẩu”. Trong hai thứ lề luật này cái cổ hơn và quan trọng hơn là lề luật thành văn. Lề luật này căn cứ trên sách Torah (Ngũ Thư) nghĩa là 5 quyển sách đầu tiên của Cựu Ước, đôi khi còn gọi là luật Môisê. Một số lề luật này mang tính cụ thể và đặc thù, số còn lại thì rất chung chung giống những kiểu mẫu phải theo hơn là luật lệ. Trong một thời gian dài, dân Do Thái bằng lòng với những “kiểu mẫu” này. Họ áp dụng chúng vào đời sống vì thấy chúng thích hợp.
Tuy nhiên, tới thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, có một nhóm chuyên nghiên cứu về Luật đã tạo được một ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân chúng Israel. Họ thấy những điều luật tổng quát trong bộ luật ấy quá mơ hồ, thiếu tính rõ ràng, cần phải được soạn thảo lại cho rõ ràng, với nhiều chi tiết hơn. Và họ đã tiến hành làm công việc ấy. Từ đó phát sinh ra bộ luật thứ hai, gồm những luật truyền miệng, hay những truyền thống khẩu truyền. Trong khoảng thời gian này, trong dân chúng Do Thái, có rất nhiều người muốn bắt chước các tư tế của họ về sự thánh thiện bề ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn theo lề luật thành văn, mọi tư tế đều phải rửa tay trước khi vào nơi thánh trong đền thờ. Mục đích của luật này là tẩy rửa đi tất cả những gì là ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa hơn. Dần dần, dân chúng cũng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Và bằng những suy nghĩ tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước khi dùng bữa nữa.
Vào thời Chúa Giêsu, dân Do Thái tuân giữ những lề luật truyền khẩu này cũng tỉ mỉ và thành tín chẳng khác nào lề luật thành văn của Ngũ Thư. Ý tưởng hàm chứa đàng sau việc tuân giữ này quả thực cao đẹp, bởi nó nhằm mục đích làm cho Tôn giáo thấm nhập vào mỗi hành vi của cuộc sống. Nhưng trong quá trình thực thi luật lệ này, một điều bi đát đã xảy ra vì Tôn giáo đã dần dần thoái hoá thành một hoạt động chỉ đơn thuần là chu toàn những nghi thức bên ngoài: Tuân giữ những nghi thức này thì được kể là đạo đức, là biết phụng sự Chúa. Để nói lên sự nguy hiểm của thói nệ luật ấy, William Barclay chứng tỏ rằng xét về mặt lý thuyết, người ta có thể căm ghét kẻ khác một cách sâu sắc từ trong trái tim, nhưng họ chẳng hề áy náy gì cả “bao lâu họ còn tuân thủ chặt chẽ nghi thức rửa tay và những nghi thức đúng đắn khác về vấn đề thanh tẩy”.
Để minh hoạ thói nệ luật này rõ hơn, Barclay kể thêm một câu chuyện có lẽ có ghi trong Nguỵ thư nói về một người Hồi Giáo đuổi theo để giết kẻ thù của anh ta. Đang khi rượt theo kẻ thù ấy, chợt hồi chuông báo giờ cầu nguyện vang lên. Lập tức anh hồi giáo này nhảy ngay xuống ngựa, mở thánh kinh ra quì gối xuống và cầu kinh theo như luật định một cách hết sức lẹ làng. Đoạn, anh ta lại leo lên ngựa tiếp tục rượt theo kẻ thù. Đó chính là chủ nghĩa câu nệ lề luật mà Chúa Giêsu cực lực phản đối.
Tất cả những chuyện ấy dạy chúng ta điều gì? Nó cảnh cáo ta đừng rơi vào chủ nghĩa đồng hoá tôn giáo với việc chu toàn những hành vi bên ngoài. Chẳng hạn việc đi lễ, đọc kinh, đọc sách thánh, làm việc bố thí& tự chúng chưa bảo đảm rằng chúng ta thánh thiện đâu.
Lý do rất đơn giản là chúng ta có thể làm tất cả những điều này vì một lý do không mấy đúng đắn, hoặc chúng ta có thể làm tất cả điều này mà không phải do yêu thương, vì điều quan trọng không phải là việc chúng ta làm, mà chính là tình yêu trong trái tim đã thúc đẩy chúng ta làm việc đó. Nếu trái tim chúng ta chất đầy nỗi chua chát hoặc kiêu căng thì tất cả mọi nghi thức bề ngoài trước mắt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta thánh thiện trước mặt Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình, tự vấn xem mình đã áp dụng những lời trong bài đọc thứ hai chưa?
“Anh chị em đừng đánh lừa mình khi cho rằng chỉ cần nghe lời Chúa là đủ& Tôn giáo tinh tuyền và chân thực phải là biết lo lắng cho kẻ mồ côi goá bụa.. và giữ mình khỏi bị băng hoại hư hỏng”.
Và liệu những lời của tiên tri Isaia mà Chúa Giêsu dùng trong bài Phúc Âm hôm nay bao gồm cả chúng ta không? “Đám dân này thờ Ta ngoài môi miệng, còn lòng dạ chúng thì quả thực là xa Ta”.
Tóm lại, điều cốt lõi trong tôn giáo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Hành động của chúng ta phải phát xuất từ tình yêu, từ con tim: yêu Thiên Chúa và thương tha nhân.
Để kết thúc, chúng ta hãy nghiêm trang đọc lại những lời nói về Tình yêu của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô.
“Dù cho tôi có biệt tài giảng thuyết& Dù cho đức tin tôi cực kỳ mạnh mẽ có thể dời núi chuyển non, mà nếu chẳng có Đức Ái thì tôi sẽ chẳng là gì cả. Dầu tôi dâng hiến tất cả mọi điều tôi có mà tôi không có Đức Ái thì điều ấy cũng chả lợi lộc gì cho tôi.
“Tình yêu đòi hỏi sự kiên nhẫn và tử tế, không ganh tị, kiêu căng xấc láo, tình yêu khiến ta không vụng xử, không ích kỷ hay dễ nóng giận, tình yêu không để bụng chấp nhất những sai trái. Tình yêu không bao giờ lùi bước, Tình yêu là vĩnh cửu. Vì thế, Tình yêu chính là điều anh em phải nổ lực tìm kiếm”. (1Cr 13: 2-8; 14:1)
Cha Muy-rây (Murray) lủi thủi đi trên phố vắng đêm khuya, ngài đang đưa Mình Thánh cho một bệnh nhân nguy kịch. Tới góc phố, chợt một tên cướp nhảy ra chĩa súng quát: “Đứng lại, đưa tiền đây!”. Cha Muy-rây mở áo khoác, lấy ví tiền. Tên cướp ngó thấy ngài mặc áo đen và mang cổ trắng, nhận ra đó là một linh mục, hắn ấp úng nói: “Thưa Cha, con không biết. Con xin lỗi, Cha cất tiền đi”. Cha Muy-rây bình tĩnh lại, ngài móc gói thuốc mời hắn một điếu. Nhưng ngài lại ngạc nhiên lần nữa nghe hắn nói: “Cám ơn Cha, bây giờ đang là Mùa Chay, con không hút thuốc”.
Có những người coi vịêc giữ luật là quan trọng, còn tình trạng tâm hồn mình là không đáng kể. Họ thấy cần thiết phải giữ chay, còn có đi ăn trộm, ăn cướp cũng chả sao. Đó là một sai lầm mà Chúa Giêsu luôn tìm cách sửa đổi. Có thể coi đây là một trong những khác biệt giữa tâm tình giữ đạo của các biệt phái và nhóm môn đệ sống theo Lời Chúa. Các biệt phái nghiêm chỉnh giữa luật rửa, tắm rửa trước khi dùng bữa. Những kiểu tắm rửa, lau chùi, rửa bình& Không phải vì lý do vệ sinh, nhưng là nghi lễ thanh tẩy. Họ khó chịu, chê trách Chúa và các môn đệ vì không tuân giữ các lề luật đó. Chúa không khắt khe với các môn đệ trong việc giữ luật cũ. Dù nhóm môn đệ rất nhiệt thành giữ đạo, nhưng đôi khi trong nếp sống cũng bị lây nhiễm lấy một vài thói tục mà người biệt phái cho là phóng túng. Chúa Giêsu coi những chuyện này không quan trọng. Chủ yếu là do cõi lòng. Chúa luôn bảo vệ, bênh vực những kẻ mà nhóm bảo thủ cho là người xấu, người tội lỗi, những người thu thuế, các cô gái điếm. Chúa tỏ lòng nhân từ và khoan dung với người nghèo khó, bé mọn.. nhất là khi những người này bị xét đoán gắt gay.
Một lý do khác nữa là Chúa Giêsu nghĩ tới một Giáo hội phổ quát chứ không đóng khung trong dân tộc Do Thái. Những phong tục, tập quán của Do Thái là tốt, nhưng đến lúc phải mở rộng hơn để đón nhận mọi nếp sống, mọi nền văn minh trên toàn thế giới. Vậy phải sàng sảy, chọn lọc, chỉ giữ lại những gì cốt yếu và coi nhẹ những điểm phụ thuộc. Chúa bảo có một số cổ lệ không do Thiên Chúa mà chỉ do con người. Những cổ lệ đó cần đổi thay, điều chỉnh cho sáng tỏ tinh thần tôn kính Thiên Chúa và chu toàn bác ái đối với anh em. Nếu không sẽ chỉ đáng nghe lời quở trách của ngôn sứ Isaia: “Dân này thờ ta ngoài môi miệng mà lòng trí ở xa ta”.
Phải làm sao cho sáng tỏ tinh thần, không bị lu mờ che khuất vì nếp sống bên ngoài. Phải làm sao cho mọi người, tín đồ cũng như người chưa tin, thấy điều quan trọng là ở tâm tình, chứ không ở luật lệ, hay lễ nghi thờ tự. Những điều này chỉ có giá trị nếu làm nổi bật tinh thần bên trong, là việc mến Chúa, yêu người.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy chúng con để chúng con biết tôn trọng tinh thần hơn tục lệ, biết nhìn anh em theo hướng nhìn cởi mở của Chúa.
Khoảng 2 giờ, một buổi sáng lạnh và gió lớn, chuông điện thoại nhà xứ reo, có tiếng hốt hoảng la lên: Tôi tưởng ông ngoại đã qua đời”. Vì chỉ cách 2 căn phố. Cha Murray đi bách bộ, khi ngài qua một ngõ hẻm, chợt xuất hiện một bóng hình cầm cây súng bước tới truyền lệnh: “Đưa tiền đây!” Vị linh mục nói với người cầm súng: “Ví của tôi để trong túi áo khoác”. Khi ngài mở nút áo khoác để lấy ví, để lộ chiếc cổ áo Rôma. Kẻ cướp ấp úng; “Ôi con không biết cha là linh mục, con xin lỗi, cha cất tiền đi”. Bình tĩnh lại vị linh mục đưa cho y một điếu xì gà, nhưng y lắc đầu “Không, cám ơn cha, trong mùa chay con không hút thuốc.”
Kẻ cướp đường đã hành động như một người Biệt phái, Người Biệt phái giữ hết sức chi tiết những điều lệ nhỏ nhặt của luật Do Thái, trong khi đó lại bỏ bê những giới răn quan trọng. Đó là lý do Đức Kitô khiển trách họ. Họ ghét Chúa Giêsu vì Người đe doạ địa vị của họ, như những người lãnh đạo tôn giáo. Họ dò xét Chúa, cố gắng bắt bẻ Người trong lời nói. Họ chỉ trích Người đã hoà mình với người thu thế và tội lỗi. Người đã bỏ qua lệ rửa tay chân như trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ nói Chúa Giêsu không thể tha tội. Người dùng quyền lực của quỉ mà trừ quỉ. Họ làm điều lành chỉ cốt để cho người ta thấy.
Ngày nay còn người biệt phái không? Bất hạnh thay, vẫn còn. Đây là một vài kiểu biệt phái tân thời: Những người công giáo lẫn lộn những cái không quan trọng với những cái quan trọng.
Giả sử tôi nói với một người nào đến trễ lễ: “Bạn bất lịch sự”. Chắc người ấy cho rằng bị xỉ nhục. Nhưng vì lỗi mình, đến lễ trễ, là một sự xúc phạm đến Chúa, làm lo ra những người trong nhà thờ và cho vị chủ lễ. Có người mỉm cười với bất kỳ ai gặp trong nhà thờ, dĩ nhiên, điều đó tốt. Nhưng họ không nói một lời nào với Chúa trên bàn thờ cũng như đi dự đại tiệc, chỉ nói chuỵên với mọi người, trừ ông chủ tiệc. Cái nào quan trọng ?.
Có những người công giáo và những người khác nữa, họ không nghĩ rằng họ sẽ tổ chức hay dự một bữa tiệc nếu có một vết nhơ trên bàn, hay trên đĩa hoặc trên quần áo của họ. Nhưng ngôn ngữ của họ không phải chỉ có vết nhơ, mà nó thật sự thô bỉ, một sự thô bỉ bên trong hơn là bên ngoài như Chúa Giêsu đã chỉ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay.
Có người trong chúng ta ra ngoài thì hoang phí, rộng rãi với anh bồi ở quán rượu, hào phóng với cô chạy bàn, nhưng lại rất keo kiệt với người thân thương, và với Chúa.
Nhiều người không bao giờ quên câu nói: “xin vui lòng, cám ơn, xin lỗi”, khi ở ngoài gia đình. Nhưng giữa những người thân yêu, ít khi bạn được những từ quan trọng ấy.
Bạn có thể nghĩ đến những hoàn cảnh, trong đó bạn phải sạch sẽ lịch sự, hào hiệp, chỉ khi nào những hoàn cảnh đó được trình diễn trước mặt mọi người để đạt được tín nhiệm hoặc tránh khỏi phê bình, hãy cố gắng đừng làm biệt phái.
Cám ơn Chúa vì phần lớn những người chân thành, họ đặt người khác và sự vật vào đúng vị trí trật tự của nó. Như đặt Thánh Lễ lên đầu bảng danh sách những việc quan trọng.
Trong bài Tin Mừng theo thánh Marcô hôm nay, các vị kinh sư, luật sĩ từ Giêrusalem kéo tới để chất vấn Chúa về chuyện truyền thống. Đức Giêsu đã bài bác họ, sau đó Ngài bày tỏ lập trường dứt khoát của mình.
Mấy vị đó chỉ làm bộ hỏi, thực ra là họ muốn lên án, vì họ nghĩ là họ nắm vững lẽ phải trong tay, dĩ nhiên là lẽ phải do họ đặt ra, áp đặt người khác phải chấp nhận.
Họ đề cập đến truyền thống rửa tay trước khi dùng bữa. Theo Sách Xuất Hành (Xh 30,17-21), các tư tế bắt buộc phải rửa tay trước khi cử hành các nghi lễ phụng tự. Các luật sĩ đã thêm vào giới luật này nhiều chi tiết rắc rối. Họ bắt buộc mọi người trước khi dùng bữa phải rửa tay, vì "mỗi bữa ăn đều là hành vi tôn giáo và toàn dân Israel là một dân tộc tư tế". Đức Giêsu đã phản bác họ. Ngài nói: "Ngôn sứ Isaia thật đã nói rất đúng về các ông là những kẻ giả hình, khi viết rằng: "Thiên Chúa phán: "dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta"... Họ đã bỏ điều răn của Thiên Chúa mà chỉ giữ truyền thống của phàm nhân. Do đó mà họ có thờ phượng Thiên Chúa thì cũng vô ích, vì giáo lý của họ chỉ là giới luật phàm nhân, đúng như ngôn sứ Isaia nhận xét.
Thật vậy, Thiên Chúa chỉ ban mười giới luật, tóm lại là hai điều rút lại chỉ còn một điều duy nhất là mến Chúa yêu người. Còn luật sĩ và Pharisêu thì tạo ra hằng trăm khoản luật để khoác vào cổ dân chúng. Tất cả có 613 điều luật! Rõ ràng, truyền thống mà các vị đó đề cập chỉ là truyền thống người đời đã đặt ra. Cũng như luật kiêng cữ một số đồ ăn (như thịt heo) rõ ràng là một truyền thống phàm nhân đặt ra một cách tùy tiện. Theo truyền thống thì những thực phẩm này được coi là ô uế, dơ bẩn. Đức Giêsu phản bác lại bằng lập trường của Ngài: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người, lại có thể làm ô uế con người được. Nhưng cái gì từ con người xuất ra, mới là cái làm cho con người trở thành ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, xuất phát những ý đồ xấu xa...".
Đức Giêsu đã phân biệt rõ rệt cái tục với cái thanh, cái ô uế với cái trong sạch, cái trong với cái ngoài, cũng như ta nói cái hình với cái tâm. Khi ta đã có cái tâm trong trắng, thì chẳng có cái gì là dơ bẩn cả. Nhưng một khi cái tâm đã bị ô nhiễm những ý đồ xấu xa, thì mọi sự trở nên ô uế. Và truyền thống đích thực là giữ sao cho cái tâm của ta được đập cùng một nhịp với thánh tâm Đức Giêsu, là "lò lửa mến hằng cháy", mọi tà tâm sẽ bị thiêu rụi trong ngọn lửa mến rực cháy ấy.
“Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông.” Lời quở trách của đức Giêsu dành cho những người Pha-ri-sêu và kinh sư vạch trần những sự gian giối của giới lãnh đạo dân Do-thái, vì họ đã thực sự đảo lộn bậc thang giá trị của đời sống, đặt quá nhiều chú ý vào truyền thống phàm nhân nên đã đánh mất lề luật tôn quí của Thiên Chúa.
Những tập tục lỉnh kỉnh của giới lãnh đạo Do-thái mang nặng tính cách trình diễn bên ngoài, họ thích làm điệu bộ có vẻ quan trọng đáng kính, họ thích những lời tấm tắc khen ngợi của kẻ khác. Và chính vì mê tìm kiếm những điều đó mà họ đã không hiểu rằng mình đang xa rời những giá trị căn bản Chúa truyền dạy. Khi lòng trí của họ không còn mấy lưu tâm đến Thiên Chúa nữa, thì những gì họ làm nhân danh Thiên Chúa đều là trống rỗng, như các nhãn hiệu giả tạo bên ngoài! Vì kỳ thực mọi cái họ làm không còn là cho Thiên Chúa hay cho người khác, nhưng lại cho chính bản thân họ trước tiên! Khi nhận thấy những hành vi điêu ngoa gian giối của họ, đức Giêsu đã không dằn lòng được, nên phải mượn lời tiên tri I-sai-a mà than thở rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta! Chính vì lòng trí họ không còn nhớ đến Chúa nên không còn là đền thờ sống động của Thiên Chúa, tự khắc nó trở thành vùng đất béo bở cho bao nhiêu tội lỗi xấu xa phát sinh và thành sào huyệt cho ma quỷ hoành hành. Từ đó bao nhiêu các thứ tư tưởng đố kỵ, tranh đoạt của thế gian làm chủ những hành động ám muội của loài người: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả mọi chuyện đáng kinh hải này xuất ra từ lòng người không coi trọng luật thánh của Thiên Chúa!
Lạy Chúa, xin giúp con luôn biết suy gẫm luật Chúa đêm ngày, để lòng trí con không buông tuồng theo những thói tục thế gian, nhưng tha thiết vươn lên tới Chúa như cây lá luôn tìm ánh mặt trời
Có lẽ một trong những điều tệ hại nhất đang xảy ra trong xã hội Việt Nam chúng ta ngày nay là sự giả dối và lường gạt lẫn nhau. Một ví dụ: sự gian lận tuổi của các đội bóng đá nhi đồng vừa được phanh phui trên các báo thể thao. Có nhiều người sống giả dối một cách công khai, trắng trợn. Nhưng cũng có nhiều người sống giả dối một cách kín đáo và khéo che dấu dưới những chiêu bài đạo đức. Chính sự giả dối của nhiều người, kể cả những người có chức quyền, có địa vị cao trong xã hội đã làm cho xã hội suy thoái về mặt đạo đức, nhân cách. Đó là một nguy cơ trầm trọng đối vối tương lai đất nước.
Nhưng thử hỏi: sự giả dối đáng kết án kia có xẩy ra trong Giáo hội hay chỉ xẩy ra ngoài xã hội mà thôi? Thật khó mà có câu trả lời chính xác! Nhưng tốt nhất là chúng ta hãy coi chừng và thận trọng để chúng ta đừng vô tình hay hữu ý trở thành những người sống đạo đức giả, chẳng khác gì những người Biệt phái thời Chúa Giêsu. Muốn thế chúng ta hãy để cho sứ điệp của Lời Chúa hôm nay chất vấn lương tâm mình, nếu chúng ta có thiện chí muốn sống theo Chúa thực sự.
I. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1.1 Bài đọc 1: Đnl 4,1-2.6-8: Là những lời căn dặn ân cần của Ong Môsê nói với dân riêng của Thiên Chúa: “Hỡi Ítraen, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định&để anh em đem ra thực hành. Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em. Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh”.
1.2 Bài đọc 2: Gc 1,17-18.21b-22.27: Là những lời khuyên của Thánh Gia-côbê Tông đồ, gồm hai ý chính: (1o) Mọi ơn lành và phúc lộc, nhất là Lời chân lý, đều do Thiên Chúa tạo dựng cũng là Cha yêu thương ban cho chúng ta; (2o) Hãy đón nhận Lời có sức cứu độ ấy của Thiên Chúa và đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe xuông mà lừa dối chính mình.
1.3 Bài Tin Mừng: Mc 7,1-8a.14-15.21-23: Là tường thuật của Máccô về một trong những cuộc “đụng độ” giữa Đức Giêsu và những người Phari-sêu. Cuộc đụng độ lần này xoay quanh vấn đề người ta phải tôn trọng và tuân giữ điều răn của Thiên Chúa hay truyền thống của cha ông cũng chỉ là những người phàm? Cơ hội thuận lợi là những người Pharisêu bắt gặp vài môn đệ của Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn. Rửa tay trước khi ăn là một tập tục, một truyền thống mà người Do Thái giữ gìn rất cặn kẽ. Họ bắt bẻ Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” Đức Giêsu trả lời họ: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng có thờ phương Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. Các ông gạt bỏ điều răn Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm”. Động cơ của người Pharisêu là tìm dịp, tìm cách bắt bẻ Đức Giêsu và các môn đệ Người. Nguyên nhân sâu xa của thái độ ấy là sự giả hình của người Biệt Phái, cứ nuôi ảo tưởng và làm ra mình là những người đạo đức, thánh thiện mà coi khinh, coi thường và kết án người khác. Chính thái độ và cách sống không lành mạnh ấy của các kinh sư, luật sĩ đã bị Đức Giêsu vạch trần và lên án.
Phúc âm Maccô kể tiếp: Sau đó Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế”
Như thế thì cái cần thanh tẩy trước tiên là tâm hồn, là tư tưởng, là các suy nghĩ của chúng ta chứ không phải là bàn tay. Bởi vì một khi mà tâm hồn bất chính, tư tưởng tội lỗi, suy nghĩ sai lầm thì chúng ta sẽ bị dẫn đi rất xa khỏi nẻo đường công chính và bị dẫn xuống rất thấp, ngang với loài cầm thú. Còn nếu đôi tay chúng ta có không sạch thì cùng lắm là mất vệ sinh ăn uống, là mắc bệnh truyền nhiễm và tốn tiền thuốc thang chữa trị mà thôi.
II. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
Rõ ràng sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy sống trung thực, chẳng những sống trung thực trước mặt Thiên Chúa mà còn sống trung thực trước mặt người đời và với chính bản thân chúng ta nữa.
2.1 Sống chân thực trước mặt Thiên Chúa vì Chúa không ưa thích sự gỉa dối và vì chúng ta không thể che dấu Người điều gì.
Thiên Chúa là Chân Lý tuyệt đối, có nghĩa là sự giả dối không có chỗ nơi Người, không được Người ưa thích và ủng hộ. Trái lại Thiên Chúa lên án cách sống giả hình, sai lạc với sự thật. Thiên Chúa không khinh chê người yếu đuối, tội lỗi nhưng khinh chê những kẻ đạo dức giả. Thiên Chúa yêu thương, tha thứ cho những người yếu đuối, tội lỗi, nhưng Thiên Chúa không thể chấp nhận kẻ sống giả hình. Chúng ta cứ đọc kỹ Phúc âm, chúng ta thấy ngay điều này: Trong giai đoạn sống công khai, Đức Giêsu gần gũi, thân thương, chan hòa, thông cảm với hết mọi hạng người: cùng đinh, tội lỗi, đĩ điếm, ngoại tình, thu thuế, bệnh hoạn tật nguyền &..trong xã hội. Chỉ duy có hạng người Biệt phái là Chúa giữ khoảng cách và có thái độ phê phán, đôi khi khá gây gắt. Chúng ta chỉ cần nhớ lại những câu: “Khốn cho các ngươi&, Khốn cho các ngươi&.. “ (vì thế này, vì thế nọ) trong Phúc âm thì chúng ta xác tín về thái độ của Thiên Chúa đối với loại người giả hình.
Còn một lý do khác khiến chúng ta phải sống trung thực với Thiên Chúa, vì Người thấu suốt mọi sự, thông biết mọi điều. Dấu ai thì dấu chứ chúng ta không thể dấu Thiên Chúa. Những chuyện xấu xa, giả dối mà chúng ta đang dấu kín và ém nhẹm sớm muộn gì cũng sẽ tới ngày bị phanh phui trước ánh sáng của Chúa Tể vũ trụ.
2.2 Sống chân thực trước mặt người đời vì giá trị đích thực của chúng ta không tùy thuộc vào sự đánh giá của người đời mà tùy thuộc vào tư cách, phẩm giá, cách sống của chính mình.
Đối với con người, uy tín hay thanh danh là một điều cực kỳ quan trọng trong cuộc sống. Nhưng uy tín và thanh danh chỉ là thực khi được xây dựng trên người thật việc thật. Thế nhưng có không ít người, sẵn sàng sống trong ảo tưởng, sống lừa dối chính mình và lừa dối người khác khi che đậy những khuyết điểm hay những điều xấu xa tệ hại của mình. Họ cho rằng giá trị con người mình tùy thuộc vào sự đánh giá của người chung quanh, của người đời. Vì thế mà những người ấy tìm hết mọi cách để hình ảnh của họ được tô vẽ, phóng đại và tô mầu trước mắt thiên hạ. Thật ra thì giá trị đích thực của chúng ta là do tư cách, phẩm chất, cách sống của chúng ta, chứ không phải do sự đánh giá (nhiều khi rất sai lầm) của người đời. Cũng không tùy thuộc vào những cái chúng ta có: tiền bạc, chức quyền, địa vị, tiếng tăm. Trong Anh ngữ người ta nói TO BE quan trọng hơn TO HAVE. To be là phẩm chất, là tư cách; còn to have là sở hữu!
2.3 Sống chân thực với chính mình chúng ta mới được giải phóng.
Những người sống giả hình là họ sống trong mơ tưởng, trong _không thực’. Chỉ khi nào chúng ta có đủ dũng cảm sống chân thực với chính bản thân mình, thì lúc đó chúng ta mới được giải phóng. Giải phóng khỏi ảo tưởng, khỏi lừa dối, khỏi hợm mình. Cũng chỉ khi đó chúng ta mới tìm được bình an và hạnh phúc thật.
Sống chân thực với chính mình là nhận thức được những khả năng cũng như những ưu khuyết điểm của mình. Sống chân thực với chính mình còn là và nhất là biết chấp nhận -một cách bằng an, khiêm tốn- những khiếm khuyết, yếu đuối, lỡ lầm của mình. Đó là một điều hết sức khó nên không phải ai cũng làm được, vì đòi hỏi nhiều can đảm và lòng khiêm nhường.
III. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng toàn Chân, toàn Thiện và toàn Mỹ, xin Chúa ban cho chúng con một tâm hồn nhậy cảm trước những gì là Chân là Thiện là Mỹ mà chúng con gặp được nơi trần gian này, để đời sống nhân linh của chúng con ngày càng phong phú hầu làm vinh danh Chúa!
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Lời Chân Thật của Thiên Chúa. Chúa đến trần gian để dạy chúng con sống chân thực trước mặt Thiên Chúa, trước mặt người đời và với chính bản thân chúng con. Nhưng chúng con gặp rất nhiều khó khăn khi cố gắng sống như thế: Chúng con không đủ dũng cảm, không đủ khiêm nhường để chấp nhận thân phận mỏng dòn và yếu đuối của chúng con. Chúng con lầm tưởng về giá trị đích thực của con người nên tìm cách che đậy tính hư, nết xấu, khiếm khuyết và sống trong ảo tưởng hão huyền. Chúng con tìm cách chê bai, khinh khi người khác để tự đề cao mình. Chúng con chẳng khác gì những người Pharisêu xưa luôn rình rập bắt bẻ anh em, mà cho mình là người thánh thiện. Chúng con bám víu vào những điều phụ thuộc không quan trọng là tập quán, thói quen của người đời mà quên điều cốt yếu trong Giáo lý của Đạo Chúa. Xin Chúa sửa dạy chúng con, uốn nắn chúng con, cho chúng con thành người và thành môn đệ đích thực của Chúa.
Truyện thiền kể có hai nhà sư xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một thiếu nữ đứng bên vũng nước sâu. Thiếu nữ muốn đi qua mà không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư liền bế thiếu nữ vượt qua vũng nước. Trở về gần đến chùa, nhà sư kia trách bạn: “Sao anh lại bế một thiếu nữ như thế ?”. Nhà sư trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng nước, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa”.
Câu chuyện ý nhị trên đã minh hoạ rõ nét về hai lối sống đạo. Lối sống đạo theo hình thức và lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành. Ông đã hoàn toàn giữ luật theo hình thức bề ngoài mà không xét đến nội tâm của mình.
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do thái cũng giữ đạo theo hình thức như thế. Họ rất trọng những luật lệ theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài là đủ. Theo họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch. Người Do thái có nhiều cấm kỵ ô uế. Bị coi là ô uế những người mắc bệnh phong, những người phụ nữ sau khi sinh con, người ngoại đạo. Ai tiếp xúc với những người ô uế sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ngay cả những đồ vật bị người ô uế động đến cũng trở thành ô uế. Ai động đến những đồ vật đã bị ô uế cũng sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ô uế là tội lỗi. Những người bị ô uế sẽ không được dâng lễ vật cho Chúa. Để tránh ô uế, người Do thái luôn rửa tay, rửa bát bên ngoài cho sạch.
Đức Giê-su chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Đức Giê-su đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi, sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám, xấu xa.
Vì quá chú trọng đến những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài, họ biến đạo thành một mớ những nghi thức trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương hơn là để chia sẻ với người anh em cơ nhỡ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Đức Giê-su đã nặng lời chỉ trích họ: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”.
Những hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết. Nhưng những hình thức bên ngoài, muốn có giá trị, cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con người là nguồn mạch của mọi hành vi. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội tâm có chân thật thì hành vi mới có giá trị.
Đạo Chúa không phải là hình thức. Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phao-lô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13, 1-3).
Vì thế, khi làm việc gì, điều cần thiết là cho cử chỉ phản ánh trung thực tâm hồn. Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực. Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối. Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần gũi Chúa. Khi ăn chay, tâm hồn ta mới tan nát vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô trương. Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng.
Với tất cả tâm tình, những nghi thức mới trở nên có hồn, thành thực. Với tất cả tâm tình, ta mới thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa ta đến gần Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa.
Kiểm Điểm Đời Sống
1- Người ta thường phê bình: “Đạo tốt nhưng người có đạo chưa tốt”. Bạn nghĩ gì về lời phê bình này ?
2- Bạn thường đọc kinh thế nào ? Đọc như máy hay có để tâm suy ngẫm và cầu nguyện ?
3- Khi làm việc đạo đức, bạn có muốn cho người khác biết không ? Gm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Tôi xin bắt đầu suy niệm hôm nay bằng cách gợi cho anh chị em nhớ lại một hình ảnh rất quen thuộc. Hình ảnh ấy rất đặc biệt nổi bật trong đêm Chúa Giêsu bị bắt. Đó là "nụ hôn của Giuđa". Nụ hôn nói lên ám hiệu của Giuđa "tôi hôn ai thì người đó là Giêsu".
Đêm thứ 5 tuần thánh CGS cùng ba môn đệ thân tín cầu nguyện trong vườn Giétsêmani, các lãnh đạo tôn giáo xông vào. Giuđa tiến đến hôn Chúa. Chúa Giêsu nói ngay"Anh định lấy cái hôn này để nộp Con Người sao ?"
Khi suy niệm về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, ta thường nói đến hình khổ thập gía, mão gai, lữơi đòng, nói đến những trận đòn Chúa Giêsu phải chịu. Riêng tôi nghĩ: Chúng ta cũng không nên quên nụ hôn của Giuđa. Bởi vì chính nụ hôn này đã diễn tả tính chất bi thảm của Con Người, đồng thời cũng là tính chất bi thảm của thập giá. " Anh định lấy cái hôn, mà nộp Con Người sao ?"
Trong cuộc sống, nụ hôn vốn là dấu chỉ của tình yêu nam nữ khi đã đạt đến độ cao. Thánh Baxiniô cả nói:"Hôn nhau chính là thở linh hồn cho nhau." Một cách diễn tả rất sâu sắc và hình tượng nói lên sự hoà điệu, sự hiệp thông trọn vẹn cả hai tâm hồn.
Ơ đây Giuđa biến nụ hôn thành một dấu chỉ phản bội. Chính ở nụ hôn này chúng ta thấy được tính chất bi thảm trong cuộc sống của con người. Và đặc biệt ngoài thế giới bên ngoài chúng ta còn một thế giới bên trong rất phong phú. Chúng ta gọi đó là thế giới nội tâm. Chính nhờ thế giới nội tâm chúng ta mới có khả năng tư duy, cảm xúc phân tích, đúc kết, đón nhận kinh nghiệm của những người khác làm nền tảng cho sự phát triển. Nếu không có thế giới nội tâm thì sẽ không có khoa học, không có sáng tạo văn hoá và nghệ thuật. Nếu không có thế giới bên trong chúng ta hoàn toàn giống như mọi loài sinh vật. Cho nên, chính nhờ thế giới bên trong đó nó làm cho con người trở thành cao cả đến nỗi có khả năng điều hành và thống trị vũ trụ.
Nhưng cũng chính cái thế giới nội tâm này làm cho con người trở nên bi đát. Không phải là bi đát vật chất hay kinh tế. Điều tôi muốn nói ở đây là bi đát về mặt luân lý và tinh thần. Nghĩa là chính cái thế giới bên trong đó khiến con người chúng ta trở thành tàn ác hơn bất cứ một loài tạo vật nào. Chỉ nơi con người mới có giả hình, lừa đảo, gian dối, mưu mô, xảo trá. Vì thế, chính Chúa Giêsu mới khẳng định: "Không phải những gì từ bên ngoài vào làm cho chúng ta ra ô uế đâu, nhưng từ trong lòng mới xuất phát những cái làm cho con người ra ô uế ".
Chúa Giêsu nhấn mạnh từ sự thanh tẩy bên trong chứ không phải bên ngoài như những người Pharasiêu và luật sĩ thời đó muốn nói. Cái thế giới bên trong của chúng ta làm nên sự cao cả đồng thời cũng làm nên sự bi đát của con người. Sự cao cả và bi đát chen lẫn nhau như ánh sáng và bóng tối. Nó thấm vào những suy tư và hành động của chúng ta kể cả những hành động tôn giáo. Cho nên mới có lời Kinh Thánh: "Dân này thờ ta bằng môi miệng mà lòng chúng nó xa ta ".
Như vậy, là vấn đề chúng ta phải sống vừa phát huy tính chất cao cả của thế giới bên trong vừa phải làm sao để cho bớt đi tính ô uế bi đát của thế giới bên trong ấy. Các nhà đạo đức sẽ nói với chúng ta nhiều lời khuyên quý báu. Riêng tôi, tôi xin giới thiệu một cách: "Cách sống thinh lặng".
Có một nhân vật nổi tiếng trên thế giới. Cha&&&& Khi còn là thanh niên, ông rất ghét đạo Kitô, nhất là đạo Công Giáo. Nhưng lạ thay Chúa lại xui khiến cho ông trở lại đạo, xin đi tu. Cuối cùng được thụ phong Linh Mục ở dòng Chiêm Niệm. Cha rất nổi tiếng trong thế giới chiêm niệm đối với tất cả các tôn giáo khác. Cha&&& nói: "Thinh lặng là nhu cầu căn bản cho những ai muốn sống nhân tính của mình một cách tốt đẹp nhất: Tại sao lại vậy ? Thưa thinh lặng giúp ta 2 điều:
* Một là thinh lặng giúp cho chúng ta nhìn lại và thấy rõ con người thật của mình. Có ai gần chúng ta bằng chính bản thân mình, hoá ra cái tôi là cái khó nhất. Ta muốn thấy ta cũng có khoảng cách, một cự ly. Khoảng cách này được hình thành trong thinh lặng. Chính trong thinh lặng chúng ta mới có thể có một khoảng cách để nhìn lại con người của mình, cuộc sống của mình. Chỉ trên sự thật này chúng ta mới có thể phát triển nhân tính của mình một cách đúng nghĩa nhất. Đồng thời cũng chính trong bầu khí thinh lặng đó ta có thể nghe được những tiếng gọi thì thầm, tiếng gọi của những giá trị làm cho tâm hồn con người được nâng lên đến giá trị cao cả thật sự.
Thinh lặng như thế về mặt giác quan nó giúp cho chúng ta phần nào cảm nhận được một thực tế sâu xa hơn. Trong bầu khí thinh lặng ấy ta có thể nghe được tiếng gọi từ bên trong mà nhiều khi những ồn ào của đời sống phủ lớp khiến ta không nghe được. Khi chúng ta khám phá con người thật của mình như vậy thì khoảng cách giữa cao cả và bi đát dần dần gần lại. Bi đát sẽ bớt đi, cao cả sẽ phát triển.
Trong thực tế để sống được thinh lặng đó có những điều kiện mà chúng ta phải bước theo. Chúng ta đọc Tin Mừng thấy Thánh Matcô ghi: Từ sáng sớm, Chúa thức dậy đi tìm một nơi thanh vắng và cầu nguyện. Nghĩa là bầu khí thinh lặng cả không gian và thời gian.
Trong thành phố có rất nhiều khu giải trí. Có lẽ Giáo Hội nếu được phép nên cần phát triển không gian cho con người đến đó để đựơc thinh lặng. Đấy là đòi hỏi khách quan. Còn một đòi hỏi chủ quan là nhiều khi chúng ta không muốn làm. Nói đúng hơn là chúng ta sợ thinh lặng. Có khi được một khoảng thinh lặng chúng ta lại vội vã lấp đầy bằng những câu chuyện, bằng những cuộc vui. Ta sợ thinh lặng vì ta sợ đối diện với chính mình. Ta sợ thinh lặng vì ta khám phá ra những cái gì không tốt. Ta sợ thinh lặng vì ta sợ nghe được tiếng gọi mời ta đi tới, hướng lên những giá trị cao cả hơn, nhưng ngược lại với sở thích riêng của mình.
Hôm nay tôi không nói về một bài học luân lý, tôi chỉ gợi lên một suy tư để anh chị em tiếp nối suy tư đó trong chính cuộc sống cụ thể của mỗi người. Để có thể sống được điều Chúa Giêsu nói hôm nay: "Thanh tẩy ở chiều sâu". Thì thinh lặng là một nhu cầu cần thiết đối với chúng ta.
Có một lần tĩnh tâm với các sơ. Có một sơ gặp riêng tôi và có nhận xét với tôi thế này: "Sao vào trong nhà chùa con thấy các Ni Cô và các Sư họ có khuôn mặt thanh thản và bình an quá. Còn các tu sĩ bên mình không có sự thanh thản bình an đó".
Tôi liền trả lời sơ: Sơ cứ sang nhà kín sơ sẽ gặp được những khuôn mặt thanh thản bình an như vậy. Cuộc sống bình thường có những cái dồn dập nên làm sao có được thanh thản, bình an.
Bầu khí thinh lặng rất có tác động trên tâm hồn và cuộc sống con người. Sống giữa lòng đô thị ồn ào, náo nhiệt, nếu chúng ta biết thiết lập những khoảnh khắc thinh lặng thì tôi tin rằng bên ngoài cuộc sống ồn ào và bận rộn nhưng sâu sa trong tâm hồn vẫn còn sự thinh lặng, bình an. Sự bình an Thiên Chúa ban tặng cho ta để làm nền tảng giúp ta sáng suốt tâm hồn nhìn vào mọi vấn đề trong đời sống bằng cặp mắt khác hơn, từ đấy cuộc sống của mình vui tươi, hạnh phúc hơn.
Chúng ta hãy tiếp nối những suy nghĩ này trong đời sống hằng ngày của mình và hãy cầu nguyện cho nhau. Amen
Chúa Giêsu và nhóm biệt phái cùng kinh sư tranh luận với nhau về vấn đề sạch dơ.
- Họ bám sát mặt chữ những quy định của luật lệ về sự phân biệt cái gì sạch cái gì dơ và về những đòi buộc phải rửa tay chân chén dĩa…
- Chúa Giêsu nói đó chỉ mới là sạch dơ bề ngoài, không quan trọng bằng sạch dơ trong tâm hồn.
- Ngài nhận xét đạo đức của họ là chỉ đạo đức giả: “Dân này kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.”
- Ngài có kết án họ lấy tập tục của loài người để thay thế lệnh truyền của Thiên Chúa. Ngài lấy tục lệ Corban ra làm thí dụ điển hình: Corban là của dâng cúng cho Thiên Chúa. Mặc dù Xh 20,12 buộc con cái phải phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng để khuyến khích người ta đóng góp cho đền thờ, biệt phái và kinh sư đã dạy rằng nếu ai khấn hứa đem những gì phải giúp cha mẹ để dâng cho Đền thờ thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Qủa thật đây là một cách bóp méo Lời Chúa.
5.Mầm khác:
1. Những sai lầm của biệt phái và kinh sư cũng là những sai lầm chúng ta dễ mắc phải: - Dễ tưởng mình đã là người “công chính” rồi
-Từ đó, dễ phê phán những người khác không được “công chính” như mình.
Thực ra, sống công chính là một mục tiêu phải phấn đấu suốt đời mà cũng chưa chắc đạt tới. Lời Chúa Giêsu khiển trách họ cũng là một lời khuyên chúng ta lo tu luyện bản thân hơn là để ý so sánh và phê phán người khác.
2. Giữ hình thức bề ngoài dễ hơn sống tinh thần bên trong. Rất tiếc nhiều người mới lo được vẻ bề ngoài thì vội tự mãn.
3. Corban là một cái cớ mà biệt phái dựa vào để chuẩn miễn những bổn phận quan trọng. Chúng ta cũng thường có những thứ Corban của chúng ta. Nhiều khi chúng ta lấy cớ bận lo việc Chúa để trốn tránh bổn phận lo cho con người.
4. “Dân này kính Ta bằng môi miệng”: Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng”
Bà cầu nguyện suốt ba ngày cũng những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ: “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện. (Góp nhặt)
Người ta kể một câu chuyện có tính cách ma quái như sau. Có hai người bộ hành đi đường xa. Đêm đến họ phải vào một cái miếu để ngủ nhờ. Đây là một ngôi miếu nổi tiếng là nhiều ma quái. Bầu không khí lạnh lẽo đến rợn người, làm cho hai người khách bộ hành cảm thấy sợ khi đã vào trong miếu.
Trong hoàn cảnh này người không Kitô nói với người bàn Kitô rằng: Anh làm ơn cho tôi mượn cây thánh giá anh đang đeo ở cổ anh đi. Tôi sợ quá! Hy vọng rằng cây Thánh giá của anh sẽ làm cho tôi bớt sợ.
Thế là người Kitô kia đã gỡ cây thánh giá của anh đang mang ở cổ trao cho người ban không Kitô. Hai người nằm nghỉ đêm.
Trời về khuya, con yêu tinh xuất hiện, nó rờ vào cổ của người Kitô, tính sát hại người này, bỗng nó thốt lên:
- Người này có trong mà không có ngoài.
Con yêu tinh có ý nói rằng người này là một người Kitô đích thực, tuy không mang trong mình một dấu hiệu Kitô nào.
Qua người không Kitô, con yêu tinh chạm đến cây thánh giá người này đeo ở cổ, nó thốt lên:
- Người này có ngoài mà không có trong.
Con yêu tinh có ý nói rằng, người này tuy mang cây thánh giá ở cổ, nhưng không phải là người Kitô đích thực.
Chúng ta là những người Kitô, chúng ta thi hành các việc đạo đức cách đầy đủ, chúng ta mang trong mình nhiều ảnh tượng của Chúa. Nhưng liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô hào nhoáng bên ngoài, mà bên trong chúng ta chất chứa toàn là những cặn bã, thối tha?
2. ĐÂU LÀ SỰ THẬT
Khổng tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Ngày đầu tiên, đến đất Tề trong hoàn cảnh chung lúc đó: lầm than, đói khổ, chiến tranh. Và thầy trò vui mừng khi có một người đem biếu ít gạo.
Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các bạn vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc nấu cơm.
Sau khi Từ Lộ vào rừng, thì Nhan hồi nấu cơm dưới bếp; còn Khổng tử đọc sách ở trên bàn đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ.
Đang nằm đọc sách, bỗng Khổng Tử nghe tiếng "cộp" từ nhà bếp vọng lên. khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống thì thấy Nhan Hồi từ từ mở vung lấy đũa xới cơm cho tay vào nắm nhỏ, rồi đậy vung lại và từ từ đưa cơm lên miệng.
Tất cả hành động của Nhan hồi không lọt qua mắt Khổng Tử. Thở dài, khổng tử ngửa mặt lên trời và than:
- Chao ôi! học trò đệ nhất của Khổng Tử mà lại ăn vụng thầy, vụng bạn, đốn mạt như thế này những? Chao ôi! Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan thành mây khói cả!
Sau đó, Tử Lộ và các bạn mang rau về. Nhan Hồi lại luộc rau. Khổng Tử vẫn nằm im đau khổ. Một lát sau, rau chín. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên, tất cả các môn sinh đều chấp tay khổng Tử dậy dùng cơm.
Khổng Tử ngồi dậy và nói:
- Các con ơi! chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề, đường xa vạn dặm. Thầy rất mừng vì trong cảnh loạn lạc, dầm sương dãi nắng, đói khổ như thế mà các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, các con vẫn yêu thương đùm bọc nhau, các con vẫn một dạ theo thầy trải qua bao nhiêu trặng đường, đói cơm khát nước. Hôm nay, ngày đầu tiên đến đất Tề, thầy trò ta may mắn có được bữa cơm. Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ, thầy nhớ đến cha mẹ thầy, cho nên thầy muốn xới một bát cơm cúng cha mẹ thầy. Các con tưởng có nên chăng?
Nhan hồi đứng im, còn các môn sinh đều chấp tay thưa:
- Thưa thầy nên ạ!
Khổng Tử lại nói:
- Nhưng không biết nồi cơm này có sạch không ?
Tất cả học trò đều không hiểu ý Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau. Bấy giờ, Nhan hồi liền chấp tay thưa:
- Thưa thầy nồi cơm này không được sách.
Khổng Tử hỏi: tại sao?
Nhan Hồi thưa:
- Thưa thầy, khi cơm chín con đã mở vung ra thử xem cơm đã chín đều chưa. chẳng may một cơn gió làm bụi bặm tràn vào làm bẩn cả nồi cơm. con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đó, con định xới cơm bẩn ra vứt đi. Nhưng con lại nghĩ: cơm thì ít mà anh em thì đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô tình bỏ mất một phần ăn, anh em lại phải ăn rút lại. Vì thế cho nên con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, con ăn trước pần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy cùng tất cả anh em. Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi, bây giờ con xin phép không ăn cơm nữa, con chỉ ăn phần rau.
Và thưa thầy, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ!
Nghe nhan Hồi nói thế, Khổng Tử lại ngửa mặt lên trời than:
- Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu đúng sự thật! Chao ôi! Suýt tí nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ.
3. BIỂU DIỄN TRỒNG TÁO
Tại một xứ Hồi giáo, có người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ vì ăn trộm thức ăn của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ từ tội liền xin nhà vua:
- Tâu bệ hạ, xin cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mần, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết náy sẽ không truyền lại cho hậu thế.
Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn trồng táo. Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói:
Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này. Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không trồng được.
Nhà vua tin lời, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:
- Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần cảm thấy không đủ điều kiện trồng hạt táo này.
Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần giam tham trong chuyện tiền bạc.
Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:
- Các ngài là những kẻ quyền thế cao trọng, không thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác ăn cho đỡ đói, thế mà các ngài lại kết án treo cổ tôi.
Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xao trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm.
Chỗ khác nhau và cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với người biệt phái là các chuyên gia về luật pháp nêu lên một vấn đề vô cùng quan trọng, vì nó cho ta thấy chính yếu tính và cốt lõi của hai đường hướng trái ngược nhau giữa Chúa Giêsu với người Do Thái chính thống giáo vào thời của Ngài. Vấn đề đặt ra là tại sao Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài không giữ theo truyền thống của người xưa? Truyền thống đó là gì và tinh thần vận dụng nó là gì?
Đối với dân Do Thái thì luật pháp nguyên có hai nghĩa. Thứ nhất và quan trọng hơn hết là Mười Điều răn, và thứ hai, là năm quyển sách đầu của Cưu ưức gọi là Ngũ kinh. Thật ra Ngũ Kinh hàm chứa một số qy\uy tắc và chỉ dẫn chi tiết, nhưng về các vấn đề đạo đức, những gì được nêu lên chỉ là một loạt nguyên tắc mà người ta phải tự giải nghĩa và ứng dụng cho riêng mình. Qua một thời gian dài, dân Do Thái bằng lòng với việc làm ấy.
Nhưng đến thế kỷ thứ 4 và 5 TC một giai cấp các chuyên gia về luật pháp xuất hiện, được biết dưới biệt danh là luật sỹ (Kinh sư) . Nhóm người này không hài lòng với các nguyên tắc lớn về dạo đức, họ có một đam mê có thể gọi là chứng bệnh thích định nghĩa. Họ muốn triển khai, phóng đại, phân tích các nguyên tắc lớn ấy biến chúng thành hàng ngàn luật lệ, qui tắc nhỏ nhặt, để điều khiển từng hành động, từng hoàn cảnh của đời sống. các luật lệ và nguyên tắc ấy không hề được viết ra cho đến thời của Chúa Giêsu một thời gian dài. Chúng vẫn được gọi là Luật Truyền Khẩu, đây chính là cái gọi là tương truyền của người xưa.
Người xưa đây là các đại chuyên gia của luật pháp của các thế kỉ về trước như Hillel và Shammai chẳng hạn. Đến thế kỉ thứ 3 SC, người ta mới tóm tắt tất cả các luật lệ và qui tắc đó, và viết lại thành sách, phần tóm lược đó gọi là kinh Mishnah.
Các luật lệ qui tắc qua đoạn này xuất hiện trong các cuộc tranh luận là việc rửa tay. Các luật sỹ và các biệt phái tố cáo các môn đệ của Chúa đã ăn với bàn tay ô uế. Ô uế đây được hiểu về mặt nghi lễ, không thích hợp cho việc phụng vụ và thờ phượng Thiên Chúa. Có nhiều luật lệ rõ ràng và nghiêm nhặt về việc rửa tay. Trước khi dùng bữa và giữa hai món ăn, người ta phải rửa tay, và phải rửa theo một cách thức nhất định. Để bắt đầu, phải làm cho đôi bàn tay không dính đất cát vôi vữa, đá sỏi vụn hay các vật tương tự khác. Nước rửa tay phải được đựng trong những chén đá lớn đặc biệt, để chính chúng cũng thanh sạch theo ý nghĩa lễ nghi, và để chắc chắn là chúng không được dùng vào việc nào khác và chẳng có vật gì rơi rớt hay lẫn lộn, pha trộn vào đó. Trước hết bàn tay được xòe ra, cá đầu ngón tay chỉ lên trên, nước phải được đổ phái trên và chảy xuống ít nhất đến cổ tay. Lượng nước tối thiểu phải dùng là một phần tư log, tương đương với số nước đựng đầy một vỏ quả trứng rưỡi. Trong lúc bàn tay hãy còn ướt phải rửa bàn tay này bằng mu bàn tay kia. Đây là câu giải nghĩa cách thức rửa mu bàn tay này bằng bàn tay kia: mu bàn tay này phải kỳ cọ vào lòng bàn tay kia và toàn thể bề mặt của bàn tay kia.
Như thế có nghĩa là trong giai đoạn này, hai bàn tay đã ướt nước, nhưng bây giờ nước đã bị dơ vì tiếp xúc với hai bàn tay dơ rồi. một lần nữa phải chụm các ngón tay lại, chúc xuống dưới rồi đổ nước lên, sao cho nước từ cổ tay đổ xuống khắp các đầu ngón tay. Sau khi đã làm đúng như thế, thì đôi bàn tay mới được sạch. Dưới mắt người Do Thái nếu ai không làm như vậy, chẳng những là kẻ cư xử xấu xa, dơ dáy theo nghĩa có hại cho sức khoẻ, nhưng là kẻ ô uế trước mặt Thiên Chúa. Ai ăn với đôi bàn tay không sạch thì bị con quỉ gọi là Shibta tấn công. không rửa tay như vậy có thể bị nghèo khó, tán gia bại sản. Ăn bánh mì với đôi tay không sạch, chẳng khác gì ăn phân. Có một lần nọ, một Rabi quên giữ nghi lễ đó đã bị khai trừ, một Rabi khác trong khi bị các người Lamã cầm tù đã dùng nước để rửa tay thay vì đẩ uống, cuối cùng ông ta đã gần chết vì khát, vì ông ta đã nhất định giử luật rửa tay thay vì uống nước cho đỡ khát.
Với người Do Thái chính thống thì đó là tôn giáo. Đó là nghi thức, nghi lễ, luật lệ, qui tắc được xem như yếu tính của việc phụng vụ Thiên Chúa. Tôn giáo đạo đức đã bị chôn sâu dưới một khối khổng lồ những cấm kỵ, qui tắc và luật lệ.
Những câu sau tiếp tục đề cập sâu xa hơn quan niệm về sự ô uế này. một vật theo nghĩ bình thường là hoàn toàn sạch sẽ, nhưng lại bị kể là ô uế theo nghĩa luật pháp. Có vài điểm liên quan đến quan niệm ô uế này được chép trong sách Lê vi (11-15) và Dân số (19). Ngày nay chúng ta thường nói đến những điều cấm kỵ thay vì bảo chúng bị ô uế. Có một số thú vật vốn là ô uế, ai chạm đến một xác chết bị ô uế. Mà đã ô uế thì làm ô uế luôn những vật nào mình chạm đến. một người ngoại bang là ô uế, thức ăn mà người ngoại bang chạm đến cũng là ô uế, bất kì cái chén, cái bình nào mà người ngoại bang nào chạm đến cũng bị ô uế cả. Cho nên, mỗi khi người Do Thái giữ đạo nghiêm nhặt đi chơ về, anh ta phải ngâm toàn thân trong nước để được sạch.
Những vật dụng như bình, lọ, chén, bát rất dễ bị ô uế. một người ô uế có thể chạm vào đó, hay người ta dùng nó để đựng thức ăn ô uế. đây chính là điều đoạn sách này muốn nói khi đề cập đến việc rửa chén, bình, bằng đất, bằng đồng. Trong kinh Mishnah có không duới mười hai bài khảo luận đề cập đến loại ô uế đó.
Chúng ta đã dành một số thời giờ đề cập đến các luật lệ của các luật sỹ, các truyền khẩu của người xưa, vì đó là những điều mà Chúa Giêsu đã chống lại. Với các luật sỹ, người biệt phái, thì các luật lệ qui tắc ấy chính là yếu tính của Tôn giáo. Tuân giữ chúng là đẹp lòng Thiên Chúa, vi phạm chúng là phạm tội. Đó là ý kiến của họ về điều thiện và việc phục vụ Thiên Chúa. Trong ý niệm Tôn giáo, thì Chúa Giêsu và những người này đã nói bằng những ngôn ngữ khác nhau. chính vì Ngài chẳng cần đến một qui tắc nào trong tất cả các qui tắc ấy, cho nên họ xem Ngài là kẻ xấu. Ơ đây có hai khuynh hướng căn bản; khuynh hướng của người xem đạo giáo chỉ là nghi thức, nghi lễ, luật lệ, qui tắc; với khuynh hướng của người xem đạo giáo là yêu thưong Thiên Chúa và yêu thương đồng bào, đồng loại. Những câu tiếp theo sẽ khai triển vân đền đó, nhưng rõ ràng ý kiến của Chúa Giêsu với các thầy kinh sư cùng những người biệt phái liên hệ đến đạo giáo chẳng có điểm nào giống nhau.
Các luật sỹ và các biệt phái thắc mắc khi thấy các môn đệ của Chúa Giêsu không tuân giữ những điều tỉ mỉ của truyền khẩu và luật của người xưa về việc rửa tay trướv khi dùng bữa, Chúa Giêsu trích dẫn Isaia cho họ nghe. Trong câu đó, tiên tri tố cáo các con người thời bấy giờ chỉ tôn vinh Thiên Chúa bằng đầu môi chót luỡi, trong khi lòng họ đã xa lạc Ngài. Trên nguyên tắc Chúa Giêsu đã tố cáo họ hai điều:
Ngài tố cáo họ giả hình.
Từ ngữ hupokrites có một lịch sử lý thú và vạch rõ nhiều điều. Thọat tiên nó chỉ đơn giản là người trả lời, rồi nó tiến đến nghĩa người trả lời trong một cuộc đối thoại nào đó hay trong một cuộc đàm thoại nhất định, nghĩa là một diễn viên, cuối cùng, nó không chỉ có nghĩ đơn thuần là một diễn viên trên sân khấu, nhưng là kẻ suốt đời diễn kịch, đóng tuồng, chẳng có chút hành động nào trong hành động của mình. với bất cứ ai mà đạo giáo chỉ là việc tuân giữ pháp luật, với bất cứ ai mà Tôn giáo chỉ là tuân giữ một số luật lệ và qui tắc bên ngoài, với bất cứ ai mà Tôn giáo hoàn toàn liên hệ với một số nghi lễ và tuân giữ một số cấm kỵ thì đến cuối cùng, nhất định người ấy sẽ trở thành kẻ giả hình như nghĩa trên đây. Đó là vì kẻ ấy tin mình là người thánh thiện né6củai giữ được hành vi, cử chỉ bên ngoài cho đúng, bất chấp tấm lòng và tư tưởng mình ra sao. cứ lấy trường hợp của người Do Thái giữ luật pháp vào thời Chúa Giêsu thì sẽ rõ, có thể tự thâm tâm người ấy sẽ ghen ghét đồng bào mình, có thể người ấy đầy lòng tham lam ghen tỵ, và che dấu sự cay đắng, kiêu ngạo nhưng người ấy chẳng chút bận tâm về những điều ấy khi còn giữ đúng nguyên tắc rửa tay, giữ đúng các lề luật về thanh sạch và ô uế. Luật pháp chủ nghĩa chỉ quan tâm đến các việc làm bề ngoài của con người mà chẳng đếm xỉ gì đến các xúc cảm nội tâm. Người ấy tỉ mỉ phục vụ Thiên Chúa bằng các việc làm bề ngoài, nhưng trắng trợn bất tuân những việc trong nội tâm, và như thế là giả hình. Người theo hồi giáo có thể cầu nguyện với thượng đế một số lần nào đó.
Để làm điều đó, người ấy đem theo mình một chiếc chiếu, bất cứ ở đâu, lúc nào, người âý cũng có thể trải chiếu ra, quỳ gối xuống, đọc bài cầu nguyện rồi đứng dậy tiếp tục đi. Có câu chuyện một người hồi giáo đuổi theo một người nọ, giơ dao lên định giết ngời ấy. đúng lúc ấy có tiếng chuông báo giờ cầu nguyện, anh ta lập tức dừng lại trải chếc chiếu cầu nguyện ra, quì xuống đọc bài cầu nguyện nhanh theo khả năng anh có thể đọc, rồi đứng lên tiếp tục rược đuổi người kia. Cầu nguyện chỉ là một hình thức một nghi lễ, một việc tuân giữ bề ngoài, chỉ làm trì hoãn một cách phải lẽ việc giết người của anh. Thật chẳng có nguy cơ nào nghiêm trọng hơn nguy cơ đồng nhất hoá với việc tuân giữ bề ngoài. Không có sai lầm nào kinh khủng hơn sai lầm sự đồng nhất hoá điều thiện với một số hành động gọi là Tôn giáo. Đi nhà thờ, đọc Thánh kinh, dâng cúng bạc tiền, cả đấn một thời biểu để cầu nguyện vẫn không khiến người ta trở nên tốt hơn. Vấn đề căn bản là tấm lòng mình phải như thế nào đối với Thiên Chúa và đối với đồng bào mình? Và nếu lòng người ấy là thù địch, cay đắng, lằm bằm và kiêu ngạo, tất cả việc tuân giữ lề luật Tôn giáo bề ngoài trên đời này nhập lại, cũng chẳng khiến người ấy trở thành một người khác hơn là một kẻ giả hình.
Lời tố cáo thứ hai:
Chúa ngấm đưa ra chống lại bọn người chỉ giữ luật pháp đó, họ đã lấy những nỗ lực ngô nghê của loài người để thay cho luật pháp của Thiên Chúa. Họ không lắng nghe tiếng phán của Thiên Chúa để hướng dẫn đời sống mình, mà chỉ nghe theo những lý luận, những tranh luận khôn khéo, những cách nói luẩn quẩn tinh vi, những lý giải tài tình do chuyên gia pháp luật soạn. Sự không khéo không bao giờ có thể làm nền tảng cho đạo giáo chân chính. Đạo giáo chân chính không bao giờ có thể là sản phẩm của trí tuệ con người, không bao giờ do các khám phá tài tình của loài người mà ra, nhưng phải do tấm lòng chân thật, thật thà lắng nghe và tiếp nhận tiếng phán của Thiên Chúa.
Những lời phán tiếp theo của Chúa Giêsu, tuy ngày nay, dường như sự việc không phải như vậy, nhưng lúc đầu tiên , thì hầu như đó là một trong những phần có tính cách cách mạng nhất trong Tân ước. Chúa đang tranh luận với các chuyên gia về luật pháp về nhiều phương diện khác nhau của luật truyền khẩu. Ngài đã cho thấy sự không thích hợp của cách rửa tay cầu kỳ tỉ mỉ. Thế nhưng ở đây, Ngài còn nói một điều gây kinh ngạc nhiều hơn thế nữa. Ngài tuyên bố chẳng có vật gì bên ngoài vào lại có thể khiến người ta thành ô uế được, vì nó chỉ được thân thể thâu nhận rồi chính thân thể giải quyết chúng bằng các đường lối vật lý bình thường. Chẳng có một người Do Thái, nhất là người Do Thái chính thống chịu tin như thế. Sách Lêvi 11 có một bảng liệt kê dài những thú vật không sạch cấm dùng làm thức ăn. Sự việc ấy gây hậu quả trầm trọng như thế nào thì người ta thấy rõ ràng trong nhiều biến cố xảy ra dưới thời anh em nhà Macabê. Thời ấy, Antiôchus, vua Syri muốn nhổ tận gốc đạo Do Thái, một trong những đòi hỏi của vua ấy là người Do Thái phải ăn thịt heo như những người khác, nhưng hàng trăm người Do Thái thà chịu chết chứ không chấp hành luật ấy.
Chính trong một hoàn cảnh như thế, Chúa đã nói lên câu nói hết sức cách mạng rằng chẳng có gì từ ngoài vào lại khiến người ta bị ô uế. Chỉ bằng một cái khoát tay, Ngài đã xoá sạch mọi luật lệ mà vì đó, dân Do Thái chịu đau khổ và chịu chết. Cho nên các kinh ngạc thì chẳng có gì là lạ. Thật ra, Chúa Giêsu ngụ ý rằng tự nó thì vật này, vật no không thể là sạch hay không sạch theo bất luận ý nghĩa tôn giáo nào. Chỉ có con người mới có thể thật sự bị ô uế mà thôi, và điều làm ô uế con người chính là hành động của con người ấy, vì chúng vốn xuất phát từ tấm lòng người ta. Đây là một giáo lý mới mẻ, một giáo lý có sức mạnh đập tan mọi sự. Dân Do Thái vốn có, và hiện nay vẫn còn cả một hệ thống các vật kể là sạch và không sạch. Bằng một câu nói quét sạch tất cả, Chúa Giêsu tuyên bố mọi điều đó đều không thích hợp, điều ô uế chẳng díng dấp đến các vật người ta đưa từ ngoài vào cơ thể, nhưng vốn liệt kê những gì từ trong lòng người ta đưa ra. Rồi Chúa liệt kê những điều mà Ngài bảo chúng vốn từ trong lòng người mà ra, và khiến người ta bị ô uế. Đây quả thực là một bảng liệt kê khủng khiếp. Khi khảo sát tỉ mỉ, chúng ta phải rùng mình kinh sợ. Đây quả là lời khuyên phải tránh những điều đáng ghê tởm đó, nhưng chúng ta còn phải thận trọng, thành thật xét lại chính tấm lòng mình.
Máccô có chủ tâm khi đặt đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay trong "phần nói về bánh", giữa hai lần bánh hóa ra nhiều: lần thứ nhất tại vùng đất Do thái (6, 35 và tiếp theo), và lần thứ hai tại vùng đất dân ngoại (8,1-9). Quả thật, đó là cuộc tranh luật giữa Đức Giêsu và những người biệt phái cùng ký lục về "sạch" và "ô uế", và sâu sa hơn là thái độ kì thị của người Do thái đối với dân ngoại. Họ cho rằng dân ngoại thì "ô uế", do đó không được đi lại với những người này.
Tranh luận bắt đầu từ một phản ứng của biệt phái và ký lục từ Giêrusalem đến điều tra "xì căng đan" do các môn đệ Chúa Giêsu gây ra: vài người trong các ông "dùng bữa (nghĩa đen: ăn bánh) với đôi bàn tay dơ, nghĩa là không rửa".
Và Máccô kể cho những người dân ngoại đọc Tin Mừng của ông, một vài tập tục nhằm bảo vệ người Do thái khỏi bị lây nhiễm những tập tục ngoại lai và giữ cho dân Chúa được toàn vẹn về mặt xã hội cũng như Tôn giáo. J.Potin viết: "Nhờ cả một mạng lưới chằng chịt những điều cấm bao trùm từng giây phút, từng tình huống trong đời sống hằng ngày mà dân Do thái vẫn giữ cẩn thận luật về trong sạch (pureté) mà một thành viên dân Thiên Chúa phải có. Ví dụ, tư tế phải thanh tẩy hằng ngày trước khi bước qua tiền đường vào đền thờ. Những hy lễ đền tội được dâng tiến trong các cuộc hành hương ở Giêrusalem, những nghi lễ rửa tay, sự chay tịnh, bố thí, những lời cầu nguyện đều tìm lại sự trong sach (pureté). Đôi khi sự trong sạch này mất đi vì những "sinh hoạt" của cuộc sống hằng ngày như: sinh đẻ, lỗi luật, tiếp xúc với các xác chết hoặc người ngoại, người cùi... Theo các nói của các rabbi (thầy dạy), luôn có một bức tường vây kín toàn bộ đời sống của người Do thái để bảo vệ họ". (Xem "Đức Giêsu, lịch sử đích thực", Centurion, tr. 192-193). J. Potin viết tiếp, những tập tục này tất nhiên đòi hỏi phải có: "Lối sống định canh định cư rất khác biệt với hoàn cảnh sống rầy đây mai đó của Đức Giêsu và các môn đệ. Hơn nữa, một số môn đệ là người bình dân nên dĩ nhiên không chuẩn bị sẵn sàng để tôn trọng những thói tục của dân thành thị". (Sách đã dẫn, tr. 193-194).
Sau khi trả lời những người biệt phái và ký lục, Đức Giêsu nói với đám đông rồi mới nói với các môn đệ.
Chẳng những không tìm cách xin lỗi các môn đệ, Đức Giêsu còn cự lại những người chống đối và đánh giá họ là "những kẻ giả hình", khi dùng những từ tiên tri Isaia để nói về họ: "Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, và những giáo lý chúng dạy là những giới luật phàm nhân". (Is. 7,6-7 và 29,13).
Kế đó để tiếp tục phản công, Ngài tố cáo những "truyền thống" do cha ông truyền lại (những "truyền thống" của loài người) thường cho phép thay đổi cả những giới răn của Thiên Chúa. Thậm chí Ngài đưa ra một thí dụ điển hình (sách bài đọc không nói đến) để lột mặt nạ tính gỉa dối của những kẻ hay soi mói: "Hãy thờ cha kính mẹ", đó là giới luật tuyệt đối Thiên Chúa đã truyền cho dân Ngài qua miệng Môisen; tuy nhiên người biệt phái đoan chắc rằng nếu ai hứa dâng cúng của cải của mình cho Ngân khố đền thờ thì được miễn nuôi dưỡng cha mẹ già (Họ nói rằng cái gì đã hứa cho Thiên Chúa thì không thể cho người khác được nữa!). J.Putin giải thích: "Đó rõ ràng là cách thay thế giới luật nền tảng của Thiên Chúa bằng sự thánh thiện tiền bạc giả danh Tôn giáo. Đây là một trường hợp quá đáng nên chính những người Do thái cũng chống lại vì họ rất gắn bó với gia đình. Đức Giêsu làm mọi người cảm nhận rõ ràng do đâu những truyền thồng phát xuất từ cơ chế tôn giáo có thể làm biến chất chính điểm căn bản nhất của nó và thậm chí cả hướng đi trong sáng nhất của nó nữa". (Sách đã dẫn, tr. 194).
Rồi Đức Giêsu quay sang nói với "đám đông". Sau khi đã vượt lên trên sự đối nghịch sạch/ ô uế theo nghi lễ, Ngài đi ngược lên tận nguồn gốc của sự ô uế luân lý, nơi xuất phát mọi quyết địch của con người: đó là "lòng" họ. Chỉ có một sự ô uế thật sự mà con người mắc phải khi tự do quyết định theo điều dữ: "chính cái từ con người xuất ra, là cái làm con người ra ô uế".
M.Quesnel khẳng định: "chắc chắn đó là bài học chủ yếu của đoạn Tin Mừng này: không có gì ở ngoài con người có thể làm cho họ trở nên dơ. Về điều này, Máccô là một nhà cách mạng đối với người Do thái thời ông; ông tỏ rõ rằng những người tin vào Đức Kitô và gia nhập Giáo hội không còn lệ thuộc vào sự tuân giữ những luật lệ của Israel về sạch/ ô uế: đụng một xác chết hay một người cùi, ăn uống với người ngoại, uống máu những con vật, đối với những người Do thái tất cả những hành vi này gây ra sự ô uế về nghi lễ, nhưng đối với những người tin vào Đức Kitô, thực sự chúng không còn chút khả năng nào có thể tách rời họ khỏi Thiên Chúa". ("Đọc Tin Mừng Thánh Máccô thế nào?". Seuil, page 125).
Những điều Đức Giêsu vừa nói với đám đông thì lập tức tiếp đó Ngài nói với các môn đệ "trong nhà". Sau khi đã kể ra một loạt những thói xấu và tội lỗi, Ngài kết luật: "Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm cho người ta ra ô uế."
2. Từ phân biệt đến cởi mở và thông điệp:
Chính Máccô giải thích: "Như vậy Đức Kitô tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch".
Câu này (không có trong sách bài đọc) chắc chắn gây nên một cú sốc: "Ngay lập tức, Đức Giêsu tuyên bố những truyền thống nhằm chia xã hội thành hai khối: người tốt và kẻ xấu theo cách của đạo manichéisme (đạo thiện ác) là những truyền thống lạc hậu. Theo kiểu phân chia này, một bên là những người "sạch" tức người biệt phái (nghĩa từ này là "những người được tách biệt ra") và bên kia những người ô uế, nên tránh, tức những người tội lỗi. Như vậy Đức Giêsu vừa thiết lập một xã hội mở. Phần Thiên Chúa,Người thông hiệp với tất cả những ai là nạn nhân của sự phân biệt xã hội và tôn giáo do chủ trương của phái "những người sạch và khắc nghiệt", tức những người biệt phái. Ngài ăn uống với những kẻ ô uế, "những kẻ bị loại trừ" (người thu thuế, đĩ điếm, lính Rôma...) chính điều mới mẻ này sẽ xô đẩy những ngăn cách tai hại vào thời Đức Giêsu". (J. Hervieux. "Tin Mừng thánh Máccô", Centurion, tr. 103).
Một lời nói rõ ràng và có sứ giải phóng dành cho những người đọc Tin Mừng thánh Máccô ở một thời đại mà Giáo hội sơ khai đang trải qua những căng thẳng và xung đột giữa những Kitô hữu gốc Do thái và dân ngoại. J.Potin nhận xét thêm: "Điều phê phán trên chứng tỏ rằng việc áp dụng giáo huấn này không dễ dàng, như sách Tông đồ công vụ đã chứng minh: Phêrô đã phản đối: "Trong đời tôi, không bao giờ tôi ăn những gì nhơ nhớp và ô uế", khi trông thấy một rổ những loài vật thiên thần mời ông ăn trong giấc mơ (10,14). Nhưng vì người Do thái và dân ngoại cùng hiện diện đồng bàn trong cộng đoàn Kitô hữu nên bắt buộc bãi bỏ những điều cấm về ẩm thực dành riêng cho người Do thái một khi chúng không có chiều kích luân lý". (Sách đã dẫn, tr. 195-196). Qua việc công bố về sạch và không uế, Đức Giêsu mở ra con đường của tự do Kitô giáo.
Dân Chúa luôn hãnh diện vì có lề luật. Họ hạnh phúc và tự cao vì lề luật phát xuất từ Thiên Chúa và Môsê đã theo lệnh Chúa truyền lại cho dân. Lề luật gồm những điều khoản buộc dân Chúa phải giữ để họ có thể trung tín với Giao Ước mà họ đã ký kết với Thiên Chúa Giavê. Tuy nhiên, luật vẫn là luật, nhưng từ từ dân Chúa, đặc biệt các Biệt phái, luật sĩ, thượng tế và các vị lãnh đạo tôn giáo lúc đó đã làm lề luật bị biến dạng. Bài Tin mừng của thánh Marcô hôm nay nó lên tính cách biến dạng ấy.
LUẬT CỦA CHÚA NHẸ NHÀNG:
Bài đọc thứ nhất trích từ sách đệ nhị luật nhắc nhở dân Chúa phải tuân giữ các giới răn, các lề luật, các huấn lệnh tượng trưng cho sự khôn ngoan, trong sáng và sáng suốt của dân Chúa giữa muôn dân muôn nước. Thực ra, luật của Chúa chỉ gồm tóm trong hai giới răn là” mến Chúa” và” yêu tha nhân “, đã từ từ biến dạng theo thời gian trở thành đủ mọi thứ tập tục khiến lề luật không còn nhẹ nhàng và trở nên gánh nặng chất trên vai dân của Chúa. Thiên Chúa, qua ngôn sứ Isaia đã nói:” Ta đã chán ngấy các lễ tế của các ngươi. Thôi, đừng dâng lên Ta những lễ vật vô bổ nữa” hay “ Dân này chỉ thờ Ta ngoài môi miệng nhưng lòng của nó thì lại ở xa Ta “. Xem ra Chúa ban lề luật là để con người tuân giữ để trung thành với Chúa. Chúa ban tự do cho con người tin hoặc không tin, giữ luật hay không giữ luật. Chúa đã từng nói: ” Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” hoặc “ Ách của Ta thì êm ái, gánh của Ta thì nhẹ nhàng “.Nơi khác Chúa nói: ” Ngày hưu lễ được đặt ra cho con người chứ không phải con người vì ngày hưu lễ “. Lề luật của Chúa trong sáng, nhẹ nhàng, con người tuân giữ với đức tin và lòng mến. Bởi vì cốt lõi của lề luật là tình yêu. Luật không do tình yêu là luật chết. Giữ luật cho qua, cho xong là bóp chết lề luật. Luật khô cằn, chà đạp nhân phẩm con người là luật chết. Chúa thiết lập lề luật dựa trên tình yêu vì chính Chúa là tình yêu.
LỀ LUẬT BỊ BIẾN DẠNG TRỞ THÀNH GÁNH NẶNG CHO DÂN:
Đọc Kinh Thánh chúng ta không khỏi nực cười vì những ông Pharisiêu xúng xính trong bộ áo thụng, tay đeo thẻ kinh, huênh hoang ra đường, cho ta là thông luật, nhưng thực tế lại bầy ra đủ mọi thứ luật tỉ mỉ đến không còn biết tới ai, họ bầy ra, họ không giữ mà bắt người khác giữ, như thế họ đã chồng chất lên vai người khác gánh nặng mà họ không lấy ngón tay lay thử thực tệ hại và buồn cười. Đoạn Tin Mừng của thánh Marcô 7, 1-8a.14-15.21-23 cho thấy cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái về vấn đề tập tục của tiền nhân.Thực ra, tập tục rửa tay trước kia có một ý nghĩa rất thanh cao, thánh thiện, các tư tế rửa tay trước khi dâng của lễ lên Thiên Chúa. Đây là tập tục quí hóa. Sau này dân chúng bắt chước rửa tay trước khi cầu nguyện. Với ý nghĩ cao đẹp này họ đã rửa tay trước bữa ăn, vừa giữ vệ sinh, vừa có ý nghĩa tôn giáo. Tuy nhiên, người biệt phái quá vụ hình thức mà quên điều thiết yếu, họ phán đoán người khác dựa trên hành vi rửa tay trước bữa ăn, coi người khác xấu hay tốt dựa trên những hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu đã trả lời cho những người biệt phái vụ hình thức ấy như sau:” Các ông gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa qua một bên, mà duy trì truyền thống của người phàm”. Chúa muốn con người đặt Chúa vào chỗ thứ nhất và tuân giữ giới răn của Người. Chúa muốn con người đặt lề luật vào đúng vị trí của nó. Điều quan trọng là thanh tẩy tâm hồn, rửa sạch trái tim, chứ không phải chỉ rửa tay, rửa các đồ vật bên ngoài, đừng lẫn lộn ý muốn của con người và ý muốn của Thiên Chúa, tập tục của phàm nhân và lề luật do chính Thiên Chúa ban bố. Chúa đến không phải phá bỏ lề luật mà làm cho lề luật nên trọn hảo. Cái cốt lõi của lề luật vẫn là tình yêu. Giữ những việc, những điều lệ, tập tục do con người lập ra mà quên cái cốt lõi lề luật là mến Chúa yêu người. Đó là sự giả hình, Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận.
Người Kitô hữu hôm nay có thể cũng đang bị cám dỗ giữ những hình thức bề ngoài nhưng lại quên đi điều căn bản nhất là sống Tin Mừng. Người ta có thế áy náy vì quên không đọc kinh, không ngắm đàng thánh giá, không giữ 9 ngày thứ sáu đầu tháng liên tiếp, nhưng người ta lại ung dung không hề áy náy khi người đói xin ăn, người khát xin uống, kẻ mình trần xin mặc mà họ lại cố tình làm ngơ. Điều cốt yếu ở đây là thanh tẩy nội tâm, tẩy sạch tâm hồn và rửa sạch trái tim để con người thực sự thi hành, tuân giữ lề luật với tình yêu mến. Không có tình yêu công việc bề ngoài dù hay tới đâu cũng chỉ như tiếng phèng la vang dội, hay tiếng não bạt chùm cheng.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng biết làm mọi việc vì vinh danh Chúa và yêu thương anh em. Amen.
Ngày nọ vào hồi 2 giờ sáng, Cha Murray thấy chuông điện thoại báo và nghe có tiếng rên rỉ:"Ông nội con ở trong nhà thương sắp chết, xin cha đến giúp". Vì cách nhà thương có 2 block, cha Murray quyết định đi bộ tới thăm bệnh nhân. Đang đi, thình lình một người lạ mặt từ trong bóng tối nhảy ra chìa súng vào cha quát lớn: "Đưa hết tiền đây cho tôi". Vị linh mục trả lời: "Chiếc ví của tôi ở trong áo coat". Tên cướp phanh áo ngài để tìm chiếc ví tiền, chợt nhìn thấy chiếc cổ áo trắng linh mục: "Trời ơi, Tôi không biết đây là ông cha. Xin cha tha tội cho tôi và cha giữ lấy liền". Với lòng biết ơn, vị linh mục tặng cho anh ta một điếu xì gà, nhưng anh ta lắc đầu từ chối: "Xin cám ơn cha, tôi kiêng hút thuốc trong mùa chay".
Tên ăn cướp này cũng giống như người Pharisiêu. Họ cặn kẽ giữ những điều luật nhỏ mọn, nhưng lại bỏ qua những giới răn rất quan trọng. Họ giữ những lề luật bề ngoài, nhưng họ căm ghét kẻ khác không giữ một cách sâu đạm trong trái tim. Họ tuân giữ những nghi thức bề ngoài này và được đánh giá là họ đạo đức, biết phụng sự Thiên Chúa mà khinh miệt những người khác. Cũng như kiêng không hút thuốc trong mùa chay, nhưng lại đi ăn cướp. Vì thế Chúa Giêsu thường phê bình họ khiến họ rất ghét Ngài, theo dõi để bắt bẻ, gài bẫy và công kích Ngài. Ngày nay cũng còn có những thứ người Pharisiêu tân thời như họ. Thí dụ: họ đi lễ trễ mà nếu có ai phê bình thì họ tức tối và cho rằng thế là hạ nhục họ đang khi họ không biết đi lễ trễ là xúc phạm đến Chúa và làm chi trí cho những người khác. Đến nhà thờ, họ tươi cười bắt tay những người bắt tay họ, nhưng lại không biết nói, không biết chào hỏi Thiên Chúa trên bàn thánh. Điều đó cũng như đi dự tiệc mà chỉ trò chuyện với khách mà không hề biết chào hỏi chủ tiệc. Cũng vậy, người khác đi dự tiệc chỉ biết chê trách, bắt bẻ chủ nhà rằng: Khăn bàn xấu, ly chén không sạch, đồ ăn nguội không ngon... nhưng chính họ chỉ toàn nói những chuyện thiếu thanh tao, kéo kẹt, cũng chẳng bao giờ dâng cúng cho chủ tiệc, cho Chúa lấy một đồng. Người khác đi ra ngoài gặp ai thì luôn miệng "Cám ơn, xin lỗi" rất lịch sự, nhưng về nhà lại chẳng hề biết nói một lời nhỏ nhẹ, lịch sự với vợ với con. Nếu trái tim chúng ta chất đầy những nỗi chua chát hoặc kiêu căng thì tất cả những nghi thức bề ngoài trước mắt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta nên thánh thiện trước mặt Chúa. Tất cả họ là những pharisiêu chỉ biết phô trương và giữ luật trước công chúng để được ca tụng, được tôn kính... Nhưng khi sống riêng tư thì lại bê bối, bỏ luôn cả những điều quan trọng nhất trong đời sống. Xin Chúa đừng để chúng ta là một pharisiêu như vậy.
Trong đời sống thường nhật chúng ta thường nghe câu, "lời nói phải đi đôi với việc làm." Nghĩa là một khi ta đã tuyên bố hoặc chia sẻ một lời xây dựng, ta cần phải hỗ trợ lời nói đó bằng những hành động cụ thể. Nếu chúng ta nói mà không làm thì người ta sẽ trách móc, "tên này chỉ được cái miệng." Trong cuộc sống thiêng liêng cũng thế, "đời sống cầu nguyện phải đi đôi với việc làm." Nếu có ai nói là mình yêu mến Chúa mà không thể hiện qua việc làm thì cũng chỉ "có cái miệng." Lời Chúa trích từ tiên tri Isaia trong Tin Mừng hôm nay rất thích hợp để áp dụng cho những người đó, "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta" (Mc 7: 6).
Một ngày nọ, một ngư phủ chở một thanh niên qua sông trên chiếc thuyền nhỏ. Người thanh niên thuộc thành phần trí thức, tự kiêu và tự mãn. Thuyền đi được một lúc thì người thanh niên nhận thấy ông cụ có khắc hai chữ "việc làm" và "cầu nguyện" trên hai chiếc chèo. Mỗi chữ trên một chiếc. Anh ta liền nói với cụ, "Thưa cụ, cụ quá cổ rồi. Cầu nguyện có ích gì nếu chúng ta có việc làm?"
Ông cụ không nói một lời. Cụ âm thầm gác chiếc chèo có chữ "cầu nguyện" lên và tiếp tục chèo với chiếc có khắc chữ "việc làm." Chúng ta có thể tưởng tượng kết quả sẽ như thế nào. Chiếc thuyền chỉ xoay tròn trên mặt sông và chẳng đi đến đâu. Có làm, có tổn sức, nhưng không kết quả vì thuyền không thể tiến đến bến.
Con thuyền về bến thiên đàng cũng thế nếu ta chỉ dựa vào việc làm. Việc làm không có sự cầu nguyện thì như việc chúng ta muốn về Việt Nam nhưng lại đi trên một chiếc xe chạy vòng tròn tại chỗ. Ta cần sự cầu nguyện để chỉ hướng cho việc làm. Mọi việc làm trên thế giới sẽ không có lợi ích cho sự cố gắng tiến về bến thiên đàng, trừ khi việc làm trở nên lời cầu nguyện hoặc nó được kết hợp với lời cầu nguyện.
Nếu ta phối hợp việc làm với lời cầu nguyện thì một việc nhỏ mọn và vô giá trị nhất sẽ trở nên lớn lao và hữu ích cho phần rỗi chúng ta. Một vị thánh đã nói, "Hãy làm việc như thể mọi sự nhờ vào mình, và cầu nguyện như thể mọi sự cậy nhờ vào Chúa."
Trong cuộc sống, không ít thì nhiều, mỗi người chúng ta chắc cũng đã được nghe người khác hoặc chính mình trách những kẻ chỉ nói mà không làm. Những người đó có thể là bà con trong gia đình, người trong một xưởng thợ, hay người trong xóm đạo. Dĩ nhiên những người như thế làm cho chúng ta bực mình tức tối. Nhưng, thử hỏi có bao giờ chúng ta ngồi xét lại coi mình có bao giờ trở nên gánh nặng cho người khác qua việc chúng ta nói mà không thực hành? Chúng ta là con người yếu đuối như bao nhiêu người khác, nên chắc chắn đã có lần chúng ta nói mà không làm. Nếu chúng ta bực bội và tức tối khi người khác nói mà không làm hay nói một đàng làm một nẻo thì kẻ khác cũng có thể bực tức khi chúng ta làm như thế.
Con người không chỉ có phần xác nhưng còn có phần hồn. Chúng ta không chỉ thất lời với loài người nhưng còn cả với Thiên Chúa. Hằng ngày hoặc hằng tuần chúng ta dự lễ để tỏ lòng kính yêu Chúa. Mến Chúa thì phải yêu người vì đó là giới răn của Chúa. Chúng ta nói chúng ta yêu mến Chúa nhưng khi gặp những người cần giúp đỡ thì ta lại quay lưng tránh mặt. Làm thế không phải là chỉ "có cái miệng," nói mà không làm hay sao?
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta cần phải xét lại lời nói và hành động của chính mình. Chúng ta đi dự lễ để thờ phượng yêu mến Chúa. Việc thờ phượng yêu mến này cần phải được diễn ra qua việc làm. Đâu là những việc làm để chứng tỏ lòng ta yêu mến Chúa? Có rất nhiều việc ta có thể thực hiện: ăn ngay ở lành, giúp đỡ tha nhân, không nói hành ai, cộng tác với tha nhân để xây dựng gia đình, giáo xứ thay vì nói những lời gièm pha... Đặc biệt là những việc mà thánh Giacôbê nhắc đến trong bài đọc hai: "thăm viếng cô-nhi quả phụ trong cơn quẫn-bách, và giữ mình khỏi mọi ô-uế đời này" (Jac 1:27).
Sống trên đời ai cũng muốn cho người khác kính trọng. Để được thế ta cần phải giữ vững lập trường và sống đúng với lời mình nói. Được người đời quí mến cũng không quan trọng bằng được Chúa thương yêu. Để được Chúa thương yêu ta cần phải kính mến Người trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình (xem Lc 10:27). Qua lời Chúa hôm nay mỗi người chúng ta hãy sống sao để người đời khỏi trách là ta "chỉ có cái miệng." Đặc biệt hơn nữa là đừng để Chúa trách ta, "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta" (Mc 7:6).
Người ta kể rằng: Hồi trước năm 1960 ở Sàigòn, các tiệm ăn thường có tấm bảng đề mấy chữ sau đây: "Cấm không được khạc nhổ xuống sàn nhà". Một hôm, có một chàng thanh niên ngang tàng đọc bảng cấm đó, tức bực lắm, anh ta đã ngạo nghễ khạc nhổ lên vách tường quán ăn trước mặt mọi người. Các thực khách tại các bàn ăn khác xôn xao khó chịu. Chủ tiệm vội chạy tới, định cảnh giác anh ta, nhưng anh ta giơ tay chỉ vào tấm bảng và nói: "Tôi đâu có nhổ xuống sàn nhà". Người chủ tiệm rất tức bực, nhưng cũng đành chịu vậy, bỏ đi. Khi nhìn luật lệ như những điều trói buộc, thì người ta sẽ tìm ra những kẽ hở để phá luật.
Lái xe trên xa lộ, mà người tài xế không tuân giữ luật giao thông, sẽ gây ra biết bao tai nạn, làm xáo trộn trật tự xã hội và gây nguy hại cho sinh mạng con người. Từ hơn một tháng nay, trên đường đi tới tòa thị sảnh thành phố Springfield, chúng ta thấy ở góc đường ngay phía tay phải, một chiếc xe hơi bị tai nạn hư hỏng 100% cắt đôi ngay chỗ tài xế ngồi, ở dưới để một tấm bảng sơn ghi rõ sự bất tuân luật cấm uống rượu trong khi lái xe... Vậy, luật giao thông có phải là một cấm đoán bất công, hạn chế sự tự do của cuộc sống con người, hay nó là phương tiện giúp con người hưởng được sự an toàn?
I. NIỀM HÃNH DIỆN CỦA DÂN DO THÁI
Bài sách Đệ Nhị Luật hôm nay, chúng ta thấy thật có lý khi dân tộc Do Thái hãnh diện được các dân tộc khác khen ngợi: "Thật dân tộc vĩ đại này là một dân khôn ngoan sáng suốt". Tại sao vậy? Vì: Không một dân tộc nào có diễm phúc được các thần minh ở bên cạnh mình, như Chúa là Thiên Chúa ở bên cạnh họ khi họ kêu cầu Người. Có dân tộc thời danh nào khác có lễ nghi, huấn lệnh công chính và bộ luật là Thánh Kinh như dân Do Thái không?
Như chúng ta biết: Do Thái là Dân Riêng Chúa tuyển chọn. Chúa luôn xuất hiện với các tổ phụ họ, để truyền ban các huấn lệnh và lề luật cho dân tuân giữ. Chúa còn luôn che chở, bênh vực họ trong mọi bước đường họ đi; Người dùng cánh tay uy hùng, làm nhiều phép lạ để giải thoát họ khỏi ách nô lệ, bênh chữa, trợ giúp họ chiến thắng quân thù cách oanh liệt, khiến các kẻ thù của họ phải bàng hoàng kinh sợ.
II. ĐÁNG LỜI CHÚA QUỞ TRÁCH
Được vinh dự là Dân Riêng của Chúa, nhưng dân Do Thái có sống xứng đáng với ơn Chúa ban, bằng việc tuân giữ các huấn lệnh và lề luật Chúa truyền qua Maisen, khi ông thừa lệnh Chúa nói với họ: "Các ngươi phải tuân giữ và thực hành các điều Chúa truyền dạy, vì đó là sự khôn ngoan sáng suốt của các ngươi trước mặt muôn dân". Nhưng dân Do Thái có tuân giữ lệnh truyền đó không?
Lịch sử đã chứng minh sự bất trung và phản bội của dân tộc Do Thái. Chính vì thế mà qua bài Tin Mừng hôm nay, họ đã bị Chúa Kitô nặng lời quở trách: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng xa cách Ta. Chúng sùng kính Ta cách giả dối, bởi chúng dạy những giáo lý và những lề luật do loài người bày tạo ra".
Dầu vậy, họ vốn tự cao tự đại lên mặt dạy đời, bằng cách sai những người Pharisiêu, biệt phái, luật sĩ là những bậc thầy trong dân đến nhòm ngó, rình rập, để bắt bẻ hạch sách Chúa về các hành động của các môn đệ Người: "Tại sao các môn đệ Ngài lại không tuân giữ các tập tục của tiền nhân, mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" Chúa đã cho họ một bài học khi nói với họ: "Các ngươi đã bỏ qua giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của loài người". Chúa còn trịnh trọng bảo dân chúng rằng: "Hết thảy các ngươi hãy nghe và hãy hiểu rõ lời Ta. Không có cái gì bên ngoài vào trong con người, mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những cái từ trong con người xuất ra, chính cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí, người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở bên trong mà ra, đã làm cho người ta ra ô uế".
III. CÔNG GIÁO, DÂN RIÊNG CỦA CHÚA
Là thành phần của Giáo Hội Công Giáo, chúng ta làm nên Dân Riêng Chúa tuyển chọn, như một dân Do Thái mới. Chúa muốn chúng ta hãy là những người con ngoan thảo, vui lòng lãnh nhận các huấn lệnh và thánh chỉ của Chúa qua các Thánh Luật của Người truyền dạy và đem ra thực hành trong đời sống. Vì luật pháp là nơi chứa đựng thánh ý Thiên Chúa. Tuân giữ luật pháp là sống theo thánh ý Thiên Chúa, như lời Thánh Giacobê Tông Đồ nhắn nhủ: "Anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh Lời đã gieo trong lòng anh em, Lời có sức cứu rỗi linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi Lời đã nghe, chớ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình".
Ngày nay, chúng ta vốn còn phải thú nhận cái sự thật đau lòng này, là nhiều người trong các Tín Hữu cũng chẳng hơn gì những người Pharisiêu, biệt phái, luật sĩ Do Thái xưa, họ đọc kinh nhiều, tham dự các giờ phụng vụ, đền tạ, các cuộc biểu dương Đức Tin, ghi tên vào nhiều đoàn thể; nhưng họ lại rất ít quan tâm đến việc sống những tinh thần của các lời kinh, lơ là việc tuân giữ các điều luật của các hội đoàn họ gia nhập, không thực thi Đức Bác Ái Huynh Đệ... Tệ hơn nữa, họ còn tin kiêng dối trá, mê tín, dị đoan và cặn kẽ giữ các tập tục cha ông lưu truyền, phản lại cả những giới răn của Chúa, giáo huấn và luật lệ của Giáo Hội: Chẳng hạn họ cứ bắt buộc con cái phải chu toàn luật tang chế, do tập tục xã hội cổ truyền bày tạo, trong khi sa phạm luật Chúa và Giáo Hội thì họ chẳng quan tâm, chẳng kể là gì. Ví dụ: Chồng đã chết, bố mẹ cứ bắt con gái phải để tang chồng đủ ba đã, rồi mới được tái hôn. Trong khi đó, con gái sa ngã, mang bầu, sinh con rồi, mà vẫn không được phép tái hôn. Họ kết án con cái là hư thân mất nết, nhưng chính họ đã không khôn ngoan đề phòng để con cái lỗi phạm giới răn Chúa, gây nên gương xấu làm hổ mặt cho dòng họ, bởi bắt con cái giữ tập tục của tiền nhân, mà không màng tới giới răn Chúa và Giáo Hội. Tội lỗi đó, ai phải chịu trách nhiệm?
Kết Luận
Là con cái Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng: "Sống theo luật Chúa là chúng ta sống cho Chúa" (Qui Regulae vivit, Deo vivit). Chúng ta đã được Chúa Thánh Linh chúc phúc: "Phúc cho những ai tiến thân trong luật pháp của Chúa". Vì Luật Chúa là khuôn vàng thước ngọc, là lẽ sống, là kim chỉ nam, là vị hướng đạo soi sáng hướng dẫn cho chúng ta sống theo thánh ý Chúa, giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu, để chúng ta có thể quả quyết được như lời Thánh Kinh: "Luật Chúa là đèn dọi bước chân tôi".
Thánh Phaolô còn quả quyết: "Yêu mến và chu toàn lề luật, là yêu mến và chu toàn thánh ý Chúa". Chu toàn thánh ý Chúa, sẽ được Chúa chúc phúc: "Phúc cho những ai suy ngắm luật Chúa đêm ngày" (Prov 29:18). Vậy chúng ta hãy ghi nhớ và làm cho Lời Chúa được thấm nhuần và chi phối mọi tư tưởng, lời nói, việc làm trong cuộc sống chúng ta, theo giáo huấn Chúa dạy: "Con hãy ghi tạc lề luật vào lòng con, thích trên trán con, đặt trước mắt con, buộc vào ngón tay con" (Prov 7:2-3).
Ngày Thánh Mẫu năm 2002 tại Carthage, Missouri, lúc đang đứng ở một quán nước, tôi bỗng thấy một nhóm bạn trẻ sà vào mua nước uống. Thoạt trông thấy, nhiều người yếu bóng viá đã cảm thấy “nhột” vì cái lối ăn mặc không giống ai của nhóm này. Đặc biệt trong nhóm có một em mà đầu tóc trông giống như một vườn hoa muôn mầu, muôn sắc. Lại thêm đôi bông tai coi bộ rất “hải tặc”.
Cùng lúc đó, một nữ tu vừa ở phía sau quán bước ra kêu gọi những ai đang có mặt quanh quán giúp cho chương trình bác ái mà tu hội đang thực hiện nhân danh các trẻ em nghèo tại Việt Nam. Mỗi người kẻ ít người nhiều ai cũng vui vẻ giúp đỡ. Nhưng khi chiếc nón trên tay nữ tu đưa về phía “mấy đứa bụi đời” này, thì tôi nhìn thấy những khuôn mặt ái ngại của những người chung quanh hiện ra rõ ràng. Dường như nữ tu ấy cũng ái ngại thì phải, vì tôi thấy lời kêu gọi của bà bỗng yếu đi và như nói cho có lệ: “Các em có gì cho không?”.
Bất chợt, anh chàng đầu tóc loang lổ kia thò tay vào túi quần và rút ra một tờ giấy bạc được vò nát nằm trong đó chẳng biết từ bao giờ. Em cẩn thận vuốt cho gọn ghẽ đồng tiền, và kìa đó là một tờ giấy 50$ (năm mươi đôla). Em vui vẻ đưa cho vị nữ tu trước sự bỡ ngỡ của mọi người.
- Em có muốn thối lại không? Cho cả sao?!
- Vâng, con cho cả.
Em nói xong và cùng với nhóm bạn ra khỏi quán.
Câu truyện trên lại khiến tôi nhớ lại một hình ảnh khác tương tự. Hôm đó, anh bạn tôi dẫn một nhóm bạn trẻ đi sinh hoạt. Trên đường về, đói bụng nên cả đám ghé vào một quán ăn. Ngồi đối diện với nhóm của anh là một nhóm trẻ khác mà thoạt nhìn là biết ngay thuộc dân “đầu đường xó chợ” thứ thiệt. Phản ứng tự nhiên là cả nhóm đều thấy ngán. Nhưng một chuyện còn bất ngờ hơn những gì mà mọi người đang suy nghĩ, đó là khi món ăn được người bồi bàn bưng lên, thì người con gái coi như “nữ chúa” trong nhóm lại tỏ ra rất nghiêm chỉnh, cẩn thận làm dấu thánh giá, và dừng lại cầu nguyện ít giây trước khi ăn.
Không biết mấy ông Pharisiêu và luật sĩ mà Thánh Máccô nói đến trong Thánh Kinh nếu có dịp chứng kiến hai cảnh vừa kể sẽ nghĩ thế nào? Các ông lấy gì mà chê trách Chúa đây? Và các ông sẽ có phản ứng gì khi thấy một thằng đầu tóc không ra thể thống gì lại dám móc túi dâng cúng đến 50$, và một đứa “bụi đời” từ đỉnh đầu đến bàn chân kia lại biết kính cẩn làm dấu thánh giá và cầu nguyện trước khi ăn? Có lẽ mấy ông sẽ khó xử lắm, vì trong luật các ông đâu có chép đến trường hợp làm dấu trước khi ăn, nhưng chỉ nói đến việc phải rửa tay trước khi ăn thôi. Hơn nữa trong luật cũng không cấm một đứa trẻ đầu tóc xanh đỏ dâng cúng cho quĩ trẻ em nghèo tại Việt Nam 50 Mỹ kim.
Mừng cho mấy ông Pharisiêu và luật sĩ ấy vì đã chết, nhưng buồn vì tinh thần mấy ông vẫn còn. Tinh thần ấy dường như vẫn đang sống trong tôi, trong anh, trong chị, trong em, và trong chúng ta. Người Việt Nam đã chẳng có câu: “Trông mặt mà bắt hình dong. Con lợn có béo thì lòng mới ngon” là gì. Chả thế mà làm gì thì làm, chứ để bị mất mặt là không được. Con gái mà lỡ có bầu trước khi cưới thì phải phá thai. Con trai ông bà làm cho con gái tôi có bầu thì phải cưới. Con dâu mà xấu xấu một tí thì phải bỏ. Con rể mà nghèo thì được xếp vào loại rể cà chớn. Nhà mình là nhà gia giáo, vọng tộc, bố làm chủ tịch, và mẹ sinh hoạt trong nhiều đoàn thể. Làm gì thì làm, để mất mặt là không được.
Người Âu Mỹ thì văn minh hơn, các ông bà luật sư đã áp dụng luật hấp dẫn ngoại hình của tâm lý khuyên các thân chủ họ, hoặc đòi hỏi phải để các thân chủ họ ăn mặc bảnh bao, son phấn, trang sức tề chỉnh khi ra hầu toà. Mục đích là để chiếm được niềm tin và cảm tình của bồi thẩm đoàn, các cơ quan ngôn luận, truyền thanh và truyền hình. Vì một người đẹp trai, đẹp gái ăn mặc lịch sự, hợp thời trang và nói năng lịch sự, bình tĩnh như thế kia, thì không thể nào là một thằng ăn cướp, một đứa hiếp dâm, hoặc một mụ tú bà được.
Cũng vì sống và ảnh hưởng bởi tinh thần ấy, nên hễ đã là cha, là thầy, là tu sĩ, là chủ tịch, là trưởng ban thì tất nhiên không có chuyện lầm lẫn, lẩm cẩm, lôi thôi thế này thế khác. Những cái đó chỉ là hậu quả của mấy anh nhà nghèo, khô khan, hoặc không tham gia các việc hội đoàn, giáo xứ, lười xin lễ.
Nhưng có những cái mà không cần phải xét nét, không cần phải phê phán, tự nhiên nó cũng lòi ra mà không áo quần, trang sức, hoặc chức tước nào có thể che dấu được. Đó là đời sống và tư cách của một người. Người ta chỉ có thể che đậy được một vài giờ, và trong một vài hoàn cảnh, nhưng dứt khoát không thể nào che đậy nổi mãi cái tâm ý tà vạy, cái thói kêu căng, phách lối, và những ham muốn dục vọng, tham lam quá độ, hoặc ích kỷ hẹp hòi. Chính Chúa Giêsu đã nói điều này với những ông Pharisiêu và luật sĩ chuyên phê phán và xét nét người khác: “Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế” (Mc 7: 23). Nội tâm con người làm cho con người ra ô uế. Áo quần không làm cho con người ô uế.
Đừng đoán xét người khác theo cái vẻ bề ngoài của họ. Cũng đừng câu nệ và hình thức. Chúa Giêsu qua bài học hôm nay đã muốn chúng ta phải biết sống thật với chính mình, và sống thật với anh chị em mình. Nếu mình đã không thật với lòng mình, thì việc đến với Chúa cũng chỉ là bôi bác: “Dân này thờ kính ta bằng môi bằng miệng còn lòng chúng thì xa ta” (Is 29:13). Chắc vị nữ tu được nhắc đến ở trên sẽ không bao giờ quên được hình ảnh anh chàng đầu tóc xanh đỏ, và tờ giấy bạc 50$ của em. Tôi tin là trong dịp Thánh Mẫu năm ấy, nữ tu này đã gặp nhiều người ăn mặc đẹp đẽ, thái độ hòa nhã, trí thức và lịch sự hơn em trai này, nhưng tôi cũng tin là ít ai trong họ đã vui vẻ móc túi ủng hộ 50$ vào công tác bác ái của bà. Mấy ông, mấy bà Pharisiêu thời đại nếu có nhìn thấy tụi nhóc quần áo, bông tai, mặt mày không giống ai kia mà lại nghiêm trang, kính cẩn làm dấu và cầu nguyện trước khi ăn, thì cầm chắc là hơn mấy ông, mấy bà rồi. Nhiều người bề ngoài đạo mạo, nghiêm trang, nói năng đạo đức, và hô hào đền tạ, cầu nguyện, nhưng đã không bao giờ làm dấu thánh giá, và cầu nguyện mỗi khi ngồi vào bàn ăn tại một tiệm ăn.
Sống theo hình thức và giả hình. Sống với tư tưởng phê phán và xét đoán. Lối sống này dường như đã ăn sâu vào máu huyết và tim óc của nhiều người. Nhưng đây lại là lối suy nghĩ, phê phán, và sống không phù hợp với tinh thần Phúc Âm. Lối sống của những Pharisiêu và luật sĩ giả hình. Những người chỉ chú trọng vào việc rửa sạch chén điã hoặc bàn tay trước khi ăn, nhưng lại quên gạn lọc, và tu tỉnh tâm tính của mình đối với việc nhìn và xử dụng chén đĩa, cũng như việc xử dụng các của ăn. Lạy Chúa, xin cho con biết luôn sống thật với lòng con, và sống thật với những người chung quanh con. Và xin cho con thâm tín rằng: “Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế” (Mc 7: 23).
Cha Đỗ Đình Bộ (Dourisboure) thuộc hội Thừa Sai Ba Lê kể câu chuyện ông Hồ Mua (Hmur) là người dân tộc Bana đầu tiên trở lại đạo Công Giáo năm 1853.
Ông Mua được cha Cung (Combes) dậy đạo. Cha này nhìn nhận ông là người “rất trung thực, rất công bằng, rất thù ghét điều gian dối”. Đặc biệt về giới răn thứ sáu, ông tỏ ra là người bén nhạy cách lạ thường. Một hôm cha Cung dạy ông hơi nhiều về giới răn đó. Phản ứng của ông Mua là: “Ồ, thưa ông cố, về điều này, từ lâu tôi đã biết điều gì được phép làm hay không được phép, kể cả trong suy nghĩ. Xưa kia, khi còn là một thanh niên, và trên đường đi đâu đó, nếu tôi gặp một người con gái thì tôi quay mặt lại để khỏi nhìn cô ấy, và khỏi có những ước muốn xấu.”
Ơn Cứu Chuộc
Nhưng không thể nói như vậy về vấn đề mê tín dị đoan. Tất cả những tập tục của dân Bana đều có mê tín dị đoan thấm nhuần. Và ông Hồ Mua mang nặng sư thấm nhuần đó. Khi ông Mua nghe cha Cung trình bày chi tiết đạo thánh Chúa, ông liền tỏ lòng khâm phục và muốn theo liền. Nhưng khi biết rằng tất cả những tập tục dân tộc Bana không thể đi đôi với việc ông gia nhập đạo công giáo, ông tỏ ra sợ hãi. Ông đã tin và vẫn còn tin vào tất cả đạo giáo của dân tộc ông. Ông xác quyết, ông không thể bỏ một số luật đạo ấy mà lại không tự chuốc lấy cái chết chắc chắn sẽ xảy đến cho ông. Cha Cung giúp ông cầu nguyện xin ơn lướt thắng những cám dỗ về mê tín dị đoan. Ông tỏ ra là người anh hùng khi phải nói lên niềm tin mà ông đặt nơi Thiên Chúa và về những sự sau hết của đời người. Nhưng nơi thâm tâm ông vẫn còn âm ỉ một sự sợ hãi, vẫn còn nửa tin nửa ngờ một tai ương lớn nào đó, hoặc có khi chính cái chết, có thể xảy đến nếu ông bỏ một số tập tục mê tín. Nhưng Chúa nhân lành vẫn cho ông cơ hội để thắng sự sợ hãi đó nhờ những thực tại khách quan.
Đúng vào năm ông Mua trở lại đạo Công Giáo thì có nạn đói xảy ra cho làng ông và những làng lân cận. Bình thường phương pháp tốt nhất để cứu đói là gieo bắp vào lúc mùa mưa tới, để sớm có cái bỏ miệng trong khi chờ đợi mùa lúa đến. Nhưng theo tập tục xứ này, người ta không thể muốn trồng bắp lúc nào thì trồng, mà phải đợi hết điềm báo này đến điềm báo khác. Có khi vì thế mà phải chết đói trong khi thời tiết lại rất thuận lợi cho việc trồng tỉa ngay! Ông Mua, vào dịp đó, đã theo lời khuyên của cha Cung, đã coi thường những tập tục xưa. Ông cứ gieo bắp trước thời gian, chẳng chờ điềm báo. Nhiều bà con của ông từ làng lân cận đến khuyên ông: “Ô kìa, Hồ Mua, mày sắp làm gì vậy? Tại sao trồng bắp tháng này? Ồ, đừng đừng! Ai sẽ ăn bắp mày trồng? Chắc chắn là nó không mọc đâu! Mà như nếu nó có mọc, có sinh nhiều trái, thì mày cũng chẳng được ăn. Mày sẽ chết trước cho mà coi! Đừng có nghe lời khuyên của mấy người ngoại quốc. Họ chẳng biết gì tập tục của chúng ta. Họ sẽ làm mày chết đấy. Chúng tao thương hại mày lắm! Cái chết luôn đến khá sớm, thì tại sao lại hối thúc nó!”
Nhưng ông Mua đã hứa với cha Cung là bằng mọi giá ông sẽ hành xử theo lời dạy của đức tin. Vậy ông đã tỉa bắp trong khi mọi người còn chờ điềm báo. Bề ngoài ông tỏ ra rất vững tin, nhưng bên trong ông thú thật là vẫn còn nơm nớp sợ.
Chúa thương cho ông Mua được mùa bắp trong khi mọi người chung quanh mới bắt đầu gieo hạt. Bà con lần này đến không phải để trách ông, nhưng để nhận phần bắp mà ông đã quảng đại chia sẻ cho họ như ân lộc Chúa ban.
Ong Mua cách nào đó tượng trưng cho chính Chúa Giêsu là Đấng mở ra một con đường tự do cho mọi người. Còn những người bà con của ông tượng trưng nhóm Pharisêu và Kinh sư trong bài Tin Mừng hôm nay.
Đức Giêsu trả giá để loài người được tự do
Nhưng ông Mua tượng trưng Đức Giêsu theo nghĩa nào? Thực ra, chính nhờ Đức Giêsu ta mới có thể nhận ra con người ông Mua hiện như thế nào và lẽ ra phải như thế nào, tức là nhận ra ông như được Thiên Chúa dựng nên và cứu chuộc như thế nào.
Ngay ở câu đầu của sách Tin Mừng Máccô đã cho ta thấy nhân vật chính của sách Tin Mừng là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Ý nghĩa của danh xưng Con Thiên Chúa được chất chứa rất phong phú nơi biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Khi ấy các tầng trời xé ra và Đức Giêsu thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng phán từ trời cao rằng: Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con. Thánh Thần xuống trên Đức Giêsu là để tấn phong và xác nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ Thiên Chúa đã hứa (x. Is 11,2; 42,1; 63,11). Đức Giêsu còn được xác nhận là Con Một yêu dấu của Chúa Cha được dâng làm lễ vật trong hy lễ.
Đó là mạc khải cơ bản về Đức Giêsu Con Thiên Chúa. Tất cả lời nói và việc làm của Đức Giêsu mà sách Tin Mừng mô tả cũng là để làm sáng tỏ mạc khải đó mà thôi.
Cho nên khi một người bị quỉ ám nhìn nhận Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 3,24) cũng là để nói rằng chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng chí thánh và Đức Giêsu là Đấng được thánh hiến cho Ngài.
Cũng vậy khi Đức Giêsu khẳng định Ngài có quyền tha tội (x.Mc 2,10) thì đó là vì Ngài dựa vào thiên tính là Con Thiên Chúa để tha tội.
Riêng trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu thực tỏ ra khéo léo để vượt lên trên những tập tục không mấy thiêng liêng (vì chỉ liên quan tới chuyện rửa bát, rửa tay v.v… trước khi ăn) để hướng người nghe về với Thiên Chúa. Người trích ngôn sứ Isaia nói rằng “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là luật phàm nhân (Is 29,13)… Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm (Mc 7,8).
Mọi sự phải khởi đi từ Thiên Chúa. Đó là ơn tạo dựng. Nếu ông Hồ Mua được nhìn nhận là con người có nhiều cái hết sức tích cực, như trung thực, công bằng, thù ghét điều gian dối, lại còn trong sạch trong cả suy nghĩ, từ thời còn thanh niên, thì đó là vì ông được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa.
Nhưng nếu từ cơ sở đó của ơn tạo dựng mà đã có sự suy thoái, sự biến chất do mê tín dị đoan là công trình của quỷ dữ, thì ông Mua phải được giải phóng để được tự do. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa xuống thế làm người là để thực hiện công trình giải phóng đó. Chính ông Mua phải tham dự vào công trình này, nhận lấy công trình đó của Chúa Giêsu làm của mình. Những người như cha Cung và thực ra, cả Giáo Hội, luôn giúp đỡ ông, nhưng không ai thay thế được ông để vượt trên sợ hãi, hầu sống sự sống mới làm Con Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu. Nhưng Đức Giêsu đã trả giá cho công trình giải phóng loài người khỏi ách tội lỗi. Sự hy sinh đó có thực do tội lỗi loài người gây nên, chứ không phải là điều giả tạo được áp đặt vào cuộc đời của Đức Giêsu. Máccô nói rõ điều đó khi mô tả năm cuộc tranh luận với người Pharisêu, mà vụ chữa người bại tay đã đưa đến việc bàn tính cách hữu hiệu nhất để giết Đức Giêsu (x. 2,1-3,6). Thắc mắc mà người Pharisêu nêu trong Tin Mừng hôm nay liên quan tới chuyện rửa bát đĩa và tay trước khi ăn, cũng phát sinh do sự xung khắc có âm mưu nói trên.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn tâm đắc được gì về con người ông Hồ Mua: trung thực? công bằng ? ghét điều gian dối ? trong sạch cả trong suy nghĩ từ hồi thanh niên ? thấm nhuần mê tín dị đoan của dân tộc Bana ? Ông lướt thắng được nỗi sợ phát sinh do mê tín dị đoan như thế nào?
2. Bạn có kinh nghiệm gì về những điều tốt lành do ơn tạo dựng, như ước ao sống lý tưởng bác ái và công bằng?
3. Bạn có kinh nghiệm gì về ơn cứu chuộc qua những lần xưng tội, chịu lễ?
Biệt phái và Luật sĩ là những người chuyên chú lo giữ luật Maisen một cách rất cặn kẽ. Luật Maisen là luật của Cựu Ước ghi chép rất tỉ mỉ nhiều tập quán và lễ nghi phức tạp về đủ mọi sinh hoạt của đời sống: như rửa tay, rửa chén trước khi ăn, đồ mua ngoài chợ về phải rảy nước tẩy uế và phân biệt đồ nào được ăn đồ nào không được ăn, phải dâng cúng thế nào vào đền thờ... Họ giữ luật vì luật nghĩa là cứ làm đúng từng nét như luật dạy trong sách là đủ không cần chú tâm đến sự hoàn thiện nội tâm của đời sống. Nói cách khác họ giữ luật một cách máy móc không một chút tinh thần bên trong. Họ dâng cúng lễ vật vào đến thờ cho Thiên Chúa đúng mức, đúng kỳ, đúng luật nhưng tinh thần của sự dâng cúng là lòng yêu mến tôn thờ Thiên Chúa thì không có hay không cần xét đến. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài muốn hoàn hảo những luật Cựu Ước đó bằng một tinh thần bên trong tạo thành một luật giao ước mới. Luật giao ước mới này không phải là những nét chữ ghi trên giấy cứ làm theo đúng là xong, nhưng được ghi ngay trong tâm hồn, trong lương tâm mỗi người, để mỗi người phải cố gắng thực hiện những luật đó với hết sức của mình. Sự cố gắng đó phải vươn lên mãi không có một giới hạn nào: “Hãy nên Thánh như Cha các con ở trên trời là Đấng Thánh“ (Mt 5,48). Vì thế chúng ta dễ hiểu câu Chúa chê bọn Biệt phái và Luật sĩ chỉ biết giữ luật cách máy móc: „Dân này chỉ mến Ta bằng môi bằng miệng còn lòng nó thì ở xa Ta“ và „chúng đã nhận mệnh lệnh của phàm nhân làm Thánh giáo“. Không, chính tinh thần yêu mến bên trong và chính luật Giao ước mới của lương tâm, mới là điều Chúa muốn và mới là Thánh luật chứ không phải sự giữ luật cách máy móc và những nét luật lệ chết cứng trên các trang giấy. Vì thế nhân cơ hội họ bắt bẻ về sự rửa tay trước khi ăn, Chúa mới nhấn mạnh thêm: chính cái bộ lòng bên trong, cái nội tâm con người mới là cái quan trọng chứ không phải chén bát vì chính nó làm cho đồ ăn bên ngoài vào tiêu ra thành chất dơ thối cũng như chính nó phát xuất những tư tưởng dâm ô, trộm cắp, kiêu ngạo, ganh tỵ...
Giữ luật vì luật một cách máy móc là mới mến Chúa bằng môi bằng miệng. Đi lễ Chúa Nhật chỉ vì luật buộc phải đi, dâng cúng vì luật buộc phải dâng cúng, đọc kinh vì phải đọc... mà lòng thì xa Chúa và vẫn tích trữ hận thù ghen ghét ganh tỵ... thì vẫn chỉ là những kẻ Biệt phát và Luật sĩ bị Chúa chê là giả hình chỉ mến Chúa bằng môi bằng miệng mà lòng thì vẫn xa Ngài: họ vẫn là những kẻ đối nghịch với Ngài.
Chúng ta cần xét lại thái độ của chúng ta khi tuân giữ luật Chúa: tuân giữ cách máy móc miễn cưỡng hay tuân giữ vì yêu mến Ngài.
Lạy Chúa, con quyết giữ lễ các Chúa Nhật tháng này một cách ý thức và yêu mến.
Trong cuộc sống thường ngày, đối với người Tây Phương thì con tim, còn đối với người Đông Phương chúng ta, thì cõi lòng là yếu tố quan trọng cho mọi hoạt động của chúng ta. Vì thế, chúng ta thường nói:
- Thèm lòng chứ không thèm thịt. Hay của ít lòng nhiều.
Cho dù chúng ta có làm được những việc tốt lành, mà nếu không có sự góp phần của con tim, của cõi lòng, thì chúng ta cũng chỉ là những kẻ bôi bác, giả hình và dối gạt mà thôi.
Ca dao tục ngữ đã diễn tả về hạng người này như sau:
- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm. - Miệng thì thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Chính vì thế mà chúng ta cần phải đề cao cảnh giác đối với hạng người nham hiểm này.
Trong Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng có những ý nghĩ như vậy. Ngài coi cái tâm, cái lòng là yếu tố chi phối mọi việc làm của chúng ta, như chúng ta thường bảo:
- Tư tưởng thì hướng dẫn hành động.
Hay như Chúa đã phán dạy:
- Lòng đầy thì mới tràn ra ngoài.
Chính vì thế, rất nhiều lần Ngài đã lên tiếng phê bình chỉ trích thói giả hình của bọn Biệt phái và luật sĩ. Bởi vì, họ chỉ có cái vỏ bên ngoài, còn bên trong thì lại rỗng tuếch, thiếu vắng cái tâm, cái lòng.
Họ giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng xóa, nhưng bên trong thì lại đầy dòi bọ và xú khí. Họ chuộng hình thức bề ngoài, nhưng lại chẳng có tinh thần bên trong.
Chẳng hạn, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, họ cẩn thận rửa tay trước khi ăn, nhưng tâm hồn họ thì lại bị hoen ố bởi gian tham và tội ác, khiến Chúa đã phải mượn lời tiên tri Isaia mà nói về họ:
- Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Rồi Ngài còn xác quyết chính yếu tố bên trong mới là yếu tố quyết định tính cách tốt hay xấu của một hành động:
- Bởi vì từ bên trong từ cõi lòng xuất phát ra những ý định xấu như tà dâm, trộm cướp, giết người… Chính những điều xấu xa này, từ bên trong xuất ra và làm cho con người trở thành ô uế.
Với chúng ta cũng vậy. Chúa đòi hỏi nơi chúng ta tấm lòng chân thành khiêm cung, như lời Ngài đã phán:
- Ta muốn lòng nhân lành chứ không muốn lễ vật.
Nơi khác, Ngài cũng bảo:
- Lòng sám hối khiêm cung Chúa chẳng khinh chê.
Và hơn thế nữa, chính tình yêu xuất phát từ cõi lòng, từ con tim sẽ làm cho những việc làm nhỏ bé tầm thường của chúng ta có được một giá trị to lớn và cao cả trước mặt Chúa.
Bởi vì, tình yêu xuất phát từ bên trong sẽ là như chiếc đũa thần, biến những việc làm nhỏ bé tầm thường của chúng ta trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta.
Có một cuộc triển lãm lấy tên là “Hàng thật hàng giả”. Cuộc triển lãm này nhằm giới thiệu bộ mặt hàng hóa trong bối cảnh thị trường hiện nay, để nhà sản xuất và người tiêu dùng có cơ hội nắm vững tình hình. Qui mô triển lãm không lớn, thời gian trưng bày không lâu, nhưng ý nghĩa của nó được đánh giá không phải là nhỏ. Bởi lẽ nó gợi mở một dư luận đúng đắn trong đạo đức kinh doanh, nhằm tẩy chay hàng giả và cổ võ hàng thật, đồng thời góp phần hình thành một cung cách làm ăn sao cho chữ tín được tôn trọng và bảo vệ. Nhiều tờ báo đã đánh giá cao cuộc triển lãm này, có báo cho rằng đó là “một cuộc giáp mặt đầy lý thú”.
Bài Tin Mừng hôm nay, dầu chẳng liên quan gì đến cuộc triển lãm, nhưng cũng diễn ra như một cuộc giáp mặt giữa một bên là những người Pharisêu và kinh sư, còn bên kia là Chúa Giêsu và các môn đệ, với câu hỏi mở đầu xoay quanh vấn đề “sạch và dơ” theo luật lệ, để rồi cuối cùng trong câu trả lời mang tính cật vấn, Chúa Giêsu đã trực tiếp tố giác một lối sống đạo đức giả hình, và qua đó gián tiếp dạy bảo một lối sống mới trong đạo đức đích thực.
Trong Tin Mừng chúng ta hay nghe nói đến những người Pharisêu và kinh sư. Đây là những người sinh ra và lớn lên trong bầu khí đạo giáo, có người lại được huấn luyện nâng cao để trở thành những chuyên viên luật lệ, cuộc đời họ dường như gắn bó với luật lệ. Nếu chỉ có thế thì chẳng có gì phải nói, nhưng đàng này, dần dần họ cấu kết với nhau thành một nhóm nắm quyền giải thích và áp dụng luật lệ, để rồi tha hồ thao túng đến nỗi lấn lướt cả quyền lập pháp khi họ tự ý thêm bớt đủ điều, làm cho luật lệ mất đi dáng dấp nguyên thủy, đành lép vế dưới lớp áo truyền thống phàm nhân. Trên cơ sở đó, Chúa Giêsu đã tố giác: “Các ông gạt bỏ điều răn Thiên Chúa mà giữ lấy tập tục loài người”.
Rồi như một hệ lụy, những người Pharisêu và kinh sư thường xuất hiện công khai qua dáng vẻ tự phụ, cánh tay họ thò vào mọi ngõ ngách của cuộc sống: dòm ngó, xét nét, hạch sách người khác ngay trong những điều nhỏ nhặt như việc các môn đệ không rửa tay trước khi ăn kể lại trong Tin Mừng hôm nay.
Nhưng chính ở đây, bằng thái độ không khoan nhượng, Chúa Giêsu đã giật rơi chiếc mặt nạ đạo đức trên khuôn mặt họ, để trần trụi ra họ chỉ là những kẻ giả hình. Rõ trơ trẽn, xấu mà hay làm tốt. Điều làm cho người ta thành dơ bẩn không phải ở chỗ giữ hay không giữ tập tục rửa tay trước khi ăn mà chính là tâm địa của người ta. Đạo đâu phải là tuân giữ các tập tục và thực hành các nghi thức mà là một thái độ sống.
Thế là người cật vấn bây giờ trở thành kẻ bị cật vấn. Qua những người Pharisêu và kinh sư, Chúa Giêsu tố giác một lối sống giả hình, giả dối: thể hiện bên ngoài thì khác và trong lòng thì nghĩ khác, như tục ngữ đã nói: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm” để diễn tả những người mang mặt nạ giả danh tốt đẹp, bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong. Hạng người như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Chúng ta thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người Pharisêu và kinh sư không ? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên trong không ? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề ngoài không ? Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình.
Không những chúng ta không được giả hình, giả dối mà còn phải đấu tranh chống lại những cái giả chung quanh nữa. Những cái giả này ngày nay xuất hiện dưới nhiều hình thức và ở nhiều cấp độ khác nhau giữa chốn chợ đời, cụ thể nhất là hàng giả và thuốc giả. Mỗi cái giả đều có cái giá của nó trong sự tác hại: hàng giả gây nên “tiền mất” cho người mua sắm, thuốc giả gây thêm “tật mang” cho kẻ tin dùng. Còn người ta, một khi đã trở thành giả, như giả nhân giả nghĩa thì quả là một thảm họa không chỉ cho bản thân mà còn cho những người lân cận nữa. Trong cuộc chơi, như trong bóng đá chẳng hạn, động tác giả được xem là mưu trí, nhưng trong cuộc đời, động tác giả chỉ có thể là trò trí trá của những con người đã đánh mất phẩm chất đạo đức nơi mình.
Cuộc giáp mặt giữa những người Pharisêu và kinh sư với Chúa Giêsu và các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta liên tưởng tới những cuộc giáp mặt khác trong cuộc đời. Quả thực, dù muốn dù không chúng ta cũng sẽ thấy, sẽ gặp, sẽ chứng kiến những cuộc giáp mặt cụ thể và quyết liệt, như giữa hàng thật và hàng giả, của công và của tư, phim sạch và phim đen, mặt phải và mặt trái v.v… không có sẵn giải pháp cho từng trường hợp, nhưng vẫn có lời gọi hãy đứng về phía chân lý và hãy sống trung thực trong bất cứ trường hợp nào.
Dĩ nhiên sự thật tất thắng, nhưng đường đi đến sự thật là cả một cuộc đấu tranh sinh tử một mất một còn. Phân biệt thật giả đã khó, yêu mến và thi hành sự thật lại càng khó hơn, nó đòi hỏi lý trí và ý chí cũng như sự trợ giúp của ơn thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhận diện lại cuộc sống đạo đức của mình, đồng thời cũng là lời mời gọi hãy giành lấy phần thắng giữa những cuộc giáp mặt trong đời.
Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng nhưng lòng họ thì xa Ta.
Cái sai lầm lớn nhất của bọn Biệt phái và luật sĩ, theo tôi nghĩ, đó là họ đã đảo lộn bậc thang giá trị. Lấy cái phụ làm chính và lấy cái chính làm phụ. Họ tuân giữ những tập tục của cha ông mà quên đi giới luật của Thiên Chúa. Họ bám víu vào những nghi thức bên ngoài mà quên đi tình mến bên trong.
Tôi xin đưa ra những thí dụ cụ thể:
Chẳng hạn, họ thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn mà không rửa tay. Đối với họ đó là một trọng tội không thể nào tha thứ. Người ta kể lại rằng: một luật sĩ tên là Aquiba, thà chết khát trong tù còn hơn là sai lỗi tập quán này. Ông đã lấy nước đổ trên tay dù rằng nước đó rất cần cho ông để được sống.
Từ đó chúng ta thấy họ còn là những con người hẹp hòi và thiển cận, đã quan trọng hóa những điều nhỏ mọn. Bên ngoài họ tắm gội, giặt giũ rất là cẩn thận, nhưng bên trong thì lại chất đầy những gian tham và tội ác, khiến cho Chúa Giêsu phải lên tiếng cảnh cáo:
- Khốn cho các ngươi, hỡi những biệt phái và luật sĩ giả hình, các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài thì đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy giòi bọ và xú khí.
Lần khác, thấy các môn đệ bứt những bông lúa chín ở dọc đường mà ăn trong ngày Sabbat, và họ đã lên tiếng bắt bẻ vì đã vi phạm ngày nghỉ lễ, khiến Chúa phải đặt lại vấn đề:
- Luật lệ vì con người hay con người vì luật lệ. Ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết ?
Lòng nhiệt thành của họ có đấy nhưng lại quá vụ về hình thức. Trong khi chú trọng vào những chi tiết bên ngoài, họ quên mất tình yêu thương bên trong, là điều Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta:
- Các ngươi kinh kệ dài dòng mà lại nuốt trửng gia tài của các bà góa.
Và rồi Chúa đã chỉ trích:
- Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Nhìn vào đời sống, nhiều người trong chúng ta cũng chẳng hơn gì bọn biệt phái. Chúng ta cũng đảo lộn bậc thang giá trị, lấy cái chính làm phụ và lấy cái phụ làm chính. Chúng ta cũng bấu víu vào nghi thức bên ngoài mà quên đi tình mến bên trong. Chúng ta cũng sống một cuộc sống bôi bác giả hình. Có người thì sùng bái ảnh tượng nhưng lại coi thường sự công bằng. Có người ưa đọc kinh dài dòng nhưng lại gian tham và hà khắc với anh em. Họ thật giống với mẫu người mà tục ngữ đã diễn tả:
- Khẩu Phật tâm xà.
- Miệng nam mô bụng bồ dao găm.
Có người thì tang ma cỗ bàn dềnh dang, cho cha mẹ, nhưng khi cha mẹ còn sống, thì lại hắt hủi và đối xử tệ bạc:
- Còn sống thì chẳng cho ăn,
Đến khi đã chết làm văn tế ruồi.
Có người lập gia đình thì chỉ nhắm tới tiền bạc và địa vị, mà quên rằng, tình yêu thương và tinh thần đạo đức mới là đảm bảo vững chắc cho cuộc sống lứa đôi.
Tất cả những sự kiện trên đều do thiếu lòng yêu mến chân thành mà sinh ra. Lòng yêu mến chân thành mới là yếu tố bên trong, mới là nền tảng vững chắc, thiếu nó thì việc làm của chúng ta chỉ là não bạt ầm vang, thiếu nó bản thân chúng ta chỉ là phường bôi bác giả hình. Vì thế, thánh Augustinô đã nói:
- Ama et fac quodvis. Hãy yêu rồi muốn làm gì cũng được.
Có một ông triệu phú chết đi để lại một gia tài to lớn. Ông sinh được một cậu con trai, nhưng cậu con này được gửi đi du học từ bé, nên không một ai biết mặt. Vì thế, tòa án phải nhắn tin trên báo cho cậu trở về.
Đúng ngày hẹn, người ta thấy có ba chàng thanh niên tự nhận là con của nhà triệu phú. Viên chánh án bèn lấy tấm hình của nhà triệu phú, rồi nói với ba chàng thanh niên:
- Ai bắn trúng thì được lãnh nhận gia tài.
Chàng thanh niên thứ nhất giơ súng và bắn, chàng thanh niên thứ hai cũng giơ súng và bắn. Còn chàng thanh niên thứ ba cũng giơ súng, nhưng rồi lại bỏ xuống và nói:
- Mặc dù đây chỉ là một tấm ảnh, nhưng nó gợi nhớ đến ba tôi, tôi không thể bắn.
Nhờ lòng yêu mến chân thành, viên quan tòa đã nhận ra chàng thanh niên thứ ba mới đúng là người con đích thực của nhà triệu phú và trao gia tài cho chàng.
Lòng yêu mến chân thành, được biểu lộ qua những việc làm cụ thể, chứng tỏ chúng ta là những người môn đệ đích thực của Chúa, bằng không, khuôn mặt đạo đức của chúng ta sẽ bị rơi xuống và chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác giả hình.
Cha Murray lủi thủi đi trên phố vắng đêm khuya, ngài đang đưa Mình Thánh cho một bệnh nhân sắp chết. Tới góc phố, chợt một tên cướp nhảy ra chĩa súng quát: "Đứng lại, đưa tiền đây!". Cha Murray mở áo khoác, lấy ví tiền. Tên cướp ngó thấy ngài mặc áo đen và mang cổ trắng, nhận ra đó là một linh mục, hắn ấp úng nói: "Thưa Cha, con không biết. Con xin lỗi, Cha cất tiền đi". Cha Murray bình tĩnh lại, ngài móc gói thuốc mời hắn một điếu. Nhưng ngài lại ngạc nhiên lần nữa nghe hắn nói: "Cám ơn Cha, bây giờ đang là Mùa Chay, con không hút thuốc".
Có những người coi vịêc giữ luật là quan trọng, còn tình trạng tâm hồn mình là không đáng kể. Họ thấy cần thiết phải giữ chay, còn có đi ăn trộm, ăn cướp cũng chả sao. Đó là một sai lầm mà Chúa Giêsu luôn tìm cách sửa đổi. Có thể coi đây là một trong những khác biệt giữa tâm tình giữ đạo của các biệt phái và nhóm môn đệ sống theo Lời Chúa. Các biệt phái nghiêm chỉnh giữa luật rửa, tắm rửa trước khi dùng bữa. Những kiểu tắm rửa, lau chùi, rửa bình… Không phải vì lý do vệ sinh, nhưng là nghi lễ thanh tẩy. Họ khó chịu, chê trách Chúa và các môn đệ vì không tuân giữ các lề luật đó. Chúa không khắt khe với các môn đệ trong việc giữ luật cũ. Dù nhóm môn đệ rất nhiệt thành giữ đạo, nhưng đôi khi trong nếp sống cũng bị lây nhiễm lấy một vài thói tục mà người biệt phái cho là phóng túng. Chúa Giêsu coi những chuyện này không quan trọng. Chủ yếu là do cõi lòng. Chúa luôn bảo vệ, bênh vực những kẻ mà nhóm bảo thủ cho là người xấu, người tội lỗi, những người thu thuế, các cô gái điếm. Chúa tỏ lòng nhân từ và khoan dung với người nghèo khó, bé mọn.. nhất là khi những người này bị xét đoán gắt gay.
Một lý do khác nữa là Chúa Giêsu nghĩ tới một Giáo hội phổ quát chứ không đóng khung trong dân tộc Do Thái. Những phong tục, tập quán của Do Thái là tốt, nhưng đến lúc phải mở rộng hơn để đón nhận mọi nếp sống, mọi nền văn minh trên toàn thế giới. Vậy phải sàng sảy, chọn lọc, chỉ giữ lại những gì cốt yếu và coi nhẹ những điểm phụ thuộc. Chúa bảo có một số cổ lệ không do Thiên Chúa mà chỉ do con người. Những cổ lệ đó cần đổi thay, điều chỉnh cho sáng tỏ tinh thần tôn kính Thiên Chúa và chu toàn bác ái đối với anh em. Nếu không sẽ chỉ đáng nghe lời quở trách của ngôn sứ Isaia: "Dân này thờ ta ngoài môi miệng mà lòng trí ở xa ta".
Phải làm sao cho sáng tỏ tinh thần, không bị lu mờ che khuất vì nếp sống bên ngoài. Phải làm sao cho mọi người, tín đồ cũng như người chưa tin, thấy điều quan trọng là ở tâm tình, chứ không ở luật lệ, hay lễ nghi thờ tự. Những điều này chỉ có giá trị nếu làm nổi bật tinh thần bên trong, là việc mến Chúa, yêu người. Lạy Chúa, xin thanh tẩy chúng con để chúng con biết tôn trọng tinh thần hơn tục lệ, biết nhìn anh em theo hướng nhìn cởi mở của Chúa.
Một Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta như những người bạn của Người! Dân Ít-ra-en hãnh diện có được một Thiên Chúa rất gần gũi với họ, Đấng ban cho họ lề luật và những quy tắc rất công minh, như ta có thể đọc thấy trong đoạn này của sách Đệ Nhị Luật là một phần của Cựu Ước hoặc Giao Ước Đầu Tiên (xem Đnl 4,7-8).
Chính vì Lời Chúa có sức lôi cuốn phi thường, nên ta có nguy cơ tin rằng chỉ cần nghe không là đã đủ. Thay vào đó, Lời Chúa phải đem ra thực hành. Đó là điều quan trọng.
Cả trong Tân Ước, tông đồ Gia-cô-bê cũng đã cảnh báo các Ki-tô hữu tiên khởi rằng: "Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình" (Gc 1,22). Mô-sê cũng dạy như vậy khi ông tuyên đọc những lời này với người Ít-ra-en: "Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống"
Vậy ta hãy lắng nghe và sống Lời Chúa.
Hơn nữa, chính Đức Giê-su hiện diện trong lời của Người; những lời đó là chính Đức Giê-su. Những lời của Người là vĩnh cửu, và do đó chúng thích hợp với mọi thời đại. Chúng phổ quát, có giá trị đối với mọi người, vượt qua mọi chủng tộc và mọi nền văn hóa. Chúng không đơn thuần chỉ là những lời khuyên nhủ, những đề nghị hoặc lệnh truyền. Lời của Người chứa đựng và ban truyền sự sống.
Cuối Bài Giảng Trên Núi, Đức Giê-su để lại cho ta một dụ ngôn nổi tiếng (xem Mt 7,24-27). Người so sánh những ai hồ hởi phấn khởi khi nghe Lời của Người nhưng rồi không thực hành trong cuộc sống với ngôi nhà xây trên cát. Khi gió mưa ập đến - nghĩa là những đề nghị, tư tưởng khác dễ dãi hơn, có sức cuốn hút và lừa dối bằng thứ ánh sáng lấp lánh chóng qua - thì những người này gục ngã rất đáng thương bởi vì sứ điệp Phúc Âm đã không trở thành sự sống nơi họ.
Đức Giê-su sau đó so sánh những ai biết đem Lời của Người ra thực hành với ngôi nhà xây trên đá: thử thách, cám dỗ, nghi nan, và hoang mang có thể xảy ra, nhưng những người này vẫn vững vàng tiến bước trên con đường Phúc Âm. Họ tiếp tục tin vào Lời Chúa bởi vì họ đã cảm nghiệm được những lời ấy chân thật ra sao.
Việc sống Lời Chúa sẽ đưa lại một cuộc cách mạng thực sự trong đời của ta và trong đời của những ai mà ta chia sẻ cuộc sống Phúc Âm này.
Phải đem những lời của Đức Giê-su ra thực hành với lòng đơn sơ của trẻ nhỏ! Người dạy ta: "Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại" (Lc 6,38). Biết bao lần ta đã cảm nghiệm rằng càng cho đi thì càng nhận được! Chưa bao giờ ta bị trắng tay, bởi vì mỗi lần ta cho một người thiếu thốn thì ta lại nhận được gấp trăm. Thế còn khi ta chẳâng có gì để cho đi thì sao? Đức Giê-su đã chẳng nói rằng: "Anh em cứ xin thì sẽ được" (Mt 7,7) hay sao? Ta đã xin và ngôi nhà của ta lại đầy mọi thứ của cải mà Thiên Chúa gửi đến để ta lại có thể cho đi.
Khi bị đè bẹp bởi nỗi lo âu về một hoàn cảnh vượt qúa sức mình hoặc khi nỗi lo lắng làm ta bị tê liệt, hãy nhớ lại những lời của Đức Giê-su: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi" (Mt 11,28), và khi đã quẳng cho Người mọi gánh lo, ta sẽ thấy bình an trở lại, và cùng với nó là giải pháp cho các vấn đề của ta.
Lời Chúa làm tiêu tan cái tôi của ta, khử trừ tính ích kỷ của ta, và thay thế cách ta nghĩ tưởng, ước muốn, hành động bằng chính tâm tư và hành động của Đức Giê-su. Bằng cách sống Lời Chúa, thì một lối lý luận theo Thiên Chúa và một tâm thức Phúc Âm sẽ hình thành và ta sẽ nhìn mọi sự bằng đôi mắt mới. Các mối quan hệ của ta cũng thay đổi: bằng cách sống Lời Chúa và chia sẻ những kinh nghiệm đó với nhau, những người trước đó không biết nhau nay trở nên anh chị em với nhau, họ trở thành một dân tộc, một Hội Thánh sống động. Chỉ một Lời Phúc Âm nhưng được nhiều người đem ra thực hành thì vẫn có thể làm thay đổi cả chiều hướng của lịch sử.
Lời Chúa khi đem ra thực hành sẽ làm ra những phép lạ. Như thế trong tâm hồn ta sẽ tràn ngập một niềm tin tưởng mới, tin tưởng vô hạn vào tình yêu của Chúa Cha, Đấng can thiệp và trợ giúp con cái của Người hàng ngày. Lời của Người là chân thực; nếu ta sống những lời này, thì về phần Người, Người cũng thực hiện chúng, theo đúng từng câu chữ, và ban cho ta điều Người hứa: được gấp trăm ở đời này, cuộc sống hoàn hảo và niềm vui thiên đàng vô tận.
Một trong những điều quan trọng trong cuộc sống đời thường cũng như trong đời sống đức tin là phân biệt được điều nào là chân thật, điều nào là giả trá; điều nào là chính yếu, điều nào là phụ thuộc.
Hiển nhiên chỉ những điều chân thật và chính yếu mới đáng được trân trọng và chọn lựa.
Những điều là phụ thuộc thì chẳng đáng quan tâm. Còn những điều giả trá thì phải bị loại trừ, lánh xa.
Đó cũng là Thánh Chỉ hay Mệnh Lệnh hay Giáo Huấn của Thiên Chúa trong ba Bài Sách Thánh của Phụng Vụ hôm nay.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Đnl 4,1-2.6-8: Hãy nghe những Thánh Chỉ của Thiên Chúa.
1 Ông Mô-sê nói với dân chúng rằng: giờ đây, hỡi Ít-ra-en, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em. 2 Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em. 6 Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh. Khi được nghe tất cả những thánh chỉ đó, họ sẽ nói: "Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông minh! " 7 Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? 8 Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?
(2) Bài đọc 2: Gc 1,17-18.21b-22.27: Đón nhận Lời và đem ra thực hành.
17 Anh em thân mến, mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú; nơi Người không hề có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng. 18 Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người.
21 Vì vậy, anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. 22 Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. 27 Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 7,1-8a.14-15.21-23: Tranh luận về những truyền thống người Pha-ri-sêu (Mt 15: 1-9).
1 Khi ấy, những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những người từ Giê-ru-sa-lem đến. 2 Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. 3 Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do Thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; 4 thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. 5 Vậy, người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giê-su: "Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa? " 6 Người trả lời họ: "Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. 7 Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. 8 Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm."
14 Sau đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo: "Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: 15 Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.
21 Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, 22 ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. 23 Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1: Đnl 4,1-2.6-8: Là những lời căn dặn ân cần của Ông Mô-sê nói với dân riêng của Thiên Chúa: Dân Chúa thật hạnh phúc vì họ có thánh chỉ của Thiên Chúa hướng dẫn, nên được sống trong chân lý và bình an và được coi là “khôn ngoan và thông minh”.
(2) Bài đọc 2: Gc 1,17-18.21b-22.27: Là những lời khuyên của Thánh Gia-côbê Tông đồ, gồm hai ý:
(1o) Mọi ơn lành và phúc lộc, nhất là Lời chân lý, đều do Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng cũng là Cha yêu thương ban cho chúng ta;
(2o) Hãy đón nhận Lời có sức cứu độ của Thiên Chúa và đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe xuông mà lừa dối chính mình.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 7,1-8a.14-15.21-23: Là tường thuật của Thánh Mác-cô về một trong những cuộc “đụng độ” giữa Đức Giê-su và các Pha-ri-sêu và kinh sư, xoay quanh vấn đề người ta phải tuân giữ điều răn của Thiên Chúa hay truyền thống của cha ông cũng chỉ là phàm nhân?
Cơ hội thuận lợi là một số Pha-ri-sêu và kinh sư bắt gặp vài môn đệ của Đức Giê-su không rửa tay trước khi ăn. Rửa tay trước khi ăn chỉ là một tập tục, một truyền thống mà một số người Do Thái giữ gìn rất cặn kẽ, chứ không phải là giới luật của tôn giáo, trong khi họ lại xem thường giới răn của Thiên Chúa.
Động cơ của người Pha-ri-sêu và kinh sư là tìm dịp, tìm cách bắt bẻ Đức Giê-su và các môn đệ Người. Nguyên nhân sâu xa là những người ấy thích sống giả hình và nuôi ảo tưởng cho mình là đạo đức, thánh thiện mà coi khinh, coi thường và kết án người khác. Chính thái độ và cách sống giả trá này của các kinh sư, luật sĩ đã bị Đức Giê-su vạch trần và lên án.
Theo nhận định lành mạnh của mọi người, cũng là của chính Đức Giê-su, thì cái cần phải thanh tẩy là tâm hồn, là tư tưởng, là các suy nghĩ của con người chứ không phải là bàn tay hay chén bát. Bởi vì một khi tâm hồn con người bất chính, tư tưởng con người tội lỗi, suy nghĩ con người lầm lạc thì con người sẽ gây đại họa, không những cho chính bản thân mình mà còn cho cả gia đình và cộng đồng xã hội nữa.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Rõ ràng sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy sống theo Thánh Chỉ hay Mệnh Lệnh hay Giáo Huấn của Thiên Chúa thì sẽ được hạnh phúc, vì:
* Thiên Chúa là Đấng Tốt Lành Vô Cùng Vô Tận nên Thiên Chúa chỉ có thể làm những điều tốt lành cho chúng ta mà thôi.
* Thánh Chỉ hay Mệnh Lệnh hay Giáo Huấn hay Giới Răn gì của Thiên Chúa cũng chỉ nhằm giúp chúng ta có được hạnh phúc đích thật mà thôi.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY Muốn sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay thì chúng ta hãy kiểm điểm xem:
* Chúng ta có xem trọng việc tìm kiếm và thực thi Thánh Chỉ của Thiên Chúa không? xem trọng như thế nào?
* Cộng đoàn, Giáo xứ chúng ta có xem trọng việc tìm kiếm và thực thi Mệnh Lệnh của Thiên Chúa không? xem trọng như thế nào?
IV. CẦU NGUYỆN Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng Toàn Chân, Toàn Thiện và Toàn Mỹ, Xin Chúa Cha ban cho chúng con một tâm hồn nhạy bén trước Thánh Chỉ, Mệnh Lệnh của Chúa, vì chúng con biết Cha truyền dạy những điều ấy là chỉ vì lợi ích đích thực và trường cửu của chúng con mà thôi. Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa, Chúa đến trần gian để dạy chúng con biết đâu là Thánh Chỉ của Thiên Chúa Cha và cũng để Chúa giúp chúng con sống theo Thánh Chỉ ấy. Xin Chúa Con giúp chúng con trong việc hệ trọng này, để chúng con được hạnh phúc bất diệt muôn đời. Lạy Chúa Thánh Thần là Ánh Sáng và Sức Mạnh của Thiên Chúa, làm sao chúng con có thể nhận ra Thánh Chỉ của Thiên Chúa và có thể sống theo Thánh Chỉ ấy nếu như Chúa không trợ giúp chúng một cách mạnh mẽ. Xin Chúa Thánh Thần ban ánh sáng và sức mạnh thần linh của Chúa cho chúng con để chnúg con thực hành Lời Thiên Chúa truyền dạy. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Kansas City (MO/USA) ngày 21.08.2006 Lễ Thánh PIO X Giáo Hoàng
Thánh với phàm, thiêng với tục là những phạm trù tôn giáo mà mọi thời và mọi nơi đều biết đến. Cái thánh thiêng là cái cao cả siêu việt, khác lạ, đáng kính và nhiều khi đáng sợ. Cái phàm tục là cái thông thường, cái tầm thường, nhiều khi còn có thể đáng khinh và bị coi là ô uế dơ dáy.
Trong các tôn giáo sơ khai, cái thánh thiêng hiện diện ở khắp nơi trong mọi sự từ núi cao đến sông dài, từ đền thờ tới gốc đa, gốc đề, từ tượng thần đến cái bình vôi, từ cá sấu đến các tinh tú. Trái lại, ngày nay trong thế giới tục hoá, mọi sự đều được giải thiêng, chẳng có gì thánh thiêng ngoài khoa học thực nghiệm duy lý với các định luật, các công thức.
Trong tiếng Do Thái,Thánh có nghĩa là tách biệt. Cái linh thiêng là cái gì tách biệt khỏi cái thường ngày, tách khỏi cái tầm thường thông tục.Cái thánh thiêng là cái gì khác lạ cao xa, ở bên ngoài, ở bên kia, ở bên trên cái thông thường. Do đó Thiên Chúa được gọi là Đấng Thánh, bởi vì Người cao cả, siêu việt tuyệt đối khác lạ. Người là Đấng siêu việt. Đấng cao cả, linh thiêng phải ngự ở những nơi linh thiêng cao cả. Đó là những ngọn núi Thánh, những Đền Thờ, những nơi tách biệt khỏi chốn phàm trần. Những người được tuyển chọn để phục vụ Đấng Thánh cũng phải là những người tách biệt khỏi người phàm. Hàng Tư Tế trong dân Do Thái chỉ được chọn từ chi tộc Lê-vi. Họ phải là những người không tỳ vết, không tật nguyền, phải giữ những luật lệ khắt khe hơn người thường.
Tất cả những gì dành riêng cho Đấng Thánh, những gì được coi như thuộc về Người, đều là những cái thánh: núi Thánh, đền Thánh, nơi Thánh, ngày Thánh, đồ vật Thánh. Phạm đến những cái đó là phạm đến chính Đấng Thánh.
Quan niệm Linh Thánh như vậy muốn tách biệt cái thánh thiêng ra khỏi cái phàm tục. Từ đó người ta đẩy xa Đấng Thánh ra khỏi cuộc đời và ngày càng đóng khung Người vào trong phạm vi của núi Thánh, của Đền Thờ, của nơi Thánh, nơi cực Thánh. Không gian của Người ngày càng bị thu hẹp lại.
Dân Ít-ra-en được gọi là Dân Thánh, dân riêng của Chúa, thuộc về Chúa. Họ tự coi mình là sở hữu Thiên Chúa: Người là của riêng họ, thuộc về họ. Dân Ít-ra-en chờ đợi một vị Thiên Sai ngự đến trong cung Thánh đền thiêng.
Trong một thế giới mà cái thánh thiêng và cái phàm tục được xác định rạch ròi tỉ mỉ như thế. Chúng ta mới thấy việc Đức Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Thánh làm người, một người phàm ở giữa những người phàm gặp phải sự chống đối quyết liệt.
Ngay từ giây phút đầu thai, Đức Giê-su đã không đến trong Đền Thờ mà lại đến trong căn nhà nhỏ bé ở Na-da-rét. Người đầu thai trong lòng một thôn nữ vô danh đối với người Do Thái. Rồi khi chào đời, Người đã lấy chuồng bò làm nhà ở, lấy máng cỏ làm nôi, lấy những kẻ mục đồng vốn bị người Do Thái coi là uế tạp làm bầu bạn.Trong suốt cuộc đời, Đức Giê-su sống như một người tầm thường giữa những người nghèo khổ, đồng hành ăn uống với những người bị coi là tội lỗi, thâu nhận người thu thuế làm môn đệ.
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể về một sự kiện trong chuỗi những chống đối quyết liệt đó. Các Pha-ri-sêu và Kinh Sư trách các môn đệ Đức Giê-su không rửa tay trước khi ăn. Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do Thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pha-ri-sêu và kinh sư nói riêng và dân Do Thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ triệt để, chứng tỏ mình thanh sạch trước mặt mọi người. Vì thế, họ chất vấn Đức Giê-su: Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay mà dùng bữa ?
Đức Giê-su đã cho biết thế nào là sạch thế nào là dơ, thế nào là thánh thiêng, thế nào là phàm tục. Của ăn được nấu chín là sạch. Cái làm cho dơ đó là lòng người. Cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, tốt hay xấu, sạch hay dơ.
Có câu chuyện trong sách Tông Đồ Công Vụ (10, 11 – 16). Vào trước giờ ăn trưa, Phê-rô cầu nguyện và xuất thần: “Ông thấy trời mở ra và một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, đang được thả xuống, trong đó có mọi giống vật bốn chân, rắn rết và mọi thứ chim trời. Có tiếng phán bảo ông: Phê-rô, đứng dậy làm thịt mà ăn ! Phê-rô thưa: lạy Chúa, không thể được, vì không bao giờ con ăn những gì ô uế và không thanh sạch. Có tiếng phán với ông lần thứ hai: những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch, ngươi đừng gọi là ô uế. Việc đó xảy đến ba lần, và lập tức vật ấy được đưa lên Trời”. Như vậy những gì Thiên Chúa sáng tạo đều là sạch, con người không thể coi là nhơ bẩn.
Đức Giê-su bác bỏ hoàn toàn quan niệm về sạch dơ của người Do Thái. Đối với Người, không có gì bên ngoài lại làm cho con người ra dơ trước mặt Thiên Chúa. Cái gì dơ, cái gì tội lỗi chính là từ trong lòng người mà phát xuất ra. Đó là: tà dâm, trộm cắp giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác xảo trá, trác táng, ganh tị, kêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người ra ô uế.
Người đời đã phải than thở rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho tường”; “Lòng người thăm thẳm mù khơi, không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ có câu: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm” để diễn tả hạng người mang mặt nạ che dấu lòng dạ ác độc bên trong, loại người mà “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Chính cõi lòng hay thế giới nội tâm mới làm cho con người bi đát. Vì chỉ có con người mới có giả hình, lừa đảo, gian dối, mưu mô, thủ đoạn. Vì thế Đức Giê-su mới khẳng định “Không phải những gì từ bên ngoài vào làm cho người ta ra ô uế, nhưng từ trong lòng mới xuất phát những cái làm cho người ta ra ô uế”. Đức Giê-su nhấn mạnh từ sự thanh tẩy bên trong. Thế giới nội tâm làm cho con người nên cao cả nhưng cũng làm nên sự bi đát. Cao cả và bi đát đan xen như ánh sáng và bóng tối.
Đức Giê-su chẳng phản đối chuyện rửa ray, Người chỉ phê bình thói hình thức bên ngoài, điều quan trọng là rửa cõi lòng. Cái ô uế thực sự đáng sợ không đến từ việc đụng chạm hay ăn uống mà nó lại nằm trong lòng người. Nó không từ ngoài vào mà từ bên trong ra.
Con người sống ở đời cần có một tấm lòng, một trái tim yêu thương chân thành. Thiên Chúa đã ra lệnh truyền cho con người: “Hãy tạo cho mình một trái tim mới” ( Ed 18, 31 ). Người còn phán: “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi, Ta sẽ ban cho các ngươi môt trái tim mới” ( Ed 36, 25 ). Một trái tim mới biết yêu thương hay một tấm lòng để người ta sống tốt đẹp với nhau.
Đối với Đức Giê-su, yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bên ngoài. Ý hướng bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có giá trị hay không. Đức Giê-su luôn sống tình thương với mọi người, luôn “chạnh lòng thương”. Tình thương chính là sự thánh thiện. Tình thương là thanh sạch. Đấng Thánh hôm nay có tên gọi là Tình Thương. Tình thương là chia sẻ, là hiệp nhất. Sự thánh thiện của Đức Giê-su luôn rộng mở lan toả hương thơm tình thương, thanh sạch.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có viết trong cuốn “Giọt máu” một câu rất sâu sắc: “Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa. Đấy là chí thánh”. Tác giả hiểu ý nghĩa của từ chí thánh theo đúng những gì là phàm tục, thế gian là cõi hồng trần bụi bặm. Cái chí thánh chính là dìm mình, hoà vào trong bùn lầy, trong tội lỗi để làm cho từ vũng bùn lầy, từ vực thẳm tội lỗi ấy nở hoa, rực lên sự thánh thiện.
Tình Thương của Chúa Giê-su là tình thương cúu thế, muốn thanh tẩy con người tội lỗi, rửa sạch tâm hồn và trao ban Sự Sống mới.
Trong đời sống tâm linh, người Ki-tô hữu cần phải tu dưỡng cái tâm, phải có tâm ngay lành, luôn tôn trọng sự công bằng, yêu thương mọi người. Cần có một tấm lòng, tâm tốt thì mọi việc làm sẽ đẹp lòng Chúa.
Người Ki-tô hữu mỗi ngày đến nhà thờ dự Tiệc Thánh Thể. Đưa tay đón nhận Bánh Thánh là đón nhận Tình Thương và sự thanh sạch của Chúa. Bàn tay đón nhận Bánh Thánh cũng là bàn tay bác ái yêu thương góp phần thánh hoá trần gian.
Từ mấy năm nay, nhà nước và các cơ quan hành chính Việt Nam không ngừng kêu gọi cải cách hành chính, chấm dứt nạn hành dân, khởi đầu với cơ chế ‘một cửa’: mọi đơn từ đều nộp và nhận lại một nơi, không còn cảnh người chỉ nơi này, kẻ chạy nơi kia, mất hằng bao thời giờ và tạo cớ cho vô số quan chức lớn nhỏ ăn theo, chỉ để được cấp hoặc chứng nhận một loại giấy tờ. Lý thuyết là thế và ước mơ là thế, còn thực hiện ra sao và kết quả thế nào, thì còn phải chờ đợi!
Trong “tư tưởng đạo gia”, phần “Họa Phúc – Sinh Tử”, có viết: ‘Họa và Phúc ra vào cùng một cửa; Lợi và Hại là láng giềng của nhau’ ( Họa phúc dữ đồng môn, lợi hại vi lân ). Người Trung Hoa còn có câu châm ngôn: “Bệnh tật từ miệng vào, tai họa từ miệng ra”. Ngày nay hầu như chẳng có hôm nào mà các đài báo không đăng đồng thời những tin tức, số liệu về các bệnh tật phát xuất từ những thức ăn uống và các cách ăn uống vô điều độ của con người, và kèm theo là những quảng cáo các thuốc chữa những thứ bệnh do thói quen tham ăn tham uống sa đà vô độ gây nên: chứng béo phì, các loại ung thư, cao huyết áp, tiểu đường...
Thứ thuốc cần thiết nhất, mà chẳng tốn kém tiền mua, ấy là sự điều độ, tiết chế, bớt thói hưởng thụ, thì không mấy ai muốn thực hành. Không có gì vô lý và buồn cười cho bằng một người nốc cho lắm bia hoặc ních cho nhiều chất béo chất ngọt vào, để rồi hàng ngày lại đi tập giảm bụng, giảm béo, giảm cân ! Nhưng điều mà “tư tưởng đạo gia” muốn đề cập thì ai cũng biết là cao sâu hơn: mỗi người chỉ có “một cửa” để diễn đạt những gì trong tương quan hằng ngày với tha nhân. Cái hay, cái dở cũng phát xuất từ đó. Rất nhiều ca dao, châm ngôn dạy khuyên giữ gìn đạo đức của cái miệng, tỷ như: Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm; khẩu Phật tâm xà ( hay ngược lại ); lời nói không mất tiền mua; miệng nhà quan có gang có thép; uốn lưỡi bảy lần trước khi nói; Lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo v.v...
”Cửa miệng” do vậy, chính là dụng cụ để diễn tả quan điểm, suy nghĩ của con người và từ chỗ là một dụng cụ, “cửa miệng” có thể xây dựng hoà bình, hàn gắn những bất hoà tranh chấp, hiểu lầm, đem lại an ủi cho người đau khổ, nhưng cũng dễ dàng biến thành vũ khí lắm khi chết người ( giết người không dao ) khi nó được vận dụng với những hậu ý khôn lường, một cách tinh vi khéo léo và xảo quyệt, hiểm ác.
Và hôm nay, từ cái “một cửa” này, Chúa Giê-su cũng giảng giải việc “xuất nhập khẩu” hết sức bình dân, nhưng đã nói lên được cốt lõi của tinh thần sống đạo, mà mỗi Ki-tô hữu phải có, để tránh được những thói giả hình. Những người Pha-ri-sêu và kinh sư hẳn đã bàn bạc với nhau, không để cho “mầm mống Giáo Lý mới” phát triển lan rộng, vì những lời giảng dạy kèm phép lạ của Chúa Giê-su đã vang động tới Giê-ru-sa-lem. Đây là đoàn thanh tra đầu tiên trong những nhóm sẽ được cắt cử ngày đêm giám sát nhất cử nhất động của Chúa Giê-su.
Phát súng đầu tiên để khai mào trận chiến chắc chắn được họ theo dõi, lựa chọn và cân nhắc kỹ càng trước khi đưa ra: nói có sách, mách có chứng ! Các Pha-ri-sêu và Kinh Sư hí hửng vì cho rằng đã lập được công đầu. Họ đánh giá sai về Chúa Giê-su và cái “sai một li, đi một dặm” này sẽ dẫn đến hận thù, gian ác, làm mê muội lòng trí của họ. Rửa tay không thể xem là một truyền thống máy móc, mà thực chất là vệ sinh khi ăn uống, chứ không chỉ có trước bữa ăn.
Tập tục truyền thống không bao giờ có thể trở thành một giới luật tinh thần và ngược lại, không bao giờ được phép coi một giới luật chỉ là hoặc ngang hàng với một tập tục truyền thống. Sự lẫn lộn đó đã khiến người Do Thái – thông qua sự chỉ dạy sai lầm của các “thủ lãnh trong dân” – ngày càng chuộng các hình thức giữ luật bề ngoài, mà quên đi lòng tôn thờ phải có đối với Thiên Chúa và lòng yêu người phải có đối với tha nhân. Một lăng kính méo mó được sử dụng và mọi sự đều biến dạng theo sở thích của họ.
Hình ảnh nhân vật rửa tay hay nhất trong Tin Mừng, vẫn là Phi-la-tô. Cái kết cục bi thảm nhất của việc rửa tay theo truyền thống, là sự táng tận lương tâm, mất hết đạo làm người, mất hết “lề luật và tiên tri”, đến mức bình thản và đắc thắng nhúng tay vào máu người vô tội. Khi Thiên Chúa chỉ còn là hình thức và tệ hại hơn nữa, được sử dụng như chiêu bài để củng cố thế lực đen tốI và danh lợi, khi con ngườI chỉ còn giá trị lợi dụng, bị coi khinh, thì sự xấu xa, ác độc, vô đạo là con đường tất yếu, từ xuất phát điểm cho tớI đích đến!
Thấu rõ tâm can đen tối của họ, Chúa Giê-su cho họ thấy điều gì mới thực sự làm con người ra ô uế. Đó chính là những gì phát xuất từ bên trong, mà Chúa Giê-su đã liệt kê mười một mối tội, trong đó năm tội bằng hành động ( tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, trác táng ); năm tội do lòng trí mê đắm, ấp ủ và ước ao ( độc ác, xảo trá, ganh tỵ, kiêu ngạo, ngông cuồng ) và tội nối kết và nguồn gốc của hai loại tội trên, ấy là tham lam. Tham lam là cái ước ao, thèm muốn chiếm hữu cho mình những cái không thuộc về mình, hoặc không thể là của mình, mà nơi con người thường gắn liền với hai “vế”, hai thực tại vốn tự nó không thể thiếu được trong đời sống con người: tiền và tình. Tham lam chính là cái nhìn lệch lạc, ích kỷ dẫn đến hành động xấu xa, dối gạt, thậm chí là hủy diệt mạng sống người khác để thoả mãn bản thân. Và nói theo ngôn ngữ thương mại, đó là dạng “xuất khẩu” từ tư tưởng chuyển qua hành động.
Bài ca hôm nay con muốn hát cho Chúa nghe, không liên can gì nhiều đến bài học thấm thía, mà Chúa nói không úp mở chút nào với các Pha-ri-sêu và kinh sư. Bài ca này là việc từ cuối tháng 8 năm 1999, hai Giáo Hội Việt Nam và Hoa Kỳ chọn Chúa Nhật hôm nay – Chuá Nhật XXII thường niên hằng năm – làm ngày kết nghĩa. Giáo Hội Hoa Kỳ, một nền văn minh siêu cường, chọn Mẹ La Vang làm Mẹ Nuôi. Cái Tâm không sáng, sự hiểu biết cảm thông không chân thành, thì sẽ không thể có những suy nghĩ và hành động như thế.
Những gì hai quốc gia đã làm sau những cái bắt tay, ôm hôn, trao trả thi hài... có thể nói, chỉ phát xuất từ những lợi ích chính trị và kinh tế. Những gì hai Giáo Hội đã làm, phát xuất từ niềm tin nơi “một Đức Chúa, một phép rửa, một Thiên Chúa và Cha” và sự hiệp thông với cùng một Giáo Hội Hoàn Vũ, nhưng ý nghĩa cao sâu và gương sáng rực rỡ là lòng yêu mến chân thành, để nhìn vào sự liên kết của hai Giáo Hội Hoa Kỳ và Việt Nam, hai đất nước, hai dân tộc, hai chính phủ sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Đức Ki-tô và lạy Chúa Giê-su, vị nhạc sĩ gợi hứng và thăng hoa bài tình ca này, không ai khác ngoài Mẹ Ma-ri-a La Vang.
Có một thầy tiến sĩ luật Do Thái bị cầm tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua và ông ta yếu dần. Cuối cùng người ta phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng: cơ thể ông ta bị thiếu nước. Thế nhưng đám lính canh lại thắc mắc không hiểu vì sao vị Rabbi này lại có thể thiếu nước, vì khẩu phần nước tương đối đầy đủ.
Và thế là họ kín đáo quan sát ông ta. Cuối cùng họ đã khám phá ra lý do. Sở dĩ cơ thể ông ta thiếu nước vì ông ta đã dùng phần lớn số nước được cung cấp để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và dùng bữa.
Câu chuyện trên cho thấy các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã bực bội như thế nào, khi các môn đệ Chúa ăn uống mà chẳng chịu rửa tay theo đúng tập tục tiền nhân.
Ngược dòng thời gian chúng ta thấy người Do Thái có hai thứ luật. Luật thành văn và luật truyền khẩu. Luật thành văn vừa cổ lại vừa quan trọng vì nó căn cứ trên những sách của Cựu ước và đôi khi còn được gọi là luật Maisen. Một số luật này mang tính cách cụ thể và đặc thù, còn lại thì rất chung chung giống như những kiểu mẫu phải theo hơn là lề luật. Trong một thời gian dài, người Do Thái bằng lòng với những kiểu mẫu này và họ áp dụng vào đời sống vì thấy nó thích hợp.
Tuy nhiên, tới thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, một nhóm chuyên nghiên cứu về luật đã tạo được một ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân. Họ thấy những điều luật tổng quát quá sơ sài, mơ hồ cần phải được soạn thảo lại. Từ đó phát sinh ra bộ luật thứ hai, gồm những luật truyền khẩu. Rất nhiều người Do Thái muốn bắt chước các tư tế về sự thánh thiện bên ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn: theo luật thành văn thì mọi tư tế đều phải rửa tay trước khi vào nơi thánh trong đền thờ, mục đích là tẩy rửa đi những gì ô uế để xứng đáng thờ phượng Chúa. Dần dần dân chúng cũng bắt chước rửa tay trước khi cầu nguyện và khi dùng bữa.
Vào thời Chúa Giêsu, họ tuân giữ cặn kẽ thứ luật truyền khẩu này, để rồi tôn giáo dần dần thái hóa và biến thành một hoạt động đơn thuần chỉ là chu toàn những nghi thức bên ngoài. Theo họ, tuân giữ nghi thức bên ngoài là đẹp lòng Chúa, bằng không thì phạm tội và những kẻ tuân giữ được coi là người đạo đức. Họ có thể căm ghét kẻ khác nhưng lại chẳng hề áy náy bao lâu còn tuân giữ việc rửa tay và những nghi thức khác về sự thanh tẩy.
Họ giống như một người Hồi giáo đang phi ngựa rượt theo kẻ thù, chợt nghe chuông báo giờ cầu nguyện. Thế là anh ta xuống ngựa, quì gối cầu nguyện theo luật định, rồi sau đó lên ngựa tiếp tục đuổi theo kẻ thù.
Từ đó chúng ta đi tới kết luận: đừng đồng hóa tôn giáo với việc chu toàn những hành vi bên ngoài như đi lễ, đọc kinh, xưng tội… Tự chúng chưa bảo đảm rằng chúng ta đã thánh thiện đâu. Lý do rất đơn giản là chúng ta có thể làm tất cả những việc này vì lý do không mấy ngay thẳng, hay làm không phải vì yêu thương. Điều quan trọng không phải là việc chúng ta làm mà chính là tình yêu trong trái tim thúc đẩy chúng ta làm việc đó. Nếu trái tim chất đầy kiêu căng thì mọi nghi thức bên ngoài trước mặt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta trở nên thánh thiện trước mặt Chúa. Bởi vì như lời Chúa đã quở trách người Do Thái: dân này thờ kính Ta ngoài môi ngoài miệng, còn lòng họ thì lại xa Ta.
Tóm lại, điều cốt lõi trong tôn giáo không phải là làm việc này việc kia, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Hành động của chúng ta phải được xuất phát từ con tim, từ tình yêu: Mến Chúa và yêu người, thì mới thực sự có giá trị.
Đoạn Phúc âm của thánh Marcô cho thấy sự tuân giữ lề luật đã đưa những người Biệt phái rẽ vào một khuynh hướng rút cục là giả đạo đức như thế nào. Trách cứ họ theo lối vơ đũa cả nắm là bất công, là quá đáng nếu so sánh với sự quở mắng của Đức Giêsu khi Người xét đoán họ. Dù sao họ cũng từng đóng vai bảo tồn lòng trung thành với Thiên Chúa trong những thời buổi khó khăn. Chúng ta nhắc lại rằng giới Biệt phái đã cung cấp cho nhóm môn đệ Chúa mấy người, đáng kể là Nicôđêmô và thánh Phaolô. Nhưng bất hạnh thay cho đại đa số Biệt phái, nhất là cho tầng lớp Biệt phái trí thức, họ quá chú trọng đến việc tuân giữ Lề luật về phương diện vật chất và giải nghĩa Lề luật về phương diện vật chất và giải nghĩa Lề luật theo quan niệm con người – hơn là tôn trọng tình thần Lề luật, đề cao việc thờ phụng và tình thương. Chúa Giêsu không chấp nhận lối giữ đạo bề ngoài theo tập tục thế gian, vì nó không phù hợp với những đòi hỏi của một tâm hướng về thờ phụng Thiên Chúa, thật lòng yêu tha nhân và thành tâm gắn bó với Lời Chúa. Cầu nguyện, cử chỉ, cách đứng ngồi, tất cả phải biểu thị một thái độ nội tâm thành khấn. Trái lại là giả hình.
Đàng khác, Chúa Giêsu lên án kẻ Biệt phái nào xem ý kiến những luật sĩ giải thích Kinh thánh trọng ngang với Lề luật. Thậm chí, Người không chịu được thái độ tự kiêu tự mãn của họ. Thật vậy, họ tự cho mình là am tường Lề luật, rồi sinh ra kinh miệt kẻ tầm thường, kẻ hèn kém. Ta có thể trên quan điểm này tự đặt vài câu hỏi về xã hội ngày nay. Trong một số hội đồng, ủy ban nào đó, trong phần lớn giới báo chí chẳng có những ký lục và Biệt phái rất tự tín, rất vững tâm khi họ giải thích Phúc âm, muốn độc quyền hướng dẫn dư luận sao? Ngày nay đang có 1 sự uốn nắn đích thật đó là sự biệt phái tái xuất hiện dưới bộ áo mới, sự giả nhân giả nghĩa mà Chúa Giêsu đã nghiêm khắc lên án.
1) Do đâu mà có những khuynh hướng biệt phái bị Chúa tố giác?
Các ông đã gạt giới luật của Thiên Chúa sang một bên, để cố thủ lấy tập tục. Biệt phái phát sinh từ một tham vọng của kẻ vô tình hay hữu ý, muốn tự đặt ra lề luật cho mình. Khi nào con người vi phạm luật Chúa, y trở thành một kẻ tội lỗi giản dị thế thôi. Khi nào con người tuyên bố chấp nhận luật Phúc âm nhưng lại bẻ cong Phúc âm theo lối suy tưởng của y, lúc đó y trở thành Biệt phái. Tính biệt phái đặt cơ sở trên một vận dụng trí thức giải nghĩa Phúc âm qua bảng giải mật mã của 1 ý thức hệ con người. Kitô hữu biệt phái là kẻ tự đặt mình làm nhà lập pháp cho mình, bằng cách mượn những từ ngữ Phúc âm. Y đặt lấy một pháp điển mượm ý của một hệ ý thức con người, dù cho hệ này đại lượng đến mức nào đi nữa. Từ một thứ phúc âm trống rỗng vì bị lấy đi Đức Kitô sống động, và thật, y trích ra những từ, những câu, những đoạn giảng huấn, để cố che đậy một sự giả hình đích thật.
2) Tính biệt phái là một sự uế tạp cực độ.
Sau khi lên án những kẻ biệt phái, Chúa Giêsu giảng về điều nó làm cho con người ra uế tạp trước mặt Thiên Chúa. Đó là những tình cảm xấu xa nuôi dưỡng trong lòng. Chúa kể ra 1 số tình cảm trong đó có kiêu ngạo và phi lý. Vậy mà có tội kiêu ngạo nào độc hại hơn tội phi lý nào bại hoại hơn tội của kẻ gác sang một bên giới luật Thiên Chúa, để tự đặt ra những giới luật riêng cho mình? Chúa Giêsu gạch nối xếp thái độ đó vào tội ô uế trước mặt Thiên Chúa.
Vậy ai là kẻ có lòng thanh sạch? Thưa đó là những tâm hồn đơn sơ, họ thấy Thiên Chúa thế nào thì nghênh đón Người như vậy, họ giãi bầy nỗi niềm riêng tư với Chúa bằng một tấm lòng ngay thẳng thực tế.
Vào một buổi chiều nơi sân bóng rổ, một đám đông đã đứng lên để hát bài quốc ca, một đứa trẻ đã không bỏ mũ của mình ra. Một người đàn ông vạm vỡ đứng ngay đằng sau đứa bé đã nói: “Này chú bé, hãy lấy mũ ra chứ”. Cha của đứa bé là một người có bộ râu rậm nhưng ông đã chờ đợi cho đến khi kết thúc bài hát, cố gắng với sự tự chủ và giọng run run, ông nói một cách nhỏ nhẹ với người đàn ông: “Con trai của tôi đang hóa trị vì bệnh ung thư và nó không còn chút tóc nào!”.
Đứa trẻ đã không kính trọng trong khi hát bài quốc ca, đơn giản vì em lúng túng khi bỏ mũ của mình ra. Người đàn ông vạm vỡ có thể rút ra môt bài học: bên ngoài thì không luôn luôn cho thấy những gì ở bên trong. Đó cũng là bài học đối với những người Pharisêu khi nghe bài Phúc Âm trong Thánh Lễ chúa nhật hôm nay.
Họ đã bực bội với các môn đệ của Chúa Giêsu bởi vì các người này đã không theo tục lệ rửa tay trước khi ăn, những điều họ quan tâm không phải là những điều vệ sinh nhưng là tính cách cứng nhắc giữ luật theo từng chữ.
Khi những người Pharisêu đòi hỏi Chúa Giêsu vì sao môn đồ của Ngài lại không thực hiện như họ đã làm. Chúa Giêsu đã từ chối trả lời, thay vào đó Ngài đã cảnh cáo họ bằng những lời của tiên tri Isaia: “Dân này thờ Ta chỉ bằng môi bằng miệng còn lòng dạ chúng thì xa Ta”. Ngài đã tiếp tục cắt nghĩa những gì ở bên trong thì quan trọng hơn những công việc bên ngoài, tâm tình bên trong thì quan trọng hơn công việc ở bên ngoài
Như một dân tộc của phụng vụ, chúng ta cần phải suy niệm giáo huấn về Chúa Giêsu. Phụng vụ là một vấn đề của sự kiện liên quan đến những điều kiện bên ngoài, ví dụ như những cử chỉ đứng, ngồi, quỳ, tiến lên, hát và đọc kinh, cũng tốt giống như khăn bàn thờ, nến, những vật trang trí khác. Thật ra, Giáo Hội đã dạy trong Hiến chế về phụng vụ rất đầy đủ về hoạt động và tham dự có ý thức trong những nghi thức phụng vụ thánh, là nguồn mạch không thể thay thế của tinh thần Kitô giáo đích thật, và cũng như Hiến chế làm rõ ràng việc tham dự phải được hoàn thành bằng cách tuyên xưng, đáp trả, hát Thánh Vịnh và các bài thánh ca, cũng như là bằng các hoạt động, cử chỉ và thái độ của thân xác (14-30).
Yếu tố chính yếu của việc thờ lạy như Đức Giáo Hoàng Piô XII đã dạy đó là bên trong, điều đó có nghĩa là những gì chúng ta làm bên ngoài thì không có dự định diễn tả nhưng để tăng tình trạng chân thành bên trong, như đức tin, đức cậy và tình yêu của chúng ta. Đôi khi việc đo lường sự sốt sắng của chúng ta tốt nhất không phải là những gì chúng ta làm trong Thánh Lễ nhưng là chúng ta đã hành động bên ngoài Thánh Lễ thế nào.
Có phải đức tin chúng ta diễn tả theo phụng vụ là quy tắc hướng dẫn chúng ta sống theo cách mà nếu Thiên Chúa không hiện diện trong đời sống của chúng ta thì chúng ta sẽ không có những tâm tình như thế? Có phải đức tin của chúng ta làm cho chúng ta khác với những người khác, mà giá trị của họ là thế tục hoặc vật chất? Có phải nhân đức trông cậy chiếu sáng vẻ bên ngoài của chúng ta và làm cho chúng ta cơ bản thành những người lạc quan không? Có phải niềm trông cậy của chúng ta đã cho chúng ta một niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thúc đẩy chúng ta trân trọng ý muốn của Ngài không? Có phải tình yêu mà chúng ta diễn tả với Thiên Chúa trong lúc chúng ta thờ phượng đã hướng dẫn một cách trực tiếp trong đời sống của chúng ta? Có phải đời sống của chúng ta đã phản ảnh chân lý mà chúng ta đã được dạy dỗ là tất cả anh chị em của chúng ta nên một trong Đức Kitô không?
Bên ngoài thì quan trọng nhưng chính chúng không làm cho chúng ta nên thánh hơn là những người yêu nước, đã kiên bền cố gắng trở nên một công dân tốt. Ngày hôm nay thánh Giacôbê đã nói với chúng ta: “Hãy tiếp nhận những lời mà những lời đó có sức mạnh để cứu thoát anh em. Hãy thực hành những lời đó. Nếu tất cả những gì anh em thực hiện là lắng nghe thì anh em đã tự lường gạt chính mình”. Đó là con đường của người nói rằng, việc thờ lạy phải dẫn đến đời sống, những việc bên ngoài phải diễn tả sự chân thành kính trọng của tình trạng bên trong. Những gì bên trong của chúng ta mới đáng kể.
Ở đây lại xẩy ra một cuộc khẩu chiến mới như vẫn từng xảy ra giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái nhiệt thành nhất thời đó tức nhóm biệt phái và luật sĩ (c.1). Họ bắt bẻ Chúa Giêsu về một điều xem ra nhỏ nhặt liên quan tới hạnh kiểm các môn đệ Ngài: đó là những môn đệ này dùng bữa với bàn tay “dơ bẩn”, tức là không rửa trước khi dùng bữa (c.2). vì các độc giả Rôma của ông không hiểu về tập tục Do Thái nên Maccô buộc lòng phải cắt nghĩa dài dòng tại sao sự việc ấy lại phát sinh ra vấn đề (c.3-4). Việc dân Do Thái giữ đủ thứ lề luật tỉ mỉ liên quan đến bữa ăn có nguồn gốc từ thời luật Môsê. Để giữ cho dân riêng Chúa được tinh tuyền về mặt xã hội và tôn giáo, luật Môsê cấm họ không được đụng chạm tới bất cứ người hay thực phẩm nào bị tuyên bố là “ô uế” (Lv 11, 16). Trong đời sống thường nhật, mỗi khi từ nơi công cộng hoặc phố chợ trở về, dân Israel luôn tự cảm thấy mình “ô uế” xét về mặt nghi thức: bởi vì họ đã chẳng đi kề cạnh đám người tội lỗi và đám dân ngoại sao? (chẳng hạn lũ thương gia và những gã lính Rôma xâm lược). Từ đó phát sinh ra đủ thứ nghi thức tẩy rửa trước khi ăn, và câu hỏi họ đưa ra cật vấn Chúa Giêsu có liên quan đến việc các bạn hữu Ngài lơ là không tuân thủ các quy luật này (c.5).
Chẳng cần quanh co, lập tức Chúa Giêsu tuyên bố ngay thói giả dối của họ (c.6-7). Vì đang nói đám chuyên gia Kinh Thánh nên Chúa Giêsu liền nại đến Kinh Thánh (ở đây Ngài trích sách Isaia 29,13), vị tiên tri sống vào thế kỷ thứ VIII trước Chúa Kitô, Ôsê cũng đã từng kết tội đám đồng hương của ông về thứ thờ phụng mà “chẳng có hồn” này (Hs 5,21-25). Chúa Giêsu không ngần ngại lập lại lời phán xét gay gắt đó và Ngài kết luận: các ông lấy truyền thống hoàn toàn mang tính cách nhân loại để thay thế cho Lời Thiên Chúa! (c.8). Lời tố cáo quả rất nghiêm trọng, nặng nề. Biết rõ một số luật Môsê đang được các đạo sĩ Do Thái tranh luận, Chúa Giêsu liền trưng ra một ví dụ súc tích: ví dụ các lời khấn hứa (c. 10-13). Đây là một lãnh vực dễ bị nhiều lạm dụng. Dựa vào một thứ “chủ nghĩa vị luật” quen thuộc, đám biệt phái đã bẻ quẹo một điểm then chốt của Lời Chúa (sự giúp đỡ cha mẹ theo Thập giới (Xh 20,12) để đạt được những tặng phẩm dâng cúng cho đền thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh vi này, những kẻ nhiệt tình bênh vực truyền thống đã rơi vào tình trạng tiêu huỷ Lời Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã mở rộng cuộc tranh luận với đám cử toạ hạn hẹp này ra tới quảng đại quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ điệp của Ngài một cách kết quả hơn (c.14-15). Ngài đưa ra một dụ ngôn nhỏ mang dáng vẻ nhiệm mầu. Đám đông có thể hiểu nổi dụ ngôn này không? Như vẫn thường thấy nơi Phúc Âm Maccô (4,33-34), vị Tôn Sư thường cắt nghĩa “tiếng” cho các môn đệ Ngài về các dụ ngôn Ngài nêu ra (c.17. trước hết Ngài khiển trách họ không chịu động não cố hiểu được đôi điều về lời giảng của Ngài (c.18a). sau đó Ngài ban cho họ chìa khoá của vấn nạn (c.18b- 19a). Làm dơ bẩn người ta không phải là những thức ăn họ ăn và bởi vì cuối cùng bộ tiêu hóa cũng sẽ thải ra ngoài hết. Không! Làm dơ bẩn người ta chính là những tư tưởng phát xuất từ trái tim họ. Chính từ trái tim mà mọi ý đồ nham hiểm xuất ra (c.20-23). Trong Kinh Thánh trái tim là chốn cư ngụ của tư tưởng cũng như của tình cảm. Từ đó phát sinh những hư hỏng về mặt luân lý. Bản liệt kê dài ở đây tương xứng với sổ kê đủ thứ tính hư tật xấu mà ta thường thấy nơi các nhà luân lý đương thời (x. Gl 5,19-21).
Giống như đám đông và sau đó là các môn đệ, chúng ta hẳn có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu đã đi lệch ra khỏi điểm xung đột lúc ban đầu giữa Ngài và đám biệt phái. Không phải thế đâu. Một câu vắn gọn của Maccô nêu bật được trọn vẹn bài học chủ chốt trong các lời nói của Chúa Giêsu (c.19b). Trước hết, điểm khác biệt được lưu tâm là những quy tắc ăn uống thường được các người Do Thái nhiệt thành tuân giữ. Có cả hàng đống thức ăn bị coi là “ô uế” không được dùng (x.Lv 11,1-30). Ở đây, Chúa Giêsu trực tiếp công bố những quy luật ăn uống của truyền thống này là lỗi thời bởi vì chúng phân hoá xã hội thành hai nhóm đối kháng: kẻ tốt và kẻ xấu. Một bên là những kẻ “tinh tuyền”, tức đám biệt phái (có nghĩa là nhóm tách biệt) và người tội lỗi. Chúa Giêsu đến để thiết lập một xã hội hòa đồng. Đứng về phía Thiên Chúa, Ngài hiệp thông với tất cả những nạn nhân của sự kỳ thị xã hội và tôn giáo do bè cánh biệt phái, những người “tinh tuyền và cứng cỏi” gây ra. Ngài dùng bữa với những kẻ ô uế, “những kẻ bị khai trừ” (đám thu thuế, gái điếm, lính Rôma v.v…). Đây quả là sự đổi mới phá đổ những bức vách ngăn đáng trách của thời đại.
Maccô đã dùng nhiều lời để tường thuật sự phản kháng của Chúa Giêsu trước những công kích của đám biệt phái. Sở dĩ thế là vì Kitô giáo thời sơ khai phải va chạm mạnh với vấn đề tiếp đón dân ngoại trở lại đạo. Tập tục Do Thái trong việc ăn uống, những nghi thức thanh tẩy rườm rà đã ngăn cản “khách lạ” lui tới, mặc dù họ đã trở nên huynh đệ trong đức tin. Chúng ta đã chứng kiến rõ sự khó khăn của các tương giao giữa Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô hữu gốc dân ngoại trong Công vụ sứ đồ (10,1-11.18). Ở đó người ta thấy ngay chính tông đồ trưởng Phêrô cũng còn bị nô lệ cho các “cấm kỵ” trong vấn đề ăn uống theo luật Do Thái khi ông gặp gỡ Cornêliô, một người ngoại đạo. Rõ ràng các Kitô hữu gốc Do Thái phải tốn khá nhiều tời gian mới giải thoát mình ra khỏi nhưng thành kiến chủng tộc và tôn giáo là những thứ ngăn cản không cho họ thoải mái khi đồng bàn với anh em gốc dân ngoại và điều này làm cho sứ vụ của Giáo Hội sơ khai bị bế tắc. Cộng đoàn Kitô giáo của Maccô chắc chắn phải đương đầu với những vấn đề tương tự và họ nhớ lại vấn đề Chúa Giêsu đặt ra cho các người biệt phái. Trình thuật này thiết lập cho họ sự thực hành về “bàn ăn mở rộng” rất thường bị chỉ trích. Và có mặt trong “Chương nói về bánh” này (6,30 - 8,21) cũng như sẽ không ngạc nhiên khi thấy xuất hiện vào lúc Chúa Giêsu sắp sửa hướng các môn đệ nhìn về sứ mệnh khẩn cấp là ra đi truyền giáo cho dân ngoại (xem trình thuật kế tiếp 7,24-30).